26
BGIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIT NAM HC VIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ----------------------------- TRẦN VĂN TIẾN Tên luận án: NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN, PHÂN BỐ CÁC LOÀI NƯA (AMORPHOPHALLUS SPP.) CGLUCOMANNAN VÀ CHỌN LOÀI CÓ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN TRNG MT STNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIT NAM Chuyên ngành: Thực vt hc Mã số: 62 42 01 11 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC Hà Nội - 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

-----------------------------

TRẦN VĂN TIẾN

Tên luận án:

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN, PHÂN BỐ CÁC LOÀI NƯA

(AMORPHOPHALLUS SPP.) CỦ CÓ GLUCOMANNAN VÀ CHỌN

LOÀI CÓ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN TRỒNG Ở MỘT SỐ TỈNH

MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM

Chuyên ngành: Thực vật học

Mã số: 62 42 01 11

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC

Hà Nội - 2017

Page 2: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn

lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Người hướng dẫn khoa học 1: TS. Nguyễn Văn Dư

Người hướng dẫn khoa học 2: PGS. TS. Hà Văn Huân

Phản biện 1: …............................................................................................

Phản biện 2: …............................................................................................

Phản biện 3: …............................................................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Học viện,

họp tại Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công

nghệ Việt Nam vào hồi … giờ ..’, ngày … tháng … năm 201….

Page 3: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Một số loài trong chi Nưa Amorphophallus, thuộc họ Ráy (Araceae) củ có

chứa glucomannan, một loại đường phân tử lớn có cấu trúc mạch đã và đang được

trồng ở nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, v.v. để lấy củ

làm nguyên liệu chế biến thực phẩm và thực phẩm chức năng. Theo Chua M.,

Baldwin TC., Hocking TJ., Chan K. (2010) thì củ một số loài Nưa chứa

glucomannan, một loại đường polysaccharide tan trong nước. Các sản phẩm chứa

glucomamnan trong củ Nưa, có tác dụng điều chỉnh nồng độ đường, làm giảm tỷ lệ

mỡ trong máu, làm giảm sự thèm ăn ở người béo phì.

Ở Việt Nam, củ cây Nưa đã được sử dụng làm thức ăn truyền thống từ lâu đời

của người dân tộc ở một số tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên, củ Nưa chỉ được khai

thác sử dụng trong phạm vi hẹp ở một số địa phương với các món ăn được chế biến

giống như đậu phụ gọi là món Mò gỉ (tiếng Nùng) hay Cò ký thơ (tiếng Mông), mỳ,

bánh rán,.v.v. (Nguyễn Văn Dư, 2012). Các nghiên cứu về cây Nưa ở Việt Nam đã

chỉ ra được một số loài Nưa có hàm lượng glucomannan, đặc điểm phân bố và đã có

những nghiên cứu bước đầu về nhân giống và trồng các loài Nưa này.

Bên cạnh đó, theo số liệu của Tổng cục thống kê năm 2016, các tỉnh miền núi phía

Bắc Việt Nam với địa hình là đồi núi, người dân thu nhập bình quân đầu người thấp với

337,2 nghìn đồng/tháng. Do thu nhập của người dân thấp nên tỷ lệ hộ đói nghèo rất cao là

41,42%, nhiều hộ thiếu ăn 2 - 6 tháng/năm. Vì vậy, để đưa cây Nưa trở thành cây nông

nghiệp phát triển kinh tế miền núi phía Bắc Việt Nam, việc nghiên cứu sâu hơn về loài

Nưa có giá trị kinh tế và các biện pháp nghiên cứu nhân giống và trồng là hết sức cần thiết

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu

thành phần, phân bố các loài Nưa (Amorphophallus spp.) củ có glucomannan, lựa

chọn loài có triển vọng phát triển trồng ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam”

làm đề tài nghiên cứu luận án của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án

- Đánh giá được thành phần và phân bố các loài Nưa (Amorphophallus spp.) củ

có glucomannan ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam;

- Lựa chọn được loài nưa có glucomannan cao và triển vọng phát triển trồng để

nhân giống, trồng ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam;

- Nhân giống và trồng thử nghiệm loài Nưa có triển vọng phát triển ở một số

tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.

3. Nội dung nghiên cứu chính của luận án

- Điều tra đánh giá thành phần loài, phân bố và tri thức bản địa các loài Nưa củ

có glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt Nam.

- Nghiên cứu về đặc điểm hình thái, sinh trưởng phát triển và lựa chọn loài Nưa

có hàm lượng glucomannan cao, triển vọng phát triển ở một số tỉnh miền núi phía Bắc

Việt Nam.

- Nghiên cứu một số kỹ thuật nhân giống loài Nưa có hàm lượng glucomannan

cao và triển vọng phát triển ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.

- Nghiên cứu trồng, phát triển của Nưa konjac ở một số tỉnh miền núi phía Bắc

Việt Nam.

Page 4: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

2

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

- Ý nghĩa khoa học: Kết quả của luận án góp phần bổ sung và hoàn chỉnh kiến

thức về các loài Nưa (Amorphophalluss spp.) thuộc chi (Amorphophalluss) ở Việt

Nam. Bên cạnh đó kết quả luận án còn nhằm phục vụ cho các nghiên cứu chuyên

ngành sâu hơn trên các lĩnh vực khác nhau của loài Nưa.

- Ý nghĩa thực tiễn: Là cơ sở khoa học cho việc phát triển một số giống Nưa

có hàm lượng glucomannan cao ở Việt Nam, phục vụ sản xuất thực phẩm chức năng

và một số ngành khác.

5. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục luận án

cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu - 25 trang, Chương

2: Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu - 22 trang, Chương 3: Kết quả quả

nghiên cứu và thảo luận - 70 trang.

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu về chi Nƣa

1.1.1. Vị trí và phân loại của chi Nưa

Theo từ điển cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi (2012), phân loại của chi Nưa

trong giới thực vật như sau: Chi Nưa (Amorphophallus) thuộc họ Ráy (Araceae), tên gọi

khác là Khoai Nưa, Khoai ngái, Tò ngủ (Tày), Mò gỉ (Nùng), Cò kí thơ (H'mông).

1.1.2. Đặc điểm hình thái của chi Nưa

Các loài trong chi Nưa là cây thảo, thân củ, chiều cao từ 10 cm (A. pulsilus) tới

hàng mét (A. titanum) (Mayo, 1997; Bown, 2000).

Củ của cây Nưa có nhiều hình dạng khác nhau, từ thuôn dài, hình củ cải, hình cầu

hay hình đầu, không hiếm loài có thân củ phần trên gần hình cầu nhưng phần dưới lại

phân nhánh.

Rễ cây Nưa là dạng rễ chùm, thường tập trung ở phần đỉnh của củ, xuất phát

ngay dưới chồi đỉnh. Rễ thường mập, dài tới 15 cm.

Lá cây Nưa thường đơn độc, ít khi có 2-3 lá cùng với nhau; cuống lá thường mập,

màu xanh, có đốm trắng, hoặc màu nâu có đốm trắng, hoặc có nhiều chấm đen, ngoài

nhẵn, ít khi có gai mềm, ngoài bao bọc bởi lá vảy ở phần gốc lúc non. Phiến lá đơn,

thường xẻ 3 thùy lớn, các thùy lớn lại xẻ thứ cấp 2 đến nhiều lần thành các phiến dạng

lá “chét” hình lông chim.

Hoa của Nưa là cụm hoa dạng bông mo, lưỡng tính, đơn độc; mo và bông nạc đa

dạng về hình dạng và kích thước.

1.1.3. Đặc điểm về thành phần và phân bố các loài Nưa

1.1.3.1. Đặc điểm thành phần loài Nưa

Trên thế giới chi Nưa có khoảng 200 loài phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới

thuộc Châu Phi và Châu Á (Hetterscheid và Ittenbach, 1996; Sedayu, 2010). Ở Việt

Nam số loài của chi này lên tới 25 loài, trong đó theo Nguyễn Văn Dư và cộng sự có

5 loài củ có chứa glucomannan.

1.1.3.2. Đặc điểm phân bố các loài Nưa

Các loài trong chi Nưa phân bố chủ yếu ở các vùng nhiệt đới thuộc Châu Phi và

Châu Á. Chúng là các loài thực vật đặc hữu của các vùng rừng mưa nhiệt đới của Đông

Nam Á. Nhiệt độ trung bình cả năm thích hợp nhất cho các loài Nưa vào khoảng 24oC

Page 5: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

3

(Hetterscheid, 1994; Mayo, 1997; Liu, 2004). Ở Việt Nam với 25 loài Nưa phân bố

trong phạm vi cả Nước trong đó có 8 loài phân bố ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt

Nam, 17 loài còn lại phân bố đa dạng theo nhiều điều kiện sinh thái khác nhau từ Bắc

vào Nam của Việt Nam.

1.1.4. Đặc điểm sinh thái và sinh trưởng phát triển của loài Nưa củ có

glucomannan

Đặc điểm sinh thái

Các loài Nưa sinh trưởng tốt trong môi trường bóng râm với đất thoát nước

nhanh và giàu mùn khoáng có độ pH từ 6,5 đến 7,5. Đặc biệt đối với các loài Nưa có

hàm lượng glucomannan cao cần điều kiện tránh ánh sáng trực tiếp thấp và nhiệt độ

thích hợp từ 20-250C.

Đặc điểm sinh trưởng và phát triển

Liu & cs (1998) khi nghiên cứu về sinh trưởng và phát triển của một số loài

Nưa ở Trung Quốc đã chỉ ra các điều kiện sinh thái của Nưa. Theo nhóm nghiên cứu,

Nưa không phải là cây đòi hỏi nhiều nước, không chịu được ngập úng. Về nhiệt độ,

Nưa là cây ưa ấm, có khả năng chịu biến thiên nhiệt độ từ 5 - 430C, nhiệt độ tối thích

là 20 - 250C, khi nhiệt độ xuống dưới 0

0C và lên trên 48

0C cây sẽ chết sau 5 ngày.

Cây Nưa sinh trưởng và phát triển theo mùa, chúng thường rụng lá vào mùa đông hay

mùa khô.

1.1.5. Giá trị và tình hình sử dụng các loài Nưa

Các loài Nưa thuộc chi Amorphophallus từ lâu đã được sử dụng tại các vùng nhiệt

đới và cân nhiệt châu Á như một nguồn thức ăn và một loại thuốc y học cổ truyền (Liu,

1998). Một trong những loài được biết đến nhiều nhất là cây Amorphophalus konjac

được trồng tại Trung Quốc từ hơn 2000 năm về trước (Liu, 1998; Long, 1998). Phần củ

của loài này được dùng làm thuốc đông y để chữa hen suyễn, ho, chứng thoát vị, đau

ngực, bỏng và rối loạn về da (Niwa, 2000; Xu, 2001).

Gần đây, bột Nưa được chú ý bởi công dụng tiềm năng của nó như một chất xơ

thực phẩm. Các chất sơ thực phẩm này, sẽ kháng lại các enzim tiêu hóa, giúp chúng ta

no lâu hơn (McCleary, 2003). Phân tử có hoạt tính sinh học chủ yếu trong củ konjac là

sợi hòa tan, nó cơ bản bao gồm polysaccharide không chứa xenluloza và glucomannan

(Takigami, 2000; Edison, 2010; Parry, 2010).

Ở Việt Nam, củ Nưa được sử dụng làm thức ăn truyền thống từ lâu đời. Tuy

nhiên, thức ăn từ củ Nưa chỉ được sử dụng trong phạm vi hẹp ở từng địa phương

bởi các dân tộc miền núi hoặc chỉ sử dụng khi đói (nạn đói), chưa được sử dụng

như là thức ăn phổ biến. Theo các nghiên cứu điều tra thực vật dân tộc học của

Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật về cây Nưa ở Huế thì cây Nưa được trồng ở

Quảng Thọ, Quảng Điền từ hàng trăm năm trước và đã trở thành món ăn quen

thuộc. “Chột Nưa” trong bài thơ “Con cá chột Nưa” của nhà thơ Tố Hữu chính là

phần cuống lá vẫn được dân địa phương sử dụng như là một loại rau đặc sản (N.V.

Dư, 2012).

1.2. Khái quát nghiên cứu về glucomannan trong củ Nƣa

1.2.1. Giới thiệu về glucomannan trong củ Nưa

Glucomannan là một polysacarit mạch thẳng, khối lượng phân tử khoảng 200 ÷ 2000

Kda, tan trong nước gồm các mắt xích D-mannose và D-glucose liên kết với nhau bằng

liên kết β-(1→ 4) glucozit.

