33
BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH ĐỖ NGỌC THẠCH Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người tới chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585): Quê ở làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã tiếp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương. Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Lê-Mạc phân tranh (1) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam mà người đời gọi là Sấm Trạng Trình (2). Nguyễn Bỉnh Khiêm là học trò Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (3) ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Thời bấy giờ trong nước biến loạn, ông không muốn xuất đầu lộ diện mà ở ẩn nơi thôn dã. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Sau đó làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ, tước Trình Tuyền hầu, ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo (4) bên Trung Hoa. Vì thế dân gian gọi ông là Trạng Trình. Làm quan được bảy năm, từ 1535 đến 1542, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan. Về quê nhà, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ, mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là Tuyết giang Phu tử. Mở quán tiếp bạn hữu đàm đạo thế sự, văn chương gọi là Quán Trung Tân. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ là tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư

BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Bạch Vân Cư Sĩ, Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm

Citation preview

Page 1: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

ĐỖ NGỌC THẠCH

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người tới chốn lao xao.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585): Quê ở làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lan, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã tiếp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương.

Nguyễn Bỉnh Khiêm được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Lê-Mạc phân tranh (1) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam mà người đời gọi là Sấm Trạng Trình (2).

Nguyễn Bỉnh Khiêm là học trò Bảng nhãn Lương Đắc Bằng (3) ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa). Thời bấy giờ trong nước biến loạn, ông không muốn xuất đầu lộ diện mà ở ẩn nơi thôn dã. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Sau đó làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ, tước Trình Tuyền hầu, ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo (4) bên Trung Hoa. Vì thế dân gian gọi ông là Trạng Trình.

Làm quan được bảy năm, từ 1535 đến 1542, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan.

Về quê nhà, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ, mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là Tuyết giang Phu tử. Mở quán tiếp bạn hữu đàm đạo thế sự, văn chương gọi là Quán Trung Tân. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ là tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính ...

Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi, được truy phong tước Thái phó Trình Quốc công.

1. Nhà thơ nặng lòng thế sự

Từ khi trở về cuộc sống ẩn sĩ nơi thôn dã "Thu ăn măng trúc, đông ăn giá / Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao", mạch nguồn thơ ca trong Nguyễn Bỉnh Khiêm mới thực sự tuôn chảy. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã để lại cho hậu thế những tác phẩm văn thơ có giá trị như tập thơ Bạch Vân , gồm hàng trăm bài thơ chữ Hán (còn lưu lại) và hai tập Trình Quốc công Bạch vân thi tập và Trình Quốc

Page 2: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, hay còn gọi là Bạch Vân quốc ngữ thi (với hàng trăm bài thơ chữ Nôm), hiện còn lưu lại được một quyển của Bạch Vân thi tậpgồm 100 bài và 23 bài thơ trong tập Bạch Vân Gia Huấnmang nhiều chất hiện thực và triết lý sâu xa, thể hiện đạo lý đối nhân xử thế lấy đức bao trùm lên tất cả, mục đích để răn dạy đời. Tuy nhiên, khi các nhà Nho thoát tục thì bao giờ cũng gặp Đào Tiềm (5) ở chốn Đào Nguyên:

Sáo chiều theo gió nhàn bay, Buồm khuya chở bóng trăng say cùng về. Đào nguyên chuyện cũ còn kiaHưng vong Tần, Tấn thị phi lọ bàn…

Điểm đáng chú ý của dòng thơ ẩn dật ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ không trở thành một "Lãn Ông", một "Tiên Ông" hoàn toàn mà mỗi câu thơ là một bài học về sự đời, về triết lý nhân sinh mà nhà thơ muốn gửi tới muôn người. Phải làm sao cho mọi người cùng hiểu được "mệnh trời", hiểu được cái lẽ đắp đổi tuần hoàn của tạo vật, để mà giữ lấy cái đạo trung thường, không thái quá, không bất cập, không đua chen xô đẩy nhau theo những dục vọng mù quáng, xấu xa, ngõ hầu đem lại một cuộc sống yên lành, hữu ái, an nhiên tự tại:

Làm người chen chúc nhọc đua hơi Chẳng khác nhân sinh ở gửi chơiThoi nhật nguyệt đưa thấm thoắt Áng phồn hoa khá lạt phai. Hoa càng khoe nở hoa nên rữaNước chứa cho đầy nước ắt vơi. Mới biết danh hư đà có số,Ai từng dời được đạo trời?

Nhìn chung, Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao sự trong sạch của tâm hồn con người, lên án thói đời tráo trở, vụ lợi, chà đạp lên thủy chung, tình nghĩa. Thơ ông, do vậy, nặng về nhân tình thế thái, triết lý đạo làm người. Tuy bước vào chốn Đào nguyên nhưng nhà thơ luôn canh cánh bên lòng những lo toan thế sự không chỉ ngày hôm nay mà cả tới vài trăm năm sau (6):

Tự thuật

Tuổi vừa bẩy chục đã từ quan, Về nơi núi cũ sống an nhàn. Ngủ đến mặt trời cao mới dậy. Đã chắc Thanh Vân hơn Bạch Vân?

Cảm đề

Thanh nhàn vô sự là Tiên,Năm hồ phong nguyệt nổi thuyền buông chơi.Cơ Tạo Hóa, phép đổi dời,Đầu non mây khói tỏa,Mặt nước cánh buồm trôi.Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh Trời.Tuổi già thua kém bạn,Văn chương gởi lại đời.

Page 3: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Dở hay nên tự lòng người cả,Nghiên bút soi hoa chép mấy lời.Bí truyền cho con cháu,Dành hậu thế xem chơi.

Ngụ hứng quán Trung Tân(Bài một)

Nhà vắng không vương chút bụi trần.Dòng sông lờ lững chảy kề sân.Thuyền cá chiều chiều vào ghé đậu.Hương thơm rau quế khách xa gần.Mừng được tạm yên thời loạn lạc.Thẹn chẳng có tài để cứu dân.Nhàn nhã ngồi chơi, nhờ ngọn gióĐưa vào cốc rượu chút mùa xuân.

Ngụ hứng quán Trung Tân(Bài năm)

Nhà lá vài gian cạnh bến sông.Hai bờ xanh nhạt, nước mênh mông.Trăng lạnh, gió yên, buồm rũ xuống.Mây núi xa xa tựa dáng rồng.Đêm vắng, chuông chùa nghe thật rõ.Le lói làng bên ánh lửa hồng.Tiếc chẳng phò vua, do tuổi tác,Trước sau tuy vẫn một tấm lòng.

Cảm hứng

Ai người có thể cứu muôn dânBị giặc xâm lăng, đợi chết dần?Hại cả con trâu và ngọn núi,Bừa bãi bắt giam, luật bất cần.Mòn mỏi dân mong người dẹp loạn,Mà đời chẳng có tướng cầm quân.Lại đúng vào khi đang nạn đói,Biết tìm đâu nổi chốn nương thân?

Ở ẩn

Một mai một cuốc một cần câuThơ thẩn dầu ai vui thú nàoTa dại ta tìm nơi vắng vẻNgười khôn người đến chốn lao xaoThu ăn măng trúc đông ăn giáXuân tắm hồ sen hạ tắm aoRượu đến gốc cây ta sẽ nhắpNhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

Page 4: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Thói Đời

Thế gian biến đổi vũng nên đồiMặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùiCòn bạc còn tiền còn đệ tửHết cơm hết rượu hết ông tôiXưa nay đều trọng người chân thựcAi nấy nào ưa kẻ đãi bôiỞ thế mới hay người bạc ácGiàu thì tìm đến khó tìm lui.

