Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN NĂM C
***
1. BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC 2
2. THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ - Chú giải của Noel Quesson .............................................................. 4
3. TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ - Chú giải của Fiches Dominicales ........................ 8
4. PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN - VÀ ĐỨC GIÊSU TIÊN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ
LẦN ĐẦU - Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM. ............................................................................... 12
5. MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG ĐAU KHỔ - Lm. Inhaxiô Hồ
Thông ............................................................................................................................................... 17
6. QUA THẬP GIÁ ĐẾN VINH QUANG - Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự
TGP.Sài Gòn.................................................................................................................................... 22
7. CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG MESSIA CHỊU KHỔ - Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái ......................... 25
8. NẾU AI MUỐN THEO CHÚA - Lm Giuse Đinh lập Liễm ...................................................... 31
9. BỎ MÌNH THEO CHÚA VỚI THÁNH GIÁ - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ......................... 39
10. BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU - Jos.Vinc. Ngọc Biển .......... 43
11. THẦY LÀ AI ? - Lm Giuse Nguyễn Hữu An ............................................................................. 46
12. THẬP GIÁ CHÚA KITÔ - Trích Logos C .................................................................................. 49
2
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC
***
BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1
"Họ sẽ nhìn thấy Đấng họ đã đâm thâu qua".
Bài trích sách Tiên tri Dacaria.
Đây Chúa phán: "Ta sẽ gieo rắc tinh thần ân phúc và cầu nguyện trên nhà Đavít và trên dân
cư Giêrusalem. Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu qua: họ sẽ khóc than người,
như khóc than con một, họ sẽ thương tiếc người như quen thương tiếc đứa con đầu lòng đã
chết. Trong ngày đó, tại Giêrusalem sẽ có tiếng khóc than to lớn, như khóc than A-đa-rê-
mon trong cánh đồng Ma-gết-đô".
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9
Đáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa (c. 2b).
1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con
khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp
nước!
2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và
vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ
xướng ca ngợi khen Ngài.
3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con
được no thoả dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan
hỉ.
4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh
hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con.
BÀI ĐỌC II: Gl 3, 26-29
"Anh em đã chịu phép rửa tội, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô".
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Vì
chưng tất cả anh em đã chịu phép rửa tội trong Đức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô.
Nay không còn phân biệt người Do-thái và Hy-lạp, người nô lệ và tự do, người nam và
người nữ: vì tất cả anh em là một trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng nếu anh em thuộc về Đức
Kitô, thì anh em là dòng dõi Abraham, những kẻ thừa tự như lời đã hứa.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 23
All. All.- Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến
người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - All.
PHÚC ÂM: Lc 9, 18-24
"Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".
3
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì
Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng:
"Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một
trong các tiên tri thời xưa đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con
bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người
ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau
khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ
sống lại". Người lại phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập
giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ
nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình".
Đó là lời Chúa.
4
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ...
Chú giải của Noel Quesson
***
Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình.
Theo Luca, Đức Giêsu bắt đầu bằng việc cầu nguyện mỗi khi có một biến cố quan trọng sắp
xảy ra, hay một khúc quanh quyết định xuất hiện trên bình diện con người, trong diễn tiến
của cuộc đời. Người: Lúc Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan (Lc 3,21)... Lúc các đám
đông nhiệt thân tuôn đến với. Người (Lc 5,16)... trước lúc chọn mười hai tông đồ (Lc
6,12)… trước lúc yêu cầu họ tuyên xưng đức tin (Lc 9,18)... trước lúc biến hình (Lc 9,28)...
trước lúc dạy kinh Lạy Cha cho các bạn hữu Người (Lc 11,1)… vào lúc chọn theo thánh ý
Chúa Cha trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Lc 22,41)... ngay trước lúc chết trên thập giá (Lc
23,34 và 23,46)... Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đanh cầu nguyện: Khuôn mặt Người, đôi môi
Người, tấm lòng Người. Những lúc cầu nguyện của Đức Giêsu chắc chắn là có thật. Hẳn
chúng ta sẽ giảm thiểu những lần cầu nguyền ấy nếu chúng ta tưởng rằng Đức Giêsu chỉ cầu
nguyện để nêu gương cho chúng ta. Thật vậy, những lúc cầu nguyện mà Luca kể ra đều
trúng vào những thời điểm rất căng thẳng đối với con người. Người thật sự cầu xin sự giúp
đỡ của Cha Người để có sức mạnh hoàn thành sư mạng khó khăn của Người cho đến cùng...
Người không hề đóng kịch.
Ví dụ như ở đây, rõ ràng chứng ta ở vào một thời điểm then chốt. Đức Giêsu vừa mới thực
hiện một dấu chỉ cao cả của Đấng Mêsia là hóa bánh ra nhiều trong sa mạc (Lc 9,10-17).
Các đám đông nham hố muốn đưa Người lên làm vua, nhưng Đức Giêsu từ chối vai trò thế
tục này (Gioan 6,15) và điều đó sẽ làm cho các đám đông bỏ Người. Vì thế Đức Giêsu
muốn thăm dò tâm khảm các tông đồ: Chí ít là họ, họ có tiếp tục theo Người không? Đó là
điều không chắc chắn.
Bấy giờ, Đức Giêsu cầu nguyện cho họ, như sau này người sẽ cầu nguyện cho Phêrô "để
Phêrô khỏi mất lòng tin" (Lc 22,32) Tôi có cầu nguyện cho “đức tin" của mình không? Tôi
có cầu nguyện khi có những quyết định quan trọng không? Tôi cầu nguyện khi các biến cố
bắt đầu xảy đến? Tôi có cầu nguyện cho những người mà tôi có trách nhiệm?
Không cần đi xa hơn trong việc suy niệm, tôi dùng chính giây phút này để cầu nguyện.
Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Đám đông nói Thầy là
ai?" Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông
Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại..."
Sau khi đã cầu nguyện, Đức Giêsu hỏi. Quả thật câu hỏi liên quan đến đức tin cá nhân của
các bạn hữu Người. Nhưng Người không đặt ngay câu hỏi chủ yếu cho họ. Với một ý thức
sắc bén về khoa sư phạm, Người tăng cấp các câu hỏi của Người, và trước tiên đặt một câu
hỏi không đưa họ vào chiều sâu để họ dễ trả lời. Nhưng câu trả lời đầu tiên không thể đầy
đủ..Lặp lại các ý kiến của những người khác thì quá dễ. Phải dấn thân một cách cá nhân.
Phải chọn cho mình một quan điểm. Sau cùng thì "cuộc thăm dò dư luận" cho thấy một sự
nhất trí lớn. 100% các đánh đông đều đánh giá rằng Đức Giêsu là một con người tôn giáo
rất vĩ đại, một "ngôn sứ", một người "phát ngôn" của Thiên Chúa, như Luca thường chỉ cho
chúng ta thấy (Lc 4,18-19-26-27; 7,11-16-17; 24,19). Đức Giêsu là một Êlia mới, được
Thiên Chúa toàn thiêu... một Môsê mới, nhà giải phóng.
Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
5
Bản thân mỗi Kitô hữu phải trả lời câu hỏi này. Nhưng coi chừng, chúng ta không thể gian
lận. Đọc kinh Tin Kính mà thôi vẫn thưa đủ! Người ta có thể nói bằng chính miệng mình
rằng Đức Giêsu Kitô là "ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, v.v..."
và vẫn khẳng định rõ ràng điều ngược lại bằng các hành động có thật của chúng ta. Vấn đề
không chỉ làm sự tuyên xưng đức tin bằng lời: Chính đời sống mỗi ngày của chúng ta là câu
trả lời chân thật. Chớ gì cung cách, hành động của tôi nói rằng: "Tôi tin Đức Giêsu”.
Ông Phêrô thưa:…
Bên trên các cuộc tranh luận không dứt về quyền bính của Giáo Hoàng và các khuôn mặt
quá con người mà quyền bính ấy đã khoác vào trong dòng lịch sử... trên những gắn bó nặng
tình cảm hoặc những đố ky sâu xa mà Giáo Hoàng gây ra... Chúng ta không thể không nhận
thấy vai trò trổi vượt của Phêrô trong Tin Mừng. Các Giáo Hoàng hiện nay rất ưu tư với
việc khôi phục hình ảnh tâm linh chân chính ấy. Trong những giờ phút phân vân, khi đám
đông do dự, khi những ý tưởng rõ ràng mờ nhạt và đức tin có nguy cơ suy sụp thì một tiếng
nói, ở trái tim và ở trung tâm của Giáo Hội nổi lên, tiếng nói của Phêrô, có trách nhiệm
"củng cố anh em của ngài trong đức tin" (Lc 22,32)... và Đức Giêsu đã cầu nguyện cho
Phêrô.
Vừa rồi, khi chỉ muốn biết dư luận của quần chúng về các hoạt động rao giảng, người ta
đoán rằng mọi môn đệ đều nhanh nhẩu nói ra những điều họ nghe nói. Nhưng khi phải tỏ rõ
thái độ rõ ràng hơn thì chính Phêrô là người “mở lời" nhân danh cả nhóm. Tôi cầu nguyện
cho Đức Giáo Hoàng hiện nay. Tôi sẽ dành thời gian để đọc lại và đào sâu các sứ điệp của
ngài.
Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".
Câu trả lời của Phêrô do đó đi xa hơn các câu trả lời của đám đông. Chúng ta hãy so sánh ba
văn bản mà chúng ta có được về "lời tuyên xưng đức tin" nổi tiếng của Phêrô. Có nhiều
cách tuyên xưng đttc tin, tùy theo các cộng đoàn.
Matthêu 16,16 Máccô 8,29
"Thầy là Đấng Kitô" “Thầy là Đấng Kitô!"
"Con Thiên Chúa hằng sống."
Luca 8,20
"Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa!”
Chính xác, Phêrô đã nói những lời nào? Người ta không biết được. Tin Mừng không bao giờ
là một bài tường thuật thuần túy vật chất. Đối với các độc giả Hy Lạp, Luca thấy cần phải
xác định rõ một từ quá Do Thái là từ Mêsia (bản dịch tiếng Hy Lạp là "Christos") và thêm
vào: "Đấng Kitô của Thiên Chúa". Vả lại từ Christos có nghĩa là Đấng được xức dầu... Đấng
được 'Thiên Chúa xức dầu, được Thiên Chúa thâm nhập, thấm nhuần!
Vậy Phêrô nhận ra nơi Đức Giêsu điều mà chính Người đã loan báo ngay trong diễn từ đầu
tiên ở hội đồng Nadarét: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để
tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn" '(Lc 4,18 và Is 61,I).
Sau mười tám tháng sống với Đức Giêsu, Phêrô nhắc lại điều mà Đức Giêsu nói về mình.
Căn tính sâu xa của Đức Giêsu không phải là một thực tại có thể suy diễn từ những quan sát
thuần lý: Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận dưới thể thức của “sự mạc khải". Sự xức dầu của
Thần Khí, sự thấm nhuần Thần Khí trên Đức Giêsu không thể thấy được.
6
Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. Người bảo rằng: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại
bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy".
Vâng chỉ có Phục sinh, dưới hai khía cạnh Thập Giá và vinh quang mới cho phép người ta
hiểu được Đức Giêsu là ai. Còn giờ đây, các tông đồ được mời gọi không được nói ra căn
tính của Đức Kitô.
Nhưng đối với nhóm Mười Hai, sự loan báo này về cuộc khổ nạn đã xuất hiện như một gáo
nước lạnh giội vào người. Trong cùng một cảnh tượng, hai Thánh sử Matthêu và Máccô ghi
lại rằng Phêrô đã bị quở trách vì không hiểu được cuộc khổ nạn.
Nếu Đức Giêsu đã cầu nguyện thì có lẽ cũng trong miễn cảnh lời loan báo này về các chết
của Người. Khi đã nhận thức về vai trò của Đấng Mêsia đau khổ mà Người phải thực thi,
Người đã nhìn thấy cai chết của Người hiện ra ở chân trời của tuổi thanh xuân Người, trên
những tháng còn lại phải sống ở cuộc đời này... Nếu ngày hôm đó Người đã nói đến cuộc
khổ nạn, ngay sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô chính vì Người vừa nghĩ về điều đó
nhiều hơn trong lúc cầu nguyện.
Tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu đã chuẩn bị lâu dài cái chết của Người... khi nhìn thấy cái
chết ấy đến với người không phải dưới hình thức của một căn bệnh bất trị, không thuốc
chữa hoặc sự mòn mỏi của tuổi già như thường xảy ra đối với nhiều người trong chúng ta
thấy mình sắp chết... mà dưới hình thức của sự thù ghét lớn lên dần nơi các kỳ mục, thượng
tế cùng kinh sư. Đức Giêsu đã chuẩn bị chết như thế nào? Bằng cách cầu nguyện Chúa Cha.
Trong chiều hướng này, chữ "phải" mà Người dùng trong câu nói lúc bấy giờ có một ý
nghĩa trọn vền. Không phải là một điều tất yếu, một sự cam chịu, một định mệnh…mà là
một sự bằng lòng tự nguyện, tuân theo thánh ý của Chúa Cha đã được ghi chép trong Kinh
Thánh.
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ' bỏ chính mình, vác thập
giá mình hằng ngày mà theo".
Bản dịch "Đức Giêsu nói với đám đông" không chính xác lắm: Bản Hy Lạp thật ra đã viết: '
"Đức Giêsu nói với mọi người...". Luật của thập giá là một luật phổ quát.. Không ai thoát
khỏi thập giá. Khi đã loan báo sự đau khổ của Người, Đức Giêsu loan báo cho chúng ta sự
đau khổ của chúng ta, hôm nay.
Những lời này của Đức Giêsu khó mà chấp nhận. Để cho những lời ấy trội tuột đi như thể
không liên quan gì đến chúng ta thì rất dễ dàng. Quả là đã có một sự thuyết giáo nào đó
trong quá khứ về sự đau khổ đã quá cường điệu một thần bí thuyết về "hiến tế" mà người ta
tìm thấy trong đời sống của một số thánh nhân: "Hãy đau khổ hết mức có thể, trong thung
lũng nước mắt này... để xứng đáng với Thiên Đàng!" Nietzsche. đã bác bỏ quyết liệt sự
thích thú hành khổ ấy. Tuy nhiên, không để mình rơi vào những sự thái quá ấy, chúng ta
phải khám phá lại giá trị sâu xa của những lời Đức Giêsu mà Người ta không thể loại bỏ
khỏi Phúc âm (những lời ấy được thuật lại đến sáu lần!). Những người nào chỉ nói với
chúng ta về sự phát triển, chỉ kêu gọi chúng ta hưởng lạc thú là những kẻ nói dối, những con
buôn các điều ảo tưởng, và là những kẻ tuyên truyền xấu xa cho tính ích kỷ tầm thường
nhất: Không! Không có Người nào xứng danh con người, đã xây dựng một đời sống thành
công mà không phải chịu một mức độ "hy sinh" to lớn. Ai không biết quên mình, sẽ không
bao giờ biết yêu thương? Ai không biết hy sinh sẽ không biết yêu thương.
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống vì tôi, thì
sẽ cứu được mạng sống ấy.
7
Đây là một nghịch lý! Mỗi ngày, vâng, mỗi ngày, người ta có thể tự tìm kiếm chính mình
hoặc quên mình, giữ mạng sống mình hoặc hiến dâng nó, không yêu thương hoặc yêu
thương. Phải luôn luôn lựa chọn.
8
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ
Chú giải của Fiches Dominicales
***
TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ VÀ LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN
THỨ NHẤT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một mạc khải ăn sâu vào tâm tình cầu nguyện hiếu thảo của Đức Giêsu
Không có đoạn chuyển tiếp, từ cảnh hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông (Tin Mừng Chúa
nhật vừa qua), qua đó Đức Giêsu tỏ mình như một vị ngôn sứ của thời kỳ sau hết sang cảnh
Phêrô tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người lần thứ nhất.
Đức Giêsu đang cầu nguyện.
- Ghi chú câu này nói lên chủ ý của Luca muốn báo trước rằng: biến cố sắp được thuật lại là
biến cố quan trọng. Thật vậy, ta đang ở vào bước ngoặt cuộc đời công khai của Đức Giêsu
và hành trình đức tin của các môn đệ; thời kỳ bản lề giữa sứ vụ rao giảng ở Galilê đang kết
thúc, và hành trình lên Giêrusalem (bài Tin Mừng Chúa nhật tới 9,51) sau biến cố Hiển
Dung trên núi cao. Còn lại một mình với nhóm môn đệ, Đức Giêsu cầu nguyện chuẩn bị
bước vào giai đoạn mới này.
- Ghi chú này cũng muốn nêu bật một điều là người ta chỉ có thể thực sự nhận ra căn tính
đích thực của Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong mối tương quan của Người với Ngôi
Cha, mối tương quan mà các môn đệ dường như "được móc" vào, theo cách diễn tả của Ph.
Bossuyt và J. Rademakers (“Giêsu Lời ân sủng theo thánh Luca", tr. 263).
2. Một mạc khải về đường đi của Con Người...
Vấn đề căn tính của Đức Giêsu luôn vang lên theo nhịp điệu của lời giảng và các hoạt động
của người. Gioan Tẩy Giả từ trong ngục đã hỏi người, qua trung gian các môn đệ được sai
đi: "Ngài có thật là Đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác?" (7, 19).
"Ông này là ai mà lại tha được tội?" (7,49) những khách dự tiệc ở nhà ông Simon biệt phái
đã kêu lên như vậy. Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ thấy Người dẹp yên sóng gió: "Người
này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, là sóng gió phải tuân lệnh?" (8,25). Rồi chính vua
Hêrôđê, người đã chém đầu Gioan Tẩy Giả cũng phải suy nghĩ: "Người này là ai mà ta nghe
nói nhiều về ông như thế. Và ông tìm cách gặp Người".
