Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THU HƢỜNG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THU HƢỜNG
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số : 62 38 01 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. DƢƠNG THANH MAI
PGS.TS. NGUYỄN THỊ BÁO
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả
Trần Thu Hƣờng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN ................................................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài ................................... 8
1.2. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài .......................... 18
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra
cần tiếp tục nghiên cứu ..................................................................................... 23
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ
HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP ..................... 29
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp ............................................................................................... 29
2.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................................ 53
2.3. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở một số
nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam ..................................... 63
Chƣơng 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP
Ở VIỆT NAM ....................................................................................................................................... 72
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam ......................................................... 72
3.2. Thực trạng pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................................ 78
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ........................................................................................................................ 113
4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp ở Việt Nam hiện nay ........................................................................ 113
4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 120
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................................................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BĐGTS : Bán đấu giá tài sản
GATS : Hiệp định thương mại dịch vụ
GĐTP : Giám định tư pháp
QLNN : Quản lý nhà nước
QPPL : Quy phạm pháp luật
TGPL : Trợ giúp pháp lý
THADS : Thi hành án dân sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XHHDVC : Xã hội hóa dịch vụ công
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cung cấp dịch vụ công là một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước
nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm
ổn định và công bằng xã hội. Hiện nay, xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công trở
thành một xu hướng phổ biến của các nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi
nhằm đa dạng hóa, tăng nguồn cung ứng và nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ nhu
cầu, lợi ích chung của xã hội, cộng đồng và của người dân. Yêu cầu căn bản của quá
trình XHHDVC là nhà nước trực tiếp thực hiện một số loại dịch vụ công quan trọng
và thông qua các cơ chế cụ thể để dần chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công này
cho các chủ thể khác, đồng thời, chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ chất lượng của
việc cung ứng các dịch vụ công này.
Ở Việt Nam, XHHDVC là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, được
triển khai thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và là một trong những
trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, XHHDVC trước hết được
thực hiện trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe của nhân dân (Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII), sau đó, được mở rộng đến các
vấn đề chính sách xã hội (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII). Đến nay,
XHHDVC đã được triển khai trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, là một trong
những trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 được Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định quan điểm phát triển: “hoàn thiện
thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển” [42, tr.101]. Chương trình tổng
thể cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị
quyết số 30c/NQ-CP đặt ra nhiệm vụ: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về
xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh” [29, tr.2].
Trong lĩnh vực tư pháp, XHHDVC được xác định là nhiệm vụ chiến lược quan
trọng trong thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 2/6/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã chỉ rõ: “thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp”.
Đồng thời, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng 2020 cũng xác
định xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám
định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu
đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ
các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức
xã hội nghề nghiệp.
Thực hiện định hướng chiến lược cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, các văn
bản trong các lĩnh vực tư pháp như Luật luật sư, Luật công chứng, Luật thi hành án
dân sự, Luật giám định tư pháp, Luật trợ giúp pháp lý, Luật phổ biến giáo dục pháp
luật, Luật đấu giá tài sản... đang ngày càng khẳng định xu hướng XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp như xác định luật sư là một nghề, hoạt động chuyên nghiệp; hình
thành Liên đoàn luật sư là tổ chức tự quản của luật sư trong toàn quốc; hệ thống Văn
phòng công chứng được thành lập bên cạnh Phòng công chứng của Nhà nước; từng
bước hình thành Hội công chứng thực hiện chức năng tự quản đối với những người
hành nghề công chứng ở các địa phương; huy động các nguồn lực xã hội tham gia
vào hoạt động TGPL; cho phép thành lập các tổ chức GĐTP ngoài công lập đối với
các lĩnh vực về tài chính, xây dựng, di vật, cổ vật; chế định thừa phát lại đã được
chính thức thực hiện trong phạm vi cả nước. Các văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý
cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, góp phần vào việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng
như bảo đảm và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân.
Tuy nhiên, pháp luật về XHHDVC cũng đang cho thấy có những bất cập, hạn
chế cần được nghiên cứu, hoàn thiện so với yêu cầu XHHDVC nói chung và trong
bối cảnh thực hiện cải cách pháp luật, cải cách tư pháp. Quy định về thực hiện xã hội
hóa được điều chỉnh trong các văn bản ở các cấp độ hiệu lực, ngành, lĩnh vực khác
nhau dẫn đến có những mâu thuẫn, khoảng trống và khó khăn nhất định trong áp
dụng. Pháp luật cũng chưa điều chỉnh đầy đủ, toàn diện các vấn đề phát sinh trong
thực hiện xã hội hóa như bảo đảm tính xã hội, không vì mục đích lợi nhuận của việc
cung cấp dịch vụ công, chưa có các cơ chế, chính sách khuyến khích phù hợp với đặc
thù của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp… Quy định về trách nhiệm của các
chủ thể trong cung cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa còn chưa đầy đủ, cụ
thể, đặc biệt là trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm chất lượng dịch vụ công nên
thực tế triển khai có lúng túng và chưa đạt được kết quả như mong muốn. Việc tổng
kết thực tiễn thi hành và nghiên cứu lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên dẫn đến những khó khăn, lúng
túng, thiếu cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách dài hạn và hoàn thiện pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền và pháp luật trong Nhà nước
phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ, bảo đảm công bằng và công lý trong xã hội. Yêu
cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp hiện nay, pháp
luật phải tạo hành lang pháp lý ổn định, khả thi cho sự tham gia bình đẳng của các
chủ thể trong xã hội trong cung cấp dịch vụ công có chất lượng, bảo đảm cho người
dân ngày càng dễ dàng hơn trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công, cũng như góp
phần hoàn thành các nhiệm vụ cải cách tư pháp, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Pháp
luật không phải chỉ thể hiện cam kết của Nhà nước trước xã hội về việc bảo đảm
quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân khi tham gia cung cấp dịch vụ công mà còn thể
hiện cam kết của Nhà nước trước người dân về việc cung cấp dịch vụ công có chất
lượng dù trong bối cảnh Nhà nước không tham gia trực tiếp vào việc cung cấp dịch
vụ công, gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách pháp luật, cải cách tư pháp.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hoàn thiện
pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện
nay” là đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ luật học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, thực tiễn trong hoàn thiện pháp luật và đưa ra những kiến nghị, đề xuất cho
việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu thực hiện cải cách hành chính,
cải cách tư pháp của Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ
- Thực hiện tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài để chỉ ra
những vấn đề luận án có thể kế thừa và xác định các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh của pháp luật và xác
định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cũng như yếu tố ảnh hưởng đến việc
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; đồng thời ở một mức độ
nhất định, nghiên cứu pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên thế giới
và chỉ ra những giá trị tham khảo đối với Việt Nam.
- Nghiên cứu tổng quan quá trình phát triển của pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp, trọng tâm từ năm 2001 đến nay; phân tích, đánh giá thực
trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay để rút ra
những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Phân tích, đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay theo yêu cầu cải cách hành
chính, chiến lược hoàn thiện pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Luận án nghiên cứu
những vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được tiếp cận khá rộng, bao gồm nhiều hoạt động
khác nhau, có thể là các hoạt động trực tiếp liên quan đến thực hiện quyền tư pháp
(xét xử) nhưng cũng có thể là những hoạt động bổ trợ tư pháp và hành chính tư pháp.
Trong phạm vi giới hạn của Luận án, với mục đích đóng góp các đề xuất cho
việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phù hợp yêu cầu cải
cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Luận án tập trung
nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp được xác định theo Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính
trị ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020.
- Về thời gian, Luận án nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp và tập trung nghiên cứu, đánh giá về
tình hình, kết quả hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong giai đoạn từ năm 2001
đến nay (là giai đoạn bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vận
dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để
thấy được tiến trình hình thành, phát triển của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp ở Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu khoa học đã được
sử dụng phù hợp với yêu cầu nghiên cứu từng nội dung của luận án như phương
pháp phân tích, tổng hợp; luật học so sánh; thống kê, khảo sát văn bản; phương
pháp quy nạp, diễn dịch. Cụ thể như sau:
- Chương 1: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa các tài
liệu, công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố để làm rõ các nội dung, kết
quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài, xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu của luận án.
- Chương 2: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa,
phương pháp quy nạp, diễn dịch để phân tích, luận giải, khái quát các phạm trù có
tính lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Chương này cũng sử
dụng phương pháp luật học so sánh để tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trong
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
- Chương 3: Sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích để hệ
thống, luận giải, làm rõ thực trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay.
- Chương 4: Sử dụng phương pháp quy nap, diễn dịch, tổng hợp, phân tích
để luận giải và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên tiếp cận chung về hoàn thiện
pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Luận án có những
điểm mới sau:
- Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó, Luận án đã đưa ra được
khái niệm, phân tích và làm sáng tỏ bốn đặc điểm, ba nội dung điều chỉnh và vai trò
quan trọng của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp
- Luận án đã xây dựng bảy tiêu chí hoàn thiện pháp luật, xác định năm yếu tố
ảnh hưởng đến việc hoàn trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp.
- Luận án đã phân tích và chỉ ra kinh nghiệm của một số nước trong hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kinh nghiệm hoàn thiện nhóm
các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công; về thực hiện XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp; về quy định quản lý cung cấp dịch vụ công.
- Luận án đã phân tích, làm rõ được những vấn đề cơ bản của quá trình hình thành
và phát triển của pháp luật Việt Nam về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
- Luận án nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống và chỉ ra được những
kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án xác định được các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận án cung cấp thêm các thông tin lý
luận hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong điều kiện cải cách
hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Về thực tiễn, Luận án là công trình đầu tiên tiếp cận và nghiên cứu chung
liên quan đến pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp một cách có hệ thống
và toàn diện. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo đối với các cơ
quan có thẩm quyền trong xây dựng, hoạch định chính sách, xây dựng, hoàn thiện
và tổ chức thi hành pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nói chung và từng
dịch vụ công cụ thể. Luận án còn có thể là tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy pháp luật XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói
riêng.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm có
04 chương và 10 tiết.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc về hoàn thiện pháp luật về xã hội
hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung
Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một trong những
nội dung được quan tâm nghiên cứu dưới các hình thức Đề tài, Hội thảo khoa học,
luận án, luận văn và các bài viết theo từng nội dung cụ thể.
Về các đề tài, hội thảo khoa học, Đề tài khoa học cấp Bộ về “Đổi mới quản lý
Ngành Tư pháp - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [93] do TS Nguyễn Ngọc Hiến
làm chủ nhiệm và bảo vệ năm 1996 đã đưa ra nhiều nội dung liên quan đến định
hướng phát triển tổ chức và hoạt động cho Ngành Tư pháp trên những nhóm nhiệm
vụ cơ bản của Ngành trong giai đoạn đến năm 2005 và sau năm 2005. Đề tài đề cập
nhiều nội dung đổi mới QLNN gắn với hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động luật
sư, tư vấn pháp luật, GĐTP phù hợp với chủ trương xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà
nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Năm 2006, Đề án khoa học
của Bộ Tư pháp về Chiến lược xây dựng và phát triển ngành Tư pháp thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đề cập đến vấn đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp,
tuy nhiên mô hình quản lý dịch vụ công mới chỉ được đề cập đến ở phần kiến nghị và
chưa gắn với các đề xuất cụ thể về nội dung, cách thức, phương pháp, phạm vi điều
chỉnh của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Đề tài khoa học “Hoàn thiện khung pháp luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ
công ở Việt Nam” do TS Nguyễn Văn Quang làm chủ nhiệm năm 2010 đã tập trung
nghiên cứu khía cạnh pháp lý của vấn đề xã hội hóa cung ứng dịch vụ công [72].
Một trong những kết quả nghiên cứu quan trọng của Đề tài là xác định khung pháp
luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công bao gồm quy định về quản lý nhà nước
đối với việc XHHDVC và quy định điều chỉnh các hoạt động XHHDVC. Đề tài
nhấn mạnh quan điểm bảo đảm các dịch vụ công đều phải được điều chỉnh bằng
pháp luật, mọi chủ thể bình đẳng trong việc yêu cầu, sử dụng và thụ hưởng dịch vụ
công, bảo đảm cho mọi tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật được tham gia cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước đối với việc cung
ứng dịch vụ công. Đề tài cũng đưa ra các phương thức pháp lý chuyển giao cung
ứng dịch vụ công trong quá trình XHHDVC thông qua việc thành lập và cho phép
hoạt động các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài công lập, ký kết hợp đồng để
cung ứng dịch vụ công. Từ đó khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung
ứng dịch vụ công nhằm tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh để điều
chỉnh hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ công của mọi thành phần tham gia là
giải pháp quan trọng thúc đẩy xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở nước ta. Có thể
nói, với ý nghĩa là một trong những nghiên cứu tập trung vào vấn đề pháp luật về
XHHDVC ở Việt Nam, Đề tài đã cung cấp nhiều luận cứ quan trọng cho nghiên cứu
sinh khi nghiên cứu đề tài của mình, đặc biệt là những vấn đề lý luận chung và khung
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Đề tài khoa học cấp Bộ về “Mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư
pháp” do Ths Dương Bạch Long là chủ nhiệm đề tài năm 2014 [99]. Đề tài đã thực
hiện rà soát pháp luật hiện hành để nhận diện các dịch vụ công và tập trung nghiên
cứu dịch vụ hành chính công trong ngành Tư pháp. Đề tài xác định được mô hình
quản lý dịch vụ công trên cơ sở tiếp cận từ chủ thể quản lý dịch vụ hành chính công,
bao gồm mô hình quản lý một cấp, hai cấp, nhiều cấp và liên tịch quản lý. Đây là
các nội dung có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh khi xác định phạm vi và
nội dung pháp luật quy định về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, do
nghiên cứu về mô hình quản lý nên vấn đề pháp luật chỉ được đề cập từ khía cạnh là
nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý các dịch vụ công và khi khuyến nghị
các giải pháp đổi mới mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp.
Về các hội thảo khoa học, chương trình nghiên cứu, trong năm 2006, Viện
Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội thảo khoa học cấp Bộ về Dịch vụ
công trong ngành Tư pháp. Hội thảo bước đầu đặt ra vấn đề về nhận diện các dịch
vụ công trong ngành Tư pháp. Kết quả của Hội thảo được biên tập và phát hành
dưới dạng số thông tin Khoa học pháp lý chuyên đề: “Nhận diện và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý, chất lượng dịch vụ công trong ngành Tư pháp”
[92]. Với quan điểm dịch vụ công hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà
nước của Bộ và rất phong phú, đa dạng, Báo cáo kết quả hội thảo đề cập đến kết
quả xã hội hóa hoạt động công chứng, TGPL, THADS, giao dịch bảo đảm, đào tạo,
nghiên cứu khoa học pháp lý… Bên cạnh một số vấn đề đã được phân tích và đi đến
kết luận thì Hội thảo cũng thống nhất còn nhiều vấn đề vướng mắc liên quan đến
việc xác định loại hình dịch vụ công để phân định với hoạt động QLNN và tiếp tục
xác định các nội dung, giải pháp về xây dựng pháp luật về xã hội hóa hoạt động
THADS, nghiên cứu và đào tạo pháp luật.
Trung tâm nghiên cứu hỗ trợ phát triển cộng đồng, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) khảo sát, xây dựng và
công bố Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) [43].
Báo cáo bao gồm những chỉ số đo lường đối với hoạt động công chứng, chứng thực
trên cơ sở pháp luật, thông qua các tiêu chí về thông tin rõ ràng về thủ tục cần làm;
phí được niêm yết công khai; công chức có trình độ nghiệp vụ; được đối xử hợp lý;
không có quá nhiều giấy tờ và được hẹn ngày trả kết quả rõ ràng; nhận được kết quả
như lịch hẹn; hài lòng với kết quả nhận được. Các tiêu chí này cho phép đánh giá
tương đối toàn diện về việc cung cấp dịch vụ công chứng, chứng thực - một trong
những dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Nhưng do kết quả khảo sát là ý kiến trực
tiếp của người dân về việc thực hiện và cung cấp dịch vụ nên không có những đánh
giá về mức độ hoàn thiện của pháp luật.
Cùng với chỉ số PAPI, trong giai đoạn từ năm 2012, Bộ Nội vụ tiến hành
đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành chính ở các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh) thông qua việc đánh giá và công
bố Chỉ số cải cách hành chính (Par index) trong Báo cáo kết quả xác định Par index
năm của Bộ Nội vụ [11]. Chỉ số cho phép đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành
chính của các Bộ, ngành theo các nội dung bao gồm: điều hành cải cách hành chính;
xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc phạm vi quản lý của Bộ; cải cách thủ
tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng
cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức; đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ
quan hành chính và đơn vị sự nghiệp; hiện đại hóa hành chính. Việc đo lường và
công bố Chỉ số cải cách hành chính cũng cho thấy mức độ hoàn thiện của pháp luật
về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thông qua chỉ số đánh giá đối với các Bộ,
ngành có liên quan, trực tiếp là Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, do đây là các chỉ số được
đánh giá chung nên khó rút ra được các nhận định, đánh giá về pháp luật XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp.
Về công trình nghiên cứu luận án tiến sĩ, tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong
luận án “Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính” [8] tiếp
cận dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính với ý nghĩa là một bộ phận trong dịch
vụ công trên cơ sở phân biệt tính chất và tác dụng của dịch vụ công (khác với cách
phân biệt về hình thức dịch vụ cụ thể; chủ thể cung ứng dịch vụ công; chi phí của
người sử dụng) để thấy những đặc thù của dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính.
Khác với các dịch vụ công khác, dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính ra đời là
kết quả của quá trình chuyển đổi cách thức giải quyết yêu cầu của cá nhân, tổ chức,
gắn với tiến trình cải cách hành chính nhà nước và phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh
vực hành chính thể hiện cam kết của nhà nước về bảo đảm cung cấp các dịch vụ
công cho công dân và là công cụ để quản lý nhà nước. Trong nghiên cứu của mình,
tác giả cũng đề cập đến các dịch vụ công chứng, TGPL và coi đây là các dịch vụ công
trong lĩnh vực hành chính và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực
hiện xã hội hóa đối với các dịch vụ này. Luận án có giá trị tham khảo về phương pháp
luận cho nghiên cứu sinh khi tiếp cận, nghiên cứu và kiến nghị giải pháp hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa đối với
một số dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tƣ pháp
Bên cạnh các nghiên cứu về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nói chung,
trong thời gian qua, nhiều nghiên cứu về xã hội hóa đối với một số dịch vụ công
trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể đã được thực hiện. Khái quát một số kết quả
nghiên cứu như sau:
* Trong lĩnh vực luật sư: Luật sư là một trong những chế định pháp luật liên
quan đến XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, các cơ quan QLNN cũng như hoạt động thực tiễn. Đây có thể coi là một
trong những lĩnh vực điển hình trong nghiên cứu về xã hội hóa với hai xu hướng
nhu cầu chuyển giao từ nhà nước cho xã hội thực hiện với đội ngũ luật sư tư và nhu
cầu về sự tham gia trực tiếp của nhà nước trong cung cấp dịch vụ luật sư với việc
hình thành chế định luật sư công.
Trong sách “Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư” của TS Nguyễn Văn
Tuân [82], thông qua việc nghiên cứu, cung cấp thông tin về quá trình xây dựng,
hoàn thiện pháp luật luật sư, tác giả đã cho thấy một quá trình hình thành và phát
triển nghề luật sư ở Việt Nam trước năm 1945 và từ năm 1945 đến nay. Lịch sử
phát triển nghề luật sư cho thấy quá trình chuyển giao mạnh mẽ các công việc do
Nhà nước đang thực hiện cho xã hội thực hiện trên cơ sở hình thành một đội ngũ
luật sư hoạt động chuyên nghiệp, phát triển tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư
theo hướng kết hợp giữa QLNN và tự quản của luật sư, chuyển giao nhiều công
việc quản lý hành nghề của luật sư sang cho tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư.
Tác giả Nguyễn Văn Thảo trong Đề tài“Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở
Việt Nam” [90] khẳng định vai trò của luật sư trong đời sống xã hội và yêu cầu tạo
hành lang pháp lý thích hợp để chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa nghề luật sư, tạo
điều kiện để nghề luật sư hội nhập khu vực và quốc tế. Công trình nghiên cứu này
có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh khi đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật
đối với việc hành nghề và vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quản lý
hành nghề khi thực hiện xã hội hóa, chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp cho các tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện.
Cùng với quan điểm phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về luật sư và hành
nghề luật sư để tạo điều kiện cho sự phát triển của luật sư ở Việt Nam, tác giả Phan
Trung Hoài trong Luận án tiến sỹ với chủ đề “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện
pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay” [56] nhấn mạnh quan điểm cơ bản cho
việc hoàn thiện pháp luật luật sư đó là phải tạo được một môi trường pháp lý rộng
rãi cho tổ chức và hoạt động luật sư phát triển, đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu tư
vấn pháp luật của nền kinh tế thị trường, phát huy dân chủ, bảo vệ công lý và công
bằng xã hội.
* Trong lĩnh vực công chứng: Tiếp sau lĩnh vực luật sư, xã hội hóa công
chứng là một trong những nội dung được quan tâm nghiên cứu trong tổng thể về
hoàn thiện pháp luật công chứng và được coi là một trong những định hướng, giải
pháp cho việc nâng cao chất lượng hoạt động công chứng. Kỷ yếu Hội thảo cấp Bộ
“Xã hội hóa hoạt động công chứng sau gần 5 năm triển khai Luật công chứng”[96]
bao gồm tập hợp các bài viết đánh giá pháp luật xã hội hóa công chứng theo Luật
công chứng cùng với thực tiễn triển khai tại một số địa phương. Hội thảo đề cập
những ưu điểm, hạn chế của pháp luật về xã hội hóa công chứng và khẳng định xã hội
hóa công chứng là chủ trương đúng đắn nhưng thể chế cho việc xã hội hóa hoạt động
công chứng trong Luật công chứng còn khá hạn chế. Để xã hội hóa đạt hiệu quả hơn,
Hội thảo đề nghị cần có nghiên cứu về mức độ xã hội hóa phù hợp tại từng vùng, miền
gắn với nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công chứng của các cơ sở công lập trên
quan điểm lưu ý cần tránh tình trạng biến tướng từ xã hội hóa thành tư nhân hóa.
Luận án thạc sỹ luật học “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay” [55]
của tác giả Nguyễn Phương Hoa đã nghiên cứu toàn diện về vấn đề xã hội hóa công
chứng, trong đó tác giả cũng khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa công
chứng là một giải pháp cho việc thực hiện xã hội hóa công chứng.
Trong bài viết“Yêu cầu và thách thức của xã hội hóa công chứng” [69], tác
giả Võ Đình Nho lưu ý công chứng là hoạt động vừa mang tính hành chính nhà
nước và vừa mang tính chất dịch vụ công nên việc xã hội hóa đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết nhưng đó là xu thế tất yếu. Nêu lên một đặc thù khác trong xã hội
hóa công chứng, Ths Nguyễn Hoàng Anh trong bài “Xã hội hóa hoạt động công
chứng - Từ ý tưởng đến thực tiễn”[2] đã khẳng định xã hội hóa công chứng là một
bước đi tiên phong trong xã hội hóa các lĩnh vực hoạt động tư pháp pháp - xưa nay
vẫn được coi như lãnh địa riêng của công quyền. Tác giả nhấn mạnh quan điểm
không thể quan niệm việc xã hội hóa hoạt động công chứng đơn giản như các lĩnh
vực giáo dục, y tế vì đây là việc ủy quyền của nhà nước. Từ đó, tác giả đưa ra các
kiến nghị không nên tồn tại hai mô hình công chứng nhà nước và công chứng tư,
hoàn thiện pháp luật cho phép thành lập văn phòng công chứng.
* Trong lĩnh vực giám định tư pháp:
PGS.TS Nguyễn Tất Viễn trong sách “Đổi mới tổ chức, hoạt động giám định
tư pháp”[87], chuyên đề Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư pháp trong
quá trình cải cách tư pháp trong sách Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt
Nam [88] và chuyên đề “Giám định tư pháp” trong sách Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền [28]. Các công trình này đã
nghiên cứu về quá trình phát triển của hoạt động GĐTP, tổ chức GĐTP trong một
số lĩnh vực của Việt Nam từ năm 1945; nghiên cứu một số vấn đề lý luận, những
bất cập của hoạt động GĐTP và bước đầu đưa ra những kiến nghị khắc phục, trong
đó có kiến nghị nội dung thực hiện xã hội hóa và xây dựng khuôn khổ pháp lý cho
việc xã hội hóa hoạt động GĐTP.
Trong bối cảnh đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động GĐTP, Đề tài khoa học cấp
Bộ về “Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” do TS Nguyễn Mạnh Đạt làm chủ nhiệm [97] hay Hội thảo khoa học cấp Bộ
về “Hoạt động giám định tư pháp ở Thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và khả năng
xã hội hóa” do tác giả Võ Như Hoa làm chủ nhiệm [22]… đã đề cập trực tiếp đến
vấn đề xã hội hóa trong lĩnh vực GĐTP phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng
Luật giám định tư pháp. Các đề tài này xác định quan điểm xã hội hóa hoạt động
giám định tư pháp là quá trình đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động GĐTP,
theo đó Nhà nước kết hợp việc tập trung đầu tư cho các tổ chức GĐTP ở các lĩnh
vực giám định có nhu cầu lớn và thường xuyên với việc huy động, thú hút các cá
nhân, tổ chức có đủ điều kiện tham gia theo quy định của pháp luật tham gia vào
hoạt động GĐTP ở các lĩnh vực không thành lập tổ chức GĐTP nhằm đáp ứng cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và đáp ứng nhu cầu xã hội trong điều kiện kinh tế
thị trường. Từ đó Đề tài đưa ra đề xuất thí điểm thực hiện xã hội hóa, thành lập các
công ty thực hiện giám định tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Có thể
nói, việc nghiên cứu xã hội hóa GĐTP được đề cập khá toàn diện trong các đề tài
này, trong đó có vấn đề về pháp luật. Các nghiên cứu có giá trị tham khảo, giúp cho
nghiên cứu sinh đưa ra các định hướng hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp.
* Trong lĩnh vực thi hành án dân sự:
Đề tài khoa học “Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [89] và Đề tài
khoa học cấp Bộ về “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”
cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [94] là những công trình nghiên
cứu của ngành Tư pháp về xã hội hóa hoạt động THADS thông qua việc hình thành
chế định thừa phát lại. Qua hai công trình này, tác giả nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc xã hội hóa hoạt động THADS và từ đó đề xuất về chế định thừa
phát là hình thức của xã hội tham gia vào hoạt động THADS. Một điểm lưu ý chung
là nói đến THADS là nói đến sự thực thi quyền lực tư pháp của Nhà nước nhưng
trong hoạt động THADS, có những hoạt động không cần phải sử dụng quyền lực tư
pháp và đây là địa hạt để xã hội hóa nhằm giảm bớt khối lượng công việc đang quá
tải của các cơ quan THADS. Đặc biệt, xã hội hóa hoạt động THADS sẽ thể hiện đậm
nét hơn tính dân chủ, nhân dân của Nhà nước, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế
thị trường với nguyên tắc coi trọng và đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Đề tài khoa học cấp Bộ về “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới
hoạt động thi hành án tại Việt Nam trong giai đoạn mới”[95] do TS Nguyễn Đình
Lộc làm chủ nhiệm đã đề cập đến giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực hiện xã hội
hóa hoạt động thi hành án, bao gồm THADS và hình sự. Nội dung xã hội hóa được
thực hiện bằng cách giao một số hoạt động nghiệp vụ có tính hành chính, kỹ thuật
cho tổ chức, công dân thực hiện việc thi hành án dưới sự quản lý của Nhà nước. Đó là
việc giám sát người bị án treo, cải tạo không giam giữ, quản chế, tống đạt các loại
giấy tờ, quyết định liên quan đến thi hành án, xác minh tài sản... Mức độ xã hội hóa
tùy thuộc vào tính chất của từng loại án. Trong trường hợp xã hội hóa hoạt động thi
hành án hình sự thì cần thiết kế mô hình hợp tác, cộng tác hiệu quả giữa nhà nước và
xã hội để bảo đảm mục đích của hình phạt có tính răn đe, phòng ngừa.
Sau khi Quốc hội thông qua thí điểm thực hiện chế định Thừa phát lại năm
2011, số Chuyên đề về Thừa phát lại [74] đã tập hợp một loạt các bài viết nghiên
cứu về lý luận và thực tiễn thực hiện chế định Thừa phát lại. Trong “Quan điểm
khoa học, chính trị - pháp lý về Thừa phát lại trong tiến trình cải cách tư pháp, cải
cách hành chính ở Việt Nam” [71], TS Dương Thanh Mai tổng hợp những kết quả
nghiên cứu khoa học và chính trị, pháp lý liên quan đến chế định Thừa phát lại. Bài
viết đề cập đến quan điểm coi THADS có bản chất là một hoạt động nghề nghiệp
mang tính pháp lý hành chính, có những đặc trưng của một loại dịch vụ công có thể
xã hội hóa, chuyển công việc THADS (toàn bộ hay từng phần) đang do cơ quan
THADS nhà nước trực tiếp thực hiện sang cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước
thực hiện. Cũng trong số chuyên đề này, Ths Lê Xuân Hồng đã nêu lên những kết
quả và hạn chế trong thực hiện thí điểm thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh
trong bài viết “Từ nhu cầu xã hội, đến chủ trương và kết quả bước đầu của việc
thực hiện thí điểm thừa phát lại”[58]. Khi đề cập đến pháp luật về thừa phát lại, tác
giả cho rằng hoạt động thừa phát lại được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật
thuộc nhiều lĩnh vực nhưng bản thân các quy định này lại chưa đầy đủ, không đồng
bộ và thiếu cụ thể. Luật thi hành án dân sự cũng như các luật tố tụng có liên quan
(như bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính...) chưa có quy định cụ thể gắn
với hoạt động của Thừa phát lại như bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, chi phí
tống đạt giấy tờ…và do đó đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật để tạo
cơ sở pháp lý thực hiện xã hội hóa hoạt động THADS.
* Đối với lĩnh vực trợ giúp pháp lý:
TGPL là loại hình dịch vụ công rất đặc thù trong lĩnh vực tư pháp với việc
cung cấp các dịch vụ cho đối tượng được TGPL không thu phí. Từ đặc thù này,
Luận án tiến sỹ luật học của Tác giả Tạ Thị Minh Lý về “Điều chỉnh pháp luật về
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” [66]… đã đưa ra quan điểm
về vai trò nòng cốt của Nhà nước trong TGPL cùng với việc khuyến khích sự tham
gia của các chủ thể trong hoạt động TGPL. Đây cũng là quan điểm của tác giả Lê
Thị Phương Hoa trong “Xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý, nhìn từ góc độ xã
hội hoá dịch vụ công” [54].
Cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội gắn với sư gia tăng khả
năng cung cấp dịch vụ TGPL cũng như yêu cầu ngày càng cao của các đối tượng
được TGPL, đặc biệt với sự thông qua Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai
đoạn 2015-2025 (ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 1/6/2016 của
Thủ tướng Chính phủ), vấn đề xã hội hóa TGPL lại thu hút sự quan tâm nghiên cứu
về cách thức, nội dung và phạm vi xã hội hóa. Tham khảo loạt bài viết trên Cổng
thông tin điện tử của Bộ Tư pháp về TGPL như “Bàn về vai trò nòng cốt của nhà
nước trong hoạt động Trợ giúp pháp lý của Việt Nam hiện nay” của Ths Đào Dư
Long [64], “Kết quả 10 năm xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực trợ
giúp pháp lý (2005-2015) và định hướng, nhu cầu hoàn thiện pháp luật giai đoạn
2016-2020” [82] và “Một số bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý trong so sánh kinh
nghiệm nước ngoài về trợ giúp pháp lý”[83] của Thanh Trịnh cho thấy bên cạnh
quan điểm tiếp tục khẳng định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước và vai trò nòng
cốt của Nhà nước trong hoạt động TGPL thì các tác giả cũng thấy cần thiết phải có
sự điều chỉnh về vai trò nòng cốt của Nhà nước cho phù hợp. Thay vì trực tiếp thực
hiện các hoạt động TGPL như hiện nay, Nhà nước có thể đóng vai trò cung cấp
nguồn lực, điều phối, quản lý nguồn lực để bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận và
chất lượng dịch vụ TGPL cung cấp cho người dân. Đồng thời, các tác giả cũng đề
cập đến định hướng hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng cường sự tham gia của
luật sư trong hoạt động TGPL và cơ chế để các Trợ giúp viên TGPL hiện nay có vị
thế, vai trò ngang bằng với các luật sư, qua đó bảo đảm cung cấp các dịch vụ TGPL
có chất lượng đến người dân.
* Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Liên quan đến chủ đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, một số nghiên cứu
cũng đã được thực hiện đối với các hoạt động BĐGTS, chứng thực, phổ biến, giáo
dục pháp luật…Đề tài khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài
sản nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam” do TS Võ Đình Toàn làm chủ nhiệm [25]. Đề tài đã đánh giá một cách toàn
diện, có hệ thống về pháp luật BĐGTS ở Việt Nam và đưa ra nhu cầu và định
hướng để hoàn thiện pháp luật BĐGTS ở Việt Nam nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN. Theo quan điểm của các tác giả thì hoạt động bán
BĐGTS lại bổ trợ rất thường xuyên cho hoạt động thi hành án và xử lý vi phạm
hành chính. Đề tài khẳng định quan điểm trong hoàn thiện pháp luật BĐGTS là vừa
phải bảo đảm sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước và vừa đồng thời phải xã hội
hóa mạnh mẽ hoạt động BĐGTS. Mặc dù vậy, do đặt vấn đề chung trong hoàn thiện
pháp luật BĐGTS nên Đề tài chưa đi sâu làm rõ các nội dung xã hội hóa hoạt động
bán đấu giá trên cơ sở quan điểm mang tính nguyên tắc trong hoàn thiện pháp luật
BĐGTS nêu trên.
Trong bài viết “Xây dựng Luật đấu giá tài sản đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp”, tác giả Đỗ Hoàng Yến đã nêu những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện
hành về BĐGTS và đưa ra một số định hướng xây dựng Luật đấu giá tài sản [102].
Theo đó, bên cạnh bổ sung các quy định để tạo cơ sở pháp lý và củng cố hoạt động
của các doanh nghiệp BĐGTS thì Luật cũng cần bao gồm các quy định về việc
chuyển đổi mô hình hoạt động của Trung tâm dịch vụ BĐGTS trực thuộc Sở Tư
pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm thực hiện chủ trương xã hội
hóa và góp phần chuyên nghiệp hóa hoạt động nghề nghiệp đấu giá tài sản.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.2.1. Tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài về hoàn thiện pháp luật về
xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung
Năm 1998, Ngân hàng Thế giới công bố sách về Báo cáo về tình hình phát
triển kinh tế thế giới năm 1997 [111]. Báo cáo nghiên cứu một cách toàn diện về vai
trò của Nhà nước trong thế giới mới theo các khía cạnh thực hiện quyền lực nhà
nước cũng như trách nhiệm cung cấp các dịch vụ cần thiết cho xã hội của nhiều
quốc gia trên thế giới. Một phần lớn của Báo cáo tập trung bàn về Nhà nước, Nhà
nước nên làm gì, làm thế nào và có thể làm thế nào để đạt được kết quả tốt hơn
trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Báo cáo đưa ra các khuyến nghị để
cải cách các nhà nước trên thế giới, tập trung vào các hoạt động của Nhà nước sao
cho tương ứng với khả năng của mình. Nhiều Nhà nước tìm cách làm quá nhiều
việc dù họ chỉ có ít nguồn lực và khả năng. Điều tốt hơn là nên tập trung sức vào
các hoạt động cốt lõi có tầm quan trọng then chốt đối với phát triển, tăng cường các
thiết chế công cộng và điều đó sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Các
thông tin trong báo cáo giúp nghiên cứu sinh xác định những vấn đề lý luận về cung
cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và nội dung hoàn thiện pháp luật liên quan
chuyển giao các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cho khu vực ngoài nhà nước
thực hiện và chính sách bảo đảm công bằng trong tiếp cận các dịch vụ công này
trong điều kiện xã hội hóa.
Tác giả Clause Henry trong bài viết Dịch vụ công và sự cạnh tranh trong
lĩnh vực dịch vụ công ở Liên minh Châu Âu đăng trên International Advances
Economic Research Journal số tháng 8/1997 đã khẳng định tiếp cận dịch vụ công
được coi là quyền cơ bản của tất cả người dân. Do đó, nhằm đáp ứng yêu cầu của
dân chúng, một số dịch vụ công được cung cấp trên cơ sở ba nguyên tắc cơ bản là
bảo đảm tính liên tục, tính bình đẳng và tính toàn cầu (tính có thể thay đổi ở mỗi quốc
gia). Tất cả các quốc gia trong Liên minh Châu Âu phải tôn trọng những nguyên tắc
này. Tuy nhiên, pháp luật của Liên minh Châu Âu cũng không thể bảo đảm sự hưởng
thụ các dịch vụ như nhau của công dân các quốc gia thành viên. Liên minh khuyến
khích các quốc gia thành viên tiến hành thương lượng để hoàn thiện pháp luật trên cơ
sở hòa hợp các dịch vụ với nhau để nâng cao quyền hưởng thụ dịch vụ của dân
chúng. Các quốc gia có thể kết hợp với nhau để cung cấp dịch vụ không biên giới đến
dân cư ở những khu vực tiếp giáp biên giới.
Các tác giả Martine Lombard - giáo sư trường Đại học Tổng hợp Pantheon
Assas Paris II và Gilles Dumont giáo sư trường Đại học Luật và Kinh tế Limoges
trong cuốn Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp [61] đã trình bày những kiến
thức cơ bản về dịch vụ công như khái niệm, các nguyên tắc, các yếu tố cấu thành,
mô hình cung cấp dịch vụ. Khái niệm dịch vụ công mà các tác giả đưa ra là sự kết
hợp giữa những yếu tố về mặt tổ chức thể hiện đây là những dịch vụ trực tiếp hoặc
gián tiếp do các cơ quan nhà nước thực hiện và những yếu tố nội dung thể hiện đây
là dịch vụ công bao giờ cũng nhằm phục vụ lợi ích chung”. Hai tác giả cũng nhấn
mạnh pháp luật về dịch vụ công vừa bao gồm các quy định của pháp luật hành
chính, vừa có các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, công
nghiệp. Đặc biệt các tác giả khẳng định có sự ảnh hưởng của pháp luật Liên minh
Châu Âu đến pháp luật của các quốc gia thành viên về dịch vụ công nhưng pháp
luật các quốc gia thành viên có những quy định độc lập về dịch vụ công phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của từng nước. Lý do là tại mỗi quốc gia tính chất, đặc
điểm, phạm vi các dịch vụ công khác nhau, cùng với truyền thống xây dựng và tổ
chức thực hiện pháp luật khác nhau nên pháp luật dịch vụ công của mỗi quốc gia
phản ánh những điểm riêng biệt đó. Các luận điểm này giúp cho nghiên cứu sinh về
phương pháp luận trong việc đề xuất các hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp gắn với điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị đặc thù của Việt Nam.
Trong một nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD),
chuyên đề “Quy định về dịch vụ công của các quốc gia OECD-Các vấn đề cần được
thảo luận” đã đề cập đến khung pháp luật về dịch vụ công của các nước OECD
[107], tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ hạ tầng công cộng như nước, kiểm
soát chất thải, giao thông công cộng… Theo đó, khung pháp luật cung cấp dịch vụ
công bao gồm các nhóm quy định gia nhập thị trường, kiểm soát giá cả, quản lý
chất lượng dịch vụ công được cung cấp. Mục đích hoàn thiện khung pháp luật là
bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ công một cách hiệu quả, tiết kiệm, an toàn và
đáp ứng đủ điều kiện trên nguyên tắc duy trì nguyên tắc cạnh tranh trong cung cấp
dịch vụ công. Nghiên cứu cũng nêu lên mô hình cơ quan quản lý dịch vụ công phải
bảo đảm được tính chuyên môn và độc lập trong quản lý. Mô hình bao gồm cơ quan
trung ương, cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ. Cơ quan trung ương sẽ có
trách nhiệm giám sát toàn bộ thị trường, giải quyết các vấn đề về giá cả và liên kết
giữa các doanh nghiệp chi phối. Các cơ quan cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ
sẽ kiểm soát việc cung cấp dịch vụ công, giải quyết các khiếu nại của khách hàng và hỗ
trợ cho điều phối quan hệ của các cộng đồng tại địa phương. Công trình đã gợi mở cho
nghiên cứu sinh những vấn đề liên quan đến định hướng hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Cũng trong phạm vi của OECD, năm 2011, Báo cáo nghiên cứu về dịch vụ
công với chủ đề “Cùng nhau thực hiện các dịch vụ công tốt hơn - hợp tác đối tác
với xã hội và công dân” đặt lại vấn đề cung cấp dịch vụ công truyền thống trong
môi trường kinh tế - xã hội mới [108]. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết thu hút sự tham
gia của các cá nhân và tổ chức xã hội với vai trò là một đối tác hợp tác với Chính
phủ trong thiết kế, sản xuất và cung cấp dịch vụ công, giúp nâng cao sự hài lòng của
người sử dụng và giảm giá thành. Báo cáo đề cập đến những thách thức, lưu ý trong
việc tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm thành công trong việc liên kết hợp tác cung cấp
dịch vụ công giữa Chính phủ với công dân và các tổ chức xã hội. Cách thức cung
cấp dịch vụ mới thách thức các giá trị và thực tiễn đang tồn tại có hệ thống trong lĩnh
vực công, do vậy, cần phải chuẩn bị tốt cho các nhân viên trong khu vực công thực
hiện vai trò một cách chuyên nghiệp hơn, mang tính tư vấn, hỗ trợ, định hướng gắn
với các chi phí cho việc đào tạo và thay đổi cơ chế quản lý. Công trình có giá trị tham
khảo đối với nghiên cứu sinh trong việc đề xuất hoàn thiện pháp luật về chuyển giao
cung ứng dịch vụ công gắn với các bảo đảm dành cho các cơ quan nhà nước trong
việc quản lý và thích nghi với điều kiện mới.
Năm 2015, cuốn sách về “Dịch vụ công trong pháp luật của Liên minh Châu
Âu” do tác giả Wolf Sauter [110] thực hiện đã được công bố. Trong nghiên cứu của
mình, tác giả đã cung cấp toàn diện các quy định của pháp luật Liên minh Châu Âu
(EU), bao gồm luật và các án lệ về dịch vụ công. Điểm đáng lưu ý đó là tác giả đã
đi sâu phân tích các khái niệm liên quan đến dịch vụ công, phân biệt dịch vụ công
với các khái niệm tương tự khác như dịch vụ công ích, dịch vụ công cộng, dịch vụ
công phổ quát, nghĩa vụ cung cấp dịch vụ công phổ quát, dịch vụ phúc lợi…Cùng
với việc phân tích các khái niệm, tác giả đã cung cấp các quy định của pháp luật EU
về dịch vụ công, đặt dịch vụ công trong mối quan hệ giữa quyền công dân, vấn đề
cạnh tranh và trợ cấp của nhà nước để làm rõ các khía cạnh của dịch vụ công. Đây
là cuốn sách có nhiều thông tin cung cấp cho nghiên cứu sinh trong việc xác định
bản chất của dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng như đưa ra các đề xuất hoàn
thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, tập trung vào nhóm quy định về
điều chỉnh các hoạt động xã hội hóa cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài về hoàn thiện pháp luật về xã
hội hóa đối với một số dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tƣ pháp
Tài liệu tham khảo về Thừa phát lại và Thi hành án được Nhà Pháp luật Việt
Pháp trích dịch từ cuốn “L’Huissier de Justice” do Hội đồng Thừa phát lại Pháp ấn
hành tháng 2/1994 tổng hợp giới thiệu về tổ chức và hoạt động thừa phát lại trong
THADS [68]. Thừa phát lại tại Pháp hành nghề tự do và có thể can thiệp vào quá
trình thi hành án nhân danh Nhà nước, theo sự ủy nhiệm của cơ quan quyền lực
công. Thừa phát lại do Chưởng ấn, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Thừa phát lại
hoàn toàn độc lập với chính quyền về mặt thi hành án nhằm bảo đảm tính hiệu quả,
chịu trách nhiệm trước tòa án về những sai phạm chuyên môn và chịu trách nhiệm
trước các tổ chức chuyên môn của nghề hoặc trước Viện trưởng Viện Công tố bên
cạnh Tòa sơ thẩm quyền rộng về những sai phạm kỷ luật của mình. Thừa phát lại
quản lý hoạt động của mình giống như một chủ doanh nghiệp, có nhân viên riêng,
có thiết bị văn phòng riêng, sử dụng các thiết bị tin học thông tin tiên tiến. Thông
tin này có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh khi xác định xu hướng
XHHDVC đối với từng hoạt động cụ thể trong lĩnh vực tư pháp.
