243
ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG 1 Ct tiếng kêu ai giđạo thy Muốn tìm chân lý hãy vào đây Non côn đoạt ngc trong hang thm Sông ltìm vàng dưới ci cây Bát quái âm dương trong vạn vt Ngũ hành sanh khắc cũng là đây Bo toàn tánh mng trong tay nm Vn chuyển cơ trời biết đổi xoay. Giáo ChNhThiên

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

  • Upload
    others

  • View
    2

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

1

Cất tiếng kêu ai giữ đạo thầy

Muốn tìm chân lý hãy vào đây

Non côn đoạt ngọc trong hang thẩm

Sông lệ tìm vàng dưới cội cây

Bát quái âm dương trong vạn vật

Ngũ hành sanh khắc cũng là đây

Bảo toàn tánh mạng trong tay nắm

Vận chuyển cơ trời biết đổi xoay.

Giáo Chủ Nhị Thiên

Page 2: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

2

KIM TIÊN CHỨNG LUẬN HOA DƯƠNG THIỀN SƯ

THÍCH GIẢI HUỆ TỪ

---oOo---

KIM TIÊN CHỨNG LUẬN

LỜI TỰA I

Sách kinh của tiên Phật nhiều vô số, bậc sơ học làm sao suốt thông hết. Chư đồng chí thương

đời phát tâm cầu Chánh đạo cũng không biết cửa vào.

Đã không chân sư lại ít bí kinh, nên tu sĩ lầm theo khô tịch và bị rơi vào tà thuật. Tình trạng

này khắp nơi đều có. Do đó nên lòng ta bùi ngùi, mới phát lên ý chí chuẩn cứu. Nhờ đó, chẳng

bao lâu ta gặp được chân truyền thực dụng chẳng đợi khẩu truyền diện thọ mới minh. Đó là

Kim Tiên Chứng Luận, là Huệ Mạng Kinh.

Tiếp sau đó có một nhà ấn loát, muốn góp phần phát huy Chân truyền, nên đến gặp ta để xin

lời tựa và đề nghị nên phân ra điều mục, cùng góp phần tham nghị.

Ta nghĩ sức mình có hạn, sao dám luận bàn về cơ ảo diệu của Phật tiên.

Chứng luận và Huệ Mạng thật là một loại Chân kinh thuần dốc, đi sâu vào Tánh Mạng. Tiến

tới một tấc được một tấc. Tiến lên một thước được một thước.

Tâm noi theo, sức thực hành, đều có thực tế.

Lòng ta vô cùng hoan hỉ, là con đường tu luyện ngày nay được rõ ràng và tốt đẹp.

Hoa Dương Thiền sư cách nay chưa lâu, lại thường cùng với môn đệ trong nhóm Quỳnh Ngọc

ngao du nơi các danh sơn thắng cảnh, nếu có duyên ắt sớm chiều cũng được gặp. Há đâu phải

hư vô cao viễn, chỉ khen ngợi mà chẳng được học sao.

Nếu được chứng luận mà chẳng được huệ mạng thì sẽ có sự sai lầm ở Đại Châu Thiên không

rõ thấu.

Nay hai kinh hiệp dính, Tiên Thích giúp nhau được rõ ràng, có thể là một viên ngọc Bích tuyệt

mỹ.

Theo dõi từng lời nói, đều là lấy Mạng làm Thể, lấy Tánh làm Dụng, lấy Dược làm Kinh, lấy

Hỏa làm Vỹ.

Page 3: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

3

Mạng tại nhất Thời, Tánh ở bình nhựt, Kinh tại thân ta, Vỹ tại tâm ta. Kinh Vỹ hiệp thì thân

tâm thái. Thời nhật tu thì tánh mạng toàn. Chẳng mượn ở người, vì trọn nơi ta đều đủ, đều bẩm

thụ nơi trời. Theo đó mà nắm lấy cơ vận chuyển của trời để làm tín phù.

Trước lấy phần nhơn đạo để sữa trị lấy mình. Gốc tự sanh thành, vốn vẫn chưa từng mảy lông

gắng gượng.

Vả lại tình đời nồng thắm thì mãi mê, nên chẳng biết: Mạng quý nghịch, Tánh quý thuận,

Dược để bảo trì Tánh Mạng, Hỏa để chiến thối quần âm.

Nếu chẳng biết mạng lấy gì đắc Dược. Nếu không biệt Tánh thì lấy gì đắc Hỏa.

Trong nhiều Thiên có nói, đó là nguyên tinh, nguyên khí, nguyên thần và hỏa hiệp ngưng tập.

cùng các thuyết: tiền hậu thăng giáng, thâu phản, huân chưn, cần phải đáo để cứu xét.

Thể Dược hành hỏa hầu, quan độ, cần phải xương minh đến cùng tột.

Tổ sư còn vẽ hai bức đồ hình Nhâm đốc lục qui, cho tu sĩ nương theo đó để luyện thành chơn

đơn chí bửu.

Chân kinh này sáng tợ như đèn lớn. Trí tuệ chẳng cần hơn Nhan Hồi, Mẫu tử khiên, cũng có

thể Tâm lĩnh Thần hội.

Còn luận về áo lý, thì lời lời tợ như Chân Kim rực sáng, rọi khắp bảy tầng Văn đạo, còn ở

thường thiệt, thì tiết tiết đều nêu rõ Thiên nhơn nhất lý, nhất khí.

Tham khảo thật thuần thục hai quyển kinh này, tợ như đã đọc hết sách nơi chốn Lương hoàn

phúc địa.

Một loại chân kinh đệ nhất, theo đúng với chánh đạo. Nếu ai được thấu triệt khác gì Chân hồn

ngao du nơi Tây Thiên Bồng đảo.

Tám trăm địa tiên, ba ngàn Phật sống, thật khó trùng phùng diện kiến.

Giờ đây chỉ còn xem ở người tu luyện siêng năng hay giải đải mà thôi.

Các ngươi muốn góp phần công đức, tốt hơn là nên phổ biến rộng rãi hai quyển kinh này, khỏi

cần thêm lời phụ ngữ.

Thời đạo quang, Năm bính ngọ, tiết Mạnh Đông, ngày Vọng, tỉnh Mân, Trung Thánh Thanh

Sơn Nhơn, Lương Tịnh Dương cẩn tự.

Page 4: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

4

LỜI TỰA II

Nền đạo đã bị thất truyền từ lâu!

Từ thế tôn khai hóa, trí ngu đồng bộ, như tánh Mạng lại riêng truyền. Về tánh thì xuyển phát

khai mê mà tiệm tu. Về mạng thì theo linh giác mà chứng quả.

Từ Tây Thiên 28 Tổ, đến Đông độ 6 đời, đều dùng huệ đăng Tâm khẩu thọ thọ. Tất cả đều lấy

Tánh đạo và Huệ Mạng kiêm tu.

Từ lục tổ về sau, Tánh pháp thì rộng truyền, còn Huệ Mạng thì trong diễn bí. Người thông

minh thì được sư phụ mật ngữ, rồi riêng tu mà vượt lên ngôi tổ, nên gọi: Ngoại giáo biệt

truyền.

Này nay, người tu học không đắc được cái chân chỉ của huệ mạng, nên chỉ xuyển dương tánh

pháp, cuối cùng Tánh cũng chẳng được Chân, lại là Thức Tánh, tợ như móc mê che khuất,

khiến bị sai ngoa, tiếp nhận sai lầm, hoặc lấy Linh giác làm Chân Tánh, hoặc lấy Chánh niệm

làm Chân Tánh. Chạy theo sai quấy mê mờ lẽ Chân. Mất cả Chân chỉ của Như Lai. Mãi bị hạ

lậu, nên mắc sai lầm về chuyển kiếp mê thất.

Còn chi nói đến người tọa niệm!

Chỉ có Hoa Dương Thiền Sư, được thông suốt về cơ Tiêu tức, lại được Chân sư trao Chân chỉ

hội đồng Tiên Thích, thổ lộ Huệ Mạng Chân truyền, tiết lậu minh Tinh của Chân tánh, cứu vớt

mê vọng, khai thông trí tuệ. Khiến cho những người ngộ được lập tức thành Phật ở hiện kiếp

khỏi đọa tha sinh.

Còn phải tu luyện pháp nào, môn nào, bậc nào?

Phương pháp tu luyện nầy rất giản dị. Chỉ vì người quá mê nên chẳng minh chánh lý song tu,

và phân biệt Giáo tướng. Chỉ có bậc trí huệ mới tham thấu nguồn gốc tánh mạng, rồi dung hội

pháp môn, và chẳng phân bỉ thử.

Tại Thích, nếu có duyên gặp được bậc Chân Tiên và đắc được Chân chỉ Tánh Mạng, tu hành

Chân tánh Mạng, tức Chân Tiên đó là Phật.

Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng tu thành

Chân Tánh Mạng thì Chân tăng cũng là Chân Tiên.

Tiên, Thích vốn cùng một pháp, đại thì đồng, tiểu thì khác, vốn thanh tịnh tự nhiên.

Page 5: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

5

Giác vương, Như Lai, Bồ tát, là do Ngọc Đế tự xưng. Đại tiên, Thất tiên, chúng tiên cũng do

Thế Tôn tự mệnh.

Một đường bằng phẳng, nào có phân biệt hà bỉ hà thử.

Chỉ vì ta thích theo tông chân giác nên mới lội núi băng sông, đến khấu cầu Tòng lâm trí thức,

không còn điều chỉ thiếu sót, cuối cùng cũng chỉ là đề công án, là tham cứu thoại đầu, là đả

thất, và đạm luận tọa Thiền. Trải qua vài mươi năm đều thành hư thọ!

Chỉ vì không gặp được Chân sư Huệ Mạng, nên quên ăn mất ngủ, niệm niệm không dừng, nên

cảm đến trời xanh.

Đến năm tân Hợi, may gặp được Thiền sư. Thiền sư thấy ta Tâm chí khổ thiết, mới khải thị

tâm can, quyết phá nghi vọng cho ta. Thiền sư có ý muốn chỉ truyền, nhưng lại chưa lộ.

Ta nghĩ chánh pháp này quá quan trọng, hay là đều cấm bí của Chư Phật, chứ chẳng phải thấy

ta chẳng từ bi.. nên mới thành tâm phàm hương lập thệ, khẩn cầu chí thiết, mới được quyết phá

căn do. Một lời của Thầy ban, ta liền ngộ toàn Chân ý.

Nguyên lai cái đạo thành Phật tác Tổ, đều ở trong cơ động tịnh thuận nghịch. Có gì khó đâu.

Bởi Thiền sư 30 năm dư, đã khổ chí tầm đạo, nay mới từ bi chép ra kinh này. Phật xưa chẳng

lộ. tổ xưa chưa truyền chính nay mới truyền.

Đem Huệ Mạng, thọ Mạng, Phật tánh, Hòa dung lẫn nhau rồi mới nêu ra.

Là nguyện cho con người thành Phật Chánh giác vượt lên Phật địa.

Cũng chẳng muốn để cho người sau phiền nhọc.

Còn làm cho cha mẹ người kia được thành tựu, công há nhỏ sauo?

Thời Càn long năm Tân Hợi, tháng Trùng dương am Linh Đài tăng diệu ngô cẩn tự.

Page 6: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

6

LỜI TỰA III Đại đạo vốn không ở lời nói. Nếu dùng lời nói để giải thích, thì bị dễ rơi vào tích tượng.

Cho nên, người hiểu được rõ ràng thì rất ít, mà người lầm lẫn nói ra những lời thất truyền thì

nhiều! Há sao họ không bị lạc vào ngỏ hẻm!

Cổ nhân xảo dụ nhiều danh từ khác nhau, nên hậu học tìm mãi mà chẳng thấy chẳng chỉ riêng

một việc khó, là dòm ngó vào cửa Đại Đạo, còn lại ở ví dụ mà chấp danh hay bị mất cả căn

nguyên Tánh Mạng.

Thấy tình trạng đó mà tâm ta lo nghĩ, mới phát tâm lấy kinh để độ người, và giải thích thẳng.

Chỉ có Hoa Dương Thiền Sư, từ thuở nhỏ đã hiếu học, lại còn bẩm thụ được linh căn, nuôi chí

vài mươi năm mà lòng không tha dung. Khổ chí chẳng hề giải đải, mới được áo chỉ của Hồng

và Xung Hư hai vị chân nhân, mới trước tái ra kinh này. Thật là một phương tiện tốt để gọt

sạch da lông, tồn lưu lại cốt tủy, đem những dị danh xưa tảo trừ rửa sạch, và trực thuyết Tiểu

Châu thiên, lập bàn hạ thủ công phu, phát huy những gì tiền Thánh chưa phát, khải thị những

gì mà Chư tổ chưa khải. Khiến cho những người khổ chí hiếu Ðạo được thăng đường rồi lại

nhập thất, và sau được siêu thăng lên Bỉ ngạn, phục hườn, Vô cực há chẳng sung sướng sao?

Sách này tuy xuất phát từ một người trước tác, mà là quy tắc cho vạn thế sư giáo.

Ðọc hết quyển này, khác nào được chiếu từ Thuyền của Tiên Phật sắp chở người qua bên kia

bờ Giác.

Một phương pháp tu luyện đơn giản mà vắn tắt. Thật là điều hạnh phúc cho muôn đời.

Người thông suốt được quyển kinh này rồi thì có gì là chẳng hiểu, và sẽ được thốt nhiên quán

thông, đức tin từ đây cũng sẽ đến tột.

Ta từ thuở nhỏ rất mộ đạo, đã sưu tập quần thư nhưng chưa được ngộ nhập.

Ðến năm Canh tuất mùa xuân, may gặp được Thiền sư, chỉ trao nửa lời, và trao cho ta quyển

này.

Ta mở ra đọc hết, tự nhiên Tâm mục minh thông, chẳng ngờ tay múa chân quơ, tẩm thấm vậy

như giá tan nơi trong, điều lý thú tợ như gần miệng trao truyền.

Phần luận về công pháp của Tiểu Châu thiên, chẳng hề xen lẫn một chữ. Chân ý thì quán suốt

cốt tủy của chân kinh. Lão sư còn chẳng tự lấy đó làm phải, và sợ người đời sau nghi hoặc mà

không được triệt giải, nên phải dẫn chứng chánh văn ở trước để làm bằng. Thật là một quyển

sách rất độc đáo, làm sáng tỏ phần thực tế của Chân nhất. Thẳng trừ sự sai quấy của bàng

Page 7: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

7

môn, thật là bậc công thần của Tiên Phật. Có ai dám nói: chẳng phải.

Trước có 5 điều khái nhiên xuất phát từ Trực thuyết. Sau vài điều cũng trong Xác thực.

Thiên Phong Hỏa Kinh, là tập họp những bài chánh văn dụng công theo thứ tự của chư Thánh

rồi mới cước chú.

Thiên Tổng Thuyết tiết lộ hết Thiên cơ, khiến cho người hạ thủ điều dược, và công phu Thể

thủ chẳng bị lỗi lầm vì trì tảo.

Lư đảnh, Hỏa hầu cũng đều phát minh, và vẽ đồ hình nói về khiếu diệu hạ thủ, và thể thủ huân

chưng cũng ở trong đó.

Thuyết cố Mạng, mục đích khải thị cho người: Tánh Mạng chẳng được giây phút lìa.

Bài Phú ca, làm sáng tỏ chỗ sở đắc của Chân ý, và Ðại Tiểu Châu Thiên cũng có trong đó.

Tâm dụng có vẻ khó khăn, là chí muốn cho các Chí sĩ đồng thành Chánh giác.

Sách này chẳng những có ích lợi đương thời, mà cả giúp cho vạn thế hậu học, nếu có duyên

gặp được, khác nào mây tan lộ rõ Thái Dương, há chẳng hân hoan và tán thưởng sao?

Ta lấy làm xấu hổ vì tài năng ví như dùng ống quảng dòm Trời, chỉ mong đẹp lòng các chí sĩ,

đạt thành chí nguyện chứng công.

Vì lẽ đó nên viết ra bài tựa này.

Thời Càn Long, năm Canh Tuất Hồng Ðô hậu học Võ hà Ðạo nhân Cao Song Cảnh cẩn tự.

Page 8: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

8

NGHĨA LỆ

ÐINH TUẤT SƠN NHƠN THAM ĐÍNH. Trong nhóm những người Trùng sang Chứng luận, có đề nghị tu chỉnh tự, cú, để lại cho đời

sau. Nhưng Ðơn kinh chẳng phải dựa vào văn tự mà thấy được Chân ý của Thánh nhân, hà tất

phải thêm búa rìu, vả lại mỗi khi đến chỗ ngật khẩn, thì cổ Thánh nói đi nói lại ba bốn lần.

Còn trùng ngôn, phục cú, có chỗ nào chưa ðược xương minh chính là để chờ hậu học theo đó

mà ngộ nhập, hà tất phải biến dịch nguyên văn, để làm thức ăn khoái khẩu cho người, khiến

cho độc giả bồi hồi quá khứ.

Nếu muốn ra công tao nhã văn chương thì đương thời chư môn Quỳnh ngọc,

danh liệt thông Nho, chẳng khó nhuận sắc.

Nay quyển này đều chiếu theo cựu bản, tuy có chỗ bị lầm lẫn nhưng vẫn để y, không hề canh

cải.

Chứng luận một quyển, là bí quyết toàn Chân. Bình nhật nếu đã hạ thủ luyện tâm, tức nên

điều Dược. Tình cờ nếu được gặp Thời chí, cũng chưa nên vội hành công theo Tứ tự quyết, mà

chỉ: Ngưng Thần nhập Khí huyệt, tức tức qui căn.

Lúc nầy không đảnh khí, không Hỏa hầu, không Dược vật mà đảnh khí hỏa hầu Dược vật có

trong đó. Trong tám chữ, nếu điều hành đã lâu thì Thần minh thanh tráng, mới có thể hành

công theo Tứ tự quyết (Hấp, Ðể, Toát, Bế), rồi lần lần vận tam bách thăng giáng Diệu Châu.

Như đã được Nguyên quan hiện nơi Ðảnh khí thì tự thấy rõ chính tý Thời Lai, trong ngoài phù

ứng. Lúc bấy giờ mới có thể nói Dược, nói Hỏa nói Ðảnh.

Chỗ đã bị hư hao, thì có công phu Trúc cơ.

Trong quyển nầy đã phân tách từng đệ từng thiên là chủ trương hoằng dương quảng duyệt. Chỉ

vì sợ Tu Sĩ lãng xao nên phải nêu lên.

Phàm tạo Ðơn, dưỡng Xá lợi, phải nên tuân theo thứ đệ công phu, chớ nên phân biệt rời rạc.

Từ xưa đến nay, về lý về pháp của kinh thư, đều bao gồm giải thích, đầu cuối lăn xăn phiền

phức, danh mục thảy đều khác lạ. Chánh văn và thí dụ thì cặp nhau mà giải thích, nên khó

phân thứ đệ, hóa nên mờ mắt. Do đó nên các Hiền sĩ ngày xưa có lời than: “Chẳng biết theo

chổ nào mà hạ thủ!” Có người thông minh nhạy bén, thì vượt ra ngoài quy củ chuẩn thằng, nên

có cái lo tẩu lậu. Là do cái lỗi chẳng tuân theo thứ đệ.

Ta đã từng quán tập chân kinh, chia ra mười tiết, kết thành một khối, nếu rành cương lĩnh,

chép đủ tỏa vi, khẩu quyết theo từng tiết, kết thành guồng máy, tên gọi: Nhập thất. Lại chia

từng khoản hành công, tuần tự tiệm tiến, chẳng hề lướt bước.

Page 9: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

9

Huệ Mạng một quyển, từ xưa đến nay ít truyền, nay lại phổ biến công đồng, tức là thiêu mất

bến Trời, nếu Tu sĩ nào dụng công nghiêm túc, nhất định sẽ có chứng nghiệm, vì có Thần hộ.

Có được quyển kinh này là do hai nhà Tăng là Vân Du và Ngộ Minh, năm xưa thường đến tỉnh

Mân Ðoan tọa bảy ngày đêm chẳng ăn, chẳng ngủ. Rồi một ngày kia bỏ cả hành trang mà ra

đi. Vương Tử đến kịp và xin được quyển kinh này, được Thích Tử và các đồng môn quý trọng,

vì thấy rất bổ ích cho công phu Thiền Ðịnh, nên chẳng sợ khiển trách, cứ theo lẽ công bình mà

phát tâm quảng bá. Ngày nay Thích giáo gần như quên mất hạt giống Bồ đề cuả Như Lai đã

lâu. Còn đạo Huệ Mạng lại ít Thầy nói đến.

Sở dĩ mệnh danh hai chữ này, mục đích chính là để đánh thức người tu học.

Nếu được kinh này mà đọc, khác nào trong đêm tối gặp được Thần đăng. Có được kinh này

phải nên trân trọng.

Thù đồ mà đồng nguyên. Tam giáo chung một nguồn. Tam nguyên cùng một cội. Nam Bắc

sao chia hai nẻo?

Có duyên sẽ được gặp, nhập thất ắt có ngày.

Tất cả đều chỉ cầu, một Tiên Thiên Chân khí, cùng một điểm Càn Kim, cùng chủ trương

khuếch sung Tánh Mạng song tu. Nội ngoại nhất quán chủ yếu là đến chỗ cùng tột mà thôi.

Huệ mạng thâu quang hóa khí, nếu chẳng phải Kim dịch thì lấy vật gì?

Cho đến Chứng Luận, khác gì túy trúc Huỳnh hoa, lập tức nội tiếp chưa hề buông bỏ.

Thanh tịnh vun bồi, không hề chống đối.

Muốn học đạo, phải học Chân đạo, Chân đạo nếu bất thành cũng nên được người có nhân

phẩm cao thượng, và có thể trường sinh bất lão.

Còn học giả đạo, chẳng những được hồi đầu theo nẻo vạy, mà cuối cùng có thể mất đi kiếp

làm người.

Nếu quyết tâm theo học Chân đạo, tự nhiên biết Tánh biết Mạng, đắc Dược đắc Hỏa. Gặp cơ

duyên có thể kết Ðơn thành Xá lợi.

Còn học giả đạo dù cho biết Tánh biết Mạng, đắc Dược đắc Hỏa, cuối cùng cũng chẳng thành

công.

Vô niệm hay khắc chế niệm đều tại nhất Tâm.

Page 10: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

10

Công phu chính yếu của Nho bao gồm Tam giáo, Thánh nhân lâm phàm chẳng đổi lời ta.

Cho nên công phu học vấn về: Siêu phàm nhập Thánh là: Ðệ nhất yếu khắc kỷ khử tự, tiêm

hào vụ tận. Sở vi tổn chi hựu tổn, nhất chí ư vô, Thân vị Thuần dương, Tâm dĩ Thuần

dương. Thân chơn vị phản Thiên Chân dĩ phản. Tại Dục vô dục, cư trần xuất trần. Xứ xứ bồi

Thổ sanh Kim. Thời Thời Thiên Diên ích Hống, tự nhiên Chân sư ám trung điểm đầu, nhi

nhất đán hoát nhiên quán thông.

Huống chi nơi kinh này, chỉ bày đã rõ, hạ thủ cũng dễ, dầu không tài lữ, một mình cũng có thể

tu luyện được. Tạm mượn của Hậu Thiên để sống mà chờ năm tháng.

Giữ được chiếc thuyền lại, cuối cùng cũng được vượt qua bể khổ.

Ðược kinh này khác gì được nước Cực lạc hiện ở thân ta, trong gối có bí quyết. Chỗ khó khăn

là việc: khắc kỷ khử tư.

Sự tôn trọng nền Chánh đạo là do đó.

Bảo phát tử nói: Muốn luyện đơn trước phải học Y. Thật là phương tiện thiện dụ.

Muốn luyện đơn trước phải học về quan, về kinh, về mạch khắp cả Châu thân. Cùng hiểu rõ về

đạo lộ âm dương khí huyết. Cùng diệu phương của tạo hóa thông nhau.

Trong sách Nội kinh có vẽ tượng bằng đồng, đều đầy đủ kinh huyệt.

Pháp luyện Ðơn cũng không có bí quyết nào khác. Cũng chỉ có ba: Dược vật, Hỏa hầu, Ðảnh

khí mà thôi.

Ba vật ấy có Chân có Giả, có Hậu có Tiên.

Thân người đã bị phá, thì phải tá giả phục Chân, cầu Tiên nơi Hậu.

Thiên kinh vạn luận cũng chỉ phân tách thật rõ ràng ba việc này.

Ðộc giả giữ điều đó để cầu nơi trong ba việc, phân biệt Chân nghĩa của Tiên Thiên và Hậu

Thiên, cùng giả tá Chân nguyên, thì mi mục cương lĩnh tự thanh.

Tu sĩ tu luyện qúi trọng ở vong ngôn, thủ nhất. Nhất đây chẳng phải là hư danh, mà là thái cực,

là nguyên quan, Thánh nhân ẩn ngôn nói: Huyền quan nhất khiếu. Gọi là Bảo Nhất. Tu hành

Huỳnh đình ở trong Nhất.

Người tráng kiện thì Nhất này linh.Người đã suy nhược thì Nhất này bị che khuất.

Diên Hống đều theo Nhất này mà sinh. Thủ cực tịnh nơi hư vô, thì một khí Tiên Thiên từ hư

Page 11: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

11

vô lại.

Mượn cái hình của Nhất mà luyện cái khí của Nhất. Ðắc được Nhất thì vạn sự cũng hoàn

tất. Ðiều ám chỉ Nhất là nguyên quan.

Nguyên quan khẩu quyết trọn đủ ở đây.

Người chẳng ôm ấp lấy một niệm này, để thủ tụ thành Chân là: Dĩ Hỏa luyện Dược nhi kết

đơn, dĩ Thần ngự Khí nhi thành Ðạo.

Cho nên Phong hỏa kinh gọi đạo này chí giản, chí dị. Chỉ là giáng Chân hỏa đầu nhập vào khí

huyệt.

Thần khí giao hiệp được lâu, tức siêu nhiên xuất hiện. Nhất này nếu gặp lúc dương sinh thì

khai, dương tán thì liễm.

Thiên cơ mới bắt đầu phát động, dùng Chân ý trụ tại tổ khiếu mà chờ. Chờ cho Nguyên tinh

triền động thì dẫn về bản sở.

Trong thời chánh khai, là lúc Cửu hầu dụng công, là thời Nhị hầu thể Mâu Ni.

Ðiều dược Ðồ thuyết nói: Khí phát tắc thành khiếu. Cơ tức (dừng) tắc diếu nam (mờ mịt).

Lại còn nói: Hỏa tức là Dược, Dược tức là hỏa, Dược hỏa tức đảnh khí. Theo chi lưu là ba,

theo nguồn cội chỉ có một.

Một là khiếu này, là yển nguyệt lư, là Mậu Kỷ Thổ, là Tây Nam hướng. Tên tuy khác nhau,

nhưng cũng chỉ là Cốc thần. Cốc thần là căn cội của trời đất, là tổ của hô hấp vãng lai, là tông

của âm dương hạp tịch, là đại quan khiếu tu luyện. Muốn thấy được khiếu này ngày ngày phải

dụng công đến cực tịnh. Chỉ có Dược Lư Hỏa hầu mới là Chân đích. Cướp lấy Thiên cơ đoạt

quyền Tạo hóa, hóa sinh các cõi Trời, khai minh ba cõi Ta bà, đều tại chỗ này. Vô hạn Tiên

giới đều theo từng cấp này mà lên.

Các sách nói về Nguyên quan có trên trăm tên, đều chẳng khứng trực chỉ nguyên ủy.

Nay được lời Thầy dạy rõ, nên chép thẳng ra đây, để được dung thông Chân ý với Hoa Dương

Thiền sư, và thuyết điều Dược, cùng tham chiếu ý chỉ vong ngôn thủ Nhất.

Chỗ rất thích nghi của Chánh đạo là trước phải lo luyện kỷ.

Luyện kỷ trong Chứng luận đã nêu hết những gì trọng yếu phải luyện. Còn những chỗ khác thì

xương thuyết Chân ngôn rất rõ.

Chỗ tối nghi là cơ tiếp mạng cấp thiết.

Page 12: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

12

Chứng luận, Huệ mạng mở đầu đã nói rõ về thủ thuật. Còn bao nhiêu nữa thì khác gì Kim tứ

bửu lục (hộp vàng chứa vật báu), như Tu thân chánh ấn cũng nói thẳng về chỗ Chân, như tiếp

Mạng thể Dược thì không quên lão ngoãn.

Tóm lại, đều lấy hào cửu Nhị làm đích, gọi là nhị hầu thể Mâu Ni.

Có dược thì phải quy nơi về đảnh. Ðảnh này ở dưới rún một tấc hai phân. Lấy nguời bằng

đồng của y khoa đặt nằm ngữa mà đo. Ðó là thuyết “Tiền thất hậu tam”.

Thước đo thì dùng ngón tay giữa của người cần đo. Lóng giữa của ngón giữa là một tấc.

Vị trí của khiếu này cao hay thấp là tùy theo người lớn hay bé.

Thuốc đã đưa vào đảnh phải lo phong cố.

Phong là đóng kín các cửa khẩu. Cố là làm cho Thận bền cố, tức vô lậu.

Bên ngoại đạo dùng loại muối bùn bít kín các cửa khẩu, không bảo đãm ở phong cố. Vì nếu có

một mảy thấm lậu thì diên tẩu Hống phi.

Còn nội đơn phong cố là dùng chân ý, tuy là vô hình mà công lực phong cố rất kỳ diệu. Sau

khi phong cố phải nên khởi hỏa.

Lửa có nhiều loại. có loại lửa huân dưỡng. Có loại lửa thăng giáng, vv.. Đại khái vận hành lửa

tức là trước phải huân chưn rồi sau mới thăng giáng, và phải theo đúng qui luật, trước Văn sau

Võ. Trong ngoài dùng cùng một quy luật.Còn về cái hỏa tiêu tức của Châu Thiên, cần phải

đúng quy tắc tỷ mỷ, để vận hành theo cơ tuần hườn tấn thối.

Huệ mạng có lục hầu đồ, đã tiết tận Thiên cơ.

Còn các phần khác thì Ngũ Thử Dương Chân Nhân đã chú thích nơi hai kinh. Lời lẽ biện biệt

tinh vi, chúng ta cần nên trịnh trọng. Còn về cơ diệu dụng nhuận dư ở Mộc dục, cũng là trọng

yếu.

Nhâm đốc hai mạch là đường đạo lộ của Thủy Hỏa. Chỉ có Hoa Dương Thiền Sư mới xuyển

dương độc đáo về Chân đồ này.

Theo trong kinh thì chưa giải phẫu minh bạch.

Nhưng cũng chẳng nên chấp đồ mà hại ý, mới là đắc quyết. Ðó là quan tiết khở thủ khẩn yếu.

Còn như pháp Quá quan mới là rất bí mật.

Các pháp khác thì phẩm Tiên Phật hiệp tông có nói rõ. Nếu lúc bình nhật giữ Tâm cho thật

Page 13: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

13

thuần nhiên, thì lúc lâm Thời ít có việc đáng tiếc.

Lúc này trăm khiếu trong thân đều mở, đau đớn tợ như dao cắt, ngàn âm tà đều chấn động tạo

thành âm thanh. Cơ thể tợ như rối loạn. Tâm khả chủ trì trong lúc hỗn độn.Tợ như muốn chết.

Nguyên châu đã có nơi trong, nên phải làm thế nào để Châu khỏi thuận dòng mà ra.

Tất phải công phu và lập công đức cho hưởng Cả sáng đến tối, Thần linh hằng hổ trợ mới có

thể khởi hành Thất nhật đại công.

Chỉ riêng hỏa hầu cổ nhân có nhiều phân biệt. Còn bình nhật hỏa hầu là lúc dùng cái lửa mà

không lửa, dùng cái hầu mà không hầu, ít có nói đến, tu sĩ cần phải phân định.

Trong thân ta có Tí, Ngọ, Mẹo, Dậu là ngôi tứ chánh. Trong đó có hai giờ Mộc dục tức là

tắm rửa rất chí yếu. Lấy Diên Hống,Văn,Võ làm bí cơ.

Qua được bảy ngày này mới quét sạch được quần âm. Chỉ có một cuộc chiến mà Thiên hạ thái

bình, chứng phẩm, Nhơn Tiên. Có thể gọi là đã thành Chánh quả.

Page 14: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

14

MỤC LỤC

1. TỰA LUYỆN ĐƠN ....................................................................................... 14

2. CHÁNH ĐẠO THIỂN THUYẾT ................................................................ 24

3. LUYỆN KỶ TRỰC LUẬN ........................................................................... 37

4. TIỂU CHÂU THIÊN DƯỢC VẬT TRỰC LUẬN ..................................... 47

5. TIỂU CHÂU THIÊN ĐẢNH KHÍ TRỰC LUẬN ..................................... 53

6. PHONG HỎA KINH .................................................................................... 57

7. HIỆU NGHIỆM THUYẾT .......................................................................... 92

8. TỔNG THUYẾT ........................................................................................... 94

9. ĐỒ THỨC ...................................................................................................... 98

10. ĐỒ THUYẾT ................................................................................................. 99

11. CỐ MẠNG THUYẾT ................................................................................. 101

12. PHONG HỎA LUYỆN TINH PHÚ .......................................................... 105

13. THIỀN CƠ PHÚ ......................................................................................... 109

14. DIỆU QUYẾT CA ....................................................................................... 114

15. LUẬN ĐẠO ĐỨC XUNG HÒA ................................................................ 117

16. HỎA HẦU THỨ TỰ ................................................................................... 120

17. NHÂM ĐỐC NHỊ MẠCH ĐỒ ................................................................... 124

18. QUYẾT NGHI ............................................................................................. 125

19. NGUY HIỂM THUYẾT ............................................................................. 129

20. HẬU NGUY HIỂM THUYẾT ................................................................... 140

Page 15: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

15

1. TỰA LUYỆN ĐƠN

Hoa Dương viết: Dục tu đại đạo giả lý võ biệt quyết, vô phi thần khí nhi dĩ. Tiên tu cùng kỳ

tạo hóa, cứu kỳ thanh trược, tắc Tinh sanh phương khả thám nhiếp.Thứ sát kỳ hô hấp, minh kỳ

tiết tự, tắc thần ngưng phương tự luyến hấp,nhiên hậu khả thi, khả thọ, nhi tinh khả hóa.

Thần là Nguyên thần trong Tâm. Khí là Nguyên khí trong Thận, lúc luyện Tinh thì khí ở trong

Tinh, Tinh Khí vốn là một vật. Cho nên Tào Tổ sư nói: Ðại Ðạo giản dị, chỉ có Thần với Khí

mà thôi. Tu sĩ cần phải biết rành cái Ðạo Thần Khí, tức là cái Ðạo tánh Mạng âm dương, cho

nên nói: Lý vô biệt quyết, chỉ có Thần khí mà thôi.

Tạo Hóa: Là sanh cơ trong thân ta. Người do cơ này mà sanh hình. Tiên phật do cơ này mà

thành Ðạo.

Tu sĩ trước phải hiểu cho tận cùng cơ Tạo hóa này mới có thể hạ thủ.

Thanh: Là không còn tướng nhơn, ngã, thiên, địa, hồn nhiên, nguyên vẹn như thuở Thái hư mờ

mờ hỗn độn.

Lúc bấy giờ một dòng khí Tiên Thiên chưa phát. Ta phải hư tâm mà chờ, cho đến lúc tịnh cực

thì có Nguyên khí phát động. Nguyên khí này rất thanh. Trược: Là do tu sĩ khởi tâm tồn tưởng

tư lự, kiến Văn tri giác, mà sau đó khí vi dương mới động và sanh ra trược khí.

Hô hấp: Là nói về cơ vận chuyển của Chân khí phát xuất từ nơi cửa Tốn. Dụng công thì có

thứ tự chuyển biến, chẳng phải chỉ có một. Như lúc tinh sanh thì phải dùng cơ hô hấp để nhiếp

Tinh. Lúc Dược sinh thì dùng hô hấp để thể Dược. Lúc Dược đã quy lư thì dùng hô hấp để

phong cố. Lúc khởi hỏa thì dùng hô hấp để khởi. Lúc mộc dục thì dùng hô hấp để tắm rửa.

Cho nên gọi: Tiết tự.

Page 16: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

16

Thần đã ngưng nhập khí huyệt, thì Thần tự nhiên Luyến Khí.

Thi: Là khí Hậu Thiên, còn gọi là mẫu khí thọ: là khí Tiên Thiên, còn gọi là khí con.

Tử khí đã thọ mẫu khí, thì Tinh tự hóa Khí.

Nếu chẳng minh cơ tiêu tức của Mẫu khí, thì tử khí tán phát ra ngoại cảnh, nên Tinh không

thể nào hóa ra Khí được.

Dự kiến thế nhân diệt tri Dương sinh, nhi luyện Tinh bất trụ, Kim Ðơn bất thành giả, giai

nhân bất tri kỳ tự nhiên nhi nhiên, dĩ hỗn thể hỗn luyện chi quá dả. Thả quan cổ thơ chi sở tát

dụ danh Lư Ðảnh, đạo lộ, tắc nhơn bị Lư đảnh, đạo lộ chi sở hoặc. Dụ danh Diên Hống Dược

vật, tắc nhơn nhơn bị Diên Hống Dược vật chi sở ngộ. Cố giả đạo dũ hiển nhi Chân đạo dũ

hối! Thế nhơn dụ nhi hoặc nhơn cuống nhơn giả chúng hỉ.

Do thử quan chi: Trí giả đắc Sư nhi minh ngu giả bị sư nhi ngộ, giai nhân bất ngô quần thư

giản dị chi diệu, nhi cánh thất chánh lý.

Ta thấy người đời học Ðạo cũng biết dương sinh, nhưng luyện Tinh cũng không trụ, cũng bị

tẩu lậu mãi, như vậy làm sao thành Kim đơn được. Lý do là chẳng biết quy luật tự nhiên như

nhiên của Thiền công, nên Thể dược luyện dược lộn xộn.

Page 17: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

17

Dược sản thì có Thời. Phong cố thì có lư. Châu Thiên có độ số. Nhưng đều chẳng biết nên

dụng công lộn xộn, thể chẳng ra thể, luyện không ra luyện. Chẳng biết lúc nào Dược sản.

Chẳng biết lư ở chỗ nào để phong. Chẳng biết Châu Thiên độ số là bao nhiêu. Chẳng biết lúc

nào dụng văn, lúc nào dụng Võ, lúc nào Văn Võ kiêm dụng v.v…

Cổ thư có ví dụ Lư đảnh, là cơ sở luyện Tinh hóa khí. Phương sĩ mượn đó mà nói: Lữ đảnh mà

nói thiêu luyện. Sở học vì chưa đắc Chân truyền nên tin theo mà bị lầm lẫn! Tu sĩ, dù cho có

Chân chí, cũng không tránh được sự ngộ nhận.

Ðạo lộ: Là 2 đường mạch âm dương Nhâm Ðốc trong người, dùng để thể nội Dược, để điều

hòa âm dương, để luyện trường sinh, để vận Châu Thiên, để nối liền hai mạch. Chủ yếu là khai

thông con đường này để dẫn Xá lợi quá quan.

Ðốc mạch khởi hành vào giờ Tí, bắt đầu từ huyệt Ngân xỉ lên Sơn căn, lên Thiên môn, ra ngọc

Chẩm, xuống Giáp tích, rồi xuống Trường cường là chấm dứt cơ hiển hành của đốc mạch, theo

đường rỗng của cột sống. Ðến đây thì nó vi hành vào con đường bên trong.

Nhâm mạch khởi hành vào giờ Ngọ, bắt đầu từ huyệt Hội âm lên quang nguyên, lên Thập Nhị

trùng lầu, lên Thừa tương, đến Ngân xỉ, rồi trở xuống theo đường trong mà về ngôi cũ.

Chúng ta nên biết: Hai mạch này vận hành như trên đã nói, là vận hành theo cơ vận chuyển

của âm dương Hậu Thiên nên con người có sanh tử.

Hai mạch vận hành như trên là tà cơ, nên Thủy Hỏa đều tà. Do đó Càn cung bị tà thủy ô nhiễm

gây cho trí tuệ con người bị mất dần dần!

Còn Tà hỏa thì xuống thiêu đốt tạng thận, làm cho tuổi thọ con người dần dần giảm thiểu!

Thánh nhân vì thương người mới dạy: Phải nghịch chuyển Hà xa, là dạy ta con đường vận

Châu Thiên, mục đích cao tột là đạt chứng chánh quả Trường sinh bất tử.

Nghịch chuyển hà xa còn gọi là cơ vận chuyển của Trung Thiên giáo pháp

Thể thủ do cơ nghịch chuyển mà vận. Châu thiên do cơ nghịch hành mà chuyển.

Suốt thông được lý nầy, pháp nầy, thì Kim đơn sẽ thành.

Cổ nhân luyện đơn, lấy Diên Hống thí dụ cho Thần khí, lấy dược vật thí dụ cho nguyên Tinh.

Cũng do thí dụ đó mà có nhiều người bị ngộ nhận!

Người mê nghe nói Diên hống bèn lấy phàm diên phàm hống thiêu luyện làm

Page 18: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

18

Dược vật, rồi cho người uống, gọi đó là thuốc trường sinh, cầu phú quý!

Có người bị phá gia, bị tán mạng, thật tội nghiệp!

Các kinh sách tuy có nhiều danh từ thí dụ, nhưng xét về cội nguồn cũng chỉ có: Tâm với Thận,

Thần và Khí mà thôi.

Những kẻ có tà tâm mới lấy dụ để làm dụ, gọi là mê dẫn mê. Sở dĩ trong thế giới hiện nay có

vô số người mê, nên mới có nhiều Tà sư nổi lên dựng thành tà đạo. Tà đạo vốn có nhiều pháp

thuật khá hấp dẫn, khá lôi cuốn đuợc số đông người theo.

Tà đạo càng thịnh hành bao nhiêu thì Chánh đạo càng bị mờ tối bấy nhiêu.

Tà đạo hay ngoại đạo, chẳng phải chuyên chú mê hoặc lừa đời, mà còn cái lầm ở chấp

thiên. Thí dụ: như chuyên Tánh chuyên dương, mà bỏ Mạng bỏ âm. Cô dương hay cô âm đều

bất thành vạn vật.

Vậy thì chánh đạo há được thành sao?.

Con người sống ở thế giới này quan trọng hơn hết là giác ngộ hay không giác ngộ.

Giác ngộ là người Trí. Chẳng giác ngộ là kẻ ngu.

Chủ yếu của trí là biết được lẽ sống Chân lý của con người.Thí dụ như khi mình lỡ phạm phải

điều lầm lỗi, thì biết liền, và lập tức đổi liền. Phât, Thánh, Thần, Tiên cũng theo phương pháp

này.

Có một chủ đích rất quan trọng của đời người là phải học, phải tu. Tu học thì phải có Chân sư.

Người gặp được Chân sư chẳng chỉ là có trí, mà phải có túc duyên, có Thiện căn, có chí lớn.

Chỉ có bậc Chân sư mới hướng dẫn cho ta hiểu rành chánh lý, chánh pháp và chánh đạo, mới

giúp ta chứng quả Trường sinh bất tử.

Còn những người, cũng chẳng chỉ là ngu, mà chẳng có túc duyên, chẳng có thiện căn, chẳng

có chí lớn, nên phải lầm gặp Tà sư! Lại còn một nguyên nhân là chẳng hiểu chỗ chí diệu giản

dị của quần thư, nên không tầm ra chánh lý. Có lời nói: Có người đọc hết năm xe sách, mà còn

có một chữ Nhất không hiểu hết được Chân ý.

Page 19: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

19

Cố dư dục chánh nhi trực luận. PhùTiên đạo giả nguyên hồ Tiên Thiên chi Thần Khí. Luyện

Tinh giả tắc khí tại hồ kỳ trung. Luyện hình giả tắc Thần tại hồ kỳ nội. Luyện Thời tất minh kỳ

hỏa. Dụng hỏa tất kiêm kỳ phong. Tồn hồ kỳ thành, nhập hồ kỳ thiếu, hiệp hồ tự nhiên. Nhược

năng như thử, y Thời nhi luyện, tắc Dược vật tự nhiên sanh hỉ. Sanh cảnh du kỳ thục lộ hữu

chi. Nhược bất khởi hỏa quy lư, nan miễn tẩu thất chi hoạn dã. Nhiên Dược vật ký qui lư, hựu

đương tốc khởi Hỏa bứt hành kỳ Châu Thiên. Thoảng bất minh kỳ Hỏa hầu chi Tinh vi, tuy

hữu Dược nhi Dược bất năng thành đơn. Bất tri thác thược chi tiêu tức. Bất minh thăng giáng

chi pháp độ. Bất thức mộc dục chi hầu. Bất hiển quy căn chi sở. Như thử không luyện, hà đắc

thành kỳ đặc dả.

Thần là nguyên Thần, Khí là nguyên Khí.

Tiên thiên: Là thời Vô cực, thời Hồng mông vị phán, thái cực chưa chia.

Tức là trước cơ hoảng hoảng hốt hốt.

Nguyên thần và Nguyên khí là hai thành phần thuộc lãnh vực, thuộc tinh thần của Tiên

Thiên.

Tiên Thiên trong lãnh vực Thần khí, cụ thể Thần là Chân ý, Khí là Chân dược.

Page 20: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

20

Chân ý là kết quả của Cùng lý. Chân dược là kết quả của công phu Ðiều dược.

Nếu chưa đạt được thành quả cùng lý thì không có Chân ý. Chân ý là vị Chân sư trong người

của ta.

Có được Chân sư, có được Chân Dược, thì lo gì chánh quả không thành.

Tinh là do khí thuận hóa. Khí là do Tinh nghịch luyện. Có được Chân tinh là do tâm cực tịnh

mà thận động nên sinh ra, còn gọi là chơn đơn. Còn nếu tâm và thận đều động thì sinh ảo đơn.

Có Tinh và có Khí, là do ở cơ thuận hóa và nghịch luyện. Tinh với khí là một.

Cũng như nước và hơi nước vốn không hai. Nước bốc lên thành khí, khí ngưng tụ lại thành

nước. Còn nước, còn Tinh thì còn lậu. Tinh và nước đã tận huân hóa, thì lấy đâu mà lậu.

Thánh nhân dạy ta dùng Chân hỏa để huân hóa thành phần Tinh cho trọn vẹn, thì thành Sơ

chứng.

Luyện hình là luyện thành phần khí đã hóa ra hữu hình, hay khí này có mang phần âm. Tức là

luyện phần hữu hình đó thành vô hình, và luyện phần âm đó trở nên dương và thành Thuần

dương.

Sở dĩ thành phần khí này đã hóa ra hữu hình là do Thần thuận hóa theo cơ biến hóa âm dương

của Hậu Thiên. Thần vốn thuộc dương. Khí vốn thuộc âm. Căn cứ theo dịch lý trong dương có

âm, trong âm có dương. Như vậy thì trong thần cũng có khí, trong khí cũng có thần.

Luyện thời: là cái Thời kỳ hạ thủ công phu. Thí dụ như Thời thể thủ có bốn Thời: là Thời thể

thủ, Thời huân chưng, Thời Phong cố và Thời vận hành.

Còn vận Châu Thiên thì có Thời Hành Thời Trụ, Thời Khởi, Thời Chỉ.

Thời Châu Thiên còn chia ra Ðại châu Thiên và Thời Tiểu Châu Thiên.

Thời còn có Thời Tịnh chiếu, Thời Mộc dục.

Tóm lại mỗi một công phu trong cơ Thiền định đều có Thời. Chủ yếu là Chân

Thời, là Thời nội bất động mà ngoại động.

Thời còn có Thời huợt Tí Thời cố định, và huợt tí Thời bất định.

Mỗi một Thời công phu có cơ dụng hỏa khác nhau thí dụ như Thời Tiểu Châu Thiên, có Văn

hỏa và Võ hỏa, có Văn hỏa đơn dụng, có Văn hỏa kiêm dụng.

Hỏa còn có Quân hỏa, Tướng hỏa và Dân hỏa, lại còn có Chân hỏa, tà hỏa.

Page 21: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

21

Có Chân hỏa mới huân hóa tất cả các phần âm trong người hóa ra dương, rồi huân hóa cho

thành thuần dương, thì thành đạo, dịch lý gọi: Càn Càn bất tức.

Thành phần Hỏa đóng một vai trò trọng yếu trong công phu Thiền định,

nên Tu sĩ cần phải cùng lý ở Hỏa. Chẳng nên xem thường sẽ có nguy cơ.

Dùng Hỏa phải nhờ có cơ Tiêu tức Tốn phong.Thí dụ như người thợ rèn dùng hai ống bể để

tạo ra gió, quạt thổi cho lửa hừng lên.

Công phu dùng Hỏa ở đây phải dùng khí hô hấp làm gió. Lửa và gió bức Chân khí vận

chuyển. Nhưng dùng cơ hô hấp trong công phu Thiền định Chân ý không được nghĩ về hô hấp,

nếu nghĩ đến thì mắc Tướng hữu vi.

Công phu Thiền định phải đặt trọn lòng Chí thành. Tu sĩ phải trọn đời giữ đức chí thành. Tức

là trong lòng không còn một hào li hư nguy, thì công phu tu luyện mới mong thành công.

Thần phải thường trụ nơi Tổ khiếu. Lâu ngày thì Thái cực hiện, gọi là Huyền quan xuất hiện.

Ðức Lão Tử nói: Cốc Thần bất tử. Là nói về chỗ này, chỗ nhập hồ kỳ Khiếu.

Dịch Lý có nói: Vô cực nhi thái cực. Là nói về Tổ khiếu Huyền quan xuất hiện nơi cung vô

cực.

Vô cực là tự nhiên, là trên tất cả.

Đức Lão Tử nói: Đạo pháp tự nhiên

Vậy tự nhiên ở đây là đại đạo

Nếu hiểu được như vậy, rồi cứ nương theo từng Thời công phu mà luyện, thì có Dược sinh.

Chân Dược mà ta đã Thể thủ qui Lư, rồi huân chưn, rồi phong cố. Lại còn phải khởi hỏa bức

hành Châu Thiên Chân khí mới lưu thông, mới ngưng tụ, đơn mới kết.

Hỏa hầu là một tổng danh trong đó có thứ đệ tiết tự, và đều có từng hầu, như Tinh sanh thì có

hầu điều Dược, Dược sản thì hầu thể thủ, qui lư thì có hầu phong cố khởi hỏa thì có hầu vận

hành, mộc dục thì có hầu Đình tức. Hỏa túc thì có hầu chỉ hỏa. Đó là bí cơ của Tiểu Châu

Thiên. Nếu chẳng tận Tinh vi, tuy đắc Dược cũng chẳng đúng pháp độ của hỏa, đâu được

thành đơn, cho nên phải hiểu rõ tất cả.

Thác thược là cơ hô hấp vãng Lai. Cổ nhân thí dụ Tốn phong. Thăng giáng do đây mà vận.

Chẳng được gió này thì vận chuyển không đúng pháp.

Page 22: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

22

Tiểu Châu Thiên đều nương theo Tốn Phong của Thác thược, để làm quyền bỉnh cho Kim

đơn.

Thăng giáng là cơ vận hành cho Châu Thiên có độ số. Thường thường người tu học chẳng biết

độ số của thăng giáng nên Ðơn không kết.

Mộc dục là cơ sanh sát của Mẹo Dậu, cho nên đình tức cũng là hầu Mộc dục.

Quy căn là quy về khí huyệt, về bản vị.

Không luyện: là chẳng hiểu rõ Chân quyết của Chánh đạo. Chánh đạo là đạo Tánh Mạng.

Không luyện là chỉ tu Tánh mà không luyện Mạng, do đó nên có lời nói: thiền khô tinh không

hay ngột tọa ngoan không. Tuy có tu cũng vô ích.

Ðại phàm lâm cơ chi Thời tất tu sứng minh kỳ Thần, mãnh dũng kỳ chí, lập đinh Thiên tâm

chi chủ tể, bồi hồi bức tấu chi vận chuyển, nội cổ thác thược chi tiêu tức, ngoại y đẩu bình chi

tuần hòan. Như thử Thần Khí tương y nhi hành, tương y nhu trụ, tắc Châu Thiên chi tạo hóa

võ bất nghi.

Thời: Càn Long Canh Tuất xuân, Truyền Lô Liễu Hoa Dương Tự, ư quán thành chi khiết

vương cổ miếu trung.

Lâm cơ chi thời: Là đến lúc hạ thủ công phu, như thể thủ, huân chưn …

Tối kỵ hôn mê tán loạn.

Lúc lâm thời hạ thủ công phu, tinh thần phải tinh tấn và dũng mãnh. Tự mình tu, tự mình

thành, không thể nương tha hay nhờ người khác tu giùm. Lập tâm kiên cố như kim cương mới

vượt qua 81 cơ khảo thí.

Page 23: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

23

Thiên tâm là Trung huỳnh, ở chính trung của trời đất. Còn một tên nữa là Thiên can, là đẩu

bỉnh. Tại nơi trời là Thiên tâm, ở nơi người là Chân ý. Trung cung nếu thất Chân ý, cũng như

thân bị mất quân.

Bức tấu: là Chân ý bồi hồi vãng Lai, tợ như trục xe chuyển vận. Lão Tử gọi: Tam thập trục,

cộng nhất cối.

Thác thược: Là thí dụ cơ hô hấp, tợ như 2 ống bể của thợ rèn. Trong cơ thác thược có cơ vi vi

hô hấp, gọi là Tiêu tức. Châu thiên hỏa hầu đều nương theo chân tức lấy hô hấp để định hạn số

châu thiên. Triều nguyên tử nói:

Khuyến quân cùng thủ Châu Thiên số

Mạc sử ta đà Phục quái thôi

(chớ để dần dà đến sơ chứng)

Đẩu bỉnh: cái cán của ngôi sao, tợ như trục xe.

Tuần hoàn: là cơ vận chuyển: Khí nương thần mà vận hành khắp châu thân. Thần nương khí

mà trụ. Hỏa Hầu vận hành thì thần khí cũng vận hành.

Hỏa hầu đương trụ thì thần khí cũng đương trụ

Hỏa hầu đương chỉ thì thần khí cũng chỉ.

Cứ như vậy mà luyện kim đơn sẽ thành.

Thời Càn Long năm Canh Tuất, truyền lô liễu Hoa dương viết lời tựa.

THÍCH NGHĨA CHÍNH VĂN Tu theo Ðại đạo, nhớ một bí quyết: chỉ có Thần Khí mà thôi.

Trước phải hiểu về cơ tạo hóa và biết rành thuốc có đục có trong, thì tinh sanh mới có thể hạ

công Thể thủ.

Tiếp đến phải minh về cơ hô hấp, lại phải suốt thông ở tiết tự công phu,

thì thần ngưng khí mới tự luyến hấp.

Sau đó 2 khí Tiên Thiên và Hậu Thiên phải khế hợp, thì tinh mới hóa thành Khí.

Ta thấy người đời cũng biết dương sinh, nhưng luyện Tinh mà Tinh chẳng trụ, Kim đơn chẳng

thành, đều do chẳng biết quy luật Tự nhiên phải như vậy. Cũng đều do cái lỗi thể lầm luyện

lộn!

Page 24: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

24

Còn về cổ thư, vốn đã tạo ra nhiều tên thí dụ, như Lư Đảnh, như đạo lộ, rồi có kẻ mượn Lư

Đảnh, đạo lộ mà mê hoặc người. Thí dụ Hống Diên, Dược vật, cũng có kẻ mượn đó mà phỉnh

phờ người.

Cho nên hễ giả đạo Càng sáng, thì Chân đạo càng tối.

Người đời mượn thí dụ mà mê hoặc người, lôi cuốn kẻ mê để trục lợi đồ danh, kể ra cũng vô

số!

Theo đó mà quán xét: Bậc Trí thì được gặp Chân sư và hiểu rành Chánh đạo.

Còn kẻ mê si, phải gặp tà sư, mà bị lỗi lầm. Ðều do chẳng hiểu được phần diệu lý của quần thư

giản dị mà phải mất đi phần chánh lý.

Cho nên, chính ta muốn nói thẳng lên, gọi là Trực luận.

Tiên đạo nguyên cơ là Tiên Thiên Thần Khí.

Lúc luyện Tinh thì khí ở trong Tinh. Lúc luyện hình khí thì Thần ở trong hình khí.

Lúc luyện phải rành về Hỏa, dùng Hỏa phải dùng lấy Gió.

Chủ yếu là phải bảo tồn Đức chí thành, mới có thể quy nhập về Tổ khiếu, và khế hạp với luật

Tự nhiên.

Nếu được như vậy, rồi nương theo Thời mà luyện thì Chân Dược tự nhiên phát sinh.

Chân Dược đã sinh, Tu sĩ phải nhớ nó có con đường thục lộ. Nếu chẳng khởi Chân hỏa mà

đưa nó về Lư, thì khó khỏi có cái lo tẩu thất.

Lúc Chân dược đã quy Lư, phải nên gấp khởi Chân hỏa, mà bức hành Châu Thiên. Thoảng

như chẳng minh tận Tinh vi của Hỏa Hầu, tuy có Chân Dược cũng chẳng tận tinh vi của Hỏa

hầu, tuy có Chân dược cũng chẳng thành Kim đơn. Chẳng biết cơ Thác Thược Tiêu tức Chẳng

minh pháp độ thăng giáng! Chẳng biết rành hầu Mộc dục! Chẳng hiểu chổ sở tại để quy căn!

Nếu như vậy thì phải bị không luyện, làm sao thành đạo được.

Ðại phàm lúc lâm cơ, tất nên thơ sướng ở Thần, dũng mãnh ở Chí. Lập định Chân ý (Thiên

Tâm) làm chủ tể.

Luân hành cơ vận chuyển như trục xe. Trong thì cổ vũ cơ Tiêu tức của Thác Thược. Ngoài thì

nương theo chuổi Sao mà tuần hoàn. Ðược như vậy thì Thần khí nương nhau mà hành, nương

nhau mà trụ, làm sao cơ Tạo hóa chẳng được khế nghi.

Page 25: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

25

2. CHÁNH ÐẠO THIỂN THUYẾT

TẬN NGÔN TIỂU CHÂU THIÊN

Hoa Dương viết : Tiên đạo luyện Nguyên Tinh vi đơn. Phục thực tắc xuất thần hiển hóa, thế

gian vô bất hỉ nhi nguyện cầu.

Nại hà Thiên cơ bí mật, học giả vị tất cùng kỳ căn nguyên, cố đa tại trung đồ nhi phế. Sở dĩ dư

Kim thiển thuyết, sử học giả khái nhi chứng chi.

Phù tinh vi vạn vật chi mỹ, tức dưỡng thân lập mạng chi chí bửu.

Như tinh dĩ bại giả dĩ tinh nhi bổ Tinh, bảo nhi hườn sơ, sở vị đắc sinh chi do.

Vị bại giả, tức dĩ thử nhi siêu thoát, dưỡng thai hóa Thần tắc diệu dị vi, dị tu, dị thành chi

quả.

Tiên cơ về hạ thủ luyện Ðơn, tức là luyện Nguyên Tinh trong Thận.

Tinh sung mãn thì khí tự phát sinh, và luyện cho khí này trở thành nguyên khí.

Lại luyện cái Nguyên khí này để bồi bổ Chân khí Tiên Thiên. Bổ cho đến khi nào Chân khí

Page 26: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

26

được sung túc thì sanh cơ bất động.

Sanh cơ bất động còn gọi là diệt bạch hổ (Nam) hay Trảm xích long (Nữ), hay gọi Lặt dương

quan. Là quả sơ chứng Trường sinh bất tử của phẩm nhơn Tiên.

Phục thực: Còn gọi là quá quan phục thực. Quá quan là đi qua ba cửa Tam quan và Thiên môn

quan, Thượng Thước kiều quan, Thập nhị trùng quan.

Phục thực: Tuy nói Xá lợi về Trung đơn điền, mà có pháp kiêm điền, nên có Hạ đơn điền, chỗ

cũ của Xá lợi thành, nên gọi Phục thực.

Quá quan phục thực là một pháp môn rất bí mật. Chỉ truyền cho hàng Thượng căn.

Sau mười tháng hồi thai tại Trung Ðiền viên mãn có tên ví dụ là Ngọc Mâu Ni rồi lên Thượng

điền để luyện xuất Thần hiển hóa, biến Thiên ức hóa thân. Người thế gian nào lại không thích.

Thiên cơ bí mật: Là thời dương động trong thân ta, còn gọi là Hượt Tí Thời.

Là cơ tâm mật của Tiên Chân Thượng Thánh, chẳng chép ra tre lụa, nên Tu sĩ làm sao cùng lý

đến tận căn nguyên, cho nên nửa đường phải bỏ cuộc.

Tinh là vật tối mỹ cuả con người và vạn vật. Người còn Tinh này thì sống và là điều kiện phải

có để có thể bước lên bậc thượng thừa. Người đã khánh kiệt Tinh này thì xem như đã chết đi

một kiếp người, nên muốn bước lên bậc Thượng thừa phải chờ kiếp sau!

Tinh này là căn nguyên của Tánh Mạng.

Cổ nhân có nói: Lưu đắc dương Tinh Thần Tiên hiện thành. Há chẳng báu sao?

Các thành phần Tinh đã hao tán, phải dùng pháp bổ Tinh mà hỗ trợ.

Chung Ly Chân Nhân nói: Vãn niên tu trì, Tiên luận cứu hộ.

Vị bại là Chân đồng, thì Tinh mãn Khí túc, nên không cần phải trúc cơ bổ Tinh, cứ hạ thủ

trong một thời gian ngắn là kết Xá lợi.

Page 27: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

27

Nhược dĩ Thần thử Tinh, do Tự nhiên chi Tạo hóa, tắc Nhơn đạo tòan. Nhược dĩ Thần nghịch

thử Tinh, tu Tự nhiên chi Tạo hoá, tắc Tiên đạo thành. Cố: Tịnh giả nải thị nhập tử nhập sanh

chi quan tỏa. Kỳ danh tuy nhiên chi viết: Tinh Kỳ lý bổn tự vô hình.

Nhân tịnh trung động nhi ngôn chi viết: Nguyên tinh. Dương kỳ vị động chi tiền, hồn nhiên

không tịch, thị chi bất biến, thính chi vô thinh, diệt phi Tinh dã, diệt phi vật dã.

Vô khả danh nhi danh, cố danh chi viết: Tiên Thiên. Dịch viết: Vô cực Thời dã.

Tự thời tắc Thần tịch, Cơ tích, vạn vật quy căn. Thử chánh vị chi hư cực tinh đốc.

Tịnh trung hoảng hốt, ngẫu hữu dung hội chi diệu ý, tiện khả danh nhi hữu kỳ danh, cố danh

chi viết: Ðạo. Dịch viết: Thái cực Thời dả.

Page 28: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

28

Người đời gặp lúc tinh sanh, chẳng biết tu luyện, là không biết cách thu nó về, nên thuận theo

cơ Tạo hóa, là nam nữ giao cấu rồi sanh người, nên gọi Thần thuận thử tinh.

Tu sĩ nhờ có bậc Chân sư chỉ truyền pháp Thể thủ, biết cơ Tạo hóa của tinh này, biết nghịch

quy Khí huyệt, rồi dùng Chân hỏa hà luyện cho tinh hóa thành khí, mà thoát thai để thành Tiên

hóa Phật. Theo đó mà đắc, là do tinh nghịch cảnh hóa.

Tinh là căn do phân Thánh phân phàm.

Còn tinh thì sống. Tinh kiệt thì chết, nên gọi Quan tỏa. Tinh này trước khi chưa động, trong ấy

vốn hư vô, có tinh đâu mà gọi tên. Nhân được tịnh cực, dương theo tịnh mà phát động, nên gọi

tên là Nguyên tinh.

Trong lúc chưa động là thời Hồng mông chưa chia. Huyền môn gọi là Tiên Thiên. Thích gia

gọi là oai âm. Nho gia gọi là Vô cực. Tổng thuộc hư vô nên khí cũng không.

Lúc bấy giờ là thời Hồng mông vị phán, vốn một khối, chẳng thấy tướng của Thiên, Ðịa,

Nhơn, Ngã, như mùa đông, vạn vật quy căn, dương khí tiềm tàng, nên gọi cơ tức. Cơ tuy là

dừng, nhưng trong Cơ tức lại có khí sinh.

Hoảng hốt là trạng thái âm dương mới bắt đầu biến hóa, gọi là Thiên cơ manh nha chứ chưa

thiệt động. Thiệu Khương Tiết Tiên Sinh nói:

Hoảng hốt âm dương sơ biến hóa.

Nhân ôn Thiên Ðịa sạ hồi triền.

Thái cực khí gần phát động thì khí Nguyên dương (Nguyên khí) sắp phát sinh. Sau khi khí này

sinh rồi thì chuyển thành trạng thái hồi triều, và có Nguyên tinh phát sinh. Thể thủ là thể cái

Tinh này.

Thời vô cực chưa có gì cả nên làm gì có danh.

Trong con người gọi là cung vô cực tức là Tử cung.

Khi một điểm dương tinh của cha điểm vào cung này gọi là Vô cực nhi Thái cực.

Còn luận về người tu luyện thì Vô cực là Cốc Thần, Thái cực là Huyền quan Tổ khiếu.

Luận về vũ trụ bên ngoài, thì vô cực là cảnh đại hư phong, còn Thái cực là Tử vi tinh.

Từ khi Thái cực hiện ra là có danh, tức Thái cực là Thái Cực Thánh Hoàng là Thượng Ðế, là

đức Chúa trời, là Ðạo.

Page 29: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

29

Nhân thử Cơ nhất manh viết: Nguyên khí, khí ký dĩ manh nhi hậu triền động viết: Nguyên

tinh. Tu Tiên tác Phật chi tạo hóa, tùng thử nhi hạ thủ. Nhược phù trần niệm kiêm khởi, tất

hóa dâm tinh thuận dương quan nhi xuất.

Tu sĩ chánh đương thử Thời, chánh niệm vi chủ, dĩ thần ngự khí, sử hô hấp chi khí lưu luyến

nguyên tinh, khả vi hườn nguyên chi đạo. Chân tinh ký đắc hườn nguyên, sử kỳ thần khí hỗn

hợp lưỡng bất tương li. Sử kỳ nhi vật dung hoa, hiệp nhi vi nhất. Như Dịch sở vị: Thiên địa,

nhân ôn, vạn vật hóa sinh. Nhiên hậu Tiên Thiên Thân nhất chi khí, nhủn cựu tùng khiếu trung

phát xuất, nhi vi Kim đơn chi chủ tể. Sở dĩ cổ vận: Vị hữu bất giao cấu, nhi khả nãng thành

tạo hóa giả hồ?

Ðoạn văn này Thiền sư đã tiết tận Thiên cơ, tu sĩ cần phải cùng lý để ứng dụng cho cơ Thiền

định. Thánh nhân có nói: Nhược vô chí tu Tiên tu Phật, hà năng tham cứu Thiên cơ.

Chỉ có hàng Tu sĩ phát tâm chứng quả vô thượng Thánh đẳng Thánh giác, mới quyết tâm tham

cứu Thiên cơ.

Thiên cơ là khí Chân dương trong người phát động. Chân dương khí bắt đầu phát động gọi là

Page 30: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

30

Cơ nhất manh. Thì có Thân khí phát sinh.

Thân khí sau khi đã sinh và bắt đầu triền động thì có Chân tinh phát sinh.

Lúc khí Chân dương bắt đầu manh nha, ta lập tức hồi quan phản chiếu, ngưng Thần Tại Tổ

khiếu mà chờ. Chờ đến khi Chân tinh phát sinh thì lập tức thu nhiếp quy Lư.

Tất cả Phật Thánh Thần Tiên được chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều dụng

công thể thủ Chân tinh này. Nếu bỏ Chân tinh này thì vạn vô nhất thành.

Chân khí triền động rồi sinh Chân tinh này, là thuốc không già không non, đúng là Chân dược

nên thể nhập quy lư.

Thời gian dụng công Thể thủ, phải giữ cho Tâm thật hư tịnh, nếu có trần niệm dấy lên, tất sẽ

hóa thành dâm tinh, thuận theo đường Thục lộ mà ra.

Công phu Luyện kỷ còn gọi là Trúc cơ. Là xây nền đắp móng cho thật kiên cố, là Luyện kỷ

thật thuần thục, là luyện tâm đã thuần nhất.

Tu luyện được như vậy mới có Chân dược, mới biết dùng Chánh niệm làm chủ cho công phu

thể thủ, mới dụng công dĩ Thần ngự Khí đúng pháp, và mới làm cho Chân khí trong cơ Tiêu

tức lưu luyến Chân tinh. Có được như vậy mới đúng cái đạo hườn nguyên, là Thể Dược quy

Lư.

Chân tinh khi đã quy Lư, tự nhiên có sự huyền diệu, như Vô cực mà có Thái cực. Nếu như

không có Chân tinh, thì Lư này không có huyền diệu gì cả. Cũng như Vô cực mà không có

Thái cực, thì Vô cực này không có cơ linh diệu biến hóa.

Nhờ có cơ linh diệu của lư này mà Thần với Khí trộn trạo nhau tợ như Thủy ngân với chì hòa

lẫn, khiến nên hai thành phần không hề lìa nhau, dung hòa làm một.

Khí của trời, khí của đất nếu chẳng giao nhau thì không thể nào sanh ra vạn vật, và vạn vật

cũng không thể nào nối tiếp sự sống còn.

Như trong một ngày đêm không có hai giờ Tuất, Hợi Thái cực, thì vạn vật sẽ không có cơ Tạo

hóa tiếp nối sự sống còn trong ngày mai.

Trong một tháng có 5 ngày, từ 26 đến 30 âm lịch, trong một năm có 2 tháng Tuất Hợi, trong

một đại nguyên 129.600 có hai hội Tuất Hợi… Là thời gian Thái cực tạo nên cơ Tạo hóa tiếp

nối sự sống còn.

Con người mới bắt chước theo đó mà dụng công Thiền định, là tạo nên trạng thái Thái cực

miên miên mà cốc thần bất tử, mà siêu phàm nhập Thánh.

Page 31: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

31

Thái cực miên miên tại cốc thần, thì có Tiên Thiên Chân nhất từ trong Cốc phát xuất và làm

chủ tể của Kim đơn.

Cho nên Cổ nhân có nói: Nếu chẳng có cơ giao cấu thì làm sao có cơ tạo hóa?

Cơ giao cấu đó là: Thái dương nhập Thái âm, là Tây trạch nữ xuống kết cấu với chàng Ðông

xá lang, là: Thủy tắc Hống đầu Diên quật Chung tắc Diên nhập Hống gia.

Page 32: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

32

Phù ký tri thử khí chi sanh cơ, tức khả dĩ hành hỏa bổ khí nhi luyện đơn. Cố hữu biện thời thể

thủ Châu Thiên chi biện thời hầu.

Cổ vân: Thời chí Thần tri. Chánh ngôn thử Dược sản Tiên Thiên Chân khí.

Tu sĩ tu đồng thử Thời, tu dụng ngưng Thần hiệp khí chi pháp, thâu phó ư bản cung, tắc thị vi

ngã sở hữu chi diệu Dược. Dược khí ký thừa thọ dĩ quy Lư, tu đương bồi hồi ư Tý Ngọ, vận

động thân trung chi triền cơ, hựu tất tu giả hô hấp chi khí, nhi xuy khư chi, phương đắc Càn

Khôn ư Nguyên quan hiệp nhi vi nhất, tuần hườn ư câu quản.

Cố Thần khí thừa hô hấp chi năng, tài đắc tương y đồng hành nhi bất ngoại du.

Thả khí chi hành trụ, hựu phạ hữu thải quá bất cập chi tệ. Cố tất y Châu Thiên chi hạn pháp.

Ngôn thập nhị thời như nhất nhật nhất Châu. Cơ khôn Hư vân: Tí hành tam thập lục, tích đắc

dương hào nhất bách bát thập số. Ngọ hành nhị thập tứ, hiệp đắc âm hào nhất bách nhị thập

số. Ngoại kiêm Mẹo Dậu chi pháp. Trung đồ hành Mộc dục hòan thành Châu Thiên. Sở dĩ cổ

vân: Khí hữu hành trụ khởi chỉ đa thiểu chi hạn pháp.

Ðoạn văn này Tiên gia gọi là Châu Thiên vận. Thích gia gọi: Pháp luân thường chuyển. Nho

gia gọi là Hành đình.

Châu Thiên vận có định kỳ là tứ thời công phu. Có bất định kỳ là sanh cơ của Chân khí.

Cả hai thời kỳ dụng công Châu Thiên vận đều nhằm mục đích hành hỏa bổ khí. Hỏa có đặc

tính là dương, nên hành hỏa là lấy dương khí để bồi bổ cho dương khí, rồi dụng công huân

chưn cho dương này hóa thành Thuần dương. Vậy hành hỏa cũng là công phu Càn Càn bất tức

của Dịch lý, cùng công phu Tấn dương hỏa để dưỡng hỏa, để bổ hỏa của Tiên gia.

Tiên gia còn có Bổ âm vô song pháp môn. Pháp này dùng Kim dịch để tạo Kim đơn.

Thể thủ Chân dược phải phân biệt lúc nào Thuốc già lúc nào Thuốc non. Thuốc già non đều

chẳng kết Ðơn, nên phải hái thuốc cho đúng. Thuốc đúng là lúc Chân khí triền động mà sanh

Chân tinh. Chỉ có Chân tinh này mới là Chân Dược, mới thể thủ quy Lư.

Tu sĩ nếu chẳng biện Thời, tất nhiên Chân Dược sẽ bị tẩu thất.

Châu Thiên hầu có 5 Thời hầu. Thời hầu của giờ Tý và giờ Ngọ, thì vận hành là chính mộc

dục là phụ. Thời hầu của giờ Mẹo và giờ Dậu, thì Mộc dục là chính vận hành là phụ. Còn một

Thời hầu nữa là Thời hầu Thể Dược.

Sanh cơ có sanh cơ của Trung Thiên là Chân Dược phát sinh. Còn sanh cơ của Hậu Thiên là

Tâm khởi niệm và Thận lậu tinh. 2 cơ sanh này nên diệt trừ.

Page 33: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

33

Thời chí Thần tri: Thánh nhân có nói: Bất phạ niệm khởi, Chỉ khủng giác trì.

Thời chí là lúc Chân tinh phát sanh, Thần phải biết để thu nhiếp qui Lư. Nếu chẳng biết thì

tinh lậu.

Tu sĩ phải biết lúc Chân tinh sanh, liền dùng pháp ngưng thần nhập khí huyệt để thâu thủ về

bản cung, đó là một loại thuốc linh diệu sở hữu của ta.

Thuốc đã qui Lư phải dùng Chân hỏa mà huân chưng, dùng Chân ý mà phong cố, dùng bồi hồi

mà vận hành.