Câu hỏi này đôi khi đã được giải đáp. "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, là
Thiên Chúa đã viếng thăm dân người!". Những người chứng kiến cảnh con trai bà góa Naim
được sống lại đã đồng thanh tung hô như thế. Một ít người khác nói: "Đó là Gioan Tẩy Giả
từ cõi chết sống lại" có người khác lại bảo: "Đó là ông cha đã xuất hiện", cũng các người
khác nói: "Đó là một trong có ngôn sứ thời xưa đã sống lại".
- Giờ đây Đức Giêsu tự ý đặt câu hỏi về chính thân thế của mình với các môn đệ. Câu hỏi
này có 2 thì:
+ Trước hết Người lên tiếng hỏi "Dân chúng bảo Thầy là ai? Và như ta đã thấy các môn đệ
kể ra nhttng ý kiến khác nhau, đồn thổi về thân thế của Người, như "Gioan tẩy Giả", “ngôn
sứ Êlia" (vị ngôn sứ đến trước loan báo Đấng Mêsia), “một trong các ngôn sứ thời xưa nay
sống lại".
9
+ Đức Giêsu hỏi tiếp ngay "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Như thế các môn đệ bị
bắt buộc phải đưa ra ý kiến của mình.
Phêrô đáp: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Còn hơn Gioan Tẩy Giả, hơn cả Êlia hay
một ngôn sứ nào thời xưa. Đức Giêsu là vị Thiên Sai của Chúa, Đấng đã được Thiên Chúa
xức dầu, "Đấng Mêsia" (Mêsia tiếng ram dịch sang tiếng Hy Lạp là Kitô = Đấng được xức
dầu).
"Đức Giêsu liền nghiêm giọng truyền các ông “không được nói điều ấy với ai". Không phải
vì Người từ chối danh hiệu mà Phêrô vừa tặng cho Người. nhưng bởi vì sử dụng danh hiệu
đó là quá sớm, vì danh hiệu Mêsia lúc ấy còn rất hàm hồ trong ý nghĩ của những người đồng
hương và ngay cả các môn đệ Người. H. Cousin nhắc lại rằng: "Một với bản Pharisêu được
soạn thảo 24 năm về trước, thánh vịnh vua Salomon 17 - miêu tả Đấng Mêsia xua đuổi
người di cư và ngoại kiều ra khỏi đất Thánh để thanh tẩy mọi ô uế, và Người cai trị mọi dân
nước trên hoàn cầu bắt đầu từ Giêrusalem" (“L'Evangile de Luc". Centurion, trg 133- 134).
Sẽ đến lúc khi thấy Thầy mình phải đi qua con đường thập giá, và trong ánh sáng phục sinh,
thì các môn đệ mới thực sự hiểu được rằng Thầy mình được gọi là "Đấng Mêsia của Thiên
Chúa" theo ý nghĩa nào. Không phải là Đấng Mêsia theo mơ ước phàm trần là áp đặt công
cuộc khôi phục thời đại mới bằng dũng lực, nhưng là Đấng Mêsia khiêm tốn, hòa bình, mở
đường cứu rỗi cho hết mọi người bằng đường lối phục vụ, cho đến độ hy sinh thân mình.
Như thế Đức Giêsu tiếp nối việc tuyên xưa đức tin của Phêrô, bằng việc loan báo lần đầu
tiên cuộc khổ nạn, sống lại của Người: "Con Người cần phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ
mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết cà ngày thứ ba sẽ chỗi dậy Khi nói "Con
Người cần phải..." là Chúa dùng một kiểu nói bày tỏ sự tuân phục tự nguyện trước kế hoạch
nhiệm mầu của Chúa Cha đã được nói trước trong Sách Thánh. - Kỳ mục, thượng tế, kinh
sư là ba thành phần của Thượng Hội đồng.
3…. đó cũng là con đường của mọi môn đệ Chúa.
Cho đến đây là lời Chúa nói với các môn đệ. Còn bây giờ, Người ngỏ lời với "mọi người",
H. Cousin chú giải, "Tất cả những ai sau này sẽ đón nhận lời Phúc âm. Họ cần phải biết rõ,
việc đi theo Đức Kitô đòi hỏi những gì" (Sđd, tr. l34). "Mọi người" nếu muốn bước theo
Người cũng sẽ phải liên kết với thân phận của Thầy mình. Người nói với họ: "Ai muốn theo
tôi phải từ bỏ mình, các thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống
mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Những lời cứng rắn mạnh mẽ này đã không ngừng và còn không ngừng vang dội trong tâm
hồn hàng ngàn hàng vạn người đã được Tin Mừng chinh phục. H. Cousin nhận xét: "chính
Người vừa loan báo mình sẽ bị giết, lại là Người đặt điều kiện cho những ai muốn theo, phải
di trên cùng một con đường Người đã đi, và phải là môn đệ của Người dù phải lấy cái chết
để làm chứng nếu hoàn cảnh đòi buộc.
Tuy nhiên, điều trước tiên ta nên tìm kiêm trong ba mệnh lệnh trên là trung tín mỗi ngày
trong đời sống người Kitô hữu
Hơn là những điều đặc biệt, phi thường (câu 23). Dứt khoát nói “không" với chính mình
không có nghĩa là phải ghét mình, bởi lẽ ta phải yêu tha nhân như chinh mình (10, 27);
nhưng chính là không quy hướng mọi sự về mình. Dứt khoát nói "không” đó cũng chính là
hiện tại hóa việc vác thập giá. Chính thập giá của riêng tôi mà tôi phải vác lấy thập giá của
cuộc sống đè nặng vai tôi; tôi đừng mơ tưởng một thập giá khác. Đó không phải là chứng
bệnh tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, nhưng chính là vì biết chắc rằng tôi không thể mến
Chúa và yêu tha nhân, nếu không hy sinh cách này hoặc cách nọ, và nếu không đi qua đau
khổ. Khi bắt chước Đức Kitô như vậy, tôi mới thật là môn đệ của Người" (Sđd, trg 135).
10
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đáp lại câu hỏi của Chúa bằng hành động, một câu hỏi luôn đặt cho ta.
Câu hỏi nổi lên từ giây phút Chúa cầu nguyện trong thinh lặng: Hôm đó "Chúa cầu nguyện
một mình".
Đức Giêsu thường tìm nơi thanh vắng. Người mau mắn đến đó, người siêng năng đến đó để
tìm gặp một Ai đó. Và chắc chắn cũng để bồi bổ sức lực để lại ra khơi. Câu hỏi Người đặt ra
cho các môn đệ Người, sẽ tồn tại qua các thế kỷ. Nó sẽ đánh động hàng ngàn hàng vạn
lương tri. Bao lâu trái đất còn tồn tại, câu hỏi đó vẫn luôn luôn rộng mở "Đám đông nói
Thầy là ai?".
Đức Giêsu sẽ là nhân vật được yêu mến nhất trong lịch sử nhân loại. Người ta tuyên xưng
tên Người khắp năm châu. Mọi cá nhân và tập thể đều ghi nhớ khuôn mặt của Người. Cả
đến điện ảnh, ca nhạc, hoạt hình cũng nhắc lại hình ảnh bác thợ mộc thành Nadarét, vị ngôn
sứ lữ hành, Đấng bị đóng đinh, Đấng phục sinh... Tuy nhiên, Người là ai đối với đám đông?
Người là nhân vật mà người ta hân hoan mừng chúc rnà không hề mảy may quan tâm đến
lời nói, và hành động của Người, là nhân vật mà người ta trông đợi mọi sự ở đời sau, mà
không muốn phấn đấu để đổi mới thế giới hiện tại chăng? Là nhân vật mà người ta gọi tên
nhưng không hề tìm hiểu con đường Người đã khai mở chăng?
Các bạn hữu Người sẽ trả lởi khi Người hỏi: "Còn các anh, các anh bảo thầy là ai?". Phêrô
trả lời không ngần ngại: "Thầy là Đấng Mêsia của Thiên Chúa". Nghĩa là: là Đấng người ta
trông đợi, là Đấng khôi phục Israel, là Đấng đại diện Thiên Chúa quyền năng. Câu trả lời
này chưa làm Đức Giêsu thỏa mãn.
Người sẽ đưa ra câu trả lời của mình, dường như người ta hỏi ngược lại người. Nhưng
Người sẽ không dùng một công thức một danh hiệu hoặc một chức vụ làm câu giải đáp.
Người sẽ nói lên những nguy hiểm mà Người đã trải qua. Nói lên cái chết mang lại cả ý
nghĩa cho cuộc đời Người và cả sự phục sinh của Người nữa.
Người đi về phía đám đông và la to: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình
hằng ngày mà theo. Để cứu được mạng sống, Người đòi người ta phải liều mạng sống mình,
phải hiến dâng mạng sống mình.
Ngày nay trong thế giới này dư dật là đói khổ, tiến bộ và thất vọng, khôn ngoan sáng suốt và
vô tâm dửng dưng tất cả cùng chen vai sát cánh bên nhau, thì theo Đức Giêsu "thế nào đây?
Làm sao để được giải thoát, rồi trở thành người giải phóng đây. Làm sao đáp lại bằng hành
động cho câu hỏi Chúa luôn đặt cho ta đây?
2. "Các anh bảo Thầy là ai?" Câu Chúa hỏi ta mỗi ngày
Chính vào lúc vừa tâm sự thân mật với Cha Người xong, Đức Giêsu khởi đầu một giai đoạn
mới trong việc đào tạo các môn đệ là đám đông dân chúng. Lòng tin, những ước mơ và
niềm hy vọng được an thân của họ sắp bị lung lay tất cả. Đúng là “cớ vấp phạm cho người
Do Thái, điên dại đối với dân ngoại".
Sẽ cần phải từ từ dựng lên một cây thập giá trên hy vọng về một Đấng Mêssia toàn năng,
được các tư tế hân hoan đón tiếp được các nhà thông thái thừa nhận, công khai ủng hộ và
nâng đỡ được dân chúng tung hô đón rước và làm quân xâm lược Rôma sợ hãi, kính nể. Giờ
đây. Đức Giêsu biết Ngài đi đâu. Trong thinh lặng cầu nguyện. Người đánh giá lại tình thế
và lấy thánh ý Chúa Cha để sàng lọc tất cả. Người biết rằng mình sẽ không được những kẻ
đang mong đợi, là những kẻ mà Ngươi được sai đến hiểu biết và đón nhận. Còn phải chuẩn
bị cho các tông đồ, các môn đệ và những người có cảm tình biết để sẵn sàng chấp nhận thử
thách đáng sợ này.
11
Tin Mừng của Đức Kitô không phù hợp với tham vọng và những giá trị trần tục, cũng
không theo các lợi lộc, truyền thống là cách suy diễn của giới giàu có, thông thái là quyền
thế, nên sẽ bị người ta nhân danh cả Thiên Chúa là chân lý mà tuyên bố là rối đạo. là nguy
hại.
Các tông đồ và môn đệ đã tin chắc như đinh đóng cột rằng Đức Giêsu phải khải hoàn vào
"thành đô" của Người cùng với vương miện hoàng tử trên đầu. Nhưng trong thành đô ấy sẽ
chỉ có đồi Canvê và mão gai.
Thầy là Đấng Mêsia của Thiên Chúa? Một lời tuyên tín tuyệt vời. Nhưng liệu nó có thể có
giá trị gì nếu ta không bước theo Đấng giải phóng, không luôn sẵn sàng từ bỏ cái nhìn hẹp
hòi, cách suy diễn phiến diện, và những xác tín quá trần lục của ta?
Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Đó là câu Chúa hỏi ta mỗi ngày. Đó là lời mời gọi
khẩn thiết để ta thường xuyên rà soát lại những ý tưởng ta có về Đức Giêsu và so sánh cách
xử sự của ta với cách xử sự của Người.
12
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
VÀ ĐỨC GIÊSU TIÊN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ LẦN ĐẦU
(Luca 9,18-24)
Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.
***
1.- Ngữ cảnh
Ngay sau truyện Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông, tác giả Lc đặt truyện
Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Lời tuyên xưng này dường
như được dùng để thay thế cho phản ứng kinh ngạc và lời tung hô mà ta thường thấy tác giả
dùng làm kết thúc một truyện phép lạ.
Đàng khác, so với TM Mc, lời tuyên xưng của Phêrô được đặt rất gần với câu hỏi tiểu vương
Hêrôđê đặt ra về Đức Giêsu (9,9). Rất có thể tác giả muốn coi lời Phêrô đáp lại câu hỏi của
Đức Giêsu cũng là câu trả lời cho câu hỏi được vua Hêrôđê đặt ra trước đó. Cũng vì lý do
đó mà ngài đã rút ngắn bản văn bằng cách bỏ ghi chú về địa lý cũng như lời phản đối của
Phêrô sau đó cùng với lời Đức Giêsu mắng ông. Lời tuyên xưng của Phêrô không còn là
một bước ngoặt quyết liệt như trong Mc (ch. 8), hoặc như bản văn đăt nền móng cho Hội
Thánh nữa như trong Mt (ch. 16), nhưng được dùng như câu trả lời cho vua Hêrôđê.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Phêrô tuyên xưng đức tin (9,18-21);
2) Đức Giêsu tiên báo Thương Khó (9,22);
3) Đức Giêsu dạy về người môn đệ (9,23-27).
3.- Vài điểm chú giải
- c.18: Công thức dẫn nhập riêng của Lc, dùng để tách biệt hai phần: nhân bánh (trước đám
đông); tuyên xưng đức tin (trước các môn đệ). Tác giả Lc không nói tới Xêdarê Philípphê,
vì trung thành với chủ ý giữ Đức Giêsu trong giai đoạn đầu sứ vụ ở trong vòng đất Paléttina.
- cầu nguyện (18): Đây là đề tài quan trọng của TM III. Ta có ấn tượng là tất cả các biến cố
quan trọng trong cuộc đời Đức Giêsu đều xảy ra trong một bầu khí cầu nguyện. Còn nếu tác
giả Lc đã ghép hai lần đề tài cầu nguyện trong phân đoạn 9,18-50, thì đấy là dấu cho thấy
ngài coi việc cầu nguyện là việc quan trọng giúp giải thích chuyến đi lên Giêrusalem theo
quan điểm thần học.
- Đám đông nói Thầy là ai (18): Đây là điều tác giả Lc đã ghi nhận ở 8,25. Ngài đã gom các
ý kiến lại trong hai đoạn văn song song:
13
Lc 9,7-9 Lc 9,18-20
Dẫn nhập a) c. 7 a) c. 18
Ý kiến của dân chúng b) Thật vậy, có kẻ nói: "Đó là
ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy".
Kẻ khác nói: "Ông Êlia xuất hiện
đấy!" Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là
một ngôn sứ thời xưa sống lại"
b) Các ông thưa: "Họ bảo
Thầy là ông Gioan Tẩy Giả,
nhưng có kẻ thì bảo là ông
Êlia, kẻ khác lại cho là một
trong các ngôn sứ thời xưa
đã sống lại"
Phán đoán của một
người
c) Còn vua Hêrôđê thì nói: "Ông
Gioan, chính ta đã chém đầu rồi!
Vậy thì ông này là ai mà ta nghe
đồn những chuyện như thế?"
c) Người lại hỏi: "Còn anh
em, anh em bảo Thầy là ai?"
Ông Phêrô thưa: "Thầy là
Đấng Kitô của Thiên Chúa"
- Thầy là Đấng Kitô (20): Đức Giêsu đã được xác định là “Đấng Mêsia” trong bài tường
thuật về thời thơ ấu (2,11); như thế danh hiệu này không mới đối với Kitô hữu đọc Tin
Mừngnày. Nhưng danh hiệu này được đưa vào đấy là dưới ánh sáng của những gì được nói
về Đức Giêsu bên trong chính Tin Mừng. Chính là trong truyện ấy mà chúng ta được tiếp
xúc với truyền thống đang thành hình về tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Ở 4,41, danh hiệu
ấy lại xuất hiện, nhưng là lời bình của tác giả.
Trong bản văn chúng ta đang tìm hiểu, phản ứng của Đức Giêsu trước lời tuyên xưng của
Phêrô (c. 21) là để cấm ông nhắc lại danh hiệu ấy trong thời gian Người còn hoạt động, và
lời này chuẩn bị cho độc giả đón lấy các lời có tính điều chỉnh sắp đến ở cc. 22.23-27.28-
36.44-45. Đức Giêsu lại không cấm như thế cho quỷ trong 8,28, mà ở đấy độc giả hiểu rằng
đã có một cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và quỷ. Ở đây lời tuyên xưng của Phêrô được bày
tỏ trong bối cảnh là câu hỏi của Đức Giêsu về những gì dân chúng đang nghĩ về Người và
những gì các môn đệ đang tin. Như thế, lời này trở thành một câu trả lời quan trọng mang
tính Kitô học trong Lc. Và đây là một tư cách Mêsia có hàm chứa đau khổ, sự loại trừ, cái
chết, cho dù nó đưa tới sự sống lại (x. c. 22).
“Kitô” phải được hiểu theo nghĩa Do Thái: một nhân vật được xức dầu mọi người đang
mong đợi thuộc dòng dõi Đavít, sẽ được Thiên Chúa sai phái đến (x. 2,11). Có thể nói, lâu
nay Phêrô đã chứng kiến Đức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa, chữa bệnh, với các
phép lạ, nay ông chứng tỏ là ông hiểu Đức Giêsu là Đấng xức dầu của Thiên Chúa được cử
đến để “khôi phục vương quốc Ít-ra-en” (Cv 1,6; x. Lc 2,26; 4,41).