Page 6: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

4

Hàm lượng của glucomannan trong củ Nưa phụ thuộc vào môi trường sống, điều

kiện canh tác, thời gian sinh trưởng, phát triển và qui trình tách chiết, chế biến từ

nguồn nguyên liệu ban đầu sau thu hoạch.

1.2.2. Nghiên cứu đánh giá hàm lượng glucomannan trong củ Nưa

Để đánh giá hàm lượng glucomannan hiện nay sử dụng chủ yếu phương pháp so

màu, đây là phương pháp định lượng hóa sinh các chất trong thực vật kinh điển hiện

nay được áp dụng. Một số phương pháp định lượng glucomannan được sử dụng như

phương pháp dùng thuốc thử 3,5-dinitrosalicylic axit (3,5-DNS), Phương pháp so màu

phenol-sunfuric axit.

1.3. Tình hình nghiên cứu về nhân giống cây Nƣa

1.3.1. Trên thế giới

Các loài Nưa có thể được nhân giống từ hạt hoặc từ cơ quan sinh dưỡng. Trong

Các loài Nưa có thể được nhân giống từ hạt hoặc từ cơ quan sinh dưỡng. Trong nuôi

trồng thương mại, cây Nưa được nhân giống từ cơ quan sinh dưỡng là củ và các

chồi cây (củ con) được sử dung phổ biến (Follett và Douglas, 2002; Edison, 2010).

Chồi cây gắn liền với thân củ gốc được cắt ra vào mỗi vụ thu hoạch và được vùi

trong cát hoặc đất mùn sạch độ ẩm 60% ở độ sâu 10 đến 15 cm nhằm ngăn rễ phát

triển ở vùng sống lưng của củ và củ khô cho đến vụ gieo trồng tiếp theo (Follett and

Douglas, 2002). Mặt khác, việc nhân giống từ hạt lại không phổ biến bởi hạt của

cây Nưa vô cùng khó nảy mầm trong điều kiện tự nhiên (O’Hair và Asokan, 1986).

Tuy nhiên ở phía Nam Trung Quốc, người dân bản địa làm cho việc nhân giống trở

nên dễ dàng hơn bằng cách loại bỏ vỏ quả đã chín, sau đó trộn với cát ẩm với tỉ lệ

1:4; rồi lấp lại bằng một lớp đất dầy (Long, 1998).

Các nghiên cứu nhân giống bằng mô lá, mô sẹo đã được các nhà sinh học nước

ngoài tiến hành nghiên cứu từ vài chục năm nay. Năm 1991, Kobayashi & M. Yonai,

S.đã giới thiệu phương pháp nhân giống cây Nưa konjac từ cuống lá, củ và củ con.

Theo các tác giả tỉ lệ củ nhiễm virus mosaic là tới 92%. Củ dùng để nuôi cấy sạch

bệnh được chọn ra từ các cây giống mẹ. Từ mô củ trong 3 tháng các tác giả đã nhân

được 1.000 cây con. Từ mô sẹo của cuống lá với trọng lượng 10 mg, trong 4 tháng đã

nhân được 1.000 cây con.

1.3.2. Ở Việt Nam

Ở Việt Nam, do cây Nưa chưa phải là cây kinh tế và có trong cơ cấu cây trồng

vì vậy cho tới nay các tài liệu nghiên cứu về nhân giống các loài Nưa ở Việt Nam

còn rất ít, đặc biệt đối với việc nghiên cứu với các loài Nưa có hàm lượng

gluconmannan cao.

Gần đây, nghiên cứu của Lê Xuân Đắc, Nguyễn Văn Dư năm 2014 cho kết

quả, môi trường thích hợp để tạo đa chồi cây Nưa là môi trường AMNA2 (MS + 30

g/l đường saccharose + 8g/l agar + 2 mg/l BAP + 0,2 mg/l NAA) với hệ số nhân chồi

là 5,7. Môi trường tốt nhất để tạo cây hoàn chỉnh là môi trường ARIB6 (MS + 30 g/l

đường saccharose + 8 g/l agar + 0,6 mg/l IBA) với tỉ lệ tạo rễ là 100%, số rễ trung

bình/chồi là 5,8 và cây sinh trưởng phát triển tốt nhất. Giá thể thích hợp để trồng cây

sau in vitro cho cây Nưa là trấu hun + đất với tỉ lệ cây con sống là 95,3%.

Các nghiên cứu này cho thấy, khả năng nhân giống cây Nưa bằng phương pháp

nuôi cây mô đảm bảo để tạo ra cây sạch bệnh và có thể nhân với số lượng lớn. Tuy

nhiên, giá thành nhân giống lại khá cao.

Page 7: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

5

1.4. Tình hình nghiên cứu trồng, thu hoạch và chế biến Nưa trên thế giới và ở

Việt Nam

1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

1.4.1.1. Nghiên cứu về trồng Nưa

Hầu hết các phương thức trồng Nưa là kết quả của kinh nghiệm tích lũy từ rất

nhiều các thế hệ nông dân các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,.v.v. Các ứng

dụng dựa trên nghiên cứu khoa học là một điều mới được áp dụng trong những năm gần

đây (O’Hair và Asokan, 1986). Ở Nhật Bản, quy trình nuôi trồng cây Nưa truyền thống

(“quy trình Jinenjo”), được sử dụng từ trên 100 năm trước, cây Nưa được trồng liên tục

trong nhiều năm cho đến khi củ đạt trọng lượng để thu hoạch và chế biến.

Bên cạnh đó, ở Nhật Bản còn trồng Nưa theo quy trình trồng trọt hiện đại (“Hệ

thống Uedama”), củ được chia theo nhóm tuổi và được trồng tách biệt mà không trồng

xen kẽ dưới tán (Kurrihara, 1979; Douglas, 2006). Thông thường, các chồi cây được

nuôi cấy với mật độ dày đặc trong vòng một năm để tạo nguyên liệu nhân giống cho

những mùa vụ tiếp theo (Douglas, 2005). Sau khi thu hoạch, thân củ lớn sẽ được bán và

số còn lại được lưu giữ theo các nhóm tuổi tại các nhà kho thoáng mát qua các tháng

mùa đông, để trồng vào mùa xuân năm sau (Kurihara, 1979; Douglas, 2006). Mặc dù

sản lượng củ là cao hơn so với phương pháp nuôi cấy “Jinenjo” truyền thống, nhưng

phương pháp này ghi nhận nhiều vấn đề như sự gia tăng các bệnh về đất và sâu bệnh hại,

cây sinh trưởng và phát triển chậm, chất lượng củ suy giảm sau từ 3 năm trồng liên tục

(Kurihara, 1979).

1.4.1.2. Các nghiên cứ về thu hoạch và chế biến củ Nưa

Thời điểm thu hoạch là một yếu tố quan trọng tác động đến cả sản lượng và

chất lượng củ. Nghiên cứu cho thấy hàm lượng glucomannan trong củ thay đổi trong

suốt mùa vụ và đạt đỉnh ngay trước khi lá rụng, trước gian đoạn ngủ đông (Liu, 1998;

Bown, 2000). Thu hoạch sớm trước sự trưởng thành hoàn toàn của củ có thể cản trở

sự ngủ đông ban đầu của cây và ngăn sinh khối trong tán lá phân tách ra khỏi củ, do

đó có thể cản trở sự phát triển cuối cùng của củ (Bown, 2000).

Như đã nêu ở trên, tại Nhật Bản, những củ lớn hơn được thu hoạch để bán vào

cuối mùa thu; số còn lại hoặc là được giữ nguyên trên cánh đồng để tiếp tục sinh

trưởng vào mùa tiếp theo, hoặc là được lưu trữ thành các nhóm phân chia theo tuổi

thọ trong các nhà kho thoáng khí qua hết mùa đông (Kurihara, 1979; Follett, 2002;

Douglas, 2006).

1.4.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

1.4.2.1. Các nghiên cứu về trồng Nưa

Có một số nghiên cứu về trồng Nưa ở Việt Nam trong đó kể đến như Nguyễn

Thị Ngọc Huệ, Đinh Thế Lộc đã chỉ ra rằng đối với các loài Nưa (Amorphophallus

spp.) thời gian trồng hàng năm vào tháng 2 tháng 4 nếu trồng muộn hơn vào tháng 5-

6 thời gian sinh trưởng ngắn cây sẽ không cho năng suất cao, vật liệu trồng là củ và

lượng phân bón cho 1 ha Nưa là phân chuồng 1,5 tấn và lượng N:K:P với tỷ lệ

13:13:21 với mật độ trồng 5 cây/1m2.

Các nghiên cứu về kỹ thuật trồng Nưa ở Việt Nam, mới đây trong đề tài

“Nghiên cứu sinh trưởng của cây Nưa chuông (Amorphophallus paeoniifolius) ở

Thừa Thiên Huế” của 3 tác giả Võ Thị Mai Hương, Trần Vũ Ngọc Thi, Nguyễn

Thị Thu Phương của trường Đại học Khoa học – Đai học Huế. Qua phân tích số

Page 8: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

6

liệu thu được, đề tài đã kết luận rằng, thời gian hình thành chột 1, chột 2 và chột

3 lần lượt là khoảng 20 ngày, 55 ngày và 83 ngày sau khi giâm củ. Thời gian sinh

trưởng của chột 1 khoảng 65 ngày, của chột 2 khoảng 87ngày, chột 3 khoảng 78

ngày. Chiều cao, đường kính chột và chiều dài lá của các chột tăng nhanh vào

khoảng 5-6 tuần đầu của quá trình sinh trưởng. Chiều cao chột đạt 39,97-

96,94cm, cao nhất là chột 3. Đường kính chột đạt 2,48-3,92cm và chiều dài lá đạt

40,82-71,12cm. Năng suất lý thuyết của chột đạt 149,2, trong đó cao nhất là năng

suất chột 2 (đạt 58,8 tấn/ha).

1.4.2.2. Các nghiên cứu về thu hoạch và chế biến củ Nưa

Ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nghiên cứu ứng dụng của Nưa trong đời sống

hàng ngày. Theo Nguyễn Văn Dư và cs (2012), củ Nưa mới chỉ được dùng trong

cộng đồng dân tộc Mông, Nùng hay Hà Nhì để chế biến món “Mò gỉ” hay “Cò ký

Thơ”.

Thời gian thu hoạch Nưa vào tháng 11, khi lá cây Nưa đã hoàn toàn lụi và thời

tiết đã vào giữa mùa khô, củ Nưa có tỉ lệ phần trăm khối lượng khô cao hơn nhiều so

với thời điểm thu hoạch vào tháng 9, khi lá cây Nưa đang lụi.

CHƢƠNG 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Vật liệu, địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Mẫu vật nghiên cứu là các loài Nưa mọc tự nhiên ở các tỉnh miền núi phía Bắc

Việt Nam. Tổng số mẫu vật nghiên cứu là 159 mẫu vật trong phạm vi ở một số tỉnh

miền núi phía Bắc Việt Nam. Mẫu tiêu bản được làm và bảo quản tại Viện Sinh thái

và Tài nguyên sinh vật, Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.1.2.1. Địa điểm nghiên cứu

- Nghiên cứu điều tra thành phần, phân bố và tri thức bản địa về khai thác sử dụng

loài Nưa củ có glucomannan được thực hiện ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.

- Nghiên cứu nhân giống hữu tính và nhân giống bằng nuôi cấy mô tế bào được

thực hiện tại khu thực nghiệm ở Hợp tác xã Linh Dược Sơn, tiểu khu 10, thành phố

Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

- Nghiên cứu nhân giống vô tính bằng củ được thực hiện ở xã Vân Hồ, huyện Vân

Hồ, tỉnh Sơn La.

- Nghiên cứu trồng Nưa được thực hiện ở xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn

La.

- Cây Nưa được trồng thực nghiệm ở xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La;

xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang; xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh

Hòa Bình.

2.1.2.2. Thời gian nghiên cứu

Từ tháng 12/2013 - 3/2017

2.2. Nội dung nghiên cứu

- Điều tra đánh giá thành phần, phân bố và tri thức bản địa các loài Nưa củ có

glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt Nam.

- Nghiên cứu về đặc điểm hình thái, sinh trưởng phát triển và lựa chọn loài Nưa

có hàm lượng glucomannan cao, triển vọng phát triển ở một số tỉnh miền núi phía Bắc

Việt Nam.