2. Nhà Tiên tri biếtđược "Mệnh Trời"

Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh, từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số... Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc công.

Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là "An Nam lý số hữu Trình Tuyền". Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri" số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là "Sấm Trạng Trình".

Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu "Hoành Sơn nhấtđái, vạnđại dung thân" (có tài liệu viết là "khả dĩ dung thân") nghĩa là "Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài". Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hóa. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi, ông nói: "Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể" (Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê - Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: "Giữ chùa thờ Phật thìăn oản" (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: "Lê tồn Trịnh tại".

Sấm Trạng Trình được người đời xem như là một lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về tương lai. Có rất nhiều điểm trùng khớp với lịch sử mà nổi nhất là tên nước Việt Nam, vì thời điểm của ông thì Việt Nam không có quốc hiệu này (mà là Đại Việt và trước đó là Đại Ngu).

Việt nam khởi tổ gây nên: 300 năm sau, tên nước ta là Nam Việt, sau đó trở thành Việt Nam.

Bao giờ trúc mọc qua sông, Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây: Vào thời Tây Sơn, Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam. Khi đến Thăng Long thành, Tôn Sĩ Nghị cho quân sĩ bắc một chiếc cầu nổi bằng tre ngang sông Hồng Hà. Sau khi dẹp được giặc nhà Thanh một cách oai hùng

Page 5: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

ở trận Ðống Ða, Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng Ðế (nhiều người cho rằng non Tây là chỉ nhà Tây Sơn).

Trạng Trình có 3 người vợ và 12 người con (7 trai 5 gái), các con trai sau này đều có chức tước hiển đạt. Trạng tính được ngày chết của mình và trước khi chết, Trạng có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng: "Bình sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã sơn kia. Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ khi nào có khách tới viếng mộ và nói rằng: "Thánh nhân mắt mù" thì phải lập tức mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy". Con cháu nghe lời, làm y như đã dặn. Nhưng chờ măi đến năm mươi năm sau, mới có người khách đến nhìn mộ cụ một lúc rồi nói: "Cái huyệt ở đằng chân sờ sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này. Vậy mà thánh nhân gì chớ, họa chăng là thánh nhân mắt mù". Người trong họ nghe được, chạy về báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách Tầu kia về nhà, xin để xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà Phong thủy trứ danh ở phương Bắc. Ông ta sang là để đi tìm xem di tích của Trạng, bấy lâu ông ta đã nghe tiếng đồn.

Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông ta sẵn lòng làm ngay, và tự đắc cho rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông ta bảo: Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại, nhích đi một chút là được. Ông trưởng tộc bèn tụ họp con cháu lại, đưa thầy địa lý Tầu ra đổi lại ngôi mộ. Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta làm lạ bảo đem rửa sạch xem những gì trên đó. Khi tấm bia được rửa sạch, mới thấy mấy câu thơ hiện ra:

"Ngày nay mạch lộn xuống chân Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu Biết gì những kẻ sinh sau? Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ?"

Đọc tới đâu vị khách Tầu đổ mồ hôi hột đến đó, ra Trạng Trình mà ông ta nghe đồn là giỏi thật. So với Trạng, có lẽ ông còn thua xa.

Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân Ðảng lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930) lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa ngày 10-2-1930 đánh Pháp ở các tỉnh : Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Hải Dương, Kiến An. Nhưng nghĩa quân thất bại thảm hại, bị Pháp điên cuồng ném bom tàn phá làng Bảo An để trả thù. Chuyện này đã được Trạng Trình tiên đoán :

"Kìa kìa gió thổi lá rung cây Rung Bắc rung Nam rung tới Tây Tan tác kiến kiều an đất nước Xác xơ cổ thụ sạch am cây Lâm giang nổi gió mù thao cát Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy

Page 6: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Một ngựa một yên ai sùng bái Nhắn tin nhà Vĩnh Bảo cho hay".

Sấm ký Trạng Trình có nhiều dị bản, dưới đây là một bản khá phổ biến ở quê Trạng Trình:

Sấm ký Nước Nam từ họ Hồng Bàng, Biển dâu cuộc thế, giang san đổi dời. Từ Đinh Lê Lý Trần thuở trước, Đã bao đời ngôi nước đổi thay. Núi sông Thiên định đặt bày, Đồ thơ mấy quyển, xem nay mới rành. ... Kìa kìa gió thổi lá rung cây, Rung Bắc rung Nam, Đông tới Tây. Tan tác kiến kiều an đất nước, Xác xơ cổ thụ sạch am mây. Lâm giang nổi sóng mù thao cát, Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy. Một ngựa một yên ai sùng bái, Nhắn con nhà Vĩnh Bảo cho hay. Tiền ma bạc quỷ trao tay, Đồ Môn Nghệ Thái dẫy đầy can qua. Giữa năm hai bảy mười ba, Lửa đâu mà đốt Tám Gà trên mây. ... Cửu cửu Càn Khôn dĩ định, Thanh minh thời tiết hoa tàn. Trực đáo dương đầu mã vĩ, Hồ binh bát vạn nhập Tràng an. Nực cười những kẻ bàng quan, Cờ tan lại muốn toan đường đá xe. ... Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh, Can qua xứ xứ khởi đao binh. Mã đề dương cước anh hùng tận, Thân Dậu niên lai kiến thái bình. ... Thần Kinh Thái Ất suy ra, Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn. Ngày thường xem thấy quyển vàng, Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi. Bởi Thái Ất thấy lạ đời, Ấy thuở Sấm Trời vô giá thập phân. Phú quý hồng trần mộng, Bần cùng bạch phát sinh. Hoa thôn đa khuyển phệ, Mục giả dục nhơn canh. Bắc hữu Kim Thành tráng, Nam hữu Ngọc Bích Thành.

Page 7: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Phân phân tùng bách khởi, Nhiễu nhiễu xuất đông chinh. Bảo giang Thiên Tử xuất, Bất chiến tự nhiên thành. ... Cơ Tạo Hóa phép mầu khôn tỏ, Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao. Thấy Sấm từ đây chép vào, Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.

Nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà sử học Phan Huy Chú (7) đã viết trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương lọai chí: "Một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở".

La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp(8) khi về thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm, có bài thơ Quá Trình tuyền mục tự (Qua thăm đền cũ Trình tuyền) đã xem Trình tuyền là người có tài "Huyền cơ tham tạo hóa" (nắm được huyền vi xen vào công việc của tạo hóa).

Tiến sĩ thời nhà Hậu Lê Vũ Khâm Lân(9) đã làm bia ở đền Trạng Trình và nói rằng danh tiếng Trạng : Như núi Thái sơn, sao BắcĐẩu / Nghìn năm sau như vẫn một ngày.

Giai thoại về Trạng Trìnhkhá nhiều, dưới đây là giai thoại về mẫu thân của Trạng Trình.

Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm có tên là Văn Đạt. Mẹ ông là Nhữ Thị vốn tinh thông tướng số và có ước vọng là lấy chồng làm vua hoặc có con làm vua. Do đó trong quá trình dạy dỗ, bà đã truyền cho ông mơ ước ấy rồi.

Một hôm khi bà đi vắng, ông Định (cha Nguyễn Bỉnh Kiêm), ở nhà với con và tình cờ hát:"Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung". Không ngờ Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh nhảu ứng đối lại ngay: "Vịn tay tiên, nhè nhẹ rung". Khi bà về đến nhà, ông rất tâm đắc kể lại chuyện ấy thì bị bà trách nuôi con mong làm vua làm chúa cớ sao lại mong làm bầy tôi (nguyệt chỉ bầy tôi).