- không được nói điều ấy với ai (21): Đức Giêsu không phủ nhận Người là Đấng được xức
dầu của Thiên Chúa, nhưng cấm các môn đệ nói ra vì danh hiệu này có những âm hưởng
chính trị. Người sẽ điều chỉnh tiếp bằng 9,22.
- Con Người phải chịu đau khổ (22): Động từ Hy Lạp dei, “phải” nói lên điều cần thiết vì
nằm trong chương trình cứu độ của Chúa Cha.
- kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư (22): Đây là ba nhóm làm thành Thượng Hội Đồng tại
Giêrusalem (xem thêm 20,1; 22,52; Cv 4,5; 23,14; 25,15). “Kỳ mục” (presbyterous,
“elders”) không chỉ có nghĩa là “những người già” (như ở Cv 2,17), nhưng là một nhóm đặc
biệt gồm những vị lãnh đạo cộng đồng Do Thái. “Thượng tế” (archiereis) là thủ lãnh các tư
tế phục vụ tại Đền Thờ Giêrusalem, vị chủ tọa Thượng Hội Đồng, và là vị lãnh đạo tối cao
của dân Do Thái. Số phức ở đây không có nghĩa là các vị cựu thượng tế, mà là “các tư tế
14
cao cấp”, những vị xuất thân từ các gia đình tư tế. Họ kiểm soát việc tế tự, quỹ, và kỷ luật tư
tế tại Đền Thờ. Trong số đó, có “viên lãnh binh Đền Thờ” (Cv 4,1), các vị điều hành sinh
hoạt hằng tuần, các trưởng phụ trách việc phục vụ hằng ngày và các vị giám luật Đền Thờ.
Còn “kinh sư” (grammateis) là các chuyên viên Luật (có khi Luca cũng gọi lànomikoi, “các
nhà thông Luật”; x. 7,30).
- sẽ được cho trỗi dậy (22): dịch sát là như thế, để thấy đây là một thái bị động nói quanh để
thay tên Thiên Chúa, có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho Người trỗi dậy”.
- từ bỏ chính mình (23): dịch sát là “chối chính mình” (arneomai [h]eauton), có nghĩa là
chọn một thái độ sống không lấy mình làm trung tâm, nhưng thật sự cho phép đồng hóa lối
sống của mình với Đức Giêsu và sứ mạng của Người.
- vác thập giá (23): Hình ảnh này sau được áp dụng cho Simôn Kyrênê (23,26). “Vác thập
giá” có nghĩa là bắt chước Đức Giêsu khi bị đóng đinh, tức sẵn sàng chịu tử đạo, nhưng
cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu chống đối và thù nghịch trong cuộc sống mỗi ngày.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Phêrô tuyên xưng đức tin (18-21)
Ngay sau truyện nuôi đám đông là truyện Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Tác
giả đã viết gọn lại để cho truyện này trở thành một câu trả lời cho câu hỏi của tiểu vương
Hêrôđê.
* Đức Giêsu tiên báo Thương Khó (22)
Đức Giêsu đã tiên báo cuộc Thương Khó-Phục Sinh để điều chỉnh quan niệm về Đấng
Mêsia của Phêrô hẳn là còn nhuốm màu sắc chính trị. Và các lời này cũng vẫn cung cấp
một câu trả lời cho Hêrôđê. Chúng còn cung cấp một bối cảnh cho mở đầu của bài tường
thuật về chuyến đi lên Giêrusalem.
Đức Giêsu cho biết cuộc Thương Khó cũng như Phục Sinh của Người thuộc về chương
trình của Thiên Chúa. Chính Chúa Cha quyết định như thế, và Đức Giêsu gắn bó với ý
muốn của Cha Người hầu cứu độ nhân loại.
* Đức Giêsu dạy về người môn đệ (23-27)
Tác giả liên kết vào lời loan báo đầu tiên về Thương Khó năm lời khác nói về đời môn đệ
(khá giống với Mc 8,34–9,1) được ngỏ với “mọi người”. Có lẽ đây là những lời tách biệt
được ghi giữ trong truyền thống. Câu đầu tiên (“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình hằng ngày mà theo”, c. 23) là câu căn bản, còn ba câu tiếp theo được đưa
vào bằng liên từ gar, “bởi vì”, do đó dịch sát là: “bởi vì ai muốn cứu mạng sống …” (c. 24);
“bởi vì người nào được cả thế giới …” (c. 25); “bởi vì ai xấu hổ vì tôi …” (c. 26). Còn trong
c. 27, tác giả bỏ chữ amên (của Mc 9,1) và thay thế bằng từ alêthôs, “thật sự”, làm cho câu
này được liên kết chặt chẽ với bốn câu trên và làm thành một đơn vị mạch lạc.
Các câu này cũng là một cách khác để trả lời cho tiểu vương Hêrôđê. Đến ngay sau lời
tuyên bố của Đức Giêsu về đau khổ, thân phận bị loại bỏ, phải chết của Người, các lời này
cho thấy Người đòi hỏi những kẻ muốn theo Người đến mức nào: làm môn đệ là “bước theo
Người”; việc “bước theo” này có ý nghĩa rất phong phú khi nó được đặt sát chuyến đi lên
Giêrusalem. Làm môn đệ có nghĩa là hằng ngày chia sẻ thân phận của chính Người: vác
thập giá của chính mình mà bước đi đàng sau Người, như một cách chứng tỏ rằng mình
15
không đánh giá mạng sống mình theo lợi nhuận trần thế, như một thái độ tự hào về Người,
và như là như một thái độ cho phép người môn đệ hiểu sâu xa hơn các mầu nhiệm của Nước
Thiên Chúa.
+ Kết luận
Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” vẫn chưa phải là điều đáng kể, nếu
người môn đệ không sống phù hợp với lời tuyên xưng đó. Chỉ khi sẵn sàng “từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” Người (9,23), người ấy mới cảm nghiệm sâu
xa nơi bản thân sức mạnh cứu độ của lời tuyên xưng đó, và mới làm chứng được cho người
khác rằng Đức Giêsu chính là Cứu Chúa duy nhất mà người ta phải tin vào và bước theo.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu không yêu cầu các môn đệ cho ý kiến về giáo huấn hoặc một hoạt động nào đó
của Người, nhưng cho ý kiến về bản thân Người. Câu hỏi của Người cho thấy đây là điểm
có tầm quan trọng số một. Người muốn đưa các ông đến chỗ hiểu biết Người và tuyên xưng
về bản thân Người cách không hàm hồ, dị nghĩa. Điều quan trọng không phải là lời Người
loan báo, nhưng là chính bản thân Người.
2. Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, nghĩa là Người là vị Vua và
Mục Tử duy nhất, tối hậu và vĩnh viễn của dân Israel. Người được Thiên Chúa cử đến để
ban cho dân tộc này và toàn thể nhân loại có sự sống viên mãn. Người chính là Đấng Mêsia
được liên kết mật thiết với chính quyền năng ban sự sống, với Thiên Chúa hằng sống.
3. Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa ngay sau phép lạ hóa bánh ra nhiều,
điều này không khó. Nhưng tiếp tục tuyên xưng Người như thế, khi chứng kiến Người phải
vác thập giá, chịu xử tử và chịu chết, khi chính mình, nếu không đến nỗi phải đổ máu ra mà
làm chứng, phải vác thập giá là các khó khăn của một ngày sống, điều này khó hơn nhiều.
Nhưng đó là cái giá phải trả để được cùng sống lại với Đức Giêsu.
4. “Làm người có nghĩa là ‘sống hướng về cái chết’; làm người có nghĩa là phải chết…
Sống trong thế giới này, có nghĩa là chết. «Người đã làm người» (Kinh Tin Kính); vậy điều
đó có nghĩa là Đức Kitô cũng đã đi đến cái chết. Sự mâu thuẫn thuộc về cái chết của con
người đạt tới nơi Đức Giêsu sự sắc bén cùng cực, bởi vì nơi Người, Đấng ở trong một sự
hiệp thông trao đổi trọn vẹn với Chúa Cha, tình trạng cô độc tuyệt đối của cái chết hoàn
toàn là một sự phi lý. […]. Nhưng cũng như mẩu đối thoại này đã làm cho Người ra cô đơn,
và cho thấy Người đang đi đến cái chết quái gở ấy, thì nơi Đức Kitô, sự Phục Sinh cũng đã
hiện diện chắc chắn rồi. Nhờ cuộc Phục Sinh này, thân phận con người chúng ta được tháp
vào trong cuộc trao đổi tình yêu vĩnh củu của Ba Ngôi Thiên Chúa. […] Nhờ Đức Kitô, thân
phận con người được đi vào trong chính hữu thể của Thiên Chúa” (Thánh Ambrôsiô).
5. Đối với môn đệ của Đức Giêsu, không có niềm vui sâu đậm nào mà không có bóng dáng
ơn Chúa Thánh Thần. Nói vậy không có nghĩa là đối với người môn đệ, đường lên
Giêrusalem là một hành trình vui vẻ đâu. Hôm nay Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết là ai
muốn theo Người có thể phải trả một giá đắt là sẽ bị chết. Nếu theo Đức Giêsu là lên đường
thắng cuộc, thì chúng ta nên kết luận rằng thắng cuộc là do bởi sự cố gắng của chúng ta.
Chúng ta làm việc nhiều, cố gắng nhiều và chúng ta thắng cuộc. Nhưng, ngược lại, khi
chúng ta theo chân Đức Giêsu, chúng ta nghiệm lại sự yếu đối, và thất bại như các môn đệ
đã gặp. Và rồi, chúng ta lại tìm thấy sự vui vẻ mới, và chúng ta kiên trì trong đau khổ, và
điều đó do bởi Thần Khí của Đấng đã hứa là Người sẽ trỗi dậy vào ngày thứ ba phải không?
(Siciliano).
16
17
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG ĐAU KHỔ
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
***
Chủ Đề Phụng Vụ Lời Chúa tuần này là mầu nhiệm cứu độ được thực hiện trong đau
khổ.
Dcr 12: 10-11
Ngôn sứ Da-ca-ri-a loan báo rằng Đấng Mê-si-a sẽ bị giết chết, nhưng Thiên Chúa sẽ tuôn
đổ Thần Khí để biến đổi lòng trí của những kẻ đã đâm thâu Ngài.
Gl 3: 26-29
Thánh Phao-lô nhắc nhở cho các tín hữu Ga-lát những ân phúc cứu độ của Đức Ki-tô, nhờ
đó mọi người nhận ra tất cả đều anh em và đồng thừa tự những lời hứa ban ơn cứu độ.
Lc 9: 18-24
Tin Mừng Lu-ca tường thuật Chúa Giê-su lần đầu tiên loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài và
đó là điều tất yếu đối với những ai muốn theo con đường từ bỏ chính mình để đạt được sự
sống đời đời.
BÀI ĐỌC I (Dcr 12: 10-11)
Bản văn này trích từ phần thứ hai sách Da-ca-ri-a, tuy nhiên, ngôn sứ Da-ca-ri-a không phải
là tác giả. Tác giả thật sự của đoạn văn này ngỏ lời với dân thành Giê-ru-sa-lem vào những
năm 520-515 trước Công Nguyên. Hai trăm năm sau này, sau những cuộc chinh phục của
đại đế A-lê-xan-đê, hay giữa năm 330 và năm 300 trước Công Nguyên, một tác giả vô danh,
mà các nhà chú giải gọi là “Da-ca-ri-a đệ nhị”, truyền đạt một sứ điệp mới cho cộng đồng
Giê-ru-sa-lem hầu đánh thức tâm tình tôn giáo nơi họ.
Người ta cũng đã làm như vậy đối với tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a. Nhờ các môn đệ của vị
ngôn sứ, ba bộ sưu tập đã được đúc kết thành một (Is 1-39; 40-55 và 56-66); chúng trình
bày một nét chung: cả ba đều khai mở những viễn cảnh về việc thiết lập kỷ nguyên Mê-si-a.
Trong tác phẩm Da-ca-ri-a đệ nhị, Đấng Mê-si-a được loan báo qua ba dung mạo, cả ba đều
đã được ứng nghiệm ở nơi con người Đức Giê-su:
- Dung mạo Đức Mê-si-a vương đế, khiêm hạ và hiền hòa.
- Dung mạo người mục tử nhân lành bị các thủ lãnh dân Ngài loại bỏ.
- Sau cùng, dung mạo mầu nhiệm của Đấng bị đâm thâu.
Chính dung mạo thứ ba này được nêu lên trong bản văn của chúng ta.
1.Đấng Mê-si-a đau khổ:
Đấng Mê-si-a vinh quang thuộc nhà Đa-vít danh tiếng, đó là nét nổi bật của các sấm ngôn
thời xưa. Có một ngoại lệ duy nhất: ở giữa lòng những gian nan thử thách của cuộc lưu đày,
ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã gợi lên dung mạo người tôi trung của Đức Chúa, mà những đau
khổ và hy sinh của Ngài thanh tẩy muôn người: “Chính người đã bị đâm vì chúng tôi phạm
tội, bị nghiền nát vì chúng tôi lỗi lầm” (Is 53: 5).
Sấn ngôn của ngôn sứ Da-ca-ri-a được định vị vào trong hàng này, trong đó thị kiến của I-
sai-a về Đấng Bị Đâm Thâu được lập lại (được Tin Mừng Gioan nhắc lại: Ga 19: 37), cũng
18
như việc biến đổi tấm lòng, thành quả của cái chết này: “Người đã chịu sửa trị để chúng ta
được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành”(Is 53: 5b) cũng được
lập lại. Nhưng ở đây ngôn sứ Da-ca-ri-a đệ nhị quy việc đổi mới tận đáy lòng nhờ Đức Chúa
tuôn đổ thần khí của Ngài.
2.Đức Chúa tuôn đổ thần khí của Ngài:
“Ta sẽ đổ tràn thần khí xuống cho nhà Đa-vít và dân thành Giê-ru-sa-lem…”. Trước tiên,
khi trích dẫn nhà Đa-vít, ngôn sứ Da-ca-ri-a cho hiểu rằng những lời hứa xưa kia không bị
hủy bỏ. Nhưng sẽ có việc trải qua sự thử thách và thanh tẩy. Việc thần khí ngự đến và biến
đổi tấm lòng con người đã được ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo trước
đó. Đặc biệt ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả bằng những ngôn từ báo trước những ngôn từ của
ngôn sứ Da-ca-ri-a đệ nhị: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới
vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng
các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ
làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực
hành…Bấy giờ các ngươi sẽ nhớ lại lối sống xấu xa và hành vi bất hảo của các ngươi. Các
ngươi sẽ kinh tởm chính bản thân mình, vì các tội lỗi và những điều ghê tởm của các ngươi”
(Ed 36: 26-31).
3.Phụng vụ sám hối:
Sau các biến cố, dân chúng sẽ hiểu giá trị hy sinh của Đấng bị đâm thâu: “Họ sẽ khóc than
Đấng họ đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một”. Đứa con một và trưởng tử sẽ là
những tước hiệu được áp dụng cho Đức Giê-su.
Đây là nghi lễ tang chế và sám hối nhưng cũng là thị kiến đầy tràn niềm hy vọng vào việc
đổi mới tinh thần, bản văn này của vị ngôn sứ giúp chúng ta hiểu hơn rằng mầu nhiệm Tử
Nạn của Đức Giê-su có thể hiểu được chỉ dưới ánh sáng của lễ Ngũ Tuần. Các Tông Đồ sẽ
cảm nhận như vậy.
BÀI ĐỌC II (Gl 3: 26-29)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Ga-lát này, như đoạn trích tuần trước, vừa
ngắn gọn vừa súc tích ý nghĩa. Đoạn văn này thuộc vào chương nói về sự tự do của người
Ki-tô hữu.
Các tín hữu Ga-lát cảm thấy bối rối bởi những Ki-tô hữu gốc Do thái, những người này
muốn đưa vào trong Ki-tô giáo những nghi thức Do thái giáo được xem là luôn luôn có giá
trị, như phép cắt bì. Thánh Phao-lô chứng minh cho các tín hữu Ga-lát rằng Luật Cựu Ước
là sự nô lệ, Luật Tân Ước là sự tự do. Trong đoạn văn đi trước đoạn trích hôm nay, thánh
nhân sánh ví Luật Mô-sê với một người quản giáo hướng dẫn con trẻ cho đến tuổi khôn lớn,
nhưng vai trò của người này chỉ là tạm thời.
1.Sự tự do của người Ki-tô hữu:
Đức tin vào Đức Ki-tô là một hành vi tự do làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.
Chúng ta không còn là những kẻ nô lệ nhưng là những người con: “Nhờ lòng tin, tất cả anh
em đều là con Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô”. Đức tin là nguyên lý biến đổi con
người một cách sâu xa; phép Rửa là dấu ấn của sự biến đổi này.
Nhờ phép Rửa, chúng ta nên một với Đức Ki-tô: “Vì một khi đã chịu phép Rửa để thuộc về
Đức Ki-tô, thì tất cả anh em đã mặc lấy Đức Ki-tô”. Thánh Phao-lô thường sử dụng hình
ảnh “mặc”: anh em hãy cởi bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới, vân vân. “Mặc”
không có nghĩa đón nhận đồ trang sức bên ngoài, nhưng đặt mình hoàn toàn dưới quyền lực
của Đức Ki-tô.
