168
HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THI N PHÁP LUT VXÃ HI HÓA DCH VCÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP VI T NAM HI N NAY LUN ÁN TIN SLUT HC Hà Ni - 2017

hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

  • Upload
    others

  • View
    4

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THU HƢỜNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA

DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017

Page 2: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

TRẦN THU HƢỜNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA

DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƯ PHÁP

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật

Mã số : 62 38 01 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. DƢƠNG THANH MAI

PGS.TS. NGUYỄN THỊ BÁO

Hà Nội - 2017

Page 3: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn

gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả

Trần Thu Hƣờng

Page 4: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC

NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN ................................................................... 8

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài ................................... 8

1.2. Tình hình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến đề tài .......................... 18

1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề đặt ra

cần tiếp tục nghiên cứu ..................................................................................... 23

Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ

HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP ..................... 29

2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp ............................................................................................... 29

2.2. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc

hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở

Việt Nam hiện nay ............................................................................................ 53

2.3. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở một số

nước trên thế giới và giá trị tham khảo cho Việt Nam ..................................... 63

Chƣơng 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG

PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP

Ở VIỆT NAM ....................................................................................................................................... 72

3.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam ......................................................... 72

3.2. Thực trạng pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở

Việt Nam hiện nay ............................................................................................ 78

Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY ........................................................................................................................ 113

4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực

tư pháp ở Việt Nam hiện nay ........................................................................ 113

4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực

tư pháp ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 120

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................................................ 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 152

Page 5: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BĐGTS : Bán đấu giá tài sản

GATS : Hiệp định thương mại dịch vụ

GĐTP : Giám định tư pháp

QLNN : Quản lý nhà nước

QPPL : Quy phạm pháp luật

TGPL : Trợ giúp pháp lý

THADS : Thi hành án dân sự

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

XHHDVC : Xã hội hóa dịch vụ công

WTO : Tổ chức thương mại thế giới

Page 6: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cung cấp dịch vụ công là một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước

nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm

ổn định và công bằng xã hội. Hiện nay, xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công trở

thành một xu hướng phổ biến của các nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi

nhằm đa dạng hóa, tăng nguồn cung ứng và nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ nhu

cầu, lợi ích chung của xã hội, cộng đồng và của người dân. Yêu cầu căn bản của quá

trình XHHDVC là nhà nước trực tiếp thực hiện một số loại dịch vụ công quan trọng

và thông qua các cơ chế cụ thể để dần chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công này

cho các chủ thể khác, đồng thời, chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ chất lượng của

việc cung ứng các dịch vụ công này.

Ở Việt Nam, XHHDVC là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, được

triển khai thực hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và là một trong những

trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ

máy nhà nước. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, XHHDVC trước hết được

thực hiện trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe của nhân dân (Nghị quyết Hội nghị

lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII), sau đó, được mở rộng đến các

vấn đề chính sách xã hội (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII). Đến nay,

XHHDVC đã được triển khai trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, là một trong

những trọng tâm trong thực hiện cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động

của bộ máy nhà nước. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 được Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua đã xác định quan điểm phát triển: “hoàn thiện

thể chế để tháo gỡ mọi cản trở, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển

mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; huy động và

sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển” [42, tr.101]. Chương trình tổng

thể cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị

quyết số 30c/NQ-CP đặt ra nhiệm vụ: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về

xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời

Page 7: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia

cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh” [29, tr.2].

Trong lĩnh vực tư pháp, XHHDVC được xác định là nhiệm vụ chiến lược quan

trọng trong thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Nghị quyết

số 49-NQ/TW ngày 2/6/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020 đã chỉ rõ: “thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp”.

Đồng thời, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2006 của Bộ Chính trị về Chiến lược

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng 2020 cũng xác

định xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám

định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu

đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ

các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức

xã hội nghề nghiệp.

Thực hiện định hướng chiến lược cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, các văn

bản trong các lĩnh vực tư pháp như Luật luật sư, Luật công chứng, Luật thi hành án

dân sự, Luật giám định tư pháp, Luật trợ giúp pháp lý, Luật phổ biến giáo dục pháp

luật, Luật đấu giá tài sản... đang ngày càng khẳng định xu hướng XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp như xác định luật sư là một nghề, hoạt động chuyên nghiệp; hình

thành Liên đoàn luật sư là tổ chức tự quản của luật sư trong toàn quốc; hệ thống Văn

phòng công chứng được thành lập bên cạnh Phòng công chứng của Nhà nước; từng

bước hình thành Hội công chứng thực hiện chức năng tự quản đối với những người

hành nghề công chứng ở các địa phương; huy động các nguồn lực xã hội tham gia

vào hoạt động TGPL; cho phép thành lập các tổ chức GĐTP ngoài công lập đối với

các lĩnh vực về tài chính, xây dựng, di vật, cổ vật; chế định thừa phát lại đã được

chính thức thực hiện trong phạm vi cả nước. Các văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý

cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, góp phần vào việc nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng

như bảo đảm và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân.

Tuy nhiên, pháp luật về XHHDVC cũng đang cho thấy có những bất cập, hạn

chế cần được nghiên cứu, hoàn thiện so với yêu cầu XHHDVC nói chung và trong

Page 8: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

bối cảnh thực hiện cải cách pháp luật, cải cách tư pháp. Quy định về thực hiện xã hội

hóa được điều chỉnh trong các văn bản ở các cấp độ hiệu lực, ngành, lĩnh vực khác

nhau dẫn đến có những mâu thuẫn, khoảng trống và khó khăn nhất định trong áp

dụng. Pháp luật cũng chưa điều chỉnh đầy đủ, toàn diện các vấn đề phát sinh trong

thực hiện xã hội hóa như bảo đảm tính xã hội, không vì mục đích lợi nhuận của việc

cung cấp dịch vụ công, chưa có các cơ chế, chính sách khuyến khích phù hợp với đặc

thù của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp… Quy định về trách nhiệm của các

chủ thể trong cung cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa còn chưa đầy đủ, cụ

thể, đặc biệt là trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm chất lượng dịch vụ công nên

thực tế triển khai có lúng túng và chưa đạt được kết quả như mong muốn. Việc tổng

kết thực tiễn thi hành và nghiên cứu lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp chưa được quan tâm thực hiện đúng mức nên dẫn đến những khó khăn, lúng

túng, thiếu cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách dài hạn và hoàn thiện pháp

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền và pháp luật trong Nhà nước

phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ, bảo đảm công bằng và công lý trong xã hội. Yêu

cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn thiện

hệ thống pháp luật. Trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp hiện nay, pháp

luật phải tạo hành lang pháp lý ổn định, khả thi cho sự tham gia bình đẳng của các

chủ thể trong xã hội trong cung cấp dịch vụ công có chất lượng, bảo đảm cho người

dân ngày càng dễ dàng hơn trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công, cũng như góp

phần hoàn thành các nhiệm vụ cải cách tư pháp, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Pháp

luật không phải chỉ thể hiện cam kết của Nhà nước trước xã hội về việc bảo đảm

quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân khi tham gia cung cấp dịch vụ công mà còn thể

hiện cam kết của Nhà nước trước người dân về việc cung cấp dịch vụ công có chất

lượng dù trong bối cảnh Nhà nước không tham gia trực tiếp vào việc cung cấp dịch

vụ công, gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ cải cách pháp luật, cải cách tư pháp.

Xuất phát từ những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Hoàn thiện

pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện

nay” là đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ luật học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý

Page 9: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

luận, thực tiễn trong hoàn thiện pháp luật và đưa ra những kiến nghị, đề xuất cho

việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và

thực tiễn, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay đáp ứng yêu cầu thực hiện cải cách hành chính,

cải cách tư pháp của Việt Nam.

2.2. Nhiệm vụ

- Thực hiện tổng quan các vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài để chỉ ra

những vấn đề luận án có thể kế thừa và xác định các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

- Phân tích khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh của pháp luật và xác

định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện cũng như yếu tố ảnh hưởng đến việc

hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; đồng thời ở một mức độ

nhất định, nghiên cứu pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên thế giới

và chỉ ra những giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

- Nghiên cứu tổng quan quá trình phát triển của pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp, trọng tâm từ năm 2001 đến nay; phân tích, đánh giá thực

trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay để rút ra

những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.

- Phân tích, đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay theo yêu cầu cải cách hành

chính, chiến lược hoàn thiện pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu:

Dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Luận án nghiên cứu

những vấn đề lý luận, thực tiễn của pháp luật và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

Page 10: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, ở Việt Nam hiện nay, pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được tiếp cận khá rộng, bao gồm nhiều hoạt động

khác nhau, có thể là các hoạt động trực tiếp liên quan đến thực hiện quyền tư pháp

(xét xử) nhưng cũng có thể là những hoạt động bổ trợ tư pháp và hành chính tư pháp.

Trong phạm vi giới hạn của Luận án, với mục đích đóng góp các đề xuất cho

việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phù hợp yêu cầu cải

cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Luận án tập trung

nghiên cứu và đề xuất các giải pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp được xác định theo Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính

trị ngày 2/1/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới

và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020.

- Về thời gian, Luận án nghiên cứu về quá trình hình thành và phát triển của

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp và tập trung nghiên cứu, đánh giá về

tình hình, kết quả hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong giai đoạn từ năm 2001

đến nay (là giai đoạn bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp theo Nghị quyết số 08-NQ/TW).

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vận

dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để

thấy được tiến trình hình thành, phát triển của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp ở Việt Nam.

Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu khoa học đã được

sử dụng phù hợp với yêu cầu nghiên cứu từng nội dung của luận án như phương

pháp phân tích, tổng hợp; luật học so sánh; thống kê, khảo sát văn bản; phương

pháp quy nạp, diễn dịch. Cụ thể như sau:

- Chương 1: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa các tài

liệu, công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố để làm rõ các nội dung, kết

Page 11: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài, xác định những vấn đề cần tiếp tục nghiên

cứu của luận án.

- Chương 2: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa,

phương pháp quy nạp, diễn dịch để phân tích, luận giải, khái quát các phạm trù có

tính lý luận về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Chương này cũng sử

dụng phương pháp luật học so sánh để tìm hiểu kinh nghiệm của một số nước trong

hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

- Chương 3: Sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích để hệ

thống, luận giải, làm rõ thực trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở

Việt Nam hiện nay.

- Chương 4: Sử dụng phương pháp quy nap, diễn dịch, tổng hợp, phân tích

để luận giải và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

Luận án là công nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên tiếp cận chung về hoàn thiện

pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Luận án có những

điểm mới sau:

- Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu trước đó, Luận án đã đưa ra được

khái niệm, phân tích và làm sáng tỏ bốn đặc điểm, ba nội dung điều chỉnh và vai trò

quan trọng của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp

- Luận án đã xây dựng bảy tiêu chí hoàn thiện pháp luật, xác định năm yếu tố

ảnh hưởng đến việc hoàn trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp.

- Luận án đã phân tích và chỉ ra kinh nghiệm của một số nước trong hoàn thiện

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm kinh nghiệm hoàn thiện nhóm

các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công; về thực hiện XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp; về quy định quản lý cung cấp dịch vụ công.

- Luận án đã phân tích, làm rõ được những vấn đề cơ bản của quá trình hình thành

và phát triển của pháp luật Việt Nam về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Page 12: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

- Luận án nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống và chỉ ra được những

kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

- Luận án xác định được các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Về lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận án cung cấp thêm các thông tin lý

luận hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong điều kiện cải cách

hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

- Về thực tiễn, Luận án là công trình đầu tiên tiếp cận và nghiên cứu chung

liên quan đến pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp một cách có hệ thống

và toàn diện. Kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo đối với các cơ

quan có thẩm quyền trong xây dựng, hoạch định chính sách, xây dựng, hoàn thiện

và tổ chức thi hành pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nói chung và từng

dịch vụ công cụ thể. Luận án còn có thể là tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác

nghiên cứu, giảng dạy pháp luật XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói

riêng.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm có

04 chương và 10 tiết.

Page 13: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU TRONG LUẬN ÁN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI

1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc về hoàn thiện pháp luật về xã hội

hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung

Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một trong những

nội dung được quan tâm nghiên cứu dưới các hình thức Đề tài, Hội thảo khoa học,

luận án, luận văn và các bài viết theo từng nội dung cụ thể.

Về các đề tài, hội thảo khoa học, Đề tài khoa học cấp Bộ về “Đổi mới quản lý

Ngành Tư pháp - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [93] do TS Nguyễn Ngọc Hiến

làm chủ nhiệm và bảo vệ năm 1996 đã đưa ra nhiều nội dung liên quan đến định

hướng phát triển tổ chức và hoạt động cho Ngành Tư pháp trên những nhóm nhiệm

vụ cơ bản của Ngành trong giai đoạn đến năm 2005 và sau năm 2005. Đề tài đề cập

nhiều nội dung đổi mới QLNN gắn với hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động luật

sư, tư vấn pháp luật, GĐTP phù hợp với chủ trương xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà

nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Năm 2006, Đề án khoa học

của Bộ Tư pháp về Chiến lược xây dựng và phát triển ngành Tư pháp thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đề cập đến vấn đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp,

tuy nhiên mô hình quản lý dịch vụ công mới chỉ được đề cập đến ở phần kiến nghị và

chưa gắn với các đề xuất cụ thể về nội dung, cách thức, phương pháp, phạm vi điều

chỉnh của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Đề tài khoa học “Hoàn thiện khung pháp luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ

công ở Việt Nam” do TS Nguyễn Văn Quang làm chủ nhiệm năm 2010 đã tập trung

nghiên cứu khía cạnh pháp lý của vấn đề xã hội hóa cung ứng dịch vụ công [72].

Một trong những kết quả nghiên cứu quan trọng của Đề tài là xác định khung pháp

luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công bao gồm quy định về quản lý nhà nước

Page 14: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

đối với việc XHHDVC và quy định điều chỉnh các hoạt động XHHDVC. Đề tài

nhấn mạnh quan điểm bảo đảm các dịch vụ công đều phải được điều chỉnh bằng

pháp luật, mọi chủ thể bình đẳng trong việc yêu cầu, sử dụng và thụ hưởng dịch vụ

công, bảo đảm cho mọi tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp

luật được tham gia cung ứng dịch vụ công và vai trò của nhà nước đối với việc cung

ứng dịch vụ công. Đề tài cũng đưa ra các phương thức pháp lý chuyển giao cung

ứng dịch vụ công trong quá trình XHHDVC thông qua việc thành lập và cho phép

hoạt động các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài công lập, ký kết hợp đồng để

cung ứng dịch vụ công. Từ đó khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung

ứng dịch vụ công nhằm tạo ra môi trường pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh để điều

chỉnh hiệu quả hoạt động cung ứng dịch vụ công của mọi thành phần tham gia là

giải pháp quan trọng thúc đẩy xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở nước ta. Có thể

nói, với ý nghĩa là một trong những nghiên cứu tập trung vào vấn đề pháp luật về

XHHDVC ở Việt Nam, Đề tài đã cung cấp nhiều luận cứ quan trọng cho nghiên cứu

sinh khi nghiên cứu đề tài của mình, đặc biệt là những vấn đề lý luận chung và khung

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Đề tài khoa học cấp Bộ về “Mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư

pháp” do Ths Dương Bạch Long là chủ nhiệm đề tài năm 2014 [99]. Đề tài đã thực

hiện rà soát pháp luật hiện hành để nhận diện các dịch vụ công và tập trung nghiên

cứu dịch vụ hành chính công trong ngành Tư pháp. Đề tài xác định được mô hình

quản lý dịch vụ công trên cơ sở tiếp cận từ chủ thể quản lý dịch vụ hành chính công,

bao gồm mô hình quản lý một cấp, hai cấp, nhiều cấp và liên tịch quản lý. Đây là

các nội dung có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh khi xác định phạm vi và

nội dung pháp luật quy định về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, do

nghiên cứu về mô hình quản lý nên vấn đề pháp luật chỉ được đề cập từ khía cạnh là

nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý các dịch vụ công và khi khuyến nghị

các giải pháp đổi mới mô hình quản lý dịch vụ công của ngành Tư pháp.

Về các hội thảo khoa học, chương trình nghiên cứu, trong năm 2006, Viện

Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội thảo khoa học cấp Bộ về Dịch vụ

công trong ngành Tư pháp. Hội thảo bước đầu đặt ra vấn đề về nhận diện các dịch

Page 15: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

vụ công trong ngành Tư pháp. Kết quả của Hội thảo được biên tập và phát hành

dưới dạng số thông tin Khoa học pháp lý chuyên đề: “Nhận diện và một số giải

pháp nâng cao hiệu quả quản lý, chất lượng dịch vụ công trong ngành Tư pháp”

[92]. Với quan điểm dịch vụ công hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực quản lý nhà

nước của Bộ và rất phong phú, đa dạng, Báo cáo kết quả hội thảo đề cập đến kết

quả xã hội hóa hoạt động công chứng, TGPL, THADS, giao dịch bảo đảm, đào tạo,

nghiên cứu khoa học pháp lý… Bên cạnh một số vấn đề đã được phân tích và đi đến

kết luận thì Hội thảo cũng thống nhất còn nhiều vấn đề vướng mắc liên quan đến

việc xác định loại hình dịch vụ công để phân định với hoạt động QLNN và tiếp tục

xác định các nội dung, giải pháp về xây dựng pháp luật về xã hội hóa hoạt động

THADS, nghiên cứu và đào tạo pháp luật.

Trung tâm nghiên cứu hỗ trợ phát triển cộng đồng, Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) khảo sát, xây dựng và

công bố Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) [43].

Báo cáo bao gồm những chỉ số đo lường đối với hoạt động công chứng, chứng thực

trên cơ sở pháp luật, thông qua các tiêu chí về thông tin rõ ràng về thủ tục cần làm;

phí được niêm yết công khai; công chức có trình độ nghiệp vụ; được đối xử hợp lý;

không có quá nhiều giấy tờ và được hẹn ngày trả kết quả rõ ràng; nhận được kết quả

như lịch hẹn; hài lòng với kết quả nhận được. Các tiêu chí này cho phép đánh giá

tương đối toàn diện về việc cung cấp dịch vụ công chứng, chứng thực - một trong

những dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Nhưng do kết quả khảo sát là ý kiến trực

tiếp của người dân về việc thực hiện và cung cấp dịch vụ nên không có những đánh

giá về mức độ hoàn thiện của pháp luật.

Cùng với chỉ số PAPI, trong giai đoạn từ năm 2012, Bộ Nội vụ tiến hành

đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành chính ở các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh) thông qua việc đánh giá và công

bố Chỉ số cải cách hành chính (Par index) trong Báo cáo kết quả xác định Par index

năm của Bộ Nội vụ [11]. Chỉ số cho phép đánh giá kết quả thực hiện cải cách hành

chính của các Bộ, ngành theo các nội dung bao gồm: điều hành cải cách hành chính;

xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc phạm vi quản lý của Bộ; cải cách thủ

Page 16: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng

cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức; đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ

quan hành chính và đơn vị sự nghiệp; hiện đại hóa hành chính. Việc đo lường và

công bố Chỉ số cải cách hành chính cũng cho thấy mức độ hoàn thiện của pháp luật

về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thông qua chỉ số đánh giá đối với các Bộ,

ngành có liên quan, trực tiếp là Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, do đây là các chỉ số được

đánh giá chung nên khó rút ra được các nhận định, đánh giá về pháp luật XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp.

Về công trình nghiên cứu luận án tiến sĩ, tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong

luận án “Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính” [8] tiếp

cận dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính với ý nghĩa là một bộ phận trong dịch

vụ công trên cơ sở phân biệt tính chất và tác dụng của dịch vụ công (khác với cách

phân biệt về hình thức dịch vụ cụ thể; chủ thể cung ứng dịch vụ công; chi phí của

người sử dụng) để thấy những đặc thù của dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính.

Khác với các dịch vụ công khác, dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính ra đời là

kết quả của quá trình chuyển đổi cách thức giải quyết yêu cầu của cá nhân, tổ chức,

gắn với tiến trình cải cách hành chính nhà nước và phù hợp với yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường. Pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh

vực hành chính thể hiện cam kết của nhà nước về bảo đảm cung cấp các dịch vụ

công cho công dân và là công cụ để quản lý nhà nước. Trong nghiên cứu của mình,

tác giả cũng đề cập đến các dịch vụ công chứng, TGPL và coi đây là các dịch vụ công

trong lĩnh vực hành chính và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực

hiện xã hội hóa đối với các dịch vụ này. Luận án có giá trị tham khảo về phương pháp

luận cho nghiên cứu sinh khi tiếp cận, nghiên cứu và kiến nghị giải pháp hoàn thiện

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa đối với

một số dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tƣ pháp

Bên cạnh các nghiên cứu về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nói chung,

trong thời gian qua, nhiều nghiên cứu về xã hội hóa đối với một số dịch vụ công

Page 17: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể đã được thực hiện. Khái quát một số kết quả

nghiên cứu như sau:

* Trong lĩnh vực luật sư: Luật sư là một trong những chế định pháp luật liên

quan đến XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà

nghiên cứu, các cơ quan QLNN cũng như hoạt động thực tiễn. Đây có thể coi là một

trong những lĩnh vực điển hình trong nghiên cứu về xã hội hóa với hai xu hướng

nhu cầu chuyển giao từ nhà nước cho xã hội thực hiện với đội ngũ luật sư tư và nhu

cầu về sự tham gia trực tiếp của nhà nước trong cung cấp dịch vụ luật sư với việc

hình thành chế định luật sư công.

Trong sách “Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư” của TS Nguyễn Văn

Tuân [82], thông qua việc nghiên cứu, cung cấp thông tin về quá trình xây dựng,

hoàn thiện pháp luật luật sư, tác giả đã cho thấy một quá trình hình thành và phát

triển nghề luật sư ở Việt Nam trước năm 1945 và từ năm 1945 đến nay. Lịch sử

phát triển nghề luật sư cho thấy quá trình chuyển giao mạnh mẽ các công việc do

Nhà nước đang thực hiện cho xã hội thực hiện trên cơ sở hình thành một đội ngũ

luật sư hoạt động chuyên nghiệp, phát triển tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư

theo hướng kết hợp giữa QLNN và tự quản của luật sư, chuyển giao nhiều công

việc quản lý hành nghề của luật sư sang cho tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư.

Tác giả Nguyễn Văn Thảo trong Đề tài“Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc

hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở

Việt Nam” [90] khẳng định vai trò của luật sư trong đời sống xã hội và yêu cầu tạo

hành lang pháp lý thích hợp để chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa nghề luật sư, tạo

điều kiện để nghề luật sư hội nhập khu vực và quốc tế. Công trình nghiên cứu này

có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh khi đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật

đối với việc hành nghề và vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong quản lý

hành nghề khi thực hiện xã hội hóa, chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp cho các tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện.

Cùng với quan điểm phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về luật sư và hành

nghề luật sư để tạo điều kiện cho sự phát triển của luật sư ở Việt Nam, tác giả Phan

Trung Hoài trong Luận án tiến sỹ với chủ đề “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện

Page 18: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

pháp luật về luật sư ở Việt Nam hiện nay” [56] nhấn mạnh quan điểm cơ bản cho

việc hoàn thiện pháp luật luật sư đó là phải tạo được một môi trường pháp lý rộng

rãi cho tổ chức và hoạt động luật sư phát triển, đáp ứng ngày càng tăng nhu cầu tư

vấn pháp luật của nền kinh tế thị trường, phát huy dân chủ, bảo vệ công lý và công

bằng xã hội.

* Trong lĩnh vực công chứng: Tiếp sau lĩnh vực luật sư, xã hội hóa công

chứng là một trong những nội dung được quan tâm nghiên cứu trong tổng thể về

hoàn thiện pháp luật công chứng và được coi là một trong những định hướng, giải

pháp cho việc nâng cao chất lượng hoạt động công chứng. Kỷ yếu Hội thảo cấp Bộ

“Xã hội hóa hoạt động công chứng sau gần 5 năm triển khai Luật công chứng”[96]

bao gồm tập hợp các bài viết đánh giá pháp luật xã hội hóa công chứng theo Luật

công chứng cùng với thực tiễn triển khai tại một số địa phương. Hội thảo đề cập

những ưu điểm, hạn chế của pháp luật về xã hội hóa công chứng và khẳng định xã hội

hóa công chứng là chủ trương đúng đắn nhưng thể chế cho việc xã hội hóa hoạt động

công chứng trong Luật công chứng còn khá hạn chế. Để xã hội hóa đạt hiệu quả hơn,

Hội thảo đề nghị cần có nghiên cứu về mức độ xã hội hóa phù hợp tại từng vùng, miền

gắn với nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công chứng của các cơ sở công lập trên

quan điểm lưu ý cần tránh tình trạng biến tướng từ xã hội hóa thành tư nhân hóa.

Luận án thạc sỹ luật học “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay” [55]

của tác giả Nguyễn Phương Hoa đã nghiên cứu toàn diện về vấn đề xã hội hóa công

chứng, trong đó tác giả cũng khẳng định hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa công

chứng là một giải pháp cho việc thực hiện xã hội hóa công chứng.

Trong bài viết“Yêu cầu và thách thức của xã hội hóa công chứng” [69], tác

giả Võ Đình Nho lưu ý công chứng là hoạt động vừa mang tính hành chính nhà

nước và vừa mang tính chất dịch vụ công nên việc xã hội hóa đặt ra nhiều vấn đề

cần giải quyết nhưng đó là xu thế tất yếu. Nêu lên một đặc thù khác trong xã hội

hóa công chứng, Ths Nguyễn Hoàng Anh trong bài “Xã hội hóa hoạt động công

chứng - Từ ý tưởng đến thực tiễn”[2] đã khẳng định xã hội hóa công chứng là một

bước đi tiên phong trong xã hội hóa các lĩnh vực hoạt động tư pháp pháp - xưa nay

vẫn được coi như lãnh địa riêng của công quyền. Tác giả nhấn mạnh quan điểm

Page 19: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

không thể quan niệm việc xã hội hóa hoạt động công chứng đơn giản như các lĩnh

vực giáo dục, y tế vì đây là việc ủy quyền của nhà nước. Từ đó, tác giả đưa ra các

kiến nghị không nên tồn tại hai mô hình công chứng nhà nước và công chứng tư,

hoàn thiện pháp luật cho phép thành lập văn phòng công chứng.

* Trong lĩnh vực giám định tư pháp:

PGS.TS Nguyễn Tất Viễn trong sách “Đổi mới tổ chức, hoạt động giám định

tư pháp”[87], chuyên đề Đổi mới tổ chức và hoạt động giám định tư pháp trong

quá trình cải cách tư pháp trong sách Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt

Nam [88] và chuyên đề “Giám định tư pháp” trong sách Cải cách tư pháp ở Việt

Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền [28]. Các công trình này đã

nghiên cứu về quá trình phát triển của hoạt động GĐTP, tổ chức GĐTP trong một

số lĩnh vực của Việt Nam từ năm 1945; nghiên cứu một số vấn đề lý luận, những

bất cập của hoạt động GĐTP và bước đầu đưa ra những kiến nghị khắc phục, trong

đó có kiến nghị nội dung thực hiện xã hội hóa và xây dựng khuôn khổ pháp lý cho

việc xã hội hóa hoạt động GĐTP.

Trong bối cảnh đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động GĐTP, Đề tài khoa học cấp

Bộ về “Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp” do TS Nguyễn Mạnh Đạt làm chủ nhiệm [97] hay Hội thảo khoa học cấp Bộ

về “Hoạt động giám định tư pháp ở Thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và khả năng

xã hội hóa” do tác giả Võ Như Hoa làm chủ nhiệm [22]… đã đề cập trực tiếp đến

vấn đề xã hội hóa trong lĩnh vực GĐTP phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng

Luật giám định tư pháp. Các đề tài này xác định quan điểm xã hội hóa hoạt động

giám định tư pháp là quá trình đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động GĐTP,

theo đó Nhà nước kết hợp việc tập trung đầu tư cho các tổ chức GĐTP ở các lĩnh

vực giám định có nhu cầu lớn và thường xuyên với việc huy động, thú hút các cá

nhân, tổ chức có đủ điều kiện tham gia theo quy định của pháp luật tham gia vào

hoạt động GĐTP ở các lĩnh vực không thành lập tổ chức GĐTP nhằm đáp ứng cho

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và đáp ứng nhu cầu xã hội trong điều kiện kinh tế

thị trường. Từ đó Đề tài đưa ra đề xuất thí điểm thực hiện xã hội hóa, thành lập các

công ty thực hiện giám định tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Có thể

Page 20: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

nói, việc nghiên cứu xã hội hóa GĐTP được đề cập khá toàn diện trong các đề tài

này, trong đó có vấn đề về pháp luật. Các nghiên cứu có giá trị tham khảo, giúp cho

nghiên cứu sinh đưa ra các định hướng hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp.

* Trong lĩnh vực thi hành án dân sự:

Đề tài khoa học “Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự - một số vấn đề lý

luận và thực tiễn” cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [89] và Đề tài

khoa học cấp Bộ về “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”

cùng do tác giả Nguyễn Đức Chính làm chủ nhiệm [94] là những công trình nghiên

cứu của ngành Tư pháp về xã hội hóa hoạt động THADS thông qua việc hình thành

chế định thừa phát lại. Qua hai công trình này, tác giả nghiên cứu cơ sở lý luận và

thực tiễn cho việc xã hội hóa hoạt động THADS và từ đó đề xuất về chế định thừa

phát là hình thức của xã hội tham gia vào hoạt động THADS. Một điểm lưu ý chung

là nói đến THADS là nói đến sự thực thi quyền lực tư pháp của Nhà nước nhưng

trong hoạt động THADS, có những hoạt động không cần phải sử dụng quyền lực tư

pháp và đây là địa hạt để xã hội hóa nhằm giảm bớt khối lượng công việc đang quá

tải của các cơ quan THADS. Đặc biệt, xã hội hóa hoạt động THADS sẽ thể hiện đậm

nét hơn tính dân chủ, nhân dân của Nhà nước, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế

thị trường với nguyên tắc coi trọng và đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Đề tài khoa học cấp Bộ về “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới

hoạt động thi hành án tại Việt Nam trong giai đoạn mới”[95] do TS Nguyễn Đình

Lộc làm chủ nhiệm đã đề cập đến giải pháp hoàn thiện pháp luật để thực hiện xã hội

hóa hoạt động thi hành án, bao gồm THADS và hình sự. Nội dung xã hội hóa được

thực hiện bằng cách giao một số hoạt động nghiệp vụ có tính hành chính, kỹ thuật

cho tổ chức, công dân thực hiện việc thi hành án dưới sự quản lý của Nhà nước. Đó là

việc giám sát người bị án treo, cải tạo không giam giữ, quản chế, tống đạt các loại

giấy tờ, quyết định liên quan đến thi hành án, xác minh tài sản... Mức độ xã hội hóa

tùy thuộc vào tính chất của từng loại án. Trong trường hợp xã hội hóa hoạt động thi

hành án hình sự thì cần thiết kế mô hình hợp tác, cộng tác hiệu quả giữa nhà nước và

xã hội để bảo đảm mục đích của hình phạt có tính răn đe, phòng ngừa.

Page 21: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Sau khi Quốc hội thông qua thí điểm thực hiện chế định Thừa phát lại năm

2011, số Chuyên đề về Thừa phát lại [74] đã tập hợp một loạt các bài viết nghiên

cứu về lý luận và thực tiễn thực hiện chế định Thừa phát lại. Trong “Quan điểm

khoa học, chính trị - pháp lý về Thừa phát lại trong tiến trình cải cách tư pháp, cải

cách hành chính ở Việt Nam” [71], TS Dương Thanh Mai tổng hợp những kết quả

nghiên cứu khoa học và chính trị, pháp lý liên quan đến chế định Thừa phát lại. Bài

viết đề cập đến quan điểm coi THADS có bản chất là một hoạt động nghề nghiệp

mang tính pháp lý hành chính, có những đặc trưng của một loại dịch vụ công có thể

xã hội hóa, chuyển công việc THADS (toàn bộ hay từng phần) đang do cơ quan

THADS nhà nước trực tiếp thực hiện sang cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước

thực hiện. Cũng trong số chuyên đề này, Ths Lê Xuân Hồng đã nêu lên những kết

quả và hạn chế trong thực hiện thí điểm thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh

trong bài viết “Từ nhu cầu xã hội, đến chủ trương và kết quả bước đầu của việc

thực hiện thí điểm thừa phát lại”[58]. Khi đề cập đến pháp luật về thừa phát lại, tác

giả cho rằng hoạt động thừa phát lại được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật

thuộc nhiều lĩnh vực nhưng bản thân các quy định này lại chưa đầy đủ, không đồng

bộ và thiếu cụ thể. Luật thi hành án dân sự cũng như các luật tố tụng có liên quan

(như bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính...) chưa có quy định cụ thể gắn

với hoạt động của Thừa phát lại như bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, chi phí

tống đạt giấy tờ…và do đó đặt ra yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật để tạo

cơ sở pháp lý thực hiện xã hội hóa hoạt động THADS.

* Đối với lĩnh vực trợ giúp pháp lý:

TGPL là loại hình dịch vụ công rất đặc thù trong lĩnh vực tư pháp với việc

cung cấp các dịch vụ cho đối tượng được TGPL không thu phí. Từ đặc thù này,

Luận án tiến sỹ luật học của Tác giả Tạ Thị Minh Lý về “Điều chỉnh pháp luật về

trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” [66]… đã đưa ra quan điểm

về vai trò nòng cốt của Nhà nước trong TGPL cùng với việc khuyến khích sự tham

gia của các chủ thể trong hoạt động TGPL. Đây cũng là quan điểm của tác giả Lê

Thị Phương Hoa trong “Xã hội hoá hoạt động trợ giúp pháp lý, nhìn từ góc độ xã

hội hoá dịch vụ công” [54].

Page 22: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội gắn với sư gia tăng khả

năng cung cấp dịch vụ TGPL cũng như yêu cầu ngày càng cao của các đối tượng

được TGPL, đặc biệt với sự thông qua Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai

đoạn 2015-2025 (ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 1/6/2016 của

Thủ tướng Chính phủ), vấn đề xã hội hóa TGPL lại thu hút sự quan tâm nghiên cứu

về cách thức, nội dung và phạm vi xã hội hóa. Tham khảo loạt bài viết trên Cổng

thông tin điện tử của Bộ Tư pháp về TGPL như “Bàn về vai trò nòng cốt của nhà

nước trong hoạt động Trợ giúp pháp lý của Việt Nam hiện nay” của Ths Đào Dư

Long [64], “Kết quả 10 năm xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực trợ

giúp pháp lý (2005-2015) và định hướng, nhu cầu hoàn thiện pháp luật giai đoạn

2016-2020” [82] và “Một số bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý trong so sánh kinh

nghiệm nước ngoài về trợ giúp pháp lý”[83] của Thanh Trịnh cho thấy bên cạnh

quan điểm tiếp tục khẳng định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước và vai trò nòng

cốt của Nhà nước trong hoạt động TGPL thì các tác giả cũng thấy cần thiết phải có

sự điều chỉnh về vai trò nòng cốt của Nhà nước cho phù hợp. Thay vì trực tiếp thực

hiện các hoạt động TGPL như hiện nay, Nhà nước có thể đóng vai trò cung cấp

nguồn lực, điều phối, quản lý nguồn lực để bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận và

chất lượng dịch vụ TGPL cung cấp cho người dân. Đồng thời, các tác giả cũng đề

cập đến định hướng hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng cường sự tham gia của

luật sư trong hoạt động TGPL và cơ chế để các Trợ giúp viên TGPL hiện nay có vị

thế, vai trò ngang bằng với các luật sư, qua đó bảo đảm cung cấp các dịch vụ TGPL

có chất lượng đến người dân.

* Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản

Liên quan đến chủ đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, một số nghiên cứu

cũng đã được thực hiện đối với các hoạt động BĐGTS, chứng thực, phổ biến, giáo

dục pháp luật…Đề tài khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài

sản nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt

Nam” do TS Võ Đình Toàn làm chủ nhiệm [25]. Đề tài đã đánh giá một cách toàn

diện, có hệ thống về pháp luật BĐGTS ở Việt Nam và đưa ra nhu cầu và định

hướng để hoàn thiện pháp luật BĐGTS ở Việt Nam nhằm thúc đẩy thể chế nền kinh

Page 23: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

tế thị trường định hướng XHCN. Theo quan điểm của các tác giả thì hoạt động bán

BĐGTS lại bổ trợ rất thường xuyên cho hoạt động thi hành án và xử lý vi phạm

hành chính. Đề tài khẳng định quan điểm trong hoàn thiện pháp luật BĐGTS là vừa

phải bảo đảm sự quản lý có hiệu quả của Nhà nước và vừa đồng thời phải xã hội

hóa mạnh mẽ hoạt động BĐGTS. Mặc dù vậy, do đặt vấn đề chung trong hoàn thiện

pháp luật BĐGTS nên Đề tài chưa đi sâu làm rõ các nội dung xã hội hóa hoạt động

bán đấu giá trên cơ sở quan điểm mang tính nguyên tắc trong hoàn thiện pháp luật

BĐGTS nêu trên.

Trong bài viết “Xây dựng Luật đấu giá tài sản đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp”, tác giả Đỗ Hoàng Yến đã nêu những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện

hành về BĐGTS và đưa ra một số định hướng xây dựng Luật đấu giá tài sản [102].

Theo đó, bên cạnh bổ sung các quy định để tạo cơ sở pháp lý và củng cố hoạt động

của các doanh nghiệp BĐGTS thì Luật cũng cần bao gồm các quy định về việc

chuyển đổi mô hình hoạt động của Trung tâm dịch vụ BĐGTS trực thuộc Sở Tư

pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm thực hiện chủ trương xã hội

hóa và góp phần chuyên nghiệp hóa hoạt động nghề nghiệp đấu giá tài sản.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.2.1. Tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài về hoàn thiện pháp luật về

xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nói chung

Năm 1998, Ngân hàng Thế giới công bố sách về Báo cáo về tình hình phát

triển kinh tế thế giới năm 1997 [111]. Báo cáo nghiên cứu một cách toàn diện về vai

trò của Nhà nước trong thế giới mới theo các khía cạnh thực hiện quyền lực nhà

nước cũng như trách nhiệm cung cấp các dịch vụ cần thiết cho xã hội của nhiều

quốc gia trên thế giới. Một phần lớn của Báo cáo tập trung bàn về Nhà nước, Nhà

nước nên làm gì, làm thế nào và có thể làm thế nào để đạt được kết quả tốt hơn

trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Báo cáo đưa ra các khuyến nghị để

cải cách các nhà nước trên thế giới, tập trung vào các hoạt động của Nhà nước sao

cho tương ứng với khả năng của mình. Nhiều Nhà nước tìm cách làm quá nhiều

việc dù họ chỉ có ít nguồn lực và khả năng. Điều tốt hơn là nên tập trung sức vào

các hoạt động cốt lõi có tầm quan trọng then chốt đối với phát triển, tăng cường các

Page 24: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

thiết chế công cộng và điều đó sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Các

thông tin trong báo cáo giúp nghiên cứu sinh xác định những vấn đề lý luận về cung

cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và nội dung hoàn thiện pháp luật liên quan

chuyển giao các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cho khu vực ngoài nhà nước

thực hiện và chính sách bảo đảm công bằng trong tiếp cận các dịch vụ công này

trong điều kiện xã hội hóa.

Tác giả Clause Henry trong bài viết Dịch vụ công và sự cạnh tranh trong

lĩnh vực dịch vụ công ở Liên minh Châu Âu đăng trên International Advances

Economic Research Journal số tháng 8/1997 đã khẳng định tiếp cận dịch vụ công

được coi là quyền cơ bản của tất cả người dân. Do đó, nhằm đáp ứng yêu cầu của

dân chúng, một số dịch vụ công được cung cấp trên cơ sở ba nguyên tắc cơ bản là

bảo đảm tính liên tục, tính bình đẳng và tính toàn cầu (tính có thể thay đổi ở mỗi quốc

gia). Tất cả các quốc gia trong Liên minh Châu Âu phải tôn trọng những nguyên tắc

này. Tuy nhiên, pháp luật của Liên minh Châu Âu cũng không thể bảo đảm sự hưởng

thụ các dịch vụ như nhau của công dân các quốc gia thành viên. Liên minh khuyến

khích các quốc gia thành viên tiến hành thương lượng để hoàn thiện pháp luật trên cơ

sở hòa hợp các dịch vụ với nhau để nâng cao quyền hưởng thụ dịch vụ của dân

chúng. Các quốc gia có thể kết hợp với nhau để cung cấp dịch vụ không biên giới đến

dân cư ở những khu vực tiếp giáp biên giới.

Các tác giả Martine Lombard - giáo sư trường Đại học Tổng hợp Pantheon

Assas Paris II và Gilles Dumont giáo sư trường Đại học Luật và Kinh tế Limoges

trong cuốn Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp [61] đã trình bày những kiến

thức cơ bản về dịch vụ công như khái niệm, các nguyên tắc, các yếu tố cấu thành,

mô hình cung cấp dịch vụ. Khái niệm dịch vụ công mà các tác giả đưa ra là sự kết

hợp giữa những yếu tố về mặt tổ chức thể hiện đây là những dịch vụ trực tiếp hoặc

gián tiếp do các cơ quan nhà nước thực hiện và những yếu tố nội dung thể hiện đây

là dịch vụ công bao giờ cũng nhằm phục vụ lợi ích chung”. Hai tác giả cũng nhấn

mạnh pháp luật về dịch vụ công vừa bao gồm các quy định của pháp luật hành

chính, vừa có các quy định của pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, công

nghiệp. Đặc biệt các tác giả khẳng định có sự ảnh hưởng của pháp luật Liên minh

Page 25: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Châu Âu đến pháp luật của các quốc gia thành viên về dịch vụ công nhưng pháp

luật các quốc gia thành viên có những quy định độc lập về dịch vụ công phù hợp

với điều kiện, hoàn cảnh của từng nước. Lý do là tại mỗi quốc gia tính chất, đặc

điểm, phạm vi các dịch vụ công khác nhau, cùng với truyền thống xây dựng và tổ

chức thực hiện pháp luật khác nhau nên pháp luật dịch vụ công của mỗi quốc gia

phản ánh những điểm riêng biệt đó. Các luận điểm này giúp cho nghiên cứu sinh về

phương pháp luận trong việc đề xuất các hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp gắn với điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị đặc thù của Việt Nam.

Trong một nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD),

chuyên đề “Quy định về dịch vụ công của các quốc gia OECD-Các vấn đề cần được

thảo luận” đã đề cập đến khung pháp luật về dịch vụ công của các nước OECD

[107], tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ hạ tầng công cộng như nước, kiểm

soát chất thải, giao thông công cộng… Theo đó, khung pháp luật cung cấp dịch vụ

công bao gồm các nhóm quy định gia nhập thị trường, kiểm soát giá cả, quản lý

chất lượng dịch vụ công được cung cấp. Mục đích hoàn thiện khung pháp luật là

bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ công một cách hiệu quả, tiết kiệm, an toàn và

đáp ứng đủ điều kiện trên nguyên tắc duy trì nguyên tắc cạnh tranh trong cung cấp

dịch vụ công. Nghiên cứu cũng nêu lên mô hình cơ quan quản lý dịch vụ công phải

bảo đảm được tính chuyên môn và độc lập trong quản lý. Mô hình bao gồm cơ quan

trung ương, cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ. Cơ quan trung ương sẽ có

trách nhiệm giám sát toàn bộ thị trường, giải quyết các vấn đề về giá cả và liên kết

giữa các doanh nghiệp chi phối. Các cơ quan cấp tỉnh hoặc các tổ chức phi chính phủ

sẽ kiểm soát việc cung cấp dịch vụ công, giải quyết các khiếu nại của khách hàng và hỗ

trợ cho điều phối quan hệ của các cộng đồng tại địa phương. Công trình đã gợi mở cho

nghiên cứu sinh những vấn đề liên quan đến định hướng hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Cũng trong phạm vi của OECD, năm 2011, Báo cáo nghiên cứu về dịch vụ

công với chủ đề “Cùng nhau thực hiện các dịch vụ công tốt hơn - hợp tác đối tác

với xã hội và công dân” đặt lại vấn đề cung cấp dịch vụ công truyền thống trong

môi trường kinh tế - xã hội mới [108]. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết thu hút sự tham

Page 26: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

gia của các cá nhân và tổ chức xã hội với vai trò là một đối tác hợp tác với Chính

phủ trong thiết kế, sản xuất và cung cấp dịch vụ công, giúp nâng cao sự hài lòng của

người sử dụng và giảm giá thành. Báo cáo đề cập đến những thách thức, lưu ý trong

việc tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm thành công trong việc liên kết hợp tác cung cấp

dịch vụ công giữa Chính phủ với công dân và các tổ chức xã hội. Cách thức cung

cấp dịch vụ mới thách thức các giá trị và thực tiễn đang tồn tại có hệ thống trong lĩnh

vực công, do vậy, cần phải chuẩn bị tốt cho các nhân viên trong khu vực công thực

hiện vai trò một cách chuyên nghiệp hơn, mang tính tư vấn, hỗ trợ, định hướng gắn

với các chi phí cho việc đào tạo và thay đổi cơ chế quản lý. Công trình có giá trị tham

khảo đối với nghiên cứu sinh trong việc đề xuất hoàn thiện pháp luật về chuyển giao

cung ứng dịch vụ công gắn với các bảo đảm dành cho các cơ quan nhà nước trong

việc quản lý và thích nghi với điều kiện mới.

