Upload
vudan
View
226
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐINH QUANG TIẾN
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
TRONG ĐỜI SỐNG CƢ DÂN NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐINH QUANG TIẾN
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
TRONG ĐỜI SỐNG CƢ DÂN NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. NGUYỄN THANH XUÂN
2. PGS. TS. NGUYỄN DUY BẮC
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Đinh Quang Tiến
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7
1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản 20
Chƣơng 2: KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ 35
2.1. Điều kiện hình thành đạo Cao Đài 35
2.2. Khái lược về lịch sử và sinh hoạt của đạo Cao Đài 46
Chƣơng 3: NHẬN DIỆN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA ĐẠO CAO ĐÀI 62
3.1. Giá trị nhận thức 62
3.2. Giá trị đạo đức 74
3.3. Giá trị thẩm mỹ 89
Chƣơng 4: TÁC ĐỘNG CỦA CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐẠO CAO
ĐÀI TRONG ĐỜI SỐNG CƢ DÂN NAM BỘ VÀ MỘT SỐ
VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY 105
4.1. Tác động của các giá trị văn hóa đạo Cao Đài trong đời
sống cư dân Nam Bộ 105
4.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát huy giá trị văn hóa
của đạo Cao Đài hiện nay 127
KẾT LUẬN 144
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 148
PHỤ LỤC 160
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 4.1: Mức độ chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài tham gia hoạt động
từ thiện xã hội 105
Biểu đồ 4.2: Mức độ nhận biết về trường dạy học của đạo Cao Đài 108
Biểu đồ 4.3: Mức độ hiểu biết về các hình thức đào tạo của đạo Cao Đài 109
Biểu đồ 4.4: Mức độ chứng nghiệm sự màu nhiệm trong cuộc đời tu
hành của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài 113
Biểu đồ 4.5: Mức độ cầu nguyện để vượt qua khó khăn, vướng mắc
trong cuộc sống của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài 114
Biểu đồ 4.6: Mức độ đánh giá về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, tôn giáo của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài 118
Biểu đồ 4.7: Mức độ tham gia các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội 119
Biểu đồ 4.8: Mức độ hoạt động bồi dưỡng đức tin hằng ngày của chức
sắc, tín đồ đạo Cao Đài 120
Biểu đồ 4.9: Mức độ lôi cuốn của đạo Cao Đài thu hút tín đồ tin theo 121
Biểu đồ 4.10: Mức độ nhu cầu tôn giáo của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài 122
Biểu đồ 4.11: Mức độ các giá trị của đạo Cao Đài tác động đến đời sống
tinh thần của chức sắc, tín đồ 123
Biểu đồ 4.12: Mức độ đóng góp của đạo Cao Đài trong đời sống văn
hóa, xã hội ở Nam Bộ 124
Biểu đồ 4.13: Mức độ phù hợp của đạo Cao Đài với phong tục tập quán,
lối sống của cư dân Nam Bộ 125
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo Cao Đài là một trong các tôn giáo lớn ở Việt Nam, ra đời năm 1926 tại
Tây Ninh, hiện nay có khoảng 2,5 triệu tín đồ, hơn 10 ngàn chức sắc hoạt động chủ
yếu tại các tỉnh, thành phố Nam Bộ. Hơn 90 năm qua, đạo Cao Đài đã trở thành
một thực thể tồn tại khách quan, có tính hấp dẫn riêng, lôi cuốn được nhiều người
tin theo. Đạo Cao Đài tạo ra một cộng đồng có tín ngưỡng và hướng dẫn con người
có lối sống đạo đức, tinh thần nhân văn. Một bộ phận cư dân Nam Bộ đến với đạo
Cao Đài được sống trong cộng đồng có tổ chức, tham gia đời sống tập thể và cả đời
sống cá nhân có một nếp sống văn hoá. Do được tiếp xúc với văn hoá phương Tây,
những người sáng lập đạo Cao Đài đã tiếp thu, dung hoà các tinh hoa văn hoá
phương Tây về tư tưởng tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái kết hợp với các giá trị văn
hoá truyền thống của dân tộc để tạo cho đạo Cao Đài một diện mạo mới thu hút được
cư dân Nam Bộ tin theo. Hằng năm, đạo Cao Đài có khoảng 30 ngàn người nhập
môn (vào Đạo). Điều này cho thấy vai trò, giá trị của đạo Cao Đài trong đời sống
cư dân Nam Bộ.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có những nhìn
nhận khoa học hơn về tôn giáo và coi tôn giáo là lĩnh vực tinh thần không thể thiếu
trong một bộ phận nhân dân. Do đó, chúng ta có những nhìn nhận cởi mở và tích
cực đối với giá trị của tôn giáo. Tôn giáo có vai trò không nhỏ trong đời sống của
người có đạo và ở chừng mực nào đó đối với người không có đạo. Đồng thời, Nhà
nước cũng công nhận những giá trị văn hóa của tôn giáo đóng góp trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hình thành nhân cách con người hiện nay. Nhiều tôn
giáo đã được Nhà nước công nhận và cho phép hoạt động công khai. Thực tế cho
thấy giá trị của tôn giáo nói chung và giá trị văn hóa của tôn giáo nói riêng đóng vai
trò không nhỏ trong đời sống của người có đạo và đã có những tác động nhất định
đến đời sống cư dân sống xung quanh các tôn giáo, trong đó có đạo Cao Đài.
Sự xuất hiện của đạo Cao Đài đã góp phần đáp ứng nhu cầu tinh thần của
người Nam Bộ và trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở trong
2
nước và nước ngoài. Nghiên cứu về văn hóa của đạo Cao Đài đã có một số công
trình tìm hiểu, lý giải nhưng nghiên cứu về giá trị văn hóa của đạo Cao Đài và
những tác động của nó trong đời sống cư dân Nam Bộ đến nay chưa có công trình
nào đề cập đến một cách đầy đủ và thấu đáo. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm nhận
diện các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong các sinh hoạt văn hóa của cư dân
Nam Bộ là cần thiết về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh đổi mới của xã hội hiện
nay. Đồng thời cũng góp phần thực hiện tốt việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết số
25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX về công tác tôn giáo.
Để góp phần làm sáng tỏ các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài và những tác
động của nó trong đời sống cư dân Nam Bộ đồng thời phát huy các giá trị văn
hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ hiện nay, nghiên cứu sinh
lựa chọn đề tài: "Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam
Bộ" làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Văn hóa học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài và những tác động của nó
trong đời sống cư dân Nam Bộ góp phần khẳng định và phát huy các giá trị văn hóa
đó trong đời sống cư dân Nam Bộ hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ tình hình nghiên cứu về đạo Cao Đài; hệ thống hóa một số vấn đề
lý luận cơ bản về giá trị, giá trị văn hóa và khái quát sự hình thành, tồn tại, cơ cấu
của đạo Cao Đài.
- Phân tích, nhận diện các giá trị văn hóa cơ bản của đạo Cao Đài và những
tác động của nó trong đời sống cư dân Nam Bộ.
- Đánh giá quá trình tiếp nhận, phát huy của cư dân Nam Bộ đối với các giá
trị văn hóa của đạo Cao Đài và những vấn đề đặt ra hiện nay trong việc phát huy các
giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống của họ.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong
đời sống cư dân Nam Bộ trước đây và hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khách thể: Đề tài tập trung nghiên cứu giá trị văn hóa của đạo Cao
Đài trong đời sống của bộ phận cư dân có đạo Cao Đài.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu những tác động của các giá trị văn hóa đạo
Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ, giới hạn từ năm 1995, khi đạo Cao Đài
được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân và hoạt động bình thường như các tôn
giáo khác ở Việt Nam đến nay.
- Phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu ở các địa phương có Tòa thánh,
Tổ đình và có đông chức sắc, tín đồ của đạo Cao Đài tại: Tây Ninh, Bến Tre, Tiền
Giang, Cà Mau, Kiên Giang, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án sử dụng cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
4.2. Phương pháp cách tiếp cận liên ngành
Văn hóa học là một khoa học có tính tổng hợp. Do vậy, nghiên cứu một hiện
tượng văn hóa tôn giáo dưới góc nhìn văn hóa học có thể vận dụng, sử dụng tri thức
của nhiều môn khoa học như: tâm lý học, tôn giáo học, xã hội học, sử học,…
Sử dụng phương pháp cách tiếp cận liên ngành để làm rõ các vấn đề về giá
trị văn hóa của đạo Cao Đài. Trong đó phương pháp nghiên cứu tôn giáo học và sử
học để làm rõ quá trình hình thành, tồn tại, cơ cấu của đạo Cao Đài; phương pháp
nghiên cứu xã hội học để làm rõ những tác động của các giá trị văn hóa đạo Cao
Đài trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của cư dân Nam Bộ và những vấn
đề đặt ra hiện nay; phương pháp tâm lý học để thấy được nhận thức, thái độ của cư
dân Nam Bộ do tác động của các giá trị văn hóa đạo Cao Đài trong đời sống của họ.
4
4.3. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu là sử dụng thông tin trong tài liệu
để rút ra thông tin cần thiết đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Phương pháp
này thu thập thông tin thứ cấp, không tiếp xúc với đối tượng khảo sát, chủ yếu thực
hiện qua nghiên cứu tài liệu, sách báo,… Hiện nay, sự bùng nổ của khoa học công
nghệ giúp nguồn thông tin thêm đa dạng, phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
người nghiên cứu thu thập và xử lý thông tin.
Khi nghiên cứu sự ra đời và tồn tại của đạo Cao Đài, nghiên cứu sinh đã sưu
tầm các tài liệu: Tân luật, Pháp Chánh truyền, Thánh ngôn, Thánh giáo, kinh sách
(Kinh Thiên đạo, Kinh Thế đạo, sách, báo, tạp chí, kỷ yếu,…), sách lịch sử Đạo,
công văn, Đạo văn, văn kiện, hồi ký, ảnh lưu trữ,… Sau khi có tài liệu liên quan,
nghiên cứu sinh chọn lọc các thông tin xác thực để phân tích, tìm hiểu, kết nối, nhận
định đúng các sự kiện lịch sử trên mối tương quan thống nhất. Tuy nhiên, một số tài
liệu đưa thông tin chưa chính xác do người viết là người trong Đạo viết ra bằng trí
nhớ bản thân, không trích dẫn nguồn tài liệu làm căn cứ nên có sự sai lệnh về thời
gian, tên gọi. Do đó việc xử lý thông tin cần người nghiên cứu phải cẩn trọng, tỷ mỷ
và công phu.
4.4. Phương pháp điều tra xã hội học
Nghiên cứu sinh xây dựng bảng điều tra đối với 300 người là chức sắc, tín đồ
đạo Cao Đài. Tổng hợp kết quả thu được có 263/300 người (37 phiếu không thu về
được hoặc không hợp lệ). Sử dụng 263 phiếu điều tra bằng bảng hỏi anket khảo sát
chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài ở các địa phương: Tây Ninh (50 phiếu của Cao Đài
Tây Ninh), Bến Tre (103 phiếu trong đó Cao Đài Ban Chỉnh đạo 53, Cao Đài Tiên
Thiên 50), Tiền Giang (60 phiếu trong đó Cao Đài Chơn Lý 30 và Cao Đài Việt
Nam 30), Kiên Giang (30 phiếu của Cao Đài Bạch Y), Thành phố Hồ Chí Minh (20
phiếu của Cơ quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo). Nghiên cứu sinh chia đối tượng
điều tra thành hai khu vực: Tây Nam Bộ có nhiều Hội thánh Cao Đài nên triển khai
193 phiếu và Đông Nam Bộ có Cao Đài Tây Ninh cùng Cơ quan Phổ Thông Giáo
Lý Đại Đạo chuyên nghiên cứu về đạo Cao Đài triển khai 70 phiếu. Đối tượng điều
tra gồm 192 chức sắc (48 Lễ sanh, 60 Giáo hữu, 50 Giáo sư, 18 Phối sư, 11 Đầu sư,
5
5 Chưởng pháp), và 71 tín đồ (47 tín đồ tu tại gia, 24 tín đồ sinh hoạt tại Họ đạo).
Bảng hỏi điều tra xã hội học gồm 20 câu hỏi trong đó chia thành 5 vấn đề chính:
thông tin chung về người được điều tra; mức độ niềm tin tôn giáo; vai trò của đạo
Cao Đài trong đời sống xã hội; thái độ về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, tôn giáo; tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng. Bằng phương pháp định
tính, nghiên cứu sinh sử dụng kết quả định tính để làm sáng tỏ thêm những kết quả
thu được từ phương pháp định lượng.
Nghiên cứu sinh triển khai thực hiện phỏng vấn sâu đối với 41 chức sắc, nhà
tu hành và nhà quản lý có trình độ hiểu biết giáo lý, có kinh nghiệm trong khoa học
quản lý nhà nước đối với đạo Cao Đài. Trong đó, Cao Đài Tây Ninh 02 chức sắc,
Cao Đài Ban Chỉnh đạo 03 chức sắc, Cao Đài Tiên Thiên 05 chức sắc, Cao Đài
Minh Chơn đạo 06 chức sắc, Cao Đài Chơn Lý 05 chức sắc, Cao Đài Việt Nam
(Bình Đức) 05 chức sắc, Cao Đài Bạch Y 05 chức sắc, Cơ quan Phổ Thông Giáo Lý
Đại Đạo 03 nhà tu hành, cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo 07 người (Tây Ninh
02, Bến Tre 01, Cà Mau 02, Kiên Giang 02). Nội dung câu hỏi phỏng vấn sâu liên
quan đến các vấn đề: trình độ nhận thức, hiểu biết về đạo Cao Đài; đánh giá về các
lĩnh vực văn hóa, xã hội liên quan đến đạo Cao Đài; nhận định về sựtác động của
các giá trị văn hóa đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ.
4.5. Phương pháp điền dã
Khi tìm hiểu sự tác động của các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời
sống cư dân Nam Bộ, nghiên cứu sinh chủ yếu chọn phương pháp điền dã để thực
hiện những chuyến đi thực tế đến các cơ sở thờ tự như: Tòa thánh, Thánh thất, Nhà
tu, di tích lịch sử của đạo Cao Đài, nơi diễn ra các cuộc lễ hoặc chính nơi cộng đồng
cư dân sinh sống và thực hành nghi lễ hằng ngày, gặp trực tiếp người có kiến thức
sâu rộng về giáo lý Cao Đài để phỏng vấn, tìm hiểu thông tin phục vụ đề tài. Nội
dung phỏng vấn về giá trị nhận thức, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ và những tác
động của nó trong đời sống một bộ phận cư dân có đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
Khi nghiên cứu giá trị văn hóa đạo Cao Đài bằng phương pháp điền dã,
nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp quan sát tham dự để chứng kiến diễn biến
các lễ hội của đạo Cao Đài (Đại lễ Vía Đức Chí Tôn, Đại lễ Hội Yến Diêu Trì
Cung, Lễ Trung nguyên, Lễ Hạ nguyên,…); các nghi thức quan hôn tang tế (lễ hôn
6
phối, lễ tang, lễ tắm thánh, lễ nhập môn,…); hành vi thực hành tôn giáo (chức sắc
quỳ chứng đàn, lễ sỹ đi chữ tâm dâng tam bửu, đồng nhi đọc kinh nhập hội - xuất
hội, làm phép Thượng tượng,…),… Nghiên cứu sinh đặt mình vào vị thế của người
trong cuộc để cảm nhận những tác động của đạo Cao Đài đối với một bộ phận cư
dân có đạo Cao Đài ở Nam Bộ qua nghi lễ tôn giáo và với góc độ của người nghiên
cứu để trải nghiệm, lý giải hiện tượng tôn giáo đem lại.
5. Kết quả và đóng góp mới của luận án
5.1. Về mặt lý luận
- Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giá trị và giá trị văn
hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ hiện nay.
- Ngoài ra, luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những
học viên, sinh viên chuyên ngành văn hóa học, tôn giáo học nghiên cứu những vấn
đề về giá trị, giá trị văn hóa của tôn giáo.
5.2. Về mặt thực tiễn
- Luận án góp phần làm rõ các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài và những tác
động của nó trong đời sống cư dân Nam Bộ, giúp các nhà nghiên cứu, nhà quản lý
tham khảo để từ đó nghiên cứu, xây dựng chính sách văn hóa hợp lý, nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước đối với đạo Cao Đài.
- Khuyến nghị một số vấn đề đặt ra đối với việc phát huy các giá trị văn hóa
của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ hiện nay.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án có 4 chương, 9 tiết.
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về tôn giáo và về giá trị văn hóa
1.1.1.1. Các công trình lý luận chung về tôn giáo theo quan điểm mácxít
Lý luận chung về tôn giáo có công trình: "Mác, Ăngghen, Lênin bàn về tôn
giáo" của Nguyễn Đức Sự [120] gồm 2 phần: phần trích tuyển các tác phẩm của
C.Mác và Ph.Ăngghen và phần trích tuyển các tác phẩm của V.I.Lênin. Đây là
những tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin có liên quan đến vấn đề tôn
giáo và thể hiện quan điểm về tôn giáo. Trong bối cảnh đương thời, C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin phải nói nhiều đến mặt tiêu cực và sự lợi dụng tôn giáo của
giai cấp thống trị nên chưa có điều kiện "đi sâu nghiên cứu chức năng nhiều mặt của
tôn giáo cũng như đi sâu nghiên cứu các khía cạnh văn hóa, tâm lý, tình cảm, đạo
đức v.v.. của tôn giáo" [120, tr.22-23]. Các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin chủ yếu nói đến vấn đề chính trị, đấu tranh giai cấp, vai trò của tôn giáo
trong đời sống xã hội mà ít bàn luận đến vấn đề văn hóa của tôn giáo. Do cách nhìn
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin xuất phát từ vấn đề chính trị, xã hội nên chưa
nhìn nhận tôn giáo là thành tố của văn hóa.
Trong tác phẩm: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo"
của Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đức Lữ (đồng chủ biên) [97] đã trình bày quan điểm
của Hồ Chí Minh về sự khác biệt giữa tôn giáo phương Đông với tôn giáo phương
Tây; tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc; Hồ Chí Minh về
vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Tư tưởng của Hồ Chí Minh là
tôn trọng, khoan dung khi ứng xử với tôn giáo, coi tôn giáo là đạo đức, là văn hóa,
là nhu cầu tinh thần của nhân dân và kiên quyết xử lý hành vi lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo làm ảnh hưởng đến lợi ích của dân tộc, lợi ích của cộng đồng.
Tác phẩm: "Lý giải tôn giáo" của Trác Tân Bình [13] gồm 624 trang với 4
phần: tôn giáo là gì; lịch trình của tôn giáo; nghiên cứu tôn giáo; nghiên cứu Kitô
8
giáo. Tác giả trình bày, lý giải hiện tượng biểu hiện bên ngoài, thế giới tâm linh tôn
giáo, phân tích mối quan hệ gắn bó giữa tôn giáo với đời sống xã hội của các tôn
giáo ở Trung Quốc và trên thế giới. Lý giải hiện tượng tôn giáo, tác giá đánh giá tôn
giáo là bình diện sâu nhất của văn hóa, quy định đặc tính và bản chất của văn hóa:
"Còn tín ngưỡng tôn giáo, chuẩn mực đạo đức, quan niệm giá trị, hứng thú thẩm
mỹ, phương thức tư duy có thể quy vào bình diện tinh thần và tâm lý của văn hóa,
nó là bình diện sâu nhất của văn hóa, nó quy định đặc tính và bản chất của văn hóa"
[13, tr.63]. Tác giả đã khẳng định tôn giáo là biểu hiện sâu sắc nhất của văn hóa và
mang những đặc trưng cơ bản của văn hóa.
Tác phẩm: "Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam" của Đặng
Nghiêm Vạn [154]. Tác phẩm nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến vấn
đề tôn giáo ở Việt Nam, đặc điểm và vai trò của tôn giáo Việt Nam trong đời sống
hiện nay, đặc biệt là đời sống văn hóa trong công cuộc xây dựng đất nước và bối cảnh
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay. Từ đó, tác giả đề cập một số vấn đề về chính
sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo ở Việt Nam. Trong đó, tác giả xác định tôn
giáo là nhu cầu cần thiết của nhân dân cần được tôn trọng và tôn giáo có vai trò nhất
định trong văn hóa, xã hội góp phần thúc đẩy phát triển xã hội. Đồng thời, tác giả
nhận định về diễn biến và xu thế của tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa.
C : "
Quang Hưng [75]. Công trình của tác giả đã góp phần: xác định căn bản lý luận về
chính sách tôn giáo; xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; nhu cầu
giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội hiện nay tại Việt Nam và tổng
kết chính sách tôn giáo trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Tác giả làm rõ vấn đề
chính sách tôn giáo và nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, với hy vọng: "...thúc đẩy
những yếu tố tích cực của cộng đồng các tôn giáo với đời sống chính trị - xã hội và
văn hóa cũng như góp phần vào việc phát triển bền vững đất nước..." [75, tr.437].
Tác giả mong muốn Nhà nước, nhân dân cùng với tôn giáo phát huy những giá trị
tích cực của tôn giáo trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Công trình: "Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam" của Nguyễn Hồng Dương
[34] với 2 nội dung chính: phần lý luận giải quyết vấn đề cơ sở lý luận mối quan hệ
9
của tôn giáo với văn hóa và phát triển, xem xét tôn giáo nằm trong cơ tầng nào của
văn hóa; phần vai trò, vị trí của tôn giáo trong văn hóa và phát triển ở Việt Nam, tác
giả nghiên cứu từng vấn đề cụ thể của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Công giáo,
đạo Tin lành, tôn giáo nội sinh, lễ hội tôn giáo,... với văn hóa và phát triển. Tác giả
đã đóng góp về mặt lý luận nghiên cứu các khái niệm làm công cụ cho việc tìm hiểu
vấn đề tôn giáo trong văn hóa và phát triển, định nghĩa tôn giáo dưới góc độ văn hóa và
chứng minh vai trò, vị trí của tôn giáo đối với văn hóa và phát triển ở Việt Nam.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về giá trị và giá trị văn hóa
Công trình: "Lý thuyết về giá trị" của J. Dewey [77]. Dewey đặt vấn đề phải
cải tiến phán đoán về giá trị theo các tiêu chí tạo ra được các giá trị đạo đức, có thể
định hướng lại hành vi không để thói quen thống trị, khẳng định hình thành và vận
hành giá trị là quá trình tâm lý. Tác giả phân loại giá trị làm hai: loại sơ đẳng và loại
cao hơn. Loại sơ đẳng là loại xác định giá trị của vật thể một cách trực tiếp, không
thông qua nhận thức và ý thức. Loại thứ hai cao hơn có nội dung nhận thức rõ ràng,
phải từ một phán đoán về giá trị. Muốn có phán đoán về giá trị nhất thiết phải tiến
hành giáo dục giá trị. Các phán đoán giá trị dẫn đến giá trị, điều khiển hành vi là các
phán đoán thực tiễn, nhấn mạnh quan điểm thực tiễn trong giá trị học.
Tác phẩm: "Cấu trúc của giá trị: Cơ sở của giá trị khoa học" của Robert S.
Hartman [115]. Tác giả khái quát 3 lĩnh vực của giá trị học: nghiên cứu mối quan hệ
giữa kinh tế và đạo đức; nghiên cứu sự khác biệt đạo đức với các vấn đề chính trị;
và từ hai vấn đề thuộc lĩnh vực nêu trên dẫn đến hệ quả là đưa ra được các giá trị,
trong đó có các giá trị đạo đức. Nghiên cứu giá trị theo phương pháp tiếp cận giá trị
học của Hartman nhằm định hướng giá trị của cá thể, nhóm, dân tộc, đất nước, khu
vực, toàn cầu và được vận dụng nhiều vào văn hóa học nói chung cũng như nghiên
cứu so sánh văn hóa (liên văn hóa) thuộc các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tôn giáo,
xã hội,...
Tác phẩm: "Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản" của Max
Weber [91] nghiên cứu dưới góc độ xã hội học về tôn giáo chỉ ra mối quan hệ giữa
nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Tác giả khảo sát quan niệm
đạo đức và động cơ ứng xử của các cá nhân thuộc đạo Tin lành để tìm thấy giá trị
10
đạo đức của tôn giáo có mối quan hệ "tương hợp chọn lọc" với tinh thần của chủ
nghĩa tư bản, từ đó tạo ra động lực tinh thần cần thiết và thuận lợi cho sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Tác giả có một số nhận định về mối quan hệ giữa tôn giáo và
xã hội, đạo đức Tin lành đóng vai trò động lực tinh thần cho sự ra đời của chủ nghĩa
tư bản, đây chính là giá trị của đạo Tin lành trong quá trình phát triển nền văn minh
ở các nước phương Tây. Tác phẩm cho thấy giá trị của tôn giáo đối với đời sống xã
hội trong trường hợp của đạo Tin lành tại nước Mỹ.
Công trình: "Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng" của Trần Ngọc
Thêm [129] đã đề cập hai vấn đề chính là văn hóa học lý luận và ứng dụng ở Việt
Nam và thế giới. Tại chương 1, tác giả trình bày quan niệm về hệ thống khái niệm
cơ bản sử dụng trong văn hóa học, giới thiệu những phương pháp cơ bản để nghiên
cứu văn hóa và một số vấn đề lý luận văn hóa học cụ thể. Đặc biệt, tác giả làm rõ
quan niệm về văn hóa, nhận diện văn hóa, giá trị văn hóa, góp phần làm cơ sở cho
hướng nghiên cứu đề tài và góc nhìn văn hóa học trong lý luận về khoa học xã hội ở
Việt Nam. Tác giả quan niệm giá trị văn hóa là do con người sáng tạo ra và đối lập
với giá trị tự nhiên, bao gồm các loại giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị pháp lý,
giá trị ký hiệu học, giá trị toán học,... vì: "...mọi giá trị và hệ giá trị do con người
sáng tạo ra đều thuộc văn hóa cả rồi" [129, tr.93].
Công trình: "Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và biến đổi" của tác giả
Ngô Đức Thịnh [134] nghiên cứu giá trị văn hóa về lý luận và ứng dụng trong cuộc
sống. Công trình gồm 7 chương, 471 trang đã làm rõ vấn đề tình hình nghiên cứu,
vấn đề lý luận về giá trị văn hóa. Tác giả đề cập đến các giá trị văn hóa trong các
lĩnh vực: văn hóa tổng quát truyền thống Việt Nam, trong một số lĩnh vực đời sống
vật chất, trong một số lĩnh vực đời sống xã hội, chính trị, trong đời sống tinh thần
truyền thống và thực trạng, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa trong bối cảnh đổi mới
và hội nhập. Đặc biệt vấn đề giá trị văn hóa trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo
được tác giả đề cập từ trang 265 đến trang 299. Tác giả cho rằng tôn giáo, tín
ngưỡng cũng là một nguồn lực trí tuệ, một cách nhận thức thế giới và coi tôn giáo,
tín ngưỡng là những giá trị văn hóa của con người. Từ đó, tác giả nêu ra thực trạng
giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh đổi mới và hội nhập, đồng thời nêu quy
11
luật phát triển của giá trị văn hóa để đưa ra định hướng, giải pháp nhằm bảo tồn,
làm giàu, phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
Tác phẩm: "Tìm hiểu các giá trị dân tộc Việt Nam với tâm lý học và giáo dục
học" của Phạm Minh Hạc [51] đã làm rõ khái niệm về giá trị, lịch sử giá trị quan,
giá trị loài người, giá trị dân tộc Việt Nam, giá trị xã hội trong xã hội nông nghiệp,
giá trị trong văn minh công nghiệp, giá trị bản thân. Tác giả nghiên cứu sâu các vấn
đề nêu trên nhằm định hướng hệ giá trị của người Việt Nam theo yêu cầu của thời
đại mới. Dưới góc nhìn tâm lý học và giáo dục học, tác giả cung cấp nhiều tri thức
về đời sống tâm lý, quá trình hình thành, phát triển con người từ nhận thức, tình
cảm, ý chí nhằm phát huy bản tính tốt đẹp của con người và bản sắc dân tộc. Đồng
thời, tác giả mong muốn "được góp vào môn đạo đức học, văn hóa học, góp phần
chỉnh đốn, xây dựng, phát huy giá trị đạo đức xã hội" [51, tr.10].
Công trình: "Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường
tới tương lai" của Trần Ngọc Thêm [130]. Công trình có đóng góp về mặt lý luận và
thực tiễn trong việc nghiên cứu giá trị học, giá trị văn hóa, hệ giá trị Việt Nam
truyền thống, những biến động của hệ giá trị Việt Nam, con đường đi đến hệ giá
trị Việt Nam mới. Về lý luận, tác giả đã cung cấp một bộ khung lý luận nghiên
cứu giá trị, xây dựng hệ giá trị ở Việt Nam, đánh giá thực trạng biến động của hệ
giá trị Việt Nam truyền thống hiện nay, những xu hướng biến đổi giá trị và góp
phần đẩy mạnh việc nghiên cứu, đào tạo trong lĩnh vực liên quan đến văn hóa,
con người. Về mặt thực tiễn, tác giả đề xuất một mô hình hệ giá trị Việt Nam
mới nói chung và mô hình rút gọn phục vụ việc xây dựng văn hóa - con người ở
Việt Nam trong giai đoạn trước mắt, đề xuất những giải pháp cơ bản để hiện
thực hóa được hệ giá trị cốt lõi, cung cấp cơ sở cho việc hoạch định chính sách
phát triển văn hóa và con người.
Với phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, các tác giả
dưới góc nhìn văn hóa học, tôn giáo học, triết học để đã lý giải hiện tượng xuất hiện
của tôn giáo, của giá trị, giá trị văn hóa và phân tích, tìm hiểu các đặc trưng của tôn
giáo, của giá trị văn hóa.
12
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đạo Cao Đài và giá trị văn hóa của
đạo Cao Đài
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về phương diện lịch sử và chính trị - xã hội
Trong các công trình nghiên cứu về lịch sử đạo Cao Đài của người nước
ngoài có cuốn: "Histoire du Caodaime" (Lịch sử đạo Cao Đài) của Gabriel Gobron
[169]. Gabrie Gobron là một trong năm chức sắc người Pháp đầu tiên được Giáo
hữu Trần Quang Vinh, Chủ trưởng Cơ quan Truyền giáo Hải ngoại của Cao Đài
Tây Ninh ân phong chức sắc năm 1932 với phẩm Tiếp dẫn Đạo nhơn thuộc chức
sắc Hiệp Thiên đài và vợ ông là bà Marguerite Gobron cũng được phong phẩm Lễ
sanh. Nội dung cuốn sách tập trung giới thiệu về giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tổ chức
và lịch sử của đạo Cao Đài. Gobron cho rằng đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài là
tinh thần "tổng hợp" của tôn giáo và thuật chiêu hồn ở Việt Nam. Đồng thời, cũng
cho rằng đạo Cao Đài là một hình thức canh tân của Phật giáo.
Cuốn: "Đại Đạo Sử cương" của Trần Văn Rạng [113]. Tác giả đã trình bày
các hoạt động chính của đạo Cao Đài chủ yếu là Cao Đài Tây Ninh từ khi hình
thành cho đến năm 1975. Nội dung cuốn sách được sắp xếp theo thứ tự thời gian,
các sự kiện được miêu tả chi tiết, có tư liệu lịch sử để chứng minh, lối diễn đạt dễ
hiểu, tiêu đề rõ ràng, tiện lợi cho tra cứu lịch sử của đạo Cao Đài. Do tác giả là
người đạo Cao Đài nên trước một số vấn đề chính trị - xã hội giải thích có phần
thiên về mặt tôn giáo và nhìn nhận vấn đề chưa khách quan.
Đề tài: "Peasant Politics and Religious Sectarianism: Peasant and Priest in
the Caodai in Vietnam" (Chính trị nông dân và giáo phái: nông dân và chức sắc
trong đạo Cao Đài ở Việt Nam) của tác giả Werner Jayne Susan [170]. Nội dung
gồm: Đạo Cao Đài ra đời ở Nam Bộ thuộc Pháp; địa chủ và nông dân; Tây Ninh -
Thánh địa; bành trướng và suy vi và phần kết luận. Đây là công trình được rút gọn
từ bản luận án tiến sỹ năm 1976 của tác giả với đề tài: "Đạo Cao Đài: Chính trị của
một phong trào tôn giáo tổng hợp (The Caodai: The politics of a Vietnamese
syncretic religious movement) tại trường Đại học Yale University, Southeast Asia
studies, America. Tác giả nhận định rằng đạo Cao Đài là một phong trào nông dân
lớn nhất ở Việt Nam vào thời kỳ Pháp thuộc và lý giải sự ra đời của đạo Cao Đài
13
trên hai yếu tố chính là nông dân và chức sắc để tập hợp lực lượng tín đồ qua mối
quan hệ địa chủ - nông dân và tư sản - chức sắc. Tác giả phân tích vấn đề đạo Cao
Đài trong mối quan hệ với các tổ chức chính trị đương thời như Việt Minh, Cộng
sản, chính quyền thực dân Pháp và cho rằng đạo Cao Đài là phong trào nông dân
lớn nhất Việt Nam thời Pháp thuộc có ảnh hưởng đáng kể đến nền chính trị ở Nam
Bộ đương thời. Công trình cho thấy vai trò của đạo Cao Đài trong đời sống chính trị
ở Việt Nam [170].
Cuốn sách: "Lịch sử Đạo Cao Đài", quyển 1, 2 của Cơ quan Phổ Thông Giáo
Lý Đại Đạo [22; 23]
-
- (1930-
1938). Công trình đã làm rõ nguyên nhân ra đời và chia rẽ của đạo Cao Đài thời kỳ
đầu thành lập, đồng thời làm rõ một số vấn đề về giáo lý, giáo luật của đạo Cao Đài.
Cuốn sách: "Đạo Cao Đài hai khía cạnh: lịch sử và tôn giáo" của Nguyễn
Thanh Xuân [166]. Tác giả luận giải hoàn cảnh, điều kiện ra đời của đạo Cao Đài;
quá trình phát triển của đạo Cao Đài từ việc chia rẽ thành các chi phái, việc hợp
nhất bất thành của đạo Cao Đài; ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống chính
trị của đất nước qua việc đạo Cao Đài tham gia kháng chiến cứu quốc và thái độ của
các thế lực đế quốc đối với đạo Cao Đài; cuối cùng là chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước và quá trình công nhận về tổ chức đối với đạo Cao Đài. Tác giả đã khắc
họa thành công bức tranh toàn cảnh về đạo Cao Đài ở Việt Nam trên hai khía cạnh
lịch sử và tôn giáo. Trên khía cạnh lịch sử, tác giả phân tích sự hình thành, tồn tại
14
của đạo Cao Đài từ một tổ chức thống nhất đến chia rẽ thành các phái Cao Đài khác
nhau và nỗ lực thống nhất của đạo Cao Đài, đồng thời chỉ rõ những đóng góp của
đạo Cao Đài trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Trên khía cạnh tôn giáo, tác
giả đã làm rõ về cơ cấu tổ chức, đời sống tinh thần, nghi lễ, hoạt động tôn giáo của
đạo Cao Đài và phân tích nguyên nhân hình thành, tồn tại của đạo Cao Đài dưới góc
nhìn của sử học.
C : " [148]
:
"
" [148, tr.376]. Công trình đã đánh giá, nhìn nhận
đạo Cao Đài trên các lĩnh vực chính trị, xã hội và cho thấy vai trò của đạo Cao Đài
trong xã hội miền Nam những năm đầu thế kỷ 20.
Các tác giả đã góp phần làm sáng tỏ lịch sử hình thành của đạo Cao Đài,
phân tích các yếu tố làm cơ sở cho việc hình thành đạo Cao Đài, vai trò, ảnh hưởng
của các vị chức sắc có công khai đạo, các sinh hoạt văn hóa của người tín đồ đạo
Cao Đài. Tuy nhiên, các công trình chưa tập trung làm rõ sự tồn tại của đạo Cao Đài
hiện nay với các tổ chức khác nhau và hoạt động liên giao từ đổi mới đến nay.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về phương diện văn hóa và giá trị văn
hóa của đạo Cao Đài
Cuốn: "Phương châm hành đạo" của Lê Văn Trung [147]. Cuốn sách có 24
trang, 8 chương gồm các nội dung về việc giữ đạo, người trong đạo, người ngoại
đạo, phổ thông Thiên đạo, năng hầu đàn, điều lệ hầu đàn, xem kinh sách - luật lệ và
hướng dẫn xem kinh sách. Tác giả Lê Văn Trung với tư cách là người đứng đầu
15
Cao Đài Tây Ninh đã trình bày khá rõ nét về mục đích hành đạo, các đặc trưng cơ
bản của người tín đồ đạo Cao Đài trong việc tu hành ở gia đình, Thánh thất và xã
hội. Cuốn sách nêu được sứ mệnh của đạo Cao Đài nhằm cứu vớt chúng sinh khỏi
cuộc sống khổ đau của cõi đời và đem tới giá trị nhận thức của tín đồ về mục đích
tu hành theo đạo Cao Đài. Đây là phương diện tôn giáo qua đó thấy được ý nghĩa
của giá trị văn hóa của đạo Cao Đài.
Cuốn: "Đại Đạo Giáo lý" của Trương Văn Tràng [144] với gần 200 trang,
gồm 3 phần: về mặt tôn giáo; vũ trụ và nhân sinh quan; Thượng thừa và Hạ thừa.
Tác phẩm đi sâu phân tích về phương diện giáo lý của đạo Cao Đài, trình bày
những nét căn bản về sự hình thành của đạo Cao Đài, xác định việc đạo Cao Đài ra
đời là kết quả của việc tổng hợp của ba nguồn học thuyết phương Đông truyền
thống: Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Đây được coi là công trình khảo cứu hữu ích
về việc nghiên cứu, tìm hiểu về giáo lý của đạo Cao Đài, có thể suy niệm về việc tu
hành của người tín đồ đạo Cao Đài trong trình độ tiến hóa của xã hội đương thời.
Cuốn sách trình bày cơ cấu các giá trị của đạo Cao Đài, góp phần tìm hiểu triết lý
của đạo Cao Đài [144].
Cuốn sách: "Đời sống của người tín đồ Cao Đài" của Nguyễn Long Thành
[125]. Cuốn sách đã phân tích làm rõ các giá trị trong đời sống của người tín đồ đạo
Cao Đài trong sinh hoạt hằng ngày, trong tâm linh, trong ứng xử với xã hội và đức
tin của người có đạo. Tác giả phân tích các hoạt động hằng ngày của người tín đồ
đạo Cao Đài để chỉ rõ các sinh hoạt văn hóa của người đạo Cao Đài và niềm tin tôn
giáo của họ trong cuộc sống.
Công trình: "Tìm hiểu đạo Cao Đài qua tám nhận định" của tác giả Huệ
Minh [92]. Cuốn sách đưa ra tám nhận định về các vấn đề: Đạo sử và ý thực hệ tâm
linh; tôn chỉ của đạo Cao Đài; mục đích của đạo Cao Đài; hình thể tổ chức của đạo
Cao Đài; biểu tượng thờ cúng của Cao Đài giáo; tổng quan về Tân luật, Pháp Chánh
truyền và Thánh ngôn hiệp tuyển; tìm hiểu và phân tích Thánh ngôn hiệp tuyển;
giáo lý Cao Đài. Thông qua 8 nhận định, tác giả lý giải, tìm hiểu làm rõ một số vấn
đề nghiên cứu về giá trị văn hóa của đạo Cao Đài, trong đó chú trọng đến giáo lý,
kinh sách, tôn chỉ, mục đích, tổ chức, biểu tượng thờ cúng của đạo Cao Đài.
16
Công trình: "Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài" của Đặng Nghiêm Vạn [153]
đã nghiên cứu một số vấn đề về lịch sử, chính trị, văn hóa, hệ thống tổ chức của đạo
Cao Đài. Đặc biệt tác giả Đặng Nghiêm Vạn đã cho rằng đạo Cao Đài có ảnh hưởng
đến đời sống của người dân Nam Bộ là một tôn giáo nhập thế, hiểu được tâm lý xã
hội của nông dân Nam Bộ đương thời nên thu hút được đông đảo người tham gia.
Cuốn sách góp phần quan trọng trong việc nhận thức về đạo Cao Đài thấy được các
giá trị của đạo Cao Đài đối với xã hội để đề xuất Nhà nước tiến hành xem xét công
nhận pháp nhân, bình thường hóa về hoạt động và tổ chức của đạo Cao Đài.
Công trình: "The Caodai: A new religious movement" (Đạo Cao Đài: Một
phong trào tôn giáo mới) của tác giả Sergei Blagov [168]. Đây là sự mở rộng của
luận án phó tiến sỹ của tác giả tại Phân viện Dân tộc học thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học Liên Xô năm 1991. Trong công trình nghiên cứu này, S. Blagov nhận định về
việc ra đời của đạo Cao Đài là sự kết hợp giữa phong trào chính trị tôn giáo và tư
tưởng truyền thống. Tác giả lý giải việc ra đời của đạo Cao Đài như là một sự hòa
giải mâu thuẫn trong xã hội giữa các giá trị truyền thống của phương Đông với các
giá trị mới của nền văn minh phương Tây du nhập vào Việt Nam. Sự phát triển của
đạo Cao Đài được tác giả đánh giá theo khuynh hướng độc lập mang tính đặc thù
của một tổ chức chính trị xã hội có ảnh hưởng đến cư dân Nam Bộ.
Công trình: "Bước đầu học đạo (dành cho tân tín đồ Cao Đài)" của Nguyễn
Văn Hồng [71]. Nội dung gồm các vấn đề từ việc nhập môn vào Đạo đến cách lạy,
ăn chay, nghi tiết cúng đàn, hành chánh đạo, lịch sử thành lập Đạo, tôn chỉ, phương
pháp tu hành, vũ trụ quan,… đến tang lễ. Tác giả đã kế thừa những công trình đi
trước để trình bày khá đầy đủ hoạt động của người tín đồ Cao Đài theo quy luật
vòng đời từ lúc vào đạo đến lúc từ trần. Công trình miêu tả các hoạt động của người
tín đồ đạo Cao Đài trong quá trình tu hành cần phải thực hiện và góp phần làm rõ
sinh hoạt văn hóa của người tín đồ đạo Cao Đài.
Cuốn sách: "Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa" của Phạm Bích Hợp [65]
viết về 3 tôn giáo bản địa sinh ra ở Nam Bộ là đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo và
Bửu Sơn Kỳ Hương. Trong đó phần đạo Cao Đài được giới thiệu từ trang 178 đến
trang 314 với 3 nội dung chính: cơ bút - yếu tố tiên quyết cho sự hình thành đạo
17
Cao Đài; giáo lý Cao Đài và đức tin của người tín đồ; một tôn giáo nhiều Hội thánh.
Tác giả nhận định đạo Cao Đài là một tôn giáo có ảnh hưởng lớn ở Nam Bộ và đánh
giá cơ bút chính là điều kiện đầu tiên quyết định cho sự ra đời của đạo Cao Đài, góp
phần tạo sự thuyết phục, thu hút đối với người tín đồ Cao Đài. Về giáo lý, tác giả
cho rằng đạo Cao Đài đã cung cấp điểm tựa quan trọng cho đức tin của các tín đồ,
đồng thời cũng phản ánh tinh thần cởi mở của người Việt Nam Bộ. Đó là giá trị của
huyền thoại tôn giáo, tính thiêng của tôn giáo tạo thành giá trị tâm thức của người
tín đồ đạo Cao Đài.
Cuốn: "Yếu điểm giáo lý Đại Đạo" của Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo
[24] đã luận giải các vấn đề về: nhân sinh quan, vũ trụ quan, thế giới quan Cao Đài,
tổng quan về con người Cao Đài, tổng quan về con đường phản bổn hoàn nguyên
của đạo Cao Đài. Nội dung cuốn sách nhằm trình bày những điểm căn bản, cốt yếu
của giáo lý Cao Đài vừa có tính đặc thù, vừa có tính phổ quát như: Cao Đài, Thiên
Nhãn, Quyền pháp, Đạo pháp. Đó là những nội dung cốt lõi để nghiên cứu giá trị
tinh thần, giá trị tâm linh của người tín đồ đạo Cao Đài trong đời sống tu hành cũng
như trong đời sống xã hội.
Đề tài: "Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong bối cảnh văn hoá
Nam Bộ" của Huỳnh Ngọc Thu [136]. Nội dung luận án đã góp phần tìm hiểu chức
năng tôn giáo trong đời sống tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ, những đóng góp về mặt văn
hóa của đạo Cao Đài đối với văn hóa Nam Bộ qua đời sống tôn giáo của tín đồ, ảnh
hưởng của văn hóa Nam Bộ đối với việc hình thành và phát triển đạo Cao Đài, cũng
như đối với đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài, một số quan điểm lý thuyết
về văn hóa trong nghiên cứu nhân học như thuyết chức năng, các lý thuyết liên quan
đến vùng văn hóa. Tác giả khẳng định đạo Cao Đài là tôn giáo bản địa do người
Việt ở Nam Bộ sáng tạo từ nền tảng của các tôn giáo có trước đó. Đời sống tôn giáo
của tín đồ Cao Đài thể hiện tính hỗn dung văn hóa và biểu hiện yếu tố thoáng, mở
trong hành xử tôn giáo. Đồng thời góp phần làm phong phú, đa dạng cho văn hóa
Nam Bộ.
Cuốn sách: "Tìm hiểu tôn giáo Cao Đài" của Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại
Đạo [25]. Tác giả tìm hiểu các vấn đề về cơ cấu của đạo Cao Đài gồm: lịch sử khai
18
đạo sự xuất hiện và cơ cấu tôn giáo Cao Đài; tổ chức Hội thánh và luật pháp đạo;
thánh thất, thánh tượng, nghi lễ; giáo lý căn bản về vũ trụ quan, nhân sinh quan, tôn
chỉ, mục đích của đạo Cao Đài; phương pháp tu hành về công phu, công quả, công
trình; tổng luận về Ngũ chi Đại Đạo, Pháp Chánh truyền Cửu Trùng đài, Pháp
Chánh truyền Hiệp Thiên đài, Ngũ giới cấm, Tứ đại điều quy, ý nghĩa hai chữ Cao
Đài. Cuốn sách cung cấp tư liệu tìm hiểu cơ cấu của đạo Cao Đài qua lịch sử hình
thành, tổ chức giáo hội, luật pháp, thánh thất, thánh tượng, nghi lễ, giáo lý, phương
pháp tu hành của người đạo Cao Đài, góp phần làm sáng tỏ cơ sở hình thành các giá
trị văn hóa của đạo Cao Đài.
Công trình: "Một góc nhìn văn hóa Cao Đài" của Huệ Khải [81]. Tác giả đề
cập đến 18 vấn đề dưới góc nhìn văn hóa Cao Đài về các lĩnh vực trong đời sống
tinh thần của đạo Cao Đài. Một số nội dung rất cụ thể về tên gọi chức sắc, nhạc lễ,
hôn lễ, ngôn ngữ, cờ phướn,… của đạo Cao Đài được phân tích, lý giải qua trải
nghiệm về thực tế và kiến thức khoa học trong nghiên cứu tôn giáo. Các nội dung
được tác giả đề cập đến đều tìm hiểu các khía cạnh trong sinh hoạt văn hóa của tín
đồ đạo Cao Đài, trong đó hướng đến các hoạt động tôn giáo, nghi lễ, âm nhạc, tư
tưởng, triết lý nhân sinh của đạo Cao Đài.
Đề tài: "Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi - quá trình hình
thành, phát triển và nếp sống đạo" của Nguyễn Thị Ánh Ngà [96] đã góp phần làm
rõ quá trình hình thành, phát triển, nội dung cơ bản và nếp sống đạo của Cao Đài
Đại Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, phân tích những ảnh hưởng của Cao Đài Đại
Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi đối với đời sống xã hội và những vấn đề đặt ra
hiện nay. Tác giả đã đi sâu phân tích các nghi lễ, cơ cấu tổ chức, cách hành đạo để tìm
ra những đặc điểm nổi bật của người tu hành trong Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi. Tuy nghiên cứu dưới góc độ tôn giáo học nhưng tác giả đã nhận diện nếp
sống đạo của người tu hành có ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa Nam Bộ và có những
đóng góp nhất định trong việc tạo nên sắc thái đặc trưng cho văn hóa Nam Bộ từ nửa
sau thế kỷ XX của Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
Đề tài: "Đạo Cao Đài ở Nam Bộ: tổ chức đời sống cộng đồng và những đặc
trưng văn hóa" của Nguyễn Mạnh Tiến [140]. Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về đời
19
sống cộng động của tín đồ đạo Cao Đài trên lĩnh vực văn hóa đời sống xã hội, văn
hóa vật chất, văn hóa tinh thần. Đồng thời miêu tả những đặc trưng văn hóa thể hiện
qua đời sống cộng đồng của tín đồ đạo Cao Đài. Qua tìm hiểu, phân tích, tác giả đã
nghiên cứu thành công về đời sống cộng đồng của tín đồ đạo Cao Đài trên khía
cạnh văn hóa học và tìm hiểu các đặc trưng văn hóa của đạo Cao Đài.
1.1.3. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án
cần giải quyết
1.1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu
- Tôn giáo và giá trị văn hóa là vấn đề được nhiều tác giả trong và ngoài
nước quan tâm. Tôn giáo theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng có vai
trò nhất định trong đời sống xã hội và tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của xã
hội, đồng thời nó cũng tác động trở lại đối với đời sống xã hội. Giá trị văn hóa là do
con người sáng tạo ra, định hướng cho con người vươn lên trong cuộc sống.
- Nghiên cứu về lịch sử và chính trị - xã hội của đạo Cao Đài, nhiều tác giả
đã làm rõ bối cảnh ra đời và tồn tại của đạo Cao Đài nhưng chưa trình bày đầy đủ
sự phức tạp của các phái Cao Đài hiện nay.
- Nghiên cứu về giá trị văn hóa của đạo Cao Đài, một số tác giả đã trình bày
cơ cấu các giá trị và đặc trưng văn hóa của đạo Cao Đài, nhưng chưa nhận diện đầy
đủ các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài.
- Nhìn chung, các công trình nêu trên chỉ mới đề cập một cách sơ lược về các
giá trị văn hóa của đạo Cao Đài hoặc gợi mở về các giá trị của đạo Cao Đài trong
đời sống cư dân Nam Bộ.
- Một số tác giả như: Huỳnh Ngọc Thu, Nguyễn Thị Ánh Ngà, Trần Mạnh
Tiến,… đã nghiên cứu đạo Cao Đài như một hiện tượng văn hóa, một "tiểu văn
hóa" với một số đặc trưng văn hóa và sự đóng góp, ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối
với văn hóa Nam Bộ. Tuy nhiên, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ. Chưa phân
tích làm rõ các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài và những tác động của nó trong đời
sống cư dân Nam Bộ, những vấn đề đặt ra hiện nay trong việc phát huy các giá trị
văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ. Đây là khoảng trống của
20
đề tài mà các tác giả chưa nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ, đòi hỏi phải
được tiếp tục đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu.
1.1.3.2. Những vấn đề luận án cần giải quyết
Đề tài "Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ"
sẽ đề cập những vấn đề cần giải quyết để nhận diện các giá trị văn hóa của đạo Cao
Đài và những tác động của nó trong đời sống cư dân ở Nam Bộ nhằm phát huy các
giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ hiện nay.
Trên cơ sở tiếp thu thành quả của các công trình nghiên cứu đi trước và bổ
sung vào khoảng trống nghiên cứu về giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời
sống cư dân Nam Bộ, luận án cần giải quyết một số vấn đề sau:
Một là, thông qua việc khai thác, kế thừa kết quả nghiên cứu từ các công
trình khoa học trong nước và nước ngoài, luận án góp phần làm rõ cơ sở hình thành
các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài.
Hai là, phân tích, nhận diện các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài thể hiện qua
giá trị nhận thức, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ của đạo Cao Đài. Trên cơ sở đó,
tìm hiểu, phân tích làm rõ tác động của các giá trị văn hóa đạo Cao Đài trong đời
sống vật chất và đời sống tinh thần của cư dân Nam Bộ.
Ba là, phân tích những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy giá trị văn hóa của
đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ hiện nay, nhằm phát huy giá trị đạo đức
tôn giáo, nâng cao vai trò của đạo Cao Đài tham gia các hoạt động xã hội, giảm
thiểu những hạn chế để góp phần xây dựng xã hội đạo đức, văn minh.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Tôn giáo và đạo Cao Đài
* Tôn giáo
Tôn giáo là đối tượng xem xét của nhiều ngành khoa học trong suốt lịch sử
phát triển của tôn giáo. Do đó, có nhiều quan điểm khác nhau về tôn giáo như quan
điểm thần học, quan điểm tâm lý học, quan điểm xã hội học, quan điểm dân tộc học,
quan điểm triết học,…Việc nghiên cứu tôn giáo đã có từ lâu nhưng việc xem xét tôn
giáo như một đối tượng của môn khoa học nhân văn mang tính giao thoa hoặc tính
tổng hợp, mới xuất hiện chưa lâu.
21
Về mặt từ nguyên học thì thuật ngữ "tôn giáo" là một thuật ngữ vẫn còn đang
tranh luận. Trong tiếng Hán Việt "tôn giáo" là "tông giáo" (giáo phái hay học phái).
Trong tiếng Anh và tiếng Pháp là religion, tiếng Nga là religya. Trong tiếng Latinh,
religio có nghĩa là "mộ đạo", "thần thánh", "đối tượng sùng bái". Theo định nghĩa
của giáo hội (thần học) thì tôn giáo là mối liên hệ của con người với Thượng đế, với
Thần linh, với cái tuyệt đối, với một lực lượng nào đó, với sự siêu việt hóa,… Nhà
thần học và triết học Tin Lành giáo R.Otto cho rằng tôn giáo là "sự thể nghiệm cái
thần thánh" [64, tr.25]. Nhà triết học và xã hội học, Max Weber cho rằng tôn giáo
đã tạo ra động lực cho con người trong cuộc sống.
Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng tôn giáo là rất đa dạng, được
phân biệt tùy thuộc vào các nguyên tắc và các phương pháp xuất phát điểm. Hai ông
đã nêu đặc trưng tôn giáo dựa trên quan niệm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội
và con người. Các ông cho rằng tôn giáo không có lịch sử riêng của mình, không có
bản chất đặc biệt và nội dung đặc biệt nằm ngoài thế giới. Tôn giáo phát triển trong
bối cảnh lịch sử xã hội; sự tiến hóa của tôn giáo diễn ra tùy thuộc vào sự phát triển
của sản xuất xã hội, của hệ thống quan hệ xã hội. Trong tôn giáo, con người biến
thế giới kinh nghiệm của mình thành một bản chất tưởng tượng, đứng đối lập với nó
như một vật xa lạ.
Mỗi khái niệm về tôn giáo đều chưa làm cho các nhà nghiên cứu hay chính
những chức sắc, tín đồ tôn giáo vừa lòng. Bởi tôn giáo là lĩnh vực tinh thần có nhiều
cách hiểu, cách lý giải khác nhau theo quan điểm chủ quan của mỗi người. Để có
khái niệm công cụ, nghiên cứu sinh lựa chọn quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen
về tôn giáo. Có thể nói rằng, tôn giáo là sản phẩm của con người, do con người sáng
tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu về tinh thần của con người trong xã hội, tôn giáo tạo
cho con người có niềm tin vào thế giới vô hình nơi hư vô, nhưng con người vẫn
sống trong cuộc sống hữu hình nơi trần thế, đồng thời tôn giáo quy định những luật
lệ, nghi thức mang tính thiêng liêng để con người thực hành, tuân theo.
* Đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài tên gọi đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có nghĩa là một nền
đạo lớn mở ra kỳ thứ ba để cứu giúp con người nơi cõi trần thoát khỏi cảnh khổ
22
luân hồi mà trở về cõi Thiêng liêng hằng sống. Theo quan niệm của người theo đạo
Cao Đài, gọi là Đại Đạo, một nền Đạo lớn, bởi vì nền Đạo này có qui mô lớn, được
Thượng Đế khai mở và làm Giáo chủ, với tôn chỉ: Qui nguyên Tam giáo, phục nhất
Ngũ chi. Đạo Cao Đài kế thừa tinh hoa của các tôn giáo đã có từ trước đến nay do
các đấng: Thần - Thánh - Tiên - Phật mở ra, thống nhất hợp lại thành một mối, dưới
sự chưởng quản của Thượng Đế.
Gọi là Tam Kỳ Phổ Độ bởi vì trước đây đã mở ra hai kỳ phổ độ: Nhất Kỳ
Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ. Nhất Kỳ Phổ Độ mở ra vào thời Thái cổ của nhân loại,
gồm các tôn giáo: Nhiên Đăng Cổ Phật mở Phật giáo, Brahma Phật mở Đạo
Bàlamôn, Thái Thượng Lão Quân mở Tiên giáo, Phục Hy mở Nho giáo, Thánh
Moise mở Thánh giáo Do Thái. Nhị Kỳ Phổ Độ mở ra vào thời Thượng cổ của nhân
loại, gồm các tôn giáo: Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ, Lão Tử mở Lão giáo
và Khổng Tử mở Nho giáo ở Trung Hoa, Chúa Jésus mở Thánh giáo ở Do Thái,
Khương Tử Nha cầm Bảng Phong Thần đứng đầu Thần đạo Trung Hoa. Tam Kỳ
Phổ Độ là thời đại hiện nay, ứng với cuối hạ nguyên tam chuyển, bước qua thượng
nguyên tứ chuyển. Đạo Cao Đài cho rằng, đây là kỳ phổ độ lần cuối, trước khi mở
Đại hội Long Hoa, đó là một cuộc phán xét cuối cùng để tận độ nhân sinh, cứu giúp
tất cả chúng sinh.
Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ mở đạo, lấy đài
ngự của Ngài là Cao Đài làm danh hiệu. Ngọc Hoàng Thượng Đế được dân
gian gọi là Ông Trời, được người theo đạo Cao Đài gọi là Thầy. Đức Cao Đài
lấy danh xưng là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Cao Đài chỉ về Nho
giáo, nghĩa là cái đài cao nhất mực (Thái cực) ngôi của Đấng Chúa Tể Càn
khôn mà Nho giáo sùng bái dưới danh hiệu Thượng Đế. Tiên Ông chỉ về một vị
Đại Giác Kim Tiên trong Đạo giáo. Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ về một vị Phật
trong Thích giáo.
Vì vậy, Ngọc Hoàng Thượng Đế là Đấng Cao Đài, nên cũng gọi là Cao
Đài Thượng Đế và nền Đại Đạo được mở ra vào thời Tam Kỳ Phổ Độ được gọi
là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, cũng gọi là Cao Đài Đại Đạo, hay gọi tắt là đạo
Cao Đài.
23
1.2.1.2. Văn hóa và giá trị văn hóa
* Văn hóa
Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần được con người sáng
tạo và lưu giữ trong quá trình lịch sử. Như vậy có thể hiểu văn hoá là lĩnh vực rộng
lớn bao gồm toàn bộ hoạt động và sản phẩm hoạt động sáng tạo của con người từ
trước đến nay.
Nghiên cứu văn hoá có rất nhiều khoa họckhác nhau dựa trên những cách
tiếp cận của từng ngành với những mục đích khác nhau. Mỗi ngành trong các khoa
học về văn hoá có nhiệm vụ nghiên cứu một lĩnh vực văn hoá nào đó. Khái niệm
văn hoá vì vậy có nhiều định nghĩa khác nhau. Các nhà đạo đức học coi văn hoá là
đạo đức, các nhà tôn giáo học coi văn hoá là phong tục, tập quán, tín ngưỡng, các
nhà dân tộc học coi văn hoá là hình thức biểu hiện đời sống của các tộc người,…
Tính đa nghĩa của khái niệm văn hoá không chỉ có trong nhận thức lý luận mà còn
là thực tiễn. Văn hoá là khái niệm đang vận động, mang tính lịch sử, biến đổi cùng
các thời đại trong lịch sử.
Để có một khái niệm công cụ cho việc nghiên cứu đề tài luận án, nghiên cứu
sinh lựa chọn quan niệm về văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cơ sở triển khai
đề tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm về văn hóa, như sau:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa" [119, tr.15].
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm văn hoá là toàn bộ những sáng tạo và phát
minh của con người nhằm mục đích phục vụ cuộc sống của con người, trong đó tôn
giáo như một thành tố của văn hoá. Dù coi tôn giáo là một bộ phận của văn hoá hay
tách tôn giáo khỏi văn hoá một cách trừu tượng thành một hệ thống độc lập tương
đối thì tôn giáo và văn hoá cũng có sự tác động qua lại lẫn nhau.
* Giá trị văn hóa
Văn hóa được gắn liền với giá trị. Văn hóa có thể hiểu là làm cho đẹp, trở
thành có giá trị. Giá trị của văn hóa là thước đo để phân biệt văn hóa với phản văn
24
hóa, giá trị với phi giá trị. Có thể coi văn hóa là hệ thống giá trị do con người sáng
tạo ra. Như vậy, giá trị văn hóa gồm tất cả các loại giá trị đạo đức, giá trị kinh tế,
giá trị văn học,…
Mai Văn Hai, Mai Kiệm quan niệm giá trị văn hóa là toàn thể những thành
tựu sáng tạo của con người: "Giá trị văn hóa là toàn thể những thành tựu sáng tạo,
trong đó bao gồm các phát minh khoa học, các tác phẩm nghệ thuật, các công trình
kiến trúc xuất sắc,… mà con người đã sáng tạo được" [52, tr.180]. Ngô Đức Thịnh
quan niệm giá trị văn hóa là quá trình sáng tạo, lao động của con người trong môi
trường tự nhiên và xã hội để thỏa mãn nhu cầu, khát vọng của cộng đồng về những
điều tốt đẹp: "Giá trị văn hóa (cultural value) là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó được
sáng tạo và kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương ứng với môi
trường tự nhiên và xã hội nhất định" [134, tr.23].