Triền cơ: Là cơ tiêu tức nơi đường Huỳnh đạo. Là cơ vận chuyển âm dương trong thân ta. Là

cơ tuần hoàn cuả nhâm Ðốc đạo lộ .

Châu thiên triền cơ tuy là vận hành Chân tức, còn gọi là Trung Thiên vận, nhưng trong đó vốn

có cơ sở hô hấp Hậu Thiên để hổ trợ và dung hổ thành Tiên Thiên Chân khí, Nhờ mượn khí hô

hấp để xuy động cơ Tiêu tức mới bức trục được khí Chân dương thông hành nơi đường đạo lộ

âm dương, để thông đạt với Càn Khôn mà làm đại tổng khiếu nơi thân ta.

Tử Dương Chân nhân nói: Nhất Khổng Nguyên quan khiếu. Càn Khôn cộng hiệp thành.

Thần hành thì Khí hành. Thần trụ thì Khí trụ, mà tạo ra cơ tương y. Thần khí còn phải nương

theo năng lực của hô hấp, mới đúng với cơ khắc lậu mà chẳng bị ngoại trì. Vậy hô hấp cũng là

quyền bỉnh của thần khí.

Châu thiên vận phải đúng hạn số. Nếu thái quá thì có thể bị Tẩu hỏa nhập ma. Nếu bất cập thì

Chơn đơn chẳng kết.

Châu Thiên hạn số là 384 Châu.

Tí: 180 Châu, Ngọ:120 Châu, Mẹo: 48 Châu, Dậu: 36 Châu.

Thời gian 180 châu độ 20 phút. Cứ theo đó mà phân cho 3 giờ kia, cộng với thời gian Tịch

chiếu mỗi giờ là 2 tiếng đồng hồ, chẳng được nhanh, cũng không được chậm. Chẳng được

mạnh mà cũng không được yếu. Tấn mạnh thì thượng bộ bệnh. Thối mạnh thì hạ bộ bệnh. Tức

là phi Văn phi Võ.

Bạch Ngọc Thiềm Chân nhân có nói: Khởi tại Hư Nguy, Chỉ tại Hư Nguy.

Tu sĩ nên chú ý: Ðơn kinh có phân giờ âm giờ dương. Nhưng lúc công phu thì không phân âm

dương.

Page 34: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

34

Học giả bất khả bất sát.

Phù ký đắc Châu Thiên chi diệu dụng, tích lũy động khí, thời Lai thời luyện, bổ hòan Chân

khí, tắc tinh khiếu bất lậu, tiện khả vị chi Trường sinh.

Như hữu Tinh khí lậu giả, tắc vị cập chứng bất tử chi quả. Tất gia tinh tu, dĩ Nguyên tinh tận

phải hườn Chân khí, nhi ngoại hình diệc vô manh động chi cơ, tắc thị danh vi Ðại Dược

thành, tiện khả tác Ðại Châu Thiên công pháp.

Tích lũy động khí: Tích lũy động khí ở trong Chân động mới là Chân tinh.

Chân động là nội bất động mà ngoại động. Chân tinh đã sanh thì, lập tức thu về Lư rồi huân

hóa cho thành Chân khí.

Cứ như vậy mà Thể mà Luyện mãi thì Chân khí nơi bản cung được sung mãn.

Lâu ngày sẽ thành Ðại Dược.

Trong mỗi thời Thể Chân Dược, nên vận vài mươi Châu Thiên, vận cho đến khi nào ngoại

thận rút vào thấy nhẹ nhõm mới thôi.

Lý Chân Nhân nói: Dương quan nhất bế, cá cá Trường sinh.

Còn lậu tinh tức còn phàm phu tục tử.

Tinh không còn lậu, là Chân nhân bất tử.

Người đời cũng có số không lậu tinh, cũng có số chưa kinh quá hỏa pháp mà cũng chẳng lậu.

Ðó chẳng phải là Chân nhân vô lậu, mà là phàm phu tinh kiệt.

Page 35: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

35

Chớ nên ngộ nhận là tu chứng.

Chẳng có tinh thì ngoại Thận không cử.

Có tinh và nhờ luyện tinh mà như ý bổng không cử, mới là Ðơn thành.

Nếu còn một ý vi manh, tất chưa chứng quả.

Tất phải gia công huân luyện.

Lúc Ðại Dược thành, lập tức dùng pháp Quá quan phục thực đưa Xá lợi về Trung điền, phối

hợp với hạ điền để dụng công phu mười tháng hồi thai, gọi là thời Ðại Châu Thiên. Thời hầu

này phải tuyệt dứt Võ hỏa, mà chỉ dùng Văn hỏa mà thôi.

THÍCH NGHĨA CHÍNH VĂN

Hoa Dương Thiền sư nói: Chủ đích của Tiên đạo là thu Nhiếp Chân tinh quy Lư, để huân

luyện cho thành Kim đơn.

Tiếp theo công phu trên là Quá quan phục thực, mười tháng nuôi dưỡng Thánh Thai, rồi ba

năm luyện xuất thần hiển hóa, biến Thiên ức hóa thân, người trong thế gian có ai là chẳng

nguyện cầu.

Nhưng về Thiên cơ bí mật, học giả khó cùng đến tận căn nguyên, nên có nhiều người nửa

đường bỏ cuộc! Cũng vì lẽ đó nên nay ta mới nói hết, để cho học giả tiếp thu trọn vẹn mà

chứng quả.

Chủ yếu là tinh. Tinh là thành phần rất quý của vạn vật, là vật chí bửu để dưỡng thân lập

mạng. Nếu như người nào tinh đã bị bại, thì phải lấy tinh để bổ tinh để bảo mạng và được trở

lại như thời thơ ấu. Ðó là cái hướng luyện đắc Trường sinh.

Còn người nào Tinh chưa bại, thì lấy Tinh khí đó mà tu mà luyện, mà đoạt cơ Siêu thoát, mà

dưỡng thai, mà hóa Thần, đó là cách dễ tu, dễ làm, dễ thành Chánh quả.

Nếu Thần đi thuận theo cơ tinh sanh, rồi nương theo lý tự nhiên của tạo hóa, mà thành toàn

Nhơn đạo.

Còn nếu Thần mà đi nghịch lại cơ tinh sanh này, mà tu theo Tự nhiên của tạo hóa, thì Tiên đạo

thành. Cho nên gọi: Tinh là cửa quan ải nhập tử nhập sanh.

Tên nó tuy gọi là Chân tinh nhưng trong Chân tinh ấy vốn tự vô hình, chỉ nhân cơ động trong

tịnh mà nói là Chân tinh.

Page 36: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

36

Trước khi khí Chân dương chưa động vốn hồn nhiên không tịch, nên ngưng xem cũng không

thấy hình sắc, nên lóng nghe cũng chẳng thấy âm thanh. Cũng chẳng phải là Tinh, cũng không

phải là vật. Chẳng biết gọi danh gì mà lại có danh, cho nên gọi là Tiên Thiên. Dịch gọi: Vô

cực chi thời.

Lúc bấy giờ thì Thần vốn tịch tịnh, chẳng có cơ động, vạn vật đều quy căn. Ðó là cảnh trí Trí

hư cực thủ tịnh đốc của Thái cực.

Trong trạng thái Thái cực có cơ hoảng hốt, tợ như người nửa thức nửa ngủ, tình cờ có cái diệu

ý dung hội, nên mới mệnh danh mà nay có danh, cho nên gượng gọi là Ðạo. Dịch gọi là thời

của Thái cực.

Nhân ở khí Chân dương mống khởi, mà gọi là Chân khí. Chân khí lại móng khởi và triền

động, mà có Chân tinh. Ðó là cơ tạo hóa, tu Tiên tác Phật cũng theo đây mà hạ thủ công phu.

Nếu như trần niệm cùng dấy lên, tức hóa dâm tinh, thuận dương quan mà ra! Chính lúc này Tu

sĩ phải lấy chánh niệm làm chủ, lấy Thần để chế ngự Khí, dùng khí hô hấp mà lưu luyến

Nguyên tinh. Có thể gọi đó là cái đạo hườn nguyên.

Thâu thủ lấy cái Thần Khí hỗn hợp, là lúc hai thành phần đó chẳng lià nhau, mà dung hoà hiệp

làm một, như Dịch gọi: Thiên địa nhân ôn vạn vật hóa sanh.

Sau đó, khí Chân nhất của Tiên Thiên còn lưu tồn lại rồi từ trong khiếu phát ra, và làm chủ tể

cho Kim đơn. Cho nên Cổ nhân mới nói: Chưa có người nào chưa dùng pháp giao cấu, mà

thành cơ Tạo hóa.

Ðã biết về sinh cơ của Chân khí, liền nên hành hỏa bổ khí mà luyện đơn, cho nên mới có sự

phân biệt về hầu Thể thủ Châu Thiên.

Cổ nhân nói: Thời chí Thần tri. Chính là lời nói: Chân dược sinh Tiên Thiên Chân khí.

Tu sĩ đúng lúc này, nên dùng pháp ngưng Thần hiệp Khí mà thu gởi về bản cung, đó là diệu

Dược sở hữu của ta.

Chân Dược, Chân khí đã thừa thọ quy Lư, nên dùng cơ thăng giáng như Tý Ngọ, mà vận động

triền cơ trong thân ta. Lại còn phải mượn cái khí hô hấp để thổi lửa, thì Càn Khôn nơi nguyên

quan mới hiệp làm một, và tuần hoàn nơi đạo lộ Tào khê. Cho nên Thần khí thuận theo khí hô

hấp, mới nương nhau vận hành, mà không bị ngoại du.

Chân khí lúc hành lúc trụ, còn sợ cái tệ thái quá và bất cập. Cho nên phải theo đúng hạn số

của Châu Thiên. Châu Thiên hạn số là ví như 12 trong một ngày đêm.

Khôn Hư Thiền sư nói: Tý thời vận 36 hệ tích dương hào thành 36 x 5: 180 Châu. Ngọ thời

Page 37: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

37

vận 24 hiệp tích với âm hào thành 24 x 5: 120 Châu.

Còn phải kiêm gồm pháp Mộc dục, mới hoàn thành Châu Thiên.

Cho nên cổ nhân có nói: Chân khí có hành trụ, khởi chỉ, và hạn số có nhiều ít.

Học giả cần phải xét cho thật kỹ.

Ðã đắc đươc cơ diệu dụng của Châu Thiên, là tích lũy Chân khí trong cơ động của khí Chân

dương, hễ thời Lai thì theo thời đó mà luyện, để bổ hòan Chân khí, thì Tinh khiếu bất lậu,

cũng có thể đạt được trường sinh.

Nếu như tinh khiếu còn lậu, là chưa chứng được quả bất tử.

Tất cần phải gia công tinh tu, luyện Nguyên tinh trở thành Nguyên khí, mà ngoại hình không

có cơ động, tức là Ðại Dược thành, và có thể tiến lên công pháp Ðại Châu Thiên.

Page 38: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

38

3. LUYỆN KỶ TRỰC LUẬN

Hoa dương viết: Tích nhật lữ tổ vân: Thất phản đơn thành tại nhân Tiên tu luyện kỷ đải thời.

Cái kỷ giả tức bản Lai chi linh giác. Động giả vi ý, tịnh giả vi Tánh, diệu dụng vi thần.

Kim đơn Thần tuy hữu quy nhất, tắc hữu song phát chi chỉ. Tiên nhật bất luyện kỷ hườn hư,

tắc lâm thời thục cảnh nan vong. Thần trì khí tán, an năng đoạt tạo hóa chi cơ hườn ngã Thần

thất nhi vi Kim đơn sanh phát chi bản.

Kỷ là chân niệm trong tâm ta. Nếu muốn thành Kim đơn, trước phải lo luyện kỷ.

Nếu luyện kỷ chưa thuần thục, làm sao luyện chân tinh hóa thành chân khí được, Chân khí

hườn làm chơn thần.

Thất là con số Thiên thất thành chi. Trước lấy hỏa nhập vào trong thủy, gọi là phản. Sau lấy

Thủy thăng lên Hỏa gọi là hườn.

Đải: là hầu, là chờ, là một tiết tự công phu. Nếu được hữu tâm mà chờ, tức bị thuộc vào câu

trệ, mà chân khí lại chẳng sinh. Nêu vô tâm mà chờ thì bị lạc nẻo ngoan không, gây ra lầm

chân cơ. Đó là hữu vô đều lưởng thất!

Như vậy phải làm sao?

Lại có hườn ở vô, mà nội linh tợ như hữu. Cho nên Thiên ly Tảo viễn du nói: Vô huột (hời

hợt) nhi hồn (hồn nhiên) hề bỉ tương (gần) tự nhiên. Nhất khí khổng (thông suốt) Thần hề, ư

trung dạ (đêm) tồn. Hư dĩ dải chi hề, vô vi chỉ Tiên.

Các thành phần này trước khi chưa phát, vốn hồn nhiên trống không lặng lẽ như Thái hư, nên

làm gì có danh mục, nhân cơ manh nha mà nói Thần ý và Tánh.

Page 39: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

39

Lúc luyện đơn, trước phải vô vi, tịch nhiên bất động, hồn nhiên không không lộng lộng chẳng

hề có niệm hữu vô. Chờ đến lúc cơ động phát Chân ý mà Thể thủ.

Lúc vận châu thiên lại lập Chánh niệm, chủ đẩu tiêu và cán triền cơ Tiêu tức của hai khí nơi

thác thược Thần lại theo Chân khí mà tuần hườn.

Hườn hư: Là thuần hồ dĩ tịnh, tịnh để hóa, thảy không hình tích, trở lại hồng mông, phục quy

vô cực.

Đó là bản Lai Tánh thể.

Lâm thời: là đến lúc Chân Dược sản.

Nếu trước luyện kỷ chưa được thuần thục, thì trong thời gian Thể Dược luyện được ắt có cái

niệm phân hóa và Thần chẳng được chủ trương, khí phải bị tán phát.

Đoạt: là thâu thủ là cướp lây. Tạo hóa là khí dưỡng sinh. Thần thất: là hạ đơn điền.

Thần thất có ba cái nồi luyện kim, lấy hạ điền làm chủ. Cho nên thần khí khởi hành cũng tại

đó, quy tàng cũng ở đó, nên gọi là thần thất.

Thần thất là nhà u linh của thần khí ở.

Sanh phát: có hai nguyên nhân tạo nên cơ sanh phát là khí Chân dương phát sanh ra Chân khí.

Nguyên nhân thứ nhất: Là do hiện tượng Thái cực tự nhiên là giờ Tý thì có Chân khí phát sinh.

Nguyên nhân thứ hai là do Tu sĩ dụng công Thiền định đến trạng thái Thái Cực thì cũng có

Chân khí phát sinh.

Đó là căn bản của công phu luyện đơn.

Page 40: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

40

Cố cổ nhân luyện ký giả: Tịch đạm trực thiệp, Thuần nhất bất nhị, dĩ tịnh nhi hồn, dĩ hư nhi

linh. Thường phiêu phiêu hồ, tùy xứ tùy duyên nhi an chỉ. Bất cứu kỳ sở tại. Bất cầu kỳ vị chí.

Bất hỉ kỳ hiện tại. Tĩnh tĩnh tịch tịch. Tịch tịch tĩnh tĩnh. Hình thể bất câu bất trệ. Hư linh giả

bất hữu bất vô. Bất sinh tha nghi. Liễu triệt nhất Tâm, trực nhập ư vô vi chi hóa cảnh. Thử nải

trí giả Thượng căn chi luyện pháp.

Tịch đạm trực thiệp: tâm lặng lẽ thanh hư, chương nghị, có sức dũng mãnh thẳng tiến trên con

đường tu học.

Thuần nhất bất nhị: tâm chẳng còn cái niệm hữu vô thiện ác, hay bất cứ một đối tượng nào.

Tịnh nhi hồn: Là trạng thái Thái cực, tợ như cảnh hồng mông chưa chia, như người nửa tỉnh

nửa mê.

Hư nhi sinh: Suốt cả ngày đêm, cao hơn là năm tháng, tâm địa hoàn toàn trống rổng, nhờ đó

mà sang suốt linh diệu, nên gọi: Tâm hư linh bất muội.

Thường phiêu phiêu: tâm chẳng vướng mắc một điểm hình tích, âm thinh sắc tướng hữu vi.

Cho đến tứ tướng cũng hoàn toàn không mắc vào Tâm.

Tùy xứ tùy duyên nhi an chỉ: Tâm hằng thường còn đạo Trung, chẳng hề Thiên chấp. Đây

cũng là trạng thái của Tu sĩ đã khắc kỷ đến trình độ cao tột địa Thiên Thái. Là Tâm là Tánh

của bậc Chân nhân.

Bất cứu kỳ sở tại: Tâm đã trống rỗng như cõi thái hư, thì tất cả những gì hiện tại cũng hóa

thành hư không nên không còn có gì mà suy mà xét.

Page 41: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

41

Bất cầu kỳ vị chí: Lòng đã dứt sạch các duyên trần tục, đã cắt đứt dây luyến ái, phàm tình phú

quý vinh hoa xem như mây khói, danh và lợi coi như chiếc dép rách, nhơn dục chẳng còn thì

cầu ở tương Lai cái gì.

Bất hỷ kỳ hiện tại: lòng đã rửa sạch mùi trần nên những gì có như giàu sang tột đỉnh, cũng tợ

như giấc chiêm bao. Có gì mà mừng.

Tịch tịch tĩnh tĩnh: Là hiện tượng tịch trước mà động sau, tịch trước mà chiếu sau, đó là công

phu thiền định ở trạng thái tự nhiên, như lúc Chân tinh chưa sinh.

Tĩnh tĩnh tịch tịch: Là lúc Chân tinh đã sinh, nên tu sĩ trước phải lập tức “Hồi quang phản

chiếu” là chiếu là tĩnh trước. Sau đó mới “Tịnh định”

Hình thể bất câu bất trệ: công phu thiền định tối kị: Thân tâm lao lực, nếu lao lực thì phải bị

hôn trầm khiến cho giờ công phu vô hiệu.

Hư linh bất hữu bất vô: Tâm đã đạt được hư linh bất muội, thì còn gì là hữu, còn gì là vô.

Bất sinh tha nghi: chỉ có công phu học vấn đạt đến cùng lý rồi, thì tất cả đều biết, nên tất cả

cũng chẳng có là gì là nghi ngờ nữa.

Liễu triệt nhất tâm: Tâm này đã được linh giác trọn vẹn, đã thượng thông Thiên Văn, hạ đạt

địa lý, trung quán nhơn sự. Tợ như thái dương treo giữa hư không, mười phương sáng chói.

Trực nhập hóa cảnh vô vi: Cảnh này là cảnh Tự nhiên vô cực. Chẳng có cảnh nào bằng. Tu sĩ

đạt được tất cả những gì về cổ nhân luyện kỷ như trên đã nói, thì tâm hồn đã đạt đến cảnh trí

Tự nhiên vô cực, là vô cùng cao tột.

Tâm hồn đã được cảnh trí Tự Nhiên vô cực, có khác gì bậc chân nhân đã khắc kỷ đến trạng

thái Địa Thiên thái..

Lời thoán cuả từ quẻ: … Nội dương nhi ngoại âm. Nội kiện nhi ngoại thuận. Nội cương nhi

ngoại nhu.

Tức ngoài Tánh thì thuần âm, thì thuận thì nhu. Còn nội tâm thì thuần dương, thì kiện thì

cương.

Luyện được Tâm Tánh như quẻ Thái là phương luyện kỷ đã cao tột, như phần luyện kỷ của

bậc trí giả thượng căn đã nói trên.

Page 42: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

42

Nhược phù trung hạ chi lưu tất vị nhiên.

Đương vị luyện chi tiên, mỗi bị thức thần sở quyền bất giác nhiệm tạo hóa chi cơ nhị thuận

hóa, dục luyện tinh giả bất đắc kỳ tinh trụ, dục luyện khí bất đắc kỳ khí Lai.

Cổ vân: Bất hiệp hư vô bất đắc tiên. Cái vị thử dả. Cố dụng tiệm phapsnhi luyện chi. Thả vị

luyện giả đoạn dục, li ái, bất khởi tà kiến, phùng đại ma nhi bất loạn giả, viết: Luyện. Vị ngộ,

khổ hạnh cầu cầu lệ chí, cửu nhi bất thối giả, viết: Luyện. Hư tâm lợi nhơn, bất chấp Văn tự,

cung nghịch nhi ai khẩn giả, viết: Luyện. Nhãn tuy kiến sắc nhi nội bất thọ nạp giả, viết.

Page 43: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

43

Luyện. Nhĩ tuy Văn thinh nhi nội bất thọ âm giả viết: Luyện. Thần tuy cảm giao nhi nội bất

khởi tư giả viết: Luyện. Kiến vật nội tỉnh nhi bất mê giả viết: Luyện. Nhật dụng bình thường

như như, nhi Tiên luyện kỷ thuần thục tắc điều Dược nhi đắc kỳ sở điều, biện Chân thời tắc

đắc kỳ Chân thời, vận Châu thiên thủy chung như pháp thăng giáng.

Kỷ hữu bất đắc kỳ Tiên luyện, tắc thi pháp chi tế cựu tập sở lộng, thát loạn tiết tự.

Cố bất đắc chung kỳ hầu.

Thuộc hàng trung hạ là hạng người hoàn toàn chưa hề luyện kỷ chứ chưa là hàng trung hạ của

thế tục.

Còn những người đã bước vào tiến đạo thì không còn phân biệt đẳng cấp.

Lúc người chưa luyện kỷ, chưa ra công cầu lý đến cùng thì tức chưa có Chân ý, tợ như chưa có

Chân sư điều hành, nên bị thức thần, tức thần tư lự dụng sự. Thần này vốn thuộc âm, tức là

Tâm âm li hỏa Hậu Thiên.

Bất giác nhiệm Tạo hóa chi cơ nhi thuận hóa:

Người đời mỗi khi khí Chân dương sơ động trong người, vì chẳng biết phương tu luyện, nên

hành theo thế pháp mà thành toàn nhơn đạo. Lại còn có lúc không vì giao cấu mà tinh khí cũng

bị hao tán. Cớ sao chẳng biết khí chân dương phát động, lại chẳng biết pháp thể thủ quy lư,

nên đành phải thuận theo cơ thuận hóa.

Luyện tinh bất đắc kỳ tinh trụ: Luyện tinh tức là luyện chân tinh hóa thành chân khí. Có người

không biết Chân tinh, nên phải lấy ảo tinh để luyện, như vậy làm sao hóa thành Chân khí

được, nên Chân tinh cũng không trụ được.

Luyện khí bất đắc kỳ khí lai: luyện khí tức luyện Chân khí hóa thành Chơn thần. Có nhiều

người cũng không biết Chân khí là gì, nên phải dùng trược khí để luyện, nên làm sao hóa

thành chơn thần được, và Chân khí cũng không lại.

Bất hiệp hư vô bất đắc Tiên: Luyện cho Tâm thật trống không, mới có thể luyện thành chơn

đơn, mới có thể đắc Tiên vị.

Tiệm pháp là pháp tu lần lần từng cấp, là tu từ thấp lên cao, từ cạn đến sâu.

Luyện là đoạn sạch lòng tham, lòng dục, đoạn cho đến còn một, rồi một đến không. Cắt đứt

lòng luyến ái tục tình, như luyến thê tử, luyến ái công danh phú quí, luyến ái sự nghiệp. Cắt và

đoạn sạch 2 lòng ái và dục, là luyện kỷ đã có lực.

Tà kiến: Tình cờ mắt trông thấy cảnh sắc kỳ dị, hoặc thấy hào quang, hoặc thấy trong hào

Page 44: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

44

quang có hiện ra thần vật, hoặc bình nhật chưa thấy mà nay mới thấy, đó là ngoại ma. Nếu tin

theo đó mà bị ma dụ gọi là: Thiên ma, tà ma, yêu ma mắt thấy hoặc tâm thấy, hoặc mắt chẳng

thấy mà Tâm thấy, đó là âm ma. Thấy mà lòng mừng ý đẹp, lại còn ham thích trông thấy đó là

dính mắc với ma. Thấy mà tự chẳng thấy, nghe mà tự chẳng nghe, biết mà tự chẳng biết. Cứ

nương theo chánh niệm: Ta với ma chẳng tương can.

Bất loạn: Thủy, Hỏa, đao binh, kiếp sát, đả mạ, mà Tâm chẳng hề loạn động.

Chư ma cũng chẳng sợ sệt loạn tâm.

Chưa đắc quyết phải tập Chân khí cầu Chân sư.

Trong thế gian này phú quý vinh hoa, thê tử đều có định phận, nhưng Đại đạo thì chẳng phải

như vậy, chỉ có cái khổ chí mà đắc. Cổ nhân có nói: có chí thì nên.

Thành công trong sự tu hành, chẳng phải lúc sinh ra đã có phận định.

Người đời học đạo chẳng ngộ đắc Chân truyền là do Tâm còn giả dối. Lại còn gây chướng

ngại cho người Chân tu. Cho nên chẳng bao giờ họ được thành công.

Nếu được Tâm hư và khẩn thiết, chấp đệ tử lễ, hành đệ tử sự, há chẳng đắc sao.

Người đã luyện được tai, mắt và thần, tức là Chân luyện kiến vật bất mê: là đối cảnh vô tâm,

kiến vật nhi Tâm bất động.

Nhật dụng bình thường: luyện kỷ đã thuần thục sau đó mới có thể luyện chơn đơn. Vương

Trùng Dương nói: Trạm nhiên bất động, hôn hôn mặc mặc vô ti hào niệm tưởng. Thử do luyện

kỷ thuần thục nhi đắc.

Thiệu Khương Tiết nói: Tư lự vị khởi, quỷ thần mạc tri, bất do hồ ngã, cánh do hồ thùy?

Tắc điều Dược…: Điều Dược tức là luyện cho Chân tinh hóa thành Chân khí.

Chân thời: là Tâm chẳng động mà Thận động, đó là Chân thời, tức Chân cơ và có Chân Dược

sản.

Vận châu thiên…: Châu thiên là cơ vãng hành phản phục. Thăng giáng thì có công phu tấn

thối. Luyện kỷ đã thuần thục thì không có hôn trầm tán loạn.

Cựu tập: là thói quen từ lâu đã tiềm tang trong người. Nếu luyện kỷ đã thuần thục thì cựu tập

biến mất, không còn gây bát loạn Quân Tâm.

Thát loạn tiết tự: cũng là do luyện kỷ chưa thuần, rồi hoặc biết thể thủ mà không biết Huân

Page 45: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

45

chưn, hay không biết Phong cố, vận hành. Lại biết thăng mà không biết giáng, hoặc biết giáng

mà không biết mộc dục, hoặc biết Tiên Thiên khí mà chẳng biết Hậu Thiên khí, hoặc khí hành

mà Thần chẳng hành, hoặc biết Châu Thiên mà chẳng biết quy căn.

Tây Vương Mẫu nói:

Thinh sắc bất chỉ, Thần bất thanh.

Tư lự bất chỉ tâm bất ninh.

Tâm bất ninh hề, Thần bất linh

Thần bất linh hề, Đạo bất thành.

Luyện kỷ giả tại ư cần, nhược bất cần tắc đạo diêu dả. Tích nhật Lữ Tổ bị Thánh Dương ông

thập khí, chánh niệm nhi bất nghi, hựu khưu Tổ thọ bá nạn ư Trùng Dương, khổ chí nhi bất

giải. Bí Trường phòng tịnh tọa, ngẫu thị đại thạch trụy đĩnh bất kinh bất động. Thử đắc luyện

kỷ định tâm chi hiển án dả. Tinh thư dĩ cáo đồng chí.

Chủ yếu của cơ luyện kỷ là siêng năng chuyên cần từng phút từng giờ, nếu buôn lung giải đải,

thì sẽ có cái lo về Chơn Đơn tẩu tiết.

Xưa Lữ Tổ bị Chánh Dương ông mười phen khảo thí, hằng đưa ma lại thử thách, mà Tâm

chẳng hề nghi động vẫn kiên quyết độc lập Chánh niệm. Sau 64 tuổi theo Chánh Dương ông tu

luyện. Cuối cùng được thành chánh quả.

Khưu tổ lúc mới gặp Vương Trùng Dương Vương Tổ bảo khưu ăn cháo lỏng. Khưu tự biết

mình phúc nhỏ, nên khổ hạnh bảy năm, liên tục gặp ma nạn, phải qua hai phen tử ma, 2 lần phi

thạch đánh gãy ba sương sườn. Lại tự hiểm ba phen, gánh chịu nhiều ma nạn, khổ chí mà

chẳng động tâm, tự năng quyết liệt tịnh tu.

Bí Trường Phòng dương tinh hoa, tình cờ thấy một khối đá lớn rơi xuống đầu nhưng tâm

chẳng kinh chẳng động.

Page 46: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

46

Cũng như xưa đức thế tôn ngồi dưới gốc cây bồ đề ma vương ba tuần lãnh 3 vạn ma chúng,

dung binh qua dọa phật, mà chẳng động, dùng ma nữ dâm sự dụ phật, cũng chẳng động. Phật

vẫn ngồi, ngồi mãi thật kiên cường vững chắc. Ngại tự nói ta quyết đinh ngồi mãi nơi đây cho

đến ngày thành phật.

THÍCH NGHĨA CHÍNH VĂN

Thiền sư Hoa Dương nói: Xưa Lữ Tổ có nói: Dùng Chân Hỏa luyện thành Chơn đơn, là nhờ ở

công phu luyện kỷ và chờ thời. Kỷ là Linh giác của bổn Lai. Linh giác động thì thành ý, tịnh

thì thành Tánh, diệu dụng là Thần.

Kim Đơn và Thần, tuy nói quy nhất nhưng vốn có chân chỉ song phát là vô vi và hữu vi. Nếu

chẳng luyện kỷ hườn hư, thì Chân tinh sanh khó quên đường thục lộ!

Còn nếu Thần trì khí tán, làm sao đạt được cơ tạo hóa đưa chân tinh trở về Thần thất, mà làm

căn bản cho Kim Đơn sinh phát. Cho nên cổ nhân Luyện Kỷ là lặng lẽ thanh khiết cái Tâm,

kiên nghị dũng mãnh thẳng tiến trên đường tu học. Tâm chẳng còn niệm hữu, niệm vô và đã

trở về trạng thái Thái cực. Luyện Thai tính để đạt trạng thái nữa tỉnh nữa mê. Suốt cả đêm

ngày Tâm định hoàn toàn trống rỗng, nhờ đó mà được sáng suốt linh diệu.

Tâm thường tự tại thung dung, chẳng hề dính mắc một điểm hình tích của sắc tướng âm thanh.

Tâm hằng thường còn tại Trung, chẳng hề Thiên chấp. Tất cả những gì hiện tại cũng biến

thành không. Lòng đã dứt sạch cái duyên trần tục, dây luyến ái cũng chẳng còn, nên xem phú

quý vinh hóa như làn mây khói. Chẳng nhiễm một mảy bụi trần nên xem sự giàu sang như

giấc chiêm bao. Đó là tam tâm đoạn diệt.

Công phu tịch chiếu có 2: Lúc bình thường thì trước tịch sau chiếu. Lúc chân tinh sanh thì

trước Chiếu sau tịch. Công phu thiền định tối kỵ Thân Tâm lao lục nếu lao lục thì hình thể bị

câu trệ, giờ công phu đó xem như vô hiệu. Tâm đã đạt được hư linh bất muội, thì còn gì là hữu

là vô. Công phu học vấn đã đến cùng nên chẳng còn nghi ngại. Tâm này đến đây, linh giác đã

trọn vẹn, Thượng thông Thiên Văn, hạ đạt Địa lý, trung quán Nhơn sự. Tợ như Thái dương

treo giữa hư không, 10 phương sáng chói.

Được như vậy là trực nhập hóa cảnh vô vi. Đó là cơ luyện kỷ của bậc trí giả thượng căn.

Còn hàng trung hạ thì chưa được như vậy. Trước khi chưa luyện hằng bị thức Thần chủ quyền.

Chẳng hiểu rành cơ tạo hóa, nên thuận hóa mà ra. Muốn luyện tinh thì tinh chẳng trụ, muốn

luyện khí thì khí không lại. Cổ nhân nói: Chẳng hiệp hư vô, chẳng thành Tiên vị. Vì vậy nên

mới theo tiệm pháp mà luyện. Luyện là đoạn dục, li ái, chẳng dấy tà kiến, gặp đại ma mà tâm

chẳng loạn. Chưa gặp Chân truyền, phải khổ hạnh siêng cầu gắng chí, lâu ngày chẳng lui, là

luyện. Luyện cho hư Tâm, lợi người, chẳng chấp Văn tự, cung nghinh và ai khẩn. Mắt tuy thấy

sắc mà tâm chẳng thọ nạp. Tai nghe âm thanh mà tâm chẳng thọ âm. Thần tuy giao cảm mà ý

chẳng khởi tư. Thấy vật mà tâm chẳng mê. Ngày nào cũng luyện như vậy, là luyện kỷ thuần

Page 47: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

47

thục. Thì điều Dược được đắc chổ điều, biện thân thời đắc Chân thời vận Châu Thiên đúng

pháp thăng giáng. Nếu trước chưa luyện kỷ, thì lúc thi pháp sẽ bị thói quen cũ quấy rối gây

loạn tiết tự, nên chẳng tròn hỏa hầu. Người đời thích Kim đơn lại nói: Chẳng Luyện Kỷ cũng

thành đạo. Là lầm!

Luyện kỷ phải siêng năng. Nếu chẳng siêng thì cách xa Đạo Xưa Lữ Tổ bị Thánh Dương ông

mười phen khảo thí, vẫn chánh niệm chẳng ghi. Khưu tổ chịu tram nạn của Trùng Dương, khổ

chi chẳng trể. Bí trường phòng đương tịnh tọa thoạt thấy khối đá lớn rơi xuống đầu mà chẳng

sợ chẳng động. Đó là sự thành công của luyện kỷ. Chép ra đây để khổ cáo cho các đồng chí.

Page 48: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

48

4. TIỂU CHÂU THIÊN DƯỢC VẬT TRỰC LUẬN

Hoa Dương Viết: Tiên đạo nguyên tinh dụ Dược vật, Dược vật dụ Kim đơn, Kim đơn dụ Đại

đạo, hà dụ chi da dả?

Đạo tạng kinh viết: Tinh giả diệu vật, Chân nhân trường sinh căn. Thánh Thánh Chân Chân

mạc bất do thử Nguyên tinh, dĩ xuyển danh Dược vật. Phù Dược vật ký căn vu nguyên tinh, nhi

hựu viết Nguyên khí giả hà dả?

Page 49: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

49

Thả thử khí tùng bẩm thọ ẩn tàng vu khí huyệt Tập kỳ tráng niên khí động, khước hữu hướng

ngoại cũng quan biến hóa chi cơ. Tức thủ thử biến hóa chi cơ, hồi quan phản chiếu, ngưng

thần nhập khí huyệt, tắc khí duyệt kỳ thần hườn hỉ. Cố vi chi lặt dương quan điều ngoại Dược,

Tập chí điều ngoại dược. Cập chí điều đáo Dược sản Thần tri. Tư vị chi tiểu Dược, hựu vị chi

Chân chủng tử. Nhân kỳ hữu thuận nghịch chi biến hóa, cố viết: Nguyên tinh, nguyên khí.

Nhược bất viết Nguyên tinh, tắc nhơn bất tri điều ngoại Dược, dĩ hổn thể hổn luyện ư Châu

Thiên.

Bất Tri ký vô kỳ Dược thả lạc va không vong, tương dĩ hà giả vi tiểu Dược.

Nhiên, cổ nhân đản ngôn điều Dược, nhi bất ngôn điều pháp, bất ngôn điều sở, hựu bất ngôn

điều thời. Nhất điều Dược chi hư danh, tại ư nhĩ mục chi ngoại, vị đắc sư giả man nhiên vô sở

hạ thủ. Cố ngả kim trực ngôn chi viết: ký tri Dược hỉ, tắc nguyên tinh bất ngoại hao, nhi dược

khí tự hữu Lai cơ. Thử cổ Thánh bất khẩn khinh ngôn trực luận. Dư minh nhị hiện chi viết vị

hữu tri cơ nhi bất thể giả, vị hữu vị điều Dược, nhi tiền thể giả. Như thử, hoặc khuyết yên, thị

bất đắc Dược chi chân cố dả. Thả dục đắc dược chi Chân, duy lại Thần chi tịnh hư, khí tắc

sinh hỉ, xung hư vị chi động nhi giác. Dĩ thử bất cụ bất kinh, xung hư vị chi phục giác. Thử

thời tức Dược khí chi biện cơ, bất linh kỳ thuần nhi nghịch chi, tư vị chi thể Dược. Đảnh trung

ký hữu Dược khí, tắc hữu Châu Thiên chi Hỏa hầu. Khởi khắc lậu chi tức, dĩ hỏa phanh luyện

chi, Cổ nhân vị chi thăng giáng. Thể đắc thử Dược Lai, tư cố vị chi Kim Đơn. Tức khả dĩ hành

Đại Châu Thiên Chi Pháp. Tắc Tiểu Châu Thiên chi tạo hóa cùng thử tất hỉ.

Dư nguyện đồng chí hưu ngộ nhâp vu tà sư, dĩ dâm tinh chi tà Dược vi Chân Dược, tắc phi

Dược dã.

THÍCH NGHĨA CHÍNH VĂN

Thiền sư Hoa Dương nói: Tiên đạo lấy nguyên tinh thí dụ Dược vật, Dược vật thí dụ Kim đơn.

Kim đơn thí dụ Đại đạo. Tại sao thí dụ nhiều vậy?

Đạo tạng kinh nói: Tinh là một loại vật mầu nhiệm, là căn bản trường sinh của bậc Chân nhân.

Các bật Chân thánh đều lấy nguyên tinh nầy để mệnh danh Dược vật, Dược vật này nói là gốc

ở Nguyên tinh. Sao lại còn nói là nguyên khí nữa. Tại sao vậy?.

Bởi vì khí nầy chịu sự bẩm thụ rồi ẩn tàng nơi khí huyệt. Cho đến tuổi tráng niên thì khí động,

lại có đặc tính hướng ngoại, rồi nương theo cơ biến hóa của quan ải. Tu sĩ lập tức thâu thủ cơ

biến hóa này bằng cách hồi quang phản chiếu, ngưng Thần nhập vào khí huyệt thì khí cũng

theo thần mà trở về. Cho nên gọi đóng cửa dương quan là để điều ngự ngoại Dược, điều cho

đến Dược sản Thần tri, mới gọi là Tiểu dược, lại gọi là Chân chủng tử.

Lại nhân có cơ biến hóa thuận nghịch mà gọi là Nguyên tinh hay nguyên khí. Nếu chẳng gọi

nguyên tinh, thì người chẳng biết điều ngoại dược, rồi hỗn thể hỗn luyện ở Châu Thiên. Chẳng

biết đã là không Dược tức rơi vào nẽo không vong, thì lấy gì để làm Tiểu Dược.

Page 50: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

50

Chỉ vì cổ nhân nói điều Dược, mà chẳng nói điều pháp, chẳng nói chổ nào để điều, lại chẳng

nói điều vào lúc nào. Chỉ một hư danh điều Dược, chính tại nơi ngoài tai mắt chưa gặp được

Chân sư phải mờ mịt, không biết phương hạ thủ.

Ta nay nói thẳng: nếu đã biết điều Dược, thì Nguyên tinh không bị ngoại hao, mà Dược khí tự

có cơ Lai. Lời nói nầy thánh xưa chẳng khiến khinh ngôn trực luận. Ta nói một cách rõ ràng

chưa có người nào biết được Thiên cơ mà chẳng thể Dược, chưa có người nào chưa điều Dược

mà trước đó lại hạ công thể Dược. Nếu như vậy tức có điều thiếu sót và Dược sẽ không thành

Chân Dược. Nếu muốn luyện được Chân Dược, chỉ có phương pháp là luyện thần cho thật hư

tịnh, thì Chân khí sẽ phát sinh Xung Hư Thiền Sư gọi: Động nhi giác. Theo đó cũng không

được sợ sệt, không được kinh hãi, chờ đợi sau rồi mới khởi hỏa, Xung hư gọi là: Phục giác.

Lúc này Chân Dược đã rõ cơ lão noãn, lập tức thể Dược, chẳng để cho nó thuận xuất, mà phải

khiến nó nghịch quy. Đó gọi là Thể Dược.

Trong đảnh đã có Dược khí, tức phải dụng cần hỏa hầu Châu Thiên, và dấy cơ Tiêu tức khắc

lậu rồi dùng Chân hỏa để phanh luyện. Cổ nhân gọi thăng giáng. Sau khi thể Dược về, mới gọi

là Kim Đơn. Lúc bấy giờ phải lập tức hành pháp đại châu thiên. Tiểu châu thiên đến đây xem

như đã hoàn tất.

Ta nguyện cho chư đồng chí chớ lầm theo tà sư, lấy tà Dược dâm tinh làm Chân Dược, tức

chẳng phải là Chân Dược.

THÍCH GIẢNG

Trung thiên đạo có cơ nghịch chuyển là: Thần tùng khí hóa, khí tùng Tinh sanh. Tu sĩ muốn

thành chánh đạo trước phải lo giữ gìn Chân tinh. Chân tinh sung mãn tự nhiên sinh ra Chân

khí. Chân tinh và Chân khí cũng đều là Chân Dược. Luyện cho chân Dược bất động mới thành

Kim đơn. Phục thực lấy kim đơn nầy để mười tháng nuôi dưỡng cho vẹn toàn Thánh thai.

Thánh thai đã toàn vẹn thì đưa lên thượng điền để nhũ bộ ba năm, là luyện xuất thần hiển hóa,

biến thiên ức hóa thần. Trời đất kia có ngày bị hủy hoại, nhưng ngọc Mâu Ni này không hề bị

hủy hoại, nên gọi Đại đạo.

Chân bí quyết của sự thành công nầy có hai: là dựng công tịch chiếu miên miên, và lấy kim

dịch để luyện hườn chơn đơn.

Chân tinh là một loại Chân Dược mầu nhiệm. Chỉ có chân tinh mới luyện thành Chơn đơn, tức

Xá lợi. Tinh khí Thần lúc bấy giờ đã hỗn hợp làm một, và không còn là thành phần riêng rẽ

nữa. Các bậc chân nhân đều lấy chân tinh làm căn cội cho quả trường sinh.

Thực tế kẻ phàm phu không lưu giữ được tinh, nên tuổi thọ không dài lâu. Tinh còn thì người

sống. Tinh kiệt thì người chết. Còn Tinh mới có thể lên ngưỡng cửa thượng thừa được. Tinh

đã kiệt phải chờ kiếp sau.

Page 51: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

51

Các bậc thánh Chân đều lấy Nguyên tinh để làm Chân Dược vật. Trong con người có hai linh

vật là Chân diên và Chân hống, người tu hành mà bỏ hai linh vật nầy, dù có gắng công tu

luyện, đến đâu cũng vạn vô nhất thạch, mà hóa ra người mê si! Hay cũng là điều mê lộng ngu

phu ngu phụ!

Sở dĩ có danh gọi Chân tinh hay Chân khí là cơ thuận nghịch của quy luật tự nhiên mà có.

Có Chân tinh là do cơ thuận hóa: Khí sinh tinh

Có Chân khí là do cơ nghịch chuyển: Tinh hóa khí

Chân khí là do sự bẩm thục của Tiên Thiên khí và Hậu Thiên khí mà thành, rồi ẩn tàng nơi

trong khí huyệt, tức là thần thất.

Con người lúc mới sinh ra, cứ hai hay ba năm là Chân dương tăng lên một. Cho đến 15,16 tuổi

thì tăng đủ sáu dương, gọi là tuổi thuần dương, mà cũng là tuổi Thiên quý, tức là khí Chân

dương đã đến tận cùng. Theo quy luật của dịch lý: Cực Tắc sinh. Tuổi thuần dương 15, 16 đã

đến tột nên sinh, gọi là dương động tức hằng sinh Chân khí, rồi chân khí truyền động mà hóa

ra Chân tinh. Nếu chẳng biết thâu thủ Chân tinh nầy qui Lư, thì nó sẽ biến thành hữu hình tinh,

thuận theo đường dương quan mà ra ngoài.

Tu sĩ cần phải biết về đặc tính của chân tinh, nó ưa hướng ngoại mà không thích hướng nội,

gọi là cơ biến hóa củng quan.

Căn bản là phải biết thật rõ vị trí của Thần thất, gọi là lư. Chân dương khí mới di động, gọi là

cơ biến hóa, Tu sĩ lập tức hồi quang phản chiếu, đức Lão tử gọi là thâu thị. Thâu thị là thâu

nhãn quang về Thần thất, Chân ý cũng về đó gọi là ngưng Thần nhập khí huyêt. Thần ở đâu thì

Chân khí cũng theo đó.

Cứ như vậy mà tu luyện mãi, thì Chân khí sẽ sung mãn, đức Lão Tử gọi là: Thiệt kỳ phúc.

Lặc dương quan: là đóng cửa ải mà hữu hình tinh thường ra ngoài. Cửa ải dương quan đóng

được thì hữu hình tinh không còn lậu nữa. Thực tế mà nói: có hữu hình tinh mới có sự tiết lậu.

Nếu chân khí vừa biến ra Chân tinh, ta lập tức thâu thủ qui Lư rồi huân chưn, thì làm sao có

hữu hình tinh, nên không còn lậu.

Chân dược sản có hai cảnh: Thời chí Thần tri là nội cảnh. Chân Dược ngoại trì, tức là ngoại

cảnh.

Công phu điều ngoại Dược được lâu ngày mới đắc được cái hiệu là Thời chí Thần tri.

Tu sĩ mới bắt đầu công phu thủ ngoại Dược thì: Thời chí mà Thần không tri, nên bị tẩu lậu.

Page 52: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

52

Chân tinh đã thể thủ được gọi là Tiểu Dược, hay Chân chủng tử.

Sở dĩ gọi Tiểu Dược là Chân Dược được thể trọng trong thời Tiểu Châu Thiên.

Thời gian trước kia, Cổ nhân chưa mệnh danh Chân Dược này là tiểu Dược, đến Tào và Ngũ 2

Chân nhân mới phát danh là Tiểu Dược sau đó hậu nhơn dụng Dược, mới không bị lầm về

Chân thời của Dược sản. Cũng nhờ đó mà được rõ ràng về Dược.

Thuận nghịch biến hóa: Thuận là thuận cùng theo cơ âm dương biến hóa của Hậu thiên là:

Thần biến ra Khí, khí biến ra tinh, tinh biến ra hữu hình tinh, rồi sanh ra người và vạn vật.

Còn nghịch tức là nghịch lại cơ biến hóa của Hậu Thiên, gọi là cơ vận chuyển của trung thiên,

Chân tinh hóa thành Chân khí, Chân khí hóa chơn thần, chơn thần biến ra Thiên ức hóa thân.

Nếu không nói Chân tinh, thì người không biết điều ngoại Dược, gọi là Chân tinh ngoại nhiếp

phản qui Lư nội.

Cũng vì không biết phương điều ngoại Dược nên thể thủ, nên huân luyện… rất lộn xộn thí dụ

như trong lư chưa có Chân Dược mà thành hỏa, gọi là lửa đốt nồi không.

Chẳng biết công phu điều Dược, nên không có chân dược phát sinh, như vậy, phải bị rơi vào

nẻo không vong, nên làm gì có tiểu Dược.

Cổ nhân chẳng nói điều pháp là thể thủ, huân chưng, phong cố và vận hành, là miên miên bất

đoạn.

Chẳng nói điều sở: là chổ luyện Đơn, là cốc thần, Thần thất.

Lại chẳng nói điều thời: Là lúc Chân cơ phát động. Là lúc nội bất động mà ngoại động.

Tai ư nhĩ mục chi ngoại: Tu bên ngoài tai mắt là tu Thần khí bên trong. Là vì: tu lỗ tai tức là

phản thính, là bảo tồn được tinh khí, Tu con mắt là thâu thị, là bảo tồn được Thần.

Chưa gặp Chân sư thì lo bát lãm quần thư, hết lòng chí thành ai khẩn, thì có thể có ngày được

gặp Chẳng nên tự dụng ắt có nguy hiểm.

Thiền sư Hoa Dương vì lòng thương mến người tu nên đã nói rõ về công phu điều Dược. Tu sĩ

nhờ đó mà khỏi cái họa hao tán chân tinh, và Chân Dược tự có cơ Lai. Lời này cổ Thánh

không hề khinh ngôn trực luận. Thiền sư nay mới nói rõ: Chưa có một người nào đã biết rành

Thiên cơ phát động, mà không hạ công Thể thủ. Chưa có người nào chưa ra công điều ngoại

Dược, mà trước đó lại hạ công Thể Dược. Nếu trái lại, tức có sự thiếu sót, và Dược khí không

thể thành chân. Chưa đắc Chân truyền thì không thể nào đắc Chân Dược.

Page 53: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

53

Muốn được Chân Dược, thì phải nhờ ở công phu luyện Thần thật hư tịnh, và sẽ có Chân khí

sinh.

Hỗn Nhiên tử nói: Thời chí khí hóa. Cơ động lại minh. Hỏa tùng tê hạ phát. Thiên cơ đã đến

thì Chân khí hóa sanh. Chân dương cơ động, tợ như ống sáo kêu. Chân hỏa phải theo dưới rún

phát động.

Trạng thái đó Xung Hư gọi là động nhi giác lời này cũng là: Thời chí Thần tri. Thời chí là

Chân dương khí phát động. Còn giác là Thần tri.

Chẳng sợ chẳng kinh: Thoạt cảnh Chân dương phát động, nếu sợ sệt kinh hản thì Thần tán.

Muốn mong thành Kim đơn, há chẳng xa vời sao.

Chờ mà sau khởi: Chân khí triền động hóa sinh Chân tinh. Chờ đến lúc nầy mới thể thủ, mới

đúng Chân Dược. Chẳng nên Thể sớm hay Thể muộn, Xung Hư Thiền sư gọi là phục giác.

Lúc bấy giờ tu sĩ đã rành về cơ phát động của Chân Dược, nên chẳng theo cơ thuận mà theo cơ

nghịch. Theo cơ thuận thì Chân Dược phải bị xuất Lư.

Theo cơ nghịch thì Chân Tinh được quy Lư.

Trong đảnh đã có Dược khí, là nhờ ở Châu Thiên Hỏa hầu đủ hạn số 384 Châu trong một ngày

đêm và liên tục. Lại còn chú ý ở cơ Tiêu tức khắc lậu, là dùng hơi thở vi vi không nhanh mà

không chậm, mà phanh luyện. Cổ nhân gọi là thăng giáng. Thăng là Tấn dương Hỏa, giáng là

thối âm phù.

Thể được Chân Dược là do pháp vận Châu Thiên được như được như ý. Đó mới gọi là kim

đơn.

Kim đơn đã thành tức có thể hành pháp Đại Châu Thiên, là dụng bí cơ thể Đại Dược, tức là

dùng pháp quá quan phục thực.

Tạo hóa Tiểu Châu Thiên cũng chấm dứt từ đây.

Ta nguyện các đồng chí chớ nên lầm nhập vào nhóm Tà sư, lấy dâm tinh tà Dược làm Chân

Dược chẳng phải thật Chân Dược.

Page 54: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

54

5. TIỂU CHÂU THIÊN ĐẢNH KHÍ TRỰC LUẬN

Hoa Dương viết: Tiên đạo dĩ thần khí nhị giả huân chưn, phong cố, dụ chi viết: Lư đảnh.

Như luận luyện ngoại đơn giả dĩ. Diên hống thiêu luyện chi lư đảnh dả. Ngộ chi tất tại nhất

thân, mê chi đọa nhập biệt đồ. Cố thế nhân lư đảnh chi dụ, nhi hoặc giả chúng hỉ. Thả hữu

nhất đẳng vọng nhân, kiến Lư đảnh chi dụ nhân cuốn nhơn viết: dĩ nữ nhân vi đảnh, dĩ dâm

cấu vi Dược. Thủ nam dâm tinh, nữ dâm thủy, bại huyết vi phục thực, bổ thân tiếp Mạng.

Thù bất tri, cuống nhơn tự cuống, phản đọa khí kỳ vạn kiếp bất khả nhơn chi thân.

Hạn hữu ngu phu nệ kỳ tích tượng, chuyên hỉ thiêu Diên luyện Hống, thế mạc bất do đảnh khí

giả ngộ dả.

Lư là cái lò nấu thuốc. Đảnh là cái nồi đựng thuốc. Đơn có nội đơn là thuốc âm dương của

Nhâm Đốc, ngoại đơn là Hống khí của Tâm, Diên khí của Thận. Lại còn một loại Linh dịch

trong người áo Linh Thủy âm dương của Nhâm Đốc do ta thâu thủ qui Lư.

Có bài:

Mỗi ngày thâu được sáu mươi Châu.

Là thuốc Linh Đơn rất nhiệm mầu.

Thuốc ấy tạo nên Chân khí mãn.

Tu hành diệu kế chẳng lo âu.

Người được thông hiểu: Linh đơn vốn tại thân ta như trên đã nói. Thật là kỳ diệu: Chỉ có chân

hỏa nấu Linh đơn mà thành Chánh quả.

Chân quả là chân ý, tức là châu thiên tánh tiên thiên.

Page 55: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

55

Linh đơn là chân khí, tức tiên thiên Chân mạng

Lời giải thích nầy tuy chỉ có 136 chữ mà gồm cả tinh hoa của Chân kinh. Tu sĩ cân nên tham

gia tâm thấu triệt thì công phu luyện sẽ thành tựu.

Còn kẻ mê: Là do kiếp trước chưa tu, hoặc tu chẳng nhằm chánh đạo, lại chẳng gặp được chân

sư, nên bị lạc vào con đường khác, là đường tà đạo bàng môn, Thiên tu biệt tánh! Do đó nên bị

tà sư mê hoặc. Thí dụ các Tổ sư mượn Lư đảnh trong người để cụ thể hóa về công phu luyện

Đơn nấu thuốc trường sinh cho tu sỉ dễ dụng công. Có ngờ đâu tà sư lại chỉ Lư đảnh là loại vật

ô uế của phàm phu! Thật là tội lổi.

Loại tà sư này chỉ vì lừa dối người tu, mà phải bị đầu thai vào lớp thú cầm muôn kiếp chẳng

được trở lại làm người! Thật tội nghiệp!

Lại có những kẻ si mê, ngở tưởng Diên Hống này là loại phàm diên phàm hống bán ngoài chợ,

nên mua về thiêu luyện và nói đó là thuốc trường sinh cho người tu uống.

Thực tế loại Chân diên này ở tại tạng thận, còn Chân hống nầy ở tại tạng tâm.

Nếu người có duyên lành, kiếp trước có tu, có lập nhiều công đức với đời, kiếp này lại có Chí

lớn, nên gặp được chân sư chỉ truyền phương pháp đem Chân diên Chân hống hiệp lại thành

một mà thành Chơn đơn, thật là phúc quả lớn lao.

Page 56: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

56

Phù dục minh Lư đảnh giả, tại phù Thần khí chi biến cơ. Dương kỳ thủy giả, tinh sanh ngoại

trì, dĩ thần nhập tinh trung, tắc hô hấp chi khí tùy Thần chi hiệu lệnh, nhiếp hồi Trung cung

hỗn hiệp Thần khí tắc: Thần vi hỏa tắc khí vi Lư. Dục linh thử khí nhi tàng phục giả, duy thần

chi cấm chỉ: Khí tắc vi Dược, nhi Thần vi Lư. Tức Cổ nhân sở vị khí hiệp vi Đảnh lư thị dả.

Nải kỳ thể Dược vận Châu Thiên giả, đương tùng khí huyệt khôn lư nhi khởi hỏa: Thân càn

thủ dĩ vi Đảnh, giáng khôn phúc dĩ vi lư, tức cổ nhân sở vị càn khôn vi đành khí giả thị dả.

Kiến thần khí chi khởi phục, nhi đảnh khí tại thị hỉ. Nhiên cổ nhân tương thần khí nhị giả tá dụ

đảnh khí hoặc dĩ đơn điền vi lư, nhi dĩ khí huyệt vi đảnh dả, hoặc dĩ thân vi Lư (khôn) nhi dĩ

càn vi đảnh dả. Nhất đảnh khí chi danh mục phân phân dẫn dụ, cố hậu nhơn vô dĩ nhận Chân!

Dư nhược bất suy minh trực luận tương hà xứ luyện tinh, luyện Dược, vi kết kim đơn dả. Thử

cổ Thánh giai bất khinh lộ. Kim dư xuyển minh chánh hiệp. Lữ Tổ sở vị Chân lư đảnh, chân

thái thược. Tri chi chân giả nhi hậu dụng chân. Dụng chi chân giả nhi hậu chứng quả đắc kỳ

chân hỉ. Xung Hư Tử bất vân hồ: Đảnh đảnh nguyên vô đảnh.

Nhược bất minh hỏa Dược thứ đệ chi diệu dụng, chấp trước thân thể mô sánh nhi vi đảnh khí

giả tắc vọng giả, phi Tiên đao kim đơn Thần khí tự nhiên chi đảnh khí dả.

Muốn minh được lư đảnh, phải xem ở cơ biến hóa của Thần khí. Thần khí thăng thì làm Đảnh,

và lấy chổ khởi chỉ làm Lư.

Đúng lúc khởi thủy, là lúc nguyên tinh sơ sinh. Tinh này có đặc tính ngoại trì, Tu sĩ lập tức

dung chân ý nhập vào chổ tinh động, thì khí hô hấp phải thuận theo hiệu lệnh của chân ý mà

nhíp qui trung cung để hổn hợp cùng Thần khí. Trung cung tức đơn điền, hỗn hợp là ý nói

miên miên tức qui căn. Lúc nầy Thần thì làm hỏa, mà khí thì làm Lư.

Còn muốn cho khí này tàng phục, chỉ có phương pháp Thần phải cấm chỉ lúc nầy khí lại làm

Dược mà thần thì làm Lư. Cổ nhân gọi là khí huyệt vi Lư, là nói chổ này. Lấy theo hình thể

mà nói, thì chỉ đơn điền làm Lư. Thần khí lúc nầy quy tàng ở đây, gọi là cái lò điều Dược.

Còn về Thể Dược vận Châu Thiên, nên theo khí huyệt khôn lư mà khởi hỏa. Chân ý đưa chân

khí lên ngôi Càn (đầu) thì Càn làm đảnh. Lúc chân ý đưa chân khí giáng xuống bụng khôn, thì

khôn làm Lư. Tức là thượng thì làm Đảnh hạ thì làm Lư. Cổ nhân gọi Càn khôn vi đảnh khí, là

Page 57: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

57

nói về chổ này. Theo hình thể mà nói thì lấy đầu làm đảnh, lấy bụng làm Lư, tức Lư đảnh của

Châu Thiên.

Căn cứ theo cơ khởi phục của Thần khí, tức là khởi để mà thăng, phục để mà giáng, như vậy

khởi phục chưa phải là thăng giáng. Như vậy đảnh khí cũng ở tại đây. Có thần khí tức có Lư

Đảnh, không có Thần khí thì không có lư đảnh.

Cổ nhân đem thần khí hai vật, mượn để thí dụ đảnh khí. Hoặc lấy Đơn điền làm Lư, mà lấy khí

huyệt làm Đảnh. Đơn điền với khí huyệt cũng chỉ là một. Hoặc lấy ở khôn làm lư mà lấy Càn

làm đảnh.

Chỉ có một danh mục đảnh khí mà lăn xăn dẫn dụ, nên người đời sau biết đâu mà nhận Chân.

Ta nay mới suy xét và trực luận rõ ràng, để hậu thế biết chổ luyện tinh, luyện dược hầu kết

kim đơn vậy. Lời ta nói, Thánh xưa đều chẳng khinh lộ. Ta nay xuyển khai minh bạch và

chánh hiệp. Lữ Tổ gọi là Chân Lư Đảnh, Chân thác thược.

Người biết được Chân, tức là chân tri thì hành mới Chân, là Chân hành. Có Chân hành mới có

Chân quả. Là lý tất nhiên, vạn Thánh bất dị.

Sao chẳng nghe lời Xung Hư Tử Thiền Sư nói: nói là đảnh đảnh, mà thực không có đảnh nào

cả.

Còn nếu chẳng minh về cơ diệu dụng của Hỏa Dược thứ đệ, cũng như chấp trước mà mò tầm

trong thân để làm đảnh khí, đó là điều sai quấy vậy.

Cũng chẳng phải là đảnh khí kim đơn của Tiên đạo ở tự nhiên.

Page 58: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

58

6. PHONG HỎA KINH.

Hoa Dương tập thuyết phong hỏa kinh viết: Tiên Phật thành đạo thị bổn Tánh, Nguyên Thần.

Bất đắc nguyên tinh lậu tận, bất năng liễu đạo, hườn chí hư vô, nhi siêu kiếp vận.

Nguyên tinh lậu tận bất đắc phong hỏa, tắc bất năng biến hóa nhi thành đạo.

Cố viết: Tu luyện toàn bằng phong hỏa nhỉ

Văn cổ Thánh Chân cấm nhi bất lộ.

Trung Thánh Chân lược ngôn kỳ thủy, nhị nhơn bất cứu kỳ thủy, văng văng sưu tầm kỳ trung,

đồ tinh lao lực! bất tri trung cung châu thiên chi thuyết. Hoặc hiển vu Châu Thiên luyện pháp,

nhi ẩn vu thể chủ trung cung. Hoặc hiển vu thể trung cung nhi ẩn vu Châu Thiên luyện pháp,

hoặc hiển ư hỏa nhi bí ư phong, hoặc hiển ư phong nhi bí ư hỏa. Hoặc hữu ngôn chi giản, nhi

luận chi tường. Giai nghi nhất nhất thể ngoan, bất khả thiển thị dã, sử đồ chấp kỳ Thiên kiến,

thủ tông ư vọng nhơn chi khẩu giả hà kỳ du da.

Thiền sư Hoa Dương gom hết tinh hoa của các chân kinh mà thuyết minh phong hỏa kinh này.

Page 59: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

59

Phong là diệu pháp của công phu luyện đon tức là cơ tiêu tức thăng giáng, cổ nhân thí dụ là

tốn phong, hoặc thí dụ là thái thược, đó là cơ vãng lai hô hấp.

Hỏa tức là chân hỏa, là chủ của công phu luyện đơn, là công cụ hóa tinh hóa khí.

Phong hỏa có cơ đồng dụng, là pháp tu luyện thành Chơn đơn. Cổ Thánh chẳng khứng toàn lộ,

hoặc có đồng ngôn bí ẩn, nên người không hiểu suốt thông, rồi xem như việc cũ. Còn nói ra

cho rõ ràng, lại sợ trái với Thiên điều.

Cái cơ đồng dụng của phong hỏa, là bí mật của Thiên Đình.

Còn pháp chí yếu của kim đơn, đối với những kẻ phàm nhơn bạc đức, chưa gặp được Chân

truyền làm sao biết được cơ đồng dụng của Phong hỏa. Các bậc tiền Thánh Cao Chân cấm bí,

chẳng dám minh luận khinh khiết, những kẻ ngu cũng chẳng khứng tiết lộ.

Cho nên mới sưu tập những lời ẩn ngữ của chư Thánh mà làm ra kinh này. Từ dưới mỗi một

câu chính Văn, đều có chú giải minh bạch, để cho hậu học thấy rõ được Chân nghĩa. Tu sĩ nào

tham cứu được rõ ràng mà ấn chứng bản Văn, tức biết được cơ đồng dụng của phong hỏa, và

chăng lầm lẫn ở thứ đệ công phu.

Lời kinh nói: Tiên Phật được thành đạo tức là phản phục được bản Tánh của Nguyên Thần.

Chẳng được nguyên tinh lậu tận, tức hoàn toàn vô lậu, thì chẳng vẹn toàn được Chân đạo, trở

về cảnh hư vô, và siêu kiếp vận được!

Bản tánh, Nguyên thần, danh từ tuy hai nhưng nguyên lưu vốn có một. Thích gọi là Chân

Tánh, Tiên gọi là Nguyên Thần. Lậu tận là biệt danh tu Mạng tức đã phản phục hoàn toàn Tiên

Thiên Chân khí. Tiên tu gọi là luyện tinh hóa khí, còn gọi là luyện hình. Thích tu gọi là Lậu

tận thành, lại gọi Huệ Mạng. Chẳng đắc được cái đạo nầy, thì chẳng vượt ra ngoài kiếp người,

rồi hóa ra hình tướng tro than, cũng chẳng được làm Linh Quỉ ngũ thông, làm sao khế hạp với

cái đạo của Như Lai.

Cho nên đại tập của Như Lai Đại Phật Phương Đẳng kinh có nói: Tu luyện đã thành ngũ

thông, nhưng tại sao không chứng đắc lậu tận thông?

Đức Thích Ca nói với A Nan: Đệ nhất lậu tận nan thành.

Chỉ vì Tu sĩ chưa đắc quyết: “Sát sanh giả bất tử” Cho nên lậu tận không thành.

Nguyên tinh mà chẳng thành lậu tận thông, là do chẳng được pháp Phong hỏa, nên chẳng biến

hóa mà thành đạo.

Nguyên tinh Lậu tận tuy có sanh cơ, nếu chẳng có đắc bí quyết Phong hỏa, cũng không hóa

Page 60: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

60

thành Chân khí, Hỗn Nhiên Tử nói: Cái khí hô hấp của người làm ra gió, thí dụ gió trong ống

bể thợ rèn, do trục động mà sanh ra gió, thổi cho lửa lò hừng lên.

Người tu hành phải sống theo Tiên Thiên Chân tức là vận cái tức vi vi nghịch chuyển hà xa,

Tâm tức tương y, Thần không lìa cốc, cứ như vậy mà hành công lâu ngày Đơn điền sẽ có hơi

ấm, đức lão Tử gọi: Cốc Thần bất tử.

Thiền Tăng ngày nay chẳng biết Phong hỏa, Lậu tận nên tu không thành, nên tinh cứ thường tự

hạ lưu!

Ta có tục đường đệ đạo khoan, pháp danh là Nguyên Minh, cửu trục ở Kim sơn hỏi ta: Thiền

giáo vốn không nói đến việc nầy, người tu luyện có khác gì kẻ dơ đi tắm, chỉ ngộ Tự tánh là

đủ, hà tất tham cứu lý khác? Ta đáp: Còn tẩu lậu, thối đối với phàm phu dâm cấu giống nhau.

Thủ Lăng Nghiêm có nói: Dâm thân, dâm tâm, dâm căn bất đoạn, như chưn sa thạch, dục kỳ

thành phạn, kinh bá Thiên kiếp chỉ danh sa thạch, tấc lạc ma đạo, luân chuyển tam đồ, chung

bất năng xuất! Lời kinh nói đó là việc gì, sao dám gọi Thiền không nói đến, Chỉ vì pháp phong

hỏa của như lai, là do Phật Phật tương ấn. Nếu Tu sĩ nào biết rõ pháp nầy rồi đem ra dụng

công một thời gian, thì ba giống dâm sự sẽ tự đoạn.

Đức thế tôn nói: Hỏa Hóa dĩ hậu, thâu thủ xá lợi, lại nói: Xuy phong vi động(vi phong xuy

động). Lời nói này có thâm ý nếu chẳng thân truyền làm sao biết được.

Cho nên nói: Sự tu luyện hoàn toàn nương theo phong hỏa.

Quảng Thành Tử nói: Tức giả phong dả.

Các bậc thánh xưa: Cấm không được tiết lộ.

Thượng Thiên cấm không được truyền cho kẻ vô đức, mà chỉ truyền cho người có đức để

được siêu thoát kiếp vận, mà lên cỏi Đại Bửu.

Các bậc Thánh Chân ở thời trung cổ, lại nói sơ lược về cơ sơ thủy, nhưng người chẳng chịu

tham cứu về cơ nầy, lại cứ mãi sưu tầm ở bậc trung, nên luống uổng phí tinh lực!

Thủy là vi dương sơ động, Thánh nhân dấu kín không hề tiết lộ, đó là căn cội của Kim đơn tạo

hóa nếu có người được thông suốt cơ sơ thủy nầy, thì việc gì lại không thành. Cho nên tuy thời

cận đại cũng có nhiều bậc cao Chân đắc đạo, nhưng tiếc rằng học giả không biết cái lý Trùng

ngôn kỳ thủy, và cũng chẳng chịu tham cứu về cơ thủy, nên hằng thể thủ sai quấy. Lại có loại

thuốc không nên thu hái mà cứ vẫn thu hái há chẳng uống phí tinh lực sao.

Chẳng biết thuyết trung cung Châu thiên: hoặc nói rõ về Châu thiên luyện pháp mà chỉ ẩn ở

thể thủ Trung cung;

Page 61: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

61

Trung cung là cơ sở luyện đơn, là nơi Thiên Tâm ân cư, nếu hiểu được cơ Tiêu Tức ở trung

cung thì đơn sẽ thành Trung này chẳng phải là trong đối với ngoài mà là Trung của Tiêu tức

Nguyên quan. Trung này bao la Càn khôn, vận hành Nhật Nguyệt. Chân chủng do đây mà

sinh. Thăng giáng do đây mà vận, Lư đảnh do đây mà lập. Thác thược do đây mà chuyển,

Dược vật do đây mà hóa. Khảm ly do đây mà hiệp Thăng giáng do đây mà kiến tạo.

Người đời hoặc biết trung cung mà chẳng biết Châu Thiên, thì khí cũng tạm tụ mà tạm tán đâu

được thành đơn. Xung Hưng nói: Dược đã qui Lư nếu không lập tức hành hỏa, thì Chân khí

không tiếp nối để thành Đại Đơn.

Hoặc nói rỏ về thủ Trung cung mà ẩn nơi Châu Thiên luyện pháp;

Châu Thiên tức là Thăng giáng. Thời đến thì Dược sản, dương khí từ dưới cung khôn lên cung

Càn. Càn là ngôi đầu của con người.

Âm phù kinh nói: Thượng dũng triều Thiên thông Linh cung, phục giáng hạ thông vụ tốn

khôn.

Hổn nhiên tử nói: Tùng Tí chí Tị lưu mậu, thổ, tùng Đốc mạch tấn dương hỏa. Tự ngọ chí, hợi

dĩ kỷ thổ, tùng nhâm mạch thối âm phù.

Người đời hoặc biết châu thiên, mà chẳng biết Trung cung, quấy tự hành hỏa, tức lấy lửa mà

tự đốt nồi không, có khác gì đâu.

Xung hư tử nói: Thuốc chưa qui lư mà trước hành hỏa, thì thuốc sẽ bị ngoại hao, và thuốc

chẳng phải của ta, hoặc nói rõ ở hỏa mà bí ở phong:

Luyện đơn hoàn toàn nương theo gió để quạt lửa. Gió là hơi thở, gọi là tốn phong, gọi là mẫu

khí, gọi là thác thược, đều là sự hô hấp của ta.

Hoặc nói rõ phong mà bí ở hỏa: Luyện đơn hoàn toàn nương theo chân hỏa để luyện tinh.

Chân Hỏa tức chơn thần. Chân hống cũng là chân hỏa cũng là chân ý.

Hoặc có lời nói giản dị, mà luận bàn thì chi tiết, tất cả đều phải ngoạn sát, chẳng nên cỡi ngựa

xem hoa, khiến phải chấp theo Thiên kiến, lấy theo lời nói của dòng vong nhơn, mà lường gạt

người.

Giản lời nói thâm sâu về cơ thần khí. Tường là lời nói tỉ mỉ về cái lý Thần khí đồng dụng sơ

học chưa đắc chơn truyền, thường do hấp tấp mà sơ lược ở tường. Cuối cùng chẳng đắc.

Đơn đạo rất bí mật, lại buông theo dòng tà thuyết khiến nên nghi hoặc, đa phần bị lạc vào nẻo

mờ ám!

Page 62: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

62

Dư viết:

Mích pháp tầm sư vấn chánh truyền.

Nhược vô chân quyết bất thành tiên.

Cốc tinh hỏa đáo phong xuy hóa.

Tủy khiếu dung thông khí cỗ tiên.

Vật cử triều lai thần phục định.

Tình cường Tánh liệt ý hòa khiên

Thanh dương đổng ý tu điều luyện.

Lư nội diên phi hỷ tự nhiên.

Ta nói:

Cầu pháp tầm thầy hỏi chánh truyền

Nếu không chân quyết chẳng thành tiên

Cốc tinh lửa đến phong điều hóa,

Tủy khiếu lưu thông khí thảng nhiên.

Vật cử về chầu thần ẩn định

Tình cường tính lửa ấy oan khiên

Thanh dương trong động nên điều luyện

Lư nội hùm bay khoái tự nhiên.

Phàm cầu thầy, cần phải cầu cho được bậc chân sư. Nếu người nào chẳng biết phong hỏa gì,

tức người đó thuộc về giả đạo, tuy muốn thành Tiên làm sao được.

Tinh do lửa hóa, lửa do gió hừng. Người đời chẳng biết giữ gìn nguyên tinh, nên không sống

lâu, là do chẳng biết pháp Chế phục. Trí giả mượn tinh này để dưỡng thân trợ khí, thiệt là do ở

công phu phong hỏa.

Khiếu tức là Thận phủ. Thận thuộc thủy. Thủy mà không có hỏa làm sao lưu thông được.

Page 63: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

63

Tinh hoa của con người, đa phần do thận mà hao tán, trí giả đắc được công pháp phong hỏa, tự

năng làm cho cái tinh hoa đó lưu thông.

Cổ: là do cổ vũ, là nói Tốn phong cổ vũ.

Vật: Tức là ngoại dương, ngoại thận như ý bổng.

Ngoại hoặc tự nhiên động, mà nội bất động, đó là Chân động, Chân cơ, nên có Chân Dược.

Còn ngoại động là do nội động, thì tất cả đều chẳng phải Chân.

Tinh cường tính lửa là lúc nói về mãnh hổ, là khí Diên trong Thận.

Lúc con mãnh hổ mới ngóc đầu lên, Tu sĩ phải lập tức hồi quang phản chiếu, miên miên nhược

tồn, chân ý cùng chân khí hòa làm một. Tuy công phu tu luyện nhất thời, mà đột nhiên được

hỗn hợp.

Động lý: Là khí huyệt. Lúc điều Dược, chủ yếu là phải miên miên, khiến cho Chân tinh hóa

thành chân khí, tức chân diên ở trong tự nhiên chầu về thượng nguyên.

Page 64: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

64

Ức văn chi ngọc chi thư viết: Nguyên hoàng nhược giả vô giao cấu, tranh đắc dương tùng

khảm hạ phi.

Xung hư tử viết: Hữu cơ nhất trước nhi hậu sinh Dược dĩ hành hỏa.

Châu nguyên dục viết: Sóc chi giao tức hượt tí thời. Mạch nguyên tử viết: Ngoại thận dục cử

chi thời tức thị thân trung hượt tí thời.

