185
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ QUỐC KHỞI CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HÀ NỘI - 2017

CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LÃNH … _ Le Quoc Khoi _nop QD_.pdf · Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy

  • Upload
    dothuy

  • View
    220

  • Download
    6

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ QUỐC KHỞI

CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2017

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ QUỐC KHỞI

CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Mã số: 62 31 23 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. TRƯƠNG THỊ THÔNG

2. PGS.TS. DƯƠNG TRUNG Ý

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có

nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Lê Quốc Khởi

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6

1.1. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam 6

1.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước 13

Chương 2: CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LÃNH ĐẠO

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ

CƠ BẢN VỀ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN 21

2.1. Nông thôn đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh ủy ở đồng bằng sông

Cửu Long hiện nay 21

2.2. Xây dựng nông thôn mới và các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long lãnh

đạo xây dựng nông thôn mới 33

Chương 3 NÔNG THÔN MỚI VÀ CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG

CỬU LONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ NĂM 2010

ĐẾN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM 50

3.1. Thực trạng nông mới ở đồng bằng sông Cửu Long 50

3.2. Thực trạng các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long lãnh đạo xây dựng

nông thôn mới 64

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG

CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG

CỬU LONG ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ĐẾN NĂM 2025 89

4.1. Phương hướng tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông

Cửu Long đối với xây dựng nông thôn mới 89

4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy vùng

đồng bằng sông Cửu Long trong xây dựng nông thôn mới đến năm 2025 105

KẾT LUẬN 147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN 149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 150

PHỤ LỤC 165

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN: Association of Southeast Asian Nations:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

CNXH: Chủ nghĩa xã hội

ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long

GAP: Good Agriculture Procedure:

Qui trình nông nghiệp an toàn.

HĐND: Hội đồng Nhân dân

HTCT: Hệ thống chính trị

HTX: Hợp tác xã

FDI: Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

IPM: Intergrated Pests Management

Chương trình quản lý dịch hại tổng hợp

KH-CN: Khoa học - Công nghệ

KT-XH: Kinh tế - Xã hội

LHPN: Liên hiệp Phụ nữ

MTTQ: Mặt trận Tổ quốc

NTM: Nông thôn mới

NXB: Nhà xuất bản

UBND: Ủy ban nhân dân

VietGAP: Vietnamese Good Agricultural Practices

Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam

WTO: Tổ chức Thương mại thế giới

XHCN: Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng nông thôn mới (NTM) là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với

chiến lược phát triển quốc gia, đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền

vững. Từ thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm chú ý tới phát

triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xây dựng NTM trong tổng thể sự phát

triển chung của đất nước.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành

(BCH) Trung ương (khóa X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008 về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn đã nêu quan điểm của Đảng ta về xây dựng NTM.

Nghị quyết khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn, có vị trí

quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy, các vấn đề

nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình

đẩy mạnh CNH, HĐH.

Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ra Nghị

quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về xây dựng nông

nghiệp, nông dân và nông thôn, thống nhất nhận thức, hành động về nông nghiệp,

nông dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM.

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng kinh tế nông nghiệp trọng

điểm, đóng góp 18% GDP của cả nước. GDP của vùng tăng trưởng hàng năm 12%,

trong đó, sản xuất lương thực giữ vai trò an ninh lương thực quốc gia, cung cấp trên

50% sản lượng lúa và hơn 95% lượng gạo xuất khẩu; trên 65% sản lượng xuất khẩu

thủy sản (đồngthời là khu vực nuôi thủy sản lớn nhất nước); cung cấp đến 70%

lượng trái cây cho cả nước [4].

Hoà cùng xu thế vươn lên của cả nước sau 30 năm đổi mới, ĐBSCL đã trở

thành một khu vực phát triển với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, cao hơn mức bình

quân của cả nước, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Mọi mặt đời

sống xã hội ở nông thôn đã có những thay đổi hết sức sâu sắc và toàn diện. Điều đó

khẳng định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ

2

đổi mới đã đi vào cuộc sống. Vai trò lãnh đạo chính trị và tổ chức thực hiện Nghị

quyết của các tỉnh ủy trong vùng đã mang lại hiệu quả thiết thực.

Tuy nhiên, so với lợi thế, tiềm năng và yêu cầu đặt ra của thời kỳ mới, những

thành tựu đạt được vẫn còn khiêm tốn. Nhìn tổng thể, tình hình KT-XH ĐBSCL

vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Kinh tế nông thôn tăng trưởng chưa ổn định và

thiếu vững chắc, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của vùng. Nhiều chỉ số

phát triển kinh tế - văn hoá xã hội của ĐBSCL thấp hơn các vùng khác và mức bình

quân cả nước. Kinh tế phát triển chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào việc khai thác

tiềm năng sẵn có là chính. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng tiến bộ khoa

học kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất còn chậm. Chất lượng sản phẩm, khả

năng cạnh tranh của các chủng loại hàng hóa trong toàn vùng còn thấp, nhất là việc

xây dựng thương hiệu hàng hóa nông sản thực phẩm còn hạn chế. Hệ thống kết cấu

hạ tầng KT-XH chưa đáp ứng yêu cầu. Đặc biệt, hạ tầng giao thông nông thôn,

công tác thủy lợi thiếu đồng bộ, các chỉ số giáo dục, đào tạo, dạy nghề, còn thấp.

Đời sống nhân dân các xã vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn

cao, nhất là vùng có đông đồng bào Khmer.

Những thành tựu và hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội ở đồng bằng

sông Cửu Long nói chung, phát triển nông nghiệp, nông thôn và xây dựng NTM

nói riêng gắn liền với vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của các tỉnh ủy. Sự lãnh đạo

của các tỉnh ủy đối với sự phát triển nông thôn và xây dựng NTM tuy đã đạt

được những kết quả quan trọng, song nhìn chung còn nhiều hạn chế. Không ít

cấp ủy còn lúng túng trong xác định nội dung và phương thức lãnh đạo; công tác

chỉ đạo điều hành tuy có cố gắng nhưng chưa đồng đều; chất lượng quy hoạch, đề

án xây dựng NTM còn hạn chế. Phương thức, quy trình lãnh đạo tổ chức thực hiện

xây dựng NTM của các tỉnh ủy có nơi, có lúc chưa rõ; nhiều nghị quyết thực hiện

chưa đảm bảo quy trình, nhất là nội dung trong các bước chuẩn bị chưa tốt.

Một số cấp ủy chưa có sự phân định rõ giữa sự lãnh đạo của cấp ủy với sự

quản lý của chính quyền và quyền tự chủ của các tổ chức kinh tế, vẫn còn tình trạng

bao biện, ỷ lại, nhiều chủ trương không được thể chế hóa và tổ chức thực hiện kịp

thời. Việc triển khai các nghị quyết của Trung ương và sự vận dụng vào điều kiện

3

cụ thể của các tỉnh còn thiếu các chương trình hành động cụ thể, thiết thực với tình

hình thực tiễn, nhiều nghị quyết chưa chú ý vận dụng vào những vấn đề trọng tâm,

trọng điểm liên quan đến xây dựng NTM.

Sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ và sự quan tâm của chính quyền, MTTQ và các

đoàn thể trong HTCT đối với xây dựng NTM chưa được thường xuyên, đúng mức;

sự phối kết hợp giữa các cơ quan chính quyền, MTTQ chưa chặt chẽ, chưa phát huy

tốt vai trò phản biện xã hội cũng như công tác tập hợp, động viên, tuyên truyền đến

toàn thể đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện các chủ trương, nghị quyết của

Đảng chưa có hiệu quả cao; không ít tổ chức hoạt động hình thức, hành chính,

chung chung; chưa khơi dậy, tạo ra nhiều phong trào hành động cách mạng trong

quần chúng nhân dân thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, thực hiện thắng

lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết của Đảng, của các tỉnh ủy đề ra.

Nhận thức về chương trình xây dựng NTM của một bộ phận cán bộ đảng

viên, quần chúng nhân dân còn hạn chế. Công tác tuyên truyền nhiều nơi chưa đáp

ứng được yêu cầu, chưa làm chuyển biến tốt nhận thức để người dân chủ động phát

huy vai trò chủ thể. Nguồn lực cho xây dựng NTM còn hạn hẹp, sự hỗ trợ ngoài

Nhà nước chưa nhiều. Nhiều mô hình sản xuất chưa thật sự bền vững, còn hạn chế

trong thu hút doanh nghiệp dầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và mở rộng thị

trường tiêu thụ nông sản. Thu nhập người dân trên địa bàn vùng còn thấp nên khả

năng huy động sức đóng góp cho xây dựng NTM rất khó khăn.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhìn chung chưa đáp ứng yêu

cầu. Trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng, của các tỉnh

uỷ về xây dựng NTM có nơi, có lúc chưa nghiêm.

Xuất phát từ thực tế nêu trên, tôi chọn vấn đề: “Các tỉnh uỷ ở đồng bằng

sông Cửu Long lãnh đạo xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay”

làm đề tài luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng

Cộng sản Việt Nam.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài,

đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, luận án đề xuất những giải pháp chủ

4

yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSCL đối với sự nghiệp xây

dựng NTM đến năm 2025.

2.2. Nhiệm vụ

- Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án;

- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ ở

ĐBSCL đối với xây dựng NTM trong giai đoạn hiện nay;

- Nghiên cứu khảo sát, đánh giá đúng thực trạng các tỉnh uỷ ở ĐBSCL lãnh

đạo xây dựng NTM từ 2010 đến nay, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra những kinh

nghiệm, đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo

của các tỉnh uỷ ở ĐBSCL đến năm 2025.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ ở ĐBSCL đối với xây dựng

NTM trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ ở ĐBSCL đối với

xây dựng NTM từ năm 2010 đến nay; phương hướng và giải pháp của luận án có

giá trị đến năm 2025.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

Luận án được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự lãnh đạo của

Đảng đối với các lĩnh vực nói chung, đối với xây dựng NTM nói riêng.

Cơ sở thực tiễn của luận án là quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của các tỉnh ủy ở

ĐBSCL đối với xây dựng NTM từ 2010 đến nay.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời sử dụng tổng hợp các phương pháp: lịch sử

và lôgíc, phân tích - tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê so sánh, khảo sát, tổng

kết thực tiễn.

5

5. Những đóng góp về khoa học của luận án

- Góp phần làm rõ đặc điểm của nông thôn ở ĐBSCL; quan niệm về NTM

và xây dựng NTM ở ĐBSCL.

- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy ở

ĐBSCL đối với xây dựng NTM.

- Rút ra những kinh nghiệm trong lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh ủy ở

ĐBSCL từ 2010 đến nay.

- Đề xuất những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm tăng cường sự lãnh

đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSCL đối với xây dựng NTM đến năm 2025.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được các cấp uỷ đảng ở ĐBSCL vận

dụng vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo xây dựng NTM.

- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu về

xây dựng Đảng ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị

tỉnh, thành phố.

7. Kết cấu

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác

giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4

chương, 8 tiết.

6

Chương 1

TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM

1.1.1. Sách

- Phạm Xuân Nam, “Phát triển nông thôn” [91],. Trong công trình này, tác

giả đã phân tích khá sâu sắc một số nội dung về phát triển KT-XH nông thôn nước

ta như dân số, việc làm, lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; vấn đề sử dụng và

quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; vấn đề phân tầng xã hội và xóa đói giảm

nghèo. Tác giả đã chỉ ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách và cách thức chỉ

đạo của Nhà nước trong quá trình vận động của nông thôn.

- Nguyễn Văn Trung, “Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn, để công

nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp nước ta” [137]. Nội dung chính

cuốn sách nêu những vấn đề có liên quan tới CNH, HĐH nông thôn và nông nghiệp

được coi là mũi đột phá quan trọng nhằm khai thác và phát huy mọi tiềm năng to

lớn của nông nghiệp nhiệt đới Việt Nam, giải phóng sức lao động của nông dân,

trong đó lực lượng đặc biệt quan trọng là lao động trẻ, đào tạo và bồi dưỡng lực

lượng lao động này thành những chủ nhân trên đồng ruộng, trong các trang trại, các

làng nghề truyền thống và cơ sở sản xuất chế biến nông sản hiện đại, củng cố và

tăng cường khối đoàn kết công - nông.

- Benedict J.tria kerrkvliet, Jamesscott Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định, “Một

số vấn đề về nông nghiệp, nông dân nông thôn ở các nước và Việt Nam” [11]. Công

trình này có giá trị tham khảo cho việc giải quyết những vấn đề của chính sách phát

triển nông thôn nước ta hiện nay như: tương lai của các trang trại nhỏ; nông dân với

khoa học; hệ tư tưởng của nông dân ở thế giới thứ ba; các hình thức sở hữu đất đai;

những mô hình tiến hoá nông thôn ở các nước nông nghiệp trồng lúa. Đặc biệt là

những kết quả nghiên cứu của công trình về làng truyền thống ở Việt Nam; quan hệ

làng xóm - Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.

7

- Phan Văn Sáu, Hồ Văn Thông, “Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và xây

dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay” [107]. Công trình đã cung cấp những

luận cứ, luận chứng, dữ liệu rất quan trọng cho việc hoạch định đường lối, chính

sách thực hiện phát huy dân chủ của chính quyền cấp xãphát triển nông thôn, nông

nghiệp, nông dân nước ta trong thời kì đổi mới.

- Nguyễn Sinh Cúc, “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới”

[38]. Đây là công trình nghiên cứu phân tích luận giải quá trình đổi mới, hoàn thiện

chính sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới, những thành

tựu và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt

Nam. Những gợi mở về những vấn đề cần giải quyết của phát triển nông nghiệp,

nông thôn nước ta như: đầu tư, phân hoá giàu nghèo, nâng cao khả năng cạnh tranh,

xuất khẩu nông sản.

- Lưu Văn Sùng, “Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông nghiệp

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [112]. Tác giả đã chỉ rõ thực chất CNH,

HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình phát triển nông thôn theo hướng tiến bộ

về KT-XH của một nước công nghịêp. Điều đó có nghĩa là không chỉ phát triển

công nghịêp mà còn bao gồm cả việc phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực

sản xuất, dịch vụ và đời sống văn hoá, tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản

xuất công nghiệp ở nông thôn cả nước nói chung. Từ đa dạng hoá sản xuất, tạo ra

nhiều loại sản phẩm nông nghiệp đến phát triển công nghiệp chế biến là bước đi tất

yếu của phát triển nông nghiệp trong thời kỳ CNH, HĐH. Đó là khâu quyết định

nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

- Hoàng Chí Bảo, “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay”

[9]. Trên cơ sở nghiên cứu HTCT cấp cơ sở của HTCT đang vận hành ở Việt Nam,

nhóm tác giả đã chỉ ra hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn có vai trò rất quan trọng

trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi khả năng

phát triển KT-XH, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.

- Phạm Văn Bính, “Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau 20 năm đổi mới”

[13]. Tác giả đã đề cập đến những thành tựu của Việt Nam về xuất khẩu gạo như là

8

một trong những thành quả quan trọng của phát triển nông nghiệp, nông thôn trong

20 năm đổi mới, đồng thời chỉ ra những thuận lợi, khó khăn của phát triển nông

nghiệp, nông thôn.

- Đặng Kim Sơn, “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay và

mai sau” [108]. Tác giả đã nêu bật được thực trạng các vấn đề về nông nghiệp,

nông dân, nông thôn hiện nay, những thành tựu cũng như những khó khăn, vướng

mắc còn tồn tại. Công trình đã phân tích khá sâu sắc thực trạng giai cấp nông dân

Việt Nam từ nhiều góc độ. Đó là biểu hiện kết quả của quá trình thực hiện các chính

sách của Đảng và Nhà nước trên lĩnh vực tam nông.

- Đỗ Tiến Sâm, “Vấn đề tam nông ở Trung Quốc: thực trạng và giải pháp”

[104]. Cuốn sách phân tích những khái niệm và quan điểm cơ bản về tam nông;

đánh giá thực trạng và nêu các giải pháp về nông nghiệp, nông thôn và nông dân

Trung Quốc. Việc tìm hiểu, nghiên cứu về tam nông và xử lí vấn đề tam nông ở

Trung Quốc vừa có ý nghĩa khoa học, vừa mang tính thực tiễn sâu sắc, góp phần

gợi mở những kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo.

- Nguyễn Văn Sánh, “Nguyên lý phát triển “tam nông” và ứng dụng vào bối

cảnh vùng đồng bằng sông Cửu Long” [106]. Tác giả tóm lược các cách tiếp cận

nghiên cứu và phát triển nông thôn thế giới, từ đó định hướng nghiên cứu phát triển

tổng hợp nhằm tìm ra các cơ hội, giải pháp và ứng dụng phát triển nông thôn tại

Việt Nam, đặc biệt cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.

- Ngô Huy Tiếp, “Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp nông dân trong giai

đoạn hiện nay” [133]. Công trình này đã phân tích vai trò quan trọng của giai cấp

nông dân trong lịch sử dân tộc cũng như trong sự nghiệp đổi mới và CNH, HĐH

nông nghiệp, nông thôn; phân tích những đặc điểm cơ bản của giai cấp nông dân

Việt Nam hiện nay. Làm rõ nội dung và phương thức Đảng lãnh đạo xây dựng giai

cấp nông dân, phân tích thực trạng giai cấp nông dân Việt Nam hiện nay. Trên cơ

sở phân tích thực trạng về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong xây

dựng giai cấp nông dân, các tác giả đã đề xuất mục tiêu, quan điểm và giải pháp

nhằm xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

9

- Vũ Văn Phúc, “Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực

tiễn” [101]. Các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan trung ương, các địa phương,

các ngành, các cấp bàn đến những khía cạnh đa dạng của việc xây dựng NTM như:

vấn đề quy hoạch, an sinh xã hội, chính sách đất đai, bảo vệ môi trường đất đai...

Đặc biệt nhiều bài viết tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế

giới về vấn đề này. Từ đó giúp Việt Nam có cách nhìn nhận để nghiên cứu, áp dụng

phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước.

- Đặng Kim Sơn, “Đổi mới chính sách nông nghiệpViệt Nam, bối cảnh, nhu

cầu và triển vọng” [110]. Các tác giả đã phân tích tổng quan tình hình kinh tế vĩ

mô, về nông nghiệp và nông thôn Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay. Đồng thời đề

cập đến những cải cách chính sách và công tác thi hành chính sách nông nghiệp

trong thời gian qua; phân tích những thách thức và cơ hội cho phát triển nông

nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra những đề xuất cho đổi mới

chính sách nông nghiệp nước ta theo hướng phát triển bền vững.

1.1.2. Luận án, luận văn

- “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông

Cửu Long hiện nay”, của Phạm Công Khâm [76]. Tác giả luận án đã làm rõ thêm

cơ sở khoa học, nét đặc thù về vị trí, vai trò cấp xã và của đội ngũ cán bộ chủ chốt

cấp xã nói chung và ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng trong thời kỳ CNH,

HĐH. Trên cơ sở phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt và công tác cán bộ,

tác giả chỉ rõ mục tiêu, quan điểm và các giải pháp khả thi để xây dựng đội ngũ cán

bộ chủ chốt cấp xã đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

- “Xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân trong kinh tế thị trường ở

nông thôn đồng bằng sông Cửu Long”, của Nguyễn Văn Chiển [33]. Luận án đã

nghiên cứu và chỉ ra góc độ vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh

tế hộ của Đảng ta, khái lược về sự phát triển của kinh tế hộ thời kỳ trước và sau đổi

mới. Tác giả đã nhận định thực tiễn đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp,

nhất là từ sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, kinh tế hộ nông dân được thừa

nhận là đơn vị kinh tế tự chủ; được giao quyền sử dụng đất lâu dài; đã tạo cơ sở,

điều kiện cần thiết cho kinh tế hộ nông dân chuyển sang sản xuất hàng hóa, làm

10

biến đổi bộ mặt nông thôn theo hướng tích cực. Vai trò của nông dân do vậy cũng

được phát huy.

- “Xây dựng đội ngũ đảng viên ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long trong

giai đoạn hiện nay”, của Bùi Văn Khoa [77]. Tác giả đã đánh giá thực trạng đội

ngũ đảng viên và công tác xây dựng đội ngũ đảng viên ở nông thôn ĐBSCL, đề

xuất các giải pháp khả thi góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên ở nông thôn

ĐBSCL. Những giải pháp mà tác giả luận án đề xuất có giá trị tham khảo trong quá

trình phát huy tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên trong phong trào xây

dựng NTM hiện nay.

- “Sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong việc thực thi quyền lực của

nhân dân ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long”, của Lê Tấn Lập [81]. Tác giả

luận án đã nghiên cứu về quyền lực của nhân dân, những đặc trưng quyền lực của

nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả lãnh

đạo của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn ĐBSCL. Đặc biệt, luận án đã làm rõ mối

quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng với việc phát huy quyền làm

chủ của nhân dân ở nông thôn ĐBSCL. Những kết quả của luận án có giá trị tham

khảo tốt đối với quá trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của các tỉnh ủy trong sự nghiệp

xây dựng NTM hiện nay.

- “Các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo đẩy nhanh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai đoạn hiện nay”, của Nguyễn Thị Tố

Uyên [150]. Luận án đã tổng quan được các công trình khoa học tiêu biểu liên quan

đến đề tài; phân tích, làm rõ được các khái niệm liên quan; khái quát được chức

năng, nhiệm vụ và đặc điểm của các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng; tỉnh ủy

lãnh đạo đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - khái

niệm, nội dung, phương thức lãnh đạo. Luận án cũng đánh giá được thực trạng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng; thực

trạng các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo đẩy nhanh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Những ưu, khuyết điểm được tác giả đánh giá

khá công phu, sát thực tế, phân tích sâu sắc nguyên nhân của ưu, khuyết điểm, khái

quát được sáu kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Luận án đã đề xuất

11

được mục tiêu, phương hướng và 07 giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh

ủy vùng đồng bằng sông Hồng đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn đến năm 2020.

1.1.3. Các bài báo khoa học

- “Ngổn ngang nông thôn mới - Bài học từ Trung Quốc”, Báo điện tử

Kinh tế nông thôn [8]. Tác giả nêu lên những kinh nghiệm, bài học từ việc xây

dựng mô hình NTM vừa được các học giả, nhà quản lý của Trung Quốc chia sẻ

trong một hội thảo tại Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu của Trung Quốc, vấn

đề cốt lõi của “Tam nông” là giải quyết sự chênh lệch thu nhập giữa cư dân

thành thị và nông thôn.

- “Chương trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới - Những kết quả

bước đầu và một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn”, của Trương Tấn Sang [105].

Trên cơ sở tổng kết 3 năm xây dựng NTM, bài viết đã rút ra một số kinh nghiệm

chủ yếu: một là, phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, tạo được sự

thống nhất cao về nhận thức trong Ðảng, trong nhân dân các xã về quan điểm, nội

dung, phương pháp, cách làm, cơ chế chính sách của nhà nước về xây dựng NTM

để cả hệ thống chính trị ở cơ sở và mỗi người dân hiểu rõ, từ đó đồng tâm, chung

sức, tự giác, chủ động tham gia; hai là, coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng

cao trình độ và tập huấn về kiến thức xây dựng NTM cho đội ngũ cán bộ các cấp,

nhất là đội ngũ cán bộ ở cơ sở xã, thôn, bản, những người trực tiếp chỉ đạo thực

hiện; ba là, mỗi địa phương phải căn cứ vào đặc điểm, lợi thế và yêu cầu bức thiết

của người dân, cần phát huy dân chủ rộng rãi, tiếp thu ý kiến của nhân dân, có cách

làm chủ động, sáng tạo, lựa chọn những nội dung bức thiết cần làm trước, cần tập

trung đầu tư, những nội dung có thể làm sau, cách thức huy động nguồn lực tổng

hợp, tạo ra sự liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, phân công thực hiện cho

các tổ chức trong hệ thống chính trị... phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của

từng xã, không rập khuôn, máy móc; bốn là, đa dạng hóa việc huy động các nguồn

lực cho xây dựng NTM; có sự chỉ đạo tập trung, sâu sát, cụ thể, thường xuyên kiểm

tra đôn đốc và thu hút được sự tham gia chủ động, tích cực của cả hệ thống chính trị

và nhân dân trên địa bàn.

12

- “Phát huy vai trò của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam trong

xây dựng nông thôn mới”, của Hoàng Phó Dân [40]. Tác giả bài viết cho rằng, giai

cấp nông dân là chủ thể trong xây dựng NTM; Hội Nông dân Việt Nam là trung

tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng NTM. Trong thời

gian tới, cần thực hiện 04 nhiệm vụ trọng tâm để phát huy vai trò giai cấp nông dân

và Hội Nông dân Việt Nam trong xây dựng NTM.

- “Nhìn lại hơn 3 năm thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng

nông thôn mới: kết quả và một số bài học kinh nghiệm”, của Vũ Văn Ninh [97].

Theo tác giả, sau 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM

có 04 ưu điểm nổi bật: các cấp ủy, chính quyền và cả hệ thống chính trị chủ động,

tích cực, sáng tạo triển khai thực hiện xây dựng NTM; phong trào xây dựng NTM

mạnh mẽ khắp cả nước; nhận thức của phần lớn cán bộ và người dân về xây dựng

NTM có chuyển biến rõ rệt; bộ mặt nông thôn ở nhiều nơi được đổi mới, văn minh

hơn. Bên cạnh đó, tác giả chỉ ra 04 hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện

xây dựng NTM: một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa nhận thức đầy đủ về

vai trò, ý nghĩa, nội dung của xây NTM; nguồn vốn đầu tư ngân sách cho Chương

trình xây dựng NTM còn hạn chế; một số cơ chế, chính sách và văn bản hướng dẫn

thực hiện còn chậm được ban hành, việc sửa đổi bổ sung còn chưa kịp thời; nhiều

đề án tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng, chưa chú trọng đến những vấn đề phát

triển sản xuất, nâng cao thu nhập, phát triển văn hóa, cải thiện môi trường… Trên

cơ sở đánh giá thực trạng, tác giả tổng kết 05 bài học kinh nghiệm và đề xuất 07

giải pháp quan trọng nhằm tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chương trình trong thời

gian tới.

- “Phát huy vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới”,

của Hà Thị Thùy Dương [45]. Bài báo chỉ ra để xây dựng thành công chương trình

NTM sẽ thực sự tạo ra bộ mặt mới cho nông thôn, nâng cao đời sống của một bộ

phận lớn người dân Việt Nam, việc phát huy vai trò chủ thể của người dân ở địa

phương là một tất yếu. Vấn đề quan trọng là tìm những cách làm hay nhằm khơi

dậy các nguồn lực trong nhân dân. Những giải pháp nêu trên là những gợi ý ban đầu

13

để cán bộ chính quyền, đoàn thể ở địa phương có thể tham khảo trong quá trình

hướng dẫn, tổ chức xây dựng NTM ở địa phương mình.

Có thể nhận thấy, kể từ khi đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ tính tất yếu

của việc gắn sự phát triển nông nghiệp với công nghiệp. Các văn kiện của Đảng

kể từ sau đổi mới đã khẳng định con đường phát triển của đất nước ta là tiến hành

CNH, HĐH đất nước mà trước hết là phải bắt đầu từ CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn. Đây là điều kiện quan trọng để phát huy vai trò của nông dân trong giai

đoạn hiện nay.

Các công trình trên cho thấy Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng phát triển

nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Các công trình cũng đã tập hợp và phân loại hệ

thống chính sách này theo những tiêu chí khác nhau. Qua đó, tác giả đã có một cái

nhìn hệ thống về các chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực tam nông nói chung và

nông dân nói riêng.

Các công trình này cung cấp thêm những cơ sở thực tiễn cho việc nâng cao

hiệu quả của việc lãnh đạo, quản lý thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây

dựng NTM.

1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC

1.2.1. Các công trình nghiên cứu ở Trung Quốc

Nông nghiệp - nông dân - nông thôn (gọi tắt là “tam nông”) là vấn đề được

được Đảng cộng sản Trung Quốc quan tâm, bởi đó không đơn thuần là kinh tế mà

còn là vấn đề chính trị, xã hội - một hệ vấn đề tổng thể, xuyên suốt và gắn kết với

toàn bộ quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế, xã hội ở một quốc gia đông dân

nhất hành tinh với 900 triệu nhân khẩu nông thôn và có sản lượng nông nghiệp

đứng đầu thế giới. Do đó, giải quyết vấn đề tam nông đang là một trong những vấn

đề quan trọng hàng đầu để phát triển đất nước, thúc đẩy xây dựng NTM XHCN.

Bởi vậy đến nay ở Trung Quốc có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến

vấn đề này:

- Hoàng Thế Kiệt (1992), “Vấn đề xây dựng nông thôn mới ở Trung Quốc.

Bài giảng” [79]. Tác giả trình bày tình hình phát triển kinh tế nông thôn Trung

14

Quốc từ khi mở cửa cải cách cho đến nay, bối cảnh cơ bản xây dựng NTM, tư

tưởng chỉ đạo, biện pháp chủ yếu xây dựng NTM, các loại mô hình NTM và quan

điểm và định hướng về xây dựng NTM Trung Quốc

- Ole Odgaard, “Kinh tế tư nhân ở nông thôn Trung Quốc - Sự tác động đến

phân tầng xã hội và phát triển nông nghiệp” [98]. Tác giả mô tả sự thay đổi tổ chức

phân quyền và vấn đề tài nguyên ở nông thôn Trung Quốc. Phát triển hãng kinh

doanh nhà nước và tư nhân nông thôn: tác động đến phân phối thu nhập, huy động

tài nguyên cho phát triển nông nghiệp. Sự khác nhau về thu nhập và tầng lớp xã hội

trong các hãng. Một số xu hướng hiện nay hình thành các hãng kinh doanh ở nông

thôn Trung Quốc.

- Nguyễn Minh Hằng, “Một số vấn đề về hiện đại hoá nông nghiệp Trung

Quốc” [64]. Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu vai trò của kinh tế nông nghiệp trong

nền kinh tế chung của Trung Quốc và một số vấn đề về phát triển nông nghiệp

Trung Quốc chuyển từ nền nông nghiệp truyền thống sang một nền nông nghiệp

hiện đại thích ứng vời xu thế chung của thế giới.

- Nguyễn Kim Bảo, “Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở Trung Quốc

(Giai đoạn 1992 - 2010)” [10]. Sách đã giới thiệu một số vấn đề về điều chỉnh

chính sách phát triển kinh tế Trung Quốc trong giai đoạn 1992 - 2010, nhằm phù

hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế khi Trung Quốc gia nhập tổ chức kinh tế

thế giới WTO. Trong đó, những chính sách về chiến lợc phát triển kinh tế nông

nghiệp cũng được đề cập tới.

- Dang Guoying; Transl. Wang, Pingxing, “Nông nghiệp, nông thôn và nông

dân ở Trung Quốc” [39]. Tác giả nêu khái quát chung về nông nghiệp, các vùng

nông thôn và các trang trại ở Trung Quốc. Phân tích tình hình kinh tế và xã hội ở các

khu vực nông thôn Trung Quốc; sự thành thị hoá và sự luân chuyển dân số nông thôn

ra thành thị và đưa ra một số phương hướng phát triển xây dựng một số vùng NTM.

- Cát Chí Hoa, “Từ vùng quê đến nông thôn mới” [67]. Cuốn sách tập hợp

các bài nghiên cứu về thực trạng và biến động của nông thôn Trung Quốc trong

công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Lí luận, nguồn

gốc hình thành và đặc trưng của vấn đề “tam nông”.

15

- Đổng Liên Tường, “Cải cách xã hội Trung Quốc và những sáng tạo, đổi

mới trong xây dựng đảng cơ sở” [143]. Cuốn sách tập trung trình bày về một số vấn

đề bức thiết cần phải giải quyết trong công cuộc cải cách xã hội Trung Quốc và

công tác xây dựng đảng cơ sở kể từ khi Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa năm

1978 đến nay như: thời cơ, thách thức, nhiệm vụ và mục tiêu của công cuộc cải

cách xã hội, vai trò, vị trí của công tác xây dựng Đảng ở cơ sở; các giải pháp nhằm

giải quyết những vướng mắc nảy sinh trong xây dựng đảng cơ sở; các phương pháp

nhằm tăng cường và cải tiến công tác xây dựng đảng ở nông thôn.

- Chu Chí Hoà, “Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn” [68]. Theo

tác giả, công tác xây dựng Đảng ở nông thôn Trung Quốc phải đổi mới về hàng loạt

vấn đề như: cơ cấu tổ chức, công tác giáo dục, quản lý, giám sát đảng viên, công tác

lựa chọn, bổ nhiệm bí thư, tổ chức đảng thôn, phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ

sở đảng. Để đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông thôn Trung Quốc, theo tác giả,

phải đổi mới tư duy, nâng những biện pháp có hiệu quả lên thành chế độ, đồng thời

đổi mới chế độ theo sự biến động của tình hình thực tế, đổi mới hình thức tuyên

truyền, đổi mới cơ chế theo hướng dân chủ, thông thoáng, khoa học, từng bước thực

hiện chế độ hóa, tiêu chuẩn hóa, quy trình hóa công tác xây dựng đảng ở nông thôn.

- “Về nhất thể hóa thành thị và nông thôn” của Viện Khoa học Xã hội Trung

Quốc [156]. Theo đó, nhất thể hóa thành thị và nông thôn ở Trung Quốc chính là

thu hẹp khoảng cách phát triển và thu nhập giữa thành thị và nông thôn, thể hiện

quyết tâm của Chính phủ Trung Quốc xóa nghèo cho nông dân, nông thôn. Đô thị

hóa Trung Quốc bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh, quy mô thành phố và quy mô

phát triển thành phố đang thay đổi nhanh chóng. Việc xây dựng các thành phố mới

gần như trở thành điểm tăng trưởng mới của các thành phố lớn. Còn ở nông thôn,

cuộc sống của người dân đã có nhiều cải thiện; nguồn nông sản được bảo đảm;

nông dân đã tăng thu nhập bằng nhiều cách khác nhau; thủy lợi được củng cố; nhiều

công trình cơ sở hạ tầng ở nông thôn, phục vụ cho nông nghiệp được xây dựng;

“tam nông” được đầu tư mạnh mẽ; chất lượng và mức sống ở các vùng thị trấn có

bước phát triển; tích cực thúc đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng cho dịch vụ công ở nông

thôn, mở rộng chất lượng dịch vụ công.

16

Nhìn chung nông nghiệp nông thôn Trung Quốc đã có những bước thay đổi

to lớn và đáng kể trong quá trình phát triển, có được điều này phải kể đến chính

sách “Tam nông” được hình thành trong chiến lược phát triển nông thôn của Trung

Quốc. Vấn đề “Tam nông” được hiểu là vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông

dân là tên chung của hàng loạt vấn đề kinh tế xã hội mà tự nó sinh ra. Chính sách

“Tam nông” cần giải quyết tốt các vấn đề đó là tăng thu nhập cho người dân, tiêu

thụ hàng hóa nông sản, ổn định xã hội nông thôn.

Do vậy quan điểm chính sách phát triển nông thôn được xác định như sau:

ủng hộ tích cực với chính sách phát triển nông thôn, khống chế ổn định giá cả nông

sản, thực phẩm, hỗ trợ nông nghiệp, tăng cường đầu tư cho nông thôn; quan tâm

tầng lớp nông dân ra thành thị làm việc, đảm bảo xã hội, giáo dục để cân bằng đãi

ngộ, ổn định cuộc sống; về xã hội xóa chế độ hộ khẩu nông thôn, tạo điều kiện cho

nông dân di cư và sinh sống tại đô thị; đảm bảo công bằng, an sinh xã hội cho người

già yếu, tàn tật ở nông thôn, bảo vệ tầng lớp dễ tổn thương nhất trong quá trình công

nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập.

Trung Quốc đã đặt ra một vấn đề rất quan trọng là muốn giải quyết một cách

cơ bản vần đề Tam nông phải thay đổi quan niệm trị lý và chiến lược quốc gia để

phối hợp sự phát triển kinh tế và xã hội. Động cơ đằng sau phát triển nông nghiệp

và việc kích thích sáng kiến của nông dân phải xuất phát từ cải cách và tăng thu

nhập của nông dân phải là kết quả của cải cách. Mặc dù cải cách đã đạt được những

thành tích to lớn nhưng những rào cản về thể chế cản trở việc phát triển nông

nghiệp và nông thôn chưa được dỡ bỏ. Để củng cố và giữ vững tình hình tốt ở nông

thôn phải đẩy sâu cải cách và phát huy nhiều sáng kiến trong thực tế và cơ chế.

Các chính sách tam nông trong phát triển nông thôn Trung quốc trong thời

gian gần đây với mục tiêu là: Tăng thu nhập nguời dân; Tiêu thụ hàng hóa nông

sản; Ổn định xã hội nông thôn.

Thành công của chính sách Tam nông của Trung Quốc cho phép chúng ta rút

ra những bài học sau đây: Cải tổ việc quản lý trong nông nghiệp; Tập trung nguồn

lực của Nhà nước cho kết cấu hạ tầng; Phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn

để tạo việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho người dân; Có nhiều chính sách hỗ

17

trợ nông dân, đảm bảo an sinh xã hội; Phát triển nền nông nghiệp hiệu quả cao;

Trừng trị tham nhũng, xây dựng hệ thống chính trị mạnh ở nông thôn.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu ở Lào

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào coi việc xây dựng nông thôn là vấn đề

chiến lược, coi nông dân là lực lượng sản xuất to lớn ở Lào hiện nay. Trên cơ sở

đó, Đảng và Nhà nước Lào đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về

việc xây dựng nông thôn. Do đó, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn được

rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến, tiêu biểu như:

- “Về vấn đề nâng cao sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước trong phát triển

kinh tế - xã hội nông thôn ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào”, của

Phêngphavăn Đaophoncharơn [99]. Tác giả đã hệ thống hóa và khai thác những

nguyên lý cơ bản về hiệu quả đầu tư; phân tích thực trạng đầu tư nhà nước vào

lĩnh vực KT-XH nông thôn Lào, từ đó đưa ra các giải pháp có tính khả thi về

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước trong phát triển KT-XH

nông thôn ở Lào những năm tiếp theo.

- “Kinh tế nông thôn ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào thời kỳ đổi mới”,

của Xỉnxỏn Phunbunsỉ [158]. Tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn phải

phát triển kinh tế nông thôn Lào trong thời kỳ đổi mới; phân tích thực trạng phát

triển kinh tế nông thôn, đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp phát triển

kinh tế nông thôn Lào trong thời gian tới.

- “Đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn Lào hiện nay”, của

Lachay Sinhsuvan [80]. Tác giả khái quát lý luận và thực tiễn hệ thống chính trị

cấp cơ sở ở nông thôn Lào, trình bày thực trạng, quan điểm, giải pháp đổi mới hệ

thống chính trị cơ sở ở nông thôn Lào hiện nay.

- “Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo xây dựng nông thôn mới

trong giai đoạn hiện nay”, của Bun-Thoong Chít-ma-ni [31]. Luận án nêu đặc

điểm của nông thôn Lào, quan niệm về NTM và xây dựng NTM ở Cộng hoà Dân

chủ Nhân dân Lào; quan niệm, nội dung, phương thức Đảng Nhân dân Cách

mạng Lào lãnh đạo xây dựng NTM; rút ra những kinh nghiệm, đề xuất một số

18

giải pháp có tính đặc thù, khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Nhân

dân Cách mạng Lào trong việc xây dựng NTM hiện nay.

Những nội dung luận án có thể tham khảo là: đặc điểm nông thôn, đây là nơi

dân cư sinh sống ổn định ở những khu vực ngoài hoặc cách xa thành phố; đó là

nơi tập hợp những người trong xã hội sinh sống, làm ăn chủ yếu là dựa trên sản

xuất nông nghiệp, lấy gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội, tập hợp thành bản làng,

đó là đơn vị cộng đồng dân cư nông thôn. Nông thôn gắn liền với nông nghiệp, có

vai trò, nhiệm vụ bảo đảm lương thực, thực phẩm cho cả nước, cung cấp nguyên

liệu cho công nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu; xây dựng cơ sở vật chất, tạo thêm việc

làm; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, mở rộng thị trường, ổn

định xã hội và bảo vệ môi trường, tạo ra cơ sở vững chắc và có lợi nhất để thực

hiện CNH, HĐH đất nước. Nông thôn trở thành một không gian xã hội mang tính

dân chủ nhân văn, giàu bản sắc văn hoá - nguồn lực vô tận cho phát triển, thân

thiện với môi trường, cái nôi để gìn giữ truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Ngoài ra còn có một số cán bộ chủ chốt, cán bộ chuyên môn viết bài ngắn

đăng trong tạp chí liên quan đến xây dựng nông thôn ví dụ:

- Văn na lết Bút Ta Vông, “Thành quả và những vấn đề quan tâm trong

công tác xây dựng cơ sở chính trị - phát triển nông thôn” [151].

- Xay phon Thôm Pa Đít, “Một số thành quả trong việc xây dựng cơ sở chính

trị và phát triển cụm bản Na Lâu Chom Ong, Huyện Xay, tỉnh UĐôm Xay” [157].

Các công trình này cũng góp phần cung cấp thêm những cơ sở lý luận và

thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

1.2.3. Một số công trình nghiên cứu ở Nhật Bản

- “Cải thiện các chính sách thương mại nông nhiệp Nhật Bản: Vấn đề, lựa

chọn và chiến lược”, của Trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghiệp nông

thôn Nhật Bản [139]. Báo cáo này là tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu

và hoạch định chính sách của Úc và Nhật Bản chung quanh vấn đề chiến lược để

cải thiện các chính sách thương mại nông nghiệp Nhật Bản.

- Naoto Imagawa, “Giới thiệu kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông

nghiệp Nhật Bản” [93].

19

- Kazuhito Yamashita, “Các vấn đề Thực phẩm và nông nghiệp đối với

Nhật Bản và thế giới trong thế kỷ XXI” [74]. Tác giả đã nhấn mạnh sự phát triển

của đời sống xã hội đặt ra các yêu cầu mới đối với nền nông nghiệp thế giới nói

chung, đối với Nhật Bản nói riêng. Nông nghiệp Nhật Bản cần cải cách mạnh mẽ

nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm trong bối cảnh hội nhập quốc tế

đang diễn ra mạnh mẽ. Định hướng cải cách là ứng dụng công nghệ cao vào sản

xuất và chế biến nông sản.

Kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm của các quốc gia là những tham khảo tốt

cho Việt Nam trong hoạch định chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

cũng như đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng và nâng cao năng lực

quản lý của các cấp chính quyền.

Tiểu kết chương 1

Do tầm quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân và xây

dựng NTM có quan hệ đến sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước, của chế

độ nên đã có nhiều công trình, kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài

nước liên quan đến vấn đề này. Các nghiên cứu nêu trên có ý nghĩa rất quan trọng

đối với tác giả trong việc triển khai nghiên cứu đề tài luận án, giúp tác giả tiếp cận

hệ thống tư liệu, xác định nội dung, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.

Qua tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án cho

thấy, đã có nhiều vấn đề liên quan đến đề tài luận án được đề cập và luận giải với

nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau như: khảo sát, luận bàn và kiến giải nhiều

vấn đề chủ yếu trong sự lãnh đạo của đảng đối với việc xây dựng, phát triển nông

thôn; vai trò, yếu tố tác động, sự cần thiết của xây dựng NTM; đặc điểm của nông

thôn và phát triển nông thôn; định hướng chiến lược phát triển công nghiệp nông

thôn; xây dựng tiêu chí, bước đi, cơ chế chính sách của CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn; phương hướng và giải pháp thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông

nghiệp và nông thôn hoặc vấn đề phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông

thôn trên phạm vi cả nước hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương; mối quan hệ

20

giữa xây dựng NTM với các ngành kinh tế khác; tiêu chí đánh giá xây dựng NTM

và giải pháp đẩy mạnh xây dựng NTM.

Một số công trình đã đề cập, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của nông

thôn, nông nghiệp và nông dân; khái niệm, đặc điểm, tầm quan trọng của xây dựng

NTM trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là ngành xây dựng Đảng đã khảo sát, luận

bàn và kiến giải nhiều vấn đề chủ yếu trong sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây

dựng, phát triển nông thôn, như: nội dung, phương thức đảng cầm quyền lãnh đạo

xây dựng nông thôn; nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo xây dựng NTM, thực

hiện dân chủ ở cơ sở, công tác phát triển đảng viên...

Tuy nhiên, do phương pháp tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau,

nên các công trình khoa học này vẫn chưa đề cập cụ thể đến vấn đề các tỉnh ủy

lãnh đạo xây dựng NTM. Đặc biệt, đến nay chưa có công trình, đề tài nào nghiên

cứu một cách cụ thể, toàn diện, có hệ thống về các tỉnh ủy vùng ĐBSCL lãnh đạo

xây dựng NTM trong giai đoạn hiện nay.

Vì vậy, vấn đề trọng tâm mà tác giả tập trung là làm rõ nội dung, phương

thức, đánh giá đúng thực trạng lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh uỷ ở ĐBSCL

thời gian qua, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm, đề xuất phương hướng và

những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ ở ĐBSCL

đối với xây dựng NTM trong thời gian tới.

21

Chương 2

CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LÃNH ĐẠO

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY -

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN

2.1. NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ CÁC TỈNH ỦY Ở

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY

2.1.1. Khái quát về nông thôn đồng bằng sông Cửu Long

* Đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng châu thổ lớn nhất cả nước, là một

bộ phận của châu thổ sông Mê Kông gồm 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre,

Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng,

Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ.

Đồng bằng sông Cửu Long có dân số khoảng 18 triệu người, diện tích tự

nhiên toàn vùng gần 40 nghìn km2, trong đó có khoảng 65% diện tích đất được

dùng để sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, đất phù sa chiếm khoảng

30%, rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Địa hình của vùng tương đối bằng

phẳng, là một trong những đồng bằng châu thổ lớn và phì nhiêu ở Đông Nam Á và

thế giới, là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất

Việt Nam [135].

Đồng bằng sông Cửu Long nằm trong khu vực rất quan trọng trong giao lưu

quốc tế, có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế giữa Nam Á và Đông

Nam Á, cũng như với châu Úc và các quần đảo khác trong Thái Bình Dương.

ĐBSCL có vị trí như một bán đảo với 3 mặt Đông, Nam và Tây Nam giáp biển

Biển Đông và vịnh Thái Lan, với bờ biển dài 750 km, chiếm 23% chiều dài bờ biển

quốc gia; có hơn 360 ngàn km2 vùng biển và đặc quyền kinh tế, có gần 200 đảo và

quần đảo. ĐBSCL nằm gần tuyến hàng hải Đông - Tây, luồng hàng hải quốc tế sôi

động nhất, hiện diện nhiều nền kinh tế lớn của thế giới bên cạnh khu vực kinh tế

năng động và phát triển, nằm trong khu vực có đường giao thông quốc tế quan

trọng, có hơn 340 km đường biên giới trên bộ giáp Campuchia [3].

22

Đồng bằng sông Cửu Long có khí hậu cận xích đạo vùng nên thuận lợi phát

triển ngành nông nghiệp (mưa nhiều, nắng nóng) đặc biệt là phát triển trồng lúa

nước và cây lương thực; có một nền nhiệt độ cao, ổn định, có hai mùa rõ rệt là mùa

nắng và mùa mưa, ít xảy ra thiên tai, nhất là bão. Sông Mêkông chảy vào ĐBSCL

với chiều dài là 225km, chia thành 2 nhánh là sôngTiền và sông Hậu, đổ ra biển

Đông. ĐBSCL bị ngập lũ gần 50% diện tích từ 4,5 tháng tạo nên một đặc điểm nổi

bật của vùng, một mặt hạn chế lớn đối với canh tác, trồng trọt và gây nhiều khó

khăn cho đời sống của dân cư, mặt khác cũng tạo nên những điều kiện thuận lợi cho

việc đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và bổ sung độ phì nhiêu cho đất. Các yếu tố khí

hậu, thời tiết của ĐBSCL thích hợp cho các sinh vật sinh trưởng và phát triển, là

điều kiện thuận lợi cho thâm canh, tăng vụ các loại cây trồng [3].

Dưới tác động của môi trường biển và sông đã hình thành hệ sinh thái tự

nhiên độc đáo và đa dạng sinh học, đặc biệt là hệ thống rừng ngập mặn ven biển,

trong đó hệ thống rừng ngập mặn Mũi Cà Mau được công nhận là khu dự trữ sinh

quyển thế giới, bên cạnh đó là những cánh rừng tràm ở U Minh Cà Mau, Đồng

Tháp với một hệ thống sinh học rất đa dạng.

Đây là vùng có các triển vọng về dầu khí trong thềm lục địa như bể trầm tích

Nam Côn Sơn khoảng 3 tỉ tấn dầu quy đổi. Ngoài khơi vịnh Thái Lan có nhiều đảo

và quần đảo như Nam Du, Thổ Chu, lớn nhất là đảo Phú Quốc, phía biển Đông có

Hòn Khoai. Trên các đảo có núi, rừng với nhiều gỗ quí và khoáng sản. Sông rạch

chằng chịt tạo thành mạng lưới giao thông thủy rất thuận lợi.Vùng biển bao quanh

rất giàu thủy, hải sản, cùng các ngư trường lớn như Phú Quốc, Rạch Giá, Cà Mau.

Ngoài ra, ĐBSCL còn có các khoáng sản vật liệu xây dựng như đất sét gạch ngói,

cát sỏi... [3].

Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Vùng kinh tế trọng điểm

ĐBSCL(gồm các tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Cà Mau và thành phố Cần Thơ)

Theo đó, đến năm 2020, vùng kinh tế trọng điểm này sẽ là trung tâm lớn về sản xuất

lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu

nông thủy sản của cả nước. Ngoài ra, vùng kinh tế này còn đóng vai trò quan trọng

23

trong chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế

biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp cho cả vùng ĐBSCL.

Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa, tài nguyên sinh

học đa dạng cho phép phát triển nền nông nghiệp toàn diện. Đó là lợi thế sẽ phát

huy tác dụng khi có sự đầu tư đúng mức của khoa học, công nghệ với các chính

sách vĩ mô được xác định rõ ràng và thông thoáng. Vùng ĐBSCL có nguồn lao

động dồi dào, có khả năng tiếp thu nhanh những thành tựu khoa học, công nghệ

mới, có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp. Điểm mạnh này mang nặng tính chất

tiềm năng và cũng sẽ phát huy tác dụng khi được đầu tư để nâng cao chất lượng

lao động nông thôn.

Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ là vùng trọng điểm sản xuất lương

thực, trái cây, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản của cả nước, mà còn được xác

định là vùng nông sản lớn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu, làvùng có tiềm

năng, thế mạnh phát triển công nghiệp năng lượng, công nghiệp thực phẩm và là

vùng có tiềm năng du lịch sinh thái tâm linh rất lớn thu hút đông đảo khách du lịch

và hành hương.

Toàn vùng có 131 đơn vị hành chính cấp huyện gồm: 14 thành phố trực

thuộc tỉnh, 11 thị xã, 5 quận, 106 huyện. Có 1.611 đơn vị hành chính cấp xã gồm:

1.305 xã, 182 phường, 124 thị trấn [Xem Phụ lục 1].

Nông thôn vùng ĐBSCL là vùng có điều kiện phát triển kinh tế, sớm tiếp

cận với kinh tế thị trường trong thời chống Mỹ. Nông thôn vùng ĐBSCL đóng vai

trò quan trọng trong việc bảo đảm an ninh lương thực cho vùng; cung cấp nguyên

liệu cho công nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu; xây dựng cơ sở vật chất, tạo thêm việc

làm; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, xóa đói giảm nghèo, an

sinh xã hội, mở rộng thị trường, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường, tạo ra cơ sở

vững chắc và có lợi nhất để thực hiện CNH, HĐH đất nước. Nhờ có lợi thế về điều

kiện tự nhiên; sự tinh thông am hiểu về nghề của nông dân và giao thông thuận lợi,

hằng năm ĐBSCL gieo xạ khoảng 4 triệu ha lúa, chiếm 53% diện tích sản xuất,

chiếm 51% sản lượng lúa cả nước và cung cấp trên 95% lượng gạo xuất khẩu của

Việt Nam [4].

24

Toàn vùng có 13 triệu dân nông thôn với 26.000 km² diện tích đất nông

nghiệp mật độ cư trú là 432 người/km2 (gấp 1,7 lần mật độ bình quân cả nước). Dân

số trong độ tuổi lao động chiếm 65%, nhưng tỷ lệ lao động có trình độ kỹ thuật còn

ở mức thấp: 13,4% (cả nước là 21,2%). Dân số vùng ĐBSCL thuộc loại trẻ, phân

theo nhóm tuổi: khoảng 53% dân số trong vùng có độ tuổi dưới 20, có 23,4% dân

số có độ tuổi từ 20 đến 34, chỉ có 22,7% dân số trên 35 tuổi. Đây là điều kiện thuận

lợi cho vùng trong việc đào tạo, sử dụng, phát huy nguồn lực trẻ đáp ứng yêu cầu

CNH, HĐH [135].

Dân cư ĐBSCL bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, trong đó có 4 dân tộc

chính là: Kinh, Hoa, Khmer và Chăm. Người Kinh chiếm đại đa số, sống ở hầu hết

các nơi trong vùng. Người Hoa có khoảng 210.000 người tập trung nhiều ở các tỉnh

Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng. Người Khmer có khoảng 1,3 triệu người sống ở các

tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, An Giang. Người Chăm có khoảng 14.000 người

sống chủ yếu ở An Giang [135].

Nông thôn của vùng ĐBSCL là một trong những thị trường rộng lớn của cả

nước nói chung, của các tỉnh phía Nam nói riêng. Với khoảng 18 triệu người sinh

sống trong vùng, ĐBSCL là một thị trường tiềm năng trong tương lai. Trong điều

kiện nền kinh tế thế giới đang phải gánh chịu những tác động nặng nề của cuộc

khủng hoảng tài chính toàn cầu, ảnh hưởng đến xuất khẩu của nước ta thì thị trường

“nội địa” càng có ý nghĩa quan trọng. Kinh tế của vùng muốn phát triển bền vững

phải dựa vào thị trường trong vùng, trước hết là thị trường nông thôn. Có thể nói, thị

trường nông thôn có vai trò rất quan trọng đối với quy mô và tốc độ phát triển của

các ngành công nghiệp và dịch vụ.

Nông thôn là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho CNH, HĐH vùng.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng gia tăng tỷ trọng ngành

công nghiệp - dịch vụ, cũng là quá trình chuyển lao động từ ngành nông nghiệp

sang các ngành phi nông nghiệp (công nghiệp và dịch vụ), theo xu hướng lao động

công nghiệp, dịch vụ tăng và lao động nông nghiệp giảm. Nông dân vùng ĐBSCL

thông minh, sáng tạo, khéo léo, cần cù lao động là nguồn nhân lực tốt bổ sung cho

nền kinh tế.

25

Nông thôn ĐBSCL là một địa bàn có thế mạnh trong việc giữ gìn và tô điểm

cho môi trường sinh thái không chỉ của Việt Nam mà còn cho cả khu vực, là một

trong những “lá phổi và trái tim” của sự sống trên trái đất. Có thể nói, nông thôn là

một không gian tự nhiên rộng lớn, có kinh tế và đời sống phát triển, tại đó con

người được sống gắn bó, hài hòa với thiên nhiên, cây cỏ, chim muông, sông núi,...

thoát khỏi sự ngột ngạt của đô thị.

Nông thôn ĐBSCL là địa bàn có vị trí chiến lược về an ninh, quốc phòng.

ĐBSCL có 340 km biên giới đất liền với Camphuchia trải dài từ Long An, Đồng

Tháp, An Giang đến Kiên Giang, lại có hải phận liền kề với vịnh Thái Lan, có

bờ biển dài bao bọc cả ba phần Đông, Nam, Tây và vùng hải phận rộng lớn tiếp

giáp với nhiều nước ở phía Đông và Nam ĐBSCL. Cùng với thành phố Hồ Chí

Minh, miền Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Tây Nguyên và hệ thống vòng

cung đảo, quần đảo tiền tiêu như: Phú Quốc, Thổ Chu, Côn Đảo và Trường Sa

tạo cho ĐBSCL thế chiến lược an ninh, quốc phòng rất thuận lợi nhưng cũng là

nơi xung yếu.

Hiện nay, ĐBSCL vẫn là một trong những trọng điểm tấn công, chống phá

của các thế lực thù địch, nằm trong chiến lược “Ba Tây”, các thế lực thù địch luôn

kích động gây hằn thù dân tộc, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc và lịch sử vùng

đất Nam bộ để chia rẽ khối đoàn kết toàn dân. Tuyến biên giới Việt Nam -

Camphuchia đã được phân định, cắm mốc, song vẫn là tâm điểm chống phá của

các thế lực phản động.

Bên cạnh đó, nông thôn ĐBSCL còn đóng vai trò trong việc bảo tồn các giá

trị văn hoá truyền thống (vật thể và phi vật thể) của dân tộc. Do đó, nông thôn

ĐBSCL sẽ là điểm đến du lịch có giá trị, một nơi nghỉ ngơi, giải trí phong phú gắn

với môi trường tự nhiên, thanh bình để con người khôi phục và tăng cường sức

khoẻ. Trong giai đoạn mới, tiến tới sự phát triển bền vững theo chiều sâu, nông thôn

không chỉ được xem như là nơi diễn ra hoạt động chủ yếu của sản xuất nông nghiệp

hiện đại và bền vững mà nó còn là nơi gắn kết với nhiều hoạt động KT-XH khác.

Nông thôn ĐBSCL có quy mô dân số, diện tích nông thôn không đồng đều,

vùng đồng bằng đất hẹp người đông, vùng rừng, núi đất rộng người ít, có thể phân

26

chia thành các loại hình như: các xã ở ven đô; các xã có đông đồng bào Khmer; các

xã biên giới; các xã ven biển, hải đảo;... và các xã còn lại.

Nông thôn ven đô thường có kết cấu hạ tầng phát triển, thuận lợi chuyển dịch

cơ cấu kinh tế, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân cao.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội cũng có điều kiện phát triển thuận lợi hơn các nơi

khác, song cũng có nhiều phức tạp về quản lý xã hội, phòng chống các tệ nạn xã

hội, về quản lý đất đai, quản lý xây dựng, vệ sinh môi trường.

Vùng có đông đồng bào Khmer, sống quần tụ trong các phum, sóc, sinh hoạt

cộng đồng tập trung tại các chùa, ít có tệ nạn xã hội. Tập quán canh tác, thói quen

sinh hoạt còn lạc hậu, chưa có thói quen sản xuất hàng hóa, dễ bị các phần tử xấu

lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để phá hoại. Cùng với lãnh đạo phát triển kinh

tế - xã hội, cấp ủy, chính quyền xã phải uôn đề cao cảnh giác cách mạng với bọn

phá hoại, đồng thời phải ứng xử khôn khéo, linh hoạt, kiên trì vận động, hướng dẫn

đồng bào thay đổi tập quán, thói quen lạc hậu.

Nông thôn ven sông Tiền, sông Hậu và vùng ngọt hóa thuộc bán đảo Cà

Mau đất đai màu mỡ, thuận lợi phát triển nông nghiệp, nhất là trồng lúa, hoa màu,

cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản, giao thông đường thủy phát triển. Song cũng chịu

tác hại nặng nề của mùa lũ, cư dân sống phân tán theo kênh rạch nên công tác quản

lý cũng gặp không ít khó khăn.

Đối với các xã nằm sâu trong vùng Tứ Giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười,

đất rộng, người thưa, mùa lũ có nhiều nguồn lợi thủy sản, thuận lợi tích tụ ruộng đất

để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, công tác quản lý hành chính chưa có nhiều

phức tạp. Song, đất chua phèn còn nhiều, sản lượng sản xuất nông nghiệp chưa cao,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế gặp nhiều khó khăn, còn nhiều tập tục lạc hậu, kết cấu

hạ tầng thấp, đòi hỏi cấp ủy và chính quyền các cấp phải có những chủ trương, kế

hoạch mang tính đột phá để phát triển.

Đối với các xã còn lại, nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển

KT-XH, chủ yếu là trồng lúa, cây ăn trái, nuôi thủy sản nhỏ, lẻ, kết cấu hạ tầng thấp

kém, đời sống nhân dân còn thấp.

27

Nông thôn biên giới được hưởng nhiều chính sách ưu đãi nên những năm

gần đây kết cấu hạ tầng phát triển khá nhanh, thuận lợi phát triển du lịch, dịch vụ,

giao thương với nước bạn Camphuchia, có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng.

Tuy nhiên, công tác tuần tra bảo vệ chủ quyền, quản lý người qua lại biên giới cũng

gặp không ít khó khăn, còn nhiều tệ nạn xã hội, tình trạng buôn lậu qua biên giới

còn diễn biến phức tạp tạo áp lực lớn cho cấp ủy, chính quyền địa phương.

Nông thôn ven biển, hải đảo, thuận lợi phát triển diêm nghiệp, ngư nghiệp,

đánh bắt hải sản, giao thương đường biển, phát triển du lịch, có vai trò quan trọng

bảo vệ hải phận của Tổ quốc. Tuy nhiên, việc sản xuất muối, nuôi trồng, đánh bắt

hải sản cũng còn nhiều khó khăn, nước mặn xâm lấn hàng năm với diện tích ngày

một rộng, trực tiếp chịu ảnh hưởng của bão, việc quản lý, bảo vệ tính mạng, tài sản

của nhân dân khi ra khơi còn nhiều bất cập.

2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm của các tỉnh ủy ở đồng bằng

sông Cửu Long

* Chức năng, nhiệm vụ của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long

Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội XI quy định: “Cơ quan lãnh đạo ở mỗi

cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo

của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi

bộ (gọi tắt là cấp uỷ) [58, tr.17].

Ban chấp hành đảng bộ tỉnh gọi tắt là tỉnh ủy, là cơ quan lãnh đạo của đảng

bộ tỉnh giữa hai kỳ đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, do đại hội bầu ra. Tỉnh uỷ có bí

thư, các phó bí thư tỉnh uỷ (phó bí thư thường trực, phó bí thư kiêm chủ tịch UBND

tỉnh, phó bí thư phụ trách công tác xây dựng Đảng do Trung ương luân chuyển),

BTV tỉnh uỷ, thường trực tỉnh uỷ và có các cơ quan tham mưu, giúp việc như:ban

Tổ chức, ban Tuyên giáo, ban Nội chính, ban Dân vận, cơ quan Ủy ban kiểm tra,

Văn phòng tỉnh uỷ, Trường chính trị tỉnh. Một số tỉnh ủy có ban Bảo vệ chăm sóc

sức khỏe cán bộ.

Chức năng của tỉnh uỷ là lãnh đạo, tức là tỉnh uỷ có trách nhiệm lãnh đạo

các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên của đảng bộ tỉnh; lãnh đạo các tổ chức trong

HTCT, các tổ chức kinh tế, xã hội; lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội trên

28

địa bàn. Sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đảm bảo cho hoạt động của các tổ chức và các

lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn phát triển theo đúng đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của tỉnh

uỷ, thành uỷ; góp phần thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách ấy,

mà trước hết là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đảng bộ tỉnh và các nghị

quyết của tỉnh uỷ.

Sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ đối với các hoạt động nêu trên là sự lãnh đạo

toàn diện, tức là các tỉnh uỷ đề ra chủ trương, quyết định, lãnh đạo cụ thể hoá các

chủ trương, quyết định đó, lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát các tổ

chức đảng, đảng viên trong thực hiện các chủ trương, quyết định của tỉnh uỷ và

sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm.

Mỗi tổ chức, mỗi lĩnh vực đời sống xã hội có đặc điểm riêng, mỗi tổ chức

lại có chức năng nhiệm vụ khác nhau. Sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với từng tổ

chức, từng lĩnh vực đời sống xã hội có nội dung và phương thức khác nhau. Bởi

vậy, cùng xuất phát từ nhiệm vụ của tổ chức đó, từ tính chất của công việc, đặc

điểm cụ thể để xác định nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp. Song chức

năng lãnh đạo của tỉnh uỷ là sự lãnh đạo chính trị. Tỉnh uỷ lãnh đạo các tổ chức,

các lĩnh vực đời sống xã hội, chủ yếu bằng các chủ trương, quyết định, định

hướng đảm bảo cho các hoạt động của các tổ chức, lĩnh vực đó theo đúng định

hướng XHCN. Tỉnh uỷ không can thiệp quá sâu, không bao biện làm thay công

việc cụ thể của các tổ chức, mà tỉnh uỷ lãnh đạo phát huy vai trò, chủ động, sáng

tạo của các tổ chức để hoạt động đạt kết quả cao.

Trong lãnh đạo kinh KT - XH, tỉnh uỷ có chức năng lãnh đạo kinh tế nông

nghiệp, phát triển nông thôn. Đây là một lĩnh vực trọng yếu trong sự lãnh đạo

của tỉnh uỷ, một lĩnh vực đang mang lại thu nhập cao và chiếm tỷ trọng lớn trong

cơ cấu kinh tế của vùng ĐBSCL.

* Nhiệm vụ của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long

Với chức năng trên, tỉnh uỷ thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:

Một là, lãnh đạo trực tiếp và toàn diện mọi hoạt động của tỉnh nhằm thực

hiện thắng lợi nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí

29

thư và Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh. Quyết định những vấn đề chiến

lược, các chương trình, đề án, kế hoạch, chủ trương, biện pháp quan trọng trong

các lĩnh vực công tác của các tỉnh.

Hai là, chỉ đạo và thông qua phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu phát triển KT

- XH, bảo đảm an ninh quốc phòng 6 tháng, hàng năm và kế hoạch 5 năm của tỉnh.

Xem xét, xác định các cụm công trình trọng điểm toàn khoá và từng năm; chủ

trương điều chỉnh quy hoạch tổng thể; điều chỉnh chỉ tiêu phát triển KT-XH của

tỉnh; cho chủ trương triển khai một số dự án đầu tư lớn và cơ chế chính sách đặc

biệt quan trọng (có ảnh hưởng lớn đến KT - XH, an ninh, quốc phòng và đối ngoại)

Ba là, lãnh đạo công tác tài chính đảng, thảo luận và quyết định các báo cáo

định kỳ hàng năm và báo cáo bất thường của Ủy ban kiểm tra tỉnh uỷ trong các hội

nghị tỉnh uỷ; nghe BTV tỉnh uỷ báo cáo những quyết định quan trọng của Ban

thường vụ giữa hai kỳ hội nghị.

Bốn là, lãnh đạo cụ thể hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,

Nghị quyết của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác tổ chức và

cán bộ cho phù hợp với điều kiện của tỉnh. Quyết định trình Bộ Chính trị, Ban Bí

thư dự kiến nhân sự giới thiệu ứng cử, đề cử hoặc rút khỏi các chức danh: Uỷ viên

Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh; nhân

sự bổ sung hoặc rút khỏi Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh. Xem xét quyết định những

vấn đề kỷ luật đối với tổ chức đảng và đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng.

Trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương thành lập, sát nhập, chia tách, giải thể

các Ban đảng của Tỉnh.

Năm là, lãnh đạo tổng kết, đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ

giữa nhiệm kỳ và quyết định các nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp thực hiện Nghị

quyết nửa cuối nhiệm kỳ. Thảo luận và quyết định những vấn đề cần thiết khi có

trên 1/3 số uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh yêu cầu.

Sáu là, lãnh đạo công tác chuẩn bị và quyết định triệu tập Đại hội Đảng bộ

tỉnh nhiệm kỳ, hoặc Đại hội Đảng bộ bất thường (nếu có): thảo luận và thông qua

các dự thảo văn kiện trình Đại hội; tiêu chuẩn, số lượng, cơ cấu đại biểu; danh sách

bầu cử Ban chấp hành Đảng bộ trong Đại hội; danh sách đại biểu đi dự Đại hội

Đảng toàn quốc… để đại hội quyết định.

30

Bảy là, lãnh đạo xây dựng quy chế làm việc của tỉnh uỷ, BTV tỉnh uỷ và Ban

thường trực tỉnh uỷ: phân công nhiệm vụ, xác định quyền hạn và trách nhiệm công

tác cho các cấp bộ đảng trực thuộc; cho các đồng chí lãnh đạo trong Ban chấp hành

Đảng bộ (ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ, ủy viên Ban thường vụ); xác định các

mối quan hệ công tác giữa tỉnh uỷ với các đảng bộ và tổ chức đảng trực thuộc; với

Bộ Chính trị, Ban Bí thư; với chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị, xã hội

của tỉnh…

Tám là, lãnh đạo chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội của

tỉnh; lãnh đạo các cấp uỷ và tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện thắng lợi chỉ thị,

nghị quyết, chủ trương, phương hướng công tác của tỉnh ủy.

* Đặc điểm của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long

- Đặc điểm về truyền thống cách mạng, tâm lý, phong cách, lề lối làm việc

Phần lớn các tỉnh uỷ viên các tỉnh uỷ vùng ĐBSCL là người địa phương, một

số ít tỉnh uỷ viên đã được tôi luyện và trưởng thành trong kháng chiến. Đây là điều

rất thuận lợi đối với hoạt động lãnh đạo của các tỉnh uỷ. Là người địa phương nên

các đồng chí tỉnh uỷ viên nắm chắc các điều kiện tự nhiên, KT-XH, văn hoá, phong

tục tập quán ở địa phương để xây dựng các chủ trương, giải pháp phát triển mọi mặt

của tỉnh, vùng đem lại hiệu quả, có thể tiến hành công tác tư tưởng, dân vận đạt hiệu

quả cao. Song, là người địa phương, nên trong công việc có lúc, có nơi những quan

hệ làng xóm, địa phương còn chi phối nhất định đã làm ảnh hưởng đến chất lượng,

hiệu quả công việc.

Các tỉnh uỷ vùng ĐBSCL có nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo sản xuất

nông nghiệp trong điều kiện thực hiện cơ chế hành chính tập trung, bao cấp, song

chưa có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hoá,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn vùng. Trải qua các thời kỳ lịch sử, cư dân

vùng này đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp mà chủ yếu là

trồng lúa nước. Đây là điểm nổi trội của cư dân vùng ĐBSCL. Trong những năm

đổi mới, nhất là nhiều năm gần đây, các tỉnh vùng ĐBSCL kế thừa, phát huy truyền

thống và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp của các thế hệ đi trước, đạt được những

31

kết quả to lớn. Các tỉnh uỷ lãnh đạo sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao, đã tích

luỹ được nhiều kinh nghiệm có giá trị. Tuy nhiên, những kinh nghiệm ấy chủ yếu là

kinh nghiệm lãnh đạo phát triển nông nghiệp truyền thống. Các tỉnh còn chưa có

nhiều kinh nghiệm lãnh đạo nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá và chuyển

dịch cơ cấu toàn bộ nền kinh tế của toàn vùng.

Bên cạnh đó, nhiều tỉnh uỷ viên còn chịu những tác động về tâm lý, cách

tư duy, phong cách, lề lối làm việc của nông dân. Sinh ra và lớn lên ở một vùng

sản xuất nhỏ, manh mún, đã dần dần hình thành trong cư dân vùng ĐBSCL cách

nghĩ, tầm nhìn và phong cách làm việc của người sản xuất nhỏ, nặng về kinh

nghiệm, thủ công. Đã qua 30 năm đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN, cách nghĩ, tầm nhìn, phong cách làm việc của nhân dân đã có đổi

mới, song vẫn chưa đủ để làm thay đổi cơ bản cách nghĩ, tầm nhìn, phong cách

làm việc của người sản xuất nhỏ đã ăn sâu, bám chắc vào cư dân vùng này.

- Đặc điểm về bộ máy cán bộ

Trong sự nghiệp xây dựng CNXH và công cuộc đổi mới hiện nay, các

tỉnh uỷ vùng ĐBSCL hình thành, phát triển thực hiện chức năng lãnh đạo của

mình đối với các tổ chức trong HTCT, các tổ chức kinh tế, xã hội và phát triển

kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh gắn liền với những biến

đổi lớn về địa giới hành chính tỉnh và quy mô lãnh đạo của các tỉnh uỷ.

Từ sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, các tỉnh vùng ĐBSCL

đã trải qua các lần sáp nhập, chia tách. Đi liền với việc sáp nhập và chia tách tỉnh

nêu trên, các tỉnh uỷ vùng ĐBSCL cũng có biến đổi lớn về tổ chức, bộ máy, cán

bộ và nhiệm vụ để đảm bảo sự lãnh đạo mọi hoạt động trên địa bàn. Các tỉnh uỷ

đã vươn lên mạnh mẽ, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đến nay, nhìn chung,

trình độ mọi mặt của các tỉnh uỷ viên cao hơn; năng lực lãnh đạo được nâng lên,

đã tích lũy được những kinh nghiệm lãnh đạo phát triển KT - XH.

Các tỉnh uỷ vùng ĐBSCL đã được đổi mới, kiện toàn, trẻ hoá, trình độ lý

luận chính trị và chuyên môn của các tỉnh uỷ viên được nâng lên qua các kỳ đại

hội và nhất là qua đại hội nhiệm kỳ 2010 - 2015. Trẻ hoá đội ngũ cán bộ, nhất là

32

cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp là một chủ trương lớn của Đảng đã

được các tỉnh uỷ quán triệt, nhận thức sâu sắc và triển khai thực hiện với lộ trình

và bước đi cụ thể, đem lại hiệu quả. Trong đó, việc quy hoạch tỉnh uỷ viên và

thường vụ tỉnh uỷ được coi trọng, làm cơ sở cho việc đẩy mạnh đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ trong diện quy hoạch. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở nhà

trường và trong thực tiễn được coi trọng, đạt chất lượng, hiệu quả. Qua các

nhiệm kỳ đại hội đảng bộ tỉnh, đội ngũ tỉnh uỷ viên từng bước được trẻ hoá. Cụ

thể, độ tuổi trung bình của đội ngũ tỉnh uỷ viên nhiệm kỳ 2010 - 2015 của một số

tỉnh vùng ĐBSCL từ 46- 49 tuổi; trình độ cao cấp lý luận chính trị, chuyên môn

của đội ngũ tỉnh uỷ viên cũng được nâng lên khá cao [7].

Kết quả tổ chức đại hội đảng bộ ở các tỉnh, thành phố trong vùng đã bầu

678 ủy viên ban chấp hành. Ban thường vụ mỗi tỉnh có từ 13 đến 15 đồng chí.

Cán bộ nữ trúng cử vào cấp ủy đạt tỷ lệ bình quân 12,24% (cao nhất là tỉnh Kiên

Giang 25%, thấp nhất là tỉnh Long An 3,7%). Cán bộ trẻ (dưới 40 tuổi) trúng cử

cấp ủy bình quân đạt 5,9% (trừ Trà Vinh). Tổng số ủy viên ban thường vụ được

bầu là 198 đồng chí; trong đó, nữ là 18 đồng chí, chiếm 9,09%. Tổng số phó bí

thư được bầu là 30 đồng chí; trong đó, có 03 đồng chí nữ. Độ tuổi bình quân của

các đồng chí trong Ban Chấp hành đầu nhiệm kỳ là 48,7 tuổi; trình độ học vấn

100% là 12/12; trình độ chuyên môn: tiến sỹ 16 đồng chí, chiếm 2,04%, thạc sỹ

48 đồng chí chiếm 16,32%, còn lại là trình độ đại học; trình độ lý luận chính trị:

110 đồng chí có trình độ cử nhân, còn lại là cao cấp chính trị [7].

- Đặc điểm về địa bàn, môi trường hoạt động:

Các tỉnh uỷ ĐBSCL hoạt động trên địa bàn và môi trường có nhiều thuận

lợi đó là: nhân dân có truyền thống cách mạng, đây là cái nôi của tinh thần chống

giặc bất khuất, nhân dân cần cù, chịu khó. Vùng có điều kiện tự nhiên (miền núi,

đồng bằng, ven biển, hải đảo) để phát triển một nền nông nghiệp theo hướng sản

xuất hàng hoá. Trong những năm tới, với vai trò là vùng kinh tế trọng điểm của

quốc gia, công nghiệp và dịch vụ của vùng sẽ phát triển nhanh vì có các dự án

trọng điểm quốc gia và của vùng đang và sẽ triển khai. Cán bộ, đảng viên các

tỉnh trong vùng nhìn chung có kiến thức và nhận thức tốt, nhân dân một lòng

33

theo đảng là cơ sở để thực hiện và vận động nhân dân toàn tỉnh thực hiện tốt các

chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Bên cạnh những thuận lợi thì địa bàn và môi trường hoạt động cũng gây nên

không ít khó khăn; là điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, bão, lũ lụt, hạn hán thường

xuyên xảy ra; KT-XH so với các vùng và cả nước đang còn yếu kém. Tốc độ tăng

trưởng kinh tế thấp, đời sống của nhân dân đang gặp nhiều khó khăn, kết cấu hạ

tầng yếu kém, dân trí thấp, có những tập quán sản xuất lạc hậu, manh mún, lối sống

phóng khoáng, hào hiệp, nhận thức về kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế

của nhân dân hạn chế. Chính những điều này đòi hỏi các tỉnh uỷ phải có một

phương thức lãnh đạo sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn để hạn chế tối đa

những bất lợi do khó khăn gây nên và phát huy các thế mạnh để đạt được hiệu quả

cao trong công tác lãnh đạo chỉ đạo của mình.

- Đặc điểm về đối tượng lãnh đạo của các tỉnh uỷ:

Trong giai đoạn hiện nay, các tỉnh uỷ ở ĐBSCL tập trung lãnh đạo xây dựng

NTM. Hiện nay, cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao, dân cư nông

thôn chiếm 87,8%; các tiềm năng về kinh tế nông nhiệp còn đang rất lớn nhưng

chưa được khai thác tốt; công nghiệp và dịch vụ nông thôn đang ở giai đoạn thu hút

đầu tư, mới bắt đầu thực hiện một số dự án lớn; cùng với vai trò, vị trí chiến lược

của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong các quá trình cánh mạng là rất quan

trọng và cơ bản đã được Nghị quyết Trung ương 7 (Khoá X) khẳng định; chính vì

vậy, là các cấp ủy, các tổ chức trong HTCT, nhân dân tham gia xây dựng NTM.

2.2. XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG

SÔNG CỬU LONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

2.2.1. Quan niệm về xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu

Long hiện nay

* Quan niệm về xây dựng nông thôn mới ở ĐBSCL

Thông tư số 41/2013/TT-BNNPTNT ngày 04/10/2013 của Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn định nghĩa: “Nông thôn là phần lãnh thổ được quản lý bởi Ủy

ban nhân dân xã”; “thôn là tên gọi chung của thôn, làng, ấp, bản, phum, sóc… là tổ

chức tự quản của cộng đồng dân cư có chung địa bàn cư trú trong một xã” [22, tr.1].

34

Nông thôn là khu vực khác với thành thị về không gian, hoạt động kinh tế,

đặc điểm cộng đồng và sinh thái. Nông thôn gắn liền với đời sống, tập tục và bản

sắc văn hóa của một cộng đồng. Về phương diện kinh tế, nông thôn bao gồm các

lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa, tài nguyên thiên nhiên, tổ

chức và thể chế, công nghệ và kết cấu hạ tầng. Vì thế, phát triển nông thôn phải bao

gồm phát triển kinh tế, xã hội, tổ chức và môi trường.

Nông thôn dùng chỉ một địa bàn mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ

trọng lớn. Nông thôn có thể xem xét trên nhiều góc độ: kinh tế, chính trị, văn hoá,

xã hội... Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông

thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung của nền kinh tế về lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế kinh tế... vừa có những đặc điểm

riêng gắn liền nông nghiệp nông thôn.

Như vậy, có thể hiểu nông thôn là vùng sinh sống của tập hợp cư dân. Tập

hợp cư dân này tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi

trường trong một thể chế chính trị nhất định và chịu ảnh hưởng của các tổ chức

khác. Tuy hiện nay, chưa có khái niệm kinh điển phân biệt nông thôn với thành

thị nhưng có thể hiểu những đặc trưng cơ bản của nông thôn so với thành thị ở

những tiêu chí sau:

Thứ nhất, về cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao so với công

nghiệp, dịch vụ

Thứ hai, về cơ cấu dân cư, lao động nông nghiệp còn chiếm đa số

Thứ ba, thiết chế, quy chế, quy ước, hương ước gắn liền với từng làng, từng

dân tộc, từng vùng kinh tế sinh thái.

Tại Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng

Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM đã đề cập đến NTM gồm

các tiêu chí cơ bản sau:

1. Quy hoạch

Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông

nghiệp, hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ; quy hoạch phát triển

hạ tầng KT-XH - môi trường theo chuẩn mới; quy hoạch phát triển các khu dân cư

35

mới và chỉnh trang các khu dân cý hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản

sắc văn hóa tốt đẹp [117].

2. Phát triển hạ tầng

Hoàn thiện đường trục đường giao thông xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê

tông hóa đạt chuẩn. Có 70% số xã đạt chuẩn (các trục đường ấp, xóm cơ bản cứng

hóa); 100% đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa(cứng hóa 30%);

50% đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện.

Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện. Tỷ lệ hộ sử dụng

điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn đạt 98%.

Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh; 45% kênh

mương do xã quản lý được kiên cố hóa.

Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện; tỷ lệ hộ sử dụng

điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn đạt 98%.

Tỷ lệ trường học các cấp: mầm non, mẫu giáo, tiểu học, THCS có cơ sở

vật chất đạt chuẩn quốc gia đạt 70%.

Cơ sở vật chất văn hóa: nhà văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn; 100% ấp

có nhà văn hóa và khu thể thao thôn đạt quy định.

Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông. Có internet đến thôn.

Có chợ nông thôn đạt chuẩn. Không còn nhà tạm, dột nát; 70% hộ có nhà ở

đạt tiêu chuẩn [117].

3. Kinh tế và tổ chức sản xuất

Tỷ lệ hộ nghèo 7%. 50% số xã đạt thu nhập bình quân đầu người /năm gấp

1,3 lần so với mức bình quân chung của cả nước, 35% lao động trong độ tuổi làm

việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Có tổ hợp tác hoặc HTX hoạt động có

hiệu quả [117].

4. Văn hóa - xã hội - môi trường

Xã đạt phổ cập giáo dục trung học. 80% học sinh tốt nghiệp THCS được

tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học nghề). Trên 20% tỷ lệ lao động qua

đào tạo.

36

Xã đạt chuẩn quốc gia, 20% người dân tham gia bảo hiểm y tế.

Xã có từ 70% số ấp trở lên đạt tiêu chuẩn văn hóa theo quy định

75% số hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn Quốc gia.

Các cơ sởsản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi. Không có các hoạt động suy

giảm môi trường và có các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp. Nghĩa

trang được xây dựng theo quy hoạch. Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý

theo quy định [117].

5. Hệ thống chính trị

Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh, trong đó:

- Cán bộ xã đạt chuẩn.

- Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định.

- Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “Trong sạch, vững mạnh”.

- Các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên.

- An ninh, trật tự xã hội được giữ vững [117].

Từ những dẫn giải trên, có thể hiểu: Nông thôn vùng ĐBSCL là phần lớn

lãnh thổ ở miền Tây Nam bộ Việt Nam, bao quanh các thành phố, thị xã, thị trấn

trong vùng ĐBSCL, bao gồm những cư dân nông thôn sinh sống chủ yếu bằng các

nghề liên quan đến nông nghiệp.

Nông thôn mới khác với nông thôn truyền thống hiện nay. Xây dựng NTM

là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng

lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất

toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và

an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người

dân được nâng cao.

Nông thôn mới hiện nay được hiểu là nông thôn được cải tạo, xây dựng, phát

triển lên trình độ mới cao hơn hẳn về chất so với nông thôn cũ. NTM là nông thôn

có kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng

cao; nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại,

môi trường sinh thái được bảo vệ; dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc

37

được giữ gìn và phát huy; an ninh tốt, quản lý dân chủ; chất lượng hệ thống chính

trị được nâng cao.

Như vậy, NTM là nông thôn được quy hoạch lại, có hệ thống cơ sở hạ

tầng đồng bộ, hiện đại; sản xuất, dịch vụ, giáo dục phát triển; đời sống vật chất

của nhân dân no ấm, đời sống văn hóa, tinh thần phát triển phong phú giàu bản

sắc dân tộc; an ninh trật tự ổn định; môi trường trong sạch, tươi đẹp.

Từ quan niệm về xây dựng, nông thôn và về NTM; từ quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng; từ thực tiễn xây dựng

nông thôn có thể quan niệm: Xây dựng NTM ở ĐBSCL là tổng thể các hoạt

động, các mặt công tác của cả HTCT và toàn thể nhân dân, trước hết là các tầng

lớp nhân dân ở nông thôn, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy địa phương ở

ĐBSCL để cải tạo, đổi mới toàn diện nông thôn; từ khâu quy hoạch, xây dựng,

phát triển, hoàn thiện đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng, HTCT cơ sở nông thôn;

thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, an ninh, quốc phòng; nâng

cao thu nhập, đời sống mọi mặt cho cư dân nông thôn, làm thay đổi nông thôn

hiện nay thành nông thôn XHCN năng động, phát triển, văn minh, hiện đại.

Xây dựng NTM là trách nhiệm của cả HTCT, của toàn thể nhân dân, của

các tầng lớp nhân dân ở nông thôn ĐBSCL, trong đó các tỉnh ủy ở ĐBSCL chịu

trách nhiệm chính trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng vào xây dựng NTM,

từng bước CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn nhằm thúc đẩy nền kinh tế

phát triển, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, tạo tiền đề để giải quyết có

hiệu quả và vững chắc những vấn đề chính trị và xã hội, đưa nông thôn ĐBSCL

tiến lên văn minh, hiện đại.

Xây dựng NTM đòi hỏi phải xây dựng quy hoạch sản xuất, tổ chức lại

sản xuất theo hướng hiện đại, có đường giao thông đi lại thuận tiện, có điều kiện

tiếp cận các dịch vụ nâng cao dân trí và chăm sóc sức khỏe, làm cho nhân dân

biết làm nhiệm vụ bảo vệ và phát huy phong tục tập quán tốt đẹp, sống đoàn kết

thương yêu và tương trợ lẫn nhau. Xây dựng nông thôn được như vậy mới góp

phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ở nông thôn, vừa làm cho bộ mặt nông thôn

38

có sự đổi mới, làm cho sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị từng bước giảm

bớt; động viên nông dân tích cực xây dựng quyền làm chủ đất nước.

Xây dựng NTM là nhiệm vụ trọng đại trong tiến trình hiện đại hoá đất

nước; xây dựng toàn diện xã hội khá giả thì nhiệm vụ nặng nề nhất, gian khổ

nhất là ở nông thôn. Tăng cường hiện đại hoá phải giải quyết thoả đáng quan hệ

giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Xây dựng xã hội

nông thôn dân chủ theo định hướng XHCN hài hoà phải thúc đẩy KT-XH nông

thôn tiến bộ toàn diện. Do số dân nông thôn trong vùng đông nên chỉ có phát

triển kinh tế nông thôn, làm cho nông dân được sống sung túc, mới có thể đảm

bảo toàn thể nông dân được hưởng thành quả phát triển KT-XH.

2.2.2. Các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long lãnh đạo xây dựng

nông thôn mới - quan niệm, nội dung, phương thức

* Quan niệm về sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long

đối với xây dựng nông thôn mới

Đại từ điển tiếng Việt (do Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm 1999)

định nghĩa: “Lãnh đạo là dẫn dắt, tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể”

[160, tr.979].

Từ khái niệm trên cho thấy “lãnh đạo” có những điểm sau:

Thứ nhất, lãnh đạo là hoạch định chủ trương, đường lối, có nghĩa là xác

định các nội dung, nhiệm vụ cần phải làm, những yêu cầu, mục đích cần đạt

trong một thời kỳ hay một giai đoạn; là nêu các quan điểm, nguyên tắc và các

phương sách tiến hành để đạt mục tiêu. Tất cả đều nhằm điều khiển, định hướng

hành động cho các đối tượng lãnh đạo trong quá trình thực hiện mục đích.

Thứ hai, lãnh đạo là quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương đường lối

đã xác định. Đó là qúa trình cụ thể lãnh đạo tổ chức, dẫn dắt động viên, hướng

mọi nỗ lực của khách thể vào việc thực hiện các mục đích đã xác định.

Chủ thể ở đây có thể là một người, hay một tổ chức, một tập thể lãnh đạo.

Còn khách thể, cũng có thể là một người, một tổ chức hoặc là một giai cấp, một

dân tộc. Tổ chức và con người, có thể là chủ thể trong mối quan hệ này, nhưng

lại là khách thể trong mối quan hệ khác.

39

Vì vậy, bản chất của lãnh đạo, hiểu theo nghĩa chung nhất, là quá trình tác

động có định hướng, có mục đích giữa con người với con người, giữa tổ chức

với cá thể và giữa tổ chức với tổ chức, nhằm huy động tiềm năng sáng tạo, sự nỗ

lực của khách thể vào việc giải quyết mâu thuẫn, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy

phong trào tiến lên vì lợi ích chung đã xác định.

Lãnh đạo là một trong những chức năng hoạt động xã hội của con người,

nhằm đạt được mục đích nào đó trong sản xuất, trong đấu tranh giai cấp, đấu

tranh dân tộc, trong đấu tranh xã hội nói chung. Do đó, lãnh đạo mang đậm dấu

ấn chủ quan của chủ thể. Tuỳ theo động cơ, mục đích của chủ thể, trình độ, chất

lượng của chủ thể (như: truyền thống, kinh nghiệm, tri thức, năng lực thực

tiễn...) sẽ hình thành cách lãnh đạo khác nhau và kết quả đạt được sẽ không

giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Thực tế cho thấy, có lãnh đạo dân chủ,

thiết thực, có lãnh đạo quan liêu, áp đặt, có lãnh đạo khách quan, hợp quy luật,

sát thực tế, có lãnh đạo bất chấp quy luật, xa rời thực tế... Về giác độ này,

V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn quan trọng.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, V.I. Lênin đã từng phê phán cách lãnh

đạo ôm đồm, không sắp đặt, giải quyết công việc một cách không khoa học.

Người viết: “... cho đến nay, những người cộng sản ở nước ta chưa hiểu rõ nhiệm

vụ lãnh đạo thực sự của mình là thế nào”, rằng “không nên tự mình làm tất cả,

làm quá sức mà vẫn không kịp, làm một lúc hàng hai chục việc mà không được

một việc nào ra trò” [82, tr.293]. Người đòi hỏi:

Cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa những nhiệm vụ của Đảng

(và của Ban Chấp hành Trung ương của nó) với nhiệm vụ của chính

quyền Xôviết; tăng thêm trách nhiệm và tính chủ động cho các cán bộ

Xôviết và các cơ quan Xôviết, còn về Đảng chỉ giành quyền lãnh đạo

chung các công tác của tất cả các cơ quan nhà nước, mà không nên

can thiệp quá thường xuyên... và nhỏ nhặt như hiện nay [84, tr.75].

Nhằm khắc phục tình trạng đó và để xây dựng phong cách lãnh đạo mới,

khoa học, thiết thực, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết cuốn “Sửa đổi lối làm việc” .

40

Trong tác phẩm đó, Người giành riêng một chương bàn về “cách lãnh đạo”.

Người đưa ra quan niệm lãnh đạo đúng nghĩa là:

“1. Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng...

2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng...

3. Phải tổ chức sự kiểm soát “ [89, tr.285].

Và theo Người, muốn lãnh đạo đúng thì: “... bất cứ công việc gì cũng phải

dùng hai cách lãnh đạo sau đây: “Một là, liên hợp chính sách chung với sự chỉ

đạo riêng. Hai là, liên hợp người lãnh đạo với quần chúng” [89, tr.288]. Bằng

những chỉ dẫn trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm rõ khái niệm lãnh đạo là gì,

thế nào là lãnh đạo đúng và muốn lãnh đạo đúng phải làm như thế nào.

Từ những cơ sở lý luận trên, có thể hiểu: lãnh đạo là quá trình chủ thể

lãnh đạo xác định chủ trương, đường lối và tổ chức, hướng dẫn, động viên,nêu

gương huy động mọi nỗ lực, tiềm năng sáng tạo của đối tượng lãnh đạo nhằm

thực hiện thắng lợi những chủ trương, đường lối, mục tiêu đã xác định.

Các tỉnh uỷ vùng ĐBSCL lãnh đạo xây dựng NTM thực chất là một hệ

thống các hoạt động của các tỉnh ủy tác động có định hướng, có mục đích vào hệ

thống chính trị, toàn xã hội, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để xây dựng

nông thôn ĐBSCL phát triển toàn diện. Trước hết là đề ra quan điểm, chủ

trương, nghị quyết về lãnh đạo thực hiện các nội dung, yêu cầu Chương trình

mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM. Các tỉnh ủy đóng vai trò là người lãnh đạo tổ

chức việc triển khai quán triệt và thực hiện đường lối, chủ trương, đường lối xây

dựng NTN theo quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước. Nếu xét về bản chất, các tỉnh ủy lãnh đạo xây dựng NTM là quá trình các

tỉnh ủy tiến hành các hoạt động về chính trị, tư tưởng, tổ chức để tác động, định

hướng cho các tổ chức, lực lượng có trách nhiệm tiến hành xây dựng NTM. Nếu

xét theo nội dung, nhiệm vụ lãnh đạo thì đó là quá trình xác định và thực hiện

nội dung, phương thức các tỉnh ủy ĐBSCL lãnh đạo xây dựng NTM.

Từ những diễn giải trên đây, có thể quan niệm các tỉnh ủy ở ĐBSCL lãnh

đạo xây dựng NTM là: Hoạt động của các tỉnh ủy từ việc ra nghị quyết về mục

tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện chủ trương xây dựng nông

41

thôn mới của Đảng ở các địa phương; lanh đạo, chỉ đạo HTCT, các tổ chức

đảng và đảng viên tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng,

đảng viên, chính quyền và các đoàn thể, các lực lượng xã hội và nhân dân thực

hiện nghị quyết của tỉnh ủy, bảo đảm cho chủ trương của Đảng về xây dựng

nông thôn mới được thực hiện thắng lợi ở địa phương.

Như vậy, nội hàm của khái niệm sự lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với xây

dựng NTM hàm chứa những vấn đề sau:

Một là, chủ thể lãnh đạo quá trình xây dựng NTM ở các địa phương là các

tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện

của các tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy, tất cả các tổ chức đảng, đảng viên, các tổ

chức trong HTCT địa phương, các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức kinh tế và nhân

dân các địa phương, nhất là các tổ chức kinh tế hoạt động trên lĩnh vực nông

nghiệp và giai cấp nông dân, đều là đối tượng lãnh đạo của tỉnh ủy, đồng thời, họ

cũng là lực lượng tham gia vào quá trình lãnh đạo đó.

Hai là, mục tiêu lãnh đạo của các tỉnh ủy là bảo đảm cho đường lối chủ trương

của Đảng về xây dựng NTM được thực hiện thắng lợi ở địa phương, thực hiện thành

công sự nghiệp xây dựng NTM ở tất cả các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL hiện nay.

Ba là, nhiệm vụ của các tỉnh ủy trong lãnh đạo xây dựng NTM là ban

hành nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, chiến lược, kế hoạch

thực hiện xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh; lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng

và đảng viên thực hiện nghị quyết của tỉnh ủy; kiểm tra, giám sát các tổ chức

đảng và đảng viên trong thực hiện nghị quyết, kịp thời tổng kết kinh nghiệm

thực tiễn, lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền và các đoàn thể nhân dân, các lực

lượng xã hội tổ chức thực hiện nghị quyết của tỉnh ủy bằng các phương thức

thích hợp.

Bốn là, quy trình lãnh đạo của các tỉnh ủy về lãnh đạo xây dựng NTM; ra

nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện nông thôn ở địa

phương theo chủ trương chung của Đảng; tổ chức thực hiện nghị quyết và kiểm

tra, giám sát các đối tượng lãnh đạo thực hiện nghị quyết đó.

42

* Nội dung các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long lãnh đạo xây dựng

nông thôn mới

Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của các tỉnh ủy ở vùng ĐBSCL và nội dung

Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020, đồng

thời căn cứ vào các tiêu chí xây dựng NTM được Thủ tướng Chính phủ quy định,

có thể xác định các nội dung lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh ủy ở vùng

ĐBSCL gồm:

Một là, lãnh đạo xây dựng quy hoạch NTM phù hợp với điều kiện tự

nhiên, KT-XH của từng địa phương. Trong xây dựng NTM, công tác quy hoạch

xây dựng NTM là công việc mang tính tiền đề, có tầm quan trọng trước mắt

cũng như lâu dài đối với việc xây dựng NTM. Nội dung của công tác lập quy

hoạch xây dựng NTM liên quan chủ yếu đến quy hoạch xây dựng, quy hoạch sản

xuất và quy hoạch sử dụng đất. Trong giai đoạn trước mắt công tác quy hoạch là

cơ sở cho việc lập các Đề án xây dựng NTM theo 19 tiêu chí quốc gia về xây

dựng NTM do Chính phủ ban hành. Về mặt lâu dài công tác quy hoạch là cơ sở

hoạch định đường lối trong xây dựng phát triển nông thôn theo đúng tinh thần

Nghị quyết 26 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X.

Hai là, lãnh đạo tổ chức, xây dựng và huy động các nguồn lực để đầu tư

xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH ở nông thôn, phát huy tiềm năng, thế mạnh của

từng địa phương trong xây dựng NTM. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, đặc

biệt là hệ thống giao thông, thông tin liên lạc. Đây là tiền đề quan trọng để phát

triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn hiện nay. Cơ sở hạ tầng được phát triển

và hiện đại sẽ tạo điều kiện mở rộng sự giao lưu kinh tế, xã hội giữa nông thôn

và thành thị, giữa các vùng với nhau; kích thích kinh tế hàng hóa phát triển đồng

đều, mở rộng thị trường trong nước và gắn được thị trường trong nước với thị

trường thế giới, phục vụ tốt các nhu cầu đòi hỏi phát triển kinh tế nói chung và

phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng.

Ba là, lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, trọng tâm là

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn. Tái cơ cấu

ngành nông nghiệp là một chủ trương lớn. Công việc này cần sự tham gia của cả

43

hệ thống chính trị, toàn dân và huy động cả các chuyên gia tư vấn. Đặc biệt,

trong giai đoạn khủng hoảng, nông nghiệp là cứu cánh cho nền kinh tế. Riêng

với vấn đề tái cấu trúc nông nghiệp, các tỉnh ủy tập trung lãnh đạo việc lựa chọn

các ngành hàng có lợi thế để phát huy (như lúa gạo, cá da trơn, tôm sú, cây ăn

quả...); phát triển các ngành hàng theo chuỗi từ sản xuất đến chế biến và lưu

thông; chọn các công đoạn mấu chốt cần đột phá để xử lý; sử dụng KH-CN và

cải tiến quản lý; phát huy sức mạnh liên kết của nông dân, thu hút đầu tư của

doanh nghiệp. Tiếp tục giải phóng lực lượng sản xuất, tập trung đất đai lại, thu

hút vốn về nông thôn và đưa khoa học kỹ thuật vào ruộng đồng. Bên cạnh đó,

tháo gỡ vướng mắc về quan hệ sản xuất là liên kết các hộ nông dân vào HTX,

sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, đưa doanh nghiệp về nông thôn để

chuyển đổi cơ cấu, tạo liên kết dọc trong chuỗi ngành hàng. Hình thành các vùng

chuyên canh. Trong đó, cần xây dựng các điểm hạt nhân để chế biến nông sản,

tăng giá trị cho sản phẩm hỗ trợ cho vùng chuyên canh; cung cấp dịch vụ, đưa

khoa học kỹ thuật vào để tăng giá trị; phải xử lý ngay các vướng mắc hiện tại

trong sản xuất nông nghiệp…

Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư

vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tạo môi trường thuận lợi để hình thành và

phát triển kinh tế trang trại, HTX và doanh nghiệp nông thôn, nhất là doanh

nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, cơ khí phục vụ nông nghiệp. Khuyến khích

các doanh nghiệp liên kết, liên doanh, hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ nông

sản cho nông dân và HTX.

