50
1 CÁC BÀI SUY NIM LI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN NĂM C *** 1. BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC 2 2. THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ - Chú gii ca Noel Quesson .............................................................. 4 3. TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CA PHÊRÔ - Chú gii ca Fiches Dominicales........................ 8 4. PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN - VÀ ĐỨC GIÊSU TIÊN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ LẦN ĐẦU - Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM. ............................................................................... 12 5. MU NHIM CỨU ĐỘ ĐƯỢC THC HIỆN TRONG ĐAU KHỔ - Lm. Inhaxiô HThông ............................................................................................................................................... 17 6. QUA THẬP GIÁ ĐẾN VINH QUANG - Ban Mc vThánh Kinh & Ban Phng tTGP.Sài Gòn.................................................................................................................................... 22 7. CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG MESSIA CHU KH- Lm. Carôlô HBc Xái ......................... 25 8. NU AI MUN THEO CHÚA - Lm Giuse Đinh lập Lim ...................................................... 31 9. BMÌNH THEO CHÚA VI THÁNH GIÁ - Lm. Antôn Nguyn Văn Độ ......................... 39 10. BMÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU - Jos.Vinc. Ngc Bin .......... 43 11. THY LÀ AI ? - Lm Giuse Nguyễn Hữu An ............................................................................. 46 12. THP GIÁ CHÚA KITÔ - Trích Logos C.................................................................................. 49

CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

1

CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN NĂM C

***

1. BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC 2

2. THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ - Chú giải của Noel Quesson .............................................................. 4

3. TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ - Chú giải của Fiches Dominicales ........................ 8

4. PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN - VÀ ĐỨC GIÊSU TIÊN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ

LẦN ĐẦU - Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM. ............................................................................... 12

5. MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG ĐAU KHỔ - Lm. Inhaxiô Hồ

Thông ............................................................................................................................................... 17

6. QUA THẬP GIÁ ĐẾN VINH QUANG - Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự

TGP.Sài Gòn.................................................................................................................................... 22

7. CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG MESSIA CHỊU KHỔ - Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái ......................... 25

8. NẾU AI MUỐN THEO CHÚA - Lm Giuse Đinh lập Liễm ...................................................... 31

9. BỎ MÌNH THEO CHÚA VỚI THÁNH GIÁ - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ......................... 39

10. BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU - Jos.Vinc. Ngọc Biển .......... 43

11. THẦY LÀ AI ? - Lm Giuse Nguyễn Hữu An ............................................................................. 46

12. THẬP GIÁ CHÚA KITÔ - Trích Logos C .................................................................................. 49

Page 2: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

2

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC

***

BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

"Họ sẽ nhìn thấy Đấng họ đã đâm thâu qua".

Bài trích sách Tiên tri Dacaria.

Đây Chúa phán: "Ta sẽ gieo rắc tinh thần ân phúc và cầu nguyện trên nhà Đavít và trên dân

cư Giêrusalem. Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu qua: họ sẽ khóc than người,

như khóc than con một, họ sẽ thương tiếc người như quen thương tiếc đứa con đầu lòng đã

chết. Trong ngày đó, tại Giêrusalem sẽ có tiếng khóc than to lớn, như khóc than A-đa-rê-

mon trong cánh đồng Ma-gết-đô".

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 62, 2. 3-4. 5-6. 8-9

Đáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khát khao Chúa (c. 2b).

1) Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con

khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp

nước!

2) Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và

vinh quang của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ

xướng ca ngợi khen Ngài.

3) Con sẽ chúc tụng Ngài như thế trọn đời con, con sẽ giơ tay kêu cầu danh Chúa. Hồn con

được no thoả dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan

hỉ.

4) Vì Chúa đã ra tay trợ phù con, để con được hoan hỉ núp trong bóng cánh của Ngài. Linh

hồn con bám thân vào Chúa, và tay hữu Chúa nâng đỡ người con.

BÀI ĐỌC II: Gl 3, 26-29

"Anh em đã chịu phép rửa tội, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô".

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Vì

chưng tất cả anh em đã chịu phép rửa tội trong Đức Kitô, nên anh em đã mặc lấy Đức Kitô.

Nay không còn phân biệt người Do-thái và Hy-lạp, người nô lệ và tự do, người nam và

người nữ: vì tất cả anh em là một trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng nếu anh em thuộc về Đức

Kitô, thì anh em là dòng dõi Abraham, những kẻ thừa tự như lời đã hứa.

Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 14, 23

All. All.- Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến

người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - All.

PHÚC ÂM: Lc 9, 18-24

"Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa. Con Người phải chịu nhiều đau khổ".

Page 3: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

3

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Việc xảy ra là khi Chúa Giêsu cầu nguyện riêng một nơi, và có các môn đệ ở với Người, thì

Người hỏi các ông rằng: "Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?" Các ông thưa rằng:

"Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho là một

trong các tiên tri thời xưa đã sống lại". Người lại hỏi các ông rằng: "Phần các con, các con

bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Và Người

ngăn cấm các ông không được nói điều đó với ai mà rằng: "Con Người phải chịu nhiều đau

khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ

sống lại". Người lại phán cùng mọi người rằng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập

giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ

nào mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình".

Đó là lời Chúa.

Page 4: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

4

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ...

Chú giải của Noel Quesson

***

Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình.

Theo Luca, Đức Giêsu bắt đầu bằng việc cầu nguyện mỗi khi có một biến cố quan trọng sắp

xảy ra, hay một khúc quanh quyết định xuất hiện trên bình diện con người, trong diễn tiến

của cuộc đời. Người: Lúc Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan (Lc 3,21)... Lúc các đám

đông nhiệt thân tuôn đến với. Người (Lc 5,16)... trước lúc chọn mười hai tông đồ (Lc

6,12)… trước lúc yêu cầu họ tuyên xưng đức tin (Lc 9,18)... trước lúc biến hình (Lc 9,28)...

trước lúc dạy kinh Lạy Cha cho các bạn hữu Người (Lc 11,1)… vào lúc chọn theo thánh ý

Chúa Cha trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Lc 22,41)... ngay trước lúc chết trên thập giá (Lc

23,34 và 23,46)... Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đanh cầu nguyện: Khuôn mặt Người, đôi môi

Người, tấm lòng Người. Những lúc cầu nguyện của Đức Giêsu chắc chắn là có thật. Hẳn

chúng ta sẽ giảm thiểu những lần cầu nguyền ấy nếu chúng ta tưởng rằng Đức Giêsu chỉ cầu

nguyện để nêu gương cho chúng ta. Thật vậy, những lúc cầu nguyện mà Luca kể ra đều

trúng vào những thời điểm rất căng thẳng đối với con người. Người thật sự cầu xin sự giúp

đỡ của Cha Người để có sức mạnh hoàn thành sư mạng khó khăn của Người cho đến cùng...

Người không hề đóng kịch.

Ví dụ như ở đây, rõ ràng chứng ta ở vào một thời điểm then chốt. Đức Giêsu vừa mới thực

hiện một dấu chỉ cao cả của Đấng Mêsia là hóa bánh ra nhiều trong sa mạc (Lc 9,10-17).

Các đám đông nham hố muốn đưa Người lên làm vua, nhưng Đức Giêsu từ chối vai trò thế

tục này (Gioan 6,15) và điều đó sẽ làm cho các đám đông bỏ Người. Vì thế Đức Giêsu

muốn thăm dò tâm khảm các tông đồ: Chí ít là họ, họ có tiếp tục theo Người không? Đó là

điều không chắc chắn.

Bấy giờ, Đức Giêsu cầu nguyện cho họ, như sau này người sẽ cầu nguyện cho Phêrô "để

Phêrô khỏi mất lòng tin" (Lc 22,32) Tôi có cầu nguyện cho “đức tin" của mình không? Tôi

có cầu nguyện khi có những quyết định quan trọng không? Tôi cầu nguyện khi các biến cố

bắt đầu xảy đến? Tôi có cầu nguyện cho những người mà tôi có trách nhiệm?

Không cần đi xa hơn trong việc suy niệm, tôi dùng chính giây phút này để cầu nguyện.

Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Đám đông nói Thầy là

ai?" Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông

Êlia, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại..."

Sau khi đã cầu nguyện, Đức Giêsu hỏi. Quả thật câu hỏi liên quan đến đức tin cá nhân của

các bạn hữu Người. Nhưng Người không đặt ngay câu hỏi chủ yếu cho họ. Với một ý thức

sắc bén về khoa sư phạm, Người tăng cấp các câu hỏi của Người, và trước tiên đặt một câu

hỏi không đưa họ vào chiều sâu để họ dễ trả lời. Nhưng câu trả lời đầu tiên không thể đầy

đủ..Lặp lại các ý kiến của những người khác thì quá dễ. Phải dấn thân một cách cá nhân.

Phải chọn cho mình một quan điểm. Sau cùng thì "cuộc thăm dò dư luận" cho thấy một sự

nhất trí lớn. 100% các đánh đông đều đánh giá rằng Đức Giêsu là một con người tôn giáo

rất vĩ đại, một "ngôn sứ", một người "phát ngôn" của Thiên Chúa, như Luca thường chỉ cho

chúng ta thấy (Lc 4,18-19-26-27; 7,11-16-17; 24,19). Đức Giêsu là một Êlia mới, được

Thiên Chúa toàn thiêu... một Môsê mới, nhà giải phóng.

Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Page 5: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

5

Bản thân mỗi Kitô hữu phải trả lời câu hỏi này. Nhưng coi chừng, chúng ta không thể gian

lận. Đọc kinh Tin Kính mà thôi vẫn thưa đủ! Người ta có thể nói bằng chính miệng mình

rằng Đức Giêsu Kitô là "ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, v.v..."

và vẫn khẳng định rõ ràng điều ngược lại bằng các hành động có thật của chúng ta. Vấn đề

không chỉ làm sự tuyên xưng đức tin bằng lời: Chính đời sống mỗi ngày của chúng ta là câu

trả lời chân thật. Chớ gì cung cách, hành động của tôi nói rằng: "Tôi tin Đức Giêsu”.

Ông Phêrô thưa:…

Bên trên các cuộc tranh luận không dứt về quyền bính của Giáo Hoàng và các khuôn mặt

quá con người mà quyền bính ấy đã khoác vào trong dòng lịch sử... trên những gắn bó nặng

tình cảm hoặc những đố ky sâu xa mà Giáo Hoàng gây ra... Chúng ta không thể không nhận

thấy vai trò trổi vượt của Phêrô trong Tin Mừng. Các Giáo Hoàng hiện nay rất ưu tư với

việc khôi phục hình ảnh tâm linh chân chính ấy. Trong những giờ phút phân vân, khi đám

đông do dự, khi những ý tưởng rõ ràng mờ nhạt và đức tin có nguy cơ suy sụp thì một tiếng

nói, ở trái tim và ở trung tâm của Giáo Hội nổi lên, tiếng nói của Phêrô, có trách nhiệm

"củng cố anh em của ngài trong đức tin" (Lc 22,32)... và Đức Giêsu đã cầu nguyện cho

Phêrô.

Vừa rồi, khi chỉ muốn biết dư luận của quần chúng về các hoạt động rao giảng, người ta

đoán rằng mọi môn đệ đều nhanh nhẩu nói ra những điều họ nghe nói. Nhưng khi phải tỏ rõ

thái độ rõ ràng hơn thì chính Phêrô là người “mở lời" nhân danh cả nhóm. Tôi cầu nguyện

cho Đức Giáo Hoàng hiện nay. Tôi sẽ dành thời gian để đọc lại và đào sâu các sứ điệp của

ngài.

Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa".

Câu trả lời của Phêrô do đó đi xa hơn các câu trả lời của đám đông. Chúng ta hãy so sánh ba

văn bản mà chúng ta có được về "lời tuyên xưng đức tin" nổi tiếng của Phêrô. Có nhiều

cách tuyên xưng đttc tin, tùy theo các cộng đoàn.

Matthêu 16,16 Máccô 8,29

"Thầy là Đấng Kitô" “Thầy là Đấng Kitô!"

"Con Thiên Chúa hằng sống."

Luca 8,20

"Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa!”

Chính xác, Phêrô đã nói những lời nào? Người ta không biết được. Tin Mừng không bao giờ

là một bài tường thuật thuần túy vật chất. Đối với các độc giả Hy Lạp, Luca thấy cần phải

xác định rõ một từ quá Do Thái là từ Mêsia (bản dịch tiếng Hy Lạp là "Christos") và thêm

vào: "Đấng Kitô của Thiên Chúa". Vả lại từ Christos có nghĩa là Đấng được xức dầu... Đấng

được 'Thiên Chúa xức dầu, được Thiên Chúa thâm nhập, thấm nhuần!

Vậy Phêrô nhận ra nơi Đức Giêsu điều mà chính Người đã loan báo ngay trong diễn từ đầu

tiên ở hội đồng Nadarét: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để

tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn" '(Lc 4,18 và Is 61,I).

Sau mười tám tháng sống với Đức Giêsu, Phêrô nhắc lại điều mà Đức Giêsu nói về mình.

Căn tính sâu xa của Đức Giêsu không phải là một thực tại có thể suy diễn từ những quan sát

thuần lý: Chúng ta chỉ có thể tiếp nhận dưới thể thức của “sự mạc khải". Sự xức dầu của

Thần Khí, sự thấm nhuần Thần Khí trên Đức Giêsu không thể thấy được.

Page 6: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

6

Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. Người bảo rằng: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại

bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy".

Vâng chỉ có Phục sinh, dưới hai khía cạnh Thập Giá và vinh quang mới cho phép người ta

hiểu được Đức Giêsu là ai. Còn giờ đây, các tông đồ được mời gọi không được nói ra căn

tính của Đức Kitô.

Nhưng đối với nhóm Mười Hai, sự loan báo này về cuộc khổ nạn đã xuất hiện như một gáo

nước lạnh giội vào người. Trong cùng một cảnh tượng, hai Thánh sử Matthêu và Máccô ghi

lại rằng Phêrô đã bị quở trách vì không hiểu được cuộc khổ nạn.

Nếu Đức Giêsu đã cầu nguyện thì có lẽ cũng trong miễn cảnh lời loan báo này về các chết

của Người. Khi đã nhận thức về vai trò của Đấng Mêsia đau khổ mà Người phải thực thi,

Người đã nhìn thấy cai chết của Người hiện ra ở chân trời của tuổi thanh xuân Người, trên

những tháng còn lại phải sống ở cuộc đời này... Nếu ngày hôm đó Người đã nói đến cuộc

khổ nạn, ngay sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô chính vì Người vừa nghĩ về điều đó

nhiều hơn trong lúc cầu nguyện.

Tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu đã chuẩn bị lâu dài cái chết của Người... khi nhìn thấy cái

chết ấy đến với người không phải dưới hình thức của một căn bệnh bất trị, không thuốc

chữa hoặc sự mòn mỏi của tuổi già như thường xảy ra đối với nhiều người trong chúng ta

thấy mình sắp chết... mà dưới hình thức của sự thù ghét lớn lên dần nơi các kỳ mục, thượng

tế cùng kinh sư. Đức Giêsu đã chuẩn bị chết như thế nào? Bằng cách cầu nguyện Chúa Cha.

Trong chiều hướng này, chữ "phải" mà Người dùng trong câu nói lúc bấy giờ có một ý

nghĩa trọn vền. Không phải là một điều tất yếu, một sự cam chịu, một định mệnh…mà là

một sự bằng lòng tự nguyện, tuân theo thánh ý của Chúa Cha đã được ghi chép trong Kinh

Thánh.

Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: "Ai muốn theo tôi, phải từ' bỏ chính mình, vác thập

giá mình hằng ngày mà theo".

Bản dịch "Đức Giêsu nói với đám đông" không chính xác lắm: Bản Hy Lạp thật ra đã viết: '

"Đức Giêsu nói với mọi người...". Luật của thập giá là một luật phổ quát.. Không ai thoát

khỏi thập giá. Khi đã loan báo sự đau khổ của Người, Đức Giêsu loan báo cho chúng ta sự

đau khổ của chúng ta, hôm nay.

Những lời này của Đức Giêsu khó mà chấp nhận. Để cho những lời ấy trội tuột đi như thể

không liên quan gì đến chúng ta thì rất dễ dàng. Quả là đã có một sự thuyết giáo nào đó

trong quá khứ về sự đau khổ đã quá cường điệu một thần bí thuyết về "hiến tế" mà người ta

tìm thấy trong đời sống của một số thánh nhân: "Hãy đau khổ hết mức có thể, trong thung

lũng nước mắt này... để xứng đáng với Thiên Đàng!" Nietzsche. đã bác bỏ quyết liệt sự

thích thú hành khổ ấy. Tuy nhiên, không để mình rơi vào những sự thái quá ấy, chúng ta

phải khám phá lại giá trị sâu xa của những lời Đức Giêsu mà Người ta không thể loại bỏ

khỏi Phúc âm (những lời ấy được thuật lại đến sáu lần!). Những người nào chỉ nói với

chúng ta về sự phát triển, chỉ kêu gọi chúng ta hưởng lạc thú là những kẻ nói dối, những con

buôn các điều ảo tưởng, và là những kẻ tuyên truyền xấu xa cho tính ích kỷ tầm thường

nhất: Không! Không có Người nào xứng danh con người, đã xây dựng một đời sống thành

công mà không phải chịu một mức độ "hy sinh" to lớn. Ai không biết quên mình, sẽ không

bao giờ biết yêu thương? Ai không biết hy sinh sẽ không biết yêu thương.

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống vì tôi, thì

sẽ cứu được mạng sống ấy.

Page 7: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

7

Đây là một nghịch lý! Mỗi ngày, vâng, mỗi ngày, người ta có thể tự tìm kiếm chính mình

hoặc quên mình, giữ mạng sống mình hoặc hiến dâng nó, không yêu thương hoặc yêu

thương. Phải luôn luôn lựa chọn.

Page 8: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

8

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ

Chú giải của Fiches Dominicales

***

TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN CỦA PHÊRÔ VÀ LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN

THỨ NHẤT

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Một mạc khải ăn sâu vào tâm tình cầu nguyện hiếu thảo của Đức Giêsu

Không có đoạn chuyển tiếp, từ cảnh hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông (Tin Mừng Chúa

nhật vừa qua), qua đó Đức Giêsu tỏ mình như một vị ngôn sứ của thời kỳ sau hết sang cảnh

Phêrô tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người lần thứ nhất.

Đức Giêsu đang cầu nguyện.

- Ghi chú câu này nói lên chủ ý của Luca muốn báo trước rằng: biến cố sắp được thuật lại là

biến cố quan trọng. Thật vậy, ta đang ở vào bước ngoặt cuộc đời công khai của Đức Giêsu

và hành trình đức tin của các môn đệ; thời kỳ bản lề giữa sứ vụ rao giảng ở Galilê đang kết

thúc, và hành trình lên Giêrusalem (bài Tin Mừng Chúa nhật tới 9,51) sau biến cố Hiển

Dung trên núi cao. Còn lại một mình với nhóm môn đệ, Đức Giêsu cầu nguyện chuẩn bị

bước vào giai đoạn mới này.