Du ngọc Ngô viết: Nội luyện chi đạo chí giản chí dị, duy dục giáng tâm hỏa nhập ư đơn điền.

Hựu viết: Thận thuộc thủy, tâm thuộc hỏa. Hỏa nhập thủy trung, tắc thủy hỏa giao cấu. Lục

Tổ Đàn kinh viết: hữu tình lai hạ chủng.

Nguyên dục viết: Yếu mích Tiên Thiên chân chủng tủ đoàn hổn động lập căn cơ.

Chánh Dương tổ sư viết: Nam thần di nhập bắc thần tri.

Thuần Dương tổ sư viết: Ngả ngộ trường sinh lý: Thái dương phục thái âm.

Mích nguyên tử viết: Thủy tắc hống đầu Diên quật.

Hải thiềm ông viết: Tiên Hiền minh lộ đơn dài chỉ. Hỷ độ linh ô túc Quế kha.

Sinh dương tổ sư viết: Dử quân thuyết phá ngã gia phong, Thái dương di tại nguyệt minh

trung.

Lý chân Nhân viết: Kim đơn đại yếu bất nạn, điệu tại nhất dương hạ thủ.

Nguyên: là Thiên. Hoàng: là địa, tức là thần và khí. Thần khí chẳng bao lấy gì có Chân Dược

để thể, làm sao thành phần dương trong khảm Dược phi thăng, được chiết để điền lên ly, gọi là

luyện đá vá trời cho hoàn y như thuở Tiên Thiên.

Cơ nhất trước: Là nói về khí Chân dương sơ động phát sinh ra Chân dược, là Chân khí và

Chân tinh.

Page 65: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

65

Chân dược đã sinh phải lập tức hành hỏa, tức dùng Chân hỏa là Chân ý để điều ngoại dược.

Hối sóc chi giao: là ngày 30 mùng một âm lịch là ngày cuối cùng của thời gian thái cực trong

tháng từ 26 đến 30. Thời gian Thái cực là thời trí hư cực của vủ trụ bên ngoài, là thời gian ở

đây. Còn thời Thái cực trong người là do dụng công thiền định mà có và 2 giờ tuất hợi nầy gọi

là huợt tí thời.

Huột tý thời: Là thời phục sinh của loài người và vạn vật. Nhờ có cơ phục sinh nầy mà nhân

loại và vạn vật được tiếp nối cơ Tạo hóa tiếp nối sự sống còn. Nếu không có co Thái cực tạo

hóa này, thì cả thế giới nầy sẽ trả về cho hư không.

Thánh nhân mới nhân cơ thái cực nầy mà dạy cho ta dụng công thiền định để đạt trường sinh.

Ngoại thận dục cử chi thời: Là lúc như ý bổng của ta bắt đầu phát động. Cơ phát động nầy do

Chân khí đã triền động, nên phát sinh Chân tinh. Cơ phát sinh nầy cũng gọi là huột tý thời

trong thân con người.

Thận ngoại cử động, nếu chẳng có niệm, tức là Tâm không động, đó là tự vô sanh hữu, tự vô

sinh Chân động, tức là Chân cơ, Chân thời, và có Chân Dược.

Cơ động đó hoặc nhanh hoặc chậm, đều do cơ hoạt động và khí lực của Chân khí.

Nếu tâm động niệm ngoại thận cử động, đó là vọng động. Theo đó mà luyện thì thành ảo đơn.

Hồn Nhiên hỏi: giả lúc ngủ mê, thình lình ngoại Thận lại cử động, rồi tình cờ mà biết, và hạ

thủ công phu, có thành ảo đơn không?

Thiền sư Hoa Dương đáp: Chính lúc ngủ say, thân tâm ta đều chẳng biết gì cả, thì làm gì có

niệm. Ta thường nghe Thuần Dương tổ sư nói: Động tắc thi công, tịnh tắc miên. Hạ vân Phong

nói: Tự nhiên thời tiết mộng lý dả. Giao tri thử cú ngôn chi. Có thể lấy đó mà ấn chứng.

Nội luyện chi đạo chí giản chí dị: Cái đạo nội luyện pháp thượng thừa, là việc giản.

Chỉ vì người bị tà thuyết mê hoặc, cho nên chẳng tin theo chánh đạo. Cho nên các bậc chân

nhân xưa mới phá ghi: Chỉ có giáng tâm hỏa nhập vào đơn điền.

Thận thuộc thủy, tâm thuộc hỏa. Cổ nhân gọi tâm thận chẳng phải khảm ly. Thù bất tri, Tâm

thận là chí thể của khảm ly. Thần khí là cái dụng của khảm ly.Thận ở đây là nội thận, chẳng

phải là 2 quả thận ở bên xương sống. Cổ nhân nói: nội thận giả, tức tê (rún) hạ dả. Tuy nói là

tề hạ, cũng chưa đắc kỳ sở, mà chính là chổ Thần khí giao nhau. Chính huyệt này ở dưới rún

trước thận là tiền thất hậu tam vậy. Trung giant reo lững lơ một huyệt. Đó là chổ Điều Dược

luyện tinh. Tu sĩ cần phải tìm hiểu cho thật đúng.

Page 66: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

66

Hữu tình Lai hạ chủng: Có tình ở đây chẳng phải là tình dục niệm mà là cái tình mới mống

khởi theo nguyện cơ mầu nhiệm của chân đạo. Cho nên Long Nha Thiền sư nói: Nhơn tình

nồng hậu đạo tinh vi. Đạo dụng nhơn tình thế hản tri. Không hữu nhơn tình vô đạo dụng.

Nhơn tình năng đắc kỷ đa thì.

Tạm dịch:

Tình người nóng bỏng đạo tình vi ( vi diệu)

Đạo dung tình người đời ít biết.

Chẳng có tình người Đạo mất dung.

Tình người có được bao thì ( thời).

Yếu mích Tiên Thiên…: Cổ nhân nói chân chủng tử chẳng phải một, hoặc nói Thần là chân

chủng tử, hoặc nói khí là Chân chủng tử, mà chẳng nói Chân chủng tử là do cha mẹ ban cho.

Cho nên người đời bị lời nói này mà lầm lẫn.

Nguyên học chánh tông nói: Thủy giả thượng hạ tương giao hổn nhi vi nhất.

Tu tùng hỗn độn lập căn cơ: Hỗn độn là hiện tượng âm dương thiên địa hiệp nhất, là lúc thần

khí hội họp. Nếu tầm Tiên Thiên Chân chủng tử, trước phải hiểu rành về chân chủng tử của

cha mẹ. Thần khí ví như Thiên địa, tức là chủng tử của cha mẹ. Thần nhập vào trong khí, tức

Thiên nhân vô trong địa, gọi là thời hỗn độn. Chân chủng tử nguyên do Thần khí sinh ra.

Nếu thần khí chẳng giao làm sao có chân chủng tử. Trong đó là căn cơ cần phải hiểu thật rõ

ràng.

Nam thần di nhập…: Nam thuộc cung ly, thuộc tâm, Thần ẩn tàng trong đó. Bắc thuộc cung

khảm, thuộc thận, khí tiềm tàng nơi đây. Thần nhập khí huyệt gọi là di nhập. Hạnh Lâm nói:

Dĩ thần quy khí nội, Đơn đạo tự nhiên thành.

Ngã ngộ trường sinh lý…: Chân khí là Chân Dược, là thuốc linh Dược của Thần Tiên đem lại

cuộc sống trường sinh cho con người. Tỉnh ngộ thì được sống lâu, mê muội thì phải chết sớm.

Muốn học chánh đạo thanh tịnh, trước phải hiểu rõ về căn nguyên của Chánh đạo, cũng chỉ là

hai khí âm dương trong nội thân, chẳng phải là vật ngoài. Hứa Sinh Dương nói: Đại đơn nếu

chẳng dùng Nhật Nguyệt giao quang, Càn khôn hiệp thể, thì lấy vật gì? Thái dương là thí dụ

Thần trong tâm. Thái âm là thí dụ khí trong thận.

Phục thái âm: là khí thái dương chen vào trong khí thái âm. Suốt thông được pháp nầy và dụng

công liên tục thì đắc trường sinh. Chẳng thông pháp nầy thì phải chết sớm.

Thủy tắc hống đầu diên quật: Hống là ấm khí trong Ly tâm. Diên là dương khí trong khảm

thận.

Page 67: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

67

Trình tiên sinh nói: Diên đắc hống nhi tương thân vô trung nhập hữu. Diên hống chẳng phải

vật nào khác, cũng chỉ thần khí của ta.

Lữ Tổ nói: Chẳng dùng Diên chẳng dùng Hống thì lấy gì đưa về lò.

Chữ đầu cũng như chữ phục ở trước là chen vào, gieo vào. Thần chen vào Khí, thì tinh khí

không lậu. Tợ như Thủy Ngân và Chì dung chế nhau. Tịnh cực là Chân khí trong lư tự nhiên

phát sinh.

Lữ tổ nói: An Lư trí đảnh tận Châu viên. Tu đắc Hống khứ đầu Diên.

Nếu chẳng dụng Hống đầu Diên, thì khí Chân diên không phát sinh.

Du Ngọc Ngô nói: Diên đắc Hống dĩ sanh hình.

Tiên hiện minh lộ….: Linh ô là thí dụ thần trong tâm. Quế kha là ví khí trong thận.

Nguyên học chánh tông nói: Tâm nải thần chi trạch. Thận nải khí chi phủ. Há chẳng phải là cơ

tạo hóa sao.

Cổ nhân có nói: tâm lấy khảm làm thể, lấy ly làm dụng. Cho nên Tâm phải hư và lặng lẽ. Thận

lấy ly làm thể, lấy khảm làm dụng. Cho nên đơn điền phải thiệt đầy mà ôn. Ly hỏa bay lên

trên thì tổn Thần. Ly hỏa hạ trụ thì tăng Chân khí Chân dương khí phát sinh chẳng có thời số

là do cơ động tịnh trong thân biến hóa.

Linh ô trụ nơi Quế kha cũng không có thời số là do tâm, lực Thiền định của mỗi người.

Dữ quân thuyết phá…: Giang nam nói: Nhật tinh Dược dử nguyệt hoa hiệp. Tự hữu Chân diên

xuất thế Lai. Thái dương là thí dụ thần, nguyệt minh là thí dụ khí. Thần khí tương hội là di tại.

Kim đơn đại yếu…: Người đời học đạo hằng bị văn từ mà lầm lẫn, là do chẳng đắc Chân quyết

và cái lý giản dị, nên tâm hồ đồ cho rằng cổ nhân không nói rõ. Có lúc gặp Chân sư lại tỏ thái

độ cưỡng biện. Thù bất tri là lúc luyện đơn, lúc hạ thủ công phu lại còn nhiều nghi hoặc

Thủ Dương thiền sư nói: Tiên Thiên chi khí tàng vu khí huyệt. Tuy hữu động thời du thị vô

hình, y phụ hữu hình nhi vi dụng, thủy trình nhi tức thủy giác.

Page 68: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

68

Trùng Dương Tổ sư viết: Thuần âm chi hạ tu thị dụng hỏa hà luyện, phương đắc dương khí

phát sinh, thần minh Tư lai.

Hựu văn Chi Long Mi Tử viết: Phong luân kích động sản chân diên, đô nhân tịch cực hườn

sinh động.

Nhập dược cảnh viết: khởi tốn phong, vận khôn hỏa.

Huỳnh đình kinh viết: Hô hấp nguyên khí dĩ cầu tiên.

Lý thanh âm viết: Đắc ngộ chân truyền, tiện tri hạ thủ, thành công bất nan, Cổ tốn phong

phiến khai lư diễn.

Lý Đạo Thuần viết: luyện tinh kỳ tiên dĩ khí nhiếp tinh.

Page 69: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

69

Vô danh tử viết: Tinh điều khí hầu.

Xung hư Tử viết: Điều động kỳ cơ. Hựu viết: Dược nhược bất Tiên điều, tắc lão noãn vô phân

biệt.

Lý hư Âm viết: Man lý du nhà điều ngoại Dược.

Xưng hư tử viết: Điều đáo chân giác tách đất chân khí Lăng Nghiêm kinh viết nguyện lập đạo

tràng, Tiên Thủ Tuyết Sơn đại lực bạch ngưu.

Niết Bàn kinh viết: Tuyết sơn hữu đai lực bạch ngưu, thực phì nhị thảo phấn giai đề hồ.

Thuần âm chi hạ: Tổ sư muốn nói ở khí huyệt còn khí âm, phải dùng Chân hỏa mà nấu luyện.

Tổ sư còn muốn thử chúng ta: Thuần âm mà còn phải hà luyện?

Khí âm này do khí Thuần âm của Tiên Thiên Khôn địa biến thành Hậu Thiên Khảm. Người

đến lứa tuổi trung niên, Chân Dược bị giảm thiểu nên khó thể thủ, Tổ sư mới dạy nên dùng

Chân hỏa mà hà luyện sau đó sẽ có Chân Dược để thể.

Xung hư nói: Thiên cơ đã phát động, tức có Chân Dược sinh phải lập tức hành hỏa.

Du Ngọc Ngô nói: Thiên nhập điạ trung, dĩ thử nhi sản Dược. Chân sinh thì thần minh lại.

Phong luân kích động…: Từ đây sắp xuống đều nói về cơ diệu dụng của phong. Còn thượng

Văn một tiết chuyên nói về dụng pháp của hỏa. Nhưng về cơ hô hấp lấy khí, thì chưa nêu cái

lý sở dụng. Cho nên các bậc chân nhân mới dạy. Chỉ dụng hỏa nầy, mà chẳng biết dụng

phong, thì làm sao Chân tinh hóa thành Chân khí được.

Thể Vân Tiên sinh nói: lửa chẳng có gió chẳng hừng.

Bảo nhất tử nói: Chân khí nếu bất động, thì dùng tốn phong để cổ Võ Thác thượt, tức Chân khí

tự nhiên vận chuyển.

Khởi Tốn phong, vận khôn hỏa. Tốn phong là thí dụ về chổ khởi thủy của Tiên Thiên Chân

tức.

Trong tám quẻ của Hậu Thiên chỉ có cửa Tốn là cửa Sanh mà không có sát, còn bảy cửa kia

đều có sát có sanh. Sinh mạng con người cũng khởi thủy từ cửa tốn.

Khôn hỏa tức là Chân hỏa, còn gọi là nguyên khí.

Page 70: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

70

Nguyên khí nhờ có Tốn phong mới thành chân Dược, cũng như khí dương mà không đắc được

khí âm, thì không tàng tụ được cần phải hiểu Chân khí có cơ tàng tụ và vận hành. Có tàng tụ

mới sinh chơn đơn, có vận hành mới điều hòa hai khí âm dương trong cơ thể con người.

Khởi và vận phải theo pháp Tồn tâm là dụng cái âm thần của ly hỏa mà chế ngự cái dương

cương của hỏa trong thận, tức dung khí âm lạnh điều hòa, khí dương nóng bức, mà âm dương

được quân bình công phu này phải liên tục, không được gián đoạn. Công phu nầy còn làm cho:

Tức tức qui căn. Tức đây là chân khí. Căn đây là cốc thần.

Dụng hỏa cần phải tinh thông mới tránh được sự nguy hiểm, Cổ nhân gọi là tẩu hỏa nhập ma.

Sự nguy hiểm nầy là do dụng hỏa thái quá. Trong từng mỗi tiết độ công phu, dụng hỏa có phần

không giống nhau. Thí dụ như Châu thiên thì Văn hỏa và Võ hỏa kiêm dụng, như mộc dục thì

hoàn toàn Văn, công phu ở Đại Châu Thiên cũng vậy. Còn công phu thể dược thì trước dùng

Văn sau dùng Võ.

Tóm lại, pháp này dụng hỏa là: Văn để huân, Võ để luyện và huân khác nhau, không nên lầm

lẫn. Tiêu Tử Hư nói: sí tắc khôn hỏa lược mai tàng lảnh tắc tốn phong vi suy khư thổi mạnh

lên thì lửa nơi cung khôn lần lược chôn dấu. Lò đã lạnh thì dùng tốn phong mà thổi nhẹ. Lời

nầy cần nên tham khảo có tinh tường.

Hô hấp nguyên khí dĩ cầu Tiên: Hô hấp tức là sử dụng khí Hậu Thiên. Nguyên khí là Tiên

Thiên Chân khí. Tiên và Hậu nguyên có pháp kiêm dụng.

Chẳng biết pháp kiêm dụng thì Nguyên khí sẽ thuận dòng mà ra, và chẳng thành Chơn đơn,

tức phải mượn cái khí hô hấp để lưu qui, để luyện. Xung hư Tử có nói: lấy khí hô hấp Hậu

Thiên để lưu luyến Thần khí.

Đắc ngộ chân truyền…: Chân truyền được đắc ngộ ở đây, là đắc được pháp Phong hỏa.

Phong ở đây gồm có Tốn phong, hô hấp phong, Thác thược phong và Tiêu tức phong.

Mỗi loại gió, ứng dụng cho mỗi trình tự công phu. Có loại đơn dụng. Có loại kiêm dụng. Lại

dùng gió mạnh gió yếu đúng nhu cầu, không sai thất.

Xung hư tử nói: Nguyên khí vốn ở nghịch tu, còn khí hô hấp cũng phải nghịch chuyển. Khí hô

hấp ra vào vốn tại đơn điền, cớ sao lại có sự cách ngại.

Chỉ vì người biết xuất mà chẳng biết cách nhập.

Tu sĩ lúc ngưng thần nói khí huyệt, nếu thần Dược tấn xuy, thì khí cũng tự cỗ, tự phiến, tự

xuy, tự khư nghịch chuyển. Chẳng dụng mà tự dụng nào có nhọc nhằn gì đâu.

Hổn nhiên tử nói: Thần hô khí, khí quy khiếu nội xuy ngô thân trung chi khổng dịch (ống sáo)

Page 71: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

71

Thường biết được chỗ nầy, thì chân tức chẳng dụng qui căn mà tự qui căn.

Thầy trang tử nói: Kỳ tức thâm thâm. Lại nói Chân nhân chi tức dĩ chủng.

Hơi thở của người thật sâu thì được sống lâu.

Còn hơi thở cạn cột thì sẽ chết sớm.

Chỉ có cái hơi thở của mình mà chẳng biết, thì còn biết được việc gì là quan trọng cho mạng

sống.

Luyện tinh kỳ Tiên dĩ khí nhiếp tinh: Lúc tinh sinh rồi vốn có đặc tính hạ lưu. Nếu cho nó qui

nguyên, nên dùng khí mà thu nhiếp, tức không có lo tẩu thất. Lại còn phải biết cái chỗ tinh

sanh. Hung hư tử nói: Dùng cái hậu Thiên hô hấp mà tầm cái chỗ hô hấp của thân nhân.

Tinh điều khí hầu: là lúc tinh sanh phải dùng điều pháp. Chẳng vậy thì dễ tẩu tiết.

Cổ nhân nói: Tinh khí tức là Dược Vật của người.

Tinh khí cần phải vận hành. Thí dụ như bốn mùa nếu chẳng có cơ vận hành của âm dương, thì

vạn vật làm sao sinh tồn được. Nhật nguyệt chẳng chiếu soi, thì muôn vật làm sao trưởng

dưỡng.

Người chẳng trắc độ được cơ mầu nhiệm của đạo, nên nói: Giữ cho bền chặt cái tinh, thì được

trường sinh. Là lời nói sai lầm vậy.

Nếu bế tinh mà được trường tồn, thì bao vải kia có giữ được nước không?

Khí hầu: là cái hầu của lúc khí sanh. Còn gọi là hầu thể thủ.

Điều định kỳ cơ: Cơ là cơ động tinh sanh. Nếu chẳng điều thì Chân khí phải bị tiết lậu, và

Chân Dược cũng chẳng sinh.

Dược nhược bất Tiên điều…: Chân dược nếu trước chẳng điều, thì làm sao phân biệt được

thuốc già, thuốc non, thuốc không già không non mới kết thành chơn đơn, đó là nguyên tinh

mới sanh.

Man lý du nhàn…: Chân Dược tức là chân khí và thân tinh trong thân ta. Chân khí tuy tiềm

tàng nơi khí huyệt. Nhưng sau khi sinh lại thuận hóa thành Nguyên tinh, rồi mong mong

hướng ngoại. Nếu nó hạ lưu thì lấy gì làm Chân Dược. Cho nên phải thâu lấy nguyên tinh nầy

đem về trung cung, thì Thiên cơ tự hoạt động.

Điều đáo chân giác..: Chân giác là Thời chí Thần tri. Chân giác do tâm đạt hư linh bất muội.

Page 72: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

72

Nếu được đúng pháp điều Dược, tức được có cơ. Tạo hóa phát hiện ra bên ngoài chẳng cần lao

tâm mà cũng được biết.

Man lý du nhàn là nói về trạng thái thái cực. Nguyện lập đạo tràng…: Đạo tràng là chổ khởi

thủ của Thích gia. Muốn thành phật đạo trước phải giữ, con đại lực bạch ngưu của núi tuyết

sơn. Nếu chẳng giữ được con đại lực bạch ngưu này, dù cho có tu luyện đến tám vạn kiếp cũng

chẳng thành công và chẳng thoát khỏi cảnh ngũ âm (sơn địa bác) của lăng nghiêm.

Tuyết sơn là thí dụ cảnh ngũ âm.

Công phu thiền định chủ đích là thuần dương, là hóa ngũ âm nầy thành 5 dương, cộng với một

dương cũ còn lại thành 6 dương. Dịch lý gọi là thời thừa lục Long dĩ ngự Thiên.

Lục long là hổ thuần dương vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Luyện hóa 5 âm này gọi là ngũ Thiền.

Huân hóa âm thứ nhất cho thành dương là sơ Thiền. Cứ như vậy mà huân mà hóa cho hết 4 âm

nữa thì công phu thiền định được hoàn toàn viên mãn.

Đại lực là thí dụ về pháp tượng

Bạch ngưu là thí dụ cho hiện tượng thuần dương.

Tuyết sơn hữu đại lực bạch ngưu…: Tuyết sơn là thí dụ cho cảnh ngũ âm, nhưng vốn có sinh

Chân khí, và cũng là nơi phát sinh Chân khí, Bạch ngưu còn thí dụ là Tiên Chân khí. Đề hồ là

thí dụ chân khí.

Lục tổ nói: Ta có một vật, trên chống trời dưới chống đất. Con người có thức tánh và chân

tánh.

Nếu tu theo Thức tánh mà bỏ Chân Tánh, dù có luyện dến vạn kiếp, cũng không thành lục

thông, khế hạp chân Tánh của như Lai. Tâm kinh giải nói: Có ai biết được: Khoan thì bao tàng

pháp giới. Co hẹp lại chẳng có tiêm hào. Đó là căn cội của căn Chân tâm.

Page 73: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

73

Thê vân Tiên sinh viết: Nhơn khiết ngũ cốc hóa âm vi tinh, bất tằng hà luyện, thử vật tại lý tác

quái. Chỉ dụng đơn điền tự nhiên hô hấp, chi khí hấp xuy động kù trung thân hỏa. Thủy tại

thượng, hỏa tại hạ, thủy đắc hỏa tự nhiên hóa nhi vi khí, kỳ khí thượng đẳng huân chưa truyền

thấu nhất thân chi quan khiếu, lưu thông bá mạch, thiêu đắc lý đầu, thần hóa quỷ khốc, tương

âm tinh luyện tận, âm ma tiêu tán hỉ.

Mích nguyên tử viết: Âm tinh giả ngũ cấp ẩm thực chi tinh, cẩu phi tốn phong khôn hỏa mãnh

phanh cực luyện thử tinh, tất lại thân trung tư tưởng dâm dục bát loạn quân tâm. Vụ yếu

ngưng thần điều tức, sử thác thược cỗ phong nhi phong xuy hỏa, thiêu luyện âm tinh hóa nhi

vi khí. Kỳ khí hổn nhập nhất thận chi khí. Thử khí tái hiệp Tiên Thiên chi khí, nhiên hậu, Tiên

Thiên chi khí tái tùng khiếu nội phát xuất nhi vi Dược.

Châu Nguyên Dục viết: Hối sốc trung gian nhật nguyệt tịnh hội Bắc phương Hư nguy chi địa.

Thiên Nhập địa huyệt bao nhật nội. Tư thời nhật nguyệt đình luân, phản phục hỗn độn, tự

tương giao cấu. Cửu chi tiệm tiệm ngưng tụ, chấn chi nhất dương nải xuất, nhi thọ phù hỉ.

Page 74: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

74

Thử thượng số giả Kim Tiên chứng luận diệu quyết phong hỏa hóa tinh chi bí cơ, cụ tại tử, tử

kỳ điều dược chi pháp, diệu bất ngoại hỉ.

Thê Vân Tiên Sinh nói: Người ăn ngũ cốc hóa thành âm tinh, nếu chẳng hà luyện, thì vật này

sẽ tác quái trong thân người. Chỉ dùng khí hô hấp tự nhiên của đơn điền dùng Chân hỏa thổi

động nơi trong. Thủy ở trên, hỏa ở dưới, nước được lửa tự nhiên hóa ra làm khí. Khí này xông

lên, nung nấu và truyền thấu các quan khiếu trong thân người là lưu thông trăm mạch, thiêu

đối được tên đầu sỏ trong người khiến cho Thần phải gào quỷ phải khóc, là đem âm tinh luyện

tận thì âm ma cũng đều tiêu tán.

Mích nguyên tử nói âm tinh là cái tinh do người ăn ngũ cốc mà sanh ra. Nếu chẳng dùng tốn

phong khôn hỏa mảnh khanh cực luyện tinh này thì trong người tư tưởng dâm dục sẽ gây rối

loạn quân tâm. Chủ yếu là ngưng thần điều tức, khiến cho thác thược, cổ động thành gió, gió

thổi cho lửa hừng lên để nấu luyện âm tinh hóa ra thành khí. Khí này trộn trạo với khí trong

thân. Khí nầy lại hiệp với khí Tiên thiên.

Sau đó khí Tiên Thiên lại từ nơi tổ khiếu phát xuất mà thành Chân Dược.

Lời nói trên của hai bậc chân nhân nói đã rỏ ràng, nên không cần chú giải nữa.

Châu nguyên Dục nói: Thời gian 30 mùng một âm lịch, thì nhật nguyệt hội tụ tại Hư nguy

phương bắc. Đó là Thiên nhập vào địa, nguyệt ôm nhật vào trong. Lúc nầy nhật nguyệt đều

dừng và trở lại trạng thái hỗn độn, tự tương giao cấu. Lâu ngày lần lần ngưng tụ, rồi chấn động

mà có một dương xuất hiện, và tiếp thu âm phù.

Các phần trên đều là diệu quyết của chứng luận là bí cơ của phong hỏa hóa tinh, đều đầy đủ ở

đây. Cùng với pháp điều Dược cũng không ngoài.

Đoạn văn này tổng kết cái Chân thỉ của phong hỏa đồng dụng trên và pháp điều Dược. Cổ

Thánh không khiếu lộ nên người khó chứng ngộ. Ta nay nói hết, để hậu học khỏi lạc vào bàng

môn, và thành chánh giác.

Page 75: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

75

Dư Cố viết: Tự thủy hườn hư, nhi đải nguyên tinh sanh, dĩ thần hỏa nhi hóa, dĩ tức phong nhi

xuy, dĩ tịnh nhi hồn, dĩ động di ứng, dĩ hư nhi dưỡng, tắc điều Dược chi pháp đắc hỉ.

Bất Văn Thiệu khương tiết chi ngôn hồ:

Hoảng hốt âm dương sơ biến hóa.

Nhân ôn thiên địa sa hồi triền.

Doãn chân nhân viết: Nga khoảnh dưỡng sinh hào khiếu, chi thể như niên, Tâm giác hoảng

hốt.

Tử Dương chân nhân viết: Dược vật sinh nguyên khiếu.

Lục Tổ, Đàn kinh viết: Nhân địa quả hườn sanh.

Thái Sơ Cổ Phật viết: Phân minh động tịnh ưng vô tướng. Bất giác Long cung hộng nhất

thinh.

Nguyên học chánh tôn viết: Đàn chỉ tốn hoát khai.

Page 76: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

76

Hỗn nhiên Tử viết: Thời chí hóa. Cơ động lại minh, hỏa tùng tê hạ phát.

Xung hư Chân Nhân viết: Giác nhi bất giác, phục giác chân nguyên. Hựu viết: Tắc dụng khởi

hỏa dĩ thể chi. Hựu viết: Thể Dược qui Lưu Hựu viết: Phong cố đình tức, dĩ phục Thần khí.

Ngọc Đảnh Chân nhân viết: Nhập đảnh nhược vô khắc lậu, Linh nha bất sanh.

Thượng Dương Tử viết: Ngoại hỏa tuy động nhi hành nội phù, bế tức bất ứng, uổng phí Thần

công.

Thủ Dương Chân nhân viết: Khởi hỏa luyện Dược.

Hỗn nhiên tử viết: Hỏa bức kim thành, đương khởi hỏa chi sơ, thọ khí nghi nhu. Hựu viết: Thể

thời du dĩ bồi hồi chú ý dẫn hỏa bức kim, hựu viết: vận động khôn chi hỏa trầm tiền ư hạ.

Hỗn nhiên tử Viết: Cõ ngô chi thác thược, thể Dược chi thời Võ hỏa chi công, dĩ Tánh cán vận

ư nội, dĩ Mạng thi hóa ư ngoại.

Khư Tổ sư viết: Thể nhị thăng giáng chi tế, nhược bất dĩ ý thủ Trung cung, Dược vật như hà

vận đắc chuyển.

Dư cố nói: Từ công phu đầu tiên là luyện kỷ hườn hư, tức là luyện cho tâm thật trống

rỗng.Tâm có hư thì Tánh mới linh, mới đủ phương tiện để chờ lúc nguyên tinh sanh. Nguyên

tinh đã sinh thì lấy Thần hỏa mà huân hóa, lấy tức phong mà thổi động, lấy tịnh mà hồn hoàn,

lấy động mà ứng đối, lấy hư tâm mà nuôi Chân Dược, tức là đắc được pháp điều Dược. Hạ

ngôn sẽ nói về Chân thời Chân chủng sở sinh.

Hoãng hốt âm dương..: Hoãng hốt là trạng thái Thái cực, hồn nhiên nhất khối, ngoài chẳng

thấy có thân, trong chẳng thấy có Tâm. Tâm hồn tựa như nửa tỉnh nửa mê. Đó là hiện tượng

của khí Chân dương bắt đầu động, là nguyên quan thấu lộ sanh ra Chân khí. Chân khí tiếp đến

triền động, là nguyên quan thấu lộ, sanh ra Chân tinh.

Nga khoảnh dưỡng sanh…: Chốc lát trong người sinh ngứa ngáy. Tứ chi thân thể mềm có cơ

chấn động (hộng: gầm lên) và có một dương sanh Thánh nhân nhân hiện tượng nầy mà hoạch

ra quẻ chấn, trên có hai hào âm, dưới có một hào dương. Đức thế tôn gọi: kiến minh tinh nhi

ngộ đạo. Tu sĩ nào biết được cơ nhất thinh nầy, thì động thủy có thể được lưu thông, sông Tây

giang có thể hút, nước biển kia có thể tắm gội.

Đàn chỉ tốn hoát khai: là ý nói đốn nhiên mà biết. Nhưng chẳng nên thị hiện sự minh giác ấy

thái quá, mà chỉ nêu cực tịnh để chờ. Nếu lên cái niệm minh giác thì khí hậu Thiên tùy niệm

mà dấy lên, rồi bao bọc khí Tiên Thiên vào trong, làm cho chân khí phát ra không được dung

thịnh và không được thể thủ.

Page 77: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

77

Thời chí khí hóa…: Thời chí là thời Dược sản. Chân tinh đã sản, lập tức thể thủ rồi huân

chưng cho thành khí.

Cơ động lại minh: là có tiếng động ở Nguyên quan. Hỏa ở đây là khí, tê hạ là Đơn điền.

Cổ nhân nói: Thời chí Thần tri. Là nói chỗ nầy. Chẳng biết cái cơ của thời này, tức bị lỗi lầm,

giác nhi bất giác..: Giác là hiểu biết, bất giác là hồn nhiên. Lúc dương khí vừa manh nha, tợ

như có biết, nên gọi là giác. Lúc dương khí chưa vượng, không nên gấp tấn hỏa. Cho nên mới

nói phục giác Chân nguyên. Chân nguyên tức là Chân khí.

Tác dụng của khởi hỏa…: Từ đây nói về khởi hỏa thể Dược qui Lư.

Khởi hỏa là dấy lên cái khí hô hấp của hậu Thiên. Tiên Thiên Chân khí lúc sinh ra, lại nương

theo nhũn tợ như bông mới, Tâm thần tình cờ hoãng hốt đó pháp tượng Chân Dược sở sản.

Chẳng nên kinh quái. Nếu tâm dấy lên sự kinh nghi thì thần trì khí tán, chủ yếu là chấm dứt tư

lự để hư tâm mà chờ. Cũng chẳng nên dấy lên Võ hỏa khắc lậu, cũng chẳng nên mê thất Chân

hầu. Lặng lẽ nghe khí động tịnh, thì Chân nguyên dương khí tự vượng mà phát sinh.

Dược vật sinh nguyên khiếu: Dược vật tức là Chân Dược, hay gọi là Chân Chủng tử.

Nguyên khiếu: là cơ quan Huyền diệu. Là chỗ Chân Dược phát sinh. Trên thông với linh đài

dưới thông với tinh quan, sau thông với đốc mạch, trước thông với nhâm mạch.

Nhân địa quả hườn sinh: Địa tiên gia gọi đơn điền, Thích danh Tịnh độ, hay ưu đà na hay khổ

hải. Tên xão dụ tuy có khác, nhưng cũng là nơi quả sinh.

Quả hườn sinh là do trước có hữu tình Lai hạ chứng mà sau nhân địa có quả sinh. Quả tức bồ

đề chủng tử của Như Lai.Còn gọi là vô cực nhi Thái cực.

Phân minh động tịnh…: là phải phân biệt rõ ràng về cơ động tịnh. Cơ động tịnh có Chân động

có Chân tịnh. Cũng như phân biệt: Tâm tịnh viết Thiền, Thận động viết cơ.

Vô tướng: Tiên gia gọi Hư vô. Thích gia gọi Chân không. Từ hiện vô tướng nầy mới sinh chân

Dược.

Long cung: là Thần Thất, Cốc Thần, Trung cung, Hộn nhất thinh: Tượng là qủe chấn tức là

đường thục lộ mà ra, cho nên, phải dùng pháp khởi hỏa mà thể thủ qui lư. Nhưng cái hỏa hô

hấp vốn tự hữu hình, mà dụng nó tất như vô hình. Nếu chấp trước hữu hình mà dụng thì tà hỏa

sẽ lớn lên. Quả là hữu hữu và tợ vô vô. Trong đó có sự Huyền diệu. Công dụng hai khí đúng

pháp, thì Chân Dược tự nhiên qui lư và còn do: Chân Dược đắc được cái thần lực của thần khí,

nên mới tự nhiên quy Lư.

Phong cố đình tức…: Phong cố gọi là gắm Chân Dược sau khi đã thể thủ và huân chưn. Gói

Page 78: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

78

cho thật kỹ, Thiền sư Huyền cơ có nói: Đóng 6 cửa cho bền then chốt. Thật là lời dạy phong

cố rất chí lý.

Đình tức còn là chẳng dụng công theo phương cỗ vũ xuy khư.

Hồn nhiên hỏi: Tôi có thấy trong trực luận: Chân Dược đã qui lư, chưa nên lập tức hành hỏa,

nếu hành hỏa thù Chân Dược không tiếp tục phát sinh cũng chẳng thành Đại Dược. Chổ nầy

đã có mộc dục, há lại đoạn sao?

Hoa Dương Thiền sư đáp: Chẳng hành, chẳng phải bế tắc khí hô hấp, là hoàn toàn chẳng hành.

Chẳng hành là không còn ứng dụng cơ thác thược cổ vũ và xuy khư tức là dùng cơ vi vi thi

tức. Sao gọi là đoạn dứt cái cơ hành hỏa. Tuy là có cái lý tạm phục vi diệu, mà Chân Cơ không

có cái tình bất động theo sau. Sao chẳng nghe hiệp tông: Thể, phong thị Tí thời tiền dả.

Nhập đảnh nhược vô…: Thử hạ nói tí thời hành hỏa luyện Dược, hành cái hỏa của Tiểu thiên.

Còn ở trước thì luận về khởi hỏa thể Dược là trước thời. Đó là Tí thời của Châu Thiên đúng

lệnh. Cho nên Đạt ma tổ sư nói: Nhị hầu thể mâu ni.

Chân Dược sanh, là sanh lúc tí thời hay còn gọi là tí thời. Hành Châu Thiên gọi là hành Châu

Thiên tí thời, bất tất nhận là một thời. Chân Dược nhập đảnh tất phải dùng cái hỏa khắc lậu để

luyện. Nếu không dùng cái hỏa khắc lậu, thì linh ma chẳng sinh.

Ngoại hỏa tuy động…: Ngoại hỏa là nguy khí, nội phù là khí hô hấp. Nguyên khí là do hô hấp

mà thể qui lư, cũng do hô hấp mà luyện thì Chân Dược trong lư mới thành biến hóa.

Tiên ông nói: Hỏa tiêu kim nhi Thần khí bất ta, Chân Dược đã qui Lư, mà khí hô hấp chỉ đến

nửa đường rồi trở về, thì đã chẳng ứng với khí Tiên Thiên, mà Chân Dược còn bị hao tán, và

trở thành cái hỏa Châu Thiên đã chẳng tương tục, chơn di cũng chẳng thành.

Khởi hỏa luyện dược: Khởi hỏa là khởi cái hỏa của Châu Thiên vận hành theo 12 ngôi, nói là

vị ngôi, nhưng chẳng thiệt có ngôi vị, mà là mượn để làm ngôi vị. Lại gọi là 12 thời, nhưng

chẳng thiệt có ngôi vị, mà chỉ là mượn để làm ngôi vị. Lại gọi là 12 thời, nhưng thiệt chẳng có

thời, mà là mượn hỏa làm thời.

Hỏa bức kim hành…: Hỏa là khí hô hấp, kim là nguyên khí, kim chẳng được tự sinh nên phải

mượn hỏa để bức, khiến cho nó triều về Càn cung. Chân khí trung Lư lúc mới dấy lên mà chưa

triền động, không được dùng Võ hỏa, mà trước tiên là dùng Văn hỏa. Chân dược đã có cơ

triều, thì hành hỏa rất đúng thời. Chân Dược chưa thậm động là còn tìm phục phần nào, nếu

dùng Võ hỏa trước tiên thì Chân dược không thuộc theo đại lộ, lại theo khê lộ khúc kĩnh,

muốn nó qui lư có phải khó không cho nên nói nghi nhu.

Thể thời tu dĩ…: bồi hồi là ý nói vãng Lai hoạt động dẫn hỏa, tức là pháp thần hô khí.

Page 79: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

79

Bức: là bức bách, buộc phải theo ý mình.

Thượng văn mới nói dùng khí hô hấp để điều hành nguyên khí, nhưng chưa nói rõ về sở dụng

nguyên thần, cho nên tu sĩ chỉ biết dụng công có 2 khí, mà không biết nguyên thần là chủ của

hai khí.

Thể dược, luyện dược, đều nhờ thần khí huyệt chế ngự 2 khí vãng Lai hoạt động, thì chân khí

tự nhiên vận hành.

Tiền Văn có nói: Thần hộ khí, khí qui khiếu nội, xuy ngộ thân trung khổng dịch.

Vận động khôn chi hỏa…: Khôn ở đây tức là lư, hỏa ở đây là nguyên khí. Lúc vận động khôn

hỏa đi xuống và vận hành, qua tam kỳ lộ, lên tam quan, nếu đi con đường khác thì không lên

Càn đảnh được và Chân Dược sẽ bị hao tán.

Hồn nhiên Tử hỏi: Tôi có nghe Thiềm ông nói: Thần tức họa, khí tức Dược, dĩ hỏa luyện được

Dược nhi thành công đơn, Sao nay lại nói khí là hỏa? Còn tiền Văn lại nói: hóa cốt tinh thì lấy

hô hấp làm hỏa, 3 việc đều nói hỏa, chẳng biết đâu là phải?

Thiền sư đáp: là do đắc ngộ Chân sư hay không, gặp được Chân sư rồi, tức được Chân tham

thiệt ngộ, chỉ một tỏ ngộ mà nên vẹn toàn. Nếu tâm địa không Chân thật, làm sao minh được

thị phi, rồi hóa ra đơn kinh tạo ra sự nghi hoặc cho người, và người trở lại nghi hoặc đơn kinh.

Có kẻ chỉ mới đọc thuộc lòng được mấy câu lại sanh tự phụ.

Chính về hỏa có: Khởi hỏa, hành hỏa, hỏa bức, dẫn hỏa, chỉ hỏa, đều là cái hỏa hô hấp.

Cũng như: Ngưng hỏa, nhập hỏa, lấy hỏa, dồi hỏa, ly hỏa, tâm hỏa, đều là cái hỏa thuộc thần.

Lại còn: Thủ hỏa, vận hỏa, đề hỏa, khảm hỏa, khôn hỏa, lư trung hỏa, thủy trung hỏa, đều là

Tiên hỏa của Tiên Thiên.

Thần hỏa có năng lực huân hóa chân tinh, là để bổ trợ cho chân khí.

Cái hỏa của chân khí có năng lực huân hóa khí hô hấp của hậu Thiên là để bổ trợ cho chơn

thần

Cái hỏa của chơn thần có năng lực huân hóa hành khí để hườn hư để trợ đạo.

Thành thủy thành chung, đề thuận thừa cái thần lực của hỏa, để lên đại la Kim tiên.

Cho nên cổ nhân nói: Hỏa có từng tiết đệ, há đâu chỉ có một sao.

Page 80: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

80

Cổ ngô chi thác thược…: Cổ nhân hoặc lấy nội hô hấp làm thác Dược, hoặc lấy ngoại hô hấp

làm thác Dược. Trong ngoài gồm lại mà nói, thì đâu là phải, đâu là chẳng phải?

Thiền sư đặc chỉ: chỉ có tiêu tức là phải. Nếu không có tiêu tức, làm sao có thác Dược.

Cổ nhân nói: Nhất hạp nhất tịch vị chi biến, chi biến thông vô cùng hỉ.

Thác Dược lợi như trâu kéo xe nước, cũng đồng tiêu tức mà chẳng đồng đường. Nếu đồng

đường thỉ không gọi là thác thược.

Lai tợ như gió ở trong thùng, thì đồng thùng mà không đồng gió. Nếu đồng gió thì chẳng được

vận chuyển. Lấy gió trong thùng mà ám tàng nơi thùng thì gió ấy không có sự vận chuyển.

Dụng Võ hỏa là sau khi dụng nhu đối với chân Dược trong cơ thể thủ quy lư. Tức là dùng cái

tức của thác thược ứng với các cơ khắc lậu độ số.

Nếu chỉ dùng đơn độc đăng hỏa thì chân Dược chẳng quy lư, mà còn bị hao tán.

Nội : là Trung xung.

Luyện Dược thành phù, chủ yếu là thân y an trụ với trung cung, mà làm chủ tể cán vận bức

trục, thì thủy hỏa mới theo đường đạo lộ mà thân giáng. Còn ngoài thì mượn thân khí của

Mạng thi hóa, thì mạch lạc được khai thông thơ sướng. Trong ngoài dung thông thì tự nhiên

Mạng nghe nơi tánh, tánh giữ cho Mạng.

Thể nhị khí…: 2 khí là Tiên Thiên khí, Hậu Thiên khí, Tiên Thiên khí nếu không có hậu Thiên

khí, thì chẳng chịu nhíp chuyển được. Còn hậu Thiên khí, nếu chẳng có Tiên Thiên khí thì

chẳng có chỗ để thi công.

Xung hư nói: Khí tắc bất năng Tiên, Hậu chỉ nhị dụng.

Page 81: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

81

Hổn nhiên tử viết: Nội phục Thiên can cán vận, ngoại dụng đẩu bỉnh thôi Thiên.

Hứa Sinh Dương Lão Tử viết: Xung khai Đẩu ngựa yếu tuần hoàn.

Kim đơn phú viết: Tí thời hà xa túng giá hỏa tiêu kim, nhi thần bất bại.

Thuần Dương Tổ sư viết: Bằng quân tí hậu thọ thiền khan. Nhật mạnh Thiên tân tại tích đoan,

hựu viết: Hàn tuyền lịch lịch khí miên miên. Thượng thấu côn lôn hườm tỷ phủ. Phù trầm

thăng giáng trung cung.

Quảng Thành Tử viết: Nhơn chỉ phản phúc hô hấp triệt ư đế. Nhất hấp tắc Thiên đế. Nhất hấp

tắc Thiên khí hạ giáng, nhất hô tắc địa khí thượng thăng. Ngã chi Chân tức tương tiếp dã.

Mích nguyên Tử viết: Càn khôn hạp tịch âm dương vận hành chi cơ. Nhất hấp tắc tự hạ nhi

thượng tí thăng. Nhất hô tự thượng nhi hạ ngọ giáng.

Xung hư tử viết: Dương hấp cơ chi hạp, ngã tắc chuyển nhi chí khôn, dĩ giáng vi thối.

Nội phục thiên can..: Xung hư Tử nói: chui sao bên ngoài duy chuyển, mà Thiên tâm không lìa

thần thất. Nếu là nội phục Thiên can, mà bên ngoài chui sao chẳng di chuyển, thì Chân khí

không thăng giáng. Còn nếu ngoài di chuyển chui sao mà bên trong không nội phục Thiên can,

Page 82: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

82

thì Chân chủng chẳng kết. Sau đây có bài Thiền cơ phú nói: Thiền chủ đẩu binh, kiến minh

tinh nhi hồi triền.

Xung khai đẩu binh yếu tuần hoàn (đẩu ngư).

Đẩu ngư tức là Hư nguy huyệt, là cốc thần, Cốc thần đã mở thì dùng pháp thăng giáng mà vận.

Xung hư Tử nói: vận hành phải đúng chỗ

Bạch ngọc thiền nói: khởi vu hư nguy huyệt.

Huyệt này trụ tại cung khảm tí vị, là chổ khởi chỉ của 2 mạch nhâm đốc, còn gọi là hà xa lộ.

Du ngọc Ngô nói: Lúc khí chân dương phát động phải cổ vũ thác thược để hà luyện với lửa

mạnh thì khí Chân diên từ nơi cung khảm sẽ phát xuất, mà hà xa chẳng dám đình lưu, và vận

nhập lên núi côn lôn.

Tí thời hà xa…: tí thời là vận Châu Thiên để thể Dược thượng thăng.

Hổn nhiên tử nói: Chân diên khí gặp giờ quí là giờ dương âm cực thì phát sinh, lúc nầy phải

dùng tốn phong để thổi cho lửa lò hừng lên, vận động khôn hỏa đang ẩn chìm bên dưới tức là

trục phần dương trong khảm, để bổ phần âm trong ly cho thành Càn như thuở tiên Thiên.

Bằng quân Tí hậu…: Tí hậu là thời của âm phù. Ngọ tiền là thời của Dương hỏa.

Nhất mạch là đạo lộ vận Châu thiên. Lúc hành hỏa thì Thần khí noi theo con đường này mà

vận hành.

Tiêu tử hư nói: Kỷ hội tiếu Côn sơn thượng. Giáp tích phân minh hữu lộ thông.

Du ngọc Ngô nói: Nguyên hải dương hòa động Hàn tuyền khí mạch thông.

2 bậc chân nhân trên nói về đạo lộ vận Châu thiên của tứ thời công phu. Nếu vận không đúng

đường đạo lộ nầy, thì không khai thông đường nầy được.

Còn nếu Thần mà không biết khí, hoặc khí chẳng tùy theo thần, tức bị khống không hà luyện,

không bao giờ thành kim đơn.

Thủ Dương chân nhân nói: có cái vi ý lưởng tương tri.

Hàn truyền lịch lịch..: Viên thông thiền sư nói: Quần âm bát tận, nhất dương phục sinh. Dục

kiến Thiên địa chi tâm, tu thức thừa âm chi pháp.

Page 83: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

83

Hàn tuyền: Là suối lạnh, là thí dụ về khảm thủy, tức là thí dụ nước trong thận.

Lịch lịch: là lịch lịch ba đào chi tượng, là lúc Chân dương sở sản.

Khí miên miên: Chân khí liên tục phát sinh.

Đạo quang thiền sư nói: Nhất hào khán quá, nhất hào sinh. Cũng nói về khí miên miên bất

đoạn.

Côn lôn: Càn đảnh, là ngôi đầu con người.

Tử phủ: Tức đơn điền, chí thiện, cốc thần.

Từ cung khôn thăng lên, là côn lôn sơn đảnh.

Từ cung càn hạ giáng, là xuống cung tử phủ.

Trung cung: cũng là tử phủ, là Thần thất.

Tổ sư dạy Tu sĩ hành hỏa, thì trên phải lên đến càn đảnh, dưới phải xuống tận khôn lư.

Nhơn chi phản phúc…: Hấp giáng hô thăng là cơ vận hành của hai khí Tiên Thiên và hậu

Thiên.

Hậu Thiên khí hấp Tiên Thiên khí sinh, thăng là thăng lên cung Càn là thể nội dương châu

Dược. Giáng là giáng xuống cung khôn, là thể nội âm Dược.

Hậu thiên khí hô thì Tiên Thiên khí giáng, hậu Thiên khí hấp thì Tiên Thiên khí thăng.

Nếu hô hấp từ nơi miệng mũi, là cách xa với Tiên Thiên khí vậy, vì đó là phàm tức sanh tử

luân hồi.

Càn khôn hạp tịch…: Là nói về cơ tiêu tức của khí Tiên Thiên và khí hậu thiên vận chuyển từ

hạ khôn lên thượng Càn, rồi từ thượng Càn xuống hạ khôn, là một châu Thiên.

Hạp tịch là nguyên cơ hô hấp nội ngoại, các khí hư của mặt ngoài giáng xuống khí của mặt

trong, rồi do Chân ý điều hành mà thăng lên.

Cái khí của mặt ngoài thăng lên cái khí của mặt trong rồi cũng do Chân ý vận chuyển mà

giáng xuống.

Đó là bí cơ của Châu Thiên, phàm phu làm sao biết được.

Page 84: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

84

Tiên ông nói: Nếu dạy cho ngu bối đều thành đạo thì Thần Tiên trong thiên hạ đi chật đường.

Hổn nhiên tử hỏi: Lão sư nói: cơ hô hấp có 2 phần trọng yếu: Thăng thì Chân ý phải chủ tể nơi

trung cung, để làm chuôi sao, chủ yếu là chuyển tâm lại thấy chỗ nầy: Thần phải theo cái khí

Tiên Thiên mà thăng giáng. Lại nghe cái khí của Hậu Thiên là từ nơi hơi thở mà thăng giáng,

lão sư nói động tịnh có 3 chổ, cũng đều có cái ý tri giác về động tịnh. Chẳng biết là thần, là

Chân ý, quan trọng tại chổ nào? Lại chẳng hiểu về sự phân biệt Thần với Chân ý như thế nào ở

dụng độ? Tôi có thấy trong đơn kinh: Hành thì Thần khí đồng hành. Trụ thì thần khí đồng trụ.

Nay đây là nghe: Thần và Chân ý chẳng tương hiệp. Là sao vậy?

Hoa Dương thiền sư nói: Đó là do ngươi bất minh chớ chẳng phải do kinh, là do ngươi chấp

trước Thiên kiến, nên chẳng biết thế nào là cơ thí dụ như ngoại đạo muốn ấn định về cơ tiêu

tức lại chế ra pháp ngoại kiên, tức là dùng vật kiện bên ngoài mà an! Nếu như dùng vật kiện

đó mà gõ vào một khiếu nào, thì không chỗ nào không ứng, không động. Chỉ có phương pháp

vận Tiên Thiên khí mới làm lại cho kinh lạc trong người thông ứng. Lại có khí hậu Thiên cỗ

Võ, thì làm sao lại có sự trên dưới chẳng thông với nhau. Có thể thấy: Tiên Thiên, Hậu Thiên,

trung gian, đều chủ yếu là ở cơ. Nếu chẳng có cơ thì làm sao thông ứng.

Cho nên Thái Sơ cổ Phật có nói:

Nhất phiến đông hề, nhất phiến Tây.

Lưỡng đầu động xứ kỷ nhơn tri

Xuất hữu nhập vô chân tạo hóa.

Thần khí tương giao thấu tổ cơ.

Thí dụ như một tài xế lái xe. Lúc đầu thì còn ngượng nghịu, vì chưa thuần thục. Lúc đã thuần

thục rồi, tự nhiên tay chân đều có linh cảm. Tu sĩ cũng như vậy. Lúc đã thuần thục từng chi

tiết công phu Thiền định rồi, có khác gì một tài xế lành nghề. Lúc đã thuần thục rồi, đâu còn

nhất nhất đều do Thần, do chân ý làm chủ sử. Suốt thông được lý nầy thì lúc lâm thời không

có sự lầm lẫn nữa.

Du ngọc ngô giải thích về âm phù kinh, con rắn ở núi Hằng Sơn, hễ đánh cái đầu thì cái đuôi

liền ứng hễ đánh khúc giữa thì cả đầu và đuôi liền ứng. Lại nói: Theo pháp tiềm thần nơi

Trung cung để điều ngự cơ hô hấp vãng Lai, trên đến thượng điền, dưới đến thận mạng, khiến

cho ngủ hành điên đảo vận chuyển nơi trong. Đó là cơ động của nội ngoại Châu Thiên.

Thiền sư xung hư nói: Dùng chân ý trụ tại trung cung, lấy Thần chế ngự khí, thì Chân khí sẽ

xuất phát từ tốn cung qua tam kỳ lộ lên tam quan lên Thiên môn, xuống sơn căn, xuống thập

nhị trùng lầu, xuống trung điền, rồi về trung địa (Tổ khiếu). Cứ như vậy mà vận chuyển châu

lưu mãi mãi, thì có gì gọi là trở ngại nữa.

Hồn nhiên Tử nhân đó mới hỏi: Tôi thấy Giang Tây đạo nhơn ở núi vương sơn đã dùng pháp

thăng giáng đã mười năm mà không thấy kết đơn.

Page 85: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

85

Đáp: Người đó chỉ dụng công theo Hậu Thiên khí chứ không phải dụng công theo thần khí

Tiên Thiên.

Đương hấp cơ chi hạp…: hấp cơ là hút khí Hậu thiên từ trên miệng mũi đưa xuống linh địa.

Hô cơ là đưa khí từ linh địa lên Càn cung.

Hấp cơ tức hạp, là trước thì đóng mạch nhâm và tự nhiên có cơ tấn dương đằng sau, đốc mạch

lên Càn cung, tức là thể khí chân dương đưa lên làm cho Thiên cung sung mãn khí Chân

dương.

Hô cơ gọi là tịch, là mở đường đạo lộ đốc mạch cho thật thông suốt, để chờ ngày quá quan

phục thực.

Sau thì tấn trước thì thối, thối cho đến linh địa.

Page 86: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

86

Tiêu đạo Quang Thiền sư viết: Hỏa hầu trục thiêm tư tuyệt trần. Nhất hào khán quá nhất hào

sanh.

Trần nế Hoàng viết: Thiên thượng phân minh thập nhị thần. Nhân gian phân tác luyện đơn

trình. Nhược ngôn khắc lậu vô bằng tín. Bất hội nguyên cơ Dược bất thành.

Chung ly tổ sư viết: sanh thành hữu số.

Kim Cốc dã nhân viết: Châu Thiên tức số vi vi.

Trần Nê Hoàn viết: Ất dương phục quái Tí thời sanh. Ngọ hậu nhất âm sinh ư Cấu.

Tam thập lục, hựu nhì thập tứ.

Thủ Dương Chân nhân viết: Tí hành tam thập lục, tích đắc dương hào nhất bà bát thập số,

ngọ hành nhị thập tứ, hiệp đắc âm hào nhất bách nhị thập số.

Ngộ Chân Chú sơ viết: Tí tấn dương hỏa, tức hỏa vị chi mộc dục. Ngọ thối âm phù đình phù vị

chi mộc dục.

Tào hườn Dương chân nhân viết: Thập nhị thời trung, thời giai hữu dương hỏa âm phù.

Phàm Tấn tắc viết: Tấn dương hỏa, Phàm Thối Tắc viết: Thối âm phù. Diệc dĩ dương dụng giả

viết: Hỏa Dĩ âm dụng giả viết: phù.

Xung Hư Tử viết: Phàm nhất dộng tắc nhất luyện nhi châu. Sở cơ chi động nhi phục động giả,

tắc luyện nhi phục luyện, châu nhi phục châu. Hựu viết: Tích chi bất quá bá nhật, tắc tinh bất

lậu nhi phản khí hỉ.

Hỏa hầu trục thiêm: Trục thiêm là ý nói Chân khí thượng thăng hạ giáng.

Tuyệt trần: Lúc lâm cơ đạt đến trạng thái ảo hóa, thì phàm tức liền dứt, thì Chân ý không được

lìa khí.

Hào quá hào sanh: Là thí dụ công phu liên tục.

Page 87: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

87

Thủ dương Chân nhân nói: Tùy cơ mặc vận nhập Huyền Huyền. Hô hấp phân minh liễu khước

Tiên.

Thiên thượng phân minh…: Thiên thượng có 12 chư thần vị. Luyện đơn cũng có 12 thời hỏa

hầu cho nên lục dương thì dùng tấn, lục âm thì dùng thối.

Trình: Là trong mỗi thời có độ số nhất định. Có người nào nói: chẳng dùng Tức số khắc lậu,

đó là hệ thuộc bàn môn ngoại đạo, chẳng phải là đạo kim đơn, dầu cho họ có cố cưỡng chế

thăng giáng cũng không kết thành đại Dược. Đã chẳng dụng Châu Thiên độ số thì lấy vật gì

làm Châu Thiên, còn chẳng hiểu rõ cơ khắc lậu là kẻ quá mê!

Sanh thành hữu số: Có số tức là Càn dụng cửu (9), Khôn dụng lục (6)

Châu Thiên Tức số vi vi số: Châu Thiên là vảng Lai phản phục.

Vi vi: Là chẳng dính mắc ở tướng, thuận tùy hành hỏa hầu, hay gọi là cơ tiêu tức.

Ất dương phục quái…: Xung hư Tử nói từ Tí dến Tị là 6 giờ dương, dương hiệp với Càn, nên

dụng Càn hào Càn sách. Càn hào dụng cửu đem nhân cho 4 thành 36.

Còn từ Ngọ đến Hợi là sáu giờ âm. Âm hiệp với khôn nên dùng khôn hào khôn sách. Khôn

hào dụng lục đem nhân cho 4 thành 24.

Thời dương, theo Càn sách là 216. Trừ Châu Thiên thiệt số của Mẹo mộc dục, nên Càn dương

còn thiệt số là 180 châu.

Thời âm theo khôn sách là 144. Trừ Châu Thiên thiệt số của dậu mộc dục nên khôn âm còn

thiệt số là 120 châu

Cộng Càn khôn thiệt số Châu Thiên tức số là 300 châu.

Tí hành tam thập lục…: Sáu giờ dương dụng cửu, trừ mẹo mộc dục, chỉ còn lại 180 châu. Sáu

giờ âm dụng lục, trừ dậu thời mộc dục, còn lại 120 châu.

Xung hư tử nói: Mẹo thời ở giữa sáu giờ dương, dậu thời ở giữa sáu giờ âm. Công phu điều

tức đến giữa sáu giờ nên mộc dục.

Tí tấn dương hỏa..: Tức hỏa và đình phù là đình trụ cơ hữu vi, mà hành cái diệu vận tự nhiên.

Chẳng phải là đình trụ về cơ vận hành Tiên Thiên, mà là đình trụ cơ vận hành Hậu Thiên Võ

hỏa.

Cho nên Lý Đạo Thiền sư nói: Thập nhị thời trung vô linh gián đoạn. Du ngọc ngô nói: Thiên

đạo vô nhất tức bất vận. Đơn đạo vô nhất tức (hơi thở) gián đoạn.

Page 88: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

88

Cho nên 2 giờ mẹo dậu công phu vận hành là phụ, mà chính là mặc vận xuy khử.

Trùng Dương Tổ sư nói: Tí ngọ xung hòa liên mẹo dậu. Xuân Đông Thu hạ diệc tương hòa

(liên hệ)

Xung Hư Tử thiền sư có bài:

Thế xưng mộc dục bất hành hỏa

Thả đạo xuy khư cánh hướng thùy?

Yếu tương tứ chánh trung trục bổ

Tài đắc kim đơn nhất hiệp qui.

Dịch:

Đời gọi mộc dục chẳng hành hỏa

Thử hỏi xuy khư theo hướng nào

Phải nương bốn giờ huân chưng tốt

Mới được kim đơn một hạt về.

Thiên lục tử dã chú ngộ Chân nói: Mẹo dậu chẳng tấn hỏa, chỉ dùng chân hỏa mà huân chưn

mà mộc dục. Lúc nầy muôn đời không thay đổi.

Thập nhị thời trung…: Thập nhị thời là thời gian vận Châu Thiên trong thân ta. Từ Tí đến Tị

sáu giờ dương, là thời Tấn dương hỏa, từ ngọ đến hợi sáu giờ âm là thời thối âm phù. Tấn tức

là thăng. Thối tức là giáng, tất cả các thời dương hỏa, âm phù đều có trong đó, chẳng phải mộc

dục mà cũng có mộc dục trong đó. Cho nên dương dụng thì gọi hỏa, âm dụng thì gọi phù.

Hồn nhiên Tử nói: Tôi chỉ được nghe, giữa 6 giờ dương có giờ mộc dục và giữa sáu giờ âm

cũng có giờ mộc dục. Lý nầy tôi đã hiểu rỏ, nhưng chẳng biết sáu giờ dương, giờ nào cũng có

âm phù, và trong sáu giờ âm giờ nào cũng có dương hỏa, lý nầy rất mầu vi, thỉnh cầu lão sư

tùy huấn?

Hoa Dương đáp: Phàm lúc vận hành Châu Thiên thì có khí Hậu Thiên có cơ hồi chuyển. Chổ

hồi chuyển có nội tàng âm phù và dương hỏa. Đã có hạn số lục dương, lục âm, há chỉ có một

hơi thở mà vận đến Càn cung sao. Dầu có vận cũng chẳng thành độ số của Châu Thiên, và

cũng chẳng hiệp với pháp tắc khắc lậu.

Hồn nhiên Tử lại hỏi: Đệ tử còn ngu mê, nên chẳng biết phần tinh vi của dương hỏa âm phù,

con xin lão sư chỉ giáo?

Hoa Dương đáp: Lúc vận hậu Thiên khí, tấn gọi dương hỏa, thối thì gọi âm phù, mộc dục qui

căn, đều mượn hô hấp hậu thiên để làm pháp Châu Thiên độ số. Nếu không có cơ hô hấp thì

không có dương hỏa âm phù và mộc dục qui căn. Tổ sư nói: Vận hành châu hồi có con đường

tắt nếu chẳng đúng con đường Trung đạo thì Chân khí không vận chuyển.

Page 89: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

89

Xung Hư Tử nói:

Hỏa hầu thùy vân bất khả truyền.

Tùy cơ mặc vận nhập Huyền Huyền.

Đạt quan vãng tích Thiên Thiên Thánh.

Hô hấp phân minh liễu khước Tiên.

Lại hỏi: Ngày xưa Tổ Sư Đạt Ma nói: Nhị hầu thể mâu ni. Sao gọi là nhị hầu?

Đáp: Chân Dược sản hướng ngoại, thể thử qui lư là một hầu. Chân Dược đã qui Lư huân chưn

rồi phong cố 2 hầu.

Lại hỏi: Sao gọi là tứ hầu?

Đáp: Thăng giáng, và mộc dục là tứ hầu.

Lại hỏi: Sao gọi là nhuận dư?

Đáp: Qui căn là trở về linh địa, gọi là ngôi vị ôn dưỡng mộc dục

Phàm nhất động tắc nhất luyện nhi châu…: Có khí động là luyện, thì cái hỏa Châu Thiên mới

được huân hóa dễ dàng và chấm dứt. Nếu chẳng luyện thì hỏa này không chấm dứt nhanh, mà

Chân Dược cũng chẳng sanh, Đại dược cũng chẳng thành.

Cổ vân: Vận bải hà xa quân tái thúy (ngủ) Lai triều y cựu tiếp Thiên căn.

Cổ quán sơn, Hiệp phong hỏi: Từ lúc tôi học đạo đến nay tuổi đã tám tuần, dương lai tự động,

là lý do gì vậy?

Đáp: Dương còn cử, là do cái lỗi chưa đắc được pháp luyện hỏa.

Phong lại hỏi: Tôi được Thất Ngô sư sở truyền là vận châu thân tứ chi, vận lục hồi dương, lục

hồi âm, tả vận 360, hữu vận 240, há chẳng phải là hỏa công sao?

Hoa Dương đáp: Đã là hỏa công 80, thì tại sao dương còn cử. Đó chẳng phải kim đơn mà là

Tiêu pháp, thất ngộ sư dạy ngươi chỉ niệm mà thôi. Đó là không vận, có ích gì đâu.

Hiệp phong lại hỏi: Kim Đơn Đạo như thế nào?

Đáp: Kim đơn đạo là lúc chơn Dược phát sanh phải ngưng thần nhập vào khí huyệt cổ vũ Thác

thược và Tốn phong tiêu tức, hướng về trong Lư mà xuy khư. Gió sanh thì lửa hừng, lửa hừng

thì tinh được hóa. Tinh được hóa thì chân khí tự sanh, Thể Chân khí sanh nầy mà vận thăng

giáng vãng hồi Châu Thiên.

Page 90: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

90

Tích chi bất quá bá nhật, tắc tinh bất lậu nhi phản vi khí: Bá nhật là danh từ của luyện tinh có

cái cơ nhị hầu lại, đó là bá nhật đúng kỳ. Thiếu niên mà siêng năng thì thành công sớm. còn

hạng tuổi trung niên mà chẳng siêng năng, thì thời gian thành công không định được.

Người còn lậu tinh không lậu nữa, thì cái đạo lậu tận thông chưa thành nếu như tinh không lậu

nữa là tinh đã trọn hóa thành chân khí, tức là cái quả Trường sinh bất tử đã đạt được.

Tăng long Giang hỏi: Lấy đó tự bảo thủ, còn thành lậu tận không? Đáp: Bảo thủ chỉ đoạn dâm

tâm dâm thân mà thôi. Chỉ có dùng Chân hỏa huân hóa mới đoạn dâm căn, và thành lậu tận

thông.

Page 91: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

91

Chánh Dương Tổ Sư viết: Quả nhiên bá nhật phòng nguy hiểm.

Tiêu tử Hư viết: Phong hỏa hầu chi sai thất, kị mộng mị cho hôn mê.

Thạch hạnh Lâm viết: Đinh lý kiến đơn thành.

Chánh Dương tổ sư viết: Đơn thục bất tu hàng hỏa hầu. Cánh hành hỏa hầu tất thương đơn.

Tiêu tử Hư viết: Thiết kị bất tu hành hỏa hầu. Bất tri chỉ túc tất khuynh nguy.

Thử giai ngôn Tiểu Châu Thiên tạo hóa đáo đơn thục chỉ hỏa chi hầu dả.

Xung hư chân nhân viết: Hữu chỉ hoa chi cảnh

Thủ dương chân nhân viết: Thả đải kỳ đáo chi da nhi chỉ, Đại Dược tất đắc hỉ.

Hựu viết: Sơ luyện tinh thời đắc cảnh nhi bất tri mảnh ngật, nhất kinh nhi dĩ, nải tái tịnh nhi

cảnh tái chí, mãnh tĩnh viết: sư ngôn dương chỉ hỏa dả.

Khả tích đương diện thái quá.

Hựu tinh hựu chí, tắc tri chỉ hỏa, dụng thể nhị tức đắc hỉ.

Thị thể tại ư tam chí dả. Kim nhi hậu dương như chi, cập hậu tái luyện, bất ngộ cảnh sơ nhi

chỉ, thất chi tốc! Nhược đải cảnh tứ chó nhi chỉ, thất chi trì! Bất tốc bất trì chi trung nhi chỉ

hỏa, tất đắc Dược xung quan nhi điển hóa dương thần.

Phàm hữu Chân tu Thiên Chân, Thiên tân vận khổ vạn vạn ban khả liên.

Luyện thành kim đơn, khởi khả khinh hốt, trí linh khuynh nguy tai!

Thử dĩ thượng, giai ngôn luyện tinh hóa khí thành kim đơn chi Huyền công, phong hỏa đồng

dụng chi diệu chỉ, tận tại tư dư. Dư bất cảm vi thử tập vi tự luận chi diệu đạo, nhiên giai hội

tụy tiền Thánh chi Chân truyền. Tức hậu Lai vạn kiếp cao Chân dụng phong dụng hỏa chi căn

bản.

Sữ kiến chi giả tức liễu ngộ, khí hiệp Tiên Phật chi Chân chỉ, Thành kỉ nhơn Tiên Phật chi quả

chứng hỉ.

Quả nhiên bá nhật…: Phòng nguy là lúc chân Dược phát sinh mà Thần không kịp biết, nên bị

lỗi lầm. Hoặc chẳng minh pháp khởi hỏa, hoặc hôn trầm nên Thần chẳng linh, cho nên Chân

khí bị hao tán. Hoặc đáng tấn hỏa mà chẳng tấn, đáng thối âm phù mà chẳng thối, đáng mộc

Page 92: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

92

dục mà chẳng mộc dục, đáng chỉ hỏa mà không chỉ, nên qui căn mà không qui. Đều là lỗi ở cơ

tạo hóa. Cho nên nói: Phòng nguy hiểm.

Kị mộng mị chi hôn mê: Trong giờ công phu Thiền định, Tu sĩ thường bị chứng hôn trầm do

nhiều nguyên nhân gây ra.

Nếu trong giờ công phu mà hôn trầm, thì giờ công phu đó vô hiệu.

Hỏa hầu sai thất: Là do tu sĩ thiếu đức chí thành, tâm chẳng chuyên, học hỏi chưa thấu đáo,

căn lành cạn cột, công đức còn mỏng manh!

Nếu như Linh đài đã khiết tịnh, Linh địa ít trược nhơ, hỏa hầu được minh bạch đã suốt thông

chánh lý, chánh pháp và chánh đạo, tức là đã đạt đến Chân tri, thì làm sao có sự sai thất.

Cổ nhân thường cũng có tẩu đơn! Cũng là do những nguyên nhân đã nêu trên.

Tu sĩ trước thời hạ thủ công phu phải lo dưỡng Thần, Thần tu luyện đã nhuần, thì tự nhiên có

linh giác, Thần tu luyện chưa thuần, lúc ngủ phải bị sanh tâm trần vọng nên bị cái hoạn mộng

mị sai thất!

Định lý kiến Đơn thành: Đơn đã thành là do chân khí được viên mãn ngoại thận bất cử, hào

quang của kim đơn phóng lên, nên gọi thấy.

Đơn thục bất tu…: đơn thục tức luyện đã thành Xá lợi, thì phải lo quá quan phục thực, và

chấm dức công phu tiểu châu thiên. Chẳng chấm dứt thì Xá lợi sẽ bị tổn thương.

Thiết kị bất tu: Luyện đơn nếu chẳng biết chỉ túc, tất có cái hoạn khuynh nguy. Ngày xưa bạch

ngọc Thiềm lúc 64 tuổi, luyện công thành Xá lợi mà chẳng biết nên tẩu tiết! Có nhiều người

cũng bị như vậy.

Chỉ hỏa là chấm dứt Võ hỏa, những Chân hỏa phải thường trực. Cần phải cầu Chân sư chỉ

truyền về pháp quá quan, mới khỏi bị cái hoạn lớn.

Thả đải kỳ cảnh…: Cổ thánh không tiết lộ về cảnh Xá lợi thành. Sau nhờ Xung Hư Tử và Thủ

Dương mới tiết lộ Thiên cơ này. Thiên cơ nầy đã nói rõ ở phần Chánh văn, nên không cần giải

thích nữa.

Đại khái là lúc Xá lợi thành thì có hào quang phát hiện. Tu sĩ phải chờ cho đến lúc dương quan

hiện ra thứ ba, mới được thể quá quan.

Dương quan mới phát hiện lần thứ nhất hay lần thứ hai mà vội thể là lỗi ở dục tốc.

Còn thể dương quang hiện đến lần thứ tư mới thể thủ, là lỗi ở trễ nãi.

Page 93: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

93

7. HIỆU NGHIỆM THUYẾT

Tận ngôn ngoại Dược sản cảnh

Hoa Dương viết: Dĩ tiền lục chương: Dược vật Lư đảnh, Hỏa hầu, Võ bất biểu minh hỷ. Đản

Dược sản chi cảnh thượng hữu vị toàn, thử Thiên trùng dĩ phát minh, nguyện hữu chí chi sĩ

tảo thành Đại Đạo, thị dư túc sở hoài chi chí dả.

Thả Dược sản chi hiệu nghiệm, phi tạm thời khả đắc chí Chân chi đạo, tại hồ trục nhật ngưng

Thần phản chiếu khí huyệt chi công thuần thục, nhi hậu hữu Lai cơ giam.

Phù, hoặc nhứt nguyệt Nguyên quan hiển lộ hoặc sổ nguyệt đơn điền vô âm, trì tảo các thù,

nhi quý hồ vi hiển cần sanh, bất thất điều Dược công phu tắc Dược sản tự hữu nghiệm hỷ.

Thả khí Dược linh, nhất tịnh tắc Thiên cơ phát động, tự nhiên như nhiên, Châu thân dung hòa,

tô miên khoái lạc. Tùng thập chỉ tiệm tiệm chí ư thân thể ngô thân tự nhiên túng trực, như

nham thạch chi trỉ cao sơn. Ngô tâm tự nhiên hư tịnh như thu nguyệt chi trường bích thủy,

dưỡng sinh hào khiếu, thân Tâm khoái lạc, dương bột nhiên nhi cử, đơn điền noãn dung dung,

hốt nhiên nhất hộng, thần khí như Tư thạch tương hấp, ý tức như trập trùng chi tương hàm. Kỳ

trung cảnh tượng nan dĩ hình dung.

Ta viết: Kỳ tai! quái tai! Nguyên quan quan đốn biến liễu, tợ phụ nhơn thọ thai, hô hấp ngẫu

nhiên đoạn, thân tâm lạc dung tai, thần khí Chân hỗn hiệp, vạn khiếu Thiên mạch khai.