Chuyển đổi lao động nông thôn theo các ngành hàng, chuyên môn hóa lao

động nông dân; phát triển hiệp hội ngành hàng bằng xây dựng lực lượng tư nhân

vững mạnh và hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác của nông dân; phát triển cộng

đồng nông thôn.

Bốn là, lãnh đạo phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, an

sinh xã hội, nước sạch, bảo vệ môi trường sinh thái ở nông thôn. Tăng cường bồi

dưỡng nghiệp vụ, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên. Đặc biệt quan tâm tới bậc học

mầm non, nhà trẻ cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên. Chấn chỉnh thị

44

trường lao động, phát triển nguồn tài nguyên nhân lực. Chú trọng đào tạo nguồn

nhân lực tại chỗ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng NTM; động viên,

khuyến khích và có cơ chế ưu đãi để thu hút số học sinh, sinh viên có thành tích

học tập tốt, có trình độ cao về địa phương công tác.

Xây dựng và phát triển văn hóa nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại

trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, là nhiệm vụ quan trọng

trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Để xây dựng ấp văn hóa, các địa phương lãnh

đạo làm tốt việc chăm lo phát triển kinh tế, giảm tỷ lệ hộ nghèo, nâng cao mức

sống cho người dân và tạo lập được các thiết chế văn hóa phục vụ sinh hoạt cộng

đồng. Trong điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, quy

mô sản xuất lớn cần phải chú trọng đến việc xử lý môi trường thì mới phát triển

được nền nông nghiệp bền vững.

Các tỉnh ủy lãnh đạo thực hiện có hiệu quả các chủ trương, biện pháp bảo

vệ an ninh, trật tự khu vực nông thôn. Tiếp tục ban hành quy ước, hương ước ở

các ấp về đảm bảo an ninh, trật tự, phòng chống các tệ nạn xã hội và các hủ tục

lạc hậu. Nâng cao cảnh giác cách mạng trước hoạt động “diễn biến hòa bình”

của các thế lực thù địch, bọn phản động. Tập trung giải quyết các vụ, việc tranh

chấp, khiếu kiện phức tạp nếu có; các vụ việc liên quan đến an ninh nông thôn.

Kìm chế và giảm các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, tai nạn giao thông, tai nạn

lao động nghiêm trọng ở khu vực nông thôn.

Năm là, lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở nông thôn vững

mạnh, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn. Xây

dựng HTCT cơ sở vững mạnh toàn diện là một trong 19 tiêu chí NTM. Để phát

huy hơn nữa vai trò của HTCT cấp cơ sở trong xây dựng NTM, các tỉnh ủy tập

trung lãnh đạo thực hiện tốt việc nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và

nhân dân về vai trò của HTCT cấp cơ sở trong xây dựng NTM; đổi mới phương

thức hoạt động và mối quan hệ giữa các thành viên trong HTCT cấp cơ sở; đổi

mới và hoàn thiện chính sách tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ

đối với đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công

45

tác xây dựng NTM; tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, làm tốt

công tác đánh giá xếp loại và thi đua, khen thưởng

* Phương thức các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long lãnh đạo xây

dựng nông thôn mới

Theo nghĩa thông thường, “phương thức” là phương pháp và hình thức tiến

hành, “phương pháp” là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao [160, tr.1352-1353].

Có thể nói gọn lại, “phương thức” là cách thức và hình thức tiến hành

công việc để có hiệu quả cao, đó là phương thức đúng đắn, phù hợp với công

việc. Ngoài nghĩa chung đó, về phương thức lãnh đạo của Đảng đã được nhiều

nhà khoa học luận bàn, song đáng chú ý hơn là cuốn sách “đổi mới phương thức

lãnh đạo của Đảng” do Trần Đình Nghiêm chủ biên. Các tác giả cho rằng:

phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các hình thức, phương pháp, biện

pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác... mà Đảng sử dụng nhằm

làm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được thực hiện có hiệu quả

cao nhất trong cuộc sống [95, tr.201].

Như vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng theo quan điểm của các tác giả thì

rất đa dạng, phong phú gắn với các cấp ủy, tổ chức đảng, gắn với tập thể, cá nhân,

gắn với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đặc

biệt là nó gắn chặt với nội dung lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng

quan hệ rất chặt chẽ với nội dung lãnh đạo của Đảng. Nội dung lãnh đạo của Đảng

chi phối, quy định và ràng buộc phương thức lãnh đạo của Đảng.

Từ đây có thể quan niệm: phương thức lãnh đạo xây dựng NTM của các

tỉnh uỷ ở ĐBSCL là hệ thống các hình thức, phương pháp, biện pháp, quy trình...

mà các tỉnh uỷ sử dụng để tác động vào các cơ quan, tổ chức và từng người dân

ở nông thôn nhằm thực hiện tốt những nội dung lãnh đạo xây dựng NTM của các

tỉnh uỷ trong từng thời kỳ.

Phương thức lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh uỷ ở ĐBSCL quan hệ

mật thiết với nội dung lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh uỷ và chịu sự quy

định, chi phối, ràng buộc bởi nội dung lãnh đạo đạo xây dựng NTM. Song nó là

yếu tố rất quan trọng để nội dung lãnh đạo xây dựng NTM thành hiện thực.

46

Ngoài ra, phương thức lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh uỷ ở ĐBSCL

còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh uỷ ở

ĐBSCL, trực tiếp là năng lực, trình độ xây dựng NTM của đội ngũ cán bộ, nhất

là cán bộ chủ chốt các cấp; đồng thời phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh hoạt

động của tỉnh uỷ và tình hình mọi mặt của tỉnh; phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ

máy của các đơn vị trực tiếp hoạt động ở nông thôn, trong lĩnh vực nông nghiệp

và trình độ, năng lực của nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Bởi vậy, chọn phương thức lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh uỷ ở

ĐBSCL phải xuất phát từ những điều đã nêu trên.

Căn cứ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH

(bổ sung phát triển năm 2011), Nghị quyết Trung ương năm (khoá X) về tiếp tục

đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của HTCT và căn cứ

nhiệm vụ chính trị của các tỉnh ủy ở ĐBSCL, xuất phát từ thực tiễn lãnh đạo xây

dựng NTM của các tỉnh uỷ những năm qua, trong giai đoạn hiện nay các tỉnh uỷ

ở ĐBSCL lãnh đạo xây dựng NTM thông qua các phương thức:

Một là, lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết, phương hướng, mục tiêu,

giải pháp, chương trình tổng thể phát triển KT-XH, xây dựng NTM của các tỉnh.

Đây là phương thức lãnh đạo cơ bản, phổ biến nhất, xuất phát từ vai trò, bản chất

sự lãnh đạo, là cách phổ biến nhất để Tỉnh ủy chuyển tải và tổ chức thực hiện

quan điểm, chủ trương, chính sách xây dựng NTM. Các tỉnh ủy cần đặc biệt

quan tâm đến chất lượng các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động liên

quan đến xây dựng NTM, bảo đảm khách quan, toàn diện và có cơ sở khoa học,

thể hiện nội dung lãnh đạo sâu sát, hoạch định được các mục tiêu và nhiệm vụ

lớn trong từng giai đoạn phù hợp với nguồn lực của địa phương. Đồng thời có

phương hướng, giải pháp chỉ đạo thiết thực để tháo gỡ những khó khăn, tồn tại

trong sản xuất nông nghiệp; có những chỉ đạo định hướng về ban hành cơ chế,

chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Hai là, lãnh đạo bằng công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động,

thuyết phục của tổ chức đảng và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Công

tác tuyên truyền là nhiệm vụ của toàn Đảng, của cả HTCT, nhằm xây dựng Đảng

47

vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hoá, lãnh đạo thắng lợi sự

nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Thông qua công tác tuyên truyền,

các tỉnh ủy thường xuyên quan tâm giáo dục lý luận chính trị, đường lối, chính sách

của Đảng và Nhà nước, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng của dân

tộc, lòng nhân ái, thuỷ chung, tinh thần uống nước nhớ nguồn, công tác tuyên

truyền cần gắn chặt lý luận với thực tiễn. Tuyên truyền ác phong trào thi đua yêu

nước, xoá đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng, khuyến nông, khuyến học,

khuyến tài v.v... và về chủ trương xây dựng NTM.

Ba là, lãnh đạo thông qua hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng

viên. Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên, nói đi đôi với làm chính là cơ sở để

tạo dựng niềm tin chính trị trong quần húng, nhân dân. Xây dựng NTM là trách

nhiệm của tổ chức đảng các cấp và toàn thể cán bộ, đảng viên. Thông qua qua tổ

chức đảng các cấp và vai trò tiên phong của đội ngũ đảng viên, nhất là tổ chức đảng

và đảng viên trong các tổ chức, lực lượng trực tiếp tham gia xây dựng NTM là một

cách thức lãnh đạo cơ bản của các tỉnh ủy đối với xây dựng NTM.

Bốn là, lãnh đạo thông qua Ban chỉ đạo chương trình xây dựng NTM và các

tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp trong tỉnh, nhất là thông qua chính quyền.

Thông qua việc lãnh đạo Ban chỉ đạo chương trình xây dựng NTM và xây dựng hệ

thống chính trị, các tổ chức, lực lượng tham gia xây dựng NTM; đào tạo và lãnh

đạo công tác đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ sự nghiệp xây dựng NTM; bố trí cán

bộ của Đảng trong các tổ chức chính quyền và hệ thống chính trị, các tổ chức nòng

cốt, chuyên trách tham gia xây dựng NTM để bảo đảm triển khai thực hiện đúng

đường lối, chủ trương của Đảng, nghị quyết của tỉnh ủy về xây dựng NTM.

Các tỉnh ủy lãnh đạo chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh phát huy vai trò

quản lý nhà nước, thực hiện các chủ trương của Đảng về xây dựng NTM, xây dựng

và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xây dựng NTM, từ đó

triển khai chủ trương của Đảng, của Tỉnh ủy về xây dựng NTM đến tất cả các

ngành, các cấp và toàn dân để thực hiện.

Năm là, lãnh đạo thông qua xây dựng các mô hình thí điểm, các điển hình

NTM, sơ kết, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến. Bằng việc định kỳ sơ kết,

tổng kết thực tiễn, đánh giá kết quả thực hiện chương trình để rút kinh nghiệm và

48

phổ biến nhân rộng những mô hình, cách làm hiệu quả. Đồng thời có giải pháp

khắc phục kịp thời các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện.

Từ đó có những bổ sung, đóng góp các lý luận mới về xây dựng NTM.

Sáu là, lãnh đạo xây dựng NTM thông qua công tác kiểm tra, giám sát.

Đây cũng là phương thức lãnh đạo quan trọng không thể thiếu để các tỉnh ủy

lãnh đạo thực hiện nội dung xây dựng NTM. Kiểm tra, giám sát là những chức

năng, là phương thức, là khâu không tách rời quy trình lãnh đạo của Đảng, bởi

vì, không kiểm tra coi như không lãnh đạo. Nhờ kiểm tra, giám sát cấp ủy các

cấp nắm được tình hình thực tế và đề ra chủ trương, nghị quyết, giải pháp cho

lĩnh vực xây dựng NTM. Vì vậy, để lãnh đạo tốt xây dựng NTM theo đúng định

hướng của Đảng, nghị quyết của các tỉnh ủy phải kiểm tra, giám sát thường

xuyên. Đồng thời phát huy tốt vai trò của chính quyền và Ban chỉ đạo các cấp

trong công tác chỉ đạo, kiểm tra tại cơ sở.

Tiểu kết chương 2

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn, có vị trí chiến lược trong sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng

quan trọng để phát triển kinh tế, xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo

đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ

môi trường sinh thái của đất nước. Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng

NTM là chương trình lớn, có tầm quan trọng tác động trực tiếp đến tất cả các

lĩnh vực, hướng đến việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân

nông thôn. Trách nhiệm đó không chỉ thuộc về Đảng, nhà nước, các tổ chức

đoàn thể mà còn là nghĩa vụ của mọi người dân Việt Nam, mọi tổ chức và cá

nhân, trong đó người nông dân phải đóng vai trò là người tiên phong.

Thực hiện chức năng lãnh đạo xây dựng NTM, các tỉnh ủy ở ra nghị quyết về

mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện chủ trương xây dựng NTM

của Đảng ở các địa phương; tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát các tổ chức

đảng, đảng viên, chính quyền và các đoàn thể, các lực lượng xã hội và nhân dân

49

thực hiện nghị quyết của các tỉnh ủy, bảo đảm cho chủ trương của Đảng về xây

dựng NTM được thực hiện thắng lợi ở địa phương.

Để lãnh đạo có hiệu quả hơn nữa đối với xây dựng NTM trong thời gian tới,

các tỉnh ủy ở ĐBSCL phải xác định rõ nội dung, phương thức lãnh đạo.

Về nội dung, đó là lãnh đạo: xây dựng quy hoạch NTM phù hợp với điều

kiện tự nhiên, KT-XH từng địa phương; tổ chức, xây dựng và huy động các

nguồn lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH ở nông thôn, phát huy

tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương trong xây dựng NTM; phát triển kinh

tế nông nghiệp, nông thôn, trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao

động nông nghiệp, nông thôn; phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn

hóa, an sinh xã hội, nước sạch, bảo vệ môi trường sinh thái ở nông thôn; xây

dựng HTCT cơ sở nông thôn vững mạnh, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự,

an toàn xã hội ở nông thôn.

Về phương thức, là lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết, phương hướng,

mục tiêu, giải pháp, chương trình tổng thể phát triển KT-XH, xây dựng NTM của

các tỉnh; bằng công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục của

tổ chức đảng và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị; thông qua hệ thống tổ

chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên; thông qua Ban chỉ đạo chương trình xây

dựng NTM và các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp trong tỉnh, nhất là thông

qua chính quyền; thông qua xây dựng các mô hình thí điểm, các điển hình NTM, sơ

kết, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến; thông qua công tác kiểm tra, giám sát.

50

Chương 3

NÔNG THÔN MỚI VÀ CÁC TỈNH ỦY

Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG

NÔNG THÔN MỚI TỪ NĂM 2010 ĐẾN NAY -

THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM

3.1. THỰC TRẠNG NÔNG MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

3.1.1. Những thành tựu, ưu điểm

- Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng trưởng nhanh, cơ cấu nông nghiệp và

kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực, thị trường lao động - việc làm phát triển,

chính sách giảm nghèo và bảo trợ xã hội được quan tâm thực hiện khá tốt.

Kinh tế các tỉnh ĐBSCL phát triển khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng

hướng, hiệu quả sản xuất được nâng cao, môi trường đầu tư được cải thiện. Tốc độ

tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân toàn vùng giai đoạn 2010-2015 đạt khoảng

11,5%/năm. Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu toàn vùng chiếm khoảng 9% tổng kim

ngạch xuất khẩu của cả nước) [4]. Môi trường đầu tư vùng ĐBSCL ngày càng tốt

hơn, chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của các tỉnh, thành trong vùng các năm qua

nhìn chung được cải thiện khá tốt, hầu hết đều nằm trong nhóm khá, tốt và rất tốt.

Vùng ĐBSCL có 3 đến 6 tỉnh trong nhóm 10 tỉnh, thành dẫn đầu hằng năm [100].

Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn vùng năm 2015 (GRDP) ước đạt 7,8% (đạt

99,4% kế hoạch). Sản lượng lúa ước đạt 25,7 triệu tấn, tăng khoảng 500 ngàn tấn

hằng năm. Năng suất lúa tăng từ 54,3 tạ/ha năm 2010 lên trên 90 tạ/ha năm 2015.

Năm 2015, toàn vùng xuất khẩu trên 6,24 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch trên 2,65 tỷ

USD, chiếm 92% kim ngạch xuất khẩu gạo cả nước [4].

Nông, lâm, ngư nghiệp phát triển toàn diện, từng bước hình thành vùng sản

xuất tập trung, chuyên canh, phát huy lợi thế sản phẩm chủ lực của vùng (lúa gạo,

thủy sản, trái cây), thể hiện vai trò trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng,

đánh bắt thủy sản của cả nước. Hiệu quả thu nhập trên mỗi ha đất sản xuất nông

nghiệp trong vùng tăng từ 38,2 triệu đồng/ha vào năm 2008 lên gần 78 triệu

đồng/ha năm 2015 [4]. Sản xuất lúa, trái cây, thủy sản phát triển nhanh về sản

lượng, là các ngành hàng chủ lực của vùng. ĐBSCL đã hình thành các mô hình tập

51

trung chuyên canh lúa, cây ăn trái và thủy sản, áp dụng công nghệ cao, tạo ra khối

lượng hàng hóa lớn. Các Viện, Trường, Trung tâm nghiên cứu tại vùng ĐBSCL đã

tham gia tích cực vào việc lai tạo, cung ứng cây, con giống, vật nuôi và sản xuất các

chế phẩm sinh học, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp.

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng nuôi, đánh bắt thủy sản lớn nhất nước,

chiếm 70% diện tích nuôi, 58% sản lượng thủy sản cả nước. Trong đó, cá tra, tôm

trở thành sản phẩm chủ lực quốc gia. Sản lượng tôm chiếm 80%, đóng góp 60%

kim ngạch xuất khẩu tôm cả nước. Khai thác thuỷ sản chuyển từ gần bờ sang chủ

động nuôi trồng, kết hợp đánh bắt xa bờ [4].

Hầu hết các địa phương đều thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu về tạo việc

làm năm 2015, tạo việc làm cho khoảng 323,5 nghìn lao động. Chương trình mục

tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững: năm 2015 ngân sách Trung ương đã hỗ trợ cho

vùng 275,5 tỷ đồng (chiếm 5,84% so tổng vốn cả nước). Tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng

giảm còn 3,54% (cả nước là 4,5%) [4].

Công tác an sinh xã hội được các địa phương quan tâm thực hiện. Trong

năm đã trợ cấp thường xuyên cho gần 500 nghìn người. Năm 2015 hỗ trợ cho

khoảng 135.000 đối tượng bảo trợ xã hội, gần 82.000 hộ nghèo với kinh phí

khoảng 87 tỷ đồng. Hỗ trợ 248,65 tấn gạo, 15,237 tỷ đồng cứu trợ đột xuất. Ngân

hàng Chính sách xã hội đã phát vay vốn cho hộ nghèo, gặp khó khăn trong sản

xuất với tổng số tiền gần 14.000 tỷ đồng. Ngoài ra, ngành Ngân hàng còn tài trợ

kinh phí thực hiện an sinh xã hội cho vùng với số tiền 443 tỷ đồng tập trung vào

các lĩnh vực là giáo dục (52,5%), y tế (18,9%) và hỗ trợ hộ nghèo (18,9%). Riêng

đối với các chương trình do Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ vận động, ngành Ngân

hàng đã tài trợ 143 tỷ đồng [4].

- Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn cải thiện rõ rệt

Thu nhập bình quân đầu người hộ nông dân tăng từ 5,7 triệu đồng/người

năm 2009 lên khoảng 13,8 triệu đồng/người năm 2015. Từ năm 2010 đến 2015, tích

lũy để dành của hộ nông thôn tăng lên gấp 2,1 lần, bình quân từ 3,2 triệu đồng/hộ

lên 6,7 triệu đồng/hộ. Đến năm 2015 38% cư dân nông thôn được khám chữa bệnh,

gần 60% cư dân nông thôn có bảo hiểm y tế. Chương trình bảo hiểm xã hội cho

52

nông dân đã được triển khai tại một số điểm. Tỷ lệ cư dân trên 10 tuổi biết chữ ở

nông thôn đã lên đến 85% năm 2015 [4].

Các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao được tăng cường, nâng

cao mức hưởng thụ về văn hoá cho nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hoá” khơi dậy tinh thần đoàn kết ở cộng đồng dân cư. Hàng

năm, nhân dân đóng góp hàng ngàn tỷ đồng để trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử -

văn hoá và tổ chức trên 8.450 lễ hội. Nhiều hình thức văn hoá dân gian truyền thống

được duy trì, phục dựng, góp phần bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của

các dân tộc ở cộng đồng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc [4].

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã có những biến chuyển tích cực, đạt

được những kết quả quan trọng như: trạm y tế xã có bác sĩ làm việc đạt 91,4% (cả

nước là 82,4%), xã đạt chuẩn quốc gia về y tế đạt 56,4% (cả nước là 52,2%), tỷ suất

chết trẻ em dưới 01 tuổi giảm còn 11,6‰ (cả nước 14,9‰), tỷ lệ suy dinh dưỡng

(cân/tuổi) giảm còn 13% (cả nước 14,3%), tỷ lệ giường bệnh/vạn dân đạt 26,2 (cả

nước 25) [4].

Mạng lưới y tế cơ sở được duy trì, củng cố và phát triển, nhiều trạm y tế

được xây mới hoặc nâng cấp. Công tác giải ngân vốn Chương trình mục tiêu Quốc

gia được thực hiện đúng tiến độ. Qua đó đã góp phần cải thiện và nâng cao sức

khỏe của người dân. Hoạt động y tế dự phòng được tăng cường, giám sát dịch chặt

chẽ, khống chế và dập dịch kịp thời, ứng phó được các vấn đề sức khỏe liên quan

đến thiên tai, dịch bệnh.

Các tỉnh Bến Tre, Bạc Liêu, Tiền Giang được công nhận đạt chuẩn phổ cập

giáo dục mầm non trẻ 05 tuổi. Tất cả các tỉnh được công nhận đạt chuẩn phổ cập

tiểu học đúng độ tuổi. Mạng lưới cơ sở dạy nghề tiếp tục được quan tâm đầu tư,

phát triển.

Việc triển khai thực hiện các chính sách dân tộc, các chương trình, dự án

phát triển KT-XH, xóa đói giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã

mang lại những kết quả quan trọng. Ý thức tự lực, tự cường vượt qua đói nghèo

trong đồng bào được nâng lên, nhiều hộ đã thoát nghèo vươn lên đủ ăn, có hộ trở

thành giàu có, nhiều nơi xuất hiện mô hình tập thể, cá nhân dân tộc thiểu số làm

53

kinh tế giỏi. Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được các cấp ủy, chính quyền

quan tâm nhiều hơn. Các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng đều được tôn trọng và tạo

điều kiện thuận lợi, chính sách, pháp luật về tôn giáo từng bước được hoàn thiện.

Hầu hết các tôn giáo trong vùng hoạt động đúng luật pháp; nhiều cơ sở thờ tự, các

chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động xã

hội, từ thiện.

- Kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn được tăng cường làm thay đổi rõ nét bộ

mặt nông thôn

Đầu tư thuỷ lợi đang hướng sang phục vụ đa mục tiêu, góp phần đáng kể vào

việc tăng năng suất, sản lượng và chất lượng các loại cây trồng. Tăng khả năng

cung cấp nước sinh hoạt nông thôn và đô thị, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về

cấp thoát nước phục vụ công nghiệp và phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng

cao. Hệ thống quản lý, vận hành hệ thống thuỷ lợi được củng cố và tăng cường

năng lực. Nhiều công trình thuỷ lợi kết hợp với phòng chống, tránh lũ được đầu tư

xây dựng góp phần tích cực vào công tác phòng chống giảm nhẹ thiên tai. Toàn

vùng đã xây dựng hơn 754 km đê sông và đê biển và nhiều công trình thủy lợi đã

phát huy tác dụng, mở rộng diện tích khai hoang, tăng vụ, hình thành những vùng

sản xuất mới [4].

Giai đoạn 2010-2015, tổng kinh phí Trung ương đầu tư cho các công trình

giao thông đường bộ, đường thủy, hàng hải, hàng không đã hoàn thành trên địa bàn

là 58.778 tỷ đồng. Nhiều công trình trọng yếu đã được đưa vào sử dụng như: cầu

Cần Thơ, cầu Hàm Luông, cầu Rạch Miễu, cầu Cổ Chiên, cầu Năm Căn, cầu Đầm

Cùng, cầu Mỹ Lợi, tuyến cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương, tuyến

đường Quản Lộ - Phụng Hiệp, tuyến đường Nam sông Hậu, Cảng hàng không quốc

tế Cần Thơ, Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc,... Các công trình này, cùng với

hơn 44.000 km đường và 19.877 cầu giao thông nông thôn do chính quyền và nhân

dân các địa phương chung sức xây dựng (tổng vốn đầu tư gần 24.380 tỷ đồng) đã

phá thế ngăn sông cách trở giữa các tỉnh, thành trong vùng với nhau, với thành phố

Hồ Chí Minh, nhiều địa phương trong nước và thế giới; thúc đẩy phát triển kinh tế,

văn hóa, xã hội của vùng [4].

54

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông có nhiều chuyển biến, gắn kết với

thủy lợi. Hạ tầng giao thông, thủy lợi có bước phát triển, gắn kết giao thông liên

vùng, góp phần làm thay đổi nhanh diện mạo nông thôn và vùng đồng bào dân tộc

thiểu số, bước đầu đáp ứng nhu cầu đầu tư, phát triển và an sinh xã hội. Hệ thống

giao thông huyết mạch, nhiều cầu vượt sông lớn giảm ách tắc giao thông liên tỉnh,

liên vùng.

Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, giao thông nông thôn

có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, nhất là việc xóa trên 90% cầu khỉ.

Đến nay, hầu hết các huyện, cụm xã và nhiều xã xây dựng được chợ [4].

Hiện vùng có 99,3% số xã có trường tiểu học, 90,8% số xã có trường trung

học cơ sở, có 54,5% số xã có lớp mẫu giáo, 16,1% số xã có nhà trẻ. Đến nay, cả

vùng có 45% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã; 99,3% xã có trạm y tế. Khu vực

nông thôn có 44% trạm y tế xây dựng kiên cố [4].

Đến năm 2015, tỷ lệ số hộ nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh lên tới

75%. Chương trình 135 đã tập trung xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cơ

bản phục vụ dân sinh cho các vùng sâu, vùng xa, hải đảo và vùng miền núi. Mặc

dù chất lượng của các công trình kết cấu hạ tầng ở nông thôn còn thấp so với đô

thị nhưng những nỗ lực của Nhà nước và nhân dân thời gian qua đã làm thay đổi

bộ mặt nông thôn [4].

- Tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị xã hội và chính quyền địa phương

được củng cố và phát triển

Toàn vùng có 8.412 tổ chức cơ sở đảng với 543.128 đảng viên. Thực hiện

Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp,

tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, đại hội đảng bộ các cấp đã

tiến hành thành công [4].

Năm 2015, có 89% số ấp có tổ chức đảng, bình quân có gần 32 đảng

viên/10.000 dân, có 50% tổ chức cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh;

hầu hết cán bộ chủ chốt cấp xã đạt trình độ văn hoá cấp trung học trở lên; đa số đã

qua đào tạo về chính trị với trình độ phổ biến là trung cấp [4]. Đa số các tổ chức

đảng ở cơ sở, các đảng viên phát huy tốt vai trò giữ vững sự ổn định về tư tưởng

55

chính trị; định hướng, vận động tổ chức nhân dân thực hiện các chủ trương, chính

sách của Đảng và các nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng cuộc

sống mới trên địa bàn.

Đến năm 2015, có 72,6% cán bộ, công chức đang làm việc ở xã đạt chuẩn

theo qui định; bình quân có 23 cán bộ, công chức cấp xã/10.000 dân. Có 56% cán

bộ và công chức cấp xã được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, trong đó chủ yếu

về nông, lâm, ngư nghiệp và quản lý nhà nước. Các cuộc vận động như “ngày vì

người nghèo”, “hỗ trợ người neo đơn, cơ nhỡ…” do Mặt trận Tổ quốc chủ trì và các

phong trào của Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh...

cũng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng

cao đời sống, ổn định chính trị, xã hội ở nông thôn [4].

Đến năm 2015, có 100% xã đã triển khai và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở

[4]. Chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tập trung trên một số mặt

như: công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng; chuyển dịch

cơ cấu sản xuất; huy động sự đóng góp của người dân; hỗ trợ nhân dân khi bị lũ lụt,

bão, tai nạn; phát triển văn hoá, tinh thần của người dân ở nông thôn... bước đầu

phát huy sức sáng tạo, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân dân trong

phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, từng bước cải thiện đời sống, nâng cao

dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng đảng bộ, chính quyền và

các đoàn thể ở cơ sở trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy

thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội. Nhờ

sự phối hợp hoạt động của toàn HTCT và nhân dân, trật tự xã hội nông thôn được

đảm bảo, giữ vững an ninh chính trị, đóng góp tích cực vào công cuộc bảo vệ chủ

quyền lãnh thổ đất nước.

- Kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới đoạn

2010-2020

Đến hết năm 2015, toàn vùng đã có 65% số xã được phê duyệt quy hoạch

NTM. Năm 2015 ngân sách Trung ương hỗ trợ cho vùng xây dựng NTM là 42 tỷ

đồng. Đồng thời, các địa phương đã giải ngân được hơn 1.300 tỷ đồng, chủ yếu

56

tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu. Bên cạnh nguồn vốn 220 tỷ đồng đầu

tư qua kênh khuyến nông Trung ương cho các xã NTM, các địa phương còn

dành gần 112 tỷ đồng cho các mô hình phát triển sản xuất để đẩy mạnh tiêu chí

về thu nhập cho các xã. Đến nay, toàn vùng 04 huyện được công nhận đạt chuẩn

NTM. Bình quân mỗi xã đạt 13,48 tiêu chí, trong đó có 233 xã đạt 19 tiêu chí

(chiếm 18,49%), 203 xã đạt 15-18 tiêu chí (chiếm 16,11%), 598 xã đạt 10-14

tiêu chí (chiếm 47,46%), 222 xã đạt 5-9 tiêu chí (chiếm 17,62%), 04 xã đạt dưới

5 tiêu chí (chiếm 0,32%) [4].

Chương trình xây dựng NTM đã thành công bước đầu và đạt được một số

kết quả quan trọng về KT-XH và kinh nghiệm tổ chức chỉ đạo của các ngành,

các cấp trong vùng: Chủ trương lấy xã làm điểm xuất phát để phát triển nông

thôn là phù hợp với yêu cầu và điều kiện nước ta hiện nay và đáp ứng được

nguyện vọng của dân cư nông thôn. Xã là cấp hành chính cuối cùng, có tư cách

pháp lý để triển khai các hoạt động KT-XH cho phát triển nông thôn. Đã bước

đầu xác định được những cơ chế, chính sách cần đổi mới như phân cấp đầu tư

xây dựng cơ bản cho huyện và xã, phát huy sự dân chủ ở cơ sở trong xây dựng

NTM, chính sách đất đai và phát triển hạ tầng nông thôn và giải pháp cho dồn

điền đổi thửa để phát triển sản xuất, cơ chế, chính sách tài chính, cơ chế quản lý

xây dựng cơ bản các cơ sở hạ tầng phù hợp vớichính quyền cấp xã trong xây

dựng NTM.

Một số địa phương trong vùng đã có nhiều cách làm sáng tạo đem lại hiệu

quả cao bước đầu trong xây dựng NTM như Đồng Tháp, An Giang. Tại Đồng

Tháp, khi bắt tay vào xây dựng NTM, các cấp, các ngành, các địa phương và

người dân trong toàn tỉnh đã vào cuộc với tinh thần hăng hái, không trông chờ, ỷ

lại vào chính quyền. Sức dân là nội lực xây dựng NTM, điều đó đã được khẳng

định tại các xã điểm, mỗi công trình đều mang đậm dấu ấn của người dân. Đó là

đóng góp tiền của, ngày công, là hiến đất làm đường…Tại các xã không được

chọn là điểm nhưng chính quyền và người dân cũng đã đồng lòng chung sức xây

dựng NTM. Có xã sự đóng góp của người dân chiếm đến 45%-50% tổng vốn

57

xây dựng NTM. Theo thống kê của Ban chỉ đạo Chương trình xây dựng NTM

tỉnh, tính đến tháng 09/2015, người dân trên toàn tỉnh hiến trên 1,7 triệu m2 đất,

đóng góp trên 200.000 ngày công lao động, di dời hàng ngàn cây ăn trái, hàng

trăm vật kiến trúc để xây dựng các công trình NTM [4].

So với nhiều địa phương trong khu vực, việc thực hiện Chương trình mục

tiêu quốc gia xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh An Giang gặp không ít khó khăn

do đây là một tỉnh có nền sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, tỷ lệ hộ nghèo cao,

cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém… Tuy nhiên, với cách làm sáng tạo, cùng với

sự đồng thuận và quyết tâm cao của người dân, ở An Giang đã xuất hiện nhiều

địa phương là điểm sáng trong phong trào này.

Tỉnh đã xác định quan điểm xây dựng NTM phải phát triển KT-KT, đời

sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn là mục tiêu trọng tâm, xuyên

suốt. Thực hiện cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích, vận động các nguồn

lực đầu tư của tổ chức, cá nhân vào nông nghiệp, nông thôn, không huy động

quá sức dân, tổ chức đầu tư xây dựng phải có trọng tâm, trọng điểm, tận dụng cơ

sở vật chất, hạ tầng sẵn có, tránh đầu tư dàn trải, lãn phí, và thực hiện xây dựng

NTM phải đúng chủ trương, tổ chức thực hiện linh hoạt, phù hợp với nguyên

vọng của người dân và điều kiện cụ thể của địa phương.

Tỉnh ủy An Giang đề ra 5 nhiệm vụ và giải pháp là: Tăng cường công tác

tuyên truyền, vận động, giáo dục; Tập trung phát triển kinh tế, nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần người dân nông thôn; Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm đẩy

mạnh kêu gọi đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn; Đẩy mạnh xây dựng

kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn từng bước hiện đại, ứng dụng khoa học công

nghệ vào sản xuất và quản lý; và Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao

hiệu quả quản lý nhà nước và phát huy vai trò của các tổ chức CT-XH.

Đến cuối năm 2015 tỉnh đã có 13/119 xã được công nhận xã NTM, thu

nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 27,56 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ

nghèo nông thôn từ mức 10,5% năm 2011, giảm xuống còn 2,8% [4].

58

3.1.2. Những hạn chế, yếu kém

Bên cạnh những kết quả đạt được, sau một giai đoạn phát triển thuận lợi,

thực trạng xây dựng NTM ở ĐBSCL vẫn đang đứng trước những khó khăn to lớn.

- Kinh tế nông nghiệp tăng trưởng chưa bền vững và sức cạnh tranh thấp

Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp đang có xu hướng chậm lại; sản xuất

nông nghiệp chậm phát triển theo hướng hiện đại, thiếu tính bền vững. Quan hệ sản

xuất chậm được đổi mới, kinh tế tập thể. Các tài nguyên đầu vào như đất, nước, lao

động và tỷ lệ vốn đầu tư cho nông nghiệp liên tục suy giảm.

Huy động các nguồn lực xây dựng NTM còn gặp nhiều khó khăn. Sự liên kết

giữa các địa phương chưa chặt chẽ và đi vào chiều sâu. Chính sách kêu gọi đầu tư

chưa thật sự hấp dẫn, thu hút đầu tư nước ngoài còn thấp, quy mô nhỏ.

Do quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, nông dân chưa được tổ chức trong các

HTX và hiệp hội ngành hàng, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản chế biến như kho

tàng, sân phơi, bến bãi,... còn kém phát triển, công nghiệp chế biến nông sản rất nhỏ

bé nên chất lượng nhiều loại nông sản còn thấp, nhất là rau quả, sản phẩm chăn

nuôi. Phần lớn nông sản chế biến xuất khẩu ở dạng sơ chế, mẫu mã bao bì chưa phù

hợp; chưa có thương hiệu, giá trị gia tăng thấp. Vệ sinh an toàn thực phẩm và các

hoạt động kiểm dịch và vệ sinh dịch tễ đối với hàng hóa nhập khẩu, nhất là qua

đường tiểu ngạch, chưa được kiểm tra, kiểm soát một cách hệ thống theo các tiêu

chuẩn kỹ thuật được áp dụng phổ biến trên thị trường quốc tế

- Lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ nông thôn chậm phát triển

Kết cấu kinh tế ở nông thôn vẫn chủ yếu là thuần nông, các hoạt động phi

nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Doanh

nghiệp ở nông thôn, kể cả doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh, đều có quy mô

nhỏ. Nhìn chung công nghệ lạc hậu, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ

khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp chưa được coi trọng, trình độ quản

lý thấp, tay nghề lao động yếu, những bất lợi về kết cấu hạ tầng, dịch vụ phục vụ

sản xuất khiến cho khả năng cạnh tranh của các đơn vị này rất yếu. Đây là nguyên

nhân chính khiến cho tỷ lệ đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài vào nông thôn rất

59

thấp. Đầu tư của tư nhân trong nước vào khu vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng

15% tổng số đầu tư mới hàng năm, FDI cũng chỉ chiếm dưới 5% [4].

Trong tình hình lao động nông thôn và số thanh niên đến tuổi lao động cần

việc làm vẫn tiếp tục tăng thêm hàng năm ở nông thôn (khoảng hơn 1 triệu người),

việc doanh nghiệp nông thôn và đầu tư về nông thôn tăng trưởng chậm tạo nên sức

ép to lớn về việc làm và thu nhập của cư dân nông thôn. Lao động trong nông

nghiệp vẫn chiếm 67% so với tổng số lao động trong độ tuổi của vùng và mới sử

dụng 81% thời gian [4].

Tín dụng đạt mức tăng trưởng khá so cả nước, nhưng nhìn chung các doanh

nghiệp chưa mạnh dạn vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, nguồn vốn tín

dụng gia tăng trong thời gian qua chủ yếu tăng cường cho vay đối với các đối tượng

nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư

trong ngắn hạn.

- Thu nhập của nông dân còn thấp, tỷ lệ nghèo cao, an ninh chính trị nông

thôn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ

Đời sống của người dân nhất là ở vùng nông thôn, nhất là vùng có đông

đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, số hộ cận nghèo còn cao, tiềm ẩn

nguy cơ tái nghèo lớn. Thu nhập và mức sống của dân cư nông thôn còn thấp; tỉ lệ

hộ nghèo và cận nghèo vẫn ở mức cao, giảm nghèo ở nhiều vùng kém bền vững;

còn tình trạng người dân bỏ ruộng; chất lượng y tế, văn hoá, giáo dục ở nhiều nơi

còn thấp.

Do tốc độ tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp chậm lại, việc làm và thu

nhập trong dịch vụ và công nghiệp nông thôn chậm phát triển nên thu nhập của dân

cư nông thôn tuy đã được cải thiện nhưng so với mặt bằng chung còn thấp. Công

tác an sinh xã hội tuy có bước tiến bộ, nhưng đời sống của người dân nhất là ở vùng

nông thôn, đồng bào dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, số hộ cận nghèo cao, tiềm ẩn

nguy cơ tái nghèo lớn.

Công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm vẫn còn khó khăn, các

giải pháp hỗ trợ người nghèo còn lúng túng, tính hiệu quả chưa cao, chưa có

60

chương trình đào tạo lao động tay nghề cao. Việc làm của nông dân không ổn định,

giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao, dẫn đến khả năng đảm bảo cho bữa ăn, sức khỏe,

học tập của con em trong gia đình bị sụt giảm.

Tội phạm hình sự, đặc biệt là tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên xu hướng

gia tăng, tình hình an ninh - trật tự xã hội nông thôn ngày càng phức tạp, khiếu

kiện đông người, kéo dài chưa được giải quyết dứt điểm. Công tác phối hợp của

các ngành và địa phương từng lúc, từng nơi chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao.

Công tác nâng cao dân trí của vùng ĐBSCL chưa đáp ứng yêu cầu ngang bằng với

các vùng khác trong cả nước. Tranh chấp, khiếu kiện vẫn còn phức tạp, đơn khiếu

nại còn tồn đọng nhiều. Tội phạm về trật tự xã hội chưa giảm [Xem Phụ lục 10].

- Ô nhiễm môi trường tăng, nhiều tài nguyên bị khai thác quá mức

Tình trạng ô nhiễm nguồn nước, đất đai, không khí ngày càng tăng, nhất

là xâm nhập mặn. Lẫn trong các khu cư dân nông thôn, sản xuất chăn nuôi và

ngành nghề chế biến phát triển đang gây ra tình trạng ô nhiễm ở nhiều nơi, đặc

biệt nghiêm trọng là ở các làng nghề gây thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe

nông dân và năng suất các nghề trồng cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản...

Tình trạng sản xuất thâm canh, sử dụng quá nhiều phân bón, hóa chất,

thuốc bảo vệ, chất kích thích sinh trưởng và tạo ra nhiều chất thải của các vùng

chăn nuôi tập trung, nuôi thủy sản tập trung, các vùng chuyên canh các cây trồng

đang làm ô nhiễm môi trường, tạo ra dư lượng các chất độc hại trong nông sản

thực phẩm, làm tăng khả năng chống chịu và đột biến của sâu bệnh.

Các tài nguyên thiên nhiên như đất, nước,... ngày càng hạn hẹp, bị khai

thác bừa bãi cũng dẫn đến tình trạng sụt giảm tính đa dạng sinh học, mất cân

bằng sinh thái, cạn kiệt. Tài nguyên động vật quý hiếm, nguồn nước ngầm,

nguồn lợi thuỷ sản trong nội địa và ở các vùng biển ven bờ, một số loại khoáng

sản đã có dấu hiệu bị khai thác quá mức.

Nguy cơ về biến đổi khí hậu, thời tiết diễn biến phức tạp, bất thường, khó

lường; thiên tai và dịch bệnh liên tiếp xảy ra cả cho cây trồng và vật nuôi khiến

cho tình hình phát triển sản xuất nông nghiệp trở nên kém bền vững. Giá lao

động tăng dần, giá các vật tư nông sản như phân bón, xăng dầu, thuốc bảo vệ

61

thực vật, thú y, giống nông sản cũng tăng nhanh. Công tác bảo vệ môi trường

còn hạn chế, tình trạng ô nhiễm ở nhiều lưu vực sông, khu công nghiệp, làng

nghề, những vùng nuôi thủy sản tập trung; quản lý tài nguyên chưa chặt chẽ, đất

đai chưa được khai thác tốt để tạo nguồn lực cho phát triển.

- Một số vấn đề bất cập khi triển khai thực hiện chương trình NTM đã làm

giảm hiệu lực và hiệu quả của các nỗ lực đầu tư của nhà nước, của xã hội vào

phát triển nông thôn.

Các tiêu chí đánh giá chưa thật phù hợp với tình hình thực tế, còn cứng

nhắc, không sát với tình hình từng vùng miền, đặc điểm văn hóa xã hội của từng

cộng đồng cư dân nông thôn. Vì thế, để đạt được đủ 19 tiêu chí hầu như là điều

khó khả thi, thể hiện ở chỗ: các tiêu chí tập trung nhiều vào kết quả của sự can

thiệp hơn là tập trung vào bản chất của quá trình can thiệp, để có sự thay đổi về

chất trong quá trình phát triển nông thôn; mức độ đánh giá các tiêu chí đó

thường không thể hiện mức tối thiểu phải đạt được (ví dụ 70% số km đường ngõ,

xóm được cứng hoá, không phải là tối thiểu là 70%..) và chưa phản ánh việc phát

huy tác dụng và đem lại lợi ích KT-XH và môi trường cho cư dân nông thôn;

một số tiêu chí đánh giá còn cứng nhắc và máy móc, lạc hậu, không phù hợp với

thực tế vùng miền(về giao thông và thủy lợi, chợ, nhà ở, internet, tỷ lệ lao động

trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông thôn); tiêu chí về kinh tế và tổ chức

sản xuất, giáo dục và y tế chưa thật hợp lý, khó thực hiện.

Khi triển khai thực hiện chương trình NTM, phần lớn các địa phương vẫn

áp dụng theo cách tiếp cận truyền thống “từ trên xuống”. Khi tỉnh, huyện chọn

xã điểm, thường chọn những xã đã được đầu tư, có kinh tế khá hơn nên những

mô hình NTM như thế ít đại diện cho số đông các xã nghèo và vùng nghèo.

Trong nhiều trường hợp, các cán bộ của các xã điểm phải mất nhiều thời gian

vào các hoạt động đón tiếp, báo cáo kinh nghiệm, ít có thời gian suy nghĩ để

hoàn thiện hơn đời sống KT-XH ở địa phương của họ. Đó cũng là lý do mà vì

sao kết quả triển khai thực hiện ở các mô hình thí điểm này khó được nhân rộng

vì các xã cần nhân rộng lại là những xã có điều kiện KT-XH thấp kém hơn nhiều

so với các xã điểm.

62

Việc xây dựng đề án và quy hoạch của các xã NTM thường được tiến

hành qua các tư vấn từ các đơn vị chuyên môn làm quy hoạch. Tuy nhiên, ở khá

nhiều xã, các đề án phát triển nông thôn, được viết chung chung, tuân theo một

khuôn mẫu, phản ánh quan điểm và cách nhìn của người ngoài hơn là cư dân ở

xã đó. Hơn nữa, do sức ép thời gian nên tính khả thi của đề án NTM thường

không cao. Mặt khác, quy hoạch xây dựng NTM là bao gồm quy hoạch phát

triển KT-XH, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch khu dân

cư. Thế nhưng, hầu hết các đơn vị tư vấn không có kiến thức đa ngành, chưa có

kinh nghiệm thực hiện quy hoạch này.

Chưa có sự phối kết hợp tốt giữa các cấp và các ngành. Đề án phát triển

nông thôn đã được phê duyệt chưa được cụ thể hóa vào kế hoạch hành động của

các ngành, các cấp. Một trong những thách thức lớn nhất hiện nay trong xây

dựng NTM là nhận thức của phần đông cán bộ các cấp về nội dung, cách triển

khai còn mang tính hành chính, chạy theo phong trào, không lấy cư dân nông

thôn làm trung tâm cho phát triển.

Cán bộ cộng đồng và người dân địa phương thiếu kỹ năng quản lý và

giám sát các công trình. Khi triển khai thực hiện các hoạt động trong đề án phát

triển nông thôn ở các xã, các cán bộ địa phương gặp nhiều khó khăn trong quản

lý, giám sát các dự án phát triển nông thôn tại địa phương. Nhiều nơi, cũng thành

lập Ban quản lý để giám sát và kiểm tra. Tuy nhiên, hiệu lực và hiệu quả của ban

quản lý này thấp.

- Thiếu vốn đầu tư, chưa phát huy cao độ nội lực của địa phương và của dân.

Xây dựng NTM cần nhiều kinh phí trong khi nguồn lực của địa phương có

hạn. Các tỉnh ĐBSCL hầu hết là thuần nông nên thu ngân sách trên địa bàn chưa

đáng kể, không đủ chi nên đều phải phụ thuộc vào ngân sách trung ương. Do

ngân sách của các tỉnh chủ yếu dựa vào nguồn điều tiết của nhà nước cấp trên

nên huyện và các xã không có nguồn lực để đề ra các cơ chế chính sách thúc đẩy

phát triển KT-XH trên địa bàn. Do nguồn lực của nhân dân chưa nhiều nên mức

độ huy động sự đóng góp của dân rất hạn chế [Xem Phụ lục 10].

63

Nhu cầu của các xã làm mô hình NTM thường lớn, vượt quá khả năng đầu

tư của huyện và tỉnh. Các địa phương khi xây dựng đề án, không tính nguồn lực

của địa phương, ít chú trọng sự đóng góp của dân, nguồn lực chủ yếu là ngân

sách nhà nước. Sự tham gia của người dân mới tập trung ở khâu huy động đóng

góp tiền của vào xây dựng hạ tầng. Chưa coi trọng việc huy động đóng góp công

sức của người dân vào xây dựng NTM như: tu sửa nhà ở, chuồng trại chăn nuôi,

công trình vệ sinh, tham gia thi công các công trình xây dựng trên địa bàn. Đã

phát sinh tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước là không lành mạnh, không

công bằng với các xã chưa được nằm trong diện thí điểm xây dựng mô hình. Các

địa phương chủ yếu tập trung vào xây dựng mới công trình, ít quan tâm đến tu

sửa, nâng cấp, quản lý và vận hành các công trình đã có. Trong cơ cấu đầu tư

công, tập trung quá nhiều vào hạ tầng cơ sở, chưa chú trọng đầu tư vào năng lực

và các giải pháp để phát triển kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập.

Việc giải ngân các chương trình quốc gia chậm, tình trạng cơ chế xin cho,

tâm lý ban phát nặng. Đầu tư giải ngân chậm do thủ tục hành chính chủ yếu ở

trung ương, đến cuối năm các chương trình thi công, thực hiện vội vàng, chất

lượng kém, và đơn vị hưởng thụ phải chấp nhận vì “thà có còn hơn không”.

- Một số chính sách cho nông nghiệp còn nhiều bất cập như tình trạng

một địa bàn nhiều chính sách, nhiều đơn vị quản lý chồng chéo, nhiều vùng đồng

ruộng chưa được cải tạo cơ bản, hoặc cải tạo thì bị băm nhỏ chia đều. Việc

khống chế hạn điền trong sử dụng đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân quy

định của luật Đất đai đã ảnh hưởng quá trình tích tụ ruộng đất để tạo ra những

vùng sản xuất chuyên canh lớn có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật

nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.

Những quy định liên quan đến vấn đề sử dụng đất đai trong lĩnh vực nông

nghiệp, địa phương khi thu hồi đất của các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm

nghiệp, ban quản lý rừng sử dụng không đúng mục đích, chuyển nhượng, cho

thuê trái pháp luật hoặc thu hồi đất của các doanh nghiệp thuê đất mà không thực

hiện dự án thì phải đền bù, bồi thường tài sản doanh nghiệp đã đầu tư trên đất

nhưng ngân sách địa phương không có khả năng.

64

Thời hạn sử dụng đất, đến nay một số loại đất đã gần hết thời hạn nhưng

Nhà nước chưa có chủ trương, quyết định cụ thể nên nông dân không yên tâm

mạnh dạn đầu tư.

Thực trạng quá trình đô thị hóa, đầu tư phát triển công nghiệp khiến người

nông dân mất việc và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Việc nghị rà soát các lĩnh vực

liên quan đến lao động việc làm, tăng cường phát triển nguồn nhân lực ở nông

thôn, tăng cường nguồn tín dụng, tạo nhiều việc làm và khuyến khích xã hội hóa

đào tạo nghề ở khu vực nông thôn còn chậm.