Năm 2015, cuốn sách về “Dịch vụ công trong pháp luật của Liên minh Châu

Âu” do tác giả Wolf Sauter [110] thực hiện đã được công bố. Trong nghiên cứu của

mình, tác giả đã cung cấp toàn diện các quy định của pháp luật Liên minh Châu Âu

(EU), bao gồm luật và các án lệ về dịch vụ công. Điểm đáng lưu ý đó là tác giả đã

đi sâu phân tích các khái niệm liên quan đến dịch vụ công, phân biệt dịch vụ công

với các khái niệm tương tự khác như dịch vụ công ích, dịch vụ công cộng, dịch vụ

công phổ quát, nghĩa vụ cung cấp dịch vụ công phổ quát, dịch vụ phúc lợi…Cùng

với việc phân tích các khái niệm, tác giả đã cung cấp các quy định của pháp luật EU

về dịch vụ công, đặt dịch vụ công trong mối quan hệ giữa quyền công dân, vấn đề

cạnh tranh và trợ cấp của nhà nước để làm rõ các khía cạnh của dịch vụ công. Đây

là cuốn sách có nhiều thông tin cung cấp cho nghiên cứu sinh trong việc xác định

bản chất của dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng như đưa ra các đề xuất hoàn

thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, tập trung vào nhóm quy định về

điều chỉnh các hoạt động xã hội hóa cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu của nƣớc ngoài về hoàn thiện pháp luật về xã

hội hóa đối với một số dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tƣ pháp

Tài liệu tham khảo về Thừa phát lại và Thi hành án được Nhà Pháp luật Việt

Pháp trích dịch từ cuốn “L’Huissier de Justice” do Hội đồng Thừa phát lại Pháp ấn

Page 27: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

hành tháng 2/1994 tổng hợp giới thiệu về tổ chức và hoạt động thừa phát lại trong

THADS [68]. Thừa phát lại tại Pháp hành nghề tự do và có thể can thiệp vào quá

trình thi hành án nhân danh Nhà nước, theo sự ủy nhiệm của cơ quan quyền lực

công. Thừa phát lại do Chưởng ấn, Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Thừa phát lại

hoàn toàn độc lập với chính quyền về mặt thi hành án nhằm bảo đảm tính hiệu quả,

chịu trách nhiệm trước tòa án về những sai phạm chuyên môn và chịu trách nhiệm

trước các tổ chức chuyên môn của nghề hoặc trước Viện trưởng Viện Công tố bên

cạnh Tòa sơ thẩm quyền rộng về những sai phạm kỷ luật của mình. Thừa phát lại

quản lý hoạt động của mình giống như một chủ doanh nghiệp, có nhân viên riêng,

có thiết bị văn phòng riêng, sử dụng các thiết bị tin học thông tin tiên tiến. Thông

tin này có giá trị tham khảo đối với nghiên cứu sinh khi xác định xu hướng

XHHDVC đối với từng hoạt động cụ thể trong lĩnh vực tư pháp.

Theo bảng phân loại các lĩnh vực dịch vụ của WTO, “dịch vụ pháp lý” là một

phân ngành “dịch vụ nghề nghiệp” (Professional Services) thuộc lĩnh vực “dịch vụ

kinh doanh” (Bussiness Services). Theo Danh mục phân loại tạm thời các lĩnh vực

dịch vụ (PCPC) của Liên Hợp quốc kèm theo mã số cho từng lĩnh vực và phân

ngành dịch vụ cụ thể thì dịch vụ pháp lý có mã số 861 và được phân chia thành

nhiều tiểu phân ngành như: (a) dịch vụ tư vấn và đại diện liên quan đến pháp luật

hình sự (PCPC 86111); (b) dịch vụ tư vấn và đại diện trong tố tụng tư pháp liên

quan đến các lĩnh vực khác của pháp luật (PCPC 86119); (c) dịch vụ tư vấn và đại

diện trong các thủ tục hành chính, trọng tài (PCPC 86120); (d) dịch vụ lập và xác

nhận các giấy tờ pháp lý (PCPC 86130) và (e) các dịch vụ pháp lý khác (PCPC

8619)…[109].

Trong bài “Dịch vụ công và phạm vi của Hiệp định chung về thương mại

dịch vụ” [107], tác giả Markus Kajewski đã cung cấp khá toàn diện về quan điểm

của GATS về khái niệm, phạm vi dịch vụ công. Hiệp định chung về thương mại

dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ của Tổ chức thương mại thế giới. Theo GATS,

khái niệm dịch vụ pháp lý theo nghĩa rộng bao gồm dịch vụ tư vấn pháp luật

(Advisory Services), dịch vụ đại diện (Representation Services) và tất cả các hoạt

động liên quan đến tư pháp như xét xử, công tố, bào chữa công… Tuy nhiên, GATS

Page 28: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

sử dụng khái niệm các dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của Chính phủ, tức là các dịch vụ được cung cấp không dựa trên cơ sở

thương mại cũng như trong sự cạnh tranh với các nhà cung cấp các dịch vụ khác.

Việc sử dụng khái niệm dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của Chính phủ có sự tương đồng nhất định với quan niệm về dịch vụ

công. Tác giả Markus Kajewski cho rằng quy định như vậy là rất mơ hồ và việc áp

dụng phụ thuộc nhiều vào điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia thành viên.

Trong quá trình đưa ra các luận điểm làm rõ phạm vi về các dịch vụ, tác giả cũng đề

cập đến dịch vụ pháp lý. Tác giả nêu ra quan điểm của Ban Thư ký WTO cho rằng

các dịch vụ hành chính pháp lý như thẩm phán, nhân viên toà án, công tố viên, luật

sư của nhà nước… được loại trừ khỏi phạm vi điều chỉnh của GATS vì nhiều quốc

gia coi đây là các dịch vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện quyền lực của nhà

nước. Tuy nhiên, khi xem xét đến các dịch vụ hành chính tư pháp khác như công

chứng - chứng thực thì Ban Thư ký WTO lại cho rằng không giống với thẩm phán,

thư ký tòa án, công tố viên là các công chức nhà nước thì công chứng viên thường

cung cấp dịch vụ của họ trong điều kiện thương mại và vì vậy công chứng thuộc

phạm vi điều chỉnh của GATS. Nghiên cứu đã giúp đưa ra những quan điểm của

GATS về thương mại dịch vụ, trong đó có các vấn đề dịch vụ công - khái niệm gắn

với dịch vụ để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ. Đặc biệt, bước đầu tác giả

cũng đã có sự phân định về bản chất của các dịch vụ công trong lĩnh vực pháp luật.

Bài viết đã cung cấp cho nghiên cứu những luận cứ trong việc xác định phạm vi và

bản chất của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài

1.3.1.1. Về kết quả nghiên cứu trong nước

Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu cho thấy cách tiếp cận pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện theo nhiều góc độ và phạm vi

khác nhau, bao gồm các nghiên cứu chuyên sâu, sách, bài viết, luận án, luận văn, đề

tài khoa học. Sự phong phú của các công trình nghiên cứu cho thấy yêu cầu của việc

nghiên cứu, làm rõ các nội dung cũng như định hướng hoàn thiện pháp luật về

Page 29: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tham khảo một số công trình nghiên cứu trong

nước nêu trên có thể đưa ra một số nhận xét cơ bản sau:

Thứ nhất, nghiên cứu về pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được

thực hiện và đẩy mạnh thực hiện kể từ sau năm 2002 theo yêu cầu nhiệm vụ chiến

lược cải cách tư pháp của Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW.

Các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ định hướng thực hiện xã hội hóa đối với

nhiều dịch vụ công cụ thể trong lĩnh vực tư pháp trong quá trình hoàn thiện pháp luật

đối với từng lĩnh vực. Những kết quả trong từng lĩnh vực cụ thể giúp cho việc khái

quát và xây dựng những vấn đề cơ bản về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Thứ hai, nhóm các nghiên cứu liên quan đến pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp tuy chưa tập trung nghiên cứu vấn đề pháp luật nhưng đã đề cập

được nhiều khía cạnh xác định dịch vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp

cũng như định hướng tiếp tục thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Những

kết quả nghiên cứu thu được có ý nghĩa tạo ra sự thống nhất nhận thức về dịch vụ

công cũng như xác định định hướng XHHDVC trên nguyên tắc vừa đẩy mạnh

XHHDVC, vừa gắn với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả cung ứng dịch vụ

công. Đây là những nội dung có giá trị tham khảo gợi mở cho nghiên cứu sinh khi

đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong

luận án của mình.

Thứ ba, nhóm các nghiên cứu pháp luật về xã hội hóa đối với một số dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp đã được thực hiện có hệ thống, đề cập một cách toàn

diện về việc thực hiện xã hội hóa dịch vụ công đó, bao gồm yêu cầu hoàn thiện

pháp luật. Tuy được thực hiện trong từng lĩnh vực cụ thể, nhưng những kết quả

nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng giúp cho nghiên cứu sinh trong việc khái quát

hóa các quan điểm, định hướng hoàn thiện pháp luật và đề xuất nội dung pháp luật

cần tiếp tục được hoàn thiện cho từng lĩnh vực cụ thể.

1.3.1.2.Về kết quả nghiên cứu của nước ngoài

Trên thế giới, các nghiên cứu về dịch vụ công, pháp luật về dịch vụ công và

XHHDVC cũng đã được thực hiện. Đánh giá chung cho thấy có những khó khăn

nhất định trong việc tìm hiểu, tiếp cận các thông tin trực tiếp liên quan đến xã hội

Page 30: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

hóa một lĩnh vực hay công việc do XHHDVC là khái niệm mang tính chất khá đặc

thù của Việt Nam nhưng qua các kết quả nghiên cứu cũng thu thập được các thông

tin có giá trị tham khảo cơ bản như sau:

Một là, dịch vụ công là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong các

nghiên cứu của nước ngoài nhưng cách hiểu, đặc biệt là việc xác định các dịch vụ

công cụ thể lại rất khác nhau trong các trường hợp khác nhau. Nhìn chung, quan

điểm về dịch vụ công là một khái niệm phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế - xã

hội của các quốc gia, trong đó có trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Khái niệm dịch

vụ công là một khái niệm mở và do vậy đang được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện

trong bối cảnh mới.

Hai là, cách tiếp cận với thuật ngữ “xã hội hóa” [socialization] trên thế giới

có sự khác biệt nhất định với quan niệm phổ biến về XHHDVC ở Việt Nam. Trong

thế giới hiện đại, vai trò của Nhà nước đang có sự thay đổi và đang đứng trước

những yêu cầu, thách thức mới. Việc thay đổi này có liên hệ mật thiết với vấn đề

dịch vụ công với ý nghĩa là những trách nhiệm xã hội của Nhà nước. Đây là lý do

khi các nghiên cứu hướng đến những biện pháp, cách thức để có thể giúp cho Nhà

nước vượt qua những yêu cầu, thách thức mới, hoàn thành trách nhiệm của mình

với xã hội. Các nghiên cứu được thực hiện trên nhiều khía cạnh, nhiều định hướng,

trong đó có sự tăng cường hợp tác giữa Nhà nước với công dân và xã hội. Mặc dù

không sử dụng thuật ngữ “xã hội hóa dịch vụ công” nhưng việc chuyển giao nói

trên có sự tương đồng với khái niệm XHHDVC đang được thực hiện ở Việt Nam từ

khía cạnh về sự tham gia của Nhà nước và xã hội trong cung cấp dịch vụ công. Điều

này cho thấy việc thực hiện XHHDVC như ở Việt Nam phù hợp với xu hướng của

thế giới và phát triển trong một xã hội hiện đại.

Ba là, pháp luật về xã hội hóa các hoạt động cụ thể trong lĩnh vực tư pháp ở

các nước khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật,

trong đó có phụ thuộc vào trường phái pháp luật của mỗi nước. Vì vậy, cách giải

quyết vấn đề pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở các nước cũng có

những sự khác biệt nhất định so với Việt Nam.

Page 31: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Từ những công trình nghiên cứu trong nước và thế giới đã được tham khảo

có thể rút ra một số nhận xét phục vụ cho việc đánh giá tình hình nghiên cứu có liên

quan tới đề tài như sau:

Trên cả bình diện quốc tế và Việt Nam, chưa có công trình khoa học nào đi

sâu nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp. Các công trình nghiên cứu được thực hiện theo hai hướng chính, bao gồm

nghiên cứu chung về XHHDVC ở phạm vi rộng, liên quan đến những vấn đề lý

luận chung về nhà nước, pháp luật, vai trò của nhà nước và sự chuyển giao công

việc của nhà nước cho xã hội ở các nghiên cứu, các sách, đề tài, luận án, luận văn,

giáo trình, tài liệu bồi dưỡng; hoặc nghiên cứu ở phạm vi hẹp về các vấn đề cụ thể

liên quan tới xã hội hóa đối với từng loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong

các bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học, báo cáo, tham luận, luận văn.

Tuy nhiên, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong thời gian qua được

nghiên cứu phục vụ cho các yêu cầu xây dựng pháp luật hay QLNN, cải cách tư

pháp nói chung mà ít được quan tâm tiếp cận dưới góc độ cụ thể về dịch vụ công và

XHHDVC. Các nghiên cứu tập trung vào từng lĩnh vực mà chưa có các nghiên cứu

tổng thể, khái quát để chỉ ra những đặc điểm chung từ đó có định hướng cho việc

hoàn thiện pháp luật mang tính dài hạn, chiến lược, được xem xét trong tổng thể

chung về vai trò của Nhà nước và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Nhiều vấn đề

lý luận cơ bản cũng như thực trạng pháp luật chưa được nghiên cứu một cách khách

quan, toàn diện gắn với điều kiện, bối cảnh cụ thể ở Việt Nam nên chưa xác định

được những định hướng chung cho việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp. Đặc biệt, ở cấp độ nghiên cứu luận án tiến sĩ, chưa có một công

trình nào nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Do đó, đây là vấn đề cần thiết được nghiên cứu, đặc biệt là để tiếp tục thực hiện có

hiệu quả chủ trương XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp,

đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đã thực hiện, trong

phạm vi nghiên cứu của mình, nghiên cứu sinh cần thiết phải tiếp tục làm sáng tỏ

Page 32: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

các vấn đề lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp nói chung (không đi vào từng lĩnh vực cụ thể). Cụ thể như sau:

Về lý luận, luận án cần tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cho hoàn thiện

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm:

- Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp.

- Xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật và các yếu

tố ảnh hướng đến việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở

Việt Nam.

- Nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Về thực tiễn, luận án cần phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm:

- Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp.

- Đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế

của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

- Xác định các quan điểm và giải pháp, nội dung hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam hiện nay phù hợp với định hướng của

Đảng và Nhà nước XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo yêu cầu cải cách hành

chính, cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận án đã được nghiên cứu, khảo sát

trên hai phương diện, bao gồm những công trình nghiên cứu ở Việt Nam và một số

công trình nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến đề tài.

Đánh giá chung cho thấy ở trong nước, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp là vấn đề mới nhưng đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ

từ luận văn, luận án tiến sỹ đến các chuyên đề, bài báo... Mặc dù vậy, các kết quả

nghiên cứu mới chỉ dừng ở những vấn đề cơ bản hoặc tập trung vào những khía

cạnh, từng lĩnh vực hoạt động tư pháp cụ thể mà chưa có nghiên cứu chung về vấn

Page 33: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

đề này làm cơ sở, định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật cũng như đánh giá mức

độ hoàn thiện của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Trên phương diện

quốc tế, vấn đề XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được đề

cập đến trong bối cảnh chuyển giao, huy động xã hội vào việc thực hiện dịch vụ

công gắn với vai trò, trách nhiệm xã hội của Nhà nước. Kết quả nghiên cứu pháp

luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên thế giới cho thấy có những quan điểm,

cách thức khác nhau trong việc xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và

phạm vi, cách thức xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp cũng có những điểm khác biệt, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, lịch

sử cụ thể của từng quốc gia.

2. Các kết quả nghiên cứu có giá trị tham khảo quan trọng để xác định nội dung

nghiên cứu, đánh giá thực trạng và định hướng kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong Luận án.

3. Dựa trên kết quả khảo sát các công trình nghiên cứu, tác giả đã xác định

những vấn đề về lý luận và thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu nhằm đề xuất quan điểm

định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về XHHDVC ở Việt Nam hiện nay.

Page 34: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Chƣơng 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA

DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA

DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP

2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung xã hội hóa dịch vụ công trong

lĩnh vực tƣ pháp

2.1.1.1. Khái quát chung về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Có những quan niệm khác nhau về dịch vụ công nhưng khái quát chung thì

dịch vụ công được hiểu là những dịch vụ gắn với lợi ích chung, thiết yếu của đa số

nhân dân hay dịch vụ công gắn với trách nhiệm của Nhà nước đối với dân chúng [12,

tr.154]. Dịch vụ công ra đời và tồn tại xuất phát từ chức năng phục vụ của Nhà nước,

phù hợp với sự vận động của xã hội và nhu cầu thực tiễn về dịch vụ công trong xã hội

[72, tr.65]. Ví dụ hệ thống y tế công ở Anh phát triển rất mạnh nhưng trong khi đó ở

Mỹ thì dịch vụ này phần lớn lại được cung cấp bởi khu vực tư [106, tr.4]. Trong phạm

vi Khối cộng đồng chung Châu Âu (EU), dịch vụ công thường được dùng với ý nghĩa

dịch vụ được cung cấp cho công dân hay vì lợi ích chung theo những tiêu chuẩn và quy

định chung của Nhà nước và bởi các thiết chế thuộc sở hữu công. Dịch vụ công có thể

được hiểu bao gồm các dịch vụ công cộng như năng lượng, giao thông hay các dịch vụ

phúc lợi như y tế, giáo dục, hưu trí...[110, tr.2]. Tổ chức thương mại thế giới (WTO),

trong khuôn khổ của Hiệp định chung về dịch vụ (GATS) sử dụng khái niệm về dịch

vụ được cung cấp trong phạm vi thực hiện trách nhiệm của Chính phủ, tức là các dịch

vụ được cung cấp không dựa trên cơ sở thương mại cũng như trong sự cạnh tranh với

các nhà cung cấp dịch vụ khác [104, tr.6]. Khái niệm dịch vụ được cung cấp trong

phạm vi thực hiện trách nhiệm của Chính phủ có sự tương đồng nhất định với quan

niệm về dịch vụ công.

Có thể thấy, việc xác định dịch vụ công phụ thuộc vào mỗi quốc gia và mỗi

giai đoạn khác nhau. Phạm vi dịch vụ công có thể rất rộng, bao gồm tất cả các hoạt

động nhằm thực hiện chức năng vốn có của Chính phủ. Theo phạm vi hẹp hơn, dịch

Page 35: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

vụ công bao gồm những hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ nhu cầu của nhân dân

mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khái

niệm dịch vụ công thường được hiểu theo nghĩa hẹp, xuất phát từ nhu cầu tách biệt

giữa chức năng quản lý và chức năng phục vụ của Nhà nước, cũng như xu hướng ngày

càng chú trọng đến vai trò xã hội của Nhà nước trong việc bảo đảm các lợi ích thiết yếu

của xã hội, các quyền, nghĩa vụ cơ bản của tổ chức và công dân [12, tr.155-156].

Với nhận thức và cách xác định phạm vi dịch vụ công khác nhau thì các loại

hình dịch vụ công được tổ chức thực hiện trên thực tế khá đa dạng. Dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp là một loại hình dịch vụ công được xác định trên cơ sở phân

loại theo hình thức, nội dung dịch vụ cụ thể.

Tiếng Anh sử dụng cụm từ “justice” để chỉ tư pháp, công lý, là một trong ba

nhánh quyền lực để tổ chức và duy trì trật tự xã hội, xuất phát từ lý thuyết về sự phân

chia quyền lực, được khởi xướng bởi các nhà triết học xưa, phát triển qua thời kỳ La

Mã cổ đại và được Montesquieu phát triển toàn diện thành học thuyết tam quyền

phân lập thể hiện trong tác phẩm Tinh thần pháp luật [45]. Quyền tư pháp theo quan

niệm của Montesquieu là quyền trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp cá nhân hay

nói cách khác quyền tư pháp chính là quyền xét xử tranh chấp giữa các chủ thể pháp

lý trong xã hội. Thông qua việc thực hiện quyền tư pháp, pháp luật được áp dụng, tôn

trọng và chấp hành bởi các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Theo định nghĩa của cuốn

từ điển nổi tiếng thế giới (Black’s Law Dictionary), quyền tư pháp (judicial power) là

“thẩm quyền được trao cho tòa án và các thẩm phán xem xét và quyết định các vụ

việc và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các vụ việc ấy; quyền

giải thích và áp dụng pháp luật khi có tranh cãi phát sinh từ việc một điều gì đó có

phù hợp hay không phù hợp với pháp luật điều chỉnh việc ấy”[26, tr.2].

Ở Việt Nam, “tư pháp” được tiếp cận theo những quan điểm khác nhau về

phạm vi. Tư pháp có thể được hiểu là một lĩnh vực quyền lực nhà nước được thực

hiện thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các

hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa

các chủ thể [35, tr.11], qua đó, bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân và trật tự

an toàn xã hội. Quan điểm về tư pháp này của các nhà nghiên cứu Việt Nam có sự

Page 36: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

tương đồng với các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tư pháp gắn với quyền tư pháp hay

là quyền xét xử [72, tr.21].

Tư pháp cũng có thể được hiểu ở phạm vi rộng hơn là hoạt động bảo vệ pháp

luật, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm. Hoạt động tư pháp không chỉ

là các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án mà còn là các hoạt động luật sư,

công chứng, giám định, đấu giá, thống kê tư pháp. Tương ứng với đó, các cơ quan tư

pháp bao gồm Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi

hành án dân sự, đồng thời còn bao gồm các cơ quan tư pháp trong hệ thống hành

pháp, cụ thể là Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và ở cấp xã đó là các công

chức Tư pháp - Hộ tịch [45]. Cách tiếp cận tư pháp phạm vi rộng này được thể hiện

trong các Nghị quyết về cải cách tư pháp và thông qua cách thức tổ chức bộ máy nhà

nước cùng với các hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 08-NQ/TW

ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới đã tiếp cận “tư pháp” và “công tác tư pháp” với phạm vi từ điều

tra, truy tố, xét xử đến thi hành án (bao gồm cả thi hành án hình sự và dân sự). Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020 tiếp tục chỉ ra hệ thống cơ quan tư pháp với trọng tâm là Tòa án nhân

dân thực hiện quyền xét xử. Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện quyền công tố và kiểm

sát hoạt động tư pháp; các cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra trong tố tụng

hình sự và các cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài những hoạt động tư pháp nói trên,

Nghị quyết số 08-NQ/TW đề cập đến hoạt động luật sư, cảnh sát tư pháp, công

chứng, giám định, thống kê tư pháp với tư cách là các hoạt động bổ trợ tư pháp. Nghị

quyết số 49-NQ/TW xác định nhiệm vụ hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp như

một hoạt động quan trọng trong công tác tư pháp và hoàn thiện các chế định bổ trợ tư

pháp là một khâu quan trọng trong cải cách tư pháp. So với Nghị quyết số 08-

NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW bổ sung thêm hoạt động thừa phát lại cũng là một

trong những chế định trong thực hiện xã hội hóa. Như vậy, mặc dù có những quan

niệm, phạm vi tiếp cận khác nhau nhưng xuất phát từ quan điểm, định hướng và thực

tiễn thực hiện cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay thì tư pháp không chỉ bao gồm

Page 37: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

hoạt động xét xử mà còn bao gồm các hoạt động hỗ trợ cho xét xử nhằm tổ chức thực

hiện và bảo vệ pháp luật, duy trì công lý, lẽ phải, công bằng trong xã hội.

Cũng như các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, lĩnh vực tư pháp cũng bao

gồm dịch vụ công phục vụ cho nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân, gắn với trách

nhiệm của Nhà nước trước công dân, vì lợi ích chung của xã hội. Những hoạt động

này không trực tiếp sử dụng quyền lực nhà nước - quyền tư pháp, do vậy có thể do

các cơ quan Nhà nước thực hiện hoặc ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội

thực hiện theo các nguyên tắc, tiêu chuẩn được pháp luật quy định nhằm mục đích

đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân trong sử dụng dịch vụ để bảo vệ quyền và lợi

ích của mình. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng mang đặc điểm cơ bản của

dịch vụ công nói chung như tính chất xã hội, việc cung ứng dịch vụ công không

thông qua quan hệ thị trường đầy đủ, Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội, bảo

đảm tính công bằng, hiệu quả trong cung cấp dịch vụ công... Đồng thời, dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp cũng có những đặc điểm riêng gắn với hoạt động xét xử, thực

hiện và bảo vệ pháp luật. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các dịch vụ phục vụ các nhu

cầu cơ bản, thiết yếu của người dân mà các nhu cầu, cơ bản thiết yếu này là cơ sở cho

việc bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Thông qua

việc sử dụng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, người dân có thể bảo vệ được

lợi ích của mình bằng các cơ chế phòng ngừa hoặc đưa ra yêu cầu để các cơ quan

Nhà nước thực hiện nghĩa vụ nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân được thực hiện trên thực tế.

Thứ hai, lợi ích chung của xã hội mà dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

hướng đến là bảo vệ pháp luật, duy trì công bằng, công lý, lẽ phải trong xã hội.

Quyền tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực cơ bản (quyền lập pháp, hành pháp

và tư pháp) cấu thành nên quyền lực nhà nước. Chức năng của quyền tư pháp là bảo

vệ pháp luật với phương thức đặc thù thực hiện chức năng này tài phán cùng với các

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ khác phục vụ

cho hoạt động xét xử [26, tr.3]. Các hoạt động này hướng đến nhu cầu của người dân

trong thực hiện pháp luật, bảo vệ cũng như phòng ngừa các vi phạm có thể ảnh hưởng

Page 38: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc mỗi người dân bảo vệ được quyền và lợi

ích chính đáng của mình không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân đó, mà còn tạo được

niềm tin chung của cộng đồng vào công lý, công bằng, tạo nên ý thức và hành động

ứng xử theo quy định của pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực thi trên thực tế.

Thứ ba, chủ thể thực hiện dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các cơ quan tư

pháp được tiếp cận theo phạm vi rộng, không chỉ trực tiếp là tòa án, viện kiểm sát, cơ

quan, tổ chức thuộc hệ thống hành pháp (như cơ quan điều tra, thi hành án của ngành

công an; cơ quan thi hành án, cơ quan tư pháp của ngành tư pháp) mà còn bao gồm các

tổ chức nghề nghiệp nằm ngoài quyền lực nhà nước được Nhà nước ủy quyền hoặc cho

phép thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp như các tổ chức hành nghề của

luật sư, công chứng viên, giám định tư pháp, thừa phát lại. Nghị quyết số 49-NQ/TW

gọi đây là các thiết chế bổ trợ tư pháp. Các thiết chế bổ trợ tư pháp này có thể được vận

hành bởi các tổ chức, cá nhân khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật đặt ra.

Thứ tư, việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp không chỉ phải

tuân thủ các quy trình, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành mà còn phải

bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc, quy định tố tụng, thực hiện quyền tư pháp. Dịch

vụ công bắt nguồn từ chức năng phục vụ của Nhà nước, gắn với trách nhiệm của Nhà

nước nên việc cung ứng các dịch vụ công dù do chủ thể nào thực hiện thì cần phải

bảo đảm chất lượng theo những tiêu chuẩn nhất định với các quy trình, cách thức, tiêu

chí thực hiện dịch vụ công [74, tr.22]. Các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được

thực hiện gắn với quyền tư pháp mà trung tâm là hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết

của Tòa án. Quy trình ra phán quyết của tòa án khá đặc biệt so với các quá trình ra

quyết định của các cơ quan lập pháp hoặc các cơ quan hành pháp. Trong quá trình tố

tụng tư pháp, chất lượng quyết định của các tòa án không chỉ phụ thuộc vào năng lực

chuyên môn của người ra quyết định (thẩm phán, hội thẩm) mà còn phụ thuộc vào

chất lượng thông tin và năng lực của các bên tham gia tố tụng với các chức năng tố

tụng khác nhau có các quyền và nghĩa vụ khác nhau, thậm chí là đối ngược nhau. Nói

cách khác, các bên tham gia không chỉ là đối tượng bị áp đặt bởi các quyết định của

Tòa án mà bản thân họ cũng là những người tham gia vào quá trình ra quyết định của

tòa án, thông qua việc cung cấp, kiểm tra chéo các thông tin, chứng cứ về tình tiết đã

Page 39: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

được mỗi bên thu thập được và trình bày, tranh luận tại phiên tòa về quan điểm áp

dụng các quy định pháp luật trong giải quyết các vụ việc nhằm bảo đảm đây thực sự

là quá trình tìm kiếm chân lý, đạt được công lý khi Tòa án ra phán quyết.

2.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Xã hội hóa là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong giai đoạn hiện nay

ở Việt Nam gắn với quá trình cải cách hành chính, đổi mới phương thức QLNN và

trực tiếp là đổi mới và nâng cao chất lượng dịch vụ công. Tuy nhiên, xung quanh khái

niệm xã hội hóa cũng có những cách tiếp cận khác nhau. Dưới góc độ ngôn ngữ học,

trong Từ điển Tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (1967) định nghĩa xã hội hóa là “đem

tư liệu sản xuất của cá nhân làm của chung xã hội” như xã hội hóa các phương tiện

giao thông vận tải. Gần đây hơn, Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (2005)

định nghĩa xã hội hóa là “làm cho trở thành của chung của xã hội” như xã hội hóa tư

liệu sản xuất.

Dưới góc nhìn xã hội học, xã hội hóa gắn với cá nhân con người trong mối

quan hệ tương tác với xã hội trong quá trình hình thành và phát triển mỗi cá nhân.

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, xã hội hóa được định nghĩa là một quá trình

tương tác xã hội kéo dài suốt đời, qua đó, cá nhân phát triển khả năng con người và

học hỏi các mẫu văn hóa của mình. Đó chính là quá trình con người liên tục tiếp thu

văn hóa vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như một thành viên. Nhà xã hội

học Mỹ Meil Smelser quan niệm xã hội hóa là quá trình, mà trong đó cá nhân học

cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình để phục vụ tốt cho việc thực

hiện các mô hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trò mà cá nhân phải đóng trong

cuộc đời của mình. Nhà nghiên cứu Ficher lại quan niệm: “xã hội hóa là một quá

trình tương tác giữa người này và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những

khuôn mẫu hành động và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó”. Khác với

hai nhà nghiên cứu trên, nhà xã hội học người Nga G.Andrecva đã chỉ ra được cả hai

mặt của quá trình xã hội hóa: cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm

nhập vào xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội và cá nhân tái sản xuất một cách

chủ động bằng các mối quan hệ thông qua việc họ tham gia vào các hoạt động và

thâm nhập vào xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội. Theo cách tiếp cận này, xã

Page 40: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

hội hóa bao gồm hai mặt, mặt thứ nhất xã hội truyền bá văn hóa của mình từ thế này

sang thế hệ khác, làm cho cá nhân thích ứng với những nếp sống, sinh hoạt được xã

hội chấp nhận; mặt thứ hai là quá trình diễn ra sự thích ứng của cá nhân với những

con người xung quanh [86, tr.58-59]. Khái niệm xã hội hóa, theo quan điểm Mác -

Lênin, nói lên sự chuyển hóa từ tính chất cá nhân thành tính chất xã hội; dùng chữ

“hóa” là muốn nói đến sự chuyển hóa từ cái này sang cái kia”; đó là quá trình “xã hội

hóa cá nhân và cá nhân hóa xã hội” [36].

Ở Việt Nam, trong bối cảnh thực hiện cải cách hành chính, đổi mới phương

thức hoạt động của Nhà nước thì xã hội hóa được sử dụng để gắn với các công việc

của Nhà nước về cung ứng các dịch vụ công. Xã hội hóa được hiểu là “quá trình

chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh

vực hoạt động kinh tế xã hội, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử

dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế -

xã hội của đất nước” [9, tr.106]. Một số quan điểm được nêu ra như: xã hội hóa là

việc tăng nguồn lực đầu tư của Nhà nước để phát triển các lĩnh vực xã hội hóa và

thực hiện các mục tiêu xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa - coi đây là một biện

pháp rất cơ bản nhằm huy động mọi nguồn lực, trí tuệ của các thành phần kinh tế, của

các tổ chức xã hội, của mọi người [36]. Điểm chung của các quan điểm nói trên đó là

coi xã hội hóa là việc huy động khu vực ngoài Nhà nước thực hiện những công việc

do Nhà nước thực hiện hoặc theo quan niệm là phải do Nhà nước thực hiện.

Quan điểm này có sự tương đồng với quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu trên

thế giới ở khía cạnh của “sự chuyển giao” trong vai trò của Nhà nước hiện đại và người

dân tham gia vào các công việc của Nhà nước dù không trực tiếp sử dụng thuật ngữ “xã

hội hóa”. Thế giới ngày nay đang có sự thay đổi mạnh mẽ và đặt ra những thách thức,

đòi hỏi Nhà nước phải hoạt động hiệu quả hơn trong khi có giới hạn về nguồn lực đảm

bảo và yêu cầu của người dân ngày càng đa dạng, phong phú hơn hơn. Trong bối cảnh

đó, Nhà nước cần tập trung vào các hoạt động phù hợp với khả năng, tức là các hoạt

động công cộng cốt lõi, có tầm quan trọng then chốt đối với phát triển và đồng thời

củng cố các thiết chế công cộng, thu hút sự tham gia của họ để tạo ra sự cạnh tranh

nhiều hơn trong việc cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cộng [111, tr.2]. Ở một khía

Page 41: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

cạnh khác, việc chuyển giao, thu hút sự tham gia của các thiết chế công cộng còn được

xem như là một hoạt động hợp tác giữa Nhà nước với công dân, trong đó công dân trở

thành một đối tác của Nhà nước trong thiết kế, sản xuất và cung cấp dịch vụ công, giúp

nâng cao sự hài lòng của người sử dụng và giảm giá thành [108, tr.11].

Những quan điểm trên đây cho thấy xã hội hóa là quá trình huy động sự tham gia

của toàn xã hội để cùng với Nhà nước thực hiện và thúc đẩy sự phát triển một lĩnh vực

nhất định, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân, vì lợi ích chung của xã hội. Nội dung

khái niệm xã hội hóa được nhấn mạnh ở những đặc điểm sau:

Thứ nhất, xã hội hóa là quá trình mở rộng sự tham gia và huy động toàn xã

hội trong việc chia sẻ trách nhiệm cùng với Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển

của một lĩnh vực xã hội nào đó mang tính chất xã hội rộng lớn.

Thứ hai, xã hội hóa là quá trình lâu dài, phức tạp, gắn với việc nhận diện, xác

định rõ ràng và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và của từng

chủ thể trong xã hội khi thực hiện các công việc mang tính chất xã hội rộng lớn.

Thứ ba, sự tham gia và huy động toàn xã hội được thực hiện theo những

phương thức, mô hình phong phú, đa dạng, phù hợp với năng lực, tạo sự chủ động và

bình đẳng của các chủ thể tham gia vào quá trình xã hội hóa.

Thứ tư, Nhà nước là chủ thể chịu trách nhiệm trước xã hội về dịch vụ công.

Ngay cả khi Nhà nước chuyển giao dịch vụ cho tư nhân cung ứng thì Nhà nước vẫn

có trách nhiệm trong việc bảo đảm công bằng, chất lượng trong tiếp cận, thụ hưởng

các dịch vụ công.

Với nhận thức trên đây, có thể hiểu XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là quá

trình huy động các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp để cùng với Nhà nước nâng cao chất lượng và thúc đẩy sự phát triển

của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, qua đó góp phần vào việc bảo đảm và

thực hiện quyền, lợi ích chính đáng của công dân, bảo vệ pháp luật, duy trì công

bằng, công lý trong xã hội. Cùng với các đặc điểm của XHHDVC nói chung,

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có những nội dung đặc thù sau:

Thứ nhất, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là quá trình chuyển giao từng

bước và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ, nhận thức pháp luật của

Page 42: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

người dân và các quan điểm chính trị pháp lý của mỗi nước trong từng thời kỳ. Sự

phụ thuộc này làm cho quá trình chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp thường là quá trình chuyển đổi dần dần, theo lộ trình từ thu hút sự tham

gia, đến việc hình thành cơ chế hỗn hợp giữa Nhà nước và xã hội trong cung cấp dịch

vụ công và xã hội hóa việc cung ứng hoàn toàn.

Thứ hai, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đề cao vai trò của Nhà nước trong

việc bảo đảm chất lượng và quyền bình đẳng trong tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ

công để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Việc bảo đảm chất lượng

cung ứng các dịch vụ công trong lĩnh vực pháp luật trong trường hợp này không chỉ

phục vụ cho nhu cầu của người dân, thực hiện nhiệm vụ của cơ quan nhà nước mà

còn góp phần quan trọng vào việc củng cố niềm tin, tình cảm, nâng cao ý thức pháp

luật của người dân. Hoạt động cung cấp dịch vụ công dù được tiến hành dưới hình

thức nào thì Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm trước xã hội về việc bảo đảm

cung cấp dịch vụ công và chất lượng của các dịch vụ công được cung cấp thông qua

cơ chế kiểm tra, đánh giá, giám sát việc cung cấp dịch vụ công của các chức, cá nhân.

Thứ ba, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp gắn với yêu cầu cải cách tư pháp,

cải cách hành chính và chịu sự tác động, kiểm soát của các cơ quan lập pháp, hành

pháp và tư pháp. Việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phải bảo

đảm tuân thủ đầy đủ các quy trình, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ chuyên môn

nghiệp vụ (chuyên ngành) cũng như nguyên tắc, quy trình tố tụng, thực hiện quyền tư

pháp. Theo đó, các cơ quan lập pháp sẽ thực hiện quyền giám sát đối với các hoạt

động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, chịu sự tác động, kiểm soát của Tòa án, Viện

Kiểm sát với vai trò là các chủ thể của quá trình tố tụng theo quy định của pháp luật

tố tụng và đồng thời, được quản lý thực hiện theo các quy định về QLNN của các cơ

quan hành chính về dịch vụ công nói chung.

2.1.1.3. Nội dung xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Dịch vụ công ra đời từ yêu cầu của đông đảo dân chúng đối với Nhà nước nên

Nhà nước có trách nhiệm phải cung cấp các dịch vụ công theo những nguyên tắc

công bằng, ổn định. Khi Nhà nước không thể đáp ứng nhu cầu về dịch vụ công cùng

với nhu cầu của các tổ chức, cá nhân muốn tham gia thực hiện dịch vụ công thì lúc đó

Page 43: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

mới xuất hiện nhu cầu chuyển giao trách nhiệm của Nhà nước cho các tổ chức, cá

nhân trong cung cấp dịch vụ công. Việc chuyển giao trách nhiệm của Nhà nước cho

các tổ chức, cá nhân trong cung cấp dịch vụ công có thể được thực hiện theo phương

thức chuyển giao toàn bộ hoặc một phần việc cung cấp dịch vụ công cho khu vực phi

Nhà nước hoặc huy động sự tham gia, đóng góp của các tổ chức, cá nhân cho Nhà

nước để thực hiện việc cung ứng dịch vụ công. Vai trò chủ đạo của Nhà nước được

thực hiện thông qua việc tiếp tục tăng đầu tư từ ngân sách hay phát huy các khả năng

đầu tư, đóng góp kinh phí trong xã hội, hoàn thiện thể chế và đổi mới quản lý vĩ mô,

tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức

quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong việc giám sát hoạt động của các cơ

sở cung ứng dịch vụ công được xã hội hóa.

Trong lĩnh vực tư pháp, XHHDVC được thể hiện qua những nội dung sau:

Thứ nhất, chuyển đổi các cơ sở công lập cung ứng dịch vụ công đang hoạt

động theo cơ chế sự nghiệp sang cơ chế tự chủ. Các cơ sở này có quyền tự chủ về tổ

chức và quản lý; thực hiện đúng mục tiêu và nhiệm vụ, hạch toán đầy đủ chi phí, cân

đối thu - chi, thường xuyên nâng cao chất lượng dịch vụ, bảo đảm quyền lợi và cơ hội

tiếp cận bình đẳng của người thụ hưởng. Gắn liền với việc chuyển đổi là sự đổi mới

chế độ thu phí dịch vụ. Người thụ hưởng có quyền lựa chọn cơ sở cung ứng dịch vụ

phù hợp với từng lĩnh vực.

Thứ hai, chuyển các cơ sở công lập cung ứng dịch vụ công sang hình thức

doanh nghiệp do các chủ thể trong xã hội sở hữu (thông qua cổ phần hóa), hoạt động

theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc cơ chế lợi nhuận. Tài sản Nhà nước sẽ được chuyển

giao (giao, bán, hoặc cho thuê) cho các chủ thể ngoài Nhà nước. Quyết định chuyển

giao do các cơ quan có thẩm quyền quyết định.

Thứ ba, khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập

với các loại hình dân lập, tư nhân và doanh nghiệp. Các cơ sở này có thể hoạt động

theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc cơ chế lợi nhuận. Theo cơ chế phi lợi nhuận thì ngoài

phần được dùng để bảo đảm lợi ích hợp lý của nhà đầu tư, phần để tham gia thực hiện

các chính sách của xã hội, trợ giúp người nghèo, còn lại phần lớn lợi nhuận được

Page 44: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

dùng để đầu tư phát triển. Theo cơ chế lợi nhuận thì lợi nhuận có thể được chia cho

các cá nhân và phải chịu thuế.

Thứ tư, huy động mọi nguồn lực sẵn có trong xã hội để tổ chức thực hiện

cung ứng dịch vụ công đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Các tổ chức,

cá nhân có thể đóng góp các nguồn lực cho việc cung ứng các dịch vụ công hoặc trực

tiếp tham gia vào việc cung ứng các dịch vụ công trên cơ sở yêu cầu của các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền, qua đó có thể chia sẻ, giảm bớt một phần chi phí khi cung

cấp các dịch vụ công.

2.1.2. Khái niệm pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được xây dựng trên cơ sở quan

niệm và cách xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Quan niệm và cách xác

định phạm vi dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở các nước khác nhau là khác nhau,

tùy thuộc vào từng thời kỳ và đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia, khu vực. Tổ chức

hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) coi các hoạt động của tòa án, trại giam, nghiên

cứu về trật tự, an toàn công cộng là dịch vụ công [108, tr.106]. Trong khi đó, Tổ chức

Thương mại thế giới (WTO) coi các dịch vụ như thẩm phán, nhân viên tòa án, công

tố viên, luật sư của Nhà nước là các dịch vụ được thực hiện trong phạm vi trách

nhiệm của Nhà nước và do vậy nằm trong phạm vi loại trừ của các dịch vụ thương

mại chịu sự điều chỉnh của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS). Đối với

công chứng thì đây là dịch vụ thương mại vì được cung cấp trong điều kiện cạnh

tranh với các nhà cung cấp dịch vụ khác dù cho có những nơi công chứng viên là

nhân viên của Nhà nước [106, tr.7]. Ở Việt Nam, Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị

quyết số 48-NQ/TW đề cập đến việc xã hội hóa đối với các hoạt động THADS và các

hoạt động bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, GĐTP, TGPL, cảnh sát hỗ trợ tư

pháp, thừa phát lại.

Cùng với đó, do sự khác biệt về truyền thống, đặc điểm của hoạt động xây

dựng pháp luật ở các nước nên pháp luật về dịch vụ công nói chung và pháp luật về

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp tại các nước cũng có sự khác biệt. Tại hầu hết

các nước, pháp luật về dịch vụ công là hệ thống các quy định do các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền ban hành nhưng cách thức quy định về dịch vụ công trong lĩnh

Page 45: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

vực tư pháp cũng khác nhau. Ở một số nước Tòa án có thể ra phán quyết một dịch vụ

được coi là dịch vụ công, một doanh nghiệp, tổ chức cụ thể được công nhận là tổ chức

cung cấp dịch vụ công. Phán quyết của Tòa án là căn cứ pháp lý để các doanh nghiệp,

tổ chức có liên quan thực hiện pháp luật trong cung ứng dịch vụ công cũng như hưởng

các quyền, nghĩa vụ của một tổ chức cung cấp dịch vụ công [61, tr.452-454].

Ở Việt Nam, pháp luật về XHHDVC là vấn đề còn khá mới mẻ. Xuất phát từ

tính chất đa dạng của dịch vụ công mà pháp luật về XHHDVC không phải là một lĩnh

vực pháp luật biệt lập. Pháp luật về XHHDVC có mối quan hệ chặt chẽ với các quy

định về tổ chức bộ máy nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan và công

chức, viên chức nhà nước và với các quy định trong các lĩnh vực dân sự, hình sự,

thương mại, hành chính… Đối với các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật

về XHHDVC cũng bao gồm các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong

quá trình Nhà nước thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Để bảo đảm quá

trình xã hội hóa được diễn ra thông suốt, hiệu quả thì các QPPL này có mối liên hệ

chặt chẽ với nhau, bảo đảm tính hệ thống, thống nhất với nhau và với các quy định về

tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Với ý nghĩa đó, có thể hiểu pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là

tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất để điều chỉnh

các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được

thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành.

Về mặt nội dung, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm ba

nhóm quy định cơ bản như sau:

Một là nhóm các quy định về tổ chức và cung ứng dịch vụ công trong từng

lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong đó quy định về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp,

về các chủ thể được phép cung ứng hoặc tham gia cung ứng dịch vụ công theo các

quy trình, thủ tục, cách thức được pháp luật quy định.

Hai là nhóm các quy định về thực hiện XHHDVC, tức là các quy định chuyển

đổi việc cung cấp dịch vụ công từ Nhà nước cho xã hội thực hiện. Nhóm này bao

Page 46: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

gồm các quy định về việc chuyển giao hay thu thút sự tham gia của các tổ chức, cá

nhân trong xã hội tham gia cung ứng dịch vụ công.

Ba là nhóm các quy định về quản lý nhà nước đối với việc XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp nhằm bảo đảm chất lượng các dịch vụ công được cung cấp và bảo

đảm trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công.

Với ba nhóm quy định cơ bản nói trên, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp tác động đến các chủ thể là các cơ quan, tổ chức của Nhà nước và các tổ

chức, cá nhân trong xã hội có đủ điều kiện và được phép cung ứng các dịch vụ công.