Cái thử thời, bất giác nhập vu ảo minh, hồn hồn luân luân. Thiên địa nhơn ngã mạc tri sở chi

nhi hựu, phi vô vi ảo minh chi trung. Thần tựu bất khẳn ly kỳ thần nựu kết nhất đoàn. Kỳ trung

tạo hóa tợ thi tợ hấp, nhi thiệt vị kiến kỳ thi hấp. Tợ tẩu, tợ tiết, nhi thiệt vị chí ư tẩu tiết. Dung

dung hấp hấp, kỳ diệu bất khả thắng. Thử sở vị nhất dương sơ động, hữu vô cùng chi tiêu tức.

Thiểu yên hoảng hoảng hốt hốt, tâm dĩ phục linh, hô hấp phục khởi. Nguyên khiếu chi khí tự

hạ vãng hậu nhi hành. Thận quản chi căn, mao tế chi gian, dưỡng sinh khoái lạc, thiệt bất

năng cấm chỉ. Sở vị khí mãn Nhâm Đốc tự khai.

Hựu vân: vận hành tự hữu kinh lộ, thử chi vị dả.

Tấn thời tốc thể phanh luyện. Phanh luyện phục tịnh. Động nhi phục luyện. Tuần hoàn bất dĩ.

Thiếu niên bất sảo nguyệt dư. Trung niên bất quá bá nhật. Kết thành Kim đơn, khởi bất lạc tai.

(Thử nhất Thiên cố bất đương an ư thử hiệu nghiệm, nguyên thị điều Dược hậu chi sự lý,

đương an ư điều Dược chi hạ, nhân cú pháp đa chi cố. Độc giả đương mặc hội vu điều Dược

chi hạ. Giả nhược hữu thử hiệu nghiệm, bất khả nhận vi quái sự. Tức thị Dược sản chi Chân

cảnh đương tự bảo hộ Chân chủng).

Page 94: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

94

THÍCH NGHĨA

Hoa Dương nói: trước đây 6 chương đã nói rõ về: Dược vật, Lư đảnh và Hỏa hầu. Chỉ có cảnh

Dược sản nói chưa đầy đủ, nên Thiên nầy nói lại để phát minh, là muốn cho Chí sĩ sớm thành

Chánh giác, đó là điều mà Ta đã ôm ấp từ lâu.

Sự hiệu nghiệm của Dược sản, chẳng phải tạm thời mà đắc được cái đạo chí nhân, mà ở nhiều

ngày với công phu ngưng thần phản chiếu về khí huyệt đã thuần thục, nên sau đó có cơ bí diệu

lại.

Có thể chỉ trong một tháng mà Nguyên quan hiển lộ, hoặc vài tháng mà đơn điền bặt tiếng.

Sớm chậm khác nhau, chỉ quý là do công phu được tinh tấn. Chẳng sai lầm ở công phu điều

Dược, thì có hiệu nghiệm về Dược sản.

Chân Khí sung mãn, thì Chân Dược mới linh, rồi mỗi khi tịnh thì Thiên cơ phát động, tự nhiên

như nhiên, châu thân dung hòa, sống trong khoái lạc.

Cơ hiệu nghiệm bắt đầu từ mười ngón tay, lần lần đến khắp cơ thể của ta, rồi tự nhiên như

buông thẳng lên, tợ như một khối đá cao vút, trơ trọi đứng trên hòn núi cao. Tâm tư ta tự nhiên

hư tịnh, tợ như ánh trăng Thu lắng nơi hồ bích thủy. Tất cả các khiếu nhỏ đều phát sinh ngứa

ngáy. Thân Tâm khoái lạc, dương vật đột nhiên cất lên. Đơn Điền có dạng ấm ấm, rồi hốt

nhiên có một tiếng gầm, Thần Khí như đá nam châm hút sắt. Ý và Tức tợ như loài trập trùng

ngậm nhau. Trong cảnh tượng nầy khó mà hình dung.

Có bài ca: lạ thay! Lạ thay! Tổ khiếu Huyền quan đã hiện trọn, tợ như phụ nhơn mang thai. Hô

hấp Hậu Thiên tình cờ dứt. Thân Tâm sướng thung dung. Thần Khí thật hỗn hiệp, muôn khiếu

ngàn mạch mở.

Lúc nầy thình lình nhập vào trạng thái yểu minh mờ mờ mịt mịt, trời đất người và ta chẳng

biết về đâu nhưng lại không phải là hiện tượng trong vô vi. Lúc nầy, Thần chẳng hứa lìa Khí,

Khí chẳng khứng lìa Thần, tự nhiên như nhiên kết thành một khối. Trong đó có cơ tạo hóa, tợ

như 2 khí Tiên Thiên và Hậu Thiên vận chuyển, như chẳng phải, tợ như tẩu tiết mà chẳng tẩu

tiết, dung hòa tư nhuận, không có sự kỳ diệu nào hơn đó gọi là một dương mới động, và trở

thành cơ Tiêu tức vô biên. Chốc lát tâm trạng hóa thành trạng thái Thái cực, và Tâm trở lại

hiển linh. Thoạt nhiên có một cơ hô hấp Hậu Thiên lại dấy lên. Chân Khí từ nơi Tổ khiếu tự

giáng xuống, rồi qua Tam kỳ lộ và theo nơi nguồn cội của Thận quản mà lên. Từ đó khắp từng

lỗ chân lông phát lên ngứa ngứa sanh khoái lạc, khó mà ngưng được. Lúc nầy Chân Khí cũng

tự sung mãn, Nhâm Đốc tự khai.

Lại nói rằng: Cơ vận hành tự có con đường đi tắt. Lâm thời phải gấp rút Thể thủ và phanh

luyện. Phanh luyện rồi trở lại tịnh. Thiên cơ phát động lại thì luyện, tuần hoàn liên tục. Tuổi

thiếu niên chẳng quá tháng, trung niên chẳng hơn trăm ngày, thì kết thành Kim đơn, há chẳng

vui sao.

Page 95: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

95

8. TỔNG LUẬN

Phù, Kim đơn chi đạo tùng tịnh nhi nhập, chí động nhi thủ. Nhược bất tịnh tắc Thần bất linh,

nhi khí diệc bất Chân. Ư thử vọng luyện, tức thuộc Hậu Thiên dử Tiên Thiên, hư vô Kim đơn

chi đạo bất tương khế dả.

Cái tịnh giả Đại Đạo chi thể, tạo hóa chi căn. Di tịnh tất khả dĩ luyện, bất tịnh tất Thức Tánh

giáp tạp, chung dử Đạo tương di hỷ!

Cố ảo đơn tẩu tiết nhi Đạo bất thành tựu giả, giai do vị tịnh, nhi giáp ư Thức chi quá dã.

Phù, tịnh giả tịnh kỳ Tánh giả. Tánh năng hư tịnh, trần niệm bất sinh, tắc Chân cơ tự động.

Đông giả nhi tâm động, thị khí chi động giả.

Khí cơ ký nhiên phát động, tắc đương dễ tịnh ứng chi. Nhất động nhất tịnh, bất thất cơ giam,

thị vị điều Dược, thị vị giao hiệp, hành hồ tạo hóa, Tánh Mạng song dung, thị vị Chân chỉ diệu

dụng hỷ. Cẩu hoặc chuyên dĩ tịnh nhi bất thức động, hoặc chuyên dĩ động nhi bất phục tịnh,

giai phi chánh lý dả. Thứ đương minh kỳ lão noãn. Lão tắc khí tán bất thăng, noãn tắc khí di

bất kết vụ tại tịnh hầu, động vương thủy thể, thị vị đương lệnh.

Cố viết: Thời chí trần tri, dĩ thuận hành chi thời hầu, tức nghịch hành chi thời hầu hỷ.

Cố hựu viết: Dược khí trì ngoại nhật cửu giả, thị vị kiên cố kỳ khu nhỉ.

Nhược tráng vượng chi thể, chỉ ư vận Châu Thiên chi đương thời, điều chi bất dụng cửu nhật,

nhược điều chi nhật cửu, nhi bất vận Châu Thiên tác dương cực nhi tinh mãn, mãn tắc hựu

dậc hỷ do bất tri pháp tắc, hượt nhi quyết tắc nhất cố.

Đồng Chân chỉ dụng Đại Châu Thiên, bất tất dụng Tiểu Châu Thiên.

Tráng vượng chi thể, tuy bất khả bất dụng Tiểu Châu Thiên, diệc bất tất điều chi cửu nhật, chỉ

hầu Dược sản cảnh đáo thời điều, kỳ lão noãn.

Phàm Nguyên Khí nhất động, tư Dương chi trưởng vượng, tức đương: Thể, huân, phong vận

hành Châu Thiên. Vận nhi phục tịnh, động nhi phục vận tuần hoàn bất dĩ, thị vi chi tấn thối

hành Hỏa, thị vị chi Thể thủ Châu Thiên. Cần hành bất đọa đạo hữu hà nan.

Đơn Điền trực chí nê hoàn đảnh.

Tự tại hà xa dĩ bá tao.

Hựu viết: Dĩ: Hư nguy huyệt khởi, dĩ hư nguy huyệt chỉ.

Cái: Hư nguy huyệt, tức Nhâm Đốc nhị mạch chi giao xứ. Lập đẩu bỉnh, vận hà xa, giai do thử

nhi khởi chỉ. Cố Xung Hư viết: khởi ư thị, chỉ diệc ư thị.

Thả vận tất giả hô hấp nhi xuy chi, nhược bất dĩ hô hấp xuy khư, tắc thần khí bất năng như

pháp, tợ hữu tợ vô, hiệp hồ tự nhiên, tương y nhi vận hành. Cái hành, tắc dĩ thần vi chủ tể. Bất

Page 96: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

96

kiến hữu Khí chi hình tích. Nguyên khí nải vô hình chi hành. Tùy nguyên khí chi vận hành

thính hô hấp chi thôi bức. Cố viết: Giáp Tích, Vỹ Lư không ký tín. Nhi hô hấp nải thể vận chi

pháp tắc. Nghịch xuy vi hưởn vị chi Văn Hỏa, khẩn trọng vị chi Võ Hỏa. Sổ tức vận nguyên khí

giả, vi hào, vi thời, vi độ, vi vị, nhi Châu Thiên chi tạo hóa dĩ thử vi quy mô, phi tam bá lục

thập hữu dư dả. Cố viết: mỗi thời tứ điệp sở dĩ nhiên dả. Sử kỳ thủy hỏa bất trí thái quá bất

cập dả. Thị phạm vi nguyên khí nhi thành kỳ độ số, vi tạo hóa chi tổng tự nhỉ. Cố viết: dĩ tức

số định thời số.

Hoặc hựu vấn: Lư đảnh, đạo lộ, Dược vật hỏa hầu? Viết: Năng thử Hư Nguy Nhâm Đốc vận

dụng, tức thị Lư đảnh, đạo lộ. Minh thử dương động thăng giáng, tức thị Dược vật Hỏa hầu

nhi đạo tức tại thử hỉ.

Trừ thử, giai phi chánh lý, tận thị thuyên đề hoặc nhơn hỷ. Tá thuyên đề hoạch ngư thố, vị

thuyên đề nhi bất vị ngư thố, tắc ngộ dả.

Thử thuyên đề: chuyên ngư thố, triêu thể mộ luyện, tự nhiên Tinh hóa, Khí túc, Đơn thành

cảnh chí.

Tái hành hướng thượng công phu: luyện Khí hóa Thần, siêu phàm nhập thánh, xuất định Thiên

bá ức hóa thân, giai khả do thử thư nhi thượng đạt.

(Lời thưa: Từ thiên Hiệu nghiệm thuyết trở về sau, chúng tôi không trích lục phần Nho Văn

nữa, vì chúng tôi sẽ photocopy bản chính đính thượng).

THÍCH NGHĨA

Cái đạo Kim đơn theo cơ Thiền tịnh mà nhập thất, Thiên cơ chí động thì thể thủ. Tâm chẳng

định thì thần chẳng linh, mà khí cũng chẳng Chân, nếu theo đó mà vọng luyện tức thuộc Hậu

Thiên cùng với cái đạo Tiên Thiên hư vô kim đơn không khế nạp.

Tịnh là cái Thể của Đại Đạo, là căn nguyên của tạo hóa. Chỉ có tịnh mới có thể luyện.

Chẳng tịnh thì bị Thức Tánh xen tạp vào Tâm, cuối cùng phải bị trái ngược lại với Đạo.

Cho nên chỉ vì ảo đơn tẩu tiết mà đạo không được thành tựu, đều do Tâm chưa tịnh mà có cái

lỗi bị Thức Tánh xen lẫn vào!

Tánh được hư tịnh, trần niệm chẳng sinh thì Chân cơ tự động. Chân động là Tâm không động

mà là Chân Khí động. Chân Khí đã có cơ phát động, phải nên lấy tịnh mà ứng theo. Một động

một tịnh chẳng bị sai lầm với cơ tạo hóa gọi là điều Dược, gọi là giao hiệp. Thực hành đúng cơ

tạo hóa, mà 2 thành phần Tánh và Mạng được hòa lẫn nhau. Đó là Chân chỉ diệu dụng.

Còn như nếu chỉ chuyên ở tịnh mà không biết động, hoặc chuyên ở động mà không phục tịnh

đều chẳng phải là Chánh lý.

Thứ đến cần phải suốt thông về Dược sản ra có già có non. Thuốc già thì Chân Khí bị hao tán,

mà không thăng lên được. Thuốc non là Chân Khí còn ở hiện tượng tế vi, nên cũng không kết

thành Đơn. Chủ yếu là phải tịnh để chờ cơ Chân động, mới Thể thủ, mới là đúng lệnh. Cho

Page 97: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

97

nên gọi: Thời chí thần tri. Chẳng thuận với thời hầu, mà phải nghịch lại với thời hầu. Lại còn

nói: Chân Dược ngoại trì, thì bên ngoài có cảnh đặc biệt.

Trước đây có nói, nếu điều Dược được lâu ngày thì Chân Mạng được kiên cố chỉ là vận Châu

Thiên thật đúng giờ ở lứa tuổi cơ thể còn đương tráng vượng, thì điều Dược chẳng cần lâu

ngày. Nếu điều Dược lâu ngày mà không vận Châu Thiên tức Dương cực và Tinh mãn. Tinh

đã đầy ắt phải bị tràn ra, là do chẳng biết pháp tắc, chẳng biết bí quyết sống của Thiền công.

Tu sĩ nào không có vợ, gọi là đồng Chân, thì chỉ công phu theo Đại Châu Thiên, mà không

dụng công theo Tiểu Châu Thiên.

Tu sĩ nào có cơ thể còn tráng vượng, tuy chẳng nên chẳng dùng Tiểu Châu Thiên, cũng bất tất

phải điều Dược lâu ngày. Chỉ chờ Dược sản, cảnh đến là đúng lúc phải điều Dược, nhưng phải

phân biệt thuốc già và thuốc non.

Lúc chân Dược mới bắt đầu phát động, phải chờ cho Khí chân Dương đó thật trưởng vượng,

mới nên Thể thủ, rồi huân chưng, rồi phong cố, rồi vận hành Châu Thiên.

Vận hành rồi trở lại tịnh. Thiên cơ động thì lại vận. Tuần hoàn mãi không dừng, gọi là tấn

Dương hỏa và thối Âm phù, gọi là Thể thủ Châu Thiên, siêng năng mà chẳng trễ nải, đạo có gì

là khó khăn đâu. Cho nên nói:

Đơn Điền thẳng đến Nê Hoàn đảnh

Thong thả hà xa mấy trăm châu.

Lại nói: Theo huyệt Hư nguy mà khởi Hỏa. Cũng theo huyệt Hư nguy mà an chỉ. Hư nguy

huyệt tức là chỗ giao hiệp của 2 mạch Nhâm và Đốc.

Lập cơ đẩu bỉnh (Cốc thần), vận chuyển hà xa, đều do đây mà khởi mà chỉ.

Cho nên Xung Hư Thiền sư nói: Khởi ư thị, chỉ diệc ư thị (khởi tại chỗ nầy, chỉ cũng chỗ nầy).

Còn cơ vận Châu Thiên, phải mượn khí hô hấp của Hậu Thiên mà thổi. Nếu chẳng mượn khí

hô hấp nầy mà thổi, thì Thần Khí không theo đúng pháp.

Tâm trạng lúc bấy giờ tợ như có, tợ như không, hiệp với tự nhiên, nương nhau theo cơ vận

hành.

Cơ vận Châu Thiên phải lấy thần làm chủ tể, chẳng thấy có khí mới hình tích, nguyên khí vốn

vô hình mà vận hành.

Ta phải theo cơ vận hành của nguyên khí, nghe theo sự thôi bức của hô hấp. Cho nên nói: Giáp

Tích Vỹ Lư rỗng gởi tin.

Cơ hô hấp là pháp tắc thể vận nguyên khí.

Thổi ngược lại, nhè nhẹ chầm chậm là Văn Hỏa.

Page 98: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

98

Thổi mạnh và khẩn cấp gọi là Võ Hỏa.

Chân Tức vận Chân Khí có số có độ, gọi là hào, là thời, là độ, là vị. Châu Thiên tạo hóa lấy đó

làm quy mô. Thực chẳng chỉ lấy 360 châu có dư.

Cho nên nói: Cứ mỗi giờ có hệ tích với 4. Là vậy chủ yếu là làm sao cho Thủy Hỏa không thái

quá, mà cũng chẳng bất cập.

Đó là phạm vi của nguyên khí mà thành độ số, và là tổng tự của cơ Tạo hóa.

Cho nên nói: Lấy độ số của Chân Tức mà định cho độ số mỗi giờ công phu.

Có kẻ hỏi: sao gọi là Lư đảnh, là Dược vật, là Hỏa hầu?

Hoa Dương Thiền sư trả lời: Hiểu được cơ vận dụng của Hư nguy và Nhâm Đốc, tức là hiểu

được Lư đảnh, đạo lộ. Hiểu được cơ động tịnh, thăng giáng, tức là hiểu được Dược vật, Hỏa

hầu. Chân đạo cũng ở đó.

Trừ những lẽ nầy ra tất cả đều chẳng phải Chánh lý, mà đều thuộc về loại nôm rập, mê hoặc

người. Mượn nôm rập để bắt cá thỏ, nếu nói về nôm rập mà chẳng vì cá thỏ, là đều sai lầm

vậy.

Ta nên bỏ nôm rập, và chuyên chú vào cá thỏ, rồi buổi mai thì Thể thủ, buổi chiều lo huân

luyện, tự nhiên Chân Tinh hóa thành Chân Khí và sung mãn. Như vậy, Đơn sẽ thành, cảnh

hiệu nghiệm sẽ đến.

Cứ như thế mà tiếp tục hướng thượng công phu, luyện Chân Khí hóa Chơn Thần, siêu phàm

nhập Thánh xuất định trăm ngàn ức hóa thân.

Đều là do sách nầy mà thượng đạt.

Có bí quyết:

Tịch chiếu miên miên trảm Long Hổ

Kim tân Ngọc dịch luyện thành Đơn.

Page 99: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

99

9. ĐIỀU DƯỢC ĐỒ

Nhược vấn kim đơn tiêu tức lộ

Giao quân giá lý mích căn do

Phát hỏa Châu Thiên nguyên thử nguyệt

Vận hành mộc dục hựu quy căn.

Chân diệu quyết. Liễu nhiên minh. Điều Dược pháp. Luyện tinh sở Càn cung. Khí khôn. Huyệt

cung. Tinh đạo. Hô tiếp Thiên căn. Hấp tiếp Địa căn. Giáng cung. Ngân hà. Tấn hỏa. Thối

phù.

Page 100: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

100

10. ĐIỀU DƯỢC ĐỒ THUYẾT

Kim đơn chi đạo, tiền bát Tiên dĩ tận chi hỷ.

Thượng khũng học giả bất tri khiếu diệu, cố bị thử đồ dĩ bổ, toàn thư chi yếu quyết, nguyện

hữu chí giả, nhất lãm vô nghi, bất vị cựu đồ sở hoặc, thứ tri dương sinh tại thử, điều Dược tại

thử, cổ tốn phong tại thử, Dược sản tại thử, thể thủ tại thử, quy lư tại thử, giá hà xa tại thử,

hườn phản phục vị tại thử, kim đơn tạo hóa chi Huyền công, mạc bất tại thử hỷ.

Nhiên khiếu bổn vô hình, tự vô nhi sinh hữu tắc vị chi Huyền quan, trung cung, Thiên Tâm, kỳ

xưng danh cố bất nhất dả.

Phù hư vô chi quật, nội hàm Thiên nhiên Chân tể, tắc vị chi quân hỏa, Chân Hỏa, Chân Tánh,

nguyên thần, diệc thị vô hình, tịnh tắc tập nhân ôn, nhi thê Chân dưỡng Tức. Tể sanh sanh hóa

hóa chi nguyên, động tắc dẫn tinh hoa hướng ngoại phát tán.

Mỗi hượt Tý thời nhị hầu chi hứa.

Kỳ khiếu truyền pháp truyền vô, cố viết: Nguyên quan. Nan ngôn kỳ khí chi hành, hậu thông

hồ đốc mạch, tiền thông hồ nhâm mạch, trung thông hồ xung mạch, hoành thông hồ đới mạch,

thượng thông hồ tâm, hạ thông hồ dương quan, thượng hậu thông hồ thận, thượng tiền thông

hồ tê. Tán tắc thấu ư châu thân vi bá mạch chi tổng căn. Cố vị chi Tiên Thiên. Kỳ huyện vô

hình vô ảnh. Khí phát tắc thành khiếu. Cơ tức tắc diếu man. Dĩ đãi thành toàn bát mạch, tắc

bát mạch tấu thành cộng cũng nhất huyệt, vi tạo hóa chi xu nựu, danh viết: Khí huyệt. Thí như

bắc thần cơ sở, chúng tinh triền nhiểu hộ vệ, tức cổ nhân sở vị: khiếu trung khiếu dả.

Khiếu tức Đơn Điền, thượng nải kim đảnh.

Đảnh sảo thượng, tức Huỳnh đình, khiếu hạ tức Quang nguyên. Cổ vị: Thượng Huỳnh đình, hạ

quang nguyên. Quang nguyên hạ tức dương quan diệc danh mệnh môn, nải nam nữ tiết tinh

chi xứ tức thận quản chi căn do thử nhi sanh.

Đản huỳnh đình, kim đảnh, khí huyệt, quan nguyên, tứ huyệt cu thị vô hình nhược chấp hình

cầu chi tắc hậu hỉ.

Hựu vị giáp tích, lưỡng thận trung, tàng nguyên khí tắc diệc mậu hỉ!

Thử thơ đồ chi sở tác, thiệt phát cổ nhân sở bất tận tiết chi chỉ, hựu hữu dĩ tịch kỳ đản vọng

dả.

THÍCH NGHĨA

Cái đạo Kim đơn, tám thiên trước đây đã nói đầy đủ rồi. Còn một điều là sợ học giả chưa hiểu

rõ về sự Huyền diệu của Tổ khiếu Huyền quan, cho nên mới bổ túc về khiếu nầy, để yếu quyết

của toàn thư được viên mãn. Nguyện cho các tu sĩ có chí, chỉ một lượt xem qua, mà phá hết sự

nghi ngờ đã có, chẳng còn bị sự mê hoặc cựu đồ.

Page 101: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

101

Lại được biết dương sinh tại đây, điều Dược tại đây cổ vũ Tốn phong tại đây, điều Dược tại

đây, thể thủ tại đây, quy lư tại đây, giá động hà xa tại đây, hườn bản phục vị tại đây, Huyền

công Kim đơn tất cả cũng đều ở tại đây.

Nhưng Tổ khiếu nầy vốn vô hình, từ vô mà sinh ra hữu. Tức gọi là Huyền quan, là trung cung,

là Thiên Tâm. Tên tuy nhiều nhưng vốn có một.

Đó là cái hang hư vô, chứa đựng Thiên nhiên chân tể vào trong gọi là quân Hỏa, Chân Hỏa,

Chân Tánh, Nguyên Thần, cũng đều thực vô hình. Lúc tâm tịnh thì khí nhân khí ôn Tiên Thiên

Chân Khí nhóm lại, rồi nương theo Chân Hỏa mà nuôi dưỡng Chân Tức, làm chủ tể cho nguồn

gốc sanh sanh hóa hóa. Lúc Thiên cơ phát động, thì ý dục sẽ dẫn cái tinh hoa hướng ngoại và

phát tán! Sự phát tán nầy thường ở 2 hầu hượt Tý thời (cố định là giờ Tý, bất cố định là giờ Tu

sĩ cực tịnh). Tổ khiếu có đặc tính, lúc thì vụt phát hiện, lúc lại biến mất, nên gọi là Huyền

quan.

Cơ vận hành của Chân Khí thật khó nói. Sau lưng thì nó thông với mạch đốc. Trước bụng thì

thông với mạch nhâm. Giữa thân người thì thông với mạch xung. Ngang eo lưng thì thông với

mạch đới. Trên thì thông với tạng tâm. Thượng hậu thì thông với tạng thận. Thượng tiền thì

thông với rún. Tán phát thì thấm thấu khắp châu thân. Làm tổng căn cho trăm mạch. Cho nên

gọi là Tiên Thiên. Huyệt nầy vốn vô hình vô ảnh. Lúc Chân Khí phát lên thì tổ khiếu hiện, lúc

Thiên cơ dừng thì tổ khiếu ẩn trong mờ mịt.

Để cho sự thành toàn cho tám mạch, là tám mạch nhóm lại chung chầu một huyệt, và làm then

chốt cho cơ tạo hóa, tên gọi: Khí huyệt thí dụ như sao bắc thần tại vị mà chúng tinh vây quanh

hộ vệ. Cổ nhân gọi Khiếu trung hữu khiếu.

Khiếu tức Đơn Điền, bên trên là kim đảnh. Trên đơn điền là cung huỳnh đình, dưới là huyệt

quan nguyên, dưới nữa là dương quan còn có tên là mệnh môn, là nơi nam nữ tiết trinh, là gốc

của Thận quản. Tất cả đều do đây sinh ra.

Chỉ có: Huỳnh đình kim đảnh, khí huyệt và Quan nguyên, là bốn huyệt đều thiệt vô hình.

Nếu chấp hữu hình mà tìm khiếu nầy là đều lầm lẫn. Lại còn gọi: trong giáp tích và 2 quả thận

có tàng chứa nguyên khí cũng là sai lầm.

Sách nầy sở dĩ nêu ra đồ hình, chính là để phát minh cái Chân chỉ mà từ xưa cổ nhân không hề

tiết lộ.

Lại còn có mục đích là loại trừ những lời lẽ sai quấy đã có từ lâu.

Page 102: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

102

11. CỐ MẠNG THUYẾT

Thử luyện Kỷ lập cơ chi thủ vụ

Phù cố Mạng giả nải thâu thị phản thính, ngưng Thần tụ Khí chi pháp, khởi hữu tha thuật tai.

Cổ Thánh hủ ngôn viết: Mạng do Tánh tu, Tánh do Mạng lập. Mạng giả khí giả, Tánh giả

thần giả. Khí tắc bổn bất ly thần, thần tắc hữu thời ly khí.

Du ngọc Ngô vân: Tâm hư tắc Thần ngưng. Thần ngưng tắc khí tụ. Dục kỳ khí chi thường tụ

nhi bất tán giả, tổng tại Lư Hỏa vật thất.

Ôn dưỡng kỳ nguyên thần, sử thần khí như tử mẫu chi tương luyến.

Tả từ vân: Tý Ngọ cố Quang nguyên.

Nguyên tức Mạng chi đế giả. Nhược bất cố thủ tất hỏa lảnh khí tán, cửu nhi Mạng vong kỷ.

Huỳnh Đế viết: Tồn tân ư nội, Chân Khí tự nhiên xung hòa bất tử. Cố Tánh Mạng nhị giả, bất

khả tu du tương ly giả. Li tắc thuộc ư cô Thiên hỉ.

Thôi công vân: Thập nhị thời, ý sở đáo giai khả vi.

Hỗn Nhiên viết: Vô trú vô dạ, niệm tư tại tư, thường tĩnh tĩnh địa động, niệm dĩ hành hỏa, tức

niệm dĩ ôn dưỡng hỏa.

Ngọc Thiềm vân: Thần tức hỏa, khí tức Dược, dĩ thần ngự khí nhi thành đạo, tức dĩ hỏa luyện

Dược nhi thành đơn. Hữu Dược vô hỏa tắc thủy lảnh, nhi khí bất sanh. Hỏa dưỡng va để, tắc

thủy noãn nhi khí tự đằng.

Cổ vân: Hỏa thiên khổ hải tiết Thiên cơ. Hồng lô bạch tuyết mãn không phi.

Tuyết tức khí dả. Cố khí nhân hỏa nhi thân, hỏa nhân phong nhi chước. Thập nhị thời trung

hồi quang phản chiếu, khắc khắc dĩ vô yên chi Hỏa huân chưng, sử Tánh Mạng đồng cung,

thần khí đồng lư, miên miên tức tức, tợ hữu tợ vô, nội ngoại hỗn hợp, đã thành nhất phiến.

Huỳnh Đế viết: Hỏa giả thần dả. Tức giả phong dả. Dĩ Phong xuy hỏa, cửu luyện hình thần cu

diệu. Nhơn năng như thử, hà ưu Mạng chi bất cố.

Phù Mạng chi Nguyên Khí nải nguyệt phách. Thần chi linh quang nải thị nhật hồn.

Dĩ Hồn phục phách, tắc Tiên Thiên chi khí tự nhiên phát sinh.

Nhơn đa bất trắc tạo hóa, manh tu hạt luyện, Tánh Mạng các túc cô âm hỏa dương, tự vị

trương sinh đắc đạo, nhi bất tri kỳ di đạo thậm viển.

Page 103: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

103

Phù, tu luyện giả, phương nhập thất chi thời, dương ngoại trừ nhỉ mục, nội tuyệt tư lự, chân

niệm nội thủ, sử nhất điểm Nguyên Thần, hồn hồn luân luân, tùy kỳ hình thể vinh khô, thính kỳ

hư linh, tự nhiên dung nhiên hồ lưu thông, trạm nhiên hồ không tịch, ư thử thường giác

thường ngộ, minh tâm nội chiếu, phòng kỳ hôn trầm, muội hô chánh niệm.

Tham đồng khế vân vân: Chân nhân tiềm thân uyên, phù du thủ quy trung.

Quy trung, chỉ Nguyên quan nhất khiếu dả. Nhiên hựu bất khả chấp trước, dĩ trí Chân Dương

bất sinh. Kỳ diệu tổng tại bất cấp bất đãi, vật trợ vật vong nhi dĩ.

Thanh Tịnh kinh vân: Không vô sở không. Tịch vô sở tịch. Chân thường ứng vật. Quả như thử

tắc Thần Khí hồn nhiên như nhất, hoảng hoảng hốt hốt nhược thái hư.

Nhiên, cổ vân: Tiên Thiên nhất khí tùng Thái hư nhi Lai giả, tức thử dả.

Phù, cơ chi vị phát, tịnh dĩ sĩ chi, khí chi dĩ động, dĩ thần tụ chi, nhi cố Mạng chi chỉ tận tại tư

hỉ.

THÍCH NGHĨA

Thuyết cố Mạng là công phu đầu Tiên trong công phu luyện Kỷ trúc cơ. Hay có thể nói: 2

công phu nầy là một, và vẹn toàn Tánh Mạng song tu.

Cố Mạng không ngoài pháp môn châu thị phản thính (trông nghe vào Tổ khiếu) và ngưng

Thần tụ khí, há còn thuật nào khác đâu.

Cổ Thánh có nói: Mạng do Tánh tu, Tánh do Mạng lập. Mạng là Khí. Tánh là Thần. Khí chẳng

bao giờ lìa Thần, nhưng Thần cũng có lúc lại lìa Khí.

Du Ngọc Ngô nói: Tâm hư thì Thần ngưng. Thần ngưng thì khí tụ. Muốn cho khí thường tụ

mà chẳng tán, là do lư hỏa không mất lửa mới ôn dưỡng cốc thần, khiến cho Thần với khí

quyến luyến nhau như mẹ với con.

Tả Từ nói: giờ Tý và giờ Ngọ phải lo củng cố Huyền quan Tổ khiếu. Huyền là cội rễ của

Mạng. Nếu chẳng cố thủ thì lửa lạnh khí tán lâu ngày phải mất Mạng.

Huỳnh Đế nói: Chân Ý thường trụ nơi Tổ khiếu thì chơn khí tự nhiên chan hòa với Chơn

Thần, thì đạt cơ bất tử. Cho nên 2 thành phần Tánh và Mạng không được giây phút lìa nhau,

lìa nhau tức bị thuộc vào nẻo cô Thiên.

Thôi Công nói: 12 giờ Chân Ý luôn luôn chủ tể ngôi trung, thì cơ tạo hóa mới biến hóa.

Hỗn Nhiên tử nói: chẳng kể ngày, chẳng kể đêm, Chân Ý luôn luôn thường trụ nơi Cốc Thần,

rất tỉnh táo thì linh địa tự nhiên phát động. Niệm là để hành hỏa, dứt niệm là để ôn dưỡng hỏa

(Thần).

Ngọc Thiềm chân nhân nói: Thần tức là hỏa, khí tức là Dược, dĩ thần chế ngự khí thì thành

Đạo, tức lấy lửa nấu thuốc mà thành linh đơn.

Page 104: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

104

Có thuốc mà không có lửa, thì nước phải bị lạnh, mà Chân Khí chẳng sinh. Lửa un đáy nồi thì

nước ấm, mà Chân Khí tự phát lên.

Cổ nhân nói: lửa đốt khô nước biển khổ, đó là tiết lậu Thiên cơ. Lò hồng tuyết trắng bay đầy

không trung.

Tuyết tức là khí. Cho nên khí nhân có lửa mới phi thăng. Lửa nhân có gió mới hừng phát. Suốt

trong 12 giờ hồi quang phản chiếu, khắc khắc dùng lửa không khói mà huân chưng. Khiến cho

Tánh Mạng đồng cung, thần khí đồng lư. Cơ tiêu tức vi vi không dứt, tợ có tợ không, trong

ngoài hỗn hợp thành một khối.

Huỳnh Đế nói: lửa tức là thần, hơi thở tức là gió. Cứ dùng gió mà thổi lửa, lâu ngày thì cả thân

lẫn tâm đều được mầu nhiệm.

Người đạt được như vậy thì lo gì Chân Mạng không kiên cố.

Chân Mạng là nguyên khí là nguyệt phách. Thần tức linh quang là nhật hồn.

Lấy hồn chế ngự phách, thì tự nhiên Tiên Thiên Chân Khí phát sanh.

Nhiều người chẳng trắc độ được cơ tạo hóa, nên phải mờ tu đui luyện, Tánh với Mạng đều trú

ngụ nơi cơ âm quả dương, lại gọi là trường sinh đắc đạo, mà chẳng biết còn cách xa với Thánh

đạo rất xa!

Tu sĩ tu luyện, lúc mới vừa nhập thất, phải lo phần bên ngoài thì tuyệt trừ tai mắt vọng ngoại,

bên trong phải dứt tư lự niệm tưởng. Chỉ có một Chân niệm được giữ mãi nơi trung, khiến cho

một điểm chơn thần đạt đến trạng thái thái cực.

Lại còn phải tùy theo hình thể mỗi người, hoặc tinh khí còn sung mãn (vinh), hoặc Tinh khô

khí kiệt (khô). Thuận tùng theo tâm hư linh, thì tự nhiên Chân Khí dung hòa lưu thông. Thần

được thanh tú sáng suốt, như cõi hư không lặng lẽ. Tu luyện được như vậy thì thần giác ngộ

được thường trực, Chơn Thần nội chiếu phải thường trực;

Phòng ngừa nạn hôn trầm và mê muội ở chánh niệm. Sách Tham đồng khế nói: Các bậc Chân

nhân, Thần thường lặn sâu dưới vực thẳm, thong thả giữ tơ trung. Tơ trung đây là Huyền quan

Tổ khiếu.

Lại còn chẳng nên chấp trước, khiến cho Khí Chân Dương chẳng sinh.

Sự mầu nhiệm đều do ở chẳng gấp rút, cũng chẳng giải đãi, Chân Ý cũng không ở trợ lựu,

cũng không được quên Chân Khí.

Thanh Tịnh kinh nói: Tâm trống không chỗ chỗ đều không, Thần lặng lẽ tất cả đều lặng. Thân

Tâm thường cảm ứng với cảnh vật: Tâm cảnh là một, quả được như vậy thì thần với khí hỗn

dung là một, Tâm đạt đến trạng thái thái cực, như thái hư.

Cổ nhân nói: Tiên Thiên Chân Khí từ thái hư lại. Tức là nói về chỗ nầy.

Page 105: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

105

Lúc Thiên cơ chưa phát, ta lo tịnh để chờ.

Lúc thân khí đã động, thì lấy thần mà quy tụ.

Chân chỉ về thuyết cố Mạng trọn đủ ở đây.

Page 106: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

106

12. PHONG HỎA LUYỆN TINH PHÚ

Luyện giả Tạo hóa chi công

Tinh giả biến hóa chi nguyên

Hỏa nhân phong nhi điểm chước

Tinh đắc hỏa dĩ dung Diên

Lặt dương quan vị chi điều Dược

Nhiếp khí quy Tức thị hườn nguyên

Sát kỳ cơ, hà cốt tinh nhi điều biển

Biện kỳ hầu, vận bạch mạch dĩ quy nguyên

Hội kỳ nguyên tắc Thần Khí tương y

Tổ kỳ phong tắc thân tinh triều nguyên

Phù tinh giả nải: Thiên địa chi nguyên

Tạo hóa chi bản

Phùng thời tiết nhi triền cơ

Động tắc hỏa dĩ tư luyến

Đạt quan khiếu nhi lưu biến

Tiết xuy phong tắc hườn hồ.

Thị cố:

Khảm cung sum bố, Nguyên Thần nhiếp nhi bồi hồi; Ly cung thác thược, Chân Khí triền nhi

vận chuyển. Lư nội hỏa bức, bạch hổ triều ư linh đài.

Đảnh trung thủy dung, Thanh long du ư thâm uyên.

Dương quan cấm bế; Nguyên khiếu môn khai.

Quả nhiên phong hỏa ký đồng lư

Cửu nhiên thủy noãn tự sinh hà.

Page 107: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

107

Nguyệt hoa thổ, tắc Hống dẫn Diên, nhi Diên dẫn Hống;

Nhật tinh xạ, tắc Xà giao Quy, nhi Quy giao Xà

Tạo hóa chi biến Thiên hề, đải tịnh nhi động;

Dược vật chi lão noãn hề, tư cơ thính Mạng.

Tra minh trung khởi, hoảng hốt trung nghinh.

Tự vô khí nhi sinh khí,

Bổn vô danh nhi dụ danh.

Tri kỳ thời giả, năng đạt Thiên địa chi thân khí; Thuận kỳ thời giả, tức hữu thân giáng chi

pháp trình; Huân chi luyện chi, tắc siêu phàm nhi nhập thánh phẩm; Thực chi đàn chi, hóa

khô cốt dĩ đăng thái thanh.

Ta hồ kim chi học giả:

Bôn sơn giá hải, thản thản chi đại lộ Thiên quá; Lao hình ngột tọa, hích hích chi minh châu

thao phồn.

Lợi trì nhi danh Mạng; Đức bạc nhi cấu trùng.

Thức Tánh dĩ vọng đàm; khữu thánh nhi quy tả.

Bỉ phù: Đạo bổn chí cận, Tình cách diêu Thiên

Lý tự bất hườn, Tánh tư di Đạo

Thù bất tri: Tinh giả khí chi dung

Phong giả tức tri nguyên

Hỏa giả thần chi linh, luyện giả hội chi đàn.

Dĩ phong nhi phiến hỏa, tắc lão hườn thiểu, nhi hình thường tồn;

Dĩ khí lưu thần, (nhi) dĩ thần vận tức, tắc tình phục Tánh.

Nhi thần tự thuần. Tự nhiên khả dử Hích Tòng, Bành Tổ chi ưu tông.

THÍCH NGHĨA

Công Tạo hóa luyện thành bất tử

Tội nguyên tinh biến hóa âm dương

Lửa kia nhờ gió mới phô trương

Page 108: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

108

Tinh kia nhờ lửa huân chưng Diên hòa

Đóng dương quan gọi là điều Dược

Thâu khí về ấy chước hườn nguyên

Xét rõ cơ, đốt cốc tinh mà vận chuyển

Phân biệt hầu, vận Chân Khí quy nguyên

Hiểu cội nguồn, Thần khí mới giao duyên

Cổ động gió, chân Tinh về triều Tổ.

Tinh vốn là: Cội nguồn của trời đất

Căn bản của hóa công.

Gặp thời tiết, Chân dương mới xoay chuyển

Động đắc hỏa, Chân Tinh thành lưu luyến

Thông quan khiếu, là do công nấu luyện

Tổ Tốn phong, mà Chân Dược quy lư.

Nơi Khảm cung Chân Khí đã tràn đầy,

Chân Ý vãng Lai mà thâu nhiếp.

Chốn Ly Hỏa thần hóa đạt hư không,

Nguyên lý triền xoay theo vận chuyển.

Trong lò lửa bức, Bạch Hổ về ly cung;

Nơi vạc nước ấm, Thanh Long quy Khảm vị.

Dương quan cấm bế, quan khiếu mới khai.

Quả nhiên phong hỏa đã đồng lư

Lâu ngày nước nóng bốc thành hơi.

Trăng nhả hoa, thì Hống dẫn Diên và Diên dẫn Hống.

Mặt trời bắn, thì Xà giao Quy và Quy giao Xà.

Tạo hóa đã biến thiên, thì tịnh mà chờ động.

Thuốc báu có già non, chờ Thiên cơ nghe lệnh.

Page 109: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

109

Trong trạng thái cực mới dấy, lấy hoảng hốt đón nghinh.

Từ vô khí mà có khí, vốn không tên mà có tên.

Suốt Thiên cơ mới cướp được huyền khí của trời đất

Thuận thời trời mới đạt được pháp trình nơi giáng thăng

Luyện nó nấu nó, tức siêu phàm mà lên phẩm Thánh

Ăn nó nuốt nó, hóa khô cốt để đến Thái Thanh.

Than ôi học giả ngày nay:

Vượt núi băng sông, thỏa thích theo nẻo vạy cô Thiên

Lao thân ngồi ngóng, kiêu hãnh tưởng đã có minh châu

Luôn tuồng theo nẻo lợi, đắm đuối với đường danh

Công đức thì mỏng manh, lại mê trầm trần cấu.

Lấy thức Tánh để quấy luận đàm

Bỏ đường chánh lại theo nẻo vạy.

Kia kìa! Đạo vốn rất gần, tình đổi dời xa.

Lý lại chẳng theo Chân, Tánh dối trời ngang trái.

Thù bất tri:

Tinh do Khí hóa ra

Gió là nguồn hơi thở

Lửa ấy là Thần linh; luyện là đem hợp nhất. Lấy gió để quạt lửa, thì già hóa trẻ, mà hình

thường còn;

Lấy Khí lưu Thần, lấy Thần vận Tức, thì Tình trở lại Tánh.

Luyện được như vậy thì Thần thuần Dương, tự nhiên cùng với Xích Tòng và Bành Tổ kết

thành dòng quý.

Page 110: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

110

13. THIỀN CƠ PHÚ

Sợ hậu thế, người học Thiền chẳng minh được Chánh pháp của Phật, rồi nói đây chẳng phải

Thiền, nên lưu lại làm bằng.

Đạo giả hóa dục Thiên Địa

Pháp giả phản bổn hườn nguyên

Bỉnh động tịnh nhi đồng hóa

Tùy hữu vô nhi tự nhiên.

Thể bổn lai chi Chân giác, oai âm hoảng hốt, trì vô sanh chi diệu dụng, cực lạc u nguyên.

Hiển ưu đàm chi gia phong, Thu thủy hiệu Nguyệt; ẩn Huệ Năng chi pháp ngữ, xuân vụ tàng

yên.

Thị cố:

Phù vân tán nhi Thiên tâm hiện

Mông vũ khai nhi bích phong tồn

Đàm thủy thanh hề trừng nguyệt triệt

Hắc tắc dung hề vật hình minh

Tình hàn nhi Thiền tâm định

Ý khôi nhi Tánh lãng thanh.

Nhược phù:

Huỳnh nha bạch tuyết, đương cầu nguyện quan chi diệu nghĩa

Địa dũng Thiên hoa, tức tạc hổn luân chi diện mục.

Hội tắc hữu, tán tắc vô

Xuất vi trần, nhập vi mặc.

Hữu tình hạ chủng, nải Như Lai chi diệu dụng; Vô phán khô Thiền, tức đạo nhơn chi ngoan,

không thủy thanh nguyệt hiện, đạt Long cung nhi diễn pháp phong truyền hoa tín, tọa kiệt đà

nhi thọ cung.

Page 111: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

111

Lãng lãng hề giai củng Bắc

Đản đản hề, tận quy Đông.

Hàng giao long vu Bắc hải hề, liệt diễn đằng không phục mãnh Hổ vu Nam sơn hề, hồng vu

phổ tế. Đàn hư không nhi tác khối hề đao binh hề thương. Thâu hào man nhi tàng thân hề, đao

binh hề thương. Thâu hào man nhi tàng thân hề, quỷ thần mạc trắc.

Triển tắc bao la Thiên địa

Định tắc nhập vu vi trần.

Ngộ chi giả, đốn thiếu thượng thừa chi pháp, ngộ chi giả đới liễu lục đạo chi căn. Thiền cố tự

tham, vô phi nhất niệm chi tịnh định, cơ do sư thọ, năng hấp pháp thủy chi hồng tư. Chánh

pháp nhãn tàng, tận ẩn Tổ sư chi diệu chi Niết Bàn diêu Tâm, vi lộ Như Lai chi Thiền từ. Do

thị:

Năng tuyên lậu tận chi pháp

Phương xưng mã âm chi sư

Nhỉ nải cơ lai hữu thời

Phi ngoan không nhi trường tọa.

Thiền chủ đẩu bỉnh, kiến minh tinh nhị triền, linh đài cực lạc, thông hành Bồ đề chi ba. Tịnh

độ gia hương, bí tỏa Huệ Mạng chi áo.

Giáo ngoại hữu nhân

Bất minh nguyên cơ, khổ lao lụy thế.

Ma sa:

Mạn thủ tam canh, cưỡng lưu nhất túc

Ám thông mật, ấn quan tỏa

Thức trọng trí thiểu, tắc bất nhiên bất nhiên

Đột nhiên lãng kiến, nải vân như thị như thị

Huệ Tánh linh nhi đạo nhãn khai, đầu đầu tận thị

Ma vương mê nhi pháp khiếu bế, xứ xứ giai Thiên

Nhơn hữu mê ngộ, Phật vô hậu Tiên

Đạt chi giả dung hội Thiên cơ

Mê chi giả chấp định tử Thiền.

Page 112: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

112

Đả thất quỳ hương, tức Thiền hòa túc nghiệp chi trách; Huỳnh hoa túy trúc, nải cao nhân đắc

ý chi thời.

Thiên lý nhân duyên nhược chí, phương hiểu Thiền ngoại chi quy. Ngẫu phùng quyết phá thiết

ngưu huyết, tiếu sát Thiền cơ hữu lưỡng kỳ.

THÍCH NGHĨA

Đạo là hóa dục Thiên Địa

Pháp là phản bổn hườn nguyên

Cầm giữ cơ động tịnh đề đồng hóa

Tùy theo cơ hữu vô đến tự nhiên.

Theo Chân giác của bổn Lai, cốc thần hoảng hốt

Giữ diệu dụng ở vô sanh, Thiên môn mờ mờ

Hiển gia phong của Thích thị như nước thu lồng nguyệt

Ẩn pháp ngữ của Huệ Năng, như móc xuân giấu khói.

Cho nên:

Làn mây tan mà Thiên tâm hiện

Mưa mờ trong mà bích phong còn

Nước đầm lóng kia lồng bóng Nguyệt

Mây trời đen tan vật lộ hình

Tình người lạnh thì Thiền tâm định

Ý trần tiêu thì Tánh rạng trong.

Như là:

Tuyết trắng hoa vàng rơi, nên tầm cơ diệu ở nguyên quan

Đất hợp hoa trời cảnh, cần nhớ hồn nhiên của diện mục

Nhóm lại thì có, tán ra thì không

Đi ra là trần tục, đi vào là cõi thanh

Có tình gieo giống quý, là diệu dụng của Như Lai

Không pháp Thiền khô tử là ngoan không của Đạo nhơn.

Page 113: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

113

Nước trong trăng hiện đế long cung mà diễn pháp; gió truyền tin đến, ngồi nhà Thiền mà

chuyển cơ.

Sáng rỡ ấy đều chầu Tổ khiếu

Lồng lộng vậy đều về cung Càn.

Hàng phục con giao long nơi thận mưa dầm tưới khắp (con mãnh hổ, chứ không phải con giao

long). Chế ngự con giao long nơi tâm, lửa vụt lên không, vận hư không thành khói, đao binh

chẳng gây tai. Thâu thái cực vào thân, quỷ thần không rình ngó.

Buông ra khắp cùng trời đất

Định lại nhập vào vi trần.

Thông hiểu rồi, thì vượt lên pháp thượng thừa; si mê đó, phải mang lấy căn lục đạo.

Thiền vốn tự tham, chẳng chỉ ở một niệm tịnh định.

Cơ do Thầy truyền, tất được thấm nhuần cơ pháp, Chánh pháp nhãn tạng, trọn ẩn bí chỉ của

Như Lai. Niết bàn diệu tâm, trọn hé cạn lời của Tổ sư. Như vậy:

Được tuyên minh về pháp lậu tận

Mới gọi là thầy của mã âm

Thế là cơ đến có thời

Chẳng phải ngoan không trường tọa.

Thiền chủ nơi linh địa, mới lấy minh tinh đoàn triền; Linh đài hóa Cực lạc, mới thông suốt cõi

Bồ đề.

Tịnh độ gia hương, là yếu chỉ bí khóa Huệ Mạng

Giáo ngoại biệt truyền, là truyền cho người có nhân duyên

Chẳng rõ huyền cơ, chịu lao muôn kiếp.

Kẻ mê kia, dối giữ ba canh, gượng lưu một tối. Cơ bí mật ngầm thông, quan tỏa cần ấn chứng.

Thức nhiều trí ít, thì nói: chẳng phải vậy, chẳng phải vậy; Đột nhiên thấy rõ thì nói: đúng như

vậy, đúng như vậy. Huệ Tánh linh thì đạo nhãn mở tất cả đều trọn; Ma vương mê thì Pháp

khiếu bế, chốn chốn tư riêng.

Người có mê tỉnh, Phật không hậu Tiên

Thông suốt được, thì hiểu rõ Thiên cơ

Si mê đó, bị chấp định tử (chết) Thiền

Page 114: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

114

Đả thất quỳ hương, là nghiệp trái của Thiền xưa

Túy trúc hoa vàng là thời cao nhân đắc ý.

Ngàn dặm nhân duyên nếu đến, mới hiểu thông quy tắc của thuyền ngoại (khẩu truyền).

Tình cờ gặp được Chân quyết, mới đắc Chân Khí của Thiên cơ.

Liền cười: Công phu Thiền định có sơ chứng và cực chứng.

Page 115: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

115

14. DIỆU QUYẾT CA

LUẬN VỀ ĐẠI CHÂU THIÊN VÀ TIỂU CHÂU THIÊN

Đại đạo uyên vi hề, hiện tại mục tiền

Tự cổ thượng đạt hề, mạc phi sư truyền

Diếu mích đa dụ hề, cứu cánh vô nhị Thiên

Phiến ngôn văn quyển hề, hạ thủ tại Tiên Thiên

Hữu danh vô tướng hề, Nguyên khí bổ hư nhiên

Dương lai vi vi hề, vật cử tại hình triền

Hoảng hốt mộng giác hề, Thần di nhập Đơn Điền

Cổ động Tốn phong hề, điều Dược vị thể Tiên

Vô trung sinh hữu hề, Thiên cơ hiện mục tiền

Hô hấp long môn hề, thời chí bổn tự nhiên

Thân tâm hoảng hốt hề, tứ chi tô như miên

Dược sản Thần tri hề, chánh thị hầu Thanh nguyên

Hỏa bức Kim hành hề, Thác thược bằng Tốn triền

Hà xa vận chuyển hề, Tấn hỏa đề chân Diên

Châu Thiên Tức số hề, tứ điệp phùng thời Thiên

Mộc dục Mẹo Dậu hề, Tý Ngọ tại trung tiềm

Quy căn phục Mạng hề, nhuận dư Châu Thiên

Số túc tam bách hề, cảnh triệu mi tiền

Chỉ hỏa cơ Lai hề, quang hầu tam Thiên

Song mâu bí mật hề, chuyên thị Trung điền

Đại Dược tam thể hề, thất nhật miên miên

Khê lộ phòng nguy hề, cơ quan tối nguyên

Page 116: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

116

Thâm cầu ai ai hề, tảo mích Chân truyền

Trạch nhơn nhi thọ hề, hải thệ tương liên

Quá quan phục thực hề, toàn trượng đức Tiên

Tịch chiếu thập ngoạt hề, bất muội Giác Thiền

Nhị khí hư hư hề, Tánh định thai viên

Dương thuần Âm tận hề, tuyết hoa phiêu Thiên

Siêu xuất Tam giới hề, nhũ bộ tại thượng Điền

Vô khứ vô lai hề, thản đản tiêu diêu Tiên

Túc duyên ngẫu phùng hề, tảo tu mạc sỉ niên

Hưu đải lảo Lai lâm đầu hề, khô cốt vô tư không ngao Tiên.

THÍCH NGHĨA

Đại đạo vốn huyền vi, hiển bày trước mục tiền (trước mắt)

Từ xưa thành thượng đạt, đều do ở Thầy truyền

Thí dụ nhiều lăn xăn, cứu cảnh ở không Thiên (vạy)

Lời dạy muôn ngàn quyển, hạ thủ tại Tiên Thiên

Có danh nhưng không tướng, Chân khí vốn hư nhiên

Dương lai dạng vi vi, ngoại thận cất hình triền (xoay)

Thái cực thời đã lại, Thần thâu nhập đơn điền

Cổ động Tốn phong lên, điều Dược lúc sơ nguyên

Trong không mà sinh có, Thiên cơ hiện mục tiền

Hổ hút lấy hồn Long, thời đến trong tự nhiên

Thân tâm đang tỉnh mộng, tứ chi tợ tơ miên (lụa)

Dược sản Thần phải biết, chính là hầu Thanh Thiên

Chân Ý vận Chân Khí, Thác thược nương Tốn triền (xoay)

Hà xa trong vận chuyển, Tấn hỏa thâu Chân diên

Châu Thiên đủ tức số, nhân 4 theo thời Thiên (thay đổi)

Page 117: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

117

Cơ mộc dục Mẹo Dậu, của Tý Ngọ trung tiềm (lặng ở giữa)

Quy căn tức phục Mạng, có nhuận dư Châu Thiên

Số đủ ba trăm châu, thì cảnh hiện mi tiền (trước mắt)

Chỉ hỏa hầu đã lại, là thời tam dương hiện

Song mâu vốn bí mật, chuyên thị tại trung điền

Đại Dược rất có thể, là bảy ngày miên miên

Tào khê đường nguy hiểm, là cơ quan tối huyền (rất mầu)

Thâm cầu thật bi ai, tất sớm gặp Chân truyền

Chọn người trao chánh pháp, cùng hải thệ tương liên

Pháp quá quan phục thực, đều nương đức trước tiên

Tịch chiếu trong mười tháng, làm nổi bậc giác Thiền

Hai khí được định an, thì Tánh định thai viên

Dương thuần và âm tận, có tuyết hoa phi Thiên (bay tới tấp)

Siêu xuất ra ba cõi, nhũ bộ tại thượng điền

Vô khí và vô Lai, rõ ràng tiêu diêu Tiên

Có túc duyên được gặp, gấp tu chớ diên niên (chần chờ)

Chớ chờ tuổi già đến, khô cốt thì hết duyên.

Page 118: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

118

15. LUẬN ĐẠO ĐỨC XUNG HÒA

Đạo cao Long Hổ phục, đức trọng quỷ Thần khâm.

Cái: Đạo dĩ tải đức, đức dĩ tải đạo.

Phù: Đạo giả đức chi dụng, đức giả đạo chi thể.

Nhơn năng minh hồ kỳ đức nhi Thiên Tánh tự hiện.

Thể hồ kỳ đạo nhi xung hòa tự vận. Thị chi vị tịch nhiên bất đận, cảm nhi toại không.

Cái: nhơn bẩm hư linh, nguyên bổn thuần tịnh.

Chí đức, nạp Thái hòa, hồn nhiên nhất đoàn Thiên lý nhất phát giai năng, trung tiết hà lao tu

hồ.

Đản nhơn bị tình dục chi tư sở cách, vong bản trục mạc, cảnh muội kỳ Chân, cố nguyên hòa

chi chánh khí, thuần tịnh chi, Thiên tâm thất hỷ.

Sở dĩ Thánh nhân biểu hư cực nhi dưỡng kỷ đức, luận dịch lý dĩ minh Thiên đạo, tắc tận Tánh

chí Mạng chi học, khả dĩ cùng thần tri hóa hỷ.

Nhiên học giả dục thể hồ đạo đức, đương tầm Lai thời chi tiêu tức, nhi cùng bản nhiên chi căn

miêu.

Dục thám tạo hóa chi cơ dâm, tu sát trì xúc chi cảnh tượng, tắc lâm thời hữu bả bỉnh, nhi vô

nguy hiểm chi hoạn, nhiên hậu đắc nhập đạo đức chuyên môn khả thứu xung hòa chi cảnh.

Cái: chí nhơn năng quyền động tịnh chi tiêu tức tu dụng Trí huệ nhi hồn nhiên vô ngã, cố năng

mặc vận hóa dục chi đạo, trường định Trung chánh chi lý hượt hượt bát bát, tắc kỳ trung cực

chi xung hòa, nhi sung tắc hồ lưỡng gian, đạt tiêu diêu chi cảnh lạc, vô hà hữu chi hương, đại

chí mặc mặc hườn hồ vô cực. Tử nải chí nhơn chi đại đức.

Cẩu nội hoài tư dục, ngoại cô danh dự, giả thiện pháp dỉ già Võ ám thủ nê thủy chi tư, phi vi

vô đức, thiệt tặc đức dả.

Duy Thiên Địa tư vạn vật nhi vô Tâm Thánh nhân thuận vạn vật nhi vô vi, diệc hà kỳ đức chi

dương dậc hồ.

Cổ Thánh vân: Đức giả Tánh, Đạo trung cầu chi nhỉ.

Phù: Đức vô đạo tắc vô trước. Đạo phi đức tắc vô chủ. Đạo ngoại mích đức, kỳ đức viễn hỉ.

Bồi đức thể đạo kỳ công thiết hỷ. Cố viết: Thiên tâm cư Bắc cực nhi chúng tinh củng. Đông

Page 119: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

119

hải nạp Tây lưu nhi bắc phái quy. Nhơn nhược năng tịnh Tâm dưỡng khí, hà lự đạo đức chi

bất thành.

Ngô thường tự nội quán nhi vô tâm ngoại mích nhi thể, phiêu phiêu hồ tầm chi bất đắc, hoãn

hoãn hồ giác nhi hư linh, tợ ngư chi tùy thủy, như vụ chi lung yên, nhất phái xung hòa, vinh vệ

Thiên Địa. Đản nhơn bất năng thâm tiến, cố bản nhiên chi đạo muội khước hỷ!

Túng nguyên Văn áo tịnh, vô phi khẩu đầu tam muội, hựu ô năng tận đạo đức chi bản nhiên,

minh thể Dụng chi tinh vi, giải xung hòa chi áo diệu tai.

THÍCH NGHĨA

Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng quỷ Thần khâm.

Đạo vốn tạo nên Đức, Đức vốn dựng nên Đạo.

Đạo là cái dụng của Đức, Đức là cái thể của Đạo.

Người được sáng rực cái Đức, thì Thiên Tánh tự hiện.

Người được thể hiện cái Đạo, thì xung hòa tự chuyển.

Đó gọi là tịch nhiên bất động, sẽ có linh cảm và suốt thông. Con người vốn bẩm thụ Chân Khí

nơi cõi hư linh, nguyên bổn vốn thuần tịnh, tinh thần đã đến bậc, chí đức, bản thể là thái hòa,

hồn nhiên một khối, Thiên lý cùng từ Thái cực mà ra. Tất cả đều đúng với đạo trung, thì còn gì

phải nhọc tu.

Chỉ vì con người bị tình dục tư riêng ngăn cách quên mất nguồn gốc, lại chạy theo ngọn

ngành, nên Chân Tánh bị mê muội. Cho nên cái Chánh Khí nguyên hòa, và cái Thiên Tâm

thuần tịnh không còn!

Do đó Thánh nhân mới biểu dương cái Tâm tột hư, để nuôi cái đức của ta, mới đem dịch lý ra

lý luận để làm sáng tỏ đạo trời. Suốt thông được yếu tố đó, thì có thể cùng được cái lý Thần trí

hóa vậy.

Nhưng học giả muốn thể hiện đúng Đạo đức, nên tầm cơ Tiêu tức lúc mới đến trong thân ta,

và cùng cái căn cội của Chân Khí. Còn muốn thám sát về guồng máy của tạo hóa, nên xét về

cảnh tượng của cơ hiệu nghiệm đến chậm hay nhanh, thì lúc lâm thời sẽ nắm vững cáng lái, và

không có cái lo nguy hiểm. Sau đó mới được vào cửa đạo đức và có thể tới cái cảnh xung hòa.

Các bậc chí nhân nắm được quyền bỉnh động tịnh của cơ tiêu tức, nên về cái dụng của trí huệ

vốn hồn nhiên vô ngã, cho nên suốt thông được cái đạo lặng yên hóa dục, định được mãi cái lý

của trung và chánh. Luôn luôn được hoạt bát, thì cái cảnh xung hòa từ nơi trung cực phát ra,

lấp đầy cả 2 bên tả hữu, thông suốt đến cảnh lạc tiêu diêu, nơi làng vô hà hữu.

Tột đến là cõi mặc mặc, trở về vô cực đó là đạo đức của bậc chí nhân.

Page 120: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

120

Còn nếu như: Tâm cứ mãi ôm ấp lấy tư dục, ngoài lại cầu lấy danh dự mượn thuật khéo để che

mưa, trộm lấy cái cặn bã của Thánh nhân làm vốn liếng. Đó chẳng phải là vô đức mà là hại

đức. Chỉ có trời đất luôn luôn lấy 2 khí âm dương để tư nhuận vạn vật mà vô tâm, còn Thánh

nhân thì thuận theo cơ biến hóa của âm dương mà trợ dưỡng muôn vật, lại vô vi, có phải cái

đức đó đã nhảy tràn không.

Cổ Thánh nói: Đức là cái Tánh của trung đạo. Cần phải cầu cho được. Đức chẳng có đạo thì

không rõ, đạo chẳng có đức thì vô chủ, đạo mà có đức bên ngoài, thì đức xa vậy. Bồi đức thể

đạo công phu tối thiết. Cho nên nói: Thiên Tâm ở cung Bắc mà chúng tinh triều củng. Đông

hải thu nạp tây lưu bắc phải quy về.

Con người nếu được tịnh tâm dưỡng khí, thì lo gì đạo đức chẳng thành.

Ta thường tự nội quán mà vô tâm tìm bên ngoài mà không bị dính mắc ở thể, thường nhẹ

nhàng vậy mà tầm chẳng được. Tâm đã giác ngộ và hư linh, tợ như cá theo nước, như mây

móc theo khói sương, một mối xung hòa, vinh vệ trời đất.

Chỉ vì người tu chẳng được tiến vào chốn sâu thẳm, cho nên cái đạo bản nhiên phải bị mê

muội!

Dù cho trong nguyên Văn có đủ áo từ, mà không có lời nói đầu là tam muội, thì làm sao đạt

được cái đặc tính bản nhiên của đạo đức, và suốt thông được chỗ tinh vi của thể và dụng, và

giải tỏa được cơ áo diệu của xung hòa.

THÍCH TỪ NGỮ

Xung hòa: gần như cơ Thái hòa của âm dương.

Tịch nhiên bất động: là trạng thái thái cực.

Vong bản trục mạc: là nói về tinh thần của con người Hậu Thiên quên mất cái bản nguyên bát

Thuần Càn, và chạy theo cái ngọn hữu lậu sanh tử là Hỏa Thủy vị tế, quẻ rốt 64.

Luận Dịch lý dĩ minh Thiên đạo: chỉ có Dịch lý mới là ngọn Thần đăng sáng rọi, Thiên lý,

Thiên đạo.

Tiêu tức: là hơi thở vi vi của Chân Tức.

Trung, Chánh: sáu hào của Dịch lý: hào nhị và hào ngũ gọi là Trung. Chánh là âm cư âm vị,

dương cư dương vị. Lấy đó mà suy cho tất cả.

Page 121: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

121

16. HỎA HẦU THỨ TỰ

Phù: đạo tùng luyện Kỷ khởi thủ. Thứ hạ điều Dược. Ký liễu thủ hành Châu Thiên. Sự phi nhất

dả Dược.

Kỷ thục, hoặc tọa, hoặc ngọa, bất giác hốt nhiên dưỡng sinh, tức hồi quang phản chiếu, ngưng

Thần nhập khí huyệt, tức tức quy căn, thử thần dục giao vị giao chi thời, tồn Thần dụng tức

miên miên. Nhược xuất niệm tư tại tư, thử tức vị chi Võ hỏa.

Thần Khí ký giao Dương khí dĩ định, hựu đương vong tức vong ý, dụng Văn hỏa dưỡng chi.

Bất tức nhi khư, bất tồn nhi chiếu phương đắc Dược sản.

Đản vọng tức, tức bất năng dĩ hỏa dưỡng chi

Đảng dụng tức, tức bất năng vong tức vô bất dẫn chi.

Vị khư dục khư, bất giác chi vị vong

Đản dụng ý tức thị bất vong

Đản vong, tức bất năng dĩ ý chiếu chi

Cổ vân: Tâm vô bất tồn vị chi thiếu

Dục vô bất dẫn vị chi vong

Vong dử thiếu nhất nhi nhị, nhị nhi nhất.

Đương vong chi thời, kỳ tâm trạm nhiên (thường) vị đường bất Chiếu, đương Chiếu chi thời,

tiêm hào bất lập, vị thường bất vong. Thị vị Chân vong Chân chiếu, tử tức vị chi Văn hỏa.

Văn hỏa ký túc, bán dạ hốt nhiên Dược sản Thần tri, quang thấu thiềm duy, dương vật bộ

nhiên cử, tức đương: Thể Phong Vận hành Thể, vận chi thời, tồn thần dụng Tức, nghịch xuy

khí huyệt, vị chi Võ hỏa.

Phong, mộc, quy căn tức dụng thượng Văn, Văn hỏa chi pháp.

Chiếu, cố, ôn dưỡng, vị chi Văn hỏa.

Đản bất tại giao cấu, dử Châu Thiên chi thời, cu thị dụng Văn hỏa chi pháp.

Dĩ thời khắc ôn dưỡng chi, nhi luyện Kỷ chi công diệc thị dụng thử pháp. Bất nhiên, bất năng

hườn hư. Nhiên dương sanh vị chi hượt Tý thời, nhi Dược sản diệc vị chi hượt Tý thời, lưỡng

đoạn công phu đương minh thứ tự.

Page 122: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

122

Nhi vận Châu Thiên, vị chi Châu Thiên chi Tý thời.

Nhiên hầu giả diệc phi nhất thuyết, bất luận đương sinh Dược sản, đản hữu khí động giả tức

vi nhất hầu, dĩ Thần dung khí tức vi nhất hầu. Thử nải Thần Khí hội hiệp chi nhị hầu.

Hựu viết: Dương sinh vi nhất hầu, nhi Dược sản hựu vi nhất hầu. Thử nải Dược khí sở sanh

chi thời, tức vi nhị hầu giả, cố nhị hầu thể Mâu ni, nhị tức thử dả.

Dược ký sản vãng ngoại, thể quy lư vi nhất hầu, nhi lư trung phong cố vi nhất hầu, diệc vị chi

nhị hầu thể mâu ni.

Thăng giáng, mộc dục vị chi tứ hầu. Tổng vị chi lục hầu.

Thử nải Châu Thiên nhất thời công pháp, sở vị chi lục hầu dả hầu tuy đa diệc bất tất loạn

trước, bất quá thị đương sanh điều Dược. Điều báo khí mãn Dược sản thời, thể quy vận hành.

Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu quy căn thức thị dả.

Nhiên kỳ trung hầu pháp diệc yến minh bạch.

Đương dụng hô hấp, biến Văn Võ hỏa chi thời hầu nhược bất minh bạch, tắc Văn Võ bất năng

như pháp.

Sở vị hỏa hầu bất truyền giả, tức thử nan ngôn.

Phù hỏa thị hỏa, hầu thị hầu, khởi hữu vi nhất ngôn chi. Kỳ trung Văn Võ, Hỏa hầu, trục tiết

công pháp, sư sở truyền chi, khẩu quyết tận bị.

Dư tuy Tăng tự ấu, mích thử Đạo lệ chí, giang hồ tam thập dư niên, phương đắc toàn chỉ hậu

nhơn hữu duyên ngộ chi, bất yếu tam nhật, tức minh hồ tư đạo, tắc bất vị vu đồ sở hoặc.

(Hoa Dương vân: Thử Thiên trùng, sở ngôn hầu giả phi dư chi hiếu sự. Nhân quần thư sở

ngôn hầu giả, tiền hậu hỗn tạp, tắc lệnh nhơn thiệt nan ngộ.

Dư tiền Văn tuy biểu lục hầu, thượng bất năng quyết nhơn chi nghi, cố thiêm thử Thiên dĩ

quyết đồng chí, độc quần thư hầu chi nghi bệnh dả).

THÍCH NGHĨA

Chánh đạo lấy luyện Kỷ làm công phu hạ thủ đầu tiên. Thứ đến mới hạ thủ điều Dược, điều

Dược xong mới vận Châu Thiên. Sự việc chẳng phải là một.

Luyện Kỷ đã được thuần thục, rồi hoặc ngồi hoặc nằm, thình lình hốt nhiên Dương sanh, lập

tức hồi quang phản chiếu, ngưng Thần nhập khí huyệt, dụng cái hơi thở vi vi mà dẫn Chân

Tinh về căn. Đó là lúc thần khí muốn giao mà chưa được giao, Tu sĩ phải dùng hơi thở liên

tục. Nếu xuất Chân Ý mạnh mà dẫn Chân Tinh về tổ khiếu, gọi là Võ hỏa.

Thần Khí đã giao, dương khí đã định, lại phải quên thở quên Ý, dùng Văn hỏa mà nuôi.

Chẳng thở là chỉ thở vi vi, chẳng còn tất cả mà chỉ dụng chiếu, mới được Dược sản.

Page 123: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

123

Quên thở là chẳng được lấy lửa mà nấu. Nếu dùng hơi thở là chẳng quên thở, như vậy Chân

khí mới được lưu thông.

Nói là thở vi vi, và muốn thở vi vi, tình cờ như vậy gọi là quên. Nếu còn dụng Ý, tức chẳng

quên. Nếu quên tức chẳng được dùng Chân Ý mà chiếu.

Cổ nhân nói: Tâm được hư không, là Chân tâm được bảo tồn, mới gọi là chiếu lòng dục được

hết sạch gọi là quên, quên với chiếu tuy hai mà một, tuy một mà hai.

Lúc đương quên thì Tâm lặng vậy, mà đã có chiếu trong đó.

Lúc đương chiếu, thì mảy lông chẳng lập, mà đã có quên trong đó. Đó là Chân vong Chân

chiếu, và gọi là Văn hỏa.

Văn hỏa đã đủ, nửa đêm hốt nhiên Dược sản Thần tri, hào quang chiếu khắp rèm màn, dương

vật thoạt nhiên cất lên, phải lập tức thể thủ, rồi huân chưng, rồi phong cố, rồi vận Châu Thiên.

Lúc Thể thủ, thì Thần phải miên miên nhược tồn tại Cốc thần, và dụng Chân Tức thổi ngược

về khí huyệt gọi là Võ hỏa.

Còn phong cố, mộc dục, quy căn thì dùng đoạn văn trước đây, gọi là pháp Văn hỏa. Chiếu cố

và ôn dưỡng cũng gọi là Văn hỏa.

Nếu chẳng tại giao cấu, cùng với thời Châu Thiên đều phải dùng pháp Văn hỏa.

Theo từng thời khắc ở công phu ôn dưỡng và luyện cũng đều dùng pháp nầy thì chẳng được

hườn Hư.

Lúc dương sanh gọi là hượt tý thời, mà Dược sản cũng gọi là hượt tý thời, 2 đoạn công phu

đều phải minh thứ tự. Còn vận Châu Thiên, gọi là Châu Thiên tý thời.

Dùng hỏa điều Dược luyện Dược, gọi là hỏa của Tý thời.

Còn về hầu cũng chẳng phải một thuyết. Chẳng luận dương sanh cùng Dược sản, nếu có khí

động tức là một hầu. Lấy thần dụng hỏa lại là một hầu. Khi thần khí hội hiệp lại là 2 hầu. Lại

còn nói Dương sanh là một hầu. Dược sản là một hầu. Đó là lúc Dược khí sở sanh, tức là 2

hầu. Cho nên nói: nhị hầu thể mâu ni.

Chân Dược đã sản vãng ngoại, thể quy lư là một hầu. Lư trung phong cố cũng một hầu, và còn

gọi nhị hầu thể Mâu ni. Thăng với giáng và 2 giờ mộc dục là tứ hầu. Tổng cộng là lục hầu.

Đó là lục hầu của một thời Châu Thiên công pháp sở dụng.

Hầu tuy có nhiều, cũng bất tất phải chấp trước, bất quá cũng là dương sanh và điều Dược.

Điều cho Chân Khí thật sung mãn, tức là có Chân Dược sanh, phải lập tức thể thủ quy lư rồi

huân chưng, phong cố, và vận Châu Thiên Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu quy căn cũng như vậy. Nhưng

trong đó hầu pháp cũng phải minh bạch. Còn lúc hô hấp biến Văn Võ hỏa hầu, nếu chẳng

Page 124: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

124

minh bạch, thì Văn Võ chẳng đúng với Chánh pháp. Có chỗ nói Hỏa hầu chẳng truyền nhưng

chẳng phải chẳng truyền. Chỗ nầy hơi khó nói.

Hỏa là hỏa, hầu là hầu, há đâu nói lộn là một. Còn trong Văn Võ, hỏa hầu theo tiết tự của công

pháp là do Chân sư truyền, thì khẩu quyết mới trọn.

Sách nầy, ta tuy làm tăng lúc còn nhỏ, cố chí tầm đạo giang hồ trên 30 năm mới toàn chỉ.

Người sau có duyên chỉ trong 3 ngày thì minh được cái đạo nầy và không còn bị người lừa dối

mà mắc phải sai lầm.