Theo bảng phân loại các lĩnh vực dịch vụ của WTO, “dịch vụ pháp lý” là một
phân ngành “dịch vụ nghề nghiệp” (Professional Services) thuộc lĩnh vực “dịch vụ
kinh doanh” (Bussiness Services). Theo Danh mục phân loại tạm thời các lĩnh vực
dịch vụ (PCPC) của Liên Hợp quốc kèm theo mã số cho từng lĩnh vực và phân
ngành dịch vụ cụ thể thì dịch vụ pháp lý có mã số 861 và được phân chia thành
nhiều tiểu phân ngành như: (a) dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan đến pháp luật
hình sự (PCPC 86111); (b) dịch vụ tư vấn và đại diện trong tố tụng tư pháp liên
quan đến các lĩnh vực khác của pháp luật (PCPC 86119); (c) dịch vụ tư vấn và đại
diện trong các thủ tục hành chính, trọng tài (PCPC 86120); (d) dịch vụ lập và xác
nhận các giấy tờ pháp lý (PCPC 86130) và (e) các dịch vụ pháp lý khác (PCPC
8619)…[109].
Trong bài “Dịch vụ công và phạm vi của Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ” [107], tác giả Markus Kajewski đã cung cấp khá toàn diện về quan điểm
của GATS về khái niệm, phạm vi dịch vụ công. Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới. Theo GATS,
khái niệm dịch vụ pháp lý theo nghĩa rộng bao gồm dịch vụ tư vấn pháp luật
(Advisory Services), dịch vụ đại diện (Representation Services) và tất cả các hoạt
động liên quan đến tư pháp như xét xử, công tố, bào chữa công… Tuy nhiên, GATS
sử dụng khái niệm các dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Chính phủ, tức là các dịch vụ được cung cấp không dựa trên cơ sở
thương mại cũng như trong sự cạnh tranh với các nhà cung cấp các dịch vụ khác.
Việc sử dụng khái niệm dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Chính phủ có sự tương đồng nhất định với quan niệm về dịch vụ
công. Tác giả Markus Kajewski cho rằng quy định như vậy là rất mơ hồ và việc áp
dụng phụ thuộc nhiều vào điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia thành viên.
Trong quá trình đưa ra các luận điểm làm rõ phạm vi về các dịch vụ, tác giả cũng đề
cập đến dịch vụ pháp lý. Tác giả nêu ra quan điểm của Ban Thư ký WTO cho rằng
các dịch vụ hành chính pháp lý như thẩm phán, nhân viên toà án, công tố viên, luật
sư của nhà nước… được loại trừ khỏi phạm vi điều chỉnh của GATS vì nhiều quốc
gia coi đây là các dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện quyền lực của nhà
nước. Tuy nhiên, khi xem xét đến các dịch vụ hành chính tư pháp khác như công
chứng - chứng thực thì Ban Thư ký WTO lại cho rằng không giống với thẩm phán,
thư ký tòa án, công tố viên là các công chức nhà nước thì công chứng viên thường
cung cấp dịch vụ của họ trong điều kiện thương mại và vì vậy công chứng thuộc
phạm vi điều chỉnh của GATS. Nghiên cứu đã giúp đưa ra những quan điểm của
GATS về thương mại dịch vụ, trong đó có các vấn đề dịch vụ công - khái niệm gắn
với dịch vụ để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ. Đặc biệt, bước đầu tác giả
cũng đã có sự phân định về bản chất của các dịch vụ công trong lĩnh vực pháp luật.
Bài viết đã cung cấp cho nghiên cứu những luận cứ trong việc xác định phạm vi và
bản chất của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.3.1.1. Về kết quả nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu cho thấy cách tiếp cận pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện theo nhiều góc độ và phạm vi
khác nhau, bao gồm các nghiên cứu chuyên sâu, sách, bài viết, luận án, luận văn, đề
tài khoa học. Sự phong phú của các công trình nghiên cứu cho thấy yêu cầu của việc
nghiên cứu, làm rõ các nội dung cũng như định hướng hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tham khảo một số công trình nghiên cứu trong
nước nêu trên có thể đưa ra một số nhận xét cơ bản sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được
thực hiện và đẩy mạnh thực hiện kể từ sau năm 2002 theo yêu cầu nhiệm vụ chiến
lược cải cách tư pháp của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW.
Các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ định hướng thực hiện xã hội hóa đối với
nhiều dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tư pháp trong quá trình hoàn thiện pháp luật
đối với từng lĩnh vực. Những kết quả trong từng lĩnh vực cụ thể giúp cho việc khái
quát và xây dựng những vấn đề cơ bản về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Thứ hai, nhóm các nghiên cứu liên quan đến pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp tuy chưa tập trung nghiên cứu vấn đề pháp luật nhưng đã đề cập
được nhiều khía cạnh xác định dịch vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp
cũng như định hướng tiếp tục thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Những
kết quả nghiên cứu thu được có ý nghĩa tạo ra sự thống nhất nhận thức về dịch vụ
công cũng như xác định định hướng XHHDVC trên nguyên tắc vừa đẩy mạnh
XHHDVC, vừa gắn với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ
công. Đây là những nội dung có giá trị tham khảo gợi mở cho nghiên cứu sinh khi
đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong
luận án của mình.
Thứ ba, nhóm các nghiên cứu pháp luật về xã hội hóa đối với một số dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp đã được thực hiện có hệ thống, đề cập một cách toàn
diện về việc thực hiện xã hội hóa dịch vụ công đó, bao gồm yêu cầu hoàn thiện
pháp luật. Tuy được thực hiện trong từng lĩnh vực cụ thể, nhưng những kết quả
nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng giúp cho nghiên cứu sinh trong việc khái quát
hóa các quan điểm, định hướng hoàn thiện pháp luật và đề xuất nội dung pháp luật
cần tiếp tục được hoàn thiện cho từng lĩnh vực cụ thể.
1.3.1.2.Về kết quả nghiên cứu của nước ngoài
Trên thế giới, các nghiên cứu về dịch vụ công, pháp luật về dịch vụ công và
XHHDVC cũng đã được thực hiện. Đánh giá chung cho thấy có những khó khăn
nhất định trong việc tìm hiểu, tiếp cận các thông tin trực tiếp liên quan đến xã hội
hóa một lĩnh vực hay công việc do XHHDVC là khái niệm mang tính chất khá đặc
thù của Việt Nam nhưng qua các kết quả nghiên cứu cũng thu thập được các thông
tin có giá trị tham khảo cơ bản như sau:
Một là, dịch vụ công là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong các
nghiên cứu của nước ngoài nhưng cách hiểu, đặc biệt là việc xác định các dịch vụ
công cụ thể lại rất khác nhau trong các trường hợp khác nhau. Nhìn chung, quan
điểm về dịch vụ công là một khái niệm phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế - xã
hội của các quốc gia, trong đó có trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm dịch
vụ công là một khái niệm mở và do vậy đang được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện
trong bối cảnh mới.
Hai là, cách tiếp cận với thuật ngữ “xã hội hóa” [socialization] trên thế giới
có sự khác biệt nhất định với quan niệm phổ biến về XHHDVC ở Việt Nam. Trong
thế giới hiện đại, vai trò của Nhà nước đang có sự thay đổi và đang đứng trước
những yêu cầu, thách thức mới. Việc thay đổi này có liên hệ mật thiết với vấn đề
dịch vụ công với ý nghĩa là những trách nhiệm xã hội của Nhà nước. Đây là lý do
khi các nghiên cứu hướng đến những biện pháp, cách thức để có thể giúp cho Nhà
nước vượt qua những yêu cầu, thách thức mới, hoàn thành trách nhiệm của mình
với xã hội. Các nghiên cứu được thực hiện trên nhiều khía cạnh, nhiều định hướng,
trong đó có sự tăng cường hợp tác giữa Nhà nước với công dân và xã hội. Mặc dù
không sử dụng thuật ngữ “xã hội hóa dịch vụ công” nhưng việc chuyển giao nói
trên có sự tương đồng với khái niệm XHHDVC đang được thực hiện ở Việt Nam từ
khía cạnh về sự tham gia của Nhà nước và xã hội trong cung cấp dịch vụ công. Điều
này cho thấy việc thực hiện XHHDVC như ở Việt Nam phù hợp với xu hướng của
thế giới và phát triển trong một xã hội hiện đại.
Ba là, pháp luật về xã hội hóa các hoạt động cụ thể trong lĩnh vực tư pháp ở
các nước khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật,
trong đó có phụ thuộc vào trường phái pháp luật của mỗi nước. Vì vậy, cách giải
quyết vấn đề pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở các nước cũng có
những sự khác biệt nhất định so với Việt Nam.
Từ những công trình nghiên cứu trong nước và thế giới đã được tham khảo
có thể rút ra một số nhận xét phục vụ cho việc đánh giá tình hình nghiên cứu có liên
quan tới đề tài như sau:
Trên cả bình diện quốc tế và Việt Nam, chưa có công trình khoa học nào đi
sâu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp. Các công trình nghiên cứu được thực hiện theo hai hướng chính, bao gồm
nghiên cứu chung về XHHDVC ở phạm vi rộng, liên quan đến những vấn đề lý
luận chung về nhà nước, pháp luật, vai trò của nhà nước và sự chuyển giao công
việc của nhà nước cho xã hội ở các nghiên cứu, các sách, đề tài, luận án, luận văn,
giáo trình, tài liệu bồi dưỡng; hoặc nghiên cứu ở phạm vi hẹp về các vấn đề cụ thể
liên quan tới xã hội hóa đối với từng loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong
các bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học, báo cáo, tham luận, luận văn.
Tuy nhiên, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong thời gian qua được
nghiên cứu phục vụ cho các yêu cầu xây dựng pháp luật hay QLNN, cải cách tư
pháp nói chung mà ít được quan tâm tiếp cận dưới góc độ cụ thể về dịch vụ công và
XHHDVC. Các nghiên cứu tập trung vào từng lĩnh vực mà chưa có các nghiên cứu
tổng thể, khái quát để chỉ ra những đặc điểm chung từ đó có định hướng cho việc
hoàn thiện pháp luật mang tính dài hạn, chiến lược, được xem xét trong tổng thể
chung về vai trò của Nhà nước và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Nhiều vấn đề
lý luận cơ bản cũng như thực trạng pháp luật chưa được nghiên cứu một cách khách
quan, toàn diện gắn với điều kiện, bối cảnh cụ thể ở Việt Nam nên chưa xác định
được những định hướng chung cho việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp. Đặc biệt, ở cấp độ nghiên cứu luận án tiến sĩ, chưa có một công
trình nào nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Do đó, đây là vấn đề cần thiết được nghiên cứu, đặc biệt là để tiếp tục thực hiện có
hiệu quả chủ trương XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp,
đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đã thực hiện, trong
phạm vi nghiên cứu của mình, nghiên cứu sinh cần thiết phải tiếp tục làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp nói chung (không đi vào từng lĩnh vực cụ thể). Cụ thể như sau:
Về lý luận, luận án cần tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cho hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm:
- Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp.
- Xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật và các yếu
tố ảnh hướng đến việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam.
- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Về thực tiễn, luận án cần phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm:
- Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp.
- Đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế
của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
- Xác định các quan điểm và giải pháp, nội dung hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay phù hợp với định hướng của
Đảng và Nhà nước XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo yêu cầu cải cách hành
chính, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận án đã được nghiên cứu, khảo sát
trên hai phương diện, bao gồm những công trình nghiên cứu ở Việt Nam và một số
công trình nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến đề tài.
Đánh giá chung cho thấy ở trong nước, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp là vấn đề mới nhưng đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ
từ luận văn, luận án tiến sỹ đến các chuyên đề, bài báo... Mặc dù vậy, các kết quả
nghiên cứu mới chỉ dừng ở những vấn đề cơ bản hoặc tập trung vào những khía
cạnh, từng lĩnh vực hoạt động tư pháp cụ thể mà chưa có nghiên cứu chung về vấn
đề này làm cơ sở, định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật cũng như đánh giá mức
độ hoàn thiện của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Trên phương diện
quốc tế, vấn đề XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được đề
cập đến trong bối cảnh chuyển giao, huy động xã hội vào việc thực hiện dịch vụ
công gắn với vai trò, trách nhiệm xã hội của Nhà nước. Kết quả nghiên cứu pháp
luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên thế giới cho thấy có những quan điểm,
cách thức khác nhau trong việc xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và
phạm vi, cách thức xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp cũng có những điểm khác biệt, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, lịch
sử cụ thể của từng quốc gia.
2. Các kết quả nghiên cứu có giá trị tham khảo quan trọng để xác định nội dung
nghiên cứu, đánh giá thực trạng và định hướng kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong Luận án.
3. Dựa trên kết quả khảo sát các công trình nghiên cứu, tác giả đã xác định
những vấn đề về lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu nhằm đề xuất quan điểm
định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung xã hội hóa dịch vụ công trong
lĩnh vực tƣ pháp
2.1.1.1. Khái quát chung về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Có những quan niệm khác nhau về dịch vụ công nhưng khái quát chung thì
dịch vụ công được hiểu là những dịch vụ gắn với lợi ích chung, thiết yếu của đa số
nhân dân hay dịch vụ công gắn với trách nhiệm của Nhà nước đối với dân chúng [12,
tr.154]. Dịch vụ công ra đời và tồn tại xuất phát từ chức năng phục vụ của Nhà nước,
phù hợp với sự vận động của xã hội và nhu cầu thực tiễn về dịch vụ công trong xã hội
[72, tr.65]. Ví dụ hệ thống y tế công ở Anh phát triển rất mạnh nhưng trong khi đó ở
Mỹ thì dịch vụ này phần lớn lại được cung cấp bởi khu vực tư [106, tr.4]. Trong phạm
vi Khối cộng đồng chung Châu Âu (EU), dịch vụ công thường được dùng với ý nghĩa
dịch vụ được cung cấp cho công dân hay vì lợi ích chung theo những tiêu chuẩn và quy
định chung của Nhà nước và bởi các thiết chế thuộc sở hữu công. Dịch vụ công có thể
được hiểu bao gồm các dịch vụ công cộng như năng lượng, giao thông hay các dịch vụ
phúc lợi như y tế, giáo dục, hưu trí...[110, tr.2]. Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
trong khuôn khổ của Hiệp định chung về dịch vụ (GATS) sử dụng khái niệm về dịch
vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện trách nhiệm của Chính phủ, tức là các dịch
vụ được cung cấp không dựa trên cơ sở thương mại cũng như trong sự cạnh tranh với
các nhà cung cấp dịch vụ khác [104, tr.6]. Khái niệm dịch vụ được cung cấp trong
phạm vi thực hiện trách nhiệm của Chính phủ có sự tương đồng nhất định với quan
niệm về dịch vụ công.
Có thể thấy, việc xác định dịch vụ công phụ thuộc vào mỗi quốc gia và mỗi
giai đoạn khác nhau. Phạm vi dịch vụ công có thể rất rộng, bao gồm tất cả các hoạt
động nhằm thực hiện chức năng vốn có của Chính phủ. Theo phạm vi hẹp hơn, dịch
vụ công bao gồm những hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ nhu cầu của nhân dân
mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khái
niệm dịch vụ công thường được hiểu theo nghĩa hẹp, xuất phát từ nhu cầu tách biệt
giữa chức năng quản lý và chức năng phục vụ của Nhà nước, cũng như xu hướng ngày
càng chú trọng đến vai trò xã hội của Nhà nước trong việc bảo đảm các lợi ích thiết yếu
của xã hội, các quyền, nghĩa vụ cơ bản của tổ chức và công dân [12, tr.155-156].
Với nhận thức và cách xác định phạm vi dịch vụ công khác nhau thì các loại
hình dịch vụ công được tổ chức thực hiện trên thực tế khá đa dạng. Dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp là một loại hình dịch vụ công được xác định trên cơ sở phân
loại theo hình thức, nội dung dịch vụ cụ thể.
Tiếng Anh sử dụng cụm từ “justice” để chỉ tư pháp, công lý, là một trong ba
nhánh quyền lực để tổ chức và duy trì trật tự xã hội, xuất phát từ lý thuyết về sự phân
chia quyền lực, được khởi xướng bởi các nhà triết học xưa, phát triển qua thời kỳ La
Mã cổ đại và được Montesquieu phát triển toàn diện thành học thuyết tam quyền
phân lập thể hiện trong tác phẩm Tinh thần pháp luật [45]. Quyền tư pháp theo quan
niệm của Montesquieu là quyền trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp cá nhân hay
nói cách khác quyền tư pháp chính là quyền xét xử tranh chấp giữa các chủ thể pháp
lý trong xã hội. Thông qua việc thực hiện quyền tư pháp, pháp luật được áp dụng, tôn
trọng và chấp hành bởi các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Theo định nghĩa của cuốn
từ điển nổi tiếng thế giới (Black’s Law Dictionary), quyền tư pháp (judicial power) là
“thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ
việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền
giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có
phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy”[26, tr.2].
Ở Việt Nam, “tư pháp” được tiếp cận theo những quan điểm khác nhau về
phạm vi. Tư pháp có thể được hiểu là một lĩnh vực quyền lực nhà nước được thực
hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các
hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa
các chủ thể [35, tr.11], qua đó, bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân và trật tự
an toàn xã hội. Quan điểm về tư pháp này của các nhà nghiên cứu Việt Nam có sự
tương đồng với các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tư pháp gắn với quyền tư pháp hay
là quyền xét xử [72, tr.21].
Tư pháp cũng có thể được hiểu ở phạm vi rộng hơn là hoạt động bảo vệ pháp
luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm. Hoạt động tư pháp không chỉ
là các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án mà còn là các hoạt động luật sư,
công chứng, giám định, đấu giá, thống kê tư pháp. Tương ứng với đó, các cơ quan tư
pháp bao gồm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi
hành án dân sự, đồng thời còn bao gồm các cơ quan tư pháp trong hệ thống hành
pháp, cụ thể là Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và ở cấp xã đó là các công
chức Tư pháp - Hộ tịch [45]. Cách tiếp cận tư pháp phạm vi rộng này được thể hiện
trong các Nghị quyết về cải cách tư pháp và thông qua cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước cùng với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới đã tiếp cận “tư pháp” và “công tác tư pháp” với phạm vi từ điều
tra, truy tố, xét xử đến thi hành án (bao gồm cả thi hành án hình sự và dân sự). Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 tiếp tục chỉ ra hệ thống cơ quan tư pháp với trọng tâm là Tòa án nhân
dân thực hiện quyền xét xử. Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp; các cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong tố tụng
hình sự và các cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài những hoạt động tư pháp nói trên,
Nghị quyết số 08-NQ/TW đề cập đến hoạt động luật sư, cảnh sát tư pháp, công
chứng, giám định, thống kê tư pháp với tư cách là các hoạt động bổ trợ tư pháp. Nghị
quyết số 49-NQ/TW xác định nhiệm vụ hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp như
một hoạt động quan trọng trong công tác tư pháp và hoàn thiện các chế định bổ trợ tư
pháp là một khâu quan trọng trong cải cách tư pháp. So với Nghị quyết số 08-
NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW bổ sung thêm hoạt động thừa phát lại cũng là một
trong những chế định trong thực hiện xã hội hóa. Như vậy, mặc dù có những quan
niệm, phạm vi tiếp cận khác nhau nhưng xuất phát từ quan điểm, định hướng và thực
tiễn thực hiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay thì tư pháp không chỉ bao gồm
hoạt động xét xử mà còn bao gồm các hoạt động hỗ trợ cho xét xử nhằm tổ chức thực
hiện và bảo vệ pháp luật, duy trì công lý, lẽ phải, công bằng trong xã hội.
Cũng như các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, lĩnh vực tư pháp cũng bao
gồm dịch vụ công phục vụ cho nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân, gắn với trách
nhiệm của Nhà nước trước công dân, vì lợi ích chung của xã hội. Những hoạt động
này không trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước - quyền tư pháp, do vậy có thể do
các cơ quan Nhà nước thực hiện hoặc ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội
thực hiện theo các nguyên tắc, tiêu chuẩn được pháp luật quy định nhằm mục đích
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân trong sử dụng dịch vụ để bảo vệ quyền và lợi
ích của mình. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng mang đặc điểm cơ bản của
dịch vụ công nói chung như tính chất xã hội, việc cung ứng dịch vụ công không
thông qua quan hệ thị trường đầy đủ, Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội, bảo
đảm tính công bằng, hiệu quả trong cung cấp dịch vụ công... Đồng thời, dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp cũng có những đặc điểm riêng gắn với hoạt động xét xử, thực
hiện và bảo vệ pháp luật. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các dịch vụ phục vụ các nhu
cầu cơ bản, thiết yếu của người dân mà các nhu cầu, cơ bản thiết yếu này là cơ sở cho
việc bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Thông qua
việc sử dụng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, người dân có thể bảo vệ được
lợi ích của mình bằng các cơ chế phòng ngừa hoặc đưa ra yêu cầu để các cơ quan
Nhà nước thực hiện nghĩa vụ nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân được thực hiện trên thực tế.
Thứ hai, lợi ích chung của xã hội mà dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
hướng đến là bảo vệ pháp luật, duy trì công bằng, công lý, lẽ phải trong xã hội.
Quyền tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực cơ bản (quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp) cấu thành nên quyền lực nhà nước. Chức năng của quyền tư pháp là bảo
vệ pháp luật với phương thức đặc thù thực hiện chức năng này tài phán cùng với các
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ khác phục vụ
cho hoạt động xét xử [26, tr.3]. Các hoạt động này hướng đến nhu cầu của người dân
trong thực hiện pháp luật, bảo vệ cũng như phòng ngừa các vi phạm có thể ảnh hưởng
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc mỗi người dân bảo vệ được quyền và lợi
ích chính đáng của mình không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân đó, mà còn tạo được
niềm tin chung của cộng đồng vào công lý, công bằng, tạo nên ý thức và hành động
ứng xử theo quy định của pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực thi trên thực tế.
Thứ ba, chủ thể thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các cơ quan tư
pháp được tiếp cận theo phạm vi rộng, không chỉ trực tiếp là tòa án, viện kiểm sát, cơ
quan, tổ chức thuộc hệ thống hành pháp (như cơ quan điều tra, thi hành án của ngành
công an; cơ quan thi hành án, cơ quan tư pháp của ngành tư pháp) mà còn bao gồm các
tổ chức nghề nghiệp nằm ngoài quyền lực nhà nước được Nhà nước ủy quyền hoặc cho
phép thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp như các tổ chức hành nghề của
luật sư, công chứng viên, giám định tư pháp, thừa phát lại. Nghị quyết số 49-NQ/TW
gọi đây là các thiết chế bổ trợ tư pháp. Các thiết chế bổ trợ tư pháp này có thể được vận
hành bởi các tổ chức, cá nhân khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật đặt ra.
Thứ tư, việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp không chỉ phải
tuân thủ các quy trình, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành mà còn phải
bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc, quy định tố tụng, thực hiện quyền tư pháp. Dịch
vụ công bắt nguồn từ chức năng phục vụ của Nhà nước, gắn với trách nhiệm của Nhà
nước nên việc cung ứng các dịch vụ công dù do chủ thể nào thực hiện thì cần phải
bảo đảm chất lượng theo những tiêu chuẩn nhất định với các quy trình, cách thức, tiêu
chí thực hiện dịch vụ công [74, tr.22]. Các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được
thực hiện gắn với quyền tư pháp mà trung tâm là hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết
của Tòa án. Quy trình ra phán quyết của tòa án khá đặc biệt so với các quá trình ra
quyết định của các cơ quan lập pháp hoặc các cơ quan hành pháp. Trong quá trình tố
tụng tư pháp, chất lượng quyết định của các tòa án không chỉ phụ thuộc vào năng lực
chuyên môn của người ra quyết định (thẩm phán, hội thẩm) mà còn phụ thuộc vào
chất lượng thông tin và năng lực của các bên tham gia tố tụng với các chức năng tố
tụng khác nhau có các quyền và nghĩa vụ khác nhau, thậm chí là đối ngược nhau. Nói
cách khác, các bên tham gia không chỉ là đối tượng bị áp đặt bởi các quyết định của
Tòa án mà bản thân họ cũng là những người tham gia vào quá trình ra quyết định của
tòa án, thông qua việc cung cấp, kiểm tra chéo các thông tin, chứng cứ về tình tiết đã
được mỗi bên thu thập được và trình bày, tranh luận tại phiên tòa về quan điểm áp
dụng các quy định pháp luật trong giải quyết các vụ việc nhằm bảo đảm đây thực sự
là quá trình tìm kiếm chân lý, đạt được công lý khi Tòa án ra phán quyết.
2.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Xã hội hóa là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong giai đoạn hiện nay
ở Việt Nam gắn với quá trình cải cách hành chính, đổi mới phương thức QLNN và
trực tiếp là đổi mới và nâng cao chất lượng dịch vụ công. Tuy nhiên, xung quanh khái
niệm xã hội hóa cũng có những cách tiếp cận khác nhau. Dưới góc độ ngôn ngữ học,
trong Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (1967) định nghĩa xã hội hóa là “đem
tư liệu sản xuất của cá nhân làm của chung xã hội” như xã hội hóa các phương tiện
giao thông vận tải. Gần đây hơn, Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (2005)
định nghĩa xã hội hóa là “làm cho trở thành của chung của xã hội” như xã hội hóa tư
liệu sản xuất.
Dưới góc nhìn xã hội học, xã hội hóa gắn với cá nhân con người trong mối
quan hệ tương tác với xã hội trong quá trình hình thành và phát triển mỗi cá nhân.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, xã hội hóa được định nghĩa là một quá trình
tương tác xã hội kéo dài suốt đời, qua đó, cá nhân phát triển khả năng con người và
học hỏi các mẫu văn hóa của mình. Đó chính là quá trình con người liên tục tiếp thu
văn hóa vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như một thành viên. Nhà xã hội
học Mỹ Meil Smelser quan niệm xã hội hóa là quá trình, mà trong đó cá nhân học
cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình để phục vụ tốt cho việc thực
hiện các mô hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trò mà cá nhân phải đóng trong
cuộc đời của mình. Nhà nghiên cứu Ficher lại quan niệm: “xã hội hóa là một quá
trình tương tác giữa người này và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những
khuôn mẫu hành động và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó”. Khác với
hai nhà nghiên cứu trên, nhà xã hội học người Nga G.Andrecva đã chỉ ra được cả hai
mặt của quá trình xã hội hóa: cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm
nhập vào xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội và cá nhân tái sản xuất một cách
chủ động bằng các mối quan hệ thông qua việc họ tham gia vào các hoạt động và
thâm nhập vào xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội. Theo cách tiếp cận này, xã
hội hóa bao gồm hai mặt, mặt thứ nhất xã hội truyền bá văn hóa của mình từ thế này
sang thế hệ khác, làm cho cá nhân thích ứng với những nếp sống, sinh hoạt được xã
hội chấp nhận; mặt thứ hai là quá trình diễn ra sự thích ứng của cá nhân với những
con người xung quanh [86, tr.58-59]. Khái niệm xã hội hóa, theo quan điểm Mác -
Lênin, nói lên sự chuyển hóa từ tính chất cá nhân thành tính chất xã hội; dùng chữ
“hóa” là muốn nói đến sự chuyển hóa từ cái này sang cái kia”; đó là quá trình “xã hội
hóa cá nhân và cá nhân hóa xã hội” [36].
Ở Việt Nam, trong bối cảnh thực hiện cải cách hành chính, đổi mới phương
thức hoạt động của Nhà nước thì xã hội hóa được sử dụng để gắn với các công việc
của Nhà nước về cung ứng các dịch vụ công. Xã hội hóa được hiểu là “quá trình
chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh
vực hoạt động kinh tế xã hội, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước” [9, tr.106]. Một số quan điểm được nêu ra như: xã hội hóa là
việc tăng nguồn lực đầu tư của Nhà nước để phát triển các lĩnh vực xã hội hóa và
thực hiện các mục tiêu xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa - coi đây là một biện
pháp rất cơ bản nhằm huy động mọi nguồn lực, trí tuệ của các thành phần kinh tế, của
các tổ chức xã hội, của mọi người [36]. Điểm chung của các quan điểm nói trên đó là
coi xã hội hóa là việc huy động khu vực ngoài Nhà nước thực hiện những công việc
do Nhà nước thực hiện hoặc theo quan niệm là phải do Nhà nước thực hiện.
Quan điểm này có sự tương đồng với quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu trên
thế giới ở khía cạnh của “sự chuyển giao” trong vai trò của Nhà nước hiện đại và người
dân tham gia vào các công việc của Nhà nước dù không trực tiếp sử dụng thuật ngữ “xã
hội hóa”. Thế giới ngày nay đang có sự thay đổi mạnh mẽ và đặt ra những thách thức,
đòi hỏi Nhà nước phải hoạt động hiệu quả hơn trong khi có giới hạn về nguồn lực đảm
bảo và yêu cầu của người dân ngày càng đa dạng, phong phú hơn hơn. Trong bối cảnh
đó, Nhà nước cần tập trung vào các hoạt động phù hợp với khả năng, tức là các hoạt
động công cộng cốt lõi, có tầm quan trọng then chốt đối với phát triển và đồng thời
củng cố các thiết chế công cộng, thu hút sự tham gia của họ để tạo ra sự cạnh tranh
nhiều hơn trong việc cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cộng [111, tr.2]. Ở một khía
cạnh khác, việc chuyển giao, thu hút sự tham gia của các thiết chế công cộng còn được
xem như là một hoạt động hợp tác giữa Nhà nước với công dân, trong đó công dân trở
thành một đối tác của Nhà nước trong thiết kế, sản xuất và cung cấp dịch vụ công, giúp
nâng cao sự hài lòng của người sử dụng và giảm giá thành [108, tr.11].
Những quan điểm trên đây cho thấy xã hội hóa là quá trình huy động sự tham gia
của toàn xã hội để cùng với Nhà nước thực hiện và thúc đẩy sự phát triển một lĩnh vực
nhất định, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân, vì lợi ích chung của xã hội. Nội dung
khái niệm xã hội hóa được nhấn mạnh ở những đặc điểm sau:
Thứ nhất, xã hội hóa là quá trình mở rộng sự tham gia và huy động toàn xã
hội trong việc chia sẻ trách nhiệm cùng với Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển
của một lĩnh vực xã hội nào đó mang tính chất xã hội rộng lớn.
Thứ hai, xã hội hóa là quá trình lâu dài, phức tạp, gắn với việc nhận diện, xác
định rõ ràng và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và của từng
chủ thể trong xã hội khi thực hiện các công việc mang tính chất xã hội rộng lớn.
Thứ ba, sự tham gia và huy động toàn xã hội được thực hiện theo những
phương thức, mô hình phong phú, đa dạng, phù hợp với năng lực, tạo sự chủ động và
bình đẳng của các chủ thể tham gia vào quá trình xã hội hóa.
Thứ tư, Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm trước xã hội về dịch vụ công.
Ngay cả khi Nhà nước chuyển giao dịch vụ cho tư nhân cung ứng thì Nhà nước vẫn
có trách nhiệm trong việc bảo đảm công bằng, chất lượng trong tiếp cận, thụ hưởng
các dịch vụ công.
Với nhận thức trên đây, có thể hiểu XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là quá
trình huy động các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp để cùng với Nhà nước nâng cao chất lượng và thúc đẩy sự phát triển
của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, qua đó góp phần vào việc bảo đảm và
thực hiện quyền, lợi ích chính đáng của công dân, bảo vệ pháp luật, duy trì công
bằng, công lý trong xã hội. Cùng với các đặc điểm của XHHDVC nói chung,
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có những nội dung đặc thù sau:
Thứ nhất, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là quá trình chuyển giao từng
bước và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ, nhận thức pháp luật của
người dân và các quan điểm chính trị pháp lý của mỗi nước trong từng thời kỳ. Sự
phụ thuộc này làm cho quá trình chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp thường là quá trình chuyển đổi dần dần, theo lộ trình từ thu hút sự tham
gia, đến việc hình thành cơ chế hỗn hợp giữa Nhà nước và xã hội trong cung cấp dịch
vụ công và xã hội hóa việc cung ứng hoàn toàn.
Thứ hai, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đề cao vai trò của Nhà nước trong
việc bảo đảm chất lượng và quyền bình đẳng trong tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ
công để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Việc bảo đảm chất lượng
cung ứng các dịch vụ công trong lĩnh vực pháp luật trong trường hợp này không chỉ
phục vụ cho nhu cầu của người dân, thực hiện nhiệm vụ của cơ quan nhà nước mà
còn góp phần quan trọng vào việc củng cố niềm tin, tình cảm, nâng cao ý thức pháp
luật của người dân. Hoạt động cung cấp dịch vụ công dù được tiến hành dưới hình
thức nào thì Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc bảo đảm
cung cấp dịch vụ công và chất lượng của các dịch vụ công được cung cấp thông qua
cơ chế kiểm tra, đánh giá, giám sát việc cung cấp dịch vụ công của các chức, cá nhân.
Thứ ba, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp gắn với yêu cầu cải cách tư pháp,
cải cách hành chính và chịu sự tác động, kiểm soát của các cơ quan lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phải bảo
đảm tuân thủ đầy đủ các quy trình, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ chuyên môn
nghiệp vụ (chuyên ngành) cũng như nguyên tắc, quy trình tố tụng, thực hiện quyền tư
pháp. Theo đó, các cơ quan lập pháp sẽ thực hiện quyền giám sát đối với các hoạt
động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, chịu sự tác động, kiểm soát của Tòa án, Viện
Kiểm sát với vai trò là các chủ thể của quá trình tố tụng theo quy định của pháp luật
tố tụng và đồng thời, được quản lý thực hiện theo các quy định về QLNN của các cơ
quan hành chính về dịch vụ công nói chung.
2.1.1.3. Nội dung xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Dịch vụ công ra đời từ yêu cầu của đông đảo dân chúng đối với Nhà nước nên
Nhà nước có trách nhiệm phải cung cấp các dịch vụ công theo những nguyên tắc
công bằng, ổn định. Khi Nhà nước không thể đáp ứng nhu cầu về dịch vụ công cùng
với nhu cầu của các tổ chức, cá nhân muốn tham gia thực hiện dịch vụ công thì lúc đó
mới xuất hiện nhu cầu chuyển giao trách nhiệm của Nhà nước cho các tổ chức, cá
nhân trong cung cấp dịch vụ công. Việc chuyển giao trách nhiệm của Nhà nước cho
các tổ chức, cá nhân trong cung cấp dịch vụ công có thể được thực hiện theo phương
thức chuyển giao toàn bộ hoặc một phần việc cung cấp dịch vụ công cho khu vực phi
Nhà nước hoặc huy động sự tham gia, đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho Nhà
nước để thực hiện việc cung ứng dịch vụ công. Vai trò chủ đạo của Nhà nước được
thực hiện thông qua việc tiếp tục tăng đầu tư từ ngân sách hay phát huy các khả năng
đầu tư, đóng góp kinh phí trong xã hội, hoàn thiện thể chế và đổi mới quản lý vĩ mô,
tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức
quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát hoạt động của các cơ
sở cung ứng dịch vụ công được xã hội hóa.
Trong lĩnh vực tư pháp, XHHDVC được thể hiện qua những nội dung sau:
Thứ nhất, chuyển đổi các cơ sở công lập cung ứng dịch vụ công đang hoạt
động theo cơ chế sự nghiệp sang cơ chế tự chủ. Các cơ sở này có quyền tự chủ về tổ
chức và quản lý; thực hiện đúng mục tiêu và nhiệm vụ, hạch toán đầy đủ chi phí, cân
đối thu - chi, thường xuyên nâng cao chất lượng dịch vụ, bảo đảm quyền lợi và cơ hội
tiếp cận bình đẳng của người thụ hưởng. Gắn liền với việc chuyển đổi là sự đổi mới
chế độ thu phí dịch vụ. Người thụ hưởng có quyền lựa chọn cơ sở cung ứng dịch vụ
phù hợp với từng lĩnh vực.
Thứ hai, chuyển các cơ sở công lập cung ứng dịch vụ công sang hình thức
doanh nghiệp do các chủ thể trong xã hội sở hữu (thông qua cổ phần hóa), hoạt động
theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc cơ chế lợi nhuận. Tài sản Nhà nước sẽ được chuyển
giao (giao, bán, hoặc cho thuê) cho các chủ thể ngoài Nhà nước. Quyết định chuyển
giao do các cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Thứ ba, khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập
với các loại hình dân lập, tư nhân và doanh nghiệp. Các cơ sở này có thể hoạt động
theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc cơ chế lợi nhuận. Theo cơ chế phi lợi nhuận thì ngoài
phần được dùng để bảo đảm lợi ích hợp lý của nhà đầu tư, phần để tham gia thực hiện
các chính sách của xã hội, trợ giúp người nghèo, còn lại phần lớn lợi nhuận được
dùng để đầu tư phát triển. Theo cơ chế lợi nhuận thì lợi nhuận có thể được chia cho
các cá nhân và phải chịu thuế.
Thứ tư, huy động mọi nguồn lực sẵn có trong xã hội để tổ chức thực hiện
cung ứng dịch vụ công đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Các tổ chức,
cá nhân có thể đóng góp các nguồn lực cho việc cung ứng các dịch vụ công hoặc trực
tiếp tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ công trên cơ sở yêu cầu của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, qua đó có thể chia sẻ, giảm bớt một phần chi phí khi cung
cấp các dịch vụ công.
2.1.2. Khái niệm pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được xây dựng trên cơ sở quan
niệm và cách xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Quan niệm và cách xác
định phạm vi dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở các nước khác nhau là khác nhau,
tùy thuộc vào từng thời kỳ và đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia, khu vực. Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) coi các hoạt động của tòa án, trại giam, nghiên
cứu về trật tự, an toàn công cộng là dịch vụ công [108, tr.106]. Trong khi đó, Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) coi các dịch vụ như thẩm phán, nhân viên tòa án, công
tố viên, luật sư của Nhà nước là các dịch vụ được thực hiện trong phạm vi trách
nhiệm của Nhà nước và do vậy nằm trong phạm vi loại trừ của các dịch vụ thương
mại chịu sự điều chỉnh của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Đối với
công chứng thì đây là dịch vụ thương mại vì được cung cấp trong điều kiện cạnh
tranh với các nhà cung cấp dịch vụ khác dù cho có những nơi công chứng viên là
nhân viên của Nhà nước [106, tr.7]. Ở Việt Nam, Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị
quyết số 48-NQ/TW đề cập đến việc xã hội hóa đối với các hoạt động THADS và các
hoạt động bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, GĐTP, TGPL, cảnh sát hỗ trợ tư
pháp, thừa phát lại.
Cùng với đó, do sự khác biệt về truyền thống, đặc điểm của hoạt động xây
dựng pháp luật ở các nước nên pháp luật về dịch vụ công nói chung và pháp luật về
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp tại các nước cũng có sự khác biệt. Tại hầu hết
các nước, pháp luật về dịch vụ công là hệ thống các quy định do các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhưng cách thức quy định về dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp cũng khác nhau. Ở một số nước Tòa án có thể ra phán quyết một dịch vụ
được coi là dịch vụ công, một doanh nghiệp, tổ chức cụ thể được công nhận là tổ chức
cung cấp dịch vụ công. Phán quyết của Tòa án là căn cứ pháp lý để các doanh nghiệp,
tổ chức có liên quan thực hiện pháp luật trong cung ứng dịch vụ công cũng như hưởng
các quyền, nghĩa vụ của một tổ chức cung cấp dịch vụ công [61, tr.452-454].
Ở Việt Nam, pháp luật về XHHDVC là vấn đề còn khá mới mẻ. Xuất phát từ
tính chất đa dạng của dịch vụ công mà pháp luật về XHHDVC không phải là một lĩnh
vực pháp luật biệt lập. Pháp luật về XHHDVC có mối quan hệ chặt chẽ với các quy
định về tổ chức bộ máy nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan và công
chức, viên chức nhà nước và với các quy định trong các lĩnh vực dân sự, hình sự,
thương mại, hành chính… Đối với các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật
về XHHDVC cũng bao gồm các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình Nhà nước thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Để bảo đảm quá
trình xã hội hóa được diễn ra thông suốt, hiệu quả thì các QPPL này có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau, bảo đảm tính hệ thống, thống nhất với nhau và với các quy định về
tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Với ý nghĩa đó, có thể hiểu pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là
tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất để điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được
thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành.
Về mặt nội dung, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm ba
nhóm quy định cơ bản như sau:
Một là nhóm các quy định về tổ chức và cung ứng dịch vụ công trong từng
lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong đó quy định về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp,
về các chủ thể được phép cung ứng hoặc tham gia cung ứng dịch vụ công theo các
quy trình, thủ tục, cách thức được pháp luật quy định.
Hai là nhóm các quy định về thực hiện XHHDVC, tức là các quy định chuyển
đổi việc cung cấp dịch vụ công từ Nhà nước cho xã hội thực hiện. Nhóm này bao
gồm các quy định về việc chuyển giao hay thu thút sự tham gia của các tổ chức, cá
nhân trong xã hội tham gia cung ứng dịch vụ công.
Ba là nhóm các quy định về quản lý nhà nước đối với việc XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp nhằm bảo đảm chất lượng các dịch vụ công được cung cấp và bảo
đảm trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công.
Với ba nhóm quy định cơ bản nói trên, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp tác động đến các chủ thể là các cơ quan, tổ chức của Nhà nước và các tổ
chức, cá nhân trong xã hội có đủ điều kiện và được phép cung ứng các dịch vụ công.
Đồng thời, các quy định này cũng tác động đến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
quản lý nhà nước đối với quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Về mặt hình thức, pháp luật về XHHDVC sẽ bao gồm các quy định nằm trong
các văn bản QPPL được ban hành trong các lĩnh vực khác nhau, với các hình thức
khác nhau theo thẩm quyền quy định trong Luật ban hành văn bản QPPL. Có nhiều
cách thể hiện khác nhau các quy định pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp nhưng phổ biến nhất hiện nay là các quy định pháp luật về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp sẽ được quy định trong nội dung các văn bản QPPL chuyên ngành như
Luật công chứng, Luật giám định tư pháp, Luật thi hành án dân sự, Luật hoặc các
Nghị định về BĐGTS, Nghị định quy định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại…
Bên cạnh các quy định trong các luật chuyên ngành về lĩnh vực tư pháp, pháp luật về
XHHDVC còn bao gồm các quy định chung quy định về nguyên tắc, cơ chế hoạt
động chung cho việc cung cấp các dịch vụ công nói chung, trong đó có quy định về
XHHDVC như Luật viên chức, Luật phí và lệ phí, Nghị định quy định về cơ chế tự
chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập,.... Do tính đa dạng, phong phú của các dịch vụ
công nói chung, trong đó có dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nên chưa có một văn
bản QPPL được coi là đạo luật chung, bao gồm các quy phạm cơ bản điều chỉnh quan
hệ XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng. Các QPPL về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp được thể hiện trong nhiều văn bản QPPL khác nhau và có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau, có tính thống nhất và phù hợp với thẩm quyền của cơ quan
ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC các
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
2.1.3. Đặc điểm của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp mang các đặc trưng của pháp luật
nói chung về tính quy phạm, tính phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, tính
bắt buộc chung và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Đồng thời, pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có các đặc điểm riêng sau:
2.1.3.1. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là tổng
thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình xã hội
hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nằm trong các văn bản quy phạm pháp
luật thuộc các lĩnh vực và có cấp độ hiệu lực khác nhau
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với ý nghĩa là quá trình chuyển giao hay
huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào việc cung ứng dịch vụ công phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng miền, từng quốc gia và phụ thuộc
vào từng lĩnh vực cụ thể. Quá trình này cũng đồng thời phụ thuộc vào các yếu tố chủ
quan về nhận thức pháp luật của người dân cũng như quan điểm chính trị, pháp lý của
Nhà nước. Ở Việt Nam, sự phụ thuộc này làm cho quá trình XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp là quá trình chuyển đổi dần dần, theo lộ trình từng bước trên cơ sở kết hợp
giữa khu vực Nhà nước và xã hội trong cung cấp dịch vụ công. Pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp do vậy cũng dần được hoàn thiện phù hợp với thực
tiễn chuyển giao.