Đồng thời, các quy định này cũng tác động đến các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền

quản lý nhà nước đối với quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Về mặt hình thức, pháp luật về XHHDVC sẽ bao gồm các quy định nằm trong

các văn bản QPPL được ban hành trong các lĩnh vực khác nhau, với các hình thức

khác nhau theo thẩm quyền quy định trong Luật ban hành văn bản QPPL. Có nhiều

cách thể hiện khác nhau các quy định pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp nhưng phổ biến nhất hiện nay là các quy định pháp luật về XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp sẽ được quy định trong nội dung các văn bản QPPL chuyên ngành như

Luật công chứng, Luật giám định tư pháp, Luật thi hành án dân sự, Luật hoặc các

Nghị định về BĐGTS, Nghị định quy định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại…

Bên cạnh các quy định trong các luật chuyên ngành về lĩnh vực tư pháp, pháp luật về

XHHDVC còn bao gồm các quy định chung quy định về nguyên tắc, cơ chế hoạt

động chung cho việc cung cấp các dịch vụ công nói chung, trong đó có quy định về

XHHDVC như Luật viên chức, Luật phí và lệ phí, Nghị định quy định về cơ chế tự

chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập,.... Do tính đa dạng, phong phú của các dịch vụ

công nói chung, trong đó có dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nên chưa có một văn

bản QPPL được coi là đạo luật chung, bao gồm các quy phạm cơ bản điều chỉnh quan

hệ XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng. Các QPPL về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp được thể hiện trong nhiều văn bản QPPL khác nhau và có mối

liên hệ chặt chẽ với nhau, có tính thống nhất và phù hợp với thẩm quyền của cơ quan

ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC các

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Page 47: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

2.1.3. Đặc điểm của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp mang các đặc trưng của pháp luật

nói chung về tính quy phạm, tính phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức, tính

bắt buộc chung và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Đồng thời, pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có các đặc điểm riêng sau:

2.1.3.1. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là tổng

thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh trong quá trình xã hội

hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nằm trong các văn bản quy phạm pháp

luật thuộc các lĩnh vực và có cấp độ hiệu lực khác nhau

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với ý nghĩa là quá trình chuyển giao hay

huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào việc cung ứng dịch vụ công phụ

thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng miền, từng quốc gia và phụ thuộc

vào từng lĩnh vực cụ thể. Quá trình này cũng đồng thời phụ thuộc vào các yếu tố chủ

quan về nhận thức pháp luật của người dân cũng như quan điểm chính trị, pháp lý của

Nhà nước. Ở Việt Nam, sự phụ thuộc này làm cho quá trình XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp là quá trình chuyển đổi dần dần, theo lộ trình từng bước trên cơ sở kết hợp

giữa khu vực Nhà nước và xã hội trong cung cấp dịch vụ công. Pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp do vậy cũng dần được hoàn thiện phù hợp với thực

tiễn chuyển giao.

Hiện nay, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam đã được

hình thành khá rõ nét, được thể hiện trong nhiều văn bản QPPL khác nhau. Có những

văn bản chuyên ngành quy định về một dịch vụ công cụ thể, trong đó có vấn đề xã

hội hóa, chuyển giao hay thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong thực hiện

dịch vụ công như Luật công chứng, Luật trợ giúp pháp lý, Luật giám định tư pháp

cùng các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh các luật chuyên ngành quy định trực

tiếp về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp thì các quy định về tổ chức và hoạt động

của các cơ quan tư pháp cũng có quy định liên quan đến việc XHHDVC như Bộ luật

tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật đất đai,

Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 12/3/2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-

Page 48: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

BNV ngày 22/12/2014 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dân chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương và huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Cùng với các văn bản chuyên

ngành, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn được thể hiện trong các

văn bản quy định các vấn đề liên quan đến XHHDVC nói chung, trong đó có dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp như Luật viên chức, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày

14/2/3015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị

định số 54/2014/NĐ-CP ngày 29/5/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động

thanh tra Ngành Tư pháp, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính

tư pháp, hôn nhân gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã…

Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có thể được thể hiện dưới hình

thức các luật do Quốc hội ban hành, các Nghị định của Chính phủ, Thông tư, Quyết

định của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Trong số các văn bản quy định về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, các luật do Quốc hội ban hành có vai trò quan

trọng. Đối với vấn đề XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp gắn với việc chuyển giao

trách nhiệm của Nhà nước cho xã hội, công dân nên việc quy định các nguyên tắc,

chính sách đối với XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong các Luật là văn bản có giá

trị pháp lý cao, có tính ổn định, tạo cơ sở cho việc tổ chức thực hiện các dịch vụ

thống nhất, bảo đảm quyền và lợi ích của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng như

người thụ hưởng dịch vụ công. Trên cơ sở các nguyên tắc, chính sách được quy định

trong Luật, Quốc hội giao cho Chính phủ ban hành quy định cụ thể nhiều nội dung để

triển khai thực hiện chính sách XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp để bảo đảm tính

linh hoạt, phù hợp với thực tiễn. Các Bộ phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn quản lý chuyên môn

của mình sẽ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các yếu tố chuyên môn, nghiệp vụ

của việc cung cấp dịch vụ. Các địa phương có trách nhiệm triển khai các quy định của

cơ quan trung ương tại địa phương.

Page 49: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

2.1.3.2. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp điều

chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội trong quá trình chuyển giao việc cung cấp dịch

vụ công của Nhà nước cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội

Tương tự như XHHDVC nói chung, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được

thực hiện bằng việc huy động sự tham gia rộng rãi, chủ động của các tổ chức, cá nhân

ở khu vực phi Nhà nước vào việc cung ứng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Tuy nhiên, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bao gồm hoạt động có liên quan trực

tiếp đến quá trình xét xử, cung cấp chứng cứ, hỗ trợ, tư vấn cho người tham gia tố

tụng hay thực hiện các phán quyết của Tòa án, qua đó bảo đảm tính đúng đắn trong

các phán quyết của Tòa án cũng như củng cố, xây dựng niềm tin của người dân đối

với pháp luật, công bằng, công lý trong xã hội. Các chủ thể phi Nhà nước tham gia

vào cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trên cơ sở kết quả của quá trình xã

hội hóa, chuyển giao là phụ thuộc vào năng lực, khả năng của các chủ thể này. Khả

năng này được nhìn nhận ở năng lực nói chung trong việc tham gia vào quá trình

quản lý xã hội của các chủ thể phi Nhà nước và cũng đồng thời được nhìn nhận ở các

điều kiện chuyên môn, kỹ thuật gắn với đạo đức nghề nghiệp mà các chủ thể phải đáp

ứng khi tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công cụ thể. Do đó, quá trình tổ chức

huy động, thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân ở khu vực ngoài Nhà nước

vào việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được tổ chức chặt chẽ hơn. Sự

tham gia này chỉ có thể được thực hiện dựa trên các cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện,

quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quá trình xã hội hóa như một

cam kết của Nhà nước trước xã hội về việc bảo đảm cung ứng dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp khi thực hiện xã hội hóa.

Với ý nghĩa đó, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp điều chỉnh toàn

diện mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia vào

việc cung cấp dịch vụ công, bảo đảm họ có đủ điều kiện thực hiện các dịch vụ công

theo sự ủy quyền, chuyển giao của Nhà nước. Pháp luật về XHHDVC cũng đồng thời

bảo đảm quyền và lợi ích của những người thụ hưởng dịch vụ công trên cơ sở bảo

đảm sự công bằng trong tiếp cận với dịch vụ công, bảo đảm rằng các dịch vụ công

được cung cấp đầy đủ, có chất lượng như khi những dịch vụ công đó được Nhà nước

Page 50: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

cung cấp. Theo đó, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp điều chỉnh việc

chuyển giao cung cấp hay huy động sự tham gia của người dân, xã hội vào quá trình

cung cấp dịch vụ công cả về hình thức, lĩnh vực và cơ chế khuyến khích sự tham gia.

Đồng thời, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng đồng thời điều chỉnh

các nội dung quản lý dịch vụ công khi đã được xã hội hóa phù hợp với từng lĩnh vực

cụ thể để bảo đảm mục đích của quá trình xã hội hóa, chuyển giao việc cung ứng dịch

vụ công cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

2.1.3.3. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có mối

liên hệ chặt chẽ với các chế định khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, trực tiếp

là các chế định pháp luật điều chỉnh hoạt động tư pháp

Các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện gắn với quyền tư pháp

mà trung tâm là hoạt động xét xử, đưa ra phán quyết của Tòa án. Quy trình ra phán

quyết của tòa án khá đặc biệt so với quá trình ra quyết định của các cơ quan lập pháp

hoặc các cơ quan hành pháp [26, tr.15]. Trong quá trình tố tụng tư pháp, chất lượng

quyết định của Tòa án không chỉ phụ thuộc vào bản thân của người ra quyết định

(thẩm phán, hội thẩm) mà còn phụ thuộc vào chất lượng thông tin và năng lực của các

bên tham gia tố tụng với chức năng tố tụng khác nhau, với quyền và nghĩa vụ khác

nhau, thậm chí là đối ngược nhau. Nói cách khác, các bên tham gia không chỉ là đối

tượng bị áp đặt bởi các quyết định của Tòa án mà bản thân họ cũng là những người

tham gia vào quá trình ra quyết định của Tòa án thông qua việc cung cấp, kiểm tra chéo

các thông tin, chứng cứ về tình tiết đã được mỗi bên thu thập được và trình bày, tranh

luận tại phiên tòa về áp dụng các quy định pháp luật vào giải quyết các vụ việc nhằm

bảo đảm đây thực sự là quá trình tìm kiếm chân lý, đạt được công lý khi Tòa án ra phán

quyết. Do đó, việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp không chỉ phải

tuân thủ các quy trình, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành mà còn phải

bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc, quy định tố tụng và thực hiện quyền tư pháp.

Với ý nghĩa là một bộ phận trong hệ thống pháp luật, pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp có mối liên hệ chặt chẽ với các chế định khác trong hệ thống

pháp luật Việt Nam, trực tiếp là các chế định pháp luật điều chỉnh hoạt động tư pháp,

bao gồm chế định về tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp và các nguyên tắc,

Page 51: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

quy trình, thủ tục tố tụng. Pháp luật về XHHDVC có mối liên hệ chặt chẽ với các quy

định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trên cơ sở xác định vị trí, vai

trò của các cơ quan này trong thực hiện hoạt động tư pháp. Trong quá trình cải cách,

xây dựng Nhà nước hiện đại, với quan điểm “nhà nước nhỏ, xã hội lớn” thì người dân,

xã hội sẽ ngày càng tham gia nhiều hơn vào các công việc của Nhà nước. Nhà nước cũng

sẽ tập trung vào những công việc nhất định và chuyển giao các công việc cho xã hội thực

hiện, bao gồm cả những công việc Nhà nước không cần thực hiện hoặc thực hiện không

tốt bằng xã hội do không đủ nguồn lực (nhân lực, tài chính...). Pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp có mối liên hệ mật thiết với pháp luật về tổ chức và hoạt động của

các cơ quan tư pháp với ý nghĩa phân định trách nhiệm, nội dung hoạt động của các cơ

quan này và bổ sung thêm chủ thể trong thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp. Đồng thời, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có mối liên hệ với các quy

định pháp luật về dân sự, hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hình sự bởi đây là các quy định

trực tiếp liên quan đến việc thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, bảo đảm

sự tham gia của các chủ thể cung cấp dịch vụ công trong quá trình xã hội hóa.

Mối quan hệ giữa pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với các ngành

luật, các chế định pháp luật thể hiện sự quan hệ, tác động qua lại hai chiều biện chứng.

Các quy định pháp luật này sẽ bổ khuyết cho nhau để đảm bảo những quan hệ pháp

luật quan trọng đều được điều chỉnh và bảo vệ bằng pháp luật. Mối quan hệ giữa pháp

luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với các ngành luật, các chế định pháp luật khác

vừa là biểu hiện, vừa là cơ sở cho tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.

2.1.3.4. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có mối

liên hệ với các quy định của tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp,

đặc biệt là các quy tắc đạo đức hành nghề

Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp là các tổ chức được

thành lập trên cơ sở tập hợp những tổ chức, cá nhân có cùng mục đích, hành nghề

trong cùng lĩnh vực. Các tổ chức này hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản,

tự bảo đảm kinh phí, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cũng như hỗ trợ cho các

thành viên trong hành nghề. Thông qua những nguyên tắc, mục tiêu hoạt động của

mình, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng

Page 52: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

lực hành nghề và thực hiện chức năng tự quản, quản lý việc chấp hành pháp luật, tuân

thủ đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân trong cung ứng các dịch vụ công.

Với đặc thù của các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp trong lĩnh vực tư pháp, việc phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp góp phần quan trọng cho việc duy trì và thúc đẩy các giá trị tích cực của các

thành viên trong hành nghề. Do đó, Nhà nước cũng giao cho các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp thực hiện một phần nhiệm vụ QLNN đối với việc cung ứng dịch vụ công

trên nguyên tắc kết hợp giữa quản lý nhà nước với tự quản của tổ chức hành nghề,

bảo đảm tuân thủ pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân.

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp gắn với vai trò của các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp của các chức danh tư pháp nên pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có

mối liên hệ với hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội

- nghề nghiệp này. Sự liên hệ được thể hiện trong mối quan hệ tác động qua lại. Pháp

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp quy định vị trí, vai trò, định hướng mô hình,

hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp. Trong một

chừng mực nhất định, phụ thuộc vào tính chất của từng lĩnh vực và năng lực của các

tổ chức này, pháp luật quy định những nhiệm vụ của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp

được thực hiện để quản lý việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, phù

hợp với tôn chỉ, mục đích hoạt động của từng tổ chức. Các tổ chức này cùng với các

thành viên của mình thống nhất Điều lệ, quy chế, quy định về tổ chức và hoạt động

để thực hiện quản lý nội bộ, giám sát, bảo đảm các thành viên cùng ứng xử theo các

quy tắc chung, trong đó quy định các chuẩn mực trong ứng xử, hành nghề của các

chức danh tư pháp phù hợp với quy định pháp luật, các giá trị tốt đẹp trong xã hội.

Đây là những quy định rất có ý nghĩa trong cung cấp các dịch vụ công, bảo đảm chất

lượng của các dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa, Nhà nước không còn trực tiếp

cung cấp các dịch vụ công này. Các quy định điều chỉnh tổ chức, hoạt động của các

tổ chức nghề nghiệp và thành viên của tổ chức có ý nghĩa bổ sung, bổ khuyết nhất

định cho hệ thống pháp luật để bảo đảm quản lý, cung ứng các dịch vụ công có chất

lượng đến người dân, đặc biệt là các quy định kết hợp QLNN với chế độ tự quản của

tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với hoạt động cung cấp dịch vụ công.

Page 53: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

2.1.4. Nội dung pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm tổng thể các QPPL có

mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội sau:

2.1.4.1. Nhóm các quy định về tổ chức và hoạt động cung ứng dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp

Dịch vụ công nói chung và dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là một phạm

trù mang tính lịch sử cụ thể. Tùy thuộc vào mỗi quốc gia và vào từng thời kỳ khác

nhau thì quan niệm, cách xác định dịch vụ công lại khác nhau. Pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trước hết bao gồm các quy phạm xác định các dịch

vụ là dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trên cơ sở tính chất thiết yếu, phục vụ cho

nhu cầu của người dân để bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân, phục vụ cho hoạt động

xét xử, bảo vệ pháp luật do các cơ quan Nhà nước cung cấp hoặc ủy quyền cho các tổ

chức, cá nhân trong xã hội thực hiện.

Trên cơ sở xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp bao gồm nhóm các quy định về tổ chức và hoạt động cung ứng

dịch vụ công trong lĩnh vực đó. Nhóm quy phạm này sẽ quy định cụ thể về chủ thể,

trách nhiệm của các chủ thể cung cấp dịch vụ công, quy trình, cách thức hoạt động và

các tiêu chuẩn chuyên môn, kỹ thuật cần thiết thực hiện của các dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp. Đây là các cơ sở pháp lý cho việc thực hiện, đánh giá, kiểm tra để

bảo đảm chất lượng của dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp khi được xã hội hóa và

được cung cấp bởi các chủ thể là các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

2.1.4.2. Nhóm các quy định về thực hiện xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm chuyển giao và thu hút sự tham gia

của các tổ chức, cá nhân trong xã hội vào việc cung ứng dịch vụ công. Do đó, pháp

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp quy định về hình thức và phương thức pháp

lý chuyển giao cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Phương thức pháp lý

cho việc xã hội hóa bao gồm Nhà nước cho phép thành lập và cấp phép hoạt động

cho các đơn vị cung ứng dịch vụ ngoài công lập trực tiếp thực hiện cung ứng dịch vụ

Page 54: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

công hoặc ký kết các hợp đồng với các tổ chức, cá nhân để tổ chức thực hiện việc

cung ứng dịch vụ công. Nhóm các quy định này bao gồm:

Một là, các loại hình dịch vụ công có thể được thực hiện xã hội hóa, trong đó

các dịch vụ công có thể được chuyển giao cho các đơn vị cung ứng dịch vụ ngoài

công lập trực tiếp thực hiện hoặc huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân theo

hình thức cụ thể. Theo định hướng cải cách tư pháp, các dịch vụ công trong lĩnh vực

tư pháp được khuyến khích thực hiện xã hội hóa bao gồm các dịch vụ công chứng,

GĐTP, TGPL, BĐGTS, thừa phát lại.

Hai là, các quy định về mặt hình thức pháp lý của việc thành lập và cấp phép,

đăng ký hoạt động đối với các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài công lập (quyết

định thành lập, giấy phép hoạt động, việc phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của

các đơn vị cung ứng dịch vụ công ngoài công lập).

Đối với các trường hợp ký kết hợp đồng để tổ chức cung ứng dịch vụ công,

hình thức này được Nhà nước sử dụng để liên kết, hợp tác với các tổ chức, cá nhân

thuộc mọi thành phần kinh tế tổ chức cung ứng dịch vụ công, đặc biệt là các loại hình

dịch vụ công mà tư nhân không có khả năng đầu tư độc lập để tự mình tổ chức thực

hiện cung ứng dịch vụ công hoặc chưa sẵn sàng cho việc đầu tư đó.

Ba là, các điều kiện cụ thể liên quan đến việc tổ chức thực hiện các loại hình

dịch vụ công tương ứng.

Bốn là, các quy định liên quan đến thủ tục hành chính và cơ quan có thẩm

quyền cho phép thành lập và cấp phép hoạt động cho các đơn vị dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp.

Năm là, các quy định liên quan đến khiếu nại, khởi kiện trong trường hợp bị từ

chối hoặc trì hoãn việc thành lập hoặc cấp phép, đăng ký hoạt động đối với các đơn vị

cung ứng dịch vụ ngoài công lập.

2.1.4.3. Nhóm các quy định về quản lý nhà nước đối với việc xã hội hóa dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp gắn với trách nhiệm của Nhà nước trong

việc đáp ứng nhu cầu của người dân khi bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình,

vì lợi ích chung của xã hội. Khi thực hiện XHHDVC, vai trò quản lý của Nhà nước

Page 55: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

được nhấn mạnh để bảo đảm quyền, lợi ích của người dân thụ hưởng dịch vụ công,

bảo vệ quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân thực hiện, cung cấp dịch vụ công và

đặc biệt là để hạn chế những tác động tiêu cực nảy sinh trong quá trình XHHDVC.

Là phương tiện, công cụ để Nhà nước quản lý đối với các dịch vụ công và

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật về QLNN đối với XHHDVC phải bao

gồm các nội dung cụ thể sau:

Một là, các quy định về xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát

triển dịch vụ công, trong đó bao gồm quy định về thẩm quyền ban hành các văn bản,

chính sách điều chỉnh về hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Hai là, quy định về quản lý việc thành lập các tổ chức dịch vụ công, tổ chức

xã hội nghề nghiệp về cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Ba là quy định về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các tổ chức, cá nhân tổ

chức thực hiện dịch vụ công.

Bốn là quy định về thực hiện các công tác thống kê, thông tin, ứng dụng khoa

học công nghệ vào dịch vụ công.

Năm là quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong cung cấp dịch vụ công.

Sáu là quy định về tổ chức bộ máy QLNN và nhiệm vụ của các cơ quan này

về quản lý cung cấp dịch vụ công, về mối quan hệ phối hợp giữa cácc ơ quan QLNN

với nội dung tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

2.1.5. Vai trò của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

2.1.5.1. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp thể chế

hóa quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về cải cách pháp luật, cải cách

tư pháp, cải cách hành chính.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một định hướng phát

triển chiến lược đã được Đảng xác định trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước và hội nhập quốc tế. Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại hội toàn quốc lần

thứ IX (2001) xác định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của

Đảng. Bộ Chính trị cũng đã có Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48-NQ/TW

ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm

Page 56: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong lĩnh vực tư pháp, Nghị quyết số

49-NQ/TW đề ra mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh cùng

phương hướng, yêu cầu tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp

khoa học, hợp lý, xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp. Nghị quyết cũng xác

định xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp nhất là cán bộ có chức danh tư

pháp theo hướng đề cao quyền hạn và trách nhiệm pháp lý… Trong chiến lược hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, Nghị quyết số 48-NQ/TW đề ra

các nhiệm vụ, định hướng xây dựng, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tư pháp,

trong đó có yêu cầu xây dựng, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các

cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng chiến lược cải cách tư pháp.

Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp bao gồm những quy phạm chứa đựng quy tắc xử sự áp dụng chung cho tất cả

các chủ thể trong xã hội, cho việc chuyển giao, thu hút sự tham gia của các tổ chức,

cá nhân ở khu vực ngoài nhà nước trong cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp. Thông qua hệ thống pháp luật, thực tiễn đã hình thành hệ thống các tổ chức, cá

nhân tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực công chứng,

THADS, GĐTP, BĐGTS, TGPL… Các tổ chức và cá nhân này có những đóng góp

quan trọng vào việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, khẳng định

tính đúng đắn trong việc thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Trong giai đoạn hiện nay, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp

tục khẳng định chủ trương đẩy mạnh xã hội hội hóa đối với dịch vụ công, đa dạng

hóa hình thức xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm sự bình đẳng giữa

các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập... Chủ trương này đặt ra yêu cầu phải

tiếp tục hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục

tiêu, nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, cải cách pháp

luật, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

2.1.5.2. Pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là cơ sở

pháp lý cho việc chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội, qua đó xây dựng mô hình tổ chức cung ứng

Page 57: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hiệu quả, tạo điều kiện tốt hơn cho người dân

trong việc tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công

Dịch vụ công nói chung và dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nói riêng gắn

với trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội. Trong Nhà nước hiện đại, những ý tưởng

về vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế và xã hội đang thay đổi. Hiệu quả là

vấn đề quan trọng hàng đầu khi cung cấp dịch vụ công trong bối cảnh giới hạn về

nguồn lực tài chính và nhân lực. Giải pháp được nêu ra đó là Nhà nước phải tập trung

vào những vấn đề cơ bản và củng cố các thiết chế công cộng bằng việc mở rộng sự

tham gia của người dân, thúc đẩy sự cộng tác giữa tư nhân với tư nhân. Tuy nhiên,

việc thút hút sự tham gia này chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở các quy định của

pháp luật. Hay nói cách khác, bằng pháp luật, Nhà nước cho phép, ủy quyền cho các

tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công theo các lĩnh

vực, nội dung và hình thức phù hợp. Pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý cho việc tổ chức

cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp một cách ổn định theo các tiêu chuẩn,

quy trình nhất định. Sự tham gia của ngày càng nhiều các chủ thể trong cung cấp dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp, tạo ra nhiều cơ hội hơn để người dân có thể lựa chọn,

so sánh về chất lượng sẽ góp phần vào việc nâng cao năng lực cho các thiết chế và

các chức danh tư pháp trong cung ứng dịch vụ công.

2.1.5.3. Pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là công cụ

để thực hiện quản lý nhà nước về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, qua đó bảo

đảm chất lượng các dịch vụ công và việc tiếp cận của người dân đối với các dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Pháp luật XHHDVC là công cụ để QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công

trong điều kiện thực hiện xã hội hóa. Thông qua pháp luật, Nhà nước tác động tới

hành vi của chủ thể, hướng việc thực hiện hành vi của chủ thể tuân theo pháp luật,

phù hợp với mục đích quản lý nhà nước. Pháp luật là hình thức thể hiện ý chí của Nhà

nước với vai trò là chủ thể quản lý toàn xã hội. Pháp luật sẽ định hướng quá trình

chuyển giao hay cho phép người dân tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp theo các hình thức, mức độ và ở những lĩnh vực phù hợp. Pháp

luật cung cấp các nguyên tắc, điều kiện cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào

Page 58: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

việc cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phải đáp ứng. Pháp luật cũng đồng

thời quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý, hướng dẫn,

kiểm tra việc cung cấp dịch vụ công của các tổ chức cá nhân đưa ra những quy trình

thủ tục, cách thức thực hiện các dịch vụ công. Qua đó, Nhà nước bảo đảm các dịch vụ

công được cung cấp theo chất lượng được yêu cầu dù được cung cấp bởi Nhà nước

hay các chủ thể phi Nhà nước.

2.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH

HƢỞNG ĐẾN VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ

CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Pháp luật là nền tảng của Nhà nước pháp quyền và pháp luật trong Nhà nước

pháp quyền phải bảo đảm quyền tự do, dân chủ và công lý. Yêu cầu cơ bản của xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay là hoàn thiện hệ thống pháp

luật [33]. Với ý nghĩa là các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp cũng đang đứng trước yêu cầu tiếp tục được hoàn thiện phù

hợp với sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước cũng như yêu cầu cải

cách pháp luật, cải cách tư pháp. Quá trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp được dựa theo các tiêu chí và phụ thuộc vào các yếu tố sau:

2.2.1. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch

vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp

Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện hệ thống pháp luật là những tiêu chuẩn

nhất định được xác định về mặt lý thuyết, từ đó liên hệ với điều kiện và hoàn cảnh

thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét một cách khách quan và rút ra những kết

luận, làm sáng tỏ những ưu điểm và nhược điểm…[75, tr.60] Có nhiều cách khác

nhau để xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật, phụ thuộc

vào bản chất, vai trò và mục đích điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội

trong từng lĩnh vực.

Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh trong quá trình chuyển giao việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Quá trình này phụ thuộc vào nhiều yếu tố

của cả hai bên chủ thể Nhà nước và xã hội. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của

Page 59: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là những chuẩn mực, thước đo để đánh

giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong hệ

thống pháp luật nói chung, đặt trong mối liên hệ với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại

cũng như định hướng phát triển lĩnh vực này phù hợp với mục tiêu, trách nhiệm cung

ứng dịch vụ công của Nhà nước. Các tiêu chí này bao gồm:

2.2.1.1. Tính toàn diện của pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp

Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và

vì nhân dân, mọi hoạt động liên quan đến quyền, lợi ích của nhân dân đều được điều

chỉnh bằng pháp luật. Tính toàn diện của pháp luật là một tiêu chí quan trọng để đánh

giá mức độ hoàn thiện của pháp luật. Tính toàn diện của pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp yêu cầu pháp luật phải bao gồm đầy đủ các chế định, quy định

để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp nói chung và trong từng lĩnh vực nói riêng. Pháp luật phải quy định cụ thể về

hình thức, phạm vi chuyển giao, điều kiện tham gia của các chủ thể có liên quan đến

các nội dung QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa để

bảo đảm chất lượng của các dịch vụ công dù được cung cấp bởi chủ thể là Nhà nước

hay các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

2.2.1.2. Tính phù hợp và ổn định tương đối

Pháp luật là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ biện

chứng với cơ sở hạ tầng, pháp luật phản ánh cơ sở hạ tầng - tức là các điều kiện kinh

tế - xã hội cụ thể. Về lý luận chung, pháp luật phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã

hội để bảo đảm sự điều chỉnh tích cực, thúc đẩy các quan hệ kinh tế - xã hội phát

triển. XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là việc chuyển giao trách nhiệm cung ứng

dịch vụ công của Nhà nước sang cho xã hội, trực tiếp là các tổ chức, cá nhân hoạt

động ở khu vực phi Nhà nước. Việc chuyển giao này không chỉ dựa trên ý chí của

Nhà nước mà còn phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận của các chủ thể trong xã hội.

Khả năng tiếp nhận của các chủ thể lại phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội

và tự nhiên trong từng lĩnh vực và của từng khu vực. Do đó, với vai trò cung cấp cơ

sở pháp lý cho quá trình chuyển giao, pháp luật về XHHDVC nói chung và trong lĩnh

Page 60: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

vực tư pháp nói riêng phải bảo đảm phù hợp với thực tiễn, không đặt ra các quy định

chuyển giao đối với những hoạt động, theo các cách thức hay phạm vi mà các chủ thể

không thể thực hiện được.

Tính phù hợp là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng hoàn thiện của pháp

luật, đồng thời cũng là tiền đề quyết định hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về

XHHDVC trên thực tế. Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải bảo đảm

phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Sự phù hợp của pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp được thể hiện trong mối quan hệ với yêu cầu khách quan của các tổ

chức, cá nhân cung cấp và thụ hưởng dịch vụ công. Pháp luật phải bảo đảm phù hợp

với tính chất, đặc điểm của dịch vụ; yêu cầu chuyển giao của Nhà nước và khả năng

tiếp nhận việc cung cấp dịch vụ công của các tổ chức, cá nhân trong xã hội; nguyện

vọng của người thụ hưởng dịch vụ. Nếu pháp luật không phản ánh các yêu cầu khách

quan của dịch vụ sẽ gây ra những khó khăn cho việc cung cấp, thụ hưởng dịch vụ

hoặc làm biến dạng tính chất của các dịch vụ, là nguyên nhân của vi phạm pháp luật,

cung cấp dịch vụ kém chất lượng, gây bất bình đẳng trong tiếp cận và thụ hưởng dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật không phù hợp với yêu cầu khách quan của

dịch vụ vừa ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, vừa ảnh hưởng đến quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng phải bảo đảm phù hợp với

cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập hoặc là thành

viên. Trong các cam kết có thể đến cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức

thương mại thế giới (WTO) về mở cửa thị trường dịch vụ pháp lý, hoàn thiện các

khuôn khổ pháp lý cho xây dựng và thực thi chính sách mở cửa thị trường; mức phí

và lệ phí áp dụng đối với dịch vụ công sẽ phải phản ánh đúng giá trị của dịch vụ được

cung ứng.

Bên cạnh tiêu chí phù hợp với thực tiễn, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp phải có tính ổn định tương đối. Pháp luật là chuẩn mực về xử sự cho các quan

hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Sự ổn định của

pháp luật giúp cho các chủ thể có thể dự báo được những diễn biến có thể xảy ra và

từ đó định hướng hành vi xử sự của mình. Trong XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp,

Page 61: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

sự ổn định của pháp luật có ý nghĩa tạo ra niềm tin và khuyến khích các chủ thể tham

gia vào việc cung ứng dịch vụ công. Tuy vậy, tính ổn định trong pháp luật XHHDVC

mang tính tương đối, tức là đòi hỏi phải có sự thay đổi khi điều kiện, định hướng

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có sự thay đổi. Điều này xuất phát từ đặc điểm của

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp mặc dù là một xu hướng phù hợp trong xã hội hiện

đại nhưng quá trình này có sự phát triển, đan xen và thay thế từng bước trong cung

cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp giữa khu vực công và khu vực tư.

2.2.1.3. Tính thống nhất và đồng bộ

Thống nhất và đồng bộ là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá

mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tính thống nhất và đồng bộ của pháp luật

thể hiện ở sự không chồng chéo, mẫu thuẫn về nội dung giữa các quy định của pháp

luật điều chỉnh cùng loại quan hệ xã hội và giữa các quy định pháp luật trong các lĩnh

vực khác nhau. Tính thống nhất của pháp luật cũng còn được thể hiện qua hình thức

văn bản QPPL với ý nghĩa là hình thức chứa đựng các quy định pháp luật. Theo đó,

tính thống nhất yêu cầu văn bản QPPL phải bảo đảm sự phù hợp giữa văn bản hướng

dẫn thi hành với Hiến pháp và các Luật; giữa nội dung với thẩm quyền ban hành văn

bản QPPL, giữa văn bản QPPL do cơ quan cấp dưới ban hành phải bảo đảm phù hợp

với văn bản do cơ quan cấp trên ban hành.

Tính thống nhất của pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thể hiện

ở các mức độ sau:

Thứ nhất, sự thống nhất giữa các quy định điều chỉnh về XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp từ phạm vi, nội dung đến hình thức xã hội hóa, chuyển giao hay thu hút

sự tham gia của người dân vào việc thực hiện và cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp.

Thứ hai, sự thống nhất giữa các quy định điều chỉnh XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp với các quy định có liên quan về cung cấp dịch vụ công. Theo đó, pháp luật

về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải thống nhất với quy định về cung cấp dịch

vụ công cùng loại nhằm bảo đảm chất lượng các dịch vụ công tương ứng với nhau dù

được cung ứng bởi chủ thể là Nhà nước hay các tổ chức, cá nhân ở khu vực phi Nhà

nước. Đồng thời, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng phải bảo đảm phù

Page 62: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

hợp với các quy định về nguyên tắc, định hướng, cơ chế chung về XHHDVC như

nguyên tắc tự chủ, tự bảo đảm kinh phí hoạt động đối với các đơn vị cung ứng dịch

vụ công khi xã hội hóa;...

Thứ ba, sự thống nhất giữa các quy định điều chỉnh về XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp với các quy định pháp luật khác có liên quan, trong đó có các quy định

về nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng, quy định của

pháp luật tố tụng...

2.2.1.4. Kỹ thuật lập pháp

Kỹ thuật xây dựng văn bản là tiêu chuẩn đánh giá trình độ, năng lực của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền trong soạn thảo, ban hành và hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Kỹ thuật lập pháp tốt cho phép các cơ quan soạn

thảo có thể truyền tải được ý chí của Nhà nước (mong muốn của nhà quản lý), yêu

cầu, mong muốn của người dân đối với các dịch vụ công mà họ thụ hưởng. Kỹ thuật

pháp lý tốt cũng phải phản ánh được thực tiễn hợp lý qua các quy định, thể hiện sự

tương thích giữa pháp luật với thực tiễn theo hướng vừa phù hợp vừa có sự định hướng

phát triển trong một giai đoạn nhất định. Tiêu chí về kỹ thuật xây dựng văn bản QPPL

được thể hiện qua các nội dung sau:

Thứ nhất, hình thức văn bản được lựa chọn để quy định một vấn đề phải phù

hợp với yêu cầu điều chỉnh của pháp luật về dịch vụ công tại thời điểm ban hành. Hệ

thống văn bản QPPL luật bao gồm nhiều văn bản thuộc thẩm quyền của nhiều cơ

quan khác nhau, do đó, lựa chọn hình thức văn bản nào để ban hành phải căn cứ vào

yêu cầu khách quan. Luật ban hành văn bản QPPL phân định Luật được ban hành để

điều chỉnh các quan hệ xã hội đã tương đối ổn định trong khi Nghị định có thể được

ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới, còn đang trong quá trình hình thành

và phát triển nhưng có nhu cầu phải điều chỉnh bằng pháp luật để bảo đảm yêu cầu

quản lý nhà nước bằng pháp luật. Khi các quan hệ này đã phát triển ổn định, các cơ

quan QLNN có thể đề xuất, điều chỉnh các quan hệ bằng Luật.

Thứ hai, kết cấu của từng văn bản QPPL phải chặt chẽ, nội dung, bố cục văn

bản rõ ràng, giúp cho người thực hiện xác định được đầy đủ thông tin, yêu cầu của

pháp luật khi thực hiện hành vi. Ở mức độ này, văn bản quy phạm pháp luật càn phải

Page 63: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

khái quát được vấn đề cần điều chỉnh, tránh tính trạng một vấn đề phải điều chỉnh

trong nhiều văn bản khác nhau.

Thứ ba, ngôn ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật về XHHDVC phải chính

xác, rõ ràng, không đa nghĩa, các thuật ngữ chuyên môn phải được định nghĩa ngay

trong cùng văn bản QPPL. Ngôn ngữ chính là hình thức thể hiện nội dung các quy

định pháp luật. Nếu ngôn ngữ không chuyển tải chính xác nội dung của quy phạm thì

tất yếu dẫn đến việc hiểu và thực hiện sai quy định của pháp luật.

Thứ tư, kỹ thuật soạn thảo văn bản thể hiện ở sự phù hợp của văn bản với các

quy định của pháp luật về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản QPPL, bao gồm từ tên

gọi, cách thức trình bày, kết cấu văn bản, văn bản sửa đổi, văn bản hợp nhất...

2.2.1.5.Tính khả thi

Tính khả thi được hiểu là các quy định của pháp luật có khả năng thực hiện

trên thực tế. Tính khả thi có mối liên hệ chặt chẽ với các yêu cầu về tính toàn diện,

tính thống nhất, tính phù hợp và kỹ thuật xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, việc xem xét

tính khả thi của văn bản là một nội dung khó nhất khi đánh giá mức độ hoàn thiện của

pháp luật. Nếu pháp luật bao quát, điều chỉnh toàn diện được các quan hệ xã hội phát

sinh từ dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp thì có khả năng tác động đồng bộ đến các

quan hệ xã hội khi được tổ chức thực hiện trên thực tế. Sự phù hợp của pháp luật với

chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước, pháp luật quốc tế cũng như yêu cầu

khách quan của việc cung cấp dịch vụ công, điều chỉnh hài hòa được nhu cầu và lợi

ích của các chủ thể khác nhau thì đây cũng là điều kiện quyết định đến tính khả thi của

pháp luật. Đồng thời với đó, pháp luật thống nhất, đồng bộ, không chồng chéo, mâu

thuẫn với ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo tốt cũng là điều kiện quan trọng cho pháp luật

được thực hiện hiệu quả trên thực tế. Trong thực tế, tính khả thi của pháp luật được bảo

đảm bằng các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật về tuyên truyền, phổ biến, công

khai, minh bạch pháp luật gắn với các điều kiện về tài chính, con người và các điều

kiện bảo đảm khác cho việc thực hiện pháp luật.

2.2.1.6. Tính hiệu quả

XHHDVC trên cơ sở chuyển giao hay thu hút sự tham gia của xã hội trong

cung cấp các dịch vụ cần thiết, cơ bản phục vụ người dân thuộc về trách nhiệm của

Page 64: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Nhà nước. Đây là một trong những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả hơn nguồn

lực hữu hạn của Nhà nước so với nhu cầu ngày càng gia tăng của người dân, xã hội.

Do vậy, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cần phải bảo đảm tính

hiệu quả, tức là tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức cung cấp các dịch vụ công có chất

lượng tốt hơn trong khi sử dụng ít hơn các nguồn lực cho thực hiện, được thể hiện

bằng các quy định về sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia cung

cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các nguồn lực này bao gồm của Nhà nước

và của xã hội và có thể được đo lường trên thực tế triển khai thực hiện thông qua các

chỉ tiêu về nguồn nhân lực, tài chính giảm đi hoặc có thể không tăng hoặc tăng ở mức

độ nhỏ hơn so với giá trị về số lượng và chất lượng của dịch vụ công trong lĩnh vực

tư pháp được cung cấp...

2.2.1.7. Pháp luật phải tạo ra sự công bằng trong tiếp cận và thụ hưởng dịch

vụ công trong điều kiện được xã hội hóa

Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp trong một số trường hợp và những điều kiện nhất định không mang lại lợi ích về

mặt kinh tế. Điều này dễ dẫn đến những hạn chế, thậm chí là bất bình đẳng trong tiếp

cận và thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật XHHDVC phải tạo ra

được sự công bằng trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công với cơ chế hỗ trợ đặc

thù để tạo sự công bằng trong việc tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công ở những

khu vực, những lĩnh vực mà xã hội chưa có khả năng thực hiện hoặc không muốn

thực hiện. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những nhóm yếu thế vì họ

có nhiều rào cản trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

2.2.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa

dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp

Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp chịu ảnh hưởng bởi

nhiều yếu tố như tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, sự tác động của tiến trình cải

cách pháp luật, cải cách tư pháp, sự vận động và phát triển của các dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp, điều kiện nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất... Mỗi yếu tố đều có khả

năng ảnh hưởng tích cực - theo chiều hướng thúc đẩy hoặc ảnh hưởng tiêu cực - gây

cản trở hoặc các hệ quả phát sinh đến quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Page 65: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

2.4.2.1. Yếu tố về chính trị, tư tưởng

Pháp luật và chính trị, tư tưởng là các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, có

mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Yếu tố chính trị, tư tưởng bao

gồm toàn bộ quan điểm, quan niệm của các chủ thể trong xã hội có liên quan đến việc

thực hiện, cung cấp dịch vụ công cũng như hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp. Trong việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp, yếu tố chính trị, tư tưởng là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng, quyết định. Với

nội dung là quá trình chuyển giao công việc của Nhà nước cho xã hội, việc hoàn thiện

pháp luật về XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng phụ thuộc vào

các quan điểm, quan niệm về vai trò của Nhà nước trong từng thời kỳ, đặc biệt là các

quan điểm, định hướng, sự lãnh đạo của Đảng đối với XHHDVC.

Các quan điểm, định hướng, sự lãnh đạo của Đảng có ảnh hưởng quan trọng

đến việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trên cơ sở thể chế hóa các quan điểm,

định hướng đó thành pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Quá trình này

được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước, trực tiếp là đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức thông qua quá trình nhận thức, tiếp thu và hiện thực hóa trong quản lý và

hoàn thiện pháp luật, chính sách xã hội hóa. Bên cạnh đó, quan điểm, nhận thức của

người dân với vai trò là chủ thể thụ hưởng và là chủ thể tiếp nhận việc cung ứng dịch

vụ công cũng có ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC. Bởi lẽ quá

trình chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công cho xã hội sẽ phụ thuộc vào ý thức,

mong muốn và sự chấp nhận của người dân trong việc tham gia hoặc thực hiện cung

cấp các dịch vụ công theo các yêu cầu, tiêu chuẩn và điều kiện đã được xác định.

2.4.2.2. Yếu tố về kinh tế - xã hội

Là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, pháp luật có mối quan hệ mật thiết

với điều kiện kinh tế - xã hội là yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng. Về lý luận, trong mối

quan hệ biện chứng tác động qua lại thì điều kiện kinh tế - xã hội đóng vai trò quyết

định đến pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng có ảnh hưởng ngược trở lại đối với sự

vận động và phát triển kinh tế - xã hội.

Sự ra đời của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp vừa là kết quả,

vừa là yếu tố phản ánh những yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế - xã hội. Hay

Page 66: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

nói cách khác, điều kiện kinh tế - xã hội đặt ra những yêu cầu cũng như thể hiện khả

năng cho việc thực hiện XHHDVC. Điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, nhu cầu của

người dân đối với các dịch vụ công ngày càng cao hơn cả về số lượng và chất lượng.

Người dân mong muốn sử dụng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp để bảo vệ

các quyền và lợi ích của mình. Trong bối cảnh nguồn lực hạn chế thì Nhà nước đứng

trước những thách thức trong việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân. Mặt khác,

điều kiện kinh tế - xã hội phát triển cũng cung cấp nhiều hơn các nguồn lực cho xã

hội. Theo đó, người dân không chỉ có nhu cầu thụ hưởng các dịch vụ công do Nhà

nước cung cấp mà còn có khả năng tham gia vào quá trình cung cấp các dịch vụ công

đó. Đây là những yếu tố quyết định đến việc hoàn thiện nôi dung của pháp luật

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Ở các giai đoạn khác nhau, pháp luật sẽ được xây

dựng cho phù hợp để bảo đảm thực hiện có hiệu quả sự chuyển giao việc cung ứng

dịch vụ công từ Nhà nước sang cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

2.4.2.3. Yếu tố về pháp lý

Với ý nghĩa là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật nói chung, việc

hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phụ thuộc vào quá trình

hoàn thiện pháp luật nói chung. Về nội dung, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp chịu ảnh hưởng trước hết bởi yêu cầu hoàn thiện pháp luật về

tổ chức bộ máy nhà nước trong bối cảnh xác định lại vai trò của Nhà nước trong xã

hội hiện đại, xem lại những việc mà Nhà nước không cần hoặc không nhất thiết phải

làm. Cùng với đó, yêu cầu hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường, thu hút và phát

triển mạnh mẽ mọi nguồn lực, sức sáng tạo của nhân dân, tạo ra sự bình đẳng giữa

các khu vực Nhà nước và phi Nhà nước cũng là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến

quá trình hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp cũng chịu ảnh hưởng bởi các điều ước quốc tế mà Việt Nam

đã gia nhập hoặc là thành viên. Các yêu cầu tự do hóa thương mại, dịch vụ, phá bỏ

rào cản, thúc đẩy sự dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ qua biên giới là một trong những

mục tiêu quan trọng của các thiết chế kinh tế - thương mại trên thế giới hiện nay có

ảnh hưởng quan trọng đến việc hoàn thiện pháp luật.

Page 67: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Cùng với các vấn đề về nội dung thì hoàn thiện pháp luật về XHHDVC còn

phụ thuộc vào trình độ nhận thức ý thức pháp luật của người dân. Xã hội phát triển,

nhu cầu thực hiện pháp luật của người và các tổ chức, cá nhân. Trình độ hiểu biết

pháp luật của người dân ngày càng được nâng cao, họ có nhu cầu sử dụng pháp luật

để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.Việc hoàn thiện pháp luật phải gắn với

quá trình tổ chức thực thi pháp luật với những nội dung về tuyên truyền, phổ biến

pháp luật, hướng dẫn thực hiện cũng như việc theo dõi kết quả thi hành trên thực tế

để từ đó có những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật.

2.4.2.4. Yếu tố về lịch sử, văn hóa

Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố về lịch sử, văn hóa. Do điều kiện

lịch sử đặc thù cần phải chống xâm lược ngoại bang và hợp sức chống thiên tai nên

ngay từ khi mới hình thành Nhà nước Việt Nam đã là Nhà nước tập trung, tập quyền

mạnh mẽ. Nó đứng bao trùm lên xã hội. Nói cách khác, Nhà nước tác động mạnh mẽ

vào các hoạt động xã hội. Điều này cũng được thể hiện trong giai đoạn kháng chiến

chống Pháp, chống Mỹ. Vai trò chỉ đạo và trực tiếp đối với hoạt động của đời sống xã

hội của Nhà nước được thể hiện rất rõ và giúp cho đất nước ta có thể huy động mọi

nguồn lực đánh thắng cả hai cuộc kháng chiến và giành độc lập, thống nhất đất nước.