(Hoa Dương nói: Thiên nầy nói lặp nhiều về hầu, chẳng phải do ta hiếu sự, là do các sách

trước nói về hầu có lộn xộn, khiến người khó hiểu. Tiền văn tuy ta có nêu ra lục hầu, nhưng sợ

người chẳng giải nghi, nên thêm chương nầy để giúp đồng chí đọc được và giải hết bệnh nghi).

Page 125: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

125

17. NHÂM ĐỐC NHỊ MẠCH ĐỒ

Chiết khai ẩn bế Thiên Tiên quyết

Thùy lộ nguyên đầu Phật Tổ cơ

Đắc thị hè hè tiếu

Tồn hành bộ bộ chân.

Hoa Dương nói: Đồ hình nầy lộ hết huyền cơ thì mong Tu sĩ đắc Chân Dược, chẳng đi lầm

đường đạo. Lại nhân cựu thuyết gọi đốc mạch đi ngoài cột sống mạch dứt ở 2 môi là do tục y

nói sai. Tiên gia nói: Đốc đi trong đường mạch.

Ta nay đem bí quyết của Thầy trao mà vẽ ra đồ nầy, để Tu sĩ khỏi ngộ nhận mà gặp nguy

hiểm.

Page 126: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

126

18. QUYẾT NGHI

TĂNG HOÁT NHIÊN THẤT VẤN

1. Hỏi: Đệ tử ngu ám, nhờ lão sư truyền thọ cho pháp hỏa hóa đoạn dâm, con thực hành được

4 tháng thì có cảnh hiệu nghiệm là trong khí hải có hỏa phát, có đối đẩu minh tinh. Lại được

lão sư truyền mật ngữ của pháp luân thường chuyển, con hành trì 50 ngày thì dâm căn tự đoạn,

mãi không còn sanh cơ, phản chiếu bắc hải tợ như ánh sáng của hóa ngân, ánh sáng đó thật

rộng lớn phóng thẳng vào mắt. Con tự biết đó là Xá Lợi tử.

Trước đây đệ tử thực hành cách đả thất lại chẳng thấy thành công, mà còn có nhiều người bị

thổ huyết là tại sao vậy?

- Đáp: Từ Như Lai khai hóa, Tây thiên 28 tổ, Đông độ 6 đời đều không có môn nầy, chỉ do

nhóm Tăng ở núi Cao Phong vu hoặc gây hại cho người đời sau.

Cao Phong tu tập là chuyên bế tức bàng môn nên làm sao đắc quả được. Cao Phong tự nói: nín

khí. Nếu nín khí gấp là tự sát. Còn thổ huyết là do đốt viên hương nơi Thượng điền. Nín khí

thì gây tổn thương cho tạng phủ, tọa đả ương bảng thì thương Tích Lạc (xương sống). Lư y,

Biển thước cũng không cứu được.

2. Hỏi: Tham thiền, vấn thoại đầu chẳng thấy được thành công, là tại sao vậy?

- Đáp: Như Lai có chỗ hỏi thử, để xem người học Tánh đạo đã minh rồi hay chưa minh. Nếu

đã minh rồi thì trao Giáo ngoại biệt truyền Huệ Mạng, chẳng có Huệ Mạng thì vạn vật vô nhất

thành.

3. Hỏi: Chuyên niệm kinh niệm Phật mà chẳng thấy thành công, là tại sao vậy?

- Đáp: Kinh là đường tắt, là danh tự của Phật, thí dụ: quan khảo thí muốn lấy người thủ khoa.

Cũng chẳng khác Thánh nhân giảng tứ thơ.

Lục Tổ nói: người phương Đông tạo nghiệp cầu vãng sanh Tây phương mà niệm Phật, còn

người Tây phương tạo nghiệp rồi niệm Phật cầu sanh phương nào?

4. Hỏi: Người trong Thích giáo ta tham thiền khởi tâm trường tọa, chẳng dấy dục niệm mà còn

tẩu lậu, là tại sao vậy?

- Đáp: Con người đến 16 tuổi thì quan khiếu mở, đã mở thì phải có tẩu lậu, huống chi niệm

kinh thì tổn thương Trung khí.

Còn khô tọa thì Tâm và Thận không được giao hội, do đó mà bị tẩu lậu!

Cận đại người xuất gia lại bị ngược chứng, thủy khô, thổ huyết, mắt khô đều vì nguyên nhân

trên.

Page 127: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

127

Thận Mạng được kiên cố là do ở pháp Hỏa hóa, tức dùng Chân Hỏa mà huân hóa thành phần

tinh trở lại Chân khí. Thí dụ nồi nước bắt trên bếp dùng lửa đun cho nồi nước đó bốc thành

khí.

Như Lai nói: Hỏa Hóa dĩ hậu thâu thủ Xá Lợi. Thật là lời Chân truyền vậy.

5. Hỏi: Người nay tham thiền không hề hỏi đến sự tẩu tiết, tự nói: cứ tu luyện thì thành. Có

được như vậy không?

- Đáp: Trên Thiên đường không hề có một vị Phật nào bị tẩu tiết cả. Tu sĩ mà còn tẩu tiết thì

có khác gì kẻ phàm phu tục tử. Cho nên lời nói của kẻ đó không đúng Chân lý.

6. Hỏi: Phật dùng pháp nào để khởi thủ?

- Đáp: Phật dùng pháp đối đẩu minh tinh để khởi thủ. Đối: Trung hoa gọi là phản quán, Đẩu:

là Đơn Điền, Minh tinh: là Chân Khí nơi Đơn Điền phát sáng. Chẳng Đối Đẩu Minh tinh thì

vạn vô nhất thành. Thích giáo hạ thủ lấy điều nầy làm chủ yếu tối bí. Ta nay toàn lộ, ngươi

nên lặng suy.

7. Hỏi: Ngày nay Thích giáo truyền pháp, người đắc được tự xưng là Hòa thượng có đúng

không?

- Đáp: Người đắc được đó có khác gì người nằm mộng thấy được vàng, còn sự xưng đó có

khác gì người hát bộ xưng vương xưng tướng nào có thiệt đâu. Từ Tổ Đạt Ma đến Lục Tổ lấy

khẩu truyền tâm thọ. Ngũ Tổ nói: mật phụ bản âm.

Còn sở trường hiện kim của Thích giáo là lời truyền trên giấy. Còn cái danh Tăng danh sư

ngày nay là những cái danh trên giấy. Các bậc trí xem thấy việc nầy sao khỏi bật cười!

VƯƠNG HỘI NHIÊN THẤT VẤN

1. Hỏi: Đệ tử nhờ Lão sư truyền trao hạ thủ công phu tu luyện, chỉ có 2 tháng mà được cảnh

Dược sản. Lại nhờ Thầy truyền cho khẩu quyết Châu Thiên, còn dụng công 3 tháng thì ngoại

thận bất cử, đơn điền thường tự ôn noãn. Con tự biết đơn đã thành, chẳng biết còn pháp môn

nào khác để thành công không?

- Đáp: Chẳng được Thần Khí giao hiệp sản xuất Chân chủng tử thì vạn vạn cũng vô thành.

Nếu có thực hành chuyên chú cũng chỉ giảm thiểu bệnh tật. Tất cả muôn pháp đều cùng Đạo

Kim đơn không giống nhau nên không thành công.

2. Hỏi: Có một Tiên sinh tự nói: có cảnh hiệu nghiệm Dược sản thì nên dùng pháp thăng

giáng. Có người đã dụng công như vậy vài mươi năm mà vẫn bị tẩu lậu là lý do làm sao vậy?

- Đáp: Tuy là đắc Dược sản mà chẳng biết hỏa hầu, tuy có thăng giáng mà không biết hạp tịch,

độ số chỉ cường vận nên chẳng thành.

3. Hỏi: Có một vị dạy người ngưng thần nhập khí huyệt, và lúc dương sanh thì hậu thăng tiền

giáng sao cũng chẳng kết quả?

Page 128: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

128

- Đáp: Chẳng biết pháp khởi thủ, là không có thuốc mà trước hành thăng giáng, đó là lấy lửa

đốt nồi không nên chẳng thành.

4. Hỏi: Có một vị nói: lúc Dương sanh thì lấy lưỡi chống trụ răng rồi hướng lên trên mà hút

tân dịch nuốt xuống, sao cũng chẳng thành công?

- Đáp: Dương nầy mới là vi dương chẳng phải là Chân Dược nên có thăng giáng cũng vô

dụng, lại chẳng biết đường đạo lộ rồi đi loạn đường khác nên dấy lên tà hỏa, tất bị chứng thổ

huyết, còn vật hữu lại rơi vào đường ruột rồi xuất ra 2 đường tiện có ích gì đâu.

5. Hỏi: Có một giả đạo nhơn dạy người: lúc dương sanh thì dùng hơi thở mà thể. Một hơi thở

thể, một hơi thở phong, gọi là nhị hầu. Tả biên thì lên, hữu biên thì xuống, một hơi thở thì một

chuyển gọi là một Châu thiên. Sau cũng không kết.

- Đáp: Công phu đó chẳng phải là bàng môn, chỉ vì chưa đắc quyết, lại tự dối tạo lời nầy để

lừa gạt kẻ mê.

Có vị Chân nói: chẳng biết pháp vận hành của Thiền công mà chỉ theo sự tuần hoàn của Ngũ

tạng, chẳng phải là Châu thiên, cho nên chẳng kết quả.

6. Hỏi: Chuyên ngưng Thần nơi khí huyệt, được xuất âm thần, tại sao cũng chẳng kết?

- Đáp: Chẳng biết pháp hô hấp lúc dương sanh cho nên không kết.

7. Hỏi: Chẳng dụng công đả thất cũng bị thổ huyết và mang lấy tật bệnh, là tại sao vậy?

- Đáp: Là do cái lỗi lầm tin theo manh sư.

Xung Hư Tổ sư nói: Ngoại đạo tà pháp hành khí tất phải gây bệnh. Tại sao lại bị bệnh? Là do

thăng đề quá trì trọng nên sanh chứng tà Hỏa, rồi khiến cho đầu choáng váng xây xẩm, mắt đỏ,

thủng ế chướng, khái thấu, đàm hỏa, thổ huyết, ung thủng … còn giáng hạ mà trì trọng thì bức

trầm tinh khí xung nhập vào 2 quả Thận tạo ra đau đớn, thân mình như nghiêng đổ, bụng bị cổ

trướng… trên dưới đều bệnh khiến người mau chết.

LIỂU NHIÊN NGŨ VẤN

1. Hỏi: Đệ tử không hỏi về bàng môn tả đạo, chỉ muốn nghe về hỏa hầu của chánh đạo. Có

nghe Chung Ly Chân nhân nói: Càn dụng cửu, Khôn dụng lục, là nghĩa lý gì vậy?

- Đáp: Danh là phải, nhưng pháp không phải.

2. Hỏi: Xung Hư gọi Tí vận hành 36, Ngọ vận hành 24. Lý ấy là gì vậy?

- Đáp: Danh thì phải, mà quyết chẳng phải.

3. Hỏi: Chân nhân gọi dương hào là 180, âm hào là 120. Lý ấy như thế nào?

- Đáp: Danh thì phải, mà sự chẳng phải.

Page 129: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

129

4. Hỏi: Hứa Sinh Dương gọi: Dương thì dùng 216, âm thì dùng 144. Lý đó là gì?

- Đáp: Danh thì phải, nhưng hỏa chẳng phải.

5. Hỏi: Cả 4 điều sai, sao vậy?

- Đáp: Đạo tối trọng tại khẩu truyền. Chẳng đắc Chân truyền thì cả 4 điều sai. Như quả đắc

Chân sư thì cả 4 đều phải. Chẳng những 4 được Chân mà đến cả ngàn lần được thuốc có năng

lực như thánh, ngoại hiệp với huyền diệu của hỏa nầy. Tam giáo thành Đạo cũng do sự huyền

diệu của hỏa nầy.

Page 130: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

130

19. NGUY HIỂM THUYẾT

Thiên nầy nói về điều Dược và việc ở Tiểu Châu Thiên.

Hoa Dương Thiền sư nói: Người theo học bên ngoại đạo đông đảo lăng xăng mà thành công

thì chưa có một người. Là tại sao vậy?

Là chẳng đắc Chân truyền của Tánh Mạng, rồi phân môn lập hộ làm điều sai quấy.

Còn ngày nay có số người cũng hiểu Tánh, nhưng không biết được Tiên Thiên Chân Tánh mà

bị rơi lạc vào Thức Tánh của Hậu Thiên. Cũng như nay có số người tu Mạng, nhưng không

biết được Tiên Thiên Chân Mạng mà bị rơi vào cái Mạng cặn bã của Hậu Thiên. Do đó nên

không thành.

Chẳng biết phương tu trì Tánh Mạng

Thần trong cung ly gọi là Tánh, Khí trong cung khảm gọi là Mạng. Chỉ vì: Thần tấn xuất

không có thời hạn, khí sinh ra thì bị ngoại hao, Tánh Mạng chẳng được tự hiệp. Cho nên Tổ sư

mới dạy người lấy ly Tánh để khử chế khảm Mạng. Trong lúc ấy liễm thu cái linh niệm vi tế

nhập vào chỗ khí động, dùng Tốn phong thổi phát cái hỏa nơi trong mà nấu luyện cái Tánh

Mạng Hậu Thiên.

Hiệp lại làm một thì Tiên Thiên Tánh Mạng tự nhiên phát hiện, cho nên gọi là: Tu trì.

Phòng ngừa cái họa hoạn nguy hiểm

Phòng là phòng ngừa lúc Chân Dược sanh mà chẳng tự linh giác. Sau khi quy Lư sợ Tinh chưa

hóa, âm khí lại đến sai khiến. Chẳng hiểu pháp Hà luyện hoặc thần quang thất chiếu, hoặc hô

hấp thất hư, hoặc Dược sản mà chẳng biết, hoặc thăng giáng bị hôn trầm tán loạn, hoặc Đơn

thành mà chẳng biết cảnh hiệu nghiệm đến, hoặc ôn dưỡng không đúng pháp, hoặc chẳng biết

pháp thể đại Dược v.v… cho nên cổ nhân mới nói: bá nhật phòng nguy hiểm (không).

Có sự thực hành sai quấy là: lầm tu lẫn luyện

Chẳng biết bí quyết luyện kim đơn nên tất cả phải luyện công sai quấy. Cho nên cổ nhân nói:

có biết bao là pháp sai biệt. Sánh với kim đơn sự bất đồng.

Chỉ được nghe từng môn hộ của Tánh Mạng

Môn hộ là nguồn cội của Càn Khôn Tiên Thiên trong đó có hàm chứa Tứ tượng, cho nên sách

tham đồng khế nói: Càn Khôn vi môn hộ, Khảm Ly vi Dược vật.

Chánh lý chẳng minh, căn nguyên chẳng thấu

Page 131: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

131

Chánh lý, căn nguyên tức là Tánh Mạng. Sở dĩ vì si mê, chẳng có túc duyên với Đạo nên bị

lầm theo tà sự, hướng theo ngoại đạo, đều chẳng phải là căn nguyên của con người.

Lầm nhập vào bàng môn

Có rất nhiều môn phái đều không biết cái căn nguyên của Tánh Mạng, cho nên Ngọc Hoàng

kinh có nói: Ba vạn sáu ngàn giống đạo, cho đến Thích gia lại cũng là Tâm.

Thấp nhất biên

Như ngày nay đa phần chỉ tu Tánh mà không biết tu cái Mạng của mình, cho nên Dâm căn

không đoạn được, thường tự hạ lậu, cùng với phàm phu không khác. Thật đáng tiếc vậy!

Lại có số người chuyên nuốt tân dịch, cộng vận Hậu Thiên, chẳng biết Cơ Tiêu Tức của

Huyền quan và triền cơ của Hạp tịch. Thật đáng thương!

Tuy nói quy Đạo mà Tánh Mạng chẳng hiệp, Thần Khí chẳng giao

Tánh Mạng với Thần Khí là một, nếu chẳng hiểu pháp giao hợp thì không có Chân Chủng tử.

Túng tự tu vi

Chẳng biết Tánh Mạng giao hợp thì tự chuốc lấy cái khổ cho thân tâm, dầu cho có cố gắng tu

trì có khác gì cách giày gãi ngứa, nào có ích gì.

Chân Khí ám hao

Lúc Chân Khí sanh chẳng biết thể thủ quy Lư nên phải bị ngoại hao.

Chung quy rồi cũng không thành

Cuối cùng không cũng hoàn không, công phu tu luyện cũng hóa ra uổng phí!

Chẳng có Túc duyên nên gặp Chân sư mà không được một lời trao nên chẳng biết pháp

điều Dược là gì

Pháp điều Dược là hượt Tí thời, lúc lâm thời phải biết dụng công Phong Hỏa, trong đó có Văn

có Võ, chẳng biết theo đúng thứ đệ công phu, cuối cùng cũng không thành công.

Chưa thấu triệt đến uẩn áo tinh vi

Tinh vi uẩn áo thật khó nói. Có được hành trì, là vận dụng Tam bửu nơi ải Huyền quan, làm

cho ba báu chẳng hề lìa nhau, chẳng còn cố chấp với nhau, mà phải biết cái dụng của pháp ở

khinh trọng chuyển triền thì đắc được Diệu quyết.

Luyện Kỷ còn sanh, còn phù phiếm

Là luyện Tâm chưa được thuần thục, Tâm còn động nên còn sanh niệm nên chưa định được,

gọi là phù phiếm.

Page 132: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

132

Lúc hành công còn hôn trầm, còn ngủ

Là Tâm chưa được linh giác, chưa chữa trị được 23 nguyên chứng gây hôn trầm, có nói trong

quyển Trung Thiên đạo Tâm truyền, cùng một soạn giả.

Cho đến lúc Dương sanh mà chẳng tự linh giác

Là hượt Tí thời, lại mà chẳng biết gì hết, đó là sự sai lầm trước mắt.

Khí huân hình khởi, mà chẳng biết thể công

Chân Dược đây tức là Chân Tinh, có hiện tượng với dạng ấm ấm, nếu chẳng lập tức Thể thủ

thì nó hóa thành hữu hình Tinh mà buông ra ngoài.

Chân Khí cựa động, biến rồi ngoại trì

Chân Khí cực động biến thành Chân Tinh, rồi biến ra hữu hình Tinh và ngoại trì.

Chẳng có chủ, thì lấy gì lưu

Chủ là Chơn Thần, tức là Chân Hỏa hay Chân Ý, có chủ dùng cơ tiêu tức mới lưu giữ được

Chân Dược.

Chầu ải quan rồi xuất ngoại

Là nói về hữu hình Tinh, không có chủ lưu giữ nó lại nên nó đến chầu quan ải rồi xuất ngoại.

Cứ như vậy mãi, thì có thuốc đâu để điều để luyện

Tâm chẳng thành, Ý chẳng chuyên, lại đổ thừa cho Khí chẳng trụ. Thật là si mê vậy!

Chẳng biết có thần linh giác chủ sử điều pháp

Thần linh giác cũng là Chân Hỏa, Chân Ý. Điều pháp là thần dùng hô hấp thu nhiếp Chân

Dược quy lư để luyện.

Tại sao lại không thành?

Có nhiều nguyên nhân: Túc duyên với nền Chánh đạo không có, không có chí lớn, không gặp

được bậc Chân sư, chánh pháp không rành, bí quyết chẳng minh.

Chẳng biết đơn pháp, và thứ tự hỏa hầu

Chủ yếu là phải nắm vững Chân truyền, suốt thông mọi bí quyết, đặt lòng chí thành cao độ,

công phu liên tục, thứ tự hỏa hầu như đã nói ở Thiên 16.

Đơn pháp thì có nhiều, thí dụ như công phu luyện kỷ trúc cơ phải cho thuần thục, lúc Chân

Dược chưa sanh phải làm sao, lúc đã sanh phải dụng công thế nào, lúc nào dụng Văn Hỏa, lúc

nào dụng Võ Hỏa, lúc nào Văn Võ kiêm dụng.

Page 133: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

133

Thí dụ như công phu thể Dược thì trước dụng Văn sau dụng Võ, Châu Thiên vận thì dụng

công nửa Võ nửa Văn, Tiểu Thiên có Văn có Võ, Đại Châu Thiên hoàn toàn Văn. Thí dụ như

Lư trung hà luyện: lúc Chân Dược động thì dùng Chân Hỏa mà huân chưng.

Cổ động Tốn phong thì dùng Võ Hỏa. Công phu ôn dưỡng Mộc dục thì dùng Văn Hỏa. Chẳng

biết Chân truyền tức không thể nào biết được cơ huyền diệu trong đó. Tu sĩ cần phải thận đọc

cho quán triệt.

Do đó mà phải bị manh tu bạt luyện

Là do học giả lấy thô tâm mà học đạo. Chỉ mới nghe Thầy nói một câu lại cho là đã tự đắc.

Chẳng Hư Tâm cầu cho được chỗ Chân thiết.

Chánh lý chẳng minh nên sự hiểu biết quá lộn xộn khiến nên phải mờ tu đui luyện.

Chẳng biết điều Dược

Điều Dược có 2 công phu: công phu điều ngoại Dược và công phu điều nội Dược.

Công phu điều ngoại Dược là Thể thủ Chân Dược lúc muốn xuất Lư, là thu nhiếp Chân Tinh

về Trung cung (Lư) để huân luyện cho thành Chân Khí.

Công phu điều nội Dược có 2: Là công phu vận Châu Thiên để điều hòa 2 khí âm dương,

Nhâm Đốc hỗn hợp làm một. Là luyện hóa 2 khí Diên Hống thành Chân Diên và Chân Hống.

Chân Diên vốn vô lậu, Chân Hống vốn bất động.

Chẳng rành về võ Hỏa

Võ Hỏa là Chân Ý khẩn trọng, tợ như dùng sức mạnh để đưa vật nặng lên. Võ Hỏa dùng để

hái Thuốc, để nấu luyện và dâm tinh. Lúc vận Châu Thiên chỉ dùng một nửa năng lực Võ Hỏa.

Nếu dùng toàn lực Hỏa nầy thì Tâm tức thượng bộ bệnh, thuốc tức hạ bộ bệnh. Lúc ôn dưỡng,

mộc dục và mười tháng dưỡng Thai mà dùng Võ Hỏa là nguy.

Chẳng minh văn Hỏa để dưỡng

Văn Hỏa là Chân Ý nhu nhu thơ hưởn nhẹ nhàng, còn gọi là loại lửa không khói với nhiệt độ

thấp. Văn Hỏa dùng thể thủ trong công phu thể Dược, ôn dưỡng, mộc dục, và toàn dùng ở thời

Đại Châu Thiên.

Văn Hỏa là dùng hơi thở vi vi, còn gọi là xuy khư chi dưỡng.

Tử và có hỏi: Xuy khư có phải là hạp tịch không?

Đáp: đó là ngươi lầm vậy. Xuy khư là hô hấp khí Hậu Thiên, còn Hạp tịch là cái cơ của 2 khí

Tiên Thiên và Hậu Thiên.

Lại hỏi: xưa Châu Tử có nói: một hô một hấp gọi là Hạp tịch, là thuyết của Hậu Thiên, chẳng

phải là sự chí diệu huyền cơ của đại Đạo. Cầu lão sư dạy cho con chỗ chí diệu?

Page 134: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

134

Đáp: Hạp tịch là cơ Tiêu tức của 2 khí tương động tương ứng nơi trong Huyền quan Tổ khiếu.

Có bốn cơ vãng Lai, nên gọi: Lai vãng bất cùng. Nếu dùng một hô hấp là 2 cơ vãng Lai làm

Hạp tịch thì có chỗ cùng, chẳng phải Chân huyền quan.

Lại hỏi: xuy khư với hạp tịch phân biệt chỗ nào trong khi dụng pháp?

Đáp: Xuy khư là Thần Khí bất động, Hạp tịch thì Thần Khí điều động.

Cơ Hạp tịch đối với Thần Khí lại còn có động và bất động: lúc Chân Dược muốn xuất quan thì

dùng động, lúc Chân Dược chưa triền động thì dùng bất động. Nếu chẳng dùng cơ Hạp tịch để

luyện Dược thì Thần Khí chẳng giao nhau, làm sao có Chân Chủng tử.

Chẳng quên Hỏa để chờ Chân Dược tự sanh

Sau khi ôn dưỡng bằng Văn Hỏa, Chơn thần phải hồn nhiên tịch tịnh để chờ dương tái sanh.

Chẳng minh trục tiết, chẳng hiểu luyện pháp, lấy gì làm cho mạch lạc phấn hưng

Là do trước dụng Phong Hỏa không đến nơi đến chốn nên âm khí, âm tinh phát sinh tẩu tiết,

tạo nên cảnh hủy hoại. Tinh Khí muốn tẩu lậu, lập tức dùng Võ Hỏa hà luyện. Luyện cho đến

lúc không còn cảnh tượng tẩu tiết mới được bảo tồn vô sự.

Tình cờ lòng dục dấy lên

Là do âm Tinh nơi Đơn Điền tác quái khiến cho Tâm quân vọng động nhiễu loạn Chủ nhân,

cho nên lòng dục mới dấy lên. Lập tức dùng pháp Hạp tịch cổ động Chân Hỏa trong Lư, huân

hóa âm Tinh nầy, gọi là bí mật Thiên cơ cứu lấy Mạng báu.

Cho nên Hư Tịnh Thiền sư trong quyển nhập hỏa cảnh có nói: Dục tâm nhất khởi, tốc dụng Võ

Hỏa hà luyện.

Các giống âm ma quái đến quấy nhiễu:

Chúng hiện đủ hình thức lúc thì ma, lúc quỷ, lúc Thần, lúc Hổ, lúc Long, v.v… đến quấy

nhiễu.

Lúc hôn trầm mê muội, ngoại Dương bất cử mà tẩu tiết là do nguyên nhân nào?

Là những lúc luyện dùng Phong hỏa không đầy đủ, Tu sĩ nào có chí dũng mãnh tinh được

pháp nầy và công phu Phong hỏa đã đến tột, chẳng hề gián đoạn thì sự tẩu lậu không còn nữa.

Đó là Hỏa hầu dụng chưa đến chốn, trọn bị âm khí biến ảo mà không biết. Lúc nầy phải

dùng Võ Hỏa cổ động Tốn phong mà khử trừ âm khí.

Nếu gặp cảnh hủy hoại đến, thì lại dùng Võ Hỏa luyện một lần thì mãi mãi được bảo toàn vô

sự.

Trừ bậc Chân tu ra còn kẻ si mê làm sao được tiêu diêu

Page 135: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

135

Chỉ có bậc Đại trí mới được thung dung nơi Cốc Thần.

Tối kỵ thân tâm lao lục

Cổ nhân nói: dục định kỳ tâm tiêu định kỳ thân.

Tâm bị ngoại trừ:

Cổ nhân nói: Thần nhất xuất tiện thâu hồi, gọi là luyện.

Chẳng chuyên cần thì Lư Hỏa đoạn, thất văn Hỏa

Văn Hỏa là tồn lấy Thần, là dụng lấy tức, là pháp quy căn chẳng hề gián đoạn. Lúc bình

thường mà dụng công sai thất pháp nầy, làm sao lưu giữ Chân Khí lại được.

Chẳng có chủ nên không lấy đâu để câu thủ

Chủ là chơn Thần, dùng Chân tức để câu thủ.

Chẳng lạc rơi xuống biến thành Hậu Thiên, là việc chưa từng có

Chân Khí nếu không nhờ công phu của Thần và tức thì tự nhiên sẽ biến hóa ra Chân Tinh rồi

biến thành hữu hình Tinh. Cho nên kẻ phàm phu tục tử tuy không dục niệm cũng bị tẩu tiết. Là

do không có Chân Hỏa để luyện.

Lúc Chân Dược sanh, chẳng biết pháp võ Hỏa để cứu hộ Mạng bửu

Lúc bị lao lục nên thần Dược ngoại trì, nếu bị lao lục cần phải ổn định thân tâm lại cho thật

bình phục.

Tinh bị tiết lậu, thì Khí cũng tẩu xuất

Tinh với Khí vốn là một. Cho nên Âm Phù kinh nói: Chân Khí tức thị Chân Tinh chi nội.

Làm sao khỏi gặp nguy hiểm

Nhất trường không lao!

Lúc Thể thủ chẳng minh hai khí

Thể thủ là điều ngoại Dược, 2 khí là Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí. Tiên Thiên Khí đắc

Hậu Thiên Khí chiêu nhiếp thì Chân Dược mới quy Lư. Cho nên Thủ Dương chân nhân nói:

Tiên Thiên khí không thể nhiếp thu Chân Dược quy Lư được, mới phối hợp với Khí Hậu

Thiên mà Thể thủ mới thành công.

Chẳng biết âm kiều đạo lộ

Đạo lộ âm kiều là đường nhiếp tinh, chính tại trước Cốc đạo, sau bàng quang. Chính đích là

đường nhiếp Tinh.

Page 136: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

136

Trương Tử Dương bát mạch kỳ kinh có ghi: lúc nhất dương mới động thì vận một điểm Chân

Hống đưa xuống rún để đón sự tiết lậu của Chân Dược.

Đó là pháp lặc Dương quan

Dương quan còn gọi là thục lộ, là Tinh khiếu, là đường tiết lậu tinh khí.

Sau khi quy Lư chẳng biết hồi phong hỗn hợp

Hồi phong là hồi triền hô hấp chi khí để nghịch xuy.

Chẳng biết pháp hà luyện

Hà luyện là pháp hồi phong. Nếu được hồi phong thì 2 khí trong Lư cũng được hỗn hợp làm

một. Cho nên Tổ sư ta là Xung Hư nói: Thần tuy chủ thể khí, nhưng chưa biết khí đã được chủ

tể chưa nên phải dùng hồi phong mà hỗn hợp.

Tâm Ấn kinh nói: Hồi phong hỗn hợp bá nhật công linh.

Chẳng rành Nguyên Tinh với Âm Tinh

Chân dương khí mới bắt đầu động thì sanh nguyên khí. Lúc khí Chân dương động sanh

Nguyên Tinh, còn âm tinh là do ta ăn uống ngũ cốc mà hóa thành. Tinh nầy hằng tác quái gây

bất loạn Tâm quân, phải dùng Võ Hỏa hà luyện thì Tinh nầy mới hóa thành Chân Tinh. Luyện

hỏa Chân Tinh nầy thành Chân Khí.

Sở Vân Tiên sinh nói: dụng đơn điền tự nhiên chi hô hấp luyện chi. Cẩu bất đắc thử quyết tắc

tinh bất hóa.

Chân Dược đã tạm phục, hốt nhiên lại sanh, tuy nói là điều Dược mà sự thật là Lư trung

điều pháp

Tiết trước đã nói về việc nầy là: Lư nội cổ Tốn phong.

Sau đó Dương mới phục sinh

Là lúc dương cơ phát động ra ngoài.

Lại đem cái Tinh chưa hóa ở trước chầu ải mà xuất

Là nói về hiện tượng Tinh tiết lậu.

Thì Chân Dược không sản ra được

Chân Dược không sản nên Chân chủng chẳng có, tức không được hành cái hỏa Châu Thiên.

Chẳng lo Tinh không phản phục, mà lo bí quyết chẳng Chân

Chủ yếu tu luyện là bí quyết được Chân, nếu chẳng có Chân quyết thì không thành.

Page 137: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

137

Sao chẳng chịu hiểu biết cho tột cùng

Tu luyện phải có Chân sư mới thành. Chân sư là Chân Ý của ta do công phu học vấn đã đến,

cùng lý.

Chân Dược đã sản mà không biết thể thủ, huân chưng là sự nguy hiểm lớn lao

Thể thủ đã sản, mà không biết thể thủ, huân chưn, là sự nguy hiểm lớn lao!

Thể thủ Chân Dược phải theo trình tự. Lúc Chân Dược bắt đầu sinh thì hồi quang phản chiếu,

ngưng Thần nhập khí huyệt mà chờ. Chờ cho đến lúc Chân Dương triền động là có Chân Tinh

sanh, lập tức thể thủ quy lư. Thể thủ thì tiền Văn hậu Võ, nhập thì dùng cơ hữu vi, xuất thì vô

vi. Chân Dược đã hoàn toàn nhiếp thu quy lư, phải lo huân chưng với quy luật trước Võ sau

Văn. Nếu chẳng thông suốt hai pháp môn nầy thì sự nguy hiểm không nhỏ.

Chỉ vì mê muội nên chẳng sớm tự đề điểm

Chỉ vì lo chữa trị 23 nguyên chứng hôn trầm, chỉ bị một chứng cũng gây trở ngại cho giờ công

phu. Chứng hôn trầm làm trở ngại ta trên bước đường công phu cầu chánh giác. Đề điểm là

Chân Ý chăm chú vào lúc Chân Dược sản.

Tham lam, chấp trước về Chân Dược đã có

Chân Dược với phàm Dược cách nhau rất xa, nếu chẳng biết chỗ nầy thì pháp giao hiệp sẽ bị

sai thất nơi giao cơ của khí và luôn uổng phí phần Chân Khí đã thu hấp được. Thí dụ như kẻ

phàm phu lúc hượt Tí thời lại là lúc nơi Đơn Điền có dạng ấm ấm mà chẳng được biết, rồi

lòng dục tưởng dấy lên, gây ra sự giao hợp mà mất đi cái tinh thần trượng phu. Đó là lỗi ở

sanh cơ của Chân Dược.

Trong thần thất bị mất cơ Chiếu

Thần thất đắc cơ Chiếu là có thêm yếu tố Chân động, tạo cho Chân Dược được lệnh giác và

hoạt hoát bát bát.

Chân Khí đã giao, lại có lúc cách biệt nhau

Đã biết chỗ thần khí giao hợp mới có xuất sanh Chân chủng tử. Tổ tiên gọi là Thiên nhiên

giao. Lại đã minh ở hầu thể Dược, nếu chẳng biết rõ hầu nầy thì dù có danh mà vô hỏa, cũng

bị chấm dứt ở khoảng trung gian, há chẳng nguy sao!

Chẳng lập tức phát sinh phục giác

Thánh nhân dạy phải tức tốc dùng Linh giác mà thể thủ Chân Dược.

Thì bị mê muội về công phu Thể thủ

Tiết trên Thánh nhân dạy phải dùng linh niệm mà Thể thủ, ở đây lại nói có thể công, thật là lạ

vậy.

Page 138: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

138

Linh niệm chỉ được chủ tể Chân Khí mà không thu nhiếp Chân Khí quy lư được, có nên phải

dụng thần lấy hô hấp mà thể Chân Khí.

Chân chủng sở sản, chẳng được quy Lư

Chân chủng tức là Chân Dược. Lư tức là hạ đơn điền.

Mênh mông làm sao, lại tự tiết bỏ cái công tích lũy rồi trở thành không, há chẳng tiếc sao

Đã đến trạng thái Thái cực thì được quý hóa biết bao, thế mà đành vứt bỏ Chân Dược do ta đã

tích lũy lâu ngày mới có. Nay về tâm chẳng chuyên do chẳng chí thành nên đành uổng phí

công phu.

Chẳng biết cơ thăng giáng ở tại đẩu bỉnh

Thăng giáng là tấn thối, đẩu bỉnh là đơn điền.

Chẳng hiểu về diệu lực của thần tức

Thần có diệu lực cắp khí đồng hành đồng trụ. Tức là cơ hô hấp bức khí thối khí. Chẳng có thể

thiếu chủ. Chủ không được thiếu cơ. Chủ và cơ không được thiếu Chân Ý. Ba yếu tố điều

dùng mới là Chân huyền diệu Tu sĩ. Thiếu đi một là nguy hiểm.

Chân khí tuy hành mà hơi thở không bức

Có Chân khí mà không có Chân tức thì Chân khí cũng không đường đạo lộ mà vận hành theo.

Đó là đạo dẫn bàng môn, chẳng phải là cơ hạp tịch

Như ngày nay vận khí của ngoại đạo không biết Chân Tức là gì… Hạp tịch là thiên cơ tối diệu

của đại Đạo, tất phải nhờ Chân sư mới đắc Chân truyền và mới đạt đến chỗ tinh vi.

Tức được ứng, mà độ số chẳng hiệp

Có hơi thở không có tức số nên dụng công lộn xộn và đơn không kết.

Chẳng biết ngoại đạo dụng công không đúng với tức số của Châu Thiên:

Chẳng chỉ chân đơn chẳng kết, mà phí Chân Dược luống sanh

Chân đơn là Chân khí, Chân tinh là Chân Dược kết thành. Chân Đơn đã được kết là đã trải qua

thiên tân vạn khổ, thế mà nỡ để tán thất, thật đáng thương.

Cơ nguy hiểm của Châu Thiên ẩn tàng nơi trong

Cơ nguy hiểm nầy do nhiều nguyên nhân gây ra, ở đây Thánh nhân cho ta biết: chủ yếu là

Châu Thiên là ở cơ tấn thối thăng giáng.

Chân Dược đã quy Lư, nếu văn Hỏa sai lầm về huân chưng

Page 139: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

139

Là sai lầm về xuy khư, là Chân Hỏa đề điểm không đúng vị trí, là không liên tục, là không

nương theo cơ khắc lậu.

Thì khí âm lại còn, các loại quái hiện, là do cớ nầy

Con người ăn ngũ cốc nên hóa thành âm khí, lại do hỏa ở đơn điền thiếu thốn cho nên các loại

âm quái mới hiện ra, như âm nhơn, như quỷ thần, tức nên dùng vũ phong mà thổi, võ Hỏa mà

nấu. Chẳng luyện như vậy thì âm khí thắng dương khí, rồi mai tàng nơi trong, tất có những

bệnh nguy hiểm sẽ xảy ra.

Lúc bình thường vô sự, nếu thất huân chưng, nếu ăn các thực phẩm có mùi hương cực

độ, hay lao lục thân tâm

Các nguyên nhân trên đều gây ra sự nguy hiểm.

Chẳng hiểu về cơ động tịnh

Tâm tịnh gọi là Thiền, Thận động gọi là Cơ. Đó là Chân động, Chân tịnh, Chân cơ.

Có lúc bức Lư mà ra

Đơn đã thành hoàn toàn do thần quang hộ trì, do khí hô hấp huân chưng. Nếu nhất thời mất

kiểm điểm, trong khoảnh khắc Chân Khí sẽ từ đơn điền phân xuất, hoặc tẩu nơi thân tiền, hoặc

lậu nơi thân hậu. Chẳng đắc Chân quyết thì không phục quy về lư được tức gọi là tẩu đơn.

Có người hỏi: lấy bí quyết nào để thu nhiếp?

Đáp: lấy tịnh định mà chờ. Lại phải xem đơn theo đường nào mà ra, và nó ẩn tàng nơi nào.

Biết được rõ ràng rồi thì dùng hô hấp vi vi mà thổi vào Đơn Điền, dùng Chân Ý đến chỗ đích,

rồi theo nguyên lộ mà dẫn nó quy lư. Hoặc một dẫn, hoặc vài ba dẫn, khi nào thấy ngoại thận

không còn tăm dạng mới thôi. Công phu nầy gọi là pháp Thâu đơn.

Hoặc lúc hỏa sanh:

Hỏa nầy là do ăn uống lầm thực phẩm có hỏa động, hoặc tắm nước nóng. 2 hỏa nầy dẫn đến

động đơn hỏa. Chẳng đắc thân pháp, cũng làm cho đơn tẩu rất nguy hiểm.

Có người hỏi: có pháp nào để cứu vãn?

Đáp: tồn tưởng một khối tuyết nhỏ trước mắt rồi dùng Chân Ý dẫn nhập Đơn Điền thì lửa đỏ

phải tự lui xa.

Có lúc thấy nước sinh, hoặc âm nhơn hiện tượng

Âm nhơn hay nước sinh đều là âm khí, là do cái lửa hô hấp bị đứt đoạn cho nên có cảnh nầy

lại.

Có người hỏi: dùng pháp gì để cứu?

Page 140: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

140

Đáp: cấp dụng khí hô hấp, dùng Võ Phong mà thổi, lúc nào chẳng còn thấy hoại cảnh đó thì

Đơn Điền trở lại quang minh, mới là mỹ sự.

Chẳng đắc cứu pháp cho sự tán thất, mà trong khoảnh khắc Chân Khí sung mãn, Đơn

thành, cũng gặp nguy hiểm. Là do phải chỉ Hỏa mà không chỉ, lúc Hỏa đã viên túc nên

cần huân chưng

Tức là hô hấp thổi ngược lại bằng xuy khư.

Tương hộ ư Tánh Mạng

Tức dùng Thần quang phản chiếu về đơn điền.

Hoặc có Ý tán phát buông ra thì Hống tán Diên lạnh:

Vì có âm khí lại. Đơn hóa ra quái dị, lại chẳng trùng sanh.

Chỉ vì do âm khí biến hóa mà ra như vậy.

Chẳng phải bí quyết của thầy chẳng Chân mà là do ta thất chiếu.

Đơn đã thành phải gấp cho siêu thoát.

Nếu tham trước trần tục để chờ năm tháng, thình lình một lúc nào đó chơn đơn vội bức xuất lư

thì Chân Hống cũng bay, Chân Diên cũng tẩu. Thương thay! Không cũng hoàn không, là

không có ấn chứng gì cả!

Ta nguyện đồng chí đem thuyết nguy hiểm nầy mà thẩm sát cho thật tinh tường và hiểu tận

tinh vi, rồi đem ra dụng công thì vĩnh bảo vô thất.

Trước đây là 15 đoạn, trong đó có 35 điều tế sát khó mà biểu minh.

Xem biệt minh mới biết toàn chỉ, nghiền ngẫm đúng mức thì các công phu sau đó mới khỏi

nguy hiểm.

Page 141: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

141

20. HẬU NGUY HIỂM THUYẾT

Từ xưa các cổ thư đã có nhiều dẫn giải nhưng chưa nói hết về thuyết nguy hiểm. Cho nên hàng

tu sĩ hậu học muốn cầu về chỗ toàn quyết, toàn hỏa, càng là sự khó khăn trong việc học. Rồi

dẫu có theo dõi đến bước cùng cũng chẳng thành công, há chẳng phải than thở sao!

Cho nên ta mới làm ra thuyết nguy hiểm ở trước là để bổ túc những chỗ mà Kim Tiên Chứng

luận và Huệ Mạng chưa nói đến, để giúp cho những người đã khổ chí đắc được công pháp hạ

thủ điều dưỡng và Tiểu Châu Thiên.

Trong thiên đó có nói về “Ngưng Thần” là ngưng nơi chỗ “Đạo Tâm”. Đạo tâm là được cơ hấp

tụ của nhơn Tâm thì Nguyên Khí tụ mà chẳng tán, là công phu cho “Vựng Dược” (kết Thánh

thai), là cốt tủy của công phu Tánh Mạng.

Thần đã ngưng tụ nơi khí huyệt, mà Thần của khí huyệt lại chẳng biết sao.

Biết được cơ hô hấp của vãng Lai, đó là phong hỏa luyện tinh.

Thần lại không được buông lung ra ngoài, hơi thở cũng chẳng được đứt đoạn. Thần với Tức

(hơi thở) cùng nhau luyện, động tịnh cùng nhau nương, chẳng ra khỏi phạm vi, chẳng chấp ở

vô hữu. Đó là Chân quyết hóa tinh.

Lại còn phải biết về Thần an nơi chỗ dương động, để phối hợp với thiên cơ.

Thần không được lìa khí. Chỗ sở tại của khí hóa cũng là chỗ sở tại của Thần an.

Trong thiên lại nói: Võ hỏa là diệu quyết để thể Dược, luyện Dược, luyện âm tinh và dâm tinh,

là bị cơ hô hấp cả trong lẫn ngoài, cho nên gọi là Hạp tịch.

Cơ huyền diệu là ở tại 2 khí.

Công phu nghịch dụng gọi là: Thể ngoại Dược.

Luyện là luyện hóa Chân tinh đã có thành Chân khí. Là trong huyền quan, theo huyền cơ lấy

Chân Ý mà cổ động hơi thở để thổi, gọi là Hạp tịch, tức gọi: cổ động gió Tốn để vận lửa

Khôn.

Lại nói: Phong luân kích động sản Chân Diên là do âm tinh trong khảm thận khó chế phục,

mới dùng phong hỏa để thuần dương hóa.

Thần với khí cùng ma Xát và kích thích nhau tợ như 2 vật ma Xát nhau mà ra lửa.

Page 142: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

142

Ngộ Nhất Tử nói: muốn lóng xuống cho thanh tịnh, trước phải kích thích ở cơ động. Thật là

lời diệu quyết, là chỉ hướng nơi huyền quan có cơ mầu nhiệm của tinh khí thần tương động

kích.

Lư nộ thần với khí đã nung nấu nhau, không được ngưng nghỉ. Về gió chẳng được ra ngoài.

Cũng không được lìa thần khí. Thần với khí đồng hút nhau, như thư hùng giao hợp. Theo lúc

nầy 2 thành phần âm dương cũng tận quy chỗ nầy.

Nếu như đắc được pháp điều Dược thì lo gì tinh chẳng hóa, dâm dục chẳng chết, Chân chủng

chẳng sản.

Lại nói: sở dĩ phải luyện âm tinh, vì con người ăn ngũ cốc và hàng trăm mùi vị, nên hóa thành

âm Tinh.

Thiền sư Hoa Dương nói: Tân dịch là vật Hậu Thiên tư dưỡng ngũ tạng, đều thuộc loại cặn bã,

ngày đêm tư nhuận châu thân. Lúc đến đơn điền thì hóa thành âm Tinh. Tinh nầy hằng tác

quái, gây bát loạn tâm quân, dẫn động nguyên khí tán tiết!

Sở dĩ có chủ trương luyện, là do biết trước có hoại cảnh đến. Trước nên lấy Thần hỏa Hậu

Thiên an trụ nơi Lư trung, gọi là hỏa chủng dẫn hỏa.

Sau đó khiến thác thược cổ động gió tốn. Lấy gió quạt lửa, lấy lửa nầy mà cổ động Chân Hỏa

Tiên Thiên, 2 lửa cùng ma Xát với nhau, cùng kích động nhau mà dương hỏa thắng âm tinh,

dung hóa khắp châu thân, như vậy còn lo gì âm tinh chẳng hóa, ma quái chẳng diệt, đạo chẳng

thành.

Lại nói: Văn hỏa là thần với khí đồng cùng định và bất động.

Chân nhân nói: công việc đầu tiên của sự tu luyện là lặng thấu nơi vực sâu, dấu kín cái ánh

sáng để nuôi dưỡng cái tối. Sau đó mới thiện dụng.

Đã nói: chẳng động, mà lại còn nói văn hỏa, tại sao vậy? thần khí tuy nói chẳng động mà cái

khí hô hấp tại chỗ xuy khư miên miên bất động.

Cổ nhân nói: xuy khư, nói: ôn dưỡng, là Chân Ý phải định mà còn có xuy khư.

Cái chỗ mà lửa được gió, là do công phu thổi lửa không ngừng, thuốc đã lạnh, nhờ lửa dung

hóa mà ôn hoãn lại, cho nên gọi: Văn Hỏa và Võ Hỏa là đích chỉ điều Dược.

Thuốc đã Dược điều là có tự sản, thì chẳng nên bỏ Võ mà dụng Văn sao?

Chẳng biết lúc Dược sản, thì cơ hô hấp của Văn Võ hỏa vô sở dụng. Cho nên nói: Định hơi thở

để chờ khí Chân diên sanh.

Còn đã nói: chẳng dùng cái lửa hô hấp mà Dược lại phát sinh, há không bị tán thất sao.

Cơ mầu nhiệm là tại Thần Khí trong Ý chỉ: Tương tụ, tương chiếu, tương cố…

Page 143: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

143

Đúng lúc nầy là phải biết thuốc già hay thuốc non, và khí Chân Diên phát sinh chậm hay mau.

Lại còn phải ai khấu nơi Chân sư về cơ bí truyền tương hiệp tương ly.

Cơ thể thủ đâu dám vọng khinh tiết lộ.

Nhưng về Chân quyết của thể thủ, là nếu chẳng dùng Võ hỏa, thì Chân Dược làm sao quy lư.

Còn cái hỏa thăng giáng, là kiêm dụng Văn Võ nên nói: nhu nhi biến cương. Cương nhu nải

đơn đạo chi diệu chỉ.

Cũng như về thời lục dương, hễ cơ hấp vào thì Chân Khí thăng, gọi là Võ. Nhưng cơ hấp trở

về mà định thì gọi là Văn.

Còn thời lục âm, hễ cơ hô ra thì Chân Khí thối và giáng xuống, gọi là Võ. Nhưng cơ hấp vào

là tấn mà định, tức thuộc Văn.

Cho nên nói: thời thời hữu Mộc dục.

2 giờ Mẹo Dậu đều bỏ Võ mà dụng toàn Văn liên tục. Trong hơi thở có hơi thở ngầm.

Hơi thở là cái cơ nuôi dưỡng sanh và sát.

Còn giờ Tý và giờ Ngọ, thì cơ huyền diệu ở thăng giáng.

Lại nói: có cơ Mộc dục, là gọi một giờ tám khắc, mà một ngày có trăm khắc. Gọi bốn khắc nầy

tức thuộc về pháp mộc dục.

Còn Văn hỏa huân chưng bổ trợ, là đích chỉ dưỡng đơn, là công phu phản chiếu.

Lúc Đơn đã thành thì bỏ Võ hỏa mà chỉ dùng Văn hỏa, gọi là pháp huân chưng dưỡng Đơn.

Gia Khánh, năm thứ tư, trước tiết Đoan dương 5 ngày, Hoa Dương Thiền sư viết tại Bắc Kinh,

chùa Nhân Thọ.

TĂNG CHÚ THUYẾT

Sách mà còn phải chú thích, vì chính sách đó chưa nói hết phần Chân chỉ tàng mật.

Còn về sự khai phá từng chương và lập thuyết, tất trước đó đã được Chân sư trao truyền, nên

sự và lý đã thấu triệt, công phu của ta có chỗ thành, sau đó mới dám phát bút hiển nhiên minh

bạch, đối với tiền thư không mảy sai lệch, tức gọi là chú.

Nếu sự và lý chẳng thấu triệt, công phu không có chỗ thành, rồi lấy thời văn sáo ngữ mạo vọng

biên soạn, rồi kinh riêng kinh, chú riêng chú, thì sao gọi là Chân chú.

Cũng có loại kinh thư chẳng cần chú thích nữa, vì chánh bản đã hiển nhiên đã rõ ràng, nào

phiền vẽ rắn thêm chân, là tái chú.

Page 144: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

144

Đạo hiệp với Chân cơ của Tiên Phật, đem công dụng đã có hiệu nghiệm, thực là phương của 2

giáo môn về đăng đường (sơ nhập) và nhập thất (vào tâm pháp).

Chẳng phải do ta hiếu sự, là làm trái ý về sự vọng chú của hậu nhơn.

Lời quyết được phản phúc minh bạch, lập đi lập lại về Chân cong của hiển tu, là thiệt sự vi tế

của Tiên Phật, không một chữ, một sự chẳng tận tiết, đó là nói về 2 quyển kinh nầy.

Sách nầy được bảo toàn hai nhà là Tiên và Thích.

Thấu triệt tận căn nguyên, chẳng ra ngoài đại đạo mà là đồng quy cứu cánh lấy Tánh Mạng

con người.

Danh tuy phân là Tiên là Phật, mà chân công sở dụng chỉ có một mà thôi.

Sở dĩ Tôn sư đã tập thành Chân kinh nầy, nguyên là muốn cho những người đồng tông được

nương theo con đường tốt đẹp mà chẳng mất Tánh Mạng, khỏi bị lạc rơi vào nẻo kiến lập thiên

khô, và chỉ trong kiếp nầy được thành đại đạo.

Cảm tạ ở chỗ là chẳng còn phiền muộn là thiếu thầy mà bị thêm tăng vọng chú.

Lấy đó mà răn vậy, chớ nhọc tái chú.

---oOo---

Page 145: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

145

Page 146: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

146

LỜI TỰA

Hoa Dương Thiền Sư người làng Hồng Đô, mộ Phật từ lúc còn nhỏ. Nguyện vào chốn Phật,

nên mãi bảo hoài, tức được thấy Tăng lòng mừng hớn hở.

Một hôm được nghe Trưởng lão nói: Xưa đức Ngũ Tổ vào lúc canh ba riêng trao bí pháp cho

Lục Tổ. Có người ở phòng bên cạnh được nghe lòng rất hân hoan vì được nghe rõ, tợ như

nằm mộng mà biết sự thật. Từ đó mới biết các nhà tu luyện đều nhờ thầy truyền, rồi quyết tầm

mãi mãi. Chân dày gai góc nơi nào cũng đến, mà chưa được gặp! Sau đó mới vào Hoàn thủy,

tới chùa Song Liên. Lòng buồn vô hạn, tóc rụng càng tăng, mới hỏi lấy lòng: các vị thầy trong

Tam Giáo, có ai chẳng tham cứu kinh thơ, đều không ngoài Chân chỉ của Huệ Mạng.

Nhân đó mới than rằng: thân người khó được, sao nỡ luống không! Thoạt phát một niệm, vào

những buổi chiều, hai gối 5 thể đều gieo xuống đất minh thệ chí thành, khấu đầu đấng thương

xanh, mong cầu cho được toại nguyện.

Sau đó nửa năm, may được gặp Hồng Xung Hư Tổ sư, truyền cho ta bí chỉ, ta mới hoát nhiên

thông ngộ, mới biết cái đạo Huệ Mạng, là linh vật sở hữu của ta.

Tiếp đến Khuông lô lại gặp Hồ Vân Lão sư, trộm nghe người đàm luận mối mang, mới biết là

bậc phi thường, mới quyết chí siêng năng khẩn cầu nghe chịu. Tiếp đó là sự khẩn cầu ai thiết,

do đó Thầy ta mới động lòng đại phát hồng từ, khai ngộ vi mật bên trong do khiếu, thảy thảy

ta đều thông triệt.

Rồi một ngày kia ta phải ra đi, Thầy ta có dặn Phật giáo song tu nay đã mất rồi! con nên tiếp

tục theo pháp Mạng mạch để độ những người có duyên.

Ta đến ẩn tích ở Giang tả, cùng với hai ba người bạn theo đó mà tịnh tu và khẩn thiết tham

cứu.

Lại nhân được gặp Bích Thiềm, Liễu Nhiên, Quỳnh Ngọc và Chân Nguyên, khổ tu đã thành Xá

Lợi mặc khế sư truyền, tập nhóm sách này mệnh danh là “Huệ Mạng Kinh”. Trong kinh có vẽ

ra một số đồ hình gọi là tương pháp để minh thị phần bí mật của thiên cơ. Kinh nầy nhằm khải

thị về phần huyền cơ bí yếu, tiết lộ nguyên cơ của Tổ sư để làm phương tiện cứu vớt hậu học

khỏi bị rơi vào tà đạo.

Ta thấy ngày nay người mong cầu chánh đạo lại gặp ở phần tông ngữ lục, có Chân thiệt, có

vọng ngữ, lại vì hạ học nên chẳng biết cái đạo Huệ Mạng của Như Lai, khiến phải ngộ nhập

sáo ngữ của khẩu Thiền, cuối cùng cũng bị cái hại của kẻ hạ ngu chuyển trao ngữ lục!

Page 147: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

147

Ta đã ra công duyệt khảo các loại Chân kinh với sư truyền ấn chứng, với Lăng Nghiêm kinh,

Hoa Nghiêm kinh, Pháp Bảo Đàn kinh đều là thiệt ngữ, đều là Chân truyền. Còn về các loại

như Thiền sư ngữ lục, Hòa thượng ngữ lục đều là vọng ngữ.

Luyện tu theo chánh đạo, nếu chẳng phải thiệt ngữ, thì lấy gì để chứng minh là chân lý. Chẳng

phải thiệt ngữ thì lấy gì tịch trừ hư vọng. Hư vọng thắng thì ma chướng sinh. Tuy là người trí

hiền cũng không biết chỗ nào để tùng nhập.

Như vậy, trăm ngàn năm sau, cái đạo thâm bí riêng truyền khó mà dòm thấy.

Nay ta dùng lời trót lọt, đem của báu của Phật tư truyền, hoàn toàn nêu ra khiến cho người tu

học khi xem đến Huệ Mạng Kinh tợ như thân khẩu tương truyền.

Chỉ cần gắng chí tinh cần, bất tất tha sơn cầu trợ, Phật quả cũng có thể chứng.

Đây là sự khổ tâm của ta đối với bản nguyện cầu Chân sư hiểu thông Chánh đạo.

Càn Long, Giáp Dần, mùa hè tại Hồ Trung, Truyền Lô, Liễu Hoa Dương viết tựa. Nơi hoàn

thành: Trung khiết am tự.

Page 148: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

148

MỤC LỤC

21. LẬU TẬN ĐỒ ......................................................................................... 5

22. LỤC HẦU ĐỒ ......................................................................................... 7

23. NHÂM ĐỐC MẠCH LẠC ĐỒ ............................................................... 9

24. ĐẠO THAI ĐỒ ...................................................................................... 10

25. XUẤT ĐỊNH ĐỒ ................................................................................... 11

26. HÓA THÂN ĐỒ .................................................................................... 12

27. DIỆN BÍCH ĐỒ ..................................................................................... 13

28. HƯỜN HƯ ĐỒ ...................................................................................... 13

29. TẬP THUYẾT HUỆ MẠNG KINH ..................................................... 15

30. CHÁNH ĐẠO TU LUYỆN TRỰC LUẬN ........................................... 68

31. CHÁNH ĐẠO CÔNG PHU TRỰC LUẬN .......................................... 74

32. CHÁNH ĐẠO THIỀN CƠ TRỰC LUẬN ............................................ 82

33. TẠP LOẠI THUYẾT ............................................................................ 88

34. QUYẾT NGHI ....................................................................................... 94

Page 149: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

149

TỐI THƯỢNG NHẤT THỪA

HUỆ MẠNG KINH

Giang Hữu, Chu Lâm Kiều, Truyền Lô Lư, Liễu Hoa Dương soạn và chú. Sơn âm hậu học

Nhất Dương tham đính.

1. LẬU TẬN ĐỒ

Dục thành lậu tận Kim Cang thể

Định chiếu mạc li hoan hỷ địa

Cần tu phanh luyện Huệ Mạng căn

Thời tương Chân Ngã ẩn tàng cư

Page 150: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

150

Cơ tinh vi của nền chánh đạo, không gì bằng Tánh Mạng. Tu luyện về Tánh Mạng không gì

bằng quy nhất. Cổ Thánh, Cao hiền đem cái Thần chỉ Tánh Mạng quy nhất xảo dụ là ngoại

vật, chẳng khứng minh thị trực luận. Cho nên đời sau không biết song tu.

Ta lập ra đồ hình nầy chẳng phải dám vọng tiết chính đồn hình này là tượng hình về cơ lậu

tận tôn Lăng Nghiêm kinh, là nêu cái áo chỉ của Hoa Nghiêm, là tập nhóm lời rải rác của chư

kinh, mới tập quy thành Chánh đồ nầy.

Do đây mới biết Huệ Mạng chẳng ngoài Tổ Khiếu Huyền Quan.

Lý do thành lập ra đồ hình nầy là mong cho các đồng chí, các chí sĩ hiểu rõ được Thiên cơ

song tu nầy, chẳng bị đọa lạc bàng môn.

Từ đó mới biết: Chân chủng do đây mà được bảo hoài, Lậu tận do đây mà thành, Xá lợi do

đây mà luyện, đạo đạo do đây mà nên.

Tổ Khiếu nầy vốn là cái hang hư vô, vô hình, vô ảnh. Chân khí phát ra thì thành khiếu Thiên

cơ, dừng lại thì mờ mịt. Là chỗ tàng Chân. Là nền móng của Huệ Mạng. Tên gọi: Hải để,

Long cung, Tuyết sơn giới địa, Tây phương, Nguyên quan, Cực lạc quốc, Vô cực hương…

Tên tuy có nhiều, chung quy cũng là một Tổ Khiếu, Huyền Quan.

Tu sĩ chẳng minh Tổ Khiếu nầy, dầu cho ngàn sanh muôn kiếp, Huệ Mạng cũng không tầm

được, Tổ Khiếu nầy vô cùng lớn lao.

Cha mẹ chưa sanh thân nầy, lúc mới thọ vựng trước tiên là sanh khiếu nầy, Tánh Mạng cũng

thiệt ngụ trong đó. Lúc nầy 2 thành phần nầy vốn dung hiệp làm một, sáng chói rực rỡ, tợ như

oai lửa trong lò. Tượng nên một khối thái hòa Thiên lý, cho nên gọi: Tiên Thiên hữu vô cùng

chi tiêu tức. Còn nói trước khi cha mẹ sinh ra thân nầy thì Chân khí sung mãn, thai vựng viên

dung.

Đến lúc thoát thai mà ra, thân hình cử động xé rách bào thai, tợ như người leo lên núi cao bị

trượt chân, thình lình ré lên một tiếng, thì Tánh và Mạng đến đây bị phân làm hai. Từ đây về

sau, Tánh chẳng được thấy Mạng, Mạng không được thấy Tánh. Thiếu niên rồi tráng niên, rồi

lão thành. Lão rồi ô hô!

Cho nên Như Lai mới phát Đại từ bi mà tiết lậu pháp môn Tu luyện. Dạy người trở lại vào

bào thai, cùng thẳng tới Chân Tánh Mạng của ta, đem Thần Khí ta quy nhập về Tổ Khiếu hiệp

lại làm một để thành Chân chủng, tỷ như Chân khí của cha mẹ nhập vào khiếu nầy, hiệp lại

làm một để thành thai vựng. Lý vốn có một.

Trong khiếu thì có Quân Hỏa, ngôi đầu có Tướng Hỏa, châu thân là Dân Hỏa. Quân Hỏa phát

thì Tướng Hỏa thừa. Tướng Hỏa động thì Dân Hỏa tùng. Tam Hỏa thuận hành thì thành người,

Page 151: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

151

đi nghịch thì thành Đạo. Thánh phàm do đây dấy lên. Chẳng tu theo đạo nầy mà tu theo nẻo

khác thì vô ích.

Cũng vì Thiên Môn vạn hộ không biết khiếu nầy, trong có Huệ Mạng chủ tể nên tầm bên

ngoài, tận phí Tâm cơ cũng vô thành.

2. LỤC HẦU ĐỒ

Đại đạo tùng trung xuất

Nhất khắc hội nguyên đầu

Nguyên cơ mạc ngoại cầu

Phân minh Phật Tổ nguyên đầu lộ

Page 152: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

152

Pháp luân hấp chuyển triều Thiên giá

Hiện xuất Tây phương cực lạc thành

Tiêu tức hô Lai vãng địa quy

Cơ diệu dụng của chánh đạo không gì sánh bằng Pháp luân. Châu Thiên vận hành theo đường

tắt không đường nào bằng Đạo lộ. Chậm hay nhanh chẳng theo cấp bậc, không gì bằng quy

tắc. Số hạn chẳng sai thất, chẳng gì bằng hầu pháp.

Cả đầy đủ pháp môn mới nương theo đó mà từ Tây lại (Tây trạch). Chân diện mục hoàn toàn

ở tại nơi nầy.

Cơ huyền diệu ở nơi trong, lúc hành trì phải lấy hô hấp làm chủ. Cơ tiêu tức vãng Lai chính

là hạp tịch. Chẳng đi ngoài Đạo lộ, là do Chân ý làm chủ. Có chỗ khởi chỉ, đó chính là giới

địa.

Chẳng vì cái Ngã mà là vị tha nên mới toàn bị đồ nầy, toàn tiết Thiên cơ. Tục nhơn phàm phu

mà đạt ngộ Được tất sẽ thành công. Giả như có người còn thiếu đức mà được gặp, Trời cũng

không phụ.

Đức đối với Đạo như chim có cánh, thiếu một tức vô dụng. Tất phải Trung, Hiếu, Nhân,

Nghĩa…

Ngũ giới tinh tấn, sau đó mới có chỗ hy vọng.

Còn trong tinh vi áo diệu, trọn đủ kinh Huệ Mạng và Kim Tiên chứng luận.

Tham học cho suốt thông hai quyển kinh nầy thì nhất định sẽ nắm được Chân truyền.

Page 153: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

153

3. NHÂM ĐỐC NHỊ MẠCH ĐỒ

Hiện xuất Nguyên quan tiêu tức lộ

Thường giao hỏa dưỡng Trương sinh quậc

Hưu vong bách mạch Pháp Luân hành

Kiểm điểm Minh Châu bất tử môn

Đồ hình nầy với 2 đồ hình trước nguyên là một. Tại sao lại vẽ thêm đồ hình nầy?

Là sợ người tu học không biết được đường Đạo lộ trong thân mình là đường Pháp Luân, cho

nên mới vẽ thêm đồ hình nầy để các đồng chí được thấu hiểu.

Con Lộc lúc ngủ thở đến gian môn. Con Hạc, con Quy lúc ngủ thì thở đến tận gốc của mạch

Nhâm. Do đó nên chúng sống đến ngàn tuổi. Còn con người lại…?

Tu sĩ tu luyện phải chuyển Pháp Luân để vận Huệ Mạng, lo gì chẳng được trường thọ và thành

chánh quả.

Page 154: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

154

4. ĐẠO THAI ĐỒ

Thập ngoạt đạo thai hỏa

Nhất niên Mộc Dục ôn

Hữu pháp vô công cần chiếu triệt

Vong hình cố lý trợ Chân linh

Đồ hình nầy biểu thị cái diệu chỉ của kinh Lăng Nghiêm.

Tục Tăng chẳng biết Đạo thai, là do cái lỗi lúc đầu chưa tiếp nối với đồ hình. Nay mới xiển

dương, Tu sĩ tất biết được Như Lai có công phu Đạo thai Chân thật ở tại đây. Thai đây chẳng

có hình có tượng mà do một bửu vật, mà thành ra thật. Tức là Thần Khí của ta.

Trước vận Thần nhập vào Khí huyệt, sau đó mới dùng Chân khí mà bao lấy Thần. Thần Khí

tương kết, mà ý thị tịch nhiên bất động, nên gọi là Thai.

Chân Khí có ngưng thì sau đó Thần mới linh.

Cho nên lời kinh nói: Thân phụng giác ứng.

Hai Khí bồi dưỡng nên nói: Nhật ích tăng trưởng.

Page 155: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

155

Khí tức Thai viên, thì theo Thượng điền là Nê Hườn Cung mà ra. Nên nói: hình thành xuất

Thai thân vi Phật tử.

5. XUẤT THAI ĐỒ

Thân ngoại hữu thân danh Phật tướng

Niệm linh vô niệm tức Bồ đề

Thiên diệp Liên Hoa xuất khí hóa

Bá quang cảnh diệu giả Thần ngưng

Page 156: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

156

6. HÓA THÂN ĐỒ

Page 157: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

157

DIỆN BÍCH ĐỒ

Tánh quang phản chiếu phục nguyên Châu

Thần Hỏa hóa hình không sắc tướng

Tâm ấn huyền không nguyệt ảnh tịnh

Phiệt châu đáo ngạn nhật quang thanh.

HƯ KHÔNG PHẤN TOÁI ĐỒ

Bất sanh bất diệt, vô khứ vô lai

Nhất phiến quang huy châu thế giới

Page 158: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

158

Song vong tịch tịch tối linh hư

Hư không lãng triệt Thiên tâm diệu

Hải thủy trùng thanh đàm nguyệt dung

Vân tán bích không sơn sắc tịnh

Huệ quy Thiền định nguyệt luân cô

HÓA THÂN ĐỒ

Phân niệm thành hình khuy sắc tướng

Cộng linh hiển tích hóa hư vô

Xuất hữu nhập vô thừa diệu đạo

Phân hình lộ thể cộng Chân nguyên

XUẤT THAI ĐỒ

Lăng Nghiêm chú: Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ Thượng Đơn Điền phóng ra trăm báu hào

quang, ánh quang phóng xuất ngàn lá sen báu, có Như Lai tọa trong Bửu hoa. Còn trên đỉnh

đầu thì phóng mười đường bá bửu quang minh thị hiện khắp cả. Đại chúng ngửa xem, phóng

quang Như Lai tuyên thuyết thần chú, tức là Dương Thần xuất hiện, cho nên gọi Phật tử.

Chỉ vì chẳng đắc được cái đạo Huệ Mạng nên bị khô tịch khẩu Thiền, làm sao có được cái tự

thân của Như Lai ngồi trên bửu hoa nầy, và phóng ra Pháp thân rực rỡ xuất hiện. Còn có kẻ

nói: Dương thần thuộc tiểu Đạo thì cái Đạo của đức Thế Tôn cũng là tiểu Đạo sao?

Đồ hình nầy tiết lộ bí mật của Lăng Nghiêm để hậu học được hiểu rõ cái Đạo nầy, lập tức

siêu phàm nhập Thánh, mãi mãi chẳng bị đọa lạc nơi chốn phàm trần.

Page 159: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

159

HUỆ MẠNG KINH Giang hữu, Lâm lâm kiều, Truyền Lô

Liễu Hoa Dương soạn chú

TẬP THUYẾT HUỆ MẠNG KINH

Hoa Dương viết: Thành Phật tác Tổ thị bản Tánh linh quang, bất đắc Huệ Mạng Lậu

tận, bất đắc liễu Đạo, trực nhập ư Như Lai chi Thái không.

Bản Tánh, Linh Quang danh tuy hai nhưng nguyên đầu là một. Tại tịnh định thì gọi là Tánh,

Huệ chiếu vào trong tịnh định thì gọi là Linh Quang.

Huệ Mạng là diệu pháp Thể thủ đầu tiên của Như Lai, là mượn danh để khải thị cho người tu

học, là phạn ngữ của Tây phương. Trung hoa gọi là cái Bổn nguyên của con người. Nho gọi

Tiên Thiên Chân khí.

Đó là phương tiện tu Phật, là quyền bỉnh tác Tổ. Thầy Mạnh Tử gọi: Thiên dưỡng Hạo nhiên

chi khí.

Lậu tận là cái danh, do đức Thế Tôn dùng để khải thị cho A Nan, cũng là phạn ngữ của Tây

phương. Trung hoa gọi là tẩu lậu. Nho gọi là tẩu Tinh. Y học gọi tiết Nguyên Khí.

Lậu tận là cơ biến hóa của Huệ Mạng.

Thiên cơ trong người lúc chưa phát động vốn là Chân mạng cho đến lúc thiên cơ phát động

mà không biết, nên nó hóa thành hữu hình Tinh mà xuất quan, gọi là Lậu tận.

Tình huống đó nhà Nho gọi là Khí hóa Tinh.

Trong thuở đồng Chân Mạng căn vốn kiên cố, vốn không có tình trạng lậu tận, Thận quang

vốn viên dung rực rỡ. Lúc này nếu gặp được Chân sư, chẳng cần dùng pháp thể thủ lậu tận, mà

chỉ vận khối Thận quang viên dung sáng rỡ đó thâu quy Trung cung, với công phu: thời thời

tỉnh ngộ khắc khắc giác chiếu, hộ trì mười tháng Đạo thai tức Lăng Nghiêm kinh gọi Ký du

Đạo thai, thân phụng giác ứng.

Công phu siêng năng, Chân khí sung túc, tự nhiên sẽ được xuất Thai.

Đạt đến Pháp thân quảng đại, Lăng Nghiêm gọi hình thành xuất Thai, thân vi Phật tử.

Đó gọi là Đốn pháp.

Nếu những người đã đến lứa tuổi 16 trở lên, lúc 16 tuổi thì Mạng báu mãn túc. Túc mãn thì

có lậu! Từ đó về sau, lậu lậu không dừng. Cho nên đức Như Lai gọi là lậu tận.

Page 160: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

160

Người đời học Phật, nếu chẳng hư tâm cầu cho được bậc Chân sư chỉ điểm Chân quyết Hỏa

hóa mà cứ theo: Tham Thiền, đả thất, trường tọa hành trì, thì vạn vô nhất bảo. Đã vạn vô sở

bảo thì làm sao thành công trên đường tu học được!

Cho nên Hoa Nghiêm kinh nói: Chẳng cầu pháp huyền diệu nầy, cuối cùng cũng không

chứng quả bồ đề, cho nên đấng Như Lai mới phát đại từ bi, khải thị cho người hạ thủ, tiếp tục

phát thiên dung để bổ túc cho khối Thần quang viên dung sáng rực rỡ xưa của Huệ Mạng, trở

lại quy về Trung cung. Đó gọi là Tiệm pháp.

Cho nên đức Quang Minh Như Lai mới nói:

Lão tăng hội tiếp vô căn thọ

Năng tục vô du hải để trừng

Lại phải thật siêng năng tu luyện, vì chẳng phải một sớm một chiều mà thành chánh Đạo.

Cho nên đức Thế Tôn mới bảo A Nan: Đệ nhất lậu tận nan thành!

Lậu tận là biệt danh do Phật thí dụ, là pháp song tu Tánh Mạng.

Nếu chỉ tu Tánh mà không luyện Mạng thì tập khí khó tiêu. Dẫu cho có đạt được cái Tướng

đồ sộ cũng chẳng thành Quỷ Ngũ thông, chẳng được khế hạp với Lục thông của Như Lai.

Cho nên Đại Phật phương đẳng đại tập kinh mới nói: Chỉ tu tập theo Ngũ thông làm sao đắc

được lậu tận. Là lý do làm sao?

Cũng vì lòng bi mẫn của Như Lai đối với chúng sanh nên mới đem phát Lậu tận thông ra

khải thị để người được thoát ra khỏi cõi phàm phu tục địa.

Thái không: là Pháp Tánh viên dung hư cực.

Cho nên Liên Hoa kinh có nói: Tánh như Hư không. Đức Thiệu Khương Tiết tiên sinh nói:

sở vị Đạo, thông thiên địa hữu hình ngoại. Tư nhập phong vân biến thái trung.

Nhi Huệ Mạng lậu tận bất đắc Phong Hỏa luyện pháp, bất năng hòa hiệp ngưng tập nhi

thành Đại Đạo.

Phong là gió, là năng lực hỗ trợ cho lửa hừng lên. Hỏa là lửa, là công năng huân hóa Âm khí

cho đạt đến Thuần Dương.

Cho nên đức Như Lai có nói: Hỏa hóa dĩ hậu thâu thủ Xá Lợi. Lại nói: Vi Phong xuy động.

Phong Hỏa với lậu tận phải kiêm dụng, thì tự nhiên được hòa hiệp ngưng tập mà thành Chánh

Đạo.

Page 161: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

161

Thị dĩ Phật pháp thứ đệ dụng công chi Chân truyền khởi vô bằng chứng.

Cái đạo Chân thiệt, thì có Chân thiệt thứ đệ công phu. Nếu như tiền hậu hỗn tạp, tức chẳng

phải là Chánh đạo của Như Lai mà là bàng môn tả đạo mà thôi.