- Ghi chú này cũng muốn nêu bật một điều là người ta chỉ có thể thực sự nhận ra căn tính

đích thực của Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong mối tương quan của Người với Ngôi

Cha, mối tương quan mà các môn đệ dường như "được móc" vào, theo cách diễn tả của Ph.

Bossuyt và J. Rademakers (“Giêsu Lời ân sủng theo thánh Luca", tr. 263).

2. Một mạc khải về đường đi của Con Người...

Vấn đề căn tính của Đức Giêsu luôn vang lên theo nhịp điệu của lời giảng và các hoạt động

của người. Gioan Tẩy Giả từ trong ngục đã hỏi người, qua trung gian các môn đệ được sai

đi: "Ngài có thật là Đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác?" (7, 19).

"Ông này là ai mà lại tha được tội?" (7,49) những khách dự tiệc ở nhà ông Simon biệt phái

đã kêu lên như vậy. Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ thấy Người dẹp yên sóng gió: "Người

này là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió, là sóng gió phải tuân lệnh?" (8,25). Rồi chính vua

Hêrôđê, người đã chém đầu Gioan Tẩy Giả cũng phải suy nghĩ: "Người này là ai mà ta nghe

nói nhiều về ông như thế. Và ông tìm cách gặp Người".

Câu hỏi này đôi khi đã được giải đáp. "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, là

Thiên Chúa đã viếng thăm dân người!". Những người chứng kiến cảnh con trai bà góa Naim

được sống lại đã đồng thanh tung hô như thế. Một ít người khác nói: "Đó là Gioan Tẩy Giả

từ cõi chết sống lại" có người khác lại bảo: "Đó là ông cha đã xuất hiện", cũng các người

khác nói: "Đó là một trong có ngôn sứ thời xưa đã sống lại".

- Giờ đây Đức Giêsu tự ý đặt câu hỏi về chính thân thế của mình với các môn đệ. Câu hỏi

này có 2 thì:

+ Trước hết Người lên tiếng hỏi "Dân chúng bảo Thầy là ai? Và như ta đã thấy các môn đệ

kể ra nhttng ý kiến khác nhau, đồn thổi về thân thế của Người, như "Gioan tẩy Giả", “ngôn

sứ Êlia" (vị ngôn sứ đến trước loan báo Đấng Mêsia), “một trong các ngôn sứ thời xưa nay

sống lại".

Page 9: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

9

+ Đức Giêsu hỏi tiếp ngay "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?". Như thế các môn đệ bị

bắt buộc phải đưa ra ý kiến của mình.

Phêrô đáp: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Còn hơn Gioan Tẩy Giả, hơn cả Êlia hay

một ngôn sứ nào thời xưa. Đức Giêsu là vị Thiên Sai của Chúa, Đấng đã được Thiên Chúa

xức dầu, "Đấng Mêsia" (Mêsia tiếng ram dịch sang tiếng Hy Lạp là Kitô = Đấng được xức

dầu).

"Đức Giêsu liền nghiêm giọng truyền các ông “không được nói điều ấy với ai". Không phải

vì Người từ chối danh hiệu mà Phêrô vừa tặng cho Người. nhưng bởi vì sử dụng danh hiệu

đó là quá sớm, vì danh hiệu Mêsia lúc ấy còn rất hàm hồ trong ý nghĩ của những người đồng

hương và ngay cả các môn đệ Người. H. Cousin nhắc lại rằng: "Một với bản Pharisêu được

soạn thảo 24 năm về trước, thánh vịnh vua Salomon 17 - miêu tả Đấng Mêsia xua đuổi

người di cư và ngoại kiều ra khỏi đất Thánh để thanh tẩy mọi ô uế, và Người cai trị mọi dân

nước trên hoàn cầu bắt đầu từ Giêrusalem" (“L'Evangile de Luc". Centurion, trg 133- 134).

Sẽ đến lúc khi thấy Thầy mình phải đi qua con đường thập giá, và trong ánh sáng phục sinh,

thì các môn đệ mới thực sự hiểu được rằng Thầy mình được gọi là "Đấng Mêsia của Thiên

Chúa" theo ý nghĩa nào. Không phải là Đấng Mêsia theo mơ ước phàm trần là áp đặt công

cuộc khôi phục thời đại mới bằng dũng lực, nhưng là Đấng Mêsia khiêm tốn, hòa bình, mở

đường cứu rỗi cho hết mọi người bằng đường lối phục vụ, cho đến độ hy sinh thân mình.

Như thế Đức Giêsu tiếp nối việc tuyên xưa đức tin của Phêrô, bằng việc loan báo lần đầu

tiên cuộc khổ nạn, sống lại của Người: "Con Người cần phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ

mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết cà ngày thứ ba sẽ chỗi dậy Khi nói "Con

Người cần phải..." là Chúa dùng một kiểu nói bày tỏ sự tuân phục tự nguyện trước kế hoạch

nhiệm mầu của Chúa Cha đã được nói trước trong Sách Thánh. - Kỳ mục, thượng tế, kinh

sư là ba thành phần của Thượng Hội đồng.

3…. đó cũng là con đường của mọi môn đệ Chúa.

Cho đến đây là lời Chúa nói với các môn đệ. Còn bây giờ, Người ngỏ lời với "mọi người",

H. Cousin chú giải, "Tất cả những ai sau này sẽ đón nhận lời Phúc âm. Họ cần phải biết rõ,

việc đi theo Đức Kitô đòi hỏi những gì" (Sđd, tr. l34). "Mọi người" nếu muốn bước theo

Người cũng sẽ phải liên kết với thân phận của Thầy mình. Người nói với họ: "Ai muốn theo

tôi phải từ bỏ mình, các thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống

mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Những lời cứng rắn mạnh mẽ này đã không ngừng và còn không ngừng vang dội trong tâm

hồn hàng ngàn hàng vạn người đã được Tin Mừng chinh phục. H. Cousin nhận xét: "chính

Người vừa loan báo mình sẽ bị giết, lại là Người đặt điều kiện cho những ai muốn theo, phải

di trên cùng một con đường Người đã đi, và phải là môn đệ của Người dù phải lấy cái chết

để làm chứng nếu hoàn cảnh đòi buộc.

Tuy nhiên, điều trước tiên ta nên tìm kiêm trong ba mệnh lệnh trên là trung tín mỗi ngày

trong đời sống người Kitô hữu

Hơn là những điều đặc biệt, phi thường (câu 23). Dứt khoát nói “không" với chính mình

không có nghĩa là phải ghét mình, bởi lẽ ta phải yêu tha nhân như chinh mình (10, 27);

nhưng chính là không quy hướng mọi sự về mình. Dứt khoát nói "không” đó cũng chính là

hiện tại hóa việc vác thập giá. Chính thập giá của riêng tôi mà tôi phải vác lấy thập giá của

cuộc sống đè nặng vai tôi; tôi đừng mơ tưởng một thập giá khác. Đó không phải là chứng

bệnh tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, nhưng chính là vì biết chắc rằng tôi không thể mến

Chúa và yêu tha nhân, nếu không hy sinh cách này hoặc cách nọ, và nếu không đi qua đau

khổ. Khi bắt chước Đức Kitô như vậy, tôi mới thật là môn đệ của Người" (Sđd, trg 135).

Page 10: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

10

BÀI ĐỌC THÊM:

1. Đáp lại câu hỏi của Chúa bằng hành động, một câu hỏi luôn đặt cho ta.

Câu hỏi nổi lên từ giây phút Chúa cầu nguyện trong thinh lặng: Hôm đó "Chúa cầu nguyện

một mình".

Đức Giêsu thường tìm nơi thanh vắng. Người mau mắn đến đó, người siêng năng đến đó để

tìm gặp một Ai đó. Và chắc chắn cũng để bồi bổ sức lực để lại ra khơi. Câu hỏi Người đặt ra

cho các môn đệ Người, sẽ tồn tại qua các thế kỷ. Nó sẽ đánh động hàng ngàn hàng vạn

lương tri. Bao lâu trái đất còn tồn tại, câu hỏi đó vẫn luôn luôn rộng mở "Đám đông nói

Thầy là ai?".

Đức Giêsu sẽ là nhân vật được yêu mến nhất trong lịch sử nhân loại. Người ta tuyên xưng

tên Người khắp năm châu. Mọi cá nhân và tập thể đều ghi nhớ khuôn mặt của Người. Cả

đến điện ảnh, ca nhạc, hoạt hình cũng nhắc lại hình ảnh bác thợ mộc thành Nadarét, vị ngôn

sứ lữ hành, Đấng bị đóng đinh, Đấng phục sinh... Tuy nhiên, Người là ai đối với đám đông?

Người là nhân vật mà người ta hân hoan mừng chúc rnà không hề mảy may quan tâm đến

lời nói, và hành động của Người, là nhân vật mà người ta trông đợi mọi sự ở đời sau, mà

không muốn phấn đấu để đổi mới thế giới hiện tại chăng? Là nhân vật mà người ta gọi tên

nhưng không hề tìm hiểu con đường Người đã khai mở chăng?

Các bạn hữu Người sẽ trả lởi khi Người hỏi: "Còn các anh, các anh bảo thầy là ai?". Phêrô

trả lời không ngần ngại: "Thầy là Đấng Mêsia của Thiên Chúa". Nghĩa là: là Đấng người ta

trông đợi, là Đấng khôi phục Israel, là Đấng đại diện Thiên Chúa quyền năng. Câu trả lời

này chưa làm Đức Giêsu thỏa mãn.

Người sẽ đưa ra câu trả lời của mình, dường như người ta hỏi ngược lại người. Nhưng

Người sẽ không dùng một công thức một danh hiệu hoặc một chức vụ làm câu giải đáp.

Người sẽ nói lên những nguy hiểm mà Người đã trải qua. Nói lên cái chết mang lại cả ý

nghĩa cho cuộc đời Người và cả sự phục sinh của Người nữa.

Người đi về phía đám đông và la to: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình

hằng ngày mà theo. Để cứu được mạng sống, Người đòi người ta phải liều mạng sống mình,

phải hiến dâng mạng sống mình.

Ngày nay trong thế giới này dư dật là đói khổ, tiến bộ và thất vọng, khôn ngoan sáng suốt và

vô tâm dửng dưng tất cả cùng chen vai sát cánh bên nhau, thì theo Đức Giêsu "thế nào đây?

Làm sao để được giải thoát, rồi trở thành người giải phóng đây. Làm sao đáp lại bằng hành

động cho câu hỏi Chúa luôn đặt cho ta đây?

2. "Các anh bảo Thầy là ai?" Câu Chúa hỏi ta mỗi ngày

Chính vào lúc vừa tâm sự thân mật với Cha Người xong, Đức Giêsu khởi đầu một giai đoạn

mới trong việc đào tạo các môn đệ là đám đông dân chúng. Lòng tin, những ước mơ và

niềm hy vọng được an thân của họ sắp bị lung lay tất cả. Đúng là “cớ vấp phạm cho người

Do Thái, điên dại đối với dân ngoại".

Sẽ cần phải từ từ dựng lên một cây thập giá trên hy vọng về một Đấng Mêssia toàn năng,

được các tư tế hân hoan đón tiếp được các nhà thông thái thừa nhận, công khai ủng hộ và

nâng đỡ được dân chúng tung hô đón rước và làm quân xâm lược Rôma sợ hãi, kính nể. Giờ

đây. Đức Giêsu biết Ngài đi đâu. Trong thinh lặng cầu nguyện. Người đánh giá lại tình thế

và lấy thánh ý Chúa Cha để sàng lọc tất cả. Người biết rằng mình sẽ không được những kẻ

đang mong đợi, là những kẻ mà Ngươi được sai đến hiểu biết và đón nhận. Còn phải chuẩn

bị cho các tông đồ, các môn đệ và những người có cảm tình biết để sẵn sàng chấp nhận thử

thách đáng sợ này.

Page 11: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

11

Tin Mừng của Đức Kitô không phù hợp với tham vọng và những giá trị trần tục, cũng

không theo các lợi lộc, truyền thống là cách suy diễn của giới giàu có, thông thái là quyền

thế, nên sẽ bị người ta nhân danh cả Thiên Chúa là chân lý mà tuyên bố là rối đạo. là nguy

hại.

Các tông đồ và môn đệ đã tin chắc như đinh đóng cột rằng Đức Giêsu phải khải hoàn vào

"thành đô" của Người cùng với vương miện hoàng tử trên đầu. Nhưng trong thành đô ấy sẽ

chỉ có đồi Canvê và mão gai.

Thầy là Đấng Mêsia của Thiên Chúa? Một lời tuyên tín tuyệt vời. Nhưng liệu nó có thể có

giá trị gì nếu ta không bước theo Đấng giải phóng, không luôn sẵn sàng từ bỏ cái nhìn hẹp

hòi, cách suy diễn phiến diện, và những xác tín quá trần lục của ta?

Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Đó là câu Chúa hỏi ta mỗi ngày. Đó là lời mời gọi

khẩn thiết để ta thường xuyên rà soát lại những ý tưởng ta có về Đức Giêsu và so sánh cách

xử sự của ta với cách xử sự của Người.

Page 12: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

12

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

PHÊRÔ TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN

VÀ ĐỨC GIÊSU TIÊN BÁO CUỘC THƯƠNG KHÓ LẦN ĐẦU

(Luca 9,18-24)

Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

***

1.- Ngữ cảnh

Ngay sau truyện Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông, tác giả Lc đặt truyện

Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Lời tuyên xưng này dường

như được dùng để thay thế cho phản ứng kinh ngạc và lời tung hô mà ta thường thấy tác giả

dùng làm kết thúc một truyện phép lạ.

Đàng khác, so với TM Mc, lời tuyên xưng của Phêrô được đặt rất gần với câu hỏi tiểu vương

Hêrôđê đặt ra về Đức Giêsu (9,9). Rất có thể tác giả muốn coi lời Phêrô đáp lại câu hỏi của

Đức Giêsu cũng là câu trả lời cho câu hỏi được vua Hêrôđê đặt ra trước đó. Cũng vì lý do

đó mà ngài đã rút ngắn bản văn bằng cách bỏ ghi chú về địa lý cũng như lời phản đối của

Phêrô sau đó cùng với lời Đức Giêsu mắng ông. Lời tuyên xưng của Phêrô không còn là

một bước ngoặt quyết liệt như trong Mc (ch. 8), hoặc như bản văn đăt nền móng cho Hội

Thánh nữa như trong Mt (ch. 16), nhưng được dùng như câu trả lời cho vua Hêrôđê.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Phêrô tuyên xưng đức tin (9,18-21);

2) Đức Giêsu tiên báo Thương Khó (9,22);

3) Đức Giêsu dạy về người môn đệ (9,23-27).

3.- Vài điểm chú giải

- c.18: Công thức dẫn nhập riêng của Lc, dùng để tách biệt hai phần: nhân bánh (trước đám

đông); tuyên xưng đức tin (trước các môn đệ). Tác giả Lc không nói tới Xêdarê Philípphê,

vì trung thành với chủ ý giữ Đức Giêsu trong giai đoạn đầu sứ vụ ở trong vòng đất Paléttina.

- cầu nguyện (18): Đây là đề tài quan trọng của TM III. Ta có ấn tượng là tất cả các biến cố

quan trọng trong cuộc đời Đức Giêsu đều xảy ra trong một bầu khí cầu nguyện. Còn nếu tác

giả Lc đã ghép hai lần đề tài cầu nguyện trong phân đoạn 9,18-50, thì đấy là dấu cho thấy

ngài coi việc cầu nguyện là việc quan trọng giúp giải thích chuyến đi lên Giêrusalem theo

quan điểm thần học.

- Đám đông nói Thầy là ai (18): Đây là điều tác giả Lc đã ghi nhận ở 8,25. Ngài đã gom các

ý kiến lại trong hai đoạn văn song song:

Page 13: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

13

Lc 9,7-9 Lc 9,18-20

Dẫn nhập a) c. 7 a) c. 18

Ý kiến của dân chúng b) Thật vậy, có kẻ nói: "Đó là

ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy".

Kẻ khác nói: "Ông Êlia xuất hiện

đấy!" Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là

một ngôn sứ thời xưa sống lại"

b) Các ông thưa: "Họ bảo

Thầy là ông Gioan Tẩy Giả,

nhưng có kẻ thì bảo là ông

Êlia, kẻ khác lại cho là một

trong các ngôn sứ thời xưa

đã sống lại"

Phán đoán của một

người

c) Còn vua Hêrôđê thì nói: "Ông

Gioan, chính ta đã chém đầu rồi!

Vậy thì ông này là ai mà ta nghe

đồn những chuyện như thế?"

c) Người lại hỏi: "Còn anh

em, anh em bảo Thầy là ai?"

Ông Phêrô thưa: "Thầy là

Đấng Kitô của Thiên Chúa"

- Thầy là Đấng Kitô (20): Đức Giêsu đã được xác định là “Đấng Mêsia” trong bài tường

thuật về thời thơ ấu (2,11); như thế danh hiệu này không mới đối với Kitô hữu đọc Tin

Mừngnày. Nhưng danh hiệu này được đưa vào đấy là dưới ánh sáng của những gì được nói

về Đức Giêsu bên trong chính Tin Mừng. Chính là trong truyện ấy mà chúng ta được tiếp

xúc với truyền thống đang thành hình về tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Ở 4,41, danh hiệu

ấy lại xuất hiện, nhưng là lời bình của tác giả.

Trong bản văn chúng ta đang tìm hiểu, phản ứng của Đức Giêsu trước lời tuyên xưng của

Phêrô (c. 21) là để cấm ông nhắc lại danh hiệu ấy trong thời gian Người còn hoạt động, và

lời này chuẩn bị cho độc giả đón lấy các lời có tính điều chỉnh sắp đến ở cc. 22.23-27.28-

36.44-45. Đức Giêsu lại không cấm như thế cho quỷ trong 8,28, mà ở đấy độc giả hiểu rằng

đã có một cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và quỷ. Ở đây lời tuyên xưng của Phêrô được bày

tỏ trong bối cảnh là câu hỏi của Đức Giêsu về những gì dân chúng đang nghĩ về Người và

những gì các môn đệ đang tin. Như thế, lời này trở thành một câu trả lời quan trọng mang

tính Kitô học trong Lc. Và đây là một tư cách Mêsia có hàm chứa đau khổ, sự loại trừ, cái

chết, cho dù nó đưa tới sự sống lại (x. c. 22).

“Kitô” phải được hiểu theo nghĩa Do Thái: một nhân vật được xức dầu mọi người đang

mong đợi thuộc dòng dõi Đavít, sẽ được Thiên Chúa sai phái đến (x. 2,11). Có thể nói, lâu

nay Phêrô đã chứng kiến Đức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa, chữa bệnh, với các

phép lạ, nay ông chứng tỏ là ông hiểu Đức Giêsu là Đấng xức dầu của Thiên Chúa được cử

đến để “khôi phục vương quốc Ít-ra-en” (Cv 1,6; x. Lc 2,26; 4,41).

