Upload
others
View
12
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
i
ĐỀ DẪN HỘI THẢO
ii
iii
1
PHẦN 1
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ, CÁN CÂN
THANH TOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
2
3
CÁN CÂN VÃNG LAI CỦA VIỆT NAM 2010 - 2015
VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
PGS.TS. Đặng Ngọc Đức1
NCS. ThS. Đỗ Thị Thu Thủy2
ThS. Vũ Duy Thành3
Tóm tắt
Thâm hụt cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế (BOP) luôn có những
ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định kinh tế vĩ mô và các hoạt động kinh tế - tài chính
đối ngoại của các nước, do vậy luôn được cố gắng thực hiện cân bằng. Có 3 trường
phái tiếp cận sự cân bằng BOP, gồm:(1) Trường phái tiếp cận từ Hệ số co giãn (The
Elasticsity Approach); (2) Trường phái tiếp cận từ Chi tiêu (The Absorption
Approach); (3) Trường phái tiếp cận Tiền tệ (The Monetary Approach). Thực chất,
đây là những nghiên cứu từ những giác độ khác nhau về tác động của việc phá giá nội
tệ đến trạng thái của cán cân vãng lai hay cán cân thương mại nhằm đưa ra những
khuyến cáo để thiết lập sự cân bằng của BOP, đặc biệt trong trạng thái thâm hụt.
Đối với Việt Nam, kết thúc giai đoạn thâm hụt nghiêm trọng 2002 - 2011, bắt
đầu từ 2012 thặng dư vãng lai đã bắt đầu xuất hiện và được duy trì đến năm 2015, góp
phần cải thiện tích cực BOP của Việt Nam. Bài học kinh nghiệm về cơ sở khoa học và
thực tế của những sự điều chỉnh đã được áp dụng trong giai đoạn này để ngăn chặn
thâm hụt thương mại và vãng lai, hướng tới sự cân bằng tích cực và bền vững BOP
của Việt Nam trong thời gian tới là rất quan trọng. Dựa trên khung lý thuyết về các
phương pháp tiếp cận cân bằng BOP, bài viết sẽ tập trung nhận diện, phân tích và
đánh giá các biện pháp cân bằng được áp dụng trong giai đoạn 2011 - 2015. Trên cơ
sở đó, trình bày một số khuyến nghị chính sách nhằm củng cố và duy trì sự cân bằng
bền vững của cán cân thương mại (Trade Balance) và BOP của Việt Nam trong giai
đoạn 2016 - 2020.
Từ khóa: cán cân vãng lai, cán cân thương mại, phá giá tiền tệ, điều kiện Marshall - Lerner
1. Đặt vấn đề
1, 2, 3 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Email: [email protected]
4
Năm 2007 là mốc thời gian Việt Nam được kết nạp vào Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO). Trong năm này, BOP của Việt Nam đã thặng dư 10,2 tỷ USD, song
cũng là năm bắt đầu một thời kỳ thâm hụt vãng lai (Current Account Deficit) ở mức kỷ
lục 2008 - 2010. Hình 1 cũng cho thấy, thời kỳ thâm hụt vãng lai nghiêm trọng này bắt
đầu năm 2007 ở mức 6,99 tỷ USD tương đương với 9,8% GDP và mức thâm hụt cao
nhất là năm 2008 đã tăng lên trên 10,79 tỷ USD tương đương với 11,9% GDP.
Hình 1. Diễn biến cán cân thanh toán quốc tế giai đoạn 2000 - 2015
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: IMF và NHNN Việt Nam, 2015
Sang năm 2011, thâm hụt vãng lai đã giảm xuống còn ở mức 0,7 tỷ USD tương
đương khoảng 0,5% GDP và bắt đầu từ 2012 cán cân vãng lai của Việt Nam đã thặng
dư 9,3 tỷ USD và cùng với thặng dư của cán cân vốn, tạo thành thặng dư kép của cán
cân thanh toán quốc tế Việt Nam. Tình trạng thâm hụt nghiêm trọng của cán cân vãng
lai của Việt Nam dường như đã được khắc phục và trạng thái thặng dư đã được duy trì
trong suốt 4 năm gần đây 2012 - 2015. Điều này có thể coi là một thành công rất đáng
ghi nhận, đặc biệt trong bối cảnh sự hồi phục không chắc chắn của nền kinh tế các
nước, diễn biến phức tạp của tình hình tài chính quốc tế, khủng hoảng nợ công và
những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở châu Âu và nhiều nước khác.
Trước những diễn biến và sự cải thiện tình hình cán cân vãng lai của Việt Nam
2012 - 2015, nhiều chuyên gia tài chính cũng như các nhà quản lý đã phân tích, đánh
giá và cho rằng diễn biến tích cực nói trên là do Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện
pháp điều chỉnh tỷ giá, điều tiết cung - cầu tiền tệ, tăng trưởng tín dụng được áp dụng
từ năm 2011. Trong khi quan điểm của một số nhà khoa học và quản lý khác lại cho
rằng nhờ sự gia tăng chi tiêu chính phủ để kích thích đầu tư, cứu trợ doanh nghiệp, các
-20000.00
-10000.00
0.00
10000.00
20000.00
Cán cân thanh toán quốc tế giai đoạn 2000-2015
Cán cân vãng lai cán cân vốn sai sót Cán cân Tổng thể
5
chính sách nới lỏng chi tiêu, đầu tư công mới chính là những yếu tố quan trọng.
Từ những diễn biến thực tế của tình hình thâm hụt vãng lai và thương mại của
Việt Nam giai đoạn trước năm 2011 và sự chuyển sang trạng thái thặng dư được duy
trì trong giai đoạn 2012 - 2014 nhưng đã giảm mạnh vào năm 2015; trước dự báo khó
khăn về nền kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2016, khả năng tăng lãi suất đồng Đô la
Mỹ (USD) của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), tác động việc gia nhập Cộng đồng
kinh tế ASEAN và tham gia Hiệp định TPP,… nhiều chuyên gia cho rằng áp lực tiếp
tục phá giá Đồng Việt Nam (USD/VND) là không nhỏ, tình trạng thâm hụt thương mại
và thâm hụt vãng lai sẽ xuất hiện trở lại từ năm 2016. Bài viết này sẽ phân tích và đánh
giá các biện pháp điều chỉnh thâm hụt vãng lai, chủ yếu là thâm hụt thương mại, được
áp dụng từ năm 2011 dựa theo các phương pháp tiếp cận BOP để rút kinh nghiệm và
đề xuất một số khuyến nghị chính sách, góp phần củng cố và duy trì sự cân bằng của
cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trước những cơ hội và
thách thức lớn hơn của giai đoạn hội nhập sâu, rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và
quốc tế 2016 - 2020.
2. Khung lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1 . Khung lý thuyết
Đã có nhiều bài viết phân tích và phản biện chính sách về chủ đề cân bằng vãng
lai và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam như: ThS. Đỗ Hạnh Nguyên
(2014), Nhận diện cán cân thương mại của Việt Nam; Minh Ngọc (2013), Những thách
thức với cán cân thanh toán 2013; Mai Thu Hiền và Cao Thị Thanh Thủy (2012), Các
giải pháp cân bằng cán cân vãng lai của Việt Nam; Bùi Trinh, Kiyoshi Kobayashi và
Vũ Trung Điền (2011), Tái cơ cấu nền kinh tế và giảm thâm hụt thương mại: Việc lựa
chọn ngành trọng điểm,... Tuy nhiên, với mục đích phân tích và đánh giá về các biện
pháp, chính sách điều chỉnh để cân bằng BOP của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015,
khung lý thuyết áp dụng là các phương pháp tiếp cận BOP, cụ thể:
Phương pháp tiếp cận theo hệ số co giãn lần đầu tiên được thực hiện bởi
Alfred Marshall (1923) và Abba Lerner (1944), sau đó được phát triển bởi Joan
Robinson (1937) và Fritz Machlup (1939, 1955). Với những giả thiết về sự cân bằng
và độ co giãn của cầu (d) hàng hoá xuất và nhập khẩu, phương pháp tiếp cận này chỉ
ra hai tác động ngược chiều của sự phá giá tiền tệ lên cán cân vãng lai hoặc là giảm
thâm hụt hoặc là làm cho tình trạng thâm hụt sẽ trầm trọng hơn. Một trong những kết
luận quan trọng nhất chính là điều kiện Marshall - Lerner, được phát biểu rằng để cho
việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán cân thương mại thì giá trị của tổng hai
độ co giãn của cầu hàng hóa xuất khẩu (dx) và nhập khẩu (dm) phải lớn hơn 1
6
(dx+dm > 1). Tuy nhiên, kiểm nghiệm thực tế cho thấy điều kiện này không đúng
trong ngắn hạn, thậm chí trong khoảng từ 6 đến 12 tháng, ở nhiều nước việc phá giá
tiền tệ còn làm cho tình trạng của cán cân thương mại xấu đi. Chỉ đến khi độ co giãn
dx và dm phát huy tác đụng, tức là đến khi người tiêu dùng bắt đầu điều chỉnh thói
quen tiêu dùng theo giá mới cũng như người sản xuất đủ thời gian khắc phục độ trễ,
cán cân thương mại mới được cải thiện (Hiệu ứng tuyến J).