Tứ đệ công phu như: Lúc hạ thủ, có công phu hòa hiệp Chân chủng. Lúc chuyển thủ (chuyển

bá nhật trên mười tháng), có công phu luyện Xá Lợi. Lúc đã thành Xá Lợi, có công phu ôn

dưỡng Thánh Thai. Lúc đã tản thủ (buông tay), thì có công phu xuất Thần hiển hóa và Cửu

niên diện bích.

Nhưng về thứ đệ công phu chẳng dám vọng luận chỉ là hội tập bí cơ về thứ đệ dụng công của

Phật, của Tổ, lại phóng đại ra để làm bằng chứng cho sự phân chia tiết đệ.

Cứ sau mỗi câu chính văn thêm chú cước, để dụ hiểu đồng chí chứng thành Chánh giác và

không còn mê ngộ.

Vọng dĩ nhất ngôn, bán cú, nhi vi Đạo tai.

Như trong Thiền môn ngày nay, bản thân vốn chưa đắc Chân truyền mà chỉ dùng hư vọng ngữ

gọi là để cảm hóa người. Có kẻ nói: trước khi cha mẹ sanh có kẻ nói niệm Phật … Tất cả đều

là hư vọng, chẳng có chi để đem ra thực dụng thực tế cho con người, mà chỉ là điều hoặc thế

vu nhơn, phỉnh gạt kẻ mê để đồ danh trục lợi mua lấy địa vị riêng mình, chẳng khác nào kẻ

đạo tặc trong cửa tu hành.

Lại phóng lên chủ trương Đông vấn Tây tầm để tham cầu Phật pháp, cuối cùng cũng là nhất

trường không lão, làm sao đủ gọi là Chánh đạo.

Người có chí hãy quán xét lẽ nầy để cùng được lý mới thật là Chân lão bà Thiền.

Thiền khẩn đầu chẳng phải là Chân Thiền mà là Thiền hổ bì, hổ tử, y phục!

Thả thiên cổ chí kim, mạc bất dĩ manh dẫn manh, khanh hãm vô số chi Thiện tín thâm

nhập Cửu Trùng, cánh bất năng xuất đầu kiến Phật chi quang hoa.

Phật pháp từ đời Hán Minh đế mới nhập vào nước Trung Hoa. Trước Tần Thủy Hoàng đã có

Phạn Tăng đến, Tần Vương không tiếp nhận. Từ đó cho đến lúc Phật pháp du nhập, số người

lầm lạc xa rời chánh đạo vô số. Có cơ duyên tốt là nhờ Tổ sư Đạt-Ma đến đất nầy, mới chứng

minh được chánh tà, chân ngụy.

Thiền tông truyền ở đây được sáu đời. Sau Lục Tổ một thời gian, người Trung Hoa trở lại con

đường lầm lạc nên có 96 ngoại đạo và 24 pháp quán bàng môn. Chỉ có môn đả thất, tợ như

thuốc độc hại người, chôn người trong hầm lửa.

Page 162: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

162

Thích giáo từ Tây phương 28 Tổ, Đông độ 6 đời vốn không có môn nầy. Đó là do nhóm Cao

Phong sơn du đạo, công phu của nhóm nầy chuyên bế tức bàng môn, chẳng phải Chánh đạo

của Như Lai.

Có kẻ hỏi: làm sao để thấy rõ?

Đáp: Cao Phong môn chuyên dùng pháp bế tức, là ngưng hẳn hơi thở, công phu như vậy lâu

ngày sẽ bị chứng thổ huyết, mười người chết chín. Lại còn dùng phương đả thất, là đánh vào

Tích Lạc (xương sống), lâu ngày sinh ra chứng lao, khổ não mà chết, há không đau xót sao.

Người không biết được khí huyết mạch lạc trong người thì làm sao biết được Đạo.

Thân người suốt ngày lao quyện, đêm đến chỉ còn chờ Tâm Thận Hậu Thiên giao hòa, để tư

nhuận phần căn bản của thân nầy. Nếu dạy người 49 ngày đêm không ngủ, lại gọi là pháp môn

của đại Đạo. Lại bị lao chứng, khổ não mà chết, là điều vu hoặc.

Y học có nói: người mà suốt 49 đêm liền không ngủ, thì Tâm và Thận không giao tiếp với

nhau tất sinh chứng lao.

Lại thêm việc đánh vào Tích Lạc, gây sự tổn thương cho Tạng phủ.

Than ôi, hình phạt nầy đến Đường đế mới giải tỏa. Từ đó về sau chẳng ai dám dùng nữa.

Lúc đầu nhà vua thấy hình pháp nầy mười người chết hết chín. Vua mới khảo duyệt lại các y

thư, thấy trong Ngũ tạng con người có mạch lạc, có sự liên hệ của Tích (xương sống) với tổng

Lạc, mới thông khí huyết mới vận hành để nuôi dưỡng phần căn bản của thân hình.

Nếu cứ đánh vào cột sống nầy, tức là cản trở khí huyết phải đi ngược trở lên, cuối cùng lư y,

Biển Thước cũng vô phương khả cứu. Cho nên nhà vua mới nghiêm giải các hình phạt nầy là

trách nhiệm theo đúng y học.

Lại còn dùng cái danh mổ tăng, mổ tăng trên tấm vải vàng gọi là truyền pháp, để hư truyền mà

mê hoặc thế nhơn, khanh hãm hàng sơ học. Lại còn dùng Thiền ngữ lục truyền khắp thế giới.

Dù có người nào gắng chí cũng không biết chỗ Chân cầu.

Lại còn cho Phật, cho Tổ là những đấng thiên sinh, cũng trong lý thuyết không đâu. Như vậy

là biến cái ánh sáng huy hoàng của diệu hoa Như Lai trở thành hắc ám.

Cái đại tạng chi pháp bửu, bổn thị chỉ. Nại hà đương cơ học giả, hữu thiện thâm căn,

hữu lợi đốn ngộ. Thử tiền hậu hỗn tạp, thiệt bất khả thành kỳ trục tiết chi thứ đệ.

Đại tạng giáo có quyền pháp, có thiệt pháp, có pháp vô vi, có pháp hữu vi, há đâu phải chỉ một

khái luận. Chính tại ở người có học hay không học, dĩ nhiên là học cái đạo Tánh Mạng.

Page 163: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

163

Nhi hậu lai chi Tổ, sở dĩ đắc, dĩ thành quả, diệc bất khả định tiết nhi đồng luận.

Chư Tổ hậu lai có chỗ được trao, hoặc là chẳng có thể trao cho công đồng đại chúng. Đại

chúng chỉ lấy quyền pháp chế phục.

Tục tăng gọi ngộ Tánh, chỉ tránh khỏi ở đa sự, và sinh biệt niệm là đủ, thật là sai lầm.

Thiệt pháp đắc ngộ là do ở tư phụ mật ngữ, nên gọi: Giáo ngoại biệt truyền, riêng thông tiêu

tức. Thí dụ như đức Thế Tôn không truyền cho đồ đệ A Nan mà tư phụ cho Ca Diếp thành Nhị

Tổ. Ngũ Tổ chẳng truyền cho Thủ tọa Thần Tú mà tư phụ cho Lô Năng làm Lục Tổ.

Cho nên cái đại bửu để thành Phật, thành Tổ há truyền cho người vô chí sao. Tất yếu là phải

lựa người có chí khí lớn làm Phật làm Tổ. Thông suốt được Chân lý nầy mới có thể tư phụ.

Cho nên bí ngữ của Phật pháp rất khó được nghe.

Hoặc hiển ư vô vi, nhi ẩn ư hữu vi.

Vô vi là diệu pháp dụng công từ mười tháng dưỡng Thánh thai đến nửa thời gian Cửu niên

diện bích.

Chẳng phải như ngày nay tục Tăng lấy khô tọa làm vô vi.

Còn hữu vi là nửa công pháp ở ngưng tập hòa hiệp của Huệ Mạng trước tiên.

Có bằng có cớ là cơ diệu dụng của Tiên Thiên Chân Khí, chẳng phải như hữu vi của thế gian,

Bửu Tích kinh nói: Nhất thiết chư pháp, thị mê ảo hóa.

Chính trong đó có một pháp là: Hòa hiệp ngưng tập, quyết định thành tựu.

Trong kinh tụng có nói:

Đại sĩ tu hành giải thoát môn

Chuyển ích từ bi cầu Phật pháp

Tri chi hữu vi, hòa hiệp tác

Chí lạc quyết định cầu hành đạo

Lời kinh còn nói: chỉ vì Nhị thừa bị đọa lạc vào vô vi, chôn sâu cái tinh thần quảng đại, nên

chẳng được chứng quả siêu thoát.

Cổ đức nói: Hữu vi tuy là hư ngụy, nhưng nếu bỏ đi thì công phu chẳng thành, vô vi túc chân

thiệt, nhưng nếu đem lòng thích thú thì Chánh hỏa khó chứng.

Page 164: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

164

Thiền môn ngày nay nghe đến hữu vi gọi là tri tướng nên bỏ đi mà chẳng dùng. Thù bất tri

hữu vi nầy là trong cơ định tịnh, là Diệu đạo hữu vi. Thí dụ như Trời đất vốn ở tinh thần vô vi,

sinh ra vạn vật là hữu vi. Đó là tối thượng nhứt thừa của Phật pháp.

Cũng như Tâm con người lúc đã đạt được trạng thái vô vi, thì trong đó có một bửu vật siêu

nhiên xuất hiện. Nếu chẳng dùng chân Ý thâu thủ lấy bửu vật đó, há chẳng bị phát tán ra ngoại

cảnh sao. Tức là chẳng còn là bửu vật của ta. Do đó mà có pháp thủ quy, nên gọi là pháp hữu

vi. Lục tổ gọi: vãng Bắc tiếp độ.

Hoặc hiển vô vật, nhi ẩn ư hữu vật

Vô vật là nói về một nửa sau của Tánh công.

Có vật là nói về một nửa trước của Mạng công.

Giả Thiền đạo ngày nay nghe đến hữu vật liền sanh tâm nhàm chán. Thù bất tri, vật đó là căn

bản của Đạo, là rường cột của pháp, người người đều có. Cái có đã chẳng phải là vật do tư lự

niệm tưởng mà có. Cái có đó là một bửu vật nơi Tổ Khiếu Huyền quan.

Lục Tổ nói: Ngô hữu nhất vật, vô đầu vô vỹ, vô danh, vô tự, vô bối vô diện.

Phó Thái sư nói:

Hữu vật Tiên Thiên địa

Vô hình bổn tịch liêu

Năng vi vạn vật chủ

Bất trục tứ thời điêu

Đó là bửu vật của Tiên Thiên, làm chủ tể và dưỡng dục Hậu Thiên. Tán phát ra thì không có

hình có ảnh. Lúc tụ lại thì thành Xá Lợi.

Viên Ngộ Thiền sư nói: Hà vật cao vu Thiên, sanh Thiên giả thị. Hà vật hậu vu Địa, dục Địa

giả thị. Hà vật khoan vu hư không, bao hư khổng giả thị. Hà vật siêu Phật việt Tổ, thực (gieo

trồng) Phật Tổ giả thị. Nải hóa dục chi bản. Vật ngả đồng đồ, cho nên nói: Ta và vật đồng một

đại phụ mẫu. Thuận theo đó thì sanh người, sanh vật, nghịch lại đó thì thành Phật thành Tổ.

Thuận theo đó thì người đều biết, nghịch lại lẽ đó nên không nhờ Chân sư chỉ truyền thì không

thể nào hiểu được.

Vân Phong Thiền sư nói: có một bửu vật cứu người rất bí mật, nhưng ít người được biết. Đó

là Tiên Thiên thuần Dương chí cương Khí.

Page 165: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

165

Chân Khí này lúc tán phát ra thì châu lưu khắp cơ thể con người, lúc rút lại thì quy tụ về Tổ

Khiếu Huyền quan.

Hàn Tử nói: khả quý thiên nhiên vật. Độc nhật vô bạn lữ. Mích (tầm) tha bất khả kiến xuất

ngoại, vô môn hộ. Xúc (thu lại) chi tại phương thôn. Duyên (kéo dài ra) chi nhất thiết (tất cả)

xứ. Nể (ngươi) nhược bất tín thọ.

Tương phùng (gặp mặt) bất tương ngộ (gặp lòng). Đại tắc bao tàng pháp giới. Tế (thu nhỏ lại)

lật mễ (hạt gạo) vi trần.

Tuyết Phong Thiền sư nói: Trời đất mà tóm thâu lại thì nhỏ như hạt gạo. Tuy là như vậy

nhưng trước phải nên hòa hiệp ngưng tập, sau đó mới có báu vật, đức Thế Tôn gọi là Bồ đề

chủng tử là báu vật mà Pháp Hoa hội thượng Long nữ đã hiến.

Hoặc hiển ư vô sự, nhi ẩn hữu sự.

Vô sự là pháp của Tổ sư để chế phục chúng nhơn, có sự là pháp Thượng thừa của Tổ sư ẩn

tàng mật thọ.

Kẻ phàm phu không có thiện căn không bao giờ tin. Cho nên đức Thế Tôn mới nói: Ta giáng

sanh vào đời Ngũ trược ác thế nhờ có việc khó đó mà chứng quả Vô Thượng Chánh đẳng

Chánh giác. Các thuyết của Thế gian đối với pháp nầy, thì pháp nầy thật rất khó khăn.

Lại nói: sự việc của đức Thế Tôn như vậy, nên đời khó tin.

Tổ sư nếu cùng lớp người hạ căn mà thuyết tất gặp sự phản đối, cho là lời nói không phải.

Cho nên Pháp Hoa kinh mới nói: lúc đó Phật bảo Xá Lợi Phất hãy dừng lại, đừng nói thuyết

đó nữa. Nếu thuyết việc đó thì tất cả các cõi Người, các cõi Trời đều kinh nghi.

Lại còn nói: chỉ có một việc nầy mà thôi, còn ngoài ra đều chẳng phải Chân.

Có việc ở đây, chẳng phải là việc của bàng môn mà là việc do báu vật phát động nơi ải

Huyền quan, lấy Chân Ý của ta mà chủ tể báu vật nầy dùng hô hấp để thâu thủ và hòa hiệp

Chân chủng để vận chuyển Pháp luân. Thể thủ huân chưng đều là Chân Ý đồng hô hấp dụng

công của Huệ Mạng. Cho nên có danh là hữu sự.

Huệ Mạng là tên riêng của Nguyên Khí.

Lúc Chân Dược phát sinh mà không Thể thủ há không bị tán thất sao.

Cho nên Hưng Dương Thiền sư mới nói: Tiến tới một bước, về lý được sáng suốt (được). Lui

một bước thì việc phải bị sai lầm.

Page 166: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

166

Hoặc hiển ư Tiểu Thừa, nhi ẩn ư Đại Thừa.

Tiểu Thừa pháp là pháp của Thiền sư thực thi về quyền pháp như: tham thiền, đả tọa, niệm

kinh, tụng kinh, xem kinh… là để gieo nhân quả cho Thiện căn.

Đại Thừa pháp là do Tổ sư mật ngữ như: Huệ Mạng, Lậu tận, Quy túc và cái quả siêu phàm

nhập Thánh.

Trên đây là những lời luận đại khái về Đạo.

Hoặc hữu ngôn chi dị, nhi dục chi thiển, đương trục tiết dĩ thục ngoạn, bất khả mạo thị.

Tham ngộ vô nghi, tái cầu ấn chứng, sử đồ chấp kỳ thiên kiến, thủ tông ư vọng nhơn chi

khẩu hà kỳ vu đa.

Lời nói thiển cận dễ hiểu tức là Chân phương của Tánh Mạng, chưa đắc được Chân quyết thì

khó mà hiểu rõ. Tất phải trước sau dung hiệp và quán xét cho tận cùng từng thứ đệ, rồi phải

cầu Chân sư ấn chứng để khỏi bị cái lỗi một kiếp tu luyện không ra gì.

Như nay phái Tòng Lâm sở truyền, sở đắc, sở chứng đều chẳng phải Chánh pháp của Như

Lai mà là giả danh truyền trên tấm vải vàng mà gọi là Phật pháp, nếu nhìn nhận theo đó là lầm.

Đó là hiện trạng sau thời Lục Tổ, là không đắc Chân truyền, là kế hư vọng tạo sự của Phương

trượng, lấy hư ngôn dối người hậu học nên có ít nhiều Thiện tín lầm theo. Chẳng phải là Phật

pháp mà là mối manh của sự tranh tụng.

Dư Cố viết:

Thoát tục ly trần mích quá tri

Đoạn dâm ngộ Đạo quý Chân sư

Nhẫm tha chỉ thuyết vạn ban pháp

Dữ ngã thân tâm nan tự quy

Cách ngoại cao đàm phi Chí đạo

Phiến ngôn ám điểm thị Lương y

Đắc lai tạm thí tùng đầu khán

Nhất khắc công phu quả tự hi

Tạm dịch:

Page 167: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

167

Thoát tục lìa trần hỏi quá tri

Đoạn dâm đúng đạo thật Chân sư

Còn ra chỉ thuyết bao la pháp

Đối với thân tâm có ích gì

Lời nói mông lung đâu phải Đạo

Nửa lời bí mật thật Lương y

Được rồi nên theo từ đầu tập

Một khắc công phu tự mỉm cười

Cổ nhân nói: dục đăng sơn thượng đảnh, tu vấn vãng Lai nhơn.

Quá tri: là người đã đắc Chân quyết, hoặc đã thành, hoặc chưa thành, hay chưa hạ thủ đều là

người đã đắc được Chân quyết tu luyện.

Đoạn Dâm là giới đầu tiên của Thủ Lăng Nghiêm, là rường cột thành Phật tác Tổ.

Dầu cho những người mình mặc cà sa, tay cầm tích trượng mà chẳng đoạn dâm lại xưng tu

hành, há chẳng làm trò cười cho các bậc Cao nhân sao.

Ngoài hình tướng uy nghi mà bên trong chẳng khác phàm phu tục tử, thật lấy làm xấu hổ vậy.

Chỉ có một việc đoạn dâm, nếu chẳng cầu Chân sư thì làm sao đoạn được.

Cầu chân sư trước tiên là hỏi về pháp nầy, còn những pháp khác đều là bàng môn.

Thích giáo ngày nay chỉ là khán kinh, niệm kinh, tụng kinh, tham khảo Thiền, đánh vào cột

sống hỏi ngữ đầu… còn những gì chủ yếu của Thiền gia thì không hề nghĩ đến. Tình huống đó

có khác gì các tên phù thủy dùng lá vàng để cấm em bé khóc đêm, nên đối với Thân Tâm ta

chẳng có ích lợi gì cả.

Người nay học Phật chẳng đắc Chân truyền mà dám tự xưng ta là Bồ Tát, ta là Thiền sư, còn

bao lý thuyết đều là ngữ lục, đều là hư ngụy ngôn! lại còn nói Tăng là lúc chết sẽ thành Chánh

quả.

Nếu nói như vậy thì tất cả những người trong thiên hạ đều thành Phật hết sao?

Thù bất tri, người đã đắc chân truyền của nền Thánh đạo thì lúc còn sống vẫn thực thi những

gì như Bồ Tát đã thực thi, hoặc nói những gì đều là tinh hoa của Tam giáo.

Page 168: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

168

Phiến ngôn là Chân thiệt ngữ chứ không phải là nói văn hoa phù phiếm, thi phú, trường thiên.

Tức là những gì nói hoa ngôn xảo ngữ.

Cho nên Ngũ Tổ mới nói: Sư sư mật phụ bản âm.

Ám điểm: như lúc canh ba Ngũ Tổ ám điểm cho Lục Tổ, như Thế Tôn ám điểm cho Ca Diếp.

Đắc được Chân đạo thì bệnh nghi ngờ mới tận tuyệt và suốt thông tất cả kinh văn của Tạng

giáo cho nên gọi lương y.

Đã đắc Chân quyết thì lập tức hạ thủ tu khởi. Nếu quả thiệt là Chân đạo thì biết rõ lúc dâm

căn mới bắt đầu manh nha lập tức hồi quang phản chiếu, ngưng Thần tại Khí huyệt mà chờ.

Chờ đến lúc Nguyên Tinh triền động thì dùng hô hấp mà thổi vào, và phải theo đúng pháp thể

Dược quy Lư, trong khoảnh khắc Dâm căn tự rút, Chân Ý và Chân Khí tự hiệp, Tâm tịnh và

Thận sảng nên tự mỉm cười.

Ứt văn chi Tâm kinh viết: Quán Tự Tại Bồ Tát.

Hoa Dương Thiền sư nói: đây là cảnh giới rất quan trọng thiết yếu của Như Lai rũ Thiên âm

dạy về chánh pháp khởi thủ song tu Tánh Mạng.

Chỉ vì kẻ phàm phu chẳng đắc Chân truyền bèn gọi lấy niệm quán niệm, tức là Quán Tự Tại

Bồ Tát. Thật là điều rất lầm lẫn!

Thù bất tri, cái niệm nầy có năng lực duyên tập hữu thức chủng kết lại, chẳng phải là bản

nguyên của Đạo.

Trình Tử nói: Chánh đạo định lý, quả thị Tâm hồ, ứt phi Tâm hồ.

Đó là để khải thị cho Tu sĩ riêng thông về cơ Tiêu tức đến cùng tột.

Quán với Bồ Tát là đích chỉ diệu dụ của 2 bửu vật song tu của Như Lai. Sao gọi là một vật

được, tức gọi Niệm là Đạo thì là sự xa vời vậy.

Cho nên kinh Viên Giác mới nói: tất cả chúng sanh quấy nhận Tứ đại là tự thân của mình và

đem lục trần làm nhiều mối của tâm mình.

Huyền diệu Tông lại nói: Linh Đài, Trí Tánh không phải là cội nguồn của sinh tử. Nếu vọng

nhận duyên khí chỉ nhân tiền trần mà có phân biệt là chẳng phải. Cho nên Truyền pháp Như

Lai có nói: không vương điện nội vô tông tích.

Nếu nhận Niệm là chân thật thì Bồ Tát phải nương theo đường củ và bị Chân giấu nơi Cửu

địa, chẳng được xuất đầu biến hóa để thành diệu tướng của Như Lai, rồi không phí thân sanh

nầy trong một đại kiếp nhân duyên.

Page 169: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

169

Niệm nầy là do thành phần âm trong Tâm Hậu thiên, là Thức Tánh biến hóa, vạn kiếp ngàn

sanh đều do thành phần nầy nhiếp lý khiến cho Bồ Tát mê lộng rồi rơi vào nẻo tham trần biến

dục, chẳng được giải thoát, cũng chẳng được chứng quả.

Sự chuyển kiếp mê thất nầy là do chẳng biết được chỗ xuất xứ của Bồ Tát, và do sự quấy

nhận thành phần Thức nầy.

Cho nên Cảnh Thiền sư mới nói:

Học đạo chi nhơn bất Thức Chân

Chỉ vì tùng tiền nhận Thức Thần

Vô thỉ kiếp Lai sanh tử bản

Sơ nhơn hoán (gọi) tác bản Lai thân

Nam Tuyền Thiền sư nói: Tâm bất thị Phật. Trí bất thị Đạo. Khởi bất lạc không vong, man

nhiên vô chủ tai?

Có kẻ hỏi: lấy gì để tu luyện?

Đáp: Quán nầy là chánh niệm trong Linh quang của ta. Chưa đắc Chân truyền sao gọi là bản

Tánh được. Chính là Bồ Tát trụ cư Tịnh độ, hai báu vật là Thần với Khí ở cách nhau tám tấc

bốn phân xa, nếu chẳng Quán nhất thì làm sao hai bửu vật đó tương hội được. Cho nên phần

hạ văn sẽ nói về hòa hiệp, ngưng tập, quyết định, thành tựu.

Bồ Tát tức là Huệ Mạng, gọi là Phật Tánh.

Từ lúc lìa khỏi bụng mẹ nơi lòng đất phát lên một tiếng, lúc đó là Quán và Bồ Tát hai thành

phần phải lìa nhau. Bồ Tát thì ẩn vào nơi thâm mật, nếu chẳng cầu Chân sư thân chỉ dù có

thông minh linh ngộ cũng không thấy được.

Chỉ vì đạo Tâm duy vi, từ đó về sau những gì mà ngày đêm mưu lự, dù là thông minh trí tuệ

cũng do Thức thần dụng sự.

Tổ sư có nói: các ngươi đều có Phật Tánh, đó là Như Lai phát đại từ bi dạy chúng sanh nơi

đại địa: thời thời khắc khắc quán chiếu lấy Bồ Tát nầy.

Bồ Tát mà thọ được Linh quang của Huệ lực, lâu ngày thì đạt được trạng thái Thái Cực, như

nửa giác nửa mộng, dung hóa khắp châu thân tợ như huân chưng, linh động hoạt bát tợ như

viên ngọc Châu nằm trong bồn nước hoát nhiên linh tĩnh phóng đại quang minh. Thần lực đã

đủ thì thời đến. Chợt vậy, tợ như có một làn thủy triều dâng lên cùng với thức Tánh của ta hiệp

lại làm một.

Page 170: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

170

Đến đây thì Thức Tánh chết, Phật Tánh linh hiệu linh linh như lúc cũ. Đó là Chủ nhơn có ánh

hào quang chiếu soi khắp cõi Ta Bà. Lục thông toàn vẹn hết vương trần cấu, chỉ còn một Tánh

viên dung như thân không. Cho nên mới gọi: cả thảy hàm linh đều có Phật Tánh.

Tuy nhiên nếu sống thuận theo quy luật diễn biến âm dương Hậu Thiên thì sinh người sinh

vật, nếu sống ngược lại là theo cơ tiến hóa một chiều của Trung Thiên thì thành Phật thành Tổ.

Phàm Thánh hai nẻo cũng do chỗ nầy. Đó là một bửu vật, một Thái Cực.

Có được Thái Cực nầy thì tri giác, ngôn ngữ đều thị hiện đúng với đặc tính Thái Cực.

Lúc nầy mắt khép, miệng khóa, y gia gọi là Chân Hỏa. Chân Hỏa thiệt vô hình vô ảnh, ẩn

tàng nơi sau Rún, trước 2 quả Thận, ở dưới 1 tí, treo lững lờ một huyệt, Cổ nhân gọi là Tịnh độ

gia hương, Cực lạc quốc, Diệu hữu, Chân không.

Có được Chân Hỏa nầy mới huân chưng toàn thể âm khí, dâm khí trong người, hóa thành

Thuần dương. Nếu không có Chân Hỏa nầy thì Chân Tức sẽ bị gián đoạn hoặc bị chấm dứt, thì

thân hữu hình sẽ bị hủy hoại.

Lục Tổ nói: Tâm thị địa, Tánh thị vương. Vương cư Tâm địa thượng. Vương tại Thân tâm tại.

Vương khứ Thân Tâm hoại.

Tâm nầy chẳng phải là quả tim thịt mà là Đạo Tâm. Cho nên mới nói: Đạo Tâm cư ư Bắc

cực, nhi chúng tinh triều củng.

Người trong thiên hạ học Phật, nếu chẳng tu lấy Bồ Tát nầy mà tu theo nẻo khác thì vô ích.

Tu theo nẻo khác tức hệ thuộc bàng môn ngoại đạo.

Chẳng phải là Chánh pháp Quán tự tại Bồ Tát.

Bửu tích kinh vân: Hòa hiệp, ngưng tập, quyết định, thành tựu.

Đây là lời mật ngữ của đức Thế Tôn, là bí văn của Đại tạng nhất giáo, là pháp bửu Tánh

Mạng song tu. Cho nên nói: quyết định thành tựu.

Đạo nầy từ Hán Minh đế đến nay chưa có một người hiển bị. Chỉ riêng có Đạt Ma và Tịch

Vô, 2 Tổ sư mật truyền bí pháp nên nhục thân của người tu sĩ mới được biến hóa và thăng lên

cõi Thái Không mà doãn chứng Kim Thân.

Tổ sư Đạt Ma về cơ nhiệm mầu chỉ mới hé lộ, còn Tịch Vô Tổ sư lại nói rõ trong kinh điển,

xiển dương cái Đạo nầy. Nhưng vì môn nhơn lại tàng bế kinh thơ chẳng để tiết lộ ra ngoài.

Nay ta giải thích minh bạch đầy đủ là mong đồng chí khái thông để đạt chứng quả hầu khỏi

bị rơi lạc vào nẻo bàng môn, hay bị tật bệnh mà yểu tử và sớm đạt thành chánh quả.

Page 171: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

171

Hòa là khí Âm trong Tâm hạ hòa với khí Dương trong Thận. Khí Âm mà đắc được khí

Dương nầy mới có cơ sở an Tâm, lập Mạng nên gọi là Hòa.

Hiệp là khí Dương trong Thận thừa thọ khí Âm trong Tâm. Khí Dương được thọ nhận lấy

Âm khí nầy thì được liễm thu thành cái Thể kiên cố nên gọi là Hiệp. Dịch kinh gọi: Nhất Âm

Nhất Dương chi vị Đạo, Thiên Âm Thiên Dương chi vị tật.

Từ xưa đến nay chư Phật chư Tổ đều theo đích hướng Tánh Mạng song tu, chỉ có phàm Tăng

mới bị thiên tu!

Ngưng là pháp ngưng Thần.

Tập là phương gom góp Chân Khí lại.

Chân Khí nếu không tụ tập lại làm sao thành bồ đề. Mạnh Tử gọi: Tập nghĩa nhi sanh.

Đó là Tánh Mạng đều tu, là dưỡng Thần dưỡng Khí, giản dị mà dễ thành.

Chỉ vì chẳng biết song tu nên đức Như Lai mới nói: Hòa Hiệp.

Con người từ khi lìa khỏi bụng mẹ thì Thần chẳng hề cố đoái đến Khí, Khí cũng chẳng hề cố

đoái đến Thần. Thần ẩn tàng nơi Tâm rồi Phật hiện ra 2 mắt, mà bảy khiếu kia đồng công dụng

rồi theo ban ngày tháng mà thượng hao.

Mạng thì ẩn tàng nơi Thận rồi phát hiện ra dâm căn, rồi theo ban đêm mà hạ hao mãi thì bẩm

thọ con người như thế nào? Tiêu hao đến cùng, tức sẽ ô hô! Nếu chẳng cầu Chân sư chỉ điểm

ngưng tập dầu cho có tu cũng chỉ tu một điểm Âm Thần mà thôi. Thù bất tri, Thần nầy là Thần

của Hậu Thiên nên không thành chánh đạo được. Cho nên đức Thế Tôn mới dạy: trong 12 giờ

hành, trụ, tọa, ngọa đều dùng chánh Niệm mà thu liễm cái Thần vi tế ngưng nhập vào trong

Thận Mạng.

Thận Mạng mà đắc được Thần nầy chẳng khác Trung thần gặp được Thánh quân. Thần Khí

cùng nhau củng phục, cũng chẳng dám tự riêng mình thiên ngụy ngoại hao.

Cứ như vậy mà dụng công, lại thêm công phu cùng lý, thì sau đó dùng pháp thể thủ Nguyên

tinh sẽ thành công. Lứa tuổi thiếu niên chẳng tròn một tháng, trung niên không quá 5 tháng thì

Tổ Khiếu Huyền quan thình lình không trở nên có, không biết từ đâu lại. Thoạt vậy Chân cơ

phát động, hết sức vui sướng, đối với sự mầu nhiệm chẳng biết dùng ngôn ngữ gì mà diễn tả

được. Đến đây phải lo bảo thủ và nhanh chóng chuyển bánh Pháp Luân. Cho nên đức Thế Tôn

mới dạy: cứ y theo pháp ngưng tập mà tu luyện thì quyết định sẽ được thành tựu.

Lục Tổ Đàn kinh viết: Hữu tình Lai hạ chủng.

Page 172: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

172

Tình ở đây là sự hé lộ thiên cơ về công phu hạ thủ của Huệ Mạng. Nếu không có Tình nầy thì

không thể nào thành Phật. Thí dụ như nông dân không có giống thóc, nếu muốn thu hoạch có

phải là việc kỳ lạ không.

Thiền Tăng ngày nay chẳng được thành Phật là do cái lỗi không biết được Tình nầy.

Ngày xưa Ngũ Tổ là Tài Tòng đạo nhơn (đời trước) đến cầu đạo nơi Tứ Tổ. Tứ Tổ trông thấy

Ngũ Tổ hình hài đã già và không còn Tình bèn nói: ngươi hãy chờ chuyển hết kiếp đạo nhơn

nầy đã. Kết quả là Ngài đã viên tịch và nhập vào Châu thị và đạt được Chánh đạo. Theo việc

nầy mà nói là chẳng cần đến cha mà tự đầu vào hoài thai, cũng là do cái lý hữu Tình nầy.

Lục Tổ nói: Dâm Tánh thị Phật Tánh.

Mã Tổ nói: cũng chỉ có một báu vật nầy đó là 2 vị Tổ đã tiết lộ Thiên cơ.

Long Nha Thiền sư nói:

Nhơn tình nồng hậu, Đạo tình vi

Đạo dụng nhơn tình thế hãn tri

Không hữu nhơn tình vô đạo dụng

Nhơn tình năng đắc kỷ đa thì (thời)

Chỉ một chữ Tình nầy mà từ Hán Minh đế đến nay khiến học giả phân tách lăng xăng vẫn

chưa được minh bạch.

Nếu chẳng đắc được pháp Huệ Mạng mà gọi là Tình, thì đó là thế Tình.

Có kẻ mới học vài câu sáo ngữ cơ phong thoại đầu mà đã tự cho ta suốt thông chánh đạo. Lại

lấy đó mà hoặc thế vu dân, sao khỏi phải lo để trò cười cho các bậc cao nhân hậu thế!

Ngũ Tổ và Lục Tổ mới là đích thống của Như Lai, là đích truyền cái đạo Huệ Mạng.

Có cái lý cấm bế là chẳng truyền cho kẻ vô đức vốn là sự thật, mà từ xưa đến nay đã có.

Có kẻ hỏi: cái Tình nầy là Tình gì?

Đáp: Tình nầy là cơ hóa dục của Huệ Mạng, là guồng máy đốn khai Nguyên quang. Huệ

Mạng tuy ẩn tàng nơi Huyền quang, lúc tịnh cực thì sẽ phát sinh, rồi y phụ ngoại hình mà dấy

lên, rồi khởi hứng cái Ý trong Tâm ta như có sự tình cờ mà biết. Tình đó đã đến tột thì ngoại

hình hưng động, đó gọi là Tình.

Cho nên về pháp bế Dương quan, Như Lai có nói: bất Thức động Tịnh, học Đạo vô ích.

Page 173: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

173

Có người lại hỏi: thế nào là hạ chủng?

Hoa Dương đáp: Tình nầy là cơ thuận nghịch sanh Người và sanh Tiên Phật.

Cái đoan đích của cơ tạo hóa, nếu chẳng phải Chân Ý thì làm sao nghịch quy được.

Tu sĩ học Phật nếu đã hiểu được cơ hình động thì đem cái Chân Ý vào trong cơ tịnh của ta

ngưng nhập nơi Trung cung lúc Tình lại là lúc phải ngưng. Lâu ngày thì Thiên cơ phát động,

thình lình Mạng cũng sẽ sản xuất Bồ Đề, nên gọi: hạ chủng.

Có kẻ hỏi: tu luyện ở chỗ nào?

Đáp: đã biết ngưng pháp thì phải biết luyện pháp. Luyện là nung nấu. Nung nấu phải dùng

lửa. Lửa chẳng có gió thì không hừng lên, cũng chẳng được huân hóa vật sản. Cho nên đức

Thế Tôn mới nói: Vi Phong xuy động. Lại nói: Hỏa hóa dĩ hậu, thâu thủ Xá Lợi.

Tu sĩ cần phải sai sử cái gió hô hấp mà nghịch xuy cái Chân Hỏa nơi Mạng cung, là từ chỗ

phát sinh ra cái ngoại căn của Huệ Mạng, rồi dùng hô hấp mà nhiếp hồi bản địa mà ngưng tụ,

đoạn lấy cái lửa trong lư để huân để luyện cho đến khi nào hữu hình hóa thành vô hình. Tu

luyện được như vậy chẳng chỉ Huệ Mạng nơi bản cung không bị ngoại hao, lại còn đem cái

động cơ nầy bổ trợ cho bất túc của Huệ Mạng. Tức gọi Tạo hóa sanh sanh vô cùng. Lâu ngày

thì Mạng cơ mãn túc. Lại gọi là Huệ Mạng bất tử. Cho nên đức Như Lai được Ca Diếp gọi bất

tử A La Hán.

Hựu Ma ha bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh viết: Thời.

Trong các kinh thư, hầu hết cứ mỗi câu thơ có vài ý, tối thiểu là có vài chữ, đặc biệt ở đây lại

chỉ có một chữ “Thời”, há chẳng lạ sao?

Đây là lời nhắc nhở của Như Lai dặn dò hộ nhơn nên nhớ: Thời là chí thiết, chí thiết.

Thời đây chẳng phải là thời hầu, thời gian mà là cái thời của Dương động trong lúc tu sĩ dụng

công Thiền định cực tịnh. Cổ Đức nói:

Nhược ngôn kỳ thời vô định thời

Thanh phong minh nguyệt tự gia tri

Nho giáo có nói:

Nguyệt đáo thiên tâm xứ

Phong lai thủy diệu thư

Chư ông tuy nhiên diệu

Page 174: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

174

Dục phát kỳ thiên cơ

Khước khổng bất khẳn thuyết

Xuất thị cá thẩm

Thời Lai thả giáo nhơn

Tương hà sở dụng hồ?

Dư bất tích tội quá.

Dử chư nhơn thông nhất tuyến,

Miễn đọa bàng môn,

Tảo chứng đạo quả,

Khởi bất diệu tai.

Thích nghĩa:

Trăng kia đã đến cốc thần

Gió về mặt nước trong ngần thời Lai

Là cơ tạo hóa an bài

Nhiệm mầu hiển hiện không ngoài Thiên cơ

Từ xưa lời mãi lặng tờ

Cũng là Chân Dược Chân cơ nơi người

Thời Lai chớ khá dễ người

Lấy chi thể dụng vẹn mười mới nên.

Tám câu thơ trên là lời tiết tận Thiên cơ của ta mà không sợ tội lỗi, là muốn cùng tu sĩ đồng

theo chánh pháp để khỏi đọa bàng môn, sớm thành chánh quả, há chẳng huyền diệu sao.

Thời đây là lúc Huệ Mạng trong thân ta tự động. Cổ Đức gọi là hượt Tí thời.

Cái cơ phát sanh của khí Chơn Dương tợ như lửa phựt, mạnh tợ gió lửa. Nếu không có Chân

sư truyền trao về Chân Ý và Chân Tức thì lấy gì để chế phục.

Page 175: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

175

Nó có biệt danh là mãnh Hổ, chuyên nuốt Tánh Mạng người, hút lấy cốt tủy người. Có biết

bao anh hùng hào kiệt trong Tam giáo vì chưa đắc Chân truyền nên bị nó gây hại!

Các vị cao nhơn chí sĩ ngày xưa trước nhất đều lo chế phục con mãnh Hổ nầy mới đắc thành

Chánh quả.

Lúc nó phát động ra hình dung, thì cơ thể ta như tươi tỉnh vui vui, như lặng mình tắm trong

bồn nước ấm, Đơn Điền hừng hừng như lửa muốn phát có một tín hiệu như một mạch tráng

vượng cường liệt. Chân Dược được huân chưng thấu tận dâm căn, tức hóa thành tinh hoa, oai

trấn độc lập khắp châu thân, tất cả đều thính lệnh theo nó. Y gia gọi ngoại Thận hưng, là diệu

quyết thành Phật tác Tổ, đều do ở công phu hạ thủ nầy.

Nếu đã đắc Chân truyền, hà tất phải còn nghi hoặc. Thời đây là bí cơ của Phật giáo.

Thế Tôn viết: Ư Kiệt Đà Long Cung thuyết pháp

Thượng văn một tiết, nói về chỗ thiệt xứ của tất cả đều tại chỗ Thiệt xứ nầy. Lại sợ người đời

sau rơi vào nẻo Không, nên ở đây chuyên nói về chỗ Chân thiệt đó, khiến cho người tu không

lạc vào nẻo Không.

Long Cung: là phạn ngữ của Tây phương, thí dụ Trung Hoa gọi Đơn Điền khí huyệt, Y gia

gọi Tinh khiếu. Tây Thiên còn gọi là Tịnh Độ, Khí Hải, Hải Đề, Cực Lạc quốc, Ưu Đà Na.

Tên tuy có nhiều nhưng chỉ có một chỗ là chỗ Chân Chủng sở sản.

Thiên Thai chỉ quán tập có nói: tiếng phạn là Ưu Đà Na, tức là Đơn Điền.

Cận đại, những bậc đắc đạo sợ người không hiểu nên lại nói: Lư.

Đó là lòng từ bi của các vị Tổ sư nên thí dụ thiết cận nhất để cho người biết được chỗ Chân

thiệt. Thí dụ như người thợ rèn muốn làm ra vật dụng khéo phải nhờ có cái lò mới thành công,

sự tu luyện cũng như vậy.

Lư là gì? Là nơi huân hóa vật hữu hình thành bửu vật, là luyện Nguyên Tinh thành Xá Lợi.

Tâm kinh giải có nói:

Thâu Lai phóng tại Đơn Lư nội

Luyện đắc kim ô nhất dạng hồng

Quang Minh Như Lai nói:

Lư trung phát hỏa tiết thiên cơ

Bất ngộ Tây Lai tức thị mê

Page 176: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

176

Viên Thông Thiền sư viết: Bắc đẩu lý tàng thân.

Bắc đẩu là Long cung, tàng thân là ngưng tập. Tổ sư thường dạy ta phải đem cái Chân niệm trí

tàng nơi Long cung thì Tâm tự hư không, Mạng tự kiên cố. Phó Đại sử nói: Tâm không cực

địa quy.

Tịch Vô Thiền sư viết: ngưng Thần thâu nhập thử khiếu chi trung, tắc khí tùy Thần

vãng, tự nhiên quy ư thử xứ.

Tịch Vô Thiền sư đắc được toàn chỉ của Như Lai, của Đạt Ma Tổ sư, là đích truyền của Huệ

Mạng. Cho nên ngài mới được ẩn hiện mạc trắc, biến hóa vô cùng. Vào thời vua Ung Chánh

thường đến thái ấp, hóa dương thân vài mươi nhà đều có Tịch vô đàm tiếu, ẩm thực, ẩn hiện

không có tông tích, hoặc cho người kim ngân, mỹ nữ, hoặc hiện hổ báo, thủy hỏa.

Còn những người tu học mà phàm Tâm cứ mãi vọng niệm về tình dục thì làm sao đắc đạo

được.

Ngưng là Thần ngưng, là cái Chân Ý an trụ nơi Tổ khiếu, còn gọi là Tịch, là Chỉ, là Trụ.

Thần ngưng để thể Dược quy Lư. Thần ngưng để tịch chiếu, để huân chưng, để phong cố, để

thâu thủ Tiên Thiên chân Khí về Trung Cung.

Chân Khí nầy Thích gia gọi là Trị trượng, Tích trượng, Thiền na, Trích lô, Bạch tuyết, Kim

liên, Tây giang thủy, Tào khê thủy, Lư trung hỏa… Tên tuy nhiều nhưng chỉ có một là Tiên

Thiên Chân Khí.

Cho nên Huỳnh Tiết Thiền sư sau khi tham cầu nơi Lục Tổ được đắc đạo, là sau lúc công phu

tu luyện được viên mãn mới nói: cũng chỉ là Tiên Thiên Chân Khí mà thôi. Lời nói nầy đã tiết

tận Thiên cơ.

Hựu viết: công phu bất gián đoạn, tức tức quy căn. Hoặc nhất nguyệt, tiện năng tự giác,

khiếu trung dung, noãn khí triền động.

Tức: là khí hô hấp, Phật thí dụ là gió. Còn có tên là Trụ trượng, như vị lão thành chống gậy

đi.

Tu Huệ Mạng nếu không có khí hô hấp nầy đi hà để thổi thì Lậu tận chẳng hóa, Xá Lợi chẳng

thành. Có một Thiền sư nói:

Vị đáo thủy cùng sơn tận xứ

Thả tương tác bạn quá thời quang

Page 177: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

177

Khí hô hấp của con người nguyên căn vốn tại Đơn Điền, chỉ vì người biết xuất mà chẳng biết

tấn.

Người đắc được Chân truyền thì Thần của Đơn Điền mới hay tiếp thu lấy hơi thở. Cho nên

Thiền sư nói: vô khổng địch (ống sáo trống) điên đảo lưỡng đầu hề xuy, cảnh đắc Thần Khí

tương hiệp, cửu tắc tự noản (ấm), Pháp luân tự chuyển. Niên lão niên thiếu cho phân biệt.

Thiếu niên nguyệt nội, Lư trung tự hửu hiệu nghiệm chi cơ xâm. Niên lão hoặc sổ ngoạt

phương hửu hồn hiệp chi tín chí, noãn khí tự hửu động cơ.

Tịnh Quang Như Lai viết:

Kim đồng nhất tĩnh khí hoàng cung

Bất giác trỉ ngưu pháp hải trung

Dục yếu mích tha quy cố lý

Linh sơn tháp hạ thủy tri tông

Tạm dịch:

Kim đồng mới tỉnh bỏ hoàng cung

Chẳng ngờ Chân khí đến Hải trung

Muốn được Thần về nơi xóm cũ

Linh sơn tháp hạ mới rành tông

Kim đồng là Thái tử, là đức Thế Tôn.

Thái tử vừa phát tâm xuất gia tu hành, Thiên thần liền biến hình Bạch mã đưa ra khỏi hoàng

cung đằng không lên núi Tuyết sơn, rồi tự lấy đao vàng cắt tóc.

Lúc đầu chưa đắc Chân truyền, nên tu theo bàng môn, cho nên Lậu tận không thành mà hình

hài thì gầy ốm! Sau đó mới được A Tư Đà trao truyền chánh pháp Huệ Mạng mới thành Phật

vị.

Cho nên Pháp Hoa kinh mới nói: Tiên trưởng trao cho Phật diệu pháp, nên Thái tử mới thành

Phật.

Thích gia phổ có nói: Tư Đà thấy Thái tử hình hài ốm gầy mới bảo Thái tử: có thể thực ngưu

nhủ thì sẽ được phản phục lại như ngày trước.

Page 178: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

178

Thái tử sau khi thực ngưu nhủ rồi thì tự nhiên phát hiện ra 32 Phật tướng, đạo quả viên mãn.

Ngài mới cầu đức Phật Nhiên Đăng thọ ký cho.

Thế Tôn sơ hạ công phu, tu luyện theo chánh đạo, chỉ trong 49 ngày thì có Minh Tinh chiếu

hiện, mới tự than rằng: tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh.

Chỉ vì người chẳng đắc được cái đạo nầy mới bị lỗi lầm và lạc theo nẻo ngoại đạo bàng môn.

Thế Tôn nói: Phật Tánh tức Huệ Mạng.

Trỉ ngưu hay ngưu nhủ: là Tiên Thiên Chân Khí

Hải Trung: là Đơn Điền

Như Lai dạy người tu luyện phải tu tại Linh sơn tháp hạ, sau đó mới có hiệu nghiệm là Trỉ

ngưu quy cố lý.

Cho nên trong tạng kinh có ghi:

Nhơn nhơn hữu cá Linh sơn tháp

Hảo hướng linh san tháp hạ tu

Tri tông: trong Đơn Điền, hốt nhiên vô trung sanh hữu. Chẳng chở gì cả, từ trong ý niệm giác

với tri dung hòa làm một, tợ như quang cảnh mùa xuân, vui sướng khôn cùng.

Mã Tổ nói: suốt cả bì mao, sướng đến tứ chi.

Cố lý: là Đơn Điền, là Tâm Điền, mới do Trung Hạ quy Thượng, hóa Thức tánh thành Phật

tánh, đốt tạp niệm thành Chánh niệm, rạng ngời một Chủ nhơn ông, nên gọi: quy cố lý.

Viên Thông Thiền sư viết: Quần Âm bác tận nhất Dương phục sinh. Dục kiến thiên địa

chi tâm, tu thức thừa ân chi pháp.

Quần Âm bác tận: Theo dịch lý, con người Hậu Thiên có nhân phẩm thấp nhất, Thánh nhân

tượng quy Sơn Địa Bác, quẻ này trong có 5 âm, ngoài có 1 dương, còn 1 dương tức còn kiếp

sống con người, nếu kẻ nào đã toàn âm thì tuy còn mang hình vóc con người nhưng tâm hồn là

cầm thú.

Vì lẽ con người có 5 âm nên phải ra công huân hóa từng một trong 5 âm, nên mới gọi Ngũ

thiền.

Còn một lý nữa là vũ trụ bên trong con người và vũ trụ bên ngoài thế giới Hậu Thiên đều có

1 thời Âm cực, đó là thời Tuất Hợi Thái cực.

Page 179: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

179

Thế giới bên ngoài, như trong một ngày đêm có 2 giờ Tuất Hợi Thái cực là thời thuần Âm,

rồi đến Thái cực thì có nhất Dương phục sinh.

Nhờ có 1 Dương nầy trở lại sinh nên có cơ tạo hóa tiếp nối sự sống còn của vạn hữu vũ trụ

trong thời gian kế tiếp.

Trong một tháng có 5 ngày Thái cực là từ 26 đến 30 Âm lịch. Trong một năm có 2 tháng

Tuất Hợi Thái cực. Trong một đại nguyên có 2 hội Tuất Hợi Thái cực. Nhờ có thời Thái cực

nầy mà thế giới Hậu Thiên được tiếp nối sự sống còn.

Thời Thái cực nầy chỉ thị hiện có 3 thời là: Thành, trụ và hoại. Cuối cùng đến thời kỳ không

thì không có thời Thái cực thị hiện nữa, rồi đến cực thời thế giới nầy nổ tung thành vô số đơn

cực vi tế. Số đơn cực vi tế nầy phải chờ đến vị cực vi tế. Số đơn vị cực vi tế nầy phải chờ đến

thời kỳ Thành tiếp nối mới họp thành một thế giới mới. Cứ như vậy mà tạo mà hóa mãi.

Con người lại có 2 thời Thái cực là thời Thái cực thiên nhiên và thời Thái cực tự tạo.

Thời Thái cực thiên nhiên là 2 giờ Tuất Hợi.

Thời Thái cực tự tạo là do công phu Thiền định.

Thiên địa chi tâm: là Đơn Điền, là Tổ khiếu.

Thiệu Khương Tiết nói: Đông chí Tý chi bán Thiên Tâm vô cải di.

Muốn thấy được Tâm nầy phải dụng công Thiền định đến cực Tịnh thì thấy được, đó là

Huyền quan Tổ khiếu xuất hiện và Chân chủng tử sẽ phát sinh. Đó là pháp thừa âm của chủ

đích Thuần Dương.

Cơ tạo tác Phật Tiên cũng không ngoài chủ đích Thuần Dương, hay còn gọi là Cao Đài hóa.

Lăng Nghiêm Kinh vân: nguyên lập đạo tràng tiên thủ Tuyết sơn đại lực Bạch ngưu, khả

thủ kỳ phấn dĩ nê kỳ địa.

Thí dụ: đạo tràng là nói về chỗ khởi thủ của công phu tu luyện.

Ngưu Phấn: là nói về căn bản tu Huệ Mạng, là Thuần Dương hóa. Thế Tôn dạy người tu

luyện trước phải tu Huệ Mạng là Thuần Dương Hóa, lấy Tánh Mạng của kiếp người Hậu

Thiên để trở thành Chân chánh Mạng Tiên Thiên bất sanh bất tử. Nếu chỉ tu đơn độc một

thành phần Âm trong Tâm Ly Hỏa của Hậu thiên, Lăng Nghiêm Kinh cho rằng: chỉ thành âm

ma mà thôi.

Thiền môn ngày nay không hiểu nên chỉ tu Tánh mà không tu Huệ Mạng, rồi thường thường

điên đảo và biến thành tật bệnh! đến chết!

Page 180: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

180

Lại còn nói về đốn ngộ thập địa, tam thừa cuối cùng cũng thành hư lão.

Chẳng biết chỗ đẹp của Tuyết sơn đại lực bạch ngưu phẩm mà nói tu luyện, thì có khác gì kẻ

mài gạch mà nói để làm gương. Lại còn quấy lấy sự nhóm tuyết là gạo, gây cho nhiều người

ngộ nhận.

Đã không tạo lập căn cơ của Mạng thì đâu có cái lý sẽ thành Tánh đạo.

Tuyết là chỉ cho màu trắng, là chính sắc của Tây phương, là thí dụ về Chân Khí trong Thận

Mạng. Cho nên mới nói: Như Lai tu luyện là tu Tây phương Cực lạc.

Lương y lại nói rõ: Lưỡng Thận chi tiền, không huyền nhất bạch quyện.

Tiên Thiên Chân Tánh Mạng và Thủy Hỏa đều ở trong đó, vốn vô hình vô tướng, không

không lộng lộng có Huệ Mạng ở trong đó. Nếu chẳng gấp tự luyện làm sao kéo dài tuổi thọ

được.

Rồi cứ mãi: buôn danh lợi nên hao tán, theo sắc dục mà thất Chân!

Còn người xuất gia cứ mãi niệm tụng, khô tọa phân ly! ô hô! Dầu khô đèn tắt, chẳng đến nửa

trăm mà đã Mạng vong!

Cho nên Thánh nhân mới lấy Tuyết Sơn để thí dụ cho Tiên Thiên Chân khí là thuốc trường

sinh của con người. Thuốc nầy vốn không tỳ không sắc trong ngần như tuyết nên gọi: đại lực

Bạch ngưu.

Chân khí nầy lúc ẩn lúc hiện, bao hàm trời đất, chuyên chở muôn vật. Quảng đại thì vốn vô

biên, tế vi thì nhỏ hơn hạt bụi. Tìm nó thì không thấy hình ảnh, tu lấy nó thì kết quả hiện tiền.

Siêu Phật, vượt Tổ đều do Chân khí nầy.

Mạnh Tử gọi: Chí đại chí cương, há lại lầm sao.

Chân khí nầy có cơ biến hóa, tuổi niên tráng thì lại mong chầu ải quan, lúc tịnh cực thì nó tự

sanh.

Chẳng biết bảo thủ thì nó tự hao tán nên gọi Phẩn. Cứ để hao tán mãi mà chẳng trúc cơ cố

Mạng thì tuổi thọ sẽ được là bao.

Nho Gia nói: nếu biết dụng công để nuôi lấy Chân khí nầy, khác gì kẻ dụng công thì chẳng

có đường đi, lại bị gai tranh lấp kín.

Chân Khí (Phẩn) là loại đao chém chết quần ma, mà còn là bệ là cấp để lên Tiên lên Phật.

Page 181: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

181

Chẳng giữ lấy Chân khí nầy mà nói tu nói luyện, ngàn đời cũng hóa thành không! Thí dụ như

người muốn kiến tạo một ngôi nhà mà chẳng có nền móng thì lấy chỗ nào để ở, và kiến thiết

có được không?

Các bậc Chí nhân ngày xưa biết được chỗ xuất xứ của Chân khí, rồi lúc tịnh thì dưỡng, lúc

động thì thể thủ, là thâu nhiếp Chân Dược về bản địa rồi dùng Chân Hỏa hà luyện trúc cơ. Tự

hoàn cơ chỉ nên gọi nê đạo tràng.

Đã có được Tràng cơ, lại không thể thiếu Thiện tri thức. Thời khắc đem Chân Ý của ta tọa cư

nơi trong. Một niệm chẳng dấy lên thì Bát Phong làm sao diêu động được. Cho nên Thiệu

Khương Tiết mới nói: nhất niệm bất khởi quỷ Thần mạc tri, bất do hồ ngã, cánh do hồ thùy

độc độc duy duy, nhậm tha thiên ma bá quái.

Ngã tại giá lý, ẩn thân an nhiên tự tại, cho nên gọi hòa thượng đạo tràng, và chẳng còn gặp

ma loại nữa, tức A Nan gọi: Tọa nơi trung lưu thủy diện, kiết già mà nhập diệt.

Lăng Nghiêm kinh hựu viết: Tất sử dâm cơ thâm tâm cu đoạn đoạn. Tánh diệc vô ư Phật

Bồ đề tư khả hi ký.

Từ xưa đến nay những vị đã thành Chánh quả, không vị nào trước chẳng lo đoạn diệt Dâm cơ

và sau đó mới siêu Phật vượt Tổ.

Thích tử ngày nay không hề biết đến pháp đoạn dâm. Chỉ có một chữ Dâm cơ mà đời ít có

người biết. Chẳng những chẳng biết pháp tu luyện là việc sở dĩ nhiên, mà Tâm với Thân cũng

không thiệt khiến chẳng dâm. Tại sao vậy?

Dâm cơ khi phát tra hình tướng tợ như cục lửa đỏ rực, nhanh tợ như con gió lửa nếu chẳng

đắc pháp thì lấy gì để thâu lấy cục lửa đỏ nầy về, mà còn cái lo nguy hiểm cho thâm tâm. Còn

nếu không có Dâm cơ nầy phát động thì có gì lo lắng nữa. Cho nên đức Thế Tôn đã biết về sự

lợi hại của Dâm cơ nầy. Khó tự mình hoàn tất được mà phải cầu Chân sư chỉ truyền cho Chân

thiệt pháp mới đoạn được Dâm cơ toàn vẹn.

Cho nên Sát Thiền sư mới nói:

Tổ ý như không thị bất không

Linh cơ tranh đoạt hữu vi công

Pháp nầy rất giản dị, nếu chẳng có túc duyên về thiện căn, dù đã đối diện với Chân sư cũng

không nghe được chánh pháp thì dâm cơ làm sao đoạn được.

Nếu không tiếp đến luyện hư tâm, cầu Chân sư chỉ truyền, dù cho có thiên tu vạn luyện cũng

không tránh khỏi cái hoạn tẩu thất.

Page 182: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

182

Cho nên phái Tòng Lâm ngày nay vì đã mang nghiệp chướng nên chẳng đắc pháp, và không

có một người được thành tựu!

Tăng sung quân hỏi: Dâm cơ là vật gì vậy?

Đáp: Dâm cơ là hình ở trong, Dâm căn là hình bên ngoài. Chẳng biết tu luyện thì Thân và

Tâm đều bị kéo lôi theo cơ Dâm đó. Cho nên Mạnh Tử mới nói: Khí cũng hay làm dao động

đến Chí.

Hỏi: Có pháp gì để chế phục?

Đáp: nếu đắc được Chân quyết, lập tức lấy Thần chủ sử thì Dâm cơ tự dừng. Mạnh Tử mới

nói: Chí là một vị tướng soái. Lấy hô hấp thu nhiếp thì Khí tự quy. Đạt Ma Tổ sư gọi là Thể

thủ.

Thần tức là Lửa, Hơi thở là Gió.

Cơ phát tuy là Khí mà bên trong thực có vật tư của Lậu tận. Nếu chẳng tại đây hà luyện thì

Thân và Tâm sẽ bị dẫn theo Dâm cơ.

Lấy Đơn Điền làm lò, lấy Hạp tịch làm ống bể, lấy Lửa mà luyện, lấy Gió mà thổi, lấy hơi

ấm làm hiệu nghiệm, lấy sướng khoái làm vô sự.

Lâu lâu hà luyện thì Dâm cơ tự chết, dâm tính tự đoạn. Đoạn cho đến còn một rồi không thì

Thân Tâm thái bình, ba giống dâm sự chẳng còn tập nhóm nơi Bồ Đề, có khó gì đâu.

Đây là bí pháp ngàn đời Phật và Tổ chẳng truyền mà nay Ta đã tận tiết lậu.

Là con nhà Thích mà chẳng tu đoạn Dâm sẽ lại gọi là Thiện trí thức, Lăng Nghiêm kinh gọi

đó là 53 giống ma vậy.

Tịch Vô Thiền sư viết: Kỳ cơ ký phát, ngưng Thần nhập ư đơn điền, đương dụng Võ Hỏa

thâu nhiếp nhi quy, dĩ huân dĩ luyện. Cơ chi vị phát, dĩ thần chiếu chi đơn điền, đương

dụng văn hỏa bất ly nhi thủ, dĩ phanh dĩ luyện. Tợ thử ngộ nhập, tài đắc Chân chủng

phát sinh.

Cơ tức là Thận động. Thận động là Chân khí động. Chân khí đã động lập tức hồi quang phản

chiếu, ngưng Thần nhập Khí huyệt thì Thần với Khí chẳng lìa nhau, tợ như đá nam châm hút

sắt, rồi vượt qua mọi chướng ngại và giấu kín rồi hanh thông, hiệp lại làm một.

Tổ sư lại còn sợ lúc lâm thời Chân Dược sinh tợ như con mãnh Hổ khó chế phục nên phải

dùng võ hỏa, đó là tiết tận Thiên cơ với lòng đầy đức từ bi vị chúng. Tu sĩ đời sau học Phật

đều nhờ cái ân mưa móc nầy.

Page 183: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

183

Võ Hỏa là một pháp tu luyện, là bí cơ thành Phật. Phật Phật tâm thọ, Tổ Tổ khẩu truyền hiểu

thẳng thật khó! Cho nên Ngũ Tổ mới nói: Sư Sư mật phụ bản âm.

Thế Tôn và Đạt Ma tuy nêu hỏa hóa phong xuy nhưng văn hỏa và võ hỏa chưa chép rõ nơi

tre lụa. Cho nên người trong giới tu hành đã không song tu mà cũng không tin tưởng.

Từ sau Đạt Ma và Tịnh Vô là những bậc cao Tăng đã được hình Thần cu diệu.

Có người hỏi: sao gọi là Võ Hỏa nhiếp quy?

Đáp: là dùng Khí hô hấp mạnh thu nhiếp Chân Dược quy Lư, và chẳng hề xa lìa Chân Ý, lấy

Chân Ý làm chủ tể, cho nên nói Chân Ý theo đuổi 2 khí, rồi cổ vũ, rồi nhiếp quy cũng đều tại

Chân Ý, năng lực của Chân Ý.

Chân Dược sau khi sinh ra có đặc tính hạ lưu thuận xuất, nên mượn khí hô hấp mà nhiếp thu.

Nếu chẳng dùng khí hô hấp mà cổ vũ thì một phần khó nhiếp mà Chân Dược cũng khó quy. 2

khí nguyên có kiêm dụng, cho nên Thiền sư mới nói: nhà ngươi có cái Trụ thượng tử. Ta và

ngươi đồng có một Trụ thượng tử. Đó là thí dụ 2 khí ở cơ đồng dụng.

Theo đúng cơ hô hấp, Chân Ý của ta ra từ ngoài Âm Kiều mà nghinh tiếp Chân Dược quy

Lư, Đạt Ma gọi Thể thủ. Thể thủ hoặc mươi nghinh, hoặc vài mươi nghinh, nghinh cho đến

khi nào ngoại hình đảo thế mới nghỉ. Tiên Gia gọi quy Túc. Suốt thông được 2 khí nầy về cơ

hạp tịch và tiêu tức, thì Chân Tinh tự quy Lư.

Lúc vận dụng 2 khí, Chân Ý nơi Lư trung không được chấp trước ở hô hấp mà chỉ nương

theo Chân Dược mà Thể thủ. Chẳng qua cũng chỉ là mượn cơ hô hấp để làm công cụ Thể thủ.

Lục Tổ gọi: vãng Bắc tiếp độ.

Chân Dược đã quy Lư, còn phải huân chưng, lấy Chân Ý tịnh định mà làm Hỏa, lấy hơi thở

để thổi mà hóa làm Gió, nung nấu một lúc thì vật tư của Lậu tận hóa thành Chân Khí. Công

phu nầy phải dùng sức mạnh của Chân Ý với dạng trì trọng, gọi là võ Hỏa.

Hỏi: sao gọi là văn Hỏa?

Đáp: là bất tồn nhi thủ, bất tức nhi khu. Thời thời khắc khắc bất muội tỉnh ngộ, miên miên

bất đoạn, tức tức quy Lư.

Cổ Đức có nói: trượng vãng trượng Lai vô gián đoạn.

Xá Lợi thành toàn hiệp với bản sơ. Tối kỵ hôn mê tán loạn, một niệm chẳng khởi, một khí

chẳng tán, tợ như giống lửa trong lò.

Page 184: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

184

Tu luyện được như vậy lo gì Chân chủng chẳng sinh, Xá Lợi chẳng kết, Chánh giác chẳng

thành.

Thích gia phổ Thế Tôn viết: Đối đẩu Minh tinh nhi ngộ đạo.

Đối: Trung Hoa gọi là Phản quán.

Đẩu: là Bắc đẩu, là thí dụ Đơn Điền.

Minh tinh: là Chơn Khí nơi Đơn Điền phát sinh. Chính là cảnh Chân chủng sở sản.

Hưng Dương Thiền sư nói: Tạp (một vòng) địa hồng luân (bánh xe) tú.

Hải để tức khai hoa.

Viên Thông Thiền sư viết:

Bắc đẩu tàng thân tuy hữu ngộ

Xuất Thần tiêu tức thiểu nhơn tri.

Tàng thân: là Chân Khí ẩn tàng nơi Đơn Điền. Chân Khí ẩn tàng nơi nào thì Chơn Thần cũng

ẩn tàng nơi đó. Đó là cách dụng công như vậy, nếu chẳng như vậy thì làm sao xuất ly cõi trần

được, xuất trần là Quá quan phục thực, là một bí quyết thâm mật không được khinh truyền.

Nếu chẳng Quá quan hay không biết pháp Quá quan thì Xá Lợi phải bị hao tán, tận phế tiền

công. Cho nên Hưng Dương Thiền sư mới nói: Thối nhất bộ tắc thất sự. Nên nói: xuất trần tiêu

tức thiểu nhơn tri!

Thử thượng số giả, Huệ Mạng kinh chi diệu pháp, hòa hiệp Chân chủng chi Thiên cơ,

thả tại tư dư, nhi kỳ Phong Hỏa chi công, diệc bất ngoại thị hỉ.

Đây là tiết tổng kết phần văn trên nói về pháp hòa hiệp Chân chủng nơi Phong Hỏa, cổ Thánh

chẳng khứng toàn lộ, nên người tu luyện đành bị rơi vào nẻo vạy.

Nay ta lại nói cạn lời, phân tích tỏ rõ hầu mong đồng chí được suốt thông, trước khỏi lạc nẻo

bàng môn, sau thành Chánh giác. Còn người đời nếu có ai thích Phật thì tiềm tâm nơi kinh

nầy, rồi tự tu tự chứng để thành chánh quả, há chẳng vui sao.

Dư Cố viết: Tự thủy ngưng Thần phản chiếu Long cung, hồn nhiên nhi định tịnh.

Dĩ song vong nhi đải động. Dĩ Ý Khí nhi đồng dụng. Dĩ Thần Hỏa nhi hóa. Dĩ tức phong

nhi xuy. Dĩ võ nhi luyện, dĩ văn nhi thủ. Cửu cửu huân chưng, khắc khắc vô gián. Ý Khí

lưỡng bất tương ly. Tắc hòa hiệp ngưng tập chi pháp đắc hỷ.

Page 185: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

185

Đoạn văn nầy tổng kết về pháp hòa hiệp Chân chủng phong hỏa, mà cổ Thánh chẳng khứng

toàn lộ.

Long cung: là Đơn Điền, trong đó có nước. Long cung có nước, nước có đặc tính trầm trọng

và luôn luôn hạ lưu.

Thần tức là Hỏa, hỏa có đặc tính kinh phù, thường thường thượng xung.

Cũng như người đời Tâm Hỏa thì thượng xung, Thận Thủy thì hạ lậu, 2 thành phần đó

thường ly cách nhau, hằng phân tán nên không thành Đạo. Thánh nhân mới dạy lấy Tâm Hỏa

giáng nhập vào Thận Thủy thì Tâm tự hư không, mà Hỏa cũng không còn thượng lậu. Còn

Thủy đắc được Hỏa, Thủy cũng không còn hạ lậu và hóa thành Chân khí. Chân khí sẽ được

thượng thăng.

Trong lúc ngưng Thần thì nội niệm bất xuất, ngoại niệm bất nhập, không không lộng lộng,

chẳng trước chẳng trệ. Lúc Chân Dược sản lập tức hồi quang phản chiếu thì quên hình quên ý.

Nếu dụng Ý tức là chẳng quên, nếu quên thì không được lấy Ý mà chiếu. Tâm đã hư không

mới gọi là chiếu. Lòng dục đã mất hết mới gọi là vong. Chiếu với vong tuy một mà hai, tuy hai

mà một.

Lúc đáng quên thì Tâm phải thật thanh tịnh mà luôn luôn phải chiếu. Lúc đương chiếu thì

một mảy hình tướng cũng không tạo lập, luôn luôn là quên. Chiếu với vong đã thuần nhất định

tịnh, thiên địa nhơn ngã chẳng cần biết đi về đâu.

Còn trạng thái công phu chờ động phải thật cực tịnh, thình lình trong người có trạng thái

dung dung hòa hòa, ngoại hình vụt cử. Lập tức dùng Chân Ý mà nghinh Chân Dược quy Lư,

rồi lấy Thần trụ định nơi trong, lấy hô hấp mà thổi. Lại phải nhớ là chớ trợ lực, và chớ nên

quên. Hành trụ tọa ngọa cũng không được lìa báu vật, lo gì Chân chủng chẳng sản.

Bất văn đắc đạo cổ Nho chi ngôn hồ.

Hoảng hốt âm dương sơ biến hóa

Nhân ôn thiên địa sạ hồi triền.

Từ đây trở xuống nói về thời Chân chủng sở sản.

Cổ Nho tức Tiên sinh Thiệu Khương Tiết.

Chúng ta là con nhà Thích giáo, thế mà không hiểu biết về điều Thiên cơ bí mật nầy, lại cho

môn đệ của Nho giáo không biết Chân truyền của nền Đại Đạo. Còn bản thân mình cứ mãi lo

đả thất, quỳ hương tham khẩu đầu, luận công án … và gọi là đắc đạo. Thật là trò cười vậy!

Page 186: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

186

Hoảng hốt: là trong cơ tịnh định đã đạt thành một khối hồn nhiên, ngoài chẳng thấy có thân,

trong không thấy Tâm. Là trạng thái Thái Cực cực tịnh, người xưa nửa thức nửa ngủ. Công

phu đến trạng thái nầy thì không khí Chân Dương bắt đầu động và phát sinh Nguyên khí. Cho

đến lúc Chân Dương khí bắt đầu triền động thì sinh Nguyên Tinh.

Nếu người nào đắc được Chơn truyền, lập tức thể Chân Dược nầy thâu quy về Lư. Thường

nhơn không biết nên Chân Dược nầy biến thành hữu hình tinh rồi tẩu xuất.

Lục Tổ Đàn kinh viết: Nhân địa quả hườn sinh.

Địa: là Đơn Điền, là Thần thất, là linh địa, là nơi quả sinh.

Quả hườn sinh: tiết trước đã nói: Hữu tình Lai hạ chủng là do cơ hòa hiệp mà có. Công phu

đến đây mới có quả sinh. Quả tức Bồ đề chủng tử, là Xá Lợi tử.

Vô Lượng Quang Minh Như Lai viết:

Phân minh động tịnh ưng vô tướng

Bất giác Long cung hộng nhất thinh.

Vô tướng: Thích giáo gọi là Oai âm, Nho giáo gọi Vô cực.

Bửu vật nầy nguyên từ đầu vốn không hình không tướng do tịnh định mới sinh.

Long cung: là Đơn điền, là Tổ khiếu, là nhơn địa, là Cốc thần…

Hộng nhất thinh: là quả sinh. Nho gọi: Đổ vũ nhất thinh Xuân hiểu. Là Dương khí sinh. Biết

được cơ Hộng nhất thinh thì nước động Thủy (Khảm cung) có thể nối dòng, nước Tây giang

(Ly cung) có thể thu hút, nước bể (Khảm Thủy) có thể gội đầu.

Lại nói: Địa lôi chấn động tốn môn khai.

Lại nói: Lôi tùng địa hướng (gầm).

Tử Ma Kim Quang Như Lai viết: Hải để nê tự lộ bán hình.

Hải để là Đơn điền. Hoa Dương Thiền sư cũng nói: Hải để là nguyên quật tàng chứa Huệ

Mạng. Thế Tôn gọi: Ma Ni. Là nơi Thần Khí hòa hiệp để luyện thành Chân chủng tử.

Lộ bán hình: là Pháp tượng Chân chủng gần sản.

Lúc Chân chủng tử mới lộ nửa hình, Tu sĩ phải tịnh, Thần trụ nơi Cốc Thần để chờ, không

được gấp Thể thủ. Chờ cho Trâu nọ lộ toàn hình mới hạ công Thể thủ, nếu gấp và niệm động

thì Trâu nọ kinh hoảng rồi ẩn tàng vô tông tích.

Page 187: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

187

Viên Thông Thiền sư gọi là bất sanh.

Tịch Vô Thiền sư nói: Tất tu nguyên khiếu sinh vật. Tư khả dương Lư phát hỏa. Cố mạc vi

chi tiên, diệc mạc vi chi hậu. Nhược Thiên cơ vị chí nhi tiên trợ trưởng, tắc ngoại tương tuy

hành, nhi nội phù vị ứng. Thích tư thủ phàn khu chi hung! Nghĩa là:

Cần phải tạo cho Huyền quan khiếu sinh bửu vật, lúc đó thì Dương Lư mới phát Hỏa. Cho

nên chẳng được Thể thủ trước, mà cũng không được Thể thủ sau. Nếu Thiên cơ chưa đến mà

lo phát hỏa, dù ngoại tướng tuy có vận hành nhưng nội phù cũng không ứng theo.

Ngoại tướng nói về đường Đốc Mạch.

Nội phù nói về đường Nhâm Mạch.

Như vậy chỉ là thiêu đốt cơ thể mà thôi.

Viên Thông Thiền sư viết:

Mai hoa vị phát thái tảo sanh

Mai hoa dĩ phát thái trì sanh

Mai hoa là tín hiệu báo thời Xuân dương sắp đến. Còn trong người thì thí dụ cái cảnh khí

Chân Dương phát sinh.

Vị phát: là khí Chân Dương mới gần phát động, chứ chưa phát động. Lúc này nếu vội Thể

thủ là sai lầm vì Chân Dược còn non sẽ không kết đơn, nên gọi: thái tảo sanh.

Dĩ phát: là khí Chân Dương đã phát hiện toàn hình, gọi là triền động, lập tức Thể thủ quy Lư.

Nếu Chân Dược đã lộ toàn hình mà không Thể thủ đem về Trung cung thì nó sẽ biến thành

hữu hình tinh, gọi là thuốc già sẽ không kết Xá Lợi, nên gọi: thái trì sanh.

Viên Ngộ Thiền sư nói: Tấn nhất bộ tắc hữu mê lý thối nhất bộ tắc sự bất thành.

Hựu viết: Nhẩm ma tắc phong sương đô khiết tận, độc chiếm phổ Thiên xuân.