- không được nói điều ấy với ai (21): Đức Giêsu không phủ nhận Người là Đấng được xức

dầu của Thiên Chúa, nhưng cấm các môn đệ nói ra vì danh hiệu này có những âm hưởng

chính trị. Người sẽ điều chỉnh tiếp bằng 9,22.

- Con Người phải chịu đau khổ (22): Động từ Hy Lạp dei, “phải” nói lên điều cần thiết vì

nằm trong chương trình cứu độ của Chúa Cha.

- kỳ mục, thượng tế, cùng kinh sư (22): Đây là ba nhóm làm thành Thượng Hội Đồng tại

Giêrusalem (xem thêm 20,1; 22,52; Cv 4,5; 23,14; 25,15). “Kỳ mục” (presbyterous,

“elders”) không chỉ có nghĩa là “những người già” (như ở Cv 2,17), nhưng là một nhóm đặc

biệt gồm những vị lãnh đạo cộng đồng Do Thái. “Thượng tế” (archiereis) là thủ lãnh các tư

tế phục vụ tại Đền Thờ Giêrusalem, vị chủ tọa Thượng Hội Đồng, và là vị lãnh đạo tối cao

của dân Do Thái. Số phức ở đây không có nghĩa là các vị cựu thượng tế, mà là “các tư tế

Page 14: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

14

cao cấp”, những vị xuất thân từ các gia đình tư tế. Họ kiểm soát việc tế tự, quỹ, và kỷ luật tư

tế tại Đền Thờ. Trong số đó, có “viên lãnh binh Đền Thờ” (Cv 4,1), các vị điều hành sinh

hoạt hằng tuần, các trưởng phụ trách việc phục vụ hằng ngày và các vị giám luật Đền Thờ.

Còn “kinh sư” (grammateis) là các chuyên viên Luật (có khi Luca cũng gọi lànomikoi, “các

nhà thông Luật”; x. 7,30).

- sẽ được cho trỗi dậy (22): dịch sát là như thế, để thấy đây là một thái bị động nói quanh để

thay tên Thiên Chúa, có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho Người trỗi dậy”.

- từ bỏ chính mình (23): dịch sát là “chối chính mình” (arneomai [h]eauton), có nghĩa là

chọn một thái độ sống không lấy mình làm trung tâm, nhưng thật sự cho phép đồng hóa lối

sống của mình với Đức Giêsu và sứ mạng của Người.

- vác thập giá (23): Hình ảnh này sau được áp dụng cho Simôn Kyrênê (23,26). “Vác thập

giá” có nghĩa là bắt chước Đức Giêsu khi bị đóng đinh, tức sẵn sàng chịu tử đạo, nhưng

cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu chống đối và thù nghịch trong cuộc sống mỗi ngày.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Phêrô tuyên xưng đức tin (18-21)

Ngay sau truyện nuôi đám đông là truyện Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Tác

giả đã viết gọn lại để cho truyện này trở thành một câu trả lời cho câu hỏi của tiểu vương

Hêrôđê.

* Đức Giêsu tiên báo Thương Khó (22)

Đức Giêsu đã tiên báo cuộc Thương Khó-Phục Sinh để điều chỉnh quan niệm về Đấng

Mêsia của Phêrô hẳn là còn nhuốm màu sắc chính trị. Và các lời này cũng vẫn cung cấp

một câu trả lời cho Hêrôđê. Chúng còn cung cấp một bối cảnh cho mở đầu của bài tường

thuật về chuyến đi lên Giêrusalem.

Đức Giêsu cho biết cuộc Thương Khó cũng như Phục Sinh của Người thuộc về chương

trình của Thiên Chúa. Chính Chúa Cha quyết định như thế, và Đức Giêsu gắn bó với ý

muốn của Cha Người hầu cứu độ nhân loại.

* Đức Giêsu dạy về người môn đệ (23-27)

Tác giả liên kết vào lời loan báo đầu tiên về Thương Khó năm lời khác nói về đời môn đệ

(khá giống với Mc 8,34–9,1) được ngỏ với “mọi người”. Có lẽ đây là những lời tách biệt

được ghi giữ trong truyền thống. Câu đầu tiên (“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình,

vác thập giá mình hằng ngày mà theo”, c. 23) là câu căn bản, còn ba câu tiếp theo được đưa

vào bằng liên từ gar, “bởi vì”, do đó dịch sát là: “bởi vì ai muốn cứu mạng sống …” (c. 24);

“bởi vì người nào được cả thế giới …” (c. 25); “bởi vì ai xấu hổ vì tôi …” (c. 26). Còn trong

c. 27, tác giả bỏ chữ amên (của Mc 9,1) và thay thế bằng từ alêthôs, “thật sự”, làm cho câu

này được liên kết chặt chẽ với bốn câu trên và làm thành một đơn vị mạch lạc.

Các câu này cũng là một cách khác để trả lời cho tiểu vương Hêrôđê. Đến ngay sau lời

tuyên bố của Đức Giêsu về đau khổ, thân phận bị loại bỏ, phải chết của Người, các lời này

cho thấy Người đòi hỏi những kẻ muốn theo Người đến mức nào: làm môn đệ là “bước theo

Người”; việc “bước theo” này có ý nghĩa rất phong phú khi nó được đặt sát chuyến đi lên

Giêrusalem. Làm môn đệ có nghĩa là hằng ngày chia sẻ thân phận của chính Người: vác

thập giá của chính mình mà bước đi đàng sau Người, như một cách chứng tỏ rằng mình

Page 15: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

15

không đánh giá mạng sống mình theo lợi nhuận trần thế, như một thái độ tự hào về Người,

và như là như một thái độ cho phép người môn đệ hiểu sâu xa hơn các mầu nhiệm của Nước

Thiên Chúa.

+ Kết luận

Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” vẫn chưa phải là điều đáng kể, nếu

người môn đệ không sống phù hợp với lời tuyên xưng đó. Chỉ khi sẵn sàng “từ bỏ chính

mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” Người (9,23), người ấy mới cảm nghiệm sâu

xa nơi bản thân sức mạnh cứu độ của lời tuyên xưng đó, và mới làm chứng được cho người

khác rằng Đức Giêsu chính là Cứu Chúa duy nhất mà người ta phải tin vào và bước theo.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Giêsu không yêu cầu các môn đệ cho ý kiến về giáo huấn hoặc một hoạt động nào đó

của Người, nhưng cho ý kiến về bản thân Người. Câu hỏi của Người cho thấy đây là điểm

có tầm quan trọng số một. Người muốn đưa các ông đến chỗ hiểu biết Người và tuyên xưng

về bản thân Người cách không hàm hồ, dị nghĩa. Điều quan trọng không phải là lời Người

loan báo, nhưng là chính bản thân Người.

2. Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, nghĩa là Người là vị Vua và

Mục Tử duy nhất, tối hậu và vĩnh viễn của dân Israel. Người được Thiên Chúa cử đến để

ban cho dân tộc này và toàn thể nhân loại có sự sống viên mãn. Người chính là Đấng Mêsia

được liên kết mật thiết với chính quyền năng ban sự sống, với Thiên Chúa hằng sống.

3. Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa ngay sau phép lạ hóa bánh ra nhiều,

điều này không khó. Nhưng tiếp tục tuyên xưng Người như thế, khi chứng kiến Người phải

vác thập giá, chịu xử tử và chịu chết, khi chính mình, nếu không đến nỗi phải đổ máu ra mà

làm chứng, phải vác thập giá là các khó khăn của một ngày sống, điều này khó hơn nhiều.

Nhưng đó là cái giá phải trả để được cùng sống lại với Đức Giêsu.

4. “Làm người có nghĩa là ‘sống hướng về cái chết’; làm người có nghĩa là phải chết…

Sống trong thế giới này, có nghĩa là chết. «Người đã làm người» (Kinh Tin Kính); vậy điều

đó có nghĩa là Đức Kitô cũng đã đi đến cái chết. Sự mâu thuẫn thuộc về cái chết của con

người đạt tới nơi Đức Giêsu sự sắc bén cùng cực, bởi vì nơi Người, Đấng ở trong một sự

hiệp thông trao đổi trọn vẹn với Chúa Cha, tình trạng cô độc tuyệt đối của cái chết hoàn

toàn là một sự phi lý. […]. Nhưng cũng như mẩu đối thoại này đã làm cho Người ra cô đơn,

và cho thấy Người đang đi đến cái chết quái gở ấy, thì nơi Đức Kitô, sự Phục Sinh cũng đã

hiện diện chắc chắn rồi. Nhờ cuộc Phục Sinh này, thân phận con người chúng ta được tháp

vào trong cuộc trao đổi tình yêu vĩnh củu của Ba Ngôi Thiên Chúa. […] Nhờ Đức Kitô, thân

phận con người được đi vào trong chính hữu thể của Thiên Chúa” (Thánh Ambrôsiô).

5. Đối với môn đệ của Đức Giêsu, không có niềm vui sâu đậm nào mà không có bóng dáng

ơn Chúa Thánh Thần. Nói vậy không có nghĩa là đối với người môn đệ, đường lên

Giêrusalem là một hành trình vui vẻ đâu. Hôm nay Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết là ai

muốn theo Người có thể phải trả một giá đắt là sẽ bị chết. Nếu theo Đức Giêsu là lên đường

thắng cuộc, thì chúng ta nên kết luận rằng thắng cuộc là do bởi sự cố gắng của chúng ta.

Chúng ta làm việc nhiều, cố gắng nhiều và chúng ta thắng cuộc. Nhưng, ngược lại, khi

chúng ta theo chân Đức Giêsu, chúng ta nghiệm lại sự yếu đối, và thất bại như các môn đệ

đã gặp. Và rồi, chúng ta lại tìm thấy sự vui vẻ mới, và chúng ta kiên trì trong đau khổ, và

điều đó do bởi Thần Khí của Đấng đã hứa là Người sẽ trỗi dậy vào ngày thứ ba phải không?

(Siciliano).

Page 16: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

16

Page 17: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

17

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG ĐAU KHỔ

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

***

Chủ Đề Phụng Vụ Lời Chúa tuần này là mầu nhiệm cứu độ được thực hiện trong đau

khổ.

Dcr 12: 10-11

Ngôn sứ Da-ca-ri-a loan báo rằng Đấng Mê-si-a sẽ bị giết chết, nhưng Thiên Chúa sẽ tuôn

đổ Thần Khí để biến đổi lòng trí của những kẻ đã đâm thâu Ngài.

Gl 3: 26-29

Thánh Phao-lô nhắc nhở cho các tín hữu Ga-lát những ân phúc cứu độ của Đức Ki-tô, nhờ

đó mọi người nhận ra tất cả đều anh em và đồng thừa tự những lời hứa ban ơn cứu độ.

Lc 9: 18-24

Tin Mừng Lu-ca tường thuật Chúa Giê-su lần đầu tiên loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài và

đó là điều tất yếu đối với những ai muốn theo con đường từ bỏ chính mình để đạt được sự

sống đời đời.

BÀI ĐỌC I (Dcr 12: 10-11)

Bản văn này trích từ phần thứ hai sách Da-ca-ri-a, tuy nhiên, ngôn sứ Da-ca-ri-a không phải

là tác giả. Tác giả thật sự của đoạn văn này ngỏ lời với dân thành Giê-ru-sa-lem vào những

năm 520-515 trước Công Nguyên. Hai trăm năm sau này, sau những cuộc chinh phục của

đại đế A-lê-xan-đê, hay giữa năm 330 và năm 300 trước Công Nguyên, một tác giả vô danh,

mà các nhà chú giải gọi là “Da-ca-ri-a đệ nhị”, truyền đạt một sứ điệp mới cho cộng đồng

Giê-ru-sa-lem hầu đánh thức tâm tình tôn giáo nơi họ.

Người ta cũng đã làm như vậy đối với tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a. Nhờ các môn đệ của vị

ngôn sứ, ba bộ sưu tập đã được đúc kết thành một (Is 1-39; 40-55 và 56-66); chúng trình

bày một nét chung: cả ba đều khai mở những viễn cảnh về việc thiết lập kỷ nguyên Mê-si-a.

Trong tác phẩm Da-ca-ri-a đệ nhị, Đấng Mê-si-a được loan báo qua ba dung mạo, cả ba đều

đã được ứng nghiệm ở nơi con người Đức Giê-su:

- Dung mạo Đức Mê-si-a vương đế, khiêm hạ và hiền hòa.

- Dung mạo người mục tử nhân lành bị các thủ lãnh dân Ngài loại bỏ.

- Sau cùng, dung mạo mầu nhiệm của Đấng bị đâm thâu.

Chính dung mạo thứ ba này được nêu lên trong bản văn của chúng ta.

1.Đấng Mê-si-a đau khổ:

Đấng Mê-si-a vinh quang thuộc nhà Đa-vít danh tiếng, đó là nét nổi bật của các sấm ngôn

thời xưa. Có một ngoại lệ duy nhất: ở giữa lòng những gian nan thử thách của cuộc lưu đày,

ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã gợi lên dung mạo người tôi trung của Đức Chúa, mà những đau

khổ và hy sinh của Ngài thanh tẩy muôn người: “Chính người đã bị đâm vì chúng tôi phạm

tội, bị nghiền nát vì chúng tôi lỗi lầm” (Is 53: 5).

Sấn ngôn của ngôn sứ Da-ca-ri-a được định vị vào trong hàng này, trong đó thị kiến của I-

sai-a về Đấng Bị Đâm Thâu được lập lại (được Tin Mừng Gioan nhắc lại: Ga 19: 37), cũng

Page 18: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

18

như việc biến đổi tấm lòng, thành quả của cái chết này: “Người đã chịu sửa trị để chúng ta

được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành”(Is 53: 5b) cũng được

lập lại. Nhưng ở đây ngôn sứ Da-ca-ri-a đệ nhị quy việc đổi mới tận đáy lòng nhờ Đức Chúa

tuôn đổ thần khí của Ngài.

2.Đức Chúa tuôn đổ thần khí của Ngài:

“Ta sẽ đổ tràn thần khí xuống cho nhà Đa-vít và dân thành Giê-ru-sa-lem…”. Trước tiên,

khi trích dẫn nhà Đa-vít, ngôn sứ Da-ca-ri-a cho hiểu rằng những lời hứa xưa kia không bị

hủy bỏ. Nhưng sẽ có việc trải qua sự thử thách và thanh tẩy. Việc thần khí ngự đến và biến

đổi tấm lòng con người đã được ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo trước

đó. Đặc biệt ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả bằng những ngôn từ báo trước những ngôn từ của

ngôn sứ Da-ca-ri-a đệ nhị: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới

vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng

các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ

làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực

hành…Bấy giờ các ngươi sẽ nhớ lại lối sống xấu xa và hành vi bất hảo của các ngươi. Các

ngươi sẽ kinh tởm chính bản thân mình, vì các tội lỗi và những điều ghê tởm của các ngươi”

(Ed 36: 26-31).

3.Phụng vụ sám hối:

Sau các biến cố, dân chúng sẽ hiểu giá trị hy sinh của Đấng bị đâm thâu: “Họ sẽ khóc than

Đấng họ đã đâm thâu, như người ta khóc than đứa con một”. Đứa con một và trưởng tử sẽ là

những tước hiệu được áp dụng cho Đức Giê-su.

Đây là nghi lễ tang chế và sám hối nhưng cũng là thị kiến đầy tràn niềm hy vọng vào việc

đổi mới tinh thần, bản văn này của vị ngôn sứ giúp chúng ta hiểu hơn rằng mầu nhiệm Tử

Nạn của Đức Giê-su có thể hiểu được chỉ dưới ánh sáng của lễ Ngũ Tuần. Các Tông Đồ sẽ

cảm nhận như vậy.

BÀI ĐỌC II (Gl 3: 26-29)

Đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Ga-lát này, như đoạn trích tuần trước, vừa

ngắn gọn vừa súc tích ý nghĩa. Đoạn văn này thuộc vào chương nói về sự tự do của người

Ki-tô hữu.

Các tín hữu Ga-lát cảm thấy bối rối bởi những Ki-tô hữu gốc Do thái, những người này

muốn đưa vào trong Ki-tô giáo những nghi thức Do thái giáo được xem là luôn luôn có giá

trị, như phép cắt bì. Thánh Phao-lô chứng minh cho các tín hữu Ga-lát rằng Luật Cựu Ước

là sự nô lệ, Luật Tân Ước là sự tự do. Trong đoạn văn đi trước đoạn trích hôm nay, thánh

nhân sánh ví Luật Mô-sê với một người quản giáo hướng dẫn con trẻ cho đến tuổi khôn lớn,

nhưng vai trò của người này chỉ là tạm thời.

1.Sự tự do của người Ki-tô hữu:

Đức tin vào Đức Ki-tô là một hành vi tự do làm cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa.

Chúng ta không còn là những kẻ nô lệ nhưng là những người con: “Nhờ lòng tin, tất cả anh

em đều là con Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô”. Đức tin là nguyên lý biến đổi con

người một cách sâu xa; phép Rửa là dấu ấn của sự biến đổi này.

Nhờ phép Rửa, chúng ta nên một với Đức Ki-tô: “Vì một khi đã chịu phép Rửa để thuộc về

Đức Ki-tô, thì tất cả anh em đã mặc lấy Đức Ki-tô”. Thánh Phao-lô thường sử dụng hình

ảnh “mặc”: anh em hãy cởi bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới, vân vân. “Mặc”

không có nghĩa đón nhận đồ trang sức bên ngoài, nhưng đặt mình hoàn toàn dưới quyền lực

của Đức Ki-tô.

Page 19: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

19

2.Sự hiệp nhất và địa vị làm con:

Một trong những lời trách cứ của thánh Phao-lô chống lại Lề Luật, đó là Lề Luật gây nên sự

chia rẽ; nó chia rẽ nhân loại thành hai: bên này là người Do thái, bên kia là dân ngoại. Tin

vào Đức Ki-tô, không còn có sự phân biệt nữa. Trước đó, thánh nhân đã nói về sự duy nhất

của Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa của hết mọi người, Ngài muốn nhân loại trở thành một

dân duy nhất, dân của Ngài. Nhờ Đức Ki-tô, Thiên Ý này được thực hiện. Tin vào Đức Ki-

tô, mọi hàng rào ngăn cách do chủng tộc, hoàn cảnh, giới tính…bị hủy bỏ: “Vậy không còn

chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh

em chỉ là một trong Đức Giê-su Ki-tô”.

Địa vị làm con cái Thiên Chúa và sự hiệp nhất không là hai nhưng chỉ là một thực tại bất

khả phân. Tất cả chúng ta là con cái Thiên Chúa, vì tất cả chúng ta đều nên một với Đức Ki-

tô. Tin chính là gắn bó với con người và sứ điệp của Ngài, niềm tin này mở ra cho hết mọi

người không trừ một ai trong chiều kích ơn cứu độ phổ quát.