Có thể hiểu khái niệm giá trị văn hóa là những sáng tạo của con người trong
tiến trình lịch sử được cộng đồng chấp nhận, tin tưởng và trở thành mục tiêu, hành
động của con người trong xã hội hướng tới. Giá trị văn hóa của tôn giáo là thế giới
quan, biểu tượng, định hướng ý thức và lối ứng xử của con người trong cuộc sống.
Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài là thế giới quan, nhân sinh quan, hình ảnh, biểu
tượng, nghi lễ, sinh hoạt tôn giáo và hoạt động tôn giáo trong đời sống xã hội.
1.
Đời sống là khái niệm rộng chỉ toàn bộ hoạt động của con người về tinh thần
và vật chất. Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, đời sống là "toàn bộ nội dung
những hoạt động trong một lĩnh vực nào đó của con người và xã hội", ví dụ đời
sống văn hóa, đời sống tinh thần hay "toàn bộ nói chung điều kiện sinh hoạt của con
người, xã hội" hoặc "lối sống chung của một tập thể, một xã hội" [106, tr.552]. Cư
dân là người dân sống tại một địa bàn, một vùng miền, một địa phương nhất định
trong không gian địa lý chung. Cũng theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê cho
rằng: "Cư dân d. Người cư trú trong một vùng, một địa bàn cụ thể, thí dụ, cư dân
vùng sông nước Nam Bộ" [106, tr.370].
Đời sống cư dân bao gồm tổng thể những hoạt động vật chất và tinh thần của
người dân sống tại một địa bàn, địa phương nhất định. Đạo Cao Đài ra đời trong bối
25
cảnh xã hội ở Nam Bộ nên chịu tác động của xã hội Nam Bộ và ngược lại, sau khi hình
thành, phát triển, đạo Cao Đài tác động trở lại đời sống xã hội của cư dân Nam Bộ.
Có các quan niệm khác nhau về cơ cấu của đời sống xã hội: theo quan điểm
triết học của chủ nghĩa Mác đời sống xã hội gồm đời sống vật chất và đời sống tinh
thần; theo quan điểm của các nhà văn hóa học đời sống xã hội bao gồm văn hóa vật
chất (sinh tồn), văn hóa xã hội (văn hóa tổ chức xã hội), văn hóa tinh thần; theo
quan niệm của Hồ Chí Minh đời sống xã hội bao gồm các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội,…
Trong luận án này, nghiên cứu sinh lựa chọn quan niệm của chủ nghĩa Mác
nhằm làm rõ những tác động của các giá trị văn hóa đạo Cao Đài trong đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của cư dân là người đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
1.2.1.4. Tâm linh
Tôn giáo gắn liền với vấn đề tinh thần hay tâm linh của con người. Ngày
nay, khoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh nhưng vẫn chưa thể giải thích thỏa đáng
vấn đề tâm linh của con người.
Trong tâm thức người Việt và người phương Đông vẫn coi trọng giá trị tinh
thần hơn giá trị vật chất. Trong cuộc sống hằng ngày, vấn đề tâm linh vẫn đang tồn
tại trong xã hội, trong thế giới tôn giáo và được đại đa số nhân dân tin theo. Nguyễn
Thừa Hỷ cho rằng tâm linh người Việt là mọi vật đều có linh hồn: "…tất cả mọi vật
trong vũ trụ và thế gian này đều có linh hồn (vạn vật hữu linh), dưới nhiều tên gọi
tương tự khác nhau như hồn, phách, vía, vong, ma, quỷ, thần, thánh, yêu tinh…"
[76, tr.254]. Cuộc sống con người không chỉ vươn tới cái đúng, cái đủ của khoa học
mà còn vượt ra ngoài tri thức khoa học của con người, đó chính là tâm linh. Hiện
nay, quan niệm về tâm linh đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu.
Tâm linh là những vấn đề mang tính siêu thực của con người, vượt trên khả năng
của con người trong cuộc sống đời thường.
Như vậy, tâm linh có thể hiểu là những vấn đề liên quan đến tinh thần của
con người mang tính thiêng liêng, siêu nhiên được biểu hiện bằng khả năng nhận
biết siêu nghiệm, thần giao cách cảm, khả năng linh cảm của con người trong cuộc
sống mà khoa học không giải thích được. Còn đối với vấn đề tâm linh trong tôn
26
giáo là việc con người cảm nhận, thừa nhận, tin tưởng vào sự tồn tại và có mối quan
hệ khải thị với lực lượng siêu nhiên, thần thánh.
1.2.1.5. Biểu tượng
Thuật ngữ biểu tượng (symbol) trong tiếng Anh là một từ bắt nguồn từ
ngôn ngữ cổ ở châu Âu (symbolus trong tiếng La Mã và symbolon trong tiếng Hy
Lạp) có nghĩa là ký hiệu, tín hiệu, dấu hiệu,… hoặc có nghĩa là liên kết, suy
nghĩ,… Luc Benoist cho biểu tượng là hình ảnh tượng trưng: "Biểu tượng
(emblème) - hình ảnh tượng trưng thường đi kèm hoặc thể hiện một nhân vật,
một quyền lực, một nghề nghiệp hay một đảng phái" [90, tr.150]. Theo tiếng Hán
thì biểu tượng có nghĩa là: biểu là "bày ra", "dấu hiệu"; tượng là "hình tượng".
Biểu tượng là hình tượng được phô bày ra trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tượng
trưng và mang ý nghĩa trừu tượng.
Đối với giá trị văn hóa của đạo Cao Đài có thể nghiên cứu, xem xét ở góc độ
biểu tượng sẽ làm rõ tâm thức, ý nghĩa nhân văn của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Biểu tượng có tính đa nghĩa nhưng có hai nghĩa chính là biểu hình và biểu ý. Ở giai
đoạn ban đầu mới xuất hiện có lẽ ngôn ngữ biểu tượng thường mang tính đơn giản
và ước lệ. Về sau, do sự phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ biểu tượng ngày
càng được mở rộng đến mọi thành tố văn hoá và mọi mặt đời sống của con người.
Như vậy, có thể nói biểu tượng là một hình thái ngôn ngữ hay các ký hiệu có
ý nghĩa tượng trưng cho ngôn ngữ của con người để truyền đạt về trí tuệ, sự sáng
tạo, sự liên kết mang những chuẩn mực, giá trị của một nền văn hóa. Biểu tượng tôn
giáo là các ký hiệu có ý nghĩa tượng trưng cho ngôn ngữ của con người để truyền
đạt về tư tưởng, trí tuệ, các giá trị của con người trong mối quan hệ với các đấng
siêu nhiên, thần thánh.
1.2.1.6. Một số thuật ngữ cơ bản sử dụng trong luận án
Do đạo Cao Đài ra đời ở Nam Bộ nên có một số thuật ngữ địa phương, để
thống nhất trong nghiên cứu, một số thuật ngữ sau đây được hiểu và sử dụng trong
luận án:
* Cơ bút: Cơ: Cái máy, sự xoay chuyển như cái máy. Bút: cây viết. Cơ bút là
dụng cụ dùng để thông công với các Ðấng thiêng liêng.
27
* Phổ độ: Phổ: Rộng lớn, bày ra khắp cả, đều cả. Độ: cứu giúp. Phổ độ là
cứu giúp chúng sinh.
* Ơn Trên: Ơn Trên là ơn huệ của các Đấng Bề Trên nơi cõi thiêng liêng ban
xuống cho dân chúng, đồng thời được dùng để chỉ các Đấng thiêng liêng, hay để chỉ
Đức Chí Tôn hoặc Đức Phật Mẫu.
* Thiên nhãn: Thiên: Ông Trời, tầng Trời, cõi Trời. Nhãn: con mắt. Thiên
nhãn có nghĩa là mắt Trời, biểu tượng bằng hình con mắt trái của con người, tượng
trưng cho Ngọc Hoàng Thượng Đế. Thờ Thiên nhãn là thờ Trời.
* Một số từ ngữ địa phương: Sinh - sanh; bảo - bửu; nguyên - ngươn; chính -
chánh; nhất - nhứt; hoàn - hườn, thi - thơ; bậc - bực, nhân sinh - nhơn sanh,…
1.2.2. Một số vấn đề lý luận liên quan
1.2.2.1. Lý thuyết văn hóa vùng
Văn hóa vùng là văn hóa của cộng đồng cư dân sinh sống trong phạm vi một
không gian có sự tương đồng về địa lý, tự nhiên, kinh tế, văn hóa.
A.A Belik cho rằng vùng văn hóa là khái niệm của trào lưu truyền bá luận, thể
hiện truyền bá vật chất và tín ngưỡng, phong tục đặc biệt đối với một văn hóa nhất
định: "Thể hiện các tham số không gian của sự truyền bá những vật thể văn hóa (vật
chất) và một phức thể nào đó của tín ngưỡng và phong tục tập quán đặc biệt đối với
một văn hóa nhất định" [1, tr.343]. Ngô Đức Thịnh quan niệm văn hóa vùng là vùng
lãnh thổ có sự tương đồng về tự nhiên, dân cư với mối quan hệ tương đồng về kinh
tế, xã hội và con người có sự giao lưu, ảnh hưởng văn hóa để hình thành văn hóa
vật chất và tinh thần của cư dân: "Văn hóa lãnh thổ hay văn hóa vùng là một dạng
thức văn hóa, mà ở đó trong một không gian địa lý xác định, các cộng đồng người
do cùng sống trong một môi trường tự nhiên nhất định,…" [135, tr.14]. Như vậy,
văn hóa vùng là thực thể văn hóa có đặc điểm riêng về địa lý, kinh tế, xã hội, văn
hóa của một cộng đồng thể hiện qua sinh hoạt, tổ chức, hoạt động của con người.
Về cư dân Nam Bộ, chủ yếu là người Việt, Khmer và người Hoa. Về tín
ngưỡng, tôn giáo, vùng Nam Bộ phong phú, đa dạng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo
cùng tồn tại trong đó có tôn giáo ngoại sinh, tôn giáo nội sinh, tín ngưỡng thờ cúng
thiên thần, tín ngưỡng thờ cúng nhân thần. Về văn hóa, Nam Bộ là vùng đất mới,
28
kết quả của quá trình dung hợp, tiếp biến văn hóa Đông - Tây. Trong quá trình dung
hợp văn hóa, Nam Bộ vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa Việt nhưng mang đặc trưng riêng
không lẫn với vùng đất khác.
Lý thuyết văn hóa vùng nêu trên có thể vận dụng để phân tích sự hình thành,
tồn tại của đạo Cao Đài ở Nam Bộ, vùng đất lịch sử ở trung tâm giao lưu của các
nền văn hóa Nam - Bắc, Đông - Tây, theo quy luật hội tụ - giao thoa, kết tinh, lan
tỏa. Vùng đất Nam Bộ mới được người Việt khai phá và phát triển hơn 300 năm.
Nam Bộ là vùng đất chịu sự thống trị của thực dân Pháp đầu tiên và trực tiếp "Nam
Kỳ thuộc địa",… nơi diễn ra sự hỗn dung văn hóa Việt - Khmer - Hoa và phương
Tây cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Vì vậy, vùng Nam Bộ mang đặc trưng riêng về
địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.Với đặc trưng riêng của văn hóa vùng Nam
Bộ đã góp phần hình thành đạo Cao Đài và làm phong phú, đa dạng cho văn hóa
Nam Bộ.
1.2.2.2. Lý thuyết giá trị
Thuật ngữ giá trị: value (tiếng Anh), valuer (tiếng Pháp), cennost (tiếng Nga)
có nghĩa là giá trị, giá cả. Sự hình thành thuật ngữ giá trị gắn liền với các quan điểm
triết học, xã hội học trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Nhận thức về giá trị có từ
sớm trong tư tưởng nhân loại được thể hiện trong các quan điểm triết học cổ đại
phương Tây và phương Đông. Đến thế kỷ XIX khi khoa học triết học phát triển đến
sư phân ngành thì giá trị được xem là đối tượng của ngành khoa học mới xuất hiện -
giá trị học.
Trong lịch sử tồn tại, con người đã nhận ra giá trị là cái có ích, cái mong
muốn, cái có ý nghĩa với cuộc sống con người, cộng đồng, xã hội. Các nhà xã hội
học còn quan niệm giá trị là sản phẩm của văn hóa và giá trị là sự quan tâm, sở
thích, nhu cầu, lôi cuốn,… được con người lựa chọn. C.Kluckholn nhà xã hội học
Hoa Kỳ cho rằng: "Giá trị là quan niệm và điều mong muốn đặc trưng hiện nay ẩn
cho một cá nhân hay một nhóm và ảnh hưởng tới việc chọn các phương thức,
phương tiện hoặc mục tiêu của hành động" [52, tr.130]. Các nhà triết học cho giá trị
là thành quả của lao động sáng tạo vật chất và tinh thần của con người và có tác
dụng điều chỉnh hoạt động của xã hội: "Giá trị là một phạm trù triết học dùng để chỉ
29
sự đánh giá những thành quả lao động sáng tạo vật chất và tinh thần của con người"
[3, tr.43]. Các nhà tâm lý học coi giá trị là sản phẩm tinh thần của con người được
hình thành và phát triển trong môi trường xã hội và hoạt động của con người. Các
nhà ngôn ngữ học cho rằng giá trị là vật có lợi ích, đáng quý về một mặt nào đó
hoặc chỉ phẩm chất tốt đẹp, có tác dụng lớn trong đời sống xã hội: "Cái làm cho một
vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về mặt nào đó" [106, tr.386]. Các nhà văn hóa
học quan niệm giá trị là văn hóa, không phải mọi cái do con người sáng tạo ra là
văn hóa mà chỉ có những sáng tạo có giá trị mới thuộc về văn hóa: "Văn hóa chỉ
chứa cái hữu ích, cái tốt, cái đẹp. Trong từ "văn hóa" thì, trong truyền thống phương
Đông, "văn" là khái niệm đối lập với "võ", ‘văn" có nghĩa là "vẻ đẹp", là giá trị; văn
hóa có nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị" [129, tr.41]. Các nhà nghiên cứu
theo quan điểm mác xít cho rằng giá trị là một hiện tượng mang tính xã hội. Giá trị
là một hiện tượng chức năng (chức năng đánh giá) nên nhận thức phải có tính chủ
thể, khách thể. Cái gì không liên quan đến con người và đời sống xã hội thì cũng
không tồn tại trong phạm trù giá trị.
Giá trị là khái niệm rộng và được nhiều nhà khoa học nghiên cứu đã trở
thành ngành khoa học về giá trị. Dù còn sự bất đồng về quan niệm giá trị nhưng
nhìn chung giá trị là cái có thực trong hiện thực xã hội, là cái có lợi ích, có ý nghĩa
tốt đẹp về một mặt nào đó trong xã hội và được cộng đồng chấp nhận. Giá trị có ý
nghĩa đối với cộng đồng để xã hội cùng hướng tới những điều tốt đẹp, chuẩn mực
trong cuộc sống. Giá trị vừa mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan trong
mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng, với con người và xã hội. Giá trị vừa là sự
nhận thức vừa là sự mong muốn của chủ thể đối với khách thể. Giá trị vừa là cái
định hướng cho chủ thể, vừa là động lực thúc đẩy chủ thể hành động vươn tới. Quan
niệm về giá trị cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi cái được coi là giá trị còn tùy
thuộc vào: chủ thể đánh giá, thời gian, không gian và tiêu chí đánh giá. Giá trị
không phải là cái bất biến mà nó cũng biến đổi trong thời gian, không gian và đặc
biệt là trong môi trường xã hội khác nhau.
Giá trị tôn giáo bắt nguồn từ nhu cầu và mong muốn được bình an trong đời
sống tinh thần của nhân dân bằng niềm tin vào thế giới thần linh: "Giá trị thuộc lĩnh
30
vực tín ngưỡng, tôn giáo xuất phát từ nhu cầu an ninh tinh thần nhờ thế giới siêu
linh" [158, tr.56-57]. Trên cơ sở lý thuyết giá trị có thể vận dụng lý thuyết này nhằm
tìm hiểu các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài được hình thành trên "cái biểu đạt" là
hệ thống các văn bản (kinh sách, Thánh ngôn, Tân luật, Pháp Chánh truyền), giáo
lý, biểu tượng thờ cúng, tổ chức giáo hội, sinh hoạt tôn giáo theo nguyên tắc chung
của đạo Cao Đài. Đồng thời góp phần nhận diện các giá trị nhận thức, giá trị đạo
đức, giá trị thẩm mỹ của đạo Cao Đài và các giá trị đó được biểu hiện qua "cái được
biểu đạt" là hoạt động tôn giáo, sinh hoạt văn hóa của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài
trong đời sống văn hóa ở Nam Bộ.
1.2.2.3. Cơ cấu văn hóa và hệ thống giá trị văn hóa
* Cơ cấu văn hóa của đạo Cao Đài
Hiện nay, nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu về tôn giáo
như: triết học, tôn giáo học, tâm lý học, xã hội học, nhân học và văn hóa học,… nên
cách chia cơ cấu của tôn giáo cũng khác nhau. Chẳng hạn, triết học coi tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội có cơ cấu: ý thức thường ngày (niềm tin cảm tính) và ý
thức lý luận (giáo lý); tâm lý học coi tôn giáo là một hiện tượng tâm lý đặc thù có
cơ cấu: tình cảm, ý thức, thái độ, hành vi,…; văn hóa học coi tôn giáo là một hiện
tượng văn hóa nhóm, cộng đồng xã hội, "một tiểu văn hóa".
Đáng lưu ý nhất là ý kiến của P.Sorokin cho rằng: "Mỗi tôn giáo là một nền
văn hóa" [159, tr.14] và cho cơ cấu văn hóa của một tôn giáo gồm 4 yếu tố: có một
giáo lý; có một hệ thống hành động, bao gồm: lễ nghi, phong tục hay nói rộng ra là
một nếp sống; có một thể chế truyền đạo; có hệ thống biểu tượng. Bốn thành tố này
vừa đủ để xác định một kiểu văn hóa cộng đồng.
Theo Jean Ladriere cho rằng văn hóa của một cộng đồng người biểu hiện ra
như một tổng thể bao gồm 4 bộ phận. Một là hệ thống ý niệm gồm tập hợp những
khái niệm và biểu tượng, dựa vào đó các nhóm xã hội khác nhau tìm cách lý giải
mình và giải thích thế giới thông qua triết học, khoa học, tín ngưỡng, tôn giáo. Hai
là hệ thống giá trị liên quan đến chuẩn mực cho phép phân biệt thực - giả, đánh giá
tốt - xấu, nhận định đúng - sai,… trong những tình huống hành động cụ thể. Ba là
hệ thống biểu hiện bao gồm các thể thức và hình thức trình bày, qua đó các tình cảm, ý
31
niệm bộc lộ ra và có thể cảm nhận được một cách cụ thể. Hệ thống biểu hiện quan
trọng nhất là hệ thống nghệ thuật. Bốn là hệ thống hành động bao gồm các tri thức,
công nghệ học, cho phép làm chủ ở mức độ nào đó môi trường tự nhiên và các thể chế
xã hội, dựa vào đó cộng đồng tự tổ chức và quản lý số phận của mình [160, tr.5].
Từ quan điểm của hai nhà nghiên cứu văn hóa nêu trên về tôn giáo dưới góc
nhìn văn hóa học, mỗi tôn giáo như một tiểu văn hóa của cộng đồng đặc thù, nghiên
cứu sinh tổng hợp lại đưa ra một khung phân tích cơ cấu văn hóa của đạo Cao Đài
gồm 4 thành tố: hệ thống giáo lý (triết lý); hệ thống giá trị, chuẩn mực; hệ thống
thực hành và hệ thống ngoại hiện.
Hệ thống giáo lý (triết lý) có thể hiểu là hệ thống ý niệm hoặc triết lý. Đây là
thành tố cốt lõi của một tiểu văn hóa tôn giáo, thể hiện thế giới quan, nhân sinh
quan và sứ mệnh của một tôn giáo, có vai trò chi phối toàn bộ tôn giáo đó.
Hệ thống giá trị, chuẩn mực là các nguyên tắc cơ bản của các quan hệ ứng
xử trong cộng đồng Cao Đài, tạo ra chuẩn mực, khuôn mẫu hướng dẫn hành vi các
thành viên trong đạo Cao Đài. Đây chính là giá trị văn hóa của đạo Cao Đài với các
nguyên tắc được thực hiện theo giáo lý, giáo luật, tổ chức giáo hội và tác động đến
đạo đức, lối sống, nhân cách con người, thái độ, tư tưởng của các thành viên đối với
cộng đồng, dân tộc, đất nước.
Hệ thống thực hành thực chất là hệ thống thực hành của văn hóa tôn giáo,
mà ở đây là văn hóa của đạo Cao Đài bao gồm: hệ thống lễ nghi về giáo lễ, nghi
thức thờ cúng tại Tòa thánh, Thánh thất, tư gia; thực hiện đàn lễ Tiểu đàn, Đại đàn
và lễ hội tôn giáo.
Hệ thống ngoại hiện hay hệ thống biểu hiện bao gồm các yếu tố: biểu tượng,
nghi tượng, cách sắp đặt điện thờ, kiến trúc Thánh thất, văn chương, ngôn ngữ, giai
thoại, trang phục,… biểu hiện triết lý, tư tưởng, tình cảm của cộng đồng đạo Cao
Đài một cách sinh động, cảm tính mà người ta có thể nhận biết một cách cụ thể. Các
tôn giáo nói chung và đạo Cao Đài nói riêng có hệ thống ngoại hiện hết sức phong
phú, đa dạng. Nếu nghiên cứu chúng theo khung phân tích của tôn giáo học thì
chúng dễ bị ẩn khuất trong các yếu tố của hệ thống thực hành và không thấy được
vai trò to lớn của các yếu tố này trong văn hóa của các tôn giáo khác nhau. Do vậy,
32
theo khung phân tích của văn hóa học yếu tố ngoại hiện quan trọng nhất là hệ thống
nghệ thuật thể hiện giá trị thẩm mỹ của một tôn giáo.
* Hệ thống giá trị văn hóa của đạo Cao Đài
Nếu coi mỗi tôn giáo là "một tiểu văn hóa" với cơ cấu 4 thành tố như đã trình
bày thì theo đó hệ thống giá trị của đạo Cao Đài được tách riêng một cách trừu
tượng hóa là đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án. Nghiên cứu sinh cần làm rõ
vai trò, vị trí của hệ thống giá trị văn hóa đạo Cao Đài và tác động của nó trong đời
sống cư dân Nam Bộ.
Để giáo lý của một tôn giáo (triết lý, tư tưởng) được thực hiện trong đời
sống xã hội, văn hóa tôn giáo đưa ra hệ thống giá trị, chuẩn mực hướng dẫn hành
vi của tín đồ cho phù hợp với triết lý tư tưởng của nó. Tác giả B.X.Ê-ra-xốp đưa
ra hệ thống giá trị tôn giáo: "Chúa, luật đạo, niềm tin, cứu chuộc, hành thiện,
nghi thức, kinh thánh và thánh truyền, nhà thờ" [10, tr.288]. Tác giả Trần Ngọc
Thêm cho rằng các giá trị văn hóa xét theo chủ thể có thể xem là một cấu trúc
phân loại giá trị văn hóa theo chủ thể điển hình gồm: "... ba nhóm giá trị: nhận
thức - đạo đức - thẩm mỹ" [130, tr.67]. Nghiên cứu sinh dựa trên cách chia cấu
trúc giá trị văn hóa theo chủ thể của Trần Ngọc Thêm để chia cơ cấu các giá trị
văn hóa của đạo Cao Đài trong nghiên cứu vấn đề của luận án. Giá trị là yếu tố
quan trọng nhất của bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong đời sống xã hội, cần phải
nghiên cứu vì nó chính là vai trò, tác dụng của sự vật ấy đối với con người và xã
hội. Đó là đối tượng của văn hóa học khi nghiên cứu về tôn giáo khác với các
ngành khoa học khác nghiên cứu tôn giáo. Trong luận án này, các giá trị văn hóa
33
của đạo Cao Đài sẽ được nhìn dưới ba góc độ: giá trị nhận thức, giá trị đạo đức và
giá trị thẩm mỹ.
Giá trị nhận thức là hệ thống giáo lý, triết lý tôn giáo bao gồm giá trị tri thức
và giá trị tâm linh. Giá trị đạo đức là hệ thống giá trị chuẩn mực tôn giáo bao gồm
giá trị nhân cách - lối sống và giá trị cố kết cộng đồng. Giá trị thẩm mỹ là hệ thống
ngoại hiện, hệ thống thực hành của tôn giáo bao gồm giá trị biểu tượng và giá trị
nghệ thuật. Như vậy, nghiên cứu sinh sử dụng lý thuyết cơ cấu tiểu văn hóa của nhà
nghiên cứu văn hóa P.Sorokin và Jean Ladriere để phác thảo cơ cấu các thành tố
văn hóa của đạo Cao Đài. Còn khi nghiên cứu hệ thống giá trị văn hóa của đạo Cao
Đài - một vi hệ (phân hệ) của nó thì nghiên cứu sinh sử dụng lý thuyết cơ cấu giá trị
văn hóa của tác giả Trần Ngọc Thêm. Nội dung nghiên cứu các giá trị văn hóa của
đạo Cao Đài sẽ được trình bày ở chương 3 của luận án.
Tóm lại, dựa trên quan niệm của các nhà nghiên cứu văn hóa P.Sorokin, Jean
Ladriere và Trần Ngọc Thêm về văn hóa, nghiên cứu sinh đưa ra một khung phân
tích cơ cấu giá trị văn hóa của đạo Cao Đài bao gồm 3 thành tố: giá trị nhận thức,
giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ. Cách chia cơ cấu trên đây của các nhà nghiên cứu
văn hóa rất cần thiết để nghiên cứu văn hóa của một cộng đồng nói chung hay một
cộng đồng tôn giáo nói riêng dưới góc độ văn hóa học. Song cách chia này cũng chỉ
có ý nghĩa tương đối, vì các thành tố của một nền (kiểu) văn hóa cộng đồng luôn
luôn tác động lẫn nhau, biểu hiện qua nhau, nghĩa là có mối quan hệ hữu cơ giữa
chúng. Vì vậy, có thể nói như B.X.Ê-ra-xốp bất cứ yếu tố nào của một tôn giáo
cũng giữ một giá trị nhất định. Trong các chương sau quan điểm này ít nhiều sẽ
được vận dụng vào nghiên cứu giá trị văn hóa của đạo Cao Đài.
Tiểu kết chƣơng 1
Tôn giáo là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhằm lý giải một
hiện tượng xã hội thu hút đông đảo người dân tham gia. Tuy đã có nhiều công trình
có giá trị khoa học về mặt lý luận và thực tiễn nhưng chưa một công trình nào đáp
ứng được đầy đủ nhu cầu khám phá, lý giải thế giới tâm linh của con người. Vì vậy,
tôn giáo vẫn mãi là đề tài thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu.
34
Đạo Cao Đài là sản phẩm của quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa ở Nam Bộ
trên cơ sở kế thừa tinh hoa của các tôn giáo nên trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học trong nước và nước ngoài. Các công trình nghiên cứu đạo Cao
Đài còn ít đề cập hoặc chưa nghiên cứu một cách có hệ thống về đề tài giá trị văn
hóa của đạo Cao Đài. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu có
trước, luận án thực hiện đề tài giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư
dân Nam Bộ nhằm góp phần nhận diện các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài và
những tác động của nó trong đời sống của cư dân là người đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
Luận án sử dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo, văn hóa nhằm góp phần làm rõ các khái niệm về đạo Cao Đài, giá
trị, giá trị văn hóa, đời sống cư dân và một số khái niệm liên quan đến đề tài. Đồng
thời, vận dụng lý thuyết văn hóa vùng để phân tích, tìm hiểu các đặc điểm về vùng
đất, cư dân Nam Bộ, bối cảnh xã hội Nam Bộ tạo tiền đề cho sự ra đời của đạo Cao
Đài; vận dụng lý thuyết giá trị để nhận diện các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài và
phân tích, tìm hiểu những tác động của nó trong đời sống của cư dân Nam Bộ. Sử
dụng lý thuyết của các nhà nghiên cứu văn hóa P.Sorokin, Jean Ladriere và Trần
Ngọc Thêm để xác định cơ cấu giá trị văn hóa của đạo Cao Đài gồm: giá trị nhận
thức, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ. Trên cơ sở xác định khái niệm và cơ cấu
giá trị văn hóa của đạo Cao Đài, luận án sử dụng các phương pháp cách tiếp cận liên
ngành, phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu, phương pháp điều tra xã hội
học, phương pháp điền dã để nghiên cứu môi trường ra đời, quá trình tồn tại của đạo
Cao Đài làm cơ sở phân tích, nhận diện các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong
đời sống của bộ phận cư dân có đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
35
Chƣơng 2
KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
2.1. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH ĐẠO CAO ĐÀI
Đạo Cao Đài ra đời ở vùng Nam Bộ nước ta từ thế kỷ XX bị quy định bởi
đặc trưng văn hóa vùng do các đặc điểm tự nhiên, lịch sử, kinh tế, xã hội của vùng
chi phối. Trước khi nhận diện giá trị văn hóa của nó cần nghiên cứu các đặc điểm
của vùng Nam Bộ.
2.1.1. Vùng đất Nam Bộ và đặc điểm cƣ dân Nam Bộ
Đất Nam Bộ được con người biết đến khoảng từ "4.000 năm đến 2.500 năm",
là "vùng tiếp giáp giữa cao nguyên đất đỏ và châu thổ sông Cửu Long" [109, tr.39].
Nam Bộ được hình thành qua quá trình lịch sử với nhiều tên gọi khác nhau
như: Nam Kỳ, Nam Kỳ Lục tỉnh, Nam Việt, Nam phần, Nam Trung, Lục Châu, Gia
Định,… Tên gọi Nam Bộ được dùng để tìm hiểu vùng đất miền Nam từ quá khứ
cho đến ngày nay (Nam Bộ học), còn tìm hiểu vùng đất này từ trước năm 1930 thì
dùng từ các tên gọi như: Nam Kỳ, Nam Kỳ Lục tỉnh, Gia Định, Lục Châu,…
Về vị trí địa lý, Nam Bộ ở cuối bán đảo Đông Dương, có diện tích 67.870km2
[79, tr.13], vùng đất ở cuối đất nước về phía Nam được người Việt tiếp thu, khai
phá và phát triển khoảng hơn 300 năm, nằm trọn trong lưu vực của hai dòng sông
Đồng Nai và Cửu Long. Nam Bộ còn là vùng đất ở cửa sông, giáp với biển Đông.
Khí hậu ở Nam Bộ có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa. Trong một năm, có
sáu tháng mùa mưa và sáu tháng mùa khô tạo cho thiên nhiên ở Nam Bộ có phần
khác biệt với Bắc Bộ. Nam Bộ có vị trị địa lý thuận lợi trong giao thương buôn bán
từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam và chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ,
Trung Hoa nên sớm có sự giao lưu văn hóa của các nền văn minh thế giới.
Về tộc người, những cư dân đầu tiên ở Nam Bộ chủ yếu là người Khmer và
người Chăm sinh sống quần cư tại miền đất này. Về sau xuất hiện thêm các tộc
người khác di cư đến như người Việt, người Hoa, người Ấn Độ. Khoảng thế kỷ XV
- XVI, người Việt tiến hành mở rộng đất xuống phía Nam bắt đầu cuộc khai phá
vùng đất mới và đánh dấu sự có mặt của thành phần cư dân quan trọng là người
36
Việt, sau này chiếm ưu thế về tộc người tại Nam Bộ. Thế kỷ XVII, chúa Nguyễn bắt
đầu mở rộng khai khẩn đất phía Nam và lập thành các thôn xã. Cùng thời, người
Hoa cũng chiêu mộ lưu dân và lập xã ở Hà Tiên do Mạc Cửu đứng đầu. Sau này,
Mạc Cửu thần phục chúa Nguyễn được phong chức Tổng Binh để giữ đất . Việc
khai khẩn đất phía Nam của các chúa Nguyễn thành công đem về vùng đất rộng
lớn. Đồng thời, Nam Bộ trở thành vựa lúa lớn nhất nước. Trong các thành phần
cư dân ở Nam Bộ, người Việt chiếm đa số và mang theo kinh nghiệm lao động
trồng lúa nước, truyền thống đoàn kết, tương trợ nhau để khai khẩn đất hoang và
từng bước làm thay đổi cảnh quan vùng đất mới. Một trong những thành công
của cư dân người Việt khi khai phá vùng đất Nam Bộ là họ có ý chí cao, can
đảm, biết chịu đựng, học hỏi, tiếp thu cái mới để thích ứng với môi trường mới.
Việc sống cộng cư, cùng với sự phát triển về buôn bán giúp Nam Bộ trở thành
trung tâm kinh tế quan trọng với các hải cảng sầm uất: "Một số hải cảng cũng đã
xuất hiện với sự ra vào tấp nập của các tàu buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Java, Tây
Dương" [29, tr.592-593].
Về tín ngưỡng, tôn giáo, Nam Bộ là môi trường thuận lợi cho sự phát triển
các tín ngưỡng, tôn giáo, trở thành "vùng đất phong phú nhất về tín ngưỡng - tôn
giáo ở Việt Nam" [60, tr.31]. Đời sống tâm linh của cư dân Nam Bộ khá phức tạp
và chịu ảnh hưởng của nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Bao gồm: Tín ngưỡng
thờ cúng thiên thần: cúng Thổ Địa, Thần Tài, Táo Quân, Cá Ông (đình miếu ven
biển), Thành Hoàng Bổn Cảnh, Sơn Thần (đình miếu trong nội địa), Bà Chúa Xứ
(đền miếu ở núi Sam, núi Bà Đen). Một số nơi còn thờ Ngọc Hoàng (Ông Thiên),
Mẹ Phật Mẫu Diêu Trì (Bà)...; Tín ngưỡng thờ cúng nhân thần: thờ cúng gia tiên,
Quan Thánh Đế Quân, tổ nghề nghiệp, danh nhân, anh hùng dân tộc (đền miếu)...;
Tôn giáo địa phương: phổ biến nhất là đạo Cao Đài và Phật giáo Hoà Hảo. Ngoài ra
còn có các tôn giáo: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa...; Tôn giáo thế giới:
phổ biến nhất là Phật giáo, Công giáo, Tin lành: "Chỉ riêng tín đồ các đạo ở đồng
bằng sông Cửu Long đã chiếm 1/3 tổng số tín đồ cả nước" [149, tr.194]. Và sự đa
dạng tín ngưỡng, tôn giáo này tạo thành sự đa dạng về đời sống tâm linh cũng góp
phần tạo nên các tôn giáo mới. Các tộc người sinh sống tại vùng đất mới mang đến
37
các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau và trong quá trình cộng cư đó, họ vẫn giữ được
tinh thần bao dung, hòa đồng trong tín ngưỡng, tôn giáo.
Tính cách nổi bật của cư dân Nam Bộ là "trọng nghĩa khinh tài", cư xử hào
hiệp, mến khách, dễ kết thân, hòa đồng với cộng đồng: "Họ cư xử hào hiệp, trọng
nghĩa khí, coi khinh tiền tài, có thể vì nghĩa khí mà xả thân mình không nuối tiếc"
[135, tr.323-324]. Cũng bởi môi trường Nam Bộ đầy thử thách tạo ra con người
luôn hành động, nói ít làm nhiều. Bên cạnh đó, cư dân Nam Bộ còn có thành phần
xuất thân là tội đồ bị lưu đày nên: "ham mê buôn bán và thờ ơ với địa vị quan chức
cũng như việc khoa cử" [21, tr.305]. Cư dân Nam Bộ không coi việc học hành làm
trọng mà sống bằng hành động, thẳng thắn nhưng cũng mang nặng tâm lý sầu tư
qua các điệu vọng cổ.
Như vậy, Nam Bộ là vùng đất mới của đất nước với hơn 300 năm lịch sử
hình thành, phát triển, trong đó có sự đóng góp to lớn của tộc người Việt đã khai
khẩn đất hoang và đem đến vùng đất này kinh nghiệm sản xuất lúa nước, phát triển
buôn bán để hình thành trung tâm văn hóa, kinh tế của đất nước. Đồng thời cũng là
môi trường thuận lợi để ra đời các tôn giáo trong đó có đạo Cao Đài. Khi đạo Cao
Đài ra đời chủ yếu quy tụ các tộc người Việt gia nhập. Có rất ít người Chăm vào
đạo Cao Đài, người Khmer, người Hoa vẫn theo tôn giáo truyền thống của mình nên
đạo Cao Đài là tôn giáo của người Việt ở Nam Bộ là chính.
2.1.2. Bối cảnh xã hội ở Nam Bộ tác động đến sự ra đời của đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài ra đời năm 1926 ở Từ Lâm Tự (còn gọi là chùa Gò Kén) tại ấp
Long Trung, xã Long Thành, huyện Hoà Thành, tỉnh Tây Ninh do một số công
chức, tư sản, địa chủ, trí thức sáng lập và phát triển chủ yếu ở Nam Bộ. Hiện nay,
đạo Cao Đài có "trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc, khoảng 2,5 triệu tín đồ,
với 983 tổ chức Họ Đạo cơ sở được công nhận ở 35/38 tỉnh, thành phố, thành lập 63
Ban Đại diện, 08 Đại diện, khoảng 1.200 cơ sở thờ tự" [162, tr.8]. Quá trình tồn tại
của đạo Cao Đài gắn liền với bối cảnh xã hội về điều kiện chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội ở Nam Bộ trước năm 1975.
Nguyễn Thanh Xuân nhận định hai yếu tố quan trọng lý giải sự ra đời của
một tôn giáo là: "một là hoàn cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng
38
đương thời; hai là vai trò người sáng lập" [166, tr.95]. Nhận định này rất đúng với
trường hợp của đạo Cao Đài.
Về kinh tế, chính trị, những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đẩy mạnh
việc khai thác thuộc địa ở Đông Dương với nhiều hoạt động bóc lột về kinh tế, áp
bức về chính trị, nô dịch về văn hoá. Trong điều kiện như vậy, nền kinh tế của Việt
Nam đã dần dần trở thành một nền kinh tế thuộc địa nửa phong kiến. Sự chuyển
biến trong cơ sở kinh tế đã dẫn tới những chuyển biến sâu sắc trong xã hội Việt
Nam, đặc biệt từ đầu thế kỷ XX trở đi. Điều đó đã đẩy người dân Việt Nam nói
chung, nông dân ở Nam Bộ nói riêng lâm vào cuộc sống lầm than khổ cực, không
những nghèo nàn về kinh tế mà còn thấp kém về văn hoá. Các cuộc đấu tranh chống
thực dân Pháp của nhân dân ta nói chung và của nông dân Nam Bộ nói riêng diễn ra
rất sôi nổi, quyết liệt nhưng tất cả đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu.
Về đời sống xã hội ở Nam Bộ, thực dân Pháp và chế độ phong kiến ra sức
bóc lột, chiếm ruộng đất của nông dân để làm đồn điền trồng cao su: "Trong số
ruộng đất cướp đoạt thêm được, thì riêng Nam Bộ là 503.000 ha, bằng 2/3 tổng số"
[166, tr.36] mà họ chiếm đoạt. Nạn binh lửa, việc bắt phu, bắt lính của thực dân
Pháp gây ra tình trạng chết chóc, phiêu tán rất phổ biến trong nhân dân lao động.
Người nông dân lẫn người thợ thủ công bị cướp đoạt ruộng đất, bị thất nghiệp, bị
sưu cao, thuế nặng, đều trở nên bần cùng hoá và phá sản. Trước mắt họ chỉ có thể
lựa chọn: ở lại nông thôn làm tá điền, ra thành phố và các vùng kỹ nghệ, vùng mỏ
làm thuê hoặc vào làm phu trong các đồn điền,… Kết quả là ở nông thôn đã xảy ra
một quá trình phân hoá giai cấp mạnh mẽ.
Về văn hóa tín ngưỡng: do đặc điểm riêng về mặt địa lý, lịch sử, dân cư,
người dân Nam Bộ có sắc thái riêng về tính cách, tâm lý, lối sống. Đặc biệt cư dân
người Việt ở Nam Bộ có nhu cầu rất cao về đời sống tín ngưỡng. Do sống tại môi
trường mới nên cư dân Nam Bộ cần điểm tựa về tâm linh, họ thờ cúng nhiều và thấy
mọi thứ đều có yếu tố thiêng trong đó. Thế nhưng vào những thập kỷ đầu của thế kỷ
XX, các tôn giáo truyền thống ở Nam Bộ sa sút uy tín, không đáp ứng được yêu cầu
là chỗ dựa tinh thần của nhân dân. Một số tín ngưỡng, tôn giáo mới ra đời như đạo
Lành, đạo Dừa, đạo Ngồi,…cũng không đáp ứng được nhu cầu về tín ngưỡng, tôn
39
giáo của nhân dân Nam Bộ. Bối cảnh suy thoái của các tôn giáo đương thời giúp
cho đạo Cao Đài có thời cơ ra đời. Nam Bộ là vùng đất mà tôn giáo truyền thống
chưa đủ sức bao trùm đến mọi nơi nên cư dân đã sáng tạo ra một số tôn giáo mới
để thực hành theo cách riêng của mình: "Từ đó, họ mới sáng tạo ra một số tôn giáo
mới như đạo Cao Đài, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Dừa, Phật giáo Hòa Hảo,… lấy
Phật giáo Đàng Trong làm căn bản và tiếp biến thêm một số tôn giáo mới du nhập
và tín ngưỡng riêng của nhiều ông đạo mà mỗi ông hành trì theo một cách riêng"
[126, tr.120]. Chính người đạo Cao Đài cũng nhận định sự suy thoái về đạo đức
của các tôn giáo đương thời đã góp phần thuận lợi cho đạo Cao Đài ra đời, phần
nào đáp ứng nhu cầu về đời sống tâm linh của cư dân Nam Bộ và cũng là giải
pháp văn hóa vừa góp phần bảo vệ văn hóa tín ngưỡng truyền thống, vừa tiếp thu
văn hóa phương Tây.
Bối cảnh xã hội nêu trên đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng, đời sống của
một số nhà trí thức, công chức, tư sản, địa chủ ở miền Nam do bị chế độ thực dân,
phong kiến chèn ép, kinh doanh thua lỗ, phá sản, đồng lương ít ỏi, ruộng đất bị thu
hẹp, sự bất công xã hội, bế tắc trong sự nghiệp và cuộc sống. Họ tìm đến thú chơi
"Thông linh học" - một trào lưu của phương Tây được du nhập vào Việt Nam đầu
thế kỷ XX và nhanh chóng hòa nhập với tục cầu hồn, cầu tiên - một tín ngưỡng dân
gian của người Việt và nhanh chóng trở thành phong trào "cầu cơ", "chấp bút" (gọi
tắt là cơ bút) diễn ra khá phổ biến ở miền Nam. Chính từ việc tổ chức các đàn cầu
cơ mà một số nhà trí thức, công chức, tư sản, địa chủ đã sáng lập đạo Cao Đài.
Sự ra đời của đạo Cao Đài là hệ quả trực tiếp của quan niệm "Tam giáo đồng
nguyên" (Nho - Phật - Lão) có từ lâu đời ở nước ta; và có quan hệ mật thiết với các
nhóm Ngũ chi Minh đạo (Minh sư, Minh đường, Minh lý, Minh thiện, Minh tân) ở
vùng Nam Kỳ lục tỉnh cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đạo Cao Đài ra đời đã có
được màu sắc mới, biết kết hợp tinh hoa của các tôn giáo, có nhiều đặc điểm gần
gũi với văn hoá, lối sống truyền thống của người dân Nam Bộ nên nhanh chóng thu
hút được mọi người tin theo với hy vọng được che chở, an ủi và giải thoát. Đó cũng
là biểu hiện của quá trình giao lưu văn hóa Đông - Tây, là "tinh thần khoan dung và
đồng nguyên hết sức rộng rãi và cao độ của văn hóa Việt Nam" [9, tr.426].
40
Cùng với bối cảnh xã hội Nam Bộ còn có vai trò của các chức sắc góp phần
vào sự ra đời của đạo Cao Đài. Người có công lớn trong việc thành lập đạo Cao Đài
là ông Ngô Văn Chiêu [32, tr.51]. Ông Ngô Văn Chiêu, đạo hiệu Ngô Minh Chiêu,
sinh năm 1878 tại Bình Tây, Chợ Lớn. Ông thuộc dòng dõi gia đình quan Thị lang
của Triều đình Huế. Ông làm việc trong chính quyền Pháp, kinh qua các công việc:
thư ký tại Sở Tân Đáo ở Sài Gòn; Tri huyện tại Tân An; chủ quận đảo Phú Quốc,…
Ông khởi sự tu hành từ năm 1920 khi được Cao Đài Tiên Ông giáng cơ xưng danh
lần đầu tiên tại một buổi cầu cơ. Ngày 8-2-1921, ông bắt đầu ăn trường chay và
hành đạo. Năm 1921, ông thấy Thiên nhãn hiện 2 lần và được Tiên Ông dạy vẽ con
mắt để thờ và xưng tên là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" gọi là Thầy.
"Từ đó, ông chính thức là đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông" [133, tr.12].
Năm 1924, ông được Cao Đài Tiên Ông cho thấy cảnh Bồng Lai. Ngày 30-7-1924,
ông Chiêu được chuyển về Sài Gòn làm việc. Tại đây, ông cùng nhóm bạn đã phát
triển các hình tượng lễ nghi tôn giáo tương đối hoàn thiện và đầy đủ. Năm 1925,
Cao Đài Tiên Ông dạy ông đem mối Đạo truyền ra và gây dựng cơ phổ độ của đạo
Cao Đài. Năm 1931, ông xin nghỉ việc về an dưỡng tại Cần Thơ.
Bên cạnh công lao chuẩn bị thành lập đạo của ông Ngô Văn Chiêu còn có
đóng góp quan trọng của nhóm cơ "Cư - Tắc - Sang". Ông Cao Quỳnh Cư, người
gốc ở Tây Ninh làm việc tại Sở Hỏa xa, Sài Gòn. Ông Cư cùng với người bạn đồng
hương là Phạm Công Tắc và người cháu là Cao Hoài Sang, cả hai người đều làm
việc tại Sở Thương chánh Sài Gòn, tạo thành một nhóm có thú tiêu diêu xướng họa
thi ca. Khoảng tháng 6 năm 1925 (Ất Sửu), ba người tập xây bàn theo kiểu "Thông
linh học" của phương Tây. Sau nhiều lần cầu cơ, họ gặp Đấng Thiêng liêng tự xưng
là Đức "A Ă Â". Tới tháng 8 năm 1925, nhóm "Cư - Tắc - Sang" dùng ngọc cơ để
trò chuyện cùng Đức "A Ă Â". Vào đêm Noel (24-12-1925), nhóm "Cư - Tắc -
Sang" chấp cơ được Đức "A Ă Â" giáng cơ phải trau dồi đạo đức giúp "Thầy" khai
đạo. Tới đầu năm 1926, Cao Đài Tiên Ông giáng cơ truyền dạy về đạo đức, tư
tưởng cho nhóm "Cư - Tắc - Sang".
Thời kỳ đầu đạo Cao Đài được hình thành từ việc lập đàn cơ của hai nhóm
cơ Ngô Văn Chiêu và "Cư - Tắc - Sang". Đa số họ đều là tầng lớp trí thức, công
41
chức, tư sản nhỏ của chính quyền thực dân Pháp. Các nhóm cầu cơ tập hợp và kết
nạp thêm một số người có ảnh hưởng lớn trong xã hội Nam Bộ như: cựu Thượng
nghị viện Lê Văn Trung, bà Lâm Ngọc Thanh, nghiệp chủ ở Vũng Liêm, ông Lê
Văn Lịch, đốc phủ Lê Bá Trang, quan phủ Nguyễn Ngọc Tương, quan phủ Lê Văn
Hòa,... Ông Lê Văn Trung được coi "là người Minh Tân" [95, tr.148] có tư tưởng
mới trong xã hội đương thời, sau này làm Quyền Giáo tông của đạo Cao Đài.
Ngày 27-1-1926, trong một đàn cơ nhóm "Cư - Tắc - Sang" được Thượng đế
chỉ dạy tìm đến ông Ngô Văn Chiêu để xem cách thức thờ phụng. Các ông Trung -
Cư - Tắc - Sang tìm gặp ông Chiêu và suy tôn làm anh cả. Ngày 28-1-1926, ông Lê
Văn Trung mở tiệc họp mặt 13 tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài và 14 vị khác đã hầu
đàn cơ nhiều lần nhưng chưa chính thức được xem là đệ tử Cao Đài. Như vậy, bước
đầu các vị tín đồ Cao Đài đầu tiên đã thống nhất được các đàn cơ làm một và cùng
chung mục đích thờ phụng Cao Đài Thượng Đế. Nhưng sự thống nhất này không
được bao lâu thì tới ngày 12-2-1926, cơ bút đã phân công cho từng người và chia
thành 6 đàn cơ chính. Trong năm 1926, cơ bút chỉ bảo nhiều về sự phân hợp trong
đạo, quy chế tế lễ của đạo, giảng giải về giáo lý, giáo luật của đạo Cao Đài.
Werner Jayne Susan cho rằng chức sắc thời kỳ đầu lập đạo Cao Đài là tầng lớp
trên trong xã hội Nam Bộ gồm địa chủ, quan lại, tiểu tư sản, nhà giáo và những
người khác có tài sản nhưng không phải là nông dân: "…, hệ thống chức sắc, tổ
chức giáo hội và ban lãnh đạo của các phái cũng nằm trong những người tầng lớp
trên và tiểu tư sản" [170, tr.30].
Ngày 29-9-1926, nhóm Lê Văn Trung họp tại nhà Nguyễn Văn Tường
(thông ngôn Sở Tuần cảnh Sài Gòn) làm tờ khai đạo, mang chữ ký của 28 người đại
diện cho 247 tín đồ. Trong số 28 người ký tên khai đạo không có ông Ngô Văn
Chiêu. Ngày 7-10-1926, tờ khai đạo được gửi lên Thống đốc Nam Bộ - Le Fol. Nội
dung tờ khai đạo nêu lên tôn chỉ, mục đích của đạo là "Tam giáo quy nguyên, Ngũ
chi phục nhất" nhằm hòa hợp tất cả các phần tinh túy chân truyền của các tôn giáo
đã có, thống nhất tư tưởng đi đến chân lý đại đồng về đạo đức tôn giáo. Đồng thời
thực hành chủ nghĩa "Từ bi - Công bình - Bác ái" thương yêu đồng loại, hòa nhập,
tương trợ nhau, đồng tình cùng nhau xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngày
42
18-11-1926 (14-10-Bính Dần), toàn bộ thành viên của các nhóm cơ thờ phụng Đức
Cao Đài tổ chức làm lễ khai đạo tại Từ Lâm tự, xã Long Thành, huyện Hoà Thành,
tỉnh Tây Ninh. Ông Lê Văn Trung thay mặt tín đồ mời các quan chức Pháp - Việt
đến dự. Vài tháng sau, số người nhập môn đã lên đến hàng nghìn người.
Điều đặc biệt là đạo Cao Đài được hình thành từ cơ bút. Tác giả Đồng Tân
nhận định: "Nói đến Cao Đài giáo mà không nói đến cơ bút thì chẳng khác gì đi vào
một ngôi nhà mà không qua cái ngõ bởi lẽ cơ bút là cái cửa ngõ đi vào chân lý Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ" [123, tr.53]. Cơ bút là phương pháp thông công giữa con
người trong cõi trần (hữu hình) và các đấng thiêng liêng trong cõi vô hình. Trong
đạo Cao Đài, người trực tiếp tham gia cầu cơ gọi là đồng tử. Khi cầu cơ, đồng tử
cầm cơ để viết ra thánh ngôn gọi là thủ cơ, cầm bút để viết ra thánh ngôn gọi là
chấp bút, có khi đồng tử vừa thủ cơ vừa xuất ngôn qua linh điển gọi là thánh ngôn.
Đồng tử phải sống thanh khiết, không được kết hôn và thường xuyên thực hiện
thiền định để có thể tiếp nhận linh điển của thiêng liêng. Cơ bút đóng vai trò quan
trọng thời kỳ đầu thành lập của đạo Cao Đài góp phần hoàn thiện về tổ chức giáo
hội, giáo lý, giáo luật, kinh sách, phong phẩm chức sắc, chỉ dạy việc hành đạo,…
Trong quá trình sử dụng cơ bút, một số chức sắc đã lợi dụng cơ bút cho mục đích cá
nhân gây chia rẽ trong Đạo. Vì vậy, ngày 1-6-1927, Ngọc Hoàng Thượng Đế đã chỉ
dạy ngưng cơ bút: "Còn tới cuối kỳ tháng 6 nầy thì Thầy phải ngưng hết cơ bút
truyền Đạo, các con sẽ lấy hết chí thành đã ung đúc bấy lâu mà lần hồi lập cho hoàn
toàn mối Đạo" [41, tr.45]. Tuy nhiên, một số chức sắc vẫn say mê cơ bút và không
nghe theo lời dạy của Thượng Đế. Nguyên nhân do cơ bút là một phương tiện đặc
biệt của đạo Cao Đài giúp cho tâm linh con người giao tiếp với tâm linh vũ trụ
mong đạt được sự hướng thượng.
Vậy cơ bút có giá trị gì? Thứ nhất, cơ bút làm cho chức sắc, tín đồ Cao Đài
tin rằng có thế giới thần tiên trong vũ trụ. Người tín đồ Cao Đài có niềm tin sâu sắc
vào Thượng Đế đã giáng điển lập đạo Cao Đài và do chính Thượng Đế làm giáo
chủ, không giao cho người trần: "có Trời làm chủ, có Phật Tiên Thánh Thần" [69,
tr.17]. Thứ hai, cơ bút để lại giá trị di sản vô giá cho đạo Cao Đài. Đó là những
công trình như: Thánh ngôn hiệp tuyển, Pháp Chánh truyền, kinh Đại Thừa Chơn
43
giáo,…hoặc là những lời của Tiên, của Phật khuyên dạy nhân sinh. Thứ ba, cơ bút
tạo cơ hội cho con người được tiếp xúc trực tiếp với thế giới thần linh, được nghe,
được đọc những lời dạy của thần linh qua kinh sách nên thu hút được mọi người
tham gia. Thứ tư, cơ bút thể hiện mối giao cảm giữa Trời và Người theo nguyên lý
"Thiên nhân hiệp nhất" của đạo Cao Đài. Ở đây không có yếu tố mê tín mà khoa
học có thể chứng minh được trong thực tế.
Bên cạnh đó, cơ bút cũng có những điều gây hại. Tác giả Huệ Minh chỉ ra
bốn điều gây hại của cơ bút là: Một là, chức sắc ỷ vào cơ bút thì dễ bị lệ thuộc uy
quyền cơ bút mà đánh mất khả năng và sứ mạng cao quý của mình. Hai là, tín đồ ỷ
lại cơ bút thì dễ bị tha lục cám dỗ đến nỗi xa lìa chân lý, sa vào mê tín dị đoan. Ba
là, phí phạm công lao và đức hy sinh cao quý của các chức phận làm trách nhiệm.
Bốn là, tạo điều kiện cho quần chúng nhận xét sai lầm đối với nền Đạo mới mẻ
mang nhiều tính chất tiến bộ. Những tác hại của cơ bút: "Đó là những hậu quả tai
hại do lạm dụng cơ bút vượt ngoài Thánh ý" [93, tr.139]. Điều này làm cho chính
Hộ pháp Phạm Công Tắc của Cao Đài Tây Ninh cũng phải nói rằng: "Đạo thành
cũng do cơ bút, Đạo bại cũng do cơ bút, cơ bút hư hư thực thực không biết đâu mà
lần" [29, tr.95]. Cơ bút gắn liền với quá trình ra đời và hình thành giáo lý, giáo luật
và tổ chức của đạo Cao Đài. Cơ bút được gắn với yếu tố thiêng liêng "ý và lời của
cơ bút là lời dạy bảo của Đấng tối cao - Ngọc Hoàng Thượng Đế". Hiện nay, đạo
Cao Đài không còn sử dụng cơ bút nhưng di sản của cơ bút vẫn còn giá trị trong đời
sống của người tín đồ Cao Đài. Vai trò lịch sử của cơ bút thời kỳ đầu thành lập đạo
đã hoàn thành nhưng sứ mạng tâm linh của cơ bút vẫn tiếp diễn trong đời sống của
tín đồ đạo Cao Đài.
Quá trình hình thành đạo Cao Đài đã phán ánh bối cảnh xã hội Nam Bộ lúc
bấy giờ có đủ điều kiện cần thiết để một tôn giáo mới ra đời. Trong điều kiện đó,
đạo Cao Đài đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân lao động và trở thành một tổ chức tôn giáo có lực lượng chức sắc,
tín đồ đông đảo, để cùng nhau thực hiện mục đích được tự do về tư tưởng hoặc xa
hơn là đấu tranh chống áp bức, thoát khỏi đói nghèo. Giai đoạn này, đạo Cao Đài
từng bước hình thành, kiện toàn tổ chức, giáo lý, giáo luật, nghi lễ, kinh sách và
44
hoạt động thống nhất về tổ chức. Tuy nhiên do mâu thuẫn nội bộ giữa các chức sắc
lãnh đạo và những bất đồng trong Hội thánh nên đạo Cao Đài bị chia rẽ thành nhiều
hệ phái, nhưng số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự vẫn phát triển rộng khắp các tỉnh
đồng bằng Nam Bộ, đồng thời đã tạo ra vị thế mới cho đạo Cao Đài trong xã hội
đương thời.
2.1.3. Lý do đạo Cao Đài ra đời ở Nam Bộ
Từ điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở Nam Bộ làm tiền đề thuận
lợi cho đạo Cao Đài ra đời. Quá trình tồn tại, đạo Cao Đài không thể mở rộng ảnh
hưởng đến Bắc Bộ và Trung Bộ (Tuy nhiên, ở miền Bắc và miền Trung cũng có sự
hiện diện của đạo Cao Đài nhưng quy mô nhỏ hơn). Lý giải hiện tượng này, Phan
Ngọc cho rằng phong trào tôn giáo ở Nam Bộ luôn sôi động để cuốn hút người dân
tham gia trong đó có đạo Cao Đài: "Cụ thể là phong trào tôn giáo ở Bắc Bộ và
Trung Bộ suốt thời Pháp thuộc vẫn hệt như trước đây, nghĩa là im lìm, trái lại ở
Nam có nhiều cuộc vận động mang tính chất tôn giáo: Phan Xích Long, đạo Dừa,
và nổi bật nhất là Cao Đài và Hòa Hảo với hàng triệu tín đồ" [99, tr.287].
Quá trình mở đất, cư dân Nam Bộ mang nặng tư tưởng hoài cổ nhớ về cội
nguồn, đồng thời phải đối mặt những khó khăn, vất vả trong cuộc sống nên họ có
nhu cầu thành lập một tôn giáo mới để đoàn kết, giúp đỡ nhau. Điều này, cư dân
miền Bắc không có được: "Tất cả những hẫng hụt đó tạo nên ở người dân một nhu
cầu đoàn kết mới mà ở miền Bắc không có là đoàn kết trong một tôn giáo để che
chở nhau, nâng đỡ nhau" [99, tr.289]. Cư dân Nam Bộ sinh sống ở vùng đất mới
nên con người không bị ràng buộc về truyền thống văn hóa, họ trở nên mạnh bạo,
cởi mở và đón nhận những cái mới, chấp nhận điều mới mẻ trong cuộc sống:
"Trước nhất, ai cũng dễ dàng nhận ra đây là vùng đất mới, bởi vậy nó vừa lạ lẫm, xa
vời, lại vừa thu hút, vẫn gọi con người. Đất mới, con người cũng mới, trên vai
không trĩu nặng truyền thống hàng ngàn năm, con người mạnh bạo, năng động, cởi
mở,…" [135, tr.296].
Xã hội Nam Bộ những năm đầu thế kỷ XX rơi vào khủng hoảng tư tưởng,
người dân mất phương hướng, bế tắc trong cuộc sống họ mong muốn được thay đổi.
Trong lúc đó, các tôn giáo mới xuất hiện như đạo Cao Đài nêu cao tinh thần dân
45
chủ để thỏa mãn khao khát bình đẳng, dân chủ của người nông dân, Phật giáo Hòa
Hảo chủ trương tứ ân để thỏa mãn yêu cầu về Tổ quốc, gia đình. Điều đó đã thu hút
đông đảo quần chúng vào Đạo. Khi gia nhập đạo Cao Đài, cư dân người Việt Nam
Bộ thấy được giá trị của tôn giáo có tư tưởng hòa đồng, lối sống dân chủ, khát vọng
xây dựng một xã hội nhân bản, tiến bộ.
Đạo Cao Đài ra đời trở thành một hiện tượng xã hội ở Nam Bộ lúc bấy giờ và
được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Nguyễn Văn Nguyễn lý giải lý do đạo
Cao Đài ra đời ở Nam Bộ cùng với nhiều tôn giáo trong tác phẩm "Thái độ của
chúng ta đối với tôn giáo" là: Thứ nhất "vì Nam Bộ ruộng đất tập trung nhiều trong
tay nhà băng Đông Dương và các địa chủ, nhất là bọn Pháp, nông dân đã phân tán
ra mỗi người có một miếng đất nhỏ, manh mún...". Khi bị mất đất, trở nên "thất
nghiệp kinh niên, lỡ quê lỡ chợ" thì trong tình trạng đó "tình cảm tôn giáo cũng dễ
bộc lộ". Thứ hai, sự bế tắc trong việc phân hóa giai cấp xã hội ở Nam Bộ, và cho
rằng đó là nguyên nhân cơ bản nhất đẻ ra tình trạng "lắm tôn giáo" ở xứ này.