Nhẩm ma: là thí dụ thời cơ đúng lệnh.

Phong sương khiết tận: là thí dụ Âm khí đã tận tuyệt.

Xuân Dương: là thí dụ khí Thuần Dương nơi Đơn Điền. Cảnh tượng nầy, cơ thể ta tợ như

tắm như gội, châu thân dung hòa sướng khoái, chẳng có gì sánh bằng. Trong ngoài thảy đều

Thiên Thái đó là Chân cảnh của Chân chủng sở sản.

Hựu viết: Thiết tu đạo trước.

Page 188: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

188

Đây là lời nói của Tổ sư dặn dò Tu sĩ nếu thấy được cảnh nầy đến, tức phải hưng công thâu

thủ, nếu chẳng thâu thủ ắt có lỗi lầm trước mắt, là bửu vật nầy sẽ theo đường thục lộ mà ra

ngoài.

Hưng Dương Thiền sư nói: Thối hậu tắc thất sự.

Công phu Thể thủ Chân Dược tợ như kẻ trộm cưỡng đoạt bửu vật, nên gọi là: thiết tu đạo

trước. Lúc nầy Chân Ý phải thật dũng mãnh, dùng hơi thở để thu nhiếp, đem Chân chủng nầy

trở về đơn Lư. Sau đó phải dụng công Pháp luân.

Tịch Vô Thiền sư viết: Chí ư lục hiệp đồng xuân, vật vật đắc sở.

Lục hiệp: là châu thân con người.

Xuân: là nói về dạng ấm ấm trong người.

Vật: là tên riêng biệt của Thích giáo, Nho giáo gọi là Nguyên khí.

Công đáo thời chí: là lúc Chân Dược sản, hốt nhiên Đơn Điền tợ như âm dương hòa hiệp

thấm thấu, mạch sống trong người khoái sướng, tất cả tám vạn bốn ngàn khiếu nhỏ có dạng

ngứa ngáy. Thân Tâm dường như vô chủ, Đơn Điền lần lần mở, ngoại Thận đột nhiên cất lên,

Long cung hốt nhiên có một tiếng gầm, hô hấp tự nhiên đứt đoạn, Tâm và bửu vật hút nhau

như đá nam châm hút sắt. Chân Ý và hơi thở bao hàm với nhau như loài trùng ẩn trốn, thình

lình tâm hồn nhập vào trạng thái Thái cực, như nửa tỉnh nửa mê. Thiên địa, nhơn ngã chẳng

biết về đâu. Thần với Khí như xen lẫn chìm ngấm, chẳng phải như Thiền khô tịch ngày nay.

Tâm hồn tợ như hoảng hoảng hốt hốt. Tâm chẳng khứng lìa bỏ linh vật, linh vật chẳng khứng

lìa bỏ Tâm, tương thân tương luyến kết thành một khối. Cảnh tượng nơi trong tợ như 2 khí

Tiên Thiên và Hậu Thiên cùng nhau thở hút, nhưng thiệt chưa thấy thở thấy hút. Tợ tiết tợ lậu,

mà thiệt cũng chưa thấy tiết lậu. Cơ huyền diệu không thể lấy ngôn ngữ để hình dung.

Cho nên Tâm kinh giải mới nói: một khí Chân Dương mới động trong đó vốn có vô số hơi

thở vi vi, rồi chỉ trong giây lát hóa thành trạng thái Thái cực, Tâm này trở lại linh diệu. Cơ hô

hấp dấy lên từ Chân Khí nơi Đơn Điền, tại Giáng Hạ rồi ra sau đến Vỹ Lư, lên Giáp Tích, lên

Ngọc Chẩm.

Lúc nào Chân Khí thật sung mãn thì Nhâm Đốc tự khai. Khi tấn thì nhanh Thể thủ quy

nguyên chuyển đại Pháp luân.

Nếu chẳng dụng công như vậy thì Nguyên Tinh sẽ tràn đầy và tiết lậu ra ngoài, ắt tiền công

tận phế.

Thiên nầy toàn tiết thiên cơ.

Page 189: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

189

Ta đã trải qua 30 năm mới đắc diệu đạo.

Tu sĩ đời sau thành công đến chỗ nầy phải nên nhớ kỹ, chẳng nên coi thường lúc có cảnh

tượng tín báo, chỉ được Dương quan tam hiện, tức là Chân chủng sở sản. Chẳng cần phải theo

quy tắc nào khác, lại còn phân biệt bẩm thọ, hình thọ đồng nhau hay khác biệt.

Đạt Ma Tổ sư viết: Nhị hầu thể Mâu Ni.

Tiền hượt Tý thời là một hầu. Chân chủng sở sản là một hầu, là nhị hầu thể Mâu Ni.

Hựu viết: Nhị hầu thể Mâu Ni, tứ hầu hữu diệu dụng, lục hầu biệt Thần công.

Tiết trước nói 2 hầu là hầu sanh và hầu sản. Còn đây gọi 2 hầu là hầu Thể thủ và hầu Phong

cố. Tu sĩ học Phật cần nên hiểu rõ chẳng chỉ có 1 khái luận, như trong Pháp luân lục hầu đồ đã

nói minh bạch rồi.

Còn ở đây 2 hầu là: lúc Chân chủng sản, thể quy Lư là một hầu. Lư trung phong cố là một

hầu. Cộng lại là 2 hầu.

Linh vật đã quy Lư thì phải thăng giáng. Thăng là một hầu, giáng là một hầu.

Cộng với 2 hầu Mộc dục Mẹo Dậu là 6 hầu.

Tứ hầu hữu diệu dụng là: thăng, giáng và 2 giờ mộc dục.

Lục hầu biệt Thần công là tổng số hầu.

Lục Tổ viết: Vãng Bắc tiếp độ.

Vãng: là dùng Chân Ý mà đi đến.

Bắc: là Thận Mạng, là Cốc Thần.

Tiếp: là dùng Chân Ý mà tiếp thu Linh vật.

Độ: là thăng, giáng vãng lai.

Tịch Vô Thiền sư viết: Thể thủ dĩ thăng giáng, tùng Đốc Mạch thượng đảnh Nê Hườn,

tùng Nhâm Mạch giáng hạ Đơn Điền.

Nhâm và Đốc 2 mạch là đạo lộ của Pháp luân vãng lai.

Nhâm Mạch khởi hành từ huyệt Hội Âm đi lên, đến Thừa Tương, rồi vào đường trong mà trở

về.

Page 190: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

190

Đốc Mạch khởi hành từ Ngân Xỉ lên Thiên Môn, ra Ngọc Chẩm, xuống Giáp Tích, xuống

Trường Cường rồi theo con đường trong mà về.

Đó là quy luật vận chuyển Âm Dương Hậu Thiên tợ như kim đồng hồ, Tiên gia gọi: Thuận

chuyển hà xa.

Thuận chuyển hà xa thì sanh người sanh vật.

Nghịch chuyển hà xa thì tác Phật tác Tiên.

Nghịch chuyển hà xa Tiên gia gọi Châu thiên vận, Thiền gia gọi Pháp luân thường chuyển,

Nho gia gọi Hành đình.

Châu thiên vận mục đích để điều hòa nội Dược để khai thông đạo lộ chờ ngày quá quan, để

đạt trường sinh bất lão.

Lúc 2 mạch nầy thông thì trăm mạch cũng đều thông.

Dịch kinh viết: Hạp hộ vị chi Khôn, tịch hộ vị chi Càn. Nhất hạp tịch vị chi biến, vãng lai

bất cùng vị chi thông.

Đây là sở dụng cơ tiêu tức đối với 2 khí để chuyển Pháp luân.

Phần kinh văn nói về sự tu luyện của Thích tạng, Tiền bối cũng nói như vậy. Lại là công phu

đầu tiên của kinh Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa.

Còn Nho gia lại lấy kinh Dịch làm thủ vụ, thái ấp, chùa Hải Hội. Phương trượng Long Giang

hỏi: Tây phương phạn ngữ, chưa thấy chỗ nào nói đến Dịch, nay lại chép ra đây, là điều chẳng

hạp với Thích giáo chăng?

Đáp: Nếu chấp ở một thì chẳng minh ở hai. Chỗ tu học của nhà ngươi chỉ là bàng môn mà

thôi. Cái đạo của Thích ca không phải như vậy. Trăm ngàn đời về trước, trăm ngàn đời về sau

đối với người đời: Tam giáo há có 2 đường sao?

Thù bất tri, nguyên đầu của Dịch là Tổ của Đạo.

Lại hỏi: đã là Đơn kinh, mà ngày nay nho sĩ lấy Dịch làm sách bói toán, chưa từng nghe họ

nói đó là sách tu luyện, là tại sao vậy?

Đáp: thời văn bốc phệ là của tục Nho, chẳng phải là bậc xuất chúng của Nho chánh thống.

Lại hỏi: kinh ấy dạy tu luyện như thế nào?

Đáp: Đạo dụng Tiên Thiên và mượn khí Hậu Thiên để chuyển Pháp luân. Hạp hộ tức là hấp

cơ, hấp cơ vãng hạ nên gọi Khôn.

Page 191: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

191

Tịch hô tức hô cơ, hô cơ vãng thượng nên gọi Càn. Đó là cái lý nhất biên của Hậu Thiên.

Biến cơ là tiêu tức của 2 quẻ Càn Khôn.

Thí dụ như chiếc xe, Càn Khôn là 2 bánh xe biến làm trục xe. Trục xe vốn không chuyển

động, chỉ nhờ ở 2 đầu trục, 2 đầu trục lại nhờ ở 2 bánh, 2 bánh lại nhờ ở Hạp tịch thổi thúc.

Xe chờ trục mà chuyển động, trục lại chờ bánh mà vận triền. Bánh xe lại chờ Hạp tịch mà

thôi bức. Thì sở dụng của xe mới hoàn toàn.

Nếu như chưa thấu hiểu thì tham khảo nơi lục hầu đồ. Chẳng còn gì kỳ diệu bằng.

Vãng lai bất cùng: là cơ tiêu tức của 2 khí Tiên Thiên và Hậu Thiên vận chuyển.

Thông: là thông đạt được Huyền quan Tổ khiếu, là cơ Càn Khôn cộng vận.

Nếu dùng hô hấp của miệng mũi, và gọi một hô hấp là vãng Lai bất cùng thì cách xa với Tiên

Thiên Đại Đạo vậy.

Hỏi: như vậy thì phải dụng công như thế nào?

Đáp: lấy Hậu Thiên phàm tức chế hóa ra Tiên Thiên Chân tức. Hô hấp cơ vi tịch vi Càn. Hấp

cơ vi hạp vi không.

Càn Khôn là định vị của Thiên Địa.

Ngôi đầu của con người là Càn, phần bụng gọi là Khôn.

Cơ biến thuộc chủ tể của Càn Khôn, là Chân Ý của tể chủ sử cho 2 khí vận chuyển. Lúc lên

lúc xuống, lên xuống mãi mãi nên gọi: Vãng lai bất cùng.

Lúc thăng giáng, Chân Ý tuy là chủ thể ở Cốc Thần, mà Thần lại chú trọng cùng với Tiên

Thiên Chân Tức đồng hành, chẳng qua là mượn cơ hạp tịch của Hậu Thiên để vận chuyển Tiên

Thiên Khí vậy.

Hỏi: đệ tử ngu muội, mong cầu lão sư chỉ truyền chí lý mới dám tự dụng.

Chỉ thiệt là điều có lỗi mà nói ra đây, đức Thế Tôn có nói: độ tận chúng sanh, rồi mới tự độ

thì đâu có lỗi. Huống chi Thiền giáo ngày nay lại không có song tu?

Đáp: đây là bí cơ chuyển pháp luân ngàn đời chẳng khứng minh ngôn, trăm Tổ không lời chỉ

phá. Trong diệu lại diệu, trong vi lại vi chẳng phải phàm phu mới có thể nghe. Chẳng có túc

duyên thiện căn làm sao nghe được.

Lại nói: đệ tử khẩn cầu hòa thượng tùy ân.

Page 192: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

192

Đáp: hạ hấp tuy là hạ Khôn mà nguyên khí ở nơi không lại thăng lên Càn. Tịch hô tuy là lên

Càn, mà nguyên khí nơi Càn lại giáng xuống Khôn.

Đều do 2 khí thăng giáng nơi đường đạo lộ, cộng với Cốc trụ của Càn Khôn, thông với Tiêu

tức của Nguyên quan mà chủ tể tại nơi Chân Ý.

Vận hành đều ở nơi Thần, một hấp một thăng, một hô một giáng, chẳng được sai một mảy

lông. Tuân theo quy tắc, hành đúng độ số, cũng không được thái quá. Càn cửu không lục, tứ

diệp thành chương, hiệp hồ tạo hóa, đồng với chuyển luân, chẳng thiên chẳng ỷ, chánh chánh

đường đường, nương theo Tam giáo. Tất cả đều do ở đây.

Hựu viết: Càn hào dụng cửu, Khôn hào dụng lục.

Tiết này gọi về quy tắc và hạn số của pháp luân Càn dụng cửu là: 4x9=36, Khôn dụng lục là:

4x6=24.

Từ xưa Cổ nhân gọi: từ nhất quy đến lục quy gọi là thăng. Thăng để hiệp với Càn, nên dùng

Càn hào Càn sách.

Càn hào dụng cửu, mà tứ điệp là 36. Cho nên Pháp luân thăng cũng dụng cửu, đồng với tứ

điệp của Càn sách. Tổng cộng lục hào tứ điệp là 216. Cho nên về thăng tổng cộng ở lục quy

cũng 216 gọi là thăng.

Theo như trước đã nói: từ quy nhất đến lục quy gọi là giáng. Giáng để hiệp với Khôn, nên

dùng khí hào khôn sách.

Khôn hào dụng lục, hiệp với tứ điệp là 24. Cho nên Pháp luân giáng cũng dụng lục, đồng với

tứ điệp của Khôn sách. Tổng cộng với lục hào tứ điệp là 144. Cho nên giáng tổng cộng ở lục

quy cũng là 144, gọi là giáng. Cộng chung lại là 360 tức hoa toàn bộ số của chuyển Pháp luân.

Trong đó có mộc dục 2 quy, nếu chẳng dùng cửu lục tứ điệp thì không đủ 360.

Còn số nhuận dư Châu Thiên 24 mới gọi là viên mãn Châu Thiên, hạp với 384 hào của Dịch

lý.

Số nhuận dư Châu Thiên 24 là số gia vào 2 giờ Mộc Dục bình quân.

Hoa Nghiêm kinh viết: Cư Phật định năng ứng thời chuyển diệu Pháp luân.

Đây là pháp thí dụ về mộc dục nhị quy.

Định năng ứng thời: là 2 giới địa mộc dục, Nho gọi là 2 giờ Mẹo Dậu, Thích cũng gọi là thời.

Nếu chẳng nói thời, thì nhân duyên nào có ứng thời.

Page 193: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

193

Định: là gọi 2 thời chẳng vận hành hô hấp. Thần với Khí nương nhau giữ nhau, định rồi lại

vận chuyển. Nho gọi 2 giờ đó là phương sanh sát, hại đức, tương phản, chẳng nên hữu sự hay

định giữ việc không đâu.

Lúc vận hành Pháp luân, trong từng mỗi quy đều có pháp mộc dục.

Có kẻ hỏi: chỉ nghe đông tây có mộc dục, nhưng chưa được nghe từng mỗi quy đều có mộc

dục, câu xin lão sư khải thị?

Hoa Dương nói: lúc chuyển Pháp luân thì cái khí của hô hấp tợ như xe nước bờ sông, cứ một

bậc là có một miếng ván, một tấm vận lên, một tấm vận xuống. Nếu như công phu mà chẳng

có từng quy thì lấy gì mà vận cho tới Càn thiên. Cho dù có vận cũng chẳng hiệp với cốt tủy

của Pháp luân và chẳng thành bộ vị của quy tắc. Nếu cứ luyện hỗn loạn như vậy thì không

thành.

Lại hỏi: đệ tử ngu muội nên khó ngộ nhập, xin cầu thỉnh vấn?

Đáp: lúc vận hành Pháp luân thì cái khí hô hấp có cơ hồi chuyển. Cứ tới chỗ hồi chuyển là có

mộc dục.

Lại hỏi: sao gọi là mộc dục?

Đáp: hô hấp thối là mộc dục, hô hấp tấn cũng là mộc dục. Là do sự chia ra trước sau.

Thích gia phổ Thế Tôn viết: Nhập trì mộc dục.

Trì: là ao phía Đông phía Tây. Thế Tôn sau khi thấy minh tinh lập tức vào 2 ao mà mộc dục

và huân chưng. Pháp nầy từ Hán đến nay, những người đắc được đều giấu kín, chỉ có Tịch Vô

Tổ sư mới lộ.

Hoa Nghiêm kinh viết: Vi tiển Như Lai sở hành chi đạo, bất trì bất tốc, sát đế kinh hành.

Đạo: là đạo lộ, là đường Nhâm Đốc.

Bất trì bất tốc: chẳng chậm chẳng nhanh, lấy hô hấp mà định pháp tắc.

Sát đế kinh hành: phàm vận hành Pháp luân Thần với Khí tất phải đồng hành đồng trụ. Nếu

đi lạc đường khác, mịt mờ chẳng theo đúng đại lộ mà vận hành thì không thể nào thành Xá

Lợi.

Như Lai viết: bất đắc cần, bất đắc đãi.

Page 194: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

194

Phàm vận hành Pháp luân hiệp với tự nhiên đồng với đại Đạo. Nếu siêng năng đến độ thái

quá thì Phong Hỏa pháp luân chẳng được vận chuyển, và lửa hừng lên không phương chế

phục.

Còn giải đãi thì bất cập, tức gió yếu luốc làm sao có công trưởng vượng và biến hóa được.

Nhiên Đăng Phật viết: Thường chuyển Pháp luân.

Pháp luân là tiếng phạn của chữ Tây Phương. Trung Hoa gọi tấn thối, thăng giáng. Tiên gia

gọi Châu Thiên vận. Là nói về cơ vận hành Chân Khí theo đường đạo lộ Nhâm Đốc.

Các giờ công phu, lúc thể Chân Dược quy Lư đều chuyển Pháp luân.

Lúc Chân Dược phát sinh, nếu không dụng công chuyển Pháp luân thì Chân Dược sẽ bị tán

thất, lậu tận không thành, Xá Lợi không kết.

Thế Tôn viết: Thường chuyển như thị diệu Pháp luân.

Diệu: là huyền diệu, mầu nhiệm, không thể dùng ngôn từ diễn tả thành hình dung được, cho

nên nói: Diệu. Còn nếu không nói ra thì hậu học làm sao ngộ nhập được, chỉ có 2 lẽ là đắc sư

với không đắc sư. Đại đạo quá huyền diệu nên có vị nào dám toàn tiết đâu.

Ta thấy trong đời chẳng có người nào song tu nên đặc biệt chỉ xuất ra, để hậu học tấn thấu

đến chỗ tinh vi.

Diệu ở đây là nói về cơ Tiêu tức. Biết rõ được thì thấy rất giản rất dị. Chẳng hiểu rõ thì thật

khó thật khó! Thí dụ tự đánh vào chuông có tiếng vang tức là Pháp luân. Thiên địa tạo hóa đều

quy vào Pháp luân. Chúng ta có thể xem cái cối xay kia cũng như cái chuông thì hiểu được

Pháp luân.

Có kẻ hỏi: chuông với cối xay, sao ví là Đạo?

Đáp: chuông có tiếng chuông vang là thí dụ hô hấp. Lúc đánh chuông thì trong lòng chuông

có một chủng tử xoay tròn, tức là Nguyên Khí. Còn cối xay kia cũng thí dụ về hô hấp. Cối lúc

vận chuyển tương tợ như Chân Khí vận chuyển theo đường đạo lộ. Cơ hạp tịch Tiêu tức cũng

vậy.

Cối xay thì thấy tấn mà không thấy thối, nhưng thực trong đó có một luồng không khí thối.

Còn chuông lúc đánh thì trong lòng có một luồng loang tử, là có thuận chuyển gọi là tấn, và có

nghịch chuyển gọi là thối.

Lục Tổ viết: Ngô hữu nhất vật thượng trụ thiên, hạ trụ địa.

Vật: Nho gọi Nguyên Khí

Page 195: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

195

Trụ thiên: tức từ dưới thăng lên Càn đảnh.

Trụ địa: tức từ Càn đảnh giáng xuống Khôn phương.

Thích gia phổ viết: Hải thủy quán Thái tử đảnh.

Hải: là Đơn Điền. Thủy: là Nguyên Khí, Thích gia thí dụ là Tào khê thủy, Động thủy, Tây

giang thủy.

Quán đảnh: là thượng thăng.

Thái tử: là đức Thích Ca.

Thế Tôn viết: Hỏa hỏa dĩ hậu, thâu thủ Xá Lợi.

Lời nói nầy là nói về lúc Xá Lợi gần thành Hỏa là Thần. Xá Lợi toàn đắc quả nầy mới thành

công. Sự thành công nầy tức là hiệu nghiệm chẳng phải không hư mà không biết. Lúc Xá Lợi

thành thì nhà trống lúc ban đêm được trắng sáng, Đơn Điền nóng, Quy túc, thì lập tức dùng

pháp quá quan phục thực đưa về Trung đình để lo công phu thập ngoạt hoài thai, gọi là Thâu

thủ.

Hoa Nghiêm kinh viết: Cụ trượng phu hình thành tựu Như Lai, mã âm tàng tướng.

Mã âm tàng tướng: thí dụ như con rùa rúc đầu vào mai, nên Tiên gia gọi Quy túc.

Lúc nào ngoại Thận xem như không còn tông tích là Xá Lợi đã thành. Nếu chỉ còn một mảy

vi động cũng chưa thành. Tất còn phải vận Pháp luân, còn luyện. Nếu chẳng vận chẳng luyện

thì Chân Dược phải còn non, sức còn vi nhược, khó mà xung quan, lúc nào có cảnh hiệu

nghiệm đến phải lập tức chỉ Hỏa. Nếu chẳng biết mà cứ mãi vọng hành, dù Xá Lợi đã thành

cũng bị Hỏa bức lậu có khác gì tục tử phàm phu!

Còn những vị lão thành hoặc người đã liệt dương nên ngoại Thận không hề dấy lên mà cũng

gọi là đã thành công là điều lầm lỗi.

Có những người do tinh khí quá yếu nên tinh khí không cử động, tức phải gia công tu luyện

cho chuyên cần thì tinh khiếu ắt động và có hy vọng.

Thế Tôn viết: Năng bất tử A La Hán.

Bất tử: là không chết, tức là chân Tánh Mạng Tiên Thiên không bao giờ chết, là nói về những

người tu luyện đã được kết Xá Lợi thì đạt bất tử như đức Phật.

Page 196: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

196

Đệ tử của đức Thích Ca là Ca Diếp trụ thế 700 năm, sau nhờ đức Thế Tôn truyền pháp quá

quan mới được lên ngôi nhị Tổ. Bửu Chưởng hòa thượng trụ thế 1712 năm, sau gặp Đạt Ma

Tổ sư truyền pháp quá quan mới thành Chánh quả.

Thử dĩ thượng giai ngôn chuyển Pháp luân thành Xá Lợi chi công, nhi Huệ Mạng chi

đạo tận tại tư dư.

Tiết nầy tổng kết thượng văn về pháp tu luyện thành Xá Lợi bất tử.

Dư viết: thành Xá Lợi chi dạo, công pháp thậm đa, viết Chơn Thần, viết Chân Ý, viết

Chân Khí, viết Hô hấp, viết Chủ tể, viết Vận hành, nan dĩ bị ký.

Phàm lâm cơ chuyển Pháp luân chi tế, nhất Ý ngự nhị Khí, nhi vận hành chi pháp, hựu

hồ Thần hiệp dử Chân khí nhi đồng hành, bất khả khởi du tha.

Kiến ư thập nhị quy, toàn trượng hô hấp thôi bức, Dĩ tức số định kỳ pháp tắc tử thể, dĩ

chí ư quy căn bất khả tu du lị dả. Ly tắc đoạn nhi bất tục, bất thành Xá Lợi hỷ.

Công pháp luyện thành Xá Lợi tuy có nhiều mà thiệt rất giản dị. Lúc mới công phu thì khó,

nhưng khi đã thuần thục thì dễ. Thí dụ như người dệt vải lúc mới bắt đầu vào việc, tay chân

đầu mắt trên dưới tả hữu đều chiếu tiếp trợ. Sơ học sơ tu cũng như vậy, lúc chuyển Pháp luân,

Chân Ý chủ tại Đơn Điền mà làm luân tâm, Thần vận Chân Khí mà làm luân qua, hô hấp thôi

bức mà làm luân cảo. Cũng đều tự cơ tiêu tức tự nhiên như nhiên mà ra, có gì là khó.

Tâm không hề nghĩ đến việc khác ngoài công phu vận chuyển Pháp luân. Trong dứt tư lự,

ngoài trừ tay mắt chỉ có một điểm Chân Thần đều lẫn Chân Khí tuần hườn. Nếu có một mảy tư

niệm thì Chân Khí sẽ bị tán thất nơi đường biệt lộ, hóa ra không chuyển luống thành vô ích.

Về độ số thì mỗi bộ có tứ điệp. Thăng lên là Dương, Dương là Càn, Càn dụng cửu: 4x9=36.

Càn sách thì tổng cộng tứ điệp của sáu hào là 216. Giáng là Âm, Âm là Khôn, Khôn dụng lục:

4x6=24. Khôn sách thì tổng cộng tứ điệp của sáu hào là 144. Cộng thành 360 là độ số của cơ

vận chuyển Pháp luân bộ hạn. Chẳng có một mảy sai lầm về quy tắc thì có huyền diệu, nếu

chẳng dụng công đúng y như vậy thì vạn vô nhất thành. Pháp nầy từ nhà Hán đến nay bí mật

không truyền chỉ trong Phật Phật tương ấn, Tổ Tổ khẩu truyền. Ta nay toàn bị tiết tận, mong

người có chí sớm thành Đại Đạo.

Về độ số 360, thiệt ra chẳng phải là số 360 mà chỉ là con số thí dụ mà thôi. Thí dụ như cái

bánh xe có 24 cây chống, nhưng nếu trước sau vận chuyển một hồi thì thành ra 48 cây tăm gọi

là nhất hồi Pháp luân, mà luân của ngoại luân là 360 số thiệt không sai thất, cho nên gọi 360 số

vậy.

Bất văn Thế Tôn dử Ca Diếp chi nhơn hồ: Chánh pháp nhãn tạng.

Page 197: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

197

Đây là bí thiên cơ thể Xá Lợi nên gọi là Chánh pháp. Nhãn là con mắt là nơi Thần nương tựa,

con mắt đến đâu thì Thần đến đó.

Hửu dử A Nan viết: Nhược bất tri Tâm mục sở tại, tắc bất năng hàng phục trần lao.

Đây là diệu chỉ của Lăng Nghiêm và là bí cơ thể thủ Xá Lợi. Nếu chẳng dùng Tâm mục mà

Thể thủ thì Xá Lợi làm sao quy Lư, cũng như không biết chỗ sở tại của Tâm mục thì Xá Lợi

quy về đâu. Sở tại ở đây là Chánh pháp nhãn tạng, như tiết trên đã nói.

Công phu Thể thủ thiệt có cái lạ: Thể thủ liên tục, vào khoảng 7 ngày thì Đơn Điền lần lần ôn

non, kết thành Xá Lợi, hình dáng tợ như Hỏa châu, hiệu nghiệm lần lần, đến cảnh huyền diệu

chẳng khá ví kịp.

Lúc Thể thủ, Thần quang chuyên thị Đơn Điền không được giây phút gián đoạn xa lìa, nếu xa

lìa thì lửa lạnh khí tán, chẳng thành Xá Lợi. Cho nên mới nói: Thất (7) nhật tư duy, há có thể

xem thường sao. Nếu chẳng dùng pháp nầy mà dùng pháp khác thì Xá Lợi vạn vô sở kết, và

cũng không đạt được kết quả trường sinh.

Pháp Hoa kinh viết: Ngã kim vị nhử bảo nhiệm thử sinh, kinh bất hư dả. Nhử đương cần

tâm tinh tấn, hành thử tam muội, ư thất nhật trung, tư duy như thị sự.

Sự ở đây là tên riêng của Thích giáo, là Chân khí của Nho gia. Chân khí nhờ đắc được pháp

Phong Hỏa mà thành Xá Lợi, cho nên gọi: Bất hư. Lại còn ngày đêm không dứt, niệm tư tại tư

nên gọi cần tâm tinh tấn, muôn điều tư lự thảy đều không, một điểm Linh quang chăm chăm

Xá Lợi, nên nói: Tư duy như thị sự.

Thất nhật là tổng quyết thể Xá Lợi, tức Nho gia gọi: Thất nhật phục kiến Thiên Địa chi tâm.

Lại nói: Thất nhật nhất Dương lai phục.

Còn công phu Thể thủ Chân Dược vốn không có kỳ hạn, hoặc 5 ngày, hoặc 7 ngày không

định hạn.

Thế Tôn viết: Lục chủng chấn động.

Đây là nói cái cảnh Xá Lợi sở sản. Lục chủng là nói về sáu nơi trong thân ta, chẳng phải là

sáu nơi của thế giới bên ngoài. Con mắt có kim quang, lỗ tai có tiếng gió, lỗ mũi có khí rúc,

sau não có tiếng chim thứu kêu, toàn thân có dũng lực động, Đơn Điền có hỏa châu. Đó là lục

chủng phát động.

Hựu viết: Mi gian thường phóng bạch hào quang.

Đây là lúc Xá Lợi thành.

Page 198: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

198

Thường: là nói về ám thất thường thấy bạch hào quang phát hiện, hoặc 1 lần, hoặc 2 lần, 4

lần, 5 lần, nếu Thể thủ thì được. Thích đạo diệu dụng chính là lúc nầy. Lúc Xá Lợi gần xuất

Lư thì từ Sơn Căn đến Đơn Điền có 1 luồng bạch quang sáng tợ ánh trăng. Lúc bấy giờ thì

ngoại Thận tợ như Quy túc.

Thế Tôn viết: Lô nha xuyên tấc.

Lô nha xuyên tấc là xảo dụ về pháp quá quan, là xuyên quá Tam quan, là dùng Chân Ý dẫn

đại Dược vượt qua 3 ải: Vỹ Lư, Giáp Tích và Ngọc Chẩm, Thiên môn rồi xuống Trung điền,

và trụ ở đây.

Trong đó có Thiên cơ, phải nhờ Chân sư chỉ truyền, không nên tự dụng. Đây là bí quyết chí

yếu của ngàn Phật muôn Tổ, phải nên khấn thiết cầu sư, sau đó mới có hy vọng.

Đạt Ma Tổ sư viết: Chiết lô độ giang.

Chiết lô độ giang cũng là thí dụ về pháp quá quan phục thực, phàm Tăng không biết cho là

Tổ sư bẻ lá lau làm thuyền qua sông để đến chân núi Lủng sơn.

Tổ sư giáng sinh nơi nước Thiên Trúc, đã đắc pháp, muốn qua Đông độ để độ người. Trước

tiên gặp Lương Võ đế bất thành. Sau gặp Thần Quang mới trao chân truyền.

Chiết: là thể thủ, Lô: là Xá Lợi.

Độ: là vận hành, Giang: là đạo lộ Nhâm Đốc.

Thế Tôn viết: Nhất tiển xạ thuấn cửu trùng thiếc cổ.

Tiển: là đại Dược, là Xá Lợi.

Cửu trùng: thân con người có đường Đốc Mạch, đường nầy có 3 quan: Vỹ Lư, Giáp Tích,

Ngọc Chẩm. Mỗi quan ải có 3 khiếu nên gọi Cửu trùng. Tiên gia gọi Cửu khúc minh châu.

Nho gia gọi ngọc Cửu thiên khai hóa.

Quá quan phục thực phải theo con đường nầy, nếu theo con đường khác thì vạn vô nhất thành,

uổng phí tiền công.

Hựu viết: Thiền duyệt vi thực.

Thiền duyệt: là sự vui đẹp ở công phu Thiền định.

Thực: là ăn, là thí dụ đưa Xá Lợi quá Tam quan trở về Trung điền nuôi dưỡng mười tháng.

Con đường phục thực, Tổ sư gọi là đường Tào khê, khúc khuất nguy hiểm cần phải đề phòng.

Page 199: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

199

Trước tiên có Hạ Thước kiều, trên hết có Thượng Thước kiều. 2 Thước kiều nầy là nơi nguy

hiểm, nếu chẳng biết đề phòng nguy lự hiểm thì Xá Lợi phải bị rơi xuống Thước kiều, tiền

công tận phế.

Hựu viết: Pháp hỷ sung mãn.

Công phu Thiền định đạt đến tột gọi là Pháp hỷ sung mãn. Lúc nầy Chân Khí trong người

được sung mãn, lần lần không còn muốn ăn, rồi không muốn uống, cũng không muốn ngủ. Là

do định tịnh Thiền công được chuyên chú. Chân khí sung mãn thì Chơn Thần định, tự nhiên

chẳng còn ăn uống.

Là điều rất vui mừng.

Thế Tôn bản hành kinh viết: Nhược chí hằng hà thủy, Nam ngạn yên ổn, trụ định như

Tu Di.

Thủy: là nước, là thí dụ Xá Lợi.

Nam ngạn: là nói về Trung điền.

Xá Lợi đã về Trung điền thì Thần với Khí tợ đá nam châm và sắt hút nhau, 2 thành phần nầy

không còn lìa nhau như trước, Chân Khí và Chân Tinh đều an trụ nơi Trung điền, không còn

vọng trì, an ổn tự tại. Nho gia gọi: Doãn chấp khuyết Trung thức Tánh lần lần tiêu ma. Chân

Tánh lần lần linh giác, chẳng còn vọng niệm, chánh niệm tự tồn. Hoa Nghiêm kinh gọi: yến

tọa tịnh thất.

Lăng Nghiêm kinh viết: Hành dử Phật, đồng thọ Phật khí nhân như trung âm thân, tự

cầu phụ mẫu, âm tính minh thông, nhập Như Lai chủng, danh sinh quý trụ.

Hành: là dụng hành nội công. Chẳng phải là hành lộ, hành sự mà là tu dưỡng Thánh Thai. Xá

Lợi đã về Trung cung thì Thần Dược thọ tiếp Phật Khí, và được chế phục nên không còn

buông ruỗi ra ngoài. Thần đắc mà Khí định, Khí đắc mà Thần trụ. Tương thân tương luyến

dung hóa hiệp làm một. Nên gọi: hành dử Phật, đồng thọ Phật khí.

Phân Tánh tức thuộc âm nên gọi âm thân Phật khí. Tức là cha, khí hô hấp tức là mẹ.

Công phu đến đây không còn gọi là khô tích Phật khí có cái lý sanh hoạt. Hô hấp có cái cơ tư

dưỡng, nên cần phải dùng Chân Ý mà cầu lấy sự hoàn bị của 2 khí.

Lúc Phật khí sinh phải khiến cho nó quy nguyên để trợ Thánh thai viên mãn. Còn cơ hô hấp

miên miên là để trợ cơ hóa dục cho Thánh thai. Nên gọi: tự cầu phụ mẫu. Lại không được chấp

nhất mà mê ở nhị.

Page 200: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

200

Công phu đến đây thì có một luồng Chân Khí từ Minh đường lại, rồi quy về Trung cung,

Chân Ý liền cổ động cơ hạp tịch khiến quy nhập vào châu thân, trục khử toàn bộ Âm khí trong

châu thân, hay còn gọi là huân hóa Âm Khí trong châu thân thành Dương Khí, và thành thuần

Dương Chân Khí, 360 đốt xương, tám vạn bốn ngàn mao khiếu thấy đều thông đạt, nên gọi:

âm tính minh thông.

Lúc nầy xác phàm xem như đã được quên, Thánh thai tự còn một mạch Thiên chân, Phật thể,

gọi là Như Lai chủng. Tuy là còn ở trạng thái Đạo thai vô hình vô tượng nhưng Định Huệ viên

minh, nên gọi: sanh quý trụ.

Thế Tôn viết: ư Dục, Sắc thiên nhị giới, trung gian hóa thất bửu phòng, như Tam thiên

Đại thiên thế giới, thuyết thậm thâm Phật pháp, linh pháp cửu trụ.

Dục giới, Sắc giới là danh từ của 2 cõi do Thích giáo mệnh danh. Trung Hoa gọi Trung điền

và Hạ điền. Sách chỉ quán gọi: Tây phạn ưu đà na.

Hóa: thần cơ diệu dụng, là pháp dưỡng Thánh thai.

2 cõi nầy hiệp lại thành một cảnh Hư không.

Nếu Chân Ý chấp trụ ở Trung điền thì Thánh thai sẽ bị trệ ngại, chẳng phải là Thất bửu

phòng.

Tam thiên Đại thiên thế giới: là lúc Xá Lợi thành, Chân Ý trụ từng nơi Đơn Điền, mỗi điền

dụng một ngàn thuyết pháp. Tục Tăng gọi Tam thiên là quá khứ một ngàn, hiện tại một ngàn,

vị lai một ngàn, há chẳng lầm sao.

Lúc dưỡng Thánh thai, Chân Ý trụ nơi Trung điền có công phu mười tháng, nên gọi: Linh

cửu trụ, cũng gọi là nhất thiên thuyết pháp.

Lúc xuất Thần hiển hóa, Chân Ý trụ nơi Thượng điền, có công phu tam niên nhũ bộ, cũng gọi

là nhất thiên thuyết pháp.

Thời gian nhập đại định, Chân Ý cũng trụ nơi Thượng điền, có công phu tam niên nhũ bộ,

cũng gọi là nhất thiên thuyết pháp.

Hoa Nghiêm kinh viết: Dĩ định phục tâm cứu cảnh vô dư.

Định: chẳng phải là ngồi tọa khô Thiền ngoan không cưỡng chế mà được định. Thiết có cơ

tịnh định tự nhiên.

Xá Lợi đã quy về Trung cung thì Thức Tánh chết, Chân Tánh sống, pháp được vui mừng,

Thần được đẹp lòng, chân an diệu lạc, vô nội vô ngoại, hồn nhiên một khối. Thiền định nầy,

Page 201: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

201

lúc hiệu nghiệm thì rực sáng tợ trăng thu, dung hòa khắp châu thân tợ như say khói, Tâm mục

nội quán, Xá Lợi huân chưng, cả xương thịt như tắm như gội, Tâm và Tánh rỗng như Thái hư,

đạt đến vô vi và an lặng, Lục căn tịnh chiếu, tám Thức đều không, Ngũ uẩn tuy còn có tuần

hoàn nhưng Chân Tánh an nhiên vô dư.

Thế Tôn viết: Như lý nhi lai, như lý nhi khứ.

Tiết văn trên nói về sự chứng nghiệm của Xá Lợi.

Tiết nầy nói về tu pháp lúc mới thành Thánh Thai.

Lai và khứ là thí dụ về khí hô hấp, là khải thị cho Tu sĩ lúc dưỡng Thánh thai, phải nương theo

hơi thở của mình là Chân Tức, sau đó mới được xuất ly trần cảnh và đạt đến Tịnh diệt, nên gọi

như lý nhi lai, như lý nhi khứ.

Có một Thiền sư nói:

Vị đáo thủy cùng sơn tận xứ

Thả tương tác bạn quá thời quang.

Con người lúc mới rời khỏi bụng mẹ, chỉ dùng khí hô hấp Hậu Thiên mà sống, còn Tiên

Thiên Chân khí thì lần lần phát tán ra ngoài. Cứ như thế mà ngày ngày thường dụng, Đơn Điền

vốn không có một Chân Tức nào được trọn vẹn. Chỉ nhờ có Thần ngưng mà Chân khí mới tụ.

Chân Khí tụ đến sung mãn mới thành Xá Lợi, và khí hô hấp cũng quy về đây.

Chân Khí là nguồn gốc kết nên Thánh thai, còn khí hô hấp cũng là nguồn tư dưỡng Thánh

thai.

Tu sĩ cần phải dùng Chân Ý là chủ tể mà định Chân Tức.

Lúc Chân Tức chưa định thì lấy Chân Ý để điều Chân Tức. Chẳng điều chẳng định thì không

chứng quả.

Lúc mới nhập thai không thể thiếu pháp điều Chân Tức được.

Như lý nhi lai, như lý nhi khứ cũng là ý nghĩa điều Chân Tức. Cho nên Phó Đại sĩ nói:

Lục niên tuyết lảnh vi hà đồ

Chí định điều hòa Khí dữ Thần

Nhất bá khắc trung độ nhất tức

Phương tri Đạo Đạo hiển tam thừa.

Page 202: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

202

Như Lai viết: Hữu dư Niết bàn.

Hữu: là có, là có Chân Tức.

Lúc mới nhập Thánh thai, Chân Ý phải nương theo Chân Tức. Chân Ý là Tâm. Tâm nương

theo Chân Tức. Chân Ý là Tâm. Tâm chẳng nương theo Tức, Tức tùy theo Tâm. Chẳng gấp

chẳng buông, lóng nghe ở tự nhiên, lại cũng chẳng nên theo hướng mênh mông trôi nổi.

Chẳng biết Chân Tức nơi trong, là vốn có Chân Tức của Thánh thai, mà tợ như không có

Chân Tức. Chẳng phải hỏa không có mà là thiệt có.

Cho nên kinh Kim Cang có giải thích:

Bất trị thùy giải cưỡng an bài

Niết tụ y nhiên hựu phóng khai

Mạc vị Như Lai thành đoạn diệt

Nhất thinh hườn tục nhất thinh thai

Niết: là nắn lại, gom lại.

Lời nói trên là lời nói về Tâm Tức tương y.

Phạn cương giới kinh viết: Như như nhất đế nhi hành, ư vô sinh không. Nhất thiết Phật

Hiền Thánh, giai đồng vô sinh không.

Như như nhất đế nhi hành: là Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên Khí ôn tư bổ cho Thai nguyên.

Chẳng gấp chẳng buông, thung dung vận hành.

Như ngày nay phàm Tăng đả thất tham thiền cũng gọi là nhất đế nhi hành, há chẳng lầm sao.

Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: cái đạo của Như Lai của Đại Tiên rất vi diệu, khó có thể biết

được.

Chính lúc khí nhân khí ôn là 2 khí Tiên Thiên phát sinh, thì Thần với Khí hỗn hợp, thân

người tợ như tắm, tợ như say, xương với thịt tợ như dung hòa, Chơn Thần như đứng giữa 2 cõi

Dục giới và Sắc giới, chẳng chấp chẳng trệ, không không lồng lộng, cho nên nói: vô sanh

không.

Thế Tôn viết: Nhi không bất không, Như Lai tạng.

Tiết trên nói: Vô sinh không, lại sợ người theo đó mà dứt sự kiến tri, nên tiết nầy nói: không

bất không. Sở dĩ không nhi bất không là tịch nhi thường chiếu.

Page 203: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

203

Nhiên Đăng Phật viết: sanh diệt diệt dĩ.

Sanh diệt diệt dĩ là: Chân tức trong thai chưa tột tịnh định, nhưng còn có cái lý khuất thân (co

duỗi). Cho nên nói: sanh diệt phải giữ đến tận không, là không còn co còn duỗi nữa, nên nói:

Diệt dĩ. Chỉ biết có Thần mà chẳng biết có Khí trong Thai gọi là vạn pháp quy nhất.

Cái pháp luyện cho Tâm Dược được trọn vẹn, phải nương nơi Thai mà trụ, còn gọi quy vu

pháp, là quy ở đây.

Nếu như chưa có linh Thai mà Chân Ý cưỡng Xá Lợi, hay Chân Nguyên Khí trụ, và gọi là

diệt dĩ là chứng đạo, tức là sai quấy vậy.

Kim Cang kinh viết: Bồ Tát đản ưng như sở giáo trụ.

Bồ Tát tu Phật tâm, tất nên ưng như sở giáo trụ, mà sau mới chứng Phật, cho nên lời kinh nói:

Bồ Tát muôn tu Phật, thì Tâm phải ứng theo lời Phật đã dạy. Trụ giáo: tức là Linh thai.

Còn muốn đắc Linh thai và trụ định viên mãn, là trước trụ cái Tâm. Trọng yếu của trụ Tâm,

điều tất yếu là nương Chân tức tam muội mà tịnh định, thì chẳng bị đọa vào lục trần và chạy

theo nẻo mê hoặc.

Được như vậy gọi là Chánh định và thành Chánh giác, tức Hoa Nghiêm kinh gọi: sơ thiền

Niệm trụ, nhị thiền Tức trụ. Là như vậy.

Lăng Nghiêm kinh viết: Ký quy Đạo thai, thân phụng giác ứng.

Lời kinh nầy nói: Thần nhập vào Khí thì Khí bao bọc lấy Thần, tạo thành trạng thái mờ mờ

lặng lặng, còn trong bản thể uyên nguyên, tợ như cảnh tượng con còn trong thai mẹ, cho nên

nói: Đạo thai. Lại nói: trước khi cha mẹ chưa sanh vốn tự tạo tự hóa, đều là Đại tổng trì, nên

gọi Thân phụng giác ứng.

Kim Cang kinh viết: Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí.

Tiết trước nói về sự luyện Tâm chưa trọn vẹn thì phải nương theo Thai Tức mà trụ Tâm. Tâm

đã trụ, ta chớ nên tham trước nơi Chân Tức. Nếu niệm niệm chẳng xóa trụ nơi Chân Tức thì

Chân Tức bị trói buộc lấy Tâm, đồng như Lục Căn buộc trói lấy Tâm, đó là Tâm chưa được

trọn vẹn. Cho nên nói: vu pháp ưng vô sở trụ, hành ư bố thí pháp tức là Chân tức vậy.

Tâm đã trụ, thì nên buông bỏ hơi thở đi.

Cổ Đức nói: quá hà tu dụng phiệt. Đáo ngạn bất tu châu (qua sông phải dùng đò, đến bờ rồi

phải bỏ đò đi)

Hoa Nghiêm kinh viết: An trụ tịch tịnh chư thiền định, trí nhập bất tử đạo.

Page 204: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

204

An trụ tịch tịnh chư thiền định: lỗ mũi không không xuất khí hai tay sáo mạch trụ hồn nhiên

đại định. Tuyệt vô sanh diệt. Lăng nghiêm gọi: Tam thiền mạch trụ. Các căn đã trụ gọi là

Thiền lạc ngã tịnh trí, là trong thiền định được Chánh giác vậy.

An trụ tịch tịch Thiền định thì thành bậc Chánh giác, là cái đạo bất tử của Chân nhân. Cũng

như thiệt chứng Như Lai.

Thế Tôn viết: vô dư Niết Bàn.

Vô dư: vô dư Niết Bàn

Vô dư: là hơi thở không còn xuất nhập.

Niết Bàn: là sự vui vẻ của Thiền định tam muội, là lục Căn diệt tận, các duyên chẳng còn,

một Tánh viên dung, Huệ quang rạng chiếu pháp giới. Đó là cảnh mầu nhiệm của vô dư Niết

Bàn. Cũng như nói về sự thọ ký của đức Nhiên Đăng thọ ký cho đức Thích Ca, tự có Linh

quang rực sáng cổ kim.

Hoa Nghiêm kinh viết: Hằng dĩ tịch niệm, trụ Vô thượng giác.

Tịch niệm: chẳng trụ vào trần vọng, cũng chẳng trụ nơi pháp trói buộc. Là cái trí niệm bất

sanh bất diệt của Thiền định. Hoa Nghiêm kinh gọi: Tứ thiền diệt tận định.

Vô thượng giác: là chứng quả Chánh giác viên mãn của Phật đạo.

Huệ quang lãng triệt: là không ngày không đêm được đại tự tại, đều đủ lục thông. Gọi là Vô

thượng giác.

Lúc Niệm trụ thì Huệ phát minh, và tất cả Huệ cũng không được sử dụng.

Nếu chẳng thủ định mà Tâm còn tham lam háo thắng, là dùng Huệ thì bị dính mắc vào ma

cảnh, bị Thức Thần gây tổn hại, tận phế tiền công.

Nhiên Đăng Phật viết: Tịch diệt vi lạc.

Tịch diệt: chẳng phải là tử vong mà là sự thiệt chứng của Thai viên Tánh triệt. Lăng Nghiêm

kinh gọi: Giác đạo viên mãn.

Phật tánh, cảnh tượng tịch diệt đều do Huệ Mạng sáng soi khắp cả. Rực rỡ vậy là do ở Tâm

vô vi định giác. Cũng không còn hư vọng, Tánh không còn sanh còn diệt. Lục Tổ gọi: Thiền

Tâm vô tưởng, thiền Tánh vô sanh, lục mạch toàn vô, hơi thở nơi mũi đã diệt tận nên gọi là

tịch diệt.

Page 205: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

205

Thánh thai, Phật Tánh dung dung, như mặt trời ở giữa không trung, nên gọi: vi lạc. Lại còn

nói chân không vô vi.

Chứng quả đến đây có cảnh lành lạnh, có hoa tuyết bay rơi.

Cảnh xuất định đến thì dời niệm ra ngoài Tu Di sơn. Chưa đến Đại định, không có cảnh xuất

định đến mà vọng xuất thì bị nhập vào ma đạo.

Có cảnh đến mà chẳng xuất gọi là giữ lấy thây quỷ, cũng không có trí huệ Thần thông mà là

một ngư phu. Cho nên kinh Di Đà có nói: Nhiên quân bát vạn kiếp, chung thị lạc không vong.

Dư Tổ viết: Xá Lợi quá quan chi diệu pháp, dĩ tịch nhi chiếu, dĩ nhu di dụng, khê lộ hiểm

nguy, phòng thượng hạ chi trì tán, đảo động nhi dẫn, nhu hộ nhi hành, tắc đạo thai chi

pháp đắc hỷ.

Tiết nầy nói lại pháp dụng công sau khi đắc Linh thai.

Tịch chiếu: là chánh công bảo thủ Xá Lợi.

Tu sĩ nếu chẳng tịnh thì Xá Lợi chẳng phát động.

Chẳng chiếu thì Xá Lợi chẳng xuất Lư.

Cho nên pháp bảo thủ Xá Lợi không thể thiếu tịch thiếu chiếu.

Cho nên đức Thế Tôn mới nói: Tâm mục sở tại.

Khê lộ: còn gọi là đường Tào khê, đường nầy vốn khuất khúc hiểm nguy. Đầu đường có Hạ

Thước Kiều, cuối đường có Thượng Thước Kiều, là 2 nơi Xá Lợi thường bị lọt cầu!

Tất phải dùng Pháp khí mà đóng kín 2 cầu, là để bảo hộ di họa hoạn nguy hiểm lậu kiều.

Còn một đường dương quan, còn gọi là thục lộ, là đường quen thuộc tiết lậu.

Cộng là 3 khiếu nguy hiểm, nếu không có Chân sư truyền thọ thì khó tránh cái cảnh vọng trì

phách tán nếu chẳng có Chân Ý điều dẫn, thì Xá Lợi làm sao vận hành thông suốt, nên gọi:

Thiện hộ bửu Chân.

Đúng lúc nầy, Xá Lợi như đi qua cầu nhỏ bé nên nói: Chờ động mà dẫn, nhu hộ mà Xá Lợi

đi. Linh thai nhờ có khí hô hấp hóa dục mà được xuất định. Cũng như lúc thai nhi còn trong

bụng mẹ, hễ mẹ một hấp thì thai nhi một hấp, mẹ một hô thì thai nhi một hô. Linh thai cũng

như vậy.

Lúc Linh thai mới kết phải mượn cái Hỏa hô hấp để huân dưỡng. Linh thai đến 5, 6 tháng thì

2 khí lần lần tế vi, đến 8, 9 tháng thì 2 khí toàn định.

Page 206: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

206

Lúc nầy chỉ biết có Thần mà không nên biết có Khí.

Chính lúc nên không mà quyết định là không, thì sa vào đoạn kiến. Cho nên không mà tợ như

chẳng không, đó mới thiệt là tịnh mà thường chiếu.

Đương lúc chẳng không, mà chỉ biết chẳng không tức đọa vào trường kiếp. Cho nên chẳng

không mà lại như không, đó là chiếu mà thường tịch.

Lúc đã đến đại định thì Thần với Khí hồn nhiên hợp nhất, và cảnh xuất định sẽ đến.

Tất cả những lời nói trên đều là Chân quyết, ngoài đời chẳng khứng nói rõ mà chỉ điên đảo

thí dụ khiến cho người khó hiểu.

Ta nay gom góp và phân ra từng tiết để thành toàn chỉ, thật là phương tiện tốt cho người học

thiền.

Bất văn Hoa Nghiêm kinh ngũ thập quyển chi ngôn hồ: Thế Tôn tùng bạch hào tướng

trung phóng đại quang minh, danh Như Lai xuất hiện.

Từ đây dĩ hạ đều nói về cảnh xuất định.

Thượng ngôn chỉ nói dưỡng Thai, mà lúc xuất định thì chưa nói rõ nên Như Lai sợ hậu thế

chẳng biết lý nầy, mới phát đại từ bi và nói Tùng bạch hào quang xuất.

Sau đó muôn đời mới biết có bằng cớ nầy:

Thiên cơ xuất định, tục Tăng không thể biết được.

Từ đời Hán đến nay có mấy ai hiểu thấu.

Đương thời của Như Lai, tự có hiệu nghiệm ở chỗ thủ chứng xuất định.

Lúc xuất định, hoặc phóng Bạch quang, hoặc phóng Kim quang, bản Tánh ta đều thấy được.

Chủ yếu là phải cầu Chân sư chỉ truyền pháp Thâu quang. Nếu như chẳng thâu hào quang đó

thì phải bị trì tán vậy. Rồi hữu hình chẳng hóa thành vô hình, Tánh tuy diệu mà hình không

diệu. Đó là chẳng đắc được toàn pháp của Thích Ca, Đạt Ma và Tịch Vô.

Tu sĩ nên gấp tìm chân sư, nếu không sẽ bị lầm lỗi về Thiên cơ, cuối cùng không cũng hoàn

không.

Tịch Vô Thiền sư viết:

Thai viên tiết chí tuyết hoa phi

Page 207: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

207

Niệm động phiêu không thượng đảnh ky (cơ)

Mạc vị Như Lai khô tịch đạo

Pháp thân xuất tịch hựu quy y.

Tiết nầy Thiền sư nói về lúc xuất định.

Đáng xuất mà chẳng xuất thì trệ nơi Pháp thân, tức định sẽ bị trói buộc. Chẳng được thần

thông, là biến hóa thành Thiên bá ức hóa thân.

Thai viên tiết chí: là nói lúc Linh thai đã tột viên mãn.

Thấy tuyết hoa rơi xuống phàm thể, thì Chân Ý hướng vào Thái không. Chẳng biết được

Thiên cơ nầy vì chưa gặp được Chân sư.

Như ngày nay nhóm Tòng Lâm khô tọa, lấy sự thu nhiếp cái Tâm làm chánh pháp, tự cao tự

đại, lừa dối người tu. Tự mình đã lầm, lại đem cái lầm đó trao cho người. Chẳng biết về bạch

hào quang của Như Lai, về tuyết hoa của Tổ sư. Luống tự làm Tăng nhờ cửa Phật nương thân

ăn của đàn việt, quên đại ân của cha mẹ.

Làm thân nam tử đầu đội trời, chân đạp đất, nếu chẳng hiểu được chánh đạo há không hổ

sao?

Lúc Pháp thân xuất định lìa phàm thể phải lập tức nương theo đó mà quy về nơi hườn dưỡng

Thần bảy ngày.

Lại lúc sơ xuất mà thấy cảnh đẹp có Phật, có Tổ, có Bồ Tát nhất thiết không được vui nhận.

Đó là do ma biến hóa ra. Nếu vui nhận tức bị dính mắc với ma và sẽ bị ma dụ mê thất. Đó là

do cơ quy tịch Phật quả chưa được viên mãn, và khó tự nương chân, làm sao khỏi tái sanh về

hậu thế!

Như vậy phải quyết chí tu trì, từ cửu địa đến thập địa, cho đến thập nhất địa đẳng giác để siêu

xuất lên trên cảnh vô sắc giới.

Lúc mới xuất định, Chơn Thần mới lìa phàm thể từ 3 đến 5 thước, phải cẩn thận chớ nên kinh

khủng.

Tất cả những gì đã thấy đã nghe nhất thiết không được tiếp nhận, chỉ chờ đến cảnh có một

vầng Kim quang như bánh xe lớn, mới dùng Chân Ý nhập vào vầng Kim quang rồi thu nhiếp

vào Chân Tánh. Đó là căn bản hình được huyền diệu.

Lăng Nghiêm kinh viết: hình thành xuất thai, thân vi Phật tử.

Page 208: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

208

Thập ngoạt Linh thai được 2 khí tư dưỡng mà viên mãn, Tánh định, gọi là hình thành xuất

định, trí huệ quảng đại, trông thấy được tất cả, hiểu biết được tất cả, xuất hữu nhập vô, tụ lại

thì thành hình, tán pháp ra thì không còn tông tích, hào quang chiếu khắp Pháp giới thần quỷ

chầu hộ, cho nên nói: thân vi Phật tử.

Pháp Hoa kinh viết: Thế Tôn phóng bạch hào tướng quang, chiếu kiến Đông phương,

vạn bát thiên thế giới, mị bất châu biến. Hạ chí A tỳ địa ngục. Thượng chí A ca ni yêu

thiên Nam Bắc Tây Đông, giai như thị. Chiếu kiến châu biến.

Pháp thân đã xuất định lâu ngày thì thấy tất cả như thấy trong bàn tay.

A ca ni yêu thiên: là tên của cõi trời Sắc giới. Linh thai mười tháng được định, cộng hành đã

đến cõi Trời nên mới được xuất định. Sở dĩ nói đến cõi Trời, vì tứ phương thượng hạ tất cả

đều thấy.

Đại Giác Kim Tiên Như Lai viết: Tùng nhục cật trung dũng bá bửu quang, Quang trung

dũng xuất thiên diệp bửu liên, hữu hóa Như Lai tọa bửu hoa trung.

Tiết văn nầy Lăng Nghiêm dạy người sớm tối nên tụng lấy. Phàm Tăng chẳng biết cội nguồn

từ đâu lại nên chỉ lấy câu đó để tụng niệm.

Kim Tiên là do đức Thế Tôn tự xưng.

Liễu Nhiên hỏi: chư Tăng trong Phật giáo ngày nay gọi Tiên là tiểu đạo. Như Lai sao gọi là

Tiên? Đáp: Phật và Tiên vốn không phân bỉ thử, chia phân là do phàm Tăng. Như Lai đã nói:

Tiên là để cho người tu hành theo đạo và không còn chấp môn hộ nữa. Còn để tổng quy về cái

đạo Huệ Mạng của đức Thế Tôn.

Lại hỏi: Lăng Nghiêm còn gọi mười giống Tiên cũng còn bị đọa, là sao vậy?

Đáp: sở dĩ mười giống Tiên mà còn bị đọa vì lúc khởi thủ tu luyện nguyên chẳng tu theo Huệ

Mạng mà lại tu theo tiểu pháp của bàng môn, còn có thành cũng chỉ thành tiểu quả, cho nên

còn phải đọa.

Nếu đắc Huệ Mạng khởi thủ thì không còn gọi Thập chủng Tiên mà gọi là Kim Tiên.

Kim là vật báu của Tây phương, tức là Chân Khí. Chân Khí thuộc Dương, còn Thần Hậu

Thiên thuộc Âm. Âm được Dương nên thành Dương Thần.

Thế Tôn viết: sơ thành Chánh giác, nải nhập Long cung nhập định thất nhật, quán Bồ

Tát thọ Dương. Nhập định thất nhập chí nhị thất, tam thất ư nhủ bộ lâm nhập định thất

thất tứ thập cửu nhật bất thực.

Page 209: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

209

Lúc mới xuất định phải tư dưỡng đủ bảy ngày rồi lại xuất lại tư dưỡng đủ 14 ngày rồi lại

xuất. Cứ như vậy mà tư dưỡng, mà xuất. Cho đủ 49 ngày mới chẳng còn ăn.

Tam niên nhũ bộ: là 3 năm bú mớm, tỷ như em bé từ lúc mới ra đời cho đến khi tròn 3 tuổi.

Từ cái ngồi, cái đi, đứng, ăn uống, nói năng, mẹ đều luôn luôn bên cạnh dạy dỗ hướng dẫn.

Cho đến khi nào em bé đầy đủ năng lực đi, chạy, nói năng rành mạch, biết bưng chén cơm để

ăn. Tất cả đều có thể lo lắng được. Chỉ trừ những việc nặng nhọc mới nhờ mẹ.

Tam niên xuất Thần hiển hóa, biến thiên ức hóa thân, cũng như em bé tam niên nhũ bộ vậy.

Có người hỏi: Ngũ Đăng Hội Nguyên, gọi nhập định là ngoại sự. Nay nói nhập định, há

chẳng phải là ngoại đạo sao?

Đáp: Hội Nguyên gọi nhập định, là ngoại đạo, đó là chưa đắc cái đạo Huệ Mạng Xá Lợi,

luống theo không mà nhiếp Tâm mà nhập định, đó là kế thuật của Âm thần Hậu Thiên, chẳng

phải là Tiên Thiên Dương thần, nên nói ngoại đạo.

Tiết nầy đức Thế Tôn nói nhập định, là đắc cái đạo Huệ Mạng mà thành Linh thai Xá Lợi.

Sau khi xuất thai rồi nhập định, Hội Nguyên không minh được Chánh pháp nên hỗn luyện

làm một, đó là điều mê hoặc hậu nhơn.

Chính vì cái đạo Huệ Mạng, từ Lục Tổ về sau thuộc bí truyền.

Thế Tôn lại nói: Tám vạn kiếp chỉ trong một định. Há là ngoại đạo sao?

Tiết nầy nói 49 ngày rồi mới không còn ăn, đó là Thế Tôn đã tự chứng vậy.

Tu sĩ cần phải cầu Chân sư chỉ điểm về Huệ Mạng, về Xá Lợi, về Linh thai. Sau đó mới có

hy vọng.

Chẳng được như vậy thì thập luyện cửu không, cam chịu chết khô, dầu cho có huyền diệu

cũng chỉ là cô tính quỷ mà thôi.

Thế Tôn viết: Hộ niệm pháp linh cửu trụ.

Tiết văn nầy nói về công phu nhủ dưỡng của thời tam niên xuất Thần hiển hóa.

Tiết trên nói về nhủ chấp, tức là pháp hộ niệm.

Cửu trụ: Chân Ý thường định trụ nơi Thượng điền, nên gọi: Đại định.

Hoa Nghiêm kinh viết: tuy chứng tịch diệt cần tu tập, năng siêu như không bất động địa

Phật. Khuyển linh tùng tịch diệt khởi. Quảng tu chủng chủng chư trí nghiệp.

Page 210: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

210

Tiết trên nói: Cửu trụ đắc sanh diệt diệt dĩ mà được tịch diệt. Tuy vậy, nhưng phải cần gia

thêm công phu tu luyện thì tịch diệt mới được dài lâu, tợ như hư không là chốn toàn nhiên bất

động.

Phật có dạy: tất yếu là phải theo đây: sơ đắc tịch diệt, cần gia tu tập, trí huệ tiến mãi không

ngừng. Không mà lại không, hư mà lại hư, nên nói: Hư không giới tận. Sự tu hành của Ta

(Phật) không có chỗ tận cùng.

Hoa Nghiêm kinh hựu viết: Hằng trụ Niết Bàn như hư không.

Tánh như hư không, mà chẳng trụ ở hư không.

Nếu dính mắc hư không tướng, tức có cái hư không tại, và bị hư không gây chướng ngại thì

chẳng phải là hư không, mà hư không là tự nhiên như nhiên, nhưng chẳng phải là tự nhiên như

nhiên, cho nên nói Như hư không.

Hựu viết: Tâm thường chánh định, diệt trừ giác quán, nhi dĩ nhất thiết trí giác, quán

tùng thử bất động, nhập vô sắc định.

Tiết nầy nói về Tánh hườn Hư, được đến cảnh giới Hư không. Chân Tâm đã định thì tất cả trí

quán đều diệt trừ, hồn nhiên vô cực, hoặc một định 3 năm hoặc một định 9 năm, và có một

điểm Linh quang Chân Hỏa thâm tàng nơi trong. Lâu ngày dày tháng Tâm thường chánh định

thì thân phàm cũng hóa thành Khí, rồi Thần đã diệu và hình cũng diệu. Như đức Thế Tôn đã

diệt độ cho mẹ, lại còn buồn than thân đến hư không, lại cùng mẹ thuyết pháp. Như Đạt Ma tại

Thiếu Lâm, vai quảy chiếc dép đi về hướng Tây, trên đường đi thân đến quan tể tướng cùng

nói năng rồi từ biệt mà lên Thiếu Lâm tự. Quan tể tướng sanh nghi và đào mã khai quan,

nhưng chỉ thấy một quan tài trống không, tuyệt hình vô hài.

Tịch Vô Thái ấp, phàm thân biến hóa trăm ngàn nhưng lúc ẩn thì vô tông tích. Cho người

kim ngân, hoặc cho người mỹ nữ, hoặc hiện long hổ, hoặc chỉ một lúc mà hồi chuyển muôn

dặm. Thiền sư ẩn nơi Lô sơn, để hườn hư đó là Tâm thường chánh định, há có thiếu sao. Cho

nên đức Thế Tôn mới nói bát vạn kiếp nhất định.

Viên Giác kinh viết: Như Lai viên giác.

Viên giác là Chân Tánh đã hườn hư, và hư đã đến tột. Lúc nầy thì không phàm không Thánh,

không ngày không đêm, chỉ còn một Tánh Thái hư, tức Thiệu tử nói: Đạo thông thiên địa hữu

hình ngoại. Tư nhập phong vân biến thái trung. Trời đất theo kiếp số mà bị hủy hoại, nhưng

cái nầy chẳng hề bị hủy hoại. Co nên trong kinh Di Đà có nói: Thành Phật dĩ lai chí kim thập

kiếp.

Hoa Nghiêm kinh viết: Pháp Tánh như hư không, chư Phật ư trung trụ.

Page 211: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

211

Tánh đã như hư không thì không có việc gì cả. Lại còn nói: Vu trung trụ. Thực tại có một đạo

lý nhưng nhiều người chẳng hiểu. Thù bất tri, đó là diệu pháp luyện hườn Hư. Chân Tánh phục

quy Trung cung là bí quyết. Trung cung: Như Lai gọi Tỳ lô Tánh Hải. Đem cái chân Tánh nầy

mà trụ nơi Tánh Hải, tợ như Long dưỡng ngọc châu. Tất cả chẳng nhiễm nương diệt tận định

mà tịch diệt. Nếu có hào quang phát hiện phải thâu về tàng giấu đi.

Định mà lại định, lâu ngày thì Tánh sáng, hóa thành Xá Lợi quang, rồi từ Tánh Hải xung xuất

hóa vạn vạn đạo hào quang, quán suốt nơi Thái không, cùng với Cổ Phật Như Lai tương hội.

Cho nên Đại Giác Thiền sư mới nói: Nhất đỏa Xá Lợi quang hoa hoa. Chiếu tận ức vạn vô

cùng kiếp. Đại thiên thế giới tổng quy y. Hà Trạch Thiền sư lại nói:

Bản lai diện mục thị Chân sư

Xá Lợi quang trung nhận đắc cừ

Vạn kiếp mê đầu kim thủy ngộ (hiểu)

Phương tri tự Tánh thị Văn Thù.

Thử dĩ thượng, giai ngôn Xá Lợi chi quá quan, dưỡng Đạo Thai, xuất định, hườn hư chi diệu

pháp, nhi Huệ Mạng chi đạo tại tư dư.

Dư bất cảm vị thử tập vi tự luận chi diệu đạo.

Thị giai hội tụy Tiên Thánh chi chân truyền!

Tức hậu lai vạn kiếp lệ chí giả, ngộ Phật đạo tu Huệ Mạng chi căn bản. Sử kiến chi giả tức tự

liễu ngộ, khế hạp Phật, Tổ chi Chân chỉ, như thành kỷ hựu thành nhơn, tắc Phật đạo chi quả

chứng hỷ.

Page 212: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

212

10. CHÁNH ĐẠO TU LUYỆN TRỰC LUẬN

CHÁNH VĂN:

Hoa Dương viết: Tu giả dĩ phá nhi bổ luân. Luyện giả dĩ hỏa nhi hóa vật. Hỏa phi phong bản

thược. Vật vô sở tắc vô cư. Cố thị: chí nhơn tham hồ Đại đạo, tu hồ Tánh Mạng, Phong hỏa

vật, sở tịnh nhi đồng dụng.

Thượng hạ vạn cổ thành kỳ đạo giả, mạc bất dĩ thử nhi vị yếu dả.

Nại hà, tri chi giả hi yên, muội chi giả chúng yên.

Chấp Tánh phiếm Mạng, bất thức động tịnh vãng vãng đáo đầu hư lão. Mạng động nhi ngọc

hao, hao tận. Ô hô! Tánh hà cư tai! Đạo hà tổn tai! Thị dĩ chí nhơn sát hồ động tịnh chi tiêu tức

hiệp hồ tịnh tu.

Mạng giả căn ư Thận. Thận động tắc Thủy dả dĩ.

Tánh dả căn ư tâm tâm động tắc hỏa dả dĩ hỏa nhập ư thủy trung, tắc Huệ Mạng nhi bất ngoại

hao. Dĩ phong hỏa (xuy) hóa vi chân chủng. Kỳ pháp giản dị. Ngộ chi giả, tu chân chủng nhi

thành Xá Lợi. Tịnh thời nhi hầu động hành hồ Như Lai chi đạo lộ. Túc hồ Thế Tôn chi thọ hạ.

Tư vị chi hành trụ hỷ.

Thả hỏa chi hành trụ, thiệt tùy vật chi biến hóa.

Âm ma hiện thời tức đương dụng võ Hỏa nhi hườn luyện, miễn kỳ bôn trì, lậu tận chi nguy

hiểm.

Định tịnh thái bình, thường tự nhu hòa chi ôn dưỡng, dĩ vi hộ trì bửu châu chi kiên cố.

Thả như chuyển pháp luân chi tế, văn võ kiệm nhi tịnh dụng, kỳ trung tinh vi chi áo diệu, tại

sư truyền nhi tự ngộ.

Xá Lợi thành chi thời, chỉ võ đới văn chi huân tụ. Minh châu hiện nhi bá quái diệt, nhu vận

tào khê chi đại lộ.

Đạo thai lập nhi thiên trí sinh. Ôn dưỡng doãn chứng Như Lai định huệ.

Phù huệ như bất dụng, cần tu thiền ma, tuân gia Linh trí chi quang huy. Tịch, chiếu thường tự

giác ngộ, hưu tùy hôn trầm, tán loạn chi hối không.

Trì thủ định lực, tại hồ không Tánh, nhất niệm chi thành dả.

Tánh pháp định thời, tuyết hoa loạn phi. Tư vị chi xuất định hỷ.

Page 213: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

213

Cái đại đạo tịnh cực chi trung, nhi hựu sanh hồ động cơ. Sở vị triền cơ phục kiến ư Tý, Chân

vật tái động ư cực tịnh.

Sở dị trùng thứu hồ diệu đạo, tái lập hồ giới, định, huệ.

Định định bất dĩ, chí ư vô cực, nhi chí cực.

THÍCH GIẢI

Con người nguyên sinh, bẩm thụ hoàn toàn cái thể của Tánh Mạng. Cho đến tuổi niên tráng

khí mãn thì tự lậu. Đương lúc chưa phá (tức chưa lậu) nếu được gặp Chân sư chỉ điểm thì

chẳng cần bổ pháp mà chỉ dùng đốn pháp vượt thẳng vào cõi Như Lai. Còn người đã bị phá

phải nên bổ hoàn toàn thể (bổ luân). Bổ là thâu hồi Chân Khí vãng hoại để bổ chỗ bất túc của

Chân Khí. Bổ mãi cho đến lúc nào Chân Khí được sung mãn thì sanh cơ bất động, tức thành

hiện tượng Quy Túc (Linh Quy tàng đầu), gọi là Bất tử A La Hán.

Vật ở đây là Nguyên Khí của ta. Nguyên Khí tuy tàng nơi Khí huyệt nhưng lúc động thì

hướng ngoại biến thành chất lậu tận. Nay đã quy nguyên thì dùng Chân Hỏa để huân hóa cho

thành Chân Khí.

Lửa để huân chưng phải nhờ có gió. Gió là khí hô hấp. Lửa nhờ có gió mới hừng lên, và cái

khí chất kia mới được huân hóa thành Chân Nguyên Khí.

Sở là Đơn Điền, là chỗ sở cư của Chân Khí (vật lúc sanh cũng từ nơi đây xuất phát). Sử dụng

Phong Hỏa cũng từ nơi đây. Thể thủ quy Lư là quy về nơi đây Chân Ý nhập vào khí huyệt

dùng khí hô hấp thổi ngược lại, đó là cơ động dụng mà các bậc chí nhơn đã đắc.

Ngàn trăm đời về trước, ngàn trăm đời về sau cũng người nầy, cũng Tâm nầy muốn thành

Chân đạo không ngoài Tánh Mạng. Nhưng Tánh Mạng hiệp nhất không ngoài Phong Hỏa.

Cho nên nói: Thiên hạ vô nhị Đạo, Thánh nhân vô nhị Tâm.

Người đời học Phật chỉ biết niệm kinh bái Phật, thọ giới của vị Phương trượng, còn tối cao

thì tham thiền, đả tọa, số người nầy rất đông.

Còn 2 chữ Tánh Mạng thì ít người biết.

Cũng như trong giới tu hành ngày nay chỉ biết tu Tánh mà không biết tu Mạng. Thù bất tri,

trong Đại tạng giáo của Như Lai đã chép: Tánh Mạng song tu hữu vô, nguyên thị tịnh dụng. Vì

chấp tử thiền nên chẳng biết cơ động tịnh Âm Dương, Tánh Mạng. Cuối cùng dù cho vạn kiếp

tu luyện cũng vạn vô nhất thành, nên nói: vãng vãng đáo đầu hư lão.

Người tu luyện ngày nay chẳng đắc Chân truyền của Như Lai nên chấp Tánh mà chẳng biết

Mạng, nên chẳng biết khí Chân Dương phát động và chẳng biết pháp Thể thủ quy Lư, dầu

Page 214: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

214

không bị lậu tận cũng bị ngoại hao. Nếu hao tận làm sao không chết, nếu đã chết rồi thì Đạo có

còn không?

Tu sĩ tu luyện ngày nay lìa cha mẹ, bỏ vợ con rồi thâm nhập vào thâm sơn cùng cốc, chùa

lớn am cao để tu luyện, để Thiền tịnh, thật là trò cười.