Lại một lần khác bà dạy Nguyễn Bỉnh Khiêm câu hát:"Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con tựa ngai vàng". Ông Đ ịnh hoảng sợ vì nếu triều đ ình hay được sẽ mất đầu về tội khi quân nên sửa lại: "Bống bống bang bang, ngày sau con lớn con vịn ngai vàng".

Nhiều lần như vậy, bà rất bất bình nên bỏ đi. Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên chỉ được ở cạnh bố.

Tương truyền ngay sau đó bà lấy một người họ Phùng và sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (10). Sau chính Khắc Khoan trở thành học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bà Nhữ Thị vẫn không thỏa chí vì họ Phùng không có chí làm vua. Mãi sau này bà Nhữ tình cờ gặp một trang nam nhi làng chài đang kéo lưới mà bà tiếc nuối vì cho rằng người này có số làm vua, còn tuổi mình

Page 8: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

đã cao. Người đó chính là MạcĐăng Dung , vị vua khai triều của nhà Mạc.

3. Lưu danh muôn thuở

Cuối cùng rồi cái cây đại thụ đã từng tỏa rợp bóng trên cả một thời ấy cũng phải ngã xuống. Nhưng nó đã ngã xuống không chút nặng nề, ồn ào mà rất nhẹ nhàng, thanh thoát…như Tiên Ông cưỡi hạc bay về Trời.

Đó là vào ngày 28 tháng 11 năm Đinh Dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585). Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa tròn 95 tuổi thọ.Tang lễ ông đã được tiến hành rất trọng thể, quá trọng thể so với ước muốn cuối cùng của ông. Nhà vua đã cử một đoàn khâm sai khá đông đảo với nhiều vị quan đầu triều về viếng. Cũng đủ cờ tiết, nghi trượng và cả đạo sắc phong nữa. Cũng loa dọn đường, trống hiệu lệnh, lính thị vệ dàn trước, theo sau…

Khi tiếng đọc bài Văn tế của người học trò Đinh Thì Trung vang lên nghẹn ngào, thổn thức thì trên thinh không vang lên tiếng chim Hạc của các vị Đại Tiên…

… Kính nhớ tiên sinh:

Bể Đông Hải chung anh. Núi Nam Sơn dục tú. Mắt tai sáng suốt, Trời xanh phú dữ vốn không nghèo. Bung dạ mở mang. Đạo lớn uẩn tàng nguyên sẵn có… …… Đạo thống Thánh nhân từ tiên sinh mà truyền ra. Bờ cõi Thánh nhân duy tiên sinh là thấu đáo. Những tưởng đạo ngày càng sáng, Cửa đã thông Châu Lỗ cung tường. Hay đâu sinh ra chẳng gặp thời, Đời nào phải Đường Ngu vũ trụ… …… Cảm tiên sinh, núi sông đều biến sắc Nước triều man mác đòi phen, Nhớ tiên sinh, sâu kiến cũng đau lòng Tơ nhện vấn vương khôn gỡ. Đền trên non lạnh lẽo khói mây Nhà đầu xóm ủ ê hoa cỏ Chợ nọ kỳ phiên vẫn họp, Khách buôn huyên náo, mà tiên sinh âm hưởng vắng không.

Page 9: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Chùa kia cơ chỉ vẫn còn Ta phật trang nghiêm, tưởng tiên sinh dung nghi còn đó. Bia đá của tiên sinh dựng, Nhớ tiên sinh muốn tìm dấu cũ, thì nét chữ mịt mờ, rêu chen mặt đá, đã thành ra một chiếc tàn bia.

Cây đa của tiên sinh giồng, Nhớ tiên sinh muốn ngắm cảnh xưa, thì cành lá lơ thơ, tuyết rủ đầu cây, đã hóa hẳn một chòm cổ thụ Hàn Giang là chỗ tiên sinh ở, Trông tiên sinh ở trên sông ấy, chỉ thấy khi nước xuống, khi nước lên. Bạch Vân là tên tiên sinh đặt, Trông tiên sinh ở trên mây kia, chỉ thấy đám mây tan, đám mây tụ…(11)

___________________________________________

Chú Thích:

(1) Chiến tranh Lê-Mạc (1533-1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Chiến tranh chia làm hai thời kỳ lớn: 1/Thời kỳ 1533-1592: tương đương với thời Nam-Bắc triều khi nhà Mạc làm chủ vùng Bắc Bộ Việt Nam, nhà Lê làm chủ khu vực từ Thanh Hóa trở vào; 2/Thời kỳ 1593 - 1677: khi tàn dư họ Mạc rút chạy lên Cao Bằng cát cứ. Mạc Thái Tông (? - 1540) là vị vua thứ hai của nhà Mạc, ở ngôi từ năm 1530 đến 1540. Ông tên là MạcĐăng Doanh, là người xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay là thôn Long Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách), tỉnh Hải Dương.

(2) Sấm Trạng Trình: Sấm Trạng Trình được người đời xem như là một lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về tương lai. Sấm Trạng Trình có nhiều bản, bản trích dẫn dưới đây rút từ Sấm Trạng Trình của Wikipedia, Bách khoa Toàn thư Mở:

Vận lành mừng gặp tiết lành Thấy trong quốc ngữ lập thành nên câu Một câu là một nhiệm màu Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao Trải vì sao mây che Thái Ất Thuở cung tay xe nhật phù lên

Page 10: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Việt Nam khởi tổ xây nên Lạc Long ra trị đương quyền một phương Thịnh suy bỉ thới lẽ thường Một thời lại một nhiễu nhương nên lề Ðến Ðinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ Mở bản đồ rủ áo chấp tay Ngự đao phút chốc đổi thay Thập bát tử rày quyền đã nổi lên Ðông a âm vị nhi thuyền Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh Chấn cung hiện nhật quang minh Sóng lay khôn chống trường thành bền cho Ðoài cung vẻ rạng trăng thu Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn Sang cửu thiên ám vầng hồng nhật Dưới lẫn trên năng vẫn uống quen Sửa sang muôn việc cầm quyền Ngồi không ai dễ khẳng nhìn giúp cho Kìa liệt vương khí hư đồ ủng Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn Trời sinh ra những kẻ gian Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài Áo vàng ấm áp đà hay Khi sui đắp núi khi say xây thành Lấy đạt điền làm công thiên hạ Ðược mấy năm đất lở giếng mòn Con yết ạch ạch tranh khôn Vô già mở hội mộng tôn làm chùa Cơ trời xem đã mê đồ Ðã đô lại muốn mở đô cho người Ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn Suốt vạn dân cừu giận oán than Dưới trên dốc chí lo toan Những đua bán nước bán quan làm giàu Thống rủ nhau làm mồi phú quí Mấy trung thần có chí an dân Ðua nhau làm sự bất nhân Ðã tuần bốn bể lại tuần đầu non Dư đồ chia xẻ càn khôn Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau Vội sang giàu giết người lấy của Sự có chăng mặc nọ ai đôi Việc làm thất chính tơi bời Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ Xem tượng trời đã giơ ra trước Còn hung hăng bạc ngược quá xưa Cuồn phong cả sớm liền trưa Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết Ðể vạn dân dê lại giết dê Luôn năm chật vật đi về