3.2. THỰC TRẠNG CÁC TỈNH ỦY Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

3.2.1. Ưu điểm và nguyên nhân

3.2.1.1. Ưu điểm

* Về nội dung lãnh đạo

- Về lãnh đạo quy hoạch xây dựng nông thôn mới

Trên tinh thần nghị quyết chung của Trung ương, căn cứ vào điều kiện thực

tiễn của từng địa phương các tỉnh uỷ đã cụ thể hoá thành các nghị quyết chuyên đề

phù hợp với địa phương mình để HĐND và UBND tỉnh xây dựng các đề án, các cơ

chế, chính sách để huy động các nguồn lực đầu tư cho xây dựng NTM.

Xác định công tác quy hoạch trong xây dựng NTM là khâu đột phá, các tỉnh

ủy lãnh đạo UBND các tỉnh, các sở, ngành chức năng lập quy hoạch và yêu cầu

công tác quy hoạch phải đi trước một bước trong xây dựng NTM. Hiện nay các tỉnh

đã điều chỉnh bổ sung và công bố các loại quy hoạch ngành nghề phát triển nông

nghiệp, nông thôn gắn với du lịch, dịch vụ.

Trong lãnh đạo công tác lập quy hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp, xây

dựng NTM các tỉnh ủy đã chủ trương cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp nhằm phát

huy tối đa tiềm năng, lọi thế của địa phương, xây dựng và tổ chức sản xuất theo quy

hoạch là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Nhiều quy họach liên quan

đến nông nghiệp đã được xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện như: rà soát quy

65

hoạch các loại rừng; thủy sản; thủy lợi; chăn nuôi; cấp nước sạch và vệ sinh môi

trường; phát triển vùng nguyên liệu gắn chế biến xuất khẩu; hệ thống giết mổ gia

súc, gia cầm tập trung; bố trí, ổn định dân cư; sử dụng đất; kế cấu hạ tầng, thương

mại, dịch vụ nông thôn.

Các tỉnh ủy đã quan tâm lãnh đạo các cấp chính quyền thực hiện công tác lập

quy hoạch và quản lý quy hoạch ở địa phương, đồng thời yêu cầu việc lập quy

hoạch NTM phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH từng tỉnh,

huyện; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực; quy hoạch sử dụng đất.

- Về lãnh đạo phát huy các nguồn lực đầu tư xây dựng nông thôn mới

Các tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền phát huy các nguồn lực đầu tư

xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn. Chính quyền các cấp sử dụng nguồn

vốn của Trung ương, địa phương và vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia theo

Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cho các xã điểm để xây dựng

kết cấu hạ tầng KH-XH.

Chương trình xây dựng NTM là sự nghiệp lâu dài, cần phải có nguồn vốn

lớn để thực hiện. Qua thực tiễn triển khai thấy hiện nay các chính sách phục vụ cho

chương trình xây dựng NTM còn thiếu hoặc nếu có thì cũng chưa hoàn thiện. Vì

vậy trên cơ sở chủ trương, quy định của Trung ương các tỉnh ủy đã chỉ đạo chính

quyền có nhiều biện pháp để phát huy các nguồn lực đầu tư xây dựng NTM như:

Nghiên cứu, đề xuất bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách xây dựng

NTM, như: tích tụ đất đai sản xuất nông nghiệp; phát triển sản xuất nông nghiệp

hàng hoá; công nghiệp hỗ trợ cho nông nghiệp... Đồng thời thực hiện lồng ghép

các nguồn vốn của các chương trình mục tiêu Quốc gia; các chương trình, dự án

hỗ trợ có mục tiêu trên địa bàn; phát huy hiệu quả nguồn lực địa phương; huy

động tối đa vốn đầu tư doanh nghiệp; các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự

nguyện của nhân dân; các khoản viện trợ không hoàn lại; sử dụng có hiệu quả các

nguồn vốn tín dụng... [Xem Phụ lục 10].

Cấp huyện, xã khẩn trương xây dựng chính sách hỗ trợ xây dựng NTM của

cấp mình, chủ động xây dựng kế hoạch vốn hợp lý và triển khai huy động tổng hợp

66

các nguồn lực cho xây dựng NTM; đồng thời phải tăng cường quản lý đầu tư xây

dựng và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản, trong đó tập trung hoàn thành những công

trình đang thi công dang dỡ, công trình thiết yếu.

Các tỉnh uỷ đã xác định để phát triển kinh tế nông nghiệp phải phát triển

kinh tế tư nhân, kinh tế trang trại, kinh tế HTX và các tập đoàn kinh tế lớn và

trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cần phải có sự liên kết “4 nhà”

đề phát triển nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn. Thực hiện được điều này, các

tỉnh uỷ đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các tỉnh bạn, nước

bạn; thể hiện rất rõ nhất đó là: mối quan quan hệ để xây dựng các vùng kinh tế

nông nghiệp hàng hoá lớn gắn kết chặt chẽ với tỉnh để quản lý bảo vệ phát triển

rừng tốt hơn. Đón đầu và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là tiến bộ

về giống, công nghệ sinh học.

Ngoài ra, trong kế hoạch phân bổ vốn hằng năm, các tỉnh ủy lãnh đạo

chính quyền tập trung ưu tiên vốn đầu tư, tăng cường vốn lồng ghép về xây dựng

NTM; phải bố trí nguồn kinh phí riêng hỗ trợ cho các xã làm “vốn mồi” trong

việc đầu tư xây dựng NTM. Công trình xây dựng NTM nào đã có danh mục và

ghi vốn đầu tư thì phải tập trung triển khai thực hiện, tránh trường hợp điều

chuyển danh mục và vốn sang công trình xây dựng cơ bản khác. Trong công tác

huy động nguồn lực xây dựng NTM, đã quán triệt phương châm “huy động

nguồn lực từ cộng đồng tại chỗ là quyết định, sự tham gia của doanh nghiệp và

xã hội là quan trọng, sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là cần thiết”. Các địa

phương chủ động, sáng tạo trong huy động nguồn lực; tránh được tư tưởng trông

chờ vào nguồn ngân sách đầu tư từ cấp trên.

- Về lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu, kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao thu nhập

Các tỉnh ủy đã lãnh đạo UBND các tỉnh chỉ đạo các Sở Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã có nhiều cách làm

hiệu quả trong qua trình hướng dẫn triển khai các huyện chỉ đạo chuyển dịch cơ

cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập. Hiện tại, nhiều xã đã chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa; chuyển dịch cơ cấu lao động trong

nông nghiệp, gắn với giải quyết việc làm cho nông dân; phát triển nhanh các HTX

67

kiểu mới, hiệu quả cao; phát triển kinh tế trang trại ở nông thôn; phát triển doanh

nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh việc tập trung ngân sách nhà nước và huy động

nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, các tỉnh ủy còn quan tâm chỉ đạo

việc đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp nông thôn. Qua đó đã có những chuyển biến trong tư duy người

dân về sản xuất, chuyển dần từ nhỏ lẽ sang sản xuất hàng hóa. Bước đầu hình

thành được một số vùng sản xuất quy mô lớn như lúa, tôm sú, cá da trơn, cây ăn

quả... Kinh tế tập thể, trang trại và các hình thức liên doanh, liên kết giữa doanh

nghiệp và người dân bước đầu có sự phát triển, lĩnh vực ngành nghề được mở

rộng, tạo tiền đề cho sản xuất nông nghiệp hành hóa và phát triển công nghiệp chế

biến. Nhiều ngành nghề truyền thống nông thôn được quan tâm bảo tồn. Mạng

lưới dịch vụ nông nghiệp được phát triển rộng khắp, cung ứng đầy đủ kịp thời

nguyên liệu phục vụ sản xuất trên địa bàn. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, cơ

gới hóa sản xuất nông nghiệp được quan tâm khuyến khích, đẩy mạnh.

- Về lãnh đạo phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, an sinh

xã hội, nước sạch, bảo vệ môi trường sinh thái ở nông thôn.

Thực hiện đường lối của Đảng, về giáo dục, đào tạo, các tỉnh ủy đã lãnh đạo

triển khai chương trình về nâng cao chất lượng giáo dục; đảm bảo đủ số lượng, chất

lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý cho các trường học; bồi dưỡng nghiệp

vụ, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên. Đặc biệt, các địa phương đã quan tâm tới bậc học

mầm non, nhà trẻ cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, đã thu hút nhiều học

sinh, sinh viên có thành tích học tập tốt, có trình độ cao về địa phương công tác.

Các cấp ủy đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác khám chữa bệnh, bảo

hiểm y tế cho cư dân; các công trình y tế xã được tăng cường đầu tư cơ sở vật chất.

Hiện tại, đã có nhiều các bác sỹ về công tác ở cơ sở, tạo điều kiện chăm sóc và bảo

vệ sức khỏe người dân.

Trên cơ sở nghị quyết của Tỉnh ủy, chương trình kế hoạch của Ủy ban nhân

dân tỉnh về vấn đề này, các cấp ủy đã cụ thể hóa và lãnh đạo thực hiện. Nhờ đó,

thiết chế văn hóa ở nông thôn từng bước được xây dựng và hoàn thiện; làm tốt công

tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể. Tập trung

68

lãnh đạo nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa” trong đó, trọng tâm là xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa.

Các ngành trong tỉnh đã chủ động phối hợp với các cơ quan đoàn thể chính

trị - xã hội các cấp tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân về bảo

vệ môi trường sinh thái khu vực nông thôn; tăng cường đầu tư chương trình nước

sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, phòng chống dịch bệnh nguy hiểm xảy ra;

quản lý và bảo vệ bền vững tài nguyên đất; xây dựng hệ thống cấp, thoát nước, các

khu xử lý rác thải và tổ chức tốt việc thu gom, xử lý rác thải, nước thải phù hợp; tiến

hành xây dựng và ban hành quy chế quản lý các nghĩa trang theo quy hoạch.

- Về lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị cơ sở nông thôn vững mạnh, giữ

vững quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn.

Các cấp ủy đã lãnh đạo việc kết hợp chương trình cải cách hành chính với

xây dựng và củng cố HTCT ở khu vực nông thôn đạt kết quả. Thực hiện tốt công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là nguồn cán bộ trẻ tại chỗ; hiệu lực quản lý của

chính quyền được nâng lên; MTTQ và các đoàn thể nhân dân đã phát huy tốt vai trò

trong mọi hoạt động của địa phương. Đã thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, có

tiến bộ trong công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân ngay

tại cơ sở. Đồng thời, từng bước bổ sung chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động

của các tổ chức trong HTCT các cấp phù hợp với yêu cầu xây dựng NTM.

Các tỉnh ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt các chủ trương, biện pháp bảo

vệ an ninh, trật tự khu vực nông thôn. Chính quyền các cấp đã ban hành quy ước,

hương ước ở các ấp, khóm về đảm bảo an ninh, trật tự, phòng chống các tệ nạn xã

hội và các hủ tục lạc hậu; nâng cao cảnh giác cách mạng cho nhân dân trước hoạt

động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bọn phản động. Giải quyết các

vụ việc liên quan đến an ninh nông thôn. Các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, tai

nạn giao thông, tai nạn lao động nghiêm trọng ở nhiều nơi đã giảm; điều chỉnh và

bổ sung chức năng, nhiệm vụ và chính sách tạo điều kiện cho lực lượng an ninh xã,

ấp, khóm hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn theo yêu

cầu xây dựng NTM.

69

* Về phương thức lãnh đạo xây dựng nông thôn mới

- Về lãnh đạo xây dựng nông thôn mới bằng việc xây dựng và ban hành

các nghị quyết về mục tiêu, nhiệm vụ, chủ trương, giải pháp xây dựng nông

thôn mới.

Sau khi Đảng ban hành Nghị quyết Trung ương VII, khóa X của Đảng về

“nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định

số 491/QĐ-TTg, ngày 16/4/2009 về ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM

Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê

duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020,

các tỉnh ủy đã triển khai thực hiện bằng việc ban hành nghị quyết và chương

trình hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đây là văn bản cơ bản và

là tiền đề cho việc triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc

gia về xây dựng NTM.

Các cấp ủy trong tỉnh đã ra nghị quyết về cụ thể hóa nghị quyết, chương

trình hành động của tỉnh ủy về xây dựng NTM, phù hợp với địa phương và chỉ

đạo triển khai thực hiện. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng NTM, các tỉnh ủy đã

ban hành các chỉ thị, kết luận về từng mặt, nội dung xây dựng NTM và chỉ đạo

thực hiện.

Các chủ trương, chính sách của Đảng liên quan đến NTM đã được các

tỉnh ủy tập trung lãnh đạo HĐND, UBND tỉnh cụ thể hoá thành các chương trình

hành động của cấp ủy và các đề án, kế hoạch thực hiện của các tỉnh trong vùng.

- Về lãnh đạo bằng công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền, vận động,

thuyết phục của tổ chức đảng và các tổ chức khác trong HTCT.

Từ giáo dục chính trị, tư tưởng trong đảng đến hệ thống truyền thông của

Nhà nước, các tỉnh ủy đã thường xuyên tiến hành tuyên truyền chủ trương, chính

sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng NTM, nhờ đó đã hướng dẫn, động viên

nhiều cán bộ, đảng viên, nhân dân hăng hái đi đầu tham gia. Việc tuyên truyền

giáo dục ý thức pháp luật, thi đua phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn cũng

được quan tâm.

70

Ủy ban nhân dân các tỉnh đã tổ chức Hội nghị triển khai Chương trình mục

tiêu quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 để giới thiệu những nội dung

cơ bản của Chương trình, triển khai hướng dẫn công tác lập quy hoạch xây dựng

NTM và các nội dung có liên quan đến xây dựng NTM. Đài Phát thanh - Truyền

hình, báo Đảng, cổng thông tin điện tử các tỉnh đã tăng trang, thời lượng đưa tin về

việc triển khai Chương trình xây dựng NTM. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình và báo đảng các tỉnh xây dựng

chuyên mục NTM.

Văn phòng Điều phối các tỉnh đã in ấn và phân phối tài liệu tuyên truyền xây

dựng NTM để tuyên truyền đến cán bộ và nhân dân. Đến nay, 100% huyện, thị xã,

thành phố đã tổ chức triển khai những văn bản, hướng dẫn xây dựng NTM cho các

phòng, ban huyện và các xã trên địa bàn. Đồng thời, cấp huyện đã chỉ đạo bộ phận

truyền thanh cập nhật, đưa tin về Chương trình xây dựng NTM [4].

Ngoài ra, Uỷ ban MTTQ các tỉnh đã tổ chức Hội nghị tập huấn xây dựng

NTM để phổ biến ý nghĩa, mục đích chương trình và hướng dẫn các địa phương thu

thập thông tin về các hộ gia đình tham gia xây dựng NTM của các xã điểm. Các Sở

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ký kết các kế hoạch liên tịch với Hội Nông

dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên đoàn Lao

động các tỉnh trong tuyên truyền, vận động thực hiện Chương trình xây dựng NTM.

- Về lãnh đạo thông qua hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên

Các tỉnh ủy ở ĐBSCL đã thường xuyên quan tâm xây dựng, phát huy vai trò

lãnh đạo của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ đảng viên ở nông thôn để xây

dựng NTM. Trong những năm qua, Đảng uỷ các cấp đã quan tâm chỉ đạo việc củng

cố tổ chức cơ sở Đảng, nhất là việc củng cố và xây dựng chi bộ đảng vững mạnh,

xóa dần ấp “trắng”. Cho đến hết năm 2015 cả vùng có 11.784 chi bộ đảng ấp. Số

chi bộ đảng yếu đã được củng cố và từng bước giảm. Số chi bộ trong sạch, vững

mạnh hằng năm đạt 50% [4].

Các tỉnh ủy thường xuyên quan đến việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán

bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ở cơ sở nông thôn. Đã coi trọng và lãnh đạo

71

nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng định kỳ, có nội dung sinh hoạt đảm bảo lãnh

đạo quần chúng nhân dân ở cơ sở nông thôn hoạt động có hiệu quả.

Coi trọng việc quản lý, bảo vệ cán bộ, đảng viên do tổ chức đảng phụ trách;

theo dõi chỉ đạo, phân công, trách nhiệm cho đảng viên của từng chi bộ đúng theo

trình độ hiểu biết, khả năng của từng người và tạo điều kiện cho mọi cán bộ, đảng

viên được nghiên cứu học hành nâng cao trình độ về mọi mặt để hoàn thành nhiệm

vụ được giao.

Lãnh đạo cấp ủy các xã thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội do cấp

trên đề ra, phù hợp với đặc điểm, thế mạnh của từng xã để tập trung giải quyết

những vấn đề khó khăn; theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các chương trình xây

dựng cơ sở hạ tầng như: điện, trường học, trạm y tế, chợ, nước sạch, đường giao

thông, thuỷ lợi và các công trình công cộng khác.

- Về lãnh đạo thông qua xây dựng các mô hình thí điểm, các điển hình NTM,

sơ kết, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến.

Các tỉnh ủy lãnh đạo xây dựng NTM thông qua tuyên truyền về nội dung và

kết quả triển khai thực hiện chương trình gắn với phổ biến các điển hình tiến tiến,

các mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả.

Nông thôn mới là một chương trình lớn, phương án tiếp cận mới. Lần đầu

tiên xây dựng nông thôn được làm theo tiêu chí, có quy chuẩn; lấy người dân làm

chủ, nội lực là chính; Nhà nước hướng dẫn bằng chính sách, quy chuẩn chứ không

phải chỉ cấp tiền… Đây là chương trình với mục tiêu chuyển đổi sâu sắc và toàn

diện nông thôn, cách làm, cách tiếp cận khác các lần trước, bài bản và sâu sắc hơn.

Do đó, càng không thể làm nhanh được. Mỗi năm, từ thực tiễn đã phát sinh những

nhân tố mới, yêu cầu các tỉnh ủy đã tổng kết, rút kinh nghiệm từ thực tiễn và có

những điều chỉnh để lãnh đạo đẩy nhanh tiên độ thực hiện chương trình.

Có rất nhiều cách xây dựng NTM khác nhau như việc huy động nguồn lực,

tại tỉnh An Giang, với người có tâm huyết đóng góp xây dựng các công trình ở nông

thôn (như 1 trường học, 1 cây cầu, đoạn đường có giá trị lớn…), để người đó được

mang tên công trình ấy. Ngoài ra, nhiều địa phương đã có cách làm, cách hiểu rất

72

sáng tạo, gần gũi để mọi người thấy cần thiết phải thực hiện như: Tuyên truyền

bằng cách hát hò, làm thơ, khơi lại phong trào “sạch làng, tốt ruộng”, xóm xanh,

không rác; khu dân cư NTM kiểu mẫu; nâng cao hiệu quả liên kết với doanh nghiệp

để tiêu thụ nông sản; các công việc phải được dân luận bàn kỹ và quyết định.

- Về lãnh đạo thông qua Ban chỉ đạo chương trình xây dựng NTM và các tổ

chức trong hệ thống chính trị các cấp trong tỉnh, nhất là thông qua chính quyền.

Trên cơ sở quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách lớn về xây dựng

NTM, các tỉnh ủy đã thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo các ngành các cấp, các lực

lượng có trách nhiệm tham gia xây dựng NTM. Các Sở Nông nghiệp - Phát triển

nông thôn thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng quản lý nhà nước. Các ngành

từ tài chính, ngân hàng đến Quân đội Công an đều chủ động thực hiện nhiệm vụ

liên quan đến xây dựng NTM.

Cấp uỷ các cấp đã thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ

cán bộ nông thôn và cán bộ phụ trách các mặt xây dựng NTM. Đẩy mạnh đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở theo từng chức danh, chú trọng bồi dưỡng kiến thức,

kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm giải quyết các tinh hình cụ thể ở cơ sở nông

thôn; chỉ đạo tăng cường việc kiểm tra thực hiện. Để trẻ hoá và nâng cao chất

lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, Nhiều tỉnh đã chủ trương đưa sinh viên tốt nghiệp

đại học xuống làm công tác xã, có chính sách tiền lương hoặc phụ cấp phù hợp

với cán bộ chủ chốt ở cơ sở.

Cấp ủy đảng đã phát huy tốt vai trò của Mặt trận, các đoàn thể, các tổ

chức kinh tế, xã hội, vai trò của cộng đồng dân cư tham gia xây dựng NTM. Mặt

trận Tổ quốc; Công đoàn; Đoàn thanh niên; Hội nông dân; Hội phụ nữ và Cựu

chiến binh đã hợp thành hệ thống tổ chức, lực lượng đang hàng ngày hàng giờ

tích cực tham gia xây dựng NTM [Xem Phụ lục 10].

Các tỉnh ủy luôn quan tâm lãnh đạo xây dựng HTCT cơ sở vững mạnh,

giữ vững quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nông thôn.

Thường xuyên quan tâm xây dựng, phát huy vai trò lãnh đạo của các tổ chức

đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nông thôn trong quá trình xây dựng NTM;

73

chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh làm hạt nhân chính

trị lãnh đạo ở cơ sở.

Tỉnh ủy đã lãnh đạo Mặt trận MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội tích

cực tham gia chương trình xây dựng NTM, nhất là tham gia củng cố hệ thống

chính trị cơ sở và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn, động viên sức

mạnh toàn dân, xây dựng NTM theo các tiêu chí đã đề ra.

Xác định xây dựng NTM là sự nghiệp lâu dài của toàn Đảng, toàn dân,

của cả HTCT và toàn xã hội, trong đó Mặt trận Tổ quốc các cấp đóng vai trò rất

quan trọng trong công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân đoàn

kết, phát huy sức mạnh thực hiện thắng lợi chương trình. Sau khi có các văn

bản của Đảng, Nhà nước, các tỉnh ủy đã chỉ đạo Ban Thường trực Uỷ ban

MTTQ Việt Nam tỉnh xây dựng các hướng dẫn để tuyên truyền, vận động nhân

dân trong tỉnh hưởng ứng phong trào xây dựng NTM. Trên cơ sở đó, MTTQ,

các tổ chức thành viên đã phối hợp chặt chẽ với Ban chỉ đạo xây dựng NTM

các cấp trong tỉnh và các cơ quan liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến,

quán triệt đến các tầng lớp nhân dân về các quan điểm, chủ trương, chính sách

của Đảng, Nhà nước các cấp, nội dung, tiêu chí xây dựng NTM đạt được kết

quả quan trọng.

- Các tỉnh ủy lãnh đạo xây dựng nông thôn mới thông qua công tác kiểm

tra, giám sát. Cấp ủy địa phương các cấp đã cải tiến việc xây dựng và thực hiện

công tác kiểm tra hàng năm, thường xuyên đi kiểm tra tình hình xây dựng NTM.

Nội dung các đợt kiểm tra đã căn cứ vào chương trình kiểm tra của cả nhiệm kỳ,

tập trung kiểm tra những nghị quyết, chương trình, dự án xây dựng NTM. Đã chú

trọng lựa chọn những tổ chức đảng khu vực nông thôn có nét điển hình, những cá

nhân có liên quan trực tiếp đến việc lãnh đạo, tổ chức thực hiện nội dung được

kiểm tra và lựa chọn một số đơn vị, cá nhân có khả năng thực hiện tốt, khá, trung

bình, yếu để kiểm tra trực tiếp theo quy trình chặt chẽ. Cùng với đẩy mạnh kiểm

tra thực hiện các nghị quyết, chỉ thị về xây dựng NTM các cấp ủy đảng đã coi

trọng hơn công tác sơ kết, tổng kết, nhân điển hình xây dựng NTM.

74

3.2.1.2. Nguyên nhân của ưu điểm

Những ưu điểm trong sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ĐBSCL đối với xây dựng

NTM do những nguyên nhân chủ yếu sau:

Một là, đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng về xây dựng NTM

đã phù hợp với thực tiễn, nguyện vọng của đại đa số nhân dân, góp phần tích cực

cho xây dựng xã hội văn minh, kinh tế phát triển, chính trị dân chủ, kết cấu hạ tầng

hiện đại, môi trường tự nhiên trong lành và đời sống văn hoá tinh thần phong phú.

Từ đường lối đúng đắn về NTM; Nhà nước đã cụ thể hoá để tổ chức thực

hiện, trong đó cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp được đổi mới mạnh mẽ nhất. Đó

là cơ sở rất quan trọng để các tỉnh uỷ vùng ĐBSCL quán triệt, ban hành các nghị

quyết về NTM phù hợp với điều kiện cụ thể và khả năng của các tỉnh.

Trong quá trình lãnh đạo xây dựng NTM của các Tỉnh uỷ vùng ĐBSCL còn

nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo giúp đỡ của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành

Trung ương, Chính phủ, các bộ, ban, ngành, đoàn thể của Trung ương.

Hai là, các tỉnh uỷ và các cấp uỷ, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ

chủ chốt các cấp tâm huyết, trách nhiệm với xây dựng NTM.

Đội ngũ cán bộ này đã được rèn luyện từ thực tiễn và được đào tạo cơ bản,

nên đã tích cực tìm giải pháp, phát huy tính sáng tạo để khai thác tiềm năng, thế

mạnh của địa phương, khắc phục những khó khăn nhằm phát triển kinh tế nông

nghiệp và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Các tỉnh uỷ và các cấp uỷ đã coi trọng đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng,

nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng. Thể hiện rất rõ là kiến thức về

lãnh đạo kinh tế nông nghiệp trong Ban Thường vụ và Ban Chấp hành Đảng bộ các

tỉnh được nâng lên một bước. Đội ngũ cán bộ chủ chốt đã tích luỹ được những kinh

nghiệm lãnh đạo kinh tế nông nghiệp góp phần rất lớn vào lãnh đạo kinh tế nông

nghiệp tỉnh đạt kết quả. Những kết quả đạt được thể hiện rõ ở từng huyện và cơ sở,

đã xuất hiện nhiều mô hình, điển hình tiên tiến đáng khích lệ.

Ba là, công tác lãnh đạo chỉ đạo và tổ chức phối hợp của các cấp ủy, chính

quyền trong xây dựng NTM có nhiều tiến bộ rõ rệt, phục vụ đắc lực, có hiệu quả

việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới toàn diện của Đảng và

75

Nhà nước ở địa bàn cơ sở. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, các cơ quan chức

năng có liên quan đến xây dựng NTM được quan tâm, tạo ra môi trường thuận lợi

để triển khai thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng NTM.

Bốn là, các tỉnh uỷ đã thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ,

thể hiện sự nhất quán trong các nghị quyết, chủ trương của Tỉnh uỷ và các cấp uỷ,

từ đó đã tạo nên sự đoàn kết thống nhất cao trong lãnh đạo, chỉ đạo kinh tế nông

nghiệp; đó là cơ sở tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong đảng bộ tỉnh và sự đồng

thuận trong nhân dân để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo phát triển KT-XH.

Sự đoàn kết, thống nhất không chỉ trong Tỉnh uỷ mà còn đã tạo nên sự

thống nhất trong các ngành kinh tế và cả các lĩnh vực văn hoá - xã hội, quốc

phòng - an ninh của tỉnh để tập trung lãnh đạo xây dựng NTM.

Năm là, tăng trưởng kinh tế có tính ổn định của đất nước nói chung, sự

đổi mới, phát triển năng động của các ngành, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã

hội tạo điều kiện thuận lợi triển khai thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xây

dựng NTM.

3.2.2. Những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân

3.2.2.1. Những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm

* Về nội dung lãnh đạo xây dựng nông thôn mới

Công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng NTM còn chậm so với yêu cầu,

chất lượng quy hoạch thấp, còn thiếu lực lượng tư vấn có kinh nghiệm về xây

dựng quy hoạch, nhất là trong quy hoạch sản xuất. Một số xã chưa tích cực, chủ

động rà soát đánh giá hiện trạng, xây dựng định hướng phát triển KT- XH, xây

dựng kết cấu hạ tầng của địa phương mình làm cơ sở cho việc tư vấn lập quy

hoạch xây dựng NTM.

Năng lực quản lý của một số cán bộ ở cấp xã chưa đáp ứng nhu cầu công

tác quản lý thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, nhất là, định hướng

quy hoạch, quản lý dự án, quản lý vốn đầu tư. Có đến 37% công trình đầu tư xây

dựng cơ bản không hoàn thành đúng kế hoạch [Xem Phụ lục 10].

Ban Chỉ đạo các cấp, các ngành về xây dựng NTM còn nhiều lúng túng

trong quá trình triển khai công việc; sự phối hợp giữa các thành viên Ban Chỉ

76

đạo chưa chặt chẽ, một số ngành chưa thực sự tâm huyết và tham gia tích cực

vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý xây dựng NTM của các cấp ủy, chính

quyền địa phương.

Nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM còn

hạn chế, một số nơi chưa thực sự coi trọng phát triển sản xuất, chưa có nhiều mô

hình phát triển sản xuất để học tập, khi đã có mô hình tốt việc nhân rộng điển hình

tiên tiến còn chậm và lúng túng. Cơ chế, thủ tục về giải ngân, thanh quyết toán công

trình (có sử dụng vốn ngân sách nhà nước); cơ chế quản lý xây dựng cơ bản chưa có

hướng dẫn rõ ràng và giá trị pháp lý trong Chương trình mục tiêu quốc gia về xây

dựng NTM đã gây khó khăn không nhỏ cho các xã trong tiến hành công việc. Chưa

huy động được nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Hệ

thống cơ sở hạ tầng tuy đã được tập trung lãnh đạo xây dựng và phát triển, song còn

chậm, chất lượng thấp, gây khó khăn cho xây dựng hạ tầng theo tiêu chí NTM

[Xem Phụ lục 10].

Sự lãnh đạo của các tỉnh uỷ phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, trọng

tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn chưa

chuyển biến rõ nét. Việc tổ chức lại sản xuất ở nông thôn chưa tốt: kinh tế tập thể và

kinh tế tư nhân là các thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân;

song, phát triển chậm, chưa thể hiện rõ vai trò trong cơ chế mới; chưa thúc đẩy

mạnh kinh tế hộ phát triển cũng như liên kết, tác động đến các thành phần kinh tế

khác để cùng nhau phát triển.

Trong phát triển sản xuất các tỉnh đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích

phát triển nông nghiệp, nhưng các địa phương vẫn còn lúng túng trong triển khai thực

hiện bởi tính khả thi của các cơ chế chính sách này chưa cao, thiếu những giải pháp

đọt phá, đặc biệt là tìm đầu ra cho nông sản. Một số mô hình thành nhưng hoạt động

thiếu bền vững, khó nhân rộng. Việc kêu gọi đầu tư, liên kết từ các nhà khoa học,

doanh nghiệp chưa hiệu quả. Theo công bố mới nhất về chỉ số năng lực cạnh tranh

cấp tỉnh (PCI) năm 2015 thì hầu hết các tỉnh ở ĐBSCL có chỉ số về tiếp cận đất đai,

hỗ trợ doanh nghiệp, đàoo tạo lao động đều ở mức trung bình và thấp [100].

77

Công tác lãnh đạo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, an

sinh xã hội, môi trường nông thôn còn nhiều nội dung chưa đạt yêu cầu. Tỷ lệ

trường học đạt chuẩn còn thấp. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn nhiều bất

cập. Chất lượng khám chữa bệnh tuyến xã còn hạn chế. Đời sống người dân nông

thôn còn khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Vẫn

còn tình trạng khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên, chất lượng môi trừơng

chưa đảm bảo.

An ninh nông thôn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an ninh trật tự, nhất là

các tệ nạn như cờ bạc, số đề, nghiện hút, chấp hành quy định an toàn giao thông,

bạo lực gia đình, rượu chè bê tha, vượt biên trái phép... [Xem Phụ lục 10]. Những

kết quả đạt được ở các xã điểm và các xã nói chung còn rất thấp so với mục tiêu

và yêu cầu của chương trình. Đã xuất hiện một số địa phương có biểu hiện chạy

theo thành tích, nóng vội và hình thức trong đánh giá kết quả thực hiện

Việc lãnh đạo nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp uỷ, chính quyền

và các đoàn thể cơ sở vẫn còn những hạn chế. Đội ngũ cán bộ của các ngành, các

cấp còn hạn chế về trình độ chuyên môn, kiến thức, kinh nghiệm về xây dựng

NTM; còn thiếu cán bộ chuyên trách, cán bộ lãnh đạo, quản lý xây dựng NTM

chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm [Xem Phụ lục 10]. Một số cấp ủy chưa thể hiện rõ

vai trò hạt nhân chính trị; năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị còn

yếu; hạn chế trong công tác tuyên tryền vận động; lúng túng trong cụ thể hóa

chương trình xây dựng NTM ở địa phương.

Trong chỉ đạo thực hiện của các cơ quan nhà nước đối với xây dựng

NTM, còn tồn tại nhiều yếu kém, nhất là ở các cơ sở. Điều đó làm ảnh hưởng

không nhỏ đến việc phát triển lực lượng sản xuất, nông nghiệp và xây dựng

NTM. Do vậy, phát huy vai trò của HTCT cấp cơ sở ở nông thôn là việc làm có

ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy KT-XH phát triển. Đây cũng là một trong những

tiêu chí xây dựng NTM mà Chính phủ đã ban hành.

Sức mạnh tổng hợp của các cơ quan trong HTCT trong việc bảo đảm an

ninh, trật tự; đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc

78

chưa được huy động tốt; việc củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ

chức quần chúng làm công tác giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở cần đẩy mạnh hơn

nữa. Thực hiện chưa tốt kế hoạch, đề án trên lĩnh vực an ninh, trật tự ở địa bàn

nông thôn. Kết hợp thiếu chặt chẽ hoạt động của các đoàn thể trong việc vận

động người dân tham gia phòng chống các tệ nạn xã hội, bài trừ hủ tục.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa có sự đổi mới mạnh mẽ

về phương thức hoạt động, nhất là về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ cơ sở

còn nhiều bất cập; thực hiện chức năng phản biện xã hội, giám sát thực hiện

chính sách còn hạn chế. Việc triển khai tuyên truyền về NTM còn chậm, mang

tính phong trào, chưa phát huy hiệu quả bền vững [Xem Phụ lục 10].

* Về phương thức lãnh đạo xây dựng nông thôn mới

Các tỉnh ủy đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng NTM

và đã đạt được kết quả nhất định, song trong quá trình tổ chức thực hiện, có

những nội dung một số cấp ủy đảng ở cơ sở chưa nhận thức sâu sắc, nên một số

nơi chỉ tập trung vào vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp, chưa thấy rõ việc

xây dựng NTM bao gồm nhiều nội dung khác; chưa phát huy tốt tiềm năng sẵn

có ở nông thôn vào xây dựng NTM. Hầu hết các xã thuần nông vẫn còn lúng

túng khi xác định phương hướng và cách làm có hiệu quả.

Việc triển khai một số nghị quyết còn triển khai chung chung, thiếu các

chương trình hành động cụ thể thiết thực với tình hình thực tiễn, nhiều nghị

quyết chưa chú ý vận dụng vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm liên quan

đến xây dựng NTM để thảo luận và ban hành các nghị quyết chuyên đề có hiệu

quả, đồng thời thiếu các biện pháp cụ thể để tổ chức triển khai trong đó, có nội

dung về nhận thức ngay cả trong cán bộ chủ chốt và trong cơ quan làm công tác

tuyên truyền, đặc biệt nhiều đồng chí còn xem nhẹ các nghị quyết về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn.

Một số nghị quyết được cụ thể hoá nhưng một cách máy móc, xơ cứng,

thiếu nghiên cứu thực tiễn nên hiệu quả lãnh đạo thực hiện không cao, như chủ

trương liên kết bốn nhà (nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và nhà kinh doanh)

trong xây dựng NTM còn nhiêu khê, bất cập, gây bức xúc.

79

Một số nghị quyết đã được nghiên cứu sát tình hình thực tiễn và triển khai

học tập bài bản, nhưng các ngành, các cấp thiếu xây dựng các đề án cụ thể, các

chương trình hành động còn chung chung, dẫn đến thiếu các các nguồn lực để

thực hiện, đặc biệt là nguồn nhân lực và nguồn vốn để tổ chức thực hiện, do đó

nghị quyết không đi vào cuộc sống.

Công tác tuyên truyền để cán bộ và người dân hiểu sâu về xây dựng NTM

dựa vào nội lực vẫn còn hạn chế. Việc tập huấn nâng cao năng lực, trình độ cho

cán bộ và người dân chưa được quan tâm thường xuyên và thỏa đáng, mới chủ

yếu giành cho cán bộ chuyên môn. Một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân

nhận thức chưa đúng về chương trình xây dựng NTM, xem nhẹ công tác tổ chức

sản xuất, an ninh chính trị và đời sống văn hóa tinh thần.... Việc nâng cao trình

độ giác ngộ chính trị cho cán bộ về chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây

dựng NTM chưa được quan tâm thường xuyên, đúng mức.

Chưa có chiến lược xây dựng chương trình giáo dục, đào tạo, nâng cao

trình độ mọi mặt cho cư dân nông thôn về xây dựng NTM một cách tổng thể.

Còn có địa phương chưa thật sự ưu tiên và khuyến khích cán bộ giỏi, cán bộ tốt

về công tác tại cơ sở để đáp ứng yêu cầu trước mắt và trong những năm tiếp theo

về xây dựng NTM.

Việc cụ thể hóa các nghị quyết của các cấp ủy đảng về xây dựng NTM

thành nội dung cụ thể để thực hiện, có nơi chưa đồng bộ, nhất là những chính

sách thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế vào nông thôn. Đảng và Nhà nước

có nhiều chính sách và các cuộc vận động nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã

hội nông thôn; mỗi chính sách và chương trình đã tác động đến một hoặc một số

mặt KT - XH nông thôn, tuy nhiên những chính sách và chương trình chưa được

chính quyền huyện cụ thể hóa để tạo sự đồng bộ, có mục tiêu phát triển nông

thôn toàn diện.

Các tổ chức ở cơ sở đảng dù được cấp ủy cấp trên quan tâm chỉ đạo, củng cố,

nhưng so với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới nói chung và

nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng NTM nói riêng, có nơi chưa đáp ứng. Một số chi bộ

đảng ở các ấp chưa coi trọng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo

80

xây dựng NTM, nên còn chủ quan, duy ý chí; phương thức lãnh đạo chưa được đổi

mới, khoa học, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình và kết quả xây dựng NTM.

Công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể ở

một số việc chưa đáp ứng được yêu cầu; bộ máy và công tác cán bộ quản lý, điều

hành ở nông thôn, nhìn chung hoạt động còn chưa năng động, chưa đáp ứng yêu

cầu xây dựng NTM. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, thoái hóa, biến chất của

một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn tồn tại làm ảnh hưởng và xói mòn niềm

tin của cư dân nông thôn.

Do hạn chế về nhận thức và trình độ của không ít cán bộ, đảng viên về

đường lối đổi mới của Đảng và vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên

trong học tập nghị quyết cũng như đi đầu trong phát triển nông nghiệp, đặc biệt

là nhận thức về kinh tế thị trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, dẫn đến

thiếu vai trò tiên phong trong lãnh đạo xây dựng NTM trên địa bàn.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhìn chung chưa đáp ứng yêu

cầu. Hiện nay số cán bộ chủ chốt ở cơ sở đạt 70% chuẩn hoá theo qui định,

nhưng cán bộ có trình độ chuyên môn về kinh tế, về nông nghiệp còn hạn chế.

Nhiều cán bộ chậm đổi mới tư duy kinh tế, phong cách và lề lối làm việc chưa

khoa học làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình lãnh đạo của các tỉnh ủy đối

với lãnh đạo xây dựng NTM.

Trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng, của các

tỉnh uỷ về xây dựng NTM có nơi, có lúc chưa nghiêm minh. Nhiều tổ chức

Đảng, đảng viên chưa chấp hành nghiêm túc, một số cán bộ chủ chốt, người

đứng đầu đơn vị trong lãnh đạo xây dựng NTM chưa đạt yêu cầu, nhưng chưa

được kiểm điểm làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm và xử lý nghiêm minh. Việc

xây dựng tổ chức Đảng thực sự trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo xây

dựng NTM ở mỗi địa phương và trên địa bàn các tỉnh còn nhiều khuyết điểm,

yếu kém.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong HTCT, chưa làm tốt chức năng

phản biện xã hội cũng như công tác tập hợp, động viên, tuyên truyền đến toàn

81

thể đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, Nghị quyết của

Đảng; không ít tổ chức hoạt động hình thức, hành chính, chung chung; chưa khơi

dậy, tạo ra nhiều phong trào hành động cách mạng trong quần chúng nhân dân

thi đua hoạt động sản xuất, phát triển kinh tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu,

nhiệm vụ mà Nghị quyết của Đảng, của các tỉnh ủy đề ra.

Công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình lãnh đạo xây dựng NTM của

Tỉnh ủy và các cấp ủy vẫn còn hạn chế; chưa có cơ chế giám sát thường xuyên

để có kế hoạch kiểm tra đúng thời điểm, hạn chế thiệt hại, thất thoát kinh phí, tài

sản trong xây dựng NTM. Một số cấp ủy viên và thành viên Ban chỉ đạo các cấp

tuy được phân công phụ trách địa bàn nhưng chưa quan tâm công tác chỉ đạo,

kiểm tra, đôn đốc tại cơ sở.

3.2.2.2. Nguyên nhân

Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc lãnh đạo của các tỉnh uỷ

đối với xây dựng NTM trong thời gian qua là do:

Một là, xuất phát điểm của nông thôn ĐBSCL thấp; đầu tư, quản lý của

nhà nước cho nông nghiệp lại chưa thỏa đáng; chất lượng nguồn nhân lực còn

hạn chế; quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn còn nhiều bất cập chưa

phục vụ sát thực cho xây dựng NTM. Điều kiện tự nhiên của ĐBSCL khó khăn,

có khí hậu thời tiết khắc nghiệt, thiên tai lũ lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra,

ảnh hưởng rất lớn đến đời sống KT-XH nói chung và xây dựng NTM nói riêng.

Hai là, các tỉnh uỷ chậm sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc, nhất là quy

chế về phối hợp làm việc và mối quan hệ giữa Ban Thường vụ tỉnh uỷ với Đảng

đoàn HĐND, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh với các ngành, các cấp trong tỉnh.

Việc thực hiện quy chế còn hình thức; trong quá trình tổ chức thực hiện

nhiều cấp uỷ không theo quy chế đã ban hành. Các quy chế phối hợp và mối

liên hệ làm việc của ban thường vụ tỉnh uỷ với Đảng đoàn HĐND, Ban cán sự

Đảng UBND tỉnh không được thể hiện rõ, có biểu hiện hình thức, tổ chức thực

hiện theo kiểu gia đình, thoả hiệp và có khi biểu hiện Đảng lấn sân, làm thay

chính quyền.

82

Quy chế phối hợp công tác dân vận của chính quyền, Hội Nông dân với

chính quyền trong công tác vận động nông dân... còn chưa thật cụ thể; ở một số

nơi, tuy quy chế được ban hành nhưng hầu như không tổ chức thực hiện. Vì vậy,

nhiều vấn đề trong lãnh đạo, chỉ đạo còn vướng mắc, chưa thông suốt, thậm chí

còn chồng chéo hoặc bỏ trống công việc.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng NTM của tỉnh uỷ có lúc, có nơi còn chưa

thông suốt, nhất là từ cấp huyện đến cơ sở; có địa phương, Bí thư làm thay công

việc của Chủ tịch UBND. Các Ban xây dựng Đảng ở một số tỉnh thực hiện

nhiệm vụ của mình đạt kết quả thấp, cá biệt có nơi có biểu hiện mất đoàn kết

trong ban thường vụ tỉnh uỷ.

Ba là, tư duy kinh tế nông nghiệp của các tỉnh uỷ, ban thường vụ tỉnh uỷ

còn một số hạn chế chưa đáp ứng thật tốt yêu cầu công cuộc đổi mới phát triển

và hội nhập.

Một số đồng chí trong cấp uỷ vẫn còn hạn chế về trình độ, nhất là về kinh

tế nông nghiệp và năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành; việc cụ thể hoá một số

chủ trương của Tỉnh uỷ còn chậm, chỉ đạo điều hành có lúc còn thiếu kiên quyết

nên đạt kết quả thấp. Không ít nghị quyết, chủ trương đúng đắn về xây dựng

NTM của các Tỉnh uỷ chưa được thực hiện hoặc thực hiện không đến nơi đến

chốn; một số nơi còn hạn chế về cụ thể hoá nghị quyết bằng các chủ trương,

chính sách. Chỉ đạo thực hiện nghị quyết mang tính mệnh lệnh, giao chỉ tiêu sản

xuất buộc cấp dưới phải thực hiện, không tuân thủ quy luật giá trị trong sản xuất

hàng hoá của cơ chế thị trường; đối với cấp uỷ huyện và cơ sở vấn đề đó còn

nặng nề hơn.

Một số cấp uỷ cơ sở đảng còn thể hiện tư tưởng bảo thủ, tư duy thiếu

nhanh nhạy trong thời kỳ đổi mới, Tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của

nhà nước trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phục vụ xây dựng

NTM trong từng cán bộ, đảng viên và nhân dân ở nhiều địa phương còn lớn.

Một số không chịu khó nghiên cứu thực tiễn, không tìm tòi học tập để nâng cao

trình độ.

83

Bốn là, một số cơ chế, chính sách về nông nghiệp, nông thôn ban hành

chưa hiệu quả, thiếu tính khả thi, chậm được sửa đổi; thiếu cơ chế, chính sách đủ

mạnh để thu hút mạnh mẽ các nguồn lực xã hội, nhất là doanh nghiệp đầu tư cho

nông nghiệp, nông thôn; cơ cấu đầu tư có nơi chưa hợp lý, nhiều chương trình,

dự án cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn chồng chép, khó lồng ghép dẫn

đến phân tán nguồn lực, kém hiệu quả. Đóng góp của khoa học, công nghệ vào

giá trị gia tăng của các sản phẩm nông nghiệp còn thấp. Sự tham gia của các tổ

chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân ở nhiều nơi còn hạn chế, chưa phát

huy hết vai trò, trách nhiệm của mình.

Năm là, nhận thức của cấp uỷ đảng, chính quyền và một bộ phận nhân dân ở

một số nơi về xây dựng NTM chưa đầy đủ, thiếu vận dụng sáng tạo vào điều kiện

cụ thể của địa phương; còn xem nhẹ vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn,

chưa thấy rõ xây dựng NTM là một nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, chiến lược, vừa

có tính lâu dài, nên thiếu chỉ đạo tập trung, ít qua tâm sơ, tổng kết, rút kinh nghiệm.

Một bộ phận nhân dân chưa hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của chñ tr­¬ng

lớn của Đảng, Nhà nước về xây dựng NTM, còn coi đó là trách nhiệm của Nhà

nước nên chưa tham gia tích cực vào công tác xây NTM. Một số người nghèo, hộ

nghèo còn trông chờ, ỷ lại, chưa tích cực, chủ động vươn lên, chưa hiểu được rằng,

sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng chỉ đóng vai trò hỗ trợ, tạo điều kiện, còn

yếu tố quan trọng, quyết định là bản thân người dân n«ng th«n phải chủ động vươn

lên tự tổ chức xây dựng NTM [Xem Phụ lục 10].

Sáu là, tổ chức bộ máy, chất lượng công tác quản lý nhà nước về nông

nghiệp, nông dân, nông thôn còn nhiều bất cập; sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành

chức năng thiếu chặt chẽ. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng tốt yêu cầu.

Năng lực tổ chức triển khai chñ tr­¬ng, chÝnh s¸ch về xây dựng NTM của

chính quyền, nhất là ở cấp bản một số nơi còn yếu. Sự phối hợp giữa các ngành

chức năng trong ban chỉ đạo triển khai thực hiện thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ.

Công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ cán bộ cơ sở, nông dân xây dựng NTM

chưa được quan tâm thường xuyên, liên tục, có nơi còn buông lỏng, do đó làm hạn

chế hiệu quả sùl·nh ®¹o của các tỉnh ủy ĐBSCL đối với xây dựng NTM.

84

Lực lượng cán bộ, công chức và cốt cán trong thực hiện chủ trương, chính

sách xây dựng NTM ở cơ sở tuy được bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác, song chế

độ đãi ngộ chưa được quan tâm thoả đáng, đúng mức, nên dẫn đến một số cán bộ

thiếu nhiệt huyết, chưa sâu sát cơ sở, chưa nắm chắc tình hình để tham mưu kịp

thời, hiệu quả cho cấp uỷ, chính quyền trong thực hiện chủ trương xây dựng NTM

của Đảng.

Bảy là, vai trò của Hội nông dân các cấp trong phát triển nông nghiệp, xây

dựng NTM và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam còn chưa tương xứng với

tiềm năng, thế mạnh và tính chủ động, sáng tạo của Hội.

Tuy có đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển nông nghiệp nhưng

vai trò của Hội Nông dân các cấp trong việc xây dựng NTM và các mô hình kinh

tế hợp tác, liên kết sản xuất, kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa còn mờ nhạt.

Nội dung, phương thức hoạt động còn chậm đổi mới, nhiều nơi hoạt động

Hội còn mang tính hành chính. Hoạt động Hội chưa thể hiện rõ vai trò tập hợp,

tổ chức nông dân tham gia có hiệu quả vào các chương trình phát triển kinh tế -

xã hội ở nông thôn; đại diện chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của

nông dân; chưa phản ánh kịp thời những khó khăn, vướng mắc, bức xúc trong

nông dân để tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền có biện pháp giải quyết kịp thời.

Tình trạng “hành chính hoá” trong hoạt động của một bộ phận cán bộ Hội ở các

cấp chưa giảm; còn thụ động, phụ thuộc, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp uỷ và

sự điều hành của chính quyền.

Vai trò giám sát, phản biện và các kiến nghị, đề xuất với Đảng, Nhà nước

về các vấn đề lên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn hạn chế. Số

lượng các chương trình, dự án quốc gia và quốc tế do Hội Nông dân làm chủ và

tham gia còn quá ít. Hoạt động tuyên truyền của Hội Nông dân các cấp chủ yếu

là vận động “chay” nên sức cuốn hút bị hạn chế. Quyền lợi của nông dân khi trở

thành hội viên Hội Nông dân chưa đủ mạnh để cuốn hút nông dân tích cực tham

gia các phong trào do Hội phát động.