Hiện nay, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam đã được
hình thành khá rõ nét, được thể hiện trong nhiều văn bản QPPL khác nhau. Có những
văn bản chuyên ngành quy định về một dịch vụ công cụ thể, trong đó có vấn đề xã
hội hóa, chuyển giao hay thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong thực hiện
dịch vụ công như Luật công chứng, Luật trợ giúp pháp lý, Luật giám định tư pháp
cùng các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh các luật chuyên ngành quy định trực
tiếp về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp thì các quy định về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp cũng có quy định liên quan đến việc XHHDVC như Bộ luật
tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật đất đai,
Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 12/3/2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-
BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dân chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Cùng với các văn bản chuyên
ngành, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn được thể hiện trong các
văn bản quy định các vấn đề liên quan đến XHHDVC nói chung, trong đó có dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp như Luật viên chức, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày
14/2/3015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị
định số 54/2014/NĐ-CP ngày 29/5/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
thanh tra Ngành Tư pháp, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính
phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính
tư pháp, hôn nhân gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã…
Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có thể được thể hiện dưới hình
thức các luật do Quốc hội ban hành, các Nghị định của Chính phủ, Thông tư, Quyết
định của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Trong số các văn bản quy định về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, các luật do Quốc hội ban hành có vai trò quan
trọng. Đối với vấn đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp gắn với việc chuyển giao
trách nhiệm của Nhà nước cho xã hội, công dân nên việc quy định các nguyên tắc,
chính sách đối với XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong các Luật là văn bản có giá
trị pháp lý cao, có tính ổn định, tạo cơ sở cho việc tổ chức thực hiện các dịch vụ
thống nhất, bảo đảm quyền và lợi ích của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng như
người thụ hưởng dịch vụ công. Trên cơ sở các nguyên tắc, chính sách được quy định
trong Luật, Quốc hội giao cho Chính phủ ban hành quy định cụ thể nhiều nội dung để
triển khai thực hiện chính sách XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp để bảo đảm tính
linh hoạt, phù hợp với thực tiễn. Các Bộ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn quản lý chuyên môn
của mình sẽ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các yếu tố chuyên môn, nghiệp vụ
của việc cung cấp dịch vụ. Các địa phương có trách nhiệm triển khai các quy định của
cơ quan trung ương tại địa phương.
2.1.3.2. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp điều
chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội trong quá trình chuyển giao việc cung cấp dịch
vụ công của Nhà nước cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội
Tương tự như XHHDVC nói chung, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được
thực hiện bằng việc huy động sự tham gia rộng rãi, chủ động của các tổ chức, cá nhân
ở khu vực phi Nhà nước vào việc cung ứng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Tuy nhiên, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bao gồm hoạt động có liên quan trực
tiếp đến quá trình xét xử, cung cấp chứng cứ, hỗ trợ, tư vấn cho người tham gia tố
tụng hay thực hiện các phán quyết của Tòa án, qua đó bảo đảm tính đúng đắn trong
các phán quyết của Tòa án cũng như củng cố, xây dựng niềm tin của người dân đối
với pháp luật, công bằng, công lý trong xã hội. Các chủ thể phi Nhà nước tham gia
vào cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trên cơ sở kết quả của quá trình xã
hội hóa, chuyển giao là phụ thuộc vào năng lực, khả năng của các chủ thể này. Khả
năng này được nhìn nhận ở năng lực nói chung trong việc tham gia vào quá trình
quản lý xã hội của các chủ thể phi Nhà nước và cũng đồng thời được nhìn nhận ở các
điều kiện chuyên môn, kỹ thuật gắn với đạo đức nghề nghiệp mà các chủ thể phải đáp
ứng khi tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công cụ thể. Do đó, quá trình tổ chức
huy động, thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân ở khu vực ngoài Nhà nước
vào việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được tổ chức chặt chẽ hơn. Sự
tham gia này chỉ có thể được thực hiện dựa trên các cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện,
quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quá trình xã hội hóa như một
cam kết của Nhà nước trước xã hội về việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp khi thực hiện xã hội hóa.
Với ý nghĩa đó, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp điều chỉnh toàn
diện mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia vào
việc cung cấp dịch vụ công, bảo đảm họ có đủ điều kiện thực hiện các dịch vụ công
theo sự ủy quyền, chuyển giao của Nhà nước. Pháp luật về XHHDVC cũng đồng thời
bảo đảm quyền và lợi ích của những người thụ hưởng dịch vụ công trên cơ sở bảo
đảm sự công bằng trong tiếp cận với dịch vụ công, bảo đảm rằng các dịch vụ công
được cung cấp đầy đủ, có chất lượng như khi những dịch vụ công đó được Nhà nước
cung cấp. Theo đó, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp điều chỉnh việc
chuyển giao cung cấp hay huy động sự tham gia của người dân, xã hội vào quá trình
cung cấp dịch vụ công cả về hình thức, lĩnh vực và cơ chế khuyến khích sự tham gia.
Đồng thời, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng đồng thời điều chỉnh
các nội dung quản lý dịch vụ công khi đã được xã hội hóa phù hợp với từng lĩnh vực
cụ thể để bảo đảm mục đích của quá trình xã hội hóa, chuyển giao việc cung ứng dịch
vụ công cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
2.1.3.3. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có mối
liên hệ chặt chẽ với các chế định khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, trực tiếp
là các chế định pháp luật điều chỉnh hoạt động tư pháp
Các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện gắn với quyền tư pháp
mà trung tâm là hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết của Tòa án. Quy trình ra phán
quyết của tòa án khá đặc biệt so với quá trình ra quyết định của các cơ quan lập pháp
hoặc các cơ quan hành pháp [26, tr.15]. Trong quá trình tố tụng tư pháp, chất lượng
quyết định của Tòa án không chỉ phụ thuộc vào bản thân của người ra quyết định
(thẩm phán, hội thẩm) mà còn phụ thuộc vào chất lượng thông tin và năng lực của các
bên tham gia tố tụng với chức năng tố tụng khác nhau, với quyền và nghĩa vụ khác
nhau, thậm chí là đối ngược nhau. Nói cách khác, các bên tham gia không chỉ là đối
tượng bị áp đặt bởi các quyết định của Tòa án mà bản thân họ cũng là những người
tham gia vào quá trình ra quyết định của Tòa án thông qua việc cung cấp, kiểm tra chéo
các thông tin, chứng cứ về tình tiết đã được mỗi bên thu thập được và trình bày, tranh
luận tại phiên tòa về áp dụng các quy định pháp luật vào giải quyết các vụ việc nhằm
bảo đảm đây thực sự là quá trình tìm kiếm chân lý, đạt được công lý khi Tòa án ra phán
quyết. Do đó, việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp không chỉ phải
tuân thủ các quy trình, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành mà còn phải
bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc, quy định tố tụng và thực hiện quyền tư pháp.
Với ý nghĩa là một bộ phận trong hệ thống pháp luật, pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp có mối liên hệ chặt chẽ với các chế định khác trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, trực tiếp là các chế định pháp luật điều chỉnh hoạt động tư pháp,
bao gồm chế định về tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp và các nguyên tắc,
quy trình, thủ tục tố tụng. Pháp luật về XHHDVC có mối liên hệ chặt chẽ với các quy
định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trên cơ sở xác định vị trí, vai
trò của các cơ quan này trong thực hiện hoạt động tư pháp. Trong quá trình cải cách,
xây dựng Nhà nước hiện đại, với quan điểm “nhà nước nhỏ, xã hội lớn” thì người dân,
xã hội sẽ ngày càng tham gia nhiều hơn vào các công việc của Nhà nước. Nhà nước cũng
sẽ tập trung vào những công việc nhất định và chuyển giao các công việc cho xã hội thực
hiện, bao gồm cả những công việc Nhà nước không cần thực hiện hoặc thực hiện không
tốt bằng xã hội do không đủ nguồn lực (nhân lực, tài chính...). Pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp có mối liên hệ mật thiết với pháp luật về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp với ý nghĩa phân định trách nhiệm, nội dung hoạt động của các cơ
quan này và bổ sung thêm chủ thể trong thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp. Đồng thời, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có mối liên hệ với các quy
định pháp luật về dân sự, hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hình sự bởi đây là các quy định
trực tiếp liên quan đến việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, bảo đảm
sự tham gia của các chủ thể cung cấp dịch vụ công trong quá trình xã hội hóa.
Mối quan hệ giữa pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với các ngành
luật, các chế định pháp luật thể hiện sự quan hệ, tác động qua lại hai chiều biện chứng.
Các quy định pháp luật này sẽ bổ khuyết cho nhau để đảm bảo những quan hệ pháp
luật quan trọng đều được điều chỉnh và bảo vệ bằng pháp luật. Mối quan hệ giữa pháp
luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với các ngành luật, các chế định pháp luật khác
vừa là biểu hiện, vừa là cơ sở cho tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.
2.1.3.4. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có mối
liên hệ với các quy định của tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp,
đặc biệt là các quy tắc đạo đức hành nghề
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp là các tổ chức được
thành lập trên cơ sở tập hợp những tổ chức, cá nhân có cùng mục đích, hành nghề
trong cùng lĩnh vực. Các tổ chức này hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản,
tự bảo đảm kinh phí, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cũng như hỗ trợ cho các
thành viên trong hành nghề. Thông qua những nguyên tắc, mục tiêu hoạt động của
mình, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng
lực hành nghề và thực hiện chức năng tự quản, quản lý việc chấp hành pháp luật, tuân
thủ đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân trong cung ứng các dịch vụ công.
Với đặc thù của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp trong lĩnh vực tư pháp, việc phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp góp phần quan trọng cho việc duy trì và thúc đẩy các giá trị tích cực của các
thành viên trong hành nghề. Do đó, Nhà nước cũng giao cho các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp thực hiện một phần nhiệm vụ QLNN đối với việc cung ứng dịch vụ công
trên nguyên tắc kết hợp giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức hành nghề,
bảo đảm tuân thủ pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân.
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp gắn với vai trò của các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của các chức danh tư pháp nên pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có
mối liên hệ với hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội
- nghề nghiệp này. Sự liên hệ được thể hiện trong mối quan hệ tác động qua lại. Pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp quy định vị trí, vai trò, định hướng mô hình,
hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp. Trong một
chừng mực nhất định, phụ thuộc vào tính chất của từng lĩnh vực và năng lực của các
tổ chức này, pháp luật quy định những nhiệm vụ của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp
được thực hiện để quản lý việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, phù
hợp với tôn chỉ, mục đích hoạt động của từng tổ chức. Các tổ chức này cùng với các
thành viên của mình thống nhất Điều lệ, quy chế, quy định về tổ chức và hoạt động
để thực hiện quản lý nội bộ, giám sát, bảo đảm các thành viên cùng ứng xử theo các
quy tắc chung, trong đó quy định các chuẩn mực trong ứng xử, hành nghề của các
chức danh tư pháp phù hợp với quy định pháp luật, các giá trị tốt đẹp trong xã hội.
Đây là những quy định rất có ý nghĩa trong cung cấp các dịch vụ công, bảo đảm chất
lượng của các dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa, Nhà nước không còn trực tiếp
cung cấp các dịch vụ công này. Các quy định điều chỉnh tổ chức, hoạt động của các
tổ chức nghề nghiệp và thành viên của tổ chức có ý nghĩa bổ sung, bổ khuyết nhất
định cho hệ thống pháp luật để bảo đảm quản lý, cung ứng các dịch vụ công có chất
lượng đến người dân, đặc biệt là các quy định kết hợp QLNN với chế độ tự quản của
tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với hoạt động cung cấp dịch vụ công.
2.1.4. Nội dung pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm tổng thể các QPPL có
mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội sau:
2.1.4.1. Nhóm các quy định về tổ chức và hoạt động cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp
Dịch vụ công nói chung và dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là một phạm
trù mang tính lịch sử cụ thể. Tùy thuộc vào mỗi quốc gia và vào từng thời kỳ khác
nhau thì quan niệm, cách xác định dịch vụ công lại khác nhau. Pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trước hết bao gồm các quy phạm xác định các dịch
vụ là dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trên cơ sở tính chất thiết yếu, phục vụ cho
nhu cầu của người dân để bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân, phục vụ cho hoạt động
xét xử, bảo vệ pháp luật do các cơ quan Nhà nước cung cấp hoặc ủy quyền cho các tổ
chức, cá nhân trong xã hội thực hiện.
Trên cơ sở xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp bao gồm nhóm các quy định về tổ chức và hoạt động cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực đó. Nhóm quy phạm này sẽ quy định cụ thể về chủ thể,
trách nhiệm của các chủ thể cung cấp dịch vụ công, quy trình, cách thức hoạt động và
các tiêu chuẩn chuyên môn, kỹ thuật cần thiết thực hiện của các dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp. Đây là các cơ sở pháp lý cho việc thực hiện, đánh giá, kiểm tra để
bảo đảm chất lượng của dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp khi được xã hội hóa và
được cung cấp bởi các chủ thể là các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
2.1.4.2. Nhóm các quy định về thực hiện xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm chuyển giao và thu hút sự tham gia
của các tổ chức, cá nhân trong xã hội vào việc cung ứng dịch vụ công. Do đó, pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp quy định về hình thức và phương thức pháp
lý chuyển giao cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Phương thức pháp lý
cho việc xã hội hóa bao gồm Nhà nước cho phép thành lập và cấp phép hoạt động
cho các đơn vị cung ứng dịch vụ ngoài công lập trực tiếp thực hiện cung ứng dịch vụ
công hoặc ký kết các hợp đồng với các tổ chức, cá nhân để tổ chức thực hiện việc
cung ứng dịch vụ công. Nhóm các quy định này bao gồm:
Một là, các loại hình dịch vụ công có thể được thực hiện xã hội hóa, trong đó
các dịch vụ công có thể được chuyển giao cho các đơn vị cung ứng dịch vụ ngoài
công lập trực tiếp thực hiện hoặc huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân theo
hình thức cụ thể. Theo định hướng cải cách tư pháp, các dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp được khuyến khích thực hiện xã hội hóa bao gồm các dịch vụ công chứng,
GĐTP, TGPL, BĐGTS, thừa phát lại.
Hai là, các quy định về mặt hình thức pháp lý của việc thành lập và cấp phép,
đăng ký hoạt động đối với các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài công lập (quyết
định thành lập, giấy phép hoạt động, việc phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của
các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài công lập).
Đối với các trường hợp ký kết hợp đồng để tổ chức cung ứng dịch vụ công,
hình thức này được Nhà nước sử dụng để liên kết, hợp tác với các tổ chức, cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế tổ chức cung ứng dịch vụ công, đặc biệt là các loại hình
dịch vụ công mà tư nhân không có khả năng đầu tư độc lập để tự mình tổ chức thực
hiện cung ứng dịch vụ công hoặc chưa sẵn sàng cho việc đầu tư đó.
Ba là, các điều kiện cụ thể liên quan đến việc tổ chức thực hiện các loại hình
dịch vụ công tương ứng.
Bốn là, các quy định liên quan đến thủ tục hành chính và cơ quan có thẩm
quyền cho phép thành lập và cấp phép hoạt động cho các đơn vị dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp.
Năm là, các quy định liên quan đến khiếu nại, khởi kiện trong trường hợp bị từ
chối hoặc trì hoãn việc thành lập hoặc cấp phép, đăng ký hoạt động đối với các đơn vị
cung ứng dịch vụ ngoài công lập.
2.1.4.3. Nhóm các quy định về quản lý nhà nước đối với việc xã hội hóa dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp gắn với trách nhiệm của Nhà nước trong
việc đáp ứng nhu cầu của người dân khi bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình,
vì lợi ích chung của xã hội. Khi thực hiện XHHDVC, vai trò quản lý của Nhà nước
được nhấn mạnh để bảo đảm quyền, lợi ích của người dân thụ hưởng dịch vụ công,
bảo vệ quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân thực hiện, cung cấp dịch vụ công và
đặc biệt là để hạn chế những tác động tiêu cực nảy sinh trong quá trình XHHDVC.
Là phương tiện, công cụ để Nhà nước quản lý đối với các dịch vụ công và
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật về QLNN đối với XHHDVC phải bao
gồm các nội dung cụ thể sau:
Một là, các quy định về xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát
triển dịch vụ công, trong đó bao gồm quy định về thẩm quyền ban hành các văn bản,
chính sách điều chỉnh về hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Hai là, quy định về quản lý việc thành lập các tổ chức dịch vụ công, tổ chức
xã hội nghề nghiệp về cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Ba là quy định về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các tổ chức, cá nhân tổ
chức thực hiện dịch vụ công.
Bốn là quy định về thực hiện các công tác thống kê, thông tin, ứng dụng khoa
học công nghệ vào dịch vụ công.
Năm là quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong cung cấp dịch vụ công.
Sáu là quy định về tổ chức bộ máy QLNN và nhiệm vụ của các cơ quan này
về quản lý cung cấp dịch vụ công, về mối quan hệ phối hợp giữa cácc ơ quan QLNN
với nội dung tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
2.1.5. Vai trò của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
2.1.5.1. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp thể chế
hóa quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về cải cách pháp luật, cải cách
tư pháp, cải cách hành chính.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một định hướng phát
triển chiến lược đã được Đảng xác định trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế. Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội toàn quốc lần
thứ IX (2001) xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Bộ Chính trị cũng đã có Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong lĩnh vực tư pháp, Nghị quyết số
49-NQ/TW đề ra mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh cùng
phương hướng, yêu cầu tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
khoa học, hợp lý, xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp. Nghị quyết cũng xác
định xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp nhất là cán bộ có chức danh tư
pháp theo hướng đề cao quyền hạn và trách nhiệm pháp lý… Trong chiến lược hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, Nghị quyết số 48-NQ/TW đề ra
các nhiệm vụ, định hướng xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tư pháp,
trong đó có yêu cầu xây dựng, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng chiến lược cải cách tư pháp.
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp bao gồm những quy phạm chứa đựng quy tắc xử sự áp dụng chung cho tất cả
các chủ thể trong xã hội, cho việc chuyển giao, thu hút sự tham gia của các tổ chức,
cá nhân ở khu vực ngoài nhà nước trong cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp. Thông qua hệ thống pháp luật, thực tiễn đã hình thành hệ thống các tổ chức, cá
nhân tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng,
THADS, GĐTP, BĐGTS, TGPL… Các tổ chức và cá nhân này có những đóng góp
quan trọng vào việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, khẳng định
tính đúng đắn trong việc thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Trong giai đoạn hiện nay, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp
tục khẳng định chủ trương đẩy mạnh xã hội hội hóa đối với dịch vụ công, đa dạng
hóa hình thức xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm sự bình đẳng giữa
các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập... Chủ trương này đặt ra yêu cầu phải
tiếp tục hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục
tiêu, nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cải cách pháp
luật, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
2.1.5.2. Pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là cơ sở
pháp lý cho việc chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội, qua đó xây dựng mô hình tổ chức cung ứng
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hiệu quả, tạo điều kiện tốt hơn cho người dân
trong việc tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công
Dịch vụ công nói chung và dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nói riêng gắn
với trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội. Trong Nhà nước hiện đại, những ý tưởng
về vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế và xã hội đang thay đổi. Hiệu quả là
vấn đề quan trọng hàng đầu khi cung cấp dịch vụ công trong bối cảnh giới hạn về
nguồn lực tài chính và nhân lực. Giải pháp được nêu ra đó là Nhà nước phải tập trung
vào những vấn đề cơ bản và củng cố các thiết chế công cộng bằng việc mở rộng sự
tham gia của người dân, thúc đẩy sự cộng tác giữa tư nhân với tư nhân. Tuy nhiên,
việc thút hút sự tham gia này chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở các quy định của
pháp luật. Hay nói cách khác, bằng pháp luật, Nhà nước cho phép, ủy quyền cho các
tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công theo các lĩnh
vực, nội dung và hình thức phù hợp. Pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý cho việc tổ chức
cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp một cách ổn định theo các tiêu chuẩn,
quy trình nhất định. Sự tham gia của ngày càng nhiều các chủ thể trong cung cấp dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp, tạo ra nhiều cơ hội hơn để người dân có thể lựa chọn,
so sánh về chất lượng sẽ góp phần vào việc nâng cao năng lực cho các thiết chế và
các chức danh tư pháp trong cung ứng dịch vụ công.
2.1.5.3. Pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là công cụ
để thực hiện quản lý nhà nước về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, qua đó bảo
đảm chất lượng các dịch vụ công và việc tiếp cận của người dân đối với các dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Pháp luật XHHDVC là công cụ để QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công
trong điều kiện thực hiện xã hội hóa. Thông qua pháp luật, Nhà nước tác động tới
hành vi của chủ thể, hướng việc thực hiện hành vi của chủ thể tuân theo pháp luật,
phù hợp với mục đích quản lý nhà nước. Pháp luật là hình thức thể hiện ý chí của Nhà
nước với vai trò là chủ thể quản lý toàn xã hội. Pháp luật sẽ định hướng quá trình
chuyển giao hay cho phép người dân tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp theo các hình thức, mức độ và ở những lĩnh vực phù hợp. Pháp
luật cung cấp các nguyên tắc, điều kiện cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào
việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phải đáp ứng. Pháp luật cũng đồng
thời quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý, hướng dẫn,
kiểm tra việc cung cấp dịch vụ công của các tổ chức cá nhân đưa ra những quy trình
thủ tục, cách thức thực hiện các dịch vụ công. Qua đó, Nhà nước bảo đảm các dịch vụ
công được cung cấp theo chất lượng được yêu cầu dù được cung cấp bởi Nhà nước
hay các chủ thể phi Nhà nước.
2.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH
HƢỞNG ĐẾN VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ
CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền và pháp luật trong Nhà nước
pháp quyền phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ và công lý. Yêu cầu cơ bản của xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay là hoàn thiện hệ thống pháp
luật [33]. Với ý nghĩa là các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp cũng đang đứng trước yêu cầu tiếp tục được hoàn thiện phù
hợp với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước cũng như yêu cầu cải
cách pháp luật, cải cách tư pháp. Quá trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp được dựa theo các tiêu chí và phụ thuộc vào các yếu tố sau:
2.2.1. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch
vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp
Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật là những tiêu chuẩn
nhất định được xác định về mặt lý thuyết, từ đó liên hệ với điều kiện và hoàn cảnh
thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét một cách khách quan và rút ra những kết
luận, làm sáng tỏ những ưu điểm và nhược điểm…[75, tr.60] Có nhiều cách khác
nhau để xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật, phụ thuộc
vào bản chất, vai trò và mục đích điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội
trong từng lĩnh vực.
Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình chuyển giao việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu tố
của cả hai bên chủ thể Nhà nước và xã hội. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của
pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là những chuẩn mực, thước đo để đánh
giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong hệ
thống pháp luật nói chung, đặt trong mối liên hệ với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại
cũng như định hướng phát triển lĩnh vực này phù hợp với mục tiêu, trách nhiệm cung
ứng dịch vụ công của Nhà nước. Các tiêu chí này bao gồm:
2.2.1.1. Tính toàn diện của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp
Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, mọi hoạt động liên quan đến quyền, lợi ích của nhân dân đều được điều
chỉnh bằng pháp luật. Tính toàn diện của pháp luật là một tiêu chí quan trọng để đánh
giá mức độ hoàn thiện của pháp luật. Tính toàn diện của pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp yêu cầu pháp luật phải bao gồm đầy đủ các chế định, quy định
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp nói chung và trong từng lĩnh vực nói riêng. Pháp luật phải quy định cụ thể về
hình thức, phạm vi chuyển giao, điều kiện tham gia của các chủ thể có liên quan đến
các nội dung QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa để
bảo đảm chất lượng của các dịch vụ công dù được cung cấp bởi chủ thể là Nhà nước
hay các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
2.2.1.2. Tính phù hợp và ổn định tương đối
Pháp luật là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ biện
chứng với cơ sở hạ tầng, pháp luật phản ánh cơ sở hạ tầng - tức là các điều kiện kinh
tế - xã hội cụ thể. Về lý luận chung, pháp luật phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã
hội để bảo đảm sự điều chỉnh tích cực, thúc đẩy các quan hệ kinh tế - xã hội phát
triển. XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là việc chuyển giao trách nhiệm cung ứng
dịch vụ công của Nhà nước sang cho xã hội, trực tiếp là các tổ chức, cá nhân hoạt
động ở khu vực phi Nhà nước. Việc chuyển giao này không chỉ dựa trên ý chí của
Nhà nước mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận của các chủ thể trong xã hội.
Khả năng tiếp nhận của các chủ thể lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội
và tự nhiên trong từng lĩnh vực và của từng khu vực. Do đó, với vai trò cung cấp cơ
sở pháp lý cho quá trình chuyển giao, pháp luật về XHHDVC nói chung và trong lĩnh
vực tư pháp nói riêng phải bảo đảm phù hợp với thực tiễn, không đặt ra các quy định
chuyển giao đối với những hoạt động, theo các cách thức hay phạm vi mà các chủ thể
không thể thực hiện được.
Tính phù hợp là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng hoàn thiện của pháp
luật, đồng thời cũng là tiền đề quyết định hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về
XHHDVC trên thực tế. Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải bảo đảm
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Sự phù hợp của pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp được thể hiện trong mối quan hệ với yêu cầu khách quan của các tổ
chức, cá nhân cung cấp và thụ hưởng dịch vụ công. Pháp luật phải bảo đảm phù hợp
với tính chất, đặc điểm của dịch vụ; yêu cầu chuyển giao của Nhà nước và khả năng
tiếp nhận việc cung cấp dịch vụ công của các tổ chức, cá nhân trong xã hội; nguyện
vọng của người thụ hưởng dịch vụ. Nếu pháp luật không phản ánh các yêu cầu khách
quan của dịch vụ sẽ gây ra những khó khăn cho việc cung cấp, thụ hưởng dịch vụ
hoặc làm biến dạng tính chất của các dịch vụ, là nguyên nhân của vi phạm pháp luật,
cung cấp dịch vụ kém chất lượng, gây bất bình đẳng trong tiếp cận và thụ hưởng dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật không phù hợp với yêu cầu khách quan của
dịch vụ vừa ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, vừa ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng phải bảo đảm phù hợp với
cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập hoặc là thành
viên. Trong các cam kết có thể đến cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) về mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý, hoàn thiện các
khuôn khổ pháp lý cho xây dựng và thực thi chính sách mở cửa thị trường; mức phí
và lệ phí áp dụng đối với dịch vụ công sẽ phải phản ánh đúng giá trị của dịch vụ được
cung ứng.
Bên cạnh tiêu chí phù hợp với thực tiễn, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp phải có tính ổn định tương đối. Pháp luật là chuẩn mực về xử sự cho các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Sự ổn định của
pháp luật giúp cho các chủ thể có thể dự báo được những diễn biến có thể xảy ra và
từ đó định hướng hành vi xử sự của mình. Trong XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp,
sự ổn định của pháp luật có ý nghĩa tạo ra niềm tin và khuyến khích các chủ thể tham
gia vào việc cung ứng dịch vụ công. Tuy vậy, tính ổn định trong pháp luật XHHDVC
mang tính tương đối, tức là đòi hỏi phải có sự thay đổi khi điều kiện, định hướng
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có sự thay đổi. Điều này xuất phát từ đặc điểm của
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp mặc dù là một xu hướng phù hợp trong xã hội hiện
đại nhưng quá trình này có sự phát triển, đan xen và thay thế từng bước trong cung
cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp giữa khu vực công và khu vực tư.
2.2.1.3. Tính thống nhất và đồng bộ
Thống nhất và đồng bộ là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá
mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tính thống nhất và đồng bộ của pháp luật
thể hiện ở sự không chồng chéo, mẫu thuẫn về nội dung giữa các quy định của pháp
luật điều chỉnh cùng loại quan hệ xã hội và giữa các quy định pháp luật trong các lĩnh
vực khác nhau. Tính thống nhất của pháp luật cũng còn được thể hiện qua hình thức
văn bản QPPL với ý nghĩa là hình thức chứa đựng các quy định pháp luật. Theo đó,
tính thống nhất yêu cầu văn bản QPPL phải bảo đảm sự phù hợp giữa văn bản hướng
dẫn thi hành với Hiến pháp và các Luật; giữa nội dung với thẩm quyền ban hành văn
bản QPPL, giữa văn bản QPPL do cơ quan cấp dưới ban hành phải bảo đảm phù hợp
với văn bản do cơ quan cấp trên ban hành.
Tính thống nhất của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thể hiện
ở các mức độ sau:
Thứ nhất, sự thống nhất giữa các quy định điều chỉnh về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp từ phạm vi, nội dung đến hình thức xã hội hóa, chuyển giao hay thu hút
sự tham gia của người dân vào việc thực hiện và cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp.
Thứ hai, sự thống nhất giữa các quy định điều chỉnh XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp với các quy định có liên quan về cung cấp dịch vụ công. Theo đó, pháp luật
về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải thống nhất với quy định về cung cấp dịch
vụ công cùng loại nhằm bảo đảm chất lượng các dịch vụ công tương ứng với nhau dù
được cung ứng bởi chủ thể là Nhà nước hay các tổ chức, cá nhân ở khu vực phi Nhà
nước. Đồng thời, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng phải bảo đảm phù
hợp với các quy định về nguyên tắc, định hướng, cơ chế chung về XHHDVC như
nguyên tắc tự chủ, tự bảo đảm kinh phí hoạt động đối với các đơn vị cung ứng dịch
vụ công khi xã hội hóa;...
Thứ ba, sự thống nhất giữa các quy định điều chỉnh về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp với các quy định pháp luật khác có liên quan, trong đó có các quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng, quy định của
pháp luật tố tụng...
2.2.1.4. Kỹ thuật lập pháp
Kỹ thuật xây dựng văn bản là tiêu chuẩn đánh giá trình độ, năng lực của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong soạn thảo, ban hành và hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Kỹ thuật lập pháp tốt cho phép các cơ quan soạn
thảo có thể truyền tải được ý chí của Nhà nước (mong muốn của nhà quản lý), yêu
cầu, mong muốn của người dân đối với các dịch vụ công mà họ thụ hưởng. Kỹ thuật
pháp lý tốt cũng phải phản ánh được thực tiễn hợp lý qua các quy định, thể hiện sự
tương thích giữa pháp luật với thực tiễn theo hướng vừa phù hợp vừa có sự định hướng
phát triển trong một giai đoạn nhất định. Tiêu chí về kỹ thuật xây dựng văn bản QPPL
được thể hiện qua các nội dung sau:
Thứ nhất, hình thức văn bản được lựa chọn để quy định một vấn đề phải phù
hợp với yêu cầu điều chỉnh của pháp luật về dịch vụ công tại thời điểm ban hành. Hệ
thống văn bản QPPL luật bao gồm nhiều văn bản thuộc thẩm quyền của nhiều cơ
quan khác nhau, do đó, lựa chọn hình thức văn bản nào để ban hành phải căn cứ vào
yêu cầu khách quan. Luật ban hành văn bản QPPL phân định Luật được ban hành để
điều chỉnh các quan hệ xã hội đã tương đối ổn định trong khi Nghị định có thể được
ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới, còn đang trong quá trình hình thành
và phát triển nhưng có nhu cầu phải điều chỉnh bằng pháp luật để bảo đảm yêu cầu
quản lý nhà nước bằng pháp luật. Khi các quan hệ này đã phát triển ổn định, các cơ
quan QLNN có thể đề xuất, điều chỉnh các quan hệ bằng Luật.
Thứ hai, kết cấu của từng văn bản QPPL phải chặt chẽ, nội dung, bố cục văn
bản rõ ràng, giúp cho người thực hiện xác định được đầy đủ thông tin, yêu cầu của
pháp luật khi thực hiện hành vi. Ở mức độ này, văn bản quy phạm pháp luật càn phải
khái quát được vấn đề cần điều chỉnh, tránh tính trạng một vấn đề phải điều chỉnh
trong nhiều văn bản khác nhau.
Thứ ba, ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật về XHHDVC phải chính
xác, rõ ràng, không đa nghĩa, các thuật ngữ chuyên môn phải được định nghĩa ngay
trong cùng văn bản QPPL. Ngôn ngữ chính là hình thức thể hiện nội dung các quy
định pháp luật. Nếu ngôn ngữ không chuyển tải chính xác nội dung của quy phạm thì
tất yếu dẫn đến việc hiểu và thực hiện sai quy định của pháp luật.
Thứ tư, kỹ thuật soạn thảo văn bản thể hiện ở sự phù hợp của văn bản với các
quy định của pháp luật về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản QPPL, bao gồm từ tên
gọi, cách thức trình bày, kết cấu văn bản, văn bản sửa đổi, văn bản hợp nhất...
2.2.1.5.Tính khả thi
Tính khả thi được hiểu là các quy định của pháp luật có khả năng thực hiện
trên thực tế. Tính khả thi có mối liên hệ chặt chẽ với các yêu cầu về tính toàn diện,
tính thống nhất, tính phù hợp và kỹ thuật xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, việc xem xét
tính khả thi của văn bản là một nội dung khó nhất khi đánh giá mức độ hoàn thiện của
pháp luật. Nếu pháp luật bao quát, điều chỉnh toàn diện được các quan hệ xã hội phát
sinh từ dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp thì có khả năng tác động đồng bộ đến các
quan hệ xã hội khi được tổ chức thực hiện trên thực tế. Sự phù hợp của pháp luật với
chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước, pháp luật quốc tế cũng như yêu cầu
khách quan của việc cung cấp dịch vụ công, điều chỉnh hài hòa được nhu cầu và lợi
ích của các chủ thể khác nhau thì đây cũng là điều kiện quyết định đến tính khả thi của
pháp luật. Đồng thời với đó, pháp luật thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo, mâu
thuẫn với ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo tốt cũng là điều kiện quan trọng cho pháp luật
được thực hiện hiệu quả trên thực tế. Trong thực tế, tính khả thi của pháp luật được bảo
đảm bằng các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật về tuyên truyền, phổ biến, công
khai, minh bạch pháp luật gắn với các điều kiện về tài chính, con người và các điều
kiện bảo đảm khác cho việc thực hiện pháp luật.
2.2.1.6. Tính hiệu quả
XHHDVC trên cơ sở chuyển giao hay thu hút sự tham gia của xã hội trong
cung cấp các dịch vụ cần thiết, cơ bản phục vụ người dân thuộc về trách nhiệm của
Nhà nước. Đây là một trong những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả hơn nguồn
lực hữu hạn của Nhà nước so với nhu cầu ngày càng gia tăng của người dân, xã hội.
Do vậy, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cần phải bảo đảm tính
hiệu quả, tức là tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức cung cấp các dịch vụ công có chất
lượng tốt hơn trong khi sử dụng ít hơn các nguồn lực cho thực hiện, được thể hiện
bằng các quy định về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia cung
cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các nguồn lực này bao gồm của Nhà nước
và của xã hội và có thể được đo lường trên thực tế triển khai thực hiện thông qua các
chỉ tiêu về nguồn nhân lực, tài chính giảm đi hoặc có thể không tăng hoặc tăng ở mức
độ nhỏ hơn so với giá trị về số lượng và chất lượng của dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp được cung cấp...
2.2.1.7. Pháp luật phải tạo ra sự công bằng trong tiếp cận và thụ hưởng dịch
vụ công trong điều kiện được xã hội hóa
Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp trong một số trường hợp và những điều kiện nhất định không mang lại lợi ích về
mặt kinh tế. Điều này dễ dẫn đến những hạn chế, thậm chí là bất bình đẳng trong tiếp
cận và thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật XHHDVC phải tạo ra
được sự công bằng trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công với cơ chế hỗ trợ đặc
thù để tạo sự công bằng trong việc tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công ở những
khu vực, những lĩnh vực mà xã hội chưa có khả năng thực hiện hoặc không muốn
thực hiện. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những nhóm yếu thế vì họ
có nhiều rào cản trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
2.2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa
dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp
Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp chịu ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố như tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, sự tác động của tiến trình cải
cách pháp luật, cải cách tư pháp, sự vận động và phát triển của các dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp, điều kiện nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất... Mỗi yếu tố đều có khả
năng ảnh hưởng tích cực - theo chiều hướng thúc đẩy hoặc ảnh hưởng tiêu cực - gây
cản trở hoặc các hệ quả phát sinh đến quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
2.4.2.1. Yếu tố về chính trị, tư tưởng
Pháp luật và chính trị, tư tưởng là các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Yếu tố chính trị, tư tưởng bao
gồm toàn bộ quan điểm, quan niệm của các chủ thể trong xã hội có liên quan đến việc
thực hiện, cung cấp dịch vụ công cũng như hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp. Trong việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp, yếu tố chính trị, tư tưởng là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng, quyết định. Với
nội dung là quá trình chuyển giao công việc của Nhà nước cho xã hội, việc hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng phụ thuộc vào
các quan điểm, quan niệm về vai trò của Nhà nước trong từng thời kỳ, đặc biệt là các
quan điểm, định hướng, sự lãnh đạo của Đảng đối với XHHDVC.
Các quan điểm, định hướng, sự lãnh đạo của Đảng có ảnh hưởng quan trọng
đến việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trên cơ sở thể chế hóa các quan điểm,
định hướng đó thành pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Quá trình này
được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước, trực tiếp là đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức thông qua quá trình nhận thức, tiếp thu và hiện thực hóa trong quản lý và
hoàn thiện pháp luật, chính sách xã hội hóa. Bên cạnh đó, quan điểm, nhận thức của
người dân với vai trò là chủ thể thụ hưởng và là chủ thể tiếp nhận việc cung ứng dịch
vụ công cũng có ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC. Bởi lẽ quá
trình chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho xã hội sẽ phụ thuộc vào ý thức,
mong muốn và sự chấp nhận của người dân trong việc tham gia hoặc thực hiện cung
cấp các dịch vụ công theo các yêu cầu, tiêu chuẩn và điều kiện đã được xác định.
2.4.2.2. Yếu tố về kinh tế - xã hội
Là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật có mối quan hệ mật thiết
với điều kiện kinh tế - xã hội là yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng. Về lý luận, trong mối
quan hệ biện chứng tác động qua lại thì điều kiện kinh tế - xã hội đóng vai trò quyết
định đến pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng có ảnh hưởng ngược trở lại đối với sự
vận động và phát triển kinh tế - xã hội.
Sự ra đời của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp vừa là kết quả,
vừa là yếu tố phản ánh những yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế - xã hội. Hay
nói cách khác, điều kiện kinh tế - xã hội đặt ra những yêu cầu cũng như thể hiện khả
năng cho việc thực hiện XHHDVC. Điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, nhu cầu của
người dân đối với các dịch vụ công ngày càng cao hơn cả về số lượng và chất lượng.
Người dân mong muốn sử dụng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp để bảo vệ
các quyền và lợi ích của mình. Trong bối cảnh nguồn lực hạn chế thì Nhà nước đứng
trước những thách thức trong việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân. Mặt khác,
điều kiện kinh tế - xã hội phát triển cũng cung cấp nhiều hơn các nguồn lực cho xã
hội. Theo đó, người dân không chỉ có nhu cầu thụ hưởng các dịch vụ công do Nhà
nước cung cấp mà còn có khả năng tham gia vào quá trình cung cấp các dịch vụ công
đó. Đây là những yếu tố quyết định đến việc hoàn thiện nôi dung của pháp luật
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Ở các giai đoạn khác nhau, pháp luật sẽ được xây
dựng cho phù hợp để bảo đảm thực hiện có hiệu quả sự chuyển giao việc cung ứng
dịch vụ công từ Nhà nước sang cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
2.4.2.3. Yếu tố về pháp lý
Với ý nghĩa là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật nói chung, việc
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phụ thuộc vào quá trình
hoàn thiện pháp luật nói chung. Về nội dung, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp chịu ảnh hưởng trước hết bởi yêu cầu hoàn thiện pháp luật về
tổ chức bộ máy nhà nước trong bối cảnh xác định lại vai trò của Nhà nước trong xã
hội hiện đại, xem lại những việc mà Nhà nước không cần hoặc không nhất thiết phải
làm. Cùng với đó, yêu cầu hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường, thu hút và phát
triển mạnh mẽ mọi nguồn lực, sức sáng tạo của nhân dân, tạo ra sự bình đẳng giữa
các khu vực Nhà nước và phi Nhà nước cũng là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp cũng chịu ảnh hưởng bởi các điều ước quốc tế mà Việt Nam
đã gia nhập hoặc là thành viên. Các yêu cầu tự do hóa thương mại, dịch vụ, phá bỏ
rào cản, thúc đẩy sự dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ qua biên giới là một trong những
mục tiêu quan trọng của các thiết chế kinh tế - thương mại trên thế giới hiện nay có
ảnh hưởng quan trọng đến việc hoàn thiện pháp luật.
Cùng với các vấn đề về nội dung thì hoàn thiện pháp luật về XHHDVC còn
phụ thuộc vào trình độ nhận thức ý thức pháp luật của người dân. Xã hội phát triển,
nhu cầu thực hiện pháp luật của người và các tổ chức, cá nhân. Trình độ hiểu biết
pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao, họ có nhu cầu sử dụng pháp luật
để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.Việc hoàn thiện pháp luật phải gắn với
quá trình tổ chức thực thi pháp luật với những nội dung về tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, hướng dẫn thực hiện cũng như việc theo dõi kết quả thi hành trên thực tế
để từ đó có những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật.
2.4.2.4. Yếu tố về lịch sử, văn hóa
Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố về lịch sử, văn hóa. Do điều kiện
lịch sử đặc thù cần phải chống xâm lược ngoại bang và hợp sức chống thiên tai nên
ngay từ khi mới hình thành Nhà nước Việt Nam đã là Nhà nước tập trung, tập quyền
mạnh mẽ. Nó đứng bao trùm lên xã hội. Nói cách khác, Nhà nước tác động mạnh mẽ
vào các hoạt động xã hội. Điều này cũng được thể hiện trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ. Vai trò chỉ đạo và trực tiếp đối với hoạt động của đời sống xã
hội của Nhà nước được thể hiện rất rõ và giúp cho đất nước ta có thể huy động mọi
nguồn lực đánh thắng cả hai cuộc kháng chiến và giành độc lập, thống nhất đất nước.
Trong điều kiện xây dựng đất nước trong thời kỳ hòa bình, Nhà nước lại đóng vai trò
quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước. Thành phần kinh tế Nhà nước đóng
vai trò chủ đạo.
Điều này dẫn đến phát sinh tâm lý người dân chỉ tin Nhà nước hoặc quá tin
vào cơ quan nhà nước và bên cạnh đó có cả tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước.
Việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng chịu ảnh hưởng
bởi các vấn đề về lịch sử, văn hóa nói trên. Yêu cầu đặt ra là pháp luật phải tạo ra
được niềm tin cho xã hội đối với việc sử dụng các dịch vụ công do các tổ chức, cá
nhân ở khu vực phi Nhà nước cung cấp. Cùng với đó, pháp luật phải có cơ chế
khuyến khích, thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong việc cung ứng các
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trên cơ sở bảo đảm được chất lượng, sự thuận lợi
trong tiếp cận dịch vụ công của người dân.