Trong điều kiện xây dựng đất nước trong thời kỳ hòa bình, Nhà nước lại đóng vai trò

quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước. Thành phần kinh tế Nhà nước đóng

vai trò chủ đạo.

Điều này dẫn đến phát sinh tâm lý người dân chỉ tin Nhà nước hoặc quá tin

vào cơ quan nhà nước và bên cạnh đó có cả tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước.

Việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng chịu ảnh hưởng

bởi các vấn đề về lịch sử, văn hóa nói trên. Yêu cầu đặt ra là pháp luật phải tạo ra

được niềm tin cho xã hội đối với việc sử dụng các dịch vụ công do các tổ chức, cá

nhân ở khu vực phi Nhà nước cung cấp. Cùng với đó, pháp luật phải có cơ chế

khuyến khích, thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong việc cung ứng các

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trên cơ sở bảo đảm được chất lượng, sự thuận lợi

trong tiếp cận dịch vụ công của người dân.

Page 68: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

2.2.2.5. Yếu tố con người

Điều kiện bảo đảm nói chung cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật,

bao gồm cả về tổ chức, con người, tài chính và các yếu tố kỹ thuật, là một trong

những yếu tố quan trọng đến chất lượng của công tác xây dựng pháp luật. Trong các

yếu tố này thì con người là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thiện pháp

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Điều này được thể hiện ngay từ quan điểm

của những người tham gia vào quá trình xây dựng, thiết kế chính sách, văn bản để

thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo định hướng tăng cường sự tham gia

của xã hội hay duy trì sự ảnh hưởng, bao cấp của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ

công. Những người tham gia vào quá trình hoàn thiện pháp luật nếu có nhận thức,

quan điểm rõ ràng sẽ giúp cho việc thiết kế chính sách, quy định được thực hiện một

cách thống nhất, đồng bộ, tạo sự thuận lợi trong quá trình thực thi. Ngược lại thì sẽ

tạo ra những chính sách không rõ ràng, tạo tâm lý e ngại cho người sử dụng cũng như

cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực khác. Ngoài ra, như các lĩnh vực khác, kiến thức,

kinh nghiệm, kỹ năng của các cán bộ tham gia trực tiếp vào công tác xây dựng văn bản

QPPL ở từ những khâu soạn thảo văn bản đến việc hoàn thiện, tiếp thu ý kiến, thẩm

định, thẩm tra cũng như thông qua văn bản QPPL cũng là những yếu tố quyết định đến

việc hoàn thiện pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

2.3. PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC

TƢ PHÁP CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO

CHO VIỆT NAM

2.3.1. Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp của

một số nƣớc trên thế giới

Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nhằm tạo cơ sở

pháp lý cho việc chuyển giao, thu hút sự tham gia cung cấp dịch vụ của các tổ chức,

cá nhân trong xã hội cũng là yêu cầu đối với nhiều nước trên thế giới. Khái quát một

số nội dung cơ bản theo các nhóm quy định như sau:

2.3.1.1. Nhóm các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp

Nhóm các quy định này quy định về dịch vụ công và tổ chức, cung cấp dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp nói chung, không phân biệt dịch vụ đó được cung cấp bởi

Page 69: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

các cơ quan nhà nước hay khu vực tư nhân. Pháp luật các nước quy định về tổ chức

được cung cấp dịch vụ công, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức này khi cung cấp

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Đồng thời, pháp luật cũng bao gồm phần lớn các

quy định về nội dung, quy trình, chi phí cung cấp dịchvụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Điều 1 Luật công chứng của Trung Quốc xác định “công chứng là phòng ngừa

tranh chấp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tự nhiên nhân” [17, tr.6]. Luật

hiện hành của Liên minh Châu Âu xác định văn bản công chứng là công cụ được xác

lập bởi các cơ quan công quyền hoặc cơ quan được trao quyền. Văn bản này phải

tuân theo mẫu yêu cầu và tính xác thực không chỉ liên quan đến chữ ký mà còn với

nội dung của văn bản. Đồng thời cũng quy định về giá trị của văn bản công chứng,

yêu cầu đối với văn bản công chứng, ký, sửa chữa, lưu giữ văn bản của công chứng

[17, tr.6]. Pháp luật Thừa phát lại của Pháp quy định về hoạt động của Thừa phát lại

bao gồm những hoạt động độc quyền như tống đạt các văn bản, quyết định, tổ chức

thi hành các bản án, quyết định và các việc không độc quyền như soạn thảo các văn

bản tư, chứng thư, tư vấn, tham gia tố tụng . Khi hoạt động, thừa phát lại được hưởng

thù lao. Đối với những hoạt động độc quyền thì biểu giá thù lao được quy định rất

chặt chẽ. Trong khi thi hành công việc, thừa phát lại gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Nếu thừa phát lại có hành vi không trung thực, vi phạm pháp luật thì có thể bị xử lý

hình sự, hành chính [94, tr.6].

Đối với lĩnh vực GĐTP, các nước như Đức, Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản,

Trung Quốc đều có quy định về giám định tư pháp là việc thực hiện giám định được

thực hiện bởi các nhà chuyên môn để làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan đến vụ

án theo yêu cầu của cơ quan trưng cầu giám định hoặc các bên tham gia tố tụng nhằm

phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Các giám định viên được bổ nhiệm hoặc công

nhận thì có nghĩa vụ thực hiện giám định. Người giám định có thể là công chức hoặc

người hành nghề tự do nếu như người đó thực sự am hiểu và tinh thông trong lĩnh

vực cần giám định và được các cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Pháp

luật quy định về bổ nhiệm giám định viên, đánh giá, sử dụng kết luận giám định, chi

phí giám định [18].

Page 70: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Trong lĩnh vực BĐGTS, pháp luật quy định về việc BĐGTS, bao gồm cả tài

sản thông thường và tài sản có liên quan đến nhà nước như tài sản thi hành án, tài sản

xử lý vi phạm hành chính. Luật bán đấu giá tài sản của Trung Quốc quy định về tổ

chức, người bán đấu giá, thủ tục bán đấu giá, hợp đồng ủy quyền bán đấu giá. Pháp

luật Pháp quy định hoạt động bán đấu giá chỉ do các tổ chức, cá nhân nhất định tiến

hành, bao gồm công ty BĐGTS, các công chứng viên hay thừa phát lại cũng có thể

thực hiện hoạt động BĐGTS. Ở Canada, đạo luật về bán đấu giá công khai quy định

về bán đấu giá như một ngành nghề kinh doanh, tiêu chuẩn của người điều hành bán

đấu giá, cấp phép cho hoạt động BĐGTS, quy tắc ứng xử của người bán đấu giá, giữ

và thanh toán tiền ủy thác bán đấu giá [25, tr.55].

2.3.1.2. Nhóm các quy định về thực hiện xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp

Nhóm các quy định về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm

các quy định về các phương thức pháp lý cho việc chuyển giao cung ứng dịch vụ

công cho khu vực tư nhân thực hiện. Trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật của các nước

quy định hai phương thức cơ bản là Nhà nước cấp phép cho các tổ chức, cá nhân

trong khu vực tư nhân được thực hiện cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

hoặc ký hợp đồng với các tổ chức, cá nhân để thực hiện cung cấp dịch vụ công.

Cấp phép cung cấp dịch vụ công là một trong những phương thức pháp lý chủ

yếu để thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Một mặt, Nhà nước khuyến khích

sự tham gia của các tổ chức, cá nhân vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực

tư pháp, mặt khác cũng để Nhà nước thực hiện được trách nhiệm của Nhà nước trước

xã hội về việc cung cấp dịch vụ công có chất lượng dù cho các dịch vụ đó không

được cung cấp bởi các thiết chế của Nhà nước. Nhìn chung, pháp luật của các nước

đều có các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện cho việc tham gia thực hiện dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp cũng như trình tự, thủ tục cấp phép. Trong lĩnh vực công

chứng, pháp luật của các nước quy định tổ chức công chứng phải đáp ứng yêu cầu về

số lượng công chứng, điều kiện về trụ sở độc lập, rộng rãi, có kho lưu trữ, có khả

năng tài chính cần thiết để tiến hành các hoạt động công chứng. Tại Trung Quốc, cơ

quan hành chính tư pháp địa phương trình cơ quan hành chính tư pháp của Chính phủ

Page 71: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

nhân dân tỉnh, khu tự trị và được phê duyệt thì được cấp giấy chứng nhận đăng ký

hoạt động [17, tr.41]. Tại Pháp, việc thành lập Văn phòng công chứng phải được Bộ

trưởng Bộ Tư pháp chấp thuận sau khi có ý kiến của Hội đồng công chứng tối cao

[17, tr.42]. Trong lĩnh vực BĐGTS, pháp luật của Bang Floria Hoa Kỳ quy định Ủy

ban đấu giá trực thuộc cơ quan quản lý nghề nghiệp của Bang sẽ có thẩm quyền cấp

phép hoạt động cho công ty bán đấu giá [25, tr.56].

Bên cạnh quy định về cấp phép hoạt động, ký hợp đồng thực hiện công việc

cũng là một hình thức chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện

cung cấp dịch vụ công [61, tr.387]. Tuy nhiên, đây là hình thức ít phổ biến hơn. Hợp

đồng hành chính là một chế định rất phát triển trong pháp luật hành chính Pháp. Về

thực chất, trong cung cấp dịch vụ công, hợp đồng hành chính là hợp đồng được ký

kết giữa một bên là pháp nhân công với bên kia là các tổ chức, cá nhân nhằm tổ chức

thực hiện việc cung cấp một loại hình dịch vụ công [61, tr.387]. Theo quy định của

Cộng hòa Pháp, mặc dù hợp đồng hành chính được giao kết theo nguyên tắc tự do

giao kết của pháp nhân công nhưng cũng gắn với những quyền hạn bất bình đẳng của

pháp nhân công như chỉ đạo, kiểm tra, bảo đảm thực hiện đầy đủ, theo đúng nội dung

của hợp đồng; đơn phương sửa đổi hợp đồng trên cơ sở lợi ích chung và không ảnh

hưởng đến cơ cấu của hợp đồng... [61, tr.407]. Lý luận về mô hình hợp đồng hành

chính được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới. Trong lĩnh vực TGPL, nhiều nước

khi xác định người thực hiện TGPL đều dựa trên sự phát triển của nghề luật, đặc biệt

là nghề luật sư và đều thừa nhận luật sư là người thực hiện TGPL. Đội ngũ luật sư

này có thể là luật sư của nhà nước (luật sư công ở các nước Philippine, Israel, Lít va,

Hàn Quốc…) nhưng cũng có thể là các luật sư hành nghề tự do (Mỹ, Nêpal, Hà Lan,

Thụy Điển…). Các luật sư có thể tự mình thực hiện TGPL trên cơ sở yêu cầu của

người thụ hưởng hoặc cũng có thể thực hiện theo đơn đặt hàng từ phía nhà nước hoặc

các chủ thể có điều kiện khác. Ví dụ như ở Nhật Bản, nếu có nguyện vọng thực hiện

TGPL các luật sư tư gửi đơn đề nghị đến các Trung tâm TGPL, Chi nhánh, Tiểu chi

nhánh. Giám đốc các Trung tâm trợ giúp pháp lý, Chi nhánh, Tiểu chi nhánh sẽ xem

xét nếu thấy luật sư không thuộc các trường hợp đang bị đình chỉ hành nghề theo

Page 72: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Điều lệ Liên đoàn Luật sư, chưa từng ký kết hợp đồng TGPL và bị hủy hợp đồng,

đồng thời đáp ứng các yêu cầu TGPL thì sẽ ký kết hợp đồng [83].

2.3.1.3. Nhóm các quy định về quản lý cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực

tư pháp

Đây là một bộ phận rất quan trọng của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp, thể hiện rõ nét trách nhiệm của Nhà nước đối với việc cung ứng dịch vụ

công trong điều kiện xã hội hóa, chuyển giao cho khu vực tư nhân thực hiện. Pháp

luật của các nước hầu hết đều có quy định về mô hình quản lý và trách nhiệm của các

cơ quan quản lý nhà nước đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Nhìn chung, nội dung QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp thường bao gồm:

- Xây dựng các tiêu chuẩn cung ứng dịch vụ công tương ứng với từng loại dịch

vụ công cụ thể. Các tiêu chuẩn này thông thường bao gồm tiêu chuẩn của nhà cung ứng

dịch vụ và tiêu chuẩn về chất lượng, quy trình cung ứng dịch vụ.

- Thống nhất quản lý cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp nhằm bảo

đảm việc cung cấp dịch vụ công tuân thủ về tiêu chuẩn, điều kiện, chất lượng dịch vụ.

- Tiến hành các biện pháp thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm của

các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ công.

- Tham gia vào việc lập quy hoạch, kế hoạch và xây dựng chính sách phát triển

hoạt động cung ứng dịch vụ công nhằm mở rộng mạng lưới cung ứng dịch vụ công,

đảm bảo chất lượng và chi phí dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

Pháp luật về cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp của các nước thuộc

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) nhấn mạnh đến kiểm soát việc gia nhập

thị trường, giá cả, quản lý chất lượng dịch vụ công được cung cấp [107, tr.4-5]. Mô

hình quản lý dịch vụ công cần bảo đảm tính chuyên môn và độc lập trong quản lý.

Mô hình quản lý này gồm cơ quan trung ương, cấp tỉnh hoặc tổ chức phi chính phủ.

Các cơ quan trung ương sẽ có trách nhiệm trong việc giám sát toàn bộ thị trường, giải

quyết các vấn đề giá cả và liên kết giữa các doanh nghiệp chi phối. Các cơ quan cấp

tỉnh hoặc tổ chức phi chính phủ sẽ kiểm soát việc cung cấp dịch vụ công, giải quyết

Page 73: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

các khiếu nại của khách hàng và hỗ trợ cho việc cung cấp dịch vụ công tại địa

phương [108, tr.6].

Trong lĩnh vực công chứng, cơ quan quản lý được chia theo nhiều cấp độ mà

Bộ Tư pháp là cơ quản quản lý nhà nước cao nhất về công chứng tại hầu hết các nước

(Ba Lan, Pháp, Đức, Trung Quốc....). Ở cấp địa phương cũng có những cơ quan quản

lý riêng, có thể là một cơ quan trực thuộc Toà án hoặc cơ quan hành chính tư pháp.

Nhiệm vụ chung của các cơ quan này là giám sát và chỉ đạo các tổ chức hành nghề

công chứng và các tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên theo quy định

của pháp luật, giám sát việc thi hành công vụ và tập sự công chứng viên. Hoạt động

công chứng ở nhiều nước được coi là một bộ phận của hệ thống tư pháp, do vậy Toà

án chính là cơ quan quản lý hoạt động công chứng tại địa phương. Cụ thể là ở Đức

mọi công chứng viên phải chịu sự giám sát của Chánh tòa cấp quận/huyện có thẩm

quyền và nếu không tuân thủ luật pháp có thể dẫn tới các chế tài kỷ luật. Tây Ban

Nha là một trong những nước khá khác biệt với việc về cơ quan quản lý nhà nước:

Tổng cục quản lý Đăng ký và Công chứng là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức

năng quản lý hai mảng lớn, đó là quản lý đăng ký và quản lý công chứng. Hai mảng

này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tổng Cục Đăng ký và Công chứng có các

chức năng nhiệm vụ sau, ngoài các chức năng khác: dự thảo các quy chế cần thiết để

tuân thủ Luật công chứng và các Quy chế hoặc lệnh để thực thi; giải quyết các nội

dung tham vấn và nghi ngờ của Hội đồng Quản trị các Đoàn Công chứng hoặc công

chứng viên; ra các Quyết định phù hợp trong các vấn đề thuộc thẩm quyền; giải quyết

các khiếu nại đối với các quyết định của Hội đồng Quản trị không thừa nhận các nội

dung công chứng; thực hiện hoạt động đăng ký, thanh tra và giám sát của các Văn

phòng công chứng (Điều 313 Quy chế công chứng) [17, tr.47-48].

Pháp luật về GĐTP của Đức, Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản, Trung Quốc có văn

bản luật riêng quy định về vấn đề GĐTP mà các quy định về vấn đề này nằm ở nhiều

văn bản luật khác nhau như Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng dân sự, Luật về thù

lao... Theo đó, pháp luật của các nước này không quy định cơ quan nhà nước có

nhiệm vụ thống nhất QLNN về GĐTP vì GĐTP là hoạt động chuyên môn. Các cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền bổ nhiệm, công nhận giám định viên là các hiệp hội, tổ

Page 74: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

chức nghề nghiệp hoặc các Tòa án, Viện Khoa học hình sự, pháp y thì cũng đồng thời

có trách nhiệm bồi dưỡng cho giám định viên và xử lý vi phạm bằng cách miễn

nhiệm, chấp dứt hoạt động của giám định viên tư pháp [18, tr.11].

Đạo luật bán đấu giá công khai của Canada quy định người đứng đầu các bang

hoặc người được ủy quyền có quyền kiểm tra hoạt động bán đấu giá của người kinh

doanh BĐGTS, hồ sơ, sổ sách, giấy tờ và các tài liệu phục vụ cho quá trình kiểm tra tại

mọi thời điểm, mọi địa điểm kinh doanh của người bán đấu giá; có quyền thanh tra các

tài khoản ủy thác của các tổ chức BĐGTS [25, tr.58].

2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện

pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp

Xuất phát từ quan niệm về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp có những khác biệt nên cách thức quy định và định hướng

hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở các nước vừa có sự tương

đồng, vừa có sự khác biệt lẫn nhau. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố ảnh hưởng

đến quá trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp như điều kiện

kinh tế - xã hội, quan điểm chính trị, pháp lý, lịch sử, văn hóa... Mặc dù vậy, với ý

nghĩa là cơ sở pháp lý cho việc chuyển giao, thu hút các nguồn lực trong xã hội cho

việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật

về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở một số nước có giá trị tham khảo, gợi mở

nhiều nội dung, nguyên tắc trong quá trình hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cần bảo đảm xác

định rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với việc cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có vai trò quan trọng đối với

việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, phục vụ cho công tác xét xử

và bảo vệ pháp luật. Pháp luật cần quy định cụ thể trách nhiệm của Nhà nước đối với

việc cung cấp các dịch vụ công này cho người dân. Trách nhiệm này được thể hiện từ

việc trực tiếp cung cấp dịch vụ và trách nhiệm bảo đảm cung cấp dịch vụ có chất

lượng, thường xuyên, kịp thời cho người dân trong điều kiện xã hội hóa. Pháp luật

cần xác định đúng phạm vi thực hiện xã hội hóa, cơ chế khuyến khích đối với những

Page 75: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

tổ chức, cá nhân tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp và

trách nhiệm của Nhà nước trong tổ chức bộ máy, thực thi nhiệm vụ quản lý, thanh tra,

kiểm tra, giám sát để bảo đảm chất lượng các dịch vụ công được cung cấp.

Thứ hai, XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một xu

thế trong tổ chức và cung ứng dịch vụ công trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh

hội nhập quốc tế, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp của Việt Nam cũng

không nằm ngoài xu thế hoàn thiện pháp luật chung của các nước trên thế giới để

phục vụ cho quá trình xã hội hóa. Với tính chất, vai trò đặc biệt của các dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp, cùng với những biện pháp khuyến khích tham gia cung cấp

dịch vụ công thì pháp luật một mặt cần bảo đảm các điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình

chặt chẽ cho việc cung cấp dịch vụ nhưng mặt khác phải bảo đảm tính công khai,

minh bạch, dễ dàng tiếp cận cho mọi đối tượng có khả năng và mong muốn tham gia

cung cấp dịch vụ công. Pháp luật cũng cần có chế độ trách nhiệm rõ ràng đối với

những chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ công để bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ

công được thực hiện có chất lượng, bảo đảm quyền và lợi ích của người dân thụ

hưởng dịch vụ đó. Chế độ trách nhiệm này bao gồm cả những biện pháp xử lý sai

phạm trong việc cung ứng dịch vụ công của các tổ chức, cá nhân của khu vực tư nhân

nhằm bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Thứ ba, thực tiễn pháp luật của các nước cho thấy khó có thể pháp điển các

quy phạm trong cùng một văn bản liên quan đến xã hội hóa cung ứng dịch vụ công

nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng. Vì vậy, khi xây dựng và hoàn thiện pháp

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam cần có lộ trình và bước đi phù

hợp với thực tiễn. Ngoài những vấn đề có tính nguyên tắc có thể pháp điển trong một

văn bản pháp luật thì việc điều chỉnh cung ứng dịch vụ công có thể được điều chỉnh

trong từng lĩnh vực văn bản chuyên biệt. Các văn bản chuyên biệt này cùng với các quy

định chung sẽ tạo thành cơ sở pháp lý cho việc thưc hiện XHHDVC. Kinh nghiệm của

các nước cho thấy tính đồng bộ, thống nhất, tránh chồng chéo, mâu thuẫn của hệ

thống pháp luật là một vấn đề cần được đặc biệt quan tâm để bảo đảm hiệu quả thực

tế của các hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Page 76: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

1. Trên cơ sở phân tích các luận cứ khoa học liên quan đến phạm trù về dịch

vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, trong phạm vi của Chương 2, Luận án

đã xác định được khái niệm, đặc điểm của XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Là một

khái niệm khá đặc thù của Việt Nam, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là quá trình

huy động các chủ thể trong xã hội tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp. Phạm vi XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được xác định tùy thuộc vào

điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn, từng quốc gia, từng khu vực nhất định.

2. Từ những phân tích các cơ sở lý luận khoa học, Luận án đã xây dựng khái

niệm, phân tích đặc điểm pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Là một bộ

phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, các quy định pháp luật về XHHDVC được

thiết kế đan xen trong các lĩnh vực pháp luật và trong các văn bản QPPL ở các cấp độ

khác nhau. Pháp luật điều chỉnh ba nhóm quan hệ cơ bản phát sinh từ quá trình tổ

chức, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, thực hiện XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp và các nội dung về trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý việc cung

cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa.

3. Luận án đã đưa ra khái niệm, xác định bảy tiêu chí đánh giá mức độ hoàn

thiện pháp luật và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Đây là căn cứ, thước đo, công cụ cho việc đánh giá

thực trạng của pháp luật trong Chương 3 cũng như định hướng các giải pháp cho việc

hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được đề cập tại Chương 4

của Luận án.

4. Trên cơ sở thông tin pháp luật của một số nước có liên quan đến XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp, Luận án đã cung cấp các thông tin pháp luật có giá trị tham

khảo đối với việc hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt

Nam. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là

một xu thế tất yếu, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật phù hợp nhằm tạo cơ sở pháp lý

cho việc quản lý và cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hiệu quả trong điều

kiện xã hội hóa.

Page 77: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Chƣơng 3

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG

TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM

3.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ

XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM

3.1.1. Giai đoạn trƣớc năm 2001

Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với ý nghĩa là cơ sở pháp lý

cho việc chuyển giao và thu hút sự tham gia của người dân vào việc thực hiện các

hoạt động tư pháp - địa hạt thông thường thuộc về các cơ quan Nhà nước gắn với

thực thi quyền lực Nhà nước ở Việt Nam mặc dù không nhiều nhưng cũng xuất hiện

khá sớm trong pháp luật của Việt Nam.

Trong thời kỳ phong kiến chuyên chính, thực tế triều đình phong kiến của Việt

Nam đã có một số quy định thu hút người dân tham gia một số công việc liên quan

đến pháp luật. Năm 1499, Triều vua Lê Hiến Tông quy định, mỗi xã, thôn, phải chọn

một hai người cao tuổi, học lực khá, phẩm hạnh tốt, cứ ngày nhàn rỗi tập trung dân ở

đình, quán, công sở để giảng giải luật cho dân hiểu [42, tr.102]. Năm 1663, triều vua

Lê Huyền Tông cũng chỉ dụ việc thông cáo văn bản pháp luật đến dân như sau: “các

nha môn thừa, Hiến, phủ, châu, huyện đều phải sao ra một bản treo ở nơi coi việc và

chuyển gửi cho các quan xã dân sở thuộc để viết ra bảng treo ở trong đình, cho quan

viên, giám sinh, sinh đồ, xã trưởng cứ đến ngày có việc làng thì hội họp con trai, con

gái lớn nhỏ đến giảng giải hiểu thị, để được thấm nhuần, biết sự khuyên răn” [42,

tr.217]. Bằng cách vận dụng linh hoạt các phương thức động viên các nguồn lực xã

hội phù hợp với thực tiễn, các triều đại phong kiến đã đưa pháp luật đến với người

dân đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội trong từng thời kỳ phát triển.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước dân chủ nhân

dân ra đời. Trong bộn bề công việc kháng chiến, giải phóng dân tộc và thống nhất đất

nước, Nhà nước đã có những hình thức thu hút sự tham gia của người dân trong việc

thực hiện một số công việc tư pháp theo yêu cầu QLNN cũng như để bảo vệ cho

quyền và lợi ích của người dân. Tiêu biểu như việc thông qua hoạt động của các tổ

Page 78: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

chức, đoàn thể nhân dân như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội nông dân

và các tổ chức xã hội để thực hiện công tác phổ biến pháp luật, góp phần nâng cao ý

thức pháp luật, tăng cường QLNN bằng pháp luật [57, tr.29]. Hoặc để thực hiện

quyền được bào chữa của công dân theo Hiến pháp năm 1946, trong bối cảnh số

lượng luật sư ít, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 69/SL ngày

18/6/1949, sau đó được thay thế bởi Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 với nội

dung cho phép nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là

luật sư bênh vực cho mình, cụ thể như sau: “Từ nay, trước tòa án việc xử hộ và

thương mại, trước các tòa án thường và tòa án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình,

trừ tòa án binh tại mặt trận, nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân

không phải là luật sư bênh vực cho mình. Công dân đó phải được Ông Chánh án

thừa nhận” [52, tr17]. Tuy vậy, nhìn chung, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế tập

trung cao độ phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất

nước cũng như giai đoạn phát triển đất nước cho đến trước khi thực hiện đường lối

đổi mới năm 1986, mặc dù pháp luật về các lĩnh vực công tác tư pháp tiếp tục được

hoàn thiện từng bước nhưng các nội dung thể hiện chính sách của Nhà nước về

chuyển giao công việc của Nhà nước hay thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá

nhân tham gia vào một số hoạt động tư pháp rất hạn chế. Công tác tư pháp nói chung

vẫn là địa hạt của Nhà nước, do các cơ quan, công chức tư pháp thực hiện.

Bước vào thời kỳ đổi mới, XHHDVC đã trở thành một chủ trương lớn của

Nhà nước và được triển khai mạnh mẽ nhằm tạo nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã

hội, hướng đến thực hiện thắng lợi mục tiêu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước. Trong bối cảnh đó, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã

có bước phát triển đáng kể. Các chính sách về XHHDVC được thể hiện trong quá

trình hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh vực luật sư và BĐGTS với việc ban hành Pháp

lệnh tổ chức luật sư năm 1987 và Nghị định số 86/CP ngày 19/12/1996 về việc ban

hành Quy chế BĐGTS. Theo đó, xã hội hóa được xác định là chuyển giao cung ứng

dịch vụ công cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện hoạt động BĐGTS

thông qua việc cho phép thành lập các tổ chức kinh doanh dịch vụ BĐGTS chuyên

nghiệp. Các tổ chức kinh doanh này là doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm

Page 79: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

hữu hạn hoặc công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước và luật

công ty. Trong lĩnh vực luật sư, trên cơ sở kế thừa quy định trước đó về bào chữa

viên nhân dân trước đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 quy định tổ chức luật sư

ở Việt Nam là Đoàn luật sư được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương và tương đương để giúp đỡ công dân, tổ chức về mặt pháp lý. Công dân Việt

Nam có đủ điều kiện thì được gia nhập Đoàn luật sư và trải qua thời kỳ tập sự từ 6

tháng đến 2 năm và kỳ kiểm tra tập sự thì có thể trở thành luật sư. Pháp lệnh cũng

quy định công dân, tổ chức phải trả thù lao khi nhờ luật sư giúp đỡ pháp lý. Thù lao

được sử dụng để trang trải kinh phí hoạt động cho Đoàn luật sư - tổ chức quản lý luật

sư do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập và trả thù lao cho luật sư (nhận thông qua

Đoàn luật sư). Nội dung QLNN về BĐGTS và luật sư được thể hiện qua các quy định

quản lý tiêu chuẩn, cấp chứng chỉ hành nghề, quản lý biểu mẫu... để bảo đảm dịch vụ

công được cung cấp theo chất lượng nhất định cũng như qua các quy định về thù lao,

phí cung cấp dịch vụ. Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính

phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cũng quy định sử dụng cộng tác viên trong TGPL,

thể hiện ý tưởng về việc xã hội hóa, thu hút sự tham gia của xã hội trong hoạt động

TGPL. Về hình thức văn bản, các quy định về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một

bộ phận cấu thành trong nội dung các văn bản quy định về lĩnh vực hoạt động đó.

Không có văn bản quy định riêng về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp hoặc có các

văn bản hướng dẫn độc lập về thực hiện xã hội hóa đối với từng dịch vụ cụ thể.

3.1.2. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay

Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách

hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 (kèm theo Quyết định số 136/QĐ-TTg

ngày 17/9/2001), trong đó yêu cầu xây dựng quan niệm đúng đắn về dịch vụ công và

đặt ra nhiệm vụ trước mắt là chuyển một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải

do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính

phủ đảm nhận. Đến đầu năm 2002, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ

Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới xác định

huy động sự tham gia rộng rãi, tích cực của nhân dân vào công tác tư pháp và trực

tiếp nhấn mạnh đến xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp. Triển khai thực hiện

Page 80: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW và định hướng cải cách tổng thể

nền hành chính nhà nước theo Quyết định số 136/QĐ-TTg, Nghị quyết số 30c/NQ-CP,

từ năm 2001 đến nay, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã được đẩy

mạnh hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

3.1.2.1. Về nội dung

Thể chế hóa định hướng XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật trong

lĩnh vực này đã có sự phát triển mạnh mẽ, điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ

xã hội phát sinh trong quá trình xã hội hóa, bao gồm:

Nhóm quy phạm về tổ chức và hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

mở rộng sự tham gia cung cấp dịch vụ công cho các tổ chức và cá nhân trong xã hội

gắn với các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức này, không phân biệt là các tổ chức

cung ứng dịch vụ công lập hay ngoài công lập. Chất lượng các dịch vụ được chú

trọng. Các quy định về quy trình, thủ tục, trình tự và các tiêu chuẩn chuyên môn

nghiệp vụ cũng được hoàn thiện theo hướng ngày càng chặt chẽ hơn, bảo đảm sự

đồng bộ, thống nhất giữa pháp luật chuyên ngành với các quy định chung về hoạt

động tố tụng và tổ chức của các cơ quan tư pháp.

Nhóm các quy phạm về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thể hiện rõ

xu hướng chuyển giao cung ứng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cho các tổ

chức, cá nhân trong xã hội cùng với tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của

các tổ chức dịch vụ sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ công. Pháp luật cũng được

tập trung hoàn thiện với các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn phù hợp với yêu cầu

chuyên môn, nghiệp vụ của từng loại dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Quy trình,

thủ tục thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được quy

định cụ thể, minh bạch hơn và tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình thực

hiện. Pháp luật bước đầu đã có các quy định khuyến khích thực hiện XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp cùng với các quy định về bảo hiểm, phí, lệ phí cung cấp dịch vụ công

để tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hoạt động.

Nhóm các quy định về QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực

tư pháp trong điều kiện thực hiện xã hội hóa được chú trọng đổi mới theo hướng

chuyển từ quản lý trực tiếp việc cung cấp dịch vụ của các cơ quan nhà nước sang quản

Page 81: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

lý vĩ mô, không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật quy định trách nhiệm của Nhà nước trong quản

lý vĩ mô, chính sách, quy hoạch xây dựng và phát triển mạng lưới tổ chức cung cấp

dịch vụ công, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực

tư pháp. Pháp luật quy định cơ chế tự quản của các tổ chức dịch vụ công thông qua

hình thành các hội nghề nghiệp và phối hợp giữa cơ quan nhà nước với các hội nghề

nghiệp này để thực hiện quản lý cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

3.1.2.2. Về hình thức

Pháp luật trong giai đoạn này được hoàn thiện về hình thức đáng kể. Nhằm

đáp ứng với yêu cầu phát triển năng động của nền kinh tế đang trong quá trình phát

triển, hội nhập, các văn bản QPPL điều chỉnh về hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực

tư pháp cũng thường xuyên được xây dựng mới, sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung kịp thời.

Các lĩnh vực pháp luật chuyền ngành về các hoạt động tư pháp cụ thể đều đã được

điều chỉnh trong hình thức văn bản là Luật và kèm theo là hệ thống các văn bản

QPPL hướng dẫn thi hành như Nghị định, Thông tư, Thông tư liên tịch. Cùng với đó,

các văn bản QPPL quản lý tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ

cũng được điều chỉnh, bổ sung, thay mới phù hợp yêu cầu cải cách hành chính, theo

hướng ngày càng tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự

nghiệp công lập. Các văn bản này khá phong phú, đa dạng, bao gồm Luật, Nghị định,

Thông tư quy định chung hoặc quy định từng nội dung hoạt động như cán bộ, công

chức, tài chính, việc thực hiện nhiệm vụ...Rà soát các quy định về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp có thể thấy bao gồm hai nhóm văn bản như sau:

Nhóm thứ nhất là các văn bản QPPL chuyên ngành từng lĩnh vực hoạt động tư

pháp về luật sư, công chứng, GĐTP, BĐGTS... được các cơ quan có thẩm quyền ban

hành theo nhiều loại văn bản, trong đó văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Luật. Cho

đến nay, các lĩnh vực hoạt động tư pháp hầu hết đã được điều chỉnh bởi các Luật, cụ

thể là Luật luật sư, Luật công chứng, Luật trợ giúp pháp lý, Luật giám định tư pháp,

Luật đấu giá tài sản. Lĩnh vực thừa phát lại vừa kết thúc giai đoạn thí điểm để thực hiện

chính thức đang được điều chỉnh theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số

135/2013/NĐ-CP. Theo Luật ban hành văn bản QPPL và được xác định tại các điều cụ

Page 82: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

thể trong Luật, Chính phủ ban hành các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số Điều được giao trong Luật. Căn cứ Nghị định của Chính phủ, các Bộ,

ngành được giao hoặc có liên quan sẽ ban hành hoặc phối hợp ban hành các Thông tư,

Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành các nội dung cụ thể do Chính phủ giao. Đặc

điểm chung của các văn bản này bao gồm các quy phạm quy định tổng thể việc thực

hiện các dịch vụ công trong từng lĩnh vực, trong đó có các quy định về XHHDVC đối

với dịch vụ đó từ hình thức chuyển giao, thu hút sự tham gia cung cấp dịch vụ công

đến các tiêu chuẩn, điều kiện, hình thức tham gia hành nghề của các tổ chức, cá nhân

trong xã hội, cũng như các quy định về QLNN.

Nhóm thứ hai là các văn bản QPPL chung quy định về XHHDVC nói chung,

trong đó điều chỉnh các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Nhóm này tập trung quy

định hoạt động của nhóm dịch vụ sự nghiệp công như Luật viên chức, Luật thuế thu

nhập doanh nghiệp, Luật phí và lệ phí, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015

của Chính phủ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công

lập và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành. Điểm chung là các văn bản QPPL

trong lĩnh vực này thường chỉ quy định một hoặc một vài vấn đề liên quan đến việc

cung cấp dịch vụ công được cung cấp bởi cả khu vực trong và ngoài Nhà nước.

Khái quát chung về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cho thấy sự ra đời của các văn bản QPPL là kết quả

của quá trình liên tục sửa đổi, bổ sung thay thế những văn bản QPPL trong các lĩnh

vực khác nhau. Do vậy tại cùng một thời điểm có thể tồn tại các mặt bằng pháp lý

khác nhau để cùng điều chỉnh về một vấn đề. Thực tế cho thấy quá trình hoàn thiện

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bắt đầu chậm hơn so với việc

XHHDVC nói chung, ban đầu chỉ được thực hiện ở lĩnh vực BĐGTS và luật sư. Tuy

nhiên, sau khi các định hướng chiến lược về hoàn thiện pháp luật và cải cách tư pháp

được ban hành thì quá trình xã hội hóa gắn với hoàn thiện pháp luật lại được đẩy

mạnh thực hiện và coi đây là một trong nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp.

Đến nay, pháp luật cơ bản đã và đang tiếp tục hoàn thiện theo yêu cầu của Chiến

lược, đáp ứng yêu cầu QLNN và thực tiễn đời sống xã hội.

Page 83: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG

LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm tổng thể các quy

phạm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện XHHDVC

được thiết kế trong các văn bản QPPL chuyên ngành quy định về từng hoạt động tư

pháp và đồng thời cũng chịu sự điều chỉnh chung của các văn bản QPPL quy định về

tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, các tổ chức hành nghề cung ứng dịch vụ

công. Đánh giá về thực trạng pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trên các

nhóm quy định cơ bản cấu thànhh được nêu tại Chương II có thể thấy những ưu điểm,

hạn chế sau:

3.2.1. Nhóm các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công

trong lĩnh vực tƣ pháp

Đây là nhóm các quy định chung về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp, được thể hiện trong các văn bản pháp luật chung cũng

như các văn bản pháp luật chuyên ngành. Nội dung các quy định xác định các vấn đề

về nguyên tắc đối với việc cung cấp dịch vụ công, tổ chức cung cấp dịch vụ công

cũng như quyền và nghĩa vụ của các tổ chức này trong cung cấp dịch vụ công. Nhóm

quy định này cũng quy định trình tự, thủ tục thực hiện các dịch vụ công, không phân

biệt dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức dịch vụ sự nghiệp công lập hay ngoài

công lập. Rà soát các văn bản pháp luật có liên quan cho thấy, nhóm các quy định này

có những ưu điểm nổi bật sau:

Thứ nhất, pháp luật đã quy định tương đối toàn diện về tổ chức và hoạt động

cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm các nguyên tắc, tổ chức, quyền

và nghĩa vụ của các tổ chức cung cấp dịch vụ, không phân biệt tổ chức công lập hay

ngoài công lập. Các Luật như Luật luật sư (Điều 6), Luật công chứng (Điều 4), Luật

giám định tư pháp (Điều 3), Luật trợ giúp pháp lý (Điều 4)... và các văn bản hướng dẫn

thi hành đều đã có các nguyên tắc căn bản đối với việc cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp phù hợp với yêu cầu phục vụ cho công tác bảo vệ pháp luật, bảo vệ

quyền và lợi ích của người dân. Các nguyên tắc được đề cao là tuân thủ Hiến pháp,

pháp luật, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, tuân thủ quy tắc đạo đức nghề

nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện các dịch vụ công do mình

Page 84: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

cung cấp. Các nguyên tắc này phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng cung cấp dịch

vụ công, bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công của người

dân, bảo đảm tính công bằng giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ công lập và ngoài công

lập. Đây là những tư tưởng chỉ đạo cho tổ chức cung cấp dịch vụ và bảo đảm cơ bản

nhất cho việc cung cấp dịch vụ đạt được mục đích mà Nhà nước mong muốn.

Trên cơ sở các nguyên tắc cung cấp dịch vụ công, pháp luật quy định cụ thể về

tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các tổ chức này bao

gồm các tổ chức của Nhà nước hay do các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện.

Bằng các quy định về tổ chức hành nghề bao gồm Văn phòng công chứng (Điều 18,

Điều 22 Luật công chứng), Văn phòng Thừa phát lại (Nghị quyết số

107/2015/QH13), Văn phòng Giám định tư pháp ngoài công lập (Điều 14 Luật giám

định tư pháp), Doanh nghiệp đấu giá tài sản chuyên nghiệp (Điều 23 Luật đấu giá tài

sản) hay các Văn phòng luật sư (Điều 10, Điều 32 Luật luật sư)..., pháp luật cho phép

các chủ thể trong xã hội được tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

trên cơ sở đáp ứng các điều kiện theo quy định. Pháp luật cũng quy định về quyền và

nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp,

không phân biệt tổ chức công lập hay ngoài công lập (Điều 39, 40 Luật luật sư, Điều

24 Luật đấu giá tài sản, Điều 32, 33 Luật công chứng, Điều 15, Điều 18 Luật trợ giúp

pháp lý, Điều 24 Luật giám định tư pháp). Những quyền tiêu biểu pháp luật quy định

cho các chủ thể cung cấp dịch vụ công như quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

có liên quan cung cấp giấy tờ, tài liệu; quyền từ chối thực hiện dịch vụ công theo quy

định của pháp luật... Các tổ chức cung cấp dịch vụ cũng có nghĩa vụ thực hiện các

dịch vụ trong khuôn khổ pháp luật, bảo đảm thực hiện dịch vụ một cách khách quan,

nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu

dịch vụ; trách nhiệm trong việc bồi thường thiệt hại gây ra cho khách hàng...

Thứ hai, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã từng bước được hoàn

thiện bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp với các quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật có liên quan. Một trong

những nội dung quan trọng trong hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đó là

các trình tự, thủ tục cung cấp dịch vụ công. Thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp, đơn

Page 85: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

giản hóa thủ tục hành chính, trong thời gian qua, các quy định về trình tự, thủ tục

cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực tư pháp đã từng bước được hoàn thiện theo

hướng ngày càng rõ ràng, cụ thể, minh bạch, hạn chế các mâu thuẫn, chồng chéo

trong thực hiện các thủ tục tố tụng hoặc thủ tục theo pháp luật chuyên ngành khác.

Luật công chứng năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng rõ ràng, chặt chẽ và đơn

giản hơn thủ tục thực hiện công chứng (Điều 40, 41 và Điều 54 đến Điều 59); sửa đổi

quy định về phạm vi công chứng hợp đồng, giao dịch (Điều 53), lời chứng của công

chứng viên (Điều 46), sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng (Điều 50)…; bổ

sung quy định về người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch và

thủ tục công chứng bản dịch giấy tờ (Điều 61). Luật giám định tư pháp quy định cụ

thể về hoạt động trưng cầu và thực hiện GĐTP, quyền và nghĩa vụ của người trưng

cầu giám định cũng như các tổ chức, cá nhân thực hiện GĐTP (Điều 21-Điều 23), cơ

chế giải quyết xung đột kết luận giám định để khắc phục những bất cập hiện nay liên

quan đến vấn đề này (Điều 29). Luật đấu giá tài sản tách bạch quy trình bán đấu giá

với quy trình trước và sau khi tổ chức bán đấu giá như việc phê duyệt tài sản đưa ra

đấu giá, việc thẩm định giá, xác định giá khởi điểm, giám định tài sản đấu giá được

thực hiện trước khi ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá; việc chuyển quyền sở hữu tài

sản được thực hiện sau khi tổ chức đấu giá tài sản thực hiện việc đấu giá thành. Luật

đấu giá tài sản cũng quy định về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản chung và trình tự, thủ

tục đấu giá các loại tài sản mà pháp luật quy định phải bán thông qua đấu giá theo

hướng chặt chẽ, đảm bảo tính minh bạch, khách quan, hạn chế tối đa tình trạng “quân

xanh, quân đỏ”, móc nối, thông đồng, dìm giá, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan,

tổ chức, cá nhân liên quan, tránh gây thất thoát cho tài sản nhà nước (Điều 55-Điều

65 Luật đấu giá tài sản).

Thứ ba, các quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp cơ bản bảo đảm phù hợp với các cam kết của Việt Nam theo các

điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập hoặc là thành viên. Pháp luật luật sư đã cho

phép thành lập các chi nhánh, văn phòng luật sư ở nước ngoài tại Việt Nam, cho phép

các luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam và cơ bản pháp luật không có các quy

định phân biệt đối xử trong cùng loại hành nghề giữa luật sư trong nước và nước

Page 86: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

ngoài tại Việt Nam. Trong điều kiện đổi mới việc cung ứng các dịch vụ công, pháp

luật về giá, phí đối với các lĩnh vực này cũng được tính toán theo các nguyên tắc của

thị trường. Luật luật sư quy định cách tính thù lao cho cung cấp các dịch vụ của luật

sư và xác định thù lao trên cơ sở sự thỏa thuận, thống nhất giữa các bên theo pháp

luật dân sự (Điều 54, Điều 55). Trong trường hợp phải trả phí, Luật phí và lệ phí 2015

quy định nguyên tắc phí phải cơ bản bù đắp được chi phí cho việc thực hiện dịch vụ

(Điều 8). Ngoài ra, các tổ chức cung cấp dịch vụ công có thể được trả các chi phí

khác cho việc thực hiện công việc trên cơ sở thỏa thuận với người yêu cầu cung cấp

dịch vụ công (Điều 56, Điều 57 Luật luật sư, Điều 68 Luật công chứng, Điều 36 Luật

giám định tư pháp, Điều 66 Luật đấu giá tài sản).

Mặc dù quy định tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công đã được hoàn thiện

nhưng tiếp cận từ góc độ xã hội hóa cho thấy còn những tồn tại, hạn chế cơ bản sau:

Thứ nhất, các quy định về tổ chức và hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp còn chưa ổn định, thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung và vẫn còn hiện tượng

tồn tại nhiều mặt bằng pháp lý để điều chỉnh về cùng một hoạt động dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp. Xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là vấn đề mới,

chỉ được đẩy mạnh thực hiện trong giai đoạn từ năm 2001 đến nay. Mặc dù có những

bước phát triển mạnh mẽ theo định hướng chiến lược cải cách tư pháp nhưng thực

tiễn cho thấy pháp luật trong lĩnh vực này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, điều

chỉnh. Các văn bản thường chỉ có thời gian thực hiện trong khoảng 05 năm. Luật luật

sư năm 2006 và được sửa đổi, bổ sung năm 2012. Luật công chứng ban hành năm

2006 và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2007 và được sửa đổi năm 2014.