Thánh nhân, trước đây là một người Pha-ri-sêu, đã mạnh dạn hủy bỏ những đặc quyền của

dân Do thái. Tuy nhiên, lập luận này đóng lại đoạn văn hôm nay, đều quan trọng là trở lên

cho đến bên kia biểu thức Lề Luật, cho đến tận lời hứa, mà Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ

Áp-ra-ham là ban cho ông một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. Ơn gọi

phổ quát của dân Ít-ra-en được ghi trong Kinh Thánh. Ơn gọi này được thực hiện cho bất cứ

ai thuộc về Đức Ki-tô. Tất cả chúng ta, dù xuất thân từ dân ngoại, gắn bó với Đức Ki-tô,

chúng ta đều thuộc dòng dõi tinh thần của tổ phụ Áp-ra-ham, chúng ta đều trở thành con cái

của Lời Hứa.

TIN MỪNG (Lc 9: 18-24)

Ngay sau bài trình thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều, thánh Lu-ca đặt lời tuyên xưng đức tin

của thánh Phê-rô và lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Thương Khó của Ngài.

Trong khi đó, thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu phân cách hai biến cố này.

1.Bối cảnh:

Về khía cạnh này, thánh Lu-ca gần với thánh Gioan. Thánh Gioan đặt ngay liền sau phép lạ

hóa bánh ra nhiều diễn từ của Đức Giê-su về “bánh hằng sống” và việc nhiều môn đệ bỏ

Ngài mà ra đi. Buồn rầu, Đức Giê-su hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng

muốn bỏ đi hay sao?”. Thánh Phê-rô khẳng khái trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con

biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con

đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6: 67-69).

Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dấu chỉ rõ nét thời Mê-si-a, Đức Giê-su cho rằng thời điểm

đã đến để thăm dò tư tưởng của các Tông Đồ về Ngài và cho họ thấu hiểu hơn nữa mầu

nhiệm con người và sứ mạng của Ngài.

2.Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô:

Thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô định vị cuộc chuyện trò của Đức Giê-su với các môn đệ

của Ngài trong thung lũng thanh bình dẫn đến thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, ngoài miền Ga-li-

lê. Còn thánh Lu-ca thì không cho biết bất kỳ địa danh nào, nhưng mang đến một sự chính

xác thuộc trật tự tinh thần: Đức Giê-su cầu nguyện một mình khi các môn đệ của Ngài gặp

lại Ngài. Thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ

phút long trọng.

Chúa Giê-su hỏi các môn đệ, trước hết về dư luận quần chúng đối với Ngài: “Theo dư luận

quần chúng, thì Thầy là ai?”, để giúp các ông hiểu rõ hơn rằng đức tin của họ phải thoát

khỏi những ý kiến của quần chúng. Câu trả lời của các Tông Đồ là lập lại chính xác lời

Page 20: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

20

tường thuật cho Hê-rô-đê An-ti-pát, tiểu vương miền Ga-li-lê, khi ông này tra hỏi về nhân

cách của Đức Giê-su: “Tiểu vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân

vân lắm. Thật vậy, có kẻ nói: ‘Đó là ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy’. Kẻ khác thì nói: ‘Ông

Ê-li-a xuất hiện đấy!’ Kẻ khác nữa lại nói: ‘Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại’” (Lc 9: 7-

9).

Dư luận cho rằng Gioan Tẩy Giả sống lại ở nơi Đức Giê-su thì thật lạ lùng; thật ra thánh

Gioan đã chết với hào quang của vị ngôn sứ bị sát hại. Trái lại, việc ngôn sứ Ê-li-a tái lâm

để là vị tiền hô của Đấng Mê-si-a là một niềm tin được chứng thực, vả lại dựa trên sấm ngôn

của Ma-la-khi: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi ngày của Đức Chúa

đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3: 23). Còn về các ngôn sứ thời xưa đã sống lại, vài

bản văn Kinh Thánh có lẽ gợi lên ngôn sứ Giê-rê-mi-a, vị ngôn sứ được xem là người bảo

vệ dân Ít-ra-en, như trong một giấc mơ của ông Giu-đa (2Mcb 15: 14-15). Thánh Mát-thêu,

trong bản văn song đối, trích dẫn câu này. Nói tóm lại, đám đông dân chúng lầm lạc giữa

những giả thuyết khác nhau này; họ đã không nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a (Đấng

Ki-tô).

Vì thế, Chúa Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các Tông Đồ nên hỏi họ: “Còn anh em,

anh em bảo Thầy là ai?”. Thánh Phê-rô nhân danh nhóm Mười Hai trả lời: “Thầy là Đấng

Ki-tô của Thiên Chúa”. Nhưng Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói điều ấy với ai.

Đám đông dân chúng có một quan niệm về Đấng Ki-tô không đúng; chân dung đích thật của

Đấng Ki-tô Đức Giê-su sắp vén mở cho các Tông Đồ lần đầu tiên: đó là chân dung của

Đấng Ki-tô chịu đau khổ.

3.Đức Giê-su loan báo lần đầu cuộc thương khó của Ngài:

“Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết

chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Vào lúc này, Đức Giê-su thận trọng tránh nói về việc Ngài

bị đánh đập và chịu đóng đinh vào thập giá, nhưng chỉ đơn giản nói rằng Ngài sẽ phải chịu

đau khổ nhiều và bị giết chết; đồng thời Ngài tức khắc gợi lên cuộc Phục Sinh của Ngài.

Ngài sẽ kể ra cuộc Phục Sinh của Ngài trong mối liên quan với một trong những sấm ngôn

về cuộc Tử Nạn của Ngài (sẽ còn có hai sấm ngôn khác nữa).

“Con Người phải chịu đau khổ nhiều”. Ở đây, sự tất yếu (“phải chịu”) mà Chúa Giê-su gợi

lên không phải là sự tất yếu của số mạng: đây là một sự tất yếu thuộc trật tự thần học, đây là

một sự tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Tử Nạn không là một tai nạn mà cuộc

Phục Sinh sẽ đền bù, nhưng là dự phần vào mầu nhiệm cứu độ loài người. Đức Giê-su

không đưa ra bất kỳ giải thích nào khác ngoài “cái tất yếu này”. Ngài cũng sẽ nói với hai

môn đệ trên đường Em-mau cái tất yếu như vậy: “Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ

hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24: 25).

Khác với thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, thánh Lu-ca không nói cho chúng ta phản ứng

quyết liệt của thánh Phê-rô đối với những viễn cảnh tăm tối mà Thầy mình vén mở về số

mệnh của Ngài.

4.Lời dạy cho hết mọi người:

Đoạn văn cuối được định vị vào trong cái hợp lý của điều đi trước đó nhưng không vào

trong cái khả dĩ; vì không có đám đông chung quanh Đức Giê-su khi Ngài mặc khải cho các

Tông Đồ số mệnh đầy đau khổ của Ngài; không có đám đông ở nơi Ngài tách riêng ra mà

cầu nguyện một mình. Nhưng Chúa Giê-su liên kết các môn đệ của Ngài - và bên kia họ tất

cả những ai muốn theo Ngài – với con đường từ bỏ chính mình và chấp nhận đau khổ này.

Chính qua con đường này mà người ta “cứu được mạng sống mình”.

Page 21: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

21

Page 22: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

22

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

QUA THẬP GIÁ ĐẾN VINH QUANG

Ban Mục vụ Thánh Kinh & Ban Phụng tự TGP.Sài Gòn

***

“Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị từ bỏ và giết chết…” (Lc 9,22)

I. CÁC BÀI ĐỌC

1. Bài đọc I – Dcr 12,10-11

Dựa trên lời hứa của Đức Chúa sẽ giải thoát và đổi mới cho Giêrusalem, sấm ngôn của

Dacaria loan báo về một cuộc ‘đổ ơn’ của Đức Chúa xuống trên nhà Giuđa và cư dân

Giêrusalem giúp họ tỉnh ngộ về hành vi bất chính của mình: nếu trước kia chính họ đã giết

chết Đấng Mêsia, thì giờ đây cũng chính họ sẽ phải ngước nhìn ‘Đấng mà họ đã đâm thâu’

với một tâm tình khóc than và thương tiếc đến tột độ như khóc ‘đứa con đầu lòng đã chết.’

Hình ảnh này, theo cái nhìn của Thánh sử Gioan 19,37, như một lời tiên báo về cái chết của

Đức Kitô mà Dân Do Thái sẽ phải hối cải khi nhìn thấy Đấng mà họ đã đâm thâu qua trên

thập giá.

2. Bài đọc II – Gl 3,26-29

Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: việc lãnh nhận phép rửa làm cho người Kitô hữu được tháp

nhập cách trọn vẹn vào cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô trên thập giá. Điều này đã

xóa đi mọi sự khác biệt trước đó về lý lịch bản thân của từng người: Do thái hay Hy lạp, nô

lệ hay tự do, nam hay nữ… để từ nay họ được nên một trong Đức Giêsu Kitô và nhờ đó trở

thành những kẻ ‘thừa kế theo lời hứa.’

3. Bài Phúc âm – Lc 9,18-24

Đoạn phúc âm này bao gồm ba ý tưởng chính:

Trước lời tuyên xưng của Thánh Phêrô về mình: ‘Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.’

Chính Chúa Giêsu đã không phủ nhận về lời tuyên xưng này nhưng chỉ ‘ngăn cấm các ông

không được nói điều đó với ai.’ Việc ngăn cấm này của Chúa vì e ngại người khác hiểu sai

về bản chất và sứ vụ của Đấng Mêsia.

Liền sau đó, Chúa Giêsu đã minh định rõ cho các môn đệ biết sứ mạng của Ngài là gì qua

lời khẳng định: ‘Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng tế và các luật

sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.’

Số phận của người môn đệ cũng được rập khuôn theo số phận của Thầy mình. Điều này đã

được xác quyết qua những điều kiện được Chúa Giêsu đưa ra cho người môn đệ: ‘Từ bỏ

mình – vác thập giá mình hằng ngày – mà theo.’

Ba điều kiện này dường như chỉ dẫn người môn đệ đi tới chỗ bị hủy diệt và giết chết. Nhưng

khi họ dám chấp nhận mất mọi sự, thậm chí mất mạng sống vì Chúa Giêsu, thì họ lại cứu

được tất cả, nhất là cứu được mạng sống của mình.

II. GỢI Ý MỤC VỤ

1. Cái chết của Đấng Mêsia mà Ngôn sứ Dacaria nói đến là kết quả của một sự đối kháng

dứt khoát muốn đứng về phía đối lập Thiên Chúa, để đi đến quyết định đóng đinh Đấng

Mêsia nhằm loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống của mình. Đối diện với một thử thách, đau khổ,

Page 23: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

23

buồn chán… luôn là cơn cám dỗ dẫn mỗi người chúng ta tới chỗ không bằng lòng, thậm chí

giận dữ và muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình.

2. Phép rửa xóa đi mọi khác biệt để giúp người Kitô hữu nên một với Đức Kitô và với nhau

trong Ngài. Tuy vậy, sự hiệp thông trong đời sống cộng đoàn tín hữu vẫn luôn là một vấn đề

hết sức nóng bỏng và cam go, vì nguy cơ chia rẽ luôn tiềm ẩn trong mọi hoạt động của cộng

đoàn. Do vậy, mỗi việc làm của từng thành viên trong cộng đoàn hay trong gia đình, nếu

không được thực hiện trong tinh thần hiệp thông sẽ luôn tiềm ẩn trong đó những nguy cơ

gây ra chia rẽ cho cộng đoàn hay gia đình.

3. Nghịch lý “muốn cứu… sẽ mất” hoặc “mất vì Ta… sẽ cứu được…” luôn dẫn người môn

đệ đi tới một chọn lựa trong từng hoạt động của cuộc sống.

Cũng như ba điều kiện của người môn đệ: “Từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày và đi

theo” - vẫn luôn là một thách đố lớn cho mỗi người môn đệ hôm nay.

Page 24: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

24

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

NHẬN DIỆN ĐỨC KITÔ

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

***

Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều thế hệ băn khoăn thắc

mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu

Người cho đúng.

“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô” trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu.

Là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực

sự như thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng mơ hồ. Tuy nhiên

đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu một thời kỳ mới, đưa nước Do

Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.

Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng. Thọat tiên Chúa

hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người

đều công nhận Chúa Giêsu là một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là

Đấng Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện anh em tuyên

xưng: “Thày là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy

nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn

chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực.

Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.

Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ

có thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa làm phép lạ hóa

bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa. Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.

Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh

sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục. Con đường

khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là

hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế,

nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc

đích thực.

Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình

hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất

mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ

không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con đường hẹp để dẫn

đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh quang. Vượt qua cái chết để đến sự

sống.

Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con đường của Đấng Kitô

phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào.

Nhận diện Đấng Kitô đã khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa

ban cho ta được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn ta đến

hạnh phúc đích thực.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ Người là Đấng Kitô?

2- Con đường Đấng Kitô phải đi là con đường nào?

Page 25: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

25

3- Các môn đệ Chúa phải đi con đường nào?

4- Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ thế nào về con đường Hội Thánh phải đi? Phô

trương hay khiêm nhường? Quyền lực hay bé nhỏ?

5- Tôi có quyết tâm đi vào con đường Chúa đã chỉ cho tôi không?

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

CHÚA GIÊSU LÀ ĐẤNG MESSIA CHỊU KHỔ

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

***

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Thánh giá là dấu hiệu của Kitô giáo chúng ta. Thánh giá hiện diện ở mọi nơi chúng ta sinh

hoạt tôn giáo, như nhà thờ, bàn thờ gia đình, đất thánh v. v. Trước khi làm một việc đạo

đức, chúng ta luôn làm dấu Thánh Giá.

Hôm nay chúng ta hãy tìm hiểu Lời Chúa để biết rõ hơn về ý nghĩa đích thực của Thánh giá.

Và chúng ta xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Thánh Giá theo đúng ý nghĩa đích thực ấy.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta tôn kính những ảnh tượng Thánh Giá, nhưng lại sợ và trốn tránh những thánh

giá Chúa gởi đến trong cuộc đời.

Chúng ta có khuynh hướng muốn được thêm chứ không muốn từ bỏ bớt.

Chúng ta hay sống theo dư luận hơn là sống theo sự hướng dẫn của Chúa.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Dcr 12, 10-11)

Ngôn sứ Dacaria tiên báo rằng sẽ tới ngày Thiên Chúa tuôn đổ Thánh Thần xuống trên dân

(như chuyện sẽ xảy ra trong ngày lễ Hiện xuống), khi đó, nhờ được Thánh Thần soi sáng, họ

sẽ hiểu rằng kẻ mà họ đã giết chết chính là Đấng Messia, cho nên họ sẽ ngước nhìn lên Ngài

và sẽ khóc than sám hối.

2. Đáp ca (Tv 62)

Tác giả Tv 62 đã ý thức Thiên Chúa là Đấng phù trợ mình, nên mong ước được gặp Ngài để

bày tỏ với Ngài những tâm tình tạ ơn và yêu mến.

3. Tin Mừng (Lc 9, 18-24)

Thánh Phêrô thay mặt nhóm 12 tuyên xưng Chúa Giêsu chính là Đấng Messia (Kitô). Chúa

Giêsu xác nhận lời tuyên xưng đó, nhưng cho biết thêm Ngài là một Đấng Messia phải chịu

đau khổ và chịu chết. Ngài còn nói thêm rằng ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải chịu

khổ như Ngài.

Ta hãy tìm hiểu kỹ các câu 23-24 "Rồi Chúa Giêsu nói với mọi người: Ai muốn theo tôi,

phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo"

. "Nói với mọi người" nghĩa là những câu này Chúa Giêsu không dạy riêng Nhóm 12 tông

đồ mà dạy chung mọi tín hữu.

Page 26: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

26

. "Ai muốn theo tôi" nghĩa là ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo" ai là làm môn đệ

cho người đó)

. "Từ bỏ chính mình": xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình

không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải

giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt: tuy ta không còn là mình

nữa nhưng ta hóa nên giống Chúa Giêsu thì thật tuyệt vời. Đó chính là "thần hóa". Lý tưởng

mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên "đồng hình đồng dạng" với Chúa Giêsu.

Hơn nữa đây thực sự không phải là "tha hóa" mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên

Chúa đã tạo dựng nên con người "giống hình ảnh" Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người

bị "tha hóa". Nay cố gắng trở nên giống Chúa Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.

. "Vác thập giá mình": Kiểu nói này có nhiều nghĩa: a/ Đón nhận những khổ cực của mình,

cũng như Chúa Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài; b/ Theo luật hình sự Rôma,

người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế,

"vác thập giá mình" nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử; c/ câu 24 giải thích câu 23: "Quả

thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi...". Như thế "vác thập giá" có nghĩa là "liều mất mạng

sống", hay nói nôm na là "liều mạng" vì Chúa.

. "Hằng ngày": những việc vừa kể trên (bỏ mình và vác thập giá) là việc thường gặp trong

đời sống.

4. Bài đọc II (Gl 3, 26-29) (Chủ đề phụ)

Nhờ phép rửa, người tín hữu đã "mặc lấy Đức Kitô" và đã "nên một trong Chúa Giêsu

Kitô". Hiệu quả:

Họ thuộc về Đức Kitô.

Họ trở thành con Thiên Chúa.

Mọi người là anh em với nhau, không phân biệt do thái hay hy lạp, nô lệ hay tự do, nam

hay nữ nữa.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Nét độc đáo của Chúa chúng ta

Tín đồ tôn giáo nào cũng hãnh diện và tôn sùng vị Thần của đạo mình, vì vị Thần ấy có uy

quyền mạnh mẽ, có hào quang chói ngời, có địa vị chí tôn. Nói chung, đối với các vị Thần

của các tôn giáo, thái độ của các tín đồ là "kính nhi viễn chi".

Nhưng Chúa Giêsu Kitô của chúng ta thì đặc biệt hơn cả: Ngài cũng uy quyền, vinh quang

và cao cả, nhưng Ngài còn mang vào Ngài thân phận hèn hạ của chúng ta, hơn nữa Ngài còn

chịu đau khổ với chúng ta và vì chúng ta để cứu chúng ta.

* 2. "Người ta nghĩ tôi là ai?"

Câu hỏi trên đã ảnh hưởng rất mạnh trên cách sống của nhiều người. Họ cố gắng sống làm

sao để được dư luận khen ngợi mình là người giỏi, người tốt.

Phần Chúa Giêsu, tuy Ngài cũng hỏi các môn đệ câu hỏi đó, nhưng không phải để biết dư

luận rồi chìu theo dư luận. Cách chung dư luận nghĩ Ngài là một ngôn sứ. Phêrô thì nghĩ

Ngài là Đấng Messia Con Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu thích dư luận đó thì Ngài sẽ tích

cực thi thố quyền phép để dư luận càng ca tụng mình. Nhưng Ngài không chìu theo dư luận.