2.2.2.5. Yếu tố con người
Điều kiện bảo đảm nói chung cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật,
bao gồm cả về tổ chức, con người, tài chính và các yếu tố kỹ thuật, là một trong
những yếu tố quan trọng đến chất lượng của công tác xây dựng pháp luật. Trong các
yếu tố này thì con người là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thiện pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Điều này được thể hiện ngay từ quan điểm
của những người tham gia vào quá trình xây dựng, thiết kế chính sách, văn bản để
thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo định hướng tăng cường sự tham gia
của xã hội hay duy trì sự ảnh hưởng, bao cấp của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ
công. Những người tham gia vào quá trình hoàn thiện pháp luật nếu có nhận thức,
quan điểm rõ ràng sẽ giúp cho việc thiết kế chính sách, quy định được thực hiện một
cách thống nhất, đồng bộ, tạo sự thuận lợi trong quá trình thực thi. Ngược lại thì sẽ
tạo ra những chính sách không rõ ràng, tạo tâm lý e ngại cho người sử dụng cũng như
cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực khác. Ngoài ra, như các lĩnh vực khác, kiến thức,
kinh nghiệm, kỹ năng của các cán bộ tham gia trực tiếp vào công tác xây dựng văn bản
QPPL ở từ những khâu soạn thảo văn bản đến việc hoàn thiện, tiếp thu ý kiến, thẩm
định, thẩm tra cũng như thông qua văn bản QPPL cũng là những yếu tố quyết định đến
việc hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
2.3. PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC
TƢ PHÁP CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO
CHO VIỆT NAM
2.3.1. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp của
một số nƣớc trên thế giới
Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nhằm tạo cơ sở
pháp lý cho việc chuyển giao, thu hút sự tham gia cung cấp dịch vụ của các tổ chức,
cá nhân trong xã hội cũng là yêu cầu đối với nhiều nước trên thế giới. Khái quát một
số nội dung cơ bản theo các nhóm quy định như sau:
2.3.1.1. Nhóm các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp
Nhóm các quy định này quy định về dịch vụ công và tổ chức, cung cấp dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp nói chung, không phân biệt dịch vụ đó được cung cấp bởi
các cơ quan nhà nước hay khu vực tư nhân. Pháp luật các nước quy định về tổ chức
được cung cấp dịch vụ công, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức này khi cung cấp
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Đồng thời, pháp luật cũng bao gồm phần lớn các
quy định về nội dung, quy trình, chi phí cung cấp dịchvụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Điều 1 Luật công chứng của Trung Quốc xác định “công chứng là phòng ngừa
tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tự nhiên nhân” [17, tr.6]. Luật
hiện hành của Liên minh Châu Âu xác định văn bản công chứng là công cụ được xác
lập bởi các cơ quan công quyền hoặc cơ quan được trao quyền. Văn bản này phải
tuân theo mẫu yêu cầu và tính xác thực không chỉ liên quan đến chữ ký mà còn với
nội dung của văn bản. Đồng thời cũng quy định về giá trị của văn bản công chứng,
yêu cầu đối với văn bản công chứng, ký, sửa chữa, lưu giữ văn bản của công chứng
[17, tr.6]. Pháp luật Thừa phát lại của Pháp quy định về hoạt động của Thừa phát lại
bao gồm những hoạt động độc quyền như tống đạt các văn bản, quyết định, tổ chức
thi hành các bản án, quyết định và các việc không độc quyền như soạn thảo các văn
bản tư, chứng thư, tư vấn, tham gia tố tụng . Khi hoạt động, thừa phát lại được hưởng
thù lao. Đối với những hoạt động độc quyền thì biểu giá thù lao được quy định rất
chặt chẽ. Trong khi thi hành công việc, thừa phát lại gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Nếu thừa phát lại có hành vi không trung thực, vi phạm pháp luật thì có thể bị xử lý
hình sự, hành chính [94, tr.6].
Đối với lĩnh vực GĐTP, các nước như Đức, Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản,
Trung Quốc đều có quy định về giám định tư pháp là việc thực hiện giám định được
thực hiện bởi các nhà chuyên môn để làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan đến vụ
án theo yêu cầu của cơ quan trưng cầu giám định hoặc các bên tham gia tố tụng nhằm
phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Các giám định viên được bổ nhiệm hoặc công
nhận thì có nghĩa vụ thực hiện giám định. Người giám định có thể là công chức hoặc
người hành nghề tự do nếu như người đó thực sự am hiểu và tinh thông trong lĩnh
vực cần giám định và được các cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Pháp
luật quy định về bổ nhiệm giám định viên, đánh giá, sử dụng kết luận giám định, chi
phí giám định [18].
Trong lĩnh vực BĐGTS, pháp luật quy định về việc BĐGTS, bao gồm cả tài
sản thông thường và tài sản có liên quan đến nhà nước như tài sản thi hành án, tài sản
xử lý vi phạm hành chính. Luật bán đấu giá tài sản của Trung Quốc quy định về tổ
chức, người bán đấu giá, thủ tục bán đấu giá, hợp đồng ủy quyền bán đấu giá. Pháp
luật Pháp quy định hoạt động bán đấu giá chỉ do các tổ chức, cá nhân nhất định tiến
hành, bao gồm công ty BĐGTS, các công chứng viên hay thừa phát lại cũng có thể
thực hiện hoạt động BĐGTS. Ở Canada, đạo luật về bán đấu giá công khai quy định
về bán đấu giá như một ngành nghề kinh doanh, tiêu chuẩn của người điều hành bán
đấu giá, cấp phép cho hoạt động BĐGTS, quy tắc ứng xử của người bán đấu giá, giữ
và thanh toán tiền ủy thác bán đấu giá [25, tr.55].
2.3.1.2. Nhóm các quy định về thực hiện xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp
Nhóm các quy định về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm
các quy định về các phương thức pháp lý cho việc chuyển giao cung ứng dịch vụ
công cho khu vực tư nhân thực hiện. Trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật của các nước
quy định hai phương thức cơ bản là Nhà nước cấp phép cho các tổ chức, cá nhân
trong khu vực tư nhân được thực hiện cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
hoặc ký hợp đồng với các tổ chức, cá nhân để thực hiện cung cấp dịch vụ công.
Cấp phép cung cấp dịch vụ công là một trong những phương thức pháp lý chủ
yếu để thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Một mặt, Nhà nước khuyến khích
sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp, mặt khác cũng để Nhà nước thực hiện được trách nhiệm của Nhà nước trước
xã hội về việc cung cấp dịch vụ công có chất lượng dù cho các dịch vụ đó không
được cung cấp bởi các thiết chế của Nhà nước. Nhìn chung, pháp luật của các nước
đều có các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện cho việc tham gia thực hiện dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp cũng như trình tự, thủ tục cấp phép. Trong lĩnh vực công
chứng, pháp luật của các nước quy định tổ chức công chứng phải đáp ứng yêu cầu về
số lượng công chứng, điều kiện về trụ sở độc lập, rộng rãi, có kho lưu trữ, có khả
năng tài chính cần thiết để tiến hành các hoạt động công chứng. Tại Trung Quốc, cơ
quan hành chính tư pháp địa phương trình cơ quan hành chính tư pháp của Chính phủ
nhân dân tỉnh, khu tự trị và được phê duyệt thì được cấp giấy chứng nhận đăng ký
hoạt động [17, tr.41]. Tại Pháp, việc thành lập Văn phòng công chứng phải được Bộ
trưởng Bộ Tư pháp chấp thuận sau khi có ý kiến của Hội đồng công chứng tối cao
[17, tr.42]. Trong lĩnh vực BĐGTS, pháp luật của Bang Floria Hoa Kỳ quy định Ủy
ban đấu giá trực thuộc cơ quan quản lý nghề nghiệp của Bang sẽ có thẩm quyền cấp
phép hoạt động cho công ty bán đấu giá [25, tr.56].
Bên cạnh quy định về cấp phép hoạt động, ký hợp đồng thực hiện công việc
cũng là một hình thức chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện
cung cấp dịch vụ công [61, tr.387]. Tuy nhiên, đây là hình thức ít phổ biến hơn. Hợp
đồng hành chính là một chế định rất phát triển trong pháp luật hành chính Pháp. Về
thực chất, trong cung cấp dịch vụ công, hợp đồng hành chính là hợp đồng được ký
kết giữa một bên là pháp nhân công với bên kia là các tổ chức, cá nhân nhằm tổ chức
thực hiện việc cung cấp một loại hình dịch vụ công [61, tr.387]. Theo quy định của
Cộng hòa Pháp, mặc dù hợp đồng hành chính được giao kết theo nguyên tắc tự do
giao kết của pháp nhân công nhưng cũng gắn với những quyền hạn bất bình đẳng của
pháp nhân công như chỉ đạo, kiểm tra, bảo đảm thực hiện đầy đủ, theo đúng nội dung
của hợp đồng; đơn phương sửa đổi hợp đồng trên cơ sở lợi ích chung và không ảnh
hưởng đến cơ cấu của hợp đồng... [61, tr.407]. Lý luận về mô hình hợp đồng hành
chính được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới. Trong lĩnh vực TGPL, nhiều nước
khi xác định người thực hiện TGPL đều dựa trên sự phát triển của nghề luật, đặc biệt
là nghề luật sư và đều thừa nhận luật sư là người thực hiện TGPL. Đội ngũ luật sư
này có thể là luật sư của nhà nước (luật sư công ở các nước Philippine, Israel, Lít va,
Hàn Quốc…) nhưng cũng có thể là các luật sư hành nghề tự do (Mỹ, Nêpal, Hà Lan,
Thụy Điển…). Các luật sư có thể tự mình thực hiện TGPL trên cơ sở yêu cầu của
người thụ hưởng hoặc cũng có thể thực hiện theo đơn đặt hàng từ phía nhà nước hoặc
các chủ thể có điều kiện khác. Ví dụ như ở Nhật Bản, nếu có nguyện vọng thực hiện
TGPL các luật sư tư gửi đơn đề nghị đến các Trung tâm TGPL, Chi nhánh, Tiểu chi
nhánh. Giám đốc các Trung tâm trợ giúp pháp lý, Chi nhánh, Tiểu chi nhánh sẽ xem
xét nếu thấy luật sư không thuộc các trường hợp đang bị đình chỉ hành nghề theo
Điều lệ Liên đoàn Luật sư, chưa từng ký kết hợp đồng TGPL và bị hủy hợp đồng,
đồng thời đáp ứng các yêu cầu TGPL thì sẽ ký kết hợp đồng [83].
2.3.1.3. Nhóm các quy định về quản lý cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp
Đây là một bộ phận rất quan trọng của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp, thể hiện rõ nét trách nhiệm của Nhà nước đối với việc cung ứng dịch vụ
công trong điều kiện xã hội hóa, chuyển giao cho khu vực tư nhân thực hiện. Pháp
luật của các nước hầu hết đều có quy định về mô hình quản lý và trách nhiệm của các
cơ quan quản lý nhà nước đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Nhìn chung, nội dung QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp thường bao gồm:
- Xây dựng các tiêu chuẩn cung ứng dịch vụ công tương ứng với từng loại dịch
vụ công cụ thể. Các tiêu chuẩn này thông thường bao gồm tiêu chuẩn của nhà cung ứng
dịch vụ và tiêu chuẩn về chất lượng, quy trình cung ứng dịch vụ.
- Thống nhất quản lý cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nhằm bảo
đảm việc cung cấp dịch vụ công tuân thủ về tiêu chuẩn, điều kiện, chất lượng dịch vụ.
- Tiến hành các biện pháp thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm của
các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ công.
- Tham gia vào việc lập quy hoạch, kế hoạch và xây dựng chính sách phát triển
hoạt động cung ứng dịch vụ công nhằm mở rộng mạng lưới cung ứng dịch vụ công,
đảm bảo chất lượng và chi phí dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Pháp luật về cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp của các nước thuộc
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nhấn mạnh đến kiểm soát việc gia nhập
thị trường, giá cả, quản lý chất lượng dịch vụ công được cung cấp [107, tr.4-5]. Mô
hình quản lý dịch vụ công cần bảo đảm tính chuyên môn và độc lập trong quản lý.
Mô hình quản lý này gồm cơ quan trung ương, cấp tỉnh hoặc tổ chức phi chính phủ.
Các cơ quan trung ương sẽ có trách nhiệm trong việc giám sát toàn bộ thị trường, giải
quyết các vấn đề giá cả và liên kết giữa các doanh nghiệp chi phối. Các cơ quan cấp
tỉnh hoặc tổ chức phi chính phủ sẽ kiểm soát việc cung cấp dịch vụ công, giải quyết
các khiếu nại của khách hàng và hỗ trợ cho việc cung cấp dịch vụ công tại địa
phương [108, tr.6].
Trong lĩnh vực công chứng, cơ quan quản lý được chia theo nhiều cấp độ mà
Bộ Tư pháp là cơ quản quản lý nhà nước cao nhất về công chứng tại hầu hết các nước
(Ba Lan, Pháp, Đức, Trung Quốc....). Ở cấp địa phương cũng có những cơ quan quản
lý riêng, có thể là một cơ quan trực thuộc Toà án hoặc cơ quan hành chính tư pháp.
Nhiệm vụ chung của các cơ quan này là giám sát và chỉ đạo các tổ chức hành nghề
công chứng và các tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên theo quy định
của pháp luật, giám sát việc thi hành công vụ và tập sự công chứng viên. Hoạt động
công chứng ở nhiều nước được coi là một bộ phận của hệ thống tư pháp, do vậy Toà
án chính là cơ quan quản lý hoạt động công chứng tại địa phương. Cụ thể là ở Đức
mọi công chứng viên phải chịu sự giám sát của Chánh tòa cấp quận/huyện có thẩm
quyền và nếu không tuân thủ luật pháp có thể dẫn tới các chế tài kỷ luật. Tây Ban
Nha là một trong những nước khá khác biệt với việc về cơ quan quản lý nhà nước:
Tổng cục quản lý Đăng ký và Công chứng là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức
năng quản lý hai mảng lớn, đó là quản lý đăng ký và quản lý công chứng. Hai mảng
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tổng Cục Đăng ký và Công chứng có các
chức năng nhiệm vụ sau, ngoài các chức năng khác: dự thảo các quy chế cần thiết để
tuân thủ Luật công chứng và các Quy chế hoặc lệnh để thực thi; giải quyết các nội
dung tham vấn và nghi ngờ của Hội đồng Quản trị các Đoàn Công chứng hoặc công
chứng viên; ra các Quyết định phù hợp trong các vấn đề thuộc thẩm quyền; giải quyết
các khiếu nại đối với các quyết định của Hội đồng Quản trị không thừa nhận các nội
dung công chứng; thực hiện hoạt động đăng ký, thanh tra và giám sát của các Văn
phòng công chứng (Điều 313 Quy chế công chứng) [17, tr.47-48].
Pháp luật về GĐTP của Đức, Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản, Trung Quốc có văn
bản luật riêng quy định về vấn đề GĐTP mà các quy định về vấn đề này nằm ở nhiều
văn bản luật khác nhau như Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng dân sự, Luật về thù
lao... Theo đó, pháp luật của các nước này không quy định cơ quan nhà nước có
nhiệm vụ thống nhất QLNN về GĐTP vì GĐTP là hoạt động chuyên môn. Các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận giám định viên là các hiệp hội, tổ
chức nghề nghiệp hoặc các Tòa án, Viện Khoa học hình sự, pháp y thì cũng đồng thời
có trách nhiệm bồi dưỡng cho giám định viên và xử lý vi phạm bằng cách miễn
nhiệm, chấp dứt hoạt động của giám định viên tư pháp [18, tr.11].
Đạo luật bán đấu giá công khai của Canada quy định người đứng đầu các bang
hoặc người được ủy quyền có quyền kiểm tra hoạt động bán đấu giá của người kinh
doanh BĐGTS, hồ sơ, sổ sách, giấy tờ và các tài liệu phục vụ cho quá trình kiểm tra tại
mọi thời điểm, mọi địa điểm kinh doanh của người bán đấu giá; có quyền thanh tra các
tài khoản ủy thác của các tổ chức BĐGTS [25, tr.58].
2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện
pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp
Xuất phát từ quan niệm về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp có những khác biệt nên cách thức quy định và định hướng
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở các nước vừa có sự tương
đồng, vừa có sự khác biệt lẫn nhau. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp như điều kiện
kinh tế - xã hội, quan điểm chính trị, pháp lý, lịch sử, văn hóa... Mặc dù vậy, với ý
nghĩa là cơ sở pháp lý cho việc chuyển giao, thu hút các nguồn lực trong xã hội cho
việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật
về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở một số nước có giá trị tham khảo, gợi mở
nhiều nội dung, nguyên tắc trong quá trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cần bảo đảm xác
định rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với việc cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có vai trò quan trọng đối với
việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, phục vụ cho công tác xét xử
và bảo vệ pháp luật. Pháp luật cần quy định cụ thể trách nhiệm của Nhà nước đối với
việc cung cấp các dịch vụ công này cho người dân. Trách nhiệm này được thể hiện từ
việc trực tiếp cung cấp dịch vụ và trách nhiệm bảo đảm cung cấp dịch vụ có chất
lượng, thường xuyên, kịp thời cho người dân trong điều kiện xã hội hóa. Pháp luật
cần xác định đúng phạm vi thực hiện xã hội hóa, cơ chế khuyến khích đối với những
tổ chức, cá nhân tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và
trách nhiệm của Nhà nước trong tổ chức bộ máy, thực thi nhiệm vụ quản lý, thanh tra,
kiểm tra, giám sát để bảo đảm chất lượng các dịch vụ công được cung cấp.
Thứ hai, XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một xu
thế trong tổ chức và cung ứng dịch vụ công trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp của Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu thế hoàn thiện pháp luật chung của các nước trên thế giới để
phục vụ cho quá trình xã hội hóa. Với tính chất, vai trò đặc biệt của các dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp, cùng với những biện pháp khuyến khích tham gia cung cấp
dịch vụ công thì pháp luật một mặt cần bảo đảm các điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình
chặt chẽ cho việc cung cấp dịch vụ nhưng mặt khác phải bảo đảm tính công khai,
minh bạch, dễ dàng tiếp cận cho mọi đối tượng có khả năng và mong muốn tham gia
cung cấp dịch vụ công. Pháp luật cũng cần có chế độ trách nhiệm rõ ràng đối với
những chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ công để bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ
công được thực hiện có chất lượng, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân thụ
hưởng dịch vụ đó. Chế độ trách nhiệm này bao gồm cả những biện pháp xử lý sai
phạm trong việc cung ứng dịch vụ công của các tổ chức, cá nhân của khu vực tư nhân
nhằm bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Thứ ba, thực tiễn pháp luật của các nước cho thấy khó có thể pháp điển các
quy phạm trong cùng một văn bản liên quan đến xã hội hóa cung ứng dịch vụ công
nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng. Vì vậy, khi xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam cần có lộ trình và bước đi phù
hợp với thực tiễn. Ngoài những vấn đề có tính nguyên tắc có thể pháp điển trong một
văn bản pháp luật thì việc điều chỉnh cung ứng dịch vụ công có thể được điều chỉnh
trong từng lĩnh vực văn bản chuyên biệt. Các văn bản chuyên biệt này cùng với các quy
định chung sẽ tạo thành cơ sở pháp lý cho việc thưc hiện XHHDVC. Kinh nghiệm của
các nước cho thấy tính đồng bộ, thống nhất, tránh chồng chéo, mâu thuẫn của hệ
thống pháp luật là một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm để bảo đảm hiệu quả thực
tế của các hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
1. Trên cơ sở phân tích các luận cứ khoa học liên quan đến phạm trù về dịch
vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, trong phạm vi của Chương 2, Luận án
đã xác định được khái niệm, đặc điểm của XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Là một
khái niệm khá đặc thù của Việt Nam, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là quá trình
huy động các chủ thể trong xã hội tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp. Phạm vi XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được xác định tùy thuộc vào
điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn, từng quốc gia, từng khu vực nhất định.
2. Từ những phân tích các cơ sở lý luận khoa học, Luận án đã xây dựng khái
niệm, phân tích đặc điểm pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Là một bộ
phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, các quy định pháp luật về XHHDVC được
thiết kế đan xen trong các lĩnh vực pháp luật và trong các văn bản QPPL ở các cấp độ
khác nhau. Pháp luật điều chỉnh ba nhóm quan hệ cơ bản phát sinh từ quá trình tổ
chức, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, thực hiện XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp và các nội dung về trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý việc cung
cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa.
3. Luận án đã đưa ra khái niệm, xác định bảy tiêu chí đánh giá mức độ hoàn
thiện pháp luật và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Đây là căn cứ, thước đo, công cụ cho việc đánh giá
thực trạng của pháp luật trong Chương 3 cũng như định hướng các giải pháp cho việc
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được đề cập tại Chương 4
của Luận án.
4. Trên cơ sở thông tin pháp luật của một số nước có liên quan đến XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp, Luận án đã cung cấp các thông tin pháp luật có giá trị tham
khảo đối với việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt
Nam. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là
một xu thế tất yếu, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật phù hợp nhằm tạo cơ sở pháp lý
cho việc quản lý và cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hiệu quả trong điều
kiện xã hội hóa.
Chƣơng 3
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG
TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM
3.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM
3.1.1. Giai đoạn trƣớc năm 2001
Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với ý nghĩa là cơ sở pháp lý
cho việc chuyển giao và thu hút sự tham gia của người dân vào việc thực hiện các
hoạt động tư pháp - địa hạt thông thường thuộc về các cơ quan Nhà nước gắn với
thực thi quyền lực Nhà nước ở Việt Nam mặc dù không nhiều nhưng cũng xuất hiện
khá sớm trong pháp luật của Việt Nam.
Trong thời kỳ phong kiến chuyên chính, thực tế triều đình phong kiến của Việt
Nam đã có một số quy định thu hút người dân tham gia một số công việc liên quan
đến pháp luật. Năm 1499, Triều vua Lê Hiến Tông quy định, mỗi xã, thôn, phải chọn
một hai người cao tuổi, học lực khá, phẩm hạnh tốt, cứ ngày nhàn rỗi tập trung dân ở
đình, quán, công sở để giảng giải luật cho dân hiểu [42, tr.102]. Năm 1663, triều vua
Lê Huyền Tông cũng chỉ dụ việc thông cáo văn bản pháp luật đến dân như sau: “các
nha môn thừa, Hiến, phủ, châu, huyện đều phải sao ra một bản treo ở nơi coi việc và
chuyển gửi cho các quan xã dân sở thuộc để viết ra bảng treo ở trong đình, cho quan
viên, giám sinh, sinh đồ, xã trưởng cứ đến ngày có việc làng thì hội họp con trai, con
gái lớn nhỏ đến giảng giải hiểu thị, để được thấm nhuần, biết sự khuyên răn” [42,
tr.217]. Bằng cách vận dụng linh hoạt các phương thức động viên các nguồn lực xã
hội phù hợp với thực tiễn, các triều đại phong kiến đã đưa pháp luật đến với người
dân đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội trong từng thời kỳ phát triển.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước dân chủ nhân
dân ra đời. Trong bộn bề công việc kháng chiến, giải phóng dân tộc và thống nhất đất
nước, Nhà nước đã có những hình thức thu hút sự tham gia của người dân trong việc
thực hiện một số công việc tư pháp theo yêu cầu QLNN cũng như để bảo vệ cho
quyền và lợi ích của người dân. Tiêu biểu như việc thông qua hoạt động của các tổ
chức, đoàn thể nhân dân như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội nông dân
và các tổ chức xã hội để thực hiện công tác phổ biến pháp luật, góp phần nâng cao ý
thức pháp luật, tăng cường QLNN bằng pháp luật [57, tr.29]. Hoặc để thực hiện
quyền được bào chữa của công dân theo Hiến pháp năm 1946, trong bối cảnh số
lượng luật sư ít, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 69/SL ngày
18/6/1949, sau đó được thay thế bởi Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 với nội
dung cho phép nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là
luật sư bênh vực cho mình, cụ thể như sau: “Từ nay, trước tòa án việc xử hộ và
thương mại, trước các tòa án thường và tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình,
trừ tòa án binh tại mặt trận, nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân
không phải là luật sư bênh vực cho mình. Công dân đó phải được Ông Chánh án
thừa nhận” [52, tr17]. Tuy vậy, nhìn chung, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế tập
trung cao độ phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất
nước cũng như giai đoạn phát triển đất nước cho đến trước khi thực hiện đường lối
đổi mới năm 1986, mặc dù pháp luật về các lĩnh vực công tác tư pháp tiếp tục được
hoàn thiện từng bước nhưng các nội dung thể hiện chính sách của Nhà nước về
chuyển giao công việc của Nhà nước hay thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá
nhân tham gia vào một số hoạt động tư pháp rất hạn chế. Công tác tư pháp nói chung
vẫn là địa hạt của Nhà nước, do các cơ quan, công chức tư pháp thực hiện.
Bước vào thời kỳ đổi mới, XHHDVC đã trở thành một chủ trương lớn của
Nhà nước và được triển khai mạnh mẽ nhằm tạo nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã
hội, hướng đến thực hiện thắng lợi mục tiêu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Trong bối cảnh đó, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã
có bước phát triển đáng kể. Các chính sách về XHHDVC được thể hiện trong quá
trình hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh vực luật sư và BĐGTS với việc ban hành Pháp
lệnh tổ chức luật sư năm 1987 và Nghị định số 86/CP ngày 19/12/1996 về việc ban
hành Quy chế BĐGTS. Theo đó, xã hội hóa được xác định là chuyển giao cung ứng
dịch vụ công cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện hoạt động BĐGTS
thông qua việc cho phép thành lập các tổ chức kinh doanh dịch vụ BĐGTS chuyên
nghiệp. Các tổ chức kinh doanh này là doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước và luật
công ty. Trong lĩnh vực luật sư, trên cơ sở kế thừa quy định trước đó về bào chữa
viên nhân dân trước đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 quy định tổ chức luật sư
ở Việt Nam là Đoàn luật sư được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và tương đương để giúp đỡ công dân, tổ chức về mặt pháp lý. Công dân Việt
Nam có đủ điều kiện thì được gia nhập Đoàn luật sư và trải qua thời kỳ tập sự từ 6
tháng đến 2 năm và kỳ kiểm tra tập sự thì có thể trở thành luật sư. Pháp lệnh cũng
quy định công dân, tổ chức phải trả thù lao khi nhờ luật sư giúp đỡ pháp lý. Thù lao
được sử dụng để trang trải kinh phí hoạt động cho Đoàn luật sư - tổ chức quản lý luật
sư do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập và trả thù lao cho luật sư (nhận thông qua
Đoàn luật sư). Nội dung QLNN về BĐGTS và luật sư được thể hiện qua các quy định
quản lý tiêu chuẩn, cấp chứng chỉ hành nghề, quản lý biểu mẫu... để bảo đảm dịch vụ
công được cung cấp theo chất lượng nhất định cũng như qua các quy định về thù lao,
phí cung cấp dịch vụ. Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính
phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cũng quy định sử dụng cộng tác viên trong TGPL,
thể hiện ý tưởng về việc xã hội hóa, thu hút sự tham gia của xã hội trong hoạt động
TGPL. Về hình thức văn bản, các quy định về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một
bộ phận cấu thành trong nội dung các văn bản quy định về lĩnh vực hoạt động đó.
Không có văn bản quy định riêng về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp hoặc có các
văn bản hướng dẫn độc lập về thực hiện xã hội hóa đối với từng dịch vụ cụ thể.
3.1.2. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay
Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 (kèm theo Quyết định số 136/QĐ-TTg
ngày 17/9/2001), trong đó yêu cầu xây dựng quan niệm đúng đắn về dịch vụ công và
đặt ra nhiệm vụ trước mắt là chuyển một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải
do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính
phủ đảm nhận. Đến đầu năm 2002, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định
huy động sự tham gia rộng rãi, tích cực của nhân dân vào công tác tư pháp và trực
tiếp nhấn mạnh đến xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp. Triển khai thực hiện
Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW và định hướng cải cách tổng thể
nền hành chính nhà nước theo Quyết định số 136/QĐ-TTg, Nghị quyết số 30c/NQ-CP,
từ năm 2001 đến nay, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã được đẩy
mạnh hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
3.1.2.1. Về nội dung
Thể chế hóa định hướng XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật trong
lĩnh vực này đã có sự phát triển mạnh mẽ, điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình xã hội hóa, bao gồm:
Nhóm quy phạm về tổ chức và hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
mở rộng sự tham gia cung cấp dịch vụ công cho các tổ chức và cá nhân trong xã hội
gắn với các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức này, không phân biệt là các tổ chức
cung ứng dịch vụ công lập hay ngoài công lập. Chất lượng các dịch vụ được chú
trọng. Các quy định về quy trình, thủ tục, trình tự và các tiêu chuẩn chuyên môn
nghiệp vụ cũng được hoàn thiện theo hướng ngày càng chặt chẽ hơn, bảo đảm sự
đồng bộ, thống nhất giữa pháp luật chuyên ngành với các quy định chung về hoạt
động tố tụng và tổ chức của các cơ quan tư pháp.
Nhóm các quy phạm về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thể hiện rõ
xu hướng chuyển giao cung ứng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cho các tổ
chức, cá nhân trong xã hội cùng với tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
các tổ chức dịch vụ sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ công. Pháp luật cũng được
tập trung hoàn thiện với các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn phù hợp với yêu cầu
chuyên môn, nghiệp vụ của từng loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Quy trình,
thủ tục thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được quy
định cụ thể, minh bạch hơn và tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình thực
hiện. Pháp luật bước đầu đã có các quy định khuyến khích thực hiện XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp cùng với các quy định về bảo hiểm, phí, lệ phí cung cấp dịch vụ công
để tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hoạt động.
Nhóm các quy định về QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp trong điều kiện thực hiện xã hội hóa được chú trọng đổi mới theo hướng
chuyển từ quản lý trực tiếp việc cung cấp dịch vụ của các cơ quan nhà nước sang quản
lý vĩ mô, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật quy định trách nhiệm của Nhà nước trong quản
lý vĩ mô, chính sách, quy hoạch xây dựng và phát triển mạng lưới tổ chức cung cấp
dịch vụ công, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp. Pháp luật quy định cơ chế tự quản của các tổ chức dịch vụ công thông qua
hình thành các hội nghề nghiệp và phối hợp giữa cơ quan nhà nước với các hội nghề
nghiệp này để thực hiện quản lý cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
3.1.2.2. Về hình thức
Pháp luật trong giai đoạn này được hoàn thiện về hình thức đáng kể. Nhằm
đáp ứng với yêu cầu phát triển năng động của nền kinh tế đang trong quá trình phát
triển, hội nhập, các văn bản QPPL điều chỉnh về hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực
tư pháp cũng thường xuyên được xây dựng mới, sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung kịp thời.
Các lĩnh vực pháp luật chuyền ngành về các hoạt động tư pháp cụ thể đều đã được
điều chỉnh trong hình thức văn bản là Luật và kèm theo là hệ thống các văn bản
QPPL hướng dẫn thi hành như Nghị định, Thông tư, Thông tư liên tịch. Cùng với đó,
các văn bản QPPL quản lý tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ
cũng được điều chỉnh, bổ sung, thay mới phù hợp yêu cầu cải cách hành chính, theo
hướng ngày càng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự
nghiệp công lập. Các văn bản này khá phong phú, đa dạng, bao gồm Luật, Nghị định,
Thông tư quy định chung hoặc quy định từng nội dung hoạt động như cán bộ, công
chức, tài chính, việc thực hiện nhiệm vụ...Rà soát các quy định về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp có thể thấy bao gồm hai nhóm văn bản như sau:
Nhóm thứ nhất là các văn bản QPPL chuyên ngành từng lĩnh vực hoạt động tư
pháp về luật sư, công chứng, GĐTP, BĐGTS... được các cơ quan có thẩm quyền ban
hành theo nhiều loại văn bản, trong đó văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Luật. Cho
đến nay, các lĩnh vực hoạt động tư pháp hầu hết đã được điều chỉnh bởi các Luật, cụ
thể là Luật luật sư, Luật công chứng, Luật trợ giúp pháp lý, Luật giám định tư pháp,
Luật đấu giá tài sản. Lĩnh vực thừa phát lại vừa kết thúc giai đoạn thí điểm để thực hiện
chính thức đang được điều chỉnh theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số
135/2013/NĐ-CP. Theo Luật ban hành văn bản QPPL và được xác định tại các điều cụ
thể trong Luật, Chính phủ ban hành các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số Điều được giao trong Luật. Căn cứ Nghị định của Chính phủ, các Bộ,
ngành được giao hoặc có liên quan sẽ ban hành hoặc phối hợp ban hành các Thông tư,
Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành các nội dung cụ thể do Chính phủ giao. Đặc
điểm chung của các văn bản này bao gồm các quy phạm quy định tổng thể việc thực
hiện các dịch vụ công trong từng lĩnh vực, trong đó có các quy định về XHHDVC đối
với dịch vụ đó từ hình thức chuyển giao, thu hút sự tham gia cung cấp dịch vụ công
đến các tiêu chuẩn, điều kiện, hình thức tham gia hành nghề của các tổ chức, cá nhân
trong xã hội, cũng như các quy định về QLNN.
Nhóm thứ hai là các văn bản QPPL chung quy định về XHHDVC nói chung,
trong đó điều chỉnh các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Nhóm này tập trung quy
định hoạt động của nhóm dịch vụ sự nghiệp công như Luật viên chức, Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp, Luật phí và lệ phí, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015
của Chính phủ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công
lập và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành. Điểm chung là các văn bản QPPL
trong lĩnh vực này thường chỉ quy định một hoặc một vài vấn đề liên quan đến việc
cung cấp dịch vụ công được cung cấp bởi cả khu vực trong và ngoài Nhà nước.
Khái quát chung về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cho thấy sự ra đời của các văn bản QPPL là kết quả
của quá trình liên tục sửa đổi, bổ sung thay thế những văn bản QPPL trong các lĩnh
vực khác nhau. Do vậy tại cùng một thời điểm có thể tồn tại các mặt bằng pháp lý
khác nhau để cùng điều chỉnh về một vấn đề. Thực tế cho thấy quá trình hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bắt đầu chậm hơn so với việc
XHHDVC nói chung, ban đầu chỉ được thực hiện ở lĩnh vực BĐGTS và luật sư. Tuy
nhiên, sau khi các định hướng chiến lược về hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp
được ban hành thì quá trình xã hội hóa gắn với hoàn thiện pháp luật lại được đẩy
mạnh thực hiện và coi đây là một trong nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp.
Đến nay, pháp luật cơ bản đã và đang tiếp tục hoàn thiện theo yêu cầu của Chiến
lược, đáp ứng yêu cầu QLNN và thực tiễn đời sống xã hội.
3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG
LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm tổng thể các quy
phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện XHHDVC
được thiết kế trong các văn bản QPPL chuyên ngành quy định về từng hoạt động tư
pháp và đồng thời cũng chịu sự điều chỉnh chung của các văn bản QPPL quy định về
tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, các tổ chức hành nghề cung ứng dịch vụ
công. Đánh giá về thực trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên các
nhóm quy định cơ bản cấu thànhh được nêu tại Chương II có thể thấy những ưu điểm,
hạn chế sau:
3.2.1. Nhóm các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực tƣ pháp
Đây là nhóm các quy định chung về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp, được thể hiện trong các văn bản pháp luật chung cũng
như các văn bản pháp luật chuyên ngành. Nội dung các quy định xác định các vấn đề
về nguyên tắc đối với việc cung cấp dịch vụ công, tổ chức cung cấp dịch vụ công
cũng như quyền và nghĩa vụ của các tổ chức này trong cung cấp dịch vụ công. Nhóm
quy định này cũng quy định trình tự, thủ tục thực hiện các dịch vụ công, không phân
biệt dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức dịch vụ sự nghiệp công lập hay ngoài
công lập. Rà soát các văn bản pháp luật có liên quan cho thấy, nhóm các quy định này
có những ưu điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, pháp luật đã quy định tương đối toàn diện về tổ chức và hoạt động
cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm các nguyên tắc, tổ chức, quyền
và nghĩa vụ của các tổ chức cung cấp dịch vụ, không phân biệt tổ chức công lập hay
ngoài công lập. Các Luật như Luật luật sư (Điều 6), Luật công chứng (Điều 4), Luật
giám định tư pháp (Điều 3), Luật trợ giúp pháp lý (Điều 4)... và các văn bản hướng dẫn
thi hành đều đã có các nguyên tắc căn bản đối với việc cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp phù hợp với yêu cầu phục vụ cho công tác bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền và lợi ích của người dân. Các nguyên tắc được đề cao là tuân thủ Hiến pháp,
pháp luật, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, tuân thủ quy tắc đạo đức nghề
nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện các dịch vụ công do mình
cung cấp. Các nguyên tắc này phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng cung cấp dịch
vụ công, bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công của người
dân, bảo đảm tính công bằng giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ công lập và ngoài công
lập. Đây là những tư tưởng chỉ đạo cho tổ chức cung cấp dịch vụ và bảo đảm cơ bản
nhất cho việc cung cấp dịch vụ đạt được mục đích mà Nhà nước mong muốn.
Trên cơ sở các nguyên tắc cung cấp dịch vụ công, pháp luật quy định cụ thể về
tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các tổ chức này bao
gồm các tổ chức của Nhà nước hay do các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện.
Bằng các quy định về tổ chức hành nghề bao gồm Văn phòng công chứng (Điều 18,
Điều 22 Luật công chứng), Văn phòng Thừa phát lại (Nghị quyết số
107/2015/QH13), Văn phòng Giám định tư pháp ngoài công lập (Điều 14 Luật giám
định tư pháp), Doanh nghiệp đấu giá tài sản chuyên nghiệp (Điều 23 Luật đấu giá tài
sản) hay các Văn phòng luật sư (Điều 10, Điều 32 Luật luật sư)..., pháp luật cho phép
các chủ thể trong xã hội được tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
trên cơ sở đáp ứng các điều kiện theo quy định. Pháp luật cũng quy định về quyền và
nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp,
không phân biệt tổ chức công lập hay ngoài công lập (Điều 39, 40 Luật luật sư, Điều
24 Luật đấu giá tài sản, Điều 32, 33 Luật công chứng, Điều 15, Điều 18 Luật trợ giúp
pháp lý, Điều 24 Luật giám định tư pháp). Những quyền tiêu biểu pháp luật quy định
cho các chủ thể cung cấp dịch vụ công như quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan cung cấp giấy tờ, tài liệu; quyền từ chối thực hiện dịch vụ công theo quy
định của pháp luật... Các tổ chức cung cấp dịch vụ cũng có nghĩa vụ thực hiện các
dịch vụ trong khuôn khổ pháp luật, bảo đảm thực hiện dịch vụ một cách khách quan,
nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu
dịch vụ; trách nhiệm trong việc bồi thường thiệt hại gây ra cho khách hàng...
Thứ hai, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã từng bước được hoàn
thiện bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp với các quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật có liên quan. Một trong
những nội dung quan trọng trong hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đó là
các trình tự, thủ tục cung cấp dịch vụ công. Thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp, đơn
giản hóa thủ tục hành chính, trong thời gian qua, các quy định về trình tự, thủ tục
cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực tư pháp đã từng bước được hoàn thiện theo
hướng ngày càng rõ ràng, cụ thể, minh bạch, hạn chế các mâu thuẫn, chồng chéo
trong thực hiện các thủ tục tố tụng hoặc thủ tục theo pháp luật chuyên ngành khác.
Luật công chứng năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng rõ ràng, chặt chẽ và đơn
giản hơn thủ tục thực hiện công chứng (Điều 40, 41 và Điều 54 đến Điều 59); sửa đổi
quy định về phạm vi công chứng hợp đồng, giao dịch (Điều 53), lời chứng của công
chứng viên (Điều 46), sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng (Điều 50)…; bổ
sung quy định về người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch và
thủ tục công chứng bản dịch giấy tờ (Điều 61). Luật giám định tư pháp quy định cụ
thể về hoạt động trưng cầu và thực hiện GĐTP, quyền và nghĩa vụ của người trưng
cầu giám định cũng như các tổ chức, cá nhân thực hiện GĐTP (Điều 21-Điều 23), cơ
chế giải quyết xung đột kết luận giám định để khắc phục những bất cập hiện nay liên
quan đến vấn đề này (Điều 29). Luật đấu giá tài sản tách bạch quy trình bán đấu giá
với quy trình trước và sau khi tổ chức bán đấu giá như việc phê duyệt tài sản đưa ra
đấu giá, việc thẩm định giá, xác định giá khởi điểm, giám định tài sản đấu giá được
thực hiện trước khi ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá; việc chuyển quyền sở hữu tài
sản được thực hiện sau khi tổ chức đấu giá tài sản thực hiện việc đấu giá thành. Luật
đấu giá tài sản cũng quy định về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản chung và trình tự, thủ
tục đấu giá các loại tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá theo
hướng chặt chẽ, đảm bảo tính minh bạch, khách quan, hạn chế tối đa tình trạng “quân
xanh, quân đỏ”, móc nối, thông đồng, dìm giá, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, cá nhân liên quan, tránh gây thất thoát cho tài sản nhà nước (Điều 55-Điều
65 Luật đấu giá tài sản).
Thứ ba, các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp cơ bản bảo đảm phù hợp với các cam kết của Việt Nam theo các
điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập hoặc là thành viên. Pháp luật luật sư đã cho
phép thành lập các chi nhánh, văn phòng luật sư ở nước ngoài tại Việt Nam, cho phép
các luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam và cơ bản pháp luật không có các quy
định phân biệt đối xử trong cùng loại hành nghề giữa luật sư trong nước và nước
ngoài tại Việt Nam. Trong điều kiện đổi mới việc cung ứng các dịch vụ công, pháp
luật về giá, phí đối với các lĩnh vực này cũng được tính toán theo các nguyên tắc của
thị trường. Luật luật sư quy định cách tính thù lao cho cung cấp các dịch vụ của luật
sư và xác định thù lao trên cơ sở sự thỏa thuận, thống nhất giữa các bên theo pháp
luật dân sự (Điều 54, Điều 55). Trong trường hợp phải trả phí, Luật phí và lệ phí 2015
quy định nguyên tắc phí phải cơ bản bù đắp được chi phí cho việc thực hiện dịch vụ
(Điều 8). Ngoài ra, các tổ chức cung cấp dịch vụ công có thể được trả các chi phí
khác cho việc thực hiện công việc trên cơ sở thỏa thuận với người yêu cầu cung cấp
dịch vụ công (Điều 56, Điều 57 Luật luật sư, Điều 68 Luật công chứng, Điều 36 Luật
giám định tư pháp, Điều 66 Luật đấu giá tài sản).
Mặc dù quy định tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công đã được hoàn thiện
nhưng tiếp cận từ góc độ xã hội hóa cho thấy còn những tồn tại, hạn chế cơ bản sau:
Thứ nhất, các quy định về tổ chức và hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp còn chưa ổn định, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung và vẫn còn hiện tượng
tồn tại nhiều mặt bằng pháp lý để điều chỉnh về cùng một hoạt động dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp. Xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là vấn đề mới,
chỉ được đẩy mạnh thực hiện trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay. Mặc dù có những
bước phát triển mạnh mẽ theo định hướng chiến lược cải cách tư pháp nhưng thực
tiễn cho thấy pháp luật trong lĩnh vực này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, điều
chỉnh. Các văn bản thường chỉ có thời gian thực hiện trong khoảng 05 năm. Luật luật
sư năm 2006 và được sửa đổi, bổ sung năm 2012. Luật công chứng ban hành năm
2006 và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2007 và được sửa đổi năm 2014.