19
2.Sự hiệp nhất và địa vị làm con:
Một trong những lời trách cứ của thánh Phao-lô chống lại Lề Luật, đó là Lề Luật gây nên sự
chia rẽ; nó chia rẽ nhân loại thành hai: bên này là người Do thái, bên kia là dân ngoại. Tin
vào Đức Ki-tô, không còn có sự phân biệt nữa. Trước đó, thánh nhân đã nói về sự duy nhất
của Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa của hết mọi người, Ngài muốn nhân loại trở thành một
dân duy nhất, dân của Ngài. Nhờ Đức Ki-tô, Thiên Ý này được thực hiện. Tin vào Đức Ki-
tô, mọi hàng rào ngăn cách do chủng tộc, hoàn cảnh, giới tính…bị hủy bỏ: “Vậy không còn
chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh
em chỉ là một trong Đức Giê-su Ki-tô”.
Địa vị làm con cái Thiên Chúa và sự hiệp nhất không là hai nhưng chỉ là một thực tại bất
khả phân. Tất cả chúng ta là con cái Thiên Chúa, vì tất cả chúng ta đều nên một với Đức Ki-
tô. Tin chính là gắn bó với con người và sứ điệp của Ngài, niềm tin này mở ra cho hết mọi
người không trừ một ai trong chiều kích ơn cứu độ phổ quát.
Thánh nhân, trước đây là một người Pha-ri-sêu, đã mạnh dạn hủy bỏ những đặc quyền của
dân Do thái. Tuy nhiên, lập luận này đóng lại đoạn văn hôm nay, đều quan trọng là trở lên
cho đến bên kia biểu thức Lề Luật, cho đến tận lời hứa, mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ
Áp-ra-ham là ban cho ông một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Ơn gọi
phổ quát của dân Ít-ra-en được ghi trong Kinh Thánh. Ơn gọi này được thực hiện cho bất cứ
ai thuộc về Đức Ki-tô. Tất cả chúng ta, dù xuất thân từ dân ngoại, gắn bó với Đức Ki-tô,
chúng ta đều thuộc dòng dõi tinh thần của tổ phụ Áp-ra-ham, chúng ta đều trở thành con cái
của Lời Hứa.
TIN MỪNG (Lc 9: 18-24)
Ngay sau bài trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng đức tin
của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Thương Khó của Ngài.
Trong khi đó, thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu phân cách hai biến cố này.
1.Bối cảnh:
Về khía cạnh này, thánh Lu-ca gần với thánh Gioan. Thánh Gioan đặt ngay liền sau phép lạ
hóa bánh ra nhiều diễn từ của Đức Giê-su về “bánh hằng sống” và việc nhiều môn đệ bỏ
Ngài mà ra đi. Buồn rầu, Đức Giê-su hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng
muốn bỏ đi hay sao?”. Thánh Phê-rô khẳng khái trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con
biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con
đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6: 67-69).
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dấu chỉ rõ nét thời Mê-si-a, Đức Giê-su cho rằng thời điểm
đã đến để thăm dò tư tưởng của các Tông Đồ về Ngài và cho họ thấu hiểu hơn nữa mầu
nhiệm con người và sứ mạng của Ngài.
2.Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô:
Thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô định vị cuộc chuyện trò của Đức Giê-su với các môn đệ
của Ngài trong thung lũng thanh bình dẫn đến thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, ngoài miền Ga-li-
lê. Còn thánh Lu-ca thì không cho biết bất kỳ địa danh nào, nhưng mang đến một sự chính
xác thuộc trật tự tinh thần: Đức Giê-su cầu nguyện một mình khi các môn đệ của Ngài gặp
lại Ngài. Thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ
phút long trọng.
Chúa Giê-su hỏi các môn đệ, trước hết về dư luận quần chúng đối với Ngài: “Theo dư luận
quần chúng, thì Thầy là ai?”, để giúp các ông hiểu rõ hơn rằng đức tin của họ phải thoát
khỏi những ý kiến của quần chúng. Câu trả lời của các Tông Đồ là lập lại chính xác lời
20
tường thuật cho Hê-rô-đê An-ti-pát, tiểu vương miền Ga-li-lê, khi ông này tra hỏi về nhân
cách của Đức Giê-su: “Tiểu vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân
vân lắm. Thật vậy, có kẻ nói: ‘Đó là ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy’. Kẻ khác thì nói: ‘Ông
Ê-li-a xuất hiện đấy!’ Kẻ khác nữa lại nói: ‘Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại’” (Lc 9: 7-
9).
Dư luận cho rằng Gioan Tẩy Giả sống lại ở nơi Đức Giê-su thì thật lạ lùng; thật ra thánh
Gioan đã chết với hào quang của vị ngôn sứ bị sát hại. Trái lại, việc ngôn sứ Ê-li-a tái lâm
để là vị tiền hô của Đấng Mê-si-a là một niềm tin được chứng thực, vả lại dựa trên sấm ngôn
của Ma-la-khi: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa
đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3: 23). Còn về các ngôn sứ thời xưa đã sống lại, vài
bản văn Kinh Thánh có lẽ gợi lên ngôn sứ Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ được xem là người bảo
vệ dân Ít-ra-en, như trong một giấc mơ của ông Giu-đa (2Mcb 15: 14-15). Thánh Mát-thêu,
trong bản văn song đối, trích dẫn câu này. Nói tóm lại, đám đông dân chúng lầm lạc giữa
những giả thuyết khác nhau này; họ đã không nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a (Đấng
Ki-tô).
Vì thế, Chúa Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các Tông Đồ nên hỏi họ: “Còn anh em,
anh em bảo Thầy là ai?”. Thánh Phê-rô nhân danh nhóm Mười Hai trả lời: “Thầy là Đấng
Ki-tô của Thiên Chúa”. Nhưng Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói điều ấy với ai.
Đám đông dân chúng có một quan niệm về Đấng Ki-tô không đúng; chân dung đích thật của
Đấng Ki-tô Đức Giê-su sắp vén mở cho các Tông Đồ lần đầu tiên: đó là chân dung của
Đấng Ki-tô chịu đau khổ.
3.Đức Giê-su loan báo lần đầu cuộc thương khó của Ngài:
“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết
chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Vào lúc này, Đức Giê-su thận trọng tránh nói về việc Ngài
bị đánh đập và chịu đóng đinh vào thập giá, nhưng chỉ đơn giản nói rằng Ngài sẽ phải chịu
đau khổ nhiều và bị giết chết; đồng thời Ngài tức khắc gợi lên cuộc Phục Sinh của Ngài.
Ngài sẽ kể ra cuộc Phục Sinh của Ngài trong mối liên quan với một trong những sấm ngôn
về cuộc Tử Nạn của Ngài (sẽ còn có hai sấm ngôn khác nữa).
“Con Người phải chịu đau khổ nhiều”. Ở đây, sự tất yếu (“phải chịu”) mà Chúa Giê-su gợi
lên không phải là sự tất yếu của số mạng: đây là một sự tất yếu thuộc trật tự thần học, đây là
một sự tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Tử Nạn không là một tai nạn mà cuộc
Phục Sinh sẽ đền bù, nhưng là dự phần vào mầu nhiệm cứu độ loài người. Đức Giê-su
không đưa ra bất kỳ giải thích nào khác ngoài “cái tất yếu này”. Ngài cũng sẽ nói với hai
môn đệ trên đường Em-mau cái tất yếu như vậy: “Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ
hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24: 25).
Khác với thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, thánh Lu-ca không nói cho chúng ta phản ứng
quyết liệt của thánh Phê-rô đối với những viễn cảnh tăm tối mà Thầy mình vén mở về số
mệnh của Ngài.
4.Lời dạy cho hết mọi người:
Đoạn văn cuối được định vị vào trong cái hợp lý của điều đi trước đó nhưng không vào
trong cái khả dĩ; vì không có đám đông chung quanh Đức Giê-su khi Ngài mặc khải cho các
Tông Đồ số mệnh đầy đau khổ của Ngài; không có đám đông ở nơi Ngài tách riêng ra mà
cầu nguyện một mình. Nhưng Chúa Giê-su liên kết các môn đệ của Ngài - và bên kia họ tất
cả những ai muốn theo Ngài – với con đường từ bỏ chính mình và chấp nhận đau khổ này.
Chính qua con đường này mà người ta “cứu được mạng sống mình”.
21
22
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
QUA THẬP GIÁ ĐẾN VINH QUANG
Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự TGP.Sài Gòn
***
“Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị từ bỏ và giết chết…” (Lc 9,22)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I – Dcr 12,10-11
Dựa trên lời hứa của Đức Chúa sẽ giải thoát và đổi mới cho Giêrusalem, sấm ngôn của
Dacaria loan báo về một cuộc ‘đổ ơn’ của Đức Chúa xuống trên nhà Giuđa và cư dân
Giêrusalem giúp họ tỉnh ngộ về hành vi bất chính của mình: nếu trước kia chính họ đã giết
chết Đấng Mêsia, thì giờ đây cũng chính họ sẽ phải ngước nhìn ‘Đấng mà họ đã đâm thâu’
với một tâm tình khóc than và thương tiếc đến tột độ như khóc ‘đứa con đầu lòng đã chết.’
Hình ảnh này, theo cái nhìn của Thánh sử Gioan 19,37, như một lời tiên báo về cái chết của
Đức Kitô mà Dân Do Thái sẽ phải hối cải khi nhìn thấy Đấng mà họ đã đâm thâu qua trên
thập giá.
2. Bài đọc II – Gl 3,26-29
Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: việc lãnh nhận phép rửa làm cho người Kitô hữu được tháp
nhập cách trọn vẹn vào cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô trên thập giá. Điều này đã
xóa đi mọi sự khác biệt trước đó về lý lịch bản thân của từng người: Do thái hay Hy lạp, nô
lệ hay tự do, nam hay nữ… để từ nay họ được nên một trong Đức Giêsu Kitô và nhờ đó trở
thành những kẻ ‘thừa kế theo lời hứa.’
3. Bài Phúc âm – Lc 9,18-24
Đoạn phúc âm này bao gồm ba ý tưởng chính:
Trước lời tuyên xưng của Thánh Phêrô về mình: ‘Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.’
Chính Chúa Giêsu đã không phủ nhận về lời tuyên xưng này nhưng chỉ ‘ngăn cấm các ông
không được nói điều đó với ai.’ Việc ngăn cấm này của Chúa vì e ngại người khác hiểu sai
về bản chất và sứ vụ của Đấng Mêsia.
Liền sau đó, Chúa Giêsu đã minh định rõ cho các môn đệ biết sứ mạng của Ngài là gì qua
lời khẳng định: ‘Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế và các luật
sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.’
Số phận của người môn đệ cũng được rập khuôn theo số phận của Thầy mình. Điều này đã
được xác quyết qua những điều kiện được Chúa Giêsu đưa ra cho người môn đệ: ‘Từ bỏ
mình – vác thập giá mình hằng ngày – mà theo.’
Ba điều kiện này dường như chỉ dẫn người môn đệ đi tới chỗ bị hủy diệt và giết chết. Nhưng
khi họ dám chấp nhận mất mọi sự, thậm chí mất mạng sống vì Chúa Giêsu, thì họ lại cứu
được tất cả, nhất là cứu được mạng sống của mình.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Cái chết của Đấng Mêsia mà Ngôn sứ Dacaria nói đến là kết quả của một sự đối kháng
dứt khoát muốn đứng về phía đối lập Thiên Chúa, để đi đến quyết định đóng đinh Đấng
Mêsia nhằm loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống của mình. Đối diện với một thử thách, đau khổ,
23
buồn chán… luôn là cơn cám dỗ dẫn mỗi người chúng ta tới chỗ không bằng lòng, thậm chí
giận dữ và muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình.
2. Phép rửa xóa đi mọi khác biệt để giúp người Kitô hữu nên một với Đức Kitô và với nhau
trong Ngài. Tuy vậy, sự hiệp thông trong đời sống cộng đoàn tín hữu vẫn luôn là một vấn đề
hết sức nóng bỏng và cam go, vì nguy cơ chia rẽ luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động của cộng
đoàn. Do vậy, mỗi việc làm của từng thành viên trong cộng đoàn hay trong gia đình, nếu
không được thực hiện trong tinh thần hiệp thông sẽ luôn tiềm ẩn trong đó những nguy cơ
gây ra chia rẽ cho cộng đoàn hay gia đình.
3. Nghịch lý “muốn cứu… sẽ mất” hoặc “mất vì Ta… sẽ cứu được…” luôn dẫn người môn
đệ đi tới một chọn lựa trong từng hoạt động của cuộc sống.
Cũng như ba điều kiện của người môn đệ: “Từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và đi
theo” - vẫn luôn là một thách đố lớn cho mỗi người môn đệ hôm nay.
24
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
NHẬN DIỆN ĐỨC KITÔ
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
***
Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc
mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu
Người cho đúng.
“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu.
Là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực
sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy nhiên
đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do
Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.
Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa
hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người
đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là
Đấng Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em tuyên
xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy
nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn
chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực.
Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.
Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ
có thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa
bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.
Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh
sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường
khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là
hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế,
nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc
đích thực.
Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình
hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất
mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ
không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn
đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự
sống.
Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô
phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào.
Nhận diện Đấng Kitô đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa
ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến
hạnh phúc đích thực.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ Người là Đấng Kitô?
2- Con đường Đấng Kitô phải đi là con đường nào?
25
3- Các môn đệ Chúa phải đi con đường nào?
4- Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ thế nào về con đường Hội Thánh phải đi? Phô
trương hay khiêm nhường? Quyền lực hay bé nhỏ?
5- Tôi có quyết tâm đi vào con đường Chúa đã chỉ cho tôi không?
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG MESSIA CHỊU KHỔ
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
***
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thánh giá là dấu hiệu của Kitô giáo chúng ta. Thánh giá hiện diện ở mọi nơi chúng ta sinh
hoạt tôn giáo, như nhà thờ, bàn thờ gia đình, đất thánh v. v. Trước khi làm một việc đạo
đức, chúng ta luôn làm dấu Thánh Giá.
Hôm nay chúng ta hãy tìm hiểu Lời Chúa để biết rõ hơn về ý nghĩa đích thực của Thánh giá.
Và chúng ta xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Thánh Giá theo đúng ý nghĩa đích thực ấy.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta tôn kính những ảnh tượng Thánh Giá, nhưng lại sợ và trốn tránh những thánh
giá Chúa gởi đến trong cuộc đời.
Chúng ta có khuynh hướng muốn được thêm chứ không muốn từ bỏ bớt.
Chúng ta hay sống theo dư luận hơn là sống theo sự hướng dẫn của Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Dcr 12, 10-11)
Ngôn sứ Dacaria tiên báo rằng sẽ tới ngày Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Thần xuống trên dân
(như chuyện sẽ xảy ra trong ngày lễ Hiện xuống), khi đó, nhờ được Thánh Thần soi sáng, họ
sẽ hiểu rằng kẻ mà họ đã giết chết chính là Đấng Messia, cho nên họ sẽ ngước nhìn lên Ngài
và sẽ khóc than sám hối.
2. Đáp ca (Tv 62)
Tác giả Tv 62 đã ý thức Thiên Chúa là Đấng phù trợ mình, nên mong ước được gặp Ngài để
bày tỏ với Ngài những tâm tình tạ ơn và yêu mến.
3. Tin Mừng (Lc 9, 18-24)
Thánh Phêrô thay mặt nhóm 12 tuyên xưng Chúa Giêsu chính là Đấng Messia (Kitô). Chúa
Giêsu xác nhận lời tuyên xưng đó, nhưng cho biết thêm Ngài là một Đấng Messia phải chịu
đau khổ và chịu chết. Ngài còn nói thêm rằng ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải chịu
khổ như Ngài.
Ta hãy tìm hiểu kỹ các câu 23-24 "Rồi Chúa Giêsu nói với mọi người: Ai muốn theo tôi,
phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo"
. "Nói với mọi người" nghĩa là những câu này Chúa Giêsu không dạy riêng Nhóm 12 tông
đồ mà dạy chung mọi tín hữu.
26
. "Ai muốn theo tôi" nghĩa là ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo" ai là làm môn đệ
cho người đó)
. "Từ bỏ chính mình": xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình
không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải
giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình
nữa nhưng ta hóa nên giống Chúa Giêsu thì thật tuyệt vời. Đó chính là "thần hóa". Lý tưởng
mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Chúa Giêsu.
Hơn nữa đây thực sự không phải là "tha hóa" mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên
Chúa đã tạo dựng nên con người "giống hình ảnh" Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người
bị "tha hóa". Nay cố gắng trở nên giống Chúa Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.
. "Vác thập giá mình": Kiểu nói này có nhiều nghĩa: a/ Đón nhận những khổ cực của mình,
cũng như Chúa Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài; b/ Theo luật hình sự Rôma,
người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế,
"vác thập giá mình" nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử; c/ câu 24 giải thích câu 23: "Quả
thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi...". Như thế "vác thập giá" có nghĩa là "liều mất mạng
sống", hay nói nôm na là "liều mạng" vì Chúa.
. "Hằng ngày": những việc vừa kể trên (bỏ mình và vác thập giá) là việc thường gặp trong
đời sống.
4. Bài đọc II (Gl 3, 26-29) (Chủ đề phụ)
Nhờ phép rửa, người tín hữu đã "mặc lấy Đức Kitô" và đã "nên một trong Chúa Giêsu
Kitô". Hiệu quả:
Họ thuộc về Đức Kitô.
Họ trở thành con Thiên Chúa.
Mọi người là anh em với nhau, không phân biệt do thái hay hy lạp, nô lệ hay tự do, nam
hay nữ nữa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Nét độc đáo của Chúa chúng ta
Tín đồ tôn giáo nào cũng hãnh diện và tôn sùng vị Thần của đạo mình, vì vị Thần ấy có uy
quyền mạnh mẽ, có hào quang chói ngời, có địa vị chí tôn. Nói chung, đối với các vị Thần
của các tôn giáo, thái độ của các tín đồ là "kính nhi viễn chi".