Page 9: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

7

- Nghiên cứu một số kỹ thuật nhân giống loài Nưa có hàm lượng glucomannan

cao và triển vọng phát triển ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.

- Nghiên cứu trồng, phát triển của Nưa konjac ở một số tỉnh miền núi phía Bắc

Việt Nam.

2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu

2.3.1. Phương pháp kế thừa

Trong quá trình nghiên cứu tác giả kế thừa các kết quả nghiên cứu về hệ thống

đánh giá thành phần loài, tài liệu chuyên khảo về nhân giống, trồng và chế biến các

loài Nưa trên thế giới và ở Việt Nam.

2.3.2. Phương pháp điều tra và thu thập mẫu vật

Phương pháp điều tra thu thập mẫu vật theo Phương pháp nghiên cứu thực vật

năm 2007 và Cẩm nang nghiên cứu đa dạng sinh vật năm 1997 của Nguyễn Nghĩa

Thìn. Công tác điều tra thu thập mẫu vật được tiến hành ở 14 tỉnh miền núi phía Bắc

Việt Nam. Đã tiến hành 14 chuyến điều tra ở 14 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đó là:

Hòa Bình (Tân Lạc, Lạc Sơn, thành phố Hòa Bình), Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu, Mộc

Châu), Phú Thọ (Tân Sơn), Điện Biên (Điện Biên), Lai Châu (Mường Tè), Lào Cai (Bát

Xát), Yên Bái (Văn Chấn), Tuyên Quang (Sơn Dương), Thái Nguyên (Định Hóa), Hà

Giang (Quản Bạ, Phó Bảng), Cao Bằng (Nguyên Bình, Thạch An), Lạng Sơn (Tràng

Định), Bắc Giang (Lục Ngạn), Bắc Kạn (Ngân sơn).

2.3.3. Phương pháp đánh giá thành phần loài

Để nghiên cứu thành phần loài Nưa (Amorphophalluss spp.) ở miền núi phía

Bắc Việt Nam, đề tài luận án sử dụng phương pháp hình thái so sánh dựa vào các tài

liệu của nghiên cứu về loài Nưa của Võ Văn Chi (2012), Nguyễn Văn Dư (2005),

Phạm Hoàng Hộ (2003), v.v.

Công tác phân tích mẫu vật được tiến hành tại phòng Tiêu bản thực vật, Viện

Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, ngoài ra tác giả tham khảo một số mẫu vật của loài

Nưa trên internet của một số nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,..v.v.. đặc

biệt các mẫu vật chuẩn (Typus).

2.3.4. Phương pháp lựa chọn loài Nưa có triển vọng phát triển trồng ở một số

tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

Để có thể là cây trồng góp phần phát triển kinh tế ở miền núi phía Bắc Việt

Nam, loài Nưa được lựa chọn phải là loài có giá trị kinh tế và khả năng sinh trưởng

phát triển tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng. Vì vậy, tác giả lựa chọn theo 2

tiêu chí sau:

Tiêu chí 1: Lựa chọn loài theo hàm lượng glucomannan cao

Mẫu củ của các loài Nưa thu thập sau khi xác định tên loài, được tiến hành

phân tích hàm lượng glucomannan theo phương pháp so màu của Melinda Chua và

cộng sự (2012), với thuốc thử là 3,5-dinitro salicylic acid ở bước sóng 550nm tại

Viện hóa học các hợp chất thiên nhiên.

Tiêu chí 2: Lựa chọn loài theo triển vọng phát triển trồng ở một số tỉnh miền núi

phía Bắc Việt Nam

Từ loài các loài Nưa tìm thấy và phân tích có glucomannan cao, tác giả tiến

hành đánh giá, lựa chọn loài có triển vọng phát triển trồng ở miền núi phía Bắc. Đối

với sản xuất nông nghiệp để lựa chọn loài có triển vọng phát triển trồng phải là loài

có giá trị kinh tế và khả năng sinh trưởng phát triển tốt. Vì vậy tác giả tiến hành

Page 10: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

8

đánh giá các đặc điểm về sinh trưởng phát triển, khả năng dễ nhân giống và giá trị

kinh tế của loài để lựa chọn.Trong quá trình điều tra thực địa, dựa vào tài liệu

nghiên cứu về các loài Nưa của của Võ Văn Chi (2012), Nguyễn Văn Dư (2005),

Phạm Hoàng Hộ (2003), v.v. tác giả tiến hành đánh giá về khả năng sinh trưởng,

sinh sản, điều kiện sinh thái, từ đó lựa chọn ra loài phù hợp nhất cho việc phát triển

trồng ở miền núi Phía Bắc.

2.3.5. Phương pháp điều tra tri thức bản địa về khai thác và sử dụng loài Nưa ở

một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

Luận án sử dụng phương pháp điều tra tri thức bản địa theo phương pháp điều

tra thực vật dân tộc học của Gary J. Martin (2002), Nhà xuất bản Nông nghiệp và

phương pháp PRA có sự tham gia của cộng đồng dân bản địa,phát phiếu điều tra,

phỏng vấn (Bảng hỏi được trình bày ở Phụ lục 2).

2.3.6. Phương pháp nghiên cứu nhân giống Nưa konjac

Phương pháp sử dụng trong nhân giống theo giáo trình Modun sản xuất cây giống

bằng hạt (Bộ Nông nghiệp phát triển nông thôn, 2010) và và bố trí thí nghiệm theo

phương pháp bố trí thí nghiệm trong nông nghiệp của Nguyễn Thị Lan và Phạm Tiến

Dũng - Học viện Nông nghiệp, Nhà xuất bản Hà Nội năm 2005.

2.3.6.1. Phương pháp nghiên cứu nhân giống bằng hạt

a. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng thời điểm thu hái tới tỷ lệ nảy mầm của hạt Nưa

konjac

Thí nghiệm bao gồm 3 công thức, CTH1, CTH2, CTH3 trên cơ sở thời gian thu

hoạch khác nhau dựa vào màu sắc trạng thái vỏ quả (độ chính của quả). CTH1: Vỏ

quả còn xanh, CTH2: Vỏ quả chín, CTH3: Vỏ quả chín nứt.

b. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của phương pháp bảo quản hạt tới tỷ lệ nảy mầm

hạt cây Nưa konjac

Thí nghiệm bố trí 2 công thức như sau: BQ1: Bảo quản lạnh ở 5oC, BQ2: Bảo

quản khô bằng chum, vại

c. Thí nghiệm 3: Ảnh hưởng của thời gian bảo quản hạt tới tỷ lệ nảy mầm của

cây Nưa konjac

Thí nghiệm bố trí 3 công thức như sau: TGQ1: Thời gian bảo quản 3 tháng,

TGQ2: Thời gian bảo quản 6 tháng, TGQ3: Thời gian bảo quản 9 tháng.

d. Thí nghiệm 4: Ảnh hưởng của phương pháp xử lý hạt giống tới tỷ lệ nảy

mầm của hạt và sinh trưởng phát triển của cây con trong vườn ươm

Thí nghiệm bố trí 5 công thức như sau: XLH1: Rửa hạt bằng nước sạch rồi

đem gieo, XLH2: Ngâm hạt trong nước ấm 40-50°C trong 3 giờ, XLH3: Ngâm hạt

trong nước ấm 40-50°C trong 6 giờ, XLH4: Ngâm hạt trong nước ấm 40-50°C trong

9 giờ, XLH5: Ủ và giữ ẩm trong túi vải, khi hạt nứt nanh đem gieo.

2.3.6.2. Phương pháp nghiên cứu nhân giống bằng củ

a. Thí nghiệm 5: Ảnh hưởng phương pháp xử lý vết cắt củ tới tỷ lệ nảy chồi, tỷ lệ

nhiễm bệnh, tỷ lệ sống của cây Nưa konjac

Thí nghiệm bố trí 4 công thức như sau: XVC1: Để vết cắt khô và đem bảo

quản, XVC2: Xử lý vết cắt bằng tro bếp, XVC3: Xử lý vết cắt bằng vôi bột, XVC4:

Xử lý vết cắt bằng xi măng.

b. Thí nghiệm 6: Ảnh hưởng phương pháp bảo quản tới tỷ lệ nảy chồi, tỷ lệ nhiễm

bệnh, tỷ lệ sống của cây Nưa konjac

Page 11: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

9

Thí nghiệm bố trí 5 công thức như sau: PBQ1: Để ở nền đất nhà kho, PBQ2:

Bảo quản lạnh ở điều kiện 100C, PBQ3: Xếp trên giàn giữ củ ở điều kiện môi trường,

PBQ4: Vùi trong cát, PBQ5: Vùi trong đất.

2.3.6.3. Phương pháp nghiên cứu nhân giống cây Nưa konjac bằng kỹ thuật

nuôi cấy mô tế bào

Để thực hiện nghiên cứu đề tài tiến hành 7 thí nghiệm với các bố trí như sau:

1. Ảnh hưởng hóa chất và thời gian khử trùng đến khả năng tạo mẫu sạch in vitro

Tiến hành sử dụng hóa chất HgCl2 0,1% với khoảng thời gian khử trùng từ 4-8

phút và NaClO (javel) 60% thời gian khử trùng 6-18 phút, sau đó rửa lại 4-5 lần

bằng nước cất vô trùng, thí nghiệm được bố trí lần lượt với 6 công thức KT1, KT2,

KT3, KT4, KT5, KT6.

2. Ảnh hưởng môi trường dinh dưỡng đến khả năng tái sinh chồi Nưa konjac in vitro

Trong thí nghiệm này, sử dụng chồi của cây mầm in vitro để cấy vào các loại môi

trường dinh dưỡng cơ bản khác nhau, gồm: Môi trường ½ MS; MS (Murashige and

Skoog medium); WPM (Woody Plant Medium); B5 (Gamborg Medium); N6 (Chu

medium), các loại môi trường này đều được bổ sung 0,5 mg/l BAP + 8 g/l agar + 30 g/l

đường sucrose, nhằm xác định môi trường dinh dưỡng thích hợp cho tái sinh chồi Nưa

konjac in vitro. Thí nghiệm được bố trí lần lượt với 5 công thức MT1, MT2, MT3,

MT4, MT5.

3. Ảnh hưởng nồng độ BAP đến khả năng tái sinh chồi Nưa konjac in vitro

Đối với cây Nưa konjac, chúng tôi nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng

BAP đến sự tạo thành chồi mới ở dải nồng độ từ 0,5 - 3,5 mg/l. Thí nghiệm được

tiến hành với 7 công thức thí nghiệm, mỗi công thức được tiến hành trên môi trường

dinh dưỡng cơ bản đã xác định được ở thí nghiệm 2, bổ sung 8 g/l agar + 30 g/l

sucrose và chất điều hòa sinh trưởng ở các nồng độ khác nhau. Thí nghiệm được bố

trí lần lượt với 7 công thức CT0, CT1, CT2, CT3, CT4, CT5, CT6 .

4. Ảnh hưởng nồng độ BAP và Kinetin đến khả năng tái sinh chồi Nưa konjac in vitro

Nồng độ BAP tối ưu cho tái sinh chồi in vitro được sử dụng để tiếp tục nghiên

cứu ảnh hưởng tổ hợp giữa BAP và Kinetin đến khả năng nhân nhanh chồi. Công thức

môi trường MS + 8 g/l agar + 30 g/l sucrose + nồng độ BAP thích hợp nhất ở thí nghiệm 3

và kinetin được bổ sung ở các nồng độ khác nhau từ 0,2 - 1,0 mg/l. Thí nghiệm được bố

trí với 5 công thức CT7, CT8, CT9, CT10, CT11.

5. Ảnh hưởng môi trường dinh dưỡng đến khả năng ra rễ của chồi Nưa konjac in vitro

Chồi được tạo ra với số lượng lớn, đủ tiêu chuẩn (đạt kích thước 3-5cm) được

cắt và cấy chuyển sang môi trường tạo rễ là: Công thức môi trường MS (1962) và ½

MS (các chất khoáng đa lượng và vi lượng giảm ½) + 8 g/l agar + 0,5 mg/l IBA +

1g/l than hoạt tính và bổ sung sucrose với các hàm lượng khác nhau từ 12-20g/l. Thí

nghiệm được bố trí với 8 công thức CR1, CR2, CR3, CR4, CR5, CR6, CR7, CR8.