Page 11: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Âm binh ở giữa nào hề biết đâu Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng Cũng một lòng trời chống khác nào Xem người dường vững chiêm bao Nào đâu còn muốn ước ao thái bình Một góc thành làm tâm chứng quỷ Ðua một lòng ích kỷ hại nhân Bốn phương rời rỡ hồng trần Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần Tiếc là những xuất dân làm bạo Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau Nhân danh trọn hết đâu đâu Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê Hùm già lạc dấu khôn về Mèo non chi chí tìm về cố hương Chân dê móng khởi tiêu tường Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình Nội thành ong ỏng hư kinh Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang Bở mồ hôi Bắc giang tái mã Giửa hai xuân bỗng phá tổ long Quốc trung kinh dụng cáo không Giữa năm giả lai kiểm hung mùa màng Gà đâu sớm gáy bên tường Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không Thủy binh cờ phất vầng hồng Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng Ðứng hiên ngang đố ai biết trước Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ? Ai còn khoe trí khoe năng Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi Chưa từng thấy đời này sự lạ Bỗng khiến người giá họa cho dân Muốn bình sao chẳng lấy nhân Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán Ðúc tiền ra bán tước cho dân Xun xoe những rắp cậy quân Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công Máy hóa công nắm tay dễ ngỏ Lòng báo thù ai dễ đã nguôi Thung thăng tưởng thấy đạo trời Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra Cát lầm bốn bể can qua Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về Quân hùng binh nhuệ đầy khe Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời Bấy giờ càng khốn than ôi Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ? Thương những kẻ ăn rau ăn giới Gặp nước bung con cái ẩn đâu

Page 12: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Báo thù ấy chẳng sai đâu Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn Xin những kẻ hai lòng sự chúa Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân Cho nên phải báo trầm luân Ai khôn mới được bảo thân đời này Nói cho hay khảm cung rồng dấy Chí anh hùng xem lấy mới ngoan Chử Rằng lục thất nguyệt gian Ai mà nghĩ được mới gan anh tài Hễ nhân kiến đã dời đất cũ Thì phụ nguyên mới chổ binh ra Bốn phương chẳng động can qua Quần hùng các xứ điều hòa làm tôi Bấy giờ mở rộng qui khôi Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh Hoàng phúc xưa đã định tây phong Làu làu thế giới sáng trong Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương Rỏ sinh tài lạ khác thường Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài Xem ý trời có lòng đãi thánh Dốc sinh hiền điều đỉnh nội mai Chọn đầu thai những vì sao cả Dùng ở tay phụ tá vương gia Bắc phương chính khí sinh ra Có ông Bạch sĩ điều hòa hôm mai Song thiên nhật rạng sáng soi Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường Ðời này thánh kế vị vương Ðủ no đạo đức văn chương trong mình Uy nghi trạng mạo khác hình Thác cư một gốc kim tinh phương đoài Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân Binh thơ mấy quyển kinh luân Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu Ở đâu đó anh hùng hẳn biết Xem sắc mây đã biết thành long Thánh nhân cư có thụy cung Quân thần đã định gìn lòng chớ tham Lại dặn đấng tú nam chí cả Chớ vội vàng tất tả chạy rong Học cho biết lý kiết hung Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi Hễ trời sinh xuống phải thì Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông Kìa những kẻ vội lòng phú quí Xem trong mình một thí đều không Ví dù có gặp ngư ông

Page 13: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng Xin khuyên đấng thời trung quân tử Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh Âm dương cơ ngẩu ngô sinh Thái nhâm thái ất trong mình cho hay Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh Võ thông yên thủy thần kinh Ðược vào trận chiến mới càng biến cơ Chớ vật vờ quen loài ong kiến Biết ray tay miệng biếng nói không Ngỏ hay gặp hội mây rồng Công danh sáng chói chép trong vân đài Bấy giờ phỉ sức chí trai Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình Nặng lòng thật có vĩ kinh Cao tay mới gẩm biết tình năm nao Trên trời có mấy vì sao Ðủ nho biền tướng anh hào đôi nơi Nước Nam thường có thánh tài Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường So mấy lời để tàng kim quỉ Chờ hậu mai có chí sẽ cho Trước là biết nẽo tôn phò Sau là cao chí biết lo mặc lòng Xem đoài cung đến thời bất tạo Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau Nguôi lòng tham tước tham giàu Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân Trẻ con mang mệnh tướng quân Ngỡ oai đã dấy ngỡ nhân đã nhường Ai lấy gương vua U thuở trước Loạn ru vì tham ngược bất nhân Ðoài phương ong khởi lần lần Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn Man mác một đỉnh Hoành Sơn Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù Ấy là những binh thù Thái Thái Lòng trời xui ai nấy biết ru ? Phá điền dầu khỉ cuối thu Tái binh mới động thập thò liền sang Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết Vẽ lại thêm hung kiệt mất mùa Lưu tinh hiện trước đôi thu Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm Xem thấy nhũng sương săm tuyết lạnh Loài bất bình tranh mạnh hung hăng Thành câu cá, lửa tưng bừng Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm Chiến trường chốn chốn cát lầm Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

Page 14: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Sang thu chín huyết hồng tứ giả Noi đàng dê tranh phá đôi nơi Ðua nhau đồ thán quần lê Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương Kẻ thì phải thủa hung hoang Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan Kẻ thì mắc thủa hung tàn Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình Muông vương dựng ổ cắn tranh Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành Bời bời đua mạnh tranh giành Ra đâu đánh đấy dem binh sớm ngày Bể thanh cá phải ẩn cây Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù Nào ai đã dễ nhìn U Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn Cây bay lá lửa đôi ngàn Một làng còn mấy chim đàn bay ra Bốn phương cùng có can qua Làm sao cho biết nơi hào bảo thân Ðoài phương thực có chân nhân Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người Tìm cho được chốn được nơi Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình Bốn bề núi đá riểu quanh Một đường tiểu mạch nương mình dấy an Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tạc Tránh cho xa kẻo mắc đao binh Bắc kinh mới thật đế kinh Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào Chim hồng vỗ cánh bay cao Tìm cho được chốn mới vào thần kinh Ai dễ cứu con thơ sa giếng Đưa một lng tranh tiếng dục nhau Vạn dân chịu thủa u sầu Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho Cấy cày thu đãi thời mùa Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai Nhân ra cận duyệt viễn lai Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm Xem tượng trời biết đường đời trị Gẩm về sau họ Lý xưa nên Giòng nhà để lấy dấu truyền Gẩm xem bốn báu còn in đời đời Thần qui cơ nổ ở trời Ðể làm thần khí thủa nơi trị trường Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh Sông Bảo Giang thiên định ai hay Lục thất cho biết ngày dài Phụ nguyên ấy thực ở đầy tào khê Có thầy nhân thập đi về Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp

Page 15: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời Ra tay điều chỉnh hộ may Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân Lọ là phải nhọc kéo quân Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh Ân trên vũ khí vân hành Kẻ thơ ký túy kẻ canh xuân đài Bản đồ chảng sót cho ai Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn Vững nền vương cha truyền con nối Dõi muôn đời một mối xa thư Bể kình tâm lặng bằng tờ Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân Âu vàng khỏe đặt vững chân Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài Vừa năm nhâm tý xuân đầu Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời Quyển vàng mở thấy sấm trời Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian Một thời có một tôi ngoan Giúp trong việc nước gặp an thái bình Luận chung một tập kim thời Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi Trượng phu có chí thời coi Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng Tài nầy nên đấng vẻ vang Biết chừng đời trị biết đường đời suy Kể từ nhân đoản mà đi Số chưa gặp thì biết hòa chép ra Tiếc thay hiền sĩ bao già Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công Thử cho tay giúp ra dùng Tài này so cùng tài trước xem sao Trên trời kể chín tầng cao Tay nghe bằng một ti hào biết hay Hiềm vì sinh phải thời này Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời Hợp đà thay thánh nghìn tài Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời Nói ra thì lậu sự đời Trái tai phải lụy tài trai khôn luần Nói ra am chúa bội quân Ðương thời đời trị xoay vần được đâu Chờ cho nhân đoản hết sau Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiễu nàn Trời xui những kẻ ắt gian Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay Vua nào tôi ấy đã bày Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn

Page 16: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Ðua nhau bội bạn nghịch vi Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay Tiếc tài gẩm được thời hay Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng Tài trai có chí anh hùng Muốn làm tướng súy lập công xưng đời Khá xem nhiệm nhặt tội trời Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng Ði tìm cho đến đế cung Rấp phù xuất lực đế cung được toàn Bảo nhau cương kỷ cho tường Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài Chờ cho động đất chuyển trời Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng Còn bên thì náu chưa xong Nhân lực cướp lấy thiên công những là Ðời ấy những quỉ cùng ma Chảng còn ở thật người ta đâu là Trời cao đất rộng bao xa Làm sao cho biết cửa nhà đế vương Dù trai ai chửa biết tường Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này Ý ra lục thất gian nay Thời vận đã định thời nầy hưng vương Trí xem nhiệm nhặt cho tường Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy Vua ngự thạch bàn xa thay Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng Gà kêu vượn hót vang lừng Ðường đi thỏ thẻ dặm chân khôn dò Nhân dân vắng mạt bằng tờ Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay Vua còn cuốc nguyệt cày mây Phong điều vũ thuận thú rày an dân Phong đăng hòa cốc chứa chang Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây Chính cung phương khảm vần mây Thực thay thiên tử là nay trị đời Anh hùng trí lượng thời coi Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi Tìm lên đến thạch bàn khê Có đất sinh thánh bên kia cuối làng Nhìn đi nhìn lại cho tường Dường như chửa có sinh vương đâu là Chảng tìm thì đến bình gia Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình Nhìn xem phong cảnh cũng xinh Tả long triều lại có thành đợt vây Hửu hổ uấn khúc giang này Minh Ðường thất diệu trước bày mặt tai Ở xa thấy một con voi

Page 17: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Cúi đầu quen bụi trông vời hồ sâu Ấy điềm thiên tử về chầu Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời Song thiên nhật nguyệt sáng soi Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu Ðến đời thịnh vượng còn lâu Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam Muốn làm tướng súy thì xem trông này Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn Tiền sinh cha mẹ đà cách trở Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn Kìa cơn gió thổi lá rung cây Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây Tan tác kiến kiều an đất nước Xác xơ cổ thụ sạch am mây Sơn lâm nổi sóng mù thao cát Hưng địa tràng giang hóa nước đầy Một gió một yên ai sùng bái Cha con người Vĩnh Bảo cho hay Con mùng búng tít con quay Vù vù chong chóng gió bay trên đài Nhà cha cửa đóng then cài Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân Tiếc tám lạng thương nửa cân Biết rằng ai có du phần như ai Bắt tay nằm nghỉ dông dài Thương người có một lo hai phận mình Canh niên tân phá Tuất hợi phục sinh Nhị Ngũ dư bình Long hổ xà đầu khởi chiến tranh Can qua tứ xứ loạn đao binh Mã đề dương cước anh hùng tận Thân dậu niên lai kiến thái bình Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu Có một đàn xà đánh lộn nhau Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng Lợn kia làm quái phải sai đầu Chuột nọ lăm le mong cản tổ Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu Hùm ở trên rừng gầm mới dậy Tìm về quê cũ bắt ngựa tàu Cửu cửu kiền khôn dĩ định Thanh minh thời tiết hoa tàn Trực đáo dương đầu mã vĩ Hồ binh bát vạn nhập trường an Bảo Giang thiên tử xuất Bất chiến tự nhiên thành

Page 18: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Lê dân bảo bảo noãn Tứ hải lạc âu ca Dục đức thánh nhân hương Qua kiều cư Bắc phương Danh vi Nguyễn gia tử Kim tịch sinh ngưu lang Thượng đại nhân bất nhân Thánh ất dĩ vong ân Bạch hổ kim đai ấn Thất thập cổ lai xuân Bắc hữu kim thành tráng Nam tạc ngọc bích thành Hỏa thôn đa khuyển phệ Mục giả dục nhân canh Phú quí hồng trần mộng Bần cùng bạch phát sinh Anh hùng vương kiếm kích Manh cổ đổ thái bình Nam Việt hửu Ngưu tinh Quá thất thân thủy sinh Ðịa giới sĩ vị bạch Thủy trầm nhi bắc kinh Kỷ mã xu dương tẩu Phù kê thăng đại minh Trư thử giai phong khởi Thìn mão xuất thái bình Phân phân tùng Bắc khởi Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh Bảo sơn thiên tử xuất Bất chiến tự nhiên thành Thủy trung tàng bảo cái Hứa cập thánh nhân hương Mộc hạ châm châm khẩu Danh thế xuất nan lương Danh vi Nguyễn gia tử Tinh bản tại ngưu lang Mại dử lê viện dưỡng Khởi nguyệt bộ đại giang Hoặc kiều tam lộng ngạn Hoặc ngụ kim lăng cương Thiên dử thần thực thụy Thụy trình ngũ sắc quang Kim kê khai lựu điệp Hoàng cái xuất quí phương Nhân nghĩa thùy vi địch Ðạo đức thực dữ đương Tộ truyền nhị thập ngũ Vận khải ngũ viên trường Vận đáo dương hầu ách Chấn đoài cương bất trường Quần gian đạo danh tự

Page 19: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Bách tính khổ tai ương Can qua tranh đấu khởi Phạm địch tánh hung hoang Ma vương sát đại quỉ Hoàng thiên tru ma vương Kiền khôn phú tai vô lương Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết Ðảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân Ta hồ vô phụ vô quân Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành Ðoài phương phước địa giáng linh Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân Phá điền thiên tử giáng trần Dũng sĩ nhược hai mưu thần như lâm Trần công nai thị phúc tâm Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du Tướng thần hệ xuất y chu Thứ kỵ phục kiến Đường ngu thi hành Hiệu xưng thiên hạ thái bình Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia

(3) LươngĐắc Bằng (1472 - 1522 ), người làng Hội Trào (Hội Triều), huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa (nay là xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa).Từ nhỏ nổi tiếng là người hay chữ, đỗ Bảng nhãn năm Kỷ Mùi 1499. Ra làm quan, được th ăng đến chức Tả Thị Lang bộ Lễ sau lại thăng lên Lại bộ Thượng thư, kiêm Đông Các Đại học sĩ, tước Đôn Trung bá. Công thần thời Lê Hiến Tông (1497-1504) đến Lê Tương Dực (1510-1516). Không những là một vị túc nho, ông còn là một đ ại thần rất cương trực, không ưa bè phái, nên đư ợc triều đ ình và nhân dân trọng vọng. Ông thường đư ợc vua cử đi s ứ Trung Hoa và làm tròn sứ mệnh ngoại giao. Tuy nhiên, triều nhà Lê đ ã đ ến lúc suy vong, ông nhận thấy dù đem hết tâm sức ra giúp nước cũng không thể vãn hồi đư ợc tình thế. Trị bình thập tứ sách đư ợc vua khen ngợi nhưng không thi hành. Lương Đ ắc Bằng cáo quan về nhà, mở trường dạy học tại Lạch Triều và nghiên cứu lý số. Nguyên thời đi sứ Trung hoa, ông có mang về bộ Thái Ất thần kinh để tham khảo. Ông rất thanh liêm và trọng đạo đức, dù làm quan lớn mà gia cảnh rất nghèo, con phải đi gặt thuê đ ể sống. Học trò ông nổi tiếng có Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), người tỉnh Hải Dương. Nhận thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm tính tình khoáng đạt và thích lý số, nên ông truyền dạy và trao cho toàn bộ Thái Ất thần kinh

(4). Hai anh em họ Trình: Trình Hạo (1032-1085) và Trình Di (1033-1107) hiệu là Y Xuyên, là người nghiên cứu, soạn tập và chú giải Tứ Thư và Ngũ Kinh.

