Upload
tran-duc-anh
View
107
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
KILO
BOOK
S.CO
M
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỒNG VÂN
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG MÃ SỐ : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LẠI TIẾN DĨNH
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2008
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những nội
dung được trình bày trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Phần lớn những số liệu
trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, chứng minh, nhận xét, đánh giá được
chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của
các tác giả khác, cơ quan khác, người viết đều có chú thích nguồn gốc sau mỗi trích
dẫn để dễ tra cứu, kiểm chứng.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
2
MỤC LỤC Trang
Lời cam đoan........................................................................................................ 1
Mục lục ................................................................................................................ 2
Danh mục các chữ viết tắt ................................................................................... 5
Danh mục các bảng biểu ...................................................................................... 6
Lời mở đầu ........................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TTCK VIỆT NAM....................................... 10
1.1. Sơ lược về TTCK Việt Nam........................................................................ 10
1.1.1. Khái niệm về TTCK……………………… ........................................ 10
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK ........................................ 10
1.1.3. Tính tất yếu và sự ra đời của TTCK Việt Nam..................................... 13
1.1.3.1. Sự cần thiết phải thành lập TTCK ở Việt nam.............................. 13
1.1.3.2. Sự ra đời của TTCK Việt Nam...................................................... 14
1.1.4. Vai trò của TTCK................................................................................. 17
1.1.5. Phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến TTCK......................................... 19
1.1.5.1. Nhóm nhân tố kinh tế............ ................ ..................................... 19
1.1.5.2. Nhóm nhân tố phi kinh tế......... ................................................... 19
1.1.5.3. Nhóm nhân tố thị trường......... ................................................... 20
1.2. Lý luận về sự phát triển bền vững của TTCK......................................... 20
1.3. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc.......... ..... ..... .................................. 24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA TTCK
VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................. 29
2.1. Bức tranh toàn cảnh về TTCK Việt Nam hiện nay…............................ 29
2.1.1. Những thành tựu đạt được của TTCK Việt Nam trong thời gian qua.... 29
2.1.2. Khái quát những biến động của TTCK Việt Nam từ khi thành lập
qua chỉ số VN-Index............................................................................ 31
2.1.3. Thực trạng về tình hình hoạt động của TTCK Việt Nam..................... 32
2.1.3.1. Toàn cảnh TTCK Việt Nam năm 2008..................................... 32
2.1.3.2. Phân tích những nguyên nhân gây biến động đến TTCK Việt Nam
năm 2008............................... .............. .............. ..................... 42
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
3
2.2. Những hạn chế tồn tại làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của
TTCK Việt Nam......................................................................................... 45
2.2.1. TTCK Việt Nam vẫn chưa là hàn thử biểu của nền kinh tế …............... 45
2.2.2. Chưa kiểm soát được nguồn cung của thị trường ….............................. 47
2.2.2.1. Tồn tại nhiều hàng hóa kém chất lượng do phát hành bừa bãi..... 47
2.2.2.2. Tiến trình cổ phần hóa DNNN bị ngừng trệ................................. 48
2.2.2.3. Nguồn vốn huy động từ TTCK chưa được sử dụng đúng mục đích 49
2.2.3. Tạo cầu ảo do phong trào sử dụng vốn vay để đầu tư …....................... 50
2.2.4. Ảnh hưởng từ biến động của nền kinh tế vĩ mô ……............................ 52
2.2.5. Trình độ và kinh nghiệm của các nhà đầu tư còn hạn chế …................ 53
2.2.6. Chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán chưa đáp ứng được
yêu cầu của thị trường và của nhà đầu tư …........................................ 55
2.2.6.1. Quá nhiều Công ty chứng khoán ra đời dẫn đến việc cạnh
tranh không lành mạnh ………………………………..……..... 55
2.2.6.2. Những điểm hạn chế của các công ty chứng khoán ……….…... 57
2.2.7. Thông tin bất cân xứng trên thị trường …………….............................. 59
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ……... 64
3.1. Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến
năm 2020 của Thủ tướng chính phủ…………………………………… 64
3.1.1. Mục tiêu của đề án …………………………………………………… 64
3.1.2. Giải pháp thực hiện …………………………………………………… 64
3.1.2.1 Giải pháp dài hạn………………………………………………… 64
3.1.2.2 Giải pháp dài hạn………………………………………………… 65
3.2. Niêm yết chứng khoán ở TTCK nước ngoài………………………………69
3.2.1 Lợi ích khi niêm yết chứng khoán ở TTCK nước ngoài………….….... 69
3.2.2 Các cách để niêm yết chứng khoán ở TTCK nước ngoài……………….70
3.2.3 Quy định của Pháp luật Việt Nam đối việc niêm yết chứng khoán ở TTCK
nước ngoài ………………………………………………………..……..70
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
4
3.2.4 Những điều kiện cần đáp ứng khi niêm yết CK ở TTCK nước ngoài …..71
3.3. Thành lập tổ chức định mức tín nhiệm……..………………………….…75
3.3.1 Khái niệm định mức tín nhiệm……………………………..…….….... 75
3.3.2 Vai trò của hệ thống định mức tín nhiệm……………………………. 75
3.3.3 Tiêu chí đánh giá định mức tín nhiệm……………………….………. 76
3.3.4 Các bước thành lập tổ chức định mức tín nhiệm…………….………. 77
3.3.5 Các điều kiện quyết định sự thành công của một tổ chức định mức
tín nhiệm ……………………………………………………………. 78
3.3.6 Phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm………………………….…... 79
3.4. Các giải pháp bổ trợ cho sự pháp triển bền vững của TTCK
Việt Nam ………………………………………………………………….. 83
3.4.1. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các loại hàng hoá để đáp ứng nhu
cầu của thị trường.………………………………….…..……………. 83
3.4.1.1. Nâng cao hiệu quả phát hành cổ phiếu DN trên TTCK ……....... 83
3.4.1.2. Triển khai giao dịch ký quỹ và nghiệp vụ bán khống trên TTCK…84
3.4.1.3. Cải tiến và đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa DNNN …………… 89
3.4.1.4. Thành lập thị trường giao dịch phi tập trung ………………………92
3.4.2. Phát triển các định chế trung gian …......................................................95
3.4.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động tại các công ty chứng khoán … 95
3.4.2.2. Thành lập quỹ bình ổn TTCK ……………………………………… 98
3.4.3. Phát triển hệ thống điều hành của chính phủ …………………………..99
3.4.3.1. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát của nhà nước ……99
3.4.3.2. Tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK.…… 101
KẾT LUẬN …………………………………………………………………….. 104
Tài liệu tham khảo ……………………………………………………………... 105
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CK : Chứng khoán
CNH – HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
CPH : Cổ phần hóa
CTCK : Công ty chứng khoán
CTCP : Công ty cổ phần
DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
ĐHCĐ : Đại hội cổ đông
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
HOSE : Sở giao dịch chứng khoán TP HCM
IPO : Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng
NĐT : Nhà đầu tư
NĐTNN : Nhà đầu tư nước ngoài
NHTM : Ngân hàng thương mại
OTC : Thị trường giao dịch phi tập trung
SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TTCK : Thị trường chứng khoán
TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTLKCK : Trung tâm lưu ký chứng khoán
UBCKNN : Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
VN-Index : Chỉ số giá cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
6
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1: Quy mô niêm yết chứng khoán tại HOSE (08/2008)..........................................30
Bảng 2: Quy mô giao dịch chứng khoán tại HOSE qua từng tháng năm 2008 ................30
Bảng 3: Quy mô giao dịch của NĐT nước ngoài tại HOSE qua từng tháng năm 2008 ...30
Bảng 4: Các hạn mức của hệ số tín nhiệm đối với công cụ nợ dài hạn .........................30
Bảng 5: Các hạn mức của hệ số tín nhiệm dựa trên hệ số Z ...........................................30
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ
Biểu đồ 1: Chỉ số VN-Index qua các năm (2000 – 2008) .............................................29
Biểu đồ 2: Tình hình CK niêm yết mới tại HOSE qua các năm (2006-2008) ............... 31
Biểu đồ 3: Quy mô giao dịch CK tại HOSE qua các năm (2006-2008) ........................ 31
Biểu đồ 4: Biểu đồ tăng/giảm của một số chỉ số CK tiêu biểu năm 2008 ..................... 31
Biểu đồ 5: Biểu đồ mức sụt giảm giá trị tài sản ròng tính theo USD của một số quỹ
đầu tư so với năm 2008………………………………………....................................... 31
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
7
LỜI MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài
Để thực hiện đường lối CNH – HĐH đất nước, duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế
bền vững và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh, đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Chính vì thế,
việc thành lập TTCK ở Việt Nam là một tất yếu khách quan của nền kinh tế bởi lẽ xu
hướng phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
là điều không thể đảo ngược được.
TTCK là một kênh quan trọng trong thu hút vốn dài hạn cho các doanh nghiệp nâng
cao sức cạnh tranh trong một nền kinh tế hàng hóa đang phát triển nhanh như ở nước
ta. Bên cạnh đó, TTCK cùng với hệ thống ngân hàng sẽ tạo ra một hệ thống tài chính
đủ mạnh, cung cấp các nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn cho nền kinh tế. Hơn thế
nữa, trên phương diện chính trị và ngoại giao, việc xây dựng TTCK còn có tác động
rất tích cực đến tiến trình hội nhập của nước ta vào cộng đồng khu vực và thế giới.
TTCK từ khi thành lập đến nay đã phát huy được chức năng của mình đối với nền
kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế gây kiềm hãm sự phát
triển của thị trường. Do vậy, làm thế nào để hạn chế được những tồn tại của TTCK
và đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của TTCK Việt
Nam có ý nghĩa thiết thực và cấp bách.
2. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài
Luận văn đưa ra một số đóng góp chính như sau:
- Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về chứng khoán và TTCK, các nhân tố ảnh
hưởng đến TTCK.
- Điểm qua những biến động thăng trầm của TTCK Việt Nam sau 8 năm xây
dựng và phát triển. Đánh giá những mặt đạt được và phân tích những mặt hạn chế
của TTCK Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của
TTCK Việt Nam.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
8
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhận diện và phân tích các mặt hạn chế của TTCK
Việt Nam nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị giúp thúc đẩy sự phát triển bền vững
TTCK Việt Nam góp phần nâng cao chức năng vốn có của TTCK là “chức năng dẫn
vốn cho nền kinh tế”.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các mặt hạn chế của TTCK Việt Nam và các giải
pháp phát triển bền vững TTCK. Nội dung của đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi các
cổ phiếu được niêm yết tại HOSE. Đề tài không nghiên cứu trái phiếu và cổ phiếu
giao dịch trên thị trường OTC.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, thống kê mô tả đóng vai trò chủ đạo trong
suốt quá trình nghiên cứu luận văn.
6. Kết cấu của luận văn
� Phần mở đầu
� Chương 1: Tổng quan về TTCK Việt Nam
� Chương 2: Thực trạng hoạt động của TTCK Việt Nam hiện nay
� Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững TTCK Việt Nam
� Kết luận
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
9
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
10
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1.1. Sơ lược về thị trường chứng khoán Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về TTCK
TTCK là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi
chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời.
TTCK phải tồn tại ở một nơi mà ở nơi đó việc mua bán CK được thực hiện. Trong
quá trình phát triển và hoàn thiện TTCK ở các nước có nền sản xuất và lưu thông
hàng hóa lâu đời như Mỹ, Anh, Pháp, v.v… nơi đó tồn tại dưới hai hình thức: TTCK
có tổ chức và TTCK phi tổ chức.
Hình thái điển hình của TTCK có tổ chức là SGDCK (Stock exchange). Mọi việc
mua, bán, chuyển nhượng, trao đổi CK phải tiến hành trong Sở giao dịch và thông
qua các thành viên của Sở giao dịch theo quy chế của SGDCK. SGDCK có thể là tổ
chức sở hữu nhà nước, là doanh nghiệp cổ phần hoặc một hiệp hội và đều có tư cách
pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán. Có thể dẫn ra những SGDCK nổi
tiếng của thế giới như: NYSE (New York Stock exchange), TSE (Tokyo Stock
exchange), LSE (London Stock exchange )v.v…
TTCK phi tổ chức là một thị trường không có hình thái tổ chức tồn tại, nó có thể là
bất cứ nơi nào mà tại đó người mua và người bán trực tiếp gặp nhau để tiến hành giao
dịch. Nơi đó có thể là tại quầy giao dịch ở các ngân hàng bất kỳ nào đó. Thị trường
hình thành như thế gọi là thị trường giao dịch qua quầy (Over-the-counter – OTC)
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK
TTCK ban đầu phát triển một cách rất tự phát và sơ khai, xuất phát từ một nhu cầu
đơn lẻ từ buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ XV ở tại những thành phố trung tâm buôn
bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quan cà phê để trao đổi mua
bán các vật phẩm hàng hóa … lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình
thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu
chợ trở thành "thị trường" với việc thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
11
này được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi
thành viên tham gia "thị trường".
Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình
Vanber ở Bruges (Bỉ), tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một từ tiếng Pháp là
"Bourse" tức là "Mậu dịch thị trường" hay còn gọi là "Sở giao dịch".
Vào năm 1547, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị lấp
cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers (Bỉ),
ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ XVI một quan chức đại thần của
Anh quốc đã đến quan sát về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London (Anh), nơi
mà sau này được gọi là Sở Giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị trường
khác cũng lần lượt được lập tại Pháp, Đức, và Bắc Âu.
Sự phát triển thị trường ngày càng mạnh cả về lượng chất với số thành viên tham gia
đông đảo và nhiều nội dung khác nhau, vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được
phân ra thành nhiều thị trường khách nhau như: thị trường giao dịch hàng hóa, thị
trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và TTCK … với các đặc
tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó.
Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát
cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, các nước Tây Âu khác và Bắc Mỹ.
Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những ký hiệu giao
dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Cho đến năm 1921, ở Mỹ, khu
chợ ngoài trời được chuyển vào trong nhà, SGDCK chính thức được thành lập.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ, khoa học kỹ thuật, các phương thức
giao dịch tại các SGDCK cũng đã được cải tiến theo tốc độ và khối lượng yêu cầu
nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch. Các sở giao dịch dần dần sử
dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ giao dịch thủ công kết
hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử.
Lịch sử phát triển các TTCK thế giới trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên,
lúc xuống. Vào những năm 1875 - 1913, TTCK thế giới phát triển huy hoàng cùng
với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lúc đó, nhưng rồi đến "ngày thứ Năm đen
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
12
tối", tức ngày 24-10-1929, TTCK Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản đã khủng hoảng. Mãi
cho tới khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các thị trường mới dần phục hồi và
phát triển mạnh và cho tới năm 1987, một lần nữa các TTCK trên thế giới điên đảo
với "ngày thứ Hai đen tối" do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được
yêu cầu của giao dịch, sụt giá CK mạnh, gây mất lòng tin và phản ứng dây chuyền
mà hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Gần đây nhất, TTCK
ở các nước và lãnh thổ Đông Á, Nga và một số thị trường ở châu Mỹ cũng đã rơi vào
vòng xoáy chỉ số giá chứng khoán của cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ, giảm
lòng tin và có tính chất lây lan, tạo ra sự suy giảm ghê gớm.
Cho đến nay, các nước trên thế giới đã có khoản trên 160 SGDCK phân tán trên khắp
các châu lục, bao gồm cả các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á vào những
năm 1969 - 1970 và những nước như Ba Lan, Hunggary, Seeec, Nga, Trung Quốc
vào những năm đầu 1990 …
Quá trình hình thành và phát triển của TTCK thế giới cho thấy giai đoạn đầu thị
trường phát triển một cách tự phát với sự tham gia của các nhà đầu cơ. Dần dần về
sau mới có sự tham gia của công chúng đầu tư. Khi phát triển đến một mức độ nhất
định, thị trường bắt đầu phát sinh những trục trặc dẫn đến phải thành lập cơ quan
quản lý nhà nước và hình thành hệ thống pháp lý để điều chỉnh hoạt động của thị
trường. Kinh nghiệm cho thấy, phần lớn các TTCK sau khi thiết lập muốn hoạt động
có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng phát triển vững chắc phải có sự chuẩn bị chu
đáo mọi mặt về hàng hóa, luật pháp, con người, bộ máy quản lý và đặc biệt là sự
giám sát và quản lý nghiêm ngặt của nhà nước. Song cũng có một số TTCK có sự
trục trặc ngay từ ban đầu như TTCK Thái Lan, Indonesia, hoạt động trì trệ một thời
gian dài do thiếu hàng hóa và do không được quan tâm đúng mức, TTCK Philippines
kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hai sở giao dịch (Makita và
Manila), TTCK Ba Lan, Hungaary gặp trục trặc do việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc
quá thấp …
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
13
Tuy nhiên, cho tới nay, TTCK phát triển ở mức có thể nói là không thể thiếu trong
đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang
phát triển đang cần thu hút vốn dài hạn cho nền kinh tế.
1.1.3. Tính tất yếu và sự ra đời của TTCK Việt Nam
1.1.3.1. Sự cần thiết phải thành lập TTCK ở Việt Nam
Kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI – Đại hội tiến hành công cuộc đổi mới, Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa. Kinh tế thời
kỳ lạm phát cao đã bước sang thời kỳ tăng trưởng cao (1999 – 2000), tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1991 – 1997 đạt 8,2%. Đầu tư toàn xã hội
bằng nguồn vốn trong và ngoài nước so với GDP tăng từ mức 15,8% năm 1990 lên
29% năm 1997, tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP tăng từ 17% năm 1992 lên
25% năm 1999. Nguồn thu cho ngân sách tăng, hệ thống tài chính, tiền tệ được đổi
mới và phù hợp với cơ chế thị trường, hệ thống ngân hàng được củng cố, các tổ chức
tín dụng phát triển, chất lượng và hiệu quả tín dụng được nâng lên. Cơ chế quản lý
ngoại hối hoàn thiện dần, chính sách tỷ giá có thay đổi dựa trên nguyên tắc của thị
trường. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh và đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế.
Những thành tựu kinh tế trên đây là kết quả của việc thi hành chính sách đổi mới toàn
diện của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi đưa đất nước vào thời kỳ CNH –
HĐH nền kinh tế.
Để thực hiện đường lối CNH – HĐH đại hóa đất nước, duy trì nhịp độ tăng trưởng
kinh tế bền vững và chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh, đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Việc xây
dựng TTCK ở VN đã trở thành nhu cầu bức xúc và cấp thiết nhằm huy động các
nguồn vốn trung, dài hạn trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển kinh tế. Điều này
đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng: “…phát triển thị trường
vốn, thu hút các nguồn vốn… Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây
dựng TTCK phù hợp với điều kiện VN và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước…”
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
14
Xuất phát từ yêu cầu nói trên và thực tiễn đòi hỏi nền kinh tế cần có một “sân chơi”
phù hợp với các giao dịch CK trong bối cảnh các điều kiện làm tiền đề cho TTCK
đang ở dạng sơ khai và nhu cầu cấp bách cho một thị trường chuyển nhượng các cổ
phiếu của DN. Hơn nữa, việc Chính phủ đã và đang thực hiện quá trình CPH các
DNNN, nếu không thông qua TTCK thì việc CPH có nguy cơ diễn ra một cách
không công khai, thiếu lành mạnh và sẽ dẫn đến thất thoát vốn của Nhà nước.
Chính vì thế, việc thành lập TTCK ở Việt Nam vừa qua là một tất yếu khách quan
của nền kinh tế bởi lẽ xu hướng phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước là điều không thể đảo ngược được.
TTCK là một kênh quan trọng trong thu hút vốn dài hạn cho các DN, đặc biệt là các
DN có tiềm năng phát triển ở các khu vực kinh tế quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu
vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh trong một nền
kinh tế hàng hóa đang phát triển nhanh như ở nước ta. Bên cạnh đó, TTCK cùng với
hệ thống ngân hàng sẽ tạo ra một hệ thống tài chính đủ mạnh, cung cấp các nguồn
vốn ngắn, trung và dài hạn cho nền kinh tế. Có thể nói nguồn vốn huy động được qua
TTCK là một nguồn vốn có tính linh hoạt cao nhất, nó đáp ứng các đòi hỏi về hình
thức đầu tư, thời gian đáo hạn cũng như số vốn cần thiết để tham gia thị trường của
các NĐT khác nhau.
Hơn thế nữa, trên phương diện chính trị và ngoại giao, việc xây dựng TTCK còn có
tác động rất tích cực đến tiến trình hội nhập của nước ta vào cộng đồng khu vực và
thế giới.
1.1.3.2. Sự ra đời của TTCK Việt Nam
Xây dựng và phát triển TTCK là một mục tiêu quan trọng được Đảng và Nhà nước
rất quan tâm nhằm xác lập một kênh huy động vốn dài hạn cho mục tiêu đầu tư và
phát triển đất nước.
Ngày 29/06/1995, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 361/QĐ-TTg về
việc thành lập Ban chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và
chuẩn bị điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK Việt Nam. Ngày 28/11/1996,
UBCKNN được thành lập theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, UBCKNN thực
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
15
hiện chức năng tổ chức và quản lý Nhà nước về CK và TTCK. Ngay sau đó,
UBCKNN đã xây dựng bộ máy tổ chức tương đối hoàn chỉnh và bắt tay vào xây
dựng khung pháp lý cho tổ chức và hoạt động của TTCK. Kết quả các nỗ lực ban đầu
được ghi nhận bằng việc ngày 10/07/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị
định 48/1998/NĐ-CP về CK và TTCK. Ngày 12/08/2003 Chính phủ ban hành Nghị
định số 90/2003-CP thay thế Nghị định số 75/CP đã trao cho UBCKNN đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của một cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK.
Sau khi được thành lập, UBCKNN đã thực thi các chức năng, nhiệm vụ và đạt được
nhiều kết quả, thể hiện tốt vai trò là cơ quan tổ chức và vận hành TTCK Việt Nam.
Tuy nhiên, nhằm tăng cường hiệu quả nhiệm vụ điều phối hoạt động của các Bộ
ngành chức năng trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK, ngày 19/02/2004
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2004/NĐ-CP chuyển UBCKNN trực thuộc
Bộ Tài chính. Việc chuyển UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính là một bước đi hợp lý
trong quá trình phát triển TTCK ở Việt Nam, sẽ tạo thêm sự đồng bộ và gắn kết đảm
bảo yếu tố an toàn cho hoạt động của TTCK và các thị trường tài chính khác.
Ngày 11/07/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 127/1998/QĐ-TTg
về việc thành lập TTGDCK TP.HCM và TTGDCK Hà Nội. Có thể nói, việc thành
lập các TTGDCK là một giải pháp cấp bách trước mắt, không những tạo điều kiện
thuận lợi cho việc huy động vốn, thúc đẩy tiến trình đổi mới DN mà còn hướng các
hoạt động giao dịch CK đi vào quỹ đạo có tổ chức ngay từ đầu và đây cũng là bước
chuẩn bị cho việc thành lập SGDCK sau này.
TTGDCK TP.HCM chính thức đi vào hoạt động ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên
giao dịch CK đầu tiên vào ngày 28/07/2000 đã đánh dấu một cột mốc quan trọng
trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Sự ra đời của
TTGDCK TP.HCM có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo thêm một kênh huy động vốn
dài hạn phục vụ nhu cầu CNH – HĐH đất nước, là một sản phẩm của nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường. TTGDCK TP.HCM được Chính phủ giao một số chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch CK niêm yết tập
trung tại Việt Nam. Đó là tổ chức, quản lý và điều hành việc mua - bán CK, quản lý
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
16
điều hành hệ thống giao dịch, thực hiện hoạt động quản lý niêm yết, công bố thông
tin, giám sát giao dịch, hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ CK và một số
hoạt động khác.
Ngày 05/08/2003, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK
Việt Nam đến năm 2010. Theo đó, TTGDCK Hà Nội được xác định là thị trường
giao dịch cổ phiếu đăng ký giao dịch, chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển
thành thị trường giao dịch CK phi tập trung (OTC) của Việt Nam. Ngày 08/03/2005,
TTGDCK Hà Nội đã chính thức khai trương hoạt động tại TP.Hà Nội, đánh dấu thêm
một bước tiến mới của TTCK Việt Nam.
1.1.4. Vai trò của thị trường chứng khoán
TTCK là một định chế tài chính tất yếu của nền kinh tế thị trường phát triển, là chiếc
cầu nối vô hình giữa cung và cầu vốn trong nền kinh tế. Với một TTCK lành mạnh,
hoạt động có hiệu quả sẽ tạo điều kiện khai thác tốt các tiềm năng của nền kinh tế,
giúp cho việc thu hút và phân phối vốn trong nền kinh tế có hiệu quả nhất.
� Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
TTCK hoạt động như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm lớn nhỏ của
từng hộ dân cư, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các DN, các tổ chức tài chính
tạo thành nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức khác không
thể làm được. Bên cạnh đó, TTCK là công cụ cho phép vừa thu hút vừa kiểm soát
vốn đầu tư nước ngoài một cách tốt nhất vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai.
Thông qua TTCK, Chính phủ sẽ kiểm soát được việc tham gia đầu tư của các định
chế, cá nhân nước ngoài vào các ngành, các công ty hay các loại CK ở từng thời điểm
cụ thể nhất định.
TTCK tạo ra cơ hội cho các DN có vốn để mở rộng SXKD và thu lợi nhuận nhiều
hơn, đồng thời góp phần quan trọng trong việc kích thích các DN làm ăn ngày càng
hiệu quả hơn bằng cách vừa SXKD hàng hóa vừa mua bán thêm CK tạo thêm lợi
nhuận.
Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của DN, TTCK đã có những tác động quan
trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
17
chính quyền các địa phương huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và
đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội
� Cung cấp môi trường đầu tư và tạo tính thanh khoản cho chứng khoán
Từ khi TTCK ra đời, công chúng có thêm một công cụ đầu tư mới, đa dạng và phong
phú hơn. Những người tiết kiệm có thể tự mình hoặc thông qua những nhà tài chính
chuyên môn lựa chọn những loại cổ phiếu, trái phiếu của các công ty khác nhau từ
nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với cơ hội lựa
chọn phong phú. Các loại CK trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và
độ rủi ro, vì thế cho phép các NĐT có thể lựa chọn loại hàng hóa phù hợp với khả
năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng
mức tiết kiệm quốc gia.
Bên cạnh đó, nhờ có TTCK mà các NĐT có thể chuyển đổi các CK họ sở hữu thành
tiền mặt hoặc các loại CK khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong
những đặc tính hấp dẫn của CK đối với NĐT. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt,
an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và hiệu quả thì càng có khả
năng nâng cao tính thanh khoản của các CK giao dịch trên thị trường.
� Kích thích các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn
Khi tham gia niêm yết trên TTCK tập trung, các DN niêm yết cần phải đáp ứng được
một số điều kiện cụ thể, nhất định theo qui định như: vốn điều lệ, tình hình tài
chính,… và các DN phải công khai tình hình tài chính, kết quả hoạt động SXKD theo
chế độ báo cáo định kỳ và NĐT chỉ mua cổ phiếu của các công ty tăng trưởng. Với
sức ép thường xuyên của thị trường, với quyền tự do lựa chọn mua CK của NĐT đòi
hỏi các nhà quản lý DN phải biết tính toán, nâng cao hoạt động kinh doanh một cách
có hiệu quả. Từ đó, tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới và nâng cao chất lượng sản
phẩm.
� Tạo tiền đề cho quá trình cổ phần hóa
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
18
TTCK là nơi tập trung được toàn bộ cung cầu về vốn và cũng là nơi hội tụ nhiều nhất
các NĐT, do đó nó có tác động rất lớn trong việc nhanh chóng chuyển các DNNN
thành các CTCP một cách có hiệu quả nhất.
Với nguyên tắc hoạt động trung gian, đấu giá, công khai và là nơi mà hoạt động mua
bán CK diễn ra hàng ngày, hàng giờ. TTCK chính là cơ sở làm cho quá trình CPH
theo đúng pháp luật và phù hợp với tâm lý của NĐT. Chỉ có thông qua TTCK, Nhà
nước mới có thể thực hiện được CPH đối với bất kỳ loại hình DN nào. Mặt khác, nếu
không có TTCK thì vốn đầu tư qua CK sẽ bị bất động và như vậy sẽ rất khó khăn
trong việc phát hành. Mục tiêu chủ yếu của CPH các DNNN và các loại hình DN
khác là thu hút mọi nguồn vốn nhỏ lẻ trong dân chúng vào đầu tư. Vì vậy, TTCK còn
là tiền đề vật chất cho quá trình CPH.
� Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và phát
triển kinh tế - xã hội
Các chỉ số của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính
xác. Giá các CK tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và
ngược lại giá CK giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế,
TTCK còn được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng
giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ
có thể mua hoặc bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thiếu hụt ngân
sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính
sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư, đảm bảo cho sự phát
triển cân đối của nền kinh tế.
Việc Chính phủ thực hiện phát hành trái phiếu để giải quyết nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước được xem là một biện pháp thường xuyên và có kỹ thuật tiên tiến. Nếu là
trái phiếu kho bạc, đó là nguồn thu thường xuyên của ngân sách, vốn huy động được
hòa vào nguồn thu thuế, phục vụ cho các chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Nếu là
công trái hay trái phiếu chính quyền địa phương, nguồn thu đó được sử dụng vào
những mục đích đã định như xây dựng cơ sở hạ tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng),
các công trình văn hóa và phúc lợi xã hội.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
19
1.1.5 Phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán
1.1.5.1 Nhóm nhân tố kinh tế
TTCK mà đặc trưng là giá cổ phiếu chịu tác động bởi các nhân tố kinh tế như tăng
trưởng kinh tế, hoạt động kinh doanh của công ty, thu nhập công ty, lãi suất, lạm
phát,….
Về tăng trưởng kinh tế, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và
giảm khi nền kinh tế kém phát triển; tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các
nhóm cổ phiếu và tình hình biến động của từng cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt
động cụ thể của từng công ty.
Nhân tố quyết định sự tồn tại của hàng hóa chứng khoán là lợi thế khai thác sử dụng
các nguồn lực của công ty, lợi thế kinh doanh và các nhân tố lợi thế vô hình khác mà
công ty đã tạo dựng được, kể cả phần tích tụ lợi nhuận không chia của công ty cổ
phần để tái đầu tư, tạo lợi thế so sánh cho hàng hóa của công ty. Nói cách khác, giá
trị của hàng hóa chứng khoán là hình ảnh động phản ánh những giá trị hữu hình, vô
hình của hàng hóa thực và xu thế hoạt động của công ty cũng như tình hình kinh tế
cơ bản của công ty.
Mối quan hệ giữa lãi suất, lạm phát và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi.
Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và lạm
phát. Sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động
về lãi suất hay không sẽ tùy thuộc vào tình hình lạm phát.
Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng
khoán nhắc tới bao gồm số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và
những biến động về lượng cung tiền.
1.1.5.2 Nhóm nhân tố phi kinh tế
Nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu tiếp theo là những nhân tố phi kinh tế, bao gồm sự
thay đổi về các thay đổi chính sách pháp luật, điều kiện chính trị, ví dụ chiến tranh
hoặc thay đổi cơ cấu Chính phủ, thay đổi về thời tiết và những nhân tố tự nhiên khác,
và thay đổi về điều kiện văn hoá, như tiến bộ về công nghệ,….Tuy nhiên, những
nhân tố này chỉ có ảnh hưởng lớn đối với giá CK ở những nước có nền kinh thế thị
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
20
trường phát triển, thị trường sẽ đánh giá những chính sách này. Trong điều kiện Việt
Nam, nền chính trị ổn định, mặt khác TTCK còn chưa phát triển, thì nhân tố này ít có
tác động.
1.1.5.3 Nhóm nhân tố thị trường
Các nhân tố thị trường, là những nhân tố bên trong của thị trường, bao gồm sự biến
động thị trường và mối quan hệ cung cầu có thể được coi là nhóm nhân tố thứ ba tác
động tới giá cổ phiếu. Sự biến động thị trường là một hiện tượng chờ đợi thái quá từ
việc dự tính quá cao giá trị thực chất của cổ phiếu khi giá cổ phiếu cao nhờ sự phát
đạt của công ty, và ngược lại do dự đoán thấp giá trị tại thời điểm thị trường đi
xuống. Mối quan hệ giữa cung và cầu được trực tiếp phản ánh thông qua khối lượng
giao dịch trên thị trường, hoạt động của những nhà đầu tư có tổ chức, giao dịch ký
quỹ … cũng có ảnh hưởng đáng kể. Mặc dù số lượng giao dịch ký quỹ tăng khi mà
giá cổ phiếu tăng, nhưng một khi giá cổ phiếu giảm số lượng cổ phiếu bán ra tăng và
làm cho giá càng giảm
1.2. Lý luận về sự phát triển bền vững của TTCK
Sự phát triển ổn định và bền vững của TTCK Việt Nam đang là một trong những vấn
đề đại sự trong chiến lược vốn của Việt Nam từ nay đến năm 2010 và 2020. Việc làm
cho TTCK Việt Nam khắc phục được những bất cập hiện nay để làm đúng với chức
năng vốn có của nó là “kênh dẫn vốn cho nền kinh tế” đang thu hút sự quan tâm đặc
biệt của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước.
TTCK là nơi mua và bán các loại công cụ đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, các quỹ
tương hỗ, các quyền lựa chọn, và các trái phiếu địa phương... Do vậy, tính bền vững
của TTCK không những chịu tác động bởi nhiều nhân tố kinh tế-chính trị-xã hội của
mỗi quốc gia, của nhiều quốc gia khác trên toàn cầu; mà còn được được quyết định
bởi tính bền vững của các loại công cụ đầu tư này. Để có được những quyết định
đúng đắn trong đầu tư vào TTCK việc nhận biết các công cụ đầu tư cũng như các
nhân tố tác động đến tính bền vững của TTCK là rất cần thiết.
Các công cụ đầu tư trên TTCK thường gặp:
� Các cổ phiếu đầu tư
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
21
Cổ phiếu là một trong những loại chứng khoán vốn cổ phần quen thuộc đối với rất
nhiều người. Khi các nhà đầu tư đã thực hiện việc mua cổ phiếu thì họ đã trở thành
người chủ sở hữu “một phần” tài sản của một công ty. Nếu hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty ngày một phát triển thuận lợi, giá cả mà các cổ đông sẵn sàng trả
cho cổ phiếu của nó thường là tăng lên; lúc đó những cổ đông đã mua cổ phiếu này
với giá thấp hơn sẽ có cơ hội kiếm được lợi nhuận. Tất nhiên, nếu công ty hoạt động
không hiệu quả, giá cổ phiếu của nó sẽ đi xuống; các cổ đông sẽ bị lỗ. Vấn đề đặt ra
là, các thông tin cần thiết cho việc đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh
nghiệp vừa thiếu lại vừa chưa đủ độ tin cậy.
� Trái phiếu công ty
Trái phiếu công ty là hình thức thông dụng nhất của chứng khoán nợ công ty. Về
thực chất, trái phiếu công ty được xem như là một chứng chỉ ghi nhận sự cam kết của
công ty về việc sẽ thanh toán số tiền mà nhà đầu tư đã cho công ty vay vào một ngày
xác định. Để sử dụng được số tiền mà nhà đầu tư đã cho vay, công ty phải trả cho
người cầm giữ trái phiếu một số “lãi” nhất định hàng năm. “Lãi” này được xác định
theo tỷ lệ phần trăm so với số tiền mà người đầu tư cho công ty vay. Vì người cầm
giữ trái phiếu không phải là chủ sở hữu công ty nên họ không được chia cổ tức hay
không có quyền bầu cử cũng như tham gia vào các vấn đề khác của công ty. Lưu ý
rằng, các công ty muốn bán trái phiếu ra công chúng phải phải được sự đồng ý của
Uỷ ban chứng khoán, trong đó có một bản cáo bạch bao gồm các thông tin về công ty
và những vấn đề liên quan đến việc phát hành trái phiếu.
� Trái phiếu địa phương
Trái phiếu địa phương được sử dụng khá phổ biến trên thế giới. Trái phiếu được các
bang, thành phố, hay một số cơ quan của chính quyền địa phương (như cơ quan giáo
dục) phát hành. Đặc điểm quan trọng của trái phiếu này là lãi suất mà người cầm giữ
trái phiếu được nhận không phải chịu thuế thu nhập liên bang. Ngoài ra, lãi suất này
cũng được miễn trừ thuế bang và địa phương nếu người cầm giữ trái phiếu sống tại
cùng khu vực với người phát hành. Một đặc điểm quan trọng khác của trái phiếu địa
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
22
phương là trái phiếu địa phương được miễn trừ việc đăng ký với Uỷ ban chứng
khoán.
� Các quyền lựa chọn
Quyền lựa chọn là quyền được mua hay bán một cái gì đó tại một thời điểm nào đó
trong tương lai. Các dạng quyền lựa chọn cần quan tâm trên TTCK là các quyền lựa
chọn mua hoặc bán cổ phiếu công ty đã được tiêu chuẩn hoá. Các quyền lựa chọn
được chia thành 2 loại: “quyền mua” cho phép các nhà đầu tư quyền được mua cổ
phần của một loại cổ phiếu đã định với một giá cố định trong một khoản thời gian đã
định; “quyền bán” cho phép nhà đầu tư quyền được bán cổ phần của một loại cổ
phiếu đã định với một giá cố định trong một thời gian đã định.
� Chứng khoán chính phủ
Chính phủ của nhiều nước trên thế giới thường phát hành nhiều loại chứng khoán nợ,
bao gồm tín phiếu, kỳ phiếu và trái phiếu chính phủ được bán ra từ kho bạc qua các
phiên đấu giá. Chứng khoán chính phủ cũng có thể mua được từ các ngân hàng, các
nhà giao dịch chứng khoán chính phủ, các nhà môi giới giao dịch chứng khoán khác.
Các loại công cụ đầu tư thường xuyên được mua và bán trên các TTCK nên tính bền
vững của TTCK cũng phụ thuộc vào tính ổn định và phát triển của các công cụ đầu
tư.
Đối với loại chứng khoán nói chung thì tính ổn định và phát triển của loại chứng
khoán được quyết định bởi chất lượng hoạt động của các công ty, các doanh nghiệp.
Như vậy, chất lượng hoạt động của các công ty luôn là một trong những yếu tố quyết
định sự tăng, giảm giá cổ phiếu của công ty. Tất nhiên, giá cổ phiếu cũng bị chi phối
bởi tình hình kinh tế chung và các nhân tố ảnh hưởng đến từng ngành cụ thể. Tình
hình kinh tế chung muốn nói ở đây là tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát tiền
tệ, là sự ổn định của ngân sách quốc gia, sự phát triển của các doanh nghiệp nói
chung; là sự lành mạnh trong việc phát triển các dịch vụ tài chính-ngân hàng nói
riêng; đặc biệt là trong đầu tư và tín dụng đối với các thành phần kinh tế.
Các nhân tố ảnh hưởng đến từng ngành cụ thể không chỉ là các nhân tố kinh tế đơn
thuần, mà còn là những nhân tố được nảy sinh từ các quan hệ ngoại giao, chính trị, xã
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
23
hội... không chỉ trong phạm vi của một quốc gia, mà cả trên phạm vi toàn cầu. Sự
kiện Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO từ ngày 7/11/2006 đã góp
phần tạo ra những bước chuyển mới của đất nước trong việc thay đổi cách nghĩ và
cách làm thế nào đó cho phù hợp với vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tình trạng nóng lên một cách bất thường của TTCK trong những tháng đầu năm
2007 được tạo ra từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Tình trạng này chưa cho phép
có những đánh giá mang tính ngộ nhận về một biểu hiện “đang lên” của TTCK Việt
Nam. Thực tế diễn ra trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua; đặc biệt giá cổ phiếu
trên thị trường lúc lên, lúc xuống một cách thất thường theo ý kiến của một số người
thì đây cũng là một biểu hiện sự không bền vững của TTCK.
Một vấn đề khác cần làm rõ khi nói đến các nhân tố tác động đến tính bền vững của
TTCK là việc quan niệm thế nào về tính bền vững của TTCK. Nếu cho rằng, giá cổ
phiếu trên TTCK hôm nay lên, ngày mai xuống mà khẳng định rằng tính bền vững
của TTCK như vậy là có vấn đề thì có lẽ là chưa chính xác. Có thể do cách quan
niệm vấn đề quá đơn giản như vậy nên, người ta mới đề cập đến tình trạng “bong
bóng chứng khoán” và tình trạng “bong bóng chứng khoán xì hơi”. Hiện tượng “bong
bóng” trong nền kinh tế nói chung, trong TTCK nói riêng là những hiện tượng kinh
tế xảy ra có tính nhất thời do tác động từ nhiều nhân tố của “tâm lý” và “đầu cơ”.
Những hiện tượng này có thể dễ dàng sinh ra cũng như dễ dàng mất đi khi các nhà
đầu tư là tác giả của “đầu cơ” và “tâm lý” nhanh chóng phát hiện ra chúng. Đây cũng
chính là nơi khởi nguồn của cái gọi là tâm lý “chạy theo đám đông” như một số
chuyên gia kinh tế đã đặt tên cho nó. “Nóng, lạnh” trong mọi hiện tượng của đời
sống kinh tế diễn ra một cách thất thường vốn là một trong những đặc điểm của kinh
tế thị trường. Cái tài, cái giỏi cả các nhà đầu tư là ở chỗ dự báo được sự xuất hiện của
tình trạng nóng lạnh đó sẽ diễn ra lúc nào, khi nào và trong bao lâu. Vì thế, không
nên chỉ dựa vào sự thất thường, sự “đỏng đảnh” về “thời tiết” trên TTCK mà đã sớm
khẳng định sự bền vững hay không bền vững của nó khi chưa có đầy đủ cơ sở lý luận
và thực tiễn. Sự vội vàng trong việc nhận định hoạt động của một TTCK đang lên
như Việt Nam sẽ có thể dẫn đến những tác hại khó lường; đặc biệt khiến cho các nhà
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
24
đầu tư; nhất là các nhà đầu tư nước ngoài kéo dài sự do dự của họ trong các quyết
định đầu tư.
Khi các nhân tố tác động đến TTCK được xác định một cách đúng đắn, chính xác thì
các giải pháp đưa ra nhằm củng cố, mở rộng và phát triển hoạt động của TTCK mới
có thể có được tính khả thi.
1.1.3. Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc
Năm 2007, cả thế giới được chứng kiến sự bùng nổ của TTCK Trung Quốc. Cũng
như nhiều thị trường mới nổi khác ở châu Á, TTCK Trung Quốc trong năm 2006 và
tiếp tục từ đầu năm 2007 đã chứng kiến những đợt thăng hoa ngoạn mục, trong đó
chỉ số của hai sàn lớn nhất Trung Quốc là Thượng Hải và Sơn Dương không ít lần
lập những kỷ lục lên điểm.
Sự bùng nổ TTCK Trung Quốc khiến người dân đổ xô chơi trò chơi vẫn còn mới mẻ
này thay vì gửi tiền lấy lãi tại ngân hàng, càng làm cho làn sóng CK phủ rộng.
Do vậy, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhiều quy định mới nhằm tiếp tục phát
triển thị TTCK song vẫn đảm bảo hoạt động quy củ và lành mạnh, tránh tình trạng
"đục nước béo cò"
� Những động thái cởi mở
Những ngày đầu tháng 4/2007, chính quyền Trung Quốc đã có một loạt động thái và
những quy định mới áp dụng cho TTCK của mình.
Đầu tiên có thể kể đến việc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Trung Quốc vừa cho
phép các hoạt động mua bán CK quyền chọn được diễn ra tại TTCK nước này.
Theo quy định mới này, các tổ chức tài chính sẽ không bị ngăn cấm giao dịch CK
quyền chọn cũng như không bị hạn chế huy động vốn cho công tác giao dịch kiểu
này. Quy định mới sẽ cho phép thực hiện các giao dịch quyền chọn đối với các loại
cổ phiếu, ngoại hối và chứng khoán phái sinh.
Giới chuyên gia dự báo, quy định mới sẽ tạo điều kiện cho các nhà môi giới chứng
khoán, các quỹ đầu tư và các ngân hàng thương mại được tham gia năng động hơn và
mạnh mẽ hơn vào TTCK nước này.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
25
Cũng trong những ngày đầu tháng 4/2007, Trung Quốc đã có thêm một động thái
mang tính cởi mở khác đối với thị trường chứng khoán, với việc thúc giục đẩy mạnh
cổ phần hoá doanh nghiệp trung ương.
Bên cạnh đó, Trung Quốc sẽ bán thêm nhiều hơn nữa cổ phần trong các doanh
nghiệp nhà nước trung ương cho các nhà đầu tư chiến lược.
Mục tiêu của động thái này là nhằm giảm bớt cổ phần nhà nước trong nhiều doanh
nghiệp nhà nước trung ương, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp này nhanh
chóng cổ phần hoá và bán cổ phiếu ra công chúng, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến
lược.
Để làm được mục tiêu đẩy mạnh đa dạng hoá hình thức sở hữu vốn trong các doanh
nghiệp nhà nước, nhiệm vụ của Trung Quốc trong vấn đề này sẽ là xem xét lại các
quy định càng sớm càng tốt, hướng tới đạt chuẩn mực chung trong việc quản lý và
chuyển giao vốn của Nhà nước sang các nhà đầu tư khác. Những doanh nghiệp nhà
nước trung ương nào không thể hoàn toàn cổ phần hoá thì có thể để các chi nhánh,
công ty con của họ đưa cổ phiếu tới tay các nhà đầu tư.
Đồng thời, Chính phủ Trung Quốc quan tâm nhiều hơn tới vấn đề bảo vệ giới đầu tư
nhằm tiếp tục tăng cầu cho TTCK, phát triển kênh huy động vốn này.
UBCKNN Trung Quốc tiến hành cho áp dụng chương trình cho vay cầm cố CK
nhằm tăng cường tính thanh khoản cho các cổ phiếu, qua đó đảm bảo TTCK là một
kênh đắc lực huy động vốn cho nền kinh tế.
Đồng thời, theo quy định mới, các công ty CK nước này phải bỏ một khoản tiền nhất
định để lập một quỹ chung nhằm bảo vệ các nhà đầu tư.
Quỹ đặc biệt này sẽ thu tiền từ tất cả các công ty CK đang hoạt động tại nước này. Số
tiền trên sẽ được quản lý và sử dụng bởi một công ty được lập ra chuyên để bảo đảm
lợi ích cho các nhà đầu tư trong những trường hợp xấu.
Như vậy, khoản tiền này có thể được tung ra để bình ổn thị trường trong những lúc
biến động quá dữ dội, qua đó giúp các nhà đầu tư khỏi bị sốc. Quỹ có thể cũng sẽ
được dùng để đầu tư sinh lợi và sử dụng lại cho các hoạt động có lợi cho giới đầu tư
nước này.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
26
� Những quy định thắt chặt
Song song với những động thái cởi mở thì chính quyền Trung Quốc cũng không quên
mối lo về sự tăng trưởng nóng tại nước này. Do vậy, những quy định có vẻ thắt chặt
cũng đã được ban hành trong những ngày đầu tháng 4 này.
Đầu tiên là việc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Trung Quốc hôm 11/4 đã ra quy định
mới nhằm hạn chế việc lãnh đạo các công ty niêm yết bán cổ phiếu ra ngoài để trục
lợi và làm lũng đoạn thị trường.
Theo quy định mới này, lãnh đạo các công ty đại chúng không được phép bán cổ
phiếu của mình trước thời hạn 1 năm kể từ ngày công ty niêm yết trên sàn, và 6 tháng
kể từ ngày nghỉ việc tại công ty niêm yết.
Quy định mới sẽ có hiệu lực ngay lập tức từ bây giờ, nhằm nhanh chóng bình ổn thị
trường, chống đầu cơ lũng đoạn.
Cùng lúc, UBCKNN Trung Quốc cũng yêu cầu các nhà môi giới CK nước này phải
tra danh tính khách hàng để tránh hiện tượng lợi dụng các sàn CK để rửa tiền và các
hành vi phạm pháp khác.
Theo đó, các nhà môi giới CK nước này phải yêu cầu khách hàng cung cấp tên thật,
số chứng minh thư và sau đó sẽ tiến hành xác minh các thông số này để đảm bảo
cung cấp dịch vụ cho đúng người, đúng mục đích.
Các nhà đầu tư không đảm bảo cung cấp đủ các thông tin chính xác về mình sẽ bị
khóa tài khoản giao dịch CK cùng với số tiền nằm trong đó, đồng thời bị cấm các
hoạt động giao dịch CK ngay lập tức. Thêm vào đó, những tài khoản giao dịch CK có
số dư ít hơn 13USD hoặc ngừng giao dịch trong 3 năm liền cũng sẽ bị khoá tạm thời.
Có thể dễ dàng nhận thấy, những động thái, quy định mới của UBCKNN Trung Quốc
đa số thông thoáng hơn, cởi mở nhiều hơn là thắt chặt, với một mục tiêu kiên định là
tiếp tục phát triển TTCK lành mạnh nhưng vẫn tiếp tục phát triển bền vững.
Điều này cho thấy tầm nhìn và năng lực của các quan chức chuyên trách chứng
khoán của Trung Quốc đã đủ mạnh để theo kịp và điều phối hợp lý hoạt động của
kênh huy động vốn này.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
27
� Những kết quả ngay tức thì
Sau những động thái, quy định mới của UBCKNN Trung Quốc, chứng khoán Trung
Quốc đã thăng hoa lên những tầm cao mới.
Đơn cử, chỉ số chứng khoán quan trọng nhất của Trung Quốc là Shanghai Composite
Index hôm 17/4, đã tăng tới 15,43% so với phiên giao dịch liền trước, lên đạt kỷ lục
mới 3.611,87 điểm.
Còn trước đó, chỉ tính trong vòng có một tuần, chỉ số chứng khoán quan trọng nhất
của Trung Quốc đã 6 lần phá kỷ lục tăng điểm, một điều đang được coi là kỷ lục về
những kỷ lục.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Ở chương này, tác giả trình bày tổng quan về TTCK Việt Nam, khẳng định việc
thành lập TTCK ở Việt Nam là một tất yếu khách quan của nền kinh tế. Từ khi thành
lập đến nay, TTCK Việt Nam đã chứng tỏ được mình là một thị trường tiềm năng, có
cơ hội phát triển nhanh, mạnh và trong tương lai sẽ là bệ phóng để thị trường dịch vụ
tài chính có những bước phát triển mang tính đột phá.
TTCK là nơi huy động và phân phối vốn có hiệu quả nhất cho nền kinh tế, chịu sự
tác động của các nhóm nhân tố. Thông qua những lý luận về phát triển bền vững của
TTCK và những kinh nghiệm từ TTCK Trung Quốc, chúng ta cần phải rút ra được
những bài học riêng để tạo một TTCK Việt Nam phát triển bền vững.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
28
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HOẠT
ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
29
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bức tranh toàn cảnh về TTCK Việt Nam hiện nay
2.1.1. Những thành tựu đạt được của TTCK Việt Nam trong thời gian qua
Trải qua 8 năm phát triển, TTCK Việt Nam đã thực sự trở thành một kênh đầu tư
mới. Sức hút của TTCK ngày càng tăng, 430.000 tài khoản giao dịch chứng khoán
được mở, trong đó có khoảng 11.000 tài khoản của nhà ĐTNN. Những lúc thị trường
sôi động nhất, tổng giá trị vốn hóa thị trường lên đến 30 tỷ USD, tương đương 41%
GDP. Tính thanh khoản của cổ phiếu được cải thiện đáng kể, trong 12 tháng gần đây,
khối lượng giao dịch bình quân mỗi ngày trên 2 sàn đạt 10 triệu đơn vị, trị giá 630 tỷ
đồng. Sau đây là một số thành tựu mà TTCK mang lại.
� Thứ nhất, thay đổi quan niệm của cộng đồng DN Việt Nam về TTCK. Trước
năm 2005, cộng đồng DN Việt Nam chưa coi TTCK là kênh huy động vốn
hiệu quả, vốn ngân hàng vẫn là chủ đạo, nhưng hiện nay, phát hành cổ phần
qua kênh TTCK đã trở nên phổ biến. Chỉ tính riêng năm 2007, đã có 179 công
ty được cấp phép chào bán 2,46 tỷ cổ phiếu ra công chúng, tương đương giá
trị 48.000 tỷ đồng. TTCK đã thúc đẩy quá trình cải cách và cơ cấu lại DN nhà
nước, là lực đẩy cho các DN hoạt động lành mạnh hơn.
� Thứ hai, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của DN. Qua TTCK, các
DN huy động được nguồn vốn khổng lồ trong dân chúng, biến nguồn vốn
nhàn rỗi ngắn hạn thành các khoản đầu tư dài hạn, phục vụ cho sản xuất, kinh
doanh. Có những lúc, DN chỉ cần đưa ra phương án kinh doanh hấp dẫn là có
ngay lượng vốn cần thiết. Có công ty gần như phá sản vì nợ ngân hàng, nhưng
nhờ TTCK, họ đã tái cấu trúc vốn và trở nên ổn định hơn, có điều kiện tốt hơn
để đương đầu với những khó khăn của nền kinh tế hiện tại.
� Thứ ba, khơi thông luồng vốn trong dân chúng. Có lẽ, nếu không có TTCK,
người ta chẳng thể nào đánh giá đúng mức sự giàu có của dân chúng Việt
Nam. Những phỏng đoán trước đây về lượng vốn nằm tiềm ẩn trong két sắt,
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
30
với vàng, USD… đã trở nên rõ ràng hơn khi VN-Index tăng từ 500 điểm lên
hơn 1.100 điểm, tổng mức vốn hoá thị trường tăng 200% trong thời gian ngắn
ngủi. Nhân viên môi giới chứng khoán không còn bị "sốc" trước hình ảnh
người dân nộp hàng tỷ đồng vào tài khoản. Hàng ngàn tỷ đồng đã được đưa
vào sản xuất, kinh doanh, vòng quay vốn của toàn nền kinh tế được cải thiện
rõ rệt.
� Thứ tư, xác lập thói quen dùng các dịch vụ tài chính ngân hàng. Sự phát triển
của TTCK đã thu hút hàng triệu người tham gia, bao gồm cả NĐT trên TTCK
tập trung và thị trường OTC. Không ít thì nhiều, họ đã tiếp cận các dịch vụ
ngân hàng nhằm tối đa hoá năng lực đầu tư cũng như tìm kiếm sự an toàn và
nhanh chóng trong các giao dịch mua bán chứng khoán.
� Thứ năm, xác lập thị trường phát hành và giao dịch trái phiếu. Trái phiếu là
mảng chìm của TTCK vì người dân Việt Nam không thích đầu tư trái phiếu,
nhưng các tổ chức nước ngoài và ngân hàng lại không thể không đầu tư vào
loại hàng hoá này. Các ngân hàng trước đây mua trái phiếu với mục đích chủ
yếu là dự trữ thanh khoản thì ngày nay đã có thể mua bán hoặc kinh doanh
repo để có thể thu lời cao hơn. Một phần nguồn vốn đầu tư của Chính phủ
cũng được huy động qua việc phát hành trái phiếu trên TTCK.
� Thứ sáu, xây dựng hình ảnh cho nền kinh tế Việt Nam. Sự tăng trưởng mạnh
mẽ của TTCK đã thu hút sự chú ý của nhiều tổ chức tài chính nước ngoài.
Tính đến cuối năm 2007, giá trị danh mục đầu tư của nguồn vốn gián tiếp trên
thị trường chính thức vào khoảng 7,6 tỷ USD, tính cả thị trường OTC khoảng
20 tỷ USD. Lần đầu tiên, các chỉ số của TTCK Việt Nam như VN-Index,
HASTC-Index xuất hiện trên hàng loạt kênh truyền thông đại chúng quốc tế
như Bloomberg, Reuters… Các định chế tài chính hàng đầu thế giới như
Merrill Lynch, HSBC, JP Morgan, Citi Group cũng đều đặn cung cấp báo cáo
nghiên cứu về thị trường Việt Nam, thể hiện sự quan tâm của NĐT quốc tế về
TTCK Việt Nam.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
31
Qua 8 năm, TTCK Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho việc phát triển ngành
tài chính ngân hàng nói riêng, nền kinh tế nói chung, nhưng bên cạnh đó, TTCK còn
tiềm ẩn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để có thể tăng trưởng bền vững, trở thành
"hàn thử biểu" của nền kinh tế. Những giải pháp nhằm thu hẹp độ biến động của thị
trường, làm cho thông tin minh bạch hơn, nâng cao năng lực đầu tư của NĐT, hoàn
thiện hệ thống pháp luật… cần nhanh chóng được triển khai thực hiện.
2.1.2. Khái quát những biến động của TTCK Việt Nam từ khi thành lập qua chỉ
số VN-Index
Bắt đầu như bao chỉ số thị trường khác, VN-Index đã khởi đầu với 100 điểm vào
ngày 28/7/2000 với chỉ 2 loại chứng khoán được niêm yết. Từ đó đến nay, TTCK
Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm.
Với sự lạ lẫm và nhiệt huyết, chỉ chưa đầy 1 năm sau, VN-Index đã tăng lên tới đỉnh
tại 571 điểm, để rồi sau đó bước vào 1 thời kỳ suy thoái kéo dài hơn 2 năm sau, giảm
xuống còn 130,9 điểm, chỉ cách điểm khởi đầu hơn 30 điểm.