Trong lĩnh vực THADS, thực hiện chủ trương xã hội hóa, Quốc hội đã cho

phép chính thức thực hiện chế định thừa phát lại trong phạm vi toàn quốc. Hoạt động

của Thừa phát lại bao gồm lập vi bằng, tống đạt giấy tờ và THADS. Trong đó, hoạt

động lập vi bằng được điều chỉnh theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số

135/2013/NĐ-CP, hoạt động tống đạt giấy tờ được điều chỉnh theo Bộ luật tố tụng

dân sự và hoạt động THADS lại được điều chỉnh theo Luật THADS. Điều này dẫn

đến những khó khăn nhất định cho các tổ chức thực hiện cung cấp dịch vụ công cũng

như người dân có nhu cầu trong tiếp cận với dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Page 87: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Thứ hai, một số quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công chưa

thống nhất với quy định của pháp luật có liên quan nên dẫn đến những hạn chế trong

hiệu quả thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Bản thân các quy định về cung

cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có liên quan chặt chẽ đến pháp luật trong các

lĩnh vực dân sự, tố tụng, đất đai, kinh tế, thương mại... Sự không thống nhất này cũng

làm ảnh hưởng đến chất lượng pháp luật. Luật đất đai năm 2003 quy định giao dịch,

hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất phải được công chứng, chứng thực. Tuy

nhiên, Luật công chứng năm 2006 và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về chứng thực đã

có sự phân định rõ ràng giữa công chứng và chứng thực, theo đó việc thực hiện

chứng thực theo Luật đất đai là không còn phù hợp. Trên thực tế, nhiều địa phương

đã có hướng dẫn thống nhất về thẩm quyền công chứng đối với các hợp đồng, giao

dịch liên quan đến quyền sử dụng đất nhưng người dân vẫn thực hiện chứng thực

theo thói quen. Tình trạng không rõ ràng trong chuyển giao thẩm quyền công chứng,

chứng thực giao dịch, hợp đồng cũng không được khắc phục trong Luật đất đai năm

2013, Luật công chứng năm 2014 và mới đây nhất là Nghị định số 23/2015/NĐ-CP

ngày 16/2/2015 của Chính phủ thì vẫn tiếp tục có quy định về chứng thực hợp đồng,

giao dịch của Ủy ban nhân dân (Điều 1 và Điều 34).

Trong lĩnh vực GĐTP, theo quy định của Luật giám định tư pháp năm 2012 và

Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, để có kết luận giám định được tiến hành

bằng hai hình thức gồm: Trưng cầu giám định và yêu cầu giám định. Trưng cầu giám

định chỉ do Tòa án, người tiến hành tố tụng thực hiện. Còn yêu cầu giám định là

quyền của đương sự sau khi đã đề nghị Tòa án, người tiến hành tố tụng trưng cầu

giám định mà không được chấp nhận. Tuy nhiên, tại Điều 90 của Bộ luật tố tụng dân

sự năm 2015 thì chỉ có quy định về trưng cầu giám định mà không đề cập đến trường

hợp quyền tự yêu cầu giám định của đương sự. Trong trường hợp này, nếu quy định

đầy đủ về quyền tự yêu cầu giám định của đương sự trong các vụ án dân sự thì sẽ là

cơ hội cho việc thúc đẩy hoạt động của các tổ chức giám định ngoài công lập phù hợp

với xu thế đẩy mạnh XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Ngoài ra, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp vẫn còn tồn tại các

quy định chưa thống nhất về địa vị pháp lý dẫn đến phân biệt đối xử giữa các tổ chức

Page 88: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

cung ứng dịch vụ công lập và ngoài công lập. Cụ thể là Luật giám định tư pháp có sự

phân biệt về phạm vi công việc được thực hiện giữa các tổ chức GĐTP ngoài công

lập với các tổ chức GĐTP công lập (Điều 14 Luật giám định tư pháp). Mặc dù cùng

có nhiệm vụ trong việc xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức THADS

nhưng Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 và Nghị định số 135/2013/NĐ-

CP ngày 18/10/2013 quy định nhiệm vụ của Thừa phát lại không tương đương với

nhiệm vụ của chấp hành viên trong xác minh điều kiện thi hành và áp dụng biện pháp

cưỡng chế THADS nên người dân không lựa chọn thừa phát lại để yêu cầu xác minh,

trực tiếp tổ chức thi hành án. Văn phòng Thừa phát lại còn gặp khó khăn do quy định

không thống nhất giữa Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại với các Luật

có liên quan trong xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng các biện pháp cưỡng chế

thi hành án tại cơ quan thuế, cảnh sát giao thông, tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng.

3.2.2. Nhóm các quy định về thực hiện xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh

vực tƣ pháp

Đây là nhóm quy định trung tâm của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp. Trước hết, các quy định về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã mở

rộng sự tham gia của những cá nhân có đủ điều kiện, được Nhà nước cho phép hành

nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Nhóm quy định này quy định

người hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hay còn được gọi là

các chức danh tư pháp (theo nghĩa rộng, không chỉ là thẩm phán, kiểm sát viên, điều

tra viên, luật sư) và điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp, trong đó bao gồm những tiêu chuẩn đặc thù đối với người thực hiện các dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các tiêu chuẩn hành nghề của các chức danh khác

nhau có sự thống nhất tương đối về chuyên môn, nghiệp vụ gắn với kinh nghiệm, thời

gian làm việc trong lĩnh vực đó.

Luật luật sư năm 2006 và được sửa đổi, bổ sung năm 2012 (Điều 2 và Điều

17) đã xác định xã hội hóa hoàn toàn đối với việc thực hiện nghề luật sư. Các cơ quan

nhà nước, trực tiếp là các cán bộ, công chức, viên chức theo Luật cán bộ, công chức

và Luật viên chức được xác định là những đối tượng không được hành nghề luật sư.

Các tổ chức hành nghề luật sư là Văn phòng luật sư và Công ty luật. Luật Trợ giúp

Page 89: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

pháp lý năm 2006 quy định người thực hiện TGPL bao gồm cả luật sư, tư vấn viên

pháp luật làm việc trong các tổ chức tư vấn pháp luật. Trong lĩnh vực công chứng,

Luật công chứng xác định chủ thể thực hiện công chứng là các công chứng viên. Các

công chứng viên làm việc trong các Phòng công chứng thuộc Sở Tư pháp như Văn

phòng công chứng do các công chứng viên góp vốn để thành lập. Trong lĩnh vực

BĐGTS, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 4/3/2010 của Chính phủ (nay là Luật

BĐGTS) quy định tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp là Trung tâm dịch vụ BĐGTS

thuộc Sở Tư pháp hoặc doanh nghiệp đấu giá tài sản. Doanh nghiệp BĐGTS được

thành lập theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc Luật đấu giá tài sản.

Người thực hiện BĐGTS là các đấu giá viên. Điều 9 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP và

Điều 15 Luật đấu giá tài sản quy định không cấp chứng chỉ đấu giá viên cho các cán

bộ, công chức, trừ những người là cán bộ, công chức đề nghị cấp để làm việc trong

Trung tâm dịch vụ BĐGTS thuộc Sở Tư pháp. Luật giám định tư pháp năm 2012 quy

định về tổ chức GĐTP ngoài công lập. Theo đó, tổ chức GĐTP ngoài công lập là văn

phòng GĐTP, được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật,

di vật, bản quyền tác giả hoặc người giám định tư pháp theo vụ việc. Trong lĩnh vực

THADS, để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên quan

đến THADS, Quốc hội đã cho phép thực hiện thí điểm thực hiện chế định Thừa phát

lại (thừa hành viên) tại một số địa phương tại Nghị quyết số 28/2008/QH12 và tiếp

theo đó là Nghị quyết số 36/2012/QH13. Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, trên

cơ sở đánh giá kết quả thực hiện thí điểm thừa phát lại, Quốc hội khóa XIII đã có

Nghị quyết số 107/2015/QH13 về việc thực hiện chế định thừa phát lại, trong đó

quyết định chấm dứt thí điểm và cho thực hiện chế định thừa phát lại trong phạm vi

cả nước từ ngày 1/1/2016. Theo các quy định hiện hành, Thừa phát lại được xác định

là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc về THADS, tống đạt giấy tờ,

lập vi bằng và các công việc khác theo quy định của pháp luật (Điều 2a Nghị định số

135/2013/NĐ-CP và Điều 3 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP). Thừa phát lại không

kiêm nhiệm hành nghề công chứng, luật sư và các công việc khác theo quy định của

pháp luật. Văn phòng Thừa phát lại là tổ chức hành nghề của thừa phát phát lại (Điều

15 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP).

Page 90: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Như vậy, bằng các quy định về người thực hiện, cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp, Nhà nước cho phép các chủ thể phi Nhà nước tham gia vào việc

cung cấp các dịch vụ công khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.

Theo đó, các nhóm điều kiện bao gồm nhóm điều kiện chung và nhóm điều kiện về

chuyên môn, nghiệp vụ (Điều 10 Luật luật sư, Điều 8 Luật công chứng, Điều 7 Luật

giám định tư pháp, Điều 10 Luật đấu giá tài sản, Điều 21 Luật trợ giúp pháp lý).

Nhóm điều kiện chung quy định việc hành nghề chỉ được thực hiện đối với công dân

Việt Nam, thường trú tại Việt Nam, có sức khỏe và có phẩm chất đạo đức tốt. Nhóm

điều kiện về chuyên môn nghiệp vụ quy định có bằng cử nhân Luật hoặc chuyên

ngành phù hợp đối với lĩnh vực GĐTP, BĐGTS; thời gian, kinh nghiệm công tác

trong lĩnh vực dự kiến hành nghề. Điểm đặc thù đối với lĩnh vực tư pháp đó là quy

định về đào tạo, bồi dưỡng nghề đối với các chức danh được hành nghề. Thời gian

đào tạo, bồi dưỡng nghề có thể từ 03 tháng đến 12 tháng, trong đó bao gồm nội dung

kỹ năng, kiến thức, đạo đức nghề nghiệp phục vụ cho việc hành nghề. Bên cạnh quy

định đào tạo nghề, đối với chức danh luật sư, công chứng viên đòi hỏi phải có thời

gian tập sự hành nghề là 12 tháng thì mới đủ điều kiện để xem xét cấp chứng chỉ

hành nghề hoặc được bổ nhiệm vào chức danh tư pháp đó. Pháp luật cũng quy định

cụ thể về thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, đấu giá viên, bổ nhiệm công

chứng viên và thừa phát lại đối với Bộ trưởng Bộ Tư pháp và bổ nhiệm Giám định viên

tư pháp đối với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ (đối với giám định viên tư

pháp trong các cơ quan ở Trung ương), Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối với

giám định viên tư pháp ở địa phương).

Thứ hai, pháp luật đã thể hiện rõ xu thế chuyển giao việc cung cấp dịch vụ

công cho xã hội thực hiện trên cơ sở cho phép thành thành lập và đăng ký hoạt động

của các tổ chức chuyên nghiệp trong hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp ngoài công lập với mục tiêu phát triển rộng mạng lưới các tổ chức cung

cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, xóa bỏ việc kiêm nhiệm giữa chức năng

QLNN với thực hiện dịch vụ công, nâng cao chất lượng dịch vụ công, tạo thuận lợi

cho việc tiếp cận cũng như đáp ứng ngày càng tốt hơn với nhu cầu của người dân.

Điều này thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của Nhà nước trong

Page 91: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, hướng đến sự bình đẳng giữa người dân với các cơ

quan, tổ chức cung ứng dịch vụ công. Thông qua việc cho phép thành lập và đăng ký

hoạt động, Nhà nước ủy quyền hoặc cho phép cho các tổ chức này nhân danh Nhà

nước tham gia vào việc cung ứng dịch vụ luật sư, công chứng, BĐGTS, GĐTP, thừa

phát lại. Cụ thể như sau:

* Pháp luật quy định về hình thức tổ chức hành nghề, cung cấp dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp là hình thức Văn phòng hoặc Công ty. Chế độ pháp lý đối với

các tổ chức hành nghề này khá phong phú, hoạt động theo các loại hình doanh nghiệp

khác nhau. Điều 33 và điều 34 Luật luật sư quy định Văn phòng luật sư do một luật

sư thành lập và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; công ty luật bao gồm

công ty luật hợp danh và công ty luật trách nhiệm hữu hạn (bao gồm trách nhiệm hữu

hạn một thành viên và hai thành viên). Điều 22 Luật công chứng quy định Văn phòng

công chứng hoạt động theo quy định pháp luật liên quan đối với loại hình công ty hợp

danh. Điều 14 Luật Giám định tư pháp quy định Văn phòng GĐTP có 01 thành viên

thì hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân; trường hợp do từ 02 giám định

viên trở lên thì hoạt động theo loại hình doanh nghiệp hợp danh. Doanh nghiệp

BĐGTS có thể được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp.

* Để được hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, các tổ

chức hành nghề phải đáp ứng các điều kiện theo luật định. Theo đó, điều kiện trước

tiên đối với các tổ chức này là phải có thành viên có đủ điều kiện hành nghề - hay là

các chức danh tư pháp. Luật luật sư, Luật công chứng, Luật đấu giá tài sản và Luật

Giám định tư pháp yêu cầu người đứng đầu tổ chức hành nghề phải là người có chức

danh tư pháp và có thời gian hành nghề ít nhất là 02 năm đối với đề nghị thành lập

Văn phòng công chứng (Điều 22), 05 năm đối với việc thành lập Văn phòng GĐTP

(Điều 15). Bên cạnh điều kiện về thành viên là các chức danh tư pháp, các tổ chức

này còn phải đáp ứng các yêu cầu về trụ sở, trang thiết bị làm việc. Luật giám định tư

pháp (Điều 16), Luật công chứng (Điều 23), Nghị định số 61/2009/NĐ-CP (Điều 17)

quy định việc thành lập tổ chức hành nghề phải có Đề án thành lập, trong đó làm rõ

sự cần thiết, cách thức thành lập và hoạt động của từng loại tổ chức. Riêng đối với

hoạt động thừa phát lại, do tính chất đặc thù nghề nghiệp, yêu cầu đối với việc thành

Page 92: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

lập bao gồm điều kiện về tổ chức bộ máy hoạt động của Văn phòng Thừa phát lại và

yêu cầu ký quỹ hoặc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho thừa phát lại. Cơ

bản có thể thấy các điều kiện cung cấp dịch vụ của các tổ chức hành nghề cung cấp

dịch vụ ngoài công lập là khá đơn giản, chủ yếu tập trung vào điều kiện tiêu chuẩn

thành viên hành nghề mà không quy định cụ thể điều kiện về tài chính, số lượng

người làm việc hay trang thiết bị làm việc.

* Trên cơ sở đáp ứng được các điều kiện thành lập, đăng ký hoạt động, trình tự

thành lập tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bao gồm

quy định xin phép thành lập và đăng ký hoạt động. Đối với lĩnh vực luật sư và

BĐGTS, tổ chức hành nghề thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động. Luật luật sư quy

định tổ chức hành nghề luật sư nộp hồ sơ đăng ký hoạt động đến Sở Tư pháp để được

cấp Giấy đăng ký hoạt động. Đối với doanh nghiệp đấu giá tài sản, Điều 25 Luật đấu

giá tài sản quy định đăng ký hoạt động đấu giá tài sản tại Sở Tư pháp. Điều 17 Luật

trợ giúp pháp lý quy định đăng ký tham gia TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư,

tư vấn pháp luật.

Đối với các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực công chứng (Điều 23 Luật công

chứng), giám định tư pháp (Điều 16, Điều 17 Luật giám định tư pháp) và thừa phát

lại (Điều 17, Điều 18 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP), tổ chức hành nghề phải qua hai

bước, bao gồm xin phép thành lập và đăng ký hoạt động. Theo đó, tổ chức hành nghề

lập hồ sơ gửi Sở Tư pháp nơi đặt trụ sở và Sở Tư pháp sẽ xem xét, thẩm định để trình

Ủy ban nhân dân hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định cho phép thành

lập. Sau khi có Quyết định cho phép thành lập, tổ chức hành nghề thực hiện đăng ký

hành nghề với Sở Tư pháp và Sở Tư pháp cấp Giấy đăng ký hoạt động cho tổ chức

hành nghề. Thời hạn hoàn thành thủ tục tùy thuộc vào từng loại hình tổ chức. Sau khi

được cấp Giấy đăng ký hoạt động, các tổ chức hành nghề có trách nhiệm đăng báo

trung ương hoặc địa phương 03 số liên tiếp về việc thành lập và hoạt động của tổ

chức. Qua các quy định trên cho thấy, đối với các lĩnh vực xã hội hóa mạnh thì thủ

tục thành lập và hoạt động đối với các tổ chức hành nghề đơn giản hơn, chỉ thông qua

bước đăng ký hoạt động. Trong khi đó, đối với các lĩnh vực mà việc thực hiện các

dịch vụ công không chỉ liên quan đến trách nhiệm cá nhân của người hành nghề mà

Page 93: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thì thủ tục thành lập bao

gồm cho phép thành lập và đăng ký hoạt động. Tuy nhiên, dù theo hình thức nào,

trường hợp từ chối cấp Giấy đăng ký hoạt động hoặc không cho phép thành lập thì

các cơ quan có thẩm quyền đều phải có văn bản trả lời và nói rõ lý do về quyết định

của mình.Người đề nghị có thể thực hiện các thủ tục khiếu nại theo quy định của

pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong trường hợp không thỏa đáng.

Thứ ba, cùng với quy định thành lập các tổ chức chuyên nghiệp cung ứng dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật đã quy định hình thức ký hợp đồng để huy

động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp các dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp. Trên cơ sở đáp ứng đủ điều kiện hành nghề, các tổ chức, cá nhân có

thể tham gia cùng với các cơ quan, tổ chức của Nhà nước trong việc cung cấp các dịch

vụ công, cụ thể là hoạt động TGPL. Luật Trợ giúp pháp lý quy định việc tham gia

TGPL đối với các luật sư, tư vấn viên pháp luật của các trung tâm tư vấn pháp luật.

Bên cạnh hình thức tổ chức các hoạt động TGPL trực tiếp nhân danh Văn phòng luật

sư, công ty luật hay trung tâm tư vấn pháp luật, các luật sư, tư vấn viên pháp luật và các

cộng tác viên có thể tham gia các hoạt động của Trung tâm TGPL của Nhà nước. Điều

28 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/1/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và

hướng dẫn một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý quy định về hình thức hợp đồng

cộng tác ký kết giữa cộng tác viên với Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Nhà nước. Trên

cơ sở hợp đồng ký kết, cộng tác viên sẽ thực hiện việc TGPL và được hưởng chế độ

bồi dưỡng, chí phí hành chính hợp lý. Ngoài ra, đối với các lĩnh vực GĐTP, luật sư,

pháp luật có quy định tham gia giám định hoặc tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ

quan tiến hành tố tụng theo Quyết định số 01/2014/QĐ-TTg ngày 01/01/2014 của Thủ

tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng GĐTP và Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày

14/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật luật

sư. Theo đó, trường hợp được mời tham gia thì các luật sư hoặc giám định viên tư

pháp/người giám định theo vụ việc đều được hưởng một khoản chi phí bồi dưỡng nhất

định từ các cơ quan trưng cầu giám định hay cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ tư, pháp luật quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm và chuyển đổi

hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

Page 94: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

pháp. Các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực tư pháp được thành lập theo Luật

trợ giúp pháp lý, Luật công chứng, Luật Giám định tư pháp và Nghị định số

17/2010/NĐ-CP (nay là Luật đấu giá tài sản), bao gồm các Trung tâm trợ giúp pháp

lý, Phòng công chứng, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thuộc Sở Tư pháp và

các tổ chức GĐTP công lập trong các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương.

Một trong những phương thức thực hiện xã hội hóa hiện nay là tăng cường tính năng

động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng tự cân đối các nguồn thu - chi để tổ

chức đơn vị phù hợp, giảm bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước trong việc tổ chức

thực hiện dịch vụ sự nghiệp công. Các mô hình tự chủ theo Nghị định số

16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự

nghiệp công lập bao gồm đơn vị tự chủ, tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động và

đơn vị tự bảo đảm một phần kinh phí hoặc do Ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ

chi phí hoạt động. Với mô hình đơn vị sự nghiệp tự chủ, tự bảo đảm toàn bộ chi phí

hoạt động, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP (trước đó là Nghị định số 43/2006/NĐ-CP)

cho phép các đơn vị được tự chủ, quyết định chi tiền lương tăng thêm cho cán bộ,

người lao động của đơn vị, cho phép áp dụng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp

khi đơn vị thỏa mãn các điều kiện về nguồn thu nhằm khuyến khích sự năng động, tự

chủ của đơn vị. Trong bối cảnh đẩy mạnh xã hội hóa, đặc biệt là định hướng đổi mới

các đơn vị dịch vụ sự nghiệp công lập theo Đề án đổi mới cơ chế hoạt động của các

đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp

công (Nghị quyết số 40/NQ-CP ngày 9/8/2012 của Chính phủ ), Luật giá năm 2012,

Luật phí và lệ phí năm 2015 cũng như Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định về lộ

trình tính chi phí, giá của các dịch vụ công trên cơ sở thị trường, qua đó là một trong

những hình thức thu hút sự tham gia đóng góp của người dân nhằm giảm bớt gánh

nặng chi phí cho Nhà nước, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công. Pháp luật

không quy định cụ thể về tổ chức của các tổ chức cung ứng dịch vụ ngoài công lập.

Đây là vấn đề tự quyết của các tổ chức, phụ thuộc vào khả năng, điều kiện, thu nhập

của bản thân tổ chức đó. Tuy nhiên, để bảo đảm chất lượng của các dịch vụ công

được cung ứng, pháp luật có quy định cụ thể về nội dung, cách thức thực hiện các

dịch vụ được cung ứng. Quy định này áp dụng chung tất cả các chủ thể tham gia vào

Page 95: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

việc cung ứng dịch vụ, bao gồm cả công lập và ngoài công lập. Căn cứ các quy định

về quy trình nghiệp vụ cụ thể mà các tổ chức hành nghề quyết định tổ chức và hoạt

động cho phù hợp.

Thứ năm, pháp luật bước đầu đã quy định chính sách khuyến khích xã hội hóa

và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp hoạt động bằng các quy định ưu đãi, đặc thù đối với các tổ chức hành nghề

được thành lập ở những vùng có điều kiện, địa bàn khó khăn, điều kiện xã hội hóa

không cao. Điều 18 Luật công chứng và Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định về

chính sách ưu đãi đối với các Văn phòng công chứng được thành lập ở các địa bàn

khó khăn, đặc biệt khó khăn. Điều 38 Luật giám định tư pháp quy định chính sách ưu

đãi đối với các tổ chức giám định ngoài công lập nhằm khuyến khích thành lập và

hoạt động của các tổ chức giám định ngoài công lập. Căn cứ Luật giám định tư pháp,

Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách

khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y

tế, văn hóa, thể thao, môi trường, theo đó quy định về cơ chế hỗ trợ về tài chính, đất

đai và thuế cho văn phòng giám định tư pháp (Điều 1).

Nhìn chung, quy định thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã thể chế

hóa đầy đủ, kịp thời các định hướng đẩy mạnh XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo

Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng

đến năm 2020 và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như các chương

trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả

thì các quy định về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng bộc lộ một số

hạn chế, bất cập:

Thứ nhất, pháp luật chưa bảo đảm thống nhất, đầy đủ về nội dung, hình thức,

phạm vi XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Thực tế vẫn còn quy định chưa thống nhất

với chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa. Điều 5 Luật giám định tư pháp quy định về

chính sách của Nhà nước đối với hoạt động GĐTP xác định Nhà nước đầu tư, phát

triển hệ thống tổ chức GĐTP công lập có nhu cầu giám định lớn, thường xuyên để

đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng. Với chính sách này thì sẽ khó có thể khuyến

Page 96: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

khích xã hội hóa đối với hoạt động GĐTP. Bên cạnh đó, pháp luật về thực hiện xã hội

hóa mới tập trung quy định về xã hội hóa theo hình thức chuyển giao việc cung cấp

dịch vụ công cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Đối với trường hợp thực hiện xã

hội hóa thông qua việc thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân (bằng công việc

cụ thể hoặc đóng góp vật chất) thì pháp luật lại chưa có quy định đầy đủ. Trừ hoạt

động TGPL có quy định về hợp đồng cộng tác giữa cộng tác viên (công tác viên, luật

sư, tư vấn viên pháp luật) với Trung tâm Trợ giúp pháp lý của Nhà nước thì việc

tham gia trong các lĩnh vực khác đều không có quy định về hình thức pháp lý cho sự

tham gia như luật sư trong các vụ án chỉ định hay giám định viên tư pháp theo yêu

cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật cũng thiếu các quy định đặc thù cho việc

thực hiện xã hội hóa các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các cơ chế, chính sách

ưu đãi của đối với các tổ chức hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp thường chỉ viện dẫn đến các quy định ưu đãi chung về thuế, tài chính, đất đai.

Tương tự như vậy, pháp luật cũng thiếu các quy định đặc thù về cơ chế tự chủ, tự

chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực tư pháp. Các đơn

vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực tư pháp theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP áp

dụng theo cơ chế đối với đơn vị sự nghiệp kinh tế là chưa phù hợp với đặc điểm hoạt

động tư pháp không chỉ đơn thuần hướng đến lợi nhuận mà còn phải hướng đến mục

tiêu bảo vệ pháp luật, công bằng trong xã hội.

Thứ hai, nhiều quy định về tiêu chuẩn hành nghề, điều kiện, trình tự, thủ tục,

thẩm quyền thành lập của các tổ chức hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp còn chưa đầy đủ, thống nhất. Mặc dù có tính chất, yêu cầu hành nghề

tương tự như nhau nhưng quy định về điều kiện thành lập Văn phòng Thừa phát lại

bao gồm các quy định chặt chẽ về tổ chức bộ máy, trụ sở, trang thiết bị làm việc

nhưng đối với việc thành lập Văn phòng công chứng hay doanh nghiệp đấu giá tài

sản thì Luật công chứng và Nghị định số 17/2010/NĐ-CP chỉ quy định có trụ sở,

trang thiết bị bảo đảm phù hợp. Nếu pháp luật không quy định cụ thể, định lượng

được các điều kiện cơ sở vật chất thìcó thể gây ra trở ngại cho việc cung cấp dịch vụ

công. Đặc biệt trong điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin mạnh mẽ hiện nay, pháp

luật không có quy định chuẩn về cơ sở hạ tầng nên dẫn đến khó khăn khi kết nối

Page 97: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

thông tin giữa các cơ quan, tổ chức với nhau. Để khắc phục những hạn chế nói trên,

trong thời gian qua, một số địa phương (như Thành phố Hồ Chí Minh, Phú Yên, Bắc

Ninh...) đã ban hành các quy định về tiêu chí và quy trình xét duyệt thành lập Văn

phòng công chứng, nhưng việc ban hành theo địa phương dễ tạo ra sự không thống

nhất trong thực hiện, không bảo đảm nguyên tắc công bằng trong tổ chức cung cấp

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Về thời gian, trình tự thành lập và cấp phép hoạt động giữa các loại tổ chức

hành nghề cũng chưa bảo đảm thống nhất với nhau. Pháp luật quy định hai loại trình

tự đăng ký hoạt động đối với các tổ chức hành nghề luật sư, BĐGTS, TGPL và cho

phép thành lập và đăng ký hoạt động đối với các tổ chức hành nghề công chứng,

GĐTP, thừa phát lại. Tuy nhiên, các quy định cụ thể về trình tự thành lập và cấp phép

hoạt động giữa các lĩnh vực chưa thể hiện thống nhất sự tham gia của các Sở Tư

pháp. Thời gian để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phép thành lập các tổ

chức hành nghề còn chưa được quy định đối với việc thành lập Văn phòng Thừa phát

lại, trong khi thời hạn cho phép thành lập Văn phòng công chứng là 20 ngày (Điều 23

Luật công chứng) thì việc thành lập Văn phòng giám định tư pháp lên đến 45 ngày

(Điều 16 Luật giám định tư pháp). Pháp luật chuyên ngành chưa có quy định về

quyền khiếu nại, khởi kiện đối với trường hợp từ chối cấp chứng chỉ hành nghề, bổ

nhiệm chức danh và cho phép thành lập hoặc cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động

cho các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực công chứng, GĐTP, BĐGTS...

Thứ ba, nhóm quy định về thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thiếu

các nội dung bảo đảm hiệu quả của quá trình chuyển giao cung ứng dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp. Các quy định về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thể hiện rõ

xu hướng xã hội hóa, chuyển giao cung ứng dịch vụ công qua thành lập các tổ chức

cung ứng dịch vụ công chuyên nghiệp. Việc chuyển giao này cũng nhằm mục đích

xây dựng mô hình mới về cung cấp dịch vụ công trên cơ sở phân định lại trách nhiệm

của Nhà nước và xã hội, sử dụng có hiệu quả nguồn lực hữu hạn của Nhà nước trong

bối cảnh nhu cầu của xã hội ngày càng tăng. Tuy nhiên, pháp luật lại chưa có các quy

định để bảo đảm tính hiệu quả của quá trình chuyển giao cung ứng dịch vụ công. Luật

công chứng quy định về thực hiện công chứng các bản sao nhưng trên thực tế tại các

Page 98: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

cấp cơ sở, các địa phương lại vẫn có nhu cầu bổ sung cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cho

việc thực hiện công tác tư pháp, trong đó có những nguyên nhân là khối lượng công

việc liên quan đến chứng thực bản sao, hợp đồng, giao dịch tăng lên. Quốc hội đã

chính thức cho thực hiện chế định Thừa phát lại trên toàn quốc nhưng hiện nay đang

đồng thời duy trì cả hệ thống THADS với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trước

khi có chế định Thừa phát lại. Khối lượng công việc của các cơ quan THADS cũng

được ghi nhận ngày càng tăng và do vậy chi phí và nhân lực cho công tác THADS

chưa giảm. Nhiệm vụ giữa cơ quan THADS và thừa phát lại chưa được phân định rõ.

Điều này chưa bảo đảm hiệu quả tối đa trong sử dụng các nguồn lực của các cơ quan

nhà nước cũng như của xã hội trong cung cấp dịch vụ công.

Thứ tư, các quy định thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp chưa chú

trọng đến việc hạn chế xu hướng thương mại hóa và khuyến khích tính chất phi lợi

nhuận, vì cộng đồng của các tổ chức cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Các quy định hiện có mới chỉ tập trung vào quản lý chặt chẽ về điều kiện, tiêu chuẩn

bảo đảm chất lượng dịch vụ được cung cấp hay gắn với quy hoạch mạng lưới để bảo

đảm sự phân bổ hợp lý các tổ chức hành nghề với mục đích hạn chế sự cạnh tranh

không lành mạnh của các tổ chức này. Pháp luật cũng mới chỉ ghi nhận các chính

sách ưu đãi trong trường hợp hoạt động ở những điều kiện, địa bàn khó khăn. Thực tế

các chính sách như bố trí trụ sở, hỗ trợ trang thiết bị làm việc cho các Văn phòng

công chứng ở các vùng có điều kiện khó khăn, ưu đãi về thuế theo quy định của pháp

luật thuế... còn cần thiết phải có thêm hướng dẫn thực hiện của các cơ quan có liên

quan. Trong khi đó, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp lại không có các

quy định khuyến khích thành lập và hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ công

ngoài công lập không vì mục tiêu lợi nhuận. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy

cần thiết phải phát huy được vai trò của các tổ chức phi lợi nhuận, vì lợi ích cộng

đồng trong chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công. Trên bình diện chung, pháp luật

đã có quy định về quy trình nghiệp vụ thực hiện các dịch vụ cụ thể và được áp dụng

chung cho cả tổ chức cung ứng dịch vụ công lập và ngoài công lập nhưng pháp luật

lại chưa bao gồm các tiêu chí đánh giá, quản lý chất lượng các dịch vụ. Do đặc thù

quy trình thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phụ thuộc không chỉ vào

Page 99: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

pháp luật chuyên ngành đó mà còn gắn với pháp luật nội dung và tố tụng nên người

dân sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát được chất lượng các dịch vụ theo yêu

cầu. Cùng với đó, pháp luật cũng còn thiếu các quy định thanh tra, kiểm tra và cơ chế

thu thập thập, chia sẻ thông tin của các cơ quan nhà nước đối với hoạt động của các tổ

chức hành nghề dịch vụ công nên dẫn đến những hiện tượng cạnh tranh không lành

mạnh, thực hiện sai các quy trình, nghiệp vụ của các tổ chức hành nghề mà các cơ

quan QLNN không nắm được.

Thứ năm, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn những quy định

thiếu tính khả thi. Luật trợ giúp pháp lý quy định về cơ chế khuyến khích, thu hút sự

tham gia của các tổ chức, cá nhân vào hoạt động TGPL nhưng lại thiếu các quy định

về các chế độ ưu đãi cụ thể đối với các tổ chức, cá nhân trong trường hợp tham gia

thực hiện hoặc hỗ trợ nguồn lực cho công tác TGPL. Trong điều kiện xã hội hóa,

Luật công chứng quy định chế độ làm việc của các tổ chức hành nghề công chứng,

bao gồm các Văn phòng công chứng theo giờ hành chính. Tuy nhiên, do hoạt động

theo mô hình doanh nghiệp nên các Văn phòng công chứng cũng rất chú ý đến yếu tố

lợi nhuận. Yếu tố lợi nhuận bắt buộc các Văn phòng công chứng phải có sự cạnh

tranh với nhau trong việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, trong đó có nhu cầu

công chứng ngoài giờ hành chính. Trường hợp quy định hoạt động theo giờ hành

chính là khó khả thi và kiểm soát trên thực tế.

Thứ sáu, kỹ thuật soạn thảo văn bản có những hạn chế. Nhìn chung, pháp luật

về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được xây dựng, ban hành phù hợp với các quy

định của luật ban hành văn bản QPPL về trình tự, thủ tục cũng như thể thức, kỹ thuật

văn bản. Tuy nhiên, trong đó cũng còn tồn tại những hạn chế, nhiều thuật ngữ chưa

bảo đảm rõ ràng trong thực hiện. Chẳng hạn khi quy định về tiêu chuẩn hành nghề

của các chức danh luật sư, công chứng viên, giám định viên tư pháp, thừa phát lại,

các văn bản đều có sử dụng thuật ngữ có phẩm chất đạo đức tốt. Quy định tiêu chuẩn

như vậy sẽ dễ dẫn đến bị bỏ qua trong quá trình thực hiện vì không có căn cứ, tiêu chí

đánh giá, xem xét mức độ cho phù hợp. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, nhiều

quy định sử dụng các thuật ngữ như “các chi phí khác”, “lý do chính đáng khác”...

Cách thức quy định này nhằm bảo đảm có thể bao quát các tình huống phát sinh trên

Page 100: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

thực tế mà pháp luật không dự liệu được hết tại thời điểm ban hành nhưng lại cũng dễ

dẫn đến việc áp dụng tùy nghi trong thực tế, không bảo đảm tính pháp chế.

3.2.3. Nhóm quy định về quản lý nhà nƣớc đối với việc thực hiện xã hội

hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp

Nhóm quy định QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp quy định trách

nhiệm, nội dung QLNN đối với việc thực hiện xã hội hóa, bảo đảm cho việc

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện theo đúng định hướng, mục tiêu

quản lý và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của đời sống xã hội. Nhóm quy định này đã từng

bước được hoàn thiện cùng với quá trình phát triển của XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp như sau:

Thứ nhất, pháp luật đã quy định tương đối toàn diện các nội dung nhiệm vụ

QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm định hướng, chính sách quản lý

vĩ mô đến việc bảo đảm tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ trên thực tế.

Để quản lý và bảo đảm trách nhiệm cung cấp dịch vụ công của Nhà nước

trước xã hội, trong điều kiện xã hội hóa - chuyển giao việc cung ứng dịch vụ công

cho các tổ chức, cá nhân ở khu vực ngoài Nhà nước thực hiện thì Nhà nước cần phải

có những định hướng, chính sách, chiến lược và bảo đảm về số lượng và chất lượng

các dịch vụ công cung cấp cho người dân trong những điều kiện cụ thể gắn với tầm

nhìn dài hạn. Pháp luật trong các lĩnh vực tư pháp đều bao gồm quy định về trách

nhiệm của Nhà nước trong hoạch định và ban hành chiến lược, chính sách quản lý vĩ

mô và biện pháp phát triển hành nghề, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Việc xây dựng chiến lược, chính sách và biện pháp phát triển hành nghề, cung cấp

dịch vụ công xác định các mục tiêu chiến lược bảo đảm cung cấp dịch vụ công, bao

gồm tiêu chí về số lượng và chất lượng; xác định các yêu cầu đặt ra đối với việc cung

cấp dịch vụ công quan trọng; xác định mối tương quan giữa khu vực công và khu vực

tư về cung cấp dịch vụ công; tách hoạt động cung cấp dịch vụ công ra khỏi hoạt động

QLNN. Trong lĩnh vực tư pháp, Chính phủ đã ban hành được Chiến lược phát triển

nghề luật sư đến năm 2020 (kèm theo Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/2011 của

Thủ tướng Chính phủ), Quy hoạch tổng thể phát triển các tổ chức hành nghề công

chứng đến năm 2020 (kèm theo Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của

Page 101: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Thủ tướng Chính phủ), Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025

(kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 1/6/2015). Các chiến lược, chính sách là

cơ sở để các tổ chức xã hội và công dân có thể lựa chọn tham gia vào việc cung cấp

dịch vụ công một cách hiệu quả.

Pháp luật quy định chặt chẽ việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển các chức danh

tư pháp. Đối với lĩnh vực tư pháp, đ tham gia cung ứng dịch vụ công, các tổ chức, cá

nhân phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định. Các tiêu chuẩn hành nghề của các cá

nhân có những đặc thù liên quan đến trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp. Các chức danh tham gia hành nghề hầu hết phải trải qua các chương trình đào

tạo, bồi dưỡng nghề, tập sự hành nghề và được thể hiện bằng các chứng chỉ đào tạo,

bồi dưỡng hay kết quả kiểm tra tập sự hành nghề. Pháp luật quy định trách nhiệm của

các cơ quan QLNN trong tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghề, trong đó

giao cho các cơ quan QLNN trong việc xây dựng chương trình, nội dung đào tạo

nghề; tổ chức các khóa đào tạo nghề và cơ sở đào tạo nghề. Luật luật sư quy định các

cơ sở đào tạo nghề luật sư và điều kiện thành lập, hoạt động đối với các cơ sở này.

Pháp luật đã quy định nội dung thanh tra, kiểm tra đối với việc cung cấp dịch

vụ công nhằm bảo đảm chất lượng của các dịch vụ công được cung cấp. Đối với từng

lĩnh vực chuyên ngành, các luật và văn bản hướng dẫn thi hành quy định chung về

trách nhiệm của các cơ quan trong thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với các tổ

chức, cá nhân hành nghề, cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Quy định

cụ thể về thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân hành nghề

cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp còn được thực hiện theo pháp luật

thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính. Trực tiếp là Luật thanh tra, Luật xử lý

vi phạm hành chính và các văn bản quy định chuyên sâu về thanh tra, xử lý vi phạm

hành chính trong lĩnh vực tư pháp, bao gồm Nghị định số 54/2014/NĐ-CP ngày

29/5/2014 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh tra Ngành Tư pháp và Nghị

định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình,

THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày

14/8/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 110/2013/NĐ-CP.

Page 102: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Thứ hai, pháp luật quy định tổ chức bộ máy QLNN đối với XHHDVC trong

lĩnh vực tư phápgắn với thẩm quyền của các cơ quan này trong giải quyết các công

việc có liên quan đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp. Hầu hết các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành đều có 01

chương riêng quy định về thẩm quyền, nội dung QLNN và các quy định liên quan

đến trách nhiệm của các cơ quan trong việc cấp chứng chỉ hành nghề, cho phép thành

lập và hoạt động của các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp. Theo quy định hiện nay, các cơ quan Nhà nước ở trung ương, tập trung chủ yếu

là Bộ Tư pháp thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, hoạch định chính sách, chiến lược

phát triển đối với việc hành nghề, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm pháp luật được tổ

chức thực hiện có hiệu quả trong phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp cũng là cơ quan có

thẩm quyền trong việc cấp chứng chỉ hành nghề hoặc quyết định bổ nhiệm các cá

nhân có đủ điều kiện vào các chức danh tư pháp nhất định để thực hiện các dịch vụ

trong lĩnh vực tư pháp. Các cơ quan nhà nước ở địa phương, trực tiếp là Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp với vai trò tham mưu, giúp việc thực hiện QLNN đối với

tổ chức và hoạt động hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp tại địa

phương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp có thẩm quyền trong việc cho phép

thành lập và đăng ký, quản lý hoạt động của các tổ chức hành nghề trên địa bàn.

Thứ ba, pháp luật bảo đảm kết hợp giữa QLNN của các cơ quan nhà nước với

chế độ tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp. Đây là

đặc điểm có tính chất đặc thù đối với việc hành nghề, cung cấp dịch vụ công của các

tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tư pháp. Điều 6 Luật luật sư quy định

nguyên tắc kết hợp QLNN với chế độ tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp

của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Luật luật sư quy định tổ chức xã hội - nghề

nghiệp của luật sư là Liên đoàn Luật sư Việt Nam ở Trung ương và Đoàn luật sư ở

cấp tỉnh. Luật công chứng cũng có quy định về tổ chức xã hội nghề nghiệp của công

chứng, trong đó Nghị định số 29/2015/NĐ-CP quy định tổ chức xã hội nghề nghiệp

của công chứng viên ở Trung ương là Hiệp hội công chứng viên toàn quốc và ở cấp

tỉnh là Hội công chứng tỉnh. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ cũng đã thông qua Đề

án thành lập Hiệp hội công chứng toàn quốc để bảo đảm phù hợp với cam kết của

Page 103: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Việt Nam khi gia nhập Liên minh công chứng quốc tế vào năm 2013. Ngoài nhiệm

vụ chung về đại diện và bảo vệ quyền lợi cho các thành viên của mình, các tổ chức

nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp còn có nhiệm vụ trong việc giám sát việc hành

nghề và tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của các thành viên, phối hợp với các cơ quan

QLNNtrong quản lý hành nghề của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công theo

quy định của pháp luật.

Đánh giá chung cho thấyquy định QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp

đã từng bước được hoàn thiện, bao gồm các nội dung định hướng, chính sách quản lý

vĩ mô đến việc bảo đảm tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ trên thực tế.

Phân cấp quản lý và trách nhiệm của các cơ quan QLNN được quy định cụ thể, phù

hợp với yêu cầu và thực tiễn hoạt động của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật ngày càng trao nhiều quyền hạn, trách nhiệm

cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đại diện cho các cá nhân, tổ chức hành nghề

trong lĩnh vực đó, đặc biệt là ở khía cạnh về đại diện và giám sát việc tuân thủ các

quy định pháp luật, đạo đức nghề nghiệp. Mô hình QLNN kết hợp với tự quản của

các tổ chức xã hội - nghề nghiệp phù hợp với tính chất, đặc điểm hành nghề, cung cấp

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, các quy định về quản lý nhà nước về

XHHDVC cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế như sau:

Thứ nhất, pháp luật còn thiếu các quy định cụ thể về trình tự, nội dung thực

hiện nhiệm vụ QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Các quy định chỉ quy định

về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan QLNN mà thiếu các quy định cụ thể về cách

thức thực hiện các nhiệm vụ đó. Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong QLNN

là phải bảo đảm chất lượng các dịch vụ công được cung cấp. Tuy nhiên, nhiều lĩnh

vực chưa ban hành được các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động. Cũng có lĩnh vực

đã ban hành được bộ tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ công như TGPL nhưng còn

nhiều hạn chế do việc đánh giá chất lượng được thiết kế và thực hiện bởi các chủ thể

có trách nhiệm cung cấp dịch vụ là Trung tâm TGPL và cơ quan QLNN là Sở Tư

pháp mà chưa có sự tham gia đánh giá của các cơ quan thực hiện thủ tục khác như

Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan điều tra và của chính những đối tượng thụ hưởng dịch

Page 104: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

vụ. Do đó, việc đánh giá chất lượng chưa khách quan, chưa đề xuất được các biện

pháp quản lý phù hợp với kết quả đánh giá chất lượng.

Công tác thanh tra chưa gắn với đặc thù của từng lĩnh vực mà vẫn áp dụng

chung theo quy định của Luật thanh tra, Luật khiếu nại, tố cáo. Pháp luật chuyên

ngành cũng không có quy định về cách thức, quy trình, thời gian kiểm tra, phân định

giữa kiểm tra với thanh tra. Hiện nay chỉ có Nghị định số 99/2006/NĐ-CP ngày

15/9/2006 của Chính phủ về công tác kiểm tra việc thực hiện chính sách, chiến lược,

quy hoạch, kế hoạch với mục đích bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, chiến

lược, quy hoạch. Các nội dung, cách thức, kiểm tra không gắn với việc chấp hành,

tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức hành nghề. Cơ chế thông tin, báo cáo,

thống kê tập trung chủ yếu ở trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước mà chưa

có sự phối hợp, liên hệ đánh giá với các tổ chức hành nghề nên trong một số trường

hợp khó bảo đảm được tính khách quan khi đưa ra các quyết định, chính sách quản lý

cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Thứ hai, pháp luật chưa quy định đầy đủ về các cơ quan QLNN và trách

nhiệm của các cơ quan này đối với việc QLNN về XHHDVC. Luật Tổ chức chính phủ

và các Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, cơ quan

ngang Bộ chưa xác định cơ quan QLNN đối với hoạt động XHHDVC. XHHDVC nói

chung chỉ được thực hiện theo Nghị quyết 30c/NQ-CP và còn mang tính tổ chức thực

hiện, chưa gắn với yêu cầu quản lý, định hướng chính sách, phát triển chung đối với

việc thực hiện XHHDVC. Điều 2 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 1/9/2016 quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ về thực hiện chức

năng QLNN về dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. Tuy

nhiên Điều 10 của Nghị định chỉ quy định nội dung quản lý nhà nước của Bộ với các

dịch vụ sự nghiệp công thuộc ngành, lĩnh vực.

Đối với lĩnh vực GĐTP, Điều 39 Luật giám định tư pháp quy định trách nhiệm

của Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất QLNN về GĐTP. Các Bộ khác thực hiện

QLNN và chịu trách nhiệm trước Chính phủ về tổ chức, hoạt động GĐTP ở lĩnh vực

do mình quản lý; phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thống nhất QLNN về GĐTP.