Trường hợp đạo Cao Đài có vai trò rất lớn của tầng lớp viên chức trung cao cấp,
điền chủ... ở Nam Bộ. Thứ ba là lực lượng xã hội tham gia và quan hệ mật thiết nhất
với vấn đề tôn giáo là nông dân [74, tr.118]. Những người sáng lập đạo Cao Đài đã
biết lợi dụng đặc điểm hành chính ở Nam Kỳ để công khai nền Đạo, lôi cuốn tín đồ
bằng chủ trương bình đẳng, dân chủ trong cộng đồng.
Như vậy, đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh xã hội đương thời đang khủng
hoảng về chính trị, kinh tế. Cư dân Nam Bộ lại chủ yếu là nông dân có nguồn gốc từ
Bắc Bộ nên luôn khắc khoải, hoài niệm. Tại vùng đất mới, cư dân có nhu cầu đoàn
kết để cải tạo thiên nhiên, xây dựng môi trường xã hội mới, không chịu được sự gò
bó của chính quyền cai trị và từ đó nảy sinh nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo. Với
vai trò là các tầng lớp trên trong xã hội đương thời, những người sáng lập đạo Cao
Đài đã sáng tạo ra một tôn giáo đáp ứng được nhu cầu tinh thần của cư dân Nam Bộ
mang tư tưởng đại đồng, nghĩa hiệp, vừa mới lạ vừa quen thuộc, phù hợp với đặc
điểm, tích cách của người dân Nam Bộ và biết cách lựa chọn thời điểm để công khai
nền Đạo với chính quyền cai trị. Từ các lý do nêu trên có thể khẳng định, đạo Cao
Đài chỉ có thể ra đời tại Nam Bộ và được vùng đất Nam Bộ nuôi dưỡng, trưởng
46
thành tốt nhất so với Bắc Bộ và Trung Bộ. Dù có nhiều lần mở rộng địa bàn ở trong
nước cũng như ở nước ngoài nhưng đạo Cao Đài cũng chưa có thành công nào như
ở Nam Bộ, thậm chí còn thất bại.
2.2. KHÁI LƢỢC VỀ LỊCH SỬ VÀ SINH HOẠT CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
2.2.1. Lịch sử đạo Cao Đài
Sau khi tổ chức lễ khai đạo từ năm 1926 đến năm 1930, đạo Cao Đài vẫn là
một tôn giáo thống nhất, có Toà thánh ở Tây Ninh. Thời gian này, đạo Cao Đài tập
trung hoàn chỉnh về giáo lý, giáo luật, nghi lễ, củng cố hệ thống tổ chức hành chính
đạo từ trung ương đến cơ sở. Đặc biệt, đạo Cao Đài triển khai các hoạt động truyền
giáo ở các địa phương, nhất là ở vùng Lục tỉnh để phát triển tín đồ. Những chức sắc
lãnh đạo Cao Đài thời kỳ đầu chủ trương mở rộng nền Đạo, tăng cường hoạt động
truyền đạo: "…, sau khi ra đời, những người lãnh đạo Cao Đài triển khai ngay các
hoạt động truyền giáo, phát triển tín đồ để tạo thanh thế, khẳng định sự tồn tại của
mình" [166, tr.270].
Nhưng sự thống nhất về tổ chức của đạo Cao Đài chỉ tồn tại trong khoảng 10
năm đầu tiên. Khi số lượng tín đồ tăng lên làm cho quyền lợi của chức sắc trong
giáo hội ngày càng lớn, dẫn đến phát sinh mâu thuẫn giữa các chức sắc lãnh đạo
ngày càng gay gắt. Đồng thời việc cải cách nền hành chính đạo bằng pháp quyền đã
làm cho nhiều chức sắc lãnh đạo giáo hội bất đồng sâu sắc nên đã rời khỏi Toà
thánh Tây Ninh về địa phương thành lập các phái Cao Đài mới. Nguyễn Thanh
Xuân nhận xét: "Gần như là quy luật, các tôn giáo khi phát triển đến một mức độ
nhất định đều có sự phân hóa. Nếu như các tôn giáo khác phân hóa do sự bất đồng
về quan điểm giáo thuyết, thần học, thì đạo Cao Đài phân hóa chủ yếu do những
mâu thuẫn giữa cá nhân các chức sắc" [165, tr.322]. Đây là một trong những
nguyên nhân chính dẫn đến sự chia rẽ trong đạo Cao Đài.
Theo những người trong đạo Cao Đài, nguyên nhân phân chia chi phái của
đạo Cao Đài có nhiều. Thứ nhất, thời gian đầu chuyển Thánh thất từ chùa Gò Kén
về đất mới mua, các chức sắc lãnh đạo Hội thánh không có điều kiện tập trung để
điều hành giáo hội nên đã trở lại làm công việc riêng: ông Phạm Công Tắc sang
Nam Vang, ông Lê Văn Trung về Sài Gòn và đi hành đạo, ông Cao Quỳnh Cư ở lại
47
đứng ra điều hành việc đạo nhưng để một số chức sắc lộng quyền,… dẫn đến mầm
mống tư tưởng phân ly. Thứ hai, các quy định trong Tân luật, Pháp Chánh truyền
của Hội thánh chưa được phổ biến rộng rãi hoặc chưa được chức sắc, tín đồ tuân thủ
thực hiện dẫn đến ý thức chấp hành còn nhiều khiếm khuyết. Thứ ba, hàng chức sắc
lãnh đạo Hội thánh thiếu hụt khá nhiều so với quy định dẫn đến sự kiêm nhiệm hoặc
độc quyền không có sự giám sát lẫn nhau. Thứ tư, chức sắc, tín đồ ở Hội thánh và
các cơ sở Đạo muốn tiếp tục sử dụng cơ bút nhưng không được đáp ứng do Tòa
thánh Tây Ninh thực hiện cấm cơ bút từ năm 1927. Thứ năm, giữa các chức sắc
lãnh đạo với nhau không phục nhau về chức vụ, phẩm vị trong đạo dẫn đến mâu
thuẫn [23, tr.386-391]. Đó chính là các nguyên nhân dẫn đến sự chia rẽ của đạo Cao
Đài, trong đó có nguyên nhân cơ bản là mâu thuẫn giữa các chức sắc lãnh đạo.
Sự tồn tại của đạo Cao Đài là quá trình chia rẽ về tổ chức và nỗ lực thống
nhất bất thành. Chia rẽ, phân ly là đặc điểm nổi bật của đạo Cao Đài từ năm 1930
đến năm 1975. Thời gian này, đạo Cao Đài chia rẽ thành nhiều phái Cao Đài khác
nhau, có lúc lên đến 30 phái. Trong các phái Cao Đài này có khoảng 10 phái là hoạt
động theo đúng chân truyền của đạo Cao Đài và tồn tại đến nay.
Sau năm 1975, một số phái Cao Đài vì không có đường hướng hành đạo
phù hợp nên đã mai một dần. Đối với Cao Đài Tây Ninh do vấn đề chính trị, Nhà
nước có chủ trương thu hẹp ảnh hưởng của Đạo, đưa chức sắc, tín đồ về tu tại
gia, đóng cửa các thánh thất, giải tán bộ máy hành chính đạo, trưng thu các cơ sở
kinh tế, xã hội,... làm cho sinh hoạt tôn giáo của Cao Đài Tây Ninh nói riêng và
các phái Cao Đài nói chung bị hạn chế. Các hoạt động tôn giáo của Cao Đài Tây
Ninh chỉ duy trì sinh hoạt trong phạm vi cơ sở thờ tự, không được tổ chức lễ hội
đông người. Do ảnh hưởng bối cảnh xã hội chung lúc bấy giờ nên các phái Cao
Đài trước đây có quá trình gắn bó với dân tộc như: Cao Đài Ban Chỉnh đạo, Cao
Đài Chiếu Minh Long Châu, Cao Đài Tiên Thiên,… cũng bị ảnh hưởng, phạm vi
sinh hoạt tôn giáo tập trung chủ yếu tại cơ sở, ít có hoạt động tôn giáo nổi bật
trong thời gian này.
Từ năm 1995 đến nay, các phái Cao Đài được Nhà nước công nhận tổ chức
tôn giáo, hoạt động tôn giáo bình thường như các tôn giáo khác ở Việt Nam. Hiện
48
nay, đạo Cao Đài có 10 Hội thánh, 01 pháp môn tu hành và 21 tổ chức Cao Đài hoạt
động độc lập được công nhận tổ chức tôn giáo (Xem phụ lục 2).
Tuy vậy, các Hội thánh Cao Đài hay pháp môn tu hành cùng các tổ chức Cao
Đài hoạt động độc lập đều hoạt động theo một giáo lý chung và có hệ thống thiết
chế tổ chức tương đối giống nhau. Vì thế, khi nghiên cứu cơ cấu thiết chế của đạo
Cao Đài chỉ cần phân tích cơ cấu tổ chức của một Hội thánh (Cao Đài Tây Ninh) là
có thể hình dung ra cơ cấu của các Hội thánh khác và của toàn bộ thiết chế tổ chức
đạo Cao Đài nói chung.
2.2.2. Thiết chế tổ chức và thực hành nghi lễ của đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài là một tôn giáo bản địa. Quá trình tồn tại, đạo Cao Đài đã xây
dựng hệ thống thiết chế tổ chức và các quy định thực hành nghi lễ phù hợp với đặc
điểm cư dân Nam Bộ. Trước đây có các quan điểm khác nhau về sự tồn tại của đạo
Cao Đài trong đó có quan điểm của Werner Jayne Susan cho rằng đạo Cao Đài là
một phong trào chính trị nông dân. Thực tế đã chứng minh, đạo Cao Đài không phải
là một tổ chức chính trị nông dân mà trở thành một thực thể tôn giáo với đầy đủ các
thành tố của một tôn giáo có: giáo lý, giáo luật, giáo lễ, giáo hội, giáo sỹ, giáo dân.
2.2.2.1. Giáo lý
Giáo lý là học thuyết về triết lý sống và thế giới quan, nhân sinh quan của tôn
giáo. Tôn chỉ của đạo Cao Đài là Tam giáo quy nguyên, Ngũ chi phục nhất. Tam
giáo quy nguyên là quy ba tôn giáo: Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo trở về cái gốc,
cái nguyên bản. Tinh thần dung hợp Tam giáo để thực hiện mục đích Thế đạo đại
đồng, Thiên đạo giải thoát và duy trì được bản sắc văn hóa của đạo Cao Đài. Ngũ
chi phục nhất tức là thống nhất năm ngành đạo thành một là Nhơn đạo, Thần đạo,
Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Đó là đường lối tu hành tuần tự như năm nấc thang
tu hành. Phục nhất có nghĩa là thống nhất thành một hệ thống bổ sung cho nhau,
hiệp thành đạo pháp nhất quán để đưa người tu đến mục đích giải khổ, đắc đạo. Đạo
Cao Đài xây dựng một nền giáo lý kế thừa tinh hoa của Tam giáo: "…đó là lòng
bình đẳng trước mọi tôn giáo, và khả năng tiếp thu, chuyển hóa Tam giáo cho hòa
hợp với văn hóa bản địa, tạo thành một tín ngưỡng tổng hợp trên đất nước Việt
Nam" [31, tr.87]. Vì vậy, đạo Cao Đài chủ trương tôn trọng tín ngưỡng của các tôn
49
giáo để cùng thực hiện chung giáo lý của một tôn giáo lớn nhằm giác ngộ nhân loại
toàn cầu.
Giáo lý của đạo Cao Đài xây dựng dựa trên hai nguyên lý căn bản là: Thiên
địa vạn vật đồng nhất thể: Trời đất vạn vật có cùng một bản thể và Nhất bản tán vạn
thù, vạn thù qui nhất bổn: Một gốc phân tán ra vạn hình thức (sai biệt), vạn hình
thức (sai biệt) quay về một gốc. Từ nguyên lý thứ nhất, giáo lý của đạo Cao Đài
quan niệm Trời và Người có cùng bản thể, có thể tương thông, tương ứng và hiệp
nhất được. Nên trong Thánh giáo của đạo Cao Đài được Thượng Đế dạy rằng:
"Thầy là các con, các con là Thầy" [43, tr.52]. Kế đến, chúng sinh cũng đồng bản
thể nên phải thương yêu nhau, nhất là giữa người với người xem nhau như anh em,
từ đó phải thực hiện mục đích đại đồng nhân loại. Từ nguyên lý thứ hai, giáo lý của
đạo Cao Đài quan niệm rằng vũ trụ là một trường tiến hóa có khởi điểm từ bản thể
Đại Linh quang, tức Thượng Đế, phóng phát các điểm linh quang tiềm tàng trong
vạn loại để tiến hóa từ khoáng sản, thảo mộc, thú cầm, đến con người. Rồi từ con
người đến các bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật để trở về hiệp nhất với Thượng Đế. Do
đó, cứu giúp con người là thực hiện sự tiến hóa để trở về với Thượng Đế, tức nguồn
gốc của mình mà cũng là của vũ trụ. Muốn thế con người phải biết tu công, lập đức
để hoàn hảo hóa bản thân đến chân, thiện, mỹ. Giáo lý Cao Đài gọi đó là "Phản bổn
hoàn nguyên". Đạo Cao Đài có giáo lý bao dung, coi nhân loại đều có một Đấng
Cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại đồng, lấy tình thương yêu để xóa
bỏ hận thù: "Thầy cấm các con từ đây nếu không đủ sức thương yêu nhau thì cũng
chẳng đặng ghét nhau, nghe à!" [41, tr.82].
Giáo lý đạo Cao Đài cho rằng con người được sinh ra từ hai nguồn gốc: một
là từ chân linh của các bậc Phật, Tiên, Thánh, Thần và chân linh do Diêu Trì Kim
Mẫu tạo thành cho xuống cõi trần để cứu độ chúng sinh theo hướng chân, thiện, mỹ;
hai là từ con người được chuyển kiếp từ các loài thảo mộc, cầm thú để thành người:
"Thảo mộc tấn hóa mãi, muôn vạn kiếp mới bước sang qua thú cầm thì từ thú cầm
đã đặng hai phần hồn. Thú cầm mới dần dần tấn hóa mãi, trăm, ngàn, muôn kiếp lên
đặng làm người thiệt là trăm đắng ngàn cay, muôn thảm vạn sầu,…" [17, tr.306]. Từ
hai nguồn được sinh ra, con người hiện diện tại cõi trần bằng tam thể (xác thể, thần
50
thể, hồn thể) tương ứng với tam bảo (tinh, khí, thần): "Thể thứ nhất mang ngươn
tinh, thể thứ hai mang ngươn khí, thể thứ ba mang ngươn thần. Tinh, Khí, Thần
được gọi là tam bửu của con người" [24, tr.155]. Trong hồn thể hay còn gọi là linh
hồn được phân ra thành tam hồn: linh hồn, giác hồn, sinh hồn. Sinh hồn là mong
muốn tồn tại; giác hồn là cảm giác, cảm nhận; linh hồn là trí tuệ, nhận thức. Tam
hồn có mối quan hệ mật thiết với nhau vì: "con người từ lúc thọ bẩm Thiên tính đến
khi cất lên tiếng khóc chào đời, bèn thọ địa khí mà sinh giác hồn, nên gọi là Thiên,
Địa, Nhơn đối chiếu với Tinh, Khí, Thần. Tức: Thiên = Thần = Linh hồn, Địa = Khí
= Giác hồn, Nhơn = Tinh = Sinh hồn" [142, tr.82]. Khi con người hội đủ thể chất và
tâm linh, giá trị con người được trải qua quá trình chuyển biến từ sinh học đến xã
hội học.
Tóm lại, giáo lý của đạo Cao Đài dạy con người sống trung thực, trong sáng,
biết thương yêu, đùm bọc nhau, tu hành để rèn luyện đạo đức, lối sống. Điều này,
thể hiện đạo Cao Đài có sự tiến bộ trong giáo lý, hướng con người đến sự hoàn
thiện, hoàn mỹ, tu hành để tự giải khổ cho bản thân, giải thoát cho mọi người nhằm
xây dựng một xã hội đại đồng, hoà bình, hạnh phúc. Điều đó đã làm sáng lại truyền
thống văn hoá của cư dân Nam Bộ, không có tinh thần phục cổ mà thích nghi với xã
hội đương thời. Giáo lý đạo Cao Đài biết tích hợp, kế thừa các giáo lý của các tôn
giáo có trước nên có ít điều mới.
2.2.2.2. Giáo luật
Giáo luật là những quy định, điều lệ và điều cấm của tôn giáo. Những người
sáng lập đạo Cao Đài đã xây dựng các văn bản quy định về luật lệ để áp dùng trong
chức sắc, tín đồ thực hiện, nhằm hoạt động theo đúng khuôn khổ, quy định của tôn
giáo. Giáo luật cơ bản của đạo Cao Đài được quy định tại Thánh ngôn hiệp tuyển,
Tân luật, Pháp Chánh truyền.
Các quy định không được làm của người tín đồ đạo Cao Đài được thể hiện
qua "Ngũ giới cấm" là 5 điều cấm người đạo Cao Đài không được vi phạm: thứ nhất
là cấm sát sinh, không sát hại sinh vật từ thảo mộc, côn trùng, cầm thú đến con
người; thứ hai là cấm trộm cắp, lừa gạt người; thứ ba là cấm tà dâm, lấy vợ người,
loạn luân, tà sắc; thứ tư là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ; thứ năm là cấm
51
xảo trá, láo xược, lỗ mãng thô tục. Đồng thời, đạo Cao Đài quy định người tín đồ
bắt buộc phải thực hiện theo "Tứ đại điều quy" để rèn luyện đạo đức tu hành: Một là
phải tuân theo lời dạy của bề trên; hai là không được khoe tài, kiêu ngạo; ba là tiền
bạc phải rõ ràng, phân minh; bốn là phải trung thực, thủy chung.
Kinh Ngọc Đế chơn truyền Tân ước tri nguyên của Cao Đài Bạch Y còn có
mười điều cấm là: cấm sát sanh; cấm dâm dục; cấm trộm cướp; cấm khoe khoang,
vọng ngữ; đừng để mình đụng đàn bà, con gái; đừng ở chung với đàn bà, con gái
nơi chỗ kín hay là một phòng, hoặc nói chuyện khích nhau hoặc đi chung một
đường; cấm không được dấu lỗi mình hoặc bày tội người, hoặc đem chuyện xấu của
người ra nói; cấm không được bênh vực người có lỗi hoặc là bà con thân thích có
lỗi, mình kiếm chước chữa lỗi; cấm không được đi theo người có tội có lỗi, hoặc
người tham lam gian xảo; cấm không được ăn uống không chừng mực, hoặc la ó,
nói chuyện lỗ mãng, lớn tiếng hoặc đi mau, chạy giỡn, làm cho mất vẻ trật tự của
đạo [66, tr.28].
Chức sắc đạo Cao Đài được quy định về số lượng cho 6 cấp từ phẩm Giáo hữu
đến Giáo tông, tổng số là 3.115 người (Giáo tông 01, Chưởng pháp 03, Đầu sư 03,
Phối sư 36, Giáo sư 72, Giáo hữu 3.000). Riêng phẩm Lễ sanh và chức sắc nữ phái
không giới hạn số lượng. Chức sắc phẩm Giáo tông và Đầu sư có quyền lập luật,
phẩm Đầu sư có quyền thay đổi luật, phẩm Giáo sư và Giáo hữu có quyền xin chế
giảm luật lệ. Chức sắc đạo Cao Đài từ phẩm Giáo hữu trở lên ăn trường trai và xuất
gia hành đạo tại cơ sở thờ tự.
Tín đồ đạo Cao Đài bắt buộc phải ăn chay mỗi tháng 10 ngày (có phái quy định
6 ngày), cúng tứ thời và đến cơ sở thờ tự của Đạo (Tòa thánh, Thánh thất, Thánh
tịnh,…) hành lễ vào ngày mùng Một và ngày Rằm/Âm lịch hằng tháng. Quy định
trong giáo luật của đạo Cao Đài thể hiện sự rõ ràng và văn minh nhằm trang bị cho
người tín đồ đạo Cao Đài đạo đức tu hành như "bộ thiết giáp" để phòng ngừa mọi
cám dỗ của cuộc sống: "…, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy
hăng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc
một bộ thiết giáp; chúng nó chẳng hề thấy đặng, là đạo đức của các con" [43, tr.17].
Điều này khẳng định việc tu hành của đạo Cao Đài chú trọng rèn luyện đạo đức của
52
con người trên tinh thần tiến bộ khuyến khích tu dưỡng bản thân và đối phó với
những khó khăn, thử thách trong cuộc sống.
Nhìn chung, giáo luật của đạo Cao Đài quy định khá chặt chẽ trong hoạt
động của cá nhân và tập thể. Đối với tập thể có sự giám sát giữa các cơ quan đạo, có
cơ chế phải thống nhất trong hoạt động tôn giáo và tuân thủ theo quy định của giáo
quyền. Đối với cá nhân có quy định cụ thể thực hiện việc tu hành như ăn chay, đạo
phục, tu dưỡng, truyền đạo và những điều bắt buộc trong nếp sống đạo, những điều
cấm không được vi phạm. Quy định bắt buộc phải ăn chay, thực hiện Ngũ giới cấm,
Tứ đại điều quy làm cho người muốn vào đạo bị hạn chế về số lượng, cản trở sự
thích nghi của tôn giáo trong xã hội hiện đại nhưng đồng thời các quy định này
cũng giúp tín đồ đạo Cao Đài vươn tới chân giá trị của cuộc sống.
2.2.2.3. Giáo lễ
Giáo lễ là những quy định về nghi thức, nghi lễ thờ cúng, sự tôn kính của
người tín đồ đối với các lực lượng siêu nhiên theo quan niệm của tôn giáo. I.Eibl
Eibesfeldt cho rằng nghi lễ có các chức năng: một là, cố kết tạo ra những liên hệ
hữu ái hợp tác; hai là, hệ thống văn hóa (xã hội) kìm hãm tính gây hấn; ba là, nghi
lễ gắn liền với khát vọng của con người muốn chiến thắng sự sợ hãi trước những
hiện tượng không hiểu được, không giải thích được của thế giới xung quanh; bốn là,
kìm giữ và trấn an trong những quan hệ liên cá nhân, trung hòa hóa sự gây hấn giữa
cá nhân với nhau; năm là, củng cố tính tổ chức [1, tr.312-315]. Nghi lễ có nhiều
công dụng đối với tín đồ của một tôn giáo.
Nghi thức thờ phụng của đạo Cao Đài mang tính tích hợp của các tôn giáo.
Cơ cấu của điện thờ đạo Cao Đài: trung tâm của điện thờ là thánh tượng Thiên
nhãn, biểu tượng thiêng liêng nhất của đạo Cao Đài, tượng trưng cho Ông Trời, hay
Ngọc Hoàng Thượng Đế. Dưới Thiên nhãn thờ giáo chủ của Tam giáo, Tam trấn,
Thánh đạo và Thần đạo. Biểu hiện cụ thể:
Ở Toà thánh nơi Bát Quái đài thờ một quả Càn khôn, chính giữa nhìn ra có
tượng hình Thiên nhãn và chung quanh có 3.072 ngôi tinh tú. Trong ruột quả Càn
khôn có ngọn đèn Thái cực. Trước Thiên nhãn có năm cấp, chia ra cấp thứ nhất thờ
hình Tam giáo Giáo chủ; cấp thứ ba thờ hình Gia Tô Giáo chủ (Thánh Đạo); cấp thứ
53
tư thờ hình Khương Thái Công (Thần Đạo). Cấp thứ năm thờ ngôi Giáo tông tượng
trưng cho Nhân Đạo. Trong Cửu Trùng đài thì căn thứ nhất (ở trong nhìn ra) có bảy
cái ngai, để trên cái bệ có ba cấp, cấp thứ nhất để ngai vị Giáo tông, cấp thứ hai để
ba cái ngai ba vị Chưởng pháp, cấp thứ ba để ba cái ngai ba vị Đầu sư. Bên tay trái
(trong nhìn ra) nơi Bát Quái đài, có bàn thờ Quan Thánh Đế Quân, bên tay mặt có
bàn thờ Quan Âm Bồ Tát.
Thánh thất cũng giống như ở Tòa thánh, nhưng không có quả Càn khôn và
bảy cái ngai, ba ngôi Hộ pháp, Thượng sanh, Thượng phẩm; không có bệ Thập nhị
Thời quân và bàn thờ Thượng Đế nơi Hiệp Thiên đài cùng huyền cơ. Nơi bàn thờ
Hộ pháp thì thờ chữ phù "Giáng Ma Xử" (chữ KHÍ) và hai bên cũng treo hai cây
phướn: Thượng phẩm và Thượng sanh. Bên trong thay cho quả Càn khôn là Thánh
tượng Thiên nhãn.
Nhà tư thờ Thánh tượng và bài vị Tam trấn, kế đó là đèn Thái cực, hai bên là
bình hoa, đĩa trái cây, chính giữa để rượu trà, ngoài lư hương, hai bên hai ngọn đèn.
Trong các đàn lễ, đạo Cao Đài sử dụng nhạc lễ để giáo dục con người sống
hiền hoà qua giai điệu của các nhạc cụ dân tộc như đàn cò, đàn bầu, đàn kìm, trống,
chuông, mõ,… Việc sử dụng nhạc trong nghi lễ của đạo Cao Đài tạo ra nét tươi mới
và hòa hợp: "..., nghi lễ giúp đoàn kết ý chí, điều khiển hành động, hòa hợp tâm hồn
và dẫn tới cân bằng sức mạnh vật chất cũng như cân bằng các thế lực trong xã hội"
[90, tr.121]. Kinh của đạo Cao Đài được đọc giọng nam xuân, nam ai theo truyền
thống dân tộc nên gần gũi, dễ đọc.
Lễ phẩm của đạo Cao Đài dùng đồ chay là sản phẩm có nguồn gốc thực vật
và chế biến từ thực vật (trái cây, bánh kẹo, hoa, trà, rượu,…). Khi hành lễ tại cơ sở
thờ tự (Toà thánh, Thánh thất), chức sắc nam phái Cửu Trùng đài của đạo Cao Đài
mặc áo Thiên phục theo 3 phái (phái Thượng mặc áo màu xanh, phái Ngọc mặc áo
màu đỏ, phái Thái mặc áo màu vàng); chức sắc Hiệp Thiên đài và nữ phái mặc áo
màu trắng.
Nghi lễ của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài thực hiện gần giống nghi thức của
tín ngưỡng dân gian Nam Bộ. Đối với người sống thì lạy hai lạy; lạy người chết bốn
lạy; lạy Thần Thánh 3 lạy; lạy Tiên Phật 9 lạy; lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế 12 lạy.
54
Khi lạy Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thần, Thánh, Tiên, Phật thì tay bắt ấn tý. Tay bắt
ấn tý có nghĩa là bàn tay trái nắm lại, đầu ngón cái bàn tay trái đặt phía dưới ngón
áp út bàn tay trái. Bàn tay phải ôm nắm tay bàn tay trái. Đầu ngón cái bàn tay phải
đặt phía dưới ngón trỏ bàn tay trái. Lúc lạy, hai bàn tay xoè ra, úp xuống đất, ngón
cái bàn tay mặt gác chéo lên ngón cái bàn tay trái.
Giáo lễ của đạo Cao Đài tương đối cầu kỳ, bằng việc thờ phụng Ngọc Hoàng
Thượng Đế cùng các giáo chủ của Tam giáo, Tam trấn, khi hành lễ có sử dụng nhạc
lễ và kế thừa hình thức thờ cúng của tín ngưỡng dân gian để thực hiện các nghi thức
cúng lễ.
2.2.2.4. Giáo hội
Tổ chức giáo hội được quy định trong Tân luật, Pháp Chánh truyền của đạo
Cao Đài. Ở cấp trung ương Hội thánh có Toà thánh là nơi hoạt động của chức sắc
lãnh đạo giáo hội. Về mặt tổ chức cấp Hội thánh có 3 Đài gồm: Bát Quái đài, Cửu
Trùng đài và Hiệp Thiên đài: "Nếu xét về phương diện pháp luật thì Bát Quái đài là cơ
quan lập pháp, Cửu Trùng đài là cơ quan hành pháp và Hiệp Thiên đài là cơ quan tư
pháp". Ba Đài của đạo Cao Đài được quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ.
Bát Quái đài của đạo Cao Đài thuộc phần vô hình, do Ngọc Hoàng Thượng
Đế làm chưởng quản gồm các giáo chủ của Tam giáo và Ngũ chi, Tam Trấn Oai
Nghiêm được thờ tại Bửu điện nơi Toà thánh. Bát Quái đài có nhiệm vụ là cơ quan
lập pháp, điều hành hoạt động của đạo Cao Đài thông qua hình thức cơ bút nơi Hiệp
Thiên đài. Hiện nay, Bát Quái đài không còn chức năng lập pháp do đã ngừng sử
dụng cơ bút từ năm 1927, đồng thời công việc điều hành hoạt động Đạo do hai Đài:
Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài thực hiện.
Hiệp Thiên đài là cơ quan tư pháp của đạo Cao Đài, do chức sắc phẩm Hộ
pháp đứng đầu. Hiệp Thiên đài có 2 nhiệm vụ: làm cơ quan trung gian giữa Bát
Quái đài và Cửu Trùng đài thông qua cơ bút và làm cơ quan bảo vệ pháp luật của
Đạo. Cơ quan Hiệp Thiên đài có 3 Chi: Chi Pháp, Chi Đạo và Chi Thế. Chi Pháp do
chức sắc phẩm Hộ pháp phụ trách; Chi Đạo do chức sắc phẩm Thượng phẩm phụ
trách; Chi Thế do chức sắc phẩm Thượng sanh phụ trách. Dưới phẩm Hộ pháp,
Thượng phẩm, Thượng sanh là chức sắc phẩm Thập nhị Thời quân (12 vị Thời
55
quân). Hiện nay, Hiệp Thiên đài hoạt động với nhiệm vụ là cơ quan bảo vệ pháp
luật của đạo Cao Đài, giám sát hoạt động của cơ quan Cửu Trùng đài.
Cửu Trùng đài là cơ quan hành pháp của đạo Cao Đài, thực hiện các nhiệm
vụ truyền đạo, hành đạo, tổ chức thực hiện công việc đạo và giáo hóa nhân sinh tu
hành. Cửu Trùng đài ở Hội thánh gồm có các cơ quan Cửu viện nam phái, Cửu viện
nữ phái và các cơ quan giúp việc cho chức sắc phẩm Giáo tông, Chưởng pháp và
Đầu sư. Chức sắc cơ quan Cửu Trùng đài có 9 phẩm, đứng đầu là phẩm Giáo tông.
Chức sắc mỗi phái có quyền hành riêng biệt. Chức sắc nữ phái có phẩm cao nhất là
Đầu sư. Chức sắc bên nam phái được chia làm 3 phái: Thái, Thượng, Ngọc. Cửu
viện nam phái dưới quyền phụ trách trực tiếp của các chức sắc phẩm Chánh Phối
sư. Tổ chức hành chính Cửu Trùng đài nữ phái cũng có 9 Viện như nam phái,
nhưng nữ phái chỉ có một vị nữ Chánh Phối sư. Tuy phân chia thành ba Đài khác
nhau nhưng cả ba Đài đều có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ và bổ sung cho nhau: "1.
Bát Quái đài (tượng trưng linh hồn). 2. Cửu Trùng đài (tượng trưng hình thể). 3.
Hiệp Thiên đài (tượng trưng chơn thần). Trời có Nhựt, Nguyệt, Tinh. Đất có Thủy,
Hỏa, Phong. Người thì có Tinh, Khí, Thần. Đạo thì có Tam giáo: Phật, Thánh, Tiên.
Ba đài hiệp một thành hình thể mới có sự khôn ngoan và sáng suốt được" [35, tr.3].
Việc chia thành ba Đài nhưng thực chất có sự thống nhất trong một chỉnh thể tôn
giáo, giữa các Đài có sự gắn kết như một bộ phận không thể tách rời.
Tổ chức hành chính cấp địa phương của đạo Cao Đài có 4 cấp gồm: Trấn
đạo, Châu đạo, Tộc đạo và Hương Đạo. Trấn đạo là khu vực địa lý được giao phụ
trách nhiều tỉnh, thành phố có đạo Cao Đài do chức sắc phẩm Giáo sư đảm nhiệm
gọi là Khâm Trấn đạo. Châu đạo là địa bàn một tỉnh, thành phố có đạo Cao Đài do
chức sắc phẩm Giáo hội đảm nhiệm gọi là Khâm Châu đạo. Tộc đạo là địa bàn một
huyện, quận thuộc tỉnh, thành phố do phẩm Lễ sanh đảm nhiệm gọi là Đầu Tộc đạo.
Hương đạo là địa bàn hành chính của một xã, phường do phẩm Chánh Trị sự đảm
nhiệm được các chức việc Bàn Trị sự Hương đạo bầu lên gọi là Đầu Hương đạo.
Tộc đạo là cấp cơ sở của đạo Cao Đài hay còn gọi là Họ đạo. Mỗi Tộc đạo
có một Thánh thất để thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và quy tụ tín đồ tổ chức sinh
hoạt tôn giáo. Về tổ chức hành chính, Tộc đạo có văn phòng giúp việc Đầu Tộc đạo
56
do Đầu Phòng văn đảm nhiệm, nếu không có Đầu Phòng văn thì cử một Thư ký
giúp việc Đầu Tộc đạo. Mỗi Tộc đạo hay Thánh thất có Ban Tứ vụ để điều hành
việc đạo. Ban Tứ vụ gồm 4 vụ: Hộ vụ, Lễ vụ, Lương vụ, Công vụ.
Thực tế hiện nay, tổ chức hành chính của đạo Cao Đài có một số thay đổi.
Cấp Trung ương giáo hội tại Toà thánh có cơ quan Thượng hội và Ban Thường trực
Hội thánh (hoặc Thường trực, Hội đồng Chưởng quản, Ban Điều hành) cùng cơ
quan Cửu viện nam nữ và các cơ quan giúp việc Hội thánh tại Toà thánh. Cấp địa
phương không còn Trấn đạo và Hương đạo. Châu đạo được gọi là Ban Đại diện Hội
thánh hoạt động trên địa bàn một tỉnh, thành phố có nhiệm vụ hướng dẫn Ban Cai quản
các Họ đạo trên địa bàn phụ trách hoạt động theo Hiến chương, luật đạo của Hội thánh.
Đứng đầu Ban Đại diện Hội thánh ở tỉnh, thành phố là Trưởng Ban Đại diện. Tộc đạo
được gọi là Họ đạo hoạt động trong phạm vi Thánh thất có Ban Cai quản phụ trách.
Đứng đầu Ban Cai quản là Cai quản, có Phó Cai quản và Thư ký hoạt động theo nhiệm
kỳ 3 năm. Ngoài ra, Họ đạo còn có bộ phận Tứ vụ giúp việc Ban Cai quản và các
thành viên Chánh Trị sự, Phó Trị sự, Thông sự cùng Ban Nghi lễ.
Đặc điểm tổ chức giáo hội của đạo Cao Đài được xây dựng, thiết chế có 5
cấp hành chính: Trung ương, vùng, tỉnh, huyện, xã. Các cấp hành chính trong đạo
Cao Đài có giáo quyền rõ ràng được quy định cụ thể bằng điều luật tạo điều kiện
cho chức sắc, tín đồ thực hiện. Đến nay, đạo Cao Đài không còn duy trì tổ chức
giáo hội như quy định mà thay đổi tổ chức giáo hội để phù hợp với sự phát triển của
xã hội hiện đại. Mặc dù vậy, về cơ bản tổ chức giáo hội của đạo Cao Đài vẫn giữ
được các yếu tố cần thiết, mô hình tổ chức ở cấp trung ương và cơ sở được giữ
nguyên đảm bảo cho hoạt động của giáo hội được thuận lợi. Tuy nhiên, tổ chức giáo
hội của đạo Cao Đài do năng lực tầng lớp giáo sỹ chưa đáp ứng được yêu cầu về
chất lượng và tổ chức điều hành giáo hội dẫn đến những lúng túng trong quản lý,
xảy ra nhiều vấn đề bất cập trong hoạt động hiện nay.
2.2.2.5. Giáo sỹ
Đạo Cao Đài quan niệm giáo sỹ là người tín đồ của tôn giáo được huấn luyện
để trở thành những chức sắc đi truyền đạo. Trong đạo Cao Đài, thành phần giáo sỹ
có chức sắc, chức việc. Chức sắc là người có chức vụ, đóng vai trò quan trọng trong
57
việc quản lý, điều hành công việc đạo theo tôn chỉ, mục đích của đạo Cao Đài.
Chức sắc còn đại diện cho tập thể tín đồ chịu trách nhiệm về hoạt động của tôn giáo
đối với xã hội. Thành phần giáo sỹ của đạo Cao Đài khá đa dạng gồm chức sắc hai
đài (Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài), hai phái (nam, nữ) và chức sắc Phước thiện.
Trước đây, phẩm trật chức sắc của đạo Cao Đài được thực hiện bằng hình
thức thiên phong sử dụng cơ bút để phong phẩm, phong chức cho giáo sỹ. Hiện nay,
đạo Cao Đài thực hiện phong phẩm, phong chức cho giáo sỹ bằng hình thức công
cử. Theo quy định của đạo Cao Đài, chức sắc có nhiệm vụ truyền bá chân lý đạo,
dìu dắt nhân sinh và nêu gương đạo đức cho nhân sinh noi theo. Chức sắc phải thực
hiện trường trai, tuyệt dục để râu tóc, có tâm sáng và hành đạo cứu độ nhân sinh.
Tân luật, Pháp Chánh truyền quy định cụ thể về hệ thống tổ chức và phẩm trật chức
sắc của đạo Cao Đài.
Hàng giáo phẩm Cửu Trùng đài chia các phẩm thành ba thành phần: thành
phần lãnh đạo tại Tòa thánh có 7 vị là Giáo tông, 3 vị Chưởng pháp, 3 vị Đầu sư;
thành phần điều hành có 36 Phối sư trong đó có 3 vị Chánh Phối sư; thành phần
thực hành tại địa phương trực tiếp hành đạo ở cơ sở có vô số từ chức việc đến phẩm
Giáo sư. Chức sắc giáo phẩm Cửu Trùng đài đều có thánh danh (Khi tín đồ đạo Cao
Đài được phong phẩm vào hàng chức sắc Cửu Trùng đài sẽ được ban một tên
thánh): nam phái có 3 chữ, chữ đầu chỉ tên phái (Thái, Thượng, Ngọc), chữ đệm ở
giữa là tên trong khai sinh, chữ cuối là tịch đạo đời Giáo tông thứ nhất dùng chữ
Thanh; nữ phái có 2 chữ, chữ đầu là tịch đạo đời Giáo tông thứ nhất dùng chữ
Hương, chữ cuối là tên trong khai sinh: "Hiện nay thì Giáo tông thiêng liêng của
đạo là Đức Lý Thái Bạch nên tất cả chức sắc Cửu Trùng đài nam nữ dưới quyền
Ngài đều phải lấy tịch đạo là Thanh (nếu nam phái) và Hương (nếu nữ phái)".
Thời kỳ đầu thành lập, các chức sắc đứng đầu giáo hội đa phần là người có
trình độ học vấn, địa vị trong xã hội: "Đạo Cao Đài ra đời xuất phát từ ý tưởng và
quá trình vận động của một số nhân vật mà thành phần xuất thân là tầng lớp quan
lại, địa chủ, tiểu tư sản (theo thống kê: 39% là địa chủ, 37% là tiểu tư sản, 8% là
cường hào, 16% là các nhân vật hoạt động tôn giáo)" [33, tr.8]. Về sau này, chức
sắc đạo Cao Đài chủ yếu là thành phần nông dân. Khi tham gia đạo Cao Đài,
58
người nông dân phát huy đức tính cần cù, chăm chỉ và rèn luyện đạo đức con
người hoà hợp với cộng đồng xã hội. Việc học tập, nghiên cứu giáo lý Cao Đài
đối với họ là một trở ngại không nhỏ nên có ít người hiểu sâu sắc về giáo lý của
đạo. Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo sỹ Cao Đài. Tuy nhiên, người
đạo Cao Đài vẫn luôn coi trọng hàng giáo phẩm của mình và tin rằng: "hàng giáo
phẩm Cao Đài trong tương lai nhân loại có thể là một tập họp các giáo phẩm tôn
giáo thế giới,…" [123, tr.92].
Đạo Cao Đài ban đầu là một giáo hội thống nhất sau đó chia rẽ thành nhiều
phái khác nhau. Mỗi phái Cao Đài xây dựng hệ thống tổ chức giáo hội riêng, dẫn
đến việc chênh lệch về phẩm trật, trình độ của chức sắc. Nhưng nhìn chung, các Hội
thánh Cao Đài vẫn duy trì hệ thống tổ chức và phẩm trật chức sắc theo quy định của
Tân luật, Pháp Chánh truyền. Tổ chức giáo sỹ của đạo Cao Đài đa dạng, thiết chế
chặt chẽ và tương đối phức tạp. Từng phẩm trật giáo sỹ trong đạo Cao Đài được quy
định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm rõ ràng. Hoạt động giáo sỹ có sự giám sát lẫn
nhau giữa chức sắc Cửu Trùng đài và chức sắc Hiệp Thiên đài, đảm bảo dân chủ
trong điều hành và phương thức hoạt động. Do có nhiều thành phần giáo sỹ cũng
dẫn đến sự chồng chéo, cồng kềnh của tổ chức làm hạn chế trong sinh hoạt, điều
hành, tổ chức thực hiện.
2.2.2.6. Giáo dân
Từ điển Cao Đài của Đức Nguyên cho rằng: "giáo là truyền dạy, dân là dân
chúng, nhơn sanh" [102, tr.55]. Giáo dân có nghĩa là dạy bảo nhân sinh, dạy bảo tín
đồ. Thiên Chúa giáo coi giáo dân là người dân theo đạo Thiên Chúa. Đạo Cao Đài
coi người dân theo Đạo là tín đồ. Như vậy, theo quan niệm của đạo Cao Đài giáo
dân được hiểu là tín đồ.
Trước khi trở thành tín đồ của đạo Cao Đài, người muốn vào Đạo phải có hai
người trong Đạo, có đạo đức tiến dẫn với người đứng đầu tại Họ đạo. Hai người tiến
dẫn này phải có trách niệm chỉ bảo, dìu dắt người muốn vào Đạo hiểu biết về giáo
lý, giáo luật cho đến khi thông hiểu và thuộc kinh sách. Khi người muốn vào Đạo
đủ điều kiện làm lễ nhập môn và đọc lời minh thệ trước Ngọc Hoàng Thượng Đế
mới chính thức trở thành tín đồ của đạo Cao Đài.
59
Đạo Cao Đài quy định, tín đồ là người từ 18 tuổi trở lên đã làm lễ nhập môn
vào đạo Cao Đài. Trong hàng tín đồ có hai bậc: bậc hạ thừa là người có vợ chồng,
ăn chay 6 hoặc 10 ngày, thực hiện Ngũ giới cấm, tuân thủ Thế luật của đạo Cao
Đài, tín đồ ăn chay 10 ngày trở lên được thọ truyền bửu pháp, được vào tịnh thất có
người chỉ luyện Đạo; bậc thượng thừa là người xuất gia tu hành, không ở với vợ
chồng, ăn chay trường, giữ giới luật, thực hiện Tứ đại điều quy, bắt buộc để râu tóc,
trang phục phải mặc toàn đồ vải màu trắng, không được xa xỉ.
Cao Đài Tây Ninh quy định tín đồ đến công quả hoặc hiến thân tại Tòa
thánh, định kỳ trong 5 tháng trở lại phải biết cách cúng lạy, thuộc kinh Cúng Tứ
thời và Sám hối. Ở trên 8 tháng phải hiểu Tân luật, Pháp Chánh truyền chú giải và
nghi tiết Đại đàn, Tiểu đàn. Trang phục của tín đồ đạo Cao Đài khi hành lễ là bộ
tiểu phục, quần áo dài truyền thống màu trắng. Nam mặc áo dài trắng, quần trắng,
đội khăn đóng màu đen. Nữ áo dài trắng, quần trắng, đội "lúp" màu trắng.
Khi trở thành tín đồ đạo Cao Đài phải thực hiện theo Thế luật, coi nhau như
"con một Cha", phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau, lấy lòng thành thật mà đối đãi
với nhau, dìu dắt nhau trên đường Đạo và đường Đời. Nhập môn rồi phải quên
những việc oán thù khi trước, không được ghen ghét, tranh đua, kiện cáo, phải nhẫn
nhịn và hòa thuận với nhau. Nếu có điều chi xích mích phải vui nghe người làm đầu
trong Họ đạo phân giải. Nam giữ Tam cang (quân vi thần cang, phụ vi tử cang, phu
vi thê cang), Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Nữ giữ Tam tùng (tùng phụ, tùng
phu, phu tử tùng tử), Tứ đức (công, dung, ngôn, hạnh). Khi giao thiệp với xã hội, tín
đồ đạo Cao Đài phải biết dung hòa, lấy hạnh đức để kính nhường lời nói, việc làm,
nâng đỡ người tùy theo công việc. Trong hàng tín đồ với nhau phải giữ tình đồng
đạo khăng khít, gắn bó nhất là mỗi khi gia đình người Đạo có việc tang, việc hôn lễ
cần giúp đỡ nhau.
Tín đồ đạo Cao Đài xác định hành đạo để phụng sự dân sinh, nâng cao dân
trí, hoàn thành dân đức. Phụng sự dân sinh là xây dựng tinh thần đạo đức coi nhau
như anh em trong một gia đình, cùng cha, cùng Thầy để chăm lo phước thiện cho
cuộc sống của người dân. Nâng cao dân trí là giúp nhân sinh được học hành, hiểu
biết trong đời sống vật chất, không mê muội, tu hành, rèn luyện trở thành người có
60
trí tuệ. Hoàn thành dân đức là xây dựng tình thương yêu trong nhân sinh, tu tâm,
sửa tính, rèn luyện con người đạo đức trong sáng, chí nhân, chí thiện: "Dân sinh,
dân trí, dân đức là nền tảng để con người có một lẽ sống đạo thuần nhiên, có công
đức mà thực hiện tôn chỉ Đại Đạo - một trong những chặng đường tiến hóa của
nhân loại" [142, tr.179].
Giáo dân hay tín đồ của đạo Cao Đài khi nhập môn vào Đạo phần nhiều chưa
qua các trường lớp đào tạo về tôn giáo nên được coi là người giữ Đạo. Tín đồ đạo
Cao Đài sau khi vào Đạo được học tập, chỉ bảo về giáo lý, giáo luật, các nghi lễ,
sinh hoạt trong đạo để từ đó xác định đường lối tu hành của bản thân.
Tiểu kết chƣơng 2
Đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh xã hội, vùng đất và con người Nam Bộ
đặt ra nhu cầu về đời sống tâm linh. Trong điều kiện môi trường và xã hội ở Nam
Bộ, những cư dân mới đến khẩn hoang, hòa hợp cùng cư dân bản địa để xây dựng
đời sống xã hội. Tại đây, các di dân người Việt đã đem tới cho cộng đồng cư dân ở
Nam Bộ kinh nghiệm trồng lúa nước và phát triển nông nghiệp. Các tộc người khác
như người Hoa, người Chăm cũng phát huy vai trò tham gia xây dựng vùng đất
Nam Bộ trở thành vựa lúa lớn của đất nước. Đặc điểm về cư dân, địa lý, văn hóa, xã
hội tạo ra đặc trưng riêng của vùng đất Nam Bộ không lẫn với vùng đất khác và trở
thành yếu tố quan trọng hình thành đạo Cao Đài. Cùng với sự phát triển về đời sống
xã hội, cư dân Nam Bộ có nhu cầu cao về tín ngưỡng, tôn giáo.
Việc xuất hiện đạo Cao Đài có yếu tố của môi trường địa lý, môi trường xã
hội ở Nam Bộ và góp phần quan trọng là tầng lớp sáng lập. Những chức sắc sáng
lập đạo Cao Đài đa phần là tầng lớp trên trong xã hội đã biết tranh thủ thời cơ và
chính sách của chính quyền thực dân Pháp đối với tôn giáo để thành lập đạo Cao
Đài. Quá trình hoạt động, đạo Cao Đài có đặc điểm chia rẽ về tổ chức, từ một tổ
chức tôn giáo thống nhất có Tòa thánh ở Tây Ninh trở thành nhiều phái Cao Đài,
hoạt động độc lập không phụ thuộc nhau. Mặc dù vậy, đa số các phái Cao Đài đều
thực hiện theo quy định của giáo luật lúc ban đầu. Đạo Cao Đài có hệ thống giáo lý,
giáo luật, giáo lễ, tổ chức giáo hội, hoạt động tôn giáo phong phú, thiết chế chặt chẽ
61
tạo nên một kiểu văn hóa đặc thù của người dân Nam Bộ. Văn hóa đạo Cao Đài phù
hợp với tâm thức của cư dân Nam Bộ trong nghi thức thờ phụng, trong sinh hoạt tôn
giáo, trong nếp sống đạo nên đã thu hút đông đảo tín đồ tin theo. Từ đó thấy được
giá trị văn hóa của đạo Cao Đài qua tín ngưỡng, tổ chức, hoạt động tôn giáo và ý
nghĩa của tôn giáo đối với xã hội. Vấn đề này là trung tâm nghiên cứu của luận án
sẽ được trình bày ở hai chương tiếp theo.
62
Chƣơng 3
NHẬN DIỆN CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
Trên cơ sở lý thuyết giá trị và quan điểm của các nhà khoa học, nhà nghiên
cứu tôn giáo, giá trị văn hóa của đạo Cao Đài được nhận diện dưới ba góc độ: giá trị
nhận thức, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ. Trong chương này, luận án sẽ khái
quát một số giá trị cơ bản của đạo Cao Đài.
3.1. GIÁ TRỊ NHẬN THỨC
3.1.1. Giá trị tri thức
Đạo Cao Đài đã tạo ra môi trường cho tín đồ được hiểu biết, khám phá về thế
giới xung quanh, về con người, về xã hội. Tri thứclà yếu tố cần thiết của con người
để tham gia các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đạo Cao Đài trang bị cho tín đồ
những tri thức về vũ trụ quan, nhân sinh quan, xã hội quan và góp phần nâng cao
dân trí.
3.1.1.1. Nhận thức về vũ trụ quan, nhân sinh quan, xã hội quan
Quan niệm về thế giới quan của đạo Cao Đài cho rằng, vũ trụ có hai phần:
hữu hình và vô hình. Phần vô hình rất quan trọng vì nó điều khiển toàn bộ các hoạt
động của phần hữu hình. Phần vô hình ở trung tâm của vũ trụ. Phần hữu hình ở bên
ngoài phần vô hình luôn chuyển động xoay tròn và liên tục, không ngừng. Phần vô
hình gồm có tam thập lục thiên (36 từng trời), thập nhị thiên (12 từng trời), 2 tứ đại
bộ châu Thượng và Hạ. Phần hữu hình có 3.072 ngôi sao, chia ra: tam thiên thế giới
(3.000 thế giới) ở bên trên, thất thập nhị địa (72 địa cầu) ở bên dưới. Trong không
gian bao la vô tận, càn khôn vũ trụ của Ngọc Hoàng Thượng Đế là một khối cầu lớn
vĩ đại, trong đó chứa 3.072 ngôi sao. Phần hữu hình của vũ trụ được tượng trưng bằng
quả càn khôn được thờ nơi Bát Quái đài tại Tòa Thánh Tây Ninh. Để điều khiển sự
chuyển động của các tinh cầu và địa cầu, cũng như điều khiển sự tiến hóa của càn khôn
vũ trụ, Ngọc Hoàng Thượng Đế lập ra một bộ máy vô hình, gồm nhiều cơ quan là các
tầng Trời và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật để giúp Thượng Đế. Huệ Minh cho
rằng: "Giáo lý Cao Đài ở trong tất cả mọi kiến giải phản ánh được chân lý và phụng sự
được chân hạnh phúc của con người một cách trung thực và toàn vẹn" [92, tr.85].
63
Đạo Cao Đài quan niệm thế giới được tạo thành từ khí hư vô gọi là vô cực.
Trong vô cực lại có một cái lý thiên nhiên diệu huyền và một nguyên khí tự nhiên.
Lý và Khí ấy ngưng kết với nhau, đông tụ lâu đời qua thời gian trở thành một khối
Đại Linh quang. Từ đây, vũ trụ có ngôi Thái cực toàn năng thiên biến vạn hóa để
quy tụ khí hư vô hóa sinh thế giới muôn loài, vạn vật. Vũ trụ biến sinh là hệ thống
Âm Dương - Thái cực và Thái cực - Âm Dương vận hành trong bản thể vô cực.
Như vậy, vạn vật đều nhất thể từ khí hư vô và có cùng một gốc từ Thái cực sinh ra:
"Điểm linh quang là gì? Là cái yến sáng mà thôi. Thái cực là một khối Đại Linh
quang chia ra, ban cho mọi người một điểm Tiểu Linh quang khi đầu thai làm
người. Đến chết điểm linh quang ấy quay về hiệp nhứt với Đại Linh quang" [17,
tr.300]. Vũ trụ có nguyên lý vận hành là vạn vật được sinh ra và có tiến hóa, sự tiến
hóa theo một vòng tròn để trở về nguồn gốc ban đầu, trở nên hoàn thiện tuyệt đối.
Đạo Cao Đài quan niệm Đạo lập ra là để cứu cứu rỗi nhân sinh, Thượng Đế
mở ra con đường cho nhân sinh trở về với Thượng Đế. Con đường đó mở đầu ngay
tại bản thân con người và kết quả sẽ nhận được ngay trong cõi đời. Cặp phạm trù
Đại Linh quang và Tiểu Linh quang khẳng định hai chủ thể Trời - Người hiệp nhất,
hay còn gọi là Thiên Nhân hiệp nhất cùng một bản thể là linh quang. Điều này
khích lệ con người tu tiến từ nhân bản đến mức siêu việt hòa cùng bản thể của vũ
trụ là Thượng Đế: "Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy" [43, tr.6].
Quan niệm về thế giới quan của đạo Cao Đài thể hiện sự hài hòa, quân bình
giữa duy tâm và duy vật hay còn gọi là "Trung Đạo" theo chủ trương tâm vật bình
hành. Khẳng định tính nhân bản trong triết lý tư tưởng hướng con người đến sự cao
siêu trong tôn giáo nhưng cũng rất dung dị trong cuộc sống con người. Đạo là sự
màu nhiệm của tạo hóa ban cho con người nhưng nó không ở đâu xa xôi mà ở chính
trong tâm mỗi con người. Đó chính là tính nhân bản, là giá trị của thế giới quan đạo
Cao Đài.
Nhân sinh quan Cao Đài có các điểm chính sau đây: linh hồn con người là
một siêu thực thể trường tồn bất diệt; linh hồn kết hợp với thể xác tạo thành con
người có sự sống hoàn hảo; con người hoàn toàn có quyền tự chủ dìu dắt thiên
lương của mình; mỗi người phải được tự do sống theo tính phận của mình; cõi trần
64
là một trường học, con người là những học trò đang theo học trên trường đời; số
mạng và tương lai của con người không phải là một việc đã được an bài hay định
trước bởi Thượng Đế, mà do nhân quả của mỗi người.
Như vậy, nhân sinh quan Cao Đài thể hiện tinh thần hành động trong cuộc
sống, không chịu an phận, thủ thường mà luôn vươn lên khẳng định giá trị bản thân
và thoát khỏi số phận. Muốn giải thoát nỗi khổ nơi trần thế, đạt được thành công
trong việc tu hành thì con người phải biết tu dưỡng đạo đức, tu luyện tinh thần để
hòa hợp với quy luật của trời đất, vươn đến các nấc thang của sự tiến hóa.
Xã hội quan đạo Cao Đài quan niệm cuộc đời là những ham muốn, tranh
giành danh lợi nên con người không tránh khỏi những tranh đấu, thù nghịch
nhau: "Thầy thấy bầy con ở thế gian, vì miếng ăn đất ở, vì danh vọng mà các con
cắn xé nhau, chia rẽ nhau, nào khác chi rắn chung hầm, vì đói mà cắn giết nhau,
nuốt ăn nhau, đâu biết suy xa nghĩ tột" [17, tr.176]. Từ danh vọng, quyền lợi dẫn
con người đến chỗ bày trò lừa gạt, sống giả mộng phù vân làm cho cõi đời trở
thành bể khổ. Đạo Cao Đài nhìn nhận xã hội cần có cái khổ để con người chứng
minh sự tiến hóa của bản thân. Đạo Cao Đài cho rằng nguyên nhân gây ra cái
khổ là do chính con người, cõi đời không có khổ mà chính con người tự tạo ra
rồi đổ lỗi cho nhau. Để giải quyết vấn đề của con người trong xã hội, đạo Cao
Đài cho rằng cần xây dựng đạo đức con người chuẩn mực, thiên lương để cõi đời
nhân nghĩa, hạnh phúc.
Như vậy, đạo Cao Đài quan niệm con người có mối tương quan với vũ trụ,
với Thượng Đế và với con người xã hội. Tín đồ đạo Cao Đài xuất gia tu hành nhưng
vẫn nhận thức bản thân là một phần tử của cộng đồng xã hội, phải có trách nhiệm
góp phần tham gia vào sự tiến hóa chung của xã hội loài người. Đó là phương châm
cứu thế lấy đạo đức, chuẩn mực của người tu hành để người đời hiểu rõ chân lý của
cuộc sống.
3.1.1.2. Nâng cao dân trí
Khi đạo Cao Đài ra đời đã đối mặt với vấn đề trình độ dân trí nói chung và
trình độ của chức sắc, tín đồ Cao Đài nói riêng còn hạn chế. Xác định vấn đề quan
trọng, cấp bách cần thực hiện, đạo Cao Đài chú trọng việc phát triển giáo dục đào
65
tạo. Đạo Cao Đài chủ trương mở các khóa phổ biến giáo lý, giáo luật và đào tạo
chức sắc được học chữ, nâng cao trình độ tri thức cho tín đồ.
Trong môi trường tu hành, tín đồ đạo Cao Đài được học chữ và nếp sống văn
minh. Năm 1927, sau một năm khai đạo, Cao Đài Tây Ninh quyết định thực hiện
công việc mở trường đào tạo nhằm nâng cao dân trí. Chương trình học theo chương
trình của Nhà nước, cộng thêm các môn của Đạo. Tháng 9-1928, khai giảng năm
học đầu tiên, trường Đạo Đức Học Đường có tất cả 210 học sinh. Sau 4 năm học,
Trường Đạo Đức Học Đường đã có sự tiến bộ vượt bậc góp phần việc mở mang dân
trí, trang bị tri thức cho tín đồ: "Kỳ thi tiểu học vừa rồi, nhà trường có 26 trò đi thi
đều đậu hết. Có 21 trò đậu luôn phần Pháp văn (mention francaise) [112, tr.6]. Năm
1952, trường có 60 lớp, có 10 lớp Cao đẳng, đi thi tiểu học với 5.393 thí sinh thi tại
tỉnh Tây Ninh và chỉ trượt một học sinh vì bị bệnh không dự thi được. Đó là kết quả
của quá trình tập trung đào tạo, nâng cao dân trí của Cao Đài Tây Ninh. Năm 1971,
Cao Đài Tây Ninh mở Viện Đại học Cao Đài được chính quyền cấp giấy phép hoạt
động. Ngoài ra, Cao Đài Tây Ninh còn mở các lớp hạnh đường để bồi dưỡng cho
chức sắc, chức việc về hành chính đạo nâng cao trình độ quản lý trong điều hành
việc đạo. Từ đó, giúp cho người tín đồ Cao Đài có môi trường được học tập từ nhỏ
đến lớn và nếu có nguyện vọng làm việc cho Đạo thì được bồi dưỡng qua các lớp
hạnh đường bổ sung thêm kiến thức về tôn giáo và hành chính đạo để trở thành một
chức sắc Cao Đài.
Cao Đài Ban Chỉnh đạo thành lập Minh Đạo Học Đường nhằm dạy chữ,
nâng cao hiểu biết về tôn giáo, về cách thức tu hành cho chức sắc, tín đồ: "Hội
thánh quy định buộc những người trong đạo có con từ 7 tới 12 tuổi phải cho đi học
biết quốc văn (chữ quốc ngữ); nơi nào không có trường Nhà nước, thì phải cho vào
Thánh thất sở tại mà học kinh và tập lễ theo đồng nhi của Đạo" [37, tr.71]. Nhận
biết chức sắc, tín đồ của Hội thánh chủ yếu là nông dân có trình độ học vấn thấp
nên Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương quan tâm việc dạy chữ trong Đạo. Tại Tòa
thánh, mở trường học chữ, tổ chức nuôi học sinh mồ côi nghèo khó cho ăn học được
94 người. Ban đêm mở hai lớp dạy chữ, hai lớp dạy Đạo lý phổ thông cho những
người làm công quả, số học viên 4 lớp này trên 200 người. Ngoài ra, còn có một
66
trường Hạnh đường gồm 2 lớp: một lớp cho chức sắc và một lớp cho chức việc dự
học, mỗi tháng 15 ngày. Hội thánh lập một trường Tiểu học cho trẻ biết chữ, biết
kinh lễ và phận sự đồng nhi. Mỗi Thánh thất phải có lớp Đồng nhi. Mỗi tháng, Hội
thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo ra một Châu tri dạy Đạo, nhất là về Ngũ giới cấm, Tứ
đại điều qui, Bài Thương yêu,… Đồng thời khuyến khích chức sắc, tín đồ học thuộc
lòng và ban khen cho những người đã học thuộc. Tại các Họ đạo đều hưởng ứng
phong trào học tập, trở thành động lực khuyến khích tinh thần học Đạo sâu rộng
trong chức sắc, tín đồ.
Trong bối cảnh những năm đầu thế kỷ 20, đời sống của nhân dân ở Nam
Bộ còn hạn chế, trình độ dân trí thấp, dân sinh khó khăn nhưng đạo Cao Đài đã
mở các trường lớp cho chức sắc, tín đồ học tập là một hoạt động tích cực, tiến bộ
và nhân bản.