Vào những tháng cuối cùng của năm 2003, VNI-Index đã mở ra 1 đợt tăng mạnh lên
279,7 điểm vào ngày 1/4/2004. Từ đỉnh ngắn hạn 279,7 điểm, VN-Index đã rơi trở về
mức 213,7 điểm vào ngày 9/8/2004.
Tháng 9/2005, VN-Index đã vượt qua cái đỉnh ngắn hạn cũ 279,7 điểm để rồi đạt tới
1 cái đỉnh ngắn hạn mới 322,5 điểm vào ngày 3/11/2005. Và vào ngày 25/4/2006,
VN-Index đã đóng cửa tại 632,69 điểm, vượt qua đỉnh 571 điểm của năm 2001.
Từ ngày 26/4/2006, VN-Index đi vào 1 đợt hiệu chỉnh sâu không thể tránh khỏi với
thời gian gần 3 tháng, để vào ngày 2/8/2006 đóng cửa tại 399,8 điểm.
Đầu tháng 11/2006, dựa vào tin Việt Nam gia nhập WTO, VN-Index đã tăng liên tục
trong 5 tháng để đạt tới đỉnh tăng trưởng kỷ lục, đóng cửa tại 1.170,67 điểm vào ngày
12/3/2007, một cái đỉnh sẽ còn được nhắc tới rất nhiều.
Kể từ mốc 1.170 điểm, VN-Index rơi xuống mức điểm 905,5 và sau đó mở ra 1 đợt
tăng mới vào tháng 5/2007. Đợt tăng đã dừng lại tại 1.113,19 vào ngày 03/10/2007.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
32
Sau đó, TTCK rơi vào thời kỳ ảm đạm suy thoái với VN-Index tuột dốc không
phanh. Ngày 20/06/2008, VN-Index xác lập đáy ở mức 366,02 điểm và ngày 10/12 ở
mức 286,85 điểm.
Biểu đồ 1: Chỉ số VN-Index qua các năm (2000 – 2008)
Nguồn: www.hsx.vn
2.1.3. Thực trạng về tình hình hoạt động của TTCK Việt Nam
2.1.3.1. Toàn cảnh TTCK Việt Nam trong năm 2008
Trải qua 8 năm hoạt động với các bước thăng trầm, có thể nói TTCK Việt Nam năm
2008 biến động mạnh mẽ nhất. Trong bối cảnh ảm đạm của nền kinh tế vĩ mô, niềm
tin của các nhà đầu tư về triển vọng phát triển của nền kinh tế cũng như của TTCK
suy giảm một cách nghiêm trọng. Tâm lý tích trữ vàng và USD trở nên phổ biến. Các
nhà đầu tư trở nên nghi ngờ đối với tính an toàn của hệ thống ngân hàng và tính hiệu
quả của các kênh đầu tư chứng khoán, bất động sản,…Lạm phát đang ngày một gia
tăng trong khi tất cả các thành phần kinh tế, từ ngân hàng, doanh nghiệp đều rơi vào
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
33
tình trạng thiếu tiền mặt. Trước tình hình đó, các nhận định khá bi quan của nhiều tổ
chức uy tín trên thế giới và các chuyên gia kinh tế lớn liên tiếp được đưa ra. Đúng
vào thời điểm nhiều chuyên gia cho rằng thâm hụt thương mại quá cao sẽ sớm dẫn
đến tình trạng thiếu hụt dự trữ ngoại tệ của chính phủ Việt Nam; Fitch Ratings hạ
định mức tín nhiệm của Việt Nam từ “ổn định” xuống “tiêu cực” thì Morgan Stanley
đã giáng thêm một đòn mạnh khi nhận định tình trạng khủng hoảng tiền tệ có thể xảy
ra ở Việt Nam. Những nhận định này đề xuất phát từ các tổ chức có uy tín nên đã
khiến giới đầu tư thêm lo lắng. Sự tác động hoàn toàn mang tính tâm lý này có thể
coi là rất lớn bởi vì việc nhận định lạm phát năm nay cao sẽ khiến lạm phát càng
căng thẳng hơn; và sự thiếu lạc quan tin tưởng vào nền kinh tế sẽ khiến cho nền kinh
tế bất ổn hơn. Tâm lý của giới đầu tư vì thế đã xấu hơn lúc nào hết. Làn sóng bán
tháo cổ phiếu vẫn tiếp tục diễn ra làm cho TTCK Việt Nam trở thành một trong
những thị trường có mức độ sụt giảm nhiều nhất trên thế giới.
� Hoạt động niêm yết và giao dịch kém sôi động hơn trước
Bảng 1: Quy mô niêm yết chứng khoán tại HOSE (2008)
Chỉ tiêu Cổ phiếu Chứng chỉ Trái phiếu Toàn thị
trường
Số CK niêm yết 172 4 68 244
Tỷ trọng (%) 70,49 1,64 27,87 100
KL niêm yết (ngàn CK) 5.515.474,34 252.055,53 149.546,80 5.917.076,67
Tỷ trọng (%) 93,21 4,26 2,53 100
Giá trị niêm yết (triệu
đồng) 55.154.743,43 2.520.555,30 15.073.029,50 72.748.328,23
Tỷ trọng (%) 75,82 3,46 20,72 100
Nguồn: www.hxs.vn
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
34
Biểu đồ 2: Tình hình CK niêm yết mới tại HOSE qua các năm (2006-2008)
948
50 42
1,723
21 67
1,276
815
0
200
400
600
800
1,000
1,200
1,400
1,600
1,800
Triệu ĐV
2006 2007 2008Năm
Cổ phiếu Chứng chỉ Trái phiếu
Nguồn: www.hxs.vn
Biểu đồ 3: Quy mô giao dịch CK tại HOSE qua các năm (2006-2008)
1,116
2,390
2,978
86
263
125
2006
2007
2008
Khối lượng giao dịch (triệu CP) Giá trị giao dịch (nghìn tỷ đồng)
Nguồn: www.hxs.vn
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
35
Bảng 2: Quy mô giao dịch CK tại HOSE qua từng tháng trong năm 2008
Khớp lệnh Thỏa thuận
Khối lượng Giá trị Khối lượng Giá trị Tháng
(đv: 1ck) (tỉ đồng) (đv: 1ck) (tỉ đồng)
12-2008 219.177.500 5.497,987 41.651.512 1.482,116
11-2008 271.537.710 7.627,381 25.308.065 1.446,889
10-2008 317.169.710 9.705,117 22.688.107 980,103
09-2008 392.405.310 14.914,819 19.259.727 741,667
08-2008 414.593.310 16.532,365 19.089.218 841,096
07-2008 312.167.500 10.986,207 19.700.728 794,113
06-2008 136.208.620 4.053,335 15.909.495 646,668
05-2008 54.272.210 2.526,458 21.180.381 934,138
04-2008 126.875.030 6.218,647 9.824.000 516,267
03-2008 206.543.760 11.769,517 15.693.569 900,640
02-2008 137.588.960 10.005,693 2.949.952 300,598
01-2008 163.777.670 14.191,361 12.199.414 962,901
Nguồn: www.hxs.vn
� Các chỉ số trên TTCK giảm mạnh
Kết thúc năm 2008, chỉ số VN-Index và HASTC-Index cùng giảm gần 70% so với
đầu năm, một mức sụt giảm chưa từng có trong lịch sử hơn 8 năm hoạt động, thuộc
nhóm chỉ số giảm mạnh nhất trên thế giới. Hàng chục nghìn tỷ đồng vốn hóa thị
trường “bốc hơi” trong năm suy giảm nghiêm trọng này.
Cuối năm 2007, tổng giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam đạt tới 40%
GDP. Trong đề án phát triển thị trường vốn của Bộ Tài chính trình Chính phủ trong
năm 2007, mốc 50% GDP vào năm 2010 đã được đặt ra, nhưng sự sụt giảm quá
mạnh trong năm 2008 là một chuyển động ngược không ngờ tới; hiện chỉ đạt khoảng
19% GDP, thấp hơn cả mức cuối năm 2006 (22,6% GDP).
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
36
Giá trị vốn hóa thị trường của những cổ phiếu hàng đầu cũng sụt giảm mạnh. So với
cuối năm 2007, đầu tàu VNM giảm từ 29.400 tỷ đồng còn hơn 14.500 tỷ đồng, STB
từ 28.700 tỷ đồng còn hơn 9.400 tỷ đồng, DPM từ 27.500 tỷ đồng còn hơn 13.000 tỷ
đồng… Trên sàn niêm yết chỉ còn lại 5 cổ phiếu có vốn hóa thị trường đạt trên
10.000 tỷ đồng (năm 2007 là 12 cổ phiếu), gồm VNM, DPM, ACB, HAG và PVD;
trong đó HAG vừa niêm yết cuối năm 2008.
Biểu đồ 4: Biểu đồ tăng/giảm của một số chỉ số chứng khoán tiêu biểu năm 2008
Nguồn: www.vneconomy.vn
� Mục tiêu cổ phần hóa và nhiều cuộc đấu giá thất bại
Mục tiêu cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lại thêm một năm thất bại. Theo
báo cáo của Bộ Tài chính, 11 tháng đầu năm 2008 chỉ cổ phần hóa được 73/262
doanh nghiệp, chỉ đạt 28% kế hoạch đã được Chính phủ phê duyệt trước đó. Trong cả
năm 2007, tỷ lệ hoàn thành cũng chỉ là 21% kế hoạch.
Nếu trong năm 2007, thị trường chứng khoán khởi sắc, tạo điều kiện thuận lợi cho
các kế hoạch cổ phần hóa, IPO, phát hành gọi vốn, thì năm 2008 những hoạt động
này bước vào cảnh chợ chiều. Đây là năm chứng kiến nhiều cuộc đấu giá cổ phần chỉ
có chưa đầy chục nhà đầu tư tham gia, một loạt kế hoạch liên quan phải hủy bỏ, hoặc
không thể hoàn thành mục tiêu khi có những trường hợp… chỉ có 1 phiếu tham gia
hoặc chỉ bán được chưa đầy 1% lượng chào bán.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
37
Cuối năm 2008, thị trường chứng kiến đợt IPO của Vietinbank với sự mờ nhạt trong
cạnh tranh giá và chênh lệch của lượng đăng ký mua và chào bán. Cuộc đấu giá này
cho thấy vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể nào đối với cách thức IPO các tổng công ty
lớn, và đây cũng là một trong những tồn tại cần sớm được khắc phục trong thời gian
tới.
Song song với việc thực hiện đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng, các kế hoạch
niêm yết của các tập đoàn kinh tế được cổ phần hóa vẫn chưa được thực hiện, gây
thất vọng đối với nhiều cổ đông. Điển hình là các trường hợp Tập đoàn Bảo Việt,
Vietcombank. Riêng việc tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược nước ngoài của
Vietcombank vẫn chưa kết thúc.
� TTCK Việt Nam ảnh hưởng sâu sắc từ TTCK thế giới
Trong hơn 8 năm hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, chưa bao giờ mối
quan hệ và ảnh hưởng từ thị trường thế giới lại thể hiện sâu sắc như trong năm 2008.
Mối quan hệ trên được đặt trong một bối cảnh đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài chính
bùng nổ tại Mỹ, kế tiếp là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Thị trường chứng
khoán thế giới sụt giảm mạnh, ảnh hưởng đến thị trường Việt Nam, thể hiện rõ ở tâm
lý nhà đầu tư trong nước cũng như phản ứng không mong đợi từ khối đầu tư nước
ngoài.
Một ảnh hưởng cụ thể là năm 2008 đã chứng kiến hoạt động bán ròng chưa từng có
của nhà đầu tư nước ngoài. Trong năm này, thị trường chứng kiến đợt rút vốn mạnh
của khối ngoại trong các tháng 4, 5 và 6, cao điểm rút ra khoảng 300 triệu
USD/tháng, nguyên do chủ yếu từ biến động kinh tế trong nước; và đợt bán ròng
hiếm thấy trong tháng 10, do tác động của khủng hoảng thế giới.
Ở một ảnh hưởng khác, kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng tác động đến nền kinh tế
Việt Nam, đặc biệt là đối với xuất khẩu và đầu tư gián tiếp. Điều này cũng đã thể
hiện ở thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2008, khi thị trường này thường
phản ánh trước những khó khăn của nền kinh tế.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
38
Bảng 3: Quy mô giao dịch của NĐT tại HOSE qua từng tháng năm 2008
Khối lượng giao dịch Giá trị giao dịch (1 CK) (tỉ đồng)
Tháng Toàn thị trường
ĐTNN (mua)
ĐTNN (bán)
Toàn thị trường
ĐTNN (mua)
ĐTNN (bán)
12-2008 260.829.012 37.464.443 37.192.656 6.980 1.205,252 1.120,021
11-2008 296.845.775 26.782.893 44.776.971 9.074 1.229,854 1.801,026
10-2008 339.857.817 34.191.810 72.913.120 10.685 1.448,551 2.994,284
09-2008 411.665.037 61.753.887 60.447.943 15.656 3.446,875 3.161,289
08-2008 433.682.528 53.733.210 62.104.142 17.373 3.220,757 3.218,797
07-2008 331.868.228 66.555.914 48.193.734 11.780 3.269,645 1.743,872
06-2008 152.118.115 34.244.605 17.088.781 4.700 1.394,449 669,322
05-2008 75.452.591 31.883.285 7.158.090 3.461 1.619,038 427,279
04-2008 136.699.030 41.454.350 8.651.210 6.735 2.531,218 568,200
03-2008 222.237.329 30.972.154 17.601.256 12.670 2.132,981 1.199,713
02-2008 140.538.912 15.952.010 7.650.820 10.306 1.352,305 659,907
01-2008 175.977.084 25.773.632 20.164.932 15.154 2.473,800 1.934,371
Nguồn: www.hxs.vn
� Hoạt động trên TTCK bị ảnh hưởng bởi Luật thuế thu nhập cá nhân
Luật Thuế thu nhập cá nhân bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 nhưng ảnh hưởng
của nó đối với thị trường chứng khoán đã đậm nét trong năm 2008, đặc biệt vào
những tháng cuối năm. Đây là lần đầu tiên thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán
được đưa vào diện chịu thuế.
Về chính sách, đây là một trong những bộ luật thu hút sự chú ý của dư luận nhiều
nhất từ trước tới nay (trước đó là Luật thuế Giá trị gia tăng). Hàng nghìn ý kiến bình
luận, góp ý, đồng thuận, phản đối liên tục được phản ánh trong nửa cuối năm 2008.
Trong đó, nổi bật là sự lo ngại và phản ứng từ nhiều nhà đầu tư chứng khoán, khi họ
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
39
đặt chính sách này trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế nói chung và của thị
trường chứng khoán nói riêng.
Cuối năm, những đề xuất về việc giãn thời gian thực hiện luật thuế này trở thành một
điểm nóng thu hút sự chú ý và hy vọng của giới đầu tư, nhưng việc thực hiện vẫn
theo lộ trình Quốc hội đã định.
� Lợi nhuận của các DN bị ảnh hưởng lớn bởi đầu tư tài chính
Năm 2008 là năm lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp niêm yết bị ảnh hưởng nặng nề
từ hoạt động đầu tư tài chính và chi phí tài chính tăng cao.
Nhiều doanh nghiệp buộc phải tăng cường trích lập rủi ro do giá trị danh mục đầu tư
tài chính và đầu tư bất động sản sụt giảm mạnh, dẫn đến thua lỗ hoặc lợi nhuận sụt
giảm. Đây cũng là một nguyên nhân khiến nhiều kế hoạch kinh doanh, đặc biệt là
mục tiêu lợi nhuận, phải điều chỉnh, bên cạnh ảnh hưởng từ những khó khăn chung
của nền kinh tế. Đây cũng là một bài học quý giá đối với các doanh nghiệp đầu tư tài
chính theo phong trào và xa rời hoạt động giá trị cốt lõi của mình.
Năm 2008 cũng là một năm bất thường về lạm phát, lãi suất và tỷ giá, đẩy chi phí tài
chính của nhiều doanh nghiệp niêm yết tăng cao. So với cùng kỳ quý 2/2007, có tới
163/209 (78%) doanh nghiệp niêm yết có chi phí tài chính tăng; trong đó có 120/209
doanh nghiệp chi phí tài chính tăng tới trên 50%, 34/108 (31,5%) trong số các doanh
nghiệp sử dụng vốn vay chịu chi phí lãi vay tăng trên 100%.
Riêng về ảnh hưởng của biến động tỷ giá, sự kiện Nhiệt điện Phả Lại phải tạm hoãn
trả cổ tức do chi phí khoản vay ngoại tệ tăng cao là một điển hình.
� UBCKNN giảm biên độ giao động và Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn
nhà nước hỗ trợ thị trường
Trước sự sụt giảm nhanh và mạnh của thị trường, ngày 27/3, Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước quyết định giảm biên độ giao động giá chứng khoán tại HOSE từ +/-5%
xuống +/-1%, tại HASTC từ +/-10% xuống +/-2%. Sau đó biên độ lần lượt nới dần
lên +/-2% và +/-3% từ ngày 7/4; lên +/-3% và +/-4% từ ngày 19/6 và lên +/-5% và
+/-7% từ ngày 18/8.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
40
Đây là tần suất điều chỉnh biên độ chưa từng có trong lịch sử, phía sau đó là tính
thanh khoản của thị trường, hiệu quả của biện pháp can thiệp với những bình luận trái
chiều.
Cũng trong tháng 3, tâm điểm chú ý của thị trường là sự kiện Tổng công ty Đầu tư và
Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) lên kế hoạch mua vào hỗ trợ, một trường hợp chưa
từng có tiền lệ. Sự vào cuộc của “siêu tổng công ty” này cũng gắn liền với gánh nặng
giải chấp chứng khoán cầm cố từ các ngân hàng thương mại tại thời điểm đó.
� Thị trường trái phiếu biến động trái chiều
Năm 2008, thị trường trái phiếu được tập trung về đầu mối HASTC, hình thành và
khởi động thị trường trái phiếu chuyên biệt.
Về diễn biến của thị trường này, năm 2008 chứng kiến nhiều biến động trái chiều.
Trong quý 1 là hướng sôi động với sự tham gia mua vào mạnh của khối đầu tư nước
ngoài trên thị trường thứ cấp; lượng phát hành thành công ước đạt 78% tổng giá trị
phát hành trên thị trường sơ cấp.
Tuy nhiên, trong các tháng 5 và 6, khối ngoại đẩy mạnh bán ra để tránh lạm phát tiền
đồng và sự mất giá của VND. Thời điểm đó không có nhà đầu tư nào trúng thầu trái
phiếu trong những đợt đấu thầu tại HASTC, thậm chí có những đợt gọi thầu không có
nhà đầu tư tham gia. Các trái phiếu chính phủ với lãi suất coupon 8% - 8,5% được
nhà đầu tư bán ra với lợi suất cao (có một số giao dịch lên đến 20% - 23%). Trên thị
trường sơ cấp khối lượng phát hành thành công chỉ đạt khoảng 30%.
Từ tháng 9, giao dịch trái phiếu có dấu hiệu ổn định trở lại, gắn với chính sách cắt
giảm lãi suất cơ bản liên tục của Ngân hàng Nhà nước, nhưng xu hướng bán ròng trái
phiếu của khối đầu tư nước ngoài vẫn tiếp diễn nhằm thực hiện hóa lợi nhuận và rút
một phần vốn về chính quốc.
� Việc thành lập thị trường giao dịch phi tập trung vẫn chưa được thực hiện
Giới đầu tư cũng nhìn nhận chưa năm nào như năm nay, giá giao dịch trên OTC suy
giảm cực mạnh, lùi về mệnh giá và thậm chí tuột khỏi 10.000 đồng, trong đó có cả
ngành ngân hàng, sau giai đoạn đỉnh cao năm 2007. Gía nhiều cổ phiếu cứ trong tư
thế đi ngang suốt thời gian dài bởi không một ai đả động ngỏ mua.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
41
Và có lẽ cũng chẳng ai quan tâm kế hoạch đưa các công ty đại chúng chưa niêm yết
lên sàn tập trung dành riêng cho đối tượng này đã phải lỗi hẹn trong năm nay. Sàn
OTC ra đời với mong đợi sẽ là bệ phóng đẩy nhanh tính thanh khoản và minh bạch
của thị trường OTC nói riêng cùng chứng khoán Việt Nam nói chung phải dời sang
năm. Hiện cổ phiếu OTC vẫn được giao dịch theo kiểu trao tay và tiềm ẩn nhiều rủi
ro.
� Nhiều trường hợp vi phạm bị xử lý
Trong năm 2008, Thanh tra Chứng khoán đã ban hành 136 quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với các tổ chức và cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về
chứng khoán và TTCK. Tổng số tiền phạt nộp vào ngân sách nhà nước trong năm
2008 là trên 4 tỷ đồng.
Đây cũng là năm đầu tiên có trường hợp doanh nghiệp cổ phần bị phạt do không thực
hiện nghĩa vụ đăng ký công ty đại chúng, cũng như phát hiện cá nhân có hành vi lũng
đoạn thị trường với số tiền phạt lên tới 100 triệu đồng.
Đặc biệt, ngày 11/7, cổ phiếu BBT của Công ty Cổ phần Bông Bạch Tuyết phải tạm
dừng giao dịch do thua lỗ trong hai năm liên tiếp và đứng trên bờ vực phá sản. Đây là
sự kiện báo động về tính minh bạch trong công bố thông tin và chất lượng kiểm toán
doanh nghiệp niêm yết, khi đến năm 2008 thua lỗ của BBT mới lộ rõ.
� Nhiều công ty chứng khoán, quỹ đầu tư đứng trước nguy cơ phá sản
Đi cùng với sự suy giảm của thị trường, năm 2008, hoạt động của các công ty chứng
khoán và quỹ đầu tư rơi vào khó khăn và nhiều trường hợp lỗ lớn. Hàng loạt công ty
chứng khoán mới thành lập đã phải thực hiện cắt giảm nhân sự hoặc tìm kiếm đối tác
nước ngoài nhằm duy trì khả năng tồn tại qua cuộc khủng hoảng tài chính và môi
trường cạnh tranh khốc liệt.
Tính đến cuối năm 2008, đã có gần 100 công ty chứng khoán được cấp phép, trong
khi số tài khoản chứng khoán chưa tới 400 nghìn.
Theo báo cáo nghiên cứu của Công ty Chứng khoán Rothchild (Anh), nhiều quỹ đầu
tư tại Việt Nam đã lỗ lớn trong năm nay; giá trị tài sản ròng (NAV) nhiều quỹ giảm
từ 60% - 70%.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
42
Trong khi đó, báo cáo nghiên cứu của Công ty Chứng khoán APEC mới đây nhận
định, với bối cảnh thị trường hiện nay, chỉ những công ty chứng khoán trong Top 20
về quy mô, hiệu quả hoạt động mới có thể tồn tại. Trước đó, Hiệp hội Kinh doanh
Chứng khoán cũng nhận định khoảng 80% số công ty chứng khoán đang phải hoạt
động cầm cự.
Ngày 2/12, lần đầu tiên thị trường chứng kiến trường hợp một công ty chứng khoán
(Công ty Chứng khoán ASEAN) phải họp bàn để xem xét việc giải thể.
Biểu đồ 5: Biểu đồ mức sụt giảm giá trị tài sản ròng tính theo USD của một số
quỹ đầu tư so với đầu năm 2008
Nguồn: www.vneconomy.vn
2.1.3.2. Phân tích những nguyên nhân gây biến động đến TTCK năm 2008
TTCK Việt Nam đã phát triển bong bóng với tốc độ nhất, nhì thế giới và năm 2008
đứng đầu thế giới về tốc độ suy giảm. Đây là giai đoạn xì hơi bong bóng sau hơn 1
năm phát triển quá mức. Sự suy giảm này là do những nguyên nhân sau tác động:
Khi thị trường chuyển từ năm 2007 qua 2008, cuối 2007 đã có những dấu hiệu cho
thấy sẽ có sự điều chỉnh, thậm chí cuối 2007 đã có những đợt điều chỉnh mạnh.
Tưởng rằng sau những đợt điều chỉnh đó, khả năng thị trường sẽ đứng lại ở mức
1.000 điểm cuối 2007.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
43
Đó là mức điểm ở thời điểm mà nền kinh tế Việt Nam đang phát triển tương đối
mạnh. Và đối với một nền kinh tế phát triển mạnh như vậy thì các chỉ số có thể cao
hơn mức trung bình của thế giới một chút. Dựa vào một số phân tích, các chuyên gia
đều dự tính năm 2008 thị trường sẽ lên xuống với sự duy trì ở mức tương đối lạc
quan.
Tuy nhiên, tình hình trở nên xấu đi. Mở đầu cho thời kỳ đi xuống của TTCK là Chỉ
thị 03/2007/CT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 28/5/2007 khống
chế cho vay kinh doanh chứng khoán dưới 3% tổng dư nợ của tổ chức tín dụng. Sau
đó, Quyết định 03/2008/QD-NHNN, thay khống chế cho vay dưới 3% tổng dư nợ
bằng dưới 20% vốn điều lệ. Việc khống chế cho vay kinh doanh chứng khoán này
làm giảm đi một lượng cầu lớn và mở đầu cho việc giảm nhiệt của thị trường.
Nền kinh tế rơi vào lạm phát và chống lạm phát. Lạm phát tăng đột biến mà nguyên
nhân chủ yếu do giá dầu, giá vàng, giá lương thực thế giới tăng cao. Sự lo ngại về
khả năng thanh khoản và rủi ro từ hệ thống ngân hàng đã tạo áp lực cho TTCK
Những biện pháp mạnh chống lạm phát làm ảnh hưởng tới thị trường. Tỷ lệ lạm phát
tăng cao buộc NHNN phải áp dụng các biện pháp thắt chặt nhằm hạn chế lưu thông
tiền tệ. Biện pháp này là cần thiết để ổn định nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, hệ quả
của việc khống chế trần lãi suất huy động đã khiến cho các NH không thể huy động
được vốn, lãi suất qua đêm bị đẩy lên mức cao điểm hơn 25%. Rồi cổ phiếu "vua"
(các cổ phiếu ngành NH) rơi tự do cũng đã tác động mạnh tới TTCK
Phải kể đến tiếp theo là các biện pháp về tài khóa, nó cũng làm cho một số hoạt động
liên quan đến chứng khoán giảm.
Sau khi TTCK giảm khá sâu, trước tiên là những tập đoàn, công ty nhà nước có tham
gia thị trường bắt đầu rút vốn. Thị trường bị hẫng một lượng rất lớn. Điều đó ít ai dự
liệu được trong năm 2007 để bước vào năm 2008. Kế tiếp là các tổ chức đầu tư, các
doanh nghiệp không phải là những tập đoàn trên, cũng bắt đầu tính toán, cấu trúc lại
và rút bớt nguồn tiền ra khỏi thị trường, do giá chứng khoán đi xuống mạnh, ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh của họ. Lực lượng rút vốn tập trung đầu năm 2008
làm cho thị trường suy giảm mạnh, kế sau chuyện thắt chặt tiền tệ.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
44
Đó là những vấn đề có tính chất phản ứng của thị trường. Còn nếu xét về những yếu
tố mang tính kỹ thuật thì có thể nói thị trường của năm 2007 được định giá quá cao,
nó thể hiện qua hai mặt.
Thứ nhất, đối với các doanh nghiệp CPH hoặc niêm yết trên sàn, họ đều đưa ra
những mức giá quá cao. Thứ hai, ở phía nhà đầu tư, người ta cũng kỳ vọng quá cao.
Hai yếu tố này gặp nhau và đẩy thị trường lên khá cao. Và cuối năm 2007, thị trường
đã nhận ra điều đó và có phản ứng.
Ở phía nhà đầu tư rõ ràng là có phản ứng, người ta không chịu mua cao nữa, trong
khi cái quán tính hay sự chuẩn bị của rất nhiều công ty để phát hành tăng vốn hay cổ
phần hóa thì vẫn tiếp tục triển khai, phát hành hoặc niêm yết giá cao. Khi mà thị
trường không chấp nhận nữa mà vẫn tiếp tục đẩy ra giá cao như thế thì thị trường
buộc phải kéo xuống. Chính lý do đó đã làm cho chỉ số giảm mạnh.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp vẫn tiếp tục tranh thủ phát hành cổ phiếu ra thị trường
với giá cao để gọi vốn. Đáng chú ý là càng về sau, như quý 4/2007, là những doanh
nghiệp lớn như Vietcombank, Bảo Việt… nên mức độ chi phối lớn, kéo thị trường
xuống rất nhanh.