Việc phân công trách nhiệm như vậy là có bất cập vì Bộ Tư pháp là đầu mối tham

Page 105: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

mưu với Chính phủ về chính sách đối với lĩnh vực GĐTP nhưng lại không phải là cơ

quan có chuyên môn nghiệp vụ trong từng lĩnh vực giám định (như pháp y, hình sự, y

tế, ngân hàng,...). Trong khi đó, các Bộ khác hiện cũng đang chỉ tập trung vào tổ chức

thực hiện hoạt động giám định thuộc ngành, lĩnh vực mình mà chưa có sự đầu tư,

quan tâm để phát triển dịch vụ theo yêu cầu xã hội hóa.

Theo phân cấp quản lý, bên cạnh các chiến lược, chính sách phát triển hành

nghề chung, các địa phương có thể ban hành các chính sách, biện pháp phát triển hành

nghề, cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tại địa phương. Tuy nhiên, pháp luật lại

không quy định cụ thể các nội dung được ban hành nên dẫn đến sự e ngại của địa

phương trong thực hiện hoặc nếu ban hành thì cũng không mở rộng hơn so với chính

sách chung của Trung ương đã ban hành mặc dù xã hội hóa là vấn đề phụ thuộc nhiều

vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng khu vực, từng vùng miền và địa phương.

Thứ ba, các quy định về quản lý nhà nước XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp

chưa bảo đảm tính toàn diện trong phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với tổ chức

hội nghề nghiệp trong quản lý cung cấp dịch vụ công. Sự tham gia của các tổ chức xã

hội - nghề nghiệp tham gia vào quản lý hoạt động hành nghề của các tổ chức, cá nhân

cung ứng dịch vụ công là một trong những đặc trưng trong XHHDVC. Hiện nay,

pháp luật đang được hoàn thiện theo hướng tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội

- nghề nghiệp của luật sư trong việc đại diện, bảo vệ quyền lợi cũng như quản lý và

giám sát hành nghề và tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, do xu

hướng phân định rạch ròi về thẩm quyền, trách nhiệm nên lại thiếu các quy định phối

hợp giữa cơ quan QLNN và tổ chức xã hội - nghề nghiệp để bảo đảm quản lý toàn

diện được việc hành nghề của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đang thiếu cơ chế hỗ trợ hiệu quả hơn cho

hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp nên hiệu quả hoạt động tự quản của

các tổ chức này cũng là những thách thức rất lớn trong điều kiện phải tự tổ chức hoạt

động và tự bảo đảm kinh phí hoạt động. Đối với lĩnh vực công chứng, pháp luật đã có

quy định về việc thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên ở Trung

ương là Hiệp hội công chứng viên toàn quốc. Pháp luật cũng xác định trách nhiệm

của Bộ Tư pháp trong việc phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng trình cơ

Page 106: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

quan có thẩm quyền thông qua việc thành lập Hiệp hội công chứng viên toàn quốc.

Quy định như vậy mặc dù giúp cho việc thành lập được triển khai bài bản hơn nhưng

lại chưa phù hợp với tính chất tự nguyện, tự tập hợp của các thành viên trong một tổ

chức xã hội - nghề nghiệp. Điều này dẫn đến thực tế là qua gần 2 năm Luật công

chứng có hiệu lực nhưng Hiệp hội công chứng viên toàn quốc cũng chưa được thành

lập theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Liên minh công chứng quốc tế.

Cùng với đó, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp luôn được

coi là tổ chức có tính chất đặc thù với mô hình quản lý nội bộ liên quan đến tổ chức

và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội (như Đảng đoàn) trong các tổ chức xã

hội - nghề nghiệp. Tuy nhiên, các Luật như Luật luật sư, Luật công chứng lại chưa

định hình rõ về tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Mối quan hệ

giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và hội tự quản còn nhiều vấn đề cần được

nghiên cứu bài bản hơn để có thể xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật phù

hợp với hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp.

3.2.4. Đánh giá chung về thực trạng pháp luật xã hội hóa dịch vụ công

trong lĩnh vực tƣ pháp

Trên cơ sở nghiên cứu, rà soát từng nhóm quy định cơ bản cấu thành của pháp

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có thể thấy pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp trong thời gian qua đã không ngừng được hoàn thiện nhằm bổ sung,

điều chỉnh, thay thế các quy định nhằm bảo đảm đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn

của đời sống xã hội và quản lý nhà nước. Những ưu điểm, hạn chế cơ bản của pháp

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có thể khái quát như sau:

3.2.4.1. Về ưu điểm

Thứ nhất, các văn bản QPPL chuyên ngành về hoạt động tư pháp cùng với

các văn bản chuyên ngành về tổ chức và hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ

sự nghiệp đã tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Cùng với quá trình đẩy mạnh XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, hoàn thiện thể chế

cho công tác này được xác định một nhiệm vụ được ưu tiên thực hiện trong giai đoạn

2011-2015 [19, tr.31]. Pháp luật đã từng bước được xây dựng mới, sửa đổi, điều

chỉnh, bổ sung nhằm điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội phát sinh trong quá

Page 107: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, từ các nội dung liên quan đến tổ chức, hoạt

động, phạm vi, hình thức, nội dung chuyển giao, thu hút sự tham gia của xã hội trong

cung cấp dịch vụ công và công tác quản lý nhà nước. Các nội dung tự quản của các tổ

chức xã hội nghề nghiệp, đại diện cho các tổ chức, cá nhân hành nghề trong cung cấp

dịch vụ, cũng dần được hoàn thiện trong các lĩnh vực luật sư, công chứng và hiện nay

là đấu giá tài sản.Trong giai đoạn 2011-2016, Quốc hội và Chính phủ cùng các Bộ,

ngành có liên quan đã ban hành nhiều văn bản để quy định về tổ chức và hoạt động

cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, trong đó các lĩnh vực hoạt động tư

pháp được nghiên cứu đều có các Luật sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới để điều

chỉnh như Luật luật sư (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Luật Giám định tư pháp năm

2012,Luật công chứng năm 2014, Luật Thi hành án dân sự năm 2013 và Nghị quyết về

thực hiện chế định thừa phát lại năm 2015, Luật đấu giá tài sản năm 2016 và mới đây

nhất là Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.

Thứ hai, pháp luật đã bảo đảm phù hợp và thể chế hóa đầy đủ định hướng về

đẩy mạnh XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực pháp nói riêng, nhất là

đối với hoạt động bổ trợ tư pháp, qua đó, tạo điều kiên thuận lợi cho việc thực hiện xã

hội hóa theo Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010,

định hướng đến năm 2020 và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như các

chương trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước. Cho đến nay, pháp luật đã có

những quy định về thực hiện xã hội hóa đối với hầu hết các lĩnh vực tư pháp theo các

nội dung, phạm vi, mức độ khác nhau phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng loại

công việc và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong từng lĩnh vực. Lĩnh vực luật sư đã

thực hiện xã hội hóa hoàn toàn, chuyển giao toàn bộ việc cung ứng dịch vụ cho các cơ

quan, tổ chức trong xã hội đảm nhận. Xu thế chuyển giao toàn bộ cũng đang được thực

hiện đối với các lĩnh vực công chứng, BĐGTS. Những lĩnh vực có nhiều khó khăn, gắn

liền với thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước như GĐTP, THADS

(thông qua thực hiện chế định thừa phát lại) cũng đã từng bước được thực hiện.

Hình thức văn bản cũng ngày càng được hoàn thiện. Nhiều nội dung hoạt động

được điều chỉnh bằng luật là hình thức văn bản có giá trị pháp lý cao, có giá trị bắt

buộc thực hiện đối với cả bộ máy nhà nước. Điều này đáp ứng được với đặc thù của

Page 108: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

hoạt động XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có liên quan đến trách nhiệm của cả hệ

thống các cơ quan hành chính và tư pháp trong bộ máy nhà nước. Quy định bằng

Luật cũng bảo đảm tính ổn định trong điều chỉnh, phù hợp với yêu cầu xã hội hóa, thể

hiện cam kết của nhà nước đối với việc bảo đảm quyền và lợi ích của các tổ chức, cá

nhân khi đầu tư, tham gia gánh vác nhiệm vụ cùng với Nhà nước trong XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp cũng như thể hiện cam kết của nhà nước trước xã hội trong

việc cung cấp dịch vụ công có chất lượng dù trong điều kiện nhà nước không trực

tiếp tham gia vào việc cung cấp dịch vụ.

Thứ ba, pháp luật về XHHDVC cơ bản bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ. Các

quy định không có sự mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một lĩnh vực chuyên ngành.

Văn bản do cấp dưới ban hành phù hợp với văn bản do cấp trên ban hành, giữa pháp

luật quy định cụ thể về hoạt động tư pháp với các luật chung điều chỉnh về hoạt động

và quản lý cung cấp dịch vụ công như cán bộ, tài chính, thanh tra, khiếu nại. Các nội

dung thẩm quyền quản lý, quy trình, thủ tục được quy định phù hợp với trách nhiệm

của các cơ quan, tổ chức do pháp luật giao. Pháp luật đã có những quy định cụ thể về

điều kiện, tiêu chuẩn đối với người hành nghề và tổ chức hành nghề thống nhất giữa

tổ chức công lập và ngoài công lập. Các tiêu chuẩn hành nghề của các chức danh có

sự thống nhất tương đối về chuyên môn, nghiệp vụ gắn với kinh nghiệm, thời gian

làm việc trong lĩnh vực đó. Pháp luật cũng quy định thành lập và đăng ký hoạt động

đối với các tổ chức hành nghề theo hướng hoạt động chuyên nghiệp, qua đó bảo đảm

chất lượng các dịch vụ công được cung cấp. Điều kiện, tiêu chuẩn cấp chứng chỉ

hành nghề, bổ nhiệm các chức danh, hay cho phép thành lập đăng ký hoạt động đối

với các tổ chức hành nghề đều được quy định cụ thể, phù hợp với yêu cầu QLNN và

hướng đến bảo đảm chất lượng của các dịch vụ được cung cấp cấp cho người dân dù

được cung cấp bởi các tổ chức thực hiện dịch vụ ngoài công lập.

Thứ tư, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã tạo cơ sở pháp lý

cho việc hình thành và phát triển hệ thống các tổ chức cung cấp dịch vụ sự nghiệp

ngoài công lập, phù hợp với mục tiêu và tạo ra hiệu quả to lớn trong quá trình thực

hiện chủ trương xã hội hóa theo Chiến lược cải cách tư pháp và Chương trình cải

cách tổng thể nền hành chính nhà nước. Đến nay, hệ thống các tổ chức hành nghề

Page 109: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ công đã được hình thành trên thực tế và không

ngừng phát triển. Tính đến hết năm 2015, cả nước đã có 3.520 tổ chức hành nghề luật

sư (tăng 24% so với năm 2011); 895 tổ chức hành nghề công chứng (tăng 78% so với

năm 2011), trong đó có 750 Văn phòng công chứng và 145 Phòng công chứng; 370

Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, với 1.475 Đấu giá viên (tăng hơn 2,7 lần so với

năm 2011); 53 Văn phòng Thừa phát lại với 134 Thừa phát lại, tổng doanh thu là gần

136 tỷ đồng [19, tr.28-31]. Năm 2016, Văn phòng Giám định tư pháp đầu tiên cũng

đã được thành lập [20, tr.18].Kết quả thực hiện các hoạt động dịch vụ công cũng có

sự phát triển đáng kể. Ước tính năm 2015, các luật sư trong nước tham gia 211.153

việc (tăng 14.447 việc so với cung ky năm 2014), nộp thuế gần 59,5 tỷ đồng [19,

tr.28]; các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng được 4.497.971 hợp đồng,

giao dịch (tăng khoảng 30% so vơi năm 2014), đóng góp cho Ngân sách nhà nước

hoặc nộp thuế gần 478 tỷ đồng (tăng gần 178 tỷ đồng so với năm 2014) [19, tr.29].

Năm 2015, các tổ chức bán đấu giá đã tổ chức đấu giá thành 18.821 cuôc (tăng 2.423

cuộc so với năm 2014), nôp ngân sach nha nươc hơn g ần 369 tỷ đồng (tăng 76 tỷ

đồng so với năm 2014) [19, tr.30]. Năm 2015, các Trung tâm TGPL đã thực hiện

140.007 vụ việc TGPL trên tổng số 144.800 vụ việc tiếp tiếp nhận (tăng 35% so với

năm 2014) cho 146.187 lượt người (tăng gần 11% so với năm 2014), trong đó vụ việc

tham gia tố tụng tăng 33% từ 7.611 vụ việc lên 10.148 vụ việc. Tính chung cả nhiệm

kỳ 2011-2015, các Trung tâm TGPL nhà nước đã thực hiện tổng số hơn 620.000 vụ

việc tương ứng với hơn 652.000 lượt người, trong đó có 577.098 vụ việc tư vấn pháp

luật; 36.681 vụ việc tham gia tố tụng; 1.052 vụ việc đại diện ngoài tố tụng; 707 vụ

việc hòa giải và hơn 4.600 vụ việc khác [19, tr.31].Việc hình thành hệ thống cung cấp

dịch vụ ngoài công lập góp phần sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực xã hội, trong đó có

việc giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong phát triển, duy trì tổ chức và

hoạt động của các tổ chức sự nghiệp công lập của Nhà nước. Biên chế của các cơ

quan THADS không tăng trong năm 2015 - 2016. Hệ thống Trung tâm TGPL được rà

soát, không phát triển mới hoặc giảm bớt số lượng các Chi nhánh tại các địa bàn hoạt

động không hiệu quả. Một số địa phương bước đầu cũng đã có thể sáp nhập, giải thể

Page 110: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

các Phòng công chứng Nhà nước như Bắc Giang, Hưng Yên, Lâm Đồng,...Báo cáo

số 20/BC-BTP đánh giá kết quả thực hiện xã hội hóa trong một số lĩnh vực như sau:

So với nhiệm kỳ 2007-2011, việc xã hội hóa, phát triển các nghề trong lĩnh

vực bổ trợ tư pháp đạt được nhiều kết quả cụ thể theo đúng tinh thần cải cách

tư pháp; số lượng luật sư ngày càng được tăng cường, hoạt động ngày càng

chuyên nghiệp; việc thành lập các tổ chức hành nghề công chứng, về cơ bản,

theo đúng quy hoạch, lộ trình, chất lượng dịch vụ được tăng cường. Hoạt động

bổ trợ tư pháp đã góp phần quan trọng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá

nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với thông lệ quốc

tế [19, tr.31].

Thứ năm, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cơ bản đã bảo đảm

được tính công bằng trong cung cấp và thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp. Pháp luật không có sự phân biệt về các điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề cùa

những người hành nghề cung cấp dịch vụ công, không có sự phân biệt về giá trị của

các dịch vụ công được cung cấp bởi các tổ chức dịch vụ ngoài công lập và cũng

không có sự phân biệt trong các yêu cầu, nội dung, trình tự thủ tục cung cấp các dịch

vụ công. Một số chính sách khuyến khích phát triển các tổ chức dịch vụ sự nghiệp

ngoài công lập ở những địa bàn khó khăn cũng được ban hành như trong lĩnh vực

công chứng, Nhà nước bảo đảm duy trì các Chi nhánh của Trung tâm TGPL ở những

địa bàn xa trung tâm, có điều kiện khó khăn...

3.2.4.2. Về hạn chế

Thứ nhất, mặc dù pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã từng

bước được hoàn thiện nhằm điều chỉnh một cách toàn diện các quan hệ xã hội phát

sinh trong quá trình thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nhưng pháp luật vẫn

còn thiếu các quy đinh cụ thể nên dẫn đến những lúng túng, khó khăn trong thực hiện.

Rà soát theo từng nhóm quy phạm cấu thành nội dung pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp cho thấy cần thiết phải tiếp tục có những quy định thể cho việc thực

hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo các hình thức khác trên cơ sở kết hợp

giữa chuyển giao và thu hút các nguồn lực xã hội tham gia cung cấp dịch vụ công;

quy định cụ thể về chính sách khuyến khích xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công

Page 111: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là đối với những nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội

nhằm bảo đảm quyền tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công một cách bình đẳng. Trong

công tác QLNN, pháp luật còn thiếu các quy định cụ thể về thực hiện các nhiệm vụ

QLNN, phân định và phối hợp giữa QLNN với tự quản của các tổ chức xã hội nghề

nghiệp và tiêu chí, quy trình đánh giá chất lượng dịch vụ công trên cơ sở kết hợp giữa

cơ quan quản lý và đối tượng thụ hưởng dịch vụ.

Thứ hai, pháp luật XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp vẫn còn những quy định

mâu thuẫn, chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong thực hiện, trong đó có quy

định về tổ chức và hoạt động tư pháp và chính sách xã hội hóa dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp. Do thiếu một văn bản quy định khung về các nội dung xã hội hóa

nên thực tế pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp hiện nay chỉ bao gồm tập

hợp các quy định nằm trong các văn bản khác nhau, gắn với đặc thù của từng lĩnh

vực, từng hoạt động cụ thể, chưa có sự liên kết, kết nối giữa các lĩnh vực với nhau và

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp với các lĩnh vực khác, ví dụ như các

quy định về cơ chế tổ chức và hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực

tư pháp, quy định về xác định phí và chi phí trong cung cấp dịch vụ công… Các văn

bản này có hiệu lực pháp lý khác nhau nên dẫn đến những khó khăn nhất định trong

việc nắm bắt và thực hiện. Chính sách khuyến khích xã hội hóa mới chỉ được áp dụng

cho lĩnh vực GĐTP theo Nghị định số 54/2014/NĐ-CP. Đồng thời, do đặc thù của

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một quá trình chuyển đổi dần dần nên dẫn đến

việc các quy định thường được sửa đổi, bổ sung trong thời gian từ 03 đến 05 năm

hoặc trong cùng một thời điểm tồn tại các mặt bằng pháp lý khác nhau để điều chỉnh

hoạt động của loại hình dịch vụ công đó (ví dụ như thừa phát lại có 3 loại văn bản

điều chỉnh đối với hoạt động THADS, tống đạt giấy tờ và lập vi bằng; công chứng có

2 loại văn bản về công chứng và chứng thực bản sao của văn phòng công chứng). Các

tổ chức Thừa phát lại vẫn hoạt động dựa trên các quy định, hướng dẫn thí điểm.

Cho đến nay, đã gần 02 năm thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại theo Nghị

quyết của Quốc hội nhưng Chính phủ vẫn đang áp dụng các Nghị định về tổ chức

thí điểm, chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới đáp ứng yêu

cầu hoạt động của các tổ chức Thừa phát lại [87, tr.20].

Page 112: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Thứ ba, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn tồn tại những quy

định mang tính hình thức, thiếu khả thi, hạn chế về kỹ thuật về kỹ thuật lập pháp.

Nhìn chung, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được xây dựng, ban hành

phù hợp với các quy định của Luật ban hành văn bản QPPL về trình tự, thủ tục cũng

như thể thức, kỹ thuật văn bản nhưng vẫn còn một số quy định hạn chế về kỹ thuật

thể hiện nên dễ dẫn đến tình huống chưa rõ ràng, thuận lợi trong thực hiện hoặc tùy

nghi trong thực hiện. Đáng chú ý là nhiều nguyên tắc trong cung cấp dịch vụ công

bình đẳng, có chất lượng mặc dù được quy định nhưng thiếu các biện pháp, giải pháp

quản lý cụ thể nên dẫn hạn chế trong cung cấp các dịch vụ công có chất lượng như

tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, không tuân thủ đầy đủ quy trình thực hiện

cung cấp dịch vụ công dẫn đến sai phạm, ảnh hưởng quyền và lợi ích chính đáng của

khách hàng, chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân, trong

nhiều trường hợp còn dẫn đến những thiệt hại cho Nhà nước. Nhìn chung, các cơ chế,

chính sách khuyến khích, thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong cung cấp

các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đều đã được quy định nhưng chưa có các quy

định ưu đãi đặc thù về thuế, phí, lệ phí, cơ chế giao việc theo đặt hàng của Nhà

nước….nhằm thực sự khuyến khích sự đầu tư trong lĩnh vực này.

3.2.5. Nguyên nhân của nhữngtồn tại, hạn chế của pháp luật về xã hội hóa

dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp

3.2.5.1. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền với thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa là những vấn đề lớn, mới, chưa có tiền lệ. Hệ thống pháp luật

nói chung, trong đó pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp chịu ảnh hưởng

bởi các yếu tố về chính trị - tư tưởng, kinh tế - xã hội, được xây dựng và hoàn thiện

trong điều kiện vừa phải bảo đảm tính dự báo, chuyển đổi, vừa tìm tòi, rút kinh

nghiệm nên khó tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Mặc dù công cuộc đổi mới đất

nước đã trải qua gần 30 năm, song đó là khoảng thời gian chưa dài cho đổi mới lý

luận, tích lũy kinh nghiệm thực tiễn xây dựng khung pháp luật có hiệu lực, hiệu quả,

điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Nhiều cơ chế, chính sách mới được vận hành chưa

được kiểm định thực tiễn nên khó có thể dự báo được đầy đủ tác động, từ đó, dẫn đến

Page 113: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

một số quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật còn chung chung hoặc khi

được ban hành chưa phát huy đầy đủ trong thực tiễn.

Thứ hai, dịch vụ công, XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp nói riêng là vấn đề mới ở Việt Nam, được đặt ra trong bối cảnh đổi mới tổ chức

và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của

thực tiễn đời sống xã hội. Bản thân vấn đề dịch vụ công mặc dù có sự thống nhất nhất

định trong cách hiểu về tính chất, ý nghĩa nhưng phạm vi cụ thể lại có sự khác biệt

giữa các quốc gia và còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội cũng như chịu ảnh

hưởng bởi các quan điểm chính trị, pháp lý trong từng giai đoạn. Do đó, nhiều nội

dung có sự điều chỉnh, phát triển qua từng thời kỳ nhất định và đặt ra yêu cầu luôn

luôn phải có sự nghiên cứu, rà soát và hoàn thiện pháp luật cho phù hợp. Ví dụ như

công chứng trước đây luôn được gắn liền với chứng thực và là trách nhiệm của Nhà

nước trong xác nhận tính xác thực của các bản sao. Nhưng hiện nay, công chứng lại

được tách ra khỏi chứng thực và trở thành phạm trù của dịch vụ thương mại. Trong

trường hợp thừa phát lại, mặc dù đã được thực hiện ở Việt Nam từ thời kỳ Pháp thuộc

nhưng đến nay khi nghiên cứu và xây dựng chế định thừa phát lại, trải qua các quá

trình thí điểm thì một trong những thách thức đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật vẫn

là nhận thức và hiểu biết của không chỉ người dân mà còn cả của đội ngũ cán bộ làm

công tác xây dựng pháp luật về khái niệm thừa phát lại. Quá trình thay đổi nhận thức trên

cơ sở thực tiễn kinh tế - xã hội nói trên được phản ánh và thể hiện qua quá trình xây

dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản QPPL cụ thể để không ngừng hoàn thiện pháp luật

điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Thứ ba, các điều kiện bảo đảm cho công tác xây dựng pháp luật còn chưa đáp

ứng được với yêu cầu. Điều kiện trước hết là nguồn nhân lực cho công tác xây dựng

pháp luật còn nhiều hạn chế, đặc biệt đây là một yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến

quá trình hoàn thiện pháp luật. Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách

còn thấp, đa số là hoạt động kiêm nhiệm ở các cơ quan, địa phương nên thời gian

dành cho công tác xây dựng pháp luật cũng còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ, công chức

trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng, soạn thảo, thẩm định văn bản QPPL của

Quốc hội, các bộ, ngành, các cơ quan thẩm định, thẩm tra còn mỏng, tính chuyên

Page 114: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

nghiệp chưa cao, năng lực, trình độ nhận diện vấn đề và kỹ năng phân tích, dự báo,

xây dựng chính sách, kỹ năng soạn thảo QPPL còn nhiều bất cập.

Cùng với đó là các điều kiện tài chính, ngân sách bảo đảm cho việc thực hiện

các công việc của quá trình xây dựng pháp luật. Hiện nay, trong Luật ban hành văn

bản quy phạm pháp luật năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều quy định

về kinh phí cho công tác xây dựng văn bản QPPL và được bố trí trong ngân sách nhà

nước. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm đây chỉ là mức kinh phí hỗ trợ nên khi ban

hành các quy định về kinh phí cho công tác xây dựng văn bản QPPL thì định mức,

tiêu chuẩn chi cho công tác xây dựng pháp luật mặc dù đã được từng bước nâng lên

nhưng vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu. Thực tế cho thấy, nhiều nội dung đổi mới

trong quy trình xây dựng văn bản QPPL theo Luật ban hành văn bản QPPL năm 2008

khó có thể triển khai thực hiện với định mức kinh phí được quy định, đặc biệt là việc

đánh giá tác động kinh tế - xã hội của văn bản TGPL, việc tham vấn, lấy ý kiến của

nhân dân, đặc biệt là những đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo văn bản.

3.2.5.2. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, công tác xây dựng, hoạch định chính sách cho thực hiện XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp chưa được thực hiện một cách hiệu quả, có tính chiến lược, phù

hợp với tính chất, đặc điểm và yêu cầu phát triển của dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp. Chính sách là những định hướng lớn cho các hoạt động khác nhau của cơ quan

nhà nước, trong đó có hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Như đã trình bày tại

Chương II, thuật ngữ xã hội hóa gắn liền với công việc có thể được xem là một trong

những nội dung đặc thù của Việt Nam, đặc biệt là trong mối liên hệ về vai trò của Nhà

nước trong xã hội và định hướng cải cách, đổi mới của bộ máy nhà nước. Cùng với đó,

trong lĩnh vực tư pháp, khác với các dịch vụ công khác, các dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp có mối liên hệ với các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc thực

hiện các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp không chỉ phục vụ cho các yêu cầu

QLNN mà còn phục vụ cho công tác xét xử, giúp cho việc xét xử bảo đảm khách quan,

chính sách. Tuy nhiên, trong thời gian qua, chúng ta chưa có một chính sách, chiến

lược chung cho việc XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Mỗi lĩnh vực đều có định

hướng riêng. Mặc dù việc xác định định hướng riêng này sẽ bảo đảm đáp ứng được với

Page 115: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực và theo nhu cầu của xã hội nhưng lại dẫn đến những

khiếm khuyết, thiếu sót trong xây dựng cơ chế, chính sách và phát sinh bất cập trong

quá trình thực hiện, chưa tạo ra sự kết nối, kế thừa thành tựu của các loại dịch vụ công

khác nhau. Đây cũng chính là nguyên nhân phải liên tục sửa đổi, ban hành mới các văn

bản pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành trong thời gian vừa qua.

Thứ hai, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm

vụ quản lý nhà nước cũng như tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp – chưa đúng đắn và đầy đủ, đặc biệt là về vai trò của XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp. Đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ QLNN đối với các dịch vụ công

có nhiệm vụ trong việc xây dựng chính sách, soạn thảo văn bản QPPL về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp. Nhận thức của đội ngũ cán bộ là yếu tố về con người nhưng

cũng đồng thời bao hàm yếu tố chính trị, tư tưởng ảnh hưởng đến việc hoàn thiện

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại phổ biến

quan niệm coi xã hội hóa chỉ là một giải pháp để giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước

mà chưa gắn với trách nhiệm của Nhà nước với xã hội trong cung cấp dịch vụ công.

Điều này dẫn đến tư duy trong xây dựng pháp luật chỉ tập trung vào việc chuyển giao

cung cấp các dịch vụ công cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội hoặc chỉ chú trọng

đến yếu tố tự bảo đảm kinh phí cho hoạt động của các tổ chức đó mà chưa tính đến

những yếu tố khuyến khích cung cấp chất lượng dịch vụ công có chất lượng và trách

nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm chất lượng các dịch vụ dù được cung cấp

bởi Nhà nước hay các chủ thể phi Nhà nước.

Ngược lại thì có một bộ phận có tâm lý thụ động, coi dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp là địa hạt riêng của Nhà nước, không muốn ảnh hưởng đến quyền và lợi

ích của mình nên không muốn xã hội hóa, chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân thực

hiện. Điều này dẫn đến việc hoàn thiện pháp luật làm cơ sở cho việc thực hiện

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp còn chậm, chưa kịp thời với yêu cầu của đời sống

xã hội (như trong lĩnh vực giám định tư pháp, TGPL, thừa phát lại). Rộng hơn, đây

cũng là lý do dẫn đến việc thực thi pháp luật, thực hiện chuyển giao, xã hội hóa trong

một số hoạt động cụ thể còn chậm, chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Chẳng hạn

đối với hoạt đông công chứng, chứng thực, nhiều địa phương không muốn thực hiện

Page 116: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

chuyển giao việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch sang cho các tổ chức hành nghề

công chứng mà tiếp tục thực hiện việc chứng nhận tại Ủy ban nhân dân. Thực tế vẫn

còn tâm lý e ngại của nhiều cơ quan nhà nước đối với các dịch vụ công do các tổ

chức, cá nhân cung cấp nên cũng gây những cản trở nhất định đối với việc XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp.

Thứ ba, công tác rà soát, hệ thống hóa, kiểm tra văn bản, pháp điển hệ thống

QPPL và theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực tư pháp còn chưa được quan tâm

đúng mức. Đây là những hoạt động diễn ra sau khi một văn bản cụ thể được ban hành

nhằm mục đích tập hợp, hệ thống hóa, rà soát, đánh giá văn bản đó gắn với hiệu quả

thực thi trên thực tế để qua đó tiếp tục hoàn thiện cũng như nâng cao hiệu quả thi

hành của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay, công tác rà soát, hệ thống hóa tổng thể về

các QPPL liên quan đến XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp vẫn chưa được thực hiện.

Từ năm 2014, Pháp lệnh pháp điển hệ thống QPPL đã được ban hành. Pháp điểnlà

việc cơ quan nhà nước rà soát, tập hợp, sắp xếp các QPPL đang còn hiệu lực trong

các văn bản QPPL do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành, trừ Hiến pháp, để

xây dựng Bộ pháp điển. Việc xây dựng được Bộ pháp điển sẽ có ý nghĩa hết sức quan

trọng đối với việc hệ thống hóa pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện

cũng như đánh giá về hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và đối với từng lĩnh vực

nói riêng.Tuy nhiên, đến nay thì đề mục pháp điển liên quan đến hoạt động trong các

lĩnh vực tư pháp, bao gồm nội dung xã hội hóa chưa được hoàn thành.

Bên cạnh công tác rà soát, hệ thống hóa, pháp điển là công tác theo dõi thi hành

pháp luật. Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 của Chính phủ quy định về

theo dõi thi hành pháp luật xác định theo dõi tình hình thi hành pháp luật nhằm xem

xét, đánh giá thực trạng, kiến nghị thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành

pháp luật và có những kiến nghị ngược trở lại để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Thực tế hiện nay, do đây cũng là công tác mới được thực hiện nên cũng còn thiếu

những công cụ cần thiết cho việc đánh giá, đo lường hiệu quả thực hiện trên thực tế.

Việc đánh giá còn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của các cơ quan QLNN nên

trong nhiều trường hợp chưa xác định được những định hướng, yêu cầu sửa đổi, hoàn

thiện pháp luật một cách khách quan, dựa trên nhu cầu cụ thể của đời sống xã hội.

Page 117: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

1. Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung,

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã được đẩy mạnh hoàn thiện theo yêu

cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở Việt Nam.

2. Đánh giá chung cho thấy pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở

Việt Nam hiện nay đã được hình thành, phát triển và điều chỉnh tương đối toàn diện

các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Pháp

luật đã tạo cơ sở pháp lý cho sự tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội gắn với trách nhiệm của Nhà nước trong

việc bảo đảm cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp một cách công

bằng, liên tục, ổn định và có chất lượng. Đến nay, hầu hết các dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp đã được xã hội hóa với các mức độ phù hợp với đặc thù của từng

lĩnh vực và theo yêu cầu cải cách tư pháp. Hệ thống các tổ chức và đội ngũ cán bộ

có chức danh tư pháp hành nghề cung cấp dịch vụ công đã được hình thành và ngày

càng được củng cố, phát triển.

3. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn và trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư

pháp, cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo và phục vụ thì

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập.

Pháp luật vẫn còn thiếu các quy đinh cụ thể nên dẫn đến những lúng túng, khó khăn

trong thực hiện, đặc biệt là các nội dung, nhiệm vụ QLNN, kiểm soát chất lương đối

với dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp trong điều kiện xã hội hóa. Pháp luật

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng còn những quy định mâu thuẫn, chưa bảo

đảm tính thống nhất, đồng bộ trong thực hiện. Một số quy định còn mang tính hình

thức, thiếu khả thi và hạn chế về kỹ thuật lập pháp.

4. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập bắt nguồn từ nguyên nhân khách

quan và chủ quan. Đây là cơ sở để Luận án đưa ra các quan điểm, giải pháp cho việc

hoàn thiện pháp luật tại Chương 4.

Page 118: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Chƣơng 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ

CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm hoạt động

xây dựng, ban hành văn bản QPPL mới, sửa đổi những quy định không còn phù hợp,

bổ sung các quy định còn thiếu cũng như loại bỏ những quy định mâu thuẫn, sai trái

với văn bản cấp trên hay không phù hợp với thực tiễn nhằm xây dựng hệ thống pháp

luật đồng bộ, thống nhất, có chất lượng. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp có sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội

và của đông đảo nhân dân và để đạt được mục tiêu đề ra thì cần quán triệt thực hiện

các quan điểm sau:

4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ

pháp phải bảo đảm thể chế hóa quan điểm của Đảng về thực hiện xã hội hóa

dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp trong điều kiện cải cách hành chính, cải

cách tƣ pháp và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam

XHHDVC là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong điều kiện

xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu

quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong thời gian qua, pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp đã từng bước được hoàn thiện cùng với quá trình hoàn thiện

pháp luật nói chung và để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội khi thực

hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, “đi

sau” các bước phát triển của thực tiễn. Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục

hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp để đáp ứng yêu cầu của đời

sống xã hội và QLNN.

Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải thể hiện được

đầy đủ chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về những định hướng

Page 119: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền.

Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII khẳng định quan điểm đổi

mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công theo hướng nâng cao

chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính, xã hội

hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này

đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng như phục vụ nhu cầu của người dân

[6, tr.107]. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC để thực hiện tốt hơn chức năng của

Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường; phân định

rõ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích. Nhà nước tham gia

vào việc cung ứng các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ thiết yếu mà khu vực kinh tế tư

nhân chưa làm hoặc không muốn làm [5]. Pháp luật xác định vai trò của trong việc

Nhà nước định hướng xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường bình

đẳng, minh bạch và lành mạch, sử dụng các nguồn lực Nhà nước để định hướng và

điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường, thực hiện

tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển, phù hợp với

phương châm xây dựng một Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ nhân dân, tháo

gỡ khó khăn cho doanh nghiệp góp phần tăng năng lực cạnh tranh của quốc gia và

từng địa phương.

Trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải phù

hợp với yêu cầu hoàn thiện pháp luật nói chung. Theo đó, hoàn thiện pháp luật phải

bảo đảm gắn kết với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Pháp luật vừa là công cụ để nhà nước quản

lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà

nước; QLNN bằng pháp luật đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

Trong lĩnh vực tư pháp, yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xác định

tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong

sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công

lý, quyền con người, quyền công dân... Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp để tiếp tục xã hội hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ

Page 120: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

điều kiện nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động luật sư, bổ trợ tư pháp [6],

hướng đến mục tiêu “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp (luật sư,

công chứng, giám định, cảnh sát tư pháp...) theo hướng ngày càng đầy đủ, thuận lợi

các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội

hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp QLNN với tự quản của các tổ

chức xã hội nghề nghiệp” [39].

4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ

pháp tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp hợp lý trên cơ sở huy động các nguồn lực trong xã hội, phục vụ

tốt hơn nhu cầu của người dân và thực hiện trách nhiệm của Nhà nước

XHHDVC nói chung và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp nói riêng là cách

thức tổ chức lại việc cung ứng dịch vụ công, xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ

công hợp lý trên cơ sở phân định giữa quản lý và thị trường, giữa vai trò, trách nhiệm

của Nhà nước và khả năng tham gia của xã hội trong cung ứng dịch vụ công. Thực tế

cho thấy quá trình xã hội hóa các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đã phân công

lại việc thực hiện và cung cấp các dịch vụ công. Nhà nước xác định đúng các công

việc Nhà nước cần thực hiện và những công việc có thể do xã hội thực hiện đã được

được chuyển giao cho xã hội thực hiện. Kết quả là Nhà nước có điều kiện tập trung

hơn vào các công việc của mình và huy động được các nguồn lực trong xã hội để

cung cấp các dịch vụ công. Người dân có điều kiện tiếp cận với dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp thuận lợi hơn, phù hợp với nhu cầu đa dạng của cá nhân hơn, qua đó

góp phần tạo ra những điều kiện tốt hơn cho việc tuân thủ pháp luật, phòng ngừa các

vi phạm, bảo vệ pháp luật, giúp cho công tác xét xử, tìm ra sự thật, bảo vệ công bằng,

lẽ phải trong xã hội. Nhận thức được những lợi ích mà xã hội hóa cung cấp các dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp có thể mang lại, Chương trình tổng thể cải cách hành

chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP

ngày 6/11/2011 đã xác định: “chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính

nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ

chức phi chính phủ đảm nhận”[29, tr.2].

Page 121: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải tạo ra không

gian pháp lý cho việc xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ công hợp lý. Sự tham gia

của các tổ chức, cá nhân làm giảm sức ép về cung cấp dịch vụ công lên các cơ quan

nhà nước và qua đó giúp cho Nhà nước có thể tập trung nguồn lực cho việc thực hiện

các công việc thuộc chức năng của Nhà nước, tập trung nguồn lực để mở rộng, nâng

cao chất lượng dịch vụ tại những địa phương mà khu vực phi Nhà nước chưa thu hút

được sự tham gia của các tổ chức, cá nhân. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với

đặc trưng là sự tham gia của tất cả các tổ chức, cá nhân vào hoạt động sản xuất, kinh

doanh và khi đã được chuyển giao cho các chủ thể trong xã hội thực hiện thì cung cấp

dịch vụ công đối với những chủ thể đó cũng được coi là môt hình thức đầu tư tìm

kiếm lợi nhuận. Mặt khác, quá trình xã hội hóa cũng là quá trình làm cho các hoạt

động dịch vụ công được vận hành theo cơ chế thị trường. Theo đó vai trò quản lý của

Nhà nước là để bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công theo đúng bản chất, chức năng

xã hội của nó. Do đó, pháp luật cần cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc khuyến khích, huy

động các nguồn lực trong xã hội tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công. Pháp luật

phải quy định cụ thể, rõ ràng về điều kiện của các chủ thể trong xã hội tham gia vào

việc cung cấp dịch vụ công gắn với các tiêu chí về chất lượng dịch vụ được cung cấp.

Pháp luật cũng cần tạo cơ chế đa dạng cho sự tham gia của các chủ thể trong xã hội

theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó khuyến khích việc cung cấp dịch vụ công vì

mục đích xã hội, phi lợi nhuận với các cơ chế hỗ trợ, ưu đãi thuận lợi hơn cho các

hình thức này. Pháp luật bảo đảm về quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể khi tham gia

vào việc cung ứng dịch vụ công, thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ

quyền lợi của các chủ thể khi đã đầu tư cho việc cung cấp dịch vụ công, tham gia

cùng với Nhà nước thực hiện các công việc của xã hội.

4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ

pháp bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật và quy định về

các lĩnh vực hoạt động tư pháp theo yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam

Thứ nhất, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một bộ phận của

hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

Page 122: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

lĩnh vực tư pháp bảo đảm không chồng chéo, mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật,

hướng đến mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công

khai, minh bạch [37]. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng đồng thời phải bảo đảm tính tương thích với

các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, đặc biệt là các cam kết có

liên quan đến việc mở cửa và các chính sách thuế quan đối với việc cung cấp các dịch

vụ pháp lý.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp thống nhất,

đồng bộ với pháp luật về XHHDVC nói chung, bảo đảm cho việc xã hội hóa và thực

hiện các hoạt động dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đều được điều chỉnh bằng

pháp luật. Pháp luật cần có các hình thức, nội dung huy động sự tham gia của xã hội

vào việc cung ứng dịch vụ công, hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ,

phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ trong các quy định về trách nhiệm

của Nhà nước trước xã hội trong cung cấp dịch vụ. Trách nhiệm này không chỉ được

thể hiện ở khía cạnh Nhà nước tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công đầy đủ cho

người dân mà còn ở khía cạnh xác định thống nhất trách nhiệm QLNN của các cơ

quan nhà nước có liên quan phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ

quan trong việc quản lý để bảo đảm chất lượng các dịch vụ công được cung cấp đến

người dân dù dịch vụ đó được cung cấp bởi chủ thể là các cơ quan Nhà nước hay các

cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải bảo

đảm tính đồng bộ, thống nhất với quy định về các lĩnh vực hoạt động tư pháp, thống

nhất với các nguyên tắc trong thực hiện quyền tư pháp. Pháp luật phải tạo cơ sở pháp

lý cho sự tham gia của các chủ thể phi Nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp. Khi đã đáp ứng các điều kiện và tham gia vào việc cung

cấp các dịch vụ này thì các chủ thể phi Nhà nước cũng sẽ có các quyền, nghĩa vụ tương

ứng và không phân biệt giữa các chủ thể là Nhà nước hay phi Nhà nước. Các chủ thể

cùng có trách nhiệm trong việc thực hiện thống nhất các quy trình, thủ tục, bảo đảm chất

lượng dịch vụ cung cấp cho xã hội, đồng thời tuân thủ nguyên tắc độc lập và chịu trách

Page 123: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

nhiệm trước pháp luật về thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình và cùng thực hiện

các nghĩa vụ trong việc bảo vệ pháp luật, bảo đảm công bằng, công lý trong xã hội.

4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của cơ quan, tổ chức cung ứng

và lợi ích của người thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Dịch vụ công hướng tới lợi ích của đa số dân chúng và góp phần vào việc giải

quyết các vấn đề xã hội. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp còn có nhiệm vụ góp

phần bảo vệ pháp luật, công bằng và công lý trong xã hội. Việc hài hòa giữa lợi ích

chung và lợi ích của từng cá nhân, tổ chức có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là khi có

các chủ thể khác nhau tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công với các mục tiêu khác

nhau. Do đó, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải bảo đảm

hài hòa được lợi ích của Nhà nước, người thực hiện dịch vụ công và người dân với

vai trò là đối tượng thụ hưởng dịch vụ công trong quản lý, cung cấp và sử dung dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Về phía Nhà nước, việc tổ chức cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

là một phần trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội, vừa phục vụ nhu cầu của người

dân, vừa phục vụ các mục tiêu quản lý xã hội của Nhà nước. Nhiều chủ thể tham gia

cung cấp dịch vụ công sẽ tạo ra sự cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, phục vụ

tốt hơn nhu cầu của người dân. Tuy vậy, dù Nhà nước không trực tiếp cung cấp dịch

vụ nhưng Nhà nước vẫn là chủ thể chịu trách nhiệm trước xã hội về việc cung cấp

dịch vụ đó. Vì trách nhiệm này mà khi xây dựng các văn bản QPPL, các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền thường bị chi phối bởi các mục tiêu QLNN mà cơ quan đó có

trách nhiệm hoàn thành. Ví dụ như nếu quá chú trọng đến việc kiểm soát trực tiếp việc

cung cấp dịch vụ công thì sẽ hạn chế tính tích cực và làm nản lòng các chủ thể phi Nhà

nước muốn tham gia cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, không tạo

thuận lợi cho việc cung cấp dịch vụ công cũng như thụ hưởng của người dân.

Về phía các tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ công, các chủ thể này

thường mong muốn đạt được những lợi ích nhất định, trong đó có những lợi ích vật

chất và phi vật chất. Những chủ thể tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công

chuyên nghiệp càng đứng trước yêu cầu của việc duy trì và phát triển tổ chức, tối đa

Page 124: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

hóa lợi nhuận để có thể duy trì hoạt động kinh doanh, đầu tư. Tuy vậy, bản chất của

dịch vụ công là các dịch vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu của người dân, vì lợi ích chung

của xã hội. Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp càng phải đáp ứng yêu cầu phục vụ

mục tiêu bảo vệ pháp luật, công bằng, lẽ phải trong xã hội. Việc hình thành và vận

hành các tổ chức cung cấp dịch vụ công chuyên nghiệp cũng cần hướng tới mục tiêu

này vì đây cũng là lý do cho việc tồn tại và duy trì các dịch vụ công trong xã hội.

Về phía người dân là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu và sử dụng dịch vụ công.

Trong bối cảnh xã hội hóa, có nhiều chủ thể tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công

thì tổ chức, cá nhân là đối tượng thụ hưởng sẽ có điều kiện để lựa chọn các tổ chức

cung cấp dịch vụ công trên cơ sở nhu cầu và khả năng của mình. Nhưng người thụ

hưởng dịch vụ công cũng có thể bị hạn chế lợi ích và nhu cầu của mình nếu như

những yêu cầu đó ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước hoặc không phù hợp với lợi

ích của số đông trong xã hội. Với dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật phải

bảo đảm sự tham gia cung cấp hay thụ hưởng dịch vụ công không chỉ thỏa mãn nhu

cầu của cá nhân mà còn phải hướng tới chức năng của dịch vụ công trong thực hiện

và bảo vệ pháp luật.

4.1.5. Bảo đảm bình đẳng, công bằng giữa các cá nhân, tổ chức trong việc

yêu cầu, tiếp cận, thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phục vụ cho việc bảo vệ các quyền và lợi

ích chính đáng của người dân. Quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp làm cho

việc cung cấp dịch vụ công phải vận hành theo cơ chế thị trường và tất yếu tạo ra sự

khác biệt khi tiếp cận và thu hưởng dịch vụ công của từng nhóm cá nhân, tổ chức trong

xã hội. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải gắn liền

với nguyên tắc bình đẳng của mọi cá nhân, tổ chức trong thụ hưởng dịch vụ công. Điều

này được thể hiện trên phương diện sau:

Thứ nhất, các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là dịch vụ cần thiết cho việc

thực hiện cũng như bảo vệ quyền của người dân trước pháp luật, là công cụ hỗ trợ đắc

lực cho công tác xét xử, bảo vệ pháp luật của Nhà nước. Do đó, pháp luật trước hết

phải bảo đảm việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đầy đủ cho người dân.