Ngược lại Ngài muốn dư luận biết đúng về Ngài: Messia thật đấy nhưng là một Messia chịu

đau khổ.

Page 27: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

27

Phần chúng ta, chúng ta cũng nên tự hỏi "Người ta nghĩ tôi là ai?" Hỏi như thế để biết dư

luận. Nhưng biết không phải để chìu theo mà biết để điều chỉnh cách sống của mình theo

đúng lý tưởng của mình. Nếu dư luận chưa nhận ra tôi là môn đệ Đức Kitô thì quả là vì tôi

đã không sống đúng lý tưởng của mình ("Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là

môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau"). Cho nên tôi phải thay đổi cách sống. Còn

nếu dư luận đã nhận biết tôi là môn đệ Đức Kitô thì tôi vui mừng và tiếp tục cố gắng để

ngày càng giống hình ảnh người môn đệ Đức Kitô hơn.

* 3. "Ai muốn theo Ta..."

Nếu câu hỏi của Chúa Giêsu chỉ có bao nhiêu chữ thế thôi, thì tất cả chúng ta, những người

đã rửa tội, đều có thể đáp lại thật nhanh: "Con muốn... Con muốn theo Chúa".

Nhưng nếu nghe trọn câu Ngài nói "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá

mình hằng ngày mà theo", thì chắc hẳn số người nhanh chóng trả lời "Con muốn" sẽ giảm đi

rất nhiều.

Nhiều người gia nhập Kitô giáo để kiếm lợi, như để được ơn Chúa phù hộ cho sống bình an,

để làm ăn phát đạt, hay để được Giáo Hội hỗ trợ nhiều mặt.

Nhiều người tưởng rằng mình "đi theo" Chúa, chứ thực ra là muốn Chúa "đi theo" mình và

luôn ở bên cạnh để giúp đỡ mình.

Nhiều người tưởng đã đi theo Chúa nhưng không bao giờ "từ bỏ" chính mình, và rất sợ phải

"vác thập giá mình hàng ngày mà theo"

* 4. Nghịch lý

Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Trong

bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói về 2 nghịch lý:

a/ Nghịch lý giữa mất và được

Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng nghịch lý thay, nhiều

khi vì "được" mà phải "mất": Thí dụ trong một vụ tranh cãi, bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu

mô để cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng một vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè, anh

em và có khi cả cha con; trái lại nhiều khi nhờ "mất" mà lại "được": Thí dụ thánh

Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài nhận biện hộ cho một vụ kiện lớn,

ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là

giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và đã trở thành một vị thánh.

b/ Nghịch lý giữa chết và sống

Chết và sống không hẳn là 2 điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ

nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Vài thí dụ:

Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới thành chất bổ

dưỡng cho cây.

Nơi sinh vật: các thức ăn phải "tiêu" mới "hóa" thành lương thực.

Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.

* 5. Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai?

Cô Ann Thomas kể lại câu chuyện sau đây: Hôm đó, cô và Betty ghé vào một sạp bán đồ

cũ. Ann vừa lôi ra một khay đồ linh tinh, Betty bước tới hỏi:

- Có đồ gì đáng giá không?

Ann trả lời: - Không, toàn là đồ năm vố thôi.

Page 28: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

28

Đoạn cô bước sang bên cạnh nhường cho Betty vào xem. Betty chăm chú nhìn vào đống lặt

vặt, nhặt lên một cây thập giá cũ han gỉ và nói:

- Thật khó mà tin được. Tôi đã tìm được đồ quí: cây thánh giá này làm bằng chất bạc xưa.

Cô bạn của Ann đem về nhà lau chùi và đánh bóng cây thập giá. Đây quả là một vật quí.

Về sau, đứa con trai bảy tuổi của Betty tên Bobby cầm cây thập giá lên ngắm nghía hồi lâu.

Bỗng nhiên cậu bé oà lên khóc. Betty liền hỏi:

- Con sao vậy?

Bobby nói: - Con không cầm lòng được khi thấy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.

Ba người nhìn vào cây thập giá, có ba thái độ khác nhau: một người dửng dưng cho là đồ ve

chai, người khác thích thú vì khám phá ra vật quí, còn người khác nữa lại xúc động rơi lệ vì

nhận ra Chúa Giêsu chịu đau đớn trên thập giá.

Tin Mừng hôm nay kể, Chúa Giêsu bất thần hỏi các môn đệ: "Đám đông nói Thầy là ai?"

Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gian Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác

lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại". Nhưng Chúa lại muốn biết suy nghĩ

của chính ho ï: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Và chỉ một mình Phêrô mau mắn,

đầy xác tín thưa: "Thầy là đấng Kitô của Thiên Chúa" (TP)

6. Trở thành chính mình

Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ "Người ta nghĩ Thầy là ai", Ngài không hỏi thế vì Ngài bởi

vì Ngài đã biết rõ Ngài là ai rồi. Ngài hỏi thế là vì các môn đệ, Ngài tạo dịp cho họ suy nghĩ

chín chắn về bản thân Ngài.

Một số người thèm khát được người ta chấp nhận. Có lẽ vì trước đó họ thường bị người

khác không để ý, không đánh giá cao hoặc chê bai nên họ đâm ra nghi ngờ chính bản thân

mình và nay họ tìm kiếm sự nhìn nhận của người khác. Người nào càng thiếu tự tin và ít

thành đạt thì người ấy càng cần xác định căn tính của mình trong một nhóm hoặc một tầng

lớp xã hội đang thành đạt.

Chúng ta cần phải hiểu rõ sự thật mình là thế nào và chấp nhận sự thật ấy. Một khi đã hiểu

mình và chấp nhận sự thật của mình rồi thì mình không cần tô vẽ về mình hay mua chuộc sự

khen ngợi của người khác nữa. Dù người ta không hiểu, không khen ngợi, thậm chí chê bai

phê phán, mình cũng luôn vững vàng. Bởi vì giá trị của mình không phải do lời khen chê

của người khác, mà do chính sự thật của mình.

Tuy nhiên, đôi khi ta cũng phải tìm hiểu xem người khác nghĩ sao về mình, để nếu người ta

nghĩ đúng thì ta có thể dựa vào đó mà sửa mình. Alfred Nobel là một kỹ nghệ gia giàu có và

nổi tiếng. Chính ông là người đã chế tạo ra cốt mìn. Dù giàu có và nổi tiếng như thế nhưng

đời ông không hạnh phúc, ông luôn nhìn đời một cách bi quan. Một ngày kia, do một sự

hiểu lầm, người ta tưởng ông chết nên báo chí đã loan tin ấy và còn viết bài nhận định về sự

nghiệp của ông. Sáng hôm đó Alfred Nobel vừa thức dậy đọc được bài báo ấy và giật mình.

Điều làm ông giật mình nhất là người ta đã coi ông là "ông vua cốt mìn". Ông nghĩ: mình đã

sống thế nào, đã làm gì khiến cho người ta chỉ nhớ về ông như là người chế tạo ra cái công

cụ giết người khủng khiếp ấy. Thế là ông quyết định dùng tài sản kết sù của mình để xây

dựng thế giới. Ông đặt ra giải thưởng mang tên Nobel, trao cho những ai có đóng góp nổi

bật về các lãnh vực vật lý, hóa học, y khoa, văn chương và hòa bình. Alfred Nobel muốn

lịch sử sẽ ghi nhớ ông như một người cổ vũ cho hòa bình thế giới chứ không phải là một

"ông vua cốt mìn". (FM)

Page 29: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

29

7. Chuyện minh họa

a/ Thế nào là anh hùng?

Cuốn phim The Superman (siêu nhân) rất nổi tiếng. Sau khi đóng thành công vai chính

trong phim này, diễn viên điện ảnh Christopher Reeve đã được rất nhiều người phỏng vấn.

Câu mà anh thường được hỏi nhất là "Theo anh nghĩ, thế nào là một vị anh hùng?" Anh đã

trả lời rất nhanh: Anh hùng là người có sức mạnh, có mưu trí và có lòng can đảm. Nhờ

những đức tính đó, người anh hùng luôn chiến thắng trong những cuộc đụng độ với các kẻ

thù.

Thế rồi, một biến cố đặc biệt xảy đến với anh: tháng 5 năm 1995 anh bị té ngựa và từ đó về

sau bị bại liệt từ cổ trở xuống. Từ đó trở đi, cuộc sống của anh rất khó khăn và khổ sở đến

nỗi nhiều khi anh không muốn sống nữa. Tuy nhiên anh cũng cố gắng sống. Và anh đã có

một suy nghĩ khác hẳn về người anh hùng: anh hùng là người luôn tìm được sức mạnh để

vượt qua tất cả những khó khăn chướng ngại trong đời thường.

b/ Vác thập giá mình

Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi, anh

đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: "Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá

đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tùy thích. " Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh

ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh

tìm mãi vẫn không được: cây thì quá dài, cây thì quá ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù sì

khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá. . . Và rồi đêm nào cũng thế. . cho đến một lần kia

anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà. Nhưng ôi khi

nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào! (Trích

"Phúc")

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta.

Với lòng tri ân sâu xa Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh được Chúa Giêsu thiết lập để tiếp tục công cuộc cứu độ của Người / Chúng ta

hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / luôn ý thức về sứ mạng

rao giảng Tin mừng của mình / và hết lòng cộng tác vào công việc cao quý này.

2. Trên thế giới ngày nay / chia rẽ / hận thù / kỳ thị / bất công / vẫn còn đang ngự trị trong

đời sống của nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho con người ngày nay / một

tình yêu mạnh hơn sự chết và lớn hơn hận thù.

3. Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết

mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình bằng lời nói / nhưng nhất là bằng chính đời sống

bác ái yêu thương / và phục vụ tận tụy của mình.

4. Chúa Giêsu nói: / Ai muốn theo tôi / phải từ bỏ chính mình / vác thập giá mình hằng ngày

mà theo / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết kiên tâm bền chí /

và dấn thân theo Chúa đến cùng.

Chủ tế: Lạy Chúa, Đức Kitô Con Chúa đã dùng tình thương mà chinh phục thế giới và xoa

dịu đau khổ của những người bất hạnh. Xin Chúa cho chúng con biết noi gương Người là

Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

Page 30: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

30

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Thánh Phaolô nói: Nhờ phép rửa, chúng ta đã nên một với Chúa

Giêsu Kitô. Vậy chúng ta hãy hợp một lòng một ý với Ngài mà dâng lên Chúa Cha lời kinh

sau đây.

VII. Giải tán

Chúng ta sắp rời Nhà thờ để trở về cuộc sống thường ngày với bao nhọc nhằn, phiền muộn

và đau khổ. Nhưng chúng ta hãy ý thức rằng đó chính là những thánh giá hằng ngày mà

Chúa gởi đến cho chúng ta. Chúng ta hãy can đảm vác lấy mà đi theo Chúa. Có như thế

chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Ngài.

Page 31: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

31

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

NẾU AI MUỐN THEO CHÚA

Lm Giuse Đinh lập Liễm

***

A. DẪN NHẬP.

Người Do thái đã bao đời mong đợi Đấng Messia đến. Theo họ Đấng Messia phải là một vị

đầy quyền lực và chiến thắng. Người ta không thể quan niệm được một Đấng Messia “bị

đâm thâu” như tiên tri Giacaria loan báo trong bài đọc 1 hôm nay, cũng không thể quan

niệm được một Đấng Messia như “Người tôi tớ” của Giavê như tiên tri Isaia đã loan báo (Is

53).

Đức Giêsu đến rao giảng Tin mừng, làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài đã lừng lẫy khắp

nơi nhưng người ta không nhận ra được căn tính của Ngài. Người ta chỉ coi Ngài là Gioan

Tẩy giả, ûtiên tri Isaia hay một tiên tri nào ngày xưa sống lại. Chỉ có Phêrô nhìn ra căn tính

của Ngài khi ông tuyên xưng :”Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Đức Giêsu chấp nhận

lời tuyên xưng ấy nhưng ngăn cấm các ông không được nói điều ấy với ai,vì còn quá sớm

đối với người đồng hương, trong khi họ vẫn còn quan niệm về một Messia bách chiến bách

thắng.

Bất ngờ Đức Giêsu loan báo cho các ông : Ngài sẽ bị loại bỏ, bị giết chết, nhưng sau ba

ngày sẽ sống lại. Lời loan báo này làm các ông khó hiểu, nhưng sau sẽ hiểu. Tiếp theo đó,

ùNgài còn bồi thêm cho hai điều kiện nữa cho những ai muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ

của Ngài :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo “.

Chúng ta đã được chịu phép rửa, đã ”mặc lấy Chúa Kitô”(bài đọc 2) thì chúng ta đương

nhiên đã trở nên môn đệ Chúa Kitô rồi, và đã là môn đệ thì phải đi theo con đường khổ giá

mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta, đó là phải tuân phục thánh ý Chúa. Đi theo Chúa với

những điều kiện như trên xem ra là một nghịch lý, nhưng với con mắt đức tin, chúng ta sẽ

thấy rất hợp lý và là một bảo đảm cho chúng ta phần rỗi đời đời.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1 : Dcr 12,10-11.

Quả là một sự đảo lộn trong viễn cảnh quen thuộc ! Người ta thường cho là Đấng Messia

phải là Đấng quyền năng và chiến thắng. Thế mà ở đây lại là hình ảnh một Đấng Messia “bị

đâm thâu”. Đấng bị đâm thâu được nhắc trong bài đọc chính là Vua Thiên Sai mà tiên tri

đã vẽ lại dung mạo. Như người Tôi Tớ đau khổ (Is 53) vị Mục Tử này bị dân Ngài giết chết,

nhưng nhờ được Thánh Thần soi sáng , họ sẽ hiểu rằng kẻ mà họ đã giết chết chính là Đấng

Messia, cho nên họ sẽ nhìn lên Ngài và sẽ khóc lóc sám hối.

+ Bài đọc 2 : Gl 3,26-29.

Đức Kitô là biến cố quyết định của lịch sử. Nhờ Ngài, qua bí tích rửa tội và trong đức tin,

chúng ta làm thành dân Thiên Chúa, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và có thể nhận

nhau như anh em, ngay trong chính những cuộc tranh chấp khiến họ đối đầu với nhau,

những cuộc ttranh chấp bắt nguồn từ sự khác biệt về chủng tộc, địa vị xã hội hoặc phái tính.

Trong trật tự mới này không còn ai bị loại trừ, không còn phân biệt Do thái hay dân ngoại,

nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, ai cũng được làm con Thiên Chúa và anh chị em với

Page 32: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

32

nhau. Chính nhờ phép rửa tội, người tín hữu đã “mặc lấy Chúa Kitô” thì mọi người cũng trở

nên một trong Đức Kitô rồi.

+ Bài Tin mừng : Lc 9,18-24.

Mọi người đang trông ngóng Đấng Cứu Thế, một Đấng Cứu Thế đầy quyền năng và sức

mạnh có thế khuất phục được thế giới. Nhưng Đức Giêsu là Đấng Cứu thế không dùng đến

quyền năng và sức mạnh, Ngài chiến thắng bằng cách hy sinh mạng sống mình.

Cho đến lúc đó, mặc dầu nghe Đức Giêsu giảng giải nhiều, các môn đệ vẫn chưa hiểu rõ sứ

vụ của Ngài. Đức Giêsu hỏi thử các môn đệ để các ông có dịp xác nhận rõ hơn về Ngài. Và

Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Sai. Ngài xác nhận lời tuyên

xưng đó, nhưng cho biết thêm Ngài là Messia phải chịu đau khổ và chịu chết. Ngài còn nói

thêm rằng ai muốn làm môn đệ Ngài thì cũng phải đi theo con đường đó, con đường thập

giá.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Muốn làm môn đệ Chúa.

I. ĐỨC GIÊSU LÀ AI ?

1. Căn tính của Đức Giêsu.

Vấn đề căn tính của Đức Giêsu luôn vang lên theo nhịp điệu của lời giảng và các hoạt động

của Ngài. Gioan Tẩy giả từ trong ngục đã hỏi Ngài, qua trung gian môn đệ được sai đi

:”Ngài có thật là Đấng phải đến chăng hay chúng tôi còn phải chờ một vị khác”(Lc

7,19). “Ông này là ai mà lại được tha tội (Lc 7,49), những khách dự tiệc nhà ông Simon đã

kêu lên như vậy. Rồi các môn đệ hỏi nhau khi họ thấy Ngài dẹp yên sóng gió:”Người này

là ai mà ra lệnh cho cả sóng gió và sóng gió phải tuân lệnh”(Lc 8,25). Rồi chính vua

Hêrôđê, người đã chém đầu Gioan Tẩy giả cũng phải suy nghĩ :”Người này là ai mà ta nghe

nói nhiều về ông như thế và ông tìm cách gặp Ngài”.

Câu hỏi này đôi khi đã được giải đáp.”Một vị tiên tri vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta,

và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài”. Những người chứng kiến cảnh con trai bà góa

Naim được sống lại đã đồng thanh tung hô như thế (Fiches dominicales C, tr 224).

2. Dân chúng nghĩ gì về Đức Giêsu ?

Trên đường vào các làng trong thành Cêsarê-Philipphê, Đức Giêsu dẫn các môn đệ đến một

nơi hoang vắng, nơi rất thuận tiện cho các môn đệ nghỉ ngơi và Đức Giêsu cầu nguyện một

mình. Trong khung cảnh lặng lẽ, xa mắt bọn thù địch, xa những tiếng ồn ào của đám dân

chúng đi theo Đức Giêsu vì các phép lạ Ngài đã làm, Đức Giêsu cùng các môn đệ họp mặt

để dễ bề tâm sự riêng.

Các môn đệ đã từng sống với dân chúng, các ông có thể biết nhận thức của dân chúng đối

với Đức Giêsu, nên Ngài đã hỏi các ông :”Dân chúng bảo Thầy là ai” ? Các môn đệ kể ra

những ý kiến khác nhau, lời đồn thổi về thân thế của Ngài, như Gioan an Tẩy giả, tiên tri

Êâlia (vì tiên tri đến trước loan báo Đấng Messia) hoặc một tiên tri ngày xưa sống lại.

Những nhận thức này cho thấy đám dân chúng tuy đã đón nhận các phép lạ Chúa làm nhưng

chưa nhận thức được Đức Giêsu là ai, vì thế họ chỉ biết đồng hóa Ngài với Gioan Tẩy giả,

với Eâlia hoặc một trong các tiên tri thời xưa.

3. Các môn đệ nghĩ gì về Đức Giêsu ?

Đức Giêsu hỏi tiếp ngay:”Còn các con, các con bảo Thầy là ai”? Câu hỏi này buộc các môn

đệ phải đưa ra ý kiến của mình. Phêrô nhanh nhảu đáp:”Thầy là Đấng Kitô của Thiên

Page 33: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

33

Chúa”. Lời tuyên tín này biểu lộ đức tin của Phêrô vào Đức Giêsu là vị Thiên Sai của Thiên

Chúa, Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu (Lc 4,18 ; Cv 10,58).