Khi thị trường xuống sâu, nhiều người vẫn chờ đợi cơ hội, tính toán các kế hoạch đầu
tư. Ví như hồi đầu tháng 3 JP Morgan tuyên bố sẽ đầu tư vào thị trường chứng khoán
Việt Nam khoảng 1 tỷ USD…
Và khi nó xuống dưới 500 điểm, biên độ bắt đầu bị siết lại xuống +/-1%. Thị trường
lập tức phản ứng theo hướng tiêu cực do thị trường gần như mất tính thanh khoản.
Nhà đầu tư lớn không tham gia, bởi tham gia vào bị kẹt thì cửa thoát quá hẹp. Nó
chặn luôn các dự định đầu tư của nhiều tổ chức khi thấy thị trường đã giảm xuống
hấp dẫn.Và khi biên độ được giãn ra từ từ thì thị trường bật lên khá mạnh. Tới cuối
tháng 8, nó từ 366 điểm lên gần 570 điểm.
Thị trường lúc này vừa mới được hồi phục, một cơ thể vừa ốm dậy, chưa khỏe hẳn
thì bị cơn bão khủng hoảng tài chính ập tới. Thị trường chứng khoán thế giới bắt đầu
suy giảm mạnh thì Việt Nam không tránh khỏi sự ảnh hưởng, cho tới giờ phút này.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
45
Đó là cú đánh bồi làm thị trường xuống sâu, có lúc xuống còn khoảng 286 điểm và
giờ đang lừng khừng trên dưới 300.
2.2. Những hạn chế tồn tại làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của
TTCK Việt Nam
2.2.1. TTCK Việt Nam vẫn chưa là hàn thử biểu của nền kinh tế
Các cụm từ như "hàn thử biểu sàn TP. HCM", "hàn thử biểu TTCK Việt Nam" đã
được sử dụng khá phổ biến và như vậy, TTCK Việt Nam nghiễm nhiên được khoác
lên mình cái chức danh là hàn thử biểu của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này cần
được xem xét lại.
TTCK Việt Nam chỉ được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế khi đo lường được sức
khỏe của toàn bộ nền kinh tế, chỉ số của thị trường phải thể hiện chu kỳ phát triển của
nền kinh tế, từ đó tạo mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ giữa TTCK và thị trường tài
chính. Tuy nhiên, đến nay TTCK Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được các yếu tố cơ
bản sau:
� TTCK Việt Nam chưa quy tụ đầy đủ DN lớn tiêu biểu của mọi ngành nghề
Một trong những yếu tố bắt buộc để TTCK Việt Nam trở thành hàn thử biểu của nền
kinh tế, đó là thị trường phải chứa đựng những DN lớn tiêu biểu cho mọi ngành nghề,
đại diện cho một nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo thống kê, hiện nay, TTCK Việt Nam có 290 DN niêm yết. Con số
này còn quá ít so với con số hàng trăm nghìn DN thực tế đang hoạt động. Mặt khác,
các DN niêm yết chủ yếu là những DN nhỏ và vừa, chưa phải là những DN lớn có
sức chi phối nền kinh tế...
Về mức vốn hóa của thị trường, năm 2007 đạt khoảng 40% GDP. Song đến thời điểm
hiện tại, TTCK đang suy giảm từng ngày, thì mức vốn hoá thị trường cũng giảm đi
tương ứng. Trong khi đó, theo kế hoạch Chính phủ đặt ra, tới năm 2010, tỷ lệ vốn
hóa TTCK phải chiếm 50% GDP và con số này phải tăng đến 70% vào năm 2020.
Khi đó, quy mô thị trường mới đủ lớn để có thể đưa TTCK thực sự trở thành hàn thử
biểu của nền kinh tế theo đúng nghĩa của nó.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
46
� Giá chứng khoán của TTCK Việt Nam chưa phản ánh tương đối chính xác giá
trị thực của DN niêm yết
Một thực tế hiện nay là phần lớn con số tính toán về giá trị thực của cổ phiếu đều chỉ
sử dụng một cách máy móc những số liệu ghi trên báo cáo tài chính của các DN niêm
yết; chưa thể hiện được đầy đủ giá trị nội tại của DN mà nó phản ánh. Ngoài ra, sự
kém minh bạch còn phổ biến, kèm theo đó là những yếu tố thuộc về tài sản vô hình
của công ty (trình độ quản lý, uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản
phẩm...) chưa phản ánh hết trong báo cáo tài chính.
Mặt khác, sự thiếu kiến thức và tâm lý đám đông của NĐT đã và đang tác động mạnh
mẽ tới TTCK. Tâm lý "phải tháo chạy bằng mọi giá" đã đẩy chỉ số VN-Index xuyên
thủng 300 điểm. Rõ ràng, hiện nay, tâm lý NĐT chứ không phải phương pháp xác
định hay hoạt động kinh doanh của DN quyết định giá chứng khoán.
� TTCK Việt Nam chưa phản ánh tương đối chính xác sự biến động của nền
kinh tế
Hai năm qua, chúng ta đã chứng kiến những bước thăng trầm của TTCK Việt Nam.
Ngày 8/11/2006, VN-Index xuất phát với mức 525,99 điểm, chỉ 4 tháng sau (ngày
12/3/2007) VN-Index đã leo lên tới đỉnh 1.170,67 điểm, để rồi hiện tại VN-Index đã
quay trở lại và thậm chí phá mốc 400 điểm. Tất nhiên, lên xuống là chuyện bình
thường của thị trường, nhưng lên xuống với biên độ lớn trong thời gian ngắn là bất
thường. Và điều này không phản ánh chính xác sự biến động của nền kinh tế. Dễ
dàng nhận thấy, từ cuối năm 2007 đến nay, VN-Index đã giảm quá sâu, bất chấp
những thông tin rất tốt về hiệu quả sản xuất - kinh doanh của đại đa số công ty niêm
yết trên sàn, bất chấp nỗ lực chống lạm phát đã có kết quả bước đầu của Chính phủ.
Ngoài ra, nếu nền kinh tế Việt Nam chủ yếu có 4 kênh đầu tư: TTCK, thị trường tín
dụng trung và dài hạn, thị trường bất động sản và thị trường tiền tệ thì trong thời gian
qua, sự ảm đạm của TTCK dường như cũng chưa ảnh hưởng nhiều tới các thị trường
còn lại, nếu có, thì cũng chỉ như sự ảnh hưởng của một hàng hóa này tới một hàng
hóa thay thế khác. Nhìn vào TTCK, chưa thấy được bức tranh khái quát của toàn bộ
nền kinh tế.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
47
Như vậy, rõ ràng TTCK Việt Nam hiện chưa phải là hàn thử biểu của kinh tế Việt
Nam, chưa đo lường được sức khỏe của nền kinh tế, thể hiện sự phát triển kém bền
vững của TTCK.
2.2.2. Chưa kiểm soát được nguồn cung của thị trường
2.2.2.1. Tồn tại nhiều hàng hóa kém chất lượng do phát hành bừa bãi
TTCK Việt Nam đã ra đời và hoạt động được 8 năm, tuy nhiên khoảng thời gian tốt
đẹp để các doanh nghiệp niêm yết và chưa niêm yết huy động được vốn qua các đợt
phát hành cổ phiếu lại không nhiều, chỉ tập trung trong hai năm 2006, 2007. Sáu năm
còn lại là những khoảng thời gian được mô tả là bắt đầu tăng truởng, suy thoái,
khủng hoảng và phục hồi, trong khoảng thời gian 6 năm này thì ít có cơ hội cho
doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Trong hai năm 2006, 2007 tranh thủ cơ hội TTCK tăng trưởng nóng, phong trào phát
hành cổ phiếu theo hình thức phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng diễn ra ồ
ạt, nhiều doanh nghiệp tăng vốn liên tục trong một khoảng thời gian ngắn. Phong trào
tăng vốn ồ ạt này có một số điểm tiêu cực :
� Một số công ty đại chúng được sự tư vấn của một số CTCK đã tiến hành thổi
giá cổ phiếu với những hình thức như vẽ ra triển vọng của doanh nghiệp, tô
hồng sự thật và hạn chế công bố những mặt tồn tại trong hoạt động của DN.
� Một loại cổ phiếu kém chất lượng đáng lo ngại hơn là dạng cổ phiếu phát hành
“chui” mà lượng này khá lớn và đa dạng. Doanh nghiệp “tranh thủ” Luật
Chứng khoán mới thực thi nên phát hành không xin phép, lấy Nghị Quyết
ĐHCĐ đầu năm rồi triển khai phát hành rải rác trong năm, hồ sơ không đầy
đủ, thậm chí thông qua ĐHCĐ không đúng cả Luật Doanh nghiệp và Luật
Chứng khoán.
� Sự dễ dãi trong việc chấp nhận các đợt phát hành cổ phiếu tăng vốn cùng với
sự dễ dại trong việc mua cổ phần của công chúng đầu tư đã kích thích trào lưu
phát hành cổ phiếu tăng vốn, tạo ra 1 nguồn cung cổ phiếu rất lớn ra thị truờng
và từ đó làm cho thị trường bị bội thực về nguồn cung cùng với việc ảnh
hưởng tới sức cầu cổ phiếu.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
48
� Rất nhiều đợt phát hành cổ phiếu với giá cổ phiếu “trên trời” hay thực tế việc
sử dụng vốn huy động không đúng hay không đạt kết quả như trong bản cáo
bạch đã làm mất lòng tin của các nhà đầu tư.
� Như vậy từ thực tế là không kiểm soát được nguồn cung cổ phiếu quá lớn
cộng với việc mất niềm tin của các nhà đầu tư từ nhiều đợt phát hành là những
nguyên nhân sâu xa và cơ bản làm cho TTCK gặp khủng hoảng như đã diễn ra
trong thời gian qua.
Nếu thực hiện giám sát chặt chẽ hơn và có sự đồng thuận giữa các cơ quan chức
năng, thì việc hạn chế ngăn chặn các hành vi vi phạm, thanh lọc được các loại cổ
phiếu kém chất lượng trên TTCK sẽ hiệu quả hơn, giúp nhà đầu tư tránh được rủi ro
thiệt hại khi tham gia TTCK.
Từ thực tế trên mà công luận, các nhà đầu tư, các bên tham gia thị trường đã nhiều
lần lên tiếng cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ các đợt phát hành cổ phiếu ra công
chúng, tuy nhiên vấn đề đặt ra là kiểm soát bằng cách nào cho hữu hiệu để không
hành chính hoá, không tạo cơ chế xin cho, không làm mất đi cơ hội của DN mà vẫn
đảm bảo chất lượng của các đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng.
2.2.2.2. Tiến trình cổ phần hóa DNNN bị ngừng trệ
Từ đầu năm 2008 đến gần thời điểm hiện tại, TTCK liên tục sụt giảm, trước tình hình
này các cơ quan quản lý nhà nước có chủ trương giảm nguồn cung hàng hoá từ việc
phát hành cổ phiếu ra công chúng cũng như giãn tiến độ cổ phần hoá các DNNN.
Có nhiều ý kiến cho rằng nếu tiếp tục IPO ồ ạt các cổ phiếu các DNNN thì chẳng
những ảnh hưởng đến sự ổn định của TTCK mà còn làm giảm thu lớn ngân sách nhà
nước từ việc bán tài sản.
Tuy nhiên đến thời điểm nào mới tiếp tục tiến trình cổ phần hoá DNNN? Và rằng nếu
tiếp tục tiến trình cổ phần hoá DNNN theo cách làm cũ thì lại ảnh hưởng đến sự hồi
phục của TTCK?
Sự chậm trễ trong việc cổ phần hoá DNNN, nhất là với đối tượng là tổng công ty nhà
nước, DNNN qui mô vốn lớn sẽ tiếp tục gây ra những tác động tiêu cực sau :
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
49
� Tiếp tục kéo dài cơ chế quan liêu bao cấp, cơ chế xin cho, cơ chế can thiệp
hành chính từ cơ quan chủ quản….làm việc sử dụng vốn nhà nước không đạt
được hiệu quả cao, thậm chí mất vốn nhà nước….
� Không tạo được cơ chế sử dụng và thu hút người tài, không giải quyết được cơ
bản cơ chế tiền lương, tiền thưởng theo cơ chế thị trường. Những DNNN qui
mô vốn lớn sẽ bị mất dần thương hiệu, mất dần giá trị vô hình khi nhân lực
chủ chốt trong DNNN chuyển dịch sang khu vực tư nhân.
� Đại bộ phận DNNN hiện nay chưa có cơ chế bắt buộc trong công khai minh
bạch tình hình tài chính như các công ty đại chúng, công ty niêm yết, vì vậy
tình trạng tiêu cực, tham nhũng tồn tại trong 1 bộ phận DNNN.
� Nếu càng chậm trễ cổ phần hoá DNNN thì DNNN càng mất sức cạnh tranh
bấy nhiêu và đến khi cổ phần hoá thì giá trị doanh nghiệp sẽ bị giảm đi nhiều,
điều đó đồng nghĩa với việc tài sản nhà nước bị thất thoát .
Từ sự phân tích trên, vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay là làm thế nào để tiếp tục
đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN mà không làm ảnh hưởng đến sự hồi phục
của TTCK cũng như không làm giảm nguồn thu từ việc bán phần vốn nhà nước.
2.2.2.3. Nguồn vốn huy động từ TTCK chưa được sử dụng đúng mục đích
Mặc dù trong tình cảnh nền kinh tế toàn cầu gặp khó khăn, song Việt Nam vẫn là nơi
thu hút một dòng vốn lớn và có xu hướng ngày càng tăng. Tuy nhiên, những dòng
vốn này dường như đang “chảy” chưa đúng đích.
Hiện tại tất cả các nguồn vốn được đầu tư của thị trường Việt Nam đang ở các thị
trường chính; đó là: TTCK, vàng - ngoại tệ và bất động sản.
Khi TTCK phát triển nóng, nguồn vốn trong và ngoài nước được huy động để đưa
vào thị trường là một con số khổng lồ, nhưng rõ ràng, chỉ có thặng dư vốn từ lần phát
hành đầu tiên của doanh nghiệp niêm yết mới là nguồn vốn khả dụng để đưa vào đầu
tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Rõ ràng hơn nữa: chỉ có những cổ phiếu phát hành đúng thời điểm thị trường đang
"bùng nổ" thì thặng dư vốn mới là con số thật sự đáng kể so với thị giá.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
50
Tuy nhiên, nguồn thặng dư vốn ấy lại được các công ty niêm yết năng động nhìn ra
được những khoản lợi nhuận khổng lồ và nhanh chóng thu được từ thị trường tài
chính nên không kể gì đến việc đầu tư trái ngành nghề vốn vẫn được gọi với cụm từ
đầu tư đa ngành nhằm phân tán rủi ro, các công ty sản xuất vẫn tiếp tục đầu tư tài
chính nhằm thu lợi nhuận để đầu tư cho ngành nghề chính. Như vậy, dòng tiền thặng
dư ấy lại tiếp tục đẩy vào thị trường tài chính mà vẫn không được đưa vào đầu tư cho
sản xuất.
Sau cơn chấn động với TTCK, các nhà đầu tư khôn ngoan đã rút chân ra sớm và cắt
lỗ kịp thời, và dòng tiền chảy sang thị trường bất động sản - một loại hàng hóa khá
đặc biệt, mang tính ổn định rất cao.
Giá bất động sản được đẩy lên còn hơn diều gặp gió. Theo quy luật, đến khi thị
trường bất động sản không còn là mảnh đất màu mỡ để đồng tiền sinh sôi nảy nở nữa
thì dòng tiền lại kéo nhau ra khỏi lĩnh vực này.
Và dòng tiền tiếp theo lại đổ vào vàng. Nhưng các nhà đầu tư không phải mua vàng
để tích trữ mà là để "lướt sóng" nhằm thu chênh lệch giá. Khi các qui chế của sàn
giao dịch vàng còn chưa định hình với một số lượng rất ít sàn giao dịch, các nhà đầu
tư không khác gì đang "đánh bạc" với rủi ro.
Hướng khác dòng tiền chảy vào đầu cơ ngoại tệ, gạo, muối, sắt thép, xi măng... tất cả
các loại hàng hóa có thể đầu cơ được.
Không đầu cơ thì gửi Ngân hàng để hưởng mức lãi suất ngất ngưởng. Cũng chính
mức lãi suất huy động cao ngất ngưởng đã đẩy lãi suất cho vay lên khiến các doanh
nghiệp sản xuất gặp nhiều khó khăn về vốn, sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng
thu bị thu hẹp, hoạt động cầm chừng, giữ chân khách hàng và cố gắng tồn tại.
Nếu giải quyết được tình trạng này, TTCK mới có thể vượt qua khó khăn và phát
triển mạnh mẽ, ổn định trong thời gian tới.
2.2.3. Tạo cầu ảo do phong trào sử dụng vốn vay để đầu tư
Ngoài những những nguyên nhân làm cho TTCK giảm tới 60% giá trị như: lạm phát
tăng cao, chính sách thắt chặt tiền tệ… còn có nguyên nhân từ việc NĐT tổ chức và
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
51
cá nhân trong nước đổ xô đi vay tiền từ ngân hàng, CTCK, công ty tài chính để gia
tăng đầu tư.
Cùng với đó, Chỉ thị 03 của NHNN ra đời là 1 chủ trương đúng nhưng không được
sự ủng hộ của nhiều CTCK và NHTM. Một số tổ chức tài chính đã lách chỉ thị 03
dưới các hình thức như: gia tăng cho vay bất động sản nhằm tăng tín dụng cho vay
chứng khoán, chuyển các khoản nợ cho vay từ nhà đầu tư với NHTM về các CTCK
con. Giữa CTCK con với Ngân hàng mẹ thực hiện các hợp đồng repo cổ phiếu nhằm
lách chỉ thị 03.
Phong trào đi vay đã nhanh chóng tạo cầu ảo lớn, tạo những giao dịch mua bán CK
cực kỳ ngắn hạn (hay còn gọi lướt sóng) bằng vốn đi vay. Hậu quả là làm cho TTCK
“mất hết khả năng đề kháng” và khi có biến động vỹ mô hay một tác nhân nào đó
thì hình thành liên tiếp những đợt bán tháo cổ phiếu.
Thị trường đi xuống, giá trị cổ phiếu giảm hoặc vượt giá trị thế chấp lại tiếp tục tạo
những nguồn cung cổ phiếu rẻ mạt. Rất nhiều nhà đầu tư trở thành những "con nợ"
bất đắc dĩ và luôn bị NHTM, CTCK thúc ép đòi nợ.
Lúc này, không những NĐT vay vốn phải bán tháo cổ phiếu, mà chính các NHTM
cũng phải thực hiện giải chấp CK để thu hồi nợ. Mặc dù trước đó, khi giá cổ phiếu
suy giảm nhẹ, các NHTM có thực hiện bán CK cầm cố để thu hồi nợ, nhưng trong
bối cảnh giá nhiều loại cổ phiếu đã xuống tới mức thấp hơn giá trị mà các ngân hàng
tính toán để cho vay cầm cố, thì vấn đề này lại trở nên khó tiên đoán hơn. Nếu các
NHTM bán cổ phiếu để thu hồi vốn, thì sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt trầm
trọng số tiền gốc và lãi. Nhưng nếu các NHTM không giải chấp cổ phiếu, thì cũng
buộc phải ráo riết thúc ép đòi nợ NĐT hay buộc họ phải bổ sung thêm tài sản thế
chấp hay cầm cố. NĐT nếu không đáp ứng được các yêu cầu này buộc phải bán cổ
phiếu cầm cố và cổ phiếu được mua từ vốn vay của ngân hàng. Và như vậy, ngân
hàng được xem là một trong những "thủ phạm" quan trọng dẫn đến tình trạng "bán
tháo" CK.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
52
Đây là một biểu hiện của sự phát triển không bền vững của TTCK, bởi nó huỷ hoại
việc đầu tư dài hạn, làm ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư của những nguời không đi vay
tiền hay đầu tư có bài bản.
2.2.4. Ảnh hưởng từ biến động của nền kinh tế vĩ mô
Tình hình kinh tế vĩ mô giai đoạn nửa đầu năm 2008 trải qua giai đoạn khó khăn nhất
trong suốt một thập kỷ phát triển tương đối ổn định kể từ cuộc khủng hoảng khu vực
năm 1997. Lạm phát gia tăng kéo theo hệ quả là chính sách tiền tệ thắt chặt chống
lạm phát làm cho lãi suất tăng.
Lạm phát tăng cao là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang nóng và báo hiệu sự tăng
trưởng kém bền vững, trong khi TTCK như chiếc nhiệt kế đo sức khỏe nền kinh tế.
Khi lạm phát tăng cao, tiền mất giá, người dân không muốn giữ tiền mặt hoặc gửi
tiền trong ngân hàng bởi lẽ mức lãi suất danh nghĩa của tiền gửi thấp hơn tỉ lệ lạm
phát. Họ chuyển sang nắm giữ vàng, bất động sản, ngoại tệ mạnh... khiến một lượng
vốn nhàn rỗi đáng kể của xã hội nằm im dưới dạng tài sản “chết”. Thiếu vốn đầu tư,
không thể tích lũy để mở rộng sản xuất, sự tăng trưởng của doanh nghiệp nói riêng và
cả nền kinh tế nói chung sẽ chậm lại.
Lạm phát gia tăng đang ảnh hưởng nhiều, nếu không muốn nói là nặng nề, đến hoạt
động kinh doanh của các công ty niêm yết.
Những chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát càng làm cho nguồn vốn sản xuất
của các doanh nghiệp bị thắt chặt, đồng thời việc phải trả giá cao cho vốn vay gây
ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng
Nguyên vật liệu tăng giá rất nhanh đẩy chi phí đầu vào tăng cao. Sự tăng giá của các
loại hàng hóa như lương thực, thực phẩm, năng lượng, các nguyên liệu đầu vào, đặc
biệt sự tăng giá mạnh của dầu mỏ và sắt thép, đã ảnh hưởng trực tiếp tới các ngành
sản xuất công nghiệp của nền kinh tế Việt Nam.
Chi phí vốn trở nên quá đắt đỏ khi toàn bộ các ngân hàng tăng lãi suất cho vay từ
14% trở lên. Bão tiền tệ làm tất cả các ngân hàng thiết chặt cho vay, tăng lãi cho vay.
Tốc độ tăng trưởng chậm lại có nghĩa là nhu cầu của nền kinh tế chắc chắn sẽ ảnh
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
53
hưởng. Người dân sẽ hạn chế mua, trong khi khu vực công cũng giảm chi tiết, thắt
chặt ngân sách.
Nền kinh tế toàn cầu cũng như Việt Nam đang trong giai đoạn khó khăn. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế chậm lại, các nền kinh tế khách hàng lớn như Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu
đang lâm vào suy thoái theo chu kỳ (3 thị trường nhập khẩu này chiếm 45,1% kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam) đã ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp xuất
khẩu và ngành liên quan của Việt Nam.
Các doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn về thị trường đầu ra, đồng thời với tỷ lệ
lớn các hợp đồng xuất khẩu thanh toán bằng đồng đôla Mỹ nên sự giảm giá đồng
đôla khiến các DN chịu thiệt hại kép, dẫn tới ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam.
Như vậy, sự biến động từ nền kinh tế vĩ mô đang ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động
kinh doanh của các công ty niêm yết và ảnh hưởng đến xu hướng đầu tư của các nhà
đầu tư chứng khoán, gián tiếp khiến TTCK sụt giảm.
2.2.5. Trình độ và kinh nghiệm của các nhà đầu tư còn hạn chế
Đầu tư CK luôn là phương thức đầu tư hiệu quả với những khoản lợi nhuận lớn. Tuy
nhiên, TTCK cũng là nơi chứa đựng rất nhiều rủi ro. Những NĐT được đào tạo bài
bản để đủ sức “bơi” trên thị trường cao cấp này không nhiều. Đa phần vì thiếu kinh
nghiệm, trình độ nên nhiều người đầu tư theo tin đồn, theo kiểu tâm lý bầy đàn.
Trong thời gian vừa qua TTCK chứng kiến hết cơn sốt này đến cơn bão kia, lúc mua
thì không ai bán, lúc bán thì không ai mua. Những điều này xuất phát từ các điểm
hạn chế sau của NĐT trong nước.
Thứ nhất, hiệu ứng bầy đàn rất mạnh ở Việt Nam, hiệu ứng này đặc biệt mạnh khi giá
thị trường tăng trong một khoảng thời gian liên tiếp khá dài. Hệ quả trực tiếp là người
đầu tư từ bỏ cả kỳ vọng cá nhân, để theo đuổi mức kỳ vọng của đám đông trên thị
trường. Họ mua cổ phiếu khi thị trường đang trong giai đoạn nóng bỏng và đến lúc
thị trường đóng băng, họ bắt đầu hoảng loạn, bán tháo số cổ phiếu nắm giữ để rồi
hứng chịu một khoản thua lỗ. Hệ quả thứ hai, cũng trực tiếp, là tính thanh khoản
giảm dần. Mà tính thanh khoản chính là giá trị lớn nhất, duy nhất của TTCK. Khi
tính thanh khoản trở nên hàng hiếm thị trường biến thành Casino. Thực sự là Casino
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
54
vì mọi người cho rằng nó là cỗ máy kiếm tiền, xay ra tiền, nhào ra tiền, và đâu cũng
là tiền
Thứ hai, khá nhiều NĐT hành động theo theo cảm tính, họ mua cổ phiếu của một
công ty bởi vì họ thích sản phẩm của công ty đó hoặc xuất phát từ thói quen mua cổ
phiếu của những công ty mà mình biết tên hoặc quen thuộc với mình. Họ quan niệm
rằng: Hàng ngày họ thường dùng sản phẩm của một công ty nào đó, vậy tại sao họ
không mua cổ phiếu của công ty này? Đó có thể là một sự khởi đầu tốt nhưng điều
này chưa đủ. Có những chỗ đầu tư tốt nhất lại chính là cổ phiếu của những công ty
mà chỉ mới xuất hiện trên thị trường. Các NĐT có thể chưa biết rõ lắm về những
công ty mới này nhưng họ hoàn toàn có thể biết về chúng nếu họ chịu bỏ ra chút ít
công sức đế tìm hiểu và nghiên cứu.
Thứ ba, nhiều NĐT thích kiểu mua bán cổ phiếu theo tin đồn, mách nước, và những
lời khuyên của các dịch vụ tư vấn. Nói một cách khác, những NĐT này sẵn sàng
nghe theo thiên hạ để rồi lãng phí tiền bạc, thay vì phải tự hiểu rõ những gì mình
đang làm. Hầu hết tin đồn đều không chính xác.
Đa số các NĐT không có điều kiện tiếp cận được những nguồn thông tin và dịch vụ
tư vấn tốt. Mà ngay cả khi đã được tư vấn tốt, họ cũng có thể không nhận thức được
vấn đề và vì vậy không làm theo. Trong khi đó, người ta lại rất dễ mất tiền vì nghe
theo những lời khuyên của bạn bè hay những nhà môi giới trình độ trung bình, hoặc
những công ty tư vấn thường thường bậc trung nhưng có tài ăn nói.
Bài học rút ra từ sai lầm này là hãy tự chủ trong những quyết định đầu tư của mình
dựa trên cơ sở sự phân tích kỹ càng cùng với các lời khuyên từ những công ty tư vấn
hay môi giới chứng khoán chuyên nghiệp.
Thứ tư, phần lớn NĐT thiếu kiến thức và kinh nghiệm, họ thông thường chỉ quan tâm
tới lợi nhuận, và thuộc một bài vỡ lòng rằng đào bới được thông tin mật rò rỉ đâu đó
chính là cách làm giàu kiến thức. Điều này sai. Kiến thức khác thông tin. Kiến thức là
một bộ lọc thông tin có phương hướng, có chủ đích và có phương pháp. Chính những
việc như chỉ chăm chăm đào bới các thông tin theo kiểu tin đồn không làm NĐT
nâng cao được kiến thức mà có khi là tình tiết tăng nặng các vấn đề tồn tại ở trên.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
55
Chính vì không bổ sung kiến thức, nên thị trường hỗn loạn trong các dòng chảy
thông tin. Mệt mỏi với thông tin càng khiến cho người ta dễ từ bỏ các kỳ vọng cá
nhân, để hào hứng đi theo sự vẫy gọi của hiệu ứng bầy đàn. Một khi có những biến
động từ phía thị trường bất kể là thật hay chỉ là tin đồn, nếu như NĐT không có kiến
thức và kinh nghiệm sẽ dễ dàng tháo chạy bằng được hoặc mua bằng được, dẫn đến
tính bất ổn cao cho TTCK.