Về nguyên tắc, việc bảo đảm cung cấp dịch vụ công cho xã hội là trách nhiệm của Nhà

Page 125: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

nước. Ngay cả khi thực hiện xã hội hóa, giao cho các chủ thể, cá nhân phi Nhà nước

thực hiện thì Nhà nước vẫn là người chịu trách nhiệm cho việc cung cấp dịch vụ công

một cách đầy đủ, liên tục.

Thứ hai, pháp luật bảo đảm cho các dịch vụ công được cung cấp có chất lượng

như nhau dù cho dịch vụ được cung cấp bởi chủ thể là các cơ quan, tổ chức của Nhà

nước hay các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Sự thống nhất này được thể hiện ở các

quy định về tiêu chuẩn và quy trình cung cấp dịch vụ công cũng như kiểm soát chất

lượng và khuyến khích các giải pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ công hoặc tạo

thuận lợi hơn cho người dân trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp.

Thứ ba, trong lĩnh vực tư pháp, nguyên tắc bình đẳng còn được thể hiện ở các

quy định bảo đảm bình đẳng cho các chủ thể đều có điều kiện tiếp cận và sử dụng

dịch vụ công khi có nhu cầu. Pháp luật không có sự khác biệt hoặc phân biệt đối xử

liên quan đến chi phí, đặc điểm riêng về thể chế, điều kiện sống để cản trởsự thụ

hưởng dịch vụ công của người dân. Pháp luật còn cần thiết phải bao gồm các chính

sách hỗ trợ, trợ giúp cho những người có điều kiện khó khăn, đối tượng yếu thế trong

xã hội trong việc tiếp cận với dịch vụ công. Hay nói cách khác là cần có các biện

pháp khuyến khích phát triển dịch vụ công ở những nơi, những khu vực có điều kiện

khó khăn hoặc thậm chí Nhà nước vẫn sẽ phải trực tiếp thực hiện những dịch vụ công

nhất định dù trong điều kiện đã xã hội hóa.

4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

VỤ CÔNG TRONG LĨNH VỰC TƢ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.2.1. Thực hiện nghiên cứu toàn diện về dịch vụ công và xã hội hóa dịch

vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp nhằm cung cấp các vấn đề lý luận và thực tiễn

cũng nhƣ đổi mới nhận thức về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp

Dịch vụ công và XHHDVC là phạm trù lịch sử. Quan niệm, phạm vi và cách

thức xác định dịch vụ công và XHHDVC có những khác biệt nhất định ở các quốc

gia, tùy thuộc vào từng điều kiện và giai đoạn cụ thể. Ở Việt Nam, dịch vụ công gắn

với XHHDVC là vấn đề còn khá mới mẻ nhưng hiện nay đang thu hút được sự quan

tâm nghiên cứu chung trong bối cảnh xây dựng, hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị

Page 126: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

trường và đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Tuy nhiên, do đặc thù về

điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể nên khái niệm về XHHDVC của Việt Nam cũng có

những khác biệt nhất định. Sự khác biệt này xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của

Việt Nam nhưng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay thì việc nghiên cứu, tìm

hiểu để có thống nhất trong cách hiểu và định hướng hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh

vực này là hết sức cần thiết.

Dịch vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp mặc dù mới được thực hiện

nhưng đang diễn ra khá mạnh mẽ cùng với quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà

nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Thời gian qua đã có

các nghiên cứu về dịch vụ công và XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp từ các khía

cạnh, cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên thực tế cho thấy các nghiên cứu này mới

tập trung vào từng lĩnh vực hoạt động tư pháp như công chứng, thi hành án, luật sư,

phổ biến giáo dục pháp luật... mà chưa có nghiên cứu tổng thể, toàn diện về dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp. Điều này dẫn đến những lúng túng khi xác định định

hướng, lộ trình hoàn thiện và cả những hạn chế về nội dung trong pháp luật về

XHHDVC. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu toàn diện, tổng thể về

các hoạt động tư pháp với ý nghĩa là các dịch vụ công là hết sức cần thiết nhằm đổi

mới nhận thức về pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Kết quả

nghiên cứu sẽ cung cấp các tri thức khoa học về XHHDVC, bao gồm đặc điểm, bản

chất, cách thức, xu hướng vận động phát triển… Các tri thức này sẽ cho phép các nhà

quản lý đánh giá được sự phù hợp của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp

và từ đó chỉ ra sự cần thiết của việc ban hành hay sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn

bản QPPL hiện hành về XHHDVC. Kết quả nghiên cứu cũng cung cấp các thông tin

khoa học để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng trong quá trình đề xuất lộ

trình hoàn thiện pháp luật cũng như xây dựng, soạn thảo văn bản QPPL về

XHHDVC, xác định quy mô, phạm vi ban hành hay sửa đổi văn bản, hình thức, nội

dung của từng văn bản cụ thể.

Để đáp ứng với yêu cầu hoàn thiện pháp luật, việc nghiên cứu về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện ở khía cạnh nghiên cứu lý luận cơ bản, toàn

diện gắn với bối cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Việc nghiên cứu cần

Page 127: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

khai thác, sử dụng các kết quả nghiên cứu đã thực hiện, trong đó lưu ý so sánh, đối

chiếu, tiếp thu kết quả nghiên cứu quốc tế để tạo ra sự tiệm cận trong quan niệm về

dịch vụ công và XHHDVC nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng của Việt

Nam với các nước trên thế giới. Mặc dù thực tế cho thấy có những điểm khác biệt,

thậm chí là khác biệt cơ bản, tồn tại trong các quan điểm, nghiên cứu khác nhau

nhưng trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì đây là nội dung hết sức cần thiết để có định

hướng hoàn thiện pháp luật bảo đảm sự phù hợp, tương thích giữa pháp luật Việt

Nam với pháp luật quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam đã gia nhập, ký kết các hiệp định

thương mại thế hệ mới gắn với cam kết về mở cửa thị trường, thuế quan, minh bạch

hóa, phòng chống tham nhũng… Việc nghiên cứu cũng cần đặt trong bối cảnh xây

dựng một nền hành chính hiện đại theo hướng kiến tạo và phục vụ thay cho nền hành

chính quan liêu, cai trị. Trong quan niệm của nhiều nhà quản lý, thực tiễn cũng như

khoa học của Việt Nam hiện nay đều coi xã hội hóa thường chỉ là quá trình chuyển

giao các công việc của Nhà nước cho xã hội thực hiện nhằm giảm bớt các công việc

của Nhà nước, chuyển giao cho xã hội thực hiện những công việc do xã hội thực hiện

hoặc có thể thực hiện để nhằm giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Việc chuyển giao

này cũng để Nhà nước có điều kiện tập trung vào những công việc phải do Nhà nước

thực hiện. Tuy nhiên, xuất phát từ quan niệm rất cơ bản của xã hội hóa, nếu xem xét

Nhà nước như một thực thể trong xã hội và xã hội hóa là quá trình chuyển hóa từ tính

chất cá nhân thành tính chất xã hội [35] thì quá trình xã hội hóa Nhà nước có thể

được xem như là quá trình xã hội hóa một cá thể. Trong quá trình đó, Nhà nước tiếp

thu và phản ánh những giá trị xã hội trong thực thể của mình. Việc tiếp cận này sẽ

giúp cho chúng ta có cái nhìn khách quan, toàn diện về xã hội hóa và xác định đây là

quá trình tất yếu, diễn ra trong sự tương tác qua lại giữa Nhà nước và xã hội. Vì vậy,

thay vì chỉ tập trung vào xác định xã hội hóa các địa hạt, lĩnh vực hay công việc Nhà

nước đang thực hiện thì chúng ta cần nhìn nhận quá trình xã hội hóa một cách tổng

thể gắn với lộ trình, cách thức xã hội hóa; thay vì chỉ tập trung vào việc chuyển giao

các công việc cụ thể thì chúng ta cần phải chú ý đến các yếu tố cần thay đổi trong nội

tại Nhà nước trong quá trình xã hội hóa.

Page 128: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

4.2.2. Xây dựng, hoạch định chính sách về xã hội hóa dịch vụ công trong

lĩnh vực tƣ pháp

Trong QLNN đối với XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, các chính sách quản

lý là những định hướng hành động do Nhà nước lựa chọn để nhằm thực hiện

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp khi có nhiều thành phần kinh tế tham gia cung ứng

dịch vụ công nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân trong bảo vệ quyền và lợi

ích chính đáng của mình. Chính sách của Nhà nước về xã hội hóa dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp là một bộ phận của chính sách công và được bảo đảm thực hiện bởi

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các chính sách về XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp thể hiện quan điểm, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về XHHDVC gắn

với phát triển dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đáp ứng với mục tiêu cải cách tư

pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền và phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân.

Trong xây dựng pháp luật, những chính sách về XHHDVC sẽ được thể chế hóa trong

các văn bản QPPL thông qua các quy định khác nhau như quy định nguyên tắc thực

hiện dịch vụ, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức dịch vụ hay quy định

hình thức cung cấp dịch vụ công. Để hoạt động hoàn thiện pháp luật có hiệu quả cao,

một mặt Nhà nước tiếp tục thực hiện triệt để các chính sách đã ban hành, mặt khác

nghiên cứu đưa ra các chính sách thích hợp với xu thế phát triển của các dịch vụ. Đây

sẽ là định hướng quan trọng để vừa đẩy mạnh chuyển giao các dịch vụ cho các tổ

chức, cá nhân, vừa tách dần việc cung cấp dịch vụ ra khỏi phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của các cơ quan hành chính nhà nước, giao cho các cơ quan dịch vụ thực hiện.

Xuất phát từ các quan điểm, định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC và để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, chính sách XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp cần bao gồm những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một định hướng lớn của Đảng

và Nhà nước ta trong thực hiện cải cách tư pháp. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII

tiếp tục khẳng định chủ trương xã hội hóa các hoạt động tư pháp để thực hiện các

mục tiêu, nhiệm vụ cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam. Xã hội hóa được thực hiện với các hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp có đủ

điều kiện gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của luật sư, bổ trợ tư pháp

Page 129: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

nhằm mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,

từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo

vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ

chức, cá nhân [6, tr.178-179].

Thứ hai, XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp được thực hiện trên cơ sở thu hút

sự tham gia của xã hội vào việc cung cấp dịch vụ công, phù hợp với khả năng, điều

kiện, nguồn lực trong xã hội vào từng thời điểm, giai đoạn nhất định. Nhà nước xác

định các lĩnh vực, hoạt động, hình thức thu hút sự tham gia của mọi chủ thể thuộc các

thành phần kinh tế cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các chính sách cụ

thể sẽ được thể hiện dưới các quy định của pháp luật như là cam kết của Nhà nước

bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong xã hội khi đã tham gia thực

hiện dịch vụ công, tránh và phòng ngừa các rủi ro về chính sách. Các chủ thể đáp ứng

đủ các điều kiện được tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công phù hợp với khả năng

và theo các hình thức khác nhau. Các chủ thể này có các quyền và nghĩa vụ bình đẳng

với các tổ chức cung cấp dịch vụ công của Nhà nước.

Thứ ba, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp dù cho được cung cấp bởi chủ thể

là Nhà nước hay trong xã hội thì đều phải được thực hiện theo quy định của pháp

luật, phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện các mục tiêu cải cách tư pháp, xây dựng nền

tư pháp trong sạch, vững mạnh. Người cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

tuân thủ nguyên tắc chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về việc cung cấp các

dịch vụ đó. XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp gắn với các lợi ích cộng đồng, nhằm

xây dựng mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong thực hiện và bảo vệ pháp

luật. Mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận không phải là ưu tiên trong XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp. Điều quan trọng là phải tạo ra được lợi ích và trách nhiệm được chia sẻ

giữa Nhà nước, người cung cấp dịch vụ công và công dân với tư cách là người thụ

hưởng và là người giám sát việc cung cấp các dịch vụ công. Người cung cấp dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp cung cấp các dịch vụ để phục vụ công dân chứ không

phải là phục vụ khách hàng. Họ không chỉ đáp ứng nhu cầu của khách hàng mà còn là

xây dựng mối quan hệ tin tưởng và hợp tác giữa công dân với nhau và giữa công dân

với Nhà nước.

Page 130: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Thứ tư, QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

trong điều kiện xã hội hóa phải tuân thủ các nguyên tắc chung của QLNN. Việc quản

lý phải được thực hiện trên cơ sở pháp luật, không can thiệp trực tiếp vào việc cung

cấp dịch vụ công, bảo đảm chất lượng dịch vụ và sự bình đẳng của mọi người trước

pháp luật, phục vụ thay cho chỉ đạo và phát huy đúng mức vai trò của các tổ chức xã

hội - nghề nghiệp trong quản lý và bảo đảm sự tuân thủ của các tổ chức hành nghề

cung ứng dịch vụ công.

4.2.3. Hoàn thiện các quy định về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực

tƣ pháp

4.2.3.1. Về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Một là quy định cụ thể về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp không phải là một lĩnh vực hay

một ngành luật độc lập, với những quy định cơ bản trong một văn bản độc lập mà bao

gồm các quy định đan xen trong các văn bản về các lĩnh vực hoạt động tư pháp cũng

như về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong thời gian qua, để đáp ứng

yêu cầu của thực tiễn, các văn bản pháp luật về hoạt động trong lĩnh vực tư pháp như

Luật luật sư, Luật công chứng, Luật TGPL, Luật GĐTP... đã có quy định về việc xác

định luật sư, công chứng là các dịch vụ công gắn với nhiệm vụ, vai trò xã hội của các

cá nhân và tổ chức hành nghề luật sư, công chứng. Các quy định này đã tạo cơ sở

quan trọng định hướng cho việc thiết kế, xây dựng cũng như tổ chức thực hiện định

hướng xã hội hóa và các chính sách QLNN đối với từng hoạt động, góp phần vào việc

thúc đẩy sự phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ. Do đó, trong bối cảnh còn có

quan điểm, cách tiếp cận khác nhau thì cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện, bổ sung quy

định xác định các hoạt động tư pháp là dịch vụ công như trong quá trình sửa đổi Nghị

định về thừa phát lại, xây dựng Luật BĐGTS, Luật TGPL...Các tiêu chí để xác định

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bao gồm:

Thứ nhất, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là các dịch vụ do các cơ quan,

tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện cung cấp trong các lĩnh vực thực hiện và bảo vệ

pháp luật, bảo đảm công lý, công bằng trong xã hội.

Page 131: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Thứ hai, dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đáp ứng nhu cầu của người dân

trong việc thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp không tạo ra sản phẩm hàng hóa dưới dạng hiện vật mà

là các lợi ích phi vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân, tổ chức thụ hưởng

dịch vụ. Xuất phát từ đặc trưng tư pháp là bảo vệ pháp luật [25], thông qua việc sử

dụng các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, người dân có thể bảo vệ được lợi ích

của mình bằng các cơ chế phòng ngừa, thực hiện hoặc là đưa ra yêu cầu để các cơ

quan Nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối với việc bảo đảm và thực hiện trên thực tế các

quyền, lợi ích của công dân.

Thứ ba, mục đích xã hội của các dịch vụ công là góp phần vào việc tuân thủ

pháp luật, bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, thực hiện công bằng xã hội vì sự phát

triển kinh tế - xã hội chung. Như đã phân tích ở trên, tư pháp gắn với việc bảo vệ

pháp luật, qua đó duy trì công bằng, công lý, lẽ phải trong xã hội thông qua hoạt động

trung tâm là xét xử cùng với các hoạt động điều tra, truy tố, thi hành án và các hoạt

động bổ trợ tư pháp khác. Các hoạt động này hướng đến đáp ứng nhu cầu của người

dân trong thực thi pháp luật, bảo vệ cũng như phòng ngừa các vi phạm có thể ảnh

hưởng quyền, lợi ích chính đáng của mình. Việc mỗi người dân bảo vệ được quyền và

lợi ích chính đáng của mình không chỉ có ý nghĩa đối với cá nhân của người có liên

quan mà qua đó còn tạo được niềm tin chung của cộng đồng vào công lý, công bằng,

tạo nên ý thức và ứng xử theo quy định của pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được

thực thi trên thực tế.

Thứ tư, các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp có thể là các cơ quan, tổ chức của Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong xã

hội được Nhà nước trao quyền theo quy định của pháp luật. Chủ thể thực hiện dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp là các cơ quan tư pháp được tiếp cận theo phạm vi rộng,

không chỉ trực tiếp là tòa án, viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành

pháp (như cơ quan điều tra, thi hành án của ngành công an; cơ quan thi hành án, cơ

quan tư pháp của ngành tư pháp) mà còn bao gồm các tổ chức nghề nghiệp nằm

ngoài quyền lực nhà nước được Nhà nước ủy quyền hoặc cho phép thực hiện các dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp như các tổ chức hành nghề của luật sư, công chứng

Page 132: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

viên, giám định tư pháp, thừa phát lại. Nghị quyết số 49-NQ/TW gọi chung là các

thiết chế bổ trợ tư pháp. Các thiết chế bổ trợ tư pháp này có thể được vận hành bởi

các tổ chức, cá nhân khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật đặt ra.

Hai là tiếp tục rà soát, ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy

phạm pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc tổ chức và hoạt động cung

cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành

Nghị định sửa đổi Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP

về tổ chức và hoạt động thừa phát lại để thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 về

thực hiện chế định thừa phát lại và bảo đảm hoàn thành việc trình thông qua Luật

Thừa phát lại trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV theo Nghị quyết số

107/2015/QH13. Tiếp tục hoàn thiện để trình Quốc hội ban hành Luật trợ giúp pháp

lý theo yêu cầu của Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025

(ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 1/6/2015 của Thủ tướng Chính

phủ). Luật đấu giá tài sản đã được Quốc hội khóa XIV kỳ họp thứ 2 thông qua ngày

17/11/2016 và sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2017, trong đó quy định nhiều nội dung

mới liên quan đến tổ chức và hoạt động đấu giá tài sản và giao trách nhiệm cho Chính

phủ và các cơ quan có liên quan trong việc ban hành các văn bản quy định chi tiết và

triển khai thi hành Luật. Do đó, Chính phủ cần ban hành Nghị định quy định chi tiết

và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản, tập trung vào các quy định về đăng ký hoạt

động đối với doanh nghiệp đấu giá tài sản, chuyển đổi hoạt động của Trung tâm dịch

vụ BĐGTS thuộc Sở Tư pháp...

4.2.3.2. Sửa đổi, ban hành các quy định thực hiện xã hội hóa dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp

Một là ban hành các quy định về hình thức xã hội hóa phù hợp với từng lĩnh

vực hoạt động tư pháp

Trên cơ sở xác định các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, việc xây dựng,

hoàn thiện các quy định về nội dung, hình thức xã hội hóa sẽ được thực hiện theo các

quan điểm, nguyên tắc trong quản lý, cung cấp các dịch vụ công nói chung. Rà soát

các văn bản pháp luật trong lĩnh vực tư pháp cho thấy các quy định về nội dung, hình

thức XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã từng bước mở rộng các đối tượng, chủ thể

Page 133: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

được tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công, tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn còn

những quy định trong một số lĩnh vực chưa thực sự thu hút được sự tham gia này

hoặc có những quy định theo hướng chuyển giao hẳn việc cung cấp dịch vụ công cho

xã hội nên dẫn đến những hạn chế trong hoạt động và tiếp cận với dịch vụ công của

người dân. Do vậy, các quy định về xã hội XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cần tạo

cơ sở pháp lý để thu hút đông đảo các chủ thể trong xã hội tham gia thực hiện và

cung cấp các dịch vụ công và đồng thời gắn với trách nhiệm của Nhà nước trong tạo

ra môi trường công bằng, bình đẳng trong cung cấp dịch vụ công.

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định tạo cơ sở pháp lý cho

các chủ thể trong xã hội tham gia thực hiện và cung ứng các dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa tổ chức công lập hay ngoài công

lập. Ngày 26/11/2015, Quốc hội đã có Nghị quyết số 107/2015/QH13 cho phép thực

hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả nước kể từ ngày 1/1/2016. Để tạo cơ sở

pháp lý cho hoạt động Thừa phát lại, Quốc hội giao Chính phủ xây dựng và trình

Luật Thừa phát lại để Quốc hội xem xét trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh

khóa XIV. Hiện nay, trong thời gian chưa xây dựng Luật Thừa phát lại, Chính phủ

đang sửa đổi, bổ sung Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ

về tổ chức và hoạt động thừa phát lại được thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí

Minh và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ

sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP. Việc sửa đổi, bổ sung

các văn bản QPPL cần thực hiện nhất quán chủ trương xã hội hóa, theo đó cần tiếp

tục khẳng định vai trò của Thừa phát lại trong thực hiện công tác THADS, lập vi

bằng và tống đạt giấy tờ theo quy định của pháp luật. Pháp luật cần điều chỉnh theo

hướng thống nhất giao cho Văn phòng Thừa phát lại thực hiện tống đạt giấy tờ thay

cho quy định thỏa thuận giữa Cơ quan thi hành án dân sự, Tòa án với Văn phòng

Thừa phát lại; bổ sung quy định về thẩm quyền của Văn phòng Thừa phát lại tương

xứng với Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự trong THADS theo yêu cầu

của đương sự như thẩm quyền trong việc xác mình điều kiện THADS, áp dụng các

biện pháp cưỡng chế THADS... Do đó, cùng với việc sửa đổi quy định của Nghị định

số 61/2009/NĐ-CP thì cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật tố

Page 134: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

tụng dân sự và Luật thi hành án dân sự về sự tham gia của Thừa phát lại trong quá

trình tố tụng. Cụ thể là sửa đổi Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự về nguồn chứng cứ bao

gồm vi bằng; Điều 172 Bộ luật tố tụng dân sự về người thực hiện tống đạt văn bản tố

tụng; bổ sung thừa phát lại trong hệ thống tổ chức THADS; nghiên cứu hướng cho

phép Thừa phát lại được tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu có liên quan đến tương trợ tư

pháp trong lĩnh vực dân sự của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài trên phạm vi toàn

quốc theo Luật tương trợ tư pháp năm 2007.

Trong lĩnh vực GĐTP, các Văn phòng giám định được thành lập trong lĩnh

vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di vật, bản quyền tác giả theo Điều 14

Luật GĐTP. Nhà nước đầu tư phát triển hệ thống tổ chức GĐTP công lập trong lĩnh

vực có nhu cầu giám định lớn, thường xuyên để đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố

tụng. Quy định này nhằm tạo sự ổn định trong việc cung cấp dịch vụ công cho hoạt

động tố tụng nhưng không khuyến khích được sự tham gia của các tổ chức, cá nhân

trong cung cấp dịch vụ công do giới hạn về thị trường trong điều kiện các Văn phòng

giám định phải tự chủ hoạt động. Do đó, Luật đấu giá tài sản cần được sửa đổi theo

hướng cho phép các tổ chức, cá nhân được tham gia vào lĩnh vực giám định khác nếu

đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về thành lập và hoạt động của các tổ

chức của Nhà nước cung cấp các dịch vụ công trong những lĩnh vực không thu hút được

sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội hoặc dành cho những đối tượng yếu thế,

khó khăn trong việc tiếp cận và thụ hưởng dịch vụ công.

Luật sư là một chế định đã thực hiện xã hội hóa hoàn toàn, nghĩa là do các chủ

thể là tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện. Việc cung cấp dịch vụ dựa trên thỏa

thuận tự nguyện, đồng thuận giữa luật sư và khách hàng, bao gồm cả về nội dung,

phạm vi và giá cả của dịch vụ. Tuy vậy, trong một số trường hợp theo quy định của

pháp luật tố tụng hình sự, luật sư sẽ được mời tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích

cho những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa hoặc tham gia trợ giúp trong

các vụ việc TGPL theo quy định của pháp luật về TGPL. Các luật sư trong trường

hợp này sẽ được Nhà nước chi trả thù lao theo quy định của pháp luật mà không trên

cơ sở thỏa thuận giữa luật sư và đương sự. Thực tế trong thời gian qua, mức thù lao

Page 135: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

được chi trả theo định mức của Nhà nước chưa hấp dẫn với các luật sư, do vậy sự

tham gia của luật sư trong các trường hợp chỉ định theo yêu cầu của cơ quan tiến

hành tố tụng hay trong trường hợp TGPL còn hạn chế. Chất lượng dịch vụ chưa cao.

Trong quá trình soạn thảo Luật TGPL (sửa đổi), nhiều ý kiến đặt vấn đề cần thiết phải

xây dựng chế định luật sư công, tức là các luật sư của Nhà nước, thực hiện các công

việc do Nhà nước giao và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó,

nhu cầu đối với chế định luật sư công còn xuất phát từ việc thực hiện các quy định

của Luật tố tụng hành chính, người dân có quyền khởi kiện đối với các hành vi, quyết

định hành chính do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Rộng hơn là nhu

cầu của Nhà nước trong các vụ việc tranh chấp pháp lý quốc tế, đặc biệt là trong các

lĩnh vực chịu sự điều chỉnh của luật đầu tư, thương mại... Do đó, cần nghiên cứu, bổ

sung chế định luật sư công trong Luật luật sư với vai trò, trách nhiệm là luật sư của

Nhà nước, thực hiện các công việc do Nhà nước giao, bao gồm công việc của Nhà

nước cũng như công việc theo yêu cầu của người dân nhằm tăng cường khả năng tiếp

cận và sử dụng luật sư của người dân. Hình thức thiết kế sự tham gia của luật sư công

có thể là luật sư hành nghề và ký hợp đồng thực hiện công việc theo ủy quyền của

Nhà nước hay luật sư là viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước và đồng thời

chịu sự điều chỉnh của cả luật viên chức và luật luật sư.

BĐGTS cũng là một lĩnh vực có khả năng xã hội hóa cao. Tháng 11/2016,

Quốc hội đã thông qua Luật đấu giá tài sản. Luật đấu giá tài sản quy định tổ chức đấu

giá tài sản gồm Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản, doanh nghiệp đấu giá tài sản.

Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên môn hoá trong hoạt động của doanh nghiệp

đấu giá tài sản, nâng cao chất lượng dịch vụ đấu giá tài sản trong bối cảnh nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Luật đấu giá tài sản quy định doanh nghiệp

đấu giá tài sản được thành lập dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp

danh, nhằm bảo đảm đầy đủ trách nhiệm của doanh nghiệp đấu giá và đấu giá viên

đối với Nhà nước và khách hàng. Do đó, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đấu giá

tài sản cần hướng dẫn doanh nghiệp đấu giá tài sản được thành lập, đăng ký tại Sở Kế

hoạch và Đầu tư theo quy định của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thực hiện việc

chuyển đổi đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp theo quy định của Luật Đấu giá tài sản

Page 136: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

một cách thuận lợi, đơn giản thủ tục hành chính và hoạt động đấu giá của doanh

nghiệp được ổn định, liên tục, Dự thảo Nghị định quy định việc đăng ký hoạt động

của doanh nghiệp đấu giá tài sản thành lập trước ngày Luật có hiệu lực. Trường hợp

doanh nghiệp chuyển đổi toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp thành doanh nghiệp

đấu giá tài sản thì sau khi doanh nghiệp đấu giá tài sản được Sở Tư pháp cấp giấy

đăng ký hoạt động, doanh nghiệp được chuyển đổi thực hiện thủ tục chấm dứt hoạt

động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp chỉ

chuyển đổi lĩnh vực hoạt động đấu giá tài sản thì sau khi doanh nghiệp đấu giá tài sản

mới được Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động, doanh nghiệp bị chuyển đổi hoạt

động đấu giá tài sản không được thực hiện hoạt động đấu giá tài sản..

Hai là, hoàn thiện các quy định về việc tham gia cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp của các tổ chức, cá nhân mà không thành lập các tổ chức cung cấp

dịch vụ chuyên nghiệp. Luật TGPL quy định về việc tham gia TGPL của các cộng tác

viên trên cơ sở hợp đồng cộng tác viên. Luật GĐTP cũng có quy định về tham gia

giám định của các tổ chức, người giám định theo vụ việc. Với mục tiêu đa dạng hóa

và thu hút được nhiều nguồn lực tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp thì các quy định về hợp đồng cung cấp dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân

với các cơ quan nhà nước cùng cần được hoàn thiện. Hiện nay, trong quá trình sửa

đổi Luật TGPL cũng cần sửa đổi quy định về hợp đồng cộng tác theo hướng hợp

đồng được ký kết trên cơ sở thỏa thuận giữa Trung tâm TGPL với các tổ chức, cá

nhân tham gia TGPL trên cơ sở khả năng và điều kiện cung cấp dịch vụ có chất lượng

và sẽ là cơ sở để thanh toán chi phí thực hiện vụ việc TGPL. Việc hoàn thiện các quy

định về hợp đồng cung cấp dịch vụ sẽ góp phần vào việc bảo đảm cung cấp các dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp có chất lượng. Tương tự như vậy, cũng cần bổ sung

các quy định cụ thể hơn về hợp đồng thực hiện dịch vụ công với các cơ quan nhà

nước trong trường hợp thực hiện giám định tư pháp theo vụ việc theo Luật GĐTP và

trường hợp ký kết hợp đồng BĐGTS với công ty có thực hiện hoạt động BĐGTS

(nhưng còn thực hiện các hoạt động kinh doanh khác) để thực hiện BĐGTS theo yêu

cầu của các cơ quan nhà nước.

Page 137: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Ba là hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề cung cấp

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Trong thời gian qua, các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề đối với

các chủ thể cung cấp một số dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng đã từng bước

được hoàn thiện theo hướng đây là một chức danh nghề nghiệp và thường được gọi là

các chức danh tư pháp. Xuất phát từ vị trí, vai trò và những tính chất đặc thù của dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp, các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn hành nghề các

chức danh tư pháp cần bảo đảm các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất là về chuyên môn nghiệp vụ. Việc tham gia cung cấp dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp phải được thực hiện theo các quy trình, quy định chuyên môn

nghiệp vụ được pháp luật quy định. Điều này đòi hỏi người hành nghề phải am hiểu

đầy đủ về lĩnh vực đó để bảo đảm tuân thủ đầy đủ các quy định về chuyên môn, kỹ

thuật cũng như vận dụng trong thực tiễn để đáp ứng với nhu cầu hết sức phong phú,

đa dạng xã hội. Yêu cầu này được thể hiện ở trình độ đào tạo về pháp luật, đào tạo kỹ

năng nghề nghiệp và kinh nghiệm thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực hành

nghề. Như đã phân tích tại chương III, các tiêu chuẩn về điều kiện hành nghề của các

chức danh tư pháp đang dần được hoàn thiện theo từng khía cạnh này, tuy nhiên cũng

có những chức danh chưa thể hiện đầy đủ các yêu cầu cũng như về thời gian cũng có

những bất cập khác nhau dù cơ bản yêu cầu đối với các chức danh tư pháp có sự tương

đồng nhất định nhất là đối với đấu giá viên, thừa phát lại, trợ giúp viên pháp lý...

Thứ hai là về trách nhiệm của người hành nghề/cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp. Các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có ý nghĩa quan trọng

trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, lợi ích

của Nhà nước. Do vậy, người tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

phải là những người có ý thức trách nhiệm cao với xã hội và với công việc do mình

thực hiện. Yêu cầu này được thể hiện ở ý thức thượng tôn pháp luật cũng như những

ràng buộc trách nhiệm vật chất của người hành nghề với khách hàng. Các tiêu chuẩn

cụ thể cần được xác định ở các tiêu chí về sự tuân thủ pháp luật, hạn chế các quy định

khó có các tiêu chí đánh giá hoặc làm căn cứ cho các cơ quan có thẩm quyền có thể

cấp hoặc từ chối cho phép hành nghề đối với chức danh cụ thể. Cách thức nên quy

Page 138: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

định theo hướng không bị xử lý kỷ luật, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự,

không bị xử lý vi phạm hành chính hoặc đã bị xử lý nhưng đã đáp ứng được một thời

gian nhất định và được coi là chưa bị xử lý...

Đồng thời, pháp luật cũng cần có quy định về bảo hiểm trách nhiệm nghề

nghiệp đối với những người hành nghề cung cấp các loại dịch vụ công trong lĩnh vực

tư pháp và coi đây là một trong những tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề. Mặc dù pháp

luật đã có quy định rất cụ thể về quy trình, thủ tục thực hiện các dịch vụ công nhằm

kiểm soát chất lượng, hạn chế các sai phạm nhưng trên thực tế dù không muốn nhưng

có thể những sai sót, rủi ro vẫn có thể xảy đến trong quá trình thực hiện, cung cấp các

dịch vụ công. Những sai sót, rủi ro này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi

ích chính đáng của người thụ hưởng dịch vụ công, trong đó có những lĩnh vực liên

quan trực tiếp đến những lợi ích vật chất cụ thể như BĐGTS, công chứng, GĐTP,

thừa phát lại... Hiện nay, pháp luật đã quy định về trách nhiệm mua bảo hiểm nghề

nghiệp của các văn phòng công chứng cho các công chứng viên của văn phòng. Nếu

rủi ro xảy ra thì bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm chi trả. Tương tự trong lĩnh vực thừa

phát lại, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP đã quy định văn phòng thừa phát lại phải ký

quỹ một trăm triệu cho mỗi thừa phát lại của văn phòng hoặc mua bảo hiểm trách

nhiệm nghề nghiệp. Tuy nhiên có thể thấy, quy định về ký quỹ đối với văn phòng

Thừa phát lại sẽ gây khó khăn về tài chính cho Văn phòng. Mặt khác, với số tiền này

thì cũng sẽ không bảo đảm sẽ chi trả đủ cho người bị thiệt hại trong trường hợp có vi

phạm, rủi ro xảy ra.

Đối với những người cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp thuộc khu

vực Nhà nước, pháp luật hiện nay chưa có quy định về chế độ bảo hiểm trách nhiệm

nghề nghiệp với nhóm cán bộ này mà thực hiện theo Luật trách nhiệm bồi thường của

Nhà nước. Theo đó, trong trường hợp có vi phạm xảy ra thì trước hết các cơ quan, tổ

chức nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho người thụ hưởng. Điều này cũng

gây ra sự không bình đẳng về trách nhiệm của nhóm người thực hiện dịch vụ công

của tổ chức nhà nước và xã hội. Để góp phần tạo sự công bằng, bình đẳng giữa khu

vực cung cấp dịch vụ công của nhà nước và xã hội thì cần thiết phải thống nhất quy

định trách nhiệm bảo hiểm nghề nghiệp đối với những người hành nghề cung cấp

Page 139: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

dịch vụ công của cả khu vực công và khu vực tư. Quy định này sẽ góp phần vào việc

giảm dần sự bao cấp của Nhà nước đối với việc cung cấp dịch vụ công, tăng cường

trách nhiệm của cá nhân các công chức, viên chức tham gia vào việc cung cấp dịch

vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Bốn là sửa đổi, bổ sung quy định về thành lập và hoạt động của các tổ chức

hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp theo hướng ngày càng

chuyên nghiệp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân

Bên cạnh các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề của người thực

hiện, cung ứng dịch vụ công thì quy định về thành lập và hoạt động của các tổ chức

hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp cũng là một trong những chế

định cơ bản trong pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Do là lĩnh vực hành

nghề đặc thù, hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp được coi như

là các ngành nghề “có điều kiện”. Các quy định về thành lập và hoạt động của các tổ

chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp bao gồm điều kiện

thành lập về con người, trụ sở và trang thiết bị và trình tự thành lập, đăng ký hoạt

động. Pháp luật không quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của các tổ chức cung

ứng dịch vụ công ngoài công lập. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức này phụ

thuộc vào khả năng, điều kiện, thu nhập của tổ chức đó. Riêng đối với các tổ chức

cung ứng dịch vụ công của Nhà nước thì việc thành lập còn phải tuân thủ theo các

điều kiện và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày

28/6/2012 của Chính phủ về việc quy đinh vê thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vi sự

nghiệp công lâp.

Để tạo thuận lợi cho quá trình xã hội hóa, hướng tới xây dựng các tổ chức

hành nghề chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp có chất

lượng cần thiết phải hoàn thiện các quy định về điều kiện thành lập cũng như bảo

đảm sự thống nhất tương đối trong quy trình cho phép thành lập và hoạt động đối với

các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp như sau:

Thứ nhất, quy định về điều kiện thành lập các tổ chức hành nghề/cung cấp

dịch vụ công bao gồm điều kiện về nhân lực và cơ sở vật chất, điều kiện bảo đảm cho

việc cung cấp các dịch vụ công chuyên nghiệp, có chất lượng. Một trong những

Page 140: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

nguyên tắc trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp là phải bảo đảm tính

liên tục, ổn định. Do vậy về nhân sự, pháp luật cần quy định số lượng tối thiểu cho

việc thành lập các tổ chức hành nghề là phải có từ 02 người có đủ điều kiện hành

nghề trở lên và hoạt động theo hình thức hợp danh để bảo đảm chất lượng và ổn định

trong hoạt động của các tổ chức hành nghề. Trường hợp đối với các tổ chức hành

nghề do Nhà nước thành lập thì cũng cần thiết phải có 02 người có đủ điều kiện hành

nghề cũng như có đội ngũ cán bộ hỗ trợ, phục vụ cho phù hợp với đặc thù hành nghề.

Về cơ sở vật chất, điều kiện bảo đảm, pháp luật cần có quy định về điều kiện cơ sở vật

chất một cách đầy đủ, rõ ràng, có tiêu chuẩn định lượng, định chất. Để bảo đảm sự ổn

định trong hoạt động thì các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công cũng cần có trụ sở

hoặc hợp đồng thuê trụ sở trong thời hạn tối thiểu là 03 năm trở lên và trong địa bàn phù

hợp với quy hoạch mạng lưới hành nghề đã được phê duyệt. Trụ sở phải bảo đảm có

diện tích đủ để tiếp công dân, giải quyết các công việc cụ thể cũng như kho bãi, lưu trữ

hồ sơ, tài liệu phù hợp với từng loại hình dịch vụ.

Thứ hai, tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định tổ chức và hoạt động của các tổ

chức sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Do thực tiễn

có nhu cầu nên cần thiết hình thành và duy trì các tổ chức của Nhà nước trong cung

cấp dịch vụ công. Tuy vậy, để bảo đảm sự công bằng trong mô hình cung cấp dịch vụ

do Nhà nước và do xã hội thực hiện thì cần tiếp tục sửa đổi, ban hành quy định về tự

chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức của Nhà nước

trong cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Hiện nay, các tổ chức này đang

thực hiện theo Nghị định số 16/205/NĐ-CP. Nghị định số 16/2015/NĐ-CP là văn bản

quy định chung về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của tất cả các

đơn vị sự nghiệp mà không tính đến đặc thù của từng lĩnh vực. Do đó, cần thiết có

Nghị định riêng quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự

nghiệp công lập trong lĩnh vực tư pháp. Do đặc thù là các đơn vị thực hiện các nhiệm

vụ theo nhu cầu của Nhà nước nên cần phân tách giữa nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm

vụ chính trị của đơn vị. Đối với phần kinh doanh thì đơn vị tự chịu trách nhiệm nhưng

đối với phần thực hiện nhiệm vụ chính trị thì có cơ chế giao kinh phí, con người cho

thực hiện để bảo đảm chất lượng, hiệu quả các dịch vụ công được cung cấp.

Page 141: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Năm là, sửa đổi và xây dựng mới chính sách khuyến khích xã hội hóa nhằm

thu hút các tổ chức, cá nhân trong việc tham gia cung ứng các dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp. Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP

ngày 30/5/2008 và Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 6/6/2014 sửa đổi bổ sung

Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt

động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường, trong đó

cho phép áp dụng các chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực GĐTP.

Theo đó, Nghị định quy định các cơ sở xã hội hóa được hưởng các chính sách ưu đãi

trong thuê đất, giao đất, cho thuê, xây dựng cơ sở vật chất, miễn thuế thu nhập doanh

nghiệp... Trong thời gian tới, cùng với yêu cầu nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp, cần thiết tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số

69/2008/NĐ-CP theo hướng cho phép áp dụng các chính sách ưu đãi đối với các lĩnh

vực hoạt động tư pháp khác đang được xã hội hóa, đặc biệt là những lĩnh vực hoạt

động Nhà nước ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện các công

việc của Nhà nước như công chứng, thừa phát lại... Đồng thời, pháp luật cũng cần có

quy định về chính sách ưu đãi, khuyến khích theo địa bàn để khuyến khích các tổ

chức, cá nhân thành lập và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp ở

những khu vực có điều kiện xã hội khó khăn. Trong lĩnh vực TGPL, do đây là lĩnh

vực phi lợi nhuận, hoạt động không có thu nên có chính sách khuyến khích được

hưởng các ưu đãi khi các tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác TGPL miễn phí cho

người nghèo, đối tượng thuộc khó khăn, nhóm yếu thế trong xã hội. Trước mắt, có

thể xem xét tham gia TGPL như là một trong những yếu tố xã hội trong thành lập

doanh nghiệp xã hội theo Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp.

4.2.3.3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý nhà nước đối với xã hội

hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

QLNN đối với XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có một vai trò hết sức quan

trọng trong việc bảo đảm các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phát triển theo

đúng định hướng của Nhà nước, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân. Để tạo cơ sở

pháp lý cho việc tác động của Nhà nước vào quá trình xã hội hóa, hoàn thiện pháp

Page 142: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp bao gồm hoàn thiện các quy định về QLNN

theo các định hướng sau:

Một là quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc ban

hành các chính sách, quy hoạch phát triển dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phù

hợp với thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan trung ương và địa phương. Theo đó,

các cơ quan trung ương thực hiện QLNN trong phạm vi cả nước, có trách nhiệm ban

hành chính sách, quy hoạch mạng lưới tổ chức cung cấp dịch vụ công trong phạm vi cả

nước. Các cơ quan địa phương có trách nhiệm tổ chức thực hiện chính sách, quy hoạch

đó. Căn cứ vào chính sách chung, các địa phương cũng có thể ban hành các chính sách,

biện pháp phát triển hành nghề phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương.

Hai là sửa đổi trình tự, thủ tục cho phép thành lập và đăng ký hoạt động của

các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp theo hướng

thống nhất, phù hợp với thẩm quyền và phạm vi QLNN theo ngành, lĩnh vực và lãnh

thổ, qua đó cũng tạo thuận lợi cho người dân trong việc thành lập và đăng ký hoạt

động các tổ chức hành nghề cung cấp dịch vụ công. Theo đó, về nguyên tắc đối với

những vấn đề cần phải bảo đảm thực hiện chung, thống nhất trong phạm vi cả nước

thì sẽ do cơ quan nhà nước ở trung ương thực hiện; đối với những vấn đề gắn với

điều kiện cụ thể của địa phương thì sẽ do các cơ quan nhà nước ở địa phương thực

hiện bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật. Trong cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp, các cơ quan ở trung ương - cụ thể là Bộ Tư pháp sẽ là cơ quan có

thẩm quyền trong việc cấp chứng chỉ hành nghề hay công nhận tư cách hành nghề đối

với các chức danh tư pháp - những người hành nghề cung cấp dịch vụ. Cơ quan có

thẩm quyền ở địa phương - cụ thể là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ là cơ quan có thẩm

quyền đối với việc cho phép thành lập và Sở Tư pháp sẽ là cơ quan đăng ký hoạt

động đối với các tổ chức hành nghề.

Ba là hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền trong việc đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp - những người cung

cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Để bảo đảm chất lượng dịch vụ công được cung cấp thì việc đào tạo, bồi

dưỡng nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức quan trọng. Rà soát các quy định hiện hành

Page 143: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

thì hầu hết việc đào tạo, bồi dưỡng người hành nghề cung cấp các dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp do Bộ Tư pháp thực hiện. Riêng đối với lĩnh vực luật sư có quy định

cho phép thành lập cơ sở đào tạo nghề của Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Tuy nhiên,

cơ sở đào tạo này mới đang trong giai đoạn nghiên cứu, thành lập. Để bảo đảm chất

lượng đào tạo, bồi dưỡng, pháp luật cần quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ

quan trong đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp. Pháp luật cũng cần có quy định

về yêu cầu, nội dung, thời gian đào tạo, bồi dưỡng; việc tập sự hành nghề cũng như

quy định về chương trình, tài liệu cho việc đào tạo, bồi dưỡng.

Bốn là, ban hành các bộ tiêu chí đánh giá chất lượng cung cấp dịch vụ công

trong lĩnh vực tư pháp

Bảo đảm cung cấp các dịch vụ công có chất lượng là trách nhiệm quan trọng

trong QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, đặc biệt là

trong điều kiện chuyển giao việc cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực

hiện. Để có thể đánh giá được chất lượng, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải ban

hành các bộ tiêu chí đánh giá chất lượng cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp. Bộ tiêu chí này được áp dụng cho tất cả các tổ chức cung ứng dịch vụ công,

không phân biệt công lập hay ngoài công lập. Việc đánh giá phải bảo đảm có sự tham

gia của tất cả các tổ chức, cá nhân có liên quan trong cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp nhằm thể hiện được hài hòa lợi ích giữa các bên trong cung cấp dịch

vụ công, bao gồm:

Về chủ thể, các chủ thể tham gia vào quá trình đánh giá này trước hết là các

đối tượng thụ hưởng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Đây là đối tượng chủ yếu

của việc đánh giá trên cơ sở đo lường sự hài lòng của người dân với dịch vụ được

cung cấp. Các cơ quan QLNN sẽ tham gia đánh giá với vai trò là cơ quan chịu trách

nhiệm trước xã hội việc cung cấp dịch vụ công và chất lượng dịch vụ công được cung

cấp. Kết quả đánh giá sẽ cung cấp cho họ các định hướng, giải pháp trực tiếp để nâng

cao chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, việc đánh giá cũng cần có sự tham gia của các cơ

quan khác có liên quan. Đây là đối tượng đặc thù trong cung cấp dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp. Mặc dù không phải là đối tượng thụ hưởng của dịch vụ công trong

Page 144: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

lĩnh vực tư pháp nhưng các dịch vụ này được cung cấp có chất lượng cũng có tác

động quan trọng đến việc thực hiện nhiệm vụ của họ.