Sau năm 1975, các trường đào tạo của đạo Cao Đài không hoạt động. Đạo
Cao Đài chỉ tổ chức các lớp bồi dưỡng hạnh đường cho chức sắc, tín đồ. Từ năm
1997 đến nay, Hội thánh Cao Đài Tây Ninh tiếp tục duy trì hoạt động bồi dưỡng
giáo lý hạnh đường cho chức sắc, tín đồ học. Báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Tây
Ninh, trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2014 Cao Đài Tây Ninh đã: "mở 10 lớp
hạnh đường đào tạo được 1.700 chức sắc và 15 lớp tập huấn đạo sự ngắn ngày trong
năm 2014 cho hơn 5.500 chức việc để nâng cao trình độ, sự hiểu biết về nghi thức,
giáo lý, giáo luật của Cao Đài Tây Ninh" [152, tr.7]. Báo cáo của Ủy ban nhân dân
tỉnh Bến Tre về hoạt động đào tạo của Cao Đài Ban Chỉnh đạo và Cao Đài Tiên
Thiên viết: "các phái Cao Đài ở địa phương đã mở 51 lớp, với 3.600 chức sắc, chức
việc tham gia" [151, tr.5]. Báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng về hoạt
động đào tạo của Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài như sau: "Hội thánh mở thành
công 02 lớp giáo lý hàm thụ (đào tạo trong 4 năm) cho 400 học viên là chức sắc, tín
đồ của Hội thánh,…" [150, tr.5]. Năm 2014, Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài làm
Đề án thành lập Học viện Cao Đài Truyền Giáo tại Đà Nẵng với lý do: "Tất cả chức
sắc, chức việc này từ trước đến nay chưa được đào tạo trong trường lớp theo đúng
chuẩn mực của giáo hội" [70, tr.6]. Năm 2016, trường chiêu sinh khóa đầu tiên với
60 học viên. Học viện Truyền Giáo Cao Đài là trường đào tạo chức sắc đầu tiên của
67
đạo Cao Đài hiện nay. Ngoài ra, đạo Cao Đài còn một số hình thức đào tạo khác
như bồi dưỡng giáo lý hạnh đường, lớp đạo tràng ở quy mô nhỏ, thời gian ngắn.
Nền giáo dục của đạo Cao Đài mang tính dân tộc và tiếp thu yếu tố văn minh
thời đại.Với việc đưa chương trình giảng dạy chữ quốc ngữ trong các trường lớp,
đạo Cao Đài khẳng định tinh thần dân tộc, ý thức tự lập, tự cường và sẵn sàng đón
nhận những cái mới, cái văn minh của xã hội. Như vậy khi vào đạo Cao Đài, tín đồ
có điều kiện được học tập từ bậc tiểu học đến Đại học. Việc mở mang các trường
đào tạo cho tín đồ cho thấy các vị chức sắc đứng đầu đạo Cao Đài luôn quan tâm
đến việc nâng cao tri thức để đào tạo con người có kiến thức về đạo Cao Đài và kiến
thức xã hội.
3.1.2. Giá trị tâm linh
Giá trị tâm linh của đạo Cao Đài được biểu hiện bằng việc đem lại niềm tin
cho tín đồ và khải thị cho con người trong cuộc sống.
3.1.2.1. Niềm tin cho tín đồ
Niềm tin tôn giáo một thuộc tính bản ngã của con người là đức tin vào thế
giới siêu hình, do chính con người sáng tạo ra và nó tác động trở lại với con người
trong cuộc sống. Niềm tin của tín đồ đạo Cao Đài có nguồn gốc từ tâm thức của
người Việt ủy thác và hy vọng vào sức mạnh của các yếu tố tự nhiên vừa gần gũi,
vừa thiêng liêng gắn bó với cuộc sống của họ: "Tâm thức ấy, trong mỗi hành vi
thường nhật, trọng đại hay nhỏ bé, kết thành một mạng lưới chằng chịt qua các biểu
hiện thực hành, khi thì hoành tráng lễ nghi ở đền đài miếu vũ công khai, khi thì âm
thầm nhẹ nhàng giây lát bên gốc cây, hòn đá" [86, tr.19].
Khi đã tin có thế giới thiêng liêng do Ngọc Hoàng Thượng Đế làm chủ thì
người theo đạo Cao Đài nhập môn vào Đạo và thực hiện lời thề: "Từ đây biết một
đạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao
Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục" [43, tr.20]. Lời minh thệ của tín đồ
đạo Cao Đài có 3 tác dụng: một là, cơ sở pháp lý chứng nhận là người tín đồ qua sớ
cầu đạo; hai là, răn dạy người tín đồ biết hình phạt thiêng liêng để giữ giới tu hành;
ba là, được các Đấng thiêng liêng nhận làm môn đệ của Đức Cao Đài để phù hộ
trong cuộc sống tu hành. Cuộc sống tu hành của tín đồ đạo Cao Đài là quá trình bồi
68
dưỡng đức tin. Khi tin theo đạo Cao Đài, người tín đồ làm việc gì cũng như thấy
"Thiên nhãn" của Đức Chí Tôn theo dõi, kiểm soát những việc làm đó. Từ đấy,
trong hành động, lời nói, người tín đồ luôn tâm niệm thực hiện theo tôn chỉ, mục
đích, giáo lý của đạo Cao Đài. Nhưng để có đức tin, người tín đồ Cao Đài cần tự tạo
ra, không ai cho được.
Để chứng minh niềm tin của tín đồ đạo Cao Đài, xin dẫn chứng một số câu
chuyện như sau. Câu chuyện thứ nhất, tại một vùng nọ có một ông bị đau bụng lâu
ngày không khỏi đã chữa trị nhiều nơi không hết. Biết tin đạo Cao Đài có cầu cơ linh
thiêng có thể xin thuốc chữa bệnh rất hiệu nghiệm. Ông bèn liên hệ với người bạn là tín
đồ đạo Cao Đài xin hầu đàn cơ xin thuốc trị bệnh. Khi đang hầu đàn xin thuốc có người
ở đằng sau kề tai ông nói nhỏ "Toa này thuốc độc không hà, đừng uống". Ông suy nghĩ
vài giây thấy đã chạy hết thầy thuốc rồi không khỏi nay Ơn Trên chữa trị có bề gì theo
Ơn Trên luôn cũng được. Thuốc sắc xong, ông bèn uống ngay. Mười phút sau, Ơn Trên
dạy "Lấy lông gà ngoáy trong họng cho mửa". Ra ngoài sân làm theo lời dạy, ông mửa
ra con gì như con sên. Từ đó hết bệnh luôn [122, tr.105].
Câu chuyện thứ hai, sau chiến tranh, Trung úy Nguyễn Hữu Văn từ một
người lính phục viên trở về quê hương Thanh Hóa làm nghề thợ rèn mưu sinh. Một
hôm, trong giấc mơ anh thấy một người áo trắng mách rằng hãy đi về phía Tây Nam
sẽ gặp ngôi chùa có biểu tượng con mắt mở. Đó là nguồn tâm linh cần nương tựa.
Giấc mơ lạ làm anh Văn ám ảnh và chuẩn bị dành dụm tiền sau một năm thực hiện
chuyến đi xa. Anh Văn đến được Thánh thất Trung Kiên của Hội thánh Truyền
Giáo Cao Đài thấy Thánh tượng Thiên nhãn. Từ đó, anh Văn ăn chay và theo đạo
Cao Đài: "…gia đình anh và bà con thân thuộc tập ăn chay, cúng chay, tụng những
bài kinh Tân pháp cho giỗ kỵ, tang ma. Mặc dù nghi thức chưa đâu vào đâu nhưng
họ đã có đức tin và lòng hồi hướng về mối đạo Trời" [155, tr.9]. Câu chuyện này,
nghiên cứu sinh được chứng kiến, năm 2002, Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài có
đơn thỉnh nguyện về việc bổn đạo ở Thanh Hóa bị chính quyền không cho sinh hoạt
tôn giáo. Nghiên cứu sinh tham gia đoàn công tác của Ban Tôn giáo Chính phủ đến
Ủy ban nhân dân huyện Thiệu Hóa làm việc về vấn đề sinh hoạt của đạo Cao Đài.
Tại đây, đoàn công tác được Ủy ban nhân dân huyện Thiệu Hóa báo cáo có khoảng
69
80 người theo đạo Cao Đài tụ tập tại nhà anh Nguyễn Hữu Văn. Do không đăng ký
sinh hoạt nên Ủy ban nhân dân xã đã tịch thu kinh sách và một số đồ dùng thờ cúng
trong đó có cờ Đạo, Thiên nhãn, chuông mõ, Đạo quy của Hội thánh Truyền Giáo
Cao Đài. Đồng thời, cho biết qua quá trình vận động hơn một tháng gọi từng người
lên Ủy ban nhân dân huyện hỏi một câu: "Ông/bà có theo đạo Cao Đài không?", kết
quả đạt được chỉ còn một người nói theo đạo Cao Đài. Đó là anh Nguyễn Hữu Văn.
Phải có niềm tin sâu sắc thì anh Nguyễn Hữu Văn mới vững vàng vượt qua những
thử thách trong quá trình tu hành.
Câu chuyện thứ ba, một cụ bà người đạo Cao Đài ăn chay trường khi ốm yếu
sắp mất muốn được ăn miếng gan gà luộc. Người con gái của bà cũng theo đạo Cao
Đài suy nghĩ rồi quyết định mua gan gà về luộc cho mẹ ăn. Khi mang lên cho cụ bà
ăn thì nhận được câu trả lời: "Mẹ thử các con xử trí trước tình mẹ và giới cấm như
thế nào đấy thôi! Cả đời ăn uống nhiều lắm rồi mà đã được chi. Tấm thân giả tạm
này đã đến hồi hoại diệt mà còn vay mượn thêm làm gì? Mẹ sắp ra đi!" [155, tr.75].
Ba hôm sau, cụ bà mất trong thanh thản với nụ cười mãn nguyện.
Cũng có trường hợp, người vào đạo Cao Đài nhưng chưa có đức tin mà chỉ
mong tìm đến sự an ủi, giải thoát tinh thần cho bản thân: "Tín đồ không chỉ đến với
tôn giáo bằng niềm tin mà còn tìm một sự an ủi lớn, một sự giải thoát những bất lực
trong cuộc sống thực tại, một hy vọng về cuộc sống tốt hơn" [145, tr.80]. Tín đồ đạo
Cao Đài tin rằng nếu tích cực tu hành làm nhiều điều thiện sẽ được Trời, Phật phù
hộ và sau này khi mất sẽ được lên "Bạch Ngọc Kinh", nơi thế giới không có khổ
cực. Niềm tin của đạo Cao Đài là tin vào chánh tín chứ không vào mê tín. Chánh tín
là tin tưởng thuận theo lẽ tự nhiên, tìm hiểu kỹ vấn đề và tự nhận thức thông qua
kinh sách, lời dạy của Đức Chí Tôn, nhận định của người đi trước. Từng bước tìm
hiểu cho đến chân lý hướng đến mục đích cao đẹp trong cuộc sống. Mê tín là tin
một cách mù quáng, không hiểu rõ vấn đề, không biết suy xét, nhận định mà tin
theo những điều trái ngược không hướng đến mục đích phục vụ nhân sinh, phục vụ
cộng đồng.
Qua tu hành, tín đồ đạo Cao Đài đã xây dựng niềm tin ngày càng vững bền
và niềm tin đó được chứng nghiệm trong cuộc sống càng làm tăng sức mạnh tâm
70
linh: "Phải có một đức tin rất mạnh mới chứng nghiệm được thế giới vô hình, và
một khi đặt mình trong mối tương giao ấy, đời sống của người tín đồ sẽ trở nên phi
phàm". Sức mạnh tinh thần đó đã chứng minh rằng, dù thế giới thần linh chưa ai
hình dung được đầy đủ nhưng đã đem tới cho con người ở thế giới trần tục một sức
mạnh để ngày càng vững vàng trong đời sống xã hội: "Bằng đức tin của mình, tín
đồ thể hiện lòng tín ngưỡng và sự tin cậy vào một Đức Chúa mà đó không phải ai
khác ngoài xã hội; xã hội đem lại một "sức mạnh" sáng tạo và nền tảng, một "sức
mạnh tinh thần" cho các tín đồ" [105, tr.19]. Đức tin của người đạo Cao Đài giúp họ
vững vàng trong cuộc sống để tu học và hành đạo:
"Lòng con tin Đấng Cao Đài,
Đạo đời Trời sẽ an bài cho con" [80, tr.74]
Có thể nói, niềm tin của tín đồ đạo Cao Đài là vừa hướng về Thiên Đạo vừa
hướng về nhân sinh trong cuộc sống giữa đường Đạo và đường đời. Đó là niềm tin vào
bản thân để vững vàng vượt qua những thử thách, khó khăn trong quá trình tu hành.
3.1.2.2. Khải thị cho con người trong cuộc sống
Khả năng khải thị cho con người trong cuộc sống là nấc thang tiến hóa của
con người khi tu luyện thành công theo pháp tu của đạo Cao Đài. Theo Max Weber,
tôn giáo có 3 loại hình quyền lực: giáo sỹ là quyền lực tôn giáo của giáo hội; thầy
phù thủy là quyền lực tôn giáo cá nhân của người thực hiện dựa trên truyền thống;
nhà tiên tri là quyền lực tôn giáo cá nhân của người được công nhận trên cơ sở
sự thần khải hay phép màu. Đồng thời, Max Weber cũng chia nhà tiên tri thành
hai loại: tiên tri đạo đức là công cụ báo hiệu của Thượng Đế và ý muốn của
Thượng Đế cần xây dựng một mô hình xen kẽ với xã hội đang tồn tại; tiên tri
tấm gương không thiết lập một xã hội mới mà tìm kiếm con đường cá nhân để
vượt qua hiện thực xã hội.
Đoàn Xuân Mượu cho rằng con người gồm có thân thể vật lý và thân thể tế
vi. Trong thân thể tế vi chia làm hai nhóm: nhóm tế vi bậc thấp và nhóm tế vi bậc
cao. Nhóm tế vi bậc cao chỉ loài người là động vật cao cấp nhất trong vũ trụ gồm
các thân thể trí tuệ, thân thể linh cảm và linh hồn. Khả năng khải thị trong cuộc
sống hay còn gọi là khả năng tiên tri, khả năng biết trước những điều xảy ra trong
71
cuộc sống thuộc thân thể linh cảm: "Thân thể linh cảm cho con người khả năng nhìn
thấy trước (tiên tri) khả năng đi sâu vào bản chất sự vật không phải bằng con đường
thảo luận hay tư duy logic, mà bằng trực giác chớp nhoáng. Đó là bản năng sinh
tồn" [94, tr.95]. Đồng thời cũng khẳng định, tiên tri là biểu hiện của linh cảm con
người, là sự mẫn tiệp trong cảm xúc của con người.
Mục đích của đạo Cao Đài nhằm giúp con người nơi cõi trần "khai trí, khai
tâm, khai thần cố gắng tu luyện để rũ bỏ phàm tính, tiến tới sự thanh cao, kết tụ tinh
hoa để thực hiện trong tương lai một giống người siêu đẳng như Thần Thánh Tiên
Phật, hoặc hoàn hảo như Trời" [25, tr.92-93]. Thực chất là giải quyết vấn đề nhân
sinh và tâm linh cho con người. Nhiều khi con người trong xã hội cũng chưa chắc
biết mình sống trên đời để làm gì và đạo Cao Đài đã cho các thành viên trong cộng
đồng của mình biết:
"Tu là học để làm Trời,
Phải đâu kiếp kiếp làm người thế gian" [25, tr.93].
Đạo Cao Đài khuyên con người nên tu hành để giải thoát bản thân đồng thời
tu tiến để trở thành người thông tuệ như các đấng thiêng liêng. Bản thân con người
nơi cõi trần cũng xác định sống là để tiến hóa. Quá trình tu luyện đã được chứng
minh trong đời sống của người tín đồ đạo Cao Đài. Chủ yếu những người tu hành
nhiều năm, có phẩm vị cao trong đạo, có thành quả trong tu luyện gọi là "đắc đạo"
tại thế mới có khả năng khải thị cho con người trong cuộc sống.
Lịch sử đạo Cao Đài có một số trường hợp đặc biệt có khả năng này nhưng
không phổ biến được tín đồ thừa nhận. Người thứ nhất là ông Ngô Văn Chiêu là
Giáo tông đầu tiên của đạo Cao Đài nhưng không nhận phẩm vị mà về Cần Thơ lập
phái Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi chuyên về tịnh luyện "nội giáo tâm
truyền". Khi còn đương thời lúc đau ốm, ông Ngô Văn Chiêu thường nói Đức Đại
Từ Phụ đã định cho ông bỏ xác trên sông Cửu Long, nên có câu:
"Giờ nầy Thầy điểm thâm công,
Ngày sau con sẽ cỡi Rồng về Nguyên" [18, tr.79].
Ngày ông Chiêu mất, ông cho gọi các đệ tử đến dặn dò. Lấy xe ô tô để đi từ
Cần Thơ về Tân An nhưng khi đang qua phà Mỹ Thuận thì ông mất trong tư thế
72
ngồi tịnh. Các đệ tử lại đưa ông về Cần Thơ làm lễ tang. Tại thảo lư nơi ông ở, các
đệ tử tìm thấy phong thư có đề lại mấy chữ:
"Thôi, các em nhứt tâm
Thầy chẳng quên ta, ta hằng tại.
Chẳng đặng nhiều lời…
Bần Đạo".
Trong phong thư còn có 100 đồng bạc để lại lo việc tang. Các đệ tử đều thấy
ông Chiêu mất đã được dự liệu trước và hiểu lời ông nói tiên tri rằng liễu đạo tại
sông Cửu Long (cỡi rồng). Ông Chiêu mất được 3 ngày mà khí sắc không đổi, đồng
thời mở con mắt bên trái giống như Thiên nhãn vẽ thờ cho nên các tín đồ bất luận
lớn nhỏ đều xin cư tang có cả trên ngàn người.
Người thứ hai là ông Nguyễn Ngọc Tương, Giáo tông Cao Đài Ban Chỉnh
đạo. Theo tài liệu của Cao Đài Ban Chỉnh đạo, ông Nguyễn Ngọc Tương nhập đại
tịnh 9 năm 81 ngày gọi là Cửu niên diện bích, Cửu cửu thần du là giai đoạn giải khổ
để đoạt đến cơ tuyệt khổ của Đại Đạo. Trong thời gian đại tịnh, ông Tương luôn
luôn bế ngũ quan, có việc thì rung chuông gọi, dùng ngón tay viết chữ bóng trên
lòng bàn tay của các thanh đồng để giao tiếp. Đạo Cao Đài có tân pháp để thọ
truyền. Tân pháp của đạo Cao Đài gồm các phép tịnh luyện và bí pháp mật truyền.
Các phép tịnh luyện là sự cúng kính, công phu cúng tứ thời, nhập tịnh tham thiền để
hoàn hư, giải trừ thất tình lục dục cho tinh thần tinh tấn, luyện tam bửu ngũ hành tạo
lấy pháp thân. Các bí pháp mật truyền gồm: phép giải oan, giải bệnh, tắm thánh,
vĩnh sanh, đoạn nghiệt, tuyệt trần, tiểu xá, đại xá, giải khổ,… để giải oan, giải khổ
cho chúng sinh trong thời đại ân xá kỳ ba của đạo Cao Đài. Riêng hai phép đại xá
và giải khổ chỉ có phẩm Giáo tông mới được quyền thực hiện. Tân pháp chỉ được
khẩu truyền cho hàng giáo phẩm có nhiều công quả, lập nguyện thượng thừa nghĩa
là ăn trường chay, tuyệt dục, hiến thân hành đạo. Tân pháp Cao Đài chú trọng rèn
luyện tâm hồn làm gốc để được hòa đồng với bản thể của Thượng Đế. Cuộc đời của
ông Tương để lại nhiều điều tiên tri mà hậu thế mới được chứng nghiệm. Ông
Tương muốn mở đạo nơi đất Bắc nên cử thanh đồng Tô Văn Pho ra Hà Nội hành
đạo và nhắn nhủ bằng câu thơ trong Minh Tâm Bửu giám:
73
"Lập thân hành đạo dương danh ư hậu thế,
Dĩ hiển kỳ phụ mẫu hiếu chi chung giả".
(Dịch nghĩa: Tự mình đi hành đạo để gương tốt cho về sau,
Làm vinh hạnh cho cha mẹ, đó mới là trọn vẹn hiếu thảo).
Trước khi đi, thanh đồng Tô Văn Pho hỏi ông Tương: "Con đi chừng nào
con về?" và được trả lời "Chừng nào thiết lộ thông em về" [117, tr.41]. Thứ bảy,
ngày 01-01-1949, thanh đồng Tô Văn Pho lên tàu thủy đi ra cảng Hải Phòng và sau
5 ngày đến Hà Nội. Năm 1951, khi ông Tương mất thanh đồng Tô Văn Pho về chịu
tang và đến tháng 10 năm 1975, thanh đồng Tô Văn Pho đi tàu hỏa từ Hà Nội vào
Sài Gòn. "Thiết lộ thông" phải chăng là tiên tri thống nhất đất nước, thanh đồng Tô
Văn Pho hoàn thành nhiệm vụ trở về Bến Tre. Năm 1997, khi thiết lập lại Hội thánh
Cao Đài Ban Chỉnh đạo, thanh đồng Tô Văn Pho được bầu làm Trưởng Ban
Thường trực Hội thánh và giữ phẩm Chánh Phối sư. Đó là "sứ mệnh thiêng liêng"
mà Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương giao phó cho thanh đồng Tô Văn Pho và đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm gương tốt về sau. Một tiên tri nữa của ông Tương
là về người con trai út Nguyễn Ngọc Nhựt khi tham gia kháng chiến giữ chức Ủy
viên xã hội của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Trong lần thứ hai Nguyễn Ngọc Nhựt
về Bến Tre, ông Tương đã dự liệu được số phận của người con trai. Ông Tương đã
khóc khi Nguyễn Ngọc Nhựt rời Tòa thánh và nói với thanh đồng Lê Văn Sáu rằng:
"Cậu Tám đã hoàn thành nhiệm vụ, sứ mệnh cậu Tám đã xong, ơn trên đã định rồi,
em lo soạn sẵn cho ông mười thứ kinh để đó, ông có việc cần. Nghe đến đây tôi
hoảng hốt nói: Biết vậy sao ông không dạy cậu Tám tìm cách… an bày? Thiên cơ
bất khả lậu em à!" [117, tr.121]. Thời gian sau, Nguyễn Ngọc Nhựt bị Pháp bắt và
tra tấn. Trong những ngày ở tù, ông Tương cho người đem mười thứ kinh để
Nguyễn Ngọc Nhựt đọc. Việc này liên tưởng tới nhà tiên tri Vanga khi được phóng
viên hỏi: "Nếu bác nhìn thấy tai họa sắp đến với một người hoặc thậm chí thấy
người đó sắp chết thì bác có thể làm một cái gì đó để tránh tai họa được không?
Vanga trả lời: "Không, chẳng ai có thể giúp gì được, kể cả bác" [85, tr.50]. Ông
Tương cũng tiên tri về ngày mất của mình. Ngày 8-6-1951, ông Tương dặn hai
thanh đồng rằng: "Anh sẽ về chầu Đại Từ Phụ 7 ngày, hai em ráng giữ gìn cho
74
thanh tịnh. Khi thấy dứt thở quá 7 ngày mà anh chưa về, thì hai em sẽ cho Hội thánh
hay" [39, tr.82]. Ngày 11-6-1951, ông Tương bắt đầu ngồi tịnh đến ngày 18-6-1951
thì ngừng thở. Ngày 22-6-1951, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo cho mời bác sỹ
đến khám và khẳng định ông đã chết từ hai ngày trước nhưng vì tinh thần mạnh nên
chưa hư. Người đạo Cao Đài Ban Chỉnh đạo cho rằng ông đã đạt thành tân pháp
chân truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ngoài ra, còn một số người trong đạo Cao Đài có khả năng này như Quyền
Giáo tông Lê Văn Trung, Hộ pháp Phạm Công Tắc, Đầu sư Lê Văn Được,… Như
vậy, đa số các nhà tu hành của đạo Cao Đài khi tu luyện đạt đến sự thông tuệ hay
còn gọi là "đắc đạo" đều đi theo hướng "tiên tri tấm gương" như Max Weber phân
loại nhằm tìm kiếm con đường cá nhân để vượt qua hiện thực xã hội. Tagore cho
rằng: "Cá nhân nào mà tinh thần trở thành Một với Thượng Đế, cá nhân ấy được
chúng ta coi là đóa hoa tối thượng của nhân loại" [111, tr.47]. Cũng có thể còn
nhiều người hoài nghi hay không tin vào khả năng tiên tri của họ. Nhưng trong cuộc
sống phải có trải nghiệm hoặc tự mình tạo dựng niềm tin đối với thế giới, đối với
bản thân: "Mà đối với những người đã có niềm tin thì như chúng ta đã biết, chẳng
cần tới những lời giải thích và những bằng chứng làm gì" [104, tr.11].
Những người như Ngô Văn Chiêu, Nguyễn Ngọc Tương đã trở thành tấm
gương điển hình của người đạo Cao Đài. Tín đồ đạo Cao Đài nhắc đến các vị đó
như một bậc Thánh, Thần và có sức ảnh hưởng lâu dài trong đời sống tâm linh của
đạo Cao Đài. Thế giới tâm linh không ai hình dung nó tồn tại ở đâu, quy mô, hình
thức thế nào, chưa có câu trả lời chính xác. Nhưng thế giới tâm linh đó có ảnh
hưởng to lớn trong đời sống con người. Con người khi gia nhập tôn giáo để tu
luyện, họ đã vượt qua được chính bản thân đời thường của mình để có thể đến được
sự cao thượng của con người.
3.2. GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
3.2.1. Giá trị nhân cách - lối sống
Đạo Cao Đài xây dựng được hệ thống giá trị nhân cách - lối sống cho tín đồ
trong quá trình tu hành. Theo Phạm Minh Hạc, giá trị đó chính là giá trị cá nhân và
nhân cách của người tín đồ đạo Cao Đài được biểu hiện qua 3 đặc điểm là: tinh thần
75
trách nhiệm, nói đi đôi với thực hành; hình thành năng lực, phẩm chấtđạo đức, lối
sống cao đẹp của người tu hành; trở thành tấm gương tiêu biểu trong lối sống cá
nhân, gia đình, xã hội.
3.2.1.1. Tinh thần trách nhiệm, nói đi đôi với thực hành
Giá trị bản thân được coi là giá trị đặc biệt, nguồn gốc của mọi tiến bộ xã
hội. Trong xã hội ngày nay, vai trò của hệ giá trị nói chung và giá trị bản thân nói
riêng được đánh giá cao trong "sức mạnh mềm" của con người, từng cộng đồng,
quốc gia, dân tộc. Giá trị bản thân là: "tổ hợp các giá trị cá thể, cá nhân và nhân
cách - các giá trị của từng người do chính người đó hình thành và phát triển, sử
dụng, phát huy và tự thể hiện, tự khẳng định trong cuộc sống của mình" [51, tr.330].
Coi trọng giá trị bản thân là coi trọng con người biết yêu bản thân, coi trọng bản
thân rồi coi trọng người khác và ngược lại. Điều kiện có ý nghĩa quyết định là phải
tạo lập giá trị bản thân có tinh thần trách nhiệm, nói đi đôi với thực hành.
Trong cuộc sống, tín đồ đạo Cao Đài có tinh thần trách nhiệm với bản thân,
gia đình và xã hội. Thứ nhất, họ xác định tinh thần trách nhiệm đối với bản thânphải
từ bỏ mọi ham vui của cuộc đời, rèn luyện lối sống đạo đức của người tu hành, trau
dồi tư tưởng đại đồng, nhân hòa hướng đến thực hành những điều tốt đẹp trong cuộc
sống. Tân luật của đạo Cao Đài quy định trách nhiệm của tín đồ: "Phải giữ tam cang
ngũ thường là nguồn cội của nhơn đạo; nam thì hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa,liêm sỹ,
nữ thì tùng phụ, tùng phu, tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh" [42, tr.19]. Trên tinh
thần đó, người đạo Cao Đài hằng ngày rèn luyện đạo đức bản thân, sống có trách
nhiệm với gia đình. Đối với vợ chồng thì thủy chung không được bỏ nhau, đối với
con cái phải giáo dục trở thành người hiền lương, đối với cha mẹ, ông bà phải tôn
kính, hiếu lễ, đối với bạn bè phải tương trợ ngọt bùi với nhau, đối với mọi người
phải đạo đức, sẵn sàng giúp đỡ.
Thứ hai, họ xác định tinh thần trách nhiệm đối với Đạo thực hiện tam lập
(lập đức, lập công, lập ngôn), tam công (công phu, công quả, công trình) để trở
thành người hiểu biết, giúp đỡ người đạo tu tiến. Họ phải hy sinh lợi ích của bản
thân hết lòng vì nhân sinh phục vụ để cùng nhau tiến bộ trên đường tu hành: "cần
giữ gìn đức hạnh cho hoàn toàn, chỉ biết bố đức hơn ra oai, thi ân hơn lập pháp mà
76
thôi" [56, tr.106]. Sống có trách nhiệm chính là biểu hiện của giá trị bản thân, của
con người có nhân cách, có trách nhiệm với cộng đồng, trách nhiệm xã hội càng
cao, nhân cách càng lớn.
Thứ ba, họ xác định tinh thần trách nhiệm của bản thân đối với xã hội biết
lấy tình thương yêu để ứng xử với mọi người, mọi vật và có lòng phục vụ đất nước,
phục vụ nhân dân: "Nghĩa vụ đối với xã hội buộc chúng ta phải thương người mến
vật và tận tâm phục vụ xứ sở và nhơn sanh" [56, tr.91]. Từ ba điều trên cho thấy, tín
đồ đạo Cao Đài luôn xác định ý thức trách nhiệm của bản thân, sống có trách nhiệm
với chính mình, với gia đình và xã hội. Đảm bảo sự hài hòa giữa việc tu hành và
cuộc sống xã hội thể hiện phong cách của người tu hành.
Điều quan trọng của người đạo Cao Đài là biết hài hòa, cân bằng trong đời
sống tinh thần và vật chất theo quan niệm "Tâm vật bình hành" có nghĩa là: "tâm ý
và hành động cụ thể phải diễn tiến đồng đều" [24, tr.176]. Trong xã hội xưa nay,
vấn đề vật chất thường được coi trọng hơn vấn đề tinh thần. Khi đánh giá một con
người, nhiều người thường lấy vật chất làm thước đo về giá trị, so sánh sự giàu
sang, tài sản nhiều hay ít của người đó mà quên đi yếu tố tinh thần là trí tuệ, là đạo
đức, là văn hóa, là giá trị nhân sinh. Con người khi khó khăn hoặc vui vẻ về tinh
thần thì có thể dễ dàng chia sẻ với mọi người nhưng khi khó khăn hoặc giàu có về
vật chất tiền bạc thì lại ít khi hoặc không muốn chia sẻ với mọi người. Từ đó dẫn
đến sự mất cân bằng giữa vật chất và tinh thần. Đạo Cao Đài đề cao quan niệm "tâm
vật bình hành" để con người biết được quy luật trong sinh hoạt đạo đức, trong cuộc
sống và tránh trường hợp "ngôn hành bất nhất" giữa lời nói và việc làm phải thống
nhất. Câu chuyện về "tâm vật bình hành" được người đạo Cao Đài nêu ví dụ cụ thể:
"Trước cảnh khổ đó, nếu lòng mình đã thương cảm thì hãy thực hiện cụ thể sự
thương cảm đó bằng hành động và vật chất, tức là giúp đỡ người ta phần nào để xoa
dịu bớt sự bi lụy của người ta. Được như vậy mới là có hành động trong tinh thần
tâm vật bình hành" [93, tr.176].
Để khẳng định giá trị cuộc sống là biết hành động đúng lúc, kịp thời không
"nói suông" mà phải biến lời nói thành hành động. Đó chính là "giá trị của những
giá trị", tạo niềm tin giữa con người với con người. Như vậy, tạo lập giá trị bản thân
77
không phải chỉ là quyết tâm mà phải bằng hành động, hoạt động để đạt được kết quả
cụ thể cho bản thân, tự khẳng định chính mình. Từ tinh thần trách nhiệm, nói đi đôi
với thực hành của đạo Cao Đài đã trở thành giá trị nhân cách - lối sống trong cộng
đồng và xã hội.
3.2.1.2. Hình thành phẩm chất đạo đức, lối sống cao đẹp của người tu hành
Nói đến phẩm chất đạo đức của người tu hành phải có sự khác biệt với phẩm
chất đạo đức của con người trong xã hội. Người tu hành ngoài việc chấp hành pháp
luật của nhà nước còn phải chấp hành quy định của tôn giáo. Sự khác biệt là các quy
định của tôn giáo sẽ chặt chẽ hơn, khó thực hiện hơn để điều chỉnh hành vi của con
người. Đó chính là đạo đức của người tu hành. Theo quan niệm của đạo Cao Đài:
"Đạo đức là cái khuôn mẫu để con người phải nương theo đó mà sửa mình, rèn tâm
luyện tánh, đặng mở mang trí não cho được sáng suốt, đạt đến chỗ trí huệ" [102,
tr.99]. Khi trở thành tín đồ đạo Cao Đài, họ bắt đầu rèn luyện, học tập đức tính, lối
sống cao đẹp của người tu hành. Muốn có đức tính cao đẹp thì tín đồ Cao Đài phải
từ bỏ những vui thú của đời thường, hằng ngày tu dưỡng bản thân, rèn luyện đức
tính của người tu hành. Cao Đài Ban Chỉnh đạo quy định cụ thể chức sắc từ Giáo
hữu trở lên, muốn vào chính vị phải thực hành những điều sau đây: "Phải có tịnh 36
ngày, 72 ngày, 108 ngày sắp lên. Tịnh có ích là bỏ được những tánh không lành,
không tốt do tính dục mà ra như là: giận, ghét, oán thù, gây rầy, lớn tiếng, khinh
người, kích bác người, tự cao, tự đắc,…" [67, tr.28]. Nhập tịnh hay ngồi thiền nhằm
giúp cho người tín đồ đạo Cao Đài có thời gian suy ngẫm, tự rèn luyện khắc chế
tính phàm trần của con người, từ bỏ chúng để trở thành người có đạo đức, lối sống
trong sáng theo nếp sống tu hành. Quá trình tu tịnh, thiền định cũng giúp cho tín đồ
đạo Cao Đài có khả năng tự điều chỉnh bản thân, hướng đến giá trị bền vững của
con người.
Không những phải từ bỏ những thú vui của đời thường, tín đồ đạo Cao Đài
phải thực hiện theo giới luật để giảm tính phàm trần của con người nâng cao đạo
đức tu hành. Dù biết cuộc đời tu hành là phải vượt qua chông gai, thử thách, nhưng
người tín đồ đạo Cao Đài vẫn sẵn sàng đón nhận và quyết tâm vượt qua với mong
muốn nếu không thành Thần, Thánh, Tiên, Phật thì cũng thành người đạo đức. Tín
78
đồ đạo Cao Đài thực hiện lối sống làm lành lánh dữ, ăn ở ngay thật không làm điều
thất đức, phải cứu nhân độ thế, giúp đỡ người khó khăn, hoạn nạn. Đồng thời phải
trau dồi đức hạnh, biết khiêm nhường, nhẫn nại, hòa thuận, thanh liêm trong cuộc
sống. Thánh giáo đạo Cao Đài chỉ dạy: "Đức hạnh là điều cần nhất của bực tu hành.
Thành Tiên, thành Phật cũng nhờ đức hạnh, vì thuở nay chưa từng nghe có Tiên Phật
nào mà không hoàn toàn đức hạnh" [147, tr.4]. Rèn luyện đức hạnh con người là điều
cốt yếu của người tu hành, cần thiết cho một tín đồ tu luyện để có năng lực trong công
phu, tự hoàn chỉnh bản thân theo chuẩn mực của xã hội. Giáo tông Nguyễn Ngọc
Tương của Cao Đài Ban Chỉnh đạo dạy chức sắc rằng: "cải thiện dân sinh, dân trí phải
gắn liền với cải thiện dân tâm - và trước tiên - phải làm cho dân được no ấm, khôn
ngoan, hiền lương và đạo đức" [2, tr.13]. Trước khi nâng cao dân trí cần làm cho dân
được ấm no và chú trọng rèn luyện đạo đức con người. Có đạo đức mới giúp con người
sống có trách nhiệm, thể hiện phẩm chất của người tu hành trong xã hội.
Như vậy, bước đầu đạo Cao Đài giúp tín đồ được học tập, rèn luyện năng
lực, phẩm chất đạo đức theo chuẩn mực của xã hội, lối sống cao thượng, trong sáng
của tôn giáo để hình thành giá trị con người.
3.2.1.3. Góp phần tạo nên lối sống cá nhân, gia đình, xã hội tiêu biểu về
đạo đức
Tín đồ đạo Cao Đài phát huy giá trị bản thân trong cuộc sống để trở thành
tấm gương tiêu biểu về đạo đức, lối sống cá nhân, gia đình, xã hội. Phạm Minh Hạc
cho rằng: "Phát huy giá trị bản thân tức là đem những giá trị mình hình thành được
vào cuộc sống, bằng các công việc cụ thể, lao động nghề nghiệp, vốn liếng kinh
nghiệm - trải nghiệm của chính mình rồi tự rút kinh nghiệm và đi đến tự lập" [51,
tr.349]. Quá trình hoạt động, đạo Cao Đài luôn nêu cao đạo đức của người tu hành
và điển hình là đạo đức của các vị chức sắc đứng đầu như: Quyền Giáo tông Lê Văn
Trung, Hộ pháp Phạm Công Tắc, Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, Chưởng pháp
Trần Đạo Quang, Chưởng pháp Cao Triều Phát, Giáo tông Nguyễn Bửu Tài,… trở
thành tấm gương cho chức sắc, tín đồ noi theo.
Sau khi thành lập, đạo Cao Đài đã tạo ra một lực lượng quần chúng đông
đảo, tác động mạnh đến cư dân Nam Bộ giúp trấn an tinh thần, củng cố đức tin, gieo
79
tư tưởng đúng đắn, nêu gương sáng về đạo đức tu hành, tạo được niềm tin trong
chức sắc, tín đồ. Quyền Giáo tông Lê Văn Trung là người có công khai đạo Cao Đài
với chính quyền Pháp qua tờ khai tịch Đạo ngày 23-8-Bính Dần (ngày 28-8-1926).
Ông thay mặt cho 28 vị chức sắc, đại diện cho 247 tín đồ Cao Đài mang tờ khai tịch
Đạo đến Thống đốc Nam Kỳ, Le Fol để tuyên bố: "Kể từ ngày nay chúng tôi đi phổ
thông Ðại Ðạo khắp cả hoàn cầu" [44, tr.16]. Trước khi làm Quyền Giáo tông, Lê
Văn Trung nêu cao gương đạo đức tu hành, tích cực đi thuyết đạo để vận động
người nhập môn vào đạo Cao Đài. Những ngày đầu lập Đạo, chính quyền thực dân
Pháp luôn gây sức ép và do lòng người chưa thuận khiến cho công việc của Hội
thánh Tây Ninh gặp nhiều trở ngại. Với trách nhiệm của người đứng đầu, ông luôn
bình thản trước những nguy nan như biết được quy luật của nó: "Ðương giữa buổi
nguy nan như thế, ông Lê Văn Trung vẫn cứ điềm tĩnh, ngồi lo sắp đặt công
việc,…" [44, tr.158]. Tu hành đã giúp cho ông Lê Văn Trung trở thành người tự tin,
nắm bắt được quy luật của xã hội để có ứng xử hài hòa, tự tại.
Đầu sư Nguyễn Ngọc Tương khi còn làm việc tại Tòa thánh Tây Ninh đã
chỉnh đốn việc ăn uống tại Tòa thánh. Do khi mới thành lập, việc ăn uống tại Tòa
thánh Tây Ninh có sự phân cấp rõ ràng. Chức sắc lớn trong đạo không ăn chung
cùng chức việc và tín đồ. Thấy vậy, ông Nguyễn Ngọc Tương xem xét các phòng ăn
của đạo hữu làm công quả và thường xuyên ăn cơm cùng với đạo hữu. Sau khi
nghiên cứu thực tế, ông Nguyễn Ngọc Tương đề nghị giảm bớt số tiền ăn của chức
sắc lớn để thêm vào số tiền ăn của đạo hữu và cử người kiểm soát chu đáo mọi việc
thu chi lúa gạo, lương thực của phòng trù. Kết quả là vừa tiết kiệm nhiều tiền bạc
lương thực của Hội thánh vừa nâng được mức ăn cho đạo hữu. Về tinh thần đã xóa
bớt được chế độ phân cấp trong ăn uống, tình cảm giữa chức sắc lớn và đạo hữu
được gắn bó hơn. Khi về Bến Tre lập Cao Đài Ban Chỉnh đạo và được công cử lên
phẩm Giáo tông, ông đề nghị Hội thánh lập Uỷ ban chọn lựa và kiểm duyệt các kinh
sách đạo được in lại. Các vị này sẽ xem xét, lựa chọn và cho in những kinh sách phù
hợp với đường hướng chỉnh đạo của Hội thánh. Ông Nguyễn Ngọc Tương còn làm
gương về sự chuyên cần trong sinh hoạt. Một buổi làm việc của ông được ghi lại
như sau: "Sáng sớm, Người thức dậy lúc 5 giờ, cùng rồi tịnh đến 6 giờ ra ăn cháo,
80
đọc sách báo. 7 giờ, đến văn phòng làm việc. 8 giờ, cỡi xe đạp đi viếng các cơ sở
như: Học đường, Hạnh đường, Dưỡng đường, các cơ sở công nghệ và 9 giờ sở rẫy.
10 giờ, trở về văn phòng làm việc. 11 giờ, cúng rồi tịnh,…" [38, tr.42].
Đạo Cao Đài đã hình thành lối sống văn minh cho tín đồ, từ việc thay đổi
nếp ăn uống, sắp xếp thời gian tu hành và làm việc hiệu quả, khoa học. Những thay
đổi trong đời sống hằng ngày của người đạo đã có tác động nhất định đến rèn luyện
đạo đức, lối sống của tín đồ. Đồng thời, những tấm gương của các chức sắc đứng
đầu đã ảnh hưởng tích cực đến cư dân Nam Bộ và nhất là ở nơi có Toà thánh,
Thánh thất hoạt động, tạo ra tinh thần hiếu học, siêng năng, lối sống văn minh trong
mỗi gia đình đạo và tín đồ.
Hiện nay, đạo Cao Đài có nhiều hoạt động tôn giáo tiến bộ, góp phần tích cực vào
việc xây dựng đời sống văn hóa, văn minh trong cộng đồng. Hình ảnh những chức sắc,
tín đồ đạo Cao Đài mặc áo dài trắng, đội khăn xếp hòa cùng dòng người trên đường trở
nên dung dị, quen thuộc và tác động đến đạo đức, lối sống của cư dân Nam Bộ.
3.2.2. Giá trị cố kết cộng đồng
Nguyễn Hồng Dương cho rằng vai trò của tôn giáo nội sinh với văn hóa và
phát triển ở Nam Bộ thể hiện ở 3 lĩnh vực: "cố kết cộng đồng, khai hoang lập ấp,
giáo dục lối sống" [34, tr.267]. Từ quan niệm nêu trên, nghiên cứu sinh phân tích
giá trị cố kết cộng đồng của đạo Cao Đài qua các đặc trưng là: ý thức về cộng đồng,
mỗi người là một bộ phận của cộng đồng; yên tâm, tự tin được chia sẻ; đóng góp,
hy sinh cho cộng đồng đồng đạo và cho dân tộc.
3.2.2.1. Ý thức về cộng đồng, mỗi người là một bộ phận của cộng đồng
Trong điều kiện thiên nhiên vừa phong phú vừa khắc nghiệt, cùng với an
ninh, trật tự không đảm bảo giặc cướp nổi lên, người dân phải hợp lực với nhau,
sống quần cư để sản xuất, bảo vệ thành quả khai hoang và bảo vệ tính mạng con
người. Quá trình khai hoang và đấu tranh cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, người dân
Nam Bộ đã tạo thành cộng đồng làng xã để hỗ trợ nhau trong lao động sản xuất,
sinh hoạt hằng ngày và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo: "Trong tâm thức của người
Việt Nam, nhà - làng - nước là ba phạm trù gắn bó chặt chẽ với nhau. Sự bình an
trong cuộc sống được hình thành từ đó" [15, tr.151].
81
Sự ra đời của đạo Cao Đài đáp ứng được nhu cầu gắn kết cộng đồng, thành
lập tổ chức có sự quản lý, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Sinh hoạt hằng ngày trong
lao động sản xuất, ốm đau, cưới hỏi, tang ma, dựng nhà,… người dân cùng hỗ trợ
nhau nhưng khi gia nhập tổ chức tôn giáo, các hoạt động này đã được thiêng liêng
hóa trở thành sự ràng buộc, là trách nhiệm của mỗi thành viên trong cộng đồng.
Những công việc này trở thành điều kiện bắt buộc không mang tính thương mại
mua bán mà tự nguyện, tự giác của mọi người. Điều này cho thấy tôn giáo đã liên
kết, cố kết con người trong một ấp, một xã (một Họ đạo) bằng sự thiêng liêng để họ
gắn bó với làng xã, với mảnh đất Nam Bộ. Sự gắn kết tâm linh trở thành chủ đạo để
các tôn giáo ở đứng vững trước các biến động của lịch sử. Trong sinh hoạt hằng
ngày, tín đồ đạo Cao Đài được đồng đạo giúp đỡ trong việc hiếu, hỷ và sản xuất:
"Đ
" [20, tr.5].
Tín đồ tại Họ đạo có trách nhiệm tuân lệnh của chức sắc Cai quản Họ đạo,
không được phép làm chuyện trái đạo. Mỗi tháng vào hai ngày Sóc Vọng (ngày
mùng Một và ngày Rằm/Âm lịch) hằng tháng, tín đồ phải về Thánh thất để hành lễ.
Chức sắc ở tại Thánh thất quy định mỗi ngày cúng tứ thời, tín đồ quy định cúng tứ
thời tại gia hoặc Thánh thất. Khi gia nhập đạo Cao Đài, tín đồ được sống trong môi
trường văn hoá cộng đồng có thiết chế về tổ chức, về hoạt động. Đặc biệt, người tín
đồ đạo Cao Đài được cộng đồng tại Họ đạo quan tâm, hỗ trợ hoạt động trong sinh
hoạt tôn giáo và xã hội. Nguyễn Duy Hinh cho rằng đạo Cao Đài đã xây dựng được
một làng tôn giáo: "Một, làng toàn tòng một tôn giáo, chỉ có một bộ máy đạo - đời
làm một. Thời xa xưa đã có. Thời cận hiện đại có lẽ còn làng Cao Đài ở Tây Ninh là
làng tôn giáo, ở đó đạo và đời được cùng một bộ máy đại diện" [61, tr.437]. Điều
này cho thấy sự gắn kết trong cộng đồng ở Họ đạo của đạo Cao Đài mang đặc điểm
riêng không lẫn với các tôn giáo khác.
Khi gia đình người đạo có việc về hôn nhân, tang lễ thì được những người
trong Họ đạo đến giúp đỡ, chia sẻ. Trong cuốn sách Bước đầu học đạo của Nguyễn
82
Văn Hồng có câu chuyện về việc nhập môn vào đạo. Một người hàng xóm thấy gia
đình người tín đồ đạo Cao Đài khi từ trần được người đạo lo hết các công việc từ
mua quan tài, tụng kinh siêu thoát, tổ chức lễ tang, có đất nghĩa địa để chôn,… Từ
sự việc đó, người hàng xóm đã xin gia nhập đạo Cao Đài với mục đích cụ thể để khi
mất đi cũng được tổ chức lễ tang như người tín đồ Cao Đài: "Dù gia đình giàu có ở
ngoài đời, chịu tốn nhiều tiền, cũng không thể tổ chức được một đám tang tốt đẹp
như vậy. Ông Út Mô cảm thấy rất khâm phục đạo Cao Đài và trong trí ông lóe lên
tư tưởng: hay là mình xin gia nhập vào đạo Cao Đài" [71, tr.9].
Sự hỗ trợ, chia sẻ trong cộng đồng đã tạo cho đạo Cao Đài sức hấp dẫn, lôi
cuốn để người dân tin theo, mỗi người đều có ý thức góp phần vào công việc chung
của cộng đồng và trở thành một giá trị đạo đức đáng quý.
3.2.2.2. Yên tâm, tự tin được chia sẻ
Khi sống trong môi trường tôn giáo, được đùm bọc sẻ chia của mọi người
trong cộng đồng, tín đồ đạo Cao Đài thấy tự tin, bình an trong cuộc sống. Cùng một
cộng đồng thờ chung một Đấng thiêng liêng sẽ tạo cho họ sự đồng cảm, tình thương
yêu, nhân từ của con người: "Sự gần gũi, đồng cảm của những cộng đồng có chung
một tôn giáo cùng tôn thờ chung một Chúa đã làm cơ sở để nảy sinh sự gắn kết, tình
yêu thương, nhân từ giữa con người với con người".
Từ người cô đơn, trẻ mồ côi, người già neo đơn đến người tu hành bình
thường đều được sự ân cần của các chức sắc, sự sẻ chia của đồng đạo trong sinh
hoạt hằng ngày. Điều này, làm cho họ an tâm làm ăn, sinh sống, tu hành:
Có trì giới thì đời sống tu hành mới có nề nếp trật tự.
Có nề nếp trật tự, mới có sự vừa lòng thuận ý.
Có vừa lòng thuận ý, mới có sự hoan hỷ.
Có hoan hỷ mới có thanh tịnh.
Có thanh tịnh mới có an tâm [93, tr.155].
Tín đồ đạo Cao Đài khi đã an tâm tu hành, họ tìm thấy sự sáng suốt qua tu
luyện tinh thần, vượt qua những cám dỗ của cuộc đời. Họ sẵn sàng chia sẻ với mọi
người nhận thức về vũ trụ quan, nhân sinh quan, xã hội quan. Có rất nhiều chức sắc,
nhà tu hành trong đạo Cao Đài đã chia sẻ bằng hình thức như hồi ký, luận bàn giáo
83
lý, sưu tầm đạo sử,... Quyền Giáo tông Lê Văn Trung của Cao Đài Tây Ninh viết
cuốn Phương châm hành đạo để tín đồ hiểu quy tắc hành đạo và mong muốn thực
hiện đúng tôn chỉ, mục đích của đạo Cao Đài: "..., mong rằng chư Ðạo hữu lưỡng
phái nam nữ nhứt tâm hành sự theo qui tắc chuẩn thằng, thì rất may mắn cho nền
Ðạo, mà lại cũng là một điều hân hạnh cho tôi lắm đó" [147, tr.4].
Đầu sư Hương Hiếu, chức sắc cao cấp trong thời kỳ đầu lập đạo Cao Đài đã
viết cuốn Đạo sử xây bàn miêu tả quá trình hình thành đạo Cao Đài thủa ban đầu
qua các đàn cơ và vai trò của cơ bút đối với nền đạo Cao Đài. Đến với đạo Cao Đài
bà Hương Hiếu có điều kiện được tiếp cận, tìm hiểu về vai trò của việc cầu cơ và
bằng trí quan sát, nỗ lực bản thân đã ghi lại cho hậu thế hiểu rõ. Đó chính là công
lao của bà, giúp cho: "..., thế hệ đương kim chỉ có công đọc mà hiểu biết phần nào
mầu nhiệm của Ðạo, nếu không đọc thật uổng" [59, tr.11].
Thanh đồng Lê Văn Sáu xuất thân trong gia đình trung lưu ở Long An khi
vào đạo Cao Đài được phục vụ Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương của Cao Đài Ban
Chỉnh đạo đã trở thành con người hiểu biết và thông đạt cách ứng xử trong Đạo
và xã hội. Ông viết trong cuốn Hồi ký về Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương biểu
hiện tinh thần hy sinh vì nền Đại Đạo và nguyện mãi xứng đáng làm môn đệ của
Ngài: "Vì lời nguyện với Ngài, tôi ghi lại quyển "Hồi ký" để thế hệ mai sau thấu
đạt, học tập rèn luyện tu thân, hành đạo theo gương hạnh của Ngài mới xứng
đáng làm con cái của Thầy, môn đệ của người Anh Cả Thiêng Liêng cao quý đã
vì Đạo, vì nhơn sanh mà hy sinh tất cả" [117, tr.1]. Đến hôm nay, tín đồ Cao Đài
Ban Chỉnh đạo vẫn luôn ghi nhớ và học theo tấm gương đạo đức của Giáo tông
Nguyễn Ngọc Tương, đồng thời trân trọng tình cảm, sự hy sinh của thanh đồng Lê
Văn Sáu trong quá trình tu hành.
Sự tự tin chia sẻ quan điểm của bản thân giúp tín đồ đạo Cao Đài cởi mở
trong giao tiếp, dung hòa các mối quan hệ tạo được bản sắc của đạo Cao Đài không
phân biệt đẳng cấp, hòa đồng về vật chất và quyền lợi. Vượt qua những trở ngại của
xã hội, tín đồ đạo Cao Đài xây dựng tinh thần đại đồng coi nhau như anh em trong
một gia đình, cùng chung một cha để đoàn kết, gắn bó với nhau trên đường đạo và
đường đời.
84
3.2.2.3. Đóng góp, hy sinh cho cộng đồng đồng đạo và cho dân tộc
Tín đồ đạo Cao Đài sẵn sàng cống hiến, đóng góp và hy sinh cho cộng
đồng đồng đạo. Đó là tinh thần mà đạo Cao Đài đem tới cho mỗi tín đồ. Giáo
hữu Bùi Văn Tâm cho rằng: "Giá trị con người không do của cải vật chất người
có, không do dáng vóc, sắc tướng, y phục bên ngoài mà do tinh thần phục vụ,
biết hy sinh cho việc phải điều lành, do sức mạnh của tình thương bình đẳng"
[122, tr.57]. Tinh thần vì cộng đồng của tín đồ đạo Cao Đài thể hiện bằng sự
đoàn kết thương yêu và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Điều này chính là tinh thần
phục vụ, hy sinh vì mọi người.
Khi gia nhập đạo, tín đồ được dạy phương pháp tu hành tam công: công phu,
công quả, công trình nhằm sẵn sàng đóng góp sức người, sức của cho cộng đồng
Cao Đài. Tinh thần tu hành theo tam công rất quan trọng trong giáo lý của đạo Cao
Đài. Lập công quả là hy sinh tư lợi để hành đạo vì xã hội, vì đạo; lập công trình là
rèn luyện bản thân theo giới luật trở thành người hạnh đức; lập công phu là tu luyện
tinh thần tiến hóa về đạo pháp. Trong tam công thì công quả yêu cầu sự hy sinh bản
thân để giúp đời, giúp đạo. Theo quan niệm của tín đồ đạo Cao Đài làm công quả
là:"…phát xuất từ lòng tự nguyện tự giác, thiết tha với nó, xem nó là mục đích của
đời mình" [102, tr.124]. Nghĩa là gắn việc làm công quả như mục đích sống của con
người trên tinh thần tự nguyện, tự giác.
Sự đóng góp, hy sinh cho cộng đồng đồng đạo được biểu hiện qua hành động
tự nguyện của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài. Năm 1937, khi tín đồ Cao Đài tham gia
xây dựng Tòa thánh Tây Ninh chủ yếu là thợ hồ, thợ mộc, thợ sắt muốn làm công
quả, họ tự nguyện thực hiện điều kiện: "Nếu ai muốn làm công quả, phải trọn hiến
thân… Nam thì tu chơn, nữ thì thủ trinh. Tình nguyện cho đến khi tạo Đền Thánh
xong" [23, tr.270]. Năm 1938, đạo Cao Đài ra Đạo luật quy định tín đồ toàn đạo
phải thực hiện làm công quả 5 ngày mỗi năm để tu tạo Tòa thánh và các cơ sở đạo:
"Toàn Ðạo nam nữ mỗi năm phải giúp cho Hội thánh 5 ngày công quả đặng tu tạo
Tòa thánh và các dinh thự nơi Thánh Ðịa cho đến ngày nào hoàn tất" [40, tr.25].
Việc làm công quả từ tinh thần tự nguyện đã trở thành công việc bắt buộc và người
đạo Cao Đài thấy đó là nghĩa vụ, bổn phận cần thiết của một tín đồ.
85
Từ quy định trong giáo luật đã tác động đến hành động của con người, tạo
cho tín đồ Cao Đài có tinh thần tự giác, sẵn sàng đóng góp, hy sinh vì cộng
đồng. Đời sống của tín đồ đạo Cao Đài còn hạn chế về vật chất nhưng mạnh về
tinh thần, khi có việc cần thiếthọ đều tích cực tham gia. Câu chuyện "Nước mắt
mặn bằng nước chấm" của Họ đạo Phụng Sơn thuộc Cao Đài Cầu Kho Tam
Quan ở xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thể hiện tinh thần vì
cộng đồng. Do hậu quả chiến tranh, mảnh đất xây dựng Thánh thất có nhiều bom
mìn, chức sắc, tín đồ ở Họ đạo Phụng Sơn không có tiền để thuê nên tự tổ chức
rà soát bom mìn với tinh thần vì Thầy, vì Đạo: "Sau ba ngày làm việc, Lễ sanh
Bùi Vinh cùng bổn đạo đã lượm được tổng số 84 quả đạn các loại, rồi mời
Huyện đội, Xã đội đến xử lý". Trong xã hội hiện nay, hành động của Họ đạo
Phụng Sơn khó chấp nhận vì gây nguy hiểm đến tính mạng con người. Nhưng
trong thế giới tinh thần của tôn giáo, họ sẵn sàng làm bằng niềm tin tín ngưỡng
cao cả và hành động dũng cảm vì lợi ích của cộng đồng. Khi tu hành, con người
có được tinh thần cao thượng, biết thương yêu, biết hy sinh và biết niềm vui sống
là hạnh phúc của đời người. Ở vùng quê nghèo nhưng lại giàu tình nghĩa, khi Họ
đạo Phụng Sơn tổ chức cất tấm lần thứ nhất, hàng trăm bà con xung quanh đến
giúp không kể công, trong đó có người hỗ trợ ximăng cho xe chở đến mà giấu
tên. Và còn nhiều câu chuyện, nhiều tấm gương đóng góp, hy sinh cho cộng
đồng của đạo Cao Đài không thể kể hết được.
Đó là tinh thần đặc trưng của con người trong tổ chức tôn giáo bởi họ thấy sự
thích hợp trong tâm linh, phù hợp trong cuộc sống. Giá trị đạo đức của tôn giáo, giá
trị nhân văn của con người góp phần vào việc xây dựng con người đạo đức, xã hội
văn minh trong thời đại hiện nay của đất nước.
Bên cạnh, tinh thần đóng góp hy sinh cho cộng đồng đồng đạo, chức sắc, tín
đồ đạo Cao Đài còn đóng góp hy sinh cho dân tộc qua các hoạt động yêu nước, gắn
bó với dân tộc. Tinh thần yêu nước là một trong những giá trị tiêu biểu của dân tộc
Việt Nam. Trần Văn Giàu khẳng định: "Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm
và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam" [49, tr.100]. Quá trình
tồn tại, đạo Cao Đài biểu hiện tinh thần yêu nước qua hoạt động đấu tranh chống
86
ngoại xâm và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đây là biểu hiện cao nhất của giá
trị cố kết cộng đồng trong đạo Cao Đài từ giai đoạn đầu hình thành đến năm 1975.
Đạo Cao Đài ra đời trong hoàn cảnh mất nước nên chịu sự tác động của đời
sống chính trị - xã hội ở Nam Bộ. Các phái Cao Đài phân hoá về hoạt động, chia
thành ba xu hướng hoạt động chính: xu hướng thứ nhất là yêu nước theo cách mạng
để thay đổi cuộc sống bị áp bức; xu hướng thứ hai là theo thực dân xâm lược chấp
nhận cuộc sống bị đô hộ, áp bức; xu hướng thứ ba là không tham gia chính trị an
phận với cuộc sống tu hành. Trong ba xu hướng nêu trên thì xu hướng thứ nhất đã
trở thành giá trị cao đẹp của đạo Cao Đài trong lịch sử tồn tại góp phần vào công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Xuất phát từ tinh thần "phụng đạo, yêu nước", đa số các phái Cao Đài tham
gia kháng chiến cứu quốc. Cao Đài Minh Chơn đạo ở Cà Mau thực hiện đường
hướng hoạt động gắn bó với dân tộc, giúp tín đồ làm ăn tập thể chống chính sách áp
bức, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, ông Cao Triều Phát quyết định lập căn cứ kháng chiến tại Giồng Bốm để
chống lại thực dân Pháp xâm lược. Ông Cao Triều Phát vận động chức sắc, tín đồ
tham gia bằng câu nói thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc: "Tôn giáo có nhiều bàn
thờ, còn Tổ quốc chỉ có một bàn thờ mà thôi" [72, tr.163]. Ngày 14-2-1946, thực
dân Pháp đã tấn công Giồng Bốm: "..., Pháp đưa khoảng 2 tiểu đoàn chia làm 3 mũi
tiến đánh, có phi pháo bắn yểm trợ dữ dội, trước khi chúng tiến quân". Nghĩa quân
Cao Đài đã quyết tử chiến đấu với địch nhưng đã thất bại và bị quân Pháp thảm sát
dã man hàng trăm tín đồ, đốt phá các cơ sở của Đạo. Đạo quân áo trắng đã tiêu diệt
được hơn 100 tên địch đồng thời viết nên một trang sử vẻ vang về đạo Cao Đài. Ý
chí quật cường, hy sinh anh dũng của nghĩa quân áo trắng gây tiếng vang lớn khắp
miền. Nó trở thành nguồn cổ vũ, khích lệ tinh thần yêu nước trong tín đồ đạo Cao
Đài và nhân dân Nam Bộ.
