View
704
Download
6
Embed Size (px)
Citation preview
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
NHỮNG BIỂU THỊ VÀ TRÁCH NHIỆM TRUYỀN THÔNG:
CÁC KHÍA CẠNH TÂM LÝ HỌC
Media Representations1 and Responsibilities: Psychological Perspectives
Báo cáo của Hiệp Hội Tâm lý học Úc, do tổ công tác (gồm Ann Sanson, Julie
Duck, Glen Cupit, Judy Ungerer, Carl Scuderi và Jeanna Sutton) thuộc Ban Quản
trị các vấn đề xã hội, soạn thảo năm 2000 và cập nhật năm 2013 (bởi Brock
Bastian, Mark Nielsen, Damien Riggs, Clemence Due, Winnifred Louis, Susie
Burke, Hoa Pham và Heather Gridley).
Tháng 3/2013
Người dịch:
J. M. Nguyễn Trung Hiếu.
Cử nhân tâm lý học. Cựu sinh viên Khoa Tâm lý học trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn Tp. HCM.
Đọc lại và điều chỉnh:
Ngô Minh Uy, chuyên gia tâm lý. Giám đốc TT. Tâm lý Chuyên nghiệp WE Link
Bản tiếng Việt được xuất bản điện tử dạng file pdf., mà chưa có sự hỏi ý kiến xin
phép của Hiệp hội Tâm lý học Úc do tính cấp thiết của vấn đề trong xã hội nói
chung và nói riêng cho những anh chị em đang hành nghề tâm lý và các anh chị
sinh viên ngành tâm lý học tại Việt Nam
1 (nd.) Biểu thị truyền thông là những phương cách mà truyền thông mô tả các nhóm, các cộng đồng, trải nghiệm, ý
tưởng hay chủ đề đặc biệt nào đó từ một ý thức hệ đặc thù hoặc một quan điểm giá trị nhất định. (“Media representations are the ways in which the media portrays particular groups, communities, experiences, ideas, or topics from a particular ideological or value perspective – nguồn: http://www.tc.umn.edu/~rbeach/teachingmedia/module5/2.htm)
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Lời giới thiệu và cám ơn
của Ngô Minh Uy, giám đốc Trung tâm Tâm lý chuyên nghiệp WE Link
Thưa quý anh chị em đồng nghiệp, sinh viên chuyên ngành tâm lý học, và các
bạn. Tôi vui mừng giới thiệu tập tài liệu nhỏ nhưng rất hữu ích này đến quý vị,
dù chưa chính thức hỏi ý kiến hoặc đợi thư cho phép xuất bản bản tiếng Việt từ
Hội Tâm lý học Úc nhưng tôi tin rằng tài liệu này được giới thiệu không vì mục
tiêu thương mại, lợi nhuận và mang lại hữu ích cho ngành nghề nên chúng tôi
quyết định công bố bản dịch này. Trong thời gian tới, tôi sẽ hỏi ý kiến và xuất
bản chính thức. Dù vậy, tôi xin được gởi lời cám ơn chân thành đến Hội Tâm lý
học Úc về tập tài liệu này.
Đây là phần việc mà lẽ ra đã có được trao đổi trong Hội thảo khoa học về Tâm lý
học đường quốc tế lần thứ 5 của Liên hiệp Phát triển Tâm lý học đường thế giới
(CASP-I) vừa qua tại Đà Nẵng, từ lời đề nghị của TS. Lê Nguyên Phương, chủ
tịch CASP-I, nhưng vì lý do sức khỏe tôi đã không triển khai được, dù trước đó
đã có mời những anh chị làm việc trong lĩnh vực báo chí và tâm lý học tham gia
cùng để bàn luận.
Tôi đặc biệt cám ơn đến Anh J. M. Nguyễn Trung Hiếu, người đã dành thời gian
và công sức để hoàn thành bản dịch này. Tôi thật sự thán phục anh về khả năng
dịch thuật, và đặc biệt việc dùng từ ngữ tiếng Việt rất rõ ràng khiến cho người
đọc cảm thấy dể hiểu và dể tiếp nhận.
Quý vị sẽ tìm thấy những thông tin và hướng dẫn hữu ích của hoạt động truyền
thông liên quan đến tâm lý học, có thể tạo nên những ảnh hưởng như thế nào
trên trẻ em của chúng ta. Những hướng dẫn này đồng thời cũng còn là một sự
cảnh báo đối với người lớn, với giới truyền thông, và với những người đang hành
nghề tâm lý tại Việt Nam.
Kính chúc quý vị mọi điều tốt đẹp và không ngừng làm việc nhằm nâng cao đời
sống và sức khỏe tâm thần cho mọi người, đặc biệt là trẻ em tại Việt Nam
Mọi thắc mắc về bản dịch tiếng Việt cũng như góp ý cho bản dịch xin vui lòng
liên hệ với Trung tâm WE Link theo địa chỉ email: [email protected], số điện
thoại: 08-62912900
Ngày 14 tháng 09 năm 2016
Ngô Minh Uy
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Mục lục
Khái lược (Executive Summary)
1. Dẫn nhập (Introduction)
2. Những giải thích lý thuyết về tác động của truyền thông: ví dụ về bạo lực
trên truyền hình (Theoretical explanations for the impact for media: The
example of TV violence)
3. “Điều đó làm con thấy sợ!”: nghiên cứu về ảnh hưởng của truyền thông bạo
lực đối với trẻ em (‘It frightens me’: Research on the effects of violent media
on children)
4. Quảng cáo truyền hình và trẻ em (Television advertising and children)
5. Biểu thị truyền thông về tội ác (Media representations of crime)
6. Biểu thị truyền thông về bệnh tâm thần (Media representations of mental
illness)
7. Biểu thị truyền thông về tính đa dạng: ví dụ về các nhóm sắc tộc (Media
representations of diversity: The example of ethnic groups)
8. Những nhận định chung cuộc (Concluding comments)
9. Khuyến nghị (Recommendations)
Các nguồn tham khảo thêm và các tổ chức liên quan.
Phụ lục A: Tổng quan về ảnh hưởng của bạo lực truyền thông lên trẻ em theo
năm và theo quốc gia.
Tài liệu tham khảo.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Đôi lời của người dịch:
Vì bản báo cáo này sử dụng nhiều thuật ngữ đồng nghĩa/gần nghĩa nhau, song
song với những từ chuyên ngành truyền thông, nên người dịch tạm thống nhất
thế này để quý độc giả tiện theo dõi:
- Từ “effect” chủ yếu được dịch là “ảnh hưởng”, chỉ một số ngoại lệ là “hiệu
ứng”. Còn những từ tương tự khác như “influence”, “impact”,… thì tùy bối
cảnh sẽ được dịch là “tác động” hay “ảnh hưởng”;
- Từ “media” chủ yếu được dịch là “truyền thông”, đôi chỗ là “phương tiện
truyền thông” (tùy văn cảnh)
- Danh từ “review” chủ yếu được dịch là “tổng quan” hay “báo cáo tổng quan”,
còn động từ tương ứng thì đôi chỗ được dịch là “xem xét”;
- Nhóm từ “exposure, expose” được dịch là “phơi nhiễm”, theo nghĩa người dịch
thấy là phù hợp nhất của Cambridge Advanced Learners’ Dictionary (“khi ai
đó trải nghiệm thứ gì đó hoặc bị thứ đó ảnh hưởng khi họ ở trong 1 tình
huống/nơi chốn đặc thù nào đấy”)
- Và một số thuật ngữ khác thì người dịch có ghi chú từ nguyên bên cạnh hoặc
dưới cước chú, kèm theo những trích dẫn tham khảo bên ngoài để tiện cho
quý độc giả xem xét ý nghĩa.
- Ngoài ra, một số đoạn dịch có dấu [], đó là phần người dịch tự thêm vào để
câu văn suôn hơn và giải nghĩa rõ hơn.
Vì giới hạn ngôn từ nên bản dịch chắc chắn vẫn còn những thiếu sót, kể cả lỗi
đánh máy hay câu cú, mong quý độc giả thông cảm.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Khái lược (Executive Summary)
Báo cáo này nhằm hưởng ứng với mối quan ngại cộng đồng về tác động của
truyền thông lên các cá nhân và xã hội. Tiền đề của nó chính là: các biểu thị
truyền thông (MR – Media Representations) không đơn thuần chỉ là sự phản
chiếu xã hội, nhưng đúng hơn, chúng là những “bức tranh minh họa” (“bức chân
dung” – portrayals) được dàn dựng và chọn lọc ở mức độ cao. Ở đây, điều đang
được xem xét chính là khả năng của những minh họa này trong việc định hình
(shape) và đóng khung (frame) nhận thức của chúng ta về thế giới. Mặc dù vẫn
thừa nhận rằng truyền thông có nhiều vai trò tích cực, nhưng ở đây chúng tôi
chú trọng đến 5 lãnh vực mà truyền thông đã gây ra những mối lo ngại [cho
cộng đồng]:
Minh họa về bạo lực trong lãnh vực truyền thông cho trẻ em (the portrayal
of violence in children’s media);
Quảng cáo, nhất là khi nó hướng trực tiếp đến trẻ em (advertising,
especially when it is directed at children);
Minh họa về tội ác (the portrayal of crime);
Những minh họa về bệnh tinh thần (portrayals of mental illness); và
Những biểu thị về tính đa dạng sắc tộc và xung đột giữa các nhóm sắc tộc
(representations of ethnic diversity and conflict between ethnic groups).
Về phương diện lịch sử, có một lượng đồ sộ các nghiên cứu tâm lý học về truyền
thông dính dáng tới truyền hình (TV). Gần đây hơn cả là làn sóng nghiên cứu
đáp ứng lại các mối lo ngại liên quan đến ảnh hưởng của những trò chơi điện tử
mang tính bạo lực, và sự phơi nhiễm (exposure) đối với internet. Chúng tôi tập
trung vào từng lãnh vực nghiên cứu trong số này, dù vẫn đề cập tới mọi hình
thức truyền thông [khác nữa]. Báo cáo này nỗ lực tóm kết các bằng chứng trong
nghiên cứu, và đề xướng một chuỗi các khuyến nghị về những cách thức đáp lại
các vấn đề đã được khơi lên.
Để diễn giải nghiên cứu này, báo cáo bắt đầu với một tổng quan về các lý thuyết
tâm lý học, nỗ lực giải thích làm thế nào mà sự phơi nhiễm đối với truyền hình
(exposure to television) có thể dẫn tới những thay đổi trong các giá trị, niềm tin,
thái độ và hành vi. Điều này bao gồm:
Lý thuyết “gieo cấy” (Cultivation theory): lý thuyết này cho rằng truyền
thông có khuynh hướng gieo cấy sự tiếp nhận đối với các niềm tin, giá trị
và quan điểm mà nó mô tả, ở cấp độ lớn về mặt văn hóa.
Lý thuyết học tập xã hội và mô hình nhận thức-xã hội (Social learning
theory and social-cognitive models): những lý thuyết này nhắm vào cách
thức các cá nhân đi đến việc bắt chước các hành vi quan sát được trên
truyền thông, và đến việc phát triển ‘sự dung dưỡng’ tinh thần cũng như
các ‘kịch bản’ tinh thần (mental ‘primes’ and ‘scripts’) từ ‘chất liệu’
(material) xem trên truyền hình: những ‘chất liệu’ này có thể điều hướng
hành vi sau này của họ. Các mô hình này cũng nhắm đến những cách thức
mà trong đó sự phơi nhiễm đối với các ‘chất liệu’ bạo lực có thể dẫn đến
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
việc người ta dần trở nên vô cảm đối với bạo lực, và không còn thấy ức
chế đối với việc hành xử hung hăng nữa.
Các mô hình thuyết phục (Models of persuasion): những mô hình này mô
tả tiến trình mà khán giả có thể bị các quảng cáo truyền thông ‘thuyết
phục’.
Giả thuyết về sự tác động phi-nhân-vị và hiệu ứng người-thứ-ba
(Impersonal impact hypothesis and third-person effect): các lý thuyết này
nhắm đến việc giải thích tại sao nhiều người tin rằng chính bản thân họ
miễn nhiễm khỏi tác động của truyền thông, trong khi những người khác
thì dễ bị ảnh hưởng.
Mô hình học tập tổng quát (The General Learning Model) được khai triển
nhằm lý giải những ảnh hưởng của các hình thức truyền thông đa dạng,
bao gồm âm nhạc và các trò chơi điện tử bạo lực. Mô hình này dựa trên
các mô hình trước đó về học hỏi và liên tưởng.
Hai vấn đề đầu tiên được tổng quan liên hệ tới ảnh hưởng của truyền thông lên
trẻ em. Vấn đề thứ nhất là bạo lực trong truyền thông. Các nghiên cứu tâm lý
học về truyền thông có liên quan đến ảnh hưởng của bạo lực trên truyền hình và
bạo lực trong các trò chơi điện tử lên trẻ em chiếm số lượng nhiều nhất. Thật
vậy, bởi đã có hàng ngàn nghiên cứu được tiến hành, nên chúng tôi cố gắng làm
rõ lượng tài liệu đồ sộ này bằng cách gom lại những kết luận mà các bài tổng
quan tài liệu có thẩm quyền hiện hành đã thực hiện. Tính phức tạp của các vấn
nạn liên quan đến lĩnh vực này khiến việc đạt tới những kết luận rõ ràng và dứt
khoát là rất khó khăn; tuy nhiên, vẫn có sự đồng thuận hợp lý về một số vấn đề
trọng yếu. Lấy ví dụ, nhìn chung [người ta] có sự đồng thuận rằng việc phơi
nhiễm kéo dài đối với bạo lực truyền thông là một trong nhiều yếu tố tương tác
dẫn đến việc trẻ em ngày càng dễ thể hiện hơn những hành vi gây hấn trong
thời gian dài. Bên cạnh đó, [người ta] cũng đồng ý rằng bối cảnh xã hội quan
trọng trong việc quyết định các ảnh hưởng của việc phơi nhiễm đối với truyền
thông bạo lực, như: nếu một người lớn giúp đứa trẻ diễn giải và phê phán các
‘chất liệu’ trẻ xem thì các ảnh hưởng tiêu cực được giảm nhẹ. Những nghiên cứu
muộn hơn về các trò chơi điện tử bạo lực đã xác minh những ảnh hưởng này của
truyền thông bạo lực trên quy mô lớn, chỉ ra rằng việc phơi nhiễm đối với bạo
lực trong các trò chơi điện tử dẫn đến việc gia tăng tính gây hấn, ảnh hưởng này
được diễn giải cả như hậu quả ngắn hạn lẫn ảnh hưởng dài hạn của việc phơi
nhiễm quá mức.
Lãnh vực thứ hai được tổng quan liên hệ tới quảng cáo. Các bậc phụ huynh
thường biểu lộ mối lo ngại về việc quảng cáo hướng trực tiếp đến trẻ em, nhìn
nhận nó như nguồn gây ra xung đột giữa họ với con cái, khi con cái đòi hỏi
những sản phẩm quảng cáo mà các bậc phụ huynh lại có thể cảm thấy là không
thích hợp. Họ cũng e ngại rằng quảng cáo có thể dẫn con trẻ đến việc tiếp nhận
những giá trị duy vật quá mức. Chúng tôi tổng quan lại những tài liệu về việc
liệu trẻ em có thể phân biệt được quảng cáo khỏi các hình thức chương trình
khác hay không, và khi nào thì trẻ làm được điều ấy, cũng như mức độ mà việc
ấy tác động lên những mong muốn của chúng về sản phẩm và hành vi mua sắm
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
của chúng. Điều này cho thấy rằng, mặc dù các trẻ còn rất nhỏ đã có thể phân
biệt được quảng cáo với các chương trình khác, nhưng chỉ đến lứa tuổi học
đường thì chúng mới nhận thức được các ý định thuyết phục cách rõ rệt, đặc
trưng, của quảng cáo mà thôi. Cũng thế, dường như quảng cáo có thể tác động
đến việc lựa chọn sản phẩm, cho dẫu có đó hàng loạt các yếu tố trung hòa
(moderating factors), tương tự như với hầu hết các ảnh hưởng [khác] của truyền
thông (media effects). Nghiên cứu về các mối bận tâm khác, như tiềm năng của
quảng cáo (về các thực phẩm không lành mạnh) đóng góp vào bệnh béo phì,
cũng được xem xét. Kết luận là, mặc dù có những lỗ hổng trong tài liệu nghiên
cứu, vẫn có chứng cứ cho thấy rằng trẻ em bị tác động bởi quảng cáo, và rằng
sự điều chỉnh về thể loại (nature) và việc phân bổ thời gian (timing) của quảng
cáo hướng trực tiếp đến trẻ em là được đảm bảo (warranted).
Mối bận tâm trong hai lãnh vực cuối cùng được tổng quan thì không giới hạn vào
các ảnh hưởng lên trẻ em, nhưng nhắc tới các ảnh hưởng tác động lên mọi người
ở bất cứ độ tuổi nào, cũng như lên xã hội trên diện rộng. Nghiên cứu về những
minh họa truyền thông về tội ác đã chỉ ra rằng: nhìn chung, người ta đánh giá
quá cao mức độ tội ác trong cộng đồng của mình, và các biểu thị truyền thông
về tội ác thường được cho là phải chịu một phần trách nhiệm đối với việc này.
Các phân tích đưa ra những chứng liệu rõ ràng rằng truyền thông biểu thị quá
mức cả mức độ của một số loại tội ác, lẫn mức độ dính dáng đến tội ác của các
nhóm đặc thù trong xã hội. Lấy ví dụ, những tội ác gây ra bởi giới trẻ và những
người mắc bệnh tinh thần thì bị thổi phồng quá mức (over-reported). Có khá ít
nghiên cứu đạt chất lượng cao về cách thức việc xuyên tạc (biểu thị không đúng
– misrepresentation) tội ác này ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của người ta
như thế nào, nhưng có một vài chứng cứ cho rằng việc phơi nhiễm với các bản
tin về tội ác trên truyền thông thì liên can tới mối e sợ chung cũng như sự đánh
giá quá mức về tình trạng nguy hiểm của xã hội. Hơn nữa, tính chọn lọc của các
bản tin truyền thông, với khuynh hướng trình bày nặng tính duy cảm và ít bao
hàm các nguyên nhân sâu xa của tội ác, nhắm tới việc khuyến khích sự tiếp
nhận các phản ứng chú-tâm-vào cảnh-sát và luật-lệ-trị-an đối với tội ác, hơn là
[khuyến khích] cách tiếp cận rộng hơn, toàn diện hơn, vốn kết hợp với quan
điểm về phòng ngừa tội ác và sức khỏe cộng đồng.
Lãnh vực cuối cùng được tổng quan chính là những biểu thị truyền thông về các
nhóm sắc tộc. Trong khi việc phân tích về tính biểu thị của các nhóm thiểu số
thua thiệt trên truyền thông thì bao hàm hàng loạt các nhóm như những người
khuyết tật và các nhóm tôn giáo đặc thù, thì ở đây chúng tôi chú trọng đến việc
minh họa về các nhóm sắc tộc, bởi các vấn đề về phân biệt chủng tộc (racism),
phân biệt đối xử (discrimination) và kiếm tìm viện trợ, cứu tế, là những vấn nạn
nổi cộm hiện nay tại Úc. Truyền hình trước đây đã minh họa về một thế giới
trung lưu da trắng (white middle-class world). Kể từ thập niên 1990, đã có sự
chuyển đổi hướng đến việc bao gồm cả sự hiện diện của các thành viên thuộc
các nhóm khác, mặc dù các thành viên này vẫn hiếm khi chiếm tỉ lệ cân xứng
với dân số chung. Hơn nữa, vai trò mà các thành viên của nhóm thiểu số được
mô tả lại nhắm tới việc củng cố các định kiến về họ. Đáng ngạc nhiên là đã có
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
khá ít nghiên cứu về ảnh hưởng của các biểu thị nặng tính thiên kiến này về các
thành viên của cả nhóm thiểu số lẫn nhóm đa số. Tuy nhiên, có chứng cứ cho
thấy các chương trình cố ý nỗ lực minh họa phi thiên kiến về tính đa sắc tộc
(như Sesame Street) đã thành công trong việc làm giảm đi những thành kiến về
các nhóm khác.
Một khía cạnh khác của việc biểu thị tính đa dạng sắc tộc chính là cách thức
trình bày xung đột giữa các nhóm sắc tộc. Phổ biến thì truyền thông trình bày
các phân tích một chiều quá đơn thuần về xung đột, mà ở các phân tích này, sự
khác biệt sắc tộc lại được đưa ra như một nguyên nhân gây xung đột. Những
phân tích công bằng hơn suy xét đến các vấn đề tiềm tàng như những lo hãi và
quan ngại đến từ hai phía, cũng như thăm dò tỉ mỉ các giải pháp khả dĩ, thì lại
hiếm thấy.
Hết thảy chúng ta đều là những người tiêu thụ truyền thông (khách hàng của
truyền thông – media consumers). Trên nền tảng các chứng cứ được tổng quan
ở đây, chúng tôi trình bày một chuỗi các khuyến nghị trực tiếp hướng tới các
nhóm với những vai trò khác nhau trong xã hội. Các khuyến nghị này được phác
thảo nhằm khuyến khích các nỗ lực chủ động hơn nữa trong việc chỉ ra những
vấn nạn đã được xác định về việc biểu thị truyền thông hiện nay. Cho dẫu một
vài khuyến nghị thậm chí có vẻ quá hiển nhiên, và một số khác thì đã được
nhiều người đề xướng đi nữa, thì việc các mối lo âu quan ngại vẫn còn tiếp diễn
thể hiện rằng các khuyến nghị ấy là quan trọng cần phải tiến hành cũng như cần
được nhắc đi nhắc lại.
Khuyến nghị (Recommendations)
Người tiêu thụ: để đóng vai trò chủ động trong việc hình thành/tác động đến
(affecting) chế độ ‘kiêng cữ truyền thông’ (media diet) mà họ được đề nghị,
chúng tôi khuyến nghị những người tiêu thụ truyền thông [những điều sau]:
Giám sát và kiểm duyệt các chương trình (ví dụ như mức độ bạo lực được
minh họa, cách thức tội ác được trình bày, việc minh họa các nhóm sắc tộc
khác nhau, cũng như việc phân bổ thời lượng và thể loại của các quảng
cáo);
Nêu rõ quan điểm của họ đối với các ban điều hành (regulating bodies)2 và
ngành công nghiệm truyền thông bằng cách than phiền về các chất liệu
hay chính sách mà họ không tán thành, cũng như tán thưởng những điều
họ thích;
Tẩy chay các chương trình hay các đại lý truyền thông nào đó (và thông
báo đến đại lý đó về hành động của họ); và
Tham gia hay hỗ trợ các nhóm vận động hành lang (lobby groups).
2 (nd.) “Regulating bodies”, hay được dùng nhiều hơn trong đây là “regulatory bodies”, được dịch thoáng nghĩa là ‘đoàn
thể điều hành’. Nghĩa này do chữ “regulatory”, có nghĩa là ‘có quyền hành kiểm soát một lãnh vực kinh doanh hay ngành công nghiệp nào đó và bảo đảm rằng nó hoạt động ngay thẳng’ (“having the power to control an area of business or industry and make sure that it is operating fairly.” – nguồn: Oxford Advanced Learner's Dictionary)
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Phụ huynh: có thể con trẻ đặc biệt dễ nhiễm những ảnh hưởng tiêu cực từ
truyền thông. Do đó, chúng tôi khuyến nghị các bậc phụ huynh:
Đảm đương trách nhiệm điều chỉnh thói quen xem TV, chơi trò chơi điện tử
và sử dụng internet của con cái họ;
Bảo đảm rằng họ biết con mình đang xem gì, tải gì hay chơi gì, cũng như
thiết đặt và bắt chúng tuân thủ các luật lệ rõ ràng về số lượng và thể loại
chương trình truyền hình mà chúng xem, các trang mạng chúng theo dõi,
và thời lượng chúng chơi trò chơi điện tử;
Khi con cái họ đang xem TV hay các phương tiện truyền thông khác, cố
gắng xem chung với chúng bao nhiêu có thể, và khuyến khích chúng lượng
giá có phê phán điều chúng xem; và
Giúp con cái họ tìm kiếm các hoạt động khác hấp dẫn, hứng thú và phi
bạo lực thay cho việc xem TV, sử dụng internet hay chơi điện tử, bao gồm
các hoạt động với cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình.
Các nhà làm chính sách giáo dục và các nhà giáo dục: bởi lẽ nghiên cứu chỉ ra
rằng ảnh hưởng của truyền thông lên thái độ và hành vi được trung hòa theo
cách người xem diễn giải và xây dựng nên điều họ xem, nên chúng tôi khuyến
nghị rằng:
Mọi con trẻ nên được giáo dục truyền thông như một phần của chương
trình tiểu học và trung học (primary and secondary school). Các yếu tố
chính yếu của những chương trình thế này nên là việc cung cấp các kỹ
năng trong việc giám sát (monitoring) và phân tích nội dung truyền thông,
cũng như trong việc truyền đạt các ý kiến cách hữu hiệu đến các nhà điều
chỉnh và ngành công nghiệp truyền thông;
Nên mở các khóa phát triển nghề nghiệp về giáo dục truyền thông cho các
giáo viên một cách rộng rãi;
Các giáo viên nên sử dụng truyền thông như một công cụ giảng dạy, nên
làm gương (model) và khuyến khích việc theo dõi có phê phán phản tỉnh;
Giáo viên nên kéo sự chú ý của con trẻ và phụ huynh vào các hình thức
truyền thông hứng thú, phi bạo lực và không định khuôn thiên kiến, đồng
thời biểu lộ sự hào hứng của chính họ đối với các điều ấy; và
Giáo dục truyền thông nên được mở rộng rãi cho cả phụ huynh cũng như
trẻ nhỏ.
Các nhà tâm lý học: vì phơi nhiễm với truyền thông ảnh hưởng đến thái độ và
hành vi, nên các nhà tâm lý học trong môi trường nghiên cứu, thực hành lâm
sàng và trong các vai trò hỗ trợ cộng đồng, cần có những đóng góp chính yếu.
Do đó, chúng tôi khuyến nghị các nhà tâm lý học:
Xác định các lãnh vực nghiên cứu vốn đã bị phớt lờ và tiến hành nghiên
cứu nhắm đến chúng;
Báo cho các nhà tâm lý học đang tập huấn về tiềm năng nghiên cứu của
lĩnh vực này;
Tỉnh táo để nhận ra ảnh hưởng của truyền thông trong việc định hình quan
niệm của thân chủ cũng như tính đa cảm của họ, nhất là đối với giới trẻ;
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Cập nhật nghiên cứu mới nhất (‘theo kịp các nghiên cứu đương đại’ – stay
abreast of the research); và
Khi nhận ra tính phức tạp của các vấn nạn, tránh đưa ra những quả quyết
toàn cục đơn thuần thái quá khi được yêu cầu đưa ra những bình luận có
căn cứ về ảnh hưởng của truyền thông.
Các nhà báo và các nhà giáo dục ngành báo: Tổng quan này nêu bật những cách
thức mà trong đó, việc trình bày các vấn nạn như bạo lực, tội ác và tính đa sắc
tộc, của truyền thông, có tiềm năng gây ra những ảnh hưởng có hại, đồng thời
tổng quan cũng đề xuất rằng việc trình bày các vấn nạn cần tinh vi và phức tạp
hơn để tránh hiện trạng này. Thế nên, chúng tôi khuyến nghị rằng:
Như một bước tiến hướng tới nền giáo dục hoàn thiện hơn dành cho các
nhà báo, cần tạo ra một tập hợp các ví dụ về phương-pháp-thực-hành-
hữu-hiệu-nhất (best-practice)3 bao quát các vấn nạn xã hội quan trọng và
sử dụng chúng trong việc giáo dục ngành báo;
Những khóa huấn luyện dành cho các nhà báo nên bao hàm các yếu tố
liên quan đến các nhóm thiểu số và các vấn đề văn hóa, nhất là những
vấn đề bản xứ; và
Nên có các khóa phát triển nghề nghiệp nhắm tới các vấn nạn nêu ra ở
trên và nên khuyến khích sự tham dự từ các nhà báo đang tác nghiệp
đương thời.
Các nhà làm chính sách về truyền thông và các đoàn thể điều hành (Media
policy makers and regulatory bodies): Chúng tôi khuyến nghị các nhà làm chính
sách và các đoàn thể điều hành:
Cập nhật các văn liệu nghiên cứu và dùng chúng để định khung cho chính
sách;
Trong những đòi hỏi mang tính lượng giá về sự kiểm soát theo luật đối với
việc thiết lập chương trình và việc phát triển, cần chân nhận rằng tự do
ngôn luận không phải là giá trị tuyệt đối, nhưng bắt buộc phải cân bằng
với các giá trị cộng đồng khác;
Bảo đảm rằng có đưa “consumer input”4 vào trong nội dung của truyền
hình và trò chơi điện tử dành cho trẻ em, nhất là những giá trị và thái độ
chúng biểu hiện ra cho con trẻ;
Phát triển và kiểm soát (police) các luật lệ hữu hiệu để áp dụng chúng
vào quảng cáo trực hướng đến trẻ em; và
Bảo đảm rằng hệ thống phân loại được dựa trên các chứng cứ nghiên cứu,
và được ứng dụng, giám sát và cưỡng chế cách hiệu quả.
3 (nd.) Theo nghĩa gốc thì ‘best-practice’ là ‘một phương pháp làm việc, hay một tập hợp các phương pháp làm việc mà
được công nhận chính thức như phương pháp tốt nhất để sử dụng trong một ngành kinh doanh hay công nghiệp đặc thù nào đó, thường được mô tả cách chính quy và chi tiết’ (‘a working method, or set of working methods, which is officially accepted as being the best to use in a particular business or industry, usually described formally and in detail.’ – nguồn: Cambridge Advanced Learner's Dictionary) 4 (nd.) Consumer Input là một pa-nô do những người muốn bộc lộ ý kiến của mình về các sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa
nhất đối với họ tạo ra. (Consumer Input is a panel made up of people like you who want to express their opinions about the products and services that matter most to them. – nguồn: https://www.consumerinput.com/)
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Các nhà sản xuất truyền thông và ngành công nghiệp truyền thông: về việc đưa
tin phóng sự (news reporting) và về các sự vụ hiện nay, có lẽ nhóm các chính
sách nổi bật nhất chính là những chính sách được các nhà sản xuất và chủ sở
hữu truyền thông tiếp nhận. Chúng tôi khuyến nghị các nhà sản xuất và ngành
công nghiệp truyền thông:
Cổ võ sự chuyển đổi trong việc nhấn mạnh, từ các ý tưởng giản dị thái quá
về “tính đáng-đưa-tin của tin tức” (newsworthiness) (chú trọng đến tốc
độ, sự lôi cuốn về mặt hình ảnh, tính đơn giản dễ hiểu…) sang việc cam
kết sẽ gia tăng độ-bao-phủ (coverage) về các yếu tố bối cảnh xã hội, hầu
khán giả có thể ‘hiểu’ cách chính xác hơn về các tình tiết của bản tin;
Bảo đảm rằng việc minh họa các nhóm sắc tộc và văn hóa phản ánh tính
đa dạng và thế mạnh của họ, tránh những miêu tả mang tính rập khuôn
và hạ giá về họ;
Học tập các ví dụ về việc sử dụng truyền thông để gợi ra những thay đổi
tích cực về các thái độ xã hội, và dùng những điều này như các chỉ dẫn
cho việc thiết lập chương trình và phát triển của chính họ trong tương lai;
và
Hưởng ứng đối với các mối quan ngại cộng đồng về bạo lực truyền thông,
nghe thấy sự ưu ái mà trẻ em thực sự biểu lộ, và sử dụng các nguồn tài
nguyên của mình để sản xuất các ‘chất liệu’ truyền thông hứng thú mà
không lệ thuộc vào bạo lực.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
1. Dẫn nhập (Introduction)
Ngày nay, khắp nơi người ta thừa nhận rằng truyền thông không phải là tấm
gương phản chiếu xã hội cách đơn thuần, tức là sự phản ánh về một “thế giới
ngoài đó” (the world out there). Bởi nếu như thế, các phóng viên chỉ cần hướng
máy quay hay máy thu âm theo một hướng ngẫu nhiên nào đó và cho nó chạy
là được. Nhưng đúng hơn, các quyết định chủ động được đưa ra tại mỗi giai
đoạn của tiến trình sản xuất và chuyển giao các ‘chất liệu’ truyền thông, liên
quan đến thứ nên có và thứ nên bỏ, cũng như cách thức và thời gian mà nội
dung nên được trình bày. Do đó, người ta có thể tranh luận rằng truyền thông có
tiềm năng đóng một vai trò chủ động trong việc định hình và đóng khung nhận
thức của chúng ta về thế giới, và cả trong việc ảnh hưởng đến chính bản chất
của thế giới nữa.