Bộ sách Tứ Thư của Nho giáo ra đ ời cách nay khoảng hơn 2.000 năm, đã trải qua bao sóng gió theo những giai đo ạn thăng tr ầm của lịch sử Trung Hoa. Lần thì bị Tần Thủy Hoàng đ ốt, lần thì bị tiêu tan trong các cuộc nội chiến triền miên của Trung Hoa. Do vậy khó tránh được nạn "tam sao thất bản". Đến đời nhà Tống, bộ sách này mới được các danh Nho tu chỉnh. Đầu tiên là hai anh em họ Trình: Trình Hạo (1032-1085) và Trình Di (1033-1107) hiệu là Y Xuyên. Sau đó Chu Hy (1130-1200) hiệu là Hối Am, bổ cứu và sắp đ ặt thành chương cú cho có thứ tự phân minh. Ngày nay, có những bản sách Tứ Thư và Ngũ Kinh là do công lao của hai anh em Trình Hạo, Trình Di và của Chu Hy thời nhà Tống.

Page 20: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

(5) Đ ào Tiềm, người đời Tấn, Trung Quốc, tác giả Đào hoa nguyên ký hay Đào nguyên ký, là một trong những tác phẩm nổi tiếng của dòng thơ "thoát tục lên Tiên". Bài Đào nguyên ký này vốn là bài tựa của thi phẩm Ðào hoa nguyên thi:

Vào khoảng triều Thái Nguyênđời Tấn, có một người ở Vũ Lăng làm nghềđánh cá, m ột hôm bơi thuyền thấy mộtđóa hoa đ ào trôi từ khe núi. Người ngư phủ chèo thuyền dọc theo khe núi,đi mãi rồi đến một thôn xóm dân cư đông đúc, người dân ởđó đời sống an nhàn, thanh bình. Ngườiđánh cá hỏi chuyện mới biết tổ tiên của họ vốn người nước Tần, nhưng do không chịuđược chếđộ hà khắc của Tần Thủy Hoàng nên bỏ lên sống ởđó, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Ở lại mấy ngày, rồi người ngư phủ tạm biệt ra về. Sau một thời gian, muốn quay lại tìm chốnđào nguyên mà không thấy.

Bài ký này cùng với nhiều bài thơ khác như Quy viênđiền cư, Ẩm tửu... tác giả đ ã ca tụng cảnh sống ẩn cư trong lao động, nhàn hạ và cách biệt với đời. Điều này có nghĩa ít nhiều, chúng đều ảnh hưởng tư tưởng của Lão Trang.

Đào hoa nguyên ký, gọi tắt là Đào Nguyên còn là một đi ển tích văn học đ ể chỉ nơi tiên cảnh. Vì Đào hoa nguyên có thể hiểu là suối hoa đào, hay động đào, động bích, động nguyên bích... Điển cố Đào Nguyên được nhắc đến trong nhiều sáng tác của các nhà thơ Việt Nam, chẳng hạn như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Rước mừng,đón hỏi, dò la / Đào Nguyên lạc lốiđâu màđ ếnđây? Hoặc: Xắn tay mở khóađộng đào / Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai.

(5) Đào Tiềm (365 - 427), hiệu Uyên Minh tự Nguyên Lượng biệt hiệu là Ngũ liễu tiên sinh, người đất Tầm Dương, nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Khoảng 40 tuổi, vì nhà nghèo mà còn phải nuôi mẹ già, vợ con (ông có cả thảy năm người con trai), nên ông ra làm huyện lệnh Bành Trạch (vì thế ông còn được gọi là Đào Bành Trạch). Được hơn 80 ngày, nhân cuối năm quận phái viên đốc bưu đến huyện, nha lại khuyên Đào Tiềm chỉnh đốn y phục ra đón. Ông than rằng: "Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa" (Ta sao lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!). Ngay hôm ấy ông viết bài Quy khứ lai từ (Lời bày tỏ việc trở về), rồi trả ấn bỏ quan mà về… Năm ông 62 tuổi, gặp lúc đói kém, nhà thơ lâm cảnh khốn cùng đến mức phải đi xin ăn. Tiêu Thống đời Lương viết TruyệnĐào Uyên Minh kể lại rằng: "Khi Thứ sử Giang Châu là Đàn Đạo Tế đến thăm thì thấy nhà thơ nằm co ro, nhịn đói đã mấy ngày. Đạo Tế cho đưa rượu thịt tới, ông vẫy tay bảo đưa ra. Không bao lâu thì mất", thọ 63 tuổi. Đào Tiềm để lại một số thơ văn, người đời sưu tập lại thành Đào Uyên Minh thi văn tập, 10 quyển, trong đó có trên 120 bài thơ.

(6) Để có thể đi sâu vào thế giới Đào nguyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hãy đọc thêm chùm thơ Ngụ hứng khá đặc sắc này :

Ngụ hứng 1 Một bên là chợ, một bên làng. Ao vườn có đủ, cũng khang trang. Am quán thư nhàn, xuân mãi trẻ. Cảnh đẹp như tranh, đến ngỡ ngàng. Suối chảy, tiếng đàn nghe thêm vọng. Cây che, cành đẹp giấc mơ màng. Mừng thấy đạo Nho chưa héo lụi, Mà vẫn đang phơi giữa nắng vàng.

Ngụ hứng 2

Page 21: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Uống rượu ngắm sông buổi xế tà. Dân chài đâu đó, hát xa xa. Trời tạnh, dịu dàng cơn gió thổi. Bên sông cây mọc tốt, xùm xòa. Nhớ quê lúc tỉnh, thương hoa cúc. Khi say dễ ướt mắt người già. Bao giờ trở lại thời Nghiêu Thuấn, Để thấy càn khôn lại thái hòa.

Ngụ hứng 3 Đeo đuổi công danh chỉ phí đời. Quay lại ruộng đồng sống thảnh thơi. Giặt áo, ngoài khe luôn sẵn nước. Ngắm hoa, không sợ "khách" qua chơi. Áo mũ nhà nho làm thân khổ. Tận tụy việc công chẳng mấy người. Lo trước nhưng vui sau thiên hạ Ta nguyện trong lòng chẳng phút ngơi.

Ngụ hứng 4 Chọn đất dựng nhà cạnh suối trong. An nhàn vui thú với non sông. Sáng dạo vườn rau, sương dính dép. Đêm chơi xóm lưới ánh trăng lồng. Lui, tiến, chơi cờ luôn tính trước. Buông, giật, đi câu cũng bận lòng. Lầu son xin khách đàn khe khẽ, Kẻo nhỡ làm ta tỉnh giấc nồng.

Ngụ hứng 5 Chán đời ô trọc, lánh phù hoa, Về quán Trung Tân ta với ta. Hữu tình sơn thủy, người nhân trí. Sách nhiều đủ hiểu hết gần xa. Trăng thanh gió mát, vui ngâm vịnh. Khắp lượt quen thân, trẻ đến già. Bên sông nghe sáo dân chài thổi, Trong đầu vang điệu "Lạc Mai Hoa".(6*)

Ngụ hứng 6 Không hám giàu sang chuốc nợ đời. Ở ẩn về già sống thảnh thơi. Làm thơ có sẵn hoa, cây cỏ. Bên song chim én lượn đầy trời. Thư sinh mà dám bàn "tam lược", "Tứ tri" thử hỏi được bao người? Đời này thực sự tìm chân lý - Sông Hànhãy ngắm ánh trăng bơi.

Ngụ hứng 8 Bất tài, không giúp được người ngay. Vườn xưa trót hẹn, lại về đây. Nói mình trong sạch, e hơi quá. Muốn trốn cái già nên uống say. Núi nhuộm sắc thu, xanh lại nhạt.