Cao Đài Ban Chỉnh đạo có đường hướng hoạt động gắn bó với dân tộc. Tư
tưởng của ông Nguyễn Ngọc Tương là thu nhận và phong chức cho những chức sắc
có tinh thần yêu nước và bãi chức, miễn nhiệm chức sắc có tư tưởng theo giặc. Hai
người con trai của ông là Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Ngọc Nhựt đều trở thành
87
cán bộ cao cấp của cách mạng trực tiếp tham gia kháng chiến cứu nước. Nguyễn
Ngọc Nhựt khi bị Pháp bắt đã thể hiện dũng khí của người yêu nước không chịu
khuất phục trước kẻ thù, viết thư trả lời Thiếu tướng Boyer de Latour, Tư lệnh
quân viễn chinh của chính quyền Pháp từ chối hợp tác với giặc, tin tưởng vào sự
nghiệp kháng chiến sẽ thắng lợi của dân tộc: "Khi bắt buộc phải chọn lựa, bao
giờ người dân cũng chọn kẻ chiến thắng" [73, tr.71-72]. Sự hy sinh của Nguyễn
Ngọc Nhựt là tấm gương sáng của ý chí anh dũng và lòng yêu nước nồng nàn,
thể hiện dũng khí của người chiến sỹ cách mạng kiên trung với niềm tin son sắt
vào thắng lợi của dân tộc.
Trong thời kỳ 9 năm kháng chiến chống Pháp, một số chức sắc Cao Đài Tiên
Thiên bị Pháp bắt với tội danh chính trị phạm lưu đày Côn Đảo 5 năm khổ sai, 10
năm biệt xứ, tịch biên gia sản và đóng cửa toàn bộ thánh tịnh của Cao Đài Tiên
Thiên: "… trong hàng chức sắc và tín đồ Cao Đài Tiên Thiên có nhiều cựu chính trị
phạm thời Pháp thuộc từng bị đày ở Côn Đảo, tính ra có gần 200 chính trị phạm ở
Côn Đảo" [68, tr.41]. Thể hiện tinh thần dân tộc không hợp tác với giặc, một số
chức sắc Cao Đài Tiên Thiên đã hành động anh dũng nhưông Nguyễn Phú Thứ tự
dùng dao mổ bụng trước quân xâm lược để giữ nghĩa khí của vị chức sắc yêu nước.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Cao Đài Tiên Thiên đã quyên góp ủng hộ cách mạng
300 chiếc thuyền, bảo vệ 3.000 tu sỹ không đi quân dịch, vận động được 1/2 Tiểu
đoàn Ngụy trở về không làm tay sai cho Mỹ, tổ chức cầu nguyện hoà bình tại Thánh
tịnh Ngọc Sơn Quang ở Vĩnh Long thu hút hàng vạn người tham dự: "…, lập diễn
đàn chống Mỹ Ngụy đòi chấm dứt chiến tranh, đòi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt
Nam, trả quyền tự do cho nhân dân miền Nam" [6, tr.23]. Cao Đài Tiên Thiên luôn
tự hào là phái có ba đời Giáo tông yêu nước: Giáo tông Phan Văn Tòng, Giáo tông
Nguyễn Bửu Tài và Quyền Giáo tông Đặng Văn Huẩn.
Một bộ phận chức sắc, tín đồ Cao Đài Tây Ninh có tinh thần yêu nước tham
gia hoạt động cách mạng và tích cực đóng góp vào sự nghiệp giải phóng đất nước.
Tiêu biểu như Phối sư Đặng Trung Chữ, Tư lệnh đệ nhị Sư đoàn quân đội Cao Đài
tham gia Mặt trận Việt Minh dẫn đầu đoàn chức sắc, tín đồ Cao Đài Tây Ninh mít
tinh ủng hộ cách mạng: "…đã xuống đường với cờ băng khẩu hiệu cùng các đoàn
88
thể quần chúng kéo vào thị xã Tây Ninh dự cuộc mít tinh lớn để biểu dương lực
lượng" [166, tr.278]. Năm 1947, tỉnh Tây Ninh thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân
Việt Nam do Mặt trận Việt Minh làm nòng cốt. Một số nhân sỹ, trí thức tôn giáo đã
tham gia, trong đó có ông Phạm Trung Kiên anh ruột của Hộ pháp Phạm Công Tắc
được bầu làm Phó Chủ tịch. Cũng trong năm 1947, tại Đồng Tháp Mười, Cao Đài
Cứu quốc 12 phái hiệp nhất được thành lập do ông Cao Triều Phát, Cao Đài Minh
Chơn đạo làm Chủ tịch, ông Nguyễn Văn Khảm, Cao Đài Tây Ninh làm Phó Chủ
tịch và ông Hoàng Minh Viễn, Cao Đài Tây Ninh làm uỷ viên, ông Thượng phẩm
Cao Huệ Chương, Cao Đài Tây Ninh được bầu làm Chưởng quản Hiệp Thiên đài,...
Những năm gần giải phóng, Cao Đài Tây Ninh có 500 cơ sở cốt cán và hàng trăm
thanh niên tham gia lực lượng vũ trang góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ngoài ra, các phái Cao Đài khác như: Cao Đài Chiếu Minh Long Châu, Cao
Đài Bạch Y, Cao Đài Chơn Lý, Cao Đài Cầu Kho - Tam Quan, một bộ phận chức
sắc, tín đồ Truyền giáo Cao Đài cũng tích cực tham gia cách mạng đấu tranh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Tổng kết đóng góp của các phái Cao Đài qua 02 cuộc
kháng chiến cứu nước có: "hơn 4.000 liệt sỹ, 10.000 thương binh, 400 bà mẹ Việt
Nam anh hùng và nhiều gia đình có công với cách mạng, nhiều huân, huy chương
được Nhà nước trao tặng,..." [16, tr.15].
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đạo Cao Đài tiếp tục
phát huy truyền thống yêu nước để đoàn kết tôn giáo, tham gia các hoạt động xã
hội. Năm 2006, nhân dịp tổ chức lễ kỷ niệm 60 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm
Thánh thất Cao Đài Thủ đô được tổ chức tại Hà Nội, đoàn đại biểu chức sắc đạo
Cao Đài đến chào thăm Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Tại buổi tiếp, Chủ tịch
nước mong rằng các chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài giữ gìn, phát huy truyền thống tốt
đẹp "phụng Đạo, yêu Nước", đoàn kết với nhau cùng tham gia xây dựng đất nước
và minh họa bằng câu chuyện bó đũa trong truyện ngụ ngôn Việt Nam. Từ ý kiến
của Chủ tịch nước, các phái Cao Đài đã có sáng kiến thành lập tổ chức liên giao
hành đạo nhằm thực hiện các hoạt động chung về giáo dục đào tạo, báo chí và từ
thiện xã hội. Từ năm 2008 đến nay, các phái Cao Đài đã tổ chức 8 hội nghị liên giao
hành đạo và đạt được một số kết quả: về tổ chức gia tăng từ 12 tổ chức lên 21 tổ
89
chức; về từ thiện xã hội đã đóng góp tổng giá trị trên 200 tỷ đồng; về hoạt động báo
chí thành lập Tạp chí Cao Đài để phổ biến giáo lý, giáo luật, đời sống tôn giáo của
đạo Cao Đài; thống nhất thành lập Học viện Cao Đài tại Bến Tre và đang tiến hành
hoàn thiện hồ sơ xin phép chính quyền nhà nước chấp thuận.
Với tinh thần vừa hành đạo vừa tham gia tham gia kháng chiến cứu quốc,
đồng bào đạo Cao Đài đã thể hiện tinh thần yêu nước sẵn sàng hy sinh vì tình yêu
quê hương, đất nước với niềm tin vào chiến thắng của chính nghĩa, của dân tộc.
Chức sắc Cao Đài vốn có tinh thần yêu nước, lại sẵn có đầu óc tổ chức nên khi có
lực lượng tín đồ trong tay, họ đã nhanh chóng phát triển thành phong trào yêu nước
ở khắp các tỉnh Nam Bộ. Lúc đầu, phong trào này chỉ mang tính tự phát nhưng sau
đó được Đảng giác ngộ, tổ chức và định hướng đấu tranh nên phong trào yêu nước
của đồng bào theo đạo Cao Đài trở thành một bộ phận không thể thiếu của cách
mạng miền Nam trong hai cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc.
Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, đạo Cao Đài đã phát
huy truyền thống quý báu đó, tích cực vận động tín đồ tham gia các hoạt động phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, từ thiện, nhân đạo,... ở địa phương, chấp hành các quy
định của pháp luật nhà nước và đóng vai trò trong việc đoàn kết tôn giáo ở Nam Bộ
(Các Hội thánh và tổ chức Cao Đài tự nguyện liên giao hoạt động chung với nhau
trên một số lĩnh vực báo chí, đào tạo và từ thiện nhân đạo. Hình thức đoàn kết tôn
giáo này tồn tại từ năm 2008 đến nay vẫn đang hoạt động thu hút 10 Hội thánh Cao
Đài, 21 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập và Hội thánh Minh Lý đạo Tam Tông
Miếu ở thành phố Hồ Chí Minh trở thành mô hình tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết
tôn giáo). Chính vì vậy, đạo Cao Đài đã hình thành các giá trị nhân sinh, trong đó có
giá trị cố kết cộng đồng của cư dân Nam Bộ.
3.3. GIÁ TRỊ THẨM MỸ
3.3.1. Giá trị biểu tƣợng
Đạo Cao Đài có nhiều biểu tượng như: Thánh tượng Thiên nhãn, đèn Thái
cực, cổ pháp, chữ vạn, cờ tam thanh, thuyền bát nhã, Tòa thánh, Thánh thất,…
Trong thế giới biểu tượng của đạo Cao Đài, với phạm vi nghiên cứu của đề tài,
nghiên cứu sinh lựa chọn biểu tượng Thánh tượng Thiên nhãn để nghiên cứu. Bởi
90
biểu tượng Thánh tượng Thiên nhãn được tín đồ đạo Cao Đài coi là thiêng liêng
nhất, quan trọng nhất và là biểu tượng của cái đẹp tuyệt đối, cái đẹp vĩnh hằng.
3.3.1.1. Nguồn gốc ra đời biểu tượng Thánh tượng Thiên nhãn
Mỗi tôn giáo ra đời đều có biểu tượng tinh thần thiêng liêng và toàn mỹ để
tôn thờ. Các biểu tượng thiêng liêng của tôn giáo có thể là hình tượng con người,
hình tượng vật thể, hình tượng thần thánh,… Đạo Cao Đài chọn Thánh tượng Thiên
nhãn làm biểu tượng của mình. Nguồn gốc ra đời của Thánh tượng Thiên nhãn
mang yếu tố linh thiêng khi người đệ tử đầu tiên của đạo Cao Đài là ông Ngô Văn
Chiêu (1878-1932) biết được phương pháp thông linh học với đấng thiêng liêng qua
những lần dự đàn cầu Tiên xin thuốc chữa bệnh cho mẹ (1902-1917). Thần thoại
khai đạo Cao Đài truyền dẫn: Năm 1921, ông Chiêu làm Quận trưởng Phú Quốc ở
Hà Tiên được Đức Chí Tôn giáng cơ truyền dạy phải tìm một dấu hiệu riêng biệt để
thờ. Ông Chiêu bèn chọn chữ Thập nhưng Đức Chí Tôn không đồng ý vì đó là dấu
hiệu của tôn giáo đã có rồi. Ngày 20-4-1921, ông Chiêu đang ngồi ở sau dinh Quận,
thấy xuất hiện một con mắt lớn, tỏa hào quang. Con mắt đó nhìn thẳng vào ông, làm
ông sợ hãi, lấy 2 bàn tay che mặt lại không dám nhìn, một lúc sau, ông mở mắt ra
vẫn thấy con mắt toả hào quang rực rỡ hơn nữa. Ông Chiêu bèn chắp tay vái rằng:
"Bạch Tiên Ông! Đệ tử biết rõ huyền diệu của Tiên Ông rồi, đệ tử xin Tiên Ông
đừng làm vậy đệ tử sợ lắm! Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên nhãn thì xin cho biến
mất tức thì" [18, tr.30]. Vừa khấn xong thì con mắt từ từ mờ dần rồi biến mất. Tuy
vậy, ông Chiêu vẫn chưa tin nên chưa vẽ Thiên nhãn để thờ. Vài ngày sau, ông
Chiêu lại thấy Thiên nhãn xuất hiện như lần trước, ông lại vái lạy Tiên Ông và xin
vẽ Thiên nhãn để thờ thì con mắt tự nhiên biến mất.
Lúc này, Đức Cao Đài xưng danh là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha
Tát và dạy ông Chiêu phải gọi Tiên Ông bằng Thầy. Ông Chiêu hiểu ý của Cao Đài
Tiên Ông đoán rằng đó là thiên ý của Thượng Đế, chúa tể của càn khôn vũ trụ
truyền dạy. Việc Đức Cao Đài xưng danh là Tiên Ông hiểu theo cách gọi trong dân
gian rất gần gũi với truyền thống văn hóa tín ngưỡng, thẩm mỹ bản địa của người
Việt Nam. Đây cũng là một trong những yếu tố làm cho đạo Cao Đài được nhiều
người tin theo.
91
Như vậy, sự ra đời của Thánh tượng Thiên nhãn mang yếu tố tâm linh của
con người. Ông Ngô Văn Chiêu có khả năng "thần giao cách cảm", quan hệ trực
tiếp với Thượng Đế, được nhận thiên ý lập Thánh tượng Thiên nhãn làm biểu tượng
thiêng liêng của đạo Cao Đài.
3.3.1.2. Thiên nhãn biểu tượng toàn năng của các giá trị chân - thiện - mỹ
Trong dân gian thường nói: "Trời cao có mắt", để chỉ Ông Trời, tức là Đấng
Thượng Đế, nhìn thấy rõ tất cả những hành vi thiện ác của chúng sinh, dù bộc lộ ra
ngoài hay giấu giếm bên trong, mắt Trời đều thấy rõ. Thiên nhãn có nghĩa là mắt
trời biểu hiện bằng con mắt trái của con người. Thánh tượng Thiên nhãn là biểu
tượng của Ngọc Hoàng Thượng Đế, của Đức Chí Tôn được người tín đồ đạo Cao
Đài suy tôn, thờ kính.
Con mắt trái là hình thể thuộc về vật chất mang sự màu nhiệm, huyền bí của
quyền lực vô hình trong càn khôn vũ trụ, mà thường được gọi tên là Trời. Rosemary
Ellen Guiley cho rằng mắt cũng có nhân cách, các mặt xấu đều ở bên phải: "Theo
một số truyện thần thoại, mắt cũng có nhân cách của riêng nó, từ bầu trời đảo xuống
với các mặt xấu nằm ở bên phải. Biến thể của Mắt thần Horus là mắt thấu suốt, hay
mắt huyền bí trong Đại ấn của Mỹ" [115, tr.294-295].
Thiên nhãn tượng trưng cho hình ảnh của Đức Cao Đài đã được Việt hóa với
tên gọi quen thuộc, gần gũi với phong tục của người Việt Nam là Ông Trời, tá danh
là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Tín đồ đạo Cao Đài thường nói, họ
theo đạo Ông Trời, đạo Thờ Trời. Theo Đinh Hồng Hải, đạo Cao Đài còn gọi là đạo
Trời: "Rất nhiều tín đồ Cao Đài gọi tôn giáo của mình là đạo Trời vì họ tin rằng
Thượng Đế là Đấng Sáng tạo hay Đấng Tối linh đã tạo ra các tôn giáo và vạn vật
trong vũ trụ" [53, tr.243]. Trong tâm thức người Việt khát vọng về cái chân (sáng
tạo, công bằng, lẽ phải), cái thiện (thương yêu, cứu độ, an ủi con người) luôn đi liền
với cái mỹ toàn năng hóa thần thánh, ông Tiên, ông Bụt "đẹp như ông Tiên, hiền
như ông Bụt". Con mắt của Tiên Ông nhìn thấu mọi lẽ của con người, khát vọng
nhân sinh.
Với cách hiểu dân dã, bình dị thì Thánh tượng Thiên nhãn là biểu tượng cho
Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế được gọi là Tiên Ông đem đến cho đất nước
92
Việt Nam một nền tôn giáo mới. Thánh tượng Thiên nhãn còn là biểu tượng của
tinh thần khoan dung, tích hợp, tổng hợp văn hóa và kết tinh tri thức minh triết
phương Đông và phương Tây của người Việt để xây đắp một nền Đạo có tính tổng
hợp ở đầu thế kỷ XX.
3.3.1.3. Thiên nhãn biểu tượng khoan dung văn hóa: dân tộc và nhân loại
Dân tộc ta có nền văn hóa khoan dung, hòa đồng làm cơ sở để thích nghi
các hiện tượng tự nhiên, xã hội, con người. Nhân dân ta luôn tôn trọng các tín
ngưỡng, tôn giáo. Trước tiên là các tôn giáo từ ngoại sinh vào Việt Nam như Lão
giáo, Nho giáo, Phật giáo đều được đón nhận và biến đổi cho phù hợp với tín
ngưỡng bản địa làm nên hệ giá trị đạo đức, tinh thần đặc sắc của văn hóa Việt
Nam truyền thống. Sau này, có thêm các tôn giáo như: Công giáo, Tin lành, Hồi
giáo,… cũng được một bộ phận nhân dân tiếp nhận, tin theo. Đạo Cao Đài do
người Việt Nam sáng lập đã dung hòa các tôn giáo đã có để trở thành một tôn
giáo nội sinh. Đó là kết quả của sự tiếp biến văn hóa "hỗn dung các tôn giáo
ngoại sinh và bản địa hết sức đặc biệt" [138, tr.170].
Theo quan niệm dân gian của người Trung Hoa thì Ngọc Hoàng Thượng Đế
là vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của Thiên đình: "Ngọc Hoàng Thượng Đế đứng
đầu tất cả các thần tiên có quyền lực tối cao với quyền năng tự nhiên như mây mưa
sấm chớp, nước lửa…" [53, tr.234]. Đạo Cao Đài thờ Thánh tượng Thiên nhãn là
thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, chúa tể của càn khôn vũ trụ cùng các Đấng thiêng
liêng đã lập các tôn giáo như Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo, Công giáo. Thánh
tượng Thiên nhãn thể hiện tinh thần kết hợp của các tôn giáo lớn ở Việt Nam lúc
bấy giờ và biểu hiện niềm tin vào một đấng tối cao cai quản thế giới trần thế: "Đạo
Cao Đài đồng nhất Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và Kitô giáo chung một đấng tối
cao, coi Thượng Đế và Ông Trời là một" [53, tr.242]. Tuy nhiên, các tôn giáo ngoại
sinh khi được thờ phụng trong đạo Cao Đài đã được Việt hóa. Đó là sự khoan dung,
hòa đồng, linh hoạt với mọi ảnh hưởng từ bên ngoài, đề cao chữ hòa trong giao lưu
tiếp biến văn hóa, sẵn sàng chấp nhận cái bên ngoài để tạo nên các giá trị về đạo
đức, lối sống, chuẩn mực văn hóa tôn giáo và có sức mạnh bảo tồn, phát huy bản
sắc văn hóa của dân tộc.
93
Thờ Thiên nhãn mang ý nghĩa nhân loại để thống nhất văn hóa các tôn giáo
trên thế giới thờ chung một đấng thiêng liêng là Ông Trời. Vẽ hình con mắt để
không phân biệt chủng tộc, quốc gia, dân tộc cùng chung một Đấng Tối cao là Ông
Trời, cha chung của muôn loài, vạn vật trên địa cầu. Các tôn giáo ra đời trước đây
đều chọn biểu tượng tôn thờ mang tính chất của dân tộc, quốc gia, con người nên ít
có một tôn giáo nào mang tính toàn cầu. Khi thờ biểu tượng Thiên nhãn thì đạo Cao
Đài đã không còn phân biệt tôn giáo, coi nhau đều là con chung của Thượng Đế mà
dân tộc Việt Nam được lãnh sứ mạng phổ độ nền chân lý đạo đến toàn thế giới.
Ngạn ngữ phương Tây có câu: "Con mắt là cửa sổ của tâm hồn". Nội tâm
con người biểu lộ ra bên ngoài chủ yếu qua con mắt. Đôi mắt của con người để nhìn
nhận vạn vật, còn sự hiểu biết để trí não quyết định. Cái nhìn thấy của hai con mắt
mới là chính, thấy được mới hiểu biết sáng suốt: "Biểu tượng cho tâm linh vô
hình (tâm tại nhãn), mắt Trời là thống nhất ở khắp mọi nơi, là sản phẩm của tinh
thần tổng hợp vạn giáo. Mắt Trời soi xét tất cả, không việc gì không biết" [128,
tr.308]. Đôi khi nhìn mà không thấy được, do vậy sự suy ngẫm, phán đoán, nhận
thức bởi trí tuệ của con người mà thành. Trong Thánh ngôn của đạo Cao Đài có
viết: "Thần cư tại nhãn", nghĩa là Thần trú nơi mắt. Mắt là cửa ngõ của tâm, mắt
là nơi ra vào của Thần. Thần ở đây hiểu là thần thái, thần khí của con người mà
khỏe mạnh thì trí tuệ anh minh, thần khí mà yếu đuối thì trí tuệ bạc nhược. Thần
thái, thần khí còn thì người sống. Như vậy, mắt và Thần tuy hai mà là một. Với
biểu tượng Thiên nhãn, đạo Cao Đài đã phổ thông được nền chân đạo đến với thế
giới, từ người đến muôn vật đều có sự tương đồng, không có sự khác biệt về
hình dạng, kích thước, màu sắc.
Vì vậy, khoan dung văn hóa được biểu hiện qua biểu tượng Thiên nhãn là
Thượng Đế, thực hiện mục đích "Thế đạo đại đồng", hướng tới một thế giới nhân
loại bình đẳng, hạnh phúc không phân biệt tôn giáo, dân tộc lấy nhân bản làm nền
tảng, nhân quyền được tôn trọng, nhân tính được phát huy để xây dựng một thế giới
văn minh, đạo đức, hòa bình. Tính dân tộc và nhân loại còn là tình bác ái, thương
yêu đối với muôn loài, vạn vật từ những sinh vật nhỏ nhất đến các loài cầm thú, đến
con người và cả chúng sinh.
94
3.3.1.4. Thiên nhãn biểu tượng minh triết phương Đông và phương Tây
Quan niệm về Thượng Đế và vũ trụ Cao Đài có nguồn gốc từ Lão giáo và
Dịch lý của Nho giáo. Theo Lão Tử thì trước khi trời đất xuất hiện đã có Đạo. Đó là
Đạo vĩnh cửu, không có hình dáng, không có tên gọi, nên gọi là Đạo. Quan niệm về
vũ trụ có một bản thể tối sơ gọi là hư vô chi khí, trong bản thể ấy chứa đựng hai
nguồn năng lượng nguyên thủy của Dương và Âm là Lý và Khí. Thái cực là nguyên
lý hay nguyên động lực thúc đẩy hai nguồn năng lượng Âm Dương trong vũ trụ để
sanh hóa vạn vật. Vẽ một con mắt để thờ, mà không vẽ 2 con mắt (một cặp) là bởi
vì 1 là số khởi thủy của càn khôn vũ trụ và vạn vật (theo Dịch học): 1 sanh 2, 2 sanh
3, 3 sanh vạn vật. Tức là "nhất bổn tán vạn thù, vạn thù qui nhất bổn". Cho nên, số 1
là gốc, lại là số Dương, mà Đức Chí Tôn làm chủ Dương quang. Số 1 cũng chỉ ngôi
Thái cực, là ngôi độc nhất trong càn khôn vũ trụ. Vẽ con mắt bên trái để thờ, chứ
không phải vẽ con mắt bên phải, bởi vì bên trái thuộc về Dương, bên phải thuộc về
Âm, nên khi vào Thánh thất quì cúng Đức Chí Tôn, phái nam quì bên trái của Đức
Chí Tôn; phái nữ quì bên phải của Đức Chí Tôn (nam tả, nữ hữu). Do đó, con mắt
trái tượng trưng Đức Chí Tôn và Đức Chí Tôn chưởng quản khí Dương quang.
Thờ Thiên nhãn là thờ ngôi số một, ngoài phần Dương biểu thị cho Thượng
Đế còn mang tính chân lý độc nhất, mọi sự vật, hiện tượng đều từ ngôi số một mà
ra. Thiên nhãn biểu thị tính chất tổng hợp nhất thể của đạo Cao Đài. Theo tôn chỉ
của đạo Cao Đài thì Thiên nhãn là biểu tượng của ý nghĩa "Tam giáo quy nguyên,
ngũ chi hiệp nhất" hay tư tưởng "vạn giáo nhất lý". Thiên nhãn tượng trưng cho
chân thần của Trời. Hằng ngày, tín đồ đạo Cao Đài cúng tứ thời để gom thần lực
của bản thân nhìn Thiên nhãn nhằm tạo điều kiện Thiên Nhân hiệp nhất. Con mắt
tượng trưng cho tâm, ánh sáng của mắt tượng trưng cho thần là chủ của tâm. Thờ
Thiên nhãn là thờ Thượng Đế của vũ trụ, mà cũng là Thượng Đế của chính bản thân
nội tại trong mỗi người. Trong Thánh giáo của đạo Cao Đài dạy tín đồ rằng: "Thầy
đến đặng hoàn nguyên Chơn Thần cho các con đắc đạo" [43, tr.77].
Bên cạnh việc chỉ dạy thờ Thiên nhãn, Đức Chí Tôn còn dạy tín đồ Cao Đài
đặt một ngọn đèn Thiên đăng hay còn gọi là đèn Thái cực để chiếu rọi vào Thiên
nhãn. Điều này Đức Chí Tôn muốn nói đến nguồn cội của sự sáng suốt là ánh Thái
95
cực có từ buổi khai Thiên. Ngôi của Thượng Đế là Thái cực, rồi Thượng Đế vận
chuyển Thái cực phân ra Lưỡng nghi là Âm Dương, rồi âm tăng trưởng cực đại là
Thái âm, sinh thêm Thiếu dương. Dương tăng trưởng cực đại là Thái dương sinh
thêm Thiếu dương hiện tượng này gọi là Tứ tượng. Từ Tứ tượng sinh ra Bát quái, từ
Bát quái biến hóa vô cùng mà tạo ra càn khôn thế giới và vạn vật chúng sinh.
Thiên nhãn có tính triết học biểu hiện tư duy logic biện chứng sự phát triển
của vũ trụ. Đức Chí Tôn là Đấng Tạo hóa, sáng tạo ra muôn loài, tạo ra sự sống của
trái đất được thể hiện qua biểu tượng Thiên nhãn: "Con mắt tượng trưng cho Tâm.
Thờ Thiên Nhãn là thờ Thượng Đế Chí Tôn của vũ trụ, mà cũng chính là thờ
Thượng Đế nội tại trong mỗi con người" [25, tr.65].
Biểu tượng tôn giáo trong đạo Cao Đài mang nội dung triết lý, tư tưởng, giáo
lý của đạo Cao Đài. Các biểu tượng đều hướng tới các giá trị của tôn giáo về ý
nghĩa nhân sinh, tôn chỉ, mục đích của đạo Cao Đài. Biểu tượng Thiên nhãn là một
trong những biểu tượng quan trọng nhất của đạo Cao Đài tượng trưng cho Thượng
Đế. Thực ra việc thờ Thiên nhãn không có gì mới lạ, vì từ thời Thượng cổ, người Ai
Cập, người Do Thái ở Châu Phi, người Pérou ở nam Châu Mỹ đã biết vẽ hình Thiên
nhãn trên Kim Tự Tháp để thờ Thượng Đế: "Người Ai Cập sử dụng mắt làm bùa hộ
mạng đám ma để bảo vệ chống lại điều ác và sự tái sinh ở địa ngục, biểu tượng này
trang trí trên các xác ướp, quan tài và hầm mộ" [115, tr.294]. Trong văn hoá cổ điển
Trung Quốc có hình tượng Thiên thủ Thiên nhãn Quan Âm có ngàn tay, ngàn mắt:
"Ngàn tay biểu thị cứu vớt khắp chúng sinh, ngàn mắt biểu thị quan sát khắp thế
gian" [103, tr.562]. Hiện nay, trên đồng tiền một đôla (one dollar) của nước Mỹ ở
mặt sau cũng có biểu tượng con mắt ở trên Kim Tự Tháp có 13 bậc, tượng trưng
cho 13 bang đầu tiên của nước Mỹ.
Việc lựa chọn Thánh tượng Thiên nhãn làm biểu tượng tôn giáo đem đến cho
đạo Cao Đài một màu sắc mới, mang ý nghĩa nhân sinh cao cả. Màu sắc mới đó
mang hình ảnh vừa lạ, lại vừa quen. Lạ vì con mắt đó là biểu tượng của tôn giáo
tượng trưng cho Ông Trời, quen vì con mắt đó của con người, ai cũng biết, ai cũng
có để nhìn thấy mọi sự vật hiện tượng của thế giới loài người. Triết lý thờ phụng
Thiên nhãn đem tới nhận thức nhân văn của con người, hướng con người đạt đến sự
96
hoàn thiện, hoàn mỹ thông qua việc tu luyện hàng ngày để hiệp nhất tam bửu hoà
cùng bản thể của vũ trụ. Tín đồ đạo Cao Đài tâm niệm Thiên nhãn là biểu tượng
thiêng liêng nhất, sâu sắc nhất. Hằng ngày, tín đồ đạo Cao Đài cúng tứ thời đều nhìn
Thiên nhãn để hiệp thông với Thượng Đế nhằm gọt rửa tâm hồn cho trong sạch, tu
tiến như "đang nhìn vào chính cõi tâm linh của mình" [128, tr.308]. Đồng thời cũng
được Ngọc Hoàng Thượng Đế ban phúc lành cho mỗi người đạo được tinh tấn trên
con đường tu hành để mở được huệ nhãn trở thành người minh triết và tiến tới mở
được "Thiên nhãn" của bản thân để thông suốt với vũ trụ.
Các tôn giáo xuất hiện trước đây trải qua thời gian đã bị loài người làm xa
rời bản chất thuần chân ban đầu, làm cho hình tướng càng ngày càng khác biệt
đưa đến sự phân chia không hòa hợp, không thực hiện được sứ mạng nguyên
thủy. Trước thực tại ấy, Ngọc Hoàng Thượng Đế mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
với mục đích quy các tôn giáo thành một để khắc phục các khác biệt về hình
thức, thực hiện sứ mạng thiêng liêng, hóa giải nạn kỳ thị tôn giáo, sắc tộc để
cùng nhau xây dựng một thế giới đại đồng.Tất cả tôn giáo đều từ một gốc tạo
thành. Đó là Đạo, là Thượng Đế, là Phật, là Chúa,… Tên gọi có khác nhau, hình
thức có khác nhau, cách triết lý không giống nhau nhưng có một bản thể duy
nhất, một chân lý hiệp một. Tìm hiểu biểu tượng Thánh tượng Thiên nhãn nói
riêng và các biểu tượng trong đạo Cao Đài giúp chúng ta thấy được ý nghĩa biểu
tượng tôn giáo mang yếu tố tâm linh, triết lý nhân sinh và hiểu được đức tin sâu
sắc của người đạo Cao Đài hướng đến.
3.3.2. Giá trị nghệ thuật
3.3.2.1. Kế thừa, sáng tạo, phát huy văn hóa dân tộc trong hoạt động lễ
nhạc, lễ hội, kinh điển và báo chí
* Kế thừa, phát huy và góp phần bảo tồn âm nhạc dân gian Nam Bộ
Lễ nhạc của đạo Cao Đài cũng mang âm hưởng của âm nhạc dân gian Nam
Bộ với điệu nam xuân, nam ai, thể thơ song thất lục bát, thất ngôn tứ tuyệt, thất
ngôn bát cú,... Khi hành lễ người đạo Cao Đài luôn có ban lễ nhạc với các dụng cụ
âm nhạc truyền thống như đàn cò, đàn kìm, phách, sáo, nhị,… để thể hiện giai điệu
dân tộc và ban đồng nhi đọc kinh.
97
Ngày 11.10.1996, trong buổi nói chuyện về nhạc truyền thống dân tộc Việt
Nam, Giáo sư Trần Văn Khê nhắc lại kỷ niệm về thời nhỏ ở Vĩnh Long với các
chức sắc Cao Đài như Đầu sư Nguyễn Văn Ngợi (Cao Đài Tiên Thiên) và Trần Văn
Quế (Truyền Giáo Cao Đài). Ông cho biết, nhạc Cao Đài đều do nhạc trong dân
gian Việt Nam, trong truyền thống Việt Nam đưa vào, các điệu nhạc lễ đều có mặt
trong nghi lễ của đạo Cao Đài: "Tức là âm nhạc trong đạo Cao Đài dựa vào âm nhạc
truyền thống dân gian của miền Nam một cách rõ ràng" [81, tr.84-85]. Một câu
chuyện liên quan đến nhạc lễ của đạo Cao Đài là năm 2008, đoàn đại biểu chức sắc
các Hội thánh Cao Đài đến chào thăm Chính phủ được Phó Thủ tướng Trương Vĩnh
Trọng tiếp đoàn. Mở đầu buổi tiếp kiến, Phó Thủ tướng nói rằng là người con quê
hương Bến Tre, nhà ở gần Thánh thất Cao Đài nên hằng ngày vẫn nghe câu kinh và
cất giọng ngâm:
"Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp,
Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra" [45, tr.23].
Bất ngờ với lời mở đầu vừa thân thiết vừa am hiểu nhạc lễ Cao Đài của Phó
Thủ tướng, đoàn chức sắc Cao Đài vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng và tạo cho buổi tiếp
kiến trở nên thân thiện, đầm ấm.
Đạo Cao Đài sử dụng nhạc lễ trong nghi lễ, kế thừa nhạc lễ dân gian của
Nam Bộ nên giai điệu thân thiết, gần gũi với đời sống của cư dân Nam Bộ. Khi
nghe nhạc lễ của đạo Cao Đài, người dân Nam Bộ như được trở về dòng tâm thức
truyền thống văn hóa dân tộc. Chính điều này góp phần tạo ra thành công của đạo
Cao Đài trong việc thu hút tín đồ ở Nam Bộ và hình thành giá trị nhân sinh biết lễ
nghĩa, biết ứng xử trong cuộc sống.
* Sáng tạo lễ hội mới trên nền tảng văn hóa dân tộc
Lễ hội là một phần quan trọng trong hoạt động tôn giáo. Lễ hội là hoạt động
để bày tỏ lòng thành kính qua các hình thức mang tính nghi lễ, cúng tế nhằm đáp
ứng nhu cầu tinh thần của cộng đồng. Mỗi tôn giáo đều có lễ hội riêng mang đặc
điểm văn hóa của từng tôn giáo. Cao Đài Tây Ninh được coi là gốc của đạo Cao Đài
nên khi tìm hiểu về lễ hội lựa chọn lễ vía Đức Chí Tôn và lễ hội Yến Diêu Trì Cung
của Cao Đài Tây Ninh là cơ bản nhất.
98
Người đạo Cao Đài thường truyền miệng câu nói: "Tháng một vía Cha, tháng
Tám vía Mẹ", hàm ý nói về ý nghĩa quan trọng của hai ngày lễ hội lớn nhất trong
đạo Cao Đài. Lễ vía Đức Chí Tôn được tổ chức hằng năm vào ngày Mùng 9 tháng
Giêng Âm lịch, được xem là lễ hội quan trọng nhất của đạo Cao Đài. Tại Tòa thánh
nơi Đại Đồng Xã có trưng bày triển lãm với các mô hình: Thích Ca thuyết pháp,
Thần Nông, Lục Tổ Huệ Năng, Bát Tiên, Hai Bà Trưng, Hải Thượng Lãn Ông, Mẫn
Tử Khiên, Mạnh Tông khóc măng, những hình ảnh sinh hoạt của Hội thánh, nhạc
khí sắc tộc, hoa kiểng,… và xem cách bày trí, trang hoàng của buổi lễ. Lễ vía Đức
Chí Tôn còn gọi là lễ vía Trời, vía Ngọc Hoàng Thượng Đế hay vía Cha được tổ
chức long trọng, trang nghiêm, chú trọng về phần lễ nhiều hơn về phần hội so với lễ
vía Đức Phật Mẫu.
Lễ hội Yến Diêu Trì Cung được tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng 8 Âm
lịch. Đây là lễ hội lớn nhất của đạo Cao Đài thu hút hàng vạn tín đồ tham dự, đồng
thời cũng là dịp phái nữ đạo Cao Đài trổ tài khéo léo, đảm đang làm ra những phẩm
vật, hoa quả, bánh trái đẹp mắt, sinh động để kính dâng và bày tỏ tình cảm, biết ơn
sinh thành của Đức Phật Mẫu. Do lễ hội tổ chức vào ngày Tết thiếu nhi nên lượng
người ở các nơi đến dự lễ hội khá đông. Lễ hội là sự kế thừa truyền thống văn hóa
dân tộc được biểu hiện qua tín ngưỡng thờ Mẫu, tinh thần lễ hội văn hóa nông
nghiệp, văn hóa gia đình, trọng phụ nữ. Mỗi người tín đồ khi về Toà thánh đều
mang theo sản phẩm của gia đình, của quê hương để đóng công quả với Hội thánh.
Người có nhiều mang nhiều, người có ít mang ít. Ngoài ra, họ còn đóng tiền công
quả cho Hội thánh để có tiền tổ chức lễ hội. Nhận xét về lễ hội của đạo Cao Đài,
ông Trang Văn Hải, nguyên Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh Tây Ninh cho rằng lễ Hội
Yến Diêu Trì Cung để "giáo dục truyền thống hào hùng của dân tộc, hiếu đạo của
con người Việt nói chung và dân Nam Bộ nói riêng" [55, tr.2]. Lễ hội của đạo Cao
Đài đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa lễ hội của cư dân Nam Bộ.
* Sử dụng nghệ thuật ngôn từ (thể thơ dân tộc) truyền bá kinh điển
Kinh điển của đạo Cao Đài có hệ thống kinh sách có giá trị cao trong đời
sống tinh thần của người tín đồ. Đầu tiên là Thánh ngôn hiệp tuyển là tập hợp
những lời dạy của Thượng Đế cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật thông qua cơ bút để
99
truyền lại tư tưởng cho đời sau, dành cho người tu phổ độ nhằm nâng cao đạo đức
của tín đồ đạo Cao Đài. Thứ hai là Đại Thừa Chơn giáo là bộ kinh được Thượng Đế
chỉ dạy thông qua cơ bút để truyền lại tư tưởng cho đời sau, dành cho người tu vô vi
trong đạo Cao Đài. Đại Thừa chơn giáo phản ánh về vũ trụ quan, nhân sinh quan và
các mặt trong đời sống tu hành của người đạo Cao Đài. Ngoài ra, đạo Cao Đài còn
có nhiều kinh điển như: Thánh Đức Chơn truyền trung đạo của Cao Đài Tiên Thiên,
Thi văn diệu lý của Cao Đài Minh Chơn đạo, Tuyên ngôn dạy đạo của Cao Đài Ban
Chỉnh đạo, Tà chánh yếu ngôn và Huấn nữ từ âm của Truyền Giáo Cao Đài, Ngọc
Đế chơn truyền Tân ước tri nguyên của Cao Đài Bạch Y, Thánh giáo sưu tầm của
Cao Đài Chơn Lý, Tân luật, Pháp Chánh truyền, Kinh Thiên đạo - Thế đạo,… Điều
này đã chứng minh kho tàng kinh điển của đạo Cao Đài có giá trị to lớn trong đời
sống tinh thần của tín đồ. Thơ văn của đạo Cao Đài được thể hiện qua thể thơ song
thất lục bát, hoặc lục bát. Đây là thể loại quen thuộc của thơ văn Việt Nam nên dễ
đọc, dễ hiểu. Giọng đọc kinh theo điệu nam ai, nam xuân nên gần gũi với truyền
thống của dân tộc.
Kinh điển, thơ văn của đạo Cao Đài kế thừa và phát huy kho tàng ngôn ngữ
Việt Nam về thể loại, hình thức, nội dung để tạo ra sự gần gũi trong cộng đồng Cao
Đài. Đồng thời biểu hiện tính chất đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống, việc giữ
gìn ngôn ngữ, giai điệu trong sáng của dân tộc. Kinh điển của đạo Cao Đài góp
phần hình thành tri thức cho chức sắc, tín đồ trên bước đường tu hành.
* Sử dụng tiếng Việt trong hoạt động báo chí
Báo chí của đạo Cao Đài ra đời từ rất sớm, ngay từ năm 1928 và có nhiều
đóng góp vào hoạt động phổ biến chữ quốc ngữ, giữ gìn tiếng Việt.
Theo thống kê của các phái Cao Đài từ năm 1928 đến năm 1975, đạo Cao
Đài có 19 tờ báo và tạp chí được xuất bản. Trong đó, tờ báo Cao Đài đầu tiên là
tuần báo L’ Action indochinoise (Hành động Đông Dương) ra mắt ngày 23.8.1928
đã đăng bài "A Propos du Caodaisme" (về đạo Cao Đài) của H.H và L’ Action
indochinoise et le Caodaisme của Nam Đình (Hành động Đông Dương và đạo Cao
Đài). Các tờ báo và tạp chí đáng kể như: Revue Caodaiste năm 1930, do ông
Nguyễn Văn Ca sáng lập, ông Nguyễn Trung Hậu chủ bút; Đuốc chơn lý năm 1935,
100
giám đốc là ông Nguyễn Văn Ca; Đại đạo năm 1936, do ông Lê Thế Vĩnh quản lý;
Đại đồng năm 1938 của Liên Hòa Tổng Hội; Đại Đạo Qui Nguyên năm 1938 của
Cao Đài Đại Đạo Liên Hòa Tổng Hội; Đại đạo năm 1945 của Tòa thánh Tây Ninh,
do Chưởng ấn Nguyễn Văn Hợi sáng lập; Cao Đài Giáo lý năm 1965, nguyệt san
của Cơ quan Phổ thông giáo lý Cao Đài giáo Việt Nam, đến số 95 đình bản (tháng
3. 1975),... [16, tr.15-16].
Hiện nay, đạo Cao Đài có Tạp chí Cao Đài của các Hội thánh và tổ chức Cao
Đài, có trụ sở tại Tòa thánh Bến Tre, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo, do ông Lữ
Minh Châu làm Tổng Biên tập. Ngoài ra, một số phái Cao Đài có báo điện tử
(website) để nghiên cứu, trao đổi giáo lý, giới thiệu pháp luật nhà nước và thông tin
hoạt động hành đạo của đạo Cao Đài.
Báo chí của Cao Đài có nội dung chủ yếu là phổ biến lập trường, tôn chỉ,
mục đích của đạo Cao Đài, thánh giáo, giáo lý, tin tức của đạo Cao Đài,... Từ khi
thành lập đến năm 1975, báo chí của đạo Cao Đài đa số sử dụng tiếng Việt. Trong
giai đoạn đầu thế kỷ XX, báo chí ở Nam Bộ còn sử dụng tiếng Pháp. Điều này cho
thấy tinh thần dân tộc của đạo Cao Đài trong hoạt động báo chí nhằm giữ gìn văn
hóa truyền thống, truyền dạy đạo đức, lối sống đến tín đồ của mình.
3.3.2.2. Dung hòa nghệ thuật, giàu bản sắc văn hóa Nam Bộ trong kiến
trúc thờ tự, trang phục, ẩm thực
* Một nền kiến trúc mới dung hòa nghệ thuật phương Đông với phương Tây
Khi hình thành tổ chức tôn giáo, đạo Cao Đài xây dựng các cơ sở thờ tự phục
vụ nhu cầu tín ngưỡng và nơi ở của chức sắc, tín đồ. Đặc biệt kiến trúc thờ tự của
đạo Cao Đài đã tạo ra được phong cách riêng trong tổng thể kiến trúc thờ tự tôn
giáo ở Việt Nam.
Kiến trúc thờ tự của đạo Cao Đài phù hợp với phong cách của cư dân Nam
Bộ, hài hòa kiến trúc giữa phong cách của phương Đông và phương Tây, tạo nên ý
thức mới trong xây dựng của cư dân Nam Bộ. N và hiện
nay cư dân Nam
ợp . Lối kiến trúc thờ tự của đạo Cao Đài là sự kết hợp phong phú,
đa dạng, giàu tính biểu tượng có thể coi là sản phẩm của phong cách phóng khoáng
101
của người dân Nam Bộ. Lê Văn Lợi nhận xét về kiến trúc của đạo Cao Đài như sau:
"Thánh thất của đạo Cao Đài có sự kết hợp giữa kiến trúc hiện đại của phương Tây
và kiến trúc truyền thống của dân tộc, tạo nên vẻ đẹp vừa cổ kính vừa lộng lẫy và
toát lên triết lý nhân sinh giàu tính nhân văn" [62, tr.179]. Sự dung hòa giữa kiến
trúc phương Đông và phương Tây của đạo Cao Đài tạo nên một nền kiến trúc mới
trong kiến trúc tôn giáo của dân tộc.
Kiến trúc thờ tự của đạo Cao Đài là sự sáng tạo độc đáo của cư dân Nam Bộ.
Độc đáo ở chỗ biết kết hợp giữa kiến trúc phương Đông và phương Tây tạo ra sự
hài hòa vừa có nét của nhà thờ Công giáo, vừa có nét của chùa Phật giáo nhưng
không sao chép hoàn toàn mà thay đổi để phù hợp với triết lý của đạo Cao Đài.
Triết lý ở đây là về số học có số 3 ứng với tam đài, số 9 ứng với Cửu Trùng đài, số
12 ứng với 3.072 tinh tú,… Kiến trúc thờ tự của đạo Cao Đài trở thành biểu tượng
tôn giáo cần được giải mã nhằm hiểu được triết lý nhân sinh của những người sáng
lập đạo Cao Đài để lại.
* Nghệ thuật trang phục, ẩm thực đặc trưng của vùng văn hóa Nam Bộ
Trang phục của người đạo Cao Đài gồm có: thường phục, đại phục và tiểu
phục. Thường phục là bộ quần áo bà ba trắng, dùng để sinh hoạt thường ngày như
đi đường hay làm công quả. Tiểu phục là trang phục áo dài, quần trắng của chức
sắc, tín đồ đạo Cao Đài mặc khi hành đạo, làm lễ tại tư gia, nơi thờ tự. Đại phục là
trang phục mặc khi hành lễ tại nơi thờ tự. Đại phục chức sắc Hiệp Thiên đài quần
dài trắng, áo dài trắng, dây sắc lịnh và mang giầy theo phẩm vị chức sắc. Đại phục
chức sắc Cửu Trùng đài nam phái quần dài trắng, áo dài Tam thanh (vàng, xanh,
đỏ), mũ và mang giầy theo phẩm vị chức sắc. Đại phục nữ phái quần dài trắng, áo
dài trắng, khăn lúp trắng và mang giầy tùy theo phẩm vị chức sắc.
Văn hóa mặc của cộng đồng người Việt Nam Bộ có nét đặc trưng trong văn
hóa mặc là "bộ quần áo bà ba màu đen, chiếc khăn ô vuông (khăn rằn) cho cả nam
và nữ, vốn là chiếc khăn Krame của người Khmer được cải biến. Phụ nữ búi tóc
hoặc chải tóc kẹp" [141, tr.352]. Người đạo Cao Đài chủ yếu là tộc người Việt ở
Nam Bộ, trang phục mặc theo truyền thống dân tộc là khăn đóng màu đen, áo dài
truyền thống màu trắng, nam để râu tóc. Đạo phục của tín đồ đạo Cao Đài chủ đạo
102
là màu trắng mang ý nghĩa sâu sắc trong đời sống tinh thần của tín đồ đạo Cao Đài.
Trong thế giới màu sắc thì màu trắng được coi là màu cơ bản nhất của các màu. Về
ý nghĩa tượng trưng của màu sắc: "đỏ là màu của giới động vật (tên Adam có nghĩa
là màu đỏ), xanh lục là màu của giới thực vật, trắng là màu của giới khoáng vật"
[90, tr.96], và màu trắng được coi là tổng hợp của các màu. Trang phục của tín đồ
đạo Cao Đài góp phần giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Hình ảnh tín
đồ đạo Cao Đài mặc áo dài trắng, khăn đóng trở nên dung dị và tác động đến tâm lý
của cư dân Nam Bộ. Cư dân Nam Bộ trân trọng những người mặc áo tu hành và nó
gợi nhớ hình ảnh của cha ông ngày xưa để biết quý trọng truyền thống và cuộc sống
hiện tại.
Ẩm thực trong đạo Cao Đài quy định tín đồ bắt buộc phải ăn chay từ 6 ngày
trở lên, chức sắc ăn chay trường. Ăn chay trở thành nhu cầu của chức sắc, tín đồ đạo
Cao Đài. Việc ăn chay cũng là một trong các hình thức tu luyện để giảm bớt yếu tố
"phàm ăn tục uống" hướng đến các giá trị cao đẹp của con người "để nhớ khi ăn
chay để làm việc thiện, không nóng giận, luôn luôn nhớ Thầy dạy Ngũ giới cấm"
[55, tr.3]. Ăn chay để hướng thiện, rèn luyện đạo đức, giảm các tính phàm tục của
con người.
Chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài đều tuân thủ nghiêm việc ăn chay. Ngoài ăn
chay tại nhà, tín đồ đạo Cao Đài đến ăn chay tại nơi thờ tự. Ở các thành phố lớn,
đạo Cao Đài có mở các tiệm cơm chay để phục vụ chức sắc, tín đồ, đồng thời cũng
cải thiện đời sống vật chất cho Đạo. Trong các ngày lễ kỷ niệm, đại hội, đại lễ, đạo
Cao Đài làm tiệc chay thiết đãi quan khách và chức sắc, tín đồ. Hằng năm vào dịp
đại lễ Vía Đức Chí Tôn và Hội Yến Diêu Trì Cung, Cao Đài Tây Ninh tổ chức thiết
đãi cơm chay trong mấy ngày tổ chức đại lễ. Chức sắc, tín đồ cùng nhân dân về dự
có thể dùng cơm chay miễn phí tại Trai đường trong nội ô Tòa thánh Tây Ninh.
Việc ăn chay của đạo Cao Đài khá đơn giản, bữa ăn của một chức sắc tại Tòa
thánh hay Thánh thất gồm có: cơm, canh rau, mắm chưng làm bằng đậu tương hoặc
thêm ít đậu phụ (đậu hũ) kho. Nước chấm thường dùng nước tương (xì dầu). Mỗi
khi có công việc thì làm tiệc chay đãi khách, có thêm món lẩu. Cách ăn chay của
đạo Cao Đài không cầu kỳ biểu hiện nếp sống bình dị, không xa hoa. Tín đồ có thể
103
ngồi cùng bàn với chức sắc, không phân biệt trên dưới thể hiện tinh thần dân chủ,
hòa đồng trong cuộc sống. Trong bữa ăn, tín đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ thường
dùng nhiều cơm và thói quen ăn đồ ngọt như bánh kẹo trong khi uống nước trà,
ngồi làm việc.
Thực hành theo giáo luật bắt buộc ăn chay để hướng thiện từ trong tâm của
mình, tín đồ đạo Cao Đài đã thực hiện đúng chỉ dạy của Thượng Đế không sát sinh
muôn vật vừa bảo vệ môi trường, vừa giúp con người sống gần gũi với tự nhiên. Ăn
chay chính là giáo dục người tín đồ rèn luyện khả năng thích nghi môi trường tu
hành của đạo Cao Đài. Đồng thời yêu cầu phải biết sử dụng các nguyên liệu thực
vật tự nhiên để đủ chất dinh dưỡng nuôi sống cơ thể, có đủ thể lực, trí lực tu hành
theo tân pháp của đạo Cao Đài.
Tiểu kết chƣơng 3
Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài được hình thành trên cơ sở giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc gồm: giá trị nhận thức, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ.
Đây là các giá trị tiêu biểu của chủ thể văn hóa được kết tinh, lan tỏa trong đạo Cao
Đài, hình thành cộng đồng văn hóa riêng, có giá trị trong đời sống cư dân Nam Bộ.
Giá trị nhận thức giúp cho chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài có tri thức về vũ trụ
quan, nhân sinh quan, xã hội quan và hiểu được sứ mệnh của đạo Cao Đài trong đời
sống xã hội. Từ nhận thức đó, tín đồ đạo Cao Đài tin tưởng vào thế giới tâm linh nơi
có Đấng Tạo hóa sinh ra vạn vật, muôn loài và sáng tạo ra đạo Cao Đài để giải khổ
con người nơi cõi trần, hướng đến giải thoát linh hồn sau khi mất đi. Giá trị đạo đức
tạo cho chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài có nhân cách, đoàn kết cộng đồng, lối sống
nhân hòa và nhập thế tham gia các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội góp
phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Giá trị thẩm mỹ có ý nghĩa biểu tượng tôn giáo,
kiến trúc nghệ thuật thờ tự, trang phục, ẩm thực, lễ nhạc, lễ hội, kinh điển, báo
chí,… độc đáo mang đặc trưng riêng, phù hợp với văn hóa truyền thống dân tộc.
Các giá trị văn hóa đã được tín đồ đạo Cao Đài phát huy trong quá trình tồn
tại và trở thành những chuẩn mực trong đạo đức, lối sống và góp phần hình thành
nhân cách con người, tạo dựng giá trị nhân sinh trong đời sống vật chất và đời sống
104
tinh thần của cư dân Nam Bộ. Tín đồ đạo Cao Đài hành đạo để nhập thế tham gia
các hoạt động xã hội vì lợi ích của cộng đồng, dân tộc, đất nước. Những hoạt động
của đạo Cao Đài thể hiện xu hướng thế tục, gần gũi với đời sống của cư dân Nam
Bộ về cả tinh thần và vật chất. Điều đó tạo ra động lực cho tín đồ đạo Cao Đài khi
tham gia các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng xã hội đạo đức và làm phong phú
nền văn hóa dân tộc. Các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài đã được chứng minh trong
lịch sử và trở thành giá trị bền vững trong đời sống cư dân Nam Bộ.
105
Chƣơng 4
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐẠO CAO ĐÀI TRONG
ĐỜI SỐNG CƢ DÂN NAM BỘ VÀ MỘT SÓ VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY
4.1. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐẠO CAO ĐÀI TRONG
ĐỜI SỐNG CƢ DÂN NAM BỘ
Từ các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài đã được nhận diện ở chương 3,
nghiên cứu sinh tiếp tục tìm hiểu tác động của nó trong bộ phận cư dân có đạo Cao
Đài ở Nam Bộ. Đối tượng cư dân là người theo đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Theo quan
niệm của chủ nghĩa Mác đã nêu ở chương 1, đời sống xã hội gồm đời sống vật chất
và đời sống tinh thần.
4.1.1. Tác động đến đời sống vật chất
4.1.1.1. Từ thiện
Theo báo cáo của các phái Cao Đài năm 2013 đã đóng góp 109.781.415.500đ
vào hoạt động từ thiện [162, tr.9]. Điều tra về hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài,
kết quả (biểu đồ 4.1) là 71.06% tham gia tích cực, 28.12% tham gia vừa phải, 0%
tham gia ít, và 0.76% không tham gia. Đa số chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài đều tham
gia hoạt động từ thiện xã hội, coi đây vừa là trách nhiệm, vừa là hoạt động thể hiện
tinh thần tôn giáo đối với cộng đồng và xã hội.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.1: Mức độ chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài tham gia
hoạt động từ thiện xã hội
Nguồn: [Phụ lục 8].
Đánh giá về hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài, chức sắc, tín đồ đều cho
rằng đạt hiệu quả 89.30%. Đây là sự đánh giá của những người trong cuộc về hoạt
106
động của chính họ. Tuy nhiên vẫn có một số lượng người không nhỏ 9.50% đánh
giá hoạt động này còn hạn chế, 0.76% đánh giá ít hiệu quả và 0.38% đánh giá chưa
hiệu quả. Thực tế hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài dù có hệ thống tổ chức
chuyên hoạt động về lĩnh vực này song vẫn chưa được tổ chức chặt chẽ, còn tự phát
theo phong trào, tiềm lực kinh tế hạn chế làm ảnh hưởng đến hoạt động.
Trả lời về vấn đề hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài, 07 người làm công tác
quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo ở các tỉnh: Tây Ninh, Bến Tre, Cà Mau, Kiên
Giang đều có nhận định chung là hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài là tốt, đóng
góp tích cực cho cộng đồng cư dân Nam Bộ và an sinh xã hội. Tuy nhiên, dưới góc
nhìn của người làm công tác quản lý nhà nước, bà Phạm Thị Thanh Thúy chỉ ra
được hạn chế của hoạt động từ thiện trong đạo Cao Đài: "…cách làm của người đạo
Cao Đài chưa hợp lý mang tính dàn trải, không đi vào chiều sâu, làm từ thiện không
phải chỉ đem tiền, quà đến cho tín đồ trong đạo", đồng thời đưa ra phương pháp để
khắc phục: "đào tạo nghề thủ công cho người đạo, cung cấp nguyên vật liệu để
người đạo tăng gia sản xuất, tạo đầu ra cho sản phẩm làm từ thiện theo hướng này
mới hiệu quả" [137, tr.3]. Ý kiến này rất xác đáng để điều chỉnh hoạt động từ thiện
của đạo Cao Đài trong thời gian tới.
Hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài được thực hiện theo quy định của đạo
thu hút được đông đảo tín đồ tham gia. Những năm gần đây, hoạt động từ thiện của
đạo Cao Đài ngày càng phát triển và tích cực tham gia các hoạt động chung của xã
hội. Tuy nhiên, hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài còn mang tính tự phát chưa
được tổ chức chặt chẽ. Mỗi khi hữu sự thì cùng chung tay làm rất tích cực nhưng
sau đó lại trở lại bình thường mà không chăm sóc, nuôi dưỡng hay duy trì hoạt động
từ thiện thường xuyên. Nội lực của đạo Cao Đài còn nghèo về vật chất nên muốn
thay đổi cách làm từ thiện cần thiết phải xây dựng các cơ sở sản xuất, cơ sở trồng
trọt tạo ra các vật dụng, nông sản để làm từ thiện, đóng góp cho xã hội thì mới bền
vững và huy động được nhiều hơn nữa tín đồ tham gia.
4.1.1.2. Khám chữa bệnh
Trong hoạt động khám chữa bệnh, đạo Cao Đài rất chú trọng chăm sóc sức
khỏe cho cộng đồng, đồng thời cứu giúp người dân khi đau yếu, bệnh tật với tinh
107
thần cứu khó trợ nghèo. Các cơ sở khám chữa bệnh của đạo Cao Đài đã thực hiện
tốt việc chăm sóc sức khỏe cho đồng đạo và người dân ở vùng có đạo Cao Đài.
Theo báo cáo của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2013, đạo Cao Đài có 93 cơ
sở phòng thuốc nam khám chữa bệnh, trong đó có 135 cơ sở bốc thuốc, 02 cơ sở
chăm sóc chữa bệnh lâu dài tại cơ sở, có 11 cơ sở chăm sóc người già, tổng kinh phí
thực hiện hoạt động khám chữa bệnh là 235 tỷ đồng [163, tr.35]. Hoạt động khám
chữa bệnh của đạo Cao Đài cụ thể là: Cao Đài Ban Chỉnh đạo có 30 phòng chẩn trị
y học dân tộc, châm cứu, phục vụ sức khoẻ đồng đạo khi đau yếu. Phòng chẩn trị y
học dân tộc Dưỡng Đường của Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã khám và điều
trị miễn phí cho 180.611 lượt người, cấp 817.892 thang thuốc miễn phí, châm cứu
cho 143.567 lượt người, thành tiền 5.738.188.000 đồng. Tổng hợp số liệu chung của
các phòng chẩn trị như xem mạch cho 1.268.685 người, bốc 118.030 thang thuốc,
198.326 lượt người được châm cứu miễn phí, trị giá là 5.998.659.670 đồng; Cao
Đài Tiên Thiên có 18 phòng khám y học dân tộc, khám điều trị cho 5.098 bệnh
nhân; châm cứu, bấm huyệt cho 989 người; bốc thuốc miễn phí 12.377 thang thuốc;
cấp phát 1.670 gói thuốc trị gan, đau nhức; Cao Đài Chơn Lý có 2 phòng thuốc y
học dân tộc ở Thánh thất Nha Trang (Khánh Hoà) và Thánh thất Thanh Bình (Tiền
Giang) là nơi phát thuốc chữa bệnh miễn phí cho đồng bào nghèo khó; Cao Đài
Chiếu Minh Long Châu có 3 phòng thuốc nam hoạt động trên 30 năm, đã xem mạch
trị bệnh cho trên 10.825 lượt người, châm cứu cho gần 520 người, bốc 15.670 thang
thuốc miễn phí; Cao Đài Bạch Y có 04 phòng thuốc Nam hoạt động từ thiện, châm
cứu 12.000 người, bốc 1.988.000 thang thuốc nam, trị giá 3.976.000.000 đồng,...
[163, tr.32-34]. Ngoài ra, ở các tỉnh, thành phố, một số Họ đạo Cao Đài có phòng
khám thuốc chữa bệnh, góp phần làm tốt công việc khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở.
Hoạt động khám chữa bệnh của đạo Cao Đài có nhiều điều tích cực góp phần
chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng Cao Đài và cư dân ở Nam Bộ. Quá trình hoạt
động còn hạn chế, chất lượng lương y chưa đáp ứng tiêu chuẩn chung của xã hội,
phương tiện, cơ sở vật chất của các phòng khám, phòng thuốc còn nghèo nàn, lạc
hậu. Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay những đóng góp của cộng đồng đạo Cao Đài
đối với hoạt động khám chữa bệnh là điều đáng quý, đáng ghi nhận. Họ đã lấy tinh
108
thần, đạo đức tôn giáo để làm điều thiện, điều lành làm giảm đi nỗi đau thể xác,
tăng thêm niềm vui cho mọi người, mọi nhà.