Đức Giêsu liền nghiêm giọng truyền cho các ông “không được nói điều đó với ai”. Không

phải vì Ngài từ chối danh hiệu mà Phêrô vừa tặng cho Ngài, nhưng bởi vì xử dụng danh

hiệu đó là quá sớm, vì danh hiệu Messia lúc ấy còn rất hàm hồ trong ý nghĩa của người đồng

hương và ngay cả các môn đệ của Ngài : họ hiểu Đấng Messia theo nghĩa chính trị,

4. Đức Kitô đúng nghĩa.

Đức Giêsu dưới con mắt người đời chỉ là Gioan Tẩy giả hay một tiên tri ngày xưa trở lại

chứ đâu có nhìn ra được con người thật của Ngài. Trong ngôn ngữ của chúng ta có một từ

ngữ đặc biệt , đó là chữ “ngờ”. Ngờ là khó tin, khó tin nhưng có thật :

Tưởng rằng nước chảy đá mòn,

Ai ngờ nước chảy đá con trơ trơ.

(Ca dao)

Hôm nay, qua bài Tin mừng, các môn đệ cũng lâm vào cảnh khó tin, bất ngờ như vậy. Sau

những phép lạ Chúa làm, như phép lạ hóa bánh ra nhiều cho 5000 người ăn, danh tiếng của

Chúa lẫy lừng khắp nơi. Người ta còn muốn tôn Ngài làm Vua nữa. Ai ngờ hôm nay, Ngài

tuyên bố những điều thật khó hiểu, làm mất hứng :”Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị

các kỳ lão, các thượng tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”.

Đây là lần thứ nhất Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Lần thứ hai ở Lc 9,44-

45. Loan tin này là Ngài muốn chỉ cho các môn đệ thấy và hiểu cách thế Ngài cứu chuộc

nhân loại : cứu chuộc bằng sự thương khó, tử nạn và phục sinh.

Đức Giêsu là Đấng Messia như Phêrô đã đoán chính xác. Nhưng Ngài không là Đấng

Messia vinh quang như dân chúng đã mong đợi. Ngài phải là Đấng Messia đau khổ. Ngài

không thống trị, Ngài chỉ phục vụ. Đức Giêsu không quan tâm chiếu rọi loại hình ảnh mà

dân chúng muốn. Ngài biết Ngài có một số phận mà Thiên Chúa đã định mà Ngài phải

hoàn thành, không sai sót.

II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA

1. Ai muốn theo Chúa.

Tiếp theo đó, Đức Giêsu đưa ra lời mời gọi mọi người chứ không riêng gì các môn đệ, là

hãy theo Ngài :”Ai muốn theo Ta”. Đức Giêsu muốn khơi động lòng muốn cho những ai

theo Ngài. Điều đó chứng tỏ Chúa tôn trọng quyền tự do lựa chọn của con người, theo hay

không theo cũng được. Tiếng La tinh dùng chữ “Si quis” (nếu ai) càng rõ nghĩa hơn : chữ

“nếu” nói lên sự tự do hoàn toàn.

Nếu câu hỏi của Đức Giêsu chỉ có bấy nhiêu chữ “Nếu ai muốn theo Ta”, thì tất cả chúng ta

, những người đã được rửa tội, đều có thể đáp lại thật nhanh :”Con muốn…Con muốn theo

Chúa”. Nhưng nếu nghe trọn câu Ngài nói :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác

thập giá mình hằng ngày mà theo”, thì chắc hẳn số người nhanh chóng trả lời “Con muốn”

sẽ giảm đi rất nhiều”.

2. Từ bỏ chính mình.

“Ai muốn theo Ta” nghĩa là ai muốn làm môn đệ của Đức Giêsu (đi theo ai là làm môn đệ

cho người đó). Muốn làm môn đệ của Chúa thì phải thực hiện hai điều kiện : từ bỏ chính

mình và vác thập giá hằêng ngày. Điều kiện thứ nhất là TỪ BỎ MÌNH, nghĩa là đừng nghĩ

đến mình, đến lợi lộc riêng tư, mà chỉ nghĩ đến Đấng mình làm môn đệ, mình đang theo.

Page 34: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

34

“Từ bỏ chính mình” : xem ra từ bỏ mình nghĩa làtha hóa, vong thân (aliénation), mình

không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải

giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình

nữa nhưng ta hóa nên giống Chúa Giêsu thì thật tuyệt vời. Đó chính là “thần hóa”. Lý

tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa

Giêsu.

Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi từ đầu Thiên

Chúa đã tạo dựng con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị

“tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Chúa Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu

(Carôlô).

Theo Đức Giêsu, cũng có nghĩa là đáp lại đầy đủ lời Người mời gọi “Nếu ai muốn theo Ta,

hãy từ bỏ chính mình” (Lc 16,24). Mà, tác động từ bỏ lớn nhất con người có thể được thực

hiện là hy sinh tự do của mình, thuần phục hoàn toàn trong mọi sự theo đức vâng lời. Thực

thế, đối với con người không có gì quí giá bằng ý chí tự do, vì chính tự do làm cho con

người trở nên chủ nhân của người khác; nhờ tự do, họ có thể xử dụng và hưởng thụ những

tài năng khác và đặt định cho mọi hành vi của mình. Cũng như con người từ bỏ của cải hay

bà con thân thích, họ từ bỏ những thứ đó là từ bỏ tự do của ý riêng ; để làm cho họ được tự

chủ, họ cũng khước từ chính mình.

(Sống với Chúa, tập 3, 1967, tr 232-234)

3. Vác thập giá mình

Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ nhận diện “Thầy là ai”(Lc 9,20),

để giúp họ biết “họ là ai” trong tương quan giữa họ với Đức Giêsu. Khi tuyên xưng “Thầy

là Đức Kitô của Thiên Chúa”(Lc 9,20) Phêrô cũng khẳng định “ông là môn đệ của Ngài”.

Vì thế, Chúa mới nói cho các môn đệ biết họ cũng phải đi theo con đường đau khổ giống

như Ngài :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc

9,22-23). Đó là con đường biến đổi đau khổ của thập giá thành Thánh giá.

Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Galát rằng :”Anh em đã chịu phép rửa

trong Đức Kitô, nên anh em mặc lấy Đức Kitô”(Gl 3,27). Mặc lấy Đức Kitô, hay mặc lấy

chiếc áo trắng rửa tội là mang lấy Thánh giá giống như Ngài. Đau khổ của thập giá tự bản

chất là hình phạt bởi tội (St 3,16-19). Nhưng qua Đức Kitô, đau khổ đã trở nên giá cứu

chuộc nhận loại, thập giá trở thành Thánh giá.

Do đó, trong bí tích Rửa tội, Linh mục làm dấu Thánh giá trên trán người được rửa tội. Đây

là một sự thực hành mà Giáo hội mượn từ quân đội Rôma. Khi một người đã trở nên một

người lính Rôma, anh bị đóng ấn bởi dấu hiệu của hoàng đế trên trán để chứng tỏ từ bây

giờ anh phải phục tùng hoàng đế. Dấu hiệu Thánh giá là dấu hiệu bề ngoài của một người

thuộc về Đức Kitô, mang lấy Thánh giá như Chúa Kitô (Nguyễn văn Thái).

Khi Đức Giêsu nói với các môn đệ “Hãy vác thập giá hằng ngày”, các ông chưa thể hiểu

được điều này, phương chi đại chúng. Đức Giêsu vừa báo tin Ngài sẽ chết, nhưng chưa nói

rõ sẽ chết cách nào. Sau khi Hêrôđê chết, hơn 2000 người bị đóng đinh, những người bị giết

phải vác khổ giá của họ đến nơi bị giết. Chữ vác thánh giá ở đây hiểu theo nghĩa thiêng

liêng : tức là chịu mọi thử thách, chết cho thế gian, chỉ sống cho một mình Chúa.

Người Kitô hữu biết từ bỏ mình và vác thập giá mình không có nghĩa là phải làm những

điều đặc biệt, những việc phi thường, mà làm những việc bình thường vừa sức mình. Nếu

nói dứt khoát “không” với chính mình không có nghĩa là phải ghét mình, bởi lẽ ta phải yêu

tha nhân như chính mình; nhưng chính là không qui hướng mọi sự về mình. Dứt khoát nói

“không” đó cũng chính là hiện tại hóa việc vác thập giá. Chính thập giá của riêng tôi mà

Page 35: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

35

tôi phải vác lấy, thập giá của cuộc sống đè nặng vai tôi ; tôi đừng mơ tưởng một thập giá

khác. Đó không phải là chứng bệnh tự hành hạ mình, tự làm khổ mình, nhưng chính là vì

biết chắc rằng tôi không thể mến Chúa và yêu tha nhân, nếu không hy sinh hoặc cách này,

hoặc cách nọ, và nếu không đi qua đau khổ. Khi bắt chước Đức Kitô như vậy, tôi mới thật là

môn đệ của Ngài (H. Cousin).

Truyện vui : Vác thập giá mình.

Vào chiều ngày thứ Sáu Tuần Thánh, cha sở kêu gọi giáo dân : khi quí vị đến nhà thờ đi

chặng đường Thánh giá tưởng niệm sự chết và đau khổ của Chúa Giêsu, mỗi người nên làm

một cây thập giá bằng bất cứ vật liệu nào tượng trưng cho sự đau khổ của mình trong cuộc

đời đang phải chịu. Sau chặng đàng Thánh giá yêu cầu quí vị mang lên bàn thờ cho tôi làm

phép. Mọi người đều mang lên đủ loại thập giá. Ông trùm bước lên tay không, cùng với bà

vợ. Khi cha sở hỏi , thập giá của ông đâu, ông chỉ ngay vào bà vợ và nói :”Thưa cha, đây là

thập giá của con”. Cha sở cũng làm phép, nhưng sau đó liền bảo ông rằng :”Bây giờ ông hãy

ôm lấy cây thập giá này và hôn lên cây thập giá của ông đi”.

Đây là một câu chuyện vui cười ! Nhưng Thập giá Đức Giêsu đề cập đến không phải chỉ là

bà vợ hay ông chồng. Nó không đơn thuần chỉ là một đám cưới không hạnh phúc, hay

những trở ngại khó khăn đến với chúng ta ngoài ý muốn, cũng không chỉ là những điều xui

xẻo, không may xẩy đến như thi rớt, bệnh tật, mất việc. Thập giá Đức Giêsu đề cập chính là

sự chọn lựa từ bỏ mình để dâng hiến hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa (Rm 6,13 ; 12,1).

Từ bỏ những ý kiến, suy nghĩ riêng tư, cả cái tôi kiêu căng, tự ái, ích kỷ và lòng ham hố

danh lợi (Pl 2,21). Đó là tự làm rỗng mình đi cho Thần Khí của Thiên Chúa ngự trị, để làm

theo thánh ý của Thiên Chúa . Đó là với Đức Tin Cậy Mến chúng ta biến đổi Thập giá thành

Thánh giá, đau khổ trở nên giá cứu chuộc linh hồn cho mình và cho nhân loại (Nguyễn văn

Thái, Sống Lời Chúa giữõa dòng đời, C, tr 229).

III. HÃY ĐỒNG THUẬN VỚI CHÚA.

1. Tuân phục thánh ý Chúa.

Tuân phục thánh ý Chúa là đặt ý Chúa lên trên ý riêng của ta. Muốn được thế, chúng ta phải

hủy diệt ý riêng, từ bỏ sự tự do của mình, hiến dâng nó cho Chúa như dâng một lễ vật toàn

thiêu để không còn giữ lại cho mình một chút gì. Đó là sự vâng phục hoàn toàn thánh ý của

Chúa và ta sống hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Người.

Hãy coi mình như dụng cụ Thiên Chúa dùng. Chúng ta là sản phẩm Thiên Chúa dựng nên,

cho dù ta đẹp đẽ, hay ho mấy cũng chỉ là dụng cụ của Chúa dùng trong việc làm sáng danh

Ngài. Dụng cụ là gì ? Là đồ dùng để làm việc gì như chàng , đục, cưa để làm thợ mộc; máy

may, kim, chỉ dùng để may áo. Dụng cụ được coi như phương tiện cần dùng để đi tới đích.

Mà thân phận của dụng cụ là ít được biết tới. Người ta chỉ chú ý tới đồ vật được làm ra hay

chỉ nghĩ tới tác giả của nó.

Chúng ta là những dụng cụ của Chúa, những dụng cụ vô dụng được ở dưới sự xử dụng vô

cùng khôn khéo của Thiên Chúa, để mặc dầu chúng ta là vô dụng, nhưng chính Chúa sẽ làm

cho nó trở nên hữu dụng, ích lợi và còn cần thiết nữa, như người ta nói :

Ai làm cho cải tôi ngồng,

Cho dưa tôi khú cho chồng tôi chê.

Chồng chê thì mặc chồng chê,

Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.

(Ca dao)

Page 36: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

36

Vì là dụng cụ của Chúa nên chúng ta cần phải có thái độ khiêm nhường, những thành công

tốt đẹp không phải chỉ do chúng ta, mà do Chúa vì một bài thơ hay, không phải tự cái bút

mà là do thi sĩ. Cái bút tốt hay xấu, có nó hay không thì những vần thơ vẫn có trong đầu óc

thi sĩ rồi. Cũng đừng buồn khi không được dùng vào những công việc cao vì không có tài :

đôi guốc không hề phàn nàn vì phải ở dưới chân, cái mũ không hãnh diện vì được ở trên đầu

người ta… Ở đâu hay được dùng vào việc gì là tùy ở công dụng của nó và tùy ở quyền

người xử dụng. Chúng ta chỉ biết than thở với Chúa rằng :

Khi hoàn tất việc đã làm,

Nâng lòng lên Chúa mà than thở rằng :

Này con vô dụng muôn phần

Phần con, con đã thi hành mà thôi.

(Lc 17,10)

Truyện : Tờ giấy trắng và cây viết

Khi nhắc đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ đến những phát minh khoa học

và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí ông Leonardo de

Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc đặt ra những câu chuyện vui sau đây về một

cuộc đối thoại tưởng tượng giữa một tờ giấy trắng và cây viết :

Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lì trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó

được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết

bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cây viết như sau :

- Tại sao anh lại làm thế ? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng

ban đầu. Anh làm nhục tôi như thế này sao ? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.

Nhưng cây viết trả lời :

- Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lêân anh

những dấu hiệu, những dòng chữ kể từ nay anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có

mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người. Lưu giữ những tư

tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ

giúp cho con người.

Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ

giấy khác, trước kia trắng tinh nay đã đổi mầu, đầy bụi mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Tờ

giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cây viết và lấy

làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con

người (R.Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 52).

2. Theo Chúa là khôn ngoan.

Ở đời, con người có cái dại có cái khôn, tùy theo quan niệm của từng người. Đối với tiền

của, mỗi người có một quan niệm. Người có tinh thần siêu thoát thì coi tiền của như đầy tớ

trung thành phục vụ cho mình, người phàm tục coi tiền của như ông chủ khắc nghiệt, mình

phải làm tôi tớ cho nó. Nó có thể sai khiến mình phải làm bất cứ một việc gì, mặc dầu có hại

cho mình. Đúng như người ta nói :”Hoàng kim hắc thế tâm nhân” : đồng tiền làm đen tối

lòng người.

Vì thế, dại khôn, khôn dại bị đảo lộn, tùy theo quan niệm của từng người. Thi sĩ Nguyễn

công Trứ có cái nhìn đúng đắn khi ông nói :

Đã không điều lợi khôn thành dại,

Page 37: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

37

Đã có đồng tiền dở cũng hay.

Đối với những người theo Chúa, người đời có những cái nhìn khác nhau. Đã theo Chúa thì

phải đi con đường khổ giá mà con đường khổ giá là phải từ bỏ mình, vác thập giá mình

hằng ngày mà theo.

Đối với thập giá, nhiều người cũng có cái nhìn khác nhau. Đại đa số người ta có cái nhìn bi

quan về thập giá, họ cho thập giá là một sự điên rồ hay là cớ vấp phạm, không chấp nhận

được. Ta hãy nghe thánh Phaolô nói về vấn đề này như thế nào :

“Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm sự

khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái

cho là ô nhục không thể chấp nhận được, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những

ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức

mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn

ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài

người”(1Cr 1,22-25).

Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói đến hai điều nghịch lý, thoạt xem ra có

vẻ phi lý, nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Đó là nghịch lý giữa mất vàcòn,

giữa chết và sống.

Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn được và sợ mất. Nhưng nghịch lý thay, nhiều

khi vì “được” mà phải “mất” : Thí dụ trong một vụ tranh cãi, bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu

mô để cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng một vụ cãi, nhưng mất tình nghĩa bạn bè, anh

em và có khi cả cha con. …

Chết và sống không hẳn là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ

nhau : ví dụ hạt giống có thối nát ra thì mới sinh hoa kết quả được, con vật có bị giết chết đi

thì mới phục vụ sự sống cho con người, cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt đi thì mới cung

cấp ánh sáng cho con người (Carôlô).

Như vậy, với con mắt đức tin, những người theo Chúa và đi theo con đường thập giá của

Ngài là nhưng người khôn ngoan, hiểu Lời Chúa và biết lo cho tương lai của mình :”Nếu

được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì” ?

Truyện : Hạt trân châu

Ngày xưa có ba chàng kỵ mã vượt qua một bãi sa mạc quạnh hiu không một bóng người.

Một hôm trời vừøa sập tối, ba chàng kỵ mã cũng vừa đến một bờ suối đã khô cạn từ lâu.

Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật vang lên mơ hồ :

- Hãy dừng chân lại.

Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng nói bí mật ấy lại tiếp tục vang lên mơ hồ :

- Các ngươi hãy xuống ngựa, bước xuống lòng suối, nhặt lấy cho mình ít đá sỏi, bỏ vào túi

rồi tiếp tục lên đường. Cả ba đều làm theo lời chỉ dạy thiêng liêng. Rồi tiếng nói kia lại cất

lên trầm ấm

- Hay lắm, các ngươi đã làm theo lệnh ta. Ngày mai, khi vừng đông vừa ló dạng các người

sẽ vừa sung sướng vừa buồn bã.

Các kỵ mã lên đường dong ruổi ban đêm. Quả đúng như lời mách trước, khi mặt trời vừøa

lên, ba chàng ky mã thấy cái gì lấp lánh trong túi mình. Thì ra, những hòn sỏi họ lấy chiều

hôm trước bây giờ đã trở nên những hạt trân châu sáng ngời muôn sắc. Cả ba đều vừa sung

sướng, nhưng cũng vừa nuối tiếc. Họ sung sướng vì nhận được của báu, nhưng họ hối tiếc

vì nhặt quá ít (Nguyễn văn Huệ, báo Rạng đông, số 64, 1970, tr 26).