2.2.6. Chất lượng dịch vụ của các công ty chứng khoán chưa đáp ứng được yêu
cầu của thị trường và của nhà đầu tư
2.2.6.1. Quá nhiều Công ty chứng khoán ra đời dẫn đến việc cạnh tranh không lành
mạnh
Gần 100 CTCK đang chia sẻ nhau một thị trường còn non trẻ thật sự là vấn đề lớn
của TTCK Việt Nam. Mức độ cạnh tranh gay gắt phần nào mang lại lợi ích cho NĐT,
nhưng ngược lại, nhiều CTCK không đủ sức nuôi bản thân mình. Hệ quả trong dài
hạn là khả năng tăng trưởng của các CTCK sẽ bị hạn chế, khó có thể thực hiện vai trò
nhà tạo lập thị trường, vai trò trung gian mua bán cũng như các vai trò khác về tư vấn
tài chính, tư vấn đầu tư, kết nối DN…
Số lượng các CTCK đã có sự gia tăng khá mạnh so với thời điểm năm 2001 khi thị
trường mới thành lập, chỉ có 8 các công ty. Đặc biệt giai đoạn cuối năm 2006 trước
khi Luật Chứng khoán có hiệu lực, số lượng các CTCK là 55 các công ty, trong năm
2007 đã tăng lên tới 78 các công ty.
Trong giai đoạn đầu, các quy định về thành lập các CTCK rất đơn giản. Nhà nước
còn áp dụng chính sách ưu đãi thuế đề khuyến khích thành lập các CTCK. Miễn thuế
thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu, giảm 50% thuế trong 3 năm tiếp theo, ưu đãi
thuế 20% (thay vì 28%). Ngay cả khi ban hành Luật Chứng khoán (cuối 2006), các
điều kiện cơ bản để xin thành lập các CTCK cũng rất dễ dàng.
Trước tình hình nhu cầu lập các CTCK tăng mạnh, Bộ Tài chính khi dự thảo Nghị
định 14 và Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán đã nâng tiêu chí thành
lập các CTCK lên rất nhiều. Yêu cầu về vốn tăng từ 44 tỷ đồng lên 300 tỷ đồng, yêu
cầu phải có vốn thực góp, yêu cầu có kiểm toán tổ chức góp vốn, yêu cầu về năng lực
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
56
giám đốc, ưu đãi về thuế cho công ty mới thành lập bị bãi bỏ. Tuy nhiên, lượng hồ sơ
xin cấp phép vẫn tăng mạnh. Do kinh doanh chứng khoán là ngành kinh doanh có
điều kiện nên nếu hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, đáp ứng được mọi yêu cầu của pháp luật,
UBCK Nhà nước vẫn phải cấp phép.
Mặc dù vậy, số hiện nay tỷ lệ người dân Việt Nam tham gia đầu tư CK vẫn còn rất
nhỏ, nên việc số lượng các CTCK gia tăng nhanh trong một khoảng thời gian khá
ngắn đã dẫn đến một số công ty gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Với
khả năng tài chính và kinh nghiệm còn hạn chế, vì mục tiêu lợi nhuận của mình một
số CTCK đã sử dụng những biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, gây ra những
ảnh hưởng xấu đến sự phát triển chung của thị trường, tạo tâm lý lo ngại cho các nhà
đầu tư. Trên thực tế, hiện nay với số lượng gần 100 CTCK được cấp phép và đi vào
hoạt động nhưng phải chia nhau một thị trường quá nhỏ chỉ với trên dưới 300.000
khách hàng là các nhà đầu tư, tổ chức và cá nhân. Trong khi đó các công ty chứng
khoán lớn và hoạt động lâu năm như SSI, VCBS, ACBS, BCVS, SBS... đã thâu tóm
khoảng 85% lượng khách hàng, những CTCK mới và quy mô vốn nhỏ phải chật vật
chia nhau 15% thị phần còn lại (chưa kể số công ty chứng khoán mới đang nộp hồ sơ
chờ cấp phép tại UBCKNN). Nhiều CTCK đã phải bỏ ra hàng chục tỷ đồng để mua
sắm trang thiết bị, thuê mặt bằng... nhưng thực tế hoạt động trong thời gian gần đây
số lượng khách hàng đến đầu tư không đáng kể, khiến nhiều CTCK bị thâm hụt vốn
sở hữu.
Để hút khách trên thị trường, nhiều CTCK đã cạnh tranh không lành mạnh:
� Giành giật khách hàng bằng mọi giá như áp dụng các dịch vụ cho vay ngắn
hạn để NĐT lướt sóng không tuân thủ đúng các qui định pháp luật như mua
khống, bán khống, năng giá trị tài sản cầm cố ở mức lớn bất chấp rủi ro….mà
không hề khuyến cáo về mức độ rủi ro cho khách hàng khi sử dụng các dịch
vụ đó , không có chính sách chọn lọc khách hàng trong việc sử dụng các dịch
vụ cho vay cầm cố CK dưói nhiều hình thức.
� Khi xử lý cổ phiếu cầm cố thì sống trên lưng các NĐT bằng việc đòi tỷ lệ tiền
hoa hồng khi chào bán cổ phiếu cho các NĐT và kể cả NĐTNN.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
57
� Tư vấn niêm yết và chào bán cổ phiếu phát hành thì có tình trạng đánh bóng
quá mức cổ phiếu của 1 số doanh nghiệp.
� Tư vấn cho 1 số doanh nghiệp đại chúng về việc tổ chức ĐHCĐ 1 cách chiếu
lệ và mất dân chủ như bó hẹp thời gian họp ĐHCĐ, đưa ra biểu quyết trọn gói
cùng 1 lúc nhiều nội dung quan trọng, hay lấy kiến NĐT bằng thư và có nhiều
nội dung có xung đột với quyền lợi nhà đầu tư như phát hành cổ phiếu ưu đãi
cho người lao động, cho Hội đồng quản trị….
� Tư vấn các quyết định mua bán cho NĐT 1 cách không chuyên nghiệp, không
thận trọng và có thể xung đột lợi ích từ các nhân viên môi giới CK. Thiệt hại
xảy ra đối với nhiều NĐT mới chưa có kinh nghiệm. Thực ra trình độ của
nhân viên môi giới là rất thấp, để không xảy ra điều này thì tốt nhất là các
CTCK ra qui định cầm nhân viên môi giới đưa ra những lời tư vấn mua bán cổ
phiếu cho NĐT.
� Trong bối cảnh TTCK mất tính thanh khoản và mất niềm tin như hiện nay thì
một số CTCK có biểu hiện thúc giục UBCKNN mở lại biên độ như cũ hòng
để TTCK rơi tự do nhanh hơn, hòng mua được cổ phiếu giá bèo mà không
quan tâm đến quyền lợi các khách hàng của mình .
Chính những hoạt động cạnh tranh trên để lôi kéo khách hàng của các công ty chứng
khoán đã vô tình góp phần đẩy thị trường xuống dốc nhanh hơn nữa trong bối cảnh
chung của cuộc khủng hoảng kinh tế.
2.2.6.2 Những điểm hạn chế của các công ty chứng khoán
Đầu tư CK đang trở thành một phong trào khá rầm rộ ở hai thành phố lớn nhất nước
ta, mà cách tiếp cận thị trường này dễ dàng nhất là thông qua các CTCK đang hoạt
động.
Hình ảnh khá quen thuộc tại các CTCK là số lượng khách hàng đến mở tài khoản
giao dịch ngày một tăng. Theo Luật chứng khoán Việt Nam, hành lang hoạt động của
các CTCK khá rộng dù thị trường của chúng ta còn non trẻ. Các CTCK được làm đại
lý phát hành CK niêm yết cho các tổ chức phát hành, tự kinh doanh CK cùng nhiều
dịch vụ tư vấn đầu tư. Ngoài ra, những đơn vị này được thực hiện tư vấn CPH, xác
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
58
định giá trị doanh nghiệp và cung cấp các dịch vụ tài chính khác. Chừng ấy chức
năng đã làm cho hầu hết các CTCK bị quá tải.
Về nguyên tắc, NĐT đến bất kỳ CTCK nào cũng đều có thể dễ dàng được tiếp cận
với những thông tin thị trường, những lời khuyên của các nhà môi giới, hoặc tư vấn
của các chuyên gia... Nhưng tại thị TTCK Việt Nam còn mới mẻ và phát triển quá
nhanh, các CTCK vẫn trong giai đoạn vừa làm vừa bổ sung và củng cố nên NĐT
chưa thể đặt niềm tin tuyệt đối.
� Cơ sở hạ tầng của TTCK nói chung và các CTCK nói riêng còn khá lạc hậu,
thiếu đồng bộ và có thể nói là chưa an toàn. Với bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào về
giải pháp kỹ thuật hay phương thức trong giao dịch đều sẽ có những ảnh
hưởng đến việc quản lý giao dịch tại các CTCK. Nếu đầu tư công nghệ không
được xây dựng một cách đồng bộ thì khả năng tích hợp giữa các CTCK với
TTGDCK sẽ nảy sinh nhiều vấn đề.
� Nhân sự có có chuyên môn đang là bài toán khó đối với các CTCK, đặc biệt
trong lĩnh vực tư vấn đầu tư. Năng lực chuyên môn của các CTCK trong tư
vấn đầu tư CK còn yếu vì đây là nghiệp vụ khá mới mẽ, đội ngũ nhân viên
chưa có kinh nghiệm thực tế. Các CTCK chưa chú trọng đến nghiệp vụ này
nhiều vì hoạt động này chưa mang lại lợi nhuận trước mắt cho công ty. Hoạt
động này chưa có chuẩn mực rõ ràng thiếu hệ thống chỉ tiêu khi phân tích hệ
thống hoặc phân tích kỹ thuật. Đồng thời lượng thông tin cung cấp chưa đáp
ứng nhu cầu của các đối tượng tham gia thị trường. Bên cạnh đó chưa có chế
độ đãi ngộ xứng đáng với nhân viên tư vấn nên có hiện tượng chảy máu chất
xám và không thu hút được những người có năng lực cho công tác tư vấn.
� Hoạt động sôi nổi của TTCK khoảng thời gian thị trường nóng cho thấy các
CTCK trong vai trò trung gian đang chứng tỏ đây là những cỗ máy kiếm tiền
hiệu quả nhất trong ngành tài chính mới nổi tại Việt Nam. Một trong những
nguồn thu lớn nhất của các CTCK đến từ phí dịch vụ môi giới, hiện đang được
tính ở mức 0,2-0,3% tổng giá trị giao dịch của các nhà đầu tư (cá biệt có công
ty thu đến 0,5% một lượt giao dịch). Một số CTCK cũng đang giàu lên chủ
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
59
yếu qua mảng tự doanh nhờ lợi thế thường xuyên được tiếp cận với các thông
tin “nhạy cảm” từ các quỹ đầu tư nước ngoài cũng như các công ty niêm yết
và chuẩn bị niêm yết. Đặc biệt, khi các đơn vị này đặt lệnh mua bán thì chính
các CTCK được biết đầu tiên và một số công ty cũng đặt lệnh theo cho mình.
Hành vi này được xem là bất hợp pháp nhưng hiện vẫn chưa được kiểm soát
trên TTCK Việt Nam.
� Nhiều CTCK liên tục vi phạm các quy định về giao dịch. Cụ thể là các đại
diện giao dịch tại của các CTCK tại 2 sàn thực hiện hủy lệnh giao dịch trong
cùng đợt khớp lệnh. Đây là một lỗi khá nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến xu
hướng của thị trường, sẽ bị đình chỉ tư cách đại diện giao dịch của các nhân
viên vi phạm này.
� Hệ thống công nghệ thông tin của các CTCK đang là một trở ngại lớn đối với
sự phát triển của chính họ. Theo tính toán của một chuyên gia trong ngành, để
có hệ thống giao dịch đạt chuẩn, một CTCK có quy mô 100 nhân viên phải
đầu tư khoảng hai triệu USD vào phần mềm, cộng với một triệu USD cho các
khoản đầu tư đồng bộ khác và chừng 500.000 USD cho vốn lưu động. Điều
này có nghĩa một CTCK phải có ít nhất trong tay hơn ba triệu USD mới có thể
tính đến chuyện làm ăn lớn. Vậy mà hầu hết các CTCK hiện nay chỉ đầu tư
chừng vài chục ngàn USD vào hệ thống công nghệ thông tin. Sự bất cập này
bộc lộ qua việc SGDCK TP. Hồ Chí Minh chỉ chọn một số CTCK đủ điều
kiện đáp ứng để thực hiện việc nhập lệnh trực tiếp vào hệ thống của Sở không
cần đại diện sàn.
Rõ ràng, những hạn chế trên đây nếu không được sớm khắc phục thì các CTCK của
chúng ta vẫn chỉ là người trung gian kiếm lợi, chưa phát huy vai trò tác nhân giúp
TTCK phát triển lành mạnh.
2.2.7. Thông tin bất cân xứng trên thị trường
Trên TTCK, hiện tượng bất cân xứng xảy ra khi: DN che giấu các thông tin bất lợi,
thổi phồng thông tin có lợi...; doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối
với các NĐT; DN sau khi phát hành cổ phiếu không chú trọng vào đầu tư sản xuất
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
60
kinh doanh mà chỉ tập trung vào việc “làm giá” trên TTCK; có sự rò rỉ thông tin nội
gián; một số NĐT tạo cung cầu ảo trên thị trường dẫn đến phản ánh sai lệch giá trị
của DN; một số kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt cho DN; các cơ quan truyền thông cung
cấp thông tin sai lệch; các trung gian tài chính cung cấp, xử lý thông tin không chính
xác...
Tình trạng bất cân xứng về thông tin sẽ dẫn đến việc các NĐT đưa ra các quyết định
đầu tư không chính xác, gây cung cầu ảo, thị trường bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ
sụp đổ thị trường.
TTCK Việt Nam cũng như bất kỳ thị trường mới nổi nào trên thế giới, hiện tượng
thông tin bất cân xứng xảy ra phổ biến trên mọi ngành, lĩnh vực.
� Thứ nhất, ngoài thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì DN không
chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời. Đặc biệt, đối với DN có cổ
phiếu giao dịch trên thị trường OTC, tình trạng phổ biến là NĐT hầu như
không biết về tình hình hoạt động của DN. Thông tin tìm được chủ yếu qua
nguồn tin riêng, trên các diễn đàn hoặc tin đồn. Ngoài ra, đối với DN chào bán
cổ phiếu ra công chúng, có thể chính ban lãnh đạo DN che giấu thông tin để
"dìm giá" sao cho những người trong DN có thể mua được cổ phiếu với giá
thấp.
� Thứ hai, có hiện tượng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai,
phổ biến trong công tác đấu giá cổ phiếu. Hiện nay, quy chế đấu giá do UBCK
ban hành chỉ yêu cầu công bố tổng số NĐT tham gia đấu giá và tổng lượng cổ
phiếu đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh hưởng lớn đến việc đặt giá
như số lượng NĐT nước ngoài tham gia đấu giá; số lượng cổ phiếu đặt mua
của đối tượng này, lại không được công bố cụ thể. Điều đáng nói là, những
thông tin này có thể không được bảo mật chặt chẽ, mà được cung cấp một
cách riêng lẻ cho những đối tượng có nhu cầu. Nếu nắm được cụ thể, chi tiết
về tổng cầu cổ phiếu của thị trường, các cá nhân, tổ chức tham gia đấu giá sẽ
tính toán được hợp lý mức giá mà mình bỏ thầu, qua đó chiếm lợi thế so với
các NĐT khác không có thông tin.Sự rò rỉ thông tin còn thể hiện ở việc công
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
61
bố các thông tin có lợi của DN. Ví dụ, đối với các quyết định của HĐQT như
chia cổ tức bằng cổ phiếu thưởng, tăng quy mô vốn..., do quan hệ cá nhân,
một số NĐT biết trước khi thông tin được công bố và tranh thủ thu mua cổ
phiếu để chờ giá lên. Đến khi các NĐT khác biết được thông tin thì đã quá
muộn. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi đầu tư trên TTCK Việt Nam
diễn ra theo kiểu "bầy đàn", vì có sự suy diễn rằng, việc mua hàng loạt hay
bán hàng loạt cổ phiếu của một nhóm NĐT nào đó là do có thông tin biết
trước.
� Thứ ba, DN cung cấp thông tin không công bằng đối với NĐT. Ưu tiên cung
cấp thông tin cho các NĐT chiến lược, NĐT tổ chức mà không công bố rộng
rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy, trong các cuộc đấu giá thì
người đấu giá thành công với mức giá thấp chủ yếu là NĐT tổ chức. Loại trừ
khả năng NĐT tổ chức có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích, phán đoán và
"trường vốn" hơn thì người ta cũng nghi ngờ NĐT tổ chức nhận được nhiều
thông tin chất lượng hơn so với NĐT cá nhân.
� Thứ tư, việc tung tin đồn thất thiệt: có không ít tin đồn ảnh hưởng đến uy tín
của DN niêm yết, đặc biệt tin đồn liên quan đến người đứng đầu DN. Những
tin này thường được tung ra trên các diễn đàn, sàn giao dịch chứng khoán hoặc
được truyền miệng. Do NĐT chưa có kinh nghiệm, kỹ năng để kiểm chứng
nguồn thông tin, đồng thời do cơ chế thông tin của DN còn yếu kém, chậm
chạp nên gây ra tâm lý hoang mang cho NĐT, ảnh hưởng đến giá cổ phiếu
trên thị trường. Trong khi đó, cơ chế phát hiện và xử phạt đối với việc tung tin
đồn chưa rõ ràng.
� Thứ năm, một số phương tiện truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, không
đầy đủ. Đây không phải là hiện tượng phổ biến, nhưng đôi khi khiến NĐT
chuyên nghiệp không mấy tin cậy vào chất lượng thông tin của các cơ quan
báo chí, truyền thông. Mặt khác, nội dung thông tin do các kênh truyền thông
cung cấp, chủ yếu vẫn là tin tức, diễn biến thị trường, chưa có nhiều nhận
định, phân tích mang tính định hướng cho NĐT và thị trường.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
62
Ngoài ra, còn nhiều hiện tượng khác như một số NĐT làm giá, tạo cung - cầu ảo trên
thị trường khiến cho giá cả biến động mạnh. Sự thua thiệt thuộc về NĐT cá nhân,
không có nguồn tin nội bộ, khi muốn mua thì không thể nào tìm được nguồn mua do
NĐT lớn đã thâu tóm toàn bộ, khi muốn bán thì cũng không thể nào bán được do thị
trường bão hòa...
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Ở chương này, tác giả trình bày khái quát về tình hình hoạt động của TTCK Việt
Nam từ những ngày đầu thành lập, những mặt đạt được và phân tích những hạn chế
tồn tại của TTCK Việt Nam. Qua 8 năm, TTCK Việt Nam đã có những đóng góp to
lớn cho việc phát triển ngành tài chính ngân hàng nói riêng, nền kinh tế nói chung,
nhưng bên cạnh đó, TTCK còn tiềm ẩn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để có thể
tăng trưởng bền vững, trở thành "hàn thử biểu" của nền kinh tế như các vấn đề cung,
cầu, chất lượng dịch vụ các CTCK, trình độ của NĐT, ảnh hưởng từ bất ổn của kinh
tế vĩ mô, thông tin bất cân xứng, …. Những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển
bền vững của TTCK cần nhanh chóng được triển khai thực hiện.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
63
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
64
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1. Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến
năm 2020 của Thủ tướng chính phủ
Ngày 02 tháng 08 năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định số
128/2007/QĐ-TTg phê duỵêt đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010
và tầm nhìn đến năm 2020.
3.1.1 Mục tiêu của đề án
� Mục tiêu tổng quát
Phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam, trong đó thị trường
chứng khoán đóng vai trò chủ đạo; từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu
thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn
cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế; đảm bảo tính công khai, minh bạch, duy
trì trật tự, an toàn, hiệu quả, tăng cường quản lý, giám sát thị trường; bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ
động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn
Việt Nam phát triển tương đương thị trường các nước trong khu vực.
� Mục tiêu cụ thể
Phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu tư của
mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2010 giá trị vốn hoá thị trường
chứng khoán đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP.
3.1.2 Giải pháp thực hiện
3.1.2.1 Giải pháp dài hạn
� Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc (bao
gồm thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ phái
sinh, thị trường tập trung, thị trường phi tập trung…), vận hành theo các thông
lệ quốc tế tốt nhất, có khả năng liên kết với các thị trường khu vực và quốc tế.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
65
� Phát triển mạnh các kênh cung cấp vốn cả trong và ngoài nước cho thị trường;
mở rộng hệ thống các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức; phát
triển đầy đủ các định chế trung gian; đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp, …
đảm bảo có đầy đủ các yếu tố cấu thành một thị trường vốn phát triển trong
khu vực.
� Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá; hài hoà giữa
mục tiêu huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững thị trường
vốn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo an ninh tài chính
quốc gia.
� Tăng cường quản lý nhà nước, thực hiện có hiệu quả chức năng thanh tra,
kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia
hoạt động trên thị trường.
3.1.2.2 Giải pháp trước mắt
� Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hàng hoá để
đáp ứng nhu cầu của thị trường:
- Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các loại trái phiếu, các phương thức phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu
doanh nghiệp trên thị trường vốn; phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi
của doanh nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng
trọng điểm của quốc gia;
- Đẩy mạnh chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp, tổng công ty nhà
nước, tập đoàn kinh tế và các ngân hàng thương mại nhà nước, gắn việc cổ
phần hoá với niêm yết trên thị trường chứng khoán; mở rộng việc phát
hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị trường. Đối với những doanh
nghiệp đã cổ phần hoá đủ điều kiện phải thực hiện việc niêm yết; đồng thời
tiến hành rà soát, thực hiện việc bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các
doanh nghiệp nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối hoặc không cần
nắm giữ cổ phần. Chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
66
sang hình thức công ty cổ phần và niêm yết, giao dịch trên thị trường
chứng khoán;
- Phát triển các loại chứng khoán phái sinh như: quyền chọn mua, quyền
chọn bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các sản
phẩm liên kết (chứng khoán - bảo hiểm, chứng khoán - tín dụng, tiết kiệm -
chứng khoán...); các sản phẩm từ chứng khoán hoá tài sản và các khoản
nợ....
� Từng bước hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường vốn đảm bảo khả năng quản lý,
giám sát của Nhà nước:
- Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị
trường trái phiếu chuyên biệt. Từng bước nghiên cứu hình thành và phát
triển thị trường giao dịch tương lai cho các công cụ phái sinh, thị trường
chứng khoán hoá các khoản cho vay trung, dài hạn của ngân hàng…;
- Phát triển thị trường cổ phiếu theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu phát
hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình doanh nghiệp và
đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng tách biệt thị
trường giao dịch tập trung, thị trường giao dịch phi tập trung (OTC), thị
trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
- Chuyển Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành Sở Giao dịch chứng
khoán hoạt động theo mô hình công ty theo tinh thần của Luật Chứng
khoán. Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán thực
hiện chức năng tổ chức và giám sát giao dịch chứng khoán tập trung. Nâng
cấp đồng bộ hạ tầng kỹ thuật của thị trường, đảm bảo khả năng liên kết với
thị trường các nước trong khu vực;
- Tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC) theo hướng
có quản lý thông qua các giải pháp: thực hiện đăng ký, lưu ký tập trung đối
với các công ty cổ phần đủ điều kiện theo quy định của Luật Chứng khoán;
nghiên cứu cơ chế giao dịch đối với các chứng khoán không đủ điều kiện
niêm yết theo mô hình thoả thuận thông qua các công ty chứng khoán; các
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
67
giao dịch chứng khoán tập trung thanh toán và chuyển giao thông qua
Trung tâm Lưu ký chứng khoán; đồng thời, thiết lập cơ chế giám sát của
thị trường giao dịch chứng khoán trong việc công bố thông tin để tăng
cường tính công khai, minh bạch trên thị trường, đảm bảo sự quản lý, giám
sát của Nhà nước đối với các giao dịch chứng khoán, thu hẹp hoạt động
trên thị trường tự do.
� Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường:
- Tăng số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính
cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng
khoán,.... Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng
cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công khai,
minh bạch và bình đẳng trên thị trường;
- Mở rộng phạm vi hoạt động Trung tâm Lưu ký chứng khoán, áp dụng các
chuẩn mực lưu ký quốc tế, thực hiện liên kết giao dịch thanh toán giữa thị
trường vốn và thị trường tiền tệ;
- Từng bước hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Cho
phép thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm đủ điều kiện tại Việt Nam
và cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài
thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm ở Việt Nam.
� Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước:
- Khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm…) tham gia đầu tư trên thị trường theo quy định của pháp
luật. Thực hiện lộ trình mở cửa đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước
ngoài vào thị trường Việt Nam theo lộ trình đã cam kết;
- Đa dạng hoá các loại hình quỹ đầu tư; tạo điều kiện cho phép Bảo hiểm xã
hội Việt Nam, Tiết kiệm bưu điện,… tham gia đầu tư trên thị trường vốn;
từng bước phát triển, đa dạng hoá các quỹ hưu trí để thu hút các vốn dân
cư tham gia đầu tư; khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu tư ở nước
ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
68
� Hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của
Nhà nước:
- Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ đáp ứng được
yêu cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường vốn của khu vực và
quốc tế;
- Bổ sung các chế tài xử lý nghiêm minh về dân sự, hình sự để phòng ngừa
và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động trên thị trường vốn, thị
trường chứng khoán;
- Nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí, lệ phí đối với hoạt
động chứng khoán, khuyến khích đầu tư dài hạn, hạn chế đầu tư ngắn hạn;
điều tiết lợi nhuận thu được do kinh doanh chứng khoán, đồng thời thông
qua thuế, phí, lệ phí góp phần giám sát hoạt động của thị trường chứng
khoán và từng đối tượng, thành viên tham gia thị trường (bao gồm cả các
nhà đầu tư trong và ngoài nước);
- Áp dụng các tiêu chuẩn giám sát thị trường theo thông lệ quốc tế; đẩy
mạnh việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các
thành viên tham gia thị trường; kiểm tra, giám sát hàng hoá đưa ra thị
trường, đảm bảo tính công khai, minh bạch; tăng cường năng lực giám sát,
cưỡng chế thực thi của cơ quan giám sát thị trường;
- Củng cố bộ máy, nâng cao năng lực quản lý, giám sát của Nhà nước đối
với thị trường vốn; từng bước tách bạch chức năng quản lý với chức năng
giám sát các hoạt động của thị trường; sớm nghiên cứu thành lập Cơ quan
giám sát tài chính quốc gia, giúp Thủ tướng Chính phủ điều phối chính
sách và công cụ cảnh báo, điều hành, giám sát hoạt động tài chính tiền tệ ở
tầm vĩ mô.
� Chủ động mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế:
- Thực hiện mở cửa từng bước thị trường vốn cho nhà đầu tư nước ngoài
theo lộ trình hội nhập đã cam kết, đồng thời đảm bảo kiểm soát được luồng
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
69
vốn vào, vốn ra; mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn
chính sách, tư vấn pháp luật và phát triển thị trường;
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho thị trường vốn;
tăng cường phổ cập kiến thức về thị trường vốn, thị trường chứng khoán
cho công chúng, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế.
� Đảm bảo an ninh tài chính quốc gia: thực hiện tốt việc giám sát các giao dịch
vốn; áp dụng các biện pháp kiểm soát luồng vốn chặt chẽ; trong những trường
hợp cần thiết để giảm áp lực đối với tỷ giá, ngăn ngừa nguy cơ biến dạng và
khủng hoảng trên thị trường, cần có những giải pháp xử lý thích hợp. Các giải
pháp này được thể hiện trong văn bản quy phạm pháp luật và công bố cho nhà
đầu tư được biết và chỉ áp dụng khi có những nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh
của hệ thống tài chính. Thực hiện cơ chế giám sát đặc biệt với các định chế
trung gian yếu kém để giảm thiểu tác động tiêu cực có tính chất dây chuyền
trong toàn hệ thống.
3.2. Niêm yết chứng khoán ở TTCK nước ngoài
Chỉ cách đây khoảng vài năm, thuật ngữ “lên sàn” còn hoàn toàn mới mẻ với đa số
các nhà đầu tư Việt Nam. Nay, thuật ngữ này đã mở rộng sang cả lĩnh vực “niêm yết
ở nước ngoài”. Việc niêm yết ở nước ngoài là một hướng đi mới cho các DN lớn
trong việc tìm nguồn vốn kinh doanh. Đây là một giải pháp góp phần phát triển bền
vững TTCK Việt Nam.
3.2.1 Lợi ích khi niêm yết chứng khoán ở TTCK nước ngoài
� Tăng cường quảng bá hình ảnh hình ảnh của DN và nhãn hiệu sản phẩm.