6. Ảnh hưởng nồng độ IBA đến khả năng ra rễ của chồi Nưa konjac in vitro

Sau khi xác định được môi trường dinh dưỡng thích hợp cho ra rễ của chồi

Nưa konjac in vitro, tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của chất điều hòa sinh trưởng

IBA đến khả năng ra rễ của chồi. Thí nghiệm được bố trí sử dụng môi trường dinh

dưỡng thích hợp đã xác định được ở thí nghiệm 5, bổ sung IBA với các nồng độ

khác nhau từ 0-1mg/l. Thí nghiệm được bố trí với 6 công thức CIR0, CIR1, CIR2,

CIR3, CIR4, CIR5.

Page 12: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

10

7. Ảnh hưởng của giá thể đến tỷ lệ sống của cây Nưa konjac in vitro ở vườn ươm

Để xác định ảnh hưởng của thành phần giá thể trồng cây đến tỷ lệ sống và

sinh trưởng của cây Nưa konjac in vitro khi đưa ra trồng thử nghiệm ở vườn ươm,

chúng tôi tiến hành thử nghiệm với 4 công thức từ GT1, GT2, GT3, GT4 lần lượ là

là 100% đất tầng B; 100% cát; 50% đất : 50% cát; 50% đất tầng B : 30% cát : 20

% trấu hun.

2.3.7. Phương pháp nghiên cứu một số kỹ thuật trồng Nưa konjac

Phương pháp sử dụng trong nghiên cứu trồng Nưa konjac theo phương pháp bố trí

thí nghiệm trong nông nghiệp của Nguyễn Thị Lan và Phạm Tiến Dũng - Học viện

Nông nghiệp, Nhà xuất bản Hà Nội năm 2005.

Các thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ (RCBD) với 3 lần

nhắc lại, mỗi lần nhắc lại trên diện tích 15m2, các chỉ tiêu đo đếm trên 40 cây/CT.

Các nhân tố không phải chỉ tiêu nghiên cứu được bảo đảm tính đồng nhất giữa các

công thức thí nghiệm.

2.3.7.1. Nghiên cứu ảnh hưởng khối lượng củ giống tới sinh trưởng phát triển

của cây Nưa konjac

Thí nghiệm bố trí với 3 công thức như sau: KL1: Củ giống khối lượng 10-15g, KL2:

Củ giống khối lượng 70-100g, KL3: Củ giống khối lượng 300-350g.

2.3.7.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của độ tàn che tới sinh trưởng và phát triển của cây

Nưa

Thí nghiệm bố trí với 5 công thức như sau: TC1: Độ tàn che 0%, TC2: Độ tàn che

20%, TC3: Độ tàn che 40 %, TC4: Độ tàn che 60%, TC5: Độ tàn che 80%.

2.3.7.3. Nghiên cứu ảnh hưởng thời vụ trồng tới sinh trưởng và phát triển của cây

Nưa

Thí nghiệm bố trí với 4 công thức như sau: TV1: Trồng ngày 5/2, TV2: Trồng ngày

5/3, TV3: Trồng ngày 5/ 4, TV4: Trồng ngày 5/5.

2.3.7.4. Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng mật độ trồng tới sinh trưởng và phát triển

cây Nưa

Thí nghiệm bố trí với 3 công thức như sau: MĐ1: Mật độ trồng 50x70cm = 28571

cây/ha, MĐ2: Mật độ trồng 50x50cm = 40000 cây/ha, MĐ3: Mật độ trồng 50x30cm =

66670 cây/ha

2.3.7.5. Nghiên cứu ảnh hưởng của tổ hợp lượng phân NPK tới sinh trưởng và phát

triển cây Nưa

Thí nghiệm bố trí với 5 công thức như sau: PB1: Không bón phân, PB2: 80 kg N

+ 30 kg P2O5 + 100 kg K2O/ 1 ha, PB3: 100 kg N + 40 kg P2O5 + 120 kg K2O/ 1 ha,

PB4: 120 kg N + 50 kg P2O5 + 140 kg K2O/ 1 ha, PB5: 140 kg N + 60 kg P2O5 + 160

kg K2O/ 1 ha

2.3.7.6. Nghiên cứu tích lũy glucomannan trong củ Nưa konjac trong các giai đọan

sinh trưởng phát triển

Thí nghiệm bố trí với 5 thời điểm phân tích hàm lượng glucomannan như sau: TL1:

Hàm lượng glucomannan khi bảo quản, TL2: Hàm lượng glucomannan khi nảy chồi,

TL3: Hàm lượng glucomannan khi lá phát triển cực đại, TL4: Hàm lượng

glucomannan khi 2/3 lá chuyển sang màu vàng, TL5: Hàm lượng glucomannan khi lá

cây lụi sau 1 tháng.

2.3.7.7. Trồng thử nghiệm cây Nưa konjac ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

Page 13: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

11

Đánh giá năng suất, hàm lượng glucomannan và tính khả thi phát triển

trồng. Mô hình trồng được bố trí với 6 mô hình như sau: MH1: Trồng xen Ngô

tại xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, MH2: Trồng dưới tán Mận xã Vân

Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, MH3: Trồng xen Ngô tại xã Quyết Tiến, huyện

Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, MH4: Trồng dưới tán rừng tại xã Quyết Tiến, huyện

Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, MH5: Trồng trong bao tải dưới tán vải tại xã Tiểu khu

10, thành phố Hòa Bình, MH6: Trồng dưới tán rừng tại xã Ngọc Sơn, huyện Lạc

Sơn, tỉnh Hòa Bình

2.3.8. Chỉ tiêu theo dõi số liệu và phương pháp xác định

2.3.8.1. Theo dõi nhân giống hữu tính bằng hạt

- Tỷ lệ hạt nảy mầm (%) ( Số hạt nảy mầm/ số hạt gieo ươm), tỷ lệ cây sống (%)

(số cây sống sau 1 tháng nảy mầm/số cây nảy mầm).

- Chiều cao lá (cm) (từ gốc là đến điểm lá xẻ thùy lớn).

- Tỷ lệ sâu bệnh hại xác định bằng mắt thường, chụp ảnh và hỏi ý kiến chuyên

gia.

2.3.8.2. Theo dõi nhân giống bằng củ con

- Chiều cao (cm), đường kính (cm), khối lượng (g) củ Nưa.

- Tỷ lệ củ nảy chồi (%) ( Số hạt củ nảy chồi/ số củ trồng), tỷ lệ cây sống (%) (số

cây sống sau 1 tháng củ nảy chồi /số củ nảy chồi).

- Chiều cao lá (cm) (từ gốc là đến điểm lá xẻ thùy lớn).

- Tỷ lệ sâu bệnh hại xác định bằng mắt thường, chụp ảnh và hỏi ý kiến chuyên

gia.

2.3.8.3. Theo dõi nhân giống nuôi cấy mô tế bào thực vật

2.3.8.4. Theo dõi về nghiên cứu trồng

(1)- Chỉ tiêu sinh trƣởng và phát triển của cây Nƣa

+ Thời gian sinh trưởng (ngày): Tính từ khi trồng đến khi có 1/2 bộ lá trên cây

chuyển sang màu vàng.

+ Chiều cao cây (cm): Đo từ giao điểm rễ với thân đến điểm sinh trưởng của

lá cao nhất. Chọn ngẫu nhiên 40 cây, 15 ngày đo chiều cao cây một lần, tiến hành đo

từ mặt đất đến điểm mút của lá trên cùng, bắt đầu đo khi cây mọc được 15 ngày

- Kích thước lá: Sau khi lá thành thục tiến hành đo chiều dài lá và chiều rộng lá.

Tiến hành theo dõi trên 40 cây đánh dấu.

2.3.8.5. Theo dõi về sâu bệnh hại

Chuẩn đoán sâu bệnh hại theo hướng dẫn của Cẩm nang chuẩn đoán bệnh cây ở

Việt Nam, tác giả Lester W. Burgess, Timothy E. Knight, Len Tesoriero, Phan Thúy

Hiền, xuất bản bởi Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia (ACIAR),

năm 2009. Đánh giá sâu bệnh hại xác định bằng mắt thường, chụp ảnh và hỏi ý kiến

chuyên gia [80].

2.3.9. Xử lý số liệu

Phương pháp bố trí thí nghiệm và xử lý số liệu (tính số trung bình, phân tích

Anova và phân tích tương quan,..v.v.) thu theo dõi được tổng hợp và xử lý bằng

phần mềm phân tích thống kê SPSS 20.0, phân tích trong nông nghiệp IRRISTAT 5.0

và phần mềm Excel 2010.

Page 14: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

12

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

3.1. Thành phần loài, phân bố và tri thức bản địa về các loài Nƣa củ có

glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt Nam

3.1.1. Thành phần loài

3.1.1.1. Thành phần loài

Kết quả điều tra thực địa và thu thập mẫu giám định các loài Nưa ở 14 tỉnh

miền núi phía Bắc Việt Nam, tác giả tìm thấy 8 loài Nưa bao gồm các loài sau:

Amorphophallus konjac K. Koch, Amorphophallus corrugatus N. E. Br.,

Amorphophallus krausei Engl. & Gehrm, Amorphophallus yunnanensis Engl. &

Gehrm, Amorphophallus yuloensis H. Li, Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.)

Nicolson, Amorphophallus hayi Hett. __

N-a hay, Amorphophallus coaetaneus S. Y.

Liu & S. J. Wei. Trong số 8 loài Nưa này, qua kết quả phân tích hàm lượng

glucomannan theo phương pháp so màu của Melinda Chua và cộng sự (2012), với

thuốc thử là 3,5-dinitro salicylic acid ở bước sóng 550nm thì có 6 loài củ có chứa

glucomannan. Kết quả được thể hiện qua bảng 3.1 như sau:

Bảng 3.1. Thành phần các loài Nưa củ có glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt

Nam

STT Tên phổ

thông Tên khoa học

Hàm lƣợng

glucomannan

trong bột

Nƣa khô (%)

1 Nưa konjac Amorphophallus konjac K. Koch 44,97

2 Nưa đầu nhăn Amorphophallus corrugatus N. E. Br. 28,6

3 Nưa krausei Amorphophallus krausei Engl. & Gehrm. 29,2

4 Nưa vân nam Amorphophallus yunnanensis Engl. &

Gehrm. 25,97

5 Nưa yuloensis Amorphophallus yuloensis H. Li 30,07

6 Nưa chuông Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.)

Nicolson 6,53

3.1.1.2. Khóa định loại 6 loài Nưa củ có glucomannan tìm thấy ở miền núi phía Bắc

Việt Nam

Từ đặc điểm hình thái mô tả 6 loài Nưa củ có glucomannan bao gồm: A. konjac

K. Koch, A. corrugatus N. E. Br., A. krausei Engl. & Gehrm, A. yunnanensis Engl.

& Gehrm, A. yuloensis H. Li, A. paeoniifolius (Dennst.) Nicolson. Luận án xây dựng

khóa định loại như sau:

Khoá định loại 6 loài Amorphophallus củ có chứa glucomannan ở miền núi phía

Bắc Việt Nam

1A. Bông mo có cuống ngắn hơn mo hoặc bằng mo.

2A Bông mo lớn; phần phụ màu nâu đỏ. ....... 1.Amorphophallus paeoniifolius

2B Bông mo nhỏ; phần phụ màu vàng nhạt................2.Amorphophallus yuloensis

1B. Bông mo có cuống dài hơn mo.

3A. Mo ngắn hơn bông mo, phần ống và phiến phân biệt....3.Amorphophallus konjac

3B. Mo dài hơn bông mo, ống và phiến không phân biệt rõ.

Page 15: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

13

4A. Bông nạc không có cuống...........................................4. Amorphophallus krausei

4B. Bông nạc có cuống.

5A. Phần phụ nhăn nheo...............................................5. Amorphophallus corrugatus

5B. Phần phụ nhẵn.....................................................6. Amorphophallus yunnanensis

3.1.2. Đặc điểm phân bố

3.1.2.1. Đặc điểm phân bố các loài Nưa củ có glucomannan theo độ cao

Kết quả điều tra phân bố của 6 loài Nưa củ có glucomannan theo độ cao ở

miền núi phía Bắc Việt Nam được thể hiện trong bảng 3.2 như sau:

Bảng 3.2. Phân bố của 6 loài Nưa củ có glucomannan theo độ cao ở miền núi phía

Bắc Việt Nam

STT Tên loài Độ cao so với mực nƣớc biển (m)

1 Nưa konjac 800-1600

2 Nưa đầu nhăn 400-1000

3 Nưa krausei 600-1000

4 Nưa vân nam 400-800

5 Nưa yuloensis 800-1000

6 Nưa chuông 0-300

Từ kết quả thu được trong quá trình điều tra thực địa cho thấy, các loài Nưa củ

có hàm lượng gluomannan cao đều phân bố ở các vùng có độ cao lớn hơn so với loài

củ có hàm lượng glucomannan thấp. 5 loài phân bố rộng theo đai cao từ 400-1600m.

Cụ thể, loài Nưa konjac phân bố ở độ cao 800-1600m, loài Nưa yuloensis ở độ cao

800-1000m, loài Nưa krausei ở độ cao 600-1000m, loài Nưa Vân Nam sống ở độ cao

400-800m, loài Nưa đầu nhăn sống ở độ cao 400-1000m, với loài Nưa chuông phân

bố ở độ cao thấp nhất từ 0-300m so với mực nước biển. Như vậy, có thể thấy ở các

độ cao khác nhau có sự khác biệt về khí hậu, địa hình, sinh thái, v.v. ảnh hưởng lớn

đến sự tồn tại của các loài Nưa củ có glucomannan.

3.1.2.2. Phân bố các loài Nưa củ có glucomannan theo sinh cảnh

Từ kết quả điều tra về phân bố của 6 loài Nưa củ có glucomannan theo sinh

cảnh, chúng ta có thể thấy các loài Nưa phân bố rộng ở sinh cảnh khác nhau, chúng

xuất hiện cả ở trong rừng, ven đường, nương rẫy và vườn nhà. Các loài Nưa này chủ

yếu sống ở nơi dưới tán che, điều kiện khí hậu mát và đất thoát nước không bị ngập

úng. Trong số 6 loài thì loài thì loài Nưa konjac sống ở dưới tán cây trong rừng, ven

đường, vườn nhà dân,..v.v. với các độ che phủ khác nhau thường từ 20-70% tùy nhiệt

độ từng vùng. 2 loài Nưa yuloensis, Nưa krausei chỉ tìm thấy ở nơi có tán cây có độ

che phủ lớn thường trên 40-70% trong khu vực rừng trung bình và rừng rậm. 3 loài

Nưa chuông, Nưa đầu nhăn, Nưa vân nam sống dưới tán rừng thưa và đặc biệt đối với

loài Nưa chuông phát triển tốt ở cả những nơi có tán rừng và không có tán rừng che.

3.1.2.3. Phân bố các loài Nưa củ có glucomannan theo hướng phơi

Kết quả nghiên cứu cho thấy, loài Nưa chuông có sự phân bố theo nhiều hướng

phơi, điều này chứng tỏ loài Nưa chuông có thể thích nghi tốt với sự thay đổi của

nhiệt độ và cường độ chiếu sáng mặt trời. 5 loài còn lại có hướng phơi theo hướng

đặc trưng hơn, chủ yếu là các hướng phơi nhận ít năng lượng ánh sáng mặt trời. Loài

Nưa đầu nhăn và Nưa vân nam có hướng phơi nhiều tiếp theo với 3 hướng Đ-N, Đ-B,

Page 16: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

14

T-N, ba hướng phơi này là các hướng nhận ít ánh sáng mặt trời hơn hướng Đ-B, Đ-N,

T-N, T-B. 3 Loài Nưa konjac, Nưa yuloensis, Nưa krausei hướng phơi theo chỉ 2

hướng Đ-N, Đ-B, đây là 2 hướng phơi nhận ít ánh sáng mặt trời nhất, vì vậy nhiệt độ

trung bình ở các khu vực này cũng thấp nhất.

3.1.3. Sơ đồ phân bố các loài Nưa củ có glucomannan

3.1.3.1. Sơ đồ phân bố loài Nưa konjac

Ở miền núi phía Bắc Việt Nam loài phân bố ở Ý Tý, Bát Xát - Lào Cai và

Quản Bạ, Phó Bảng-Hà Giang. Sự bắt gặp loài với tần xuất lớn ở trong rừng, ven

đường, nương rẫy hay vườn nhà dân, ở những nơi có tán che. Sự phân bố này có

thể do đặc tính sinh thái của loài phù hợp với những vùng có khí hậu mát, ở độ cao

lớn từ 800- 1600m.

3.1.3.2. Sơ đồ phân bố loài Nưa chuông

Loài Nưa chuông là loài phân bố phổ biến ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Các

tỉnh xuất hiện gồm Hòa Bình (Tân Lạc, Lạc Sơn, thành phố Hòa Bình), Sơn La (Vân

Hồ, Thuận Châu, Mộc Châu), Phú Thọ (Tân Sơn), Yên Bái (Văn Chấn), Tuyên

Quang (Sơn Dương), Thái Nguyên (Định Hóa), Cao Bằng (Nguyên Bình, Thạch An),

Lạng Sơn ( Tràng Định), Bắc Giang (Lục Ngạn), Bắc Kạn (Ngân Sơn). Chúng có

phân bố trải rộng trong khu vực với nhiều sinh cảnh và hướng phơi khác nhau, độ cao

0-600m so với mực nước biển. Điều này cho thấy đặc tính sinh thái của loài phù hợp

với nhiều sinh cảnh khác nhau. Trên tuyến điều tra tần xuất bắt gặp loài lớn.

3.1.3.3. Sơ đồ phân bố loài Nưa đầu nhăn

Loài Nưa đầu nhăn là loài phân bố ở các tỉnh xuất hiện gồm Hòa Bình (Tân Lạc,

Lạc Sơn, thành phố Hòa Bình), Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu, Mộc Châu), Phú Thọ

(Tân Sơn), Tuyên Quang (Sơn Dương), Lạng Sơn ( Tràng Định). Chúng có phân bố

trải rộng trong khu vực với nhiều sinh cảnh và hướng phơi khác nhau. Điều này cho

thấy đặc tính sinh thái của loài phù hợp với nhiều sinh cảnh khác nhau. Trên tuyến

điều tra tần xuất gặp loài không lớn, do khả năng sinh sản của loài hạn chế.

3.1.3.4. Sơ đồ phân bố loài Nưa krausei

Loài Nưa krausei chỉ phân bố ở các tỉnh Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu, Mộc

Châu), Cao Bằng (Nguyên Bình, Thạch An). Ở trên tuyến nghiên cứu tần xuất gặp loài

thấp. Chúng có vị trí co cụm ở một số vị trí trong khu vực điều tra. Điều này có thể do

đặc điểm sinh thái của loài chỉ phù hợp với những sinh cảnh có độ che bóng lớn.

3.1.3.5. Sơ đồ phân bố loài Nưa vân nam

Loài Nưa vân nam phân bố ở các tỉnh gồm Hòa Bình (Tân Lạc, Lạc Sơn, thành

phố Hòa Bình), Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu, Mộc Châu), Cao Bằng (Nguyên Bình,

Thạch An), Bắc Kạn (Ngân Sơn) . Chúng có phân bố trải rộng trong khu vực với

nhiều sinh cảnh và hướng phơi khác nhau. Trên tuyến điều tra tần xuất gặp loài

không lớn, có thể thấy loài ở trong rừng thưa, rừng bụi, ven đường, sườn đồi hay ở

trên nương.

3.1.3.6. Sơ đồ phân bố loài Nưa yuloensis

Loài Nưa yuloensis chỉ phân bố ở các tỉnh Sơn La (Vân Hồ, Thuận Châu,

Mộc Châu), Điện Biên (Tuần Giáo). Ở trên tuyến nghiên cứu tần xuất gặp loài

tương đối lới. Chúng co cụm ở một số vị trí trong khu vực điều tra. Điều này có

thể do đặc điểm sinh thái của loài chỉ phù hợp với những sinh cảnh có độ che

bóng lớn.

Page 17: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

15

3.1.4. Tri thức bản địa về khai thác và sử dụng loài Nƣa ở một số tỉnh miền

núi phía Bắc Việt Nam

3.1.4.1. Khai thác củ Nưa ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

- Thời gian thu hoạch (khai thác) củ Nƣa

Với cây Nưa được trồng, khi cây có lá chuyển màu vàng và gần hết mùa

sinh trưởng là có thể khai thác, khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 11

hàng năm.

- Dụng cụ

Với quy mô nhỏ, địa hình đi lại khó khăn, người dân khai thác có thể dùng

trâu bò, cày, cuốc cùng với các dụng cụ để chứa như gùi, thúng để vận chuyển.

- K thuật thu hoạch

Với việc khai thác củ trong tự nhiên, củ Nưa thường mọc ở dưới tán rừng,

trên sườn dốc nên sử dụng thuổng, cuốc để đào từng cây một. Chỉ lấy củ to còn củ

nhỏ được người dân vùi lại để sang năm khai thác tiếp..

- Bảo quản củ Nƣa

Có hai phương pháp thường được nông dân sử dụng là vùi trong đất ẩm mát

ngay ở trên nương hoặc bảo quản trên giàn thoáng mát. Sau khi khai thác những

củ đủ tiêu chuẩn làm giống, được chọn lựa, rũ sạch đất mang củ giống về nhà, xếp

nơi thoáng, để vài ngày cho Nưa khô vỏ thì để lên giàn che có mái che trong điều

kiện ít ánh sáng. Trong thời gian bảo quản thường xuyên kiểm tra và loại bỏ

những củ bị thối.

- Sơ chế củ Nƣa

Sau khi khai thác được loại bỏ bớt đất và rễ, đem về bảo quản trong kho,

trước khi đem đi chế biến, khoai được rửa sơ bộ để loại sạch đất cát, chất bẩn và vi

sinh vật trên vỏ.

3.1.4.2. Chế biến củ Nưa ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

Ở Quản Bạ, tỉnh Hà Giang; Y Tý, tỉnh Lào Cai; Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng,

bột củ Nưa được người dân chế biến thành các món ăn như đậu phụ, mỳ xào, trộn

cơm. Quá trình chế biển rất đơn giản và thủ công. Từ các lát cắt củ Nưa khô,

người dân tiến hành nghiền thành bột bằng máy hoặc cối xay. Bột sau đó được

ngâm nước và lọc với tro bếp. Sau khi lọc với tro bếp tùy món ăn làm là đậu hay

mỳ để tiếp tục chế biến.

3.2. Loài Nƣa củ chứa glucomannan có triển vọng phát triển trồng ở một số

tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

Từ quá trình điều tra thực địa, nghiên cứu tài liệu về đặc điểm sinh trưởng

phát triển và đánh giá hàm lượng glucomannan của các loài Nưa ở miền núi

phía Bắc Việt Nam, một số đặc điểm cơ bản được tổng hợp trong Bảng 3.11

như sau:

Page 18: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

16

Bảng 3.11. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của 6 loài Nưa củ có glucomannan ở

miền núi phía Bắc Việt Nam

STT Tên loài

Thời gian

sinh

trƣởng 1

năm

(ngày)

Khối

lƣợng củ

cái 3 năm

tuổi (g)

Số lƣợng

củ con

củ 3 năm

tuổi

Sinh sản

hữu tính

(hạt)

Hàm lƣợng

glucomannan

trong bột

Nƣa khô (%)

1 Nưa konjac 158-175 600-1000 5-7 0 44,97

2 Nưa đầu

nhăn 150-160 200-400 0 0 28,6

3 Nưa krausei 153-162 600-800 0 0 29,2

4 Nưa vân

nam 145-162 200-300 0 0 25,97

5 Nưa

yuloensis 147-158 200-300 0 0 30,07

6 Nưa chuông 154-169 400-600 5-6 0 6,53

Từ kết quả bảng 3.11 cho thấy, loài Nưa konjac có khả năng sinh trưởng và

phát triển tốt nhất, củ sau 3 năm trồng khối lượng củ cái thu được từ 600-1000g, củ

con sinh ra từ củ cái ở tuổi này là 5-7 củ. Như vậy, loài Nưa konjac là loài có triển

vọng phát triển trồng, với củ sau 3 năm trồng khối lượng củ mẹ thu được từ 600-

1000g, củ con sinh ra từ củ cái ở tuổi này là 5-7 củ và hàm lượng glucomannan

44,97%.

3.3. Nghiên cứu nhân giống loài Nƣa konjac ở Việt Nam

3.3.1. Nhân giống hữu tính loài Nưa konjac

3.3.1.1. Ảnh hưởng thời điểm thu hái tới tỷ lệ nảy mầm của hạt

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự khác nhau giữa rất rõ giữa tỷ lệ nảy mầm ở

các thời điểm thu hái khác nhau từ khi vỏ quả còn xanh, vỏ quả chín và vỏ quả chín

nứt.

Kết quả thí nghiệm cho thấy ở thời điểm thu hái vỏ quả chín công thức CTH2

cho tỷ lệ nảy mầm mầm của hạt cao nhất 64,67%, công thức CTH3 vỏ quả chín nứt,

cho tỷ lệ nảy mầm thứ 2 với tỷ lệ nảy mầm là 49,33%, ở công thức CTH1 vỏ quả còn

xanh cho tỷ lệ nảy mầm thấp nhất 17,33%.

3.3.1.2. Ảnh hưởng của phương pháp bảo quản hạt tới tỷ lệ nảy mầm hạt

Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự khác biệt rõ về tỷ lệ nảy mầm hạt Nưa

konjac của hai phương pháp bảo quản lạnh ở 50C (BQ1) và bảo quản khô bằng chum,

vại. Cụ thể, với số hạt nảy mầm ở phương pháp bảo quản lạnh cho số hạt nảy mầm là

33,33 hạt đạt tỷ lệ 66,67 %, bên cạnh đó với phương pháp bảo quản khô bằng chum,

vại tỷ lệ nảy mầm chỉ đạt 34 % với 17 hạt nảy mầm. Từ số liệu này có thể thấy với

phương pháp bảo quản lạnh ở 50C cho hiệu quả tốt hơn với phương pháp bảo quản hạt

Nưa konjac trong điều kiện chum vại. Nguyên nhân có thể là do nguồn gốc cây Nưa

konjac sống ở các vùng có khí hậu nhiệt đới, qua mùa đông lạnh nên hạt bảo quản

trong điều kiện chum vại sẽ dễ bị tổn thương do độ ẩm không khí thấp hoặc nhiệt độ

quá lạnh gây ảnh hưởng tới sự phát triển của phôi hạt.

Page 19: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

17

3.3.1.3. Ảnh hưởng của thời gian bảo quản hạt tới tỷ lệ nảy mầm của hạt

Có sự khác biệt rõ về tỷ lệ nảy mầm với các khoảng thời gian bảo quản khác

nhau, điều này chứng tỏ thời gian bảo quản hạt Nưa konjac ảnh hưởng tới tỷ lệ nảy

mầm của hạt loài cây này. Trong bảng ta thấy, thời gian bảo quản 3 tháng cho tỷ lệ

nảy mầm cao nhất 72,77 %, thời gian bảo quản 6 tháng tỷ lệ nảy mầm của hạt giảm

xuống còn 68,33%, sau 9 tháng bảo quản tỷ lệ nảy mầm của hạt giảm rất nhanh chỉ

còn 45%. Như vậy thời gian bảo quản càng dài, chất lượng hạt Nưa sẽ càng kém và

đặc biệt là sau 6 tháng bảo quản.

3.3.1.4. Ảnh hưởng của phương pháp xử lý hạt giống tới tỷ lệ nảy mầm của hạt và sinh

trưởng phát triển của cây con trong vườn ươm

Phương pháp không xử lý cho kết quả kém nhất, các biện pháp tăng thời gian xử

lý hạt lên 9 giờ, giảm thời gian xử lý hạt xuống 3 giờ hoặc không xử lý hạt chỉ ủ rồi

gieo vào cát đều cho kết quả kém hơn so với việc ngâm hạt trong nước ấm 40-50°C

trong 6 giờ, ủ và rửa chua sau đó gieo hạt vào trong cát khi cây có chiều cao khoảng

5- 10 cm chuyển vào bầu đất cho tỷ lệ nảy mầm, số cây sống và sinh trưởng của cây

trong vườn ươm là tốt nhất.

3.3.2. Nhân giống loài Nưa konjac bằng củ

3.3.2.1. Ảnh hưởng phương pháp xử lý vết cắt củ tới tỷ lệ nảy chồi của củ con

Xử lý vết cắt củ bằng xi măng cho hiệu quả xử lý tốt nhất (XVC4), cây có tỷ lệ

nảy chổi cao, số cây bị nhiễm bệnh thấp và tỷ lệ cây sống cao hơn so với các phương

pháp xử lý bằng tro bếp, bằng vôi bột và không xử lý để vết cắt tự khô. Do cây Nưa

konjac củ có hàm lượng glucomannan cao nên nếu vết cắt củ không được xử lý củ rất

dễ bị nhiễm khuẩn gây thối củ và ảnh hưởng tới tỷ lệ nảy chồi và tỷ lệ sống của củ

con. Đối với phương pháp xử lý bằng tro bếp cho kết quả cao hơn với việc không xử

lý, nhưng thấp hơn so với việc sử dụng vôi bột và xin măng, vì tro bếp có tính diệt

khuẩn nhưng khả năng làm khô nhanh vết cắt, bao kín vết cắt thấp hơn so với vôi bột

và xi măng nên tỷ lệ nảy chồi cao nhưng số củ bị nhiễm lớn dẫn đến tỷ lệ cây sống

thấp. Đối với phương pháp xử lý vết cắt củ bằng vôi bột, số củ bị nhiễm bệnh thấp

như đối với xử lý củ bằng xi măng, nhưng phươn pháp này tỷ lệ nảy chồi và tỷ lệ củ

sống lại thấp hơn xử lý bằng xi măng, do xử lý bằng vôi củ dễ bị khô và gây chết củ.

3.3.2.2. Ảnh hưởng phương pháp bảo quản củ giống tới tỷ lệ nảy chồi, tỷ lệ nhiễm

bệnh, tỷ lệ sống

Kết quả cho thấy, trong các phương pháp bảo quản, phương pháp bảo quản

trong kho lạnh cho chất lượng củ giống tốt nhất, sau đó đến việc bảo quản bằng cách

vùi trong cát sạch, đất sạch và làm giàn để bảo quản củ.

3.3.3. Nghiên cứu nhân giống cây Nưa konjac bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế

bào

3.3.3.1. Ảnh hưởng hóa chất và thời gian khử trùng đến khả năng tạo mẫu sạch in

vitro

Công thức khử trùng tốt nhất cho phôi hạt là sử dụng Javen 60% trong thời gian 12

phút cho tỷ lệ mẫu sạch và tỷ lệ mẫu tái sinh đều đạt 100%, sau 15 ngày mẫu nuôi cấy

nảy chồi.

3.3.3.2. Ảnh hưởng môi trường dinh dưỡng đến khả năng tái sinh chồi in vitro

Page 20: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

18

Kết quả cho thấy, ở công thức môi trường MS thì mẫu cấy có khả năng tái sinh tốt

nhất (đạt 91,85%), số chồi trung bình/mẫu đạt 2,45 và chất lượng chồi tốt (chồi mập,

khỏe mạnh, lá xanh đậm, phát triển nhanh).

3.3.3.3. Ảnh hưởng nồng độ BAP đến khả năng tái sinh chồi in vitro

Kết quả cho thấy, công thức môi trường CT4 cho tỷ lệ mẫu tái sinh chồi cao

nhất là 2 mg/l BAP (đạt 100%), tỷ lệ mẫu tái sinh chồi thấp nhất là công thức CT0

đối chứng (0 mg/l BAP), đạt 54,81%. Các công thức CT1, CT2, CT3, CT5 và CT6

đều cho tỷ lệ mẫu tái sinh đạt trên 74%. Từ kết quả thu được có thể khẳng định, BAP

ở các nồng độ khác nhau có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng phát sinh chồi của mẫu

cấy. Khi tăng hàm lượng BAP cao hơn 2 mg/l BAP ở các thí nghiệm sau thì số mẫu

tái sinh chồi và chiều cao của chồi đều giảm, đồng thời thấy xuất hiện khối mô sẹo rất

lớn.

3.3.3.4. Ảnh hưởng nồng độ BAP và Kinetin đến khả năng tái sinh chồi Nưa konjac in

vitro

Kết quả cho thấy, sự khác nhau giữa ảnh hưởng tổ hợp của Kinetin và BAP đến

khả năng tái sinh chồi so với ảnh hưởng riêng rẽ của BAP. Sau khi nuôi cấy 3 tuần, công

thức CT7, với môi trường MS + 2 mg/l BAP + 0,2 mg/l Kinetin cho tỷ lệ mẫu tái sinh

chồi cao nhất (đạt 100%), số chồi trung bình/mẫu cấy là 5,22, chiều cao trung bình của

chồi đạt 3,84 cm.

3.3.3.5. Ảnh hưởng môi trường dinh dưỡng đến khả năng ra rễ của chồi in vitro

Kết quả cho thấy, sau 4 tuần nuôi cấy trên môi trường ra rễ có bổ sung đầy đủ

các chất dinh dưỡng, chất điều hòa sinh trưởng và hàm lượng đường khác nhau cho

kết quả chồi ra rễ với tỷ lệ rất khác nhau. Mẫu được nuôi cấy ở công thức 1/2 MS + 8

g/l Agar + 0,5 mg/l IBA + 14 g/l sucrose cho hiệu quả cao nhất (đạt 100%), số lượng

rễ trung bình/chồi đạt 4,98, chiều dài trung bình của rễ đạt 2,67 cm và thời gian chồi

bắt đầu ra rễ là 7 ngày, chất lượng rễ tốt (rễ mập, khỏe mạnh), khả năng đâm xuyên

mạnh, ít hình thành mô sẹo.

3.3.3.6. Ảnh hưởng nồng độ IBA đến khả năng ra rễ của chồi in vitro

Kết quả cho thấy, công thức môi trường kích thích ra rễ tốt nhất là môi trường

1/2MS + 8g/l Agar + 14 g/l Sucrose + 0,4 mg/l IBA.

3.3.3.7. Ảnh hưởng của giá thể đến tỷ lệ sống của cây Nưa konjac in vitro ở vườn ươm

Kết quả cho thấy, công thức giá thể 50% đất + 30% cát + 20% trấu hun cho tỷ lệ

cây sống trung bình sau 4 tuần trồng cao nhất (đạt 94,07%), tiếp đó là công thức 50%

đất + 50% cát và 100% đất tầng B, tỷ lệ cây sống đạt lần lượt là 63,7 và 78,52%. Với

công thức 100% cát tỷ lệ cây sống đạt thấp nhất (51,85%).

3.4. Nghiên cứu trồng Nƣa konjac ở Việt Nam

3.4.1. Ảnh hưởng khối lượng củ giống tới sinh trưởng phát triển cây Nưa konjac

Qua kết quả nghiên cứu, kết quả phân tích số liệu cho thấy, có sự khác nhau về

sinh trưởng, phát triển của các khối lượng củ giống Nưa konjac khác nhau. Củ khối

lượng càng lớn khả năng sinh trưởng, phát triển càng cao. Củ khối lượng 300-350 g

(Củ được trồng năm thứ 3 sau khi tách ra từ cây mẹ) có khả năng sinh trưởng lớn

nhất, sau đó là củ 70-100g (củ được trồng năm thứ 2 sau khi tách ra từ cây mẹ) và

thấp nhất là củ con được tác ra từ cây mẹ trồng năm thứ nhất có khối lượng 10-15g.

Số liệu thu được với khối lượng củ giống 10-20g cho kết quả thấp nhất, sau 1 vụ

trồng thu hoạch được 1 củ cái có khối lượng 82g, số củ con trung bình 2 củ, khối

Page 21: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

19

lượng củ con 9,33g, năng suất trồng là 40,27 tạ/ha. Củ giống khối lượng 70-100g cho

kết quả cao thứ hai, sau 1 vụ trồng thu hoạch được 1 củ cái có khối lượng 383,33g, số

củ con trung bình 4,67 củ, khối lượng củ con 15,67g, năng suất trồng là 159,60 tạ/ha.

Củ giống khối lượng lớn nhất 300-350g cho kết quả cao nhất, sau 1 vụ trồng thu

hoạch được 1 củ cái có khối lượng 849,67g, số củ con trung bình 5,67 củ, khối lượng

củ con 16g, năng suất trồng là 346 tạ/ha. Kết quả phân tích hàm lượng glucomannan

khi thu hoạch cho thấy các công thức khối lượng củ giống khác nhau cho hàm lượng

glucomannan khác nhau. Trong đó củ giống 70-100g cho kết quả thấp nhất, củ có

hàm lượng glucomannan 35,47. Hàm lượng glucomannan đánh giá trong củ cái thu

được trồng từ 2 giống củ của công thức KL2 và KL3 có hàm lượng glucomannan

trong củ gần bằng nhau đối với công thức KL2 hàm lượng glucomannan 45,20% và

công thức KL3 hàm lượng glucomannan trong củ là 45,46%.

Như vậy, có thể thấy để trồng Nưa konjac lấy củ chế biến bột glucomannan thì

cần trồng ít nhất 2 năm từ củ con và hiệu quả kinh tế cao nhất sẽ là trồng ở củ có khối

lượng khoảng 70-100g vì khối lượng củ giống này cho mức tăng trưởng cao nhất và

hàm lượng tương đương với các tuổi củ lớn hơn. Củ này trồng 1 năm sau được thu

hoạch củ cái đem chế biến có khối lượng tử 300-500g, năng suất 159,6 tạ/ha và hàm

lượng glucomannan trong củ là 45,20%.

3.4.2. Ảnh hưởng độ che sáng tới sinh trưởng và phát triển cây Nưa konjac

Qua kết quả nghiên cứu và kết quả phân tích số liệu cho thấy, có sự ảnh hưởng

rất lớn của độ tàn che tới sinh trưởng và phát triển của cây Nưa konjac..

Ở công thức TC1 (độ tàn che 0%) cây Nưa konjac có kích thước lá và chiều cao

cây nhỏ nhất (dài 42,33cm, rộng 39,03cm, cao 50,57cm), , thời gian sinh trưởng ngắn

126 ngày. Khi độ tàn che tăng lên từ 20%, 40%, 60% tương đương với công thức

TC2, TC3 và TC4 thì khả năng sinh trưởng và thời gian sinh trưởng của cây cũng

tăng lên. Công thức TC2 cây Nưa konjac có kích thước lá và chiều cao cây (dài

44,90cm, rộng 41,13cm, cao 56,63cm), thời gian sinh trưởng 147 ngày; Công thức

TC3 cây Nưa konjac có kích thước lá và chiều cao cây (dài 45,73cm, rộng 43,97cm,

cao 57,40cm), thời gian sinh 154 ngày; Công thức TC4 cây Nưa konjac có kích thước

lá và chiều cao cây (dài 49,97cm, rộng 44,33cm, cao 62,1 cm), thời gian sinh trưởng

174 ngày. Tuy nhiên, khi tăng độ tàn che lên 80% ở công thức TC5 thì khả năng sinh

trưởng của cây giảm xuống và thời gian sinh trưởng cũng ngắn hơn, điều này có thể

do cây thiếu ánh sáng để quang hợp và phát triển.

Từ kết quả tổng hợp được cho thấy, ở công thức TC4 với độ tàn che 60% cho

năng suất cao nhất (160,40tạ/ha) và hàm lượng glucomannan cao nhất 46,07%. Công

thức TC1 cho năng suất thấp nhất (87,20 tạ/ha) và hàm lượng glucomannan thấp nhất

(35,70 %). Các công thức còn lại TC2, TC3, TC5 so với công thức TC4 thì năng suất

thấp hơn nhưng hàm lượng glucomannan trong củ gần tương đương.

3.4.3. Ảnh hưởng thời vụ trồng tới sinh trưởng và phát triển của cây Nưa konjac

Kết quả nghiên cứu tổng hợp cho thấy, thời vụ trồng cho kết quả sinh trưởng cao

nhất là TV3 (trồng 5/4) với thời gian sinh trưởng là 172 ngày, kích thước lá (dài

47,97 cm; rộng 42,33 cm và chiều cao cây 61,77 cm). Các công thức có thời vụ trồng

sớm hơn như TV1 (trồng 5/2) và TV2 (trồng 5/3) cho thời gian sinh trưởng và kích

thước lá thấp hơn không nhiều, công thức TV1 thời gian sinh trưởng 168 ngày, kích

thước lá (dài 44,63 cm; rộng 38,50cm) và chiều cao cây 52,23 cm); TV2 thời gian

Page 22: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

20

sinh trưởng 168 ngày, kích thước lá (dài 44,68 cm, rộng 41,33 cm) và chiều cao cây

55,63 cm). Các công thức này tuy trồng trước nhưng cũng đến khoảng 10/4 cây mới

nảy chồi nên trong quá trình vùi trong đất có thể bị nhiễm sâu bệnh và ảnh hưởng của

điều kiện thời tiết nên có ảnh hưởng tới sinh trưởng. Tuy nhiên ảnh hưởng này không

lớn. Công thức TV4 cây được trồng vào 5/4, do cây trồng muộn hơn nên thời gian

sinh trưởng ngắn hơn và cho kết quả sinh trưởng thấp nhất với thời gian sinh trưởng

149 ngày, kích thước lá (dài 42,68 cm, rộng 38,03 cm) và chiều cao cây 51,77 cm).

Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng thời vụ trồng tới năng suất và hàm lượng

glucomannan cây Nưa konjac cho thấy, thời vụ trồng công thức TV3 cho năng suất

củ cao nhất 160,27 tạ/ ha và hàm lượng glucomannan là 45,3%. Các công thức trồng

sớm hơn TV1 và TV2 đều cho năng suất thấp hơn lần lượt là 151,8 tạ/ha và 155,2

tạ/ha. Về hàm lượng glucomannan giữa 3 công thức TV1 và TV2 và TV3 khác nhau

không đáng kể. CT4 năng suất thấp nhất đạt 111,33 tạ/ha; hàm lượng glutamannan

chỉ đạt 41,63%.

Khác với công tức TV2 và TV1 khi trồng Nưa konjac muộn hơn 1 tháng so với công

thức TV3 thì năng suất giảm rất lớn chỉ đạt 111,33 tạ/ha và hàm lượng glucomannan

cũng giảm theo chỉ đạt 41,63%

3.4.4. Ảnh hưởng mật độ trồng tới sinh trưởng và phát triển cây Nưa konjac

Kết quả tổng hợp và phân tích cho thấy có sự ảnh hưởng mật độ trồng tới sinh

trưởng, phát triển của cây Nưa konjac.

Đối với sự sinh trưởng của cây Nưa konjac cho thấy, ở công thức MĐ1 mật độ

trồng 28571 cây/ha (50x70cm), cây sinh trưởng tốt nhất, kích thước lá lớn nhất (dài

48,30 cm, rộng 38,33 cm), chiều cao 62,10 cm) và thời gian sinh trưởng là 172 ngày.

Công thức MĐ2 mật độ trồng 40000 cây/ha (50x50cm), cây sinh trưởng gần như

tương đương với MĐ1 với chiều dài lá 47,17 cm, rộng lá 38,13 cm, chiều cao cây

58,86 cm) và thời gian sinh trưởng là 170 ngày. Tuy nhiên, khi tăng mật độ trồng lên

66670 cây/ha (50x30cm), cây sinh trưởng kém đi rất nhiều so với hai mật độ trước,

kích thước lá (dài 42,97cm, rộng 35,17 cm), chiều cao cây 49,43 cm) và thời gian

sinh trưởng là 171 ngày.

Sự ảnh hưởng mật độ trồng tới năng suất và hàm lượng glucomannan của cây

Nưa konjac có thể thấy rõ, ở công thức MĐ1 mật độ trồng 28571 cây/ha (50x70cm),

tuy khối lượng củ cái 418g và hàm lượng glucomannan 46,27% cao nhất, nhưng năng

suất lại chỉ đạt 124,09 tạ/ha do mật độ cây trồng thưa.

Công thức MĐ2 mật độ trồng 40000 cây/ha (50x50cm), cho khối lượng củ cái

398g, năng suất 165,60 tạ/ha, hàm lượng glucomannan 46,23%. Với MĐ3, khi tăng

mật độ trồng lên 66670 cây/ha (50x30cm), cho khối lượng củ cái giảm xuống thấp

nhất 284,33g, với mật độ trồng dày hơn nên năng suất ở mật độ này tính trên 1ha là

cao nhất 197,79 tạ/ha, hàm lượng glucomannan 43,40%.

Từ kết quả trên có thể thấy rằng mật độ trồng thích hợp nhất trong 3 công thức

trồng Nưa konjac với kích thước củ giống 80-100g là 40000 cây/ha (50x50cm). Với

mật độ này cây trồng sẽ đảm bảo chất lượng glucomannan và hiệu quả kinh tế cao

hơn so với mật độ trồng 28571 cây/ha (50x70cm) và mật độ trồng lên 66670 cây/ha

(50x30cm).

3.4.5. Nghiên cứu ảnh hưởng của tổ hợp lượng phân NPK tới sinh trưởng và phát

triển cây Nưa konjac

Page 23: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

21

Kết quả phân tích và tổng hợp cho thấy,có sự ảnh hưởng của hàm lượng phân

bón NPK tới sinh trưởng và phát triển của cây Nưa konjac.

Kết quả thí nghiệm cho thấy, với lượng phân bón tăng dần thì kích thước lá cây

Nưa konjac tăng dần từ PB1 tới PB5. Công thức PB1 không sử dụng phân bón cho

kết quả sinh trưởng là cây thấp nhất (dài lá 33,97 cm, rộng lá 31,17 cm, cao cây

42,43 cm).

Các công thức với lượng phân tăng dần với hàm lượng N từ 80-140kg/ha, hàm

lượng P từ 30-60 kg/ha và hàm lượng K từ 100-160 kg/ha thì ta thấy kích thước lá cùng

tăng dần. Công thức PB2 lá có kích thước là: chiều dài lá 41,63 cm, rộng lá 35,33 cm,

cao cây 52,10 cm.Công thức PB3 lá có kích thước là chiều dài 46,30 cm, rộng lá 44,33

cm, cao cây 56,43 cm. Công thức PB4 lá có kích thước là chiều dài 47,83 cm, rộng lá

45,13 cm, cao cây 62,86 cm.

Công thức PB5 lá có kích thước lớn nhất với chiều dài 49,17 cm, rộng lá 47,80

cm và chiều cao cây 66,53 cm.

Kết quả theo dõi ảnh hưởng của tổ hợp lượng phân NPK tới năng suất và hàm

lượng glucomannan trong củ cây Nưa konjac tổng hợp trong bảng 3.5 cho thấy, khi

không sử dụng phân bón ở công thức PB1 cho năng suất thu được rất thấp chỉ đạt

111,87 tạ/ha với hàm lượng glucomannan 41,4%. Khi tăng hàm lượng phân bón lên ở

các công thức PB2 và PB3 năng suất và hàm lượng glucomannan cũng tăng lên theo

lần lượt là năng suất 135,33 tạ/ha, 167,33 tạ/ha và hàm lượng glucomannan là

43,57%, 45,9%.

Ở công thức PB4 lượng NPK là 120 kg N + 50 kg P2O5 + 140 kg K2O trên 1 ha

cho năng suất cao nhất với 179,87 tạ/1ha và hàm lượng glucomannan là 46,73%.

Khi tăng lượng phân bón lên ở công thức PB5 với 140 kg N + 60 kg P2O5 + 160

kg K2O trên 1 ha thì năng suất chỉ đạt 140,53tạ/ha và hàm lượng glucomannan là

44,57%, giảm so với công thức PB4. Sự giảm về năng suất này là do với lượng phân

đạm lớn, cây sinh trưởng lá tốt nên khả năng chống chịu sâu bệnh cũng như điều kiện

tự nhiên kém đi, dẫn đến cây hay bị bệnh và đổ do bão nên ảnh hưởng tới năng suất

và chất lượng glucomannan.

Như vậy, công thức PB4 lượng NPK là 120 kg N + 50 kg P2O5 + 140 kg K2O trên 1 ha

là công thức bón phân tốt nhất với năng suất củ 179 tạ/1ha và hàm lượng glucomannan

là 46,73%.

3.4.6. Sự tích lũy glucomannan trong củ Nưa konjac trong các giai đọan sinh

trưởng phát triển

Qua kết quả phân tích, tổng hợp cho thấy thời điểm cho hàm lượng

glucomannan cao nhất là khi 2/3 lá Nưa chuyển sang màu vàng với hàm lượng

glucomannan phân tích được là 45,73%.

Các thời điểm khác hàm lượng glucomannan thấp hơn. Ở giai đoạn bảo quản hàm

lượng glucomannan là 44,07%; khi của Nưa nảy chổi hàm lượng glucomannan là

37,57%; hàm lượng glucomannan thấp nhất đạt 23,73% trong giai đoạn lá Nưa phát triển

cực đại (xòe hoàn toàn). Ở giai đoạn sau khi lá Nưa lụi 1 tháng hàm lượng glucomannan

đạt 43,57%.

Như vậy, thời điểm thu hoạch Nưa cho hàm lượng glucomannan tốt nhất là khi

2/3 bộ lá chuyển thành màu vàng.

3.4.7. Trồng thử nghiệm cây Nưa konjac ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

Page 24: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

22

Từ phân tích và tổng hợp số liệu trên cho thấy, mô hình MH2 (Trồng dưới tán

Mận ở xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La ) và MH4 (Trồng dưới tán rừng tại xã

Quyết Tiến, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang) cho năng suất củ và hàm lượng

glucomannan lớn nhất lần lượt đạt 91,22 tạ/1ha, glucomannan 46,1% và 91,24 tạ/ha,

glucomannan 46,5%. Năng suất hai mô hình này cao nhất là do được trồng ở 2 vùng

có khí hậu mát với độ cao so với mặt nước biển là 918 và 874m. Hơn nữa hai khu

vực trồng này được che bóng dưới tán rừng và vườn Mận.

Tiếp theo là công thức MH3, trồng xen Ngô tại xã Quyết Tiến, huyện Quản Bạ,

tỉnh Hà Giang với năng suất 74,51 tạ/ha và hàm lượng glucomannan là 43,1%. Hai

công thức có năng suất và hàm lượng glucomannan thấp nhất là MH6 (Trồng dưới

tán rừng tại xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình), MH5 (Trồng trong bao

tải dưới tán vải tại xã Tiểu khu 10, thành phố Hòa Bình), lần lượt là 19,11 tạ/1ha,

glucomannan 37,2% và 12,86 tạ/ha, glucomannan 33,6%.

Các mô hình MH5 và MH6 trồng ở thành phố Hòa Bình và xã Ngọc Sơn, huyện

Lạc Sơn, Hòa Bình, với độ cao so với mực nước biển thấp, mùa hè nóng lên tới 35-

400C và độ ẩm không khí cao, nên khi vào mùa hè nhiệt độ nóng liên tục trên 30

0C

dẫn đến cây yếu và mắc bệnh gây chết hàng loạt. Số lượng cây chết lên tới 50-80%.

Đối với các mô hình trồng xen Ngô MH1 và MH3 tại Sơn La và Hà Giang. Có năng

suất và hàm lượng glucomannan trong củ thấp hơn là do cây Nưa Konjac sinh trưởng

hàng năm khoảng 5-6 tháng trong khi đó thời vụ của cây Ngô ngắn hơn chỉ 3-4 tháng,

vì vậy khi thu hoạch Ngô vào tháng 8 thì cây Nưa sẽ không được che bóng làm ảnh

hưởng tới sinh trưởng và phát triển cây Nưa konjac.

3.4.8. Nghiên cứu sâu bệnh hại cây Nưa konjac ở Việt Nam

3.4.8.1. Bệnh hại

Trong quá trình nghiên cứu trồng trọt cây Nưa konjac ở Việt Nam,một trong

những nguyên nhân làm giảm năng suất cây là bệnh hại. Trong số các loại bệnh hại

chủ yếu ở nước ta, đáng chú ý nhất là những bệnh chủ yếu gây hại đến cây trồng bao

gồm vi khuẩn erwinia mềm thối (Erwinia carotovora) và các bệnh về nấm như bệnh

đốm lá (nấm Fusarium solani) và Pythium (các loài Pythium).

3.4.8.2. Sâu hại

Qua điều tra, theo dõi sâu hại đối với cây Nưa là rất ít, chỉ đôi khi gặp sâu xám đen

cắn lá.

KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ

Kết luận: 1/ Thành phần loài Nưa củ có chứa glucomannan ở miền núi phía Bắc Việt

Nam khá đa dạng với 6 loài bao gồm: Amorphophallus konjac K. Koch,

Amorphophallus corrugatus N. E. Br., Amorphophallus krausei Engl. & Gehrm,

Amorphophallus yunnanensis Engl. & Gehrm, Amorphophallus yuloensis H. Li,

Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicolson. Nưa konjac có hàm lượng

glucomannan cao nhất trong bột Nưa khô là 44,97%. Tiếp theo là Nưa yuloensis, Nưa

đầu nhăn, Nưa krausei và Nưa vân nam lần lượt là 30,7%; 28,6%; 29,2%; 25,97% và

Nưa chuông thấp nhất (6,53%). Các loài này phân bố đa dạng theo các độ cao, hướng

phơi và đặc điểm sinh thái khác nhau. Những loài củ có hàm lượng glucomannan cao

Page 25: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

23

thường phân bố ở những nơi có nhiệt độ trung bình hàng năm thấp hơn các loài củ có

hàm lượng glucomannan thấp. Trong số các loài Nưa củ có glucomannan ở miền núi

phía Bắc Việt Nam thì loài Nưa konjac có những đặc điểm triển vọng phát triển trồng

và đem lại giá trị kinh tế cao.

Một số dân tộc vùng núi phía Bắc Việt Nam như Mông, Nùng, Sán Dìu, v.v. khai

thác củ từ tháng 7 đến tháng 11 hàng năm, củ thu về được rửa sạch đất, gọt vỏ, cắt

thành các lát mỏng và sấy khô bằng phơi nắng hoặc treo trên gác bếp đun. Củ Nưa

được chế biến thành một số món ăn như Đậu Phụ, Mỳ, Mò Gỉ, v.v.

2/ Thời điểm thu hái quả Nưa konjac là khi vỏ quả chín có màu đỏ cam. Hạt

sau khi thu hái và xử lý bảo quản hạt lạnh ở 50C cho hiệu quả tốt nhất. Thời gian bảo

quản càng dài, chất lượng hạt Nưa sẽ càng kém và đặc biệt là sau 6 tháng bảo quản.

Do hạt Nưa konjac khó nảy mầm cần xử lý hạt bằng ngâm hạt trong nước ấm 40-

50°C trong 6 giờ, ủ và rửa chua sau đó gieo hạt vào trong cát khi cây có chiều cao

khoảng 5- 10 cm chuyển vào bầu đất.

Xử lý vết cắt củ khi thu hoạch bằng xi măng cho hiệu quả xử lý tốt nhất. Bảo

quản lạnh ở điều kiện 100C cho tỷ lệ củ nảy chồi cao nhất, số củ bị nhiễm bệnh thấp

nhất và tỷ lệ cây sống cao nhất.

Nhân giống Nưa konjac bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào, chồi đỉnh được khử

trùng tốt nhất khi sử dụng dung dịch Javen 60% (NaClO) trong 12 phút. Công thức

môi trường dinh dưỡng thích hợp nhất để tái sinh chồi Nưa konjac in vitro là MS + 2

mg/l BAP + 0,2 mg/l Kinetin + 8 g/l Agar + 30 g/l sucrose. Công thức môi trường ra

rễ tốt nhất là 1/2 MS + 8 g/l Agar + 14 g/l Sucrose + 0,4 mg/l IBA + 1 g/l than hoạt

tính. Giá thể thích hợp nhất cho trồng cây Nưa konjac in vitro là 50% đất + 30% cát +

20% trấu hun.

3/ Trồng Nưa konjac củ giống có khối lượng 70-100g độ che sáng phù hợp

nhất là 60%. Thời vụ trồng vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4 dương lịch. Mật độ

trồng 40.000 cây/ha (50x50cm) cho hiệu quả tốt nhất với năng suất 165,60 tạ/ha, hàm

lượng glucomannan 46,23%. Lượng phân NPK là 120 kg N + 50 kg P2O5 + 140 kg

K2O trên 1 ha là công thức bón phân tốt nhất. Thời điểm thu hoạch cho hàm lượng

glucomannan cao nhất là khi 2/3 lá Nưa chuyển sang màu vàng.

Kiến nghị:

Việc nghiên cứu cây Nưa củ có glucomannan đã đạt được kết quả nhất định,

tuy nhiên kết quả nghiên cứu của luận án mới chỉ là bước đầu. Vì vậy, tác giả đề

nghị tiếp tục các nghiên cứu bảo tồn, nhân giống, lai tạo và phát triển loài Nưa konjac

ở Việt Nam, nhằm đưa cây Nưa konjac trở thành một cây trồng góp phần phát triển

kinh tế các tỉnh miền núi phía Bắc và các địa phương khác trong cả nước.

Page 26: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀgust.edu.vn/media/26/uftai-ve-tai-day26017.pdf · bỘ giÁo dỤc vÀ ĐÀo tẠo viỆn hÀn lÂm khoa hỌc vÀ

24

NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

- Cho đến nay đây là công trình khoa học đầu tiên về đánh giá thành phần loài,

phân bố, đánh giá hàm lượng glucomannan các loài Nưa củ có glucomannan và lựa

chọn loài có triển vọng phát triển trồng một cách đầy đủ ở miền núi phía Bắc Việt

Nam.

- Đã bổ sung một số dẫn liệu về phân bố, đặc điểm sinh học, sinh thái và hàm

lượng glucomannan của một số loài Nưa ( Amorphophallus spp). ở các tỉnh miền núi

phía Bắc Việt Nam.

- Đã bổ sung 01 loài cho hệ thực vật Việt Nam là loài Amorphophallus

yuloensis.

- Đã nghiên cứu kỹ thuật nhân giống cây Nưa konjac ở Việt Nam. Kỹ thuật

nhân giống hữu tính bằng hạt, nhân giống bằng củ và kỹ thuật nhân giống Nưa konjac

bằng kỹ thuật nuôi cấy mô.

- Đã nghiên cứu kỹ thuật trồng Nưa konjac ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Xác

định được khối lượng củ giống thích hợp cho trồng thương mại phát triển lấy bột

glucomannan của cây Nưa konjac. Độ che sáng, thời vụ trồng, mật độ trồng, lượng phân

bón NPK, tích lũy hàm lượng glucomannan trong củ Nưa trong giai đoạn phát triển.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Nguyễn Văn Dư, Trần Huy Thái, Nguyễn Công Sỹ, Trần Văn Tiến, Một số kết quả nhân

giống hữu tính cây Nưa (Amorphophallus spp). Báo cáo khoa học về Sinh thái và Tài

nguyên sinh vật, Hội nghị khoa học toàn quốc lần tứ 6, Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công

nghệ, 2015, tr 1323-1328, Hà Nội.

2. Nguyen Van Du, Bui Hong Quang, Nguyen Thi Van Anh, Masuno T, Peter J. Matthews ,

Tran Van Tien , Useful aroids and their prospects in Vietnam. Aroideana, 2015, 31: 130-

142.

3. Trần Văn Tiến, Hà Văn Huân, Nguyễn Văn Dư, Tri thức bản địa về khai thác và chế

biến củ Nưa konjac (Amorphophallus konjac) làm thực phẩm ở một số tỉnh miền núi phía

Bắc Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Lâm Nghiệp, 2017, số 1/2017, tr 11-16.

4. Tran Van Tien, Nguyen Van Du, Nguyen Cong Sy, Biological Characteristics and

Distribution of the species Amorphophallus yuloensis H. Li (Araceae) in Vietnam,

Aroideana,2017, 39: 57-63.

5. Trần Văn Tiến, Nguyễn Văn Dư, Hà Văn Huân, Nguyễn Minh Quang, Nhân giống in

vitro loài Nưa konjac (Amorphophallus konjac) ở Việt Nam để bảo tồn và phục vụ sản suất.

Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2017, số 6B/2017, tr 35-40.

6. Trần Văn Tiến, Nguyễn Văn Dư, Nguyễn Công Sỹ, Hà Văn Huân, Kiều Thị Thuyên,

Nghiên cứu phát triển trồng loài Nưa Konjac (Amorphophallus konjac) ở miền núi phía Bắc

Việt Nam. Tạp chí Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, số 18/2017, tr 149-157.

7. Trần Văn Tiến, Nguyễn Văn Dư, Nguyễn Công Sỹ, Một số nghiên cứu nhân giống loài

Nưa konjac ( Amorphophallus konjac K.Koch) bằng củ. Báo cáo khoa học về Sinh thái và

Tài nguyên sinh vật, Hội nghị khoa học toàn quốc lần tứ 6, Nxb. Khoa học Tự nhiên và

Công nghệ, 2017, tr 1502-1507, Hà Nội.