Vì chưa đắc Chân truyền nên phải cô tu, khô tịnh, chẳng biết cơ động tịnh khác nào mèo điên

rình hang không có chuột, có ích gì đâu.

Tử Ma Quang Như Lai: bất Thức động tịnh, học đạo vô ích.

Các bậc chí nhân tịnh cái Tâm để chờ Thận động, Chân Ý liền chỗ động rồi liên hiệp lại mà

luyện. Tâm với Thận hiệp nhau, tức Tánh Mạng hiệp nhất.

Mạng tức là Nguyên Khí, Nguyên Khí động thì biến làm nước.

Tánh tức là Chân Ý, Chân Ý động thì biến làm lửa. Lấy Chân Ý trong Tâm tức là Chân Hỏa

nhập vào Chân Khí trong Thận.

Chân Khí được Chân Ý hiệp trụ thì Huệ Mạng chẳng bị ngoại hao.

Phong là hơi thở của hô hấp. Tiết trên đã nói: Chân Khí được Chân Ý hiệp trụ thì Chân Khí

không bị ngoại hao. Nhưng trong đó còn có cái bóng dáng của khí Hậu Thiên tợ như khí mù

chưa được huân hóa, nên phải dùng hơi thở hô hấp thổi ngược lửa vào lò để huân hóa cho hết

cái khí mù còn lại biến làm Chân Khí. Chẳng dụng công như vậy thì cái khí mù đó sẽ tác quái

gây bát loạn tâm quân rồi phát ra tư tưởng dục tình. Thầy Mạnh tử nói: khó diệt động chí.

Lăng Nghiêm kinh gọi là Âm ma.

Chủ yếu là miên miên, là lâu lâu hà luyện, tức là hà luyện cho liên tục, cho lâu ngày.

Luyện cái Âm ma nầy hóa thành Dương quang thì thâm tâm tự an lạc, tình dục tự nhiên

chẳng còn quy động, tức đức Thế Tôn gọi: nhập Tam muội hỏa trung nhi hàng Hỏa long. Đây

là bí cơ của thiền môn.

Các chí sĩ đắc được pháp nầy rồi cứ theo đó mà luyện.

Nếu dụng công đắc lực thì lòng dục chẳng trừ mà tiêu trừ. Tâm chẳng dụng tịnh mà tự tịnh.

Cho nên lấy đạo chế Tâm mà Tâm trở ra đạo.

Công phu như vậy được lâu ngày thì Thiên cơ hốt nhiên phát động, vô trung sanh hiểu, tức

danh: Chân chủng.

Tu luyện khó thành là do trọn theo ngoại đạo. Tu sĩ nào có duyên đắc được Chân đạo, là cái

Đạo rất giản dị, nên nói 80 tuổi mà gặp được Chân đạo cũng thành Chánh quả.

Page 215: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

215

Ngộ là hiểu, chẳng phải vô quyết vô truyền như thiền môn ngày nay rỗng không dạy người.

Nếu hiểu biết theo đó là lầm lạc vậy.

Ngộ ở đây thiệt có chân công, chân truyền, chân pháp, chân đạo. Thí như Thể thủ Chân Dược

để thành Xá Lợi.

Cơ chưa đến lúc phát động phải giữ lấy tịnh để chờ.

Cơ đã phát động thì dùng Chân Ý mà Thể thủ.

Chân Ý và Chân Khí hiệp lại một chỗ, là đồng Lư.

Thế Tôn gọi là Hỏa hóa. Có lửa mới huân hóa tất cả các đơn vị Âm trong người thành

Dương, rồi hoàn toàn Thuần Dương.

Lộ: là 2 đường đạo lộ Nhâm Đốc, còn gọi là Pháp luân lộ.

Thọ hạ: là Đơn Điền. Ngày xưa Thế Tôn tu luyện dưới cây Bồ đề là thí dụ Đơn Điền.

Đạo Nhất Thiền sư nói: vị hữu hành nhi bất trụ, vị hữu trụ nhi bất hành. Là nói về hành trụ.

Vật đây là Chân Khí, Chân Khí hành thì Chân Ý cũng hành, Chân Khí trụ thì Chân Ý cũng

trụ.

Âm ma là âm khí trong thân người. Âm khí cũng biến hiện, hoặc mộng mị thấy âm nhơn,

hoặc thân thể phát chướng, hoặc lúc thiền tọa thấy âm nhơn, hoặc mộng mị thấy hổ báo. Đều

là bệnh hủy hoại do âm khí biến hóa tẩu lậu, tất phải dùng phong hỏa mãnh phanh cực luyện,

thiêu tận âm khí, âm ma thì không còn cái họa hoạn nguy hiểm nữa.

Thân thể nhờ định tịnh mà được thái bình, lúc nầy phải dùng toàn văn Hỏa để ôn dưỡng và để

hộ trì Xá Lợi cho thật kiên cố.

Công phu chuyển Pháp luân phải kiêm dụng văn võ, nếu bỏ văn dụng võ tức bị tẩu hỏa nhập

ma, nếu chỉ dụng văn thì Chân Khí không chuyển.

Văn võ phải sư truyền, còn chỗ tinh vi thì do ta tự ngộ.

Lúc Xá Lợi thành, dùng văn Hỏa để đoàn tụ.

Nếu chẳng chấm dứt võ Hỏa thì Xá Lợi sẽ bị võ Hỏa bức tán, chỗ nầy phải biết nguy hiểm, là

điều chí yếu, chí yếu.

Minh Châu tức Xá Lợi, Xá Lợi thành có hiển nhiên lộ tượng.

Page 216: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

216

Bá quái là trăm thứ quái bệnh trong thân người, Xá Lợi đã hiện ra thì trăm thứ quái bệnh đều

tiêu trừ, cho nên gọi: bá quái diệt.

Tào khê: là đường tủy lộ của cột sống.

Lúc thể Xá Lợi quá quan phải theo đường nầy.

Lúc vận quá quan phải nhu hưởn.

Nếu theo đường khác thì Xá Lợi sẽ bị mất. Xá Lợi đã quy Trung cung thì tóc trắng trở lại

đen, răng rụng lại mọc, trí huệ quảng đại, quá khứ vị Lai chẳng còn biết. Tối kỵ là không được

dùng Huệ.

Đến thời ôn dưỡng đều dùng văn Hỏa để huân chưng thì không bị lỗi lầm, nên gọi: nhất

chứng doãn chứng.

Thường phải định giác nơi Trung ương, và dùng Huệ mà chiếu vào Tánh Hải.

Thiền: là tịnh. Na: là hơi thở.

Đến đây chỉ tu phần định của ta.

Lúc Tánh đã điều được thành phần Tức và Hỏa thì trở thành Linh Tánh, tất cả sự tri giác của

Linh Tánh như họa phúc của thời dĩ vãng và thời tương lai không được dùng đến.

Huệ mà chẳng dùng thì Linh Trí của Thánh thai càng gia tăng sự quang huy, tức càng linh

thông vậy.

Thường tịch lại thường chiếu thì Linh thai càng được linh giác. Trong cơ Thiền định, tất yếu

là phải có chánh giác, chánh tri kiến, sau đó mới phục hoàn lại Tánh thể được. Hoa Nghiêm

kinh có nói: hằng dĩ tịnh niệm trụ vô thường giác. Nếu bị hôn trầm thì Linh thai không có

Chân Tức, sẽ bị đọa vào vô tri, lụy thuộc vào khô tịch ngoan không ngoại đạo. Nếu theo ở tán

loạn thì Linh thai vô chủ, hỏa lạnh, khí kiệt, vô sở thành!

Linh thai có định lực là do niệm đã đạt chí thành. Linh thai mười tháng, tất phải niêm niệm

tại thai.

Niệm trụ, Tức trụ thì thai được viên mãn.

Hoa Nghiêm kinh gọi: an trụ tịch tịch chư Thiền định, Trí nhập bất tử đạo.

Trong tịnh thất tình cờ có Tuyết hoa phi phóng, đó là thời Thánh thai đã được viên mãn.

Thấy được cảnh xuất định thì phải xuất, nếu chẳng xuất thì trệ cho thai, không có thần thông

biến hóa.

Page 217: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

217

Chân vật là Nguyên Khí. Nguyên Khí đến cực tịnh thì động sanh, đó là cái lý âm chưa lọc

sạch.

Các bậc chí nhơn đã đạt đến chỗ âm dương nhật nguyệt hiệp nhất, thôi thúc tình hiệp với tán

chuyển đến tương dung.

Sở vị trùng thức hồ diệu đạo, là một đoạn công phu cổ nhân chẳng hề tiết lộ, hoặc là sợ tiết

lậu Thiên cơ, hoặc là chưa phải là chân sĩ tu luyện.

Đã được Chân Dược rồi, lập tức Thể thủ quy Lư, Chân Ý cũng quy Lư. 2 thành phần nầy

hiệp lại làm một, và nhập đại định lâu dài.

Định và định mãi, định cho đến trạng thái vô cực, và đến trạng thái trên vô cực mới là viên

mãn công phu.

Page 218: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

218

11. CHÁNH ĐẠO CÔNG PHU TRỰC LUẬN

CHÁNH VĂN:

Hoa Dương viết: Hạ công chi thời, xử ư tịnh thất. Thâm như cảo mộc, tâm tợ hàn khôi. Dĩ

linh quang vi dụng tịnh Tánh Mạng nhi đồng cung thị vị đạo chi thủ dả.

Thả tịnh cực nhi động giả, đại đạo căn miêu, Tạo vật chi chủ tể. Khí triền khiếu khai. Huệ

Mạng chi tình hỷ hướng hồ kỳ ngoại, nhiếp hồ lỳ nội miên miên nhược tồn, niệm tư tại tư, hòa

hiệp dung hóa, nhi vi Chân chủng chi thai, nguyên thiệt vị: Chánh đạo chi chân truyền.

Cổ chi viết: hỏa hóa, viết: hòa hiệp, viết: đối đẩu, viết: già phò. Thị xuyễn minh thử đạo chi

dụng.

Công đáo thời chí, vô vật chi trung, nhi vật linh yên. Tư thời nhi hiệp, kỳ thuận nhi nghịch

chi Đạt Ma vị chi thể thủ.

Vật ký qui vu kỳ nguyên, tắc hửu Pháp luân chi diệu vận.

Khởi hạp tịch chi tiêu tức, bồi hồi thượng hạ, lập hồ Thiên tâm, y hồ Nhâm Đốc, quy căn

phục Mạng, cố vị chi tứ hầu, lục hầu.

Số tức vật linh, tắc hửu thể thủ quá quan chi quyết tại yên.

Phù, hoặc thể nhi bất sanh, hoặc sanh nhi bất thủ, thị bất đắc quyết chi chân, cố dả.

Thả dục đắc quyết chi chân, hựu đương hư cầu sư, cửu đải hộ trì, bồi đức xả lực, nhiên hư

Đại đạo hửu sở đắc.

Cái xuất lư chi tiêu tức, hựu lại ý dĩ tịch quán, vật tắc sanh yên, Như Lai vị chi hỏa phần. Tư

thời mâu ni lộ tượng, bất cụ bất kinh, động nhi tịnh hành, thiết phòng nguy hiểm chi hoạn.

Độ quá Hằng hà chi độ khẩu, do Tào khê thượng thứu lảnh, đạt tu di nhi hạ Trùng lầu vãng

nam hoa, hoa thế giới, tọa đăng Phật quang bửu điện, hốt nhiên dung dung như cốc vi mị mị tợ

xuân nhụ bàn triền, liễm tụ ư Trung tư vị chi kết đạo thai, an lạc thái bình chi thi định, vật trợ

vật vong nhi dưỡng, vật Tịch vật chiếu nhi ôn.

Định tịnh chi trung, hốt giác nhất luân hao nguyệt, huyền ư không trung, lưu nhi đải chi

nguyệt, huyền ư không trung, lưu nhi đải chi.

Nhất luận hồng nhật thăng ư nguyệt trung thâu nhi tàng chi.

Định tịnh chi trung, tập hồ tịch diệt, hửu vô trường hườn hồ hồn nhiên, cố viết: Vô vi.

Page 219: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

219

Thả đại đạo vô cùng yên. Tịch cực nhi sa hồ động, nhất vật thượng hiệp ư đạo thai, như pháp

luân chi hựu trùng chuyển.

Tịnh nhi hựu tịnh, diệt nhi hựu diệt.

Thai viên khí túc, thiên hoa loạn trụy, tắc Phật tử chi định niệm, đương di nhi siêu xuất Tam

giới Thị vị Như Lai chi xuất hiện thả xuất định chi sơ, phòng bị ngoại ma chướng xâm nhiểu.

Nhất luân kim quang, bổn thị ngã sở hữu chi linh vật, thủ nhi quy chi, vi hóa hình chi diệu

Dược, thân nhi dưỡng chi, tử hiệu sanh hồ kỳ tôn.

Nguyệt bị hành mãn chi thời, ẩn ư thâm cốc, tuyệt tích hườn hư, hiệp hồ diệu đạo. Thị vị Như

Lai mạc hậu chi sự.

Dư nguyện đồng chí, hưu ngộ nhập ư khẩu đầu Thiền tam muội chi ngoại đạo, tắc phi chánh

đạo dả.

THÍCH GIẢI

Tịnh thất là nơi công phu của Tu sĩ.

Tịnh thất là nơi yên tĩnh ít người qua lại, là nơi có không khí trong lành, không có lò sát sanh,

rất xa nghĩa địa, không có người ác ở gần, không có cường hào ác bá cùng bọn du thử du thực

lai vãng.

Thân như cảo mộc: lúc ngồi thiền toàn thân bất động, thân tợ cây khô, Tâm tợ hàn khôi: Tâm

như đống tro lạnh, là một niệm cũng chẳng dấy lên.

Còn gọi: Tọa thì quên hình, tịnh thì quên ý.

Linh quang: là ánh hào quang của đôi mắt, ở hồi quang phản chiếu, là dùng Chân Ý cùng

Linh quang nhập vào Mạng cung.

Đó là Tánh Mạng song tu, là đầu mối của Chánh đạo.

Công phu đến lúc chân tịnh, là chân thời, chân cơ tức có khí chân Dương phát động, chẳng

phải là Tâm động, hay Ý động mà chỉ có chân Khí nơi Thận Mạng động, còn gọi là Đơn Điền

dưỡng động.

Ngũ Tổ nói: Tình lai. Lục Tổ nói: Dâm tâm thị Phật tâm.

Tu sĩ nếu chẳng biết cơ động nầy thì không biết được chỗ động, dù có tu luyện cũng vô ích.

Page 220: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

220

Phật và Tổ biết rõ cơ nầy lại, nên dùng pháp thâu hồi về Đơn Điền luyện thành Xá Lợi. Siêu

phàm nhập Thánh cũng do đây mà khí thủ, cho nên nói: Đại đạo căn miêu.

Kẻ phàm phu chẳng biết phương tu luyện, nên cơ nầy đã động mà không biết pháp chế phục,

nên Tâm cũng động theo. Tức Mạnh Tử nói: khí diệc năng động chí.

Chỉ vì chẳng biết nên nam nữ giao hiệp mà sanh ra người, vạn vật như thư hùng cũng nhân

cơ động rồi tự hiệp mà sanh ra vạn vật.

Phật và Tổ chờ cho cơ nầy vừa động chẳng đặt Tâm ở chuyên niệm, lấy Lửa mà luyện, lấy

Gió mà thổi ngoại Thận tự rút, lòng như nước lạnh nào có hiếu sắc.

Đó là cái đạo hóa dục, là chân cơ của trời đất.

Tự nhiên như nhiên, chẳng hề có Tâm. Thánh phàm biến hóa đều do cơ thuận nghịch mà ra.

Khí triền: Cổ nhân gọi khí là vật, là nước…

Khiếu: là Đơn Điền, khí huyệt.

Khai: tức Mệnh Môn, Y thư gọi trung gian 2 quả Thận là Mệnh Môn.

Huệ Mạng là tên riêng do Thế Tôn mệnh danh. Trung Hoa gọi là Nguyên Khí.

Con người từ lúc bẩm sinh đã có Nguyên Khí nơi trong, Phật Tánh cũng đã có nơi trong, nên

nói: Thiên Mạng chi vị Tánh. Lúc nầy tám mạch đều thông, cùng mẹ hô hấp liên hệ nhau,

miệng mũi tuyệt nhiên không có hơi thở.

Đến lúc Lôi Địa chi thời, chấn động một tiếng, ra khỏi bụng mẹ thì mũi miệng đều thông,

tám mạch lại chẳng thông, Nguyên Khí nội tàng, cho đến tuổi tráng niên thì Nguyên Khí chầu

ải quan mà xuất ngoại. Lăng Nghiêm kinh gọi Lậu tận.

Chín khiếu đều khai. Từ đây về sau cơ nầy một phát đủ đường mà ra.

Con người phàm phu có 3 dâm: dâm tâm, dâm thân và dâm căn. Lăng Nghiêm kinh có nói:

người tu hành mà 3 dâm không đoạn khác nào nấu cát trong cơm, dù trải qua trăm ngàn kiếp

cũng vẫn là cát nấu. Tất nhập ma đạo, chuyển luân tam đồ, cuối cùng cũng không có lối ra.

Cái đạo Huệ Mạng của Thế Tôn, Phật Phật tương ấn, Tổ Tổ tương truyền. Nếu được tự dụng

thì 3 giống dâm sự cũng tự tiêu. Trong đó thực có thâm chỉ.

Nhiếp nội: lấy hô hấp thu vào. Hô hấp nếu không có Chân Ý thì không có chủ.

Nội: là Đơn Điền, là khí huyệt.

Page 221: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

221

Công phu ôn dưỡng Xá Lợi phải miên miên nhược tồn, niệm tư tại tư. Xá Lợi đã quy nguyên

phải nên thời thời hô hấp xuy khư, khắc lấy Chân Ý mà lưu thủ, tợ như lửa trong lò. Chân Ý

và Chân Khí dung hòa nhau biến làm Chân Chủng, thiệt là Tánh Mạng song tu. Tu luyện như

vậy được lâu ngày thì vô trung sanh hữu. Trừ phương pháp tu luyện nầy ra, tất cả đều là bàng

môn ngoại đạo, cuối cùng cũng chẳng được thành công.

Cổ nhân nói: Hỏa hóa. Hỏa đây là Chân Hỏa là Chân Ý. Chân Hỏa huân hóa tất cả các đơn vị

Âm trong người cho thành Dương, cuối cùng là thuần Dương, và thuần thiện, thuần chân vô

Ngã.

Có thuần Dương thì Tánh Mạng mới hòa hiệp, mới hiệp nhất.

Chủ yếu là phản quán nội chiếu vào Đơn Điền, gọi là đối đẩu.

Già phò: Chân Ý chân tọa nơi Bắc phương Thủy diện trong thân ta. Là pháp nhập diệt sơ

quan hạ thủ. Xưa Thương Na Hòa cũng tu theo Thiền tông, thấy A Nan ngồi trên giữa dòng

nước mà nhập diệt, ba lần đến thỉnh cầu, sau đó A Nan mới ban cho chánh pháp nhãn tạng, và

được lên ngôi Tam Tổ. Xiển minh cái Đạo nầy, dù có xảo dụ thiên ban vạn sự cũng không

ngoài 2 thành phần Tánh và Mạng, Thần và Khí.

Công đáo: chẳng phải một sớm một chiều mà là ngày tích tháng lũy, rồi sau đó mới có hy

vọng. Lại còn ở già trẻ, siêng nhác mà có sự phân biệt.

Thời ở đây chẳng phải là thiên thời, mà là thời của Chân Dược sản trong thân ta, nên gọi: thời

chí vật sản là Chân Dược sản, Tâm phải biết nếu ngột tọa ngoan không ắt có lỗi lầm trước mắt.

Tư thời: là lúc Chân Dược sản, có đặc tính hạ lưu cho nên phải dùng Chân Ý hiệp với Chân

Tức mà Thể thủ.

Thể thủ là nghịch hồi, thuận theo thì bị tẩu lậu.

Nguyên: tức là Đơn Điền.

Pháp luân: tức là hậu thăng, tiền giáng.

Hạp tịch: là nội ngoại hô hấp. Ngoại diện hô hấp là giáng, nội diện hô hấp là thăng.

Bồi hồi: là Chân Ý hoạt động.

Thượng hạ: thượng là Càn đảnh, hạ là Khôn phúc.

Lục Tổ nói: ngô hữu nhất vật, thượng trụ thiên hạ trụ địa.

Page 222: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

222

Lập hồ thiên tâm: Thiên Tâm có tên Trung Huỳnh cư tại Chánh trung của trời, còn có tên là

Thiên Can là Đẩu bỉnh. Tại trời là Thiên Tâm, tại người là Chân Ý, Tu sĩ nếu mất Chân Ý như

trung Thần mất Thánh quân. Lúc chuyển Pháp luân tất phải dùng Chân Ý tọa nơi Trung cung,

mà làm cái tâm của trục xe khiến cho bánh xe được vận chuyển.

Lúc chuyển Pháp luân, Chân Ý Chân Khí phải nương theo đạo lộ Nhâm Đốc mà vận hành.

Hoặc Chân Ý hành mà Chân Khí không hành đều không thành Xá Lợi.

Quy căn phục Mạng: Căn và Mạng đều là Đơn Điền.

Lục hầu: Thể thủ, phong cố, thăng, giáng và 2 giờ mộc dục là 6 hầu.

Đã hiểu rõ được pháp dụng công đã nói trên rồi hành trì cho lâu ngày thì Chân Khí nơi Tổ

khiếu sung mãn, tiến hành một tịnh tức Thiên cơ phát động, châu thân dung hòa khoái lạc,

dương vật toàn nhiên bất cử, nên nói: số túc vật linh. Vật đây là Xá Lợi. Vật đã linh thì dụng

pháp quá quan lên Thiên Môn rồi quy về Trung điền. Quá quan có diệu quyết rất bí mật, chẳng

dám nói toạc ra vậy.

Chẳng nên Thể thủ mà thể, là thể thuốc non, nên nói: Thể thuốc non, nên nói: Thể nhi bất

sanh.

Chân Dược sanh mà chẳng biết là điều lỗi lầm trước mắt, đều do chẳng biết Chân quyết.

Người học Thiền không nắm được Chân quyết, đa phần đều do lòng tự cao tự đại, tự cho sở

tri sở năng của mình đã viên mãn nên không cầu Chân sư chỉ điểm. Nếu được Hư tâm khẩn

thiết giữ cái đúng lễ của đệ tử, làm hết cái phận sự của đệ tử, mãi mãi thật lòng hộ cho thầy

thành chánh quả, há chẳng đắc toàn quyết sao.

Đức là cái thể của Đạo, là hạt giống lành của Tánh. Muốn tầm cho được cái đạo âm dương

Tánh Mạng mà không tu đức làm sao gặp được. Đức đối với Đạo như chim có cánh, nếu thiếu

một là vô sở dụng.

Lực là tài sản. Cổ vân: pháp, tài lưỡng thì bỉ thử đồng thành Chánh giác. Nếu nói ta đây là

người tu hành theo chánh đạo mà lại cầu lấy danh vị, mua lấy tiếng khen, mượn Phật che thân,

có phải tự mình làm cho các bậc cao nhân chẳng muốn đoái hoài đến sao.

Có nhiều người tu Thiền mà nói cứ ngồi mãi là được thành Chánh quả! há chẳng lầm sao.

Còn như Lưu Chí Lược tọa hoài mà đắc là do sự kết giao với Lục Tổ rất thâm thiết, nào có lực

gì.

Chân Ý tịnh quán, Như Lai có nói: nhược bất tri Tâm mục sở tại, tắc bất năng hàng phục trần

lao. Chân Dược, hoặc xuất Lư, hoặc chẳng xuất Lư đều do thần lực của Chân Ý.

Page 223: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

223

Tử Ma Quang Như Lai nói: hỏa giả noãn giả, phát động dã. Là cảnh Xá Lợi sản.

Tư thời Mâu Ni lộ tượng: lộ tượng là ngoại cảnh, lửa ấm là nội cảnh.

Thoạt thấy cảnh nầy, nếu chưa đắc Chân truyền mà nhận lấy cảnh nầy nên đem lòng sợ hãi

thì Tâm động, Thần trì, Xá Lợi cũng bị tán thất. Nếu muốn thành Chánh quả há chẳng xa vời

sao.

Chân Khí trụ thì Chân Ý cũng trụ, nên nói: tịnh hành.

Khê lộ: là đường Tào khê, khúc khúc hiểm nguy.

Hằng hà: là đường tủy lộ cùa xương sống, trên dưới có chỗ chẳng thông, tất phải dùng Chân

Ý độ, dẫn Xá Lợi đi qua con đường ấy, nên nói: độ khẩu.

Thứu lảnh: là ngôi đầu, tại Ngọc Chẩm.

Tu Di: là đỉnh đầu.

Trùng Lầu: là yết hầu.

Vãng: là Chân Dược đi qua. Ngày xưa Long hoa thượng hội Long nữ hiến châu, trụ Nam

phương, nữ chuyển nam thân, chứng thành Phật vị.

Nam phương: là Tâm khiếu. Tâm thích động mà chẳng thích tịnh, thích mới mà chẳng thích

cũ, lại hay đổi dời theo từng thời khắc. Tới lui không biết lúc nào nên không biết được quê

hương của nó. Từ vô thỉ đến nay mãi chịu theo kiếp tứ sanh (noãn, thai, thấp, hóa) và lục đạo

luân hồi (tứ sanh cộng với thiên đường và địa ngục) chẳng có lúc nào ngừng nghỉ! Cho nên

mới nói: người đến lúc chết mà không biết được lòng mình.

Nay may được đạo Huệ Mạng đến chế phục, biến Chủng Tánh thành Chân Tánh, luyện Thức

Thần thành Ngươn Thần, cũng như chì chế với thủy ngân thì thủy ngân chết mà không có đặc

tính trì lỏng.

Nếu chẳng được Huệ Mạng Lai nhập Tâm khiếu và cũng chẳng được tự định, dù có tu luyện

cũng chỉ là Thức Tánh Hậu Thiên, chẳng phải là Tiên Thiên Chân Tánh.

Tiên Thiên Chân Tánh, lúc lôi Địa chấn nhất thinh thì rơi vào Mạng trung, nên nói: Thiên

Mạng chi vị Tánh. Người học Phật tự phải tỉnh ngộ về Tánh Tiên Thiên và Tánh Hậu Thiên.

Nếu không tự tỉnh, cuối cùng cũng không thành công.

Lúc Xá Lợi lên Trung cung, khắp châu thân có dạng tợ như mây vượt lên, tợ như sửa buông

ra, trăm mạch xung hòa, thơ sướng cả tứ chi. Lập tức dùng Tâm mục vận hành theo tả triền

Page 224: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

224

hữu chuyển, bốn mươi chín ngày mới được định, và hữu truyền tả chuyển mới được định. Lúc

nầy Tánh và Mạng đều bàng tụ nơi Trung cung kết thành Linh thai.

Công phu đến đây thì được an lạc thái bình thiên định. Lúc nầy không còn tổn thất mà cũng

không còn sanh nữa, một đã đắc, và một chứng nghiệm đầy tin tưởng. Như vậy làm sao chẳng

được an lạc thái bình tự nhiên của Thiền định tịch tịnh.

Lúc mới kết Thánh thai thì hơi thở của Hậu Thiên tuy còn, nhưng không được chấp trước hơi

thở đó, nên nói: Vật vong.

Đạo Thai đã kết thì Chân Ý thường tại nơi trong tịch nhiên bất động.

Lại chẳng nên tùy thuộc hôn muội. Tâm phải thường giác thường ngộ, nên nói: Vật chiếu.

Tịch định chi trung… thoạt thấy một vầng trăng tròn treo giữa không trung, đó là khí Chân

Âm phát xuất từ nơi Đơn Điền lên hai mắt.

Thấy được cảnh nầy phải dùng Chân Ý mà lưu thủ lại.

Nhất luân hồng nhật thăng ư nguyệt trung: là nói về hiện tượng nhật nguyệt tịnh hội, thì thâu

thủ mà tàng trữ nơi Trung cung và một niệm chẳng sinh.

Hồn nhiên: là Chân Tánh hư vô.

Vô vi: là không hư đến tột. Vạn vật đến tột thì hườn nguyên, và đại đạo cũng vậy.

Tịnh đã đến tột thì sanh động cơ, tức có một vật Thuần Dương, từ huyệt Dũng Tuyền thăng

lên Trung cung, cùng Linh thai tương thân tương luyến, hòa hòa hiệp hiệp làm một.

Pháp luân trùng chuyển: Chân Khí đã quy vào Linh thai thì tự vãng hạ, qua Tam kỳ lộ vượt

Vỹ Lư, qua Giáp Tích, xuyên Ngọc Chẩm, lên Thiên Môn, xuống Sơn Căn, hạ Trùng Lầu rồi

về Trung đình. Dụng công đúng pháp gọi là: Trợ thai chi chí bửu.

Lúc nầy mũi không còn hô hấp, tay không còn sáu mạch, tức là Đại định vậy.

Thai viên thì có thiên hoa loạn rơi, là biết Thánh thai đã viên mãn. Chẳng có Thiên hoa loạn

rơi là Linh thai chưa viên mãn.

Thấy được cảnh nầy thì dùng Chân Ý xuất định.

Tam giới: tức Thượng điền, Trung điền và Hạ điền.

Như Lai xuất hiện: Hoa Nghiêm kinh nói: Thế Tôn tùng bạch hào tướng trung phóng quang

minh gọi là Như Lai xuất hiện.

Page 225: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

225

Lúc mới xuất định, sợ có chư Phật, Bồ Tát đến nói năng, nhất thiết không được đàm đáp, chỉ

đề chánh niệm mà chế ngự, rồi trở vào, không được diễn du.

Lúc mới xuất định, Tâm không được chấp trước vạn vật, chỉ chờ trong thân có một vầng Kim

quang xuất hiện nơi không trung, thì đem Pháp thân đến gần Kim quang rồi dùng pháp Tụ

quang và lưu thủ nơi trong Pháp thân rồi Pháp thân nhập vào phàm thân. Cứ như vậy mà công

phu cho lâu ngày theo nhũ bộ thì phàm thân có thể hóa thành khí. Chỉ sợ chẳng được Kim

quang nầy thì phàm thân không được hóa làm khí. Cho nên có cái thuyết lưu thân. Lại còn do

ở đức hạnh mà ra. Tức vạn cổ không hề tiết lộ thiên cơ, mà nay mới tiết lộ.

Lúc mới xuất định, nguyên là một thân. Nếu định được lâu ngày thì có Thiên bá ức hóa thân.

Công đã viên mãn thì ẩn nhập vào thâm sơn cổ động không người vãng lai, ngột nhiên đoan

tọa, luyện hình hóa khí, luyện Thần hườn hư.

Page 226: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

226

12. THIỀN CƠ LUẬN

CHÁNH VĂN

Hoa Dương viết: Phật đạo Tánh Mạng dụ Long Hổ, Long Hổ dụ động tịnh, động tịnh dụ

thiên cơ. Hà dụ chi tạp dả?

Cổ Phật viết: bất thức Tánh Mạng, tắc đại đạo vô sở thành.

Phật Phật Tổ Tổ, mạc bất do thử Tánh Mạng nhi vi tu luyện.

Phù ký việt: Tánh Mạng, nhi hựu viết: Thiền cơ giả, hà dả?

Thả nhơn tùng bẩn thị Tánh Mạng nguyên thị nhất đoàn, cập kỳ sanh giả phân vi nhị.

Đương kỳ tiết chí, thể vượng chi thời, nhị Huệ Mạng chi nguyên bửu, tức hửu biến hóa cũng

quang hướng ngoại chi cơ giả tại yên. Bất linh kỳ thuận xuất tấn thử chi cơ, hồi quang phản

chiếu, ngưng ý nhập vu Bắc hải, tắc nguyên bửu diệc tùy ý, nhi hườn ư Bắc hải. Cố vị chi hòa

hiệp ngưng tập.

Nhân kỳ hửu biến hóa chi thuận nghịch, cổ viết: Cơ. Nhược bất viết cơ, tắc nhơn bất tri Huệ

Mạng sở động chi chí bửu, dĩ ngột tọa ngoan không, mê khước Tánh Mạng phối hiệp chi chân

cơ? Cấp kỳ cơ chi tức giả, mặc chiếu hồn nhiên, cố viết Thiền.

Thời chí hốt nhiên nhi động hựu viết: Cơ.

Cấp đương Thể thủ, viên thông vị chi đạo. Khởi hạp tịch chi tiêu tức, vận Pháp luân chi

huyền cơ. Chân chủng linh bửu đương quy căn thâm tàng. Cổ nhân vị chi phản bản phục

Mạng. Nhiên đắc thử chủng lai, tư vị chi Xá Lợi. Phiếm kỳ hữu vi chi công, dung kỳ vô vi chi

pháp, tịnh mặc nhi hựu tịch chiếu chi, hựu viết: Thiền.

Tư vị chi Tâm mục sở tại, thả Mâu ni chi châu thành, hình như châu sa quang tợ tuyết, dung

tợ than tiển, vị như mật, hượt hượt bát bát, lưu thông nhi xuất, hựu viết: Cơ.

Bất kinh bất nghi, đải động nhi thủ, thiệt vị chi thiên pháp diệu thủ chi phương.

Tấn thử động cơ, từ từ xuyên quá tam quan chi thiệc quan, tư vị chi: siêu phàm nhập Thánh.

Mâu ni chi bửu châu ký quy trung ương, nhu thủ nhi định chiếu vi, hựu viết: Thiền.

Thiền định chi trung, dung dung vô vi chi lạc, thả vô vi chi trung, hốt hữu vi, hựu viết: Cơ

phù viết: Vô vi, nhi hựu viết: Cơ. Hà dả?

Nhược bất viết cơ, tắc nhơn bất tri hửu thử diệu vật, cô thủ ư thai noan.

Page 227: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

227

Thuận thử cơ chi diệu vật, thâu phụ ư thai trung tịch chiếu nhi trường định chi, hựu viết:

Thiền tư vị chi sanh diệt diệt dĩ.

Phù tịnh định chi trung, nhất vật siêu nhiên nhi xuất, hựu viết: Cơ.

Sảo sảo nhi đải chi, hựu viết: Thiền.

Tùy nhi hựu xuất, hựu viết: Cơ.

Thâu nhi tàng chi, tịch chiếu. Nhu nhi mặc thủ, hựu viết: Thiền.

Tịnh chiếu nhu mặc chi trung, nhị vật tùng dũng tuyền nhi xuất, hựu viết: Cơ.

Thủ nhi tịnh định, hựu viết: Thiền.

Tư vị chi tịch diệt. Thả tịch diệt chi định, cửu phân phân, bạch tuyết mãn không, hựu viết: Cơ.

Tứ thời xuất định chi biện cơ, bất linh kỳ thì trở, nhược phù trệ ư thai trung, khuyết thiểu thần

thông chi biến hóa, tức dương nhi xuất chi tư vị chi: siêu xuất Tam giới, ninh nhi đải chi, hựu

viết: Thiền.

Nhất phiến kim quang lai huyền ư đương không hựu viết: Cơ.

Thâu nhi nhập chi, định nhi hựu định, hựu viết Thiền cửu cử trường định hình thần cu hóa

nhi thiền cơ chi thuyết tùng thử tất hỷ.

Dư nguyện học Phật giả, hưu ngộ nhập ư tà sư khẩu đầu chi Thiền cơ, nhận vi chân Thiền cơ,

tắc phi Thiền cơ.

THÍCH GIẢI

Con người lúc sanh ra chẳng bẩm thụ lấy 2 thành phần Tánh và Mạng, ngoài ra có còn gì nữa

đâu. Còn muốn thành Chánh đạo trước cũng phải bảo thủ lấy Tánh Mạng mình. Tánh mạng

tàng tại Cốc Thần có tên là Long Hổ. Long Hổ có vận và an trụ gọi là động tịnh. Động gọi là

Cơ, tịnh gọi là Thiền. Thiên danh vạn dụ không ngoài Tánh Mạng. Trừ 2 thành phần nầy ra

đều bị lọt vào cửa ngõ của kẻ dối gạt người ngu.

Thiên hộ vạn môn, dù cho phí tận Tâm cơ cũng không hiểu rõ được diệu lý của Tánh Mạng.

Hoặc biết Tánh mà chẳng biết Mạng, hay tu Tánh mà không tu Mạng nên vạn vô nhất thành.

Từ xưa đến nay, những người tu luyện chưa có người nào không tu Tánh luyện Mạng mà

thành Chánh quả.

Tâm tịnh gọi là Thiền, Thận động gọi là Cơ.

Page 228: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

228

Con người mới lúc thai sanh, 2 khí của cha mẹ hiệp lại làm một khí. Linh quang một điểm

của Tánh tức tại nơi trong, cổ nhân gọi là Tam gia hòa hiệp mới có thân nầy, thật là lời chí lý.

Con người lúc mới lọt khỏi bụng mẹ, Lôi Địa nhất thinh thì Tánh phân nơi Tâm, Mạng phân

nơi Thận, 2 thành phần cách nhau tám tấc bốn phân, đến già cũng chẳng gặp nhau.

Người tuổi đến 15, 16 thì Chân Khí nơi Đơn Điền tự động.

Nguyên Bửu tức Tiên Thiên Nguyên Khí.

Tiên Thiên Nguyên Khí ẩn tại Đơn Điền.

Hậu Thiên khí sung mãn thì Tiên Thiên Khí tự động. Chân Khí đã động, nếu chẳng biết cách

tu luyện thì biến thành Chân Tinh, rồi biến thành hữu hình Tinh rồi chầu cửa ải mà xuất ngoại.

Thiên cơ nơi người là Dương động. Cơ động có nội cảnh là Tâm động, có ngoại cảnh là Thận

động.

Tịch Vô Thiền sư nói: ngưng Thần thâu nhập vu thử khiếu chi trung, tắc khí tùy Thần vãng tự

nhiên quy vu thử khiếu.

Thế Tôn lại nói: Tâm mục sở tại.

Lấy Tâm hiệp với Thận gọi là ngưng tập.

Thuận thì Chân Khí biến thành Chân Tinh rồi biến thành hữu hình Tinh và có cơ lậu tận.

Nghịch thì hữu hình Tinh hóa thành Chân Tinh, rồi hóa thành Chân Khí và có cơ vô lậu.

Cơ là động, Mạng là Nguyên Khí. Nguyên Khí dù không tiết lậu cũng bị ngoại hao. Ngoại

hao tận tuyệt thì ô hô! Tu luyện là nhiếp thu phần Chân Khí ngoại hao đó thâu tàng vào nơi

trong, thì thành công.

Sanh người cũng là khí nầy, nên nói: Chí bửu.

Thiền môn ngày nay chẳng biết Huệ Mạng, nhiếp tâm tử tọa, thật là lầm lạc!

Chẳng biết Tánh Mạng ngưng hiệp khác nào như kẻ mài gạch làm gương có ích gì đâu!

Chẳng biết pháp hòa hiệp ngưng tập thì không có cái cảnh Chân chủng sở sản.

Cơ tức là Mạng chẳng động, dương chẳng khởi. Cơ đã dừng thì lập tức Hồi quang phản chiếu

vô sự vô vi, nên gọi là Thiền.

Thời ở đây không phải là Thiên thời mà là thời của Chân chủng sở sản.

Page 229: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

229

Thể thủ là thâu thủ Chân Dược về bản cung, nếu chẳng biết là điều rất lỗi lầm.

Viên Thông nói đạo, tức là thâu lấy Chân Dược.

Hạp tịch là nội ngoại hô hấp. Tiểu tức là cái cơ của nguyên quan.

Vận Pháp luân: là Chân chủng vận hành theo đạo lộ Nhâm Đốc, do hô hấp thôi bức nên gọi

Pháp luân nguyên cơ.

Chân Khí vận hành đều quy về Mạng là Cốc Thần.

Do công phu Pháp luân như ý nên có Chân chủng là Chân Khí đắc được Chân Ý mà luyện

thành Xá Lợi.

Công phu hữu vi là dùng gió mà thổi, thổi cho Chân Khí vận hành.

Pháp vô vi là hồi quang phản chiếu.

Tịnh mặc là hoàn toàn tịnh, là thiền. Tịch chiếu là động tịnh kiêm dụng, là thiền cơ.

Tâm mục sở tại là Huyền quan tổ khiếu, là Cốc Thần Mâu Ni châu, mặt trong thì hồng, lúc

phóng quang thì màu trắng.

Xá Lợi thành thì Đơn Điền ấm, tân dịch ngọt như men.

Lúc xuất Lư thì Xá Lợi hoạt bát lưu thông.

Lấy Chân Ý để định tịnh thì không còn kinh sợ.

Chân Ý tịnh để chờ, Chân Khí động thì Thể thủ.

Trừ pháp nầy ra không còn pháp nào là Chân. Lúc Thể thủ phải biết dụng nhu chế cương.

Động cơ là Chân Khí động phải lập tức Thể thủ, quá quan phải từ từ. Từ từ là chẳng trước

chẳng sau, trước gọi là đạo dẫn bàng môn, sau là tồn tưởng ngoại đạo. Cho nên phải nương

nhau và đồng hành.

Tam tan là cửu khiếu của Tam quan trên đường Đốc Mạch.

Luyện Chân Dược tại Đơn Điền. Lúc đã thành Xá Lợi phải lập tức cho nó thoát ly ảo cảnh,

chẳng cho nó siêu thoát tất có họa hoạn. Thoát ly ảo cảnh gọi là siêu phàm nhập Thánh.

Mâu Ni bửu châu đã về Trung ương, tức là Cốc Thần, phải dùng văn Hỏa là nhu thủ và định

chiếu thường phải ôn dưỡng.

Page 230: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

230

Trong cơ thiền định có một trạng thái Thái hòa gọi là dung dung vô vi chi lạc, tợ như say, tợ

như ung lửa, Phật gọi Thiền định chi trung tam muội.

Trong vô vi lại có hữu vi, đó là một điểm cam lộ trong Thái không.

Có nói cơ, người mới biết trong thân có diệu vật là Chân Dược, nếu chẳng biết rõ cơ nầy gọi

là: cô thủ ư thai noan. Cơ còn có cơ nhơn tương trợ mới thành Xá Lợi.

Thuận theo cơ nầy của diệu vật là thâu phụ Chân Khí vào trong Linh thai.

Tịch chiếu trường định là công phu từ thập ngoạt về sau, gọi là dụng văn Hỏa để ôn dưỡng.

Gọi là: sanh diệt diệt dĩ, là 2 khí đã định trong tịch định có một vật vượt giới hạn mà ra xuất

phát từ Đơn Điền, có hoa mà vô hình, treo ở Thái không.

Sảo sảo đại chi: là trung khoảng 2, 3 hơi thở.

Tùy theo đó mà xuất phát: tức từ Đơn Điền xuất phát, cũng có hoa mà không có hình, cùng

với Chân Dược đã có trước tương hiệp.

Châu nhi tàng chi: là thâu Chân Khí nhập vào Linh thai để tư dưỡng Linh thai được trường

vượng.

Tịch chiếu, nhu nhi mặc thủ: tịch là Chân Ý tịch trụ nơi Tổ khiếu, là Chân Ý thuộc tịnh.

Chiếu là song mâu trực chiếu huyền quan, Chân Ý thuộc động. Trong tịch có chiếu, trong

chiếu có tịch, là động tịnh kiêm dụng, là một công pháp trọng yếu trong công phu thiền định.

Tịch chiếu liên tục độ vài trăm ngày có thể trừ Bạch Hổ và trảm Xích Long.

Nhu: là dụng văn Hỏa.

Thủ: là ôn dưỡng Linh thai, không để cho Linh thai vì một lý do gì mà gặp nguy hiểm.

Nhị vật tùng dũng tuyền xuất: là 2 đạo thuần Dương từ Dũng Tuyền trực thăng lên Càn đảnh

rồi giáng xuống Trung cung.

Thủ nhi tịnh định: là mũi không xuất khí, sáu mạch đều an. Tư vị chi tịch diệt: Công phu

Thiền định có luyện Tinh chi hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, luyện Thần hườn Hư, luyện Hư

hườn Vô, mới chỉ đến bậc tư tư của thiền. Còn một thiền nữa là luyện vô hư đạo, gọi là Tịch

diệt. Tịch diệt là từ vô mà xuất mà nhập.

Tịch diệt là công phu cuối cùng, Tịch diệt đã định lâu ngày thì có tuyết trăng rơi lăn đầy

không gian nơi tịnh thất. Lúc nầy là lúc xuất định.

Xuất định phải kịp thời mới tránh được sự trì.

Page 231: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

231

Nếu không xuất định là để Dương Thần trong Linh thai, thì một thần thông biến hóa. Là nên

xuất thì phải xuất. Linh thần xuất nhập nơi cửa Thiên môn thứ nhất là Thượng Đơn Điền.

Đó gọi là siêu xuất Tam giới, Tam giới ở đây là cõi thứ 3, tức là vô sắc giới.

Cơ xuất nhập nầy có động tịnh kiêm dụng.

Lúc Dương Thần chưa xuất thì Chân Ý an trụ nơi Thượng Đơn Điền để chờ, gọi là tịnh.

Chờ đến khi nào Dương Thần xuất hai hay ba thước (là lúc mới luyện xuất thần) Chân Ý lập

tức thầu về, gọi là động.

Cơ động tịnh kiêm dụng trong lúc nầy còn có một vầng kim quang treo nơi không trung, phải

thâu lấy và đem về nơi Thượng Đơn Điền, gọi là cơ là động. Lúc đã thâu về rồi thì định và lại

định, gọi là thiền là tịnh.

Cứ như thế để trường định mãi mãi.

Trường định cho đến khi nào Hình và Thần đều hóa, đều huyền diệu thì công phu Thiền định

mới hoàn tất. Thuyết Thiền cơ đến đây đã trọn đủ.

Từ vạn cổ thuyết Thiền cơ cổ Thánh không hề tiết lộ, nay mới tiết lộ.

Ta nguyện cho những người học Phật không lầm nhập theo tà sư ở khẩu đầu thiền cơ, mà gọi

là chân thiền cơ, tức chẳng phải thiền cơ.

Page 232: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

232

13. TẠP LOẠI THUYẾT

Hoa Dương viết: Thành hồ kỳ Đại đạo, mạc bất nhân túc duyên chi đắc. Phù, hựu tại linh tâm

quyết đoán chi lực. Bất bị bàng môn sở hoặc bất hiếu tiểu pháp sở năng, thiện tự hư tâm cung

nghinh, bất chấp môn hộ, sưu tầm cổ chi di ngôn, cầu sư ngộ đạo, dĩ thử ấn chứng chân ngụy.

Thọ thọ chi tế, tất tu thẩm sát trục tiết, khả hiệp, bất khả chi công pháp.

Như quả chân, nhiên hậu hành chi, khả thành dả.

Bất tất cựu tập sở lộng, bất bị ma chướng sơ xâm, nghi tâm đốn thoát, chân tâm thường tồn,

vị lai, quá khứ, hiện tại hồn nhiên. Kiến vật nội tĩnh nhi bất mê. Văn thinh nội định nhi bất

nhập, thản thản như kiểu nhật đương không. Tịch tịch phản chiếu lãng nhiên. Bát phong vô sở

diêu động tắc đại đạo hửu sở vọng hỷ.

Phù chí đạo bất cô hành, lực vi khí nhược, vô sở thành yên.

Tu trượng hữu đức, đồng quy tri giác.

Phỏng lữ hộ chi chân ngụy, tu đương cử thán chi bỉ chi hoài nhân: hoặc hiếu thắng tâm, hoặc

đồ nhữu vi phúc đức, hoặc vị Phật tổ thiên sanh. Giá đẳng thiết mạc lộ cơ.

Hoặc trọng tài nhi kinh nghĩa. Hoặc thủy thủy nhi vô chung. Hoặc ngôn thiện nhi tâm ác.

Hoặc ân cần nhi du hộng. Hoặc tổ tông vô đức.

Quán thử thâm bí tàng chân.

Nhược đắc kỳ Trượng phu chi Chân. Bỉ tự cứu cảnh căn nguyên: lụy sưu Phật tổ chi bí mật.

Sanh hoài trung hiếu nhân nghĩa.

Từ bi tế vật. Ngũ giới toàn chân. Tôn sư trọng pháp. Thệ lập nguyện thâm. Tư vị chi đạo lữ

hộ pháp. Nhi hậu lộ Như Lai chi bí mật. Tiết Tổ sư chi huyền cơ. Sở vị thi giả thọ giả đồng

thành chánh giác.

Hựu vân: Tài, pháp lưỡng thí, đồng đăng bỉ ngạn.

Phù, hạ đại công chi tế, khứ ư tịnh địa danh sơn phòng ốc bất nghi cao đại tường bích kiên

hậu minh ám đắc nghi. Ẩm thực tối đương khiết tịnh bị cấu chư ban pháp khí.

Nhập thất chi thời, sư đồ lập thệ đồng tâm.

Công thành Đạo bị, dương dĩ hí nhơn gian, tiếp dẫn quần mê.

Quảng thí từ bi cho pháp vỏ, phổ tế đăng ngạn chi diệu Dược. Vật ngã đồng đồ. Thị vị: Cổ

Phật, Thánh, Hiền chi nguyện.

Page 233: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

233

THÍCH GIẢI

Đại đạo là Tánh Mạng song tu. Là pháp hàng Long phục Hổ.

Nếu chỉ khô tu khô Tánh thì chẳng phải Đại đạo.

Túc duyên là cái nhân duyên đã tu luyện nhiều kiếp, rồi đời nầy may gặp song tu, như: Châu

Đồ tu hành trong thuở đồng chân, là con nhà phú quý sống trong phòng cao nhà đẹp nên chẳng

được hỏi ai về phương chánh đạo. Tình cờ may gặp Chân sư mà được quán thông về cơ tiêu

tức.

Ta nay nói rõ: sở dĩ những người tu luyện được thành Chánh quả là do cái nhân lành kiếp

trước.

Thời nhà Tấn, Tổ sư Lưu Ký có nói: Nhất Thiên tứ bá hữu di chi niên, Đồ tử đồng chân tảo

tận nghinh. Há chẳng phải do kiếp trước đã tu sao.

Thành Chánh quả là do cái lực của Linh tâm quyết đoán. Tất yếu là do cái tâm được linh ngộ,

chẳng nương theo lời nói của mọi người. Tóm lại là do ở sự Chân tri của ta.

Người có chí tu luyện thấy bàng môn tiểu pháp tự nhiên chẳng thích và chẳng bị lầm lẫn.

Thiện tự Hư tâm cung nghinh: có hư được tâm mới có thể cầu được Chân sư để thỉnh giáo.

Chẳng chấp môn hộ là chẳng chia đây đó Phật Tiên mà nhận chân trong Tam giáo đều có

Chân sư.

Có duyên mới gặp được Chân sư thì cung nghinh để thính giáo, không phân môn hộ.

Lúc chưa gặp được Chân sư, chưa đắc chân truyền thì lo sưu tầm tất cả những di ngôn của

Thánh xưa để tham khảo. Lại quyết chí cầu cho được Chân sư để cầu bí quyết để hiểu rõ về

chánh lý, chánh pháp và chánh đạo.

Sưu tầm di ngôn là bát lãm quần thư của tam đại Thánh nhân trong Tam giáo. Chủ yếu của

Chánh đạo là Tánh Mạng song tu. Ngoài ra đều chẳng phải làm thế nào mà quyết định là Chân

đạo?

Cũng hơi khó nói, chỉ có bậc Thượng sĩ nghe Chân sư chỉ điểm lập tức quán thông, còn một

hạng tuy chưa phải Thượng sĩ nhưng nhiều kiếp trước đã tu theo hướng Tánh Mạng song tu

nên kiếp nầy mới nghe qua hướng tu nầy liền đem lòng thích thú như hướng đã quen thuộc từ

lâu.

Page 234: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

234

Công pháp có thể hạp hay không thể hạp. Nếu biết được rõ ràng là do 2 nguyên nhân đã nói ở

trên.

Nếu chẳng phải Chân đạo là Tánh Mạng song tu, dầu cho có luyện đến muôn kiếp cũng vạn

vô nhất thành. Có tu cũng vô ích.

Thánh nhân nói: có Tri chân thì hành mới chân. Có hành chân thì quả mới chân.

Tri chân, Nho giáo là trí tri. Trí tri là do cách vật. Có trí tri, chân tri hay chân giác mới có

chân Ý, có chân Ý mới chủ tể cho công phu Thiền định.

Làm sao biết được Chân quyết? cũng như câu hỏi trên là làm thế nào để quyết định là Chân

đạo.

Câu trả lời sau đã được một nửa là như trên đã trả lời, còn một nửa nữa là lấy chứng nghiệm

làm bằng, thiết tưởng đã đủ lý. Chứng nghiệm là công phu một bước thì có chứng quả một

bước.

Cửu tập sở lộng: là do những gì trong nhiều kiếp trước đã làm. Nếu ngày nay luyện Tâm đã

được thuần thục thì những cựu tập đó không dấy lên, chờ ngày chứng quả thuần Dương thì

những cựu tập đó không còn.

Công phu Thiền định, cứ một đoạn công phu thì có một đoạn ma chướng, hoặc nội ma hoặc

ngoại ma. Lập tức dùng một điểm chân niệm: ta với ma vô can, và tàng nơi Mạng cung.

Dầu cho có đủ loại ma khảo mà lòng ta vẫn tịch nhiên bất động thì ma phải lui. Đó là công

phu tu luyện Tâm đã thật thuần thục.

Có đạt được chân Tri thì nghi tâm mới đốn thoa. Có đạt được chân quyết của Chân sư thì

chân Tâm mới thường còn và mới làm chủ trì cho chân đạt.

Luyện Kỷ phải đoạn diệt tam Tâm: là việc dĩ vãng chẳng nhớ, là việc hiện tại chớ lo chớ

mừng, là việc vị lai chớ nghĩ đến. Thường giữ trạng thái hồn nhiên.

Thường tình thấy vật, thấy sắc, thấy của thì mờ mắt, tức muội tâm. Lục Tổ mới dạy: thấy vật

mà lòng dấy nhanh.

Tai nghe nói nếu lòng đã định thì tiếng nói không.

Tâm kinh có nói: Nhậm tha thế sự phân phân loạn, đường thượng gia tôn trấn nhật an.

Thản thản như mặt trời treo giữa hư không, là ý nói 12 giờ một điểm Linh quang thường bất

muội.

Page 235: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

235

Tịch tịch phản chiếu lãng nhiên: là Tâm cực tịnh, là song mâu trực chiếu Huyền quan.

Bát phong: là nhãn, nhĩ, thiệt, thân, ý, khẩu, nghiệp chẳng dấy động, là Tâm cực tịnh.

Luyện Tâm được thật thuần thục thì Đại đạo mới mong có hy vọng, công phu tu luyện mới

có hiệu nghiệm.

Lực vi khí nhược, vô sở thành: lực đây là tài sản, có tài sản thì công đức thí pháp mới được

viên mãn, Lục Tổ nhờ Thần Hội Thiền sư cấp phó tài sản, 27 tổ nhờ tài sản của quốc vương

trong các thời đại.

Thí tài cho thí pháp, 2 công đức không sai biệt, đồng thành chánh giác.

Có những kẻ chứa vàng đầy tủ, chứa tiền như núi nhưng chẳng biết phương lập công đức

chân chính là thí tài cho thí pháp, chẳng qua là hạng thủ tài chi lỗ mà thôi.

Tu hành có bạn lữ, đều phải nương theo đức mới đồng quy tri giác.

Đức vốn khó được, như Lục Tổ vừa mới đến Thiều Châu, trên đường gặp Lưu Chí Lược bèn

kết làm bạn tâm giao, đó là đồng tri giác.

Là bạn lữ trong Thiền môn không như bằng hữu của thế tình nên cần phải xem xét thật cẩn

thận để biết người lữ hộ là chân tu hay giả tu. Cần phải có thời gian lâu dài để tìm người bạn

nầy trong lòng đang ôm ấp những gì.

Nếu gặp những kẻ có tâm hiếu thắng, thích khen chán chê, thích địa vị, hay tự tôn tự đại…

người nầy không thể học đạo được.

Còn có những người ưa thích hữu vi, lấy việc xem kinh bái Phật, tu kiều, bồi lộ, tu miếu, thọ

giới để cầu phúc đức, người nầy chưa phải là tông thống của chân đạo. Lục Tổ nói: có phúc và

nghiệp nơi người, há có thể toan lo những gì.

Chẳng đắc chân truyền nên nói có những bậc đắc đạo là do Trời sinh. Thù bất tri, Đại đạo

được thành là do những người có chí lớn.

Bốn hạng người trên, một lời chẳng nên lộ.

Còn có:

- kẻ trọng tài mà khinh nghĩa

- có người hữu thủy và vô chung

- có kẻ miệng thì nói tợ điều lành mà tâm độc ác

Page 236: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

236

- có người có vẻ ân cần mà lòng hay dối lừa

- có kẻ từ ông đến cha là người không đức

Quán xét cho đến cõi lòng thâm bí, 5 hạng người trên đều không thể nào tu hành được.

Nếu được một người chân trượng phu cũng phải xét đến tận cùng căn nguyên, quả là người

đã thích, đã tự ngộ về hướng Tánh Mạng song tu, là người quý.

Nếu có được một người chuyên sưu tầm những bí mật của Phật, của Tổ về hướng tu Tánh

luyện Mạng thì có thể trao họ chánh pháp chân truyền.

Nếu gặp được một người bình sanh hằng ôm ấp Hiếu, Trung, Nhân, Nghĩa thì có thể trao cho

họ pháp môn thượng thừa.

Nếu có được một người Tâm đầy từ thiện hằng lo tế nhơn lợi vật thì có thể trao cho họ bí mật

thiên cơ.

Nếu gặp được một người ngũ giới toàn chân, tôn Sư trọng Pháp, thệ lập nguyện thâm thì có

thể kết giao với họ thành bạn lữ tâm giao để làm hộ pháp giúp ta hạ thủ công phu trong thời

nhập thất.

Sau đó mới tiết lộ cho họ về bí mật của Như Lai và chỉ điểm huyền cơ của Tổ sư.

Cuối cùng người thí pháp và người thọ pháp đồng thành chánh giác. Thí tài cho thí pháp và

thí pháp là 2 công đức vô lượng vô biên, đồng đăng giác ngạn.

Lúc hạ đại công là quá quan rồi mười tháng tư dưỡng Linh thai. Phải đến nơi tịnh địa danh sơ

là nơi rất ít người qua lại. Phải thật xa nghĩa địa để phòng âm khí lai xâm. Là nơi không có lò

sát sanh, không có những phần tử du hí du thực ở gần. Một nơi hoàn toàn yên tịnh chung

quanh có nhiều người hiền cư trú. Là nơi có thể có chánh Thần.

Phòng ốc chẳng cần cao lớn để tránh tiếng thị phi, tường vách phải thật kiên cố để phòng thú

dữ. Cách thiết kế không quá sáng cũng không quá tối, quá sáng thì thương Phách, quá tối thì

thương Hồn.

Chuyên ăn những rau quả, tốt hơn hết là gạo lứt muối mè (vừng). Thứ đến là gạo trắng. Nấu

với đậu xanh, ăn với muối mè, các loại quá thơm nên tránh.

Lúc nhập thất, dưới giường đặt một cân Hùng Hoàng để trừ tà khí. Treo trước mặt một cái

gương cũ để có ma lại thấy hiện trong gương. Làm một cái gươm bằng gỗ đay để trừ ngoại

ma. Tọa cụ phải mềm.

Lúc nhập thất, thầy trò cùng lập thệ đồng tâm.

Page 237: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

237

Lúc đã thành chánh quả chẳng nên du hí mà phải lo tiếp dẫn quần mê.

Quảng thí pháp từ bi như mưa móc rưới khắp.

Lấy diệu dược độ người có phúc được lên bỉ ngạn. Ta với người đồng đường.

Đó là cái nguyện của cổ Phật, của Thánh xưa.

Page 238: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

238

14. QUYẾT NGHI

LIỂU NHIÊN LỤC VẤN

1. Hỏi: lạy Phật chẳng thấy thành Đạo. Là sao vậy?

- Đáp: Phật tại Thái không, nào cần lạy. Kim Cang kinh nói: nhược dĩ sắc kiến ngã, thế nhơn

hành tà đạo, tắc bất năng kiến Như Lai.

Lại hỏi: lạy cũng vô dụng sao?

- Đáp: lạy dù thành ý, đối với đạo cũng vô can.

2. Hỏi: Niệm kinh, tại sao cũng chẳng thấy thành Đạo?

- Đáp: kinh là do Phật làm ra, nếu niệm ấy để cho Phật nghe thì làm sao nghe được, nếu niệm

ấy để cho ta nghe cũng bất tất phải niệm.

Kim Cang kinh có nói: nhược dĩ âm thanh cầu ngã, thế nhơn hành tà đạo, tắc bất năng kiến

Như Lai.

Phật là danh tự của người Tây phương, Khổng tử là tên họ của người Trung Hoa. Phật có tội gì

với ngươi, nếu ngươi niệm khác nào quan khảo thí xướng danh thí sinh có ích gì.

Lục Tổ nói: người phương Đông tạo nghiệp, niệm Phật cầu sinh Tây phương. Vậy người Tây

phương tạo nghiệp thì cầu sanh phương nào?

Cho nên niệm có ích gì đâu.

3. Hỏi: thọ giới, nhưng chẳng thấy thành Đạo là sao vậy?

- Đáp: giới là để răn phạm nhơn. Xưa sau khi Như Lai thành đạo, người theo rất đông nên Văn

Thù cầu xin Như Lai đặt ra giới luật để làm pháp chế phục người hạ đẳng khỏi mắc phải đa sự.

Lục Tổ nói: Tâm hảo tà tu dụng giới.

Đại đạo Tánh Mạng ở nơi trong, còn giới nầy ở ngoài bì phu. Lương bất tương can, nên vô

thành.

4. Hỏi: đả thất một môn, Thích giáo ngày nay xưng là tối thượng cũng chẳng thấy thành, lại

nhiều người bị thổ huyết, là sao vậy?

- Đáp: từ Như Lai khai hóa, Tây phương 28 Tổ, Đông độ 6 đời đều không có môn nầy, đây là

do nhóm Tăng ở Cao phong vu thuyết, chôn hại biết bao Tánh Mạng người đời sau. Cao

phong là nhóm người theo cái học văn tự, chẳng phải là cái đạo của Như Lai. Sở tập của họ là

Page 239: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

239

chuyên bế tức bàng môn. Thổ huyết là do quỳ hương nén khí nên bị tổn thương đến tạng phủ.

Tỏa đả thương bảng thì tổn thương Tích lạc. Dù cho lư y Biến Thước cũng không cứu được.

Môn nầy nhờ có một bậc chí nhơn chấm dứt được mới cứu được vô số Tánh Mạng.

5. Hỏi: có người đả thất lại xưng đốn ngộ Phật Tánh, hiện tại cũng bị thổ huyết, lại đi dạy

người khác tu tập. Như vậy có ngộ được Phật pháp không?

- Đáp: Hoa Dương hè hè cả cười rồi nói: phàm đắc đạo thì trăm mạch đều lưu thông, một khới

thái hòa Dương khí, hoàn toàn không bị Âm khí gây trở tắc. Thổ huyết là do âm dương bất

hòa, do cái lỗi hỏa khí mạnh, âm khí trở tắc nên không bảo vệ được cái Mạng.

Hiểu được Phật Tánh, chẳng chờ tính toán mà tự minh.

6. Hỏi: Lục Tổ nghe câu: ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, liền đốn ngộ là hà tất cầu Ngũ Tổ.

- Đáp: Lục Tổ được ngộ là ngộ về Tánh đạo, còn cái đạo Huệ Mạng thì chưa được biết. Cho

nên phải vượt qua vài ngàn dặm đường để cầu Chân sư để xin truyền Huệ Mạng. Huệ Mạng

tất phải do thầy truyền, nếu không gặp được Chân sư thì làm sao đắc.

GIỚI ẤP, TÚ TÀI LÝ TƯ BẠCH, DANH LÀ DỤC DẠ HIỆU QUỲNH NGỌC, LỤC VẤN

1. Hỏi: ngày xưa đệ tử không hề tin ở Phật đạo vì nghe Châu tử nói: Thích đạo chỉ là thuyết hư

tịch. Cho nên bỏ đi và không dùng. Sau đó được nhờ bạn Trạc trao cho tôi quyển sách của lão

sư. Lúc đầu không muốn xem, sau đó mới cố gắng xem mới thấy có công phu chân thiệt, rồi

mới có lòng tin tưởng không còn nghi ngại nữa. Còn hành trì chỉ trong nửa tháng thì có cảnh

chân chi sanh. Liền biết nội thân tám mạch đều mở, có những bệnh tật ngày xưa nay đều được

lành mạnh, Xá Lợi kết, thật là hạnh phúc vậy.

Đệ tử được nghe những người xuất gia ngày nay thường nói là đã ngộ tự tánh chẳng cần tu

luyện, là hủy hoại lời nói nầy có phải như vậy không?

- Đáp: đó là mưu kế toan cầu ẩm thực, lại xem người khác nói họ là kẻ vô đạo, nên làm như

vậy là để mọi người đoái tưởng đến. Cho nên mới dùng pháp câu liên, hà tàng có thực.

Nếu chẳng cần tu luyện, Thế Tôn hà tất phải ở trên núi Tuyết sơn 6 năm, Đạt Ma hà tất phải ở

Thiếu Lâm 9 năm, Lục Tổ hà tất phải ẩn danh 15 năm. Đều là có bằng cớ. Kẻ kia nói mình đã

đốn ngộ là phương mê hoặc người đời. Đến lúc một hơi thở không còn, cũng ô hô vậy.

2. Hỏi: thành Đạo chỉ có một pháp tu luyện sao?

- Đáp: Thiên vạn Phật cũng đều có một pháp. Chưa đắc Huệ Mạng tất có nhiều thuyết môn hộ,

được rõ Huệ Mạng đều quy nhất. Thế Tôn gọi nếu dư ra 2 chẳng gọi là chân.

Page 240: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

240

3. Hỏi: Thiền môn ngày nay truyền pháp có chân không?

Lại hỏi: người xuất gia làm đến Phương trưởng chẳng cầu người, tự tạo ra Hòa thượng, lên

Phật vị, thay Phật thuyết pháp, chẳng biết đó là pháp gì?

- Đáp: từ Tây thiên đến Đông độ, Đạt Ma, Lục Tổ đều dùng khẩu truyền tâm thọ, cho nên Ngũ

Tổ mới nói: Sư sư mật phụ bản âm. Ngày nay vì thất chân truyền nên mổ Tăng chỉ là cái danh

trên giấy rồi gọi là truyền pháp, chẳng khác những kép hát tự xưng Hán Cao Tổ, Sở Bá Vương

mà thôi. Trí giả xem đó làm sao khỏi cười.

4. Hỏi: quán thoại đầu, tham Thiền có phải là chân đạo không?

- Đáp: Thích giáo thuộc bàng môn, nên nói: quán thoại thoại đầu, tham thiền, để tranh phần

thắng về mình. Chánh đạo của Thích giáo là trước song tu, thực hành công phu thực tại mà

chẳng hỏi đến thoại đầu.

5. Hỏi: người đả tọa lại có tẩu lậu, là sao vậy?

- Đáp: thanh niên đến 15, 16 tuổi tinh khí sung mãn thì tự nhiên có tẩu tiết. Chẳng đắc chân

truyền nên chẳng dụng đại công. Đã chẳng hiểu về đại công thì làm gì có cái lý tự trụ. Nếu

muốn chẳng bị tẩu tiết phải chú ý chỗ tẩu tiết mà thu hồi rồi dùng chân Hỏa hà luyện khiến

cho tinh hóa thành khí, khí thượng thăng thì hết tẩu lậu.

6. Hỏi: Thiền môn ngày nay nói: cứ lo tu luyện còn việc tẩu lậu không quan ngại. Lời nói đó

có đúng không?

- Đáp: đó là đệ nhất ngoại đạo. Lăng Nghiêm kinh nói: dâm tâm, dâm thân và dâm căn không

đoạn tất bị rơi vào ma đạo, trải trăm ngàn muôn kiếp không thể nào thoát được quỹ đạo sanh

tử.

Còn tẩu lậu thì có khác gì phàm phu tục tử.

Trên cõi thiên đường không có một vị Phật, vị Tổ nào tẩu lậu cả. Còn như Xá Lợi tử từ đâu lại,

kẻ đó là hạng người hạ đẳng, bất tất luận.

TĂNG CHÂN NGUYÊN THẬP TAM VẤN

1. Hỏi: Chánh đạo theo đâu mà khởi thủ?

- Đáp: Tâm mục sở tại. Lại nói: ngưng tập hòa hiệp tất có chỗ sở tại, là một nơi huyền diệu. Cổ

nhân nói: hồi quang phản chiếu, ngưng tập hòa hiệp phải có chỗ, tức là Cốc thần.

2. Hỏi: Lúc nào hạ thủ?

Page 241: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

241

- Đáp: Có Chân Dược phát sinh thì lập tức hạ thủ. Tổ sư nói: khả quý thiên nhiên vật, độc nhất

vô bạn lữ. Lại chẳng phải Tâm, lại chẳng phải Ý, vật đó ẩn tàng trong Khí Hải. Lúc động thì

có tri giác, tới thời đó thì hạ thủ.

3. Hỏi: Cổ nhân gọi hàng Long phục Hổ, sao gọi là Long Hổ?

- Đáp: Long tức là Linh niệm trong Tâm, còn gọi là nội Dược. Hổ tức là Noãn tín nơi Khí Hải,

còn gọi là ngoại Dược. Nếu muốn hàng Long phục Hổ, trước phải dẫn Long đầu nhập vào Hổ

quật, sau đó Cọp mới quy về Long huyệt. Đó là pháp hàng phục tự nhiên.

4. Hỏi: Tại sao là Cọp mạnh ra khỏi rừng?

- Đáp: Tức dương vật cử động.

Lại hỏi: sao gọi là phục?

Tức lấy Long chế ngự, lấy gió mà thổi.

5. Hỏi: Sao gọi là Chân chủng?

- Đáp: Tức Long Hổ hiệp luyện thành Linh Dược, sau đó mới có cơ động, nên gọi: Chân

chủng.

6. Hỏi: Sao gọi là Xá Lợi tử?

- Đáp: Tức Chân chủng sở sản, là do đã đắc diệu pháp của Châu thiên, số hạn của Châu thiên

đã đủ. Ngoại Thận bất cử nên gọi Xá Lợi tử.

7. Hỏi: Sao gọi là Mâu Ni châu?

- Đáp: Là Xá Lợi tử sở sản rồi vận quá Tam quan, về Trung đình, gọi là Mâu Ni châu. Cổ nhân

nói: tiền tam tam, hậu tam tam là đây.

8. Hỏi: Sao gọi là Đại đạo thai?

- Đáp: Mâu Ni châu đã về Trung cung, cùng với chân Ý tương hiệp. Chân Ý trong châu thí dụ

như đá nam châm hút sắt, nên gọi Đạo thai.

9. Hỏi: Sao gọi là Lục thông?

- Đáp: Trước được thành Lậu tận thông rồi sau mới có ngũ thông. Nếu chỉ tu Tánh mà không

tu Huệ Mạng thì chỉ được ngũ thông mà không có Lậu tận thông. Thiếu Lậu tận thông thì

không thành Phật, chỉ là Linh quỷ chuyển kiếp mà thôi.

10. Hỏi: Sao gọi là xuất định?

Page 242: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

242

- Đáp: Là Châu trong thai đã luyện thành một linh vật. Công phu đã viên mãn gọi là số túc, thì

từ Thượng Đơn Điền xuất.

11. Hỏi: Sao gọi là Hóa thân?

- Đáp: Tức là thân xuất định biến hóa.

Lại hỏi: đến bậc nào mới dùng pháp mà biến hóa?

Cũng như mười ngón tay động, dù một ngón động hay mười ngón động đều do niệm mà có.

12. Hỏi: Chánh đạo với bàng môn, lúc thành có hiệu nghiệm gì?

- Đáp: Bàng môn nói thành là do ở lời nói chứ không có bằng cớ. Chánh đạo thành thì có Xá

Lợi, ngoại Thận không còn cử động, tức thành Thánh thai. Lúc nầy tu sĩ nếu tóc đã trắng bạc

thì trở lại đen, răng rụng lại mọc. Lúc xuất định thì bên ngoài có nhiều thân nữa, cầu chân sư

nên hỏi chỗ nầy.

13. Hỏi: Chẳng đắc Chánh đạo, ngày sau thế nào?

- Đáp: Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu.

THÁI ẤP HẢI HỘI TỰ PHƯƠNG TRƯỞNG LONG GIANG

1. Hỏi: Từ lâu tôi đã dùng chánh pháp mà tịnh tu có thể chẳng còn lậu tận thông không?

- Đáp: Tịnh tu chỉ đoạn dâm tâm và dâm thân mà thôi, còn dâm căn thì chưa đoạn được. Dâm

căn chưa đoạn thì Lậu tận chưa thành.

Nếu muốn thành Lậu tận phải dụng công phong hỏa. Như Lai nói: hỏa hóa. Lại nói: phong

xuy. Thật có chân truyền.

2. Hồng Đô Dược sư viện Phương trưởng Thạch Tàng Hòa thượng hỏi: thoạt nhiên đốn ngộ vô

phàm vô Thánh, một niệm viên dung tợ như thái không. Tịnh lâu ngày thì hạ thân được lưu

thông, cho đến ngoại Thận được lưu thông, cho đến ngoại Thận cũng không động, là nguyên

cớ gì vậy?

- Đáp: Đó là chỗ huyền diệu của Thiền cơ. Lúc hạ thủ tu Huệ Mạng thường dùng pháp để thâu

hồi về bản xứ nên gọi là song tu.

CHUNG

---oOo---

Page 243: ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG · Tại tiên, nếu có duyên gặp được chân tăng, rồi đắc được Chân chỉ của Tánh Mạng

ĐƠN KINH (Kim Tiên Chứng Luận + Huệ Mệnh Kinh) HOA DƯƠNG

243

Quyển sách “Đơn Kinh” này gồm có “Kim Tiên Chứng Luận và Huệ Mạng Kinh của Hoa Dương Hòa

Thượng”. Cuốn này có được là do công lao của cô Ngô Mỹ Hạnh đã gửi bản copy, rồi được Đoàn Vũ Thúy ở

Biên Hòa và Hồ Trung Hậu ở Long An đã bỏ công đánh lại vào máy vi tính để có thể đưa lên mạng phân phát

cho mọi người cùng đọc và tìm hiểu.

Vì đánh máy lại nên e rằng không tránh khỏi được những lỗi lầm. Xin quí vị độc giả niệm tình tha thứ và đồng

thời xin chỉ bảo những chỗ sai lầm để chúng tôi có thể sửa chữa và bổ túc.

Xin chân thành cảm tạ,

Viễn Lưu, Nov/10/2015.

Email: [email protected]