� Có khả năng tiếp cận được số lượng lớn các nhà đầu tư quốc tế, tiếp cận được
với các thị trường vốn quốc tế với chi phí thấp. Chi phí sử dụng vốn huy động
tại thị trường vốn quốc tế sẽ thấp hơn nhiều so với huy động vốn trong nước
do các NĐT nước ngoài thường có chi phí cơ hội cho đồng vốn thấp hơn nhà
đầu tư Việt Nam. Qua đó, có thể sử dụng các phương thức huy động vốn như
phát hành thêm cổ phiếu, phát hành trái phiếu để thu hút vốn.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
70
� Nhờ niêm yết tại thị trường nước ngoài cho phép DN mở rộng hoạt động sản
xuất, mở rộng thị phần. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải tuân thủ các quy
định về công bố thông tin, minh bạch hóa tài chính theo tiêu chuẩn quốc tế.
� Phân tán rủi ro thị trường trong một số ngành.
3.2.2 Các cách để niêm yết chứng khoán ở TTCK nước ngoài
Có 4 cách mà DN có thể lựa chọn để niêm yết chứng khoán ở nước ngoài.
� Thứ nhất, DN trong nước có thể niêm yết thông qua việc mua bán, sáp nhập
với một DN Việt Nam khác đang niêm yết ở nước ngoài.
� Thứ hai, thực hiện mua bán/sáp nhập với một công ty nước sở tại đang có cổ
phiếu giao dịch trên thị trường (cách này còn gọi là niêm yết cửa sau).
� Thứ ba, niêm yết bởi các NĐT nước ngoài của công ty mẹ ở nước ngoài vào
công việc kinh doanh ở Việt Nam của họ.
� Thứ tư, đơn giản nhất, là DN đang niêm yết trên TTCK Việt Nam thực hiện
bán cổ phần niêm yết trên TTCK nước ngoài theo một tỉ lệ phù hợp quy định
về lượng nắm giữ của các NĐT nước ngoài. Cách thức cuối cùng đơn giản và
cũng đỡ tốn kém về chi phí hơn, nhưng đòi hỏi DN phải có những bước tiếp
cận cần thiết trong việc quảng bá hình ảnh của mình và có những quyết sách
phù hợp hỗ trợ giá cổ phiếu sau khi lên sàn. Quan trọng nhất là DN phải xác
định được mục tiêu cụ thể và định hướng rõ ràng khi thực hiện niêm yết ở thị
trường vốn nước ngoài.
3.2.3 Quy định của Pháp luật Việt Nam đối việc niêm yết chứng khoán ở TTCK nước ngoài
� Điều kiện niêm yết chứng khoán tại TTCK nước ngoài
- DN đó phải không thuộc danh mục ngành nghề mà pháp luật cấm bên
nước ngoài tham gia và phải đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài
theo quy định của pháp luật..
- Có quyết định thông qua việc niêm yết tại SGDCK nước ngoài của Hội
đồng quản trị hoặc của Đại hội đồng cổ đông.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
71
- Đáp ứng các điều kiện niêm yết tại SGDCK của nước mà cơ quan quản lý
TTCK hoặc SGDCK đã có thoả thuận hợp tác với UBCKNN của Việt
Nam
� Báo cáo về việc niêm yết chứng khoán tại TTCK nước ngoài
- Khi nộp hồ sơ niêm yết tại SGDCK nước ngoài, DN phải đồng thời nộp
cho UBCKNN bản sao hồ sơ niêm yết tại SGDCK nước ngoài. Trường
hợp đang niêm yết tại SGDCK, TTGDCK trong nước thì DN còn phải gửi
bản sao hồ sơ cho SGDCK, TTGDCK nơi chứng khoán đang niêm yết.
- Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được chấp thuận niêm yết hoặc huỷ bỏ
niêm yết tại SGDCK nước ngoài, doanh nghiệp phải gửi cho UBCKNN
bản sao giấy chấp thuận niêm yết hoặc quyết định huỷ bỏ niêm yết và công
bố thông tin về việc niêm yết hoặc huỷ bỏ niêm yết chứng khoán tại
SGDCK nước ngoài, tại các ấn phẩm và trang thông tin điện tử của
UBCKNN.
� Nghĩa vụ của doanh nghiệp có chứng khoán niêm yết tại TTCK nước ngoài
- Công bố thông tin theo quy định của pháp luật nước ngoài và pháp luật của
Việt Nam.
- Đảm bảo tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp
luật.
- Trường hợp tổ chức đồng thời niêm yết ở thị trường chứng khoán trong
nước và nước ngoài, báo cáo tài chính định kỳ phải được lập theo chuẩn
mực kế toán quốc tế hoặc theo chuẩn mực kế toán quốc tế và Việt Nam,
kèm theo bản giải trình các điểm khác biệt giữa các chuẩn mực kế toán.
- Tuân thủ quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam đối với các giao
dịch ngoại tệ liên quan đến việc niêm yết chứng khoán tại SGDCK nước
ngoài
3.2.4 Những điều kiện cần đáp ứng khi niêm yết CK ở TTCK nước ngoài Trước tiên là chọn một sàn giao dịch chứng khoán phù hợp. Câu hỏi đầu tiên mà bất
kỳ một vị CEO nào cũng phải trả lời là công ty nên niêm yết trên sàn giao dịch chứng
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
72
khoán nào? Câu hỏi này không dễ trả lời vì việc nên niêm yết ở nước nào còn phụ
thuộc vào lĩnh vực kinh doanh và chiến lược phát triển của công ty và sự hiểu biết
của các nhà lãnh đạo công ty về tâm lý và xu hướng đầu tư của các nhà đầu tư tiềm
năng trên những sàn giao dịch chứng khoán này. Tuy nhiên, điều quan trọng mà các
công ty cần biết là các sàn giao dịch chứng khoán thường cạnh tranh để các công ty
niêm yết trên sàn của mình. Tuy nhiên họ có thể có những quan điểm khác nhau về
tiêu chuẩn chọn lựa các công ty sẽ được niêm yết.
Sau khi đã lựa chọn được sàn giao dịch chứng khoán thích hợp thì điều quan trọng
tiếp theo là công ty phải hiểu biết tường tận các qui định để được niêm yết trên sàn
giao dịch chứng khoán đó. Các công ty cũng cần ý thức rằng những qui định của các
sàn giao dịch chứng khoán nước ngoài khắt khe hơn nhiều so với những qui định
hiện đang được áp dụng cho các sàn giao dịch chứng khoán tại VN, đặc biệt là những
yêu cầu liên quan đến báo cáo tài chính, quản trị doanh nghiệp, thuế và quan hệ với
nhà đầu tư.
� Yêu cầu về báo cáo tài chính
Hầu hết tất cả các sàn giao dịch chứng khoán ở các nước đều yêu cầu các công ty
phải công bố báo cáo tài chính đã được kiểm toán và được soạn lập theo các Chuẩn
Mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS) của 3 năm tài chính trước khi niêm yết.
Đa số các DN Việt Nam không soạn lập báo cáo tài chính theo IFRS, và nếu các
công ty này có soạn lập báo cáo tài chính theo IFRS thì không phải lúc nào cũng
được kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần cho các báo cáo tài chính đó.
Lý do là để tuân thủ đầy đủ theo IFRS, các công ty VN cần có khả năng duy trì một
hệ thống có thể lưu trữ và cung cấp được các thông tin cần thiết, bao gồm các dữ liệu
quá khứ và tương lai, theo một phương thức giúp cho việc soạn lập được báo cáo tài
chính theo IFRS. Các công ty cần lập một kế hoạch chi tiết vì để thực hiện được việc
này công ty phải bỏ ra một chi phí đáng kể và quá trình thực hiện sẽ cần phải có sự
liên kết của rất nhiều bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của công ty.
Quá trình chuẩn bị cho việc soạn lập các báo cáo tài chính theo IFRS là một công
việc khá nặng nề. Các công ty vừa và nhỏ của VN có thể mất ít nhất là 2 năm để hoàn
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
73
thành quá trình chuẩn bị này. Các công ty lớn có cơ cấu kinh doanh và mô hình phức
tạp có thể mất từ 3 năm trở lên để chuyển đổi qua hệ thống báo cáo theo IFRS. Do
vậy, ban lãnh đạo công ty cần phải dự trù quỹ thời gian hợp lý và nguồn nhân lực
giỏi để thực hiện việc chuyển đổi này. Đối với các tổ chức tài chính thì việc chuyển
đổi sang báo cáo theo IFRS đặc biệt khó khăn hơn vì các tổ chức này có mạng lưới
hoạt động rất rộng và sản phẩm của họ cũng rất đa dạng.
Sau khi các công ty hoàn thành việc lập báo cáo tài chính theo IFRS, các báo cáo này
phải được kiểm toán. Các công ty cũng nên lưu ý là các báo cáo tài chính có ý kiến
kiểm toán loại trừ, sẽ có thể không được các sàn giao dịch chứng khoán nước ngoài
hay các nhà đầu tư tiềm năng quốc tế chấp nhận.
Ngoài việc phải công khai các báo cáo tài chính của 3 năm tài chính trước khi niêm
yết, các công ty niêm yết ở nước ngoài cũng sẽ phải tuân thủ theo các quy định chi
tiết về việc báo cáo thông tin tài chính hiện hành và các yêu cầu về báo cáo khác.
Ngoài các báo cáo quý chi tiết, để tuân thủ theo các quy định về niêm yết, các công
ty cũng phải công bố chi tiết những sự kiện quan trọng của công ty một cách kịp thời,
ví dụ như những thay đổi trong cơ cấu quản lý của công ty, các vấn đề về pháp lý
cũng như các vấn đề liên quan đến môi trường.
� Quản trị Doanh nghiệp
Đối với các công ty niêm yết ở nước ngoài, việc quản trị doanh nghiệp tốt cũng có
tầm quan trọng không kém. Các vấn đề liên quan đến giám đốc độc lập, trình bày về
giao dịch với các bên liên quan, tính hiệu quả của hội đồng kiểm toán được coi là
những lĩnh vực mà các công ty Việt Nam cần phải nỗ lực để thực hiện theo đúng các
yêu cầu đối với các công ty niêm yết ở nước ngoài. Những công ty này cũng cần phải
có các hệ thống và thủ tục kiểm soát nội bộ tốt, hoạt động một cách hiệu quả để có
thể ngăn chặn được gian lận và sai sót.
� Các quy định thuế quốc tế
Các công ty muốn niêm yết ở nước ngoài cần lưu ý về vấn đề hoạch định thuế.
Những rủi ro về thuế có thể làm sụt giảm sức hấp dẫn của cổ phiếu các công ty Việt
Nam và có thể có ảnh hưởng bất lợi đến việc niêm yết ở nước ngoài của các công ty
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
74
này. Các công ty cần xem xét những vấn đề trên một cách kỹ lưỡng trước khi niêm
yết ở nước ngoài.
� Quan hệ với nhà đầu tư
Sau khi hoàn tất việc niêm yết ở nước ngoài, các công ty Việt Nam sẽ phải tiếp xúc
nhiều hơn với các nhà đầu tư quốc tế. Các nhà đầu tư này sẽ đòi hỏi công ty nỗ lực
hỗ trợ để họ có thể theo dõi hoạt động của công ty. Một trang web sử dụng dễ dàng,
được cập nhật kịp thời và có đầy đủ tất cả thông tin về công ty là một cách thức tốt
mà các công ty nên áp dụng. Các báo cáo tài chính trước đây và hiện hành, lịch sử
của công ty, thông tin trên các phương tiện đại chúng về giá cổ phiếu và các chi tiết
về hoạt động kinh doanh của công ty cũng nên được cập nhật trên trang web này.
Ngoài ra, các nhà đầu tư lớn như các quỹ đầu tư và những thành viên tầm cỡ khác
trong giới đầu tư sẽ có thể liên lạc để tổ chức các cuộc gặp mặt với lãnh đạo hoặc để
hiểu rõ thêm về các vấn đề đã được công bố ra đại chúng. Do vậy, các công ty niêm
yết trên các thị trường lớn trên thế giới thường có một bộ phận chuyên trách về quan
hệ với nhà đầu tư.
� Chi phí niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán nước ngoài
Các công ty Việt Nam cần ý thức rằng chi phí niêm yết trên sàn nước ngoài cao hơn
rất nhiều so với chi phí niêm yết trên sàn trong nước vì quá trình này đòi hỏi phải có
sự tham gia của những tổ chức có tầm cỡ quốc tế trong lĩnh vực bảo lãnh phát hành,
kiểm toán, tư vấn pháp luật và tư vấn doanh nghiệp,… Một nhân tố mà các DN Việt
Nam thường ít để ý đến là cần phải đảm bảo những nguồn lực thiết yếu để giám sát
việc niêm yết và các nghiệp vụ có liên quan sau khi đã niêm yết. Các công ty xin
niêm yết cần lưu ý rằng họ không chỉ phải tuân thủ các yêu cầu về niêm yết tại thời
điểm phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, mà quan trọng hơn là phải tiếp tục
đáp ứng được những yêu cầu này và duy trì việc tuân thủ trong suốt quá trình niêm
yết.
Việc niêm yết ở nước ngoài sẽ tạo ra nhiều lợi ích cho các DN Việt Nam. Tuy nhiên
để tối đa hóa các lợi ích, các DN Việt Nam phải cẩn thận xem xét vấn đề này vì việc
có tên công ty mình xuất hiện trên sàn giao dịch chứng khoán nước ngoài không phải
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
75
là đích đến mà thực sự là điểm khởi đầu cho một hành trình mới những công ty này
cam kết sẽ đi đến cùng.
� Vai trò của các công ty kiểm toán trong việc niêm yết ở nước ngoài
Sự tham gia chính của các công ty kiểm toán trong quá trình niêm yết ở nước ngoài
phần lớn việc kiểm toán các báo cáo tài chính soạn lập theo IFRS. Tương tự việc
kiểm toán các báo cáo tài chính được soạn lập theo các Chuẩn mực Kế toán Việt
Nam, việc soạn lập báo cáo tài chính theo IFRS là trách nhiệm của ban giám đốc và
trách nhiệm của kiểm toán viên là đưa ra ý kiến độc lập liệu các báo cáo tài chính này
có được soạn lập trung thực và hợp lý, xét trên mọi phương diện trọng yếu, về tình
hình tài chính của công ty hay không.
3.3. Thành lập tổ chức định mức tín nhiệm
Ngày nay hầu hết những TTCK của các nước trên thế giới đều tồn tại ít nhất một tổ
chức định mức tín nhiệm, một phần là do xu thế của thời đại, nhưng phần lớn là do vai
trò quan trọng của tổ chức định mức tín nhiệm trên thị trường tài chính.
3.3.1 Khái niệm định mức tín nhiệm
Định mức tín dụng DN thực chất là việc đánh giá chất lượng, mức độ tin cậy, khả
năng thanh toán của một công ty phát hành đối với các công cụ nợ dựa trên các yếu
tố rủi ro có liên quan. Công cụ nợ có thể là các công cụ ngắn hạn như: hối phiếu, tín
phiếu, chứng chỉ tiền gửi; hoặc dài hạn như: trái phiếu, cổ phần ưu đãi cổ tức.
3.3.2 Vai trò của hệ thống định mức tín nhiệm
Định mức tín nhiệm có vai trò vô cùng quan trọng đối với thị trường tài chính mỗi
quốc gia. Đặc biệt, đối với một nền tài chính mới nổi như Việt Nam thì sự có mặt của
các công ty định mức tín nhiệm lớn chắc chắn sẽ tạo được niềm tin và góp phần thu
hút mạnh mẽ nguồn vốn của các nhà đầu tư nước ngoài.
� Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Định mức tín nhiệm giúp nhà nước quản lý vốn tại các DN được dễ dàng hơn; góp
phần tạo nên một thị trường cân bằng, minh bạch thông tin. Các cơ quan quản lý nhà
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
76
nước có thể dựa trên các thông tin định mức tín nhiệm công khai để ban hành chính
sách, giám sát thực hiện, cấp phép phát hành… và quản lý tốt hơn.
� Đối với các công ty phát hành
Định mức tín nhiệm giúp huy động vốn với chi phí hợp lý, hiệu quả; là một phương
tiện để các công ty quảng bá thương hiệu với thị trường trong và ngoài nước, đồng
thời tạo một cơ chế kiểm soát công khai, tạo động lực cho công ty cơ cấu tài chính,
cải tiến quy trình quản lý, chất lượng và hiệu quả hoạt động.
� Đối với giới đầu tư, các tổ chức tín dụng
Định mức tín nhiệm là một chỉ tiêu để nhà đầu tư quyết định nên hay không nên đầu
tư vào trái phiếu công ty, đầu tư với mức lãi suất bao nhiêu; là cơ sở để các ngân
hàng thương mại, tổ chức tín dụng quyết định với các dự án vay vốn. Định mức tín
nhiệm vừa phản ánh độ tin tưởng, khả năng thanh toán của nhà phát hành, vừa là một
tiêu chí đánh giá chung đối với DN. Việc đánh giá DN dựa trên định mức tín nhiệm
sẽ góp phần tránh những hậu quả đáng tiếc từ việc đầu tư thiếu thông tin.
3.3.3 Tiêu chí đánh giá định mức tín nhiệm
Việc đánh giá định mức tín nhiệm được thực hiện dựa trên 2 tiêu chí cơ bản là định
tính và định lượng, hay còn gọi là 2 mảng phân tích: phân tích kinh doanh và phân
tích tài chính.
� Các yếu tố định tính: được xem xét theo phương pháp bậc thang 3 bước:
- Tình hình và triển vọng phát triển kinh tế đất nước, các yếu tố rủi ro vĩ mô,
chính sách của nhà nước có ảnh hưởng đến ngành và công ty.
- Đặc điểm của các ngành kinh tế mà công ty đang tham gia; triển vọng phát
triển của ngành đó trong nền kinh tế quốc dân; tác động, ảnh hưởng của
những yếu tố vĩ mô trong và ngoài nước tới ngành kinh tế; vị trí, thị phần
của công ty trong ngành.
- Chính sách quản lý trong sản xuất - kinh doanh, chính sách tài chính, quản
lý vốn, marketing, bán hàng, đặc điểm công nghệ, quy trình sản xuất, khả
năng, kinh nghiệm của bộ máy lãnh đạo…
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
77
� Các yếu tố định lượng: được xem xét dựa trên các báo cáo tài chính đã được
kiểm toán, công ty ĐMTN sẽ tính toán tất cả chỉ số tài chính để đưa ra những
nhận định đầy đủ nhất về tình hình tài chính hiện tại và tương lai của công ty.
3.3.4 Các bước thành lập tổ chức định mức tín nhiệm
Để thành lập một tổ chức định mức tín nhiệm, bên cạnh việc thành lập một môi
trường chính sách và quản lý mà sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của một thị trường
trái phiếu và tiền tệ sôi động, cần thực hiện các bước sau:
� Phải có một nhà tài trợ địa phương. Ban đầu có thể là chính phủ hoặc một ủy
ban khu vực tư dưới sự nâng đỡ của cơ quan quản lý chứng khoán hoặc ngân
hàng trung ương.
� Một nghiên cứu tiền khả thi nên được thực hiện để xác định sự có thể tồn tại
của một tổ chức định mức tín nhiệm. Nghiên cứu có thể được tài trợ bởi một
nhóm khu vực tư nhân, hoặc một tổ chức quốc tế cung cấp trợ giúp kỹ thuật
cho các thị trường chứng khoán đang nổi.
� Nếu có thể tồn tại về mặt kinh tế, tổ chức định mức tín nhiệm nên được tổ
chức. Quyền sở hữu có thể bao gồm một nhóm các tổ chức tài chính trong
nước hoặc các nhà đầu tư có tổ chức mà không ai sở hữu quá 10%. Trong khi
các cơ quan chính quyền có thể được phép tham gia làm chủ, nhưng dường
như thích hợp chỉ giới hạn bất kỳ sự tham gia nào như vậy không hơn 25%
vốn góp ban đầu. Một chọn lựa khác, một tổ chức định mức tín nhiệm trong
nước có thể được thành lập như là một liên doanh với một tổ chức định mức
tín nhiệm quốc tế vững chắc.
� Chính phủ nên xem xét cho phép tổ chức định mức tín nhiệm một quyền kinh
doanh độc quyền trong một thời gian nhất định (có thể 5 năm) nhưng điều này
phải được chứng tỏ bởi một nghiên cứu khả thi. Trong khi về dài hạn, cạnh
tranh là điều rất đáng mong muốn, ở nhiều thị trường chứng khoán đang nổi
không có đủ một số lượng lớn các nhà phát hành, các công cụ và các nhà đầu
tư để tạo thành một hệ thống định mức cạnh tranh có thể tồn tại về mặt kinh
tế.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
78
� Một nhà tài trợ quốc tế nên được xác định để tham gia sở hữu cơ quan định
mức tín nhiệm và/hoặc cung cấp trợ giúp kỹ thuật. Nhà tài trợ quốc tế có thể là
một cơ quan phát triển như Công ty tài chính quốc tế (IFC), hoặc một tổ chức
định mức tín nhiệm hiện hữu ở một quốc gia phát triển hoặc gần với thị trường
chứng khoán đang nổi. Không có sự trợ giúp kỹ thuật từ một tổ chức định mức
tín nhiệm vững chắc, sẽ không thể cho một công ty định mức tín nhiệm có
danh tiếng và sự chuyên nhiệp kỹ thuật cần thiết để đạt được niềm tin của các
nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
3.3.5 Các điều kiện quyết định sự thành công của một tổ chức định mức tín
nhiệm
Để trở thành tin cậy và hữu ích cho nhà đầu tư, định mức tín nhiệm phải được xem là
đáng tin cậy và khách quan của các chủ thể tham gia thị trường. Để một định mức
đáng tin cậy, tổ chức định mức tín nhiệm phải có kỹ thuật chuyên nghiệp, đủ nguồn
lực tài chính, tiếp cận các thông tin tài chính tin cậy về người phát hành, và các thủ
tục hoạt động nội bộ đưa đến công tác định mức nhất quán và tin cậy.
� Tính độc lập
Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu, bất ky một công ty định mức tín nhiệm nào
muốn thành công đều phải bảo đảm không chịu sức ép chính trị, sức ép từ nhà phát
hành. Công ty không thể vì mục đích chính trị mà ấn định xếp hạng cao hơn hay thấp
hơn cho một nhà phát hành. Kết quả xếp hạng do công ty công bố cần phải đảm bảo
tính khách quan, công bằng, phản ánh trung thực tình hình thực tế của nhà phát hành,
điều này sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của công ty. Có như vậy ngưòi đầu
tư mới sử dụng xếp hạng tín nhiệm do công ty công bố.
� Tiềm lực tài chính
Khả năng tài chính là một yếu tố then chốt đối với bất cứ loại hình công ty nào, nó
đảm bảo cho công ty duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Song, đói
với các công ty định mức tín nhiệm, tiềm lực tài chính còn cho phép họ chống lại các
sức ép từ bên ngoài để giữ địa vị độc lập của mình trong khi ấn định xếp hạng tín
nhiệm cho nhà phát hành.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
79
� Tiềm lực kĩ thuật
Tiềm lực kỹ thuật của một công ty xếp hạng tín nhiệm bao gồm: Phương tiện làm
việc, kỹ thuật xếp hạng và con người. Trang thiết bị tuy chỉ là một yếu tố phụ, song
nó trợ giúp khá đắc lực cho các chuyên gia xếp hạng tín nhiệm hoàn thành công việc
nhanh, chính xác. Vấn đề thứ 2 là kỹ thuật xếp hạng tín nhiệm, hay chính là công
nghệ sản xuất của công ty định mức tín nhiệm, nó sẽ quyết định chất lượng sản
phẩm. Tuy nhiên, "công nghệ" này trong công ty định mức tín nhiệm phần lớn nằm ở
yếu tố con người, chính là đội ngũ chuyên gia xếp hạng tín nhiệm có chuyên môn,
kinh nghiệm. Họ là những người xử lí thông tin và đưa ra kết luận về xếp hạng tín
nhiệm của nhà phát hành, vậy nên trong xếp hạng tín nhiệm có mang dấu ấn khá đậm
nét tư duy và trình độ nghiệp vụ của các chuyên gia. Do đó, bất cứ công ty định mức
tín nhiệm nào cũng cần có một đội ngũ chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm để đảm bảo
độ chính xác của các kết quả đưa ra, đảm bảo uy tín cho công ty.
� Khả năng tiếp cận thông tin
Nguyên liệu chính của công ty định mức tín nhiệm là các loại thông tin. Thông tin
càng đầy đủ, chính xác, càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc đưa ra một kết quả
chính xác sau này. Do đó, công ty phải có khả năng tiếp cận được nguồn thông tin
đáng tin cậy về nhà phát hành dưới mọi hình thức, trực tiếp hoặc gián tiếp, chính thức
hoặc không chính thức.
� Uy tín đối với thị trường
Cũng như bất kỳ một công ty nào, công định mức tín nhiệm cũng cần phải tạo dựng
được uy tín đối với thị trường, để kết quả định mức tín nhiệm- sản phẩm mà cty cung
cấp, được "người tiêu dùng"- chính là công chúng đầu tư, sử dụng.
3.3.6 Phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm
Tùy theo từng tổ chức, mà phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm có khác nhau đôi
chút. Tuy vậy về cơ bản chúng khá giống nhau. Theo đó, công ty đối tương sẽ được
đánh giá từ quốc gia, môi trường, đến ngành kinh doanh mà nó đang hoạt động. Sau
đó, các thông số có tính cách định tính chẳng hạn chất lượng, kỹ năng của ban quản
lý, chiến lược marketing, chính sách quản lý…cũng sẽ được xem xét. Kế đó, và cũng
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
80
rất quan trọng là tất cả các chỉ số chính phản ánh tình hình tài chính sẽ được đưa ra
phân tích, đánh giá. Tổng hợp lại những yếu tố trên, tổ chức đánh giá tín nhiệm sẽ
xếp hạng các trái phiếu theo các mức khác nhau đã định sẵn và ký hiệu bằng các chữ
cái đầu tiên; theo bảng sau:
Bảng 4: Các hạn mức của hệ số tín nhiệm đối với công cụ nợ dài hạn
Chỉ số Tín nhiệm theo S&P
Chỉ số Tín Nhiệm
theo Moody’s Diễn giải Phân loại
AAA Aaa Chất luợng cao nhất, ổn định, độ rủi ro thấp nhất
AA Aa Chất lượng cao, rủi ro thấp, Độ rủi ro chỉ cao hơn hạng AAA một bậc.
A A Chất lượng khá, tuy vậy có thể bị ảnh huỡng bởi tình hình kinh tế.
BBB Baa
Chất lượng trung bình, an toàn trong thời gian hiện tại, tuy vậy có ẩn chứa một số yếu tố rủi ro.
Trái phiếu có thể đầu tư
BB Ba
Chất lượng trung bình thấp, có thế gặp khó khăn trong việc trả nợ, bị ảnh hưởng đối với sự thay đổi của tình hình kinh tế.
Trái phiếu có độ rủi ro cao
B B Chất lượng thấp, rủi ro cao, có nguy cơ không thanh toán đúng hạn
CCC Caa Rủi ro cao, chỉ có khả năng trả nợ nếu tình hình kinh tế khả quan.
CC Ca Rủi ro rất cao, rất gần phá sản,
C C Rủi ro rất cao, khó có khả năng thực hiện thanh toán các nghĩa vụ nợ
D Xếp hạng thấp nhất, đã phá sản hay hầu như sẽ phá sản
NR NR Không đánh giá
Trái phiếu không nên đầu
tư
Nguồn: www.saga.vn
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
81
Đối với chỉ số Moody’s, ngoài những xếp hạng cơ bản trên, hệ số 1, 2, 3 còn dùng để
chia nhỏ một xếp hạng cơ bản ra làm 3 loại, trong đó 1 là cao nhất trong hạng đó, 2 là
trung bình, 3 là thấp nhất, ví dụ: Aa1, Aa2, Aa3.
Còn đối với chỉ số S&P, + hay – được dùng để chia nhỏ xếp hạng. trong đó + là cao
nhất trong hạng đó, không dấu là trung bình, - là thấp nhất; ví dụ: AA+, AA, AA-
Dùng chỉ số Z để ước tính hệ số Tín Nhiệm
Chỉ số Z (Z score) là công cụ được cả hai giới học thuật và thực hành, công nhận và
xử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Chỉ số này được phát minh bởi Giáo Sư Edward
I. Altman, trường kinh doanh Leonard N. Stern, thuộc trường Đại Học New York,
dựa vào việc nghiên cứu khá công phu trên số luợng nhiều công ty khác nhau tại Mỹ.
Mặc dù chỉ số Z này được phát minh tại Mỹ, nhưng hầu hết các nuớc, kể cả các nước,
vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy khá cao.