Trong lĩnh vực THADS, thực hiện chủ trương xã hội hóa, Quốc hội đã cho
phép chính thức thực hiện chế định thừa phát lại trong phạm vi toàn quốc. Hoạt động
của Thừa phát lại bao gồm lập vi bằng, tống đạt giấy tờ và THADS. Trong đó, hoạt
động lập vi bằng được điều chỉnh theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số
135/2013/NĐ-CP, hoạt động tống đạt giấy tờ được điều chỉnh theo Bộ luật tố tụng
dân sự và hoạt động THADS lại được điều chỉnh theo Luật THADS. Điều này dẫn
đến những khó khăn nhất định cho các tổ chức thực hiện cung cấp dịch vụ công cũng
như người dân có nhu cầu trong tiếp cận với dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Thứ hai, một số quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công chưa
thống nhất với quy định của pháp luật có liên quan nên dẫn đến những hạn chế trong
hiệu quả thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Bản thân các quy định về cung
cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có liên quan chặt chẽ đến pháp luật trong các
lĩnh vực dân sự, tố tụng, đất đai, kinh tế, thương mại... Sự không thống nhất này cũng
làm ảnh hưởng đến chất lượng pháp luật. Luật đất đai năm 2003 quy định giao dịch,
hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất phải được công chứng, chứng thực. Tuy
nhiên, Luật công chứng năm 2006 và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về chứng thực đã
có sự phân định rõ ràng giữa công chứng và chứng thực, theo đó việc thực hiện
chứng thực theo Luật đất đai là không còn phù hợp. Trên thực tế, nhiều địa phương
đã có hướng dẫn thống nhất về thẩm quyền công chứng đối với các hợp đồng, giao
dịch liên quan đến quyền sử dụng đất nhưng người dân vẫn thực hiện chứng thực
theo thói quen. Tình trạng không rõ ràng trong chuyển giao thẩm quyền công chứng,
chứng thực giao dịch, hợp đồng cũng không được khắc phục trong Luật đất đai năm
2013, Luật công chứng năm 2014 và mới đây nhất là Nghị định số 23/2015/NĐ-CP
ngày 16/2/2015 của Chính phủ thì vẫn tiếp tục có quy định về chứng thực hợp đồng,
giao dịch của Ủy ban nhân dân (Điều 1 và Điều 34).
Trong lĩnh vực GĐTP, theo quy định của Luật giám định tư pháp năm 2012 và
Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, để có kết luận giám định được tiến hành
bằng hai hình thức gồm: Trưng cầu giám định và yêu cầu giám định. Trưng cầu giám
định chỉ do Tòa án, người tiến hành tố tụng thực hiện. Còn yêu cầu giám định là
quyền của đương sự sau khi đã đề nghị Tòa án, người tiến hành tố tụng trưng cầu
giám định mà không được chấp nhận. Tuy nhiên, tại Điều 90 của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 thì chỉ có quy định về trưng cầu giám định mà không đề cập đến trường
hợp quyền tự yêu cầu giám định của đương sự. Trong trường hợp này, nếu quy định
đầy đủ về quyền tự yêu cầu giám định của đương sự trong các vụ án dân sự thì sẽ là
cơ hội cho việc thúc đẩy hoạt động của các tổ chức giám định ngoài công lập phù hợp
với xu thế đẩy mạnh XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Ngoài ra, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp vẫn còn tồn tại các
quy định chưa thống nhất về địa vị pháp lý dẫn đến phân biệt đối xử giữa các tổ chức
cung ứng dịch vụ công lập và ngoài công lập. Cụ thể là Luật giám định tư pháp có sự
phân biệt về phạm vi công việc được thực hiện giữa các tổ chức GĐTP ngoài công
lập với các tổ chức GĐTP công lập (Điều 14 Luật giám định tư pháp). Mặc dù cùng
có nhiệm vụ trong việc xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức THADS
nhưng Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 và Nghị định số 135/2013/NĐ-
CP ngày 18/10/2013 quy định nhiệm vụ của Thừa phát lại không tương đương với
nhiệm vụ của chấp hành viên trong xác minh điều kiện thi hành và áp dụng biện pháp
cưỡng chế THADS nên người dân không lựa chọn thừa phát lại để yêu cầu xác minh,
trực tiếp tổ chức thi hành án. Văn phòng Thừa phát lại còn gặp khó khăn do quy định
không thống nhất giữa Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại với các Luật
có liên quan trong xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án tại cơ quan thuế, cảnh sát giao thông, tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng.
3.2.2. Nhóm các quy định về thực hiện xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh
vực tƣ pháp
Đây là nhóm quy định trung tâm của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp. Trước hết, các quy định về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã mở
rộng sự tham gia của những cá nhân có đủ điều kiện, được Nhà nước cho phép hành
nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Nhóm quy định này quy định
người hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hay còn được gọi là
các chức danh tư pháp (theo nghĩa rộng, không chỉ là thẩm phán, kiểm sát viên, điều
tra viên, luật sư) và điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp, trong đó bao gồm những tiêu chuẩn đặc thù đối với người thực hiện các dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các tiêu chuẩn hành nghề của các chức danh khác
nhau có sự thống nhất tương đối về chuyên môn, nghiệp vụ gắn với kinh nghiệm, thời
gian làm việc trong lĩnh vực đó.
Luật luật sư năm 2006 và được sửa đổi, bổ sung năm 2012 (Điều 2 và Điều
17) đã xác định xã hội hóa hoàn toàn đối với việc thực hiện nghề luật sư. Các cơ quan
nhà nước, trực tiếp là các cán bộ, công chức, viên chức theo Luật cán bộ, công chức
và Luật viên chức được xác định là những đối tượng không được hành nghề luật sư.
Các tổ chức hành nghề luật sư là Văn phòng luật sư và Công ty luật. Luật Trợ giúp
pháp lý năm 2006 quy định người thực hiện TGPL bao gồm cả luật sư, tư vấn viên
pháp luật làm việc trong các tổ chức tư vấn pháp luật. Trong lĩnh vực công chứng,
Luật công chứng xác định chủ thể thực hiện công chứng là các công chứng viên. Các
công chứng viên làm việc trong các Phòng công chứng thuộc Sở Tư pháp như Văn
phòng công chứng do các công chứng viên góp vốn để thành lập. Trong lĩnh vực
BĐGTS, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 4/3/2010 của Chính phủ (nay là Luật
BĐGTS) quy định tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp là Trung tâm dịch vụ BĐGTS
thuộc Sở Tư pháp hoặc doanh nghiệp đấu giá tài sản. Doanh nghiệp BĐGTS được
thành lập theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc Luật đấu giá tài sản.
Người thực hiện BĐGTS là các đấu giá viên. Điều 9 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP và
Điều 15 Luật đấu giá tài sản quy định không cấp chứng chỉ đấu giá viên cho các cán
bộ, công chức, trừ những người là cán bộ, công chức đề nghị cấp để làm việc trong
Trung tâm dịch vụ BĐGTS thuộc Sở Tư pháp. Luật giám định tư pháp năm 2012 quy
định về tổ chức GĐTP ngoài công lập. Theo đó, tổ chức GĐTP ngoài công lập là văn
phòng GĐTP, được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật,
di vật, bản quyền tác giả hoặc người giám định tư pháp theo vụ việc. Trong lĩnh vực
THADS, để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan
đến THADS, Quốc hội đã cho phép thực hiện thí điểm thực hiện chế định Thừa phát
lại (thừa hành viên) tại một số địa phương tại Nghị quyết số 28/2008/QH12 và tiếp
theo đó là Nghị quyết số 36/2012/QH13. Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, trên
cơ sở đánh giá kết quả thực hiện thí điểm thừa phát lại, Quốc hội khóa XIII đã có
Nghị quyết số 107/2015/QH13 về việc thực hiện chế định thừa phát lại, trong đó
quyết định chấm dứt thí điểm và cho thực hiện chế định thừa phát lại trong phạm vi
cả nước từ ngày 1/1/2016. Theo các quy định hiện hành, Thừa phát lại được xác định
là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc về THADS, tống đạt giấy tờ,
lập vi bằng và các công việc khác theo quy định của pháp luật (Điều 2a Nghị định số
135/2013/NĐ-CP và Điều 3 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP). Thừa phát lại không
kiêm nhiệm hành nghề công chứng, luật sư và các công việc khác theo quy định của
pháp luật. Văn phòng Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của thừa phát phát lại (Điều
15 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP).
Như vậy, bằng các quy định về người thực hiện, cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp, Nhà nước cho phép các chủ thể phi Nhà nước tham gia vào việc
cung cấp các dịch vụ công khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
Theo đó, các nhóm điều kiện bao gồm nhóm điều kiện chung và nhóm điều kiện về
chuyên môn, nghiệp vụ (Điều 10 Luật luật sư, Điều 8 Luật công chứng, Điều 7 Luật
giám định tư pháp, Điều 10 Luật đấu giá tài sản, Điều 21 Luật trợ giúp pháp lý).
Nhóm điều kiện chung quy định việc hành nghề chỉ được thực hiện đối với công dân
Việt Nam, thường trú tại Việt Nam, có sức khỏe và có phẩm chất đạo đức tốt. Nhóm
điều kiện về chuyên môn nghiệp vụ quy định có bằng cử nhân Luật hoặc chuyên
ngành phù hợp đối với lĩnh vực GĐTP, BĐGTS; thời gian, kinh nghiệm công tác
trong lĩnh vực dự kiến hành nghề. Điểm đặc thù đối với lĩnh vực tư pháp đó là quy
định về đào tạo, bồi dưỡng nghề đối với các chức danh được hành nghề. Thời gian
đào tạo, bồi dưỡng nghề có thể từ 03 tháng đến 12 tháng, trong đó bao gồm nội dung
kỹ năng, kiến thức, đạo đức nghề nghiệp phục vụ cho việc hành nghề. Bên cạnh quy
định đào tạo nghề, đối với chức danh luật sư, công chứng viên đòi hỏi phải có thời
gian tập sự hành nghề là 12 tháng thì mới đủ điều kiện để xem xét cấp chứng chỉ
hành nghề hoặc được bổ nhiệm vào chức danh tư pháp đó. Pháp luật cũng quy định
cụ thể về thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, đấu giá viên, bổ nhiệm công
chứng viên và thừa phát lại đối với Bộ trưởng Bộ Tư pháp và bổ nhiệm Giám định viên
tư pháp đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ (đối với giám định viên tư
pháp trong các cơ quan ở Trung ương), Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối với
giám định viên tư pháp ở địa phương).
Thứ hai, pháp luật đã thể hiện rõ xu thế chuyển giao việc cung cấp dịch vụ
công cho xã hội thực hiện trên cơ sở cho phép thành thành lập và đăng ký hoạt động
của các tổ chức chuyên nghiệp trong hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp ngoài công lập với mục tiêu phát triển rộng mạng lưới các tổ chức cung
cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, xóa bỏ việc kiêm nhiệm giữa chức năng
QLNN với thực hiện dịch vụ công, nâng cao chất lượng dịch vụ công, tạo thuận lợi
cho việc tiếp cận cũng như đáp ứng ngày càng tốt hơn với nhu cầu của người dân.
Điều này thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của Nhà nước trong
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, hướng đến sự bình đẳng giữa người dân với các cơ
quan, tổ chức cung ứng dịch vụ công. Thông qua việc cho phép thành lập và đăng ký
hoạt động, Nhà nước ủy quyền hoặc cho phép cho các tổ chức này nhân danh Nhà
nước tham gia vào việc cung ứng dịch vụ luật sư, công chứng, BĐGTS, GĐTP, thừa
phát lại. Cụ thể như sau:
* Pháp luật quy định về hình thức tổ chức hành nghề, cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp là hình thức Văn phòng hoặc Công ty. Chế độ pháp lý đối với
các tổ chức hành nghề này khá phong phú, hoạt động theo các loại hình doanh nghiệp
khác nhau. Điều 33 và điều 34 Luật luật sư quy định Văn phòng luật sư do một luật
sư thành lập và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; công ty luật bao gồm
công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn (bao gồm trách nhiệm hữu
hạn một thành viên và hai thành viên). Điều 22 Luật công chứng quy định Văn phòng
công chứng hoạt động theo quy định pháp luật liên quan đối với loại hình công ty hợp
danh. Điều 14 Luật Giám định tư pháp quy định Văn phòng GĐTP có 01 thành viên
thì hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; trường hợp do từ 02 giám định
viên trở lên thì hoạt động theo loại hình doanh nghiệp hợp danh. Doanh nghiệp
BĐGTS có thể được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp.
* Để được hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, các tổ
chức hành nghề phải đáp ứng các điều kiện theo luật định. Theo đó, điều kiện trước
tiên đối với các tổ chức này là phải có thành viên có đủ điều kiện hành nghề - hay là
các chức danh tư pháp. Luật luật sư, Luật công chứng, Luật đấu giá tài sản và Luật
Giám định tư pháp yêu cầu người đứng đầu tổ chức hành nghề phải là người có chức
danh tư pháp và có thời gian hành nghề ít nhất là 02 năm đối với đề nghị thành lập
Văn phòng công chứng (Điều 22), 05 năm đối với việc thành lập Văn phòng GĐTP
(Điều 15). Bên cạnh điều kiện về thành viên là các chức danh tư pháp, các tổ chức
này còn phải đáp ứng các yêu cầu về trụ sở, trang thiết bị làm việc. Luật giám định tư
pháp (Điều 16), Luật công chứng (Điều 23), Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (Điều 17)
quy định việc thành lập tổ chức hành nghề phải có Đề án thành lập, trong đó làm rõ
sự cần thiết, cách thức thành lập và hoạt động của từng loại tổ chức. Riêng đối với
hoạt động thừa phát lại, do tính chất đặc thù nghề nghiệp, yêu cầu đối với việc thành
lập bao gồm điều kiện về tổ chức bộ máy hoạt động của Văn phòng Thừa phát lại và
yêu cầu ký quỹ hoặc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho thừa phát lại. Cơ
bản có thể thấy các điều kiện cung cấp dịch vụ của các tổ chức hành nghề cung cấp
dịch vụ ngoài công lập là khá đơn giản, chủ yếu tập trung vào điều kiện tiêu chuẩn
thành viên hành nghề mà không quy định cụ thể điều kiện về tài chính, số lượng
người làm việc hay trang thiết bị làm việc.
* Trên cơ sở đáp ứng được các điều kiện thành lập, đăng ký hoạt động, trình tự
thành lập tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bao gồm
quy định xin phép thành lập và đăng ký hoạt động. Đối với lĩnh vực luật sư và
BĐGTS, tổ chức hành nghề thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động. Luật luật sư quy
định tổ chức hành nghề luật sư nộp hồ sơ đăng ký hoạt động đến Sở Tư pháp để được
cấp Giấy đăng ký hoạt động. Đối với doanh nghiệp đấu giá tài sản, Điều 25 Luật đấu
giá tài sản quy định đăng ký hoạt động đấu giá tài sản tại Sở Tư pháp. Điều 17 Luật
trợ giúp pháp lý quy định đăng ký tham gia TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư,
tư vấn pháp luật.
Đối với các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực công chứng (Điều 23 Luật công
chứng), giám định tư pháp (Điều 16, Điều 17 Luật giám định tư pháp) và thừa phát
lại (Điều 17, Điều 18 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP), tổ chức hành nghề phải qua hai
bước, bao gồm xin phép thành lập và đăng ký hoạt động. Theo đó, tổ chức hành nghề
lập hồ sơ gửi Sở Tư pháp nơi đặt trụ sở và Sở Tư pháp sẽ xem xét, thẩm định để trình
Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định cho phép thành
lập. Sau khi có Quyết định cho phép thành lập, tổ chức hành nghề thực hiện đăng ký
hành nghề với Sở Tư pháp và Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động cho tổ chức
hành nghề. Thời hạn hoàn thành thủ tục tùy thuộc vào từng loại hình tổ chức. Sau khi
được cấp Giấy đăng ký hoạt động, các tổ chức hành nghề có trách nhiệm đăng báo
trung ương hoặc địa phương 03 số liên tiếp về việc thành lập và hoạt động của tổ
chức. Qua các quy định trên cho thấy, đối với các lĩnh vực xã hội hóa mạnh thì thủ
tục thành lập và hoạt động đối với các tổ chức hành nghề đơn giản hơn, chỉ thông qua
bước đăng ký hoạt động. Trong khi đó, đối với các lĩnh vực mà việc thực hiện các
dịch vụ công không chỉ liên quan đến trách nhiệm cá nhân của người hành nghề mà
còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thì thủ tục thành lập bao
gồm cho phép thành lập và đăng ký hoạt động. Tuy nhiên, dù theo hình thức nào,
trường hợp từ chối cấp Giấy đăng ký hoạt động hoặc không cho phép thành lập thì
các cơ quan có thẩm quyền đều phải có văn bản trả lời và nói rõ lý do về quyết định
của mình.Người đề nghị có thể thực hiện các thủ tục khiếu nại theo quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong trường hợp không thỏa đáng.
Thứ ba, cùng với quy định thành lập các tổ chức chuyên nghiệp cung ứng dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật đã quy định hình thức ký hợp đồng để huy
động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp các dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp. Trên cơ sở đáp ứng đủ điều kiện hành nghề, các tổ chức, cá nhân có
thể tham gia cùng với các cơ quan, tổ chức của Nhà nước trong việc cung cấp các dịch
vụ công, cụ thể là hoạt động TGPL. Luật Trợ giúp pháp lý quy định việc tham gia
TGPL đối với các luật sư, tư vấn viên pháp luật của các trung tâm tư vấn pháp luật.
Bên cạnh hình thức tổ chức các hoạt động TGPL trực tiếp nhân danh Văn phòng luật
sư, công ty luật hay trung tâm tư vấn pháp luật, các luật sư, tư vấn viên pháp luật và các
cộng tác viên có thể tham gia các hoạt động của Trung tâm TGPL của Nhà nước. Điều
28 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/1/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý quy định về hình thức hợp đồng
cộng tác ký kết giữa cộng tác viên với Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Nhà nước. Trên
cơ sở hợp đồng ký kết, cộng tác viên sẽ thực hiện việc TGPL và được hưởng chế độ
bồi dưỡng, chí phí hành chính hợp lý. Ngoài ra, đối với các lĩnh vực GĐTP, luật sư,
pháp luật có quy định tham gia giám định hoặc tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ
quan tiến hành tố tụng theo Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg ngày 01/01/2014 của Thủ
tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng GĐTP và Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày
14/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật luật
sư. Theo đó, trường hợp được mời tham gia thì các luật sư hoặc giám định viên tư
pháp/người giám định theo vụ việc đều được hưởng một khoản chi phí bồi dưỡng nhất
định từ các cơ quan trưng cầu giám định hay cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ tư, pháp luật quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm và chuyển đổi
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp. Các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực tư pháp được thành lập theo Luật
trợ giúp pháp lý, Luật công chứng, Luật Giám định tư pháp và Nghị định số
17/2010/NĐ-CP (nay là Luật đấu giá tài sản), bao gồm các Trung tâm trợ giúp pháp
lý, Phòng công chứng, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thuộc Sở Tư pháp và
các tổ chức GĐTP công lập trong các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương.
Một trong những phương thức thực hiện xã hội hóa hiện nay là tăng cường tính năng
động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng tự cân đối các nguồn thu - chi để tổ
chức đơn vị phù hợp, giảm bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước trong việc tổ chức
thực hiện dịch vụ sự nghiệp công. Các mô hình tự chủ theo Nghị định số
16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự
nghiệp công lập bao gồm đơn vị tự chủ, tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động và
đơn vị tự bảo đảm một phần kinh phí hoặc do Ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ
chi phí hoạt động. Với mô hình đơn vị sự nghiệp tự chủ, tự bảo đảm toàn bộ chi phí
hoạt động, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP (trước đó là Nghị định số 43/2006/NĐ-CP)
cho phép các đơn vị được tự chủ, quyết định chi tiền lương tăng thêm cho cán bộ,
người lao động của đơn vị, cho phép áp dụng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp
khi đơn vị thỏa mãn các điều kiện về nguồn thu nhằm khuyến khích sự năng động, tự
chủ của đơn vị. Trong bối cảnh đẩy mạnh xã hội hóa, đặc biệt là định hướng đổi mới
các đơn vị dịch vụ sự nghiệp công lập theo Đề án đổi mới cơ chế hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp
công (Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 9/8/2012 của Chính phủ ), Luật giá năm 2012,
Luật phí và lệ phí năm 2015 cũng như Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định về lộ
trình tính chi phí, giá của các dịch vụ công trên cơ sở thị trường, qua đó là một trong
những hình thức thu hút sự tham gia đóng góp của người dân nhằm giảm bớt gánh
nặng chi phí cho Nhà nước, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công. Pháp luật
không quy định cụ thể về tổ chức của các tổ chức cung ứng dịch vụ ngoài công lập.
Đây là vấn đề tự quyết của các tổ chức, phụ thuộc vào khả năng, điều kiện, thu nhập
của bản thân tổ chức đó. Tuy nhiên, để bảo đảm chất lượng của các dịch vụ công
được cung ứng, pháp luật có quy định cụ thể về nội dung, cách thức thực hiện các
dịch vụ được cung ứng. Quy định này áp dụng chung tất cả các chủ thể tham gia vào
việc cung ứng dịch vụ, bao gồm cả công lập và ngoài công lập. Căn cứ các quy định
về quy trình nghiệp vụ cụ thể mà các tổ chức hành nghề quyết định tổ chức và hoạt
động cho phù hợp.
Thứ năm, pháp luật bước đầu đã quy định chính sách khuyến khích xã hội hóa
và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp hoạt động bằng các quy định ưu đãi, đặc thù đối với các tổ chức hành nghề
được thành lập ở những vùng có điều kiện, địa bàn khó khăn, điều kiện xã hội hóa
không cao. Điều 18 Luật công chứng và Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định về
chính sách ưu đãi đối với các Văn phòng công chứng được thành lập ở các địa bàn
khó khăn, đặc biệt khó khăn. Điều 38 Luật giám định tư pháp quy định chính sách ưu
đãi đối với các tổ chức giám định ngoài công lập nhằm khuyến khích thành lập và
hoạt động của các tổ chức giám định ngoài công lập. Căn cứ Luật giám định tư pháp,
Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y
tế, văn hóa, thể thao, môi trường, theo đó quy định về cơ chế hỗ trợ về tài chính, đất
đai và thuế cho văn phòng giám định tư pháp (Điều 1).
Nhìn chung, quy định thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã thể chế
hóa đầy đủ, kịp thời các định hướng đẩy mạnh XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như các chương
trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
thì các quy định về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng bộc lộ một số
hạn chế, bất cập:
Thứ nhất, pháp luật chưa bảo đảm thống nhất, đầy đủ về nội dung, hình thức,
phạm vi XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Thực tế vẫn còn quy định chưa thống nhất
với chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa. Điều 5 Luật giám định tư pháp quy định về
chính sách của Nhà nước đối với hoạt động GĐTP xác định Nhà nước đầu tư, phát
triển hệ thống tổ chức GĐTP công lập có nhu cầu giám định lớn, thường xuyên để
đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng. Với chính sách này thì sẽ khó có thể khuyến
khích xã hội hóa đối với hoạt động GĐTP. Bên cạnh đó, pháp luật về thực hiện xã hội
hóa mới tập trung quy định về xã hội hóa theo hình thức chuyển giao việc cung cấp
dịch vụ công cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Đối với trường hợp thực hiện xã
hội hóa thông qua việc thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân (bằng công việc
cụ thể hoặc đóng góp vật chất) thì pháp luật lại chưa có quy định đầy đủ. Trừ hoạt
động TGPL có quy định về hợp đồng cộng tác giữa cộng tác viên (công tác viên, luật
sư, tư vấn viên pháp luật) với Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Nhà nước thì việc
tham gia trong các lĩnh vực khác đều không có quy định về hình thức pháp lý cho sự
tham gia như luật sư trong các vụ án chỉ định hay giám định viên tư pháp theo yêu
cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật cũng thiếu các quy định đặc thù cho việc
thực hiện xã hội hóa các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các cơ chế, chính sách
ưu đãi của đối với các tổ chức hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp thường chỉ viện dẫn đến các quy định ưu đãi chung về thuế, tài chính, đất đai.
Tương tự như vậy, pháp luật cũng thiếu các quy định đặc thù về cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực tư pháp. Các đơn
vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực tư pháp theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP áp
dụng theo cơ chế đối với đơn vị sự nghiệp kinh tế là chưa phù hợp với đặc điểm hoạt
động tư pháp không chỉ đơn thuần hướng đến lợi nhuận mà còn phải hướng đến mục
tiêu bảo vệ pháp luật, công bằng trong xã hội.
Thứ hai, nhiều quy định về tiêu chuẩn hành nghề, điều kiện, trình tự, thủ tục,
thẩm quyền thành lập của các tổ chức hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp còn chưa đầy đủ, thống nhất. Mặc dù có tính chất, yêu cầu hành nghề
tương tự như nhau nhưng quy định về điều kiện thành lập Văn phòng Thừa phát lại
bao gồm các quy định chặt chẽ về tổ chức bộ máy, trụ sở, trang thiết bị làm việc
nhưng đối với việc thành lập Văn phòng công chứng hay doanh nghiệp đấu giá tài
sản thì Luật công chứng và Nghị định số 17/2010/NĐ-CP chỉ quy định có trụ sở,
trang thiết bị bảo đảm phù hợp. Nếu pháp luật không quy định cụ thể, định lượng
được các điều kiện cơ sở vật chất thìcó thể gây ra trở ngại cho việc cung cấp dịch vụ
công. Đặc biệt trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin mạnh mẽ hiện nay, pháp
luật không có quy định chuẩn về cơ sở hạ tầng nên dẫn đến khó khăn khi kết nối
thông tin giữa các cơ quan, tổ chức với nhau. Để khắc phục những hạn chế nói trên,
trong thời gian qua, một số địa phương (như Thành phố Hồ Chí Minh, Phú Yên, Bắc
Ninh...) đã ban hành các quy định về tiêu chí và quy trình xét duyệt thành lập Văn
phòng công chứng, nhưng việc ban hành theo địa phương dễ tạo ra sự không thống
nhất trong thực hiện, không bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tổ chức cung cấp
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Về thời gian, trình tự thành lập và cấp phép hoạt động giữa các loại tổ chức
hành nghề cũng chưa bảo đảm thống nhất với nhau. Pháp luật quy định hai loại trình
tự đăng ký hoạt động đối với các tổ chức hành nghề luật sư, BĐGTS, TGPL và cho
phép thành lập và đăng ký hoạt động đối với các tổ chức hành nghề công chứng,
GĐTP, thừa phát lại. Tuy nhiên, các quy định cụ thể về trình tự thành lập và cấp phép
hoạt động giữa các lĩnh vực chưa thể hiện thống nhất sự tham gia của các Sở Tư
pháp. Thời gian để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phép thành lập các tổ
chức hành nghề còn chưa được quy định đối với việc thành lập Văn phòng Thừa phát
lại, trong khi thời hạn cho phép thành lập Văn phòng công chứng là 20 ngày (Điều 23
Luật công chứng) thì việc thành lập Văn phòng giám định tư pháp lên đến 45 ngày
(Điều 16 Luật giám định tư pháp). Pháp luật chuyên ngành chưa có quy định về
quyền khiếu nại, khởi kiện đối với trường hợp từ chối cấp chứng chỉ hành nghề, bổ
nhiệm chức danh và cho phép thành lập hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động
cho các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực công chứng, GĐTP, BĐGTS...
Thứ ba, nhóm quy định về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thiếu
các nội dung bảo đảm hiệu quả của quá trình chuyển giao cung ứng dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp. Các quy định về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thể hiện rõ
xu hướng xã hội hóa, chuyển giao cung ứng dịch vụ công qua thành lập các tổ chức
cung ứng dịch vụ công chuyên nghiệp. Việc chuyển giao này cũng nhằm mục đích
xây dựng mô hình mới về cung cấp dịch vụ công trên cơ sở phân định lại trách nhiệm
của Nhà nước và xã hội, sử dụng có hiệu quả nguồn lực hữu hạn của Nhà nước trong
bối cảnh nhu cầu của xã hội ngày càng tăng. Tuy nhiên, pháp luật lại chưa có các quy
định để bảo đảm tính hiệu quả của quá trình chuyển giao cung ứng dịch vụ công. Luật
công chứng quy định về thực hiện công chứng các bản sao nhưng trên thực tế tại các
cấp cơ sở, các địa phương lại vẫn có nhu cầu bổ sung cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cho
việc thực hiện công tác tư pháp, trong đó có những nguyên nhân là khối lượng công
việc liên quan đến chứng thực bản sao, hợp đồng, giao dịch tăng lên. Quốc hội đã
chính thức cho thực hiện chế định Thừa phát lại trên toàn quốc nhưng hiện nay đang
đồng thời duy trì cả hệ thống THADS với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trước
khi có chế định Thừa phát lại. Khối lượng công việc của các cơ quan THADS cũng
được ghi nhận ngày càng tăng và do vậy chi phí và nhân lực cho công tác THADS
chưa giảm. Nhiệm vụ giữa cơ quan THADS và thừa phát lại chưa được phân định rõ.
Điều này chưa bảo đảm hiệu quả tối đa trong sử dụng các nguồn lực của các cơ quan
nhà nước cũng như của xã hội trong cung cấp dịch vụ công.
Thứ tư, các quy định thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp chưa chú
trọng đến việc hạn chế xu hướng thương mại hóa và khuyến khích tính chất phi lợi
nhuận, vì cộng đồng của các tổ chức cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Các quy định hiện có mới chỉ tập trung vào quản lý chặt chẽ về điều kiện, tiêu chuẩn
bảo đảm chất lượng dịch vụ được cung cấp hay gắn với quy hoạch mạng lưới để bảo
đảm sự phân bổ hợp lý các tổ chức hành nghề với mục đích hạn chế sự cạnh tranh
không lành mạnh của các tổ chức này. Pháp luật cũng mới chỉ ghi nhận các chính
sách ưu đãi trong trường hợp hoạt động ở những điều kiện, địa bàn khó khăn. Thực tế
các chính sách như bố trí trụ sở, hỗ trợ trang thiết bị làm việc cho các Văn phòng
công chứng ở các vùng có điều kiện khó khăn, ưu đãi về thuế theo quy định của pháp
luật thuế... còn cần thiết phải có thêm hướng dẫn thực hiện của các cơ quan có liên
quan. Trong khi đó, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp lại không có các
quy định khuyến khích thành lập và hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ công
ngoài công lập không vì mục tiêu lợi nhuận. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy
cần thiết phải phát huy được vai trò của các tổ chức phi lợi nhuận, vì lợi ích cộng
đồng trong chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công. Trên bình diện chung, pháp luật
đã có quy định về quy trình nghiệp vụ thực hiện các dịch vụ cụ thể và được áp dụng
chung cho cả tổ chức cung ứng dịch vụ công lập và ngoài công lập nhưng pháp luật
lại chưa bao gồm các tiêu chí đánh giá, quản lý chất lượng các dịch vụ. Do đặc thù
quy trình thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phụ thuộc không chỉ vào
pháp luật chuyên ngành đó mà còn gắn với pháp luật nội dung và tố tụng nên người
dân sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát được chất lượng các dịch vụ theo yêu
cầu. Cùng với đó, pháp luật cũng còn thiếu các quy định thanh tra, kiểm tra và cơ chế
thu thập thập, chia sẻ thông tin của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động của các tổ
chức hành nghề dịch vụ công nên dẫn đến những hiện tượng cạnh tranh không lành
mạnh, thực hiện sai các quy trình, nghiệp vụ của các tổ chức hành nghề mà các cơ
quan QLNN không nắm được.
Thứ năm, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn những quy định
thiếu tính khả thi. Luật trợ giúp pháp lý quy định về cơ chế khuyến khích, thu hút sự
tham gia của các tổ chức, cá nhân vào hoạt động TGPL nhưng lại thiếu các quy định
về các chế độ ưu đãi cụ thể đối với các tổ chức, cá nhân trong trường hợp tham gia
thực hiện hoặc hỗ trợ nguồn lực cho công tác TGPL. Trong điều kiện xã hội hóa,
Luật công chứng quy định chế độ làm việc của các tổ chức hành nghề công chứng,
bao gồm các Văn phòng công chứng theo giờ hành chính. Tuy nhiên, do hoạt động
theo mô hình doanh nghiệp nên các Văn phòng công chứng cũng rất chú ý đến yếu tố
lợi nhuận. Yếu tố lợi nhuận bắt buộc các Văn phòng công chứng phải có sự cạnh
tranh với nhau trong việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, trong đó có nhu cầu
công chứng ngoài giờ hành chính. Trường hợp quy định hoạt động theo giờ hành
chính là khó khả thi và kiểm soát trên thực tế.
Thứ sáu, kỹ thuật soạn thảo văn bản có những hạn chế. Nhìn chung, pháp luật
về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được xây dựng, ban hành phù hợp với các quy
định của luật ban hành văn bản QPPL về trình tự, thủ tục cũng như thể thức, kỹ thuật
văn bản. Tuy nhiên, trong đó cũng còn tồn tại những hạn chế, nhiều thuật ngữ chưa
bảo đảm rõ ràng trong thực hiện. Chẳng hạn khi quy định về tiêu chuẩn hành nghề
của các chức danh luật sư, công chứng viên, giám định viên tư pháp, thừa phát lại,
các văn bản đều có sử dụng thuật ngữ có phẩm chất đạo đức tốt. Quy định tiêu chuẩn
như vậy sẽ dễ dẫn đến bị bỏ qua trong quá trình thực hiện vì không có căn cứ, tiêu chí
đánh giá, xem xét mức độ cho phù hợp. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, nhiều
quy định sử dụng các thuật ngữ như “các chi phí khác”, “lý do chính đáng khác”...
Cách thức quy định này nhằm bảo đảm có thể bao quát các tình huống phát sinh trên
thực tế mà pháp luật không dự liệu được hết tại thời điểm ban hành nhưng lại cũng dễ
dẫn đến việc áp dụng tùy nghi trong thực tế, không bảo đảm tính pháp chế.
3.2.3. Nhóm quy định về quản lý nhà nƣớc đối với việc thực hiện xã hội
hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp
Nhóm quy định QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp quy định trách
nhiệm, nội dung QLNN đối với việc thực hiện xã hội hóa, bảo đảm cho việc
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện theo đúng định hướng, mục tiêu
quản lý và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của đời sống xã hội. Nhóm quy định này đã từng
bước được hoàn thiện cùng với quá trình phát triển của XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp như sau:
Thứ nhất, pháp luật đã quy định tương đối toàn diện các nội dung nhiệm vụ
QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm định hướng, chính sách quản lý
vĩ mô đến việc bảo đảm tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ trên thực tế.
Để quản lý và bảo đảm trách nhiệm cung cấp dịch vụ công của Nhà nước
trước xã hội, trong điều kiện xã hội hóa - chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công
cho các tổ chức, cá nhân ở khu vực ngoài Nhà nước thực hiện thì Nhà nước cần phải
có những định hướng, chính sách, chiến lược và bảo đảm về số lượng và chất lượng
các dịch vụ công cung cấp cho người dân trong những điều kiện cụ thể gắn với tầm
nhìn dài hạn. Pháp luật trong các lĩnh vực tư pháp đều bao gồm quy định về trách
nhiệm của Nhà nước trong hoạch định và ban hành chiến lược, chính sách quản lý vĩ
mô và biện pháp phát triển hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Việc xây dựng chiến lược, chính sách và biện pháp phát triển hành nghề, cung cấp
dịch vụ công xác định các mục tiêu chiến lược bảo đảm cung cấp dịch vụ công, bao
gồm tiêu chí về số lượng và chất lượng; xác định các yêu cầu đặt ra đối với việc cung
cấp dịch vụ công quan trọng; xác định mối tương quan giữa khu vực công và khu vực
tư về cung cấp dịch vụ công; tách hoạt động cung cấp dịch vụ công ra khỏi hoạt động
QLNN. Trong lĩnh vực tư pháp, Chính phủ đã ban hành được Chiến lược phát triển
nghề luật sư đến năm 2020 (kèm theo Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/2011 của
Thủ tướng Chính phủ), Quy hoạch tổng thể phát triển các tổ chức hành nghề công
chứng đến năm 2020 (kèm theo Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của
Thủ tướng Chính phủ), Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025
(kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 1/6/2015). Các chiến lược, chính sách là
cơ sở để các tổ chức xã hội và công dân có thể lựa chọn tham gia vào việc cung cấp
dịch vụ công một cách hiệu quả.
Pháp luật quy định chặt chẽ việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển các chức danh
tư pháp. Đối với lĩnh vực tư pháp, đ tham gia cung ứng dịch vụ công, các tổ chức, cá
nhân phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định. Các tiêu chuẩn hành nghề của các cá
nhân có những đặc thù liên quan đến trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp. Các chức danh tham gia hành nghề hầu hết phải trải qua các chương trình đào
tạo, bồi dưỡng nghề, tập sự hành nghề và được thể hiện bằng các chứng chỉ đào tạo,
bồi dưỡng hay kết quả kiểm tra tập sự hành nghề. Pháp luật quy định trách nhiệm của
các cơ quan QLNN trong tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghề, trong đó
giao cho các cơ quan QLNN trong việc xây dựng chương trình, nội dung đào tạo
nghề; tổ chức các khóa đào tạo nghề và cơ sở đào tạo nghề. Luật luật sư quy định các
cơ sở đào tạo nghề luật sư và điều kiện thành lập, hoạt động đối với các cơ sở này.
Pháp luật đã quy định nội dung thanh tra, kiểm tra đối với việc cung cấp dịch
vụ công nhằm bảo đảm chất lượng của các dịch vụ công được cung cấp. Đối với từng
lĩnh vực chuyên ngành, các luật và văn bản hướng dẫn thi hành quy định chung về
trách nhiệm của các cơ quan trong thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với các tổ
chức, cá nhân hành nghề, cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Quy định
cụ thể về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân hành nghề
cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp còn được thực hiện theo pháp luật
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính. Trực tiếp là Luật thanh tra, Luật xử lý
vi phạm hành chính và các văn bản quy định chuyên sâu về thanh tra, xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm Nghị định số 54/2014/NĐ-CP ngày
29/5/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh tra Ngành Tư pháp và Nghị
định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình,
THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày
14/8/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 110/2013/NĐ-CP.
Thứ hai, pháp luật quy định tổ chức bộ máy QLNN đối với XHHDVC trong
lĩnh vực tư phápgắn với thẩm quyền của các cơ quan này trong giải quyết các công
việc có liên quan đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp. Hầu hết các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành đều có 01
chương riêng quy định về thẩm quyền, nội dung QLNN và các quy định liên quan
đến trách nhiệm của các cơ quan trong việc cấp chứng chỉ hành nghề, cho phép thành
lập và hoạt động của các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp. Theo quy định hiện nay, các cơ quan Nhà nước ở trung ương, tập trung chủ yếu
là Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, hoạch định chính sách, chiến lược
phát triển đối với việc hành nghề, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm pháp luật được tổ
chức thực hiện có hiệu quả trong phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp cũng là cơ quan có
thẩm quyền trong việc cấp chứng chỉ hành nghề hoặc quyết định bổ nhiệm các cá
nhân có đủ điều kiện vào các chức danh tư pháp nhất định để thực hiện các dịch vụ
trong lĩnh vực tư pháp. Các cơ quan nhà nước ở địa phương, trực tiếp là Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp với vai trò tham mưu, giúp việc thực hiện QLNN đối với
tổ chức và hoạt động hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp tại địa
phương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp có thẩm quyền trong việc cho phép
thành lập và đăng ký, quản lý hoạt động của các tổ chức hành nghề trên địa bàn.
Thứ ba, pháp luật bảo đảm kết hợp giữa QLNN của các cơ quan nhà nước với
chế độ tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp. Đây là
đặc điểm có tính chất đặc thù đối với việc hành nghề, cung cấp dịch vụ công của các
tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tư pháp. Điều 6 Luật luật sư quy định
nguyên tắc kết hợp QLNN với chế độ tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Luật luật sư quy định tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư là Liên đoàn Luật sư Việt Nam ở Trung ương và Đoàn luật sư ở
cấp tỉnh. Luật công chứng cũng có quy định về tổ chức xã hội nghề nghiệp của công
chứng, trong đó Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định tổ chức xã hội nghề nghiệp
của công chứng viên ở Trung ương là Hiệp hội công chứng viên toàn quốc và ở cấp
tỉnh là Hội công chứng tỉnh. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ cũng đã thông qua Đề
án thành lập Hiệp hội công chứng toàn quốc để bảo đảm phù hợp với cam kết của
Việt Nam khi gia nhập Liên minh công chứng quốc tế vào năm 2013. Ngoài nhiệm
vụ chung về đại diện và bảo vệ quyền lợi cho các thành viên của mình, các tổ chức
nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp còn có nhiệm vụ trong việc giám sát việc hành
nghề và tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của các thành viên, phối hợp với các cơ quan
QLNNtrong quản lý hành nghề của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công theo
quy định của pháp luật.
Đánh giá chung cho thấyquy định QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp
đã từng bước được hoàn thiện, bao gồm các nội dung định hướng, chính sách quản lý
vĩ mô đến việc bảo đảm tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ trên thực tế.
Phân cấp quản lý và trách nhiệm của các cơ quan QLNN được quy định cụ thể, phù
hợp với yêu cầu và thực tiễn hoạt động của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật ngày càng trao nhiều quyền hạn, trách nhiệm
cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đại diện cho các cá nhân, tổ chức hành nghề
trong lĩnh vực đó, đặc biệt là ở khía cạnh về đại diện và giám sát việc tuân thủ các
quy định pháp luật, đạo đức nghề nghiệp. Mô hình QLNN kết hợp với tự quản của
các tổ chức xã hội - nghề nghiệp phù hợp với tính chất, đặc điểm hành nghề, cung cấp
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, các quy định về quản lý nhà nước về
XHHDVC cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế như sau:
Thứ nhất, pháp luật còn thiếu các quy định cụ thể về trình tự, nội dung thực
hiện nhiệm vụ QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Các quy định chỉ quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan QLNN mà thiếu các quy định cụ thể về cách
thức thực hiện các nhiệm vụ đó. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong QLNN
là phải bảo đảm chất lượng các dịch vụ công được cung cấp. Tuy nhiên, nhiều lĩnh
vực chưa ban hành được các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động. Cũng có lĩnh vực
đã ban hành được bộ tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ công như TGPL nhưng còn
nhiều hạn chế do việc đánh giá chất lượng được thiết kế và thực hiện bởi các chủ thể
có trách nhiệm cung cấp dịch vụ là Trung tâm TGPL và cơ quan QLNN là Sở Tư
pháp mà chưa có sự tham gia đánh giá của các cơ quan thực hiện thủ tục khác như
Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra và của chính những đối tượng thụ hưởng dịch
vụ. Do đó, việc đánh giá chất lượng chưa khách quan, chưa đề xuất được các biện
pháp quản lý phù hợp với kết quả đánh giá chất lượng.
Công tác thanh tra chưa gắn với đặc thù của từng lĩnh vực mà vẫn áp dụng
chung theo quy định của Luật thanh tra, Luật khiếu nại, tố cáo. Pháp luật chuyên
ngành cũng không có quy định về cách thức, quy trình, thời gian kiểm tra, phân định
giữa kiểm tra với thanh tra. Hiện nay chỉ có Nghị định số 99/2006/NĐ-CP ngày
15/9/2006 của Chính phủ về công tác kiểm tra việc thực hiện chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch với mục đích bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, chiến
lược, quy hoạch. Các nội dung, cách thức, kiểm tra không gắn với việc chấp hành,
tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức hành nghề. Cơ chế thông tin, báo cáo,
thống kê tập trung chủ yếu ở trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước mà chưa
có sự phối hợp, liên hệ đánh giá với các tổ chức hành nghề nên trong một số trường
hợp khó bảo đảm được tính khách quan khi đưa ra các quyết định, chính sách quản lý
cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Thứ hai, pháp luật chưa quy định đầy đủ về các cơ quan QLNN và trách
nhiệm của các cơ quan này đối với việc QLNN về XHHDVC. Luật Tổ chức chính phủ
và các Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ chưa xác định cơ quan QLNN đối với hoạt động XHHDVC. XHHDVC nói
chung chỉ được thực hiện theo Nghị quyết 30c/NQ-CP và còn mang tính tổ chức thực
hiện, chưa gắn với yêu cầu quản lý, định hướng chính sách, phát triển chung đối với
việc thực hiện XHHDVC. Điều 2 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 1/9/2016 quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ về thực hiện chức
năng QLNN về dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. Tuy
nhiên Điều 10 của Nghị định chỉ quy định nội dung quản lý nhà nước của Bộ với các
dịch vụ sự nghiệp công thuộc ngành, lĩnh vực.