Trong thời đại gần đây, ảnh hưởng của truyền thông lên xã hội đã phát triển
theo cấp số nhân, thành những hình thức đa dạng hơn bao giờ hết. Internet đã
đánh dấu một bước nhảy đầy tiến bộ về khả năng truy cập của truyền thông và
về năng lực của con người trong việc tham gia tích cực vào truyền thông. Thật
vậy, truyền thông giải trí đã ‘nhảy ra khỏi’ màn hình lớn và thoát khỏi vòng tay
các nhà sản xuất TV mà bước vào trò chơi điện tử, YouTube và các ứng dụng
cho điện thoại di động. Việc gia tăng sự đa dạng hóa này và tính truy cập của
truyền thông cũng đã dẫn tới việc tiêu giảm luật lệ về nội dung truyền thông.
Trong mọi hình thức đa dạng của mình, truyền thông ngày nay đang định hình
thế giới chúng ta theo nhiều cách hơn bao giờ hết.
Vai trò của truyền thông trong cuộc sống hiện đại là không thể thiếu, vì nó cung
cấp thông tin, giáo dục và cả giải trí. Tuy nhiên, ý định của chúng tôi không phải
là tổng quan về bản chất hay tầm mức của các ảnh hưởng tích cực này, mà
đúng hơn, trọng tâm của báo cáo này là về các tác động tiêu cực tiềm tàng của
truyền thông. Những tranh luận về bản chất và tầm mức các tác động tiêu cực
của một số khía cạnh truyền thông lên các giá trị, niềm tin, thái độ và hành vi
của các cá nhân, cũng như các tác động lên xã hội nói chung, đã và đang diễn ra
gay gắt. Hơn nữa, mối lo ngại về vai trò của truyền thông trong việc ảnh hưởng
đến diễn tiến (course) của các biến cố cộng đồng cũng gia tăng, như các cuộc
tranh luận quốc tế và các phiên tòa xử án tội phạm. Đồng thời, tranh luận cũng
phản ánh về cuộc đấu tranh da dẳng trong việc tìm kiếm sự cân bằng xứng hợp
giữa việc kiểm soát truyền thông (mà “kiểm duyệt” (censorship) được xem như
là hình thức kiểm soát cực đoan nhất) với quyền tự do bộc lộ cảm xúc và tự do
chọn lựa.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của truyền thông là một nghiên cứu đa hướng, liên
quan đến nhiều chủ đề khác nhau (multi-disciplinary), với những đóng góp từ
các ngành khác nhau như học thuật truyền thông (communications studies), ký
hiệu học (semiotics), xã hội học và chính trị học. Tuy nhiên, xét tự bản chất,
nhiều vấn nạn chủ chốt về ảnh hưởng của truyền thông vẫn thuộc về tâm lý
học.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Cho dẫu các nghiên cứu trong tâm lý học cũng như các ngành khác về nhiều
phương diện khác nhau của những ảnh hưởng truyền thông là khá phong phú,
nhưng vẫn chưa có lấy một bức tranh rõ ràng nổi bật nào về cách thức và thời
gian mà truyền thông gây ra tác động lên cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, xét thấy
cuộc tranh luận về các phản ứng thích hợp đối với “vấn nạn truyền thông” vẫn
còn đang tiếp diễn, thiết nghĩ thật đúng lúc để tổng quan lại các tài liệu nghiên
cứu tâm lý học với ý định cung cấp những khuyến nghị dựa-trên-nghiên-cứu đối
với các nhóm khác nhau có liên quan. Các nhóm (parties) này bao gồm người
tiêu thụ (các bậc phụ huynh và cả những người khác), các nhà giáo dục, các
đoàn thể điều hành, các nhà sản xuất và các nhà phát thanh. Cũng có những gợi
ý về các nghiên cứu hiện có, hỗ trợ cho việc nghiên cứu và thực hành tâm lý
học.
Hạn từ ‘truyền thông’ (‘the media’) bao hàm cả các ấn bản (như báo, tạp chí) và
phiên bản điện tử (TV, phim ảnh, radio) cũng như các dạng khác như
video/DVD, trò chơi điện tử, internet, điện thoại thông minh… Đã có nhiều
nghiên cứu liên quan đến phần lớn các hình thức truyền thông này. Trong quá
khứ, tranh luận chủ yếu tập chú vào TV; nhưng gần đây hơn thì lại có sự gia
tăng mối quan ngại cộng đồng về các vấn nạn liên quan đến trò chơi điện tử bạo
lực và nội dung không-bị-hạn-chế của internet (unrestricted) với lượng truy cập
gia tăng đối với mọi dạng thức truyền thông số (digital media). Bằng nhiều cách
khác nhau, TV là phương tiện truyền thông đầu tiên ‘bước vào phòng khách của
chúng ta’ với sự gần gũi và ảnh hưởng to lớn. Còn bây giờ, chúng ta lại đối diện
với sự truy cập ngày càng tăng đang thâm nhập vào nhiều khía cạnh đời sống
thường nhật của chúng ta hơn. Do đó, trong báo cáo này, chúng tôi chú trọng
đến các nghiên cứu trước đây về TV, nhưng mở rộng nỏ với việc tổng quan về
các hình thức truyền thông khác như trò chơi điện tử và internet. Mặc dù trong
lãnh vực này thì các nghiên cứu ở Mỹ có phần trội hơn, nhưng [trong báo cáo
này] chúng tôi cũng tổng quan các nghiên cứu liên quan (gần đây) ở Úc và bất
cứ nơi nào khác có thể.
Các hình thức truyền thông mới hơn, bao gồm trò chơi điện tử và internet, đang
ngày càng trở nên tương tác hơn. Chúng gợi ra sự ràng buộc chủ động đối với
người theo dõi (chẳng hạn như người chơi dùng một ‘khẩu súng’ điện tử cầm tay
để ‘giết’ các nhân vật trên màn hình và sẽ được chương trình tán thưởng khi làm
thế). Ngày càng nhiều chứng cứ chỉ ra rằng việc đồng nhất bản thân
(identification) với các nhân vật trong truyền thông tương tác bạo lực sẽ gây ra
ảnh hưởng lớn hơn so với việc chỉ đơn thuần xem bạo lực trên màn hình TV.
Chúng tôi tổng quan và nêu bật lên tầm quan trọng của việc khám phá các ảnh
hưởng của những hình thức tương tác mới đang gia tăng này của truyền thông.
Trong báo cáo này, chúng tôi bắt đầu bằng việc xem xét lại các khung lý thuyết
đã được sử dụng để dự đoán và giải thích các ảnh hưởng của truyền thông nói
chung, để hướng độc giả đến những phương cách diễn giải các dữ liệu nghiên
cứu. Ở đây, chúng tôi chủ yếu dựa vào các giải thích lý thuyết về cách thức bạo
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
lực truyền thông có thể tác động đến hành vi gây hấn, bởi đây là lĩnh vực được
nhiều nghiên cứu chú ý nhất. Kế đó, chúng tôi chuyển sang xem xét kỹ các
nghiên cứu hiện thời về những ảnh hưởng của bạo lực trên truyền thông, với
việc đặc biệt nhấn mạnh đến các ảnh hưởng của chúng lên trẻ em; đây cũng là
khía cạnh ảnh hưởng truyền thông đã gây ra những lo hãi lớn nhất về các hậu
quả nguy hại lâu dài, cũng như đã dậy lên những tranh luận sôi nổi nhất. Phần
tiếp theo cũng tập trung vào trẻ em, nhưng ở đây chúng tôi tổng quan các
chứng cứ về ảnh hưởng của quảng cáo lên các giá trị, thái độ và hành vi của trẻ,
đây cũng là một lãnh vực phổ biến khác gây lo ngại. Hai phần kế đó bao hàm
các phương diện và việc đưa tin truyền thông (media reporting) vốn thường bị
nghi là bóp méo nhận thức xã hội, làm mạnh thêm những nỗi lo hãi, thiên kiến
và thành kiến phi lý bất chính. Ở đây trọng tâm được chuyển dần từ trẻ em sang
người thuộc mọi lứa tuổi, và nhấn mạnh về ảnh hưởng của truyền thông lên các
giá trị, niềm tin và thái độ xã hội nói chung. Chúng tôi bàn luận cách thức các
hành vi tội ác được biểu thị trên truyền thông, và tổng quan các chứng cứ về
ảnh hưởng của những biểu thị này. Theo sau đó là những bàn luận về cách thức
các nhóm thiểu số được biểu thị. Những phần tổng quan này dẫn đến phần kết
luận, cung cấp một chuỗi các khuyến nghị trực hướng đến các thành phần khác
nhau của cộng đồng, với mục tiêu làm giảm nhẹ các ảnh hưởng tiêu cực đã được
nhận diện và làm tăng các tiềm năng tích cực của truyền thông. Một danh mục
các tổ chức và các nguồn tham khảo thêm cũng được bổ sung vào báo cáo dành
cho những ai muốn khám phá các vấn đề này sâu hơn.
2. Những giải thích lý thuyết về tác động của truyền thông lên bạo lực
(Theoretical explanations for the impact of the media on violence)
Truyền thông hẳn nhiên không phải là yếu tố góp phần duy nhất hay quan trọng
nhất đến hành vi xã hội của con người, nhưng không thể nghi ngờ rằng truyền
thông là một nguồn ảnh hưởng xã hội quan trọng. Cho dù mối liên hệ giữa việc
phơi nhiễm và tác dụng của truyền thông không hề đơn giản, cũng không trực
tiếp, nhưng hơn 40 năm nghiên cứu đã chỉ ra rằng: TV, trò chơi điện tử và nội
dung internet có thể và rất ảnh hưởng đến cảm xúc, thái độ và hành vi của
chúng ta (ví dụ như, Anderson et al., 2010; Anderson & Bushman, 2002;
Johnson, et al., 2002; Wartella, Olivarez, & Jennings, 1998). Cả dài hạn lẫn
ngắn hạn, trải nghiệm của chúng ta về các hình ảnh của truyền thông góp phần
đáng kể vào những cách thức mà chúng ta nghĩ, làm và cảm nhận, cũng như
vào niềm tin bao quát hơn của chúng ta về thế giới và thực tại xã hội.
Có nhiều mô hình và cách tiếp cận lý thuyết giúp cho việc giải thích mối liên kết
phức tạp giữa việc phơi nhiễm với truyền thông và ảnh hưởng của nó. Trong
dòng lịch sử, nhiều nghiên cứu dạng này chủ yếu dính tới tác động của bạo lực
trên TV lên trẻ em. Tuy nhiên, gần đây hơn, các lý thuyết tổng quát hóa về
những cách thức mà truyền thông ảnh hưởng đến nhận thức, cảm xúc và hành
vi, đã bắt đầu nở rộ. Các giải thích lý thuyết ngày càng gia tăng nhấn mạnh đến
hàng loạt các yếu tố bối cảnh, bao gồm các đặc trưng của thông điệp, của người
theo dõi, và của các bối cảnh xã hội rộng hơn, có ảnh hưởng đến phản ứng của
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
khán thính giả. Đặc biệt, các lý thuyết đương đại đã tranh luận về cách tiếp cận
‘người-tiếp-nhận-trọng-tâm’ (‘receiver-centred’) mà trong đó, người theo dõi
được xem là một tham-dự-viên chủ động diễn giải ý nghĩa từ điều mình xem.
Những lý giải như thế ngày càng thừa nhận rằng tính chọn lọc (selectivity) và sự
chủ tâm chọn lựa, chú ý và dự phần, là những hình thức hoạt động tạo điều kiện
cho các ảnh hường của truyền thông (Kim & Rubin, 1997). Như thế, các mô hình
tâm lý học về ảnh hưởng của truyền thông sẽ dự báo độ biến thiên giữa các cá
nhân với ảnh hưởng họ gặp phải, trong khi vẫn công nhận các kiểu mẫu chung
được thể hiện ra.
2.1. Lý thuyết gieo cấy (Cultivation theory)
Một cách tiếp cận lý thuyết chính yếu là lý thuyết gieo cấy (Gerbner, Gross,
Morgan, & Signorielli 1994; Signorielli & Morgan, 1990). Đây là một nỗ lực để
hiểu và giải thích tầm ảnh hưởng của TV như một nguồn các hình ảnh và thông
điệp được chia sẻ rộng rãi về thế giới và con người. Lý thuyết này tập trung vào
các hậu quả phổ biến và dai dẳng trong việc trưởng thành và sống chung với TV.
Gebner và cộng sự chỉ ra rằng, với mức độ mà TV chi phối các nguồn giải trí và
thông tin của trẻ em thì sự phơi nhiễm cứ liên tục tích lũy của trẻ đối với các
thông điệp của chúng dường như được lặp đi lặp lại, củng cố và dung dưỡng
(hay gọi khác đi là ‘gieo cấy’) các niềm tin, kế hoạch, giá trị và viễn cảnh mà nó
mô tả (Signorielli & Morgan, 1990). Từ lập trường này, TV là một lực văn hóa
mạnh mẽ sản sinh ra các giả định (assumptions), hình ảnh, giá trị và quan niệm
bền vững, kháng-cự-lại-sự-thay-đổi và được chia sẻ rộng rãi. Nó gieo cấy một
‘xu thế nhìn’ về điều gì mới là quan trọng (như tội ác, môi trường, hình ảnh cơ
thể) và về thế giới trông như thế nào (chẳng hạn, nguy hiểm). Hơn nữa, nó còn
gieo cấy các hệ thống giá trị, các ý thức hệ, và các quan điểm (như duy vật, duy
tiêu thụ (consumerism), thuyết vị chủng (ethnocentrism), chủ nghĩa cá nhân,
chủ nghĩa tư bản, trách nhiệm xã hội).
Tầm quan trọng của việc gieo cấy truyền thông được nhấn mạnh bởi việc có
nhiều sự thiếu nhất quán (discrepancies) đáng phê phán giữa thế giới ‘thực’ và
thế giới được mô tả trên TV, phim ảnh và internet… Lấy ví dụ, bởi vì có nhiều tội
ác trên TV hơn trên đời thực nên TV có thể gieo cấy một cái nhìn về thế giới như
một nơi hèn hạ và đáng sợ (xem phần 5). Điều này đặc biệt đúng với những
người sống trong các khu thành thị có mức độ tội ác cao, và với những nhóm
thiểu số mà các bản sao hư cấu của họ thường được mô tả như những nạn nhân
(nạn-nhân-hóa, victimised) trên TV, phim ảnh và trò chơi điện tử. Thông điệp
minh họa này được cho là cộng hưởng mạnh nhất với những khán giả như vậy.
TV cũng cung cấp một nguồn thông tin chính yếu về các nhóm chủng tộc, sắc
tộc và giới tính (Greenberg & Brand, 1994; xem phần 6). Lấy ví dụ, nếu phụ nữ,
những người cao tuổi và các nhóm chủng tộc thiểu số bị miêu tả không đúng
mức trên TV và/hoặc bị minh họa thành hàng loạt các vai diễn và hoạt động
tương đối hạn hẹp và rập khuôn định kiến, thì việc phơi nhiễm với TV dễ gieo
cấy các định kiến về vai trò liên quan tới giới tính, dân tộc thiểu số và độ tuổi.
Theo lý thuyết gieo cấy, TV, trò chơi và các thứ tương tự thậm chí còn gieo cấy
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
‘ý nghĩa’ về các bối cảnh xã hội, con người và văn hóa nữa (Gerbner et al.,
1994). Chẳng hạn như độ tuổi, giới tính và tầng lớp của khán giả vốn gây ra sự
khác biệt cho quan điểm của họ, nhưng việc theo dõi truyền thông cũng có thể
giúp xác định xem ý nghĩa của một độ tuổi, giới tính và tầng lớp nhất định là gì
(như một trẻ gái vị thành niên thuộc tầng lớp trung lưu). Nói ngắn gọn, thông
tin truyền thông về các nhóm xã hội được cho là định hình quan niệm của khán
giả về căn tính của chính họ và của người khác.
Một vài nghiên cứu (như Comstock & Paik, 1991; Potter, 1993; Wilson, 1995) đã
chỉ ra rằng lý thuyết gieo cấy quá đơn giản và không đủ nhấn mạnh đến các yếu
tố trung gian ảnh hưởng đến sự gieo cấy. Hơn nữa, Gunter (1994) cho rằng ảnh
hưởng gieo cấy có lẽ mang tính đặc-trưng-liên-quan-đến-chương-trình hay đặc-
trưng-liên-quan-đến-nội-dung, hơn là hệ quả hoàn toàn của việc xem truyền
thông, và nó cũng có lẽ lệ thuộc vào việc chú-ý-có-chọn-lọc đến các chương
trình củng cố quan điểm của một người về thế giới. Đặc biệt trong việc truy cập
truyền thông xã hội, một quan điểm cho rằng khán giả có quyền chọn lựa củng
cố thế giới quan riêng của mình và rút khỏi việc phơi nhiễm với các nội dung chi
phối họ. Tuy nhiên, những tu bổ của lý thuyết này đã gắng ‘uốn nắn’ lại các phê
phán như thế và gia tăng nhấn mạnh lên sự tương tác giữa khán giả và truyền
thông.
2.2. Lý thuyết học tập xã hội và các lý giải về nhận thức xã hội (Social learning
theory and social-cognitive accounts)
Trong khi lý thuyết gieo cấy cố gắng lý giải các ảnh hưởng của truyền thông lên
xã hội nói chung, thì các thuyết tâm lý học khác lại liên hệ tới những hiểu biết
về hậu quả dài hạn và ngắn hạn của việc phơi nhiễm với truyền thông, nhất là
bạo lực trên TV, lên thái độ và hành vi của các cá nhân, nhất là trẻ em.
Có lẽ cách lý giải được chấp nhận rộng rãi nhất về cách thức mà các nội dung
trên TV ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của trẻ đang phát triển chính là lý
thuyết học tập xã hội của Bandura (1971, 1986). Bandura lập luận rằng người ta
học được những phản xạ hành vi như gây hấn, hoặc nhờ trải nghiệm trực tiếp
mà trong đó, hành vi gây hấn của chính bản thân họ được củng cố, hoặc nhờ
quan sát thấy rằng hành vi như thế được người khác tưởng thưởng (thông qua
củng cố thứ cấp nhờ nghe nhìn – vicarious reinforcement). Hơn nữa các nhân
vật truyền thông – cùng với cha mẹ, đồng bạn và những người khác – là những
nguồn cung cấp đề mục cho việc mô hình hóa (modelling) các thái độ và hành vi
đặc thù, mà những thái độ và hành vi nào học được ở tuổi trẻ, thông qua thói
quen phơi nhiễm với các mô hình như thế, lại được cho là tương đối khó thay
đổi. Lấy ví dụ, thông qua quan sát hành vi của các hình mẫu trên TV, trẻ em học
được những thái độ và hành vi nào là được chấp nhận và tưởng thưởng, cũng
như những cái nào là bị phạt, và chúng sẽ bị thôi thúc bắt chước các hình mẫu
truyền thông mà hành vi của họ được tán thưởng.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Theo cách này, lý thuyết học tập xã hội nhấn mạnh đến cả hệ quả bắt chước
(imitative) lẫn hệ quả giải thể ức chế (disinhibitive) của bạo lực truyền thông.
Việc phơi nhiễm lặp đi lặp lại với sự gây hấn trên TV, trò chơi điện tử hay lên
mạng có thể dạy trẻ những hành vi hung hăng mới, những hành vi này dần trở
thành một phần trong cấu trúc nhận thức và tổ hợp các hành vi của chúng. Việc
phơi nhiễm đó cũng có thể làm giảm sự ức chế của khán giả đối với sự gây hấn.
Lấy ví dụ, trẻ em có thể bắt chước những hành vi gây hấn đặc thù nào đó hữu
ích trong việc giành được những kết quả đáng mong đợi đối với người khác
(Bandura, Ross, & Ross, 1961). Chúng cũng có thể học được rằng nếu những
người khác có thể hành xử hung hăng mà không bị bắt hay trừng phạt, thì hoàn
toàn đúng nếu chúng cũng hành xử như thế. Điều này có nghĩa là chúng có thể
học được rằng gây hấn là một phương thế điển hình và được cho phép để giải
quyết các rắc rối hay để đạt được mục tiêu (Bandura, 1973; xem phần 3).
Hơn nữa, trong phiên bản chỉnh sửa mới nhất (Bandura, 1986, 1994), lý thuyết
học tập xã hội cho rằng việc diễn giải của khán giả về thông điệp trên TV trung
hòa việc bắt chước và học tập. Ví dụ như, Bandura lập luận rằng việc lý giải là
một chức năng gợi ra bối cảnh (a function of contextual cues), như kiểu người
mẫu nào tham gia vào bạo lực kèm với các hệ quả xảy đến cho người mẫu đó,
chẳng hạn.
Các mô hình sau này cũng tập trung vào việc dung dưỡng nhận thức (cognitive
priming) (như Berkowitz, 1990; Jo & Berkowitz, 1994; cũng xem Bushman,
1998). Những điều này bổ sung cho lý thuyết học tập xã hội bằng việc nhấn
mạnh vè các ảnh hưởng tức thời và ngắn hạn của việc phơi nhiễm với truyền
thông. Chúng tập trung vào phương thức mà các nội dung truyền hình kích hoạt
(activate) hay ‘dung dưỡng’ (primes) các tư tưởng và phản xạ hành vi liên quan.
Lấy ví dụ, việc xem những sự hung hăng trên TV có thể kích hoạt các cảm xúc
tiêu cực (như giận dữ và sợ hãi), mà khi đến lượt mình, những cảm xúc này lại
dung dưỡng những cảm xúc, tư tưởng, ký ức và khuynh hướng hành vi gây hấn
khác. Một khi mạng lưới liên hệ nhận thức được kích hoạt hay khởi phát, thì cách
thức các cá nhân tri nhận tình huống (thẩm định nhận thức – cognitive
appraisals) và những gì họ tự nói với mình (tự biện – self-statements) cùng
những nhận thức khác ở bậc cao hơn sẽ quyết định xem việc gây hấn có xảy ra
hay không. Điều này nghĩa là những biến số này ảnh hưởng đến mối liên kết
giữa các tư tưởng bị kích hoạt bởi truyền thông và hành vi thực tế (xem Jo &
Berkowitz, 1994).
Một yếu tố quan trọng tác động đến mối liên hệ giữa các sự kiện truyền thông
và hành vi sau đó của khán giả là ý nghĩa thông truyền (communication’s
meaning) cho khán thính giả. Các tư tưởng liên quan đến sự gây hấn sẽ không
bị kích hoạt nếu không có những cảnh mô tả mà khán giả suy xét là có tính gây
hấn – chẳng hạn là nhiều khán giả có thể không xem việc chơi mạnh bạo trong
các môn thể thao tiếp xúc nhiều như bóng đá là có tính gây hấn. Hơn nữa, các
tư tưởng và khuynh hướng gây hấn được kích hoạt bới các minh họa cũng có thể
bị ngăn trở nếu khán giả nghĩ rằng sự gây hấn mình quan sát được là hành vi
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
bất công và mạo hiểm, dẫn tới những hậu quả tiêu cực. Cuối cùng, những khán
giả nào đồng nhất mình với thủ phạm gây hấn hay xem gây hấn như cái gì đó
thực tế (realistic) thì đặc biệt dễ có những tư tưởng liên quan đến việc gây hấn
bị kích hoạt khi xem chúng.
Do đó, cách lý giải dung dưỡng nhận thức đã định vị những ảnh hưởng của bạo
lực trên TV trong tiến trình xử lý thông tin và trong việc dung dưỡng các ý nghĩ
liên quan về mặt ngữ nghĩa (semantically). Hơn nữa, mặc dù các lý giải này chú
trọng vào các ảnh hưởng tức thời và ngắn hạn của việc phơi nhiễm với truyền
thông, thì chúng cũng cho rằng việc phơi nhiễm lặp đi lặp lại đối với bạo lực
truyền thông dẫn tới việc các ý tưởng và khuynh hướng gây hấn sẽ bị kích hoạt
với một xác suất lớn hơn bởi hậu quả của việc học tập ưu tiên (prior learning).
2.3. Mô hình phát triển xã hội (Social-developmental model)
Về cơ bản, cả những lý giải về việc mô hình hóa lẫn việc dung dưỡng nhận thức
đều mang tính một chiều. Nội dung truyền thông được tin là ảnh hưởng đến
khán thính giả. Còn mô hình phát triển xã hội (Huesmann & Miller, 1994) mang
tính hội nhất hơn (integrative). Mô hình này mô tả nền tảng nhận thức của các
khuôn mẫu hành vi xã hội đã học được và nhấn mạnh hơn đến mối quan hệ hỗ
tương giữa khán giả và phương tiện truyền thông.
Tương tự như lý thuyết học tập xã hội, Huesmann lập luận rằng hành vi xã hội
được kiểu soát bởi các ‘chương trình’ (programs) hay ‘kịch bản’ (scripts) tinh
thần đạt được thời thơ ấu, chúng vốn được lưu trữ trong ký ức và được sử dụng
sau đó như một chỉ dẫn cho hành vi. Huesmann cũng cho rằng nội dung TV có
tác động quan trọng đến việc hình thành, phát triển và duy trì các kịch bản nhận
thức về cách thức ứng xử trong các tình huống khác nhau (như việc phản ứng lại
với một biến cố bạo lực, hay khi cố gắng dàn xếp một cuộc xung đột giữa các cá
nhân, chẳng hạn). Về cơ bản, một kịch bản là một chuỗi các ‘họa tiết’
(vignettes) nối tiếp nhau – đó có thể là việc một người đánh một người khác khi
giận dữ về điều gì đó mà người kia đã làm. Chính kịch bản gợi ra biến cố nào sẽ
dễ xảy ra trong một bối cảnh, cũng như cách thức người ta nên hành xử để đáp
ứng với các biến cố này và hệ quả khả dĩ của những hành vi như thế (Huesmann
& Miller, 1994).
Khi đối diện với một tình huống xã hội, người ta có thể lựa chọn một kịch bản từ
ký ức để biểu thị tình huống đó và khoác lấy một vai trò trong kịch bản. Hơn
nữa, một kịch bản sẽ dễ được truy hồi như những chỉ dẫn cho hành vi khi tình
huống hiện tại gần giống với tình huống đã được mã hóa. Chẳng hạn như các
hành động gây hấn được xem là thực tế, cũng có thể được xem là có liên hệ
nhiều hơn đến việc giải quyết các xung đột trong tương lai, so với các hành động
ít thực tế hơn.
Huesmann nhấn mạnh sâu hơn nữa về tầm quan trọng của các yếu tố nhân vị
và liên nhân vị, xem chúng như các biến can thiệp (intervening variables) nối
kết việc phơi nhiễm truyền thông và các hành vi sau đó của khán giả với sở
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
thích của khán giả ấy đối với một nội dung truyền thông đặc thù nào đó. Tỉ dụ
như, Huesmann cho rằng kiêng khem quá đỗi việc xem bạo lực dẫn đến một
chuỗi các tiến trình dựa trên các yếu tố nhân vị và liên nhân vị này, hệ quả là
nhiều khán giả không chỉ trở nên gây hấn hơn mà còn phát triển một cơn khát
gia tăng đối với nội dung bạo lực ở mức cao hơn. Các yếu tố như kỹ năng học
tập kém, ít được ưa chuộng về mặt xã hội, tính đồng nhất hóa với các nhân vật,
niềm tin vào tính duy thực của các nội dung trình chiếu trên TV, và việc nhắc lại
(rehearsal) hay huyễn tưởng (fantasy) về các nội dung này, có lẽ quan trọng
trong việc duy trì mối quan hệ giữa việc xem bạo lực và gây hấn nơi trẻ em. Do
đó, những khán giả gây hấn thì dễ xem các chương trình bạo lực hơn, dễ có
mạng lưới rộng lớn về các liên tưởng gây hấn vốn được dung dưỡng qua việc
xem chúng, và dễ truy hồi các kịch bản gây hấn khi đương đầu với các tình
huống liên can tới xung đột trong đời thực hơn.
Cách lý giải này ngầm giả định rằng trẻ em, nhất là những trẻ dưới 7,8 tuổi, có
lẽ đặc biệt nhạy bén với việc học tập từ TV bởi cách mà chúng nhận thức về các
kịch bản truyền hình. Dựa vào mức độ phát triển và trưởng thành, có thể các trẻ
nhỏ hơn được mong đợi sẽ diễn giải các kịch bản này theo cách thức hơi khác
biệt một chút so với các trẻ lớn hơn hay so với người lớn. Mặc dù có sự biến
thiên đáng kể về cách thức và thời gian mà các trẻ phát triển các kỹ năng khác
nhau, nhưng những khác biệt rõ ràng giữa các trẻ khác độ tuổi cũng đã được
nhận thấy trong các phương cách chúng sử dụng để nhận thức thông tin mới,
cũng như trong giới hạn ký ức khống chế lượng thông tin mà chúng có thể tiếp
thu (Kail, 1990; Siegler, 1991). Như thế, các trẻ nhỏ hơn có lẽ sẽ khó khăn hơn
trong việc kết nối các khung cảnh (scenes) và trong việc rút ra kết luận về việc
thưởng – phạt của một hành vi (Wilson, et al., 1996). Các trẻ này cũng có thể
gặp khó khăn hơn trong việc phân biệt thực tại với huyễn tưởng và có thể có
khuynh hướng bắt chước và đồng nhất hóa chính mình với các nhân vật trên
truyền hình nhiều hơn.
Trẻ em cũng có thể nhạy hơn với việc bắt chước các minh họa trên truyền thông
nếu nội dung chúng theo dõi phù hợp với các trải nghiệm chúng gặp phải trong
gia đình và môi trường xã hội, và nếu việc cùng xem chung với ba mẹ hay anh
chị lại ngầm chứa sự tán đồng rằng nội dung ấy là quan trọng, hữu ích và đáng
chú ý (xem Nathanson, 1999). Trái lại, việc chủ động thu nhận được rằng cha
mẹ hay những người khác đưa ra những bình phẩm tiêu cực về nội dung bạo
lực, và đặt ra những luật lệ liên quan đến việc xem nội dung bạo lực, có thể sẽ
thông truyền cho trẻ ý tưởng rằng nội dung như thế là phi thực, không đáng tin
về mặt luân lý, không quan trọng và/hoặc không đáng để duy trì chú ý. Điều
này cũng sẽ giảm các khuynh hương gây hấn phát sinh từ TV (xem Desmond,
Singer, & Singer, 1990; Nathanson, 1999;). Việc giáo dục truyền thông dạy trẻ
các kỹ năng xem truyền hình có phê phán, như khả năng nhận ra rằng các tình
tiết chỉ là bịa đặt và các chương trình được phát là nhằm thu lợi, cũng cho phép
trẻ lượng giá tốt hơn về nội dung mà chúng theo dõi (Dorr, Graves, & Phelps,
1980).
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
2.4. “Gây tê” (Desensitisation)
Để hiểu được ảnh hưởng của nội dung truyền thông, đặc biệt là các minh họa về
bạo lực và gây hấn, lên thái độ và hành vi, thêm một tiếp cận lý thuyết nữa đã
chú ý đến vai trò tiềm năng của cảm xúc. Theo giả thuyết về sự “gây tê”, việc
xem đi xem lại bạo lực dẫn đến sự giảm thiểu mức độ đáp ứng (độ nhạy –
responsiveness) về mặt cảm xúc đối với bạo lực trên màn hình và sự gia tăng
chấp nhận đối với bạo lực trong đời thường. Lấy ví dụ, dù có thể lúc đầu, trẻ nhỏ
bộc lộ những phản ứng hãi sợ dữ dội đối với nội dung chương trình bạo lực (vd,
Cantor, 1994), nhưng chúng có thể trở nên ngày càng quen dần với bạo lực
trong các chương trình và có thể ao ước gia tăng các nội dung bạo lực khi chúng
đã tập quen (habituated) hay bị “gây tê” (Drabman & Thomas, 1974). Việc xem
bạo lực lâu dài ở trẻ em và cả người lớn có thể dẫn tới sự giảm thiểu mức độ đáp
ứng về mặt cảm xúc đối với bạo lực trong thế giới thực, và tới sự gia tăng chấp
nhận đối với bạo lực trong đời thường, cũng như tới sự phát triển của các thái độ
chai lì vô cảm đối với nạn nhân bị bạo hành.
2.5. Các mô hình thuyết phục (Models of persuasion)
Các mô hình lý thuyết ở trên đã cố gắng lý giải ảnh hưởng của giải trí và các
chương trình đương thời lên cảm xúc, suy nghĩ và hành vi của người theo dõi.
Một vài tài liệu cũng đã chú trọng vào ảnh hưởng của các thông điệp TV hay các
chiến dịch truyền thông minh nhiên có ý thay đổi thái độ và hành vi. Trong một
vài trường hợp, mục đích của các chương trình quảng cáo trên TV (TV
commercials) có thể được xem như đáng ao ước về mặt xã hội, như các dạng
khuyến khích thăng tiến lối sống lành mạnh chẳng hạn. Tuy nhiên, mục đích và
kết quả của các chương trình khác, như hầu hết các dạng quảng cáo sản phẩm
hiện nay, thì lại gây tranh cãi hơn nhiều.