Z’’ = 6.56X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4
Trong đó
X1 = Tỷ số Vốn Lưu Động trên Tổng Tài Sản
X2 = Tỷ số Lợi Nhuận Giữ Lại trên Tổng Tài Sản
X3 = Tỷ Số Lợi Nhuận Trước Lãi Vay và Thuế trên Tổng Tài sản
X4 = Giá Trị Thị Trường của Vốn Chủ Sỡ Hữu trên Giá trị sổ sách của Tổng Nợ
Nếu Z’’ > 2.6 Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ
phá sản
Nếu 1.1 < Z’’ < 2.6 Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy
cơ phá sản
Nếu Z’’ <1.1 Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá
sản cao.
Ngoài tác dụng cảnh báo dấu hiệu phá sản, Giáo Sư Esward I. Altman đã phát minh
tiếp hệ số Z’’ điều chỉnh. Chỉ số này bằng với chỉ số Z’’+3.25 (các vùng cảnh báo
phá sản vì thế cũng được tăng lên 3.25). Ông đã nghiên cứu trên 700 công ty và tìm
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
82
ra sự tương đồng giữa chỉ số Z’’ điều chỉnh này với hệ số tín nhiệm S&P. Công thức
Z’’ điều chỉnh được xác định như sau:
Z’’ = 3,25 + 6,56X1 + 3,26X2 + 6,72X3 + 1,05X4
Sự tương đồng giữ chỉ số Z’’ điều chỉnh và xếp hạng S&P của công ty đựơc trình bày
trong bảng sau. Trong đó cột 3, định mức tín nhiệm Moody’s được đưa vào theo sự
tương đồng với định mức tín nhiệm S&P.
Bảng 5: Các hạn mức của hệ số tín nhiệm dựa trên hệ số Z
Z’’ điều chỉnh
Định Mức Tín Nhiệm S&P
Định Mức Tín Nhiệm Moody’s
> 8,15 AAA Aaa 7,60 – 8,15 AA+ Aa1 7,30 – 7,60 AA Aa2 7,00 – 7,30 AA- Aa3 6,85 – 7,00 A+ A1 6,65 – 6,85 A A2 6,40 – 6,65 A- A3 6,25 – 6,40 BBB+ Baa1
Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có
nguy cơ phá sản
5,85 – 6,25 BBB Baa2 5,65 – 5,85 BBB- Baa3
Trái phiếu có thể đầu tư
5,25 – 5,65 BB+ Ba1 4,95 – 5,25 BB Ba2 4,75 – 4,95 BB- Ba3
Trái phiếu có độ rủi ro cao
4,50 – 4,75 B+ B1
Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có
nguy cơ phá sản
4,15 – 4,50 B B2 3,75 – 4,15 B- B3 3,20 – 3,75 CCC+ Caa1 2,50 – 3,20 CCC Caa2 1,75 – 2,50 CCC- Caa3
Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ
phá sản cao. 0 – 1,75 D
Trái phiếu không nên đầu tư
Nguồn: www.saga.vn
Sự tương đồng giữa chỉ số Z’’ điều chỉnh và hệ số tín nhiệm S&P là khá cao, nhưng
không có nghĩa là tuyệt đối. Trong bài viết của mình, giáo sư Altman cũng trình bày
một sự lệch chuẩn nằm trong khoản cho phép của hai chỉ số trên. Một điều nữa chúng
ta cần phải chú ý là chỉ số Z’’ điều chỉnh mặc dù được dùng khá tốt ở các thị trường
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
83
khác, cũng nên được nghiên cứu để điều chỉnh theo môi trường Việt Nam. Mặc dù
ghi chú hai điểm trên, theo người viết, việc tạm ước tính hệ số tín nhiệm bằng chỉ số
Z’’ là đáng tin cậy và có thể dùng được. Nó có thể giúp giúp công ty và người đầu tư
nhận định cơ bản về tình hình tài chính và khả năng thanh toán nợ của công ty.
3.4. Các giải pháp bổ trợ cho sự pháp triển bền vững của TTCK Việt Nam
3.4.1. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các loại hàng hoá để đáp ứng nhu cầu
của thị trường
3.4.1.1 Nâng cao hiệu quả phát hành cổ phiếu doanh nghiệp trên TTCK
TTCK là định chế bậc cao trong nền kinh tế thị trường, nó đồng thời vừa là thước đo
vừa là công cụ phát triển nền kinh tế cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô. Việc mua cổ phiếu
của DN được phát hành trên TTCK đồng nghĩa với việc NĐT bỏ phiếu lựa chọn các
DN có triển vọng phát triển tốt. Hành động này mang lại nhiều lợi ích cho nhiều bên.
Tuy nhiên, hiệu quả việc phát hành cổ phiếu của DN không chỉ phụ thuộc vào một
phía mà phụ thuộc và tất cả các đối tượng tham gia
Thứ nhất, về phía cơ quan quản lý cấp phép hồ sơ phát hành
� Cần tăng cường hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý có liên quan đến nội
dung, quy trình thủ tục, điều kiện cấp phép hồ sơ phát hành của doanh nghiệp
và cả quy định mức phạt, chế tài các vi phạm có liên quan đến phát hành cổ
phiếu doanh nghiệp (như cần nâng mức phạt tiền cao hơn 70 triệu đồng như
hiện hành).
� Nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và năng lực thẩm tra,
thẩm định, cũng như hệ thống thông tin quản lý nhà nước, quản lý doanh
nghiệp liên ngành, đa ngành và chuyên ngành cần thiết phục vụ xây dựng,
triển khai và giám sát thực hiện các phương án phát hành cổ phiếu DN…
� Tăng cường phối hợp với các đơn vị hữu quan, như Ban đổi mới sắp xếp
DNNN, các SGDCK và TTGDCK, các cơ quan thanh tra, giám sát, điều tra và
tư pháp… để nâng cao chất lượng các hồ sơ phát hành; tăng cường ngăn chặn,
xử lý kịp thời và hiệu quả các sai phạm liên quan đến cấp phép hồ sơ và thực
hiện các phương án phát hành cổ phiếu DN.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
84
Thứ hai, về phía đơn vị tư vấn phát hành
� Nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ của đơn
vị mình.
� Tuân thủ nghiêm túc, đầy đủ các quy định pháp luật trong khi tác nghiệp.
� Chủ động và độc lập hơn trong tư vấn các nội dung, vấn đề liên quan đến
phương án phát hành cổ phiếu của DN trên cơ sở nắm chắc, bám sát diễn biến
thị trường, các thông tin về DN và các quy định pháp lý có liên quan; cải thiện
cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động của mình.
Thứ ba, về phía tổ chức phát hành
� Không coi phát hành cổ phiếu là mục đích tự thân hoặc là cơ hội đầu cơ kinh
doanh cổ phiếu của DN, nhất là phát hành cổ phiếu bổ sung, cổ phiếu thưởng
mà phải gắn với kế hoạch SXKD rõ ràng, cụ thể, khả thi.
� Thu thập thông tin đầy đủ về các vấn đề có liên quan tới xây dựng, triển khai,
giám sát thực hiện phương án phát hành cổ phiếu.
� Thành lập bộ phận chuyên trách xây dựng phương án phát hành cổ phiếu gồm
các cơ quan tư vấn và cán bộ có trách nhiệm, trình độ chuyên môn và đạo đức
tốt.
� Chủ động phòng ngừa, đối phó với các vi phạm từ nội bộ hoặc từ đơn vị tư
vấn trong xây dựng, triển khai phương án phát hành cổ phiếu.
Thứ tư, về phía các nhà đầu tư trên TTCK
Các NĐT cần tỉnh táo, thận trọng và có kiến thức hơn trong tiếp cận, phân tích thông
tin và thông qua các quyết định đầu tư của mình liên quan đến phương án phát hành
cổ phiếu của DN, để biết tự bảo vệ và phòng tránh những rủi ro trong đầu tư CK do
thiếu kiến thức về CK và TTCK.
3.4.1.2. Triển khai giao dịch ký quỹ và nghiệp vụ bán khống trên TTCK
TTCK Việt Nam hiện nay đang trải qua giai đoạn suy giảm liên tục. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến sự sụt giảm này, trong đó nguyên nhân hay được nhắc đến là áp lực
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
85
giải tỏa CK do NĐT đã cầm cố để vay tiền kinh doanh CK từ các NHTM. Sự sụt
giảm nghiêm trọng của thị trường cho thấy bản chất rủi ro cũng như tính chất tự phát,
thiếu kiểm soát của hoạt động này trên thị trường. Thực ra, mọi vấn đề đều có tính
hai mặt. Cũng có quan điểm cho rằng chính các hoạt động vay và cho vay CK để
thực hiện giao dịch ký quỹ cần phải được khuyến khích để thúc đẩy tính thanh khoản
của TTCK, khuyến khích các NĐT tham gia vào thị trường. Điều quan trọng là phải
kiểm soát chặt chẽ để phòng ngừa rủi ro và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Tuy
nhiên, pháp luật CK của Việt Nam hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về việc cho
phép CTCK triển khai các dịch vụ về giao dịch ký quỹ. Mặc dù Khoản 9, Điều 71
Luật Chứng khoán đã có quy định theo hướng mở: "công ty chứng khoán thực hiện
việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và
cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chính", tuy nhiên,
cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn nào của Bộ Tài chính được ban hành.
Giao dịch ký quỹ là giao dịch mua hoặc bán CK trong đó người mua hoặc người bán
chỉ có một phần tiền hoặc CK cần thiết, phần còn lại vay từ CTCK hoặc các tổ chức
tài chính CK khác. Điều đó có nghĩa là các tổ chức này đã cấp tín dụng cho khách
hàng, giúp khách hàng thanh toán giao dịch. Có hai loại giao dịch ký quỹ cơ bản là
giao dịch vay mua CK và bán khống. Trong giao dịch vay mua CK, NĐT chỉ thanh
toán một phần tiền mua, phần còn lại do CTCK trả. Thực chất là CTCK cho khách
hàng vay và nhận chính số CK đã mua được làm tài sản thế chấp cho khoản vay. Còn
bán khống là việc bán CK mà mình không sở hữu vào thời điểm giao dịch. Để thực
hiện giao dịch này, NĐT phải vay CK để giao trong ngày thanh toán. Như vậy, xét ở
một khía cạnh nhất định, giao dịch bán khống có thể làm tăng giá CK, bởi vì nhà đầu
tư sau đó phải mua lại CK để bù vào số CK đã đi vay từ CTCK, khiến giá CK có thể
tăng lên ở mức độ nhất định.
Thực tế, việc cho phép thực hiện các giao dịch ký quỹ đã phổ biến ở hầu hết các
TTCK phát triển với mục đích thúc đẩy giao dịch thị trường và khuyến khích sự tham
gia của nhà đầu tư. Để có thể thực hiện được các giao dịch ký quỹ, vấn đề cơ bản là
phải thừa nhận hoạt động vay và cho vay CK. Cho vay và vay CK là hình thức bù
đắp lượng thiếu hụt tại thời điểm thanh toán. Trên thế giới, hoạt động vay và cho vay
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
86
CK đã phát triển hết sức mạnh mẽ trong thời gian gần đây và góp phần rất lớn vào sự
phát triển chung của các TTCK các nước. Hoạt động này không chỉ dừng lại ở việc
tài trợ CK và tiền để thực hiện các giao dịch ký quỹ, mà còn phục vụ cho nhiều mục
đích khác như: vay CK khi có nhu cầu phải giao CK mà họ chưa mua để thực hiện
hợp đồng phái sinh (ví dụ quyền mua), dùng CK làm tài sản cầm cố, hoặc làm đảm
bảo cho một giao dịch vay CK khác, khắc phục sự cố mất khả năng thanh toán trong
hệ thống thanh toán CK.
Hiện nay đang có hai xu hướng chính tại các TTCK trên thế giới trong việc thành lập
các tổ chức thực hiện các nghiệp vụ vay và cho vay CK. Đối với một số quốc gia và
vùng lãnh thổ (như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản...) cơ quan quản lý TTCK thiết
lập hệ thống các Công ty Tài chính Chứng khoán với mục đích chuyên biệt để thực
hiện các nghiệp vụ vay và cho vay CK nhằm triển khai các chính sách phát triển thị
trường.
Đặc thù của hệ thống các Công ty Tài chính Chứng khoán tại các nước này là không
đặt ra mục tiêu kinh doanh mà chủ yếu nhằm mục tiêu bình ổn giá cả và phát triển
TTCK thông qua việc hỗ trợ các giao dịch CK. Việc thành lập các Công ty Tài chính
Chứng khoán theo mô hình này đáp ứng được nhu cầu thúc đẩy hoạt động giao dịch
của thị trường, song vẫn đảm bảo khả năng quản lý chặt chẽ để giảm thiểu khả năng
rủi ro, đặc biệt là với các thị trường mới thành lập do vay và cho vay CK về bản chất
là các giao dịch phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nếu hệ thống quản lý thị trường
không đủ hiệu quả.
Đối với một số nước (như Mỹ) không có các tổ chức chuyên doanh lĩnh vực tài chính
CK mà rất nhiều tổ chức tài chính như NHTM, nhà môi giới CK... được phép tham
gia vào hoạt động này như là một trong các nghiệp vụ kinh doanh.
Cho dù thực hiện theo mô hình nào thì hoạt động này đều có một điểm chung là: vì
đây là các hoạt động giao dịch phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nên thường chịu sự
điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật và thường bị hạn chế đối với các TTCK mới thành
lập. Ví dụ, tại Trung Quốc, dù TTCK đã hình thành từ lâu nhưng mãi đến ngày
1/8/2006, Ủy ban Giám quản Chứng khoán Trung Quốc mới thông qua quy chế cho
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
87
phép thực hiện giao dịch ký quỹ và bán khống thông qua các CTCK và trong giai
đoạn đầu, hoạt động kinh doanh này chỉ được thực hiện tại một số CTCK nhất định.
Đó cũng là lý do khiến giao dịch vay và cho vay CK chưa được công nhận chính thức
ở Việt Nam trong thời gian qua. Giao dịch vay và cho vay CK chỉ mới được thừa
nhận một cách rất hạn chế dưới hình thức hỗ trợ chứng khoán cho các giao dịch tạm
thời mất khả năng thanh toán của các thành viên (nhằm khắc phục lỗi giao dịch do
thành viên gây ra, ví dụ nhập nhầm lệnh mua thành lệnh bán, dẫn đến hậu quả không
có CK để giao) hoặc sử dụng CK vào mục đích cầm cố để vay tiền của các tổ chức
tín dụng nhằm tiếp tục đầu tư vào CK. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị
trường, tính thanh khoản của thị trường ngày một nâng cao, trình độ và năng lực của
các NĐT CK ngày càng hoàn thiện, cần nghiên cứu cho phép áp dụng các giao dịch
loại này như một biện pháp khuyến khích giao dịch, thực hiện thông lệ và tiêu chuẩn
giao dịch quốc tế.
Trong trường hợp của Việt Nam, với đặc thù TTCK còn rất non trẻ, trước mắt có thể
nghiên cứu để triển khai hoạt động vay và cho vay CK theo mô hình thành lập Công
ty Tài chính Chứng khoán như là một cơ quan thực hiện chính sách thị trường chứ
không phải vì mục tiêu lợi nhuận (giống như Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan).
Mục tiêu của việc thành lập Công ty Tài chính Chứng khoán thể hiện ở việc thúc đẩy
các hoạt động giao dịch CK, bình ổn thị trường, tăng tính thanh khoản cho TTCK.
Do đó, Chính phủ phải đóng vai trò quyết định trong việc thành lập Công ty Tài
chính Chứng khoán Việt Nam, trong đó có sự cân nhắc các điều kiện thực tế của nền
kinh tế và TTCK.
Trong thời gian đầu, do Chính phủ phải đóng vai trò chủ chốt trong việc quản lý và
điều tiết hoạt động tài chính CK, mô hình phù hợp là công ty sở hữu Nhà nước hoặc
Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Ngoài ra, cần thiết phải hình thành một hành
lang pháp lý cho hoạt động vay và cho vay chứng khoán, bao gồm các quy chế về
hoạt động vay và cho vay CK và bổ sung các quy định tại các văn bản pháp luật liên
quan (Quy chế về đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán), trong đó những
nội dung chính cần phải đề cập bao gồm:
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
88
� Một là, chủ thể tham gia giao dịch vay và cho vay CK: bao gồm tổ chức thanh
toán trung tâm là TTLKCK, thực hiện vai trò là đối tác trung tâm điều phối
hoạt động hạch toán, chuyển khoản chứng khoán vay, tài sản bảo đảm, thực
hiện thanh toán cho các thành viên là các CTCK (G30 khuyến nghị rằng vai
trò của công ty thanh toán bù trừ hoặc TTLKCK chỉ nên là người hỗ trợ chứ
không nên cho vay từ tài khoản của riêng mình để tránh rủi ro và duy trì tính
khách quan và trong sạch của thị trường. Như vậy, TTLKCK chỉ đơn thuần
làm trung gian cho các giao dịch trong hệ thống trên cơ sở ghi sổ). Bên vay và
cho vay là các NĐT, các CTCK, quỹ đầu tư CK, các tổ chức tín dụng,
NHTM... Bên đối tác trung gian là Công ty Tài chính Chứng khoán được
UBCKNN cấp phép thực hiện hoạt động vay và cho vay CK.
� Hai là, CK được phép vay và cho vay chỉ nên hạn chế ở những CK niêm yết
tại TTGDCK, SGDCK. Ngoài ra, CK phải đáp ứng được các điều kiện là
không thuộc diện CK đang bị kiểm soát hoặc bị cấm giao dịch.
� Ba là, tài sản bảo đảm được sử dụng trong giao dịch vay và cho vay CK là các
CK niêm yết trên TTGDCK, SGDCK hoặc là tiền mặt. Nếu CK được sử dụng
làm tài sản bảo đảm, các CK này cũng phải đáp ứng được các điều kiện như
CK được phép vay và cho vay. Tài sản bảo đảm thường được định giá thấp
hơn giá trị thực tế được xác định vào thời điểm thực hiện giao dịch.
� Bốn là , theo thông lệ quốc tế cần quy định rõ giao dịch vay và cho vay chứng
khoán phải thực hiện trên cơ sở Hợp đồng mẫu và phải làm thành văn bản,
trong đó bao gồm các nội dung chính về:
- Tư cách các bên tham gia giao dịch
- Quyền sở hữu đối với CK và tài sản bảo đảm
- Loại tài sản bảo đảm, tỷ lệ tài sản bảo đảm được chấp thuận
- Những thỏa thuận về việc giao tài sản bảo đảm và duy trì một tỷ lệ tài sản
bảo đảm phù hợp khi việc định giá theo giá thị trường có biến động lớn.
- Các quy định cụ thể hóa quyền của các bên đối tác về việc thay thế tài sản
bảo đảm (nếu có).
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
89
- Cách xử lý số cổ tức được thanh toán và các quyền khác liên quan tới CK
vay và tài sản đảm bảo, trong đó bao gồm cả thời điểm thực hiện thanh
toán.
- Các thỏa thuận về việc xử lý những sự kiện phát sinh liên quan đến quyền
đối với công ty.
- Các bước thu hồi chứng khoán và cách xử lý nếu CK đó không được giao.
- Trường hợp mất khả năng thanh toán, quyền và trách nhiệm sau đó của các
bên đối tác.
- Khiếu nại giữa các bên trong trường hợp mất khả năng thanh toán...
Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy việc áp dụng Hợp đồng mẫu (đã được kiểm soát)
là phương án có thể giảm thiểu rủi ro và là đảm bảo chắc chắn về mặt pháp lý cho các
bên trong trường hợp có sự xung đột pháp luật với các văn bản pháp lý khác có liên
quan (ví dụ như các quy định của luật dân sự về vấn đề vay tài sản).
3.4.1.3. Cải tiến và đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa DNNN
Lợi ích của việc CPH DNNN
� Những DN mà nhà nước chiếm đến 99% vốn điều lệ đã không còn là DN một
chủ sở hữu mà đã trở thành một CTCP có nhiều cổ đông tham gia (nếu có
chính sách bán rộng rãi cổ phần cho người lao động và NĐT bên ngoài tham
gia). Khi đã trở thành công ty đại chúng thì DN phải có nghĩa vụ thường
xuyên công bố thông tin, như vậy tính minh bạch trong quản trị DN đã được
cải thiện.
� Đã là CTCP thì DN tạo được cơ chế trả luơng và thu nhập theo cơ chế thị
trường, mà không hề bị ràng buộc theo cơ chế bảng lương được ấn định từ cơ
chế nhà nước – đây là một động lực để phát triển DN.
� Ban lãnh đạo DN phải chịu một sức ép lớn hơn trước rất nhiều là phải tạo lợi
nhuận cho DN nhằm đủ nguồn để trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông theo mặt
bằng chung của thị trường.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
90
� Hiện nay có 1 tình trạng phổ biến trong các Tổng công ty nhà nước là không
chú trọng đến việc đạt được 1 tỷ suất lợi nhuận bình quân như các DNNN đã
CPH, họ không chú trọng hoặc không có khả năng làm cho lợi nhuận của bộ
phận văn phòng tổng công ty cao, mà chỉ cần có ít lợi nhuận. Việc chuyển các
Tổng công ty nhà nước thành CTCP sẽ làm bộc lộ nhân sự yếu kém để cơ
quan chủ quản có điều kiện thay thế nhân sự, đồng thời làm tăng hiệu quả hoạt
động của các Tổng công ty nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà nuớc.
� Khi đã trở thành CTCP sẽ mở ra nhiều hình thức huy động vốn mới như phát
hành cổ phiếu, trả cổ phiếu bằng cổ tức….Đây là những tiền đề quan trọng để
tăng cường khả năng tài chính của công ty mẹ.
� Thực tiễn về cổ phần hoá DNNN trong 15 năm qua đã chỉ ra rằng :
- Có 1 số DNNN kinh doanh liên tục thua lỗ, đến khi cổ phần hoá thì gặp
tình trạng khó bán cổ phần, cổ phần nhà nước chiếm trên 90% vốn điều lệ,
nhưng chỉ sau một thời gian ngắn đa phần đối tượng này kinh doanh hiệu
quả và từ đó làm nền tảng cho việc bán bớt hoặc bán hết cổ phần nhà nước.
- Có những DNNN kinh doanh hiệu quả, khi CPH huy động vốn lớn trong
bối cảnh chưa có TTCK hoặc TTCK bị khủng hoảng ( giai đoạn 2001 –
2003), khi chuyển thành CTCP thì nhà nước nắm cổ phần đa số tuyệt đối,
nhưng cũng chỉ 1 thời gian ngắn sau CPH, những DN đó đã tái cơ cấu
được cổ phần nhà nước.
Cần xác định mục tiêu ưu tiên của cổ phần hoá DNNN trong giai đoạn hiện nay
� Theo chính sách cổ phần hoá hiện hành thì chúng ta đưa ra nhiều mục tiêu cổ
phần hoá DNNN như: Thay đổi cơ chế quản lý, huy động vốn, tìm kiếm đối
tác chiến lược, tạo hàng hoá cho TTCK….Đặt ra những mục tiêu này là hoàn
toàn đúng đắn nhưng trong bối cảnh của TTCK hiện nay thì khi cổ phần hoá
các DNNN, chúng ta không thể cùng 1 lúc đạt được ngay các mục tiêu này.
� Nếu chúng ta chỉ đặt mục tiêu ưu tiên là hoàn thành thủ tục chuyển đổi công ty
nhà nước thành CTCP mà nhà nước tạm thời nắm cổ phần đa số (có thể trên
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
91
95% vốn điều lệ đối với những tập đoàn kinh tế lớn ) thì những mục tiêu quan
trọng khác sẽ được giải quyết nhanh sau 1 thời gian ngắn của hậu CPH.
� Để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN mà không làm ảnh hưởng đến sự ổn định
của TTCK thì :
- Tạm thời chấp nhận cổ phần đa số của nhà nước, có thể lên tới 95% vốn
điều lệ.
- IPO một lượng nhỏ cổ phiếu, số lượng phát hành không quá 50 tỷ đồng
theo mệnh giá.
� Giải quyết vấn đề bán cổ phần cho đối tác chiến lược :
- Vấn đề đảm bảo tốc độ cổ phần hoá DNNN phải là ưu tiên số một.
- Đàm phán, lựa chọn đối tác chiến lược mất rất nhiều thời gian (từ 6 tháng
đến 1 năm, thậm chí 2 năm, 3 năm), vì vậy không nên đặt vấn đề là đàm
phàn lựa chọn xong đối tác chiến lược thì mới thực hiện IPO.
- Các cơ quan chỉ đạo CPH nêu ưu tiên tốc độ hoàn thành thủ tục chuyển
thành CTCP, còn đối tác chiến lược có thể thực hiện sau CPH là tốt nhất.
Những giải pháp này hoàn toàn phù hợp với qui định hiện hành, với phương pháp
này chúng ta hoàn toàn có thể đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN mà vẫn đảm bảo
kiểm soát nguồn cung, đồng thời sẽ tạo 1 lượng hàng hoá có giá trị gia tăng lớn cho
nhà nước trong việc bán bớt cổ phần nhà nước khi điều kiện cho phép.
Thay đổi cơ chế quản trị doanh nghiệp cho đối tượng mà nhà nước cần nắm giữ
100% vốn điều lệ
� Các văn bản hiện hành về công ty nhà nước đã qui định 1 số đối tượng DN
không CPH hoặc chưa CPH, tuy nhiên vấn đề đặt ra là làm cách nào để nâng
cao quản trị DN tại các DN này nhằm bảo toàn và phát triển nguồn vốn nhà
nước?
� Cần phân loại đối tượng DN này :
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
92
- Những DNNN do vấn đề bí mật về an ninh quốc phòng mà không thể công
bố thông tin ra công chúng thì được xác định là DN mà nhà nước cần nắm
giữ 100% vốn điều lệ.
- Những đối tượng DN còn lại chưa thể CPH hay không CPH do được xác
định là những DN quan trọng thì nên chuyển sang hình thức CTCP mà nhà
nước nắm giữ trên 90% vốn điều lệ. Việc chuyển đổi này chỉ có lợi cho
nhà nước mà thôi.
Hy vọng rằng các cơ quan hoạch định chính sách về đổi mới DN nên tiếp thu giải
pháp này và mong rằng khoảng 7 năm nữa thì diện đối tượng DN mà nhà nước cần
nắm giữ 100% vốn sẽ giảm khoảng 90%.
3.4.1.4. Thành lập thị trường giao dịch phi tập trung
Sự cần thiết phải của việc thành lập thị trường giao dịch phi tập trung
� Có thể mang lại lợi nhuận lớn hơn: trong lúc thị trường niêm yết tập trung có
biên độ giao dịch hẹp hơn, thì biên độ +/-20% có thể đem lại khoản lợi nhuận
lớn hơn cho NĐT (tất nhiên, khả năng tổn thất nếu thua lỗ cũng cao hơn).
� Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, đặc biệt là NĐT nhỏ lẻ: giao dịch cổ phiếu trên
thị trường phi tập trung có rất nhiều rủi ro. Các giao dịch đều mang tính tự
phát, chủ yếu dựa vào sự tin tưởng lẫn nhau và không có cơ chế quản lý chặt
chẽ. Thông thường, để có thể thực hiện mua/bán CK phải thông qua người thứ
3 đứng giữa làm trung gian. Điều này có thể dẫn tới khả năng gây ra các giao
dịch thao túng giá. Thêm vào đó, có rất nhiều cổ phiếu giả được giao dịch
nhưng không được phát hiện. Vì vậy, giao dịch cổ phiếu tập trung với cơ chế
quản lý và khung pháp lý chặt chẽ sẽ tạo sự an toàn trong giao dịch, giúp NĐT
yên tâm hơn khi đầu tư CK. Đồng thời cũng thu hút NĐT tham gia vào TTCK.
� Tạo tính minh bạch cho TTCK: khi thực hiện quản lý giao dịch CK của công
ty đại chúng chưa niêm yết, việc giám sát quá trình công bố thông tin của công
ty đại chúng sẽ chặt chẽ hơn. Các công ty đại chúng bắt buộc phải thực hiện
nghĩa vụ công khai thông tin theo đúng quy định. Đó là cơ sở cho NĐT có
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
93
nguồn thông tin chính thức để tìm hiểu, xem xét, đánh giá một cách tương đối
chính xác tình hình hoạt động của DN trước khi quyết định đầu tư.
� Kênh huy động vốn: công ty đại chúng đăng ký giao dịch CK chưa niêm yết
tại TTGDCK Hà Nội có cơ hội quảng bá hình ảnh, uy tín doanh nghiệp, tìm
kiếm đối tác… Đó là lợi thế để doanh nghiệp tiếp tục phát hành chứng khoán
huy động vốn, đồng thời có điều kiện thuận lợi hơn khi niêm yết chính thức.