Page 38: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

38

Page 39: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

39

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

BỎ MÌNH THEO CHÚA VỚI THÁNH GIÁ

(Lc 9, 18 – 24)

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

***

Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều khơi dậy lòng nhiệt thành và quí trọng của dân chúng, họ

muốn tôn Chúa lên làm vua, Chúa Giêsu đã lánh riêng ra một nơi, xa cách dân chúng để

trong thinh lặng, cùng với các môn đệ hàn huyên tâm sự và cầu nguyện. Chúa hỏi các môn

đệ : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? ” (Lc 9, 20). Đại diện cả nhóm Phêrô tuyên

xưng : “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20 ) lập tức các ông bị cấm không được

nói với bất cứ ai về Thầy. Liền sau lời cấm là bài học về chính Thầy, Đấng Kitô : “Con

Người phải chịu nhiều đau khổ nhiều…và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại” (Lc 9, ),

và loan báo điều kiện dành cho những ai muốn đi theo Chúa : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ

mình, vác thập giá mà theo” (Lc 9, 23).

Xem ra sự khác biệt giữa chương trình tình yêu của Chúa Cha và dự án, ước muốn của con

người là điều hiển nhiên. Khi con người thực hiện đời mình chỉ hướng tới thành công xã

hội, giầu sang vật chất và kinh tế, gạt bỏ Thiên Chúa sang một bên, không lý luận theo

Thiên Chúa nữa, mà theo con người.

Theo Chúa phải từ bỏ

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu đòi hỏi là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội

được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ

tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con

người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa

Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy

vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không bắt chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là”, nhưng điều

“chúng ta đã trở nên”. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi

tạo dựng người nam và người nữ (x. St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều

Chúa đã làm, nhưng là điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà

tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng

xấu, tội lỗi, phủ trên hình ảnh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh

dưới đất”, ngược với “ảnh trên trời”, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta”,

là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Kierkegaard đã lấy một ví dụ: Hai người trẻ ngôn ngữ khác biệt yêu nhau. Muốn cho tình

yêu của hai người sống còn và lớn mạnh, một trong hai người phải học tiếng nói của người

kia. Bằng không, họ không có khả năng truyền đạt và tình yêu của họ không bền. Và ông

kết luận, điều này chỉ xảy ra giữa chúng ta và Chúa. Chúng ta nói thứ ngôn ngữ xác thịt,

Chúa nói thứ ngôn ngữ thần khí; chúng ta nói ngôn ngữ tính ích kỷ, Chúa nói ngôn ngữ tình

yêu.

Muốn theo Chúa, phải từ bỏ chính mình là học ngôn ngữ của Chúa để chúng ta có thể giao

tiếp với Chúa. Chúa đã từ bỏ chính mình trước… trở nên giống chúng ta. Chúng ta sẽ không

Page 40: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

40

có khả năng nói “vâng” với người khác nếu chúng ta trước hết không khả năng nói “không”

với chúng ta.

Theo Chúa là chấp nhận thập giá

Thì ra con đường của các môn đệ là theo Chúa Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Con đường “chịu

mất chính mình“, để tìm lại được chính mình, như Đức nguyên Giáo hoàng Benedictô XVI

viết: con đường “chịu mất chính mình“, là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có

điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).

Ngày nay Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập

giá mình hàng ngày mà theo Ta” (Lc 9, 23). Chúa Giêsu không muốn thập giá, Người muốn

tình yêu, yêu đến tận cùng. Theo Chúa là chấp nhận thập giá của mình với lòng mến. Dưới

con mắt người đời, “chịu mất mạng sống” (Lc 9, 24) là một thất bại. Thánh Giáo hoàng

Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Một cách nhiệm mầu chính Chúa Kitô chấp nhận… chết

trên một thập giá để nhổ tận gốc rễ tội kiêu căng khỏi trái tim con người, và biểu lộ một sự

vâng phục toàn vẹn con thảo” (Chúa nhật niềm vui 9/5/1975). Khi tự nguyện chấp nhận cái

chết, Chúa Giêsu mang lấy thập giá của tất cả chúng ta và trở thành suối nguồn ơn thánh

cứu độ cho toàn dân. Thánh Cirillo thành Giêrusalem giải thích rằng: “Thập giá chiến thắng

đã soi sáng những ai bị mù lòa vì ngu muội, đã giải thoát người bị tội lỗi giam cầm, đã đem

lại ơn cứu độ cho toàn nhận loại” (Bài giáo lý về thập giá Đức Kitô XIII,1).

Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói : “Thánh Phêrô, người đã tuyên

xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng

sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan

với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi

mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta

tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa:

chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng

không phải là môn đệ của Chúa.”

Lạy Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian chịu chết và sống lại để

cứu chuộc chúng con, chúng con xin theo Chúa, nhưng xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ

chính mình và vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.

Page 41: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

41

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ CỦA THIÊN CHÚA

(Lc 9, 18-24)

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

***

"Thầy là ai ? " là câu hỏi do Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ về nguồn gốc của chính

mình. Trong số người đương thời, có người cho là Giêsu thành Nagiaret sinh tại Bêlem, con

bà Maria. Nhưng trong câu hỏi của Chúa Giêsu, hàm chứa lý lịch về mình thể hiện qua lời

nói, dấu chỉ Người thực hiện. Qua đời sống công khải và sứ mạng của Chúa Giêsu, câu hỏi

được đặt ra xoay quanh vấn đề Đức Kitô với vụ án: "Ông có phải là Đấng Kitô không ?"

Câu chuyện trong bữa tiệc tại nhà ông Simon người Biệt phái, chúng ta nghe tuần trước.

Simon cho rằng : "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là

ai… là một người tội lỗi" (Lc 7, 39). Nhận định của Simon cho thấy Chúa Giêsu có vấn đề tình

cảm.

Còn hội thoại hôm nay, quen gọi là tuyên xưng đức tin miền Xêsarê, Chúa Giêsu đặt câu hỏi

cho các môn đệ về chính mình : "Những đám đông dân chúng bảo Thầy là ai ? Các ông

thưa rằng : Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác lại cho là Êlia, còn người khác thì cho

là một trong các tiên tri thời xưa, đã sống lại" (Lc 9, 18-19). Giờ đây, chúng ta có thể đặt

một câu hỏi tương tự và làm cuộc điều tra về Chúa Giêsu với mọi người. Mỗi người một ý

kiến: kẻ này cho rằng Chúa Giêsu là một nhà khôn ngoan, người khác cho là một nhân vật

hư cấu, v.v.

Chúa Giêsu không ngại khi hỏi các môn đệ về chính bản thân mình : "Phần các con, các

con bảo Thầy là ai ? " (Lc 9, 20). Chúa yêu cầu họ tự xem, Người có vị trí nào trong đời

sống của họ. Nhân danh cả nhóm, Phêrô trả lời : "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa."

Đấng Kitô của Thiên Chúa nghĩa là Đấng được xức dầu làm ngôn sứ và vương đế để trở

thành mục tử chăn dắt Israel. Trên miệng của Phêrô, tước hiệu Đấng Kitô chứa đựng ý

tưởng toàn năng. Các môn đệ nghĩ rằng Chúa Giêsu đến để tái lập Vương Quốc Israel,

Người sẽ dùng quyền năng đánh đuổi quân Rôma, đưa Do thái lên thống trị. Vì thế, khi

Phêrô thưa : "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa" (Lc 9, 20), là ông nghĩ tới một vị Kitô

vinh quang, thống trị toàn năng, chiến thắng mọi kẻ thù. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại

bảo họ im lặng.

Những trang tiếp theo của Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu ba lần loan báo cuộc thương khó

rằng Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết. Nhưng các môn đệ không hiểu, không

tin vào những gì sắp xảy đến. Đối với họ, Đấng Kitô chịu khổ nạn là không thể, hình ảnh

Đấng Kitô vinh quang khác với hành động của Người. Họ không thể đón nhận Đấng Kitô

đau khổ thay vì vinh quang.

Tại sao vậy ? Vì sau phép lạ hóa bánh ra nhiều theo Tin Mừng Gioan, đám đông chạy theo

Chúa Giêsu để tôn Người lên làm vua. Chúa Giêsu thử lòng họ, giải thích cho họ ý nghĩa về

sứ mạng của mình : "Các ngươi muốn Ta làm vua, vì Ta đã cho các ngươi ăn bánh no nê…"

(Ga, 6, 26). Nhưng họ không hiểu lời Người nói, không phải vì trí hiểu kém, nhưng vì ý

tưởng về Đấng Kitô chịu đau khổ đối với họ là hoàn toàn xa lạ.

Tuy nhiên, hình ảnh này đã được các tiên tri loan báo, cụ thể như tiên tri Dacaria mà chúng

ta đã nghe "Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu qua " (Dcr 12, 11), hoặc bài ca

về người tôi tớ đau khổ trong sách tiên tri Isaia. Các môn đệ có thể biết rằng con đường của

Đấng Kitô không đơn giản là đường vinh quang. Nhưng nếu họ biết, họ không thể chấp

Page 42: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

42

nhận! Hãy sống nhờ Người và kết hợp với Người để Người biến đổi chúng ta. Vì thế, trong

khi dùng bữa tại nhà ông Simon, người đàn bà tội lỗi, với thái độ khiêm nhường và yêu

thương, đã chỉ ra rằng Chúa Giêsu là Đấng giầu lòng thương xót. Còn Simon, ông không thể

nhận biết Đấng đến nhà mình, vì sự cứng lòng của ông.

Chúa Giêsu nói : "Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà

theo" (Lc 9, 23). Để khám phá ra căn tính của Chúa Giêsu để bước theo, cùng với Phêrô

chúng ta nói : "Thấy là Đấng Kitô của Thiên Chúa", và sẵn sàng nói : tôi chấp nhận bước

theo trên con đường của Chúa, và vác thập giá tôi hằng ngày. Nếu không, chúng ta khó lòng

có thể biết Người cách đích thực.

Câu hỏi về căn tính của Chúa Giêsu không đơn giản là câu hỏi điều tra, tín điều hay là chú

giải Kinh Thánh, cũng không phải là câu trả lời cho những người đến hỏi Chúa Giêsu hoặc tìm

xem Kinh Thánh nói gì về Chúa. Đây là một câu hỏi về đời sống ! Toàn bộ lịch sử, Kinh Thánh

hoặc tín điều chúng ta nói về con người Chúa Giêsu, chúng ta chỉ là mình khi biết chấp nhận đi

trên đường Chúa đã chỉ cho.

Vậy là, từ tuần này qua tuần khác, Tin Mừng mạc khải dần dần cho chúng ta về căn tính đích thực

của Đấng Kitô để dẫn chúng ta tiến về Giêrusalem cách khải hoàn, cùng lúc soi sáng tâm hồn

chúng ta và dạy cho chúng ta biết rằng, ta chỉ có thể nhận biết Chúa Giêsu nếu chúng ta để Chúa

biến đổi đời ta.

Chúng ta thường đặt ra những khó khăn về sứ vụ loan báo Tin Mừng. Điều kiện tiên quyết

của sứ vụ là Tin Mừng biến đổi lòng chúng ta. Trở ngại của Tin Mừng trước hết không phải

là người mà chúng ta loan báo. Tin Mừng đến từ chúng ta. Vấn đề Tân Phúc Âm hóa không

phải là khả năng chiến thắng trên những người tin hay không tin Chúa Giêsu. Hãy để cho

Tin Mừng biến chúng ta thành những vị thánh, để những ai thực sự không biết đến Đấng

Kitô có thể hỏi chúng ta như tên lính đứng dưới chân thập giá : "Người này có phải là con

Thiên Chúa hay không ? "

Chúng ta đón nhận lời mời gọi hoán cải và hồng ân sự sống với niềm tin : " Ai muốn cứu

mạng sống mình thì sẽ mất, và ai liều mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ giữ được mạng sống

mình" (Lc 9, 24). Vậy hãy mở lòng mình ra đón lấy Đức Kitô để lời Người đổi mới cách

sống của chúng ta, và sự hiện hữu của chúng ta trở nên lời đáp trả cho những người chung

quanh. Amen.

Page 43: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

43

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

BỎ MÌNH VÀ VÁC THẬP GIÁ ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU

(Dcr 12,10-11; Gl 3,26-29; Lc 9,18-24)

Jos.Vinc. Ngọc Biển

***

Trong đời sống thường ngày, có nhiều tiếng gọi. Có những tiếng gọi xuất phát từ người

khác, cũng có những tiếng gọi khởi đi từ chính ta. Khi nghe và gọi người khác như thế, hẳn

giữa người lên tiếng và người lắng nghe đều muốn đi vào sự hiện hữu của nhau qua tiếng

gọi và lời đáp trả.

Hôm nay, Đức Giêsu cũng cất tiếng gọi các môn đệ. Ngài gọi các ông không phải để nhờ

các ông làm một việc gì đó cho mình, cũng không phải để thông tri với các ông một sự kiện,

biến cố nào đó. Nhưng Ngài gọi các ông đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đang

đi; đồng thời trao phó cho các ông sứ vụ đến với muôn dân để đem ơn cứu độ tới tận cùng

trái đất. Con đường đó là: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”.

1. Đức Giêsu gọi các môn đệ để làm gì và đi đâu?

Khi gọi các môn đệ đi theo mình, Đức Giêsu đã huấn luyện họ thành những người thừa kế

và trao cho họ sứ vụ là quy tụ muôn dân trở thành môn đệ. Nhưng có lẽ, trước mắt và trong

tâm tưởng, các ông vẫn nghĩ Đức Giêsu sẽ là vua, một vị vua đánh đông dẹp bắc, một vị vua

đem lại hoà bình cho dân tộc bằng cách đánh đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma. Khi đã

thành công, các ông hy vọng sẽ nắm được những vị thế cao trọng trong triều đình. Nhưng

chớ trêu thay, Đức Giêsu lại là một vị vua quá đỗi lạ lùng!

Quả thật, hôm nay, Ngài làm cho các ông ngỡ ngàng khi loan báo về một cuộc thương khó

mà chính Ngài sẽ trải qua: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão, các thượng

tế, và các luật sĩ từ bỏ và giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”. Khi mạc khải cho các

ông như thế, Đức Giêsu âm thầm nhắc cho các môn đệ của mình biết được rằng: con đường

giải thoát của Ngài là con đường tình yêu, tha thứ, từ bỏ, bất bạo động. Đỉnh cao của con

đường ấy chính là cuộc thương khó, tử nạn và phục sinh. Ngài không sử dụng con đường

của hận thù, quyền lực và bạo tàn. Tắt một lời, con đường đó chính là con đường của mầu

nhiệm tự huỷ, chết cho người khác được sống và sống dồi dào.

Khi Đức Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ biết con đường mà Ngài sẽ đi như thế, Ngài

cũng mời gọi họ bước theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã, đang và sẽ đi. Tuy

nhiên, muốn bước đi theo Đức Giêsu trên hành trình đó, đòi hỏi người môn đệ phải có

những điều kiện căn bản phù hợp với đặc tính của lời mời gọi này.

2. Điều kiện cần để đi theo Đức Giêsu

Khi mặt giáp mặt, lòng hiểu lòng, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ

chính mình” (Lc 16,24). Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi

trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng, chứ không phải vì nặng nề; tự do chứ không phải ép

buộc. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an

và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống theo tinh thần Tin Mừng. Thật thế,

con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung

lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ

ghề và chông gai. Con đường đó là con đường của từ bỏ.

Page 44: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

44

Từ bỏ chính mình là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Nếu theo Đức Giêsu, từ bỏ

nhiều thứ mà chưa từ bỏ chính mình thì kể như chưa bỏ gì cả. Từ bỏ chính mình là thể hiện

sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.

Tuy nhiên, chỉ có từ bỏ mình thôi cũng chưa đủ! Bởi vì, nếu một người chỉ lo việc Chúa mà

không lo chu toàn bổn phận hằng ngày của mình thì theo Chúa cách chưa trọn vẹn. Theo

Chúa cách trung thành và trọn vẹn là phải bỏ ý riêng, phải chu toàn bổn phận, phải vác thập

giá của mình hằng ngày mà theo (x. Lc 9,22-23).

3. Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu

Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên

giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi. Muốn

đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí những thứ cồng

kềnh, diêm dúa. Những thứ đó là: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ…

Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không

thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành.

Vì thế, khi mặc lấy Đức Giêsu, tức là ta trở nên giống Ngài, thì đây cũng là lời mời gọi ra

khỏi những định kiến riêng tư, để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi

xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.

Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì

vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để

chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn bổn phận của

mình cách trung thành và hợp lý.

Trong thực tế, có rất nhiều người làm nhiều việc công ích cho xã hội và Giáo Hội. Ở đâu

cần là họ sẵn sàng xả thân giúp đỡ, bất luận trời nắng hay mưa. Thế nhưng, trớ trêu thay,

cũng chính những người đó, khi lo cho mọi người thì rất tốt và chu đáo, nhưng việc gia

đình, bổn phận của mình thì lại là một người cẩu thả, bê bối. Lại có những người chỉ thích

vác thánh giá cho cả làng, còn thánh giá của mình thì đặt lên vai, lên cổ người khác và bắt

họ vác thay. Thiết nghĩ, những người như thế, Chúa sẽ không vui, và những ai phải ở với

những người đó thì thật là một khổ hình!

Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là

thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu

thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài. Con đường của Đức

Giêsu đã đi là con đường hẹp; con đường của hy sinh; con đường của khổ giá. Nhưng con

đường đó đã đem lại cho Ngài một vinh dự lớn lao, để “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả

trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa

Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: ‘Đức Giêsu Kitô là Chúa’” (Pl 2,5-11).

Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng

ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng

ngày và chu toàn bổn phận cách trung thành, để chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và

yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa. Như thế, chúng ta chính là

quà tặng dâng cho Thiên Chúa và trao cho mọi người.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa, và mau mắn thi

hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Biết đi theo Chúa trên con đường mà chính Chúa

đã đi, biết chu toàn bổn phận theo đấng bậc và vai trò của mình. Biết làm mọi việc tầm

thường cách phi thường bằng con đường “tình yêu” như Chúa. Amen.

Page 45: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

45

Page 46: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

46

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

THẦY LÀ AI ?

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

***

Chúa Giêsu và các môn đệ đi qua miền đất dân ngoại, đến địa hạt thành Cêsarê Philiphê,

một thành phố được quận vương Philiphê chỉnh trang để tôn vinh Hoàng đế Cêsarê. Trên

chóp đỉnh của một khối đá đứng sừng sững, một ngôi đền nguy nga bằng cẩm thạch trắng

thờ Hoàng Đế La Mã được coi là một kỳ công trong vùng.Một số nhà chú giải cho rằng,

cảnh tượng vĩ đại đó đã gợi ý khi Chúa tuyên bố Giáo hội của Ngài sẽ được xây trên nền

tảng Phêrô vững chắc như một bàn thạch. Tuy nhiên, ý tưởng ấy đã có từ khi Chúa quyết

định đổi tên Simon thành Kêpha hay Phêrô, nghĩa là Đá trong cuộc gặp gỡ đầu tiên (Ga

1,42).