Về nội dung, bên cạnh đánh giá sự hài lòng của người dân đối với các dịch vụ

công được cung cấp, việc đánh giá chất lượng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp phải

lưu ý đến các vấn đề về sự tuân thủ pháp luật trong quá trình thực hiện, nguyên tắc

khách quan, công bằng, vì lợi ích chung và bảo vệ pháp luật.

Năm là tiếp tục hoàn thiện các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

trong lĩnh vực tư pháp

Thanh tra, kiểm tra là một trong những nội dung QLNN hết sức quan trọng,

nhằm phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các sai phạm trong quá trình XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp. Trong điều kiện xã hội hóa thì thanh tra, kiểm tra đang là cách thức quan

trọng nhất để các cơ quan QLNN nắm bắt được hoạt động của các tổ chức, đánh giá

được chất lượng mà tổ chức cung cấp. Pháp luật hiện nay cũng đã có các quy định về

trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của các cơ quan QLNN. Bên cạnh các quy định pháp

luật về thanh tra thì cần sửa đổi, mở rộng phạm vi kiểm tra theo Nghị định số

99/2006/NĐ-CP ngày 15/9/2006 của Chính phủ về công tác kiểm tra việc thực hiện

chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch bao gồm cả việc kiểm tra chấp hành các

quy định pháp luật nói chung.

Sáu là sửa đổi, hoàn thiện quy định về chế độ báo cáo, cung cấp, chia sẻ thông

tin trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Báo cáo, cung cấp thông tin giúp cho các cơ quan QLNN có thể có các định

hướng, biện pháp quản lý phù hợp với các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ công.

Tuy nhiên, yêu cầu đối với việc báo cáo, chia sẻ thông tin là phải bảo đảm được sự

công khai, minh bạch, không tạo gánh nặng, áp lực cho đối tượng thực hiện. Vì vậy,

pháp luật cần quy định, hướng dẫn cụ thể về thời gian định kỳ, nội dung, hình thức,

đối tượng báo cáo và trách nhiệm của các cơ quan trong tiếp nhận, xử lý thông tin báo

cáo. Pháp luật cũng cần có quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong báo cáo,

chia sẻ thông tin, bao gồm xây dựng các hệ cơ sở dữ liệu thông tin. Trong bối cảnh

xây dựng nền hành chính hiện đại, hoạt động thông suốt thì các hệ cơ sở dữ liệu

thông tin được xem là các công cụ có ý nghĩa quan trọng trong QLNN trên cơ sở kết

Page 145: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

nối giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức cung ứng dịch vụ công. Hệ cơ sở dữ

liệu cũng có vai trò là công cụ để thúc đẩy quá trình xã hội hóa dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp. Ví dụ như trong lĩnh vực công chứng, việc xây dựng được hệ cơ sở

dữ liệu công chứng kết nối giữa các tổ chức hành nghề công chứng với nhau sẽ giúp

cho việc kiểm soát thông tin và có thể ra quyết định từ chối hay chấp nhận công

chứng một giao dịch cụ thể. Nhà nước không cần trực tiếp tham gia cung cấp dịch vụ

công mà vẫn có thông tin cần thiết để kiểm tra, kiểm soát việc cung cấp và chất lượng

của các dịch vụ được cung cấp. Vì vậy, pháp luật cần bổ sung quy định liên quan đến

việc xây dựng, quản lý, khai thác hệ cơ sở dữ liệu thông tin; xác định trách nhiệm đầu

tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ quan quản lý hệ cơ sở dữ liệu, quy định nghĩa vụ cung

cấp, trao đổi thông tincho hệ cơ sở dữ liệu và quy định về việc khai thác, sử dụng

thông tin từ hệ cơ sở dữ liệu đối với từng dịch vụ, nhóm dịch vụ cụ thể hoặc tất cả các

dịch vụ có liên quan.

Bảy là tiếp tục hoàn thiện quy định về sự phối hợp QLNN với tự quản của các

tổ chức xã hội nghề nghiệp (hay còn gọi là hội nghề nghiệp) trong lĩnh vực tư pháp.

Khi thực hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, các tổ chức xã hội nghề

nghiệp có một vai trò hết sức quan trọng, đặc thù. Các tổ chức này không chỉ là tổ

chức đại diện cho các thành viên mà còn phối hợp cùng với các cơ quan QLNN để

thực hiện một số nội dung, công việc quản lý các thành viên, bảo đảm các thành viên

tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật, đạo đức nghề nghiệp. Để bảo đảm sự phối

hợp trong QLNN, trước hết, pháp luật cần phải quy định về việc thành lập, phạm vi

và nhiệm vụ, quyền hạn của hội trong quản lý thành viên. Các dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp không chỉ trực tiếp phục vụ cho lợi ích của người thụ hưởng mà còn góp

phần vào việc thực hiện và bảo vệ pháp luật, thực hiện công bằng, công lý trong xã

hội. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công

sẽ là tổ chức tập hợp, đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các thành viên

của mình. Đồng thời, các tổ chức này ban hành các quy tắc, chuẩn mực để các thành

viên tuân thủ và thông qua hoạt động của mình để giám sát, theo dõi và bảo đảm các

thành viên tuân thủ theo đúng quy định pháp luật, qua đó tạo ra thái độ tự giác chấp

hành pháp luật của các tổ chức, cá nhân hành nghề cung cấp dịch vụ công. Pháp luật

Page 146: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

cũng cần quy định về sự tham gia của đại diện các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong

lĩnh vực tư pháp trong tham gia các hoạt động QLNN, đặc biệt là đối với các hoạt

động hoạch định chính sách, biện pháp phát triển đối với lĩnh vực dịch vụ công đó,

tham gia với các cơ quan nhà nước trong công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện

chính sách và chấp hành pháp luật.

Hiện nay, dự thảo Luật về Hội đang được xây dựng và trình Quốc hội Khóa

XIV kỳ họp thứ II để cho ý kiến. Dự thảo Luật dự kiến sẽ được tiếp tục hoàn thiện để

trình Quốc hội thông qua. Điều 2 dự thảo Luật được trình ra Quốc hội quy định:

“1. Luật này không áp dụng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công

đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ

Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam.

2. Trường hợp luật khác có quy định về tổ chức, hoạt động của hội trước

ngày Luật này có hiệu lực mà khác với Luật này thì thực hiện theo quy

định của Luật đó”.

Với quy định này thì Liên đoàn luật sư và Hiệp hội công chứng viên Việt Nam

sẽ được điều chỉnh theo Luật luật sư và Luật công chứng. Tuy nhiên, các dịch vụ

công trong lĩnh vực tư pháp hiện nay đang trong quá trình phát triển, cùng với các

lĩnh vực luật sư, công chứng thì các lĩnh vực khác cũng đang được đẩy mạnh phát

triển và tương lai sẽ tiếp tục hình thành các hiệp hội, hội nghề nghiệp trong từng lĩnh

vực. Do đó, dự thảo Luật về hội cần có quy định mở rộng hơn đối với các trường hợp

hội sẽ được thành lập sau thời điểm ban hành Luật về hội và được quy định trong các

Luật chuyên ngành khác. Đồng thời, dự thảo Luật về hội cũng cần cân nhắc kế thừa

quy định về hội đặc thù hiện đang được quy định tại Nghị định số 45/2010/NĐ-CP

của Chính phủ ngày 21/4/2010 về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Đây là chế định

phù hợp để phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong lĩnh vực tư

pháp để tham gia vào việc xây dựng chính sách, QLNN đối với lĩnh vực hoạt động.

Tám là hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền QLNN về dịch vụ công

Ngày 1/9/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 123/2016/NĐ-CP quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.

Page 147: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Điều 2 Nghị định số 123/2016/NĐ-CP quy định Bộ thực hiện chức năng QLNN đối

với dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, tại Điều

10 của Nghị định chỉ quy định về nội dung QLNN về dịch vụ sự nghiệp công. Do đó,

cần thiết phải sửa đổi Nghị định số 123/2016/NĐ-CP để bổ sung quy định về quản lý

dịch vụ công nói chung của các Bộ, ngành làm cơ sở cho việc xây dựng và ban hành

Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng Bộ. Hiện nay. Chính

phủ cũng đang triển khai việc kiện toàn cơ cấu Chính phủ theo nhiệm kỳ Quốc hội

khóa XIV với việc rà soát để ban hành mới các Nghị định quy định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của từng bộ. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, chưa có Bộ nào

được giao nhiệm vụ QLNN chung về dịch vụ công. Phụ thuộc vào từng khía cạnh về

tổ chức và cơ chế hoạt động thì sẽ do Bộ Tài chính hay Bộ Nội vụ hướng dẫn hoạt

động và do các Bộ, ngành hướng dẫn đối với hoạt động chuyên môn. Do đó, việc

hoàn thiện các Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ của các Bộ ngành trong thời

gian tới cần giao trách nhiệm cho một Bộ là đầu mối quản lý về dịch vụ công nói

chung. Bộ này sẽ có trách nhiệm trong việc quản lý và tham mưu các chính sách phát

triển dịch vụ công nói chung. Trên cơ sở định hướng chính sách chung đó thì các Bô,

ngành sẽ thực hiện QLNN đối với các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực quản lý.

4.2.4. Bảo đảm các điều kiện cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp

luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp

Bảo đảm các điều kiện cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một giải pháp quan trọng cho công tác xây dựng

và hoàn thiện pháp luật với các nội dung cụ thể sau:

Thứ nhất, nâng cao chất lượng cán bộ trực tiếp tham gia vào công tác xây dựng

văn bản QPPL, trong đó đặc biệt chú trọng đến năng lực, trình độ, tinh thần, trách

nhiệm trong công việc. Các cơ quan cần bảo đảm đủ cán bộ cho công tác xây dựng

pháp luật; tiến hành rà soát, đánh giá, quy hoạch, lựa chọn các cán bộ có trình độ, kinh

nghiệm, năng lực phân tích, hoạch định chính sách, chiến lược, kết hợp giữa quản lý và

thực tiễn để tham gia công tác xây dựng văn bản QPPL về XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp. Thực hiện các hoạt động bồi dưỡng, cập nhật thông tin, nội dung, yêu cầu quản

lý, chia sẻ kinh nghiệm của các nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về

Page 148: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cho những cán bộ thực hiện nhiệm vụ QLNN và

tham gia xây dựng, hoạch định chính sách về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Thứ hai, thu hút sự tham gia các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực

tiễn và các chủ thể cung cấp dịch vụ công vào các giai đoạn, các khâu của công tác

xây dựng văn bản, từ khâu lập đề nghị, đề xuất về chính sách, văn bản đến soạn thảo,

thẩm định, góp ý và cả khâu kiểm tra văn bản bản.

Thứ ba, bảo đảm các điều kiện kỹ thuật, ngân sách cho công tác xây dựng và

hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp theo hướng nâng các định

mức chi tiêu cho phù hợp với thực tế, đặc biệt là các nội dung chi về điều tra, khảo sát

thực tiễn, đánh giá tác động chính sách, thu thập ý kiến những đối tượng chịu sự điều

chỉnh của văn bản, các chuyên gia, nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn đầu ngành.

Cùng với đó là xây dựng, phát triển hệ cơ sở dữ liệu pháp luật, cơ sở dữ liệu thông tin

về việc cung cấp dịch vụ và đánh giá chất lượng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

để bảo đảm các các nguồn thông tin tin cậy, khách quan cho việc xây dựng, hoạch

định chính sách. Từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và các

điều kiện khác cho công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, trong đó có

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

4.2.5. Nâng cao hiệu quả của công tác thi hành pháp luật về xã hội hóa

dịch vụ công trong lĩnh vực tƣ pháp

4.2.5.1. Thực hiện hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật về xã hội

hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Theo dõi tình hình thi hành pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước

nhằm xem xét, đánh giá thực trạng thi hành pháp luật, qua đó kiến nghị thực hiện các

giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Theo dõi thi hành pháp luật là hoạt động tiếp nối với quá trình xây dựng và ban hành

văn bản QPPL, tạo ra chu trình liên tục của quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật

đến thực thi, đánh giá kết quả thực thi và tiếp tục hoàn thiện pháp luật. Trong bối

cảnh đẩy mạnh thực hiện XHHDVC, công tác theo dõi thi hành pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng để kịp thời hoàn

thiện pháp luật theo yêu cầu thực tiễn đặt ra. Để phục vụ cho yêu cầu hoàn thiện

Page 149: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

pháp luật, nội dung của công tác theo dõi thi hành pháp luật về XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp cần tập trung vào tình hình ban hành các văn bản quy định chi tiết thi

hành văn bản QPPL. Yêu cầu đặt ra là việc ban hành các văn bản quy định chi tiết thi

hành phải kịp thời, đầy đủ, bảo đảm các điều kiện thi hành pháp luật và có tính khả

thi và việc tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật theo Nghị định số

59/2012/NĐ-CP với các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, thường xuyên theo dõi, thu thập các thông tin về tình hình thi hành

pháp luật liên quan đến xã hội hóa cũng như thực hiện các dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp thông qua các báo cáo, thông tin được đăng tải trên các phương tiện

thông tin đại chúng và người có thẩm quyền và hình thành cơ chế phản ứng chính

sách với những thông tin thu thập được thông qua việc sàng lọc, kết nối với công tác

kiểm tra, tổng kết, rà soát, kiểm tra văn bản QPPL.

Thứ hai, kiểm tra tình hình thi hành pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư

pháp, trong đó tập trung vào những lĩnh vực trọng tâm nhằm kịp thời phát hiện khó

khăn, vướng mắc, hạn chế trong thi hành pháp luật và khiếm khuyết, bất cập của pháp

luật. Những phát hiện này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc kiến nghị để tiếp tục

hoàn thiện pháp luật.

Thứ ba, bên cạnh việc kiểm tra thì các cơ quan QLNN cũng có thể thực hiện

việc điều tra, khảo sát về tình hình thi hành pháp luật về XHHDVC và từ đó định kỳ

có báo cáo kết quả thực hiện theo dõi thi hành pháp luật gửi tới các cơ quan nhà nước

có thẩm quyền, đặc biệt là cơ quan QLNN đối với dịch vụ công đó để có lưu ý, hoàn

thiện pháp luật, chính sách về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phù hợp với định

hướng, mục tiêu phát triển đã đề ra thông qua việc ban hành các văn bản quy định chi

tiết thi hành, sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành, tăng cường công tác hướng dẫn

nhằm bảo đảm tính chính xác, thống nhất trong áp dụng pháp luật.

4.2.5.2. Thực hiện thường xuyên rà soát, hệ thống hóa pháp luật và đề xuất

xây dựng Đề mục pháp điển về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp

Rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL là một trong những giải pháp chung được

sử dụng để hoàn thiện pháp luật. Rà soát văn bản QPPL là việc xem xét, đối chiếu,

đánh giá các quy định của văn bản được rà soát với văn bản là căn cứ pháp lý để rà

Page 150: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

soát cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội nhằm phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị

xử lý các quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn

phù hợp. Hệ thống hóa văn bản là việc tập hợp, sắp xếp các văn bản đã được rà soát,

xác định còn hiệu lực theo các tiêu chí về lĩnh vực nội dung của văn bản, thứ bậc hiệu

lực của văn bản và trình tự, thời gian ban hành văn bản. Kết quả rà soát, hệ thống hóa

văn bản được sử dụng trước hết cho việc xây dựng văn bản QPPL; tra cứu trong áp

dụng và thực hiện pháp luật. Đồng thời, trên cơ sở kết quả rà soát, hệ thống hóa, đề

xuất xây dựng Đề mục pháp điển về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp trong Bộ pháp

điển Việt Nam đang được xây dựng theo Pháp lệnh về pháp điển hệ thống QPPL.

Do đặc thù pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp không được quy

định tập trung trong một văn bản QPPL cụ thể mà được thể hiện trong nhiều văn bản

với hình thức, thứ bậc hiệu lực khác nhau nên việc thường xuyên rà soát, hệ thống

hóa văn bản QPPL về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là một giải pháp thích hợp

cho việc hoàn thiện pháp luật. Việc rà soát, hệ thống các văn bản QPPL trong lĩnh

vực tư pháp cần kết hợp giữa rà soát, hệ thống tổng thể và đối với từng văn bản. Cụ

thể như sau:

Một là rà soát, hệ thống hóa tổng thể các văn bản QPPL có chứa các quy định

liên quan đến XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Các văn bản này bao gồm các văn

bản quy định về từng hoạt động tư pháp và các văn bản quy định về tổ chức và hoạt

động của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ công nói chung. Trên cơ sở rà soát,

hệ thống hóa, thực hiện đánh giá tổng thể về các văn bản QPPL về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp. Việc đánh giá sẽ đối chiếu, so sánh giữa từng văn bản trong tổng thể

các văn bản QPPL và đối chiếu, so sánh giữa các văn bản với mục tiêu, yêu cầu, định

hướng XHHDVC nói chung và mục tiêu, yêu cầu của các Chiến lược cải cách pháp

luật, cải cách tư pháp và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Kết quả đối chiếu, so sánh là nguồn thông tin cho việc hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Đồng thời, theo Pháp lệnh pháp điển hệ thống

QPPL, kết quả cũng được sử dụng trong việc xây dựng Bộ pháp điển để tạo thuận lợi

trong sử dụng, tra cứu phục vụ cho công tác áp dụng và thực hiện pháp luật.

Page 151: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

Hai là rà soát, hệ thống hóa các văn bản QPPL trong từng lĩnh vực hoạt động

tư pháp để đánh giá và đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp đó trên cơ sở chuyển giao, thu hút sự tham gia của xã hội vào việc

cung cấp dịch vụ. Việc rà soát cần có đối chiếu, so sánh giữa các văn bản trong lĩnh

vực đó với nhau, giữa các văn bản đó với định hướng chung về XHHDVC trong lĩnh

vực tư pháp và giữa các văn bản QPPL trong lĩnh vực tư pháp với các văn bản quy

định về chính sách, tổ chức và hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ công nói

chung. Hình thức rà soát này có thể được sử dụng phục vụ cho việc soạn thảo, xây

dựng văn bản, đồng thời cũng để phục vụ cho việc triển khai thực hiện văn bản trên

cơ sở xác định các văn bản đã hết hiệu lực, cần bãi bỏ, sửa đổi so với văn bản mới

được ban hành.

Ba là rà soát được thực hiện với từng văn bản cụ thể kết hợp với công tác kiểm

tra văn bản nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật của văn bản để kịp thời

đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống

nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời, kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xác

định trách nhiệm của cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật, góp phần

nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Page 152: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4

1. Từ thực trạng của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp ở Việt

Nam hiện nay, Luận án đã xác định các quan điểm hoàn thiện pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp phải đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh thực hiện XHHDVC gắn với

cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam. Hoàn thiện pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng mô hình cung

cấp dịch vụ công hợp lý trên cơ sở huy động các nguồn lực trong xã hội tham gia vào

việc cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, phục vụ tốt hơn nhu cầu của

người dân và thực hiện trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội.

2. Để đạt được mục tiêu trên, nội dung hoàn thiện pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp phải được thực hiện đồng bộ trên cả ba nhóm quy định cơ bản

của pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp, trong đó chú trọng đến các giải

pháp tiếp tục ban hành các văn bản QPPL quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; xác định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp;

sửa đổi các quy định về điều kiện hành nghề của cá nhân và thành lập các tổ chức

cung ứng dịch vụ công chuyên nghiệp; hoàn thiện các quy định về hợp đồng cung cấp

dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; ban hành các chính sách khuyến khích

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; quy định cụ thể về nội dung QLNN về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp; xác định cơ quan QLNN về dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp; phân định trách nhiệm giữa các Bộ, ngành trong QLNN và trách nhiệm giữa

các Bộ, ngành với các tổ chức tự quản trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư

pháp.

Đồng thời, để hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng

cần chú trọng đến công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng chính

sách, theo dõi thi hành pháp luật, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL và pháp điển hệ

thống QPPL.

Page 153: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

KẾT LUẬN

1. XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là nhiệm vụ chiến lược được triển khai

thực hiện theo yêu cầu của quá trình cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phạm vi XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp

được xác định tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn, từng quốc

gia, từng khu vực nhất định. Là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện XHHVC trong lĩnh

vực tư pháp, pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp không phải là một ngành

luật độc lập mà bao gồm tổng thể các QPPL nằm trong các văn bản QPPL thuộc các

lĩnh vực và có cấp độ hiệu lực khác nhau. Pháp luật điều chỉnh ba nhóm quan hệ cơ

bản phát sinh từ quá trình tổ chức, cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, thực

hiện XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp và các nội dung về trách nhiệm của Nhà nước

trong quản lý việc cung cấp dịch vụ công trong điều kiện xã hội hóa.

2. Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung,

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp đã được đẩy mạnh hoàn thiện theo

yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở Việt Nam. Pháp luật đã tạo cơ sở

pháp lý cho sự tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp của các tổ

chức, cá nhân trong xã hội gắn với trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm

cung cấp các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp một cách công bằng, liên tục, ổn

định và có chất lượng. Đến nay, hầu hết các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp đã

được xã hội hóa với các mức độ phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực và theo yêu

cầu cải cách tư pháp. Hệ thống các tổ chức và đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp

hành nghề cung cấp dịch vụ công đã được hình thành và ngày càng được củng cố,

phát triển.

Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn và trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư

pháp, cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo và phục vụ thì

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập.

Nội dung của một số quy định còn chưa phù hợp với thực tiễn, chưa thống nhất giữa

các lĩnh vực, chưa có nhiều chính sách khuyến khích thực hiện XHHDVC trong

lĩnh vực tư pháp và đặc biệt là nội dung QLNN đối với việc cung cấp dịch vụ công

Page 154: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

trong lĩnh vực tư pháp còn chưa được quy định cụ thể, chưa phân định cụ thể trách

nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau và giữa các cơ quan nhà nước

với các tổ chức tự quản hành nghề cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế có cả từ khách quan và chủ quan.

Trước hết những hạn chế là do XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp là vấn đề mới

trong khi điều kiện bảo đảm cho việc xây dựng và thực thi pháp luật còn hạn chế cả

về tài chính lẫn con người. Cùng với đó là hạn chế trong công tác xây dựng, hoạch

định chính sách cho việc thực hiện XHHDVC chưa đáp ứng được yêu cầu, trình độ,

năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước và hạn chế từ công tác

thi hành pháp luật đã có tác động tiêu cực đến quá trình hoàn thiện pháp luật về

XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

4. Hoàn thiện pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp phải đáp ứng

yêu cầu đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa dịch vụ công gắn với cải cách hành chính,

đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và cải cách tư pháp, xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Hoàn thiện pháp luật nhằm tạo được cơ sở

pháp lý cho việc xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ công hợp lý trên cơ sở huy

động các nguồn lực trong xã hội tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân và thực hiện trách nhiệm

của Nhà nước trước xã hội.

Để đạt được mục tiêu nói trên, các giải pháp mang tính tổng thể nhằm bảo

đảm yêu cầu toàn diện, thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của pháp luật về XHHDVC

trong lĩnh vực tư pháp cần thiết phải được thực hiện. Trước hết là việc thực hiện

giải pháp nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ hơn nữa về bản chất của từng dịch vụ

công, xã hội hóa và chính sách đối với XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp. Trên cơ

sở các nghiên cứu lý luận, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần thực hiện

hoạch định chính sách phát triển trong từng thời kỳ phù hợp với điều kiện lịch sử cụ

thể của đất nước. Đây là các nguyên tắc cho việc hoàn thiện pháp luật và điều chỉnh

các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Hoàn thiện các quy định pháp luật về XHHDVC là giải pháp cần được thực

hiện đồng bộ trên cả ba nhóm quy định cơ bản của pháp luật về XHHDVC trong

Page 155: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

lĩnh vực tư pháp, trong đó chú trọng đến việc tiếp tục ban hành các văn bản QPPL

quy định về tổ chức và hoạt động cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; xác

định dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; sửa đổi các quy định về điều kiện hành

nghề của cá nhân và thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công chuyên nghiệp;

hoàn thiện các quy định về hợp đồng cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp;

ban hành các chính sách khuyến khích XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; quy định

cụ thể về nội dung QLNN về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp; xác định cơ quan

QLNN về dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp; phân định trách nhiệm giữa các Bộ,

ngành trong QLNN và trách nhiệm giữa các Bộ, ngành với các tổ chức tự quản

trong cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp.

Đồng thời, các giải pháp khác cũng cần thiết phải được thực hiện, bao gồm

bảo đảm các điều kiện cho công tác xây dựng pháp luật và nâng cao hiệu quả công

tác thi hành pháp luật trên cơ sở chú trọng đến công tác theo dõi thi hành pháp luật,

thường xuyên rà soát, hệ thống hóa văn bản và pháp điển hệ thống quy phạm pháp

luật để có thể thường xuyên đánh giá, theo dõi, phát hiện kịp thời hiệu quả của văn

bản đó trong thực tiễn cuộc sống để từ đó có kiến nghị, giải pháp tiếp tục hoàn thiện

pháp luật về XHHDVC trong lĩnh vực tư pháp.

Page 156: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Thu Hường (2017), “Đề xuất đổi mới việc cung ứng dịch vụ công trong

lĩnh vực tư pháp trong điều kiện xã hội hóa theo chiến lược cải cách tư

pháp”, Tạp chí Nghề luật tháng 1/2017.

2. Trần Thu Hường (2017), “Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp - Thực trạng và hướng hoàn thiện theo yêu cầu cải cách tư

pháp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng 1 (298) năm 2017.

3. Trần Thu Hường (2016), “Đặc trưng của xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh

vực tư pháp ở Việt Nam và một số kiến nghị”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

số chuyên đề tháng 11/2016, tr23-28.

4. Trần Thu Hường (2013), “Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong các

lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp - Thực trạng và giải pháp

hoàn thiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 8 (25), tr28-31.

Page 157: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu tiếng Việt

1. TS Đinh Văn Ân và Hoàng Thu Hòa (2006), Đổi mới cung ứng dịch vụ công

ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê.

2. Ths Nguyễn Hoàng Anh (2006), “Xã hội hóa hoạt động công chứng – Từ ý

tưởng đến thực tiễn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (176), tháng 11/2006,

tr2-tr6.

3. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (1991), Báo cáo chính trị của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,

http://www.dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/van-kien-dang/van-kien-dai-

hoi/khoa-vii/doc-21012201511352246.html, truy cập ngày 30/10/2016.

4. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (2000), Báo cáo chính trị tại Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.

5. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (2006), Báo cáo chính trị tại Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2016), Báo cáo của Ban chấp

hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng, Văn

kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,

Hà Nội.

7. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X (2007), Nghị quyết số 17/NQ-TW

về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của

bộ máy nhà nước.

8. Nguyễn Ngọc Bích (2012), Hoàn thiện pháp luật về dịch vụ công trong lĩnh vực

hành chính ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, Hà Nội.

9. TS Nông Phú Bình (2000), Một số thuật ngữ hành chính, Nhà xuất bản thế

giới, Hà Nội

Page 158: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

10. Bộ Nội vụ (2013), Báo cáo kết quả xác định Par Index 2012 của các Bộ, cơ quan

ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 9/2013

http://www.moha.gov.vn/danh-muc.html?cateid=560, truy cập ngày 30/10/2016.

11. Bộ Nội vụ (2014), Báo cáo kết quả xác định Par Index 2013 của các Bộ, cơ

quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

(kèm theo Quyết định số 895/QĐ-BNV ngày 22/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Nội

vụ), 8/2014 http://www.moha.gov.vn/danh-muc.html?cateid=560, truy cập

ngày 30/10/2016.

12. Bộ Nội vụ (2013), Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính – ban hành

kèm theo Quyết định số 2367/QĐ-BNV.

13. Bộ Tư pháp (2011), Báo cáo số 48/BC-BTP ngày 25/3/2011 tổng kết 5 năm

thi hành Pháp lệnh Giám định tư pháp.

14. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo số 46/BC-BTP ngày 6/3/2012 tổng kết 5 năm thi

hành Luật Luật sư.

15. Bộ Tư pháp (2012), Tổng thuật pháp luật một số nước về luật sư, Tài liệu kèm

theo Dự án Luât Luật sư sửa đổi,

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_D

etail.aspx?ItemID=488&TabIndex=2&TaiLieuID=543, truy cập ngày

30/10/2016.

16. Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật Công chứng, Tài

liệu Hội nghị tổng kết 5 năm thi hành Luật Công chứng.

17. Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo tổng thuật pháp luật về công chứng đã đề cập

đến hệ thống công chứng Latin (Cộng hòa Pháp, Cộng hòa liên bang Đức, Tây

Ban Nha, Ba Lan, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc) và

một số thông tin liên quan đến hệ thống công chứng Anglo

Sacxong,http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/

View_Detail.aspx?ItemID=667&TabIndex=2&TaiLieuID=1179, truy cập

ngày 30/10/2016.

Page 159: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

18. Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo tổng thuật về giám định tư pháp Cộng hoà liên

bang Đức, Cộng hoà Pháp, Vương quốc Thụy Điển, Nhật Bản, Cộng hoà

nhân dân Trung Hoa và một số nước khác

http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_

Detail.aspx?ItemID=264&TabIndex=2&TaiLieuID=548 truy cập ngày

30/10/2016.

19. Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo số 20/BC-BTP ngày 20/1/2016 về Tổng kết công

tác tư pháp năm 2015, nhiệm kỳ 2011-2015; định hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ

2016-2020 và nhiệm vụ, giải pháp công tác chủ yếu năm 2016.

20. Bộ Tư pháp (2017), Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 3/1/2017 về tổng kết công

tác tư pháp năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác tư

pháp năm 2017.

21. Bộ Tư pháp (2002), Đổi mới quản lý Ngành Tư pháp - một số vấn đề lý luận và

thực tiễn, Đề tài khoa học cấp Bộ.

22. Bộ Tư pháp (2007), Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp Bộ.

23. Bộ Tư pháp (2010), Dự án điều tra cơ bản về Thực trạng tổ chức và hoạt

động các cơ quan tư pháp, các tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực tư pháp

phục vụ xây dựng Chiến lược phát triển và quy hoạch tổng thể phát triển

ngành Tư pháp đến năm 2020, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

24. Bộ Tư pháp (2011), Xã hội hoá hoạt động công chứng sau gần 5 năm triển

khai Luật Công chứng, Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

25. Bộ Tư pháp (2011), Hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc

đẩy thể chế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam, Đề tài khoa

học cấp Bộ.

26. Bộ Tư pháp (2013), Cải cách tư pháp – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,

Chuyên đề phục vụ nghiên cứu tổng kết 30 năm đổi mới của Hội đồng lý luận

Trung ương, Hà Nội.

Page 160: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

27. Bộ Tư pháp (2014), Mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư pháp,

Thông tin khoa học pháp lý, phụ lục 02/2014.

28. TSKH Lê Cảm và TS Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt

Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội.

29. Chính phủ (2011), Chương trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà

nước giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP.

30. Chính phủ (2012), Báo cáo số 299/BC-CP ngày 23/10/2012 của Chính phủ

về tổng kết thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số

24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc Hội.

31. Cục Trợ giúp pháp lý (2013), Kinh nghiệm Trợ giúp pháp lý ở AILEN và áp

dụng tại Việt Nam, http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/kinh-

nghiem-tro-giup-phap-ly-o-ailen-va-ap-dung-tai-viet-nam, truy cập ngày

30/10/2016.

32. Cục Trợ giúp pháp lý (2015), Giới thiệu trợ giúp pháp lý của Nhật Bản,

http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/gioi-thieu-he-thong-tgpl-o-

nhat-ban, truy cập ngày 30/10/2016.

33. PGS.TS Hà Hùng Cường (2009), Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu

cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/hoan-thien-he-thong-phap-

luat-111ap-ung-yeu-cau-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn, truy cập ngày

30/10/2016.

34. Diễn đàn kinh tế - tài chính Việt – Pháp (2000), Dịch vụ công cộng và khu vực

quốc doanh, báo cáo của Elie Cohen, Claude Henry, bình luận của Francói

Morin, Paul Champsaur, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2004), Thể chế tư pháp trong Nhà

nước pháp quyền, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

Page 161: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

36. GS Ngô Thành Dương (2006), Bàn về khái niệm xã hội hóa,

https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/06/23/3160/, truy cập ngày

30/10/2016.

37. TS Đặng Đức Đạm, Một số vấn đề về đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt

Nam,http://www.vnep.org.vn/Modules/CMS/Upload/2/Dich%20vu%20cong%20-

Bao%20cao%20anh%20Dam.pdf, truy cập ngày 30/10/2016.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6

năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-

2020, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

42. Bùi Xuân Đính (2005), Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam,

NXB Tư pháp, Hà Nội.

43. ECODES, VFF-CRT, UNDP (2013), Chỉ số công lý – Thực trạng về công bằng

và bình đẳng dựa trên ý kiến của người dân năm 2012,

7/2013,http://www.undp.org/content/dam/vietnam/docs/Publications/Justice%20

index_VN_FINAL%2029%20Sep.pdf, truy cập ngày 30/10/2016.

44. ECODES, VFF-CRT, UNDP (2014), Báo cáo Chỉ số hiệu quả quản trị và

hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) – Đo lường từ kinh nghiệm thực

tiễn của người dân, 2014, http://papi.vn/tai-lieu-va-so-lieu.html# , truy cập

ngày 30/10/2016.

Page 162: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

45. TS Lê Thu Hà (2016), Quyền tư pháp và cơ quan tư pháp ở Việt Nam, Tạp

chí Dân chủ và Pháp luật, http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-

phap-luat.aspx?ItemID=181, truy cập ngày 30/10/2016.

46. Phan Thị Thu Hà (2006), “Trợ giúp pháp lý – quan niệm và mô hình ở một số

nước trên thế giới”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2006.

47. Phan Hà (2013), Người thực hiện Trợ giúp pháp lý theo quy định pháp luật

một số nước trên thế giới, http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-

doi/nguoi-thuc-hien-tro-giup-phap-ly-theo-quy-dinh-phap-luat-mot-so-nuoc-

tren-gioi, truy cập ngày 30/10/2016.

48. Lê Hồng Hạnh (2008), “Đảm bảo sự thống nhất của pháp luật về đăng ký bất

động sản”, Tạp chí Pháp luật và phát triển số tháng 4/2008.

49. Trần Ngoc Hiên (2012), XHHDVC: Quan điểm tiếp cận và kinh nghiệm từ

một số nước, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-

Traodoi/2012/16559/Xa-hoi-hoa-dich-vu-cong-Quan-diem-tiep-can-va-

kinh.aspx , truy cập ngày 30/10/2016.

50. Nguyễn Ngọc Hiến (2001), Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở

Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia.

51. TS Nguyễn Ngọc Hiến (2002), Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ

công – Nhận thức, thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông

tin.

52. Ngô Văn Hiệp (2014), “Lịch sử hình thành và phát triển thiết chế luật sư tại

Việt Nam”, Tạp chí Luật sư Việt Nam số 7, tháng 9/2014.

53. Mai Hoa, Thanh Minh và Huyền Trang (2012), “Kinh nghiệm bán đấu giá tài

sản theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới”, Tạp chí Dân chủ và Pháp

luật số chuyên đề về bán đấu giá tài sản.

54. Lê Thị Phương Hoa (2006), “Xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý, nhìn từ

góc độ XHHDVC”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2006, tr45-tr50.

55. Nguyễn Phương Hoa (2005), Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay,

Luận án thạc sỹ luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

Page 163: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

56. Phan Trung Hoài (2003), Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật

sư ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ năm 2003.

57. Hội luật gia Việt Nam (2015), Đề tài khoa học cấp cơ sở: Nghiên cứu cơ sở lý

luận và thực tiễn, đề xuất xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật hiện

hành về xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Hà Nội.

58. Ths Lê Xuân Hồng (2011), “Từ nhu cầu xã hội, đến chủ trương và kết quả

bước đầu của việc thực hiện thí điểm Thừa phát lại”, Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, 11/2011, tr2-tr5.

59. Trần Thu Hường (2013), “Pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong các lĩnh

vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp – Thực trạng và giải pháp hoàn

thiện”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 8 (25), tháng 8/2013.

60. Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc

gia, 2003.

61. Martine Lombard và Gilles Dumont (2007), Pháp luật hành chính của cộng

hoà Pháp, Nhà xuất bản Tư pháp, 2007.

62. Montesquieu, Bàn về tinh thần pháp luật [bản dịch tiếng Việt của Hoàng

Thanh Đạm], Nhà xuất bản lý luận chính trị, Hà Nội-2006, tr.105-206.

63. Dương Quang Long (2009), “Kinh nghiệm đảm bảo chất lượng trợ giúp pháp

lý ở Vương quốc Anh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng

10/2009.

64. Đào Dư Long (2015), Bàn về vai trò nòng cốt của nhà nước trong hoạt động Trợ

giúp pháp lý của Việt Nam hiện nay, http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-

doi/nghien-cuu-trao-doi-ban-ve-vai-tro-nong-cot-cua-nha-nuoc-trong-hoat-dong-

tro, truy cập ngày 30/10/2016.

65. TS. Uông Chu Lưu (2006), Đề tài KX04-06 - Cải cách các cơ quan tư pháp,

hoàn thiện các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà

án trong Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân

dân.

Page 164: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

66. Tạ Thị Minh Lý (2008), Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

trong điều kiện đổi mới, Luận án tiến sỹ luật học, Học viện chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

67. Nam Nguyễn (2012), Tiêu chí xác định chất lượng của hệ thống pháp luật,

http://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1538, truy cập

ngày 30/10/2016.

68. Nhà pháp luật Việt Pháp (1997), Tài liệu tham khảo về Thừa phát lại và Thi

hành án (Trích dịch từ cuốn “L’Huissier de Justice” do Hội đồng Thừa phát

lại Pháp ấn hành tháng 2/1994), Hà Nội.

69. Võ Đình Nho (2006), “Yêu cầu và thách thức xã hội hóa công chứng”, Tạp chí

Dân chủ và Pháp luật - Số chuyên đề về Công chứng, 11/2006, tr5-tr7.

70. Phạm Duy Nghĩa (2007), “XHHDVC trong tư pháp: Liệu còn quá sớm”, Tạp chí

khoa học kinh tế - luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tháng 11/2007.

71. TS.Dương Thanh Mai (2011), “Quan điểm khoa học, chính trị - pháp lý về

Thừa phát lại trong tiến trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở Việt

Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 11/2011, tr2-tr5.

72. Nguyễn Văn Quang (2010), Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa cung ứng

dịch vụ công ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Trường Đại học Luật Hà Nội

LH-08-06-ĐHLHN, 2010.

73. GS.VS Nguyễn Duy Quý và PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (2008), Nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân: Lý luận và Thực tiễn,

Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2008.

74. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2011), Số chuyên đề về Thừa phát lại tháng

11/2011.

75. Lê Minh Tâm (2003), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam -

những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

76. Phạm Hồng Thái (2002), “Bàn về dịch vụ công”, Tạp chí Quản lý nhà nước,

số 8 - 2002.

Page 165: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

77. Tuấn Đạo Thanh (2006), “Một vài ý kiến về các quy định của pháp luật hiện

hành về công chứng, chứng thực”, Tạp chí Kiểm sát tháng 9/2006.

78. Tuấn Đạo Thanh (2006), Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số

nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn

thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ.

79. Chu Văn Thành (2004), Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công - Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia.

80. Chu Văn Thành (2007), Dịch vụ công - đổi mới quản lý và tổ chức cung ứng

dịch vụ công, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Nguyễn Văn Tuân (2012), Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư, Nhà xuất

bản Tư pháp, Hà Nội.

82. Thanh Trịnh (2015), Kết quả 10 năm xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong

lĩnh vực trợ giúp pháp lý (2005 – 2015) và định hướng, nhu cầu hoàn thiện

pháp luật giai đoạn 2016 – 2020, http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-

trao-doi/ket-qua-10-nam-xay-dung-va-hoan-thien-phap-luat-trong-linh-vuc-

tro-giup-phap-ly, truy cập ngày 30/10/2016.

83. Thanh Trịnh (2015), Một số bất cập của Luật TGPL trong so sánh với kinh

nghiệm nước ngoài về TGPL,http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-

doi/mot-so-bat-cap-cua-luat-tgpl-trong-so-sanh-voi-kinh-nghiem-nuoc-ngoai-

ve-tgpl, truy cập ngày 30/10/2016.

84. Thanh Trịnh (2015), Giới thiệu trợ giúp pháp lý của Argentina,

http://trogiupphaply.gov.vn/nghien-cuu-trao-doi/gioi-thieu-tro-giup-phap-ly-

argentina, truy cập ngày 30/10/2016.

85. Nguyễn Văn Tùng (2004), “Đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong

điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật tháng 3/2004.

86. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Giáo trình xã hội học, NXB Đại học Sư

phạm, Hà Nội-2005, tr58-59.

Page 166: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

87. Ủy ban Tư pháp (2017), Báo cáo số 932/BC-UBTP14 thẩm tra các báo cáo

của Chính phủ về công tác phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật công

tác thi hành án; các báo cáo công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao năm 2017.

88. PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (2001), Đổi mới tổ chức, hoạt động giám định tư

pháp, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

89. PGS.TS Nguyễn Tất Viễn (2003), Sách Hệ thống tư pháp và cải cách tư

pháp ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

90. Viện Khoa học pháp lý (2001), “Chuyên đề: Xã hội hóa hoạt động thi hành án dân

sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Thông tin Khoa học pháp lý, 5/2001.

91. Viện Khoa học pháp lý (2005), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu khoa

học pháp lý của Bộ Tư pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực

tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư

trong điều kiện mới ở Việt Nam”, Thông tin khoa học pháp lý, Phụ lục

03/2010.

92. Viện Khoa học pháp lý (2007), “Nhận diện và một số giải pháp nâng cao hiệu

quả quản lý, chất lượng dịch vụ công trong ngành Tư pháp”, Thông tin khoa

học pháp lý, 12/2007.

93. Viện Khoa học pháp lý (2008), “Chuyên đề Nội dung tóm tắt các đề tài

nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp giai đoạn 1995-1998”, Thông

tin khoa học pháp lý, Phụ lục 2/2008.

94. Viện Khoa học pháp lý (2009), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu khoa học

pháp lý của Bộ Tư pháp – Chuyên đề: Cơ sở lý luận và thực tiễn về Chế định

Thừa phát lại”, Thông tin Khoa học pháp lý, 3/2009, tr4-tr19.

95. Viện Khoa học pháp lý (2010), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu khoa

học pháp lý của Bộ Tư pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực

tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư

trong điều kiện mới ở Việt Nam”, Thông tin khoa học pháp lý, Phụ lục

03/2010.

Page 167: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

96. Viện Khoa học pháp lý (2011), Xã hội hóa hoạt động công chứng sau gần 5

năm triển khai Luật công chứng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

97. Viện Khoa học pháp lý (2012), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu

khoa học pháp lý của Bộ Tư pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ: Xã hội hóa hoạt

động giám định tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Thông tin khoa

học pháp lý, phụ lục 02/2012

98. Viện Khoa học pháp lý (2012), “Nội dung tóm tắt các Đề tài nghiên cứu khoa

học pháp lý của Bộ Tư pháp - Đề tài khoa học cấp Bộ: Phân cấp quản lý nhà

nước về công tác tư pháp: Thực trạng và hướng hoàn thiện”, Thông tin khoa

học pháp lý, phụ lục số 2/2012.

99. Viện Khoa học pháp lý (2014), “Mô hình quản lý dịch vụ công của Ngành Tư

pháp”, Thông tin khoa học pháp lý, 11/2014.

100. Uỷ ban pháp luật, Quốc hội (2012), Báo cáo số 796/BC-UBPL13 ngày

12/4/2012 về việc giải trình, tiếp thu chỉnh lý một số vấn đề lớn của dự án

Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.

101. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2012), Báo cáo số 180/BC-UBTVQH13 ngày

19/6/2012 về giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Giám định tư pháp

(trình Quốc hội biểu quyết thông qua).

102. Đỗ Hoàng Yến (2017), “Xây dựng Luật đấu giá tài sản đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp”, http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-

luat.aspx?ItemID=237, truy cập ngày 15/4/2017.

2. Danh mục tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh

103. Brendan Martin (2004), What is public about public services,

www.publicworld.org/files/WhatIsPublic.pdf,, truy cập ngày 30/10/2016.

104. CIEL, Research Paper: Public services and the scope of the general

agreement on trade in services (GATs), 5/2001,

http://www.ciel.org/Publications/PublicServicesScope.pdf , truy cập ngày

30/10/2016.

Page 168: hcma.vnhcma.vn/Uploads/2018/1/12/tran_thu_huong_la.pdf · HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THU HƢỜNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH

105. Janet V.Denhardt va Robert B. Denhardt, The new public service – serving

not steering, 2007 http://www.untag-

smd.ac.id/files/Perpustakaan_Digital_2/PUBLIC%20ADMINISTRATION%

20The%20new%20public%20service%20serving,%20not%20steering.pdf,

truy cập ngày 30/10/2016.

106. Markus Krajewski (2001), Public services and the scope of the general

agreement on trade in services, A research paper written for center for

international enviromental law (CIEL), 5/2011,

http://www.ciel.org/Publications/PublicServicesScope.pdf, truy cập ngày

30/10/2016.

107. OECD, The regulations of public services in OECD countries – issues for

discussion, 11/2007, http://www.oecd.org/gov/regulatory-

policy/41878847.pdf, truy cập ngày 30/10/2016.

108. OECD, Together for better public services, partnering with citizen and civil society,

2011 http://browse.oecdbookshop.org/oecd/pdfs/product/4211131e.pdf, truy cập ngày

30/10/2016.

109. UN Statistic – http://unstats.un.org/unsd/cr/registry/regcst.asp?Cl=16, truy

cập ngày 30/10/2016.

110. Wolf Sauter, Public services in EU Law, Cambridge University Press 12/2014.

111. World Bank (1997), World Development Report 1997: The State in Changing

World, https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/5980, truy cập ngày

30/10/2016.

112. WTO, General Agreement on Trade in Services,

http://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/26-gats_01_e.htm, truy cập ngày

30/10/2016.

113. WTO (1998) - Council for Trade in Service, Legal service,

https://www.wto.org/english/tratop_e/serv_e/w43.doc, truy cập ngày

30/10/2016.