Các mô hình thuyết phục kinh điển (như Hovland, Janis, & Kelley, 1953) kết nối
các đặc tính của nguồn tin (như tính hấp dẫn và tính khả tín), sự khích lệ của
các thông điệp kêu gọi (như sợ hãi, sự chấp nhận về mặt xã hội, kiến thức đúng
đắn) với việc lặp đi lặp lại và bố trí sắp đặt các thông điệp, để giải thích những
thay đổi có thể có trong thái độ và hành vi. Lý thuyết học tập xã hội (như
Bandura, 1973) cũng dự đoán rằng khán giả dễ bộc lộ hành vi giống với các vai
diễn đáng tin cậy (các vai diễn này làm mẫu cho hành vi đã định trước cách rõ
ràng, cũng như đã nhận được sự khích lệ tương xứng). Các mô hình thuyết phục
khác (như mô hình elaboration-likelihood, Petty & Cacioppo, 1986) cũng đã được
dùng để dự đoán các ảnh hưởng dài hạn của các thông điệp mang tính thuyết
phục theo như những biến đổi khác biệt trong động cơ xử lý nội dung thông
điệp.
Để hiểu về các ảnh hưởng tiềm tàng của quảng cáo thương mại lên trẻ em,
những mối quan tâm đặc biệt đã nổi lên do có các vấn nạn về phát triển nhận
thức ảnh hưởng đến việc hiểu thông điệp. Ví dụ như, trẻ em trong độ tuổi nhà
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
trẻ đổ lại thường không nhận thức rõ hoặc nhận thức được rất ít về các nội dung
bán buôn và mưu lợi cá nhân của các quảng cáo sản phẩm (xem Phần 4).
2.6. Các giả thuyết về tác động phi-nhân-vị và hiệu ứng người-thứ-ba (The
impersonal impact hypothesis and third-person effect)
Cuối cùng, trong việc hiểu các ảnh hưởng của truyền thông, người ta đã chú ý
đến cái gọi là giả thuyết về tác động phi-nhân-vị (Tyler & Cook, 1994), cho
rằng: nhìn chung, những mối liên kết giữa việc xem TV với tri giác thì rõ ràng
đối với những phán đoán ở cấp độ xã hội (như việc lượng giá tỉ lệ tội phạm
chẳng hạn) hơn là đối với những phán đoán ở cấp độ cá nhân (như lượng giá về
nguy cơ cá nhân mình trở thành nạn nhân). Xu hướng gần đây, người ta cũng
tranh luận rẳng con người thừa nhận và hành động trên tiền đề này là: người
khác sẽ bị ảnh hưởng bởi các thông điệp truyền thông đại chúng trong khi chính
họ sẽ duy trì sự miễn nhiễm hoặc tương đối lãnh đạm (hiệu ứng người-thứ-ba,
Duck & Mullin, 1995; Perloff, 1993). Điều này có thể bắt nguồn từ khuynh
hướng các cá nhân quá đề cao ảnh hưởng của thông điệp lên người khác trong
khi quá xem nhẹ ảnh hưởng hưởng của thông điệp đó lên chính mình – những
khuynh hướng này là hệ quả từ việc kết hợp các thiên kiến về nhận thức và
động cơ (cognitive and motivational biases) (xem Perloff, 1993). Chẳng hạn
như, người ta có thể cảm thấy họ đang kiểm soát được thái độ và hành vi của
chính mình trong khi tin rằng đại đa số quần chúng là khờ dại.
Do đó, người ta đã đề xướng rằng: một phần đáng chú ý của việc lĩnh hội về ảnh
hưởng của nội dung truyền thông ‘hữu hại’ như bạo lực và quảng cáo thương
mại là hệ quả của các niềm tin về ảnh hưởng của truyền thông lên người khác
(Lasorsa, 1992; Rojas, Shah, & Faber, 1996). Điều này cần được nhận ra trong
việc định hình các chính sách; buộc phải có sự nhấn mạnh đến việc đo lường và
trình báo về các ảnh hưởng thực sự của truyền thông và các ảnh hưởng khác
chưa nhận thấy được, cũng như đến việc suy xét về các hệ quả của việc tri nhận
theo lối ‘người-thứ-ba’, để kêu gọi các cơ quan kiểm duyệt truyền thông bảo vệ
người khác cũng như phục vụ cho việc sử dụng truyền thông mang tính cách cá
nhân.
2.7. Mô hình học tập tổng quát (The General Learning Model)
Mô hình nổi trội hơn cả về việc lý giải ảnh hưởng của truyền thông bạo lực lên
nhận thức và hành vi hiện nay là Mô hình học tập tổng quát (GLM, trước đây là
Mô hình gây hấn tổng quát, GAM). Mô hình này được phát triển trên nền tảng
một vài mô hình trước đó về học tập và liên tưởng, bao gồm các yếu tố ‘kịch
bản’ của lý thuyết học tập xã hội, lý thuyết liên tưởng mới về mặt nhận thức và
lý thuyết ‘dung dưỡng’ (Anderson & Bushman, 2002; Anderson et al., 2004;
Anderson, Gentile, & Buckley, 2007; Anderson & Huesmann, 2003). Theo mô
hình này, hành vi của một người được điều khiển bởi các thuộc tính (properties)
về tình trạng nội tại của họ (internal state), mà các thuộc tính này bị ảnh hưởng
bởi các biến ngoại lai theo ít nhất một trong ba phương thế chính yếu: thứ nhất
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
là dung dưỡng nhận thức hiện tại (priming current cognitions), kế đó là các tình
trạng cảm xúc (affective states), và cuối cùng là sự khuấy động về mặt sinh lý
(physiological arousal). Như thế, GLM giải thích ảnh hưởng của truyền thông bạo
lực lên suy nghĩ, cảm xúc và/hoặc mức độ khuấy động sinh lý của một người.
Nhiều nghiên cứu dạng phân tích tài liệu (meta-analysis) trong thập kỷ gần đây
đã chứng thực rằng việc phơi nhiễm với các trò chơi điện tử bạo lực làm gia tăng
nhận thức gây hấn, cảm xúc hung hăng và sự khuấy động sinh lý ngắn hạn
(Anderson, 2004; Anderson & Bushman, 2001; Anderson et al., 2010; Sherry,
2001). Mô hình này lý giải về sự gia tăng gây hấn dài hạn lẫn ngắn hạn bằng
việc thừa nhận rằng các ‘kịch bản’ hay ‘chương trình’ ảnh hưởng đến các hành vi
xã hội (như đã trình bày ở các lý giải nhận thức xã hội trước đó). Các kịch bản
đạt được qua học tập, như học cách tri nhận, diễn giải, phán đoán và phản ứng
lại các biến cố trong môi trường vật lý và xã hội. Các kịch bản có thể ảnh hưởng
đến hành vi một khi chúng được mã hóa và nhắc lại, sau đó được triệu hồi và
tận dụng trong một biến cố nào đó tương thích về mặt bối cảnh. Sự gia tăng gây
hấn ngắn hạn được lý giải như một tiến trình học tập tích lũy, trong đó những
quan sát của một người về bạo lực thực sự sẽ dẫn người đó đến việc tiếp thu
thêm các kịch bản hành vi mang tính gây hấn nhiều hơn nữa.
2.8 Tóm lại (Summary)
Một loạt các lý giải đã được đề xuất về cách thức truyền thông ảnh hưởng lên
các cá nhân và xã hội trên diện rộng. Các lý giải này đều liên quan đến những
khía cạnh về thông điệp, khán giả, và bối cảnh mà thông điệp được xem. Sự
hiểu biết lý thuyết có được từ các lý giải này giúp giải thích các chứng cứ nghiên
cứu về ảnh hưởng của truyền thông sẽ được xem xét phía dưới.
3. Nghiên cứu về ảnh hưởng của truyền thông bạo lực lên trẻ em
(Research on the effects of violent media on children)
3.1 Đâu là các mối quan ngại? (What are the concerns?)
Một cách nhất quán, nghiên cứu trình bày về các mức độ phơi nhiễm rất cao với
bạo lực thông qua các phương tiện truyền thông điện tử. Từ xưa đến nay, các
mối lo ngại về việc phơi nhiễm truyền thông bạo lực đã chú trọng vào bạo lực
trên TV (Brown & Hamilton-Giachritsis, 2005; Dietz & Strasburger, 1991;
Johnson, Cohen, Smailes, Kasen, & Brook, 2002; Mediascope, 1995, 1997),
nhưng việc ‘tiêu thụ’ (consumption) với truyền thông bạo lực gần đây hơn, dưới
hình thức trò chơi điện tử, đang dần trở nên ngày càng đáng chú ý (Anderson et
al., 2003; 2010; Anderson & Bushman, 2001; Bushman, & Anderson, 2009;
Bastian, Jetten, & Radke, 2012; Bushman, & Huesmann, 2006; Carnagey,
Anderson, & Bushman, 2007; Greitemeyer, & McLatchie, 2011). Cũng có một vài
chú ý (có giới hạn) đến ảnh hưởng của các lời bài hát mang tính bạo lực
(Anderson, Carnagey, & Eubanks, 2003). Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên
rằng có mối lo ngại rộng khắp về những ảnh hưởng của truyền thông bạo lực lên
thái độ, giá trị và hành vi của cá nhân cũng như của xã hội. Mối lo ngại này tập
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
trung vào các ảnh hưởng lên trẻ em, người ta e ngại có hàng loạt các hậu quả
không đáng mong đợi cho đối tượng này. Điều này bao hàm các mức độ gia tăng
của hành vi gây hấn, sự chấp nhận tăng cao đối với bạo lực, xem đó như một
phần bình thường trong đời sống và như một phương cách hữu hiệu để đạt mục
tiêu, và cuối cùng là sự suy diễn quy nạp về nỗi sợ và lo âu cũng như về niềm
tin rằng thế giới là ‘một nơi hèn hạ và đáng sợ’. Những trích dẫn dưới đây của
các trẻ trong một nghiên cứu của Cupit (1986) đã minh họa một vài trong số các
phản ứng này: ‘Con thực sự ghét cái cảnh những người đang chèo thuyền ngoài
trời mà tự nhiên có một con cá mập nhảy bật lên khỏi mặt nước. Con không
thích chúng và chẳng thể nào gạt chúng ra khỏi tâm trí con được.’ ‘ Con không
thể quên được phân cảnh một người đàn ông đang nằm trên giường và một con
dao dài đâm xuyên qua giường và cổ người đàn ông đó. Giờ lúc nào con cũng
phải nhìn xuống gầm giường hết cả!’
3.2 Đâu là chứng cứ? (What is the evidence?)
Nghiên cứu nhắm đến việc chứng minh xem liệu các mối quan ngại như thế có
được bảo đảm hay không quả thật đầy khó khăn. Các nhà nghiên cứu phải quyết
định nên nói về ‘ảnh hưởng’ nào: ví dụ như trò chơi gây hấn (aggressive play),
bạo lực tâm bệnh (psychopathic violence); lo âu; những ký ức bấn loạn
(disturbing memories); sự ‘gây tê cảm giác’ (desensitisation), hay việc thưởng
thức bạo lực (enjoyment of violence). Các ảnh hưởng này nên được đo lường
trong bối cảnh nào? Liệu nhìn đến các hệ quả ngắn hạn hay các ảnh hưởng dài
hạn là đã đủ rồi chăng? Loại truyền thông nào nên được xem xét: phát thanh
truyền hình, phim ảnh (videos), trò chơi trên máy tính, các thể loại đặc thù, các
chương trình đặc biệt, các trích đoạn hay phân cảnh đơn lẻ? Cái gì mới được tính
như ‘bạo lực truyền thông’: việc công kích thể lý đơn thuần hay có bạo hành về
lời nói; các chấn thương vô ý hay chỉ những hành động có chủ ý? Các nhân tố
nào nên được nghiên cứu bởi vì chúng có thể kiện cường hoặc làm suy yếu ảnh
hưởng của các ‘chất liệu’ truyền thông?
Bởi lẽ các nhà nghiên cứu đã đi đến những quyết định khác nhau về những vấn
nạn này cũng như các vấn nạn liên quan, nên không có gì ngạc nhiên khi các kết
quả tìm được khác nhau trong các nghiên cứu. Điều này gây nên cuộc tranh luận
học thuật lành mạnh về việc diễn giải nghiên cứu (Anderson et al., 2010; 2003;
Freedman, 1994; Ferguson 2007; Ferguson & Kilburn, 2009; Murray, 1994). Lấy
dí dụ, Hodge (1992) kết luận rằng: ‘… bởi lẽ một nỗ lực nghiên cứu mang tầm
vóc quốc tế trên quy mô lớn suốt hơn một thập kỷ qua đã không thể minh chứng
được những ảnh hưởng nhất quán và chính xác của bạo lực trên truyền hình,
nên không chắc là những ảnh hưởng này có tồn tại’ (tr.73). Brown và Hamilton
Giachritsis (2005) cũng đã ghi nhận tương tự về sự bất đồng chứng cứ đối với
tác động tiêu cực của truyền thông bạo lực lên trẻ em. Thậm chí ngay cả các
nghiên cứu tài liệu meta-analysis cũng rút ra những kết luận thiếu nhất quán,
với một vài trong số đó nhận định rằng trò chơi điện tử bạo lực ảnh hưởng đến
tính gây hấn, sự thấu cảm và hành vi cống hiến cho xã hội cả trong văn hóa
Đông – Tây (Anderson et al., 2010). Thay vào đó, số khác lại đặt nghi vấn về
quan hệ nhân quả và tầm quan trọng của các ảnh hưởng này (Ferguson 2007;
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Ferguson & Kilburn, 2009; Sherry, 2001; 2007). Tuy nhiên, vẫn có nhiều người
tranh luận rằng thất bại trong việc tìm kiếm những ảnh hưởng ‘nhất quán và
chính xác’ không có nghĩa là chúng không tồn tại, mà chỉ có nghĩa là chúng
[quá] phức tạp mà thôi. Luận điểm này tương tự với luận điểm về việc liệu sự
phong phú của các nghiên cứu chứng minh tỉ lệ ung thư cao hơn nơi những
người hút thuốc có xác thực được mối quan hệ ‘nhân quả’ nào đó [giữa việc hút
thuốc và ung thư] hay không.
Giả dụ rằng nhiều nghiên cứu chỉ suy xét một vài khía cạnh nào đó của bạo lực
trên TV hay trò chơi điện tử, trong mối liên hệ với một nhóm các ảnh hưởng
nhất định, giữa một phân nhóm trẻ em đặc thù, trong một bối cảnh riêng biệt,
thì sự biến thiên giữa các kết quả tìm thấy gần như là được bảo đảm. Trong khi
có nhiều nghiên cứu có thể bị chỉ trích về nền tảng phương pháp luận, thì cũng
có phong phú các nghiên cứu được tiến hành tốt đẹp từ nhiều quốc gia và
chuyên ngành. Các nghiên cứu này nhắm tới việc tiết lộ các khuynh hướng đồng
nhất (convergent trends) sẽ được mô tả dưới đây.
Khái quát về việc tổng quan các nghiên cứu: Thật vậy, đã có hàng ngàn nghiên
cứu về ảnh hưởng của bạo lực truyền thông lên trẻ em. Do đó, thật là phi thực
tế nếu chúng tôi cố gắng tổng quan từng nghiên cứu một. Thay vào đó, chúng
tôi nỗ lực rút ra các kết luận nổi lên từ nhiều bản tóm lược nghiên cứu mang tính
lượng giá đáng chú ý. Trong số này, không có nghiên cứu nào tự nó là bao hàm
toàn diện, nhưng kết hợp với nhau, chúng cho phép chúng tôi xác định điều gì
đã trổi lên như những kết quả và khuynh hướng quan trọng. Các kết luận này
dựa trên 57 bài báo tổng quan (review papers): 11 bài trước năm 1980, 19 bài
được xuất bản trong thập niên 1980, 14 bản khác thuộc thập niên 1990, và 13
bài được xuất bản kể từ năm 2000 (xem phụ lục A). Trong khi các bài tổng quan
chủ yếu bao hàm các nghiên cứu ở Mỹ, chúng cũng rút ra từ các nghiên cứu
thuộc nhiều phần Châu Âu cũng như Nhật Bản và New Zealand. Các nghiên cứu
của Úc cũng được nhận thấy trong các tổng quan này (như Cupit, 1987; Knowles
& Nixon, 1990; Palmer, 1986; Sanson & DiMuccio, 1993; Sheehan, 1986). Hầu
hết các nghiên cứu trong năm 2000 đều nhấn mạnh đến TV (như Barlow & Hill,
1985; Cupit, 1986), nhưng kể từ năm 2000 trở đi, các nghiên cứu về trò chơi
điện tử đã dần trở nên nổi bật hơn cả (như Anderson et al., 2001; 2010;
Ledingham, Ledingham, & Richardson, 1993; Sneed & Runco, 1992).
Mặc dù có khác biệt về trọng tâm, nhưng hầu hết các bài tổng quan khá là nhất
quán trong cách diễn giải các nghiên cứu khác nhau mà chúng xem xét. Các kết
luận dưới đây đã được các bài tổng quan này xác nhận một cách phổ quát:
Hầu hết trẻ em đều phơi nhiễm với việc theo dõi truyền thông bạo lực ở
mức độ đáng kể trong thời gian dài, và một vài trẻ thì mức độ phơi nhiễm
là cực cao (extreme);
Các vấn nạn rất phức tạp, và chúng tôi chưa hiểu chúng đủ rõ ràng để hỗ
trợ đưa ra các quả quyết giáo điều giản dị thái quá;
Các trẻ khác biệt trong cách thức chúng bị ảnh hưởng bởi bạo lực trên TV
hay trên trò chơi điện tử;
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Các dạng khác nhau về bạo lực hay các ‘chất liệu’ gây hấn có những ảnh
hưởng khác nhau; và
Mọi ảnh hưởng lệ thuộc mạnh vào bối cảnh và bị tác động bởi các nhân tố
trung hòa như thái độ của cha mẹ và việc giáo dục truyền thông.
Dầu có những phức tạp thế này nhưng hầu hết các nhà tổng quan cũng kết luận
rằng có những nhận định khái quát đồng nhất với nhau trổi lên với đầy đủ tính
nhất quán để chỉ cho các bậc phụ huynh, các nhà giáo dục, các nhà lập luật và
ngành công nghiệp truyền thông phải chú ý. Các ảnh hưởng đó có thể được tóm
tắt như sau:
Trẻ xem bạo lực trên TV hay phơi nhiễm với bạo lực trong trò chơi điện tử
có khả năng hành xử hung hăng cao hơn trong thời gian ngắn (ngắn hạn);
Việc tiêu thụ lâu dài truyền thông bạo lực có liên hệ đến sự gia tăng khả
năng hành xử hung hăng trong thời gian dài (dài hạn) và trong vài trường
hợp, điều này có thể bao hàm cả bạo lực tội phạm nghiêm trọng;
Việc tiêu thụ truyền thông bạo lực chỉ là một trong số nhiều yếu tố đóng
góp vào khuynh hướng bạo lực và gây hấn, và đóng góp này chỉ từ nhỏ
đến khá (moderate) mà thôi (cũng như trường hợp các chỉ báo bạo lực
khác được đo lường)
Một vài trẻ thích thú, và phát triển sự thèm muốn đối với việc xem các
‘chất liệu’ bạo lực;
Xem bạo lực trên TV dẫn đến sự đau buồn và sợ hãi tức thời ở nhiều trẻ;
Nhiều trẻ duy trì các ký ức bấn loạn trở đi trở lại trong thời gian dài hơn từ
lúc xem bạo lực;
Mức độ xem bạo lực cao có liên hệ đến sự gia tăng hãi sợ nói chung về
cuộc sống;
Các ảnh hưởng này là nhất quán trong văn hóa Đông cũng như Tây;
Bên cạnh sự gia tăng tính gây hấn và hãi sợ, các ảnh hưởng còn bao gồm
việc giảm thiểu lòng thấu cảm và tính cống hiến cho xã hội;
Việc phơi nhiễm liên lỉ với bạo lực truyền thông làm gia tăng khả năng trẻ
bị gây tê cảm giác đối với bạo lực thực sự;
Lứa tuổi và giới tính có những tác động quan trọng lên bản chất của các
ảnh hưởng này;
Bé trai có khuynh hướng bị tác động trực tiếp hơn bé gái;
Các ảnh hưởng tiêu cực của bạo lực truyền thông được thấy cách nhất
quán hơn nơi các trẻ nhỏ tuổi hơn (so với những trẻ lớn hơn);
Hầu hết sở thích của các trẻ là truyền thông hài hước và gây hào hứng, và
bạo lực nhìn chung sẽ không được chào đón trừ khi chúng gắn với (liên hệ
tới – association) những mức độ hành động bậc cao; và
Có mối lo ngại cộng đồng rộng khắp, đặc biệt là nơi phụ huynh và giáo
viên, đặt nền phần nào trên các trải nghiệm trực tiếp về các ảnh hưởng
của truyền thông bạo lực lên trẻ em.
Một phần nhỏ các kết quả tìm thấy trái ngược với các khuynh hướng đặc thù.
Freedman (1994) tranh luận về việc liệu các kết quả nghiên cứu về mối liên hệ
liên tưởng giữa việc xem bạo lực trên TV với hành vi gây hấn sau đó có diễn tả
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
về một quan hệ nhân quả hay không. Freedman cũng nhấn mạnh sự khó khăn
trong việc kiểm soát nhiều biến ảnh hưởng khác không thể phủ nhận được. Các
nghiên cứu tài liệu meta-analysis gần đây, như của Ferguson (2007), Ferguson
và Kilburn (2009), và Sherry (2001), cũng đặt nghi vấn về mối liên kết giữa
truyền thông bạo lực và các hệ lụy hành vi và nhận thức tiêu cực. Hodge và
Tripp (1986) cho rằng trẻ có lẽ ít bị tác động bởi bạo lực truyền thông bởi chúng
có một sự hiểu biết rắc rối (sophisticated understanding) về ‘thực tại’ của TV.
Tuy nhiên, hầu hết các lý thuyết tổng quát về sự phát triển nhận thức và nhiều
nghiên cứu chuyên biệt khác đều cho rằng trẻ nhận thấy khá khó để phân biệt
giữa huyễn tưởng trên TV với đời thực (như Flavell, 1986; Wright, Huston, Reitz,
& Piemyat, 1994).
Không có sự hòa hợp chung nào về các tiến trình tâm lý ngầm ẩn dưới những
ảnh hưởng này, cho dù mọi khung lý thuyết được mô tả ở phần 2 được rộng rãi
chấp nhận. Qua thời gian, sự nhấn mạnh đã dần chuyển từ việc lý giải mang
tính cơ chế, xem đứa trẻ là người học thụ động, sang các phát biểu mang tính
nhận thức có hệ thống hơn, trong đó đứa trẻ được xem như đóng vai trò chủ
động trong việc rút ra ý nghĩa và giá trị từ truyền thông.
Trò chơi điện tử bạo lực: các hình thức truyền thông mới hơn, bao gồm những
thứ liên quan đến trò chơi điện tử và internet, ngày càng cho trẻ một vai trò chủ
động. Nhiều trong số này có bạo lực như chủ đề trọng tâm, và trẻ thường cần
thực hiện các hành động bạo lực để đạt mục tiêu cuối cùng của trò chơi (như
dùng một ‘khẩu súng’ điện tử cầm tay để ‘giết’ các nhân vật trên màn hình). Bởi
đứa trẻ được chủ động khuyến khích đồng nhất mình với ‘nhân vật chính’ (hay
‘anh hùng’ – hero) hung hăng, và thực hiện các hành động gây hấn, rồi được tán
thưởng khi làm thế, nên dường như các tiến trình được xác định trong lý thuyết
học tập xã hội và các mô hình liên quan đến việc ‘dung dưỡng’ và ‘kịch bản’
(như GLM) thậm chí còn rõ thấy hơn nữa. Thực tế thì, nghiên cứu đã cung cấp
tư liệu cho rằng việc chơi các trò chơi điện tử bạo lực sẽ gây nên mức độ cao
hơn về hành vi gây hấn (Anderson & Bushman, 2001; Irwin & Gross, 1995), sự
khuấy động sinh lý (Segal & Dietz, 1991), khí sắc hung hăng (Fleming &
Rickwood, 1999), gây tê cảm giác (Bushman & Anderson, 2009) và các thay đổi
trong việc tự nhận thức (Bastian, Jetten, & Radke, 2012). Người ta cũng tranh
cãi rằng sự ràng buộc hăng say (engagement) với các trò chơi điện tử bạo lực có
thể có những ảnh hưởng nguy hại hơn so với các phương tiện truyền thông khác
ít đòi hỏi sự ràng buộc cá nhân hơn (Anderson, Gentile, & Buckley, 2007;
Polman, Orobio de Castro, & Van Aken, 2008).
Có thực các ảnh hưởng của bạo lực truyền thông đã được minh chứng bằng tài
liệu có ý nghĩa thực tế? Như đã lưu ý, bất cứ mối liên hệ nào tìm thấy giữa việc
phơi nhiễm với truyền thông và thái độ hay hành vi đều chắc chắn thấp, bởi có
nhiều biến số khác liên quan. Điều này đã khiến một số nhà tổng quan cho rằng
có rất ít hệ quả thực tiễn. Vấn đề này được Rosenthal (1986) chỉ ra trực tiếp.
Rosenthal đã làm rõ mối liên hệ giữa các ảnh hưởng rất nhỏ mang tính thống kê
và số người thực sự bị tác động. Rosenthal làm lại các ảnh hưởng ít ỏi mà
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Huesmann, Eron, Lefkowitz, và Walder (1984) đã tìm thấy để minh họa rằng các
mối liên hệ họ đo được giữa tính gây hấn ở trẻ và tội phạm ở người lớn (xoay
quanh hệ số tương quan 0.12) có nghĩa là ‘với mỗi 100 trẻ có chỉ số gây hấn
thời thơ ấu dưới mức trung bình thì chỉ 44 trẻ có chỉ số phạm tội khi là người lớn
cao hơn trung vị, còn trong số 100 trẻ có chỉ số gây hấn thời thơ ấu cao hơn
mức trung bình thì lại có đến 56 trẻ có chỉ số phạm tội khi lớn cao hơn trung vị’
(tr.148).5 Ông nhận định rằng: ‘ sự khác biệt 12% đó có thể biến thành những
khác biệt về con người, kinh tế và xã hội rộng lớn [hơn]’ (tr.148). Tiếp đó, ông
áp dụng phân tích tương tự đối với những mối liên hệ giữa việc phơi nhiễm với
bạo lực truyền thông và hành vi gây hấn trong 32 mẫu trẻ từ 4 quốc gia để đưa
ra kết luận: ‘… chúng ta có thể gia tăng độ chính xác của việc lựa chọn các trẻ
có mức gây hấn cao và thấp từ việc biết được sự phơi nhiễm cao hay thấp [của
các trẻ đó] đối với bạo lực truyền thông, hầu hết mọi lúc là từ 16 đến 30%’
(tr.149). Gần đây hơn, một nghiên cứu chiều dọc kéo dài 17 năm đã khảo sát
việc xem TV và hành vi gây hấn trong một mẫu cộng đồng gồm 707 cá nhân
(Johnson, et al., 2002). Có mối liên hệ đáng chú ý giữa thời lượng xem TV trong
giai đoạn vị thành niên và mới lớn (early adulthood) với khả năng có những
hành động gây hấn sau đó đối với người khác. Mối liên hệ này vẫn là đáng kể
(significant) sau khi các biến về hành vi gây hấn, việc bị phớt lờ thời thơ ấu, thu
nhập gia đình, bạo lực khu xóm, giáo dục của cha mẹ, và các rối loạn tâm thần
đã được kiểm soát về mặt thống kê. Nghiên cứu này minh họa rằng việc tiêu
dùng (xem) TV tự nó có lẽ có hàng loạt các hệ quả tiêu cực lâu dài.
3.3. Kết luận (Conclusion)
Ít nhất 30 năm kể tử 1980, đã có sự đồng thuận giữa hầu hết các cộng đồng
nghiên cứu tâm lý liên quan đến việc nghiên cứu về truyền thông rằng bạo lực
trên TV góp phần vào hành vi gây hấn, vào mối lo âu trở thành nạn nhân và vào
sự nhẫn tâm trước những tác động của bạo lực lên người khác. Phần lớn các
nghiên cứu (chứ không riêng nghiên cứu nào) chú trọng đến trẻ em như khách
hàng tiêu thụ và đến TV như phương tiện truyền thông. Chứng cứ cho các liên
hệ này đủ mạnh để đóng góp cho bất cứ ai có chủ tâm cống hiến cho vấn đề bạo
lực cộng đồng. Nhiệm vụ của các nhà tâm lý học không còn là chứng minh ảnh
hưởng nữa, nhưng là gỡ rối những phức tạp của nó và phát triển các tiến trình
cải thiện (amelioration) và sửa chữa lỗi lầm đã có (remediation).
4. Quảng cáo TV và trẻ em (Television advertising and children)
4.1 Đâu là các mối quan ngại? (What are the concerns?)
Ở Mỹ ước lượng phải thanh toán đến 30 tỷ đôla trong việc chi dùng trực tiếp
hằng năm cho trẻ em (Calvert, 2008). Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên để
nhận thấy rằng trong khi xem TV, trẻ đã phơi nhiễm với xấp xỉ 40,000 quảng
5 (nd.) Dịch giải nghĩa. Nguyên văn là: ‘For every 100 children below average in childhood aggression, only 44 will be
above the median in adult criminality compared to the 56 we would find among the 100 children above average in childhood aggression’
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
cáo mỗi năm (Kunkel, 2001), và rằng số lượng quảng cáo đồ chơi nhắm đến trẻ
em đã nhiều hơn gấp đôi trong 25 năm qua (Larson, 2001). Mức độ phơi nhiễm
này gây ra những mối lo ngại bởi lẽ trẻ được cho là đặc biệt dễ bị quảng cáo
đánh lừa và lợi dụng, vì chúng thiếu các kỹ năng nhận thức để bảo vệ chính
mình khỏi các ý định thuyết phục (persuasive intent). Trẻ nhỏ gặp khó khăn
trong việc phân biệt giữa quảng cáo trên TV với nội dung các chương trình khác,
cũng như trong việc nhận ra các ý định thuyết phục của quảng cáo và thấu hiểu
thứ ngôn ngữ quảng cáo (Dickinson, 1997). Không có những khả năng này,
những thái độ và ước vọng của trẻ, và đặc biệt nhất là hành vi của chúng, được
cho là dễ bị uốn nắn bởi nội dung của quảng cáo truyền thông. Điều này có thể
dẫn tới xung đột trong gia đình khi trẻ gây áp lực đòi cha mẹ phải mua các sản
phẩm như đồ chơi mà cha mẹ có thể nghĩ là không cần thiết, không phù hợp hay
quá đắt đỏ, hoặc thực phẩm mà cha mẹ nghĩ là không tốt cho sức khỏe. Thêm
vào đó, một mối lo ngại khác nữa, đặc biệt đối với các trẻ lớn hơn và các trẻ vị
thành niên, chính là việc phơi nhiễm tích lũy đối với quảng cáo sẽ tác động lên
các giá trị chung của trẻ, qua việc xã hội hóa chúng vào trong những đường
hướng quá đỗi duy vật (socialising them into over-materialistic ways) (Gunter &
McAleer, 1997) và qua việc khích lệ chúng tiếp nhận các giá trị có thể xung đột
với các giá trị của cha mẹ chúng (xem phần 2.1).
Gần đây hơn, các mối lo ngại nghiêm trọng về ảnh hưởng của các hình ảnh
mang màu sắc tính dục trong quảng cáo cũng đã nổi lên. Việc tính-dục-hóa
(sexualisation) trực tiếp đối với trẻ xảy ra khi trẻ bị trình bày trên quảng cáo
theo cách thức mà những người lớn khiêu gợi làm mẫu. Trẻ được mặc trang
phục và làm điệu bộ theo những cách thế vốn dành để thu hút sự chú ý, với các
đặc điểm đậm màu sắc tính dục người lớn mà trẻ chưa hề có. Việc tính-dục-hóa
ít rõ ràng hơn đối với trẻ xảy ra qua các quảng cáo đậm chất tính dục nhan nhản
khắp nơi cũng như qua thứ văn hóa phổ biến hướng đến người lớn. Mặc dù có ít
chứng cứ từ các mẫu nghiên cứu ở Úc, nhưng Hiệp hội Tâm lý học Mỹ APA đã
triệu tập một lực lượng đặc nhiệm (task force) về vấn đề tính-dục-hóa trẻ nữ
năm 2007, lượng giá các chứng cứ đề xướng rằng việc tính-dục-hóa có các hệ
lụy tiêu cực đối với trẻ nữ và phần còn lại của xã hội. Theo báo cáo của APA
(APA, 2007) việc phơi nhiễm tích lũy của trẻ và thanh niên với các hình ảnh và
chủ đề đậm nét tính dục có ảnh hưởng tiêu cực trong nhiều lãnh vực, bao gồm
việc khách-thể-hóa-chính-mình (self-objectification), liên kết với các rối loạn ăn
uống, lòng tự trọng thấp, trầm cảm hay khí sắc trầm, và sức khỏe tính dục suy
giảm.
4.2. Đâu là chứng cứ? (What is the evidence?)
Liệu trẻ có nhận thức được quảng cáo trên TV hay các phương tiện truyền thông
khác không? Để có thể lượng giá cách phê phán các quảng cáo, trẻ buộc phải
nhận thức được khi nào chúng bị phơi nhiễm với các thông điệp quảng cáo.