Phương pháp tiếp cận theo chi tiêu (Absorption Approach) được coi là ưu việt
hơn phương pháp tiếp cận theo độ co giãn khi khắc phục được hạn chế của giả thiết về
sự cân bằng và độ co giãn của cầu hàng hóa xuất và nhập khẩu. Nghiên cứu của
Alexander (1952) đã phân tích tác động sự thay đổi của khối lượng hàng hóa xuất -
nhập khẩu đối với thu nhập quốc dân và chi tiêu trong nước khi thực hiện phá giá tiền
tệ. Từ sự mất cân bằng tài khoản vãng lai (X-M) được xét như là sự chênh lệch giữa
thu nhập quốc dân (Y=C+I+G+X-M) và mức chi tiêu trong nước (A=C+I+G) vì (Y-
A)=(X-M), đã đi đến nhận định rằng hiệu ứng phá giá tiền tệ đối với tài khoản vãng lai
sẽ phụ thuộc vào mức độ tác động đến thu nhập quốc dân và mức chi tiêu trong nước,
do vậy sẽ tác động đến cán cân vãng lai. Nếu phá giá tiền tệ làm thu nhập quốc dân
tăng so với chi tiêu trong nước thì cán cân vãng lai sẽ được cải thiện và ngược lại. Do
vậy, trước khi thực hiện phá giá nội tệ cần nghiên cứu kỹ 3 yếu tố như là các điều kiện
để đảm bảo rằng phá giá tiền tệ có tác động tích cực đến cán cân vãng lai: (1) khuynh
hướng chi tiêu cận biên (a) lớn hơn hay nhỏ hơn 1; (2) sự thay đổi thu nhập (dY); (3)
tác động thay đổi của chi tiêu trực tiếp trong nước (dAd). Cụ thể, điều kiện để phá giá
nội tệ cải thiện cán cân vãng lai là: (1-a)*dY > dAd . Điều này có nghĩa là, bất cứ sự
thay đổi trong thu nhập không được dành cho chi tiêu phải lớn hơn sự thay đổi trong
chi tiêu trực tiếp trong nước. Hơn nữa, điều kiện trên còn phải được kiểm nghiệm
trong hai điều kiện khác nhau của nền kinh tế: (1) ở mức sản lượng tiềm năng và toàn
dụng nhân công (Y=Y* và E=E*); (2) sản lượng có thể tăng thêm và chưa toàn dụng
nhân công (Y
7
trạng thái của BOP và biến động của tỷ giá là kết quả của sự thay đổi trong cung - cầu
tiền bởi lẽ thay đổi về cung - cầu tiền sẽ tác động lên lãi suất, tổng đầu tư, do vậy sẽ tác
động đến tổng cầu, tốc độ tăng trưởng của GDP, mặt bằng giá cả, tỷ giá và BOP. Sự
cân bằng giữa cung tiền tệ (Ms=m(DC+IR)) và cầu tiền tệ (Md= k.E.P*.Yr) có thể biểu
diễn thành k.E.P*.Yr = m (DC + IR) trong đó: k là hằng số; P* là mức giá cân bằng;
Yr là thu nhập thực tế, DC là tín dụng trong nước và IR là dự trữ quốc tế. Trong điều
kiện tỷ giá cố định (tỷ giá danh nghĩa En không thay đổi), dự trữ quốc tế (IR) phải thay
đổi để duy trì trạng thái cân bằng và BOP cũng phải điều chỉnh khi có bất kỳ sự mất
cân bằng nào xảy ra trên thị trường tiền tệ. Mỗi khi tăng mức cung tiền (Ms) thông
qua tăng trưởng tín dụng (DC), vượt quá cầu tiền sẽ gây áp lực mất giá đồng nội tệ
thì ngân hàng trung ương (NHTƯ) sẽ phải bán ngoại tệ và làm cho IR giảm xuống cho
đến khi Ms = Md. Nói cách khác, việc gia tăng Ms trong điều kiện En cố định sẽ làm
tăng thâm hụt thương mại. Ngược lại, trong điều kiện En thả nổi và IR không thay đổi,
En sẽ tự điều chỉnh để loại bỏ sự mất cân bằng trên thị trường tiền tệ. Đây cũng là điều
kiện cơ bản để phân tích những điều chỉnh về tiền tệ trong mối liên hệ với diễn biến về
cán cân thanh toán quốc tế và tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2015.
Như vậy có thể thấy, mặc dù có sự khác biệt nhất định song về cơ bản các
phương pháp tiếp cận trên đây cho thấy tình trạng thâm hụt của cán cân vãng lai hay
cán cân thương mại nói riêng có thể được cải thiện thông qua sự điều chỉnh về tỷ giá,
thu nhập và chi tiêu cũng như điều chỉnh về cung - cầu tiền tệ. Tuy nhiên, những sự
điều chỉnh này luôn được vận hành đồng bộ và trong mối quan hệ ràng buộc với những
điều kiện nhất của nền kinh tế mới có thể đạt được mục tiêu nhất định và hạn chế
những tác động không mong muốn.
2.2 . Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên khung lý thuyết, các phương pháp nghiên cứu như so sánh, tổng hợp,
phân tích định tính kết hợp với định lượng được sử dụng để đánh giá tác động của phá
giá tiền tệ, các biện pháp tăng chi tiêu chính phủ và điều tiết cung cầu tiền tệ đã được
áp dụng trong giai đoạn 2011 - 2015.
3. Diễn biến cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
Như đã khái quát trên đây, diễn biến của cán cân vãng lai trong giai đoạn 2002 -
2015 có thể chia thành 2 thời kỳ thâm hụt 2002 - 2011 và thời kỳ thặng dư 2012 - 2015
(Hình 2).
Hình 2. Diễn biến cán cân vãng lai của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2015
Đơn vị tính: Triệu USD
8
Nguồn: IMF và NHNN, 2015
Thời kỳ thâm hụt 2002 - 2011, cán cân vãng lai của Việt Nam luôn ở tình trạng
thâm hụt và nghiêm trọng nhất là những năm 2007 - 2010, đạt kỷ lục vào năm 2008
đến mức 10,8 tỷ USD tương đương với 11,8% GDP, sau đó thâm hụt giảm dần và đến
năm 2011 thâm hụt vãng lai còn ở mức 0,7 tỷ USD và chiếm 0,5% GDP.
Thời kỳ thặng dư 2012 - 2015. Kết thúc năm 2012 cán cân vãng lai của Việt
Nam đã bắt đầu thặng dư 9,3 tỷ USD và cùng với thặng dư của cán cân vốn, tạo thành
thặng dư kép của cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam năm 2012. Sang năm 2013
thặng dư vãng lai lớn hơn và đạt mức 9.5 tỷ USD tương đương với 5,9% GDP, do vậy
không chỉ bù đắp được thâm hụt của cán cân vốn mà còn làm cho cán cân thanh toán
tổng thể vẫn thặng dư ở mức 0,863 tỷ USD. Năm 2014, thặng dư vãng lai được ghi
nhận là 8,52 tỷ USD, tương đương 4,5% GDP còn năm 2015 mức thặng dư vãng lai
giảm xuống còn 0,9 tỷ USD, chiếm 0,44% GDP (Hình 2).
Hình 3. Giá trị xuất - nhập khẩu hàng hoá giai đoạn 2000 - 2015
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: IMF và NHNN
Không nằm ngoài quy luật chung, thâm hụt vãng lai trong giai đoạn 2002 - 2011
ở Việt Nam phần lớn là do thâm hụt của cán cân thương mại. Mặc dù kim ngạch xuất
-20000.00
-10000.00
0.00
10000.00
20000.00
Cán cân vãng lai giai đoạn 2000-2015
Cán cân thương mại Cán cân vãng lai
-50000.00
0.00
50000.00
100000.00
150000.00
200000.00
Cán cân thương mại giai đoạn 2000-2015
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
9
nhập khẩu của Việt Nam đã có mức tăng trưởng ấn tượng, khoảng 19%/năm tương ứng
từ 46% GDP năm 2001 lên tới 78% GDP năm 2011, song nhập khẩu đã tăng ở mức
cao hơn từ 49% lên đến 86% GDP trong cùng thời kỳ làm cho cán cân thương mại
trong giai đoạn này luôn ở tình trạng thâm hụt. Nhập siêu bắt đầu tăng nhanh kể từ
năm 2003 ở mức 12,9% GDP và đạt mức 14,1 tỷ USD, tức gần 20% GDP vào năm
2008, sau 2 năm khi Việt Nam gia nhập WTO. Tình trạng nhập siêu tiếp tục duy trì
tăng ở các năm tiếp theo trung bình từ 9,1% tới mức 14,7% GDP tương ứng với các
giai đoạn 2002 - 2005 và 2006 - 2011. Điều cần nhấn mạnh là thâm hụt thương mại
của Việt Nam trong giai đoạn 2002 - 2011 đã được coi là một trong những mất cân đối
vĩ mô nghiêm trọng ở mức cao và kéo dài gây ra nhiều tác động tiêu cực cho nền kinh
tế và gây áp lực cho chi tiêu ngân sách nhà nước (NSNN). Do cơ cấu nhập khẩu hàng
hóa chủ yếu là nguyên vật liệu cho các ngành sản xuất trong nước nên nhập siêu đã
làm tăng mặt bằng giá cả và mặt bằng giá cả Việt Nam còn bị đẩy tăng lên do ảnh
hưởng tăng giá hay lạm phát ở nước ngoài. Hơn nữa, nhập siêu còn tạo áp lực lên cung
- cầu ngoại tệ và phá giá nội tệ, tăng gánh nặng nợ nước ngoài và ảnh hưởng xấu đến
thu nhập và đời sống xã hội.
Đến năm 2012 cán cân thương mại của Việt Nam bất ngờ chuyển sang trạng thái
thặng dư khoảng 8,71 tỷ USD và bắt đầu cho giai đoạn thặng dư 2012 - 2015. Có thể thấy,
tổng kim ngạch thương mại hai chiều 2012 đạt khoảng 220,3 tỷ USD, trong đó kim ngạch
xuất khẩu ước đạt 114,5 tỷ USD, tăng 18,2%, trong khi kim ngạch nhập khẩu xấp xỉ 105,8
tỷ USD, tăng 6,6% so với năm 2011. Đến năm 2013, năm thứ hai liên tiếp nước ta có
thặng dư thương mại, ước đạt 8,3 tỷ USD, kim ngạch xuất, nhập khẩu đều đạt mức tăng rất
cao so với năm 2012, tương ứng ở mức 132,1 tỷ USD và 123,3 tỷ USD. Trạng thái thặng
dư thương mại vẫn được tiếp tục duy trì trong năm 2014 và năm 2015 tương ứng là 11,9 tỷ
USD hay 6,3% GDP và 7,39 tỷ USD hay 3,6% GDP.
Thặng dư của cán cân thương mại và cán cân vãng lai của Việt Nam mới xuất
hiện và duy trì giai đoạn 2012 - 2015, chưa thể nói là ổn định4 nhưng sự thay đổi trạng
thái này là rất quan trọng và rất được quan tâm. Trước hết, vì khi chuyển từ thâm hụt
triền miên sang thặng dư đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và là một trong
những tác nhân quan trọng giúp giảm áp lực tăng tỷ giá và cải thiện cán cân tổng thể.
Thứ hai, có sự khác nhau trong nhận định về các biện pháp đã áp dụng để mang lại kết
quả thặng dư 2012 - 2015. Cụ thể, một số quan điểm cho rằng, đây là kết quả của
những biện pháp điều chỉnh về mức cung tiền tệ, tăng trưởng tín dụng và đặc biệt là nâng
4 IMF dự báo thặng dư cán cân vãng lai của Việt Nam sẽ trở lại trạng thái thâm hụt năm 2016.
10
tỷ giá tăng 9,3% vào tháng 2/20115. Một số người còn cho rằng cán cân thương mại và
cán cân vãng lai của Việt Nam đã diễn biến theo đúng đường cong tuyến J và được cải
thiện từ năm 2012. Trong khi một số chuyên gia khác cho rằng, đây là kết quả của những
biện pháp gia tăng chi tiêu và kích cầu từ năm 2009 - 20136 với rất nhiều các gói cứu trợ
doanh nghiệp phục hồi nền kinh tế, kích thích tiêu dùng, tăng chi tiêu và đầu tư công, ...
Hãy coi hai nhận định trên đây là những giả thuyết và phần nội dung tiếp theo của bài viết
sẽ tiến hành kiểm định các giả thuyết đó, góp phần đánh giá chính xác hơn tác động của
những biện pháp điều chỉnh đã áp dụng trong thời gian qua.
4. Đánh giá sự điều chỉnh cán cân vãng lai của Việt Nam thông qua các
trường phái tiếp cận cán cân thanh toán quốc tế
4.1 . Đánh giá theo Trường phái độ co giãn
4.1.1 . Kiểm định điều kiện Marshall - Lerner ở Việt Nam
Mô hình định lượng lý thuyết
Áp dụng nghiên cứu của Body và cộng sự (2001) đã kiểm tra điều kiện Marshall-
Lerner theo mô hình tỷ lệ xuất nhập khẩu song phương theo thu nhập của hai quốc gia
và tỷ giá thực.
Xuất phát từ tỷ lệ xuất nhập khẩu: *
t tt
t t t
P XTB
P S M (1)
Trong đó: ,t tX M là xuất khẩu và nhập khẩu danh nghĩa, *,t tP P là mức giá nội
địa và giá quốc gia đối tác, tS là tỷ giá danh nghĩa.
Phương trình (1) tương đương:
*ln ln ln ln ln ln
ln ln ln ln
t t t t t t
t t t t
TB X M S P P
TB X M RER
(2)
Trong đó, tRER là tỷ giá thực giữa hai quốc gia.
Mô hình đánh giá hệ số co giãn của xuất nhập khẩu theo tỷ giá
5 Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, mở rộng tín dụng tiêu dùng, giảm lãi suất huy động tiền gửi và lãi suất
cho vay, tăng tổng phương tiện thanh toán,... 6 Riêng năm 2009 tổng số tiền hỗ trợ đã là 160.000 tỷ VND; năm 2012 thêm 29.000 tỷ VND; năm 2013
gói kích cầu bất động sản 30.000 tỷ VND. Ngoài ra, những chính sách hỗ trợ khác cho các doanh
nghiệp như giãn, giảm thuế thu nhập, VAT, giảm tiền thuê đất, miễn thuế môn bài… đối với các đối
tượng ưu tiên.
11
*
*
ln ln ln ln
ln ln ln ln
t x x t x t x t xt
t m m t m t m t mt
X Y Y RER
M Y Y RER
(3)
Trong mô hình trên, *,t tY Y là thu nhập của hai quốc gia, ,x m chính là độ co
giãn của xuất khẩu và nhập khẩu theo tỷ giá thực, ,xt mt là phần dư của hai mô hình
trên tại thời điểm t. Ghép hai mô hình xuất khẩu và nhập khẩu ở trên vào phương trình
(2) được mô hình mới.
*
*
ln ln ln 1 ln
ln ln ln ln( ) (4)
t x m x m t x m t x m t xt mt
t t t t t
TB Y Y RER
TB Y Y RER
Theo điều kiện Marshall - Lerner, việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới
cán cân thương mại thì giá trị của tổng hai độ co giãn của cầu hàng hóa xuất khẩu và
nhập khẩu phải lớn hơn 1. Điều này tương đương với hệ số trong mô hình (4) lớn
hơn 0.
Mô hình thực nghiệm
Căn cứ vào mô hình lý thuyết nêu trên, mô hình thực nghiệm để kiểm tra điều
kiện Marshall - Lerner đối với Việt Nam sẽ sử dụng các biến số xuất nhập khẩu song
phương, tổng sản phẩm quốc dân của hai nước và tỷ giá thực như sau:
ln ln ln lnt t t t tt
XGDPV GDPO RER
M
(4)
Trong đó, tX là xuất khẩu của Việt Nam đi quốc gia đối tác, tM là nhập khẩu
của Việt Nam từ quốc gia đối tác, ,t tGDPV GDPO là tổng sản phẩm quốc dân của
Việt Nam và quốc gia đối tác, tRER là tỷ giá thực song phương giữa hai quốc gia.
Để kiểm định và đánh giá tính hiệu quả của việc phá giá nội tệ (USD/VND), mô
hình sẽ đi kiểm tra hệ số của chung các quốc gia theo mô hình hồi quy số liệu mảng
(panel data) có hiệu chỉnh phương sai robust.
Kết quả kiểm định điều kiện Marshall - Lerner
Nghiên cứu sử dụng số liệu của 17 quốc gia có kim ngạch xuất nhập khẩu cao
đối với Việt Nam căn cứ vào số liệu thống kê thương mại quốc tế của Liên hợp quốc,
số liệu vĩ mô và tài chính của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế (IMF), tổ chức các nước xuất
khẩu dầu mỏ OECD và tổng cục thống kê của các quốc gia. Thời gian nghiên cứu từ
quý I năm 2010 đến quý II năm 2015. Trong kết quả Bảng 1, kí hiệu (I) là mô hình số
12
liệu mảng với ảnh hưởng cố định như dạng mô hình (4) ở trên, (II) là mô hình hồi quy
số liệu mảng với ảnh hưởng ngẫu nhiên, (III) là mô hình số liệu mảng với ảnh hưởng
cố định thêm vào biến giả năm để lọc bỏ biến động riêng của từng năm, (IV) là mô
hình số liệu mảng với ảnh hưởng ngẫu nhiên có bổ sung biến giả năm, (V) là mô hình
số liệu mảng với ảnh hưởng ngẫu nhiên có bổ sung cả biến giả năm và biến giả khu
vực. Trong đó khu vực được chia làm 4 vùng: Bắc Mỹ, châu Âu, các quốc gia châu Á
ngoài ASEAN và Mỹ Latinh, các quốc gia ASEAN. Kết quả hồi quy kiểm định điều
kiện Marshall chung như sau:
Bảng 1. Kết quả hồi quy các mô hình kiểm tra điều kiện Marshall - Lerner
Hệ số (I) (II) (III) (IV) (V)
0.463** 0.461*** 0.307 0.304 0.356
0.771* 0.244** 0.716 0.243** 0.235**
0.512* 0.266*** 0.629* 0.272** 0.261***
Trong đó: * có ý nghĩa ở mức 10%, ** 5% và *** 1%
Kết quả các mô hình cho thấy cả ba hệ số , , đều mang giá trị dương. Trong
đó, cụ thể, kiểm định Hausman giữa mô hình (I) và (II) với mức xác suất của kiểm
định là 0.641, mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên sẽ được lựa chọn để phân tích và kiểm
tra điều kiện Marshall - Lerner. Kết quả cho thấy, ở mô hình (II) khi không tính đến
ảnh hưởng riêng của các năm và từng khu vực thì cả GDP Việt Nam và quốc gia đối
tác đều có ý nghĩa thúc đẩy tỷ lệ xuất nhập khẩu của Việt Nam hay tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam và các quốc gia đối tác đang làm cho xuất khẩu tăng nhanh tương đối so
với nhập khẩu và cho thấy nhân tố tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2010 - 2015 thực sự là
nhân tố giúp cải thiện cán cân thương mại. Ở mô hình (IV) và (V), khi lọc đi ảnh
hưởng riêng của từng năm và từng khu vực kinh tế, các kết quả cho thấy ý nghĩa tương
tự như mô hình (II). Tuy nhiên, hai mô hình này chỉ ra tỷ lệ xuất nhập khẩu của Việt
Nam thực sự được thúc đẩy từ tăng trưởng kinh tế các nước đối tác trong khi tăng
trưởng kinh tế trong nước chưa có nhiều ý nghĩa.
Tuy nhiên, điểm sáng trong nghiên cứu chính là việc các mô hình đều đưa ra
bằng chứng có ý nghĩa về hệ số . Hệ số này trong cả năm mô hình đều có ý nghĩa
thống kê, nhận giá trị dương và đặc biệt, trong ba mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên, hệ
số này đều có ý nghĩa ở mức rất chặt. Do đó, đây là kết quả vững chắc khẳng định điều
13
kiện Marshall - Lerner hay phá giá tiền tệ ở Việt Nam có ý nghĩa tích cực đến cán cân
thương mại của Việt Nam. Nếu xem ảnh hưởng của các tỷ giá thực trong quá khứ.
Bảng kết quả sau đây kiểm tra điều kiện Marshall - Lerner với trễ của tỷ giá từ 1 đến 4
quý trước.
Bảng 2. Kiểm tra điều kiện Marshall - Lerner
Hệ số (I) (II) (III) (IV) (V)
Trễ 1 quý 0.504 0.263*** 0.511 0.261** 0.256***
Trễ 2 quý 0.464 0.270** 0.383 0.250** 0.251***
Trễ 3 quý 0.421 0.266*** 0.123 0.234** 0.238***
Trễ 4 quý 0.488 0.265*** 0.282 0.250** 0.250*
Trong đó: * có ý nghĩa ở mức 10%, ** 5% và *** 1%
Kết quả cho thấy, với giả định rằng khi tỷ giá thay đổi, cần một, hai, ba hay bốn
quý sau mới phản ứng vào cán cân thương mại, thì với các mô hình ảnh hưởng ngẫu
nhiên, các kết quả đều chỉ ra rằng, phá giá nội tệ (USD/VND) có ảnh hưởng tích cực
đến cải thiện cán cân thanh toán, nói cách khác, tăng tỷ giá thực sẽ làm xuất khẩu tăng
nhanh hơn tương đối so với nhập khẩu.
4.1.2 . Tác động của sự thay đổi tỷ giá đối với cán cân thương mại Việt Nam
Tiếp cận đồng tích hợp cho số liệu mảng và phương pháp ước lượng trung
bình nhóm gộp (PMG)
Để đánh giá tác động ngắn hạn và dài hạn của tỷ giá lên cán cân thương mại,
nghiên cứu đề xuất sử dụng mô hình ước lượng trung bình nhóm gộp (PMG) vì những
đặc điểm quan trọng như sau:
- Phương pháp PMG phù hợp với số liệu dạng mảng, đưa ra các ước lượng trong
dài hạn hiệu quả hơn.
- Cho phép có sự khác biệt về tham số trong ngắn hạn giữa các nhóm trong khi
tham số trong dài hạn đồng nhất giữa các nhóm.
- Phương pháp phân tích được cả điều chỉnh ngắn hạn và dài hạn, đánh giá được
độ co giãn trong dài hạn và xác định tốc độ điều chỉnh trong ngắn hạn.
Để thực hiện được ước lượng mô hình theo phương pháp PMG, các biến được
phân tích trong dài hạn phải có tính đồng tích hợp. Do đó, trước khi tiến hành hồi quy
14
PMG, các biến số sẽ được kiểm tra tính dừng theo kiểm định Fisher (Maddala và Wu,
1999), nếu các biến số đều tích hợp bậc 1, thì sẽ sử dụng kiểm định Westerlund (2007)
để kiểm định tính đồng tích hợp của các biến số.
Mô hình thực nghiệm
Trong trường hợp đánh giá tác động của tỷ giá lên cán cân thương mại, mô hình
PMG có dạng như sau:
1 2 3 , 1
, 1 , 1 1 2 3
ln ln( ) ln( ) ln( )
ln ln( ) ln( ) ln( )
it i it i it i it i i t i it
i t i t it it it
TB GDPV GDPO REX E
E TB GDPV GDPO REX
Trong đó, các hệ số 1 2 3, , thể hiện hồi quy dài hạn của tỷ lệ xuất nhập khẩu
theo GDP và tỷ giá, 1 2 3, ,i i i thể hiện mối quan hệ trong ngắn hạn giữa các biến số
trên, i thể hiện tốc độ điều chỉnh sai số của kỳ trước trong kỳ hiện tại, ,i it là các
sai số ngắn hạn quan sát được và không quan sát được.
Kết quả phân tích
Thực hiện kiểm định ADF và Philips Perron cho số liệu mảng để kiểm tra tính
dừng của các biến nghiên cứu, kết quả được trình bày trong Bảng 3 như sau:
Bảng 3. Mức xác suất của các kiểm định tính dừng đối với các biến
Biến số
Kiếm định ADF Kiểm định PP
Không có
xu thế
Có xu thế Không có
xu thế
Có xu thế
Ln(TB) 0.0000*** 0.0004*** 0.0000*** 0.0000***
Ln(GDPV) 1.0000 1.0000 0.9922*** 0.0240**
Ln(GDPO) 0.4966 0.4706 0.1813 0.0655*
Ln(REX) 0.9974 0.0207*** 1.0000 0.6722
D(Ln(TB)) 0.0000*** 0.0000*** 0.0000*** 0.0000***
D(Ln(GDPV)) 0.0000*** 0.0000*** 0.0000*** 0.0000***
D(Ln(GDPO)) 0.0011*** 0.2076 0.0000*** 0.0000***
D(Ln(REX)) 0.0052*** 0.0520* 0.0000*** 0.0000***
Trong đó: *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%
Kết quả kiểm định cho thấy, các biến giải thích trong mô hình đều không dừng,
biến phụ thuộc Ln(TB) dừng nhưng kiểm định dừng xu thế có ý nghĩa, trong khi, sai
phân của các biến trong mô hình đều dừng với mức ý nghĩa rất chặt. Như vậy, có đủ
15
điều kiện để kiểm định tính đồng tích hợp giữa biến phụ thuộc và các biến giải thích.
Kết quả kiểm định Bảng 4 như sau:
Bảng 4. Kết quả kiểm định đồng tích hợp bằng kiểm định Westerlund
Biến giải
thích
Biến phụ thuộc: Ln(TB)
tG G tP P
Ln(GDPV) 0.0000*** 0.0000*** 0.0000*** 0.0000***
Ln(GDPO) 0.0000*** 0.0000*** 0.0000*** 0.0000***
Ln(REX) 0.0000*** 0.0000*** 0.0000*** 0.0000***
Trong đó: *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%
Kết quả kiểm định đồng tích hợp cho thấy, cả bốn kiểm định trong kiểm định
Westerlund đều khẳng định giữa biến phụ thuộc và các biến giải thích có mối quan hệ
đồng tích hợp ở mức ý nghĩa rất chặt. Như vậy, các biến số đã đạt yêu cầu để chạy mô
hình PMG. Kết quả ước lượng mô hình như trong Bảng 5:
Bảng 5. Kết quả mô hình PMG đánh giá tác động ngắn hạn và dài hạn
Biến số Hệ số Biến số Hệ số
Tác động dài hạn Tác động ngắn hạn
Ln(GDPV) 0.906*** 1tE -0.777***
Ln(GDPO) 0.304* D(Ln(GDPV)) -0.516*
Ln(REX) 1.04*** D(Ln(GDPO)) -12.335
D(Ln(REX)) -0.096
Trong đó: *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%
Kết quả mô hình cho thấy, trong dài hạn, ảnh hưởng của các tăng trưởng kinh tế
ở các quốc gia đối tác thương mại chiến lược có ý nghĩa lớn trong thúc đẩy cải thiện
tương đối cán cân thanh toán, tăng trưởng trong nước cũng có tác động tương tự, tuy
nhiên ảnh hưởng thúc đẩy này ít có ý nghĩa. Hệ số của tỷ giá (1.04) một lần nữa khẳng
định điều kiện Marshall - Lerner, mức ý nghĩa thống kê chặt hàm ý phá giá nội tệ
(USD/VND) thực sự có hiệu ứng cải thiện cán cân thương mại song phương, và là cơ
sở để cải thiện cán cân thương mại tổng thể.
Đối với tác động điều chỉnh trong ngắn hạn, có thể nhận thấy một vài điểm đáng
lưu ý như sau: Thứ nhất, cú sốc làm tăng tỷ lệ xuất nhập khẩu kỳ trước sẽ được điều
chỉnh giảm rất nhanh trong kỳ tiếp theo (hệ số điều chỉnh bằng -0.777). Điều này cho
16
thấy, việc thúc đẩy cải thiện cán cân thương mại có hiệu quả nhưng nếu không có giải
pháp thúc đẩy liên tục, tốc độ tăng tương đối của xuất khẩu so với nhập khẩu sẽ được
điều chỉnh giảm rất nhanh hay nói cách khác, các giải pháp cải thiện cán cân thương
mại trong thời gian qua chưa thực sự bền vững. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế trong
nước có hiệu quả cải thiện cán cân thương mại, nhưng tăng trưởng nóng sẽ làm suy
giảm tốc độ tăng tương đối của xuất khẩu so với nhập khẩu hay ảnh hưởng tiêu cực
đến cán cân thương mại, hệ số tác động ngắn hạn của biến động GDP trong nước (-
0.516) cho thấy nếu chênh lệch tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa hai thời kỳ liên tiếp
tăng lên sẽ làm giảm rất nhanh tốc độ cải thiện cán cân thương mại, hay trong điều
kiện kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững, việc cải thiện cán cân thương mại mới
có hiệu quả rõ ràng hơn, việc tiến hành chính sách trong điều kiện kinh tế bất ổn cần
thận trọng vì dễ dẫn đến những rủi ro khó có thể kiểm soát. Gia tăng chênh lệch tăng
trưởng của các quốc gia đối tác và chênh lệch biến động tỷ giá giữa các thời kỳ liên
tiếp có hiệu ứng làm kìm hãm tốc độ cải thiện cán cân thương mại nhưng theo bảng kết
quả ở trên, hiệu ứng này gần như không có ý nghĩa.
4.2 . Đánh giá theo Trường phái chi tiêu
Mô hình phân tích
Đối với tiếp cận chi tiêu, nghiên cứu mở rộng đánh giá ảnh hưởng của các nhân
tố vĩ mô khác lên cán cân thanh toán. Trong cách tiếp cận này, mô hình phân tích có
dạng như sau:
1 2 1 2 1 2
1 2
it t i it t it t it
t it it it
TOB GDPV GDPO GV GO MV MV
RIV RIO REX
Trong đó:
- itTOB là cán cân thương mại song phương của Việt Nam và các quốc gia đối
tác được tính bằng chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
- ,t itGDPV GDPO là GDP thực tế của Việt Nam và quốc gia đối tác tính theo
mức giá năm 1994.
- ,t itGV GO là chi tiêu chính phủ của Việt Nam và quốc gia đối tác.
- ,t itMV MV là cung tiền M2 của Việt Nam và quốc gia đối tác.
- ,t itRIV RIO là lãi suất thực của Việt Nam và quốc gia đối tác.
- itREX là tỷ giá thực song phương giữa Việt Nam và quốc gia tối tác.
17
Nghiên cứu sử dụng số liệu điều tra của 15 quốc gia có tổng kim ngạch xuất
khẩu cao nhất với Việt Nam theo thống kê của cơ quan thống kê thương mại quốc tế -
Liên hợp quốc. Số liệu về thương mại song phương cũng được tổng hợp từ nguồn trên.
Các số liệu vĩ mô khác được lấy nguồn từ thống kê của Ngân hàng Thế giới và cơ quan
thống kê của các quốc gia. Nghiên cứu sử dụng số liệu theo năm bao gồm 16 năm từ
2000 đến 2015.
Với mô hình phía trên và đặc tính số liệu, phương pháp ước lượng được sử dụng
là các mô hình số liệu mảng với ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên, trong đó
có hiệu chỉnh sai số theo robust.
Kết quả mô hình
Dựa trên phương pháp và số liệu ở trên, nghiên cứu tiến hành ước lượng các mô
hình. Kết quả được tổng hợp trong Bảng 6 như sau:
Bảng 6. Kết quả hồi quy mô hình theo tiếp cận chi tiêu
Biến số Mô hình (I) Mô hình (II) Mô hình (III)
FE RE FE RE FE RE
GDPV -0.080* -0.080* -0.078* -0.034 -0.095** -0.045
GDPO 0.004*** 0.004*** 0.004*** 0.013** 0.004*** 0.0014*
GV 1.013 0.600 1.651 0.963 1.82 1.04
GO -0.005* -0.004 -0.006* -0.002 -0.005* -0.002
MV - - -0.31* -0.024 -0.029 -0.022
MO - - 0.001 0.0003 0.00001 0.077
RIV 0.062* 0.053 0.084* 0.073 0.091* 0.077
RIO 0.013 -0.002 0.010 -0.003 0.013 0.0025
REX - - - - 0.0001** 0.0001**
Hệ số chặn -3.610 -1.85* -4.542*** -2.61*** -5.412*** -3.152***
Chỉ tiêu
R2 chung 0.4659 0.4688 0.4653 0.4517 0.4935 0.4868
Kiểm định
Hausman 0.0000*** 0.0000*** 0.0000***
Trong đó: *, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1%
Kết quả của các mô hình trong bảng trên giúp đánh giá trực tiếp tác động
tuyệt đối của các biến kinh tế lên cán cân thương mại. Kiểm định Hausman ở cả ba
nhóm mô hình đều chỉ ra mô hình ảnh hưởng cố định sẽ được ưu tiên sử dụng trong
phân tích.
18
Căn cứ vào các hệ số của biến tổng sản phẩm quốc dân ở cả ba mô hình (I), (II)
và (III) có thể nhận thấy, tăng GDP trong nước là nhân tố làm cán cân thương mại sụt
giảm. Điều này phù hợp với thực tế khi GDP phản ánh thu nhập, GDP trong nước cao
là nhân tố thúc đẩy nhập khẩu, đặc biệt khi Việt Nam là quốc gia có nhu cầu hàng hóa
quốc tế cao và co giãn lớn theo thu nhập. Đối với GDP nước ngoài do là nhân tố thúc
đẩy xuất khẩu trong nước nên mang hệ số dương là phù hợp với thực tế.
Bảng 6 phản ánh kết quả trên cũng chỉ ra tác động của chi tiêu chính phủ lên cán
cân thương mại, ở cả hai mô hình ảnh hưởng cố định đều chỉ ra, chi tiêu chính phủ
trong nước không có ý nghĩa tác động đến cán cân thương mại, hay nói cách khác, các
khoản chi tiêu của chính phủ cũng không đem lại nhiều hiệu quả cải thiện thương mại
hoặc ít được sử dụng vào mục đích cải thiện cán cân thương mại.
4.3 . Đánh giá theo Trường phái tiền tệ
Ở hai mô hình (II) và (III), kết quả ước lượng tại Bảng 6 cũng cho thấy tăng
cung tiền trong nước sẽ làm tăng thâm hụt cán cân thanh toán. Các kết quả cũng chỉ ra
bằng chứng tăng lãi suất thực trong nước sẽ có khả năng giúp cải thiện cán cân thương
mại, trong khi lãi suất thực tại các quốc gia đối tác lại không có nhiều ý nghĩa. Như
vậy, có thể nhận thấy, chính sách tiền tệ (cung tiền và lãi suất) trong nước có ảnh
hưởng rõ ràng lên cán cân thương mại nhưng theo hướng khác nhau. Theo đó, các
chính sách vĩ mô trong nước cần phải được cân nhắc và đánh giá cẩn thận về ảnh
hưởng qua lại giữa các thị trường và ảnh hưởng gây ra cho cán cân vãng lai.
Ở mô hình cuối cùng, tỷ giá thực có ý nghĩa và mang ảnh hưởng dương, kết quả
này cũng củng cố các phân tích ở trên khi xét về mặt giá trị tuyệt đối, tăng tỷ giá thực
sẽ giúp cải thiện cán cân thương mại một cách rõ rệt.
Theo lý thuyết đưa ra ở trên, phương pháp tiếp cận tiền tệ tập trung vào cung và
cầu tiền và quá trình cung tiền ở các quốc gia. Tiếp cận tiền tệ cho rằng sự thay đổi
trong cán cân thanh toán quốc tế và tỷ giá là kết quả của sự thay đổi trong cung và cầu
tiền. Cung và cầu tiền tác động lên lãi suất, đầu tư và do vậy tác động đến tỷ giá và cán
cân thanh toán quốc tế. Trong điều kiện Việt Nam, giả sử tỷ giá danh nghĩa E không
thay đổi, dự trữ ngoại hối phải thay đổi để duy trì trạng thái cân bằng, cán cân thanh
toán quốc tế cũng phải điều chỉnh khi có bất kỳ sự mất cân bằng nào xảy ra trên thị
trường tiền tệ. Giả sử Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tăng cung tiền thông qua tăng
trưởng tín dụng làm cho mức cung tiền vượt quá cầu tiền gây áp lực giảm giá VND,
khi đó NHNN phải can thiệp thông qua thị trường ngoại hối để mua VND vào, làm cho
dự trữ ngoại hối giảm xuống (BOP giảm) cho tới khi cung cầu tiền cân bằng. Như vậy
thực chất tăng cung tiền làm cho cán cân thâm hụt như đã trình bày ở trên.
19
Như vậy, có thể thấy rằng cần hết sức lưu ý về sự bất cập về cán cân vãng lai của
Việt Nam thực chất là bất cập về cơ cấu kinh tế và chính sách vĩ mô, vì vậy giải pháp
tốt nhất chính là cải cách cơ cấu và các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô, như chính
sách tài khóa hoặc tiền tệ, hoặc giảm bớt tổng cầu nội địa (và như vậy sẽ cải thiện cán
cân thương mại khi nhập khẩu giảm bớt). Ngoài ra, thay đổi cơ cấu chi tiêu từ hàng
nhập khẩu sang hàng sản xuất trong nước, thông qua hạ thấp tỷ giá thực của đồng tiền.
Đây là phương pháp tiếp cận hợp lý hơn để đối phó với bất cập về cán cân thanh toán.
5. Một số khuyến nghị chính sách
5.1 . Định hướng phát triển, hội nhập và yêu cầu cân bằng bền vững cán cân
vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
Thương mại nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung là một trong những
vấn đề được Đảng đặc biệt quan tâm ngay từ khi nước ta mới tiến hành công cuộc Đổi
mới. Tùy vào mỗi giai đoạn, cương lĩnh và đường lối phát triển kinh tế - xã hội lại
được cụ thể hóa, bổ sung để phù hợp với thực tiễn. Nghị quyết số 49/NQ-CP của
Chính phủ ban hành ngày 10/7/2014 khẳng định nhiệm vụ trong giai đoạn 2011 - 2020
là “đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, cải thiện năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế, thúc đẩy tiến trình tái cấu trúc và đổi mới mô hình tăng trưởng,
tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế…”. Hướng chính sách tổng
quát mà Việt Nam nên theo đuổi, đó là một hệ thống chính sách thương mại bền vững,
hài hoà giữa mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Do vậy, để thực hiện thành công định hướng và các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội đến năm 2020, sự thành công như tiến trình thương mại hóa và hội nhập quốc tế
của Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn 2016 -
2020 là tiếp tục duy trì trạng thái cân bằng tích cực, bền vững của cán cân thương mại
và cán cân thanh toán quốc tế. Theo quan điểm của chúng tôi, ngoài những điều chỉnh
ngắn hạn thông qua chính sách tài chính, để củng cố và hướng tới sự cân bằng bền
vững của cán cân vãng lai cần phải có những tác động và thay đổi một cách đồng bộ
như hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước, tạo điều kiện để thị
trường phát huy tác dụng điều tiết, phân bổ một cách hiệu quả các nguồn lực (vốn, tư
liệu sản xuất, sức lao động, công nghệ) và sản phẩm hàng hóa giữa sản xuất và tiêu
dùng trong và ngoài nước, nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Bước đột phá mang tính then chốt chính là vai trò của Nhà nước trong việc cải
thiện hành lang pháp lý và đổi mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế để sớm ổn
20
định môi trường vĩ mô và lành mạnh hóa nền kinh tế. Điều này sẽ tạo điều kiện
thuận lợi và thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cho các doanh
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xuất - nhập khẩu nói riêng. Cơ chế, chính
sách phù hợp và sự minh bạch không chỉ là đòn bẩy, kích thích sản xuất kinh doanh
mà còn tiết kiệm chi phí sản xuất và lưu thông hàng hóa, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm và tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế
của hàng nội địa. Cơ chế, chính sách được coi là hoàn thiện và phù hợp phải có
điều kiện thuận cho những quy luật của cơ chế thị trường phát huy tác dụng thay
thế cho những mệnh lệnh hành chính quá cụ thể và cứng nhắc. Quản lý và điều tiết
theo các quy luật của cơ chế thị trường đã được chứng minh và kiểm định là hiệu
quả nhất đối với sự phân bổ các nguồn lực, đồng thời cũng phản ánh và góp phần
đảm bảo sự minh bạch của nền kinh tế. Điều này không chỉ tác động trực tiếp đến
hoạt động thương mại quốc tế mà còn là yêu cầu tất yếu của quá trình hội nhập.
Nếu như sự cải thiện về hành lang pháp lý, cơ chế và chính sách quản lý của Nhà
nước được hoàn thiện hướng tới phát huy cơ chế thị trường minh bạch và hiệu quả là
điều kiện cần thì năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là
điều kiện đủ. Có thể thấy rằng ngoài những khoản “chi phí không chính thức” đối với
các thủ tục hành chính, chi phí sản xuất và giá thành của các doanh nghiệp Việt Nam
luôn rất cao bởi những hạn chế, yếu kém nội tại của các doanh nghiệp. Không chỉ lãng
phí và thiếu trách nhiệm trong việc sử dụng các nguồn lực khan hiếm biểu hiện bởi đầu
tư sai hướng, lựa chọn đối nghịch, nhiều doanh nghiệp nước ta còn được đặc trưng bởi
sự thiếu ổn định trong sản xuất kinh doanh, không kiên trì với chiến lược kinh doanh
dài hạn và những yếu kém khác trong quản lý và quản trị điều hành. Chính những điều
này đã làm chậm quá trình đầu tư đổi mới công nghệ, năng suất lao động và hiệu quả
thấp, giá thành sản phẩm cao và năng lực cạnh tranh thấp. Hai điểm tồn tại then chốt
của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam là cơ cấu, chủng loại mặt hàng chưa phong phú và
chất lượng chưa thực sự đáp ứng được những đòi hỏi của đối tác, đặc biệt ở những thị
trường khó tính như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó
khăn trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu, dẫn đến việc nhiều mặt hàng tuy
có sản lượng xuất khẩu lớn, nhưng chưa có khả năng chi phối trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, xuất - nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc vào nguyên liệu
nhập khẩu và thị trường xuất khẩu của một số nước, đặc biệt là Trung Quốc, đây chính
là mối nguy hại tiềm tàng trên nhiều giác độ. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, mục tiêu
đặt ra là gia tăng quy mô xuất - nhập khẩu các yếu tố đầu vào cũng như sản phẩm đầu
ra song cả xuất và nhập khẩu đều không thể phụ thuộc vào một hay một vài quốc gia,
21
nhất là Trung Quốc, mà cần phải đảm bảo thương mại quốc tế không phụ thuộc.
Như vậy ba “khâu then chốt” được xác định cần phải đổi mới và hoàn thiện
mang tính quyết định gồm quản lý nhà nước, năng lực của các doanh nghiệp và sự
minh bạch của thị trường trong nước. Kết quả của những thay đổi này sẽ là sự gia tăng
sản lượng hàng hóa, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu
tiêu dùng trong nước cũng như quốc tế. Rõ ràng là nhân tố mang tính quyết định đến
hạn chế sự quay trở lại của tình trạng thâm hụt, củng cố và duy trì thặng dư cán cân
thương mại và cán cân thanh toán quốc tế và chính là mục tiêu đề ra trong giai đoạn
2016 - 2020.
Trên cơ sở định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu đối với sự
cân bằng cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế của nước ta, chúng tôi xin
mạnh dạn trình bày một số khuyến nghị góp phần duy trì sự cân bằng cán cân vãng lai
và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam một cách chủ động, tích cực góp phần
đảm bảo thắng lợi tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
5.2 . Một số khuyến nghị chính sách
Thứ nhất, thắt chặt chính sách tài khóa, đặc biệt là đầu tư và chi tiêu công:
Giảm thâm hụt ngân sách để hạn chế thâm hụt kép thông qua cắt giảm chi tiêu công,
đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư công. Xuất phát từ những phân tích, nghiên cứu
thực nghiệm và kiểm định bằng mô hình ở trên có thể thấy sự gia tăng chi tiêu của
ngân sách nhà nước trong thời gian 2011 - 2015 không có tác động cải thiện cán cân
thương mại và cán cân vãng lai, trái lại nếu tiếp tục gia tăng sẽ tạo ra thâm hụt kép.
Trong khi chi tiêu công và đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 được đánh
giá là chưa hiệu quả với nhiều dự án gây lãng phí thất thoát thì cần phải cắt giảm chi
tiêu công, ít nhất ở những hạng mục dài hạn, đồng thời kiểm soát chặt chẽ hoạt động
chi tiêu và đầu tư công, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Để làm được
điều này, cơ chế quản lý chi tiêu và đầu tư công cần được thay đổi căn cứ vào kết quả
cuối cùng và chế tài đối với cá nhân người có trách nhiệm phê duyệt, quản lý, sử dụng
các khoản chi tiêu và đầu tư công.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng và
chính sách tài khóa nới lỏng nhằm kích cầu trong nước đã giúp nền kinh tế phục hồi và
tăng trưởng kinh tế trong khi lạm phát được giữ ở mức thấp. Tuy nhiên, các chính sách
này đã dẫn đến sự gia tăng nhu cầu nhập khẩu, được phản ánh trong cơ cấu nhập khẩu,
thâm hụt NSNN ngày càng cao, nợ công cả trong và ngoài nước tăng, từ đó đặt ra yêu
cầu phải hạn chế tăng chi tiêu chính phủ và đầu tư công để ngăn chặn sự trở lại tình
trạng thâm hụt, củng cố thặng dư cán cân tài khoản vãng lai trong tương lai thì mới có
22
nguồn để thanh toán khoản nợ.
Thứ hai, duy trì chính sách tiền tệ ổn định gắn với mục tiêu kiểm soát lạm
phát bao gồm ổn định mức cung tiền, ổn định chính sách lãi suất và ổn định tỷ giá.
- Duy trì sự ổn định mức cung tiền tệ và tăng trưởng tín dụng căn cứ vào nhu cầu
của nền kinh tế và tăng trưởng của GDP. Cũng căn cứ vào kết quả kiểm định mô hình
cho thấy tăng cung tiền không có tác động đối với cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
của Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2015, đồng thời căn cứ vào định hướng vận hành
chính sách tiền tệ hướng vào mục tiêu kiểm soát lạm phát, việc gia tăng cung tiền tệ là
thực sự không cần thiết, trái lại nếu lạm phát được kiểm soát, giá cả hàng hóa trong
nước ổn định sẽ là điều kiện thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và thu
hút dòng vốn đi vào, kể cả đầu tư nước ngoài và kiều hối.
- Duy trì sự ổn định của lãi suất, đặc biệt lãi suất cho vay là điều kiện tháo gỡ khó
khăn và thúc đẩy sự phục hồi sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi các doanh
nghiệp tiếp cận được nguồn vốn với giá cả ổn định sẽ tăng đầu tư và sản lượng hàng hóa
sản xuất trong nước và gia tăng xuất khẩu, thay thế hàng hóa nhập khẩu. Ngoài ra, lãi suất
được duy trì ở mức ổn định còn góp phần ổn định tiêu dùng và tổng cầu, là những cơ sở để
các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế phục hồi vững chắc.
- Duy trì sự ổn định của tỷ giá: Bằng chứng thực tế và kiểm định điều kiện về độ
co giãn ở trên đều cho thấy tuy phá giá tiền tệ có tác động tích cực đến cải thiện cán
cân thương mại của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 song đây là một biện pháp tiềm
ẩn những rủi ro. Thứ nhất, mức độ co giãn của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
không cao, hơn nữa, xét về cơ cấu, chủng loại và thương hiệu hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam cho thấy việc phá giá tiền tệ còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro và thiệt hại
hơn là lợi ích. Thứ hai, hàm lượng giá trị nhập khẩu trong giá trị xuất khẩu của Việt
Nam cao do nguyên liệu chủ yếu được nhập khẩu. Do vậy, phá giá để bù đắp thâm hụt
cán cân thương mại cần phải được hạn chế bởi làm tăng giá nhập khẩu các yếu tố đầu
vào, dẫn đến giá thành sản phẩm tăng, giảm sức cạnh tranh. Phá giá Đồng Việt Nam
cũng là nguyên nhân trực tiếp làm cho gánh nặng về nợ của các doanh nghiệp và nợ
công nước ngoài của Chính phủ tăng lên. Ngoài ra, việc phá giá tiền tệ cũng không thể
thực hiện trong giới hạn của quá trình hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế. Để
ổn định tỷ giá, phương thức tốt nhất là hướng tới điều tiết theo cơ chế thị trường. Tuy
nhiên, trong điều kiện của Việt Nam, để duy trì sự ổn định và phát huy những ưu thế
của cơ chế thị trường, việc xác định và điều tiết tỷ giá cần được đổi mới từng bước
theo hướng giá linh hoạt hơn và đúng với giá trị thực của Đồng Việt Nam. Có thể nói,
các biện pháp chống đô la hóa và điều tiết bằng chính sách “tỷ giá trung tâm” được áp
23
dụng từ tháng 1/2016 đã và đang cho thấy kết quả tích cực của việc ổn định và điều tiết
tỷ giá hướng tới xác định và điều tiết theo cơ chế thị trường là lựa chọn đúng đắn.
Thứ ba, đối với chính sách thương mại: cần thận trọng trước khi ký kết các
hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng như các hiệp định thương mại khu vực (RTA),
trên cơ sở đó chủ động chuẩn bị để đón nhận những lợi thế và hạn chế tác động tiêu
cực khi tham gia các hiệp định FTA, RTA. Thâm hụt thương mại tăng cao 2008 - 2010
cũng xuất phát từ việc cắt giảm nhanh chóng hàng rào bảo hộ kể từ khi hội nhập với
ASEAN, tham gia khu vự mậu dịch tự do ASEAN, ASEAN - Trung Quốc, ASEAN -
Ấn Độ, ASEAN - Hàn Quốc và đàm phán để trở thành thành viên của WTO vào năm
2007. Những thỏa thuận thương mại song phương cũng tạo điều kiện gia tăng nhập
khẩu và thâm hụt thương mại. Hội nhập là xu thế tất yếu, là mục tiêu cũng như điều
kiện phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế, song ở thời điểm hiện tại và trong bối cảnh
thực tế về năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam, đối với chính sách nhập khẩu, cần
phải cân nhắc đến tỷ lệ bảo hộ trong chừng mực giới hạn cho phép (cả về ý nghĩa kinh
tế và các cam kết) thông qua sử dụng các công cụ trực tiếp của chính sách thương mại,
các biện pháp thuế quan, các biện pháp hàng rào kỹ thuật, hạn ngạch nhập khẩu,... là
rất cần thiết. Trong khi cần phải đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, kể cả đối với các thị
trường kim ngạch xuất khẩu tuy còn nhỏ nhưng có tốc độ tăng trưởng và có giá trị gia
tăng xuất khẩu cao. Thực hiện các biện pháp khuyến khích xuất khẩu những mặt hàng
thuộc về lợi thế của Việt Nam, khuyến khích xuất khẩu dịch vụ, lao động để tăng tỷ
trọng thu từ dịch vụ và xuất khẩu lao động, góp phần cải thiện cán cân thương mại.
Thứ tư, đối với thu hút đầu tư và kiều hối: cần tiếp tục duy trì và hoàn thiện
môi trường đầu tư hấp dẫn và an toàn ở Việt Nam để củng cố niềm tin của nhà đầu tư
nước ngoài cũng như kiều bào Việt Nam đối với nền kinh tế đất nước bởi lẽ xuất khẩu
trong những năm qua 2011 - 2015 chủ yếu là sản phẩm của các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài (FDI). Do vậy, song song với thu hút mạnh mẽ là điều chỉnh cơ cấu dòng
vốn đi vào Việt Nam để đảm bảo rằng vốn đầu tư nước ngoài và kiều hối sẽ hướng vào
các lĩnh vực sản xuất vật chất và nâng cấp hạ tầng cơ sở, nâng cao trình độ công nghệ
và giá trị gia tăng của nền kinh tế thông qua phát triển công nghiệp phụ trợ và khai
thác nguồn nguyên liệu tại chỗ.
Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua tăng
cường năng lực sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp Việt Nam cần tận dụng cơ hội và tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước để
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đảm bảo sự cải thiện về công nghệ sản xuất và công nghệ
24
quản lý. Trên cơ sở đó, năng suất, chất lượng và hiệu quả sẽ được cải thiện và tăng trưởng
xuất khẩu ổn định. Trên cơ sở định hướng của Nhà nước, các doanh nghiệp cần tích cực và
chủ động trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất phù hợp, chuyển từ sản xuất sản phẩm giản
đơn sang sản phẩm có giá trị gia tăng cao, chuyển dịch sản xuất từ ngành khai thác sử
dụng, xuất khẩu nguyên liệu thô với hàm lượng công nghệ thấp sang sản xuất và xuất khẩu
sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao hơn.
6. Kết luận
Cán cân thương mại là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cán cân vãng lai và
có ảnh hưởng mang tính quyết định đến cán cân thanh toán quốc tế của mỗi quốc gia.
Chính vì vậy, việc duy trì trạng thái cân bằng của cán cân thương mại luôn dành được
sự ưu tiên của các chính sách kinh tế vĩ mô và điều hành của chính phủ các nước. Tại
Việt Nam, trên cơ sở lý thuyết và kiểm nghiệm thực tế đều cho thấy khả năng duy trì
và củng cố thặng dư của thương mại quốc tế có thể được thực hiện thông qua một số biện
pháp kỹ thuật một cách có giới hạn và trong ngắn hạn như chính sách tiền tệ, chính sách tỷ
giá (phá giá tiền tệ) và các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp. Trong dài hạn, các biện
pháp cần tập trung là thúc đẩy năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Cải cách đầu tư và chi tiêu công để giảm
tổng cầu nhập khẩu trong khi phải tạo điều kiện chuyển đổi cơ cấu ngành nghề và trình độ
công nghệ để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản
phẩm, nâng cao giá trị gia tăng trong giá trị hàng hóa xuất khẩu.
Do những hạn chế về số liệu và các điều kiện nghiên cứu khác, bài viết chưa thể
phân tích, đánh giá cụ thể hơn về mức độ thành công, hạn chế của mỗi biện pháp điều
chỉnh chính sách đối với tình trạng cán cân thương mại và vãng lai của Việt Nam trong
giai đoạn 2011 - 2015. Tuy nhiên, phát huy những đổi mới trong điều hành chính sách
tiền tệ, trong đó có chính sách tỷ giá linh hoạt, hiệu quả và minh bạch hóa các hoạt
động hỗ trợ doanh nghiệp, đầu tư và chi tiêu công, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo
hướng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng giá trị và công nghệ cao chắc chắn
sẽ góp phần quan trọng vào ngăn chặn sự trở lại của tình trạng thâm hụt và duy trì bền
vững trạng thái thặng dư trong giai đoạn 2016 - 2020.
Tài liệu tham khảo
1. Alan A.Rabin and Leland B.Yeager, Monetary approaches to the balance of
payment and exchange rates (1982).
25
2. Mohsen Bahmani-Oskooee, Devaluation and the J-Curve: Some Evidence
from LDCs, The Review of Economics and Statistics, Vol. 67, No. 3 (Aug.,
1985), pp. 500-504.
3. Pilbeam, K.S, International Finance: London Macmillian Bussiness, 1998.
4. Nguyễn Văn Tiến, Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, nhà xuất
bản Thống kê (2005).
5. TS. Mai Thu Hiền và Cao Thị Thanh Thủy, Các giải pháp cải thiện cán cân
vãng lai của Việt Nam (2011).
6. Nguyễn Thị Hà Trang, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Đình Chúc, Thâm hụt tài
khoản vãng lai: Nguyên nhân và giải pháp (2011).
7. ThS. Đinh Thị Thanh Long - HVNH, Phá giá nội tệ: hiệu ứng tuyến J hay
tuyến S
8. Mutrap, Báo cáo phân tích thâm hụt thương mại của Việt Nam và các điều
khoản về cán cân thanh toán của WTO (2009).
9. Trang web Tổng cục Thống kê.
10. Dữ liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước
11. Cơ sở dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Financial Statistics).
26
27
CƠ CHẾ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI, CẤU TRÚC VI MÔ CỦA THỊ TRƯỜNG
NGOẠI HỐI VÀ DIỄN TIẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
TS. Lương Thái Bảo1
Nguyễn Thị Linh Chi2
Nguyễn Thu Huệ3
Phạm Thị Mơ4
Tóm tắt
Nghiên cứu đánh giá tác động của thông tin vĩ mô thay đổi cơ chế tỷ giá hối đoái
lên cấu trúc vi mô của thị trường ngoại hối của Việt Nam. Lý thuyết về xác định chênh
lệch tỷ giá mua và bán được thừa nhận từ các nghiên cứu đi trước tại các thị trường
ngoại hối những năm 1980 và 1990 được kiểm định theo một mô hình hồi quy đơn
giản. Kết quả cho thấy cần phải có mô hình hồi quy tốt hơn để phân tích cấu trúc vi
mô của thị trường ngoại hối Việt Nam. Bên cạnh đó nếu xem xét sâu vào các cơ chế
truyền dẫn từ khối lượng giao dịch và biến động hàng ngày của tỷ giá lên chênh lệch
tỷ giá mua và bán thì thấy đã xuất hiện các yếu tố tích cực để phát triển thị trường
phái sinh trên thị trường ngoại hối Việt Nam.
Từ khóa: cơ chế tỷ giá hối đoái, lý thuyết cấu trúc vi mô, chênh lệch giá mua và
giá bán, chi phí giao dịch.
1. Lời mở đầu
Trong những năm gần đây, Việt Nam luôn phải đối mặt với những biến động của
thị trường thế giới liên quan đến giá cũng như cung và cầu của các hàng hóa do nền
kinh tế có độ mở lớn. Bên cạnh đó, tác động của các chính sách nội địa chưa thực sự
mang lại ổn định bên trong của nền kinh tế, đặc biệt là tăng trưởng và lạm phát luôn là
hai mục tiêu mà quốc gia phải đánh đổi. Các nhân tố bên trong và bên ngoài này được
phản ánh lên một biến số kinh tế quan trọng đó là tỷ giá hối đoái và tạo sự biến động
của nó. Mối quan tâm của giới nghiên cứu và các cơ quan chính sách dường như được
tập trung vào khía cạnh vĩ mô của biến số này, tức là tương tác của tỷ giá hối đoái với
các biến số kinh tế vĩ mô nền tảng và đặc biệt với tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Tuy nhiên, một khía cạnh quan trọng khác của tỷ giá hối đoái cũng cần được
theo dõi và nghiên cứu đó là tác động của cơ chế tỷ giá hối đoái lên cấu trúc vi mô của
1, 2, 3, 4 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
28
thị trường ngoại hối và biến động của tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn. Đây là một biến
số kinh tế vi mô có vai trò không hề nhỏ vì nó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như quyết định của các bên liên quan trên thị
trường ngoại hối. Nhưng trên hết nó có thể giúp thúc đẩy sự phát triển của thị trường
ngoại hối của Việt Nam về cả quy mô cũng như tính hiệu quả, tạo kênh truyền dẫn tốt
hơn giữa chính sách vĩ mô và cung cầu trên thị trường.
Aflouk và đồng tác giả (2016) sử dụng tiếp cận FEER để đo lường độ lệch của tỷ
giá hối đoái tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á.5 Độ lệch của tỷ giá hối đoái
được định nghĩa là mức chênh lệch tính theo phần trăm giữa tỷ giá hối đoái quan sát
trên thực tế và tỷ giá hối đoái cân bằng. Tính toán của các tác giả cho thấy, kể từ 2009
đến 2013, tỷ giá song phương danh nghĩa giữa USD và VND có xu hướng tăng trong
đó VND bị đánh giá thấp hơn mức cân bằng khoảng 24% nếu tính theo giá trị danh
nghĩa. Cùng thời gian, tỷ giá hối đoái hiệu quả thực quan sát luôn bám sát giá trị cân
bằng của nó, chênh lệch gần như bằng không từ 2009 đến 2012 và có xu hướng giảm.
Với sự ổn định tương đối của tỷ giá hối đoái danh nghĩa USD/VND và không có biến
động lớn của các biến số kinh tế vĩ mô từ năm 2013 đến nay, có thể giả định rằng xu
hướng của tỷ giá danh nghĩa và thực này vẫn tiếp diễn với độ chênh lệch có thể khác
biệt đôi chút.
Hình 1. Tỷ giá hiệu quả thực và tỷ giá danh nghĩa của Việt Nam
5 FEER là tiếp cận vĩ mô để xem xét độ lệch của tỷ giá ở trung hạn. Thông tin tỷ giá từ nghiên cứu này
giúp cung cấp bức tranh toàn cảnh của biến động tỷ giá để từ đó có thể xem xét hành vi của tỷ giá trong
ngắn hạn tốt hơn.
29
Nguồn: Aflouk và đồng tác giả (2016)
Diễn tiến trên của tỷ giá hối đoái ở Việt Nam phản ảnh một thực tế rằng chính
sách tỷ giá hối đoái thực thi trong giai đoạn từ cuối 2015 trở về trước mang nhiều điểm
tương đồng với tiếp cận neo danh nghĩa theo định nghĩa của Corden (1992).6 Điều này
phù hợp với mục tiêu chính sách chính thống được công bố của Việt Nam, trong đó ổn
định lạm phát luôn là ưu tiên hàng đầu trên các mục tiêu vĩ mô khác. Việc thực thi
chính sách tỷ giá theo tiếp cận này được thể hiện bằng việc Ngân hàng Nhà nước duy
trì cơ chế biên độ giao dịch ở các mức khác nhau, kết hợp đưa ra các tuyên bố mục tiêu
giữ cho VND không bị mất giá vượt x% nhất định với USD cũng như duy trì các quy
định về kiểm soát vốn chặt chẽ. Thực thi chính sách tỷ giá theo tiếp cận này, bên cạnh
những lợi ích mang lại như giúp ổn định tỷ giá danh nghĩa hay góp phần giảm áp lực
của lạm phát (có thể do nguyên nhân từ chính sách tiền tệ, tài khóa hoặc cơ cấu kinh
tế), Việt Nam cũng phải chấp nhận một số hệ quả không mong muốn mà đặc biệt là đối
với sự phát triển của thị trường ngoại hối.
Nếu nhìn vào các nghiên cứu gần đây về thị trường ngoại hối của Việt Nam,
chúng ta thấy có rất ít nghiên cứu đi sâu vào vấn đề này. Các nghiên cứu như của
Nguyen và Nguyen (2010) và Đinh Thị Thanh Long (2014) chỉ ra một số thực trạng
phải lưu ý về thị trường hiện nay gồm: i) Có chênh lệch giữa tỷ giá quan sát trên thị
trường chính thức và tỷ giá quan sát trên trị trường phi chính thức, ii) Khối lượng
6 Tiếp cận neo danh nghĩa (nominal anchor approach) phát biểu rằng tỷ giá được neo với tỷ lệ lạm phát
của quốc gia so với tỷ lệ lạm phát của các đối tác thương mại. Đây là tiếp cận tiền tệ và có liên quan trực
tiếp đến chính sách của một quốc gia đang phát triển luôn phải đối mặt với áp lực lạm phát. Vì vậy một
quốc gia như thế này có xu hướng cố định hay neo tỷ giá trong một thời gian dài.
30
giao dịch của thị trường giao ngay luôn áp đảo thị trường phái sinh (chủ yếu là thị
trường kỳ hạn), iii) Chi phí giao dịch của nền kinh tế trên thị trường ngoại hối
chính thức biến động theo sự chênh lệch tỷ giá giữa thị trường này với thị trường
phi chính thức, cũng như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán trên thị trường chính
thức, và iv) Thực thi chính sách neo tỷ giá và theo đuổi ổn định của tỷ giá danh
nghĩa dẫn đến các cú sốc về phá giá, bào mòn dự trữ và không hỗ trợ sự phát triển
của các thị trường ngoại hối phái sinh.
Dù trong năm 2015, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và phi chính
thức đã được thu hẹp đáng kể so với các năm trước, nhưng thực trạng kể trên dường
như vẫn còn tồn tại dẫn đến nhu cầu tìm hiểu sâu hơn và liên tục về tác động của cơ
chế tỷ giá hối đoái mới áp dụng từ đầu tháng 01/2016 lên cấu trúc vi mô của thị trường
ngoại hối và biến động của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Nghiên cứu này tiếp cận cấu
trúc vi mô của thị trường liên quan đến quyết định tỷ giá hối đoái dựa trên chênh lệch
giá mua và giá bán của tỷ giá hối đoái danh nghĩa theo Sarno và Taylor (2001) nhằm
xem xét: i) Cơ chế tỷ giá mới tạo ra biến động của tỷ giá quan sát thực tế có phù hợp
với lý thuyết cấu trúc vi mô của thị trường trong khoảng thời gian quan sát không, và
ii) Cơ chế tỷ giá mới có thể tạo ra tác động gì lên thị trường ngoại hối phái sinh. Trong
phần hai, nghiên cứu sẽ trình bày về lý thuyết cấu trúc vi mô đối với thị trường ngoại
hối và lý do lựa chọn tiếp cận chênh lệch giá mua - giá bán trên thị trường ngoại hối
chính thức cho Việt Nam. Phần ba miêu tả về số liệu và phương pháp kiểm định lý
thuyết được chọn. Phần bốn thảo luận kết quả và các ngụ ý chính của nghiên cứu. Phần
năm kết luận bài viết với gợi ý cho nghiên cứu tiếp theo.
2. Cơ chế tỷ giá hối đoái và cấu trúc vi mô
Lý thuyết cấu trúc vi mô của thị trường là một lĩnh vực nghiên cứu được xây
dựng cho thị trường chứng khoán nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng. Nó liên
quan đến việc giải thích hành vi của các bên tham gia thị trường và dẫn đến giải thích
hiệu ứng của thông tin cũng như quy định về thể chế lên kết quả hoạt động của thị
trường. Các yếu tố thể chế có thể liên quan đến công nghệ, truyền thống hay quy định
luật lệ. Phát biểu một cách chính xác hơn, lý thuyết cấu trúc vi mô tập trung vào làm
sáng tỏ các biến số của thị trường liên quan đến thể chế như thông tin về giá, việc kết
nối người mua với người bán, hay chính sách giá tối ưu của nhà kinh doanh tiền tệ.
Theo Evans (2010), biến động của tỷ giá hối đoái theo lý thuyết cấu trúc vi mô
có hai đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, tỷ giá hối đoái quan sát thực tế trên thị trường là
31
một hàm số của các mức giá của đồng tiền mà các nhà kinh doanh tiền tệ niêm yết tại
một thời điểm. Mô hình quyết định tỷ giá vi mô này có ngụ ý quan trọng rằng tỷ giá
hối đoái quan sát thực tế có thể chịu tác động của nhiều yếu tố không hẳn giống với
các yếu tố quyết định tỷ giá trong các mô hình vĩ mô. Thứ hai, thông tin về tình trạng
hiện tại và tương lai của nền kinh tế chỉ có tác động lên tỷ giá hối đoái khi chúng tác
động lên giá niêm yết của các nhà kinh doanh tiền tệ. Tức là chính các nhà kinh doanh
tiền tệ là người thay đổi giá niêm yết để đáp lại thông tin công khai mới đến từ những
công bố kinh tế vĩ mô của các bên. Các nhà kinh doanh tiền tệ cũng có thể thay đổi giá
niêm yết dựa trên các lệnh mua bán họ nhận được từ khách hàng và nhà kinh doanh
tiền tệ khác. Hàm ý của cơ chế truyền thông tin do các dòng lệnh mua bán này giúp
giải thích sự tồn tại của biến động tỷ giá trong ngắn hạn có thể khác với xu hướng tỷ
giá trong trung và dài hạn, mà tại đó tỷ giá hối đoái thường được mô hình hóa theo các
biến số nền tảng của lý thuyết kinh tế vĩ mô. Đặc biệt trong ngắn hạn, tùy thuộc vào
các đặc điểm của thị trường ngoại hối, có thể tồn tại những biến động của tỷ giá thực tế
quan sát làm nó đi lệch khỏi giá trị cân bằng.
Hai đặc điểm trên giúp tạo ra khả năng biến động của tỷ giá do tác động của các
công bố kinh tế vĩ mô có thể thông qua hai kênh là chính thức và phi chính thức. Evans
(2010) không bàn luận cụ thể về hai kênh này nhưng cho biết với hai kênh cùng hoạt
động thì thông tin vĩ mô được cho là đã tạo ra hơn một phần ba phương sai trong tỷ lệ
giảm giá hàng ngày của đồng tiền. Nếu nhìn vào kết quả này thì có thể khẳng định mối
liên quan giữa tỷ giá giao ngay và các biến số vĩ mô bao gồm các biến kinh tế vĩ mô
nền tảng.
Việc áp dụng lý thuyết cấu trúc vi mô vào thị trường ngoại hối đã tạo ra một
mảng nghiên cứu riêng về tỷ giá hối đoái, trong đó có nhiều lý thuyết về hành vi của tỷ
giá được đưa ra. Một lý thuyết quan trọng được sử dụng trong nghiên cứu này là nhân
tố quyết định chênh lệch giá mua và giá bán của tỷ giá.7 Kết quả của việc mô hình hóa
chênh lệch giá mua - giá bán của tỷ giá trong lý thuyết và thực nghiệm những năm
1980 và 1990 xác nhận rằng, độ chênh lệch tỷ lệ thuận trực tiếp với biến động của tỷ
giá (mức thay đổi hàng ngày của tỷ giá) và khối lượng giao dịch của thị trường (chủ
yếu là mua và bán trên thị trường giao ngay). Một trong những nghiên cứu thực
nghiệm quan trọng nhất liên quan đến chênh lệch giá mua và giá bán là của Glassman
(1987). Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng chi phí giao dịch thay đổi mạnh theo
7 Tiếng Anh của chênh lệch giá mua và giá bán của tỷ giá là bid-ask spread. Đây là một thuật ngữ thông
dụng. Để thuận tiện, nghiên cứu này sẽ sử dụng khái niệm này theo cả hai ngôn ngữ khi cần thiết.
32
thời gian để đáp lại những thay đổi trong cơ chế kiểm soát ngoại hối và vốn.8 Điều này
có ngụ ý quan trọng rằng, nếu một quốc gia có sự thay đổi về chế độ tỷ giá thì cũng sẽ
dẫn đến thay đổi về chính sách và công cụ liên quan đến cơ chế tỷ giá, tức là nó có tác
động lên chi phí giao dịch nói riêng và cấu trúc vi mô của thị trường nói chung.
Những dẫn dắt ở trên nhằm để lập luận rằng chênh lệch giá mua và giá bán của
tỷ giá trên thị trường ngoại hối của Việt Nam theo sau một thay đổi danh nghĩa về cơ
chế tỷ giá (công bố phương pháp tính và cơ chế vận hành của tỷ giá trung tâm) có thể
tạo ra những tác động cụ thể lên cấu trúc vi mô của thị trường theo các chiều hướng
khác nhau. Do đó, nghiên