Nhưng Chúa Giêsu Kitô của chúng ta thì đặc biệt hơn cả: Ngài cũng uy quyền, vinh quang
và cao cả, nhưng Ngài còn mang vào Ngài thân phận hèn hạ của chúng ta, hơn nữa Ngài còn
chịu đau khổ với chúng ta và vì chúng ta để cứu chúng ta.
* 2. "Người ta nghĩ tôi là ai?"
Câu hỏi trên đã ảnh hưởng rất mạnh trên cách sống của nhiều người. Họ cố gắng sống làm
sao để được dư luận khen ngợi mình là người giỏi, người tốt.
Phần Chúa Giêsu, tuy Ngài cũng hỏi các môn đệ câu hỏi đó, nhưng không phải để biết dư
luận rồi chìu theo dư luận. Cách chung dư luận nghĩ Ngài là một ngôn sứ. Phêrô thì nghĩ
Ngài là Đấng Messia Con Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu thích dư luận đó thì Ngài sẽ tích
cực thi thố quyền phép để dư luận càng ca tụng mình. Nhưng Ngài không chìu theo dư luận.
Ngược lại Ngài muốn dư luận biết đúng về Ngài: Messia thật đấy nhưng là một Messia chịu
đau khổ.
27
Phần chúng ta, chúng ta cũng nên tự hỏi "Người ta nghĩ tôi là ai?" Hỏi như thế để biết dư
luận. Nhưng biết không phải để chìu theo mà biết để điều chỉnh cách sống của mình theo
đúng lý tưởng của mình. Nếu dư luận chưa nhận ra tôi là môn đệ Đức Kitô thì quả là vì tôi
đã không sống đúng lý tưởng của mình ("Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là
môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau"). Cho nên tôi phải thay đổi cách sống. Còn
nếu dư luận đã nhận biết tôi là môn đệ Đức Kitô thì tôi vui mừng và tiếp tục cố gắng để
ngày càng giống hình ảnh người môn đệ Đức Kitô hơn.
* 3. "Ai muốn theo Ta..."
Nếu câu hỏi của Chúa Giêsu chỉ có bao nhiêu chữ thế thôi, thì tất cả chúng ta, những người
đã rửa tội, đều có thể đáp lại thật nhanh: "Con muốn... Con muốn theo Chúa".
Nhưng nếu nghe trọn câu Ngài nói "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình hằng ngày mà theo", thì chắc hẳn số người nhanh chóng trả lời "Con muốn" sẽ giảm đi
rất nhiều.
Nhiều người gia nhập Kitô giáo để kiếm lợi, như để được ơn Chúa phù hộ cho sống bình an,
để làm ăn phát đạt, hay để được Giáo Hội hỗ trợ nhiều mặt.
Nhiều người tưởng rằng mình "đi theo" Chúa, chứ thực ra là muốn Chúa "đi theo" mình và
luôn ở bên cạnh để giúp đỡ mình.
Nhiều người tưởng đã đi theo Chúa nhưng không bao giờ "từ bỏ" chính mình, và rất sợ phải
"vác thập giá mình hàng ngày mà theo"
* 4. Nghịch lý
Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Trong
bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói về 2 nghịch lý:
a/ Nghịch lý giữa mất và được
Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng nghịch lý thay, nhiều
khi vì "được" mà phải "mất": Thí dụ trong một vụ tranh cãi, bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu
mô để cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng một vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè, anh
em và có khi cả cha con; trái lại nhiều khi nhờ "mất" mà lại "được": Thí dụ thánh
Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài nhận biện hộ cho một vụ kiện lớn,
ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là
giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và đã trở thành một vị thánh.
b/ Nghịch lý giữa chết và sống
Chết và sống không hẳn là 2 điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ
nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Vài thí dụ:
Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới thành chất bổ
dưỡng cho cây.
Nơi sinh vật: các thức ăn phải "tiêu" mới "hóa" thành lương thực.
Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.
* 5. Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai?
Cô Ann Thomas kể lại câu chuyện sau đây: Hôm đó, cô và Betty ghé vào một sạp bán đồ
cũ. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:
- Có đồ gì đáng giá không?
Ann trả lời: - Không, toàn là đồ năm vố thôi.
28
Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt
vặt, nhặt lên một cây thập giá cũ han gỉ và nói:
- Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quí: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.
Cô bạn của Ann đem về nhà lau chùi và đánh bóng cây thập giá. Đây quả là một vật quí.
Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thập giá lên ngắm nghía hồi lâu.
Bỗng nhiên cậu bé oà lên khóc. Betty liền hỏi:
- Con sao vậy?
Bobby nói: - Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.
Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve
chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quí, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì
nhận ra Chúa Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.
Tin Mừng hôm nay kể, Chúa Giêsu bất thần hỏi các môn đệ: "Đám đông nói Thầy là ai?"
Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gian Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác
lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại". Nhưng Chúa lại muốn biết suy nghĩ
của chính ho ï: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Và chỉ một mình Phêrô mau mắn,
đầy xác tín thưa: "Thầy là đấng Kitô của Thiên Chúa" (TP)
6. Trở thành chính mình
Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ "Người ta nghĩ Thầy là ai", Ngài không hỏi thế vì Ngài bởi
vì Ngài đã biết rõ Ngài là ai rồi. Ngài hỏi thế là vì các môn đệ, Ngài tạo dịp cho họ suy nghĩ
chín chắn về bản thân Ngài.
Một số người thèm khát được người ta chấp nhận. Có lẽ vì trước đó họ thường bị người
khác không để ý, không đánh giá cao hoặc chê bai nên họ đâm ra nghi ngờ chính bản thân
mình và nay họ tìm kiếm sự nhìn nhận của người khác. Người nào càng thiếu tự tin và ít
thành đạt thì người ấy càng cần xác định căn tính của mình trong một nhóm hoặc một tầng
lớp xã hội đang thành đạt.
Chúng ta cần phải hiểu rõ sự thật mình là thế nào và chấp nhận sự thật ấy. Một khi đã hiểu
mình và chấp nhận sự thật của mình rồi thì mình không cần tô vẽ về mình hay mua chuộc sự
khen ngợi của người khác nữa. Dù người ta không hiểu, không khen ngợi, thậm chí chê bai
phê phán, mình cũng luôn vững vàng. Bởi vì giá trị của mình không phải do lời khen chê
của người khác, mà do chính sự thật của mình.
Tuy nhiên, đôi khi ta cũng phải tìm hiểu xem người khác nghĩ sao về mình, để nếu người ta
nghĩ đúng thì ta có thể dựa vào đó mà sửa mình. Alfred Nobel là một kỹ nghệ gia giàu có và
nổi tiếng. Chính ông là người đã chế tạo ra cốt mìn. Dù giàu có và nổi tiếng như thế nhưng
đời ông không hạnh phúc, ông luôn nhìn đời một cách bi quan. Một ngày kia, do một sự
hiểu lầm, người ta tưởng ông chết nên báo chí đã loan tin ấy và còn viết bài nhận định về sự
nghiệp của ông. Sáng hôm đó Alfred Nobel vừa thức dậy đọc được bài báo ấy và giật mình.
Điều làm ông giật mình nhất là người ta đã coi ông là "ông vua cốt mìn". Ông nghĩ: mình đã
sống thế nào, đã làm gì khiến cho người ta chỉ nhớ về ông như là người chế tạo ra cái công
cụ giết người khủng khiếp ấy. Thế là ông quyết định dùng tài sản kết sù của mình để xây
dựng thế giới. Ông đặt ra giải thưởng mang tên Nobel, trao cho những ai có đóng góp nổi
bật về các lãnh vực vật lý, hóa học, y khoa, văn chương và hòa bình. Alfred Nobel muốn
lịch sử sẽ ghi nhớ ông như một người cổ vũ cho hòa bình thế giới chứ không phải là một
"ông vua cốt mìn". (FM)
29
7. Chuyện minh họa
a/ Thế nào là anh hùng?
Cuốn phim The Superman (siêu nhân) rất nổi tiếng. Sau khi đóng thành công vai chính
trong phim này, diễn viên điện ảnh Christopher Reeve đã được rất nhiều người phỏng vấn.
Câu mà anh thường được hỏi nhất là "Theo anh nghĩ, thế nào là một vị anh hùng?" Anh đã
trả lời rất nhanh: Anh hùng là người có sức mạnh, có mưu trí và có lòng can đảm. Nhờ
những đức tính đó, người anh hùng luôn chiến thắng trong những cuộc đụng độ với các kẻ
thù.
Thế rồi, một biến cố đặc biệt xảy đến với anh: tháng 5 năm 1995 anh bị té ngựa và từ đó về
sau bị bại liệt từ cổ trở xuống. Từ đó trở đi, cuộc sống của anh rất khó khăn và khổ sở đến
nỗi nhiều khi anh không muốn sống nữa. Tuy nhiên anh cũng cố gắng sống. Và anh đã có
một suy nghĩ khác hẳn về người anh hùng: anh hùng là người luôn tìm được sức mạnh để
vượt qua tất cả những khó khăn chướng ngại trong đời thường.
b/ Vác thập giá mình
Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi, anh
đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: "Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá
đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tùy thích. " Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh
ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh
tìm mãi vẫn không được: cây thì quá dài, cây thì quá ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù sì
khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá. . . Và rồi đêm nào cũng thế. . cho đến một lần kia
anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà. Nhưng ôi khi
nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào! (Trích
"Phúc")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta.
Với lòng tri ân sâu xa Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh được Chúa Giêsu thiết lập để tiếp tục công cuộc cứu độ của Người / Chúng ta
hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / luôn ý thức về sứ mạng
rao giảng Tin mừng của mình / và hết lòng cộng tác vào công việc cao quý này.
2. Trên thế giới ngày nay / chia rẽ / hận thù / kỳ thị / bất công / vẫn còn đang ngự trị trong
đời sống của nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho con người ngày nay / một
tình yêu mạnh hơn sự chết và lớn hơn hận thù.
3. Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết
mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình bằng lời nói / nhưng nhất là bằng chính đời sống
bác ái yêu thương / và phục vụ tận tụy của mình.
4. Chúa Giêsu nói: / Ai muốn theo tôi / phải từ bỏ chính mình / vác thập giá mình hằng ngày
mà theo / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết kiên tâm bền chí /
và dấn thân theo Chúa đến cùng.
Chủ tế: Lạy Chúa, Đức Kitô Con Chúa đã dùng tình thương mà chinh phục thế giới và xoa
dịu đau khổ của những người bất hạnh. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Người là
Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
30
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Thánh Phaolô nói: Nhờ phép rửa, chúng ta đã nên một với Chúa
Giêsu Kitô. Vậy chúng ta hãy hợp một lòng một ý với Ngài mà dâng lên Chúa Cha lời kinh
sau đây.
VII. Giải tán
Chúng ta sắp rời Nhà thờ để trở về cuộc sống thường ngày với bao nhọc nhằn, phiền muộn
và đau khổ. Nhưng chúng ta hãy ý thức rằng đó chính là những thánh giá hằng ngày mà
Chúa gởi đến cho chúng ta. Chúng ta hãy can đảm vác lấy mà đi theo Chúa. Có như thế
chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Ngài.
31
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
NẾU AI MUỐN THEO CHÚA
Lm Giuse Đinh lập Liễm
***
A. DẪN NHẬP.
Người Do thái đã bao đời mong đợi Đấng Messia đến. Theo họ Đấng Messia phải là một vị
đầy quyền lực và chiến thắng. Người ta không thể quan niệm được một Đấng Messia “bị
đâm thâu” như tiên tri Giacaria loan báo trong bài đọc 1 hôm nay, cũng không thể quan
niệm được một Đấng Messia như “Người tôi tớ” của Giavê như tiên tri Isaia đã loan báo (Is
53).
Đức Giêsu đến rao giảng Tin mừng, làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài đã lừng lẫy khắp
nơi nhưng người ta không nhận ra được căn tính của Ngài. Người ta chỉ coi Ngài là Gioan
Tẩy giả, ûtiên tri Isaia hay một tiên tri nào ngày xưa sống lại. Chỉ có Phêrô nhìn ra căn tính
của Ngài khi ông tuyên xưng :”Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đức Giêsu chấp nhận
lời tuyên xưng ấy nhưng ngăn cấm các ông không được nói điều ấy với ai,vì còn quá sớm
đối với người đồng hương, trong khi họ vẫn còn quan niệm về một Messia bách chiến bách
thắng.
Bất ngờ Đức Giêsu loan báo cho các ông : Ngài sẽ bị loại bỏ, bị giết chết, nhưng sau ba
ngày sẽ sống lại. Lời loan báo này làm các ông khó hiểu, nhưng sau sẽ hiểu. Tiếp theo đó,
ùNgài còn bồi thêm cho hai điều kiện nữa cho những ai muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ
của Ngài :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo “.
Chúng ta đã được chịu phép rửa, đã ”mặc lấy Chúa Kitô”(bài đọc 2) thì chúng ta đương
nhiên đã trở nên môn đệ Chúa Kitô rồi, và đã là môn đệ thì phải đi theo con đường khổ giá
mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta, đó là phải tuân phục thánh ý Chúa. Đi theo Chúa với
những điều kiện như trên xem ra là một nghịch lý, nhưng với con mắt đức tin, chúng ta sẽ
thấy rất hợp lý và là một bảo đảm cho chúng ta phần rỗi đời đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Dcr 12,10-11.
Quả là một sự đảo lộn trong viễn cảnh quen thuộc ! Người ta thường cho là Đấng Messia
phải là Đấng quyền năng và chiến thắng. Thế mà ở đây lại là hình ảnh một Đấng Messia “bị
đâm thâu”. Đấng bị đâm thâu được nhắc trong bài đọc chính là Vua Thiên Sai mà tiên tri
đã vẽ lại dung mạo. Như người Tôi Tớ đau khổ (Is 53) vị Mục Tử này bị dân Ngài giết chết,
nhưng nhờ được Thánh Thần soi sáng , họ sẽ hiểu rằng kẻ mà họ đã giết chết chính là Đấng
Messia, cho nên họ sẽ nhìn lên Ngài và sẽ khóc lóc sám hối.
+ Bài đọc 2 : Gl 3,26-29.
Đức Kitô là biến cố quyết định của lịch sử. Nhờ Ngài, qua bí tích rửa tội và trong đức tin,
chúng ta làm thành dân Thiên Chúa, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và có thể nhận
nhau như anh em, ngay trong chính những cuộc tranh chấp khiến họ đối đầu với nhau,
những cuộc ttranh chấp bắt nguồn từ sự khác biệt về chủng tộc, địa vị xã hội hoặc phái tính.
Trong trật tự mới này không còn ai bị loại trừ, không còn phân biệt Do thái hay dân ngoại,
nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, ai cũng được làm con Thiên Chúa và anh chị em với
32
nhau. Chính nhờ phép rửa tội, người tín hữu đã “mặc lấy Chúa Kitô” thì mọi người cũng trở
nên một trong Đức Kitô rồi.
+ Bài Tin mừng : Lc 9,18-24.
Mọi người đang trông ngóng Đấng Cứu Thế, một Đấng Cứu Thế đầy quyền năng và sức
mạnh có thế khuất phục được thế giới. Nhưng Đức Giêsu là Đấng Cứu thế không dùng đến
quyền năng và sức mạnh, Ngài chiến thắng bằng cách hy sinh mạng sống mình.
Cho đến lúc đó, mặc dầu nghe Đức Giêsu giảng giải nhiều, các môn đệ vẫn chưa hiểu rõ sứ
vụ của Ngài. Đức Giêsu hỏi thử các môn đệ để các ông có dịp xác nhận rõ hơn về Ngài. Và
Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Sai. Ngài xác nhận lời tuyên
xưng đó, nhưng cho biết thêm Ngài là Messia phải chịu đau khổ và chịu chết. Ngài còn nói
thêm rằng ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường đó, con đường thập
giá.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Muốn làm môn đệ Chúa.
I. ĐỨC GIÊSU LÀ AI ?
1. Căn tính của Đức Giêsu.
Vấn đề căn tính của Đức Giêsu luôn vang lên theo nhịp điệu của lời giảng và các hoạt động
của Ngài. Gioan Tẩy giả từ trong ngục đã hỏi Ngài, qua trung gian môn đệ được sai đi
:”Ngài có thật là Đấng phải đến chăng hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác”(Lc
7,19). “Ông này là ai mà lại được tha tội (Lc 7,49), những khách dự tiệc nhà ông Simon đã
kêu lên như vậy. Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ thấy Ngài dẹp yên sóng gió:”Người này
là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió và sóng gió phải tuân lệnh”(Lc 8,25). Rồi chính vua
Hêrôđê, người đã chém đầu Gioan Tẩy giả cũng phải suy nghĩ :”Người này là ai mà ta nghe
nói nhiều về ông như thế và ông tìm cách gặp Ngài”.
Câu hỏi này đôi khi đã được giải đáp.”Một vị tiên tri vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta,
và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài”. Những người chứng kiến cảnh con trai bà góa
Naim được sống lại đã đồng thanh tung hô như thế (Fiches dominicales C, tr 224).
2. Dân chúng nghĩ gì về Đức Giêsu ?
Trên đường vào các làng trong thành Cêsarê-Philipphê, Đức Giêsu dẫn các môn đệ đến một
nơi hoang vắng, nơi rất thuận tiện cho các môn đệ nghỉ ngơi và Đức Giêsu cầu nguyện một
mình. Trong khung cảnh lặng lẽ, xa mắt bọn thù địch, xa những tiếng ồn ào của đám dân
chúng đi theo Đức Giêsu vì các phép lạ Ngài đã làm, Đức Giêsu cùng các môn đệ họp mặt
để dễ bề tâm sự riêng.