Page 22: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Sông lồng bóng nguyệt, nước lung lay. Chẳng vướng cơ mưu, lòng nhẹ nhõm. Cổng tre Tân Quán mở đêm ngày.

Ngụ hứng 10 Bạch Vân am nhỏ, mạch khe nông, Được hưởng mà không mất một đồng. Thanh khiết trên đời ai kẻ sĩ, Riêng ta như ở chốn tiên bồng. Cúc thơm ba luống như Bành Trạch, Nhà tranh đôi chái giống Lư Đồng. Cũng riêng một cõi, ta là chủ, Uống rượu ngắm trăng và hát ngông.

Tự thuật

Bao người tráng kiệt thế xưa nay, Cũng đành tạm náu lúc không may. Ta xưa là khách nơi lầu tía, Giờ bạn non sông ở chốn này. Có đủ mùa xuân, hoa với lá, Có đàn, có rượu, uống kỳ say. Một mình đứng ngắm hoàng hôn tắt. Mặc gió đầu trần thổi tóc bay.

Ngẫu hứng

Thấm thoắt đã già, hơn sáu mươi. Tự thấy mình ngông, những ngậm cười. Ham muốn làm quan giờ chẳng có. Quán nhà, hết ngủ lại ngồi chơi. Thanh thản ngắm hoa, nghe chim hót. Uống rượu ngâm thơ, hưởng thú đời. Kìa sáo nhà ai ngoài xóm vắng. Chiều xế, ngà ngà, gió lả lơi...

Cảm hứng

Ai người có thể cứu muôn dân Bị giặc xâm lăng, đợi chết dần? Hại cả con trâu và ngọn núi, Bừa bãi bắt giam, luật bất cần. Mòn mỏi dân mong người dẹp loạn, Mà đời chẳng có tướng cầm quân. Lại đúng vào khi đang nạn đói, Biết tìm đâu nổi chốn nương thân?

(6*) "Lạc mai hoa": một bản nhạc sáo nổi tiếng đời Đường . Lý Bạch có câu thơ : "Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọcđịch , Giang Thành ngũ nguyệt lạc mai hoa" ( tức là : Trên lầu Hoàng Hạc thổi sáo ngọc , Giang Thành tháng năm mai hoa rụng").

Page 23: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

(7) Phan Huy Chú ( 1782 - 1840) : Phan Huy Chú sinh ra ở Thăng Long và lớn lên ở tổng Thụy Khê, huyện Yên Sơn, tỉnh Sơn Tây(nay là thôn Thuỵ Khuê, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây) tên chữ là Lâm Khanh, hiệu Mai Phong, thuở nhỏ có tên là Hạo sau đổi tên là Chú, là một danh sĩ triều nhà Nguyễn. Ông đỗ 2 lần tú tài, người đương thời gọi ông là "kép Thầy", làm quan dưới triều vua Minh Mạng.

Ông là tác giả bộ bách khoa Lịch triều hiến chương loại chí và nhiều tác phẩm khác. Ông được người đời suy tôn là nhà bác học trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam.

(8) Nguyễn Thiếp (1723-1804), tên hiệu phổ biến là La Sơn phu tử, húy là Minh, tự là Quang Thiếp, quê làng Mật Thôn, xã Nguyệt Úc hay Nguyệt Áo (tục gọi là Nguyệt Ao), tổng Lai Thạch, huyện La Sơn. Tổng La Thạch sau này lại thuộc về huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Thiếp sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi vọng tộc, là con cháu Lưu Quận công, Cao tổ của Phu tử là Nguyễn Bật Lạng đậu Bảng nhãn (dưới Trạng Nguyên, trên Thám Hoa) trong một Chế khoa dưới triều Lê Thần Tông niên hiệu Thịnh Đức nguyên niên (năm 1633). Năm 20 tuổi (1743) ông đỗ giải Hương, đến năm 26 tuổi, ông đi thi Hội một khoa vào tam trường. Từ đây, ông thề không đi thi nữa, và quyết tâm dứt bỏ con đường sĩ hoạn, chỉ vì ông thấy rõ lối học từ chương, khoa cử chẳng những vô ích cho bản thân và quốc gia, mà còn di hại cho tiền đồ Tổ quốc và hậu thế không ít.

Năm 1756, ông làm Huấn đạo rồi năm 1762 thăng Tri phủ. Năm 1768 từ quan về ở ẩn trên núi Thiên Nhẫn, Hà Tĩnh. Đặc biệt là ông có đi thăm mộ Phạm Viên (Tiên ông đắc đạo) và thăm Bạch Vân Am của Nguyễn Bỉnh Khiêm vào lúc 55 tuổi và 58 tuổi (1777-1780).

(9) Vũ Khâm Lân (1702 hoặc 1703 - ?), trước có tên Khâm Thận, sau đổi lại thành Khâm Lân, là danh sĩ và là đại thần nhà Hậu Lê, nước Đại Việt (nay là Việt Nam).Vũ Khâm Lân, người làng Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Vốn là con nhà nghèo, nên ông phải sớm làm lụng mưu sinh, và cố công học tập để mau chóng thành đạt. Năm Đinh Mùi (1727), triều Lê Dụ Tông, ông thi đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân lúc 25 tuổi.

Kể từ đó, Vũ Khâm Lân bước vào chốn quan trường, từng được cử đi sứ Trung Quốc, trải đến các chức, như: Đô ngự sử, Thượng thư, Tham tụng, tước ÔnĐình hầu rồi Ôn Quận công. Đương thời, ông có tiếng là người hào hiệp, khảng khái, gặp việc dám nói, dám làm. Bên cạnh đó, ông còn có tiếng về tài văn chương. Theo tài liệu, thì ông là người đã góp thêm nhiều truyện mới vào quyển Lĩnh Nam chích quái, soạn và cho khắc bia bài Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký nói về cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm (để dựng ở đền thờ vị danh sĩ này), viết bài khen Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một "thiên cổ kỳ bút"…

(10) Phùng Khắc Khoan (1528-1613): đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ, tức là Hoàng giáp vào năm Quang Hưng thứ 3 (1580). Quê ở làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Ông có học vấn uyên thâm, khi đi sứ Trung Quốc, ứng đối xuất sắc, nên được vua nhà Minh đặc cách phong Trạng nguyên .Mặc dù ông chỉ đỗ Hoàng giáp nhưng người đời quen gọi ông là Trạng Bùng.

(11) Theo sách Tuyết Giang phu tử của Chu Thiên (11*).

(11*) Chu Thiên (1913 - 1992) là nhà văn, nhà phê bình, nghiên cứu văn học. Ông tên thật Hoàng Minh Giám, còn có bút danh khác là Dương Hoàng, sinh năm 1913 tại Yên Thanh, Ý Yên, Nam Định. Trước Cách mạng tháng 8, ông dạy học tư và và viết văn, tiểu thuyết ở Hà Nội. Những tác phẩm của ông tập trung về tiểu thuyết lịch sử, dã sử và nghiên cứu lịch sử, đặc biệt là tập Bút nghiên (1942). Tác phẩm thành công nhất là Bóng nước Hồ Gươm (gồm 2 tập, 1970),

Page 24: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

phản ánh tinh thần yêu nước của người Hà Nội trong những năm đầu thực dân Pháp chiếm đóng thủ đô. Tuyết Giang phu tử (1943) viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Page 25: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

BẠCH VÂN THI TẬP CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM.

Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ,trước được phong là Đại Học Sĩ ,Sau được phong tước là : Trình Tuyền Hầu ,rồi dần dần thăng lên Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công .Cụ mất ngày 28/11/năm Ất Dậu (1585) ,thọ 95 tuổi .