4.1.1.3. Giáo dục đào tạo
Điều tra mức độ nhận biết của chức sắc, tín đồ đối với hoạt động giáo dục
đào tạo của đạo Cao Đài. Kết quả phần lớn họ đều có biết 68.02% và biết 23.18%
đạo Cao Đài có trường dạy học. Gần 9% không biết và không ý kiến về việc này
(biểu đồ 4.2). Do một số phái Cao Đài không có trường dạy học nên với câu hỏi này
cũng có một tỷ lệ không nhỏ chức sắc, tín đồ không biết và không ý kiến về việc
này. Thực tế hoạt động giáo dục đào tạo của đạo Cao Đài hiện nay rất yếu, chưa có
trường đào tạo chức sắc. Cao Đài Truyền Giáo Cao Đài đã thành lập được Học viện
Cao Đài Truyền Giáo năm 2015 nhưng chưa đi vào hoạt động, đang tuyển sinh khóa
đầu tiên năm 2016 tại Đà Nẵng.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.2: Mức độ nhận biết về trƣờng dạy học của đạo Cao Đài
Nguồn: [Phụ lục 8].
Tiếp tục điều tra mức độ hiểu biết về các hình thức đào tạo của trường học
Cao Đài. Kết quả (biểu đồ 4.3) việc hiểu biết về mô hình giáo dục đào tạo của đạo
Cao Đài của một số chức sắc, tín đồ chưa chính xác. Chức sắc, tín đồ có ý kiến khác
là 22.04%, không ý kiến là 8.36%, còn lại lựa chọn trường phổ thông trung học
12.92%, trường đại học Cao Đài 12.16%, tất cả các trường hợp trên 10.64%, trường
phổ thông cơ sở 9.12%. Số liệu thống kê cho thấy, một số chức sắc, tín đồ chưa
nắm chắn thông tin về hình thức giáo dục của đạo Cao Đài. Số chức sắc, tín đồ biết
đạo Cao Đài trước đây có trường dạy học ở Tây Ninh, Bến Tre không nhiều. Nhìn
109
tổng quát hoạt động giáo dục đào tạo của đạo Cao Đài chưa phát triển. Dù trước
đây, đạo Cao Đài đã có trường dạy học cho con em người đạo nhưng số lượng được
đào tạo không đáng kể so với số lượng tín đồ. Vì vậy, con em của tín đồ đạo Cao
Đài chủ yếu học tại các trường học của chính quyền nhà nước. Đối với chức sắc,
đạo Cao Đài chủ yếu đào tạo bằng hoạt động bồi dưỡng, nâng cao kiến thức qua các
lớp giáo lý hạnh đường, hay đạo tràng.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.3: Mức độ hiểu biết về các hình thức đào tạo của đạo Cao Đài
Nguồn: [phụ lục 8].
Sự hiểu biết của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài đối với hoạt động giáo dục đào
tạo chưa cao. Có thể thấy, hoạt động giáo dục đào tạo của đạo Cao Đài còn rất nhiều
việc phải làm để nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết giáo lý, giáo luật của chức sắc, tín
đồ. Hoạt động giáo dục đào tạo của đạo Cao Đài cần được nâng cao hơn trong giai
đoạn hiện nay để hòa nhập cộng đồng và tồn tại trong đời sống xã hội hiện đại.
4.1.1.4. Lao động sản xuất
Đa số chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài có thành phần là nông dân nên việc mở
mang phước điền tạo điều kiện cải thiện đời sống vật chất cho nhân sinh là rất cần
thiết. Đạo Cao Đài chủ trương mở mang công nghệ, nông nghiệp đáp ứng nhu cầu
vật chất và tạo của cải cho Hội thánh: "…tổ chức làm ruộng phước điền, để có một
căn bản về lương thực và tài chánh cho nền Đạo, và cũng để có nơi cho đạo hữu làm
công quả" [39, tr.27].
110
Cao Đài Tây Ninh lập Cơ quan Phước thiện có nhiệm vụ chuyên lo về mặt
sản xuất, lương điền, công nghệ, kinh doanh thu hoa lợi hợp pháp để hỗ trợ phương
tiện, vật chất cho việc từ thiện xã hội. Cao Đài Tây Ninh chú trọng việc lao động sản
xuất của tín đồ. Tại Tòa thánh Tây Ninh thành lập các cơ sở sản xuất gồm: Trại mộc,
Nhà may Linh Đức, Sở nhang trầm hương,… phục vụ các nhu cầu về vật chất của Đạo,
đồng thời tạo công việc cho tín đồ. Tại Tòa thánh thành lập Cửu viện lo các công việc
chủ yếu của Đạo. Trong đó, Lương viện có nhiệm vụ đảm bảo lương thực nuôi sống
toàn Đạo; Công viện có nhiệm vụ chăm lo xây dựng, tu bổ nơi thờ tự, nơi ở, đường
giao thông của Đạo; Nông viện có nhiệm vụ chăm lo mở mang đồn điền, chuyên sản
xuất, trồng trọt. Theo báo cáo của Hội thánh năm 2016, hằng tháng các cơ sở phước
điền và cơ sở sản xuất của Cao Đài Tây Ninh thu được khoảng 200 triệu đồng.
Về tài chính, một số phái Cao Đài như Cao Đài Ban Chỉnh đạo quy định
nhiệm vụ đóng góp công quả về Hội thánh để: "…tạo nguồn kinh phí, được quy
định tăng từ thấp lên cao (Thí dụ: Đạo hữu một ngày công/năm, lên đến Giáo sư 12
ngày công/năm)" [23, tr.475]. Về nông nghiệp, Hội thánh khai phá mở rộng được 9
sở trồng hoa và rau cải với diện tích 20 mẫu, với số nhân công mỗi ngày khoảng
500 người. Các cơ sở này cung cấp cho Toà thánh đủ ăn hàng ngày và không phải
mua ở chợ. Tại các Thánh thất đều tổ chức làm ruộng phước điền để có lương thực
và tài chính cho Đạo, đồng thời cũng để đạo hữu về làm công quả. Cao Đài Ban
Chỉnh đạo khuyến khích các Thánh thất tạo lập phước điền để tự túc cho Họ đạo có
phương tiện cho đạo hữu làm công quả. Hội thánh đã xây dựng được lối sống văn
hoá trong Đạo biết đoàn kết thương yêu, tương thân hoà ái với mọi người, vừa tu
hành vừa có việc làm, tạo ra của cải, vật chất nuôi bản thân và nuôi Đạo. Giáo hữu
Phan Văn Thanh cho biết: "
nh yêu
thương" [124, tr.3]. Điều này đã tác động đến chức sắc, tín đồ trong Đạo tích cực tu
hành hơn khi đời sống vật chất được đảm bảo.
Năm 2016, Cao Đài Ban Chỉnh đạo có 80% tín đồ ở vùng nông thôn, đời
sống chủ yếu gắn với nông nghiệp. Nhờ sự cần cù lao động nên đời sống vật chất
111
của tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã được ổn định chỉ còn trên 10% hộ nghèo. Hội
thánh mở mang công nghệ, phước điền, trường dạy chữ, dạy Đạo trong chức sắc, tín
đồ tạo cho người tu hành có nhận thức sâu sắc về tôn giáo về xã hội. Tu hành có
được cuộc sống ấm no, được hưởng thụ những đặc ân của Thượng Đế, được biết
chữ để tự nhận biết về xã hội, về Đạo… Những điều đó giúp cho đời sống vật chất
của người tín đồ được nâng cao, góp phần cùng nhân dân địa phương có chất lượng
cuộc sống tốt hơn.
Hiện nay, đạo Cao Đài khuyến khích tín đồ vừa tu hành, vừa tích cực tham
gia lao động sản xuất. Trong thời kỳ hiện đại hóa, tín đồ đạo Cao Đài tiếp tục phát
huy tinh thần cần cù, chăm chỉ trong sản xuất và thực hiện các chính sách của Nhà
nước. Trong lao động sản xuất, tín đồ đạo Cao Đài thực hiện việc vần công, đổi
công, hỗ trợ nhau trong lao động. Quá trình tu hành, tín đồ đạo Cao Đài luôn có ý
thức đối với cộng đồng xã hội và phát động phong trào thi đua lao động sản xuất để
tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân và làm giàu cho xã hội. Việc mở mang
công nghệ, phước điền, sản xuất,… góp phần tạo cho cuộc sống của người tu hành
trở nên có ý nghĩa, có ích cho xã hội, tác động đến đạo đức, lối sống của cư dân
Nam Bộ.
4.1.2. Tác động đến đời sống tinh thần
4.1.2.1. Niềm tin vào Thượng Đế
Trong đời sống hằng ngày, tín đồ đạo Cao Đài luôn tin tưởng vào Thượng
Đế là Ông Trời, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức Chí Tôn, Đức Đại Từ Phụ,… Trong
thế giới tâm linh đó, người đạo Cao Đài tu dưỡng bản thân để mong muốn được trở
thành bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật. Đây là ước muốn của người tín đồ nhưng để đạt
được họ phải tu luyện theo phương tu của tôn giáo. Tìm hiểu niềm tin của chức sắc,
tín đồ đạo Cao Đài vào Thượng Đế, trong 34 chức sắc, nhà tu hành được hỏi phỏng
vấn đều khẳng định trọn tin vào Ngọc Hoàng Thượng Đế đã sáng lập ra đạo Cao
Đài tại Việt Nam để giáo hóa chúng sanh, tu thân giải thoát. Các câu trả lời theo 2
xu hướng: một là tin Thượng Đế mở đạo Cao Đài để tu nhân đạo và tu thiên đạo
nhằm làm trọn nhiệm vụ gia đình, xã hội, công dân rồi mới làm bổn phận thiêng
liêng tu hành của bản thân; hai là tin Thượng Đế để tu hành trở thành người có đạo
112
đức, có khả năng cứu vớt chúng sinh thoát khỏi nỗi khổ nơi trần thế. Ông Trần Đức
Tăng, Trưởng Ban Thường trực Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo đại diện cho xu
hướng thứ nhất cho rằng: "Trước tiên tu nhơn đạo làm tròn nhiệm vụ trong gia đình,
nhiệm vụ trong đạo Cao Đài, nhiệm vụ trong xã hội, nhiệm vụ công dân đối với Tổ
quốc" [121, tr.1]. Bà Cao Bạch Liên, con gái của ông Cao Triều Phát đại diện cho
xu hướng thứ hai cho rằng: "…Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế sáng lập đạo Cao Đài
ở Việt Nam để tận độ chúng sanh, không chỉ ở Việt Nam mà theo lời dạy của Đức
Chí Tôn là sẽ cứu độ chúng sanh cả năm châu bốn biển trong thời kỳ mạt kiếp" [89,
tr.1]. Theo nghiên cứu sinh mỗi xu hướng lựa chọn đều vì mục đích là tu hành cải
tạo bản thân, cải tạo xã hội. Tu hành trước hết là cho bản thân để trở thành người có
đạo đức và từ đó có thể tác động đến gia đình, cộng đồng, xã hội.
Phỏng vấn một số nhà quản lý nhà nước về tôn giáo nhận xét về việc biểu
hiện niềm tin tôn giáo của người đạo Cao Đài. Các câu trả lời đều đánh giá cao đức
tin tôn giáo của người đạo Cao Đài và nhận định đạo Cao Đài sẽ có xu hướng phát
triển tốt sau này. Ông Nguyễn Vĩnh Thế, Phó Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh Tây Ninh
cho rằng: "Niềm tin của người có đạo Cao Đài rất bền vững. Vì đạo Cao Đài dạy
rằng: Nếu sống có công đức, khi chết sẽ được sung sướng nơi "Bạch Ngọc kinh".
Nếu có tội sẽ vướng mãi vào kiếp luân hồi, nhân quả. Ngoài ra, đạo còn dạy "Xả
phú cầu bần, xả thân cầu đạo", tu hành diệt dục để được "phổ độ" [131, tr.5]. Thực
tế và kết quả khảo sát cho thấy, người đạo Cao Đài có niềm tin tôn giáo sâu sắc. Khi
nhập môn vào Đạo, họ đã tin tưởng vào Thượng Đế và khi hành đạo họ được chứng
nghiệm càng củng cố thêm niềm tin tưởng đó.
Niềm tin tôn giáo cần sự chứng nghiệm để tăng thêm sức mạnh tâm linh của
con người. Kết quả khảo sát về sự chứng nghiệm (biểu đồ 4.4) có 86.64% trả lời có
chứng nghiệm, 5.7% chưa chứng nghiệmvà 4.56% người không ý kiến. Điều này
cho thấy đức tin của người đạo Cao Đài rất cao và có chứng nghiệm trong cuộc
sống. Đại đa số tín đồ đều đã được kiểm nghiệm trong cuộc đời. Biểu hiện giá trị
tâm linh của đạo Cao Đài được chức sắc, tín đồ tin tưởng, khó lòng thay đổi. Bằng
chứng là sau khi có chứng nghiệm thì điều đó tác động đến cuộc đời tu hành của họ
rất sâu sắc. Với câu hỏi tiếp theo "Nếu có thì sự chứng nghiệm đó tác động như thế
113
nào đối với cuộc đời tu hành của ông/bà?". Kết quả có 76.38% trả lời "Nâng cao
đức tin", cao nhất trong các ý trả lời. Trong cuộc sống hằng ngày người đạo Cao
Đài rất tin tưởng vào thế giới thiêng liêng phù hộ cho họ trong cuộc sống. Điều này
minh chứng cho đức tin và giá trị tâm linh đem đến cho chức sắc, tín đồ đạo Cao
Đài những đổi thay trong cuộc đời gặp điều lành, điều tốt.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.4: Mức độ chứng nghiệm sự màu nhiệm trong cuộc đời tu hành của
chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài
Nguồn: [phụ lục 8].
Cuộc sống hiện đại với sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ hiện nay có
thể giải thích được nhiều hiện tượng trong thế giới tự nhiên và xã hội. Nhưng để
giải thích niềm tin tôn giáo của con người thì khoa học công nghệ cũng chưa giải
đáp thỏa mãn, nhất là niềm tin vào thế giới siêu nhiên của người tín đồ theo tôn
giáo. Qua điều tra thấy được tín đồ đạo Cao Đài có niềm tin tôn giáo sâu sắc và họ
tin tưởng trong thế giới tự nhiên có các đấng thiêng liêng cai trị do Ngọc Hoàng
Thượng Đế làm chủ đã sáng lập đạo Cao Đài ở Việt Nam để giúp nhân sinh tu hành
giải thoát, xây dựng một xã hội đạo đức.
4.1.2.2. Niềm tin vào bản thân
Người theo đạo Cao Đài tin tưởng có Ngọc Hoàng Thượng Đế làm chủ vũ trụ,
mọi hoạt động của con người đều có sự giám sát, soi xét của Thượng Đế. Nhưng
Thượng Đế chỉ hướng dẫn con người phương pháp tu hành, không thể dìu dắt con
người đi hết cả cuộc đời. Bản thân mỗi người phải biết vượt qua những cám dỗ của
cuộc sống đời thường, tu luyện để phát triển trí tuệ, đạo đức. Giáo lý đạo Cao Đài
114
dạy rằng "Thầy là các con, các con là Thầy", ý nói Thượng Đế không ở đâu xa mà
Thượng Đế ở tại tâm của mỗi tín đồ. Như vậy, sự tin tưởng vào Thượng Đế không
mâu thuẫn với sự tin tưởng vào bản thân, bởi đó là nhận thức, là niềm tin tôn giáo
của người đạo Cao Đài. Càng tin tưởng Thượng Đế, người đạo Cao Đài càng tin
tưởng vào bản thân để họ có sức mạnh tinh thần vượt qua khả năng của chính mình,
vươn lên cái bình thường hướng đến cái cao thượng, cao cả trong cuộc sống.
Tin vào bản thân là khả năng tự nhận thức trong quá trình tu hành của tín đồ
đạo Cao Đài. Để tìm hiểu vấn đề này trong đời sống tinh thần của chức sắc, tín đồ
đạo Cao Đài, nghiên cứu sinh đặt câu hỏi "Mỗi khi gặp khó khăn, vướng mắc trong
cuộc sống, ông/bà có cầu nguyện Đức Cao Đài phù hộ, độ trì để tai qua nạn khỏi
không?". Kết quả (biểu đồ 4.5) có 97.28% người trả lời "có" thể hiện niềm tin sâu
sắc của người tín đồ đạo Cao Đài. Trong số này có 89.30% người trả lời đã được
chứng nghiệm để vượt qua khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống. Thực tế cho thấy
dù có khẩn cầu Thượng Đế cũng không có phép màu nào giúp đỡ tín đồ đạo Cao
Đài vượt qua được các khó khăn trong cuộc sống. Chính nhờ vào khả năng tin
tưởng có Thượng Đế phù hộ độ trì nên bản thân tín đồ đạo Cao Đài nỗ lực hơn để
vượt qua trở ngại đó. Sự chứng nghiệm cao gần 90% càng chứng tỏ khi con người
được động viên, khuyến khích về tinh thần, họ có khả năng phi thường, phát huy
được năng lực của bản thân.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.5: Mức độ cầu nguyện để vƣợt qua khó khăn, vƣớng mắc
trong cuộc sống của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài
Nguồn: [phụ lục 8].
115
Trong 34 chức sắc, nhà tu hành được hỏi, đa số họ đều cầu nguyện Thượng
Đế hoặc các đấng thiêng liêng phù hộ. Bởi họ cho rằng cầu nguyện cũng là phương
cách tu hành do Đức Cao Đài chỉ dạy. Bên cạnh đó, họ cho rằng: "tinh thần tự lập
cũng được đề cao, cầu nguyện kết hợp với ý chí vượt khó mà nạn khổ được qua và
đời tu được tấn hóa" [20, tr.6]. Câu hỏi này nhằm tìm hiểu niềm tin của chức sắc,
nhà tu hành đạo Cao Đài được biểu hiện trong đời sống tôn giáo và tinh thần nỗ lực
của họ khi gặp khó khăn trong cuộc sống. Kết quả đa phần họ đều cầu nguyện để
được tai qua, nạn khỏi, nhưng có ít người hiểu rằng cầu nguyện chính là niềm tin
vào bản thân, giúp chính mình tăng thêm sức mạnh tinh thần để tự vượt qua.
Thượng Đế không dìu dắt con người khi vấp ngã mà Thượng Đế cho con người tinh
thần, nghị lực để tự đứng dậy sau khi vấp ngã. Đó mới là niềm tin vào bản thân của
tín đồ đạo Cao Đài. Giáo sư Thái Văn Biết trả lời rằng: "Mặc dầu tôi không có cầu
nguyện lúc gian nguy nhưng với lòng tin vào sức sống chúng tôi vẫn vượt qua" [11,
tr.4]. Nhận thức này của Giáo sư Thái Văn Biết cho thấy trong đời sống tôn giáo,
người đạo Cao Đài có niềm tin sâu sắc vào Thượng Đế nhưng họ cũng hiểu rằng để
đến với Thượng Đế cần có niềm tin vào cuộc sống thế tục do mình tự chiến thắng
bản thân. Như vậy, niềm tin tôn giáo giúp cho con người có sức mạnh tinh thần và
từ đó con người có ý chí, niềm tin vào bản thân để tự vượt qua những khó khăn, trở
ngại trong cuộc sống.
Không chỉ có niềm tin vào bản thân mà cần có hành động để biến niềm tin đó
thành hiện thực. Hầu hết họ đều cho rằng đã có chứng nghiệm trong cuộc sống. Ông
Nguyễn Văn Trạch cho biết: "Có chứng nghiệm khi thân nhân vượt qua bệnh tật
trầm trọng hay bản thân tránh khỏi tai nạn bất ngờ trên đường hành đạo, khiến bản
thân càng vững đức tin, tích cực lập công bồi đức..." [143, tr.4]. Sự nỗ lực hay đấu
tranh của bản thân nhằm chiến thắng mọi bệnh tật, vướng mắc trong cuộc sống của
người đạo Cao Đài là do niềm tin tôn giáo mang lại. Con người nếu biết cân bằng
giữa tự vượt khó và cầu nguyện theo thuyết "tâm vật bình hành" sẽ giúp cuộc sống
hài hòa: "
" [107, tr.4]. Như vậy, chức sắc, tín đồ đạo
116
Cao Đài đều biết tự cân bằng giữa nỗ lực vượt khó và tin tưởng vào Thượng Đế. Sự
hài hòa trong tinh thần của người đạo Cao Đài giúp họ có kết quả và được chứng
nghiệm trong cuộc sống.
Tin vào Thượng Đế là niềm tin cao cả của tâm linh, tin vào bản thân là niềm
tin thiết thực của con người. Chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài biết kết hợp hài hòa giữa
hai điều này để cân bằng trong tư tưởng và có hành động đúng đắn trong cuộc sống.
Đó chính là giá trị cao đẹp, cũng là giá trị tâm linh được tín đồ đạo Cao Đài thực
hành thường xuyên trong sinh hoạt tôn giáo và cuộc sống đời thường. Điều này như
một liều thuốc bổ dưỡng mỗi lần uống vào càng tăng thêm sức lực, tinh thần cho
chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài, càng tin vào con đường tu hành mà họ đã chọn.
4.1.2.3. Tư tưởng chính trị
Trước năm 1975, đạo Cao Đài có hai thái cực chính trị, một là nêu cao tinh
thần dân tộc tham gia kháng chiến cứu nước, hai là bị chính quyền xâm lược lợi
dụng, tham gia hoạt động quân sự. Theo Werner Jayne Susan, chiến tranh đã tạo
điều kiện cho đạo Cao Đài phát triển, trong đó có phát triển lực lượng quân sự:
"Chiến tranh đã mang lại cho Cao Đài cơ hội phát triển. Trước hết là sự phát triển
lực lượng vũ trang Cao Đài, đến năm 1954 đã là 65.000 người (con số này sẽ rất ý
nghĩa khi so với bộ đội Việt Minh lúc đó chỉ có 3.000 cùng với 35.000 du kích ở
vùng này vào năm 1952)" [170, tr.63]. Đến thời chính quyền Mỹ - Diệm, quân đội
Cao Đài bị giải thể, không được phép tồn tại lực lượng quân sự độc lập. Trong khi
đó ở Bắc Bộ, Chủ tịch Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa Tôn Đức Thắng
đã nhìn nhận đạo Cao Đài là tôn giáo chính thức qua thư gửi Phối sư Phùng Văn
Thới, Ngoại Viện trưởng đạo Cao Đài Bắc Bộ tại Hà Nội ngày 07-11-1946 viết:
"đạo Cao Đài được tự do hoạt động như các đạo khác" [82, tr.45]. Thời kỳ này, đạo
Cao Đài chịu chi phối nặng nề của chính quyền Mỹ - Diệm, Cao Đài Tây Ninh thực
hiện giải tán quân đội, trở lại sinh hoạt tôn giáo bình thường. Các phái Cao Đài ở
miền Tây Nam Bộ, tiêu biểu là Cao Đài Minh Chơn đạo tích cực tham gia kháng
chiến cứu quốc.
Trong bối cảnh đất nước đang bị xâm lược nên người theo đạo Cao Đài xác
định đâu là giặc để có thái độ ứng xử thích hợp, không phạm đạo đức tu hành nhưng
117
cũng không quên trách nhiệm với dân tộc và hành động "giết người thì đền mạng
còn giết giặc thì thành Thần" [62, tr.558]. Điều đó đã chứng minh tinh thần dân
tộc và lòng yêu nước nồng nàn của tín đồ đạo Cao Đài qua hai cuộc kháng chiến
cứu nước. Ông Trần Tự Kinh, nguyên Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh Cà Mau cho
rằng: "Nhiều Hội thánh là nơi nuôi chứa cán bộ lúc khó khăn, lòng yêu nước của
đạo Cao Đài dâng trào hiệp thành sức mạnh của sự đoàn kết để giải phóng dân
tộc" [78, tr.4]. Đóng góp của đạo Cao Đài trong hai cuộc kháng chiến cứu nước
có ý nghĩa to lớn về tinh thần, là nguồn động viên to lớn để chức sắc, tín đồ tham
gia hoạt động yêu nước.
Thời kỳ đổi mới đến nay, đạo Cao Đài xác định đường hướng hoạt động
"Nước vinh, Đạo sáng" hoạt động gắn bó với dân tộc. Các hoạt động tôn giáo cơ
bản chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước, tạo tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa các
phái Cao Đài. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch và lực lượng người Việt ở nước
ngoài vẫn có hoạt động chỉ đạo các phần tử Cao Đài ở trong nước tổ chức hoạt động
chống đối giáo hội Cao Đài, xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam, hoạt động tôn
giáo trái phép và sắp xếp nhân sự giáo hội để gây sức ép với chính quyền Nhà nước.
Những năm gần đây, đáng chú ý là hoạt động của nhóm chống đối trong Cao Đài
Tây Ninh đã liên kết với một số phần tử xấu thuộc các tổ chức tôn giáo để tham gia
thành lập tổ chức liên tôn có hoạt động chống Đảng, Nhà nước. Nhóm này cũng liên
kết với các đối tượng cực đoan tại nước ngoài chuyên xuyên tạc và cung cấp các
thông tin sai sự thật cho Đại sứ lưu động của Ủy ban tự do tôn giáo Hoa Kỳ (thuộc
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ) nhằm vu cáo Đảng, Nhà nước vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo, thiếu dân chủ, vi phạm nhân quyền. Các hoạt động này gây mất an
ninh trật tự ở một số địa phương và làm sai lệch sự thật về quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam.
Đánh giá tư tưởng của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài về một số vấn đề chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội qua kết quả khảo sát (biểu đồ 4.6), cho thấy vấn đề an
ninh, an toàn xã hội được đánh giá cao thứ hai trong 9 vấn đề nêu ra, có 72.20%
nhận xét tốt hơn trước, 5.32% không thay đổi, 8.74% kém đi. Điều này thể hiện vấn
đề an ninh, an toàn xã hội được tín đồ đạo Cao Đài quan tâm và nhận thấy chuyển
118
biến rõ nét nhất trong đời sống cư dân Nam Bộ, góp phần tích cực trong việc ổn
định chính trị.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.6: Mức độ đánh giá về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
tôn giáo của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài
Nguồn: [phụ lục 8].
Tìm hiểu, đánh giá hành động của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài khi tham gia
các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội hiện nay, kết quả (biểu đồ 4.7) đa số chức sắc,
tín đồ đạo Cao Đài đều tham gia. Đặc điểm của tín đồ đạo Cao Đài là tuổi cao nên
kết quả Hội Người cao tuổi có tỷ lệ cao nhất 35.72%, Hội Chữ thập đỏ 29.26%, Hội
Nông dân 28.88%, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp 27.36%, Hội Liên hiệp Phụ
nữ 16.72%, Hội đồng nhân dân các cấp 16.34%,… Phần lớn chức sắc, tín đồ đạo
Cao Đài tích cực vừa tu hành, vừa tham gia hoạt động xã hội. Tinh thần nhập thế
của đạo Cao Đài rất đậm nét khi tham gia các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội góp
phần cùng nhân dân xây dựng đời sống xã hội ngày càng ổn định, bền vững. Tuy
nhiên tỷ lệ tín đồ không tham gia cũng khá cao 22.80%, cho thấy bên cạnh sự tích
cực của tinh thần nhập thế còn một bộ phận không tham gia hoạt động xã hội. Điều
này không có gì là trở ngại, đó cũng là điều đáng trân trọng của chức sắc, tín đồ đạo
Cao Đài để cân bằng giữa người tham gia hoạt động xã hội và người chuyên tu hành
giữ gìn đạo pháp.
119
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.7: Mức độ tham gia các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội
Nguồn: [phụ lục 8].
Tư tưởng chính trị của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài đa phần thấy được chính
sách đổi mới của đất nước đem lại cho đời sống chính trị của đạo Cao Đài ngày càng
tốt hơn trước. Tinh thần yêu nước của đạo Cao Đài đã tác động đến hoạt động của chức
sắc, tín đồ đạo Cao Đài tham gia các lĩnh vực chính trị, xã hội. Tư tưởng và hoạt động
chính trị hiện nay của đạo Cao Đài đã thích nghi với môi trường xã hội, chấp hành
pháp luật, tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cộng đồng tôn giáo
đoàn kết, hoạt động từ thiện,… chính là giá trị cố kết cộng đồng trong thời đại mới.
4.1.2.4. Hành đạo
Từ giá trị nhận thức đã tác động đến thực hành công việc đạo của tín đồ đạo
Cao Đài. Đánh giá hoạt động hành đạo của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài qua việc bồi
dưỡng đức tin bằng các hoạt động cụ thể. Kết quả (biểu đồ 4.8) hoạt động thực hành tam
công có tỷ lệ cao nhất 70.68%, tiếp đến là tụng kinh tứ thời 68.40%, làm việc thiện
63.46%. Hai hoạt động là làm việc hành chính đạo và đến Thánh thất có tỷ lệ thấp nhất
cùng 53.96%. Hoạt động thực hiện tam công biểu hiện tinh thần thực hành rất cao của
người đạo Cao Đài. Đó là thực hành công phu, công quả, công trình theo giáo luật của
đạo Cao Đài. Điều này cho thấy ý thức tự giác và hành động của tín đồ đạo Cao Đài,
không chỉ là niệm danh Đức Cao Đài, nghiên cứu giáo lý, làm việc thiện còn thực hiện
tam công để bồi dưỡng đức tin hằng ngày. Yếu tố bất ngờ là công việc hành chính đạo và
120
đến Thánh thất không được đánh giá cao trong việc bồi dưỡng đức tin. Điều này cho
thấy đạo Cao Đài chưa phát huy được vai trò của hành chính đạo và quy tụ tín đồ đến
Thánh thất sinh hoạt. Thực tế ở một số cơ sở, khi ở Thánh thất có công việc thì người
đạo Cao Đài mới cùng nhau gánh vác công việc, xúm nhau lại cùng làm. Nhưng những
ngày Sóc - Vọng hằng tháng chỉ có một số ít chức sắc tuổi cao, làm nghề nông, hoặc các
vị chức sắc, chức việc có vị trí trong Ban Cai quản, Ban Trị sự tại Họ đạo đến hành lễ.
Việc tụng kinh tứ thời được đánh giá cao để bồi dưỡng đức tin hằng ngày của họ, đây là
điều kiện bắt buộc đối với chức sắc tại Thánh thất. Từ các yếu tố trên cho thấy giá trị cố
kết cộng đồng của đạo Cao Đài vẫn được duy trì nhưng tính liên kết đã giảm so với trước
đây. Bởi chức sắc, tín đồ còn lo làm ăn kiếm sống, ít có thời gian đến Thánh thất. Chỉ có
chức sắc xuất gia tu hành còn thường xuyên tại cơ sở nhưng mỗi khi có công việc họ vẫn
gắn kết được mọi người. Đó cũng là đặc điểm của cư dân Nam Bộ trong cuộc sống, sẵn
sàng tương trợ nhau khi có công việc chung của cộng đồng.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.8: Mức độ hoạt động bồi dƣỡng đức tin hằng ngày của chức sắc,
tín đồ đạo Cao Đài
Nguồn: [phụ lục 8].
Tìm hiểu mức độ lôi cuốn của đạo Cao Đài đối với chức sắc, tín đồ có 10
phương án lựa chọn. Kết quả (biểu đồ 4.9) nội dung phù hợp lối sống dân tộc có tỷ
lệ cao nhất là 13.30%, kế đến là giữ gìn văn hóa truyền thống và giáo lý cao đẹp có
tỷ lệ bằng nhau là 10.26% cùng xếp thứ hai, tiếp đến là giáo luật dễ thực hiện
9.50%, tư tưởng đại đồng 8.74%, chức sắc, tín đồ hòa đồng 8.36%, sinh hoạt dân
121
chủ 4.94%, tổ chức giáo hội chặt chẽ 4.56%. Nội dung tổng hợp tất cả các nội dung
trên được lựa chọn nhiều nhất với tỷ lệ 71.44%. Tín đồ đạo Cao Đài cho rằng đạo
Cao Đài lôi cuốn bởi phù hợp với lối sống của dân tộc. Từ giáo lý, thực hành, đặc
điểm đều gần gũi và quen thuộc với cư dân Nam Bộ. Nguyên nhân có thể những
người sáng lập đạo Cao Đài đều là người sinh ra và lớn lên ở Nam Bộ, hiểu về
phong tục, lối sống, tư duy của con người Nam Bộ nên đó là nguồn cảm hứng để
sáng lập đạo Cao Đài. Ông Lê Văn Tròn, Trưởng Ban Điều hành Giáo hội Cao Đài
Việt Nam (Bình Đức) cho rằng, đạo Cao Đài hấp dẫn bởi: "…
" [146, tr.1]. Đó chính là giá trị nhân cách - lối sống của
đạo Cao Đài, là phong cách của cư dân Nam Bộ "nói đi đôi với thực hành".
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.9: Mức độ lôi cuốn của đạo Cao Đài thu hút tín đồ tin theo
Nguồn: [phụ lục 8].
Đánh giá về mức độ nhu cầu tôn giáo có 09 nội dung để chức sắc, tín đồ đạo
Cao Đài lựa chọn. Kết quả (biểu đồ 4.10) nhu cầu tích cực làm từ thiện có tỷ lệ cao
nhất 70.30%, nhu cầu có chức sắc, chức việc tốt và có tư cách pháp nhân cùng có tỷ
lệ 69.54% đứng thứ hai, nhu cầu xây dựng cơ sở thờ tự khang trang đứng thứ ba với
tỷ lệ 62.32%, nhu cầu tổ chức tốt các lễ hội tôn giáo 53.58%, vận động gia đình sinh
hoạt tôn giáo 51.68%, ý kiến khác 0.76% và không làm gì 0%. Điều này cho thấy
nhu cầu chính đáng của người tu hành là làm điều thiện, điều lành. Chức sắc, tín đồ
đạo Cao Đài đa phần lựa chọn nội dung này để thu hút tín đồ tham gia sinh hoạt tôn
122
giáo không phải chỉ có niềm tin tôn giáo, mà phải có cả sự hướng thiện của con
người trong tôn giáo và ngoài xã hội. Đạo Cao Đài rất chú trọng việc làm từ thiện
được chỉ dạy ngay trong giáo lý và quá trình hành đạo. Một nhu cầu cũng đáng xem
xét là mong muốn có chức sắc, chức việc tốt. Đây có lẽ là nhu cầu phù hợp nhất đối
với đạo Cao Đài hiện nay. Chất lượng chức sắc, chức việc của đạo Cao Đài so với
các tôn giáo ở Việt Nam có phần kém hơn. Nguyên nhân do không có trường đào
tạo chức sắc, mặt bằng học vấn của hàng ngũ chức sắc thấp, ít có người tốt nghiệp
Đại học dẫn đến năng lực, trình độ yếu. Từ thực tế đó, các chức sắc, tín đồ nhận
thấy nhu cầu này cần phải thực hiện sẽ giúp cho đạo Cao Đài thu hút được tín đồ
tham gia sinh hoạt tôn giáo, nâng cao chất lượng hoạt động của đạo Cao Đài. Song
hành với nhu cầu có chức sắc, chức việc tốt là nhu cầu có tư cách pháp nhân để đạo
Cao Đài hoạt động bình thường. Mặc dù vấn đề này hiện nay trong đạo Cao Đài cơ
bản đã được giải quyết nhưng nó vẫn có tính thời sự trong hoạt động tôn giáo.
Đơn vị tính: %
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Có tư
cách
pháp
nhân
Xây
dựng
cơ sở
thờ tự
khang
trang
Có
chức
sắc,
chức
việc tốt
Tích
cực
làm từ
thiện
Tổ
chức
tốt các
lễ hội
tôn
giáo
Vận
động
gia
đình
sinh
hoạt
tôn
giáo
Không
làm gìÝ kiến
khác
69.54%2
62.32%
69.54%
70.30%
53.58%
51.68%
0%
0.76%
Biểu đồ 4.10: Mức độ nhu cầu tôn giáo của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài
Nguồn: [phụ lục 8].
Trong đời sống tinh thần, tín đồ đạo Cao Đài có nhu cầu cao về tín ngưỡng, tôn
giáo. Hằng ngày, chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài sinh hoạt trong nếp sống tôn giáo tụng
123
kinh, niệm danh Đức Cao Đài, làm việc thiện, tu dưỡng đạo đức, hành đạo,… Những
nhu cầu đó đều xuất phát từ tinh thần tự nguyện của họ. Đạo Cao Đài ra đời để đáp ứng
nhu cầu tinh thần của cư dân Nam Bộ mong muốn có một tôn giáo gần gũi với truyền
thống dân tộc. Giáo lý, giáo luật, tổ chức, hoạt động của đạo Cao Đài được xây dựng,
hình thành trên nền tảng đặc điểm lối sống, văn hóa của cư dân Nam Bộ. Điều này giúp
cho đạo Cao Đài trở nêngần gũi với đạo đức, lối sống của cư dân Nam Bộ.
4.1.2.5. Nếp sống văn hóa
Các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài tác động đến nếp sống văn hóa của chức
sắc, tín đồ. Khi được hỏi vào đạo Cao Đài, ông/bà thấy đạo Cao Đài đem lại điều gì
có giá trị cho đời sống của bản thân? Kết quả (biểu đồ 4.11) có 73.72% lựa chọn
được tu dưỡng bản thân và 64.98% được sống có lý tưởng cao đẹp; các giá trị khác
như nêu gương hạnh đức 55.86%, lối sống cộng đồng 50.92%, nâng cao tri thức
50.16%. Điều này cho thấy, tín đồ đạo Cao Đài đánh giá cao việc tu dưỡng bản thân
để trở thành người hoàn thiện hơn, có lý tưởng, có đạo đức trong xã hội. Một điều
đáng quan tâm là nội dung nâng cao tri thức được đánh giá thấp nhất trong 5 nội
dung nêu ra. Như vậy, theo tín đồ đạo Cao Đài khi vào Đạo họ nhận thấy các giá trị
về nhân cách - lối sống có tác động nhiều hơn giá trị tri thức.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.11: Mức độ các giá trị của đạo Cao Đài tác động đến đời sống tinh
thần của chức sắc, tín đồ
Nguồn: [phụ lục 8].
124
Tìm hiểu về các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài có đóng góp cho đời sống văn
hóa, xã hội ở Nam Bộ, tín đồ đạo Cao Đài cho rằng đạo Cao Đài ra đời có đóng góp
giữ gìn đạo đức, văn hóa truyền thống là cao nhất với 78.66%, đoàn kết cộng đồng
64.60%, tạo ra cộng đồng có tín ngưỡng 57.00%, giáo dục con người 56.62%, nâng cao
dân trí 53.96%. Còn lại hai giá trị được đánh giá thấp hơn là đáp ứng nhu cầu tinh thần
của cư dân 48.64%, đa dạng văn hóa dân tộc 22.80% (biểu đồ 4.12). Giá trị giữ gìn đạo
đức, văn hóa truyền thống được tín đồ đạo Cao Đài đánh giá có đóng góp nhiều nhất.
Điều này cho thấy tín đồ đạo Cao Đài luôn ý thức việc hành đạo là để bảo vệ đạo đức
và văn hóa truyền thống. Đây là hai nội dung quan trọng của người tín đồ Cao Đài, tu
hành để rèn luyện đạo đức và giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc. Tín đồ đạo Cao
Đài lựa chọn và đánh giá cao giá trị đạo đức của đạo Cao Đài.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.12: Mức độ đóng góp của đạo Cao Đài trong đời sống văn hóa,
xã hội ở Nam Bộ
Nguồn: [phụ lục 8].
Tìm hiểu mức độ phù hợp của đạo Cao Đài đối với lối sống của cư dân Nam
Bộ có 06 nội dung lựa chọn. Kết quả (biểu đồ 4.13) nội dung tinh thần đoàn kết
được đánh giá cao nhất với 74.10%, trang phục truyền thống dân tộc đứng thứ hai
với 73.72%, tính nhân văn, nghĩa tình 62.70%, liên kết cộng đồng 56.62%, lối sống
dân chủ 56.24%, khác 0.76%. Tín đồ đạo Cao Đài lựa chọn và đánh giá cao nhất
125
tinh thần đoàn kết của đạo Cao Đài. Giá trị cố kết cộng đồng là một trong những giá
trị mà đạo Cao Đài gây dựng góp phần liên kết mọi người tham gia hoạt động tôn
giáo và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Tinh thần đoàn kết trở thành giá trị đáng trân
trọng không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn là đặc điểm của các tộc người, các
tôn giáo trong đó có đạo Cao Đài. Tín đồ đạo Cao Đài đánh giá cao về trang phục
truyền thống dân tộc. Với việc mang trang phục là khăn đóng, áo dài, đạo Cao Đài
đã bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, giữ gìn di sản của cha ông để lại.
Hình ảnh người đạo Cao Đài mặc áo dài màu trắng, đội khăn xếp trở thành bản sắc
riêng của dân tộc. Bản thân người đạo Cao Đài cũng nhận định : "…việc đó không
có gì cản trở đối với việc hòa nhập cộng đồng trong xã hội hiện đại như ngày nay"
[20, tr.4]. Vấn đề lối sống dân chủ được đánh giá thấp nhất 56.24%. Thực tế, đạo
Cao Đài có lối sống dân chủ giữa chức sắc và tín đồ. Tuy nhiên, quá trình hoạt
động, một số chức sắc vẫn mang quyền lực áp đặt vào công việc dẫn đến mất dân
chủ, sinh ra độc quyền, độc đoán. Điều này hiện nay đang xảy ra ở một số Hội
thánh dẫn đến mâu thuẫn nội bộ, tranh giành quyền lực. Một số chức sắc hiện nay
không còn là tấm gương tiêu biểu về đạo đức, lối sống cá nhân, gia đình và xã hội.
Có thể vì các lý do nêu trên mà tín đồ đạo Cao Đài đánh giá thấp lối sống dân chủ.
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 4.13: Mức độ phù hợp của đạo Cao Đài với phong tục tập quán, lối
sống của cƣ dân Nam Bộ
Nguồn: [phụ lục 8].
126
Trong giao tiếp hàng ngày, tín đồ Cao Đài xưng hô với nhau thân thiện, gần
gũi không quan cách. Giáo tông là người đứng đầu trong Đạo xưng là anh Cả, còn
các vị chức sắc xưng với người tín đồ là anh, là chị. Người tín đồ gọi chức sắc là
anh lớn, chị lớn. Cao Đài Thượng Đế khi xuất hiện qua "cơ bút" xưng danh với các
đệ tử là Thầy, như là người hướng dẫn, chỉ dạy cho tín đồ. Cao Đài Thượng Đế còn
xưng danh là Cha để khuyên chúng sanh biết nhìn nhận mình là anh em con chung
một Đấng Cha Trời.
"Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
Cùng nhau một đạo tức một Cha.
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hoà".
Đây là cách xưng hô biểu hiện đạo Cao Đài không có sự phân biệt giai cấp
trong sinh hoạt hàng ngày dân chủ, bình dân trong giao tiếp, và trở thành những
người tu hành sống chan hoà không có khoảng cách người trên, kẻ dưới, người
đồng đạo coi nhau như anh em.
Lễ hội của đạo Cao Đài mang đặc trưng văn hóa của cư dân Nam Bộ. Năm
2015, khi nghiên cứu sinh tham dự lễ Hội Yến Diêu Trì Cung tại Toà thánh Tây
Ninh chứng kiến hàng vạn người không quản ngại thời tiết thành tâm hướng về Báo
Ân Từ tưởng niệm Đức Phật Mẫu. Trong tiết trời mưa, người đạo Cao Đài vẫn đứng
chờ Hội thánh khai mạc màn biểu diễn nghệ thuật có múa lân, múa rồng, múa sư tử
và rước cộ bông theo các tích cổ trong văn hoá dân gian, theo huyền thoại của đạo
Cao Đài ở trước Tòa thánh. Đó là biểu hiện đức tin và thiết chế cộng đồng chặt chẽ
của đạo Cao Đài. Đông đảo chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài và người dân đến tham dự
không quản ngại thời tiết, không gian chật hẹp vẫn tự giác xếp hàng, trật tự, tuân
theo hướng dẫn của Ban Tổ chức. Thông qua lễ hội, đạo Cao Đài biểu hiện giá trị
gắn kết cộng đồng trở nên khoan dung, độ lượng trong sinh hoạt tôn giáo.
Trang phục của đạo Cao Đài mang tính triết lý sâu sắc. Phối sư Bùi Văn Côn
của Cao Đài Tây Ninh cho rằng: "
" [22, tr.6]. Đối với những
người không phải là tín đồ đạo Cao Đài cho việc mặc trang phục của đạo Cao Đài
127
vẫn phù hợp với thời đại bởi khi sinh hoạt tôn giáo họ mới mặc đạo phục còn khi
sinh hoạt thường ngày họ "ăn mặc như cư dân trong xóm làng" [78, tr.2]. Người đạo
Cao Đài cho rằng chọn màu trắng làm chủ đạo trong trang phục bởi vì: "…màu
trắng tượng trưng cho sự sạch sẽ. Người mặc trang phục màu trắng phải cẩn thận
giữ gìn kẻo bị vấy bẩn; như nhắc nhở mình hành động, cử chỉ phải cẩn trọng, giữ
gìn sự trong sáng tâm hồn" [89, tr.6].
Kiến trúc thờ tự của đạo Cao Đài tạo ra phong cách nghệ thuật riêng và hình
thành một ý thức mới trong xây dựng: "
" [20, tr.9].
Lễ nhạc của đạo Cao Đài đem lại sự hài hòa, cân bằng về tinh thần "trật tự
điều hòa tâm hồn được thành kính, diệt trừ được bản ngã tư tâm, hướng thiện lòng
thành kính các đấng thiêng liêng và tiếp tục nhận được nhiều ân điển" [110, tr.8].
Nhạc lễ của đạo Cao Đài tạo ra cho chức sắc, tín đồ cảm xúc sâu xa, sự rung động
của các giác quan đem lại cảm giác sâu lắng, bồi hồi, tưởng cảm đến cõi siêu linh
mà ngôn ngữ không thể diễn đạt được.
Điều tra về nếp sống văn hóa của tín đồ đạo Cao Đài cho thấy trong các
phương án lựa chọn, tín đồ đạo Cao Đài luôn hướng đến mục đích về giá trị nhân
cách - lối sống và tinh thần giữ gìn truyền thống văn hóa, đạo đức làm trọng. Điều
này chứng minh, đạo Cao Đài theo tư tưởng truyền thống, ít đổi mới, ngại đấu tranh
với những cái cũ, cái bảo thủ. Chính vì vậy, đạo Cao Đài hiện nay chậm thích nghi
với môi trường xã hội và tốc độ phát triển không nhanh so với các tôn giáo khác.
4.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN
HÓA CỦA ĐẠO CAO ĐÀI HIỆN NAY
Quá trình tồn tại, đạo Cao Đài đã hình thành, xây dựng các giá trị văn hóa
riêng, đồng thời được tín đồ lưu giữ và phát triển trong đời sống xã hội. Sự phát
triển nhanh của khoa học công nghệ và đời sống xã hội đã tác động đến các giá trị
văn hóa của đạo Cao Đài. Một số giá trị văn hóa của đạo Cao Đài đã có sự biến đổi
để thích nghi với môi trường xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
hiện nay, đạo Cao Đài cũng nằm trong quy luật biến đổi, phát triển văn hóa là từ
128
"truyền thống (tradition) - tiếp biến (acculturation) - đổi mới (innovatinon) - quay
về truyền thống" [134, tr.410]. Sự biến đổi giá trị văn hóa của đạo Cao Đài được
biểu hiện qua biến đổi về thiết chế tổ chức và một số giá trị văn hóa cụ thể.
4.2.1. Sự biến đổi giá trị của đạo Cao Đài trong đời sống bộ phận cƣ dân
có đạo Cao Đài ở Nam Bộ hiện nay
4.2.1.1. Biến đổi thiết chế tổ chức và các giá trị văn hóa
Quá trình hoạt động, đạo Cao Đài có những biến đổi về cơ cấu thiết chế tổ
chức. Đó là biến đổi về tổ chức, hoạt động giữ đạo, truyền đạo, xu hướng hoạt động
để thích nghi và phù hợp với đời sống xã hội. Từ những thiết chế tổ chức giáo hội
ban đầu, Cao Đài Tây Ninh thành lập thêm bộ phận Phạm Môn của Phạm Công
Tắc, sau đó đổi thành cơ quan Phước Thiện để chuyên làm công việc khuyến thiện.
Cao Đài Ban Chỉnh đạo thành lập Ban Hành thiện từ Hội thánh đến Họ đạo và bổ
sung một bậc tu trung thừa cho người tín đồ có thêm lựa chọn hay tăng nấc thang tu
hành (Tân luật của đạo Cao Đài quy định có 2 bậc tu hành là hạ thừa và thượng
thừa). Các phái Cao Đài trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc đã liên kết với nhau
thành lập Cao Đài Cứu quốc, Liên giao I, Liên giao II tham gia kháng chiến cứu
nước, góp phần cùng nhân dân giành độc lập dân tộc. Hiện nay, các phái Cao Đài
tiếp tục liên kết với nhau hoạt động liên giao hành đạo trên các lĩnh vực xã hội, thể
hiện tinh thần đoàn kết tôn giáo, tiến bộ, gắn bó với dân tộc. Thời kỳ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, các phái Cao Đài xây dựng lại Hiến chương và đường hướng hành
đạo. Hiến chương của các phái Cao Đài hiện nay đều khẳng định tổ chức giáo hội 2
cấp: trung ương là Hội thánh, cơ sở là Họ đạo. Ngoài ra, có cấp trung gian là Ban
Đại diện tỉnh, thành phố. Đường hướng hành đạo của các phái Cao Đài đều xác định
phương châm "Nước vinh, Đạo sáng".
Trước đây, các phái Cao Đài hoạt động điều hành giáo hội theo quy định của
Tân luật, Pháp Chánh truyền. Đó là việc điều hành giáo hội theo phẩm vị chức sắc
có Giáo tông nắm quyền hành pháp và Hộ pháp nắm quyền tư pháp. Đến nay, các
phái Cao Đài hoạt động điều hành giáo hội không theo phẩm vị chức sắc mà bằng
hình thức tập thể lãnh đạo, thông qua hoạt động của 3 Hội (Thượng hội, Hội thánh,
Hội Nhơn sanh). Thành lập tổ chức lãnh đạo Hội thánh gồm chức sắc lưỡng đài
129
(Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài), lưỡng phái (nam, nữ) để giải quyết công việc
hành chính của đạo như: Ban Thường trực, Hội đồng Chưởng quản, Thường trực,
Ban Điều hành. Giúp việc cho tổ chức lãnh đạo Hội thánh nêu trên có các cơ quan
giúp việc như: Cửu viện nam nữ, Toà Nội chính, Toà Pháp chánh, Cơ quan Phổ tế,
Cơ quan Phước thiện, Cơ quan nữ phái, Cơ quan Hiệp Thiên đài,… Sự biến đổi này
làm đơn giản hệ thống tổ chức của đạo Cao Đài nhưng cũng đặt ra vấn đề do không
đủ điều kiện hoạt động theo quy định của luật đạo dẫn đến những bất cập trong hoạt
động của đạo Cao Đài sau này.
Về hoạt động giữ đạo và truyền đạo của đạo Cao Đài cũng có những biến đổi
tích cực. Chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài hiện nay chủ yếu đều ảnh hưởng từ ông bà,
cha mẹ theo truyền thống gia đình để tu hành. Số tín đồ mới nhập môn mỗi năm
khoảng 30 ngàn tín đồ nhưng số mất đi thì chưa thống kê được. Các phái Cao Đài
đều đảm bảo hoạt động theo truyền thống của từng phái và có sự tiếp biến đổi mới
cho phù hợp với điều kiện xã hội. Phỏng vấn 34 chức sắc, nhà tu hành về kết quả
phổ độ người vào Đạo. Rất ít người chưa phổ độ được, còn lại đa phần đều có kết quả
cao trong hoạt động truyền đạo của bản thân. Đầu sư Huỳnh Thị Phúc, Trưởng Ban Đại
diện Cao Đài Chơn Lý tỉnh Long An cho biết: "
" [108, tr.2]. Tín đồ đạo Cao Đài luôn nhớ đến
công ơn của người tiến dẫn mình vào đạo, thể hiện đức tính thủy chung và lối sống có
đạo đức. Hoạt động truyền đạo do không sử dụng cơ bút nên đạo Cao Đài chủ yếu hoạt
động bằng việc giảng đạo tại cơ sở thờ tự hay trực tiếp đến nhà tín đồ. Thông qua các
hoạt động lễ hội, tuyên truyền trên kinh sách, báo chí, truyền thông, nhạc lễ, nhân cách
tu hành của tín đồ đạo Cao Đài nhằm truyền đạo đến cư dân Nam Bộ. Sự biến đổi
trong hoạt động truyền đạo là có hoạt động truyền thông trên mạng Internet để phổ biến
giáo lý đạo Cao Đài đến với tín đồ và người dân quan tâm muốn tìm hiểu. Hiện nay,
các phái Cao Đài đều có trang báo điện tử (website) để thực hiện công việc truyền đạo
và có hiệu quả cao. Một số trang báo của tổ chức, cá nhân đạo Cao Đài ở nước ngoài
cũng góp phần truyền bá đạo Cao Đài ra thế giới.
130
Về xu hướng hoạt động, trong xu thế toàn cầu hóa, mở cửa, giao lưu, hội
nhập hiện nay đã trở thành nhu cầu tất yếu của văn hóa các dân tộc, là "một sự thay
đổi xã hội, một sự liên thông ngày càng tăng giữa các xã hội và các yếu tố của nó do
sự xuyên văn hóa" [127, tr.163]. Trước bối cảnh đó, đạo Cao Đài biểu hiện tinh thần
toàn cầu hóa, tính mở của tôn giáo ngay thời kỳ đầu thành lập đã "tuyên bố sẽ là tôn
giáo của nhân loại" [154, tr.211]. Mở đầu Thánh ngôn hiệp tuyển, Ngọc Hoàng
Thượng Đế dạy:
Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên.
Đạo màu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên [43, tr.5].
Tư tưởng xây dựng một xã hội đại đồng, một tôn giáo của nhân loại là mục
đích của đạo Cao Đài. Trên tinh thần đó, đạo Cao Đài mở rộng hoạt động tôn giáo ở
nước ngoài, truyền đạo ra các nước: Pháp, Mỹ, Campuchia, Trung Quốc,… Đến
nay, đạo Cao Đài đã có mối quan hệ đồng đạo với các tổ chức, cá nhân đạo Cao Đài
ở nước ngoài. Thực tế, kết quả toàn cầu hóa tôn giáo của đạo Cao Đài có thành tựu
nhất định, nhưng khó có thể thực hiện được trong tương lai, bởi lẽ xu thế thế tục
hóa, đa dạng hóa, dân tộc hóa đang chiếm ưu thế trong đời sống tôn giáo. Xu thế đa
dạng hóa là xu thế tất yếu đảm bảo tính nguyên tắc của thời đại thống nhất trong đa
dạng. Đạo Cao Đài ở Việt Nam bị chia rẽ thành nhiều tổ chức tôn giáo. Mỗi tổ chức
lại xây dựng mô hình hệ thống tổ chức giáo hội khác nhau. Điều này làm cho đạo
Cao Đài trở nên đa dạng và phong phú. Từ một tổ chức ban đầu là đạo Cao Đài có
Tòa thánh ở Tây Ninh đến nay đạo Cao Đài tồn tại 10 Hội thánh, 01 Pháp môn tu
hành, 21 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập không trực thuộc các Hội thánh. Các tổ
chức Cao Đài hoạt động vẫn khẳng định là đạo Cao Đài, chỉ có một số ít biến đổi về
hình thức và nội dung nhưng vẫn cơ bản thực hiện theo truyền thống của đạo Cao
Đài, hoặc "cũng có canh cải ít nhiều tùy từng nơi, nhưng về cơ bản là vẫn thống
nhất trên nguyên tắc" [65, tr.274].
Xu thế dân tộc hóa là xu thế tái đổi mới tôn giáo truyền thống. Đạo Cao Đài
là tôn giáo ra đời ở Việt Nam nhưng quá trình tồn tại cũng phải thay đổi để thích
131
nghi với đời sống xã hội "bỏ bớt những yếu tố lỗi thời, tiếp nhận những yếu tố cần
thiết hợp với tâm thức tôn giáo" [153, tr.221]. Giới luật của đạo Cao Đài quy định
chức sắc bắt buộc phải để râu tóc nhưng trong quá trình thực hiện không bắt buộc
việc này.
Xu thế thế tục hóa là hành vi nhập thế của tôn giáo bằng cách tham gia vào
những hoạt động xã hội. Đạo Cao Đài có tư tưởng nhập thế nên sẵn sàng tham gia
các hoạt động xã hội như y tế, giáo dục, từ thiện, báo chí. Trong hoạt động y tế, đạo
Cao Đài chủ trương khuyến khích mỗi Thánh thất của đạo Cao Đài đều thành lập cơ
sở khám chữa bệnh cho người đạo và người dân.
Từ biến đổi về cơ cấu thiết chế tổ chức dẫn đến đạo Cao Đài biến đổi các giá
trị văn hóa. Đó là biến đổi về giá trị nhận thức, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ.
Giá trị nhận thức gồm giá trị tri thức và giá trị tâm linh cũng biến đổi để
thích nghi và phù hợp với đời sống xã hội.
Về giá trị tri thức, đạo Cao Đài trang bị cho tín đồ tri thức về thế giới quan,
nhân sinh quan, xã hội quan, đồng thời giáo dục tín đồ biết thương yêu đoàn kết,
học tập, tu hành vươn lên vượt qua cái bình thường của bản thân, hướng đến cái phi
thường của trí tuệ. Điều này đã giúp tín đồ đạo Cao Đài hòa nhập cộng đồng, biết
tuân theo quy luật của tự nhiên, của xã hội đểcó thể đạt được những kết quả vượt
quá sự mong đợi trong quá trình tu hành. Đạo Cao Đài giúp tín đồ có môi trường
được rèn luyện, tu dưỡng, học tập nâng cao dân trí để trở thành người có kiến thức
về xã hội, về tôn giáo. Trước tác động của xã hội hiện đại, đạo Cao Đài đã chú trọng
phát triển giáo dục, tăng cường mở các lớp hạnh đường để đào tạo, bồi dưỡng chức
sắc, chức việc trong hành đạo, thành lập các trường đào tạo chức sắc, khuyến khích
tín đồ học tập, nâng cao trình độ tri thức.
Về giá trị tâm linh, đạo Cao Đài đã tạo ra thế giới tâm linh riêng có Ngọc
Hoàng Thượng Đế làm giáo chủ và hướng dẫn tín đồ tu luyện để trở thành người
đạo đức có thể vươn tới sự minh triết trong cuộc sống. Trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay, giá trị tâm linh cũng có biến đổi. Trước đây, phẩm vị chức sắc của đạo
Cao Đài do chính Ngọc Hoàng Thượng Đế thiên phong (qua cơ bút), nhưng đến nay
đã thay thế hình thức thiên phong và dùng hình thức công cử theo quy định của luật
132
đạo. Việc công cử là chọn và bầu người có phẩm vị trong tổ chức tôn giáo do chính
những chức sắc bầu ra. Tín đồ đạo Cao Đài tin tưởng vào Ngọc Hoàng Thượng Đế
và cho rằng phẩm vị chức sắc là do Thượng Đế lựa chọn: "
" [124, tr.5]. Điều này giúp cho người tín đồ
Cao Đài tin tưởng vào bản thân và tiếp tục tu hành trên con đường đã chọn.
Giá trị đạo đức gồm giá trị nhân cách - lối sống và giá trị cố kết cộng đồng.
Về giá trị nhân cách - lối sống, đạo Cao Đài đã hình thành chuẩn mực về đạo đức,
lối sống cho người tín đồ. Tính cởi mở, dung hòa trong giáo lý của đạo Cao Đài
giúp người tín đồ tham gia các hoạt động xã hội, lao động, sản xuất có trách nhiệm
trên tinh thần đạo đức. Khi tham gia lao động sản xuất, tín đồ Cao Đài chủ trương
vừa tu hành, vừa lao động sản xuất để làm giàu cho bản thân và làm giàu cho xã
hội. Điều này làm động lực cho phát triển xã hội ở những nơi có tín đồ đạo Cao Đài.
Hiện nay, đạo đức xã hội đang đối mặt với nguy cơ suy thoái về phẩm chất con
người, lối sống thực dụng, lợi ích cá nhân và sự lãnh cảm của cộng đồng trước số
phận của người nghèo khổ,... Đạo Cao Đài cũng không tránh khỏi những biến đổi
và chuyển dịch về đạo đức, lối sống. Đạo đức của người tín đồ vẫn tuân thủ theo
quy định của Đạo nhưng đã thay đổi cho phù hợp. Lối sống của tín đồ Cao Đài
không còn khép kín trong các nhà tu, nhà tịnh mà hòa nhập với cộng đồng xã hội,
tham gia các hoạt động xã hội.
Về giá trị cố kết cộng đồng, bối cảnh toàn cầu hóa tác động mạnh đến giá trị
cố kết cộng đồng của đạo Cao Đài. Trước đây, vai trò cộng đồng trong đạo Cao Đài
được đánh giá cao bởi tinh thần trách nhiệm, ý thức cá nhân với cộng đồng, tự tin
chia sẻ với cộng đồng, đóng góp hy sinh cho cộng đồng và tinh thần yêu nước.
Những yếu tố nêu trên vẫn còn trong đạo Cao Đài nhưng đã có sự biến đổi bởi tác
động của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Tinh thần cố kết
cộng đồng trong đạo Cao Đài hiện nay không đặt nặng vấn đề ý thức cá nhân với
cộng đồng. Theo quy định của đạo Cao Đài, mỗi tín đồ phải đến Thánh thất hành lễ
2 kỳ trong tháng và tương thân, tương ái với đồng đạo. Nhưng trong cuộc sống hiện
đại, những tín đồ còn trong độ tuổi lao động còn đối mặt với đời sống hằng ngày,
lao động sản xuất nên ít có thời gian tham gia sinh hoạt cộng đồng tại cơ sở. Tuy
133
nhiên, khi cộng đồng có yêu cầu, họ sẵn sàng tham gia nhiệt tình, hoặc khi đồng đạo
gặp khó khăn, họ giúp đỡ bằng vật chất, bằng sức lao động để thể hiện tinh thần
cộng đồng của mình. Ông Trần Tự Kinh, nguyên Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh Cà
Mau cho rằng đạo Cao Đài đa số là người nông dân, sống bằng nghề nông nghiệp
nên họ có sự đoàn kết, yêu thương, chia sẻ trong cuộc sống: "gắn bó với nông dân
nghĩa xóm tình làng, bệnh hoạn ốm đau thuốc men chữa trị cho bệnh nhân nghèo"
[78, tr.2]. Tinh thần yêu nước đã có sự biến đổi so với thời kỳ kháng chiến cứu
nước. Trước đây yêu nước gắn liền với đấu tranh chống ngoại xâm, là tinh thần giữ
nước. Đến nay, yêu nước gắn liền với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là tinh thần
dựng nước. Do vậy, tinh thần yêu nước hiện nay khó xác định hơn bởi yêu nước là
tinh thần đoàn kết, tinh thần cộng đồng, tinh thần chấp hành pháp luật, sống có trách
nhiệm với cộng đồng, tích cực lao động sản xuất làm giàu cho xã hội, ý thức xây
dựng đời sống văn hóa dân tộc, tình yêu gia đình, dòng tộc, quê hương đất nước
cũng trở thành giá trị cố kết cộng đồng. Đạo Cao Đài cũng biến đổi theo quy luật
của xã hội, tinh thần yêu nước của tín đồ đạo Cao Đài được biểu hiện qua tinh thần
đoàn kết, chấp hành pháp luật, tham gia lao động sản xuất, tinh thần tương thân,
tương ái giúp đỡ người nghèo khổ trong cộng đồng.
Về giá trị thẩm mỹ gồm giá trị biểu tượng và giá trị nghệ thuật cũng biến đổi
thích nghi với đời sống xã hội. Về giá trị biểu tượng, đạo Cao Đài tích cực trùng tu,
xây dựng mới hàng trăm cơ sở thờ tự. Một số công trình có kiến trúc quy mô mới
được hoàn thành như: Tòa thánh Châu Minh của Cao Đài Tiên Thiên ở Bến Tre,
Tòa thánh Tam Quan của Cao Đài Cầu Kho Tam Quan ở Bình Định, Thánh thất Đa
Phước của Cao Đài Tây Ninh ở Lâm Đồng, Thiên tòa Hoàng Đạo của Cao Đài Việt
Nam (Bình Đức) ở Tiền Giang, Trung tông Thánh tịnh của Truyền Giáo Cao Đài ở
Đà Nẵng,... Các Thánh thất, cơ sở thờ tự của đạo Cao Đài đã trở thành mái nhà
chung trong sinh hoạt cộng đồng của người tín đồ và là nơi biểu hiện tinh thần đoàn
kết, xây dựng lối sống cộng đồng, bảo vệ văn hóa dân tộc.
Về giá trị nghệ thuật, đạo Cao Đài giảm thời gian thực hành nghi thức trong
lễ nhạc, lễ hội. Một số Họ đạo tại các trung tâm đô thị đã không dùng ban nhạc
trong đàn lễ để rút ngắn thời gian tổ chức đàn lễ từ 2 đến 3 giờ xuống còn hơn 1 giờ
134
đồng hồ. Điều này nhằm tiết kiệm thời gian giúp tín đồ có thêm thời gian tham gia
các hoạt động khác trong đời sống xã hội.
Quá trình đổi mới và hội nhập, đạo Cao Đài biết kế thừa truyền thống và tiếp
nhận cái mới từ bên ngoài. Tín đồ đạo Cao Đài đã tự giác nhận thức và thay đổi qua
các hoạt động tôn giáo để thích nghi với quá trình biến đổi văn hóa.
4.2.1.2. Ảnh hưởng của biến đổi các giá trị văn hóa đạo Cao Đài hiện nay
Hiện nay, các phái Cao Đài có biến đổi về hệ thống tổ chức giáo hội, không
theo quy định của Tân luật, Pháp Chánh truyền hoặc truyền thống của đạo. Nguyên
nhân, thứ nhất do khi thành lập lại tổ chức giáo hội đều xây dựng mô hình tập thể
lãnh đạo qua hình thức: Thượng hội, Ban Thường trực, Hội đồng Chưởng quản,
Ban Điều hành,… không còn mô hình phẩm vị chức sắc đóng vai trò lãnh đạo giáo
hội; thứ hai, do quá trình lâu dài không được phong chức, phong phẩm từ sau năm
1975 đến năm 1995 nên đa số các phái Cao Đài không đủ chức sắc hành đạo theo
quy định của luật đạo; thứ ba, chức sắc Cao Đài hiện nay không dám đảm nhận
phẩm vị cao trong tổ chức giáo hội như Giáo tông, Hộ pháp mà để vô vi. Từ các
nguyên nhân trên, dẫn đến thiếu hụt chức sắc điều hành tổ chức giáo hội. Đồng thời
mô hình tổ chức giáo hội hiện nay của đạo Cao Đài là mô hình mới chưa có tiền lệ,
không có trong quy định của luật đạo, khiến cho hoạt động của các phái Cao Đài có
nhiều hạn chế. Đánh giá về tổ chức của đạo Cao Đài sau 20 năm hoạt động, Ban
Tôn giáo Chính phủ cho rằng: "Mâu thuẫn nội bộ trong các Hội thánh Cao Đài vẫn
tiếp tục diễn ra giữa các chức sắc lãnh đạo Hội thánh. Nguyên nhân do tư tưởng lạc
hậu, điều hành thiếu hiệu quả, mất dân chủ và chức sắc kém uy tín" [7, tr.3]. Đây là
vấn đề đã tồn tại từ lâu, chưa được khắc phục.
Sự biến đổi về tổ chức giáo hội của đạo Cao Đài dẫn đến tình trạng mất đoàn
kết, mâu thuẫn nội bộ và đặc biệt nghiêm trọng là người đứng đầu tổ chức của các
phái Cao Đài thường mắc bệnh chuyên quyền, độc đoán. Nguyên nhân do biến đổi
cơ cấu tổ chức giáo hội, về nguyên tắc quyền lực do tập thể lãnh đạo giáo hội quyết
định nhưng chức năng giám sát, kiểm tra của cơ quan Hiệp Thiên đài và phân quyền
của chức sắc trong Hội thánh không rõ ràng. Mọi quyền lực của giáo hội tập trung
vào cơ quan Ban Thường trực hay Hội đồng Chưởng quản, Ban Điều hành. Các cơ
135
quan khác như Thượng hội hay Ban Thập ngũ Linh đăng thực tế lại trở thành nơi
"an dưỡng" của chức sắc cao cấp, không có thực quyền.
Thành phần xuất thân của chức sắc trong đạo Cao Đài đa phần là nông
dân nên mang tâm lý tiểu nông. Theo Phạm Minh Hạc, tư tưởng tiểu nông là:
"thiếu khoa học, chủ quan, duy ý chí, phiến diện, giản đơn, nặng về cảm tính và
cảm tình,… Hết sức bảo thủ, trì trệ, không năng động, thiếu sáng tạo, không
nhạy cảm với cái mới, kém tính thích nghi" [51, tr.286]. Chính từ tâm lý này mà
chức sắc đạo Cao Đài có năng lực hạn chế, điều hành giáo hội chưa tốt, uy tín
trong đạo không cao, tư tưởng lạc hậu, bảo thủ dễ bị các phần tử xấu lợi dụng,
tham gia các hoạt động tôn giáo trái phép, gây chia rẽ mất đoàn kết. Đạo Cao
Đài tồn tại tình trạng Họ đạo ở cơ sở không chấp nhận Hội thánh là tổ chức lãnh
đạo ở trung ương mà hoạt động tách rời: "Hiện nay, còn 70 Họ đạo Cao Đài chưa
về sinh hoạt với Hội thánh (trong đó: Tây Ninh 12; Ban Chỉnh đạo 44; Tiên
Thiên 6; Truyền giáo 7; Chơn lý 1)" [7, tr.4]. Những Họ đạo Cao Đài hoạt động
ly khai tuy chưa gây hậu quả lớn đối với xã hội nhưng tiềm ẩn nhiều vấn đề phức
tạp, dễ làm mất an ninh, trật tự tại địa phương. Ngoài ra, đạo Cao Đài còn có
hoạt động chống đối Hội thánh, chủ yếu trong Cao Đài Tây Ninh: "Sau khi được
công nhận về tổ chức, các Hội thánh Cao Đài xảy ra tình trạng Họ đạo hoạt động
tách rời giáo hội, thậm chí có hoạt động chống đối, gây cản trở cho hoạt động
của giáo hội hợp pháp" [160, tr.54]. Nhóm chống đối này tổ chức các hoạt động
đòi hỏi về nhân quyền, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, yêu cầu khôi phục tổ chức
giáo hội như Tân luật, Pháp Chánh truyền, tham gia tổ chức liên tôn giáo có
hành động trái pháp luật,...
Sự biến đổi về cơ cấu thiết chế tổ chức của đạo Cao Đài dù mang tính tích
cực hay tiêu cực cũng đều phản ánh tâm lý của con người đối với xã hội: "Tôn giáo
phải bắt đầu từ con người, phục vụ con người thì nó mới tồn tại, và một khi nó đã
và đang tồn tại cùng con người chứng tỏ nó là hợp lý, còn nếu nó chống lại hay áp
bức con người thì sớm hay muộn tôn giáo cũng sẽ bị hủy diệt" [57, tr.22]. Biến đổi
để thích nghi và phục vụ nhu cầu của con người để tồn tại là quy luật phát triển của
các hiện tượng xã hội trong đó có tôn giáo.
136
Tôn giáo có mặt tiến bộ, tích cực nhưng cũng có mặt hạn chế, tiêu cực. Vấn đề
tiêu cực của tôn giáo là: "Mặt tiêu cực của tín ngưỡng, tôn giáo là dễ làm người ta ỷ lại,
tin mù quáng vào số mệnh và thường dẫn đến mê tín dị đoan. Chúng có thiên hướng cổ
vũ lối sống thụ động, cam chịu, dễ ngả nghiêng và dễ bị những nếp sống khép kín, bi
quan và bế tắc cám dỗ" [160, tr.88-89]. Các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong sự
vận động của quy luật xã hội cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của sự biến đổi.
Đạo đức, lối sống của người tín đồ đạo Cao Đài đang đứng trước thách thức
của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Một số chức sắc lãnh
đạo giáo hội Cao Đài không rèn luyện bản thân để trở thành người hiểu biết về giáo
lý làm mất niềm tin của nhân sinh: "
"
[22, tr.9]. Điều này chứng minh thực tế một số chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài có
phẩm vị cao trong tôn giáo, có niềm tin tôn giáo sâu sắc nhưng sự hiểu biết về giáo
lý không nhiều. Thời gian gần đây là vụ việc khiếu kiện kéo dài trong Cao Đài
Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi về đạo đức, lối sống của những người đứng đầu
pháp môn. Giáo luật của Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi quy định người
đạo phải tu vô vi, không sắc tướng, không được thưa kiện hoặc gây xích mích với
nhau: "Nhất là chẳng nên bày mưu xúi kế cho người thưa kiện hoặc gây gổ nhau
cùng là đem chuyện của người nầy mà nói với người kia làm cho hai đàng xích
mích" [19, tr.8]. Tuy nhiên, những người này đã bất chấp giới luật, vì lợi ích cá
nhân nên có hành động mất đoàn kết, vi phạm giới luật.
Chức sắc đạo Cao Đài có trình độ học vấn thấp: "Kết quả điều tra khảo sát
năm 2002, cho thấy trình độ chức sắc Cao Đài rất thấp có 52,3% là bậc Tiểu học và
45,4% từ bậc phổ thông cơ sở đến phổ thông trung học. Số chức sắc có trình độ Đại
học, Cao Đẳng chỉ có 2,3%" [8, tr.133]. Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn quan ngại về vấn
đề này: "Trong 400 người được hỏi ở Hòa Thành, không có một người kinh qua đại
học. Trong giới chức sắc, người có học giảm sút và rất nhiều người chưa hiểu hết giáo
lý, mà chỉ là thực hiện như một thói quen. Đó là một điều đáng ngại" [152, tr.83].
Hiện tượng chức sắc vi phạm giới luật trong đạo Cao Đài có xu hướng gia
tăng. Năm 2013, một vị chức sắc Đầu Họ đạo Cao Đài Ban Chỉnh đạo ở Bến Tre ở
137
tuổi 70 bị Tòa án kết án 20 năm tù giam vì hai tội "hiếp dâm trẻ em" và "giao cấu
với trẻ em". Báo Điện tử Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh đưa tin: "…trong thời
gian làm người đứng đầu Họ đạo Cao Đài Ban Chỉnh xã Hưng Phong, huyện Giồng
Trôm, tỉnh Bến Tre, do hằng ngày có nhiều trẻ em gái khoảng độ tuổi 12 - 13 là học
sinh thường vào chơi, Huỳnh Văn Siêng đã nảy sinh ý định dụ dỗ các em gái này
quan hệ tình dục với mình" [170, tr.1]. Đây là điều hiếm có trong đạo Cao Đài khi
chức sắc vi phạm pháp luật để lại tiếng xấu cho đạo Cao Đài và báo hiệu sự suy
thoái đạo đức của một bộ phận chức sắc, tín đồ.
Những ảnh hưởng của sự biến đổi về thiết chế tổ chức và giá trị văn hóa của
đạo Cao Đài xuất phát từ nguyên nhân tập quán sinh hoạt của cư dân Nam Bộ còn
vận hành theo lối tiểu nông cùng với tác động của nền kinh tế thị trường, chạy theo
vật chất làm suy thoái đạo đức, lối sống của tôn giáo. Nhưng trên góc độ tiếp cận
theo văn hóa học vẫn thấy được những giá trị văn hóa tốt đẹp, nhân văn của tôn giáo
đóng góp vào đời sống văn hóa dân tộc.
4.2.2. Phát huy các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cƣ
dân Nam Bộ hiện nay
4.2.2.1. Nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa của đạo Cao Đài
Trước nhu cầu về tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng, Nhà nước từng
bước nâng cao và đổi mới nhận thức về đạo Cao Đài. Trước năm 1975, đạo Cao Đài
bị chính quyền xâm lược lợi dụng tham gia hoạt động chính trị. Điều này làm cho
nhận thức của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu nhầm rằng đạo Cao Đài là
tôn giáo "phản động". Trên thực tế, đạo Cao Đài có hai xu hướng chính trị: một
hướng chủ yếu là hoạt động yêu nước, gắn bó với dân tộc và một hướng bị chính
quyền xâm lược lợi dụng có hoạt động đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Từ nhận
thức chưa đúng đối với đạo Cao Đài nên giai đoạn sau năm 1975 đến trước đổi mới,
Đảng, Nhà nước thực hiện chính sách giải thể tổ chức hành chính đạo của các phái
Cao Đài, bắt buộc chức sắc, tín đồ về tu tại gia.
Đến thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước đã đổi mới tư duy về tôn giáo trên cả
bình diện lý luận và thực tiễn. Sự đổi mới tư duy về tôn giáo của Đảng được khởi
đầu bằng Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị về tăng
138
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới với luận điểm: "đạo đức tôn giáo có
nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới". Đây là bước phát triển về
tư duy nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo, "phản ánh đúng quy luật tồn tại
khách quan của tôn giáo ở nước ta" [63, tr.23]. Nghị quyết số 25/NQ-TW của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn giáo khẳng định: "Tôn giáo
là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân" [47, tr.2]. Như vậy, Đảng, Nhà nước đã đổi mới nhận thức về tôn
giáo và coi tôn giáo là các giá trị văn hóa, đó là thái độ ứng xử khoa học của Đảng.
Đối với đạo Cao Đài, Đảng nhìn nhận: "Đ
" [4, tr.1]. Trên tinh
thần đổi mới của Đảng, Nhà nước, các phái Cao Đài được công nhận tư cách pháp
nhân, hoạt động bình thường như các tôn giáo ở Việt Nam.
Đánh giá công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam viết: "Quản lý nhà nước về tôn
giáo, tín ngưỡng có mặt còn hạn chế" [48, tr.257]. Công tác quản lý nhà nước còn
nặng nề yếu tố về hành chính, chưa nhìn nhận tôn giáo là một thành tố của văn hóa
dân tộc,nhận thức của cán bộ, đảng viên về tôn giáo chưa đồng bộ và một số còn
mang tư tưởng định kiến, bảo thủ đối với tôn giáo.
Một vấn đề nữa trong nhận thức về đạo Cao Đài, một số nhà nghiên cứu
chưa đánh giá đúng về giá trị văn hóa của đạo Cao Đài. Phan Ngọc trong tác phẩm
"Một thức nhận về văn hóa Việt Nam viết: "Những tôn giáo nội sinh cũng không
thể bỏ đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà. Đạo Cao Đài khuyên con người thờ cúng tổ
tiên, nhưng không cúng mặn mà đốt vàng mã" [100, tr.290]. Theo giáo luật và thực
tế hoạt động, đạo Cao Đài là một tôn giáo văn minh không sử dụng vàng mã. Trong
các đàn lễ của đạo Cao Đài thường có việc dâng sớ cầu nguyện Ngọc Hoàng
Thượng Đế ban ơn lành cho nhân sinh và bá tánh, sau đấy người chủ đàn lễ đốt lá
sớ đó. Ở đây có thể hiểu nhầm việc đốt sớ cầu nguyện thành đốt vàng mã. Nên việc
nhận định đạo Cao Đài "đốt vàng mã" là hoàn toàn không chính xác. Một nhận thức
nữa mà một số nhà nghiên cứu cho rằng đạo Cao Đài thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh
139
cũng chưa chính xác. Bởi theo quy định của đạo Cao Đài nghi thức thờ phụng chỉ
thờ Thiên nhãn biểu tượng cho Ngọc Hoàng Thượng Đế và các vị giáo chủ của các
tôn giáo cùng các Phật Tiên Thánh Thần, không có Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong
các cơ sở thờ tự của đạo Cao Đài đều có lập Báo Ân từ để thờ những vị chức sắc,
tín đồ có công với Đạo. Việc thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện từ khi các phái
Cao Đài tham gia kháng chiến cứu quốc, tiêu biểu là phái Cao Đài Minh Chơn đạo
đã thờ ảnh Bác tại Báo Ân từ để ghi nhớ công lao của Người với Tổ quốc. Nên nhận
định đạo Cao Đài thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh phải được hiểu là tôn thờ, tôn kính
người có công với đất nước. Một số nhà nghiên cứu cũng cho đạo Cao Đài thờ cả
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tôn Trung Sơn và Victor Hugo. Thực tế trong nghi thức thờ
phụng không có thờ 3 vị trên. Đây là hình vẽ do Hiền tài Lê Minh Tòng thực hiện
và được Hộ pháp Phạm Công Tắc cho gắn lên bức tường tại Tĩnh Tâm điện nơi
Hiệp Thiên đài tại Tòa thánh Tây Ninh năm 1948 để thể hiện tinh thần đại đồng của
đạo Cao Đài cùng sứ mạng truyền giáo đạo Cao Đài ra nước ngoài. Việc thờ 3 vị
này không có quy định trong Pháp Chánh truyền, Tân luật và các phái Cao Đài
(không kể Cao Đài Tây Ninh) đều không có hình vẽ Tam thánh ở Hiệp Thiên đài.
Nhìn nhận tôn giáo có vai trò tích cực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam có cái nhìn mới về tôn giáo: một là,
xác định tôn giáo là một thành tố của văn hóa; hai là, nhìn nhận đầy đủ hơn về bản
chất của tôn giáo; ba là, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân, tôn trọng và phát huy những giá trị văn hóa của tôn giáo; bốn là, nhấn mạnh
những giá trị văn hóa nhân bản, phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới; năm
là, ghi nhận các tôn giáo đã có sự hội nhập với văn hóa của dân tộc.
4.2.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục trong đạo Cao Đài
Chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài còn hạn chế khi thực hành các quy định của
pháp luật trong hoạt động tôn giáo. Để nâng cao kiến thức về pháp luật trong đồng
bào đạo Cao Đài, các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, tôn giáo cần
thực hiện: thường xuyên tuyên truyền, giáo dục pháp luật Nhà nước trong lĩnh vực
tín ngưỡng, tôn giáo đối với các Hội thánh Cao Đài; vận động chức sắc, tín đồ các
phái Cao Đài tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát triển kinh tế,
140
văn hoá, xã hội ở địa phương; hướng dẫn các Hội thánh Cao Đài có quá trình hoạt
động gắn bó với dân tộc tổ chức kỷ niệm ngày lễ, đại hội, hội nghị thông qua đó
giáo dục truyền thống tốt đẹp của các Hội thánh Cao Đài trong lịch sử đấu tranh giải
phóng dân tộc; xây dựng phòng truyền thống tại các Hội thánh, Họ đạo Cao Đài
bằng các tư liệu lịch sử, tranh ảnh, sách báo có liên quan đến truyền thống lịch sử,
truyền thống cách mạng hoặc hoạt động yêu nước của các Hội thánh Cao Đài.
4.2.2.3. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo
Cao Đài
Hướng dẫn các Hội thánh Cao Đài hoàn chỉnh Hiến chương theo những nội
dung tiến bộ trong giáo lý, giáo luật của đạo Cao Đài và phù hợp với quy định của
pháp luật. Xây dựng tổ chức giáo hội theo truyền thống của từng phái Cao Đài có
Cửu viện nam nữ, lưỡng đài, lưỡng phái, hoạt động theo 3 hội (Thượng hội, Hội
thánh, Hội Nhơn sanh). Hiện nay, đạo Cao Đài chưa có trường đào tạo chức sắc nên
chủ yếu tổ chức các khoá bồi dưỡng giáo lý hạnh đường. Chính quyền các cấp cần
tạo điều kiện để các Hội thánh Cao Đài tổ chức các lớp bồi dưỡng, tiến tới mở
trường đào tạo chức sắc.
Cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp phối hợp với các ngành liên
quan tập trung giải quyết tình hình các Họ đạo Cao Đài hoạt động ly khai tách dời
Hội thánh, vận động trở về hoạt động trực thuộc các Hội thánh theo truyền thống
của các phái Cao Đài. Vấn đề đất đai, cơ sở thờ tự, cơ sở tôn giáo của đạo Cao Đài
có nhiều vụ việc phức tạp, phải được giải quyết từng bước, đồng bộ theo quy định
của pháp luật. Thông qua Hiến chương cho phép các Hội thánh Cao Đài được quan
hệ với các tổ chức Cao Đài trực thuộc ở nước ngoài và công nhận chức sắc, chức
việc ở nước ngoài. Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy
Đảng, Nhà nước để phục vụ nhân dân nói chung và tôn giáo nói riêng. Hoàn thiện
tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo từ trung ương đến cơ sở đảm bảo chính sách
đãi ngộ, thu hút nhân tài trong chính sách chung của Đảng, Nhà nước.
4.2.2.4. Cụ thể hóa các quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo ra đời năm 2004 đã đảm bảo cho hoạt động
tôn giáo theo quan điểm đổi mới của Đảng, Nhà nước, phần nào đáp ứng được điều
141
kiện hoạt động của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, một số quy định
của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định hướng dẫn một số điều về Pháp
lệnh chưa cụ thể hoá những hoạt động mang tính chất đặc thù của đạo Cao Đài nên
cần có hướng dẫn mang tính quy phạm pháp luật đối với công tác quản lý nhà nước
đối với đạo Cao Đài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những chính sách của
Đảng cần được cụ thể hóa bằng văn bản pháp luật. Hướng đến việc quản lý tôn giáo
bằng pháp luật phải minh bạch, cụ thể, đáp ứng những nhu cầu thiết thực của tôn
giáo. Các vấn đề riêng còn phức tạp chưa được giải quyết của đạo Cao Đài hiện nay
cũng cần được luật hóa để quản lý theo quy định pháp luật. Ngày 01 tháng 01 năm
2018, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có hiệu lực thi hành, chính quyền các cấp cần tăng
cường công tác tuyên truyền pháp luật và hướng dẫn chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài
hoạt động tôn giáo theo các quy định của Luật.
4.2.2.5. Phát huy giá trị văn hóa của đạo Cao Đài gắn liền với chiến lược
xây dựng giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
Giá trị truyền thống là "cái tốt phổ biến, cơ bản, có nhiều tác dụng tích cực
cho đạo đức luân lý, có tác dụng hướng dẫn nhận định và hướng dẫn sự hành động,
thì mới mang danh là giá trị truyền thống" [49, tr.107]. Đạo Cao Đài là tôn giáo ra
đời tại Việt Nam nên mang tính dân tộc đậm nét. Đạo Cao Đài lưu giữ những giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc như: trang phục, ngôn ngữ, đạo đức, lối sống, lễ
hội, nhạc lễ, yêu nước, tinh thần dân tộc, biểu tượng tôn giáo,… Trong quá trình
phát huy giá trị văn hóa của đạo Cao Đài cần lưu giữ các giá trị văn hóa đó trong
đời sống của cư dân Nam Bộ mà cụ thể là chức sắc, tín đồ của đạo Cao Đài. Đạo
đức, lối sống, tinh thần đoàn kết, yêu nước, cố kết cộng đồng,… được chức sắc, tín
đồ đạo Cao Đài phát huy trong việc tham gia các hoạt động xã hội đóng góp vào
thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương.
Trong quá trình phát triển đất nước, chúng ta phải đối mặt với các vấn đề về
suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thứ
nhất là biểu hiện của lối sống thực dụng, vụ lợi, vị kỷ cho bản thân, gia đình, dòng
tộc. Thứ hai là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bòn rút của công. Thứ ba là lợi
dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc sơ hở của chính sách, pháp luật để làm giàu bất
142
chính. Thứ tư là lối sống cơ hội chạy theo quyền lợi, danh vọng, con người thiếu
năng lực, thiếu văn hóa nhưng lại giữ vị trí lãnh đạo trong bộ máy công quyền gây
bức xúc trong nhân dân. Thứ năm là con người nói không đi đôi với làm chỉ hứa
hẹn, "chém gió", nói nhiều làm ít hoặc nói một đằng làm một nẻo, xa rời nhân dân.
Thứ sáu là một bộ phận nhân dân lợi dụng sơ hở của chính sách, pháp luật để vụ lợi,
quan hệ truyền thống tốt đẹp trong cộng đồng bị lối sống thực dụng làm xói mòn,
đạo đức gia đình báo động tình trạng hôn nhân toan tính phá vỡ truyền thống thủy
chung tình nghĩa vợ chồng, thanh niên sống không có lý tưởng, hoài bão dễ mắc
vào các tệ nạn xã hội,… Trước những thách thức của thời đại, các giá trị văn hóa
của đạo Cao Đài cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Thực tế ở địa phương nơi có cư dân là
người đạo Cao Đài sinh sống đều được đánh giá là đảm bảo tốt về an ninh trật tự,
lối sống văn hóa, tinh thần đoàn kết, thương yêu, quan hệ giữa chính quyền và cư
dân gần gũi, gắn bó. Đặc biệt ở nơi có tín đồ đạo Cao Đài sinh sống, các tệ nạn xã
hội ít xâm nhập vào được. Đó chính là điều giá trị văn hóa của đạo Cao Đài đã phát
huy được trong đời sống cư dân ở Nam Bộ.
Để đảm bảo giữa phát huy các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài gắn với chiến
lược xây dựng giá trị truyền thống của dân tộc cần đảm bảo loại bỏ những giá trị
văn hóa lạc hậu, bảo thủ như hoạt động mê tín dị đoan, ý thức tiểu nông của chức
sắc, tín đồ,… Hiểu mê tín dị đoan theo nghĩa là: "những hành vi lợi dụng niềm tin,
tín ngưỡng của con người để trục lợi bất chính, gây những hệ quả xấu đối với tính
mạng, sức khỏe, danh dự, tiền bạc của cá nhân và cộng đồng, tổn hại tới an sinh xã
hội và an ninh quốc gia" [134, tr.429].
Tiểu kết chƣơng 4
Các giá trị văn hóa đạo Cao Đài đã tác động đến đời sống của chức sắc, tín
đồ đạo Cao Đài. Những tác động của giá trị văn hóa đạo Cao Đài trong đời sống cư
dân Nam Bộ mà chủ yếu là người đạo Cao Đài khá rõ nét, ảnh hưởng đến sinh hoạt
hằng ngày của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài qua hoạt động của đời sống vật chất và
đời sống tinh thần. Với tinh thần nhập thế, chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài tích cực
tham gia các hoạt động thế tục để đoàn kết cộng đồng, xây dựng xã hội đạo đức,
143
văn minh, làm giàu cho bản thân và xã hội. Trong đời sống vật chất, tín đồ đạo Cao
Đài tích cực lao động sản xuất, hoạt động từ thiện, khám chữa bệnh và giáo dục đào
tạo. Trong đời sống tinh thần, tín đồ đạo Cao Đài tin tưởng vào Thượng Đế, tin vào
bản thân để hành đạo theo nếp sống của tôn giáo. Tuy nhiên, trước những tác động
của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, đạo Cao Đài có những biến đổi về cơ
cấu thiết chế tổ chức và các giá trị văn hóa. Biến đổi về cơ cấu tổ chức làm cho đạo
Cao Đài hoạt động bị hạn chế, mất chức năng giám sát quyền lực của những chức
sắc cao cấp xảy ra bất cập trong hệ thống tổ chức giáo hội. Biến đổi về các giá
trịvăn hóa làm tình hình các phái Cao Đài có những diễn biến phức tạp và ảnh
hưởng đến đạo đức, lối sống của chức sắc, tín đồ.
Vấn đề đặt ra đối với đạo Cao Đài hiện nay, tích cực có, tiêu cực có nhưng
nhìn chung những biến đổi của đạo Cao Đài chưa bị ảnh hưởng nhiều, còn lưu giữ
được cơ bản các giá trị văn hóa. Để phát huy các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài
trong đời sống cư dân Nam Bộ hiện nay cần nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa
của đạo Cao Đài, đảm bảo sự thống nhất giữa kế thừa và đổi mới, truyền thống và
hiện đại góp phần xây dựng truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam ngày càng giàu
bản sắc và bền vững.
144
KẾT LUẬN
Giá trị văn hóa là những sáng tạo của con người trong tiến trình lịch sử được
cộng đồng chấp nhận, tin tưởng và trở thành mục tiêu, hành động của con người
trong xã hội hướng tới. Trong cuộc sống hiện nay, giá trị văn hóa đang được đề cao,
trở thành yếu tố không thể tách rời trong công cuộc phát triển kinh tế, chính trị của
quốc gia, dân tộc. Giá trị văn hóa của tôn giáo cũng là một thành tố quan trọng góp
phần vào sự nghiệp phát triển của đất nước. Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài là thế
giới quan, nhân sinh quan, hình ảnh, biểu tượng, nghi lễ, sinh hoạt tôn giáo, hoạt
động tôn giáo trong đời sống xã hội nhằm định hướng ý thức và lối ứng xử của tín
đồ trong cuộc sống. Do vậy, giá trị văn hóa của đạo Cao Đài cũng là nguồn lực xã
hội đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án đã phân tích sự hình thành, cơ cấu thiết chế
tổ chức, nhận diện các giá trị văn hóa và tác động của giá trị văn hóa đạo Cao Đài
trong đời sống của cư dân là người đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Luận án sử dụng lý
thuyết văn hóa vùng để nghiên cứu, phân tích bối cảnh ra đời, quá trình hình thành
và tồn tại của đạo Cao Đài với những đặc trưng riêng của vùng đất Nam Bộ. Đạo
Cao Đài là tôn giáo ra đời trong bối cảnh xã hội ở Nam Bộ có nhiều biến động về
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong bối cảnh đó, những người sáng lập đạo
Cao Đài đã biết lựa chọn thời điểm thích hợp để công khai với chính quyền thực
dân Pháp về việc thành lập đạo Cao Đài. Sự ra đời của đạo Cao Đài đã đáp ứng nhu
cầu của một bộ phận cư dân Nam Bộ mong muốn được giải thoát về tinh thần tìm
đến tôn giáo như một cứu cánh trong cuộc sống. Đồng thời, đạo Cao Đài là sản
phẩm của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa phương Đông và phương Tây
gắn liền với đặc điểm về địa lý, cư dân ở Nam Bộ là môi trường thuận lợi cho đạo
Cao Đài phát sinh, phát triển.
Sử dụng phương pháp cách tiếp cận liên ngành kết hợp các phương pháp của
nhiều ngành khoa học: tôn giáo học, xã hội học, tâm lý học, sử học,... để nhận diện
các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài đang được chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài lưu giữ
và phát huy. Đó là giá trị nhận thức gồm giá trị tri thức và giá trị tâm linh, giá trị
145
đạo đức gồm giá trị nhân cách - lối sống và giá trị cố kết cộng đồng, giá trị thẩm mỹ
gồm giá trị biểu tượng và giá trị nghệ thuật. Các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài
đang được lan tỏa trong cộng đồng và góp phần vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc hiện nay. Phân tích sự tác động của các giá trị văn hóa đạo Cao Đài trong
đời sống vật chất và đời sống tinh thần cư dân là người đạo Cao Đài ở Nam Bộ,
sự biến đổi về cơ cấu thiết chế tổ chức ảnh hưởng đến sự biến đổi các giá trị văn
hóa của đạo Cao Đài trong giai đoạn hiện nay. Những biến đổi vừa có tác động
tích cực, vừa có tác động tiêu cực đối với cư dân Nam Bộ mà chủ yếu là người
theo đạo Cao Đài, đồng thời cũng là động lực để chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài
thay đổi, vận động theo xu hướng phát triển của xã hội. Các giá trị văn hóa đó đã
tác động đến đời sống vật chất, đời sống tinh thần qua sinh hoạt tôn giáo, hoạt
động văn hóa của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài. Luận án đã khẳng định vai trò
của các giá trị văn hóa đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ là yếu tố
quyết định nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của đạo Cao Đài. Chức sắc,
tín đồ đạo Cao Đài là chủ thể của giá trị văn hóa, là người sáng tạo, lưu truyền,
kế thừa, giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa đạo Cao Đài hiện nay. Để bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa của đạo Cao Đài cần nâng cao nhận thức về giá trị văn
hóa của đạo Cao Đài cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, phát triển dân trí, đào
tạo, bồi dưỡng chức sắc, tín đồ trở thành người có tri thức, có đạo đức, lối sống
chuẩn mực, văn minh, cụ thể hóa các quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo gắn với chiến lược xây dựng giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam góp
phần xây dựng con người toàn diện về trí lực, nhân lực cho cộng đồng đạo Cao
Đài nói riêng và cho cộng đồng xã hội nói chung.
Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài có những đóng góp quan trọng trong việc
bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc để quá trình xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII. Nghiên cứu giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ là
việc làm cần thiết để nhìn nhận chân thực, chính xác về đạo Cao Đài. Từ đó, chúng
ta đưa ra định hướng đúng, phù hợp với hoạt động của đạo Cao Đài nhằm bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa của đạo Cao Đài, xây dựng chính sách văn hóa hợp lý,
146
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Cao Đài mang lại
hiệu quả tích cực cho đời sống bộ phận cư dân có đạo Cao Đài ở Nam Bộ hiện nay.
Quá trình đổi mới của Đảng, Nhà nước đã thay đổi nhận thức về tôn giáo nói
chung và đạo Cao Đài nói riêng. Đảng nhận định đại bộ phận chức sắc, tín đồ đạo
Cao Đài có những đóng góp tích cực trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước và xây
dựng đất nước hiện nay. Từ nhận thức đúng đắn của Đảng đã giúp cho đạo Cao Đài
phát huy các giá trị văn hóa trong thời đại mới. Các nhà nghiên cứu về tôn giáo
cũng nhìn nhận, đánh giá đạo Cao Đài là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân nên cần được đáp ứng, giải quyết trong đời sống xã hội. Giải quyết vấn đề tồn
tại của đạo Cao Đài và phát huy giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư
dân Nam Bộ hiện nay đặt ra vấn đề nâng cao vai trò của pháp luật, đổi mới phương
pháp quản lý nhà nước về đạo Cao Đài, xây dựng lối sống mới, xây dựng giá trị cá
nhân của chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài.
Do giới hạn theo quy định của luận án, dù đã có kết quả khảo sát, điều tra,
phân tích nhưng luận án chưa nghiên cứu sâu về từng vấn đề cụ thể. Đối với việc
nghiên cứu về giá trị biểu tượng, luận án mới bước đầu tìm hiểu ý nghĩa của biểu
tượng Thánh tượng Thiên nhãn nên còn nhiều biểu tượng của đạo Cao Đài chưa
được đề cập đến. Vì vậy hướng nghiên cứu tiếp theo sẽ nghiên cứu chuyên sâu về
giá trị biểu tượng để làm rõ các giá trị thẩm mỹ của đạo Cao Đài./.
147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Đinh Quang Tiến (2013), "Một số đặc điểm văn hóa của đạo Cao Đài", Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, (350), tr.72-76.
2. Đinh Quang Tiến (2016), "Đạo Cao Đài góp phần hình thành giá trị gắn kết
cộng đồng của cư dân Nam Bộ", Tạp chí Cao Đài, (21), tr.21-25.
3. Đinh Quang Tiến (2016), "Đặc điểm hành đạo và nhập thế của đạo Cao Đài",
Tạp chí Công tác Tôn giáo, (115), tr.12-16.
4. Đinh Quang Tiến (2015), "Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối
với đạo Cao Đài từ năm 1990 đến năm 2015", Kỷ yếu hội thảo khoa học:
Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm
nhìn lại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, tr.523-534.
5. Đinh Quang Tiến (2017), "Phát huy các giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong
đời sống cư dân Nam Bộ hiện nay", tại trang http://lyluanchinhtri.vn,
ngày 14/6/2017.
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
1. A.A. Belik (2000), Văn hóa học những lý thuyết nhân học văn hóa, (người
dịch Đỗ Lai Thúy, Hoàng Vinh, Huyền Giang), Tạp chí Văn hóa nghệ
thuật, (17), tr.93-97.
2. Trường An (2014), Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
3. Lương Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt (Đồng chủ biên) (2014), Giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc với việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. (1992), -
, (Tài liệu Mật), Hà Nội.
5. Ban Chỉ đạo, Ban Biên tập Truyền thống Tây Nam Bộ (2000), Tây Nam Bộ 30
năm kháng chiến (1945-1975), Hà Nội.
6. Ban Đại diện Cao Đài Tiên Thiên tỉnh Vĩnh Long (2003), Cao Đài Tiên Thiên
trước cơ đạo mới, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long.
7. Ban Tôn giáo Chính phủ (2015), Báo cáo tổng kết 20 năm công tác quản lý
nhà nước đối với đạo Cao Đài (1995-2015), ngày 22/5/2015, Hà Nội.
8. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Báo cáo tổng quan dự án Điều tra căn bản
thực trạng đạo Cao Đài với cách mạng - những kiến nghị về chủ trương,
chính sách, Hà Nội.
9. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
10. Nguyễn Duy Bắc (Chủ biên) (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối
cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển
Bách khoa & Viện Văn hóa, Hà Nội.
11. Thái Văn Biết (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 29/7/2016, Cà Mau.
12. Nguyễn Khắc Bích (1971), Sách phần Đạo Cao Đài, Nhà in Kiến Hòa, Bến Tre.
13. Trác Tân Bình (2007), Lý giải tôn giáo, (người dịch Trần Nghĩa Phương),
Nxb Hà Nội, Hà Nội.
149
14. Trần Văn Bính (2007), Một số vấn đề về văn hóa văn nghệ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
15. Trần Văn Bính (2015), Văn hóa Việt Nam trên đường đổi mới, thời cơ và
thách thức, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
16. Các Hội thánh và tổ chức Cao Đài (2015), Văn kiện lễ kỷ niệm 90 năm khai
đạo Cao Đài, Hà Nội.
17. Cao Đài Đại Đạo phái Chiếu Minh (2006), Đại thừa chơn giáo, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
18. Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi (2007), Lịch sử quan phủ
Ngô Văn Chiêu (1878-1932), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
19. Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi (2007), Quy điều Nội lệ tập
số 3, Tu hành, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
20. Lữ Minh Châu (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 20-7-2016, Bến Tre.
21. Choi Byung Wook (2011), Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng, (Nhóm
dịch Lê Thùy Linh, Trần Thiện Thanh, Hoàng Anh Tuấn, Phạm Văn
Thủy, Nguyễn Mạnh Dũng), Nxb Thế giới, Hà Nội.
22. Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo (2005), Lịch sử đạo Cao Đài, quyển 1,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
23. Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo (2008), Lịch sử đạo Cao Đài, quyển 2,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
24. Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo (2008), Yếu điểm giáo lý Đại Đạo, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
25. Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo (2009), Tìm hiểu tôn giáo Cao Đài, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
26. Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo (2012), Cao Đài vấn đáp, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
27. Bùi Văn Côn (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 24/7/2016, Tây Ninh.
28. Trần Đức Cường (Chủ biên) (2014), Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất
Nam Bộ (từ khởi thủy đến năm 1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Trương Hải Cường (2012), Một số vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
150
30. Nguyễn Thị Ngọc Dung (2000), Tìm hiểu Hội Cao Đài Cứu quốc 1947-1954,
Luận án thạc sĩ Khoa học lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
nhân văn, thành phố Hồ Chí Minh.
31. Lê Anh Dũng (1994), Con đường Tam giáo Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, Hồ Chí Minh.
32. Lê Anh Dũng (1996), Lịch sử Đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
33. Phan Đức Dư, Nguyễn Minh Dũng (Chủ nhiệm) (1996), Hoạt động của địch
lợi dụng Cao Đài Tây Ninh thực trạng và giải pháp, Đề tài khoa học cấp
bộ, Thành phố Hồ Chí Minh.
34. Nguyễn Hồng Dương (2013), Tôn giáo trong văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
35. Phạm Tấn Đãi (2013), Giải thích nội tâm và ngoại tâm Đền Thánh Cao Đài
Tây Ninh, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
36. Đặng Thế Đại (2010), "Tôn giáo - cách nhìn văn hóa học", Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo, (12), tr.16.
37. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Hội thánh dưới quyền ủng hộ của Đức Giáo tông
Nguyễn Ngọc Tương (1954), Châu tri chỉnh đạo (1934-1936), Nhà in
Hòa Chánh, Sài Gòn.
38. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Hội thánh dưới quyền ủng hộ của Đức Giáo tông
Nguyễn Ngọc Tương (1958), Tiểu sử Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc
Tương (1881-1951), Nhà in Hòa Chánh, Sài Gòn.
39. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (2013), Tiểu sử Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương
(1881-1951) vị Giáo tông thời "thanh tịnh" của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
40. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa thánh Tây Ninh (1969), Đạo luật, Tòa thánh
giữ bản quyền, Tây Ninh.
41. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa thánh Tây Ninh (1970), Thánh ngôn hiệp tuyển
Quyển thứ nhì, Hội thánh giữ bản quyền, Tây Ninh.
42. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa thánh Tây Ninh (1972), Tân luật, Hội thánh giữ
bản quyền, Tây Ninh.
151
43. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa thánh Tây Ninh (1973), Thánh ngôn Hiệp
tuyển, Quyển 1, Tòa thánh giữ bản quyền, Tây Ninh.
44. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa thánh Tây Ninh (1973), Tiểu sử Đức Quyền
Giáo tông Thượng Trung Nhựt, Hội thánh giữ bản quyền, Tây Ninh.
45. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa thánh Tây Ninh (1992), Kinh Thiên đạo và Thế
đạo, Hội thánh giữ bản quyền, Tây Ninh.
46. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa thánh Tây Ninh (1995), Thánh ngôn hiệp tuyển,
Quyển thứ nhất, Nxb Thuận Hóa, Huế.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
49. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến Cách mạng Tháng Tám, tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Phạm Minh Hạc (2015), Tìm hiểu các giá trị dân tộc Việt Nam với tâm lý học
và giáo dục học, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
52. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2010), Xã hội học văn hóa, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
53. Đinh Hồng Hải (2015), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền
thống Việt Nam (tập 2), Các vị thần, Nxb Thế giới, Hà Nội.
54. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển Tôn giáo, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
55. Trang Văn Hải (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 25/7/2016, Tây Ninh.
56. Nguyễn Trung Hậu, Lê Thiện Phước (1959), Đại Đạo học đường, Hội thánh
giữ bản quyền, Bến Tre.
57. Đỗ Lan Hiền (2014), Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, một số vấn
đề trao đổi, bàn luận, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Viện Nghiên cứu Tôn
giáo, Hà Nội.
152
58. Hoàng Ngọc Hiến (2011), Luận bàn minh triết và minh triết Việt, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
59. Hương Hiếu (1995), Đạo sử, Quyển 1+2), Tòa thánh Tây Ninh giữ bản quyền,
Tây Ninh.
60. Lý Tùng Hiếu (2012), Ngôn ngữ văn hóa vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ, Nxb
Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
61. Nguyễn Duy Hinh, Lê Đức Hạnh (2011), Phật giáo trong văn hóa Việt Nam,
Nxb Văn hóa thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
62. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Văn hóa tôn giáo với phát
triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
63. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam: 25 năm nhìn lại, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội.
64. Đỗ Minh Hợp (Chủ biên) (2006), Tôn giáo học nhập môn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
65. Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ
Hương, Cao Đài, Hòa Hảo), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
66. Hội thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý (2014), Ngọc Đế chơn truyền Tân ước
tri nguyên, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
67. Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo (2007), Tuyên ngôn dạy đạo của Đức Giáo
tông Nguyễn Ngọc Tương, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
68. Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên (2008), Tìm hiểu gương hy sinh phụng đạo yêu
nước của ba đời Giáo tông và Đức Hộ pháp Cao Đài Tiên Thiên, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
69. Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên (2012), Hành trạng Ngọc Đầu sư Nguyễn Văn
Ngợi, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
70. Hội thánh Truyền Giáo Cao Đài (2014), Đề án thành lập Học viện Cao Đài
Truyền Giáo, Hà Nội.
71. Nguyễn Văn Hồng (2004), Bước đầu học đạo (dành cho tân tín đồ), Tòa
thánh Tây Ninh ấn hành, Tây Ninh.
72. Nguyên Hùng (1997), Đạo đời hai vai, Nxb Văn học, Hà Nội.
153
73. Nguyên Hùng (2003), Dũng khí Nguyễn Ngọc Nhựt, Nxb Trẻ, thành phố Hồ
Chí Minh.
74. Đỗ Quang Hưng, Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Nguyễn (2008), Bàn về tôn
giáo nghiên cứu, sưu tầm, chú giải, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
75. Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
76. Nguyễn Thừa Hỷ (2015), Văn hóa Việt Nam truyền thống một góc nhìn, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
77. J. Dewey (1939), Lý thuyết về giá trị, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
78. Đinh Văn Khá (1975), Đại lễ Vía Đức Chí Tôn trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ (Tòa thánh Tây Ninh), Tiểu luận Cao học Nhân văn, Trường Đại học
Văn khoa, Viện Đại học, Sài Gòn.
79. Huệ Khải (2008), Đất Nam kỳ tiền đề văn hóa mở Đạo Cao Đài, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
80. Huệ Khải (2008), Lòng con tin Đấng Cao Đài, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
81. Huệ Khải (2011), Một góc nhìn văn hoá Cao Đài, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
82. Huệ Khải (2015), Lịch sử Thánh thất Cao Đài Thủ đô Hà Nội, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
83. Trần Tự Kinh (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 28/7/2016, Cà Mau.
84. Nguyễn Lân (2002), Từ điển Từ và ngữ Hán Việt, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
85. Trần Ngọc Lân (2006), Những chuyện về thế giới tâm linh, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
86. Leopold Cadiere (2010), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người
Việt, Tập 1, (Đỗ Trinh Huệ dịch), Nxb Thuận Hóa, Huế.
87. Trần Thanh Liêm (2012), Ảnh hưởng của Cao Đài Minh Chơn đạo đối với đời
sống tinh thần ở tỉnh Cà Mau hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
88. (2014), và nay .
89. Cao Bạch Liên (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 2/8/2016, Thành phố Hồ Chí Minh.
90. Luc Benoist (2006), Dấu hiệu, biểu trưng và thần thoại, (Hoàng Mai Anh
dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội.
154
91. Max Weber (2010), Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, (Bùi
Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng và Trần Hữu Quang dịch),
Nxb Tri thức, Hà Nội.
92. Huệ Minh (1991), Tìm hiểu Đạo Cao Đài qua tám nhận định, Tài liệu học
Đạo - Phổ biến nội bộ, Bến Tre.
93. Huệ Minh (2015), Giáo lý vấn đáp, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
94. Đoàn Xuân Mượu (2010), Con người là tiểu vũ trụ, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
95. Sơn Nam (1971), Miền Nam đầu thế kỷ XX Thiên địa hội và cuộc Minh Tân,
Nxb Phù Sa, Sài Gòn.
96. Nguyễn Thị Ánh Ngà (2014), Cao Đài Đại Đạo Chiếu Minh Tam Thanh Vô
Vi - Quá trình hình thành, phát triển và nếp sống đạo, Luận án tiến sĩ
Tôn giáo học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
97. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đức Lữ (Đồng chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
98. Lại Bích Ngọc (2009), Nguồn gốc, vai trò, chức năng của tôn giáo trong lịch
sử thế giới cổ - trung đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Phan Ngọc (2002), Bản sắc Văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
100. Phan Ngọc (2007), Một nhận thức về văn hóa Việt Nam, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
101. Phan Ngọc (2013), Nền văn hóa mới của Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
102. Đức Nguyên (2000), Cao Đài Từ điển, Quyển 1, 2, 3), Tòa thánh Tây Ninh ấn
hành, Tây Ninh.
103. Nguyễn Tôn Nhan (2002), Bách khoa thư văn hoá cổ điển Trung Quốc, Nxb
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
104. Nikolai Nadejdin (2013), Vanga - một cuộc đời kỳ lạ, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
105. Oliver Bobineau, Sébastien Tank - Storper dưới sự chỉ đạo của Francois de
Singly (2012), Xã hội học tôn giáo, (Hoàng Thạch dịch), Nxb Thế giới,
Hà Nội.
106. Hoàng Phê (Chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
155
107. Huỳnh Thanh Phong (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 19/7/2016, Bến Tre.
108. Huỳnh Thị Phúc (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 19/7/2016, Long An.
109. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa và Nguyễn Quang Vinh (2014), Văn hóa
dân gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
110. Phạm Thị Minh Phương (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 29/7/2016, Cà Mau.
111. Rabindranath Tagore (2015), Thực nghiệm tâm linh, (Như Hạnh dịch), Nxb
Hồng Đức, Hà Nội.
112. Trần Văn Rạng (1974), Giáo dục văn hóa đạo Cao Đài, Tòa thánh Tây Ninh
ấn hành, Tây Ninh.
113. Trần Văn Rạng (1994), Đại Đạo sử cương, 4 tập, Tòa thánh Tây Ninh ấn
hành, Tây Ninh.
114. Trần Văn Rạng (2012), Đức Quyền Giáo tông Lê Văn Trung, Nxb Phương
Đông, Thành phố Hồ Chí Minh.
115. Robert S. Hartman (1967), Cấu trúc của giá trị: Cơ sở của giá trị khoa học,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
116. Rosemary Ellenguiley (2005), Từ điển tôn giáo và các thể nghiệm siêu việt,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
117. Lê Văn Sáu (2006), Hồi ký Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương (1947-1951),
(Bản thảo), Bến Tre.
118. Nguyễn Văn Sâm (1974-1975), Tín ngưỡng Việt Nam cận đại và hiện đại
(giảng khóa chứng chỉ văn minh Việt Nam), Luận văn tốt nghiệp, Đại học
Văn khoa Sài Gòn, Sài Gòn.
119. Đặng Đức Siêu (2002), Hành trình văn hóa Việt Nam (giản yếu), Nxb Lao
động, Hà Nội.
120. Nguyễn Đức Sự (Tuyển chọn, biên soạn) (2001), Mác, Ăng ghen, Lênin bàn
về tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
121. Trần Đức Tăng (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 29/7/2016, Cà Mau.
122. Bùi Văn Tâm (2012), Bồi dưỡng đức tin, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
123. Đồng Tân (1970), Tổng quan Cao Đài giáo, Nhà in Cao Hiên, Sài Gòn.
124. Phan Văn Thanh (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 28/7/2016, Tiền Giang.
156
125. Nguyễn Long Thành (1996), Đời sống của người tín đồ Cao Đài, In tại
Đường sáng Ấn quán, Hoa Kỳ.
126. Võ Văn Thành (2013), Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
127. Nguyễn Toàn Thắng (Chủ biên) (2014), Những vấn đề lý luận về phát triển
văn hóa trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
128. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
129. Trần Ngọc Thêm (2013), Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng,
Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
130. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con
đường tới tương lai, Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
131. Nguyễn Vĩnh Thế (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 14/7/2016, Tây Ninh.
132. Tùng Thiên, Từ Bạch Hạc (2012), "Tìm hiểu nhục nhãn, huệ nhãn & Thiên
nhãn", tại trang https://www.daotam.info/booksv/timhieu-nhucnhanhuen
hanthiennhan/thnnhntn.htm, truy cập ngày 12/7/2017.
133. Hoàng Minh Thiện, Đinh Quốc Bảo và Nguyễn Thanh (2012), 72 chức sắc
tiền khai Đạo Cao Đài, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
134. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và
biến đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
135. Ngô Đức Thịnh (2015), Phân hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
136. Huỳnh Ngọc Thu (2009), Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài trong bối
cảnh văn hóa Nam Bộ, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
137. Phạm Thị Thanh Thúy (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 21/7/2016, Bến Tre.
138. Nguyễn Hữu Thức (2007), Một số kinh nghiệm quản lý và hoạt động tư tưởng
- văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
139. Nguyễn Thị Thường (2008), Giáo trình văn hóa học, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
157
140. Nguyễn Mạnh Tiến (2015), Đạo Cao Đài ở Nam Bộ: tổ chức đời sống cộng
đồng và những đặc trưng văn hóa, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Hàn
lâm, Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
141. Vương Xuân Tình (Chủ biên) (2015), Các dân tộc ở Việt Nam, tập 1, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
142. Tổ chức liên giao Các Hội thánh và tổ chức trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(2013), Chương trình đề tài hạnh đường trung cấp, Bản dự thảo, Hà Nội.
143. Nguyễn Văn Trạch (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 2/8/2016, Thành phố Hồ
Chí Minh.
144. Trương Văn Tràng (1970), Cao Đài Giáo lý, Tòa thánh Tây Ninh ấn hành,
Tây Ninh.
145. Tạ Quốc Trị, Nguyễn Thị Thanh Vân (2009), "Niềm tin tôn giáo của tín đồ
Cao Đài Tây Ninh", Tạp chí Khoa học Xã hội, (3), tr.80.
146. Lê Văn Tròn (2009), Trả lời phỏng vấn ngày 18/7/2016, Tiền Giang.
147. Lê Văn Trung (1964), Phương châm hành đạo, Tòa thánh Tây Ninh ấn hành,
Tây Ninh.
148. (2015),
-
) , Thành phố Hồ Chí Minh.
149. Nguyễn Thanh Tuấn (2010), Đa dạng văn hóa và quyền văn hóa hiện nay ở
Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
150. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2014), Báo cáo số 306/BC-UBND,
ngày 31/12/2014 tổng kết, đánh giá 20 năm thực hiện công tác quản lý
nhà nước về đạo Cao Đài trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Đà Nẵng.
151. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2014), Báo cáo số 439/BC-UBND ngày
29/12/2014 về tình hình hoạt động của đạo Cao Đài và công tác quản lý
nhà nước đối với đạo Cao Đài, Bến Tre.
152. Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh (2014), Báo cáo số 215/BC-UBND, ngày
31/12/2014 tổng kết công tác quản lý nhà nước đối với đạo Cao Đài trên
địa bàn tỉnh Tây Ninh sau 20 năm đổi mới, Tây Ninh.
158
153. Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên) (1995), Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
154. Đặng Nghiêm Vạn (2012), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
155. Vân Vi (2006), Đạo áo trắng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
156. Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại, tập 1, Hà Nội.
157. Viện Văn hoá, Bộ Văn hoá (1984), Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, Nxb
Văn hoá, Hà Nội.
158. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề về lý luận và thực tiễn xây dựng nền văn hóa
ở nước ta, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
159. Hoàng Vinh (2005), "Góp phần tìm hiểu thuật ngữ văn hóa Đảng", Tạp chí
Văn hóa và Phát triển, (04), tr.14.
160. Hoàng Vinh (2008), "Về xây dựng văn hóa doanh nghiệp", Tạp chí Văn hóa
và phát triển, (16), tr.5.
161. Huỳnh Khái Vinh (1998), Những vấn đề thời sự văn hóa, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
162. Vụ Cao Đài, Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), Số liệu thống kê các Hội thánh
Cao Đài năm 2013, Hà Nội.
163. Vụ Cao Đài, Ban Tôn giáo Chính phủ (2014), Báo cáo tổng quan Tiểu Đề án
Thực trạng hoạt động của đạo Cao Đài; quá trình hoàn thiện, đổi mới,
chính sách pháp luật đối với đạo Cao Đài- những vấn đề đặt ra từ
phương diện quản lý nhà nước, Hà Nội.
164. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (2009), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
165. Nguyễn Thanh Xuân (2012), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
166. Nguyễn Thanh Xuân (2015), Đạo Cao Đài hai khía cạnh Lịch sử và Tôn giáo
(tái bản lần thứ nhất), Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
167. Huệ Ý (2016), Trả lời phỏng vấn ngày 2/8/2016, Thành phố Hồ Chí Minh.
159
Tài liệu tiếng Anh
168. Blagov. S (1999), The Caodai: A new religious movement, The institute of
oriental studies Moscow, Russia.
169. Gabriel Gobron (1950), History and Philosophy of Caodaism Reformed
Buddism, Vietnamese Spiritism, New Religion in Eursia, Translated from
the original French by Pham Xuan Thai, Publishing - House 112
Gialong, Saigon, Vietnam.
170. Werner, Jayne Susan (1981), Peasant Politics and Religious Sectarianism:
Peasant and Priest in the Cao Dai in Vietnam, Yale University Southeast
Asia Studies, New Haven.
161
MỤC LỤC PHỤ LỤC
Trang
Phụ lục 1 Điện thờ Bát Quát đài; Sơ đồ Cửu Trùng đài; Hệ thống
chức sắc Cửu Trùng đài 162
Phụ lục 2 Các tổ chức Cao Đài hiện nay 165
Phụ lục 3 Một số hình ảnh về văn hóa của đạo Cao Đài 172
Phụ lục 4 Bảng hỏi phỏng vấn sâu về giá trị văn hóa của đạo Cao
Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ (Đối tượng phỏng vấn
là chức sắc, chức việc, tín đồ, nhà tu hành đạo Cao Đài) 181
Phụ lục 5 Bảng hỏi phỏng vấn sâu về giá trị văn hóa của đạo Cao
Đài trong đời sống cư dân Nam Bộ (Đối tượng phỏng vấn
là nhà quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Cao Đài) 184
Phụ lục 6 Danh sách phỏng vấn chức sắc, nhà tu hành, nhà quản lý
về giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống cư dân
Nam Bộ 186
Phụ lục 7 Mẫu phiếu điều tra xã hội học 189
Phụ lục 8 Bảng tổng hợp kết quả phiếu điều tra xã hội học
196
162
PHỤ LỤC 1
ĐIỆN THỜ BÁT QUÁT ĐÀI, SƠ ĐỒ CỬU TRÙNG ĐÀI,
HỆ THỐNG CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI
Phật Thích CaLão tử
Chúa Jesus
Khƣơng Tử Nha
Khổng tử
Quan Thánh
Đế quânLý Thái BạchQuan Âm Bồ Tát
SƠ ĐỒ ĐIỆN THỜ NƠI BÁT QUÁT ĐÀI
QUẢ CÀN KHÔN
(THÁNH TƢỢNG THIÊN NHÃN)
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
163
SƠ ĐỒ CỬU TRÙNG ĐÀI TẠI TÕA THÁNH
Ngai
Giáo tông
Ngai
Thƣợng Chƣởng pháp
Ngai
Ngọc Đầu sƣ
Ngai
Thái Chƣởng pháp
Ngai
Thái Đầu sƣ
Ngai
Ngọc Chƣởng pháp
Ngai
Thƣợng Đầu sƣ
Nữ phái
(Gồm 9 bậc chức sắc, tín đồ Cửu
Trùng Đài hành lễ
Nam phái
(Gồm 9 bậc chức sắc, tín đồ Cửu Trùng
Đài hành lễ)
Bàn Nội nghi
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
164
HỆ THỐNG CHỨC SẮC CỬU TRÙNG ĐÀI
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
Giáo tông
Ngọc
Chƣởng pháp
Cửu Trùng Đài
Thƣợng
Chƣởng pháp
Thái
Chƣởng pháp
Thái
Đầu sƣ
Thƣợng
Đầu sƣ
Ngọc
Đầu sƣ
Thái
Chánh Phối sƣ
Thƣợng
Chánh Phối sƣ
Ngọc
Chánh Phối sƣ
Hộ - Lƣơng - Công
Học - Y - Nông
Hòa - Lại - Lễ
Phối sƣ 12-12-12
Giáo sƣ
24-24-24
Giáo hữu
1000-1000-1000 Lễ sanh
Chánh Trị sự Thông sự
Phó Trị sự
Tín đồ
165
PHỤ LỤC 2
CÁC TỔ CHỨC CAO ĐÀI HIỆN NAY
1. Các tổ chức giáo hội và pháp môn tu hành đạo Cao Đài hiện nay
Thứ nhất là phái Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi do ông Ngô Văn
Chiêu sáng lập. Năm 1926, ông Ngô Văn Chiêu không nhận phẩm vị Giáo tông mà
về Cần Thơ thành lập phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, thực hiện đường hướng
tu luyện theo pháp môn "vô vi" không phổ độ, không thành lập tổ chức giáo hội.