Đối với lĩnh vực GĐTP, Điều 39 Luật giám định tư pháp quy định trách nhiệm
của Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất QLNN về GĐTP. Các Bộ khác thực hiện
QLNN và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về tổ chức, hoạt động GĐTP ở lĩnh vực
do mình quản lý; phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thống nhất QLNN về GĐTP.
Việc phân công trách nhiệm như vậy là có bất cập vì Bộ Tư pháp là đầu mối tham
mưu với Chính phủ về chính sách đối với lĩnh vực GĐTP nhưng lại không phải là cơ
quan có chuyên môn nghiệp vụ trong từng lĩnh vực giám định (như pháp y, hình sự, y
tế, ngân hàng,...). Trong khi đó, các Bộ khác hiện cũng đang chỉ tập trung vào tổ chức
thực hiện hoạt động giám định thuộc ngành, lĩnh vực mình mà chưa có sự đầu tư,
quan tâm để phát triển dịch vụ theo yêu cầu xã hội hóa.
Theo phân cấp quản lý, bên cạnh các chiến lược, chính sách phát triển hành
nghề chung, các địa phương có thể ban hành các chính sách, biện pháp phát triển hành
nghề, cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tại địa phương. Tuy nhiên, pháp luật lại
không quy định cụ thể các nội dung được ban hành nên dẫn đến sự e ngại của địa
phương trong thực hiện hoặc nếu ban hành thì cũng không mở rộng hơn so với chính
sách chung của Trung ương đã ban hành mặc dù xã hội hóa là vấn đề phụ thuộc nhiều
vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng khu vực, từng vùng miền và địa phương.
Thứ ba, các quy định về quản lý nhà nước XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp
chưa bảo đảm tính toàn diện trong phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với tổ chức
hội nghề nghiệp trong quản lý cung cấp dịch vụ công. Sự tham gia của các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp tham gia vào quản lý hoạt động hành nghề của các tổ chức, cá nhân
cung ứng dịch vụ công là một trong những đặc trưng trong XHHDVC. Hiện nay,
pháp luật đang được hoàn thiện theo hướng tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội
- nghề nghiệp của luật sư trong việc đại diện, bảo vệ quyền lợi cũng như quản lý và
giám sát hành nghề và tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, do xu
hướng phân định rạch ròi về thẩm quyền, trách nhiệm nên lại thiếu các quy định phối
hợp giữa cơ quan QLNN và tổ chức xã hội - nghề nghiệp để bảo đảm quản lý toàn
diện được việc hành nghề của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đang thiếu cơ chế hỗ trợ hiệu quả hơn cho
hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp nên hiệu quả hoạt động tự quản của
các tổ chức này cũng là những thách thức rất lớn trong điều kiện phải tự tổ chức hoạt
động và tự bảo đảm kinh phí hoạt động. Đối với lĩnh vực công chứng, pháp luật đã có
quy định về việc thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên ở Trung
ương là Hiệp hội công chứng viên toàn quốc. Pháp luật cũng xác định trách nhiệm
của Bộ Tư pháp trong việc phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng trình cơ
quan có thẩm quyền thông qua việc thành lập Hiệp hội công chứng viên toàn quốc.
Quy định như vậy mặc dù giúp cho việc thành lập được triển khai bài bản hơn nhưng
lại chưa phù hợp với tính chất tự nguyện, tự tập hợp của các thành viên trong một tổ
chức xã hội - nghề nghiệp. Điều này dẫn đến thực tế là qua gần 2 năm Luật công
chứng có hiệu lực nhưng Hiệp hội công chứng viên toàn quốc cũng chưa được thành
lập theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Liên minh công chứng quốc tế.
Cùng với đó, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp luôn được
coi là tổ chức có tính chất đặc thù với mô hình quản lý nội bộ liên quan đến tổ chức
và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội (như Đảng đoàn) trong các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp. Tuy nhiên, các Luật như Luật luật sư, Luật công chứng lại chưa
định hình rõ về tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Mối quan hệ
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và hội tự quản còn nhiều vấn đề cần được
nghiên cứu bài bản hơn để có thể xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật phù
hợp với hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp.
3.2.4. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật xã hội hóa dịch vụ công
trong lĩnh vực tƣ pháp
Trên cơ sở nghiên cứu, rà soát từng nhóm quy định cơ bản cấu thành của pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có thể thấy pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp trong thời gian qua đã không ngừng được hoàn thiện nhằm bổ sung,
điều chỉnh, thay thế các quy định nhằm bảo đảm đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn
của đời sống xã hội và quản lý nhà nước. Những ưu điểm, hạn chế cơ bản của pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có thể khái quát như sau:
3.2.4.1. Về ưu điểm
Thứ nhất, các văn bản QPPL chuyên ngành về hoạt động tư pháp cùng với
các văn bản chuyên ngành về tổ chức và hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ
sự nghiệp đã tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Cùng với quá trình đẩy mạnh XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, hoàn thiện thể chế
cho công tác này được xác định một nhiệm vụ được ưu tiên thực hiện trong giai đoạn
2011-2015 [19, tr.31]. Pháp luật đã từng bước được xây dựng mới, sửa đổi, điều
chỉnh, bổ sung nhằm điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, từ các nội dung liên quan đến tổ chức, hoạt
động, phạm vi, hình thức, nội dung chuyển giao, thu hút sự tham gia của xã hội trong
cung cấp dịch vụ công và công tác quản lý nhà nước. Các nội dung tự quản của các tổ
chức xã hội nghề nghiệp, đại diện cho các tổ chức, cá nhân hành nghề trong cung cấp
dịch vụ, cũng dần được hoàn thiện trong các lĩnh vực luật sư, công chứng và hiện nay
là đấu giá tài sản.Trong giai đoạn 2011-2016, Quốc hội và Chính phủ cùng các Bộ,
ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản để quy định về tổ chức và hoạt động
cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, trong đó các lĩnh vực hoạt động tư
pháp được nghiên cứu đều có các Luật sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới để điều
chỉnh như Luật luật sư (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Luật Giám định tư pháp năm
2012,Luật công chứng năm 2014, Luật Thi hành án dân sự năm 2013 và Nghị quyết về
thực hiện chế định thừa phát lại năm 2015, Luật đấu giá tài sản năm 2016 và mới đây
nhất là Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Thứ hai, pháp luật đã bảo đảm phù hợp và thể chế hóa đầy đủ định hướng về
đẩy mạnh XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực pháp nói riêng, nhất là
đối với hoạt động bổ trợ tư pháp, qua đó, tạo điều kiên thuận lợi cho việc thực hiện xã
hội hóa theo Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như các
chương trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước. Cho đến nay, pháp luật đã có
những quy định về thực hiện xã hội hóa đối với hầu hết các lĩnh vực tư pháp theo các
nội dung, phạm vi, mức độ khác nhau phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng loại
công việc và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong từng lĩnh vực. Lĩnh vực luật sư đã
thực hiện xã hội hóa hoàn toàn, chuyển giao toàn bộ việc cung ứng dịch vụ cho các cơ
quan, tổ chức trong xã hội đảm nhận. Xu thế chuyển giao toàn bộ cũng đang được thực
hiện đối với các lĩnh vực công chứng, BĐGTS. Những lĩnh vực có nhiều khó khăn, gắn
liền với thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước như GĐTP, THADS
(thông qua thực hiện chế định thừa phát lại) cũng đã từng bước được thực hiện.
Hình thức văn bản cũng ngày càng được hoàn thiện. Nhiều nội dung hoạt động
được điều chỉnh bằng luật là hình thức văn bản có giá trị pháp lý cao, có giá trị bắt
buộc thực hiện đối với cả bộ máy nhà nước. Điều này đáp ứng được với đặc thù của
hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có liên quan đến trách nhiệm của cả hệ
thống các cơ quan hành chính và tư pháp trong bộ máy nhà nước. Quy định bằng
Luật cũng bảo đảm tính ổn định trong điều chỉnh, phù hợp với yêu cầu xã hội hóa, thể
hiện cam kết của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền và lợi ích của các tổ chức, cá
nhân khi đầu tư, tham gia gánh vác nhiệm vụ cùng với Nhà nước trong XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp cũng như thể hiện cam kết của nhà nước trước xã hội trong
việc cung cấp dịch vụ công có chất lượng dù trong điều kiện nhà nước không trực
tiếp tham gia vào việc cung cấp dịch vụ.
Thứ ba, pháp luật về XHHDVC cơ bản bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ. Các
quy định không có sự mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một lĩnh vực chuyên ngành.
Văn bản do cấp dưới ban hành phù hợp với văn bản do cấp trên ban hành, giữa pháp
luật quy định cụ thể về hoạt động tư pháp với các luật chung điều chỉnh về hoạt động
và quản lý cung cấp dịch vụ công như cán bộ, tài chính, thanh tra, khiếu nại. Các nội
dung thẩm quyền quản lý, quy trình, thủ tục được quy định phù hợp với trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức do pháp luật giao. Pháp luật đã có những quy định cụ thể về
điều kiện, tiêu chuẩn đối với người hành nghề và tổ chức hành nghề thống nhất giữa
tổ chức công lập và ngoài công lập. Các tiêu chuẩn hành nghề của các chức danh có
sự thống nhất tương đối về chuyên môn, nghiệp vụ gắn với kinh nghiệm, thời gian
làm việc trong lĩnh vực đó. Pháp luật cũng quy định thành lập và đăng ký hoạt động
đối với các tổ chức hành nghề theo hướng hoạt động chuyên nghiệp, qua đó bảo đảm
chất lượng các dịch vụ công được cung cấp. Điều kiện, tiêu chuẩn cấp chứng chỉ
hành nghề, bổ nhiệm các chức danh, hay cho phép thành lập đăng ký hoạt động đối
với các tổ chức hành nghề đều được quy định cụ thể, phù hợp với yêu cầu QLNN và
hướng đến bảo đảm chất lượng của các dịch vụ được cung cấp cấp cho người dân dù
được cung cấp bởi các tổ chức thực hiện dịch vụ ngoài công lập.
Thứ tư, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã tạo cơ sở pháp lý
cho việc hình thành và phát triển hệ thống các tổ chức cung cấp dịch vụ sự nghiệp
ngoài công lập, phù hợp với mục tiêu và tạo ra hiệu quả to lớn trong quá trình thực
hiện chủ trương xã hội hóa theo Chiến lược cải cách tư pháp và Chương trình cải
cách tổng thể nền hành chính nhà nước. Đến nay, hệ thống các tổ chức hành nghề
chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ công đã được hình thành trên thực tế và không
ngừng phát triển. Tính đến hết năm 2015, cả nước đã có 3.520 tổ chức hành nghề luật
sư (tăng 24% so với năm 2011); 895 tổ chức hành nghề công chứng (tăng 78% so với
năm 2011), trong đó có 750 Văn phòng công chứng và 145 Phòng công chứng; 370
Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, với 1.475 Đấu giá viên (tăng hơn 2,7 lần so với
năm 2011); 53 Văn phòng Thừa phát lại với 134 Thừa phát lại, tổng doanh thu là gần
136 tỷ đồng [19, tr.28-31]. Năm 2016, Văn phòng Giám định tư pháp đầu tiên cũng
đã được thành lập [20, tr.18].Kết quả thực hiện các hoạt động dịch vụ công cũng có
sự phát triển đáng kể. Ước tính năm 2015, các luật sư trong nước tham gia 211.153
việc (tăng 14.447 việc so với cung ky năm 2014), nộp thuế gần 59,5 tỷ đồng [19,
tr.28]; các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng được 4.497.971 hợp đồng,
giao dịch (tăng khoảng 30% so vơi năm 2014), đóng góp cho Ngân sách nhà nước
hoặc nộp thuế gần 478 tỷ đồng (tăng gần 178 tỷ đồng so với năm 2014) [19, tr.29].
Năm 2015, các tổ chức bán đấu giá đã tổ chức đấu giá thành 18.821 cuôc (tăng 2.423
cuộc so với năm 2014), nôp ngân sach nha nươc hơn g ần 369 tỷ đồng (tăng 76 tỷ
đồng so với năm 2014) [19, tr.30]. Năm 2015, các Trung tâm TGPL đã thực hiện
140.007 vụ việc TGPL trên tổng số 144.800 vụ việc tiếp tiếp nhận (tăng 35% so với
năm 2014) cho 146.187 lượt người (tăng gần 11% so với năm 2014), trong đó vụ việc
tham gia tố tụng tăng 33% từ 7.611 vụ việc lên 10.148 vụ việc. Tính chung cả nhiệm
kỳ 2011-2015, các Trung tâm TGPL nhà nước đã thực hiện tổng số hơn 620.000 vụ
việc tương ứng với hơn 652.000 lượt người, trong đó có 577.098 vụ việc tư vấn pháp
luật; 36.681 vụ việc tham gia tố tụng; 1.052 vụ việc đại diện ngoài tố tụng; 707 vụ
việc hòa giải và hơn 4.600 vụ việc khác [19, tr.31].Việc hình thành hệ thống cung cấp
dịch vụ ngoài công lập góp phần sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực xã hội, trong đó có
việc giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong phát triển, duy trì tổ chức và
hoạt động của các tổ chức sự nghiệp công lập của Nhà nước. Biên chế của các cơ
quan THADS không tăng trong năm 2015 - 2016. Hệ thống Trung tâm TGPL được rà
soát, không phát triển mới hoặc giảm bớt số lượng các Chi nhánh tại các địa bàn hoạt
động không hiệu quả. Một số địa phương bước đầu cũng đã có thể sáp nhập, giải thể
các Phòng công chứng Nhà nước như Bắc Giang, Hưng Yên, Lâm Đồng,...Báo cáo
số 20/BC-BTP đánh giá kết quả thực hiện xã hội hóa trong một số lĩnh vực như sau:
So với nhiệm kỳ 2007-2011, việc xã hội hóa, phát triển các nghề trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp đạt được nhiều kết quả cụ thể theo đúng tinh thần cải cách
tư pháp; số lượng luật sư ngày càng được tăng cường, hoạt động ngày càng
chuyên nghiệp; việc thành lập các tổ chức hành nghề công chứng, về cơ bản,
theo đúng quy hoạch, lộ trình, chất lượng dịch vụ được tăng cường. Hoạt động
bổ trợ tư pháp đã góp phần quan trọng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với thông lệ quốc
tế [19, tr.31].
Thứ năm, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cơ bản đã bảo đảm
được tính công bằng trong cung cấp và thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp. Pháp luật không có sự phân biệt về các điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề cùa
những người hành nghề cung cấp dịch vụ công, không có sự phân biệt về giá trị của
các dịch vụ công được cung cấp bởi các tổ chức dịch vụ ngoài công lập và cũng
không có sự phân biệt trong các yêu cầu, nội dung, trình tự thủ tục cung cấp các dịch
vụ công. Một số chính sách khuyến khích phát triển các tổ chức dịch vụ sự nghiệp
ngoài công lập ở những địa bàn khó khăn cũng được ban hành như trong lĩnh vực
công chứng, Nhà nước bảo đảm duy trì các Chi nhánh của Trung tâm TGPL ở những
địa bàn xa trung tâm, có điều kiện khó khăn...
3.2.4.2. Về hạn chế
Thứ nhất, mặc dù pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã từng
bước được hoàn thiện nhằm điều chỉnh một cách toàn diện các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nhưng pháp luật vẫn
còn thiếu các quy đinh cụ thể nên dẫn đến những lúng túng, khó khăn trong thực hiện.
Rà soát theo từng nhóm quy phạm cấu thành nội dung pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp cho thấy cần thiết phải tiếp tục có những quy định thể cho việc thực
hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo các hình thức khác trên cơ sở kết hợp
giữa chuyển giao và thu hút các nguồn lực xã hội tham gia cung cấp dịch vụ công;
quy định cụ thể về chính sách khuyến khích xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là đối với những nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội
nhằm bảo đảm quyền tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công một cách bình đẳng. Trong
công tác QLNN, pháp luật còn thiếu các quy định cụ thể về thực hiện các nhiệm vụ
QLNN, phân định và phối hợp giữa QLNN với tự quản của các tổ chức xã hội nghề
nghiệp và tiêu chí, quy trình đánh giá chất lượng dịch vụ công trên cơ sở kết hợp giữa
cơ quan quản lý và đối tượng thụ hưởng dịch vụ.
Thứ hai, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp vẫn còn những quy định
mâu thuẫn, chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong thực hiện, trong đó có quy
định về tổ chức và hoạt động tư pháp và chính sách xã hội hóa dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp. Do thiếu một văn bản quy định khung về các nội dung xã hội hóa
nên thực tế pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp hiện nay chỉ bao gồm tập
hợp các quy định nằm trong các văn bản khác nhau, gắn với đặc thù của từng lĩnh
vực, từng hoạt động cụ thể, chưa có sự liên kết, kết nối giữa các lĩnh vực với nhau và
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với các lĩnh vực khác, ví dụ như các
quy định về cơ chế tổ chức và hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực
tư pháp, quy định về xác định phí và chi phí trong cung cấp dịch vụ công… Các văn
bản này có hiệu lực pháp lý khác nhau nên dẫn đến những khó khăn nhất định trong
việc nắm bắt và thực hiện. Chính sách khuyến khích xã hội hóa mới chỉ được áp dụng
cho lĩnh vực GĐTP theo Nghị định số 54/2014/NĐ-CP. Đồng thời, do đặc thù của
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một quá trình chuyển đổi dần dần nên dẫn đến
việc các quy định thường được sửa đổi, bổ sung trong thời gian từ 03 đến 05 năm
hoặc trong cùng một thời điểm tồn tại các mặt bằng pháp lý khác nhau để điều chỉnh
hoạt động của loại hình dịch vụ công đó (ví dụ như thừa phát lại có 3 loại văn bản
điều chỉnh đối với hoạt động THADS, tống đạt giấy tờ và lập vi bằng; công chứng có
2 loại văn bản về công chứng và chứng thực bản sao của văn phòng công chứng). Các
tổ chức Thừa phát lại vẫn hoạt động dựa trên các quy định, hướng dẫn thí điểm.
Cho đến nay, đã gần 02 năm thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại theo Nghị
quyết của Quốc hội nhưng Chính phủ vẫn đang áp dụng các Nghị định về tổ chức
thí điểm, chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới đáp ứng yêu
cầu hoạt động của các tổ chức Thừa phát lại [87, tr.20].
Thứ ba, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn tồn tại những quy
định mang tính hình thức, thiếu khả thi, hạn chế về kỹ thuật về kỹ thuật lập pháp.
Nhìn chung, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được xây dựng, ban hành
phù hợp với các quy định của Luật ban hành văn bản QPPL về trình tự, thủ tục cũng
như thể thức, kỹ thuật văn bản nhưng vẫn còn một số quy định hạn chế về kỹ thuật
thể hiện nên dễ dẫn đến tình huống chưa rõ ràng, thuận lợi trong thực hiện hoặc tùy
nghi trong thực hiện. Đáng chú ý là nhiều nguyên tắc trong cung cấp dịch vụ công
bình đẳng, có chất lượng mặc dù được quy định nhưng thiếu các biện pháp, giải pháp
quản lý cụ thể nên dẫn hạn chế trong cung cấp các dịch vụ công có chất lượng như
tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, không tuân thủ đầy đủ quy trình thực hiện
cung cấp dịch vụ công dẫn đến sai phạm, ảnh hưởng quyền và lợi ích chính đáng của
khách hàng, chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân, trong
nhiều trường hợp còn dẫn đến những thiệt hại cho Nhà nước. Nhìn chung, các cơ chế,
chính sách khuyến khích, thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong cung cấp
các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đều đã được quy định nhưng chưa có các quy
định ưu đãi đặc thù về thuế, phí, lệ phí, cơ chế giao việc theo đặt hàng của Nhà
nước….nhằm thực sự khuyến khích sự đầu tư trong lĩnh vực này.
3.2.5. Nguyên nhân của nhữngtồn tại, hạn chế của pháp luật về xã hội hóa
dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp
3.2.5.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền với thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là những vấn đề lớn, mới, chưa có tiền lệ. Hệ thống pháp luật
nói chung, trong đó pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp chịu ảnh hưởng
bởi các yếu tố về chính trị - tư tưởng, kinh tế - xã hội, được xây dựng và hoàn thiện
trong điều kiện vừa phải bảo đảm tính dự báo, chuyển đổi, vừa tìm tòi, rút kinh
nghiệm nên khó tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Mặc dù công cuộc đổi mới đất
nước đã trải qua gần 30 năm, song đó là khoảng thời gian chưa dài cho đổi mới lý
luận, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn xây dựng khung pháp luật có hiệu lực, hiệu quả,
điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Nhiều cơ chế, chính sách mới được vận hành chưa
được kiểm định thực tiễn nên khó có thể dự báo được đầy đủ tác động, từ đó, dẫn đến
một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật còn chung chung hoặc khi
được ban hành chưa phát huy đầy đủ trong thực tiễn.
Thứ hai, dịch vụ công, XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp nói riêng là vấn đề mới ở Việt Nam, được đặt ra trong bối cảnh đổi mới tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của
thực tiễn đời sống xã hội. Bản thân vấn đề dịch vụ công mặc dù có sự thống nhất nhất
định trong cách hiểu về tính chất, ý nghĩa nhưng phạm vi cụ thể lại có sự khác biệt
giữa các quốc gia và còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cũng như chịu ảnh
hưởng bởi các quan điểm chính trị, pháp lý trong từng giai đoạn. Do đó, nhiều nội
dung có sự điều chỉnh, phát triển qua từng thời kỳ nhất định và đặt ra yêu cầu luôn
luôn phải có sự nghiên cứu, rà soát và hoàn thiện pháp luật cho phù hợp. Ví dụ như
công chứng trước đây luôn được gắn liền với chứng thực và là trách nhiệm của Nhà
nước trong xác nhận tính xác thực của các bản sao. Nhưng hiện nay, công chứng lại
được tách ra khỏi chứng thực và trở thành phạm trù của dịch vụ thương mại. Trong
trường hợp thừa phát lại, mặc dù đã được thực hiện ở Việt Nam từ thời kỳ Pháp thuộc
nhưng đến nay khi nghiên cứu và xây dựng chế định thừa phát lại, trải qua các quá
trình thí điểm thì một trong những thách thức đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật vẫn
là nhận thức và hiểu biết của không chỉ người dân mà còn cả của đội ngũ cán bộ làm
công tác xây dựng pháp luật về khái niệm thừa phát lại. Quá trình thay đổi nhận thức trên
cơ sở thực tiễn kinh tế - xã hội nói trên được phản ánh và thể hiện qua quá trình xây
dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản QPPL cụ thể để không ngừng hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Thứ ba, các điều kiện bảo đảm cho công tác xây dựng pháp luật còn chưa đáp
ứng được với yêu cầu. Điều kiện trước hết là nguồn nhân lực cho công tác xây dựng
pháp luật còn nhiều hạn chế, đặc biệt đây là một yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến
quá trình hoàn thiện pháp luật. Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách
còn thấp, đa số là hoạt động kiêm nhiệm ở các cơ quan, địa phương nên thời gian
dành cho công tác xây dựng pháp luật cũng còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ, công chức
trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng, soạn thảo, thẩm định văn bản QPPL của
Quốc hội, các bộ, ngành, các cơ quan thẩm định, thẩm tra còn mỏng, tính chuyên
nghiệp chưa cao, năng lực, trình độ nhận diện vấn đề và kỹ năng phân tích, dự báo,
xây dựng chính sách, kỹ năng soạn thảo QPPL còn nhiều bất cập.
Cùng với đó là các điều kiện tài chính, ngân sách bảo đảm cho việc thực hiện
các công việc của quá trình xây dựng pháp luật. Hiện nay, trong Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều quy định
về kinh phí cho công tác xây dựng văn bản QPPL và được bố trí trong ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm đây chỉ là mức kinh phí hỗ trợ nên khi ban
hành các quy định về kinh phí cho công tác xây dựng văn bản QPPL thì định mức,
tiêu chuẩn chi cho công tác xây dựng pháp luật mặc dù đã được từng bước nâng lên
nhưng vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu. Thực tế cho thấy, nhiều nội dung đổi mới
trong quy trình xây dựng văn bản QPPL theo Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008
khó có thể triển khai thực hiện với định mức kinh phí được quy định, đặc biệt là việc
đánh giá tác động kinh tế - xã hội của văn bản TGPL, việc tham vấn, lấy ý kiến của
nhân dân, đặc biệt là những đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo văn bản.
3.2.5.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, công tác xây dựng, hoạch định chính sách cho thực hiện XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp chưa được thực hiện một cách hiệu quả, có tính chiến lược, phù
hợp với tính chất, đặc điểm và yêu cầu phát triển của dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp. Chính sách là những định hướng lớn cho các hoạt động khác nhau của cơ quan
nhà nước, trong đó có hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Như đã trình bày tại
Chương II, thuật ngữ xã hội hóa gắn liền với công việc có thể được xem là một trong
những nội dung đặc thù của Việt Nam, đặc biệt là trong mối liên hệ về vai trò của Nhà
nước trong xã hội và định hướng cải cách, đổi mới của bộ máy nhà nước. Cùng với đó,
trong lĩnh vực tư pháp, khác với các dịch vụ công khác, các dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp có mối liên hệ với các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc thực
hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp không chỉ phục vụ cho các yêu cầu
QLNN mà còn phục vụ cho công tác xét xử, giúp cho việc xét xử bảo đảm khách quan,
chính sách. Tuy nhiên, trong thời gian qua, chúng ta chưa có một chính sách, chiến
lược chung cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Mỗi lĩnh vực đều có định
hướng riêng. Mặc dù việc xác định định hướng riêng này sẽ bảo đảm đáp ứng được với
yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực và theo nhu cầu của xã hội nhưng lại dẫn đến những
khiếm khuyết, thiếu sót trong xây dựng cơ chế, chính sách và phát sinh bất cập trong
quá trình thực hiện, chưa tạo ra sự kết nối, kế thừa thành tựu của các loại dịch vụ công
khác nhau. Đây cũng chính là nguyên nhân phải liên tục sửa đổi, ban hành mới các văn
bản pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành trong thời gian vừa qua.
Thứ hai, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước cũng như tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp – chưa đúng đắn và đầy đủ, đặc biệt là về vai trò của XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp. Đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ QLNN đối với các dịch vụ công
có nhiệm vụ trong việc xây dựng chính sách, soạn thảo văn bản QPPL về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp. Nhận thức của đội ngũ cán bộ là yếu tố về con người nhưng
cũng đồng thời bao hàm yếu tố chính trị, tư tưởng ảnh hưởng đến việc hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại phổ biến
quan niệm coi xã hội hóa chỉ là một giải pháp để giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước
mà chưa gắn với trách nhiệm của Nhà nước với xã hội trong cung cấp dịch vụ công.
Điều này dẫn đến tư duy trong xây dựng pháp luật chỉ tập trung vào việc chuyển giao
cung cấp các dịch vụ công cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội hoặc chỉ chú trọng
đến yếu tố tự bảo đảm kinh phí cho hoạt động của các tổ chức đó mà chưa tính đến
những yếu tố khuyến khích cung cấp chất lượng dịch vụ công có chất lượng và trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm chất lượng các dịch vụ dù được cung cấp
bởi Nhà nước hay các chủ thể phi Nhà nước.
Ngược lại thì có một bộ phận có tâm lý thụ động, coi dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp là địa hạt riêng của Nhà nước, không muốn ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của mình nên không muốn xã hội hóa, chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân thực
hiện. Điều này dẫn đến việc hoàn thiện pháp luật làm cơ sở cho việc thực hiện
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn chậm, chưa kịp thời với yêu cầu của đời sống
xã hội (như trong lĩnh vực giám định tư pháp, TGPL, thừa phát lại). Rộng hơn, đây
cũng là lý do dẫn đến việc thực thi pháp luật, thực hiện chuyển giao, xã hội hóa trong
một số hoạt động cụ thể còn chậm, chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Chẳng hạn
đối với hoạt đông công chứng, chứng thực, nhiều địa phương không muốn thực hiện
chuyển giao việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch sang cho các tổ chức hành nghề
công chứng mà tiếp tục thực hiện việc chứng nhận tại Ủy ban nhân dân. Thực tế vẫn
còn tâm lý e ngại của nhiều cơ quan nhà nước đối với các dịch vụ công do các tổ
chức, cá nhân cung cấp nên cũng gây những cản trở nhất định đối với việc XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp.
Thứ ba, công tác rà soát, hệ thống hóa, kiểm tra văn bản, pháp điển hệ thống
QPPL và theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực tư pháp còn chưa được quan tâm
đúng mức. Đây là những hoạt động diễn ra sau khi một văn bản cụ thể được ban hành
nhằm mục đích tập hợp, hệ thống hóa, rà soát, đánh giá văn bản đó gắn với hiệu quả
thực thi trên thực tế để qua đó tiếp tục hoàn thiện cũng như nâng cao hiệu quả thi
hành của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay, công tác rà soát, hệ thống hóa tổng thể về
các QPPL liên quan đến XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp vẫn chưa được thực hiện.
Từ năm 2014, Pháp lệnh pháp điển hệ thống QPPL đã được ban hành. Pháp điểnlà
việc cơ quan nhà nước rà soát, tập hợp, sắp xếp các QPPL đang còn hiệu lực trong
các văn bản QPPL do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành, trừ Hiến pháp, để
xây dựng Bộ pháp điển. Việc xây dựng được Bộ pháp điển sẽ có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với việc hệ thống hóa pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
cũng như đánh giá về hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và đối với từng lĩnh vực
nói riêng.Tuy nhiên, đến nay thì đề mục pháp điển liên quan đến hoạt động trong các
lĩnh vực tư pháp, bao gồm nội dung xã hội hóa chưa được hoàn thành.
Bên cạnh công tác rà soát, hệ thống hóa, pháp điển là công tác theo dõi thi hành
pháp luật. Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ quy định về
theo dõi thi hành pháp luật xác định theo dõi tình hình thi hành pháp luật nhằm xem
xét, đánh giá thực trạng, kiến nghị thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật và có những kiến nghị ngược trở lại để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thực tế hiện nay, do đây cũng là công tác mới được thực hiện nên cũng còn thiếu
những công cụ cần thiết cho việc đánh giá, đo lường hiệu quả thực hiện trên thực tế.
Việc đánh giá còn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của các cơ quan QLNN nên
trong nhiều trường hợp chưa xác định được những định hướng, yêu cầu sửa đổi, hoàn
thiện pháp luật một cách khách quan, dựa trên nhu cầu cụ thể của đời sống xã hội.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
1. Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung,
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã được đẩy mạnh hoàn thiện theo yêu
cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở Việt Nam.
2. Đánh giá chung cho thấy pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở
Việt Nam hiện nay đã được hình thành, phát triển và điều chỉnh tương đối toàn diện
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Pháp
luật đã tạo cơ sở pháp lý cho sự tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội gắn với trách nhiệm của Nhà nước trong
việc bảo đảm cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp một cách công
bằng, liên tục, ổn định và có chất lượng. Đến nay, hầu hết các dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp đã được xã hội hóa với các mức độ phù hợp với đặc thù của từng
lĩnh vực và theo yêu cầu cải cách tư pháp. Hệ thống các tổ chức và đội ngũ cán bộ
có chức danh tư pháp hành nghề cung cấp dịch vụ công đã được hình thành và ngày
càng được củng cố, phát triển.
3. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn và trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư
pháp, cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo và phục vụ thì
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập.
Pháp luật vẫn còn thiếu các quy đinh cụ thể nên dẫn đến những lúng túng, khó khăn
trong thực hiện, đặc biệt là các nội dung, nhiệm vụ QLNN, kiểm soát chất lương đối
với dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong điều kiện xã hội hóa. Pháp luật
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng còn những quy định mâu thuẫn, chưa bảo
đảm tính thống nhất, đồng bộ trong thực hiện. Một số quy định còn mang tính hình
thức, thiếu khả thi và hạn chế về kỹ thuật lập pháp.
4. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập bắt nguồn từ nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Đây là cơ sở để Luận án đưa ra các quan điểm, giải pháp cho việc
hoàn thiện pháp luật tại Chương 4.
Chƣơng 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ
CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm hoạt động
xây dựng, ban hành văn bản QPPL mới, sửa đổi những quy định không còn phù hợp,
bổ sung các quy định còn thiếu cũng như loại bỏ những quy định mâu thuẫn, sai trái
với văn bản cấp trên hay không phù hợp với thực tiễn nhằm xây dựng hệ thống pháp
luật đồng bộ, thống nhất, có chất lượng. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp có sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội
và của đông đảo nhân dân và để đạt được mục tiêu đề ra thì cần quán triệt thực hiện
các quan điểm sau:
4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ
pháp phải bảo đảm thể chế hóa quan điểm của Đảng về thực hiện xã hội hóa
dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp trong điều kiện cải cách hành chính, cải
cách tƣ pháp và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam
XHHDVC là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong điều kiện
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu
quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong thời gian qua, pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp đã từng bước được hoàn thiện cùng với quá trình hoàn thiện
pháp luật nói chung và để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội khi thực
hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, “đi
sau” các bước phát triển của thực tiễn. Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp để đáp ứng yêu cầu của đời
sống xã hội và QLNN.
Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải thể hiện được
đầy đủ chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về những định hướng
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định quan điểm đổi
mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng nâng cao
chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính, xã hội
hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng như phục vụ nhu cầu của người dân
[6, tr.107]. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC để thực hiện tốt hơn chức năng của
Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; phân định
rõ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Nhà nước tham gia
vào việc cung ứng các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thiết yếu mà khu vực kinh tế tư
nhân chưa làm hoặc không muốn làm [5]. Pháp luật xác định vai trò của trong việc
Nhà nước định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường bình
đẳng, minh bạch và lành mạch, sử dụng các nguồn lực Nhà nước để định hướng và
điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển, phù hợp với
phương châm xây dựng một Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ nhân dân, tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp góp phần tăng năng lực cạnh tranh của quốc gia và
từng địa phương.
Trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải phù
hợp với yêu cầu hoàn thiện pháp luật nói chung. Theo đó, hoàn thiện pháp luật phải
bảo đảm gắn kết với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Pháp luật vừa là công cụ để nhà nước quản
lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà
nước; QLNN bằng pháp luật đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Trong lĩnh vực tư pháp, yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xác định
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công
lý, quyền con người, quyền công dân... Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp để tiếp tục xã hội hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ
điều kiện nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động luật sư, bổ trợ tư pháp [6],
hướng đến mục tiêu “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư,
công chứng, giám định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng ngày càng đầy đủ, thuận lợi
các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội
hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp QLNN với tự quản của các tổ
chức xã hội nghề nghiệp” [39].
4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ
pháp tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp hợp lý trên cơ sở huy động các nguồn lực trong xã hội, phục vụ
tốt hơn nhu cầu của người dân và thực hiện trách nhiệm của Nhà nước
XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nói riêng là cách
thức tổ chức lại việc cung ứng dịch vụ công, xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ
công hợp lý trên cơ sở phân định giữa quản lý và thị trường, giữa vai trò, trách nhiệm
của Nhà nước và khả năng tham gia của xã hội trong cung ứng dịch vụ công. Thực tế
cho thấy quá trình xã hội hóa các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đã phân công
lại việc thực hiện và cung cấp các dịch vụ công. Nhà nước xác định đúng các công
việc Nhà nước cần thực hiện và những công việc có thể do xã hội thực hiện đã được
được chuyển giao cho xã hội thực hiện. Kết quả là Nhà nước có điều kiện tập trung
hơn vào các công việc của mình và huy động được các nguồn lực trong xã hội để
cung cấp các dịch vụ công. Người dân có điều kiện tiếp cận với dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp thuận lợi hơn, phù hợp với nhu cầu đa dạng của cá nhân hơn, qua đó
góp phần tạo ra những điều kiện tốt hơn cho việc tuân thủ pháp luật, phòng ngừa các
vi phạm, bảo vệ pháp luật, giúp cho công tác xét xử, tìm ra sự thật, bảo vệ công bằng,
lẽ phải trong xã hội. Nhận thức được những lợi ích mà xã hội hóa cung cấp các dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp có thể mang lại, Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP
ngày 6/11/2011 đã xác định: “chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính
nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ
chức phi chính phủ đảm nhận”[29, tr.2].
Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải tạo ra không
gian pháp lý cho việc xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ công hợp lý. Sự tham gia
của các tổ chức, cá nhân làm giảm sức ép về cung cấp dịch vụ công lên các cơ quan
nhà nước và qua đó giúp cho Nhà nước có thể tập trung nguồn lực cho việc thực hiện
các công việc thuộc chức năng của Nhà nước, tập trung nguồn lực để mở rộng, nâng
cao chất lượng dịch vụ tại những địa phương mà khu vực phi Nhà nước chưa thu hút
được sự tham gia của các tổ chức, cá nhân. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với
đặc trưng là sự tham gia của tất cả các tổ chức, cá nhân vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh và khi đã được chuyển giao cho các chủ thể trong xã hội thực hiện thì cung cấp
dịch vụ công đối với những chủ thể đó cũng được coi là môt hình thức đầu tư tìm
kiếm lợi nhuận. Mặt khác, quá trình xã hội hóa cũng là quá trình làm cho các hoạt
động dịch vụ công được vận hành theo cơ chế thị trường. Theo đó vai trò quản lý của
Nhà nước là để bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công theo đúng bản chất, chức năng
xã hội của nó. Do đó, pháp luật cần cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc khuyến khích, huy
động các nguồn lực trong xã hội tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công. Pháp luật
phải quy định cụ thể, rõ ràng về điều kiện của các chủ thể trong xã hội tham gia vào
việc cung cấp dịch vụ công gắn với các tiêu chí về chất lượng dịch vụ được cung cấp.
Pháp luật cũng cần tạo cơ chế đa dạng cho sự tham gia của các chủ thể trong xã hội
theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó khuyến khích việc cung cấp dịch vụ công vì
mục đích xã hội, phi lợi nhuận với các cơ chế hỗ trợ, ưu đãi thuận lợi hơn cho các
hình thức này. Pháp luật bảo đảm về quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể khi tham gia
vào việc cung ứng dịch vụ công, thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ
quyền lợi của các chủ thể khi đã đầu tư cho việc cung cấp dịch vụ công, tham gia
cùng với Nhà nước thực hiện các công việc của xã hội.
4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ
pháp bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật và quy định về
các lĩnh vực hoạt động tư pháp theo yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam
Thứ nhất, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một bộ phận của
hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp bảo đảm không chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật,
hướng đến mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công
khai, minh bạch [37]. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng đồng thời phải bảo đảm tính tương thích với
các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, đặc biệt là các cam kết có
liên quan đến việc mở cửa và các chính sách thuế quan đối với việc cung cấp các dịch
vụ pháp lý.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thống nhất,
đồng bộ với pháp luật về XHHDVC nói chung, bảo đảm cho việc xã hội hóa và thực
hiện các hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đều được điều chỉnh bằng
pháp luật. Pháp luật cần có các hình thức, nội dung huy động sự tham gia của xã hội
vào việc cung ứng dịch vụ công, hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ,
phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong các quy định về trách nhiệm
của Nhà nước trước xã hội trong cung cấp dịch vụ. Trách nhiệm này không chỉ được
thể hiện ở khía cạnh Nhà nước tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công đầy đủ cho
người dân mà còn ở khía cạnh xác định thống nhất trách nhiệm QLNN của các cơ
quan nhà nước có liên quan phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan trong việc quản lý để bảo đảm chất lượng các dịch vụ công được cung cấp đến
người dân dù dịch vụ đó được cung cấp bởi chủ thể là các cơ quan Nhà nước hay các
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải bảo
đảm tính đồng bộ, thống nhất với quy định về các lĩnh vực hoạt động tư pháp, thống
nhất với các nguyên tắc trong thực hiện quyền tư pháp. Pháp luật phải tạo cơ sở pháp
lý cho sự tham gia của các chủ thể phi Nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp. Khi đã đáp ứng các điều kiện và tham gia vào việc cung
cấp các dịch vụ này thì các chủ thể phi Nhà nước cũng sẽ có các quyền, nghĩa vụ tương
ứng và không phân biệt giữa các chủ thể là Nhà nước hay phi Nhà nước. Các chủ thể
cùng có trách nhiệm trong việc thực hiện thống nhất các quy trình, thủ tục, bảo đảm chất
lượng dịch vụ cung cấp cho xã hội, đồng thời tuân thủ nguyên tắc độc lập và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình và cùng thực hiện
các nghĩa vụ trong việc bảo vệ pháp luật, bảo đảm công bằng, công lý trong xã hội.
4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của cơ quan, tổ chức cung ứng
và lợi ích của người thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Dịch vụ công hướng tới lợi ích của đa số dân chúng và góp phần vào việc giải
quyết các vấn đề xã hội. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp còn có nhiệm vụ góp
phần bảo vệ pháp luật, công bằng và công lý trong xã hội. Việc hài hòa giữa lợi ích
chung và lợi ích của từng cá nhân, tổ chức có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là khi có
các chủ thể khác nhau tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công với các mục tiêu khác
nhau. Do đó, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải bảo đảm
hài hòa được lợi ích của Nhà nước, người thực hiện dịch vụ công và người dân với
vai trò là đối tượng thụ hưởng dịch vụ công trong quản lý, cung cấp và sử dung dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Về phía Nhà nước, việc tổ chức cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
là một phần trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội, vừa phục vụ nhu cầu của người
dân, vừa phục vụ các mục tiêu quản lý xã hội của Nhà nước. Nhiều chủ thể tham gia
cung cấp dịch vụ công sẽ tạo ra sự cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, phục vụ
tốt hơn nhu cầu của người dân. Tuy vậy, dù Nhà nước không trực tiếp cung cấp dịch
vụ nhưng Nhà nước vẫn là chủ thể chịu trách nhiệm trước xã hội về việc cung cấp
dịch vụ đó. Vì trách nhiệm này mà khi xây dựng các văn bản QPPL, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thường bị chi phối bởi các mục tiêu QLNN mà cơ quan đó có
trách nhiệm hoàn thành. Ví dụ như nếu quá chú trọng đến việc kiểm soát trực tiếp việc
cung cấp dịch vụ công thì sẽ hạn chế tính tích cực và làm nản lòng các chủ thể phi Nhà
nước muốn tham gia cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, không tạo
thuận lợi cho việc cung cấp dịch vụ công cũng như thụ hưởng của người dân.
Về phía các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ công, các chủ thể này
thường mong muốn đạt được những lợi ích nhất định, trong đó có những lợi ích vật
chất và phi vật chất. Những chủ thể tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công
chuyên nghiệp càng đứng trước yêu cầu của việc duy trì và phát triển tổ chức, tối đa
hóa lợi nhuận để có thể duy trì hoạt động kinh doanh, đầu tư. Tuy vậy, bản chất của
dịch vụ công là các dịch vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu của người dân, vì lợi ích chung
của xã hội. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp càng phải đáp ứng yêu cầu phục vụ
mục tiêu bảo vệ pháp luật, công bằng, lẽ phải trong xã hội. Việc hình thành và vận
hành các tổ chức cung cấp dịch vụ công chuyên nghiệp cũng cần hướng tới mục tiêu
này vì đây cũng là lý do cho việc tồn tại và duy trì các dịch vụ công trong xã hội.
Về phía người dân là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu và sử dụng dịch vụ công.
Trong bối cảnh xã hội hóa, có nhiều chủ thể tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công
thì tổ chức, cá nhân là đối tượng thụ hưởng sẽ có điều kiện để lựa chọn các tổ chức
cung cấp dịch vụ công trên cơ sở nhu cầu và khả năng của mình. Nhưng người thụ
hưởng dịch vụ công cũng có thể bị hạn chế lợi ích và nhu cầu của mình nếu như
những yêu cầu đó ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước hoặc không phù hợp với lợi
ích của số đông trong xã hội. Với dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật phải
bảo đảm sự tham gia cung cấp hay thụ hưởng dịch vụ công không chỉ thỏa mãn nhu
cầu của cá nhân mà còn phải hướng tới chức năng của dịch vụ công trong thực hiện
và bảo vệ pháp luật.