Nghiên cứu chỉ ra rằng nhìn chung, trẻ có thể phân biệt các mẩu quảng cáo với
các chương trình ở độ tuổi lên 5, hoặc thập chí sớm hơn (Moore, 2004). Lấy ví
dụ, Dorr (1986) báo cáo rằng phần đông các trẻ 5-7 tuổi có thể giơ tay hay la
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
lớn khi có quảng cáo thương mại xuất hiện trong một buổi phát hình. Tuy nhiên,
có thể phân biệt được các mẩu quảng cáo khỏi các ‘chất liệu’ chương trình khác
không nhất thiết có nghĩa là trẻ nhận thức được các ý định thuyết phục của
quảng cáo. Đối với nhiều trẻ nhỏ, khả năng xác định các mẩu quảng cáo của
chúng phụ thuộc đơn thuần vào sự nhận thức về các đặc điểm tri giác phổ biến
đối với nhiều mẩu quảng cáo, như thời lượng ngắn hơn, lặp lại thường xuyên
hơn, nhạc và âm lượng to hơn, và các đặc điểm sản xuất ở nhịp độ nhanh chẳng
hạn (Cupitt, Jenkinson, Ungerer, & Waters, 1998; Gunter & Furnham, 1998).
Trong khi các kết quả nghiên cứu liên quan đến nhận thức của trẻ về quảng cáo
trên TV cho đến nay là nhất quán cách hợp lý, thì có vẻ như các thay đổi gần
đây về hình thức ‘chuẩn’ (‘standard’ format) của quảng cáo và các chất liệu
chương trình đã làm cho nhiệm vụ phân biệt quảng cáo với nội dung chương
trình của trẻ lại khó hơn nữa. Một thể loại gọi là ‘các chương trình đặt nền trên
sản phẩm’ (‘product-based programs’) hay ‘các quảng cáo thương mại có thời
lượng như một chương trình’ (‘programlength commercials’) ngày nay rất phổ
biến trên truyền thông dành cho trẻ, trong đó các vật thể hay các nhân vật
trung tâm của nội dung chương trình được ‘rao bán’ rộng rãi như những món đồ
chơi. Dưới chiêu bài một trò chơi truyền hình (TV show), phim ảnh hay trò chơi
điện tử/máy tính, hàng loạt các sản phẩm được phô ra cho trẻ, với mục đích kích
thích doanh số bán các sản phẩm này và duy trì tính phổ biến ưa thích của
chương trình. Khi các mẩu quảng cáo về các đồ chơi như thế xuất hiện đồng thời
vời các chương trình liên hệ, trẻ nhỏ gặp khó khăn trong việc phân biệt chương
trình với các ‘chất liệu’ quảng cáo thương mại (Wilson & Weiss, 1992). Hơn nữa,
sau khi xem các chương trình đặt nền trên sản phẩm, thì khi có thể tiếp cận
những đồ chơi liên quan, trẻ sẽ chơi mà ít tưởng tượng hơn (Fletcher & Nielsen,
2012). Ngoài ra, còn có các chương trình ‘host-selling’ dành cho trẻ mà tại đó
các sản phẩm như đồ chơi, dụng cụ thể thao và thức ăn nhanh được đặc biết
khuyến khích (ABA, 1996). Ngược lại, các hình thức chương trình (program
formats) cũng đang xâm nhập vào các mẩu quảng cáo, khiến chúng bây giờ bao
gồm cả các yếu tố như kịch quảng cáo (soap opera), phim tài liệu, và hài kịch
trào phúng (skit-based comedy) (Dickinson, 1997). Do đó, nhiệm vụ phân biệt
quảng cáo với ‘chất liệu’ chương trình ngày càng trở nên khó khăn hơn, và điều
này đã gây nên mối lo ngại về tiềm năng gia tăng các tác động của quảng cáo
lên trẻ.
Trẻ có hiểu được ý định của quảng cáo không? Điểm khác biệt quan trọng nhất
của quảng cáo với các nội dung chương trình khác chính là ý định thuyết phục
của nó. Quảng cáo tồn tại để bán sản phẩm, và có mối lo ngại rằng những trẻ
không hiểu được ý định này có thể dễ vấp phải những luận điệu khai thác của
quảng cáo (advertising claims). Mặc dù trẻ có thể phân biệt các mẩu quảng cáo
khỏi các chương trình TV nhờ các dấu hiệu nghe nhìn (auditory and visual cues)
vào độ tuổi lên 5 (Moore, 2004), nhưng hầu hết các trẻ không nhận ra ý định
thuyết phục của quảng cáo trên TV cho đến khi lên 8, và thậm chỉ có một số trẻ
lên 10 vẫn không hiểu rõ điều này (Kunkel, 2001; Oates, Blades, Gunter & Don,
2003). Khi trẻ hiểu được các ý định thuyết phục của quảng cáo thì chúng dễ suy
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
nghĩ về ý định ấy một cách có phê phán và đặt nghi vấn về tính trung thực của
các luận điệu quảng cáo hơn. Trái lại, trẻ không hiểu biết điều này dễ tin rằng
các mẩu quảng cáo trên TV luôn luôn nói sự thật (Gunter & McAleer, 1997).
Cho rằng khả năng của trẻ nhỏ là có giới hạn trong việc lượng giá tính khả tín
của các luận điệu quảng cáo, nhiều ‘bình luận viên’ tin rằng các nhà quảng cáo
có trách nhiệm đặc biệt trong việc [loại ra mà] không bao hàm các nội dung lừa
dối trong những quảng cáo trực hướng đến trẻ em. Trong bối cảnh này, nội dung
lừa dối (deceptive content) nên được hiểu theo nghĩa rộng, tức là không chỉ bao
hàm việc đưa thông tin sai lạc (misinformation) nhưng còn bao hàm việc trình
bày thông tin theo những cách có thể gây lẫn lộn cho trẻ, như sử dụng các hiệu
ứng đặc biệt để gợi ra rằng những sản phẩm (nhất là đồ chơi) có các đặc điểm
mà chúng không có (Gunter & Furnham, 1998; Van Evra, 1998), hay như trình
bày nhiều thông tin hơn khả năng một đứa trẻ có thể xử lý trong thời lượng giới
hạn của quảng cáo, hoặc sử dụng ngôn ngữ quá phức tạp mà trẻ nhỏ không thể
hiểu nổi, như trong việc từ bỏ gì đó (disclamers) (vd, ‘some assembly required’,
Gunter & Furnham, 1998).
Trẻ phản ứng lại quảng cáo thế nào? Quảng cáo có tiềm năng gây ra hàng loạt
ảnh hưởng lên trẻ, như gia tăng nhận thức của trẻ về sản phẩm, gia tăng các
thái độ tích cực của chúng đối với một sản phẩm hay sự nghiêng chiều về việc
mua sản phẩm đó hoặc thực tế làm thế, và đối với các trẻ nhỏ tuổi hơn, quảng
cáo có thể gia tăng khuynh hướng đòi hỏi cha mẹ mua đồ cho chúng (Gunter &
Furnham, 1998). Tuy nhiên, các nỗ lực chứng minh những ảnh hưởng đặc biệt
của quảng cáo lên trẻ đã mang đến những kết quả lẫn lộn với nhau.
Về thái độ đối với sản phẩm, Riecken và Yavas (1990) báo cáo rằng các trẻ 8-12
tuổi mà họ điều tra nhìn chung có những ý kiến tiêu cực về các mẩu quảng cáo,
và đặt nghi vấn về tính chân thực của các mẩu quảng cáo này, nhưng thái độ
của chúng về các sản phẩm đặc thù thì khác nhau hơn nhiều. Những thái độ đối
với các mẩu quảng cáo đồ chơi thì ít tiêu cực hơn so với thái độ về các mẩu
quảng cáo liên quan đến ngũ cốc hay các loại thuốc bán thẳng không cần qua
bác sĩ kê toa (over-the-counter drug). Những kết quả này cho thấy rằng trẻ là
những khán giả và những người diễn giải chủ động đối với TV, và rằng sở thích
cũng như động cơ riêng của chúng có thể dẫn tới những phản ứng phân biệt đối
với quảng cáo (Gunter & Furnham, 1998).
Tuy nhiên, rõ ràng thì sở thích của trẻ là đối tượng nhắm đến và khai thác của
các nhà quảng cáo. Những cuộc điều tra về nội dung quảng cáo trực hướng đến
trẻ em minh họa cách nhất quán rằng các mẩu quảng cáo về thực phẩm giàu
đường, chất béo và muối cũng như các mẩu quảng cáo về đồ chơi là chiếm ưu
thế hơn hẳn (dominated). Đôi lúc cũng đã có những mối lo ngại đáng kể trong
số những người bảo vệ khách hàng, các chuyên gia sức khỏe, và các nhóm phụ
huynh ở Úc, về tác động tiêu cực dài hạn của những quảng cáo như thế lên sức
khỏe con trẻ và hành vi khách hàng (Parliament of Victoria, 1998; Young Media
Australia, 1997). Lấy ví dụ, Đại học Vật lý Hoàng Gia Úc (1999) đã nỗ lực gia
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
tăng nhận thức cộng đồng về mối liên kết mạnh mẽ giữa thời gian dành để xem
TV với bệnh béo phì ở trẻ em. Họ ghi nhận rằng việc xem TV có liên hệ tới sự gia
tăng trong hành vi ăn uống qua loa vội vàng của trẻ (snacking behavior) và
trong các đòi hỏi của trẻ đối với các thực phẩm được quảng cáo trên TV, cùng
với việc giảm tham gia trong các hoạt động thể thao.
Bởi mục tiêu của quảng cáo là bán sản phẩm, nên đâu là chứng cứ [chứng minh]
rằng những lựa chọn thực tế của trẻ hay hành vi mua sắm sản phẩm đó là bị
quảng cáo tác động? Nhìn chung, các trẻ nhỏ không có phương tiện để thực sự
mua sản phẩm đó, nhưng chúng có thể và đã hành xử như những khách hàng
qua việc đòi hỏi ba mẹ mua cho mình những sản phẩm đặc thù nào đó. Lấy ví
dụ, một nghiên cứu ở Anh (Greenberg, Fazal, & Wober, 1986) báo cáo rằng có
85% trong mẫu nghiên cứu gồm các trẻ 4-13 tuổi thừa nhận rằng chúng đã đòi
ba mẹ mua các sản phẩm quảng cáo, và 66% yêu cầu ba mẹ phải đáp ứng đòi
hỏi của chúng. Đại thể và quan trọng hơn, việc phơi nhiễm với quảng cáo trên
TV có liên hệ với việc gia tăng các giá trị duy vật chất và xung đột nhiều hơn
giữa cha mẹ và con cái, gây nên bởi việc trẻ đưa ra những đòi hỏi mua hàng
[ngày một] nhiều hơn (Buijzen & Valkenburg 2003).
Khi trẻ có phương án lựa chọn sản phẩm tự mình, thì liệu các ảnh hưởng của
quảng cáo có còn không? Pine và Nash (2003) đã đề nghị các trẻ ở dưới độ tuổi
đến trường (pre-school aged) chọn một sản phẩm mà một trẻ cùng giới ở độ
tuổi của chúng sẽ thích. Các trẻ này được chỉ cho thấy những bức hình về các
món hàng với thương hiệu đã được quảng cáo rầm rộ trên TV trong suốt thời
gian nghiên cứu, và những món hàng tương tự mà không có thương hiệu. Các
trẻ đã chọn những sản phẩm có thương hiệu được quảng cáo nhiều hơn 2/3 lần
so với các sản phẩm tương đương nhưng không có thương hiệu.
Borzekowski và Robinson (2001) đã khảo sát cách thức quảng cáo tác động lên
sở thích về thức ăn của các trẻ trong độ tuổi 2-6. Sử dụng thử nghiệm kiểm soát
ngẫu nhiên (randomised control trial), trẻ [được cho] xem một phim hoạt họa có
hoặc không ‘nhúng’ (embeded) các mẩu quảng cáo về thực phẩm, được chỉ cho
thấy những cặp hình về các thực phẩm giống nhau (một trong hai hình là thứ
chúng đã thấy trên quảng cáo), rồi chúng được yêu cầu chỉ ra loại nào chúng
thích hơn. [Kết quả là] trẻ dễ ưa thích các món thực phẩm mà chúng đã thấy
trên quảng cáo hơn, và sự ưa thích này được khuếch đại lên nếu chúng càng
thấy được nhiều mẩu quảng cáo. Trong các nghiên cứu bổ sung, ảnh hưởng của
quảng cáo thực phẩm được thấy là có gia tăng khi trẻ phơi nhiễm với tín hiệu
củng cố từ người lớn hay đồng bạn cùng lúc với việc phơi nhiễm với quảng cáo
(Stoneman & Brody, 1981). Trong khi việc cùng xem với người lớn là một yếu tố
trung hòa quan trọng đầy tiềm năng đối với các ảnh hưởng của quảng cáo, thì
thật quan trọng để lưu ý rằng vài nghiên cứu của Úc đã chỉ ra: việc cùng xem
với trẻ nhỏ ít có khả năng xảy ra nhất khi trẻ đang xem các chương trình (và các
mẩu quảng cáo) được thiết kế đặc biệt cho các nhóm nhỏ tuổi (Cupitt et al.,
1998). Do đó, đối với phần lớn việc xem TV của trẻ thì ảnh hưởng mang tính
trung hòa quan trọng từ phía người lớn lại thường dễ vắng mặt.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
4.3. Các vấn đề phương pháp luận đối với nghiên cứu (Methodological issues for
research)
Một hiểu biết đầy đủ hơn về ảnh hưởng của quảng cáo đòi hỏi phải có một số
nâng cấp trong thiết kế nghiên cứu. Tác động của quảng cáo thường được đánh
giá trong các bối cảnh phỏng thí nghiệm và/hoặc sau việc phơi nhiễm ngắn hạn.
Cần có nhiều nghiên cứu ‘xác đáng về mặt sinh thái’ (‘ecologically valid’) hơn,
mô phỏng được các điều kiện phơi nhiễm có trong đời thực cho trẻ, điển hình là
bao hàm bối cảnh gia đình và việc xem đi xem lại (repeated viewing) trong thời
gian lâu hơn. Các ảnh hưởng ngắn hạn của quảng cáo có thể không được duy trì
liên tục qua các thời kỳ lâu hơn, trong khi những ảnh hưởng khác có lẽ chỉ trở
nên rõ ràng trong thời gian dài hơn mà thôi. Cho đến nay, hầu hết các nghiên
cứu là nghiên cứu tương quan (correlational), nên khó để xác định liệu các mẩu
quảng cáo có ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của trẻ hay không, hay liệu thái
độ và hành vi có quyết định loại chương trình TV nào mà trẻ xem hay không.
Một vấn nạn sâu hơn xoay quanh các lượng giá về tính xác thực (validity) của
các nghiên cứu đã được tiến hành và cấp vốn bởi những người nắm giữ tài chính
(như các công ty đồ chơi chẳng hạn) mà không trải qua tiến trình khảo cứu đồng
đẳng thông thường (peer review). Cuối cùng, có vài điều không thỏa đáng với
các nghiên cứu ‘ảnh hưởng’ có nền tảng hạn hẹp (narrowly-based ‘effects’
research); các tiếp cận nặng về định tính hơn, nỗ lực hiểu các trải nghiệm của
trẻ đối với TV và ý nghĩa chúng rút được từ đó, có thể cung cấp cái nhìn sâu hơn
vào mối quan hệ giữa trẻ với quảng cáo TV cũng như cách thức quảng cáo TV
tác động lên sự phát triển của chúng. Tuy nhiên, trong khi các mối bận tâm về
phương pháp luận trên đây liên quan đến các nhà nghiên cứu trong lãnh vực
này, thì những kết quả chung của các nghiên cứu về trẻ và quảng cáo, vốn sử
dụng nhiều luận thuyết khác nhau, đã cho thấy nhiều tính nhất quán hơn là
tương phản. Nói chung, các tài liệu nghiên cứu cung cấp chứng cứ rằng trẻ bị
ảnh hưởng bởi các mẩu quảng cáo, và rằng việc điều chỉnh bản chất và thời
lượng của các mẩu quảng cáo trực hướng đến trẻ em phải được đảm bảo (Brand,
2007).
4.4 Kết luận (Conclusions)
Quảng cáo trên TV có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống trẻ và đã được chỉ ra
rằng có ảnh hưởng đến thái độ và hành vi tiêu thụ của chúng. Trong khi các trẻ
nhỏ có thể đặc biệt dễ bị tổn thương bởi chúng gặp khó khăn trong việc phân
biệt quảng cáo với các nội dung chương trình khác và không hiểu được ý định
thuyết phục của quảng cáo, thì thái độ phê phán và phân biệt cao hơn của
những trẻ lớn tuổi hơn cũng không nhất thiết bảo vệ chúng khỏi những ảnh
hưởng thuyết phục của quảng cáo nhiều hơn, so với [thái độ phê phán và phân
biệt ở] người lớn (xem phần 2.5). Cần có những nghiên cứu sâu hơn để hiểu các
tiến trình ảnh hưởng của quảng cáo. Với các phương tiện truyền thông mới có
nhúng các mẩu quảng cáo theo những cách phức tạp hơn thì các nghiên cứu về
quảng cáo trên các phương tiện truyền thông mới này là khẩn thiết. Việc thiết
lập các chuẩn mực phù hợp đối với quảng cáo trẻ em và việc cung cấp giáo dục
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
truyền thông cho trẻ em và phụ huynh sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc
giảm thiểu tiềm năng gây ra những ảnh hưởng quảng cáo tiêu cực. Giờ đây,
chúng tôi chuyển từ tác động của truyền thông lên trẻ em sang vai trò của
truyền thông trong xã hội phổ quát hơn. Cách thức tội ác và các sắc tộc được
biểu thị trên truyền thông chính là hai vấn đề cần được phân tích
5. Biểu thị truyền thông về tội ác (Media representations of crime)
5.1 Đâu là những mối quan ngại? (What are the concerns?)
Người ta rộng rãi cho rằng truyền thông, nhất là TV, báo chí và intertnet là
những nguồn kiến thức và hiểu biết chính về các vấn nạn tội ác (Fields & Jerin,
1996; Nguyen, Ferrier, Western, & McKay, 2005). Tuy nhiên, có một mối lo ngại
rộng khắp rằng mức độ và thể loại tội ác được trình bày trên truyền thông biểu
thị một cái nhìn méo mó về mức độ tội ác thực sự trong cộng đồng (Fields &
Jerin, 1996; Windschuttle, 1988). Windschuttle (1988) chỉ ra sự ngắn gọn
(brevity) của các bản tin trên TV, sự tập chú vào các hình ảnh thị giác, và mức
độ chọn lựa bậc cao trong những điều được thuật lại, như là những nguyên nhân
của vấn đề này.
Mối lo ngại chính là những biểu thị sai lạc này có thể định hình thái độ công
chúng về những vấn nạn sau đây:
Đâu là phạm vi (extent) và bản chất của tội ác và của ‘nguy hiểm tính’
(‘dangerousness’) trong xã hội?
Ai là thủ phạm của tội ác? Và
Những phản ứng nào là hữu hiệu và cần thiết đối với tội ác?
Lấy ví dụ, nếu việc đưa tin trên các phương tiện truyền thông dẫn công chúng
tin rằng tội ác đang ‘mất kiểm soát’ và việc gây ra tội ác là do một thành phần
đặc biệt nào đó trong xã hội, thì điều này có thể dẫn đến các định kiến tiêu cực
về nhóm người đó, và ủng hộ những cách xử trí hà khắc đối với họ. Hơn nữa,
nếu người ta tin tưởng mê lầm rằng họ đang sống trong một xã hội hay khu xóm
có tỉ lệ tội phạm và bạo lực cao, thì họ có thể phản ứng bằng cách trở nên cách
ly khỏi cộng đồng mình, giảm thiểu phúc lợi cá nhân cũng như giảm thế mạnh
của xã hội dân sự (Mazerolle, Wickes, & McBroom, 2010). Dưới đây, chúng tôi
cung cấp một bản tổng quát ngắn các chứng cứ về việc liệu truyền thông có đưa
tin chính xác về tội ác trong đời thực hay không, và về các hậu quả khả dĩ của
việc biểu thị sai lạc tội ác. Lẽ dĩ nhiên, tội ác cũng đáng chú ý trong các chương
trình hư cấu, như một loạt các phim về cảnh sát và trinh thám, cũng như các
cảnh tội ác đời thực được sản xuất như phần giải trí cho các chương trình ‘truyền
hình thực tế’ (‘reality television’ shows) (Fishman & Cavender, 1998). Tuy nhiên,
do những hạn chế về mặt không gian và sự giới hạn của các nghiên cứu nhắm
tới tác động của những minh họa mang tính hư cấu (fictional) và đặt nền trên
giải trí (entertainment-based) về tội ác, nên chúng tôi không bàn tới loại truyền
thông này ở đây.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
5.2 Đâu là chứng cứ (What is the evidence?)
Liệu truyền thông có đưa ra biểu thị chính xác về số lượng và thể loại tội ác hay
không? Các nghiên cứu về mối liên hệ giữa độ-bao-phủ về tội ác của truyền
thông (media coverage of crime) với các dữ liệu tội ác chính thức (official crime
data) minh chứng rằng độ-bao-phủ của các tin tức về tội ác ‘cung cấp một sơ đồ
thế giới về các biến cố tội ác, khác nhiều phương diện so với cái mà các thống
kê chính thức cung cấp’ (Sacco, 1995, p.143). Skogan và Maxfield (1981) cho
rằng những thay đổi trong tổng lượng mức phủ sóng tin tức về tội ác dường như
ít có liên hệ với những biến lượng trong khối lượng thực tế về tội ác giữa các nơi
hay qua các thời. Trong khi những thống kê chính thức về tội ác chỉ ra rằng hầu
hết các tội ác là phi bạo lực, thì các bản tin truyền thông trong nhiều trường hợp
lại nói điều ngược lại (Garofalo, 1981). Một vài nghiên cứu chú trọng vào việc
điều trị truyền thông đối với các bản tin về tội ác (media treatment of crime
news) đã chứng minh rằng họ có khuynh hướng biểu thị thái quá các tội ác về
bạo lực và đưa ra những đánh giá thổi phồng về các nguy cơ, mạo hiểm.
Nghiên cứu này bao gồm khảo sát về các ấn bản truyền thông địa phương (local
print media) (e.g., Marsh, 1991; Windhauser, Seiter & Winfree, 1990), cũng như
các phân tích về bản tin tội ác trên TV (Surette,1992). Weatherburn, Matka &
Land (1996) báo cáo rằng có sự khác biệt thực chất giữa các mức độ tội ác bạo
lực trên thực tế trong cộng đồng với nhận thức của cộng đồng về bản chất của
tội ác loại này. Lấy ví dụ, Schwartz (1999) lưu ý rằng những minh họa về các tội
ác bạo lực trong trường học ở Mỹ đã tạo ra nhận thức rằng trường học là nơi
nguy hiểm, nhưng khi suy xét trong tương quan với 114 triệu trẻ em trong các
trường học ở Mỹ, thì tỉ lệ bạo lực thực sự rất thấp (cũng xem Kupchick & Bracy,
2009). Tại Úc, trong giai đoạn từ 1990-2007, tỉ lệ (trên dân số 100,000 người)
các vụ giết người giảm dần từ 1.9 năm 1990-1991 đến 1.3 năm 2006-2007
(Viện Tội phạm học Úc, 2012), cho dù nhận thức cộng đồng về vấn đề này lại
cho là có tăng lên. Trong một điều tra tại Úc về 82 bản tin TV được tiến hành bởi
Rendell (1997), số lượng và thể loại đưa tin về tội ác được so sánh với các con
số dữ liệu của Cục Báo cáo Thống kê về Tội ác của Úc. Nghiên cứu này tìm ra
rằng có một vài khác biệt giữa tội ác được đưa tin trên TV và tội ác trong thực
tế. Rất nhiều tội ác nghiêm trọng như giết người, cướp của có vũ trang, bắt cóc
và bao vây đã được biểu thị quá mức trên các bản tin. Trẻ em và người già đã bị
biểu thị quá mức như các nạn nhân của tội ác khi so sánh với những thống kê
thực tế.
Rendell (1997) cũng tìm ra rằng giới trẻ bị biểu thị quá mức trên truyền thông
như kẻ gây ác. Dầu cho trọng tâm của truyền thông về tội ác giới trẻ đang gia
tăng, nhưng hơn 5 năm kể từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2011, số thanh thiếu
niên (juveniles) từ 10-17 tuổi bị khởi tố cách nào đó (không tính những cảnh
báo) bởi Cảnh sát NSW rơi vào 8 nhóm tội chính, thì chỉ có một nhóm tăng, còn
7 nhóm khác thì duy trì tình trạng ổn định (Cục Thống kê và Nghiên cứu Tội
phạm NSW, 2012). Các kết quả như vậy đề xướng rằng nếu khán giả tin là các
tin tức trên TV phản ánh chính xác thế giới thực thì họ rất dễ đưa ra những ước
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
đoán không chính xác về mức độ và thể loại tội ác thực sự đang diễn ra trong
cộng đồng của mình. [Nhưng] đối với hầu hết chúng ta, truyền thông lại là
nguồn thông tin chính sẵn có.
Đâu là vai trò của truyền thông trong việc định hình cấu trúc tư tưởng công
chúng (public constructions) về tội ác và tình trạng tội phạm? Đã có nhiều tranh
cãi về cách thức mà công chúng cấu thành ý nghĩa từ các minh họa truyền
thông về tội phạm (Barlow, Barlow, & Chirocus, 1995). Các chứng cứ nghiên cứu
chỉ ra rằng truyền thông gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng lên nhận thức của
chúng ta về mức độ tội ác trong cộng đồng (Hans & Dee, 1991; Schlesinger,
Tumber, & Murdoch, 1991), cho dẫu kiến thức và hiểu biết về tội ác cũng có liên
kết với thái độ cá nhân và các biến nhân khẩu như độ tuổi, giới tính, sắc tộc,
cũng như những gì suy ra từ nhiều nguồn đa dạng khác như gia đình và bè bạn
(Rountree & Land, 1996). Khi những trải nghiệm cá nhân trong tư cách nạn
nhân hay kẻ thủ ác xuất hiện, báo hiệu về một vấn nạn xã hội lớn hơn, thì
những biểu trị truyền thông đóng vai trò quyết định trong việc làm nảy sinh các
cấu trúc tư tưởng (construction), chuyển nghĩa (translation) và chuyển đổi
(transformation) các mối lo âu riêng tư thành các vấn nạn công chúng. Nhất
quán với lý thuyết gieo cấy (xem phần 2.1) cho rằng TV là nguồn chính yếu các
giá trị, lịch trình và quan điểm, TV và các phương tiện truyền thông khác giúp
cấu trúc và định hình ý nghĩa về tội ác và tình trạng phạm tội cho công chúng.
Sacco (1995) cho rằng các vấn nạn tội ác đặc thù thường được cơ cấu (framed)
với hàm ý về những nhu cầu đặc biệt nào đó, như gia tăng đội tuần tra cảnh vệ,
điều tra tốt hơn, khởi tố hữu hiệu hơn, hay kết án cứng rắn hơn, và gần đây là
việc giám sát công chúng mạnh hơn qua các camera CCT. Các cơ cấu (frames)
khác cũng có thể hàm ý những nhu cầu như kiểm soát súng ống tốt hơn, công
bằng xã hội cao hơn, chú ý hơn đến các tội ít thấy như bạo lực gia đình, hay chú
tâm vào việc cải tạo (rehabilitation), lại ít xuất hiện thường xuyên trên các
phương tiện truyền thông. Trong quá khứ, hệ quả của dạng tiến trình cơ cấu này
lên cấu trúc tư tưởng về tội ác đã được hiểu thông qua các ý niệm như ‘kinh hãi
luân lý’ (moral panic), và sau này là chữ ‘siêu thú’ (superpredator).
Ý niệm về kinh hãi luân lý được giới thiệu lần đầu trong thập niên 1970 để diễn
tả sự giận dữ hay xúc phạm trực tiếp đối với những nhóm nhất định nào đó
trong cộng đồng. Sự giận dữ này được tạo nên cách rộng khắp bởi những biểu
thị và những hình ảnh tiêu cực về những nhóm này trên truyền thông (Cohen,
1972). Simpson (1997) cho rằng truyền thông tiếp tục đóng vai trò cốt yếu
trong việc tạo ra kinh hãi luân lý qua việc mô tả tội ác dưới hình thức của các
nhà duy cảm (sensationalist) và qua việc trình bày tin tức theo những cách ưu
tiên cho việc thu hút bạn xem đài hơn là đưa tin chính xác về sự việc (cũng xem
Critcher, 2003). Kinh hãi luân lý, trong những nhóm chịu trận nhất định
(scapegoating groups) (như giới trẻ, băng đua xe máy, hay các nhóm sắc tộc),
khiến làm trệch hướng chú ý đối với các nguyên nhân phức tạp hơn, rộng lớn
hơn của các vấn đề xã hội như tội ác, và giúp thu hẹp phạm vi của những cuộc
tranh luận đầy ý nghĩa trong cộng đồng, nơi kinh hãi xảy ra.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Ý niệm về một cơ cấu hay kịch bản ‘siêu thú’ được Gilliam và Iyengar (1998) đề
xuất như hệ quả của việc gia tăng các mức độ chú ý đến tội ác của truyền
thông. Trong tiến trình này, việc đưa tin tức về tội ác ảnh hưởng đến nhận thức
về sự lan tràn (prevalence) tội ác do các nhóm khác nhau trong cộng đồng thực
hiện. Trong một nghiên cứu có kiểm soát (controlled study), Gilliam và Iyengar
(1998) tìm ra rằng việc bao hàm những tấm ảnh chụp cận cảnh nghi phạm
thuộc một tộc người đặc thù nào đó làm gia tăng mức độ sợ hãi nơi các khán giả
theo dõi tình tiết tội ác. Các nhà nghiên cứu cũng tìm ra rằng sự gia tăng sợ hãi
đối với tội ác bị chuyển thành sự gia tăng tán thành đối với các án phạt nghiêm
khắc hơn giữa những người da trắng và sự gia giảm hỗ trợ giải quyết vấn đề này
giữa những nhóm sắc tộc bị lên ảnh (pictured ethnic groups). Nghiên cứu này
mạnh dạn đề nghị thừa nhận tầm quan trọng của các minh họa truyền thông về
tội ác trong sự hình thành ý kiến công chúng về tội ác, cũng như thừa nhận tác
động mà tội ác đã gây ra cho những nhóm nói trên trong một cộng đồng vốn
đang trở thành tâm điểm của một kịch bản ‘siêu thú’.
Liệu bạo lực truyền thông có góp phần vào hoạt động phạm tội? Rất ít nghiên
cứu liên quan đến mối liên hệ giữa các vụ giết người và bạo lực truyền thông.
Cantor và Sheehan (1996) đã chỉ ra khó khăn trong việc tách riêng các ảnh
hưởng của những bản tin truyền thông về các vụ giết người, bởi lẽ chúng tương
đối chung chung. Cantor và Sheehan (1996) ghi nhận vài điểm tương đồng giữa
các vụ giết người ở Clifton Hill, Melbourne và Hungerford, UK, xấp xỉ nhau về
thời gian, và cho rằng các bản tin truyền thông có lẽ khiến một người có tiềm
năng gây án (potential perpetrator) đồng nhất mình với một hình mẫu (người
mẫu – model), và sự đồng nhất đó sau này có thể ảnh hưởng hoặc kích phát các
hành vi chống đối xã hội tương tự. Một vài giả thuyết về sự bắt chước (copycat
hypotheses) tương tự như thế cũng đã được phát biểu, nối kết những vụ việc ở
Port Arthur năm 1996 với các vụ ám sát tại Dunblane, Scotland, chì vài tuần
trước đó (Brown, 1996).
Một cách tiếp cận khác chính là trực tiếp hỏi kẻ gây án xem liệu tội của họ có
phải là do bắt chước hay không. Surette (2002) đã điều tra 81 thanh niên, ¼
trong số đó nói rằng tội mình phạm là do bắt chước (copycat crimes). Các
nghiên cứu về lãnh vực này thì phức tạp, và thật khó để xác minh xem phơi
nhiễm đến mức độ nào với bạo lực truyền thông mới góp phần vào các hoạt
động phạm tội ở người lớn. Quá nhiều biến số có thể tác động lên mối liên hệ
này đến nỗi không thể có một chỉ báo vững chắc về mối liên hệ như thế nếu
không có những nghiên cứu chiều dọc.
‘Tính đáng-đưa-tin của tin tức’ (‘Newsworthiness’): Sercombe (1997) lập luận
rằng các tình tiết tội ác đáp ứng được vài tiêu chuẩn kinh tế trong việc ‘sản xuất
tin tức’ (news production) và tính đáng-đưa-tin của tin tức. Việc báo cáo về tội
ác có sức lôi cuốn sự phấn khích của con người và thường có thể bị khán giả
đồng hóa vào trong các định kiến cá nhân đã có trước đó. Phóng sự truyền
thông thường nhấn mạnh đến các tội ác thình lình, ngẫu nhiên, hệ quả là cá
nhân có thể đồng nhất chính mình với những người có tiềm năng là nạn nhân và
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
tin rằng họ bị đặt vào một tình huống đe dọa tương tự. Điều này góp phần vào
mối liên hệ xác đáng đã được tri nhận về tội ác, làm gia tăng sức lôi cuốn của
các tình tiết phạm tội. Sercombe (1997) cũng chỉ ra rằng bản chất ‘bị-giới-hạn-
thời-gian’ (time-limited) của các tình tiết phạm tội đã bổ sung thêm cho tính
đáng-đưa-tin của chúng, bởi ‘chất liệu’ [tức là nội dung các tình tiết này] có thể
dễ dàng bị đưa sang dạng thức trình bày tin tức. Các phóng sự điều tra liên quan
đến việc thu thập và phát biểu thông tin cách sâu sắc (intensive) cũng như việc
tìm kiếm những bài nghị luận (discourse) có thẩm quyền có thể ít được tiếp
nhận hơn so với việc thu thập tin tức từ các nguồn cơ quan chức năng như cảnh
sát.