Với chủ trương tu luyện theo bí pháp chơn truyền nên phái Cao Đài Chiếu Minh
Tam Thanh Vô Vi không phát triển rộng rãi mà chỉ có số ít tín đồ tin theo. Cao Đài
Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi thực hiện đường lối tu tịnh, được coi là pháp môn tu
hành của đạo Cao Đài, hiện nay có khoảng 50 chức việc, 6.000 tín đồ, 13 nhà đàn,
phạm vi hoạt động ở 8 tỉnh, thành phố.
Thứ hai là phái Cao Đài Tây Ninh là Hội thánh đầu tiên tiếp nhận Tân luật,
Pháp Chánh truyền của đạo Cao Đài, xây dựng Toà thánh Tây Ninh, có hệ thống tổ
chức hành chính đạo từ Trung ương đến cơ sở, thành lập năm 1926 tại Tây Ninh.
Lúc đầu, Cao Đài Tây Ninh vốn là Hội thánh thống nhất và duy nhất của đạo Cao
Đài, nhưng từ khi nội bộ phân hoá một số chức sắc cao cấp rời khỏi Tòa thánh Tây
Ninh về các địa phương thành lập các phái Cao Đài mới làm cho Cao Đài Tây Ninh
bị đặt vào thế như một phái của đạo Cao Đài. Cao Đài Tây Ninh do Lê Văn Trung,
Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang lãnh đạo là một phái lớn được coi là gốc đạo Cao
Đài, có Tòa thánh tại Tây Ninh, có số lượng tín đồ đông nhất trong các hệ phái Cao
Đài. Cao Đài Tây Ninh thực hiện đường hướng hành đạo phổ độ nên thu hút được
đông đảo tín đồ, chủ yếu là nông dân. Cao Đài Tây Ninh hiện nay có trên 1 triệu tín
đồ, 400 Họ đạo với 387 Thánh thất, 145 Điện thờ Phật mẫu, hoạt động ở 37 tỉnh,
thành phố và có khoảng 3 vạn tín đồ đang cư trú tại nước ngoài.
Thứ ba là phái Cao Đài Tiên Thiên do các ông Nguyễn Hữu Chính, Lê Kim
Tỵ, Phan Văn Tòng sáng lập năm 1929 có Tòa thánh Châu Minh ở Bến Tre. Cao
Đài Tiên Thiên có nguồn gốc ra đời từ các đàn cầu cơ ở khu vực Tam giang và đồng
bằng sông Cửu Long, không phải là phái tách ra từ Cao Đài Tây Ninh, có đường
166
hướng hành đạo độc lập nhưng cơ bản vẫn tuân thủ theo quy định của đạo Cao Đài.
Do thành lập qua các đàn cầu cơ nên các thánh tịnh của Cao Đài Tiên Thiên đều có
tên gọi khác nhau. Cao Đài Tiên Thiên có nhiều chức sắc yêu nước tham gia hai
cuộc kháng chiến cứu quốc. Lịch sử Cao Đài Tiên Thiên gắn liền với sự chia rẽ nội
bộ Đạo có lúc phân chia thành 3 Hội thánh. Năm 1995, Cao Đài Tiên Thiên đã
thống nhất thành một Hội thánh và được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân
đầu tiên trong các phái Cao Đài. Cao Đài Tiên Thiên hiện nay có trên 80.000 tín đồ,
129 Thánh tịnh, phạm vi hoạt động ở 16 tỉnh, thành phố.
Thứ tư là phái Cao Đài Minh Chơn đạo do các ông Trần Đạo Quang, Phan
Văn Thiệu sáng lập năm 1930, có Tòa thánh Ngọc Sắc ở Cà Mau. Sau khi rời khỏi
Tòa thánh Tây Ninh, ông Trần Đạo Quang về Cà Mau lập phái Cao Đài Minh Chơn
đạonhằm làm sáng tỏ chân lý đạo thực hiện phương châm hành đạo lấy tu "nhơn
đạo" làm nền tảng, xem việc cứu khổ nhơn sanh là công quả cao nhất của người tu
hành nên đã thu hút được đông đảo nông dân ở các vùng sâu, vùng xa ở các tỉnh Cà
Mau, Bạc Liêu. Sau này, khi ông Cao Triều Phát gia nhập Đạo đã lãnh đạo pháiCao
Đài Minh Chơn đạo theo đường hướng "chấn hưng cơ đạo - cứu khổ nhơn sanh -
phụng sự Tổ quốc" thực hiện đường hướng vừa hành đạo vừa tham gia kháng chiến
cứu quốc và góp phần cùng nhân dân vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Cao Đài Minh
Chơn đạo hiện nay có khoảng 36.000 tín đồ, 49 Thánh thất, hoạt động ở 04 tỉnh.
Thứ năm là phái Cao Đài Chơn Lýdo ông Nguyễn Văn Ca sáng lập năm
1932 có Tòa thánh ở Mỹ Tho, Tiền Giang. Cao Đài Chơn Lý hành đạo với phương
châm làm sáng tỏ chơn lý đạo Cao Đài. Do bất đồng quan điểm với Tòa thánh Tây
Ninh nên ông Nguyễn Văn Ca khi thành lập phái Cao Đài Chơn Lý đã có thay đổi
cơ bản về tổ chức giáo hội và nghi lễ thờ phụng. Cao Đài Chơn Lý thực hiện kinh
sách theo Đuốc Chơn Lý, Luật Bình quân, Thánh giáo sưu tầm,… và thờ Thượng
Đế bằng "hình con mắt trong trái tim theo ý nghĩa câu Thánh giáo "Nhãn thị chủ
tâm" và gọi là "Thánh tượng tâm nhãn". Hiện nay, Cao Đài Chơn Lý có trên 14.000
tín đồ, 29 Thánh thất, hoạt động ở 16 tỉnh, thành phố .
Thứ sáu là phái Cao Đài Ban Chỉnh đạo do hai ông Nguyễn Ngọc Tương và
Lê Bá Trang sáng lập năm 1934 tại Bến Tre. Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang
167
bất đồng quan điểm hành đạo với Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc nên rời Tòa
thánh Tây Ninh về Bến Tre lập Cao Đài Ban Chỉnh đạo với chủ trương lập cơ chỉnh
đạo, thực hiện đường hướng tu hành theo đúng chân truyền của đạo Cao Đài. Cao
Đài Ban Chỉnh đạo hiện nay có khoảng 800.000 tín đồ, 245 Thánh thất và nhà tu,
phạm vi hoạt động ở 25 tỉnh, thành phố, hiện còn 34 Thánh thất và nhà tu chưa về
sinh hoạt với Hội thánh.
Thứ bảy là phái Cao Đài Bạch Y do các ông Tô Bửu Tài, Trương Minh Tòng
sáng lập năm 1936, có Thánh tòa Ngọc Kinh ở Kiên Giang. Cao Đài Bạch Y cơ bản
hoạt động theo quy định của đạo Cao Đài và hành đạo theo kinh luật Ngọc Đế chơn
truyền Tân ước tri nguyên. Về tổ chức giáo hội của Cao Đài Bạch Y có chức sắc Hiệp
Thiên đài được tổ chức gần giống với Cao Đài Chơn Lý. Hiện nay, Cao Đài Bạch Y có
khoảng 5.000 tín đồ, 14 Thánh thất, phạm vi hoạt động ở 4 tỉnh, thành phố.
Thứ tám là phái Cao Đài Cầu Kho Tam Quan có nguồn gốc từ Thánh thất
Cao Đài Cầu Kho ở Sài Gòn, do ông Phan Nghị, Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản,
Phan Trường Mạnh,… sáng lập năm 1937 và thành lập Hội thánh năm 1960, có Tòa
thánh Tam Quan ở Bình Định.Cao Đài Cầu Kho Tam Quan cơ bản thực hiện theo
quy định Tân luật, Pháp Chánh truyền của đạo Cao Đài, tổ chức giáo hội gọn nhẹ và
được tổ chức chặt chẽ giống phái Truyền Giáo Cao Đài. Hội thánh Cao Đài Cầu
Kho Tam Quan hiện nay có trên 11.000 tín đồ, 26 Thánh thất, phạm vi hoạt động ở
8 tỉnh, thành phố.
Thứ chín là phái Truyền Giáo Cao Đài do các ông Lê Trí Hiển, Trần Nguyên
Chất, Trần Quốc Luyện, Nguyễn Quang Châu,… sáng lập từ những năm 1939 và tổ
chức thành lập Hội thánh năm 1956 do ông Trần Văn Quế làm Chủ trưởng, có Tòa
thánh Trung Hưng Bửu Toà ở Đà Nẵng. Truyền Giáo Cao Đài có lập trường hành
đạo "thuần chơn vô ngã, thuần túy đạo đức", xây dựng tổ chức giáo hội gọn nhẹ hơn
so với các phái Cao Đài nhưng được tổ chức chặt chẽ. Hiện nay, Truyền Giáo Cao
Đài có khoảng 50.000 tín đồ, 63 Thánh thất, cơ sở đạo, phạm vi hoạt động ở 17
tỉnh, thành phố, chủ yếu ở Trung Bộ.
Thứ mười là phái Cao Đài Chiếu Minh Long Châu có nguồn gốc từ phái Cao
Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi của ông Ngô Văn Chiêu, do các ông Nguyễn
168
Văn Tự, Hồ Văn Hữu, Lê Hữu Lộc, Nguyễn Văn Gai, Nguyễn Hữu Khải, Lê Quang
Đẩu và bà Từ Lý sáng lập năm 1940, có Toà thánh Long Châu ở Hậu Giang. Cao
Đài Chiếu Minh Long Châu hành đạo theo Ngọc Đế Chơn Truyền và Thánh ngôn,
Thánh giáo, Đại Thừa Chơn Giáo, Tam Ngươn Giác Thế. Cao Đài Chiếu Minh
Long Châu xây dựng tổ chức giáo hội gần giống Cao Đài Bạch Y, ban đầu thực
hiện tu tịnh như Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, nhưng sau đó chuyển sang
tu hành phổ độ và có nhiều hoạt động yêu nước. Cao Đài Chiếu Minh Long Châu
hiện nay có khoảng 3.000 tín đồ, 21 Thánh tịnh và Nhà tịnh, phạm vi hoạt động ở 8
tỉnh, thành phố.
Mười một là phái Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) có nguồn gốc từ phái Cao
Đài Chơn Lý do ông Nguyễn Văn Mưu sáng lập năm 1960, có Toà thánh Thiên Toà
Hoàng Đạo tại Tiền Giang. Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) xây dựng tổ chức giáo hội,
nghi lễ thờ phụng và hoạt động gần giống Cao Đài Chơn Lý, có kinh sách riêng như
Hiến pháp quy niệm, Thiên Đạo chơn truyền, Đuốc Chơn lý, Thánh giáo và Hồng
chương Luật sử. Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) hiện nay có trên trên 4.000 tín đồ, có
09 Thánh thất và 16 Trường quy, phạm vi hoạt động ở 05 tỉnh, thành phố.
2. Các tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập hiện nay
Ngoài 10 phái Cao Đài có tổ chức giáo hội và 01 pháp môn tu hành, đạo Cao
Đài còn tồn tại các tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập, không có tổ chức giáo hội,
không trực thuộc các phái Cao Đài nêu trên, có đặc điểm riêng về tổ chức, lịch sử,
phạm vi hoạt động chủ yếu tại một tỉnh, thành phố.
Nam Thành Thánh thất do ông Đoàn Văn Bản sáng lập năm 1925, ban đầu
có tên gọi là Thánh thất Cầu Kho. Nam Thành Thánh thất là một trong những thánh
thất đầu tiên của đạo Cao Đài gắn liền với lịch sử ngày 23/8/Bính Dần (29-9-1926)
28 vị chức sắc ký tên vào Tờ khai đạo tuyên bố công khai nền đạo Cao Đài với
chính quyền Pháp. Nam Thành Thánh thất hoạt động theo quy định của đạo Cao
Đài. Hiện nay, Nam Thành Thánh thất có khoảng 100 tín đồ, có 01 cơ sở, hoạt động
chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Vĩnh Nguyên Tự do ông Lê Văn Tiểng thành lập năm 1908 tại Cần Giuộc,
tỉnh Long An. Ban đầu, Vĩnh Nguyên Tự thuộc tổ chức của chi Minh Đường. Năm
169
1926, ông Lê Văn Lịch quy thuận theo đạo Cao Đài và được phong phẩm Đầu sư
cùng đợt với Đầu sư Lê Văn Trung và Hộ pháp Phạm Công Tắc. Vĩnh Nguyên Tự
là di tích lịch sử của đạo Cao Đài. Nơi đây được Đức Chí Tôn giáng cơ thiên phong
chức sắc tiền khai đạo, soạn thảo kinh điển, ban hành quyển Tứ thời nhựt tụng kinh
và soạn thảo Tân luật của đạo Cao Đài. Vĩnh Nguyên Tự hoạt động độc lập, thực
hiện theo chơn truyền của đạo Cao Đài. Hiện nay, Vĩnh Nguyên Tự có khoảng 400
tín đồ, 01 cơ sở, hoạt động chủ yếu tại Long An.
Cao Đài Thượng Đế do các ông Võ Văn Thơm, Lê Công Phượng, Nguyễn
Văn Huỳnh, Nguyễn Thiện Niệm, Đặng Khắc Kỷ, Nguyễn Đăng Khoa,… thành lập
năm 1928, tự nhận là phái thứ 12 của đạo Cao Đài, có Tây Thành Thánh thất tại
Cần Thơ. Cao Đài Thượng Đế hoạt động phổ độ và tổ chức giáo hội theo luật Ngọc
Đế Chơn truyền. Hiện nay, Cao Đài Thượng Đế có 4 cơ sở hoạt động là: Tây Thành
Thánh thất ở Cần Thơ, Chiếu Minh tự ở Vĩnh Long, Bạch Vân Cung ở Sóc Trăng
và Thánh tịnh Long Vân ở Đồng Tháp với khoảng 1.000 tín đồ.
Thánh thất Liên Hoa Cửu Cung Thiên Đạo Học đường do ông Phan Thanh,
Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Quí, Nguyễn Văn Quốc, Nguyễn Văn Khai, Trần
Văn Quế, Đoàn Văn Bản, Trương Kế An, Cao Sỹ Tấn, Hà Thuận Hưng, Vương
Quan Kỳ, Huỳnh Văn Phát thành lập năm 1929 tại Sài Gòn. Thánh thất Liên Hoa
Cửu Cung Thiên Đạo Học đường hoạt động độc lập với mục đích liên giao chi phái,
phổ thông giáo lý và chẩn tế xã hội. Hiện nay, Thánh thất có khoảng 1.500 tín đồ,
hoạt động chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cao Đài Chiếu Minh Giáo toà do ông Bùi Quang Huy là đệ tử cấp nhất của
ông Ngô Văn Chiêu sáng lập từ những năm 1930, đến năm 1970, ông Bùi Hà Thanh
có công thành lập tổ chức, có Tổ đình Chiếu Minh đàn ở Vĩnh Long. Cao Đài Chiếu
Minh Giáo tòa có nguồn gốc từ Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, thực hiện
tu tịnh kết hợp với rèn luyện tâm pháp để tăng cường sức khỏe. Hiện nay, Cao Đài
Chiếu Minh Giáo toà có trên 1.000 tín đồ.
Chiếu Minh đàn Chợ Lớn là tổ chức thuộc phái Cao Đài Chiếu Minh Tam
Thanh Vô Vi nhưng không quy tụ về pháp môn ở Cần Thơ mà hoạt động độc lập,
do ông Trần Nghĩa Trọng và Nguyễn Văn Quản sáng lập năm 1932 tại Chợ Lớn.
170
Chiếu Minh đàn Chợ Lớn hoạt động giống các nhà đàn của phái Cao Đài Chiếu
Minh Tam Thanh Vô Vi, không có chức sắc, tu tịnh tại cơ sở. Người tu tự giác tu
luyện, ăn chay trường. Hiện nay, Chiếu Minh đàn Chợ Lớn có hơn 200 tín đồ, hoạt
động chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Thánh tịnh Thiên Trước thành lập năm 1933 tại Cần Thơ, trước đây thuộc
phái Cao Đài Tiên Thiên có tên là Thánh tịnh Trước Mai, sau hoạt động độc lập.
Thánh tịnh Thiên Trước thực hiện theo Tân luật, Pháp Chánh truyền và Ngọc Đế
chơn truyền của đạo Cao Đài. Hiện nay, Thánh tịnh Thiên Trước có trên 500 tín đồ,
hoạt động chủ yếu ở Cần Thơ.
Thánh tịnh Tân Minh Quang do ông Phạm Ngọc Lắm thành lập năm 1940 tại
Sài Gòn. Thánh tịnh Tân Minh Quang hoạt động độc lập và thực hiện theo quy định
của đạo Cao Đài. Hiện nay, Thánh tịnh Tân Minh Quang có khoảng 500 tín đồ, hoạt
động chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh
Cao Đài Việt Nam (Bến Tranh) có nguồn gốc từ Cao Đài Chơn Lý do ông
Đoàn Văn Năm sáng lập năm 1948, có Tòa thánh tại Tiền Giang. Cao Đài Việt
Nam (Bến Tranh) hoạt động về tổ chức và nghi lễ gần giống Cao Đài Chơn Lý.
Hiện nay, Cao Đài Việt Nam (Bến Tranh) có trên 2.000 tín đồ và một cơ sở trực
thuộc là Thánh tịnh Thượng Linh Đàn tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm,
tỉnh Vĩnh Long.
Thánh thất Bàu Sen do ông Phan Thanh thành lập năm 1949 tại Sài Gòn.
Thánh thất mang tên Bàu Sen vì nơi này trước kia là một cái bàu lớn trồng nhiều
sen và ông Phan Thanh mong muốn Thánh thất đem tới sự an lành cho người đạo.
Thánh thất Bàu Sen được tổ chức và hoạt động theo chơn truyền của đạo Cao Đài.
Hiện nay, Thánh thất Bàu Sen có khoảng 250 tín đồ, hoạt động chủ yếu tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
Cao Đài Thống nhất do ông Phan Khắc Sửu, Nguyễn Bửu Tài thành lập năm
1953 tại Tam Giáo điện Minh Tân ở Sài Gòn. Mục đích của Cao Đài Thống nhất
nhằm thống nhất các phái đạo Cao Đài. Do không có người đủ uy tín để quy tụ các
phái Cao Đài và nội bộ đạo Cao Đài đã phân hóa sâu sắc nên mục đích của Cao Đài
Thống nhất không thành công. Hiện nay, Cao Đài Thống nhất còn 3 cơ sở hoạt
171
động độc lập ở tỉnh Tiền Giang là Thánh tịnh Thanh Tịnh đàn, Thánh tịnh Vĩnh
Hòa, Thánh tịnh Thiên Phước đàn với khoảng 1.000 tín đồ.
Cao Thượng Bửu Toà do ông Trần Văn Tìa thành lập năm 1956, có Tòa
thánh tại Bạc Liêu. Cao Thượng Bửu Tòa hoạt động độc lập, tổ chức và sinh hoạt
theo Tân luật, Pháp Chánh truyền và mục đích của đạo Cao Đài. Hiện nay, Cao
Thượng Bửu Tòa có khoảng 100 tín đồ, 01 cơ sở đạo là Tòa thánh, phạm vi hoạt
động chủ yếu tại Bạc Liêu.
Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo do các ông Trần Văn Quế, Nguyễn
Triệu Kha, Nguyễn Văn Trương,…sáng lập năm 1962 tại Sài Gòn. Cơ quan Phổ
thông Giáo lý Đại Đạo không phải là một Hội thánh, hay một thánh thất, mà là một
cơ sở đạo Cao Đài tập hợp tín hữu không phân biệt chi phái, có chí hướng học tập,
nghiên cứu giáo lý đạo Cao Đài để phổ thông giáo lý đến mọi người. Hiện nay, Cơ
quan Phổ thông Giáo lý Đại Đạo có khoảng 300 tín đồ, có 01 cơ sở, hoạt động chủ
yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
172
PHỤ LỤC 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ VĂN HÓA CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
1. Hình ảnh về Đại Ngọc cơ
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Thánh tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc,
ngày 13/10/2016, TP. Hồ Chí Minh)
2. Ban thờ tại Thánh Đức Tổ đình Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Thánh Đức Tổ đình Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh
Vô Vi, ngày 25/10/2016, Cần Thơ)
173
3. Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Tòa thánh Tây Ninh, ngày 14/10/2016, Tây Ninh)
4. Tòa thánh Châu Minh, Cao Đài Tiên Thiên
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Tòa thánh Châu Minh, ngày 25/10/2016, Bến Tre)
174
5. Hiệp Thiên Đài tại Thiên Tòa Hoàng Đạo, Cao Đài Việt Nam (Bình Đức)
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Thiên Tòa Hoàng Đạo, ngày 09/10/2016, Tiền Giang)
6. Tòa thánh Cao Đài Việt Nam (Bến Tranh)
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Tòa thánh Cao Đài Việt Nam (Bến Tranh),
ngày 10/10/2016, Tiền Giang)
175
7. Ban thờ tại Tòa thánh Long Châu, Cao Đài Chiếu Minh Long Châu
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Tòa thánh Long Châu, ngày 18/10/2016, Hậu Giang)
8. Lễ khánh thành Hiệp Thiên Đài, Cao Đài Việt Nam (Bình Đức)
(Nguồn: Nguyễn Thị Hương chụp tại Thiên Tòa Hoàng Đạo, ngày 09/10/2016,
Tiền Giang)
176
9. Đồng nhi đạo Cao Đài biểu diễn ca nhạc
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Thánh Tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc, ngày 13/10/2016,
TP. Hồ Chí Minh)
10. Khám chữa bệnh từ thiện tại Thánh tịnh Ngọc Minh Đài
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, ngày 16/10/2016,
TP. Hồ Chí Minh)
177
11. Nghi thức định tâm trong lễ khánh thành Hiệp Thiên Đài của Cao Đài Việt
Nam (Bình Đức)
(Nguồn: Nguyễn Thị Hương chụp tại Thiên Tòa Hoàng Đạo, ngày 09/10/2016,
Tiền Giang)
12. Tiệc chay của đạo Cao Đài
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Thiên Tòa Hoàng Đạo, ngày 09/10/2016, Tiền Giang)
178
13. Tinh thần phấn khởi của tín đồ đạo Cao Đài khi hành đạo
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Thánh Tòa Vô Vi Huỳnh Quang Sắc, ngày 13/10/2016,
TP. Hồ Chí Minh)
14. Nếp sống của gia đình chức sắc đạo Cao Đài
(Nguồn: Nguyễn Thị Hương chụp tại nhà ông Trần Văn Sâm, ngày 10/10/2016,
Tiền Giang)
179
15. Chữ điển của đạo Cao Đài
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại nhà ông Trần Văn Sâm, ngày 10/10/2016, Tiền Giang)
180
16. Hội thảo về đạo Cao Đài
(Nguồn: Nguyễn Thị Hương chụp tại Thánh tịnh Minh Kiến Đài, ngày 17/10/2016,
TP. Hồ Chí Minh)
17. Nghi thức thỉnh chuông U minh của chức sắc nữ phái Cao Đài Việt Nam (Bến
Tranh)
(Nguồn: Đinh Quang Tiến chụp tại Tòa thánh Cao Đài Việt Nam (Bến Tranh),
ngày 10/10/2016, Tiền Giang)
181
PHỤ LỤC 4
BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU VỀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA
ĐẠO CAO ĐÀI TRONG ĐỜI SỐNG CƢ DÂN NAM BỘ
(Đối tượng phỏng vấn là chức sắc, chức việc, tín đồ, nhà tu hànhđạo Cao Đài)
------------------
1. Xin ông/bà vui lòng cho biết họ tên, ngày tháng năm sinh, quê quán, nơi
sinh? Ngày tháng nhập môn vào đạo Cao Đài? Phẩm trật, chức vụ và đang sinh hoạt
trong tổ chức tôn giáo Cao Đài nào?
2. Ông/bà cho biết nguyên nhân hoặc nguồn gốc gia nhập đạo Cao Đài của
bản thân?
3. Ông/bà thấy đạo Cao Đài có sự hấp dẫn ở điểm gì? (về giáo lý, giáo luật,
hoạt động,…)
4. Ông/bà có tin đạo Cao Đài do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế (hay còn gọi
là Ông Trời) sáng lập tại Việt Nam để giáo hóa chúng sanh, tu thân giải thoát? Vì
sao?
5. Đạo Cao Đài có hai phương tu: ngoại giáo công truyền và nội giáo tâm
truyền, theo ông/bà phương tu nào hiệu quả hơn? Vì sao?
6. Đức tin rất cần thiết đối với người tín đồ đạo Cao Đài, vậy ông/bà bồi
dưỡng đức tin hằng ngày của bản thân như thế nào?
7. Ông/bà có thể giải thích tại sao nhiều người có hạnh đức nhưng cuộc đời
lại chịu nhiều thiệt thòi, khổ cực? Việc tu hành theo đạo Cao Đài có làm thay đổi
được bất công đó hay không?
8. Từ khi hành đạo đến nay, ông/bà đã độ được bao nhiêu người vào đạo Cao
Đài? Những người mà ông/bà độ dẫn có còn tu hành hay không? Họ có thường
xuyên thăm hỏi hoặc nhớ đến ông bà hay không?
9. Người tu theo đạo Cao Đài nhằm mục đích gì? Trong thế giới biểu tượng
tôn giáo, ông/bà thấy biểu tượng nào có giá trị đối với người tín đồ Cao Đài? Vì
sao?
10. Theo ông/bà, đạo Cao Đài có đóng góp gì cho đời sống xã hội ở Nam Bộ
nói riêng và Việt Nam nói chung? Ông/bà có thể nêu một số ví dụ để minh họa?
11. Tại sao đạo Cao Đài ra đời tại Nam Bộ chứ không phải ở Trung Bộ hoặc
Bắc Bộ?
182
12. Khi vào đạo, ông/bà thấy đạo Cao Đài đem lại cho ông/bà điều gì có giá
trị trong đời sống?
13. Đạo Cao Đài là tôn giáo ra đời tại Việt Nam, theo ông/bà đạo Cao Đài đã
làm gì để góp phần giữ gìn và phát huy nền văn hóa dân tộc?
14. Đạo Cao Đài có đặc điểm gì gần gũi với phong tục tập quán, lối sống của
người dân Nam Bộ?
15. Đạo Cao Đài mặc trang phục truyền thốngcủa dân tộc, để râu tóc, giữ
giới luật khá nghiêm, vậy theo ông/bà việc đó có là trở ngại cho người đạo Cao Đài
hòa nhập cộng đồng trong xã hội hiện đại như ngày nay không? Vì sao?
16. Theo ông/bà, đạo Cao Đài có tác động hoặc ảnh hưởng gì tới đời sống
văn hóa của cư dân Nam Bộ, đặc biệt đối với người tín hữu đạo Cao Đài?
17. Trong cuộc đời tu hành, ông/bà trải qua sự chứng nghiệm (sự huyền diệu,
màu nhiệm) của đạo Cao Đài chưa? Nếu có thì điều đó có tác động như thế nào đối
với cuộc đời tu hành của ông/bà?
18. Khi ông/bà tu theo đạo Cao Đài thì những người thân trong gia đình và
hàng xóm có ủng hộ hoặc cản trở không? Vì sao?.
19. Người tín hữu đạo Cao Đài có đặc điểm gì khác biệt so với người dân
không theo tôn giáo và với người tín đồ theo các tôn giáo khác ở Việt Nam?
20. Theo ông/bà, tại sao đạo Cao Đài bị chia rẽ thành nhiều tổ chức tôn giáo
khác nhau? Ông/bà có tin tưởng rằng, sau này đạo Cao Đài có thể thống nhất được
không? Vì sao?
21. Trong cộng đồng đạo Cao Đài, ông/bà thấy các vị chức sắc hành đạo ở
các Hội thánh Cao Đài hiện nay có đủ đức tài, năng lực, uy tín để điều hành đạo sự
không? Vì sao?
22. Ông/bà có tham gia hoạt động từ thiện xã hội không? Ông/bà thấy kết
quả hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài như thế nào? Ông/bà có đề xuất phương
pháp nào giúp đạo Cao Đài làm tốt hơn trong hoạt động từ thiện xã hội không?
23. Mỗi khi gặp khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống, ông/bà có cầu
nguyện Đức Cao Đài phù hộ, độ trì để tai qua nạn khỏi không? Ông/bà đã có chứng
nghiệm về việc này hay chưa?
24. Ông/bà cho biết, khi người tín đồ nhập môn vào đạo Cao Đài rồi, họ có
chuyển sang tôn giáo khác hay không? Người dân bình thường phải làm thế nào để
được làm tín đồ của đạo Cao Đài?
183
25. Đạo Cao Đài có trường dạy học cho tín đồ hay không? Nếu có thì hình
thức đào tạo của đạo Cao Đài như thế nào?
26. Hiện nay, đạo Cao Đài không còn sử dụng cầu cơ mà thông qua tập thể
chức sắc để giải quyết công việc đạo (phong chức, phong phẩm), vấn đề này có ảnh
hưởng đến hoạt động của đạo Cao Đài không? Vì sao?
27. Đạo Cao Đài là một tôn giáo còn nghèo so với các tôn giáo khác ở Việt
Nam, tại sao ông/bà lại lựa chọn theo đạo Cao Đài để tu hành?
28. Ông/bà có nhận xét gì về kiến trúc Tòa thánh, Thánh thất, Thánh tịnh của
đạo Cao Đài? Lối kiến trúc đó có phù hợp với phong cách của người dân Nam Bộ?
29. Tại sao đạo Cao Đài lại chọn màu trắng làm màu chủ đạo trong trang
phục của mình? Khi hành lễ, ông/bà thấy nhạc lễ của đạo Cao Đài có tác động thế
nào đến tâm thức của mình?
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà. Chúc ông/bà mạnh khỏe, an vui
trong cuộc sống./.
184
PHỤ LỤC 5
BẢNG HỎI PHỎNG VẤN SÂU VỀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CỦA ĐẠO CAO ĐÀI TRONG ĐỜI SỐNG CƢ DÂN NAM BỘ
(Đối tượng phỏng vấn là nhà quản lý nhà nước về hoạt động của đạo Cao Đài)
------------------
1. Xin ông/bà vui lòng cho biết họ tên, ngày tháng năm sinh, quê quán, nơi
sinh? Chức danh, chức vụ của cơ quan công tác hoặc đã từng công tác? Ông/bà biết
đến và nghiên cứu về đạo Cao Đài từ khi nào?
2. Ông/bà cho biết đạo Cao Đài có đóng góp gì cho đời sống xã hội ở Nam
Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung? Ông/bà có thể nêu một số ví dụ để minh họa?
3. Tại sao đạo Cao Đài ra đời tại Nam Bộ chứ không phải ở Trung Bộ hoặc
Bắc Bộ?
4. Đạo Cao Đài là tôn giáo ra đời tại Việt Nam, theo ông/bà đạo Cao Đài đã
làm gì để góp phần giữ gìn và phát huy nền văn hóa dân tộc?
5. Theo ông/bà, đạo Cao Đài có đặc điểm gì gần gũi với phong tục tập quán,
lối sống của người dân Nam Bộ? Vì sao?
6. Đạo Cao Đài mặc trang phục truyền thống của dân tộc, để râu tóc, giữ giới
luật khá nghiêm, vậy theo ông/bà việc này có là trở ngại cho người đạo Cao Đài hòa
nhập cộng đồng trong xã hội hiện đại như ngày nay không? Vì sao?
7. Theo ông/bà, đạo Cao Đài có tác động hoặc ảnh hưởng gì tới đời sống văn
hóa, xã hội của cư dân Nam Bộ, đặc biệt đối với người tín hữu đạo Cao Đài?
8. Ông/bà thấy đạo Cao Đài có biến đổi gì từ khi thành lập cho đến nay (về
tổ chức, con người, phương thức hoạt động,…)? Vì sao?
9. Hơn 90 năm qua, dù trong bất kỳ bối cảnh xã hội nào, đạo Cao Đài vẫn
luôn có hàng triệu người tin theo, vậy theo ông/bà đặc điểm nào đã giúp đạo Cao
Đài duy trì được điều này? Vì sao?
10. Theo ông/bà, người tín hữu đạo Cao Đài có đặc điểm gì khác biệt so với
người dân không theo tôn giáo và với người tín đồ theo các tôn giáo khác ở Việt
Nam?
11. Ông/bà cho biết, tại sao đạo Cao Đài bị chia rẽ thành nhiều tổ chức tôn
giáo khác nhau? Ông/bà có tin tưởng rằng, sau này đạo Cao Đài có thể thống nhất
được không? Vì sao?
185
12. Trong cộng đồng đạo Cao Đài, ông/bà thấy các vị chức sắc hành đạo ở
các Hội thánh hiện nay có đủ đức tài, năng lực, uy tín để điều hành đạo sự không?
Vì sao?
13. Ông/bà có nhận xét gì về việc biểu hiện đức tin tôn giáo của người tín đồ
đạo Cao Đài? (qua cúng tứ thời, tam công, từ thiện xã hội,…). Ông/bà có thể cho
biết xu hướng hoạt động của đạo Cao Đài trong thời gian tới như thế nào?
14. Ông/bà thấy kết quả hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài như thế nào?
Ông/bà có đề xuất phương pháp nào giúp đạo Cao Đài làm tốt hơn trong hoạt động
từ thiện xã hội không?
15. Theo ông/bà, đạo Cao Đài cần làm gì để bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa trong thời đại hiện nay? Vì sao?
16. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, ông/bà cho biết đạo Cao Đài
có đóng góp gì vào hai cuộc kháng chiến cứu nước?
17. Theo ông/bà, đạo Cao Đài có cần thay đổi (giáo lý, giáo luật, tổ chức,
phương thức hoạt động,…) để thích nghi với bối cảnh xã hội hiện nay không? Vì
sao?
18. Trong thế giới biểu tượng của đạo Cao Đài, ông/bà thấy biểu tượng tôn
giáo nào quan trọng nhất của đạo Cao Đài? Vì sao?
19. Ông/bà thấy đạo Cao Đài có tồn tại, hạn chế gì trong hơn 90 năm hoạt
động? Ông/bà có thể đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế và
phát huy những điểm tích cực của đạo Cao Đài trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế hiện nay?
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông/bà. Chúc ông/bà mạnh khỏe, an vui
trong cuộc sống./.
186
PHỤ LỤC 6
DANH SÁCH PHỎNG VẤN CHỨC SẮC, NHÀ TU HÀNH, NHÀ QUẢN LÝ
VỀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA ĐẠO CAO ĐÀI TRONG ĐỜI SỐNG
CƢ DÂN NAM BỘ
----------------------
STT Họ và tên Phẩm vị, chức vụ, nơi làm việc
Ngày
phỏng
vấn
Địa
điểm
1 Huỳnh Văn
Ba
Nam Thiên Sư, Phó Tổng Thư ký Hội
đồng Chưởng quản, Hội thánh Cao Đài
Chơn Lý
21/7/2016 Tiền
Giang
2 Huỳnh Văn
Bảy
Đầu sư, Thượng hội, Hội thánh Cao Đài
Tiên Thiên 19/7/2016
Bến
Tre
3 Đinh Văn Bé Chánh Phối sư, Trưởng Ban Thường trực
Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên 19/7/2016
Bến
Tre
4 Thái Văn Biết Giáo sư, Hội thánh Cao Đài Minh Chơn
đạo 29/7/2016 Cà Mau
5 Quách Thị
Bốn
Đầu sư, Phó Hội trưởng Hội đồng
Chưởng quản, Hội thánh Cao Đài Chơn
Lý
21/7/2016 Tiền
Giang
6 Lữ Minh
Châu
Hiến pháp, Phó Trưởng Ban Thường trực
Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo 20/7/2016
Bến
Tre
7 Bùi Văn Côn
Phối sư, Tổng quản Văn phòng Thái
Chánh Phối sư, Hội thánh Cao Đài Tây
Ninh
24/7/2016 Tây
Ninh
8 Trang Văn
Hải
Nguyên Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh Tây
Ninh
27/7/2016 Tây
Ninh
9 Nguyễn Văn
Hồng
Phối sư, Tổng quản Văn phòng Ngọc
Chánh Phối sư 24/7/2016
Tây
Ninh
10 Dương Văn
Khoái
Chánh Phối sư, Phó Trưởng Ban Điều
hành Giáo hội Cao Đài Việt Nam (Bình
Đức)
18/7/2016 Tiền
Giang
11 Huỳnh Văn Giáo hữu, Công viện trưởng, Hội thánh 27/7/2016 Kiên
187
Khọt Cao Đài Bạch Y Giang
12 Trần Tự Kinh Nguyên Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh Cà
Mau 28/7/2016 Cà Mau
13 Nguyễn Văn
Lãnh
Thượng phẩm, Thượng hội, Hội thánh
Cao Đài Ban Chỉnh đạo 20/7/2016
Bến
Tre
14 Trương Minh
Lập
Phối sư, Phó Trưởng Ban Thường trực
Hội thánh Cao Đài Bạch Y 27/7/2016
Kiên
Giang
15 Trần Thanh
Liêm
Trưởng phòng nghiệp vụ, Ban Tôn giáo
tỉnh Cà Mau 28/7/2016 Cà Mau
16 Cao Bạch
Liên
Giáo hữu, con gái cụ Cao Triều Phát, Hội
thánh Cao Đài Minh Chơn đạo 2/8/2016
TP. Hồ
Chí
Minh
17 Lê Minh Lô Giáo sư, Chánh Văn phòng Tổng lý, Hội
thánh Cao Đài Minh Chơn đạo 29/7/2016 Cà Mau
18 Lê Văn Long Đầu sư, Hội trưởng Hội đồng Chưởng
quản Hội thánh Cao Đài Chơn Lý 21/7/2016
Tiền
Giang
19 Nguyễn Thị
Mai
Giáo hữu, Trưởng Ban Đại diện Cao Đài
Tiên Thiên tỉnh Long An 19/7/2016
Long
An
20 Nguyễn Văn
Mạnh
Đầu sư, Thượng hội, Hội thánh Cao Đài
Ban Chỉnh đạo 20/7/2016
Bến
Tre
21 Huỳnh Thanh
Phong
Chánh Phối sư, Phó Trưởng Ban Thường
trực Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên 19/7/2016
Bến
Tre
22 Huỳnh Thị
Phúc
Đầu sư, Trưởng Ban Đại diện Cao Đài
Chơn Lý tỉnh Long An 19/7/2016
Long
An
23 Đỗ Như
Phương
Trưởng phòng Tổng hợp Hành chính,
Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang 28/7/2016
Kiên
Giang
24 Phạm Thị
Minh Phương
Phối sư, Phó Trưởng Ban Thường trực
Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo 29/7/2016 Cà Mau
25 Trần Văn Sâm Tây Hiệp quang, Cố vấn Ban Điều hành
Giáo hội Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) 21/7/2016
Tiền
Giang
26 Nguyễn Minh
Sơn
Giáo hữu, Từ hàn Ban Thường trực Hội
thánh Cao Đài Bạch Y 28/7/2016
Kiên
Giang
27 Nguyễn Văn
Sỹ Lục đàn, Hội thánh Cao Đài Bạch Y 28/7/2016
Kiên
Giang
28 Trần Đức
Tăng
Đầu sư, Trưởng Ban Thường trực Hội
thánh Cao Đài Minh Chơn đạo 29/7/2016 Cà Mau
29 Huỳnh Văn
Thạch
Đầu sư, Thượng hội, Hội thánh Cao Đài
Tiên Thiến 19/7/2016
Bến
Tre
30 Phan Văn Giáo hữu, Ủy viên Ban Điều hành Giáo 21/7/2016 Tiền
188
Thanh hội Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) Giang
31 Phạm Văn
Thành
Trung Thiên sư, Tổng Thư ký Hội đồng
Chưởng quản Hội thánh Cao Đài Chơn
Lý
21/7/2016 Tiền
Giang
32 Nguyễn Vĩnh
Thế Phó Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh Tây Ninh 14/7/2016
Tây
Ninh
33 Phạm Thị
Thanh Thúy
Trưởng phòng Cao Đài, Ban Tôn giáo
tỉnh Bến Tre
21/7/2016 Bến
Tre
34 Nguyễn Văn
Trạch
Cố vấn Tổng Thư ký Cơ quan Phổ thông
Giáo lý Đại Đạo 2/8/2016
TP. Hồ
Chí
Minh
35 Lê Văn Tròn Phối sư, Trưởng Ban Điều hành Giáo hội
Cao Đài Việt Nam (Bình Đức) 18/7/2016
Tiền
Giang
36 Nguyễn Văn
Trường
Giáo hữu, Lễ viện trưởng, Hội thánh Cao
Đài Bạch Y 28/7/2016
Kiên
Giang
37 Ngô Thanh
Viện
Khai pháp, Phó Trưởng Ban Thường trực
Hội thánh Cao Đài Minh Chơn đạo 29/7/2016 Cà Mau
38 Lê Tròn Vình Lễ sanh, Giáo hội Cao Đài Việt Nam
(Bình Đức) 18/7/2016
Tiền
Giang
39 Đào Văn Xem Trưởng phòng nghiệp vụ, Ban Tôn giáo
tỉnh Kiên Giang 28/7/2016
Kiên
Giang
40 Lê Văn
Xướng
Hiệp Lý Minh Đạo, Cơ quan Phổ thông
Giáo lý Đại Đạo 2/8/2016
TP. Hồ
Chí
Minh
41 Huệ Ý (Đoàn
Thiền Tâm)
Tổng Thư ký Cơ quan Phổ thông Giáo lý
Đại Đạo 2/8/2016
TP. Hồ
Chí
Minh
Nguồn: Tác giả điều tra, khảo sát.
189
PHỤ LỤC 7
MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
ĐỀ TÀI: GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA ĐẠO CAO ĐÀI TRONG
ĐỜI SỐNG CƢ DÂN NAM BỘ
(Đối tượng phỏng vấn là chức sắc, chức việc, tín hữu đạo Cao Đài)
----------------------------------
Kính thưa quý chức sắc, chức việc, tín hữu đạo Cao Đài!
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc nói chung và giá trị văn hóa của đạo Cao Đài nói
riêng cần được quan tâm, giải quyết. Nhằm góp phần phát huy các giá trị văn hóa
của đạo Cao Đài vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nền văn hóa dân
tộc hiện nay, nghiên cứu sinhthực hiện đề tài "Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài
trong đời sống cư dân Nam Bộ". Để nghiên cứu đạt được mục tiêu đề ra, rất mong
ông/bà dành chút thời gian trả lời một số câu hỏi dưới đây, chia sẻ quan điểm, đánh
giá, nhận xét, phân tích về đạo Cao Đài và giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời
sống cư dân Nam Bộ. Thông tin do ông/bà cung cấp sẽ được đảm bảo tính khuyết
danh và hoàn toàn phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học.
(Chú ý: Không cần ghi họ tên, đánh dấu X vào ô vuông)
Câu 1: Xin ông/bà cho biết vài nét về bản thân?
a/ Giới tính:
1. Nam 2. Nữ
b/ Tuổi đời:
1. Dưới 30 tuổi 2. Từ 30 tuổi đến 45 tuổi
3. Từ 46 đến 60 tuổi 4. Từ 61 tuổi đến 70 tuổi
5. Từ 70 tuổi đến 80 tưổi 6. Trên 80 tuổi
c/ Phẩm vị tôn giáo:
190
* Chức sắc:
1. Lễ sanh và tương đương 2. Giáo hữu và tương đương
2. Giáo sư và tương đương 4. Phối sư và tương đương
5. Đầu sư và tương đương 6. Chưởng pháp và tương đương
* Chức việc:
1. Trưởng Ban Cai quản 2. Phó Ban Cai quản
3. Thư ký Ban Cai quản 4. Thành viên Ban Cai quản
5. Chánh trị sự 6. Phó Trị sự
7. Thông sự 8. Thành viên Ban Trị sự
* Tín đồ:
1. Tu tại gia 2. Sinh hoạt tại Họ đạo
d/ Nghề nghiệp bản thân:
1. Công nhân 3. Trí thức
2. Nông dân 4. Doanh nghiệp
5. Công chức 6. Khác (tự ghi)
e/ Trình độ học vấn:
1. Tiểu học 2. Trung học cơ sở
3. Trung học phổ thông 4. Cao đẳng
5. Đại học 6. Thạc sỹ
7. Tiến sỹ 8. Khác (tự ghi)
Câu 2: Ông/bà vào đạo Cao Đài trong trƣờng hợp nào?
1. Tự tìm hiểu 2. Theo truyền thống gia đình
3. Được người khác giới thiệu 4. Được Ơn Trên báo
5. Do bất trắc trong cuộc sống 6. Nguyên nhân khác (tự ghi)
Câu 3: Theo ông/bà, đạo Cao Đài ra đời có tác động nhƣ thế nào đến đời
sống cƣ dân ở Nam Bộ?
1. Tích cực 2. Tiêu cực
3. Không ảnh hưởng 4. Không có ý kiến
191
Câu 4: Khi vào đạo Cao Đài, ông/bà thấy đạo Cao Đài đem lại điều gì có
giá trị cho đời sống của bản thân?
1. Nâng cao tri thức 2. Tu dưỡng bản thân
3. Sống có lý tưởng cao đẹp 4. Nêu gương hạnh đức
5. Lối sống cộng đồng 6. Khác (tự ghi)
Câu 5. Ông/bà cho biết đạo Cao Đài có sự hấp dẫn nào đề thu hút tín đồ
tin theo?
1. Giáo lý cao đẹp 2. Giáo luật dễ thực hiện
3. Tư tưởng đại đồng 4. Sinh hoạt dân chủ
5. Chức sắc, tín đồ hòa đồng 6. Giữ gìn văn hóa truyền thống
7. Phù hợp lối sống dân tộc 8. Tổ chức giáo hội chặt chẽ
9. Tất cả nội dung nêu trên 10. Khác (tự ghi)
Câu 6. Đức tin rất cần thiết đối với ngƣời tín đồ đạo Cao Đài, vậy ông/bà
bồi dƣỡng đức tin hằng ngày bằng hoạt động nào dƣới đây?
1. Tụng kinh tứ thời 2. Niệm danh Đức Cao Đài
3. Nghiên cứu, học tập giáo lý 4. Thực hành tam công
5. Làm việc thiện 6. Làm việc hành chính đạo
7. Đến Thánh thất 8. Khác (tự ghi)
Câu 7. Sau hơn 90 năm ra đời, theo ông/bà đạo Cao Đài có đóng góp gì
cho đời sống văn hóa, xã hội ở Nam Bộ?
1. Tạo ra cộng đồng có tín ngưỡng 2.Đoàn kết cộng đồng
3. Giữ gìn đạo đức, văn hóa truyền thống 4. Nâng cao dân trí
5. Đa dạng tôn giáo dân tộc 6. Giáo dục con người
7. Đáp ứng nhu cầu tinh thần cư dân 8. Khác (tự ghi)
Câu 8. Đạo Cao Đài có đặc điểm nào dƣới đây gần gũi với phong tục tập
quán, lối sống của ngƣời dân Nam Bộ?
1. Trang phục truyền thống dân tộc 2. Lối sống dân chủ
3. Tinh thần đoàn kết 4. Liên kết cộng đồng
5. Tính nhân văn, nghĩa tình 6. Khác (tự ghi)
192
Câu 9. Trong cuộc đời tu hành, ông/bà đã từng trải qua sự chứng
nghiệm màu nhiệm của đạo Cao Đài chƣa?
1. Có 2. Chưa
3. Không tin 4. Không ý kiến
* Nếu có thì sự chứng nghiệm đó tác động nhƣ thế nào đối với cuộc đời
tu hành của ông/bà?
1. Nâng cao đức tin 2. Tu luyện nhiều hơn
3. Nghiên cứu, chiêm nghiệm 4. Phổ truyền cho mọi người
5. Giữ bí mật 6. Không có ý kiến
Câu 10. Mỗi khi gặp khó khăn, vƣớng mắc trong cuộc sống, ông/bà có
cầu nguyện Đức Cao Đài phù hộ, độ trì để tai qua nạn khỏi không?
1. Có 2. Không
3. Không tin 4. Không có ý kiến
* Nếu có thì ông/bà đã đƣợc chứng nghiệm vƣợt qua khó khăn, vƣớng
mắc chƣa?
1. Đã chứng nghiệm 2. Chưa chứng nghiệm
3. Không tin sẽ chứng nghiệm 4. Không có ý kiến
Câu 11. Ông/bà có biết đạo Cao Đài có trƣờng dạy học cho tín đồ hay
không?
1. Có 2. Không
3. Không biết 4. Không ý kiến
* Nếu có trƣờng dạy học, ông/bà có biết hình thức đào tạo của trƣờng
học Cao Đài nhƣ thế nào?
1. Trường Đại học Cao Đài 2. Trường Phổ thông Trung học
3. Trường Phổ thông cơ sở 4. Tất cả trường hợp trên
5. Khác (tự ghi) 6. Không ý kiến
Câu 12. Tại sao ông/bà lựa chọn theo đạo Cao Đài tu hành?
1. Tôn giáo có sự hấp dẫn 2. Tôn giáo của dân tộc
3. Phù hợp lối sống, văn hóa 4. Truyền thống gia đình
5. Khác (tự ghi) 6. Không ý kiến
9
.
K
h
á
c
(
t
ự
g
h
9
.
K
h
á
c
(
t
ự
9
.
K
h
á
c
(
t
ự
193
Câu 13. Ông/bà có tham gia hoạt động từ thiện xã hội không?
1. Tham gia tích cực 2. Tham gia vừa phải
2. Tham gia ít 4. Không tham gia
* Ông/bà đánh giá hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài nhƣ thế nào?
1. Hiệu quả 2. Ít hiệu quả
3. Chưa hiệu quả 4. Còn hạn chế
Câu 14. Trong các vấn đề dƣới đây ông/bà quan tâm tới vấn đề nào?
(Sắp xếp sự quan tâm của từng vấn đề theo số thứ tự từ 1 đến 9)
Câu 15: Ông/bà đã tham gia các hoạt động nào dƣới đây?
1. Phong trào thi đua yêu nước
2. Xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư
3. Xoá đói giảm nghèo
4. Lễ hội văn hoá, văn nghệ
5. Hoạt động từ thiện nhân đạo
STT Vấn đề quan tâm
Đánh số thứ tự
từ số 1 đến số 9
vấn đề quan tâm
01 Học tập giáo lý, giáo luật, nghi lễ
02 Tổ chức các lễ hội tôn giáo
03 Việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm chức sắc
04 Xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự
05 Phổ thông nền đạo Cao Đài
06 Đào tạo chức sắc kế thừa
07 Được Nhà nước công nhận tổ chức tôn giáo
08 In kinh sách, đồ dùng việc đạo
09 Đoàn kết tôn giáo
194
6. Đền ơn đáp nghĩa
7. Tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND các cấp
8. Hoạt động khác (tự ghi)
Câu 16. Ông/bà đã từng hoặc đang tham gia vào tổ chức nào dƣới đây?
1. Hội Nông dân 2. Hội Người cao tuổi
3. Hội Liên hiệp Phụ nữ 4. Hội Chữ thập đỏ
5. Hội Cựu chiến binh 6. Hội LHTN VN
7. Hội đồng ND các cấp 8. MTTQVN các cấp
9. Khác (tự ghi) 10. Không tham gia
Câu 17. Xin ông bà (anh chị) cho biết một số ý kiến nhận xét về các vấn
đề hiện nay? (Đánh dấu X vào ý kiến đánh giá)
Stt Vấn đề Tốt hơn
trƣớc
Không
thay đổi
Kém
đi
1 An ninh, an toàn xã hội
2 Kinh tế xã hội
3 Đời sống nhân dân
4 Con cháu được học hành
5 Chăm sóc sức khỏe nhân dân
6 Kinh sách, đồ dùng việc đạo
7 Xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự
8 Hoạt động của các Hội thánh Cao Đài
9 Sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở
195
Câu 18. Xin ông/bà cho biết đạo Cao Đài cần làm gì để thu hút tín đồ
sinh hoạt tôn giáo?
1. Có tư cách pháp nhân 2. Xây dựng cơ sở thờ tự khang trang
3. Có chức sắc, chức việc tốt 4. Tích cực làm từ thiện
5. Tổ chức tốt các lễ hội tôn giáo 6. Vận động gia đình sinh hoạt tôn giáo
7. Không làm gì 8. Ý kiến khác (tự ghi)
Câu 19. Với trách nhiệm là ngƣời chức sắc, nhà tu hành, ông/bà thấy
cần phải làm gì để đạo Cao Đài hoạt động ổn định và phát triển?
1. Giữ đúng chơn truyền của nền Đại đạo
2. Đào tạo chức sắc hành đạo có năng lực, uy tín
3. Chức sắc quan tâm, gần gũi nhơn sanh
4. Xây dựng nền đạo ổn định
5. Tổ chức tốt các lễ hội
6. Xây dựng tình thương yêu, đoàn kết trong đồng đạo
7. Phổ thông rộng rãi đạo Cao đài
8. Vận động tín đồ hưởng ứng về với Hội thánh
9. Đấu tranh với chức sắc bảo thủ, lạc hậu
10. Không quan tâm
Câu 20. Hiện nay, đạo Cao Đài có nhiều tổ chức khác nhau, ông/bà thấy
vấn đề này nhƣ thế nào?
1. Có tác động tích cực 2. Tồn tại của lịch sử cần giải quyết
3. Ảnh hưởng tiêu cực tới nền đạo 4. Không ảnh hưởng gì
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của ông/bà. Chúc ông/bà mạnh khỏe, an
lành trong cuộc sống./.
196
PHỤ LỤC 8
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHIẾU ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
Tổng số phiếu: 263
Câu 1: Câu 1: Xin ông/bà cho biết vài nét về bản thân?
Stt %
1 Nam 162 61.56
2 101 38.38
Stt %
1 30 24 9.12
2 39 14.82
3 60 89 33.82
4 n 70 70 26.60
5 80 33 12.54
6 Trên 80 8 3.04
:
Stt %
1 48 18.24
2 60 22.80
3 50 19.00
4 ương 18 6.84
5 11 4.18
6 5 1.90
:
Stt %
1 25 9.50
2 29 11.02
197
3 16 6.08
4 22 8.36
5 25 9.50
6 15 5.70
7 14 5.32
8 19 7.22
:
Stt %
1 47 17.86
2 24 9.12
?
Stt %
1 52 19.76
2 192 72.96
3 29 11.02
4 7 2.66
5 2 0.76
6 0 0
?
Stt %
1 217 82.46
2 4 1.52
3 59 22.42
4 10 3.8
?
Stt %
1 132 50.16
2 194 73.72
3 171 64.98
198
4 147 55.86
5 134 50.92
6 0 0
theo?
Stt %
1 27 10.26
2 25 9.50
3 23 8.74
4 13 4.94
5 22 8.36
6 27 10.26
7 35 13.30
8 12 4.56
9 188 71.44
10 2 0.76
:
Stt %
1 180 68.40
2 165 62.70
3 156 59.28
4 186 70.68
5 167 63.46
6 142 53.96
7 142 53.96
8 1 0.38
, theo
?
Stt %
1 150 57.00
2 170 64.60
199
3 207 78.66
4 142 53.96
5 60 22.80
6 149 56.62
7 128 48.64
8 0 0
,
?
Stt %
1 194 73.72
2 148 56.24
3 195 74.10
4 149 56.62
5 165 62.70
6 K 2 0.76
Câu 9. Trong cuộc đời tu hành, ông/bà đã từng trải qua sự chứng nghiệm màu
nhiệm của đạo Cao Đài chƣa?
Stt %
1 228 86.64
2 Chưa 15 5.7
3 Không tin 0 0
4 12 4.56
* Nếu có thì sự chứng nghiệm đó tác động nhƣ thế nào đối với cuộc đời tu
hành của ông/bà?
Stt %
1 201 76.38
2 125 47.50
3 65 24.70
4 111 42.18
5 17 6.46
6 8 3.04
200
Câu 10. Mỗi khi gặp khó khăn, vƣớng mắc trong cuộc sống, ông/bà có cầu
nguyện Đức Cao Đài phù hộ, độ trì để tai qua nạn khỏi không?
Stt %
1 256 97.28
2 Không 3 1.14
3 Không tin 1 0.38
4 1 0.38
* Nếu có thì ông/bà đã đƣợc chứng nghiệm vƣợt qua khó khăn, vƣớng mắc
chƣa?
Stt %
1 235 89.30
2 10 3.80
3 2 0.76
4 10 3.80
Câu 11. Ông/bà có biết đạo Cao Đài có trƣờng dạy học cho tín đồ hay không?
Stt %
1 179 68.02
2 61 23.18
3 18 6.84
4 5 1.9
* Nếu có trƣờng dạy học, ông/bà có biết hình thức đào tạo của trƣờng học Cao
Đài nhƣ thế nào?
Stt %
1 32 12.16
2 34 12.92
3 24 9.12
4 28 10.64
5 58 22.04
6 22 8.36
Câu 12. Tại sao ông/bà lựa chọn theo đạo Cao Đài tu hành?
Stt %
1 89 33.82
201
2 178 67.64
3 159 60.42
4 189 71.82
5 2 0.76
6 2 0.76
Câu 13. Ông/bà có tham gia hoạt động từ thiện xã hội không?
Stt %
1 187 71.06
2 74 28.12
3 0 0
4 Không tham gia 2 0.76
* Ông/bà đánh giá hoạt động từ thiện của đạo Cao Đài nhƣ thế nào?
Stt ng %
1 235 89.30
2 2 0.76
3 1 0.38
4 25 9.50
?
St
t
quan tâm
1 2 3 4 5 6 7 8 9
1
28 6 9 1 3 3 16 2 10
% 10.64 2.28 3.42 0.38 1.14 1.14 6.08 0.76 3.80
2
13 4 1 4 9 11 14 7 7
% 4.94 1.52 0.38 1.52 3.42 4.18 5.32 2.66 2.66
3
4 8 2 13 13 11 10 3 9
% 1.52 3.04 0.76 4.94 4.94 4.18 3.80 1.14 3.42
4
2 12 3 7 13 14 6 8 9
% 0.76 4.56 1.14 2.66 4.94 5.32 2.28 3.04 3.42
5 Phổ thông 3 17 8 9 9 3 4 11 11
202
nền Đại Đạo % 1.14 6.46 3.04 3.42 3.42 1.14 1.52 4.18 4.18
6 Đào tạo chức
sắc kế thừa
8 5 11 9 7 10 2 8 16
% 3.04 1.90 4.18 3.42 2.66 3.80 0.76 3.04 6.08
7
o
13 3 10 4 7 13 3 12 9
% 4.94 1.14 3.80 1.52 2.66 4.94 1.14 4.56 3.42
8
1 4 16 7 8 5 4 10 17
% 0.38 1.52 6.08 2.66 3.04 1.90 1.52 3.80 6.46
9
4 6 5 8 4 14 8 7 19
% 1.52 2.28 1.90 3.04 1.52 5.32 3.04 2.66 7.22
52.44%
38.00%
37.62%
1 42.18%
48.26%
45.22%
49.40%
40.28%
49.78%
Câu 15: Ông/bà đã tham gia các hoạt động nào dƣới đây?
Stt %
1 157 59.66
2 201 76.38
3 186 70.68
4 132 50.16
5 212 80.56
6 175 66.50
7 157 59.66
8 31 11.78
Câu 16. Ông/bà đã từng hoặc đang tham gia vào tổ chức nào dƣới đây?
Stt %
1 76 28.88
203
2 94 35.72
3 44 16.72
4 77 29.26
5 20 7.60
6 41 15.58
7 43 16.34
8 72 27.36
9 2 0.76
10 Không tham gia 60 22.80
Câu 17. Xin ông bà (anh chị) cho biết một số ý kiến nhận xét về các vấn đề
Stt
% %
g
%
1
190 72.20 14 5.32 23 8.74
2 169 64.22 27 10.26 5 1.90
3 dân
170 64.60 27 10.26 5 1.90
4
178 67.64 32 12.16 0 0
5
173 65.74 28 10.64 2 0.76
6
141 53.58 59 22.42 5 1.90
7
192 72.96 17 6.46 0 0
8
160 60.80 56 21.28 2 0.76
204
9
172 65.36 33 12.54 7 2.66
Câu 18. Xin ông/bà cho biết đạo Cao Đài cần làm gì để thu hút tín đồ sinh hoạt tôn
giáo?
Stt %
1 183 69.54
2 164 62.32
3 183 69.54
4 185 70.30
5 141 53.58
6 136 51.68
7 Kh 0 0
8 2 0.76
Câu 19. Với trách nhiệm là ngƣời chức sắc, nhà tu hành, ông/bà thấy cần phải
làm gì để đạo Cao Đài hoạt động ổn định và phát triển?
Stt %
1 213 80.94
2 192 72.96
3 186 70.68
4 183 69.54
5 156 59.28
6
o
188 71.44
7 171 64.98
8 151 57.38
9 126 47.88
10 Không quan tâm 0 0
Câu 20. Hiện nay, đạo Cao Đài có nhiều tổ chức khác nhau, ông/bà thấy vấn
đề này nhƣ thế nào?