4.1.5. Bảo đảm bình đẳng, công bằng giữa các cá nhân, tổ chức trong việc
yêu cầu, tiếp cận, thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phục vụ cho việc bảo vệ các quyền và lợi
ích chính đáng của người dân. Quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp làm cho
việc cung cấp dịch vụ công phải vận hành theo cơ chế thị trường và tất yếu tạo ra sự
khác biệt khi tiếp cận và thu hưởng dịch vụ công của từng nhóm cá nhân, tổ chức trong
xã hội. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải gắn liền
với nguyên tắc bình đẳng của mọi cá nhân, tổ chức trong thụ hưởng dịch vụ công. Điều
này được thể hiện trên phương diện sau:
Thứ nhất, các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là dịch vụ cần thiết cho việc
thực hiện cũng như bảo vệ quyền của người dân trước pháp luật, là công cụ hỗ trợ đắc
lực cho công tác xét xử, bảo vệ pháp luật của Nhà nước. Do đó, pháp luật trước hết
phải bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đầy đủ cho người dân.
Về nguyên tắc, việc bảo đảm cung cấp dịch vụ công cho xã hội là trách nhiệm của Nhà
nước. Ngay cả khi thực hiện xã hội hóa, giao cho các chủ thể, cá nhân phi Nhà nước
thực hiện thì Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm cho việc cung cấp dịch vụ công
một cách đầy đủ, liên tục.
Thứ hai, pháp luật bảo đảm cho các dịch vụ công được cung cấp có chất lượng
như nhau dù cho dịch vụ được cung cấp bởi chủ thể là các cơ quan, tổ chức của Nhà
nước hay các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Sự thống nhất này được thể hiện ở các
quy định về tiêu chuẩn và quy trình cung cấp dịch vụ công cũng như kiểm soát chất
lượng và khuyến khích các giải pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ công hoặc tạo
thuận lợi hơn cho người dân trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp.
Thứ ba, trong lĩnh vực tư pháp, nguyên tắc bình đẳng còn được thể hiện ở các
quy định bảo đảm bình đẳng cho các chủ thể đều có điều kiện tiếp cận và sử dụng
dịch vụ công khi có nhu cầu. Pháp luật không có sự khác biệt hoặc phân biệt đối xử
liên quan đến chi phí, đặc điểm riêng về thể chế, điều kiện sống để cản trởsự thụ
hưởng dịch vụ công của người dân. Pháp luật còn cần thiết phải bao gồm các chính
sách hỗ trợ, trợ giúp cho những người có điều kiện khó khăn, đối tượng yếu thế trong
xã hội trong việc tiếp cận với dịch vụ công. Hay nói cách khác là cần có các biện
pháp khuyến khích phát triển dịch vụ công ở những nơi, những khu vực có điều kiện
khó khăn hoặc thậm chí Nhà nước vẫn sẽ phải trực tiếp thực hiện những dịch vụ công
nhất định dù trong điều kiện đã xã hội hóa.
4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH
VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Thực hiện nghiên cứu toàn diện về dịch vụ công và xã hội hóa dịch
vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nhằm cung cấp các vấn đề lý luận và thực tiễn
cũng nhƣ đổi mới nhận thức về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp
Dịch vụ công và XHHDVC là phạm trù lịch sử. Quan niệm, phạm vi và cách
thức xác định dịch vụ công và XHHDVC có những khác biệt nhất định ở các quốc
gia, tùy thuộc vào từng điều kiện và giai đoạn cụ thể. Ở Việt Nam, dịch vụ công gắn
với XHHDVC là vấn đề còn khá mới mẻ nhưng hiện nay đang thu hút được sự quan
tâm nghiên cứu chung trong bối cảnh xây dựng, hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị
trường và đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Tuy nhiên, do đặc thù về
điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể nên khái niệm về XHHDVC của Việt Nam cũng có
những khác biệt nhất định. Sự khác biệt này xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của
Việt Nam nhưng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay thì việc nghiên cứu, tìm
hiểu để có thống nhất trong cách hiểu và định hướng hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh
vực này là hết sức cần thiết.
Dịch vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp mặc dù mới được thực hiện
nhưng đang diễn ra khá mạnh mẽ cùng với quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà
nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Thời gian qua đã có
các nghiên cứu về dịch vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp từ các khía
cạnh, cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên thực tế cho thấy các nghiên cứu này mới
tập trung vào từng lĩnh vực hoạt động tư pháp như công chứng, thi hành án, luật sư,
phổ biến giáo dục pháp luật... mà chưa có nghiên cứu tổng thể, toàn diện về dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp. Điều này dẫn đến những lúng túng khi xác định định
hướng, lộ trình hoàn thiện và cả những hạn chế về nội dung trong pháp luật về
XHHDVC. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu toàn diện, tổng thể về
các hoạt động tư pháp với ý nghĩa là các dịch vụ công là hết sức cần thiết nhằm đổi
mới nhận thức về pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Kết quả
nghiên cứu sẽ cung cấp các tri thức khoa học về XHHDVC, bao gồm đặc điểm, bản
chất, cách thức, xu hướng vận động phát triển… Các tri thức này sẽ cho phép các nhà
quản lý đánh giá được sự phù hợp của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp
và từ đó chỉ ra sự cần thiết của việc ban hành hay sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn
bản QPPL hiện hành về XHHDVC. Kết quả nghiên cứu cũng cung cấp các thông tin
khoa học để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng trong quá trình đề xuất lộ
trình hoàn thiện pháp luật cũng như xây dựng, soạn thảo văn bản QPPL về
XHHDVC, xác định quy mô, phạm vi ban hành hay sửa đổi văn bản, hình thức, nội
dung của từng văn bản cụ thể.
Để đáp ứng với yêu cầu hoàn thiện pháp luật, việc nghiên cứu về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện ở khía cạnh nghiên cứu lý luận cơ bản, toàn
diện gắn với bối cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Việc nghiên cứu cần
khai thác, sử dụng các kết quả nghiên cứu đã thực hiện, trong đó lưu ý so sánh, đối
chiếu, tiếp thu kết quả nghiên cứu quốc tế để tạo ra sự tiệm cận trong quan niệm về
dịch vụ công và XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng của Việt
Nam với các nước trên thế giới. Mặc dù thực tế cho thấy có những điểm khác biệt,
thậm chí là khác biệt cơ bản, tồn tại trong các quan điểm, nghiên cứu khác nhau
nhưng trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì đây là nội dung hết sức cần thiết để có định
hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm sự phù hợp, tương thích giữa pháp luật Việt
Nam với pháp luật quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam đã gia nhập, ký kết các hiệp định
thương mại thế hệ mới gắn với cam kết về mở cửa thị trường, thuế quan, minh bạch
hóa, phòng chống tham nhũng… Việc nghiên cứu cũng cần đặt trong bối cảnh xây
dựng một nền hành chính hiện đại theo hướng kiến tạo và phục vụ thay cho nền hành
chính quan liêu, cai trị. Trong quan niệm của nhiều nhà quản lý, thực tiễn cũng như
khoa học của Việt Nam hiện nay đều coi xã hội hóa thường chỉ là quá trình chuyển
giao các công việc của Nhà nước cho xã hội thực hiện nhằm giảm bớt các công việc
của Nhà nước, chuyển giao cho xã hội thực hiện những công việc do xã hội thực hiện
hoặc có thể thực hiện để nhằm giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Việc chuyển giao
này cũng để Nhà nước có điều kiện tập trung vào những công việc phải do Nhà nước
thực hiện. Tuy nhiên, xuất phát từ quan niệm rất cơ bản của xã hội hóa, nếu xem xét
Nhà nước như một thực thể trong xã hội và xã hội hóa là quá trình chuyển hóa từ tính
chất cá nhân thành tính chất xã hội [35] thì quá trình xã hội hóa Nhà nước có thể
được xem như là quá trình xã hội hóa một cá thể. Trong quá trình đó, Nhà nước tiếp
thu và phản ánh những giá trị xã hội trong thực thể của mình. Việc tiếp cận này sẽ
giúp cho chúng ta có cái nhìn khách quan, toàn diện về xã hội hóa và xác định đây là
quá trình tất yếu, diễn ra trong sự tương tác qua lại giữa Nhà nước và xã hội. Vì vậy,
thay vì chỉ tập trung vào xác định xã hội hóa các địa hạt, lĩnh vực hay công việc Nhà
nước đang thực hiện thì chúng ta cần nhìn nhận quá trình xã hội hóa một cách tổng
thể gắn với lộ trình, cách thức xã hội hóa; thay vì chỉ tập trung vào việc chuyển giao
các công việc cụ thể thì chúng ta cần phải chú ý đến các yếu tố cần thay đổi trong nội
tại Nhà nước trong quá trình xã hội hóa.
4.2.2. Xây dựng, hoạch định chính sách về xã hội hóa dịch vụ công trong
lĩnh vực tƣ pháp
Trong QLNN đối với XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, các chính sách quản
lý là những định hướng hành động do Nhà nước lựa chọn để nhằm thực hiện
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp khi có nhiều thành phần kinh tế tham gia cung ứng
dịch vụ công nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân trong bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của mình. Chính sách của Nhà nước về xã hội hóa dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp là một bộ phận của chính sách công và được bảo đảm thực hiện bởi
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các chính sách về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp thể hiện quan điểm, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về XHHDVC gắn
với phát triển dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đáp ứng với mục tiêu cải cách tư
pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân.
Trong xây dựng pháp luật, những chính sách về XHHDVC sẽ được thể chế hóa trong
các văn bản QPPL thông qua các quy định khác nhau như quy định nguyên tắc thực
hiện dịch vụ, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức dịch vụ hay quy định
hình thức cung cấp dịch vụ công. Để hoạt động hoàn thiện pháp luật có hiệu quả cao,
một mặt Nhà nước tiếp tục thực hiện triệt để các chính sách đã ban hành, mặt khác
nghiên cứu đưa ra các chính sách thích hợp với xu thế phát triển của các dịch vụ. Đây
sẽ là định hướng quan trọng để vừa đẩy mạnh chuyển giao các dịch vụ cho các tổ
chức, cá nhân, vừa tách dần việc cung cấp dịch vụ ra khỏi phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan hành chính nhà nước, giao cho các cơ quan dịch vụ thực hiện.
Xuất phát từ các quan điểm, định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC và để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, chính sách XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp cần bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một định hướng lớn của Đảng
và Nhà nước ta trong thực hiện cải cách tư pháp. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
tiếp tục khẳng định chủ trương xã hội hóa các hoạt động tư pháp để thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Xã hội hóa được thực hiện với các hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ
điều kiện gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của luật sư, bổ trợ tư pháp
nhằm mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân [6, tr.178-179].
Thứ hai, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện trên cơ sở thu hút
sự tham gia của xã hội vào việc cung cấp dịch vụ công, phù hợp với khả năng, điều
kiện, nguồn lực trong xã hội vào từng thời điểm, giai đoạn nhất định. Nhà nước xác
định các lĩnh vực, hoạt động, hình thức thu hút sự tham gia của mọi chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các chính sách cụ
thể sẽ được thể hiện dưới các quy định của pháp luật như là cam kết của Nhà nước
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong xã hội khi đã tham gia thực
hiện dịch vụ công, tránh và phòng ngừa các rủi ro về chính sách. Các chủ thể đáp ứng
đủ các điều kiện được tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công phù hợp với khả năng
và theo các hình thức khác nhau. Các chủ thể này có các quyền và nghĩa vụ bình đẳng
với các tổ chức cung cấp dịch vụ công của Nhà nước.
Thứ ba, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp dù cho được cung cấp bởi chủ thể
là Nhà nước hay trong xã hội thì đều phải được thực hiện theo quy định của pháp
luật, phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện các mục tiêu cải cách tư pháp, xây dựng nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh. Người cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
tuân thủ nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về việc cung cấp các
dịch vụ đó. XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp gắn với các lợi ích cộng đồng, nhằm
xây dựng mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong thực hiện và bảo vệ pháp
luật. Mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận không phải là ưu tiên trong XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp. Điều quan trọng là phải tạo ra được lợi ích và trách nhiệm được chia sẻ
giữa Nhà nước, người cung cấp dịch vụ công và công dân với tư cách là người thụ
hưởng và là người giám sát việc cung cấp các dịch vụ công. Người cung cấp dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp cung cấp các dịch vụ để phục vụ công dân chứ không
phải là phục vụ khách hàng. Họ không chỉ đáp ứng nhu cầu của khách hàng mà còn là
xây dựng mối quan hệ tin tưởng và hợp tác giữa công dân với nhau và giữa công dân
với Nhà nước.
Thứ tư, QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
trong điều kiện xã hội hóa phải tuân thủ các nguyên tắc chung của QLNN. Việc quản
lý phải được thực hiện trên cơ sở pháp luật, không can thiệp trực tiếp vào việc cung
cấp dịch vụ công, bảo đảm chất lượng dịch vụ và sự bình đẳng của mọi người trước
pháp luật, phục vụ thay cho chỉ đạo và phát huy đúng mức vai trò của các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp trong quản lý và bảo đảm sự tuân thủ của các tổ chức hành nghề
cung ứng dịch vụ công.
4.2.3. Hoàn thiện các quy định về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực
tƣ pháp
4.2.3.1. Về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Một là quy định cụ thể về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp không phải là một lĩnh vực hay
một ngành luật độc lập, với những quy định cơ bản trong một văn bản độc lập mà bao
gồm các quy định đan xen trong các văn bản về các lĩnh vực hoạt động tư pháp cũng
như về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong thời gian qua, để đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn, các văn bản pháp luật về hoạt động trong lĩnh vực tư pháp như
Luật luật sư, Luật công chứng, Luật TGPL, Luật GĐTP... đã có quy định về việc xác
định luật sư, công chứng là các dịch vụ công gắn với nhiệm vụ, vai trò xã hội của các
cá nhân và tổ chức hành nghề luật sư, công chứng. Các quy định này đã tạo cơ sở
quan trọng định hướng cho việc thiết kế, xây dựng cũng như tổ chức thực hiện định
hướng xã hội hóa và các chính sách QLNN đối với từng hoạt động, góp phần vào việc
thúc đẩy sự phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ. Do đó, trong bối cảnh còn có
quan điểm, cách tiếp cận khác nhau thì cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện, bổ sung quy
định xác định các hoạt động tư pháp là dịch vụ công như trong quá trình sửa đổi Nghị
định về thừa phát lại, xây dựng Luật BĐGTS, Luật TGPL...Các tiêu chí để xác định
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bao gồm:
Thứ nhất, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các dịch vụ do các cơ quan,
tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện cung cấp trong các lĩnh vực thực hiện và bảo vệ
pháp luật, bảo đảm công lý, công bằng trong xã hội.
Thứ hai, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đáp ứng nhu cầu của người dân
trong việc thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp không tạo ra sản phẩm hàng hóa dưới dạng hiện vật mà
là các lợi ích phi vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, tổ chức thụ hưởng
dịch vụ. Xuất phát từ đặc trưng tư pháp là bảo vệ pháp luật [25], thông qua việc sử
dụng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, người dân có thể bảo vệ được lợi ích
của mình bằng các cơ chế phòng ngừa, thực hiện hoặc là đưa ra yêu cầu để các cơ
quan Nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối với việc bảo đảm và thực hiện trên thực tế các
quyền, lợi ích của công dân.
Thứ ba, mục đích xã hội của các dịch vụ công là góp phần vào việc tuân thủ
pháp luật, bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, thực hiện công bằng xã hội vì sự phát
triển kinh tế - xã hội chung. Như đã phân tích ở trên, tư pháp gắn với việc bảo vệ
pháp luật, qua đó duy trì công bằng, công lý, lẽ phải trong xã hội thông qua hoạt động
trung tâm là xét xử cùng với các hoạt động điều tra, truy tố, thi hành án và các hoạt
động bổ trợ tư pháp khác. Các hoạt động này hướng đến đáp ứng nhu cầu của người
dân trong thực thi pháp luật, bảo vệ cũng như phòng ngừa các vi phạm có thể ảnh
hưởng quyền, lợi ích chính đáng của mình. Việc mỗi người dân bảo vệ được quyền và
lợi ích chính đáng của mình không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân của người có liên
quan mà qua đó còn tạo được niềm tin chung của cộng đồng vào công lý, công bằng,
tạo nên ý thức và ứng xử theo quy định của pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được
thực thi trên thực tế.
Thứ tư, các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp có thể là các cơ quan, tổ chức của Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong xã
hội được Nhà nước trao quyền theo quy định của pháp luật. Chủ thể thực hiện dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp là các cơ quan tư pháp được tiếp cận theo phạm vi rộng,
không chỉ trực tiếp là tòa án, viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành
pháp (như cơ quan điều tra, thi hành án của ngành công an; cơ quan thi hành án, cơ
quan tư pháp của ngành tư pháp) mà còn bao gồm các tổ chức nghề nghiệp nằm
ngoài quyền lực nhà nước được Nhà nước ủy quyền hoặc cho phép thực hiện các dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp như các tổ chức hành nghề của luật sư, công chứng
viên, giám định tư pháp, thừa phát lại. Nghị quyết số 49-NQ/TW gọi chung là các
thiết chế bổ trợ tư pháp. Các thiết chế bổ trợ tư pháp này có thể được vận hành bởi
các tổ chức, cá nhân khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật đặt ra.
Hai là tiếp tục rà soát, ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy
phạm pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc tổ chức và hoạt động cung
cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành
Nghị định sửa đổi Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP
về tổ chức và hoạt động thừa phát lại để thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 về
thực hiện chế định thừa phát lại và bảo đảm hoàn thành việc trình thông qua Luật
Thừa phát lại trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV theo Nghị quyết số
107/2015/QH13. Tiếp tục hoàn thiện để trình Quốc hội ban hành Luật trợ giúp pháp
lý theo yêu cầu của Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025
(ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 1/6/2015 của Thủ tướng Chính
phủ). Luật đấu giá tài sản đã được Quốc hội khóa XIV kỳ họp thứ 2 thông qua ngày
17/11/2016 và sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2017, trong đó quy định nhiều nội dung
mới liên quan đến tổ chức và hoạt động đấu giá tài sản và giao trách nhiệm cho Chính
phủ và các cơ quan có liên quan trong việc ban hành các văn bản quy định chi tiết và
triển khai thi hành Luật. Do đó, Chính phủ cần ban hành Nghị định quy định chi tiết
và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản, tập trung vào các quy định về đăng ký hoạt
động đối với doanh nghiệp đấu giá tài sản, chuyển đổi hoạt động của Trung tâm dịch
vụ BĐGTS thuộc Sở Tư pháp...
4.2.3.2. Sửa đổi, ban hành các quy định thực hiện xã hội hóa dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp
Một là ban hành các quy định về hình thức xã hội hóa phù hợp với từng lĩnh
vực hoạt động tư pháp
Trên cơ sở xác định các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, việc xây dựng,
hoàn thiện các quy định về nội dung, hình thức xã hội hóa sẽ được thực hiện theo các
quan điểm, nguyên tắc trong quản lý, cung cấp các dịch vụ công nói chung. Rà soát
các văn bản pháp luật trong lĩnh vực tư pháp cho thấy các quy định về nội dung, hình
thức XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã từng bước mở rộng các đối tượng, chủ thể
được tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công, tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn
những quy định trong một số lĩnh vực chưa thực sự thu hút được sự tham gia này
hoặc có những quy định theo hướng chuyển giao hẳn việc cung cấp dịch vụ công cho
xã hội nên dẫn đến những hạn chế trong hoạt động và tiếp cận với dịch vụ công của
người dân. Do vậy, các quy định về xã hội XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cần tạo
cơ sở pháp lý để thu hút đông đảo các chủ thể trong xã hội tham gia thực hiện và
cung cấp các dịch vụ công và đồng thời gắn với trách nhiệm của Nhà nước trong tạo
ra môi trường công bằng, bình đẳng trong cung cấp dịch vụ công.
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định tạo cơ sở pháp lý cho
các chủ thể trong xã hội tham gia thực hiện và cung ứng các dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa tổ chức công lập hay ngoài công
lập. Ngày 26/11/2015, Quốc hội đã có Nghị quyết số 107/2015/QH13 cho phép thực
hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể từ ngày 1/1/2016. Để tạo cơ sở
pháp lý cho hoạt động Thừa phát lại, Quốc hội giao Chính phủ xây dựng và trình
Luật Thừa phát lại để Quốc hội xem xét trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
khóa XIV. Hiện nay, trong thời gian chưa xây dựng Luật Thừa phát lại, Chính phủ
đang sửa đổi, bổ sung Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ
về tổ chức và hoạt động thừa phát lại được thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí
Minh và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP. Việc sửa đổi, bổ sung
các văn bản QPPL cần thực hiện nhất quán chủ trương xã hội hóa, theo đó cần tiếp
tục khẳng định vai trò của Thừa phát lại trong thực hiện công tác THADS, lập vi
bằng và tống đạt giấy tờ theo quy định của pháp luật. Pháp luật cần điều chỉnh theo
hướng thống nhất giao cho Văn phòng Thừa phát lại thực hiện tống đạt giấy tờ thay
cho quy định thỏa thuận giữa Cơ quan thi hành án dân sự, Tòa án với Văn phòng
Thừa phát lại; bổ sung quy định về thẩm quyền của Văn phòng Thừa phát lại tương
xứng với Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự trong THADS theo yêu cầu
của đương sự như thẩm quyền trong việc xác mình điều kiện THADS, áp dụng các
biện pháp cưỡng chế THADS... Do đó, cùng với việc sửa đổi quy định của Nghị định
số 61/2009/NĐ-CP thì cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật tố
tụng dân sự và Luật thi hành án dân sự về sự tham gia của Thừa phát lại trong quá
trình tố tụng. Cụ thể là sửa đổi Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự về nguồn chứng cứ bao
gồm vi bằng; Điều 172 Bộ luật tố tụng dân sự về người thực hiện tống đạt văn bản tố
tụng; bổ sung thừa phát lại trong hệ thống tổ chức THADS; nghiên cứu hướng cho
phép Thừa phát lại được tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu có liên quan đến tương trợ tư
pháp trong lĩnh vực dân sự của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài trên phạm vi toàn
quốc theo Luật tương trợ tư pháp năm 2007.
Trong lĩnh vực GĐTP, các Văn phòng giám định được thành lập trong lĩnh
vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di vật, bản quyền tác giả theo Điều 14
Luật GĐTP. Nhà nước đầu tư phát triển hệ thống tổ chức GĐTP công lập trong lĩnh
vực có nhu cầu giám định lớn, thường xuyên để đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố
tụng. Quy định này nhằm tạo sự ổn định trong việc cung cấp dịch vụ công cho hoạt
động tố tụng nhưng không khuyến khích được sự tham gia của các tổ chức, cá nhân
trong cung cấp dịch vụ công do giới hạn về thị trường trong điều kiện các Văn phòng
giám định phải tự chủ hoạt động. Do đó, Luật đấu giá tài sản cần được sửa đổi theo
hướng cho phép các tổ chức, cá nhân được tham gia vào lĩnh vực giám định khác nếu
đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về thành lập và hoạt động của các tổ
chức của Nhà nước cung cấp các dịch vụ công trong những lĩnh vực không thu hút được
sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội hoặc dành cho những đối tượng yếu thế,
khó khăn trong việc tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công.
Luật sư là một chế định đã thực hiện xã hội hóa hoàn toàn, nghĩa là do các chủ
thể là tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện. Việc cung cấp dịch vụ dựa trên thỏa
thuận tự nguyện, đồng thuận giữa luật sư và khách hàng, bao gồm cả về nội dung,
phạm vi và giá cả của dịch vụ. Tuy vậy, trong một số trường hợp theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự, luật sư sẽ được mời tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích
cho những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa hoặc tham gia trợ giúp trong
các vụ việc TGPL theo quy định của pháp luật về TGPL. Các luật sư trong trường
hợp này sẽ được Nhà nước chi trả thù lao theo quy định của pháp luật mà không trên
cơ sở thỏa thuận giữa luật sư và đương sự. Thực tế trong thời gian qua, mức thù lao
được chi trả theo định mức của Nhà nước chưa hấp dẫn với các luật sư, do vậy sự
tham gia của luật sư trong các trường hợp chỉ định theo yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng hay trong trường hợp TGPL còn hạn chế. Chất lượng dịch vụ chưa cao.
Trong quá trình soạn thảo Luật TGPL (sửa đổi), nhiều ý kiến đặt vấn đề cần thiết phải
xây dựng chế định luật sư công, tức là các luật sư của Nhà nước, thực hiện các công
việc do Nhà nước giao và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó,
nhu cầu đối với chế định luật sư công còn xuất phát từ việc thực hiện các quy định
của Luật tố tụng hành chính, người dân có quyền khởi kiện đối với các hành vi, quyết
định hành chính do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Rộng hơn là nhu
cầu của Nhà nước trong các vụ việc tranh chấp pháp lý quốc tế, đặc biệt là trong các
lĩnh vực chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư, thương mại... Do đó, cần nghiên cứu, bổ
sung chế định luật sư công trong Luật luật sư với vai trò, trách nhiệm là luật sư của
Nhà nước, thực hiện các công việc do Nhà nước giao, bao gồm công việc của Nhà
nước cũng như công việc theo yêu cầu của người dân nhằm tăng cường khả năng tiếp
cận và sử dụng luật sư của người dân. Hình thức thiết kế sự tham gia của luật sư công
có thể là luật sư hành nghề và ký hợp đồng thực hiện công việc theo ủy quyền của
Nhà nước hay luật sư là viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước và đồng thời
chịu sự điều chỉnh của cả luật viên chức và luật luật sư.
BĐGTS cũng là một lĩnh vực có khả năng xã hội hóa cao. Tháng 11/2016,
Quốc hội đã thông qua Luật đấu giá tài sản. Luật đấu giá tài sản quy định tổ chức đấu
giá tài sản gồm Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, doanh nghiệp đấu giá tài sản.
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá trong hoạt động của doanh nghiệp
đấu giá tài sản, nâng cao chất lượng dịch vụ đấu giá tài sản trong bối cảnh nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luật đấu giá tài sản quy định doanh nghiệp
đấu giá tài sản được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp
danh, nhằm bảo đảm đầy đủ trách nhiệm của doanh nghiệp đấu giá và đấu giá viên
đối với Nhà nước và khách hàng. Do đó, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đấu giá
tài sản cần hướng dẫn doanh nghiệp đấu giá tài sản được thành lập, đăng ký tại Sở Kế
hoạch và Đầu tư theo quy định của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thực hiện việc
chuyển đổi đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp theo quy định của Luật Đấu giá tài sản
một cách thuận lợi, đơn giản thủ tục hành chính và hoạt động đấu giá của doanh
nghiệp được ổn định, liên tục, Dự thảo Nghị định quy định việc đăng ký hoạt động
của doanh nghiệp đấu giá tài sản thành lập trước ngày Luật có hiệu lực. Trường hợp
doanh nghiệp chuyển đổi toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp thành doanh nghiệp
đấu giá tài sản thì sau khi doanh nghiệp đấu giá tài sản được Sở Tư pháp cấp giấy
đăng ký hoạt động, doanh nghiệp được chuyển đổi thực hiện thủ tục chấm dứt hoạt
động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp chỉ
chuyển đổi lĩnh vực hoạt động đấu giá tài sản thì sau khi doanh nghiệp đấu giá tài sản
mới được Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động, doanh nghiệp bị chuyển đổi hoạt
động đấu giá tài sản không được thực hiện hoạt động đấu giá tài sản..
Hai là, hoàn thiện các quy định về việc tham gia cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp của các tổ chức, cá nhân mà không thành lập các tổ chức cung cấp
dịch vụ chuyên nghiệp. Luật TGPL quy định về việc tham gia TGPL của các cộng tác
viên trên cơ sở hợp đồng cộng tác viên. Luật GĐTP cũng có quy định về tham gia
giám định của các tổ chức, người giám định theo vụ việc. Với mục tiêu đa dạng hóa
và thu hút được nhiều nguồn lực tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp thì các quy định về hợp đồng cung cấp dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân
với các cơ quan nhà nước cùng cần được hoàn thiện. Hiện nay, trong quá trình sửa
đổi Luật TGPL cũng cần sửa đổi quy định về hợp đồng cộng tác theo hướng hợp
đồng được ký kết trên cơ sở thỏa thuận giữa Trung tâm TGPL với các tổ chức, cá
nhân tham gia TGPL trên cơ sở khả năng và điều kiện cung cấp dịch vụ có chất lượng
và sẽ là cơ sở để thanh toán chi phí thực hiện vụ việc TGPL. Việc hoàn thiện các quy
định về hợp đồng cung cấp dịch vụ sẽ góp phần vào việc bảo đảm cung cấp các dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp có chất lượng. Tương tự như vậy, cũng cần bổ sung
các quy định cụ thể hơn về hợp đồng thực hiện dịch vụ công với các cơ quan nhà
nước trong trường hợp thực hiện giám định tư pháp theo vụ việc theo Luật GĐTP và
trường hợp ký kết hợp đồng BĐGTS với công ty có thực hiện hoạt động BĐGTS
(nhưng còn thực hiện các hoạt động kinh doanh khác) để thực hiện BĐGTS theo yêu
cầu của các cơ quan nhà nước.
Ba là hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề cung cấp
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Trong thời gian qua, các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề đối với
các chủ thể cung cấp một số dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng đã từng bước
được hoàn thiện theo hướng đây là một chức danh nghề nghiệp và thường được gọi là
các chức danh tư pháp. Xuất phát từ vị trí, vai trò và những tính chất đặc thù của dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp, các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề các
chức danh tư pháp cần bảo đảm các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất là về chuyên môn nghiệp vụ. Việc tham gia cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp phải được thực hiện theo các quy trình, quy định chuyên môn
nghiệp vụ được pháp luật quy định. Điều này đòi hỏi người hành nghề phải am hiểu
đầy đủ về lĩnh vực đó để bảo đảm tuân thủ đầy đủ các quy định về chuyên môn, kỹ
thuật cũng như vận dụng trong thực tiễn để đáp ứng với nhu cầu hết sức phong phú,
đa dạng xã hội. Yêu cầu này được thể hiện ở trình độ đào tạo về pháp luật, đào tạo kỹ
năng nghề nghiệp và kinh nghiệm thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực hành
nghề. Như đã phân tích tại chương III, các tiêu chuẩn về điều kiện hành nghề của các
chức danh tư pháp đang dần được hoàn thiện theo từng khía cạnh này, tuy nhiên cũng
có những chức danh chưa thể hiện đầy đủ các yêu cầu cũng như về thời gian cũng có
những bất cập khác nhau dù cơ bản yêu cầu đối với các chức danh tư pháp có sự tương
đồng nhất định nhất là đối với đấu giá viên, thừa phát lại, trợ giúp viên pháp lý...
Thứ hai là về trách nhiệm của người hành nghề/cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp. Các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có ý nghĩa quan trọng
trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, lợi ích
của Nhà nước. Do vậy, người tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
phải là những người có ý thức trách nhiệm cao với xã hội và với công việc do mình
thực hiện. Yêu cầu này được thể hiện ở ý thức thượng tôn pháp luật cũng như những
ràng buộc trách nhiệm vật chất của người hành nghề với khách hàng. Các tiêu chuẩn
cụ thể cần được xác định ở các tiêu chí về sự tuân thủ pháp luật, hạn chế các quy định
khó có các tiêu chí đánh giá hoặc làm căn cứ cho các cơ quan có thẩm quyền có thể
cấp hoặc từ chối cho phép hành nghề đối với chức danh cụ thể. Cách thức nên quy
định theo hướng không bị xử lý kỷ luật, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
không bị xử lý vi phạm hành chính hoặc đã bị xử lý nhưng đã đáp ứng được một thời
gian nhất định và được coi là chưa bị xử lý...
Đồng thời, pháp luật cũng cần có quy định về bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp đối với những người hành nghề cung cấp các loại dịch vụ công trong lĩnh vực
tư pháp và coi đây là một trong những tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề. Mặc dù pháp
luật đã có quy định rất cụ thể về quy trình, thủ tục thực hiện các dịch vụ công nhằm
kiểm soát chất lượng, hạn chế các sai phạm nhưng trên thực tế dù không muốn nhưng
có thể những sai sót, rủi ro vẫn có thể xảy đến trong quá trình thực hiện, cung cấp các
dịch vụ công. Những sai sót, rủi ro này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích chính đáng của người thụ hưởng dịch vụ công, trong đó có những lĩnh vực liên
quan trực tiếp đến những lợi ích vật chất cụ thể như BĐGTS, công chứng, GĐTP,
thừa phát lại... Hiện nay, pháp luật đã quy định về trách nhiệm mua bảo hiểm nghề
nghiệp của các văn phòng công chứng cho các công chứng viên của văn phòng. Nếu
rủi ro xảy ra thì bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm chi trả. Tương tự trong lĩnh vực thừa
phát lại, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP đã quy định văn phòng thừa phát lại phải ký
quỹ một trăm triệu cho mỗi thừa phát lại của văn phòng hoặc mua bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp. Tuy nhiên có thể thấy, quy định về ký quỹ đối với văn phòng
Thừa phát lại sẽ gây khó khăn về tài chính cho Văn phòng. Mặt khác, với số tiền này
thì cũng sẽ không bảo đảm sẽ chi trả đủ cho người bị thiệt hại trong trường hợp có vi
phạm, rủi ro xảy ra.
Đối với những người cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp thuộc khu
vực Nhà nước, pháp luật hiện nay chưa có quy định về chế độ bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp với nhóm cán bộ này mà thực hiện theo Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước. Theo đó, trong trường hợp có vi phạm xảy ra thì trước hết các cơ quan, tổ
chức nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho người thụ hưởng. Điều này cũng
gây ra sự không bình đẳng về trách nhiệm của nhóm người thực hiện dịch vụ công
của tổ chức nhà nước và xã hội. Để góp phần tạo sự công bằng, bình đẳng giữa khu
vực cung cấp dịch vụ công của nhà nước và xã hội thì cần thiết phải thống nhất quy
định trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp đối với những người hành nghề cung cấp
dịch vụ công của cả khu vực công và khu vực tư. Quy định này sẽ góp phần vào việc
giảm dần sự bao cấp của Nhà nước đối với việc cung cấp dịch vụ công, tăng cường
trách nhiệm của cá nhân các công chức, viên chức tham gia vào việc cung cấp dịch
vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Bốn là sửa đổi, bổ sung quy định về thành lập và hoạt động của các tổ chức
hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp theo hướng ngày càng
chuyên nghiệp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân
Bên cạnh các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề của người thực
hiện, cung ứng dịch vụ công thì quy định về thành lập và hoạt động của các tổ chức
hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng là một trong những chế
định cơ bản trong pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Do là lĩnh vực hành
nghề đặc thù, hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được coi như
là các ngành nghề “có điều kiện”. Các quy định về thành lập và hoạt động của các tổ
chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bao gồm điều kiện
thành lập về con người, trụ sở và trang thiết bị và trình tự thành lập, đăng ký hoạt
động. Pháp luật không quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của các tổ chức cung
ứng dịch vụ công ngoài công lập. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức này phụ
thuộc vào khả năng, điều kiện, thu nhập của tổ chức đó. Riêng đối với các tổ chức
cung ứng dịch vụ công của Nhà nước thì việc thành lập còn phải tuân thủ theo các
điều kiện và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày
28/6/2012 của Chính phủ về việc quy đinh vê thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vi sự
nghiệp công lâp.
Để tạo thuận lợi cho quá trình xã hội hóa, hướng tới xây dựng các tổ chức
hành nghề chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có chất
lượng cần thiết phải hoàn thiện các quy định về điều kiện thành lập cũng như bảo
đảm sự thống nhất tương đối trong quy trình cho phép thành lập và hoạt động đối với
các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp như sau:
Thứ nhất, quy định về điều kiện thành lập các tổ chức hành nghề/cung cấp
dịch vụ công bao gồm điều kiện về nhân lực và cơ sở vật chất, điều kiện bảo đảm cho
việc cung cấp các dịch vụ công chuyên nghiệp, có chất lượng. Một trong những
nguyên tắc trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là phải bảo đảm tính
liên tục, ổn định. Do vậy về nhân sự, pháp luật cần quy định số lượng tối thiểu cho
việc thành lập các tổ chức hành nghề là phải có từ 02 người có đủ điều kiện hành
nghề trở lên và hoạt động theo hình thức hợp danh để bảo đảm chất lượng và ổn định
trong hoạt động của các tổ chức hành nghề. Trường hợp đối với các tổ chức hành
nghề do Nhà nước thành lập thì cũng cần thiết phải có 02 người có đủ điều kiện hành
nghề cũng như có đội ngũ cán bộ hỗ trợ, phục vụ cho phù hợp với đặc thù hành nghề.
Về cơ sở vật chất, điều kiện bảo đảm, pháp luật cần có quy định về điều kiện cơ sở vật
chất một cách đầy đủ, rõ ràng, có tiêu chuẩn định lượng, định chất. Để bảo đảm sự ổn
định trong hoạt động thì các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công cũng cần có trụ sở
hoặc hợp đồng thuê trụ sở trong thời hạn tối thiểu là 03 năm trở lên và trong địa bàn phù
hợp với quy hoạch mạng lưới hành nghề đã được phê duyệt. Trụ sở phải bảo đảm có
diện tích đủ để tiếp công dân, giải quyết các công việc cụ thể cũng như kho bãi, lưu trữ
hồ sơ, tài liệu phù hợp với từng loại hình dịch vụ.
Thứ hai, tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định tổ chức và hoạt động của các tổ
chức sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Do thực tiễn
có nhu cầu nên cần thiết hình thành và duy trì các tổ chức của Nhà nước trong cung
cấp dịch vụ công. Tuy vậy, để bảo đảm sự công bằng trong mô hình cung cấp dịch vụ
do Nhà nước và do xã hội thực hiện thì cần tiếp tục sửa đổi, ban hành quy định về tự
chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức của Nhà nước
trong cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Hiện nay, các tổ chức này đang
thực hiện theo Nghị định số 16/205/NĐ-CP. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP là văn bản
quy định chung về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của tất cả các
đơn vị sự nghiệp mà không tính đến đặc thù của từng lĩnh vực. Do đó, cần thiết có
Nghị định riêng quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự
nghiệp công lập trong lĩnh vực tư pháp. Do đặc thù là các đơn vị thực hiện các nhiệm
vụ theo nhu cầu của Nhà nước nên cần phân tách giữa nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm
vụ chính trị của đơn vị. Đối với phần kinh doanh thì đơn vị tự chịu trách nhiệm nhưng
đối với phần thực hiện nhiệm vụ chính trị thì có cơ chế giao kinh phí, con người cho
thực hiện để bảo đảm chất lượng, hiệu quả các dịch vụ công được cung cấp.
Năm là, sửa đổi và xây dựng mới chính sách khuyến khích xã hội hóa nhằm
thu hút các tổ chức, cá nhân trong việc tham gia cung ứng các dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP
ngày 30/5/2008 và Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 6/6/2014 sửa đổi bổ sung
Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường, trong đó
cho phép áp dụng các chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực GĐTP.
Theo đó, Nghị định quy định các cơ sở xã hội hóa được hưởng các chính sách ưu đãi
trong thuê đất, giao đất, cho thuê, xây dựng cơ sở vật chất, miễn thuế thu nhập doanh
nghiệp... Trong thời gian tới, cùng với yêu cầu nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp, cần thiết tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số
69/2008/NĐ-CP theo hướng cho phép áp dụng các chính sách ưu đãi đối với các lĩnh
vực hoạt động tư pháp khác đang được xã hội hóa, đặc biệt là những lĩnh vực hoạt
động Nhà nước ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện các công
việc của Nhà nước như công chứng, thừa phát lại... Đồng thời, pháp luật cũng cần có
quy định về chính sách ưu đãi, khuyến khích theo địa bàn để khuyến khích các tổ
chức, cá nhân thành lập và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở
những khu vực có điều kiện xã hội khó khăn. Trong lĩnh vực TGPL, do đây là lĩnh
vực phi lợi nhuận, hoạt động không có thu nên có chính sách khuyến khích được
hưởng các ưu đãi khi các tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác TGPL miễn phí cho
người nghèo, đối tượng thuộc khó khăn, nhóm yếu thế trong xã hội. Trước mắt, có
thể xem xét tham gia TGPL như là một trong những yếu tố xã hội trong thành lập
doanh nghiệp xã hội theo Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp.
4.2.3.3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý nhà nước đối với xã hội
hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
QLNN đối với XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có một vai trò hết sức quan
trọng trong việc bảo đảm các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phát triển theo
đúng định hướng của Nhà nước, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Để tạo cơ sở
pháp lý cho việc tác động của Nhà nước vào quá trình xã hội hóa, hoàn thiện pháp
luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm hoàn thiện các quy định về QLNN
theo các định hướng sau:
Một là quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc ban
hành các chính sách, quy hoạch phát triển dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phù
hợp với thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan trung ương và địa phương. Theo đó,
các cơ quan trung ương thực hiện QLNN trong phạm vi cả nước, có trách nhiệm ban
hành chính sách, quy hoạch mạng lưới tổ chức cung cấp dịch vụ công trong phạm vi cả
nước. Các cơ quan địa phương có trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách, quy hoạch
đó. Căn cứ vào chính sách chung, các địa phương cũng có thể ban hành các chính sách,
biện pháp phát triển hành nghề phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.
Hai là sửa đổi trình tự, thủ tục cho phép thành lập và đăng ký hoạt động của
các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp theo hướng
thống nhất, phù hợp với thẩm quyền và phạm vi QLNN theo ngành, lĩnh vực và lãnh
thổ, qua đó cũng tạo thuận lợi cho người dân trong việc thành lập và đăng ký hoạt
động các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công. Theo đó, về nguyên tắc đối với
những vấn đề cần phải bảo đảm thực hiện chung, thống nhất trong phạm vi cả nước
thì sẽ do cơ quan nhà nước ở trung ương thực hiện; đối với những vấn đề gắn với
điều kiện cụ thể của địa phương thì sẽ do các cơ quan nhà nước ở địa phương thực
hiện bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật. Trong cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp, các cơ quan ở trung ương - cụ thể là Bộ Tư pháp sẽ là cơ quan có
thẩm quyền trong việc cấp chứng chỉ hành nghề hay công nhận tư cách hành nghề đối
với các chức danh tư pháp - những người hành nghề cung cấp dịch vụ. Cơ quan có
thẩm quyền ở địa phương - cụ thể là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ là cơ quan có thẩm
quyền đối với việc cho phép thành lập và Sở Tư pháp sẽ là cơ quan đăng ký hoạt
động đối với các tổ chức hành nghề.
Ba là hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp - những người cung
cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Để bảo đảm chất lượng dịch vụ công được cung cấp thì việc đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức quan trọng. Rà soát các quy định hiện hành
thì hầu hết việc đào tạo, bồi dưỡng người hành nghề cung cấp các dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp do Bộ Tư pháp thực hiện. Riêng đối với lĩnh vực luật sư có quy định
cho phép thành lập cơ sở đào tạo nghề của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Tuy nhiên,
cơ sở đào tạo này mới đang trong giai đoạn nghiên cứu, thành lập. Để bảo đảm chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng, pháp luật cần quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ
quan trong đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp. Pháp luật cũng cần có quy định
về yêu cầu, nội dung, thời gian đào tạo, bồi dưỡng; việc tập sự hành nghề cũng như
quy định về chương trình, tài liệu cho việc đào tạo, bồi dưỡng.
Bốn là, ban hành các bộ tiêu chí đánh giá chất lượng cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp
Bảo đảm cung cấp các dịch vụ công có chất lượng là trách nhiệm quan trọng
trong QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là
trong điều kiện chuyển giao việc cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực
hiện. Để có thể đánh giá được chất lượng, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải ban
hành các bộ tiêu chí đánh giá chất lượng cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp. Bộ tiêu chí này được áp dụng cho tất cả các tổ chức cung ứng dịch vụ công,
không phân biệt công lập hay ngoài công lập. Việc đánh giá phải bảo đảm có sự tham
gia của tất cả các tổ chức, cá nhân có liên quan trong cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp nhằm thể hiện được hài hòa lợi ích giữa các bên trong cung cấp dịch
vụ công, bao gồm:
Về chủ thể, các chủ thể tham gia vào quá trình đánh giá này trước hết là các
đối tượng thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Đây là đối tượng chủ yếu
của việc đánh giá trên cơ sở đo lường sự hài lòng của người dân với dịch vụ được
cung cấp. Các cơ quan QLNN sẽ tham gia đánh giá với vai trò là cơ quan chịu trách
nhiệm trước xã hội việc cung cấp dịch vụ công và chất lượng dịch vụ công được cung
cấp. Kết quả đánh giá sẽ cung cấp cho họ các định hướng, giải pháp trực tiếp để nâng
cao chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, việc đánh giá cũng cần có sự tham gia của các cơ
quan khác có liên quan. Đây là đối tượng đặc thù trong cung cấp dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp. Mặc dù không phải là đối tượng thụ hưởng của dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp nhưng các dịch vụ này được cung cấp có chất lượng cũng có tác
động quan trọng đến việc thực hiện nhiệm vụ của họ.
Về nội dung, bên cạnh đánh giá sự hài lòng của người dân đối với các dịch vụ
công được cung cấp, việc đánh giá chất lượng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phải
lưu ý đến các vấn đề về sự tuân thủ pháp luật trong quá trình thực hiện, nguyên tắc
khách quan, công bằng, vì lợi ích chung và bảo vệ pháp luật.
Năm là tiếp tục hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
trong lĩnh vực tư pháp
Thanh tra, kiểm tra là một trong những nội dung QLNN hết sức quan trọng,
nhằm phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các sai phạm trong quá trình XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp. Trong điều kiện xã hội hóa thì thanh tra, kiểm tra đang là cách thức quan
trọng nhất để các cơ quan QLNN nắm bắt được hoạt động của các tổ chức, đánh giá
được chất lượng mà tổ chức cung cấp. Pháp luật hiện nay cũng đã có các quy định về
trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của các cơ quan QLNN. Bên cạnh các quy định pháp
luật về thanh tra thì cần sửa đổi, mở rộng phạm vi kiểm tra theo Nghị định số
99/2006/NĐ-CP ngày 15/9/2006 của Chính phủ về công tác kiểm tra việc thực hiện
chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch bao gồm cả việc kiểm tra chấp hành các
quy định pháp luật nói chung.
Sáu là sửa đổi, hoàn thiện quy định về chế độ báo cáo, cung cấp, chia sẻ thông
tin trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Báo cáo, cung cấp thông tin giúp cho các cơ quan QLNN có thể có các định
hướng, biện pháp quản lý phù hợp với các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công.
Tuy nhiên, yêu cầu đối với việc báo cáo, chia sẻ thông tin là phải bảo đảm được sự
công khai, minh bạch, không tạo gánh nặng, áp lực cho đối tượng thực hiện. Vì vậy,
pháp luật cần quy định, hướng dẫn cụ thể về thời gian định kỳ, nội dung, hình thức,
đối tượng báo cáo và trách nhiệm của các cơ quan trong tiếp nhận, xử lý thông tin báo
cáo. Pháp luật cũng cần có quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong báo cáo,
chia sẻ thông tin, bao gồm xây dựng các hệ cơ sở dữ liệu thông tin. Trong bối cảnh
xây dựng nền hành chính hiện đại, hoạt động thông suốt thì các hệ cơ sở dữ liệu
thông tin được xem là các công cụ có ý nghĩa quan trọng trong QLNN trên cơ sở kết
nối giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức cung ứng dịch vụ công. Hệ cơ sở dữ
liệu cũng có vai trò là công cụ để thúc đẩy quá trình xã hội hóa dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp. Ví dụ như trong lĩnh vực công chứng, việc xây dựng được hệ cơ sở
dữ liệu công chứng kết nối giữa các tổ chức hành nghề công chứng với nhau sẽ giúp
cho việc kiểm soát thông tin và có thể ra quyết định từ chối hay chấp nhận công
chứng một giao dịch cụ thể. Nhà nước không cần trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ
công mà vẫn có thông tin cần thiết để kiểm tra, kiểm soát việc cung cấp và chất lượng
của các dịch vụ được cung cấp. Vì vậy, pháp luật cần bổ sung quy định liên quan đến
việc xây dựng, quản lý, khai thác hệ cơ sở dữ liệu thông tin; xác định trách nhiệm đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ quan quản lý hệ cơ sở dữ liệu, quy định nghĩa vụ cung
cấp, trao đổi thông tincho hệ cơ sở dữ liệu và quy định về việc khai thác, sử dụng
thông tin từ hệ cơ sở dữ liệu đối với từng dịch vụ, nhóm dịch vụ cụ thể hoặc tất cả các
dịch vụ có liên quan.
Bảy là tiếp tục hoàn thiện quy định về sự phối hợp QLNN với tự quản của các
tổ chức xã hội nghề nghiệp (hay còn gọi là hội nghề nghiệp) trong lĩnh vực tư pháp.
Khi thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp có một vai trò hết sức quan trọng, đặc thù. Các tổ chức này không chỉ là tổ
chức đại diện cho các thành viên mà còn phối hợp cùng với các cơ quan QLNN để
thực hiện một số nội dung, công việc quản lý các thành viên, bảo đảm các thành viên
tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật, đạo đức nghề nghiệp. Để bảo đảm sự phối
hợp trong QLNN, trước hết, pháp luật cần phải quy định về việc thành lập, phạm vi
và nhiệm vụ, quyền hạn của hội trong quản lý thành viên. Các dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp không chỉ trực tiếp phục vụ cho lợi ích của người thụ hưởng mà còn góp
phần vào việc thực hiện và bảo vệ pháp luật, thực hiện công bằng, công lý trong xã
hội. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công
sẽ là tổ chức tập hợp, đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các thành viên
của mình. Đồng thời, các tổ chức này ban hành các quy tắc, chuẩn mực để các thành
viên tuân thủ và thông qua hoạt động của mình để giám sát, theo dõi và bảo đảm các
thành viên tuân thủ theo đúng quy định pháp luật, qua đó tạo ra thái độ tự giác chấp
hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân hành nghề cung cấp dịch vụ công. Pháp luật
cũng cần quy định về sự tham gia của đại diện các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong
lĩnh vực tư pháp trong tham gia các hoạt động QLNN, đặc biệt là đối với các hoạt
động hoạch định chính sách, biện pháp phát triển đối với lĩnh vực dịch vụ công đó,
tham gia với các cơ quan nhà nước trong công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
chính sách và chấp hành pháp luật.
Hiện nay, dự thảo Luật về Hội đang được xây dựng và trình Quốc hội Khóa
XIV kỳ họp thứ II để cho ý kiến. Dự thảo Luật dự kiến sẽ được tiếp tục hoàn thiện để
trình Quốc hội thông qua. Điều 2 dự thảo Luật được trình ra Quốc hội quy định:
“1. Luật này không áp dụng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công
đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam.
2. Trường hợp luật khác có quy định về tổ chức, hoạt động của hội trước
ngày Luật này có hiệu lực mà khác với Luật này thì thực hiện theo quy
định của Luật đó”.
Với quy định này thì Liên đoàn luật sư và Hiệp hội công chứng viên Việt Nam
sẽ được điều chỉnh theo Luật luật sư và Luật công chứng. Tuy nhiên, các dịch vụ
công trong lĩnh vực tư pháp hiện nay đang trong quá trình phát triển, cùng với các
lĩnh vực luật sư, công chứng thì các lĩnh vực khác cũng đang được đẩy mạnh phát
triển và tương lai sẽ tiếp tục hình thành các hiệp hội, hội nghề nghiệp trong từng lĩnh
vực. Do đó, dự thảo Luật về hội cần có quy định mở rộng hơn đối với các trường hợp
hội sẽ được thành lập sau thời điểm ban hành Luật về hội và được quy định trong các
Luật chuyên ngành khác. Đồng thời, dự thảo Luật về hội cũng cần cân nhắc kế thừa
quy định về hội đặc thù hiện đang được quy định tại Nghị định số 45/2010/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 21/4/2010 về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Đây là chế định
phù hợp để phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong lĩnh vực tư
pháp để tham gia vào việc xây dựng chính sách, QLNN đối với lĩnh vực hoạt động.
Tám là hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền QLNN về dịch vụ công
Ngày 1/9/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 123/2016/NĐ-CP quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
Điều 2 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP quy định Bộ thực hiện chức năng QLNN đối
với dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, tại Điều
10 của Nghị định chỉ quy định về nội dung QLNN về dịch vụ sự nghiệp công. Do đó,
cần thiết phải sửa đổi Nghị định số 123/2016/NĐ-CP để bổ sung quy định về quản lý
dịch vụ công nói chung của các Bộ, ngành làm cơ sở cho việc xây dựng và ban hành
Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng Bộ. Hiện nay. Chính
phủ cũng đang triển khai việc kiện toàn cơ cấu Chính phủ theo nhiệm kỳ Quốc hội
khóa XIV với việc rà soát để ban hành mới các Nghị định quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của từng bộ. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, chưa có Bộ nào
được giao nhiệm vụ QLNN chung về dịch vụ công. Phụ thuộc vào từng khía cạnh về
tổ chức và cơ chế hoạt động thì sẽ do Bộ Tài chính hay Bộ Nội vụ hướng dẫn hoạt
động và do các Bộ, ngành hướng dẫn đối với hoạt động chuyên môn. Do đó, việc
hoàn thiện các Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ của các Bộ ngành trong thời
gian tới cần giao trách nhiệm cho một Bộ là đầu mối quản lý về dịch vụ công nói
chung. Bộ này sẽ có trách nhiệm trong việc quản lý và tham mưu các chính sách phát
triển dịch vụ công nói chung. Trên cơ sở định hướng chính sách chung đó thì các Bô,
ngành sẽ thực hiện QLNN đối với các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực quản lý.
4.2.4. Bảo đảm các điều kiện cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp
Bảo đảm các điều kiện cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một giải pháp quan trọng cho công tác xây dựng
và hoàn thiện pháp luật với các nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng cán bộ trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng
văn bản QPPL, trong đó đặc biệt chú trọng đến năng lực, trình độ, tinh thần, trách
nhiệm trong công việc. Các cơ quan cần bảo đảm đủ cán bộ cho công tác xây dựng
pháp luật; tiến hành rà soát, đánh giá, quy hoạch, lựa chọn các cán bộ có trình độ, kinh
nghiệm, năng lực phân tích, hoạch định chính sách, chiến lược, kết hợp giữa quản lý và
thực tiễn để tham gia công tác xây dựng văn bản QPPL về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp. Thực hiện các hoạt động bồi dưỡng, cập nhật thông tin, nội dung, yêu cầu quản
lý, chia sẻ kinh nghiệm của các nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cho những cán bộ thực hiện nhiệm vụ QLNN và
tham gia xây dựng, hoạch định chính sách về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Thứ hai, thu hút sự tham gia các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực
tiễn và các chủ thể cung cấp dịch vụ công vào các giai đoạn, các khâu của công tác
xây dựng văn bản, từ khâu lập đề nghị, đề xuất về chính sách, văn bản đến soạn thảo,
thẩm định, góp ý và cả khâu kiểm tra văn bản bản.
Thứ ba, bảo đảm các điều kiện kỹ thuật, ngân sách cho công tác xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo hướng nâng các định
mức chi tiêu cho phù hợp với thực tế, đặc biệt là các nội dung chi về điều tra, khảo sát
thực tiễn, đánh giá tác động chính sách, thu thập ý kiến những đối tượng chịu sự điều
chỉnh của văn bản, các chuyên gia, nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn đầu ngành.
Cùng với đó là xây dựng, phát triển hệ cơ sở dữ liệu pháp luật, cơ sở dữ liệu thông tin
về việc cung cấp dịch vụ và đánh giá chất lượng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
để bảo đảm các các nguồn thông tin tin cậy, khách quan cho việc xây dựng, hoạch
định chính sách. Từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và các
điều kiện khác cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, trong đó có
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
4.2.5. Nâng cao hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về xã hội hóa
dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp
4.2.5.1. Thực hiện hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật về xã hội
hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Theo dõi tình hình thi hành pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước
nhằm xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật, qua đó kiến nghị thực hiện các
giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Theo dõi thi hành pháp luật là hoạt động tiếp nối với quá trình xây dựng và ban hành
văn bản QPPL, tạo ra chu trình liên tục của quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật
đến thực thi, đánh giá kết quả thực thi và tiếp tục hoàn thiện pháp luật. Trong bối
cảnh đẩy mạnh thực hiện XHHDVC, công tác theo dõi thi hành pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng để kịp thời hoàn
thiện pháp luật theo yêu cầu thực tiễn đặt ra. Để phục vụ cho yêu cầu hoàn thiện
pháp luật, nội dung của công tác theo dõi thi hành pháp luật về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp cần tập trung vào tình hình ban hành các văn bản quy định chi tiết thi
hành văn bản QPPL. Yêu cầu đặt ra là việc ban hành các văn bản quy định chi tiết thi
hành phải kịp thời, đầy đủ, bảo đảm các điều kiện thi hành pháp luật và có tính khả
thi và việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật theo Nghị định số
59/2012/NĐ-CP với các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, thường xuyên theo dõi, thu thập các thông tin về tình hình thi hành
pháp luật liên quan đến xã hội hóa cũng như thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp thông qua các báo cáo, thông tin được đăng tải trên các phương tiện
thông tin đại chúng và người có thẩm quyền và hình thành cơ chế phản ứng chính
sách với những thông tin thu thập được thông qua việc sàng lọc, kết nối với công tác
kiểm tra, tổng kết, rà soát, kiểm tra văn bản QPPL.
Thứ hai, kiểm tra tình hình thi hành pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư
pháp, trong đó tập trung vào những lĩnh vực trọng tâm nhằm kịp thời phát hiện khó
khăn, vướng mắc, hạn chế trong thi hành pháp luật và khiếm khuyết, bất cập của pháp
luật. Những phát hiện này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc kiến nghị để tiếp tục
hoàn thiện pháp luật.
Thứ ba, bên cạnh việc kiểm tra thì các cơ quan QLNN cũng có thể thực hiện
việc điều tra, khảo sát về tình hình thi hành pháp luật về XHHDVC và từ đó định kỳ
có báo cáo kết quả thực hiện theo dõi thi hành pháp luật gửi tới các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, đặc biệt là cơ quan QLNN đối với dịch vụ công đó để có lưu ý, hoàn
thiện pháp luật, chính sách về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phù hợp với định
hướng, mục tiêu phát triển đã đề ra thông qua việc ban hành các văn bản quy định chi
tiết thi hành, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành, tăng cường công tác hướng dẫn
nhằm bảo đảm tính chính xác, thống nhất trong áp dụng pháp luật.
4.2.5.2. Thực hiện thường xuyên rà soát, hệ thống hóa pháp luật và đề xuất
xây dựng Đề mục pháp điển về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp
Rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL là một trong những giải pháp chung được
sử dụng để hoàn thiện pháp luật. Rà soát văn bản QPPL là việc xem xét, đối chiếu,
đánh giá các quy định của văn bản được rà soát với văn bản là căn cứ pháp lý để rà
soát cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội nhằm phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị
xử lý các quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn
phù hợp. Hệ thống hóa văn bản là việc tập hợp, sắp xếp các văn bản đã được rà soát,
xác định còn hiệu lực theo các tiêu chí về lĩnh vực nội dung của văn bản, thứ bậc hiệu
lực của văn bản và trình tự, thời gian ban hành văn bản. Kết quả rà soát, hệ thống hóa
văn bản được sử dụng trước hết cho việc xây dựng văn bản QPPL; tra cứu trong áp
dụng và thực hiện pháp luật. Đồng thời, trên cơ sở kết quả rà soát, hệ thống hóa, đề
xuất xây dựng Đề mục pháp điển về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong Bộ pháp
điển Việt Nam đang được xây dựng theo Pháp lệnh về pháp điển hệ thống QPPL.
Do đặc thù pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp không được quy
định tập trung trong một văn bản QPPL cụ thể mà được thể hiện trong nhiều văn bản
với hình thức, thứ bậc hiệu lực khác nhau nên việc thường xuyên rà soát, hệ thống
hóa văn bản QPPL về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một giải pháp thích hợp
cho việc hoàn thiện pháp luật. Việc rà soát, hệ thống các văn bản QPPL trong lĩnh
vực tư pháp cần kết hợp giữa rà soát, hệ thống tổng thể và đối với từng văn bản. Cụ
thể như sau:
Một là rà soát, hệ thống hóa tổng thể các văn bản QPPL có chứa các quy định
liên quan đến XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Các văn bản này bao gồm các văn
bản quy định về từng hoạt động tư pháp và các văn bản quy định về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công nói chung. Trên cơ sở rà soát,
hệ thống hóa, thực hiện đánh giá tổng thể về các văn bản QPPL về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp. Việc đánh giá sẽ đối chiếu, so sánh giữa từng văn bản trong tổng thể
các văn bản QPPL và đối chiếu, so sánh giữa các văn bản với mục tiêu, yêu cầu, định
hướng XHHDVC nói chung và mục tiêu, yêu cầu của các Chiến lược cải cách pháp
luật, cải cách tư pháp và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Kết quả đối chiếu, so sánh là nguồn thông tin cho việc hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Đồng thời, theo Pháp lệnh pháp điển hệ thống
QPPL, kết quả cũng được sử dụng trong việc xây dựng Bộ pháp điển để tạo thuận lợi
trong sử dụng, tra cứu phục vụ cho công tác áp dụng và thực hiện pháp luật.
Hai là rà soát, hệ thống hóa các văn bản QPPL trong từng lĩnh vực hoạt động
tư pháp để đánh giá và đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp đó trên cơ sở chuyển giao, thu hút sự tham gia của xã hội vào việc
cung cấp dịch vụ. Việc rà soát cần có đối chiếu, so sánh giữa các văn bản trong lĩnh
vực đó với nhau, giữa các văn bản đó với định hướng chung về XHHDVC trong lĩnh
vực tư pháp và giữa các văn bản QPPL trong lĩnh vực tư pháp với các văn bản quy
định về chính sách, tổ chức và hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ công nói
chung. Hình thức rà soát này có thể được sử dụng phục vụ cho việc soạn thảo, xây
dựng văn bản, đồng thời cũng để phục vụ cho việc triển khai thực hiện văn bản trên
cơ sở xác định các văn bản đã hết hiệu lực, cần bãi bỏ, sửa đổi so với văn bản mới
được ban hành.
Ba là rà soát được thực hiện với từng văn bản cụ thể kết hợp với công tác kiểm
tra văn bản nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật của văn bản để kịp thời
đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống
nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời, kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xác
định trách nhiệm của cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4
1. Từ thực trạng của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt
Nam hiện nay, Luận án đã xác định các quan điểm hoàn thiện pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp phải đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh thực hiện XHHDVC gắn với
cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam. Hoàn thiện pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng mô hình cung
cấp dịch vụ công hợp lý trên cơ sở huy động các nguồn lực trong xã hội tham gia vào
việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, phục vụ tốt hơn nhu cầu của
người dân và thực hiện trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội.
2. Để đạt được mục tiêu trên, nội dung hoàn thiện pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp phải được thực hiện đồng bộ trên cả ba nhóm quy định cơ bản
của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, trong đó chú trọng đến các giải
pháp tiếp tục ban hành các văn bản QPPL quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp;
sửa đổi các quy định về điều kiện hành nghề của cá nhân và thành lập các tổ chức
cung ứng dịch vụ công chuyên nghiệp; hoàn thiện các quy định về hợp đồng cung cấp
dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; ban hành các chính sách khuyến khích
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; quy định cụ thể về nội dung QLNN về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp; xác định cơ quan QLNN về dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp; phân định trách nhiệm giữa các Bộ, ngành trong QLNN và trách nhiệm giữa
các Bộ, ngành với các tổ chức tự quản trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư
pháp.
Đồng thời, để hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng
cần chú trọng đến công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng chính
sách, theo dõi thi hành pháp luật, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL và pháp điển hệ
thống QPPL.
KẾT LUẬN
1. XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là nhiệm vụ chiến lược được triển khai
thực hiện theo yêu cầu của quá trình cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phạm vi XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp
được xác định tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn, từng quốc
gia, từng khu vực nhất định. Là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện XHHVC trong lĩnh
vực tư pháp, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp không phải là một ngành
luật độc lập mà bao gồm tổng thể các QPPL nằm trong các văn bản QPPL thuộc các
lĩnh vực và có cấp độ hiệu lực khác nhau. Pháp luật điều chỉnh ba nhóm quan hệ cơ
bản phát sinh từ quá trình tổ chức, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, thực
hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp và các nội dung về trách nhiệm của Nhà nước
trong quản lý việc cung cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa.
2. Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung,
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã được đẩy mạnh hoàn thiện theo
yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở Việt Nam. Pháp luật đã tạo cơ sở
pháp lý cho sự tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội gắn với trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm
cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp một cách công bằng, liên tục, ổn
định và có chất lượng. Đến nay, hầu hết các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đã
được xã hội hóa với các mức độ phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực và theo yêu
cầu cải cách tư pháp. Hệ thống các tổ chức và đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp
hành nghề cung cấp dịch vụ công đã được hình thành và ngày càng được củng cố,
phát triển.
Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn và trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư
pháp, cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo và phục vụ thì
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập.
Nội dung của một số quy định còn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa thống nhất giữa
các lĩnh vực, chưa có nhiều chính sách khuyến khích thực hiện XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp và đặc biệt là nội dung QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công
trong lĩnh vực tư pháp còn chưa được quy định cụ thể, chưa phân định cụ thể trách
nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau và giữa các cơ quan nhà nước
với các tổ chức tự quản hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế có cả từ khách quan và chủ quan.
Trước hết những hạn chế là do XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là vấn đề mới
trong khi điều kiện bảo đảm cho việc xây dựng và thực thi pháp luật còn hạn chế cả
về tài chính lẫn con người. Cùng với đó là hạn chế trong công tác xây dựng, hoạch
định chính sách cho việc thực hiện XHHDVC chưa đáp ứng được yêu cầu, trình độ,
năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước và hạn chế từ công tác
thi hành pháp luật đã có tác động tiêu cực đến quá trình hoàn thiện pháp luật về
XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
4. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa dịch vụ công gắn với cải cách hành chính,
đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và cải cách tư pháp, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Hoàn thiện pháp luật nhằm tạo được cơ sở
pháp lý cho việc xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ công hợp lý trên cơ sở huy
động các nguồn lực trong xã hội tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân và thực hiện trách nhiệm
của Nhà nước trước xã hội.
Để đạt được mục tiêu nói trên, các giải pháp mang tính tổng thể nhằm bảo
đảm yêu cầu toàn diện, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của pháp luật về XHHDVC
trong lĩnh vực tư pháp cần thiết phải được thực hiện. Trước hết là việc thực hiện
giải pháp nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ hơn nữa về bản chất của từng dịch vụ
công, xã hội hóa và chính sách đối với XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Trên cơ
sở các nghiên cứu lý luận, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thực hiện
hoạch định chính sách phát triển trong từng thời kỳ phù hợp với điều kiện lịch sử cụ
thể của đất nước. Đây là các nguyên tắc cho việc hoàn thiện pháp luật và điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về XHHDVC là giải pháp cần được thực
hiện đồng bộ trên cả ba nhóm quy định cơ bản của pháp luật về XHHDVC trong
lĩnh vực tư pháp, trong đó chú trọng đến việc tiếp tục ban hành các văn bản QPPL
quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; xác
định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; sửa đổi các quy định về điều kiện hành
nghề của cá nhân và thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công chuyên nghiệp;
hoàn thiện các quy định về hợp đồng cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp;
ban hành các chính sách khuyến khích XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; quy định
cụ thể về nội dung QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; xác định cơ quan
QLNN về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; phân định trách nhiệm giữa các Bộ,
ngành trong QLNN và trách nhiệm giữa các Bộ, ngành với các tổ chức tự quản
trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.
Đồng thời, các giải pháp khác cũng cần thiết phải được thực hiện, bao gồm
bảo đảm các điều kiện cho công tác xây dựng pháp luật và nâng cao hiệu quả công
tác thi hành pháp luật trên cơ sở chú trọng đến công tác theo dõi thi hành pháp luật,
thường xuyên rà soát, hệ thống hóa văn bản và pháp điển hệ thống quy phạm pháp
luật để có thể thường xuyên đánh giá, theo dõi, phát hiện kịp thời hiệu quả của văn
bản đó trong thực tiễn cuộc sống để từ đó có kiến nghị, giải pháp tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Trần Thu Hường (2017), “Đề xuất đổi mới việc cung ứng dịch vụ công trong
lĩnh vực tư pháp trong điều kiện xã hội hóa theo chiến lược cải cách tư
pháp”, Tạp chí Nghề luật tháng 1/2017.
2. Trần Thu Hường (2017), “Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp - Thực trạng và hướng hoàn thiện theo yêu cầu cải cách tư
pháp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng 1 (298) năm 2017.
3. Trần Thu Hường (2016), “Đặc trưng của xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh
vực tư pháp ở Việt Nam và một số kiến nghị”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
số chuyên đề tháng 11/2016, tr23-28.
4. Trần Thu Hường (2013), “Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong các
lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp - Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 8 (25), tr28-31.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
1. TS Đinh Văn Ân và Hoàng Thu Hòa (2006), Đổi mới cung ứng dịch vụ công
ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê.
2. Ths Nguyễn Hoàng Anh (2006), “Xã hội hóa hoạt động công chứng – Từ ý
tưởng đến thực tiễn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (176), tháng 11/2006,
tr2-tr6.
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1991), Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
http://www.dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/van-kien-dang/van-kien-dai-
hoi/khoa-vii/doc-21012201511352246.html, truy cập ngày 30/10/2016.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (2000), Báo cáo chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
5. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (2006), Báo cáo chính trị tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2016), Báo cáo của Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội.
7. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X (2007), Nghị quyết số 17/NQ-TW
về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của
bộ máy nhà nước.
8. Nguyễn Ngọc Bích (2012), Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực
hành chính ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, Hà Nội.
9. TS Nông Phú Bình (2000), Một số thuật ngữ hành chính, Nhà xuất bản thế
giới, Hà Nội
10. Bộ Nội vụ (2013), Báo cáo kết quả xác định Par Index 2012 của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 9/2013
http://www.moha.gov.vn/danh-muc.html?cateid=560, truy cập ngày 30/10/2016.
11. Bộ Nội vụ (2014), Báo cáo kết quả xác định Par Index 2013 của các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(kèm theo Quyết định số 895/QĐ-BNV ngày 22/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ), 8/2014 http://www.moha.gov.vn/danh-muc.html?cateid=560, truy cập
ngày 30/10/2016.
12. Bộ Nội vụ (2013), Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính – ban hành
kèm theo Quyết định số 2367/QĐ-BNV.
13. Bộ Tư pháp (2011), Báo cáo số 48/BC-BTP ngày 25/3/2011 tổng kết 5 năm
thi hành Pháp lệnh Giám định tư pháp.
14. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo số 46/BC-BTP ngày 6/3/2012 tổng kết 5 năm thi
hành Luật Luật sư.
15. Bộ Tư pháp (2012), Tổng thuật pháp luật một số nước về luật sư, Tài liệu kèm
theo Dự án Luât Luật sư sửa đổi,
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_D
etail.aspx?ItemID=488&TabIndex=2&TaiLieuID=543, truy cập ngày
30/10/2016.
16. Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật Công chứng, Tài
liệu Hội nghị tổng kết 5 năm thi hành Luật Công chứng.
17. Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo tổng thuật pháp luật về công chứng đã đề cập
đến hệ thống công chứng Latin (Cộng hòa Pháp, Cộng hòa liên bang Đức, Tây
Ban Nha, Ba Lan, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc) và
một số thông tin liên quan đến hệ thống công chứng Anglo
Sacxong,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/
View_Detail.aspx?ItemID=667&TabIndex=2&TaiLieuID=1179, truy cập
ngày 30/10/2016.
18. Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo tổng thuật về giám định tư pháp Cộng hoà liên
bang Đức, Cộng hoà Pháp, Vương quốc Thụy Điển, Nhật Bản, Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa và một số nước khác
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_
Detail.aspx?ItemID=264&TabIndex=2&TaiLieuID=548 truy cập ngày
30/10/2016.
19. Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo số 20/BC-BTP ngày 20/1/2016 về Tổng kết công
tác tư pháp năm 2015, nhiệm kỳ 2011-2015; định hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ
2016-2020 và nhiệm vụ, giải pháp công tác chủ yếu năm 2016.
20. Bộ Tư pháp (2017), Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 3/1/2017 về tổng kết công
tác tư pháp năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác tư
pháp năm 2017.
21. Bộ Tư pháp (2002), Đổi mới quản lý Ngành Tư pháp - một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Đề tài khoa học cấp Bộ.
22. Bộ Tư pháp (2007), Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp Bộ.
23. Bộ Tư pháp (2010), Dự án điều tra cơ bản về Thực trạng tổ chức và hoạt
động các cơ quan tư pháp, các tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp
phục vụ xây dựng Chiến lược phát triển và quy hoạch tổng thể phát triển
ngành Tư pháp đến năm 2020, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
24. Bộ Tư pháp (2011), Xã hội hoá hoạt động công chứng sau gần 5 năm triển
khai Luật Công chứng, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
25. Bộ Tư pháp (2011), Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc
đẩy thể chế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam, Đề tài khoa
học cấp Bộ.
26. Bộ Tư pháp (2013), Cải cách tư pháp – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Chuyên đề phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi mới của Hội đồng lý luận
Trung ương, Hà Nội.
27. Bộ Tư pháp (2014), Mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư pháp,
Thông tin khoa học pháp lý, phụ lục 02/2014.
28. TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội.
29. Chính phủ (2011), Chương trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà
nước giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP.
30. Chính phủ (2012), Báo cáo số 299/BC-CP ngày 23/10/2012 của Chính phủ
về tổng kết thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số
24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc Hội.
31. Cục Trợ giúp pháp lý (2013), Kinh nghiệm Trợ giúp pháp lý ở AILEN và áp
dụng tại Việt Nam, http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/kinh-
nghiem-tro-giup-phap-ly-o-ailen-va-ap-dung-tai-viet-nam, truy cập ngày
30/10/2016.
32. Cục Trợ giúp pháp lý (2015), Giới thiệu trợ giúp pháp lý của Nhật Bản,
http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/gioi-thieu-he-thong-tgpl-o-
nhat-ban, truy cập ngày 30/10/2016.
33. PGS.TS Hà Hùng Cường (2009), Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/hoan-thien-he-thong-phap-
luat-111ap-ung-yeu-cau-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn, truy cập ngày
30/10/2016.
34. Diễn đàn kinh tế - tài chính Việt – Pháp (2000), Dịch vụ công cộng và khu vực
quốc doanh, báo cáo của Elie Cohen, Claude Henry, bình luận của Francói
Morin, Paul Champsaur, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2004), Thể chế tư pháp trong Nhà
nước pháp quyền, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
36. GS Ngô Thành Dương (2006), Bàn về khái niệm xã hội hóa,
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/06/23/3160/, truy cập ngày
30/10/2016.
37. TS Đặng Đức Đạm, Một số vấn đề về đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt
Nam,http://www.vnep.org.vn/Modules/CMS/Upload/2/Dich%20vu%20cong%20-
Bao%20cao%20anh%20Dam.pdf, truy cập ngày 30/10/2016.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6
năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-
2020, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
42. Bùi Xuân Đính (2005), Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
43. ECODES, VFF-CRT, UNDP (2013), Chỉ số công lý – Thực trạng về công bằng
và bình đẳng dựa trên ý kiến của người dân năm 2012,
7/2013,http://www.undp.org/content/dam/vietnam/docs/Publications/Justice%20
index_VN_FINAL%2029%20Sep.pdf, truy cập ngày 30/10/2016.
44. ECODES, VFF-CRT, UNDP (2014), Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và
hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) – Đo lường từ kinh nghiệm thực
tiễn của người dân, 2014, http://papi.vn/tai-lieu-va-so-lieu.html# , truy cập
ngày 30/10/2016.
45. TS Lê Thu Hà (2016), Quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam, Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật, http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-
phap-luat.aspx?ItemID=181, truy cập ngày 30/10/2016.
46. Phan Thị Thu Hà (2006), “Trợ giúp pháp lý – quan niệm và mô hình ở một số
nước trên thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2006.
47. Phan Hà (2013), Người thực hiện Trợ giúp pháp lý theo quy định pháp luật
một số nước trên thế giới, http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-
doi/nguoi-thuc-hien-tro-giup-phap-ly-theo-quy-dinh-phap-luat-mot-so-nuoc-
tren-gioi, truy cập ngày 30/10/2016.
48. Lê Hồng Hạnh (2008), “Đảm bảo sự thống nhất của pháp luật về đăng ký bất
động sản”, Tạp chí Pháp luật và phát triển số tháng 4/2008.
49. Trần Ngoc Hiên (2012), XHHDVC: Quan điểm tiếp cận và kinh nghiệm từ
một số nước, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-
Traodoi/2012/16559/Xa-hoi-hoa-dich-vu-cong-Quan-diem-tiep-can-va-
kinh.aspx , truy cập ngày 30/10/2016.
50. Nguyễn Ngọc Hiến (2001), Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia.
51. TS Nguyễn Ngọc Hiến (2002), Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ
công – Nhận thức, thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông
tin.
52. Ngô Văn Hiệp (2014), “Lịch sử hình thành và phát triển thiết chế luật sư tại
Việt Nam”, Tạp chí Luật sư Việt Nam số 7, tháng 9/2014.
53. Mai Hoa, Thanh Minh và Huyền Trang (2012), “Kinh nghiệm bán đấu giá tài
sản theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới”, Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật số chuyên đề về bán đấu giá tài sản.
54. Lê Thị Phương Hoa (2006), “Xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý, nhìn từ
góc độ XHHDVC”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2006, tr45-tr50.
55. Nguyễn Phương Hoa (2005), Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay,
Luận án thạc sỹ luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
56. Phan Trung Hoài (2003), Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật
sư ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ năm 2003.
57. Hội luật gia Việt Nam (2015), Đề tài khoa học cấp cơ sở: Nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn, đề xuất xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật hiện
hành về xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Hà Nội.
58. Ths Lê Xuân Hồng (2011), “Từ nhu cầu xã hội, đến chủ trương và kết quả
bước đầu của việc thực hiện thí điểm Thừa phát lại”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, 11/2011, tr2-tr5.
59. Trần Thu Hường (2013), “Pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong các lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp – Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 8 (25), tháng 8/2013.
60. Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, 2003.
61. Martine Lombard và Gilles Dumont (2007), Pháp luật hành chính của cộng
hoà Pháp, Nhà xuất bản Tư pháp, 2007.
62. Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật [bản dịch tiếng Việt của Hoàng
Thanh Đạm], Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội-2006, tr.105-206.
63. Dương Quang Long (2009), “Kinh nghiệm đảm bảo chất lượng trợ giúp pháp
lý ở Vương quốc Anh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng
10/2009.
64. Đào Dư Long (2015), Bàn về vai trò nòng cốt của nhà nước trong hoạt động Trợ
giúp pháp lý của Việt Nam hiện nay, http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-
doi/nghien-cuu-trao-doi-ban-ve-vai-tro-nong-cot-cua-nha-nuoc-trong-hoat-dong-
tro, truy cập ngày 30/10/2016.
65. TS. Uông Chu Lưu (2006), Đề tài KX04-06 - Cải cách các cơ quan tư pháp,
hoàn thiện các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà
án trong Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân.
66. Tạ Thị Minh Lý (2008), Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
trong điều kiện đổi mới, Luận án tiến sỹ luật học, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
67. Nam Nguyễn (2012), Tiêu chí xác định chất lượng của hệ thống pháp luật,
http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1538, truy cập
ngày 30/10/2016.
68. Nhà pháp luật Việt Pháp (1997), Tài liệu tham khảo về Thừa phát lại và Thi
hành án (Trích dịch từ cuốn “L’Huissier de Justice” do Hội đồng Thừa phát
lại Pháp ấn hành tháng 2/1994), Hà Nội.
69. Võ Đình Nho (2006), “Yêu cầu và thách thức xã hội hóa công chứng”, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật - Số chuyên đề về Công chứng, 11/2006, tr5-tr7.
70. Phạm Duy Nghĩa (2007), “XHHDVC trong tư pháp: Liệu còn quá sớm”, Tạp chí
khoa học kinh tế - luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 11/2007.
71. TS.Dương Thanh Mai (2011), “Quan điểm khoa học, chính trị - pháp lý về
Thừa phát lại trong tiến trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở Việt
Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 11/2011, tr2-tr5.
72. Nguyễn Văn Quang (2010), Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung ứng
dịch vụ công ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Trường Đại học Luật Hà Nội
LH-08-06-ĐHLHN, 2010.
73. GS.VS Nguyễn Duy Quý và PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (2008), Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân: Lý luận và Thực tiễn,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2008.
74. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2011), Số chuyên đề về Thừa phát lại tháng
11/2011.
75. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam -
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
76. Phạm Hồng Thái (2002), “Bàn về dịch vụ công”, Tạp chí Quản lý nhà nước,
số 8 - 2002.
77. Tuấn Đạo Thanh (2006), “Một vài ý kiến về các quy định của pháp luật hiện
hành về công chứng, chứng thực”, Tạp chí Kiểm sát tháng 9/2006.
78. Tuấn Đạo Thanh (2006), Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số
nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn
thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ.
79. Chu Văn Thành (2004), Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia.
80. Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng
dịch vụ công, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Nguyễn Văn Tuân (2012), Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư, Nhà xuất
bản Tư pháp, Hà Nội.
82. Thanh Trịnh (2015), Kết quả 10 năm xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực trợ giúp pháp lý (2005 – 2015) và định hướng, nhu cầu hoàn thiện
pháp luật giai đoạn 2016 – 2020, http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-
trao-doi/ket-qua-10-nam-xay-dung-va-hoan-thien-phap-luat-trong-linh-vuc-
tro-giup-phap-ly, truy cập ngày 30/10/2016.
83. Thanh Trịnh (2015), Một số bất cập của Luật TGPL trong so sánh với kinh
nghiệm nước ngoài về TGPL,http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-
doi/mot-so-bat-cap-cua-luat-tgpl-trong-so-sanh-voi-kinh-nghiem-nuoc-ngoai-
ve-tgpl, truy cập ngày 30/10/2016.
84. Thanh Trịnh (2015), Giới thiệu trợ giúp pháp lý của Argentina,
http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/gioi-thieu-tro-giup-phap-ly-
argentina, truy cập ngày 30/10/2016.
85. Nguyễn Văn Tùng (2004), “Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật tháng 3/2004.
86. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Giáo trình xã hội học, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội-2005, tr58-59.
87. Ủy ban Tư pháp (2017), Báo cáo số 932/BC-UBTP14 thẩm tra các báo cáo
của Chính phủ về công tác phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật công
tác thi hành án; các báo cáo công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao năm 2017.
88. PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (2001), Đổi mới tổ chức, hoạt động giám định tư
pháp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
89. PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (2003), Sách Hệ thống tư pháp và cải cách tư
pháp ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
90. Viện Khoa học pháp lý (2001), “Chuyên đề: Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân
sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Thông tin Khoa học pháp lý, 5/2001.
91. Viện Khoa học pháp lý (2005), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu khoa
học pháp lý của Bộ Tư pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư
trong điều kiện mới ở Việt Nam”, Thông tin khoa học pháp lý, Phụ lục
03/2010.
92. Viện Khoa học pháp lý (2007), “Nhận diện và một số giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lý, chất lượng dịch vụ công trong ngành Tư pháp”, Thông tin khoa
học pháp lý, 12/2007.
93. Viện Khoa học pháp lý (2008), “Chuyên đề Nội dung tóm tắt các đề tài
nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp giai đoạn 1995-1998”, Thông
tin khoa học pháp lý, Phụ lục 2/2008.
94. Viện Khoa học pháp lý (2009), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu khoa học
pháp lý của Bộ Tư pháp – Chuyên đề: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Chế định
Thừa phát lại”, Thông tin Khoa học pháp lý, 3/2009, tr4-tr19.
95. Viện Khoa học pháp lý (2010), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu khoa
học pháp lý của Bộ Tư pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư
trong điều kiện mới ở Việt Nam”, Thông tin khoa học pháp lý, Phụ lục
03/2010.
96. Viện Khoa học pháp lý (2011), Xã hội hóa hoạt động công chứng sau gần 5
năm triển khai Luật công chứng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
97. Viện Khoa học pháp lý (2012), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu
khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ: Xã hội hóa hoạt
động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Thông tin khoa
học pháp lý, phụ lục 02/2012
98. Viện Khoa học pháp lý (2012), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu khoa
học pháp lý của Bộ Tư pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ: Phân cấp quản lý nhà
nước về công tác tư pháp: Thực trạng và hướng hoàn thiện”, Thông tin khoa
học pháp lý, phụ lục số 2/2012.
99. Viện Khoa học pháp lý (2014), “Mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư
pháp”, Thông tin khoa học pháp lý, 11/2014.
100. Uỷ ban pháp luật, Quốc hội (2012), Báo cáo số 796/BC-UBPL13 ngày
12/4/2012 về việc giải trình, tiếp thu chỉnh lý một số vấn đề lớn của dự án
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.
101. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2012), Báo cáo số 180/BC-UBTVQH13 ngày
19/6/2012 về giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Giám định tư pháp
(trình Quốc hội biểu quyết thông qua).
102. Đỗ Hoàng Yến (2017), “Xây dựng Luật đấu giá tài sản đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp”, http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-
luat.aspx?ItemID=237, truy cập ngày 15/4/2017.
2. Danh mục tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh
103. Brendan Martin (2004), What is public about public services,
www.publicworld.org/files/WhatIsPublic.pdf,, truy cập ngày 30/10/2016.
104. CIEL, Research Paper: Public services and the scope of the general
agreement on trade in services (GATs), 5/2001,
http://www.ciel.org/Publications/PublicServicesScope.pdf , truy cập ngày
30/10/2016.
105. Janet V.Denhardt va Robert B. Denhardt, The new public service – serving
not steering, 2007 http://www.untag-
smd.ac.id/files/Perpustakaan_Digital_2/PUBLIC%20ADMINISTRATION%
20The%20new%20public%20service%20serving,%20not%20steering.pdf,
truy cập ngày 30/10/2016.
106. Markus Krajewski (2001), Public services and the scope of the general
agreement on trade in services, A research paper written for center for
international enviromental law (CIEL), 5/2011,
http://www.ciel.org/Publications/PublicServicesScope.pdf, truy cập ngày
30/10/2016.
107. OECD, The regulations of public services in OECD countries – issues for
discussion, 11/2007, http://www.oecd.org/gov/regulatory-
policy/41878847.pdf, truy cập ngày 30/10/2016.
108. OECD, Together for better public services, partnering with citizen and civil society,
2011 http://browse.oecdbookshop.org/oecd/pdfs/product/4211131e.pdf, truy cập ngày
30/10/2016.
109. UN Statistic – http://unstats.un.org/unsd/cr/registry/regcst.asp?Cl=16, truy
cập ngày 30/10/2016.
110. Wolf Sauter, Public services in EU Law, Cambridge University Press 12/2014.
111. World Bank (1997), World Development Report 1997: The State in Changing
World, https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/5980, truy cập ngày
30/10/2016.
112. WTO, General Agreement on Trade in Services,
http://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/26-gats_01_e.htm, truy cập ngày
30/10/2016.
113. WTO (1998) - Council for Trade in Service, Legal service,
https://www.wto.org/english/tratop_e/serv_e/w43.doc, truy cập ngày
30/10/2016.