Theo thói quen trước khi quyết định những điều quan trọng, Chúa Giêsu vừa đến nơi liền đi

vào một chỗ thanh vắng, một mình cầu nguyện với Chúa Cha. Các Tông đồ chờ Thầy ở

ngoại ô thị trấn. Họ nghiệm rằng, mỗi khi Thầy xa họ và trở về là có diễn tiến mới.Thầy trò

lại đi về phía những làng nhỏ. Dọc đường Ngài hỏi các ông : Người ta nói Thầy là ai ? Các

ông đáp lại : có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả. Một số nói là Êlia, một số khác cho là

một trong các tiên tri thời xưa như Giêrêmia. Nhưng Chúa nhấn mạnh : Còn các con, các

con nói Thầy là ai ? Phêrô lên tiếng : Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

1. Ba mức độ nhận biết

Bài Tin Mừng cho thấy, có ba mức độ nhận biết về Chúa Giêsu.

- Dân chúng nhận thấy Chúa Giêsu là một tiên tri như Gioan Tẩy Giả, như Êlia hay một

tiên tri nào đó. Tiên tri là sứ giả của Thiên Chúa nên thường có quyền làm được vài phép lạ

như chữa bệnh, cứu đói… Dân chúng đến với tiên tri chủ yếu để xin ơn này ơn khác. Họ

nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri, nên họ đến với Ngài để xin chữa bệnh, trừ quỷ, cứu đói, cho

kẻ chết sống lại. Họ đến với Chúa Giêsu vì lợi ích, để cầu lợi cầu phúc. Cho nên họ không

thể nhận ra Ngài là Đấng Kitô.

- Các môn đệ nhận biết về Chúa Giêsu. Khi Chúa hỏi: “Các con bảo Thầy là ai ? Phêrô đại

diện các môn đệ thưa: “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô là Đấng được xức dầu. Tại hội đường

Nazarét, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn

phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo khó” (Lc 4,18 ; Is 11. 61,1-2 ; 1V 19,16).

Chúa Kitô được tấn phong làm tiên tri, làm vua và thượng tế đời đời.

Người Do thái chỉ muốn Đức Kitô làm vua như Môisen, như Đavít. Như Môisen, Đức Kitô

sẽ giải thoát họ khỏi nô lệ đế quốc La mã. Như Đavít, Đức Kitô sẽ chiến thắng muôn dân,

làm cho nước Do thái trở nên hùng cường, cai trị khắp địa cầu, thịnh vượng hơn thời vua

Salomon. Cho nên, Đức Kitô được tôn vinh là Cố vấn kỳ diệu, Thiên Chúa hùng mạnh, Cha

muôn thuở, Hoàng tử hòa bình, danh Ngài siêu việt, sự việc Ngài đã lừng vang trên toàn cõi

đất, Ngài là Đấng Thánh của Israel và nước Ngài tồn tại đến vô cùng tận (Tv 11 ; 12).

Theo truyền thống tiền nhân, các môn đệ cũng quan niệm về một Đức Kitô vinh quang như

thế. Vì vậy, khi thấy Chúa Giêsu lên Giêrusalem, bà mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin cho

hai con trai: “Một ngồi bên hữu, một ngồi bên tả trong nước Người”. Còn Phêrô, khi nghe

Thầy báo sẽ phải bị bắt, bị giết, ông đã kéo Ngài ra và can ngăn Ngài đừng dại dột thế. Chúa

Giêsu đã trách mắng Phêrô: “Satan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng

của Anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 22-23).

Page 47: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

47

- Mức độ thứ ba chính là cao điểm của toàn thể Kinh Thánh và mầu nhiệm cứu độ nơi

Thập Giá và Phục Sinh. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Con người phải chịu nhiều đau

khổ, bị các kỳ lão, thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống

lại”. Đó là sứ mệnh chính yếu của Đức Kitô: tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá

để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. Người đến không phải để thiết lập nước vinh quang trần gian

mà thiết lập nước trời vinh phúc vĩnh cửu. Người đến trần gian không dạy đường lối vào

trần gian hư nát, nhưng dạy đường lối vào Nước Trời muôn thuở. Người đến trần gian chỉ

để hy sinh phục vụ như một tôi tớ hiền lành, khiêm tốn để chứng tỏ tận cùng của tình yêu

Thiên Chúa đối với con người, để con người nhận biết “Thiên Chúa đã yêu thương thế nhân

đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và được sống dồi dào” (Ga 3, 16-

18 ; 15, 13).Con đường đó chứng tỏ một tình yêu cho đến cùng, chứng minh Đức Kitô là

Thiên Chúa thật, là Đấng Cứu độ trần gian. Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ phải tin

và đi vào con đường đó: “Ai muốn theo Tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo.

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai hiến dâng mạng sống mình vì Tôi

và vì Tin mừng, thì sẽ được mạng sống ấy”.

2. Xác định đường đi

Suy niệm trang Tin Mừng này, Thánh Gioan Kim Khẩu viết : khi Chúa hỏi về dư luận quần

chúng, mọi Tông đồ đều trả lời. Khi Chúa hỏi cảm nghĩ của các ông, Phêrô một mình lên

tiếng trước các bạn. Không phải do xác thịt nhưng nhờ Chúa Cha mạc khải nên Phêrô nhận

biết Thầy Giêsu là Đức Kitô ở tầm mức cao nhất. Phêrô nhận ra trong Giêsu “con người”

có một Giêsu “Thiên Chúa ”. Phêrô nhận ra trong nhân tính bình thường như mọi người của

Chúa Giêsu có một thần tính cao vượt rất riêng của vị Thiên Chúa làm người. Vì thế, Phêrô

được Chúa khen tặng và tín nhiệm trao quyền tối thượng : “Phêrô, con là đá, trên đá này

Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng được”. Ba hình ảnh cụ thể

mô tả quyền tối thượng của Phêrô trong Giáo Hội. Đó là, Phêrô được trao chìa khóa Nước

Trời, Phêrô được quyền tháo gỡ, cầm buộc và cửa địa ngục sẽ không thắng được.

Tuyên tín Chúa Giêsu là ai tức là xác định đường mình đi. Phêrô đã tuyên tín trên đường

hành trình với Chúa. “Các con nói Thầy là ai ? ”, Chúa không hỏi các môn đệ câu ấy trong

lúc nghĩ ngơi mà lúc đi đường. Những ngày ở Giêrusalem, ở Galilê, ở Nazareth, người ta

nói về Đức Giêsu, người ta xem Ngài làm phép lạ, họ gọi Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy Giả, là

một tiên tri nào đó. Không ai biết Ngài là Đức Kitô. Để biết Ngài, phải sống và hành trình

với Ngài và cùng đi với Ngài trên mọi nẻo lối trần thế.

3. Câu hỏi dẫn tới đời sống đức tin.

"Thầy là ai?”, Chúa Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi

được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả

lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo

theo một nếp sống khác nhau.

Chúa Giêsu là ai ? Câu hỏi là cửa ngõ dẫn tới đời sống đức tin. Câu hỏi ấy luôn chờ lời đáp

trả dứt khoát cho một vận mệnh đời đời. Phêrô đã khám phá ra thần tính trong nhân tính của

Chúa Giêsu. Phaolô trên đường Đamat, bị té ngựa do ánh sáng từ trời, đã hốt hoảng kêu

lên : “Ngài là ai ? ” và có lời đáp bất ngờ : “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9,5),

Phaolô khám phá ra nhân tính trong thần tính của Đấng đã gọi ngài.

Chúa Giêsu là tâm điểm đức tin của chúng ta, bởi lẽ “dưới bầu trời này, không có Danh nào

khác”, ngoài Danh Giêsu “được ban cho loài người để nhờ đó chúng ta được cứu độ” (Cv

4,12). Nếu ai đó hỏi rằng điều gì làm nên một Kitô hữu, thì câu trả lời là: đó là người tin

rằng Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Niềm tin đó là đá nền,

trên đó Hội Thánh được xây dựng (GLCG số 424). Tin vào Chúa Giêsu Kitô có nghĩa là yêu

Page 48: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

48

mến Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Yêu mến Ngài như chúng ta có

thể yêu mến Thiên Chúa (Đnl 6,4-5). Điều độc đáo và đặc biệt của niềm tin Kitô giáo là tin

rằng Đức Giêsu, một con người được sinh ra dưới thời hoàng đế Cêsarê Augustô và chết

trên thập giá dưới thời hoàng đế Tibêriô, người ấy chính là Thiên Chúa, là Con Hằng Hữu

của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đó là mầu nhiệm khôn dò của đức tin

Kitô giáo “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1,11).

Chỉ trong ánh sáng này chúng ta mới hiểu được tại sao tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là

bước theo Ngài, và bước theo Chúa là đòi hỏi quan trọng hơn mọi cam kết khác trong đời.

Làm sao một con người thuần túy mà có thể nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không

xứng đáng với Thầy; ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy” (Mt

10,37)? Đòi hỏi ấy chỉ có thể đến từ Đấng là chính Thiên Chúa. Làm sao một con người mà

có thể nói: “Tất cả những ai nhìn nhận Thầy trước mặt người đời thì Con Người cũng sẽ

nhìn nhận họ trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)? Điều đó lại chẳng có

nghĩa rằng ơn cứu độ vĩnh cửu tùy thuộc vào thái độ của người ta đối với Chúa Giêsu sao?

Nếu chỉ nơi Chúa Giêsu mới có ơn cứu độ, nếu chỉ có Ngài mới là “Đường, Sự Thật và Sự

Sống” thì liệu có ai có thể được cứu độ mà không cần đến Chúa Giêsu? Nếu như thế, biết

bao người chưa hề nghe đến Danh Chúa Giêsu, không có cơ hội để nhận biết và yêu mến

Ngài thì sao (GLCG số 846-847)?. Chính Chúa Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này: đến giờ

phán xét, Con Người sẽ tỏ cho thấy tất cả những hành động yêu thương chân chính dành

cho tha nhân “Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta đau yếu,

các ngươi đã viếng thăm…”, tất cả những hành động yêu thương ấy đều là cho chính Chúa:

“Điều gì các ngươi đã làm cho người anh em bé mọn nhất, là làm cho chính Ta” (Mt 25;

GLCG số 1038).

Sau lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã được biến đổi và trở nên khác với Simon ngày trước.

Phaolô sau lần ngã ngựa cũng không còn sống như Saolô lúc trước được nữa. Cả hai ngài đã

trở nên cột trụ xây dựng Hội Thánh và cả hai đã đánh đổi mạng sống như để tuyên tín cho

muôn đời rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, đó là đức tin của chúng tôi,

đó là đức tin của Hội Thánh và chúng tôi hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy.

“Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2Cr 5,14), bất cứ ai được tình yêu này chiếm hữu, bất cứ

ai kinh nghiệm về sự hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và quyền năng phục sinh

của Ngài, thì người ấy sẽ cảm thấy nỗi ước mong loan báo về Ngài, rao giảng Tin Mừng của

Ngài, và dẫn mọi người đến niềm tin vào Chúa Giêsu (GLCG số 429).

Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi ấy, Phêrô và Phaolô đã trả lời bằng lời chân thành tuyên xưng,

bằng đời nhiệt thành rao giảng và bằng cái chết trung thành minh chứng.

Chúa Giêsu là ai? Câu hỏi đã hơn hai ngàn năm cũng là câu hỏi đặt ra cho chúng ta hôm

nay. Trả lời là sống niềm tin yêu hy vọng nơi thần tính và nhân tính của Đức Giêsu Kitô.

Ngài là Thiên Chúa để chúng ta tôn thờ kính yêu thao thức tìm kiếm gặp gỡ gắn bó. Ngài ở

trong Bí Tích, Phụng Vụ, Thánh Kinh, Thánh Thể cho ta tìm hiểu lãnh nhận. Ngài hiện diện

nơi anh chị chung quanh để gọi ta tôn trọng thương mến quan tâm chia sẻ cảm thông liên

đới trách nhiệm. Ngài hôm qua hôm nay và mãi mãi “là Thiên Chúa thật và là người thật”.

Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô, yêu mến Ngài, bước theo Ngài. Và hơn nữa, “Anh em

không còn là nô lệ nhưng là con” (Gal 4,7). Nhờ Chúa Giêsu, với Ngài và trong Ngài,

chúng ta trở nên những “con cái của Thiên Chúa” (1Cor 6,18).

Page 49: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

49

CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C

THẬP GIÁ CHÚA KITÔ

Trích Logos C

***

Vào ngày mùng 03 tháng 02 năm 2004 vừa qua, tên của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã được

công bố tại trụ sở Liên Hiệp Quốc như là người sẽ được trao giải “Trọn Đời Vì Hòa Bình”

trong Lễ Trao Giải Thưởng Âm Nhạc Hòa Bình [WPMA] dự kiến sẽ tổ chức tại sân vận

động Mỹ Đình, Hà Nội sắp tới. Đây là giải thưởng lớn trong một buổi lễ long trọng mang

tầm vóc quốc tế với sự hiện diện của nhiều nghệ sĩ tài danh đã có công đóng góp vào nền

hòa bình thế giới.

Buổi lễ này sẽ được phát sóng trên toàn thế giới cho khoảng 2 tỷ người xem. Đây sẽ là buổi

biểu diễn có qui mô lớn nhất trong lịch sử hoạt động biểu diễn ở Việt Nam với sự tham gia

của hơn 300 nghệ sĩ đến từ 25 quốc gia. Chương trình này được sự tài trợ của nhiều cá

nhân, đơn vị và được sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc.

Tên của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nằm bên cạnh những tên tuổi lớn của các nhạc sĩ và ca

sĩ lừng danh thế giới. Tên tuổi và những ca khúc của nhạc sĩ họ Trịnh đã đi vào tâm hồn

những người yêu nhạc ở Việt Nam từ hơn 40 năm qua và bây giờ cũng bắt đầu đi vào lòng

mọi người trên thế giới.

Tên của một người thường nói lên số phận và hoạt động hay sứ mạng của người ấy. Tên của

một người cũng thường xác định con đường mà người đó đi, diễn tả cả cuộc sống của người

ấy. Với hơn 500 ca khúc “để đời”, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn như một “ngọn núi” luôn muốn

vươn lên từ thân phận “cát bụi” của con người và hướng mọi người lên tới Chân, Thiện,

Mỹ.

Chúa Giêsu ít nhắc đến tên của mình cho dân chúng, nhưng Ngài lại muốn các môn đệ xác

định danh xưng Ngài một lần cho tất cả : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Thánh

Phêrô như “tảng đá của niềm tin” đã thay mặt anh em để tuyên xưng : “Thầy là Đấng Kitô

của Thiên Chúa”. Khi tuyên xưng danh thánh Chúa, Phêrô đã chứng tỏ mình là “nền móng”

đức tin cho Giáo Hội như chính tên Phêrô “đá tảng” mà Chúa Giêsu đã đặt cho ngài.

Danh xưng Kitô không những xác định thân phận “Đấng được xức dầu” nhưng còn tỏ rõ

định mệnh của “Người Tôi Tớ Đau Khổ”. Chúa Giêsu nói rõ cho các môn đệ biết Ngài sẽ

phải chịu nhiều đau khổ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.

Tên của thập giá

Tên của Chúa không được đặt cho những con đường, những công viên, những cây cầu. Tên

của Chúa cũng không được đặt cho những phát minh, những công trình hay những thành

tựu khoa học. Nhưng tên của Chúa lại được đóng vào thập giá trên đồi Golgotha : “Giêsu

Nazareth, Vua dân Do thái”. Tên của Ngài đã bị đóng vào một bản án khắc nghiệt nhất, bản

án dành cho người tử tội. Thánh Phaolô đã gọi tên Chúa là “Giêsu Kitô, Đấng bị đóng

đinh”. Tên Chúa không được tôn vinh trong ánh hào quang, nhưng lại gắn liền với thập giá

là dụng cụ hành hình của người La mã. Tên Chúa bị đóng đinh vào lịch sử với dấu hiệu của

sự ô nhục. Vì vậy, tên Ngài đã bị đồng hóa với khổ đau và hy sinh. Thập giá mãi mãi mang

tên Giêsu – Kitô.

Tiên tri Zacaria đã nói trong bài đọc 1 : “Họ sẽ ngước mắt nhìn Ta, Đấng họ đã đâm thâu

qua”. Quả thật, thế giới hôm nay đang ngước nhìn lên thập giá. Có người nhạo cười, có

người khóc than, lại có kẻ chống đối và khước từ. Nhưng thánh giá vẫn mãi là dấu chỉ làm

nên một vấn nạn lớn cho mọi thời đại : “Đức Giêsu Kitô, Ngài là ai ?”.

Page 50: CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN … · 2 CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN - NĂM C BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC *** BÀI ĐỌC I: Dcr 12, 10-11.13,1

50

Những người mang tên Chúa

Là kitô hữu, chúng ta là những người mang tên Chúa, vì chúng ta được mời gọi vác thập giá

đi theo Chúa mỗi ngày : “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày

mà theo Ta”. Nếu tên Chúa đã gắn chặt vào thập giá, thì những kitô hữu khi mang tên Chúa

cũng gắn chặt đời mình vào thập giá. Chúng ta được mời gọi để đóng đinh đời mình vào

thánh giá Chúa. Chúng ta được mời gọi để tháp nhập đời mình vào cuộc tử nạn của Chúa để

được sống lại trong vinh quang cùng với Ngài. Chỉ khi nào chúng ta đánh mất mình vì

Chúa, chúng ta mới tìm gặp lại mình một cách trọn vẹn hơn.

Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galata đã kêu gọi chúng ta hãy “mặc lấy Đức Kitô” để

nên đồng hình dạng với Đức Kitô. Mặc lấy Đức Kitô là mang tên Chúa, là gắn chặt vào định

mệnh của Đấng bị đóng đinh, là đi theo Chúa với thánh giá vác trên vai.

Một cậu bé đang chơi với cái bình rất quí giá. Cậu đã thọc bàn tay vào cái bình và không

thể rút ra được. Cha cậu bé cố gắng giúp cậu nhưng vô ích. Họ chỉ còn cách đập vỡ cái

bình. Nhưng người cha bảo cậu bé :

- Bây giờ con hãy thử lại một lần nữa xem. Con hãy duỗi thẳng bàn tay rồi rút ra.

Cậu bé liền nói :

- Không được đâu cha ơi, nếu con duỗi thẳng bàn tay ra, thì con sẽ đánh rơi đồng xu của

con.

Chúng ta sẽ cười vì câu nói của cậu bé, nhưng nhiều người trong chúng ta cũng hành động

giống như cậu bé, cứ cố giữ những đồng xu của danh lợi thú đời này, mà đánh mất hạnh

phúc vĩnh cửu đời sau : “Kẻ nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó. Còn kẻ nào mất

mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống mình”.