85

3.2.3. Những kinh nghiệm

Qua thực tiễn lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh ủy ĐBSCL, có thể rút

ra một số kinh nghiệm sau:

Một là, sự đoàn kết thống nhất trong cấp ủy đảng là nhân tố quan trọng

hàng đầu để phát huy trí tuệ tập thể, tính sáng tạo trong đề ra giải pháp và tổ

chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, giải pháp lãnh đạo xây dựng NTM đúng

đắn, phù hợp với thực tế, tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn

Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân.

Sự đoàn kết thống nhất ấy phải được xây dựng và tăng cường trên cơ sở các

chủ trương, nghị quyết của Trung ương và ngay trong quy chế làm việc củaTỉnh

uỷ và thể hiện rõ nhất trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là

đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và các tổ chức

trong HTCT; quan trọng hơn nữa là nâng cao năng lực và sức chiến đấu của

Đảng trong các tổ chức đảng và các tổ chức cơ sở đảng, mà đầu tiên là trong Ban

Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, đây là vấn đề cốt yếu để xây dựng, củng cố

đoàn kết trong toàn Đảng bộ tỉnh và nhân dân trong tỉnh, tạo nên sự thống nhất ý

chí và hành động trong Đảng bộ, trong nhân dân, đó cũng là điều kiện để phát

huy nội lực và huy động nguồn lực bên ngoài cho sự phát triển.

Thực tiễn đã chứng minh khi nào trong Tỉnh uỷ, trước tiên là trong Ban

Thường vụ Tỉnh uỷ đoàn kết, thống nhất không cao thì việc huy động trí tuệ và

tổ chức thực hiện gặp nhiều khó khăn. Nhiệm kỳ qua Tỉnh uỷ đã phát huy tối đa

dân chủ và dân chủ thực sự trong đấu tranh phê bình và tự phê bình một cách

nghiêm túc đảm bảo nguyên tắc của Đảng, tạo được sự thống nhất cao và lãnh

đạo hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị, trong đó có lãnh đạo xây dựng NTM.

Hai là, huy động cả HTCT vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM

Phải thực sự phát huy vai trò chủ thể của người dân. Công tác tuyên

truyền, vận động quần chúng phải là giải pháp quan trọng hàng đầu. Làm cho

dân hiểu, dân tin, dân hưởng ứng bằng sự tham gia bàn bạc, hiến kế, đóng góp

công, của và chủ động thực hiện các nhiệm vụ của mình là yếu tố quyết định sự

thành công trong xây dựng NTM.

86

Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến sâu sắc

trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân; phải làm cho họ hiểu rõ chủ

trương, chính sách xây dựng NTM của Đảng, từ đó tạo sự thống nhất trong tư

tưởng và hành động. Phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong công

tác tuyên truyền và vai trò của cộng đồng dân cư trong xây dựng NTM.

Phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên sâu sát, quyết liệt của

các cấp ủy, chính quyền, sự tham gia tích cực và phối hợp chặt chẽ của các ban,

ngành, đoàn thể.

Các tỉnh uỷ lãnh đạo xây dựng NTM, từ nghị quyết đúng phải được cụ thể

hoá thành các chương trình, đề án của các cấp, các ngành và phân công phối hợp

chỉ đạo tổ chức thực hiện. Thực tiễn tại ĐBSCL chứng minh, nếu nghị quyết chỉ

triển khai mà không có các đề án, chương trình hành động cụ thể, thì nghị quyết

đó chỉ là nghị quyết suông; nếu không huy động được cả HTCT vào cuộc thì

nghị quyết khó vào cuộc sống. Trong lãnh đạo, chỉ đạo cần chọn một số việc,

một số vùng, một số sản phẩm đột phá để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và cần cả

HTCT vào cuộc thì mới đạt hiệu quả.

Ba là, có bộ máy giúp việc đủ năng lực, chuyên nghiệp, sát thực tế sẽ là

yếu tố quan trọng đảm bảo cho công tác chỉ đạo có hiệu quả.

Cán bộ là cái gốc của mọi công việc; cán bộ nông nghiệp phải thực sự tận

tâm, gần dân và có trí tuệ. Điều này được thể hiện rõ trong đội ngũ cán bộ chủ

chốt cấp tỉnh. Tuy vậy, vấn đề thu hút nhân tài từ đội ngũ cán bộ trẻ, được đào

tạo cơ bản, có học hàm, học vị cao về công tác tại tỉnh và làm lãnh đạo xây dựng

NTM là rất khó khăn.

Không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ phục

vụ xây dựng NTM từ tỉnh đến cơ sở, bởi đội ngũ này trực tiếp tổ chức thực hiện,

vận động, chuyển tải các chính sách của đảng, Nhà nước về xây dựng NTM. Bố trí

những cán bộ có tâm huyết, có năng lực trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực

hiện nhiệm vụ xây dựng NTM. Phân công các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh

ủy, tỉnh ủy viên trực tiếp phụ trách và chỉ đạo các xã điểm xây dựng NTM.

87

Bốn là, xây dựng NTM thực chất là thực hiện các nội dung cụ thể để công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Do đó, phải gắn xây dựng

NTM với tái cơ cấu nông nghiệp và thực hiện các kế hoạch phát triển KT-XH

của địa phương.

Có cách làm phù hợp với điều kiện của từng địa phương thông qua lựa

chọn nội dung, nhiệm vụ ưu tiên, vận dụng sáng tạo cơ chế chính sách. Có

phương thức huy động các nguồn lực phù hợp. Lựa chọn xây dựng mô hình và

các điển hình tiên tiến, đặc biệt là các mô hình về kinh tế nông nghiệp thu hút

được nhiều lao động và có đảng viên tham gia trực tiếp xây dựng mô hình, có tổ

chức đảng sinh hoạt ở đó. Có phương pháp chỉ đạo các mô hình, điển hình đó, sơ

kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân ra diện rộng là phương thức lãnh đạo kinh

tế nông nghiệp đem lại hiệu quả của Tỉnh uỷ. Lồng ghép sử dụng có hiệu quả sự

hỗ trợ ngân sách của Nhà nước và các nguồn lực đa dạng; việc huy động, đóng

góp của người dân phải được thực hiện trên cơ sở thực sự tự nguyện, bàn bạc

dân chủ, không gượng ép quá sức dân.

Năm là, nâng cao tính hiệu quả, nghiêm túc, công khai, minh bạch của

công tác kiểm tra, giám sát, coi trọng việc sơ, tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm

Xây dựng NTM phụ thuộc vào nhiều vấn đề, mà vấn đề cuối cùng là dân

thực hiện nghị quyết. Nếu ban hành nghị quyết mà không có kiểm tra, giám sát

ngay từ giai đoạn chuẩn bị ban hành đến việc kiểm tra thực hiện nghị quyết, thì

nghị quyết đó khó thành công.

Tăng cường công tác kiểm tra thực hiện các chủ trương của Đảng về xây

dựng NTM, định kỳ sơ kết, tổng kết thực tiễn, nhân điển hình tiên tiến trong

phong trào xây dựng NTM. Tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm về lãnh đạo xây

dựng NTM, nhằm phát hiện những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn, những bất

cập trong các cơ chế chính sách, trong lãnh đạo, chỉ đạo, để bổ sung cho các nghị

quyết của Tỉnh uỷ sát với thực tiễn, phù hợp nguyện vọng của nhân dân và tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế.

88

Tiểu kết chương 3

Lãnh đạo xây dựng NTM những năm qua, các tỉnh ủy ĐBSCL đã vươn

lên mạnh mẽ, khắc phục khó khăn, năng động sáng tạo và đã đạt được kết quả

quan trọng bước đầu. Bộ mặt nông thôn trong tỉnh có nhiều khởi sắc, phát triển

theo hướng tiến bộ. Nhiều nơi đã đạt được một số chỉ tiêu trong Bộ tiêu chí

Quốc gia về xây dựng NTM do Chính phủ ban hành. Tuy nhiên,vẫn còn nhiều

tiêu chí chưa đạt được. Nông thôn trong tỉnh vẫn chưa phát triển mạnh mẽ và

còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình vươn lên đạt các tiêu chí quy định.

Trong lãnh đạo xây dựng NTM các tỉnh ủy ở ĐBSCL đã tích cực, quyết

tâm thực hiện việc đổi mới nội dung lãnh đạo theo hướng xác định đúng nội

dung lãnh đạo, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Phương thức lãnh đạo

của các tỉnh uỷ đối với xây dựng NTM cơ bản đã bám sát nội dung lãnh đạo.

Song, trong quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện có nơi, có lúc chưa xác định rõ

và tập trung cao việc lãnh đạo những nội dung trọng yếu có tính đột phá, thúc

đẩy nhanh quá trình xây dựng NTM.

Những kinh nghiệm bước đầu được các tỉnh ủy rút ra trong lãnh đạo xây

dựng NTM thời gian qua là: gìn giữ đoàn kết thống nhất trong cấp ủy; tăng

cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng; sự quản lý, điều hành của các

cấp chính quyền và sự phối hợp đồng bộ của cả HTCT; huy động cả HTCT vào

thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ; lựa chọn

xây dựng mô hình và các điển hình tiên tiến trong xây dựng NTM; giải quyết

đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế nông nghiệp với bảo vệ môi

trường sinh thái; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; coi trọng tổng kết thực

tiễn, rút kinh nghiệm về lãnh đạo xây dựng NTM.

89

Chương 4

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH ỦY

Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐỐI VỚI XÂY DỰNG

NÔNG THÔN MỚI ĐẾN NĂM 2025

4.1. PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH ỦY

Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

4.1.1. Dự báo những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của các tỉnh ủy

ở đồng bằng sông Cửu Long đối với xây dựng nông thôn mới

4.1.1.1. Thuận lợi

- Tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới có nhiều thời cơ, Đảng

và Nhà nước cấp trên quan tâm chỉ đạo và có nhiều cơ chế chính sách kịp thời

Trên thế giới và khu vực, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và

phát triển vẫn là xu thế lớn; quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc

cách mạng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển

mạnh mẽ; kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi. Trong nước, thế và lực, uy tín quốc

tế của đất nước tăng lên; kinh tế lấy lại đà tăng trưởng và hội nhập ngày càng sâu

rộng vào kinh tế khu vực và thế giới.

Đảng, Nhà nước ta tiếp tục khẳng định quan điểm mới về vai trò và vị

trí của nông nghiệp, nông thôn, thể hiện rõ quyết tâm xây dựng NTM thành

công trên phạm vi cả nước, tạo điều kiện thúc đẩy nhanh việc xây dựng NTM

của vùng.

Văn kiện Đại hội XII chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp phục vụ

nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là công nghiệp sản xuất trang thiết bị, máy

móc làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản, sản

phẩm xuất khẩu; sản xuất phân bón, thức ăn cho chăn nuôi và thuốc bảo vệ động,

thực vật. Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng CNH, HDDH

gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn.

90

Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền

vững, phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới. Phát triển nông nghiệp sản

xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh

cao, thân thiện với môi trường, gắn sản xuất với chế biến và thị trường, mở rộng

xuất khẩu. Phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy

lợi thế từng vùng gắn với thị trường.

Đối với xây dựng NTM Đại hội chỉ rõ: quy hoạch phát triển nông thôn và

phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ

và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường. Triển khai chương trình xây dựng NTM

phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng

giai đoạn; giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của nông thôn

Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tạo môi trường thuận

lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu

tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu

quả chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm.

Bên cạnh sự hỗ trợ, chỉ đạo của Trung ương, các tỉnh vùng ĐBSCL cũng đã

ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ nông nghiệp, nông dân và nông thôn như: trợ

giá giống nông sản, vật tư nông nghiệp; chi phí tập huấn kỹ thuật, chuyển giao

công nghệ sản xuất, chế biến, xây dựng cánh đồng mẫu lớn, mua thiết bị, máy

móc, dịch vụ thú y, kiên cố hóa kênh mương, giá nhiên liệu, giá nông sản.

Các chính sách của Trung ương và của các tỉnh là cơ sở để nông dân

trong vùng đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật

nuôi, phát triển sản xuất.

- Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước và vùng ĐBSCL tiếp

tục tác động sâu sắc đến đạo việc lãnh xây dựng NTM ở ĐBSCL

Sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã

đạt được nhiều thành tựu to lớn và những thành tựu này tác động mạnh mẽ đến

nông thôn và nông dân. Những thành tựu, kinh nghiệm của 30 năm đổi mới đã tạo

ra cho đất nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm

91

năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ

suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và

đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội,

xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.

Trong những năm tới, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, quyết tâm

tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, chắc chắn công cuộc đổi mới tiếp tục đạt

được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Nó sẽ củng cố, tăng

cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tạo ra sự phấn khởi, cổ vũ, động viên họ

tích cực lãnh đạo xây dựng NTM.

Trong vùng, những kết quả, tiến bộ đạt được trên các lĩnh vực qua 5 năm

thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, tạo tiền đề quan trọng

cho sự phát triển những năm tiếp theo. Sau 30 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn

vùng ĐBSCL có thay đổi cơ bản, tạo ra cơ sở có nền tảng quan trọng cho xây dựng

NTM đến năm 2020. Tình hình chính trị xã hội ổn định; quan hệ sản xuất được đổi

mới; thể chế kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành và vận hành có hiệu quả; hệ

thống cơ chế chính sách đã và đang được bổ sung, hoàn thiện, cơ cấu kinh tế được

chuyển đổi theo hướng CNH, HĐH, kết cấu hạ tầng KT-XH ở nông thôn đã được

đầu tư nâng cấp, đời sống nhân dân vùng nông thôn phần lớn được cải thiện. Đồng

thời, nền kinh tế tăng trưởng khá ổn định đã tạo điều kiện đầu tư cho nông nghiệp,

nông thôn. Đây là điều kiện cần thiết đảm bảo cho sự lãnh đạo xây dựng NTM có

hiệu quả của các tỉnh ủy trong vùng những năm tới.

- Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng sẽ tác động to lớn đến việc lãnh đạo xây dựng

NTM ở ĐBSCL

Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then

chốt, Đại hội đã xác định các giải pháp cơ bản, hệ thống thể hiện quyết tâm của

Đảng nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến

đấu của Đảng. Để công tác xây dựng Đảng thiết thực, hiệu quả, Đảng sẽ đẩy mạnh

tổng kết thực tiễn công tác xây dựng Đảng, đánh giá thực chất ưu, khuyết điểm, rút

ra những bài học kinh nghiệm, bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng Đảng, từ đó

92

tiếp tục xác định những chủ trương, giải pháp mới phù hợp nhằm đẩy mạnh xây

dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng theo

tinh thần Nghị quyết trung ương 4 khóa XI. Các cấp ủy đảng ở ĐBSCL sẽ cụ thể

hóa các quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng, đề ra những chủ trương, giải

pháp phù hợp với tình hình thực tế của địa phương và quyết tâm tổ chức thực hiện,

điều đó sẽ thúc đẩy công tác xây dựng Đảng đạt được những thành tựu to lớn hơn.

Quá trình này sẽ tác động to lớn đến việc lãnh đạo xây dựng NTM ở ĐBSCL.

- Các phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tâm lý tích cực của cư dân

nông thôn ĐBSCL được phát huy

Tính chủ động, năng động, sáng tạo sẽ là nét nổi bật và là xu hướng phát

triển mạnh mẽ trong cán bộ, công chức và nhân dân ĐBSCL; những nét văn hóa

tích cực đang hình thành và ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống văn hóa

của cán bộ, công chức và nhân dân; những tập tục, thói quen lạc hậu đang từng

bước bị đẩy lùi. Những thành tựu này tạo ra môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa,

chính trị thuận lợi cho quá trình xây dựng NTM.

Những mặt tích cực của phong tục, tập quán, truyền thống, tâm lý của cư dân

ĐBSCL như: giàu lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng, một lòng, một dạ tin theo

Đảng, khắc phục khó khăn, gian khổ, quyết tâm đi theo Đảng xây dựng đất nước

giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; hào hiệp, trọng tình nghĩa, năng động,

sáng tạo, không thích phô trương, nói ít, làm nhiều... sẽ tiếp tục tác động tích cực

đến việc lãnh đạo xây dựng NTM ở ĐBSCL.

- Tác động tích cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, của cách mạng

khoa học và công nghệ

Tình hình kinh tế thế giới những năm tới tiếp tục phục hồi, từ đó làm ảnh

hưởng tốt đến cả nước và vùng ĐBSCL.

Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp của phần lớn

các quốc gia trong vùng, đặc biệt là mức tăng nhanh thu nhập ở các nước đông dân

như Trung Quốc, Ấn Độ và xu thế chuyển một phần lương thực sang sản xuất nhiên

liệu sinh học và thức ăn gia súc sẽ đẩy nhanh nhu cầu về lương thực, thực phẩm,

làm tăng giá các nông sản này trong tương lai. Sự tăng trưởng kinh tế trên thế giới

93

nói chung sẽ đẩy mạnh nhu cầu về các mặt hàng nguyên liệu phục vụ công nghiệp

cũng như các mặt hàng nông sản thực phẩm. Những triển vọng mới đang xuất hiện

khiến cho sản xuất nông lâm ngư nghiệp có thể trở thành ngành có lợi nhuận cao

đối với những quốc gia có lợi thế so sánh như Việt Nam.

Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, cách mạng KH-CN tiếp tục

phát triển mạnh mẽ, diễn ra nhanh chóng và phức tạp, vừa đem đến cơ hội, vừa

đặt ra thách thức. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ tiếp thu các tri

thức mới, thường xuyên tự học, tự rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt; có quyết

tâm chính trị cao; am hiểu sâu sắc và biết vận dụng sáng tạo chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chủ động, sáng tạo, năng động, nhạy

bén, có tầm nhìn xa, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không sợ hy

sinh lợi ích cá nhân; biết điều hành công việc một cách khoa học và nghệ thuật;

biết đề cao hiệu quả công việc.

- Học tập được kinh nghiệm của nhiều nơi, cả trong và ngoài nước

Xây dựng NTM là công việc bao gồm nhiều nội dung, nhiều lĩnh vực, đòi

hỏi phải huy động sức mạnh tổng hợp và căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng

địa phương để có bước đi, kế hoạch phù hợp. Mỗi nơi có một cách làm hay, việc

học tập kinh nghiệm của các nơi, kể cả của nước ngoài sẽ giúp cho các địa

phương trong vùng tránh được những thất bại, từ đó đẩy nhanh tiến độ công việc

xây dựng NTM.

Đồng bằng sông Cửu Long đã tạo lập được những tiền đề vật chất cơ bản

cho phát triển mạnh và có hiệu quả hơn về nông nghiệp, nông thôn: hình thành một

số vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá; cơ sở vật chất và hạ tầng KT-XH được

tăng cường; việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phát triển rộng rãi... ĐBSCL có khả năng kế

thừa có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, các địa phương đi trước; mở rộng quan

hệ hợp tác trong và ngoài nước, tranh thủ công nghệ, hỗ trợ đầu tư và kinh nghiệm

quản lý để xây dựng NTM. Năng lực hiện có trong nước về công nghiệp, dịch vụ,

cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội đã được nâng cao hơn một bước khá cơ bản, tạo

điều kiện thuận lợi cho vùng sớm đạt các mục tiêu xây dựng NTM.

94

Qua quá trình lãnh đạo đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

trong cơ chế thị trường, đặc biệt xử lý hiệu quả các tình huống về đẩy nhanh

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nảy sinh trên địa bàn, các tỉnh ủy vùng

ĐBSCL đã tích lũy được những kinh nghiệm bước đầu về lãnh đạo xây dựng

NTM. Đây là tài sản quý giá và là hành trang quan trọng để các tỉnh ủy kế thừa

và đổi mới phương thức lãnh đạo xây dựng NTM trong những năm tới.

4.1.1.2. Khó khăn, thách thức

Bên cạnh nhiều yếu tố thuận lợi cơ bản, quá trình lãnh đạo xây dựng NTM

vùng ĐBSCL các tỉnh ủy cũng gặp những khó khăn, thách thức sau:

- Nhận thức và tư tưởng của một số cán bộ lãnh đạo, đảng viên các tỉnh

ủy về xây dựng NTM trong bối cảnh mới còn bất cập.

Năng lực lãnh đạo của cán bộ đảng viên của các tỉnh ủy tuy đã được nâng

cao nhưng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo xây dựng NTM.

Phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy chưa đổi mới nhiều. Các tỉnh ủy chưa thường

xuyên nhận được sự chỉ đạo, hỗ trợ giúp đỡ của các ban, ngành Trung ương, nhất là

khi có những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn lãnh đạo xây dựng NTM. Cơ

chế báo cáo còn nặng về hình thức, kém hiệu quả. Thiếu cơ chế phối hợp có hiệu

quả cao giữa tỉnh ủy với chính quyền, giữa các ban ngành với nhau. Sự phát triển

nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL còn chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng sản

xuất hàng hoá nhỏ, phân tán, manh mún, trình độ kỹ thuật, năng suất thấp.

- Tốc độ của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa sẽ được tiếp tục đẩy

nhanh, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho nhân dân, nhưng cũng tranh

chấp tài nguyên đất, nước, vốn,… với nông nghiệp, nông thôn.

Tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ giảm, cư dân

nông thôn sẽ bớt đi, lao động nông thôn sẽ chuyển nhanh sang các hoạt động phi

nông nghiệp. Kết cấu xã hội nông thôn sẽ thay đổi lớn, các giá trị văn hóa tinh

thần cổ truyền đứng trước thách thức mai một, nguy cơ ô nhiễm môi trường

nông thôn tăng.Chính phủ chưa có giải pháp hiệu quả và căn cơ để giải quyết

tình trạng được mùa mất giá, mất mùa được giá mà chỉ có giải pháp tình thế là

tạm trữ theo thời vụ.

95

Các nguồn năng lượng và tài nguyên tự nhiên trở nên khan hiếm tạo ra yêu

cầu thay đổi công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất, mặt khác sẽ làm tăng

nhanh giá thành sản xuất nếu giữ nguyên cơ cấu sản xuất lạc hậu. Tình trạng tranh

chấp giữa địa phương và quốc gia về tài nguyên năng lượng, khoáng sản, nguồn

nước, thủy sản,… có thể gây ra tác động bất lợi cho cơ cấu sản xuất nông nghiệp và

sinh hoạt của cư dân nông thôn.

Mặt khác, cũng tạo nên nguy cơ làm ô nhiễm suy thoái môi trường, mất cân

bằng sinh thái, mất công bằng quyền lợi nếu sử dụng không hợp lý các thành tựu

KH-CN và quyền sở hữu trí tuệ.

- Tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu trong tương lai ngay trong thời gian

gần sẽ tăng mức độ nghiêm trọng của các biến động thiên tai, thời tiết. Thậm chí

đối với Việt Nam, biến đổi khí hậu sẽ gây ra những tác động xấu trên quy mô lớn

đối với những vùng sản xuất nông nghiệp và địa bàn nông thôn rộng lớn như

ĐBSCL. Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, lũ hiếm, dịch bệnh của cây trồng và

vật nuôi, của con người có xu hướng tiếp tục diễn biến phức tạp hơn.

Nước biển dân cao là một thảm họa lớn đã đang và sẽ xảy ra. Nó sẽ tác

động mạnh mẽ đến các nước ven biển, trong đó Việt Nam là một trong những

nước sẽ chịu hậu quả nặng nề. Đối với vùng ĐBSCL, là vùng chịu hậu quả lớn

nhất. Đây là vùng không có đê bao kiên cố như các tỉnh ở vùng Đồng bằng Bắc

Bộ. Hiện tại đã có khá nhiều cụm, tuyến dân cư vượt lũ và cũng là những cụm,

tuyến dân cư có thể ứng phó bước đầu có hiệu quả với tình trạng nước biển dâng

cao. Tuy nhiên, để toàn vùng ứng phó được với tình trạng này, khó có thể triển

khai thực hiện các đề án trong thời gian ngắn và bằng nguồn kinh phí của các địa

phương và Trung ương cũng không thể đáp ứng nổi. Hậu quả của nước biển

dâng cao sẽ tàn phá ghê gớm cơ sở hạ tầng nông thôn, thay đổi phương cách sản

xuất, cơ cấu cây trồng...Đây là thách thức lớn, chưa từng có đối với sự lãnh đạo

xây dựng NTM của các tỉnh ủy trong những năm trước mắt và lâu dài.

- Hệ thống chính trị xã cũng còn nhiều yếu kém, bất cập trong công tác

lãnh đạo quản lý. Vẫn còn tình trạng quan liêu, sách nhiễu nhân dân, tiêu cực,

tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, buông lỏng kỷ cương, cấp ủy

96

vừa bao biện làm thay, vừa buông lỏng vai trò lãnh đạo đối với chính quyền, mối

quan hệ phối kết hợp giữa các tổ chức trong HTCT chưa nhịp nhàng, đồng bộ,

trình độ, năng lực thực tế, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công

chức chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ… Những yếu kém, bất cập này

chưa thể khắc phục trong thời gian ngắn, nó sẽ tác động không thuận chiều đến

quá trình xây dựng NTM.

Bên cạnh đó, cơ chế quản lý còn lỏng lẻo, nhất là lĩnh vực quản lý đất đai;

những thiếu sót trong công tác cán bộ; cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính

chưa hoàn thiện; hệ thống pháp luật chưa đồng bộ… chưa được khắc phục triệt

để, còn tiếp tục diễn biến phức tạp, gây bất bình trong đội ngũ cán bộ, công

chức, đảng viên và nhân dân. Điều này sẽ tác động không thuận chiều đến việc

lãnh đạo xây dựng NTM ở ĐBSCL.

Đội ngũ cán bộ công chức cơ sở được hình thành, phát triển từ nhiều

nguồn khác nhau, trong đó đại bộ phận xuất thân từ nông dân nên còn ảnh hưởng

nặng nề tâm lý, cách nghĩ, cách làm tiểu nông. Mặt khác, để hoàn thành các chỉ

tiêu của các chương trình, kế hoạch từ cấp trên phân bổ thì dễ dẫn tới tình trạng

một bộ phận cán bộ công chức xã do yếu kém về trình độ, phẩm chất, năng lực

và thiếu bản lĩnh sẽ bắt chước nguyên si mô hình, cách làm của nơi khác, xã

khác, sẽ xuất hiện tình trạng giáo điều mới, chạy theo thành tích, nóng vội, chủ

quan, duy ý chí.

- Những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, nhiều tập quán, phong

tục, thói quen, tâm lý, tính cách xấu còn tồn tại. Nền kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo

định hướng XHCN đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng, đồng thời cũng nảy

sinh những mặt tiêu cực không nhỏ, như: nạn thất nghiệp, khoảng cách giàu

nghèo không ngừng gia tăng, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, lối sống vị

kỷ, một số giá trị văn hóa, truyền thống bị lai căn, biến dạng, tình trạng bạo lực,

lưu manh, mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, đồi trụy, mê tín dị đoan, hủ tục, xấu tốt

có khi bị lẫn lộn, làm ăn gian dối.

97

Nhiều tập quán, phong tục, thói quen, tâm lý, tính cách xấu tồn tại như: ăn

nhậu quá mức, coi nhậu là thể hiện bản lĩnh con người, nhậu nhiệt tình mới là tình

nghĩa, sống thiếu căn cơ, không lo xa, tiêu xài lãng phí, đám tiệc triền miên, thích

sống theo kênh rạch, cách nghĩ giản đơn,chủ nghĩa cục bộ địa phương ở một bộ phận

cán bộ đảng viên và nhân dânsẽ cản trở không nhỏ đến việc lãnh đạo xây dựng NTM.

- Nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL là địa bàn tiềm ẩn những yếu tố bất ổn

định về kinh tế và xã hội: phân hoá giàu nghèo, chênh lệch vùng, tình trạng mất dân

chủ ở một số vùng, sự biến động khó lường về thị trường hàng nông sản. Số lượng

lớn lao động nông thôn trong vùng đòi hỏi giải quyết việc làm trong khi chất lượng

lao động thấp kém và khả năng hạn chế của công nghiệp và dịch vụ trong thu hút

lao động nông nghiệp.

Vấn đề dân tộc và tôn giáo ở ĐBSCL còn diễn biến phức tạp, các thế lực thù

địch và bọn xấu còn tiếp tục lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để chống phá Đảng

và Nhà nước ta, gây mất ổn định chính trị - xã hội, gây khó khăn cho các cấp ủy,

chính quyền địa phương, như: kích động đồng bào Khmer đòi đất, khiếu kiện đông

người vượt cấp, đòi thành lập “Nhà nước Khmer Krôm”, vấn đề biên giới với

Campuchia, các tôn giáo đòi đất, truyền đạo trái phép, xúi giục tín đồ không chấp

hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

4.1.2. Mục tiêu, phương hướng tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh

ủy ở đồng bằng sông Cửu Long đối với việc xây dựng nông thôn mới

* Mục tiêu:

Để tiếp tục thực hiện thắng lợi Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng

NTMcủa Thủ tướng Chính phủ, các tỉnh ủy ĐBSCL lãnh đạo hệ thống chính trị và

các tầng lớp nhân dân trong vùng phấn đấu đạt được những mục tiêu sau:

Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng KT-XH từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế

và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh

công nghiệp, dịch vụ; gắn xây dựng NTM với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông

thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được

bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân

ngày càng được nâng cao; theo định hướng XHCN.

98

* Phương hướng:

Trên cơ sở các chủ trương của trung ương, trong những năm tới để lãnh

đạo thực hiện đạt các mục tiêu của chương trình xây dựng NTM, các tỉnh ủy ở

ĐBSCL cần tập trung vào các phương hướng sau:

- Về kinh tế:

+ Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả, năng lực

cạnh tranh gắn với cơ cấu lại nông nghiệp, công nghiệp; đẩy nhanh tiến độ xây

dựng nông thôn mới

Văn kiện Đại hội XII nêu rõ:

Phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất

lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi

trường, gắn sản xuất với chế biến và thị trường, mở rộng xuất khẩu.

Giữ vững diện tích đất trồng lúa theo quy hoạch, bảo đảm vững chắc

an ninh lương thực quốc gia và tăng giá trị xuất khẩu gạo. Mở rộng

diện tích, áp dụng công nghệ cao để tăng năng suất, chất lượng các

loại rau, màu, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế. Phát triển nhanh

ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp với

công nghệ tiên tiến [60, tr.48].

Đổi mới mô hình tăng trưởng nông nghiệp theo phương châm “lấy tổ chức

lại sản xuất làm cơ sở, lấy ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật, công nghệ làm

khâu đột phá, lấy thị trường làm tiền đề và mục tiêu”. Cơ cấu lại các sản phẩm

nông nghiệp và thực hiện có hiệu quả việc liên kết vùng ĐBSCL phát triển sản

xuất và tiêu thụ lúa gạo, trái cây, thủy sản và nâng cao năng lực nông dân.

Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng kinh tế và tăng cường sự liên

kết giữa các vùng để cùng phát triển. Xây dựng chương trình phát triển giữa các

vùng. Xác định rõ vai trò đầu tàu và phân công trách nhiệm cho từng địa phương

trong vùng. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết phát triển toàn diện với các tỉnh trong

vùng, nhất là vùng kinh tế trọng điểm. Quản lý tốt quy hoạch đất đai, rừng

nguyên sinh, đầu tư, xây dựng, bảo vệ môi trường biển và phát triển đô thị.

99

Tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp. Khuyến khích thành lập các

doanh nghiệp nông nghiệp, phát triển đa dạng các loại hình kinh tế hợp tác theo

hướng quy mô lớn gắn với ứng dụng công nghệ cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông thôn gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, xây dựng NTM và quá trình đô

thị hóa, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn.

Phát triển nuôi trồng thủy sản đa dạng theo quy hoạch, phát triển nuôi tôm

công nghiệp và các mô hình nuôi tôm - lúa, tôm xen canh có hiệu quả. Ưu tiên

đầu tư xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi, cống, đê sông, đê biển, điện phục

vụ sản xuất. Phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng KH-CN, nâng

cao năng suất, giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

Phát triển mạnh kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo: đầu tư

khai thác hải sản xa bờ, dịch vụ hậu cần nghề cá, nuôi trồng thủy sản gắn với bảo

vệ nguồn lợi thủy sản; xây dựng các Trung tâm nghề cá gắn với ngư trường; phát

triển du lịch biển - đảo; phát triển kinh tế hàng hải; nâng cấp, xây dựng cảng dịch

vụ hậu cần. Đầu tư hệ thống giao thông ven biển, bảo đảm điều kiện phát triển

kinh tế biển kết hợp bảo đảm quốc phòng - an ninh và phòng, tránh thiên tai, cứu

hộ, cứu nạn. Từng bước phát triển đồng bộ giữa cảng và tuyến, luồng, gắn kết

với giao thông đường biển, đường bộ, tạo thành mạng lưới giao thông hoàn

chỉnh thông qua xã hội hoá và đa dạng hoá hình thức đầu tư.

Tiếp tục nâng cao chất lượng cây, con giống phục vụ sản xuất.Nâng cấp

và phát triển hệ thống sản xuất giống lúa ở các trạm, trại, nhân rộng mạng lưới

sản xuất lúa giống trong cộng đồng, nhằm đáp ứng đủ nhu cầu về giống lúa chất

lượng cao phục vụ sản xuất. Tiếp tục thực hiện Đề án Phát triển lúa đặc sản giai

đoạn 2016 - 2020, phát triển mở rộng vùng dự thực hiện mô hình lúa thơm - tôm

sạch, mô hình chuỗi giá trị sản xuất nhóm lúa và các giống lúa cao sản, đặc sản.

Phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng từng bước chuyển dần chăn

nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi quy mô gia trại, trang trại, công nghiệp tập trung,

kiểm soát dịch bệnh, quản lý môi trường.

100

Rà soát, bổ sung cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp tư nhân, nhất

là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng nguồn lực cho Quỹ đầu tư phát triển hỗ trợ

doanh nghiệp. Khuyến khích phát triển lực lượng doanh nhân, doanh nghiệp theo

tiêu chuẩn toàn cầu để dẫn dắt, đặt hàng cho sản xuất nông sản, thủy sản vươn ra

thị trường thế giới.

Có giải pháp đột phá nhằm huy động các nguồn lực tổng hợp đi đôi với

phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu các

cấp, các ngành đẩy nhanh tiến độ xây dựng NTM.

+ Phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch. Xây dựng chiến lược thị

trường cho lúa gạo, cá tra, rau màu. Đa dạng hóa các loại hình thương mại, loại

hình sản phẩm đáp ứng thị trường trong và ngoài nước; khai thác có hiệu quả thị

trường nông thôn. Chuẩn bị các điều kiện sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu

cũng như thu hút vốn đầu tư khi Việt Nam tham gia Hiệp định thương mại tự do.

+ Đầu tư và ứng dụng KH-CN vào sản xuất, ưu tiên cho công nghệ sinh

học, công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch. Phát triển sản phẩm nông

nghiệp sạch với quy mô công nghiệp. Tăng hàm lượng KH-CN trong các sản

phẩm chủ lực của vùng, tạo nhiều sản phẩm mới, có giá trị gia tăng cao. Đào tạo,

tuyển dụng nhân lực nghiên cứu, ứng dụng KH-CN. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt

động KH-CN.

+ Huy động các nguồn lực, nhất là nguồn lực của xã hội đầu tư kết cấu

hạ tầng KT-XH. Hoàn thiện, nâng cao chất lượng quy hoạch kết cấu hạ tầng KT-

XH; đa dạng hóa hình thức đầu tư, huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội

tham gia đầu tư, kinh doanh. Đầu tư hạ tầng giao thông có trọng tâm, tạo liên kết

vùng gắn với xây dựng NTM. Đầu tư hạ tầng sản xuất nông nghiệp, ứng dụng

công nghệ cao và thích ứng với biến đổi khí hậu.

- Về chính trị:

+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình

hình mới. Phát huy dân chủ ở cơ sở, vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội

101

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên

về công tác dân vận; nắm chắc tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, giải quyết kịp

thời những bức xúc ngay từ cơ sở; xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, ngăn

chặn âm mưu, hoạt động chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết. Phát động các

phong trào thi đua yêu nước; thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp

nghĩa, giảm nghèo...

Kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực cán bộ dân vận; quy hoạch, đào tạo,

luân chuyển cán bộ khối vận, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo. Thực hiện tốt dân chủ

ở cơ sở; phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân

dân tham gia giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền.

+ Xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh. Nâng cao năng lực lãnh

đạo của các tổ chức đảng từ tỉnh đến cơ sở gắn với xây dựng văn hóa trong Đảng,

văn hóa chính trị. Tập trung nâng chất đội ngũ đảng viên vững mạnh về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống và phong cách.

Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng. Đổi

mới, cải tiến việc triển khai, cụ thể hóa thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chú

trọng công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm. Nắm bắt kịp thời

diễn biến tâm trạng, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đấu tranh, ngăn

chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh việc

học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; phát huy vai trò gương mẫu

của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu các cơ

quan, đơn vị.

Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ. Có cơ chế tuyển chọn, đào tạo, đánh giá

cán bộ, trọng dụng những người có đức, có tài. Triển khai Đề án vị trí việc làm và

cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Đề án thi tuyển các chức danh cán

bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã,

phường, thị trấn.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, nội dung trọng tâm là việc thực

hiện nhiệm vụ chính trị được giao, việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm theo

102

Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI). Củng cố, kiện toàn bộ máy ủy ban kiểm tra

các cấp. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy trong công tác nội chính, cải

cách tư pháp, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Làm tốt công tác tiếp dân và

giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng; đổi mới phương thức, nâng

cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng gắn với phát huy tốt vai trò, năng lực,

trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Nâng cao chất lượng xây

dựng các chủ trương, nghị quyết của Tỉnh ủy, đảm bảo thiết thực, khả thi; phân

công rõ trách nhiệm, chấn chỉnh khâu tổ chức thực hiện nhằm đưa chủ trương,

nghị quyết thật sự đi vào cuộc sống.

Đổi mới, nâng chất hoạt động của hội HĐND và hiệu lực, hiệu quả của bộ

máy quản lý nhà nước các cấp; sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn; xây dựng chính

quyền cơ sở đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Mở rộng và đổi mới hình thức thi

tuyển các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp. Triển khai thực hiện có hiệu quả

các giải pháp về phòng chống tham nhũng, lãng phí. Tập trung chỉ đạo xử lý các

vụ khiếu kiện đông người, phức tạp, kéo dài, không để thành “điểm nóng”. Đẩy

mạnh cải cách hành chính, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI);

đề cao trách nhiệm xây dựng phong cách, thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức; thiết lập kỷ cương hành chính nhà nước. Thực hiện tốt chủ

trương của Trung ương về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.

Lãnh đạo tốt việc phát huy dân chủ, tinh thần thượng tôn pháp luật, gắn lệ

làng, hương ước với luật pháp để điều chỉnh hành vi con người đảm bảo tính

pháp lý, tôn trọng kỷ cương phép nước, phát huy tính tự chủ của làng xã.

- Về văn hoá - xã hội:

+ Đổi mới mạnh mẽ giáo dục - đào tạo.

Triển khai thực hiện chương trình đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục -

đào tạo. Đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; trước hết,

tăng cường đào tạo nghề cho lao động phổ thông, gắn đào tạo với giải quyết việc

làm cho người lao động; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công

chức từ tỉnh đến cơ sở đạt chuẩn.

103

Tập trung xây dựng cơ sở vật chất, nhất là các trường đại học, cao đẳng,

trung cấp, trường đạt chuẩn quốc gia; đầu tư để tăng nhanh tỷ lệ trường đạt chuẩn

quốc gia, ưu tiên vùng dân tộc, vùng khó khăn. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà

giáo, cán bộ quản lý. Đổi mới công tác quản lý, giao quyền tự chủ về tổ chức, tài

chính, chuyên môn cho các trường học gắn với tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm

định chất lượng; đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, phân luồng đào tạo nghề.

+ Phát triển văn hóa, xây dựng con người phát triển toàn diện theo Nghị

quyết số 33-NQ/TW, ngày 09-6-2014 của Trung ương. Nâng cao chất lượng

phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nếp sống văn

minh đô thị, xây dựng NTM; xây dựng các thiết chế văn hóa góp phần nâng cao

chất lượng đời sống văn hóa, nhất là ở cơ sở. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến

khích đầu tư phát triển văn hóa, thể thao.

Đầu tư tôn tạo, tu bổ các di tích văn hóa, lịch sử, giữ gìn và phát huy giá

trị văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn

+ Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Nâng

cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân. Giải quyết hài hòa các quan hệ xã

hội. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo thêm nhiều việc làm. Nâng chất

lượng dạy nghề, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững; nâng cao tỷ lệ xuất

khẩu lao động chất lượng cao.

Coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số, xây dựng gia

đình hạnh phúc và bình đẳng giới; tăng cường cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế,

nhân lực cho các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; quan tâm

nâng cao trình độ chuyên môn, y đức của đội ngũ y, bác sĩ, cán bộ ngành y tế;

xây dựng phương án phòng bệnh có hiệu quả.

Đầu tư, nâng chất các cơ sở y tế, mạng lưới y tế dự phòng và năng lực

quản lý ngành; phát triển nguồn nhân lực y tế có chất lượng. Tuyên truyền, vận

động, hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.

Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Phối hợp, lồng ghép các chương

trình hỗ trợ và huy động các nguồn lực xã hội tập trung giảm nghèo ở các xã khó

104

khăn, đặc biệt khó khăn và vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số; chú trọng

giải pháp giảm nghèo bền vững và hạn chế tái nghèo. Chăm lo tốt cho các đối

tượng chính sách, người có công, các đối tượng bảo trợ xã hội.

- Về môi trường:

Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên, môi

trường; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nâng

cao chất lượng quy hoạch, bảo vệ, khai thác sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên

khoáng sản, đất đai; bảo vệ tốt các loại rừng, môi trường biển và ven biển, các

khu bảo tồn hệ sinh thái đặc thù. Thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn hoạt động khai

thác khoáng sản trái phép, đánh bắt hủy diệt nguồn lợi thủy sản. Xử lý triệt để

các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Chủ động thích ứngvới biến đổi khí hậu, hạn

chế tác động do xâm nhập mặn, khan hiếm nguồn nước.

Môi trường, du lịch sinh thái phải được bảo tồn xây dựng, củng cố, bảo

vệ.Bảo vệ rừng đầu nguồn, chống ô nhiễm nguồn nước, môi trường không khí và

nước thải từ các khu công nghiệp để nông thôn phát triển bền vững.

- Về đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc;

củng cố quốc phòng - an ninh kết hợp với phát triển KT-XH. Đẩy nhanh tiến độ

xây dựng các khu vực phòng thủ. Chủ động, sẵn sàng xử lý các tình huống trên

tuyến biên giới.

Thực hiện tốt công tác dự báo, tham mưu, đề xuất và xử lý tình hình an

ninh vùng biển; phối hợp với các lực lượng liên quan thực hiện tốt công tác giữ

vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh; kịp thời xử lý các

tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ.

Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là vấn đề an ninh trong

dân tộc, tôn giáo. Thực hiện đồng bộ các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội

phạm, các tệ nạn xã hội; giảm tai nạn giao thông. Nâng cao trách nhiệm của các

ngành, địa phương trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, không để xảy

ra “điểm nóng”. Tập trung giải quyết các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện về đất

đai trong Nhân dân.

105

Nâng cao chất lượng tổng hợp lực lượng vũ trang, xây dựng lực lượng dân

quân tự vệ. Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các hoạt động tội phạm, phòng ngừa tệ nạn

ma túy, buôn bán người, buôn lậu và gian lận thương mại; giữ vững trật tự - an toàn

xã hội, an toàn giao thông, an ninh biên giới.

4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA

CÁC TỈNH ỦY VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG XÂY DỰNG

NÔNG THÔN MỚI ĐẾN NĂM 2025

4.2.1. Lãnh đạo đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách

nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã

hội và nhân dân, nhất là nông dân về xây dựng nông thôn mới

Lãnh đạo đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về tầm quan trọng,

nhiệm vụ, giải pháp và trách nhiệm lãnh đạo xây dựng nông thôn mới giai đoạn

hiện nay là hết sức quan trọng. Nhận thức là cơ sở chỉ đạo hành động, có nhận

thức đúng thì mới có khả năng hành động đúng. Do vậy, muốn nâng cao nhận

thức, thống nhất về tư tưởng, đề cao vai trò trách nhiệm của tổ chức, cá nhân

trong xây dựng NTM thì phải tổ chức phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chính trị

tư tưởng, dân vận sâu rộng.

Xây dựng nông thôn mới trong điều kiện thực hiện CNH, HĐH đất nước

không chỉ có ý nghĩa đối với việc tạo ra sự thay đổi tích cực trên các phương diện

KT-XH nông thôn, mà còn góp phần quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của

đất nước. Xây dựng NTM là nhiệm vụ trọng yếu của cả HTCT và toàn xã hội, trên

quan điểm dựa vào nội lực của cộng đồng dân cư, người dân đóng vai trò chủ thể

trong thực hiện chương trình, mọi việc phải được dân biết, dân làm, dân kiểm tra.

Vì vậy, để thực hiện thành công chương trình trước hết phải nâng cao nhận thức,

trách nhiệm, tạo ra sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân, trước hết là cấp

uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các Đoàn thể các cấp và đội ngũ cán bộ,

đảng viên về vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng NTM ở ĐBSCL, qua

đó cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn, tăng thêm về lý luận, cung cấp các cơ

sở khoa học cho các tỉnh ủy kịp thời điều chỉnh hoàn thiện các chủ trương, chính

106

sách trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện chiến lược phát triển NTM và

tìm ra được những phương hướng, giải pháp mới nhằm tăng cường sự lãnh đạo

của các cấp uỷ Đảng để thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết đề ra; phát hiện

những nhân tố mới, những điển hình để mở rộng.

Đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, quán triệt chính

sách chủ trương, nghị quyết của Đảng để từng cán bộ, đảng viên, các tổ chức

đảng, chính quyền, các cơ quan, doanh nghiệp, đặc biệt là người đứng đầu các tổ

chức, cơ quan và mọi người dân hiểu đầy đủ, sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà

nước về xây dựng NTM.

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ tổ quốc. Mục tiêu của xây dựng NTM là không ngừng nâng cao đời

sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn trên cơ sở CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của

quá trình CNH, HĐH đất nước; coi phát triển sản xuất nông nghiệp là then chốt, xây

dựng NTM là căn bản, nông dân giữ vai trò chủ thể trong quá trình xây dựng NTM.

Xây dựng NTM trên cơ sở thực hiện quy hoạch NTM gắn với quy hoạch

nông nghiệp, đô thị. Nâng cao vai trò làm chủ của người nông dân; chú trọng xây

dựng và phát triển giai cấp nông dân. Quan hệ giữa nông nghiệp - nông dân - nông

thôn là phát triển công nghiệp, dịch vụ và kinh tế đô thị khu vực nông thôn là quan

hệ hữu cơ nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên, gắn với

bảo vệ tài nguyên, môi trường, sinh thái. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo

hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở tái cơ cấu ngành, cơ

cấu sản phẩm gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của

nông sản.

Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả công

tác xây dựng NTM trong thời gian qua là do một số tỉnh uỷ và bộ phận cán bộ, đảng

viên và nhân dân chưa hiểu rõ ý nghĩa công tác phát triển nông thôn, chưa có nhận

thức đúng về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng NTM. Tham gia vào phát

triển NTM ở vùng ĐBSCL bao gồm nhiều tổ chức, nhiều lực lượng. Mỗi tổ chức,

107

mỗi lực lượng có vị trí vai trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhưng đều tham gia

vào các hoạt động xây dựng NTM. Để thực hiện có hiệu quả việc xây dựng NTM

giai đoạn từ đây đến năm 2020 một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là

phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức tầm quan

trọng về công tác phát triển nông thôn, về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc

xây dựng NTM trên cơ sở nâng cao trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, cán bộ đảng

viên về toàn xã hội trong xây dựng NTM giai đoạn hiện nay.

Nội dung tuyên truyền hiện nay cần phải đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục về

NTM và vị trí, tầm quan trọng của công tác xây dựng NTM; về vai trò lãnh đạo của

Đảng trong xây dựng NTM; về các nghị quyết, chủ trương của Đảng và Nhà nước

về việc xây dựng NTM; những thuận lợi, khó khăn trong xây dựng NTM; về yêu

cầu, nhiệm vụ xây dựng NTM và về vai trò, phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của

các tổ chức và từng cá nhân trong thực hiện chính sách xã hội và phát triển nông

thôn; mục tiêu, nguyên tắc, nội dung và các bước xây dựng NTM.

Tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về

vai trò của HTCT cơ sở trong xây dựng NTM, trước hết phải thông qua công tác

giáo dục, tuyên truyền, vận động nhân dân. Chỉ khi nào người dân nông thôn

thấy rằng hoạt động của HTCH cơ sở là nhằm phục vụ cho lợi ích của họ, cho

cộng đồng, khi đó họ mới tự giác, tự nguyện xây dựng chính quyền, xây dựng

HTCT cơ sở, nội lực thực sự được phát huy, từ đó mới tạo đà thực hiện thắng lợi

các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, trong đó có

nhiệm vụ xây dựng NTM.

Công tác tuyên truyền vận động hiện nay phải hướng nhiều về cơ sở, tập

trung vào tuyên truyền, giải thích những nội dung còn chưa có sự đồng thuận,

vướng mắc; không tuyên truyền dàn trải, chung chung, lặp lại. Vận dụng các hình

thức, phương pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng địa bàn, tránh tuyên

truyền theo kiểu triển khai kế hoạch, hình thức, phong trào. Tuyên truyền, vận động

trong dân không được theo lối chỉ đạo hành chính một chiều, mà phải hướng tới cho

người dân hiểu và chủ động nói lên chính kiến, nhu cầu, nguyện vọng của mình.

108

Phát huy mạnh mẽ vai trò của các phương tiện thông tin truyền thông trong

việc phổ biến, tuyên truyền về chương trình. Thông qua hệ thống báo chí, đài phát

thanh - truyền hình và các phương tiện thông tin truyền thông khác xây dựng các

chuyên trang, chuyên mục về xây dựng NTM, kịp thời đưa tin, bài phản ánh những

tấm gương điển hình, cách làm sáng tạo trong xây dựng NTM.

Có giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên

các cấp. Gắn trách nhiệm tuyên truyền với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp

ủy đảng, chính quyền, tổ chức CT-XH; phát huy tốt vai trò hạt nhân của chi bộ

đảng ở nông thôn trong tuyên truyền cho đảng viên, người dân các ấp, phum,

sóc... Qua đó phát huy sức mạnh của cả HTCT trong công tác tuyên truyền, giáo

dục, vận động.

Công tác tuyên truyền, giáo dục trước hết phải làm trong các cấp uỷ, chính

quyền, mặt trận, các đoàn thể quần chúng, cán bộ, đảng viên... có sự thống nhất cao

về các quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, chương trình xây dựng NTM

từ nay đến năm 2020. Trên cơ sở sự thống nhất về nhận thức phát huy tinh thần chủ

động, sáng tạo của các cấp, các ngành, các tổ chức trong tham gia xây dựng và tổ

chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch xây dựng NTM, phù

hợp với điều kiện, đặc điểm, tiềm năng của vùng và từng địa phương.

Công tác tuyên truyền phải góp phần làm cho mọi người, mọi tổ chức, trước

hết là cấp uỷ, chính quyền các cấp nhận thức rõ vai trò trách nhiệm của mình trong

lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng NTM, khơi dậy lòng tự tôn, tính tự chủ của mỗi thành

phần, kích thích sự sáng tạo, thi đua trong lao độn sản xuất và xây dựng quê hương,

khơi dậy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng

đồng nông thôn, từ đó đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo quản lý; biên

những khó khăn, thách thức thành lợi thế, tổ chức thực hiện có hiệu quả chiến lược

xây dựng NTM do Đảng vạch ra là nhiệm vụ của toàn xã hội. Đây là quan điểm thể

hiện rõ tinh thần quyết tâm xây dựng NTM, khẳng định con người chính là chủ thể

của quà trình xây dựng NTM. Đây cũng là một trong những nội dung cơ bản của

phát triên bền vững.

109

Công tác tuyên truyền, giáo dục còn phải làm cho mọi người dân ở vùng

nông thôn và toàn xã hội nhận thức đúng và hiểu rõ được những thuận lợi, những

khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển NTM ở vùng ĐBSCL hiện nay; hiểu

rõ được nguyên nhân của sự yếu kém và chậm phát triển của các vùng nông thôn;

làm cho mọi người thấy rõ được sự nghèo đói và kém phát triển là do kiến thức, do

điều kiện, phương tiện làm ăn, do tập quán lạc hậu, do thói quen, do phương thức

sản xuất cũ không hiệu quả..., vì vậy con người hoàn toàn có thể vượt quá đói nghèo

và kém phát triển khi hiểu rõ nguyên nhân và có biện pháp khắc phục.

Công tác tuyên truyền giáo dục phải làm cho cộng đồng, xã hội thấy rõ mục

đích, ý nghĩa thiết thực của việc phát triển nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, qua đó

khơi dậy truyền thống đoàn kết, nhân ái, giúp đỡ lẫn nhau, thực hiện thắng lợi mục

tiêu, phương hướng xây dựng NTM. Công tác đó không chỉ đơn thuần là công tác

xã hội, mà là góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, làm lành mạnh các quan hệ xã

hội; phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của nhân dân; truyền thống đoàn kết của

nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân giữ vai trò nòng cốt trong

công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, dân cư nông thôn, doanh

nghiệp tích cực tham gia thực hiện các chương trình, kế hoạch xây dựng nông

thôn mới; phát động và duy trì các phong trào hoạt động của đoàn, hội và các

đoàn thể nhân dân hướng vào thực hiện những mục tiêu cụ thể, phù hợp với thực

tiễn từng thời điểm, từng địa phương.

Tăng cường lãnh đạo MTTQ cấp tỉnh tiến hành vận động cán bộ của cơ

quan MTTQ các cấp tham gia tích cực Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng

NTM. MTTQ và các tổ chức thành viên cần xây dựng kế họach tuyên truyền vận

động cụ thể đối với từng đối tượng và nhóm đối tượng trong thực hiện tiêu chí

NTM. Kết hợp tuyên truyền với cam kết thực hiện các tiêu chí NTM phù hợp với

khả năng của hộ gia đình và cộng đồng dân cư; coi trọng vận động các nhà tài

trợ, tham gia vào xây dựng NTM hướng dẫn các thủ tục để hộ gia đình tiếp cận

các nguồn vốn khác để thực hiện các tiêu chí cụ thể về NTM.

110

Hiệu quả của công tác xây dựng NTM sẽ được nâng lên nhiều lần khi công

tác tuyên truyền giáo dục, làm cho các cấp các ngành, mọi cán bộ, đảng viên và

nhân dân các bộ tộc thấy rõ vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng NTM;

nội dung, nhiệm vụ, giải pháp và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với những thành tựu

trong lĩnh vực xây dựng NTM. Đây là một trong những giải pháp cơ bản, quan

trọng hàng đầu góp phần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở

ĐBSCL trong xây dựng NTM.

4.2.2. Tăng cường lãnh đạo công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch

xây dựng nông thôn mới

Quy hoạch xây dựng NTM là một trong những nội dung khó khăn nhất. Đây

là khâu quan trọng, tác động lớn đến kết của chương trình, do vây công tác quy

hoạch phải được các tỉnh ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành thực

hiện nhằm đảm bảo sự đồng bộ, hợp lý, nâng cao tính khả thi trong thiển khai và

phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tiễn của vùng, của các địa phương.

Để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đòi hỏi phải đầu tư

nông nghiệp, phải coi trọng nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; chú trọng đầu tư phát

triển một nền nông nghiệp vốn còn ít, sản xuất nhỏ, kém hiệu quả sang nền nông

nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hoá và có hiệu quả

cao, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới. Nền tảng cho sự chuyển

đổi này là phát triển cơ sở hạ tầng cho công nghiệp bao gồm: thuỷ lợi hoá, điện khí

hoá, công nghệ sinh học, nhất là công nghiệp chế biến. Sự phát triển cơ sở hạ tầng

và công nghệ mới nhằm phục vụ cho sự hình thành những vùng sản xuất hàng hoá

để tạo ra khối lượng sản phẩm lớn và có chất lượng cao, phục vụ cho nhu cầu tiêu

dùng trong nước và xuất khẩu, phù hợp và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.

Công tác quy hoạch xây dựng NTM có vai trò quan trọng, quy hoạch tốt thì

đầu tư mới có hiệu quả. Tuy nhiên, công tác quy hoạch hiện nay còn tồn tại nhiều

hạn chế, yếu kém. Nguyên nhân là trong thời gian qua, chúng ta có quá nhiều quy

hoạch nhưng không đồng bộ, quy hoạch này chồng lấn lên quy hoạch kia. Thủ

tướng Chính phủ yêu cầu quy hoạch xây dựng NTM được xây dựng trên cơ sở gộp

111

chung 3 quy hoạch là: Quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch sản xuất và quy hoạch cơ

sở hạ tầng cấp xã, công tác này đang gặp rất nhiều khó khăn. Nhất là, năng lực,

trách nhiệm và sự phối hợp của một số cán bộ cấp xã, cấp huyện được giao

nhiệm vụ tham mưu cho Ban chỉ đạo các cấp về công tác quy hoạch chưa đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ, sự tham gia của người dân chưa đầy đủ, có xã còn mang

tính hình thức; nhiều xã chưa đóng vai trò chủ thể, còn phụ thuộc hoặc phó mặc

cho đơn vị tư vấn, trong khi số lượng các đơn vị tư vấn ít, năng lực và trình độ

chuyên môn khó đáp ứng cả 3 nội dung quy hoạch, một số đơn vị tư vấn tham

gia trực tiếp ký hợp đồng với xã phải liên kết với các tư vấn chuyên ngành về

lĩnh vực xây dựng; đất đai, quy hoạch sản xuất nông nghiệp, quy hoạch sản xuất

công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, dẫn đến tiến độ chậm và chất

lượng đạt thấp.

Một mặt do các địa phương thiếu cán bộ làm công tác quy hoạch, nhất là đối

với cấp xã, huyện. Mặt khác, ngay từ phía các bộ, ngành trung ương còn chậm ban

hành các văn bản hướng dẫn về quy hoạch hoặc hướng dẫn không đồng bộ. Do đó,

các tỉnh ủy cần chỉ đạo tổng rà soát lại công tác quy hoạch xây dựng NTM để đưa

ra một lộ trình mang tính khả thi vừa phù hợp với tình hình thực tế tại các địa

phương, vừa nâng cao chất lượng quy hoạch, vừa đảm bảo hiệu quả công tác đầu tư.

Trước tiên, phải tiến hành quy hoạch sản xuất nông nghiệp trên cơ sở nhu

cầu của thị trường và yêu cầu của từng vùng; sử dụng đất nông nghiệp tiết kiệm và

có hiệu quả, duy trì diện tích đất trồng lúa, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia

cả trước mắt và lâu dài; cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất với chế biến

và thị trường; phát triển các loại nông sản có lợi thế xuất khẩu và nông sản thay

thế nhập khẩu.

Lập đề án và quy hoạch xây dựng NTM cấp xã là một nhiệm vụ trọng tâm và

quan trọng, đây là cơ sở, tiền đề để cấp huyện và cấp xã lập kế hoạch dài hạn và

từng năm để thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng NTM ở mỗi địa phương,

đồng thời là cơ sở để tuyên truyền đến cộng đồng dân cư trên địa bàn biết và cùng

tham gia thực hiện. Vì vậy cùng với việc đẩy nhanh tiến độ của các đồ án quy hoạch

cần nâng cao chất lượng các đồ án, trước mắt tập trung nâng cao chất lượng các quy

112

hoạch chung xây dựng và quy hoạch trung tâm xã, quy hoạch vùng sản xuất tập

trung. Đối với các quy hoạch chi tiết khác, tuỳ theo yêu cầu thực tế địa phương có

thể lập quy hoạch chi tiết để làm cơ sở triển khai đầu tư các dự án.

Công tác quy hoạch phải kết hợp giữa chất lượng với tầm nhìn lâu dài. Về

tổ chức thực hiện, phải kết hợp giữa ưu tiên chỉ đạo điểm với đẩy mạnh triển

khai trên diện rộng nhằm bảo đảm tăng số xã đạt chuẩn NTM hàng năm và đồng

thời tăng số tiêu chí đạt chuẩn của các xã khác.

Theo yêu cầu của trung ương các địa phương khẩn trương rà soát lại mục

tiêu, danh sách cụ thể số xã phấn đấu đạt chuẩn cho phù hợp với điều kiện thực

tiễn. Các cấp từ tỉnh đến cấp xã phải đưa chỉ tiêu xây dựng NTM vào chương

trình kế hoạch hàng năm về phát triển KT - XH của địa phương, của ngành để

phê duyệt và thực hiện.

Quá trình triển khai xây dựng NTM từ trung ương đến địa phương đã huy

động được cả hệ thống chính trị vào cuộc, người dân tham gia tích cực, trở thành

một phong trào sâu rộng. Các tỉnh ủy tăng cường chỉ đạo cần tiếp tục huy động

sức mạnh tổng lực của cả HTCT, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác tuyên

truyền về xây dựng NTM; hoàn thành đồng bộ hệ thống văn bản hướng dẫn thực

hiện các nội dung của chương trình NTM.

Để thực hiện mục tiêu này các tỉnh ủy cần chỉ đạo các sở, ngành tập trung xây

dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện ngay các chương trình đề án phát triển sản xuất

đó là như: Đề án phát triển vùng cây ăn quả đặc sản, phát triển hoa, cây cảnh giá trị

kinh tế cao, đề án cơ giới hóa nông nghiệp, phát triển vùng nông sản chất lượng cao

và đề án củng cố nâng cao chất lượng HTX; chỉ đạo lập, phê duyệt và triển khai các

dự án như: xây dựng trung tâm khảo nghiệm và nhân giống cây trồng, đầu tư xây

dựng trung tâm giới thiệu sản phẩm nông sản chất lượng cao, dự án trung tâm Đào

tạo cán bộ xây dựng NTM và dạy nghề nông nghiệp công nghệ cao.

Để đẩy nhanh công tác quy hoạch, các tỉnh ủy cần lãnh đạo chính quyền

các tỉnh hỗ trợ tài chính cho các xã quy hoạch, lập đề án NTM. Cần xác định lấy

quy hoạch làm tiền đề, tạo đà cho triển khai các tiêu chí tiếp theo. Cần yêu cầu

tất cả các xã rà soát lại khâu quy hoạch, bổ sung thêm cho phù hợp quy hoạch

113

chung, quy hoạch ngành, tránh làm cho xong kiểu sao chép xã này cho xã khác.

Quy hoạch phải đi trước một bước đồng thời phải để dân tham gia bàn bạc,

thống nhất trước khi thuê tư vấn giúp xã hoàn tất thủ tục trình phê duyệt. Khắc

phục tình trạng có xã dựa cả vào đơn vị tư vấn, các nhà thầu và sự hỗ trợ của các

cơ quan cấp huyện, không tranh thủ được sự bàn bạc góp ý của người dân nên

việc thực hiện gặp khó khăn, hiệu quả thấp. Cùng với quy hoạch cần xác định

bước đột phá mới để xây dựng vùng chuyên canh hàng hóa, cơ giới hóa, áp dụng

tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nâng cao năng suất cây trồng, tăng giá trị thu nhập

trên diện tích đất canh tác.

Các bộ, ngành Trung ương tập trung rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng

thể có liên quan gắn với tái cơ cấu nền nông nghiệp của cả nước; quy hoạch

vùng sản xuất các loại nông sản chủ lực, hình thành các mặt hàng nông sản có

thương hiệu quốc gia, quốc tế.

Trên cơ sở yêu cầu tái cơ cấu nền nông nghiệp của cả nước và của mỗi

vùng, miền; các địa phương trong vùng tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung

các quy hoạch sản xuất nông nghiệp, xây dựng NTM đáp ứng yêu cầu sản xuất

nông nghiệp hàng hóa lớn và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng

NTM gắn hài hòa với phát triển đô thị và quá trình đô thị hóa, bảo vệ cảnh

quan môi trường; bảo đảm tính liên kết vùng, thống nhất với quy hoạch xây

dựng vùng tỉnh, vùng huyện, các quy hoạch chuyên ngành khác, bảo đảm chất

lượng, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và

tập quán sinh hoạt.

Đưa làng nghề vào quy hoạch nông thôn mới. Phát triển làng nghề không

chỉ giúp nâng cao thu nhập, đời sống nông dân, mà còn góp phần chuyển dịch cơ

cấu lao động, để lại khoảng trống đất đai dành cho phát triển nông nghiệp quy

mô lớn. Ở khía cạnh sản xuất, công nghiệp hóa và làng nghề không hề mâu

thuẫn nhau. Với các sản phẩm làng nghề truyền thống, đòi hỏi hàm lượng lao

động thủ công cao, có bí quyết nghề, sự khéo léo của các nghệ nhân, thì vẫn phải

duy trì hình thức lao động thủ công để tạo ra các sản phẩm tinh xảo, vừa sản

xuất, vừa trình diễn phục vụ du lịch.

114

Thực tế nghiên cứu cho thấy, mức thu nhập của những người chuyên

nghề, kiêm nghề ở các làng nghề thường cao hơn 3- 4 lần so với người làm nông

nghiệp thuần túy. Đời sống người dân làng nghề cao hơn, nên bộ mặt nông thôn

ở các làng nghề cũng phát triển hơn. Tuy nhiên, làng nghề ở ĐBSCL hiện nay

chưa phát huy hết tiềm năng, đứng trước rất nhiều thách thức như công nghệ sản

xuất còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm chưa cao, vùng nguyên liệu, đầu ra cho

sản phẩm, ô nhiễm môi trường...

Để mở rộng quy mô sản xuất, các tỉnh ủy cần lãnh đạo quy hoạch làng

nghề vào các cụm công nghiệp tập trung để tránh ô nhiễm, nâng cao hiệu quả sản

xuất. Song ở một số nghề đặc trưng, ít gây ô nhiễm như đan đát, thêu thùa... vẫn

có thể duy trì sản xuất ngay tại gia đình.

Thế giới hiện nay có xu hướng chuyển dịch lao động ngay tại địa phương.

Ở ĐBSCL, nếu phát triển được các mô hình sản xuất phi nông nghiệp, trong đó

có làng nghề, thì nông dân vẫn sống tốt ở nông thôn theo phương thức “ly nông

bất ly hương”, không phải bỏ ra thành phố tìm việc làm. Khi một bộ phận nông

dân sản xuất phi nông nghiệp ở các làng nghề, bộ phận còn lại sẽ có cơ hội mở

rộng diện tích sản xuất nông nghiệp hơn. Do vậy, trong việc xây dựng nông thôn

mới hiện nay,các địa phương có làng nghề cần triển khai quy hoạch sớm và lồng

ghép hoặc bổ sung thêm vào quy hoạch NTM để tránh trùng lắp và tận dụng tối

đa các nguồn lực.

Một trong những yêu cầu quan trọng sau quy hoạch đó là đảm bảo tính

bền vững của quy hoạch. Không để tình trạng bà con nông dân sản xuất theo

phong trào, không theo quy hoạch vẫn đang diễn ra, khiến quy hoạch sản xuất

không còn ý nghĩa. Tình trạng trên có nguyên nhân, trong đó chất lượng quy

hoạch sản xuất nông nghiệp của nhiều địa phương còn bất cập, chưa sát với tình

hình thực tế, chưa sát nhu cầu thị trường, đặc biệt không có sự đầu tư cần thiết

về cơ sở hạ tầng đảm bảo duy trì, phát triển sản xuất theo quy hoạch. Thu nhập

từ trồng lúa quá thấp cũng là nguyên nhân khiến người nông dân không mặn mà

với cây lúa, sẵn sàng chuyển đổi dù đã được quy hoạch.

115

4.2.3. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng nông thôn

mới của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu Long

Sự nghiệp xây dựng NTM ở ĐBSCL hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề mới

bao gồm cả những thời cơ thuận lợi và cả những khó khăn thách thức lãnh đạo của

mình, có vượt qua mới đưa sự nghiệp xây dựng NTM giành được thắng lợi.

* Đổi mới nội dung lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với xây dựng NTM

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng NTM ở ĐBSCL trong giai đoạn

hiện nay các tỉnh ủy phải xác định công việc phải làm để chuyển đổi nông thôn

vươn lên theo mục tiêu mà Đảng vạch ra, đó là nội dung lãnh đạo.

Đổi mới nội dung lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSCL đối với sự nghiệp xây

dựng NTM hiện nay chính là phải xác định đúng nội dung lãnh đạo, đảm bảo sự

lãnh đạo toàn diện của Đảng trong lĩnh vực xây dựng NTM, đồng thời xác định rõ

những nội dung trọng tâm cần tập trung sức lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn

để đẩy mạnh sự phát triển của NTM. Muốn đạt được yêu cầu về việc phát triển

NTM nói trên cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, lãnh đạo xây dựng và thực hiện các đề án quy hoạch

Tập trung lãnh đạo xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển NTM gắn

với chiến lược phát triển chung của vùng; ra các nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo

chuyên sâu và cụ thể hơn về phát triển các ngành, các lĩnh vực, các vùng, các vấn

đề liên quan về kinh tế, xã hội bức thiết ở nông thôn, xác định những vấn đề trọng

điểm cần tập trung thực hiện trong mỗi giai đoạn.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, điều chỉnh, bổ sung công tác quy

hoạch xây dựng nông thôn mới cho các xã. Việc quy hoạch xây dựng NTM phải

có sự kế thừa hợp lý giữa các quy hoạch, cơ sở vật chất đã có; lựa chọn, bố trí

công trình hạ tầng phù hợp, khoa học, sát thực tế và có tính đến phương án ứng

phó với biến đổi khí hậu.

Đối với các công trình hạ tầng của xã, ấp nếu còn giá trị sử dụng nhưng

chưa đạt chuẩn thì lập kế hoạch cải tạo, nâng cấp. Đối với các công trình xây dựng

mới phải đạt chuẩn NTM; riêng công trình đòi hỏi nhiều vốn cần thực hiện có lộ

116

trình, nhưng quy hoạch phải đủ chuẩn, bảo đảm yêu cầu phát triển lâu dài. Chính

quyền và nhân dân trong xã phải là chủ thể quan trọng quyết định nội dung quy

hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng NTM trên địa bàn xã.

Hai là, lãnh đạo xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn; huy động cao

các nguồn lực; lồng ghép, đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư thực hiện Chương

trình, phát triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của

nông dân, nhất là vùng khó khăn

Lãnh đạo thực hiện chiến lược phát triển KT-XH ở vùng nông thôn gắn với

xóa đói giảm nghèo, tạo cơ sở kết cấu hạ tầng hiện đại, phát triển y tế, giáo dục, xây

dựng môi trường thuận lợi tạo tiền đề thu hút đầu tư trong nước và ngoài nước để

xây dựng NTM.

Đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân cần coi nông dân là

đối tượng trung tâm của sự phát triển. Mục đích của xây dựng NTM là nâng cao

đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và thu hẹp khoảng cách về mức sống

giữa nông dân với dân cư ở thành thị.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chương trình, dự án giảm nghèo, vận dụng

có hiệu quả các chính sách về y tế, giáo dục, đào tạo, khuyến nông, hỗ trợ phòng

chống thiên tai, dịch bệnh. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý và sử dụng có hiệu

quả chính sách tín dụng đối với người nghèo. Tích cực vận động các nguồn đóng

góp của cộng đồng xã hội, kết hợp với giáo dục, vận động sự nỗ lực vươn lên của

bản thân hộ nghèo.

Khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển

ngành nghề ở nông thôn, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ để giải quyết việc làm

cho lao động nông thôn, tạo điều kiện chuyển dịch lao động nông nghiệp sang

ngành nghề khác.

Xây dựng, nâng cấp thiết chế văn hoá ở các xã, chú trọng nâng cao hiệu

quả hoạt động của các cơ sở văn hoá hiện có. Phát triển các hoạt động văn hoá, thể

dục, thể thao lành mạnh, phù hợp với nhu cầu và khả năng tham gia của người dân

nông thôn. Duy trì và phát triển các thiết chế văn hoá, xây dựng nếp sống văn

minh; bảo tồn và phát huy các truyền thống văn hoá tốt đẹp của địa phương.

117

Tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông,

đáp ứng nhu cầu thông tin, giải trí, học tập, sản xuất, kinh doanh của nhân dân,

doanh nghiệp ở nông thôn.

Ưu tiên lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình, mục tiêu quốc gia, các

chương trình, dự án của Tỉnh, huyện để đầu tư phát triển cho các xã điểm. Ngoài

nguồn vốn đầu tư của Trung ương, Uỷ ban nhân dân các Tỉnh, huyện, thị xã,

thành phố ưu tiên bổ sung vốn đầu tư để sớm hoàn thành các công trình cấp bách

ở địa phương.

Lồng ghép các nguồn vốn đầu tư vào danh mục các công trình, dự án cụ

thể để có phương án tổ chức thực hiện (vốn ngân sách nhà nước, vốn nhân dân,

vốn tín dụng, vốn doanh nghiệp…). Triển khai thực hiện tốt các chính sách

khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp,

nông thôn; tranh thủ các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển sản

xuất, chế biến nông, thủy sản, phát triển làng nghề nông thôn; huy động các

nguồn lực xã hội tham gia vào các công trình công ích.

Ba là, lãnh đạo phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh dịch vụ

có hiệu quả ở nông thôn; phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng

khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực.

Tiếp tục đổi mới xây dựng, phát triển và nhân rộng các mô hình sản xuất

nông nghiệp theo hướng hiện đại, tăng cường liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ;

trước mắt, mỗi huyện xây dựng ít nhất một mô hình sản xuất hiện đại, hiệu quả.

Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào

lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, tạo môi trường thuận lợi để hình thành và phát

triển kinh tế trang trại, hợp tác xã và doanh nghiệp nông thôn, nhất là doanh

nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, cơ khí phục vụ nông nghiệp. Khuyến khích

các doanh nghiệp liên kết, liên doanh, hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ nông

sản cho nông dân và HTX.

Triển khai có hiệu quả Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, chú trọng

đào tạo chuyển đổi ngành nghề và dạy nghề cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn.

118

Nâng cao trình độ sản xuất nông nghiệp, giúp nông dân tiếp cận với nền sản xuất

nông nghiệp hiện đại; đẩy nhanh quá trình chuyển giao, ứng dụng công nghệ

hiện đại vào sản xuất, khuyến khích áp dụng kỹ thuật canh tác, quy trình trồng

trọt, chăn nuôi công nghệ cao, sử dụng giống mới, chế phẩm sinh học, tạo đột

phá về năng suất, chất lượng, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Hướng dẫn và

hỗ trợ các tổ chức, cá nhân xây dựng thương hiệu cho những loại cây trồng, vật

nuôi chủ lực có hiệu quả kinh tế cao. Chỉ đạo, thực hiện tốt việc thí điểm bảo

hiểm nông nghiệp đối với cây lúa, từng bước mở rộng sang các loại sản phẩm

nông nghiệp khác.

Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ kỹ thuật

nông nghiệp. Xây dựng các điểm thông tin khoa học và công nghệ ở các xã, giúp

người dân tiếp cận nhanh thông tin khoa học, kỹ thuật, thị trường. Nâng cao dân

trí và khả năng sản xuất cho nông dân, đào tạo nông dân trở thành người sản xuất

chuyên nghiệp, có trình độ ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là đào tạo nông

dân trẻ có kỹ năng cao, có đầu óc kinh doanh để là người thật sự của quá trình

phát triển NTM.

Bốn là, lãnh đạo việc cụ thể hoá đường lối, chính sách, chủ trương, nghị

quyết của Đảng, của Nhà nước và của tỉnh ủy về xây dựng NTM thành chiến lược,

chương trình, kế hoạch và các quy định trong từng giai đoạn và hàng năm trong

việc xác định rõ mục tiêu phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp tổ chức thực hiện

nhằm đạt mục tiêu trong từng giai đoạn.

Lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành đẩy mạnh các hoạt động thực hiện Nghị

quyết của Trung ương về phát triển nông thôn, chỉ đạo hướng dẫn kiểm tra, giúp đỡ

các địa phương thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển KT-XH, đảm bảo về

quốc phòng, an ninh.

Lãnh đạo các cơ quan tuyên truyền, tăng cường công tác tuyên truyền nhằm

tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong toàn xã hội về vị trí, vai trò, các quan điểm,

mục tiêu cũng như yêu cầu phát triển NTM trong từng giai đoạn, tạo ra phong trào

toàn dân đoàn kết xây dựng NTM. Phát huy tốt vai trò chủ thể của người dân trong

việc tham gia xây dựng NTM cần thực hiện tốt phương châm: "Dân biết, dân bàn,

119

dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng”. Không thể có nông thôn mới nếu không

xác định đúng đắn và đề cao vai trò chủ thể của người dân. Không coi trọng điều

này, nhân dân sẽ không nhiệt tình tâm huyết cùng với Đảng bộ và chính quyền

các cấp trong xây dựng NTM. Vì vậy, công tác tuyên truyền vận động để người

dân hiểu về xây dựng NTM về từng nội dung, tiêu chí xây dựng NTM, đặc biệt

là đối với các tiêu chí còn đạt ở mức thấp là cấp thiết khi triển khai thực hiện

chương trình.

Lãnh đạo, chỉ đạo các cấp uỷ, các ngành tích cực chủ động, sáng tạo trong

quán triệt Nghị quyết của Đảng, kế hoạch của Nhà nước; xây dựng Nghị quyết và tổ

chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết và kế hoạch của các tỉnh ủy về phát triển

nông thôn, tạo sự chuyển đổi mạnh mẽ từ cơ sở, nhất là từ từng hộ gia đình trong

xây dựng NTM.

Năm là, lãnh đạo tăng cường vai trò của cấp ủy đảng, chính quyền, phát huy

sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn trong xây dựng NTM.

Tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ, chính

quyền trong công tác lãnh đạo, điều hành thực hiện chương trình xây dựng

NTM. Phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước thông qua hoạt động của UBND,

Ban chỉ đạo, Ban quản lý Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM các

cấp. Công tác lãnh đạo, điều hành của chính quyền các cấp phải được cụ thể hoá

bằng các chương trình, kế hoạch với mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp rõ ràng.

Việc thể chế hoá chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cấp, từng

ngành, tổ chức, cá nhân được xem là giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định

trong việc thực hiện thắng lợi chương trình xây dựng NTM. Trong đó, nhiệm vụ

và công việc trọng tâm của các sở, ngành chuyên môn là phổ biến, hướng dẫn thực

hiện các tiêu chí, tiêu chuẩn kỹ thuật ngành, các quy định về quản lý tài chính,

nguồn vốn đầu tư. Ban chỉ đạo Chương trình có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng,

nâng cao năng lực quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện chương trình xây dựng

NTM cho các cán bộ chuyên trách.

Nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp uỷ, chính quyền và các đoàn

thể cơ sở. Tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cán bộ cấp xã đạt chuẩn theo

120

quy định. Bổ sung cán bộ trẻ, có năng lực, có trình độ đại học cho các xã điểm.

Phấn đấu mỗi xã điểm có ít nhất một cán bộ nông nghiệp có trình độ đại học.

Tiếp tục huy động sức mạnh tổng hợp của các cơ quan trong HTCT trong

việc bảo đảm an ninh, trật tự; đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an

ninh Tổ quốc; củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần

chúng làm công tác giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở. Tiếp tục thực hiện tốt kế

hoạch, đề án trên lĩnh vực an ninh, trật tự ở địa bàn nông thôn. Kết hợp chặt chẽ

hoạt động của các đoàn thể trong việc vận động người dân tham gia phòng chống

các tệ nạn xã hội, bài trừ hủ tục.

Sáu là, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhất là cán

bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở ở nông thôn.

Chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ xây dựng từng vùng nông thôn trong từng giai đoạn, coi trọng người làm bí

thư chi bộ đảng ở vùng sâu, vùng xa. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở

nhất là Bí thư chi bộ, trưởng ấp. Cần có chính sách khuyến khich sinh viên, học

sinh sau khi ra trường trở về địa phương xuống cơ sở công tác tại xã. Đảng và

Nhà nước tiếp tục nghiên cứu, xây dựng (sáng lập) các tổ chức ở cộng đồng

nông thôn. Nhằm huy động quan hệ các tâng lớp từng vùng nông thôn, giao cho

những tổ chức này thực hiện các chương trình, các nội dung đầu tư của chương

trình phát triển nông thôn.

Đổi mới nội dung lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSCL trong nội dung xây

dựng NTM giai đoạn hiện nay không có nghĩa là thay đổi nội dung lãnh đạo đã

xác định trong quá trình xây dựng NTM từ trước đến nay mà là phải tổng kết rút

kinh nghiệm lại những cái đã làm, lựa chọn điều chỉnh nội dung lãnh đạo cho

đúng, phù hợp với tình hình thực tiễn của quá trình xây dựng NTM, trong đó vừa

phải đảm bảo sự lãnh đạo của toàn diện đối với sự nghiệp xây dựng NTM, đồng

thời phải xác định rõ khâu trọng tâm, trọng điểm cần tập trung sức lãnh đạo

trong mối giai đoạn và từng thời kỳ, để tạo ra bước đột phá, thúc đẩy nhanh sự

phát triển của nông thôn ĐBSCL.

121

* Đổi mới phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Cửu

Long trong xây dựng nông thôn mới

Phương thức lãnh đạo là hệ thống các hình thức, cách thức, phương pháp mà

cấp ủy sử dụng tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện mục đích của

mình. Khi có nội dung lãnh đạo đúng thì phương thức lãnh đạo phù hợp là một

nhân tố quyết định đảm bảo chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng.

Thực tế cho thấy, khi có đường lối đúng, có tổ chức hợp lý mà không có

phương thức lãnh đạo phù hợp thì hiệu quả lãnh đạo thấp, hơn nữa có trường hợp

còn gây sự thiếu hiệu lực trong tổ chức thực hiện kể cả đường lối, chủ trương. Vì

vậy, khi hoàn cảnh, điều kiện thay đổi, khi tình hình thay đổi thì phương thức lãnh

đạo của Đảng cũng sẽ phải thay đổi. Nhưng sự thay đổi phương thức lãnh đạo của

Đảng không thể thay đổi những vấn đề liên quan đến nguyên tắc, mà cần thay đổi

về sự thi hành phương thức lãnh đạo cụ thể của Đảng trong mỗi giai đoạn cụ thể.

V.I. Lênin đã chỉ rõ “khi tình hình đã thay đổi mà chúng ta phải giải quyết

những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng

những phương pháp của ngày hôm qua” [83, tr44-389]. Nghĩa là, không thể áp

dụng phương thức nào mà không hợp với hoàn cảnh, điều kiện trong giai đoạn

hiện nay.

Phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với xây dựng NTM có vai trò đặc

biệt quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi nội dung lãnh đạo xây dựng NTM,

đảm bảo cho chủ trương, nghị quyết của Đảng và của các tỉnh ủy về xây dựng NTM

được thực hiện thắng lợi. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với xây

dựng NTM cần coi trọng đổi mới phương thức lãnh đạo xây dựng NTM của các

Đảng bộ Tỉnh, trước hết là các tỉnh ủy.

Các tỉnh ủy lãnh đạo bằng việc xây dựng quy hoạch tổng thể xây dựng NTM

trong từng giai đoạn; lãnh đạo bằng việc đề ra chủ trương, Nghị quyết, chương trình

xây dựng nông thôn; lãnh đạo bằng việc giao cho các cấp uỷ, chính quyền, mặt trận

và các đoàn thể; lãnh đạo thông qua việc chỉ đạo chính quyền thực hiện có hiệu quả

cơ chế chính sách của trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM trong thời

kỳ mới, lãnh đạo bằng việc tăng cường công tác kiểm tra, tổng kết thực tiễn, mở

122

rộng hướng dẫn các điển hình tiên tiến; lãnh đạo bằng việc xây dựng và nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở ở nông thôn.

Để đổi mới phương thức lãnh đạo của các tỉnh ủy trong xây dựng NTM giai

đoạn hiện nay, cần thực hiện tốt một số vấn vấn đề sau đây:

- Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn. Cấp uỷ đảng và chính quyền các

cấp cần tăng cường công tác tổng kết thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác phát

triển nông thôn, rút ra kinh nghiệm, tìm ra những cách làm mới và phổ biến những

cách thực hiện, phương pháp đã sử dụng có hiệu quả cao trong lãnh đạo xây dựng

NTM trong thời gian qua để khái quát thành lý luận để tiếp tục chỉ đạo thực tiễn.

- Các quyết định của các tỉnh ủy liên quan đến xây dựng NTM phải trên cơ

sở khoa học, có tính khả thi cao sát với thực tiễn cơ sở, là sản phẩm trí tuệ của tập

thể, phải thể hiện được tư duy mới và phát triển nông thôn. Các nội dung tư duy

mới phải được đưa vào nội dung các quyết định, nghị quyết, chương trình

hành động của cấp mình về xây dựng NTM.

Để làm cho nghị quyết, quyết định của các cấp uỷ đảng và quyết định của

các chính quyền các địa phương đúng đắn, thể hiện tư duy đổi mới, đòi hỏi quy

trình ban hành Nghị quyết phải chặt chẽ, khoa học, sát với thực tiễn, phát huy cao

trí tuệ, sáng tạo của mỗi đồng chí uỷ viên và tập thể các cấp uỷ, cần hạn chế các yếu

tố chủ quan cá nhân trong mọi quyết định của Đảng. Quy trình đó phải được xây

dựng một cách chu đáo, thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số. Trước hết, phải

xây dựng quy chế làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, của Thường

trực cấp uỷ; xác định rõ chức trách, nhiệm vụ của từng chức danh; quy định các

mối quan hệ giữa cấp uỷ, HĐND, UBND, MTTQ và các đoàn thể. Các tỉnh uỷ

cần chú trọng xây dựng chương trình công tác toàn khoá (5 năm hay dài hơn) để

xây dựng chương trình hoạt động cụ thể trong tháng, quý, năm... Việc lãnh đạo

bằng các đề án là phương thức lãnh đạo mang lại hiệu quả khá cao trong lãnh đạo

xây dựng NTM.

- Tăng cường sự lãnh đạo đối với chính quyền trong việc cụ thể hoá, thể chế

hoá nghị quyết, quyết định về xây dựng NTM của Đảng thành chính sách, kế hoạch,

123

chương trình công tác của chính quyền, trên cơ sở đó triển khai thực hiện. Ở cấp

tỉnh, tỉnh uỷ lãnh đạo UBND tỉnh cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các Nghị quyết

của Đảng, tỉnh uỷ về xây dựng NTM ở địa phương của mình. Các văn bản của

chính quyền phải được ban hành kịp thời, đầy đủ, phù hợp với điều kiện thực tế

địa phương và yêu cầu xây dựng NTM.

Các chủ trương của Đảng, các tỉnh ủy phải được cụ thể hoá thành những

chương trình và đề án công tác. Trên cơ sở đó, chính quyền xây dựng các đề án,

kế hoạch để thực hiện. Trong từng thời kỳ tập trung cho những nhiệm vụ trọng

tâm, trọng điểm, những việc mới, khó, phức tạp, những khâu then chốt cần tập

trung chỉ đạo; không ham đề ra quá nhiều, không đủ sức thực hiện. Chú trọng

xây dựng những cơ chế, chính sách, các quy chế, quy định cụ thể. Các nghị quyết,

đề án, chương trình, kế hoạch công tác đều phải có lộ trình, bước đi cụ thể, phân

công rõ ràng trách nhiệm của tổ chức, cá nhân triển khai thực hiện với yêu cầu

nói đi đôi với làm, đã quyết là phải làm; nếu bộ phận nào làm chậm, làm không

hiệu quả thì phải chịu trách nhiệm. Chương trình, đề án công tác của cấp uỷ là cầu

nối giữa các chủ trương, định hướng với tổ chức thực hiện, ở đó thể hiện tập

trung sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ; đồng thời đặt cơ sở để chính quyền cụ thể

hoá trong quản lý, điều hành và giúp Mặt trận, các đoàn thể có căn cứ để xây

dựng kế hoạch hoạt động. Các chương trình, đề án công tác của cấp uỷ cũng tạo

hành lang hợp lý để các đơn vị cấp dưới xác định hướng đi, cách làm trong sự phối,

kết hợp cần thiết.

Cấp ủy không coi nhẹ sự lãnh đạo của mình đối với chính quyền, song cũng

không bao biện làm thay, cấp uỷ đảng các cấp không làm thay công việc của chính

quyền, nhưng cũng không thể để cho chính quyền tổ chức thực hiện theo mong

muốn cá nhân của chính quyền, cần phân định công việc một cách rõ ràng, những

vấn đề thuộc lĩnh vực xây dựng NTM nhất thiết phải giao cho các cơ quan chức

năng xây dựng đề án, UBND thảo luận thông qua và trình ban thường vụ xem xét

quyết định. Khi đã có quyết định UBND phải thực hiện nghiêm túc. Trong kế hoạch

triển khai thực hiện Nghị quyết về xây dựng NTM cần quy định rõ thời gian triển

khai, cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp.

124

Từng thời gian, Thường trực cấp uỷ, chính quyền nghe báo cáo hoặc trực

tiếp xuống các đơn vị, cơ sở kiểm tra chỉ đạo, đôn đốc thực hiện các chương trình,

đề án công tác liên quan đến xây dựng NTM, đặc biệt là những vấn đề khó khăn,

bức xúc; từ đó có biện pháp tháo gỡ kịp thời, chỉ đạo tập trung, ráo riết, dứt điểm,

hiệu tạo quả hiệu ứng lan toả tích cực trong HTCT. Các chương trình, đề án, kế

hoạch công tác phải thường xuyên được kiểm tra, đôn đốc thực hiện; định kỳ sơ

kết, tổng kết rút kinh nghiệm, báo cáo Thường vụ hoặc Thường trực cấp uỷ.

Mở rộng phân cấp, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương, đơn

vị cơ sở. Chú trọng phát huy tính chủ động, năng động, mạnh dạn, sáng tạo của

các đơn vị, cá nhân gắn với sự phối hợp giữa các cơ quan, các ngành, các cấp trên

địa bàn và với các địa phương. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ có chủ động, năng

động, luôn luôn động não suy nghĩ, đề xuất, đồng thời thực sự cầu thị, biết lắng

nghe thì mới phát huy được sức mạnh tổng hợp trên địa bàn.

Lãnh đạo đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính. Để lãnh đạo xây dựng

NTM ở các cấp được thông suốt và đạt kết quả, vấn đề quan trọng là tập trung lãnh

đạo cải cách thủ tục hành chính, khác phục thủ tục hành chính rườm rà, gây cản trở

đến việc triển khai các chủ trương, dự án phát triển NTM của các cấp. Vì vậy, đổi

mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề xây dựng NTM hiện nay cần

phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và đề cao trách nhiệm của cán bộ và đề

cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.

Đảng lắng nghe, tôn trọng ý kiến của các cơ quan, ban ngành, các chuyên gia

trước khi ban hành các quyết định. Các nghị quyết xây dựng NTM trước khi ban

hành phải tìm hiểu, lắng nghe, tôn trọng ý kiến của các cơ quan chức năng và đặc

biệt là ý kiến của các chuyên gia; cần tổ chức trao đổi thảo luận một cách dân chủ

trên tinh thần tôn trọng các ý kiến đó rồi mới kết luận. Việc này cần được duy trì

nghiêm túc trong hoạt động lãnh đạo xây dựng NTM, điều đó sẽ góp phần đem lại

hiệu quả cao trong lãnh đạo xây dựng NTM của các tỉnh ủy.

Cải tiến, nâng cao chất lượng các hội nghị, khắc phục việc chỉ đạo, điều hành

của cấp trên, chủ yếu thông qua các cuộc họp, ảnh hưởng lớn đến việc trực tiếp chỉ

đạo hoạt động phát triển KT-XH ở địa phương. Để thực hiện được điều này cần kế

125

hoạch hoá toàn bộ hoạt động của cấp ủy, chính quyền các cấp; đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ thông tin trong lãnh đạo chỉ đạo, duy trì nghiêm chế độ báo cáo xin ý

kiến và cho ý kiến theo quy định.

Coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc, cách sinh hoạt, hội họp,

hạn chế bệnh giấy tờ; nâng cao tính chiến đấu, vai trò hạt nhân lãnh đạo của đảng

viên. Trong lãnh đạo, điều hành phải sâu sát, quyết liệt, dứt điểm.

Trên cơ sở quy chế công tác đã ban hành, Ban Thường vụ cấp uỷ chỉ đạo

xây dựng các chương trình công tác hàng năm và định lịch làm việc hàng quý,

hàng tháng, hàng tuần, đồng thời phân công chỉ đạo chuẩn bị các nội dung, xây dựng

các đề án công tác. Sinh hoạt tỉnh uỷ, Ban Thường vụ, Thường trực, giao ban

lãnh đạo tỉnh với lãnh đạo cấp dưới, giao ban lãnh đạo HĐND, UBND các tỉnh

phải trở thành nền nếp cố định, khoa học. Tài liệu hội nghị được gửi trước theo

quy định; đến cuộc họp chỉ tóm tắt nội dung và nêu những vấn đề lớn, khó, hoặc

còn ý kiến khác nhau để thảo luận. Trong hội nghị, khuyến khích tôn trọng các ý

kiến thảo luận, tranh luận dân chủ thẳng thắn. Sau hội nghị các ý kiến chỉ đạo, kết

luận của Bí thư được thông báo bằng văn bản để triển khai thực hiện.

Coi trọng thực hiện phương thức lãnh đạo bằng công tác kiểm tra giám sát,

nhất là công tác giám sát. Cùng với công tác kiểm tra đảng viên và tổ chức Đảng

các cấp cần tăng cường việc bảo vệ Đảng, nhất là vấn đề mới chưa có tiền lệ trong

lịch sử, trong điều kiện trình độ và kinh nghiệm quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng

viên về vấn đề xây dựng NTM chưa nhiều. Vì vậy, việc tăng cường công tác kiểm

tra, giám sát, sơ tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện các nghị quyết của Đảng,

chương trình, đề án công tác của cấp ủy có vai trò và tác dụng to lớn đối với sự

lãnh đạo các cấp ủy trong phát triển nông thôn, nhằm đảm bảo cho mọi chủ trương,

chính sách của Đảng, chương trình kế hoạch của Nhà nước đối với việc xây dựng

NTM được kiểm tra, thực hiện một cách nghiêm túc, có hiệu quả.

4.2.4. Lãnh đạo đẩy mạnh khai thác, huy động các nguồn lực, tăng

cường đầu tư cho xây dựng nông thôn mới

Nguồn lực tài chính cần thiết cho xây dựng NTM là rất lớn. Chính phủ đưa

ra công thức hướng dẫn là vốn đóng góp từ dân khoảng 10%, từ doanh nghệp 20%,

126

từ tín dụng 30% và từ ngân sách là 40%. Trong đó, giai đoạn đầu vốn ngân sách

đóng vai trò rất quan trọng, có ý nghĩa tạo đà và tạo niềm tin để huy động các nguồn

đóng góp khác. Nhưng khó khăn hơn cả là việc huy động có hiệu quả 60% vốn còn

lại của chương trình.

Xuất phát điểm của mỗi xã là rất khác nhau, những xã có điều kiện kinh tế

phát triển, đời sống nhân dân khá thì việc đóng góp sẽ đơn giản, còn đối với

những xã khó khăn thì đó là vấn đề phải tính toán kỹ để huy động được nguồn

vốn. Hiện nay, các tỉnh cần lãnh đạo tăng cường huy động nguồn lực Nhà nước và

xã hội để tiếp tục thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu,

vùng xa, vùng chậm phát triển, giúp nông dân thoát khỏi đói nghèo; thực hiện đầy

đủ chính sách hỗ trợ nông dân, cung cấp vốn đẩy mạnh sản xuất, tổ chức lại sản

xuất có hiệu quả cho nông dân, khuyến nông, xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản xuất

hàng hoá, giải quyết tốt vấn đề trồng trọt, chăn nuôi cho các hộ gia đình của người

nông dân; nâng cao trình độ sản xuất và khả năng tiếp cận, ứng dụng khoa học kỹ

thuật và sản xuất của nông dân. Các vấn đề quan trọng và hàng dầu là giáo dục

tinh thần tự lực, tự cường trong sản xuất để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần

của mỗi gia đình nông dân.

Để lãnh đạo đẩy mạnh khai thác, huy động các nguồn lực, nâng cao hiệu quả

đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân ở vùng nông thôn ĐBSCL hiện nay các tỉnh ủy cần có chính sách

nhằm huy động đa dạng mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, các doanh

nghiệp và của nông dân, đầu tư mạnh vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xây

dựng NTM; mở rộng hình thức hợp tác công tư để phát triển sản xuất và xây dựng

hạ tầng KT-XH ở nông thôn.Tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng, giao thông, điện

nước, đào tạo nguồn nhân lực, dạy nghề... để thu hút các nhà đầu tư. Thực hiện tốt

dân chủ ở cơ sở trong quá trình huy động và sử dụng các nguồn lực xây dựng

NTM bằng các hình thức linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương.

Thực hiện phân cấp tạo điều kiện chủ động, tự chủ quản lý công trình cho các xã

xây dựng NTM và cộng đồng dân cư, giảm chi phí gián tiếp để hạ giá thành bảo

đảm chất lượng công trình, phát huy hiệu quả vốn đầu tư. Vận động nhân dân đổi

127

điền, dồn thửa nhằm khắc phục tình trạng sở hữu ruộng đất manh mún, tạo quỹ

đất tập trung để sản xuất hàng hóa, xây dựng kết cấu hạ tầng.

Đặc biệt khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu

tư phát triển vào khu vực nông nghiệp, nông thôn; có chính sách ưu đãi cao để các

doanh nghiệp đầu tư vào vùng khó khăn, miền núi, hải đảo. Hoàn thiện cơ chế,

chính sách bảo vệ quỹ đất nông nghiệp, đồng thời cho phép quy hoạch sử dụng linh

hoạt, có hiệu quả quỹ đất nông nghiệp và các nguồn tài nguyên khác phục vụ phát

triển nông nghiệp, nông thôn.

Trong những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng các doanh

nghiệp trong vùng đã có nhiều hoạt động thiết thực, phù hợp với điều kiện khả

năng của mình, góp phần vào phát triển KT-XH trên địa bàn nông thôn các tỉnh.

Đặc biệt, từ khi Chính phủ phát động phong trào “Cả nước chung sức xây dựng

nông thôn mới”, các doanh nghiệp đã hưởng ứng tích cực, bước đầu đem lại hiệu

quả rõ rệt, tạo niềm tin trong nhân dân, là nguồn động lực quan trọng góp phần

thực hiện đạt sớm nhiều mục tiêu xây dựng NTM.

Các tỉnh cần có sự hướng dẫn, hỗ trợ tạo điều kiện để các doanh nghiệp có

những hành động thiết thực và hiệu quả, tập trung ủng hộ về tinh thần và vật chất,

đầu tư trực tiếp vào nông thôn, cam kết tuyển dụng lao động, giúp nông dân phát

triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; triển khai nhiều chương trình về an sinh xã hội,

hỗ trợ đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng phúc lợi xã hội như đường giao thông,

đèn chiếu sáng theo các tuyến đường liên xã, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa,

nhà sinh hoạt cộng đồng, nhà hộ nghèo; tiếp tục đăng ký nhận đỡ đầu, hỗ trợ,

giúp đỡ đầu tư để xây dựng NTM.

Một trong những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam là “uống

nước nhớ nguồn”. Lâu nay những người thành đạt xa quê sẵn sàng đóng góp xây

dựng quê hương. Các địa phương nên có sự kết nối kêu gọi lòng hảo tâm vận

động sự tham gia, đóng góp của con em quê hương ở khắp mọi miền đất nước và

kiều bào là những nhà quản lý, các doanh nhân thành đạt hưởng ứng phong trào

thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” đóng sức mình vào việc

thay đổi bộ mặt của quê hương.

128

Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, các địa phương vùng ĐBSCL cần chủ

động xây dựng rà soát chính sách, tạo thuận lợi môi trường đầu tư thông thoáng

hơn, hỗ trợ tốt hơn cho nhà đầu tư bằng cách đơn giản hóa thủ tục hành chính,

rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục đất đai, xây dựng, tạo điều kiện tốt hơn nữa

để các chủ đầu tư thực hiện nhanh các dự án đã được cấp phép. Tăng cường liên

kết vùng trong việc xây dựng các quy hoạch, kế hoạch thu hút đầu tư và danh

mục các dự án kêu gọi đầu tư. Xác định cụ thể những ngành, lĩnh vực, dự án ưu

tiên kêu gọi đầu tư nước ngoài nhất là trong các lĩnh vực: kết cấu hạ tầng, công

nghiệp chế biến, nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp…Xây dựng đề xuất đưa

các dự án kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn có đủ điều kiện (quy mô hợp lý, có

tính khả thi, có khả năng thu phí hoàn vốn) vào danh mục PPP, BOT.... để thu

hút đầu tư của tư nhân trong nước và nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn,

giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Đổi mới và nâng cao chất lượng

công tác xúc tiến đầu tư; tăng cường liên kết vùng trong hoạt động xúc tiến đầu

tư để nâng cao hiệu quả, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực. Nghiên

cứu, đề xuất các cơ chế đặc thù về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư nhằm tạo “đòn bẩy”

hỗ trợ vùng ĐBSCL liên kết và phát triển.

Về vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): các tỉnh cần tiếp tục thúc đẩy

và tạo điều kiện để triển khai việc trao đổi thông tin với các nhà tài trợ và xây

dựng các chương trình, dự án hỗ trợ thuộc các lĩnh vực nông nghiệp ưu tiên đầu

tư. Thực hiện hiệu quả các dự án ODA hiện có, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, tích

cực phối hợp với các nhà tài trợ trong việc triển khai thực hiện dự án để xây

dựng niềm tin, quan hệ đối tác vững mạnh. Việc thực hiện hiệu quả các dự án

ODA là cơ sở quan trọng để các nhà tài trợ xem xét, tài trợ những dự án tiếp

theo. Phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ trong quá trình phê duyệt các văn bản

quan trọng của dự án và trong quá trình triển khai các dự án, đảm bảo các dự án

được thực hiện hiệu quả, đúng tiến độ. Thiết lập và vận hành hiệu quả hệ thống

theo dõi và đánh giá ODA ở cấp bộ, ngành và địa phương; phát hiện và xử lý kịp

thời các vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án

ODA thuộc thẩm quyền. Các bộ, ngành Trung ương và các địa phương đảm bảo

bố trí kịp thời và đầy đủ vốn đối ứng theo tiến độ thực hiện các chương trình, dự

129

án ODA. Tạo thuận lợi cho công tác di dân, giải phóng mặt bằng và tái định cư

trên địa bàn dự án.

Trong thời gian tới các tỉnh nghiên cứu có nhiều chính sách khuyến khích

các doanh nghiệp mở rộng diện tích cánh đồng mẫu lớn với dự án xây dựng kho

dự trữ lúa có sức chứa lớn và kho đông lạnh thủy sản, rau màu đáp ứng yêu cầu

của địa phương, được miễn giảm thuế thuê đất trong 5 năm, kể từ khi dự án bắt

đầu đi vào hoạt động; hỗ trợ kinh phí giải phóng mặt bằng, kinh phí hoàn thiện

kết cầu hạ tầng kỷ thuật ngoài hàng rào…. Khuyến khích doanh nghiệp mở rộng

hình thức chia sẻ lợi ích, chia sẻ rủi ro thiết thực cho nông dân nông thôn, để

tăng thêm lợi nhuận nâng thu nhập bình quân cho người dân nông thôn, thúc đẩy

phát triển KT-XH vùng nông thôn, xây dựng NTM vững chắc, bền vững.

Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, nâng cao chất

lượng các loại hình dịch vụ, du lịch, góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, nâng cao đời sống của cư dân nông thôn. Xây dựng và nhân rộng mô hình liên

kết 4 nhà (Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông) trong sản xuất

nông nghiệp; khuyến khích liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp để tổ chức sản

xuất theo hợp đồng; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về sự liên kết,

hợp tác để sản xuất nông - thủy sản hàng hóa theo nhu cầu thị trường. Tập trung

củng cố, nâng cao chất lượng các tổ hợp tác, HTX, câu lạc bộ nông dân hiện có;

vận động nông dân tham gia thành lập mới các loại hình kinh tế hợp tác phù hợp.

Đa dạng hóa các nguồn cung cấp tín dụng; đổi mới cơ chế, thủ tục để nông

dân và các đối tác kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn tiếp cận tín dụng

thuận lợi. Hình thành các chương trình hỗ trợ phát triển các cây, con, ngành nghề

chủ lực có sức cạnh tranh cao. Phân chia nguồn vốn phù hợp để tổ chức thực hiện

kế hoạch, dự án đạt hiệu quả thực tế, tập trung các nguồn vốn, nhất là đầu tư nhà

nước, sự đóng góp của nhân dân, ngân hàng chính sách, vốn viện trợ không hoàn lại

và vốn vay của nước ngoài, huy động vốn từ các thành phần kinh tế và xã hội cả

trong và người nước, huy động và tổ chức quỹ xoá đói giảm nghèo; quản lý và sử

dụng các nguồn vốn cho phù hợp và có hiệu quả cao.

Nguồn vốn từ ngân hàng là một trong những kênh đầu tư vốn thông qua

người dân để hỗ trợ đầu tư cho sản xuất, thực hiện vốn đối ứng thuộc chương

130

trình. Để xây dựng phương án đầu tư vốn thì ngân hàng cũng cần phải biết được

hằng năm các địa phương cần đầu tư vào công trình gì, ở đâu, vốn nhà nước là

bao nhiêu, vốn ngân hàng đầu tư là bao nhiêu? Từ đó mới có lộ trình cụ thể để

phân kỳ đầu tư. Như vậy, cần có sự tích cực vào cuộc của các ngành trong phối

hợp cùng với việc tỉnh chỉ đạo các huyện rà soát tiêu chí các xã để phối hợp

nguồn lực, xây dựng công tác quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết để chuẩn

bị cân đối nguồn vốn và phân kỳ đầu tư hợp lý. Đặc biệt các xã phải đánh giá

thật kỹ hiện trạng các tiêu chí theo hướng dẫn của Văn phòng điều phối chương

trình của tỉnh để có chi phí thấp nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả cao.

Thực tế hiện nay các địa phương và ngân hàng đều nhận thấy để nguồn

vốn tín dụng chảy được vào nông nghiệp, nông thôn điều quan trọng nhất đó là

cơ chế phối hợp xử lý những bất cập. Bởi hầu hết các khoản cho vay đối với lĩnh

vực nông nghiệp, nông thôn hiện nay chủ yếu tập trung ở phần vay trung và ngắn

hạn trong khi đó để có hiệu quả thì nguồn vốn phải được cho vay trong kỳ hạn

dài. Để thực sự khơi thông được dòng vốn tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn

người vay cần có tài sản đảm bảo để thế chấp và người cho vay yên tâm hơn khi

quyết định giao tiền. Vì vậy cần tiếp tục thực hiện tốt việc giao đất và cấp chứng

nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận trang trại tạo thuận lợi cho các

hoạt động xúc tiến đầu tư và cho vay, thế chấp trong tín dụng nông thôn. Đặc

biệt, cần khuyến khích quá trình tích tụ ruộng đất cho sản xuất tập trung quy mô

lớn thông qua những điều chỉnh thích hợp và mạnh dạn về hạn điền và thời gian,

phương thức giao đất. Tập trung chỉ đạo hình thành và phát triển các vùng sản

xuất tập trung, tạo điều kiện khuyến khích cho các doanh nghiệp và các hộ nông

dân mở rộng sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh và sản phẩm, thương

hiệu xuất khẩu có sức cạnh tranh cao, cũng như tạo thuận lợi và an toàn cho việc

cấp tín dụng của ngân hàng vào hỗ trợ các hoạt động này.

Để giải quyết vấn đề vốn cho xây dựng NTM ở ĐBSCL cần thực hiện tốt

một số giải pháp sau:

- Thiết lập sâu, rộng và đơn giản hóa các quan hệ tín dụng nhằm thúc đẩy

phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn. Để thực hiện

131

được điều trên, hệ thống ngân hàng, đặc biệt là Ngân hàng chính sách xã hội nên

có ưu đãi hơn nữa đối với xây dựng NTM như: giản đơn hóa đến mức tối cần

thiết các thủ tục cho vay; mở rộng diện cho vay trung hạn và dài hạn đối với các

ngành nghề, sản phẩm cần khuyến khích sản xuất; cần điều chỉnh về mức vốn và

thời hạn cho vay phù hợp với đối tượng và chu kỳ sản xuất ra sản phẩm; hoạt

động cho vay của các ngân hàng cần gắn mục tiêu xóa đói giảm nghèo và xây

dựng NTM, trong đó cần chú trọng trước hết đến những nơi nghèo khó nhất.

- Đi đôi với việc nâng cao vai trò của hệ thống ngân, các tỉnh ĐBSCL

cũng cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển hệ thống tín dụng trong nông

thôn. Nhà nước cần khuyến khích việc tạo vốn cho phát triển xây dựng NTM

bằng cách: tạo dựng khuôn khổ pháp lý để đa dạng hóa các hình thức huy động

vốn và tham gia vào thị trường vốn; trực tiếp lập hoặc khuyến khích lập các quỹ

hỗ trợ đầu tư dưới nhiều hình thức; thực hiện tín dụng lãi suất ưu đãi từ ngân

sách Nhà nước hoặc từ nguồn vốn ODA để hỗ trợ cho các cơ sở và nông hộ hoạt

động trong những ngành nghề cần khuyến khích; thực hiện cho thuê đất với giá

ưu đãi và miễn giảm thuế ở mức thỏa đáng, bình đẳng đối với các nhà đầu tư phát

triển nông thôn; đẩy mạnh liên kết kinh tế giữa các cơ sở kinh doanh nông thôn

với các doanh nghiệp đô thị trong và ngoài vùng, đặc biệt là với các khu chế xuất

ở thành phố Hồ Chí Minh.

Các tỉnh ĐBSCL có tiềm lực KH-CN yếu, nguồn nhân lực chất lượng thấp,

kiến thức về xây dựng NTM của đội ngũ cán bộ, nhất là cấp cơ sở đều còn rất hạn

chế (nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở rất yếu về kiến thức và phương pháp tổ chức xây

dựng NTM trên địa bàn xã). Nhu cầu đào tạo là rất lớn trong khi còn thiếu đội ngũ

giảng viên và tài liệu chuẩn. Đây đang là trở ngại lớn nhất cho thực hiện Chương

trình. Do đó, bên cạnh sự nỗ lực chủ quan của các địa phương, các tỉnh vùng

ĐBSCL rất cần sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, Chính phủ và các bộ, ban,

ngành ở Trung ương đối với sự phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng để

thúc đẩy sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với xây dựng NTM.

Do ĐBSCL đang thiếu nghiêm trọng đội ngũ cán bộ đầu đàn về khoa học

nông nghiệp, cho nên Trung ương cần có cơ chế trong luân chuyển cán bộ có trình

132

độ cao trong lĩnh vực nàyở các viện, các trung tâm nghiên cứu KH&CN,… về công

tác tại ĐBSCL trong khoảng 5 năm/1cán bộ (địa phương sẽ có chính sách ưu đãi

cho những cán bộ này về điều kiện làm việc, nhà ở, trợ cấp…); cần tạo điều kiện ưu

tiên để hàng năm ĐBSCL có thể đưa con em trong tỉnh, cán bộ đi học tập, nghiên

cứu ở các trường, các viện, các trung tâm nghiên cứu KH-CN lớn ở trong cả nước.

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm kinh tế nhưng nhiều chỉ tiêu

phát triển KT-XH còn thấp hơn trung bình của vùng trọng điểm kinh tế Nam

bộ(gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Đông nam bộ). Do vậy, cùng với

việc tranh thủ sự chỉ đạo, giúp đỡ của Trung ương, các tỉnh trong vùng cần có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau cũng như thường xuyên trao đổi trao đổi, học tập kinh

nghiệp giữa các tỉnh thành khác. Cần tăng cường các đoàn cán bộ lãnh đạo, quản lý

liên quan đến công tác quản lý đất đai đi tham quan, học tập, trao đổi kinh nghiệm

với các tỉnh; từ đó không những phát huy được thế mạnh của các huyện trong vùng

ĐBSCL mà còn tranh thủ được sự giúp đỡ, học tập thêm được kinh nghiệm của các

nơi để khắc phục những khó khăn, hạn chế nhằm thực hiện tốt hơn công tác lãnh

đạo xây dựng NTM.

4.2.5. Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự quản lý

của chính quyền, phát huy sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội cơ

sở ở nông thôn

Qua thực tế xây dựng nông thôn mới ở các địa phương trên địa bàn các

tỉnh, có thể thấy HTCT cấp cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo,

điều hành, vận động nhân dân tổ chức xây dựng NTM ở mỗi địa phương, đây

chính là nhân tố quyết định mức độ thành công của công cuộc xây dựng NTM.

Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn gồm các tổ chức đảng, chính quyền,

MTTQ và các đoàn thể nhân dân. Mỗi bộ phận hợp thành có vai trò, chức năng cụ

thể. Trong đó, tổ chức đảng là hạt nhân lãnh đạo, đảm bảo cho chủ trương, đường

lối, chính sách của Đảng được cụ thể hóa và thực hiện thắng lợi ở cơ sở. Để nâng

cao chất lượng hoạt động của HTCT cơ sở vừng mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng

NTM mới hiện nay, các tỉnh ủy ở ĐBSCL cần tập trung lãnh đạo thực hiện một số

nội dung chủ yếu sau:

133

- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong thực hiện nhiệm

vụ xây dựng NTM; xây dựng mối quan hệ đoàn kết, cơ chế phối hợp thống nhất

giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ cơ sở; đổi mới nội dung phương thức

hoạt động sát với thực tiễn, tôn trọng, lắng nghe ý kiến từ phía người dân.

Xác định rõ nhiệm vụ chính trị của địa phương trong từng thời kỳ để trên

cơ sở đó phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng tổ chức đoàn thể, từng địa phương

tổ chức thực hiện. Từ kinh nghiệm thực tiễn của các địa phương, muốn xác định

rõ nhiệm vụ cụ thể trong từng thời kỳ, yêu cầu cấp ủy phải nắm vững các quy định

của Đảng, nhà nước các cấp về xây dựng NTM; tình hình cụ thể của địa phương,

tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thảo luận dân chủ trong cấp ủy, chi

bộ trước khi quyết định nhiệm vụ. Các cấp ủy Đảng nên chọn các tiêu chí cần sử

dụng ít tốn kinh phí, dễ làm, là điều kiện, tiền đề để thực hiện các tiêu chí khác

trong bộ tiêu chí để làm trước như: xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, làm giao

thông nông thôn, xây dựng các mô hình kinh tế, môi trường... để thực hiện.

Sau khi xác định nhiệm vụ, cần tổ chức tuyên truyền, thông tin rộng rãi

cho cán bộ Đảng viên, các tầng lớp nhân dân biết, tự giác thực hiện. Chỉ đạo các

tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở cụ thể hóa nghị quyết của cấp

ủy, chi bộ thành chương trình, lộ trình cụ thể để tổ chức thực hiện. Phân công

cấp ủy viên, cán bộ phụ trách từng mảng công việc, từng địa bàn cụ thể, có chế

độ kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện, làm tốt công tác sơ kết, tổng kết

theo từng giai đoạn, thực hiện nghiêm túc công tác thi đua khen thưởng, kỷ luật;

tuyên truyền, nhân rộng các điển hình tiến tiến, các gương người tốt, việc tốt.

Phương thức lãnh đạo của Đảng cần tăng cường về định hướng chủ trương

lớn, tăng cường tính chủ động của chính quyền, tránh bao biện, làm thay những

việc không thuộc chức năng, nhiệm vụ; các tổ chức cơ sở Đảng lãnh đạo phải đảm

bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách; chú trọng

hơn nữa đến công tác cán bộ, nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên bằng công

tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, phong cách làm việc, nhằm phát

huy tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thực hiện các

nhiệm vụ chính trị - xã hội nói chung, trong xây dựng NTM nói riêng.

134

- Xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn trong sạch, vững mạnh trên tất

cả các mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; coi trọng về tổ chức cán bộ

và công tác kiểm tra, giám sát, công tác dân vận và phát huy dân chủ, đoàn kết

thống nhất trong nội bộ; xây dựng đội ngũ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo

vững mạnh về chính trị, có chuyên môn, đạo đức tốt. Qua đó làm cho tổ chức

đảng thực sự xứng đáng là hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn diện ở cơ sở.

Xây dựng các tổ chức chính trị xã hội ở địa bàn nông thôn vững mạnh

trước hết là xây dựng đảng. Tổ chức cơ sở đảng phải thực sự vững mạnh cả về

chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới đủ sức lãnh đạo nhân dân thực hiện theo

đường lối của Đảng. Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh cần quán triệt

thật tốt các nghị quyết của đảng cho đảng viên, thực hiện đoàn kết trong đảng,

nâng cao sức chiến đấu của cơ sở đảng, phát huy tốt vai trò tiền phong gương

mẫu của đảng viên, làm tốt công tác cán bộ và phát triển đảng. Đưa nội dung xây

dựng NTM làm một trong các nhiệm vụ quan trọng trong sinh hoạt cấp ủy và chi

bộ hàng tháng.

Trước hết mỗi cấp ủy Đảng và cán bộ, đảng viên cần tiếp tục quán triệt

sâu sắc Nghị quyết số 26/NQ-TƯ của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X

về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, và mục đích ý nghĩa, nội dung, nhiệm vụ

của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM đã được Thủ tướng

Chính phủ ban hành. Theo đó, phải xác định đây là cuộc cách mạng toàn diện,

sâu sắc trên trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, KT-XH, chỉ có huy động sức

mạnh và khả năng sáng tạo to lớn cũng như phát huy thực sự vai trò chủ thể của

người dân và hiệu lực quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp

của Đảng thì mới đảm bảo thắng lợi. Từ đó không ngừng nâng cao ý thức trách

nhiệm, phát huy vai trò lãnh đạo, tập trung trí tuệ, biết chọn vấn đề trọng tâm và

khâu đột phá cần giải quyết trước để thúc đẩy, lôi kéo tạo điều kiện mở đường

thực hiện các tiêu chí khác như một phản ứng dây chuyền trong quá trình lãnh

đạo, chỉ đạo của cấp ủy.

Thực hành dân chủ trong nội bộ các tổ chức trong HTCT ở cơ sở, trước

hết là tổ chức đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ

135

của nhân dân. Thực hiện tốt cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của

các tổ chức trong HTCT và hoạt động của cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Đồng thời,

phát huy dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, kỷ luật.

Đối với Chương trình xây dựng NTM thì sự tham gia của người dân là

điều kiện tiên quyết tạo nên thành công. Để sức dân trở thành động lực quan

trọng trong xây dựng NTM, quan điểm chỉ đạo được thống nhất đối với cấp ủy,

chính quyền các cấp là phải đảm bảo thực hiện triệt để nguyên tắc: Dân biết, dân

bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng thụ. Đồng thời, phải lấy công khai,

minh bạch làm đầu, phát huy tính dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện cho người dân

có quyền quyết định việc sử dụng nguồn vốn do mình đóng góp, giám sát việc sử

dụng nguồn vốn đó. Bên cạnh đó, cấp ủy, chính quyền cần gương mẫu đi đầu

trong việc hiến đất, đóng góp tiền của, ngày công, tham gia tích cực vào xây

dựng NTM, làm tấm gương cho nhân dân noi theo.

Ngoài ra, các cấp ủy Đảng, chính quyền phải quán triệt tinh thần huy

động sự tham gia của người dân vào xây dựng NTM không có nghĩa là “bổ

đầu, tận thu”, mà phải được bàn bạc dân chủ và được sự đồng tình của người

dân, tuyệt đối không bắt buộc và huy động quá sức dân... Có như vậy, kết quả

của Chương trình XDNTM mới thực sự ý nghĩa và việc đạt chuẩn NTM mới

bền vững, đích thực.

Củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy chính quyền cơ sở vững mạnh, tập

trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền xã, đảm bảo đủ

năng lực quản lý, điều hành, giải quyết tốt các vấn đề phát sinh ở nông thôn. Xây

dựng đội ngũ lãnh đạo chính quyền xã có đủ năng lực, trình độ hoàn thành

nhiệm vụ được giao.

Quan tâm công tác điều động, luân chuyển cán bộ từ cấp trên về cơ sở

nhằm nâng cao chất lượng quản lý, điều hành và phục vụ nhân dân của chính

quyền cơ sở. Cần có sự phân công rành mạch các chức năng giữa chủ tịch, phó

chủ tịch, các ủy viên thường trực của UBND; hoàn thiện các cơ chế, chính sách

nhằm giải quyết có hiệu quả các công việc thuộc trách nhiệm của UBND.

HĐND và UBND cấp xã phải xây dựng được quy chế làm việc cụ thể dựa trên

136

quy định của pháp luật và thực tiễn của địa phương; nâng cao trách nhiệm và

năng lực của người đứng đầu, đổi mới phong cách, lề lối làm việc, bảo đảm dân

chủ, phát huy trí tuệ của tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân...

Ủy ban MTTQ và các đoàn thể tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức

hoạt động theo hướng gần dân, sát cơ sở, phân công trách nhiệm phụ trách địa

bàn ấp đối với từng thành viên, qua đó hướng dẫn người dân thực hiện các chủ

trương, chính sách về xây dựng NTM và các dự án, chương trình phát triển nông

nghiệp tại địa phương.

Mặt trận Tổ quốc có vai trò đoàn kết các lực lượng ở nông thôn tạo thành

một mặt trận thống nhất. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được giao nhiệm vụ

phát động cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng NTM và đô thị văn minh”.

Chính vì vậy, xây dựng Mặt trận Tổ quốc vững mạnh là nhằm tạo thành sức mạnh

to lớn để tiến hành xây dựng NTM.

Các tổ chức đoàn thể chính trị: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến

binh, Liên đoàn Lao động, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là các tổ chức

thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động theo điều lệ của tổ chức

mình, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng các tổ chức đoàn thể chính trị vững

mạnh nhằm thu hút, tập hợp hết mọi quần chúng nhân dân vào sinh hoạt trong các

đoàn thể phù hợp với lứa tuổi, giới tính, thành phần giai cấp để nâng cao chất lượng

hoạt động của các đoàn thể, phát huy hết khả năng của mọi công dân nhằm huy

động tối đa các nguồn lực cho công cuộc xây dựng NTM.

Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị vững mạnh, trước hết

xây đội ngũ cán bộ có chất lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có uy tín với

quần chúng nhân dân, biết tổ chức, phát động các phong trào.

Tạo điều kiện để Hội nông dân tham gia thực hiện các chương trình dự án, tổ

chức các hoạt động khuyến nông, dạy nghề, hỗ trợ việc làm, dịch vụ về vốn, vật tư

nông nghiệp, tư vấn pháp lý, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật... cho nông dân, hướng

dẫn các hình thức hợp tác kinh tế trong nông nghiệp.

Nông dân là chủ thể xây dựng NTM, nhưng nông dân ở đây không có

nghĩa là những nông dân đơn lẻ mà là nông dân được tập hợp trong những tổ

137

chức chính trị - xã hội, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Việc tập hợp

nông dân trong các tổ chức chính trị là nhằm mục đích giác ngộ họ, đoàn kết họ

thành một khối để tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Xây dựng NTM là sự nghiệp

chung, do tất cả mọi người dân sống trong cộng đồng cùng bàn bạc, góp công

góp của cùng làm chứ không phải do từng hộ làm riêng lẻ. Vì vậy, xây dựng các

tổ chức chính trị ở nông thôn vững mạnh là giải pháp quan trọng cần chăm lo

thực hiện ngay từ đầu.

Đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở

vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM. Mỗi xã có một cán bộ chuyên trách

về nông nghiệp, nông thôn. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ trong từng giai

đoạn, tạo bước độ phá về xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cơ sở. Chú trọng thực

hiện tốt chính sách cán bộ, đặc biệt là cán bộ cơ sở vùng sâu, vùng xa, vùng đặt biệt

khó khăn, cán bộ người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách thu hút sinh viên

tốt nghiệp đại học về công tác ở các xã đặ biệt khó khăn nhằm nâng cao chất lượng

cán bộ cơ sở và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý tương lai.

Muốn xây dựng tốt cơ chế dân chủ trong hệ thống chính trị ở cơ sở nông

thôn thì việc trước tiên là cần phải giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất và năng

lực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị cơ sở, đáp ứng yêu cầu

lãnh đạo phát triển kinh tế nông thôn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Thường

xuyên xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở địa phương, bảo đảm sự ổn định về

chính trị và trật tự an toàn xã hội trong khu vực. Cần xác định HĐND, UBND xã

phải thực sự là người đại diện quyền làm chủ của nhân dân, vì lợi ích của nhân dân.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt phải là những người có trình độ học vấn, có phẩm chất đạo

đức tốt, lập trường chính trị vững vàng, nắm bắt nhanh nhạy kiến thức khoa học kỹ

thuật công nghệ hiện đại, có kinh nghiệm và năng động, sáng tạo.

Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng NTM theo hướng phát huy cao độ tinh thần sáng

tạo của người dân nông thôn tại từng cộng đồng. Người dân tự bàn bạc lựa chọ

công việc ưu tiên, tự triển khai thực hiện và hưởng lợi. Cấp ủy, chính quyền hỗ trợ

về tổ chức, kỹ thuật và nguồn lực, chính quyền không làm thay nhân dân. Khi thực

hiện cơ chế dân chủ ở nông thôn cần xác định người dân là chủ thể. Do vậy muốn

138

xây dựng một nông thôn có cộng đồng dân chủ, xã hội văn minh, môi trường trong

sạch cần thực hiện tốt quan điểm lấy dân làm gốc. Mọi việc “dân biết, dân làm, dân

bàn, dân kiểm tra”. Cần khắc phục lối làm việc quan liêu còn đang tồn tại ở một số

cán bộ cơ sở. Thực tế cho thấy khi người nông dân được tham gia sâu rộng vào các

hoạt động chính trị tại địa phương sẽ tạo được sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan Nhà

nước với nhân dân, điều đó tạo thuận lợi cho các chính quyền địa phương sớm giải

quyết được những khúc mắc nảy sinh trong nhân dân.

Trong nhiều năm qua, cơ chế dân chủ đã được thực hiện rộng rãi ở các

vùng nông thôn song tuy nhiên một số địa phương còn mang nặng tính hình thức,

rõ nhất là trong các cuộc bầu cử. Để người dân thực sự là người làm chủ xã hội,

các tỉnh ủy cần lãnh đạo chính quyền quán triệt nghiêm ngặt việc thực hiện các

quy định mà Chính phủ đã ban hành. Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra,

giám sát chặt chẽ các hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở. Việc bầu cử,

tuyển cử phải hợp lòng dân, dân phải thực sự có quyền chọn lựa những người có

đức,có tài làm cán bộ chủ chốt tại địa phương. Thực hiện những điều này sẽ phát

huy được tinh thần và năng lực làm chủ của cộng đồng dân cư nông thôn, kết hợp

được nội lực của dân với nguồn lực nhà nước và toàn xã hội trong sự nghiệp phát

triển nông nghiệp nông thôn.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và quản lý đảng viên. Dựa vào dân

để xây dựng đảng, gắn trách nhiệm của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên cơ

sở với việc thực hiện các nhiệm vụ xây dựng NTM ở địa phương.

Hiện nay, trình độ quản lý cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, trong khi đó kinh

phí dự án, vốn đầu tư xây dựng NTM là rất lớn và được huy động từ nhiều nguồn

nên việc quản lý, sử dụng là rất phức tạp, nguy cơ lãng phí, thất thoát, sử dụng

không đúng mục đích có thể xảy ra. Vì vậy cần tăng cường lãnh đạo công tác

kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy cơ sở trong triển khai xây dựng NTM.

Hình thức kiểm tra, giám sát cần được tiến hành đa dạng và linh hoạt gắn

với giám sát của nhân dân. Nội dung cần tập trung vào việc cụ thể hóa các chủ

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và nghị quyết của cấp trên về xây dựng

NTM; quá trình thực hiện và kết quả đạt được trong xây dựng NTM; việc thực

139

hiện các dự án, công trình đầu tư, công tác quản lý vốn xây dựng chương trình;

trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện

chương trình. Tăng cường chỉ đạo việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong

tham mưu giúp cấp ủy thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; giữa ủy ban kiểm

tra các cấp với các ban ngành, đoàn thể trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám

sát; giữa công tác kiểm tra của đảng với hoạt động thanh tra, kiểm toán của nhà

nước; phát huy tốt vai trò của Ban chỉ đạo xây dựng NTM các cấp, Ban Thanh tra

nhân dân, Ban giám sát cộng đồng ở cơ sở trong kiểm tra, giám sát thực hiện

chương trình.

4.2.6. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo giúp đỡ của Trung ương

Trong quá trình lãnh đạo chỉ đạo, bên cạnh sự nỗ lực chủ quan của địa

phương, vùng rất cần sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, Chính phủ và các

bộ, ban, ngành ở Trung ương đối với sự phát triển của vùng ĐBSCL, đây là yếu

tố quan trọng để thúc đẩy sự lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với xây dựng NTM. Cụ

thể là:

- Bộ Chính trị, Ban Bí thư: tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám

sát các tỉnh trong lãnh đạo xây dựng NTM. Mục đích kiểm tra là làm cho đường

lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng và của các tỉnh uỷ về lãnh đạo xây dựng

NTM... bảo đảm được thi hành một cách đúng đắn và sáng tạo. Qua kiểm tra

phải chỉ rõ các nghị quyết có được thi hành hay không, thi hành có đúng không,

đúng đến mức nào; cơ quan, tổ chức nào, cá nhân cán bộ, đảng viên nào cố gắng,

nghiêm túc, phát huy sáng kiến, làm việc có hiệu quả và không có hiệu quả. Việc

kiểm tra chấp hành nghị quyết của Trung ương nhằm thấy được những mặt đúng

đắn, phù hợp của chủ trương, nghị quyết để tiếp tục phát huy, cũng như những

hạn chế để kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh.

Cần phải có nghiên cứu, giải quyết triệt sâu sắc hơn từ khía cạnh cơ sở lý

luận, cần phải khắc phục ngay sự không thực tế, thiếu tính lý luận và xu thế

phong trào hóa trong quá trình triển khai xây dựng NTM. Bên cạnh đó, cần tiếp

tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách xây dựng NTM cho sát

hợp với thực tế. Cần có cơ chế lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia;

140

chương trình hỗ trợ có mục tiêu các dự án trên địa bàn nông thôn theo hướng

tăng cường phân cấp tối đa cho hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các tỉnh,

thành phố. Có những cơ chế tạo điều kiện có sự tham gia trực tiếp của người dân

với vai trò chủ thể và các tầng lớp, các tổ chức xã hội, gắn phát triển kinh tế với

bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.

- Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương cần phê duyệt quy hoạch tổng thể

và hệ thống tiêu chí xây dựng NTM phù hợp ĐBSCL; tăng cường đầu tư các

nguồn lực: tài chính, khoa học, cán bộ...

Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực phát

triển nhanh nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trước hết, cần xem lại các

chính sách có liên quan về đất đai (kể cả luật đất đai); các thể chế liên quan đến

nông nghiệp, nông thôn và việc làm ăn của nông dân, quyền lợi của người sử

dụng đất, của nhà đầu tư và của Nhà nước trong quá trình cho thuê thầu đất và

các chính sách khác… Điều chỉnh cơ cấu đầu tư ngân sách, giảm bớt đầu tư cho

các công trình không hiệu quả, tăng đầu tư phát triển cho khu vực nông nghiệp,

nông thôn; tăng mạnh đầu tư ngân sách của Nhà nước, đảm bảo lợi ích của địa

phương, giúp các vùng khó khăn được phát triển. Tăng cường hỗ trợ nông dân

chủ động sản xuất nông sản, hàng hoá; có biện pháp bảo hộ thị trường nội địa,

phát triển thị trường xuất khẩu nông sản; ban hành chính sách giá cả nông sản,

nhất là lúa, phù hợp trong quan hệ so sánh với hàng công nghiệp, bảo đảm lợi

ích của người sản xuất nông nghiệp.

Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương ban hành và hướng dẫn đầy đủ,

đồng bộ các cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực cho phát triển nông

nghiệp, nông thôn đã nêu trong Nghị quyết và Chương trình hành động của

Chính phủ. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, ban hành đầy đủ, đồng bộ các

cơ chế, chính sách có liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là

chính sách đất đai, đầu tư, tài chính, tín dụng, bảo hiểm, đào tạo nghề, tạo môi

trường minh bạch, thuận lợi cho nông dân phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập.

Nghiên cứu và thực hiện chính sách về thuế, hải quan, tín dụng, chính

sách sử dụng tài nguyên tại chỗ và các quy chế khác cho phù hợp. Ban hành

141

thêm một số văn bản pháp chế để làm căn cứ trong tổ chức thực hiện công tác

xây dựng NTM và xoá đói giảm nghèo.

Nghiên cứu xem xét điều chỉnh quy hoạch vùng ĐBSCL theo hướng tạo điều

kiện phát huy tốt nhất những tiềm năng, lợi thế, kết nối với các nguồn lực quốc gia

để tăng khả năng liên kết phát triển vùng, bảo đảm sự cân bằng giữa nhu cầu phát

triển kinh tế với việc bảo vệ môi trường. Cân nhắc để tạo lập cơ chế chính sách

thích hợp, thúc đẩy liên kết, tăng cường đầu tư theo vùng, phù hợp với chức năng

kinh tế, xã hội, bảo tồn sinh thái, để tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các khu vực

còn nhiều khó khăn như ĐBSCL. Hoàn thiện thể chế phân công, phân cấp giữa

Trung ương và địa phương, vừa đảm bảo tập trung thống nhất của nền kinh tế, vừa

phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương.

- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:

Chỉ đạo hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp chủ động tham mưu

với cấp uỷ Đảng, phối hợp với chính quyền và Ban Chỉ đạo chương trình NTM lựa

chọn những nội dung trọng tâm, trực tiếp trong từng thời gian để thực hiện có hiệu

quả thiết thực nội dung tiêu chí xây dựng NTM phù hợp với đặc điểm của địa

phương gắn với thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống

văn hóa ở khu dân cư”.

Mặt trận Tổ quốc các cấp đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến trong các tầng

lớp nhân dân nắm vững quan điểm, chủ trương của Đảng, những chính sách của

Chính phủ, của các địa phương để nhận thức đúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của

Chương trình xây dựng NTM; nêu cao tinh thần trách nhiệm của mỗi người dân và

trong cộng đồng dân cư về thực hiện cuộc vận động ''Toàn dân đoàn kết xây dựng

nông thôn mới, đô thị văn minh'' được phát động nhằm triển khai chủ trương của

Đảng và Nhà nước về Chương trình giảm nghèo và xây dựng NTM, góp phần

đổi mới cơ chế hoạt động, giám sát, phản biện xã hội trong bối cảnh mới. Để

cuộc vận động được triển khai hiệu quả, Mặt trận cần phối hợp tốt với chính

quyền địa phương trong việc công nhận gia đình văn hóa, Khu dân cư văn hóa;

thực hiện cuộc vận động “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam''; vận

142

động nhân dân tham gia bảo hiểm y tế, đánh giá sự hài lòng của người dân,

doanh nghiệp với sự phục vụ của chính quyền địa phương theo cơ chế “Nhà

nước quản lý, mặt trận giám sát - phản biện, nhân dân làm chủ''.

Ban Thường trực MTTQ các cấp phối hợp với Ban Chỉ đạo chương trình

mục tiêu xây dựng NTM cùng cấp để bố trí kinh phí tuyên truyền vận động nhân

dân tham gia xây dựng NTM của MTTQ và các tổ chức đoàn thể. Vận động nguồn

lực xây dựng NTM. Vận động trong nhân dân bàn bạc dân chủ, trên cơ sở đó tự

nguyện đóng góp tiền, công sức, hiến đất…để xây dựng kết cấu hạ tầng, làm đường

giao thông nông thôn, thủy lợi nội đồng, nhà ở, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng

đồng ở khu dân cư. Phát huy mọi khả năng và sự tham gia của người dân với tinh

thần lấy sức dân để chăm lo cuộc sống cho dân, từ mỗi gia đình, cộng đồng, tạo

động lực cho việc thực hiện xây dựng NTM.

Vận động nguồn lực xây dựng NTM. Vận động trong nhân dân bàn bạc dân

chủ, trên cơ sở đó tự nguyện đóng góp tiền, công sức, hiến đất…để xây dựng kết

cấu hạ tầng, làm đường giao thông nông thôn, thủy lợi nội đồng, nhà ở, nhà văn

hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng ở khu dân cư. Phát huy mọi khả năng và sự tham gia

của người dân với tinh thần lấy sức dân để chăm lo cuộc sống cho dân, từ mỗi gia

đình, cộng đồng, tạo động lực cho việc thực hiện xây dựng NTM.

Hướng dẫn để nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với các dự án, các

nguồn vốn đầu tư, tranh thủ ý kiến, kinh nghiệm của nhân dân trong quá trình triển

khai, tổ chức thực hiện Chương trình để tăng hiệu quả, chất lượng, tránh lãng phí

trong việc sử dụng các nguồn lực, các nguồn vốn của Chương trình. Phát huy vai trò

hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng, tạo điều

kiện để nhân dân thực hiện quyền giám sát, tham gia đóng góp ý kiến vào việc đầu

tư, triển khai các chương trình, dự án ở địa phương.

Phối hợp xây dựng mô hình điểm. Trên cơ sở kế hoạch chung của Ban Chỉ

đạo Chương trình NTM, căn cứ nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tình

hình thực tiễn của địa phương, MTTQ Việt Nam các cấp tham mưu với cấp uỷ

Đảng, phối hợp với chính quyền và Ban Chỉ đạo chương trình phát triển nông

nghiệp và xây dựng NTM chọn nội dung phù hợp, thiết thực để phối hợp xây dựng

143

và nhân rộng các mô hình về “Vận động toàn dân chung sức xây dựng NTM”. Mỗi

điểm cần gắn với những nội dung cụ thể của Mặt trận tham gia, có mục tiêu, có sơ

kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình, điển hình tạo niềm tin

trong nhân dân.

Sơ kết, tổng kết và biểu dương khen thưởng. Định kỳ, sơ kết, tổng kết đánh

giá phong trào và biểu dương các điển hình có thành tích xuất sắc trong công cuộc

xây dựng NTM, gắn với việc đánh giá, biểu dương, khen thưởng “Gia đình văn

hoá”, khu dân cư văn hoá trong thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.

- Ban Dân vận Trung ương:

Chỉ đạo hệ thống dân vận phối hợp với các cơ quan liên quan tham mưu

cho cấp ủy chỉ đạo việc tổ chức quán triệt, phổ biến các mục tiêu, nội dung quy

hoạch xây dựng NTM, 19 tiêu chí của bộ tiêu chí NTM. Vận động nhân dân tự

nguyện hiến đất, ngày công xây dựng các công trình NTM; làm tốt việc dồn đổi,

tích tụ ruộng đất; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, phát triển kinh tế hộ, mở rộng ngành nghề, tạo thêm việc làm; tập

trung cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn; chỉnh trang nhà cửa, các công trình

vệ sinh; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, thủy sản; thực hiện nếp sống văn minh,

loại bỏ các tập tục lạc hậu, các tệ nạn xã hội... để người dân được hưởng lợi trực

tiếp từ chương trình.

Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân

được biết, được tham gia vào đề án quy hoạch, kế hoạch xây dựng NTM trước hết

là những nội dung liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Hướng

dẫn cụ thể để người lao động tại địa phương được tham gia những phần việc thích

hợp trong xây dựng NTM nhằm tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân.

Phối hợp với các tổ chức trong HTCT, phát huy sức mạnh đại đoàn kết

toàn dân, thu hút, tập hợp sự tham gia của cộng đồng cả về tư duy, trí tuệ và các

nguồn lực tại chỗ; đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân trong

và ngoài nước để xây dựng NTM. Đồng thời chỉ đạo, sử dụng các nguồn lực tiết

kiệm, có hiệu quả. Cụ thể hóa và kết hợp phong trào “Cả nước chung sức xây

144

dựng NTM” với đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng,đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân

cư”, “Dân vận khéo” và việc xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

Xây dựng cơ chế cụ thể, tạo điều kiện phát huy vai trò giám sát đầu tư

cộng đồng, ban thanh tra nhân dân trong việc thực hiện các dự án thành phần

trong xây dựng NTM. Phát huy quyền làm chủ và trách nhiệm của mỗi người

dân đối với các công việc cụ thể trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện; đấu

tranh với những biểu hiện tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, tư tưởng cực đoan, lợi

dụng dân chủ, khiếu kiện, gây rối, cản trở việc tổ chức thực hiện chương trình.

Tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo mặt trận, các đoàn thể nhân dân, các tổ

chức xã hội phân công cán bộ, đảm nhận việc hướng dẫn, tổ chức, giúp đỡ cho

đoàn viên, hội viên đi đầu trong tổ chức thực hiện.

- Trung ương Hội Nông dân Việt Nam

Hội Nông dân là tổ chức đại diện cho giai cấp nông dân, không chỉ đại

diện về mặt chính trị mà còn đại diện cả về lĩnh vực kinh tế, xã hội. Vì vậy Hội

Nông dân cần được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và cần được Nhà

nước tạo điều kiện để Hội thật sự là trung tâm, là nòng cốt trong các phong trào

nông dân và xây dựng NTM.

Để phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng NTM, Trung

ương Hội cần phải tăng cường năng lực của người dân; có cơ chế để người dân

tích cực tham gia xây dựng đất nước; tập trung rèn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ

Hội năng động, phát động nhiều phong trào có hiệu quả sáng tạo; xác lập mối

liên minh của giai cấp nông dân và công nhân, nông dân và doanh nghiệp; phải

có cơ chế để Hội tham gia, kiểm tra, giám sát quá trình hoạch định chính sách,

giúp nông dân tham gia Nghị quyết ngày càng sáng tạo, kiến nghị Trung ương

Đảng nghiên cứu cho Hội có chức năng làm kinh tế...

Tiếp tục nắm Nghị quyết để phát huy vai trò của Hội trong thời kỳ mới;

tiếp tục triển khai chương trình, đề án của Hội; thường xuyên kiểm tra, giám sát

các cấp Hội; tham mưu, đề xuất các chương trình, cơ chế, chính sách với Đảng,

Nhà nước cho phù hợp; xây dựng đội ngũ cán bộ Hội, bồi dưỡng, nâng cao trình

145

độ, nâng cao vai trò làm chủ của nông dân, theo hướng tỷ lệ làm nông nghiệp ít

đi nhưng sản lượng cao hơn, chất lượng tốt hơn.

Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội, thực sự là

người bạn của nông dân, là chỗ dựa của đảng, là nòng cốt của quá trình xây

dựng NTM.

- Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Đưa việc thực hiện hoạt động “Tuổi trẻ chung tay xây dựng NTM” vào

nội dung đánh giá thi đua hàng năm. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát;

nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, hç trî x©y dùng, ph¸t hiÖn nhân rộng những mô

hình mới, cách làm sáng tạo trong phong trào xây dựng NTM của thanh niên.

Chỉ đạo các cấp bộ Đoàn tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền tới

đoàn viên, thanh thiếu niên về NTM và vai trò, trách nhiệm của tuổi trẻ tham gia

xây dựng NTM.Chủ động phối hợp với ngành nông nghiệp, tài nguyên môi

trường, văn hóa, lao động thương binh và xã hội; các tổ chức kinh tế trên địa

bàn; các đoàn thể nhân dân, khai thác tốt mọi nguồn lực cho việc thực hiện

chương trình.

Chọn điểm chỉ đạo ở các cấp, các đơn vị chỉ đạo điểm cần được các cấp

bộ Đoàn tập trung nguồn lực, huy động sự ủng hộ của các lực lượng xã hội, nhất

là lực lượng doanh nhân trẻ, đồng thời phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện

của thanh, thiếu niên xây dựng được những công trình, phần việc cụ thể, khẳng

định vai trò của tổ chức Đoàn đối với việc thực hiện các tiêu chí về NTM, từ đó

nhân ra diện rộng.

- Tổng Liên Đoàn Lao động Việt Nam

Tổ chức công đoàn các cấp, nhất là Công đoàn cơ sở tham gia tuyên

truyền, nâng cao nhận thức cho mỗi công đoàn viên về mục đích, ý nghĩa và tầm

quan trọng của xây dựng NTM là tạo tiền đề phát triển KT-XH của địa phương.

Mỗi công đoàn viên cần phát huy vai trò, tinh thần trách nhiệm gắn với thực hiện

nhiệm vụ được phân công, thực sự gương mẫu thực hiện; gia đình công đoàn

viên là tấm gương tích cực tham gia phong trào xây dựng NTM...

146

- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Chỉ đạo các cấp hội tiếp tục đợt thi đua đặc biệt với chủ đề “ Phụ nữ Việt

Nam chủ động giúp nhau xây dựng gia đình hạnh phúc 5 không 3 sạch, chung

sức xây dựng NTM, đô thị văn minh, cần tập trung vào một số nhiệm vụ:

Đẩy mạnh Cuộc vận động Xây dựng gia đình “5 không 3 sạch”, chủ động

góp phần xây dựng NTM và đô thịvăn minh: tiếp tục rà soát hộ gia đình đạt các

tiêu chí và thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động; có kế hoạch, biện pháp

phù hợp hỗ trợ, giúp đỡ hộ gia đình có địa chỉ.

Tiếp tục thực hiện các hoạt động vận động xây dựng Mái ấm tình thương,

các hoạt động nhân đạo từ thiện, đền ơn đáp nghĩa; công tác hậu phương quân

đội; tập trung việc tham mưu thực hiện chính sách người có công.

Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng về thị

trường, tài chính, khởi sự doanh nghiệp cho các tổ hợp tác, HTX; tập huấn nâng

cao năng lực giảm nghèo cho cán bộ Hội cơ sở, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho

doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xây dựng mô hình tạo việc làm sau học nghề

theo phương thức hợp tác, liên kết; từng bước thành lập các mô hình HTX có qui

mô, thúc đẩy kết nối trong các chuỗi giá trị; đẩy mạnh liên kết các doanh nghiệp

nhằm hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Đẩy mạnh tuyên truyền, tư vấn và dạy nghề, đáp

ứng nhu cầu của phụ nữ đảm bảo chỉ tiêu kế hoạch. Huy động, khai thác nguồn

lực hỗ trợ thực hiện hoạt động dạy nghề. Đẩy mạnh liên kết các doanh nghiệp

nhằm hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm; tập trung các nguồn lực hỗ trợ các vùng khó

khăn, vùng thu hồi đất nông nghiệp, phụ nữ yếu thế.

147

KẾT LUẬN

Từ lý luận và thực tiễn về xây dựng NTM càng khẳng định rằng xây dựng

NTM là rất cần thiết và hợp lòng dân nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn

diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, do đó đã nhanh chóng đi vào cuộc

sống và đã có tác động mạnh mẽ, đưa nông nghiệp, nông thôn có bước phát triển

mới, tiếp tục nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện sống của người nông dân,

góp phần quan trọng duy trì phát triển kinh tế, ổn định trị, xã hội, nâng cao vai

trò lãnh đạo của Đảng ở các vùng nông thôn.

Thời gian qua, các tỉnh ủy vùng ĐBSCL đã tích cực vào cuộc, cùng thực

hiện sự nghiệp xây dựng NTM, đã lãnh đạo HTCT từ tỉnh đến cơ sở sớm triển khai

tích cực chủ trương của Trung ương và đã đạt được nhiều kết quả tích cực, diện

mạo nông thôn bước đầu đã có sự thay đổi, sản xuất nông nghiệp phát triển khá

toàn diện, tạo được khí th tích cực và thi đua rộng khắp trong sản xuất, lao động và

xây dựng NTM.

Thực tiễn xây dựng NTM ở ĐBSCL những năm qua cũng đặt ra những vấn

đề mà các tỉnh ủy trong vùng phải nhìn nhận, đánh giá để rút ra những kinh

nghiệm,bổ sung lý luận về xây dựng NTM, nghiên cứu đề xuất các giải pháp và cơ

chế tiếp tục lãnh đạo chương trình có hiệu quả, phù hợp với thực tế các địa phương

trong vùng.

Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với xây dựng NTM, các

tỉnh ủy ở ĐBSCL phải tập trung nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và cán bộ

đảng viên về NTM với nội dung trọng tâm và hình thức đa dạng. Đây là giải pháp

quan trọng nhằm khắc phục sự không thực tế, xu thế phong trào hóa, chính trị hóa

sự nghiệp xây dựng NTM. Trong xây dựng NTM, tăng cường lãnh đạo công tác qui

hoạch và thực hiện qui hoạch xây dựng NTM là giải pháp trước tiên đảm bảo sự

nghiệp xây dựng NTM được thực hiện bài bản ngay từ đầu.

Xây dựng NTM cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quy định của Trung

ương trong phân cấp, huy động các nguồn lực, tăng cường đầu tư cho nông thôn là

nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của việc dựng NTM.

148

Các tỉnh ủy ở ĐBSCL cần xem việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo

xây dựng NTM là nhân tố quyết định, là khâu then chốt nhiệm vụ trọng tâm. Xây

dựng NTM là nhiệm vụ của cả HTCT và toàn dân, vì vậy muốn thành công cần chú

trọng nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội. Trong đó,

đảng giữ vai trò lãnh đạo, chính quyền điều hành, cư dân nông thôn là chủ thể thực

hiện và thụ hưởng những thành quả mang lại từ chương trình. Đồng thời tranh thủ

sự chỉ đạo, giúp đỡ của cấp trên là hết sức quan trọng.

Để lãnh đạo xây dựng NTM tốt hơn nữa, đòi hỏi các tỉnh ủy ở ĐBSCL phải

phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị, đồng sức, đồng lòng, đầu tư sức lực, trí

tuệ nhiều hơn cho việc phát huy những nhân tố bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng,

nhằm tạo bước chuyển mạnh mẽ, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Lê Quốc Khởi (2014), ”Tuổi trẻ Bạc Liêu chung tay xây dựng Nông thôn

mới”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (3), tr.67-69.

2. Lê Quốc Khởi (2014),”Đảng bộ Bạc Liêu lãnh đạo xây dựng Nông thôn

mới”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (7), tr.43-46.

3. Lê Quốc Khởi (2016), ”Bạc Liêu: Dấu ấn thanh niên trong xây dựng Nông

thôn mới”, Tạp chí Thanh niên, (16)

150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới Trung

ương (2013), Báo cáo số 21/BCĐTW ngày 17/3/2013, kết quả 03 năm thực

hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới Tỉnh

Kiên Giang (2014), Báo cáo số 29/BCĐTW ngày 18/3/2014, kết quả thực

hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2013,

phương hướng kế hoạch năm 2014, Kiên Giang.

3. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (2005), Tây Nam Bộ tiến vào thế kỷ 21, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

4. Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (2015), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội các tỉnh Tây

Nam Bộ năm 2015, Cần Thơ.

5. Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới tỉnh Bến Tre (2014), Báo cáo số 48/BC-BCĐ,

Kết quả thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới trong thời gian qua

và một số công việc trọng tâm thực hiện trong năm 2014, Bến Tre.

6. Ban Dân vận Trung ương (2000), Một số vấn đề về công tác vận động nông dân

nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Ban Tổ chức Trung ương (2016), Báo cáo số 06/BC-BTCTW ngày 25/3/2016

Báo cáo tổng kết công tác tổ chức xây dựng Đảng năm 2015, phương

hướng nhiệm vụ năm 2016, Cà Mau.

8. Báo điện tử Kinh tế nông thôn (2010), "Ngổn ngang nông thôn mới - Bài học từ

Trung Quốc", tại trang www.kinhtenongthon.com.vn, [truy cập ngày

01/7/2013].

9. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2005), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta

hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

10. Nguyễn Kim Bảo (Chủ biên) (2010), Điều chỉnh một số chính sách kinh tế ở

Trung Quốc (Giai đoạn 1992 - 2010), Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.

11. Benedict J.tria Kerrkvliet, Jamesscott Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định (2000),

Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân nông thôn ở các nước và Việt

Nam, Nxb Hà Nội.

151

12. Nguyễn Văn Biết (2007), Đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với cơ quan nhà

nước cấp tỉnh trong điều kiện hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

13. Phạm Văn Bính (2007), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau 20 năm đổi

mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Bộ Chính trị khóa IX (2003), Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 về

phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm

an ninh quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.

15. Bộ Chính trị khóa XI (2012), Kết luận số 28-KL/TW ngày 14/8/2012 về

phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm

an ninh, quốc phòng vùng Đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ 2011-2020,

Hà Nội.

16. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2010), Thông tư số 18/2010/TT-BKH ngày

27/07/2010 về hướng dẫn cơ chế đặc thù về quản lý đầu tư xây dựng cơ

bản tại 11 xã thực hiện Đề án “Chương trình xây dựng thí điểm mô hình

nông thôn mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,

Hà Nội.

17. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Công văn số 2453/BNN-

KTHT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

hướng dẫn đánh giá và lập báo cáo xây dựng nông mới cấp xã giai đoạn

2010 - 2020 định hướng 2030, Hà Nội.

18. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), Quyết định 1003/QĐ-BNN-

KTHT ngày 18/5/2011 về việc phê duyệt chương trình đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ xây dựng nông thôn mới thuộc chương trình mục tiêu quốc gia về

xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2020, Hà Nội.

19. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Người cao tuổi Việt Nam (2011),

Chương trình phối hợp số 218/CTPH-BNN-NCT ngày 14/07/2011, về việc

thực hiện “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới

giai đoạn 2011-2015”, Hà Nội.

152

20. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2012), Quyết định số 1263/QĐ-

BNN-HTQT ngày 29/05/2012 về việc Phê duyệt dự án “Thích ứng với

biến đổi khí hậu cho phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn vùng

ven biển đồng bằng sông Cửu Long”, Hà Nội.

21. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Chỉ thị số 2410/CT-BNN-

KTHT ngày 22/07/2013 về tăng cường triển khai Chương trình mục tiêu

quốc gia xây dựng nông thôn mới của ngành Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, Hà Nội.

22. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2013), Thông tư số 41/2013/TT-

BNNPTNT, hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới,

Hà Nội.

23. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính

(2013), Thông tư liên tịch số 51/2013/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC

ngày 02/12/2013 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số

26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC, hướng dẫn một số nội dung

thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn

mới giai đoạn 2010-2020, Hà Nội.

24. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2014), Thông tư số 01/VBHN-

BNNPTNT ngày 14/01/2014 Hướng dẫn một số nội dung thực hiện

Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ

về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

giai đoạn 2010-2020, Hà Nội.

25. Bộ Tài chính (2009), Thông tư 174/2009/TT-BTC ngày 08/09/2009 Hướng dẫn

cơ chế huy động và quản lý các nguồn vốn tại 11 xã thực hiện Đề án

“Chương trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới thời kỳ công

nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Hà Nội.

26. Bộ Tài chính - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2010), Thông tư liên tịch

số 112/2010/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 30/7/2010 Hướng dẫn quản lý

và sử dụng kinh phí thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông

thôn đến năm 2020” ban hành theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày

27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

153

27. Bộ Tài chính (2012), Thông tư 28/2012/TT-BTC ngày 24/02/2012 Quy định về

vốn đầu tư thuộc nguồn vốn ngân sách xã, phường, thị trấn, Hà Nội.

28. Bộ Tư pháp (2014), Kế hoạch số 2611/KH-BTP ngày 03/4/2014, Phát động và

tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Ngành Tư pháp chung sức góp

phần xây dựng nông thôn mới”, Hà Nội.

29. Bộ Xây dựng (2009), Thông tư số 21/2009/TT-BXD ngày 30/6/2009 về Quy

định việc lập, thẩm định và phê duyệt và quản lý quy hoạch xây dựng nông

thôn, Hà Nội.

30. Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên - Môi

trường (2011), Thông tư liên tịch số 13/2011/TTLT-BXD-BNNPTNT-

BTN&MT ngày 28/10/2011 Quy định việc lập, thẩm định, phê duyệt quy

hoạch xây dựng xã nông thôn mới (có hiệu lực thực hiện từ 15/12/2011).

31. Bun-thoong Chít-ma-ni (2011), Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo xây

dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị

học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

32. Trần Thị Minh Châu (Chủ biên) (2006), Về chính sách nông nghiệp ở nước ta

hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Nguyễn Văn Chiển (2000), Xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân trong

kinh tế thị trường ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ

Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

34. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị quyết số

24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 về Chương trình hành động của Chính

phủ thực hiện Nghị quyết 26 NQ/TW hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khóa X, Hà Nội.

35. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Nghị định số

1/2010/NĐ-CP ngày12/04/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển

nông nghiệp, nông thôn, Hà Nội.

36. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Nghị định số

210/NĐ-CP ngày19/12/2013 về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu

tư vào nông nghiệp, nông thôn đã cụ thể hóa chính sách ưu đãi, hỗ trợ

doanh nghiệp khi có dự án đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, Hà Nội.

154

37. Chương trình Châu Á (2011), Lựa chọn Thành công: Bài học từ Đông Á và

Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam, John F. Kennedy School of

Government-Harvard University.

38. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới,

Nxb Thống kê, Hà Nội.

39. Dang Guoying; Transl, Wang, Pingxing (2006), Nông nghiệp, nông thôn và

nông dân ở Trung Quốc, Beijing. China Intercontinental Press.

40. Hoàng Phó Dân (2014), “Phát huy vai trò của giai cấp nông dân và Hội Nông

dân Việt Nam trong xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Cộng sản chuyên

đề cơ sở, (94), tr.15-19.

41. Nguyễn Thị Doan (2007), “Một số vấn đề để đổi mới phương thức lãnh đạo

của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, (777), tr.29.

42. Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng (1975), Về tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý

nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn theo hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

43. Nguyễn Mạnh Dũng (2006), “Hai khuynh hướng phát triển nông thôn”, Tạp

chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, kỳ 2, (10).

44. Phạm Ngọc Dũng (2011), Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa Nông nghiệp nông

thôn, từ lý luận đến thực tiễn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

45. Hà Thị Thùy Dương (2016), “Phát huy vai trò chủ thể của người dân trong xây

dựng nông thôn mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, (10).

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (1951), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (1981), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

V, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

155

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI,

VII, VIII, IX) - Về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của

Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp

hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của

Ban Chấp hành Trung ương khóa X, về nông nghiệp, nông dân, nông

thôn, Hà Nội.

57. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

61. Đảng đoàn Hội Nông dân Việt Nam (2009), Đề án số 01-ĐA/ĐĐHND ngày

13/11/2009, nâng cao vai trò, trách nhiệm của hội nông dân trong phát

triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp công

nhân Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020, Hà Nội.

62. Trần Bạch Đằng (1995), “Mấy vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng”,

Tạp chí Xây dựng Đảng, (12), tr.31-34.

156

63. Phan Đình Hà (2011), Giải pháp đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới trên địa

bàn huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Đại

học Nông nghiệp Hà Nội.

64. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên) (2003), Một số vấn đề về hiện đại hoá nông

nghiệp Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. Vũ Văn Hiền (2009), "Công nghiệp hoá hiện đại hoá và vấn đề tam nông", tại

trang http://www.vov.vn, [truy cập ngày 17/3/2015].

66. Cao Việt Hiếu (2006), Nghiên cứu phát triển một số dịch vụ sản xuất - xuất khẩu

hàng hoá trái cây Đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ Kinh tế,

Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

67. Cát Chí Hoa (2009), Từ vùng quê đến nông thôn mới, Sách tham khảo, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

68. Chu Chí Hòa (Chủ biên) (2010), Đổi mới công tác xây dựng Đảng ở nông

thôn, Sách tham khảo, Quản Ngọc Loan dịch, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

69. Hoàng Ngọc Hòa, Phạm Châu Long và Nguyễn Văn Thạo (2001), Phát triển

công nghiệp nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long theo hướng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Việt Hoàng (2012), "Tổng kết Chương trình Xây dựng thí điểm mô hình nông

thôn mới giai đoạn 2009 - 2011", tại trang http://www.mard.gov.vn, [truy

cập ngày 13/01/2015.

71. Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang (2013), Nghị quyết số 46/2013/NQ-HĐND

ngày 06/02/2013 quy định cơ chế hỗ trợ vốn thực hiện Chương trình mục

tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, giai

đoạn 2010-2020, Kiên Giang.

72. Hội đồng nhân dân tỉnh Long An (2013), Báo cáo số 257 ngày 24/5/2013, Kết

quả giám sát về công tác đầu tư xây dựng và phát triển nông thôn mới tại

36 xã điểm xây dựng nông thôn mới, Long An.

73. Hồ Xuân Hùng (2012), "Về Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông

thôn mới", tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày

8/5/2014].

157

74. Kazuhito Yamashita (2006), “Các vấn đề Thực phẩm và nông nghiệp đối với

Nhật Bản và thế giới trong thế kỷ XXI”, Tạp chí Châu Á Thái Bình

Dương, (13), tr.11-15.

75. Vũ Trọng Khải (2015), Phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay,

những trăn trở và suy ngẫm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

76. Phạm Công Khâm (2000), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng

nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, Luận án tiến sĩ Lịch sử,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

77. Bùi Văn Khoa (2005), Xây dựng đội ngũ đảng viên ở nông thôn đồng bằng

sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học chính

trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

78. Trịnh Đình Khôi (2012), “Về xây dựng nông thôn mới, một việc làm đầy ý

nghĩa và nhân văn”, Tạp chí Tuyên giáo, (7), tr.57-58; 75.

79. Hoàng Thế Kiệt (1992), Vấn đề xây dựng nông thôn mới ở Trung Quốc, Bài

giảng, Khoa Quản lý Kinh tế nông nghiệp, Học viện Thương mại, Đại học

Quảng Tây.

80. Lachay Sinhsuvan (2011), Đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn

Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

81. Lê Tấn Lập (2007), Sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong việc thực thi

quyền lực của nhân dân ở nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, Luận

án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

82. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

83. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

84. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

85. Đặng Văn Lợi (Chủ nhiệm) và các cộng sự (2002), Thực hiện đường lối phát

triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng ở đồng bằng sông Cửu Long

trong những năm đổi mới (1996-2000), Thành phố Hồ Chí Minh.

158

86. Nguyễn Đình Luận (2003), Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng

đồng bằng sông Cửu Long theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến

năm 2010, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

87. C.Mác, Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. Lâm Văn Mẫn (2006), Phát triển bền vững ngành thuỷ sản đồng bằng sông Cửu

Long đến năm 2015, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

89. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Phạm Xuân Nam (Chủ biên) (1997), Phát triển nông thôn, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

92. Mai Văn Nam (Chủ biên) và các cộng sự (2008), Cơ sở cho phát triển doanh

nghiệp vừa và nhỏ và nông hộ ở đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

93. Naoto Imagawa (2000), Giới thiệu kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông

nghiệp Nhật Bản, Nxb Nông Nghiệp, Hà Nội.

94. Lê Hữu Nghĩa (2009), “Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam - những vấn đề

đặt ra và giải pháp”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập

ngày 5/11/2014].

95. Trần Đình Nghiêm (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Phan Văn Nhẫn (2009), Kinh tế vườn trong phát triển kinh tế - xã hội ở đồng

bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

97. Vũ Văn Ninh (2014), “Nhìn lại hơn 3 năm thực hiện Chương trình Mục tiêu

quốc gia xây dựng nông thôn mới: kết quả và một số bài học kinh

nghiệm”, Tạp chí Cộng sản chuyên đề cơ sở, (94), tr.8-14.

98. Ole Odgaard (1992), Kinh tế tư nhân ở nông thôn Trung Quốc - Sự tác động

đến phân tầng xã hội và phát triển nông nghiệp, Avebury Press.

159

99. Phêngphavăn Đaophoncharơn (2005), Về vấn đề nâng cao sử dụng vốn đầu tư

của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở Cộng hòa Dân

chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

100. Phòng Công nghiệp - Thương mại Việt Nam (VCCI) (2016), "Báo cáo xếp

hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2015", tại trang

http://www.vcci.com.vn, [truy cập ngày 12/2/2016].

101. Vũ Văn Phúc (2014), Xây dựng nông thôn mới - những vấn đề lý luận và thực

tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Hà Phương (2011), "Khẩn trương đưa chương trình tam nông của Chính phủ

vào cuộc sống", tại trang http://www.chinhphu.vn, [truy cập ngày

12/5/2014].

103. Bùi Thị Quyên (2013), Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa

Bình về xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay, Khóa Luận tốt

nghiệp đại học, Trường Đại học Tây Bắc, Sơn La.

104. Đỗ Tiến Sâm (2008), Vấn đề tam nông ở Trung Quốc: thực trạng và giải pháp,

Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

105. Trương Tấn Sang (2012), “Chương trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn

mới - Những kết quả bước đầu và một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn”,

tại trang http://www.tuyengiao.vn, [truy cập ngày 20/3/2015].

106. Nguyễn Văn Sánh (2009), Nguyên lý phát triển “tam nông” và ứng dụng vào

bối cảnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Nông nghiệp, Thành phố

Hồ Chí Minh.

107. Phan Văn Sáu, Hồ Văn Thông (2003), Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và xây

dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

108. Đặng Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam hôm nay

và mai sau, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109. Đặng Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông

dân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

160

110. Đặng Kim Sơn (Đồng chủ biên) và các cộng sự (2014), Đổi mới chính sách

nông nghiệp Việt Nam, bối cảnh, nhu cầu và triển vọng, Nxb Nông

nghiệp, Hà Nội.

111. Phan Xuân Sơn (2003), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ

sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

112. Lưu Văn Sùng (2004), Một số kinh nghiệm điển hình về phát triển nông nghiệp

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

113. Phạm Tất Thắng (2015), "Xây dựng nông thôn mới: Một số vấn đề đặt ra", tại

trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 6/10/2015].

114. Phạm Thắng (2013), “Quyết sách của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn

vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn,

[truy cập ngày ngày 16/7/2014].

115. Đỗ Mai Thành (2012), “Vấn đề nông nghiệp nông dân nông thôn Việt Nam -

Lý luận và thực tiễn”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập

ngày ngày 12/10/2014]

116. Trần Đình Thiên (1997), “Vấn đề vùng - lãnh thổ trong chiến lược cơ cấu kinh

tế”, Tạp chí Cộng sản, (3), tr.11-12.

117. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về

việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Hà Nội.

118. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 492 ngày 16/4/2009 về Phê duyệt

Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long,

Hà Nội.

119. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009,

phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”

theo của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.

120. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 193-QĐ/TTg ngày 02/27/2010,

phê duyệt chương trình rà soát xây dựng nông thôn mới, Hà Nội.

121. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 về

phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai

đoạn 2010-2020, Hà Nội.

161

122. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định Số 1620/QĐ-TTg ngày 20/9/2011 về

ban hành Kế hoạch thực hiện Phong trào thi đua “Cả nước chung sức

xây dựng nông thôn mới”, Hà Nội.

123. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 27/QĐ-TTg ngày 05/01/2012 về phê

duyệt Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn

mới giai đoạn 2011-2015, Hà Nội.

124. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012, Phê

duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020,

Hà Nội.

125. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 08/6/2012, về

sửa đổi nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn thực hiện Chương trình mục tiêu

quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, Hà Nội.

126. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 939-QĐ/TTg ngày 09/7/2012 quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu

Long, Hà Nội.

127. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày

14/11/2013 về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp,

Hà Nội.

128. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/02/2013

về việc sửa đổi một số tiêu chí của bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới,

Hà Nội.

129. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết đinh số 498/QĐ-TTg ngày 21/03/2013 về

Quyết định Bổ sung cơ chế đầu tư Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây

dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, Hà Nội.

130. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 872/QĐ-TTg ngày 06/06/2014 về

việc điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với một số chương trình tín dụng

chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội, Hà Nội.

131. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 5/4/2016

về việc ban hành tiêu chí huyện nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020,

Hà Nội.

162

132. Trần Thị Thuận (2011), ”Chiến lược Kinh tế xã hội thời kỳ 2011 - 2020”, tại

trang http://www.mard.gov.vn, [truy cập ngày 03/5/2015].

133. Ngô Huy Tiếp (2010), Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp nông dân trong giai

đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

134. Tỉnh ủy Cà Mau (2011), Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 12/7/2011 về việc xây

dựng nông thôn mới tỉnh Cà Mau, giai đoạn 2011 - 2015 và những năm

tiếp theo, Cà Mau.

135. Tổng cục Thống kê (2014), "Niên giám thống kê", tại trang http://www.gso.gov.vn,

[truy cập ngày 25/8/2015].

136. Nguyễn Phú Trọng (2013), “Phát huy vai trò của giai cấp nông dân trong sự

nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa”, tại trang http://sggp.org.vn, [truy

cập ngày 02/07/2015].

137. Nguyễn Văn Trung (Chủ biên) (1998), Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông

thôn, để công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp nước ta,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

138. Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách Khoa (2005), Từ điển Bách khoa Việt

Nam, Nxb Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.

139. Trung tâm Nghiên cứu và phát triển công nghiệp nông thôn Nhật Bản (2000),

Cải thiện các chính sách thương mại nông nhiệp Nhật Bản: Vấn đề, lựa

chọn và chiến lược, Nhật Bản.

140. Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2011), Báo cáo số

350-KH/TWĐTN ngày 22/7/2011, Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông

thôn mới, Hà Nội.

141. Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2015), Báo cáo số

350BC/TWĐTN-TNNT ngày 16/6/2015, Kết quả tham gia xây dựng nông

thôn mới tại 03 xã điểm chỉ đạo của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí

Minh giai đoạn 2011-2014, Hà Nội.

142. Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2015), Báo cáo số 11 /BC-ĐCT

ngày 03/02/2015 báo cáo Kết quả hoạt động của các cấp Hội năm 2014,

nhiệm vụ trọng tâm năm 2015, Hà Nội.

163

143. Đổng Liên Tường (2010), Cải cách xã hội Trung Quốc và những sáng tạo,

đổi mới trong xây dựng đảng cơ sở, Sách tham khảo, Nxb Nhân dân

Giang Tô.

144. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2010), Kế hoạch số 22/KH-UBND ngày

20/7/2010 phát động phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới giai

đoạn 2010-2015, An Giang.

145. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2012), Kế hoạch số 06/KH-UBND ngày

09/02/2012, Tổ chức thực hiện Phong trào thi đua “Cả nước chung sức

xây dựng nông thôn mới”, An Giang.

146. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2012), Quyết định số 898/QĐUB ngày

08/6/2012 về việc thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia

xây dựng nông thôn mới tỉnh An Giang, An Giang.

147. Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2015), Quyết định số 2549/QĐ-UBND ngày

10/11/2015 ban hành Đề án phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động

Quỹ Hỗ trợ nông dân tỉnh giai đoạn 2016-2018, An Giang.

148. Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau (2010), Kế hoạch số 26/KH-UBND ngày

23/9/2010 triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng

nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, Cà Mau.

149. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2012), Hướng dẫn số

70/HD-MTTW-BTT ngày 20/8/2012, Hướng dẫn Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam tham gia xây dựng nông thôn mới, Hà Nội.

150. Nguyễn Thị Tố Uyên (2012), Các tỉnh ủy vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo

đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai

đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây

dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

151. Văn na lết Bút Ta Vông (2009), “Thành quả và những vấn đề quan tâm

trong công tác xây dựng cơ sở chính trị - phát triển nông thôn”, Tạp chí

Alun may, (6), tr.17-21.

164

152. Văn phòng điều phối Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng

nông thôn mới tỉnh Bạc Liêu (2015), Báo cáo kết quả thực hiện Chương

trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới của huyện điểm Phước

Long năm 2014, lũy kế giai đoạn 2011-2014; kế hoạch thực hiện năm

2015, Bạc Liêu.

153. Văn phòng điều phối Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng

nông thôn mới Trung ương (2015), Báo cáo kết quả đạt được và những vấn

đề đặt ra sau 04 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng

nông thôn mới tại cáchuyện điểm do Trung ương chỉ đạo, số 21 ngày

17/3/2015, Hà Nội.

154. Văn phòng điều phối Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng

nông thôn mới Trung ương (2015), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện

Chương trình nông thôn mới giai đoạn 2010-2015, Hà Nội.

155. Văn phòng điều phối Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng

nông thôn mới Trung ương (2016), Công văn số 02/BCĐTW-VPĐP,

24/02/2016 về việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới,

Hà Nội.

156. Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc (2011), Về nhất thể hóa thành thị và nông

thôn, Trung Quốc.

157. Xay phon Thôm Pa Đít (2009), “Một số thành quả trong việc xây dựng cơ sở

chính trị và phát triển cụm bản Na Lâu Chom Ong, huyện Xay, tỉnh

UĐôm Xay”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (12), tr.21-23.

158. Xỉnxỏn Phunbunsỉ (2010), Kinh tế nông thôn ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân

Lào thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

159. Võ Tòng Xuân (2008), "Nông nghiệp và nông dân Việt Nam phải làm gì

để hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (785), tr.60-64.

160. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin,

Hà Nội.

165

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH

Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (NĂM 2014)

Đơn vị hành chính cấp huyện Đơn vị hành chính cấp xã

TT Tỉnh,

Thành phố Tổng số

Huyện Thị xã

Thành phố thuộc

tỉnh Quận

Tổng số

xã Thị trấn

Phường

01 An Giang 11 08 01 02 156 120 16 20

02 Bạc Liêu 07 05 01 01 64 49 05 10

03 Bến Tre 09 08 01 164 147 07 10

04 Cà Mau 09 08 01 101 82 09 10

05 Cần Thơ 09 04 05 85 36 05 44

06 Đồng Tháp 12 09 01 02 144 119 08 17

07 Hậu Giang 08 05 02 01 73 55 10 08

08 Kiên Giang 15 13 01 01 145 118 12 15

09 Long An 14 13 01 190 166 15 09

10 Sóc Trăng 11 8 02 01 109 87 12 10

11 Tiền Giang 10 08 02 01 169 146 07 16

12 Trà Vinh 08 07 01 01 104 85 10 09

13 Vĩnh Long 08 06 01 01 107 94 06 07

Toàn vùng 131 106 11 14 05 1611 1305 124 182

Nguồn: Tổng cục Thống kê 2014 [135]

162

Phụ lục 2

THỐNG KÊ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ CÁC TỈNH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Nội dung ĐVT Cà Mau Long An Tiền

Giang Vĩnh Long

Trà Vinh

An Giang

Sóc Trăng

Bạc Liêu Đồng Tháp

Kiên Giang

Bến Tre Cần Thơ Hậu

Giang Toàn vùng

-Tốc độ tăng

GDP 5 năm % 8.31 11.25 10.09 6.97 11.53 8.63 9.39 8.53 9.52 10.50 7.35 12.20 13.11 10.07

-Sản lượng lúa Ngàn tấn 554 2.861 1.370 1.086 1.326 4.039 2.265 1036 3.295 4.522 318 1.365 1.201 25.244

-Sản lượng thủy sản Ngàn tấn 478 45 232 111 175 331 184 281 478 635 403 179 62 3.619

-GDP bình quân/người

Triệu đồng 36.2 50.4 45.7 39.6 14.9 39.2 38.3 43.7 32.6 36.7 34.7 79.3 35.8 44.5

-Thu ngân sách (thu nội địa)

Tỷ đồng 1.850 2.140 2.006 909 470 3.224 783 905 1.893 1.775 700 3.083 418 20.156

-Chi ngân sách Tỷ đồng 3.292 3.524 3.227 2.231 2.623 4.540 3.014 1.889 3.692 4.036 1.993 4.527 2.695 41.283

-Kim ngạch xuất khẩu

Triệu USD 830 1.170 421 250 140 800 370 210 445 520 215 919 300 6.590

-Kim ngạch nhập khẩu

Triệu USD 0 695 82 80 9 120 25 0 400 20 46 570 30 2.077

Cả nước 59 9 49 19 41 39 22 33 2 11 12 14 36 Chỉ số

năng lực cạnh tranh

Năm

2015

Hạng

Vùng 13 2 12 6 11 10 7 8 1 3 4 5 9

Nguồn: Tổng cục Thống kê 2014 [135]

163

Phụ lục 3 THỐNG KÊ TÌNH HÌNH VĂN HÓA - XÃ HỘI CÁC TỈNH Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Nội dung ĐVT Cà

Mau Long An

Tiền Giang

Vĩnh Long

Trà Vinh An Giang Sóc

Trăng Bạc Liêu

Đồng Tháp

Kiên Giang

Bến

Tre Cần Thơ

Hậu Giang

Toàn vùng

Dân số Nghìn người

1.295 1.500 1.784 1.081 1.071 2151 1.326 862 1.705 1.770 1.371 1.200 765 18.028

Tỷ lệ hộ nghèo

(TC mới) % 11 8 7,03 5,6 11.9 4 10,23 10 4,5 4,5 9 5 10 8,01

Số lao động có việc làm

Người 30.000 30.000 22.500 27.500 15.000 35.000 20.300 15.000 40.000 28.000 30.000 50.000 23.000 366.300

Tỷ lệ lao động qua đào tạo

% 30 50 35 34 22 34 40 31 40 30 40 42 16 34,15

Số xã chưa có đường ôtô đến trung tâm

xã 0 0 0 4 8 49 21 5 0 41 2 5 11 146

học sinh 23.447 37.040 38.115 27.598 17.914 43.195 26.081 14.175 38.254 33.268 30.700 25.068 15.941 370.836 Số và tỷ lệ

tốt nghiệp THPT % 98.27 98.21 99.22 99.05 99.78 99,64 99.6 98.74 99,53 99.29 99,69 99.72 99.89 99,27

Tỷ lệ hộ dùng điện % 93 98 99,67 99 94 98 102,58 97 99 95 96,5 99,6 95 97,41

Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh

% 84 97,25 95,5 64,4 90 61 91,5 55 96 90 30 83 90 79,05

Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ

% 80 98 100 100 100 100 75,5 100 100 85 98 97,56 70 92,62

Tỷ lệ trẻ

suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi

% 16 18 17 20 19,4 16,2 17 17 18 17,8 17 16,1 18 17,46

Nguồn: Tổng cục Thống kê 2014 [135]

164

Phụ lục 4

THỐNG KÊ SỐ LIỆU VỀ DÂN TỘC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (NĂM 2014)

Nội dung ĐVT Cà

Mau

Long

An

Tiền Giang

Vĩnh Long

Trà

Vinh

An

Giang

Sóc Trăng

Bạc

Liêu

Đồng Tháp

Kiên Giang

Bến

Tre

Cần

Thơ

Hậu Giang

Toàn

vùng

Dân tộc Kinh Người 1.299.062 777.346 830.508 1.462.270 2.023.443 745.731 1.152.154 681.147 1.002.861 1.677.969 1.700.718 1.431.644 1.251.364 16.036.217

Dân tộc Khmer Người 40.012 66.176 397.014 213.310 91.018 27.181 21.441 318.288 24.089 0 67 1.195 578 1.200.369

Dân tộc Hoa Người 12.236 20.215 64.910 30.214 16.661 8.334 14.199 7.690 4.879 22 6.574 2.690 3.811 192.435

Dân tộc Chăm Người 106 0 106 504 13.454 81 173 163 64 0 68 218 45 14.982

Dân tộc thiểu số khác

Người 311 173 315 752 196 132 347 455 101 9 5 318 148 3.263

Nguồn: Tổng cục Thống kê 2014 [135]

165

Phụ lục 5

THỐNG KÊ SỐ LIỆU TÍN ĐỒ TÔN GIÁO Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Nội dung ĐVT Cà Mau Long An Tiền

Giang

Vĩnh

Long Trà Vinh An Giang

Sóc

Trăng Bạc Liêu

Đồng

Tháp

Kiên

Giang Bến Tre Cần Thơ

Hậu

Giang Toàn vùng

Phật giáo Bắc

tông Người 277.420 230.000 103.177 98.116 621.091 69.094 29.393 144.673 164.375 53.307 56.687 243.369 107.926 2.198.628

Phật giáo

Nam tông

Khmer

Người 25.056 52.816 340.823 210.899 62.903 25.634 22.294 304.845 7.625 0 0 0 0 1.052.895

Công giáo Người 22.334 19.432 62.669 102.164 64.306 39.143 95.000 65.800 38.000 49.263 43.973 36.970 76.000 715.054

Tin lành Người 4.532 961 3.695 6.209 2.195 3.366 10.979 1.286 7.399 7.284 8.658 5.773 5.300 67.637

Hồi giáo Người 0 0 0 301 14.389 0 0 175 24 0 34 99 0 15.022

Nam Tông

Minh sư đạo Người 0 0 0 40 0 421 33 0 79 23 366 90 103 1.155

Baha'i 0 0 77 271 0 241 239 0 0 32 0 0 0 860

Cao đài Người 21.943 9.790 8.439 22.250 63.693 12.831 18.433 16.609 44.974 50.190 41.713 60.621 30.651 402.137

Hòa Hảo Người 776 17 975 7.247 678.352 2.337 252.362 38 27.067 173.253 1.145 2.079 2.666 1.148.314

Tịnh độ cư sĩ Người 13.393 41.682 48.633 2.880 1.777 41.581 7.475 4.098 46.710 4.743 2.022 1.564 1.801 218.359

Tứ ân hiếu

nghĩa Người 0 0 350 923 36.086 1.095 0 90 44 1.579 1.184 0 641 41.992

Bửu sơn kỳ

hương Người 0 0 50 0 2.100 0 0 257 0 815 0 250 468 3.940

Nguồn: Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ [4]

166

Phụ lục 6

BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA VỀ XÃ NÔNG THÔN MỚI

I. QUY HOẠCH

Chỉ tiêu theo vùng

TT Tên

tiêu chí Nội dung tiêu chí

Chỉ tiêu

chung

TDMN

phía Bắc

Đồng

bằng sông

Hồng

Bắc

Trung bộ

Duyên

hải Nam

TB

Tây

Nguyên

Đông

Nam bộ

ĐB

sông Cửu

Long

1

Quy

hoạch

thực

hiện

quy

hoạch

1.1.Quy hoạch sử dụng đất

và hạ tầng thiết yếu cho

phát triển sản xuất nông

nghiệp hàng hóa, công

nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp, dịch vụ

1.2. Quy hoạch phát triển

hạ tầng kinh tế - xã hội -

môi trường theo chuẩn mới

1.3. Quy hoạch phát triển

các khu dân cư mới và

chỉnh trang các khu dân cư

hiện có theo hướng văn

minh, bảo tồn được bản sắc

văn hóa tốt đẹp

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

II. HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI

Chỉ tiêu theo vùng

TT Tên

tiêu chí Nội dung tiêu chí

Chỉ

tiêu chung

TDMN phía Bắc

Đồng bằng sông Hồng

Bắc Trung

bộ

Duyên hải

Nam TB

Tây Nguyên

Đông Nam bộ

ĐB sông Cửu Long

2.1. Tỷ lệ km đường trục

xã, liên xã được nhựa hóa

hoặc bê tông hóa đạt chuẩn

theo cấp kỹ thuật của Bộ

GTVT

100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100%

2.2. Tỷ lệ km đường trục

thôn, xóm được cứng hóa

đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật

của Bộ GTVT

70% 50% 100% 70% 70% 70% 100% 50%

2.3. Tỷ lệ km đường ngõ,

xóm sạch và không lầy lội

vào mùa mưa. 100%

100%

(50%

cứng

hóa)

100%

cứng

hóa

100%

(70%

cứng

hóa)

100%

(70%

cứng

hóa)

100%

(50%

cứng

hóa)

100%

cứng

hóa

100%

(30%

cứng

hóa)

2 Giao

thông

2.4. Tỷ lệ km đường trục

chính nội đồng được cứng

hóa, xe cơ giới đi lại thuận

tiện

65% 50% 100% 70% 70% 70% 100% 50%

167

3.1. Hệ thống thủy lợi cơ

bản đáp ứng yêu cầu sản

xuất và dân sinh

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

3 Thủy

lợi 3.2. Tỷ lệ km trên mương

do xã quản lý được kiên cố

hóa

65% 50% 85% 85% 70% 45% 85% 45%

4.1. Hệ thống điện đảm bảo

yêu cầu kỹ thuật của ngành

điện

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

4 Điện 4.2. Tỷ lệ hộ sử dụng điện

thường xuyên, an toàn từ

các nguồn

98% 95% 99% 98% 98% 98% 99% 98%

5 Trường

học

Tỷ lệ trường học các cấp:

mầm non, mẫu giáo, tiểu

học, THCS có cơ sở vật

chất đạt chuẩn quốc gia

80% 70% 100% 80% 80% 70% 100% 70%

6.2. Nhà văn hóa và khu

thể thao xã đạt chuẩn của

Bộ VH-TT-DL

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

6

Cơ sở

vật chất

văn hóa 6.3. Tỷ lệ thôn có nhà văn

hóa và khu thể thao thôn

đạt quy định của Bộ VH-

TT-DL

100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100%

7 Chợ

nông thôn

Chợ đạt chuẩn của Bộ Xây

dựng Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

8.1. Có điểm phục vụ bưu

chính viễn thông. Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

8 Bưu

điện 8.2. Có Internet đến thôn Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

9.1. Nhà tạm, dột nát Không Không Không Không Không Không Không Không

9 Nhà ở

dân cư 9.2. Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt

tiêu chuẩn Bộ Xây dựng 80% 75% 90% 80% 80% 75% 90% 70%

III. KINH TẾ VÀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT

Chỉ tiêu theo vùng

TT Tên

tiêu chí Nội dung tiêu chí

Chỉ

tiêu

chung

TDMN

phía

Bắc

ĐB

SH

Bắc

Trung

bộ

Duyên

hải

NTB

Tây

Nguyên

Đông

Nam

bộ

ĐB

SCL

10 Thu

nhập

Thu nhập bình quân đầu

người/năm so với mức bình

quân chung của tỉnh

1,4 lần 1,2 lần 1,5 lần 1,4 lần 1,4 lần 1,3 lần 1,5 lần 1,3 lần

11 Hộ

nghèo Tỷ lệ hộ nghèo < 6% 10% 3% 5% 5% 7% 3% 7%

12 Cơ cấu

lao động

Tỷ lệ lao động trong độ

tuổi làm việc trong lĩnh vực

nông, lâm, ngư nghiệp

< 30% 45% 25% 35% 35% 40% 20% 35%

13

Hình thức

tổ chức

sản xuất

Có tổ hợp tác hoặc HTX

hoạt động có hiệu quả Có Có Có Có Có Có Có Có

168

IV. VĂN HÓA - XÃ HỘI - MÔI TRƯỜNG

Chỉ tiêu theo vùng

TT

Tên

Tiêu

chí

Nội dung tiêu chí

Chỉ

tiêu

chung

TDMN

phía

Bắc

ĐB

sông

Hồng

Bắc

Trung

bộ

Duyên

hải

Nam TB

Tây

Nguyên

Đông

Nam

bộ

ĐB sông

CửuLong

14.1. Phổ cập giáo dục

trung học Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

14.2. Tỷ lệ học sinh tốt

nghiệp THCS được tiếp

tục học trung học (phổ

thông, bổ túc, học nghề)

85% 70% 90% 85% 85% 70% 90% 80% 14 Giáo

dục

14.3. Tỷ lệ lao động qua

đào tạo > 35% > 20% > 40 % > 35% > 35% > 20% > 40% > 20%

15.1. Tỷ lệ người dân

tham gia bảo hiểm y tế 30% 20% 40% 30% 30% 20% 40% 20%

15 Y tế 15.2. Xã đạt chuẩn quốc

gia Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

16 Văn

hóa

Xã có từ 70% số thôn,

bản trở lên đạt tiêu

chuẩn làng văn hóa theo

quy định của Bộ VH-

TT-DL

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

17.1. Tỷ lệ hộ được sử

dụng nước sạch hợp vệ

sinh theo quy chuẩn

Quốc gia

85% 70% 90% 85% 85% 85% 90% 75%

17.2. Các cơ sở SX-KD

đạt tiêu chuẩn về môi

trường

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

17.3. Không có các hoạt

động suy giảm môi

trường và có các hoạt

động phát triển môi

trường xanh, sạch, đẹp

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

17.4. Nghĩa trang được

xây dựng theo quy

hoạch

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

17 Môi

trường

17.5. Chất thải, nước

thải được thu gom và xử

lý theo quy định

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

169

V. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Chỉ tiêu theo vùng

TT Tên

tiêu chí Nội dung tiêu chí

Chỉ tiêu chung

TDMN

phía Bắc

Đồng

bằng sông Hồng

Bắc

Trung bộ

Duyên

hải Nam TB

Tây

Nguyên

Đông

Nam bộ

ĐB

sông Cửu Long

18.1. Cán bộ xã đạt chuẩn Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

18.2. Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ

sở theo quy định. Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

18.3. Đảng bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn “trong sạch, vững mạnh”

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt 18

Hệ

thống tổ chức chính

trị xã hội

vững mạnh

18.4. Các tổ chức đoàn thể

chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

19

An ninh, trật tự xã hội

An ninh, trật tự xã hội được giữ vững

Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt Đạt

Nguồn: Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009

của Thủ tướng Chính phủ [117]

Các địa phương được Trung ương chọn làm điểm chỉ đạo.

1. Tỉnh: Phú Thọ, Thái Bình, Hà Tĩnh, Bình Phước, An Giang

2. Huyện: Nam Đàn (Nghệ An), Hải Hậu (Nam Định), Phước Long (Bạc Liêu), Phú

Ninh (Quảng Nam), K’Bang (Gia Lai)

3. Xã: Thanh Chăn (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên), Tân Thịnh (Lạng Giang -

Bắc Giang), Hải Đường (Hải Hậu - Nam Định), Gia Phổ (Hương Khê - Hà Tĩnh),

Tam Phước (Phú Ninh - Quảng Nam), Tân Hội (Đức Trọng - Lâm Đồng), Tân Lập

(Đồng Phú - Bình Phước), Định Hòa (Gò Quao - Kiên Giang), Mỹ Long Nam (Cầu

Ngang - Trà Vinh), Tân Thông Hội (Củ Chi - TPHCM) và Thụy Hương (Chương

Mỹ - Hà Nội).

170

Phụ lục 7 SỬA ĐỔI MỘT SỐ TIÊU CHÍ CỦA BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA

VỀ NÔNG THÔN MỚI Sửa đổi 05 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về NTM ban hành tại Quyết

định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ như sau:

1. Tiêu chí số 07 về chợ nông thôn được sửa đổi như sau:

“Chợ theo quy hoạch, đạt chuẩn theo quy định”.

2. Tiêu chí số 10 về thu nhập được sửa đổi như sau:

a) Nội dung tiêu chí: Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn

(triệu đồng/người).

b) Chỉ tiêu chung cho cả nước:

- Năm 2012: Đạt 18 triệu đồng/người;

- Đến năm 2015: Đạt 26 triệu đồng/người;

- Đến năm 2020: Đạt 44 triệu đồng/người.

c) Chỉ tiêu cụ thể cho các vùng (theo phụ lục đính kèm). Chỉ tiêu cụ thể đạt

chuẩn theo từng năm giữa các giai đoạn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn phối hợp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn chi tiết.

d) Các xã thuộc Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP được áp dụng mức của vùng

Trung du miền núi phía Bắc.

đ) Các xã đạt chuẩn phải có tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người của

xã không thấp hơn tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người tối thiểu khu vực

nông thôn của vùng do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp cùng

với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn chi tiết và công bố.

3. Tiêu chí số 12 về cơ cấu lao động được sửa đổi như sau:

a) Tên tiêu chí: Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên;

b) Nội dung tiêu chí: Tỷ lệ người làm việc trên dân số trong độ tuổi lao động.

c) Chỉ tiêu chung và từng vùng: đạt từ 90% trở lên;

4. Tiêu chí số 14 về giáo dục được sửa đổi như sau:

“14.1 Phổ cập giáo dục trung học cơ sở”.

5. Tiêu chí số 15 về y tế được sửa đổi như sau:

a) Nội dung: “15.1 Tỷ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y tế”

b) Chỉ tiêu chung cho cả nước: đạt từ 70% trở lên;

c) Chỉ tiêu cụ thể cho các vùng: Đạt.

Nguồn: Quyết định số 342/QĐ-TTg, ngày 20/02/2013

của Thủ tướng Chính phủ [128]

171

Phụ Lục 8

TIÊU CHÍ HUYỆN NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Huyện được công nhận là huyện nông thôn mới phải có: 100% số xã trong

huyện đạt chuẩn nông thôn mới; 9 tiêu chí sau đạt chuẩn theo quy định gồm:

1- Quy hoạch; 2- Giao thông; 3- Thủy lợi; 4- Điện; 5- Y tế - Văn hóa -

Giáo dục; 6- Sản xuất; 7- Môi trường; 8- An ninh, trật tự xã hội ; 9- Chỉ đạo xây

dựng nông thôn mới.

Trong đó, với tiêu chí Y tế - Văn hóa - Giáo dục, Bệnh viện huyện đạt tiêu

chuẩn bệnh viện hạng 3; Trung tâm y tế huyện đạt chuẩn quốc gia; Trung tâm

Văn hóa - Thể thao huyện đạt chuẩn, có nhiều hoạt động văn hóa - thể thao kết

nối với các xã có hiệu quả; tỷ lệ trường Trung học phổ thông đạt chuẩn ≥ 60%.

Về tiêu chí sản xuất, phải hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa

tập trung; hoặc có mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị, tổ chức liên kết từ sản

xuất đến tiêu thụ các sản phẩm chủ lực của huyện.

Về tiêu chí môi trường, hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn trên địa bàn

huyện đạt tiêu chuẩn; 100% cơ sở sản xuất, chế biến, dịch vụ (công nghiệp, làng

nghề, chăn nuôi, chế biến lương thực - thực phẩm) thực hiện đúng các quy định

về bảo vệ môi trường.

Thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông

thôn mới giai đoạn 2016 -2020 phải có 100% số xã trên địa bàn được công nhận

đạt chuẩn nông thôn mới.

Nguồn: Quyết định số 558/QĐ-TTg, ngày 5/4/2016

của Thủ tướng Chính phủ [131]

172

Phụ lục 9

PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM QUẢN LÝ VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

CỦA CÁC BỘ NGÀNH TRUNG ƯƠNG

a) Các Bộ, ngành được phân công thực hiện các nội dung của chương trình

(tại mục IV) chịu trách nhiệm về việc xây dựng cơ chế, chính sách; hướng dẫn

xây dựng các đề án, dự án để thực hiện các nội dung theo yêu cầu của Bộ tiêu

chí quốc gia về nông thôn mới, đồng thời, đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo thực hiện ở

cơ sở.

b) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan thường trực Chương

trình, có nhiệm vụ:

- Giúp Ban Chỉ đạo Trung ương chỉ đạo thực hiện Chương trình; chủ trì và

phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm về

mục tiêu, nhiệm vụ, các giải pháp và nhu cầu kinh phí thực hiện Chương trình

gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính để tổng hợp báo cáo Chính phủ;

- Đôn đốc, kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện Chương trình của các Bộ,

ngành, cơ quan Trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tổng

hợp báo cáo Ban Chỉ đạo Trung ương và Chính phủ.

c) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ,

ngành có liên quan cân đối và phân bổ nguồn lực cho Chương trình thuộc nguồn

vốn ngân sách Trung ương; phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng cơ

chế, chính sách, quản lý thực hiện Chương trình.

d) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn xác định vốn từ ngân sách đối với từng nhiệm vụ

cụ thể cho các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện Chương trình theo quy

định của Luật Ngân sách nhà nước; đồng thời chịu trách nhiệm hướng dẫn cơ

chế tài chính phù hợp với các Đề án, dự án của Chương trình; giám sát chi tiêu;

tổng hợp quyết toán kinh phí Chương trình; cơ chế lồng ghép các nguồn vốn.

đ) Bộ Xây dựng hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương hoàn thành quy hoạch ở

các xã theo tiêu chí nông thôn mới;

e) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện chính

sách tín dụng của các ngân hàng tham gia thực hiện chương trình;

g) Các cơ quan thông tin truyền thông có trách nhiệm tuyên truyền phục vụ

yêu cầu của chương trình.

Nguồn: Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 08/6/2101

của Thủ tướng Chính phủ [121]

173

PHỤ LỤC 10: KẾT QUẢ KHẢO SÁT

Bảng 1.a. Ý kiến nhận xét về sự cần thiết của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

Tổng số phiếu xin ý kiến (268/300 phiếu)

TT Nội dung Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 Rất cần thiết 242 90,2

2 Tương đối cần thiết 11 4,1

3 Cần thiết 13 4,8

4 Không cần thiết 2 0,7

1.b: Ý kiến nhận xét về đời sống mọi mặt của người dân sau 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

Tổng số phiếu xin ý kiến (268/300 phiếu)

Nội dung Giàu lên Khá lên Cũng vậy Nghèo hơn

Tỷ lệ % 2,2

53,7 38,9 5,2

Số ý kiến 6 144 104 14

Bảng 2.a: Số liệu khảo sát về mức độ, tiến độ của các tỉnh triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

Tổng số phiếu xin ý kiến (267/300 phiếu)

TT Nội dung Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 Nhanh chóng, kịp thời 68 25,4

2 Khá nhanh, đúng tiến độ 39 14,6

3 Hơi chậm 87 32,6

4 Quá chậm, không kịp tiến độ 73 27,3

174

2.b: Số liệu khảo sát về vai trò của các tổ chức chính trị xã hội

Phaân loaïi nội dung(đơn vị tính:%)

Tên tổ chức Quan

trọng nhất

Khá

quan

trọng

Quan

trọng

Ít

quan trọng

Không

quan trọng

Mặt trận 43,2 32,1 16,8 7 0,9

Hội Nông dân 81,4 11,2 2,6 4,8 0

Hội Phụ nữ 33,4 19,7 32,6 0,8 13,5

Công đoàn 22,4 23,3 26,6 9,1 18,6

Đoàn Thanh niên 60,6 23,7 11,8 2,4 1,5

Hội Cựu chiến binh 20,2 29,4 21,6 18,4 10

Bảng 3: Khảo sát ý kiến nhận xét về công tác tuyên truyền trong xây dựng nông thôn mới

Tổng số phiếu xin ý kiến (286/300 phiếu)

TT Nội dung Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 Rất tốt 35 12,2

2 Khá tốt 76 26,6

3 Được 110 38,5

4 Chưa tốt 65 22,7

Bảng 4: Ý kiến nhận xét về việc tổ chức thực hiện “dân biết, dân bàn, dân

làm, dân kiểm tra” ở cơ sở trong xây dựng nông thôn mới

Tổng số phiếu xin ý kiến (271/300 phiếu) TT

Nội dung Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 Thường xuyên 185 68,2

2 Không thường xuyên 60 22,1

3 Chất lượng không cao 16 5,9

4 Không thu hút được nhiều người tham gia 10 3,7

175

Bảng 5: Đào tạo cán bộ

Tổng số phiếu xin ý kiến (271/300 phiếu) TT

Nội dung Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 Rất tốt 121 40,3

2 Khá tốt 107 35,7

3 Được 37 12,3

4 Chưa tốt 6 2

Bảng 7: Về những tệ nạn xã hội nông thôn.

Tổng số phiếu xin ý kiến (249/300 phiếu) TT

Nội dung Số ý kiến Tỷ lệ (%)

1 Cờ bạc, số đề 188 75,5

2 Văn hóa phẩm đồi truỵ, bia ôm… 24 9,6

3 Băng nhóm quậy phá 16 6,4

4 Rượu chè quậy phá 21 8,4

Bảng 8: Số liệu khảo sát về nhận thức của nông dân trong huy động nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới.

Tổng số phiếu xin ý kiến (249/300 phiếu)

Nội dung

Ngân sách Nhà nước

Trong dân

Doanh nghiệp

Cùng làm

Số ý kiến 168 45 24 12

Tỷ lệ (%) 67,5 18,1 9,6 4,8

176

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG