View
4
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
1
Lời Tựa:
Chúng tôi xin giới thiệu độc giả tác phẩm “Chín Sóng Sáng Tạo” “Nine Waves of
Creation” của tác giả Carl Johan Calleman, xuất bản năm 2016.
Cuốn sách “Chín Sóng Sáng Tạo” của Học Giả Tiến Sĩ Carl Johan Calleman là cuốn
sách mới nhất trong năm cuốn sách mà ông viết về chủ đề lịch của người Maya và sự
tiến hóa của vũ trụ và văn minh nhân loại.
Nhận thấy cuốn sách hay và hữu ích trong việc tu hành nên chúng tôi quyết định dịch
ra Việt ngữ.
Chúng tôi đã cố gắng nhiều lần nhưng chưa liên lạc được với tác giả để xin phép dịch
cuốn sách sang Việt ngữ. Nhưng vì lợi ích chung, chúng tôi quyết định để bản dịch này
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
2
trên trang web bachyhuynhde.org để mọi người tham khảo miễn phí, nhưng không được
sử dụng với mục đích thương mại dưới bất kỳ hình thức nào.
Chúng tôi chân thành cám ơn sự đóng góp công sức của cô Viễn Ngân trong việc
dịch thuật và chỉnh sửa bản dịch cho được hoàn hảo.
Trong sách này tác giả đã trình bày một lý thuyết hoàn toàn mới về sự ra đời và phát
triển của vũ trụ chúng ta đang sống dựa trên mô hình của 9 Sóng Sáng Tạo được khắc
trên đá trong lịch của người Maya (lịch Maya hay Mayan calendar) ở Mỹ Châu cách
đây hơn 1300 năm. Lý thuyết này được chứng minh bằng những dữ kiện thu được từ vệ
tinh về bức xạ nền vi sóng vũ trụ (cosmic microwave background radiation – CMBR),
những di tích động vật - thực vật hóa thạch, kiến trúc cổ đại, lịch sử nhân văn, tôn giáo,
chiến tranh, văn hóa của loài người trong 5 ngàn năm qua, cho tới lịch sử phát triển văn
minh hiện đại về cơ học, toán học, tin học, âm nhạc v.v…
Sự kiện lý thú là những biến cố như vậy chẳng hạn như những cuộc thăng trầm của
kinh tế thế giới, sự bùng nổ các thế chiến, sự ra đời của những tôn giáo, sự trổi dậy và
sụp đổ của những đế quốc, cách mạng khoa học hay cách mạng số, v.v.. đều diễn ra
đúng theo như qui trình đã định trong 9 sóng sáng tạo.
Về mặt tâm linh, trong sách này tác giả đã trả lời những câu hỏi khá hóc búa mà xưa
nay ít khi được trả lời thỏa đáng, chẳng hạn như:
1. Vũ trụ ra đời là sự tình cờ ngẫu nhiên hay có mục đích? Nếu có thì mục đích của vũ
trụ hay định mệnh nhân loại là gì?
2. Tại sao các tôn giáo lớn trên thế giới đều ra đời và mang những đặc tính như thế
trong khoảng thời gian cách đây trên 2000 năm?
3. Loài người có cảm nhận về linh hồn từ lúc nào?
4. Tính chất nhị nguyên trong con người bắt đầu từ lúc nào? câu chuyện Adam và Eva
bị đuổi khỏi vườn địa đàng và chu kỳ thăng hoa tâm thức của loài người là gì? Bản ngã
có liên hệ gì tới bán cầu não trái?
5. Bằng cách nào thăng hoa tâm thức nhị nguyên để trở lại tâm lý nhất nguyên, hay trở
về lại vườn địa đàng trong thời đại hoàng kim sắp tới, hậu 2011?
Về mặt chính trị và kinh tế, nhờ am tường về sự vận chuyển của 9 Sóng Sáng Tạo nên
trong cuốn “Mayan Calendar and the Transformation of Consciousnes” xuất bản năm
2000, tác giả đã tiên đoán chính xác về tổng thống của nước Mỹ (hay người lãnh đạo
thế giới) vào chu kỳ năm 2008 sẽ phải là người da màu hay phụ nữ. Quả nhiên tổng
thống Obama người da đen đã đắc cử liên tiếp hai nhiệm kỳ từ 2008 tới 2016. Tác giả
cũng đã tiên đoán đúng biến cố suy sụp kinh tế toàn cầu năm 2008. Trong sách này xuất
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
3
bản năm 2016 khi tổng thống Donald Trump vừa mới đắc cử nhưng chưa nhậm chức,
tác giả đã tiên đoán trước về sự suy đồi của những liên bang gồm khối Euro, Khối Liên
Hiệp Anh, và Mỹ, cùng với sự trổi dậy của các cường quốc Á Châu trong số đó có
Trung Quốc và Nga Sô, sự suy đồi của chế độ dân chủ và sự trổi dậy của những lãnh tụ
độc tài thiên về chủ nghĩa dân tộc (nationalism) mà giờ đây 2019 đã lộ rõ ở nhiều quốc
gia, mà rõ nhất là Donald Trump!
Và trong những chương cuối cùng, tác giả bàn rõ về định mệnh nhân loại trong tương
lai là gì và chúng ta cần phải hành xử như thế nào để dự phần vào kế hoạch thiêng liêng
của vũ trụ để đưa nhân loại vào thời kỳ hoàng kim sắp tới, hậu 2011.
Cuốn sách còn chứa đựng nhiều thông tin hấp dẫn khác không thể liệt kê hết ở đây.
Chúng tôi xin dứt lời và xin quí độc giả tha thứ cho những thiếu sót và lỗi lầm trong
vấn đề dịch thuật.
Chúc các bạn may mắn trên con đường tầm đạo,
Thân chào,
Viễn Lưu
July/25/2019
email:vienluutd@yahoo.com
Website:bachyhuynhde.org
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
4
Mục Lục
Chương Mục Trang
1. Nguồn Gốc của Vũ Trụ. 7
Tình Hình Thế Giới Hiện Tại.
Sự Ra Đời Của Vũ Trụ.
Những Vấn Đề Trong Mô Hình Tiêu Chuẩn Của Thuyết Big Bang.
Giả Thuyết Cây Sự Sống về Nguồn Gốc Vũ Trụ.
Che Giấu Sự Hiện Hữu của Cây Sự Sống.
Nguồn Gốc của Âm Dương.
Mô Hình Ba Chiều (Fractal-holographic) của Vũ Trụ.
Thượng Đế.
2. Chín Sóng Sáng Tạo. 27
Vật Lý Lượng Tử - Tất Cả Là Sóng.
Giao Thoa Sóng và Hình Ba Chiều (3D).
Giải Tầng Số Vũ Trụ.
Sóng Sáng Tạo Thứ Nhất.
Con Số 9 Thiêng Liêng.
Sóng Lịch Mayan.
Chín Tần Số của Sự Biến Đổi.
Sự Giao Thoa của Thông Tin Giác Quan với Sóng Sáng Tạo.
3. Sóng và Linh Xà. 48
Sự Thành Lập và Tiến Hóa của Vũ Trụ.
Máy Sóng Vũ Trụ và Sóng Thứ Nhất.
Sóng Thứ Hai và Cuộc Tiến Hóa Sinh Học.
Phân Cực Giới Tính ở Các Cấp Khác Nhau Trong Vũ Trụ.
Sóng Thứ Ba và Giống Linh Trưởng Lưng Thẳng.
Sóng Thứ Tư và Người Tiền Sử.
Sóng Thứ Năm và Cách Diễn Tả Bằng Dấu Hiệu.
Sóng Thứ Sáu và Óc Suy Luận.
Linh Xà trong Văn Hóa Cổ Đại.
Những Mẫu Giao Thoa Giữa Các Sóng.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
5
4. Cây Sự Sống Trong Cách Trình Bày Cổ Xưa. 72
Bản Đồ Định Mệnh của Nhân Loại.
Vòng Ánh Sáng Hành Tinh.
Sự Đổi Cực của Tâm Trí.
Ký Hiệu Nhị Nguyên.
Hình Học Thiêng Liêng của Tâm Trí Sóng Thứ 6.
Chuyển Tiếp tới Nền Văn Minh.
Nguồn Gốc của Sự Thống Trị và Khuất Phục trong Hình 3D Thiện và Ác.
Gốc Gác của Chế Độ Độc Tài là gì?
5. Ashur, Yahweh, Giáo Hội và Sự Siêu Việt Cuối Cùng của Nhị Nguyên. 95
Cây Sự Sống của Người Assyrian.
Truyền Thống Đạo Chaldean – Do Thái – Kitô.
Câu Chuyện Vườn Địa Đàng trong Sáng Thế Ký.
Thần Yahweh.
Sự Trổi Dậy của Các Tôn Giáo.
Tư Tưởng Độc Thần của Người Do Thái.
Chủ Nghĩa Độc Thần trong Ngày và Đêm của Sóng Thứ 6.
Từ Chúa Jesus đến Giáo Hội Công Giáo La Mã.
Hướng Về Một Thần Học Đa Tầng.
Thượng Đế Vô Thượng.
6. Sóng Thứ 7. 125
Tình Trạng Khó Khăn của Nhân Loại.
Bối Cảnh của Sóng Thứ Bẩy.
Kỷ Nguyên Mới: Sự Toàn Cầu Hóa.
Kỷ Nguyên Mới: Chủ Nghĩa Vô Thần và Giác Ngộ.
Kỷ Nguyên Mới: Khoa Học.
Kỷ Nguyên Mới: Chủ Nghĩa Duy Vật và Công Nghiệp.
Kỷ Nguyên Mới: Sự Bình Đẳng.
Những Chu Kỳ Kinh Tế Toàn Cầu của Sóng Thứ Bảy.
Sự Tăng Tốc của Thời Gian và Khao Khát về Mới Lạ.
7. Tiến Gần Đến Thời Điểm Hiện Tại. 147
Sóng Thứ Tám và Cuộc Cách Mạng Số.
Hình 3D Sóng Thứ Tám và Những Ảnh Hưởng Tới Não Bộ.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
6
Luật Moore’s và Sự Gia Tăng Kinh Tế Bất Bình Đẳng.
Mẫu Tiến Hóa Chung của Những Sóng Sáng Tạo.
Sự Trổi Dậy Của Đông Bán Cầu.
Sự Trở Lại của Phong Trào Tâm Linh.
Tới Tận Sóng Thứ 9.
October/28/2011.
Thay Đổi Lối Tư Duy Về Sự Chuyển Đổi.
8. Sự Ngừng Kích Hoạt của Hình 3D Thiện và Ác. 168
Giai Đoạn Mới Cho Cuộc Sống.
Đi Vào Tương Lai.
Sự Suy Thoái của Cường Quốc Tây Phương.
Sự Suy Thoái của Liên Bang.
Những Phong Trào Di Dân Từ Phương Đông.
ISIL và Bạo Động Ở Trung Đông.
Kinh Tế Thế Giới Sau Sự Chuyển Đổi Sóng.
Quân Bình Bán Cầu với Sóng Thứ 8.
9. Thể Hiện Định Mệnh Nhân Loại qua Sóng Thứ 9. 189
Kỷ Nguyên Hoàn Tất.
Những Quan Niệm Cổ Về Sự Chuyển Đổi Sóng.
Thể Hiện Định Mệnh Nhân Loại Hay Theo Vết Những Chu Kỳ Lập Lại Y Hệt.
Bản Ngã và Siêu Việt Bản Ngã Bằng Sóng Thứ 9.
Trở Nên Một Hiện Thân của Ý Thức Hợp Nhất.
Phương TiệnThực Tế Để Phát Triển Cọng Hưởng Với Sóng Thứ 9.
Mở Lòng Với Đấng Thiêng Liêng.
Mục Đích Của Vũ Trụ.
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
7
Chương 1 Nguồn Gốc của Vũ Trụ
Tình hình thế giới hiện tại
Cuốn sách này mô tả những gì mà tôi tin tưởng vào một mô hình mới, sâu sắc và bền
vững về khởi thủy của loài người và các nhân tố tiềm ẩn thúc đẩy mọi mặt của sự tiến hóa,
bao gồm cả những gì đằng sau lịch sử nhân loại. Giống như tất cả các mô hình thực sự mới,
nó được dựa trên những sự kiện và khám phá mới mà có thể thay đổi cách nhìn của chúng
ta về vũ trụ mà ta đang sống. Tuy nhiên mô hình này không chỉ đơn thuần là lý thuyết mà
còn có những hậu quả trực tiếp về cách mà chúng ta hiểu về thế giới ở thời điểm hiện tại và
những gì mà chúng ta có thể làm về nó.
Bây giờ nhân loại đang trải qua - tại thời điểm đang viết (July/2016) - hoàn toàn khác so
với vài năm trước. Tại Mỹ, các vụ giết người tập thể tăng lên gấp nhiều lần và các nhà
Chính Trị đã nói những điều mà trước đây không thể chấp nhận được. Những cảm tưởng
của một cuộc khủng hoảng tinh thần do sự sợ hãi khá rõ ràng, hệ thống luật lệ không còn
giống như trước nữa. Tính hợp lý và trí tuệ dường như có nguy cơ biến mất, những giá trị
cơ bản của tự do và dân chủ bị đe dọa. Ở bên kia đại dương, vùng Trung đông, bọn khủng
bố đang thể hiện sự tàn bạo chưa từng thấy trong nhiều thế kỉ. Bạo lực không có gì là mới
trong lịch sử loài người, nhưng ở thời điểm hiện tại không còn nhận thấy ranh giới cùng với
sự tôn trọng sự sống. Công bằng mà nói, chúng ta đang ở trong một cuộc khủng hoảng văn
minh ghê gớm, bao gồm cả những tôn giáo trên thế giới. Tuy nhiên, gốc rễ của tất cả những
thay đổi này là gì? Hầu hết những câu trả lời mà các nhà bình luận chính trị đề xuất đều chỉ
tới các lý do gần nhất, dựa trên những quan điểm ngắn hạn của các sự kiện. Thay vì như
trên, ở đây chúng ta sẽ tìm những nguyên nhân sâu xa đằng sau mà cho thấy sự tiến hóa
được bắt đầu và sắp đặt như thế nào. Để trả lời điều này, tôi sẽ trình bày một lý thuyết khoa
học về sự tiến hóa của vũ trụ từ vụ nổ Big Bang đến thời điểm hiện tại giải thích được
những gì đang xảy ra trên thế giới ngày nay. Điều đó cũng ngụ ý rằng nhân loại có vận
mệnh mà tất cả chúng ta cần phải kết nối với nếu chúng ta muốn tiến lên một cách thành
công.
Thật ra điều tôi muốn đưa ra là có một chương trình cho sự tiến hóa của vũ trụ. Tôi nghĩ
khó có thể hiểu những gì đang diễn ra ngày nay nếu không thay đổi lối nhìn cũ về sự tiến
hóa của vũ trụ. Trong cuốn sách này, tôi cung cấp một bối cảnh mới để hiểu về lịch sử loài
người - hay là 1 quan điểm lâu dài mà độc giả xưa nay chưa từng nghe. Ít nhất, tôi hy vọng
sẽ giải thích được lý do tại sao thế giới quá khác biệt chỉ trong vài năm qua. Ở cuối cuốn
sách, chương 9, tôi cung cấp những gì tôi tin là những phương tiện cần thiết và hướng dẫn
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
8
độc giả có thể dùng nó để tiếp tục đào sâu và thích ứng với định mệnh của nhân loại. Do đó,
ngay trong sự hỗn loạn, chúng ta không nên bỏ lỡ các cơ hội tốt đẹp để thích ứng với mục
đích cao thượng hơn của nhân loại đã mở đường cho chúng ta. Có lẽ sự hỗn loạn có mặt ở
đó là để tạo ra một cơ hội cho một thế giới tốt đẹp hơn nảy mầm. Có thể vì những điều kiện
mới này (được tạo ra bởi sóng sáng tạo thứ 9) mà càng ngày càng có nhiều người bắt đầu
thấy mọi thứ được kết nối với nhau. Có thể đó cũng là lý do bạn đang có trong tay cuốn
sách này.
Theo quan điểm mới này, không ai là bất lực cả. Tuy vậy, có lẽ bạn cần phải kêu gọi
nội tâm và thượng hồn của mình để được hướng dẫn. Và những gì được trình bày ở đây có
thể khác với những tư tưởng vững chắc trong cả khoa học và tôn giáo. Tuy nhiên, tôi có thể
bảo đảm cho độc giả rằng quan điểm trên là hợp lý, và tôi sẽ cố gắng trình bày với một
cách mà không cần có đức tin quá lớn nào cả. Do đó, cuốn sách này được mở đầu với
chương nói về sự ra đời của vũ trụ, qua đó cung cấp một khuôn mẫu mới để hiểu về nguồn
gốc của chúng ta. Trong các chương kế tiếp, chúng tôi sẽ khảo sát như thế nào và tại sao
đời sống trổi lên từ điểm khởi đầu này, cho tới đời sống ngày hôm nay và so sánh điều này
với những chuyện sáng tạo cổ xưa. Bất kể người đọc có đồng ý với kết luận của tôi hay
không, tôi nghĩ không thể chối cãi rằng lý thuyết này phá bỏ được ranh giới giữa những hệ
thống tư tưởng với các ngành mà trước đây dường như hoàn toàn tách biệt. Trong chương 7,
8 chúng ta sẽ quay lại xem xét tình hình hiện tại của chúng ta và hy vọng tới lúc đó độc giả
đã có được một cách hiểu hoàn toàn mới về thế giới. Điều này có thể được dùng để hướng
dẫn tới thời đại hoàng kim mà sẽ đề cập tới ở chương 9 và chương cuối. Chúng ta hãy bắt
đầu bằng cách đạt được một quan điểm mới về nguồn gốc của chúng ta là gì thông qua
những khám phá mới ấn tượng ghê gớm về vũ trụ học
Sự Ra Đời của Vũ Trụ
Trước tiên vũ trụ mà chúng ta đang sống đã ra đời như thế nào? Để trả lời câu hỏi này -
nền tảng cơ bản để hiểu biết mục đích của cuộc sống - tất cả xã hội loài người đều có
những câu chuyện về sự sáng tạo, giải thích cách mà vũ trụ, trái đất đã hiện hữu và bản
thân họ đã được sinh ra như thế nào. Những câu chuyện sáng tạo cổ xưa chủ yếu bao gồm
Thượng đế, các vị thần sáng tạo và đưa ra lý do tại sao họ tạo ra thế giới và loài người. Các
tôn giáo độc thần lớn xem Thượng đế là nguồn gốc duy nhất cho sự hiện hữu của chúng ta.
Trong thế giới Tây phương, câu chuyện sáng tạo phổ biến, ít nhất cho tới thế kỉ 17 - là câu
chuyện sáng tạo trong kinh thánh (thảo luận trong Chương 5). Đã lâu rồi, điều này được
hiểu là thế giới mới chỉ được 6000 năm và tất cả mọi loài, kể cả loài người đã được tạo ra y
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
9
như vậy tại thời điểm đó. Tuy nhiên, với lối suy nghĩ mới vào giữa thế kỉ 18 (1700s) (sẽ
được bàn trong chương 5), điều này dần trở nên rõ ràng hơn - đó là vũ trụ thì lâu đời hơn
thế và trái đất hiện tại đã được thành lập, phát triển bởi những qui trình địa chất trên hàng
trăm triệu năm. Bằng chứng hóa thạch về các loài sinh vật đã tuyệt chủng cũng cho biết rõ
là về mặt sinh học nói lên rằng sự tiến hóa đã diễn ra không đồng nhất với quan niệm tất cả
các loài mới chỉ xuất hiện cách đây vài ngàn năm.
Kết quả là, trong khoảng thế kỉ 19, câu chuyện sáng tạo của thánh kinh dần dần bị thất
thế trong giới trí thức và từng bước các giáo lý khác nhau của thánh kinh bị bỏ qua một bên.
Khi điểm khởi đầu của sự tiến hóa dần dần bị đẩy lùi về quá khứ, thì một khoảng trống về
nguồn gốc thật sự của vũ trụ là gì đã hình thành, một khoảng trống mà các nhà khoa học
thay vì các tu sĩ hiện nay đang cố gắng che lấp. Tuy nhiên, trong lúc đời sống trên hành
tinh của chúng ta rõ ràng đã tiến hóa từ rất lâu rồi với bằng chứng về sự tiến hóa trên qui
mô vũ trụ, thì mới đây và khi Einstein đưa ra thuyết tương đối vào 1915, ông ta vẫn dựa
vào mô hình của một vũ trụ không có sự tiến hóa.
Tuy nhiên vào 1920, nhà thiên văn học người Bỉ (cũng là một linh mục) Georges
Lemaitre là người đầu tiên đề xuất lý thuyết mà sau này chính là thuyết Big Bang. Dựa trên
quan sát chuyển động của các thiên hà, ông đã đề xuất lý thuyết mà vũ trụ đang mở rộng ra
và có điểm khởi đầu từ một “nguyên tử” hay “trứng vũ trụ” và phát triển một lý thuyết toán
học cho nguồn gốc của vũ trụ này. Năm 1927, nhà thiên văn học người Mỹ, Edwin Hubble
đã xác nhận tính hợp lý về những tư tưởng của Lemaitre thông qua một nghiên cứu về
red-shift của các thiên hà, một nghiên cứu mà sau đó đã khiến Einstein sửa lại những tiêu
cực trước đó của mình đối với một vũ trụ tiến hóa. Einstein thực tế đã có lúc phải thốt lên
rằng lý thuyết của Lemaitre là một giải thích đẹp và thỏa đáng nhất về sự sáng tạo mà ông
đã từng nghe. Do đó, có một thời điểm lý thuyết nguyên tử nguyên thủy được xem như là
có thể thống nhất khoa học với tôn giáo, và một số nhà khoa học đã chịu lắng nghe lý
thuyết này. Sau đó, vào năm 1951, giáo hoàng XII tuyên bố rằng lý thuyết của Lemaitre là
một minh chứng khoa học cho cách nhìn của giáo hội Công Giáo về sự sáng tạo. Tuy nhiên,
chính Lemaitre đã phản đối lời tuyên bố này, ông cho rằng lý thuyết của mình là trung lập
và không có sự liên hệ hay tương phản nào giữa đức tin và lý thuyết của ông ta. Chúng ta
chỉ có thể suy đoán động cơ của Lemaitre, nhưng có lẽ Lemaitre không muốn làm giới khoa
học xa lánh ông vì lý thuyết của mình (được biết tới từ 1949 là lý thuyết Big Bang) và vì
thế thuyết phục đức giáo hoàng ngừng thảo luận về hậu quả của nó cho sự sáng tạo.
Trớ trêu thay, mặc dù sự thật người khởi đầu của lý thuyết Big Bang lại chính là một
linh mục-con chiên ngoan đạo, nhưng lập trường của Lemaitre đã mở ra một hướng mới để
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
10
giải thích nguồn gốc vũ trụ theo chiều hướng duy vật, mà đã chi phối lĩnh vực nghiên cứu
này kể từ ngày đó. Không ít thì nhiều, dần dần cả cộng đồng khoa học cũng bị thuyết
BigBang thu hút, đáng chú ý nhất là qua khám phá về bức xạ nền vi sóng vũ trụ (cosmic
microwave background radiation - CMBR) của Penzias và Wilson vào 1960. Bức xạ nền vi
sóng này là sức nóng sau phát ra từ nhiệt độ khởi đầu ghê gớm của Big Bang khi nhiệt độ
vũ trụ lên đến hàng tỉ độ. Mặc dù kể từ lúc đó, vũ trụ đã nguội đi nhiều, nhưng CMBR vẫn
có thể đo được và cung cấp những thông tin về nhiệt độ được phân phối như thế nào tại thời
điểm vũ trụ được sinh ra. Vì nhiệt độ đo được trong CMBR phù hợp với những gì được dự
đoán, sự khám phá về CMBR tương tự như sự khám phá về sự giãn nở của các thiên hà, đã
chỉ ra sự khởi đầu của vũ trụ là bắt đầu từ một điểm ở trong quá khứ xa xôi. Big Bang được
nhìn nhận như vụ nổ lớn mà không có nguyên do nào cả, và ngay cả các nhà khoa học cũng
sẽ nhìn lối giải thích như vậy là quá đơn giản. Đây là yếu điểm của quan điểm này.
Theo sau sự khám phá về CMBR, một mô hình tiêu chuẩn về vũ trụ học đã được phát
triển trong cộng đồng khoa học, mô tả cách mà sau tiếng nổ Big Bang, không gian-thời gian
đã nổi lên theo cách inflationary (phồng ra), các sơ hạt, các lực thiên nhiên, cũng như các
thiên hà, tinh tú và các hành tinh ra đời. Những chi tiết của mô hình này quá phức tạp cho
phần lớn độc giả, và thuyết Big bang được trình bày bởi các học đường đã trở thành một
lựa chọn thế tục so với những câu chuyện sáng tạo trong quá khứ. Nó đã bị lấy ra tất cả
những gì không đo lường được, và cũng không có cả đấng sáng tạo hay mục đích. Theo
hướng này, khoa học chính thống đã đưa đến một cái nhìn về thế giới hiện hữu mà không
có lý do nào khác hơn là có một vụ nổ lớn vào khoảng 15 tỉ năm trước. Hay theo lời của
nhà đọat giải Nobel, Steven Weinberg, người đã viết một cuốn sách nổi tiếng về thuyết Big
Bang có tiêu đề là: The First Three Minutes, “càng hiểu biết hơn về vũ trụ thì càng thấy nó
vô nghĩa”. Một cách tự nhiên, ngay cả khi mà đại đa số nhân loại vẫn tin vào một quyền
năng cao hơn tạo ra vũ trụ và chính họ, thì sẽ rất khó khăn cho một người cực kì thông
minh để có thể bỏ qua một lý thuyết như thuyết Big Bang mà đã có nhiều dẫn chứng khảo
sát và chấp nhận của khoa học. Do đó chúng ta phải đối mặt với một câu hỏi quan trọng:
Chúng ta chỉ là sản phẩm của một vụ nổ khổng lồ, hay có điều gì không ổn trong cách khoa
học chính thống đã diễn giải về sự ra đời của vũ trụ.
Điều cần phải chỉ ra là, hầu hết các nhà vũ trụ học làm việc với thuyết Big bang trong
50 năm qua đã mang một khuynh hướng vô thần và duy vật, và họ đã tìm cách sáng tạo ra
một mô hình vũ trụ quan mà ở đó Thượng đế có thể bị loại ra ngoài, và những bước tiến
hóa của vũ trụ có thể được giải thích bằng những chuỗi của các sự kiện xảy ra một cách
tình cờ. Điều này không có nghĩa là họ đang tạo ra những dữ liệu giả, nhưng nó có nghĩa là
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
11
họ nhìn vào thực trạng qua một bộ lọc mà làm họ ngoảnh đi, không nhìn vào những dấu vết
kiến thức mà có thể chỉ ra sự hiện hữu của một năng lực duy tâm cao hơn. Vì vậy chẳng có
gì ngạc nhiên khi phần lớn người ta đã cảm nhận thuyết Big Bang xung đột với thuyết một
thiết kế thông minh của vũ trụ. Thật kì lạ là có rất ít cuốn sách về tâm linh hay những tư
tưởng mới lạ quan trọng chịu bàn về nguồn gốc của vũ trụ, mặc dù điều này là tối quan
trọng để hiểu chúng ta là ai và tại sao lại hiện hữu ở đây.
Những Vấn Đề trong Mô Hình Tiêu Chuẩn
của Thuyết Big Bang
Ở đây, tôi muốn nói rằng chính tôi không thắc mắc về những nguyên lý chính của thuyết
Big Bang hay khoảng 15 tỉ năm trước đã có một điểm khởi đầu của vũ trụ. Để rồi chúng ta
sẽ thấy, có nhiều vấn đề rất nghiêm trọng với lối diễn giải chính thức cho thuyết Big bang
và những dữ kiện tích lũy, đặc biệt là gần đây, càng làm lộ rõ hơn. Một vấn đề rõ ràng
trước mắt là thế giới đã hình thành từ tiếng nổ đầu tiên thì không giống như kết quả của
một vụ nổ thông thường. Đọc sách này, làm thế nào bạn có thể sanh ra từ một vũ trụ nóng
tới hàng tỉ độ như vậy? Thế giới mà chúng ta đang sống trong đó thật ra rất có cấu trúc, cả
ở mức vĩ mô của vũ trụ với thiên hà, hệ thống tinh tú và các hành tinh. Khoa học chính
thống giải thích sự xuất hiện của những cấu trúc như vậy là do những biến động ngẫu nhiên
và chính sự sống được xem như một hiện tượng vô tình xuất hiện trên hành tinh chúng ta
và rồi tiến hóa qua những đột biến ngẫu nhiên. Điều này có thể như vậy được không? Trên
thực tế, trong các mô hình vật lý và sinh học hiện đại, sự sống vẫn được xem là một biến cố
xảy ra tình cờ từ những định luật vật lý và hóa học hơn là lý do vì có sự hiện hữu của vũ trụ.
Tuy nhiên, cảm nhận thông thường cho chúng ta biết rằng một hiện tượng vô cùng khó hiểu
và phức tạp như một con người không thể nào là kết quả của một vụ nổ vô định hướng, và
vì thế chúng ta phải đặt câu hỏi: làm thế nào mà vũ trụ trở nên có cấu trúc như thế?
Một vấn đề tổng quát thứ hai liên quan đến mô hình tiêu chuẩn của vũ trụ là các nhà
thiên văn học đã khám phá ra những tinh tú trong các thiên hà thì không tuân theo qui luật
vật lý Newton, mà ngày càng rời xa nhau với vận tốc gia tăng. Điều này khiến họ đưa ra đề
xuất là 95% vật chất của vũ trụ tồn tại ở hai dạng không rõ hình thức là: “dark matter” (vật
chất tối) và “dark energy” (năng lượng tối), mặc dù không có bằng chứng trực tiếp chứng
minh hai thực thể này thực sự tồn tại. Các tư tưởng trừu tượng dựa trên những mô hình
toán học thay vì các quan sát thực tế như bây giờ đang được sử dụng để chắp vá cho mô
hình mà đang đổ bể ở mặt bìa. Mặc dù các nhà thiên văn học tự khen mình vì đã giải thích
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
12
được những hiện tượng bằng mô hình tiêu chuẩn của họ, nhưng nó khó có thể được coi là
một thành công khi mà 95% vật chất của vũ trụ không thể lý giải được trong mô hình này.
Do đó có nhiều lý do để tự hỏi là mô hình với khả năng giải thích ít ỏi này có thể tồn tại
được bao lâu nữa? Rõ ràng điều này cũng đặt ra những câu hỏi đánh dấu cho nhiều vấn đề
khác mà mô hình này được cho là đã giải thích, bao gồm cả sự ngẫu nhiên có ý định về sự
ra đời của vũ trụ. Một số nhà vũ trụ đại diện cho khoa học cũng công nhận rằng ngành khoa
học này đang ở trong cơn khủng hoảng và chúng ta có thể sắp tiếp cận với sự thay đổi cả
nguyên mô hình.
Để xét tính hợp lý của lý thuyết đương thời về nguồn gốc vũ trụ, có thể đầu tiên chúng
ta nên nghiên cứu những dữ kiện đã thu thập được. Nguồn thông tin chính mà chúng ta
hiện có về nguồn gốc vũ trụ là CMBR đã được bàn ở trên. CMBR phản ảnh sự phân bố
nhiệt độ tại thời điểm khoảng 300,000 năm sau Big Bang (xảy ra khoảng 15 tỉ năm trước)
và những dữ kiện đó của CMBR thực sự cung cấp hình ảnh ban sơ về vũ trụ (sự so sánh
này giống như việc nói về hình ảnh của một đứa trẻ mới ra đời được 12 tiếng đồng hồ). Về
mặt thời gian, đây là khoảng gần nhất về điểm khởi đầu của vũ trụ mà hiện giờ chúng ta có
thể đo bởi vì ánh sáng không hiện hữu trước đó. Và do đó, CMBR là quan trọng nếu chúng
ta muốn tìm hiểu về bản chất vũ trụ tại điểm khởi đầu của nó.
Mãi cho đến thế kỉ 21, ý kiến phổ thông nhất là vũ trụ ở cấp vĩ mô thì không có cấu trúc,
ý tưởng này được soạn thảo trong cái gọi là nguyên lý vũ trụ. Lý thuyết này nói rằng ở cấp
vĩ mô, vũ trụ là đồng nhất và đẳng hướng có nghĩa là mọi hướng đều như nhau. Đây là một
nguyên lý hay giả định mà dựa vào đó phần lớn vật lý hiện đại và đặc biệt là thuyết tương
đối đều dùng để làm cơ sở. Nếu nguyên lý vũ trụ đúng như các lý thuyết gia hy vọng thì vũ
trụ ở thời điểm ban sơ mà được đo bởi CMBR cũng phải không có cấu trúc hoặc những
hướng được chọn. Tuy nhiên giả định này phải được kiểm chứng, và do đó vệ tinh COBE
được phóng lên năm 1989 để đo bức xạ vi sóng và vạch ra sự phân bố của nó trong vũ trụ.
Vệ tinh COBE (Hình 1.1a) đã phát hiện ra sự có định hướng (không đồng đều) trong sự
phân bố nhiệt độ vũ trụ của CMBR nhưng không có những yếu tố cấu trúc rõ ràng mà có
thể được dùng để giải thích các khía cạnh khác nhau về sự tiến hóa của vũ trụ. Điều này đã
hỗ trợ cho niềm tin của đa số trước đây là vũ trụ ở cấp vĩ mô thì đồng nhất và đẳng hướng,
trong khi đó các định hướng đã tìm thấy thì chỉ là xuất hiện tình cờ trong tự nhiên mà thôi.
Do đó, nguyên lý vũ trụ dường như đã được chấp nhận. Tuy nhiên, nhận thấy rằng, mức độ
đo của COBE (resolution-mức phân giải) là tương đối thấp, vì vậy câu hỏi còn lại vẫn là:
nếu có một vệ tinh có thể đo được nhiệt độ của CMBR với độ phân giải cao hơn thì nó còn
đúng như thế hay không?
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
13
Hình 1.1
Giả Thuyết Cây Sự Sống về Nguồn Gốc Vũ Trụ
Từ quan điểm của riêng tôi, đã từng nghiên cứu về vũ trụ cổ đại và đặc biệt là của người
Maya thì dường như vũ trụ nên có một Cây Sự Sống (Tree of Life) hay Cây Thế Giới
(World Tree) tại trung tâm của nó. Phải có lý do gì đó để làm cho toàn thể vũ trụ nối kết
với nhau và có định hướng như thế. Thế mà, dựa vào một phần những dữ liệu đo được từ
vệ tinh COBE đã nói ở trên, vào thời điểm đang viết cuốn sách: “Solving The Greatest
Mystery of our Time: The Mayan Calendar (2001)”, tôi phải thừa nhận rằng không có bằng
chứng rõ rệt nào là có một cây sự sống tại trung tâm vũ trụ, dù rằng đây là giáo lý chính
của nhiều tín ngưỡng cổ. Dù sao đi nữa, vì những Cây Sự Sống,Trees of Life (hay axis
mundi), có thể được nhận diện như là trục quay ở tại mức hành tinh và thiên hà, nên hợp lý
để cho rằng có một cây sự sống hiện hữu ở mức mà bao gồm toàn thể vũ trụ. Trong cuốn
“The Mayan Calender and The Transformation of Consciousness (2004)”, tôi đã lập một
giả thuyết về sự hiện hữu của một cột sống vũ trụ. Nhưng tầm nhìn và các ý tưởng là một
chuyện còn bằng chứng lại là một chuyện khác. Thậm chí sau đó, tôi đã nhận ra rằng bằng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
14
chứng vẫn còn thiếu. Sự bức xạ về nhiệt độ từ Big Bang đo bằng vệ tinh COBE về cơ bản
là phù hợp với ý niệm cho rằng vũ trụ thì phân bố đồng nhất lúc ban sơ. Điều này đã chứng
thực quan điểm đồng thuận trong cộng đồng khoa học là vũ trụ ban sơ thì không có cấu
trúc.
Tuy nhiên vào năm 2003, cách đo CMBR mới bằng vệ tinh đã được sử dụng công cụ
mới là WMAP (Wilkinson Microwave Anisotropy Probe) mà có thể cung cấp dữ liệu về sự
phát quang từ Big Bang chính xác hơn nhiều. Thật bất ngờ, khi dữ liệu từ WMAP được
phân tích bằng toán học, thì có một trục và các vùng nhiệt độ khác nhau đã được phát hiện,
những phát hiện đó đã được Ma Tegmark và đồng nhiệp công bố năm 2004. Những vùng
này được sắp xếp giống như những đường vân của trái banh bóng rổ mà đã xác định hướng
của trục qua vũ trụ ban sơ (h.1.2). Katharine Land và Joao Magueijo của đại học Oxford
sau đó đã xác minh những phát hiện này trong bài viết “The axis of evil” - một tên gọi
không hay mà có dính líu tới chính sách đối ngoại của tổng thống Bush. Tuy nhiên cái tên
này vẫn được sử dụng, một phần vì nó hào nhoáng và một phần vì khám phá này dường
như có thể gây nhiều rắc rối cho thuyết vũ trụ đương thời. Như là ở trong hình của WMAP
(hình giữa của h.1.2), vũ trụ ban sơ chẳng những không đồng nhất mà lại được sắp xếp như
một cục bò viên nằm trên một cây tăm. Tâm của cục bò viên dường như có vẻ giống tâm
của vũ trụ, nằm ở hướng của chòm sao xử nữ. Thật lạ kì, cái trục vĩ đại này mà hiện hữu tại
tầng của siêu thiên hà (thiên hà chỉ là một hạt bụi trong ý này) thì nằm trong mặt phẳng của
hình Elip mà có hướng song song với hướng xuân phân thu phân của quĩ đạo trái đất. Mặc
dù điều này có thể chỉ là một sự tình cờ, nhưng cũng có thể là hành tinh của chúng ta đã
được định hướng với cột sống vũ trụ mà đã cho sự sống xuất hiện và chúng ta đang ở một
vị trí đặc biệt trong vũ trụ.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
15
Hình 1.2
Như đã thấy, sự khám phá ra nhiệt độ sau tiếng nổ của Big Bang đã sắp theo một trục
tọa độ thì rất đáng được chú ý, và căn cứ theo thuyết vũ trụ học đương thời, vũ trụ này
được cho là đã hiện hữu một cách tình cờ và không thể có những cấu trúc ở tại cấp vĩ mô
(mà có thể chỉ ra rằng có một đấng tạo hóa đằng sau). Lẽ tự nhiên, sự hiện hữu của một
trục như thế sẽ tạo ra hằng loạt câu hỏi về những giả định trong giới khoa học chính thống,
với những hậu quả tiềm tàng sâu rộng cho môn vũ trụ học, sự khám phá trục này được vấn
nạn ngay từ đầu. Tuy nhiên chẳng bao lâu sau, các nghiên cứu khác đã được thực hiện và
đã xác nhận sự hiện hữu của trục này trong những cách ấn tượng: đầu tiên là sự phân cực
ánh sáng từ quasars <các ngôi sao sắp nổ> (một trong những thiên thể lớn, sáng nhất và
nặng nhất phát ra số lượng lớn sóng radio) bị ảnh hưởng bởi vị trí của nó gần trục này. Một
điều thú vị trong nghiên cứu đặc biệt này là sự phân cực dường như tạo thành thế xoay tuộc
vít thuận chiều quanh trục này, và những nhà biên khảo đưa ra một giải thích về sự kiện
này là toàn bộ vũ trụ xoay quanh một vật mà vật đó chính là trục chính của vũ trụ. Điều
giải thích này thì đồng bộ với tư tưởng là vũ trụ như một tổng thể, là một lốc xoáy quay
tròn tạo ra bởi một trục cột sống và nó đã xuất hiện ngay từ thuở ban đầu. Tiến Sĩ Michael
Longo của Đại Học Michigan, nghiên cứu gia về sự xoay của thiên hà sóng xoáy (xoay
thuận hay nghịch) trong vũ trụ, đã tìm ra một khám phá ấn tượng thứ hai. Ông ta tìm thấy
một đường thẳng chia hai loại thiên hà xoáy thuận hay nghịch thẳng hàng với trục cột sống
đã được khám phá trong phần nghiên cứu của WMAP (h.1.2), do đó tạo ra một hiệu ứng
tương tự.
Những phát hiện liên quan đến cột sống vũ trụ thì rất thú vị vì những điều này có thể là
một phần quan trọng trong cấu trúc và sự tiến hóa của toàn vũ trụ. Hiệu ứng tương tự có thể
cũng chỉ ra một mức phân cực cơ bản của vũ trụ. Cuối cùng, vũ trụ này phải có cấu trúc cơ
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
16
bản và cột sống vũ trụ (Cosmic Axis) có lẽ là một phần để tạo nên cấu trúc cơ bản này. Để
hỗ trợ tư tưởng này, việc nghiên cứu tính quay thuận-nghịch chiều của các thiên hà đã được
thực hiện một cách độc lập với nghiên cứu của WMAP và không thể bị bóp méo bởi bất kì
hình ảnh nào từ trái đất của chúng ta, hay là thiên hà Milky Way. Do đó, Longo kết luận
rằng, cái trục chính cho vũ trụ được xác định rõ ràng ở mức tương đương 170Mpc có nghĩa
là một sự vi phạm nhỏ nhưng đáng chú ý cho định luật vũ trụ và cho tính đối xứng Lorentz,
và do đó vi phạm cả thuyết tương đối của Einstein. Nếu Longo đúng, thì những dữ kiện của
ông chỉ ra một vũ trụ mà đã được phân cực ngay từ đầu bởi cột sống vũ trụ, dẫn đến sự chia
tách của các thiên hà là quay trái hay phải từ góc nhìn riêng của chúng ta. Điều này ám chỉ
một khả năng là cột sống vũ trụ tạo ra tính chất nhị nguyên cơ bản của toàn vũ trụ.
Hơn thế nữa, nếu khuynh hướng quay thuận-nghịch chiều và trục quay của các thiên hà
liên quan trực tiếp đến cột sống vũ trụ, thì điều này có nghĩa là sự hình thành của các thiên
hà không phải là kết quả của sự biến động ngẫu nhiên làm cho nó quay như vậy. Thay vào
đó, sự quay của các thiên hà thì liên quan trực tiếp đến sự quay của cột sống vũ trụ và có lẽ
đã xuất hiện nhờ sự cộng hưởng với điều này. Điều này có nghĩa là tất cả các thiên hà trong
vũ trụ được kết nối với cột sống vũ trụ và cũng được kết nối với nhau. Nếu các thiên hà
khác nhau trong vũ trụ tuy không độc lập mà vẫn duy trì sự nối kết với cấu trúc phân cực
được tạo ra bởi cột sống vũ trụ, thì điều này cũng hỗ trợ cho tư tưởng: sự tiến hóa của các
thiên hà này cũng phải được kết nối và đồng bộ hóa với nhau, và điều này có thể rất quan
trọng cho sự tiến hóa của sự sống. Tuy nhiên khía cạnh quan trọng nhất của khám phá này
là sự hiện hữu của cột sống vũ trụ đã chỉ ra rằng vũ trụ đã có cấu trúc từ thuở ban sơ, mà
đã tạo ra những câu hỏi nghi ngờ về tư tưởng ngẫu nhiên hay sự xuất hiện vũ trụ không có
mục đích gì cả mà đang được khoa học chấp nhận.
Điều mà nói vũ trụ có phương hướng đầu tiên rất là khó chấp nhận được khi chúng ta
lớn lên với một cái nhìn về vũ trụ là không có trên và dưới, với các thiên hà dường như trôi
nổi trong không gian mà không có liên kết với cái gì khác. Một yếu tố về cấu trúc như là
cột sống vũ trụ cũng có vẻ mâu thuẫn với quan điểm của Carl Sagan là: hành tinh của
chúng ta là một hạt bụi cô đơn trong bóng đêm vũ trụ. Dù sao đi nữa, theo quan điểm đang
dần lộ ra và những bằng chứng sẽ được cung cấp cho điều này trong thời gian sắp tới, toàn
bộ vũ trụ với tất cả các thiên hà có một cấu trúc bao quát với phương hướng xuất phát từ
cột sống vũ trụ.
Dựa trên những phát hiện mà tôi đã viết trong cuốn The Purposeful Universe (2009), đã
đề ra một lý thuyết mới để thêm vào sự lựa chọn lý thuyết của Darwin và quan điểm chung
của cộng đồng khoa học về sự tiến hóa của vũ trụ. Sau đó tôi đã xác định trục ma quỉ (Axis
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
17
of Evil) là cây sự sống của người xưa và đặc biệt là của người Maya mà vũ trụ học có tiến
trình thời gian của họ đã đóng một phần rất quan trọng. Điều đáng chú ý là, kể từ khi cột
sống vũ trụ được khám phá trong bức xạ vi sóng ban đầu, tôi đã rút ra kết luận là: không
phải vụ nổ Big bang tạo ra cây sự sống mà sự xuất hiện của cây sự sống đã tạo ra vụ nổ
Big bang. Dựa trên mô hình này, ta chẳng những có thể hiểu tại sao và cách nào mà các
hằng số tự nhiên đã đặt những giá trị cụ thể mà còn cả tại sao những phương cách tiến hóa
vĩ mô của các loài sinh vật cũng dựa trên những mẫu sóng này. Dường như việc khám phá
ra trục ma quỉ giống như là sự khai sơn phá thạch và nhờ đó nhân loại giờ đây đang bắt đầu
khám phá lại về Cây Sự Sống, và có thể một số bước ngoặt sẽ đưa tới sự thống nhất giữa
khoa học và tâm linh.
Che Giấu Sự Hiện Hữu của Cây Sự Sống
Từ từ chúng ta sẽ thấy sự hiện hữu của trục trung tâm vũ trụ tại điểm khởi đầu có những
hậu quả rất sâu sắc và ngay tức thì về cách mà chúng ta hiểu những gì đang xảy ra trên thế
giới ngày nay. Nó cũng lập tức chạm đến câu hỏi về bản chất của Thượng Đế và vũ trụ được
tạo ra như thế nào. Thế mà việc khám phá ra cột sống vũ trụ đã không được phổ biến tới công
chúng một cách xứng đáng và chuyện này thì rất rõ ràng. Đây là trường hợp mà một khám
phá có thể phá vỡ lý thuyết đang được chấp nhận, mà có lẽ tốt nhất cho những người trung
thành với lý thuyết này là che đậy nó lại bằng cách giả vờ rằng nó chẳng có gì quan trọng cả.
Với những ngành khoa học đã trưởng thành vững vàng (established) thì sẽ rất khó chịu nếu có
sự thay đổi về cách lý luận, tuy nhiên, trong trường hợp này những hậu quả thì rất nghiêm
trọng bởi vì nó sẽ ảnh hưởng đến quan điểm của chúng ta về nguồn gốc vũ trụ. Khám phá như
thế sẽ ảnh hưởng đến tất cả mọi ngành khoa học và điều này là quá lớn để cộng đồng khoa
học có thể chấp nhận được.
Vì vậy cột sống vũ trụ đã hầu như bị lãng quên trong các bài viết phổ thông về vũ trụ
học (ngoại trừ một tờ báo độc lập, The Principle, mà rất nhiều các nhà khoa học tham dự
sau đó đã từ bỏ tờ báo này). Việc cố tình lơ là tầm quan trọng của trục này vẫn xảy ra ngay
cả khi có những dữ kiện mới đo được về CMBR bằng vệ tinh Planck được công bố năm
2013 (h.1.1c). Vệ tinh này có độ đo chính xác cao hơn nhiều so với dữ kiện thâu được từ
WMAP và đã xác định sự khám phá trước đây về sự hiện hữu của Trục Ma Quỉ (Axis of
Evil). Thêm nữa, phương pháp đo của vệ tinh Planck hoàn toàn khác với cách đo của vệ
tinh WMAP, điều này chứng tỏ rằng sự có mặt của trục vũ trụ không phải do sai sót của
dụng cụ đo. Theo lời của Geoge Efstathiou - một thành viên của nhóm làm việc này:
“chúng ta có thể tin chắc rằng những sự kiện bất thường này không phải do khí thải của
thiên hà hay những hiệu ứng dụng cụ gây lên, vì cả hai dụng cụ đều cho kết quả như nhau”.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
18
Căn cứ vào điều này, bạn có lẽ đã mong đợi các nhà khoa học trong ngành tuyên bố công
khai rằng: một trong những nguyên lý quan trọng nhất mà khoa học đã dựa vào trên 400
năm qua - là nguyên lý vũ trụ - nay phải được bỏ đi.
Vậy mà khoa học vẫn ôm lấy tư duy mô hình cũ của sự ngẫu nhiên và vô lý. Wikipedia
- thường biểu thị quan điểm chính của khoa học - đã đề cập đến trục vũ trụ là “trục ma quỉ”
dưới “những dị thường khác”: “Những khảo sát gần đây với kính thiên văn Planck - nhạy
hơn rất nhiều so với WMAP và có độ phân giải góc lớn hơn - đã xác nhận sự hiện hữu của
Trục Ma Quỉ (Axis of Evil). Vì hai công cụ khác nhau cùng ghi lại một bất thường thì lỗi
của công cụ (ngoại trừ các tác nhân bên ngoài) có thể bị loại trừ. Sự trùng hợp ngẫu nhiên
là một lời giải thích có thể chấp nhận được. Trưởng khoa học gia từ WMAP, Charles. L.
Bennett đã gợi ý sự trùng hợp ngẫu nhiên và tâm lý của con người có dính líu trong việc
giải thích hiện tượng này, “tôi thật sự cho là có một chút ảnh hưởng tâm lý ở đây, mọi
người thì muốn tìm kiếm những thứ khác thường.”
Sự mong muốn che đậy những khám phá có tính cách khoa học thể hiện rất rõ ràng
trong bài viết này trên Wikipedia. Với người ngoài cuộc, nó có vẻ lạ kỳ là khoa học thể
hiện sự tiêu cực như thế đối với một khám phá dường như vô hại, gắn mác cho nó là Trục
Ma Quỉ (Axis of Evil) và bỏ qua những dữ kiện thực sự bằng cách gọi nó là “hiệu ứng tâm
lý”. Thái độ này đã được duy trì mặc dù thực tế các nghiên cứu đã được thực hiện và kiểm
định toán học bởi nhiều nhóm các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu rất uy tín và cả hai
họa đồ liên tiếp bằng vệ tinh với độ phân giải tăng dần vẫn chỉ ra trục Cột Sống vũ trụ này.
Dù vậy, việc xác minh bằng vệ tinh Planck về sự hiện hữu của trục Cột Sống vũ trụ đã
xác nhận sự hiện hữu của nó và đã mở ra một nghiên cứu mới, tăng thêm chiều hướng tới
vai trò tối quan trọng về cách sắp xếp của vũ trụ. Chẳng hạn một nghiên cứu gần đây (2016)
đã chỉ ra các dòng phản lực phát ra từ các lỗ đen thì có xu hướng dọc theo trục Cột Sống vũ
trụ, thêm vào các nghiên cứu đã tồn tại cho thấy rằng trục này là nhân tố chính trong sự tạo
ra không gian thời gian của vũ trụ. Điều này có nghĩa là các lỗ đen được kết nối với trục vũ
trụ, và chúng ta quay trở lại chủ đề là cuối cùng toàn bộ vũ trụ được kết nối với Cột Sống
vũ trụ.
Nguồn Gốc của Âm Dương
Một nghiên cứu khác không kém phần quan trọng đã chỉ ra rằng Cột Sống vũ trụ (Axis
of Evil) đã chia vũ trụ ra làm hai, các vùng bầu trời với những số lượng lớn khác nhau về
các thiên hà và quasars (ngôi sao sắp nổ). Trong một nửa bầu trời được chia bằng mặt
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
19
phẳng xuyên qua trái đất, tác giả A.K.Singal đã tìm thấy 33 quasars và nửa kia thì chỉ có 15
quasars. Ông kết luận: nếu chúng ta gom hết lại những bất cân đối về sự phân bố của các
quasars và thiên hà trong mẫu 3CRR trên bầu trời, thì xác suất xuất hiện tình cờ theo đúng
sự sắp xếp như vậy giảm xuống còn 2*10^-5. Những bất đối xứng này được tạo ra dọc theo
trục vũ trụ mà sau đó phân chia vũ trụ ra thành bán cầu sáng và tối (ít nhất là khi nói về các
quasars như là nguồn bức xạ), với trái đất nằm ở vị trí rất đặc biệt: mặt phẳng phân chia các
bán cầu này. Trong một nghiên cứu khác về sự so sánh những bán cầu vũ trụ, các tác giả
kết luận: “Kết quả của chúng tôi cho thấy vũ trụ căn bản là không đồng nhất với một trục ở
giữa có hướng chỉ về hướng lưỡng cực của CMBR”. Đây rõ ràng là thuật ngữ chuyên môn,
nhưng “căn bản không đồng nhất” nghĩa là vũ trụ ở cấp vĩ mô được chia thành hai bán cầu
sáng và tối, ít nhất là khi nói tới các phát xạ radio, và đó là trục Cột Sống vũ trụ phân tách
hai bán cầu này. Tối thiểu đối với tôi, hình ảnh mà hiện giờ hiện lên về vũ trụ và nguồn gốc
của nó thực sự làm tôi đảo điên, bởi vì về căn bản nó khác quá nhiều với những gì chúng ta
được dạy và kinh nghiệm của chúng ta về bầu trời đêm. Khi chúng ta nhìn vào trời đêm, có
vẻ như các ngôi sao được phân bố tương đối đều. Tuy nhiên nếu chúng ta giới hạn mình
vào những ngôi sao có tầng số radio lớn không thể thấy bằng mắt, thì nó chỉ ra rằng bức xạ
phát ra chia bầu trời thành hai bán cầu sáng và tối khác nhau. Điều này làm chúng ta nhớ
lại những nguyên lý vũ trụ của người xưa giải thích về sự xuất hiện của tính nhị nguyên
(lưỡng nghi).
Những phát hiện này ngụ ý rằng cái trục (tôi thích dùng tên Cột Sống vũ trụ) đã giới
thiệu tính lưỡng nghi tại cấp vĩ mô của vũ trụ, mà đã tạo ra hai từ trường bức xạ riêng biệt.
Thực tế chúng ta có thể nói một nửa bán cầu sáng là dương, và nửa tối là âm, chia cách bởi
Cột Sống vũ trụ là yếu tố căn bản của nhị nguyên, mà thực sự đã tràn ngập khắp vũ trụ và
phản ánh sự khác biệt vật lý giữa hai bán cầu (h1.3). Từ từ chúng ta sẽ thấy, tính lưỡng
nghi có lẽ đã đóng vai trò quan trọng trong sự tiến hóa của vũ trụ và chính là nguồn gốc của
khái niệm nhị nguyên. Tôi thừa nhận rằng từ trước đến giờ tôi vẫn xem tính chất âm dương
là siêu hình, nhưng những dữ liệu này đã gợi ý đối cực này là căn bản để cho biết vũ trụ
được tạo ra như thế nào về mặt vật lý. Do đó, một cái nhìn về thế giới đang nổi lên mà
trong đó sự phân biệt giữa siêu hình và hữu hình bắt đầu biến mất.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
20
Hình 1.3
Điều tôi muốn đề cập ở đây là bằng chứng sắp tới mà tôi đã đề xuất trong cuốn “The
Purposeful Universe” là cây Sự Sống có thể được ví như hệ tọa độ ba chiều. Do đó, cây Sự
Sống không chỉ là một cái trục mà còn là một khoảng không gian trong ba chiều và có thể
hiện hữu dưới nhiều hình dạng khác phức tạp hơn. Một báo cáo liên quan đến vấn đề này
đã được xuất bản trên tạp chí Nature (2014), cũng đã ám chỉ sự hiện hữu của cây Sự Sống ở
tại trung tâm vũ trụ. Báo cáo này mô tả một mô phỏng (simulation) bằng computer dựa trên
khối dữ liệu lớn nhất về thiên thể đã từng được nghiên cứu. Bằng cách này, sự tiến hóa của
vũ trụ từ 12 triệu năm sau vụ nổ Big Bang đến hiện tại đã được mô phỏng. Đáng chú ý là
nghiên cứu này cho thấy, tại điểm khởi đầu, toàn bộ vũ trụ xuất hiện như một cây Sự Sống
(h 1.4) mà sau này phát triển thành một bó có nhiều nhánh. Một đoạn video ngắn mô phỏng
sự tiến hóa của vũ trụ có trên internet và tôi khuyến khích bạn đọc nên xem nó.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
21
Hình 1.4
Đáng chú ý là mô phỏng này đã được công bố trên tạp chí Nature - tạp chí khoa học uy
tín nhất, bởi vì điều này có nghĩa là dữ liệu của nó đã được kiểm duyệt rất nghiêm ngặt.
Thế mà, dường như những nhà khoa học liên quan đã không thể thấy trọn vẹn hình ảnh của
cây Sự Sống, mà đối với một người khảo sát công tâm thì rất rõ ràng. Kết luận rút ra từ
hàng loạt khám phá này - đi từ việc WMAP xác định trục Ma Quỉ (Axis of Evil) đến sự xác
minh bằng vệ tinh Planck cho tới những khảo cứu để chỉ ra vai trò của cây Sự Sống có ở
trong cấu trúc của vũ trụ - thì khác xa với thuyết được cho là cấu tạo bởi vụ nổ ngẫu nhiên
gọi là Big Bang, tất cả sự tiến hóa của vũ trụ là kết quả của sự xuất hiện trục Cột Sống vũ
trụ (a Cosmic Axis) mà người xưa gọi là cây Sự Sống (Tree of Life) và từ trục này mà vũ
trụ mới có cấu trúc như ngày nay.
Thật thú vị là cây sự sống, mà sự hiện hữu của nó đã được tôi tiên đoán trước khi nó
được khám phá, đã được tìm thấy tại cấp vĩ mô của vũ trụ và bằng chứng ngày càng nhiều
để hỗ trợ cây Sự Sống thực sự đóng một vai trò quan trọng chính trong sự sắp xếp vũ trụ.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
22
Những phát hiện này cho phép chúng ta tạo ra một cái nhìn tổng thể về vũ trụ, giải thích sự
xuất hiện và sự tiến hóa của sự sống một cách có ý nghĩa và cung cấp cơ sở để thống nhất
khoa học và tâm linh. Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng những sự khám phá gần đây, với
những hậu quả to lớn tùy theo cách nhìn của chúng ta vào vai trò của mình trong sự kiện
lớn, đã nhận được sự chú ý xứng đáng tương xứng. Do đó, công chúng chưa biết đến sự
kiện Cột Sống vũ trụ, một bộ phận phổ biến trong vũ trụ quan của những dân tộc cổ xưa, đã
được xác minh bằng các kĩ thuật khoa học hiện đại. Cho nên theo quan điểm của tôi, Big
Bang không phải là một vụ nổ ngẫu nhiên. Thay vào đó là một sự kiện có nhiều từng lớp,
và trong chương tiếp theo chúng ta sẽ thấy sự tiến hóa liên tục của vũ trụ được tạo ra như
thế nào qua sóng sáng tạo phát ra từ cây Sự Sống (Tree of Life).
Nói cách khác, sự thành lập vũ trụ bắt đầu tại Big Bang với một âm ba (rung động, làn
sóng) nghĩa là một sóng đã phát ra từ trục này. Hay như đã nói trong Kinh Thánh: “In the
beginning was the word” (thuở ban đầu là một tiếng hay một âm thanh) <John 1.1>. Trục
mundi mà từ đó phát ra những sóng sáng tạo với kích thước tầm đường kính của vũ trụ, có
lẽ đã lập thành những hình âm-ba ba chiều (vibrational holograms) để tạo nên những nhà
khảo sát tỉnh thức mà cộng hưởng với những làn sóng này trong khắp vũ trụ. Chính sự khởi
đầu của sóng sáng tạo trong cây Sự Sống vũ trụ đã làm cho sự tiến hóa vũ trụ có thể hiểu
được và có ý nghĩa.
Tóm lại, trong thập kỉ qua những dữ liệu đưa ra đã đánh đổ chẳng những Nguyên Lý vũ
trụ mà cả cách nhìn vũ trụ là vô hướng và tình cờ trong thiên nhiên. Ngày nay chúng ta biết
những điều về sự ra đời của vũ trụ có mang nhiều ý nghĩa để hiểu sự sống trên trái đất đã
tiến hóa như thế nào. Từ những khám phá gần đây, có thể rút ra ba kết luận đáng chú ý.
1. Toàn bộ vũ trụ từ lúc khởi thủy đã được sắp xếp theo sự liên hệ với một trục vũ trụ
chính giữa (a Central Cosmic Axis) có lẽ gồm cả sự sắp xếp không gian thời gian, và được
các nền văn minh cổ đại gọi là cây Sự Sống (Tree of Life).
2. Vụ nổ Big Bang không tạo ra cây Sự Sống. Thay vào đó sự xuất hiện của cây Sự
Sống đã tạo ra vụ nổ Big Bang, không gian thời gian, sự giãn nở lạm phát của vũ trụ
(inflationary expansion), và sự xuất hiện sau đó của các thiên hà, hệ thống ngôi sao và đời
sống mà chúng chứa đựng.
3. Trục vũ trụ sanh ra cực đối xứng âm/dương trong khắp vũ trụ. Trái đất nằm trên mặt
phẳng phân chia âm dương của vũ trụ.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
23
Mô Hình Ba Chiều (Fractal-holographic) của Vũ Trụ
Hình học có trước sáng tạo, nó tương đương với trí tuệ của Thượng
đế .. .Geometry is God himself
Johannes Kepler, Harmonices Mundi (1618)
Cần phải chỉ ra rằng, Cột Sống vũ trụ không phải là một “vật” cấu tạo bằng vật chất,
mà là nguồn hình học của không gian thời gian mà qua đó vật thể của vũ trụ được sắp
xếp thành. Cây Sự Sống là tên gọi cho một hình dạng đặc biệt của hình học thuần túy và
là nền tảng cho cấu trúc vũ trụ. Khi hình học này được kích hoạt tại thời điểm vũ trụ ra
đời, thì cấu trúc và ảnh hưởng của hình học này nằm trong năng lượng phát ra của Big
Bang, đã cung cấp cơ sở cho sự tiến hóa của sự sống. Bạn có thể nói rằng đấng Thiêng
Liêng (Divine) đã tự hiển lộ như là hình học thuần túy, đã sáng tạo qua những hiệu ứng
của Hình Học này có trong năng lượng phát ra từ Big Bang. Hình học của cây Sự Sống
là nhân tố chính sắp xếp không gian thời gian của vũ trụ, và chính nó qua sự kích hoạt
và rung động ban đầu mà máy tiến hóa của vũ trụ bắt đầu chuyển động. Trong các
chương tiếp theo, từ cây Sự Sống này, các sóng liên tục phát ra làm phát sinh những
hình âm ba ba chiều (vibrational holograms) mà đã hình thành các khía cạnh vật chất và
tinh thần của sự sống trên khắp vũ trụ. Khi chúng ta nói về việc biểu hiện mục đích của
sự sáng tạo này, cuộc thảo luận dựa trên sự hiểu biết rằng điều này đã bắt đầu với việc
kích hoạt một hình học vô cùng mạnh mẽ, có ảnh hưởng cao nhất mà từ đó sự tiến hóa
liên tục của vũ trụ có thể hiểu được.
Sự sống của vũ trụ chỉ có thể trổi lên và duy trì nếu nó được tạo ra bởi quá trình đồng
bộ hóa ở nhiều mức độ khác nhau. Các hệ thống thiên hà, hệ mặt trời, hoặc các hành
tinh trông có vẻ tự chủ phần nào, nhưng thật ra tất cả chuyển động của chúng đều đồng
nhịp với chu trình tiến hóa để duy trì sự sống. Sự đồng bộ hóa các hệ thống khác nhau
của vũ trụ diễn ra bởi vì Cột Sống vũ trụ đã được tái tạo ở nhiều tầng thấp hơn, như đã
được bàn luận chi tiết trong cuốn “The Purposeful Universe”. Mỗi một tầng có một cây
- một hệ tọa độ được tạo ra từ hình học thuần túy (h1.5) - tại lõi của nó và những cây
này thì dính chùm với cột sống vũ trụ theo mô hình là thành phần thì phụ thuộc vào
tổng thể. Sự sáng tạo vũ trụ do đó phụ thuộc vào sự phối hợp và đồng bộ hóa các hình
học của cây Sự Sống ở các mức độ khác nhau. Do đó, để hiểu sự tiến hóa của sự sống
trong vũ trụ thì cần có cái mà ta gọi là mô hình fractal-holographic, mà theo đó những
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
24
tầng khác nhau của nó được nối kết theo cách là cái nhỏ phản ánh cái lớn (ngoài sao
trong vậy, tiểu vũ trụ, đại vũ trụ đồng nhất thể (giống nhau)).
Hình 1.5
Điều quan trọng cần lưu ý trong hình 1.5 là cây Sự Sống vũ trụ đã được thảo luận trong
chương này thể hiện cho mức bao quát nhất của vũ trụ và là cái mà hình học của mọi tầng
thấp hơn cuối cùng được kết nối với nhau. Điều này có nghĩa là tất cả sự sống trong vũ trụ,
bao gồm cả những gì chúng ta gọi là sự sống ngoài trái đất trong các thiên hà hay những
ngôi sao khác, cuối cùng cũng tìm thấy nguồn gốc và sự phát triển của nó dựa trên những
âm ba phát ra từ cùng một cây Sự Sống vũ trụ. Mô hình được gọi là 3D
(fractal-holographic), vì vũ trụ không chỉ là một hình 3D lớn (hình laser 3 chiều) mà là một
hệ thống phân cấp hologram lồng vào nhau, ở tại những tầng thấp hơn cũng có cây Sự
Sống ở tại trung tâm của nó. Nhờ sự hiện hữu của cây sự sống ở nhiều tầng khác nhau mà
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
25
có fractal và holographic. Mỗi tầng có một số mức độ độc lập nhất định khi ranh giới của
những hệ thống khác nhau này được xác định bởi hình tướng của những cây Sự Sống tại
mỗi tầng.
Mô hình fractal-holographic có nghĩa là những gì diễn ra ở mức độ con người (hoặc
từng bộ phận) tùy thuộc rất lớn vào các hệ thống như các thiên hà và thái dương hệ cao cấp
hơn hệ thống của chúng ta (cơ thể người), và như chúng ta sẽ thấy, các sóng sáng tạo ảnh
hưởng đến các tầng khác nhau một cách đồng bộ. Tương tự, những gì xảy ra ở tầng vi mô
của các tế bào hay nguyên tử được xác định bằng bối cảnh do con người tạo ra. Các tầng
khác nhau hoặc các hệ thống nhỏ nằm trong vũ trụ được kết nối với nhau theo cách này đã
được xác minh rõ ràng trong các cuốn sách trước đây của tôi. Mô hình giải thích cách thay
đổi đang diễn ra trong những hệ thống nhỏ khác nhau được đồng bộ hóa với tổng thể để tạo
ra một vũ trụ mà chúng ta đang trải nghiệm. Vì vậy, vũ trụ không hình thành bằng sự hợp
lại của các nguyên tử một cách nhẫu nhiên, nó không được tạo ra bằng cách thu gọn từ
dưới lên trên. Các hệ thống của sự sống tại mọi tầng được tích hợp như các phần trong tổng
thể, và các nguyên tắc sắp xếp vũ trụ hoạt động từ trên xuống dưới dựa vào sóng sáng tạo
phát ra từ cây Sự Sống vũ trụ, mà đảm bảo rằng sự gắn kết của nó luôn được duy trì.
Thượng Đế (God)
Những gì mà các truyền thống cổ xưa nói về cây Sự Sống sẽ được thảo luận sau, nhưng
chúng ta nên lưu ý rằng trong một số truyền thống này, cây Sự Sống được xem như là đấng
sáng tạo. Nếu chúng ta thực sự chịu nhìn cây sự sống là đấng Thiêng Liêng mà thể hiện ra
hình học thuần túy thì chúng ta có thể giải thích ba quan điểm truyền thống quen thuộc về
đấng Thiêng Liêng (Divine) đó là: Đấng Thiêng Liêng không thuộc về vật chất, Đấng
Thiêng Liêng ở khắp mọi nơi, và Đấng Thiêng Liêng là vô hình. Thượng đế không phải là
vật chất thì phù hợp với hình học của cây Sự Sống bởi vì bản chất của Thượng đế không
phải là vật chất. Hình học thuần túy cũng hiện hữu ở khắp mọi nơi thông qua hệ thống phân
cấp của các cây sự sống mà trong đó mô hình fractal-holographic được tạo thành (h1.5). Do
đó, nếu Đấng Thiêng Liêng được thể hiện qua hình học này thì ngài thực sự cũng hiện hữu
ở khắp mọi nơi. Mỗi chúng sinh, bao gồm cả chúng ta, cũng được tạo ta bởi hình học này,
và vì vậy nếu cây Sự Sống là đấng Sáng Tạo (Creator) thì nó cũng là vô hình. Quan điểm
này cũng phù hợp với ý tưởng chung về bản chất của Thượng Đế (God), cụ thể là Thượng
Đế ở trong mọi người. Một ý niệm tôn giáo phổ biến thứ tư, cụ thể là con người được tạo ra
trong hình dáng của Thượng Đế, cũng phù hợp với mô hình này. Nếu trong hình 1.5 tại góc
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
26
độ vũ trụ chúng ta gán cây Sự Sống là Đấng Thiêng Liêng, thì chúng ta có thể hiểu rằng
hình thể của con người chỉ là phản ảnh của Đấng Thiêng Liêng tạo ra từ hình ảnh của chính
mình.
Có lẽ đấng Sáng Tạo không nằm ngoài cây Sự Sống, điều này làm cho chúng ta có thể
hiểu tại sao người xưa quá chú trọng vào sự thờ phụng cây này. Một Đấng Sáng Tạo mang
hình dáng của Cột Sống vũ trụ của hình học thuần túy đã đưa chúng ta vào tâm điểm của
cuộc xung đột giữa khoa học và tôn giáo ngày hôm nay. Trái ngược với những người tiên
phong lớn về khoa học, bắt đầu với Kepler và ngay cả Einstein, các khoa học gia ngày nay
phần lớn là chống lại tôn giáo và đang cố che đậy mọi thứ mà có thể chỉ ra được sự hiện
hữu của một thiết kế vũ trụ thông minh. Trọng tâm của các nhà khoa học ngày nay là đo
lường các khía cạnh hiện thực của vật chất và phủ nhận sự hiện hữu của mọi thứ khác. Bởi
vì Đấng Sáng Tạo bản chất không phải là vật chất, mà là hình học thuần túy như trong mô
hình được trình bày ở đây, cần phải hiểu rằng sự hiện hữu của Đấng Sáng Tạo sẽ không
bao giờ được chứng minh bằng các phép đo lường như vậy. Câu nói Đấng Thiêng Liêng
không có cách nào đo lường được đồng nghĩa với câu Đấng Thiêng Liêng là vô hình.
Tuy vậy, điều này rõ ràng không có nghĩa là Đấng Sáng Tạo thì không hiện hữu. Điều
chúng ta có thể thấy qua những khám phá mới của vũ trụ học là thực sự có một hình học
thuần túy, mà ảnh hưởng đáng kể đến sự hiện hữu về mặt vật lý và dẫn dắt sự tiến hóa của
vũ trụ. Nếu chúng ta cho hình học thuần túy này là cây Sự Sống hoặc Thượng Đế, thì
chúng ta có thể hiểu được thực tại và phần tâm linh của thực tại thực sự được liên kết với
phần vật chất bằng cách nào dù rằng chúng khác nhau. Đấng Thiêng Liêng thì phải dựa vào
thực thể vật chất để biểu hiện sự sáng tạo của mình, nhưng không bao giờ là thực thể vật
chất, và thực thể đó không thể hiện hữu nếu không có Đấng Thiêng Liêng. Điều này có lẽ
không phải là bằng chứng cho sự hiện hữu của Thượng Đế, và có lẽ không thể có được vì
bản chất vô hình của Đấng Thiêng Liêng. Tuy nhiên, đó là một cách nhìn để thấy khoa học
và tâm linh đã liên hệ với nhau như thế nào theo cách mà chúng có thể cùng tồn tại và đều
có vị trí riêng của mình. Khoa học và tâm linh không bài trừ nhau mà bổ sung cho nhau.
Khoa học có ý nghĩa chỉ có thể được tạo ra với một sự hiểu biết về tâm linh, mặt khác
không có khoa học thì tâm linh có thể mất đi phần lớn nền tảng của nó.
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
27
Chương 2: Chín Sóng Sáng Tạo
Vật Lý Lượng Tử - Tất Cả là Sóng
Cho đến cuối thế kỉ 19, hầu hết các nhà vật lý đều tin rằng thế giới được tạo thành từ
vật chất rắn dưới dạng các hạt không phân chia được gọi là nguyên tử. Nói chung mọi
người cũng tin rằng họ đang sống trong một vũ trụ đặc mà tuân theo các luật toán học đã
biết. Nhưng sau đó, giống như thế kỉ của chúng ta đã bắt đầu với những khám phá ấn tượng
về nguồn gốc vĩ mô của vũ trụ, thế kỉ 20 bắt đầu với những khám phá ấn tượng về vi mô,
mà sẽ mãi mãi thay đổi khoa học vật lý.
Trong những năm đầu tiên của thế kỉ 20, sự rắn đặc rõ ràng của vật chất đã bị phá vỡ
bởi các thí nghiệm được thực hiện bởi Max Planck (black-body radiation <bức xạ> 1900)
và Einstein (hiệu ứng quang điện 1905) đã đưa đến sự ra đời của một kỉ nguyên mới về vật
lý lượng tử. Những thí nghiệm này là những bước đầu tiên mà qua đó những người tiên
phong như Max Planck, Einstein, Niels Bohr, Werner Heisenberg, và Erwin Schrodinger
đã bước vào thế giới của vũ trụ hạt và trong những thập niên đầu của thế kỉ 20, đã phát
triển các khái niệm cơ bản của vật lý lượng tử. Theo đề xuất của mô hình nguyên tử của
Niels Bohr năm 1913 (h 2.1a), sự hiện hữu của các hạt electron, proton, neutron đã được
xác minh, và quan niệm về sự không phân chia được của nguyên tử không còn đúng nữa.
Khi vật chất được nghiên cứu trên các qui mô ngày càng nhỏ, thì những vật thể đã hoạt
động như lượng tử (quanta), hay các gói năng lượng, mà có thể được mô tả hay định lượng
theo công thức nổi tiếng E=mc2 của Einstein, vì vậy vật lý cũ về vật chất rắn đặc biến mất.
Một trong những khái niệm đáng chú ý nhất của vật lý lượng tử được thúc đẩy bởi một
số thí nghiệm là lưỡng tính sóng-vật thể của sự vật. Điều này có nghĩa là các hạt cơ bản,
chẳng hạn như photon, và electron cũng là các sóng và năng lượng của nó có thể được xác
định bằng tần số của chúng. Tùy thuộc vào cách đặt thí nghiệm, vật chất có thể được xem
như thành phần của các hạt hoặc sóng. Chẳng hạn, các nguyên tử có thể được xem như một
hạt nhân được bao quanh bởi các electron di chuyển theo quĩ đạo tròn giống như các hành
tinh trong hình 2.1a. Nhưng mô hình được ưa chuộng là hình 2.1b, nơi mà các electron
không hoạt động như các hạt tại các vị trí có thể xác định được, mà hiện ra như đám mây
electron, hoặc các dạng sóng, mà xác định các đặc tính hóa học của các loại nguyên tử khác
nhau.
Trong mô hình sau, các khối xây dựng cơ bản của vật chất, chẳng hạn như trong trường
hợp này là các electron, có thể được xem là sóng mà vị trí chính xác trong không gian
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
28
không thể xác định được. Chúng chỉ tồn tại như những tiềm năng. Theo đó, vị trí của các
electron trong nguyên tử thực sự không có vị trí cố định như trong hình 2.1a. Thay vào đó,
chúng nên được mô tả như những đám mây electron, phản ảnh các xác suất khác nhau của
một electron tồn tại ở một vị trí nhất định trong đám mây này. Thật là ngạc nhiên, như thế
thì elcectron và các hạt khác không phải là các hạt rắn đặc có vị trí được xác định rõ ràng
trong không gian và thời gian. Chỉ khi có một nhà quan sát chú tâm mới có thể mang lại sự
biến dạng hàm sóng (wave function collapse), điều này khiến cho electron hoạt động và có
thể đo được như một hạt rắn.
Hình 2.1
Sự biến dạng hàm sóng này có những hậu quả cho những gì xảy ra khi bộ não con
người nhận được một lượng tử, chẳng hạn như lượng tử dưới dạng sóng ánh sáng điện từ.
Chúng ta không thực sự nhìn thấy điều này dưới dạng mà nó tồn tại: giống như làn sóng.
Thay vào đó, khi lượng tử đang được chúng ta quan sát thì các hàm sóng biến dạng và được
biến đổi thành tín hiệu điện làm phát sinh một trải nghiệm trong não bộ, chẳng hạn như
màu vàng. Một hậu quả đáng chú ý của điều này là chúng ta không bao giờ cảm nhận được
thực tại hoàn toàn như nó hiện hữu - dưới dạng sóng - và điều này có thể khiến chúng ta tự
hỏi không biết chúng ta trải nghiệm nó chính xác đến mức nào.
Dù rằng hiện nay vật lý lượng tử đã được chấp nhận, dưới nhánh vật lý này chúng ta có
thể dễ dàng hiểu tại sao các nhà khoa học như Einstein đã đặt nhiều câu hỏi liên quan đến
cách nhìn thế giới. Ông nổi tiếng với câu nói “Cơ học lượng tử chắc chắn là đúng, nhưng
một giọng nói bên trong tôi nói rằng đó chưa phải là thực đúng”. Lý thuyết nói rất nhiều
nhưng thực sự không đưa chúng ta đến gần hơn với bí mật của Thượng Đế thêm chút nào.
Tôi cỡ nào đi nữa cũng tin rằng Thượng đế không chơi trò chơi thảy xí ngầu. Nói cho cùng,
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
29
tất cả chúng ta có thể đặt câu hỏi liên quan đến kinh nghiệm chung về vũ trụ từ đâu ra nếu
chúng ta chỉ có một từ trường xác xuất và bất định.
Tôi tin rằng Einstein nói là ông ta khó có thể dung hòa được mô hình xác suất của
thuyết lượng tử với khái niệm về một vũ trụ mạch lạc có mục đích và hướng đi cũng như là
có một nguồn trí tuệ. Để dung hòa được điều này, tôi tin rằng vật lý lượng tử giờ đây phải
được thiết lập lại trong một khung cảnh mới và rộng hơn của 9 sóng sáng tạo phát ra từ cấu
trúc của Cột Sống vũ trụ đã được mô tả trong chương trước. Điều này có nghĩa là những
quá trình xác suất và bất định đang diễn ra tại tầng nguyên tử như trong hình 1.5 phải phụ
thuộc theo các sóng Sáng Tạo mà đã tạo ra cấu trúc của vũ trụ cũng như con người chúng
ta.
Điều này ngụ ý là hãy đem thuyết lượng tử vào trong một lý thuyết sóng rộng lớn hơn.
Trong lúc thuyết lượng tử trong phạm vi vật lý được công nhận thường chỉ giới hạn trong
thế giới nguyên tử hoặc nhỏ hơn và chỉ áp dụng cho phổ sóng điện từ, nghiêm túc mà nói
lượng tử ám chỉ đến bất kì thứ gì mà có thể được lượng tử hóa, và chúng ta sẽ sớm thấy các
sóng sáng tạo đáp ứng tiêu chí này. Vì lý dó này, tôi sẽ xem phần nghiên cứu căn bản về
các sóng sáng tạo như là thuyết lượng tử, bởi vì chúng có những tần số chính xác và riêng
biệt. Theo cách này, chúng ta có thể hiểu câu nói “Tất cả đều là sóng” cũng có ý nghĩa khi
nói đến vũ trụ vĩ mô. Do đó, với sự mở rộng thuyết lượng tử vào dải tần số mới của
fractal-holographic thì rõ ràng là Thượng Đế không thảy hạt xí ngầu. Bằng cách kết hợp
các sóng mà trục vũ trụ phát ra vào trong khuôn khổ khoa học này, nên chúng ta có thể mở
mang tầm hiểu biết về sự hiện hữu của mình. Từ quan điểm này, chúng ta sẽ hiểu hơn về
việc mình từ đâu đến, chúng ta hiện giờ (2016) đang ở đâu trên chặng đường tiến hóa của
vũ trụ, và vũ trụ muốn dắt chúng ta đi theo hướng nào.
Giao thoa sóng và Hình Ba Chiều (3D)
Một đặc tính quan trọng của sóng, đặc biệt là các mẫu giao thoa sóng, là chúng có thể
chứa đựng thông tin. Tính chất này được sử dụng trong tất cả các công nghệ truyền thông
hiện đại như radio, TV, mobile phone, v.v.…. Khi sóng đến trạm thu, chẳng hạn như TV,
một thực tại mà chúng ta có thể trải nghiệm bằng các giác quan của mình được dựng lại
trên màn hình từ các mẫu giao thoa truyền đi bởi các sóng phát.
Hình 3D (holography) là một ví dụ về cách mà các mẫu giao thoa sóng có thể được
dựng lại để tạo ra một thực tại vật lý. Về mặt kĩ thuật, một hình 3D được tạo thành theo hai
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
30
bước. Đầu tiên, chùm laser (tạo ra ánh sáng của một bước sóng cụ thể) được phân chia
(h2.2) sao cho một chùm tia không bị cản trở tới phim thu âm, trong lúc chùm tia còn lại bị
phản xạ lại bởi vật muốn chụp. Khi hai chùm tia kết hợp với nhau trên film 3D mà tại đó
chúng được tụ lại, thì một mẫu giao thoa được tạo ra mà có tất cả các thông tin về kích
thước và hình dạng của vật muốn chụp.
Sau đó, thông tin này được lưu trữ trên phim 2D như một mẫu giao thoa của hai chùm
tia. Để tạo ra một hình ảnh 3D của quả táo, thì một chùm ánh sáng được hướng vào phim
cho kết quả là một hình 3D mà có thể chiếu vào trong khoảng không. Hầu hết chúng ta đã
từng thấy các hình 3D như vậy, mà ở đó chúng ta có thể thấy được chiều sâu và những góc
cạnh phía sau được in lại trên mặt phẳng 2 chiều, nhưng có lẽ đây cũng là một mô hình mà
vũ trụ được tạo ra trên bình diện lớn.
Hình 2.2
Mặc dù mẫu giao thoa sóng như vậy không có ý nghĩa gì cả, nhưng thông tin chứa đựng
bên trong nó thì có thể có ý nghĩa. Những thông tin này, cũng như khả năng truyền thông
tin qua các làn sóng sẽ được quan tâm chủ yếu ở đây. Điều này cho ta một thí dụ về cách
các mẫu giao thoa sóng có thể tái tạo cái nhìn về thực tại mà chúng ta có thể trải nghiệm dù
không nhìn thấy nó trực tiếp. Do đó, các mẫu sóng trong trường lượng tử có thể cung cấp
một thực tế thiết yếu tiềm ẩn vô hình tới thực tại mà chúng ta trải nghiệm, và mô hình này
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
31
tạo nên một nguyên tắc quan trọng trong suốt cuốn sách này. Hình 3D hiện ra trong óc ta
được xem như là các phép chiếu được tạo ra bởi các mẫu sóng trong trường lượng tử.
Chúng tạo ra những phép chiếu này chỉ vì lý do đơn giản là chúng ta tỉnh thức và có thể
làm biến dạng các hàm sóng.
Nguyên lý holographic để tạo ra hình 3D trong không gian được nhà vật lý lý thuyết
David Bohm đề xuất làm cơ sở cho mô hình 3D của vũ trụ. Tương tự, nhà nghiên cứu về
não bộ Karl Pribram đã so sánh tâm trí loài người như hình 3D. Điều này quan trọng ở đây
vì chúng ta sẽ chứng minh một mô hình 3D mà cho thấy tâm trí con người được tạo ra bởi
cây Sự Sống. Một cuốn sách hay thảo luận về hậu quả của những khám phá của họ là The
Holographic Universe của Michael Talbot, và một chuỗi các video thông tin trên YouTube
có cùng tên. Gần đây, nhà vật lý Leonard Susskind cũng đề xuất ý tưởng là toàn bộ vũ trụ
là một hình 3D được tạo ra từ mặt phẳng 2 chiều, hoặc vùng ranh giới, của vũ trụ. Đây là
một ý tưởng trừu tượng hấp dẫn nhưng đã để lại nhiều vấn đề không có câu trả lời, chẳng
hạn: Ai đã thiết kế mặt phẳng hai chiều? Theo quan điểm của tôi, điều thiếu sót ở đây là
nguồn gốc của các sóng mà tạo ra các hình 3D tràn ngập vũ trụ. Tôi xác nhận nguồn gốc
này là Cột Sống vũ trụ và hình 3D mà nó truyền đi được phát sóng bằng sóng sáng tạo bên
ngoài dải tần số bình thường.
Giải Tầng Số Vũ Trụ
Sự đột phá của vật lý lượng tử trong thế kỉ 20 trong nhiều cách đã hòa tan vào nhân loại,
và ngày càng có nhiều người mô tả trải nghiệm của mình bằng tần số và sóng mà họ cộng
hưởng. Thuật ngữ lượng tử đã tiến vào ngôn ngữ hàng này trong lỗi diễn tả như “I like his
vibes – tôi thích sụ rung động của anh ấy”, “chúng ta ở các bước sóng hoàn toàn khác nhau
- we were at completely different wavelengths”, và “tất cả đều phụ thuộc vào tần số - It all
depends on the frequency”. Nhờ biết rằng theo vật lý lượng tử, thế giới mà chúng ta đang
sống không phải là rắn đặc hay có thực như đã từng nghĩ. Một số người cũng đặt câu hỏi
triết học về bản chất tối thượng của thực tại là gì? Vậy thì có thể nào có một từ trường sóng
tiềm ẩn không những xác định cách mà vũ trụ tiến hóa mà còn tạo ra các trải nghiệm của
chúng ta về thế giới hay không? Nếu vậy thì bản chất của từ trường sóng là gì? Điều này có
lẽ là sự hiểu biết mà Einstein đang hy vọng.
Từ vật lý, chúng ta biết có một vài dạng sóng khác nhau mà có thể được chọn làm sóng
sáng tạo. Có các sóng điện từ bao phủ toàn bộ quang phổ từ sóng vô tuyến tới tia gamma.
Cũng có sóng cơ học, chẳng hạn như sóng biển, hoặc sóng âm lan truyền qua không khí,
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
32
mà mang đến cho chúng ta những trải nghiệm khác nhau về âm thanh. Ngoài ra còn có
sóng hấp dẫn (gravitational wave) mới được phát hiện gần đây. Một trong những tính chất
đặc trưng của sóng là chúng có tần số, và ở đây chúng ta sẽ đặc biệt nghiên cứu phổ điện từ
trong phương diện này.
Hình 2.3
Một trong những thành công của khoa học thế kỉ 20 là sự tích hợp nhiều loại bức xạ
điện từ khác nhau trong cùng một khuôn khổ lý thuyết. Tuy nhiên, nghiên cứu trong thế kỉ
vừa qua cũng chỉ ra rằng một phần quang phổ mà chúng ta có thể trải nghiệm bằng các giác
quan chỉ là một phần rất nhỏ trong quang phổ này, (đó là nói ánh sáng trong phạm vi khả
kiến). Hiện cũng tồn tại một phạm vi rộng hơn của quang phổ mà chúng ta chỉ có thể đo
lường và phát hiện với sự trợ giúp của công nghệ. Các tần số trong phạm vi kĩ thuật này tạo
thành cơ sở cho những phát minh chẳng hạn như mobile phone, radio, TV. Cái mà ít người
biết được là phạm vi quang phổ sử dụng ngày hôm nay chỉ giới hạn bằng 1/3 quang phổ
điện từ trên lý thuyết. Trong lý thuyết những bước sóng lớn có độ dài tới đường kính của
vũ trụ là hoàn toàn có thể được. Đường kính này hiện được ước tính trong phạm vi 100 tỉ
năm ánh sáng (1027
m) nhưng tại thời điểm ngay sau vụ nổ Big bang, trục Cột Sống vũ trụ
có chiều dài trong phạm vi 1 tỉ năm ánh sáng.
Do đó, nguyên tắc chung là bạn chỉ có thể đo được sóng nếu nó có bước sóng trong
phạm vi của dụng cụ mà bạn đang sử dụng để phát hiện ra nó, ví dụ như antenna. Bởi vì nó
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
33
không thực tiễn để xây dựng các antenna có kích thước cỡ thái dương hệ, hay thiên hà tối
thiểu với trình độ khoa học kĩ thuật ngày nay, do đó chúng ta đơn giản không biết gì về bản
chất của những sóng có bước sóng rất dài, hoặc vai trò của những sóng này có trong sự
thành lập của vũ trụ.
Chúng ta sẽ sớm nghiên cứu về tần số của các sóng sáng tạo, nhưng điều quan trọng cần
lưu ý là thực tế chúng nằm ngoài phạm vi tần số mà con người có thể phát hiện hoặc điều
khiển trực tiếp. Điều này rất quan trọng và chính nó đã giải thích tại sao chúng ta chưa
khám phá ra những sóng này bằng các dụng cụ hiện tại. Trong chương tiếp theo, chúng ta
sẽ lần lượt xem xét 9 sóng sáng tạo, và chúng ta sẽ thấy rằng chúng có thể được phân loại
thành một dạng hình thái học (hoặc sinh hoặc), cũng như một phạm vi tâm thần.
Hãy nhìn xem, sự khám phá về quang phổ điện từ đã mở mang kiến thức về vũ trụ và
nâng cao sức mạnh công nghệ như thế nào thì có thể suy ra rằng những tần số mà chúng ta
chưa bắt được có thể đóng vai trò quan trọng trong sự hoạt động của vũ trụ. Sự sắp xếp các
cấu trúc thiên văn qui mô lớn dọc theo Cột Sống vũ trụ thực tế có thể phụ thuộc vào các
tương tác trung gian bằng các bước sóng rất dài. Phạm vi tần số lý thuyết của bức xạ điện
từ lớn hơn rất nhiều so với những gì mà chúng ta có thể trải nghiệm trực tiếp bằng giác
quan hoặc thậm chí đo bằng các công nghệ hiện đại.
Sóng Sáng Tạo Thứ Nhất
Tuy nhiên, không có loại sóng nào đã nói như ở trên, ngay cả sóng điện từ, mà có thể
tạo ra sự gắn kết trong vũ trụ. Thay vào đó, điều mà tôi đề nghị là một cấu trúc vũ trụ mà
căn bản là kết quả của sự giao thoa với các sóng sáng tạo. Các sóng sáng tạo là những sóng
dẫn (carrier waves) cho các hình 3D rung động, sắp đặt cấu trúc của thực tại bằng những sự
sắp xếp của các đường thẳng và đường thẳng góc phát sinh ra từ cột sống vũ trụ. Các sóng
này được đặt trong hình 2.3 cùng với các sóng của phổ điện từ để dễ dàng so sánh tần số và
bước sóng của chúng với sóng điện từ, nhưng điều này không có nghĩa là sóng sáng tạo là
sóng điện từ.
Do đó, sự hiểu biết về sóng sáng tạo của chúng ta có những lỗ hổng. Những gì chúng ta
biết về sóng sáng tạo là tần số và tính phân cực của chúng, và không thể phủ nhận rằng
điều này là nền tảng vững chắc để nghiên cứu sâu hơn. Tuy nhiên, chúng ta không biết môi
trường nào mà sóng này di chuyển (nếu có), hay với vận tốc nào ngay cả khi tôi giả định
rằng sóng này di chuyển với vận tốc ánh sáng. Mặc dù sóng sáng tạo có thể có những đặc
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
34
tính quan trọng chung, chẳng hạn với sóng âm hay sóng điện từ, nhưng tôi tin rằng sóng
sáng tạo thuộc về một lớp sóng khác căn bản hơn để tổ chức vũ trụ so với những loại sóng
khác. Để phục vụ cho mục đích này, các sóng sáng tạo cung cấp hình học thuần túy cho tất
cả các tầng vũ trụ. Tôi tin rằng, các nghiên cứu trong tương lai sẽ mô tả những sóng này rõ
ràng hơn bằng toán học và vật lý. Thêm nữa, tôi tin rằng điều cần nhất trong lúc này là
truyền đạt kiến thức rằng những làn sóng này thực sự tồn tại và mang nhiều ý nghĩa nhất
đối với con người để nghiên cứu khi muốn tìm hiểu về lý do tại sao nhân loại ở đây, và sẽ
đi về đâu.
Rồi độc giả có thể hỏi: bằng chứng cho sự hiện hữu của các làn sóng với chu kì hàng tỉ
năm ánh sáng là gì nếu không có cách nào có thể trực tiếp đo được chúng? Câu trả lời (sẽ
thấy trong các chương sau) là chúng ta vẫn có thể đo được một vài hiệu ứng của chúng, và
trong khi những điều này phần lớn dựa trên kho tàng kiến thức hiện đại của nhân loại thì
chúng tôi còn nhận được sự giúp đỡ sâu sắc từ những người cổ đại - đã chỉ ra 9 tầng của vũ
trụ, và luôn cả 9 làn sóng sáng tạo.
Do đó, sóng đầu tiên của hệ thống lịch Maya (h2.4) với tần số thấp nhất đã bắt đầu từ
thời điểm xuất hiện cây Sự Sống (vụ nổ Big Bang) khoảng 16.4 tỉ năm trước, và kể từ đó
đã hoàn thành 13 hablatuns, mỗi hablatun kéo dài 1.26 tỉ năm. Sóng này là một hàm sine
thay đổi giữa các đỉnh và các thung lũng (còn gọi là Ngày và Đêm), và một chu kì kéo dài
1.26*2 = 2.52 tỉ năm, và nếu sóng này được truyền đi với tốc độ ánh sáng thì điều này có
nghĩa là một bước sóng là 2.52 tỉ năm. Do đó, theo ước tính của TS. Longo, bước sóng của
sóng đầu tiên có kích thước trong phạm vi trục vũ trụ là 0.5 tỉ năm ánh sáng tại thời điểm
của CMBR. Do đó, có một sự hợp lý giữa bước sóng của sóng đầu tiên với đường kính của
trục vũ trụ, mà đã cho thấy rằng Cột Sống vũ trụ có thể chính là antenna đã phát ra sóng
này.
Như sẽ thấy trong hình 2.4, những điểm khởi đầu của hai Ngày cuối cùng cho ra những
sự sống đơn giản đầu tiên của trái đất, các tế bào prokaryotic (3.8 tỉ năm trước), tiếp theo là
các tế bào eukaryotic (1.5 tỉ năm trước) mà dần lên tới những bước tiến hóa lớn nhất được
biết trong chu kì tiến hóa sinh học. Nên để ý rằng, tân học thuyết Darwin (neo-Darwinist
model) mà được khoa học chấp nhận chưa bao giờ giải thích những sự tiến hóa (thăng hoa)
nhảy vọt kiểu này xảy ra như thế nào. Nếu vậy thì những bước tiến hóa quan trọng nhất của
đời sống tế bào (mà những sự tiến hóa sinh học khác đều dựa vào đó) trên hành tinh này
xảy ra tại những điểm thay đổi quan trọng (khi những Ngày bắt đầu) trong sóng đầu tiên
này là Tình Cờ sao? Thay vào đó, tôi đề nghị rằng hình 3D xác định giới hạn của một tế
bào (khí hình cầu của tế bào) đã mang lại sự sống trên trái đất đúng vào lúc đúng khởi đầu
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
35
ngày thứ 6 của sóng đầu tiên, và theo sau đó là một dạng tế bào tiến hóa hơn khi ngày thứ 7
bắt đầu. Các hình 3D tạo ra những thực thể này có thể đã tồn tại ngay từ điểm khởi đầu của
sóng khi Cột Sống vũ trụ xuất hiện, nhưng chỉ với những hành tinh có điều kiện lý - hóa
thích hợp, chẳng hạn như trái đất, nổi lên từ 4.5 tỉ năm trước mà hình 3D có thể cho ra các
đời sống sinh vật.
Hình 2.4
Tất cả 9 sóng sáng tạo trong hệ thống lịch này có bước sóng dài hơn đáng kể so với
những gì mà chúng ta có thể đo được trực tiếp. Tuy nhiên, nhờ những kiến thức sâu rộng
mà hiện có về cách xác định thời điểm của những biến cố đã xảy ra trong dòng tiến hóa của
vũ trụ mà chúng ta vẫn có thể xác minh được sự hiện hữu của những sóng sáng tạo. Điều
này sẽ trở nên rõ ràng hơn trong chương 6, 7 khi chúng ta khảo cứu sâu hơn về các giai
đoạn lịch sử gần đây.
Nếu sóng sáng tạo đầu tiên thực sự bắt đầu từ vụ nổ Big bang thì cụm từ “Vào thuở ban
đầu là một tiếng” (in the beginning was the word) (hay nói cách khác là sự rung động, hoặc
một bộ sóng rung động với tần số riêng biệt) thực sự có ý nghĩa, đã bắt đầu quá trình tiến
hóa của vũ trụ cho đến tận thời điểm hiện tại và xa hơn nữa. Nếu thật như vậy, thì chúng ta
nên nhận ra rằng chúng ta đã có một nguồn gốc ở trong sự ra đời của vũ trụ, và vì vậy
chúng ta có thể nhìn thế giới ngày nay không phải là sản phẩm của một tiến trình ngẫu
nhiên mà là kết quả của một tiến trình có mục đích và phương hướng. Do đó tôi đề nghị
rằng vũ trụ được sắp đặt và thiết kế để đi qua một số giai đoạn cho tới ngày hôm nay và
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
36
giai đoạn được tạo ra bởi sóng đầu tiên là giai đoạn đầu tiên. Trước khi tiếp tục khảo sát về
8 sóng còn lại, chúng ta cần nghiên cứu vai trò đặc biệt mà số 9 có ở trong những tập tục cổ
xưa.
Con Số 9 Thiêng Liêng
Dù rằng chúng ta biết nhiều về vũ trụ hơn người xưa,
Nhưng dường như họ biết những điều thiết yếu hơn chúng ta
Vaclav Havel
Một phần kiến thức cơ bản của chúng ta về sóng sáng tạo là họ đã liệt thêm vào con số
9. Đây thực sự là thông tin thu được từ các học thuyết vũ trụ cổ đại, mà trong đó số 9 giữ
vai trò trọng tâm. Trong các truyền thống tôn giáo và tâm linh khác nhau, số 9 thường đươc
xem như là con số biểu hiện cho sự hoàn thành (đắc đạo), và trong hệ thập phân đang được
sử dụng trên thế giới hiện nay, số 9 là chữ số đơn hoàn thành. Nguồn gốc của số 9 như là
một cơ sở cho hệ thống đếm của chúng ta có thể được tìm thấy trong nền văn hóa Indus
Valley đầu tiên, khoảng 3100 BC, là một trong những nền văn minh đầu tiên xuất hiện trên
hành tinh của chúng ta và đã phát triển một hệ thống đo lường toán học. Ngày nay, số 9 vẫn
được tôn kính trong Ấn độ giáo (Hindu), và được coi là một con số hoàn thiện, hoàn thành
và thiêng liêng. Trong đạo Hindu và Phật giáo cùng nhiều truyền thống tâm linh phương
đông khác, số 108 (9*12) cũng là con số thiêng liêng nhất.
Ở Trung Quốc (TQ) cổ đại cũng vậy, số 9 được coi là con số đặc biệt, vì nó là chữ số
đơn cao nhất. Ở TQ, số 9 thường được gắn liền với con rồng, sức mạnh tâm linh của thần
thoại TQ. Con rồng TQ thường có 9 đặc tính và 117 vảy (9*13), trong đó có 81 vảy dương
(9*9), và 36 vảy âm (9*4). (Đáng chú ý là, điều này cho biết tỉ lệ giữa dương và âm, 81/36
= 2.25, giống hệt với tỉ lệ giữa các quasars 33/15=2.2, được tính ở hai bên của trục vũ trụ
như đã đề cập trong chương 1). Hơn nữa, có 9 loại rồng, và đáng chú ý là trong bối cảnh
nghiên cứu sóng ở đây, 9 sóng là 9 rồng con của rồng mẹ vũ trụ. Số 9 cũng được nhìn nhận
là con số của Hoàng đế, là đại diện cho thiên đàng tại thế. Người TQ đã phát triển một hệ
thống phân cấp để xác định có bao nhiêu con rồng trên áo của mình. Hoàng đế thì mặc áo
có 8 trong số 9 con rồng hiển lộ. Tuy nhiên, tất cả các quan chức cấp cao dưới hoàng đế
phải có đủ 9 con rồng ẩn nấp, trong khi đó, các quan chức cấp dưới chỉ được phép mặc áo
choàng với 5 hoặc 8 con rồng, tất cả phải được che bọc bằng áo choàng. Điều này cho
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
37
chúng ta thấy rằng trong thần thoại cổ đại TQ, con rồng thứ 9 (sóng) có một kết nối đặc
biệt với thiên đàng. Cũng có 9 luật xã hội chính, 9 bậc quan chức, 9 nghi lễ thiêng liêng,
các ngôi chùa 9 tầng, tất cả đã góp phần vào bức tranh vũ trụ quan 9 tầng đã ăn sâu vào
tiềm thức người TQ cổ đại.
Hình 2.5
Ở Ai Cập cổ đại, Ennead - một nhóm 9 vị thần, Atum, Shu, Tefnut, Geb, Nut, Osiris,
Isis, Set, và Nephthys - được tôn thờ ở thành phố Heliopolis. Trong nhóm này, thần tự sáng
tạo Atum còn gọi là Ra là người nổi bật nhất. Trước khi các vị thần được phân loại, Atum
đã tự sinh ra Shu - không khí, và Tefnut - nước. Sau đó, Shu và Tefnut (không khí và nước)
lấy nhau, sanh ra Geb - Trái đất, và Nut - bầu trời đêm. Các con của Geb và Nut, anh em
Osiris và Set, chị em Isis và Nephthys lần lượt lấy nhau. Ennead thể hiện một câu chuyện
sáng tạo, với các khía cạnh khác nhau của vũ trụ tuần tự đi vào sự tồn tại thông qua việc
sinh ra 9 vị thần khác nhau.
Bây giờ chúng ta có thể đi từ TQ, Ai Cập đến địa điểm khác trên thế giới, tới bắc Âu,
cũng chỉ thấy rằng tổ tiên Viking của tôi cũng có cái nhìn về 9 thế giới mà là các nhánh của
cây Sự Sống tỏa ra. Vũ trụ được chia thành 3 tầng, mỗi tầng có 3 thế giới, tổng cộng là 9
thế giới. Tầng cao nhất là thế giới của Asgard, nhà của Aesir, những vị thần gods;
Vanaheim, nhà của Vanir - một nhóm các vị thần cổ đại; và Alfheim, nhà của các thiên
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
38
thần. Tầng giữa là Midgard, nơi ở của con người; Jotunheim, nhà của những người khổng
lồ; và Svartalfheim, nhà của yêu tinh. Tầng thấp nhất là Nidavellir, nhà của người tí hon;
Helheim, thế giới của người chết; và Muspelheim, nhà của gã khổng lồ lửa và ác quỉ. Vũ
trụ quan này nghe có vẻ giống như là trong tiểu thuyết giả tưởng (và quả thật vậy, nó đã
hình thành cơ sở của nhiều mẫu chuyện loại này), và vì lý do này nên nó bị coi là chuyện
giải trí. Tuy nhiên, đó chỉ là một cách diễn tả khác về chủ đề vũ trụ có 9 tầng, hay 9 thế giới,
được kết nối với cây Sự Sống. Tôi đề nghị rằng “những thế giới” này là tiếng vọng của các
hình 3D khác nhau từ trục Cột Sống vũ trụ, và 4 hướng vũ trụ trong hình 2.6 có liên quan
đến phương hướng của vũ trụ mà hiện giờ chúng ta đã biết nó tồn tại như đã đề cập trong
chương 1.
Hình 2.6
Trong các chương sau, tôi sẽ cố gắng giải thích những thế giới này trong truyện thần
thoại xưa bằng cách để người ngày nay có thể hiểu được. Tuy nhiên, nên biết rằng tư tưởng
về 9 tầng, hay 9 sóng sáng tạo đã rất phổ biến trong thời cổ đại. Thêm vào ví dụ khác, trong
truyền thống Celtic, số 9 là con số trung tâm, và sự hiện hữu của 9 sóng đã được nói thẳng
ra. Người Aztec thì có 9 thế giới vô hình, và người Hopi thì có 9 vũ trụ. Số 9 cũng là một
con số thiêng liêng của nhiều tôn giáo trên thế giới hiện nay. Trong Do Thái giáo, 9 cánh
cửa mở ra phần thiêng liêng nhất của đền thờ ở Jerusalem, và trong lễ Hanukkah có 9 ngọn
nến trên giá đỡ, trong đó 1 ngọn nến được dùng để thắp sáng 8 cái còn lại. Trong Kitô giáo,
có 1 hệ thống phân cấp gồm 9 tầng hợp xướng của các thiên thần; trong khi theo lịch hồi
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
39
giáo, Ramadan là tháng thứ 9. Dựa trên những sự kiện này về số 9, thật là khó để tin rằng
con số 9 không đóng vai trò cơ bản gì trong sự cấu thành vũ trụ.
Khi khảo cứu vai trò như vậy, chúng ta nên lưu ý rằng, những nền văn hóa nói về sự
hình thành vũ trụ có 9 tầng đã không có liên hệ gì với nhau, và do đó vũ trụ quan của
những nền văn hóa này ắt phải phát triển một cách độc lập. Điều này cho thấy rằng vũ trụ
quan 9 tầng là một sự thật mà đã được trải nghiệm bởi loài người trên toàn cầu từ TQ ở
phương Đông, cho đến Maya ở phương Tây, với châu Âu, Ấn độ, và nhiều nơi khác ở giữa.
Những gì mà tôi đang nói ở đây là loài người trên toàn cầu đã tải xuống các hình 3D được
tạo ra bởi các sóng phát ra từ Cột Sống vũ trụ, mà đã làm cho họ nhận thức được 9 tầng vũ
trụ.
Mặc dù có sự phù hợp này, vũ trụ quan 9 tầng từ các truyền thống khác nhau đương
nhiên phải có một chút khác biệt vì những hình 3D này thì phải phụ thuộc vào văn hóa và
dân tộc đã tải nó xuống nên dẫn đến các cách diễn giải khác nhau. Tuy nhiên, không thể
chối cãi rằng một chủ đề chung đã xuyên suốt tất cả các truyền thống cổ xưa là: vũ trụ được
cảm nhận như được tổ chức phân cấp thành 9 thế giới, thế giới ngầm, hoặc các tầng, được
tạo ra bởi những con rồng hoặc linh xà. Đặc biệt là trong truyền thống TQ và Bắc Âu, 9 làn
sóng cũng có giá trị khác nhau, và ngay cả Hoàng đế TQ cũng tự gắn mình với làn sóng thứ
9. Điều này dĩ nhiên gây ra sự tò mò về 9 sóng, và đặc biệt là những thông tin mà sóng thứ
9 mang theo. Những hình 3D (holograms) nào do sóng sanh ra đã hướng dẫn loài người tạo
ra những cái mà họ gọi là những thế giới khác nhau?
Quan điểm mà tôi trình bày ở đây không phải là những huyền thoại cổ xưa theo đúng
nghĩa đen như một số thành viên của các truyền thống đã khẳng định. Một vài khía cạnh
của các huyền thoại này có thể thực sự chỉ là những chuyện thần thoại. Nhưng đối với tôi
những huyền thoại này không phải là những ý tưởng điên rồ vô căn cứ như theo cái nhìn
của người đời. Quan điểm của tôi là, những điểm chung về thực tại có thể thấy được một
mặt dựa trên những phép đo lường hiện đại, và một mặt khác là dựa trên trực giác và trải
nghiệm của người xưa về những thế giới cao hơn. Tôi tin rằng, các điểm chung giữa những
huyền thoại khác nhau này quá rõ rệt đến nỗi nó gợi ý đến sự hiện hữu của một chân lý
tiềm ẩn mà đã bị lãng quên từ lâu nay.
Người xưa sống trong thế giới khác người ngày nay, và được trải nghiệm thực tại qua
hình 3D khác hơn so với chúng ta hiện nay, hình 3D của họ thì dễ dàng hơn để hiểu thực tại
qua những giấc mơ và báo mộng. Bất kể, dường như có thể có một sự thống nhất giữa quan
điểm của người xưa và người nay khi công nghệ tân tiến đã xác minh sự hiện hữu của cây
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
40
Sự Sống đóng vai trò quan trọng trong vũ trụ quan cổ xưa. Tôi nghĩ rằng, khi chúng ta đi
sâu vào thế giới quan này thì sự thật này cần phải được khôi phục.
Sóng Lịch Mayan
Nền văn hóa cổ đại của người Maya là nền văn hóa mà chúng ta có thể học được nhiều
về con số 9 và 9 làn sóng. Như chúng ta đã thấy, đây không phải là nền văn hóa duy nhất
nhận ra 9 tầng tiến hóa vũ trụ, mà hầu như tất cả đều nhận ra. Tuy nhiên, người Maya là
dân tộc duy nhất trên hành tinh đã phát triển hệ thống lịch để lập biểu đồ 9 làn sóng mà tạo
nên các tầng này. Do đó, một điều đáng chú ý là khả năng của con người hiện đại để tạo ra
một vũ trụ quan tổng thể và thống nhất được khoa học với tâm linh thì phải phụ thuộc trực
tiếp vào tri thức được truyền lại từ người châu Mỹ bản địa. Không có dân tộc nào trên hành
tinh của chúng ta làm lịch mà mô tả sự chuyển động của các sóng với những tần số cao dần.
Không giống như những lịch khác, các sóng này không dựa trên các quan sát thiên văn
trong hệ mặt trời địa phương của chúng ta mà dựa trên sơ đồ sáng tạo vũ trụ ở tầng vĩ mô.
Rất quan trọng trong vấn đề này, người Maya đã viết lại rõ ràng rằng những sóng lịch
mà họ tôn thờ đã nảy sinh từ cây Sự Sống, và chúng mang năng lượng ảnh hưởng đến đặc
thù của các thời đại khác nhau. Ngay lập tức, chúng ta có thể thấy kết nối này trong hình
2.4, nơi sóng đầu tiên bắt đầu từ vụ nổ Big Bang với sự ra đời của trục Cột Sống vũ trụ hay
cây Sự Sống. Sự kết nối với cây Sự Sống cũng được nói trực tiếp ở chữ khắc trong
Palenque, mô tả biến cố phát sinh sóng thứ 6 (the Long Count): “người cha đầu tiên gây
dựng cây thế giới” để cho “ánh sáng có thể đi vào. Rồi kế tới là Định Ngôi Trời Đất
(Raised-up Sky-Place), Chia 4 phương 8 hướng (Eight-House_Partition), thiêng liêng nhất
là Căn Nhà Phương Bắc (House in the North). Rồi thì theo quan điểm của họ, sóng thứ 6
trong 9 sóng phát ra từ cây Sự Sống (cây thế giới) và sanh ra một hình 3D tám hướng với
kích thước toàn cầu. Qua các ảnh hưởng của hình 3D này với các đường thẳng và đường
vuông góc mà con người cộng hưởng với nó bắt đầu tạo ra một thực tại mới vào điểm bắt
đầu của sóng thứ 6 như đã được thảo luận trong cuốn: In the Global Mind and The Rise of
Civilization. Chính cấu trúc hình học của hình 3D sóng thứ 6 đã tạo ra óc suy luận để từ đó
làm nảy sinh nền văn minh. Tuy nhiên, những dòng chữ điêu khắc trong Palenque không
phải là ví dụ duy nhất về lịch Maya với cây Sự Sống, mà chủ đề này còn lặp lại trong
những mật mã còn sót lại của người Maya.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
41
Ngay cả khi người Maya chỉ dùng một trong những sóng (the Long count hay sóng thứ
6) để định tuổi những pyramid (kim tự tháp) của họ hay những biến cố lịch sử của họ, họ
cũng nhìn chín sóng như là một (9 tầng thuộc về 1, xét cả 8 cái còn lại) và có cùng cấu trúc.
Chúng ta thấy rõ ràng là những pyramid quan trọng nhất đã được xây dựng tại trung tâm
Chichen Itza (h 2.7), Palenque, và Tikal- có 9 tầng. Những pyramid này là vũ trụ quan
được cắt trong đá, đã đặt những con sóng trong một bối cảnh chung để kết nối người Maya
với những khía cạnh khác của vũ trụ quan 9 tầng.
Những kim tự tháp có sân thượng, với bậc thang ở trung tâm, tượng trưng cho sự tiến
hóa của vũ trụ giống như leo lên những bậc thang cao dần lên. Mỗi tầng được phát triển bởi
một chuyển động sóng, mà được biểu tượng bởi con linh xà có cánh (được người Aztec gọi
là Quetzalcoutl và người Maya gọi là Kukulcan). Tại thời điểm xuân phân, và thu phân,
con linh xà này giống như là đang hạ xuống từ kim tự tháp ở Chichen Itza bằng việc tạo
thành một mẫu sóng gồm 7 vùng sáng và 6 vùng tối (giống như 7 đỉnh và 6 thung lũng
trong hình 2.4). Điều này cũng tình cờ phản ảnh chuyển động sóng mà sách Sáng Thế Ký
đã đề cập đến như 7 ngày 6 đêm trong sự sáng tạo thế giới của Thượng đế. Con linh xà là
một biểu tượng của bất kỳ làn sóng thiêng liêng nào, và như thế được xem là nhân vật
mang đến nền văn minh, lịch và những thứ khác. Con rắn này còn có tên là Nine Winds (có
thể là sự chuyển động của 9 sóng được xem như là gió tâm linh). Do đó, trong vũ trụ quan
của người Maya, 9 chuyển động sóng đã phát triển thành 9 tầng sáng tạo, và con linh xà là
biểu tượng cho mỗi làn sóng này. Kim tự tháp ở Chinchen Itza được xây dựng để thờ
phụng 9 làn sóng (hay gió) của thần Kukulcan (con linh xà), tất cả phát ra từ trung tâm vũ
trụ (tượng trưng bởi ngôi nhà trên đỉnh). Giống như các truyền thống cổ xưa khác, những
con sóng này được xem như là lực sống: con rắn, rồng, hay những vị thần linh.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
42
Hình 2.7
Giống như người Maya, các dân tộc cổ xưa khác cũng nhìn 9 tầng khác nhau (hay
những con sóng mà đã tạo ra họ) như được kết nối và là một phần của tổng thể. Chẳng hạn,
9 con rồng trong vũ trụ quan của người Trung Quốc (TQ) đều được kết nối với con rồng vũ
trụ, và 9 thế giới của người Viking đều kết nối với cây sự sống như 9 vị thần vĩ đại ở
Assyria. Trong thế giới quan của người Maya, 9 thế giới ngầm (underworlds) được xem
như là một tổng thể gắn liền với vị thần sáng tạo Bolon Yookte K’uh. Theo tiếng Anh, tên
này nghĩa là “Nine-support-deity (vị thần 9 đức)”, hay là “Nine-step-temple (ngôi đền 9
bậc)”. Điều này cho thấy rằng, chúng ta đang nhìn vào một hệ thống của 9 sóng sáng tạo
liên kết với nhau.
Đáng chú ý là khoảng 1300 năm trước người Maya đã khắc một dòng chữ tại
Tortuguero để mô tả những gì sẽ xảy ra khi baktun thứ 13 của Long Count hoàn thành
trong thời đại của chúng ta. Điều này nghĩa là thần Bolon Yookte K’uh sẽ là nhân chứng
trong chính biểu chương của ông ta. Điều này không còn nghi ngờ gì nữa, nghĩa là sau
Oct/28/2011, tất cả 9 sóng đều xuất hiện, bởi vì thần Bolon Yookte K’uh là thần của toàn
bộ 9 sóng. Nói cách khác, tại thời điểm hiện tại, không còn bất kì giới hạn nào đối với các
mẫu giao thoa mà có thể được tạo ra từ 9 sóng.
Sự thay đổi trong năm 2011 được mô tả bằng đài tưởng niệm Tortuguero là một bước
ngoặt lớn trong sự tiến hóa mà đã mất 16.4 tỉ năm để hoàn thành. Bởi vì chúng ta hiện đã
vượt qua giai đoạn thay đổi này, nên khoa học và tâm linh có thể được thống nhất ở mức độ
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
43
sâu hơn so với trước đây. Chúng ta đã đi đến chỗ mà tất cả khả năng của sự sáng tạo này có
thể trở thành hiện thực, và bây giờ chỉ còn tùy thuộc vào nhân loại (ít nhiều vẫn còn đang
trong trạng thái mơ màng) quyết định định-mệnh của mình dựa trên những tiềm năng của 9
sóng. Tôi khẳng định, một khía cạnh quan trọng trong việc hoàn thành định mệnh này là
chúng ta cần hiểu được vũ trụ quan 9 tầng của người xưa và học cách tạo ra sự cộng hưởng
đặc biệt với làn sóng thứ 9 tức sóng hoàn tất mà hướng tới mục tiêu của tất cả sự sáng tạo
đã đề ra. Đây là một sự kiện mà cho đến nay rất ít người có thể nhận ra, một phần vì thiếu
kiến thức, và một phần vì sóng thứ 9 mới chỉ bắt được trong thời gian gần đây, kể từ năm
2011. Như thế, càng phát triển khả năng cộng hưởng với sóng này thì càng có cơ hội lớn
hơn để tạo ra hòa bình và thịnh vượng lâu dài trên hành tinh của chúng ta.
Chín Tần Số của Sự Biến Đổi
Trong các chương sau, chúng ta sẽ khảo cứu lần lượt từng sóng và một số ảnh hưởng
mà các sóng đã có trong đời sống con người. Sau đó chúng ta sẽ sử dụng tần số và bước
sóng của chúng làm công cụ để tăng cường sự hiểu biết của chúng ta về mô hình
fractal-holographic và chương trình vũ trụ. Để dễ dàng thực hiện điều này, tôi sẽ cung cấp
một số thông tin cụ thể về 9 thế giới mà có lẽ là một phần của thế giới quan của nhiều - nếu
không nói là tất cả - các nền văn hóa cổ xưa. Để bắt đầu, 9 làn sóng của hệ thống lịch Maya
đã được liệt kê trong hình 2.8, cùng với thời gian, bước sóng, tần số, và thời gian kích hoạt
tương ứng trên hành tinh của chúng ta.
Sóng đầu tiên (h2.4) đã được kích hoạt tại vụ nổ Big Bang, tạo ra nền tảng cho 8 tầng
cao hơn của kim tự tháp. Các sóng mới và cao hơn (mỗi sóng có tần số cao hơn gấp 20 lần
so với sóng trước đó) có thể truy cập tại các điểm thời gian được hiển thị trong cột bên phải,
cho đến khi chúng ta đạt đến làn sóng thứ 9 ở đỉnh kim tự tháp (h2.8). Điều này nghĩa là tất
cả 9 sóng không thể truy cập được tại điểm khởi đầu của sự sáng tạo. Chỉ bây giờ, thời đại
của chúng ta, Mar/9/2011, thì toàn bộ 9 sóng đều có mặt và hoạt động song song. Trong
h2.9, một số từ khóa cơ bản được đưa ra để mô tả các loại hiện tượng được tạo ra bởi mỗi
trong 9 tầng được liệt kê trong hình 2.8.
Trong cột 2 hình 2.8, chúng ta tìm thấy tên của các nửa chu kì sóng bằng tiếng Maya:
baktun, katuns, tuns, … Người Maya đã nhận ra các phần khác nhau của sóng - gồm đỉnh
và thung lũng, mà tương ứng với Ngày và Đêm – đã ảnh hưởng khác nhau đến cuộc sống
của họ. Do vậy, người Maya đã không đặt tên cho toàn chu kì sóng, mà chỉ đặt tên cho bán
chu kì (h2.10). Trong các cuốn sách trước đây của tôi - nơi mà những hậu quả của sự thay
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
44
đổi giữa Ngày và Đêm đã được tả chi tiết ở nhiều mức độ khác nhau - tôi đã sử dụng thuật
ngữ này của người Maya.
Hình 2.8
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
45
Hình 2.9
Hình 2.10
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
46
Bởi vì sóng được trình bày ở đây, nên tôi sẽ sử dụng các thuật ngữ về bước sóng và tần
số. Do đó, các đơn vị thời gian của lịch Maya ở trong cột 2 h2.8 thể hiện một nửa bước
sóng, trong khi đó bước sóng đầy đủ trong cột 3 thì được tính theo đơn vị năm ánh sáng.
Tôi cũng muốn lặp lại rằng phạm vi bước sóng của 9 sóng này thì không nằm trong giới
hạn thông thường, như chúng ta có thể thấy ở bên trái của h2.3. Do đó, ngay cả sóng có
bước sóng ngắn nhất (sóng thứ 9) với bước sóng 0.1 năm ánh sáng thì có chiều dài bằng
đường kính của hệ thống thái dương hệ (Giả định rằng những sóng sáng tạo cũng giống
như sóng điện từ hay sóng hấp dẫn mà có vận tốc ánh sáng).
Cột thứ 4 trong h2.8 chỉ đơn giản là cung cấp các giá trị nghịch đảo của các bước sóng
và do đó cho ra các tần số khác nhau của 9 sóng sáng tạo. Những gì chúng ta có thể thấy từ
cột này là mỗi sóng có tần số lớn gấp 20 lần (bước sóng ngắn hơn 20 lần) so với sóng bên
dưới. Khi chúng ta leo lên (cách nói ẩn dụ) các tầng cao hơn của chùa hay kim tự tháp, thì
tần số sẽ tăng lên. Hệ thống phân cấp này, nơi mà các tần số mới cao hơn được kích hoạt
theo một chương trình toán học chính xác đã tạo ra gia tốc rõ ràng cho sự tiến hóa của vũ
trụ cho đến thời điểm hiện tại. Vì vậy, cho đến nay, các chương trình sáng tạo vũ trụ đã
được tăng tốc, và loài người chúng ta đã có kinh nghiệm về thời gian tăng tốc.
Sự Giao Thoa của
Thông Tin Giác Quan với Sóng Sáng Tạo
Các sóng trong hình 2.8 và 2.9 cũng tạo thành các mẫu giao thoa với nhau. Đặc biệt là
ngày nay, khi tất cả các sóng đã xuất hiện, thì khó có thể có người mà chỉ cộng hưởng với
một sóng. Bất kì người nào cũng đều được tạo ra bằng một mẫu giao thoa của các sóng, và
như chúng ta sẽ thấy trong chương 4, thì tâm trí của người đó sẽ được tạo ra bởi sự tổng
hợp hoặc bán phần của các hình 3D khác nhau. Ngay cả khi chúng ta có thể chỉ ra được
một hiện tượng mà do một sóng tạo thành (như được chỉ ra trong h2.9) và theo sau đó là
các hiện tượng như là kết quả do một sóng tạo ra, thì đó vẫn chỉ là một trong những mẫu
giao thoa đã tạo ra biến đổi trong sự sáng tạo. Những mẫu giao thoa này tạo ra đủ loại
chúng sinh như chúng ta sẽ thấy sau này, sự khác biệt về tinh thần và tâm linh giữa cá nhân
con người và văn hóa nhân loại.
Ngoài các mẫu giao thoa giữa 9 làn sóng, con người chúng ta còn tiếp xúc với một
lượng thông tin khổng lồ ở dạng sóng, đặc biệt là dưới dạng ánh sáng khả kiến từ môi
trường trực tiếp của chúng ta. Ngay lúc này, ánh sáng mà chiếu vào bạn từ mặt trời hoặc từ
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
47
đèn là lượng tử mà góp phần hình thành những trải nghiệm bên trong bạn cùng với các tín
hiệu điện từ được tạo ra trong bộ óc bằng sóng âm mà lỗ tai cảm nhận. Con người phần lớn
cảm nhận những tần số này bằng giác quan của mình. Thoáng qua, những thông tin thu
được từ các giác quan dường như chỉ gồm những nội dung chính về cuộc sống của chúng ta.
Một số người sẽ nói rằng, những tần số này là tất cả những gì mà chúng ta có thể trải
nghiệm và vì thế chối bỏ mọi thứ khác.
Do vậy, tôi đề nghị rằng 9 sóng Sáng Tạo tạo ra một bối cảnh cơ bản hơn cho cuộc sống
của chúng ta, và thông qua đó chúng ta có thể kết nối với Cội Nguồn (Source). Những sóng
chính này tạo ra cái sườn mà trong đó những tần số hằng ngày thuộc phạm vi khả kiến và
khả thính được có ý nghĩa. Một lượng tử của ánh sáng khả kiến tự mình nó thì không có ý
nghĩa. Ý nghĩa có được là nhờ chín làn sóng và các hình học 3D tạo nên, lý do là những
sóng này phát ra từ Cội Nguồn và do đó có các hình 3D cung cấp nội dung và nền tảng để
giải thích thông tin mà chúng ta thu được nhờ các giác quan. Do đó, ngay cả khi 9 sóng có
tần số trong phạm vi mà không thể cảm nhận bằng 5 giác quan, nhưng toàn bộ cơ thể của
chúng ta vẫn cộng hưởng với chúng, và chúng vẫn có thể tạo ra bản chất thật của chúng ta
như là biểu hiện của Thiêng Liêng (Divine). Vì tần số rất thấp nên tôi tin rằng, ít nhất là
tiềm thức của chúng ta biết rằng chúng bắt nguồn từ Cội Nguồn hay trục Cột Sống vũ trụ.
Có lẽ, cái cảm giác mà nhiều người có về sóng này giống như được bề trên tiếp dẫn sẽ tạo
thành một kinh nghiệm trong họ về việc được đấng thiêng liêng hướng dẫn và đưa họ vào
một đường hướng nhất định trong cuộc sống qua ảnh hưởng của sóng. Tôi cũng đề nghị
rằng sự cộng hưởng của chúng ta với các sóng khác nhau có thể đóng vai trò quyết định
đến chất lượng cuộc sống; sau cùng, 9 sóng Sáng Tạo tạo ra bản chất của chúng sinh, cuộc
sống, và kết nối chúng ta với Cội Nguồn.
Chín làn sóng này cũng có thể giải thích được sự bí ẩn của việc đồng bộ hóa, một hiện
tượng được mô tả bởi nhà tâm lý học người Thụy Sĩ Carl Jung về những sự trùng hợp có ý
nghĩa và đáng chú ý. Những trải nghiệm như vậy, đôi khi có vẻ như ảo thuật, có thể không
phải là kết quả từ những tần số trong phạm vi bình thường của môi trường chúng ta. Tuy
nhiên, chúng có thể được giải thích bằng sự giao thoa giữa các sóng mang một ý nghĩa sâu
sắc hơn. Sự đồng bộ hóa thường liên quan đến một số người khác nhau mà có thể cộng
hưởng với cùng tần số từ một trong 9 sóng Sáng Tạo. Do đó, 9 sóng có thể đóng góp đáng
kể để giải thích không chỉ sự đồng bộ hóa mà còn cả một loạt các hiện tượng huyền bí mà
đã thách thức sự hiểu biết của con người về thế giới dựa trên 5 giác quan. Cuối cùng, điều
này chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì chúng ta đang khảo cứu một trường sóng mà là nền
tảng cho sự tiến hóa của vũ trụ.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
48
Chương 3: Sóng và Linh Xà
Sự Thành Lập và Tiến Hóa của Vũ Trụ
Thế giới đầu tiên là không gian vô biên mà chỉ hiện hữu trong đấng sáng tạo, Taiowa. Thế giới này
không có thời gian, hình dạng và sự sống, ngoại trừ trong tâm trí của Đấng Sáng tạo. Sau đó, đấng
sáng tạo vô hình tạo ra hữu hình ở Sotaknang - người mà Ngài gọi là cháu trai và là người mà Ngài
đã tạo ra như đại diện của mình để thành lập 9 vũ trụ.
Hopi Creation Story
Trong các chương trước, chúng ta đã thấy 9 sóng sáng tạo có các tần số khác nhau, và
đóng vai trò quan trọng trong sự sáng tạo. Bốn sóng thấp nhất nằm trong dải tần số mà
chúng ta có thể gọi là sinh thái học, hay sinh học, vì nó phục vụ để tạo ra hình thái (hình
dạng hoặc dạng) của sinh vật học. Mặt khác, bốn sóng cao nhất nằm trong dải tần số mà
chúng ta gọi là tinh thần. Sóng thứ 5 nằm ở ranh giới giữa hai dải tần số chính này (h2.3)
và có những đặc tính điển hình của cả hai. Do đó, một cách tương tự, nếu có sự khác biệt
về chất lượng trong các hiệu ứng của các dải tần số khác nhau, chẳng hạn như phổ điện từ,
vi sóng, tia UV, ánh sáng khả kiến, etc,… thì cũng có sự khác biệt về chất lượng giữa dải
tần số của 4 sóng thấp nhất và 4 sóng cao nhất trong 9 làn sóng. Mặc dù các sóng sinh học
và tinh thần thuộc về các dải tần số khác nhau, nhưng có ý nghĩa để khảo cứu chúng trong
bối cảnh chung vì các sóng được kích hoạt tuần tự theo một trình tự nghiêm ngặt.
Trong chương này, tôi sẽ tóm tắt từng phần một, vai trò của 6 sóng đầu tiên, sẽ khảo sát
ngắn gọn về các làn sóng này để giải thích từng bước một về sự sống từ lúc Big bang cho
tới lúc bắt đầu có nền văn minh ngày nay. Trong các chương sau, tôi sẽ thảo luận rộng rãi
hơn về 3 sóng có tần số cao nhất và cách mà những sóng này đưa chúng ta đến thời điểm
hiện tại và tương lai. Cách nghiên cứu lịch sử này trong bối cảnh phổ quát hoàn chỉnh hơn
thì đôi khi được gọi là “big history”. Nó dựa trên tiền đề là tất cả các hình thức tiến hóa
khác nhau là một phần của quá trình hợp nhất, mặc dù các hình thức này trong quá khứ đã
được khảo cứu bởi nhiều ngành khác nhau. Sự thảo luận về 6 sóng thấp chỉ được đưa ra
ngắn gọn ở đây, bởi vì những sóng này đã được bàn luận nhiều trong cuốn The Purposeful
Universe (từ sóng đầu tiên đến sóng thứ 4) và cuốn The Global Mind and The Rise of
Civilization (sóng 5,6), mà tôi muốn giới thiệu cho những độc giả muốn tìm hiểu sâu rộng
hơn.
Theo tôi hiểu, sự tiến hóa vũ trụ ở bậc vĩ mô bắt đầu khi trục Cột Sống vũ trụ sinh ra
từ trứng vũ trụ và tiếp đó phát sinh ra vụ nổ Big Bang. Sự xuất hiện đột ngột của trục cây
Sự Sống dẫn đến sự phồng lên và giãn nở của vũ trụ. Như vậy, sự xuất hiện trục Cột Sống
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
49
vũ trụ có trước (primary) và vụ nổ Big Bang là sau (secondary); sự kiện đầu đã trở thành
điểm khởi đầu của sự kích hoạt một dãy các sóng phát ra từ trục Cột Sống vũ trụ theo một
lịch trình đã định. Quan điểm về nguồn gốc và sự tiến hóa liên tục của vũ trụ này rõ ràng
khác với mô hình khoa học, nơi mà tất cả mọi thứ bắt đầu từ một vụ nổ ngẫu nhiên, và tiếp
theo là một loạt các biến cố tình cờ đáng chú ý để cuối cùng dẫn đến sự sống hiện tại trên
hành tinh chúng ta. Mô hình khoa học này thiếu lời giải thích mạch lạc cho cách thức và lý
do tại sao sự tiến hóa của vũ trụ bắt đầu và các hệ thống khác biệt của sự sống trổi lên như
thế nào. Quan điểm khoa học này còn ngụ ý rằng sự tiến hóa của sự sống chỉ là một hiện
tượng địa phương, chứ không phải là hiện tượng toàn vũ trụ theo quan điểm của tôi.
Phần lớn các nhà khoa học ngày nay có quan điểm về sự sáng tạo khác so với người
xưa. Quan điểm của người xưa chủ yếu bắt đầu với một đấng sáng tạo hay một cái gì đó
không có hình tướng, bao gồm nước, hơi nước, hay không gian vô tận, nhưng luôn luôn có
một điểm khi mà sự sáng tạo diễn ra qua việc bắt đầu của sự phân tách, thường dẫn đến sự
phân cực âm dương, vì điều này mà thế giới của chúng ta ngày nay được sinh ra. Câu
chuyện Ai Cập về Ennead là một ví dụ về sự sáng tạo như vậy: đầu tiên chỉ có thần
Amun-Ra tự sinh, sau đó ông sinh ra Shu (không khí) và Tefnut (nước-độ ẩm), Shu và
Tefnut chia thành hai giới, và từ những thứ này mà cái một ban đầu đã sinh thành nhiều thứ
khác. Những gì được ngụ ý trong câu chuyện sáng tạo này là sự ra đời của tính nhị nguyên,
giống như cây Sự Sống trong vụ nổ Big Bang như đã được chỉ ra trước đây.
Việc từ một sinh hai, hay hữu hình sinh ra từ vô hình như vậy có thể vượt ngoài tầm
hiểu biết của chúng ta. Tuy nhiên, tôi nghĩ chúng ta phải nhận ra rằng đây chính xác là
những gì đã xảy ra, và nếu không có nó thì sẽ không có bất kì lời giải thích nào thỏa đáng
cho sự xuất hiện và tiến hóa của sự sống. Lúc ban đầu khi một sanh hai có thể là nghịch lý
tối thượng và có lẽ vì lý do này mà sự hiện hữu của chúng ta sẽ luôn có những khía cạnh bí
ẩn và không thể nắm bắt được. Tuy nhiên, sự xuất hiện tính nhị nguyên từ nhất nguyên là
một bước cần thiết để một cái mới được tạo ra. Ngày nay, các nhà vật lý đã cố tình bỏ qua
nghịch lý này, và thực tế là sự phân tách ban đầu hay sự sáng tạo bị thiếu trong công thức
hiện tại của thuyết Big Bang có thể là lý do tại sao lý thuyết này không thể giải thích sự
tiến hóa liên tục của vũ trụ cho đến cấu trúc hiện có ngày nay, mà chỉ giải thích một cách
rất phân tán và rời rạc.
Máy Sóng Vũ Trụ và Sóng Thứ Nhất
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
50
Tuy nhiên, sự xuất hiện trục Cột Sống vũ trụ trong biển năng lượng vô hình sẽ giải
thích thỏa đáng cho sự xuất hiện của các hiện tượng khác nhau. Sự tiến hóa liên tục của
những hiện tượng này có thể được giải thích nếu nó được điều khiển bởi các làn sóng phát
ra từ trục vũ trụ. Nếu cho rằng trục Cột Sống vũ trụ sinh ra tính âm dương trong vũ trụ, thì
đây là một sự khởi đầu có thể tưởng tượng được cho những sức ép để thúc đẩy vũ trụ tiến
hóa. Đây không chỉ là suy đoán, bởi vì bây giờ chúng ta biết rằng một cực đối xứng thực sự
hiện hữu trên bầu trời radio giữa hai bán cầu của vũ trụ được xác định bởi trục Cột Sống vũ
trụ. Nếu không có sự phân cực thì sẽ không có sức ép và sự chuyển tiếp. Mặt khác, nếu sự
đối xứng phân cực này được tạo ra bởi trục Cột Sống vũ trụ mà phát ra 9 sóng, thì 9 sóng
này khi được phát ra khắp vũ trụ có thể tạo ra các hình 3D âm dương, và từ đó sẽ bắt đầu
quá trình tiến hóa ở nhiều tầng lớp của vũ trụ.
Sóng Đầu Tiên có tần số 12.5*10-18
Hz và bước sóng khoảng 2.5 tỉ năm ánh sáng, và
tạo ra bước tiến hóa đầu tiên của vũ trụ (h2.8). Sự sống của các tế bào đơn, các con vi trùng
ban đầu, và cao hơn sau đó là các tế bào nhân chuẩn (eukaryotic cells) xuất hiện khá đột
ngột khi hai ngày cuối cùng của sóng đầu tiên bắt đầu. Song song với điều này, các thiên hà,
hệ thống tinh tú, và các hành tinh có thể tiềm ẩn sự sống cũng xuất hiện. Làn sóng này
được kích hoạt cách đây 16.4 tỉ năm, hơi khác so với ước tính 13.8 tỉ năm cho tuổi của vũ
trụ mà hiện nay được hầu hết các nhà vật lý ủng hộ. Khi xem xét lý do tại sao hai điểm thời
gian này khác nhau, điều quan trọng cần nhớ là ước tính không chỉ phụ thuộc vào độ chính
xác của phép đo mà còn phụ thuộc vào các giả định cơ bản của các mô hình toán học được
sử dụng. Mặc dù 13.8 tỉ năm là con số dựa vào những dữ liệu đo được của vệ tinh WMAP,
nhưng cả hai 16.3 và 16.5 tỉ năm được đưa ra như là lựa chọn thay thế dựa trên các giả định
khác. Một sự thay đổi mô hình cơ bản trong vật lý có thể không xa lắm, và tuổi chính xác
của vũ trụ có thể thực sự là 16.4 tỉ năm. Một khi các nhà khoa học vẫn dùng những giả
thuyết chưa được chứng minh rõ ràng như vật chất tối, hay năng lượng tối, thì tôi tin rằng
tất cả những sự tính toán dựa trên những dữ kiện như thế thì không nên tin tưởng cho lắm.
Lý thuyết tôi đang phát triển ở đây nhìn vũ trụ từ quan điểm tiến hóa của sự sống và
thấy sự xuất hiện của các vật thể thiên văn như một phần của một quá trình. Tiền đề là sự
hiện hữu của sự sống không phải là một biến cố tình cờ mà chính là lý do để vũ trụ tồn tại
đầu tiên. Tiền đề này xung đột trực tiếp với vật lý ngày nay mà nhằm mục đích thành lập
các phương trình để mô tả sự hoạt động của các vấn đề đã qua nhưng không được thành
công cho lắm và cố gắng mô tả những hiện tượng của sự sống bằng phương thức này.
Ngược lại, việc nghiên cứu tiếp tục các sóng ở đây sẽ dựa vào khả năng kích hoạt và dịch
chuyển của chúng phù hợp với các bước quan trọng trong sự tiến hóa của đời sống sinh học
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
51
và sự phát triển của nó vào lĩnh vực tâm trí.
Sóng Thứ Hai và Cuộc Tiến Hóa Sinh Học
Sóng thứ 2 với tần số cao hơn 20 lần so với sóng đầu tiên đã được kích hoạt và tới trái
đất khoảng 820 triệu năm trước, hoặc có thể sớm hơn. Sóng thứ 2 đã chuyển đổi các tế bào
đơn thành các sinh vật đa bào, chẳng hạn như động vật và thực vật. Bước sóng của nó là
126 triệu năm, trong hình 3.1 chúng ta có thể thấy cách thức xuất hiện của lớp các sinh vật
có liên quan đến các đỉnh của sóng thứ 2.
Hình 3.1
Dựa vào h3.1, tôi nghĩ thật công bằng khi nói rằng sự xuất hiện của lớp các loài sinh vật
mới thì trùng hợp với sự bắt đầu của những Ngày (đỉnh) trong sóng này. Do đó, có thể kết
luận rằng sóng thứ hai là yếu tố chính trong sự tiến hóa của các loài động vật trên hành tinh
của chúng ta (và cả thực vật mặc dù không để chúng trong hình). Không giống như thuyết
Darwin, mô hình sóng này giải thích hoàn hảo về những bước nhảy lớn đột ngột trong sự
tiến hóa, chẳng hạn như vụ nổ Cambrian (h3.1) khi một loạt các loài mới đột nhiên xuất
hiện. Thực tại – điều này đã được công nhận từ lâu bởi ngay cả những người tôn sùng chủ
thuyết Darwin - là tiến hóa sinh học diễn ra trong những bước nhảy đột ngột, mang lại
những thay đổi lớn, và hàm sóng giải thích điều này. Những gì chúng ta có thể thấy ở đây
là những bước nhảy tiến hóa này gần như ăn khớp với sự bắt đầu của những ngày trong
sóng thứ 2, trái ngược với ý tưởng của những người theo thuyết Darwin mới
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
52
(neo-Darwinists) là các loài sinh vật được tạo ra bằng sự phân tán một cách vô định, hên
xui của chuỗi DNA. (Quan điểm này cho rằng các loài sinh vật xuất hiện tại những thời
điểm ngẫu nhiên, nhưng rõ ràng không phải như vậy). Quan điểm của người Ki-Tô giáo cơ
bản - tin rằng không có sự tiến hóa và tất cả các loài đã được tạo ra “như vậy” khoảng 6000
năm trước - rõ ràng là không phù hợp với chuyển động của sóng trong hình 3.1. Trong mô
hình sóng được phát triển ở đây, không có sự xung đột giữa sự tiến hóa và sự sáng tạo. Sự
tiến hóa sinh học của các loài được xem như một khía cạnh của sự sáng tạo vũ trụ.
Không chỉ có sự xuất hiện của lớp các sinh vật mới mà còn cả sự tuyệt chủng của các
loài sinh vật đều theo đúng với những sự thay đổi của Sóng Thứ Hai. Điều này có thể được
minh họa bởi sự thay đổi lớn nhất từ trước tới nay, sự tuyệt chủng Permian-Triassic xảy ra
250 triệu năm trước, trong một Đêm mới đã giết chết 97% các loài thủy tộc đã từng tồn tại
trước đó. Bốn lần tuyệt chủng lớn nhất thật sự phù hợp với các điểm thay đổi giữa Ngày và
Đêm trong sóng này. Một sự tuyệt chủng nổi tiếng khác là của loài khủng long khoảng 65
triệu năm trước, đã diễn ra ở gần lúc bắt đầu của một Ngày và mở đường cho sự thống trị
của các loài động vật xuất hiện, có vú, bậc cao. Sự tuyệt chủng này rất có thể được gây ra
do va chạm của thiên thạch, và do đó được xem như là một tai nạn tình cờ. Nhưng chỉ vì nó
được gây ra bởi một thiên thạch, không có nghĩa là loại trừ khả năng sự kiện này xảy ra
trong một bối cảnh rộng hơn của mô hình fractal-holographic của vũ trụ, một bối cảnh có
mục đích để hỗ trợ sự gia tăng của các loài động vật có vú.
Hình 3.1 minh họa cách Sóng Thứ 2 (thực tế là tất cả các sóng) tạo ra sự tiến hóa thông
qua một chuyển động xoắn ốc. Các sóng này không phải là những chu kì tạo ra các hiện
tượng giống hệt nhau mỗi khi một Ngày mới bắt đầu. Những chu kì như vậy không phải là
sự tiến hóa mà chỉ đi vòng vòng không có định hướng. Với di chuyển xoắn ốc, mỗi Ngày
mới có nghĩa là một lớp các động vật cao cấp hơn sẽ xuất hiện. Như một ví dụ về cách các
loài sinh vật tiến bộ hơn xuất hiện, chúng ta có thể xem xét sự phân cực giữa não trái và
não phải tăng lên như thế nào với mỗi Ngày mới. Trong nửa đầu của sóng thứ hai, các động
vật đa bào đầu tiên không phải lúc nào cũng có một phân cực trái-phải được xác định trong
cấu trúc cơ thể của chúng, và chúng cũng có hệ thần kinh kém phát triển. Tuy nhiên, trong
nửa sau của sóng, một lớp các loài sinh vật như cá, bò sát, và động vật có vú xuất hiện với
cơ thể và não bộ đối xứng, cùng với sự phân cực ngày càng tăng của các chức năng của hai
bên não bộ. Sự phân cực này trở thành đáng chú ý nhất trong các động vật có vú cao cấp
hơn trong Ngày thứ 7. Tuy nhiên, mục đích của cuốn sách này không phải để trình bày chi
tiết về sự tiến hóa sinh học vì điều này đã được bàn nhiều trong cuốn The Purposeful
Universe (2009). Điều cần để ý là không có gì ngẫu nhiên trong quá trình nói trên, và hình
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
53
3.1 thể hiện điều này. Bởi vì trong khoa học về sóng âm (science of cymatics), tần số có thể
tổ chức vật chất theo các mẫu hình học, chúng ta có thể hiểu những lớp của các loài sinh
vật khác nhau xuất hiện như thế nào với sự hình thành của các sóng sáng tạo.
Phân Cực Giới Tính ở Các Cấp Khác Nhau Trong Vũ Trụ
Một khía cạnh khác của sự tiến hóa sinh học mà chúng ta nên để ý đến trong biểu đồ
của sóng thứ 2 (h3.1) là sự phân chia thành hai giới tính khác nhau. Sự phân chia này đặc
biệt quan trọng vì nó là một phần của những câu chuyện sáng tạo, và chúng ta có thể thắc
mắc nó đã xảy ra như thế nào. Trong Sóng Đầu Tiên các tế bào đơn không sinh sản bằng
cách giao hợp, và do đó sóng này không tạo ra sự phân chia giới tính. Sự xuất hiện của hai
giới tính được tạo ra bởi Sóng Thứ Hai, trong đó có một phân cực ngày càng sâu sắc được
phát triển giữa chúng với mỗi Ngày mới, như được chỉ ra trong hình 3.1. Quá trình sóng
này tạo ra hai giới tính khác nhau được thể hiện cả về diện mạo bên ngoài và vai trò của
chúng trong sinh sản và sự chăm sóc con cái. Trong tất cả những vấn đề này, sự khác biệt
ngày càng gia tăng trong suốt quá trình của Sóng Thứ 2 khi những Ngày mới bắt đầu. Dần
dà, quá trình này dẫn đến sự xuất hiện của các loài động vật có vú cao cấp hơn, có sự khác
biệt rõ rệt về hình tướng của giới tính và vai trò của chúng trong việc chăm sóc con cái, mà
đôi khi mẹ chăm sóc cho con trong một thời gian dài sau khi sinh.
Thật thú vị, sự phân chia thành hai giới tính này phát triển song song với sự phân chia
chức năng của hai bán cầu não. Điều này cho thấy rằng có một sự tiến hóa ẩn tàng đằng sau
đối với mối quan hệ khác biệt giữa hai bán cầu não của hai giới tính. Lời giải thích cho
những phát triển song song này về các bán cầu não và sinh học giới tính có thể được tìm
thấy trong sự phân cực được tạo ra bởi trục Cột Sống vũ trụ, phân tách hai giới tính trong
sự cộng hưởng với nó. Do đó, toàn bộ khái niệm về sự hấp dẫn giới tính có thể hiểu được
như là một mong muốn để hàn gắn lại sự phân chia này. Xét kỹ, chúng ta cũng có thể hiểu
tại sao con linh xà là biểu tượng của khả năng sinh sản và sức mạnh tình dục: linh xà tượng
trưng cho những làn sóng, và những làn sóng đó rõ ràng có liên quan đến việc phân chia
giới tính và sự sinh sản.
Dường như sự phân tách diễn ra vào lúc bắt đầu của những Ngày của Sóng Thứ 2, và ở
một số tầng khác của vũ trụ nữa. Quả thật là có bằng chứng cho thấy sự tiến hóa của các
loài sinh vật trên Trái đất song song với các hệ thống lớn hơn trong vũ trụ. Trong thiên hà
của chúng ta, các ngôi sao, bao gồm cả thái dương hệ di chuyển lên xuống thông qua mặt
phẳng xích đạo của thiên hà theo một chuyển động hình sin với bước sóng 124 triệu năm
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
54
(h3.2). Bước sóng này nằm trong phạm vi sai số về đo lường giống như Sóng Thứ Hai vậy,
và chúng ta có thể giả định rằng chuyển động hình sin của thái dương hệ có nguồn gốc từ
Sóng Thứ Hai. Chuyển động này rất có thể được tạo ra bởi sự phân cực của thiên hà thành
Bắc và Nam bán cầu gây ra bởi sự cộng hưởng của mặt phẳng xích đạo với trục Cột Sống
vũ trụ. Hơn nữa, chúng ta nên để ý rằng chuyển động quay của thái dương hệ xung quanh
tâm của thiên hà được gọi là năm thiên hà cỡ 250 triệu năm thì trùng khớp với hai chu kì
của sóng thứ hai (h3.2) (mặt trời quay quanh thiên hà hết 250 triệu năm). Lý do chuyển
động của những ngôi sao trong thiên hà khác với những gì mong đợi nếu chỉ có một lực
hấp dẫn, có lẽ do một phần bị ảnh hưởng của Sóng Thứ Hai. Hãy xem, vì sự chuyển động
của các ngôi sao trong thiên hà là lý do mà một số nhà vật lý đã đưa ra giả thuyết về sự
hiện hữu của vật chất tối (dark matter), thì chúng ta có thể nhận ra rằng giả thuyết này mơ
hồ và thiếu căn cứ tới cỡ nào.
Hình 3.2
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
55
Một chuyển động sóng song song khác khá rõ ràng là các chuyển động tách lục địa của
các bán cầu Tây và Đông trên hành tinh của chúng ta. Sự phân tách cuối cùng giữa các khối
lục địa này đã bắt đầu từ 65 triệu năm trước, khi Bắc Đại Tây dương mở ra. Tình cờ, điều
này cũng trùng với sự xuất hiện của loài động vật có vú cao cấp, mà các chức năng bán cầu
não sau đó “tách ra” theo qui luật ngoài sao trong vậy. Sự phân cực với bước sóng dài 126
triệu năm như vậy dường như xảy ra song song ở nhiều tầng khác nhau của vũ trụ: thiên hà,
hành tinh, và sinh vật. Nhiều khả năng, chúng cũng xảy ra chính xác trong giai đoạn với
các biến đổi của mã DNA, mà tuân theo sự thay đổi tổng thể trong sinh vật do sóng sáng
tạo gây ra.
Chuyển động sóng trong hình 3.1 phản ảnh trực tiếp sự phân cực diễn ra đồng thời tại
nhiều tầng khác nhau của vũ trụ vào mỗi Ngày mới. Có thể là những chuyển động này theo
mô hình fractal-holographics kể từ hồi trục Cột Sống Vũ Trụ mới phân giới tính, đã tạo ra
các xung nhịp đều đặn cùng pha sóng (phase) với nhau tại nhiều tầng khác nhau của vũ trụ.
Trong chương 1, chúng ta đã thấy cách một hiệu ứng phản chiếu của trục Cột Sống vũ trụ
tạo ra sự xoay thuận/nghịch chiều trong thiên hà. Ở đây, chúng ta cũng thấy hình ảnh phản
chiếu được tạo ra giữa hai bán cầu của thiên hà, của hành tinh, và các bán cầu não của sinh
vật. Cho nên trục Cột Sống vũ trụ rõ ràng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các đối
xứng phản chiếu trong vũ trụ, nhưng bởi vì một trong hai bán cầu này thường có ưu thế
(dominant), nó cũng tạo ra một cực: như sự đối xứng trong vũ trụ ở tần số radio mà đã nói
trước đây. Sự phân cực như vậy giữa các bán cầu xảy ra song song ở nhiều tầng khác nhau
và có mục đích để đồng bộ hóa một số quá trình tiến hóa với tần số của Sóng Thứ Hai.
Theo đó, sự tiến hóa không phải là quá trình được tiến hành độc lập, chẳng hạn như các
tầng của thiên hà, trái đất, các loài sinh vật, và chuỗi DNA của chúng. Thay vào đó, trong
vũ trụ này, sóng sáng tạo có các hiệu ứng song song ở nhiều tầng khác nhau phù hợp với
mô hình fractal-holographic. Điều này có hai phần quan trọng. Đầu tiên, sự tiến hóa sinh
học trên hành tinh của chúng ta (hay bất kì hành tinh nào khác) bắt nguồn từ cấp vũ trụ,
chứ không phải là quá trình xảy ra ở tại trái đất mà tách biệt với phần còn lại của vũ trụ. Sự
tiến hóa là một quá trình toàn vũ trụ được điều phối bởi sóng phát ra từ cây Sự Sống vũ trụ.
Thứ hai, các quá trình tiến hóa tại các tầng khác nhau là tất cả các phần của một quá trình
thống nhất. Chẳng hạn, để tạo ra một sinh vật có vú và môi trường sống của nó, thì cần một
sự phối hợp của các chuyển động sóng ở mức toàn vũ trụ, thiên hà, hành tinh, và các loài
sinh vật.
Lối nhìn này về vũ trụ và sự tiến hóa của sự sống thì tương phản với khoa học bởi vì
khoa học từ chối mục đích và hướng tiến hóa. Trong thế giới quan của các nhà khoa học
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
56
ngày nay, vụ nổ Big Bang là một biến cố tình cờ, cũng như việc tạo ra mặt trăng từ một va
chạm, hay sự xuất hiện của các lục địa hoàn hảo cho cuộc sống trên cạn, hoặc sự xuất hiện
của các loài sinh vật, v.v.. thì càng thêm điên đảo. Trong mô hình được trình bày ở đây, các
sóng phát ra từ trục Cột Sống vũ trụ có các hiệu ứng song song ở nhiều tầng khác nhau, mà
được đồng bộ hóa để tạo ra một hướng định trước cho sự tiến hóa, mà không có gì là ngẫu
nhiên trong quá trình này. Như ta sẽ thấy, vũ trụ được thiết kế để tạo ra con người (hay các
loài sinh vật tương tự).
Sóng Thứ Ba và Giống Linh Trưởng Lưng Thẳng
Sóng thứ 2 phát triển các loài sinh vật theo mẫu hình sóng rõ ràng, tạo ra bộ não ngày
càng lớn hơn (so với kích thước cơ thể) và phân cực sâu sắc hơn ở giữa hai bán cầu não (có
lẽ là phản ánh tính nhị nguyên âm dương vốn có của vũ trụ) đã đề cập trong chương 1,
cũng như sự phân chia thành 2 giới tính. Thêm nữa, Sóng Thứ 3 trên hành tinh của chúng
ta được kích hoạt cách đây 41 triệu năm trước và có bước sóng 6.4 triệu năm, đã tạo ra một
sự thay đổi đáng kể: nó biến đổi một động vật có vú 4 chân thành động vật hai chân đứng
thẳng. Từ thay đổi này, Sóng Thứ 3 mang đến một hình học mới, loài khỉ đầu tiên xuất
hiện.
Như ta có thể thấy trong hình 3.3, mức độ tiến hóa sinh học này được phát triển theo
mô hình giống như sóng, trong đó các loài sinh vật lưng thẳng rõ rệt hơn xuất hiện vào
những NGÀY mới. Tuy nhiên, hóa thạch của các loài được phát triển bởi Sóng Thứ 3 thì
không đầy đủ, vì vậy sự tiến hóa của sóng này thì khó theo dõi hơn so với các sóng khác.
Như có thể thấy trong hình 3.3, quá trình tiến hóa mà Sóng Thứ 3 bao trùm không chỉ có
những khoảng trống, mà một số hóa thạch chỉ được tìm thấy vào các Ngày tương ứng. Mặc
dù điều này không hoàn toàn đi sát đúng với làn sóng, nhưng những mẫu hóa thạch không
đầy đủ này trở thành vấn nạn cho bất cứ lý thuyết tiến hóa nào chứ không phải chỉ với lý
thuyết này.
Do đó, Sóng Thứ 3 đã đẩy sự tiến hóa lên đến một con khỉ tiên tiến đi bằng hai chân, có
đôi tay không bận bịu, và có thể sử dụng được các dụng cụ, không giống như các loài trước
đó. Đây là những bước chuyển tiếp quan trọng để tiến hóa lên loài người. Có thể nói rằng
sự tiến hóa tới giống Australopithecines, một ví dụ về Lucy nổi tiếng được khám phá bởi
Donald Johanson, là một bước cần thiết để tiến tới các loài sinh vật như con người chúng ta,
loài mà có thể phát triển nền văn minh công nghệ. Tuy nhiên, Australopithecines là biểu
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
57
hiện cao nhất của làn Sóng Thứ 3 đã diệt chủng từ lâu, nhưng được coi là giống người hơn
so với những con vượn, tinh tinh, hay khỉ đột ngày nay.
Hình 3.3
Sóng Thứ Tư và Người Tiền Sử
Sóng thứ 4, cao nhất trong phạm vi tầng số morphogenetic, đã chuyển loài
Australopithecines thành các loài thuộc giống Homo. Sóng này được kích hoạt cách đây
2.05 triệu năm và có bước sóng là 320,000 năm. Sóng Thứ 4 có mục đích để phát triển các
loài sinh vật có khả năng sử dụng và tạo ra các dụng cụ, một khả năng được coi là tính
năng chính để phân biệt giữa người và loài vật. Quá trình tiến hóa của sóng này bắt đầu
bằng loài người Homo Habilis (loài người cổ nhất) biết làm dụng cụ, được khám phá bởi
ông Leakey nổi tiếng ở Kenya. Trong các bước tiến hóa, quá trình này tiếp tục tiến đến loài
người chúng ta, Homo sapiens (h3.4), mà những người đầu tiên được định tuổi khoảng
160,000 năm trước. Điều này phù hợp rất chính xác với sự bắt đầu của Ngày thứ 7 của
Sóng Thứ 4. Nhìn chung, sự xuất hiện của các loài người tiền sử khác nhau thì rất phù hợp
với các Ngày của sóng này.
Điểm nổi bật nhất trong sự tiến hóa lần này qua các giống người Homo (h3.4)) là sự gia
tăng đáng kể kích thước não bộ. Các nhà khoa học thường nói rằng, tốc độ tăng trưởng kích
thước não bộ từ loài Homo Habilis 500cc cho tới Homo sapiens 1500cc chỉ trong vòng 2
triệu năm thì thật đáng chú ý. Quá trình tiến hóa rất phức tạp này thì khác với cách tiến hóa
mất 2 tỉ năm để tiến hóa từ vi khuẩn đến các tế bào cao hơn. Tuy nhiên, tốc độ tiến hóa của
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
58
loài người chỉ là một tình huống khó xử nếu bạn là một người theo thuyết Darwin và tin
rằng sự tiến hóa được thúc đẩy với tốc độ chậm bởi những đột biến ngẫu nhiên.
Hình 3.4
Trong lý thuyết được trình bày ở đây, mỗi làn sóng theo hệ thống của người Maya thì
có tần số có hơn 20 lần so với sóng trước đó, và kết quả là tần số tiến hóa đã tăng lên 8000
lần kể từ sóng đầu tiên (phát triển các đơn bào) cho đến Sóng Thứ 4 (phát triển não bộ con
người). Do đó, Sóng Thứ 4 tạo ra loài người đã thúc đẩy sự tiến hóa sinh học ở tốc độ cao
hơn nhiều so với những sóng tạo ra các loài sinh vật đơn giản hơn.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng, mỗi trong 9 sóng là một phần của hệ thống thống-nhất,
trong đó mỗi tầng là một sự chuẩn bị để tầng tiếp theo được kích hoạt. Mặc dù các sóng
khác nhau đóng vai trò riêng biệt - mang đến hiện tượng hiện hữu mà chưa bao giờ được
kích hoạt trước đó (như được chỉ ra trong h2.9) – nhưng chúng hình thành một khối mà một
làn sóng mới không thể bắt đầu cho đến khi những mục tiêu căn bản của sóng trước được
hoàn thành. Vì lý do này, tần số và thời gian kích hoạt của chúng phải phù hợp với các mối
quan hệ toán học chính xác hỗ trợ quá trình sáng tạo thống nhất.
Trong hình 3.5, 4 làn sóng trong phạm vi hình thái học (morphogenetic) của quang phổ
được trình bày trong các mức độ đo khác nhau để có thể nhận ra sự song song giữa 7 bước
(NGÀY) trong các sóng khác nhau. Kết quả cuối cùng của mỗi sóng sau đó trở thành điểm
khởi đầu của sóng tiếp theo, luôn luôn có tầng số cao hơn 20 lần, và phát triển một khía
cạnh mới về hình học của các loài sinh vật. Chẳng hạn, Sóng Thứ 2 không thể bắt đầu phát
triển các động vật đa bào 800 triệu năm trước cho đến khi sóng đầu tiên tạo ra sự sống đơn
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
59
bào cao hơn trên Trái đất khoảng 1.5 tỉ năm trước (xem thêm h2.4), bởi vì những đơn bào
này là những điểm khởi đầu cần thiết cho sự tiến hóa của các sinh vật đa bào bằng Sóng
Thứ 2. Trong Sóng Thứ 3, loài linh trưởng đã xuất hiện khoảng 41 triệu năm trước, nhưng
điều này không thể xảy ra cho đến khi Sóng Thứ 2 trước tiên dẫn tới việc tạo ra các loài
động vật có vú cao hơn từ 63 triệu năm trước. Quá trình tiến hóa sinh học được hoàn thành
bởi sự xuất hiện của loài người ở Sóng Thứ 4, đó là điều mà vũ trụ phải làm theo kế hoạch
đã được soạn sẵn.
Bây giờ, khi chúng ta tiếp tục khảo cứu về sự chuyển hóa của phần tinh thần (mental)
và tâm linh (spiritual) mà những sóng cao hơn tạo ra trong con người, chúng ta có thể thấy
rằng sự chuyển hóa này cũng xảy ra theo đúng qui luật như trong hình 3.5. Do đó, biểu
tượng của vận mệnh loài người giống như mình leo lên đỉnh của kim tự tháp được tạo bởi 9
sóng, việc trèo lên mà không cho phép nhảy vọt và những sóng thấp là nền tảng cho sự tiến
hóa của tâm thức.
Hình 3.5
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
60
Sóng Thứ Năm và Cách Diễn Tả Bằng Dấu Hiệu
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét Sóng Thứ 5, có tần số giữa các phạm vi sinh học và tinh
thần (h2.3), mà làm cho nó trở thành trung điểm của vũ trụ học 9 tầng. Sóng này được kích
hoạt cách đây 102,500 năm và có bước sóng là 15,800 năm. Nó đã biến đổi loài người
Homo sapiens thành một loài sinh vật biết sử dụng dấu hiệu, mà theo như chúng ta đã biết
con người chưa biết sử dụng dấu hiệu cách đây trên 100,000 năm. Như ta có thể thấy trong
hình 3.6, sự kích hoạt của sóng thứ 5 đã tạo ra các bước quan trọng trong quá trình chuyển
đổi này, từ đó chúng ta có thể thấy loài Homo sapiens đã trải qua một sự thay đổi đáng kể
về nhận thức của nó và bắt đầu biết về lãnh vực tâm linh ở điểm khởi đầu của sóng này.
Hình 3.6
Một biểu tượng về sự nhận thức thay đổi này là khi loài người biết mai táng người chết
vào lúc bắt đầu của Sóng Thứ 5. Điều này có nghĩa là một cảm nhận về đời sống sau cái
chết đã xuất hiện và có thể ngay cả khái niệm về linh hồn. Cho dù những suy đoán như vậy
có đúng không thì chúng ta cũng không bao giờ biết chắc chắn, nhưng ít nhất con người tại
thời điểm này đã nhận biết về cái chết. Thêm nữa, sản phẩm nghệ thuật đầu tiên được cho
là xuất hiện ở thời gian này, dựa trên việc khám phá ra địa điểm làm đồ màu đất ở Nam Phi
khoảng 100,000 năm trước. Không có di tích nghệ thuật thực sự được kiếm ra trong thời
điểm này, ngoại trừ việc làm ra những màu để tô điểm cho mình và diễn tả cảm nghĩ bằng
hình tượng. Kết hợp với nhau, những phát hiện từ lúc khởi đầu của Sóng Thứ 5 chỉ ra rằng
loài người cổ Homo sapiens sau đó trở nên biết hướng nội và ít giống động vật hơn. Dù
rằng loài người cộng hưởng với Sóng Thứ 5 không có óc suy luận, nhưng những dữ kiện đã
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
61
chỉ ra rằng họ đã bắt đầu có cảm nhận về linh hồn, biết đồng cảm, và có thể bắt đầu cảm
nhận sự hiện hữu của một lực tâm linh lớn hơn.
Không lâu sau khi bắt đầu làn Sóng Thứ 5, chúng tôi tìm thấy một mảnh nghệ thuật lâu
đời nhất (70,000 năm trước) trên hành tinh của chúng ta, một con rắn từ Botswana (h3.7)
dường như là một phần của nơi thờ phụng. Hình ảnh con trăn khổng lồ trong nghệ thuật thờ
phụng cổ nhất rất đáng chú ý trong việc nghiên cứu của chúng ta về các chuyển động sóng,
bởi vì có vô số dấu hiệu đã được vẽ lên trên vảy của con trăn, làm ta nhớ lại mối quan tâm
của người Trung Quốc, hay Maya về vảy của những con rồng hay con rắn Plumed ở tại
Chichen Itza (h2.7). Đối với người Trung Quốc và người Maya, các vảy biểu thị sự thay
đổi giữa các khoảng thời gian khác nhau của các sóng - Ngày và Đêm- và do đó mang ý
nghĩa tiên tri. Đáng chú ý là những người ở Botswana từ 70,000 năm trước đã cảm nhận
được sự thay đổi giống như sóng về thời gian và dùng biểu tượng là vảy của con rắn để
diễn tả.
Từ lâu trước khi con người bắt đầu suy nghĩ về sự hiện hữu của một hay nhiều vị thần,
hay một con đường dẫn đến sự giác ngộ, có lẽ họ đã tạo ra những nghi thức thờ cúng đối
với con linh xà. San Bushmen có thể được cho là nền văn hóa lâu đời nhất trên Trái đất, mà
tổ tiên của họ tạo ra con linh xà này, họ nói rằng họ là hậu duệ của một con trăn khổng lồ,
mà trong vũ trụ quan của họ là một vị thần sáng tạo. Người dân ở Amazon cũng có quan
điểm tương tự là con người được tạo ra bởi một con trăn khổng lồ (great Anaconda). Lúc
đầu, điều này có vẻ khó để chấp nhận, nhưng nếu chúng ta nhận ra rằng những con linh xà,
con trăn khổng lồ, hay con Anaconda là một cách diễn tả cách con người cảm nhận được
Sóng Thứ 5 thì rất là có lý. Như đã thấy ở đây, tất cả chúng ta, cùng với người Bushmen là
hậu duệ của những làn sóng, và cách duy nhất để các dân tộc cổ đại cụ thể hóa sức mạnh
của sóng sin là sử dụng biểu tượng của con linh xà.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
62
Hình 3.7
Một điều song song quan trọng khác đối với loài trăn khổng lồ này có thể được tìm thấy
ở một trong những nền văn hóa lâu đời nhất trên thế giới - người Aborigines - sống ở Úc
châu khoảng 50,000 năm trước. Với một vài khác biệt nhỏ, những nhóm người này đã xem
cầu vồng (giống như hình con rắn) như là vị thần sáng tạo. Ý tưởng về đi theo làn sóng và
chấp nhận sức mạnh tâm linh của sóng mà chúng ta sẽ bàn trong chapter 9 thì không có gì
mới lạ mà thật ra đã có từ xưa rồi. Con rắn này có thể đã được xem như đấng sáng tạo, bởi
vì nói cho cùng những thay đổi giống như sóng này có thể là những sự kiện thuộc về một
thế giới khác mà loài người chưa được trải nghiệm. Chúng ta có thể nói rằng họ cộng
hưởng với những sóng mà là nền tảng cho sự hiện hữu của chúng ta.
Gần đây hơn là Drachenloch Altar (h3.6), đã khám phá ở Thụy Sĩ ngày nay, xác nhận
rằng loài người ở lúc bắt đầu của Sóng Thứ 5 (50,000 năm trước) đã nhận thức được những
chuyển động giống như sóng giữa Ngày và Đêm. Trên bàn thờ, 7 hộp sọ gấu được đặt nhìn
ra cửa động và do đó tượng trưng cho ánh sáng, trong khi 6 lỗ lõm được đục trong đá đằng
sau động nơi đặt những sọ gấu tượng trưng cho bóng tối. Điều này rất phù hợp với chuyển
động sóng 7 Ngày 6 Đêm cho đến thời điểm hiện tại, như được chỉ ra trong hình 3.6.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
63
Phải thừa nhận rằng, chỉ có một ví dụ như vậy thì chưa đủ để kết luận sự việc dựa trên
bằng chứng mặc dù những nơi này là nơi thờ phụng cổ nhất mà chúng ta biết đến. Tuy
nhiên, có thể chúng phản ánh các biểu tượng có ý nghĩa rộng rãi hơn, và tôi cho rằng vai
trò của các dạng sóng và các biểu tượng cổ xưa của chúng dưới dạng những con rồng hay
rắn đã bị hiểu lầm hoàn toàn, và tầm quan trọng của chúng hoàn toàn bị đánh giá thấp bởi
người hiện đại. Tôi tin rằng luân lý cũng như trí tuệ đầu tiên của loài người đã được truyền
cảm hứng từ sóng Sáng Tạo, và vì vậy chúng ta không nên ngạc nhiên nếu con người nhìn
loài rắn như là các vị thần.
Sự đột phá nghệ thuật trong phương diện diễn tả nội tâm ở mức độ lớn trong Sóng Thứ
5 chỉ đến vào Ngày Thứ 5 (h3.6) dưới dạng những bức tranh trong hang động, chủ yếu về
động vật như là nguồn cảm hứng mà xuất hiện lần đầu tiên cách đây khoảng 40,000 năm,
có nhiều ở Châu Âu nhưng cũng xuất hiện ở Úc châu. Sự vắng mặt của các bức tranh mới
vào Ngày thứ 6 có thể liên quan đến Kỉ Băng hà (Ice Age), có thể đã ngăn chặn sự sáng tạo
nghệ thuật hoặc phá hủy kết quả của nó. Sau sự gián đoạn này, nghệ thuật vẽ trên đá với
hình người xuất hiện vào Ngày Thứ 7, sau đó có thể được xem như là biểu hiện cao nhất
của sóng này. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, một làn sóng mới bắt đầu ảnh hưởng vào mặt
tâm linh cũng như diễn tả tư tưởng của con người thời kì đồ đá (Neolithic man).
Sóng Thứ Sáu và Óc Suy Luận
Sóng Thứ 6 là sóng đầu tiên trong phạm vi tần số tinh thần được kích hoạt (h2.3). Sóng
này được kích hoạt vào 3115 TCN với bước sóng 788 năm. Có thể nói rằng, sự kích hoạt
Sóng Thứ 6 là quan trọng nhất trong lịch sử loài người. Sóng Thứ 6 đã biến đổi loài người
ở Sóng Thứ 5 từ chỗ biết diễn tả bằng cách ra dấu cho đến biết sử dụng óc lý luận. Chỉ sau
khi nội dung của Sóng Thứ 6 được tải xuống, thì nền văn minh loài người mới bắt đầu. Để
chứng minh sự trỗi dậy của các nền văn minh với sự kích hoạt của Sóng Thứ 6, các niên
lịch của các hiện tượng ban đầu khác nhau liên quan với các nền văn minh đã được tóm tắt
trong hình 3.8. Mặc dù một số niên lịch này cần được xét lại, nhưng hình ảnh tổng thể khá
là rõ ràng cho thấy rằng sự xuất hiện của nền văn minh là rất trùng hợp với sự khởi đầu của
Sóng Thứ 6 vào năm 3115 TCN.
Mặc dù tại những niên lịch này, những dấu hiệu về nền văn minh đầu tiên thì rất mơ hồ,
nhưng những gì nổi bật nhất là sự phù hợp tổng thể của chúng. Các nền văn minh mà hàm
ý là văn hóa dựa trên đời sống đô thị với hệ thống văn tự lần đầu tiên xuất hiện trên Trái đất
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
64
là ở Ai Cập, Trung Đông, và Ấn Độ. Rõ ràng, những nền văn minh này đã xuất hiện một
cách độc lập; thí dụ mọi người đều biết rằng chữ viết của những nền văn minh này hoàn
toàn khác biệt. Những kim tự tháp cũng xuất hiện tại thời điểm này và gần như đồng thời
tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Mặc dù các nền văn hóa đã tạo ra các kim tự tháp ở
Peru và Mông Cổ, hoặc những di tích vĩ đại ở British Isles không tạo thành các nền văn
minh lâu dài, nhưng rõ ràng đó là những sự kiện thay đổi lớn ở tại những nơi này vào thời
điểm Sóng Thứ 6 bắt đầu. Có thể nó không phải là sự tình cờ mà cả lịch của người Maya và
Hindus đều bắt đầu gần thời điểm này.
Hình 3.8
Thực tế là nền văn minh trên Trái đất đột nhiên xuất hiện với rất ít sự chuẩn bị từ lâu đã
là một bí ẩn đối với các nhà sử học. Trong phạm vi mô hình vật chất cũ, thì sự xuất hiện
đột ngột của nó thực sự khó mà giải thích. Nhiều nhà nghiên cứu của những ngành khác đã
tin rằng phải có một số nền văn minh khác sớm hơn những nền văn minh mà chúng ta thực
sự biết. Nhưng nếu chúng ta nhận ra rằng nền văn minh loài người là kết quả của sự thay
đổi tâm thức gây ra bởi Sóng Thứ 6, thì không có lý do gì để cho rằng phải có nền văn
minh khác tồn tại trước đó. Sự kích hoạt Sóng Thứ 6 cũng sẽ giải thích tại sao con người ở
những nơi rất xa nhau như Peru, Ai Cập, Mông Cổ, Mesopotamia lại đột nhiên xây dựng
các kim tự tháp.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
65
Hình 3.9
Lời giải thích thẳng thắn nhất cho sự xuất hiện đột ngột của các nền văn minh là con
người đột nhiên bắt đầu tải về một hình 3D mới mà tạo ra óc suy luận (h3.9) như là một
phần của mô hình hình học fractal-holographic của vũ trụ. Một loạt các hiện tượng khác
nhau xuất hiện trong các nền văn hóa khác nhau tại cùng một khoảng thời gian là có thể do
cảm nhận mới về thực tại, một cấu trúc mới của thực tại thông qua ảnh hưởng của hình học
3D này, mà không giống như hình 3D của Sóng Thứ 5 được xác định bởi các đường thẳng
và đường thẳng góc. Bản chất của hình 3D này đã tràn ngập vào chúng ta thông qua sự
cộng hưởng với trái đất (h3.9), đã được thảo luận nhiều trong cuốn The Global Mind and
The Rise of Civilization. Cũng cùng một cách như các sóng có tần số thấp hơn đột ngột tạo
ra các tiến hóa sinh học, thì một làn sóng với tần số cao hơn đột nhiên kích hoạt óc suy luận.
Bản chất toàn cầu của hình 3D mới này là lý do khiến các nền văn minh xuất hiện độc lập
và gần như đồng thời ở 3 nơi khác nhau trên thế giới. Nền văn minh thì không tạo ra óc suy
luận, mà thay vào đó óc suy luận được kích hoạt từ Sóng Thứ 6 đã tạo ra nền văn minh.
Việc tải về các hình 3D mới chỉ là sự khởi đầu của một quá trình để phát triển sâu rộng
toàn cầu của Sóng Thứ 6. Cuốn The Global Mind and The Rise of Civilization đã thảo luận
nhiều ví dụ nói về cách mà Sóng Thứ 6 từng bước phát triển các khía cạnh khác nhau về
tâm trí loài người. Hình 3.10 cho thấy cách mà những Ngày của Sóng Thứ 6 đã phát triển
hình học và toán học. Sự tiến hóa này bắt đầu với việc lần đầu tiên sử dụng các con số và
bảng tính nhân ở Mesopotamia, Ai Cập, và Ấn độ, với hình học hoàn hảo của các kim tự
tháp là một minh chứng rõ ràng.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
66
Hình 3.10
Thông qua một loạt các bước, quá trình tiến hóa này tiếp tục ở châu Âu với sự bùng nổ
sáng tạo về toán học trong suốt đầu thế kỉ 17 như là kết quả của bình minh Ngày thứ 7
trong Sóng Thứ 6. Trong bước cuối cùng này (Ngày thứ 7), óc suy luận (bộ óc mới bên trái
của hình 3D trong h3.9) đã tạo nên sự thay đổi ghê gớm đó là một cuộc cách mạng khoa
học (h3.10). Sau điểm thay đổi vào năm 1617, luật toán học đầu tiên của vật lý đã được xây
dựng từ các công trình của Galileo và Kepler. Thật khó để tưởng tượng những gì trên thế
giới ngày nay sẽ như thế nào nếu không có ai đưa ra ý tưởng rằng có luật toán học của
thiên nhiên.
Những gì được đề xuất ở đây là sự xuất hiện của nền văn minh được gây ra bởi sóng
Cột Sống vũ trụ, Sóng Thứ 6, sóng này mang đến một hình học 3D mới, mà từ đó tạo ra
mối liên hệ mới với thực tại bên ngoài. Kết quả là óc suy luận không có xuất xứ trên Trái
đất, mà có thể có gốc gác từ trên Trời, hay là người không gian. Điều này không có nghĩa
là có bất kì sự can thiệp trực tiếp nào từ người ngoài hành tinh. Thay vào đó, để phù hợp
với vũ trụ học 9 tầng và người xưa thường nghĩ rằng con người có nguồn gốc từ “Trời”, tôi
khẳng định một làn sóng của sự chuyển đổi phát ra từ trục Cột Sống vũ trụ là lời giải thích
đẹp nhất cho sự xuất hiện đột ngột của các nền văn minh trên Trái đất.
Linh Xà trong Văn Hóa Cổ Đại
Có 3 linh xà, khi Thần Mặt Trời (Heart of Sky) đến gặp Thần Rắn (Sovereign Plumps
Serpent) lúc mà sự sống bắt đầu được tạo dựng: Nó sẽ được gieo mầm như thế nào? Nảy
sinh như thế nào? Ai sẽ là người trưởng dưỡng?
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
67
Đã từ lâu, đây là một vấn nạn cho các nhà nhân chủng học và những học trò của huyền
môn học là tại sao con rắn lại đóng vai trò nổi bật trong các nghi lễ và hệ thống tín ngưỡng
của những nền văn hóa cổ đại. Như đã thấy từ việc tìm ra nghi lễ với con rắn ở Botswana,
vai trò này đã có ngay từ ban đầu của văn hóa loài người. Tôi tin rằng có hai lý do để giải
thích tại sao vai trò nổi bật này của con rắn lại được xem như một điều bí ẩn. Một là, theo
quan điểm của người hiện đại, con rắn không phải là con vật lanh lợi nhất hay là con vật
có trí khôn và kiến thức. Nó chỉ là một loài bò sát hoạt động chủ yếu bằng bản năng, và
không có tính thân thiện, trí thông minh của loài động vật có vú.
Lý do thứ hai là, người hiện đại bây giờ mới bắt đầu nhận thấy (một phần nhờ ở vật lý
lượng tử) chúng ta đang sống trong một biển sóng mà tạo ra những gì mà chúng ta có thể
trải nghiệm được thực tại của hình học 3D. Những làn sóng phát ra từ trục Cột Sống vũ trụ,
ngay cả khi nếu chúng ta không thấy chúng bằng các giác quan thì ít nhất chúng ta có thể
nhận ra sức mạnh và nguồn gốc linh thiêng của chúng bằng tiềm thức. Những gì đã được
dẫn chứng ở chương này là các sóng với các tần số nằm ngoài phạm vi thông thường đã
tồn tại và đóng vai trò quyết định cho sự tiến hóa của vũ trụ. Người xưa rõ ràng không hiểu
về các sóng bằng những thuật ngữ vật lý, nhưng họ hiểu bằng những con rắn mà tượng
trưng cho những biểu tượng huyền bí của sức mạnh thiêng liêng. Họ cảm nhận thực tại một
cách khác chúng ta, đôi khi còn thông minh hơn vì họ bị chi phối bởi những hình 3D tinh
thần khác với chúng ta bây giờ.
Tuy nhiên, một sự thật là con rắn là biểu tượng rất quan trọng cho sức mạnh và tiên tri
trong những nền văn hóa cổ đại. Nó được gắn liền với sự sinh sản, ma thuật tình dục, tính
nhị nguyên, trí tuệ, kiến thức, và sự thù hận; nếu không được chỉ ra thì không ai gán những
đặc tính trên cho con rắn. Như chúng ta đã lưu ý, mặc dù những đặc tính không tự nhiên ở
trên đã gán cho con rắn, nhưng người San Bushmen vẫn tin rằng họ là hậu duệ của một con
trăn khổng lồ - mà được coi là đấng tạo hóa. Tương tự, người Aborigines ở Úc coi con rắn
cầu vồng là đấng tạo hóa. (Chữ Rainbow, cầu vồng, có lẽ để nói rằng con rắn đến từ trời,
như là sóng sáng tạo).
Con rắn là một con vật lâu đời, huyền bí nhất, và đóng vai trò lớn hơn so với những vai
trò của một con vật theo nghĩa thông thường. Tôi tin rằng, cuối cùng chúng ta ở đây đã tìm
thấy lý do cho tầm quan trọng của những huyền thoại về con rắn, như tôi đã chỉ ra, con rắn
là hình ảnh tự nhiên nhất để tượng trưng hay đại diện cho chuyển động của sóng sin. Nếu
không như vậy, thì thật khó để hiểu tại sao người Bushmen và người Aborigine ở Úc lại
nhìn vị thần tối cao - đấng sáng tạo - của họ như là con rắn. Có vẻ như rõ ràng là, ở Sóng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
68
Thứ 5 con người đã biết được việc có các làn sóng, và họ đã mường tượng và trải nghiệm
nó như những con rắn.
Sự tôn thờ con rắn hay sóng sáng tạo có lẽ trở nên rõ ràng hơn với Sóng Thứ 6. Như các
đoạn văn ở trang 82 từ cuốn sách Popol Vuh được gọi là kinh điển của người Maya, con
rắn có cánh Plumed Serpent đã được coi như vị thần tối cao của họ. (Plumed hay Feathered
có lẽ đề cập đến cái gì đó đang bay trên bầu trời, ví dụ như sóng). Con rắn Plumed, người
Aztecs gọi là Quetzalcoatl, người Maya gọi là Kukulcan được coi là đã mang đến nền văn
minh và lịch. Vì lý do này, vị thần này có thể là biểu tượng của làn Sóng Thứ 6 hơn là Sóng
Thứ 5. Dựa trên những kinh nghiệm của họ về các chuyển động sóng, những người bản xứ
châu Mỹ đã thấy các nền văn minh đến và đi theo con rắn Plumed Serpent. Đối với những
người hiện đại “sự biến mất” của người Maya hay người Toltecs có thể là một bí ẩn, nhưng
đối với những người đã nhận thức được đầy đủ về sức mạnh của các làn sóng thì sự biến
mất của các nền văn hóa đơn giản chỉ là một vấn đề của con rắn Plumed lột xác và tiếp tục
di chuyển. Như chúng ta sẽ thấy, những người châu Mỹ bản xứ xưa đã tiên đoán đúng về
điều này.
Ở Trung Hoa cổ đại, có một điều thú vị song song với vai trò của con rắn Quetzalcoatl
như là vị thần mang đến nền văn minh. Đó là người anh hùng huyền thoại (hay Thần) Phục
Hi (Fuxi) cùng với em gái song sinh Nữ Oa (Nuwa) (h3.11) được cho là những người đã
mang đến nền văn minh cho loài người. Phục Hi mang đến thước vuông (square), Nữ Oa
mang đến compa (compass), các công cụ có liên quan rất nhiều tới hình 3D thẳng của Sóng
Thứ 6 (h3.9). Không ngờ những công cụ này rất hữu dụng để xây dựng các kim tự thác, bắt
đầu từ lúc Phục Hi và Nữ Oa xuất hiện vào đầu Sóng Thứ 6. Phục Hi và Nữ Oa xuất hiện
với một làn sóng mà không chỉ mang lại công nghệ mà còn cả sự phân chia lý tính âm
dương. Tuy nhiên, điều thú vị nhất về truyện huyền thoại của cặp đôi này có lẽ là phần
chân của họ giống con rắn. Do đó, vai trò của cặp đôi này giống hệt vai trò của thần rắn
Quetzalcoatl. Họ tượng trưng cho Sóng Thứ 6, tạo ra các hình 3D rectilinear, mang đến nền
văn minh. Trong khi những người hiện đại phải cần tới vật lý lượng tử để có ngôn ngữ diễn
tả những thay đổi này, thì người xưa đã hòa cảm với những làn sóng và trải nghiệm trực
tiếp với những hiệu ứng của sóng.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
69
Hình 3.11
Trong các nền văn hóa cổ đại nhất, con rắn đóng vai trò nổi bật trong huyền thoại.
Chẳng hạn, ở phía trước vương miện của các Pharaoh ở Ai Cập có một con rắn, có lẽ là để
hướng dẫn tâm linh, và nữ tu sĩ cao cấp của dòng tu Oracle of Delphi có tên là Pythia, có lẽ
vì nghệ thuật tiên tri cần đến những kiến thức về năng lượng của các sóng vũ trụ. Thay vì
khảo sát tất cả các nền văn hóa mà xem trọng con rắn có lẽ tốt hơn là nên hỏi có nền văn
hóa nào tồn tại mà không xem con rắn là một năng lực tâm linh đặc biệt hay không?
Những Mẫu Giao Thoa Giữa Các Sóng
Tuy nhiên, con người không chỉ cộng hưởng với mỗi sóng một lần mà cộng hưởng với
nhiều sóng cùng một lúc khi những sóng Sáng Tạo này hoạt động song song với nhau.
Chẳng hạn, sự kích hoạt Sóng Thứ 6 vào 3115 TCN không có nghĩa là con người dừng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
70
cộng hưởng với Sóng Thứ 5. Mà thay vào đó, con người bắt đầu cộng hưởng với mẫu giao
thoa của Sóng Thứ 5 và Sóng Thứ 6. Từng bước một, khi con người cộng hưởng với các
Ngày của Sóng Thứ 6, thì ảnh hưởng của sóng này vượt trội hơn hẳn, còn ảnh hưởng của
Sóng Thứ 5 thì giảm đi. Khi điều này xảy ra, thì óc suy luận của con người trở nên mạnh
mẽ hơn theo thời gian, và đặc biệt là với mỗi Ngày mới của Sóng Thứ 6, hầu hết các biểu
hiện của động vật trong huyền thoại thừa hưởng từ Sóng Thứ 5 dần dà biến mất bao gồm cả
sự thờ phụng con rắn.
Những người xưa đã không nhận thức được rằng họ đã cộng hưởng với mẫu giao thoa
của 2 sóng. Người Sumer - loài người cổ đại nhất đã biết được biểu tượng của 2 con rắn
quấn vào nhau tượng trưng cho sự giao thoa của hai sóng (h3.12). Tên của thực thể được
mô tả, Ningizzida, nghĩa là Thần Cây “Lord of the Good Tree” ngụ ý rằng nền văn minh sơ
khai này đã xem cây sự sống không chỉ quí báu mà còn như Đấng trị vì. Y hiệu (caduceus)
(biểu tượng 2 con rắn quấn vào nhau) biểu tượng cho mẫu giao thoa của các sóng phát ra từ
trục Cột Sống vũ trụ, hay cây Sự Sống, vẫn là một y hiệu được duy trì cho tới tận ngày nay.
Hình 3.12
Người ta đã cho rằng, y hiệu hay biểu tượng như trong hình 3.12 có thể là tượng trưng
cho chuỗi xoắn kép của DNA, nhưng không có lý do gì để tin rằng người cổ đại đã biết gì
về nó, ngoài ra chuỗi xoắn kép không có trục (staff) hay cái cây (good tree) tại chính giữa,
mà trục là phần quan trọng nhất trong những lối trình bày cổ xưa về biểu tượng xoắn kép.
Tuy nhiên, chúng tôi có lý do để tin rằng người xưa đã nhận thức được về những sóng sáng
tạo và do đó biểu tượng con rắn được phổ biến rộng rãi cho các làn sóng này. Sự kết nối
của staff - cái trục với con rắn thì phổ thông trong những nền văn hóa cổ xưa. Cây trượng -
staff của thánh Moses và Aaron có thể biến thành con rắn và thực hiện các phép lạ lùng là
những ví dụ cho kết nối này. Do đó, tôi nghĩ rằng nguồn gốc thực sự của y hiệu, hay con
rắn quấn quanh cột là một biểu tượng của các sóng phát ra từ trục Cột Sống vũ trụ. Những
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
71
người có sự tiếp xúc mạnh mẽ với trục vũ trụ (như đã thấy trong chương 1, là đấng sáng tạo)
cũng có thể phát ra sóng sáng tạo, được biểu tượng bằng con rắn. Vì vậy, ngay cả khi người
xưa không biết gì về DNA, nhưng có thể họ biết nhiều hơn người hiện đại về những mối
quan hệ cơ bản mà theo đó vũ trụ được tạo ra.
Tuy nhiên, rất là tự nhiên nếu chúng ta hỏi tại sao một biểu tượng của mẫu giao thoa
của hai sóng khác nhau lại trở thành y hiệu trong suốt thời gian rất dài, thậm chí ngay cả
khi ý nghĩa ban đầu của nó đã bị mất đi. Giả sử rằng những người Mesopotamians mà đã
tạo ra y hiệu đã cảm nhận được mẫu giao thoa của Sóng Thứ 5 và Sóng Thứ 6, thì tôi nghĩ
chúng ta nên nhận ra rằng sự biến đổi mà con người đã trải qua khi họ bắt đầu tải xuống
Sóng Thứ 6, có lẽ phải rất khó khăn và kéo họ theo đủ mọi hướng khác nhau. Sự quân bình
trước đó đã biến mất, và bây giờ mọi người rất có thể bị giằng xé giữa cách sống tự nhiên
trong làn Sóng Thứ 5 và lối sống theo óc suy luận của Sóng Thứ 6. Như chúng ta sẽ thấy
trong chương kế tiếp, với lối sống của óc suy luận thì có thể có một số hậu quả tiêu cực cho
nhiều người. Tôi nghi ngờ lý do mà mẫu giao thoa của 2 sóng trở thành y hiệu là vì con
người lúc đó đã nhận ra việc kháng cự lại ảnh hưởng của Sóng Thứ 5 hay Sóng Thứ 6 sẽ
không dẫn đến sự an lạc. Thái độ như vậy sẽ chỉ tạo ra xung đột giữa 2 cách sống trong một
cá nhân. Thay vào đó, sự hài hòa và hồi phục phải được tạo ra bằng cách tích hợp hai sóng
và các mẫu giao thoa của chúng mà y hiệu tượng trưng.
Tóm lại, dựa trên những gì chúng ta biết từ thời tiền sử, kinh nghiệm về con rắn, hay
làn sóng là nhận thức đầu tiên mà con người kinh nghiệm về một thế giới khác. Chúng ta
có thể theo dõi kinh nghiệm này từ lúc ban đầu của Sóng Thứ 5, khi loài người xuất hiện từ
trạng thái giống như loài vật vì đã chịu ảnh hưởng của Sóng Thứ 4. Cũng khá hợp lý khi
cho rằng mối quan hệ này với con rắn (những gì trong thực tế là một làn sóng bắt nguồn từ
cây sự sống) là cơ sở đầu tiên cho đạo đức. Có lẽ nó cũng là trí tuệ đầu tiên để đưa con
người vượt lên cuộc sống hàng ngày chỉ gồm toàn là tranh đấu hay trốn chạy. Giống như
người xưa đã học cách tạo ra cộng hưởng với Sóng Thứ 5 và Thứ 6, chúng ta phải có kiến
thức về 9 sóng sáng tạo, và tạo ra cộng hưởng với chúng trong thời đại của chúng ta. Việc
tạo ra cộng hưởng là một hiện tượng đã có kể từ khi loài người đầu tiên có văn hóa và được
phổ biến rộng rãi trong những người xưa cho đến khi chúng bị lu mờ bởi tinh thần hiện đại.
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
72
Chương 4
Cây Sự Sống Trong Cách Trình Bày Cổ Xưa
Như chúng ta đã thấy, vũ trụ quan 9 tầng thực tế có ở khắp trong các nền văn hóa
truyền thống trên trái đất, và những chuyển động thiêng liêng của sóng được tượng trưng
bằng những con rắn hay con rồng cũng như vậy. Tuy nhiên, khảo cứu của chúng tôi bắt đầu
với sự khám phá gần đây về Cây Sự Sống Vũ Trụ (the Cosmic Tree of Life), và chúng tôi
tiếp tục xác minh vũ trụ được tạo ra bởi một dãy các sóng phát ra từ cây Sự Sống này. Tuy
vậy, chỉ có một vài ví dụ được đưa ra để cho thấy những nền văn hóa cổ đã nhìn nhận Cây
Sự Sống như thế nào, đó là một “huyền thoại” phổ biến mà bằng cách này hay cách khác có
thể tìm thấy ở hầu hết mọi nơi trên Trái đất. Theo lẽ tự nhiên, mối quan tâm của chúng ta
về Cây Sự Sống ngày càng trở nên lớn hơn một khi biết đó không phải là ảo tưởng, và đây
là lý do để khám phá những chi tiết bổ sung về vai trò và chức năng của nó mà chúng ta có
thể thu được từ những truyền thống xưa.
Những biểu tượng sớm nhất về Cây Sự Sống được tìm thấy ở vùng Mesopotamia
(Trung Đông) từ đầu thiên niên kỉ thứ 3 TCN. Trong chương trước, chúng ta đã thấy một
trong những hình ảnh (h3.12) mà trong đó nền văn hóa này đã miêu tả cây thiêng liêng như
một trục, thường được gọi là trục Mundi, với hai con rắn quấn xung quanh nó. Trong hình
này, cái trục đã xác định bên trái và bên phải là các hình ảnh phản chiếu của nhau. Đây là
những biểu tượng điển hình cổ xưa về Cây Sự Sống (h4.1c và h5.1), và có nền tảng trong
sự tiến hóa ở cấp vĩ mô của vũ trụ. Tại những mức thấp hơn của mô hình
fractal-holographic, chúng ta đã thấy cách mà những hình ảnh phản chiếu về các bán cầu
được tạo ra ở mức thiên hà, hành tinh, và sinh vật. Do đó, hiệu ứng phản chiếu của Cây Sự
Sống là rõ ràng cả trong huyền thoại xưa và từ bằng chứng thực nghiệm về cách mà vũ trụ
được tạo ra.
Khía cạnh khác của Cây Sự Sống trong niềm tin của người Sumerian là sự hiện hữu
của các làn sóng mà được tượng trưng bởi những con rắn phát ra từ cây này. Những làn
sóng này đã bắt đầu với Sóng Đầu Tiên có bước sóng một tỉ năm ánh sáng, mức sóng này
là phù hợp với trục Cột Sống vũ trụ tại thuở ban đầu trong sự tiến hóa của vũ trụ. Trên
Sóng Số 1 này là một dãy các sóng mà mỗi sóng có tần số cao hơn gấp 20 lần sóng trước
đó đã được kích hoạt, và từ đó sự biến đổi của các mẫu giao thoa được hình thành. Trong
các chương tiếp theo, chúng ta sẽ tiếp tục tiến lên những tầng sáng tạo cao hơn, cuối cùng
dẫn tới làn sóng liên quan nhất với chúng ta hiện nay, làn sóng thứ 9. Và trước tiên, chúng
ta cần hiểu thêm về các mẫu giao thoa được hình thành như thế nào, và quan trọng nhất là
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
73
những loại hình 3D nào được tạo ra trong con người qua sự cộng hưởng với những làn
sóng khác.
Nếu chúng ta tiếp tục quá trình lịch sử, chúng ta sẽ tìm thấy từ thiên niên kỉ thứ 2 TCN
những hình ảnh về Cây Sự Sống có mặt trong toàn bộ những nền văn minh cổ xưa trải dài
từ Ấn độ tới Ai cập và cho tới Hy lạp (h4.1). Các nhà vua thường không chỉ giữ gìn Cây Sự
Sống mà con mang theo một nhánh bên mình để tượng trưng rằng họ có phần trong đó, và
vương quyền của họ thông qua cây này có nguồn gốc thiêng liêng. Tin-tir-ki là cái tên xưa
nhất của Babylon nghĩa là “Chỗ của cây sự sống” “The place of the tree of life”. Người Ai
cập cũng có một câu chuyện chi tiết về Cây Sự Sống, mà trung tâm của câu chuyện là ở
thành phố của Heliopolis. Theo họ, cây sự sống đại diện cho trụ cột thế giới, hay trục
Mundi, trung tâm của vũ trụ mà các thiên đàng giống như xoay quanh đó - một tư tưởng
tương tự như trục ma quỉ của khoa học hiện đại (axis of evil). Hơn nữa, các vị thần Ennead
(9 vị thần) đã được đề cập trước đó được cho là đã xuất hiện từ Cây Sự Sống. Trong bối
cảnh hiện tại của chúng ta, có lẽ điều quan trọng nhất đối với việc xây dựng vũ trụ của
người Ai cập là Cây Sự Sống được coi là nắm giữ kiến thức về một kế hoạch thiêng liêng.
Điều này gom lại thành một bản đồ định mệnh mà đã hiện hữu từ khi thế giới được tạo ra.
Theo các chương trước, tất cả các khía cạnh của sự sáng tạo có thể được qui cho các sóng
của sự tiến hóa phát ra từ Cây Sự Sống có vẻ như để chứng thực cho quan điểm này của
người Ai cập cổ đại.
Một hình ảnh đặc biệt của Cây Sự Sống, với một Cây bổ sung về Kiến thức Thiện và
Ác, đã trở nên có ảnh hưởng to lớn khi được mang vào các tôn giáo của Kitô giáo và Hồi
giáo, là câu chuyện sáng tạo của người Do thái, mà sẽ được thảo luận trong chương tiếp
theo. Cũng có những biểu tượng ngoài đời thực của cây sự sống, như ở Scandinavia, nơi
mà cây tro được tôn vinh là hiện thân sống của Yggdrasil, và những ví dụ khác có thể được
tìm thấy trên khắp thế giới từ Maori tới Maya (h4.1a-c). Thường thường những cây mà có
những đặc điểm đặc biệt chẳng hạn như cây kauri và cây ceiba thì được xem như là biểu
tượng của Cây Sự Sống Vũ Trụ. Cây kauri (h4.1a) có thân cây ấn tượng, và cây ceiba
(h4.1b) có sự khác biệt là đôi khi có rễ ở bốn hướng và các nhánh thì vuông góc với thân
cây. Ngay cả ngày nay, những người làm rừng người Maya sẽ không động đến cây ceiba
khi chặt phá rừng.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
74
Hình 4.1a,b
Do có nhiều nền văn hóa khác nhau tôn thờ Cây Sự Sống, đôi khi bị ngăn cách bởi
những đại dương, nên khá rõ ràng là biểu tượng thiêng liêng của cây thiêng liêng đã không
được lan truyền qua ngã dân gian. Đúng hơn, mọi người khắp nơi trên thế giới trong thời
đại này đã có một kinh nghiệm trực tiếp về Cây Sự Sống, và dựa trên điều này họ đã miêu
tả nó trong nghệ thuật và đôi khi là văn tự của họ. Như thường lệ với cách diễn tả những
biểu tượng cổ xưa, có một vài khác biệt trong cách trình bày. Không giống như thời đại của
chúng ta, họ không thể gửi ra ngoài một vệ tinh để có được một hình ảnh về trục vũ trụ.
Thay vào đó, các nền văn hóa khác nhau đã nhận thức được về những khía cạnh của Cây
Sự Sống thông qua sự cộng hưởng trực tiếp với nó. Nhưng, như đã lưu ý về biểu tượng con
rắn, sự thật sẽ bị bóp méo phần nào tùy thuộc vào tâm trí của người tải thông tin.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
75
Hình 4.1c
Cây Sự Sống, con rắn, và số 9 có mặt ở khắp nơi trong thế giới quan của những xã hội
cổ xưa. Những điểm chính của vũ trụ quan chung này hiện đang được khôi phục và tìm
hiểu bởi vì chúng phù hợp với dữ kiện của khoa học hiện đại. Nếu chúng ta nhìn chúng
theo đúng cách, như các khía cạnh của lý thuyết vật lý quantum-holographic thì sự hiện
hữu của những hiện tượng này là có lý và như ta sẽ thấy, chúng có thể giải thích được
những gì đang xảy ra tại thời điểm hiện nay. Vì mô hình này miêu tả một bức tranh mạch
lạc từ vũ trụ quan cổ đại, do đó hợp lý để tiếp tục cuộc khảo cứu dựa trên niềm tin của
người Ai cập là Cây Sự Sống nắm giữ kiến thức về kế hoạch thiêng liêng và tạo nên một
bản đồ định mệnh cho nhân loại.
Bản Đồ Định Mệnh của Nhân Loại
Trong số 9 sóng sáng tạo phát ra từ Cây Sự Sống, thì 4 sóng cao hơn (từ sóng thứ 6 đến
sóng thứ 9) khác nhau ở hai khía cạnh quan trọng cho phép giải thích tại sao mỗi sóng tạo
ra một thực tại và trải nghiệm thực tại khác nhau, như chúng ta đã thấy trong các ví dụ ở
chương trước. Một khía cạnh đã được tóm tắt trong hình 2.8 là tần số của các sóng mà đã
đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến hóa sinh học hướng tới các loài cao
hơn thì cũng tạo ra trải nghiệm về sự tăng tốc của thời gian trong thời gian gần đây. Một
khía cạnh khác là hình học và đặc biệt là sự phân cực các hình 3D của các sóng cao hơn
(h4.2). Mỗi lần khi một làn sóng mới trong dải tần số tinh thần được kích hoạt trên Trái đất,
thì loài người lại bắt đầu tải xuống một hình 3D mới vào tâm trí. Mỗi sóng tạo ra một hình
3D khác nhau, từ đó tạo ra một khuôn khổ để cảm nhận được thực tại. Những hình 3D
được tải xuống từ Cội Nguồn là Cây Sự Sống đã tạo ra những phản ứng căn bản của chúng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
76
ta về đời sống. Đáng chú ý sau đó, những sự đổi chiều của hai cực cuối cùng lại diễn ra
không phải do những hiện tượng siêu hình, mà là tính nhị nguyên sẵn có, hay “tính bất
đẳng hướng vốn có” “inherent anisotropy” được phát hiện gần đây trong vũ trụ (chương 1).
Bốn cực khác nhau của tâm trí thể hiện trong hình 4.2 thì tương ứng với mỗi hướng trong
“4 hướng vũ trụ” (không giống như 4 hướng trên Trái đất) được thể hiện trong Cây Sự
Sống ở hình 2.6. Tại thời điểm kích hoạt sóng mới có tần số cao hơn, các hình 3D mới dựa
trên mỗi trong 4 hướng vũ trụ sẽ được tạo ra cùng với những thực tại mới cho loài người.
Hình 4.2
Những ảnh hưởng của hình 3D khác nhau trong hình 4.2 sẽ được nghiên cứu kĩ lưỡng
trong các chương sau, nhưng tóm lại, tùy thuộc vào làn sóng mà bạn cộng hưởng mà một
hình 3D cụ thể sẽ xây dựng tâm trí và nhận thức về thực tại của bạn. Hậu quả là cái gì mà
chúng ta trải nghiệm và tạo ra thế giới bên ngoài sẽ phụ thuộc vào sóng mà chúng ta cộng
hưởng. Chẳng hạn, nhờ những hình 3D khác nhau đã cho chúng ta một lời giải thích tại sao
thế giới quan của người xưa (dựa trên Sóng Thứ 6) lại khác với chúng ta (dựa trên Sóng
Thứ 7 và 8) và tại sao người hiện đại đã tạo ra một thế giới rất khác biệt. Loài người hiểu
được thế giới nhờ dựa trên những thông tin họ nhận được thông qua bộ lọc cụ thể mà hình
3D cung cấp. Hơn nữa, nếu chúng ta cộng hưởng với một sóng cụ thể và một hình 3D
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
77
tương ứng, thì chúng ta sẽ thu hút những người và hoàn cảnh phù hợp với những điều kiện
này. Tiếp theo, chúng ta cũng có xu hướng tạo ra một thực tại phù hợp với một hình 3D cụ
thể và thường chống lại bất cứ điều gì mà có vẻ không phù hợp với điều này. Do đó, thực
tại bên ngoài được tạo ra theo nguyên lý trong sao ngoài vậy.
Trong nhiều mặt khác, các hình 3D này mà mỗi hình liên kết với một sóng với một tần
số cụ thể, cũng cung cấp lời giải thích cho các mối quan hệ xã hội cơ bản đã thay đổi như
thế nào trong quá trình lịch sử của nhân loại: loài người đã phóng chiếu sự đối xứng của
hình 3D vào thế giới và tạo nên thực tại xã hội tương xứng với nó. Ở dạng đơn giản, hình
4.2 cho thấy thời gian kích hoạt của các hình 3D khác nhau chi phối tâm trí loài người,
cũng như những hậu quả xã hội rộng lớn của các hình 3D này. Những hình 3D của Sóng
Thứ 5, 7, và 9 có khuynh hướng tạo ra xã hội quân bằng, ngược lại những hình 3D của
Sóng Thứ 6 và 8 (nơi mà thực tại được nhận thức thông qua một phân cực trái-phải) thì có
khuynh hướng để tạo ra thực tại xã hội bất quân bằng. Rộng hơn, lịch sử nhân loại có thể
được hiểu từ sự thay đổi giữa các phân cực khác nhau của các hình 3D trong hình 4.2.
Trong những cuốn sách trước, tôi đã mô tả các phân cực thay đổi trong tâm trí loài người
đã quyết định lịch sử như thế nào. Do đó, hầu hết những sự thay đổi cơ bản trong tâm trí
loài người diễn ra như kết quả của sự kích hoạt các sóng mới.
Theo quan điểm của tôi, hình 4.2 là bản đồ quan trọng nhất trong cuốn sách này: từ đó,
chúng ta có thể hiểu một cách rộng rãi là làm thế nào mà tâm trí loài người thay đổi qua
thời gian cũng như các hình 3D nào mà chúng ta có thể cộng hưởng với tại thời điểm hiện
tại. Thật thú vị, nếu nhìn vào chuỗi các hình 3D trong hình này, thì chúng ta có thể thấy
rằng trong quá trình tiến lên các sóng cao hơn, loài người đã đi từ giai đoạn đại đồng
(unity) trong Sóng Thứ 5 đến giai đoạn phân chia (separation) được tạo ra bởi sự xuất hiện
của các bộ lọc tối của Sóng Thứ 6, 7 và 8, sau đó là sự trở lại giai đoạn đại đồng của Sóng
Thứ 9. Tư tưởng về sự trở lại hợp nhất với thượng đế thì rất phổ thông trong nhiều tôn giáo
(gồm cả các dòng Abrahamic) và các truyền thống tâm linh, và có lẽ đây là lần đầu tiên các
sóng ngày hôm nay có thể cung cấp một lời giải thích hợp lý cho điều này.
Chúng ta có thể thấy sâu hơn rằng các bộ lọc của các hình 3D, tuy là chúng xuất hiện
phân cực khi được nhìn riêng rẽ, nhưng theo thời gian nó sẽ đều nhau để hai bên bán cầu
não trái và phải nhận được cùng một lượng ánh sáng từ các hình 3D. Người ta gọi sự thay
đổi tâm thức do các làn sóng này thăng hoa là “nâng tần số của mình lên” hay “bước vào
trạng thái tâm thức cao hơn”. Chuyển động xoắn ốc thông qua các phân cực mà là một
phần của sự thăng hoa này có thể cũng được xem như sự tăng lên của năng lượng
Kundalini. Các khái niệm từ Ấn độ đề cập đến một kích hoạt giống như con rắn của một lò
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
78
xo dọc theo cột xương sống. Cùng quan điểm của người Ai cập xưa về Cây Sự Sống, tôi
gọi hình 4.2 là Bản Đồ Định Mệnh của Nhân Loại. Việc tiến lên Sóng Thứ 9, và đăng tải về
một hình 3D không có đầu lọc hay tính nhị nguyên thì sẽ giúp cho sự hoàn tất của định
mệnh loài người.
Bởi vì có một sự tương ứng giữa các hình 3D trong hình 4.2 và tần số của chúng, nên
bây giờ chúng ta có thể hiểu nguồn gốc của những câu nói hàng ngày như “being on the
same wavelength” hay “resonating with someone” để biểu thị sự hòa hợp. Các tần số được
nói đến trong các câu nói như vậy rõ ràng không đề cập đến ánh sáng và âm thanh có thể
nghe và nhìn thấy được, mà là sự tương đồng sâu sắc hơn nhiều giữa hai người mà tải
xuống cùng một hình 3D. Nói chung, theo nghĩa đen, những người có tâm trí được định
hình bởi cùng 1 hình 3D trên cùng một bước sóng và cộng hưởng với nhau là bởi vì họ
nhìn thế giới qua cùng một bộ lọc. Sự cộng hưởng như vậy với cùng một bước sóng sẽ tạo
ra sự đồng bộ hóa. Loài người trong sự cộng hưởng với cùng một sóng hoặc các mẫu giao
thoa đặc biệt giữa các sóng khác nhau có thể vô tình được tham gia trong cùng một quá
trình và vì vậy được trải nghiệm sự đồng bộ hóa.
Hình 4.3
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
79
Vòng Ánh Sáng Hành Tinh
Làm thế nào mà Cây Sự Sống lại sinh ra các phân cực khác nhau cho các hình 3D trong
hình 4.2 và tại sao lại làm chúng thay đổi? Để trả lời câu hỏi này, trước tiên chúng ta cần
nhận thức rằng có một sự cộng hưởng với hình 3D giữa Trái Đất và loài người: cực
trái-phải của tâm trí loài người được tạo ra từ sự cộng hưởng với cực tây-đông của Trái Đất.
Do đó, bán cầu phía tây trong tất cả các sóng là chủ yếu trong sự cộng hưởng với bán cầu
não trái (h3.9). Tương tự, bán cầu phía đông là chủ yếu trong sự cộng hưởng với bán cầu
não phải. Như đã thảo luận đầy đủ trong cuốn The Global Mind and the Rise of Civilization,
tâm trí loài người không có nguồn gốc trong bộ não mà có trong các hình 3D, mà trung
gian gần nhất là Trái đất. Hình 4.3 cho thấy một biểu đồ phức tạp hơn về các hình 3D của
các sóng cao hơn so với hình 4.2, và nó cũng cho thấy những ảnh hưởng của các hình 3D
đối với Trái Đất.
Từ những quan điểm khác nhau, các cột trong hình 4.3 cho thấy những phân cực của các
hình 3D khác nhau tác động lên trái đất như thế nào. Nếu chúng ta nhìn vào những cực của
các hình 3D từ phía Bắc Cực (cột 1), thì chúng ta có thể thấy rằng sự thay đổi giữa chúng
được diễn ra bởi sự thay đổi 90o xung quanh trục Bắc Cực (polar axis). Do đó, cứ mỗi lần
một sóng mới được kích hoạt trên trái đất, thì phân cực của các hình 3D lại thay đổi 90o ,và
như được thấy trong cột 2 và 3, điều này được phản chiếu ở tầng mức trái đất. Lần lượt,
những sự thay đổi này được phản ảnh trong các hình 3D áp đặt lên loài người (cột 4) trong
sự cộng hưởng với trái đất. Biết rằng các sóng phát ra từ trục Cột Sống Vũ Trụ nhưng
những sự thay đổi này trong phân cực xung quanh trục Trái Đất được tạo ra từ sự cộng
hưởng với trục Cột Sống Vũ Trụ phù hợp với mô hình fractal-holographic trong hình 1.5.
Nói cho cùng, những sự phân cực của các hình 3D có gốc gác từ những sự cộng hưởng
khác nhau với tính nhị nguyên nguyên thủy của vũ trụ có ở trong Cây Sự Sống như đã thảo
luận trong chương 1.
Tuy nhiên, việc hỏi tại sao Cây Sự Sống trải qua Vòng Ánh Sáng Hành Tinh (Planetary
round of Light) này được phản ảnh trong tâm trí toàn cầu và tâm trí cá nhân con người, thì
cũng giống như hỏi tại sao có vụ nổ Big Bang hay tại sao có Cây Sự Sống vậy. Chúng ta đã
thấy (trong chương 1) có bằng chứng là trục Cột Sống Vũ Trụ tạo ra các chuyển động xoắn
ốc và ảnh hưởng đến các cực trong vũ trụ, và vì vậy chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu nó
(Vòng Ánh Sáng Hành Tinh, Planetary round of Light) cũng thể hiện theo cách này. Hậu
quả của trải qua Vòng Ánh Sáng Hành Tinh (Planetary round of Light) mà chúng ta sẽ thấy
nhiều hơn về sau là: không chỉ loài người sẽ phát triển các công nghệ khác nhau mà còn trở
nên ngày càng tỉnh thức (self-aware).
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
80
Như đã thảo luận trong chương trước, sự cộng hưởng chung của nhân loại với Trái Đất
là lý do để con người ở những nơi khác nhau trên thế giới phát triển vũ trụ quan 9 tầng mà
có liên hệ với nhau. Tư tưởng trở lại giai đoạn đại đồng (hợp nhất, unity) mà phổ biến trong
nhiều tôn giáo và truyền thống tâm linh thì có vẻ là kết quả của cùng một sự cộng hưởng.
Tâm trí toàn cầu tạo ra một cộng hưởng chung giữa con người từ các nơi khác nhau trên thế
giới, những người này sau đó nhận thông tin mà được lọc bởi cùng một hình 3D. Từ đó, họ
đưa ra kết luận tương tự về thế giới và định mệnh của nó. Sự kiện mà những suy nghĩ cá
nhân của chúng ta được tạo ra thông qua sự cộng hưởng chỉ với một hình 3D toàn cầu thực
sự là một yếu tố gắn kết mạnh mẽ cho đời sống xã hội trên Trái Đất. Nếu không có sự cộng
hưởng với cùng một hình 3D, thì có lẽ tâm trí chúng ta phải khác nhau nhiều tới mức chúng
ta không thể hiểu được người nào khác, và các cấu trúc xã hội có thể đã không xuất hiện
trên Trái đất.
Sự cộng hưởng chung với Trái Đất không chỉ ảnh hưởng đến lối tư duy của loài người
mà còn cả thế giới bên ngoài do họ tạo ra. Chẳng hạn, sự cộng hưởng chung với Sóng Thứ
6 là lý do mà loài người ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới đã bắt đầu xây dựng những
kim tự tháp tại cùng một thời điểm. Như đã đề cập trong chương trước và đã khai triển rộng
rãi trong cuốn The Global Mind and Rise of Civilization, các khía cạnh khác nhau của nền
văn minh (h3.8) đầu tiên xuất hiện cùng một lúc và không phụ thuộc vào những nơi khác
nhau trên thế giới khi Sóng Thứ 6 được kích hoạt vào 3115 TCN. Sau đó loài người ở mọi
nơi đã cộng hưởng với cùng một hình 3D, mà đã tạo ra óc suy luận, từ đó tạo ra các nền
văn minh.
Sự Đổi Cực của Tâm Trí
Nên để ý rằng các phân cực được chỉ ra trong hình 4.2 và 4.3 là những cực chi phối
suốt ban Ngày, trong khi đó vào ban Đêm thì các hình 3D không được bật sáng (h2.10).
Khi những làn sóng phát sinh những hình 3D này trải qua các Ngày (peak) và Đêm (valley),
thì nhận thức của loài người về thực tại thay đổi một cách tương ứng để sự thay đổi tinh
thần diễn ra. Đó là qui tắc chung của các sóng sáng tạo này mà trong suốt ban Ngày các
hình 3D được kích hoạt. Trong thời gian này, hiện tượng mới mà được đưa vào tâm trí loài
người thì được thể hiện với cường độ mạnh nhất. Mặt khác, trong Đêm, các hình 3D bị
ngưng kích hoạt nên có ít sự sáng tạo hơn. Những ví dụ nói về cách chuyển đổi từ Ngày
qua Đêm hay ngược lại đi theo một mẫu trình như vậy đã được trình bày trong chương
trước. Trong đó, các bước chuyển tiếp điển hình xảy ra tại thời điểm khởi đầu trong Ngày
của các sóng.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
81
Mô hình thay đổi cực của tâm trí này có thể giải thích được rất nhiều chuyện liên quan
đến lịch sử loài người. Chẳng hạn, nó giúp chúng ta xác định vai trò của hai bán cầu não
trong con người ở những thời đại khác nhau và những biến đổi khác nhau ở cấp hành tinh.
Nó cũng quyết định ai tiếp xúc được với ánh sáng thiêng liêng và ai không tiếp xúc được
với ánh sáng qua bộ lọc tối. Nó cho chúng ta biết loài người thiên về khuynh hướng thống
nhất, hay xung đột và nhiều điều khác nữa. Nhìn chung, con người không nhận thức được
rằng tâm trí của họ đang bị chi phối bởi những làn sóng này và các hình 3D cụ thể mà họ
tạo ra. Như đã nói trong cuộc thảo luận về vật lý lượng tử, những làn sóng thì không thể
nhìn thấy trực tiếp bằng mắt và chỉ trình bày một thực tại có phần nào bị che giấu. Kết quả
là, chúng ta coi nhận thức của mình về thực tại là điều hiển nhiên và nghĩ rằng việc nhìn
thế giới qua một hình 3D cụ thể cho chúng ta một sự thật khách quan duy nhất. Những bộ
lọc này đối với chúng ta như nước đối với cá: nó là trung gian duy nhất mà chúng ta biết.
Nếu chúng ta bị mắc kẹt với một bộ lọc cụ thể và chỉ có thể nhìn thấy thực tại thông qua bộ
lọc này, thì tâm trí của chúng ta sẽ bị đóng lại. Mẫu người sáng tạo là những người có khả
năng cộng hưởng với các mẫu giao thoa, và có lẽ sự cộng hưởng như vậy với một mẫu giao
thoa là điều mà Cây Sự Sống của người Sumerian (h3.12) ám chỉ đến. Tuy nhiên, theo thời
gian, những ảnh hưởng tương đối của các sóng khác nhau thay đổi và làm phát sinh nhiều
mẫu giao thoa khác nhau dẫn đến các hình 3D hỗn hợp.
Vì vậy không có gì là vĩnh cửu hay không thể thay đổi được trong “bản chất con người”.
Thay vào đó, con người thì khác nhau rất nhiều giữa các thời đại phụ thuộc vào sóng và các
mẫu giao thoa mà họ cộng hưởng chủ yếu. Sự khác nhau về tâm trí giữa một họa sĩ vách đá
thời Upper Paleolithic từ 40,000 năm trước (Sóng Thứ 5), một người họa sĩ thời Ai cập thời
sơ khai từ 5000 năm trước (Sóng Thứ 6), và một họa sĩ thời nay (Sóng Thứ 8) không thể
giải thích bằng sự khác nhau trong DNA của họ được. Sự khác nhau của họ được xác định
bởi các hình 3D và các mẫu giao thoa, từ đó sự suy nghĩ của họ đã được tạo thành. Theo đó,
mỗi hình 3D và các mẫu giao thoa giữa các sóng tạo ra một loại cụ thể về “bản chất con
người”.
Ký Hiệu Nhị Nguyên
Như đã nói, hình 3D của Sóng Thứ 6 (h3.9) đóng vai trò đặc biệt vì nó là hình đầu tiên
phát ra từ sóng nằm trong dải tần số tinh thần của quang phổ (h2.3). Vì lý do này, hình học
của nó sẽ được dùng như là điểm khởi hành cơ bản cho sự tiến hóa liên tục của tâm trí loài
người, ngay cả khi các hình 3D của các tầng cao hơn được cộng thêm vào đó. Do đó, hình
3D của Sóng Thứ 6 cung cấp cốt lõi của “óc suy luận” và vì vậy đã có một ảnh hưởng lâu
dài trong quá trình lịch sử của nhân loại. Ngược lại, Sóng Thứ 5 (h4.2) thì không tạo ra các
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
82
bộ lọc, do đó loài người trong thời kì này không bị che mờ và có thể tiếp xúc trực tiếp với
thiên nhiên và đấng Thiêng Liêng. Thực tại này đã thay đổi một cách đặc biệt khi sóng thứ
6 được kích hoạt và một hình 3D mới được tải xuống (h3.9).
Hình 4.4 cho ta thấy một vài thí dụ về cách mà người xưa đã biểu tượng hóa hình 3D
mới được tạo ra bởi Sóng Thứ 6. Mặc dù những người hiện đại có xu hướng xem những
hình này là biểu tượng vô nghĩa được tạo ra mà không có lý do gì cả, nhưng bây giờ chúng
ta có thể bắt đầu hiểu rằng những người xưa đã mô tả các biểu tượng nguyên mẫu này như
sự phản ảnh của hình 3D mới mà tạo ra thực tại văn minh mới của họ. Những biểu tượng
hình học này rất quan trọng vì chúng làm rõ những thực tại mới mà con người đang trải
qua.
Bất chấp sự khác biệt trong các chi tiết của chúng, những biểu tượng này có chung các
đặc điểm thiết yếu, một phân cực sáng-tối và phân vùng thành 8 vùng năng lượng bởi hình
học compass rose. Kí hiệu hunab-ku trong hình 4.4a có nguồn gốc từ người Aztec và được
tìm thấy trong Codex Magliabecchiano. Kí hiệu dinger trong hình 4.4b là lâu đời nhất trong
3 biểu tượng và có thể truy ra được từ cuối thiên niên kỉ thứ 4 TCN trong nền văn hóa của
người Sumerian. Người Sumerian rõ ràng đã sử dụng kí hiệu này để biểu thị sự thiêng liêng,
vì trong chữ viết tượng hình của họ, kí hiệu dinger luôn luôn được đặt bên cạnh tên của các
vị thần. Thật vậy, nó là hình 3D phát ra từ Cây Sự Sống, vì tất cả các kí hiệu này là bắt
nguồn từ hình học thẳng góc của Cột Sống Vũ Trụ. Cuối cùng, biểu tượng bát quái (bagua)
của phương đông đã trở thành biểu tượng nổi tiếng nhất trên thế giới về tính nhị nguyên
(âm-dương). Một triết lý sâu rộng đã được phát triển xung quanh lý âm dương, và những sự
diễn giải về (I Ching trigrams) đồ hình Kinh Dịch xung quanh điều này bắt nguồn từ thuở
ban đầu của nền văn minh Trung Quốc.
Hình 4.4
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
83
Cả 3 kí hiệu này đều cùng chứng tỏ rằng hình 3D mới của Sóng Thứ 6 có thể tải xuống
từ Cực Đông (Far East) sang Cực Tây (Far West), và có thể được xem như là những ví dụ
về hình học thiêng liêng. Hình học thiêng liêng ở đây có nghĩa là hình học bắt nguồn từ
Cây Sự Sống. Bởi vì loài người tại thời điểm đó biết rằng hình học thiêng liêng là một phần
của hình học 3D mà hình thành nên sự hiện hữu của họ, nó đã được sử dụng như một cách
để thăng hoa trình độ tâm linh. Lưu ý rằng những biểu tượng trong hình 4.4 không phải là
cách duy nhất để trình bày hình học thiêng liêng của hình 3D. Nhiều khía cạnh phức tạp
hơn như Hoa Sự Sống (Flower of Life) có thể được thêm vào. Khía cạnh quan trọng nhất
của hình 3D được diễn tả như hình một chữ thập 4 hướng ở giữa một vòng tròn.
Bây giờ có lẽ là lúc để chỉ ra rằng trong lý thuyết này thực sự không còn sự phân biệt
giữa cõi vật chất và siêu hình. Các biểu tượng trong hình 4.4 và đặc biệt là biểu tượng âm
dương mà được biết đến nhiều nhất thường được coi là siêu hình và thuộc về cõi khác cõi
vật chất. Tuy nhiên, khái niệm siêu hình bây giờ đã mất đi ý nghĩa của nó khi lý âm dương
thực sự thuộc cùng quang phổ của những hiện tượng vật chất; tuy nhiên nó nằm ở phần của
quang phổ mà không nhìn thấy được bằng mắt thường.
Hình Học Thiêng Liêng của Tâm Trí Sóng Thứ 6
Nếu chúng ta khảo sát tỉ mỉ các biểu tượng của hình 3D sóng thứ 6 trong hình 4.4, thì
chúng ta sẽ thấy rằng cả ba đều phản ánh những khía cạnh quan trọng nhất của hình 3D.
Khía cạnh đầu tiên là sự hiện hữu của một vòng tròn bao ngoài, thứ hai là cấu trúc 8 vùng
(bao gồm cả cây thập tự), và thứ ba là phần sáng-tối (âm-dương). Cả ba khía cạnh của hình
3D đều bắt nguồn từ cây Sự Sống và có hệ quả quan trọng cho tư duy của những người đã
tải nó xuống. Vòng tròn bao ngoài này tạo ra sự gắn kết, mang lại cho người ta cảm tưởng
như chỉ có một bộ óc mà xử lý mạch lạc tất cả các thông tin từ thế giới tần số. Chúng ta có
thể nghĩ bao hình này như một vòng hào quang tạo cho tâm trí chúng ta những ranh giới và
sự thống nhất để chúng ta hoạt động trong thế giới như những cá thể riêng biệt. Theo cách
này, chúng ta trải nghiệm sự liên tục của cuộc sống, hay nói theo cách khác, chúng ta trải
nghiệm về bản thân mình hôm nay cũng giống như hôm qua.
Khía cạnh chung thứ hai của ba biểu tượng hình 3D này là được chia thành 8 hướng mà
phân chia nhận thức của chúng ta về thực tại thành những tầng khác nhau, được xác định
bởi các đường thẳng và đường thẳng góc. Trong khía cạnh này, kí hiệu bát quái của người
Trung Quốc có thể là tiên tiến nhất khi 8 cung của nó cũng xác định những tầng năng lượng
khác nhau. Sự chia cung của thực tại cho ra những gì mà chúng ta gọi là óc suy luận, và
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
84
nhiều ví dụ về cách thức các khả năng khác nhau của tâm trí phát ra từ cấu trúc này đã
được thảo luận trong cuốn The Global Mind and the Rise of Civilization. Các đường thẳng
và đường thẳng góc được tái tạo lại trong tâm trí những người đã tải về hình 3D này đã trở
thành hệ thống tham chiếu bên trong cho mọi việc họ đã làm, gồm cả việc sáng tạo nghệ
thuật. Cấu trúc suy luận của thực tại mà hình 3D này cung cấp tạo thành nền tảng cho các
nền văn minh.
Trong cuốn The Global Mind and the Rise of Civilization, nhiều ví dụ về sự phát triển
của nghệ thuật chỉ là sự phản chiếu của bộ óc trong Sóng Thứ 6. Ở đây chỉ có một ví dụ
đơn giản để diễn giải ảnh hưởng này của hình học thẳng góc: nghệ thuật được tạo ra trước
khi hình 3D của Sóng Thứ 6 được tải xuống (h4.5a) về cơ bản thì khác với nghệ thuật mà
được tạo ra sau đó (h4.5b). Do đó, khung cảnh từ vương quốc Ai cập mới vào 1500 TCN
(được tạo ra sau khi tải xuống hình học 3D mới) có cấu trúc gồm nhiều đường thẳng đứng
và đường nằm ngang hơn so với nghệ thuật trong hang đá từ 40,000 năm trước của người
Altamia (được tạo ra trước khi hình 3D được tải xuống). Những đường thẳng và đường
thẳng góc, hay những kí hiệu như trong hình 4.4 thì không kiếm được ở bất kỳ đâu trong
thiên nhiên (ngoại trừ trong hình học thuần túy của Cây Sự Sống), và cũng không tìm thấy
trong nghệ thuật thời kì đồ đá Paleolithic; chúng không xuất hiện ở bất kì lãnh vực nào
trong nghệ thuật cho đến khi bắt đầu Sóng Thứ 6, khi sự thay đổi cho phép sự cộng hưởng
với những đường này. Không đáng ngạc nhiên khi chúng ta thấy trong hình 3.10, chỉ từ
thời điểm này thì hình học và toán học mới bắt đầu phát triển trong các nền văn minh sơ
khai. Hình học chỉ xuất hiện khi tâm trí loài người tải về một hình 3D với một cấu trúc hình
học.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
85
Hình 4.5
Khía cạnh chung thứ 3 của các biểu tượng trong hình 4.4 là lý âm-dương và phân cực
sáng tối giữa hai bên trái phải của hình 3D. Tính nhị nguyên của tâm trí trong Sóng Thứ 6
gần như chắc chắn đóng vai trò quan trọng đối với sự xuất hiện của công nghệ trong các
nền văn minh sơ khai. Việc nhìn thế giới qua một phân cực như vậy cũng cho phép loài
người tạo ra những sự khác biệt. Tâm trí nhị nguyên về cơ bản là để đưa ra một sự phân
chia rất rõ rệt đối với nhận thức của chúng ta về thực tại, và nhờ đó chúng ta có khả năng
phát triển các dạng công nghệ khác nhau. Nếu không có tính nhị nguyên thì tâm trí sẽ
không có sự phân biệt để tách kim loại khỏi quặng hay làm ra đồng từ đồng và thiếc (h3.8).
Nếu không có sự xuất hiện của ngành luyện kim, phụ thuộc vào khả năng của chúng ta để
phân chia kim loại thành các loại khác nhau, thì ngày nay chúng ta đã không có xe hơi,
máy bay, hay computer. Lý do mà chúng ta không tìm thấy bất kì ứng dụng hệ thống nào
của công nghệ hay luyện kim trước khi Sóng Thứ 6 bắt đầu vào năm 3115 TCN chỉ đơn
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
86
giản là vì loài người trước đó không có óc nhị nguyên để phân biệt và tách rời các khía
cạnh khác nhau của thực tại.
Nói cách khác, tâm trí nhị nguyên đứng sau những phân chia cơ bản trong đời sống xã
hội và tôn giáo của những nền văn minh sơ khai. Sự xuất hiện của chế độ quân chủ và
những trung tâm quyền lực trùng hợp với việc tải xuống tư duy toàn cầu nhị nguyên. Loại
bất quân bình này được tạo ra, chẳng hạn như những người cầm quyền thì xem vua thuộc
về thiêng liêng còn người bình thường thì không, đã gây ra sự rạn nứt sâu sắc trong xã hội
loài người, mà đôi khi có hình thức nô lệ. Thông qua lăng kính mà tâm trí nhị nguyên mới
cung cấp, một số người như vua, quí tộc và linh mục sẽ được coi là danh giá hơn và được
xếp vào hạng “good” (ánh sáng, dương), trong khi những người khác chẳng hạn như những
người bình thường, nông dân và nô lệ sẽ được coi là ít giá trị và thuộc hạng “Evil” (tối, âm).
Hậu quả xã hội của tính nhị nguyên này tạo thành các khía cạnh rắc rối nhất của thực tại
bên ngoài được tạo ra bởi hình 3D thiện và ác. Theo quan điểm xã hội, tính nhị nguyên này
có những hậu quả mà nhiều người trong chúng ta ngày nay sẽ coi là tiêu cực. Rõ ràng là có
một mối liên hệ trực tiếp giữa sự phân cực của hình 3D thiện và ác với sự bất quân bình
của xã hội và kinh tế (h4.2). Khi người ta tải xuống hình 3D này thì họ sẽ có xu hướng tự
động tái tạo lại chẳng những là bất bình đẳng mà đôi khi còn cả những hành động tàn nhẫn
và xấu xa. Bởi vì tính nhị nguyên trong thực tế bắt nguồn từ cách Cây Sự Sống tạo ra vũ trụ,
cho nên sự bất bình đẳng và việc sử dụng quyền lực không giới hạn có thể được coi là hợp
pháp.
Chuyển Tiếp tới Nền Văn Minh
Như đã gợi ý trong chương trước, việc chuyển tiếp từ sự cộng hưởng với Sóng Thứ 5
sang Sóng Thứ 6 có thể không dễ dàng như vậy. Có vẻ như ở những khu vực mà có điều
kiện chín mùi cho chuyện này như: Ai cập, Anatolia, Mesopotamia, và Ấn độ, người ta đã
nô nức bắt đầu tạo ra các nền văn minh vào khoảng 3115 TCN (h3.8). Cuối cùng, họ đã trải
nghiệm nền văn minh như một món quà từ những vị thần, và bởi vì món quà này có nguồn
gốc thiêng liêng nên đương nhiên họ phải phát triển nó. Thế mà cùng lúc đó con người ở
thời đại này cũng đã chuyển đổi từ cái mà người Hopi gọi là một lòng qua hai lòng, khi mà
tính nhị nguyên của hình 3D bằng tâm trí đã tách con người thành hai. Việc tải xuống hình
3D của Sóng Thứ 6 cũng có nghĩa là một sự trải nghiệm về sự tách biệt từ thiên nhiên cũng
như từ Thiêng Liêng, mà trở thành khởi đầu cho một cuộc xung đột được nhận thức từ lâu
giữa con người và Thượng đế.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
87
Trong cuốn The Global Mind and The Rise of Civilization, tôi đã thảo luận rộng rãi về
các khía cạnh tích cực của sự trổi dậy của nền văn minh. Ở đây tôi cố gắng làm rõ những
mặt tiêu cực của nền văn minh. Nền văn minh đó có cả mặt tích cực và tiêu cực, được mô
tả rõ ràng bởi người Sumerian, khi mà các vị thần Enki và Inanna của họ được cho là người
mang đến những món quà của nền văn minh gọi là Me. Me cũng bao gồm những đặc điểm
như “sự giả dối” và “thù hằn”, nhưng những món quà của nền văn minh là thiêng liêng và
huyền bí nên chúng không bị nghi ngờ. Điều này cũng phù hợp với lý thuyết mới về nguồn
gốc của sự độc ác cũng như bất công trong xã hội mà được trình bày ở đây. Lý thuyết này
bao gồm một cách hoàn toàn mới để tiếp cận sự cải thiện của loài người bằng cách nhận
thức được nguồn gốc của tính nhị nguyên trong tâm trí con người và thăng hoa tính nhị
nguyên này thông qua việc tạo ra sự cộng hưởng với các sóng ở những tầng cao hơn.
Bởi vì những sự phân chia này được gây ra bởi những thay đổi nội bộ từ việc tải xuống
hình 3D Sóng Thứ 6, nên tất cả các mối quan hệ của loài người đều bị ảnh hưởng bởi nó.
Sự phóng chiếu tính nhị nguyên của hình 3D mới này vào đời sống xã hội mà đã tồn tại
hàng ngàn năm trước trong xã hội săn bắn - hái lượm ắt hẳn đã gây ra những đau khổ và
bằng nhiều cách đã phá hủy những lối sống cũ và mạng lưới bộ lạc của họ. Rất có thể,
chúng ta sẽ không bao giờ biết chắc được người ta đã trải qua như thế nào trong thời đại cổ
sinh và thời kì đồ đá, nhưng gần nhất chúng ta có thể biết là nhìn vào một số nền văn hóa
bản địa như San Bushmen hay thổ dân Úc, một trong số họ vẫn đang sống cuộc sống săn
bắn - hái lượm. Một ví dụ hư cấu đầy cảm hứng về một nền văn hóa như vậy là người Navi
trong bộ phim Avatar, những người đang cố gắng hết sức để bảo vệ Cây Sự Sống yêu dấu
của họ.
Những nền văn hóa cổ đại mà không chỉ có người Ai cập đã nói về thời đại hoàng kim
trước thời đại của họ gọi là Zep Tepi hay “lần đầu tiên”. Tôi không nghĩ rằng thời đại
hoàng kim này nên được hiểu là tiến bộ hơn về công nghệ, vì có vẻ như sự tiến bộ như vậy
thì đòi hỏi một tư duy nhị nguyên. Thay vào đó, nó có thể có nghĩa là một thời kì khi loài
người mà trước khi tải xuống bộ óc của Sóng Thứ 6 thì đã ở trong trạng thái hợp nhất với
Thiêng liêng mà không có sự tách biệt. Nói chung, các nền văn hóa săn bắn - hái lượm thì
bình đẳng và hòa bình hơn so với những nền văn hóa dựa trên cuộc sống đô thị (đó là định
nghĩa của nền văn minh), và hòa bình rất có thể là chuẩn mực trước khi hình 3D Thiện và
Ác được tải xuống.
Trước khi nghiên cứu những thay đổi thực sự xảy ra trong mối quan hệ của con người
do sự chia cách nhị nguyên được tạo ra bởi hình 3D Sóng Thứ 6, tôi cần chỉ ra rằng 9 sóng
sáng tạo không phải là những sóng duy nhất ảnh hưởng đến nhận thức của chúng ta về thực
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
88
tại. Thế giới tần số cũng bao gồm tiền sóng, mà mục đích là chuẩn bị cho con người về sự
thay đổi xảy ra khi bất kì sóng nào trong 9 sóng được kích hoạt. Các tiền sóng mang cùng
những hình 3D như các sóng đích thực, nhưng những hình 3D của chúng không thể hiện rõ
ràng. Tiền sóng hùng cường nhất của Sóng Thứ 6 bắt đầu từ 10,250 năm trước (8240 TCN)
và vì vậy có thời gian gấp 2 lần thời gian của Sóng Thứ 6 cho đến thời điểm hiện tại.
Những tiền sóng khác của sóng thứ 6 bắt đầu từ 51,250 năm trước và 25,600 năm trước, có
thời gian tương ứng bằng 1/2 và 1/4 thời gian của Sóng Thứ 5 theo thứ tự. Mặc dù những
tiền sóng chỉ được đề cập thoáng qua ở đây nhưng chúng đóng vai trò chuẩn bị rất quan
trọng. Chúng ta có thể nhận thấy rằng 51,250 năm trước tương ứng với thời điểm khi loài
người bắt đầu đa dạng hóa những công cụ của họ, và điều này có thể được coi là một làn
sóng chuẩn bị sớm không chỉ cho ngành nông nghiệp 10,250 năm trước mà còn cả cho nền
văn minh 5,125 năm sau đó.
Do đó, sự bắt đầu của Tiền Sóng Thứ 6 trùng hợp với sự bắt đầu của nền văn minh
nông nghiệp và thời kì đồ đá, nơi mà văn minh chưa xuất hiện cho tới khi Sóng Thứ 6 thực
sự bắt đầu. Tuy nhiên, các hiện tượng mà tiền Sóng 6 và Sóng Thứ 6 mang lại đều có điểm
khởi đầu ở trong Sóng Thứ 5 và được tạo ra từ các mẫu giao thoa với Sóng Thứ 5. Dù gì đi
nữa, những sóng này có nghĩa là Hình 3D Thiện và Ác đã được tải xuống bằng 2 bước, mà
song song với những tiến bộ về vật chất và công nghệ dẫn đến sự gia tăng phân cực của
tính nhị nguyên.
Hình 4.6
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
89
Nguồn Gốc của Sự Thống Trị và Khuất Phục
Trong Hình 3D Thiện và Ác
Từ nay về sau tôi sẽ gọi Hình 3D Thiện và Ác là hình 3D Sóng Thứ 6, một trong những
hậu quả của hình 3D Sóng Thứ 6 là sự xuất hiện của chế độ nô lệ, mà là biểu hiện rõ ràng
của sự thống trị và khuất phục. Chế độ nô lệ được biết là đã có trong tất cả các nền văn
minh lớn đầu tiên, và những ví dụ sớm nhất về luật pháp được xem như là một thể chế. Vì
những nền văn minh này là sản phẩm của hình 3D Thiện và Ác, nên chế độ nô lệ có thể đã
được tạo ra bởi nó. Tuy nhiên, chế độ nô lệ được tin là đã có trước nền văn minh và có gốc
gác từ thời kì đồ đá sơ khai, điều này có thể là kết quả của việc tải xuống tâm trí nhị
nguyên chuẩn bị của thời kì tiền sóng thứ 6 (h4.6). Chúng tôi thừa nhận là không biết chính
xác khi nào chế độ nô lệ bắt đầu và do đó phải xem xét giả thuyết là chế độ nô lệ được gây
ra bởi hình 3D thiện và ác như chưa được chứng minh.
Tuy nhiên, những gì chúng tôi biết là vào thời kì chế độ quân chủ đầu tiên, chẳng hạn
như ở Ai cập đã xuất hiện vào khoảng 3100 TCN, xã hội đã bị tách biệt rõ rệt thành các
tầng lớp khác nhau với những đặc quyền khác nhau, và giai cấp nô lệ đã hình thành. Những
vua chúa, cùng với hầu hết những người cai trị trong các nền văn minh sơ khai được coi là
thần thánh và đại diện cho một ý chí hay mệnh lệnh thiêng liêng. Những người bình thường
và nô lệ cũng là một phần của mệnh lệnh thiêng liêng. Sự phân cực bộ óc của Sóng Thứ 6
hầu hết tự động tạo ra một sự phân chia giữa giai cấp cai trị và giai cấp bị trị vì nó gồm một
nửa sáng và một nửa tối. Sự phóng chiếu ánh sáng này ra thế giới bên ngoài dẫn đến sự
thành lập các giai cấp khác nhau, trong đó có giai cấp nô lệ.
Tính nhị nguyên của Hình 3D Thiện và Ác có nghĩa là các xã hội văn minh sơ khai
trong Sóng Thứ 6 vì nhu cầu sẽ tái tạo một sự bất bình đẳng sâu sắc và một hệ thống quyền
lực tách biệt rõ rệt giữa những người cai trị và kẻ bị trị. Vào thuở ban đầu của sóng, vì ít
nhất con người cũng nhận ra rằng tính nhị nguyên có nguồn gốc từ thiêng liêng nên họ coi
sự kiện này như là chuyện được trời ban xuống. Sau đó, từ khoảng năm 550 TCN, tôi tin
rằng hình 3D đã ăn sâu vào tâm trí con người đến nỗi mà nó trở thành bản chất thứ 2 của họ;
họ đã không biết được rằng bản chất này không phải là của chính họ.
Sự hiện hữu của Hình 3D Thiện và Ác giải thích loại tâm lý nô lệ mà đặc trưng cho loài
người trong hầu hết 5100 năm qua của nền văn minh. Sự hợp pháp của những nhà lãnh đạo
và thống trị của họ không chỉ được truyền bá bởi những người cai trị, mà những người bị
trị cũng có cùng tư tưởng này và cho rằng đó là tự nhiên và thế giới nên được chia ra thành
hai loại, người thống trị và kẻ bị trị. Mặc dù có những cuộc nổi dậy của nô lệ trong thời cổ
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
90
đại và khởi nghĩa nông dân ở châu Âu thời trung cổ, nhưng cuối cùng các cuộc khởi nghĩa
này đều bị thất bại, bởi vì mục đích của họ không phù hợp với Hình 3D Thiện và Ác. Vào
thời điểm đó, tất cả mọi người, kể cả những người nổi loạn đã cộng hưởng với hình 3D
Thiện và Ác, và đã hòa nhập với nó. Ngay cả khi một cuộc nổi dậy thành công, thì những
người nô lệ hay nông dân sau đó sẽ sớm tái tạo lại một sự phân chia mới giữa người cai trị
và người bị trị, bởi vì những người nổi dậy không thể thay đổi hoặc vượt qua hình 3D nhị
nguyên. Với sự sở hữu một tư duy nhị nguyên như vậy, họ sẽ luôn luôn tái tạo một xã hội
có giai cấp với một bộ mặt mới trên ngai vàng. Điều mà có lẽ góp phần vào sự bền bỉ của
các xã hội phân chia giai cấp này là cho dù loài người có tìm kiếm theo bất kỳ hướng nào
thì họ cũng sẽ chỉ thấy và phát huy sự tách biệt giữa người cai trị và kẻ bị trị.
Điều này cho chúng ta biết là không có cuộc cách mạng nào chỉ nhằm mục đích thay đổi
những biểu hiện bên ngoài của tâm trí mà có thể thành công, và lịch sử thế giới gần đây đã
chứng minh điều này. Không thể có thay đổi lâu dài về xã hội được nếu nó không được
thúc đẩy bởi những người đã thay đổi tư duy ở mức sâu sắc và không bị chi phối bởi tính
nhị nguyên của Hình 3D Sóng Thứ 6 này. Nói cách khác, cấu trúc cơ bản và tính nhị
nguyên của tư duy vẫn không thể thay đổi được một khi nó được duy trì bởi sự cộng hưởng
với một sóng nhất định. Do đó, một hình 3D được mang theo bởi một sóng như vậy thì có
sức mạnh to lớn trong việc hướng dẫn chúng ta tạo ra và tái tạo lại một thực tại nào đó. Nếu
chúng ta muốn thay đổi thế giới bên ngoài theo cách lâu dài thì chúng ta phải thăng hoa
tính nhị nguyên của tâm trí chúng ta. Bởi vì thực tại bên ngoài cùng các mối quan hệ xã hội
của nó và khoa học kĩ thuật cuối cùng chỉ là sự phản chiếu của thế giới nội tâm chúng ta,
các mối quan hệ nhị nguyên giống nhau sẽ luôn có xu hướng tái tạo lại khi chúng ta tải
xuống cùng một hình 3D. Điều này cũng cho chúng ta biết rằng để đến phạm vi mà chúng
ta muốn mọi thứ thay đổi thì chúng ta cần phải hiểu biểu đồ định mệnh nhân loại và những
gì chúng ta có thể làm để thăng hoa tính nhị nguyên của bộ óc, mà có nguồn gốc từ sự cộng
hưởng với tính nhị nguyên của toàn thể vũ trụ. Phần lớn điều này chưa được nhận ra như là
một vấn đề và nhân loại như một tổng thể chắc chắn chưa nhận thức được điều này.
Ngoài sự bất bình đẳng xã hội đã đề cập ở trên, thì chiến tranh là một hiện tượng có khả
năng bắt nguồn từ tâm trí nhị nguyên xung đột vốn có được tạo ra bởi Hình 3D Thiện và
Ác. Sự đàn áp là một hậu quả trực tiếp của tư duy nhị nguyên, và chiến tranh thường là
công cụ để thiết lập và thi hành thói quen này. So với chế độ nô lệ, thời gian xuất hiện của
nó có thể dễ xác định hơn, vì theo như dự kiến nó sẽ để lại dấu vết sâu sắc hơn trong hồ sơ
khảo cổ học. Để bắt đầu, chúng ta có thể nhận thấy rằng các bức tranh hang đá từ thời cổ
sinh (Paleolithic) - trước khi tải xuống Hình 3D Thiện và Ác - không thấy bất kì dấu hiệu
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
91
của chiến tranh nào. Phát hiện sớm nhất mà có thể là dấu hiệu của chiến tranh là một nghĩa
trang trên biên giới Sudan và Ai cập, khoảng 14,000 năm trước. Tuy nhiên, ngay cả từ thời
đồ đá mới (Neolithic) (sau khi tải xuống Hình 3D Tiền Sóng Thứ Sáu 10,250 năm trước,
h4.6), thì các thị trấn thông thường không có hàng rào bảo vệ và được xây dựng ở những
vùng đất chẳng hạn như những thung lũng phì nhiêu, nên rất khó phòng thủ nếu bị tấn công.
Hơn nữa, các đồ chôn cất và hài cốt thường không cho thấy sự hiện diện của chiến tranh
trong thời kì này. Điều này có lẽ ám chỉ rằng ngay sau khi kích hoạt Tiền Sóng 6, thì chiến
tranh vẫn là một hiện tượng bất thường, mà có thể nó không tồn tại. Chiến tranh có tổ chức
và chắc chắn dựa trên vũ khí làm bằng đồng chỉ xuất hiện sau năm 3000 TCN, có khả năng
là kết quả của việc kích hoạt Hình 3D Thiện và Ác. Bộ óc nhị nguyên trở nên dễ tiếp cận
vào thời điểm đó, dần dần sau đó tạo ra một nhận thức mà người cai trị của ta và người của
phe ta là “tốt” (đáng để chiến đấu cho), còn những người khác, kẻ thù, thì là xấu (đáng để
chiến đấu chống lại và giết chết). Bởi sự cần thiết, Hình 3D Thiện và Ác đã tạo ra sự xung
đột giữa con người, mà mỗi nhóm có mục đích khuất phục người khác, là những người mà
được cảm nhận qua bộ lọc tối.
Thêm vào đó, các đô thị và văn hóa chữ viết là những dấu hiệu của nền văn minh ở tại
thời điểm này đã trở thành nền tảng để phân biệt giai cấp rõ rệt: Những người ở thành thị
càng ngày càng được nuôi ăn bởi những người trồng trọt ở nông thôn, và những người có
khả năng đọc và viết sẽ tiếp cận được với kiến thức và quyền lực - cái mà không phải dành
cho tất cả mọi người. Tương tự, các tu sĩ thường có kiến thức như vậy và họ được cho là
tiếp xúc gần hơn với các vị thần linh, sẽ trở thành một tầng lớp thượng lưu trong bối cảnh
được cung cấp bởi Hình 3D Thiện và Ác. Thực tế, tất cả các cấu trúc xã hội mà xuất hiện
xung quanh hiện tượng được tạo ra từ sự cộng hưởng với Sóng Thứ 6 (h3.8) sẽ tự tạo ra các
mối quan hệ xã hội dựa trên tính nhị nguyên, và theo nhiều cách các cấu trúc này đã tồn tại
đến thời đại của chúng ta.
Gốc Gác của Chế Độ Độc Tài Là Gì?
Câu hỏi về nguồn gốc của chế độ độc tài may mắn thay hiện đang trở thành một chủ đề
của cuộc thảo luận này. Một người lãnh tụ đã nổi lên như thế nào và tại sao sự việc lại được
chấp nhận rộng rãi như vậy? Tìm hiểu nguyên nhân của sự bất bình đẳng xã hội, chính trị,
và kinh tế là một trong những điều quan trọng nhất mà chúng ta có thể làm tại thời điểm
hiện tại. Cái gì là nguồn gốc của bạo lực, và tại sao một số người lại thống trị người khác?
Điều cho thấy trong khảo cứu này là không có cái gì gọi là “bản chất con người” cả. Các
mối quan hệ xã hội bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những hình 3D mà con người tải xuống ở
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
92
những tần số khác nhau (h4.2). Trong những chương tiếp theo, chúng ta sẽ thấy những ảnh
hưởng này đã thay đổi theo thời gian như thế nào.
Nếu là như vậy, và tôi tin là như vậy, thì chúng ta có thể hiểu sâu sắc rằng không có gì
gọi là lực xấu xa và những hành động ác độc mà con người đôi khi phạm phải chỉ là kết
quả của một hình 3D cụ thể mà họ đã tải xuống. Bạn có thể nói rằng có một số bước nhất
định trong việc leo lên tầng số 9 của kim tự tháp có tác dụng phụ tiêu cực. Những dân tộc
cổ xưa dường như đã nhận thức được rằng tính nhị nguyên này có nguồn gốc ở bên ngoài
mình, khi họ vật lộn với nó trong những câu chuyện sáng tạo của mình. Tuy nhiên, trong
thời đại của chúng ta, nhận thức này phần lớn đã bị mất, và nhiều người có lẽ đã tin rằng
tính nhị nguyên là một phần vốn có trong bản chất của chúng ta.
Để suy ngẫm sâu hơn về những hậu quả của tính nhị nguyên của Hình 3D Sóng Thứ 6,
chúng ta có thể bắt đầu bằng cách tự hỏi chúng ta đã nhận thức thực tại như thế nào với bộ
lọc 3D nhị nguyên này áp dụng cho cái nhìn bên trong chúng ta? Nếu các biểu tượng trong
hình 4.4 thực sự là biểu tượng của tâm trí, thì bộ lọc phân cực này trên thực tế sẽ định hình
tất cả những trải nghiệm của chúng ta và tô màu tất cả những thông tin từ thế giới xung
quanh chúng ta. Nếu bộ lọc phân cực được coi là có nguồn gốc thiêng liêng, thì ảnh hưởng
của nó sẽ còn mạnh mẽ hơn. Ngay cả khi loài người sau khi kích hoạt Sóng Thứ 6 có thể
“thấy” bộ lọc này (hay ít nhất là trải nghiệm nó rõ ràng tới mức họ sẽ tạo ra các biểu tượng
của nó), thì vẫn có lý do để tin rằng sau này nó sẽ trở thành bản chất thứ 2 của con người.
Loài người sau đó sẽ có khuynh hướng tin rằng thế giới thực sự là cái gì mà được cảm nhận
thông qua bộ lọc nhị nguyên này.
Tính nhị nguyên của Sóng Thứ 6 trong dạng hiện tại bây giờ là kì thị chủng tộc, kì thị
giới tính hay tương tự, do đó không thể tự nhiên có ý tưởng trong đầu mà không có nguyên
do của nó. Theo lẽ tự nhiên, có thể có những lý do cá nhân tại sao những thái độ như vậy bị
mắc kẹt trong một cá nhân cụ thể, nhưng lý do tư duy nhị nguyên tồn tại trong nhân loại
ngay từ đầu là vì dư lượng của sự cộng hưởng với Sóng Thứ 6, mà đã chi phối loài người
từ lâu. Do đó, trái với những gì mà hầu hết mọi người nói, tôi không tin rằng sự phân chia
xã hội thành các tầng lớp thống trị và bị trị có nguồn gốc chủ yếu ở các loại mô hình đào
tạo và giáo dục xã hội mà con người nhận được. Mặc dù, đào tạo xã hội đóng một vai trò,
nhưng nhiều nhất chỉ là củng cố và mã hóa sự phân cực đã hiện hữu trong tư duy nhị
nguyên. Do đó, trong chế độ độc tài, nguyên nhân chính của nó được tìm thấy trong Hình
3D Thiện và Ác, và có nhiều lý do khiến hình 3D này có sức mạnh như vậy. Nếu không có
hình 3D nhị nguyên toàn cầu thì bây giờ chúng ta không được sống trong nền văn minh.
Thêm nữa, những người Sumerian có thể là những người đầu tiên cộng hưởng với Sóng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
93
Thứ 6 và tạo ra nền văn minh, họ đã thấy không chỉ những tiến bộ thực tế mà còn cả sự ác
cảm thù hằn đi kèm với nó. Tôi tin rằng điều quan trọng với chúng ta ngày hôm nay là nên
hiểu rằng không phải nền văn minh đã tạo ra sự thù hằn. Thay vào đó, chính Hình 3D
Thiện và Ác đã tạo ra cả những tiến bộ kĩ thuật và những mặt tiêu cực của nền văn minh.
Tôi nghĩ chúng ta cũng nên nhận ra rằng loài người chẳng có quyền hạn gì đối với việc
thiết kế các hình 3D (và thậm chí càng ít hơn so với tính nhị nguyên vốn có của vũ trụ).
Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy, trong tư duy đa tầng mà hiện nay có sẵn, chúng ta có thể
lựa chọn việc cộng hưởng với sóng nào.
Một lý do khác cho sức mạnh của hình 3D là từ sớm loài người đã nhận ra rằng nó bắt
nguồn từ nguồn gốc của Cây Sự Sống và vì thế có thể được hợp thức hóa như là một phần
của máy tạo hóa. Kết quả là những người thuộc giai cấp thống trị có thể tự cho mình là
những người có sứ mệnh thiêng liêng của biểu hiện bên ngoài của hình 3D này. Hơn nữa,
bởi vì loài người đã cảm nhận tính nhị nguyên là từ Cây Sự Sống, nên họ dễ dàng trở nên
cuồng tín về quan điểm của họ và luôn bảo vệ các tôn giáo hay hệ thống xã hội dựa trên
tính nhị nguyên. Thông qua sự kết hợp của các yếu tố này, một trật tự xã hội đã được củng
cố.
Nhiều người đã tích hợp Hình 3D Thiện và Ác đến mức họ tin rằng có một cuộc xung
đột mãi mãi giữa các lực thiện và ác trong vũ trụ. Những quan niệm như vậy được giới
truyền thông ủng hộ thông qua các bộ phim nổi tiếng như Stars Wars và Lord of The Rings.
Quan niệm về một cuộc xung đột mãi mãi như vậy khiến con người tuyệt vọng vì không có
cách nào để chấm dứt cuộc xung đột này. Mặc dù những bộ phim như vậy mang tính giải
trí, nhưng chúng lại âm thầm truyền đi một thông tin tệ hại. Tương tự cũng có thể nói về
các quan niệm tôn giáo, đáng chú ý là trong KiTô giáo và Hồi giáo có một thế lực ma quỉ
độc lập (independent force of evil). Các thuyết âm mưu trong thời hiện đại đã thay thế chữ
ma quỉ bằng những chữ như reptilians hay Anunnaki như là nguồn gốc của tội ác trong
nhân loại. Tôi thấy những giải thích như vậy hời hợt và thiếu cơ sở nghiên cứu thực tế.
Phần lớn những tư tưởng này chỉ là sự phản chiếu của Hình 3D Thiện và Ác và giúp tái tạo
lại loại nhị nguyên mà những người đề xướng ra thuyết âm mưu nhằm mục đích chống lại.
Tôi tin rằng những tư tưởng như vậy là rất yếm thế và chỉ làm cho con người thêm mất
hy vọng. Thay vào đó, cái mang lại hi vọng và hướng đi khả thi cho tương lai là việc nhận
ra rằng Hình 3D Thiện và Ác chỉ là một bước trong quá trình đi lên tới sự thống nhất của
hình 3D Sóng Thứ 9. Bằng sự tiến lên trong tỉnh thức với cái biết toàn bộ về những sự thay
đổi liên quan đến, thì ta mới có thể dự phần vào bản đồ định mệnh của nhân loại. Cuối
cùng, Hình 3D Thiện và Ác đã cho chúng ta nền văn minh và một nhận thức về bản thân
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
94
mà không thể kiếm được ở nơi khác, ngay cả với những suy nghĩ của mình. Bất kì hình 3D
nào của tâm trí cũng đều mạnh hơn nhiều so với những suy nghĩ của chúng ta, bởi vì hình
3D là cái chọn lọc và sắp xếp những suy nghĩ này. Tuy nhiên, một hình 3D chẳng hạn như
Hình 3D Thiện và Ác có thể được thăng hoa và bị bỏ lại khi chúng ta biểu lộ bản đồ định
mệnh của nhân loại.
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
95
Chương 5
Ashur, Yahweh, Giáo Hội và Sự Siêu Việt Cuối Cùng của
Nhị Nguyên
Bây giờ chúng ta đã thấy sự đàn áp và khuất phục xuất hiện trong xã hội như là kết quả
của việc tải xuống Hình 3D Thiện và Ác được tạo ra bởi Sóng Thứ 6. Một điều đáng chú ý
là lịch sử sự qui phục của phái nữ dường như diễn ra song song với chế độ nô lệ và chiến
tranh. Không có bằng chứng nào về khảo cổ từ thời Paleolithic (với tâm trí sóng thứ 5
không bị bộ lọc, h4.2) mà cho thấy rằng phụ nữ ở vị trí thấp hơn so với đàn ông. Ngược lại,
những bức tượng nữ được tìm thấy ở thời đại này chỉ ra rằng phụ nữ có thể được coi trọng
hơn đàn ông. Những bức tượng có hình người lâu đời nhất được biết đến là tượng nữ thần
tình yêu từ Hohle Fels và Lion women, cả hai đều có khoảng 40,000 năm trước và được
tìm thấy ở Đức ngày nay thì đều là nữ giới. Nhưng sau khi tải xuống Tiền Sóng 6 (h4.6)
khoảng 10,000 năm trước và với sự trổi dậy của ngành nông nghiệp (xem trong cuốn The
Global Mind and The Rise of Civilization), thì người đàn ông trở thành người nắm quyền.
Phần còn lại là, như họ nói, câu chuyện của đàn ông, và ít nhất là cho đến thế kỉ 21 CE, đàn
ông là giới thống trị trong các đấu trường kinh tế và chính trị.
Sự thay đổi vai trò từ thống trị qua bị trị của phụ nữ đã xảy ra như thế nào? Như tôi đã
gợi ý ở trên, lời giải thích tốt nhất có lẽ là Hình 3D Sóng Thứ 6 đóng vai trò để phát triển
xã hội phụ hệ. Thực tế là sự khuất phục của phụ nữ, chế độ nô lệ, và chiến tranh dường như
có tương quan với Sóng Thứ 6 (và Tiền Sóng 6) cho thấy rằng tất cả đều là kết quả của
hình 3D mới đang trổi dậy. Trong cuốn sách rất hay The Alphabet versus the Goddess,
Leomard Shlain chỉ ra rằng trong các nền văn hóa Địa trung hải cổ đại, mỗi khi chữ viết
xuất hiện thì sự thờ phượng nữ thần bị đẩy ra. Bản thân điều này là một tranh luận lớn về
tại sao phụ nữ trở nên phục tùng đàn ông khi hình 3D Sóng Thứ 6 che khuất Sóng Thứ 5.
Bởi vì chúng ta biết rằng chữ viết đi kèm với Sóng Thứ 6 (h3.8), điều này có nghĩa là Sóng
Thứ 6 đã giết chết chế độ mẫu hệ, tượng trưng cho sự khuất phục của phụ nữ.
Tuy nhiên, chúng ta nên nhận thức rằng tính nhị nguyên giữa đàn ông và đàn bà (hay
giữa các sắc tộc khác nhau) không phải là cái gì hiện hữu sẵn có ở thực tại bên ngoài. Đàn
ông và phụ nữ đơn giản là những loại khác nhau của loài người với những năng lượng tâm
linh khác nhau, và cách duy nhất mà mối quan hệ áp bức hay xung đột giữa họ có thể xảy
ra là thông qua sự phản chiếu của tâm trí nhị nguyên. Do đó, Hình 3D Thiện và Ác không
làm thay đổi thực tại bên ngoài, mà chỉ thay đổi nhận thức của loài người về nó. Hậu quả là,
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
96
nếu không vì tâm trí nhị nguyên thì sẽ không có sự xung đột hay đàn áp trong các mối quan
hệ của con người. Tuy vậy, sức mạnh của Hình 3D Sóng Thứ 6 đã khiến phụ nữ bị đàn ông
đàn áp từ lâu. Hơn thế nữa, sự đàn áp này thường được hợp thức hóa bởi các thuyết tôn
giáo cho rằng điều này nằm trong chân lý cao hơn. Câu chuyện Adam và Eva trong Vườn
Địa Đàng là một học thuyết như vậy.
Cây Sự Sống của Người Assyrian
Như đã nói trước đó, biểu tượng lâu đời nhất của Cây Sự Sống được tìm thấy ở
Mesopotamia, và một hình vẽ sơ khai của người Sumerian về “thần cây - lord of the good
tree” (cũng được gọi là cây của sự thật) được chỉ ra ở hình 3.12. Cây sự sống có lẽ đã liên
tục đóng vai trò quan trọng ở Mesopotamia ngay cả khi các nền văn minh ở đó đã thay đổi
từ Sumerian tới Akkadian, Babylonian, và Assyrian. Có lẽ sự thật là người Assyrians với
quân sự hùng mạnh nhất trong các vương quốc Mesopotamia, đã phát triển mạnh nhất về
sự thờ phượng Cây Sự Sống. Chẳng hạn, hàng trăm bức phù điều được biết đến từ vương
quốc này đều là hình nhà vua ôm cây sự sống (thường là hình 5.1 với hình ảnh phản chiếu
của chính mình). Đương nhiên, điều này có ảnh hưởng chính trị là nhà vua thông qua sự
nối kết với Cây Sự Sống đã hợp thức hóa cho sự cai trị của mình và vì vậy muốn mọi người
đều thấy điều này. Thế mà, rất lạ là, trong các tài liệu của người Assyrian không tìm thấy
bất kì lời giải thích rõ ràng nào về Cây Sự Sống thật sự là gì.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
97
Hình 5.1
Sự thiếu vắng thông tin này tạo thành một bí ẩn. Có thể là sự hiện hữu của cây sự sống
quá rõ ràng đối với người Assyrian đến mức không cần phải đưa ra lời giải thích. Cũng có
thể cây sự sống quá thiêng liêng đến nỗi nó không được phép nói ra hay viết xuống. Một
khả năng khác mà tôi cho là có lý nhất đó là kiến thức thực sự về Cây Sự Sống được giữ bí
mật trong lòng mọi người. Khi xem xét điều này, chúng ta nên để ý là kiến thức về Cây Sự
Sống Kabbalistic của truyền thống Do Thái từ lâu chỉ được dạy riêng cho những người đàn
ông đã có vợ và trên 40 tuổi và được giữ bí mật với hầu hết mọi người cho đến khi nó bị lộ
ra chỉ vài trăm năm trước đây và đã trở thành một phần của Hermetic Kabbalism. Sự sở
hữu kiến thức về Cây Sự Sống của người Assyrian mà rất có thể là nguồn gốc của Cây Sự
Sống Kabblistic, tương tự có thể được xem là rất quan trọng đến nỗi nó trở thành đặc quyền
của một số người.
Để cung cấp một sự hiểu biết hiện đại về Cây Sự Sống của người Assyrian, tôi muốn
trích dẫn từ bài báo của Benjamin Daniali.
Cây Sự Sống của người Assyrian là một kiến thức thiêng liêng. Cây Sự Sống là một trí
tuệ cổ xưa. “Đó là con đường để loài người trở thành một con người hoàn hảo”. Cái Cây là
cây cầu nối giữa thế giới với Thượng đế và Thiên Đàng của ông ta. Nó là một cái thang để
trèo lên bằng đời sống khổ hạnh (bằng tu hành) và là một dụng cụ để nhận quyền năng và
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
98
kiến thức thiêng liêng. “Cây Sự Sống thường đại diện cho các lực đằng sau Sự Sáng Tạo ở
tất cả các tầng từ vi mô đến vĩ mô”. Tầm quan trọng của Cây được nhìn nhận ở thế giới cổ
đại giữa người Assyrian và Ai cập. Sau đó, người Do thái đã thừa hưởng khái niệm về Cây
Sự Sống, rõ ràng từ Babylon, đã sửa đổi một chút và hình thành Giáo Lý Thiêng Liêng
trong Kabbalah, một pháp tu bí mật của đạo Do Thái gọi là “Ghabel Alahah” trong tiếng
Anh có nghĩa là “chấp nhận Thượng Đế/nhận từ Thượng Đế”.
Nhiều tư tưởng loại này đã cộng hưởng mạnh mẽ với những gì được đề cập trong cuốn
sách này. Do đó, Cây Sự Sống được mô tả như con đường để trở thành một người hoàn hảo,
và đáng chú ý là để trở thành như vậy thì chúng ta phải trèo lên một cái thang. Ngoài ra,
như đã được mô tả trong mô hình fractal-holographic, Cây Sự Sống biểu hiện sự sáng tạo ở
tất cả các tầng từ vĩ mô tới vi mô. Thế mà, đối với các học giả, điều bí ẩn là Cây Sự Sống
của người Assyrian (xuất hiện trong rất nhiều bức phù điều ở Assyria) muốn nói lên điều gì
và tại sao nó được coi là tâm điểm của sự thờ phượng như vậy? Trong cuốn sách này, tôi đã
đề xuất rằng Cây Sự Sống không phải là ảo tưởng mà là cái gì đã hiện hữu ngay từ đầu, và
rất nhiều điều bí ẩn đã được giải đáp. Tuy nhiên, một số khía cạnh nhất định về vai trò của
Cây Sự Sống trong tôn giáo thì dường như vẫn còn bí ẩn. Nhưng may mắn thay, có thông
tin gián tiếp về điều này. Dựa theo đây, giáo sư Simo Parpola, một nhà nghiên cứu về văn
minh Assyria ở đại học Helsinki, đã tái tạo lại Cây Sự Sống của người Assyrian (h5.2a)
dựa trên 9 vị thần cùng những phẩm chất và các con số liên quan đến họ.
Để có thể phân tích Cây Sự Sống của người Assyrian trong h5.2a, tôi sẽ sử dụng hình
ảnh của hình 3D sóng thứ 6 (h5.2b) để so sánh. Như ta đã biết, hình 3D này đã tạo ra nền
văn minh thông qua việc chiếu sáng vào não trái và để não phải nằm trong bóng tối. Trong
hình 5.2b, phía bên phải của đầu theo cái nhìn của chúng ta (là não trái từ mô hình) tương
ứng với cột bên phải trong cây sự sống ở hình 5.2a và ngược lại cho phía bên trái của đầu.
Cột giữa trong hình 5.2a thì tương ứng với trục vũ trụ, cũng được phản ảnh theo đường
thẳng đứng qua mặt trong hình 5.2b. Dựa vào Cây Sự Sống của người Assyrian đã xây
dựng lại theo cách này, tôi khẳng định rằng trên thực tế đây là một cách trình bày khác của
Hình 3D Thiện và Ác, mà được xây dựng chi tiết hơn so với hình 3D ở
Sumer/Mesopotamia đã chỉ ra trong hình 4.4b. Sự song song với biểu tượng dingir 8 hướng
này sẽ trở nên rõ ràng hơn nếu chúng ta nhìn vào Ishtar ở trung tâm của hình 5.2a như là
điểm kết nối với 8 vị thần khác.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
99
Hình 5.2
Trong cây ở hình 5.2a, các vị thần ở cột trung tâm là Anu, cha của các vị thần và là chủ
của thiên đàng, Ishtar, nữ thần tình yêu, và Nergal-thần chết, ba vị thần ở cột trung tâm giữ
cân bằng cho trục Mundi (so sánh với h3.12). Điều thú vị là các vị thần ở cột phải (tương
ứng với ánh sáng trong hình 5.2b) luôn có trị số cao hơn các vị thần ở bên cột trái, điều này
hàm ý những vị thần đó có giá trị hơn. Các vị thần bên cột trái là Sin, thần mặt trăng,
Shamash, thần mặt trời, và Adad, thần thời tiết, hay còn gọi là những thần thiên nhiên.
Quay trở lại cột bên phải, chúng ta thấy Ea (được gọi là Enki bởi người Sumerian); Marduk
và Nabu là những vị thần đại diện cho nền văn minh của não trái. Thần Ea ở trên cùng
thường được miêu tả như dục vọng quá độ và được liên kết với sức mạnh nam giới. Vị thần
này cũng có vai trò quan trọng như là người giữ những món quà của nền văn minh. Về thần
Marduk, người mà sau này trở thành vị thần nổi bật nhất trong các vị thần ở Babylon, có
thể được biết đến nhiều nhất vì đã giết chết Tiamat, một nữ thần nguyên thủy hay còn gọi
là Mẹ đất. Tiamat đôi khi cũng được xem là thần rắn, và chúng ta có thể thấy chiến thắng
này của Marduk thì song song với việc Yahweh nguyền rủa con rắn trong chuyện về vườn
địa đàng. Nabu trở thành thần của văn tự, dần dần tiếp quản vai trò này từ nữ thần Nidaba.
Ban đầu, Nabu là minister (bộ trưởng) của Marduk nhưng sau đó trở thành người nhiếp
chính đứng đầu của các vị thần.
Đây là sự hiểu biết của người Assyrian về Cây Sự Sống, và nó cho chúng ta biết Cây
Sự Sống đã được cảm nhận như thế nào trong Sóng Thứ 6 mà các biểu tượng của hình 4.4
không thể nói được. Qua sự phân tích này, chúng ta có thể thu được nhiều chi tiết hơn về
Hình 3D Thiện và Ác để có thể hiểu rõ ràng hơn về những gì ảnh hưởng đến con người tại
thời điểm này. Chẳng hạn, hình của Cây Sự Sống này cho chúng ta biết rằng các vị thần ở
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
100
não trái được xem là những người thống trị (dựa trên những trị số của họ). Trái ngược với
các vị thần thiên nhiên ở phía đối diện, những vị thần ở bên não trái cũng chịu trách nhiệm
mang nền văn minh đến cho nhân loại (và quả thực óc trái đã làm điều này). Những vị thần
này rất nam tính và hạ bệ những nữ thần trọng yếu khác mà có thể giữ những chức vị của
các nam thần. Chắc chắn câu chuyện Marduk giết chết Tiamat là một huyền thoại quan
trọng tượng trưng cho sự chuyển đổi sang sự thống trị của nam giới đã diễn ra trong Sóng
Thứ 6.
Người ta nói rằng người Assyrian đã xem vị thần tối cao của họ, Ashur, như là tổng thể
của 9 vị thần, và hình 5.2a giúp chúng ta hiểu được tại sao người Assyrian xưa đã cảm
nhận vị thần này như vậy. Hay nói đúng hơn, cảm nhận về sự Thiêng Liêng đã bị lệch đi
như thế nào sau khi người Assyrian phóng chiếu Hình 3D Thiện và Ác lên đó. Sự Thiêng
Liêng này được xem như bị chi phối bởi sức mạnh nam tính có các trị số cao nhất; và vai
trò của sức mạnh nữ tính, Ishtar, thì giữ cho mọi người kết nối với nhau. Một lần nữa, 9 vị
thần vĩ đại ở trong cây sự sống hình 5.2a rất có thể là các khía cạnh hay phẩm chất của Anu,
người đang bay lơ lửng trên cây trong hình 5.1. Theo cách giải thích này, người Assyrian
đã cho rằng Anu là vị thần tối thượng mà đã giết chết các nữ thần trong quá khứ (ngoại trừ
Ishtar). Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi người Assyrian được cho là những người tàn
ác nhất thời cổ đại. Julian Jaynes suy đoán rằng họ đã trở nên như vậy khi họ mất liên lạc
trực tiếp với các vị thần cá nhân của họ, điều mà họ thường làm trong thời gian trước đó, và
vì vậy họ đã trở nên tuyệt vọng. Sự mất mát này có lẽ trùng hợp với việc chuyển tiếp để tin
vào một vị thần duy nhất và vị thần mà họ hướng tới là Anu, vị thần thường được thể hiện
là thần chiến tranh với cây cung và mũi tên, đương nhiên trông rất là đáng sợ.
Truyền Thống Đạo Chaldean – Do Thái – KiTô
Từ quan điểm của lịch sử thế giới, các mẫu chuyện về Cây Sự Sống của người
Assyrian rất thú vị vì một số lý do khác nhau. Một là Assyria có thể là vương quốc hùng
mạnh cuối cùng xuất phát từ vùng Mesopotamia - Trung đông (không kể sự hồi sinh ngắn
ngủi của đế chế Babylon). Quĩ đạo của họ hướng về chủ nghĩa độc thần, sau đó có thể được
coi là sự hoàn tất của nền văn minh cổ đại này, mà lịch sử của nền văn minh này có từ điểm
khởi đầu của Sóng Thứ 6. Một lý do khác để chú ý đến Assyria là trong lịch sử của các tôn
giáo, vùng Mesopotamia đôi khi được xem là điểm khởi đầu của các truyền thống
Chaldean, Do Thái, và Kitô giáo. Israel và Judea thực tế đã thuộc về Assyria vào cuối thế
kỉ thứ 7 TCN trước khi bị Babylon giam cầm, mà trong đó người Do Thái vẫn ở lại đó cho
đến giữa thế kỉ thứ 6. Ngay cả xứ Chaldean, nơi xuất xứ ông tổ Abraham, không giống như
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
101
là Assyria và Babylon, cả ba nền văn hóa đều là một phần của Mesopotamia và vì vậy đã
có cùng những niềm tin về thế giới và các vị thần. Thực ra, trong thế giới cổ đại, các nền
văn hóa này chỉ có một đối thủ là Ai cập, và hiển nhiên là người Do Thái sống dưới những
đế chế Mesopotamia trong một thời gian dài như vậy có lẽ đã mượn những tư tưởng tôn
giáo quan trọng của họ. Không có gì là bí mật khi những câu chuyện trong sách sáng thế kí,
chẳng hạn như Noah và cái tàu của ông ta đã có nguồn gốc từ những niềm tin của
Mesopotamia. Đây là mối liên kết không rõ ràng về quá khứ, và có thể thông qua điều này,
cây sự sống của người Assyrian đã ảnh hưởng đến không chỉ Do Thái giáo mà cả Kitô và
Hồi giáo.
Điều này không có nghĩa là người Do Thái chỉ đơn giản sao chép các quan điểm phổ
biến ở xứ Mesopotamia. Tuy nhiên, rất có thể họ được cung cấp kiến thức trong lúc bị giam
cầm, mà nếu họ cộng hưởng với nó thì sẽ sửa đổi kiến thức này và từ đó tạo ra một biến thể
mới xung quanh vị thần Yahweh của họ. Nếu bạn cho rằng họ chỉ bịa ra hoặc sao chép kiến
thức này mà không có bất kì cảm nhận thực sự nào của chính họ thì bạn sẽ hoàn toàn sai.
Chủ đề trọng tâm của cuốn sách này là hiện tượng Cây Sự Sống là sự thật và tính nhị
nguyên mà nó tạo ra có thể đã được cảm nhận trực tiếp ở lúc đầu của Sóng Thứ 6. Tuy
nhiên, đã có những biến thể văn hóa trong cảm nhận này được thể hiện, chẳng hạn như tôn
giáo của người Do thái thì khác với của Assyrian. Có lẽ đúng nhất là, quan điểm về Cây Sự
Sống ở vùng Mesopotamia, dù có được ăn sâu vào người Assyrian hoặc Babylon hay
không đều đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc Yahweh (vị thần của Do Thái) được người Do
thái cảm nhận và tái tạo lại.
Chẳng còn hoài nghi gì nhiều, Cây Sự Sống của người Assyrian (h5.2) chính là bản
gốc, mà từ đó người Do thái sau này đã phát triển thành Cây Sự Sống Kabbalistic. Quan
điểm ban đầu của người Do thái về Thiêng liêng có thể tương tự như quan điểm về Cây Sự
Sống của người Assyrian (h5.2a) và sự thống trị của phái nam mà điều này thể hiện. Điều
này có nghĩa là Yahweh cũng là một sự phóng chiếu của Hình 3D Thiện và Ác, và do đó
cũng có sự bất cân bằng giống như của người Assyrian và Babylon. Mặc dù thừa nhận đây
là một sự tái tạo, nhưng nó hợp lý và có sức mạnh giải thích mạnh mẽ cho lịch sử liên tục
của các tôn giáo thuộc giòng Abrahamic.
Câu Chuyện Vườn Địa Đàng trong Sáng Thế Ký
Điều này dẫn chúng ta tới cuốn sách Sáng Thế Kí (Book of Genesis) và quan điểm của
kinh thánh về Cây Sự Sống. Theo niên đại của thánh kinh, sách Sáng Thế Ký có thể được
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
102
viết sớm nhất là vào 1500-1000TCN, nhưng các học giả ngày nay tin rằng cuối cùng nó
được gom lại thành sách vào khoảng 500 TCN. Bởi vì điều này đã xảy ra sau khi người Do
thái trở về đất của mình sau khi bị người Babylon cầm tù, chúng ta phải nghiêm túc xem
xét về những luật pháp của xứ Mesopotamia và tư tưởng về Cây Sự Sống có ảnh hưởng đến
sách Sáng Thế Ký này như thế nào. Tuy nhiên, Sáng Thế Kí trong Torah (Do Thái) hay
Ngũ kinh của Kinh Thánh Kitô (Pentateuch of the Christian Bible) thì chứa nhiều phần
khác nhau. Đầu tiên là sự mô tả về cách Thượng Đế tạo ra thế giới, thì tương tự với nhiều
mẫu chuyện từ các phong tục khác nhau và do đó không gây mâu thuẫn. Nó cũng truyền
đạt kiến thức quan trọng là sự sáng tạo diễn ra trong 7 Ngày 6 Đêm (nếu chúng ta đếm cả
ngày nghỉ). Đây thực sự là nhịp điệu của sự sáng tạo mà đã được xác minh trong chương 3
(với điều kiện là chúng ta tin tưởng những làn sóng đã dắt chúng ta tới ngày hôm nay).
Phần thứ 2 của sách Sáng Thế Ký kể về Adam và Eva ở trong vườn địa đàng và việc họ bị
trục xuất khỏi đó có nhiều nghi vấn mà chúng ta sẽ xem xét ở đây. Các phần sau của Sáng
Thế Kí nói về lịch sử của người Do thái và sẽ không được đề cập ở đây (tuy nhiên, đọc
trong cuốn The Global Mind and The Rise of Civilization sẽ nói về trận đại hồng thủy và
con thuyền của Noah).
Hình 5.3
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
103
Nói gọn lại, câu chuyện về Vườn Địa Đàng bắt đầu với việc Adam và Eva đang sống ở
thiên đường trong sự hòa bình với tất cả các loài động vật và thần Yahweh. Trong vườn có
hai cây đặc biệt được đề cập đến là Cây Sự Sống và Cây Kiến Thức Thiện Ác. Thần
Yahweh nói với họ rằng họ có thể ăn trái của tất cả các loại cây ngoại trừ Cây Kiến Thức
Thiện Ác. Một con rắn xuất hiện và dụ dỗ Eva ăn trái của cây này, và sau đó cô ta dụ dỗ
Adam làm theo. Sau khi ăn trái cây này, cảm nhận của họ về bản thân thay đổi, họ nhận ra
“họ đang khỏa thân”. Thần Yahweh xuất hiện và nguyền rủa họ vì họ đã ăn loại trái cây
này, và như một hình phạt họ đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng. Đáng chú ý là con rắn
cũng bị nguyền rủa. Như một hình phạt, Adam sẽ phải chịu cực khổ suốt cuộc đời và Eva
sẽ phải sanh con trong đau đớn như tất cả những người phụ nữ sau này. Thần Yahweh đóng
cửa khu vườn bằng một thanh kiếm rực lửa với một gợi ý mơ hồ rằng một lúc nào đó nó có
thể được mở ra.
Khỏi cần giải thích, đây không phải là một khu vườn có thực. Vườn Địa Đàng là một
phép ẩn dụ cho trạng thái tâm thức thống nhất, được phản ánh trong sự thống nhất với động
vật và thiên nhiên cũng như giữa các giới tính. Adam và Eva chỉ cảm nhận bản thân họ tách
biệt sau khi ăn trái cấm và thấy rằng “họ đã khỏa thân”. Họ cũng đã cảm nhận sự hợp nhất
với Thượng đế trước khi họ ăn trái cấm, họ có thể nói chuyện tự nhiên với thần Yahweh.
Dựa trên những gì chúng ta đã học được ở đây về Cây Sự Sống và những con rắn phát ra từ
đó, tôi diễn giải câu chuyện như một phép ẩn dụ cho sự chuyển đổi từ hình 3D này sang
hình 3D khác. Con rắn tượng trưng cho Sóng Thứ 6 mang theo Hình 3D Thiện và Ác, mà
đưa ra tính nhị nguyên và đánh dấu sự kết thúc trải nghiệm sự thống nhất của Sóng Thứ 5.
Sự chuyển đổi từ hình 3D của Sóng Thứ 5 sang Sóng Thứ 6 có nghĩa là loài người đã đến
giai đoạn cảm nhận bản thân như tách biệt với cả Thiêng Liêng và thiên nhiên.
Về hai cây trong phép ẩn dụ này, đã có một cuộc tranh luận về việc chúng là một cây
hay hai cây riêng biệt. Giải pháp mà tôi đề nghị cho vấn đề khó khăn này là thực sự chỉ có
một Cây Cột Sống Vũ Trụ, mà từ đó các sóng về sinh học và tinh thần trong phạm vi quang
phổ phát ra (h2.3). Cây Kiến Thức Thiện Ác trong kinh thánh sau đó chỉ là một biểu hiện
đặc biệt của một trong các hình 3D trong các làn sóng này, hình 3D của Sóng Thứ 6. Do đó,
Cây Kiến Thức cũng được xem là Cây Sự Sống, nhưng hình 3D của nó có tần số khác, và
vì vậy cây trước đó được mô tả hoàn toàn khác. Con rắn như là một biểu tượng của Sóng
Thứ 6 tìm cách thể hiện nó thông qua chuyện Adam và Eva ăn trái cấm, thực ra đó chính là
Hình 3D Thiện và Ác. Việc ăn trái cấm đơn giản nghĩa là việc tải xuống hình 3D Sóng Thứ
6, với tất cả những hậu quả của nó, bao gồm nhiều khía cạnh của kiến thức cũng như tính
nhị nguyên.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
104
Khái niệm về “Sự Sụp Đổ” (the Fall) (sự kiện này đôi khi được gọi như vậy) thật sự
phản ảnh sự thay đổi trong tâm thức mà đã hình thành bởi việc tải xuống hình 3D Sóng
Thứ 6. Đây thực sự là một “Sự Sụp Đổ” theo nghĩa là một sự chấm dứt từ trạng thái thống
nhất trước đó, nhưng nó cũng là một sự thăng hoa lên một tần số cao hơn, mà cho phép loài
người tạo ra nền văn minh. Sau này những diễn giải của đạo Do Thái, Kito đã háo hức đổ
lỗi cho loài người, và đặc biệt là phụ nữ cho sự “Sụp đổ” này, và vì vậy đã không nhận ra
được một khía cạnh của việc tải xuống Sóng Thứ 6 là sáng tạo ra nền văn minh, mà bản
thân nó là một bước tiến tích cực.
Hình 5.4
Câu chuyện về sự chuyển đổi từ thế giới nhất nguyên sang thế giới nhị nguyên, chẳng
hạn như trong Sáng Thế Kí, là một mẫu chuyện mà nhiều dân tộc cùng cộng hưởng. Truyền
thuyết Trung Hoa về Phục Hi và Nữ Oa (h3.11), cặp đôi giống con rắn đã mang đến nền
văn minh, là một mẫu chuyện và câu chuyện của người Maya về cặp song sinh anh hùng
bắn hạ con chim két Seven Macaw từ trên cây là một mô tả khác về sự kết thúc của nhất
nguyên. Con chim két, trong câu chuyện này trong cuốn sách Popol Vuh, là biểu tượng của
Ngày thứ 7 của Sóng Thứ 5 và sự hợp nhất của nó. Trong khi con chim két đang đậu trên
cây sự sống thì nó đã bị Hunahpu (Hun Ahau = một ánh sáng) bắn hạ bằng cách sử dụng
một ống thổi với sự giúp đỡ của người anh em song sinh Xbalanque (X = nữ tính, Balam =
Jaquar, một con báo đen): hai biểu tượng cho tính nhị nguyên của Sóng Thứ 6, mà sẽ thay
thế sau sự thống nhất của Sóng Thứ 5. Thật ra những câu chuyện trong sách Popol Vuh, sự
chuyển đổi từ hình 3D này sang hình 3D khác được mô tả như người Maya đã thấy sự thay
đổi như là một phần của kế hoạch vũ trụ, và những thay đổi này đã không bị lên án. Giữa
người Maya và những thổ dân Mỹ khác, con rắn, chẳng hạn như Quetzalcoatl, đã được vinh
danh vì mang đến nền văn minh.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
105
Khi chúng ta xem xét những huyền thoại chuyển đổi từ các nền văn hóa khác hơn Do
Thái, nơi mà loài người không bị lên án, chúng ta có thể tự hỏi có gì sai với việc tìm hiểu
về kiến thức hoặc kiến thức về thiện và ác và tại sao nó lại bị coi là một “tội lỗi”. Bộ không
rõ ràng sao, khi nhân loại thăng hoa thì chúng ta phải tìm hiểu kiến thức, bao gồm cả luân
lý và đạo đức. Sự chuyển đổi giữa các làn sóng và tần số khác nhau của sự tiến hóa chính là
cách thức làm cho sự sống trên trái đất (cũng như khắp nơi trong vũ trụ) tiến hóa. Nếu
Yahweh là Đấng sáng tạo, thì tại sao ông ta lại trừng phạt những người tìm cách hoàn thiện
bản thân bằng cách chuyển đổi sang những trạng thái tâm trí cao hơn? Thông qua sự phỉ
báng về việc Eva và Adam ăn trái cấm của thần Yahweh, họ đã bị đặt vào tình huống: “ăn
hay không ăn cũng đều bị lỗi”. Và nếu Cây Sự Sống là biểu hiện của đấng Sáng Tạo, thì
thần Yahweh là ai? Dường như điều đặc biệt nhất trong câu chuyện về vườn địa đàng giữa
những câu chuyện về sự sáng tạo của thế giới là một tội lỗi, hình phạt, và khái niệm về tội
lỗi đã đặt lên cho loài người, và đặc biệt là người phụ nữ thông qua “tội lỗi” của Eva. Tuy
nhiên, trớ trêu thay, đây là câu chuyện sáng tạo đã trở nên phổ biến nhất từ việc chấp nhận
bởi các tôn giáo khác.
Tôi nghi ngờ rằng nguồn gốc của những nguyền rủa trong câu chuyện này là cái nhìn
về Thượng đế của người Assyrian mà thiên vị về nam tính thì đang núp bóng sau những
hành động của Yahweh. Yahweh trong câu chuyện Vườn Địa Đàng thì tương tự như Ashur
trong cây sự sống của người Assyrian. Tuy nhiên, bất kể ảnh hưởng của Ashur như thế nào,
thì Yahweh chỉ là một sự phóng chiếu của Hình 3D Thiện và Ác bởi giới tu sĩ Do thái. Tác
giả của câu chuyện Vườn Địa Đàng rất có thể có mục tiêu phụ hệ và bảo thủ vì chính họ đã
bị chi phối bởi hình 3D này. Chúng ta cũng phải hiểu rằng phụ nữ từ lâu đã bị chinh phục
bởi hình 3D này khi sách Sáng Thế Kí được viết ra. Câu chuyện về Vườn Địa Đàng về cơ
bản chỉ là để hợp thức hóa hoàn cảnh hiện có của người phụ nữ.
Những hậu quả của huyền thoại nguyên thủy này về nguồn gốc của loài người đã lan
rộng và phần lớn là tiêu cực. Nếu chúng ta cho rằng câu chuyện này được dựng lên vào
khoảng trước giữa Sóng Thứ 6 bởi một nhóm tu sĩ Do thái, thì chúng ta có thể hiểu mục
đích của nó là chính trị, hay nói cách khác, một hình thức để khẳng định quyền lực. Đó là
để kềm kẹp mọi người, đặc biệt là phụ nữ và để đổ lỗi cho họ vì đã học hỏi kiến thức mới,
tận hưởng tình dục, và tham gia vào những hoạt động khác mà đi kèm với sự tò mò về cuộc
sống và ăn trái cây của sự sáng tạo. Học thuyết về tội Tổ Tông - mặc dù được phát minh
sau đó bởi ông cha Augustine (430CE) - thì trực tiếp dựa trên lời nguyền về Eva trong Sáng
Thế Ký. Khái niệm về tội Tổ tông dù ngớ ngẩn đến thế nào thì trong nhiều thế kỉ qua đã
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
106
được các nhà thờ Thiên chúa giáo sử dụng, và đặc biệt là giáo hội công giáo để hạ thấp phụ
nữ.
Thần Yahweh
Bởi vì kinh điển Do thái cổ đã được đưa vào Cựu Ước của Kinh thánh Kitô giáo, thần
Yahweh - ngay cả khi ông ta là một vị thần chiến tranh dữ tợn, ít nhất là được mô phỏng
theo Ashur và Marduk - đã được phổ biến trở thành một hình tượng cho Thượng đế phải
giống như thế nào. Quan điểm này đã chiếm ưu thế trong thời điểm hiện đại vì thần
Yahweh có ảnh hưởng lớn đến không chỉ Do thái giáo mà cả Kitô và Hồi giáo. Hơn một
nửa nhân loại ngày nay thuộc về các tôn giáo dòng Abrahamic, mà tất cả các tôn giáo này
rõ rệt thừa hưởng những đặc điểm của Yahweh trong định nghĩa của họ về Thượng Đế.
Trên thực tế, những đặc điểm này là những sự phóng chiếu của Hình 3D Thiện và Ác nhằm
củng cố những cấu trúc quyền lực của các tôn giáo này. Moses, hoàng tử Ai cập được cho
là người đã dẫn dắt dân tộc Do Thái từ nô lệ trở về quốc gia của họ và nhận được 10 điều
răn của Thượng Đế trên đoạn đường đó, có phải là một người có trong lịch sử hay không,
đã là một câu hỏi. Không có tài liệu của Ai cập nào chứng thực câu chuyện này cả, và vì
vậy nó có thể đơn giản dùng để che đậy nguồn gốc Lưỡng Hà của Yahweh, mà trong số
những nam thần thì Yahweh là người phổ thông nhất so với những vị thần Ai Cập.
Trong kinh thánh, thần Yahweh tự đặt cho mình tính chất đố kị, và việc ông ta nguyền
rủa con rắn có thể là một biểu hiện của sự đố kị này. Như ta đã thấy, con rắn là biểu tượng
đầu tiên của kinh nghiệm loài người về sức mạnh ở một cõi khác. Yahweh sau đó có thể coi
con rắn như một đối thủ, giống như Marduk đối với Tiamat - hơn nhiều người hiện đại có
thể hiểu - và lời nguyền rủa con rắn của Yahweh hỗ trợ quan điểm này. Trong Sáng Thế Kí,
con rắn được gọi là “con vật ranh mãnh nhất”. Như chúng ta hiện biết, con rắn là biểu
tượng của làn sóng tiến hóa và sự tiến bộ có định hướng mà loài người phải trải qua. Sự
nguyền rủa con rắn (để khuyến khích Adam và Eva tìm hiểu kiến thức) thực sự có nghĩa là
việc nguyền rủa sự tiến hóa và tiến bộ, phù hợp với mong muốn của chế độ phụ hệ bảo thủ,
cho dù là người Lưỡng Hà (Mesopotamian) hay Do thái. Bằng cách nguyền rủa con rắn,
thần Yahweh cố gắng kềm kẹp nhân loại và đặc biệt là phụ nữ trong trạng thái mặc cảm tội
lỗi vì việc chấp nhận và ủng hộ sự tiếp tục tiến hóa của sáng tạo. Thần Yahweh (hoàn toàn
trái ngược với sách Popol Vuh, h5.4) nguyền rủa những gì đã xảy ra theo kế hoạch thiêng
liêng, cụ thể là sự chuyển đổi từ mức tiến hóa này sang mức tiến hóa khác. Thật ra, việc ăn
trái cây từ Cây Kiến Thức Thiện và Ác là việc làm đúng cho loài người. Thay vì tạo điều
kiện cho sự chuyển đổi từ thế giới của hình 3D này sang thế giới khác, thì dường như thần
Yahweh lại làm cho nó trở nên khó khăn hơn.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
107
Tại thời điểm câu chuyện về Vườn Địa Đàng được viết ra, tác giả của nó có thể đã bị
thuyết phục rằng Yahweh là Đấng Thiêng Liêng Tối Cao (the Divine All That Is). Bởi vì
Hình 3D Thiện và Ác thực sự phát ra từ Cội Nguồn (Source) và đã được cảm nhận như vậy,
có lẽ chỉ có một nhận thức mơ hồ rằng các hình 3D sau này đã thay đổi. Mặc dù những
người theo đạo Cơ Đốc trong Tân Ước đã xác định lại mối quan hệ của con người với
Thượng đế, so với trong Cựu Ước, thì Thượng đế vẫn được xem là Yahweh. Trong những
thế kỉ đầu tiên sau công nguyên, đã có nhiều cuộc thảo luận giữa những Linh mục trong
nhà thờ về việc có nên đưa Cựu ước với Yahweh vào Kinh Thánh hay không. Thế mà sức
mạnh của Hình 3D Thiện và Ác ghê gớm đến độ đánh bại những lời chỉ trích, và nhà thờ
như là một tổ chức đã chấp nhận ông Ashur mơ hồ là Thượng Đế. Mặc dù ngày nay không
cần thiết để tiết lộ nguồn gốc của Ashur trong Hình 3D Thiện và Ác (vì ông ta không có tín
đồ trực tiếp trong thế giới hiện đại) nên Yahweh vẫn là một biểu tượng của hình 3D này và
vẫn tác động sâu sắc đến thế giới của chúng ta.
Trước khi thảo luận điều này, tôi nghĩ điều quan trọng là phải nhận ra rằng trong thế
giới cổ đại nhiều vị thần ở cấp bộ lạc và quốc gia là thần chiến tranh. Thần Yahweh của
người Do thái không phải là vị thần duy nhất có những đặc điểm như vậy. Tuy nhiên, ông
ta là người duy nhất còn tồn tại đến thời điểm này. Ông ta đã trở thành hình mẫu về
Thượng Đế cho cả 3 tôn giáo thuộc dòng Abrahamic, và dường như đây là một quan điểm
hạn chế và có động cơ chính trị. Hậu quả là, khi những người vô thần ngày nay tranh luận
chống lại sự hiện hữu của Thượng Đế, họ thường chống lại những khái niệm về Thượng Đế
bắt nguồn từ Yahweh. Hơn nữa, phần lớn các cuộc xung đột tôn giáo hiện nay ở vùng
Trung Đông khởi nguồn từ quan điểm về Thượng Đế là sự đố kị và của những người lên án
những kẻ không theo Ông. Đây là một nhận thức mà có lẽ sẽ không bao giờ tạo ra sự hòa
bình cho dù các tín đồ trung thành của tôn giáo dòng Abrahamic có nói gì đi nữa. Ngược
lại, khái niệm về một vị thần dữ tợn và những luật lệ mà bạn phải tuân theo có khuynh
hướng chặn lại con đường đi đến hòa bình lâu dài. Vì lý do này, nhận thức rất mạnh mẽ từ
Sóng Thứ 6 vẫn đang ảnh hưởng đến thế giới.
Sự Trổi Dậy của Các Tôn Giáo
Nếu Yahweh không phải là Đấng Thiêng Liêng Tối Cao (Divine All That Is) mà là một
phần nhận thức nhị nguyên của Thượng Đế thì tại sao sau đó ông ta lại trở nên ảnh hưởng
lớn đến như vậy. Câu trả lời là Hình 3D Thiện và Ác, vì bản chất nhị nguyên của nó ủng hộ
tư tưởng những người có quyền lực trên những người khác. Chúng ta đã thấy điều này từ
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
108
sự xuất hiện của chế độ nô lệ và chiến tranh trong chương trước. Sự khuất phục là một hậu
qủa phổ biến của sự cộng hưởng với Sóng Thứ 6 và vì vậy không có nghĩa là do người
Assyrian hay Do thái tạo ra. Dù sao đi nữa, với đặc tính này của thời đại, như chúng ta đã
thấy, tính nhị nguyên của nó có ảnh hưởng sâu sắc đến các loại thần mà loài người đã nhận
ra và có liên quan đến.
Đặc biệt là sau khoảng giữa của Sóng Thứ 6 năm 551 TCN, loài người đã bắt đầu
thành lập các tôn giáo và các hệ thống tư tưởng xung quanh những vị thần này. Tại thời
điểm này, khi tiền sóng của Sóng Thứ 7 được kích hoạt thì một trong những thay đổi tư
tưởng quan trọng nhất đã xảy ra. Trên toàn cầu, chủ nghĩa cá nhân (bao gồm cả bản ngã) đã
xuất hiện. Các sử gia gọi thời kì này là Axial Age. Hình 3D mà mọi người tải xuống đã
thay đổi theo cách mà sự trực tiếp tiếp xúc với cõi âm (spirit worlds) (cảm nhận của Sóng
Thứ 5) đã biến mất. Thay vào đó là các tôn giáo, hệ thống tư tưởng thần học và đạo đức.
Đương nhiên, vì con người đã bị cắt đứt với thế giới tâm linh, vì vậy họ có khuynh hướng
phụ thuộc vào một tôn giáo dựa trên những kinh nghiệm của một nhà tiên tri hay một người
sáng lập tôn giáo.
Hình 5.5
Sự tiếp xúc trực tiếp mà loài người trước đây có với một loạt các thực thể tâm linh,
chẳng hạn như các vị thần thành phố, thần bộ lạc, thần cá nhân, bán thần, những anh hùng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
109
huyền thoại, linh hồn động vật, v.v.. đã trải qua một sự thay đổi lớn vào khoảng 550 TCN
khi các tôn giáo với các học thuyết, hay ít nhất là các hệ thống tư tưởng phức tạp bắt đầu
xuất hiện (h5.5). Chúng ta có thể thấy những ảnh hưởng của sự thay đổi này trên tất cả các
lục địa khi toàn bộ tinh thần và tâm lý của con người trải qua sự thay đổi mạnh mẽ này
trong khoảng thời gian rất ngắn. Các nền văn hóa khác nhau đã thay đổi mối quan hệ của
họ với Thiêng liêng, và thành lập các tôn giáo mới để giải thích cho những cảm nhận mới
của họ về điều này. Do đó, ở Trung Mỹ, đây là thời điểm mà Tzolkin xuất hiện lần đầu tiên
(550 TCN). Ở Trung Quốc, những người thầy thông thái như Khổng Tử (551-479 TCN) và
Lão Tử (thế kỉ 6 TCN) bắt đầu dạy đạo. Ở Ấn độ, đức Phật (563, 552) và Mahavina
(599-527), người sáng lập ra đạo Jainism xuất hiện, cả hai đã đề xuất con đường dẫn đến
giác ngộ. Các sử thi vĩ đại của Mahabharata và Bhagavad-Gita cũng được biên soạn, và
niềm tin vào sự luân hồi cũng được thiết lập tại thời điểm này. Một tôn giáo quan trọng
khác nổi lên vào thời điểm đó là nhị nguyên Thánh hỏa giáo - Zoroastrianism (550-523
TCN) ở Ba Tư, vào thời điểm đó là cường quốc lớn nhất thế giới. Pythagoras (570-495
TCN) đã bắt đầu dạy về sự hài hòa của các khối cầu.
Tất cả các hệ thống tư tưởng tôn giáo này đã xuất hiện trong vòng 50 năm kể từ khoảng
giữa của Sóng Thứ 6, là một sự thay đổi thể hiện trên qui mô lớn. Bởi vì tính cách toàn cầu
của sự thay đổi này, nên khá rõ ràng là tất cả các tôn giáo mới và triết học mới này là phản
ảnh của sự thay đổi ở tầng tâm trí toàn cầu mà gần như là sâu sắc ngay tại điểm khởi đầu
của Sóng Thứ 6 (h3.8).
Tại điểm giữa này cả người Lưỡng hà và người Ai cập, những cái nôi của nền văn
minh cổ xưa, đã bị đế quốc Ba tư chinh phục (550-330 TCN). Việc mà những nền văn
minh cổ này không còn giữ được truyền thống cũ của họ nữa là một sự xác nhận rằng sự
thay đổi này đã tạo ra một cái gì đó cơ bản mới trong mối quan hệ của loài người với tâm
linh. Kinh nghiệm trực tiếp về tâm linh, mà có lẽ đã chiếm ưu thế đặc biệt ở Ai cập đã được
thay thế bằng các tôn giáo trừu tượng hơn. Kết quả là, các nền văn minh cổ nhất trên trái
đất được thành lập vào lúc đầu của Sóng Thứ 6 bởi các “vị thần” đã đi đến hồi kết thúc. Do
đó, có một phần của cuộc xung đột giữa tâm linh dựa trên những kinh nghiệm cá nhân và
tôn giáo. Lĩnh vực tư tưởng mới được tạo ra tại khoảng giữa của sóng thứ 6 không còn tiếp
xúc được với thế giới bán quỉ thần cổ xưa của Lưỡng Hà và Ai Cập. Sau khi Ba tư chinh
phục các nền văn hóa này thì họ bị chinh phục bởi Alexander Đại Đế, khi nền văn hóa hàng
đầu của Địa Trung Hải rõ ràng đã di chuyển sang phía tây tới Hy Lạp và La Mã, là những
nền văn hóa mang đầy chủ nghĩa cá nhân.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
110
Có vẻ nghịch lý, sự trổi dậy của các tôn giáo trên toàn thế giới thì trùng với sự ra đời
của cá nhân tự ý thức, mà đáng chú ý là ở Hy lạp. Đây chính là điểm kết thúc của cuốn
sách của Julian, The Origin of Consciousness in the Breakdown of the Bicameral Mind,
thực sự là chỉ sau điểm thay đổi này khoảng 550 TCN mà chúng ta biết về những nhân vật
như Plato, Arixtotle, hay Solon, những người mà chúng ta có thể tưởng tượng bắt tay và
cùng thảo luận. Thales của xứ Miletus (624-546 TCN), đôi khi được gọi là nhà toán học
đầu tiên hay người phương tây đầu tiên cũng xuất hiện ở thời điểm này.
Tôi ở đây sẽ không đi sâu vào chủ đề lớn về tính chất cá nhân của con người vì nó nằm
ngoài trọng tâm chính của chương này. Tuy nhiên, tôi cảm thấy đó là một điều tốt khi biết
rằng những người đầu tiên mà tự giác, tự lực, có thể đưa ra quyết định cho mình mà không
cần phải dựa vào thần linh, đã xuất hiện vào thời điểm này. Chủ nghĩa cá nhân gần như
chắc chắn có cùng nguồn gốc với các hệ thống tôn giáo, khi loài người tại thời điểm này đã
mất liên lạc trực tiếp với thế giới tâm linh mà họ đã có trước đây, và vì vậy những gì mà
chúng ta gọi là tư tưởng tây phương (Western mind) đã bắt đầu.
Tư Tưởng Độc Thần của Người Do Thái
Đó là một phần của sự thay đổi toàn cầu về tâm thức, dẫn đến việc tạo ra các tôn giáo
có tổ chức, mà người Do Thái đã phát triển chủ nghĩa độc thần của họ. Những vị tu sĩ Do
Thái trở lại sau khi bị giam cầm ở Babylon khoảng 550 TCN đã phát triển một nền thần
học mà có thể làm cơ sở cho một nhà nước thần quyền. Mục đích là để Yahweh trở thành
người lãnh đạo tối cao của Do Thái và dân chúng phải phụ thuộc vào các phán quyết của
ông ta. Tại thời điểm của sự thay đổi này, điều rất quan trọng là Deutero-Isaiah (second
Isaiah), người đã viết phần sau của Cuốn Sách Isaiah (Book of Isaiah) cũng đưa ra quan
điểm rằng Yahweh là vị Thượng Đế duy nhất của toàn nhân loại (và không chỉ của người
Do thái). Chính điều này đã cung cấp một bước tiến quan trọng về chủ nghĩa độc thần có
thể trở thành một tôn giáo toàn cầu. Điều quan trọng là nhận ra rằng các bước khác nhau
trong sự thành lập của các tôn giáo không phải chỉ đơn giản xuất hiện một cách ngẫu nhiên
mà do sự thay đổi của các sóng sáng tạo đã làm nền tảng cho cảm nhận của chúng ta về
thực tại và đấng Thiêng Liêng.
Vào thời đại này ở Do Thái, không phải nhà vua mà là thần Yahweh là người được cho
là đã ban bộ luật 10 điều răn cho Moses (the law of the Ten Commandments). Trong chế độ
thần quyền mà đã thành lập, giới tu sĩ quyết định những chuyện quan trọng, và nhà vua trở
nên phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà tiên tri mà Yahweh gửi xuống. Các công dân đã tuân
theo điều luật của Yahweh, bởi vì nếu một người hay nhiều người đi chệch khỏi luật này,
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
111
thì sự trừng phạt của Yahweh sẽ rất là khủng khiếp. Khi quốc gia Do Thái mắc kẹt với
những điều luật này, họ trở thành một nhóm chọn lựa cô lập, mà người ngoài khó có thể gia
nhập vào nhóm, và những cuộc hôn nhân ngoài cộng đồng Do Thái không được tán thành .
Điều này khiến cho người Do Thái tách rời khỏi dòng chính của nhân loại và có thể giải
thích thái độ thù địch thường xuyên được thể hiện với họ. Thực tế họ đã tự cho mình là
giống dân được Thượng Đế lựa chọn, và tuân theo những luật lệ riêng của chính họ. Thật
dễ dàng để thấy sự song song của nền thần quyền này với chế độ giáo hoàng ở Âu Châu
thời trung cổ, hay luật Sharia của Hồi giáo.
Một lần nữa, có phải Yahweh (sau này là người đã ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm về
“Thượng Đế” là ai trong Kitô giáo và Hồi giáo) thật sự là Đấng Thiêng Liêng Tối Cao (the
Divine All That Is)? Câu chuyện Vườn Địa Đàng thực sự chỉ ra rằng Yahweh là một sự
phóng chiếu của Hình 3D Thiện và Ác, và bằng suy luận Cây Sự Sống của người Assyrian
cũng vậy. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng những luật của Moses chỉ tạo ra những sự tách biệt
– người trong sạch và kẻ có tội, người Do thái và không phải người Do thái. Luật Moses
với 613 điều răn, trong đó có 10 điều răn nổi tiếng, dường như nhiều lần để duy trì chính
xác những sự tách biệt như vậy đúng như mong đợi từ sự phóng chiếu của hình 3D nhị
nguyên.
Một số điều răn này có thể được cho là phục vụ trật tự xã hội, còn một số khác thì
không. Chẳng hạn điều răn thứ 4, “bạn không được phép vẽ ra hình ảnh của Chúa”, là một
điều không cần thiết cho hoạt động hòa bình xã hội. Mặc dù nhiều hệ phái Kitô giáo không
tuân theo điều này, nhưng Do Thái và Hồi Giáo thì vẫn tuân theo. Tại sao có luật lệ như
vậy? Có thể cho rằng con người thì không thể tạo ra hình ảnh chính xác về đấng Thiêng
Liêng. Đúng vậy, nhưng mặt khác, không có văn bản hay lời nói nào trong kinh Torah mà
có thể mô tả chính xác hình ảnh của Thượng Đế. Vậy tại sao một luật được đặt ra đặc biệt
để chống lại những ảnh tượng này. Một phần của lý do có thể là do sự đố kị được chiếu lên
đấng Thiêng Liêng, nhưng một phóng chiếu quan trọng hơn có lẽ là óc nhị nguyên trái phải
của Hình 3D Thiện và Ác. Đối với lập luận này, chúng ta nên nhớ rằng, về tổng thể, khả
năng ngôn ngữ của con người dù nói hay viết thì đều được trung gian bởi não trái (đó là lý
do tại sao một người bị tổn thương não trái thì có thể sẽ không nói được). Mặt khác những
hình ảnh lại được trung gian qua não phải. Do đó, qui tắc chống lại hình ảnh thiêng liêng
thực sự là một luật chống lại việc giao tiếp với đấng Thiêng Liêng qua não phải. Hơn nữa,
việc chỉ cho phép thông tin bằng văn tự về God sẽ loại trừ đáng kể những người không thể
đọc hay viết, điều này cũng cho phép một vị tu sĩ nam kiểm soát sự kết nối của người khác
với đấng Thiêng Liêng mà không cần dựa vào trực giác của não phải. Vì vậy điều răn thứ 4
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
112
đã giới hạn kết nối trực tiếp với Thiêng liêng qua não phải để quan điểm về Thượng Đế sẽ
được hình thành bởi não trái. Tất cả những điều này có vẻ phù hợp với quan điểm rằng
Yahweh là một nhận thức về Thiêng Liêng thông qua Hình 3D Thiện và Ác.
Bởi vì loài người ở khắp nơi tại thời thời điểm đó đều bị chi phối bởi hình 3D này, nên
không có gì đáng ngạc nhiên về điều này cả, và tôi muốn nói rằng đây không phải là để
tranh cãi về niềm tin của người Do thái. Nhiều tôn giáo và triết học đã xuất hiện ở khoảng
giữa của sóng thứ 6, chẳng hạn như Thánh hỏa giáo và Nho giáo cũng rõ ràng thể hiện tính
nhị nguyên. Bởi vì quan điểm của người Do thái về thiêng liêng sau này đã ảnh hưởng sâu
sắc đến cả Kitô và Hồi giáo (tên của Moses được nhắc lại tới 502 lần trong kinh Qur’an,
nhiều hơn bất cứ người nào), nên những ảnh hưởng của thuyết độc thần Do thái cũng rất
quan trọng trong thế giới hiện đại. Thay vì khuyến khích mọi người xây dựng mối quan hệ
của mình với đấng Thiêng Liêng, thì các tôn giáo dòng Abrahamic lại làm ngược lại. Cuối
cùng, những giới hạn này đến từ ranh giới vốn có trong Hình 3D Thiện và Ác, điều này đã
khiến mọi người phóng chiếu tính nhị nguyên lên thế giới và đây là điều mà chúng ta ngày
nay cần phải nhận thức rõ.
Chính trong bối cảnh các hệ thống tôn giáo trổi dậy và sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân
diễn ra trong thời đại Axial khoảng 550 TCN mà tôi tin tưởng rằng chúng ta có thể hiểu sự
thành công của Yahweh khi được coi là Thượng Đế trên qui mô rộng hơn. Cuối cùng, sự
thay đổi ở điểm giữa của sóng thứ 6 có gốc gác từ các mẫu giao thoa của các sóng, mà tạo
ra một hình 3D với ít ánh sáng thiêng liêng hơn cả Hình 3D Thiện và Ác. Điều thú vị đáng
chú ý là các tôn giáo có tổ chức đã không xuất hiện bởi sự gia tăng tiếp xúc với Thiêng
Liêng mà ngược lại. Những tôn giáo trổi dậy bởi vì một sóng mới, tiền sóng của Sóng Thứ
7, phát ra từ trục Cột Sống Vũ Trụ, đi vào trái đất, và điều này đã bắt đầu làm lu mờ những
tiếp xúc tâm linh trực tiếp mà loài người đã có trước đây.
Chủ Nghĩa Độc Thần trong Ngày và Đêm của Sóng Thứ 6
Tới đây độc giả có thể hỏi: lịch sử của vũ trụ có liên quan gì đến vũ trụ
fractal-holographic? Tất cả đều liên quan. Lịch sử của các tôn giáo gần như là một sản
phẩm của sự di chuyển của Sóng Thứ 6 và bao gồm toàn bộ truyền thống của Chaldean -
Do Thái - Kitô giáo. Hình 3D mà có hiệu lực trong các Ngày của Sóng Thứ 6 thì có xu
hướng ưu tiên cho chủ nghĩa độc thần ở bên óc trái như chúng ta có thể thấy ở hàng trên
của hình 5.6. Vào ban Ngày thì hình 3D phân cực với bộ lọc sáng tối nhẹ đã chi phối, trong
khi đó vào ban Đêm thì bộ lọc ngừng làm việc. Những giai đoạn thuộc về các Ngày, như
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
113
chúng ta có thể thấy trong cuốn The Global Mind and The Rise of Civilization, cũng là thời
gian thiên về sự nổi lên của các nền văn minh mới. Do đó, cùng một hình 3D đã làm phát
sinh cả tôn giáo và nền văn minh. Thời gian của các Đêm thường dẫn đến sự sụp đổ của
những nền văn minh, và đây là lý do tại sao nhiều nền văn minh cổ đã biến mất.
Những sự thay đổi này giữa Ngày và Đêm của sóng thứ 6 đã giải thích cho phần lớn sự
thăng hoa thần học của các tôn giáo Chaldean - Do thái - Kitô. Các bước tiến bộ của chủ
nghĩa độc thần và cũng là sự bành trướng của nó trên thế giới cũng đã diễn ra trong các
Ngày, bởi vì đây là khi ánh sáng mới đi vào để truyền cảm hứng cho những người tôn sùng
chủ nghĩa này. Bởi vì ánh sáng bị giới hạn ở một nửa não bộ, cho nên đó là một nhận thức
hạn chế về Thiêng Liêng đã xuất hiện từ sự phát triển này.
Hình 5.4
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, đặc biệt là trong nửa đầu của Sóng Thứ 6 thì khó để phân
biệt được đâu là sự thật lịch sử, và trong khi niên lịch của Abraham và Moses trong Thánh
kinh (h5.6, hàng trên) có thể phù hợp với các Ngày, nhưng lịch sử của họ lại rất khả nghi.
Hơn nữa, không phải lúc nào cũng dễ dàng xác định những thay đổi tôn giáo đã diễn ra vào
lúc đầu của các đêm của nửa đầu Sóng Thứ 6. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là hai Đêm cuối
cùng - khi chúng ta có những dữ liệu chính xác - bắt đầu bằng việc xuất hiện giáo điều về
Tội tổ tông (430 CE) và sự Inquisition (1231 CE). Do đó, có lẽ thần học mà được phát triển
trong Đêm thì có thể có những đặc tính rất khác biệt so với Ngày. Về phần Hồi giáo thì bắt
đầu vào điểm giữa của Đêm Thứ 5 (632 CE), và vì vậy giai đoạn phát triển mạnh nhất của
nó là vào các Đêm của Sóng Thứ 6.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
114
Từ Chúa Jesus đến Giáo Hội Công Giáo La Mã
Con đường liên tục từ chủ nghĩa độc thần Do thái đến thông điệp của Chúa Jesus cho
đến việc thành lập giáo hội Công Giáo và sau đó là sự cải cách của Tin Lành thì rất phức
tạp ngay cả khi nó bị điều hòa trực tiếp bởi sự lên hoặc xuống của các sóng sáng tạo. Sự
xuất hiện của Chúa Jesus ở Do thái vào đầu của kỉ nguyên hiện tại, rao giảng về một vị
Thượng Đế của từ bi và bác ái, rõ ràng đã đưa ra một thách thức lớn cho giới tu sĩ của dòng
Jehovah hay Yahweh, mà ít nhất một phần dựa trên sự thống trị và sợ hãi. Ở khía cạnh
quan trọng, sự dạy dỗ của Chúa Jesus khác với tất cả các tín ngưỡng (không chỉ của người
Do Thái) của thời gian trước, nhấn mạnh đến sự tha thứ hơn là sự trả thù. Thế giới có thể
nói rằng không còn giống như xưa nữa kể từ sau thông điệp của Chúa Jesus, và hy vọng
rằng một mối giao hảo đầy lòng yêu thương hơn giữa con người và Thiêng Liêng được xuất
hiện.
Sau khi Chúa Jesus bị đóng đinh vào năm 31- 32 CE, thì thông điệp của Ngài đã bắt
đầu lan rộng ra khỏi Do thái. Một số nhóm khác nhau tự coi mình là những người thừa kế
di sản của Chúa Jesus, và thế giới tại thời điểm đó dường như chuyển hướng theo một chủ
nghĩa độc thần rộng rãi hơn. Một phong trào nổi lên xung quanh người em của Chúa Jesus,
James, người đứng đầu nhà thờ ở Jerusalem; một phong trào khác, có lẽ là một hội thánh,
đã phát triển xung quanh vợ của Chúa Jesus, Mary Magdalene, sau đó hình thành khuynh
hướng bí truyền (Gnostic tendency); và một phong trào khác nữa, đặc biệt là của nhiều
giống người khác nhau, được hình thành xung quanh Paul. Với đại hội công giáo ở
Jerusalem vào năm 50, nhóm của Paul thì không tuân theo luật của Moses, nghĩa là nam
hội viên của cộng đồng công giáo không cần phải cắt bao qui đầu (nghĩa là hội viên không
cần phải là người Do thái), và do đó tôn giáo đã mở rộng hơn cho người La Mã.
Tôi nghĩ điều quan trọng là hiểu sự xuất hiện của các xu hướng này trong bối cảnh của
Ngày thứ 5 trong Sóng Thứ 6 vào năm 40 CE (xem dòng dưới hình 5.6). Sự trổi dậy và sụp
đổ của đế quốc La Mã, một nền văn minh rất quan trọng trong lịch nhân loại trong hình vẽ
này đã được phóng đại để có thể thấy chi tiết như là một hàm số của các giai đoạn tăng dần
và giảm dần của Ngày này. Trong giai đoạn tăng dần của Ngày Thứ 5, 40 – 237 CE, Pax
Romana (La Mã), là đế chế đang trong thời kì mở rộng và chưa ổn định. Trong nửa đầu của
Ngày thứ 5, chính quyền La Mã vẫn thờ các vị thần của họ, bao gồm cả chính Hoàng đế, và
thường đàn áp Cơ Đốc giáo. Đến giữa Ngày thứ 5 thì mọi thứ đã thay đổi. Đế chế La Mã đã
cho thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự tan rã với cuộc khủng hoảng ở thế kỉ thứ 3. Từ
điểm giữa này (237 CE) trở đi, việc bảo vệ biên giới và duy trì sự thống nhất của đế quốc
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
115
rộng lớn này ngày càng khó khăn, mà sau đó đôi khi được cai trị đồng thời bởi nhiều
Hoàng đế.
Giai đoạn đi xuống đã chứng kiến các cuộc tấn công của những bộ lạc ăn cướp người
Đức, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của đế chế La Mã ở phía tây vào đầu của Đêm thứ 5.
Thời gian sau đó, nền kinh tế La Mã rơi vào suy sụp, và những gì diễn ra sau cuộc tấn công
dữ dội của người Huns được gọi là thời kì Đen Tối (Dark Age) của châu Âu. Các cấu trúc
quốc gia tập trung hầu như không tồn tại, và rất ít những di sản văn hóa có thể tìm thấy ở
thời kì này. Đêm Thứ 5 này đã chấm dứt cho thế giới cổ đại, và thời kì đen tối kéo dài đến
đầu Ngày thứ 6, vào đầu thế kỉ thứ 9. Tại thời điểm đó, đế chế Charlemagne đã biến thành
phôi thai của các quốc gia mới như Pháp và Đức, mà sẽ sớm được nhiều người theo sau,
cuối cùng dẫn tới sự trổi dậy của nền văn minh châu Âu.
Bởi vì những hình 3D liên tục thay đổi giữa Ngày và Đêm (h5.6), nên nhận thức của
con người về Thiêng liêng không thể không thay đổi. Nói chung, song song với các điều
kiện chính trị đang thay đổi, khi các nền văn minh trổi dậy hay sụp đổ theo Ngày và Đêm,
thì các tôn giáo cũng như vậy. Đôi khi, như trong trường hợp của Ngày Thứ 5 đã đề cập ở
trên, chúng ta có thể theo dõi chi tiết sự thay đổi về thần học từ gian đoạn đi lên 40-237 CE
với chuyện người Cơ Đốc giáo thấy được Vương Quốc của Thượng Đế (Kingdom of God)
như sắp xảy ra. Ánh sáng đến sau đó đã tạo ra một kì vọng về một Vương Quốc mới, đặc
biệt là trong số những người Do Thái độc thần. Nếu không có nền tảng năng lượng này thì
sẽ không có sự nhiệt tình nào để Vương Quốc của Thượng Đế (Kingdom of God) có thể
được tạo ra, và do đó có lẽ có rất ít người quan tâm đến thông điệp của Chúa Jesus ở bất cứ
nơi đâu. Khi Chúa Jesus bắt đầu giảng dạy vào khoảng gần Ngày Thứ 5 thì ông đã cảm
nhận được luồng năng lượng thăng hoa này. Vì vậy, những nhóm dựa trên lời giảng dạy
của Chúa Jesus mới tồn tại, và một tôn giáo mới được ra đời, mặc dù điều này sẽ trở nên rõ
ràng hơn vào giữa Ngày Thứ 5 rằng Vương Quốc của Thượng đế chưa được thể hiện trong
thời gian đó.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
116
Hình 5.7
Sau giai đoạn ban đầu này, giáo hội do Paul thành lập dần trở nên có tổ chức vững chắc
hơn, với một hệ thống các giám mục do các Cha ở Rome và Alexandria lãnh đạo. Các cha
đã lập nên những giáo lý khác nhau và bắt đầu quyết định những cuốn sách nào sẽ được
mang vào thành phần của Thánh Kinh. Marcion (h5.7) cho rằng thần Yahweh trong cựu
ước không phù hợp với Thượng Đế đầy từ bi của Jesus và không nên đưa vào Kinh Thánh.
Nhóm giáo lý bí truyền (The Gnostics) đã tẩy chay Yahweh và xem ông ta như là đấng
sáng tạo trái ngược với đấng Thiêng Liêng thuần khiết mà họ tôn thờ. Điều này cho chúng
ta biết rằng, ngay cả khi một hình 3D cụ thể chi phối một thời đại, thì vẫn sẽ có những biến
thể trong cảm nhận về tâm linh và những lý thuyết thần học được thành lập. Tuy nhiên,
cuối cùng những Cha ủng hộ việc kết hợp Cựu Ước vào Tân Kinh Thánh đã chiếm thế
thượng phong, và điều này đã được thuyết phục vào đầu thế kỉ thứ 3 CE (có nghĩa là nội
dung của nó đã được nhà thờ chấp nhận và tận hiến). Điều này đã tạo ra suy nghĩ là
Yahweh và Thượng Đế của Chúa Jesus là như một.
Đáng chú ý là hai khuynh hướng, sự tan rã của đế chế La Mã và sự xuất hiện của hệ
thống phân cấp giáo hội, đã phát triển song song trong giai đoạn đi xuống của Ngày thứ 5.
Hội thánh Kitô giáo sau đó đã phát triển thành quyền lực thế giới thông qua các cha và
giám mục của nhà thờ để trở thành cánh tay tôn giáo của đế chế La Mã. Khi hoàng đế
Constantine được cải vào đạo Kitô và hợp pháp hóa tôn giáo vào năm 313, thì các khuynh
hướng đã hội tụ. Sự cải đạo của Constantine có lẽ là sự nỗ lực tuyệt vọng để duy trì sự
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
117
thống nhất của đế chế, mà thủ đô sau đó đã được chuyển đến Constantinople khi thành phố
Rome đã trong giai đoạn suy tàn. Tại Hội Đồng Nicaea đầu tiên năm 325, một bản hiến
chương thống nhất đã được chấp nhận và nhà thờ Kitô giáo đã trở thành một khối đồng
nhất mà trong đó thần học của Paul chi phối.
Những sách không phù hợp với thần học này đã bị đốt bỏ. Hoàng đế Constantine được
biết là đã nói về Arius, người lãnh đạo thần học khác với ông ta, như sau: “nếu bất kì cuốn
nào được viết bởi Arius được tìm thấy thì nó sẽ bị đốt, để không chỉ những lời dạy đồi bại
của hắn tan biến mà cả những kí ức về hắn cũng biến mất”. Chúng ta có thể chắc chắn rằng
sắc lệnh này không phải là duy nhất. Trong triều đại của hoàng đế Theodisius, thư viện
Alexandria đã bị thiêu rụi vào năm 391, có lẽ cũng với một động cơ tương tự. Do đó, chúng
ta có thể hiểu rằng những cuốn sách phản ảnh quan điểm những người theo chúa Jesus ban
đầu, chẳng hạn như Gnostics đã biến mất, và lý do duy nhất mà một số cuốn sách còn tồn
tại đến bây giờ là vì chúng đã được cất giấu.
Tại thời điểm Sóng Thứ 6 chuyển sang Đêm năm 434, Augustine đã đưa ra lý thuyết về
tội Tổ Tông (đáng chú ý là dựa trên câu chuyện Vườn Địa Đàng), khi Giáo Hội Công Giáo
đã trở thành quyền lực chính trị kế nghiệp đế chế La Mã. Vào khoảng thời gian này, hình
ảnh đau khổ của chúa Kitô trên thập tự giá trở nên phổ biến. Mặc dù vào đầu Ngày Thứ 5,
sức mạnh của ma quỉ bị xem thường bởi các cha nhà thờ, là những người tin vào sự chiến
thắng cận kề của Thượng Đế, Augustine sẽ trở thành người quyền lực trong Đêm thứ 5, khi
Kitô giáo thích nghi với năng lượng mới này.
Tuy nhiên, cần phải nói rằng trong thời kì Đen Tối (Dark Age) sau đó, giáo hội công
giáo vẫn duy trì một số khía cạnh của văn minh La mã. Những gì hình thành sau này, ít
nhất là ở Châu Âu, là một biến thể của thần quyền mà đã được kiến tạo bởi các tu sĩ Do
Thái thuở ban đầu. Giáo hoàng đã trở thành trung tâm quyền lực thần quyền lớn nhất mà tất
cả các Kitô hữu đều phụ thuộc vào. Do đó, trong thời trung cổ, tất cả các triều đại hoàng
gia châu Âu đều nhận vương miện từ đức giáo hoàng, và vì vậy đã trở nên phụ thuộc vào
ông ta để được công nhận. Nếu không có sự công nhận này thì một triều đại sẽ không được
xem là hợp pháp, và vì vậy Vatican sau đó đã được coi là một quyền lực cao hơn quyền lực
thế tục. Các hoàng đế, chẳng hạn như Charlemagne và Otto đại đế, người sáng lập ra Holy
Roman Empire, đã được chính đức giáo hoàng đội vương miện cho. Cấu trúc quyền lực
mới nổi chỉ là một sự phóng chiếu của Hình 3D Thiện và Ác, và chủ nghĩa độc thần mà
xuất phát từ Do Thái giáo thì rất phù hợp với điều này.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
118
Những người thắng cuộc trong cuộc tranh giành quyền lực chính trị trong nhà thờ
Kitô giáo đã cổ súy một thần học mà rất khác biệt với hầu hết những người theo Chúa Jesus
ban đầu, theo lời của Simcha Jacobovici và Barrie Wilson trong cuốn The Lost Gospel:
“nâng cao một thần học về sự giải thoát khác biệt rõ rệt với thần học mà chúng ta được
thừa hưởng từ Paul và những người theo ông ta. Đó là thần học dựa trên cuộc hôn nhân của
chúa Jesus chứ không phải là cái chết của Ngài; vào những giây phút vui vẻ chứ không
phải là sự đau khổ của Ngài”. Nhiều thế hệ sau chiến thắng của thần học Paul, người phụ
nữ đã bị Giáo Hội Công Giáo chê bai và cho tới ngày nay họ bị cấm giữ những chức vụ
trong giáo hội. Bởi vì Eva bị coi là chịu trách nhiệm cho Tội Tổ Tông, nên tất cả phụ nữ
đều bị kết án như nhau (dựa trên qui luật cùng giống), và giáo hội công giáo La Mã trong
nhiều thế kỉ đã khinh miệt phụ nữ. Điều này có vẻ như trái ngược với thông điệp của Chúa
Jesus và thực sự sẽ phản lại bất kì chơn đạo nào.
Thần học thắng cuộc hầu hết dựa trên tư tưởng là loài người sinh ra là đã có tội, dựa
trên câu chuyện về Vườn Địa Đàng, và Chúa Jesus “chết vì tội lỗi của chúng ta”. Chúa
Jesus được xem là bị Thượng Đế hy sinh để chữa lành vết rạn nứt đã xuất hiện giữa
Thượng Đế và loài người như là kết quả của việc ăn trái cấm từ Cây Kiến Thức Thiện và
Ác. Khỏi cần nói cũng thấy rằng tư tưởng này không phải bắt nguồn từ Chúa Jesus mà từ
Giáo Hội Cơ Đốc sau này. Chúng ta có thể thấy gốc rễ của thần học này ở một vị thần
trừng phạt được thừa hưởng từ Cựu Ước và tận cùng là ở vùng Lưỡng Hà. Với logic này,
Giáo Hội Công Giáo đã tập trung vào sự đau khổ của chúa Kitô hơn là một thần học về
cuộc sống lạc quan.
Hướng về Một Thần Học Đa Tầng
Một cách tự nhiên, các thần học thay đổi song song với các Ngày và Đêm của Sóng
Thứ 6 đã làm nảy ra một số câu hỏi, chẳng hạn như loài người chúng ta có thể biết về
Thiêng Liêng như thế nào và mục đích của sự sáng tạo này là gì? Một thần học có thể vững
chắc tới cỡ nào nếu những thần học này do con người phát triển đã bị ảnh hưởng sâu sắc
bởi hình 3D chi phối chúng qua thời gian? Những gì tôi lập luận ở đây là Thượng Đế trong
Thánh Kinh, và rộng hơn là Thượng Đế của các tôn giáo dòng Abrahamic, về cơ bản chỉ là
một sự phóng chiếu của Hình 3D Thiện và Ác lên đấng Thiêng Liêng, trong đó ngụ ý rằng
nó đã trở thành một phần của cấu trúc quyền lực cai trị. Nhưng sau đó chúng ta có thể hỏi
rằng liệu những thần học có thể khác gì hơn hay không. Có một sự lựa chọn nào khác
không? Bất kể câu trả lời của chúng ta là gì đối với những câu hỏi như vậy, nếu bây giờ
chúng ta tiếp tục leo lên kim tự tháp 9 tầng để hoàn thành vận mệnh của nhân loại, thì
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
119
chúng ta cần phải hiểu ở mức sâu sắc hơn những gì đã xảy ra để giải tỏa những quan điểm
của chúng ta từ quá khứ mà có thể cản trở sự thăng hoa này.
Từ quan điểm về 9 tầng sáng tạo, sự thay đổi của các Ngày và Đêm của Sóng Thứ 6
không chỉ tạo ra sự bất ổn về thần học mà còn tạo ra những chủ nghĩa tôn giáo khác nhau.
Một thần học bao dung sẽ cần phải tính đến những gì được tạo ra từ tất cả 9 sóng, và nhận
ra mối quan hệ tương ứng với Thiêng Liêng. Do đó, khi chúng ta xem xét rằng có 5 sóng
khác nhau, và mỗi sóng cho một hình 3D cơ bản khác nhau vào tâm trí chúng ta (h5.8), thì
mọi thứ trở nên phức tạp hơn, bởi vì mỗi trong số đó tạo ra một mối quan hệ cụ thể với cội
nguồn. Từ h5.8 chúng ta cũng có thể hiểu rằng mỗi một hình 3D tạo ra một khuôn mẫu cho
các loại thần học mà được phát triển trong một thời kì nhất định. Những sóng và hình 3D
tương ứng đã được kích hoạt liên tục và thông qua các mẫu giao thoa mà chúng tạo với
nhau, các sóng đã góp phần vào sự biến thể đáng kể của các tôn giáo và các quan điểm hiện
hữu trên trái đất trong 5000 năm qua. Nhưng nếu loài người phát triển quan điểm của họ
với Thiêng Liêng dựa trên những hình 3D khác nhau, thì làm thế nào mà chúng ta có thể
cho là chỉ một trong số đó là đúng?
Trước khi trả lời câu hỏi này, tôi muốn tìm hiểu sơ qua về các hình 3D khác nhau trong
h5.5 và những hậu quả của chúng đối với nhận thức của loài người về Thiêng Liêng. Trong
Sóng Thứ 5, đi ngược lại 100,000 năm, mối quan hệ của con người với Thiêng Liêng dựa
trên sự cộng hưởng trực tiếp với nhất nguyên. Có lẽ, dưới ảnh hưởng của Sóng Thứ 5 thì
không có sự xung đột giữa thế giới tâm linh và loài người vì con người ở trong trạng thái
tâm thức vĩnh cửu như những gì mà ngày nay chúng ta gọi là trạng thái tiếp xúc với vô hình
(shamanic state). Sóng Thứ 5 đã tạo ra một tâm thức nhất nguyên, mặc dù đời sống vật chất
rất thấp, nhưng chúng ta có thể ví nó với đời sống của Vườn Địa Đàng mà không có sự
phân chia.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
120
Hình 5.8
Hình 3D của Sóng Thứ 6 và óc suy luận mà nó sinh ra đã thay đổi điều này, và loài
người dần trở nên tách biệt với thiên nhiên, với đồng loại, và Thiêng Liêng kể từ 3115 BCE
trở đi. Tất cả các tôn giáo lớn hiện nay đều là sản phẩm của Sóng Thứ 6 và được dựa trên
hình 3D nhị nguyên của nó. Hầu hết các tôn giáo này đều có đặc điểm của Thượng Đế phán
xét hoặc các vị thần, và một cuộc xung đột giữa Thượng Đế và loài người. Cuộc xung đột
như vậy được cảm nhận qua không chỉ trong các tôn giáo giòng Abrahamic mà còn ở các
tôn giáo chẳng hạn như đức tin của người Maya và Aztecs, có thể tế người để làm vui lòng
thần thánh.
Cũng như vậy ở Đông Phương, những ảnh hưởng của tính nhị nguyên trong hình 3D
Sóng Thứ 6 là rất hiển nhiên. Trong triết lý âm dương cổ đại của Trung quốc, tính nhị
nguyên không chỉ là về thiện và ác, mà nó còn ảnh hưởng đến những khía cạnh khác nhau
của đời sống, chẳng hạn như các quan hệ giới tính. Tính nhị nguyên của biểu tượng âm
dương (h4.4c) có thể được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau. Một là có thể xem âm
dương là hai lực có thể hài hòa với nhau, hoặc là nhìn chúng như bị tách rời mãi mãi bởi
tính nhị nguyên vốn có trong sự hiện hữu của chúng ta. Những quan điểm khác nhau như
vậy là cốt lõi của hai giáo lý triết học tôn giáo quan trọng nhất ở Trung quốc: nho giáo và
đạo giáo. Trong khi Đạo giáo chủ trương chúng ta nên đi vào bên trong và tránh suy nghĩ
nhị nguyên, thì Nho giáo chủ trương chúng ta nên học để trở thành người tốt trong xã hội.
Dù gì chăng nữa, cả hai giáo lý đều nhìn thấy tính nhị nguyên của tâm trí loài người (mà ở
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
121
đây chúng ta gọi là Hình 3D Thiện và Ác) chỉ là một thực tế cuộc sống mà con người phải
học cách đối phó.
Như chúng ta sẽ thấy trong chương kế tiếp, Sóng Thứ 7 về cơ bản là để tạo ra chủ
nghĩa vô thần. Một cách nghịch lý, đây thực sự là một mối quan hệ đặc biệt với Thiêng
Liêng về phương diện xấu (bóng tối) ngay cả khi không phải lúc nào nó cũng được coi là
xấu. Hình 3D này được kích hoạt năm 1775, khi kỉ nguyên kĩ nghệ mở ra một dạng mới về
sự sáng tạo, và trọng tâm của nhiều sự sáng tạo chuyển ra khỏi tôn giáo. Không có tôn giáo
lớn nào xuất hiện kể từ khi hình 3D này được kích hoạt. Mặt khác, sóng thứ 8 được kích
hoạt năm 1999 đã tìm cách trở lại mối quan hệ với tâm linh dựa trên tính nhị nguyên nhưng
theo chiều ngược lại với sóng thứ 6. Sự thay đổi ánh sáng qua bên não phải đã tạo ra một
nền tâm linh toàn diện và nhẹ nhàng hơn. Thông thường, phong trào New Age và các triết
lý chiết trung xuất hiện dưới ảnh hưởng của sóng này thường là những biểu hiện của tâm
linh mà không có sự chấp nhận về Đấng Thiêng Liêng. Sóng Thứ 9 với tâm thức nhất
nguyên cuối cùng đã đem lại cho loài người một mối quan hệ trực tiếp với Thiêng Liêng
(bổn tâm) mà không bị giới hạn nhận thức.
Khi nói đến làm thế nào chúng ta có thể tạo ra một nền thần học nhất nguyên dựa trên
tất cả những hình 3D khác nhau này, tôi nghĩ rằng trước tiên chúng ta nên để ý rằng những
hình 3D này không phải được tạo ra một cách ngẫu nhiên. Thay vào đó, những hình 3D
khác nhau quả thật tạo thành những phần khác nhau của cấu trúc tổng thể, mà cho phép
chúng được kích hoạt tại những thời điểm chính xác theo logic đã đặt sẵn như chúng ta đã
thấy trong chương 3. Một thần học đa tầng, nơi mà những hậu quả của các hình 3D ở các
tầng được nghiên cứu thì nên đặt trên sự hiểu biết là những hình 3D này là những thành
phần trong một tổng thể. Cũng rất quan trọng để nhận ra rằng các thần học khác nhau là
những bước để tiến lên những tầng có tần số cao hơn.
Những gì trong quá khứ thường được gọi là thần học thì hầu như bị giới hạn ở Sóng
Thứ 6 và tập trung ở các tôn giáo được tạo ra bởi sự phóng chiếu của hình 3D nhị nguyên
óc trái. Từ quan điểm được phát triển ở đây, theo nhu cầu, điều này sẽ dẫn tới một cái nhìn
rất hạn chế về đấng Thiêng Liêng, về cơ bản đó chỉ là cảm nhận về đấng Thiêng Liêng
thông qua một nửa bán cầu não. Ngay cả ngày nay, đặc biệt là ở những khu vực trên thế
giới mà Hình 3D Thiện và Ác được tải xuống đầu tiên - khu vực từ Ai cập đến Pakistan
hiện nay – những thần học nhị nguyên đã ăn rất sâu vào con người, và chừng nào chúng
còn được duy trì thì sẽ rất khó có hòa bình ở đó. Đối với vấn đề hòa bình này, điểm quan
trọng nhất của tính nhị nguyên này cần vượt qua là sự khuất phục của phụ nữ. Nếu điều này
không xảy ra thì khó có thể tiến lên Sóng Thứ 8, sóng mà có cực ngược lại và theo nguyên
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
122
tắc thiên về phụ nữ. Sóng Thứ 8 là bước cần thiết để leo lên Sóng Thứ 9, là làn sóng cuối
cùng dẫn tới sự biểu lộ vận mệnh của nhân loại.
Thượng Đế Vô Thượng
Một thần học đa tầng phải là một thần học thống nhất dựa trên việc nhận ra rằng có
một trí tuệ thống nhất đằng sau tất cả những quan điểm khác nhau của loài người về đấng
Thiêng Liêng. Ngay cả khi chúng ta dùng quan điểm về Cây Sự Sống và các sóng mà nó
phát ra cũng chỉ giống như những qui luật tự nhiên, mà vì có một lý do nào đó khó giải
thích đã đưa thế giới đến ngày hôm nay, đối với tôi ít nhất, nó có vẻ hợp lý hơn khi cho
rằng có một vị Thượng Đế cho tất cả (One Divine All That Is), và trong chương I, tôi đã
thảo luận về cách mà chúng ta có thể hiểu điều này. Và đấng Thiêng Liêng này đã vượt ra
ngoài tất cả những quan điểm mà con người đã tạo ra thông qua ảnh hưởng của các hình
3D của 9 sóng. Việc mà chúng ta đã bắt đầu cộng hưởng với Sóng Thứ 9 cho biết rằng cuối
cùng chúng ta có thể phát triển và thực hành một thần học tổng thể.
Tư tưởng về có một đấng Thiêng Liêng mà không có giới hạn và không có gì cao hơn
thì không phải là mới. Trước đó, nhóm Gnostic, một nhóm khá lớn trong Kitô giáo vào thế
kỉ thứ 2 và có lẽ đã xuất hiện từ phong trào đầu tiên xung quanh Mary Magdelene, đã giữ
quan điểm rằng có một vị Thượng Đế còn cao hơn cả Thượng Đế trong Cựu Ước. Chúng ta
biết khá nhiều về các quan điểm của nhóm Kitô giáo đầu tiên này từ Thư viện Nag
Hammadi, một bộ sách gồm 13 cuốn được tìm thấy ở Ai cập vào năm 1945. Nhóm Gnostic
cho rằng có sự hiện hữu của một đấng Thiêng Liêng mà hoàn hảo ở mọi phương diện và
đứng đầu trên tất cả các thế giới về sự thánh thiện. Một trong những cuốn sách này, The
Secret Book of John (Cuốn sách Bí mật của John), có một câu chuyện sáng tạo mà được
cho là chính Chúa Jesus nói ra. Thật thú vị, điều này rất khác với câu chuyện trong sách
Sáng Thế Ký, trong đó chúa Jesus tuyên bố chính ông là người đã khiến Adam và Eva ăn
trái cấm. Hơn nữa, cũng trong cuốn sách này, Yahweh và cha ông ta, Yaldabaoth, không
được coi là Thượng Đế Tối Cao mà chỉ là những vị thần của địa phương. Lời tuyên bố của
Yahweh trong Cựu Ước là ông là một vị thần đố kị và không có vị thần nào khác ngoài ông
ta thì ở trong câu chuyện sáng tạo này đã bị chúa Jesus phản đối bằng những lời sau đây:
“vì lời tuyên bố này của Yahweh, ông ta tỏ ý với các thiên thần đi theo ông ta là còn có một
vị thần khác. Vì nếu không có vị thần nào khác thì Yahweh đố kị với ai?”
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
123
Tôi không nói rằng những bài giảng đầu tiên này của Kitô giáo cho rằng (như tôi nói)
Yahweh, cũng như Ashur và Marduk chỉ là những sự phóng chiếu của một hình 3D đặc
biệt từ Đấng Thiêng Liêng. Tuy nhiên, những lời giảng này cho chúng ta biết rằng từ 2000
năm trước đã có một số nhóm Kitô giáo cho rằng Thượng Đế thực sự thì lớn hơn các vị
thần của thuyết độc thần mà các tôn giáo giòng Abrahamic tôn sùng. Theo Chúa Jesus (ít
nhất là được viết trong cuốn Bí Mật của John), có một Thượng Đế chân thật (one true God)
đã tạo ra một loạt các thời đại, mỗi thời đại là một sự phản ảnh mặt âm - dương của vị
Thượng đế này. Thần học mở rộng này có vẻ gần với mô hình 3D được phát triển ở đây.
Nói cách khác, khi Chúa Jesus nói về đấng Duy nhất, rất có thể đó là đấng Tạo Hóa mà tự
biểu lộ mình như Cây Sự Sống, như đã đề cập trong chương I, thì khác với “Thượng Đế”
theo nghĩa phóng chiếu của bản ngã con người.
Một nền thần học rõ ràng hơn so với nền thần học mà chúng ta đang có bây giờ thì có
lẽ phải dựa trên sự sáng suốt là mỗi hình 3D trong Biểu đồ Định Mệnh tạo ra một phép
chiếu đặc biệt, một tính nhị nguyên âm-dương nếu bạn muốn nói, lên Thiêng Liêng. Nói
cách khác, tất cả các tôn giáo đã được tạo ra dựa trên các sóng mà loài người cộng hưởng
với tại một thời điểm đặc biệt. Dựa trên điều này, một thần học hay một đức tin vào đặc
tính của Thượng Đế đã được phát triển trong thực tiễn và lý thuyết. Theo quan điểm này,
bản chất của Thiêng liêng tối cao thực sự lớn hơn và bao quát hơn nhiều so với một
Thượng Đế được tạo ra chỉ dựa trên sự phân cực của Sóng Thứ 6. Thật ra, một thần học về
đấng Thiêng Liêng tối cao có lẽ vượt quá giới hạn so những gì có thể mô tả trong kinh sách,
hoặc có thể mường tượng bằng trí óc. Có lẽ chúng ta chỉ có thể biết điều đó thông qua kinh
nghiệm trực tiếp.
Đấng tối cao là Nguồn gốc của tất cả những hình 3D khác nhau và thần học tương ứng,
và từ đó chúng ta có thể hiểu rằng không có lý do gì để bị mắc kẹt vào một lý thuyết và từ
chối tất cả những thứ khác một cách cuồng tín. Bởi vì sự đơn giản mà điều này đã tạo ra mà
nhiều người ngày nay không muốn sử dụng chữ “Thượng Đế” cho kinh nghiệm của họ về
Thiêng Liêng. Lý do có lẽ không chỉ là chữ này đã được sử dụng để hỗ trợ vô số các
chương trình nghị sự chính trị và chế độ phụ hệ, và ngày nay vẫn được sử dụng để phán xét,
kết tội, và đóng dấu lên người theo cách của thần học cổ xưa. Lý do sâu xa hơn có thể là
khái niệm về “Thượng Đế” vốn đã phản ảnh một quan niệm hạn chế, chứ không phản ánh
ai là đấng tối cao. Đấng tối cao như nhóm Gnostics đã nói, không phải là khái niệm giống
như Thượng Đế của các tôn giáo dòng Abrahamic.
Điều quan trọng là phải nhận ra rằng các hình 3D tô mầu cho nhận thức của chúng ta về
một đấng Thiêng Liêng là những phần của một tổng thể và tất cả chúng đều đại diện cho
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
124
các bước tiến trong sự thăng hoa này. Có một phần được công nhận trong các tôn giáo
dòng Abrahamic mà chúng ta đang phải đối mặt với sự thăng hoa như vậy. Chẳng hạn,
theo Do Thái giáo, người ta tin rằng, tùy theo hành động của loài người, chúng ta sẽ trở lại
Vườn Địa Đàng, cũng được cho là thời đại Messianic, vào khoảng 225 năm sắp tới. Nhưng
làm thế nào điều này có thể xảy ra và tại sao nó được tiên tri nếu không có một quá trình
mà có thể dẫn đến sự trở lại như vậy? Một cách thức để trở lại vườn địa đàng được cung
cấp ở đây dưới dạng trèo lên tới Hình 3D Sóng Thứ 9 (h5.8). Tuy nhiên, để điều này có thể
xảy ra thì thực sự phụ thuộc vào hành xử của nhân loại. Để loài người có thể trở lại Vườn
Địa Đàng mà đó là định mệnh của họ, thì có lẽ một thần học bao quát hơn những thần học
hiện đang thống trị thế giới cần được phát triển. Một trong những câu cuối của sách Khải
Huyền trong Kinh Thánh Kitô cũng chỉ ra một hướng tương tự: “những người được ban
phước là những người làm theo lời răn của Thượng Đế, họ có thể có quyền về với Cây Sự
Sống và có thể đi qua cánh cổng để vào thành phố (vườn địa đàng)” [Rev 22:14, dịch từ
Thánh King James, 2000]. “Quyền về với cây sự sống” có lẽ có nghĩa là có phần trong
Thiêng liêng và có thể trở lại trạng thái hợp nhất.
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
125
Chương6: Sóng Thứ Bảy
Tình Trạng Khó Khăn của Nhân Loại
Tất cả lịch sử, như chúng ta hiện đang bắt đầu thấy là một sản phẩm của các chuyển
động sóng với tần số rất thấp. Với bản chất của những sóng này, không có gì đáng ngạc
nhiên là tại sao con người thỉnh thoảng cảm thấy bản thân như đang bị kiểm soát bởi một
sức mạnh cao hơn hoặc cảm thấy rằng họ không làm chủ được cuộc sống của mình. Và như
chúng ta đang bắt đầu thấy, có rất nhiều sự thật về quan điểm như vậy. Qua nhiều thế kỉ,
con người đã cảm nhận những hình 3D như thể hiện ý muốn của Thượng Đế. Như một hậu
quả, nếu họ thấy những sự kiện mà được tạo ra bởi các sóng này là tích cực thì xem như là
được Thượng Đế ban phước, còn nếu họ thấy là tiêu cực thì coi như là bị trừng phạt.
Bất kể chúng ta cảm nhận về tiến trình của những biến cố này như thế nào, thì dường
như chúng là một phần của quá trình có ý nghĩa ở tầng cao hơn. Những gì mà đã định để
xảy ra ở qui mô lớn hơn thực sự được xác định bởi các hình 3D mà loài người được các
sóng sáng tạo ban tặng. Những gì chúng ta có thể thấy qua mô hình 3D lượng tử là các sự
kiện trong đời sống của chúng ta là một phần của một kế hoạch lớn hơn nhiều, đó là Biểu
Đồ Định Mệnh của nhân loại. Những gì xảy ra trong đời sống của chúng ta, chúng ta giữ
vai trò gì trong sự thăng hoa này? phần lớn chỉ là chức năng của các sóng mà chúng ta đang
cộng hưởng với. Có lẽ, nếu chúng ta chấp nhận sự thật này thay vì sống trong ảo tưởng
rằng cuộc sống hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của mình, thì chúng ta sẽ có thể giải quyết
một cách thực tế hơn về một số vấn đề lớn của thế giới.
Chẳng hạn, sự khao khát quyền lực - rất điển hình của Sóng Thứ 6 - có thể bắt nguồn
từ sự thất vọng tiềm ẩn là con người không thể kiểm soát được cuộc sống của chính mình.
Để xóa tan khao khát này, chúng ta phải thấu hiểu nhân loại đã bất lực như thế nào khi thiết
kế vận mệnh của mình. Theo thế giới quan xuất hiện từ mô hình 3D lượng tử, chính
Thượng Đế tối cao đã tạo ra hướng tiến hóa ở cấp vĩ mô cho vũ trụ. Điều này ảnh hưởng
qua các sóng mà nó tạo ra cho các sinh vật trên khắp vũ trụ, bao gồm cả hành tinh của
chúng ta. Có lẽ sự bất lực của chúng ta đã dẫn đến việc tạo ra các vị thần giống như
“Thượng Đế” của tôn giáo dòng Abrahamic, mà ít nhất là những quyền năng nào đó để qua
đó chúng ta có thể liên kết với. Và tuy nhiên, sức mạnh này là một ảo tưởng theo nghĩa là
nó bị giới hạn chỉ trong một tầng sáng tạo. Việc tuân thủ một hệ thống đức tin như vậy hiện
đang trở thành một vấn đề lớn cho nhân loại vì nó ngăn chặn tiến trình hình thành định
mệnh của nhân loại, mà tiến trình này vượt xa hơn cả việc thực thi quyền lực đối với người
khác.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
126
Hình 3D Thiện và Ác đã đóng vai trò cốt yếu đối với nền văn minh của nhân loại, và
nhận thức của cá nhân. Tuy nhiên, trong hai chương trước, bên cạnh hình ảnh một vị
Thượng Đế như là người thực thi quyền lực, gây ra sợ hãi, thì những hình 3D còn là nguồn
gốc của chế độ nô lệ, chiến tranh và sự thần phục của phụ nữ. Điều này có thể đã khiến
nhân loại nhìn vào chỗ sai để giải quyết những vấn đề mà đang gây khó khăn cho họ. Nếu
những vấn đề này thực sự bắt nguồn từ các hình 3D phát ra từ Cây Sự Sống, thì để có được
hòa bình và công lý lâu dài trên Trái đất, chúng ta bắt buộc phải quay lại với hình 3D.
Chúng ta cần giải quyết nguyên nhân gốc rễ, đó là tần số mà chúng ta cộng hưởng với, thay
vì những ảnh hưởng của nó, vốn chỉ là những triệu chứng của một hành tinh mà như đang
bị bệnh. Chừng nào chúng ta còn là một tập thể con người, qua các tôn giáo hay bằng cách
khác, đang sử dụng sức mạnh của Hình 3D Thiện và Ác, thì chúng ta sẽ chỉ càng cách xa
định mệnh thực sự của nhân loại.
Tôi tin rằng, khi giải quyết vấn đề này, bước đầu tiên là phải nhận ra sự tiến hóa của vũ
trụ được thiết kế trên qui mô lớn như thế nào. Nếu chúng ta không hiểu làm thế nào điều
này được điều khiển bởi các sóng khác nhau và được tạo ra bởi các hình 3D cho chúng ta,
thì chúng ta sẽ không thể thảo luận làm thế nào để giải quyết thành công các vấn đề của thế
giới. Trước khi đi sâu vào vấn đề này, tôi nghĩ cần phải nhìn kĩ hơn vào vai trò linh hoạt
của các sóng sáng tạo, và sự giao thoa giữa chúng đã đóng vai trò định hình đời sống của
loài người.
Bối Cảnh của Sóng Thứ Bẩy
Sức mạnh của một làn sóng trong việc định hình sự hiện hữu của loài người sẽ đặc biệt
rõ ràng sau khi một hình 3D mới sẵn sàng để truy cập từ một làn sóng mới được kích hoạt
với tần số cao hơn. Sau đó sóng này bắt đầu hình thành các mẫu giao thoa với các sóng đã
được kích hoạt trước đó, dẫn tới một loạt các đặc tính mới lạ. Sự kiện này được thể hiện rất
rõ ràng vào khoảng thời gian Sóng Thứ 7 được kích hoạt vào July/24/1755. Mặc dù ở đây
tôi đưa ra một ngày chính xác cho việc khi nào sóng này bắt đầu ảnh hưởng tới sự sống trên
trái đất, nhưng điều này không có nghĩa là thế giới đã thấy một sự thay đổi mạnh mẽ vào
ngày đặc biệt này. Thay vào đó, bạn có thể nói rằng, trong 20 năm sau đó, thế giới hiện đại
đã bắt đầu xuất hiện. Sóng Thứ 7 có chu kì 39.4 năm (một vòng đầy đủ Ngày và Đêm), và
do đó sự thay đổi giữa Ngày và Đêm (và ngược lại) cứ diễn ra sau mỗi 19.7 năm. Do đó,
sóng này có tần số cao gấp 20 lần so với Sóng Thứ 6.
Như với tất cả các sóng, Sóng Thứ 7 có một tiền sóng, và hai sóng này đã tạo mẫu giao
thoa với Sóng Thứ 6 (h6.1). Ngày thứ 7 của Sóng Thứ 6, bắt đầu từ năm 1617 và kết thúc
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
127
vào năm 2011, đặc biệt đã tạo ra mẫu giao thoa với tiền Sóng Thứ 7 (1498) và Sóng Thứ 7
(1755). Về lịch sử châu Âu, (và tại sao châu Âu có vai trò đặc biệt đã được giải thích trong
cuốn The Global Mind and The Rise of Civilization), những năm 1498, 1617, và 1755
(chính xác nhất có thể đo được) thì phù hợp với điểm khởi đầu của phong trào Phục Hưng,
Cách Mạng Khoa Học, và Khai Sáng theo thứ tự. Khỏi cần nói, ba mốc thời gian đều có
hàm nghĩa sự thay đổi mô hình có tầm tối quan trọng.
Hình 6.1
Những người được sinh ra trước lúc kích hoạt Sóng Thứ 8 năm 1999 hoặc Tiền Sóng Thứ
8 năm 1986 thì đã được sinh ra trong Sóng Thứ 7 này. Nói cách khác, đối với nhiều người
đang sống ngày nay, làn Sóng Thứ 7 là sóng có tần số cao nhất vào thời điểm mà họ được
sinh ra, và đối với những người trong số chúng ta (mà sinh vào thời gian này) thì có mối
quan hệ cá nhân trực tiếp đối với sóng này hơn là Sóng Thứ 6 hay những sóng thấp hơn.
Rồi điều này có nghĩa là, đặc biệt đối với những người sống ở khu vực công nghiệp hóa
của thế giới trong thời gian mà nó phát huy nhất, thì tần số và hình 3D của Sóng Thứ 7 đã
tạo ra cách tiếp cận cơ bản của họ đối với cuộc sống và sự hiểu biết về cuộc sống. Mặc dù
các hình 3D của Sóng Thứ 5, và Thứ 6 là nền tảng quan trọng để chống lại làn Sóng Thứ 7
trổi dậy, nhưng Sóng Thứ 7 có khả năng đã cung cấp khung ý thức thúc đẩy con người sinh
ra trong thời kì này và cho họ động lực chính để sống cuộc sống của mình.
Từ góc độ nghiên cứu những biểu hiện của các sóng khác nhau trong đời sống nhân
loại, Sóng Thứ 7 thể hiện những ưu thế rõ rệt. Điều quan trọng nhất là việc xác định
niên lịch của những sự kiện khác nhau được chính xác hơn nhiều. Điều này trái ngược
với Sóng Thứ 5, nơi mà bằng chứng khảo cổ học rất khan hiếm, và cả ở nửa đầu sóng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
128
thứ 6, nơi mà những niên hiệu bị mang tiếng là không chắc chắn đúng. Vào thời kì đầu
của Sóng Thứ 6, những câu chuyện không phải lúc nào cũng là thần thoại, và ngay cả
khi chúng không phải là thần thoại, thì chúng ta luôn không biết được chính xác lúc nào
chúng diễn ra. Khung thời gian của Sóng Thứ 7 bắt đầu từ 1755 không bị ảnh hưởng
nào đáng kể với những khó khăn như vậy, và chúng ta thường biết chuyện gì đã xảy ra,
nơi mà nó xảy ra, và rất quan trọng là từ quan điểm nào nó được thành lập, khi nào nó
xảy ra. Sự gia tăng độ chính xác trong các niên lịch sẽ cho phép chúng ta thấy ảnh
hưởng của các sóng sáng tạo thực sự đa dạng như thế nào.
Chúng ta đã nghiên cứu một số khía cạnh chung của Sóng Thứ 7, thí dụ như nó tạo
ra xu hướng hướng tới sự bình đẳng (h4.2) và vô thần (h5.8), và những sự thay đổi này
được gây ra bởi hình 3D mới mà nay có thể truy cập được. Khi một hình 3D mới được
kích hoạt, nó dần bắt đầu chi phối các hình 3D sẵn có, và dựa trên các mẫu giao thoa
của các sóng, một hình 3D đặc biệt riêng được tạo ra, mà sẽ sắp đặt lối suy nghĩ của con
người. Tuy nhiên, mẫu giao thoa sẽ bị ảnh hưởng bởi các pha dịch chuyển của các Ngày
và Đêm của các sóng, và do đó luôn ở trong trạng thái thay đổi liên tục, đặc biệt là khi
có mặt của những sóng có tần số cao hơn. Làn sóng mới, trong trường hợp này là Sóng
Thứ 7, luôn có tần số cao hơn và đại diện cho sự mới lạ và thu hút bất kì ai muốn trở
thành một phần của việc tạo ra những thời đại mới, và nhiều người muốn như vậy vì họ
cảm thấy rằng sự mới lạ bắt nguồn từ đấng Sáng Tạo (the Source). Điều này vẫn đúng
dù khi hình 3D bị “tô đen lại” và thực sự ngăn chặn sự cảm nhận của con người về đâ ng
tối cao. Dù gì đi nữa, sự hiện hữu của các mẫu giao thoa được tạo ra bởi các làn sóng
cũng mang nghĩa là không thể có hai người có cùng suy nghĩ hoặc có cùng cách nhìn về
thế giới. Tất cả chúng ta đều có sự cộng hưởng riêng biệt với các sóng khác nhau phát
ra từ Cây Sự Sống.
Do đó, như đã đề cập, ngay cả khi một sóng mới và cao hơn được kích hoạt, thì những
sóng thấp hơn luôn luôn là nền tảng đối nghịch lại những sóng cao hơn. Điều này có
nghĩa là, chẳng hạn trong trường hợp các tôn giáo đã được thảo luận rộng rãi ở đây,
ngay cả khi xu thế trong Sóng Thứ 7 tập trung vào thế giới vật chất, như sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa, thì những tôn giáo bắt nguồn từ Sóng Thứ 6 vẫn tồn tại. Tuy nhiên,
với hình 3D đã bị bôi đen, những tín đồ trung thành của các tôn giáo nói chung đã phai
mờ trong thế kỉ 19 và 20, có nghĩa là càng có ít người hơn có thể cảm nhận được thế
giới tâm linh. Tuy nhiên, không phải là hình 3D mới đã xóa bỏ và thay thế những gì đã
được tạo ra bởi hình 3D cũ. Thay vào đó, thế giới mới được cấu tạo trên thế giới cũ và
được biến đổi do kết quả của các mẫu giao thoa mà hai sóng đã tạo ra với nhau.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
129
Kỷ Nguyên Mới: Sự Toàn Cầu Hóa
Những sự mới lạ của Sóng Thứ 7, giống như với tất cả các sóng, rất dễ dàng nhận ra
trong giai đoạn đầu của sóng, có thể nói chung là đều nằm trong các chủ đề chính của
toàn cầu hóa, chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa duy vật, công nghiệp hóa và bình đẳng.
Chúng ta sẽ xem xét từng chủ đề một trong 260 năm qua, những ảnh hưởng của hình
3D mới này đã biến đổi thế giới thành như ngày hôm nay.
Tôi sẽ bắt đầu với sự toàn cầu hóa. Trong những cuốn sách trước, tôi đã gọi Sóng Thứ
7 là Planetary Underworld, bởi vì dưới ảnh hưởng của nó, đời sống đã thay đổi đáng kể
từ quốc gia cho tới toàn cầu. Cho đến thời điểm này, cuộc sống thuộc về khuôn khổ của
các quốc gia. Những sự kiện quan trọng nhất đánh dấu sự thay đổi này đối với nhận
thức toàn cầu có thể đã diễn ra trong kỉ nguyên của các khám phá địa lý, mà được bắt
đầu thông qua việc kích hoạt Tiền Sóng 7 vào năm 1498. Columbus đã đi thuyền với
thủy đoàn của mình đến Mỹ năm 1492 và Vasco da Gama đã tìm thấy tuyến đường biển
từ châu Âu đến Ấn độ vào năm 1498. Quan trọng nhất là Ferdinand Magellan và Juan
Sebastian del Cano đã đi vòng quanh trái đất vào 1519-1522, đã cung cấp bằng chứng
cuối cùng rằng trái đất là hình cầu.
Vào khoảng thời gian Sóng Thứ 7 thực sự bắt đầu vào 1755, bản đồ của hầu như tất cả
các bờ biển trên thế giới đã được hoàn thành bởi thuyền trưởng Cook. Kết quả là, một
mạng lưới giao dịch toàn cầu đã được thiết lập. Song song với sự mở rộng địa lý này,
một sự thay đổi tinh thần đã diễn ra theo hướng toàn cầu. Việc gắn một người thuộc vào
một quốc gia, cũng như một tôn giáo chỉ là sản phẩm của hình 3D Sóng Thứ 6. Một
cách để nhận ra sự thay đổi diễn ra vào đầu sóng thứ 7 là mọi người ở mức nào đó đã bị
ngắt kết nối với không chỉ tôn giáo của họ mà cả với quốc gia của họ bởi hình 3D mới.
Vào khoảng giữa 1700s, điều này thể hiện ở sự xuất hiện của đô thị, những cá nhân đôi
khi trung thành với lý tưởng của mình hơn là với quốc gia. Một ví dụ là tướng quân
người Pháp Lafayette, người mà đã vì lý tưởng của mình để đấu tranh cho cách mạng
Mỹ. Những ví dụ khác là những nhân vật nổi bật của phong trào khai sáng, như Valtane
và Rousseau, những người phải chạy trốn khỏi đất nước bản địa vì lý tưởng cấp tiến của
mình.
Ý tưởng về một lợi ích chung cho toàn nhân loại mà không bị giới hạn bởi các ràng
buộc quốc gia cũng xuất hiện trong thời đại này. Một ví dụ là dự án hợp tác khoa học
đầu tiên của thế giới, với mục tiêu xác định khoảng cách của trái đất với mặt trời vào
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
130
dịp sao kim đi qua vào năm 1761 và 1769. Dự án này bao gồm 151 quan sát viên tại 77
trạm khác nhau (bao gồm cả trạm Captain Cook ở Tahiti) ở nhiều quốc gia, bao gồm cả
Anh và Pháp, mà trong thời gian đó phần lớn là cạnh tranh và chiến tranh với nhau. Về
mặt khoa học, dự án này có thể không thành công, nhưng ý tưởng cho việc thỉnh thoảng
hợp tác của các quốc gia đã được thiết lập. Đây là một sản phẩm của hình 3D mới, làm
giảm đi tư tưởng về quyền sở hữu thuộc về quốc gia.
Ở đây chúng ta có thể thấy rằng thời kì quốc gia là một sự sáng tạo của tâm trí thuộc
Sóng Thứ 6, mà không biến mất một cách dễ dàng khi sóng thứ 7 được kích hoạt.
Không phải tất cả mọi người trên hành tinh đột nhiên đột trở thành công dân toàn cầu,
nhưng ranh giới giữa các quốc gia và thuộc địa khác nhau đã mất đi một phần sức mạnh
trong các đấu trường nhất định như khoa học, thương mại và trao đổi ý tưởng. Dần dần
theo thời gian, ngay cả khi các quốc gia vẫn tồn tại (ít nhất cho đến 2011) để duy trì
danh tính của mình, thì tất cả loài người trong Sóng Thứ 7 đã trở thành một phần của
khuôn khổ toàn cầu, nơi mà những gì xảy ra ở một địa điểm cũng có những ảnh hưởng
quan trọng đến mọi nơi khác.
Điểm cần để nhận ra là những thay đổi này đã không “tự nhiên xảy ra”. Chúng xảy ra
tại thời điểm khi một hình 3D mới, mà không có bản chất nhị nguyên, có thể được tải
xuống (h6.2b), và điều này cung cấp cho loài người một bộ lọc tối để qua đó họ cảm
nhận thế giới. Bởi vì bộ lọc này không tạo ra ranh giới rõ ràng theo cách mà Hình 3D
Thiện Ác đã làm, nên khi loài người chiếu hình 3D lên thực tại bên ngoài họ, họ không
áp đặt giới hạn riêng biệt giữa các quốc gia như trước đây. Như ta đã thấy, chính vì lý
do này mà thế giới hiện tại, mặc dù có bản chất vật chất, là một bước tiến so với tình
trạng thế giới trước khi kích hoạt sóng mới này.
Kỷ Nguyên Mới: Chủ Nghĩa Vô Thần và Giác Ngộ
Bước tiến này đã xảy ra bởi hình 3D của Sóng Thứ 7 đã che khuất ánh sáng thiêng
liêng của Sóng Thứ 6, và do đó có ít nhận thức về những gì đang diễn ra về mặt tâm
linh. Không giống như thuở đầu của Sóng Thứ 6, nơi mà tạo ra nhiều biểu tượng trên
toàn thế giới, một vài biểu tượng còn sót lại phản ánh sự thay đổi trong hình 3D so với
Sóng Thứ 7. Có một đại diện đáng chú ý của người Maya về sự thay đổi hình 3D trong
sách của Chilam Balam mà đề cập tới một trong những tiền sóng của Sóng Thứ 7 và
lãnh chúa của 13 Katuns (13 thời kì). Trong tài liệu kèm theo, nó nói về việc những vị
lãnh chúa mà là các hình 3D cho các thời kì khác nhau, bị “che mắt” - nghĩa là họ và
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
131
loài người đang tải xuống những hình 3D này sẽ không thể nhìn thấy ánh sáng thiêng
liêng.
Hình 6.2
Trong chương trước đã chỉ ra rằng một tiền sóng của Sóng Thứ 7 đã được kích hoạt
vào năm 551 TCN, và sự mất kết nối sau đó với Thượng Đế không chỉ dẫn đến sự xuất
hiện của các tôn giáo mà cả chủ nghĩa cá nhân. Khi hình 3D trong hình 6.2b có thể tải
xuống được vào thời kì tiền sóng bắt đầu vào năm 1498, tương tự nó cũng dẫn tới chủ
nghĩa cá nhân ở mức cao hơn của thời kì Phục Hưng (the Renaissance). Như một phần
của chủ nghĩa cá nhân này, cải cách của Luther bắt đầu từ 1517 đã phát triển một tín
ngưỡng Kitô giáo rất khác. Sau khi kích hoạt Sóng Thứ 7 vào năm 1755, chủ nghĩa cá
nhân càng được nhấn mạnh hơn nữa. Một thí dụ điển hình về chủ nghĩa cá nhân trong
thời kỳ này là bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ, vốn đã tách rời khỏi triết lý trước đó, và
nhấn mạnh quyền cá nhân bằng những lời sau: “chúng ta tôn trọng những sự thật này là
hiển nhiên, rằng mọi người đều bình đẳng như nhau, Tạo hóa đã ban tặng những quyền
mà không thể thay đổi, trong đó có quyền được Sống, quyền Tự Do, và Mưu Cầu Hạnh
Phúc”. Những từ này sẽ không thể tưởng tượng được trước năm 1755, và càng không
thể tưởng tượng được vào năm 1498, khi mà phần lớn quyền hạn đều thuộc về những
người cai trị.
Song song với xu hướng về chủ nghĩa cá nhân, có lẽ lần đầu tiên trong khoảng 1500
năm qua đã xuất hiện những người rất vô thần hoặc những người không theo Kitô giáo,
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
132
đặc biệt trong thời kì Khai Sáng của Pháp thì gồm có Voltaire, Diderot, và La Mattrie.
Cuốn sách vô cùng phổ biến của La Mattrie L’Homme Machine (Machine Man) đã đi
xa tới mức cho rằng loài người không có linh hồn mà chỉ là những cỗ máy. Trong bối
cảnh nhà thờ vẫn còn đang thống trị, ý tưởng này có lẽ được cho là phóng khoáng, và
trong thời đại này lần đầu tiên chúng ta bắt đầu thấy những gương mặt tươi cười trong
các bước chân dung (h6.3). Những hậu quả của hình 3D mới cũng là những ý tưởng mà
thần quyền và thế quyền nên tách biệt, và mọi người nên có quyền tự do về tôn giáo. Sự
tách biệt giữa thần quyền và thế quyền đã trở thành hiện thực qua các cuộc cách mạng
Pháp và Mỹ, và một làn sóng của thuyết chống giáo hội đã quét qua châu Âu. Và rồi,
trong suốt làn Sóng Thứ 7, sự quan tâm đến các tôn giáo đã giảm đi rõ rệt, ít nhất là ở
châu Âu, nhưng gần đây hơn là ở Hoa Kỳ. Dưới ảnh hưởng của hình 3D tối tăm này,
không có tôn giáo lớn nào xuất hiện, và ngay cả những người được cho là rất ư tâm
linh, thì trọng tâm đời sống phần lớn đã chuyển sang giá trị vật chất.
Hình 6.3
Như vậy thời kì khai sáng (Enlightenment) thực sự là thời kì đen tối
(endarkenment)? Tất cả điều này phụ thuộc vào những giá trị mà quan trọng đối với
bạn. Rõ ràng, nó là thời kì tăm tối về mặt cảm nhận tâm linh trực tiếp về Thiêng liêng
(như ta sẽ thấy sau, điều này hiện đang bắt đầu thay đổi trong Sóng Thứ 8, thứ 9). Theo
quan điểm của riêng tôi, nhiều bước tiến quan trọng đã xảy ra trong một thời kì ngắn
sau năm 1755 đủ để có thể coi thời kì này là thời kỳ Khai Sáng. Việc xem xét sự thay
đổi của hình 3D chính yếu là thành phần của một mẫu các sóng phát ra từ Cây Sự Sống
và do đó là một phần của kế hoạch thiêng liêng (h4.2), chúng ta cũng có thể tự hỏi liệu
có phải Thượng Đế thực sự muốn ruồng bỏ những người thiếu lòng tin hay muốn trừng
phạt họ, như đôi khi các tín đồ tôn giáo dòng Abrahamic đã từng tuyên bố. Những ý
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
133
tưởng như vậy dường như không có ý nghĩa gì cả, bởi vì nếu con người leo lên thang và
trở về để hợp nhất với đấng Thiêng Liêng trong Sóng Thứ 9, thì họ cũng cần phải vượt
qua tầng mà đã ngắt đứt họ với đấng Thiêng Liêng. Một cách nghịch lý, đôi khi một
người vô thần lại có thể phục vụ cho kế hoạch thiêng liêng tốt hơn là một nhà truyền
giáo mà tuyên truyền sự sợ hãi. Mặt tốt đẹp của Sóng Thứ 7 không chỉ là nó làm phát
triển nền văn minh hơn nữa, đặc biệt là về mặt vật chất, mà còn làm cho con người tự
do và tự chủ hơn.
Kỷ Nguyên Mới: Khoa Học
Tôi cảm thấy, những gì được thực hiện bởi cái được gọi là bản thân tôi thì
được thực hiện bởi cái lớn hơn trong tôi.
Jame Clerk Maxwell
Cuộc cách mạng khoa học được bắt đầu qua các tác phẩm của Kepler là Galilei vào
khoảng đầu Ngày thứ 7 của Sóng Thứ 6 vào năm 1617 (h6.1), cùng với sự bùng nổ của
các lý thuyết toán học mới (h6.3). Tại thời điểm này, trước khi kích hoạt bộ lọc tối của
Sóng Thứ 7, thì không có nhà khoa học nào xem công việc của mình có xung đột với
các tôn giáo, và những người tiên phong này chủ yếu quan tâm đến cách mà Thượng Đế
tạo ra vũ trụ. Điều mới lạ là họ đã sử dụng những sự quan sát và thí nghiệm cũng như
các công cụ toán học để khám phá các mô hình tiềm ẩn của thiên nhiên: định luật
Kepler về quĩ đạo của hành tinh (xuất bản năm 1619) là các định luật toán học đầu tiên
về thiên nhiên. Hầu hết chúng ta ngày nay nhìn một hành tinh vào bầu trời đêm sẽ
không nảy ra ý tưởng rằng chuyển động của nó có thể được mô tả bằng một công thức
toán học, vậy mà đây là những gì mà Kepler đã tìm thấy. Điều này có thể khiến chúng
ta nhận ra sự thay đổi mô hình này quan trọng như thế nào. Ý tưởng sử dụng toán học
để mô tả các chuyển động trong thiên nhiên sau đó đã được Newton khái quát hóa trong
cuốn sách Principia năm 1684, mà trong đó trình bày luật hấp dẫn. Nếu sự kết nối giữa
hiện tượng vật lý và toán học không thực hiện được, thì thế giới hiện đại của khoa học,
công nghệ, và công nghiệp hóa đã không xuất hiện.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
134
Hình 6.4
Những gì xảy ra tại điểm khởi đầu của Sóng Thứ 7 vào năm 1755 với hình 3D sơn
tối là một mối quan hệ mới cho thế giới, và từ điều này, chủ nghĩa vô thần đã nói trong
phần trước cũng đóng một vai trò quan trọng. Những người mà nhìn thấy ánh sáng của
hình 3D Sóng Thứ 6 vẫn có thể coi trái đất và thiên nhiên là một điều gì đó thiêng liêng
không thể đụng chạm. Chỉ khi hình 3D bóng tối của Sóng Thứ 7 đi vào và thay đổi
nhận thức của con người về thế giới thì thiên nhiên mới được coi là một cái gì đó có thể
chấp nhận được để biến đổi bằng các phương pháp khoa học và công nghiệp.
Điểm thứ hai được minh họa đặc biệt rõ ràng trong hình 6.4 (hàng dưới) với sự phát
triển các nghiên cứu về điện từ. Điện hầu như không nhận được bất kì sự chú ý nào của
các nhà nghiên cứu cho đến khi tải xuống hình 3D của Sóng Thứ 7. Chỉ trong vài năm
ngắn ngủi trước khi hình 3D được tải xuống các phương pháp tạo ra điện được phát
triển dưới hình thức của những cái lọ Leyden,và năm 1752, Benjamin Franklin đã cung
cấp một bằng chứng rằng sấm sét là một hiện tượng điện. Vì vậy trước khi Sóng Thứ 7
bắt đầu, con người không thể thử nghiệm với điện hoặc thậm chí phân biệt rõ ràng điện
là một hiện tượng của thiên nhiên. Có lẽ do sấm sét và các hiện tượng lẻ tẻ khác của
điện và từ nên các hiện tượng này được xem như thuộc về thế giới khác (ví dụ thần
Thor của Na Uy hay các thần sấm sét khác tạo ra nó). Dù sao đi nữa, chỉ khi bộ lọc của
Sóng Thứ 7 được tải xuống, các nhà nghiên cứu mới bắt đầu xem nó như là một hiện
tượng mà loài người có thể thử nghiệm, khai thác và hiểu được. Hầu hết những đột phá
trong lĩnh vực điện từ đã diễn ra trong khoảng thời gian các Ngày của sóng này và đôi
khi, chẳng hạn như trường hợp của phương trình Maxwell xuất hiện đúng vào điểm
khởi đầu của Ngày.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
135
Đôi khi một lý thuyết sẽ không có bước đột phá cho đến khi tính hợp lệ và hữu ích
của nó trong khoa học được chứng minh trong thực tế. Các thí nghiệm quan trọng thiết
lập giai đoạn vật lý lượng tử đã được Planck và Einstein thực hiện vào 1900 và 1905
tương ứng, và thuyết tương đối của Einstein cũng được công bố vào năm sau. Tuy
nhiên, chỉ với mô hình nguyên tử của Bohr vào năm 1913 và việc xác minh thực tế về
lý thuyết tương đối tổng quát vào 1919 thì những lý thuyết này mới được chấp nhận
rộng rãi. Trong Ngày thứ 5, theo đề xuất của Bohr, vật lý lượng tử đã ra đời từ một loạt
các khám phá dẫn đến phương trình Schorodinger vào 1929. Ở đây người đọc có thể để
ý một sự song song thú vị với những gì chúng ta tìm thấy khi nghiên cứu về thuyết độc
thần trong chương trước, cụ thể là sau khi có sự chuẩn bị từng bước của hiện tượng
trong những Ngày trước đó, thì bước đột phá thực sự diễn ra vào Ngày thứ 5.
Rõ ràng từ hình 6.4, sự thay đổi mô hình trong khoa học không xảy ra tại các thời
điểm ngẫu nhiên. Thay vào đó, chúng được điều hòa một cách cơ bản bởi những thay
đổi trong tâm trí loài người mà diễn ra vào đầu những Ngày của Sóng Thứ 7. Một cách
tự nhiên, có thể lập luận rằng hình 6.4 có thể bao gồm một số khám phá khoa học và lý
thuyết đột phá khác, và có thể một vài phát hiện cũng được thực hiện trong các Đêm.
Nhưng nhìn chung, tôi tin chắc rằng những điều này sẽ được coi là ít quan trọng hơn so
với những gì diễn ra trong những Ngày. Hầu hết, nếu không nói là tất cả, các sử gia
khoa học sẽ đồng ý rằng lý thuyết điện từ của Maxwell cũng như thuyết tương đối tổng
quát và vật lý lượng tử có tác động mạnh nhất trong thời gian được nghiên cứu ở đây.
Bởi vì hình 3D bóng tối mới của Sóng Thứ 7 thực sự bắt nguồn từ Cội Nguồn,
Source, nên chúng ta không ngạc nhiên khi một số nhóm người, đặc biệt là trong nhóm
các nhà khoa học và những kẻ hoài nghi, đôi khi nhìn khoa học với sự đố kị giống như
các tín đồ của các tôn giáo hữu thần. Đôi khi điều này xuất hiện với hình thức chối bỏ
sự tồn tại của bất cứ thứ gì mà không quan sát hay đo lường được. Chắc chắn khoa học
là phương thức suy nghĩ trong suốt Sóng Thứ 7, và nhiều nhà khoa học có những khám
phá quan trọng đã báo cáo rằng họ đã được hướng dẫn tới những khám phá của mình
bằng một sức mạnh lớn hơn bản thân, như được trích dẫn trong đoạn trích từ trang 169
của Janes Cleark Maxwell.
Kỷ Nguyên Mới: Chủ Nghĩa Duy Vật và Công Nghiệp
Tuy nhiên, sự thay đổi ấn tượng nhất trong đời sống loài người mà Sóng Thứ 7
mang lại là sự ra đời của công nghiệp trên qui mô lớn – cuộc Cách Mạng Công Nghiệp
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
136
(Industrial Revolution). Như đã nói ở trên, cuộc cách mạng này trong thời kì đầu vào
năm 1755 phần lớn đã xảy ra thông qua sự tương tác liên tục với khoa học. Đôi khi một
số đột phá trong khoa học, chẳng hạn như sự hiểu biết về điện, dẫn đến một loạt các
phát minh và sự thay đổi lớn trong cuộc sống hàng ngày của con người. Nhưng thông
thường những vấn đề thực tế chẳng hạn như làm thế nào để giao tiếp ở khoảng cách xa,
hay cung cấp phương tiện giao thông, đã thúc đẩy khoa học đi theo những hướng mới
và tìm ra giải pháp mới. Cuối cùng, một mối quan hệ mới của loài người với thiên nhiên
mà trong đó làn sóng này được coi là một nguồn tài nguyên chứ không phải là một hiện
tượng bí ẩn và tâm linh đã được kích hoạt bởi hình 3D mới.
Một bước quan trọng mà được thực hiện ở đầu Sóng Thứ 7 là sự ra đời của nhiên
liệu hóa thạch (fossil fuel, dầu lửa) mà chưa từng được sử dụng trước đó. Sự khởi đầu
thực sự của thời đại công nghiệp thường được đánh dấu bằng sự phát minh ra động cơ
hơi nước vào 1769, điều đó có nghĩa là một nguồn năng lượng đã sẵn sàng cho phép
máy móc chạy trên qui mô lớn trong các nhà máy. Bởi vì vị trí của các nhà máy không
còn bị lệ thuộc vào nguồn nước nữa, nên toàn bộ các khu công nghiệp đã được xây
dựng. Thời đại công nghiệp cũng có thể bắt đầu ở Anh và Scotland trong Ngày đầu tiên
của Sóng Thứ 7 khi máy kéo sợi Jenny, máy kéo sợi tự động, được phát minh vào 1764.
Sau đó, máy Jenny và các máy móc khác làm trong ngành dệt may bắt đầu được sử
dụng bằng động cơ hơi nước trong các nhà máy lớn.
Hình 6.5
Một yếu tố quan trọng cho công nghiệp hóa là con người, nguyên liệu thô, và hàng
hóa có thể được vận chuyển đến và đi từ các mỏ và các nhà máy. Trong hình 6.5, chúng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
137
ta có thể thấy rằng, ngay sau khi động cơ hơi nước của Jame Watt được phát minh, thì
ông Cugnot người Pháp đã phát minh ra xe hơi nước nhưng không hữu ích lắm cho việc
vận chuyển công cộng. Tuy nhiên, từng bước một trong những Ngày kế tiếp, động cơ
hơi nước được sử dụng để vận chuyển hàng hóa trên cả đất liền và biển. Vào giữa Ngày
thứ 4, xe hơi được phát minh bởi Daimler và Benz ở Đức mà lần đầu tiên đã cho phép
một phương tiện giao thông cá nhân hiệu quả dựa trên nhiên liệu hóa thạch. Năm 1913,
khi Ngày thứ 5 bắt đầu, dây chuyền lắp ráp xe hơi được ra đời tại nhà máy Henry Ford
ở Dearborn, Michigan. Một ngoại lệ đáng chú ý so với qui luật tất cả các phát minh lớn
được tạo ra trong các Ngày là phát minh ra máy bay của anh em nhà Wright vào 1904,
mà gần với điểm giữa của một Đêm. (Tôi sẽ gọi đây là một ngoại lệ mà chứng minh qui
luật đã đặt ra).
Song song với sự phát triển của các phương tiện giao thông là việc sử dụng các
nguồn năng lượng khác nhau. Ở Hoa Kỳ, than là nguồn chính để tạo ra điện, tiếp theo là
khí tự nhiên (natural gas), với năng lượng hạt nhân và thủy điện là các nguồn khác – tất
cả các khám phá mới đều dựa trên hình 3D mới. Không còn gì nghi ngờ là những khám
phá quan trọng đều xảy ra vào các Ngày. Chẳng hạn, trong Ngày thứ 4, động cơ/máy
phát điện (1873), bóng đèn (1875), và máy ghi âm (1876) đều được phát minh khi hệ
thống điện sử dụng công cộng hoàn thành. Trong Ngày thứ 5, một loạt các máy móc gia
dụng như máy hút bụi, tủ lạnh và thiết bị nhà bếp đã được phát minh, và giai đoạn này
được thiết lập để tiêu thụ hàng loạt những thứ này trong Ngày thứ 6.
Hình 6.6
Một lĩnh vực công nghệ có sự tiến hóa phù hợp gần như hoàn toàn với chuyển động
của Sóng Thứ 7 là ngành viễn thông (telecommunication) (h6.6); hầu như không thay
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
138
đổi, những đột phá để đưa ra các kĩ thuật mới đều diễn ra vào những điểm đầu Ngày
của Sóng Thứ 7. Từng bước một, các kĩ thuật tiên tiến và linh hoạt hơn, đi từ ý tưởng
tạo ra một máy điện báo đến sự ra đời của các website trên Internet (tại CERN vào
tháng 8 năm 1991), đã được thúc đẩy bởi các Ngày mới của sóng. Có lẽ điều này đã xảy
ra bởi vì viễn thông liên quan rất nhiều đến năng lực của điện – một công nghệ mà là
chức năng trực tiếp của Sóng Thứ 7.
Chúng ta cũng nên xem xét hiện tượng khám phá đồng thời và độc lập trong bối
cảnh này: chẳng hạn Alexander Graham Bell đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế điện
thoại chỉ vài giờ trước đối thủ của mình, Elisha Gray. Sự đồng bộ như vậy khó có thể
coi là một sự tình cờ ngẫu nhiên. Thật ra, chính sự thể hiện của sóng quyết định “thời
điểm thích hợp” cho một phát minh mới được thực hiện. Tuy nhiên, khi các cá nhân
khác nhau cộng hưởng với cùng một sóng thì họ có thể đưa ra cùng một phát minh tại
cùng một “thời điểm thích hợp”. Sức mạnh đồng bộ hóa của các sóng này là một yếu tố
rất quan trọng cần phải biết. Điều đó không nhất thiết là một thứ phải được phát minh
chính xác cùng một lúc. Điều này cũng có nghĩa là hằng loạt những phát minh, có thể
được qui về cùng một hình 3D, đã xuất hiện trong một khoảng thời gian đã định. Ví dụ
như sự bắt đầu phát sóng radio như thế nào (1910-1913), nhạc jazz (1914), bức tranh
trừu tượng đầu tiên (Kandinsky 1913), và việc sản xuất dây chuyền lắp ráp xe hơi (1913)
cùng nhau mở ra kỉ nguyên của thời hiện đại khi Ngày thứ 5 của Sóng Thứ 7 bắt đầu.
Những hiện tượng nảy mầm khác nhau đều liên quan đến nguồn gốc chung của chúng
trong một hình 3D đặc biệt. Trong vũ trụ fractal-holographic, mọi thứ phát triển theo
một lịch trình mà được xác định bởi những làn sóng.
Kỷ Nguyên Mới: Sự Bình Đẳng
Như đã được gợi ý trong hình 4.2, bởi vì hình 3D Sóng Thứ 7 thiếu sự phân cực cơ
bản giữa âm và dương nên cũng sẽ mang lại sự bình đẳng cho nhân loại, ít nhất là trong
một số khía cạnh nhất định. Đây cũng là một thông điệp của Jean – Jacgues Rousseau’s
Discourse sur l’Inegalite (Điều Chỉnh về sự Bất Bình Đẳng) được xuất bản năm 1755.
Nếu đúng là chế độ nô lệ, chiến tranh, và sự khuất phục của phụ nữ trong Sóng Thứ 6 là
sản phẩm của tính nhị nguyên, thì những hiện tượng này đáng ra phải trở nên ít nổi bật
hơn trong Sóng Thứ 7. Điều tương tự cũng đúng với các chế độ quân chủ, và chúng ta
đã thấy rằng sự quản lý giáo hội của mọi người nói chung bắt đầu giảm dần. Các quá
trình sâu sắc như vậy không thể tự nhiên xuất hiện qua đêm và không nhất thiết phải
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
139
phát triển cùng tốc độ ở mọi nơi. Tuy nhiên, cho đến năm 2011, đã có một xu hướng
chung về dân chủ trên toàn thế giới, như chúng ta có thể thấy trong hình 6.7.
Hình 6.7
Do đó, một trong những thay đổi rõ ràng nhất diễn ra là cách điều hành chính phủ
của các quốc gia. Kể từ khi Sóng Thứ 6 bắt đầu vào năm 3115 TCN, các quốc gia đã
được hình thành xung quanh các quốc vương, những người mà ít nhiều có quyền lãnh
đạo tuyệt đối. Ban đầu, chẳng hạn như ở Ai Cập thời các Pharaoh, những lãnh chúa tự
coi mình là các vị thần, sau đó là đại diện của các vị thần, và cuối cùng là cai trị bằng ân
sủng của Thượng Đế. Cho đến khi bắt đầu làn Sóng Thứ 7 vào năm 1755, Thụy Sĩ, Anh,
và Hòa Lan là những quốc gia châu Âu duy nhất có một số kinh nghiệm về nền cai trị
cộng hòa, và chỉ có Anh và Thụy Điển có các đảng chính trị khác nhau trong quốc hội
của họ. Tuy nhiên, chỉ có một tỉ lệ nhỏ dân số đủ điều kiện để bỏ phiếu, và dưới ảnh
hưởng của tính nhị nguyên Sóng Thứ 6, chế độ quân chủ dường như là hình thức cai trị
tự nhiên duy nhất.
Với sự bắt đầu của Sóng Thứ 7 và hình 3D mới của nó, hệ thống điều hành chính
phủ này đã bị thách thức, mở đầu là cuộc Cách Mạng Mỹ (American Revolution), nơi
mà thuộc địa phản đối sự cai trị của vua Anh Quốc và thiết lập một hệ thống dân chủ và
cộng hòa. Ngay cả khi nô lệ và phụ nữ bị loại khỏi quyền bình đẳng ở Hoa Kỳ tại bước
đầu, thì hệ thống điều hành mới này dù sao đi nữa cũng là một đột phá đáng kể so với
quá khứ. Không lâu sau đó, cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789 đã dẫn đến sự sụp đổ của
chế độ quân chủ ở quốc gia lớn nhất Châu Âu, và theo thời gian tất cả các chế độ quân
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
140
chủ trên thế giới đã được thay thế bởi chế độ cộng hòa (ngày nay chỉ còn một số ít các
nước tồn tại chế độ quân chủ nhưng phần lớn đều không có thực quyền).
Để thảo luận về cách mà Sóng Thứ 7 mang nền cộng hòa và dân chủ đến phần lớn
các nơi trên thế giới thì phải mất cả cuốn sách. Như trong trường hợp của các quá trình
khác mà chúng ta đã nghiên cứu trong chương này, đó là Ngày thứ 5 đã mang lại sự
thay đổi lớn nhất theo hướng này. Tại điểm khởi đầu của sự thay đổi này, các đế chế
độc tài như Trung Hoa, Ottoman, Nga, Đức và Áo đều đã sụp đổ. Ở một số quốc gia
mới, các nền dân chủ xuất hiện và phát triển rộng rãi hơn ở Bắc và Tây Âu, mà trong
năm 1920 cũng bao gồm quyền bầu cử của phụ nữ. Quá trình dân chủ hóa sau đó lên
đến đỉnh điểm với sự chuyển biến sâu rộng sang các hệ thống cai trị pháp lý vào khoảng
đầu của Ngày thứ 7. Liên Xô sau đó đã sụp đổ, và đồng thời phần lớn các khu vực
Đông Âu, Mỹ latin và Nam Phi đều có được quyền tự do mới cùng với sự thay đổi về
chế độ cai trị.
Ý tưởng về một bộ lọc cho ánh sáng tâm linh thoạt nghe có vẻ giống như một yếu tố
tiêu cực đối với đời sống con người. Nhưng hóa ra, ít nhất theo quan điểm của riêng tôi,
mọi thứ phức tạp hơn nhiều. Với sự ra đời của bộ lọc này vào 1755, không chỉ có
những lý tưởng về dân chủ mà còn cả những lý tưởng thường được gọi là nhân bản. Các
nhóm người mà trước đây đã bị áp bức và đối xử với rất ít sự tôn trọng chẳng hạn như
tù nhân, nô lệ, những người bị bệnh tâm thần, phụ nữ và trẻ em, giờ đây đã bắt đầu
được đối xử nhân đạo. Cho đến 1750, hầu như không có tiếng nói nào chống lại việc
buôn bán nô lệ, nhưng vào năm 1807, Anh quốc đã cấm nó và tiếp tục cấm chế độ nô lệ
trên toàn đế quốc Anh vào năm 1833. Cuối cùng, Hoa Kỳ đã làm theo vào năm 1865.
Đôi khi phải trải qua một cuộc chiến tranh để có sự thay đổi tiến bộ, như trong trường
hợp Nội Chiến Hoa Kỳ, đã dẫn đến việc giải phóng nô lệ. Tương tự, sự thay đổi sang
nền dân chủ ở Châu Âu chủ yếu phụ thuộc vào Thế Chiến Thứ Nhất để mang đến sự
sụp đổ của các nền quân chủ chuyên chế.
Trên thực tế, tất cả những sự thay đổi này có thể được xem là đi theo hướng bình
đẳng hơn trong xã hội, và bộ lọc tối của Sóng Thứ 7 không nhất thiết có nghĩa là xấu xa.
Thực tế, phần lớn đời sống con người đã được nhân bản hóa, và rất có thể lý do là tính
nhị nguyên của bộ lọc trước đó đã được thăng hoa. (Bộ lọc không thực sự biến mất. Khi
một bộ lọc mới xuất hiện, nó hợp nhất với bộ lọc đã có và biến thành một thể thống
nhất mới). Dưới bộ lọc nhị nguyên trong Sóng Thứ 6, con người có xu hướng nghĩ rằng
có một lực tốt và một lực xấu trong vũ trụ, và do đó họ nhất thiết phải tìm kiếm những
người mà có vẻ là tốt – thông qua mặt sáng của bộ lọc – và những người khác sẽ được
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
141
xem là xấu xa. Nếu ai đó giống như một kẻ dị giáo hoặc nô lệ, được nhìn qua mặt tối
của bộ lọc, thì người đó sẽ được hiểu là một biểu hiện của lực xấu trong vũ trụ. Dĩ
nhiên, nếu ai đó bị coi là xấu xa, thì sẽ không có lý do hay khả năng nào để đối xử từ bi
hay nhân đạo với họ. Đây là lý do tại sao có quá nhiều sự tàn ác trong Sóng Thứ 6 và
cũng là lý do tại sao khi bộ lọc của nó dần được thay thế bằng bộ lọc Sóng Thứ 7, thì
con người có xu hướng nhìn thế giới khác đi và mở lòng ra tới sự bình đẳng.
Tôi không có ý định trình bày ở đây như thể tất cả các vấn đề đã được giải quyết bởi
Sóng Thứ 7, nhưng để chỉ ra rằng hình 3D mới của nó đã tạo ra các qui trình mà theo
quan điểm của tôi đã đi đúng hướng. Mặc dù, ngay cả khi phần lớn những qui trình đó
chưa được hoàn thành. Điều đáng chú ý là sự bình đẳng ở đây được tạo ra theo kiểu
bình đẳng hiện sinh để mọi người, bất kể chủng tộc, giới tính, hay tôn giáo, được có
quyền bình đẳng. Ít nhất điều này đã trở thành lý tưởng được tuyên xưng, mà bản thân
nó là một bước tiến. Tuy nhiên, sự thay đổi này đối với sự bình đẳng hiện sinh chưa
nhất thiết xen vào lĩnh vực kinh tế. Chúng ta sẽ quay trở lại vấn đề này khi nghiên cứu
Sóng Thứ 8, nhưng bây giờ nên xem xét những hậu quả kinh tế của Sóng Thứ 7.
Những Chu Kỳ Kinh Tế Toàn Cầu của Sóng Thứ Bảy
Để bắt đầu, sự toàn cầu hóa tạo ra bởi Sóng Thứ 7 đã dẫn đến sự bành trướng quan
trọng của thị trường thương mại thế giới về tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ. Tại lúc
bắt đầu làn sóng này, chúng ta khó có thể nói về một nền kinh tế toàn cầu theo nghĩa mà
nó tồn tại như ngày hôm nay, trong đó mỗi quốc gia phụ thuộc vào quốc gia khác cho
sự thịnh vượng kinh tế của mình. Tuy nhiên, bản chất toàn cầu của những đổi mới kĩ
nghệ trong Sóng Thứ 7 cũng tạo ra một nền kinh tế toàn cầu. Hơn nữa, nếu sự phát triển
kĩ nghệ trong Sóng Thứ 7 đi theo sự lên xuống của các Ngày và Đêm, thì điều này có
thể có nghĩa là nền kinh tế thế giới sẽ chịu ảnh hưởng rất nhiều từ làn sóng này. Do đó,
nếu một Ngày là khoảng thời gian của sự đổi mới kĩ nghệ và những ngành khác, thì bất
cứ khi nào một Ngày mới bắt đầu, bạn sẽ mong đợi một sự phát triển của nền kinh tế
khi các sản phẩm mới có mặt sẵn sàng cho mọi người với số lượng lớn. Kết quả là,
GDP và khối lượng thương mại cũng được dự kiến là sẽ tăng trưởng. Ngược lại, nếu
những giai đoạn về Đêm mà được đặc trưng bởi sự suy giảm tốc độ sáng tạo, thì chúng
ta sẽ phải có những giai đoạn suy thoái hay khủng hoảng về kinh tế.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
142
Hình 6.8
Tất nhiên, các cuộc khủng hoảng kinh tế có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, và
đặc biệt là trong nửa đầu của sóng, nền kinh tế thế giới bị giới hạn đến mức chỉ có
những thành phố riêng lẻ bị ảnh hưởng. Một cuộc khủng hoảng không nhất thiết phải
lan rộng trên toàn thế giới. Trong nửa sau của sóng nền kinh tế thế giới phát triển rất
mạnh như mong đợi dựa trên những sáng chế mới trong các Ngày. Do đó, Ngày thứ 5
mang đến thời kỳ 1920s, Roaring Twenties, Ngày thứ 6 là thời kì tăng trưởng kéo dài
của thập niên 50, 60; và Ngày thứ 7 là giai đoạn tăng trưởng rất nhanh, đặc biệt là dựa
trên ngành viễn thông vào thập niên 90. Ngược lại, sự khởi đầu của Đêm thứ 4 đã
chứng kiến một cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng Panic năm 1893. Tuy nhiên, điều
này không là gì so với Cuộc Đại Suy Thoái, mà bắt đầu từ vụ sụp đổ chứng khoán ở
New York vào 1929 và năm tồi tệ nhất của nền kinh tế thế giới là 1933, lúc bắt đầu của
Đêm thứ 5. Phần đầu của Đêm thứ 6 không tạo ra tình trạng thất nghiệp hàng loạt ở qui
mô tương tự; tuy nhiên, cuộc khủng hoảng năng lượng bắt đầu từ 1973 đã trở thành
điểm khởi đầu cho một thời kì tăng trưởng chậm, đặc biệt là so với Ngày thứ 6. Tóm lại,
trong nửa phần sau của sóng, Ngày rõ ràng có nghĩa là sự đi lên và Đêm rõ ràng là sự
suy thoái của nền kinh tế thế giới.
Sự Tăng Tốc của Thời Gian và Khao Khát về Mới Lạ
Chúng ta đã nhìn qua một số hiện tượng gây ra bởi cách con người nhận thức về thế
giới và nghiên cứu những điều này có thể liên quan đến Sóng Sáng Tạo thứ 7 như thế
nào. Sau đó chúng ta có thể thấy rằng một số hiện tượng nhất định có sự phù hợp gần
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
143
như hoàn hảo với các chuyển động sóng, thêm vào thực tế là có thể kết nối một cách
hợp lý các hiện tượng này với sự thay đổi được đề xuất trong hình 3D từ Sóng Thứ 6
sang Sóng Thứ 7. Những phong trào tiến hóa khác nhau từ giữa thập niên 70 cho đến
nay được cho là do sự thay đổi của hình 3D. Tuy nhiên, cũng có những khía cạnh nhất
định của Sóng Thứ 7 được giải thích rõ nhất bằng tần số tăng gấp 20 lần so với Sóng
Thứ 6. Tôi sẽ kết thúc chương này bằng một cuộc thảo luận về điều này, vì việc tăng
tốc thời gian có thể phù hợp với sự hiểu biết của chúng ta về sự thay đổi sang sóng có
tần số cao hơn, chẳng hạn như các Sóng Thứ 8, Sóng Thứ 9.
Hình 6.9
Sự trải nghiệm của con người về thời gian và tốc độ thay đổi cuộc sống phụ thuộc
trực tiếp vào tần số của các sóng mà chúng ta cộng hưởng. Các Sóng Thứ 5, Thứ 6, và
Thứ 7 được vẽ cùng cường độ trong hình 6.9 đã cho phép chúng ta hiểu sự khác biệt về
tần số và những sóng này đã ảnh hưởng đến nhận thức của con người về thời gian và
cuộc sống ở các thời đại khác nhau như thế nào.
Theo như chúng ta có thể nói, người thời kì Băng Hà, sống dưới ảnh hưởng của
Sóng Thứ 5, nơi mà Ngày và Đêm chỉ thay đổi sau mỗi 8000 năm, đã không cảm nhận
được sự thay đổi liên tục trong cuộc sống của họ hay của các thành viên trong bộ lạc
của họ. Cách họ mặc đồ hoặc tô điểm cho bản thân không thay đổi rõ rệt qua hàng ngàn
năm, khi anh có thể mặc áo da gấu cả cuộc đời mà không bị lỗi mốt. Mặc dù có thể có
những thảm kịch về sự sinh tồn hàng ngày, nhưng bản chất của những thảm kịch này
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
144
không thay đổi nhiều theo thời gian.
Với làn Sóng Thứ 6, thì tầng số tăng rõ rệt vì Ngày và Đêm sẽ thay đổi sau mỗi
394.4 năm. Cuộc sống sẽ bắt đầu trải qua sự thay đổi ở một tốc độ cao hơn, và nhìn lại
chúng ta có thể thấy rằng các nền văn minh và tôn giáo vươn lên và sụp đổ một cách
đều đặn. Những người sống trong Sóng Thứ 6 đã thay đổi đáng kể thói quen của họ
theo thời gian, và chẳng hạn được biết đến rằng thời trang quần áo ở châu Âu thời trung
cổ sẽ thay đổi khoảng 10 năm một lần hoặc lâu hơn. Với Sóng Thứ 7, tần số tăng nhanh
hơn nữa, và khi mức tiêu thụ hàng loạt phát triển vào những thập niên 50, 60 ở một số
nơi trên thế giới (với xu hướng tăng trưởng kinh tế vào Ngày thứ 6), hiện tượng “bắt
kịp Joneses” đã trở nên phổ biến rộng rãi, và bộ sưu tập thời trang được được trình diễn
một năm 2 lần. Thời trang vì thế đã thay đổi thường xuyên hơn gấp 20 lần so với Sóng
Thứ 6, điều này phù hợp với thực tế là tần số của Sóng Thứ 7 cao hơn 20 lần so với
Sóng Thứ 6.
Khi Sóng Thứ 8 và Thứ 9 được kích hoạt sau đó vào các năm 1999 và 2011, với các
chu kì sóng ngắn hơn nhiều so với cuộc đời con người – 720 và 36 ngày – ngành công
nghiệp thời trang đã không còn có thể tăng số lượng bộ sưu tập một cách tương ứng
nữa. Thay vào đó, những gì nổi lên với làn Sóng Thứ 8 là hiện tượng kiệt sức, mà trong
đó tốc độ thay đổi từ nhiều mặt khác nhau và sự thiếu khả năng để theo kịp điều này
đôi khi đã dẫn đến triệu trứng bệnh hoạn cho thể chất và tinh thần. Do sự gia tăng tần
số này, cho đến năm 2011, một cảm nhận chung của con người là thời gian đã tăng tốc.
Tần số của mỗi sóng cũng ảnh hưởng đến thế giới quan của con người. Chẳng hạn,
tần số của Sóng Thứ 6 quá thấp nên mọi người không nhận thức được rằng họ là một
phần của quá trình tiến hóa. Trong suốt thời gian đó, con người không nghĩ rằng thế
giới đã phát triển sau một cuộc tiến hóa lâu dài, mà thay vào đó, họ tin rằng (ít nhất là
những người theo Kitô giáo) Thượng Đế đã tạo ra thế giới khoảng 6000 năm trước. Tuy
nhiên, với Sóng Thứ 7, một sự tăng tốc rõ rệt của sự thay đổi đã diễn ra. Ngay từ khi
bắt đầu vào năm 1755, Immanuel Kant trong cuốn Universal Natural History and
Theory of Heaven đã có ý tưởng rằng thế giới có lẽ đã có từ hàng trăm triệu năm trước,
hoàn toàn trái ngược với Kinh Thánh. Vào điểm giữa của Sóng Thứ 7, hai lý thuyết tiến
hóa quan trọng đã được đề xuất, một là về sinh học của Charles Darwin, và một là về
kinh tế xã hội của Karl Marx (người mà ngay cả khi họ truyền tụng, cũng chưa bao giờ
gặp). Như thích hợp với Sóng Thứ 7, cả hai lý thuyết này đều dựa trên thế giới quan
duy vật, trong đó các nguyên nhân gây ra sự tiến hóa được cho là có bản chất vật chất.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
145
Ngay cả khi chúng ta hiện giờ có thể nhận ra rằng cả hai lý thuyết đều sai khi xác định
yếu tố gây ra sự tiến hóa, thì chúng đều thực sự đúng khi coi sự tiến hóa là một thực tế.
Những lý thuyết của Karl Marx đã có ảnh hưởng to lớn tới chính trị vào thế kỉ XX. Vấn
đề ở đây là sự tiến hóa bao trùm thế giới quan chỉ có thể xuất hiện với tần số gia tăng
của Sóng Thứ 7, mà đã khiến con người cảm nhận trực tiếp rằng họ là một phần của
quá trình tiến hóa. Cuối cùng, lần đầu tiên, chu kì sóng 39.4 năm của Sóng Thứ 7 nằm
trong phạm vi của một đời người.
Những hình thức thay đổi của nhạc khiêu vũ thịnh hành cung cấp bằng chứng trực
tiếp hơn về việc tần số gia tăng của Sóng Thứ 7 vào những Ngày khác nhau, như được
chỉ ra trong hình 6.10, đã ảnh hưởng đến con người như thế nào. Chúng ta có thể thấy
rằng trong nửa đầu của sóng, nhạc waltz với nhịp 3 bước tương đối chậm là hình thức
nhảy phổ biến nhất hơn xa các điệu nhảy khác. Vào lúc đầu của Ngày thứ 5, những
người Mỹ gốc Phi châu đã sáng tạo ra nhạc jazz dựa trên sự nhấn lệch (syncopes). Điều
này đã làm tăng tốc nhịp điệu của nhạc khiêu vũ, và trong thời kì Roaring Twenties,
nhạc Charleston còn tăng nhịp hơn nữa. Năm 1952, đúng vào lúc bắt đầu của Ngày thứ
6, thuật ngữ rock’n’roll đã được phổ thông, và tiếp tục trong Ngày đó là âm nhạc có
nhịp điệu cao dẫn tới thời đại của nhạc Pop, và Rock vào thập niên 60. Một sự thay đổi
cuối cùng trong nhịp điệu của nhạc khiêu vũ đã xuất hiện năm 1991, đó là nhạc techno
xuất hiện vào lúc đầu của Ngày thứ 7. Những sự thay đổi căn bản trong nhịp điệu của
nhạc khiêu vũ thịnh hành gần như hoàn toàn phù hợp với sự khởi đầu của những Ngày
trong Sóng Thứ 7. Điều này cho chúng ta biết rằng những sóng sáng tạo không chỉ ảnh
hưởng đến tâm trí chúng ta và những gì chúng tạo ra cũng ảnh hưởng đến cơ thể chúng
ta. Tần số gia tăng của Sóng Thứ 7, mà ngay cả khi nó chỉ được cảm nhận ở mức tiềm
thức, đã biểu hiện ở các hình thức nhạc khiêu vũ với nhịp điệu ngày càng nhanh hơn.
Một lần nữa, mọi thứ không phải lúc nào cũng như vậy, và đáng chú ý là, những xu
hướng này đều xuất hiện từ những sóng sáng tạo tiềm ẩn.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
146
Hình 6.10
Sóng Thứ 7 có thể là bài thử tốt nhất để kiểm chứng mối tương quan giữa các sự
kiện lịch sử với sự thay đổi Đêm Ngày trong các sóng, bởi vì sóng này không đi ngược
quá xa về quá khứ để việc xác định niên lịch trở nên khó khăn. Thêm nữa, tần số của nó
không quá cao đến nỗi trở nên khó khăn để kết nối các sự kiện với sự thay đổi trong
sóng, chẳng hạn như Sóng Thứ 8, và 9. Do đó, nói chung, ít nhất là trong nửa sau của
sóng thứ 7, những sáng chế mới gần như luôn luôn tương quan với sự khởi đầu của
những Ngày.
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
147
Chương 7
Tiến Gần Đến Thời Điểm Hiện Tại
Sóng Thứ Tám và Cuộc Cách Mạng Số
Điều đáng chú ý là những sóng khác nhau đã khơi dậy những cuộc cách mạng quan
trọng trong lịch sử nhân loại. Sóng Thứ 6 khởi xướng nền văn minh hay cuộc cách mạng
kim tự tháp; Sóng Thứ 7 khởi xướng cuộc cách mạng công nghiệp; và Sóng Thứ 8, mà
chúng ta sẽ xem xét sau đây, khởi xướng cuộc cách mạng số. Với làn Sóng Thứ 8 và
cuộc cách mạng tương ứng của nó, chúng ta đang tiến gần tới thời đại của chính mình và
đang leo thêm một bước nữa trên Biểu Đồ Định Mệnh của Nhân Loại (h4.2). Phần lớn
những gì đã viết ra cho đến nay là để chuẩn bị cho độc giả một quan điểm mới về thời đại
của chúng ta. Những gì tranh luận ở đây mà chúng ta gọi là thực tại là những mẫu giao
thoa của sóng, mà về cơ bản chúng ta không biết đến nhưng nó đóng vai trò quyết định
cho tất cả sự tiến hóa. Do đó, nếu chúng ta muốn hiểu nhân loại đang ở đâu tại thời điểm
này và bản đồ định mệnh sẽ dẫn chúng ta đi về đâu, thì cần phải thấy những từ trường
sóng này đã diễn ra như thế nào trong quá khứ.
Sóng Thứ 8 được kích hoạt vào năm 1999 (h7.1), và tiền sóng của nó được kích hoạt
vào năm 1986. Bất cứ ai đọc cuốn sách này đều đã trực tiếp cảm nhận những ảnh hưởng
của Sóng Thứ 8, và những người sinh sau năm 1999 đã thực sự sống và dự phần trong
sóng này. Tuy nhiên, ngay cả khi nó trùng hợp với thời đại của chúng ta, nhưng trong
một số trường hợp thì Sóng Thứ 8 khó theo dõi hơn so với những sóng thấp hơn. Tần số
của nó cao đến nỗi mà (mỗi Ngày hoặc Đêm chỉ dài 360 ngày và cả chu kì sóng có 720
ngày) rất khó theo dõi những thay đổi phát sinh qua từng Ngày hoặc từng Đêm, như có
thể làm với những sóng có tần số thấp hơn. Tần số cao hơn này mang đến cho Sóng
Thứ 8 chu kì ngắn hơn đáng kể so với đời người, đó là lý do tại sao rất nhiều người
trong thế kỉ XXI đã cảm nhận thời gian nhanh hơn. Tất nhiên trong thực tại thì không
có sự tăng tốc thời gian, nhưng có sự gia tăng tần số của các sóng sáng tạo nên con
người cảm nhận như có một sự tăng tốc thời gian. Chỉ có hệ thống ghi lại chu kì của 9
sóng mới có thể giải thích tại sao cảm nhận sự tăng tốc thời gian này lại trở nên phổ
biến như vậy.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
148
Hình 7.1
Sóng thứ 8 mang đến hình 3D nhị nguyên mới (h7.1) với phân cực ngược lại với
Sóng Thứ 6. Trong Sóng Thứ 8, không phải não trái mà là não phải thu được ánh sáng,
và điều này sẽ đem tới những hậu quả cho thời đại mà sóng muốn khai báo. Trong
nhiều lĩnh vực khác, tính nhị nguyên mới này đã phát triển công nghệ thông tin và đặc
biệt là Internet, đã phát triển mạnh mẽ ở khắp nơi trong thế kỉ XXI. Internet đã mở rộng
đến mức đời sống của chúng ta dường như diễn ra bên trong máy tính: nếu bạn không
sống trong thế giới mạng thì bạn thực sự không tồn tại. Các lĩnh vực khác đã bị ảnh
hưởng rõ rệt bởi hình 3D mới là mối quan hệ giữa giới tính và giữa các bán cầu của
hành tinh và sự xuất hiện của một nền tâm linh sâu sắc hơn.
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc khám phá cuộc cách mạng số và điều này được kết
nối với hình 3D mới của Sóng Thứ 8 như thế nào. Theo một nghĩa nào đó, Internet là
một hiện tượng hoàn thiện trong chuỗi những tiến bộ dài về ngành viễn thông được tạo
ra bởi Sóng Thứ 7 (h6.6). Tuy nhiên, không có hiện tượng nào trước đây của những
Ngày bị ảnh hưởng rõ rệt bởi công nghệ thông tin hay cuộc cách mạng số. Internet xuất
hiện là do Sóng Thứ 8 và tiền sóng của nó tạo ra mẫu giao thoa với Sóng Thứ 7. Điểm
khởi đầu phù hợp nhất với Internet có lẽ là bài đăng đầu tiên từ một website của CERN
tại Geneva vào tháng 8/1991. Đây được coi là một phương tiện trao đổi thông tin mới
giữa các tổ chức khoa học, nhưng chẳng bao lâu sau đó thì con người và các doanh
nghiệp ngày càng quan tâm hơn.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
149
Tuy nhiên, Internet trở nên thực sự tương tác chỉ sau khi Sóng Thứ 8 bắt đầu vào
năm 1999. Sau đó các doanh nhân bắt đầu nhìn thấy tiềm năng thương mại của Internet.
Một số người đã xem cuộc cách mạng số song song với cuộc cách mạng công nghiệp và
đúng như vậy, vì có một nghĩa sâu sắc hơn cho giải thích này trong sự song song của
hai sóng sáng tạo. Quan trọng nhất, phương tiện truyền thông xã hội đã ra đời, đặc biệt
là Facebook, tính đến tháng 11/2015 đã có hơn 1.5 tỉ người dùng. Năm 1999, ứng dụng
công nghệ thông minh cho nhà ở và xe hơi cũng bắt đầu được dự tính, và gần đây điều
này đang phát triển vào Internet of Things. Do đó, cuộc cách mạng số không có nghĩa là
chỉ giới hạn trong Internet, toàn bộ các kĩ thuật cho robot hóa và tự động hóa đã xuất
hiện nhờ thành quả của nó. Nhiều người cảm nhận thế giới của công nghệ thông tin như
ma thuật, như thể nó không đến từ chính chúng ta mà được tạo ra ở mức độ sáng tạo
cao hơn.
Những thay đổi to lớn trong lối sống của chúng ta, mà ảnh hưởng đến hàng tỉ người,
có liên quan đến hình 3D mới của Sóng Thứ 8 như thế nào? Để trả lời điều này, trước
tiên chúng ta phải hiểu nguồn gốc của số hóa. Đầu tiên chúng ta nên để ý rằng hình 3D
đi kèm với Sóng Thứ 8 có bản chất nhị nguyên. Trong tính nhị nguyên này có một sự
song song với Sóng Thứ 6, như đã thấy trong hình 3.8 và 3.10, đó là sự ra đời của con
số và toán học đầu tiên. Đây không phải là một sự tình cờ. Bởi vì việc đếm số bắt đầu
với tính nhị nguyên, mọi người không thể đánh số thứ tự trước khi họ tải xuống tâm trí
nhị nguyên. Chỉ khi loài người khoảng 5000 năm trước phóng chiếu hình 3D Sóng Thứ
6 lên thế giới thì họ mới có thể đếm được. Nếu chúng ta xem xét hình 3D nhị nguyên
với phân cực âm-dương, thì chúng ta có thể lưu ý rằng đó là bản chất nhị phân; mặt
sáng được liên kết với số 1 và mặt tối liên kết với số 0 giống như hệ nhị phân được sử
dụng trong máy tính. Trong thực tế, thế giới lần đầu tiên được số hóa khoảng 5000 năm
trước thông qua hình 3D Sóng Thứ 6. Một lần nữa nguyên lý trong sao ngoài vậy có vẻ
áp dụng cho mọi thứ mà con người thể hiện thế giới bên ngoài. Tương tự, khi hình 3D
Sóng Thứ 8 được kích hoạt năm 1999, tất cả các hiện tượng mà loài người có thể
nghiên cứu bắt đầu được số hóa. Có lẽ chúng ta không biết việc đếm số và toán học đã
đóng vai trò chưa từng thấy đối với xã hội loài người bởi vì hình 3D nhị nguyên mới
của Sóng Thứ 8. Điều này có gốc gác từ trong phân cực đơn giản đến với con người từ
Cây Sự Sống khi Sóng Thứ 8 tới trái đất vào năm 1999.
Lý do mà người ta không phát minh ra điện thoại thông minh (smart phones) và
những sản phẩm tương tự 5000 năm trước là vì tất cả những quá trình liên quan tới trí
não loài người phải được phát triển theo từng bước. Chỉ mãi sau này, với Sóng Thứ 7,
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
150
khi con người có thể sử dụng điện, rõ ràng là một điều kiện tiên quyết cho cách mạng
số trong thời đại của chúng ta. Nhưng vì hình 3D Sóng Thứ Bảy không có tính nhị
nguyên nên cuộc cách mạng số theo nghĩa hiện đại đã không hiển lộ cho tới khi hình
3D Sóng Thứ 8 có thể truy cập được. Thật thú vị để nhận ra loài người đã phát triển
những bước tiến hóa như thế nào trong sự leo lên kim tự tháp 9 tầng và thường với một
lý luận có vẻ như đã được định sẵn. Mỗi một bước là để chuẩn bị cho bước tiếp theo, và
không thể bỏ qua bước nào. Như tôi đã chỉ rõ trong chương trước, mọi thứ - cho dù là
hình thức cai trị, phát triển kỹ nghệ, hay những điệu khiêu vũ – đều phát triển theo lịch
trình và xuất hiện đúng lúc. Trong trường hợp này, Sóng Thứ 7 dẫn dắt tới sự xuất hiện
của Internet vào Ngày thứ 7 của sóng, để chuẩn bị thế giới cho bước tiếp theo trong
Sóng Thứ 8. Tiền sóng cũng đã chuẩn bị cho bước này vì máy vi tính cá nhân (personal
computers) đã hiện diện trước khi Internet ra đời.
Hình 3D Sóng Thứ Tám và Những Ảnh
Hưởng Tới Não Bộ
Thực tế là tính nhị nguyên của hình 3D Sóng Thứ 8 thiên về não phải đã gây ra vài
hậu quả đặc biệt trong cuộc cách mạng số. Thứ nhất, não phải thì trực quan, toàn diện
hơn, thiên về kết nối và giờ đây đã nhận được ánh sáng. Những đặc tính như vậy có tác
dụng rất nhiều tới không chỉ với việc sử dụng trực quan các sản phẩm kỹ thuật của cách
mạng số mà còn với cả sự xuất hiện của các mạng xã hội trên Internet khi hình 3D mới
được kích hoạt. Bạn không cần phải có một trí tuệ lý luận sắc bén để sử dụng điện thoại
thông minh; bạn có thể dùng nó một cách khá trực giác, vì đây là sản phẩm của Sóng
Thứ 8.
Một hậu quả khác của sự thay đổi sang não phải là sự chuyển tiếp từ sử dụng văn
bản sang hình ảnh. Trước đó như đã đề cập trong Sóng Thứ 6, mà thiên về não trái, chữ
viết đã được phát minh, và vì vậy những kinh thánh được xem là linh thiêng và quan
trọng. Một số lớn người hiện nay đang giao tiếp bằng video thay vì viết. Với Internet
tương tác và sự sử dụng rộng rãi của máy ảnh trong điện thoại thông minh, là những sản
phẩm của Sóng Thứ 8, chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi về thông tin được cung
cấp rộng rãi dưới dạng hình ảnh. Phần lớn chúng ta giao tiếp bằng cách trao đổi hình
ảnh hoặc phim ảnh, qua Internet hoặc smart phone. Những đoạn Video đang dần thay
thế các văn bản, đây là một hậu quả của sự thay đổi sang não phải qua hình 3D mới.
Hơn thế nữa, những kỹ nghệ hiện đang được sử dụng trên toàn thế giới. Chẳng hạn một
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
151
phần tư tổng số người sử dụng Internet thì sống ở Trung Quốc, gấp đôi số lượng người
dùng ở Hoa Kỳ.
Còn một hậu quả nữa của sự thay đổi sang não phải về cách viết chữ đang được diễn
ra. Mãi cho tới gần đây, chữ viết (ít nhất là đối với người thuận tay phải) được thực hiện
bằng tay phải, là sản phẩm của hình 3D Sóng Thứ 6 liên kết với óc trái. Điều này giải
thích cho một phần sức mạnh mà chữ viết đã có, đặc biệt là trong kinh sách tôn giáo.
Những văn bản viết được cho là có hiệu lực hơn lời nói. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện
tại chữ viết tay đã biến mất và con người đã thay thế nó bằng bàn phím mà họ viết bằng
cả hai tay trong lúc xem màn hình (là một loại hình ảnh). Điều này có nghĩa là hiện giờ,
sau khi tải xuống hình 3D Sóng Thứ 8, cả hai bán cầu não đều hoạt động theo một chu
trình. Sự cân bằng mới này giữa hai bán cầu não cuối cùng chỉ là phản ánh của sự cân
bằng đã được tạo ra bởi hình 3D của Sóng Thứ 6 và Thứ 8. Do đó, sự chuyển đổi não
bộ từ trái qua phải đã diễn ra như là kết quả của hình 3D mới, mà từ đó một sự cân bằng
nội tâm mới được tạo ra. Những gì diễn ra ở thế giới bên ngoài, như trong trường hợp
này là cách chúng ta viết, phản ánh sự cân bằng của hình 3D đã đến với chúng ta từ các
sóng sáng tạo phát ra từ trục vũ trụ.
Những cân nhắc như vậy giúp chúng ta hiểu rằng sau khi tải xuống hình 3D Sóng
Thứ 8, thì cuộc cách mạng số là một sản phẩm của tâm trí nhị nguyên được tạo ra bởi
những thay đổi này. Tuy nhiên, tuyên bố này đi ngược lại với hầu hết những gì các nhà
nghiên cứu về não bộ nói, cụ thể là trí óc con người trái ngược với máy vi tính, nó thiên
về bản chất thiên nhiên hơn. Quan điểm này dựa trên sự hiểu lầm rằng tâm trí có nguồn
gốc từ bộ óc con người. Thay vào đó, như ta đã thấy ở đây, nó có nguồn gốc từ hình 3D
phát ra từ Cây Sự Sống, mà đã tạo ra một tâm trí số. Thật ra, nếu tâm trí con người
không có đặc tính số, thì cuộc cách mạng số đã không bao giờ diễn ra. Đúng là máy vi
tính đang thực hiện các qui trình số, nhưng luôn luôn là bộ óc con người phải nghĩ ra
cách để những thông tin đa dạng được số hóa, chỉ có tâm trí số của con người mới có
thể thực hiện những nhiệm vụ như vậy.
Luật Moore’s và Sự Gia Tăng Kinh Tế Bất Bình Đẳng
Cuộc cách mạng số đã có nhiều hậu quả, không chỉ với lĩnh vực khoa học mà còn cả
với xã hội và kinh tế. Một khía cạnh của điều này là mối đe dọa lớn do sự gia tăng bất
bình đẳng về kinh tế đặt ra, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, và với mức độ thấp hơn hầu hết trên
khắp thế giới ở những nơi phát triển kĩ nghệ. Ở Hoa Kỳ, 95% tổng thu nhập trong
khoảng thời gian giữa 2009 – 2012 rơi vào 1% dân số giàu nhất. Mặc dù năng suất đã
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
152
tăng đáng kể trong khoảng thời vừa qua, nhưng phần lớn không nhận được sự tăng
lương trong thực tế kể từ đầu thập niên 70. Như ta sẽ thấy, sự bất bình đẳng này liên
quan rất nhiều đến cuộc cách mạng số. Trước khi tìm hiểu điều này xảy ra như thế nào,
(ngoại trừ các lý do chính trị rõ ràng), chúng ta nên để ý rằng sự bất bình đẳng này là
một biểu hiện của hình 3D nhị nguyên trong Sóng Thứ 8 (h4.2).
Mặc dù về nguyên tắc, Internet đã phục vụ dân chủ hóa luồng thông tin bằng cách
cho phép mọi người trình bày ý tưởng của mình, nhưng số hóa cũng đứng đằng sau các
qui trình mà trên qui mô lớn sẽ đe dọa sự tồn tại của một số lượng lớn công việc, điều
này có thể tạo ra ngày càng nhiều sự bất bình đẳng hơn. Sự số hóa đã đe dọa công ăn
việc làm và tạo ra sự bất bình đẳng như thế nào? Cuốn sách xuất sắc Rise of The Robots
của Martin Ford giải thích sự bất bình đẳng đã có nguồn gốc như thế nào trong cuộc
cách mạng số. Trong cuốn sách của ông, Ford đưa ra một số điểm quan trọng dựa trên
kiến thức sâu rộng về kinh tế cũng như robot và khoa học máy tính. Ford viết rằng bởi
vì Luật Moore (qui định rằng sức mạnh tính toán tăng gấp đôi cứ sau 18 đến 24 tháng),
robot sẽ ngày càng đảm nhận nhiều công việc, hay ít nhất là có được tiềm năng để làm
việc đó. Kết quả là, sức lao động công nhân sẽ ngày càng phân tán và giảm giá trị, do
đó sự giàu có sẽ ngày càng tập trung trong tay những người có vốn đầu tư vào robot.
Khi robot học cách thực hiện các nhiệm vụ ngày càng tinh vi hơn, chúng sẽ thay thế
không chỉ các công việc lặp đi lặp lại mà cả những công việc đòi hỏi bằng cấp cao hoặc
kĩ năng chuyên môn hoặc đào tạo. Chẳng hạn như, Ford đề cập đến người đo phóng xạ
quang tuyến, những người phải cần đến 13 năm đào tạo để học cách giải thích các hình
ảnh y học, giờ đây họ thấy mình bị thay thế bởi máy vi tính có khả năng giải thích
nhanh và đáng tin cậy hơn. Một phần lớn lực lượng lao động, bao gồm cả những người
có trình độ đại học, có nguy cơ bị thay thế bởi robot. Có rất ít lĩnh vực kinh doanh, bao
gồm giao dịch chứng khoán trên Wall Street chưa bị ảnh hưởng bởi phát triển này. Bởi
vì số lượng nhiệm vụ ngày càng tăng bây giờ có thể được thực hiện với chi phí thấp hơn
và tốt hơn bởi robot, nên sự suy thoái kinh tế kế tiếp có thể dẫn đến tình trạng thất
nghiệp hàng loạt mà người ta sẽ không thể tìm lại được công việc cũ.
Kịch bản tiềm năng này tương phản với trí tuệ thông thường của các nhà kinh tế học
mà dựa trên lý thuyết của mình về loại chu kì kinh tế tăng trưởng và suy thoái điển hình
của Sóng Thứ 7 (h6.8). Trí tuệ thông thường, cho rằng nếu máy móc thay thế nhân
công thì sẽ tạo cơ hội để người lao động có công việc khác, và đôi khi còn tiên tiến và
hào hứng hơn. Luddites, nhóm trong những ngày đầu của công nghiệp hóa ở Anh (sóng
thứ 7), những người này xem máy móc tự động trong ngành dệt may là kẻ thù của mình,
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
153
được coi là một ví dụ về lối suy nghĩ sai lầm. Tuy nhiên, điều mà các nhà kinh tế này
không nhận ra là làn Sóng Thứ 7 không còn thống trị nền kinh tế nữa. Làn Sóng Thứ
8 với hình 3D nhị nguyên đã trở thành yếu tố thúc đẩy, và cuộc cách mạng số không tạo
ra việc làm trên qui mô lớn.
Ford lập luận rằng có nhiều yếu tố trong cuộc cách mạng số hiện đang làm cho tình
hình trở nên khác biệt so với những thời điểm trước đó. Tôi tin là ông ta đúng. Toàn bộ
lập luận về công nghệ luôn phát triển để tạo ra việc làm mới rất có thể có giá trị trong
Sóng Thứ 7, nhưng có những lý do vững chắc để tin rằng Sóng Thứ 8 hiện đang hủy bỏ
các qui trình tạo việc làm này khi robot trở nên ngày càng hiệu quả hơn và sức mạnh
tính toán tiếp tục tăng lên. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng cần phải biết là Sóng Thứ 8 đã
không tạo ra bất cứ phát minh mới vĩ đại nào, chẳng hạn như xe hơi, tủ lạnh, hay
telephone về nguyên bản thì đều là sản phẩm của Sóng Thứ 7. Thay vào đó, công nghệ
thông tin đang được áp dụng cho các phát minh hiện có, mà sau đó theo những cách
khác nhau được robot hóa và tự động hóa. Khi các phát minh quan trọng xuất hiện
trong Sóng Thứ 7, thì các công việc được tạo ra, trong khi các phát minh số hóa trong
Sóng Thứ 8 về bản chất lại khiến các công việc biến mất và thay thế nhân công bằng
robots.
Nếu thực sự một cuộc khủng hoảng kinh tế mới xảy ra và chủ sở hữu của các tập
đoàn lớn quyết định thay thế con người bằng robots trên qui mô lớn, thì có khả năng
điều này sẽ dẫn đến một bất bình đẳng cực đoan hơn về giàu nghèo và thu nhập tập
trung ở 1% dân số giàu nhất. Nếu một cuộc khủng hoảng như vậy xảy ra trên thế giới,
hoặc ít nhất là phần công nghệ tiến bộ của nó, thì các chính phủ sẽ phải đối mặt với một
vấn đề chính trị nan giải: một mặt, robot sẽ có thể giải phóng con người khỏi sự bắt
buộc phải làm việc, nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi có một sự tái phân phối lớn về
thu nhập. Mặt khác, nếu robot được phép thay thế lực lượng lao động của con người
trên qui mô lớn, thì sẽ không có ai trả tiền cho các sản phẩm mà robot tạo ra. Rất có thể
một cuộc đấu tranh quyền lực dữ dội sẽ nổi lên xung quanh những vấn đề này, mà bây
giờ chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mầm mống của nó. Trong khi một cuộc khủng hoảng
như vậy chưa xảy ra, nhưng điều quan trọng là cần phải hiểu rõ những rủi ro tiềm ẩn
của nó.
Bây giờ chúng ta có thể bắt đầu hiểu nguồn gốc của sự gia tăng bất bình đẳng trong
Sóng Thứ 8, mà có gốc gác từ hình 3D nhị nguyên của nó. Làn sóng này có lẽ cũng
cung cấp lời giải thích cho nguồn gốc của định luật Moore. Người ta thường nói rằng
định luật Moore (mô tả sức mạnh của máy vi tính tăng theo thời gian) không phải là
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
154
luật tự nhiên theo nghĩa thông thường. Tuy nhiên, điều này làm cho khó hiểu tại sao nó
lại chính xác như vậy. Cái mà tôi đề nghị thực sự là Sóng Thứ 8 với chu kì sóng 24
tháng (trong phạm vi dự đoán của Luật Moore) đang tạo ra một cầu thang cong hình
chữ S mô tả sự gia tăng về khả năng của máy vi tính. Mỗi lần có một Ngày mới của
Sóng Thứ 8 hay một Ngày của tiền sóng 8, thì có một sự gia tăng gần gấp đôi về khả
năng của máy vi tính. Nếu điều này đúng thì định luật Moore có thể không phải là luật
tự nhiên theo nghĩa thông thường mà có gốc gác từ tần số của sóng phát ra từ Cây Sự
Sống.
Mẫu Tiến Hóa Chung của Những Sóng Sáng Tạo
Những sóng sáng tạo, gồm cả Sóng Thứ 8, đều phát triển theo một nhịp điệu và khuôn
mẫu đồng nhất. Trong những cuốn sách trước, Tôi đã mô tả rất nhiều về một khuôn
mẫu chung của những sóng này tới tận Oct/28/2011. Trong khuôn mẫu này, 7 Ngày và
6 Đêm đầu tiên của mỗi sóng đều có những đặc tính chung trong những khoảng thời
gian tương ứng với nhau trong các sóng. Cũng thế trong cuốn sách này, Tôi đã nhiều
lần chỉ ra, thí dụ, vai trò đặc biệt của Ngày Thứ 5 trong quá trình tiến hóa của một sóng.
Vai trò đặc biệt này tiêu biểu bằng sự ra đời của KiTô giáo trong Sóng Thứ 6 (chapter 5)
và sự ra đời của thời hiện đại mới trong Sóng Thứ 7 (chapter 6). Hai hiện tượng có vẻ
khá khác nhau, nhưng ngày Thứ 5 là giai đoạn đột phá của bất kể sóng nào mà chúng ta
đang khảo nghiệm (xem hình 7.2). Tuy nhiên tiếp theo Ngày Thứ 5 là Đêm Thứ 5, mà
trong trường hợp của Sóng Thứ 6, còn gọi là thời đại Đen Tối của Âu Châu (Dark Ages
of Europe), đã biến thành một giai đoạn tàn phá. Vài hiện tượng quan trọng của Ngày
Thứ 5 và Đêm Thứ 5 trong 8 sóng thấp nhất được để trong hình 7.2 (lý do mà Sóng Thứ
9 không đề cập trong hình là vì tầng số quá cao của nó). Nên để ý rằng, trong bảng này
thời gian của Ngày hoặc Đêm khác nhau rất nhiều giữa các sóng (xem hình 2.8). Trong
Sóng Thứ 1, thời gian Thái Dương Hệ xuất hiện là 1.26 tỉ năm trong lúc điện thoại
iPhones trong Sóng Thứ 8 xuất hiện trong Ngày chỉ có độ dài một năm.
Nói cách khác, có một khuôn mẫu đột phá – tiêu hủy chung cho tất cả các sóng;
trong mọi sóng, Ngày và Đêm Thứ 5 có vài trò ngang ngửa trong những tiến trình tiến
hóa. Trong cột đầu tiên bên trái của hình 7.2, chúng ta thấy ở vùng Mesoamerica
(Trung Mỹ) nơi những sóng này tạo ra cơ sở cho nghệ thuật tiên tri, hai thời kỳ này
được cai trị bởi Quetzalcoatl và Tezcalipoca, thần ánh sáng và thần bóng tối tương ứng.
Những thần này mô tả những đặc trưng trong thời đại tương ứng của mình. Khi xem sét
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
155
về sự ra đời của Ki Tô Giáo, chúng ta có thể thấy tôn giáo này xuất hiện trong Ngày
Thứ 5.
Hình 7.2
Trong thời kỳ Đen Tối (Dark Ages) tiếp theo trong Đêm Thứ 5, thông điệp của Chúa
Jesus lại có một nội dung hoàn toàn khác hẳn với nội dung thuở ban đầu. Tương tự, sự
đột phá tới thời kỳ Hiện Đại mà xảy ra vào đầu Ngày Thứ 5, nhưng trong Đêm Thứ 5,
bắt đầu vào năm 1933, được thay thế bởi một giai đen tối mới kéo dài khoảng 20 năm,
bắt đầu với sự trổi dậy của Hitler ở Đức vào năm 1933.
Tôi để biểu đồ này ở đây (một biểu đồ chi tiết để ở trong cuốn The Global Mind and
the Rise of Civilization) vì hai lý do. Một là để ủng hộ thêm cho lời tuyên bố là có một
điểm khởi đầu chung cho 9 Sóng Sáng Tạo. Ngay cả khi hiện tượng các sóng tạo ra đều
khác nhau thì sự tiến hóa của chúng vẫn đi theo một mẫu chung, ít nhất cho tới
Oct/28/2011. Lý do khác là tầng số của Sóng Thứ 8 thì quá cao đến nỗi mà rất khó để
ghi lại những sự kiện quan trọng trong bước tiến hóa của nó một cách chi tiết. Mặc dù
điều này không chắc chắn nhưng Tôi nghĩ rằng hiện tượng đặc trưng nhất của Ngày và
Đêm Thứ 5 của Sóng Thứ 8 thì khá rõ ràng: Phát minh về iPhone năm 2007 nổi bật
trong thời đại Số Hóa do Sóng Thứ 8 đem lại, và bạn có thể xem nó như là bước đột
phát chính của sóng này. Trong khi nghe có vẻ lạ kỳ khi ta so sánh sự ra đời của iPhone
với sự xuất hiện của Ki Tô Giáo hoặc của nền dân chủ, thật ra có sự song song với nhau
trong đó. Mỗi sóng có mục đích đặc biệt và vì thế chỉ hợp lý là Sóng Thứ 8, mà đem
đến cuộc cách mạng số, đã hiện lộ sản phẩm iPhones trong Ngày Thứ 5. Đối nghịch lại,
Đêm Thứ 5 của Sóng Thứ 8 đã đưa thế giới tới bờ vực thẳm của khủng hoảng kinh tế
với sự sụp đổ của nhiều nhánh nhà băng ở Wall Street và Great Reccesion (Cuộc Khủng
Hoảng Kinh Tế Lớn Toàn Cầu). Có thể nói rằng cuộc khủng hoảng kinh tế lần này
không có cùng cường độ hủy diệt giống như cuộc khủng hoảng vào thời kỳ Đen Tối của
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
156
Sóng Thứ 6 hay Thứ 7. Một mặt khác, với tầng số phát triển cao của Sóng Thứ 8, nên
cuộc khủng hoảng không thể kéo dài được.
Để chứng minh thêm là cuộc Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu (Great Recession) đã
bị gây ra bởi Đêm Thứ 5 của Sóng Thứ 8, Tôi muốn chỉ rằng trong cuốn The Mayan
Calendar and the Transformation of Consciousness, xuất bản bởi Bear and Company
năm 2004, Tôi đã tiên đoán rất chính xác khi cuộc khủng hoảng kinh tế này sẽ xảy ra
dựa trên một hệ thống giống như ở trong hình 7.2. Tôi đã nhiều lần quả quyết là một
cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ phải xảy ra vào Đêm Thứ 5 của sóng này mà bắt đầu vào
ngày Nov/19/2007. Kết quả là, Cuộc Khủng Hoảng Kinh Tế Toàn Cầu (the Great
Recession) đã được những kinh tế gia cho là đã bắt đầu vào December 2007, chỉ hai
tuần lễ sau so với thời điểm tôi tiên đoán. Tôi là một trong số vài người đã tiên đoán
được một cuộc khủng hoảng sắp sửa xảy ra, mà theo tôi biết, Tôi còn là người độc nhất
đã tiên đoán điều này rất sớm và chính xác ngày biến cố giờ xảy ra. Điều tiên đoán này,
có lẽ là điều tiên đoán về kinh tế chính xác nhất từ trước tới nay, mà có thể kiểm chứng
được bởi bất cứ ai mà đọc cuốn sách đó. Đáng chú ý, điều tiên đoán này không dựa
trên sự phân tích chi tiết về tình trạng của nền kinh tế mà tôi không đủ thẩm quyền để
làm, mà chỉ dựa trên sự giả định là cùng mẫu tiến hóa trong tất cả sóng cũng phải được
lập lại trong Sóng Thứ 8.
Sự Trổi Dậy của Đông Bán Cầu
Có vài khía cạnh khác của Hình 3D Sóng Thứ 8 đáng để thảo luận trong chương
này. Một là sự trổi dậy về tầm quan trọng trong nền kinh tế thế giới của những cường
quốc Á Châu, đặc biệt là Trung Quốc. Hai là sự trổi dậy của phụ nữ ở nhiều nơi trên thế
giới, ba là sự trổi dậy của một nền tâm linh mới (a new spirituality). Sự thay đổi đa
dạng trong Sóng Thứ 8 một lần nữa cho thấy những ảnh hưởng của một sóng cụ thể thật
sự thay đổi như thế nào. Tương tự như Sóng Thứ 7 với hình 3D là nguồn gốc của chủ
nghĩa vô thần, những thăng trầm của kinh tế, điện lực, di chuyển công cộng, nghành
viễn thông, nền dân chủ, sự hủy hoại môi trường, và nhiều điều khác, mà vài điều có
thể xem là tương phản. Mặc dù phần lớn chúng ta dễ bề kết luận cho một sóng là “Tốt”
hoặc “Xấu”, nhưng sự việc không đơn giản như vậy. Chúng ta chỉ có thể nói là Biểu Đồ
Định Mệnh dường như hướng lên tới một điều gì tốt đẹp.
Một ảnh hưởng có vẻ như tương phản của Sóng Thứ 8 là sự liên quan giữa việc
trổi dậy của các cường quốc Á Châu với sự trổi dậy của phụ nữ. Tuy nhiên, như chúng
ta thấy trong hình 4.3, và như đã được bàn và giải thích nhiều trong cuốn The Global
Mind and the Rise of Civilization, có một sự liên hệ trực tiếp giữa những ảnh hưởng của
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
157
hình 3D ở cấp hành tinh và loài người. Do đó, nguồn gốc của sự phân cực trái-phải mà
chi phối tâm trí con người thì luôn luôn là phân cực tây-đông mà chi phối ở mức độ
hành tinh. Nếu Đông Bán Cầu được thiên vị thì óc phải của con người cũng được thiên
vị bởi hình 3D Sóng Thứ 8. Một thiên vị về Đông Bán Cầu đã rõ ràng, ít nhất là ở mặt
kinh tế, là Trung Quốc đã đặc biệt trở thành một cỗ máy quan trọng cho sự kinh doanh
về mặt sản xuất của thế giới kể từ khi Sóng Thứ 8 bắt đầu vào năm 1999. Số lượng ghê
gớm về ngoại tệ mà Trung Quốc đã tích tụ được tạo ra sức mạnh có thể ảnh hưởng tới
nền kinh tế của các quốc gia khác. Nga Sô, một cường quốc phía Đông, cũng đã khôi
phục lại được phần nào sức mạnh đã mất kể từ khi Liên Bang Sô Viết sụp đổ.
Vì sự trổi dậy của những cường quốc Á Châu là do bởi hình 3D của Sóng Thứ 8
thiên về não phải, nên quyền lực của nữ giới do vậy cũng sẽ gia tăng. Sự trổi dậy của
phụ nữ thì không được bàn đến trong Sóng Thứ 7, ngay cả khi điều này thật sự bắt đầu
với sóng này và là một biểu hiện của sự bình đẳng. Chẳng hạn phụ nữ đã đóng những
vai trò quan trọng vào thuở ban đầu của nước Mỹ (Edenton Tea Party, 1774) và cuộc
Cách Mạng Pháp. (Sự lật đổ của chế độ quân chủ Pháp là cuộc biểu tình của phụ nữ ở
Versailles năm 1789, the Women’s March on Versailles in 1789). Điều đáng chú ý về
những sự kiện này là đó là những lần đầu tiên trong lịch sử mà phụ nữ đã đóng vai trò
chính trị trong khả năng của mình.
Trong suốt thời kỳ Sóng Thứ 7, từng bước một phụ nữ tiếp tục đã đạt quyền bình
đẳng, ít nhất một cách hợp pháp, ở Tây Bán Cầu (New Zealand là quốc gia đầu tiên cho
phụ nữ quyền bỏ phiếu vào năm 1893). Dần dà, phụ nữ đã tiến vào những lãnh vực xã
hội mà trước đây chỉ dành cho nam giới. Nhìn chung, hình 3D của Sóng Thứ 7 đã là
động lực đằng sau sự phát triển này bởi vì bản chất của sóng là không nhị nguyên và đã
ngăn chận hình 3D của Sóng Thứ 6 mà thiên về sự thống trị của nam giới. Khi Sóng
Thứ 8 với tính nhị nguyên thiên về phụ nữ được kích hoạt, những quyền phụ nữ đã tiến
triển một cách nhanh chóng ở vài nơi cụ thể trên thế giới. Tại Thụy Điển, phụ nữ hiện
tại chiếm 2/3 tỉ số các bằng tốt nghiệp học đường, và quốc gia có một chính phủ với đa
phần là phụ nữ. Ở những thành phố lớn tại Mỹ, phụ nữ dưới 30 tuổi đã kiếm được
lương bổng hơn đồng nghiệp nam cùng tuổi kể từ năm 2000, và ít có dấu hiệu cho thấy
xu hướng này có thể đảo ngược. Đây là những sự thay đổi có thể có ảnh hưởng lâu dài
tại nhiều nơi khác trên thế giới.
Cũng vào thời điểm này, ngoài phi đạo đức, sự bạo động đối với phụ nữ thừa hưởng
từ Sóng Thứ 6 còn là một nguyên do lớn cho sự bất bình đẳng. Đáng chú ý ở Trung
Đông, nơi các tôn giáo thuộc dòng Abrahamic có rễ má sâu nhất, thì tình trạng này còn
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
158
tồi tệ hơn cho phụ nữ vì đôi khi do những phản ứng từ hình 3D mới. Tuy nhiên, nói
chung hình 3D Sóng Thứ 8 thiên về phụ nữ. Dù rằng sự tái lập quân bình sẽ phải mất
thời gian, nhưng không có gì có thể ngăn cản nó tạo ra những hậu quả lâu dài trên cùng
chiều hướng. Theo tôi việc gán những sự tiến bộ về quyền lợi của giới đồng tính nam
nữ như là những hàm số của cùng sự thay đổi trong hình 3D là đúng. Suy cho cùng, sự
đàn áp của những nhóm này có nguồn gốc trong chế độ phụ hệ tạo ra bởi Sóng Thứ 6,
và khi hình 3D Sóng Thứ 8 có tính nhị nguyên đối nghịch, thì nó có xu hướng bài trừ
lẫn nhau.
Có lẽ chúng ta cũng để ý thấy rằng sự kích hoạt của hình 3D Sóng Thứ 8 đã xảy ra
trong một bối cảnh khác hơn với sự kích hoạt của Sóng Thứ 6. Ảnh hưởng của Sóng
Thứ 8 thì phức tạp hơn bởi vì hình 3D Sóng Thứ 8 tạo ra những ảnh hưởng dựa trên nền
tảng của những sóng thấp hơn và đã tạo ra những mẫu giao thoa phức tạp giữa chúng.
Khi hình 3D Sóng Thứ 6 được kích hoạt khoảng 5000 năm trước, thì kết quả là sự trổi
dậy của nhiều loại thống trị và khuất phục khác nhau. Ở thời điểm hiện tại, hình 3D
Sóng Thứ 8 phần nào đã ảnh hưởng làm quân bình những dạng khuất phục đó. Như
chúng ta đã thấy ở trước, có thể là nghịch lý nhưng nó vẫn tạo ra một sự bất bình đẳng
về kinh tế dựa trên sự số hóa. Nên những ảnh hưởng của hình 3D Sóng Thứ 8 đôi khi
nghe có vẻ nghịch lý là vì như thế.
Sự Trở Lại của Phong Trào Tâm Linh
Thêm vào những ảnh hưởng nhiều mặt của Sóng Thứ 8 là sự trổi dậy của phong trào
tâm linh. Ánh sáng phía bên não phải trong Sóng Thứ 8 đã tạo ra sự chuyển đổi tới lối
suy nghĩ toàn diện và việc tôn kính phẩm chất âm của hai giới tính. Một thay đổi đáng
chú ý gây ra bởi Sóng Thứ 8, và tiền Sóng 8, là sự xuất hiện của một thể hiện mới về
tâm linh dựa trên những đặc tính này. Nền tâm linh này có một đặc tính chiết trung
(triết học sâu sắc) và xuất hiện đặc biệt trong những quốc gia thuộc chủng tộc
Anglo-Saxon và ở Âu Châu. Phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc khơi dậy
nền tâm linh này, đúng như những gì bạn mong đợi, bởi vì nó được dựa trên Sóng Thứ
8. Sự bừng tỉnh này có một đặc tính khác hẳn với nền tôn giáo thống trị bởi nam giới
của Sóng Thứ 6, mà chủ yếu dựa vào kinh sách. Do đó, phong trào mới này không dựa
nhiều vào chữ nghĩa mà dựa vào kinh nghiệm tâm linh trực tiếp.
Phong trào tâm linh mới này có nhiều dấu hiệu của sự trở về, một sự trở về của
Đấng Thiêng Liêng vượt hẳn những giới hạn của quan niệm về Thượng Đế trước đây.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
159
Sự xoay chiều xoắn ốc của những bộ lọc (hình 4.3) tạo thành một tầng lớp (Sóng Thứ 7)
ngăn chận kinh nghiệm về đấng thiêng liêng. Sự liên tục của một loạt các tín ngưỡng
tâm linh do đó bị chặn đứt bởi điều này. Kết quả của lối suy nghĩ này là, khi ánh sáng
một lần nữa trở lại qua Sóng Thứ 8 và tiền Sóng 8, những người tầm đạo đã truy tìm và
kiếm được nguồn cảm hứng tâm linh về phương Đông và những tín ngưỡng bản địa, mà
có liên kết với não phải. Bởi vì sự đứt đoạn với Đấng Thiêng Liêng trong Sóng Thứ 7,
nên tâm linh và những hiện tượng siêu hình bị bỏ qua và coi như là phi lý không chỉ bởi
những người hoài nghi mà còn bởi phần đông dân chúng. Mặt khác, bạn có thể lập luận
rằng cũng nhờ chính sự đứt đoạn với Nguồn Cội mà đã tạo ra sự thức tỉnh
(Self-awareness) để hỗ trợ cho nền tâm linh của tương lai, khi nhân loại tái tạo lại sự
hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng. Sự Tỉnh Thức (Self-awareness) thì cần thiết cho bất
cứ ai muốn leo lên đỉnh của kim tự tháp 9 tầng và có được sự liên lạc trực tiếp với Đấng
Thiêng Liêng không cần qua trung gian chẳng hạn như tu sĩ, đạo sư vì đôi khi lại biến
thành lực cản.
Một điểm khởi đầu quan trọng của nền tâm linh mới là “Harmonic Convergence”, đã
xảy ra vào năm 1987 vào điểm khởi đầu của tiền Sóng 8. Kể từ đó những tôn giáo dựa
trên kinh điển bị từ chối bởi vì nó dựa trên hình 3D não trái của Sóng Thứ 6 và không
phù hợp với hình 3D não phải của Sóng Thứ 8. Nó cũng phủ nhận sự giới hạn và ý
niệm nhị nguyên là chỉ có một con đường đúng, và thay vào đó chấp nhận một giải đáp
chiết trung, truy tìm ngẫu hứng từ hằng loạt những nền tâm linh khác nhau. Hậu quả là
nó đã mang vào nghệ thuật đồng bóng và tín ngưỡng bản địa mà gần gũi với nền tâm
linh của Sóng Thứ 5.
Như tôi đã nói, chủ nghĩa vô thần đã bắt đầu phát triển rộng rãi dưới ảnh hưởng của
Sóng Thứ 7 và hình 3D đen tối của nó. Kết quả là, ít nhất ở bên Châu Âu, nhà thờ đã từ
từ trở nên trống vắng. Nhưng bởi vì Hoa Kỳ là một quốc gia phương Tây đã thiên về
ánh sáng của Hình 3D Thiện và Ác (hình 4.2) nên những nhà thờ Tin Lành vẫn chìm
sâu trong Sóng Thứ 6. Một cách tình cờ, chúng ta cũng có thể gọi hình 3D này là hình
3D của Sự Đàn Áp Tây Phương (The Hologram of Western Dominance). Chỉ tới lúc
gần đây, có lẽ là bởi vì sự kích hoạt của hình 3D Sóng Thứ 8 mà chủ nghĩa vô thần đã
bắt đầu mọc lên ở Hoa Kỳ. Thật là thú vị khi ánh sáng Sóng Thứ 8 bắt đầu đổ xuống
Đông Bán Cầu thì sự gia nhập nhà thờ Ki Tô giáo đã gia tăng một cách đáng kể ở Trung
Quốc, đến nỗi mà số lượng nhà thờ hiện nay đã vượt qua tổng số lượng nhà thờ ở Âu
Châu. Do đó, sự trổi dậy của Ki Tô Giáo ở Trung Quốc và nền tâm linh thiên về trực
giác ở phương Tây đã có nguồn gốc trong cùng một hình 3D.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
160
Nhiều loại ảnh hưởng khác nhau tạo ra bởi Sóng Thứ 8 có vẻ như là hoang tưởng –
từ sự số hóa tới sự trổi dậy của nền tâm linh trực giác. Những ảnh hưởng này rất đa
dạng bởi vì chúng là sản phẩm của không chỉ tính nhị nguyên của hình 3D này mà còn
có phần tính nhị nguyên đặc biệt riêng của nó, kèm theo với khía cạnh ánh sáng, tầng số
tăng tốc, và sự giao thoa với những sóng khác. Do đó khó mà tiên liệu đợc những sự
phát triển khác nhau có thể nẩy mầm. Sự đa dạng này cũng là lý do tại sao đời sống
chúng ta ở Sóng Thứ 8 khá khác biệt. Mặc dù có sự phức tạp và đa dạng này nhưng
nguồn gốc của mọi sự thay đổi thì lại khá đơn giản: sự chuyển đổi của hình 3D.
Tới Tận Sóng Thứ 9
Bên cạnh những thay đổi mang tới từ Sóng Thứ 8, Sóng Thứ 9 hiện cũng đã được
kích hoạt (hình 7.3) vào ngày March/09/2011, và tiền sóng 9 đã bắt đầu vào
July/18/2010 (cũng là ngày của Conscious Convergence). Hình 3D của Sóng Thứ 9
không có bộ lọc, nên mang đến một quan điểm về thế giới đại đồng. Điều đáng chú ý là
Sóng Thứ 9 đã hoàn tất Biểu Đồ Định Mệnh Nhân Loại và đóng vai trò trọng tâm trong
chương cuối của cuốn sách này. Sóng Thứ 9 là sóng cao nhất và có tầng số cao nhất, vì
chu kỳ chỉ dài 36 ngày với NGÀY và ĐÊM dài 18 ngày thông thường.
Vì Sóng Thứ 9 có tầng số cao như thế nên trong cuốn sách The Mayan Calendar and
the Transformation of Consciousness, Tôi đã tiên đoán rằng nó sẽ tạo ra một mức độ
thay đổi cao hơn cho bất kỳ người nào đã từng trải nghiệm trước đây. Quả thật, đã có
một sự kiện lớn xảy ra chỉ hai ngày sau khi được kích hoạt, March/11/2011, một trận
động đất lớn 9.0 với sóng thần đã đánh vào Fukushima gây ra sự khủng hoảng nguyên
tử mà đưa nước Nhật tới sát bờ thảm họa. Chuyện này có liên quan tới sự kích hoạt của
Sóng Thứ 9 không? Để trả lời câu hỏi này đòi hỏi một khảo nghiệm hoàn toàn mới. Tuy
nhiên, chúng ta thấy trong hình 4.3 là khi sự kích hoạt của hình 3D mới xảy ra ở qui mô
toàn cầu thì có thể có những hậu quả về địa chất. Một tiền lệ trước trận động đất ở
Fukushima là trận động đất đã tiêu hủy Lisbon vào năm 1755 mà có cùng cường độ và
xảy ra chỉ vài tháng sau khi Sóng Thứ 7 bắt đầu.
Nhưng động đất ở Fukushima không phải là biến cố độc nhất xảy ra khi Sóng Thứ 9
được kích hoạt. Một phong trào biểu tình lớn chống lại chính quyền khắp thế giới xuất
hiện (hình 7.4 chỉ những nơi biểu tình). Phong trào Mùa Xuân Ả Rập (Arab Spring) bắt
đầu và kéo dài nguyên năm, người biểu tình nổi lên khắp thế giới, gồm có phong trào
the Occupy Movement ở nước Mỹ và tại nhiều nước khác.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
161
Hình 7.3
Tại Ai Cập và Tunisia, những cuộc cách mạng bắt đầu từ tiền sóng thì thành công,
và tới khi sóng chính được kích hoạt thì chiến tranh bắt đầu bùng nổ tại Syria và Lybia.
Lúc đầu, những người biểu tình thì thế tục và ôn hòa, trên đường phố của Cairo và
Damascus khẩu hiệu chính đơn giản chỉ là “một, một, một” “one, one, one”. Đây là để
công nhận sự hợp nhất căn bản (hay là tâm thức hợp nhất) của những phong trào này
mà trong đó những sự khác biệt về tôn giáo và chủng tộc được bỏ qua (ví dụ giữa Hồi
Giáo và KiTô Giáo). Ở Ai Cập, phụ nữ cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc cách
mạng lật đổ Mubarak. Sóng Thứ 9 đã bắt đầu đúng y như chúng ta mong đợi từ một
sóng đem lại một tâm thức hợp nhất vào thế giới nhị nguyên.
Sự xảy ra đồng thời của những biến cố ấn tượng khi Sóng Thứ 9 được kích hoạt thì
thật là ghê gớm. Hai tuần sau khi kích hoạt, tuần báo Newsweek viết tựa đề ở tờ bìa là
“Tận Thế Đã Tới” “Apocalypse Now”. Giới truyền thông đơn giản thấy khó có thể
tường thuật một lúc nhiều câu chuyện liên tục khác nhau. Tôi đã viết trước từ lâu về
điều này trong cuốn The Mayan Calendar and the Transformation of Consciousness
(2004, trang 216): “Tâm thức giác ngộ xuất phát từ the Universal Underworld (tức là
Sóng Thứ 9) sẽ từng nhịp đẩy vào nhân loại theo dạng sóng của the Thirteen Heavens
mà có chu kỳ chỉ 234 ngày. Điều này phản ảnh một sự thay đổi về tầng số của năng
lượng thiên giới (heavenly energies) vượt qua rất xa tất cả những gì mà con người đã
từng trải nghiệm.” Có vẻ ít nhất là tờ báo Newsweek đã đồng tình với nhận xét này.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
162
Sự chồng chất biến cố thật sự xảy ra là kết quả của sự gia tăng tần số 20 lần khi
Sóng Thứ 9 là sóng có tầng số cao nhất được kích hoạt. Những phong trào biểu tình
chống lại chính phủ, gồm cả những cuộc đảo chánh ở nhiều quốc gia, tiếp tục diễn ra
trên thế giới trong suốt năm 2011. Cũng có những gì mà bạn đã mong đợi khi tấm màn
che thình lình bị gỡ ra (hình 7.4) hoặc là nói cách khác, khi hình 3D về hợp nhất của
Sóng Thứ 9 được cộng thêm vào hình 3D nhị nguyên của Sóng Thứ 8. Sự thống trị của
những nhà băng và độc tài mà tâm thức Sóng Thứ 8 đã cho là tự nhiên thì bây giờ với
tâm thức hợp nhất của Sóng Thứ 9 đã bị xem như là bất công và đàn áp.
Hình 7.4
Vào cuối năm 2011, chỉ vài ngày sau chu kỳ 234 ngày, báo Time đã quyết định
trao giải cho “Người Biểu Tình” (The Protester) là “Người Của Năm” (Person of the
Year) như là phản ảnh về tinh thần của năm ấy. Sự quyết định không trao giải thưởng
cho một cá nhân nào trong nhiều nhóm biểu tình này cũng là một đặc tính của Sóng
Thứ 9, vì họ đều có mục đích tốt chung cho tất cả chứ không phải phục vụ cho vài
nhóm đặc biệt hay những lãnh tụ mới nào. Rõ ràng là tất cả những hành động này nổi
lên bởi vì một số người đã bắt đầu cộng hưởng với tâm thức hợp nhất của Sóng Thứ 9.
Một hướng đi tuyệt diệu về chính trị và kinh tế chẳng hạn như phong trào the Occupy
Movement. Thay vì đại diện cho những nhóm quyền lợi đặc biệt, phong trào này nhắm
tới lợi ích tốt đẹp nhất cho tất cả mọi người. Đây cũng là điều mà bạn mong đợi từ một
khuôn mẫu tâm thức không nhị nguyên và cho phép bạn nhận ra là mọi sự kiện đều có
liên kết với nhau. Tạm thời ít nhất thì lối suy nghĩ về trật tự thế giới tạo ra bởi tâm thức
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
163
nhị nguyên được thăng hoa sau khi Sóng Thứ 9 được kích hoạt. Nếu việc theo dõi biến
cố từng NGÀY trong Sóng Thứ 8 đã là khó bởi vì tầng số cao thì điều này càng đúng
hơn với Sóng Thứ 9 vì 7 NGÀY 6 ĐÊM tới tận Oct/28/2011 của nó chỉ dài 234 ngày
thông thường. Hiện giờ thì dễ dàng để hoài nghi và nói rằng chẳng có gì xảy ra cả, bởi
vì sự nhiệt thành theo dõi biến cố trong 234 ngày đó sẽ không kéo dài hơn sau ngày
Oct/28/2011. Song, sự thật là một triết học chính trị mới đã xuất hiện với Sóng Thứ 9,
dù ở Cairo hay ở New York. Tôi nghĩ điều rất quan trọng cần phải biết là thậm chí nếu
những phong trào tạo ra bởi sự kích hoạt của Sóng Thứ 9 có tàn lụi thì điều này cũng
không bác bỏ sự hiện hữu của chúng. Trong khoảng thời gian từ Mar/09 tới
October/28/2011, chúng ta có vài thông tin cần lưu ý về những hiệu ứng quan trọng của
hình 3D mà Sóng Thứ 9 mang theo.
Hình 7.5
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
164
OCTOBER 28,2011
Ngày October 28, 2011, là ngày mà toàn bộ 9 sóng đã hoàn tất 7 NGÀY 6 ĐÊM.
Mọi sóng cũng được đồng bộ hóa khi tất cả sóng đều ở cùng Ngày Thứ 7 trong ngày đó.
Đó là ngày mà con rồng vũ trụ trong thần thoại Trung Hoa đã đi qua 9 x 13 =117 vẩy,
và khi 9 x 12 =108 sự biến thể của thần Shiva trong thần thoại Ấn Độ hoàn tất. Có lẽ rõ
ràng hơn là theo sự hiểu biết của người Mayan, đó là thời điểm khi đấng khai sáng của
9 tầng sáng tạo là Bolon Yooket K’uh sẽ xuất hiện hoàn toàn. Tuy vậy điều làm cho tôi
và nhiều người khác ngạc nhiên là những đoàn biểu tình bắt đầu khựng lại sau khi đạt
tới điểm hoàn tất và đồng bộ. Phong Trào Mùa Xuân Ả Rập đã mất gần hết những nồng
nhiệt của thuở ban đầu và dần dà bị đổi màu do xung đột nội bộ Hồi Giáo cũng như là
những dấu hiệu rạn nứt trong vài nước có ảnh hưởng bởi phong trào này. Phong Trào
Occupy đã tàn lụi sau khi tuyên bố “sẽ làm tê liệt chính quyền” (shut down the system)
vào ngày Oct 28. Năm kế tiếp 2012 là một năm yên bình không có biến động lớn. Vào
ngày Dec/21/2012, mà theo các nhà khảo cổ và nghiên cứu tử vi cho là ngày cuối cùng
chấm dứt lịch Mayan, đã không có gì xảy ra cả. Về phần tôi, dù rằng tôi đã tiên đoán
chính xác biến cố khủng hoảng kinh tế vào cuối năm 2007 và sự tăng tốc của tầng số
xảy ra vào Mar/09/2011 (và do đó đã kiểm chứng ngày Oct/28/2011 đúng là ngày thay
đổi) nhưng Tôi phải chấp nhận rằng những gì xảy ra sau ngày này không phải là điều
tôi đã mong đợi. Sự thay đổi trên nhiều mặt thì khó hiểu và phức tạp.
Chuyện gì đã xảy ra vậy? Tôi đã lầm lỗi hay ít nhất là vì trình độ kém cỏi của mình
trong việc giải thích sự sáng tạo này hoạt động như thế nào nên đã không hiểu rõ toàn
diện những gì sẽ xảy ra khi các sóng hoàn tất chu kỳ 7 Ngày 6 Đêm của nó. Lỗi không
phải là do Tôi đã rơi vào cái bẫy về lịch Mayan chấm dứt vào ngày Dec/12/2012 của
các nhà khảo cổ, và rồi đặt ra vài lý do tại sao người Mayan đã chọn ngày này. Không
phải là tôi đã tính toán sai về lịch hay không nhận ra được đặc tính của 9 tầng. Tuy
nhiên, trong các bài viết của tôi tiên đoán về sự chấm dứt của những hệ thống này dựa
trên bản tánh nhị nguyên đã quá lạc quan, và tôi đã khá ngây thơ về khoảng thời gian
mà trong đó những sự thay đổi lâu dài cho loài người có thể xảy ra. Nói tóm lại, lỗi của
tôi là đã cố gắng thu nhỏ việc leo thang lên tầng thứ 9 trong khuôn khời gian kéo dài tới
Oct/28/2011, và điều này là sai.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
165
Thay Đổi Lối Tư Duy về Sự Chuyển Đổi Sóng
Vì tôi dần dà nhận ra được những giới hạn này trong sự hiểu biết của mình về giai
đoạn hậu chuyển đổi của sóng, nên tôi cảm thấy cần phải suy nghĩ lại về những tài liệu
Mayan và những gì người ta nói về sự chuyển đổi này trong thời đại chúng ta. Rồi điều
tôi tìm thấy là những quan điểm khác nhau của những học giả về lịch Mayan giải thích
thời gian về Long Count (Cách tính thời gian của lịch Mayan) rất mâu thuẫn với nhau.
Ông Michael Coe, giáo sư Đại Học Yale, đã cho rằng lịch Long Count của người
Mayan cổ đại (mà ở đây còn có tên của Sóng Thứ 6) chỉ giới hạn trong 13 baktuns, và
đa số những nhà nghiên cứu về Mayan đã đồng ý với quan điểm này. Ông ta tin rằng
một chu kỳ mới của 13 baktuns sẽ bắt đầu từ ngày 21 hoặc 23 tháng 12 năm 2012, và
đây là quan điểm đã lan truyền khắp thế giới (cũng như là lời bình luận của ông ta –
chẳng dựa vào đâu – là Long Count (Lịch Mayan) sẽ chấm dứt với một cách ồn ào
“with a bang”, đây chính là khởi đầu về quan điểm tận thế thiên niên kỷ của lịch
Mayan). Tuy nhiên, đã từ lâu trong cuốn Palenque đã có Long Count tính ngày tới 4100
năm vào tương lai. Dựa trên điều này và sự khảo sát về kinh điển Mayan cổ điển, nhà
nghiên cứu Mayan Mark Van Stone đã chỉ ra rằng thực sự chẳng có bằng chứng trong
sách cổ nói rằng Long Count chỉ giới hạn trong 13 baktuns. Thay vào đó những nhà
nghiên cứu sách Palenque đã xem Long Count liên tục tới 20 baktuns, hoặc có thể hơn
nữa.
Do đó, năm 2011 (hoặc 2012 theo các nhà khảo cổ) sẽ không phải là năm kết thúc
của lịch Long Count, và giống như mọi sóng, Sóng Thứ 6 vẫn tiếp tục tiến vào tương lai
sau điểm chuyển đổi này. Ngày chuyển đổi này đã được xem là quan trọng tới mức
người Mayan cổ đại đã khắc vào đá ở Tortuguero khoảng 1,400 năm trước nói rằng
Bolon Yookte K’uh, vị thần 9 bước, sẽ xuất hiện toàn diện và điều này quá rõ ràng nên
không thể không nhận ra được. Một câu hỏi được đặt ra là tại sao họ xem ngày này
quan trọng tới như vậy nếu nó không phải là ngày kết thúc? Như Tôi hiện giờ thấy, câu
trả lời là người Mayan cổ đại không xem sự chuyển đổi này quan trọng bởi vì nó là
ngày kết thúc, mà bởi vì đấy là thời điểm đặc biệt duy nhất khi tất cả 9 sóng được kích
hoạt và đồng bộ hóa, là điều mà chưa bao giờ xảy ra trước đây trong lịch sử vũ trụ.Thật
vậy, năm 2011 là lần đầu tiên khi toàn bộ 9 sóng có thể cộng hưởng với nhau, và vì lý
do này nó là một thời điểm quan trọng.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
166
Không có sóng nào thật sự chấm dứt vào năm 2011, và theo ngôn ngữ của lịch
Mayan, chúng ta hiện đang ở trong baktun 14 (tức Đêm Thứ 7), trong một Long Count
vô hạn (Sóng Thứ 6). Tám sóng kia tương tự tiếp tục mà không kết thúc. Kết quả là,
không hề có sự gián đoạn trong sự phát triển của các sóng, và không có lý do để tin
rằng có những biến cố bất ngờ, ví dụ như tận thế hoặc là sự ra đời bất thình lình của
một thế giới mới, sẽ xảy ra vào ngày của sự chuyển đổi. Thế giới đã thay đổi trong ngày
Oct/28/2011, giống như nó đã thay đổi trong tất cả những ngày chuyển đổi khác trong
lịch Mayan, và có lẽ đây là sự chuyển đổi quan trọng hơn bao lần trước, nhưng nó
không phải là một bước nhảy vọt vượt ngoài những chuyển động định sẵn của các sóng.
Dựa vào những chi tiết này ta có thể phác họa 9 sóng sẽ phát triển trong tương lại như
thế nào sau năm 2011 Thời điểm thay đổi và sự đồng bộ hóa vào ngày Oct/28/2011, quả
thật là một ngày rất quan trọng trong lịch sử vũ trụ. Nó không quan trọng theo nghĩa mà
Tôi và nhiều người khác đã nghĩ trước đây, nhưng nó đã sắp đặt (như chúng ta sẽ thấy
sau) một nền tảng mới cho sự hiện hữu của chúng ta, và Tôi cho đó là một sự thay đổi
sâu sắc trong tâm thức mà không ai có thể hoàn toàn tiên đoán được kết quả của nó.
Khả năng của con người để cọng hưởng với Sóng Thứ 9 chưa được thể hiện hoàn toàn,
và quá trình tiến hóa lên tới đỉnh của kim tự tháp 9 tầng chưa hoàn tất bởi nhiều người
và chắc chắn là phần lớn nhân loại chưa làm được. Nói chung, sự chuyển đổi của sóng
Hình 7.6
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
167
chưa đồng hóa toàn diện và chỉ một phần thiểu số đã khai triển được sự cọng hưởng với
Sóng Thứ 9. Tuy nhiên đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại có thể truy cập 9 sóng
mà chẳng còn gì ngăn cản được sự leo lên tới đỉnh của kim tự tháp, tối thiểu là ở tầng
lượng tử.
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
168
Chương 8
Sự Ngừng Kích Hoạt của Hình 3D Thiện và Ác
Giai Đoạn Mới Cho Cuộc Sống
Mãi cho tới ngày Oct/28/2011, những sóng mới và tiền sóng với tầng số cao hơn và
những hình 3D mới được kích hoạt theo thứ tự và đã cho ánh sáng tiến vào nhiều hơn
(xem hình 7.6). Trong thực tế vào lúc cuối của chu kỳ, tức là trong khoảng thời gian từ
Oct/11 tới 28, 2011 thì tất cả các sóng đều ở phần Ngày. Trong thực tế, điều này đánh
dấu sự hoàn thành của một chu kỳ tiến hóa dài 16.4 tỉ năm, và không có gì đáng ngạc
nhiên khi nhiều người trong lúc tham dự phong trào biểu tình toàn cầu thấy được những
cơ hội mới. Có thể điều này sẽ tạo ra một hình thức mới, dân chủ hơn để làm chính trị
mà trong đó những nhà độc tài, tỉ phú, và những cơ xưởng lớn không còn quyết định
mọi chuyện.
Dù có ý thức hay không có ý thức thì Kinh Nghiệm trong sự kích hoạt tuần tự của
những tầng số cao hơn ở trong những người thiên về tâm linh đã tạo nên những mong
đợi về một sự bùng nổ huyền bí vào lúc lịch Mayan kết thúc, khi mà tất cả mọi thứ,
đúng vậy tất cả mọi thứ, đột nhiên thay đổi từ ngày này qua ngày khác. Một tâm thức
thăng hoa sẽ ngay lập tức thay thế và sắp xếp lại thế giới cho tốt đẹp hơn, hay ít nhất
nhiều người tin như vậy. Nhưng điều này đã không hoàn toàn xảy ra, và Tôi nghĩ là
chúng ta bây giờ có thể tạm nói chắc rằng điều này cũng không phải là kế hoạch vũ trụ
đã được thiết kế. Do đó, không có sự gián đoạn vào ngày Oct/29/2011. Như mọi sóng
đã làm, chín sóng Sáng Tạo vào ngày này vẫn tiếp tục và tiến vào giai đoạn Đêm. Nói
cách khác, những qui luật thiên nhiên chẳng hạn như những gì được tạo ra từ Cột Sống
Vũ Trụ thì không thay đổi (bất dịch). Tuy nhiên mặc dù không có sự gián đoạn những
sự chuyển đổi của 9 sóng sẽ tạo nên một khung cảnh cho một trường năng lượng hoàn
toàn mới. Những sóng này chưa hề được hoàn toàn kích hoạt trước đây và đặc biệt là sự
kích hoạt của Sóng Thứ 9 cơ bản là mới. Đây là giai đoạn mới mà chúng ta đang sống
và sẽ khảo sát nó trong chương này.
Ngay cả khi không có “sự nổ bùng huyền bí”, theo sau sự kích hoạt của Sóng Thứ 9
vào ngày Mar/09/2011 đã cho những tín hiệu rõ ràng về hướng đi mà sóng này (sóng
cuối cùng và có tầng số cao nhất) sẽ dẫn dắt nhân loại trong thời gian tới. Sóng Thứ 9
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
169
được thiết kế để đưa chúng ta thoát khỏi không chỉ sự thống trị của những chủ nhà băng
và các nhà độc tài mà cả chủ nghĩa quốc gia và cuồng tín tôn giáo. Nếu những khuynh
hướng này không được rõ ràng ngay sau khi sự chuyển đổi sóng vào ngày Oct/28/2011,
thì đây không phải do Sóng Thứ 9 mà do sự chuyển đổi sóng đồng thời của những sóng
thấp hơn đã ảnh hưởng tới thế giới, và chúng ta đang khảo sát trong chương này.
Kết quả là, thế giới vào thời điểm hiện tại (2016) đã xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Một
mặt, về tôn giáo, Giáo Hội La Mã sau sự chuyển đổi sóng, lần đầu tiên trong lịch sử đã
có một Giáo Hoàng, Pope Francis (lên ngôi năm 2013), đã loại bỏ những giáo điều có
khuynh hướng gây chia rẽ và kết tội. Sự chuyển đổi Giáo Hội Công Giáo theo chiều
hướng hợp nhất hiển nhiên không phải là một sự thay đổi có thể xảy ra trong một đêm
nhưng dù sao cũng đang xảy ra với tốc độ rất nhanh, và tốc độ này thì không thể tưởng
được nếu không có Sóng Thứ 9 làm căn bản. Mặt khác, khi chúng ta nhìn về Trung
Đông, chúng ta thấy những tội ác gây ra dưới danh nghĩa tôn giáo nhiều ở mức độ chưa
từng thấy. Lời giải thích cho những xu hướng mâu thuẫn này là tất cả 9 sóng hiện nay
lần đầu tiên hoạt động song song với nhau, và con người trải nghiệm thực tại và hành
xử như thế nào căn bản phụ thuộc vào những sóng nào họ cọng hưởng được. Một số
người cọng hưởng được với Sóng Thứ 9 và có thể thật sự trải nghiệm được sự hợp nhất
với đấng Thiêng Liêng, trong lúc những kẻ khác, người mà chủ yếu cọng hưởng với
Sóng Thứ 6, có thể ở một chỗ rất tối bởi vì hiện giờ sóng này đã đi vào giai đoạn ĐÊM.
Sự chuyển đổi sóng vào năm 2011 do đó đã không gây ra một sự thay đổi đột ngột mà
ảnh hưởng tới mọi người theo cùng một cách. Thay vào đó, sự sáng tạo đã tiến hóa song
song trong nhiều tầng khác nhau – có thể gọi là đa chiều – và vì thế cách một người trải
nghiệm thực tại thì phụ thuộc vào những sóng mà họ cọng hưởng.
Sau sự thay đổi sóng vào năm 2011, các sóng đã tạo nên một mẫu giao thoa mới
không giống trước đây, khi sóng sau được cộng với những sóng trước mà đã được kích
hoạt (xem hình 6.9 và 7.6). Thay vì tình trạng cũ đã tạo ra cảm giác dồn dập thì những
sóng khác nhau sau sự chuyển đổi chỉ tiếp tục dao động theo đường lối trong hình 8.1.
Do đó ngay sau ngày Oct/29/2011, toàn bộ sóng đi vào giai đoạn ĐÊM chỉ là hậu quả
hợp lý của sự thật là trước khi có sự thay đổi này thì mọi sóng đang ở trong giai đoạn
NGÀY. Một vài sóng này sẽ không trở lại giai đoạn NGÀY trong một thời gian rất lâu.
Điều này thật sự có nghĩa là một sân khấu mới đã được tạo ra cho cuộc sống.
Để hiểu sân khấu mới là gì, chúng ta nên biết là những gì xảy ra trong giai đoạn
ĐÊM thì rất là khác so với giai đoạn NGÀY. Trong lúc NGÀY là giai đoạn của sự sáng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
170
tạo và tiến triển thì ĐÊM là giai đoạn của nghỉ ngơi, phối hợp, và đôi khi còn là phá
hủy. Với dữ kiện này, mẫu giao thoa trong hình 8.1 đã nói gì với chúng ta về tương lai?
Khi trả lời câu hỏi này, Tôi nghĩ điều quan trọng là phải có trình độ cao khi sử dụng
hình 8.1 để tiên đoán tương lai. Mẫu giao thoa trong hình cho thấy những tiềm năng
đương thời không phải là những gì sẽ thật sự thể hiện. Trong mẫu giao thoa của hình
8.1, một người tỉnh thức có thể chọn hàm sóng và tải xuống hình 3D của bất kỳ sóng
nào, và tùy thuộc vào hình 3D mà họ tải xuống, những kiểu tiến hóa khác nhau sẽ được
thể hiện. Để vấn đề thêm phức tạp tôi sẽ
Hình 8.1
cho thí dụ sau, sự kiện đang xảy trong thời gian gần thường là phản ứng tới những gì
mà khuynh hướng lâu dài sẽ tạo ra và đôi khi còn có thể hoàn toàn trái ngược với
khuynh hướng này nữa. Cho nên phần lớn những gì đang xảy ra bây giờ có thể là những
phản ứng (thể hiện bởi những người cọng hưởng với những sóng thấp hơn) đối với
những thay đổi lâu dài mà Sóng Thứ 9 sẽ đem lại.
Đi Vào Tương Lai
Với trình độ tâm trí này, chúng ta sẽ xét kỹ hơn về mẫu giao thoa chi phối thế
giới và giải thích thế nào về bối cảnh mới này theo mô hình 3D. Việc đầu tiên đáng chú
ý là tại thời điểm những sóng khác nhau sẽ trở về lại giai đoạn NGÀY. Từ hình 8.1
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
171
chúng ta có thể hiểu rằng điều này xảy ra theo một chương trình chính xác, được xác
định bởi những độ dài khác nhau của những ĐÊM trong những sóng khác nhau.
Sóng Thứ 6, như trong hình 8.1, sau sự chuyển đổi vào ngày Oct/28/2011 thì đã trên
đường tiến vào một ĐÊM dài và sẽ chỉ trở lại NGÀY vào năm 2406, trong khi đó Sóng
Thứ 7 sẽ trở lại NGÀY vào July/2031. Những điểm trở về NGÀY của Sóng Thứ 6 và 7
không thể nhìn thấy trong mô hình của hình 8.1 vì chúng quá xa về tương lai. Tuy nhiên,
Sóng Thứ 8 với chu kỳ sóng tương đối ngắn 720 ngày sẽ trở lại NGÀY vào
Oct/23/2012, và đã liên tục chuyển đổi giữa NGÀY và ĐÊM kể từ đó. Sóng Thứ 9 vì
tầng số cao hơn nên đã trở lại NGÀY vào Nov/16/2011. Do đó dường như có một sự
khác biệt cơ bản giữa Sóng Thứ 6 và 7 vì không trở lại NGÀY trong thời gian gần,
trong lúc Sóng Thứ 8 và 9 với tầng số cao tại thời điểm đang viết (July/9/2016) lại ở
vào ĐÊM thứ 9 và NGÀY thứ 55 tương ứng. Tóm lại, dù rằng trong tương lai gần,
những NGÀY của hai sóng cao nhất có thể truy cập được, nhưng sự chuyển đổi lâu dài
(hiện tượng của sóng) của ĐÊM trong Sóng Thứ 7 và đặc biệt Sóng Thứ 6 sẽ không
xuất hiện trong một thời gian dài sắp tới.
Những gì hiển lộ như là kết quả của mẫu giao thoa mới này khi mọi sóng chạy song
song với nhau chỉ là một hình thức cạnh tranh giữa các sóng khác nhau khi quyết định
sóng nào có ảnh hưởng mạnh nhất. Theo ý tôi, cách độc nhất để nhân loại tồn tại là con
người phải thăng hoa qua Sóng Thứ 6 và leo lên tới điểm có thể cọng hưởng với Sóng
Thứ 9. Theo đường hướng này, một nhân tố quan yếu cho tương lai chúng ta là cách
con người tỉnh thức như thế nào với những sóng mà họ cọng hưởng với. Người ta
thường cho rằng chìa khóa của tương lai là sự tỉnh thức, nhưng vấn đề thực sự là phải rõ
ràng chi tiết hơn về điều này. Nâng cao tâm thức nghĩa là nhận thức được những tầng số
nên cọng hưởng để tải xuống những hình 3D về sự hợp nhất.
Từ sự phân tích ngắn gọn này, chúng ta nên hiểu rằng thế giới hiện đang hoạt động
dưới nhiều tiền đề khác nhau so với trước khi có sự chuyển đổi sóng. Trong trường hợp
trước khi có sự chuyển đổi sóng thứ 9 này, những sóng với tầng số cao và cao hơn
(chẳng hạn như trong hình 6.9) được tự động kích hoạt và trực tiếp cho ra mục đích và
chiều hướng phát triển. Vai trò lựa chọn tỉnh thức giữa những hình 3D nay trở nên
quan hơn bao giờ hết, bởi vì chẳng còn sóng nào nữa để chờ đợi. Do đó, chúng ta cần
phải chọn lựa giữa những sóng mà đã sẵn sàng và đang hoạt động. Tôi đã chỉ ra những
tiềm năng tích cực về lâu dài của Sóng Thứ 9. Tuy nhiên ở đây Tôi sẽ bàn về những hậu
quả tiêu cực ngắn hạn của sự thay đổi vào ĐÊM của Sóng Thứ 6. Điều chúng tôi ám chỉ
ở đây chính là sự ngừng kích hoạt của Hình 3D Thiện và Ác.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
172
Sự suy thoái của Sóng Thứ 6 về ĐÊM có thể là một phần của sự chuyển đổi sóng
xảy ra vào Oct/29/2011, có nghĩa là dù Sóng Thứ 9 tiếp tục hoạt động với tầng sóng cao
sau ngày này nhưng điều này bị dìm đắm bởi những ảnh hưởng đặc biệt của Sóng Thứ
6 và 7 khi chuyển vào ĐÊM cùng một lúc. Chỉ có một số rất nhỏ dân số thế giới cọng
hưởng được với Sóng Thứ 9 vào lúc này, và khi hoàn cảnh mới này xuất hiện, nhóm
nhỏ này không đủ lực để chống lại những ảnh hưởng ĐÊM của những sóng khác. Nhờ
vậy mà từ năm 2012 đến giữa năm 2014 đã không có nhiều biến cố lớn trên thế giới.
Chỉ trong năm 2015 khi tầng số cao của Sóng Thứ 9 mạnh trở lại giống như hồi mới
kích hoạt vào năm 2011, và chỉ tại lúc này những biến cố quan trọng trên thế giới lại
xảy ra với nhịp độ cao vì ảnh hưởng của Sóng Thứ 9. Một phần của sự yên lặng trong
2011 và 2014 được giải thích bằng chính sự thay đổi triền miên của hoàn cảnh mới,
nghĩa là ngay cả với những người chẳng biết gì về sự thay đổi đang diễn ra ở bên trong
vẫn phải bị thay đổi để thích hợp với một từ trường mới, rộng lớn và bất ngờ của sự
sáng tạo. Chúng ta đều có phản ứng ngược lại với giác quan về sự việc đang diễn ra, và
vì thế ĐÊM sẽ mang lại thái độ về đời sống khác với NGÀY. Nếu tất cả sóng chuyển về
ĐÊM, thì hiển nhiên mọi người phải sửa đổi phần nào. Nếu chúng ta lúc này không
chắc chắn về những năng lượng (tánh chất của sóng) thì chúng ta sẽ do dự trong hành
động, và đây chính là tình trạng chung của thế giới mãi cho tới năm 2014. Kể từ đó
trở đi mẫu giao thoa trong hình 8.1 đã hòa nhập và đưa ra một cơ sở có ý nghĩa hơn cho
những gì đang xảy ra.
Mẫu trong hình 8.1 cho phép chúng ta hiểu được phần nào tình trạng về những tiềm
năng và xu hướng có thể xảy ra. Tuy nhiên điều quan trọng là phân biệt được những
hậu quả lâu dài của những sóng cao hơn mà không bao giờ ngừng nghỉ so với những
ảnh hưởng ngắn hạn tạo ra bởi những giai đoạn suy thoái vào ĐÊM của Sóng Thứ 6 và
7. Tôi tin rằng càng sớm hiểu biết về giai đoạn tiến hóa này của nhân loại rất khác với
những giai đoạn trước, càng sớm phân tích và tìm hiểu, thì càng dễ dàng hơn để chúng
ta có thể đưa ra một kịch bản mới để tiến về tương lai và hành động một cách thích hợp
hơn.
Sự Suy Thoái của Cường Quốc Tây Phương
Nếu những NGÀY của Sóng Thứ 6 đã dẫn đến sự thống trị của Tây Phương thì điều
tất yếu để hỏi là sự chuyển đổi hiện tại của sóng này vào giai đoạn ĐÊM có đưa đến
việc chấm dứt sự thống trị này không? Mới nhìn qua sự chấm dứt thống trị của Tây
Phương như thế (ngầm hiểu ở đây là sự thống trị của Mỹ Quốc – Anh Quốc) có lẽ còn
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
173
lâu lắm! Mỹ Quốc có sức mạnh quân sự hơn hẳn mọi quốc gia khác, GDP lớn hơn mọi
quốc gia khác, và chẳng hạn như toàn bộ công ty phần cứng phần mềm trong kỹ nghệ vi
tính đều là của Mỹ. Nhưng điều mà tôi đang nghĩ ở đây là những quá trình cốt tủy được
dẫn dắt bởi những sóng sáng tạo và cụ thể là Sóng Thứ 6 (đã là nguồn gốc cho sự
Thống Trị Tây Phương).
Nếu Sóng Thứ 6 bây giờ đã đi vào ĐÊM thì câu hỏi quan trọng là chuyện gì đã xảy
ra ở Tây Phương vào lần trước lúc Sóng Thứ 6 đi vào ĐÊM, tức là vào khoảng năm
1223. Những liên quan trực tiếp đến Bắc Mỹ Châu (North America) là sự tàn lụi gần
như đồng thời của các nền văn minh người Da Đỏ Mỹ Châu đã trổi lên trong giai đoạn
NGÀY trước đó. Do đó, trong sự kết nối với việc chuyển đổi sóng này, những trung
tâm đô thị ở Cahokia (sau 1250), Tula (1179 hay là 1224), Chichen Itza (1224 hoặc
sau 1250), Chaco Canyon (sau 1140), và Mesa Verde (1285) đều bị bỏ hoang. Theo
những nguồn tin địa phương cổ xưa thì sự bỏ hoang của những trung tâm đô thị ở
Mexico là kết quả trực tiếp của sự chuyển đổi sóng đã xảy ra gần thời điểm này. Điều
này được diễn tả như thế nào? Nói về sự tàn lụi của Chichen Itza thì thần rắn Plumed
Serpent đã được cho là rời bỏ thành phố này để tới Mayapan, sự kiện này là kết nối trực
tiếp của việc chuyển đổi từ NGÀY qua ĐÊM. Tuy thế, vẫn còn có thắc mắc là những
trung tâm xa hơn ở phía bắc bị ảnh hưởng bởi sự chuyển tiếp này ngay lập tức hay là từ
từ tàn lụi vài chục năm sau. Những thành phố này vào thời đó là những trung tâm đô thị
lớn nhất Bắc Mỹ Châu. Thí dụ, Cahokia xưa là Illinois ngày nay đã có dân số khoảng
40,000 trước khi tàn lụi. Bắc Mỹ Châu kể từ ngày ấy chưa hề có lại một thành phố với
số dân như vậy cho tới khi dân số của Philadelphia đạt được vào năm 1780.
Để định niên lịch chính xác cho sự tàn lụi của các nền văn minh này thì khá khó
khăn. Ít nhất đối với tôi, rõ ràng lý do tối hậu để các trung tâm đô thị chính ở Bắc Mỹ
châu bị bỏ hoang là do sự chuyển đổi từ NGÀY qua ĐÊM của Sóng Thứ 6 (mà được
biểu tượng bởi thần rắn Plumed Serpent). Điều đáng chú ý là sự giải thích khác biệt
giữa tài liệu của người Mayan và Toltec (theo ý tôi thì gần với sự thật hơn) so với lời
của những nhà khảo cổ. Trong lúc lời giải thích trước nhấn mạnh về sức mạnh của
Quetzalcoalt và sự chuyển đổi sóng mà thần này đem lại, thì lời giải thích sau qui sự tàn
lụi này do những yếu tố vật chất. Những nhà khảo cổ tân tiến đã cho thần Plumed
Serpent là tưởng tượng, và theo tôi thì họ không biết những nguyên do thật sự của sự
trổi dậy và sụp đổ của nền văn minh. Thay vào đó họ gán cho sự tàn lụi của những
trung tâm văn minh này là do chiến tranh, mất mùa, hạn hán, thay đổi tôn giáo, hoặc
những yếu tố khác. Từ quan điểm hình 3D lượng tử, thay vào đó bây giờ chúng ta có
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
174
thể hiểu rằng sự suy thoái của mọi nơi này là do sự chuyển sóng vào ĐÊM (và sự hủy
kích hoạt của hình 3D nhị nguyên thiên về Tây Phương), và các yếu tố vật lý được xem
như yếu tố phụ.
Tuy nhiên như chúng ta biết, sự sụp đổ của những thành phố này không phải là sự
chấm dứt của nền văn hóa địa phương. Thổ dân Mỹ vẫn còn tồn tại, và cuối cùng những
nền văn hóa mới lại trổi dậy, chẳng hạn như nền văn minh Aztecs, nhưng dù sao đi nữa
một sự chuyển đổi đáng chú ý dường như đã xảy ra bởi vì sự chuyển đổi sóng vào ĐÊM.
Áp dụng kết quả này vào tình trạng hiện giờ của chúng ta, có thể kết luận rằng nếu
chúng ta muốn có phần trong sự chuyển đổi vào Sóng Thứ 8 và 9 (mà chỉ hai sóng này
có thể cung cấp ánh sáng trong thời gian sắp tới) và loại văn hóa do hai sóng này tạo ra
thì chúng ta nên phác họa kế hoạch cho phù hợp. Có một rủi ro thật sự là những nhà
chính trị mà hoàn toàn không hiểu gì về sự thật tiềm ẩn này thì sẽ âm thầm tạo ra sự sụp
đổ về xã hội, chính trị, kinh tế, địa lý tại Mỹ Quốc vào thời điểm khi hình 3D Thiện và
Ác không còn hoạt động nữa. Điều cần thiết cho thời điểm hiện tại sau sự chuyển đổi
sóng năm 2011 là một kế hoạch lâu dài, không dựa trên sự cạnh tranh với các quốc gia
khác mà là sự chuyển tiếp tới một nền văn minh dựa trên tâm thức trực giác (feminine)
và hợp nhất của Sóng Thứ 8 và 9 tương ứng. Chúng ta nên biết rằng Sóng Thứ 6 hiện
đang ở vào giai đoạn mới bắt đầu của một chu kỳ ĐÊM dài và điều này là bình thường
khi những ảnh hưởng kề cận thì trái ngược với những ảnh hưởng lâu dài.
Muốn hiểu sự suy tàn dài hạn của khối Tây Phương tại điểm khởi đầu của ĐÊM hiện
tại thì cũng nên nghiên cứu những biến cố đã xảy ra khi một NGÀY mới của Sóng Thứ
6 bắt đầu vào năm 1617. Đó chính là NGÀY mà kết thúc vào năm 2011. NGÀY mới
bắt đầu năm 1617 đã đánh dấu sự trổi dậy của tính lý luận và cuộc cách mạng khoa học,
mà phù hợp với lý luận tôi áp dụng ở đây, đã ít nhất đang bị đào thải một phần. Cũng
vào thời gian này, tại lúc đầu của NGÀY thứ 7, chúng ta đã thấy bắt đầu sự thống trị
của Tây Phương – một hậu quả hợp lý của sự kích hoạt hình 3D toàn cầu có xu hướng
này (hình 4.3). Tuy nhiên sự thống trị của Tây Phương cũng như là sự tồn tại của liên
bang (nation-state) không phải là những hiện tượng vĩnh cửu, mà ngược lại tùy thuộc
trực tiếp vào sự chuyển đổi chu kỳ của sóng. Kết quả của sự chuyển đổi chu kỳ hiện tại
là những hệ thống chính trị hiện đang chuyển sang những đường hướng khác với những
gì chúng ta đã biết trong 400 năm qua.
Không phải ai cũng rằng 400 năm thống trị của Tây Phương đã trùng hợp khá chính
xác với một NGÀY của Sóng Thứ 6. Do đó sự thống trị Tây Phương là một ảnh hưởng
trực tiếp của hình 3D chi phối Trái Đất trong khoảng thời gian này (hình 4.3). Một biểu
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
175
hiện của điều này là vào lúc đầu NGÀY thứ 7 của Sóng Thứ 6 năm 1617, Pháp và Hòa
Lan, và quan trọng nhất về lâu dài là Anh Quốc đã trở thành những cường quốc thực
dân. Người hành hương đã tới Massachusetts (Mỹ) để khai sáng thuộc địa lâu dài đầu
tiên năm 1620, và trong suốt thế kỷ 19 Anh Quốc đã trở thành trung tâm của một đế chế
mà có câu “Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh”, và ở đây khoảng một phần
năm dân số thế giới đã sống. Nếu chúng ta thêm vào những nước thuộc địa như Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha, cũng như các nước Pháp, Hòa Lan, Đức, và Bỉ, thì tỉ số người
thống trị bởi các quốc gia Tây Âu sẽ còn lớn hơn thế nữa. Sau Thế Chiến I và II, nước
Mỹ, một quốc gia thành lập bởi thuộc địa Anh cũ và ở về phía Tây xa hơn, đã qua mặt
trở thành một cường quốc thống trị thế giới. Do đó con người ngày nay đã sống cả đời
họ trong một bối cảnh của một gia đình những quốc gia dưới sự thống trị của Tây
Phương.
Trước năm 1617, không có tiền lệ là Tây Phương sẽ dẫn đầu hay thống trị phần còn
lại của thế giới. Vào lúc đầu của sự chuyển đổi sóng trước đó, 1223, thí dụ Đế Quốc
Mông Cổ xuất phát từ Phương Đông đã vươn lên thống trị thế giới, một đế quốc có lẽ là
lớn nhất thế giới từ trước tới nay. Với sự ngưng kích hoạt hiện tại của hình 3D Sóng
Thứ 6 thì Tây Phương có thể sẽ không thể tiếp tục duy trì sự ưu việt lâu dài, dù rằng
Tây Phương có lẽ sẽ quay lại dạng thống trị vào khoảng năm 2406. Điều này dĩ nhiên
sẽ có ảnh hưởng sâu sắc tới nước Mỹ, mà đã là biểu tượng chính cho sức mạnh Tây
Phương trong thời gian gần đây.
Vì thế chúng ta có thể đặt câu hỏi là có những dấu hiệu rõ ràng nào về thời kỳ thống
trị của Tây Phương sắp sửa kết thúc chưa? Tôi khẳng định là “Có” cho câu hỏi này.
Nhóm The Union of the Crowns, khi Anh Quốc (England), Tô Cách Lan (Scotland) và
Ái Nhĩ Lan (Ireland) có cùng một vua, được thành lập năm 1603 và đã được xem như là
một nền tảng chính trị mà Đế Quốc dựa vào đó trong suốt giai đoạn từ 1617-2011. Sau
cuộc chuyển đổi sóng vào năm 2011, nền tảng này đã bắt đầu yếu dần. Đã có một cuộc
trưng cầu dân ý (nhưng thất bại) cho độc lập của Tô Cách Lan năm 2014, và sự cam kết
rời khỏi khối Cộng Đồng Âu Châu của Anh, Brexit, vào năm 2016. Chuyện này dường
như là đặt nền tảng cho sự tan rã của khối the Union of the Crowns trong thời gian sắp
tới, và tại thời điểm nào đó những ảnh hưởng tan rã của sự kiện này có lẽ sẽ lan rộng
hơn về phía Tây, tới nước Mỹ.
Với quan điểm này Tôi thấy điều đáng chú ý là lục quân Mỹ đã được đưa ra khỏi
Iraq vào Dec/2011, chỉ một tháng sau sự chuyển đổi sóng, đây là một biến cố có lẽ là
quan trọng nhất ngay sau sự chuyển đổi sóng vào ngày Oct/28/2011. Trong lúc một số
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
176
người cho rằng đây chỉ là kết thúc của một cuộc chiến tranh bình thường khác mà Mỹ
Quốc đã có từ hồi Thế Chiến II, nhưng Tôi nghĩ nó còn hơn thế nữa. Việc rút quân
khỏi Iraq có lẽ là một biến cố quân sự ngang hàng với những trận chiến quyết định
trong lịch sử nhân loại cỡ như Tours, Waterloo, hoặc là Stalingrad – nói cách khác, một
kết quả quân sự mà sẽ định nghĩa mối quan hệ quyền lực lâu dài cho tương lai. Rõ ràng
là lằn ranh để tham gia một cuộc chiến tranh toàn diện trên thế giới của Mỹ đã được
nâng lên một cách đáng kể. Tình huống mới này được dựa trên sự phân bố mới của ánh
sáng trên qui mô toàn cầu (hình 4.3) và vượt xa hơn những quyết định chính trị bình
thường. Thông thường tác nhân thay đổi thì không biết tại sao mình đang tham dự trong
công trình đem tới sự thay đổi cụ thể. Sự suy thoái của cường quốc Tây Phương phản
ảnh khuynh hướng lâu dài như thế bây giờ đã trở nên rõ ràng.
Mặc dầu sự thay đổi quyền lực này có thể tạo ra hy vọng cho một sự quân bình mới
trên thế giới nhưng phản ứng quốc tế rõ nhất ngay sau đó là những cường quốc Phương
Đông, ISIL và Nga Sô – mỗi nước có phương cách riêng – và có lẽ sau nữa là Trung
Quốc, đang bước vào để trám lỗ hổng mà Mỹ đã để lại. Chính nước Mỹ là nhân chứng
cho những phản ứng của xu hướng suy thoái vào giai đoạn ĐÊM dưới dạng hùng biện
siêu tự đại của những ứng cử viên tổng thống và những vụ án giết người vì kỳ thị màu
da hoặc là những cuộc tàn sát tập thể bằng súng (mass shootings) gây ra bởi những kẻ
ăn sâu chủ nghĩa tự tôn (supremacy). Phần lớn những người ở Mỹ và những nơi khác
cũng phải tuân theo sự thay đổi năng lượng dù họ không biết nó hiện hữu. Người Maya
và Toltecs từ lâu đã biết là thần Plumed Serpent sắp sửa ra đi, nhưng sự nhận thức
tương ứng này hiện không còn tồn tại. Sự thay đổi căn bản năng lượng này tạo ra bởi sự
ngừng kích hoạt của hình 3D Sóng Thứ 6 sẽ thể hiện bằng cách này hay cách khác bất
cần chúng ta nghĩ như thế nào. Cá nhân tôi, tôi cảnh giác về việc kết thúc của sự thống
trị Tây Phương, nhưng mặt khác tôi biết rằng nếu thế giới được quân bình và thật sự cởi
bỏ vũ khí thì sự chi phối của hình 3D Thiện và Ác bắt buộc phải chấm dứt.
Sự Suy Thoái của Liên Bang
Một hậu quả khác của việc ngừng kích hoạt hình 3D Sóng Thứ 6 là dấu hiệu tan rã
của liên bang. Người hiện đại xem thường về liên bang và xem điều này là một khuôn
quản trị hiển nhiên. Tuy thế, liên bang, giống như sự thống trị Tây Phương, chỉ là sản
phẩm của NGÀY cuối cùng trong Sóng Thứ 6 và là một kết quả của những sự thay đổi
đã xảy ra ở Tây Bắc Âu Châu khi NGÀY này bắt đầu. Do đó, mãi cho tới 1617, những
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
177
nước Âu Châu được cai trị bởi những triều đại do các quốc vương cầm đầu. Trong số
đó, có Hoàng Đế La Mã Thiêng Liêng là quan trọng nhất, người mà tất cả quốc vương
khác phải phục tòng. Những quốc vương xem quốc gia họ cai trị như là đất đai của
mình được Thượng Đế ban cho. Với Tiền Sóng Thứ 7 đã có mặt (được kích hoạt vào
1498), hệ thống cai trị này đã bị lung lay, đặc biệt với sự cải tiến của Luther vào 1517
(Đạo Tin Lành). Nhiều triều đại đã bỏ Vatican, mặc dù đại đế (Đức Giáo Hoàng) vẫn là
tâm điểm của đường lối cũ. Trong NGÀY thứ 7 của Sóng Thứ 6, hoặc một thời gian
ngắn sau đó, Hòa Lan đã thành lập nước cộng hòa (republic) từ việc tranh đấu giành
độc lập từ Tây Ban Nha, và Anh Quốc đã trải qua một thời gian bị cai trị bởi nghị viện
với Cromwell. Hai sự kiện này đã cho thấy quốc gia không cần phải bị cai trị bởi triều
đại hoàng gia. Ở Thụy Điển, chế độ quân chủ vẫn tồn tại, nhưng những cơ quan chính
phủ, dùng ngôn từ hiện đại, trở nên tự trị và không bị cai trị trực tiếp bởi nhà vua.
Những thay đổi này đều hướng tới một liên bang hiện đại, mà trong đó nhà vua thuộc
về quốc gia hơn là quốc gia thuộc về nhà vua.
Cuộc Chiến Tranh 30 năm (1618-1648), một cuộc chiến tàn phá ghê gớm nhất trong
lịch sử Âu Châu, đã thực sự chấm dứt sự cai trị của Hoàng Đế La Mã Thiêng Liêng (the
Holy Roman Emperor) với nhiều quốc vương trong vùng đất của Đức Quốc. Hòa Ước
The Westphalian Peace Treaty năm 1648 đã kết thúc cuộc chiến này và được xem như
là sự ra đời của liên bang hiện đại. Đây là hội nghị quốc tế đầu tiên trên thế giới, và
những quốc gia tham dự trên nguyên tắc đã xem các quốc gia khác là bình đẳng. Mỗi
quốc gia từ nay có chủ quyền để chọn lựa hệ phái Ki Tô Giáo. Sự thay đổi lớn lao này
vào thuở đầu trong NGÀY thứ 7 của Sóng Thứ 6 đã tạo ra cấu trúc cho liên bang hiện
đại. Liên bang là một sản phẩm của NGÀY này và sẽ không vững chắc như thế vào
ĐÊM. Mãi sau này vào nửa sau của thế kỷ 20, những thuộc địa của các quốc gia Âu
Châu đã được độc lập, những quốc gia mới này cũng chấp nhận đi theo mô hình liên
bang hơn là cấu trúc của luật lệ (đôi khi rừng rú) mà họ đã từng có trước khi bị trở
thành thuộc địa.
Bởi vì nguồn gốc của liên bang là trong NGÀY của Sóng Thứ 6 nên chúng ta có
nhiều lý do để tin rằng hiện nay chúng ta đang ở vào ĐÊM nên cấu trúc này có thể suy
yếu và ngay cả tan rã. Sự thay đổi đều có cơ hội và rủi ro. Mặt khác, có cơ hội cho một
thế giới không còn bị chia thành những liên bang mà thường cạnh tranh và đôi khi còn
có chiến tranh với nhau nữa; một thế giới không có biên cương như đã được hình dung
bởi phi hành gia Edgar Mitchell trên chuyến bay trở về Trái Đất từ Mặt Trăng. Mọi thứ
về hợp tác toàn cầu có thể được hình dung trong một thế giới không có liên bang. Mặt
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
178
khác, sự kết thúc của liên bang cũng có thể (như chúng ta đã thấy ở Somalia, Libya, và
Syria) dẫn đến tình trạng hỗn loạn vô chính phủ với những quốc gia tàn lụi vì chiến
tranh giữa phe phái nội bộ.
Lịch sử Âu Châu gần đây đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi sự suy tàn của liên bang, mà
có thể là vì sự chuyển đổi từ NGÀY qua ĐÊM của Sóng Thứ 6. Như đã nói ở trên liên
bang hiện đại đã ra đời ở nơi này của thế giới và sự chuyển đổi qua ĐÊM đã có những
hậu quả quan trọng cho hệ thống cai trị. Đa phần những quốc gia Âu Châu hiện nay là
thuộc vào Liên Đoàn Âu Châu (The European Union) và phần lớn cũng thuộc vào khối
Âu Châu (Eurozone). Điều này đã làm suy yếu những liên bang trước đây mà hiện nay
không còn mạnh mẽ như xưa nữa. Dù rằng mỗi nước vẫn có hệ thống thuế riêng, nhưng
những thành viên trong khối Âu Châu (EU) hiện nay đã hòa nhập sâu tới nỗi khó mà
phân biệt được, thí dụ như khi anh vượt biên giới giữa Hòa Lan và Đức Quốc. Sự hòa
nhập mạnh mẽ này, với liên bang nhượng bộ hầu hết những quyền hạn của các thành
viên, đã được tăng cường với việc ký kết hòa ước Maastricht Treaty năm 1992 và việc
ra đời đồng tiền Euro khi Sóng Thứ 8 bắt đầu vào Jan/1999. Khi chúng ta bàn về một
sóng có chu kỳ dài như Sóng Thứ 6, thì nên nhìn vào những thay đổi mà nó ảnh hưởng
trong khoảng thời gian 20 năm xung quanh lúc thay đổi, và trong khung thời gian như
vậy sẽ thấy sự suy thoái của liên bang Âu Châu khá rõ ràng.
Sự suy thoái của liên bang do từ ĐÊM của Sóng Thứ 6 dường như tại thời điểm hiện
tại (2016) đang tạo ra phản ứng dưới dạng gia tăng chủ nghĩa dân tộc trong nhiều quốc
gia Âu Châu. Biểu hiện rõ ràng ngay lập tức về điều này có lẽ là sự rút lui của Liên
Hiệp Anh ra khỏi khối Âu Châu, EU, (Brexit), nhưng sự thúc đẩy cho độc lập của
Scotland và Catalonia có cùng nguồn gốc. Tương tự, trong nhiều nước khác, chẳng hạn
như Đông Âu, những đảng dân tộc (nationalist parties) đã nổi lên có khuynh hướng
chống lại sự nhập cư hay là thiên về sự độc lập của lãnh thổ. Ở Mỹ, tư tưởng của Donal
Trump về việc xây dựng bức tường chống lại Mexico phản ảnh chính xác tâm trạng này.
Tuy nhiên Tôi thì tin rằng sự trổi dậy hiện thời về chủ nghĩa ly khai và dân tộc là một
phản ứng gây ra bởi sự suy thoái của liên bang, nhưng không phải là hướng đi lâu dài
của thế giới. Khi Sóng Thứ 6 chuyển qua ĐÊM, liên bang mà được thành lập vào
NGÀY thì sẽ dần dần yếu đi, nhưng như là một phản ứng của điều này, đặc biệt là
người già (rất rõ ràng trong phiếu bầu Brexit) đã phản ứng trở nên chủ nghĩa dân tộc
hơn trong hệ tư tưởng.
Chúng ta có thể thấy sự chuyển đổi của Sóng Thứ 6 ở thời điểm hiện tại có thể có cả
những hậu quả tích và tiêu cực. Những tiềm năng mà thật sự biểu hiện thì không được
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
179
sắp đặt trước bởi những mẫu giao thoa của sóng mà thực ra phụ thuộc vào sự lựa chọn
của chúng ta, như những cá nhân và tập thể. Rồi thì điều này lại phụ thuộc vào sự hiểu
biết (tỉnh thức) của chúng ta về những mẫu giao thoa này. Để nghiên cứu điều này hàm
nghĩa phải có một lối tiếp cận hoàn toàn mới về chiến lược cho tương lai so với quá khứ.
Với sự hiểu biết về vai trò của những mẫu giao thoa, chúng ta nên nhận ra là thái độ
phản ứng đối với những biến cố xảy ra trên thế giới thì thật là vô ích mà chúng ta biết
đang hiện hữu, bao gồm những gì tạo ra bởi Sóng Thứ 8 và 9.
Những Phong Trào Di Dân Từ Phương Đông
Sự di dân lớn vào Âu Châu là một hậu quả khác của sự chuyển đổi qua ĐÊM đã
xảy ra sau sự chuyển đổi sóng vào 2011 và đặc biệt 2015. Ở Châu Âu có đường chia
đôi trái đất chạy xuyên qua Rome và Berlin dọc theo đường đông kinh tuyến 12, phân
chia trái đất thành Bán Cầu Đông và Bán Cầu Tây. Khởi thủy của đường này, mà đã
đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Châu Âu, đã được giải thích sâu rộng trong cuốn
The Global Mind and the Rise of Civilization. Để chứng minh điều này, trong những
cuốn sách trước tôi đã để những bản đồ giống như trong hình 8.2 mà thể hiện những
phong trào di dân đến và đi từ đường này.
Những phong trào này cho thấy những chuyển động sóng rõ ràng và chính xác về sự
nở ra và co lại liên quan tới đường này. Khi những NGÀY bắt đầu và tính nhị nguyên
toàn cầu được thành lập dọc theo đường chia đôi trái đất thì sự phân chia được thành
lập, và do đó tạo nên những chuyển động hướng ra khỏi đường này. Ngược lại, khi
những ĐÊM bắt đầu và tính nhị nguyên dọc theo đường phân chia trái đất suy sụp, thì
những chuyển động hướng vào đường này xảy ra, và đặc biệt là từ phương Đông. Như
có thể thấy trong cột bên phải của bản đồ, những nhóm dân du mục bạo động trong quá
khứ đã tới Âu Châu từ phương Đông khi những ĐÊM bắt đầu. Để hoàn tất bức hình,
một bản đồ mới có thể cũng được đặt bên dưới cột về bên phải của hình 8.2, để chỉ sự
di dân về Âu Châu trong năm 2015 từ phương Đông.
Ngay cả khi làn sóng tị nạn hiện tại không có tánh chất bạo động như trong những
ĐÊM của quá khứ, thì dường như nó vẫn có cùng nguồn gốc cụ thể là một sự thay đổi
trong từ trường toàn cầu tạo ra bởi Sóng Thứ 6. Chu kỳ trong hình 8.2 rất rõ ràng và có
thể thấy rằng những quốc gia thuận tiện nhất để thâu nhận dân tị nạn là Đức và Thụy
Điển thì tọa lạc trực tiếp tại đường phân chia trái đất này. Một cách thô thiển, dường
như có nhóm dân tị nạn là do nguyên
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
180
Hình 8.2
nhân từ tình hình ở Syria, nhưng bởi vì tối thiểu một nửa số này đến từ các nước khác
xa xôi như Afghanistan và Bangladesh, nên Tôi nghĩ chúng ta có đủ lý do để giải thích
đó là kết quả của sự sụp đổ của tính nhị nguyên Hình 3D về Sự Thống Trị của Tây
Phương ở cấp toàn cầu. Sự kiện mà có ít nhất vài quốc gia Âu Châu mở cửa cho đám di
dân này cũng đã xác định là cuộc di dân này đã khởi nguồn từ sự thay đổi giữa NGÀY
và ĐÊM trong Sóng Thứ 6. Theo nghĩa khác, bạn có thể nói là phong trào di cư này đã
làm suy yếu liên bang cùng sự thống trị của Tây Phương và đã gây ra những loại phản
ứng như đã nói trong những phần trước. Đây một ví dụ khác về những kịch sĩ trong một
vở kịch mà không hiểu vở kịch có nguồn gốc từ vũ trụ hình 3D (holographic universe).
Sự trở lại như là một cường quốc thế giới gần đây của Nga Sô dưới sự lãnh đạo của
Putin rất có thể bắt nguồn từ chính sự chuyển động từ phía Đông mà hiện đang diễn ra.
Trong một bài viết từ 2006, Tôi đã tiên đoán là Nga Sô sẽ trở lại địa vị cường quốc dựa
trên những sự phân tích trên, và dường như điều này hay ít nhất phần nào đang diễn ra
tại thời điểm hiện tại. Nga Sô (hay là phần lớn chúng ta nói Putin) đang tấn công
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
181
Ukraine, đe dọa những quốc gia Đông Âu, bao gồm những bang Baltic, cũng như là dội
bom ở Syria, và có khuynh hướng xâm lược đối với Tây Phương. Thí dụ sau gồm có
những chuyến bay khiêu khích đối với những quốc gia như Thụy Điển, Đan Mạch, Anh
và cả Mỹ. Đây là hiện tượng gần đã bắt đầu thể hiện vào đầu năm 2014, nhưng đã nhen
nhúm sau cuộc chuyển đổi sóng năm 2011.
Tuy nhiên, đối với tôi, cuộc chơi quyền lực này là một phản ảnh âm thầm khác của
năng lượng hướng về phía tây tạo ra bởi sự sụp đổ hiện tại của đường phân chia trái đất.
Putin hoàn toàn không biết về vũ trụ hình 3D hoạt động ra sao, nhưng ông ta cảm nhận
được luồng gió sau lưng mình và quyết định làm theo để xem có được thắng lợi gì
không. Sự khẳng định này không cần thiết phải là một phần của kết hoạch sáng suốt của
ông ta, với những mục tiêu thật sự cho Nga Sô. Theo cách tôi thấy, liên bang Sô Viết
thì không trở lại, và với nền kinh tế khá yếu kém của Nga Sô thì trò chơi này có thể gây
phản tác dụng ghê gớm. Đến cuối cùng thì Trung Quốc sẽ đại diện cho sức mạnh thật
sự của Phương Đông. Bất kể Nga Sô đã tái chiếm Crimea và chiến dịch bỏ bom ở Syria
thì vẫn không thể tưởng tượng được trước khi có cuộc chuyển đổi sóng năm 2011, với
kết quả là sự rút lui của Mỹ khỏi Iraq và đó là hậu quả trực tiếp của mẫu giao thoa mới
sau sự chuyển đổi sóng.
ISIL và Bạo Động ở Trung Đông
Phần lớn người theo Hồi Giáo trên thế giới sống ở Trung Đông, là một vùng đại lục
trải dài từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Parkistan, cũng là một biểu hiện khác của Bán Cầu Đông. Tại
thời điểm hiện tại, nhiều sự chú ý được nhắm vào nhóm ISIL, là một nhóm khủng bố
tàn bạo ghế gớm tuyên bố cai trị theo Hồi Giáo (Islam Caliphate) bắt đầu ở Iraq và
Syria. Nhóm này liên kết với những nhóm khủng bố Hồi Giáo khác không chỉ ở Trung
Đông mà còn ở Phi Châu, Âu Châu, và một số nơi khác.
Tôi nghĩ nên biết rằng lý do chính cho sự xuất hiện của tổ chức này là cuộc xâm
lăng vào Iraq của Anh-Mỹ năm 2003, dẫn đầu bởi George Bush và Tony Blair. Tuy
nhiên thêm vào đó còn có một số yếu tố liên quan đến Sóng Thứ 6 đã góp phần cho sư
trổi dậy của nhóm khủng bố ISIL. Thí dụ, chúng ta nên để ý là tổ chức này đã xuất hiện
ở chính nơi nền văn minh nhân loại xuất hiện đầu tiên, đó là chỗ gặp nhau của ba nước
Syria, Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq ngày nay. Đây là nơi mà ngôi đền cổ nhất thế giới, Gobkli
Tepe, được dựng lên và nơi mà nông nghiệp được thực hành đầu tiên khoảng 10,000
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
182
năm trước. Như một hệ quả, con người đã bị ảnh hưởng bởi Hình 3D Thiện và Ác lâu
nhất trong khu vực này và vì thế đã bị nhiễm sâu tính nhị nguyên.
Sự nổi lên của nhóm ISIL đặt ra hai câu hỏi về thời kỳ của chúng ta. Tại sao tổ chức
này đã khá thành công như vậy? và sự tàn bạo bắt đầu từ đâu? Những cuộc tấn công
vào thường dân vô tội ở Paris tháng 11 năm 2015 chỉ là một thí dụ về sự tàn bạo và
thiếu tôn trọng sự sống mà nhóm này đã thể hiện xưa nay. Khi hỏi tại sao những nhóm
khủng bố Hồi Giáo đã thành hình và ở một góc độ khá thành công ngay chính tại thời
điểm này? Có vài yếu tố phát xuất từ sự chuyển đổi sóng mà Tôi nghĩ cần phải xem xét:
(1) Khuynh hướng toàn cầu về sự rạn nứt của liên bang, (2) Sự suy đồi của Tây Phương,
và (3) Sự bắt đầu của ĐÊM và tính quan trọng này cho Hồi Giáo. Để bắt đầu với hai
yếu tố đầu tiên, Trung Đông đã bị ảnh hưởng sâu sắc vì sự rạn nứt của liên bang và vai
trò mờ dần của Tây Phương trong vai trò lãnh đạo gia đình toàn cầu của các quốc gia.
Phần này của thế giới là phần cuối cùng gia nhập vào gia đình toàn cầu của các quốc
gia. Mãi cho tới 1922, vùng này vẫn chưa được lập thành các quốc gia mà chỉ là một
vương quốc Hồi Giáo, Đế Chế Ottoman. Như là kết quả của sự sụp đổ của vương quốc
này trong Thế Chiến I, Anh Quốc và Pháp đã chia vùng đất này, vẽ những đường trên
cát để tạo thành những quốc gia. Miễn là khi Sóng Thứ 6 còn ở vào NGÀY, mà thiên về
cấu trúc của liên bang, thì chuyện này vẫn diễn ra khá tốt đẹp, và một số những quốc
gia mới thành lập đã gia nhập vào gia đình toàn cầu của các quốc gia dưới sự lãnh đạo
của Tây Phương.
Tuy nhiên, khi Sóng Thứ 6 tiến vào ĐÊM, những liên bang này ngày càng trở nên
lỏng lẻo và đây là một phần của nguyên do cho sự rối loạn hiện tại trong khu vực. Bởi
vì chúng ta hiện giờ đang ở vào ĐÊM của Sóng Thứ 6 (sau 2011) nên những liên bang
trong thế giới Hồi Giáo được thành lập bởi các cường quốc Âu Châu có khuynh hướng
tan rã, đặc biệt là những quốc gia đã từng bị tấn công bằng quân sự. Trong trường hợp
của Syria, Libya, và Yemen thì Sóng Thứ 9 truyền cảm hứng cho những cuộc nổi dậy,
nên khi Sóng Thứ 6 tiến vào ĐÊM thì vài quốc gia này đã sụp đổ. Ở Somalia, Sudan,
Afghanistan, Iraq, Syria, Libya, và Yemen, những liên bang tất cả đã tan rã thành từng
phần và điều tương tự có thể xảy ra cho những quốc gia khác nếu bị phá vỡ. Một khi
cấu trúc quốc gia sụp đổ, chẳng hạn như trường hợp Lybia, thì sẽ rất khó, nếu không
muốn nói là không thể được, để tái tạo lại.
Một lý do quan trọng cho sự trổi dậy hiện tại của nhóm Hồi Giáo Cơ Bản
(fundamentalist Islam), và những cố gắng để thành lập vùng cai trị theo Hồi Giáo mới
(Caliphate), là trái ngược với Do Thái và KiTô Giáo, Hồi Giáo không được ra đời vào
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
183
NGÀY mà ra đời vào giữa ĐÊM, ĐÊM Thứ 5 năm 632. (Vì thế, những cờ hiệu là mặt
trăng lưỡi liềm và sao đêm, biểu hiệu của ĐÊM). Nên kết quả là Hồi Giáo trong lịch sử
đã phát triển mạnh mẽ vào những thời kỳ thuộc ĐÊM, ngược lại với Tây Phương phát
triển mạnh mẽ vào những thời kỳ thuộc NGÀY. Vì lý do này nên vùng này chưa có
khuynh hướng đồng nhất để thành lập liên bang (mà là sản phẩm của NGÀY) mà thay
vào đó đã tìm về những caliphates hay sultanates là những vương quốc tổ chức theo tôn
giáo thiên về ĐÊM.
Do đó, lý do mà ISIL nổi đình đám vào ban đầu của ĐÊM mới này và tìm cách
thành lập một quốc gia với luật lệ từ thế kỷ 17 là vì đó là ĐÊM cọng hưởng với ĐÊM
mà trong đó Hồi Giáo được ra đời và bành trướng. Vì chúng ta hiện ở trong ĐÊM nên
có một mong ước cho một số người Hồi Giáo thành lập một vương quốc tôn giáo
(caliphate) mà trong đó lời nói của vị lãnh đạo tôn giáo (caliph) là luật lệ. Tuy nhiên sự
xuất hiện của một vương quốc tôn giáo (caliphate) về nguyên tắc đòi hỏi tất cả mọi
người theo Hồi Giáo phải đoàn kết với một hệ thống cai trị. Tuy nhiên sự thù oán giữa
khối Hồi Giáo Shia ở Ba Tư và Nam Iraq với Hồi Giáo Sunnis ở Ả Rập Saudi and ISIL
rất là mạnh đã bắt rễ từ xự xung đột tranh chấp chọn người thừa kế hợp pháp cho Giáo
Chủ Muhammad để làm lãnh tụ tôn giáo. Sự tranh chấp này đã gây ra một loại nội
chiến trong thế giới Hồi Giáo, khiến khó có thể hình thành mục tiêu cho một vương
quốc tôn giáo đoàn kết. Bởi vì chúng ta mới bắt đầu một ĐÊM mới của Sóng Thứ 6, do
đó tư tưởng của một vương quốc tôn giáo được kích hoạt lại, chớ không phải là chuyện
ảo tưởng như những nhà bình luận Tây Phương đã nói. Thực tế, đây chính là lý do để
cuộc sự xung đột cũ rích giữa Sunni và Shia được kích hoạt trở lại ngay chính thời điểm
này.
Do đó sự xuất hiện của ISIL dựa trên sự chuyển đổi vào ĐÊM của Sóng Thứ 6 đã
dẫn đến sự tan rã của liên bang và tạo ra hy vọng thành lập một vương quốc tôn giáo
trong một số người Hồi Giáo. Thêm nữa, sự chuyển đổi vào ĐÊM của Sóng Thứ 6 đã
làm suy yếu khối Tây Phương trong vùng này, và ISIL cùng những nhóm khủng bố
khác có thể lợi dụng trường năng lượng mới này. Trước đây, thế giới Hồi Giáo đã từng
trải qua những ĐÊM và ngay cả nếu Hồi Giáo không được yên bình, thì nó cũng không
tệ hơn gì nhiều so với KiTô Giáo trong những thời kỳ thập tự chinh. Điều mà bây giờ
có thể gây thêm sự hiếu chiến là đã từ lâu trong NGÀY trước của Sóng Thứ 6, Tây
Phương đã ở vị thế trên cơ và vì thế trong ĐÊM này sẽ có khuynh hướng cho phản ứng
thái quá và đảo ngược điều này.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
184
Dù bị coi là ngây thơ khi cho rằng sẽ có một giải pháp đơn giản cho hòa bình ở
Trung Đông, Tôi nghĩ điều quan trọng là cần hiểu được những khuynh hướng tiềm ẩn
trong từ trường sóng. Những gì đang xảy ra ở đó cũng như các chỗ khác không phải là
tình cờ. Những lý do chính cho sự gia tăng xung đột và khủng bố là vì Sóng Thứ 6 đã đi
vào ĐÊM và đồng thời tính nhị nguyên và hình 3D của nó đã ăn sâu vào tâm khảm con
người ở Trung Đông. Vùng Trung Đông chưa bao giờ được kỹ nghệ hóa (ngoại trừ kỹ
nghệ dầu hỏa), và có rất ít người leo lên được tới Sóng Thứ 7 và Thứ 8. Vì thế, rất quan
trọng để hỗ trợ phụ nữ Trung Đông bằng những cách có ý nghĩa, bởi vì họ là những
người dễ dàng tải xuống những hình 3D của Sóng Thứ 8, thứ 9 và sử dụng chúng một
cách ôn hòa.
Kinh Tế Thế Giới Sau Sự Chuyển Đổi Sóng
Tốc độ của những phần khác nhau trên thế giới ảnh hưởng bởi sự chuyển đổi từ
NGÀY qua ĐÊM tùy thuộc chính yếu vào khoảng cách của vùng tới đường chia đôi trái
đất tại đông kinh tuyến 12. Như một hệ quả, những ảnh hưởng của sự thay đổi lớn lao
này vào 2011 có thể xuất hiện trễ hơn ở Mỹ và Trung Quốc hơn là ở Anh Quốc, Âu
Châu, và Trung Đông. Lẽ tự nhiên, nhiều phần khác của thế giới, chẳng hạn như những
quốc gia vùng BRIC, Nam Mỹ, Phi Châu, Đông Nam Á, và Úc Châu, cũng sẽ trải qua
những quá trình của mình như là kết quả của sự chuyển đổi này, nhưng Tôi ở đây sẽ
không bàn về những vùng này.
Dĩ nhiên phần lớn tương lai thế giới sẽ tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
toàn cầu, và trong phương diện này, quốc gia trọng điểm để xét có lẽ là Mỹ Quốc. Đầu
tiên chúng ta có thể thấy sau sự chuyển đổi sóng là tình hình chính trị ở đây đã trở nên
rõ rệt với khuynh hướng về sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống chính trị, nơi mà luật lệ
ngày càng bị phá vỡ. Điều này có thể sẽ đưa đến một cuộc suy thoái kinh tế, mà còn
kéo theo phần còn lại của thế giới gồm cả Trung Quốc. Nền kinh tế của nước Mỹ hiện
có thể cho ra một hình ảnh khá vững bền, nhưng sự thực nó rất dễ bị nguy kịch vì nhiều
lý do. Thứ nhất, nợ công và tư thì rất lớn và có lẽ không thể đảo ngược tình hình. Thứ
hai, sức mạnh của đồng Dollar vẫn tùy thuộc trực tiếp vào hệ thống tiền dầu hỏa, mà đã
cho đồng dollar một giá trị giả tạo; và thứ ba sự chênh lệch giàu nghèo quá mức (hình
8.3) cộng với cách mạng số sẽ đe dọa gây ra những vụ thất nghiệp lớn lao. Thực tế, nếu
chúng ta
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
185
Hình 8.3
chỉ đơn giản theo những gì được mong đợi từ Sóng Thứ 7, mà đóng những vai trò quan
trọng cho những chu kỳ kinh tế (xem hình 6.8), thì một cuộc suy thoái kinh tế trầm
trọng sẽ xảy ra trong ĐÊM thứ 7 (2011-2031). Không ai có thể chắc chắc điều này sẽ
xảy ra, nhưng nếu để ý thì nên xem đây như là một khả dĩ nghiêm trọng, đặc biệt là hiện
đang có nhiều dấu hiệu cho cuộc khủng hoảng sâu rộng của nền chính trị nước Mỹ,
gồm hệ thống hai đảng, Tòa Tối Cao Pháp Viện, Quốc Hội, và có thể cả ban Hành Pháp.
Trong những biến cố vì sự chuyển đổi của NGÀY vào ĐÊM là sự suy thoái của tánh
hợp lý và cấu trúc, một quá trình mà hầu như sẽ tiếp tục thể hiện trong đấu trường chính
trị của những quốc gia trọng điểm Tây Phương, và nếu điều nay thật sự xảy ra thì một
cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng sẽ theo sau. Chính trị chắc chắn không thể tách rời
khỏi kinh tế.
Như đã nói, trong bối cảnh của cuộc cách mạng số do Sóng Thứ 8 đem lại, sự gia
tăng bất bình đẳng về kinh tế và sự mất dạng của giai cấp trung lưu đã tăng thêm rủi ro
cho một cuộc khủng hoảng kinh tế. Ở Mỹ Quốc và những nước Tây Phương nói chung,
giai cấp trung lưu với một nếp sống tương đối cao đã hưởng thụ một lối sống tương đối
cao trong nhiều thế hệ, nhưng bởi vì cuộc cách mạng số và những điểm yếu kể trên của
nền kinh tế Mỹ Quốc, lối phân chia cấp xã hội này hiện đang bị đe dọa.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
186
Thí dụ, như chúng ta có thể thấy trong hình 8.3 chỉ 1% số người có mức lương thu
nhập cao nhất thì được tăng lương rất nhiều trong suốt 40 năm qua. 20% của hàng đầu
cũng có tăng lương nhưng chậm hoặc rất chậm, trong lúc 80% phần còn lại hầu như
không được tăng lương chút nào. Biểu đồ chỉ sự phân phối mức thu nhập cho tới lúc bắt
đầu của Great Recession năm 2007. Những năm sau đó, sự phân phối mức thu nhập còn
ghê gớm hơn, với 1% hàng đầu tích lũy 95% của tất cả thu nhập tăng.
Quân Bình Bán Cầu Với Sóng Thứ Tám
Do đó dường như những cuộc suy thoái của Sóng Thứ 6 và 7 có thể gây ra những
giai đoạn khá khó khăn ngay cả trong kịch bản lạc quan nhất là không có khủng hoảng
kinh tế thế giới. Kịch bản hiện tại cũng đang diễn ra trong bối cảnh của khủng hoảng
thời tiết nghiêm trọng và dân số quá mức. Tuy thế, những chú thích mà Tôi đã viết về
tương lai ở trên không phải là những tiên đoán theo nghĩa là chúng sắp sửa xảy ra, mà
chúng là những tiềm năng được soạn ra hoàn toàn dựa trên cơ bản của Sóng Thứ 6 và 7.
Những tiềm năng này được mô tả dựa trên những gì chúng ta biết về sự thể hiện của
những sóng này vào thời điểm ban sơ trong lúc thành lập sóng và với những sóng song
song quan yếu.
Đối với sự thay đổi trong mối tương quan giữa những bán cầu của hành tinh nên biết
thêm là Sóng Thứ 8 có chu kỳ chuyển đổi vào NGÀY mỗi hai năm một lần (hình 8.1).
Sau một thời gian dài thống trị bởi Tây Phương, sự giao động nhanh chóng này có thể
được dùng để tạo sự quân bằng giữa những bán cầu trên toàn cầu (và do đó bởi sự cọng
hưởng nên cũng xảy ra giữa hai bán cầu não trong con người). Tôi tin rằng cứ mỗi lần
vào giai đoạn NGÀY của Sóng Thứ 8 (xem hình 8.1) thì có thêm tiềm năng gia tăng thể
hiện cho những giá trị về tâm linh và trực giác. Chúng ta vẫn không thể biết bằng
cách nào mẫu giao thoa tiềm năng tạo ra bởi Sóng Thứ 8 sẽ thể hiện bởi vì chuyện này
đã không được tiền định.
Như chúng ta đã thấy lúc ban đầu, có thể sau sự chuyển đổi sóng này những cường
quốc Phương Đông sẽ tìm cách để gia tăng vai trò của họ trong bối cảnh toàn cầu. Mặt
khác, nền tâm linh Ấn Độ cũng có thể phát triển rộng rãi hơn nhiều. Người Tây Phương
có thể tải xuống những hình 3D mới để tiếp cận với Đấng Thiêng Liêng theo một cách
mới tổng quát và toàn diện, mà đặc biệt qua Sóng Thứ 9 sẽ có những ảnh hưởng tích
cực cho toàn thể.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
187
Do đó sự leo lên tới trình độ của Sóng Thứ 8 là một phần của việc làm quân bình
thế giới và thành lập một hướng đi toàn diện, mà sẽ không dễ dàng như nhau ở khắp
mọi nơi. Tuy nhiên, dám chắc rằng sẽ dễ dàng hơn khi phụ nữ làm điều này. Có nhiều
lý do mà sự thành công của nhân loại trong việc thể hiện định mệnh của mình thì tùy
thuộc vào sự trổi dậy của phái nữ ở mức độ toàn cầu. Trên nguyên tắc hình 3D của
Sóng Thứ 8 mà thiên về óc phải cho cả Nam Nữ sẽ khuyến khích sự tăng cường sức
mạnh về trực giác. Khi điều này xảy ra, một lối suy nghĩ toàn diện và trực quan hơn có
thể qua trung gian của óc chúng ta. Cả hai giống sẽ trở nên ái nam ái nữ hơn và sự nhìn
nhận về cách nối kết với Đấng Thiêng Liêng không còn là gì dành riêng cho phụ nữ
nữa. Sự bình đẳng này có thêm chiều hướng giúp đỡ toàn thể nhân loại thể hiện định
mệnh của mình và xây dựng sự hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng, bởi vì hầu như một
người không thể gia tăng tầng số từ Sóng Thứ 7 lên tới Sóng Thứ 9 mà không đi ngang
qua Sóng Thứ 8. Thêm nữa, không thể tưởng tượng một người leo lên tới Sóng Thứ 8
mà không trước tiên quân bình chính mình (nam hay nữ) với giống khác. Do đó, vấn đề
của sự bình đẳng giữa hai giống nam nữ là phần trọng điểm để hoàn tất định mệnh nhân
loại.
Sự leo lên tới Sóng Thứ 8 có lẽ khó khăn nhất là ở vùng Trung Đông, nơi mà hình
3D Sóng Thứ 6 đã ăn sâu mọc rễ vào lòng người và ít người đã đi vào được Sóng Thứ 7.
Những vùng khác trên thế giới do đó bị ảnh hưởng theo nhiều cách khác nhau bởi
những sóng và trên nguyên tắc có thể truy cập khắp toàn cầu. Điều này phần lớn là hàm
số của những vị trí khác nhau có quan hệ với đường chia đôi trái đất ở đông kinh tuyến
12, nhưng những tập quán địa phương có thể đóng những vai trò quan trọng. Chẳng hạn
như ở Mỹ, với sự thống trị về thương mại, nên hình 3D Sóng Thứ 8 có thể được dùng
nhiều hơn về mặt khoa học thông tin hơn là về xây dựng một đường hướng toàn diện
cho đời sống.
Dường như rõ ràng là bất luận một người được đặt ở vị trí nào, hoặc là về mặt địa lý
hoặc là theo nghĩa leo lên những tầng cấp khác nhau của nội tâm, thì sự hiểu biết về vũ
trụ 3D là một yếu tố quan yếu cho kết quả không chỉ đối với một cá nhân nói riêng mà
còn cả toàn thể nhân loại nói chung. Do đó điều tất yếu cần biết là nhân loại đã tham dự
vào cuộc leo thang lên tới tầng 9 của kim tự tháp vũ trụ, bởi vì kiến thức này là cách
duy nhất để gỡ bỏ những chướng ngại trên đường leo thang. Chủ yếu có hai khía cạnh
căn bản về giai đoạn mới của đời sống mà con người cần phải biết tới. Một là Sóng Thứ
6 hiện nay đã đi vào ĐÊM, và hai là lối trở về vườn Địa Đàng nay có thể truy cập được.
Một khi đã nói leo lên thì đồng nghĩa là phải bỏ ra công sức, nhưng hiện giờ chẳng còn
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
188
gì có thể ngăn cản chúng ta leo lên bởi vì sự cọng hưởng với Sóng Thứ 9 ngày nay đã
có thể xảy ra.
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
189
Chương 9
Thể hiện Định Mệnh Nhân Loại qua Sóng Thứ 9
Kỷ Nguyên Hoàn Tất
Sự soi mòn hiện tại (2016) của cả liên bang và thống trị của Tây Phương (chỉ
nêu danh hai trong nhiều xu hướng được đề cập trong chương 8) có thể là sự chuẩn bị
cho một thế giới hoàn toàn mới được tạo ra bởi Sóng Thứ 8 và 9, nếu chúng ta có thể
đưa kế hoạch vũ trụ tới Thời Đại Hoàng Kim, Golden Age. Khi Sóng Thứ 6 và Thứ 7
đã chuyển vào ĐÊM (mãi cho tới năm 2406 và 2031 tương ứng), chỗ trống sẽ được
thành lập để những hiện tượng của Sóng Thứ 8 và Thứ 9 hiện lộ trong thời kỳ chuyển
đổi này. Mẫu giao thoa mới này chứa đựng cả hai tiềm năng và rủi ro, nhưng Tôi tin
rằng với sự hiểu biết và ý muốn của chúng ta, sự leo thang sẽ đóng vai trò lớn trong sự
hình thành thế giới mới như thế nào. Một hay hai thập niên sắp tới sẽ rất là thử thách
cho nhân loại vì sự chuyển đổi có lẽ sẽ không duy trì cấu trúc cũ của tâm trí và những
hệ thống xã hội. Cuối cùng những gì thế giới đang trở thành có thể mô tả đúng nhất là
“divinely guided anarchy” “hỗn loạn dẫn dắt bởi thiêng liêng” và vì là một phần của sự
kiện này nên chúng ta bắt buộc phải mong đợi nhiều phản ứng từ những người muốn
trở về mô hình cũ. Điều này đã rõ ràng khi thế giới đang bị chia đôi giữa những người
muốn ở với mẫu giao thoa cũ và những người đang tiến trực tiếp vào mẫu giao thoa mới.
Nhân loại có vượt qua được chặng này hay không sẽ được quyết định trong giai đoạn
sắp tới, một lần nữa, chuyện này đòi hỏi đường hướng lâu dài tạo ra từ Sóng Thứ 9
được duy trì và khuyến khích.
Nói cách tồn tại, khía cạnh quan trọng nhất trong giai đoạn mới của sự sống, mẫu
giao thoa mới, có lẽ là đường lối hướng về hợp nhất với Đấng Tối Cao mà ngày càng
đang mở rộng. Nói cách khác, chúng ta bây giờ có thể hoàn tất việc leo thang tới tầng
thứ 9, và sẽ có những khó khăn nhỏ nhưng không còn khối cản trở lớn mà không thể
vượt qua. Trong phạm vi kế hoạch tiến hóa lớn của vũ trụ, giờ đây chúng ta đã tới một
thời điểm mới và rất ý nghĩa, nơi mà trường năng lượng cơ bản rất khác với lúc trước,
và do đó đã tạo ra những thử thách và cơ hội hoàn toàn mới, đặc biệt sau khi Sóng Thứ
9 được kích hoạt vào 2011. Chúng ta hiện đang đối diện với thử thách để thể hiện Thời
Đại Hoàng Kim (Golden Age).
Trong lúc xem xét chuyện này, Tôi tin điều quan trọng cần biết là khi nói tới một
loạt những biến cố thật sự thì có cả hai quan điểm về đường ngắn, đường dài và hai
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
190
quan điểm này thì khác nhau. Quan điểm đường ngắn có thể bị chi phối bởi sự kiện là
cả hai Sóng Thứ 6 và 7 đã chuyển vào ĐÊM và vì thế có nhiều người đang phản ứng lại
điều này bằng cách níu kéo lại những NGÀY của họ, mà đã qua đi rồi. Tuy nhiên trong
quan điểm đường dài, hai Sóng Thứ 8 và 9 đang gia tăng cung cấp những biểu hiện
chiếm ưu thế của sự sáng tạo. Do đó, nếu như ngay cả thời điểm 2031 có thể là rất thách
thức cho nhân loại, thì Tôi tin rằng tới khoảng năm 2041 thì mẫu giao thoa trong hình
8.1 sẽ đủ ổn định và sẽ có đủ người cọng hưởng được với Sóng Thứ 9 mà một thế giới
thái bình sẽ được tạo ra từ chỗ mà bạo lực sẽ không bao giờ được tái lập nữa. Nếu Sóng
Thứ 9 là sóng cuối cùng sẽ cai trị Trái Đất thì lý do mà nó được thiết kế như vậy là để
cho sự thành lập của Thời Đại Hoàng Kim không thể bị đảo ngược. Từ những bình luận
trước, chúng ta có thể hiểu điều này không phải suy nghĩ viễn vông mà là một kết quả
hợp lý của sự thật là sóng với tầng số cao nhất, Sóng Thứ 9, giờ đây đã được kích hoạt
và trong thời gian sắp tới sẽ ràng buộc để dần dần hình thành nhận thức con người của
chúng ta là ai.
Những NGÀY của Sóng Thứ 8 và 9 do đó vẫn còn nhiều thì giờ để hoạt động. Khi
chúng ta cọng hưởng sâu hơn với hai sóng này, những người sanh hoàn toàn trong hai
sóng này (sanh sau năm 1999 và 2011) sẽ tăng dần ảnh hưởng tới những biến cố toàn
cầu. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện tại những sóng cao nhất chỉ mới bắt đầu hiển lộ trong
đời sống công cộng, nhưng chúng ta có thể bảo đảm rằng đây là những sóng của tương
lai và cuối cùng những đặc tính của nó sẽ tiếp quản cuộc sống trên trái đất. Trong sự
cạnh tranh giữa các sóng, Sóng Thứ 8 và thậm chí hơn thế nữa Sóng Thứ 9 là kẻ đang
thắng cuộc. Điều này có nghĩa là những ai muốn để lại một thế giới tốt đẹp hơn cho con
cháu sẽ phải thận trọng trong việc thay đổi mô hình đang xảy ra sao cho phù hợp với
mẫu giao thoa mới để chuẩn bị cho họ và thế hệ sau với Sóng Thứ 9 này.
Những Quan Niệm Cổ Về Sự Chuyển Đổi Sóng
Như một phần hiểu biết về thế giới, Tôi tin điều quan trọng là nhận ra rằng nhiều
truyền thống và tôn giáo cổ xưa đã xem thời đại của họ đã dẫn dắt tới sự chuyển đổi mà
chúng ta vừa trải qua. Họ đã thấy thời gian không phải là chu kỳ theo nghĩa lập lại y
như cũ một cách vô tận mà cơ bản được dẫn dắt phù hợp với Kế Hoạch Thiêng Liêng.
Vũ trụ có một mục tiêu để hoàn thành. Chúng ta đã thấy trong hình 4.2 là nhân loại đã
đi từ sự hợp nhất tới phân chia và trở lại hợp nhất thông qua một loạt những hình 3D
với những phân cực khác nhau. Nhờ sự hiểu biết trực quan về điều này mà nhiều nền
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
191
văn hóa cổ xưa đã xem sự chuyển đổi mà chúng ta vừa trải qua như là bắt đầu của Kỷ
Nguyên Hoàn Tất. Đây không phải chỉ là sự kết thúc hay bắt đầu của một chu kỳ mới.
Sự chuyển đổi là sự khởi đầu của một mẫu giao thoa mới đang thiết lập một giai đoạn
mới cho sự sống.
Để tìm sự hỗ trợ cho tư tưởng là người cổ xưa đã xem sự chuyển đổi gần đây quan
trọng như thế, chúng ta có thể bắt đầu với quan điểm của người Hindu (Ấn Độ) là vũ trụ
được tạo ra bởi 108 phép biến hóa của Thần Shiva, thần sáng tạo và hủy diệt. Điệu vũ
của thần Shiva là phản ảnh của 12 lần chuyển đổi giữa đỉnh và đáy (sáng tạo và hủy diệt,
nếu bạn thích gọi như thế) trong mỗi 9 sóng sáng tạo khác nhau (9x12 = 108 biến hóa,
mà hoàn tất vào Oct/28/2011). Con số 108 tình cờ cũng đóng vai trò quan trọng trong
Phật Giáo và nhiều truyền thống Đông Phương khác. Một ví dụ nữa là sự sắp xếp số
của Trung Quốc về 9x13 = 117 vảy trên hình con rồng vũ trụ, mà tương tự chúng ta có
lý do để gán với sự chuyển đổi sóng vào Oct/28/2011.
Sự xắp xếp số của Ấn Độ và Trung Quốc thật sự không biết có từ lúc nào, nhưng
theo chữ khắc của người Mayan ở tượng Tortuguero Monument số 6, thần sáng tạo
Bolon Yookte K’uh (có nghĩa là 9 Bước hay 9 Người Trợ Giúp) sẽ xuất hiện hoàn toàn
đầy đủ khi baktun thứ 13 hoàn tất (7 NGÀY và 6 ĐÊM). Nói cách khác, sự xuất hiện
hoàn toàn của vị thần này có nghĩa là toàn thể 9 sóng đã được kích hoạt và điều này sẽ
tới vào Oct/28/2011, mỗi sóng phải trải qua 13 bước giống như chúng ta có thể hiểu
rằng thần rắn Plumed Serpent (giống như bên Trung Quốc) đã chuyển đổi giữa 117 vảy
trên lưng nó. Một kết luận quan trọng lấy ra từ những ví dụ này là theo quan điểm của
các truyền thống cổ là không có nhiều hơn 9 Sóng. Điều này có nghĩa là Sóng Thứ 9 tạo
ra tâm thức cao nhất cho chúng ta và cũng có nghĩa là đẳng cấp của bậc 9 thật sự là
điểm đích để chúng ta nhắm tới.
Mọi quan sát này đều chỉ về bản chất nhất thời của sự chuyển đổi mà chúng ta, nhân
loại, đã trải qua gần đây. Nhưng xa như chúng ta biết, người Maya cổ xưa hay những
dân tộc cổ đại khác đã không nói gì nhiều về tương lai sau 9 sóng này. Khi nói tới
người Maya, cách sử dụng con số trong việc tiên tri chỉ đi tới số 13, và chúng ta bây ở
trong chu kỳ baktun thứ 14. Có thể là sự thiếu sót kiến thức của họ là bởi vì những gì
sắp sửa xảy ra trên trái đất thì không có gì rõ ràng. Vũ trụ cho chúng ta một cơ hội để
tạo ra tâm thức hợp nhất (tâm thức nhất nguyên), một sản phẩm của Sóng Thứ 9 với
tầng số cao nhất, nhưng sau đó tương lai thì tùy thuộc vào con người và sự chọn lựa của
chúng ta, từ cá nhân tới tập thể nhân loại, đều quan trọng cho những gì sẽ hiện thành.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
192
Khi xem xét sự thiếu vắng tin tức trong những truyền thống cổ đại (mà tất cả được
tạo ra bởi Sóng Thứ 6) về thời đại của chúng ta, chúng ta cũng nên nhìn nhận rằng
những truyền thống này bị đàn áp bởi Hình 3D Thiện và Ác. Như ta đã thấy ngay cả khi
họ biết rõ ràng là sự sáng tạo được tạo ra bởi 9 Sóng, song họ không có kiến thức về
loại tâm thức mà Sóng Thứ 7, 8, 9 sẽ đem lại cho nhân loại và loại hiện tượng gì mà
loại tâm thức này sẽ thể hiện trong thời đại chúng ta. Điều này có nghĩa là khi họ cố
nhìn về tương lại, bảo đảm là họ sẽ bị phụ thuộc vào tính nhị nguyên của Sóng Thứ 6
trong việc tìm hiểu tầm nhìn của mình. Điều này sẽ tạo ra một quan điểm về Thượng Đế
là phán xét (như đã được bàn kỹ trong chương 5). Do đó, cho dù ngay cả những tôn
giáo dòng Abrahamic cũng có gợi ý về một kịch bản với những tiềm năng đã được nói
tới ở đây, những kịch bản gọi là ngày tận thế của họ thường rõ ràng là phán xét trong
bản chất và gồm những tư tưởng về chia ra giữa “cái tốt” từ “cái xấu”, tận diệt của thế
giới, và tương tự, là những gì bạn mong đợi từ những người bị chi phối bởi hình 3D của
tính nhị nguyên. Cá nhân tôi, Tôi tin rằng khái niệm về Ngày Phán Xét đơn giản chỉ là
một sự phóng chiếu của hình 3D nhị nguyên của Sóng Thứ 6 lên chúng ta và vì thế
Đấng Sáng Tạo chưa hề có một ý định nào để kết thúc thế giới hay để phạt bất cứ ai.
Những gì hỗ trợ cho câu nói trên là căn cứ theo mẫu giao thoa trong hình 8.1, chúng
ta dường như không tiến gần tới bất cứ gián đoạn quan trọng nào trong sự tiến hóa của
những sóng để có thể biện minh cho quan niệm là thế giới đã đến lúc phải chấm dứt.
Thay vào đó những sóng tạo ra những hình 3D của chúng ta có lẽ đơn giản tiếp tục chảy
mãi không ngừng. Dĩ nhiên điều này không thể ngăn chận nhân loại tự kết thúc thế giới
hay tạo ra một kịch bản ngày tận thế tiêu hủy, nhưng Tôi vẫn cảm thấy điều quan trọng
là phải thấy cho được là không có kế hoạch tiêu hủy thế giới được tích hợp trong 9
Sóng Sáng Tạo. Những kịch bản tận thế được kéo dài bởi những người với tâm trí nhị
nguyên. Hơn nữa, chẳng có gì để xác định là mẫu sóng đưa đến bất kỳ gián đoạn nào
dưới dạng Ngày Phán Xét, khi mọi chuyện ngưng lại và loài người sẽ được phân chia
thành hai nhóm “tốt” và “xấu”. Thay vào đó, những sóng sáng tạo từ đây sẽ đơn giản
tiếp tục tiến bước tới vô cực, và tương lai của chúng ta và nhân loại sẽ được tạo cho phù
hợp với những sóng mà chúng ta cọng hưởng.
Song, mặc dù bắt nguồn từ trong Sóng Thứ 6, Tôi nghĩ là có những quan điểm cụ
thể từ những tôn giáo trên thế giới mà cho thấy là có vài cuốn sách chia sẻ cùng quan
điểm trên đây về Kỷ Nguyên Hoàn Tất mà chúng ta hiện đang bước vào sau sự chuyển
đổi sóng. Trong Thế Mạt Luận của Do Thái, ví dụ, một tư tưởng nổi bật là nhân loại sẽ
trở về lại “Vườn Địa Đàng”. Sự trở lại như thế, Tôi tin rằng, nên được dịch có nghĩa là
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
193
sẽ có tới một lúc khi Sóng Thứ 9 chi phối nhân loại. Lý do cho sự kết nối này với
“Vườn Địa Đàng” là vì Sóng Thứ 9 giống với ý thức của Sóng Thứ 5, là sóng đã tạo ra
Vườn Địa Đàng trước hết. Do đó, chỉ có lý nếu Sóng Thứ 9 hàm nghĩa sự trở lại trạng
thái ý thức giống như trong Sóng Thứ 5.
Căn cứ theo truyền thống Do Thái, tùy thuộc vào cách hành xử của nhân loại, sự trở
lại Vườn Địa Đàng này được cho là sẽ xảy ra khoảng 6,000 năm kể từ khi trục xuất của
Adam và Eve khỏi Vườn Địa Đàng. Ngày mà sách Mạt Thế Luận Do Thái ấn định cho
sự kiện này là 3761 BCE, và như thế, sự biến đổi này được trông đợi sẽ xảy ra trong
khoảng 225 năm sắp tới. Một quan điểm như thế thì rất phù hợp với quan điểm được
trình bày ở đây, với sự khác biệt là bây giờ chúng ta có một sự giải thích về tại sao một
cuộc “trở về” lại “Vườn Địa Đàng” như thế sẽ thật sự xảy ra dựa trên sự cọng hưởng
mà con người phát triển với những mẫu sóng nền tảng của Sáng Tạo. Một tương đồng
khác là cách hành xử của nhân loại sẽ là đặc trưng cơ bản của kỷ nguyên này. Nó không
phải là chuyện sẽ xảy ra một cách tự động.
Hơn nữa, trong sách Khải Huyền (Book of Revelation), cuốn sách chót của bộ Kinh
Thánh, có những mô tả về sự phát triển cấp tiến dưới dạng 7 kèn trumpets, 7 lọ thuốc,
v.v.., chỉ ra là vũ trụ đã phát triển theo những quá trình trong 7 bước. Đây chính là điều
chúng ta đã thấy trong chương 3 và 6, mãi cho tới 2011, nhiều quá trình thúc đẩy bởi 9
sóng được thành lập từng bước qua 7 NGÀY (xem hình 6.9). Cũng trong những phép
ẩn dụ này, chúng ta được dẫn dắt tới ngày hôm nay theo một kế hoạch, và cùng cuốn
sách đã tiếp tục mô tả một cuộc gặp gỡ với Đấng Thiêng Liêng (Rev 20:11). Thế Mạt
Luật của KiTô giáo thường xuyên tiên đoán về một Vương Quốc sắp tới của Thượng
Đế (mà theo lời giải thích của tôi là điều mà được tạo ra từ sự cọng hưởng của những
người với Sóng Thứ 9), và một trong những câu cuối cùng trong sách Khải Huyền nói
về những người có đạo đức thì được “đặc quyền” với Cây Sự Sống: “Những kẻ được
phước là những kẻ đã rửa sách áo quần để có quyền với Cây Sự Sống và có thể bước
qua cửa để vào thành phố”. Điều này dường như thích hợp cho Kỷ Nguyên Hoàn Tất và
chỉ ra rằng đặc biệt là bây giờ Cây Sự Sống đã được khoa học tân tiến tái khám phá.
Chỉ lúc này chúng ta mới có thể hiểu toàn bộ sự tiến hóa của sáng tạo kể từ lúc vũ trụ ra
đời cho tới ngày nay như là một kết quả của những sóng phát ra từ Cây Sự Sống.
Kinh Koran cũng có đoạn mô tả lý thú về Ngày Phán Xét, được viết trong Cleaving
Asunder Sura 82:17-19: “Và điều gì khiến anh hiểu Ngày Phán Xét là gì? Một lần nữa,
cái gì sẽ làm anh hiểu Ngày Phán Xét là gì? Là một Ngày mà không có linh hồn nào
kiểm soát bất cứ gì của linh hồn khác và sự chỉ huy trong ngày này sẽ hoàn toàn thuộc
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
194
về Allah’s (Thượng Đế)”. Sự nhấn mạnh về tánh bình đẳng giữa con người trong kinh
này đã cung cấp hướng dẫn cho những ai muốn tham dự vào Vương Quốc của Thượng
Đế thì không tìm cách kềm kẹp kẻ khác. Điều này cũng chỉ ra Sóng Thứ 9, mà sự thăng
hoa tánh nhị nguyên của sóng được thiết kế để chấm dứt sự kềm kẹp trên.
Thể Hiện Định Mệnh Nhân Loại hoặc Đi Theo Vết
Những Chu Kỳ Lập Lại Y Hệt.
Ý kiến đề xuất khắp cuốn sách này là nhân loại đã có một định mệnh an bài mà
chúng ta nên lấy làm tiêu điểm, điều này tự nó có thể gây tranh cãi. Có lẽ phần lớn
người Tây Phương tân tiến sẽ rất hoài nghi điều này, và nhiều người muốn tin là những
biến cố trên thế giới là tình cờ và không bị lệ thuộc vào một kế hoạch thời biểu nào. Đó
là bởi vì trên bề mặt thế giới có vẻ như được thúc đẩy ngẫu nhiên ít nhiều bởi những
khủng hoảng quyền lực, âm mưu, và những khám phá khoa học tình cờ. Những cách
giải thích thay thế khác chẳng hạn như cách ở đây thì không được cân nhắc. Do đó
dường như dễ dàng để đi tới kết luận là thế giới này sẽ chẳng đi đâu cả và cũng chẳng
có mục tiêu nào để đi tới.
Điều Tôi hy vọng là cuốn sách hiện tại đã chỉ ra quan điểm về sự tiến hóa này là
ngẫu nhiên và chưa được khám phá thì không đúng. Nếu anh cơ bản biết có sự hiện hữu
của 9 sóng sáng tạo mà đã tuần tự được kích hoạt để thành lập vũ trụ như ngày hôm nay,
thì có vẻ rõ ràng là những biến cố không phải là ngẫu nhiên hoặc vô nghĩa mà ngược lại
thay vào đó phải chịu theo một thời biểu khá chính xác. Luôn luôn có một từ trường
lượng tử cơ bản của các sóng cai quản sự hiện hữu của chúng ta, và đa số hiện tượng
trong thời đại chúng ta có thể được hiểu dựa trên nền tảng này cung cấp. Ngay cả khi
những bước sóng này với bước sóng quá dài nằm ngoài khả năng chúng ta có thể phát
hiện, nhưng dù sao chúng cũng hiện hữu và là những yếu tố chính quyết định vũ trụ
được thành lập như thế nào. Tôi tin rằng điều này rất quan trọng để nhận ra rằng toàn
bộ 9 sóng có một chiều hướng và do đó sự sáng tạo vũ trụ có một mục đích. Quan điểm
này về phương hướng cho sự tiến hóa thì đồng nhất với những tài liệu tham khảo kể
trên về tâm linh cổ đại và những truyền thống tôn giáo. Nói cách khác, sự sáng tạo đã đi
hướng nào đó ngay từ lúc khởi đầu và khi chúng ta có thể hiểu từ mô hình trình bày ở
đây thì kết quả kết thúc dự định đã là một phần của bản chất vũ trụ kể từ lúc mới ra đời.
Bởi vì sự nhấn mạnh vào thể hiện định mệnh nhân loại (nội tại của thiết kế các sóng),
Tôi nghĩ điều quan trọng cần nói rõ ở đây là thế giới quan cơ bản thì rất khác biệt với
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
195
quan điểm của những người chủ trương cách nhìn hoàn toàn theo chu kỳ của vũ trụ, phổ
biến hơn trong số người thường hơn là giới nghiên cứu chính hiệu. Tại thời điểm này
Tôi cũng thấy điều tối quan trọng là mỗi chúng ta cần rõ ràng lựa chọn giữa vũ trụ
quan có định hướng hay là vũ trụ quan cơ bản theo chu kỳ.
Trong những thập niên gần đây một thế giới quan nơi mà vũ trụ không có định
hướng đã được phổ biến rộng rãi. Các nhà tử vi học, là những người đang nghiên cứu
những chu kỳ tái lập mãi mãi, chẳng hạn như chu kỳ 26,000 năm (precessional cycle),
hoặc là Great Year, thường thường hay ủng hộ quan điểm này. Để qua một bên, Tôi
không thấy có dấu vết nào chứng minh rằng chu kỳ này đã có vai trò trong sự tiến hóa
vũ trụ, điều quan trọng cần biết là thế giới quan như trên mà căn cứ vào sự lập lại y hệt
của những chu kỳ thiên văn có những hậu quả quan trọng trong cách bạn tiến về tương
lai. Nếu bạn nhìn đến vũ trụ như là một sản phẩm của những chu kỳ lập đi lập lại mãi
mãi mà không có chủ đích hay mục tiêu tối hậu, bạn rõ ràng sẽ không có ý định tạo lập
một Thời Đại Hoàng Kim. Ngược lại, nếu bạn nhìn tới cuộc đời cá nhân mình trong bối
cảnh mà Tôi đã trình bày ở đây – như là thành phần của một kế hoạch hướng về Thời
Đại Hoàng Kim tạo ra bởi những sóng có chủ đích và phương hướng – thì bạn sẽ suy
nghĩ nhiều hơn về cách tạo dựng những đáp án lâu dài cho nhân loại.
Tôi nói thêm ở đây là 9 sóng sáng tạo không thiếu thành phần chu kỳ. Rõ ràng nó có
thành phần như thế, như giai đoạn NGÀY-ĐÊM của đường sóng sin (xem hình 2.8) có
thể được gọi là chu kỳ. Điểm muốn nói là trong những sóng sáng tạo này, chu kỳ không
hoàn toàn lập lại giống nhau, nhưng là một phần của một chuỗi những hình 3D mà với
mỗi bước tiến mới được thể hiện rõ ràng hơn. Thí dụ, NGÀY Thứ 5 hay 55 của một
sóng tạo ra những biểu hiện của sóng sâu sắc hơn NGÀY Thứ 3. Nói cách khác, các
sóng đang di chuyển giống như một con rắn mà người cổ đại đã tượng trưng. Do đó
“Chu Kỳ” mà là thành phần của những sóng sáng tạo không hoàn toàn giống nhưng tạo
thành phần của những sự phát triển với thể hiện sâu sắc. Bởi vì mỗi sóng có chuyển
động tiến về trước và phương hướng nên chúng ta có thể nói là chúng có mang theo một
mục đích đặc biệt khi được phát ra từ Cây Sự Sống. Khi chúng ta nhìn vào những mục
tiêu khác nhau của các sóng này trong bối cảnh của sự kích hoạt tuần tự của 9 sóng,
chúng ta có thể hiểu rằng tổng số những mục tiêu này chính là Biểu Đồ Định Mệnh
Nhân Loại. Tôi không thể nhấn mạnh đủ tầm quan trọng mà người đọc chọn đi theo
những sóng có định hướng hay mục tiêu để thành lập một Thời Đại Hoàng Kim, hoặc đi
theo những chu kỳ thiên văn hay sinh học mà sẽ lập đi lập lại chẳng hạn như chu kỳ
26,000 năm. Những chu kỳ như thế, ngay cả khi nó có thể có vài ảnh hưởng năng lượng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
196
cũng sẽ không thể tạo ra một sự biến đổi lâu dài trong trạng thái tâm trí của nhân loại. Ở
đây cũng nên để ý là trong số hằng ngàn chữ khắc niên lịch của người Maya cổ đại, chu
kỳ 26,000 năm không hề được nhắc tới và do đó nó không có vai trò trong hệ thống lịch
Maya.
Việc chọn Bản Đồ Định Mệnh Nhân Loại trong thực hành có nghĩa là không dung
nạp những vũ trụ quan hay hệ thống lịch mà căn cứ vào những chu kỳ lập đi lập lại y
hệt hoặc những niềm tin là những biến cố trên thế giới xảy ra một cách ngẫu nhiên. Nếu
sách này, dựa trên bằng chứng thực nghiệm, đã có thể thuyết phục bạn rằng mục đích
đời sống cá nhân là một phần của việc mở cửa vào Thời Đại Hoàng Kim bằng hành
động phù hợp với hình 3D của Sóng Thứ 9 và tạo cọng hưởng với sóng này, thì điều
này sẽ có những hậu quả rất quan trọng cho khả năng của bạn để hiểu và đối phó với
những khó khăn có thể gặp phải trong thời gian sắp tới (đã được bàn luận sơ sài trong
chương 8). Nếu bạn đang phát triển cọng hưởng với Sóng Thứ 9, thì những khó khăn
này sẽ không cần thiết làm bạn nản chí mà thay vào đó có thể xem như những khó khăn
tạo ra bởi những sóng cơ bản của tính nhị nguyên. Mặt khác giống như nhiều người nếu
bạn tin rằng vũ trụ đơn giản đi qua những chu kỳ giống hệt nhau, thì bất cứ khó khăn
nào cũng đều có thể được hiểu như là một cuộc suy thoái dài hạn hoặc đơn giản là vũ
trụ này thì không phải là một nơi tốt để ở. Vì thế sự lựa chọn giữa một vũ trụ có mục
đích được thiết kết để tạo nên một Thời Đại Hoàng Kim và một vũ trụ với những chu
kỳ lặp lại y hệt mà không đi tới đâu thì rất quan trọng cho bạn, là người sẽ có mặt trong
những thời kỳ sắp tới – và cách bạn tiếp cận thế nào với những thời kỳ này.
Bản Ngã và Siêu Việt Bản Ngã Bằng Sóng Thứ 9
Lý do mà Thời Đại Hoàng Kim được sắp đặt để ra đời trong thời gian sắp tới là loài
người có thể được mong đợi thay đổi khi họ cọng hưởng sâu đậm với Sóng Thứ 9. Khi
điều này xảy ra, chúng ta sẽ thăng hoa bản ngã của mình và cá tính cùng phương thức
hoạt động của chúng ta sẽ thay đổi. Để thấy điều này có lẽ ở đây chúng ta nên bàn luận
về bản ngã và mối tương quan của nó với phần thượng hồn. Bản ngã xuất hiện từ sự trải
nghiệm bị tách rời (biệt cư) khỏi Đấng Thiêng Liêng, mà như chúng ta đã thấy được tạo
ra bởi sự trải nghiệm về những phần tối của hình 3D. Trên cơ sở của bản ngã này, một
cá tính được tạo ra để phục vụ sự biệt cư này. Có nhiều giáo lý tâm linh trong những thế
kỷ qua được thành lập với ý định để con người nhận thức bản ngã của mình, hay là
ngay cả triệt tiêu bản ngã, như đã thể hiện trong những giáo lý Á Đông. Những giáo lý
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
197
này thấy được sự nghiện phục vụ cá nhân của bản ngã và điều này khác với lối sống
tâm linh dựa vào phần thượng hồn như thế nào. Nếu chúng ta thường xuyên chỉ nhắm
vào phục vụ cá nhân mình và tách rời những người khác, thay vì phục vụ cho kế hoạch
thiêng liêng, thì chúng ta quả thật bị dính chặt với năng lực của bản ngã. Tuy nhiên bản
ngã không phải là một thực thể tâm lý vĩnh cửu mà chỉ là một vật mà có lịch sử và lịch
sử này có liên hệ trực tiếp với sự tiến hóa của 9 sóng.
Bản ngã không tồn tại trong Sóng Thứ 5 vì lý do đơn giản là vào lúc đó không có
những vùng tối trong hình 3D để tạo ra kinh nghiệm về một cá nhân bị tách rời khỏi Cội
Nguồn. Như Tôi đã nói sơ về điều này trong chương 5, một con người trong bất kỳ ý
nghĩa nào giống như người hiện đại thì đã không xuất hiện cho tới thời kỳ giữa Sóng
Thứ 6 (550 BCE), và kể từ đó bản ngã xuất hiện. Bởi vì Sóng Thứ 9 chia sẻ cùng sự
vắng mặt của bộ lọc tối với Sóng Thứ 5, do đó điều này có nghĩa là theo thời gian bản
ngã sẽ biến mất. Từ quan điểm này, bản ngã có lẽ không phải là một vật nên bị “giết”,
mà nên được thăng hoa khi chúng ta leo lên đỉnh của kim tự tháp 9 tầng. Một khi chúng
ta kiếm được dụng cụ để làm điều này và mở hết lòng mình cho Đấng Thiêng Liêng và
qui phục làm theo sự hướng dẫn, thì chúng ta sẽ thăng hoa bản ngã và nới lỏng được sự
kềm kẹp của nó. Một cách tình cờ, phần lớn những gì nói ở đây về thăng hoa bản ngã
cũng áp dụng ngang hàng cho thăng hoa cái ác.
Chỗ khác biệt của bản ngã trong những sóng khác nhau gây ra hậu quả cho những
loại cá tính và cách hành xử chúng ta tạo ra trong những sóng này, như được gợi trong
Bản Đồ Định Mệnh Nhân Loại trong hình 9.1. Ở đây chúng ta sẽ xét cách nào có thể
so sánh sự song song giữa những hình 3D khác nhau với kế hoạch phát triển con người
của Robert Kegan. Do đó những giai đoạn phát triển mà con người trải qua trong đời
sống là những phản ảnh của sự cọng hưởng với những hình 3D khác nhau (hình 9.1).
Vì thế, trong một ý nghĩa tương tự, những hình 3D khác nhau đã được kích hoạt
trong chuỗi trình lịch sử nhân loại thì cũng giống như những hình 3D khác nhau đang
được kích hoạt trong đời sống con người. Cuộc leo thang của một cá nhân bắt đầu với
trạng thái hợp nhất của hài nhi với mẹ nó trước khi bản ngã xuất hiện. Điều này giống
như trạng thái hợp nhất với thiên nhiên
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
198
Hình 9.1
và Đấng Thiêng Liêng mà loài người đã trải nghiệm dưới ảnh hưởng của Sóng Thứ 5.
Giai đoạn kế tiếp, là giai đoạn tính nhị nguyên của Sóng Thứ 6, chúng ta có khuynh
hướng phát triển mối quan hệ “đế quốc” “imperial”, mà xem người khác như những kẻ
phục vụ cho mình, và đây là lúc bản ngã chúng ta ra đời. Ở tầng kế tiếp, tương ứng với
tuổi dậy thì, chúng ta thường trở nên rất nhạy cảm với những gì người khác nghĩ và tạo
nên số phận dựa vào đây. Điều này tương ứng với Sóng Thứ 7, bởi vì bóng tối đã không
cung cấp đủ sự dẫn dắt từ Cội Nguồn và do đó đã khiến chúng ta trở nên tùy thuộc vào
người khác. Trong tầng kế tiếp, chúng ta bắt đầu tự giải phóng khỏi những hạn chế xã
hội và cho phép ánh sáng của Sóng Thứ 8 rớt vào để truyền cảm hứng cho mình. Ở mức
tiến hóa này những cá nhân trở nên tự-tác: cuộc sống của họ không tạo ra bởi tâm lý đế
quốc của mình hoặc bởi những quan tâm về phù hợp với xã hội.
Cuối cùng ở tầng 9, không còn bộ lọc tối để chia rẽ chúng ta với Đấng Thiêng Liêng,
và vì lý do này nên không có nghĩa lý để nói đời sống của chúng ta là tự tạo. Thay vào
đó, nếu chúng ta đạt tới trình độ phát triển này (chỉ có thể có sau khi Sóng Thứ 9 được
kích hoạt vào 2011) thì ý muốn và cách chúng ta thành lập cuộc sống chủ yếu là một
sản phẩm của sự hợp nhất giữa ta với Đấng Thiêng Liêng chứ không phải của bản ngã.
Rồi đời sống như trong hình 9.1 sẽ trở nên “tự biến đổi”, nói cách khác, nội tâm chúng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
199
ta (our selves) sẽ tự biến đổi vì sự hợp nhất của ta với Đấng Thiêng Liêng để triệt tiêu
cho bản ngã. Ở mức này bản ngã không hoạt động với một chủ đề riêng biệt, hoặc nói
đúng hơn, chủ đề chia rẽ, và hành động của chúng ta dần trở thành những biểu hiện hợp
nhất với Thượng Đế (All That Is Divine). Trình độ tự biến đổi và sự thăng hoa bản ngã
này chỉ mới bắt đầu có thể xảy ra. Thí dụ Tôi tin rằng sự thức tỉnh lẫn nhau của Patricia
Albere là một phản ảnh của bản chất tự biến đổi trong Sóng Thứ 9 và là một sản phẩm
vắng bóng bộ lọc trong hình 3D của sóng. Có thể có những bài giảng khác giúp đỡ
trong sự chuyển tiếp lên cách sống của tầng 9 mà tôi không biết đến.
Ở tầng 9, chúng ta ít khi nói về ý muốn tự do (free will) bởi vì nếu bản ngã không
đóng vai trò tách biệt và hành động của mình lại được định trước trong sự cọng hưởng
với Thượng Đế thì khó mà nói về một ý muốn tự do được. Ở tầng cao nhất này, khi
chúng ta hoàn toàn cọng hưởng với Sóng Thứ 9 thì đời sống sẽ không phải chuyên về
những chủ đề cá nhân riêng biệt mà là để hoàn thành một phương diện của kế hoạch
thiêng liêng dành cho nhân loại. Sẽ không còn bản ngã riêng biệt để hành xử theo mong
muốn cá nhân. Thay vào đó, khi ở trong cùng trạng thái tâm thức hợp nhất chúng ta sẽ
qui phục phần thượng hồn của mình và sẽ hành động thay mặt cho Đấng Thiêng Liêng
và kế hoạch của Thượng Đế dành cho nhân loại.
Sự biến mất của bản ngã trong Sóng Thứ 9 có thể được đánh giá cao bởi một số
người nhưng không cao với những người khác. Nhưng làm sao chúng ta có thể tới được
Thời Đại Hoàng Kim của Thái Bình trừ phi tất cả chúng ta gỡ bỏ mọi chương trình nghị
sự mà đi ngược lại, không ăn khớp với kế hoạch thiêng liêng. Chỉ khi nào nếu mọi hành
động của chúng ta được thông báo bởi liên lạc viên của mình với Thượng Đế thì quan
điểm lớn nhất có thể được đưa vào xem xét mà trong đó tất cả đời sống cá nhân có thể
được hài hòa. Sự hân hoan sẽ không bao giờ có được từ chương trình nghị sự riêng tư
của bạn, mà có từ sự hài hòa tạo ra từ Thượng Đế.
Trở Nên Một Hiện Thân Của Ý Thức Hợp Nhất
Lý do mà Sóng Thứ 9 được mong đợi để tạo nên một Thời Đại Hoàng Kim trong thời
gian tới là vì hình 3D của sóng không có bất kỳ bóng tối hay tính nhị nguyên nào, nên
có nghĩa là những chương trình nghị sự gây tranh cãi của bản ngã sẽ lùi đi. Với tính
nghị nguyên không còn nữa thì sự chia cách và chia rẽ giữa con người sẽ biến mất cùng
với sự phân biệt hay/dở. Với những ai có thể phát triển cọng hưởng với tầng số của
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
200
Sóng Thứ 9 thì sự nhận thức về những từ trường đen tối sẽ không còn chiếu vào Thiên
Nhiên hay Đấng Thiêng Liêng, và điều này lần lượt sẽ tạo ra một nền tảng sâu sắc khác
cho sự tồn tại của nhân loại trong Thời Kỳ Hoàng Kim. Phát triển cọng hưởng với Sóng
Thứ 9 thì cũng giống như di chuyển theo phương hướng để cuối cùng đạt được trạng
thái tâm thức hợp nhất.
Làm cách nào mà loài người cùng nhau đạt được trạng thái của tâm thức hợp nhất
mà biểu đồ định mệnh chỉ tới? Chuyện này có nhiều khía cạnh, một trong số đó là học
cách nhận biết Sóng Thứ 9 và những hậu quả của sóng trong bản thân mình và nhân
loại. Bởi vì từ nay nhân loại sẽ luôn luôn có thể truy cập sóng này, và sẽ không bao giờ
đi vào ĐÊM quá 18 ngày liên tục, do đó dễ dàng để theo dõi những ảnh hưởng của sóng
trong chúng ta. Qua đó, chúng ta có thể trải nghiệm trực tiếp những hậu quả đối với cá
nhân của sóng này nhiều hơn so với những sóng có tầng số thấp hơn (và chu kỳ sóng
dài hơn).
Tuy nhiên, mẫu giao thoa hiện thời thì phức tạp và cũng liên quan tới Sóng Thứ 6, 7
và 8. Sự phức tạp này cho ta lý do thậm chí lớn hơn để theo dõi những quá trình cá
nhân bằng cách theo Sóng Thứ 9 để kiểm soát chính mình. Một yếu tố quan trọng ở đây
là sự quyết định của mình sẽ cam kết chọn cái gì – nhị nguyên hay hợp nhất – và sự đặt
ý định cho tương lại dựa trên điều này. Nếu mình không biết mình muốn đi đâu trong
vùng biển bão tố, thì có la bàn cũng chẳng ích lợi gì.
Tuy nhiên, Tôi sẽ giả định là độc giả không muốn đi tới tâm thức hợp nhất của Sóng
Thứ 9. Sau rốt, sự hợp nhất, và sự biến mất của những từ trường đen tối của ý thức,
dường như là mục đích của kế hoạch thiêng liêng, và chúng ta bây giờ đang sống trong
thời điểm có thể thực hiện được điều này. Riêng cá nhân tôi, rõ ràng ý thức hợp nhất là
cái mà toàn bộ sự sáng tạo này đang phấn đấu cho và vì thế đó cũng là điều bảo đảm
duy nhất cho sự tồn tại của loài người. Tuy thế, sẽ có những khó khăn và đôi khi sẽ đòi
hỏi lòng can đảm của chúng ta để hoàn thành kế hoạch này. Bảo đảm sẽ có những áp
lực chống lại sự thể hiện, không phải là ít từ những người đã quen thuộc với lối sống
nhị nguyên hoặc có lẽ không thể thấy sự lựa chọn khác. Vào lúc này kiến thức và việc
cọng hưởng với Sóng Thứ 9 của sự sáng tạo có thể trở thành vật quí giá nhất. Có thể đối
với một số người Sóng Thứ 9 sẽ tự động làm chuyện của nó giống như mọi sóng khác
đã làm trong quá khứ, và vì thế có thể chẳng cần biết hay đi theo Sóng Thứ 9, nhưng
Tôi không nghĩ vậy. Tôi nghĩ rằng tương lai của chúng ta tùy thuộc vào đủ số người đặt
ý tưởng cọng hưởng với Sóng Thứ 9 và thể hiện điều này qua hành động của họ.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
201
Ở đây Tôi sẽ đưa ra một vài ý kiến về những gì chúng ta phải làm để đạt ý thức hợp
nhất, nhưng một lần nữa một phần quan trọng cho việc này luôn luôn là ý muốn của
mình.
1. Hiểu bản chất của sự sáng tạo
Việc hiểu biết bản chất vũ trụ hoạt động như thế nào và tiến hóa theo một qui
trình đã định sẵn là quan yếu cho việc biết mình muốn đi về đâu. Một phần của kiến
thức này, cũng là một phần quan trọng của Thời Kỳ Hoàn Tất, đã được cung cấp trong
sách này. Có thể có những người cọng hưởng được với Sóng Thứ 9 mà không hiểu gì
về quá trình liên hệ. Mặt khác, sự hiểu biết như thế cũng có thể đóng vai trò tích cực
quan trọng cho trái đất. Tôi tin rằng điều này sẽ trợ giúp cho những kế hoạch của con
người khi biết sóng sáng tạo hiện hữu và cũng là thành phần của kế hoạch thiêng liêng
dành cho sự tiến hóa của hành tinh. Tôi cũng tin rằng bây giờ chúng ta đã biết mình từ
đâu đến và có mục đích đi về đâu. Vì những lý do này, xin hãy phổ biến kiến thức này
và thành lập những cộng đồng quanh Sóng Thứ 9!
2. Dùng máy tính để canh chỉnh mình với Sóng Thứ 9
Như đã bàn ở trên, Sóng Thứ 9 được kích hoạt vào Mar/09/2011, và đã liên tục
xen kẽ giữa NGÀY và ĐÊM sau mỗi 18 ngày. Như mọi sóng sáng tạo, chu kỳ của Sóng
Thứ 9 có 4 giai đoạn, giai đoạn NGÀY đi lên dài 9 ngày, giai đoạn NGÀY đi xuống dài
9 ngày, giai đoạn ĐÊM đi xuống dài 9 ngày và giai đoạn ĐÊM đi lên dài 9 ngày. Như
với nhiều sóng khác đã được khảo sát trong sách này, những giai đoạn lên xuống này có
những đặc tính khác nhau và sẽ ảnh hưởng theo nhiều cách tới những kế hoạch trong
đời mình được phát triển như thế nào. Bởi vì hình 3D Sóng Thứ 9 không có bộ lọc tối
nên sẽ có khuynh hướng thành lập ý thức hợp nhất trong những NGÀY, trong khi ở
những ĐÊM ảnh hưởng này không được rõ ràng. Một người cọng hưởng với sóng này
sẽ thấy rằng trong những NGÀY mọi kế hoạch mà phù hợp với và hỗ trợ cho sự trổi
dậy của ý thức hợp nhất sẽ được tiến triển tốt đẹp.
Những giai đoạn về ĐÊM của Sóng Thứ 9 (như trong mọi sóng) có tính chất khác
với NGÀY. Trong ĐÊM, Sóng Thứ 9 hầu như bị ngừng kích hoạt. Nhưng ĐÊM cũng
có mục đích: thay vì cứ việc tiếp tục tiến tới phía trước, bạn sẽ phải đương đầu với
những vấn đề chưa được giải quyết từ nơi chính mình hay từ quá khứ của nhân loại (sự
thành lập của những sóng thấp hơn) mà không phù hợp với ý thức hợp nhất của Sóng
Thứ 9. ĐÊM cũng là những giai đoạn khi bạn cần giải quyết những hành xử của toàn
thể nhân loại, như là Sóng Thứ 9 phá vỡ sự chia rẽ giữa định mệnh cá nhân và tập thể.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
202
Chúng ta đã thấy từ trước, mọi sự tiến hóa nhân loại xảy ra theo từng giai đoạn với
những sóng sáng tạo. Cũng không có gì khác biệt với Sóng Thứ 9, nếu bạn muốn phát
triển đời sống của mình dựa trên sự cọng hưởng với hình 3D của ý thức hợp nhất thì
chuyện bạn đi theo chu kỳ của Sóng Thứ 9 như là một cách để chỉnh sửa lối đi của
mình cho đúng. Theo thời gian, Tôi cũng tin Sóng Thứ 9 sẽ trở thành một yếu tố đồng
bộ hóa cho một số người trong nhân loại đã cam kết làm thành phần của sự trở lại hợp
nhất này. Để học cách đi theo Sóng Thứ 9 (cái la bàn trong lúc trời giông bão) và xây
dựng cuộc sống cùng những kế hoạch của mình theo những giai đoạn lên xuống, bạn
cần biết sóng này được thành lập như thế nào với thời gian (xem phần tới). Như đã nói,
nhận biết được sự hiện hữu và hiểu Sóng Thứ 9 bằng trí tuệ thì tốt và có ý nghĩa, nhưng
kiến thức này trong phần lý trí không thể thay thế cho sự trải nghiệm cá nhân trực tiếp
được. Để làm điều này thì đồng nghĩa với sự có một cây âm thoa cho tầng số cao nhất
mà vũ trụ cho ra và nâng cao tâm thức của mình tới đó.
3. Chữa Bệnh Cho Mình
Chúng ta đã thấy trong những chương trước những sóng thấp hơn, đặc biệt là
Sóng Thứ 6, bằng nhiều cách đã tạo ra sự chia cách như thế nào – sự chia cách giữa
mình và người khác. Đôi khi điều này xảy ra dưới dạng những thái độ phán xét về mình
hay người khác. Những bộ lọc của những sóng thấp hơn cũng thường làm cho mình tự
giới hạn trình độ của mình. Hình 3D Sóng Thứ 6 có thể đã chinh phục, áp bức, và đàn
áp những khía cạnh cá nhân của bạn, và vài ảnh hưởng của tính nhị nguyên này có thể
đã được truyền xuống qua nhiều thế hệ tạo ra những vết thương mà cần phải được chữa
lành. Bạn chỉ có thể khởi sắc trong trạng thái của ý thức hợp nhất khi biểu lộ của mình
không bị gạn lọc.
Trong trường hợp này có nghĩa là cởi bỏ tất cả những ảnh hưởng xấu của tính nhị
nguyên tạo ra bởi những hình 3D thấp hơn. Bàn luận về những hình thức chữa bệnh
không phải là chủ đề của sách này, tuy thế cần thấy rằng việc chữa lành bệnh của mình
là một phần quan trọng trong việc chuyển đổi sang ý thức hợp nhất. Một phần của việc
tạo ra hợp nhất với Đấng Tối Cao và đạt trạng thái ý thức hợp nhất là trở thành một
tổng thể và bỏ lại đằng sau sự phân chia đau khổ của những người khác và bản chất mà
đặc biệt được tạo ra bởi Sóng Thứ 6.
4. Hành Xử Chính Trị
Thế giới không tự động thay đổi bởi vì chúng ta trở nên tỉnh thức về tâm linh
hay có thể chữa lành vài khía cạnh của mình. Trong mô hình đang hình thành tất cả mọi
vật được liên kết với nhau, sẽ không thể tách rời tâm linh với chính trị. Sóng Thứ 9 ở
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
203
một mức độ lớn hơn cũng có tiềm năng chữa lành thế giới bằng cách loại bỏ những hình
thức chia rẽ đã chi phối thế giới. Bước để thể hiện ý thức hợp nhất ở tầm xã hội lớn cỡ
này và biến nó thành một phần trong đời sống hằng ngày của mình có lẽ là điều cần có
nhiều can đảm nhất. Sóng Thứ 9 chủ về làm ý thức hợp nhất trở thành một hiện thực
thực tế, và điều này gồm có hoạt động chính trị chống lại nhiều hình thức đàn áp mà thế
giới đã thừa hưởng từ Sóng Thứ 6. Điều này ám chỉ là những chủ đề chính trị ưu tiên
cho những ai cọng hưởng với Sóng Thứ 9 sẽ là bình đẳng và quân bình. Thật sự bạn
nên hành động như thế nào sẽ phải tùy thuộc vào cuộc đối thoại cá nhân giữa bạn với
Đấng Thiêng Liêng. Việc làm của mỗi chúng ta thì khác nhau, và việc làm của bạn nên
tùy thuộc theo khả năng đặc biệt của mình và mục đích cụ thể tới mức độ bạn có thể
dùng nó để hỗ trợ cho sự leo thang tới ý thức hợp nhất của nhân loại.
5. Thành Lập Mối Quan Hệ Cá Nhân với Đấng Tối Cao
Việc thành lập mối quan hệ cá nhân với Đấng Thiêng Liêng, và đặt mọi hành
động của mình dựa theo sự hướng dẫn nhận được từ Cội Nguồn này, có lẽ có rất nhiều
điều kiện tạo ra bởi Sóng Thứ 9. Không nên đắn đo, do dự khi làm theo lời hướng dẫn
của Đấng Tối Cao. Đó chính là bản chất của Sóng Thứ 9 mà làm thay đổi cảm nhận
chúng ta về Đấng Tối Cao, và vì thế sẽ làm thay đổi mối quan hệ của chúng ta với Đấng
Tối Cao để trở thành mối quan hệ cá nhân trực tiếp (xem hình 5.8). Trong thời đại
chúng ta, khái niệm về Sự Đồng Nhất (Oneness) thì được một số người xem như là điều
gì mà có liên quan tới mối quan hệ với những người khác hay với thiên nhiên. Nhưng
với Tôi, Tôi không nghĩ mối quan hệ với Đấng Tối cao là điều gì mà có thể lơ là bỏ qua
cho những ai đang tìm cách thể hiện định mệnh nhân loại. Cuối cùng, chúng ta đã
thấy toàn bộ cuộc leo thang tới ý thức hợp nhất phát xuất từ một Cội Nguồn thống nhất,
Cây Sự Sống. Vậy thì làm sao chúng ta có thể hoàn tất cuộc leo thang này mà thiếu sự
liên lạc trực tiếp với Cội Nguồn? Để cho chúng ta, như là một chủng loại và cũng là
một cá nhân để hoàn tất định mệnh nhân loại, Tôi tin là chúng ta cần sự hướng dẫn trực
tiếp từ Cội Nguồn để hướng dẫn đời sống của mình . Trong kinh nghiệm cá nhân tôi,
Trường đại học “the Oneness University” ở Ấn Độ có những chương trình giúp đỡ hữu
hiệu nhất cho những ai muốn phát triển một mối quan hệ cá nhân và trực tiếp với Đấng
Thiêng Liêng. Trường Đại Học này cũng có một số những phương pháp phụ để làm
thức tỉnh tâm linh như Deeksha, Oneness Meditations, và Sacred Chambers. Đây là một
trong vài phong trào hay tổ chức trên thế giới ngày nay có một tầm nhìn về Thời Đại
Hoàng Kim với khung thời gian hợp lý, nhưng tôi hy vọng là những nhóm khác cũng sẽ
đạt được hiểu biết này trong thời gian tới.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
204
Phương Tiện Thực Tế Để Phát Triển
Cọng Hưởng Với Sóng Thứ 9
Một cá nhân có thể có nhiều đề án như là những thể hiện của ý thức hợp nhất – và
danh từ đề án (project) có lẽ không phải là chữ đúng nhất để dùng ở đây. Một đề án có
thể là một người mẹ tốt hay bạn tốt, một đề án khác là chữa bệnh ung thư hoặc quân
bằng sự phân phối thu nhập của thế giới. Tôi tin rằng bất kỳ ai đã cọng hưởng với Sóng
Thứ 9 sẽ có ít nhiều khao khát để thể hiện ý thức hợp nhất của mình trong những hoạt
động với thế giới bên ngoài qua việc thành lập những đề án như thế. Tôi cũng tin rằng
bất luận cái gì bạn đang làm việc đề án gì bạn đang tham gia, bạn cũng có thể đổi chúng
thành những biểu hiện của ý thức hợp nhất.
Bàn về những phương tiện thực tế để theo dõi sự cọng hưởng của những đề án của
bạn với Sóng Thứ 9, ngay lúc này có hai website cho phép bạn trực tiếp theo dõi
NGÀY và ĐÊM của Sóng Thứ 9. Một là www.4-ahau.com, chủ yếu là website lịch
Mayan, và trong những biểu đồ để trên website này bạn có thể thấy Sóng Thứ 9 liên kết
với cách tính của lịch Mayan truyền thống thiêng liêng như thế nào. Một máy tính khác,
chỉ rất rõ ràng Sóng Thứ 9 và ở vị trí nào của sóng trong bất kỳ ngày nào (hình 9.2). Cái
này có thể dùng để điều chỉnh cho ăn khớp với Sóng Thứ 9 mỗi ngày. Một khả năng thứ
ba là tải xuống máy tính phần mềm về Sóng Thứ 9 (hình 9.3)
Máy tính phầm mềm này cho nhiều thông tin về nhiều sóng, và bằng một cách rõ
ràng cũng chỉ ra chỗ bạn đang ở đâu trong Sóng Thứ 9. Theo thời gian, nhiều phương
tiện và website sẽ được thành lập để theo sóng này, tuy nhiên những phương tiện sẵn có
hiện giờ là quá đủ cho bất kỳ ai thật sự muốn phát triển cọng hưởng với Sóng Thứ 9.
Nếu bạn đã đi theo Sóng Thứ 9 một thời gian khá lâu, chẳng hạn như 3 hoặc 4 chu
kỳ và không cảm thấy sự thăng trầm của nó hay thấy sự thăng trầm phản ảnh trong
những đề án trong cuộc sống của bạn, thì rất có thể là bạn chưa thiết lập được sự cọng
hưởng với Sóng Thứ 9.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
205
Hình 9.2
Hình 9.3
Tới giai đoạn mà những đề án của bạn đã được căn chỉnh với định mệnh nhân loại,
thì sự tiến triển trong đề án sẽ được mong đợi trong những NGÀY của Sóng Thứ 9. Nếu
điều này không xảy ra và bạn không thể cảm nhận được những ảnh hưởng mà Sóng
Thứ 9 có trong những đề án của bạn, thì Tôi khuyên bạn hãy hỏi chính mình là những
đề án có thực sự căn chỉnh với định mệnh nhân loại hay không? Không có lý do gì để
bạn phán xét mình vì điều này, nhưng bạn nên xem nó như là một nhận xét quan trọng.
Có thể có những lời giải thích khác cho việc không cảm nhận được sự cọng hưởng
với Sóng Thứ 9. Một là những đề án bạn đang làm (và ý tôi nói ở đây về đề án trong
một nghĩa rất rộng rãi, gồm cả đời sống tình cảm cá nhân) không phù hợp với ý thức
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
206
hợp nhất của Sóng Thứ 9, hai là bạn không thực hiện đề án với phương cách phù hợp
với ý thức hợp nhất. Rất có thể bạn đang làm việc với đề án ngõ cụt chẳng giúp gì được
cho việc thức tỉnh tâm linh hay hợp nhất của bạn hoặc người khác. Trong trường hợp
này thì bạn nên xét lại có nên tiếp tục với đề án hay không. Đây thật sự là câu hỏi về
mối liên hệ cá nhân của bạn với Đấng Thiêng Liêng, và bạn sẽ tìm thấy câu trả lời cho
những vấn đề như thế từ mối liên hệ này. Điểm muốn nói là hãy dùng Sóng Thứ 9 theo
một phương thức nào đó để chính bạn nhận thức được cuộc đời mình có thể trở thành
một phần của định mệnh nhân loại như thế nào. Đi theo Sóng Thứ 9 và trở nên nhận
thức được những ảnh hưởng của sóng lên mình, bạn có thể dùng chính bản thân mình
như là một khí cụ để sửa đổi và tìm hiểu. Càng thể hiện cuộc sống và những đề án như
những biểu hiện của NGÀY trong Sóng Thứ 9 nhiều chừng nào thì càng chứng tỏ rằng
bạn đang ở trên lối đi của Biểu Đồ Định Mệnh Nhân Loại.
Mở Lòng Với Đấng Thiêng Liêng
Điều đáng chú ý là cuộc cách mạng khoa học (theo sự hiểu biết của tôi) không được
kích hoạt khi Sóng Thứ 9 bắt đầu năm 2011. Điều này tương phản với Sóng Thứ 6, 7 và
8, tất cả 3 sóng này tạo ra những cuộc cách mạng khoa học tại thời điểm khởi đầu và tới
nay vẫn còn tiếp tục. Điều này cho chúng ta biết rằng những từ trường của bóng tối
trong những hình 3D của các sóng này thì tối quan trọng cho sự phát triển khoa học
nhân loại, và bóng tối không phải có mặt chỉ để tạo ra bản ngã hay tà ác. Hơn nữa, sự
kiện mà hình 3D Sóng Thứ 9 không có bóng tối và không có cuộc cách mạng khoa học
nào ra đời năm 2011 đã biểu thị là sự phát triển về kỹ thuật không phải là tiêu điểm
chính của sóng này. Thay vào đó, Sóng Thứ 9 có khả năng làm chúng ta sử dụng những
kỹ thuật xuất phát từ những sóng thấp hơn một cách thông minh hơn để phục vụ toàn bộ
hệ thống sinh thái thay vì những quyền lợi rất giới hạn của những cá nhân cụ thể.
Cuối cùng mục đích chính của Sóng Thứ 9 dường như là để cho chúng ta có thể gom
mọi thứ lại với nhau trong Thời Kỳ Hoàn Tất. Sóng Thứ 9 cho chúng ta tầng số không
đưa đến sự chia rẽ mà giúp chúng ta thấy được sự đồng nhất của vạn vật và mọi vật nối
kết với nhau như thế nào. Và điều này có nghĩa là chúng ta sẽ bắt đầu lắng nghe và
quyết định sự việc bằng trái tim (cái tâm, cảm nhận) hơn là lý trí. Trái tim (Tâm) không
phải là vô định hình, mơ hồ hay không tập trung mà là một nguồn trí tuệ mạch lạc và từ
bi nối kết với Cội Nguồn thiêng liêng. Nguồn này sẽ trổi dậy và khởi sắc một khi sức
mạnh của lý trí rút lui khi được mở ra cho Đấng Tối Cao. Đây là điều chúng ta cần như
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
207
là trọng tâm của con người để hoàn tất mục đích của sáng tạo, mà cũng đòi hỏi phát
triển sự hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng.
Do đó, điều chúng có thể mong đợi từ Sóng Thứ 9 là việc trở lại của sự liên lạc trực
tiếp với Đấng Thiêng Liêng mà không bị cảm nhận bất kỳ bộ lọc chia cắt nào, và chính
điều này sẽ thay đổi chúng ta. Càng cọng hưởng với Sóng Thứ 9 chúng ta càng tự biến
đổi mình. Tuy nhiên, đạt được trình độ thứ 9 không có nghĩa là từ nay trở đi chúng ta sẽ
chỉ sống trong một trạng thái ý thức tạo ra bởi Sóng Thứ 9. Chúng ta vẫn có những
phần của mọi sóng cũ, ngay cả khi chúng ta lên được tới đỉnh của Sóng Thứ 9, chúng ta
sẽ vẫn cảm nhận trái đất qua những hình 3D tạo ra bởi những mẫu giao thoa giữa những
sóng khác nhau. Tuy nhiên, đến mức mà chúng ta có thể cọng hưởng được với Sóng
Thứ 9 thì mọi chuyện sẽ phải phục tòng theo sự hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng.
Để đạt hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng không có nghĩa là bạn không còn nhân cách
cá nhân nữa. Thay vào đó, cọng hưởng với Sóng Thứ 9 sẽ giúp bạn phác họa nhân cách
cá nhân và định mệnh của mình thế nào sao cho hài hòa với kế hoạch thiêng liêng.
Cọng hưởng với Đấng Tối Cao giúp ta làm những quyết định mà một cá nhân không
thể làm được vì quan điểm quá hạn hẹp. Những mục tiêu trong cuộc đời bạn sẽ không
còn bị điều khiển bởi một một chương trình nghị sự riêng biệt với lý trí của bản ngã
xung đột với chuyện này. Tới mức mà chúng ta đầu hàng với Đấng Thiêng Liêng, nếu
không như thế chúng ta không thể thật sự nói về Cái Một (sự Đồng Nhất, Oneness);
trên tất cả, những định mệnh cá nhân của chúng ta cũng sẽ trở nên thành phần chung
của định mệnh nhân loại tập thể. Phát triển kinh nghiệm Đồng Nhất với những người
khác luôn luôn là một sản phẩm của trạng thái sâu thẳm của sự Đồng Nhất với Đấng
Thiêng Liêng. Khi chúng ta đạt tới trình độ không còn bị chia cách với Đấng Thiêng
Liêng, mọi chuyện chúng ta làm với tư cách cá nhân sẽ thật sự là những biểu hiện của
Đấng Thiêng Liêng trong cá nhân. Sóng Thứ 9 do đó mang một ý nghĩa đặc biệt như là
một sóng có thể hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng và làm chúng ta hiểu biết Thiêng
Liêng.
Với một số người, quan niệm hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng có thể tạo ra những
cảm giác vạn năng hay sở hữu những năng lượng kỳ diệu, nhưng Tôi tin là những ý
tưởng như thế có lẽ là những phóng chiếu của bản ngã phát xuất từ hình 3D Sóng Thứ 6.
Trở thành thánh thần (being divine) như là kết quả của cọng hưởng với Sóng Thứ 9 là
biểu hiện một khía cạnh của Đấng Thiêng Liêng phục vụ cho sự sáng tạo này, và cũng
nhờ sự vắng mặt của bộ lọc trong sóng này mà thành tựu được.
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
208
Theo Sóng Thứ 9 không phải chỉ là biểu hiện định mệnh của mình như là một cá
nhân riêng biệt mà phải làm định mệnh của mình trở thành một phần của kế hoạch
thiêng liêng, và khi bạn làm như thế bạn sẽ trở nên ngày càng thần thánh hơn, và những
chương trình nghị sự của bản ngã sẽ rút lui vào bóng tối. Điều này không có nghĩa là
mỗi bước trên đường đi đều sẽ dễ dàng và thoải mái, và tuy thế đây là cách độc nhất để
đưa đến sung sướng và hạnh phúc.
Mục Đích Của Vũ Trụ
Một học thuyết đã được thành lập ở đây chỉ về đời sống trong vũ trụ được tạo ra và
tiến hóa như thế nào. Học thuyết này không trả lời trực tiếp mục đích của sự sáng tạo
này là gì, mặc dù Tôi nghĩ là nó đã thu hẹp số lượng câu trả lời về lý do tại sao chúng ta
có mặt ở đây. Tôi có thể đề nghị vài đáp số chấp được về mục đích của vũ trụ là gì. Một
là vũ trụ và chúng ta đã được tạo dựng chỉ vì mục đích nhận để có một cuộc hành trình
tốt đẹp hay ít nhất là lý thú trong cuộc sống. Trong quan điểm này, chúng ta đã được tạo
ra để có kinh nghiệm và có thể là có kinh nghiệm về hạnh phúc. Một khả năng khác là
chúng ta được tạo ra để leo lên kim tự tháp chín tầng, để mà ở tại đỉnh của trạng thái
nghịch lý trong sự hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng, sự trở về nhà, có thể đạt được và
chúng ta có thể sống trong trạng thái hoàn toàn sung sướng, Thời Kỳ Hoàng Kim. Khả
năng thứ ba là chúng ta không chỉ được tạo ra vì lợi ích của mình mà còn vì lợi ích của
Thiêng Liêng. Trong giáo phái Hồi Giáo Hadith có nói về điều này khi nhà tiên tri
David hỏi Thượng Đế tại sao Ngài tạo ra vũ trụ. Thượng Đế trả lời: “Ta là một kho báu
ẩn và ta muốn được biết tới – nên Ta tạo ra thế giới.”
Rõ ràng Tôi không thể nói chắc chắn là cái nào là câu trả lời đúng mà chỉ có thể nói
cái nào có vẻ hợp lý với tôi. Tuy nhiên Tôi thật sự nghĩ là chúng ta bây giờ có thể chắc
rằng vũ trụ có một chiều hướng vốn có và chúng ta hiện giờ đã bước vào Thời Kỳ Hoàn
Tất. Vũ Trụ không phải là vật gì mà thình lình xuất hiện, hoặc tình cờ có được những
đặc tính của nó. Vũ trụ có một mục đích. Suy nghĩ cá nhân của tôi thì lý do vũ trụ hiện
hữu và tiếp tục tiến hóa là sự phối hợp của câu trả lời 2 và 3 ở trên. Vũ trụ được thành
lập để cho loài người đạt được niềm vui thuần khiết trong khi cùng lúc hoàn toàn chấp
nhận vai trò của Đấng Thiêng Liêng, và tôi tin là điều này là hướng đi mà chúng ta
đang bước tới. Điều này có nghĩa là Đấng Thiêng Liêng muốn được biết tới như là một
kho tàng qua sự hợp nhất của chúng ta với Ngài. Xa như tôi có thể thấy, điều này chỉ có
thể xảy ra nếu nhân loại tạo được một thế giới dựa trên ý thức hợp nhất tạo ra bởi Sóng
Thứ 9. Nếu không thì Đấng Thiêng Liêng sẽ không được cảm nhận thật sự là Đấng
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
209
Thiêng Liêng. Nếu điều này đúng thì chúng ta, loài người, phải đối diện với sự lựa chọn
có muốn tham dự để biểu hiện trạng thái ý thức này hay không. Nếu muốn thì chúng ta
sẽ phải lập ra một nền đạo đức mà trong đó điều tốt đẹp nhất là điều để phục vụ hình
thành sự hợp nhất như thế.
Thế giới mà được tạo lập từ sự hợp nhất như thế sẽ rất khác so với thế giới bị thống
trị mà chúng ta biết ngày hôm nay, ngay cả bây giờ khi sự thống trị sắp sửa tan vỡ.
Hành động của mọi cá nhân loài người sẽ được định hình bởi sự hợp nhất này với Đấng
Thiêng Liêng, và theo cách này sự hài hòa của họ với qui luật vũ trụ sẽ được bảo đảm.
Nói cách khác, tạo sự cọng hưởng với Sóng Thứ 9 thì giống như tạo sự hợp nhất với
Đấng Thiêng Liêng. Đấng Thiêng Liêng sắp sửa được biết tới bằng một cách mà chưa
bao giờ được biết từ trước tới nay, bởi vì bộ lọc của chúng ta và sự lo sợ sẽ được lấy ra
và tầm nhìn của chúng ta sẽ trở nên rõ ràng hơn. Mọi chuyện bây giờ thì sẵn sàng cho
chúng ta đi theo hướng này tới sự Hợp Nhất với Đấng Thiêng Liêng và sự thống nhất
giữa chúng ta. Nếu chúng ta muốn biết Đấng Thiêng Liêng như là một kho báu thì đây
chính là nơi chúng ta cần đến. Xa như tôi có thể nói, đây là ý nghĩa của sự hoàn thành
mục đích Thiêng Liêng của đời sống chúng ta.
---oOo---
Chín Sóng Sáng Tạo Carl Johan Calleman
210
Vài Dòng về Tác Giả:
Ông Carl Johan Calleman sanh ở Thụy Điển tại thành phố Stockholm, đậu tiến sĩ
(Ph.D) về Sinh Học Vật Lý tại Đại Học University of Stockholm năm 1984. Ông đã và
hiện đang là một nhà nghiên cứu cao cấp tại Department of Environmental Health ở đại
học University of Washington, Seatle, đã từng là chuyên viên về ung thư cho tổ chức
World Health Organization. Ông ta đã từng là tác giả và đồng tác giả nhiều bài khảo
cứu mà được nhắc đến hơn 1500 lần trong tài liệu khoa học. Ông Calleman được xem
như người đề xuất ra ý tưởng là lịch Mayan phản ảnh sự tiến hóa của tâm thức. Trước
đó ông ta đã viết bốn cuốn sách về chủ đề này: Solving the Greatest Mystery of Our
Time: The Mayan Calendar (Garev, 2001), The Mayan Calendar and the
Transformation of Consciousness (Inner Tradition, 2004, translated into thirteen
different languages), the Purposeful Universe (Inner Traditions, 2009), and the Global
Mind and the Rise of Civilization (Bear & Company, 2016). Website của tác giả là:
www.calleman.com
---oOo---
Recommended