Cụ Trạnhg Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ,ngoài việc dùng thi ca ngâm vịnh làm thú tiêu khiển .Cụ còn muốn dùng văn chương để giáo hóa người đời ,truyền bá những tư tưởng Đạo Đức ,giác ngộ dân chúng ,vì trước mắt hoàn cảnh đất nước thật điêu tàn .Chiến tranh nồi da xáo thịt chém giết nhau vì quyền lợi riêng tư,không còn biết Đạo đức nhơn nghĩa .Cụ đã thực hành chủ trương ,” Văn dĩ tải Đạo”của Thánh Hiền.Cụ có viết một tập thơ chữ Hán gọi là “Bạch Vân Am Thi Tập “ Tập thơ nầy gồm hàng ngàn bài thơ vịnh cảnh ,tả tình ,hiện đã bị thất lạc gần hết.Về Thơ nôm ,Cụ có viết tập “ Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập” Gồm nhiều bài thơ Đường luật Cổ Phong với những Chủ đề như sau:

- Thú ẩn cư ,an nhàn tự tại .- Than trách đời ,nhân tình thế thái .- Khuyên răn người đời .

Ngoài ra ,Cụ Trạng Trình còn lưu truyền lại cho con cháu một quyển Sấm Ký trường thiên ,mà con cháu cụ sau nầy chép vào Cuốn Bạch Vân Gia Phả Bí Truyền Tập gọi là SẤM TRẠNG TRÌNH .Sau đây xin chép lại vài bài thi tiêu biểu trong cuốn Bạch Vân Quốc Ngữ Thi Tập :

THÚ THÔN CƯ

Một mai ,một cuốc ,một cần câuThơ thẩn mặc ai vui thú nào ,Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,Người khôn ,người đến chốn lao xao .Thu ăn măng trúc , Đông ăn giá ,Xuân tắm hồ sen ,Hạ tắm ao.Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp ,Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao .

THẾ GIAN BIẾN ĐỔI

Thế gian biến đổi Vũng nên đồi ,Mặn lạt chua cay lẩn ngọt bùi ,Còn bạc còn tiền còn đệ tử.Hết cơm hết gạo hết Ông Tôi .Xưa nay vẩn trọng người chân thực ,Ai nấy nào ưa kẽ đãi bôi ,Ở Thế mới hay người thế bạc ,Giàu thì tìm đến ,khó tìm lui.

CỦA NẶNG HƠN NGƯỜI

Đời nầy nhân nghĩa tợ vàng mười ,Có của thì hơn hết mọi lời .Trước đến tay không nào thiết hỏi ,

Page 26: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Sau vào gánh nặng lại vui cười .Anh anh ,chú chú mừng hơ hảiRượu rượu ,chè chè thết tã tơi .Người của lấy cân ta sẽ nhắc ,Mới hay rằng của nặng hơn người .

Sau đây xin trích vài đoạn trong Sấm Trạng Trình :

CẢM ĐỀ

Thanh nhàn vô sự là Tiên,Năm hồ phong nguyệt nỗi Thuyền buông chơi .Cơ Tạo hóa phép đổi dời ,Đầu non mây khói tỏa .Mặt nước cánh buồm trôi .Huơu Tần mặc kệ ai xua đuổi ,Lầu Hán Trăng lên ngẫm mệnh Trời.Tuổi già thua kém bạn ,Văn chương gởi lại đời .Dở hay nên tự lòng người cả .Nghiên bút soi hoa chép mấy lời .Bí truyền cho con cháu .Dành Hậu thế xem chơi …

SẤM KÝ

Nước Nam từ họ Hồng Bàng ,Biển dâu cuộc thế gian san đổi dời .Từ Đinh Lê Lý Trần thuở trước .Đã bao đời ngôi nước đổi thay .Núi sông Thiên định an bày ,Đồ thơ mấy quyển xem nay mới rành .……………………………………Kìa kìa gió thổi lá rung cây ,Rung Bắc ,rung Nam , Đông tới Tây .Tan tác kiến kiều an đất nước ,Xác xơ cổ thụ sạch am mây .Lâm giang nổi sóng mù thao cát .Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy .Một ngựa một yên ai sùng bái ,Nhắn con nhà Vỉnh Bảo cho hay .Tiền ma bạc quỉ trao tay .Đồ môn Nghệ Thái dẩy đầy can qua ,Giữa năm hai bảy mười ba .Lữa đâu mà đốt tám gà trên mây .………………………………….Cửu cửu Càn Khôn dĩ định .Thanh Minh thời tiết chưa tàn ,Trực đáo dương đầu mã vĩ.Hồ binh bát vạn nhập Tràng An .Nực cười những kẽ bàng quan ,

Page 27: BẠCH VÂN CƯ SĨ TRẠNG TRÌNH

Cờ tan lại muốn toan đường đá xe.…………………………………..Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh ,Can qua xứ xứ khởi đau binh .Mã đề dương cước anh hùng tận.Thân dậu niên lai kiến Thái bình .…………………………………..Thần kinh Thái Ất suy ra ,Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn .Ngày thường xem thấy quyển vàng .Của riêng bảo Ngọc để tàng xem chơi .Bởi Thái Ất thấy lạ đời ,Ấy Thuở Sấm Trời vô giá thập phân .Phú quí hồng trần mộng ,Bần cùng Bạch phát sinh .Hoa Thôn đa khuyển phệ.Mục giả dục nhơn canh.Bắc hữu Ngọc Bích Thành .Phân phân tùng bách khởi.Nhiễu nhiễu xuất đong chinh .‘Bảo giang Thiên Tử xuất ,Bất chiến tự nhiên thành .………………………….Cơ Tạo Hóa phép màu khôn tỏ.Cuộc tàn rồi mới rỏ thấp cao .Thấy Sấm từ đây chép vào ,Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa .

Trong thời ĐĐTKPĐ Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm Thánh danh là Thanh Sơn Đạo Sĩ ,thường giáng cơ dạy Đạo nơi Hội Thánh Ngoại Gíáo tại Kim Biên (Nam Vang). Sau đây,xin chép ra 2 bài Thánh Giáo quan trọng :

Phò loan :Giám Đạo Lợi ,Hữu Phan Quân ,Bùi Ái Thoại.Báo Ân Đường (Nam Vang) Đêm 13/8/Bính Thân (DL 17/9/1956)

THANH SƠN ĐẠO SĨ

Bần Đạo xin chào Hộ Pháp ,Bảo Đạo ,và Chư Hiền Nam Nữ .

Thắm thoát nền Đại Đạo khai nơi Tần Quốc 30 năm ,Ngày ấy chính Chí Tôn sai Hộ Pháp gieo hột Thánh cốc .Từ ấy những nay thì các tay chấp Chánh Đạo Quyền nơi nầy không tô bồi thêm,trái lại làm cho phân chia tâm lý .Cớ ấy vì chổ ham quyền trọng vị .Các Chức Sắc Thiên Phong lảnh Thiên mạng nơi mình không làm phận sự ,ngôi thì ham .quyền thì muốn ,mà hành động cho xứng lại không .Thữ hỏi họ vưng Thiên mạng đến để làm gì kia chớ?Họ phải cho xứng phận là anh ,Thầy, để gần gủi nhơn sanh ,chia việc đau ,an ủi điều khổ. Hôm nay Hộ Pháp đã đến thì cả Chức Sắc Thiên phong phải ráng thiệt thi quyền của mình ,hư thì bỏ ,nên thì để ,rửa rái thánh Thể Đức Chí Tôn cho nên hình .Vậy khá liệu lấy.Có Quyền Giáo Tông đến .Thăng .