Chú ý của các nhà nghiên cứu cũng đã chuyển sang hướng phát triển các mô
hình lý thuyết giải thích bản chất chọn lựa của tiến trình ra quyết định của giới
báo chí về phóng sự liên quan đến tội ác. Pritchard và Hughes (1997) đã nỗ lực
phát triển một mô hình như thế, định nghĩa về 4 dạng thiên lệch (forms of
deviance) được cho là sẽ lý giải được nhiều sự do dự khác nhau về việc cần đưa
tin về tội ác nào. Trong một nghiên cứu diện rộng về 100 vụ giết người ở một
bang tại Mỹ, họ tìm ra rằng chỉ báo nhất quán nhất cho tính đáng-đưa-tin chính
là [xem thử xem] liệu nạn nhân có nằm trong độ tuổi dưới 18 hay trên 62 hay
không. Các vụ giết người liên quan đến các nghi phạm hay nạn nhân da trắng,
và những vụ có nạn nhân là phái nữ, cũng được cho là đáng-đưa-tin nhất. Một
vụ giết người với nghi phạm là phái nữ lại làm giảm đi tính đáng-đưa-tin này.
Pritchard và Hughes (1997) kết luận rằng cánh nhà báo lượng giá một tình tiết
tội ác sử dụng các thông tin sẵn có, như chủng tộc, giới tính và độ tuổi, kết hợp
với nhau để đưa ra tình trạng (status) và thiên lệch văn hóa của tội ác, và chính
những dạng thiên lệch này đã quyết định tính đáng-đưa-tin cách rõ ràng nhất.
Gruenewald, Pizarro và Chermak (2009) cũng khảo sát các tiêu chí mà truyền
thông tin tức sử dụng để lượng giá tính đáng-đưa-tin của các vụ giết người xảy
ra ở Newark, New Jersey trong những năm 1997-2005. Kết quả họ có được hỗ
trợ cho luận thuyết rằng tính điển hình văn hóa (cultural typification) dựa trên
chủng tộc và giới tính là tiêu chí chính yếu của tính đáng-đưa-tin.
Phóng sự truyền thông có ảnh hưởng đến hãi sợ về tội ác không? Các kết quả
nghiên cứu liên quan đến sức mạnh của mối liên hệ giữa việc phơi nhiễm với các
phóng sự truyền thông về tội ác và nỗi sợ đối với tội ác đều bỏ lửng (Sparks,
1992). Vài chứng cứ cho rằng phóng sự truyền thông đóng vai trò quan trọng
trong việc gieo cấy nỗi sợ đối với tội ác trong lòng cộng đồng (Dowler, Romer,
Jamieson, & Aday, 2003), cho dẫu mối liên hệ này thi thoảng là yếu (Dowler,
2003) và bị quyết định bởi các yếu tố bối cảnh (Banks, 2005). Mối liên hệ giữa
việc xem TV và nỗi sợ đối với tội ác cũng đã được báo cáo [liên quan tới] các tin
tức về tội ác trên TV, nhưng không liên quan tới các phim hình sự (phim truyền
hình về tội ác) hay việc xem TV nói chung (O’Keefe & Reid-Nash, 1987).
Coleman (1993) thấy rằng các tin tức về tội ác làm gia tăng mức độ hãi sợ của
khán giả đối với thế giới rộng lớn chứ không phải đối với địa phương cạnh bên
mình. Kết quả tìm thấy ở các nghiên cứu khác cũng đã thất bại trong việc thiết
lập mối quan hệ giữa độ-bao-phủ về tội ác trên TV và nỗi sợ đối với tội ác, khi
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
các biến trùng hợp khác nhau như độ tuổi, giáo dục và thu nhập đã được kiểm
soát (về ví dụ, xem Gomme, 1986). Vài nghiên cứu cũng đã báo cáo không có
mối liên hệ giữa việc phơi nhiễm với độ-bao-phủ về tội ác trên báo chí với nỗi sợ
(như Chadee & Ditton, 2005), trong khi các nghiên cứu khác đã thiết lập được
một liên hệ đáng kể giữa chúng (như Schlesinger, et al., 1991; Williams &
Dickinson, 1993). Heath và Gilbert (1996) kết luận rằng mối liên hệ giữa việc
phơi nhiễm với truyền thông và nỗi sợ đối với tội ác sẽ mạnh hơn khi đo lường
nỗi sợ tầm mức xã hội hơn là tầm mức cá nhân hay tầm mức địa phương, và khi
đo lường nỗi sợ đối với bạo lực hơn là xác suất bị nạn nhân hóa tầm mức cá
nhân (personal victimisation).
Nhiều yếu tố có thể đóng góp cho các kết quả nghiên cứu lập lờ nước đôi này.
Weiten (1992) cho rằng nỗi sợ đối với tội ác bắt nguồn từ những tri thức cá nhân
về tội ác, bao gồm những thành tố: nhận thức, cảm xúc và hành vi. Bởi lẽ người
tiêu thụ truyền thông chủ động tiến hành việc cấu trúc ý nghĩa cho riêng mình
từ ‘vùng’ tội ác mà họ có thể tiếp cận, nên khả dĩ là có nhiều khác biệt mang
tính cá nhân về các ý nghĩa được rút ra. Williams và Dickinson (1993) cho rằng
một người sợ hãi trở thành nạn nhân là do bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bao
gồm: sự lo lắng về an toàn cá nhân mình, các kinh nghiệm trước đó về tội ác
hay bạo lực, tính khả tín của các nguồn truyền thông và các thông tin thu được
từ những người quan trọng khác. Viano (1995) ghi nhận rằng: khó mà thiết kế
các nghiên cứu có-kiểm-soát, bởi lẽ có rất ít nhóm dân số không bị phơi nhiễm
với truyền thông có thể làm nhóm đối chứng. Những khác biệt trong phương
pháp luận cũng khiến cho kết quả tìm thấy qua các nghiên cứu khó so sánh
được với nhau.
Truyền thông biểu thị những nạn nhân của tội ác như thế nào? Trong những
năm gần đây, có sự gia tăng mối lo ngại về quyền lợi của các nạn nhân trong tội
ác, cùng với sự phát triển của nhiều dịch vụ và chương trình hỗ trợ cho nạn
nhân. Một hệ lụy của việc này chính là sự chú trọng gia tăng về sự căng thẳng
giữa mối quan tâm của các nạn nhân, những người ủng hộ họ (advocates) và
truyền thông. Vấn đề quan trọng trổi lên ở đây đã làm gia tăng sự chú ý đến
việc làm sao hòa hợp được cánh báo chí vốn có trách nhiệm và tính chính xác,
với nhu cầu riêng tư, nhân phẩm và sự tôn trọng đối với các nạn nhân và gia
đình họ (Viano, 1995). Đã có một cuộc tranh luận lớn giữa truyền thông tin tức
với các nạn nhân và những người ủng hộ họ về tính thích hợp của độ-bao-phủ
truyền thông đối với các tội ác nhất định. Khi tổng quan và lượng giá về việc
minh họa và điều trị của các nạn nhân của tội ác trong các ấn bản truyền thông
và truyền thông điện tử, Viano (1995) trích ra một vài mối lo ngại bao gồm việc
xuất bản các thông tin về việc nạn-nhân-hóa trước khi thông báo cho gia đình
nạn nhân, cung cấp hồ sơ chi tiết của các nạn nhân, phỏng vấn nạn nhân
và/hoặc thân nhân tại những thời điểm không thích hợp, trình bày những mô tả
sinh động về nỗi đau đớn cùng khổ, tính không chính xác khi mô tả các nạn
nhân, đưa tin về những lời nói bóng gió không xác thực, hăm dọa hay lừa dối
nạn nhân, và cuối cùng là các phóng sự về diễn tiến điều tra. Vụ tai tiếng trong
việc xâm nhập vào đường dây điện thoại (phone-hacking) trong The News of the
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
World cho ta một ví dụ đáng buồn mới đây về các mối quan ngại như thế (xem
Muller, 2011).
Điều gì còn thiếu trong độ-bao-phủ truyền thông về tội ác? Hầu hết các phóng
sự truyền thông về tội ác đều ít chú ý tới các yếu tố xã hội vốn có thể ẩn bên
dưới việc thực hiện các hành vi tội ác và duy trì tội ác, hay tới các khả năng
phòng tránh vốn có thể theo sau những quan điểm về sức khỏe cộng đồng đối
với tội ác. Những lý giải về tội ác tập trung vào tính phi lý và bệnh lý của cá
nhân những kẻ thủ ác, hay vào tư cách thành viên của họ trong một nhóm đặc
thù nào đó, bóp méo thực tế xã hội của tội ác và làm trệch hướng chú ý khỏi các
lực lượng xã hội/cơ cấu vốn có tác động lên tội ác và tình trạng phạm tội. Việc
tận dụng các nguồn từ phía cảnh sát như những nhà cung cấp thông tin chính về
tội ác cũng có nghĩa là quan điểm của cảnh sát về tội ác đã được đặt ưu tiên, và
giải pháp cảnh sát đưa ra dễ được đề xướng hơn (Fishman, 1981). Các phản ứng
theo trật tự và luật lệ truyền thống có khuynh hướng được tái xác nhận như
phương cách hữu hiệu nhất để quản lý các vấn nạn về tội ác (Sacco, 1995). Độ-
bao-phủ [thông tin] tập chú vào cảnh sát thế này (police-focused coverage) đã
thu hẹp các ‘tham biến’ (parameters) của các cuộc thảo luận và tranh cãi về vấn
nạn tội ác cũng như các phương pháp thay thế khác để kiểm soát nó (Ericson,
1991). Sự phát triển các giá trị giải trí (entertainment value) của phóng sự tội ác
và những ràng buộc đặt lên vai cánh báo chí điều tra (investigative journalism)
cũng kéo theo hệ quả là sẽ chỉ có những khoảng trống cực kỳ giới hạn trên các
bản tin dành cho việc trình bày các yếu tố nhân quả, hay các yếu tố xã hội liên
hệ tới những tội ác được đưa tin mà thôi.
Hơn hai thập kỷ qua, đã có sự gia tăng chú ý nơi các nghiên cứu đối với bạo lực
như một vấn đề về sức khỏe cộng đồng, tương đương với các vấn đề sức khỏe
khác như ung thư hay bệnh tim. Cách tiếp cận này điều tra sự tương tác giữa
nạn nhân, tác nhân của chấn thương và tử vong, với môi trường, để giúp xác
định các yếu tố nguy cơ và phát triển các phương pháp phòng tránh hành vi
(Stevens, 1998). Cách tiếp cận về sức khỏe cộng đồng như thế sẽ khiến cho sự
nhấn mạnh thay đổi từ việc cưỡng chế luật lệ sang một hướng khác, liên quan
tới tội ác bạo lực như [một biến] có thể tiên đoán và phòng tránh được.
Trong một nghiên cứu của Dorfman, Woodruff, Chaver và Wallack (1997), chỉ 1
trên khoảng 1800 tình tiết tin tức trên TV (từ 214 giờ đồng hồ tin tức trên TV địa
phương) ở Mỹ có sử dụng kết cấu về sức khỏe cộng đồng (public health frame)
cách minh nhiên. Dorfman et al. (1997) cho rằng nếu hầu hết các nguồn tin tức
phổ thông tiếp tục đưa tin về bạo lực và tội phạm chủ yếu cách ly khỏi bối cảnh
xã hội, thì cơ hội để những hỗ trợ đối với các giải pháp về sức khỏe cộng đồng
được lan rộng sẽ bị suy giảm nghiêm trọng. Stevens (1998) cũng suy xét về sự
chuyển đổi (shift) theo cách mà cánh nhà báo sẽ đưa tin về tội ác quay sang
hướng nhấn mạnh hơn về khía cạnh phòng tránh và sức khỏe cộng đồng.
Stevens, Dorfman, Thorson và Houston (1998) đề xướng một Dự án Phóng sự
về bạo lực ở Mỹ (U.S. Violence Reporting Project), cung cấp cho cánh nhà báo
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
những đề xuất về cách thức trình bày các vụ bạo lực trong bối cánh một lối tiếp
cận về sức khỏe cộng đồng. Những đề xuất này bao hàm các tập hợp các dữ liệu
từ một vài chuyên ngành; các tập hợp dữ liệu này sẽ cho phép các phóng sự về
tội ác tính đến bối cảnh của các tội ác bạo lực, các yếu tố nguy cơ, và các phóng
sự theo sát hậu quả của tội ác, bao gồm cả phí tổn (costs) cho cộng đồng.
5.3. Kết luận (Conclusions)
Cho dẫu các nghiên cứu của Úc về đề tài này là khá khan hiếm, nhưng mối lo
ngại rằng truyền thông đã đưa ra cái nhìn méo mó về số lượng và thể loại tội ác
trong cộng đồng dường như có căn cứ chính đáng (well-founded). Rõ ràng là cả
số lượng tội ác và số lượng bạo lực bao hàm trong đó đều đã bị thổi phồng quá
mức. Truyền thông cũng đã đưa ra bức tranh méo mó về những người có khả
năng là kẻ thủ ác và là nạn nhân – ‘hiện tượng Jill Meagher’ ở Melbourne năm
2012 là một trường hợp điển hình (xem Stephens, 2012). Truyền thông là nguồn
thông tin chính yếu của công chúng về những vấn đề này, do đó, dường như
những biểu thị sai lạc này phải có trách nhiệm đối với những tri nhận sai lạc
cách minh nhiên trong cộng đồng về mức độ và bản chất của tội ác, như lý
thuyết gieo cấy đã dự đoán trước (xem phần 2.1)
Việc nghiên cứu về tác động trực tiếp của truyền thông lên thái độ công chúng,
như nỗi sợ đối với tội ác và những phản ứng thích hợp với nó, thì còn khó hơn
nữa. Tuy nhiên, kết cấu thông thường của các tình tiết tội ác có xu hướng đặt ưu
tiến một số cách diễn giải hơn so với những cách khác. Chỉ chấp nhận các tiêu
chí hạn hẹp của ‘tính đáng-đưa-tin’ không những dẫn đến một tiến trình nặng
tính chọn lựa về việc quyết định xem cái nào nên bao quát (cover) [tức là nên
đưa tin] và cái nào không, mà còn dẫn tới sự thiếu chú ý đến các yếu tố nguyên
nhân trong bối cảnh xã hội hoặc đến hàng loạt các lựa chọn trong việc phản ứng
lại vấn đề [xảy ra]. Một cách tiếp cận rộng hơn, toàn diện hơn, đặt ưu tiên hơn
cho độ bao phủ thông tin như thế có thể tạo điều kiện cho những suy xét về các
phản ứng phòng tránh khả dĩ hay các phản ứng liên quan đến sức khỏe cộng
đồng đối với vấn đề tội ác.
6. Biểu thị truyền thông về các bệnh tâm thần (Media representations of
mental illness)
6.1 Đâu là các mối quan ngại? (What are the concerns?)
Những người có bệnh tinh thần đã được minh họa cách nhất quán trên truyền
thông như những đối tượng bạo lực, không đoán được và nguy hiểm (Mindframe
2012; Wahl, 2003; Coverdale, Nairn, & Claasen, 2002). Điều này đã được chỉ ra
cách đặc biệt trong trường hợp tâm thần phân liệt (schirzophrenia), với trầm
cảm là vấn đề được đưa tin cách xác thực và đáng thông cảm nhất về bệnh tâm
thần (Mindframe 2012). Mindframe cho rằng kết cấu chung của những minh họa
này chính là sự phân tách giữa ‘chúng ta với họ’ (‘us versus them’ dichotomy),
với rất ít những phóng sự bao gồm các mẩu chuyện về ngôi thứ nhất [như
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
người] có bệnh lý. Nghiên cứu của Thornton và Wahl (1996) cho rằng các phóng
sự truyền thông tiêu cực góp phần vào những thái độ tiêu cực đối với những
người có bệnh tâm thần. Thú vị là họ cũng tìm ra rằng việc bao gồm các thông
tin chính xác về việc các tội ác bạo lực xảy ra tương đối hiếm trong số những
người bị bênh tâm thần lại làm giảm nhẹ những ảnh hưởng tiêu cực này. Trái lại,
Wahl và Lefkowits (1989) tìm thấy rằng một ‘trailer’ (đoạn phim ngắn quảng cáo
một phim mới) đúng đắn không làm thay đổi gì thái độ của khán giả. Mối lo ngại
thứ hai được bộc lộ ra xoay quanh các biểu thị truyền thông về bệnh tâm thần
chính là: các phóng sự về tự sát, giết người và các hoạt động phạm tội sẽ dẫn
tới việc bắt chước hay hành vi nhái lại nơi người khác (Coleman, 2004). Với sự
xuất hiện của truyền thông xã hội, người ta đã nhấn mạnh rằng ‘sự lây lan
truyền thông’ (media contagion) có thể xảy ra, với các mẩu tin ‘như virus’ lan
tràn (going viral) khắp thế giới chỉ trong một khoảng thời gian ngắn mà thôi.
6.2 Đâu là những chứng cứ? (What is the evidence?)
Truyền thông minh họa bệnh tâm thần trong tương quan với các hành vi tội ác
như thế nào? Gần đây, vấn nạn về việc liệu những người có bệnh tâm thần
trong thực tế có dễ gây ra tội ác bạo lực hơn những người không có bệnh hay
không đã trở thành trọng tâm của các nghiên cứu (Fazel & Gran, 2006), và điều
này được khảo sát thường xuyên nhất trong mối liên hệ với bệnh tâm thần phân
liệt. Một bản tổng quan của Levey và Howells (1994) đề xướng rằng những
người khác, tức các phân nhóm đông đảo hơn, nhất là những người lạm dụng
chất và rượu bia, là những hung thủ phổ biến hơn của các tội bạo lực. Mullen
(1998) kết luận rằng tỷ lệ gây án của những người nam bị tâm thần phân liệt
mà không lạm dụng chất chỉ khoảng tương đương với tỉ lệ gây án chung chung
của những thanh niên nam khác không có tiền sử lạm dụng chất mà thôi. Các
nghiên cứu gần đây hơn xác nhận những kết quả này, mối liên hệ liên tưởng
giữa bệnh tâm thần phân liệt với tội ác bạo lực phần nào được lý giải bởi việc gia
tăng lạm dụng chất (Fazel, Langstrom, Hjern, Grann, Lichtenstein, 2009). Việc
biểu thị thái quá về những người bị tâm thần phân liệt trong các phóng sự
truyền thông về tội ác có lẽ phần nào vì họ dính dáng đến các tội ác bất thường
hay kỳ quặc hơn, mà truyền thông dễ đưa tin hơn, do đó lại củng cố định kiến
của công chúng rằng những người bị tâm thần phân liệt là nguy hiểm.
Liệu truyền thông có đóng vai trò gì trong hành vi ‘nhái lại’ (‘copycat’ behavior)
hay không? Mặc dù vài nghiên cứu đã không tìm thấy mối liên hệ đáng kể giữa
hành vi tự sát với phóng sự về tự sát, nhưng những nghiên cứu khác đã chỉ ra
rằng số lượng người tử vong do tự sát ghi nhận được đã gia tăng sau những
phóng sự truyền thông về tự sát, nhất là khi phóng sự đưa tin chi tiết về cách
thức thực hiện việc tự sát (modus operandi) (Yang et al 2013, Hassan, 1996).
Joo, Kim, Ho, Yun & Lee (2012) tìm ra rằng tỉ lệ tự sát cao nhất xảy ra sau các
phóng sự truyền thông về tự sát và rằng ‘kích cỡ’ của ảnh hưởng này tỉ lệ với
mức độ công khai [những phóng sự đó].6 Một nghiên cứu tài liệu meta-analysis
6 (nd.) Dịch thoát nghĩa. Nguyên văn là “…the effect size was proportional to the publicity generated.”
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
của Stack (2003) về 42 nghiên cứu đã nhận thấy rằng việc tự sát ‘nhái lại’ dễ
xảy ra hơn gấp 14.3 lần nếu việc tự sát được đưa tin là của một người nổi tiếng
(celebrity), và các tình tiết thực của việc tự sát (so với các tính tiết hư cấu) có lẽ
liên quan tới các ảnh hưởng nhái lại đến hơn 4.03 lần.7 Cuối cùng, họ tìm ra
rằng những nghiên cứu dựa trên mẩu chuyện trên TV có đưa tin về hiệu ứng
nhái lại ít hơn 82% so với các nghiên cứu dựa trên các phóng sự báo chí. Một vài
nghiên cứu sợ bộ về sự lây lan truyền thông cũng đã được xuất bản liên quan
đến các địa chỉ [trang web] về tự sát và tự hủy (self-harm). Trong khi người ta
quan sát thấy rằng các bảng thông tin và các diễn đàn có thể hỗ trợ và ngăn
chặn những hành vi tự hủy đang xem xét này, vẫn có một nguy cơ rõ ràng rằng
việc mô tả và minh họa về các hành vi tự hủy có thể kích phát các tác động cảm
xúc không mong muốn đối với những ai dễ bị tổn thương (Luxton et al 2012).
Một tổng quan gần đây về các trang mạng đã cho thấy 74% trang mạng ‘nghèo’
các thông tin chính xác về bệnh tâm thần các các rối loạn cảm xúc nói chung
(Mindframe 2012). May mắn là các nghiên cứu khác chỉ ra rằng hầu hết người ta
chỉ xem internet như một nguồn thông tin không đáng tin cậy (như Lam-Po
Tang & MacKay, 2010). Các nhà nghiên cứu khuyến khích các tổ chức sức khỏe
cộng đồng sử dụng internet và truyền thông xã hội để vươn xa hơn tới những ai
cần đến cũng như cung cấp những thông tin hữu ích khác vốn không ủng hộ tự
sát hay tự hủy (Luxton et al 2012, Mindframe 2012). SANE của Úc đã phát triển
một chương trình StigmaWatch phản ánh và hành động trên những mối lo âu
cộng đồng về các mẩu chuyện truyền thông, các mẩu quảng cáo và các biểu thị
khác vốn bêu riếu người có bệnh tinh thần hay vốn có thể xúc tiến việc tự hủy
hay tự sát. Một tâm điểm quan trọng của StigmaWatch là cung cấp các phản hồi
tích cực cho truyền thông có những minh họa chính xác và có trách nhiệm về
bệnh tâm thần và tự sát (StigmaWatch 2012).
6.3 Kết luận (Conclusions)
Người ta đã chỉ ra rằng nhận thức của công chúng về những người mắc bệnh
tâm thần bị ảnh hưởng bởi các minh họa tích cực trong các bài tường thuật
(narratives) liên quan đến các cá nhân, nhất là những người nổi tiếng, đã ‘vượt
qua’ (‘come out’ with) các bệnh tâm thần8 (Nessler 2011, Mindframe 2012). Ở
Úc, các chiến dịch vận động nhận thức công chúng beyondblue9 (dùng những cá
nhân có hồ sơ lý lịch tốt mắc bệnh tâm thần) đã khiến cho trầm cảm được chấp
nhận rộng rãi hơn, với những bang tiếp nhận sự phơi nhiễm cao hơn [đối với các
7 (nd.) Nguyên văn là “A large meta-analysis by Stack (2003) of 42 studies found that copycat suicides were 14.3 times
more likely if the reported suicide was of a celebrity, and real stories of suicide (compared to fictional stories) were 4.03 times more likely to be associated with copycat effects.” 8 (nd.) Chỗ này có thể hiểu lầm nghĩa. Nguyên văn là “…in narratives concerning individuals, especially of celebrities who
have “come out” with mental illness.” Riêng chữ ‘come out’ vì để trong ngoặc nên có thể có nghĩa là ‘vượt qua’, nhưng vì giới từ ‘with’ đi kèm nên có thể mang nghĩa là “nói điều gì đó, nhất là những gì gây ngạc nhiên hay thô lỗ” (theo Oxford Advanced Learner’s Dictionary). Trong bối cảnh ở đây, nghĩa thứ nhất có lẽ phù hợp hơn, nên người dịch chọn cách dịch nghĩa này, nhưng cũng nêu ra nghĩa thứ hai để độc giả tham khảo. 9 (nd.) Beyondblue là một sáng kiến quốc gia Úc trong việc nâng cao nhận thức về lo âu và trầm cảm, cung cấp những
nguồn lực giúp khôi phục, quản lý và phục hồi đối với những vấn đề này. (beyondblue is the national initiative to raise awareness of anxiety and depression, providing resources for recovery, management and resilience – nguồn: http://www.beyondblue.org.au)
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
cá nhân có trầm cảm] cho thấy có ý thức nhiều hơn so với những bang ít phơi
nhiễm hơn đối với những điều này (Jorm et al 2007). Các bài tổng quan tài liệu
được Mindframe (2012) tiến hành đã chỉ ra rằng các chiến dịch giáo dục truyền
thông đại chúng về bệnh tinh thần có thể hữu ích trong việc chống lại sự bêu
riếu và thông tin sai lạc trong phạm vi công chúng. Các nguồn tư liệu và thước
phim tài liệu về sức khỏe tâm thần trên nền tảng web, nhất là những nguồn liên
quan đến các trình bày (accounts) cá nhân ở ngôi thứ nhất về bệnh tâm thần,
được cho là đặc biệt hữu ích. Người ta cũng đề xướng rằng các chuyên gia về
sức khỏe tâm thần, như các nhà tâm lý học, nên làm việc chặt chẽ với truyền
thông về những mẩu chuyện liên quan đến bệnh tâm thần, và đặc biệt các nhóm
khách hàng tiêu thụ truyền thông có thể cung cấp các bài tường trình ở ngôi thứ
nhất cần để đấu tranh với nạn bêu riếu (Mindframe 2012). Những nguyên tắc
chỉ đạo cho phóng sự truyền thông ở Úc nhờ Mindframe mà đã có hiệu lực, đề
nghị rằng các ‘nhãn’ (labels) phải bị giảm đến mức tối thiểu thông qua việc nhấn
mạnh rằng ai đó ‘có chứng tâm thần phân liệt’ (“has schizophrenia”) hơn là ai đó
‘là một kẻ tâm thần phân liệt’ (being a “schizophrenic”). Ở Úc, Patrick McGorry
gần đây đã đề xuất rằng tự sát nên được nói rộng rãi như một vấn đề về sức
khỏe cộng đồng trong liên hệ với bệnh tinh thần như một nhân tố góp phần vào
ý tưởng tự sát. Điều này ngược với lẽ thông thường rằng các phóng sự tự sát
nên tối thiểu đưa tin về phương tiện tự sát (Mindframe 2012). Liên quan đến các
mẩu chuyện truyền thông về bệnh tâm thần và tự sát, đã có đề nghị về số điện
thoại các đường dây hỗ trợ (helplines), ít nhất thì có lẽ đây là nguyên tắc mà
truyền thông in ấn đã chọn.
7. Biểu trị truyền thông về tính đa dạng: trường hợp của những người Úc
bản xứ và những người tị nạn (Media Representations of Diversity: The
Cases of Indigenous Australians and Refugees)
7.1 Đâu là những mối quan ngại? (What are the Concerns?)
Các nghiên cứu cho thấy rằng những người thuộc sắc tộc hay nhóm chủng tộc
trội hơn có khuynh hướng hạn chế tiếp xúc trực tiếp với những người thuộc các
nhóm chủng tộc bị xem là yếu thế hơn10 (Human Rights and Equal Opportunity
Commission [HREOC], 1991; Fowler, 1991; Meadows, 2001). Hệ quả là, nhiều
thông tin liên quan đến các nhóm yếu thế này mà những thành viên các nhóm
trội hơn có được thường là thu nhận từ luồng truyền thông chủ đạo (mainstream
media) (xem Fowler, 1991; Meadows, 2001; Jakubowicz, et al., 1994). Do đó,
có vẻ đúng là luồng truyền thông chủ đạo đóng vai trò quan trọng trong việc
định hình nhận thức công chúng về các nhóm yếu thế, bị đẩy ra bên lề xã hội
(Blackman & Walkerdine, 2001; Fowler, 1991).
7.2 Đâu là chứng cứ? (What is the Evidence?)
10
(nd.) Chữ “marginalized” có thể hiểu là “yếu thế hơn, không quan trọng”, nhưng cũng có thể hiểu là “bị cách ly khỏi đà phát triển của xã hội, bị đẩy ra bên lề xã hội.” Hai nghĩa này đều phù hợp với bối cảnh. Trong báo cáo này, người dịch sẽ dùng cả hai nghĩa, tùy vào văn cảnh.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Các nghiên cứu thường xuyên thấy rằng cả những người Úc bản xứ và những
người tị nạn được biểu thị trên luồng tin tức truyền thông chủ đạo (mainstream
news media) theo những cách thức phần lớn là tiêu cực. Lấy ví dụ, cả người Úc
bản xứ lẫn người tị nạn hay những người tìm cứu tế thường được biểu thị dưới
những phương thức nhấn mạnh đến bạo lực, hành vi đe dọa, vô kỷ luật và tội
phạm tự bản chất (inherent criminality) (về ví dụ cho những nghiên cứu này,
xem Cunneen, 2001; Simmons & LeCouteur, 2009; Hollinsworth, 2005;
Meadows, 2004; HREOC, 1991; Jakubowicz, et al., 2004; Hartley & McKee,
2000; Mickler, 1992; Mickler & McHoul 1998; Sercombe, 1995; McCallum, 2007;
Windle, 2008; Marlowe, 2010; Hanson-Easey & Augoustinos, 2010; Due &
Riggs, 2011; 2012). Đặc biệt trong mối liên hệ với những người Úc bản xứ, các
nhà nghiên cứu truyền thông đã nhiều lần nhận thấy rằng những người này
thường xuyên bị ‘tội-phạm-hóa’ [đưa tin thành tội phạm] trong luồng truyền
thông tin tức chính yếu. Lấy ví dụ, Báo cáo Điều tra của Hội đồng Hoàng gia về
những cái chết của người Thổ dân bị giám sát (Royal Commission Inquiry into
Aboriginal Deaths in Custody Report (RCIADIC)) (1991) đã thấy rằng các phóng
sự về tội ác mà những người bản xứ thực hiện đã dựng nên hình ảnh về những
người Úc bản xứ như những ‘rắc rối’ (problem) và như kẻ ‘chống đối, hư hỏng
hay tội phạm’ (RCIADIC, 1991, phần 12.6.7). Báo cáo này cũng bình luận về sự
kiện rằng: nơi đâu có người bản xứ thực hiện một tội ác thì các phóng sự truyền
thông thường sẽ đưa tin về chủng tộc của kẻ thủ ác, nhưng nếu kẻ thủ ác không
phải người bản xứ thì các phóng sự ấy sẽ không đưa tin như thế. Trong khi
RCIADIC (1991) ghi nhận rằng việc phân biệt chủng tộc và tội-phạm-hóa trên
các luồng truyền thông chủ đạo dường như giảm dần qua từng năm mà báo cáo
được viết, thì gần đây hơn, Meadows (2001), Hollingsworth (2005), Jakubowicz
et al. (2004) và Due & Riggs (2011) đã lập luận rằng các vấn nạn của người bản
xứ thường chỉ được đưa tin11 nếu họ có mang yếu tố phạm tội. Những kết quả
này được hỗ trợ bởi Simmons & LeCouteur (2009) trong nghiên cứu liên quan
đến 2 cuộc bạo động (riots) ở Úc (một dính tới người Úc bản xứ, và một thì
không). Nghiên cứu này thấy rằng những người Úc bản xứ bị biểu thị là có các
thuộc tính bền vững khiến họ hành xử bạo lực, trong khi những người Úc không
phải bản xứ lại được thấy là có khả năng ‘thay đổi’. Các vấn đề tương tự cũng
được Goodall (1993) và Morris (2005) nhận thấy trong nghiên cứu của mình về
những biểu thị truyền thông liên quan tới ‘vụ bạo động’ Brewarrina, còn
Cunneen (2007), Budarick & King (2008) và Due & Riggs (2011) thì là những vụ
bạo động ở Redfern. Một ví dụ khác về những biểu thị mang nghĩa xấu về những
người Úc bản xứ trong luồng truyền thông tin tức chủ đạo chính là những biểu
thị liên quan tới việc lạm dụng tính dục trẻ em trong các cộng đồng bản xứ hẻo
lánh.
Trong khi bất kỳ phóng sự nào về lạm dụng tính dục trẻ em cũng thường có
ngôn ngữ tiêu cực, Langton (2007) lại cho rằng những biểu thị truyền thông về
lạm dụng tính dục trẻ em trong những cộng đồng người bản xứ lại cấu thành
11
(nd.) Nguyên gốc là chữ “covered”, nhưng chữ này không thể hiểu là ‘bị che đậy’, vì như thế sẽ trái với mạch văn. Thế nên, người dịch chọn nghĩa ‘bao-phủ’, trong sự tương ứng về nghĩa với các thuật ngữ ‘coverage’ ở trên, chỉ về ‘mức độ bao hàm [một nội dung nào đó] trong thông tin được minh họa’ của [một phương tiện] truyền thông.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
một dạng thức như một ‘war porn’, mà trong đó nỗi đau của những người bản
xứ bị nhại lại [theo nghĩa xấu] và “bị phô diễn (play out) trong một ‘chương
trình thực tế’ lớn qua truyền thông, nghị viện, dịch vụ công chúng và thế giới
thổ dân” (tr.1). Langton lập luận rằng: “quang cảnh tục tĩu và khiêu dâm này đã
chuyển sự chú ý ra xa khỏi các khủng hoảng trong mỗi ngày sống mà nhiều
người Thổ dân phải chịu đựng…” Nhiều nhà bình luận khác về chủ đề này cũng
giữ quan điểm đó, như Stringer (2007) đã diễn tả những hình ảnh này như
‘mang tính cách khiêu dâm’ (voyeuristic), và như Cowlishaw (2004) đã cho rằng
độ-bao-phủ truyền thông về ‘cộng đồng bản xứ rối loạn chức năng’
(dysfunctional) đã dẫn đến sự kinh hãi luân lý vốn lệ thuộc vào những định kiến
(những định kiến này giúp đơn giản hóa các vấn đề phức tạp). Còn về những
người tìm cứu tế (asylum seekers), tài liệu đã chứng minh rõ rằng nhiều phản
ứng mà truyền thông dành cho những người này ở Úc, nhất là những người đến
bằng thuyền bè, mang đặc điểm sợ hãi và kinh hoàng (xem Saxton, 2003;
Pickering, 2001; O’Doherty & LeCouteur, 2007; O’Doherty & Augoustinos, 2008;
Klocker & Dunn, 2003). Lấy ví dụ, Pickering (2001) cho rằng độ-bao-phủ truyền
thông [tức là việc đưa tin] về những người tìm cứu tế thường xem những người
này như là một ‘rắc rối’ (problem), và Mares (2001) nói rằng những người tìm
cứu tế đến bằng thuyền bè ở Úc thường bị dán nhãn là ‘khủng hoảng’ (crisis).
Trong thực tế, các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng những thuật ngữ được
dùng phổ biến trong giới truyền thông khi mô tả những người tìm cứu tế và
những người tị nạn nhằm cố phân loại nhóm người này như lệch lạc, tội phạm,
hay hạ nhân (sub-human), nhất là quy chiếu đến tính vô luật [mà người ta] cho
là có ở họ bằng những thuật ngữ như “dân nhập cư bất hợp pháp’ (‘illegal
immigrants’), ‘những kẻ vô luật’ (illegals) hay ‘những kẻ nhảy hàng’ (queue
jumpers) (O’Doherty & LeCouteur, 2007; Saxton 2003). Như Every (2006) và
Every & Augoustinos (2007; 2008) chỉ rõ, những thuật ngữ tiêu cực này vận
hành để che giấu sự thật rằng trong nhiều trường hợp, đây là những người trốn
lánh đe dọa, mà [người ta] xem họ như chính mối đe dọa, qua đó mà biện chính
cho những can thiệp trừng trị nhẫn tâm. Cùng với những biểu thị tiêu cực lan
tràn về những người tìm cứu tế, các nghiên cứu trước đó cũng nhấn mạnh sự
thật này là: luồng truyền thông chủ đạo hiếm khi nêu lên tiếng nói của những
người tìm cứu tế này (Due, 2008). Lấy ví dụ, Pickering (2001) quan sát thấy
rằng tiếng nói của những người tìm cứu tế hầu như hoàn toàn vắng mặt trong
phân tích của cô về các bản tin khoảng cuối thập niên 1990, và nghiên cứu của
Klocker & Dum (2003) về độ-bao-phủ truyền thông liên quan tới những người
tìm cứu tế và những người tị nạn năm 2000-2001 cũng ghi nhận sự thiếu vắng
này. Hoenig (2009) cũng tìm thấy kết quả tương tự trong phân tích của mình về
luồng truyền thông chủ đạo ở Úc, trong phân tích đó, thậm chí cả những hình
ảnh tích cực của những người tìm cứu tế cũng hiếm khi bao hàm tiếng nói của
chính họ. Những biểu thị tiêu cực về những người tìm cứu tế thậm chí còn lan ra
tới những người đã từng công nhận tình trạng tị nạn của mình mà giờ đây đã là
công dân Úc. Nhiều nghiên cứu trong lãnh vực này đã tập trung vào sự tội-
phạm-hóa của những người nhập cư và tị nạn đến từ vùng Trung Đông (e.g.,
Pugliese, 2003; Osuri, 2006; Collins, Noble, Poynting & Tabar, 2000); tuy nhiên,
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Marlowe (2010) cũng đã xem xét trường hợp những người tị nạn đến từ Sudan,
cho rằng có sự hiềm thù tiềm ẩn đối với những người tị nạn trên luồng truyền
thông chủ đạo, cùng với một “sự mê hoặc khiêu dâm với những sang chấn”
(tr.9) (“voyeuristic fascination with trauma”). Marlowe lập luận rằng truyền
thông cung cấp những ký hiệu nhận diện về đời sống của những người tị nạn
đến từ Sudan, các ký hiệu này bị đóng khung đơn thuần trong những hạn từ như
‘nghèo khổ’, ‘xung đột’ và ‘bạo lực’, mà không chân nhận tính phức tạp và
những trải nghiệm khác nhau của những người đã di cư đến Úc. Những kết quả
này cũng lặp lại trong Windle (2008), cho rằng những người đến từ các quốc gia
Phi Châu thường được biểu thị tại Úc như đến từ một ‘nền văn hóa bạo lực’, do
đó càng dẫn tới những định kiến sâu sắc hơn về châu Phi như nếp sống bộ lạc
(tribal) và ‘bị chiến tranh xâu xé’ (‘war-torn’).
7.3 Kết luận (Conclusions)
Nói tóm lại, những phân tích về truyền thông đã nhận thấy rằng những người Úc
bản xứ thường được biểu thị như những người ‘bạo-lực-tự-trong-máu’
(inherently violent) và như những người nghiện rượu, rằng những người này
thường xuyên bị coi là phải chịu trách nhiệm đối với bạo lực dưới hình thức các
cuộc bạo động, và rằng những hình ảnh về tính dục và các hình thức lạm dụng
khác trong các cộng đồng bản xứ bị sử dụng nặng tính cách khiêu dâm trên
truyền thông theo lối tạo nên một ‘quang cảnh’ méo mó về các cộng đồng bản
xứ và đời sống những người bản xứ. Tương tự, các nghiên cứu trước đó liên
quan đến những biểu thị của luồng truyền thông chủ đạo về những người tìm
cứu tế cũng đã tìm thấy rằng họ bị hạ nhân phẩm qua những tham chiếu về
‘tính-bất-chân-thực’ [mà người ta] cho là có nơi họ, và rằng họ bị biểu thị như
một ‘mối đe dọa’. Rất ít những biểu thị nhân văn được tìm thấy trong nghiên cứu
này, và những người tìm cứu tế hiếm khi được lên tiếng trong luồng truyền
thông chủ đạo, cho dẫu sự thật là họ và những di dân đã nói công khai về tình
cảnh họ bị đối xử cũng như kinh nghiệm của chính mình (về ví dụ, xem Mares,
2001 và Perera, 2006). Những biểu thị đã được phác họa trên đây kéo theo
hàng loạt những gợi ý về các nhóm yếu thế bị đẩy ra bên lề xã hội, mà đặc biệt
ở đây là những người Úc bản xứ và những người tị nạn. Lấy ví dụ, nghiên cứu đã
nối kết tình trạng bêu riếu còn đang tiếp diễn (như được thấy trong luồng truyền
thông tin tức chính yếu) với các hậu quả tiêu cực về sức khỏe thể lý và tinh thần
(Nairn, Pega, McCreanor & Rankine, 2006), với các hệ lụy tiêu cực về mặt vật
chất như nghèo khó (Mickler, 1992), với sự sinh sôi nảy nở của chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc vốn có thể dẫn đến bách hại (Mickler, 1992; HREOC, 2004), và
với sự căng thẳng tăng cao giữa các cộng đồng với nhau (HREOC, 2004). Thêm
vào đó, đối với những người Úc bản xứ, những biểu thị như thế vận hành để
‘đảm bảo’ sự can thiệp sâu hơn của người da trắng vào đời sống của họ.
8. Những nhận định chung cuộc (Concluding comments)
Phân tích này không nhắm đến việc làm giảm uy tín của ngành công nghiệp
truyền thông. Bone (1998) nhận định rằng ‘thật kỳ lạ là nhiều người mắng nhiếc
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
truyền thông vì đã ‘định khuôn thành kiến’ (stereotyping) về các nhóm người
(như người khuyết tật, người Thổ dân hay các nhóm sắc tộc) lại không chùn
bước chút nào khi họ định khuôn thành kiến về truyền thông’ (tr.51). Với sự tập
trung quyền sở hữu các đài truyền thông chính yếu ở Úc trong tay một số khá ít
người thì thực sự có thể hiểu được việc định khuôn thành kiến này một cách nào
đó. Tuy nhiên, không có giả định nào được đưa ra ở đây với ý là mọi nhà sản
xuất truyền thông hay mọi nhà báo đều như nhau, hay hết thảy đều thất bại
trong việc biểu thị các vấn đề như bạo lực, tội ác và các nhóm sắc tộc một cách
công thẳng và chính xác. Đúng hơn, mục đích ở đây là xem xét lạii các lý thuyết
và nghiên cứu tâm lý đã có về cách thức truyền thông tác động lên đời sống
chúng ta mà thôi.
Hơn nữa, như đã lưu ý từ đầu, báo cáo này không cố gắng tổng quan những
chứng cứ về các ảnh hưởng tích cực của truyền thông trong việc cung cấp giải
trí, thông tin và giáo dục. Những vai trò này thì miễn bàn cãi rồi. Ở đây, khi
chọn chỉ tổng quan một vài lãnh vực lo ngại liên quan đến truyền thông, chúng
tôi bị thôi thúc giúp cho việc chuyển cán cân ảnh hưởng của truyền thông hướng
xa hơn về phía những tác động tích cực này, đồng thời cũng tránh khỏi những
tác động tiêu cực liên quan.
Bài tổng quan này đã minh chứng rắng, trong khi việc dẫn chứng những khuynh
hướng bao-phủ của truyền thông (có hay không phản ánh ‘thực tại’) là tương đối
đơn giản, thì việc nghiên cứu về cách thức các biểu trị truyền thông như thế
ảnh hưởng đến thái độ, giá trị và hành vi cá nhân lại khó hơn nhiều. Có thể hiểu
rằng công chúng (cả các bậc phụ huynh) và những nhà lập luật muốn có một
câu trả lời đơn giản về tác động của truyền thông. Các nhà nghiên cứu không
thể hòa hợp được bởi tính phức tạp của các vấn đề liên quan. Thật là không hữu
lý khi mong đợi một nghiên cứu đơn lẻ, hay thậm chí một cách tiếp cận nào đó,
sẽ cung cấp một câu trả lời quyết định cho các vấn nạn xung quanh sự phức tạp
này. Rõ ràng là các ảnh hưởng được xác định nhiều hơn nhiều. Ví dụ với bạo lực
trên TV, rõ ràng đây không phải trường hợp mà mọi thứ (vốn có thể được gọi
dưới cái tên ‘bạo lực TV’) sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể; cũng không phải
mọi tác động (được giả định là có hại) sẽ xảy ra trong mỗi trường hợp; hay các
ảnh hưởng sẽ xảy ra bất chấp đặc tính của khán giả hay bối cảnh lớn hơn.
Bài tổng quan cũng đã xác định nhiều lãnh vực mà cơ sở nghiên cứu vẫn chưa
đủ, nhất là những lãnh vực liên quan tới bối cảnh nước Úc. Nhìn chung, có nhiều
tài liệu về sự không tương xứng giữa thực tại và minh họa về nó trên truyền
thông. Điều này đúng ngang qua những minh họa về bạo lực, tội ác và tính đa
dạng sắc tộc, và cũng đi thẳng vào bản chất ‘chỉ sai đàng, dẫn sai lối’
(misleading) của một số mẩu quảng cáo. Tuy nhiên, trừ một phần ngoại lệ về
bạo lực truyền thông ra thì còn có những khoảng trống quan trọng trong những
nghiên cứu về tác động của sự bất tương xứng này lên khán giả. Đây có lẽ là
một vài nguyên nhân dẫn tới sự khan hiếm các nghiên cứu, nhất là vấn nạn về
việc ai sẽ đứng ra thu lợi từ nó (và do đó tài trợ cho nó). Như đã lưu ý, nhiều
yếu tố tương tác quyết định đến việc liệu việc phơi nhiễm với truyền thông đặc
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
thù nào đó có tác động đến cá nhân hay không, và cách thức của việc đó là như
thế nào, đã khiến cho nhiệm vụ nghiên cứu trở nên thật khó khăn.
Hơn nữa, truyền thông thay đổi nhanh hơn khả năng thích nghi của các nghiên
cứu, do đó sẽ luôn luôn có những vấn nạn mới để suy xét. Về lo ngại đặc biệt
thời điểm này chính là tác động của các hình thức tương tác trên truyền thông,
các hình thức liên quan tiêu biểu với mức độ bạo lực bậc cao. Việc sử dụng và
các tác động ‘bùng nổ’ của truyền thông xã hội dưới mọi dạng thức vẫn chưa
được nghiên cứu cho đủ, và nằm ngoài phạm vi của báo cáo này. Cũng vậy, hiện
tượng ‘cuồng’ (crazes) các chương trình và các nhân vật [truyền thông] vốn
thường đặt nền cho các chiến lược tiếp thị sinh lợi nhưng cũng có thể gây ra sự
căng thẳng giữa con trẻ và cha mẹ, giáo viên hay những trẻ khác, vẫn chưa
được nghiên cứu trọn vẹn (under-researched). Hiện nay chúng tôi có rất ít hiểu
biết đạt được từ nghiên cứu về hiệu lực quyến rũ (seductive efficacy) của các
chương trình như thế.
Cho dẫu có sự phức tạp rối rắm của các nghiên cứu trong lĩnh vực này, chúng tôi
vẫn cho rằng truyền thông đã là một khía cạnh trung tâm của đời sống hiện đại
đến nỗi mà các nhà tâm lý học và những vị khác không nên thoái chí trong việc
tham gia vào các nghiên cứu chất lượng cao. Ngoài ra, hết thảy những người
tiêu thụ truyền thông nên cố gắng mang lấy một hứng thú tích cực (active
interest) đối với sản phẩm mà họ đang tiêu thụ. Dưới đây, chúng tôi vạch ra một
vài đề xuất cho các nhóm với những vai trò khác nhau trong xã hội về ‘hình
dạng’ (shape) mà một hứng thú tích cực như thế nên mang lấy. Một vài khuyến
nghị có thể [đã quá] hiển nhiên, còn số ít là hoàn toàn mới. Tuy vậy, những
khuyến nghị ấy đang không được thực hiện ở mức độ hay tần số tương xứng.
Bởi chúng dựa trên các nghiên cứu tâm lý hiện tại và phản ánh những nghiên
cứu hay nhất, nên chúng tôi tin rằng thật là quan trọng để khởi phát và lặp lại
những nghiên cứu như thế.
9. Khuyến nghị (Recommendations)
Hầu như mọi thành viên trong xã hội ngày nay đều là những người tiêu thụ
truyền thông. Do đó, nhóm các khuyến nghị rộng nhất được dành để nhắm tới
tất cả chúng ta trong vai trò là những khách hàng tiêu thụ, đề xuất những cách
thức mà chúng ta có thể đóng vai trò chủ động hơn trong việc tác động đến chế
độ kiêng cữ truyền thông vốn có giá trị cho chúng ta. Một vài chủ đề được giới
thiệu ở đây, như việc giám sát, cho phản hồi, và vận động hành lang (lobbying)
lặp lại trong những khuyến nghị cho nhiều nhóm đặc thù. Trước là phụ huynh,
sau là các nhà giáo dục, được kể ra theo như những mối lo ngại và trách nhiệm
đặc thù của họ đối với trẻ em. Kế đó, khuyến nghị hướng trực tiếp đến những
người với những trách nhiệm đặc biệt hay các chuyên gia liên quan đến truyền
thông – các nhà làm chính sách cho truyền thông, các nhà làm luật và các nhà
tâm lý học. Cuối cùng, chúng tôi hướng tới một chuỗi các khuyến nghị cho chính
ngành công nghiệp truyền thông.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
9.1. Khách hàng/Người tiêu thụ (Consumers)
Có hàng loạt những hoạt động mà khách hàng truyền thông có thể thực hiện –
như giám sát và kiểm duyệt các chương trình; than phiền với các đoàn thể điều
hành và ngành công nghiệp truyền thông về các chất liệu và chính sách mà họ
không tán thành, và khen ngợi những chính sách mà họ thích; tẩy chay những
chương trình hay các đài phát thanh truyền thông nào đó và tham gia hay ủng
hộ các nhóm vận động hành lang.
1). Giám sát (monitoring):
Thường thì chúng ta xem TV và các phương tiện truyền thông khác mà không đủ
chú ý chặt chẽ đến các mẫu lặp đi lặp lại trong ‘chất liệu’ được trình bày. Chúng
có khả năng đã bị ảnh hưởng bởi các tiến trình nêu bật ở Phần 2 – gia giảm độ
nhạy cảm với bạo lực truyền thông qua tiến trình ‘gây tê cảm giác’, và khuynh
hướng cho rằng truyền thông tác động lên người khác chứ không phải lên chính
chúng ta, như đã đề cập ở giả thuyết về hiệu ứng người-thứ-ba. Các khía cạnh
có vấn đề của chất liệu truyền thông có thể dễ dàng thoát khỏi chú ý của chúng
ta. Bằng việc giữ các danh sách kiểm kê (checklists) đơn giản về các khía cạnh
chọn lọc về chương trình truyền thông, chúng ta có thể nâng cao ý thức và thu
thập các thông tin có giá trị để hướng đạo cho những hành động và quyết định
tương lai của chúng ta. Do đó, chúng tôi khuyến nghị rằng khách hàng nên giám
sát mọi dạng thức chương trình mà họ xem (bao gồm cả tin tức, thời sự, phim
dài tập, thể thao và các mẩu quảng cáo) để xác định:
Số lượng và bản chất của các hành động bạo lực được minh họa;
Cách thức mà tội ác và các tội phạm được minh họa, bao gồm cả việc liệu
hàng loạt những lý do và giải pháp đối với tội ác có được khảo sát hay
không, liệu các loại tội ác và tội phạm đặc thù có được biểu thị quá mức
hay dưới mức hay không, và liệu bản chất chung của các minh họa có
phản ánh chính xác mức độ tội ác trong cộng đồng hay không;
Cách thức các nhóm sắc tộc được minh họa, bao gồm cả tần số xuất hiện
của các thành viên trong những nhóm này, vai trò mà họ xuất hiện, và
cách thức xung đột giữa các nhóm được biểu thị; và
Thời lượng và bản chất của các mẩu quảng cáo, nhất là những mẩu quáng
cáo trực hướng đến trẻ em, chú trọng đến việc liệu chúng có đang chỉ sai
đàng, dẫn sai lối hay khuyến khích các hành vi và giá trị đáng hay không
đáng ngưỡng vọng hay không.
2). Cho phản hồi (Providing feedback):
Truyền thông và các đoàn thể điều hành (regulatory bodies)12 đáp ứng lại đòi
hỏi của khách hàng. Do đó chúng tôi khuyến nghị rằng khách hàng bày tỏ quan
điểm của mình bằng những than phiền trực tiếp về các lãnh vực chương trình ở
trên, và khen ngợi những chương trình tốt, đến các nhà cầm quyền điều hành
(như Australian Communications and Media Authority) cũng như đến các đài
12
(nd.) Xem lại cước chú số 2 ở trên.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
phát thanh có liên quan. Chi tiết liên hệ đối với một vài tổ chức có liên quan
được cung cấp trong Phần 9.
3). Tẩy chay (Boycotting):
Số lượng khán giả xem đài là động lực thúc đẩy mạnh mẽ trong việc xác định
nội dung truyền thông. Do đó chúng tôi khuyến nghị các khách hàng hoàn thiện
điều này với những phản đối của mình về các chất liệu chương trình bằng cách
tẩy chay các chương trình liên quan và thông báo cho các đài liên quan biết về
hành động của mình.
4). Vận động hành lang (Lobbying):
Các nhóm thường có thành tựu lớn hơn nhiều cá nhân hoạt động độc lập; điều
này cũng giảm các nỗ lực đòi buộc đối với bất kì cá nhân nào. Do đó chúng tôi
khuyến nghị rằng khách hàng tham gia các nhóm hành lang và/hay các nhóm
hỗ trợ hành động vì những chương trình truyền thông chính xác và hữu ích hơn,
như những chương trình được liệt kê ở phần 9; hoặc tự lập nhóm cho riêng
mình.
9.2. Các bậc phụ huynh (Parents)
Ngoài các hoạt động đã nêu ở phần 8.1, còn một vài hoạt động đặc thù mà các
bậc phụ huynh có thể thực hiện để giúp bảo đảm cho con cái họ có những trải
nghiệm tích cực về truyền thông.
1). Giám sát và đặt giới hạn (Monitoring and setting limits):
Với những chứng cứ về các ảnh hưởng tiêu cực tiềm tàng lên con trẻ qua việc
xem một vài chất liệu truyền thông, đặc biệt là các chất liệu nặng tính bạo lực,
các bậc phụ huynh cần đảm đương trách nhiệm kiểm soát thói quen xem của
con mình, như họ nên làm đối với bất kỳ hoạt động nguy hại tiềm tàng khác
(như đạp xe mà không đội nón bảo hiểm chẳng hạn). Do đó chúng tôi khuyến
nghị rằng các bậc phụ huynh nên bảo đảm rằng họ biết con mình đang xem gì,
và đặt ra cũng như củng cố các luật lệ rõ ràng về thời lượng và bản chất/thể loại
chương trình mà chúng xem. Họ cũng nên ý thức về loại trò chơi điện tử nào mà
trẻ được chơi và loại nội dung nào mà trẻ có thể tiếp xúc trên internet.
2). Chia sẻ và thảo luận (Share and discuss):
Một trong những kết quả quan trọng nhất trong những nghiên cứu về ảnh hưởng
của truyền thông lên trẻ em chính là những ảnh hưởng tiêu cực có thể được
phòng tránh hay giảm mạnh nếu đứa trẻ có cơ hội chia sẻ việc xem truyền hình
của chúng với một người lớn, và [đôi bên] thảo luận có phê phán về cái đang
xem. Chúng tôi khuyến nghị rằng khi con trẻ đang xem TV hay DVD, cha mẹ
nên cố gắng xem với chúng bao nhiêu có thể, và khuyến khích chúng lượng giá
có phê phán điều chúng xem. Cùng xem với trẻ là điều quan trọng, thậm chí đối
với các chương trình thiếu nhi, khi nhiều mẩu quảng cáo hướng trực tiếp đến
chúng.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
3). Khuyến khích các hoạt động thay thế khác (Encourage alternative activities):
Trong khi việc xem TV rõ ràng là có một vị trí quan trọng trong đời sống con trẻ,
thì hiện nay có rất ít chương trình chất lượng cao dành cho chúng, và việc xem
TV không nên làm đứa trẻ quên đi việc tham gia vào các thú vui năng động và
sáng tạo hơn. Xem TV thường là ‘lựa chọn dễ dãi’ khi con trẻ không thể ngay lập
tức nghĩ đến điều gì khác để làm. Do đó chúng tôi khuyến nghị các bậc phụ
huynh giúp đứa trẻ tìm kiếm các hoạt động thú vị, lôi cuốn và phi bạo lực khác
thay thế việc xem TV. Trong số này, việc tham gia vào các hoạt động thư giãn
thoải mái với cha mẹ và các thành viên khác là quan trọng. Việc cung cấp những
hoạt động thay thế như thế có lẽ hiệu quả hơn việc nhờ vào các ‘sửa chữa’ công
nghệ (technological ‘fixes’) (như kiểu ‘V-chip’ chặn trẻ truy cập các trang mạng).
Khuyến nghị tương tự này cũng thay thế cho việc sử dụng rộng rãi các trò chơi
điện tử, bởi các trò chơi này có thể bị cha mẹ sử dụng như đường tắt để thay thế
các hoạt động giải trí sáng tạo khác. Cuối cùng, mặc dù internet rõ ràng là một
nguồn thông tin quan trọng, nhưng nó không thể thay thế các hoạt động đòi hỏi
sức khỏe thể lý và tính liên vị vốn tạo điều kiện cho các yếu tố quan trọng trong
sự phát triển của một đứa trẻ.
9.3. Các nhà giáo dục (Educators)
1). Việc giáo dục truyền thông (Media education):
Truyền thông rõ ràng đóng vai trò nổi bật trong đời sống chúng ta. Nghiên cứu
chỉ ra rằng ảnh hưởng của truyền thông lên thái độ và hành vi được trung hòa
bởi cách thức bạn xem đài diễn giải và cấu trúc điều họ xem. Do đó, thật khẩn
thiết là khách hàng phải có khả năng phân tích và lượng gia điều họ xem. Do đó
chúng tôi khuyến nghị rằng việc giáo dục truyền thông nên chiếm một phần
quan trọng việc giáo dục mỗi đứa trẻ. Chương trình giáo dục truyền thông nên
được phát triển và phổ biến rộng rãi trong các trường tiểu học và trung học cơ
sở. Một yếu tố chủ chốt của những chương trình như thế nên là việc cung cấp
các kỹ năng giám sát và phân tích nội dung truyền thông theo những chiều kích
được thảo luận ở đây (như nhận ra rằng truyền thông minh họa một thế giới đã
bị cấu-trúc-hóa hơn là một thế giới ‘thật’, hay như đánh giá minh họa về bạo
lực, tội ác và tính đa dạng sắc tộc, và lượng giá độ chính xác và các giá trị ngầm
ẩn phía sau các mẩu quảng cáo). Những chương trình ấy cũng nên thăng kiến
các kỹ năng truyền đạt quan điểm cách hữu hiệu đối với các nhà điều hành
truyền thông và ngành công nghiệp truyền thông. Những kỹ thuật mới đã khiến
cho việc giáo dục truyền thông trở nên khả dĩ trong việc tích hợp hoạt động làm-
truyền-thông cách chủ động (active media-making).
2). Việc phát triển nghề nghiệp (Professional development):
Để trình bày giáo dục truyền thông cho sinh viên của mình (dù là các khóa giáo
dục truyền thông được thiết kế chính quy hay khi được tích hợp vào các khóa
học khác), thì chính bản thân các giáo viên cần có những kỹ năng truyền thông
tốt. Do đó chúng tôi khuyến nghị rằng các hội nghị chuyên đề và các khóa phát
triển nghề nghiệp luôn sẵn có cách rộng rãi cho các giáo viên, và rằng các giáo
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
viên nên tham dự các khóa này để gia tăng kỹ năng truyền thông của chính
mình.
3). Mô hình hóa (Modelling):
Bởi mô hình hóa là một phương pháp giảng dạy hữu hiệu, nên chúng tôi khuyến
nghị rằng các giáo viên nên sử dụng truyền thông như một công cụ dạy học, và
dùng nó để mô hình hóa và khuyến khích việc xem truyền hình có phản tỉnh và
phê phán.
4). Việc điều hướng chú ý (Directing attention):
Chúng tôi khuyến nghị rằng các giáo viên ở mọi bậc học, từ nhà trẻ đến trung
học cơ sở, sử dụng tầm ảnh hưởng và gương mẫu của chính mình để thu hút sự
chú ý của trẻ và phụ huynh đến các truyền thông thông hào hứng, phi bạo lực,
phi định kiến, cũng như biểu lộ niềm đam mê nhiệt tình của chính mình đối với
chúng.
5). Việc giáo dục truyền thông cho phụ huynh (Media education for parents):
Tầm quan trọng của bối cảnh xã hội lên hiểu biết của con trẻ về quảng cáo trên
TV và các tác động của nó nhấn mạnh sự cần thiết rằng: các bậc phụ huynh
phải có khả năng trợ giúp con trẻ trong việc lượng giá có phê phán các chất liệu
quảng cáo. Kết luận tương tự cũng được áp dụng cho bạo lực truyền thông. Do
đó chúng tôi khuyến nghị rằng cũng nên có rộng rãi việc giáo dục truyền thông
cho các bậc phụ huynh cũng như con trẻ.
9.4. Các nhà tâm lý học (Psychologists)
1). Việc nghiên cứu (Research):
Bởi lẽ việc phơi nhiễm với truyền thông ảnh hưởng đến thái độ và hành vi, nên
các nhà tâm lý học đóng vai trò chính yếu trong việc nghiên cứu về các cơ chế
xảy ra những ảnh hưởng này. Như đã lưu ý xuyên suốt báo cáo, việc các ảnh
hưởng là phức tạp thì rõ ràng rồi. Bởi sự phức tạp rối rắm này, cùng các nghị
trình chính trị liên quan, và mức độ bàn luận công chúng cao về bất cứ kết quả
nghiên cứu nào, nên nhiều nhà tâm lý học đã dự định sẽ tránh khỏi việc tiến
hành các nghiên cứu trong lĩnh vực này. Vâng, rõ là xuyên suốt báo cáo này, có
nhiều vấn nạn mà chúng ta chưa có được câu trả lời. Do đó chúng tôi khuyến
nghị các nhà tâm lý học trong bối cảnh nghiên cứu nên:
Cảnh báo các nhà tâm lý học đang tập huấn về tiềm năng nghiên cứu của
lãnh vực này ;
Xác định các lãnh vực nghiên cứu đã bị phớt lờ, và tiến hành nghiên cứu
nhắm tới chúng. Bên cạnh những lãnh vực nghiên cứu đã được xác định
xuyên suốt báo cáo này thì vẫn còn những lãnh vực khác như: Đâu là mối
liên hệ giữa bạo lực truyền thông với việc bắt nạt (bullying)? Truyền thông
tác động đến các lứa tuổi khác nhau (như người quá lớn tuổi và kẻ quá
trẻ) như thế nào? Loại giáo dục truyền thông nào là hữu hiệu nhất, ví dụ
như trong việc phát triển các thái độ có phê phán đối với quảng cáo trên
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
TV ở những lứa tuổi khác nhau, hay trong việc thay đổi các kiểu xem TV
trong gia đình?
Chuẩn bị sẵn sàng để trình bày các chứng cứ kinh nghiệm hầu có thể bác
bỏ các khẳng quyết chẳng-được-ủng-hộ rằng truyền thông không có ảnh
hưởng gì.
2). Việc thực hành tâm lý (Psychological practice):
Các lý thuyết và nghiên cứu đề xuất rằng ảnh hưởng của truyền thông dễ trở
nên phổ biến rộng khắp (như lý thuyết gieo cấy đề cập) cũng như khác biệt
đáng kể từ người này đến người khác. Thỉnh thoảng thì ảnh hưởng có thể dẫn
đến những nhận thức, cảm xúc và hành vi không-thích-nghi (non-adaptive) của
cá nhân. Do đó chúng tôi khuyến nghị các nhà tâm lý học cần tỉnh táo để nhận
ra sự ảnh hưởng của truyền thông trong ý niệm và cảm xúc của thân chủ, nhất
là giới trẻ.
3). Nhận định trước công chúng (Public comment):
Trong vai trò cộng đồng và nghề nghiệp của mình, các nhà tâm lý học thường
được hỏi về những nhận định/bình luận có căn cứ về các vấn nạn như liệu TV có
hại cho trẻ em hay không. Để hoàn thành vai trò này một cách có trách nhiệm,
chúng tôi khuyến nghị rằng các nhà tâm lý học nên:
Đồng hành với các nghiên cứu; và
Nhận ra tính phức tạp của các vấn đề mà tránh đưa ra những quả quyết
toàn cục đơn thuần.
9.5. Các nhà báo và những nhà giáo dục ngành báo (Journalists and journalism
educators)
1). Những thí dụ về phương-pháp-thực-hành-hữu-hiệu-nhất (Best-practice
examples)13:
Báo cáo này đã nhấn mạnh những phương thức mà việc trình bày của truyền
thông về các vấn nạn như bạo lực, tội ác, và tính đa dạng sắc tộc có tiềm năng
gây ra những ảnh hưởng nguy hại, bao gồm: ‘gây tê cảm giác’ đối với bạo lực,
các niềm tin phi-thực-tế về tội ác, định kiến và thành kiến, cùng các phản ứng
đơn giản thái quá đối với các xung đột và các vấn nạn xã hội. Chúng tôi chỉ rõ
rằng việc trình bày các vấn nạn này một cách phức tạp và tinh vi hơn là cần
thiết. Chúng tôi thừa nhận rằng điều này thường xung khắc với nhu cầu đã biết
về độ-bao-phủ ngắn gọn, giàu hình ảnh và ‘tác động mạnh’ (‘punchy’) về các
vấn nạn. Tuy nhiên, chúng tôi muốn nói rõ rằng việc cải thiện giáo dục sẽ thúc
đẩy một sự chuyển đổi tích cực trong các phóng sự điển hình. Do đó, như một
bước hướng tới một nền giáo dục cải thiện, chúng tôi khuyến nghị rằng một tập
hợp các thí dụ về phương-pháp-thực-hành-hữu-hiệu-nhất liên quan đến độ-bao-
phủ của các vấn nạn xã hội cần được thực hiện và sử dụng trong việc giáo dục
ngành báo. Một vài đặc tính của các thí dụ này sẽ là: tránh các phân cảnh bạo
lực quá mức, tránh việc định khuôn thành kiến về các phân nhóm đặc thù trong
13
(nd.) Xem lại cước chú số 3 ở trên.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
xã hội; trình bày các quan điểm khác nhau mà không đặt chúng tương phản
nhau; nói ra các mối lo ngại ngầm ẩn hợp lý của các đảng phái liên quan mà
không tô vẽ thêm (tức là nói ai như ‘kẻ thù’ hay ‘côn đồ’); nỗ lực phân tích các
yếu tố nguyên nhân; và đề xướng các giải pháp tiềm năng. Ngoài việc được
dùng trong huấn luyện nhập môn, chúng tôi khuyến nghị rằng tập hợp này cũng
được dùng trong các khóa phát triển nghề nghiệp dành cho các nhà báo đang
tác nghiệp nữa.
2). Huấn luyện về các vấn đề Bản xứ (Training in Indigenous issues):
Việc tránh phân biệt chủng tộc và thăng tiến hiểu biết là một vấn đề quan trọng
trong độ-bao-phủ truyền thông của những người Thổ dân và cư dân trên đảo
Torres Strait. Báo cáo của RCIADIC (1991) thấy rằng định kiến về chủng tộc
trên truyền thông mang tính tổ chức (institutional) hơn là cá nhân, và định kiến
này là do các giá trị của tin tức, các chính sách biên tập và các thông lệ thu thập
tin tức. Báo cáo trình bày một chuỗi những khuyến nghị về vai trò của truyền
thông trong việc tạo ra (creating), xác nhận/củng cố (confirming) và phủ nhận
(negating) nhận thức công chúng về người bản xứ. Đặc biệt, báo cáo khuyến
nghị rằng các khóa huấn luyện nhà báo nên bao gồm các thành tố về vấn đề
bản xứ. Chúng tôi tán thành khuyến nghị này.
9.6. Các nhà sản xuất truyền thông và ngành công nghiệp truyền thông (Media
producers and media industry)
1). Độ-bao-phủ bối cảnh xã hội (Coverage of social context):
Về việc đưa tin và thời sự, có lẽ yếu tố dễ thấy nhất chính là chính sách được
tiếp nhận đối với phóng sự của các nhà sản xuất và chủ sở hữu truyền thông.
Chúng tôi khuyến nghị nên có sự chuyển đổi trọng tâm nhấn mạnh, từ các ý
tưởng đơn thuần về ‘tính-đáng-đưa-tin’ (chú trọng đên tốc độ, sự lôi cuốn về
hình ảnh, tính đơn giản…) sang việc cam kết sẽ gia tăng độ-bao-phủ về các yếu
tố bối cảnh xã hội, hầu khán giả có thể ‘hiểu’ cách chính xác hơn về các tình tiết
của bản tin. Lấy ví dụ, các tình tiết tội ác có thể kết hợp độ-bao-phủ thông tin
về các yếu tố ngầm ẩn tiềm tàng như sự nghèo khó, sự phân biệt đối xử, phân
biệt chủng tộc, nỗi sợ hãi và thất nghiệp. Nhiều khía cạnh nên được trình bày,
thừa nhận rằng không có một ‘sự thật’ nào là có giá trị hơn hẳn mọi khía cạnh
khác.
2). Những minh họa về sự đa dạng (Portrayals of diversity):
Báo cáo tổng quan này đã chỉ ra rằng những giới hạn trong việc minh họa về các
nhóm sắc tộc và văn hóa khác nhau trên truyền thông vẫn còn tiếp diễn. Chúng
tôi khuyến nghị rằng các nhà sản xuất truyền thông phải bảo đảm việc minh họa
các nhóm sắc tộc và văn hóa phản ánh được tính đa dạng và các thế mạnh của
họ, tránh những mô tả rập khuôn định kiến và hạ giá họ. Nội dung chương trình
nên phản ánh sự đa dạng văn hóa của xã hội Úc và quốc tế, trình bày thành
viên của các nhóm văn hóa khác nhau trong hàng loạt những vai trò xã hội và
nghề nghiệp đa dạng.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
3). Nhắm đến các vấn đề xã hội (Addressing social problems):
Như đã lưu ý, báo cáo này đã chú trọng đến những nguồn lo âu liên quan đến
truyền thông, và đã không gắng tổng quan những vai trò tích cực tiềm tàng đã
biết của nó. Tuy nhiên, có một số thí dụ về việc sử dụng truyền thông để điều
chỉnh lại các vấn đề xã hội trực tiếp liên quan đến những mối lo ngại được xác
định ở đây, và cung cấp các mẫu hình về một vài cách thức đi tới. Ví dụ như, về
các mối tương quan sắc tộc, những chương trình thiếu nhi như Sesame Street
(được đặc biệt thiết kế để công kích các định kiến rập khuôn) có thể thành công
(Gorn et al., 1976). Một nghiên cứu khác của Donovan & Leivers (1993) về cuộc
vận động truyền thông đại chúng, sử dụng các mẩu quảng cáo trên TV ở
Kalgoorlie, WA, để khuyến khích các ông chủ đối xử công bằng với những người
Thổ dân.14 Người ta thấy rằng cuộc vận động đã thay đổi niềm tin cộng đồng về
tỉ lệ người Thổ dân được thuê mướn có thù lao và còn duy trì trong công việc.
Mares & Woodard (2007) tổng quan nhiều nghiên cứu, trong bối cảnh thực
nghiệm và bối cảnh tại gia, về trẻ em xem các nội dung về sự cống hiến cho xã
hội (prosocial) trên TV và phim ảnh. Họ thấy rằng TV có tiềm năng dung dưỡng
những tương tác xã hội tích cực và làm giảm gây hấn. Nhưng đáng tiếc thay, họ
cũng ghi nhận rằng những nghiên cứu về ảnh hưởng của bạo lực vẫn tiếp diễn
mau lẹ, trong khi số lượng nghiên cứu về hành vi cống hiến cho xã hội lại giảm
dần mỗi năm. Chúng tôi khuyến nghị các nhà sản xuất truyền thông và công
nghiệp truyền thông nói chúng nghiên cứu những ví dụ tích cực này và sử dụng
chúng như những chỉ dẫn cho các chương trình trong tương lai của mình.
4). Trách nhiệm đối với cộng đồng (Responsiveness to the community):
Báo cáo tổng quan này đã minh chứng bằng tư liệu rằng khách hàng tiêu thụ, kể
cả trẻ em, có khuynh hướng không thích số lượng bạo lực trên TV. Dường như
bạo lực thường được dùng như một phương cách dễ dàng để truyền dẫn hành
động và hứng thú trong các chương trình. Chúng tôi khuyến nghị rằng ngành
công nghiệp truyền thông, khi thừa nhận trách nhiệm của mình như một công
dân (corporate citizen), nên có phản hồi với các mối lo ngại cộng đồng về bạo
lực trên TV trong các chương trình hư cấu cũng như trong các tin tức thời sự,
nên lắng nghe điều trẻ thực sự biểu lộ rằng mình ưa thích hơn, và sử dụng các
nguồn phong phú những kỹ năng cững như trí tuệ của mình để sản xuất ra các
chất liệu truyền thông hào hứng không dựa dẫm vào bạo lực.
9.7. Những nhà làm chính sách và các đoàn thể điều hành (Policy makers and
regulatory bodies)
1). Sử dụng các chứng cứ nghiên cứu để định khung chính sách (Using research
evidence to frame policy):
Cho dẫu có sự phức tạp trong nghiên cứu về lĩnh vực này và nhiều lập trường
triết học khác nhau được tiếp nhận, chúng tôi cho rằng có những khuynh hướng
nhất quán trong một ‘khối to lớn’ (large body) các nghiên cứu dựa trên kinh
14
(nd.) Dịch thoát nghĩa. Nguyên văn là “Another study by Donovan and Leivers (1993) reported on a mass media campaign using TV advertisements in Kalgoorlie, WA, to encourage employers to give Aboriginal people a ‘fair go’.”
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
nghiệm, vốn có thể đưa ra chỉ dẫn cho những người làm chính sách và các đoàn
thể điều hành. Do đó chúng tôi khuyến nghị rằng những người làm chính sách
và các đoàn thể điều hành trở nên thân thuộc hơn với các nghiên cứu và dùng
chúng để định khung chính sách.
2). Thừa nhận các mối quan ngại cộng đồng (Acknowledging community
concerns):
Các chứng cứ được tổng quan trong báo cáo này cho thấy rằng thật là thích hợp
khi có những kiểm soát về một vài khía cạnh truyền thông, bao gồm bạo lực
truyền thông. Luôn luôn có mối căng thẳng giữa tự do ngôn luận và tự do chọn
lựa với sự điều chỉnh đối với các mối quan tâm tốt nhất của cộng đồng. Chúng
tôi khuyến nghị những người làm chính sách và các đoàn thể điều hành công
nhận rằng quyền tự do ngôn luận không phải là giá trị tuyệt đối, nhưng phải cân
bằng với các giá trị cộng đồng khác, ở đây là có trách nhiệm đặc biệt đối với việc
bảo vệ trẻ em, vốn đang trong tiến trình định hình thế giới quan của mình, khỏi
các truyền thông nguy hại tiềm tàng.
3). Consumer input15
Như đã lưu ý trong báo cáo tổng quan này, các bậc phụ huynh biểu lộ những
mối lo ngại đáng kể về chế độ kiêng cữ TV mà đứa trẻ được đặt vào. Do đó
chúng tôi khuyến nghị rằng nên có ‘consumer input’ vào trong nội dung chương
trình TV mà trẻ xem rộng rãi, nhất là về những giá trị và thái độ chúng biểu hiện
ra cho con trẻ. Các mối lo ngại về bạo lực trong các trò chơi điện tử và bản chất
gây nghiện của những trò chơi này cũng đang gia tăng, và chúng tôi khuyến
nghị rằng những điều này nên được xem xét trong việc điều chỉnh tính khả dụng
của các trò chơi nhất định, đặc biệt là những trò có nội dung bạo lực.
4). Chính sách quảng cáo liên quan đến trẻ em (Advertising policy regarding
children):
Chúng tôi khuyến nghị rằng nên phát triển và định thành chính sách những điều
chỉnh hữu hiệu được áp dụng cho quảng cáo trực hướng đến trẻ em. Quảng cáo
cho trẻ em không nên bao gồm nội dung dối trá, hay nội dung quá phức tạp
khiến trẻ không thể hiểu, hoặc nội dung có hại đến sức khỏe và phúc lợi của trẻ.
5). Việc phân loại và dán nhãn (Classification and labelling):
Các chính sách hướng dẫn việc phân loại và dán nhãn các chương trình truyền
thông và trò chơi điện tử là một phần tích hợp của việc bảo vệ khách hàng tiêu
thụ. Chúng tôi khuyến nghị rằng những chính sách này, như những điều khác,
nên dựa trên các chứng cứ nghiên cứu và được áp dụng, giám sát và củng cố
cách hữu hiệu.
15
(nd.) Xem lại cước chú số 4 ở trên.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Các nguồn tham khảo thêm và các tổ chức liên quan.
Các tổ chức:
The Australian Communications and Media Authority
Purple Building, Benjamin Offices, Chan Street, Belconnen ACT 2617
PO Box 78, Belconnen ACT 2616
Tel: 02 6219 5555; Fax: 02 6219 5353
Level 44 Melbourne Central Tower,
360 Elizabeth Street, Melbourne Vic. 3000
PO Box 13112 Law Courts, Melbourne Vic 8010
Tel: 03 9963 6800; Fax: 03 9963 6899; TTY: 03 9963 6948
Level 5 The Bay Centre, 65 Pirrama Road, Pyrmont NSW 2009
PO Box Q500, Queen Victoria Building NSW 1230
Tel: 02 9334 7700; Fax 02 9334 7799
Free TV Australia
First Floor, 44 Avenue Road
Mosman NSW 2088 Australia
Tel: 61 2 8968 7100; Fax: 61 2 9969 3520
[email protected]; [email protected]
Commercials Advice
Ground Floor, 44 Avenue Road
Mosman NSW 2088
Tel: 61 2 8968 7200; Fax: 61 2 9969 8147
Australian Council on Children and the Media (tích hợp với Young Media Australia)
cam kết thăng tiến các lựa chọn lành mạnh và lên tiếng mạnh mẽ hơn trong truyền
thông trẻ em. Có nhiều dịch vụ đa dạng như tổng quan về phim ảnh dành cho trẻ nhằm
hỗ trợ hướng dẫn cho phụ huynh chọn lựa.
E-mail: [email protected]
Children and Media Helpline for parents and caregivers
1800 700 357
All other inquiries including media calls
Phone: +61 8 8376 2111; Fax: +61 8 8376 2122
Mail: PO Box 447 Glenelg SA 5045
Website: http://childrenandmedia.org.au
Mindframe – National Media Initiative
Sáng kiến Truyền thông Quốc gia của Chính phủ Úc (Mindframe) nhằm khuyến khích
các biểu thị nhạy cảm, chính xác và có trách nhiệm về bệnh tinh thần và tự sát trên
truyền thông đại chúng ở Úc. Sáng kiến này bao gồm việc xây dựng mối quan hệ hợp
tác với truyền thông và các khu vực khác ảnh hưởng đến truyền thông (như các nguồn
tin tức chính yếu)
Website: http://himh.clients.squiz.net/mindframe
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Phụ lục A: Tổng quan về ảnh hưởng của bạo lực truyền thông lên
trẻ em theo năm và theo quốc gia.
Ferracuti, F. & Lazzari, R. La violenza nei mezzi di communicazione di
massa. Rome: Quaderni del Servizio Opinioni. 1968 Italy
Baker, R.K.& Ball, S.J. Mass media and violence. A staff report to the
National Commission on the Causes and Prevention of Violence.
Washington: U.S. Government Printing Office.
1969 United
States
Halloran, J.D. (Ed) The effects of television. London: Panther. 1970 Great Britain
Glucksman, A. Violence on the screen: A report on research into the
effects on young people of scenes of violence in films and television.
London: The British Film Institute Education Department.
1971 France
Gerbner, G. Violence in television drama: Trends and symbolic functions.
In G.A. Comstock & E.A.Rubinstein (Eds.) Television and social
behaviour, Vol 1. Media content and control. Washington: U.S.
Government Printing Office.
1972 United
States
Surgeon General’s Scientific Advisory Committee on Television and
Social Behaviour. Television and growing up: The impact of televised
violence. Washington: U.S. Government Printing Office.
1972 United
States
Stein, A H. & Friedrich, L.K. Impact of television on children and youth.
In E.M. Hetherington (Ed.) Review of child development research (Vol
5). Chicago: University of Chicago Press.
1975 United
States
Royal Commission on Violence in the Communications Industry. Violence
in television films and news. (Vol. 3) Toronto: Author. 1976 Canada
Greagg, L. Children and television violence – A survey of the literature.
Unicorn, 3(1), 62-68. 1977 Australia
Andison, F.S. TV violence and viewer aggression: A cumulation of study
results 1956-1976. Public Opinion Quarterly, 41, 314-331. 1977
United
States
Eysenck, H.J. & Nias, D.K.B. Sex, violence and the media. London:
Maurice Temple Smith. 1978 Great Britain
Dorr, A. & Kovaric, P. Some of the people some of the time- but which
people? In E. Palmer & A. Dorr (Eds.) Children and the faces of
television. New York: Academic Press.
1980 United
States
Lefkowitz, M.M. & Huesmann, L.R. Concomitants of television violence
viewing in children. In E. Palmer & A Dorr (Eds). Children and the faces
of television. New York: Academic Press.
1980 United
States
Busby, L.J. Research questions, methods and theoretical perspectives
represented in television content research. Paper presented to the
Annual Meeting of the Speech Communication Association, Anaheim.
1981 United
States
Pearl, D., Bouthilet, L. & Lazar, J. Television and behaviour: Ten years of
scientific progress and implications for the eighties, Vol 2: Technical
reviews (National Institute of Mental Health). Washington: U.S.
Government Printing Office.
1982 United
States
Honig, A.S. Research in review: Television and young children. Young
Children, 38(4), 63-76. 1983
United
States
Freedman, J.L. Effect of television violence on aggressiveness.
Psychological Bulletin, 96, 227-246. 1984
United
States
Murray, J.P. A soft response to hard attacks on research. Media
Information Australia, 33, 11-16. 1984
United
States
American Psychological Association. Violence on TV: A social issue
release from the Board of Social and Ethical Responsibility for
Psychology. Washington: Author.
1985 United
States
Barlow, G. & Hill, A. Video violence and children. London: Hodder &
Stoughton. 1985
United
States
Chaffee, S.H., Gerbner, G., Hamburg, B.A., Pierce, C.M., Rubinstein,
E.A., Siegel, A.E. & Singer, J.L. Defending the indefensible. Social
Science and Modern Society, 21, 30-35.
1986 United
States
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Friedrich-Cofer L. & Huston, A.C. Television violence and aggression:
The debate continues. Psychological Bulletin, 100, 364-371. 1986
United
States
Groebel, J. International research on television violence: Synopsis and
critique. In L.R. Huesmann & L.D. Eron (Eds.) Television and the
aggressive child: A cross- national comparison. Hillsdale: Lawrence
Erlbaum.
1986 United
States
Hearold, S. A synthesis of 1043 effects of television on social behaviour.
In G.L. Comstock (Ed.) Public communication and behaviour. Vol 1.
Orlando: Academic Press.
1986 United
States
Huesmann, L.R. & Eron, L.D. (Eds.) Television and the aggressive child:
A cross-national comparison. Hillsdale: Lawrence Erlbaum. 1986
United
States
Huesmann, L. R. Psychological processes promoting the relation
between exposure to media violence and aggressive behaviour by the
viewer. Journal of Social Issues, 42, 125-140.
1986 United
States
Report of the Joint Select Committee on Video Material. (Vols. 1&2).
Canberra: Australian Government Publishing Service. 1988 Australia
Singer, J.L. & Singer, D.G. Some hazards of growing up in a television
environment. In S. Oskamp (Ed.) Television as a social issue. California
Sage.
1988 United
States
Gerbner, G. Violence and terror in the mass media. (Reports and Papers
on Mass communication No 102) Paris: UNESCO. 1988 International
Australian Broadcasting Tribunal. TV violence in Australia: Report to the
Minister for Transport and Communication (Vols 1-4). Sydney: Author. 1990 Australia
Barwick, H. Research into the effects of television violence: An overview.
Paper prepared for the Broadcasting Standards Authority, New Zealand. 1990
New
Zealand
Wilson, B.J., Linz, D. & Randall, B. Applying social science research to
film ratings: A shift from offensiveness to harmful effects. Journal of
Broadcasting and Electronic Media, 34(4), 443-468.
1990 United
States
Van Evra, J. Television and child development. Hillsdale: Lawrence
Erlbaum. 1990
United
States
Atkinson, D. & Gordeau, M. Summary and analysis of various studies on
violence and television. Canada: Canadian Radio, Television and
Telecommunication Commission.
1991 Canada
Huston, A.C., Donnerstein, E., Fairchild, H., Feshbach, N.D., Katz, P.A.,
Murray, J.P., Rubinstein, E.A., Wilcox, B. & Zuckerman, D. Big World,
Small Screen: The Role of Television in American Society. Lincoln, NE:
University of Nebraska Press.
1992 United
States
Martinez, A. Scientific knowledge about television violence. Ottawa:
Canadian Radio Television and Telecommunications Commission. 1992 Canada
Television violence: Fraying the social fabric. Hull: Canadian House of
Commons Standing Committee on Communications and Culture, House
of Commons, Canada.
1993 Canada
Freedman, J. Viewing television violence does not make people more
aggressive. Hofstra Law Review, 22, 833-854. 1994
United
States
Murray, J. The impact of televised violence. Hofstra Law Review, 22,
809-825. 1994
United
States
Paik, H. & Comstock, G. The effects of television violence on antisocial
behaviour: A meta-analysis. Communication Research, 21(4), 516-546. 1994
United
States
Paik, H., & Comstock, G. The effects of television violence on antisocial
behavior: A meta-analysis. Communication Research, 21, 516–539. 1994
Josephson, W.L. Television violence: A review of the effects on children
of different ages. Ottawa: National Clearinghouse on Family Violence. 1995 Canada
Brown, M. The portrayal of violence in the media: Impacts and
implications for policy. Trends and Issues in Crime and Criminal Justice,
55. Australian Institute of Criminology.
1996 Australia
Anderson, C. A., & Bushman, B. J. Effects of violent video games on
aggressive behavior, aggressive cognition, aggressive affect,
physiological arousal, and prosocial behavior: A meta-analytic review of
2001 International
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
the scientific literature. Psychological Science, 12, 353–359.
Anderson, C. A., & Bushman, B. Human aggression. Annual Review of
Psychology, 53, 27-51. 2002 International
Anderson, C. A., Berkowitz, L., Donnerstein, E., Huesmann, L. R.,
Johnson, J., Linz, D., & Wartella, E. The influence of media violence on
youth. Psychological Science in the Public Interest, 4, 81–110.
2003 International
Anderson, C. A., & Huesmann, L. R. Human aggression: A social-
cognitive view (pp. 296-323). In M. A. Hogg & J. Cooper (Eds.), The
Sage Handbook of Social Psychology. London: Sage Publications.
2003 International
*Anderson, C. A. An update on the effect of playing violent video games.
Journal of Adolescence, 27, 113-122. 2004 International
Anderson, C. A., & Carnegey, N. L., Flanagan, M. Benjamin, A. J.,
Eubanks, J., & Valentine, J. Violent video games: Specific effects of
violent content on aggressive thoughts and behavior. Advances in
Experimental Social Psychology, 36, 199-249.
2004 International
Brown, K. D., & Hamilton-Giachritsis, C. The influence of violent and
nonviolent games on implicit measures of aggressiveness. Aggressive
Behavior, 36, 702-710.
2005 International
Anderson, C. A., Gentile, D. A., & Buckley, K. E. Violent video game
effects on children and adolescents: Theory, research, and public policy.
New York, NY: Oxford University Press.
2007 International
Ferguson, C. J. The good, the bad and the ugly: A meta-analytic review
of positive and negative effects of violent video games. Psychiatric
Quarterly, 78, 309–316.
2007 International
Sherry, J. Violent video games and aggression: Why can’t we find links?
In R. Preiss, B. Gayle, N. Burrell, M. Allen, & J. Bryant (Eds.), Mass
media effects research: Advances through meta-analysis (pp. 231–248).
Mahwah, NJ: Erlbaum.
2007 International
Savage, J., & Yancey, C. The effects of media violence exposure on
criminal aggression: A meta-analysis. Criminal Justice and Behavior, 35,
1123–1136.
2008 International
Savage, J., & Yancey, C. The effects of media violence exposure on
criminal aggression: A meta-analysis. Criminal Justice and Behavior, 35,
1123–1136.
2008 International
Ferguson, C. J., & Kilburn, J. The public health risks of media violence: A
meta-analytic review. Journal of Pediatrics, 154, 759–763. 2009 International
Anderson, C. A., Shibuya, A., Ihori, N., Swing, E. L., Bushman, B. J.,
Sakamoto, A., & Saleem, M. Violent video game effects on aggression,
empathy, and prosocial behavior in Eastern and Western countries.
Psychological Bulletin, 136, 151–173.
2010 International
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Tài liệu tham khảo
Abeles, R.P. (1980). Beyond violence and children. In S. B. Withey & R.P. Abeles (Eds.),
Television and social behaviour: Beyond violence and television (pp. 1-8). Hillsdale, NJ:
Erlbaum.
American Psychological Association. (2007). Report of the APA Task Force on the Sexualization
of Girls. Washington, DC: Author. Retrieved from www.apa.org/pi/wpo/sexualization.html
Anderson, C. A. (2004). An update on the effect of playing violent video games. Journal of
Adolescence, 27, 113-122.
Anderson, C. A., Berkowitz, L., Donnerstein, E., Huesmann, L. R., Johnson, J., Linz, D., &
Wartella, E. (2003). The influence of media violence on youth. Psychological Science in the
Public Interest, 4, 81–110.
Anderson, C. A., & Bushman, B. J. (2001). Effects of violent video games on aggressive
behavior, aggressive cognition, aggressive affect, physiological arousal, and prosocial behavior:
A meta-analytic review of the scientific literature. Psychological Science, 12, 353–359.
Anderson, C. A., & Bushman, B. (2002). Human aggression. Annual Review of Psychology, 53,
27-51.
Anderson, C. A., Carnagey, N. L., & Eubanks, J. (2003). Exposure to violent media. The effects
of songs with violent lyrics on aggressive thoughts and feelings. Journal of Personality and Social
Psychology, 84, 960-971. Anderson, C. A., & Carnegey, N. L., Flanagan, M. Benjamin, A. J.,
Eubanks,
J., & Valentine, J. (2004). Violent video games: Specific effects of violent content on aggressive
thoughts and behavior. Advances in Experimental Social Psychology, 36, 199-249.
Anderson, C. A., Gentile, D. A., & Buckley, K. E. (2007). Violent video game effects on children
and adolescents: Theory, research, and public policy. New York, NY: Oxford University Press.
Anderson, C. A., & Huesmann, L. R. (2003).
Human aggression: A socialcognitive view (pp. 296-323). In M. A. Hogg & J. Cooper (Eds.), The
Sage Handbook of Social Psychology. London: Sage Publications.
Anderson, C. A., Shibuya, A., Ihori, N., Swing, E. L., Bushman, B. J., Sakamoto, A., & Saleem,
M. (2010). Violent video game effects on aggression, empathy, and prosocial behavior in Eastern
and Western countries. Psychological Bulletin, 136, 151–173.
Australian Broadcasting Authority (1996, November). Investigation report: Agro’s cartoon
connection. Sydney.
Australian Institute of Criminology (2012). Homicide Statistics. Retrieved 10/10/12 from
http://www.aic.gov.au/statistics/homicide.aspx.
Bandura, A. (1971). Social learning theory. New York: General Learning Press.
Bandura, A. (1973). Aggression: A social learning analysis. Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall.
Bandura, A. (1986). Social foundation of thought and action: A social cognitive theory.
Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall.
Bandura, A. (1994). Social cognitive theory of mass communication. In J. Bryant & D. Zillman
(Eds.), Media effects: Advances in theory and research (pp. 61-90). Hillsdale, NJ: Erlbaum.
Bandura, A., Ross, D., & Ross, S.A. (1961). Transmission of aggression through imitation of
aggressive models. Journal of Abnormal and Social Psychology, 63, 575-582.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Banks, M. (2005). Spaces of (in)security: Media and fear of crime in a local context. Crime,
Media, Culture: An international Journal, 1, 169-187.
Barlow, M.H., Barlow, D.E., & Chirocus, T.G. (1995). Economic conditions and ideologies of
crime in the media: A content analysis of crime news. Crime and Delinquency, 41, 3-19.
Barlow, G., & Hill, A. (1985). Video violence and children. London: Hodder & Stoughton.
Bastian, B., Jetten, J., & Radke, H. (2012). Cyber-Dehumanisation: Violent video game play
diminishes our humanity. Journal of Experimental Social Psychology, 48, 486-491.
Berkowitz, L. (1990). On the formation and regulation of anger and aggression: A cognitive-
neoassociationist analysis. American Psychologist, 45, 494-503.
Blackman, L. & Walkerdine, V. (2001). Mass hysteria: Critical psychology and media studies.
Hampshire: Palgrave.
Bone, P. (1998). The role of the media in a secular democratic society. In D. Bretherton (Ed) No
longer black and white. (pp. 51-58). The University of Melbourne, Victoria: The International
Conflict Resolution Centre.
Borzekowski, D., & Robinson, T. (2001). The 30-Second effect: An experiment revealing the
impact of television commercials on food preferences of preschoolers. Journal of the American
Dietetic Association, 101, 42-46.
Brand, J.E. (2007). Television advertising to children: A review of contemporary research on the
influence of television advertising directed to children. Published by the Australian
Communications and Media Authority.
http://www.acma.gov.au/webwr/_assets/main/lib310132/tv_advertising_to_children.pdf
accessed 24 April 2013.
Bretherton, D. (Ed.) (1998). No longer black and white. The University of Melbourne, Victoria:
The International Conflict Resolution Centre.
Brown, K.D., & Hamilton-Giachritsis, C. (2005). The influence of violent and nonviolent games
on implicit measures of aggressiveness. Aggressive Behavior, 36, 702-710.
Brown, M. (1996). The portrayal of violence in the media: Impacts of implications for policy.
Trends and Issues in Crime and Criminal Justice, No. 55, June, Canberra, ACT: Australian
Institute of Criminology
Buckingham, D. (1993). Children talking television: The making of television literacy. London:
Palmer Press.
Budarick, J. & King, D. (2008). Framing ideology in the niche media: The Koori Mail’s
construction of the Redfern riots. Journal of Sociology, 44, 355-371.
Buijzen, M., & Valkenburg, P. M. (2003). The unintended effects of television advertising: A
parent-child survey. Communication Research, 30, 483- 503.
Bushman, B.J. (1998). Priming effects of media violence on the accessibility of aggressive
constructs in memory. Personality and Social Psychology Bulletin, 24, 537-545.
Bushman, B. J., & Anderson, C. A. (2009). Comfortably numb: Desensitizing effects of violent
media on helping others. Psychological Science, 20, 273–277.
Bushman, B. J., & Huesmann, L. R. (2006). Short-term and long-term effects of violent media
on aggression in children and adults. Archives of Pediatric and Adolescent Medicine, 160, 348–
352.
Cain, B., Currie, R. Danks, E., Du, F., Hodgson, E., May. E., O'Loghlen, K., Phan, Y., Powter, J.,
Rizwan, N., Shahim, S., Simsion, D., Loughnan, S., & Haslam, N. “Schizophrenia" in the
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Australian print and online news media. Psychosis: Psychological, Social and Integrative
Processes (In Press).
Calvert, S. L. (2008). Children as consumers: Advertising and marketing. The Future of Children,
18, 205-234.
Cantor, N. (1994). Fright reactions to mass media. In J. Bryant & D. Zillman (Eds.), Media
effects: Advances in theory and research (pp. 213-246). Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
Cantor, C.H., & Sheehan, P.W. (1996). Violence and media reports: A connection with
Hungerford. Archives of Suicide Research, 2, 255-266.
Carnagey, N. L., Anderson, C. A., & Bushman, B. J. (2007). The effect of video game violence on
physiological desensitization to real-life violence. Journal of Experimental Social Psychology, 43,
489–496.
Chadee, D., & Ditton, J. (2005). Fear of crime and the media: Assessing the lack of relationship.
Crime, Media, Culture: An international Journal, 1, 322-332.
Chappell, D. & Wilson, P. (eds), (1993) The Australian Criminal Justice Systems - the mid 90s,
Sydney.
Cohen, S. (1972). Folk devils and moral panics: The creation of the mods and rockers. London:
MacGibbon & Kee.
Coleman, C .L. (1993). The influence of mass media and interpersonal communication on
societal and personal risk judgments. Communication Research, 20, 611-628.
Coleman, C. L. (2004). The copycat effect: How the media and popular culture trigger mayhem
in tomorrow’s headlines. Paraview, New York, NY
Collins, J., Noble, G., Poynting, S. & Tabar, P. (2000). Kebabs, kids, cops and crime: Youth,
ethnicity and crime. Annandale, NSW: Pluto Press.
Comstock, G., & Paik, H. (1991). Television and the American child. New York, NY: Academic
Press.
Coverdale, J., Nairn, R., & Claasen, D. (2002). Depictions of mental illness in print media: A
prospective national sample. Australian and New Zealand Journal of Psychiatry, 36, 697-700.
Cowlishaw, G. (2004). Racial positioning, privilege and public debate. In A. Moreton-Robinson
(Ed.), Whitening Race (pp. 59-74). Canberra: Aboriginal Studies Press.
Critcher, C. (2003). Moral panics and the media. Open University Press.
Cunneen, C. (2001). Conflict, Politics and Crime: Aboriginal People and the Police. St. Leonards:
Allen and Unwin.
Cunneen, C. (2007). Riot, resistance and moral panic: Demonising the colonial Other. In S.
Poynting and G. Morgan, (Eds.), Outrageous! Moral Panics in Australia, (pp. 20-29). Hobart,
TAS: ACYS Publishing.
Corea, A. (1995). Racism and the American way of media. In J. Downing, A. Mohammadi, & A.
Sriberny-Mohammadi (Eds) Questioning the media: A critical introduction (pp. 255-266).
Thousand Oaks, CA: Sage. Cupit, C.G. (1986). Kids and the scary world of video: A study of
video viewing among 1498 primary school children in South Australia. Adelaide: South
Australian Council for Children’s Films and Television.
Cupit, C.G. (1987). The child audience: A guide to child development for writers and producers
of children’s television. Canberra: Australian Government Publishing Service.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Cupitt, M., Jenkinson, D., Ungerer, J., & Waters, B. (1998). Infants and television. Sydney:
Australian Broadcasting Authority.
Desmond, R. J., Singer, J. L., & Singer, D. G. (1990). Family mediation: Parental communication
patterns and the influences of television on children. In J. Bryants (Ed.), Television and the
American family. Communication (pp. 293-309). Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum Associates.
Dickinson, D. (1997). A critical literature review in the area of children’s advertising. Report for
The Australian Association of National Advertisers. Sydney: Macquarie Research Ltd.
Dietz, W.H., & Strasburger, V.C. (1991). Children, adolescents, and television. Current Problems
in Paediatrics, Jan,, 8-31.
Dodson, M. (1998). Address. In D. Bretherton (Ed.), No longer black and white. (pp. 74-82). The
University of Melbourne, Victoria: The International Conflict Resolution Centre.
Donohue, T., Hencke, L., & Donohue, W. (1980). Non-verbal assessment of children’s
understanding of television commercial content and programme market segmentation. Journal
of Advertising Research, 20, 7.
Donovan, R.J., & Leivers, S. (1993). Using paid advertising to modify racial stereotype beliefs.
Public Opinion Quarterly, 57, 205-218.
Dorfman, L., Woodruff, K., Chavez, V., & Wallack, L. (1997). Youth and violence on local
television news in California. American Journal of Public Health. 87, 1311-1316.
Dorr, A., Graves, S.B., & Phelps, E. (1980). Television literacy for young children. Journal of
Communication, 30, 71-83.
Dorr, A. (1986). Television and children: A special medium for a special audience. Beverly Hills,
CA: Sage.
Dowler, K. (2003). Media consumption and public attitudes toward crime and justice: The
relationship between fear of crime, punitive attitudes, and perceived police effectiveness. Journal
of Criminal Justice and Popular Culture, 10, 109-126.
Drabman, R., & Thomas, M. (1974).Does media violence increase children’s toleration of real-life
aggression? Developmental Psychology, 10, 419-421.
Duck, J.M., & Mullin, B.A. (1995). The perceived impact of the mass media: Reconsidering the
third-person effect. European Journal of Social Psychology, 25, 77-93.
Due, C. (2008). ‘Who are strangers?’: ‘Absorbing’ Sudanese refugees into a white Australia.
ACRAWSA e-journal 4 (1).
Due, C. & Riggs, D.W. (2011). Representations of Indigenous Australians in the Mainstream
News Media. Teneriffe, QLD: Post Pressed.
Due, C. & Riggs, D.W. (2012). The terms on which child abuse is made to matter: Media
representations of the Aurukun case. Australian Feminist Studies, 27(71), 3-18. Ericson, R.
(1991). Mass media, crime law and justice. British Journal of Sociology, 31, 219-249.
Every, D. (2006). The Politics of Representation: A Discursive Analysis of Refugee Advocacy in
the Australian Parliament. Unpublished PhD Thesis. The University of Adelaide.
Every, D. & Augoustinos, M. (2007). Constructions of racism in the Australian parliamentary
debates on asylum seekers. Discourse and Society, 18(4), p. 411-436.
Every, D. & Augoustinos, M. (2008). ‘Taking advantage’ or fleeing persecution? Opposing
accounts of asylum seekers. Journal of Sociolinguistics, 12, p. 648-667.
Fazel, S., & Gran, M. (2006). The population of severe mental illness on violent crime. American
Journal of Psychiatry, 163, 1397-1403.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Fazel, S., Langstrom, N., Hjern, A., Grann, M., & Lichtenstein, P. (2009). Schizophrenia,
substance abuse, and violent crime. JAMA, 301, 2016- 2023.
Federation of Australian Commercial Television Stations (1992). Attitudes to the media.
Mosman: FACTS
Ferguson, C. J. (2007). The good, the bad and the ugly: A meta-analytic review of positive and
negative effects of violent video games. Psychiatric Quarterly, 78, 309–316.
Ferguson, C. J., & Kilburn, J. (2009). The public health risks of media violence: A meta-analytic
review. Journal of Pediatrics, 154, 759–763.
Fields, C., & Jerin, R. (1996). Murder and mayhem in the media: Public perceptions (and
misperceptions) of crime and criminality. In R. Muraskin, & A. Roberts (Eds.), Visions for
change: Crime and justice in the twentyfirst century (Ch. 4). New Jersey: Prentice Hill Inc.
Fishman, M. (1981). Police news: Constructing an image of crime. Urban Life, 9, 371-394.
Fishman, M., & Cavender, G. (1998). Entertaining Crime: Television Reality Programs. Walter de
Gruyter, Hawthorne, New York.
Flavell, J.H. (1986). The development of children’s knowledge about the appearance-reality
distinction. American Psychologist, 41, 418-425.
Fletcher, R., & Nielsen, M. (2012). Product-based television and young children's pretend play in
Australia. Journal of Children and Media, 6, 5- 17.
Fleming, M.E. & Rickwood, D.J. (1999). Effects of violent versus non-violent video games on
children’s arousal, aggressive mood, and positive mood. Journal of Applied Social Psychology,
31, 2047-2071.
Fowler, R. (1991). Language in the news: Discourse and ideology in the press. London:
Routledge.
Freedman, J. (1994). Viewing television violence does not make people more aggressive. Hofstra
Law Review, 22, 833-854.
Garofalo, J. (1981). Crime and mass media: A selective review of research. Journal of Research
in Crime and Delinquency, 18, 319-350.
Gerbner, G., Gross, L., Morgan, M., & Signorielli, N. (1994). Growing up with television: The
cultivation perspective. In J. Bryant & D. Zillman (Eds.), Media effects: Advances in theory and
research (pp.17-42). Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
Gilliam, F.D., & Iyengar, S. (1998). The superpredator script. Nieman Reports, 52, 45-46.
Gomme, F. D. (1986). Fear of crime among Canadians: A multivariate analysis. Journal of
criminal justice, 14, 249-258.
Goodall, H. (1993). Constructing a riot: Television news and Aborigines. Media Information
Australia, 68, 70-77. 8 0 MEDIA REPRESENTATIONS AND RESPONSIBILITIES Gorn, G., &
Goldberg, M. (1982). Behavioral evidence of the effects of televised food messages on children.
Journal of Consumer Research, 9, 200-205.
Gorn, G., Goldberg, M., & Kanungo, R. (1976). The role of educational television in changing the
intergroup attitudes of children. Child Development, 47, 277-280.
Greenberg, B.S., & Brand, J.E. (1993). Cultural diversity on Saturday morning television. In G.
Berry & J.K. Asamen (Eds.), Children and television in a changing socio-cultural world. (pp.132-
142). Newbury Park, CA: Sage.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Greenberg, B.S., & Brand, J. E. (1994). Minorities and the mass media: 1970s to 1990s. In J.
Bryant & D. Zillman (Eds.), Media effects: Advances in theory and research (pp.273-314).
Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
Greenberg, B., Fazal, S., & Wober, M. (1986). Children’s views on advertising. London:
Independent Broadcasting Authority, Research Report.
Greitemeyer, T., & McLatchie, N. (2011). Denying humanness to others: A newly discovered
mechanism by which violent video games increase aggressive behaviour. Psychological Science,
22, 659-665.
Gruenewald, J., Pizarro, J., Chermak, S.M. (2009). Race, gender, and the newsworthiness of
homicide incidents. Journal of Criminal Justice, 37, 3, 262-272.
Gunter, B. (1994). The question of media violence. In J. Bryant & D. Zillman (Eds.), Media
effects: Advances in theory and research (pp. 163-211). Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
Gunter, B., & Furnham, A. (1998). Children as consumers. London: Routledge.
Gunter, B., & McAleer, J. (1990). Children and television: The one-eyed monster? London:
Routledge.
Gunter, B., & McAleer, J. (1997). Children and television (2nded.). London: Routledge.
Hans, V.P., & Dee, J.L. (1991). Media coverage of law: Its impact on juries and the public.
American Behavioural Scientist, 35, 136-149.
Hassan, R. (1996). Social factors in suicide in Australia. Trends and Issues in Crime and Justice,
no. 52, Canberrra, ACT: Australian Institute of Criminology.
Hanson-Easey, S. & Augoustinos, M. (2010). Out of Africa: Accounting for refugee policy and the
language of causal attribution. Discourse and Society, 21, 295-323.
Hartely, J. & McKee, A. (2000). The Indigenous public sphere: The reporting and reception of
Indigenous issues in the Australian media 1994-1997. New York: Oxford University Press.
Hawthorne, L. (1998). Representing difference? The Australian media soap opera in a
multicultural Australia: ‘Heartbreak High’ versus ‘Home and Away’. In D. Bretherton (Ed.), No
longer black and white. (pp. 99-103). The University of Melbourne, Victoria: The International
Conflict Resolution Centre.
Heath, L. & Gilbert, K. (1996). Mass media and fear of crime. American Behavioral Scientist, 39,
379-386.
Hodge, B. (1992). Is there a case for regulating children’s TV? Media Information Australia, 65,
70-75.
Hodge, B., & Tripp, D. (1986). Children and television. Cambridge: Polity Press.
Hovland, C.I., Janis, I.L., & Kelley, H.H. (1953). Communication and persuasion: Psychological
studies of opinion change. New Haven, CT: Yale University Press.
Hoenig, R. (2009). Reading alien lips: Accentuating the positive? An analysis of some positive
media depictions of asylum seekers. Australian Critical Race and Whiteness Studies e-journal,
5(1).from
http://www.acrawsa.org.au/ejournalFiles/Volume%205,%20Number%201,%202009/acrawsa51
4.pdf Retrieved 6 May, 2010.
Hollinsworth, D. (2005). ‘My island home’: Riot and resistance in media representations of
Aboriginality. Social Alternatives, 24(1), 16-20.
Huesmann, L. R., Eron, L. D., Lefkowitz, M.M., & Walder, L.O. (1984). The stability of aggression
over time and generations. Developmental Psychology, 20, 1120-1134.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Huesmann, L. R., & Miller, L. (1994). Long-term effects of repeated exposure to media violence
in childhood. In L. Rowell Huesmann (Ed.), Aggressive behavior: Current perspectives (pp. 153-
186). New York: Plenum Press.
Human Rights and Equal Opportunity Commission. (1991). Racist violence: Report of the
national inquiry into racist violence in Australia. Canberra: AGPS.
Human Rights and Equal Opportunity Commission. (2004). Isma – Listen: National Consultations
on Eliminating Prejudice against Arab and Muslim Australians. Sydney: Human Rights and Equal
Opportunity Commission.
Indermaur, D. (1996). Violent crime in Australia: Interpreting the trends. Trends and Issues in
Crime and Criminal Justice, no. 61. Canberra, ACT: Australian Institute of Criminology.
Irwin, A.R. & Gross, A.M. (1995). Cognitive tempo, violent video games, and aggressive
behavior in young boys. Journal of Family Violence, 10, 337- 350.
Jakubowicz, A., Goodall, H., Martin, J., Mitchell, T., Randall, L. & Seneviratne, K. (1994).
Racism, ethnicity and the media. St. Leonards, NSW: Allen and Unwin.
Jo, E., & Berkowitz, L. (1994). A priming effect analysis of media influences: An update. In J.
Bryant & D. Zillman (Eds.), Perspectives on media effects (pp. 43 - 60). Hillsdale, NJ : Lawrence
Erlbaum.
Johnson, J. G., Cohen, P., Smailes, E. M., Kasen, S., & Brook, J. S. (2002, July 5). Television
viewing and aggressive behavior during adolescence and adulthood. Science, 295, 2468–2471.
Joo, J., Sang, S., Kim, H., Yun, H. & Lee, E. (2012). The effects of celebrity suicide on copycat
suicide attempt: a multi-center observational study. Social Psychiatry & Psychiatric
Epidemiology, 47(6), 957-965.
Jorm, A., Christensen, H. & Griffiths, K. (2007). Changes in depression awareness in Australia:
the impact of beyondblue the national depression initiative. Australia and New Zealand Journal
of Psychiatry. 40, 42-46.
Kail, R. (1990). The development of memory in children. New York, NY: Freeman.
Kim, J., & Rubin, A.M. (1997). The variable influence of audience activity on media effects.
Communication Research, 24, 107-135.
Klocker, N. & Dunn, K. (2003). Who’s driving the debate?: Newspaper and government
representations of asylum seekers. Media International Australia Incorporating Culture and
Policy, 109, 71-92.
Knowles, A.D., & Nixon, M.C. (1990). Children’s comprehension of a television cartoons
emotional theme. Australian Journal of Psychology, 42, 115-121.
Kunkel, D. (2001). Children and television advertising. In D. G. Singer, & J. L. Singer. (Eds.),
Handbook of children and the media (pp. 375-393). Thousand Oaks, CA: Sage Publications.
Kupchick, A., & Bracy, N. L. (2009). The news media on school crime and violence: Constructing
dangerousness and fueling fear. Youth Violence and Juvenile Justice, 7, 136-155.
Lam-Po Tang, J, & Mackay D. (2010). Dr Google MD: A survey of mental health internet use in a
private practice sample. Australasian Psychiatry, 18, 130-133.
Langton, M. (1993). Well, I heard it on the Radio and I saw it on the Television… Sydney:
Australian Film Commission Langton, M. (2007). Trapped in the Aboriginal reality show. Griffith
Review, 19. Retrieved 15 June, 2010, from http://www.griffithreview.com/edition19/1-
essay/701.html
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Larson, M. (2001). Interactions, activities and gender in children’s television commercials: A
content analysis. Journal of Broadcasting & Electronic Media, 45, 41-56.
Lasorsa, D. (1992). Policymakers and the third-person effect. In J.D. Kennamer (Ed.), Public
opinion, the press, and public policy (pp. 163- 175). New York: Praeger.
Ledingham, J.E., Ledingham, C.A., & Richardson, J.E. (1993). The effects of media violence on
children: A background paper. Ottawa: Health and Welfare, Canada.
Levey, S., & Howells, K. (1994). Accounting for the fear of schizophrenia. Journal of Community
and Applied Social Psychology, 4, 313-328.
Liebert, R.M., & Wicks Poulos, R. (1974). Television and personality development: The
socializing effects of an entertainment medium. In Developmental Psychology, Englewood Cliffs,
NJ: Prentice Hill.
Luxton, D., June, J.; & Farrell, J. (2012). Social media and suicide: a public health perspective.
American Journal of Public Health, 102: S195–S200.
Mares, M. & Woodard, E.H. (2007). Positive effects of television on children’s social interaction:
a meta-analysis. In R.W. Preiss, B.M. Gayle, N. Burrell, M.Allen, J. Bryant (Eds). Mass Media
Effects Research: Advances Through Meta-Analysis. (281-300). Lawrence Erlbaum Associates.
New Jersey.
Mares, P. (2001). Borderline. Sydney: University of New South Wales Press.
Marlowe, J.M. (2010). Beyond the discourse of trauma: Shifting the focus on Sudanese refugees.
Journal of Refugee Studies, 23(2), 183-198.
Marsh, H. (1991). A comparative analysis of crime coverage in newspapers in the US and other
countries from 1960 to 1989. A review of the literature. Journal of Criminal Justice, 19, 67-80.
Masian, S. (1998). Media as battleground: Community relations among ethnic communities with
a history of overseas conflict. In D. Bretherton (Ed.) No longer black and white. (pp. 136-140).
The University of Melbourne, Victoria: The International Conflict Resolution Centre.
Mazerolle, L., Wickes, R., & McBroom, J. (2010). Community variations in violence: the role of
social ties and collective efficacy in comparative context. Journal of Research in Crime
Delinquency, 47, 3-30.
McCallum, K. (2007). Indigenous violence as mediated public crisis. In Communications, Civics,
Industry – ANZCA 2007 Conference Proceedings. Melbourne: LaTrobe University. Retrieved 19
September, 2010, from http://www.latrobe.edu.au/ANZCA2007/
McDermott, S., & Greenberg, B. (1984). Parents, peers and television as determinants of black
children’s esteem. In R. Bostrom (Ed.), Communication yearbook, 8 (pp. 164-177).
McGorry, P. (2012). “A deadly silence that has to end”. The Age. 10/9/12.
http://www.theage.com.au/opinion/society-and-culture/a-deadly-silencethat-has-to-end-
20120909-25m58.html. Accessed 21/2/13.
Meadows, M. (2001). Voices in the wilderness: Images of Aboriginal people in the Australian
media. Westport, USA: Greenwood Press.
Mediascope. (1995). National television violence study, 1994-1995 Studio City: Author.
Mediascope. (1997). National television violence study, 1994-1995. Studio City: Author.
Mickler, S. (1992). Visions of Disorder: Aboriginal People and Youth Crime Reporting. Cultural
Studies, 6(3), 322-336.
Mickler, S. and McHoul, A. (1998). Sourcing the Wave: Crime Reporting, Aboriginal Youth and
the Perth Press, Feb. 1991 to Jan. 1992. Media International Australia, 86, 122-152.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Mindframe (2012). Mental illness in the news and information media: A critical review.
Commonwealth of Australia.
Moore, E. S. (2004). Children and the changing world of advertising. Journal of Business Ethics,
52, 161-167.
Morris, B. (2005). A crisis in identity: Aborigines, media, the law and politics – Civil disturbance
in an Australian town. Critique of Anthropology, 25(1), 59-85.
Mullen, P.E. (1998). Violently ill. Journal of Contemporary Analysis, 70, 30-32.
Muller, D. (2011). ‘Deplorable and indefensible’: the ethics of the News of the World. The
Conversation, 7 July. Accessed 19 March 2013 from http://theconversation.edu.au/deplorable-
and-indefensible-the-ethics-ofthe-news-of-the-world-2215
Murray, J. (1994). The impact of televised violence. Hofstra Law Review, 22, 809-825.
Nairn, R., Pega, F., McCreanor, T. & Rankine, J. (2006). Media, racism and public health
psychology. Journal of Health Psychology, 11(2), 183-196.
Nathanson, A. I. (1999). Identifying and explaining the relationship between parental mediation
and children’s aggression. Communication Research, 26, 124-143.
New South Wales Dept of Juvenile Justice (2012). Is Juvenile Crime increasing? NSW Bureau of
Crime Statistics and Research. Accessed on 10/10/2012 at
http://www.bocsar.nsw.gov.au/lawlink/bocsar/ll_bocsar.nsf/pages/bocsar_fastfact_03
Nessler, T. (2011). Narrated truths :the image of psychiatry in the media. European Archive
Psychiatry Clinical Neuroscience 261 (Suppl 2): S124– S128.
Nguyen, A., Ferrier, E., Western, M. & McKay, Susan (2005) Online News in Australia: Patterns
of Use and Gratification. Australian Studies in Journalism, 15: 5-34.
Oates, C., Blades, M., Gunter, B., & Don, J. (2003). Children‟s understanding of television
advertising: A qualitative approach. Journal of Marketing Communications, 9, 59-71.
O’Doherty, K. & Augoustinos, M. (2008). Protecting the nation: Nationalist rhetoric on asylum
seekers and the Tampa. Journal of Community and Applied Social Psychology, 18, 576-792.
O’Doherty, K. & LeCouteur, A. (2007). ‘Asylum seekers’, ‘boat people’ and ‘illegal immigrants’:
Social categorization in the media. Australian Journal of Psychology, 59, 1-12.
O’Keefe, G. J., & Reid-Nash, K. (1987). Crime news and real world blues: The effects of the
media on social reality. Communication research, 14, 147- 163.
Osuri, G. (2006). Media necropower: Australian media reception and the somatechnics of
Mamdouh Habib. Borderlands e-journal, 5(1). Retrieved 4 June, 2008, from
http://www.borderlands.net.au/vol5no1_2006/osuri_necropower.htm
Paik, H., & Comstock, G. (1994). The effects of television violence on antisocial behavior: A
meta-analysis. Communication Research, 21, 516– 539.
Palmer, P. (1986). The lively audience: A study of children around the TV set. Sydney: Allen &
Unwin.
Parliament of Victoria (1998, June). Inquiry into the effects of television and multimedia on
children and families in Victoria.
Perloff, R.M. (1993). Third person effect research 1983-1992: A review and synthesis.
International Journal of Public Opinion Research, 5, 167-184.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Petty, R.E., & Cacioppo, J.T. (1986). The elaboration likelihood model of persuasion. In L.
Berkowitz (Ed.), Advances in experimental social psychology (Vol. 19, pp. 123-205). San Diego,
CA: Academic Press.
Pickering, S. (2001). Commonsense and original deviancy: News discourses and asylum seekers
in Australia. Journal of Refugee Studies, 14(2), 170- 186.
Pickering, S. (2004). Border terror: Policing, forced migration and terrorism. Global Change,
Peace and Security, 16, 211-226.
Pine, K., & Nash, A. (2003). Barbie or betty? Preschool children‟s preference for branded
products and evidence for gender-linked differences. Journal of Developmental and Behavioral
Pediatrics, 24, 219-224.
Polman, H., Orobio de Castro, B., & Van Aken, M. A. G. (2008). Experimental study of the
differential effects of playing versus watching violent video games on children's aggressive
behavior. Aggressive Behavior, 34, 256– 264.
Potter, W.J. (1993). Cultivation theory and research: A conceptual critique. Human
Communication Research, 19, 564-601.
Pritchard, D., & Hughes, K.D. (1997). Patterns of deviance in crime news. Journal of
Communication, 47, 49- 67.
Pugliese, J. (2003). The locus of the non: the racial fault-line "of MiddleEastern appearance".
Borderlands e-journal, 2(3). Retrieved 26 April, 2007, from
http://www.borderlandsejournal.adelaide.edu.au/vol2no3_2003/pugliese_non.htm
Quilty, M. (1998). Construction of the Filipina in the Australian media. In D. Bretherton (Ed) No
longer black and white (pp. 120-135). The University of Melbourne, Victoria: The International
Conflict Resolution Centre.
Rendell, P. (1997). Youth and crime in television news bulletins. In J. Bessant & R.Hill (Eds.),
Youth, crime and the media (pp 109-122). Hobart: National Clearing House for Youth Studies.
Riecken, G., & Yavas, U. (1990). Children’s general product and brand-specific attitudes towards
television commercials: Implications for public policy and advertising strategy. International
Journal of Advertising, 9, 136-148.
Rodd, H., & Leber, S. (1998). Beyond gangs, drugs and gambling. In D. Bretherton (Ed.), No
longer black and white. (pp. 83-98). The University of Melbourne, Victoria: The International
Conflict Resolution Centre.
Rojas, H., Shah, D.S., & Faber, R.J. (1996). For the good of others: Censorship and the third-
person effect. International Journal of Public Opinion Research, 8, 172-186.
Romer, D., Jamieson, K. H., & Aday, S. (2003). Television news and the cultivation of the fear of
crime. Jounral of Communication, 53, 88-104.
Rosenthal, R. (1986). Media violence, antisocial behaviour, and the consequences of small
effects. Journal of Social Issues, 42, 141-154.
Rountree, P.W., & Land, K.C. (1996). Burglary victimisation, perceptions of crime, risk and
routine activities: A multilevel analysis across Seattle neighbourhoods and census tracts. Journal
of Research in Crime and Delinquency, 33, 147-180.
Royal Australian College of Physicians. (1999). Getting in the picture: A parents’ and carers’
guide for the better use of television for children. Sydney: RACP.
Royal Commission into Aboriginal Deaths in Custody (1991). Final Report. Canberra: Australian
Government Publishing Service.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Rubenstein, R., Botes, J., Dukes, P., & Stephens, J. (1994). Frameworks for interpreting conflict:
A handbook for journalists. Fairfax, Virginia: Institute for Conflict Analysis and Resolution,
George Masson University.
Sacco,V. (1995). Media construction of crime. ANNALS, AAPSS, 539 May, 141-154.
SANE Australia. (2012). StigmaWatch: A program of the SANE Media Centre. Accessed 19 March
2013 at: http://www.sane.org/stigmawatch.
Sanson, A., & Bretherton, D. (2001). Conflict resolution : Theoretical and practical issues. In R.
V. Wagner, D. Christie, & D. Winfer (Eds.), Peace, conflict and violence: Peace psychology for
the 21st century. Prentice Hall
Sanson, A., & DiMuccio, C. (1993). The influence of aggressive and neutral cartoons and toys on
the behaviour of preschool children. Australian Psychologist, 28, 93-99.
Sanson, A., Augoustinos, M., Gridley, H., Kyrios, M., Reser, J., & Turner, C. (1998). Racism and
prejudice: An Australian Psychological Society position paper. Australian Psychologist, 33, 161-
182.
Savage, J., & Yancey, C. (2008). The effects of media violence exposure on criminal aggression:
A meta-analysis. Criminal Justice and Behavior, 35, 1123–1136.
Saxton, A. (2003). ‘I certainly don’t want people like that here’: The discursive construction of
‘asylum seekers’. Media International Australia Incorporating Culture and Policy, 109, 109-120.
Schlesinger, P., Tumber, H., & Murdoch, G. (1991). The media of politics, crime and criminal
justice. British Journal of Sociology, 42, 397-420.
Schwartz, M.D. (1999.) Why are we so afraid? The Age, 14th October.
Segal, K.R., & Dietz, W.H. (1991), Physiologic responses to playing a video game. American
Journal of Diseases of Children, 145, 1034-1036.
Sercombe, H. (1995). The face of the criminal is Aboriginal. Journal of Australian Studies,
19(43), 76-94.
Sercombe, H. (1997). Youth crime and the economy of news production. In J. Bessant & R.Hill
(Eds.), Youth, crime and the media. (pp 43-53). Hobart: National Clearing House for Youth
Studies.
Sheehan, P.W. (1986). Television viewing and its relation to aggression among children in
Australia. In L.R. Huesmann & L.D. Eron (Eds.), Television and the aggressive child: A cross-
national comparison. Hillsdale: Lawrence Erlbaum.
Sherry, J. (2007). Violent video games and aggression: Why can’t we find links? In R. Preiss, B.
Gayle, N. Burrell, M. Allen, & J. Bryant (Eds.), Mass media effects research: Advances through
meta-analysis (pp. 231–248). Mahwah, NJ: Erlbaum.
Sherry, J. L. (2001).The effects of violent video games on aggression: Ameta-analysis. Human
Communication Research, 27, 409–431.
Siegler, R.S. (1991). Children’s thinking (2nd ed.). Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall.
Signorielli, N., & Morgan, M. (Eds.). (1990). Cultivation analysis: New directions in media effects
research. Newbury Park, CA: Sage.
Simpson, B. (1997). Youth crime, the media and moral panic. In J. Bessant & R.Hill (Eds.),
Youth, crime and the media. (pp 9-15). Hobart: National Clearing House for Youth Studies.
Simmons, K. & LeCouteur, A. (2008). Modern racism in the media: Constructions of the
‘possibilities of change’ in accounts of two Australian ‘riots’. Discourse and Society, 19, 667-687.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Skogan, W.G., & Maxfield, M.G. (1981). Coping with crime: Individual and neighbourhood
reactions. Beverley Hills, CA: Sage.
Sneed, C., & Runco, M.A. (1992). The beliefs adults and children hold about television and video
games. The Journal of Psychology, 126, 273-284.
Sparks, R. (1992). Television and the drama of crime. Buckingham, UK: Open University Press.
Stack, S. (2003). Media coverage as a risk factor in suicide. Journal of Epidemiology &
Community Health, 57, 238-240.
Stein, A.H. & Friedrich, L.K. (1975). Impact of television on children and youth. In E.M.
Hetherington, J.W. Hagen, R. Kron, & A.H. Stern (Eds.), Review of child development research,
Vol 5, (pp. 183-256). Chicago: University of Chicago.
Stephens, J. (2012). RIP Jill Meagher: but let’s not forget the other female victims of violence.
The Conversation, 6 October. Accessed 19 March 2013 from: http://theconversation.edu.au/rip-
jill-meagher-but-lets-notforget-the-other-female-victims-of-violence-9977
Stevens, J.E. (1998). Integrating the public health perspective into reporting on violence.
Nieman Reports, 52, 38.
Stevens, J.E., Dorfman, L., Thorson, E., & Houston, B. (1998). The violence reporting project: A
new approach to covering crime. Nieman Reports, 52, 37-38.
Stoneman, Z., & Brody, G. (1981). Peers as mediators of television food advertising aimed at
children. Developmental Psychology, 17, 853-858.
Stringer, R. (2007). A nightmare of the neo-colonial kind: Politics of suffering in Howard’s
Northern Territory Intervention. Borderlands ejournal 6(2). Retrieved 19 August, 2008, from
http://www.borderlands.net.au/vol6no2_2007/stringer_intervention.htm
Surette, R. (1992). Media, crime and criminal justice: Images and realities. Belmont, CA West:
Wadsworth Publishers.
Surette, R. (2003). Self-reported copycat crime among a population of serious and violent
juvenile offenders. Crime and Delinquency, 48, 46-69.
Taylor, C.R., & Stern, B.B. (1997). Asian-Americans: Television advertising and the ‘model
minority’ stereotype. Journal of Advertising, 26, 47-61.
Thornton, J.A., & Wahl, O.F. (1996). Impact of a newspaper article on attitudes toward mental
illness. Journal of Community Psychology, 24, 17-25.
Tyler, T.R., & Cook, F.L. (1994). The mass media and judgements of risk: Distinguishing impact
on personal and societal level judgements. Journal of Personality and Social Psychology, 39,
806-820.
Van Evra, J. (1998). Television and child development.
Mahwah, NJ: Erlbaum. Viano, E. (1995). Victims, crime and the media: Competing interests in
the electronic society. Communications and the Law, 17, 41-65.
Wahl, O.F., & Lefkowits, J.Y. (1989). Impact of a television film on attitudes towards mental
illness. American Journal of Community Psychology, 7, 521-528.
Wartella, E., Olivarez, A., & Jennings, N. (1998). Children and television violence in the United
States. In U. Carlsson & C.von Feilitzen (Eds.), Children and media violence (pp. 55-62).
Goteborg, Sweden: UNESCO International Clearinghouse on Children and Violence on the
Screen.
Wasserman, I. (1984). Imitation and suicide: An examination of the Werther effect. American
Sociological Review, 49, 427-436.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ DỊCH VỤ TÂM LÝ CHUYÊN NGIỆP WE LINK
19006239 | 08-62912900 | contact@welink | www.welink.vn |facebook.com/welinkchannel
Weatherburn, D., Matka, E., & Lind, B. (1996). Crime perceptions and reality: Public perceptions
of the risk of criminal victimization in Australia. Crime and Justice Bulletin, 28, 1-8. Weigel, R., &
Howes, P. (1982).
Race relations on children’s television. Journal of Psychology, 111, 109-112. Weiten, W. (Ed)
(1992).
Psychology: Themes and variations, California: Brooks/Cole. Williams, P., & Dickinson, J. (1993).
Fear of crime: Read all about it.
The relationship between newspaper reporting and the fear of crime. British Journal of
Sociology, 33, 34. Wilson, B.J. (1995). Effects of media violence: Aggression, desensitization,
and fear.
Les Cahairs de la sécurité Intérieure, 20, 21.37. Wilson, B., Kunkel, D., Linz, D., Potter, J.,
Donnerstein, E., Smith, S, Blumenthal, E., & Gray, T. (1996).
Part 1: Violence in television programming overall: University of California, Santa Barbara study.
National Television Violence Study Volume 1 (pp. 1-268). Thousand Oaks, CA: Sage.
Wilson, B.J., & Weiss, A.J. (1992). Developmental differences in children’s reactions to a toy
advertisement linked to a toy-based cartoon. Journal of Broadcasting and Electronic Media, 36,
371-394.
Windle, J. (2008).The racialization of African youth in Australia. Social Identities, 14(5), 553-
566.
Windhauser, J., Seiter, J., & Winfree, L. (1990). Crime news in the Louisana Press, 1980 vs.
1985. Journalism Quarterly, 67, 72-78.
Windschuttle, K. (1988). The media: A new analysis of the press, television, radio and
advertising in Australia. Ringwood, Victoria: Penguin.
Wahl, O. F. (2003). News media portrayal of mental illness implications for public policy.
American Behavioral Scientist, 46, 1594-1600.
Wright, J.C., Huston, A.C., Reitz, A.L., & Piemyat, S. (1994). Young children’s perceptions of
television reality: Determinants and developmental differences. Developmental Psychology, 30,
229-239
Yang, A., Tsai, S., Yang, C., Shia, B., Fuh, J., Wang, S., Peng, C., & Huang, N. (2013). Suicide
and media reporting: a longitundal and spatial study. Social Psychiatry & Psychiatric
Epidemiology 48(3), 427-435
Young Media Australia (1997, July). Parents: Turn off the ‘fat & sugar shows.’ Media release.
Bản dịch tiếng Việt này được xuất bản nội bộ theo hình thức xuất bản điện tử
bởi Trung tâm Tâm lý chuyên nghiệp WE Link.
Mọi thắc mắc xin liên hệ với chúng tôi theo địa chỉ [email protected].
Xin vui lòng trích dẫn khi dẫn lại nguồn thông tin từ bản dịch này.