Các môn đệ đã từng sống với dân chúng, các ông có thể biết nhận thức của dân chúng đối
với Đức Giêsu, nên Ngài đã hỏi các ông :”Dân chúng bảo Thầy là ai” ? Các môn đệ kể ra
những ý kiến khác nhau, lời đồn thổi về thân thế của Ngài, như Gioan an Tẩy giả, tiên tri
Êâlia (vì tiên tri đến trước loan báo Đấng Messia) hoặc một tiên tri ngày xưa sống lại.
Những nhận thức này cho thấy đám dân chúng tuy đã đón nhận các phép lạ Chúa làm nhưng
chưa nhận thức được Đức Giêsu là ai, vì thế họ chỉ biết đồng hóa Ngài với Gioan Tẩy giả,
với Eâlia hoặc một trong các tiên tri thời xưa.
3. Các môn đệ nghĩ gì về Đức Giêsu ?
Đức Giêsu hỏi tiếp ngay:”Còn các con, các con bảo Thầy là ai”? Câu hỏi này buộc các môn
đệ phải đưa ra ý kiến của mình. Phêrô nhanh nhảu đáp:”Thầy là Đấng Kitô của Thiên
33
Chúa”. Lời tuyên tín này biểu lộ đức tin của Phêrô vào Đức Giêsu là vị Thiên Sai của Thiên
Chúa, Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu (Lc 4,18 ; Cv 10,58).
Đức Giêsu liền nghiêm giọng truyền cho các ông “không được nói điều đó với ai”. Không
phải vì Ngài từ chối danh hiệu mà Phêrô vừa tặng cho Ngài, nhưng bởi vì xử dụng danh
hiệu đó là quá sớm, vì danh hiệu Messia lúc ấy còn rất hàm hồ trong ý nghĩa của người đồng
hương và ngay cả các môn đệ của Ngài : họ hiểu Đấng Messia theo nghĩa chính trị,
4. Đức Kitô đúng nghĩa.
Đức Giêsu dưới con mắt người đời chỉ là Gioan Tẩy giả hay một tiên tri ngày xưa trở lại
chứ đâu có nhìn ra được con người thật của Ngài. Trong ngôn ngữ của chúng ta có một từ
ngữ đặc biệt , đó là chữ “ngờ”. Ngờ là khó tin, khó tin nhưng có thật :
Tưởng rằng nước chảy đá mòn,
Ai ngờ nước chảy đá con trơ trơ.
(Ca dao)
Hôm nay, qua bài Tin mừng, các môn đệ cũng lâm vào cảnh khó tin, bất ngờ như vậy. Sau
những phép lạ Chúa làm, như phép lạ hóa bánh ra nhiều cho 5000 người ăn, danh tiếng của
Chúa lẫy lừng khắp nơi. Người ta còn muốn tôn Ngài làm Vua nữa. Ai ngờ hôm nay, Ngài
tuyên bố những điều thật khó hiểu, làm mất hứng :”Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị
các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.
Đây là lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Lần thứ hai ở Lc 9,44-
45. Loan tin này là Ngài muốn chỉ cho các môn đệ thấy và hiểu cách thế Ngài cứu chuộc
nhân loại : cứu chuộc bằng sự thương khó, tử nạn và phục sinh.
Đức Giêsu là Đấng Messia như Phêrô đã đoán chính xác. Nhưng Ngài không là Đấng
Messia vinh quang như dân chúng đã mong đợi. Ngài phải là Đấng Messia đau khổ. Ngài
không thống trị, Ngài chỉ phục vụ. Đức Giêsu không quan tâm chiếu rọi loại hình ảnh mà
dân chúng muốn. Ngài biết Ngài có một số phận mà Thiên Chúa đã định mà Ngài phải
hoàn thành, không sai sót.
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA
1. Ai muốn theo Chúa.
Tiếp theo đó, Đức Giêsu đưa ra lời mời gọi mọi người chứ không riêng gì các môn đệ, là
hãy theo Ngài :”Ai muốn theo Ta”. Đức Giêsu muốn khơi động lòng muốn cho những ai
theo Ngài. Điều đó chứng tỏ Chúa tôn trọng quyền tự do lựa chọn của con người, theo hay
không theo cũng được. Tiếng La tinh dùng chữ “Si quis” (nếu ai) càng rõ nghĩa hơn : chữ
“nếu” nói lên sự tự do hoàn toàn.
Nếu câu hỏi của Đức Giêsu chỉ có bấy nhiêu chữ “Nếu ai muốn theo Ta”, thì tất cả chúng ta
, những người đã được rửa tội, đều có thể đáp lại thật nhanh :”Con muốn…Con muốn theo
Chúa”. Nhưng nếu nghe trọn câu Ngài nói :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo”, thì chắc hẳn số người nhanh chóng trả lời “Con muốn”
sẽ giảm đi rất nhiều”.
2. Từ bỏ chính mình.
“Ai muốn theo Ta” nghĩa là ai muốn làm môn đệ của Đức Giêsu (đi theo ai là làm môn đệ
cho người đó). Muốn làm môn đệ của Chúa thì phải thực hiện hai điều kiện : từ bỏ chính
mình và vác thập giá hằêng ngày. Điều kiện thứ nhất là TỪ BỎ MÌNH, nghĩa là đừng nghĩ
đến mình, đến lợi lộc riêng tư, mà chỉ nghĩ đến Đấng mình làm môn đệ, mình đang theo.
34
“Từ bỏ chính mình” : xem ra từ bỏ mình nghĩa làtha hóa, vong thân (aliénation), mình
không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải
giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình
nữa nhưng ta hóa nên giống Chúa Giêsu thì thật tuyệt vời. Đó chính là “thần hóa”. Lý
tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa
Giêsu.
Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi từ đầu Thiên
Chúa đã tạo dựng con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị
“tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Chúa Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu
(Carôlô).
Theo Đức Giêsu, cũng có nghĩa là đáp lại đầy đủ lời Người mời gọi “Nếu ai muốn theo Ta,
hãy từ bỏ chính mình” (Lc 16,24). Mà, tác động từ bỏ lớn nhất con người có thể được thực
hiện là hy sinh tự do của mình, thuần phục hoàn toàn trong mọi sự theo đức vâng lời. Thực
thế, đối với con người không có gì quí giá bằng ý chí tự do, vì chính tự do làm cho con
người trở nên chủ nhân của người khác; nhờ tự do, họ có thể xử dụng và hưởng thụ những
tài năng khác và đặt định cho mọi hành vi của mình. Cũng như con người từ bỏ của cải hay
bà con thân thích, họ từ bỏ những thứ đó là từ bỏ tự do của ý riêng ; để làm cho họ được tự
chủ, họ cũng khước từ chính mình.
(Sống với Chúa, tập 3, 1967, tr 232-234)
3. Vác thập giá mình
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ nhận diện “Thầy là ai”(Lc 9,20),
để giúp họ biết “họ là ai” trong tương quan giữa họ với Đức Giêsu. Khi tuyên xưng “Thầy
là Đức Kitô của Thiên Chúa”(Lc 9,20) Phêrô cũng khẳng định “ông là môn đệ của Ngài”.
Vì thế, Chúa mới nói cho các môn đệ biết họ cũng phải đi theo con đường đau khổ giống
như Ngài :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc
9,22-23). Đó là con đường biến đổi đau khổ của thập giá thành Thánh giá.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Galát rằng :”Anh em đã chịu phép rửa
trong Đức Kitô, nên anh em mặc lấy Đức Kitô”(Gl 3,27). Mặc lấy Đức Kitô, hay mặc lấy
chiếc áo trắng rửa tội là mang lấy Thánh giá giống như Ngài. Đau khổ của thập giá tự bản
chất là hình phạt bởi tội (St 3,16-19). Nhưng qua Đức Kitô, đau khổ đã trở nên giá cứu
chuộc nhận loại, thập giá trở thành Thánh giá.
Do đó, trong bí tích Rửa tội, Linh mục làm dấu Thánh giá trên trán người được rửa tội. Đây
là một sự thực hành mà Giáo hội mượn từ quân đội Rôma. Khi một người đã trở nên một
người lính Rôma, anh bị đóng ấn bởi dấu hiệu của hoàng đế trên trán để chứng tỏ từ bây
giờ anh phải phục tùng hoàng đế. Dấu hiệu Thánh giá là dấu hiệu bề ngoài của một người
thuộc về Đức Kitô, mang lấy Thánh giá như Chúa Kitô (Nguyễn văn Thái).
Khi Đức Giêsu nói với các môn đệ “Hãy vác thập giá hằng ngày”, các ông chưa thể hiểu
được điều này, phương chi đại chúng. Đức Giêsu vừa báo tin Ngài sẽ chết, nhưng chưa nói
rõ sẽ chết cách nào. Sau khi Hêrôđê chết, hơn 2000 người bị đóng đinh, những người bị giết
phải vác khổ giá của họ đến nơi bị giết. Chữ vác thánh giá ở đây hiểu theo nghĩa thiêng
liêng : tức là chịu mọi thử thách, chết cho thế gian, chỉ sống cho một mình Chúa.
Người Kitô hữu biết từ bỏ mình và vác thập giá mình không có nghĩa là phải làm những
điều đặc biệt, những việc phi thường, mà làm những việc bình thường vừa sức mình. Nếu
nói dứt khoát “không” với chính mình không có nghĩa là phải ghét mình, bởi lẽ ta phải yêu
tha nhân như chính mình; nhưng chính là không qui hướng mọi sự về mình. Dứt khoát nói
“không” đó cũng chính là hiện tại hóa việc vác thập giá. Chính thập giá của riêng tôi mà
35
tôi phải vác lấy, thập giá của cuộc sống đè nặng vai tôi ; tôi đừng mơ tưởng một thập giá
khác. Đó không phải là chứng bệnh tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, nhưng chính là vì
biết chắc rằng tôi không thể mến Chúa và yêu tha nhân, nếu không hy sinh hoặc cách này,
hoặc cách nọ, và nếu không đi qua đau khổ. Khi bắt chước Đức Kitô như vậy, tôi mới thật là
môn đệ của Ngài (H. Cousin).
Truyện vui : Vác thập giá mình.
Vào chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh, cha sở kêu gọi giáo dân : khi quí vị đến nhà thờ đi
chặng đường Thánh giá tưởng niệm sự chết và đau khổ của Chúa Giêsu, mỗi người nên làm
một cây thập giá bằng bất cứ vật liệu nào tượng trưng cho sự đau khổ của mình trong cuộc
đời đang phải chịu. Sau chặng đàng Thánh giá yêu cầu quí vị mang lên bàn thờ cho tôi làm
phép. Mọi người đều mang lên đủ loại thập giá. Ông trùm bước lên tay không, cùng với bà
vợ. Khi cha sở hỏi , thập giá của ông đâu, ông chỉ ngay vào bà vợ và nói :”Thưa cha, đây là
thập giá của con”. Cha sở cũng làm phép, nhưng sau đó liền bảo ông rằng :”Bây giờ ông hãy
ôm lấy cây thập giá này và hôn lên cây thập giá của ông đi”.
Đây là một câu chuyện vui cười ! Nhưng Thập giá Đức Giêsu đề cập đến không phải chỉ là
bà vợ hay ông chồng. Nó không đơn thuần chỉ là một đám cưới không hạnh phúc, hay
những trở ngại khó khăn đến với chúng ta ngoài ý muốn, cũng không chỉ là những điều xui
xẻo, không may xẩy đến như thi rớt, bệnh tật, mất việc. Thập giá Đức Giêsu đề cập chính là
sự chọn lựa từ bỏ mình để dâng hiến hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa (Rm 6,13 ; 12,1).
Từ bỏ những ý kiến, suy nghĩ riêng tư, cả cái tôi kiêu căng, tự ái, ích kỷ và lòng ham hố
danh lợi (Pl 2,21). Đó là tự làm rỗng mình đi cho Thần Khí của Thiên Chúa ngự trị, để làm
theo thánh ý của Thiên Chúa . Đó là với Đức Tin Cậy Mến chúng ta biến đổi Thập giá thành
Thánh giá, đau khổ trở nên giá cứu chuộc linh hồn cho mình và cho nhân loại (Nguyễn văn
Thái, Sống Lời Chúa giữõa dòng đời, C, tr 229).
III. HÃY ĐỒNG THUẬN VỚI CHÚA.
1. Tuân phục thánh ý Chúa.
Tuân phục thánh ý Chúa là đặt ý Chúa lên trên ý riêng của ta. Muốn được thế, chúng ta phải
hủy diệt ý riêng, từ bỏ sự tự do của mình, hiến dâng nó cho Chúa như dâng một lễ vật toàn
thiêu để không còn giữ lại cho mình một chút gì. Đó là sự vâng phục hoàn toàn thánh ý của
Chúa và ta sống hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Người.
Hãy coi mình như dụng cụ Thiên Chúa dùng. Chúng ta là sản phẩm Thiên Chúa dựng nên,
cho dù ta đẹp đẽ, hay ho mấy cũng chỉ là dụng cụ của Chúa dùng trong việc làm sáng danh
Ngài. Dụng cụ là gì ? Là đồ dùng để làm việc gì như chàng , đục, cưa để làm thợ mộc; máy
may, kim, chỉ dùng để may áo. Dụng cụ được coi như phương tiện cần dùng để đi tới đích.
Mà thân phận của dụng cụ là ít được biết tới. Người ta chỉ chú ý tới đồ vật được làm ra hay
chỉ nghĩ tới tác giả của nó.
Chúng ta là những dụng cụ của Chúa, những dụng cụ vô dụng được ở dưới sự xử dụng vô
cùng khôn khéo của Thiên Chúa, để mặc dầu chúng ta là vô dụng, nhưng chính Chúa sẽ làm
cho nó trở nên hữu dụng, ích lợi và còn cần thiết nữa, như người ta nói :
Ai làm cho cải tôi ngồng,
Cho dưa tôi khú cho chồng tôi chê.
Chồng chê thì mặc chồng chê,
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.
(Ca dao)
36
Vì là dụng cụ của Chúa nên chúng ta cần phải có thái độ khiêm nhường, những thành công
tốt đẹp không phải chỉ do chúng ta, mà do Chúa vì một bài thơ hay, không phải tự cái bút
mà là do thi sĩ. Cái bút tốt hay xấu, có nó hay không thì những vần thơ vẫn có trong đầu óc
thi sĩ rồi. Cũng đừng buồn khi không được dùng vào những công việc cao vì không có tài :
đôi guốc không hề phàn nàn vì phải ở dưới chân, cái mũ không hãnh diện vì được ở trên đầu
người ta… Ở đâu hay được dùng vào việc gì là tùy ở công dụng của nó và tùy ở quyền
người xử dụng. Chúng ta chỉ biết than thở với Chúa rằng :
Khi hoàn tất việc đã làm,
Nâng lòng lên Chúa mà than thở rằng :
Này con vô dụng muôn phần
Phần con, con đã thi hành mà thôi.
(Lc 17,10)
Truyện : Tờ giấy trắng và cây viết
Khi nhắc đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ đến những phát minh khoa học
và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí ông Leonardo de
Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc đặt ra những câu chuyện vui sau đây về một
cuộc đối thoại tưởng tượng giữa một tờ giấy trắng và cây viết :
Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lì trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó
được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết
bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cây viết như sau :
- Tại sao anh lại làm thế ? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng
ban đầu. Anh làm nhục tôi như thế này sao ? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.
Nhưng cây viết trả lời :
- Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lêân anh
những dấu hiệu, những dòng chữ kể từ nay anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có
mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người. Lưu giữ những tư
tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ
giúp cho con người.
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ
giấy khác, trước kia trắng tinh nay đã đổi mầu, đầy bụi mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Tờ
giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cây viết và lấy
làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con
người (R.Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 52).
2. Theo Chúa là khôn ngoan.
Ở đời, con người có cái dại có cái khôn, tùy theo quan niệm của từng người. Đối với tiền
của, mỗi người có một quan niệm. Người có tinh thần siêu thoát thì coi tiền của như đầy tớ
trung thành phục vụ cho mình, người phàm tục coi tiền của như ông chủ khắc nghiệt, mình
phải làm tôi tớ cho nó. Nó có thể sai khiến mình phải làm bất cứ một việc gì, mặc dầu có hại
cho mình. Đúng như người ta nói :”Hoàng kim hắc thế tâm nhân” : đồng tiền làm đen tối
lòng người.
Vì thế, dại khôn, khôn dại bị đảo lộn, tùy theo quan niệm của từng người. Thi sĩ Nguyễn
công Trứ có cái nhìn đúng đắn khi ông nói :
Đã không điều lợi khôn thành dại,
37
Đã có đồng tiền dở cũng hay.
Đối với những người theo Chúa, người đời có những cái nhìn khác nhau. Đã theo Chúa thì
phải đi con đường khổ giá mà con đường khổ giá là phải từ bỏ mình, vác thập giá mình
hằng ngày mà theo.
Đối với thập giá, nhiều người cũng có cái nhìn khác nhau. Đại đa số người ta có cái nhìn bi
quan về thập giá, họ cho thập giá là một sự điên rồ hay là cớ vấp phạm, không chấp nhận
được. Ta hãy nghe thánh Phaolô nói về vấn đề này như thế nào :
“Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm sự
khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái
cho là ô nhục không thể chấp nhận được, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những
ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức
mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn
ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài
người”(1Cr 1,22-25).
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói đến hai điều nghịch lý, thoạt xem ra có
vẻ phi lý, nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Đó là nghịch lý giữa mất vàcòn,
giữa chết và sống.
Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng nghịch lý thay, nhiều
khi vì “được” mà phải “mất” : Thí dụ trong một vụ tranh cãi, bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu
mô để cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng một vụ cãi, nhưng mất tình nghĩa bạn bè, anh
em và có khi cả cha con. …
Chết và sống không hẳn là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ
nhau : ví dụ hạt giống có thối nát ra thì mới sinh hoa kết quả được, con vật có bị giết chết đi
thì mới phục vụ sự sống cho con người, cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt đi thì mới cung
cấp ánh sáng cho con người (Carôlô).
Như vậy, với con mắt đức tin, những người theo Chúa và đi theo con đường thập giá của
Ngài là nhưng người khôn ngoan, hiểu Lời Chúa và biết lo cho tương lai của mình :”Nếu
được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì” ?
Truyện : Hạt trân châu
Ngày xưa có ba chàng kỵ mã vượt qua một bãi sa mạc quạnh hiu không một bóng người.
Một hôm trời vừøa sập tối, ba chàng kỵ mã cũng vừa đến một bờ suối đã khô cạn từ lâu.
Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật vang lên mơ hồ :
- Hãy dừng chân lại.
Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng nói bí mật ấy lại tiếp tục vang lên mơ hồ :
- Các ngươi hãy xuống ngựa, bước xuống lòng suối, nhặt lấy cho mình ít đá sỏi, bỏ vào túi
rồi tiếp tục lên đường. Cả ba đều làm theo lời chỉ dạy thiêng liêng. Rồi tiếng nói kia lại cất
lên trầm ấm
- Hay lắm, các ngươi đã làm theo lệnh ta. Ngày mai, khi vừng đông vừa ló dạng các người
sẽ vừa sung sướng vừa buồn bã.
Các kỵ mã lên đường dong ruổi ban đêm. Quả đúng như lời mách trước, khi mặt trời vừøa
lên, ba chàng ky mã thấy cái gì lấp lánh trong túi mình. Thì ra, những hòn sỏi họ lấy chiều
hôm trước bây giờ đã trở nên những hạt trân châu sáng ngời muôn sắc. Cả ba đều vừa sung
sướng, nhưng cũng vừa nuối tiếc. Họ sung sướng vì nhận được của báu, nhưng họ hối tiếc
vì nhặt quá ít (Nguyễn văn Huệ, báo Rạng đông, số 64, 1970, tr 26).
38
39
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
BỎ MÌNH THEO CHÚA VỚI THÁNH GIÁ
(Lc 9, 18 – 24)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
***
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều khơi dậy lòng nhiệt thành và quí trọng của dân chúng, họ
muốn tôn Chúa lên làm vua, Chúa Giêsu đã lánh riêng ra một nơi, xa cách dân chúng để
trong thinh lặng, cùng với các môn đệ hàn huyên tâm sự và cầu nguyện. Chúa hỏi các môn
đệ : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? ” (Lc 9, 20). Đại diện cả nhóm Phêrô tuyên
xưng : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20 ) lập tức các ông bị cấm không được
nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Kitô : “Con
Người phải chịu nhiều đau khổ nhiều…và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 9, ),
và loan báo điều kiện dành cho những ai muốn đi theo Chúa : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ
mình, vác thập giá mà theo” (Lc 9, 23).
Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của con
người là điều hiển nhiên. Khi con người thực hiện đời mình chỉ hướng tới thành công xã
hội, giầu sang vật chất và kinh tế, gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo
Thiên Chúa nữa, mà theo con người.
Theo Chúa phải từ bỏ
Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu đòi hỏi là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội
được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ
tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con
người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa
Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy
vọng.
Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không bắt chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là”, nhưng điều
“chúng ta đã trở nên”. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi
tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều
Chúa đã làm, nhưng là điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà
tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng
xấu, tội lỗi, phủ trên hình ảnh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh
dưới đất”, ngược với “ảnh trên trời”, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta”,
là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.
Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác biệt yêu nhau. Muốn cho tình
yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người
kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông
kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt,
Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình
yêu.
Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao
tiếp với Chúa. Chúa đã từ bỏ chính mình trước… trở nên giống chúng ta. Chúng ta sẽ không
40
có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không”
với chúng ta.
Theo Chúa là chấp nhận thập giá
Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu
mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI
viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có
điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập
giá mình hàng ngày mà theo Ta” (Lc 9, 23). Chúa Giêsu không muốn thập giá, Người muốn
tình yêu, yêu đến tận cùng. Theo Chúa là chấp nhận thập giá của mình với lòng mến. Dưới
con mắt người đời, “chịu mất mạng sống” (Lc 9, 24) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết
trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự
vâng phục toàn vẹn con thảo” (Chúa nhật niềm vui 9/5/1975). Khi tự nguyện chấp nhận cái
chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả chúng ta và trở thành suối nguồn ơn thánh
cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng
đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem
lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Bài giáo lý về thập giá Đức Kitô XIII,1).
Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói : “Thánh Phêrô, người đã tuyên
xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan
với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi
mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta
tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa:
chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng
không phải là môn đệ của Chúa.”
Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để
cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ
chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
41
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ CỦA THIÊN CHÚA
(Lc 9, 18-24)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
***
"Thầy là ai ? " là câu hỏi do Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ về nguồn gốc của chính
mình. Trong số người đương thời, có người cho là Giêsu thành Nagiaret sinh tại Bêlem, con
bà Maria. Nhưng trong câu hỏi của Chúa Giêsu, hàm chứa lý lịch về mình thể hiện qua lời
nói, dấu chỉ Người thực hiện. Qua đời sống công khải và sứ mạng của Chúa Giêsu, câu hỏi
được đặt ra xoay quanh vấn đề Đức Kitô với vụ án: "Ông có phải là Đấng Kitô không ?"
Câu chuyện trong bữa tiệc tại nhà ông Simon người Biệt phái, chúng ta nghe tuần trước.
Simon cho rằng : "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là
ai… là một người tội lỗi" (Lc 7, 39). Nhận định của Simon cho thấy Chúa Giêsu có vấn đề tình
cảm.
Còn hội thoại hôm nay, quen gọi là tuyên xưng đức tin miền Xêsarê, Chúa Giêsu đặt câu hỏi
cho các môn đệ về chính mình : "Những đám đông dân chúng bảo Thầy là ai ? Các ông
thưa rằng : Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho
là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại" (Lc 9, 18-19). Giờ đây, chúng ta có thể đặt
một câu hỏi tương tự và làm cuộc điều tra về Chúa Giêsu với mọi người. Mỗi người một ý
kiến: kẻ này cho rằng Chúa Giêsu là một nhà khôn ngoan, người khác cho là một nhân vật
hư cấu, v.v.
Chúa Giêsu không ngại khi hỏi các môn đệ về chính bản thân mình : "Phần các con, các
con bảo Thầy là ai ? " (Lc 9, 20). Chúa yêu cầu họ tự xem, Người có vị trí nào trong đời
sống của họ. Nhân danh cả nhóm, Phêrô trả lời : "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa."
Đấng Kitô của Thiên Chúa nghĩa là Đấng được xức dầu làm ngôn sứ và vương đế để trở
thành mục tử chăn dắt Israel. Trên miệng của Phêrô, tước hiệu Đấng Kitô chứa đựng ý
tưởng toàn năng. Các môn đệ nghĩ rằng Chúa Giêsu đến để tái lập Vương Quốc Israel,
Người sẽ dùng quyền năng đánh đuổi quân Rôma, đưa Do thái lên thống trị. Vì thế, khi
Phêrô thưa : "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa" (Lc 9, 20), là ông nghĩ tới một vị Kitô
vinh quang, thống trị toàn năng, chiến thắng mọi kẻ thù. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại
bảo họ im lặng.
Những trang tiếp theo của Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu ba lần loan báo cuộc thương khó
rằng Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết. Nhưng các môn đệ không hiểu, không
tin vào những gì sắp xảy đến. Đối với họ, Đấng Kitô chịu khổ nạn là không thể, hình ảnh
Đấng Kitô vinh quang khác với hành động của Người. Họ không thể đón nhận Đấng Kitô
đau khổ thay vì vinh quang.
Tại sao vậy ? Vì sau phép lạ hóa bánh ra nhiều theo Tin Mừng Gioan, đám đông chạy theo
Chúa Giêsu để tôn Người lên làm vua. Chúa Giêsu thử lòng họ, giải thích cho họ ý nghĩa về
sứ mạng của mình : "Các ngươi muốn Ta làm vua, vì Ta đã cho các ngươi ăn bánh no nê…"
(Ga, 6, 26). Nhưng họ không hiểu lời Người nói, không phải vì trí hiểu kém, nhưng vì ý
tưởng về Đấng Kitô chịu đau khổ đối với họ là hoàn toàn xa lạ.
Tuy nhiên, hình ảnh này đã được các tiên tri loan báo, cụ thể như tiên tri Dacaria mà chúng
ta đã nghe "Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu qua " (Dcr 12, 11), hoặc bài ca
về người tôi tớ đau khổ trong sách tiên tri Isaia. Các môn đệ có thể biết rằng con đường của
Đấng Kitô không đơn giản là đường vinh quang. Nhưng nếu họ biết, họ không thể chấp
42
nhận! Hãy sống nhờ Người và kết hợp với Người để Người biến đổi chúng ta. Vì thế, trong
khi dùng bữa tại nhà ông Simon, người đàn bà tội lỗi, với thái độ khiêm nhường và yêu
thương, đã chỉ ra rằng Chúa Giêsu là Đấng giầu lòng thương xót. Còn Simon, ông không thể
nhận biết Đấng đến nhà mình, vì sự cứng lòng của ông.
Chúa Giêsu nói : "Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà
theo" (Lc 9, 23). Để khám phá ra căn tính của Chúa Giêsu để bước theo, cùng với Phêrô
chúng ta nói : "Thấy là Đấng Kitô của Thiên Chúa", và sẵn sàng nói : tôi chấp nhận bước
theo trên con đường của Chúa, và vác thập giá tôi hằng ngày. Nếu không, chúng ta khó lòng
có thể biết Người cách đích thực.
Câu hỏi về căn tính của Chúa Giêsu không đơn giản là câu hỏi điều tra, tín điều hay là chú
giải Kinh Thánh, cũng không phải là câu trả lời cho những người đến hỏi Chúa Giêsu hoặc tìm
xem Kinh Thánh nói gì về Chúa. Đây là một câu hỏi về đời sống ! Toàn bộ lịch sử, Kinh Thánh
hoặc tín điều chúng ta nói về con người Chúa Giêsu, chúng ta chỉ là mình khi biết chấp nhận đi
trên đường Chúa đã chỉ cho.
Vậy là, từ tuần này qua tuần khác, Tin Mừng mạc khải dần dần cho chúng ta về căn tính đích thực
của Đấng Kitô để dẫn chúng ta tiến về Giêrusalem cách khải hoàn, cùng lúc soi sáng tâm hồn
chúng ta và dạy cho chúng ta biết rằng, ta chỉ có thể nhận biết Chúa Giêsu nếu chúng ta để Chúa
biến đổi đời ta.
Chúng ta thường đặt ra những khó khăn về sứ vụ loan báo Tin Mừng. Điều kiện tiên quyết
của sứ vụ là Tin Mừng biến đổi lòng chúng ta. Trở ngại của Tin Mừng trước hết không phải
là người mà chúng ta loan báo. Tin Mừng đến từ chúng ta. Vấn đề Tân Phúc Âm hóa không
phải là khả năng chiến thắng trên những người tin hay không tin Chúa Giêsu. Hãy để cho
Tin Mừng biến chúng ta thành những vị thánh, để những ai thực sự không biết đến Đấng
Kitô có thể hỏi chúng ta như tên lính đứng dưới chân thập giá : "Người này có phải là con
Thiên Chúa hay không ? "
Chúng ta đón nhận lời mời gọi hoán cải và hồng ân sự sống với niềm tin : " Ai muốn cứu
mạng sống mình thì sẽ mất, và ai liều mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ giữ được mạng sống
mình" (Lc 9, 24). Vậy hãy mở lòng mình ra đón lấy Đức Kitô để lời Người đổi mới cách
sống của chúng ta, và sự hiện hữu của chúng ta trở nên lời đáp trả cho những người chung
quanh. Amen.
43
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU
(Dcr 12,10-11; Gl 3,26-29; Lc 9,18-24)
Jos.Vinc. Ngọc Biển
***
Trong đời sống thường ngày, có nhiều tiếng gọi. Có những tiếng gọi xuất phát từ người
khác, cũng có những tiếng gọi khởi đi từ chính ta. Khi nghe và gọi người khác như thế, hẳn
giữa người lên tiếng và người lắng nghe đều muốn đi vào sự hiện hữu của nhau qua tiếng
gọi và lời đáp trả.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng cất tiếng gọi các môn đệ. Ngài gọi các ông không phải để nhờ
các ông làm một việc gì đó cho mình, cũng không phải để thông tri với các ông một sự kiện,
biến cố nào đó. Nhưng Ngài gọi các ông đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đang
đi; đồng thời trao phó cho các ông sứ vụ đến với muôn dân để đem ơn cứu độ tới tận cùng
trái đất. Con đường đó là: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.
1. Đức Giêsu gọi các môn đệ để làm gì và đi đâu?
Khi gọi các môn đệ đi theo mình, Đức Giêsu đã huấn luyện họ thành những người thừa kế
và trao cho họ sứ vụ là quy tụ muôn dân trở thành môn đệ. Nhưng có lẽ, trước mắt và trong
tâm tưởng, các ông vẫn nghĩ Đức Giêsu sẽ là vua, một vị vua đánh đông dẹp bắc, một vị vua
đem lại hoà bình cho dân tộc bằng cách đánh đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma. Khi đã
thành công, các ông hy vọng sẽ nắm được những vị thế cao trọng trong triều đình. Nhưng
chớ trêu thay, Đức Giêsu lại là một vị vua quá đỗi lạ lùng!
Quả thật, hôm nay, Ngài làm cho các ông ngỡ ngàng khi loan báo về một cuộc thương khó
mà chính Ngài sẽ trải qua: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng
tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”. Khi mạc khải cho các
ông như thế, Đức Giêsu âm thầm nhắc cho các môn đệ của mình biết được rằng: con đường
giải thoát của Ngài là con đường tình yêu, tha thứ, từ bỏ, bất bạo động. Đỉnh cao của con
đường ấy chính là cuộc thương khó, tử nạn và phục sinh. Ngài không sử dụng con đường
của hận thù, quyền lực và bạo tàn. Tắt một lời, con đường đó chính là con đường của mầu
nhiệm tự huỷ, chết cho người khác được sống và sống dồi dào.
Khi Đức Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ biết con đường mà Ngài sẽ đi như thế, Ngài
cũng mời gọi họ bước theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã, đang và sẽ đi. Tuy
nhiên, muốn bước đi theo Đức Giêsu trên hành trình đó, đòi hỏi người môn đệ phải có
những điều kiện căn bản phù hợp với đặc tính của lời mời gọi này.
2. Điều kiện cần để đi theo Đức Giêsu
Khi mặt giáp mặt, lòng hiểu lòng, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ
chính mình” (Lc 16,24). Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi
trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng, chứ không phải vì nặng nề; tự do chứ không phải ép
buộc. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an
và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống theo tinh thần Tin Mừng. Thật thế,
con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung
lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ
ghề và chông gai. Con đường đó là con đường của từ bỏ.
44
Từ bỏ chính mình là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Nếu theo Đức Giêsu, từ bỏ
nhiều thứ mà chưa từ bỏ chính mình thì kể như chưa bỏ gì cả. Từ bỏ chính mình là thể hiện
sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.
Tuy nhiên, chỉ có từ bỏ mình thôi cũng chưa đủ! Bởi vì, nếu một người chỉ lo việc Chúa mà
không lo chu toàn bổn phận hằng ngày của mình thì theo Chúa cách chưa trọn vẹn. Theo
Chúa cách trung thành và trọn vẹn là phải bỏ ý riêng, phải chu toàn bổn phận, phải vác thập
giá của mình hằng ngày mà theo (x. Lc 9,22-23).
3. Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu
Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên
giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi. Muốn
đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí những thứ cồng
kềnh, diêm dúa. Những thứ đó là: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ…
Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không
thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành.
Vì thế, khi mặc lấy Đức Giêsu, tức là ta trở nên giống Ngài, thì đây cũng là lời mời gọi ra
khỏi những định kiến riêng tư, để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi
xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.
Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì
vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để
chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn bổn phận của
mình cách trung thành và hợp lý.
Trong thực tế, có rất nhiều người làm nhiều việc công ích cho xã hội và Giáo Hội. Ở đâu
cần là họ sẵn sàng xả thân giúp đỡ, bất luận trời nắng hay mưa. Thế nhưng, trớ trêu thay,
cũng chính những người đó, khi lo cho mọi người thì rất tốt và chu đáo, nhưng việc gia
đình, bổn phận của mình thì lại là một người cẩu thả, bê bối. Lại có những người chỉ thích
vác thánh giá cho cả làng, còn thánh giá của mình thì đặt lên vai, lên cổ người khác và bắt
họ vác thay. Thiết nghĩ, những người như thế, Chúa sẽ không vui, và những ai phải ở với
những người đó thì thật là một khổ hình!
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là
thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu
thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài. Con đường của Đức
Giêsu đã đi là con đường hẹp; con đường của hy sinh; con đường của khổ giá. Nhưng con
đường đó đã đem lại cho Ngài một vinh dự lớn lao, để “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả
trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa
Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giêsu Kitô là Chúa’” (Pl 2,5-11).
Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng
ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng
ngày và chu toàn bổn phận cách trung thành, để chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và
yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa. Như thế, chúng ta chính là
quà tặng dâng cho Thiên Chúa và trao cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa, và mau mắn thi
hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Biết đi theo Chúa trên con đường mà chính Chúa
đã đi, biết chu toàn bổn phận theo đấng bậc và vai trò của mình. Biết làm mọi việc tầm
thường cách phi thường bằng con đường “tình yêu” như Chúa. Amen.
45
46
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
THẦY LÀ AI ?
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
***
Chúa Giêsu và các môn đệ đi qua miền đất dân ngoại, đến địa hạt thành Cêsarê Philiphê,
một thành phố được quận vương Philiphê chỉnh trang để tôn vinh Hoàng đế Cêsarê. Trên
chóp đỉnh của một khối đá đứng sừng sững, một ngôi đền nguy nga bằng cẩm thạch trắng
thờ Hoàng Đế La Mã được coi là một kỳ công trong vùng.Một số nhà chú giải cho rằng,
cảnh tượng vĩ đại đó đã gợi ý khi Chúa tuyên bố Giáo hội của Ngài sẽ được xây trên nền
tảng Phêrô vững chắc như một bàn thạch. Tuy nhiên, ý tưởng ấy đã có từ khi Chúa quyết
định đổi tên Simon thành Kêpha hay Phêrô, nghĩa là Đá trong cuộc gặp gỡ đầu tiên (Ga
1,42).
Theo thói quen trước khi quyết định những điều quan trọng, Chúa Giêsu vừa đến nơi liền đi
vào một chỗ thanh vắng, một mình cầu nguyện với Chúa Cha. Các Tông đồ chờ Thầy ở
ngoại ô thị trấn. Họ nghiệm rằng, mỗi khi Thầy xa họ và trở về là có diễn tiến mới.Thầy trò
lại đi về phía những làng nhỏ. Dọc đường Ngài hỏi các ông : Người ta nói Thầy là ai ? Các
ông đáp lại : có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả. Một số nói là Êlia, một số khác cho là
một trong các tiên tri thời xưa như Giêrêmia. Nhưng Chúa nhấn mạnh : Còn các con, các
con nói Thầy là ai ? Phêrô lên tiếng : Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.
1. Ba mức độ nhận biết
Bài Tin Mừng cho thấy, có ba mức độ nhận biết về Chúa Giêsu.
- Dân chúng nhận thấy Chúa Giêsu là một tiên tri như Gioan Tẩy Giả, như Êlia hay một
tiên tri nào đó. Tiên tri là sứ giả của Thiên Chúa nên thường có quyền làm được vài phép lạ
như chữa bệnh, cứu đói… Dân chúng đến với tiên tri chủ yếu để xin ơn này ơn khác. Họ
nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Ngài để xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho
kẻ chết sống lại. Họ đến với Chúa Giêsu vì lợi ích, để cầu lợi cầu phúc. Cho nên họ không
thể nhận ra Ngài là Đấng Kitô.
- Các môn đệ nhận biết về Chúa Giêsu. Khi Chúa hỏi: “Các con bảo Thầy là ai ? Phêrô đại
diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Tại hội đường
Nazarét, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn
phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc 4,18 ; Is 11. 61,1-2 ; 1V 19,16).
Chúa Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.
Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô
sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân,
làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua
Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha
muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Ngài siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi
đất, Ngài là Đấng Thánh của Israel và nước Ngài tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 ; 12).
Theo truyền thống tiền nhân, các môn đệ cũng quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như
thế. Vì vậy, khi thấy Chúa Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin cho
hai con trai: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe
Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Ngài ra và can ngăn Ngài đừng dại dột thế. Chúa
Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng
của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 22-23).
47
- Mức độ thứ ba chính là cao điểm của toàn thể Kinh Thánh và mầu nhiệm cứu độ nơi
Thập Giá và Phục Sinh. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Con người phải chịu nhiều đau
khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống
lại”. Đó là sứ mệnh chính yếu của Đức Kitô: tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá
để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian
mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào
trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ
để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu
Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân
đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3, 16-
18 ; 15, 13).Con đường đó chứng tỏ một tình yêu cho đến cùng, chứng minh Đức Kitô là
Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải tin
và đi vào con đường đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo.
Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến dâng mạng sống mình vì Tôi
và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.
2. Xác định đường đi
Suy niệm trang Tin Mừng này, Thánh Gioan Kim Khẩu viết : khi Chúa hỏi về dư luận quần
chúng, mọi Tông đồ đều trả lời. Khi Chúa hỏi cảm nghĩ của các ông, Phêrô một mình lên
tiếng trước các bạn. Không phải do xác thịt nhưng nhờ Chúa Cha mạc khải nên Phêrô nhận
biết Thầy Giêsu là Đức Kitô ở tầm mức cao nhất. Phêrô nhận ra trong Giêsu “con người”
có một Giêsu “Thiên Chúa ”. Phêrô nhận ra trong nhân tính bình thường như mọi người của
Chúa Giêsu có một thần tính cao vượt rất riêng của vị Thiên Chúa làm người. Vì thế, Phêrô
được Chúa khen tặng và tín nhiệm trao quyền tối thượng : “Phêrô, con là đá, trên đá này
Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng được”. Ba hình ảnh cụ thể
mô tả quyền tối thượng của Phêrô trong Giáo Hội. Đó là, Phêrô được trao chìa khóa Nước
Trời, Phêrô được quyền tháo gỡ, cầm buộc và cửa địa ngục sẽ không thắng được.
Tuyên tín Chúa Giêsu là ai tức là xác định đường mình đi. Phêrô đã tuyên tín trên đường
hành trình với Chúa. “Các con nói Thầy là ai ? ”, Chúa không hỏi các môn đệ câu ấy trong
lúc nghĩ ngơi mà lúc đi đường. Những ngày ở Giêrusalem, ở Galilê, ở Nazareth, người ta
nói về Đức Giêsu, người ta xem Ngài làm phép lạ, họ gọi Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, là
một tiên tri nào đó. Không ai biết Ngài là Đức Kitô. Để biết Ngài, phải sống và hành trình
với Ngài và cùng đi với Ngài trên mọi nẻo lối trần thế.
3. Câu hỏi dẫn tới đời sống đức tin.
"Thầy là ai?”, Chúa Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi
được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả
lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo
theo một nếp sống khác nhau.
Chúa Giêsu là ai ? Câu hỏi là cửa ngõ dẫn tới đời sống đức tin. Câu hỏi ấy luôn chờ lời đáp
trả dứt khoát cho một vận mệnh đời đời. Phêrô đã khám phá ra thần tính trong nhân tính của
Chúa Giêsu. Phaolô trên đường Đamat, bị té ngựa do ánh sáng từ trời, đã hốt hoảng kêu
lên : “Ngài là ai ? ” và có lời đáp bất ngờ : “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5),
Phaolô khám phá ra nhân tính trong thần tính của Đấng đã gọi ngài.
Chúa Giêsu là tâm điểm đức tin của chúng ta, bởi lẽ “dưới bầu trời này, không có Danh nào
khác”, ngoài Danh Giêsu “được ban cho loài người để nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Cv
4,12). Nếu ai đó hỏi rằng điều gì làm nên một Kitô hữu, thì câu trả lời là: đó là người tin
rằng Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Niềm tin đó là đá nền,
trên đó Hội Thánh được xây dựng (GLCG số 424). Tin vào Chúa Giêsu Kitô có nghĩa là yêu
48
mến Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Yêu mến Ngài như chúng ta có
thể yêu mến Thiên Chúa (Đnl 6,4-5). Điều độc đáo và đặc biệt của niềm tin Kitô giáo là tin
rằng Đức Giêsu, một con người được sinh ra dưới thời hoàng đế Cêsarê Augustô và chết
trên thập giá dưới thời hoàng đế Tibêriô, người ấy chính là Thiên Chúa, là Con Hằng Hữu
của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đó là mầu nhiệm khôn dò của đức tin
Kitô giáo “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,11).
Chỉ trong ánh sáng này chúng ta mới hiểu được tại sao tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là
bước theo Ngài, và bước theo Chúa là đòi hỏi quan trọng hơn mọi cam kết khác trong đời.
Làm sao một con người thuần túy mà có thể nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không
xứng đáng với Thầy; ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt
10,37)? Đòi hỏi ấy chỉ có thể đến từ Đấng là chính Thiên Chúa. Làm sao một con người mà
có thể nói: “Tất cả những ai nhìn nhận Thầy trước mặt người đời thì Con Người cũng sẽ
nhìn nhận họ trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)? Điều đó lại chẳng có
nghĩa rằng ơn cứu độ vĩnh cửu tùy thuộc vào thái độ của người ta đối với Chúa Giêsu sao?
Nếu chỉ nơi Chúa Giêsu mới có ơn cứu độ, nếu chỉ có Ngài mới là “Đường, Sự Thật và Sự
Sống” thì liệu có ai có thể được cứu độ mà không cần đến Chúa Giêsu? Nếu như thế, biết
bao người chưa hề nghe đến Danh Chúa Giêsu, không có cơ hội để nhận biết và yêu mến
Ngài thì sao (GLCG số 846-847)?. Chính Chúa Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này: đến giờ
phán xét, Con Người sẽ tỏ cho thấy tất cả những hành động yêu thương chân chính dành
cho tha nhân “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta đau yếu,
các ngươi đã viếng thăm…”, tất cả những hành động yêu thương ấy đều là cho chính Chúa:
“Điều gì các ngươi đã làm cho người anh em bé mọn nhất, là làm cho chính Ta” (Mt 25;
GLCG số 1038).
Sau lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã được biến đổi và trở nên khác với Simon ngày trước.
Phaolô sau lần ngã ngựa cũng không còn sống như Saolô lúc trước được nữa. Cả hai ngài đã
trở nên cột trụ xây dựng Hội Thánh và cả hai đã đánh đổi mạng sống như để tuyên tín cho
muôn đời rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là đức tin của chúng tôi,
đó là đức tin của Hội Thánh và chúng tôi hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.
“Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), bất cứ ai được tình yêu này chiếm hữu, bất cứ
ai kinh nghiệm về sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và quyền năng phục sinh
của Ngài, thì người ấy sẽ cảm thấy nỗi ước mong loan báo về Ngài, rao giảng Tin Mừng của
Ngài, và dẫn mọi người đến niềm tin vào Chúa Giêsu (GLCG số 429).
Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi ấy, Phêrô và Phaolô đã trả lời bằng lời chân thành tuyên xưng,
bằng đời nhiệt thành rao giảng và bằng cái chết trung thành minh chứng.
Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi đã hơn hai ngàn năm cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm
nay. Trả lời là sống niềm tin yêu hy vọng nơi thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô.
Ngài là Thiên Chúa để chúng ta tôn thờ kính yêu thao thức tìm kiếm gặp gỡ gắn bó. Ngài ở
trong Bí Tích, Phụng Vụ, Thánh Kinh, Thánh Thể cho ta tìm hiểu lãnh nhận. Ngài hiện diện
nơi anh chị chung quanh để gọi ta tôn trọng thương mến quan tâm chia sẻ cảm thông liên
đới trách nhiệm. Ngài hôm qua hôm nay và mãi mãi “là Thiên Chúa thật và là người thật”.
Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô, yêu mến Ngài, bước theo Ngài. Và hơn nữa, “Anh em
không còn là nô lệ nhưng là con” (Gal 4,7). Nhờ Chúa Giêsu, với Ngài và trong Ngài,
chúng ta trở nên những “con cái của Thiên Chúa” (1Cor 6,18).
49
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C
THẬP GIÁ CHÚA KITÔ
Trích Logos C
***
Vào ngày mùng 03 tháng 02 năm 2004 vừa qua, tên của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã được
công bố tại trụ sở Liên Hiệp Quốc như là người sẽ được trao giải “Trọn Đời Vì Hòa Bình”
trong Lễ Trao Giải Thưởng Âm Nhạc Hòa Bình [WPMA] dự kiến sẽ tổ chức tại sân vận
động Mỹ Đình, Hà Nội sắp tới. Đây là giải thưởng lớn trong một buổi lễ long trọng mang
tầm vóc quốc tế với sự hiện diện của nhiều nghệ sĩ tài danh đã có công đóng góp vào nền
hòa bình thế giới.
Buổi lễ này sẽ được phát sóng trên toàn thế giới cho khoảng 2 tỷ người xem. Đây sẽ là buổi
biểu diễn có qui mô lớn nhất trong lịch sử hoạt động biểu diễn ở Việt Nam với sự tham gia
của hơn 300 nghệ sĩ đến từ 25 quốc gia. Chương trình này được sự tài trợ của nhiều cá
nhân, đơn vị và được sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc.
Tên của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nằm bên cạnh những tên tuổi lớn của các nhạc sĩ và ca
sĩ lừng danh thế giới. Tên tuổi và những ca khúc của nhạc sĩ họ Trịnh đã đi vào tâm hồn
những người yêu nhạc ở Việt Nam từ hơn 40 năm qua và bây giờ cũng bắt đầu đi vào lòng
mọi người trên thế giới.
Tên của một người thường nói lên số phận và hoạt động hay sứ mạng của người ấy. Tên của
một người cũng thường xác định con đường mà người đó đi, diễn tả cả cuộc sống của người
ấy. Với hơn 500 ca khúc “để đời”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn như một “ngọn núi” luôn muốn
vươn lên từ thân phận “cát bụi” của con người và hướng mọi người lên tới Chân, Thiện,
Mỹ.
Chúa Giêsu ít nhắc đến tên của mình cho dân chúng, nhưng Ngài lại muốn các môn đệ xác
định danh xưng Ngài một lần cho tất cả : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Thánh
Phêrô như “tảng đá của niềm tin” đã thay mặt anh em để tuyên xưng : “Thầy là Đấng Kitô
của Thiên Chúa”. Khi tuyên xưng danh thánh Chúa, Phêrô đã chứng tỏ mình là “nền móng”
đức tin cho Giáo Hội như chính tên Phêrô “đá tảng” mà Chúa Giêsu đã đặt cho ngài.
Danh xưng Kitô không những xác định thân phận “Đấng được xức dầu” nhưng còn tỏ rõ
định mệnh của “Người Tôi Tớ Đau Khổ”. Chúa Giêsu nói rõ cho các môn đệ biết Ngài sẽ
phải chịu nhiều đau khổ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Tên của thập giá
Tên của Chúa không được đặt cho những con đường, những công viên, những cây cầu. Tên
của Chúa cũng không được đặt cho những phát minh, những công trình hay những thành
tựu khoa học. Nhưng tên của Chúa lại được đóng vào thập giá trên đồi Golgotha : “Giêsu
Nazareth, Vua dân Do thái”. Tên của Ngài đã bị đóng vào một bản án khắc nghiệt nhất, bản
án dành cho người tử tội. Thánh Phaolô đã gọi tên Chúa là “Giêsu Kitô, Đấng bị đóng
đinh”. Tên Chúa không được tôn vinh trong ánh hào quang, nhưng lại gắn liền với thập giá
là dụng cụ hành hình của người La mã. Tên Chúa bị đóng đinh vào lịch sử với dấu hiệu của
sự ô nhục. Vì vậy, tên Ngài đã bị đồng hóa với khổ đau và hy sinh. Thập giá mãi mãi mang
tên Giêsu – Kitô.
Tiên tri Zacaria đã nói trong bài đọc 1 : “Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu
qua”. Quả thật, thế giới hôm nay đang ngước nhìn lên thập giá. Có người nhạo cười, có
người khóc than, lại có kẻ chống đối và khước từ. Nhưng thánh giá vẫn mãi là dấu chỉ làm
nên một vấn nạn lớn cho mọi thời đại : “Đức Giêsu Kitô, Ngài là ai ?”.
50
Những người mang tên Chúa
Là kitô hữu, chúng ta là những người mang tên Chúa, vì chúng ta được mời gọi vác thập giá
đi theo Chúa mỗi ngày : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày
mà theo Ta”. Nếu tên Chúa đã gắn chặt vào thập giá, thì những kitô hữu khi mang tên Chúa
cũng gắn chặt đời mình vào thập giá. Chúng ta được mời gọi để đóng đinh đời mình vào
thánh giá Chúa. Chúng ta được mời gọi để tháp nhập đời mình vào cuộc tử nạn của Chúa để
được sống lại trong vinh quang cùng với Ngài. Chỉ khi nào chúng ta đánh mất mình vì
Chúa, chúng ta mới tìm gặp lại mình một cách trọn vẹn hơn.
Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galata đã kêu gọi chúng ta hãy “mặc lấy Đức Kitô” để
nên đồng hình dạng với Đức Kitô. Mặc lấy Đức Kitô là mang tên Chúa, là gắn chặt vào định
mệnh của Đấng bị đóng đinh, là đi theo Chúa với thánh giá vác trên vai.
Một cậu bé đang chơi với cái bình rất quí giá. Cậu đã thọc bàn tay vào cái bình và không
thể rút ra được. Cha cậu bé cố gắng giúp cậu nhưng vô ích. Họ chỉ còn cách đập vỡ cái
bình. Nhưng người cha bảo cậu bé :
- Bây giờ con hãy thử lại một lần nữa xem. Con hãy duỗi thẳng bàn tay rồi rút ra.
Cậu bé liền nói :
- Không được đâu cha ơi, nếu con duỗi thẳng bàn tay ra, thì con sẽ đánh rơi đồng xu của
con.
Chúng ta sẽ cười vì câu nói của cậu bé, nhưng nhiều người trong chúng ta cũng hành động
giống như cậu bé, cứ cố giữ những đồng xu của danh lợi thú đời này, mà đánh mất hạnh
phúc vĩnh cửu đời sau : “Kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất
mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.