Nguyên tắc chung
Chứng khoán của các công ty đại chúng chưa niêm yết trên Sở/TTGDCK sẽ được
đăng ký và lưu ký tập trung tại TTLK và giao dịch tại các CTCK. Kết quả giao dịch
sẽ được tổng hợp qua TTGDCK Hà Nội để thực hiện thanh toán bù trừ tại TTLK.
Căn cứ trên kết quả giao dịch và thanh toán bù trừ, CTCK sẽ hạch toán tăng/giảm số
lượng chứng khoán trên tài khoản của nhà đầu tư liên quan.
Theo đó, CK đăng ký giao dịch bao gồm cổ phiếu của các công ty đại chúng chưa
niêm yết và trái phiếu chuyển đổi của các công ty đại chúng. Tuy nhiên, những
chứng khoán này phải đáp ứng đủ 3 điều kiện:
� Thứ nhất, là CK của công ty đại chúng chưa niêm yết hoặc bị hủy niêm yết tại
TTGDCK Hà Nội/ SGDCK TP. HCM.
� Thứ hai, CK đã được đăng ký lưu ký tại TTLK.
� Thứ ba, được 1 CTCK là thành viên bảo trợ (CTCK thành viên cam kết với
công ty đại chúng thực hiện các thủ tục đăng ký giao dịch chứng khoán và bảo
đảm hỗ trợ tổ chức đăng ký giao dịch trong việc thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa
vụ công bố thông tin theo quy định).
Một số quy định về giao dịch
� Đơn vị giao dịch: không quy định.
� Đơn vị yết giá: 100 đồng (đối với cổ phiếu) và 1 đồng (đối với trái phiếu).
� Mệnh giá giao dịch: 10.000 đồng (đối với cổ phiếu); 100.000 đồng (đối với
trái phiếu).
� Biên độ dao động giá: +/-20%.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
94
� Giá tham chiếu: TTGDCK Hà Nội tính toán và công bố giá tham chiếu theo
phương thức bình quân gia quyền.
� Phương thức giao dịch: thỏa thuận thông thường (các bên tự thỏa thuận với
nhau về điều kiện giao dịch và được đại diện giao dịch của CTCK nhập thông
tin vào hệ thống đăng ký giao dịch để xác nhận các giao dịch này); thỏa thuận
điện tử (đại diện giao dịch của CTCK nhập lệnh với các điều kiện giao dịch đã
được xác định và lựa chọn lệnh đối ứng phù hợp để thực hiện giao dịch).
� Thời gian thực hiện: NĐT có thể thoả thuận giao dịch với nhau bất kỳ thời
gian nào trong ngày. Tuy nhiên, thời gian yêu cầu CTCK thực hiện nhập báo
cáo kết quả giao dịch vào hệ thống là từ 10h - 12h và từ 13h -15h tất cả các
ngày làm việc.
� Phí giao dịch: do CTCK quy định nhưng mức thu không vượt quá mức trần
hay thấp hơn mức sàn do Bộ Tài chính quy định.
� Các báo cáo kết quả giao dịch đã nhập vào hệ thống không được phép huỷ bỏ.
Trường hợp trong phiên giao dịch, nếu phát hiện ra sai sót trong quá trình
nhập báo cáo giao dịch thì CTCK sẽ thực hiện sửa báo cáo giao dịch trên hệ
thống theo quy trình do TTGDCK Hà Nội hướng dẫn.
� Lệnh chào mua/chào bán có hiệu lực tối đa trong 1 ngày giao dịch hoặc cho
đến khi được thực hiện hoặc bị huỷ bỏ. Trường hợp muốn thay đổi các thông
tin của lệnh chào mua/chào bán, CTCK thực hiện huỷ lệnh chào mua/chào bán
cũ và nhập lại lệnh mới.
Giao dịch của nhà đầu tư
� Nhà đầu tư chỉ được có một tài khoản CK và chỉ được mở tại một CTCK duy
nhất. Trường hợp NĐT đã có tài khoản giao dịch CK niêm yết thì sẽ dùng
ngay tài khoản này để thực hiện giao dịch và lưu ký CK chưa niêm yết. Tài
khoản sẽ được tách biệt thành 2 tiểu khoản (CK niêm yết và CK chưa niêm
yết) để tiện việc theo dõi, giám sát.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
95
� Khi đặt lệnh bán, NĐT phải có đủ số lượng CK trên tài khoản chứng khoán
mở tại các CTCK được phép thực hiện giao dịch. Khi đặt lệnh mua chứng
khoán, NĐT phải ký quỹ đầy đủ 100% tiền.
3.4.2 Phát triển các định chế trung gian
3.4.2.1 Nâng cao chất lượng hoạt động tại các công ty chứng khoán
Một trong những giải pháp chiến lược để nâng cao hoạt động đầu tư, giảm thiểu rủi
ro trong đầu tư CK, tạo cầu nối cho cung cầu CK gặp nhau là phải mở rộng phát triển
qui mô và nâng cao chất lượng dịch vụ hoạt động của các tổ chức tài chính trung
gian, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nghiệp vụ và tính chuyên nghiệp trong
việc cung cấp dịch vụ.
CTCK là một trong những định chế tài chính trung gian quan trọng tham gia hoạt
động trên TTCK. Từ khi thành lập đến nay TTCK Việt Nam đã thu hút gần 100
CTCK được thành lập. Đây cũng là thành công mà TTCK đem lại sau 8 năm đi vào
hoạt động. Tuy nhiên, khi có quá nhiều CTCK cùng hoạt động trong khi số tài khoản
của nhà đầu tư lại quá ít thì lại dẫn đến những cạnh tranh không lành mạnh để lôi kéo
khách từ các CTCK khác về công ty của mình. Bài học từ các thị trường mới nổi cho
thấy Trung Quốc trước đây có số lượng các CTCK lên đến 2.000 các công ty, nhưng
đến thời điểm sụt giảm còn 70 các công ty, hiện nay là 107 các công ty. Đài Loan
thời điểm cao nhất có 278 các công ty, sau đó sụt giảm còn 48 các công ty. Thái Lan
trước đây cũng có tới hơn 200 các CTCK, sau đó giảm xuống còn hơn 50 các công
ty.
Việc giảm số lượng các các CTCK tại các nước thường được thực hiện thông qua
việc tăng yêu cầu về mức đủ vốn của các các CTCK (đây cũng là điều kiện cơ bản và
khó nhất khi lập các CTCK). Điều này dẫn đến hàng loạt các cuộc sáp nhập, thâu
tóm, hợp nhất giữa các các công ty.
Mặt khác, theo cam kết về dịch vụ CK khi Việt Nam gia nhập WTO, vào năm 2012,
các các CTCK nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh, các
CTCK 100% vốn tại Việt Nam. Giới hạn số lượng các CTCK lúc này sẽ đặt các các
CTCK trong nước vào nguy cơ bị thâu tóm bởi các các công ty nước ngoài có tiềm
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
96
lực tài chính mạnh. Kinh doanh dịch vụ CK nhiều khả năng sẽ trở thành sân chơi do
các nhà cung cấp dịch vụ khổng lồ nước ngoài thống trị, trong khi các công ty trong
nước với kinh nghiệm còn non trẻ, tiềm lực kinh tế còn mỏng khó lòng sống sót trong
cuộc cạnh tranh sắp tới.
Chúng ta nên tập trung vào việc nâng tiêu chí thành lập các CTCK dưới góc độ nâng
cao chất lượng, như việc bắt buộc khi thành lập các CTCK mới cần phải có sự tham
gia của các định chế tài chính lớn như ngân hàng, bảo hiểm…
Trong mọi thời điểm, thiết nghĩ, vấn đề chất lượng nên được đặt lên hàng đầu, nhất là
trong tình hình thị trường hiện nay, việc tăng cường năng lực cho đội ngũ trung gian
thị trường càng là vấn đề cấp thiết.
Trong số các nghiệp vụ kinh doanh CK thì hoạt động môi giới là quan trọng nhất và
phổ biến nhất, đóng góp quan trọng cho việc tăng tính thanh khoản cho thị trường và
mở rộng qui mô giao dịch thị trường. Tuy nhiên, hoạt động môi giới của hầu hết các
CTCK trong thời gian qua chưa đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng.
Nhu cầu được tư vấn của NĐT cá nhân rất cao. Nhất là thời điểm hiện nay, khi thị
trường không còn cảnh mua đâu, thắng đó nên NĐT rất cần có nhiều thông tin, có
người trao đổi trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Nhưng nhìn chung, những lời
tư vấn của các nhân viên môi giới còn nặng về cảm tính, không chuyên sâu về phân
tích. Hơn nữa, các quy định ràng buộc về trách nhiệm của người tư vấn hầu như
không có nên NĐT phải biết sàng lọc và xem đó như một nguồn thông tin tham khảo.
Để nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút nhiều hơn các NĐT tham gia và nhằm hạn
chế rủi ro cho các NĐT, các CTCK cần phát triển các hình thức tư vấn đầu tư và
nâng cao năng lực hiệu quả hoạt động tư vấn cho khách hàng:
� Các CTCK phải chủ động tuyển dụng có chọn lọc một đội ngũ nhân viên tư
vấn có năng lực thực sự, có ý thức, tác phong năng động, hoạt bát, có đạo đức
nghề nghiệp tốt. Đây là một trong những vấn đề khó khăn đối với các CTCK
hiện nay khi mà vấn đề nhân sự trong lĩnh vực tài chính trở nên khan hiếm
trong thời gian qua.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
97
� Định kỳ, các CTCK nên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm về nghiệp vụ
chuyên môn, để các nhân viên nghiệp vụ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tức là
không chỉ đào tạo theo hướng chuyên nghiệp, mà còn phải đào tạo song
phương theo hướng đào tạo và tự đào tạo. Bên cạnh đó, các CTCK cần phải tổ
chức các buổi tư vấn, thuyết trình, giải đáp những thắc mắc để nâng cao kiến
thức và kinh nghiệm cho các NĐT.
� Các CTCK cũng cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nhân viên tư
vấn làm tốt chuyên môn, nhằm khuyến khích họ phát huy hơn nữa năng lực
của mình.
� Đối với việc tư vấn cho các cá nhân cần phân biệt rõ thành hai loại hình khách
hàng. Đó là những người cần tư vấn sẽ phải chịu thêm một mức phí tư vấn và
những người hoàn toàn không cần tư vấn. Trong đó, đối với những người cần
tư vấn có thể xem xét việc phát triển loại hình tư vấn toàn phần.
� UBCK Nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống đào tạo, cấp phép hành nghề tư
vấn CK và phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức cho công chúng đầu tư.
Xây dựng chương trình đào tạo theo sát đúng với thực tế Việt Nam có tính
chuyên sâu và riêng biệt; xây dựng đội ngũ giảng viên tốt về phẩm chất, sâu
về chuyên môn và giỏi về phương pháp sư phạm là vấn đề cần phải được quan
tâm; xây dựng quy trình đào tạo từ việc quản lý, ra đề thi, tổ chức thi, chấm
thi, cấp chứng chỉ.
� Đối với các nhân viên của mình các công ty chứng khoán cần thường xuyên
kiểm tra, phát hiện những sai sót, để chắc chắn rằng nhân viên của mình thực
hiện các hành vi tư vấn đúng theo pháp luật chứng khoán và đạo đức của nhà
tư vấn. Mặt khác giữa các khách hàng và công ty chứng khoán xảy ra những
mâu thuẫn về quyền lợi do đó các cơ quan chức năng cần thanh tra kiểm tra
thường xuyên các CTCK để đảm bảo quyền lợi khách hàng luôn đặt trước
quyền lợi của công ty.
Tóm lại TTCK đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động vốn và bổ sung các
nguồn vốn đầu tư hợp lý, thông qua TTCK các nguồn vốn trong nước và nước ngoài
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
98
được tập trung sử dụng cho các dự án đầu tư, mở rộng sản xuất phát triển kinh tế…
Có thể nói TTCK là một thị trường tài chính cao cấp muốn tham gia cần phải có
những kiến thức và mức am hiểu nhất định. Chính vì vậy chúng ta cần phát triển các
nghiệp vụ của CTCK đặc biệt là hoạt động tư vấn của các CTCK nhằm từng bước tạo
một nền văn hóa chứng khoán cho công chúng nhằm mục đích phát triển TTCK nói
riêng và nền kinh tế nói chung
3.4.2.2 Thành lập quỹ bình ổn TTCK
Khi TTCK Việt Nam đi xuống trong giai đoạn vừa qua, ý tưởng hình thành quỹ bình
ổn thị trường được nhìn nhận là một hướng đi tích cực.
Quỹ bình ổn TTCK là một mô hình góp vốn bằng tiền mặt từ các công ty thành viên
và các Quỹ đầu tư CK trên thị trường. Số tiền sẽ được quản lý và sử dụng bởi một
công ty được lập ra chuyên để bảo đảm lợi ích cho các NĐT trong những trường hợp
xấu. Như vậy khoản tiền này có thể được tung ra để bình ổn thị trường trong những
lúc biến động quá dữ dội, qua đó giúp các nhà đầu tư khỏi bị sốc
Tại Hàn Quốc, mô hình này đã từng xuất hiện năm 1968. Singapore, Hồng Kông, Đài
Loan cũng có mô hình quỹ bình ổn thị trường theo hình thức này. Nhật Bản đã hình
thành quỹ này từ những năm 60 của thế kỷ trước. Năm 1964, khi chỉ số Nikkei của
TTCK Nhật Bản từ đỉnh cao trên 1800 điểm rơi xuống gần 1000 điểm, nền kinh tế
Nhật Bản cũng gặp một số khó khăn tương tự nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đó là,
TTCK lao dốc mạnh, cán cân thanh toán thâm hụt, lạm phát tăng cao. Chính phủ
Nhật Bản đã phải tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát và thành lập một công ty chứng
khoán, hoạt động như mô hình một quỹ bình ổn. Các thành viên góp vốn cho công ty
này thuộc lĩnh vực tư nhân, bao gồm các ngân hàng, các công ty môi giới chứng
khoán. Số vốn huy động được khoảng 10 tỷ Yên. Sau hơn 1 năm, TTCK Nhật đã có
phần hồi phục.
Cần nhìn nhận rằng mục tiêu của Quỹ là bình ổn thị trường. Vì vậy, quỹ có tác động
ổn định thị trường trong ngắn hạn và phát triển thị trường trong dài hạn. Trong ngắn
hạn, các thành viên tham gia quỹ có thể gặp một số khó khăn khi phải hy sinh lợi ích
ngắn hạn để phục vụ mục tiêu dài hạn.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
99
Tuy nhiên, cơ chế điều hành và quản trị nguồn vốn như thế nào để đảm bảo lợi ích
công bằng của các chủ thể thị trường là một điều đáng được quan tâm. Đây là một
vấn đề phức tạp và khó khăn. Mua bán như thế nào, lỗ lãi được tính toán ra sao đều là
những vấn đề khó khăn cần xem xét kỹ lưỡng và cần có sự đồng thuận giữa các thành
viên. Thêm vào đó, ở Việt Nam vẫn có tình trạng đầu cơ và thao túng nên việc vận
hành quỹ là một vấn đề rất phức tạp.
Việc hình thành quỹ dù sao vẫn rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức. Theo
đó, Nhà nước có thể trích một phần thặng dư trong quá trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước lớn để đóng góp vào quỹ.
Về vấn đề điều hành, chính phủ phải có đóng góp vào quỹ nhưng không nên tham gia
điều hành. Việc điều hành nên để các thành viên thị trường bầu chọn, không chỉ dựa
trên tiêu chí về số vốn mà quan trọng hơn là tiêu chí về đạo đức. Đồng thời, Chính
phủ nên đối thoại với quỹ về hoạt động của quỹ. Ngược lại, quỹ cũng có thể thỏa
thuận với Chính phủ về những điều kiện để tuân thủ các mệnh lệnh của Chính phủ,
đồng thời, yêu cầu chính phủ minh bạch công khai thông tin để phục vụ các hoạt
động.
3.4.3 Phát triển hệ thống điều hành của chính phủ
3.4.3.1 Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát của nhà nước
Chứng khoán là thị trường nhạy cảm, nơi mà lòng tin của NĐT vào sự hưng thịnh
của nền kinh tế, vào tính minh bạch của thị trường quyết định đến thành công của thị
trường. Trong thời gian qua, niềm tin của NĐT vào thị trường đang bị lung lay bởi
rất nhiều lý do, trong đó đáng kể nhất là thị trường thiếu tính minh bạch. Giao dịch
nội gián, tiết lộ thông tin nội bộ, cổ đông lớn chèn ép cổ đông nhỏ, hối lộ bằng quyền
mua cổ phiếu, ưu tiên lệnh công ty trước lệnh khách hàng… hàng loạt hành vi tuy
chưa đến mức phải tử hình nhưng đang đánh vào cái gốc của thị trường, đó là niềm
tin của nhà đầu tư. Nếu ra đi vì thua lỗ, một lúc nào đó nhà đầu tư sẽ quay lại với thị
trường, nhưng nếu mất lòng tin, họ sẽ không bao giờ trở lại.
Sự phát triển của TTCK hiện cũng đang đặt ra một số vấn đề phải quan tâm xử lý
như: giá một số cổ phiếu tăng liên tục ở mức cao; chất lượng dịch vụ của các tổ chức
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
100
tài chính trung gian, hoạt động tư vấn, giám sát, định giá cổ phẩn để niêm yết, chất
lượng và quản lý thông tin còn hạn chế; các quy định về quản lý, kiểm soát thị trường
đảm bảo phát triển bền vững còn thiếu và chưa đồng bộ; sự chủ động của các Bộ,
ngành chức năng cũng như sự phối hợp liên ngành để thực hiện quản lý, kiểm soát
TTCK chưa thật tốt; năng lực quản lý giám sát thị trường của UBCKNN còn yếu.
Để tiếp tục tạo điều kiện cho TTCK phát triển ổn đinh, bền vững, thực sự trở thành
một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế; đồng thời, bảo đảm lợi ích hợp
pháp cho nhà đầu tư, góp phần hoàn thiện và phát triển đồng bộ thị trường tài chính
Việt Nam, các cơ quan chức năng cần thực hiện những vấn đề sau:
� Phát triển thị trường các giao dịch chính thức, tăng cường quản lý các công ty
đại chúng theo quy định của Luật chứng khoán nhằm thu hẹp thị trường OTC.
� Giám sát các hoạt động của các quỹ đầu tư CK, đặc biệt đối với các quỹ đầu
tư CK nước ngoài phải bảo đảm hoạt động theo đúng các quy định của pháp
luật về tỷ lệ cổ phiếu, công bố thông tin và các quy định hiện hành khác; đồng
thời, phát hiện, xử lý kịp thời và nghiêm khắc mọi hành vi vi phạm; chỉ cho
phép thành lập các quỹ đầu tư CK đủ điều kiện theo quy định của pháp luật;
phối hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng cơ chế kiểm soát luồng tiền để
giám sát hoạt động đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt
Nam. Thực hiện đăng ký lại ngay các văn phòng đại diện của các tổ chức kinh
doanh chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán.
� Giám sát hoạt động giao dịch trên các SGDCK, TTGDCK; chú trọng kiểm
soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân
hoạt động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao dịch, lưu
ký, thanh toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một cách công
khai, minh bạch, đúng pháp luật.
� Giám sát hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, tư vấn định giá doanh nghiệp để
các hoạt động dịch vụ này thực sự có chất lượng, phản ảnh trung thực và là
hoạt động có độ tin cậy cao đối với các NĐT chứng khoán.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
101
� Tăng cường giám sát hoạt động giao dịch trên các SGDCK, TTGDCK; chú
trọng kiểm soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức,
cá nhân hoạt động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao
dịch, lưu ký, thanh toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một
cách công khai, minh bạch, đúng pháp luật.
� Nghiên cứu, ban hành cơ chế tài chính phù hợp đối với UBCK, SGDCK,
TTGDCK, TTLKCK, để có thể thu hút, khuyến khích cán bộ có năng lực và
chuyên môn làm việc tại cơ quan quản lý, giám sát TTCK.
� Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc thông tin tuyên
truyền với nội dung và phương thức đa dạng để công chúng có hiểu biết hơn
về những lợi ích cũng như những rủi ro khi tham gia thị trường.
� Tiếp tục giám sát hoạt động của các NHTM trong hoạt động repo, huy động,
cho vay, cầm cố để đầu tư CK; xây dựng, củng cố về tổ chức và áp dụng các
công cụ quản lý thích hợp để bảo đảm giám sát được luồng vốn đầu tư nước
ngoài vào TTCK trong mối liên hệ giữa TTCK và thị trường tiền tệ.
3.4.3.2 Tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK
Kinh doanh CK không phải là đánh bạc như nhiều người nghĩ. Tuy nhiên, thống kê
cả nước hiện có trên 400.000 tài khoản của nhà đầu tư tổ chức, cá nhân thì con số
NĐT có bài bản và chiến lược trên các sàn CK quả là không nhiều. Nghịch lý này
dẫn tới chuyện nhiều NĐT thiếu chuyên nghiệp lên sàn mơ đổi đời bằng được trong
phút chốc trong khi kiến thức, kinh nghiệm còn thiếu khiến cho mỗi khi chỉ số chứng
khoán sụt giảm thì họ là những người bị ảnh hưởng đầu tiên.
Trong chiến lược phát triển TTCK, gắn với tiến trình cải cách đổi mới nền kinh tế
trong giai đoạn hội nhập; một nội dung khá cần thiết đang được đặt ra hiện nay là
công tác phổ cập kiến thức CK. Có thể nói, việc phổ cập kiến thức CK hiện nay chưa
được thực hiện “tận gốc” và đây cũng chính là một trong những yếu tố hạn chế sự
phát triển của TTCK
Hiện nay, công tác đào tạo và phổ cập hiện mới bó hẹp trong UBCKNN. Các hoạt
động của UBCKNN trong khâu này mới chỉ giới hạn ở việc trực tiếp mở một số khoá
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
102
đào tạo nghiệp vụ ngắn ngày, chủ yếu ở Hà Nội, Tp.HCM với tổng số người học còn
quá khiêm tốn, chỉ vài ngàn người.
Mặt khác, các khóa đào tạo của UBCKNN là những chứng chỉ cần thiết cho các cá
nhân muốn hoạt động môi giới CK nên phần nào bó hẹp trong một số đối tượng của
các CTCK. Các thành phần khác như NĐT, cá nhân được phổ cập chưa nhiều.
Một hạn chế lớn nhất trong công tác tuyên truyền về CK và TTCK là chưa có sự kết
hợp với các phương tiện truyền thông đại chúng. Việc đưa tin về TTCK là hoàn toàn
tự nguyện. Hiện mới chỉ có 1 tờ báo chuyên về TTCK. Một số báo và tạp chí kinh tế,
tài chính chỉ đưa tin về TTCK trong trang mục kinh tế – xã hội hoặc thị trường tài
chính nói chung.... Các cơ quan báo chí cũng chưa được giúp đỡ nhiều trong việc đào
tạo phóng viên có kiến thức về CK, chưa được hoan nghênh trong công tác tuyên
truyền về CK và TTCK, chưa có cơ hội và kinh nghiệm trong việc tiếp cận với kinh
nghiệm TTCK nước ngoài.
Do vậy, cần phải có chiến lược cụ thể để tuyên truyền phổ cập kiến thức về TTCK.
� Mở rộng tuyên truyền, phổ cập kiến thức cho công chúng trên các phương tiện
thông tin đại chúng như: báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng
Internet, các khóa đào tạo miễn phí, xây dựng các bản tin, các chuyên mục về
CK và TTCK,...
� Tổ chức các trò chơi tìm hiểu về CK và TTCK trên các phương tiện truyền
thanh, truyền hình, báo chí, tổ chức các cuộc thi CK ảo, thi phân tích tài chính,
thi làm giám đốc tài chính, thi làm giám đốc điều hành,... cũng là biện pháp
phổ biến kiến thức cho công chúng.
� Trung tâm nghiên cứu đào tạo UBCKNN cần thiết phải mở các lớp học mẫu
ngắn hạn, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về CK và TTCK tại các
Trung tâm văn hóa quận, huyện hay Nhà văn hóa thanh niên cho các đối tượng
đang sinh hoạt tại đây để vừa có dịp vui chơi, giải trí vừa có dịp học tập bổ ích
bởi vì nhu cầu tìm hiểu và tham gia TTCK trong công chúng là rất lớn.
� Các trường Đại học tiếp tục hình thành và phát triển hơn nữa bộ môn CK cũng
như đưa các môn học chuyên sâu vào chương trình để vừa phục vụ công tác
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
103
đào tạo tại trường vừa đáp ứng nhu cầu học hỏi nâng cao trình độ của những
người làm việc trong lĩnh vực này.
� Khuyến khích tất cả giáo viên dạy về CK phải có kinh nghiệm thực tế, tham
gia đầu tư CK, tiến tới xoá bỏ việc dạy chay.
� Đào tạo bài bản về chứng khoán cho tất cả phóng viên về kinh tế.
� UBCKNN phối hợp đào tạo với các nước có TTCK phát triển để học hỏi kinh
nghiệm đầu tư và tiếp cận với nền văn hóa CK tiên tiến của thế giới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong chương này, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững
TTCK Việt Nam. Các giải pháp được đưa ra dựa trên chủ trương chính sách của
chính phủ trong việc phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020. Do giới hạn của luận văn, tác giả chỉ tập trung vào hai giải pháp chính là việc
niêm yết chứng khoán ra thị trường nước ngoài và thành lập tổ chức định mức tín
nhiệm. Ngoài ra còn có các giải pháp bổ trợ cho sự phát triển bền vững của TTCK
như: nâng cao hiệu quả của việc phát hành cổ phiếu doanh nghiệp trên TTCK, đẩy
nhanh quá trình CPH, đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường, thành lập thị trường
giao dịch phi tập trung, nâng cao chất lượng hoạt động tại các CTCK, thành lập quỹ
bình ổn thị trường, nâng cao hiệu quả công tác giám sát của nhà nước, tuyên truyền
phổ biến kiến thức chứng khoán.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
104
KẾT LUẬN
Qua 8 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho việc phát
triển ngành tài chính ngân hàng nói riêng, nền kinh tế nói chung. TTCK trở thành
kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp và của nền kinh tế thông qua việc phát
hành cổ phiếu. Qua TTCK, các DN huy động được nguồn vốn khổng lồ trong dân
chúng, biến nguồn vốn nhàn rỗi ngắn hạn thành các khoản đầu tư dài hạn, phục vụ
cho sản xuất, kinh doanh. Hàng ngàn tỷ đồng đã được đưa vào sản xuất, kinh doanh,
vòng quay vốn của toàn nền kinh tế được cải thiện rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó, TTCK
còn tiềm ẩn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để có thể tăng trưởng bền vững, trở
thành "hàn thử biểu" của nền kinh tế. Những giải pháp nhằm tăng cung kích cầu,
hoàn thiện môi trường đầu tư cần nhanh chóng được triển khai thực hiện.
Chúng ta tin rằng, việc đánh giá đúng các kết quả đạt được, nhìn rõ những nguyên
nhân của hạn chế thiếu sót, xác định rõ mục tiêu phát triển của thị trường và hướng
giải pháp khắc phục những tồn tại sẽ thúc đẩy TTCK Việt Nam ngày một phát triển
bền vững hơn.
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
KILO
BOOK
S.CO
M
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Kim Yến, (2005), TTCK, Nhà xuất bản Lao động
2. Đào Lê Minh, (2002), Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia.
3. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, (2006), “Luật chứng khoán”.
4. Trần Đắc Sinh, (2005), Các giải pháp để đưa doanh nghiệp tiềm năng lên
niêm yết trên TTCK, Đề tài nghiên cứu khoa học, Sở Khoa học Công nghệ
TP.HCM.
5. Trần Đắc Sinh, (2005), “Đánh giá 5 năm hoạt động của TTCK Việt Nam”, Ủy
ban chứng khoán Nhà nước, TP.HCM
6. Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất bản
Thống kê.
7. Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM, (2006), Tổng kết 5 năm TTCK
Việt Nam, NXB Phương Đông, TP.HCM.
Các trang web
1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước www.ssc.gov.vn
2. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn
3. Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM www.hsx.vn
4. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội www.hastc.org.vn
5. Đầu tư chứng khoán www.vir.com.vn
6. Tin nhanh chứng khoán www.tinnhanhchungkhoan.com.vn
7. Tin nhanh Việt Nam www.vnexpress.net
8. Thời báo kinh tế Việt Nam www.vneconomy.vn
9. Saga Việt Nam www.saga.vn
10. Báo Tuổi trẻ www.tuoitre.com.vn
11. Báo Vietnamnet vietnamnet.vn
12. Báo Thanh niên thanhnien.com.vn
13. Công ty CP Chứng khoán Thăng Long www.thanglongsc.com.vn
http://kilobooks.comTHÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN