View
816
Download
6
Embed Size (px)
Citation preview
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
PHẠM DIỆU THÙY
“NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH SÁN LÁ GAN TRÂU, BÕ
(FASCIOLOSIS) Ở TỈNH THÁI NGUYÊN, BẮC KẠN, TUYÊN QUANG
VÀ BIỆN PHÁP PHÕNG TRỊ
(2010 - 2013)
Chuyên ngành: Ký sinh trùng và vi sinh vật học Thú y
Mã số: 62. 64. 01. 04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ THÚ Y
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thị Kim Lan
THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chúng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận án này là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Mọi thông tin trích dẫn trong luận án đều được chỉ
rõ nguồn gốc.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu và hoàn
thành Luận án đều được cảm ơn.
Tác giả
Phạm Diệu Thùy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận án này, cho phép NCS được bày tỏ lòng kính trọng và biết
ơn sâu sắc tới GS. TS. Nguyễn Thị Kim Lan - Trường Đại học Nông lâm Thái
Nguyên đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo NCS hết sức tận tình trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành Luận án.
NCS xin trân trọng cảm ơn chân thành và sâu sắc tới Ban Giám đốc, Ban Đào
tạo Đại học - Đại học Thái Nguyên; Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông lâm Thái
Nguyên, Phòng Quản lý đào tạo Sau đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Chăn nuôi Thú
y, Bộ môn Dược lý & Vệ sinh an toàn thực phẩm, Bộ môn Bệnh Động vật - Trường
Đại học Nông lâm - Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho NCS
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
NCS xin trân trọng cảm ơn Chi cục Thú y, các Trạm Thú y thuộc các tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang và các hộ chăn nuôi trâu, bò trên địa bàn các tỉnh
nghiên cứu đã tạo điều kiện giúp đỡ NCS trong quá trình thực hiện đề tài.
NCS xin chân thành cảm ơn các em sinh viên các Khóa 38, 39, 40, 41, 42
chuyên ngành Thú y và Chăn nuôi thú y, các học viên cao học khóa 18, 19 đã tham
gia và hỗ trợ NCS thực hiện thành công luận án này.
NCS chân thành cảm ơn Viện Sinh Thái và Tài nguyên sinh vật; phòng Siêu
cấu trúc - Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương đã giúp đỡ NCS thực hiện đề tài.
Cuối cùng, NCS xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đồng
nghiệp đã động viên và giúp đỡ NCS trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Thái Nguyên, tháng 12 năm 2014
Nghiên cứu sinh
Phạm Diệu Thùy
MỤC LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
iii
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT ............................................................ vii
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................... viii
DANH MỤC CÁC HÌNH ......................................................................................... x
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................. 4
1.1. Sán lá Fasciola gây bệnh trên động vật nhai lại và người .......................................... 4
1.1.1. Vị trí của sán lá Fasciola trong hệ thống phân loại động vật học ........................ 4
1.1.2. Đặc điểm hình thái của sán lá Fasciola ............................................................... 5
1.1.3. Vòng đời của sán lá Fasciola ............................................................................... 6
1.2. Bệnh do sán lá Fasciola ở động vật nhai lại ............................................................. 11
1.2.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan ....................................................................... 11
1.2.1.1. Tình hình nhiễm sán lá gan ở gia súc nhai lại ............................................ 11
1.2.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở gia súc nhai lại ... 17
1.2.2. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng bệnh do sán lá gan gây ra ở gia súc nhai lại .... 27
1.2.3. Chẩn đoán bệnh do sán lá Fasciola gây ra ........................................................ 32
1.2.4. Phòng và trị bệnh sán lá Fasciola cho súc vật nhai lại ...................................... 34
1.2.4.1. Điều trị bệnh: ................................................................................................. 34
1.2.4.2. Phòng bệnh sán lá gan cho súc vật nhai lại ................................................. 37
CHƢƠNG 2: VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .... 41
2.1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu ............................................................... 41
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 41
2.1.2. Thời gian nghiên cứu ......................................................................................... 41
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu .......................................................................................... 41
2.1.3.1. Địa điểm triển khai ........................................................................................ 41
2.1.3.2. Địa điểm xét nghiệm mẫu ............................................................................ 43
2.2. Vật liệu nghiên cứu ................................................................................................... 43
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
iv
2.2.1. Động vật và các loại mẫu nghiên cứu ................................................................ 43
2.2.2. Dụng cụ và hoá chất ........................................................................................... 44
2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................................. 45
2.3.1 Xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại ba tỉnh miền núi phía Bắc 2.3.2.
Đặc điểm dịch tễ bệnh do sán lá Fasciola spp. gây ra ở trâu, bò ................................ 45
2.3.2.1. Điều tra thực trạng chăn nuôi và phòng chống bệnh ký sinh trùng cho
trâu, bò ở ba tỉnh nghiên cứu ..................................................................................... 45
2.3.2.2. Tình hình nhiễm sán lá Fasciola spp. ở trâu, bò ........................................ 45
2.3.2.3. Nghiên cứu về trứng và ấu trùng sán lá Fasciola spp. ở ngoại cảnh và
trong ký chủ trung gian ............................................................................................... 45
2.3.3. Nghiên cứu tương quan giữa số trứng sán Fasciola spp. trong 1 gam phân với
số sán lá ký sinh ở trâu, bò. .......................................................................................... 45
2.3.4. Nghiên cứu biện pháp phòng chống bệnh sán lá Fasciola spp. cho trâu, bò ..... 45
2.3.4.1. Xác định thuốc tẩy sán lá Fasciola spp. có hiệu lực cao và an toàn ........ 45
2.3.4.2. Nghiên cứu biện pháp phòng chống tổng hợp bệnh sán lá Fasciola spp.
cho trâu, bò. ................................................................................................................. 46
2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 46
2.4.1. Phương pháp mổ khám, thu thập và định loại sán lá Fasciola spp. ký sinh ở
trâu, bò tại Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang ................................................... 46
2.4.2. Phương pháp điều tra tình trạng vệ sinh thú y và phòng chống bệnh sán lá
Fasciola spp. cho trâu, bò ............................................................................................ 48
2.4.3. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá Fasciola spp. ở trâu, bò .... 48
2.4.3.2. Bố trí thu thập mẫu ........................................................................................ 49
2.4.3.3. Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica
trên trâu, bò. ............................................................................................................... 49
2.4.4. Phương pháp nghiên cứu trứng và ấu trùng sán lá Fasciola spp. ở ngoại cảnh và
trong ký chủ trung gian ................................................................................................ 50
2.4.4.1. Phương pháp nghiên cứu sự ô nhiễm trứng sán lá Fasciola spp. ở nền
chuồng và khu vực xung quanh chuồng nuôi trâu, bò ............................................ 50
2.4.4.2. Phương pháp nghiên cứu sự ô nhiễm trứng sán lá Fasciola spp. ở khu vực
chăn thả trâu, bò. ......................................................................................................... 51
2.4.4.3. Phương pháp thu thập và xác định loài ốc nước ngọt - ký chủ trung gian
của sán lá gan. .............................................................................................................. 51
2.4.5. Nghiên cứu thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. ở ngoại cảnh (khi
không rơi vào môi trường nước) .................................................................................. 52
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
v
2.4.5.1. Nghiên cứu thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. trong phân
trâu, bò ......................................................................................................................... 52
2.4.5.2. Nghiên cứu thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. trong đất ....... 53
2.4.6. Nghiên cứu thời gian thoát vỏ và thời gian sống của Miracidium trong nước ...... 54
2.4.6.1. Nghiên cứu thời gian Miracidium thoát vỏ trong nước ............................. 54
2.4.6.2. Nghiên cứu thời gian Miracidium sống trong nước (khi Miracidium
không gặp ký chủ trung gian) .................................................................................... 55
2.4.7. Nghiên cứu về thời gian phát triển của ấu trùng sán lá Fasciola spp. trong ốc
Lymnaea viridis - ký chủ trung gian ............................................................................ 55
2.4.8. Phương pháp xác định tương quan giữa số trứng sán Fasciola spp. trong 1 gam
phân với số sán lá ký sinh /trâu, bò .............................................................................. 57
2.4.9. Phương pháp xác định hiệu lực của thuốc tẩy sán lá Fasciola spp. .................. 57
2.4.9.1. Xác định hiệu lực của một số thuốc tẩy sán lá Fasciola spp. đã sử dụng
nhiều năm trên trâu, bò ............................................................................................... 57
2.4.9.2. Xác định hiệu lực tẩy sán lá Fasciola spp. và độ an toàn trên trâu, bò của
3 loại thuốc albendazol, triclabendazole, nitroxinil - 25 với mức liều cao hơn liều
khuyến cáo ................................................................................................................... 58
2.4.10. Thử nghiệm biện pháp phòng bệnh sán lá Fasciola spp. trên trâu. ................. 59
2.5. Phương pháp xử lý số liệu ........................................................................................ 61
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ......................................................... 62
3.1. Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn
và Tuyên Quang ............................................................................................................... 62
3.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan ở trâu, bò ............................................................. 66
3.2.1. Điều tra thực trạng chăn nuôi và phòng chống bệnh ký sinh trùng cho đàn trâu,
bò ở ba tỉnh nghiên cứu ............................................................................................... 66
3.2.2. Tình hình nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò tại ba tỉnh miền núi phía Bắc .......... 68
3.2.2.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò tại các địa
phương ......................................................................................................................... 68
3.2.2.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tuổi trâu, bò ............... 75
3.2.2.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò theo mùa vụ ...... 78
3.2.2.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò theo tính biệt ..... 82
3.2.3. Nghiên cứu về trứng và ấu trùng sán lá F. gigantica ở ngoại cảnh và trong ký
chủ trung gian .............................................................................................................. 85
3.2.3.1. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở chuồng trại, bãi chăn thả ............ 85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
vi
3.2.3.2. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica trên bãi chăn thả trâu, bò ............... 88
3.2.3.3. Sự phân bố các loài ốc nước ngọt - ký chủ trung gian của sán lá
F. gigantica ............................................................................................................... 89
3.2.3.4. Tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm Adolescaria ................................................ 92
3.2.3.5. Nghiên cứu về thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica ở ngoại cảnh
(khi chưa rơi vào môi trường nước) .......................................................................... 93
3.2.3.6. Thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong đất ............................. 96
3.2.3.7. Nghiên cứu về thời gian thoát vỏ của Miracidium và thời gian sống của
Miracidium trong nước ............................................................................................... 97
3.2.3.8. Nghiên cứu thời gian phát triển của ấu trùng sán lá F. gigantica trong ốc -
ký chủ trung gian ....................................................................................................... 102
3.3. Nghiên cứu tương quan giữa số trứng sán F. gigantica trong 1 gam phân với số sán
lá ký sinh ở trâu, bò ........................................................................................................ 104
3.4. Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh sán lá F. gigantica cho trâu, bò ................... 107
3.4.1. Xác định thuốc tẩy sán lá F. gigantica có hiệu lực cao và an toàn ................... 107
3.4.1.1. Xác định hiệu lực của một số thuốc tẩy sán lá F. gigantica đã được sử
dụng nhiều năm trên trâu, bò ................................................................................... 107
3.4.2. Thử nghiệm biện pháp phòng trị bệnh sán lá F. gigantica trên trâu ............... 113
3.4.2.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica sau 2 tháng thử nghiệm. 114
3.4.2.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica sau 4 tháng thử nghiệm. 115
3.4.3. Xây dựng biện pháp phòng, trị tổng hợp bệnh sán lá F. gigantica cho trâu, bò. ...... 116
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ................................................................................... 119
1. Kết luận ...................................................................................................................... 119
2. Đề nghị ....................................................................................................................... 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 121
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ............... 139
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
vii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
- : đến
cs : cộng sự
DTC : dài thân chéo
F : Fasciola
Kg TT : kilogam thể trọng
L : Lymnaea
mg : miligam
ml : mililit
n : dung lượng mẫu
Nxb : nhà xuất bản
pp : page
spp : species plural
TN : thí nghiệm
TP : thành phố
tr : trang
TT : thể trọng
VN : vòng ngực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thu thập mẫu ......................................................................... 49
Bảng 3.1. Kết quả mổ khám trâu và thu thập sán lá gan ........................................... 62
Bảng 3.2. Kết quả mổ khám bò và thu thập sán lá gan ............................................. 62
Bảng 3.3. Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò .................................. 64
Bảng 3.4. Loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại ba tỉnh miền núi phía Bắc .............. 65
Bảng 3.5. Thực trạng chăn nuôi và phòng chống bệnh ký sinh trùng cho đàn trâu,
bò ở ba tỉnh miền núi phía Bắc.................................................................... 66
Bảng 3.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu tại các địa phương ... 68
Bảng 3.7. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở bò tại các địa phương .................. 73
Bảng 3.8. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tuổi trâu ...................... 75
Bảng 3.9. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tuổi bò ....................... 77
Bảng 3.10. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu theo mùa vụ .......... 79
Bảng 3.11. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở bò theo mùa vụ .......................... 80
Bảng 3.12. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tính biệt của trâu ....... 83
Bảng 3.13. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tính biệt của bò ....... 84
Bảng 3.14. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở chuồng và khu vực xung quanh
chuồng nuôi trâu .......................................................................................... 85
Bảng 3.15. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở chuồng và khu vực xung
quanh chuồng nuôi bò ................................................................................. 86
Bảng 3.16. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở khu vực bãi chăn thả trâu, bò .... 88
Bảng 3.17. Kết quả định loại các mẫu ốc nước ngọt ................................................ 89
Bảng 3.18. Sự phân bố các loài ốc ở ba tỉnh nghiên cứu .......................................... 91
Bảng 3.19. Tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm Adolescaria ............................................ 92
Bảng 3.20. Thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong phân trâu ................. 94
Bảng 3.21. Thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong phân bò ................... 95
Bảng 3.22. Thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong đất ........................... 96
Bảng 3.23. Thời gian Miracidium thoát vỏ trong nước (từ khi trứng sán lá
F. gigantica rơi vào môi trường nước) .........................................98
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ix
Bảng 3.24. Thời gian sống của Miracidium trong nước ......................................... 101
Bảng 3.25. Thời gian hoàn thành các giai đoạn ấu trùng của sán lá F. gigantica
(từ khi trứng rơi vào nước)........................................................................ 102
Bảng 3.26. Hiệu lực của hai loại thuốc tẩy sán lá F. gigantica đã sử dụng nhiều
năm trên trâu .............................................................................................. 107
Bảng 3.27. Hiệu lực của hai loại thuốc tẩy sán lá F. gigantica đã sử dụng nhiều
năm trên bò ................................................................................................ 108
Bảng 3.28. Hiệu lực tẩy sán F. gigantica của ba loại thuốc trên trâu thí nghiệm ... 109
Bảng 3.29. Hiệu lực tẩy sán F. gigantica của ba loại thuốc trên bò thí nghiệm ..... 110
Bảng 3.30. Hiệu lực của ba loại thuốc tẩy sán F. gigantica cho trâu trên diện rộng ........ 111
Bảng 3.31. Hiệu lực của ba loại thuốc tẩy sán F. gigantica cho bò trên diện rộng ....... 112
Bảng 3.32. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán F. gigantica của trâu trước thí nghiệm .. 113
Bảng 3.33. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica của trâu sau 2 tháng thử
nghiệm ....................................................................................................... 114
Bảng 3.34. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica của trâu sau 4 tháng thử
nghiệm ....................................................................................................... 115
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
x
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Hai loài sán F. gigantica và F. hepatica ..................................................... 5
Hình 1.2. ........................................................................... 10
Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu tại 3 tỉnh ........................... 69
Hình 3.2. Biểu đồ cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu tại 3 tỉnh.................... 71
Hình 3.3. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò tại 3 tỉnh ........................................... 73
Hình 3.4. Biểu đồ cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở bò tại 3 tỉnh ...................... 74
Hình 3.5. Đồ thị tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu theo lứa tuổi ........................ 76
Hình 3.6. Đồ thị tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở bò theo lứa tuổi ......................... 77
Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu theo mùa vụ (tính chung cả ba tỉnh) ..... 79
Hình 3.8. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở bò theo mùa vụ (tính
chung cả ba tỉnh) .......................................................................... 81
Hình 3.9. Biểu đồ kết quả định loại ốc nước ngọt của ba tỉnh ................................... 90
Hình 3.10. Đồ thị biểu diễn phương trình y = a + bx về mối tương quan giữa số
trứng sán /gam phân với số sán ký sinh /trâu ........................................... 104
Hình 3.11. Đồ thị biểu diễn phương trình y = a + bx về mối tương quan giữa số
trứng sán /gam phân với số sán lá ký sinh /bò ......................................... 105
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bệnh sán lá gan ở trâu, bò (Fasciolosis Fasciola hepatica và
Fasciola gigantica gây ra, được coi là bệnh ký sinh trùng phổ biến và gây thiệt hại
rất lớn về kinh tế cho ngành chăn nuôi trâu, bò trên toàn thế giới (Soulsby E. J.,
1987 [166]). Trong những năm gần đây, bệnh sán lá gan ở trâu, bò đang trở nên phổ
biến và gia tăng do sự thay đổi khí hậu và sự di cư của động vật từ vùng này sang
vùng khác (Muhammad Kasib Khan và cs., 2013 [132]).
Sán lá gan ký sinh gây nhiều tác động xấu như làm giảm sức sinh trưởng, sinh
sản ở trâu, bò: mỗi sán ký sinh làm khả năng tăng khối lượng giảm 200 gam /năm
(Sewell M. M. H., 1966 [152]), tăng trọng hàng năm giảm 20 - 40 kg, tỷ lệ có thai
giảm 10% (Sothoeun S., 2007 [156]). Theo Suhardono D. (2001) [158], việc tẩy sán
lá gan cho bò đã rút ngắn khoảng cách giữa hai lần động dục của bò xuống 18,5
tháng, trong khi những bò không được điều trị thì khoảng cách này kéo dài tới 31,5
tháng. Theo Roberts J. A. và cs. (1991) [142], thiếu máu do sán ký sinh đã làm giảm
7 - 15% khả năng lao tác (uớc tính, mỗi năm thiệt hại do trâu, bò bị nhiễm sán lá gan là
từ 82 - 98 đô la Úc /trâu hoặc bò (Sothoeun S., 2007 [156]), tức là khoảng từ 1,5 - 1,8
triệu đồng Việt Nam; chi phí này ở Thụy Sỹ là 52 triệu Euro (Schweizer G. và cs., 2005
[150]), ở Kenya là 3,5 triệu KES (Mungube E. O. và cs., 2006 [133]), ở Etiopia là 0,27
triệu đô la Mỹ (Berhe G. và cs., 2009 [69]). Như vậy, có thể thấy thiệt hại kinh tế do
bệnh sán lá gan gây ra là rất lớn.
Nguy hiểm hơn, bệnh sán lá gan ở trâu, bò còn truyền lây sang người gây
viêm gan, xơ gan, thậm chí biến chứng ung thư gan ở người. Theo Mas - Coma S.
và cs. (2009) [125], ước tính có khoảng 2,4 - 17 triệu người trên thế giới bị nhiễm
một hoặc cả hai loài sán F. hepatica và F. gigantica. Tại Việt Nam, theo thống kê
của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, đến tháng 3 năm 2008, nước
ta có hơn 5.000 người tại 47 tỉnh thành từ Bắc tới Nam bị nhiễm sán lá gan lớn (dẫn
theo Đặng Thị Cẩm Thạch và cs., 2008 [44]).
Việt Nam là một nước nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, điều kiện khí hậu
nóng ẩm, chăn nuôi trâu, bò theo phương thức chăn thả tự do và ý thức vệ sinh
2
môi trường không tốt là điều kiện thuận lợi cho sán lá gan hoàn thành vòng đời
và bệnh sán lá gan phát triển. Đã có một số công trình nghiên cứu về đặc điểm
dịch tễ bệnh sán lá gan ở trâu, bò và biện pháp điều trị bệnh (công tr ình của
Nguyễn Đức Tân, 2010 [44]; Hoàng Văn Hiền và cs., 2011 [11]; Nguyễn Hữu
Hưng 2011 [15]…). Song, ở các địa phương miền núi nói chung, ba tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang nói riêng vẫn chưa có công trình nghiên cứu
đầy đủ về bệnh sán lá gan, vì vậy cũng chưa có quy trình phòng chống bệnh hiệu
quả. Đặc biệt, 3 tỉnh nói trên nằm trong vùng Trung du miền núi phía Bắc - là
nơi có số lượng trâu nhiều nhất cả nước, chiếm 55,31% (Tổng Cục thống kê, 2014
[168]). Mặt khác, điều kiện thời tiết khí hậu của các tỉnh này trong những năm gần đây
có nhiều thay đổi: cường độ ánh sáng mạnh hơn, lượng mưa trong năm nhiều hơn…
Những thay đổi này có thể dẫn đến hệ quả là đặc điểm dịch tễ của bệnh sán lá gan thay
đổi. Những luận giải trên cho thấy, việc nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ và xây dựng
biện pháp phòng chống bệnh sán lá gan cho trâu, bò, từ đó phòng được bệnh sán lá gan
lớn trên người ở các địa phương miền núi là rất cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn sản xuất, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò (Fasciolosis) ở tỉnh Thái Nguyên, Bắc
Kạn, Tuyên Quang và biện pháp phòng trị (2010 - 2013) ”.
2. Mục tiêu của đề tài:
- Xác định được thành phần loài và một số đặc điểm dịch tễ bệnh do sán lá
Fasciola spp. gây ra trên trâu, bò ở ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang.
- Xây dựng được biện pháp phòng, trị bệnh sán lá gan lớn ở trâu, bò tại ba tỉnh
Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về loài sán lá gan lớn ký sinh
trên trâu, bò nuôi tại các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang; đặc điểm
dịch tễ của bệnh; sự phát triển của trứng và ấu trùng sán lá gan; mối tương quan
giữa số trứng sán /gam phân với số sán ký sinh /trâu, bò và biện pháp phòng chống
bệnh sán lá gan lớn cho trâu, bò.
3
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học khuyến cáo người chăn nuôi áp dụng các
biện pháp phòng trị bệnh sán lá gan, nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm và thiệt hại do sán lá
gan gây ra, góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi, thúc đẩy ngành chăn nuôi trâu,
bò phát triển.
3.3. Những đóng góp mới của đề tài
- Là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về đặc điểm dịch tễ và biện
pháp phòng trị bệnh sán lá gan cho trâu, bò ở 3 tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và
Tuyên Quang.
- Xác định được tương quan giữa số trứng sán /gam phân với số sán lá
Fasciola gigantica ký sinh trên trâu, bò
- Xây dựng được biện pháp phòng trị bệnh sán lá gan cho trâu, bò có hiệu quả,
khuyến cáo áp dụng rộng rãi tại các địa phương.
4
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Bệnh sán lá gan ở trâu, bò, dê do hai loài sán lá Fasciola hepatica và Fasciola
gigantica ký sinh ở ống dẫn mật và gan gây ra. Ngoài trâu, bò, dê, hai loài sán này
còn gây bệnh cho người và nhiều loài động vật khác.
F. hepatica và F. gigantica là hai loài sán lá phổ biến ở các vùng thuộc châu Á
và châu Phi. Theo Mas - Coma S. (2001) [124] tác hại của sán lá gan đối với gia súc
nhai lại rất lớn, biểu hiện rõ nhất là gây thiếu máu, viêm và xơ gan khi gia súc bị
nhiễm sán lá gan ở mức độ nặng.
Sán lá gan ngày càng chứng tỏ vai trò gây bệnh quan trọng cho động vật nhai
lại và người (Mas - Coma S. và cs., 2009 [125]).
1.1. Sán lá Fasciola gây bệnh trên động vật nhai lại và ngƣời
1.1.1. Vị trí của sán lá Fasciola trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) [34], sán lá gan ký sinh và gây bệnh cho gia
súc nhai lại được xếp trong hệ thống phân loại động vật như sau:
Ngành Plathelminthes Schneider, 1873
Phân ngành Platodes Leuckart, 1854
Lớp Trematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Prosostomadidea Skrjabin và Guschanskaja, 1962
Bộ Fasciolibda Skrjabin và Schulz, 1937
Phân bộ Fasciolata Skrjabin và Schulz, 1937
Họ Fasciolidae Railliet, 1895
Phân họ Fasciolinae Stiles và Hassall, 1898
Giống Fasciola Linnaeus, 1758
Loài Fasciola hepatica Linnaeus, 1758
Loài Fasciola gigantica Cobbold, 1885
5
1.1.2. Đặc điểm hình thái của sán lá Fasciola
Sán lá F. gigantica và F. hepatica có màu đỏ nâu. Trong đó, F. gigantica là loài
sán lá phổ biến ở nước ta. Loài sán này có chiều dài từ 25 - 75 mm, rộng từ 3 - 12 mm,
hình lá, u lồi hình nón của đầu là phần tiếp theo của thân, vì vậy sán không có „„vai‟‟. Hai
rìa bên thân sán song song với nhau, có hai giác bám: giác bụng và giác miệng. Giác
miệng ở đầu sán thông với hầu, thực quản, ruột gồm hai manh tràng phân thành nhiều
nhánh nhỏ. Giác bụng tròn, lớn hơn giác miệng và ở gần giác miệng. Trứng sán F.
gigantica màu vàng nâu, hình bầu dục, phình rộng ở giữa, thon dần về hai đầu, đầu hơi
nhỏ có nắp trứng, trứng dài 0,13 - 0,18 mm, rộng 0,06 - 0,1 mm.
Loài F. hepatica có đầu lồi và nhô ra phía trước làm cho sán có „„vai‟‟. Sán
dài 18 - 51 mm, rộng 4 - 13 mm, phần đầu hình nón dài 3 - 4 mm, chứa cả hai giác
bám, giác bụng lớn hơn giác miệng. Hai rìa bên thân sán không song song với nhau
mà phình ra ở chỗ vai rồi thon lại ở cuối thân. Cấu tạo bên trong của F. hepatica
giống F. gigantica. Trứng sán có hình thái, màu sắc tương tự trứng của loài F.
gigantica, dài 0,13 - 0,15 mm; rộng 0,07 - 0,09 mm.
Hình 1.1. Hai loài sán F. gigantica và F. hepatica [169]
Cũng như nhiều loài sán lá khác, sán lá gan lưỡng tính, có thể thụ tinh chéo
hoặc tự thụ tinh. Sán có giác miệng và giác bụng, giác bụng không nối với cơ quan
tiêu hoá. Sán không có hệ hô hấp, tuần hoàn và cơ quan thị giác (ở giai đoạn mao ấu
có dấu vết sắc tố mắt). Hệ sinh dục rất phát triển với cả bộ phận sinh dục đực và cái
trong cùng một sán. Tử cung sán chứa đầy trứng.
A - Fasciola gigantica
B - Fasciola hepatica
6
Hệ bài tiết gồm 1 - 2 ống bài tiết chạy dọc cơ thể. Từ ống bài tiết có nhiều
nhánh nhỏ chạy ra hai bên và tận cùng là tế bào ngọn lửa. Các ống này tập trung
dịch bài tiết vào túi dự trữ ở cuối thân và đổ ra ngoài qua lỗ bài tiết.
Hệ thần kinh kém phát triển, gồm hai hạch não nằm ở hai bên, nối với nhau
bằng vòng dây thần kinh. Từ đó có ba đôi dây thần kinh đi về phía trước và phía sau
thân, những dây này nối với nhau bằng nhiều dây nhỏ. Cơ quan cảm giác bị tiêu giảm.
mộ ồ
, có chức năng
như dương vật. Buồng trứng phân nhánh ở phía trước tinh hoàn. Tử cung sán chứa
đầy trứng, uốn khúc thành hình hoa ở giữa ống dẫn noãn hoàng và giác bụng. Tuyến
noãn hoàng xếp dọc 2 bên thân và phân nhánh.
Theo Itagaki T. và Tsutsumi K. (1998) [107], Mas - Coma S. và cs. (2009)
[126], ở châu Âu, châu Mỹ và châu Đại Dương chỉ có loài F. hepatica; trong khi ở
châu Á và châu Phi có cả 2 loài F. hepatica và F. gigantica.
Đối với khu vực Đông Nam Á, đặc biệt ở Việt Nam, tình hình nhiễm Fasciola
ở động vật nhai lại và người đang gia tăng (Tran V. H. và cs., 2001 [161], Mas -
Coma S. và cs., 2009 [125]).
1.1.3. Vòng đời của sán lá Fasciola
Năm 1752 Swammerrdam đã phát hiện những vĩ ấu (Cercaria) của sán lá F.
hepatica ở một ốc Gasterpoda. Song phải đến năm 1882 Thomas (nghiên cứu ở
Anh) và Leukart (nghiên cứu ở Đức) đã gần như cùng một lúc mô tả vòng đời của
sán lá gan.
Fasciola trưởng thành ký sinh trong ống dẫn mật của gia súc nhai lại. Sau khi
thụ tinh, mỗi sán đẻ hàng chục vạn trứng. Những trứng này theo dịch mật vào ruột
và theo phân ra ngoài. Nếu gặp điều kiện thuận lợi: được nước mưa cuốn trôi xuống
các vũng nước, hồ, ao, suối, ruộng nước...; nhiệt độ 15 - 30oC; pH = 5 - 7,7; có ánh
sáng thích hợp thì sau 10 - 25 ngày trứng nở thành Miracidium bơi tự do trong
nước. Nếu thiếu ánh sáng, Miracidium không có khả năng thoát vỏ nhưng vẫn tồn
tại đến 8 tháng trong vỏ. Miracidium có hình tam giác, xung quanh thân có lông và
di chuyển được trong nước.
7
Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [50]: thời gian phát triển của
trứng sán lá gan phụ thuộc vào nhiệt độ: khi nhiệt độ thấp thời gian phát triển kéo
dài, khi nhiệt độ tăng thời gian nở ngắn hơn. Cụ thể như sau:
Ở 10 -19oC, trứng sán nở sau 56 ngày
Ở 12 - 20oC, trứng sán nở sau 48 ngày
Ở 21 - 24oC, trứng sán nở sau 37 ngày
Ở 22 - 26oC, trứng sán nở sau 21 - 26 ngày
Ở 28 - 30oC, trứng sán nở sau 14 - 16 ngày
Ở 25 - 30oC, trứng sán có tỷ lệ nở khá cao (70 - 80%).
Đồng thời các tác giả còn cho biết, trứng sán lá gan cần có nước để phát triển.
Trứng để ở đĩa Petri không có nước sau 2 giờ sẽ bị teo lại và vỡ. Trứng có thể phát
triển ở độ pH là 7,8 - 8,1; ở độ pH này mao ấu có thể chui ra khỏi trứng và xâm
nhập vào ký chủ trung gian. Trong nước cất, mao ấu có thể sống tới 24 giờ, trong
nước máy tới 36 giờ. Khi bắt đầu yếu dần, mao ấu chuyển động quay tròn, nhào lên
lộn xuống liên tục một lúc rồi đứng im, rụng lông và tan rữa dần.
Trứng của F. gigantica lớn hơn trứng F. hepatica. Nếu ở nhiệt độ 30oC, trứng của
F. hepatica mất 7 ngày mới nở, nếu 25oC thì mất 9 - 10 ngày và 20
oC thì mất 15 ngày,
trong khi đó nếu ở nhiệt độ 30oC, trứng của F. gigantica phải mất 11 - 12 ngày mới nở,
nếu 25oC thì mất 17 ngày và 20
oC thì mất 31 ngày.
Grigoryan G. A. (1958) [98] cho biết, nhiệt độ 24 - 26oC và pH 6,5 - 7 là tốt
nhất cho sự phát triển của trứng sán lá gan. Tác giả cho rằng, trứng không sống ở
nhiệt độ trên 43oC, điều kiện khô hạn cũng làm trứng chết nhanh. Trứng F.
gigantica phát triển không đồng đều và nở thành Miracidium ở cùng một thời gian.
Vì vậy, trong cùng một điều kiện Miracidium có thể nở trong khoảng thời gian tới
vài tuần, tăng cơ hội nhiễm vào ốc. Cũng theo Guralp N. và cs. (1964) [99], thời
gian cho sự phát triển thành Miracidium trong trứng F. gigantica khác nhau phụ
thuộc vào nhiệt độ. Khoảng 10 - 11 ngày ở 37 - 38oC, 21 - 24 ngày ở 25
oC và 33
ngày ở 17 - 22oC. Asanji M. F. (1988) [64] thấy rằng, trứng bị kích thích nở khi tiếp
xúc với ánh sáng mặt trời hoặc ánh sáng mạnh. Khi thoát khỏi vỏ trứng, Miracidium
sống trong nước khoảng 18 - 26 giờ.
8
Khi gặp vật chủ trung gian thích hợp (ốc Lymnaea), Miracidium xâm nhập cơ
thể ốc và phát triển thành bào ấu (Sporocyst). Theo Phan Địch Lân (2004) [33], ký
chủ trung gian của sán lá F. gigantica ở Việt Nam là hai loài ốc Lymnaea swinhoei
(ốc vành tai) và Lymnaea viridis (ốc hạt chanh). Hai loài ốc này thường sống trong
các ao, hồ, mương, rãnh, các chân ruộng mạ có nước xâm xấp, các thửa ruộng cấy
lúa nước, các vũng trên đồng cỏ, các khe lạch, các chân ruộng bậc thang, khe suối ở
miền núi.
Bào ấu (Sporocyst) hình túi, màu sáng, được bao bọc bởi lớp màng mỏng, các
tế bào ngọn lửa hoạt động hình thành hầu, ống ruột và các đám phôi. Trong một ốc
có thể có 1 - 2 ấu trùng. Trong khoảng 3 - 7 ngày, bào ấu sinh sản vô tính cho ra
nhiều lôi ấu (Redia). Một bào ấu sinh ra 5 - 15 lôi ấu.
Lôi ấu (Redia) hình suốt chỉ, ít hoạt động, đã có miệng, hầu và ruột. Có hai
loại Redia (Redia thế hệ I và Redia thế hệ II) cùng phát triển trong ốc - vật chủ
trung gian. Ở nhiệt độ 16oC hoặc thấp hơn, Redia thế hệ I dừng phát triển. Ở nhiệt
độ phù hợp (20 - 30oC), sau 29 - 35 ngày, Redia biến thành Cercaria. Một Redia có
thể sinh ra 12 - 20 Cercaria.
Vĩ ấu (Cercaria) là ấu trùng ở pha sống tự do của sán lá gan, có thân hình tròn lệch,
kích thước 0,28 - 0,30 x 0,23 mm, có đuôi dài hơn thân, đuôi giúp vĩ ấu di chuyển dễ
dàng trong nước. Cấu tạo của vĩ ấu gồm giác miệng, giác bụng, hầu, thực quản và
ruột phân nhánh.
Trong cơ thể Cercaria có những hạt glycogen cung cấp năng lượng cho hoạt
động sống của ấu trùng, đặc biệt là cho sự vận động không ngừng của đuôi. Đuôi là
cơ quan vận động của vĩ ấu. Theo một số tác giả, đuôi làm nhiệm vụ thay đổi vị trí
của ấu trùng trong môi trường nước. Nhờ sự hoạt động tích cực của đuôi mà vĩ ấu
có thể tiếp cận để bám vào các cây thuỷ sinh, tạo thành kén (Adolescaria).
Từ khi Miracidium xâm nhập vào ốc đến khi phát triển thành Cercaria cần
khoảng 50 - 80 ngày. Sau khi thành thục, Cercaria thoát khỏi ốc, ra môi trường ngoài,
bơi tự do trong nước. Sau vài giờ bơi trong nước, Cercaria rụng đuôi, tiết chất nhầy
xung quanh thân, chất nhầy gặp không khí khô rất nhanh. Lúc này Cercaria đã biến
thành Adolescaria (ấu trùng sán lá gan có sức gây bệnh).
9
Theo Guralp N. và cs., 1964 [99], khoảng 80% Cercaria ra khỏi ốc vào buổi tối.
Tại Brazil, Gomes D. L. (1985) [167] đã thu được Cercaria sau 56 ngày gây nhiễm
Miracidium cho ốc ở nhiệt độ 27 - 29oC.
Tổng số Cercaria có thể có trong mỗi ốc thường là hàng trăm, nhưng có thể
khác nhau từ vài trăm đến hàng nghìn. Bitakaramire P. K. (1968) [70] đã thu được
trung bình 653 Cercaria của sán F. gigantica /ốc L. natalensis được gây nhiễm,
nhưng Grigoryan G. A. (1958) [98] đã thu được 2.700 Cercaria /ốc, Guralp N. và cs.
(1964) [99] thu được 7.179 Cercaria/ốc trong thời gian 75 ngày.
Sharma R. L. và cs. (1989) [153] cho biết, ở 25 - 27oC, Cercaria bắt đầu ra khỏi
ốc sau 20 ngày gây nhiễm, nhưng nhiều nhất khoảng 46 - 50 ngày sau khi nhiễm
(Asanji M. F., 1988 [64]). Thời gian này sẽ dài hơn khi nhiệt độ giảm đi và có thể kéo
dài đến 197 ngày (Dinnik J. A. và Dinnik N. N., 1963) [87].
Theo Da Costa C. và cs. 1994 [84], sau gây nhiễm, Cercaria từ ốc ra môi
trường nước thành các đợt, mỗi đợt có khoảng 50 - 70 Cercaria được giải phóng ra
khỏi ốc. Dreyfuss G. và Rondelaud D. (1997) [90] cho biết, trong một lần gây nhiễm,
Cercaria thoát ra khỏi ốc có thể tới 15 đợt (thường là 3 đợt hoặc có thể ít hơn).
Dar Y. và cs. (2010) [85] đã thí nghiệm gây nhiễm 4 Miracidium/ốc Radix
natalensis - ký chủ trung gian của sán lá F. hepatica tại Ai Cập, ở điều kiện nhiệt độ
24oC. Kết quả cho thấy, sau trung bình 24,3 ngày có 90,7 Cercaria được giải phóng
/ốc và Cercaria được giải phóng ra trong 2 - 13 đợt.
Theo Ueno H. và cs. (1975) [162], sau khi thoát khỏi ốc, Cercaria hóa nang
thành Adolescaria. Khoảng 2/3 số Adolescaria bám vào giá thể trong nước, số còn
lại không bám vào giá thể mà trôi nổi trong nước. Adolescaria hình khối tròn, màu
nâu đen, bên trong chứa phôi hoạt động. Phôi có giác miệng, giác bụng, ruột phân
nhánh và túi bài tiết.
Ký chủ cuối cùng (trâu, bò, các loài nhai lại khác và người) nuốt phải
Adolescaria, vào đến dạ dày và ruột, lớp vỏ ngoài bị phân huỷ, ấu trùng được giải
phóng và di chuyển đến ống mật bằng 3 con đường:
- Một số ấu trùng dùng tuyến xuyên chui vào niêm mạc ruột, vào tĩnh mạch
ruột, qua tĩnh mạch cửa vào gan, xuyên qua nhu mô gan vào ống mật.
10
- Một số ấu trùng khác cũng dùng tuyến xuyên xuyên qua thành ruột vào
xoang bụng, đến gan, xuyên qua nhu mô gan vào ống mật.
- Một số ấu trùng từ tá tràng ngược dòng dịch mật để lên ống dẫn mật.
Sau khi vào ống dẫn mật, ấu trùng ký sinh ở đó, hút máu vật chủ và phát triển
thành sán lá gan trưởng thành. Theo Skerman (1966), thời gian hoàn thành vòng đời
của sán lá F. hepatica là 92 - 117 ngày. Sán Fasciola trưởng thành có thể ký sinh
trong ống dẫn mật của súc vật nhai lại 3 - 5 năm, có khi tới 11 năm.
1. Trứng sán lá gan
2. Miracidium
3. Ấu trùng trong ốc
4. Cercaria
5. Adolescaria
6. Sán trưởng thành trong ống dẫn mật
Hình 1.2. [170]
F. hepatica
. (1960) [164 . L. (1963) [105 F.
gigantica L. truncatula
F. gigantica F. hepatica
nhưng thời gian -
(Dinnik . N., 1964) [88].
Phan Địch Lân (2004) [33] cho biết, trong điều kiện nhiệt độ thích hợp (28 -
30oC), có ốc - vật chủ trung gian (L. swinhoei và L. viridis), có vật chủ cuối cùng
(trâu, bò, dê, cừu) thì vòng đời của sán lá gan ở nước ta được xác định với các mức
thời gian sau:
11
- Ở ngoài thiên nhiên: trứng sán lá gan nở thành mao ấu (Miracidium) trong
khoảng 14 - 16 ngày.
- Ở trong ốc - vật chủ trung gian:
Mao ấu (Miracidium) phát triển thành bào ấu (Sporocyst) cần 7 ngày.
Bào ấu (Sporocyst) phát triển thành lôi ấu (Redia) cần 8 - 21 ngày.
Lôi ấu (Redia) phát triển thành vĩ ấu non (Cercaria) cần 7 - 14 ngày, thành vĩ
ấu trưởng thành cần 13 - 14 ngày.
- Ở ngoài ngoại cảnh: vĩ ấu phát triển thành kén (Adolescaria) sau khoảng 2 giờ.
- Ở trong cơ thể trâu, bò: sau khi nuốt phải Adolescaria 79 - 88 ngày, trong ống dẫn
mật của trâu, bò đã có sán lá gan trưởng thành.
Điều kiện tự nhiên ở nước ta rất thuận lợi cho sự cảm nhiễm và gây bệnh của
sán lá gan. Ở những vùng có mầm bệnh tồn tại, cứ trung bình 3 tháng sán lá gan lại
hoàn thành vòng đời trong cơ thể trâu, bò, nghĩa là trong trâu, bò lại tạo ra một đời
sán mới. Con vật đã có sán lá gan ký sinh lại tiếp tục nhiễm thêm mầm bệnh mới,
gây tình trạng bội nhiễm sán lá gan, vì vậy cường độ nhiễm tăng lên theo tuổi trâu,
bò (Nguyễn Thị Kim Lan và cs., 2008) [27].
1.2. Bệnh do sán lá Fasciola ở động vật nhai lại
1.2.1. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan
1.2.1.1. Tình hình nhiễm sán lá gan ở gia súc nhai lại
* Tình hình nhiễm sán gan ở gia súc nhai lại Việt Nam
Bệnh sán lá gan phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, bệnh có ở
khắp các tỉnh, thành trong cả nước.
Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [50] cho biết, các chuyên gia
người Pháp đã điều tra thấy trâu, bò, dê, cừu, thỏ ở miền Bắc Việt Nam đều nhiễm
sán lá F. gigantica theo tỷ lệ lần lượt là 64,7%; 23,5%; 37%; 52,94%; 14,28%; đặc
biệt có 2 trường hợp người nhiễm sán.
Phan Địch Lân (1980) [30] đã mổ khám 1.043 trâu ở Thái Nguyên, số trâu
nhiễm sán lá gan là 57%, trong đó có nhiều trâu phải huỷ bỏ gan do số lượng sán
quá nhiều. Kết quả điều tra ở huyện Bình Lục - Hà Nam, tỷ lệ nhiễm sán lá gan
ở trâu là 51,2 - 57,5%.
12
Kết quả nghiên cứu của Hồ Thị Thuận và Nguyễn Ngọc Phương (1987) [54] ở
các tỉnh miền Nam cho thấy tỷ lệ trâu, bò nhiễm sán lá gan từ 1,4 - 36,2%.
Nguyễn Đức Dương (1995) [7] đã xét nghiệm phân của 537 hươu tại các trại
nuôi hươu ở Hà Tĩnh, Quỳnh Lưu, Diễn Châu (Nghệ An) và công viên Thủ Lệ - Hà
Nội, phát hiện 13,22% số hươu nhiễm sán F. gigantica.
Theo Nguyễn Quang Sức và Nguyễn Thế Hùng (1995) [43], đàn dê Bách
Thảo nuôi tại Trung tâm nghiên cứu dê, thỏ Sơn Tây và một số hộ gia đình nuôi dê
nhiễm sán lá gan với tỷ lệ 30,4%.
Đoàn Văn Phúc và cs. (1995) [42] đã kiểm tra 64 bò tại trại bò sữa Hà Nội, tỷ
lệ nhiễm sán gan là 73,43%. Tác giả cho biết, bệnh sán lá gan đã ảnh hưởng rõ rệt
đến sức khoẻ và sản lượng sữa của đàn bò.
Kết quả xét nghiệm phân trâu, bò ở một số địa phương xung quanh Hà Nội,
Bắc Giang, Thái Nguyên và Hoà Bình cho thấy, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 44,53%.
Trong đó, trâu nhiễm 33,92%, bò nhiễm 54,21% (Lương Tố Thu và Bùi Khánh
Linh, 1996 [51]).
Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) [35] đã xét nghiệm phân của đàn bò sữa nuôi ở
Ba Vì, tỷ lệ nhiễm sán lá gan tới 46,23%.
Theo Nguyễn Trọng Kim và Phạm Ngọc Vĩnh (1997) [21], tỷ lệ nhiễm sán lá
gan trâu, bò ở tỉnh Hà Bắc (cũ) là 49,95%; ở Nghệ An là 25,27 - 32,65%; tỷ lệ
nhiễm sán lá gan chung ở miền Bắc Việt Nam là 43,56%.
Nguyễn Thị Kim Lan (2000) [25] đã nghiên cứu và cho biết, đàn dê địa
phương nuôi ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang và Cao Bằng nhiễm
sán lá gan biến động từ 5,3% đến 27,9% tuỳ theo địa phương.
Theo Holland W. G. và cs. (2000) [103], tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò ở khu
vực Đồng bằng sông Hồng là 22%, chủ yếu gia súc bị nhiễm ở cường độ nhẹ. Tỷ lệ
nhiễm tăng dần theo tuổi: trâu, bò dưới 6 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm là 5%; trâu, bò trên 2
năm tuổi tỷ lệ nhiễm là 25%.
Phan Địch Lân (2004) [33] đã xét nghiệm phân của 2.570 trâu ở 5 tỉnh đồng
bằng, kết quả thấy, tuổi trâu càng cao thì tỷ lệ nhiễm sán lá gan càng nặng (bình
quân tỷ lệ nhiễm ở các độ tuổi như sau: trâu dưới 3 năm tuổi nhiễm 17,2 - 22%, trâu
13
3 - 5 năm tuổi nhiễm 31,2 - 40,2%, trâu trên 5 năm tuổi nhiễm 42,4 - 57,5%, trâu
trên 8 năm tuổi nhiễm 56,8 - 66,3%, trâu ở độ tuổi loại thải nhiễm tới 84,6%).
Nguyễn Đình Trọng (2006) [55] đã nghiên cứu tình hình dịch tễ bệnh sán lá
gan trâu, bò tại tỉnh Bắc Kạn, kết quả như sau: trong tổng số 3.968 mẫu phân xét
nghiệm có 1.146 mẫu dương tính, tỷ lệ nhiễm chung là 28,88%. Tỷ lệ nhiễm sán lá
gan trâu, bò tại các huyện, thị biến động từ 12,8 % đến 35,51%. Nơi trâu, bò có tỷ lệ
nhiễm sán lá gan cao nhất là huyện Na Rì (35,51%), nơi có tỷ lệ nhiễm thấp nhất là
huyện Ngân Sơn (12,80%).
Đỗ Đức Ngái và cs. (2006) [41] đã nghiên cứu và cho biết, tỷ lệ nhiễm sán lá
gan ở bò tại Đắk Lắk là 34,22%.
Phạm Văn Lực và Phạm Ngọc Doanh (2006) [38] đã tiến hành nghiên cứu
hiện trạng các bệnh ký sinh trùng lây truyền giữa người và động vật ở tỉnh Gia Lai
và Đắk Lắk. Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở trâu, bò khá cao (35 - 65%).
Theo Giang Hoàng Hà và cs. (2008) [8], tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò sữa tại
khu vực Hà Nội là 29,45%, trong đó, bê có tỷ lệ nhiễm là 22,03%, bò tỷ lệ nhiễm
là 34,48%.
Geurden T. và cs. (2008) [97] thông báo, tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò 3 -
24 tháng tuổi ở khu vực xung quanh Hà Nội là 28%, tỷ lệ này là 39% ở trâu, bò
trưởng thành.
Vũ Đức Hạnh và Nguyễn Thị Kim Lan (2009) [10] đã xét nghiệm 1.170 mẫu
phân trâu, bò ở một số xã của huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Kết quả thấy, có
641 trâu, bò nhiễm sán lá gan, chiếm tỷ lệ 54,79%.
Nguyễn Hữu Hưng (2009) [14] đã kiểm tra 981 mẫu phân bò, kết hợp mổ
khám 309 bò tại 4 huyện của tỉnh Đồng Tháp. Tác giả cho biết: bò nhiễm sán lá gan
với tỷ lệ khá cao (53,31%), tỷ lệ nhiễm tăng dần theo lứa tuổi, nhiễm thấp nhất ở
lứa tuổi dưới 1 năm tuổi (15,31%), cao nhất ở bò trên 2 năm tuổi (63,09%).
Võ Thị Hải Lê (2010) [36] đã xét nghiệm 269 mẫu phân trâu, bò (150 trâu,
119 bò) tại 2 huyện thuộc tỉnh Nghệ An, tỷ lệ nhiễm là 61,6 % ở trâu và 26,86% ở
bò. Mổ khám 150 trâu và 131 bò, kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm ở trâu là 67,76%, ở
bò là 30,68%.
14
Ngu . (2010) [44
b
2 năm t
F. gigantica.
. (2011) [11
-
0 đến 28%).
Theo Nguyễn Hữu Hưng (2011) [15], tỷ lệ nhiễm sán lá gan qua xét nghiệm
phân của đàn bò tại 3 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (Sóc Trăng, Đồng Tháp và An
Giang) là 51,91%, tỷ lệ nhiễm tăng dần theo lứa tuổi bò (bò dưới 1 năm tuổi nhiễm
0,43%, bò trên 2 năm tuổi nhiễm tới 62,81%).
Sam Thi Nguyen và cs. (2012) [147] đã xét nghiệm 1.027 mẫu phân bò thu
thập tại 3 tỉnh Bình Định, Khánh Hòa và Phú Yên để xác định tỷ lệ nhiễm sán lá
gan. Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan của bò là 45,3%, trong đó vào mùa
mưa tỷ lệ nhiễm là 50,8%, vào mùa khô là 38,1%. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng dần
theo tuổi bò: bò dưới 2 năm tuổi tỷ lệ nhiễm là 37,6%; bò trên 2 năm tuổi tỷ lệ
nhiễm là 53,7%.
* Tình hình nhiễm sán lá Fasciola của gia súc nhai lại ở nước ngoài
F. hepatica được Linnaeus mô tả năm 1758, còn F. gigantica được Cobbol mô tả
năm 1855 và được Kendall phân loại năm 1965 (Kunio Terasaki và cs., 2010) [22].
Singh N. B. và cs. (1973) [154] đã nghiên cứu và cho biết, tỷ lệ gia súc ở
những khu vực có độ cao dưới 1.800 mét so với mực nước biển tại Nê pan bị nhiễm
sán lá F. gigantica và F. hepatica là 50 - 90%, ước tính thiệt hại kinh tế hàng
năm là 20 triệu đô la Mỹ. Mahato S. N. và cs. (1995) [121] cũng cho biết, với tỷ
lệ nhiễm sán lá gan tương tự ở địa phương khác nhưng thiệt hại về kinh tế thì cao
hơn, khoảng 37 triệu đô la Mỹ /năm (chỉ tính riêng thiệt hại về sản lượng thịt và sữa).
15
Theo Schenone H. và Rojas A. (1988) [149], tỷ lệ nhiễm sán lá gan của vật
nuôi giết mổ tại các lò mổ ở Chi Lê từ năm 1977 đến 1986 là: bò 19,4 - 34,4%; dê
8,4 - 23,6%; cừu 3,2 - 5,7%; ngựa và lừa 1,8 - 9,3%.
Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm bệnh sán lá gan ở dê, cừu và bò ở thung lũng Kashmir
- Ấn Độ, Dhar D. N. và cs. (1988) [86] cho biết, tỷ lệ nhiễm qua mổ khám biến
động từ 0 đến 100 %, kiểm tra phân thấy tỷ lệ biến động từ 18,7 đến 55,6%. Dê, cừu
và bò đều bị nhiễm, bò nhiễm cao nhất rồi đến dê và cừu. Sau khi tẩy 2 - 8 tháng,
kiểm tra phân cừu vẫn thấy 8,6 - 27,8% nhiễm sán lá gan. Loài F. gigantica là loài
sán chủ yếu ký sinh ở gan dê, cừu và bò ở Kashmir.
Theo Gargılı A. và cs. (1999) [95], sán lá F. hepatica là loài sán thường tìm
thấy ở cừu và các gia súc nhai lại khác ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Theo Cringoli G. và cs. (2002) [82], có 9 trong số 81 (11,1%) số trang trại chăn
nuôi bò và 8 trong số 197 (4,1%) số trang trại chăn nuôi cừu tại khu vực Apennines -
miền nam Italia bị nhiễm sán lá F. hepatica.
Pfukenyi D. M. và cs. (2004) [138] cho biết, trong vòng 10 năm (1990 - 1999)
nghiên cứu về sự lưu hành của F. gigantica ở trâu, bò tại lò mổ Zimbabwe, tác giả
thấy, trong 2.474.232 trâu, bò giết mổ có 917.565 trâu, bò nhiễm F. gigantica,
chiếm tỷ lệ 37,10%. Trâu, bò ở những vùng mưa nhiều có tỷ lệ nhiễm F. gigantica
cao hơn trâu, bò nuôi ở những vùng khô hạn.
Theo Molina E. C. và cs. (2005) [129], xét nghiệm phân của 252 con bò tại
Mindanao - Phipippin, có 173 con bị nhiễm sán lá gan F. gigantica, chiếm tỷ lệ
68,65%. Tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan tăng dần theo tuổi: bò ở các lứa tuổi từ 5 tháng
đến 2 năm tuổi, từ 2 - 4 năm tuổi và trên 4 năm tuổi nhiễm với tỷ lệ lần lượt là 53%,
78% và 82%. Bò đực nhiễm sán với tỷ lệ 62%, tỷ lệ nhiễm ở bò cái là 72%.
Suon S. và cs. (2006) [157] cho biết: qua xét nghiệm phân của 273 con trâu,
bò nuôi tại hai tỉnh Kandal và Kompong Cham - Campuchia thấy: tỷ lệ trâu, bò bị
nhiễm sán lá gan F. gigantica của tỉnh Kompong Cham là 7%, ở tỉnh Kandal là 38%.
Mungube E. O. và cs. (2006) [133] đã nghiên cứu tình hình nhiễm sán lá F.
gigantica của bò, dê và cừu tại các lò mổ ở khu vực Taveta (Kenya) trong thời gian
16 năm, từ năm 1989 đến 2004. Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở
bò, dê và cừu lần lượt là 26%, 6,6% và 5,2%.
16
Menkir M. Sissay và cs. (2007) [127] đã mổ khám 655 con cừu và 632 con dê
tại các lò mổ ở miền Đông Etiopia trong thời gian từ tháng 5 năm 2003 đến tháng 4
năm 2005. Kết quả cho thấy, cừu và dê ở khu vực này đều bị nhiễm 2 loài sán lá F.
gigantica và F. hepatica. Trong đó, tỷ lệ nhiễm F. hepatica của cừu là 26%, của dê
là 3%; tỷ lệ nhiễm F. gigantica của cừu là 20% và của dê là 10%.
Jill Pleasance và cs. (2011) [110] đã bố trí thí nghiệm so sánh tỷ lệ nhiễm sán
lá F. gigantica và F. hepatica của cừu tại Indonexia. Kết quả cho thấy, trong tất cả
các thí nghiệm, tỷ lệ nhiễm sán lá F. hepatica đều cao hơn và ảnh hưởng lớn tới
các chỉ số sinh lý của cừu. Sự phát triển của 2 loài sán này cũng được theo dõi và
so sánh trong 12 tuần sau khi nhiễm. Kết quả cho thấy, sán F. hepatica phát triển
trong cơ thể cừu nhanh hơn nhiều so với sán F. gigantica.
Pierre Dorny và cs. (2011) [140] đã nghiên cứu và cho biết, tỷ lệ nhiễm sán
lá gan của trâu, bò tại hai tỉnh Pursat và Kompong Speu ở Campuchia là 5 - 20%.
Kiểm tra tình trạng nhiễm sán lá gan lớn trên dê và cừu tại 3 vùng địa lý của
Na Uy qua xét nghiệm phân và mổ khám từ năm 2007 đến 2010, Atle V. Meling
Domke và cs. (2013) [65] cho biết, có 18,18% trong số 77 đàn cừu nhiễm sán lá F.
hepatica, trong khi không có con dê nào trong số 33 đàn dê bị nhiễm sán này.
Kozłowska Loj J. và Maczulska Loj A. (2013) [119] cho biết, tỷ lệ bò nhiễm
sán lá F. hepatica qua mổ khám tại các lò mổ ở tỉnh Lublin - Ba Lan từ năm 2009
đến năm 2012 là 11,97%.
Kiziewicz B. (2013) [117] đã kiểm tra 178 con bò rừng Bizon ở vườn quốc gia
Białowieża, Ba Lan, thấy có 63 con bị nhiễm sán lá F. hepatica (chiếm 35,3%),
trong đó bò trưởng thành bị nhiễm với tỷ lệ cao nhất (61,9%) và bê nhiễm với tỷ
lệ 20,63%.
Jean - Richard V. và cs. (2014) [109] đã nghiên cứu và cho biết tỷ lệ nhiễm
sán lá gan F. gigantica qua mổ khám 616 dê, 132 cừu và 130 bò ở phía Đông Nam
khu vực hồ Chad - Nigeria lần lượt là 12%, 23% và 68%. Trong số 200 con dê, cừu
và bò nhiễm sán có 106 con (53%) bị nhiễm từ 1 - 10 sán /con, 36 con (18%) bị
nhiễm từ 11 - 100 sán /con và 58 con (29%) bị nhiễm trên 100 sán /con.
17
Ali Khanjari và cs. (2014) [60] đã mổ khám 2.391 con cừu và dê tại các lò mổ ở
khu vực Amol, miền Bắc Iran để xác định tỷ lệ nhiễm sán lá gan Fasciola spp.. Kết
quả cho thấy dê, cừu ở đó bị nhiễm sán lá gan với tỷ lệ 6,6%, trong đó tỷ lệ nhiễm
trong mùa Xuân là cao nhất (8,3%), sau đó đến mùa Thu (8,1%), mùa Đông (5,9%)
và thấp nhất là vào mùa Hè (4%). Tác giả cũng cho biết, không có sự khác nhau rõ rệt
về tỷ lệ nhiễm giữa cừu đực và cừu cái, giữa dê đực và dê cái.
1.2.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở gia súc nhai lại
* Yếu tố thời tiết, khí hậu và mùa vụ:
Thời tiết, khí hậu của một vùng, một khu vực có liên quan trực tiếp đến sự tồn
tại và phát triển của ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan. Điều kiện ẩm ướt, mưa
nhiều tạo ra môi trường nước, giúp ốc nước ngọt sống và sinh sản thuận lợi.
Theo nhiều tác giả trong nước và trên thế giới, bệnh sán lá gan lớn thường
phát triển theo mùa. Vào mùa mưa, tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở gia súc cao hơn
nhiều so với mùa khô (Ripert C. và cs., 1987) [165].
Trịnh Văn Thịnh (1963) [49], Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978)
[50], Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [17], Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2012)
[29]... đều cho biết, gia súc nhai lại nhiễm sán lá gan nhiều hơn vào mùa vật chủ
trung gian phát triển. Những năm mưa nhiều, tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng lên so với
những năm nắng ráo và khô hạn. Mùa vụ gắn liền với sự thay đổi thời tiết khí hậu.
Mùa Hè và đầu mùa Thu, số gia súc bị nhiễm sán lá gan tăng cao hơn các mùa khác
trong năm. Cuối mùa Thu và mùa Đông bệnh thường phát ra.
Khác với điều kiện thời tiết khí hậu ở Việt Nam, ở một số quốc gia khác có
mùa nóng kèm theo sự khô hạn và thiếu nước. Điều này dẫn đến sự khác nhau về tỷ
lệ nhiễm sán lá gan theo mùa.
Claxton J. R. và cs. (1997) [79] cho biết, tại Peru, bò bị nhiễm sán lá gan chủ
yếu từ tháng 12 tới tháng 5 và bị nhiễm rất ít hoặc không bị nhiễm sán vào thời gian
từ tháng 6 tới tháng 8 hàng năm.
Tại Tabasco - Mexico, Rangel - Ruiz L. J. và cs. (1999) [141] đã tiến hành các
nghiên cứu trên bò và thấy rằng, bò bị nhiễm sán lá gan vào thời gian từ tháng 9 đến
tháng 5 năm sau cao hơn so với thời điểm từ tháng 6 đến tháng 8.
18
Một kết quả khảo sát trong vòng 5 năm tại các lò mổ ở Iran, Ansari - Lari M.
và Moazzeni M. (2006) [62] cho thấy, gia súc bị nhiễm sán lá gan lớn vào mùa
nóng và khô thấp hơn rõ rệt so với mùa lạnh và ẩm.
Theo Bulent Elitok và cs. (2006) [74], bò tại Pêru bị nhiễm sán lá gan nhiều
nhất vào mùa Xuân.
Theo Boray J. C. (2011) [72], tỷ lệ nhiễm sán lá gan thay đổi theo mùa và phụ
thuộc vào tình trạng quản lý gia súc, sự thiếu hụt dinh dưỡng của gia súc, vấn đề
quản lý đồng cỏ và sự phát triển của ốc nước ngọt - vật chủ trung gian của sán lá gan.
Tuy nhiên, một số ít tác giả lại có ý kiến trái ngược các kết quả nghiên cứu ở
trên. Conceição M. A. P. và cs. (2004) [81], Phiri A. M. và cs. (2005) [139] lại cho
rằng mùa vụ không ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở súc vật nhai lại.
* Yếu tố vùng và địa hình:
Vùng và địa hình là hai khái niệm khác nhau, song có liên quan chặt chẽ với
nhau. Các vùng khác nhau có địa hình không giống nhau. Địa hình là yếu tố quan
trọng quyết định sự khác nhau giữa các vùng.
Các vùng khác nhau trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đều thuộc
bốn loại địa hình: ven biển, đồng bằng, trung du và miền núi.
Hầu hết các nhà ký sinh trùng học đều thống nhất rằng, gia súc nhai lại ở vùng
đồng bằng nhiễm sán lá gan nhiều nhất, tỷ lệ và cường độ nhiễm giảm dần đối với
các đàn gia súc nhai lại ở vùng ven biển, vùng trung du và vùng núi. Về nguyên
nhân dẫn đến quy luật này, các tác giả (Trịnh Văn Thịnh, 1963 [49]; Phạm Văn
Khuê và Phan Lục, 1996 [17]; Soulsby E. J., 1987 [166]; Kaufmann J., 1996
[114]...) đều giải thích: vùng đồng bằng có nhiều hồ, ao, kênh, rạch, có điều kiện
cho ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan sống và sinh sản. Các kiểu địa hình khác
thì vấn đề này hạn chế hơn so với đồng bằng.
Phan Địch Lân (2004) [33] đã xét nghiệm phân của 7.359 trâu, bò ở 26 tỉnh
miền Bắc Việt Nam, kết quả thấy: trâu, bò ở vùng đồng bằng nhiễm sán lá gan
nhiều nhất, sau đó đến vùng trung du, vùng ven biển và miền núi (bình quân tỷ lệ
nhiễm sán ở các vùng điều tra như sau: vùng đồng bằng 19,6% - 61,3%, vùng trung
du 16,4% - 50,2%, vùng ven biển 13,7% - 39,6% và vùng núi 14,7% - 44,0%).
19
Kết quả nghiên cứu của Lê Hữu Khương và cs. (2001) [18] cho thấy, ở nước
ta tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn trung bình ở trâu là 46,23%, dao động từ 8,74% -
61,09%, ở bò là 30,64%; tỷ lệ này ở trâu tăng dần từ Nam ra Bắc.
Alison Howell và cs. (2012) [61] đã kiểm tra tỷ lệ nhiễm sán lá gan của 239 bò
ở các vùng có độ cao từ 1.112 - 2.072 mét so với mặt nước biển ở vùng núi Elgon,
Uganda. Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica của bò giảm khi độ cao
tăng lên. Cụ thể: ở độ cao dưới 1.500 mét tỷ lệ nhiễm là 43,7%, ở độ cao trên 1.500
mét là 1,1%. Đồng thời tác giả cũng cho biết, ốc L. natalensis - ký chủ trung gian
của sán lá gan rất nhiều và phổ biến ở các vùng thấp, càng lên cao ốc càng ít và
không tìm thấy ốc ở độ cao trên 1.800 mét. Như vậy, tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò có
liên quan trực tiếp với địa hình và sự tồn tại của ốc - ký chủ trung gian.
* Vật chủ cuối cùng của sán lá gan.
Súc vật nhai lại đã được thuần hoá như trâu, bò, dê, cừu đều nhiễm sán lá gan.
Ngoài ra, súc vật nhai lại hoang dã như hươu, nai, hoẵng cũng nhiễm sán lá này.
Các loài vật nuôi khác như thỏ, ngựa, lợn cũng có thể nhiễm sán lá gan. Người cũng
bị nhiễm sán lá gan lớn và hiện nay các ca bệnh sán lá gan lớn trên người vẫn đang tiếp
tục gia tăng ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước.
Ở nước ta, theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [50], Phạm Văn
Khuê và Phan Lục (1996) [17], loại súc vật nhiễm sán lá gan nhiều nhất là trâu
(79,6%), bò ít hơn (36%), dê ít nhất (20%). Sở dĩ trâu nhiễm sán lá gan nhiều là do
đặc tính ưa nước của chúng (thích ăn gần chỗ có nước, đằm tắm trong nước và uống
nước ở vũng, ao, kênh rạch), trong khi đặc điểm của bò và dê ít ưa nước hơn.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (1998) [23], đàn dê địa phương ở Thái Nguyên,
Bắc Kạn, Tuyên Quang và Cao Bằng nhiễm sán lá gan 14,88%, riêng dê trưởng thành
nhiễm 22,86%. Tác giả cho biết: khi thiếu thức ăn, cả đàn dê có thể lội xuống ruộng
nước để ăn cỏ thủy sinh, do đó dễ dàng nuốt phải kén gây bệnh.
Mas - Coma S. và cs. (2009) [125] đã ước tính, có khoảng 2,4 - 17 triệu người
trên thế giới bị nhiễm một hoặc cả hai loài sán F. hepatica và F. gigantica.
Theo thống kê của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, đến
tháng 3 năm 2008, nước ta đã có hơn 5.000 người tại 47 tỉnh thành từ Bắc tới Nam bị
nhiễm sán lá gan lớn (dẫn theo Đặng Thị Cẩm Thạch và cs., 2008) [45].
20
Issia L. và cs. (2009) [106] đã khảo sát tình hình nhiễm sán lá gan F. hepatica
ở khu bảo tồn động vật hoang dã tại phía Bắc Argentina trong mùa Thu và mùa
Xuân năm 2006. Kết quả cho thấy, dê và lạc đà không bướu bị nhiễm sán lá gan với
tỷ lệ lần lượt là 84% và 0,5%; cừu và hải ly bị nhiễm với cùng tỷ lệ 100%.
Getachew M. và cs. (2010) [96] qua kiểm tra 803 mẫu phân và mổ khám 112
con lừa tại Etiopia từ năm 1994 đến 2004 thấy, lừa bị nhiễm cả hai loài sán F.
gigantica và F. hepatica với tỷ lệ 44,4% và 41,9%. Đồng thời tác giả cũng cho biết,
không có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm theo lứa tuổi của lừa (P > 0,05), nhưng lừa
trên 8 năm tuổi có cường độ nhiễm nặng nhất.
Tavassoli M. và cs. (2010) [159] cho biết, ngựa tại vùng Tây Bắc Iran nhiễm
sán lá gan Fasciola spp. với tỷ lệ 3,2%.
Arias M. S. và cs. (2012) [63] đã xét nghiệm 143 mẫu máu của hươu và nai tại khu
vực miền Nam Tây Ban Nha để xác định tỷ lệ nhiễm sán lá F. hepatica. Các mẫu được
phân tích bằng cách sử dụng kháng nguyên của sán lá để phát hiện kháng thể trong huyết
thanh của súc vật. Kết quả có 3% số hươu và nai bị nhiễm sán lá F. hepatica.
Mezo M. và cs. (2013) [128] đã mổ khám 358 lợn rừng săn bắn được tại
Galicia (Tây Bắc Tây Ban Nha). Tác giả kết luận: tỷ lệ nhiễm sán lá F. hepatica của
lợn rừng là 11,2%, số lượng sán ký sinh /lợn là 1 - 14 sán, trung bình có 2,3 sán ký
sinh trong một lợn.
Về mối liên quan giữa tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá gan và tuổi vật chủ, các tác
giả đều thống nhất rằng, tuổi súc vật càng cao thì tỷ lệ và cường độ nhiễm càng tăng
lên (Baldock F. C. và Arthur R. J. (1985) [66], Bouvry M. và Rau M. E. (1986)
[73]…). Một điều dễ nhận thấy là, súc vật tuổi càng tăng lên, thời gian sống càng
dài thì sự tiếp xúc với môi trường ngoại cảnh càng nhiều, cơ hội gặp và nuốt phải
nang ấu (Adolescaria) càng cao. Mặt khác, sán gan trưởng thành có thời gian ký
sinh ở súc vật nhai lại tương đối dài (3 - 5 năm, thậm chí tới 11 năm). Đó chính là
cơ sở khoa học giải thích cho quy luật nhiễm sán lá gan theo tuổi vật chủ.
Phan Địch Lân (2004) [33] cho biết, trâu dưới 3 năm tuổi chỉ nhiễm sán lá gan
17,2% - 22,0%; trâu 3 - 5 năm tuổi nhiễm sán lá gan 31,2% - 40,2%, trâu 5 - 8 năm
tuổi nhiễm 42,4% - 57,5%, trâu trên 8 năm tuổi nhiễm 56,8% - 66,3%, trâu ở độ
tuổi phế canh (loại thải) khi mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm tới 84,6% (những trâu này bị
bệnh rất nặng, gan phải huỷ bỏ toàn bộ do xơ gan và có quá nhiều sán ký sinh).
21
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2000) [25], tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở
dê địa phương cũng tăng lên theo tuổi dê. Dê trên 24 tháng tuổi nhiễm sán lá gan
nhiều và nặng hơn rõ rệt (P < 0,01) so với các lứa tuổi thấp hơn.
Maqbool A. và cs. (2002) [122] đã nghiên cứu và cho biết, trâu trưởng thành
tại Pakistan nhiễm sán lá Fasciola với tỷ lệ 18,45%, còn trâu chưa trưởng thành
nhiễm với tỷ lệ thấp hơn (11,36%).
Nguyễn Hữu Hưng (2009) [14] đã xét nghiệm 981 mẫu phân bò và mổ khám
309 bò tại 4 huyện ở tỉnh Đồng Tháp. Tác giả cho biết, bò ở Đồng Tháp nhiễm sán
lá gan với tỷ lệ khá cao (53,31%), tỷ lệ nhiễm tăng dần theo lứa tuổi, tỷ lệ nhiễm
thấp nhất ở bò dưới 1 năm tuổi (15,31%) và cao nhất ở bò trên 2 năm tuổi (63,09%).
Ngược lại các kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả trên, Khan M. K. và cs.
(2009) [116] cho biết, không có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo lứa tuổi
ở bò tại Pakistan.
Trong tự nhiên, nguồn gieo rắc mầm bệnh chủ yếu là súc vật nuôi (trâu, bò,
dê, cừu...) và những dã thú mang sán gan. Trứng sán thường xuyên theo phân của
súc vật ra ngoài. Mỗi súc vật đã nhiễm sán hàng năm thải số lượng trứng sán khá
lớn ra đồng cỏ và các bãi chăn thả. Những đồng cỏ ẩm thấp, lầy lội là những nơi
thuận lợi cho trứng sán gan nở thành Miracidium, thuận lợi cho vật chủ trung gian
của Fasciola tồn tại và phát triển, từ đó thuận lợi cho sán hoàn thành giai đoạn ấu
trùng trong vật chủ trung gian.
* Ốc Lymnaea - vật chủ trung gian của sán lá gan và đặc điểm sinh học
của chúng
Sự phân bố các loài ốc - vật chủ trung gian của sán lá Fasciola phụ thuộc vào các
vùng địa lý khác nhau. Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [17], Kaufmann J.
(1996) [114], vật chủ trung gian của sán lá gan là các loài ốc nước ngọt họ Lymnaea như
L. auricularia, L. swinhoei, L. viridis, L. truncatula, Radix ovata...
Phan Địch Lân (1980) [30] đã tổng hợp và cho biết: loài ốc - vật chủ trung gian
của F. gigantica ở ấn Độ là L. acuminata, ở châu Phi là L. natalensis, ở Pakistan là L.
permisca, ở Apganixtan là L. luteola, ở Malayxia là L. auricularia, ở Nhật Bản là L .
pervia, ở Indonesia và Philippine là L. viridis, ở Hungari là L. truncatula...
22
Theo Torgerson P. và cs. (1999) [160], trên thế giới có khoảng 20 loài ốc Lymnaea là
vật chủ trung gian của 2 loài sán F. gigantica và F. hepatica (L. stagnalis, L. pergera, L.
tomentosa, L. truncatula, L. palustris, L. swinhoei, L. viridis…).
Trong vùng Altiplano - phía Bắc Bolivia, bệnh sán lá gan ở người và vật nuôi chỉ
do loài F. hepatica gây ra, trong đó tỷ lệ và cường độ nhiễm ở người khá cao (Mas -
Coma S. và cs., 1999 [123]). Ốc L. truncatula là vật chủ trung gian của sán lá F.
hepatica ở các khu vực này (Mas - Coma S. và cs., 2001) [124].
Kendall S. B. và McCullough F. S. (1951) [115] cho biết, ốc L. truncatula -
vật chủ trung gian của sán lá F. hepatica có số lượng Cercaria thoát ra ngoài nhiều
nhất ở nhiệt độ 20oC và giảm dần khi nhiệt độ giảm.
Theo Harris R. E. và Charleston W. A. (1980) [102], vật chủ trung gian của
sán F. hepatica ở New Zealand là những loài ốc bản địa L. tomentosa, L. columeua
và L. truncatula.
Một loài ốc khác, loài L. ollula là vật chủ trung gian của sán lá F. gigantica ở
Nhật Bản (theo công bố của Ueno H. và cs., 1975 [162]), ở Hawaii (theo công bố
của Alicata J. E., 1938) [59].
Theo Jorgen Hansen và Brian Perry (1994) [112], nhiệt độ thích hợp nhất cho
sự phát triển của ốc là 15 - 26oC, ở nhiệt độ này ốc đẻ số lượng trứng rất lớn. Trứng
nở trong vòng 2 tuần và sau 1 tháng thành ốc trưởng thành. Một con ốc trong vòng
10 - 12 tuần có thể sinh sản ra hàng ngàn con ốc. Ở nhiệt độ dưới 10oC, ốc không
phát triển và ngừng hoạt động. Tuy nhiên, ốc có thể chui vào bùn và sống trong điều
kiện bất lợi nhiều tháng.
Mặc dù là động vật thủy sinh, nhưng ốc - vật chủ trung gian của sán lá F.
gigantica có thể sống trong điều kiện khô hạn trong một thời gian nhất định, vì thế
Mahato S. N. và cs. (1995) [121] đã cho rằng, sự ngủ hè của ốc có thể đóng vai trò
quan trọng trong dịch tễ của bệnh sán lá gan ở Nepal. Tác giả đã quan sát thấy ốc L.
viridis sống ở bùn khô ít nhất trong một tháng. Tuy nhiên, những loài ốc này thường
không vùi mình xuống bùn khi hết nước, mà vẫn nằm trên bề mặt bùn. Vì vậy, ốc
dễ bị khô hơn và dễ bị vật ăn mồi ăn hơn so với khi chúng vùi mình trong đất. Tuy
nhiên, khi không tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, ốc vẫn sống và đẻ trứng trong một
số tuần sau khi môi trường sống của chúng đã bị khô hạn.
23
Phan Địch Lân và cs. (1985) [31] đã khảo sát đặc điểm sinh học của ốc - vật
chủ trung gian của sán lá F. gigantica ở miền Bắc Việt Nam. Tác giả cho biết, vật
chủ trung gian của sán lá F. gigantica là hai loài ốc nước ngọt thuộc giống
Lymnaea: L. swinhoei và L. viridis. Loài L. swinhoei có vỏ mỏng, dễ vỡ, không có
nắp miệng, dài 20 mm, vòng xoắn cuối cùng rất lớn, chiếm gần hết phần thân, vỏ
loe ra như vành tai. Loài L. viridis có vỏ mỏng, không có nắp miệng, dài 10 mm, vỏ
dễ vỡ, có 4 - 5 vòng xoắn, vòng xoắn cuối cùng lớn. Ốc L. viridis thường sống ở
những nơi nước xâm xấp. Ốc L. swinhoei thường sống trôi nổi ở cống, rãnh, ao, hồ.
Hai loài ốc này đẻ trứng thành ổ. Sau khoảng 7 ngày trứng nở thành ốc con. Trong
điều kiện nhiệt độ ở nước ta, ốc đẻ quanh năm và quanh năm có ốc con được nở ra.
Phan Địch Lân (2004) [33] cho biết: ốc L. swinhoei phân bố nhiều hơn ở
vùng đồng bằng, trong khi ốc L. viridis phân bố nhiều hơn ở vùng núi, trung du
và ven biển. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả thì hai loài ốc này đều xuất
hiện trong cả 12 tháng của năm, nhưng mật độ khác nhau theo vùng (vùng đồng
bằng có mật độ ốc L. swinhoei cao hơn và phân bố đều trong năm, còn ốc L.
viridis thì xuất hiện với mật độ cao hơn ở vùng núi và trung du). Tác giả nhận
xét rằng, ốc L. swinhoei chịu nước hơn, còn ốc L. viridis chịu cạn hơn. Có thể
phân biệt ốc L. swinhoei và L. viridis bằng sự khác nhau của các vòng xoáy vỏ,
vành miệng, chỉ số chiều cao lỗ miệng.
Cấu tạo Loài L. swinhoei Loài L. viridis
Nắp miệng Không có Không có
Các vòng xoáy của vỏ Nhô cao Nhô cao
Vành miệng Loe rộng như vành tai Thu nhỏ lại
Chỉ số chiều cao lỗ
miệng Gấp 3 lần chiều cao tháp ốc
Bằng hoặc nhỏ hơn
chiều cao tháp ốc
Theo Phan Địch Lân (2004) [33], ở Bình Định có loài ốc L. viridis và L.
swinhoei là vật chủ trung gian của sán lá F. gigantica. Trong điều kiện nhiệt độ 27 -
35oC, thời gian phát triển từ trứng sán đến nang sán là 42 - 58 ngày, trong đó thời
gian phát triển ở trong ốc - vật chủ trung gian là 31 - 40 ngày.
24
Theo Nguyễn Trọng Kim và cs. (1996) [19], trong điều kiện tự nhiên, khí hậu,
thời tiết, nhiệt độ, độ ẩm ở miền Bắc nước ta, nhiệt độ trung bình mùa Đông là 12 -
20oC, mùa Hè là 28 - 30
oC, ẩm độ thường xuyên là 80 - 81% tạo điều kiện thuận lợi
cho ốc L. viridis và L. swinhoei phát triển liên tục trong năm, đồng thời trứng sán
cũng dễ dàng phát triển. Miracidium luôn có mặt để nhiễm vào ốc, đồng thời trong
ốc ấu trùng sán lá gan phát triển qua các giai đoạn từ ấu trùng lông Miracidium đến
ấu trùng đuôi Cercaria.
Đỗ Đức Ngái và cs. (2006) [41] cho biết, trong 1.000 ốc thu thập ở Đắk Lắk
có 2 loài phổ biến là L. swinhoei và L. viridis. Kết quả mổ khám ốc cho thấy, loài L.
swinhoei là vật chủ trung gian của sán lá gan với tỷ lệ nhiễm Cercaria là 4,75%.
Sự tồn tại và phát triển quanh năm của ốc - vật chủ trung gian ở miền Bắc
nước ta là điều kiện quan trọng giúp cho sán lá gan hoàn thành giai đoạn ấu trùng để
trở thành ấu trùng có sức gây bệnh. Đó là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nhiễm sán lá
gan của súc vật nhai lại ở nước ta cao và phổ biến ở tất cả các vùng (Phan Địch Lân,
2004) [33].
Theo Rognlie M. C. và cs. (1996) [143], tỷ lệ ốc L. modicella ở Montana - Mỹ
nhiễm ấu trùng sán lá Fasciola spp. là 0,032%. Kaplan R. M. và cs. (1997) [113]
cho biết, ốc Fossaria cubensis - vật chủ trung gian của sán lá Fasciola ở Florida -
Mỹ nhiễm ấu trùng sán lá gan với tỷ lệ 1,5%. Theo Cucher M. A. và cs. (2006) [83],
tỷ lệ ốc L. columella và L. viatrix tại Argentina nhiễm ấu trùng sán gan với tỷ lệ lần
lượt là 51,3% và 61,8%.
Nguyễn Trọng Kim (1997) [20], Moll L. và cs. (2000) [130] cho biết, giữa tỷ
lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan của ốc - vật chủ trung gian với tỷ lệ nhiễm sán lá gan
của trâu, bò có mối tương quan thuận, nghĩa là, khi tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở ốc nước
ngọt cao thì tỷ lệ nhiễm sán lá trưởng thành của trâu, bò ở khu vực đó cũng cao và
ngược lại.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lan (2001) [25] tại 2 huyện Đồng
Hỷ và Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên cho thấy, trong 930 ốc L. viridis và L.
swinhoei được kiểm tra có 691 con nhiễm ấu trùng sán lá gan, chiếm tỷ lệ 74,3%.
Theo Rondelaund D. và cs. (2001) [145], tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá F.
hepatica của 2 loài ốc L. truncatula và L. glabra là 1,1% và 0,3%.
25
Coelho L. H. L. và Lima W. S. (2003) [80] cho biết, tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán
lá F. hepatica của ốc L. columella ở Brazil là 0,9 - 5,2%.
Theo Phạm Ngọc Doanh và Nguyễn Thị Lê (2005) [4], chỉ có 0,6% ốc L.
swinhoei và 1% ốc L. viridis ở Đông Anh và Phú Xuyên (Hà Nội) nhiễm ấu trùng
sán lá gan.
Phan Địch Lân (2004) [33] cho biết, ốc L. viridis có ưu thế trội hơn, tỷ lệ
nhiễm ấu trùng sán lá gan từ 29% - 86%; còn ốc L. swinhoei tỷ lệ nhiễm từ 14% -
71%. Sự phân bố theo vùng địa lý của hai loài ốc như sau:
Vùng núi: Có 75% là ốc L. viridis, 25% là ốc L. swinhoei
Vùng trung du: Có 66,5% là ốc viridis, 33,5% là ốc L. swinhoei
Vùng ven biển: Có 42% là ốc viridis, 58% là ốc L. swinhoei
Theo Schweizer G. và cs. (2007) [151], Hammami H. và cs. (2007) [101],
Kozak M. và Wedrychowicz H. (2010) [118], tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá F.
hepatica của ốc L. truncatula ở Thụy Sĩ, Tusinia và Ba Lan lần lượt là 7%, 19,2%,
và 26,6%.
Hamed N. và cs. (2009) [100] cho biết, tỷ lệ ốc Bulinus truncatus - vật chủ
trung gian của sán lá F. hepatica ở Tunisia bị nhiễm ấu trùng sán lá này là 39%.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Tân và cs. (2010) [44] về tỷ lệ nhiễm ấu
trùng sán lá gan lớn của ốc - vật chủ trung gian tại một số tỉnh Nam Trung Bộ cho thấy:
trong tổng số 2.412 ốc L. viridis xét nghiệm có 25 con tìm thấy ấu trùng sán lá gan,
chiếm tỷ lệ 1,03%; còn trong tổng số 840 ốc L. swinhoei xét nghiệm có 5 con
nhiễm, chiếm tỷ lệ 0,59%.
Nguyễn Khắc Lực (2010) [39] cho biết, tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan lớn
của ốc Lymnaea tại huyện Đại Lộc - tỉnh Quảng Nam là 0,46%.
Sam Thi Nguyen và cs. (2012) [147] đã kiểm tra 3.269 con ốc L. viridis và
1.128 con ốc L. swinhoei thu thập tại 3 tỉnh Bình Định, Khánh Hòa và Phú Yên. Kết
quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá F. gigantica của 2 loài ốc này lần lượt là
0,95% và 0,62%.
26
Rojo - Vázquez F. A. và cs. (2012) [144] cho biết, ở điều kiện nhiệt độ 26oC,
trứng sán lá F. hepatica nở thành Miracidium mất 12 ngày, ở điều kiện 10 - 12oC,
thời gian này có thể là từ vài tuần đến 2 tháng.
Ngoài phương pháp ép ốc thông thường, một số tác giả đã sử dụng phương
pháp PCR để xác định tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan ở ốc. Schweizer G. và cs.
(2007) [151] đã thu thập 4.000 con ốc L. truncatula trong 130 đặc điểm sống
khác nhau của ốc (đồng cỏ, hồ, mương nước…) để kiểm tra tỷ lệ nhiễm ấu trùng
sán lá F. hepatica. Kết quả cho thấy, ốc L. truncatula ở Thụy Sĩ bị nhiễm sán lá gan
với tỷ lệ 7%.
Kozak M. và Wedrychowicz H. (2010) [118] đã thu thập 192 ốc L. truncatula
- vật chủ trung gian của sán lá F. hepatica ở Ba Lan và kiểm tra tỷ lệ nhiễm ấu
trùng sán lá. Kết quả thấy ốc L. truncatula bị nhiễm ấu trùng sán lá gan với tỷ lệ
trung bình là 26,6%, dao động từ 21,4% tới 84,6%
Caron Y. và cs. (2014) [75] cho biết, tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá Fasciola spp.
ở các loài ốc G. truncatula và Radix spp. ở Bỉ là 1,31% và 0,16%.
Tại Việt Nam, Bùi Thị Dung (2012) [6], Dung B. T. và cs. (2013) [91] đã sử
dụng phương pháp PCR và đã phát hiện được các giai đoạn ấu trùng khác nhau của
sán lá F. gigantica trong cơ thể của ốc L. viridis.
* Sức đề kháng của trứng và ấu trùng sán lá Fasciola
Trứng sán lá Fasciola được thải theo phân súc vật nhai lại ra môi trường ngoại
cảnh. Trứng sán rất nhậy cảm với điều kiện khô hạn và tác động trực tiếp của ánh
sáng mặt trời. Ở trong phân khô, phôi ngừng phát triển, trứng bị chết sau 8 - 9 ngày.
Trong điều kiện khô hạn, vỏ trứng nhăn nheo, biến đổi hình dạng và bị chết sau 1 - 1,5
ngày. Ở môi trường ẩm ướt, trứng có khả năng sống khá lâu (trong phân hơi ẩm, trứng
tồn tại đến 8 tháng). Dưới ánh nắng chiếu trực tiếp, trứng chết nhanh. Phôi bị chết sau 2
ngày ở nhiệt độ thấp (-15oC -5
oC). Ở nhiệt độ 10 - 20
oC, trứng ngừng phát triển. Ở
nhiệt độ 40 -50oC, phôi chết sau vài phút (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996) [17].
Khi phát triển đến giai đoạn có sức gây bệnh thì sức đề kháng của ấu trùng sán
lá gan (Adolescaria) tăng lên rõ rệt. Adolescaria có thể tồn tại ở nhiệt độ -6oC -
4oC. Ở điều kiện nhiệt độ bình thường, những Adolescaria có trong cỏ khô bị ẩm và
trong môi trường nước có thể tồn tại đến trên 5 tháng (Kaufmann J., 1996) [114].
27
Thời gian phát triển của trứng sán lá gan phụ thuộc vào nhiệt độ: khoảng 60
ngày ở 12oC, 10 ngày ở 30
oC (Soulsby E. J., 1987) [166]. Ở cao nguyên Kenya,
nhiệt độ trung bình 10 - 22oC, sự phát triển của trứng F. gigantica là 52 - 109 ngày,
trong khi ở nhiệt độ ổn định 26oC, thời gian phát triển là 17 ngày (Dinnik J. A. và
Dinnik N. N., 1963) [87].
1.2.2. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng bệnh do sán lá gan gây ra ở gia súc nhai lại
Súc vật nhai lại bị bệnh sán lá gan thể hiện những biến đổi cơ bản ở gan và
ống mật do tác động của Fasciola gây ra.
Theo các nhà ký sinh trùng học, sán lá gan gây bệnh ở vật chủ bằng các tác
động cơ học, tác động của độc tố, sự chiếm đoạt dinh dưỡng và tác động mang
trùng. Khi súc vật mới nhiễm bệnh, sán non di hành trong cơ thể làm tổn thương
niêm mạc ruột, thành mạch máu, nhu mô gan. Một số ấu trùng có thể theo máu di
chuyển “lạc chỗ” đến phổi, lách, tuyến tuỵ... gây tổn thương và xuất huyết nặng
hoặc nhẹ. Sán non xuyên qua các nhu mô gan, làm tổ chức gan bị hủy hoại, tạo ra
những đường di hành đầy máu và mảnh tổ chức gan bị phá huỷ. Gan bị viêm từ nhẹ
đến nặng tuỳ theo số lượng ấu trùng nhiễm vào cơ thể. Súc vật bị thiếu máu do xuất
huyết, có thể chết do mất nhiều máu.
Tác động cơ giới của sán còn tiếp tục khi sán đã vào ống dẫn mật, tiếp tục tăng
lên về kích thước và phát triển thành sán trưởng thành. Sán trưởng thành thường
xuyên kích thích niêm mạc ống mật bằng giác miệng, giác bụng và các gai cutin
trên cơ thể, gây viêm ống mật. Số lượng sán nhiều có thể làm tắc ống mật, mật ứ lại
không xuống ruột được sẽ ngấm vào máu, gây hiện tượng hoàng đản.
Trong quá trình ký sinh, sán thường xuyên tiết độc tố. Độc tố tác động vào
thành ống mật và mô gan, gây ra những biến đổi đại thể và vi thể, làm tăng quá
trình viêm. Đồng thời, độc tố của sán còn hấp thu vào máu, gây hiện tượng trúng
độc toàn thân, gây huỷ hoại máu, làm biến đổi protein trong máu, làm albumin
giảm, globulin tăng. Độc tố của sán còn làm tăng số lượng bạch cầu (đặc biệt là
bạch cầu ái toan), tác động vào thần kinh, làm cho con vật có triệu chứng thần kinh
(run rẩy, đi xiêu vẹo...). Độc tố của sán lá gan tác động vào thành mạch máu, làm
tăng tính thấm của thành mạch, gây hiện tượng thuỷ thũng. Cũng do tác động của
độc tố mà giữa những tiểu thuỳ gan có hiện tượng thâm nhiễm huyết thanh và tế
28
bào, hình thành nên các mô liên kết mới dọc theo các vách ngăn của tiểu thùy gan
và quanh ống mật, vì vậy thành ống mật dày lên. Quá trình viêm kéo dài làm cho
các tế bào tổ chức liên kết tăng sinh, thay thế những tế bào gan, gây hiện tượng xơ
gan và teo gan. Khi súc vật nhiễm sán lá gan nặng, hiện tượng xơ gan chiếm diện
tích lớn của gan, làm cho chức năng của gan bị phá huỷ, từ đó dẫn đến hàng loạt rối
loạn khác như rối loạn cơ năng tiêu hóa của dạ dày - ruột, thiếu máu, suy nhược,
gầy dần, cổ chướng, xoang phúc mạc tích nước.
Một tác động quan trọng của sán lá gan khi ký sinh là chiếm đoạt máu của vật
chủ. Sán lá gan hút máu vật chủ để sống và sinh sản. Bằng phương pháp phóng xạ,
người ta đã thấy mỗi sán Fasciola ký sinh ở ống dẫn mật lấy mất 0,2 ml máu của ký
chủ mỗi ngày. Như vậy, nếu súc vật có ít sán ký sinh thì lượng máu mất đi không
nhiều, nhưng nếu mỗi súc vật có hàng trăm sán ký sinh thì lượng máu bị chúng
chiếm đoạt sẽ rất nhiều (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996) [17].
Ngoài các tác động gây bệnh trên, trong khi di hành, sán non còn mang theo
các loại vi trùng từ bên ngoài vào máu, vào gan và những cơ quan khác, gây ra
những bọc mủ hoặc gây bệnh truyền nhiễm khác.
Tất cả những tác động kể trên của sán lá gan làm cho sức đề kháng của cơ thể
vật chủ giảm sút nghiêm trọng, dễ mắc các bệnh khác, hoặc làm cho các bệnh đang
có trong cơ thể súc vật nặng thêm lên (Nguyễn Thị Kim Lan và cs., 2008) [27].
Triệu chứng lâm sàng là sự biểu hiện ra bên ngoài của các biến đổi bên trong do
tác động gây bệnh của sán lá gan. Triệu chứng ở súc vật nhai lại biểu hiện nặng hay
nhẹ còn phụ thuộc vào cường độ nhiễm sán, tình trạng sức khoẻ và tuổi súc vật, tình
trạng chăm sóc quản lý...
Thể cấp tính thường gặp ở trâu, bò 1,5 - 2 năm tuổi trong giai đoạn sán non di
hành hoặc khi nuôi dưỡng, chăm sóc kém (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996) [17].
Súc vật biểu hiện: ăn uống sút kém, suy nhược, chướng bụng, ỉa chảy, miệng hôi,
sốt, gan sưng to và đau, thiếu máu, vàng da, đôi khi có triệu chứng thần kinh (lảo
đảo, xiêu vẹo). Súc vật có thể chết do thiếu máu, trúng độc và suy nhược cơ thể.
Thể mãn tính thấy phổ biến ở súc vật trưởng thành, khi súc vật được nuôi
dưỡng tốt và khi sán đã phát triển đến giai đoạn trưởng thành, ký sinh trong ống dẫn
mật với số lượng không nhiều. Thể mãn tính thường xuất hiện sau thể cấp tính 1 - 2
29
tháng. Con vật bị bệnh ăn uống kém, suy nhược, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù và dễ
rụng (nhất là lông ở vùng dọc hai bên sườn và dọc xương ức). Xuất hiện thuỷ thũng
ở mí mắt, yếm, ngực, bộ phận sinh dục. Thuỷ thũng ban đầu lúc thấy, lúc không, về
sau thấy liên tục. Con vật nhai lại yếu, khát nước, ỉa chảy xen kẽ táo bón, gầy yếu
dần. Giai đoạn sau ỉa chảy liên tục, con vật gầy rất nhanh. Kiểm tra lâm sàng thấy
gan sưng to và đau. Có thể thấy hiện tượng sảy thai ở bò cái bị bệnh, lượng sữa có
thể giảm 30 - 50%. Triệu chứng thần kinh cũng có thể gặp, song rất ít. Bệnh kéo dài
nhiều tháng, con vật có thể chết do suy nhược toàn thân.
Cawdery M. J. H. và cs. (1977) [77] đã thí nghiệm và cho biết, khi bò bị
nhiễm 54 sán lá F. hepatica ký sinh thì khả năng tăng trọng giảm 8 - 9%, mặc dù
lúc này bò không có biểu hiện lâm sàng rõ rệt. Khi gây nhiễm 1.000 Adolescaria
cho bò thì khả năng tăng trọng của bò giảm tới 28%. Đồng thời tác giả còn cho biết,
bò bị giảm cân nhanh nhất là trong 16 tuần đầu sau khi bị nhiễm sán, và vẫn tiếp tục
giảm trong giai đoạn bệnh chuyển sang thể mãn tính.
Phan Địch Lân (2004) [33] đã theo dõi 37 trâu bị bệnh sán lá gan nặng, thấy
các triệu chứng thường lặp đi lặp lại như: gầy rạc, suy nhược cơ thể (37/37); phân
nhão không thành khuôn, có lúc ỉa lỏng (32/37); niêm mạc mắt nhợt nhạt, thiếu máu
kéo dài (27/37); lông xù, da mốc, lông dễ rụng (26/37); phân lỏng, thối khắm
(22/37); mắt sâu, có dử (18/37); bụng ỏng, ỉa chảy kéo dài (13/37); thuỷ thũng ở
nách, hai chân trước, gan sưng to (11/37); thuỷ thũng ở ngực, ức liên tục (9/37).
Nhìn chung, khi súc vật bị bệnh sán lá gan kéo dài, cơ thể suy nhược nặng,
nếu không được điều trị kịp thời thì súc vật thường chết.
Bệnh tích ở súc vật bị bệnh sán lá gan thể hiện khác nhau. Đối với trâu, bò
nhiễm sán nặng, bệnh tích thấy rõ là viêm gan cấp tính: gan sưng to, màu nâu sẫm,
sung huyết, trên mặt gan có thể thấy những đường di hành của sán non tạo thành
những vệt đỏ thẫm, dài 2 - 4 mm, trong có sán non với số lượng nhiều. Lớp thanh
mạc xuất huyết nhẹ, đôi khi có tơ huyết. Khi nhiễm nặng thấy viêm phúc mạc, gan
xuất huyết nhiều, niêm mạc mắt nhợt nhạt.
Ở những súc vật nhiễm sán lá gan trong thời gian dài, gan viêm mãn tính,
những chỗ mô gan bị phá huỷ tạo thành sẹo màu vàng xám. Gan xơ cứng, niêm mạc
ống dẫn mật dày, có hiện tượng canxi hoá mặt trong thành ống. Lòng ống dẫn mật
30
giãn rộng, chứa đầy dịch màu nâu và sán Fasciola. Khi ống mật bị canxi hoá nhiều,
sán lá gan có thể bị chết hoặc chuyển đến chỗ ít biến đổi hơn.
Ngoài gan và ống mật, đôi khi còn thấy sán ở phổi trâu, bò. Trường hợp này thấy
sán ở trong những bọc to bằng quả trứng gà hoặc nhỏ hơn, trong bọc chứa dịch màu
nâu nhờn và 1 - 2 sán lá gan (Vũ Đức Hạnh, 2009) [9].
Quan sát biến đổi vi thể dưới kính hiển vi thấy: nhu mô gan mất màu, liên bào
ống mật thoái hoá, niêm mạc tăng sinh thành những u, trong u chứa nhiều bạch cầu,
lâm ba cầu, bạch cầu ái toan, đại thực bào chứa đầy sắc tố mật và máu. Quá trình
viêm tăng sinh lan xuống lớp sâu hơn của ống mật: tổ chức liên kết tăng sinh, lan vào
các thuỳ gan làm tan biến tổ chức gan (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996) [17].
Nghiên cứu bệnh sán lá gan ở trâu, bò, Phan Địch Lân (2004) [33] cho biết:
khi mổ khám trâu, bò bị bệnh sán lá gan thấy có bệnh tích đặc biệt là gan to rất
nhiều so với bình thường. Gan sung huyết màu đỏ sẫm. Dưới vỏ gan thấy ứ nước,
trên mặt gan có những đường ngoằn ngoèo do sán non di hành. Tổ chức liên kết
phát triển tạo nên những sẹo đặc biệt. Trong gan còn thấy những sán non không đến
được ống dẫn mật, đóng kén và chết trong kén to bằng hạt đậu. Cắt tổ chức gan thấy
lạo xạo do biến chất, thoái hoá. Do tăng sinh tổ chức liên kết nên gan cứng và xơ.
Trường hợp viêm phúc mạc xoang bụng chứa nhiều nước (cổ chướng).
Nguyễn Thị Kim Thành và cs. (1996) [47], Foreyt W. J. và Drew M. L. (2010)
[94] đã nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý máu của trâu, bò bị bệnh sán lá gan, kết
quả cho thấy: số lượng hồng cầu giảm, hàm lượng huyết sắc tố giảm, số lượng bạch
cầu tăng, công thức bạch cầu thay đổi nghiêng về bạch cầu ái toan. Cũng theo các
tác giả trên, sán lá gan thường gây tổn thương gan và có thể gây nên những biến
chứng nặng nề ở vật chủ. Trâu, bò được coi là vật chủ chính của sán lá gan lớn và
người là vật chủ tình cờ do ăn sống rau thủy sinh bị nhiễm ấu trùng sán lá gan có sức
gây bệnh.
Nguyễn Hữu Hưng (2011) [15] đã nghiên cứu bệnh tích vi thể của gan nhiễm
sán lá gan và cho biết: có nhiều sán non cư trú trong nhu mô gan, số lượng ống dẫn
mật tăng sinh; nhu mô gan xuất huyết, ứ huyết; gan vàng, một số vùng trên nhu mô
gan bị hoại tử; xuất hiện các ổ mủ trong nhu mô gan, các hạt mỡ to nhỏ chứa đầy
trong tế bào gan; trong nhu mô gan xuất hiện các tổ chức xơ.
31
Edith R. và cs. (2012) [92] đã thí nghiệm gây nhiễm với liều 800 Adolescaria
của sán lá F. gigantica /trâu cho 4 trâu Murrah 12 -15 tháng tuổi tại Ấn Độ, sau đó
theo dõi sự biến đổi các chỉ tiêu sinh lý máu trâu gây nhiễm. Kết quả cho thấy, trâu
thí nghiệm có hàm lượng bạch cầu, bạch cầu ái toan tăng và số lượng hồng cầu
giảm, tốc độ lắng hồng cầu tăng lên rõ rệt so với nhóm trâu đối chứng (P < 0,01).
Ngoài trâu và bò, các súc vật nhai lại như dê, cừu cũng bị nhiễm sán lá gan với
những dấu hiệu lâm sàng và biến đổi bệnh lý rõ rệt.
Theo Holmes P. H. và cs. (1968) [104], dê, cừu bị bệnh Fasciola có triệu
chứng thiếu máu nặng và thay đổi protein huyết thanh. Thiếu máu là do sán non di
hành gây xuất huyết và sán trưởng thành hút máu ký chủ. Lượng máu mà mỗi sán
đoạt của ký chủ xấp xỉ 0,5 ml /ngày.
Reid J. F. S. (1973) cho biết, có sự thay đổi protein huyết thanh của những dê
bị nhiễm sán lá gan. Sự thay đổi này xảy ra sớm, ngay trong giai đoạn sán non di
hành. Đó là sự tăng globulin và giảm albumin huyết thanh.
Gây nhiễm thực nghiệm sán lá gan cho dê và theo dõi diễn biến bệnh lý,
Rushton B. và Murray M. (1977) [146] thấy, sự di chuyển của sán non đã tạo ra
những đường di hành ở gan và phá huỷ cấu trúc nhu mô gan, gây viêm gan. Sự di
hành của sán cũng gây nghẽn tĩnh mạch ở gan và làm gan bị sung huyết. Sau đó, sự
cản trở máu chảy dẫn đến thoái hoá và hoại tử các nhu mô gan. Sự hàn gắn và tái
sinh của những tổn thương này bắt đầu vào khoảng 4 - 6 tuần sau khi nhiễm. Xơ
gan phát triển vào khoảng 12 - 20 tuần sau khi nhiễm.
Dê bệnh thể hiện rõ viêm gan, xơ gan, giãn mạch quản, ống dẫn mật có
nhiều sán trong dịch tiết, biểu mô của ống dẫn mật tăng sinh (Nguyễn Thị Kim
Lan, 1999) [24].
Về lâm sàng, dê bị bệnh sán lá gan thể hiện hai thể: thể cấp tính, diễn ra chủ yếu ở
giai đoạn sán non di hành; thể mãn tính thường ở dê trưởng thành. Con vật ăn kém, cơ
thể suy nhược, không theo kịp đàn. Con vật thiếu máu, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù và
dễ nhổ. Triệu chứng ỉa chảy thấy ở 100% dê bệnh với các mức độ khác nhau. Thuỷ
thũng ở ngực, bụng và 4 chân (Nguyễn Thị Kim Lan và cs., 1999 )[24].
32
Nghiên cứu về bệnh sán lá gan ở dê, Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (1998) [23]
cho biết, khi dê bị bệnh sán lá gan, số lượng hồng cầu giảm, hàm lượng huyết sắc tố
giảm, số lượng bạch cầu tăng, bạch cầu Eosin tăng cao. Mổ khám 748 dê 1 - 4 năm
tuổi, có 159 dê nhiễm sán F. gigantica. Trong đó có 42 dê có bệnh tích rõ ở gan,
chiếm 26,42%. Bệnh tích đại thể ở gan của những dê nhiễm sán lá gan nặng được
tác giả mô tả như sau: gan sưng to, bề mặt gan gồ ghề, không bằng phẳng. Sờ gan
thấy cứng và thô hơn so với gan bình thường. Màu sắc gan không đồng nhất, có
những vệt trắng xám loang lổ hoặc những vệt đỏ thẫm trên mặt gan. Ở bề mặt và
trong gan có những nốt hoại tử màu trắng xám to bằng hạt đậu xanh. Ống dẫn mật
viêm và xơ hoá, nổi như dây chằng màu trắng ở mặt dưới gan. Cắt gan thấy dai và
nghe tiếng “soạt” như cắt xơ mướp. Dùng kéo cắt dọc ống dẫn mật thấy cứng, thành
ống mật dày lên, xù xì, lòng ống mật chứa đầy dịch màu nâu sẫm, nhờn và có nhiều
sán Fasciola. Tác giả còn cho biết, trong 159 dê nhiễm sán lá gan mổ khám, có 42
dê phải huỷ bỏ gan do gan bị cứng, viêm và xơ gan.
Phan Địch Lân và cs. (2002) [32] đã tổng hợp những nghiên cứu về bệnh sán lá
gan của dê địa phương ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Qua theo dõi bệnh
lý và lâm sàng của nhiều dê bị bệnh, các tác giả cho biết: sau khi dê nuốt phải kén
Adolescaria vài ngày, sán non di hành gây tổn thương thành ruột, thành mạch quản,
nhu mô gan, lách, phổi, cơ hoành, tuyến tụy, gây xuất huyết nặng hoặc nhẹ. Thường
thấy dê bị viêm gan, thiếu máu do xuất huyết. Sán trưởng thành kích thích niêm mạc
ống dẫn mật, gây viêm ống dẫn mật. Có những dê bị tắc ống mật do số lượng sán
quá nhiều, mật thấm vào máu, sinh ra hoàng đản. Sán thường xuyên tiết độc tố làm
biến đổi thành ống dẫn mật và mô gan. Độc tố hấp thu vào máu gây trúng độc toàn
thân. Độc tố còn phá hoại máu, làm tăng bạch cầu Eosin và tăng nhiệt độ cơ thể.
Độc tố tác động vào hệ thần kinh của dê, tác động vào các thuỳ gan làm tổ chức liên
kết tăng sinh, thoái hoá nhu mô gan, gây xơ gan, chức năng gan bị phá huỷ dẫn đến
rối loạn chức năng tiêu hóa của dê.
1.2.3. Chẩn đoán bệnh do sán lá Fasciola gây ra
Việc chẩn đoán có thể tiến hành trên súc vật còn sống hoặc đã chết. Tuỳ điều
kiện thực tế mà áp dụng biện pháp phù hợp.
33
Để chẩn đoán bệnh do Fasciola gây ra trên súc vật còn sống, có thể áp dụng
các biện pháp như: chẩn đoán lâm sàng kết hợp với tìm hiểu các đặc điểm dịch tễ
học, xét nghiệm phân con vật nghi bệnh và chẩn đoán miễn dịch học.
Những biểu hiện của súc vật nhai lại như: suy nhược, rụng lông, phù thũng ở
ngực, ức, thiếu máu, tiêu chảy... thường được nghi ngờ là triệu chứng lâm sàng của
bệnh sán lá gan. Tuy nhiên, các biểu hiện trên không chỉ thấy ở bệnh do Fasciola
gây nên mà có thể thấy ở nhiều bệnh khác. Vì vậy, triệu chứng lâm sàng không phải
là căn cứ duy nhất để kết luận bệnh.
Những dẫn liệu dịch tễ học của bệnh cần được xem xét, trong đó có yếu tố
mùa vụ, vùng và tuổi súc vật bệnh. Song, những dẫn liệu này cũng không phải là sở
cứ có tính quyết định trong chẩn đoán bệnh sán lá gan.
Việc xét nghiệm phân của súc vật nhai lại tìm trứng sán lá gan là biện pháp
chẩn đoán quan trọng nhất để xác định con vật có bị bệnh sán lá gan hay không.
Thường dùng phương pháp lắng cặn Benedek (1943). Theo Phạm Văn Khuê và
Phan Lục (1996) [17], phương pháp này phổ biến nhưng chưa phát hiện được tất cả
mọi gia súc nhiễm sán Fasciola, nhất là ở những súc vật nhiễm ít hoặc ở giai đoạn
sán còn non. Khi xét nghiệm phân, cần phân biệt trứng Fasciola với trứng
Paramphistomum ký sinh ở dạ cỏ để có kết quả chẩn đoán chính xác.
Sothoeun S. (2006) [155] đã nghiên cứu và cho biết, có tới 27% số bò mổ
khám có sán lá F. gigantica trong gan, nhưng khi xét nghiệm phân lại cho kết quả
âm tính (trường hợp này là âm tính giả).
Một số phương pháp miễn dịch phát hiện súc vật nhiễm sán lá gan đã được sử
dụng như phương pháp miễn dịch gắn men ELISA, phương pháp miễn dịch huỳnh
quang... Tuy nhiên, do khó khăn về trang thiết bị và việc chế kháng nguyên chuẩn
nên các phương pháp này còn ít được dùng trong chẩn đoán bệnh ký sinh trùng nói
chung và bệnh sán lá gan nói riêng. Tại Việt Nam, Lương Tố Thu và cs. (1997)
[52], Nguyen T. G. T. và cs. (2011) [135] đã dùng kháng nguyên tự chế từ loài F.
gigantica ký sinh trên trâu, bò Việt Nam, sử dụng trong phản ứng ELISA để chẩn
đoán bệnh sán lá gan trâu, bò và thu được kết quả tốt.
Nhiều tác giả nước ngoài đã áp dụng phương pháp ELISA để chẩn đoán bệnh
sán lá gan ở súc vật nhai lại tại Australia (Molloy J. B. và cs., 2005 [131]), tại Anh
34
(Catherine M. McCann và cs., 2010) [76]) tại Bỉ (Charlier J và cs. 2009 [78],
Bennema S. J. và cs., 2009 [67], Bennema S. C., 2011 [68] … Các tác giả cho biết,
ELISA là phương pháp chẩn đoán bệnh sán lá gan hiệu quả, có độ nhạy và độ đặc
hiệu cao.
Khi súc vật đã chết, cần tiến hành mổ khám tìm sán lá gan ở giai đoạn ấu trùng
và trưởng thành trong gan và ống dẫn mật. Phương pháp này cho kết quả chẩn đoán
chính xác hơn cả, vì tìm được cả sán non ở giai đoạn di hành, tìm thấy sán cả trong
những súc vật chỉ có rất ít sán ký sinh.
1.2.4. Phòng và trị bệnh sán lá gan cho súc vật nhai lại
1.2.4.1. Điều trị bệnh:
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [29], hiện nay có thể tẩy sán lá gan cho súc
vật nhai lại bằng một trong các loại thuốc sau:
- Thuốc dertil: dertil là thuốc có tác dụng đặc hiệu với sán lá gan. Tên khác:
menichlofolan, bayer ME 3625, bayer 9015A, bilevon M.
Thuốc dertil được bào chế dạng viên to, có tác dụng diệt sán lá gan trưởng
thành ở gia súc nhai lại, với liều cao còn diệt được cả sán non đang di hành trong
nhu mô gan. Thuốc chỉ cần dùng một liều duy nhất, không cần điều trị lặp lại,
được chỉ định điều trị bệnh sán lá gan cấp tính và mãn tính cho gia súc nhai lại.
Liều sử dụng cho bò là 5 - 6 mg /kg TT; cho trâu là 8 - 9 mg /kg TT; cho dê, cừu
là 5 - 8 mg /kg TT .
Cho từng cá thể uống thuốc, hoặc gói thuốc vào lá chuối non, đưa sâu vào
miệng cho con vật nuốt.
- Thuốc fasiolid (tên khác: fasciolidum):
Thuốc được bào chế dưới dạng dung dịch màu vàng nâu, chứa 25% hoạt chất
nitroxynil.
Fasiolid có tác dụng tẩy sán lá gan giai đoạn trưởng thành ở gia súc nhai lại.
Thuốc được sử dụng với liều 0,04 ml /kgTT (1 ml /25 kg TT, tương đương 1 mg hoạt
chất /kg TT). Tiêm dưới da.
35
- Thuốc tolzan - F (chế phẩm của oxyclozanid), thuốc được bào chế dưới dạng
dung dịch hoặc viên nén, dùng với liều 10 mg /kg TT. Thuốc có tác dụng đặc hiệu
với sán Fasciola trưởng thành và sán non ở trâu, bò, dê, cừu.
Hiện nay, trên thị trường thuốc thú y thấy phổ biến thuốc tolzan - F dạng viên
nén, cho uống tẩy sán Fasciola với liều 1 viên (1.000 mg) /100 kg TT.
- Thuốc fasinex (chế phẩm của triclabendazole): thuốc có tác dụng diệt cả sán
non và sán trưởng thành ký sinh ở ống dẫn mật hoặc đang di hành trong các nhu mô
gan (Boray J. C. và cs., 1983 [71]; Fairweather I., 2005 [93]). Fasinex được chỉ định
dùng điều trị bệnh sán lá gan cho súc vật nhai lại với liều 10 - 12 mg /kg TT, cho uống
một liều duy nhất. Thuốc có hiệu lực cao và an toàn cho gia súc dùng thuốc.
Ngoài các thuốc trên, albendazol, bithionol, closantel... cũng có tác dụng tẩy
sán lá gan ở súc vật nhai lại.
Sử dụng thuốc fasinex, liều 12 mg /kg TT tẩy sán lá gan cho trâu, Phan Lục và
Trần Ngọc Thắng (1993) [37] cho biết, thuốc có hiệu lực tẩy và hiệu lực tẩy sạch sán
đều đạt 100%.
(1996) [51
. Tro
.
Lương Tố Thu và cs. (1997) [52] đã đánh giá về hiệu lực của các thuốc trị sán
lá gan qua kết quả thử nghiệm trên trâu, bò Việt Nam. Các tác giả khuyến cáo rằng,
nên sử dụng thuốc fasinex - 900 dạng viên (1 viên dùng cho 75 - 100 kg TT) hoặc
fasinex - 900 dạng sữa (liều 10 ml /100 kg TT) để đạt hiệu lực tẩy sán lá gan cao.
Trần Minh Châu (1998) [2] đã tẩy sán lá gan cho trâu, bò bằng thuốc
tetracloruacacbon (CCl4), hỗn hợp với dầu parafin với lượng bằng nhau. Hỗn
hợp này được sử dụng tiêm cho trâu với liều 5 ml /100 kg TT, tiêm cho bò với
liều 4 ml /100 kg TT. Để tránh trúng độc, tác giả khuyến cáo nên trợ sức bằng
cafein hoặc long não trước khi tiêm thuốc. Sau đó, dùng bơm tiêm có kim dài 15
cm, tiêm thuốc thẳng vào dạ cỏ để tẩy sán lá gan cho trâu, bò.
36
Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2000) [25] đã thử nghiệm một số thuốc tẩy sán lá
gan cho dê địa phương ở tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Kết quả cho thấy: thuốc
dertil (liều 5 - 8 mg /kg TT) có tác dụng tẩy sạch sán lá gan là 100% và an toàn đối
với dê; thuốc fasiolid (liều 0,04 ml /kg TT) có hiệu lực tẩy sạch là 95% và tương đối
an toàn cho dê; thuốc vermitan (chứa 20% albendazol, liều 35 mg /kg TT) đạt hiệu
lực tẩy sạch và tỷ lệ an toàn đều là 100%, ngoài ra vermitan còn có tác dụng tẩy cả
sán dây và giun tròn ở dê.
Phan Địch Lân (2004) [33] cho biết, Hungary đã xây dựng những vùng
không nhiễm sán lá gan bằng cách sử dụng rộng rãi CCl4 trong tẩy sán lá gan. Từ
những năm của thập kỷ 80 người ta đã sử dụng dertil B uống và tiêm cho súc vật
nhai lại. Tỉnh Fejer của Hungary đã mất 20 năm để phòng chống triệt để bệnh
sán lá gan cho trâu, bò. Kết quả là tỷ lệ sán lá gan đã giảm từ 30 - 42 % xuống
chỉ còn 2,66%.
Thử nghiệm 2 loại thuốc dovenix (liều 10 mg /kg TT) và han - dertil B (liều 12
mg /kgTT) tẩy sán lá gan cho bò tại Đắk Lắk, Nguyễn Văn Diễn và cs. (2006) [3] cho
biết: cả 2 loại thuốc này đều có hiệu lực tẩy sạch đạt tới 100% và an toàn đối với bò.
Bulent Elitok và cs. (2006) [74] đã thử nghiệm 4 loại thuốc để tẩy sán lá F.
hepatica ở bò tại Thổ Nhĩ Kỳ, bao gồm albendazole (liều 12 mg /kg TT), rafoxanide
(liều 10 mg /kg TT), triclabendazole (liều 12 mg /kg TT) và clorsulon (liều 2 mg /kg
TT). Kết quả cho thấy, hiệu lực điều trị của 4 loại thuốc trên lần lượt là 66,7%;
68,2%; 78% và 84,2%.
(2009) [10
gan
Quang. Các phác -
gan
(95% - 100%), trâu, bò khỏi tiêu chảy và khả năng phục hồi sức
khỏe nhanh.
Foreyt W. J. và Drew M. L. (2010) [94] đã sử dụng thuốc triclabendazole liều
40 mg /kg TT tẩy sán lá F. hepatica cho 3 bò rừng Mỹ. Quan sát sau điều trị thấy bò
đều an toàn, không có phản ứng sau dùng thuốc, hiệu quả tẩy sán cao.
37
Nguyễn Hữu Hưng (2011) [15] đã thử nghiệm 3 loại thuốc praziquantel với
liều 25 mg /kg TT (cho uống), nitroxinil liều 12 mg /kgTT (tiêm dưới da cổ) và
bilevor - M liều 4,5 mg /kgTT (cho uống) để tẩy sán lá gan cho trâu, bò. Kết quả
cho thấy, cả 3 loại thuốc đều có thể tẩy sạch sán lá gan 100%. Thuốc an toàn và
không gây phản ứng phụ trong quá trình điều trị.
Gần đây có một số thông báo về sự kháng thuốc triclabendazole của sán lá F.
hepatica ở bò tại Argentina (Olaechea F. và cs., (2011) [136], ở bò tại Peru (Ortiz P.
và cs., 2013 [137]), ở bò sữa tại Australia (Yvette M. và cs. (2014) [163]. Tuy
nhiên, chưa có thêm những kết quả nghiên cứu về tình hình kháng thuốc của sán lá
gan ở các quốc gia khác.
1.2.4.2. Phòng bệnh sán lá gan cho súc vật nhai lại
Cơ sở khoa học của các biện pháp phòng bệnh sán lá gan cho súc vật nhai lại
phải dựa vào chu kỳ sinh học của sán Fasciola, đặc điểm sinh học của ốc - vật chủ
trung gian và tình hình dịch tễ của bệnh.
Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [17], hàng năm nên tẩy sán
Fasciola cho toàn đàn ít nhất 2 lần, lần đầu vào mùa Xuân (trước mùa vật chủ trung
gian phát triển), lần thứ hai vào cuối mùa Thu nhằm diệt những sán đã nhiễm trong
vụ Xuân - Hè, ngăn ngừa bệnh phát ra ở mùa Đông. Trên những đồng cỏ có căn
bệnh tiềm tàng, có thể tiến hành chăn dắt luân phiên giữa súc vật mẫn cảm (trâu, bò,
dê, cừu) với những súc vật ít khả năng cảm nhiễm (ngựa).
Nguyễn Trọng Kim và cs. (1996) [19] đã thử nghiệm tẩy sán lá gan 3 lần /năm
(vào tháng 4, tháng 8 và tháng 2 năm sau) cho trâu, bò ở một số huyện thuộc tỉnh
Nghệ An và Hà Bắc (cũ) bằng thuốc fasciozanida và dertil - B. Tác giả cho biết, tẩy
3 lần /năm đạt hiệu quả cao hơn so với quy trình tẩy sán 2 lần /năm, đồng thời tỷ lệ
tái nhiễm giảm xuống rõ rệt. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan khi bắt đầu cho tẩy năm tiếp
theo chỉ còn biến động 6,34% - 9,14% .
Ủ phân theo phương pháp nhiệt sinh học, lợi dụng quá trình lên men sinh nhiệt
các chất hữu cơ trong phân của hệ vi sinh vật để tiêu diệt trứng sán lá gan trong
phân súc vật nhai lại là biện pháp phòng bệnh đơn giản và hiệu quả. Biện pháp này
cho đến nay vẫn được nhiều tác giả đề nghị áp dụng (Phạm Văn Khuê và Phan Lục,
1996 [17], Nguyễn Thị Kim Lan, 2008 [27]).
38
Việc xử lý các cơ quan có sán Fasciola ký sinh cũng được đề cập để phòng bệnh
cho súc vật nhai lại. Nếu gan nhiễm nhiều sán phải huỷ bỏ (chôn, rắc vôi bột, đốt), hoặc
không huỷ bỏ mà chế biến chín làm thức ăn gia súc sau khi đã loại bỏ và tiêu diệt sán
Fasciola.
Các biện pháp diệt vật chủ trung gian của sán lá gan như tháo cạn nước, làm
khô những đồng cỏ, bãi chăn lầy lội, ẩm ướt; dùng một số chất hoá học có khả năng
diệt ốc (vôi bột, sulfat đồng...); đẩy mạnh chăn nuôi thuỷ cầm (vịt, ngan, ngỗng) và
cá trắm đen; làm đất kỹ để trồng lúa hoặc cây trồng khác (bón vôi, cày ải, tháo khô
ruộng... ) là biện pháp canh tác hiệu quả, góp phần làm giảm đáng kể mật độ ốc -
vật chủ trung gian của sán lá gan.
Nguyễn Hữu Vũ và Nguyễn Đức Lưu (2000) [56] đã đề xuất biện pháp
phòng bệnh sán lá gan cho gia súc nhai lại. Trong đó, diệt ký chủ trung gian bằng
dung dịch CuSO4 (3 - 4%) phun vào cây thuỷ sinh và phun vào cỏ mọc ở dưới
nước để tiêu diệt ốc - ký chủ trung gian là biện pháp được các tác giả khuyến cáo
nên làm.
Để nâng cao sức đề kháng của trâu, bò, cần tăng cường vệ sinh thức ăn, nước
uống. Không chăn thả súc vật nhai lại ở những bãi chăn lầy lội, ẩm thấp. Nếu khó
khăn về bãi chăn thả thì chỉ chăn ở bãi chăn lầy lội, ẩm ướt trong vòng 1,5 - 2 tháng,
rồi phải chuyển sang chăn ở bãi khác. Nếu lấy cỏ thủy sinh cho trâu, bò ăn thì phải
cắt cao hơn mặt nước để tránh Adolescaria, sau đó phơi thật khô, bảo quản trong 6
tháng rồi cho gia súc ăn. Nguồn nước uống phải sạch, không có vật chủ trung gian
và Adolescaria (Nguyễn Thị Kim Lan, 2011) [28].
Theo Pierre Dorny (2011) [140], không nhập súc vật nhai lại từ vùng có bệnh khi
chưa kiểm tra bệnh sán lá gan và điều trị triệt để cho những con nhiễm sán.
Lan Anh N. T. và cs. (2014) [120] đã tẩy sán lá Fasciola spp. cho trâu, bò tại các
xã của miền Bắc Việt Nam bằng triclabendazole rồi theo dõi khả năng tái nhiễm sán
này. Tác giả nhận thấy, sự tái nhiễm bắt đầu xảy ra từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 11,
trùng với thời gian có nhiều mưa trong năm. Đồng thời, khu vực chăn thả trâu, bò
không được tẩy sán bị ô nhiễm trứng sán với mức độ ổn định trong suốt cả năm. Sự ô
nhiễm giảm xuống 50% sau tẩy 20 tuần. Vì vậy, tác giả khuyến cáo: tẩy sán Fasciola
spp. cho trâu, bò vào đầu tháng 4 và lần thứ hai vào giữa tháng 9 hàng năm là đủ để
39
ngăn chặn sự ô nhiễm khu vực chăn thả gia súc, làm giảm tỷ lệ và cường độ nhiễm sán
Fasciola spp. ở gia súc nhai lại.
Vấn đề nghiên cứu chế tạo vắc xin phòng bệnh sán lá gan đã được nghiên cứu
nhằm phục vụ công tác phòng bệnh cho súc vật nhai lại. Đã có một số công trình nghiên
cứu ở nước ngoài về vấn đề vắc xin phòng bệnh. Đó là các công trình của Savioli L. và
cs. (1999) [148], John P. Dalton và cs. (2013) [111], Narin Changklungmoa và cs. (2013)
[134], Abou - Elhakam H. và cs. (2013) [57]… Tuy nhiên, hiệu quả phòng bệnh của vắc
xin chưa cao. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu về vắc xin phòng bệnh sán lá gan vẫn có
nhiều hứa hẹn trong tương lai (Nguyễn Khắc Lực 2010) [39].
*
* *
Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đã cho thấy:
Sán lá gan gây bệnh cho trâu, bò, dê gồm 2 loài: F. gigantica và F. hepatica.
Trong đó, loài F. gigantica có chủ yếu ở châu Á và châu Phi, còn loài F. hepatica
có ở châu Âu, châu Mỹ và châu Đại dương.
Trong vòng đời của sán Fasciola spp. cần ký chủ trung gian là ốc
Lymnaea spp. Ở Việt Nam, ốc L. viridis và L. swinhoei là ký chủ trung gian
của sán lá F. gigantica.
Tình hình nhiễm sán lá Fasciola spp. rất phổ biến. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan thay
đổi phụ thuộc vào thời tiết khí hậu, mùa vụ; vùng và địa hình…, trong đó vai trò
của ốc Lymnaea - vật chủ trung gian là đặc biệt quan trọng.
Trong quá trình ký sinh, sán lá Fasciola spp. hút máu và gây ra những biến đổi
cơ bản ở gan và ống dẫn mật cho súc vật nhai lại.
Để chẩn đoán bệnh do Fasciola gây ra trên súc vật còn sống, biện pháp đơn
giản và quan trọng nhất là xét nghiệm phân tìm trứng sán lá gan. Có thể dùng
phương pháp chẩn đoán miễn dịch học (phản ứng ELISA, phản ứng PCR…).
Có thể điều trị bệnh do Fasciola spp. bằng nhiều loại thuốc. Tuy nhiên, cần
lựa chọn thuốc đặc hiệu để mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất.
40
Để phòng bệnh sán lá Fasciola spp. cho súc vật nhai lại, cần thực hiện quy
trình phòng chống tổng hợp: định kỳ tẩy sán 2 lần /năm, ủ phân của súc vật để diệt
trứng sán, diệt ký chủ trung gian, nâng cao sức đề kháng của súc vật…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu được tổng quan nói trên đã đề cập đến
tình hình nhiễm sán lá gan ở trâu, bò và biện pháp chẩn đoán, phòng trị bệnh. Tuy
nhiên, các kết quả nghiên cứu trên hoặc đã công bố cách đây vài thập kỷ, hoặc còn
tản mạn và chưa thật đầy đủ về đặc điểm dịch tễ, về một số khía cạnh liên quan đến
công tác chẩn đoán bệnh, đặc biệt là về thuốc tẩy sán lá gan an toàn và có hiệu quả
cao. Mặt khác, điều kiện thời tiết khí hậu của nước ta trong những năm gần đây có
nhiều thay đổi (cường độ ánh sáng mạnh hơn, lượng mưa trong năm nhiều hơn…),
đồng thời tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở người cũng đang ngày một gia tăng. Những thay
đổi này có thể dẫn đến hệ quả là đặc điểm dịch tễ của bệnh sán lá gan thay đổi. Những
luận giải trên cho thấy, việc tiếp tục nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan
(Fasciolosis) ở trâu, bò, biện pháp phòng trị bệnh phù hợp và hiệu quả cho súc vật nhai
lại, từ đó góp phần phòng chống bệnh sán lá gan lớn trên người là vấn đề cần thiết.
41
CHƢƠNG 2
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, thời gian, địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Trâu, bò nuôi tại 3 tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang
- Bệnh sán lá gan (Fasciolosis) ở trâu, bò.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
Từ năm 2010 - 2013
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu
2.1.3.1. Địa điểm triển khai
Đề tài được thực hiện ở các nông hộ, các trại chăn nuôi trâu, bò với quy mô
khác nhau tại ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang.
Ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang đều nằm trong vùng trung du
miền núi phía Bắc. Xét về phương diện hành chính, vùng này bao gồm 14 tỉnh (Hà
Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái
Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình). Trung
tâm vùng là thành phố Thái Nguyên. Đây là vùng lãnh thổ có diện tích lớn nhất
nước ta (100.965 km2) chiếm khoảng 28,6% diện tích cả nước.
* Địa hình:
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi có độ cao trung bình so với mặt biển
khoảng 200 - 300 mét, thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Tỉnh Thái
Nguyên có nhiều dãy núi cao chạy theo hướng Bắc - Nam và thấp dần xuống phía
Nam. Cấu trúc vùng núi phía bắc chủ yếu là đa phong hóa mạnh, tạo thành nhiều
hang động và thung lũng nhỏ, nhiều chỗ trũng tạo nên hồ, ao, sông, suối.
Bắc Kạn là tỉnh có địa hình cao nhất so với mặt nước biển trong 11 tỉnh miền
núi Đông Bắc, là một trong những tỉnh nghèo ở Việt Nam. Khoảng 95% diện tích
đất của tỉnh là địa hình miền núi được bao bọc bởi các cánh rừng già. Bắc Kạn có
địa hình đa dạng, phức tạp, chủ yếu là đồi và núi cao.
42
Bản đồ tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang
Bản đồ tỉnh Bắc Kạn
Bản đồ tỉnh Thái Nguyên
Bản đồ tỉnh Tuyên Quang
Bản đồ các tỉnh miền Bắc Việt Nam
43
Tỉnh Tuyên Quang nằm khoảng giữa vùng có nhiều núi cao và vùng trung du nên
so với các tỉnh phía Bắc lân cận thì độ dốc thấp hơn. Địa hình đồi núi thấp xen kẽ khu
vực thấp trũng tạo cho Tuyên Quang có nhiều ao, hồ, kênh, mương tự nhiên. Ngoài ra,
tỉnh Tuyên Quang còn đắp ngăn các đồi để tạo thành hồ chứa nước nhân tạo phục vụ dân
sinh, sản xuất nông nghiệp và phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
* Khí hậu:
Ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang đều có khí hậu cận nhiệt đới,
ẩm quanh năm với 4 mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Khí hậu nhiệt đới chịu ảnh
hưởng của gió mùa. Chế độ gió mùa có sự tương phản rõ rệt: mùa Hè gió mùa Tây
Nam nóng, khô và mưa nhiều; mùa Đông gió mùa Đông Bắc lạnh, khô và ít mưa.
Chế độ gió tạo ra thời tiết có phần khắc nghiệt, gây nên tình trạng khô nóng, hạn
hán, sương muối… gây trở ngại cho sản xuất và sinh hoạt.
Với kiểu địa hình và khí hậu như trên, ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và
Tuyên Quang có thể đại diện cho các tỉnh miền núi Đông Bắc. Vì vậy, chúng tôi đã
thực hiện đề tài trên địa bàn của ba tỉnh này.
2.1.3.2. Địa điểm xét nghiệm mẫu
+ Phòng thí nghiệm của Khoa Chăn nuôi thú y - Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên.
+ Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật.
+ Phòng Siêu cấu trúc - Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
2.2.1. Động vật và các loại mẫu nghiên cứu
* Động vật nghiên cứu:
- Trâu, bò các lứa tuổi (để thu thập mẫu phân và mổ khám sán lá gan).
- Ốc nước ngọt (để xác định các loài là ký chủ trung gian của sán lá gan và
nghiên cứu sự phát triển của ấu trùng sán lá trong ký chủ trung gian).
* Các loại mẫu nghiên cứu:
44
- Mẫu phân tươi của trâu, bò.
- Mẫu đất (cặn) nền chuồng; mẫu đất ở khu vực xung quanh chuồng trâu, bò;
mẫu đất bề mặt; mẫu nước chỗ trũng trên bãi chăn thả trâu, bò.
- Mẫu cỏ thuỷ sinh ở các khu vực chăn thả trâu, bò.
- Mẫu ốc không có nắp miệng thu thập từ các ao, ruộng, suối, rãnh nước,
vũng nước đọng ở xung quanh chuồng và trên khu vực chăn thả trâu, bò.
- Trứng sán lá gan phân lập từ phân của trâu, bò bệnh (để bố trí các thí nghiệm về
khả năng sống và phát triển của trứng trong các môi trường đất, nước).
- Mẫu sán lá gan thu thập từ trâu, bò mổ khám (để xác định loài và nghiên cứu
tương quan giữa số trứng sán lá trong 1 gam phân với số sán lá ký sinh trong 1 trâu /bò).
- Mẫu phân thu thập từ những trâu, bò mổ khám nhiễm sán lá gan (để nghiên cứu
về tương quan nói trên).
2.2.2. Dụng cụ và hoá chất
- Kính hiển vi quang học, kính hiển vi điện tử quét FE-SEM S4800, kính lúp.
- Buồng đếm Mc. Master.
- Máy Eppendorf Mastercycler, ABI 3100 Avant Genetic Analyzer (để định
loài sán bằng phương pháp sinh học phân tử).
- Dụng cụ xét nghiệm mẫu: cốc và đũa thuỷ tinh, đĩa petri, lam kính, la men,
lưới lọc phân và các dụng cụ thí nghiệm khác.
- Bộ đồ mổ gia súc
- Lọ đựng tiêu bản
- Cồn 70o, dung dịch nước muối sinh lý (dung dịch Nacl 0,9%).
- Các bể thủy tinh kích thước 40 x 30 x 30 cm để nuôi ốc thí nghiệm.
- Các chậu thủy tinh, khay nhựa, khay men để bố trí các thí nghiệm.
- Các loại thuốc tẩy sán lá gan: han - dertil B, fasiolid (nitroxinil-25%),
albendazol, triclabendazole.
45
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1 Xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại ba tỉnh miền núi phía Bắc
2.3.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh do sán lá Fasciola spp. gây ra ở trâu, bò
2.3.2.1. Điều tra thực trạng chăn nuôi và phòng chống bệnh ký sinh trùng cho trâu,
bò ở ba tỉnh nghiên cứu
2.3.2.2. Tình hình nhiễm sán lá Fasciola spp. ở trâu, bò
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp. ở trâu, bò tại các địa phương
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp. theo tuổi trâu, bò
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp. ở trâu, bò theo mùa vụ
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp. theo tính biệt trâu, bò.
2.3.2.3. Nghiên cứu về trứng và ấu trùng sán lá Fasciola spp. ở ngoại cảnh và trong
ký chủ trung gian
- Sự ô nhiễm trứng sán lá Fasciola spp. ở chuồng trại và xung quanh chuồng trâu, bò.
- Sự ô nhiễm trứng sán lá Fasciola spp. ở bãi chăn thả trâu, bò
- Sự phân bố các loài ốc nước ngọt - ký chủ trung gian của sán lá Fasciola spp.
- Tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm ấu trùng Adolescaria của sán lá Fasciola spp.
- Nghiên cứu thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. ở ngoại cảnh (khi
chưa rơi vào môi trường nước)
- Nghiên cứu thời gian thoát vỏ của Miracidium và thời gian sống của
Miracidium trong nước
- Nghiên cứu thời gian phát triển của ấu trùng sán lá Fasciola spp. trong ốc -
ký chủ trung gian.
2.3.3. Nghiên cứu tương quan giữa số trứng sán Fasciola spp. trong 1 gam phân
với số sán lá ký sinh ở trâu, bò.
2.3.4. Nghiên cứu biện pháp phòng chống bệnh sán lá Fasciola spp. cho trâu, bò
2.3.4.1. Xác định thuốc tẩy sán lá Fasciola spp. có hiệu lực cao và an toàn
- Xác định hiệu lực tẩy sán lá Fasciola spp. của một số hóa dược đã sử dụng
nhiều năm trên trâu, bò.
46
- Thử nghiệm hiệu lực và độ an toàn của một số thuốc tẩy sán lá Fasciola spp.
với liều cao hơn liều khuyến cáo trên trâu, bò.
2.3.4.2. Nghiên cứu biện pháp phòng chống tổng hợp bệnh sán lá Fasciola spp. cho
trâu, bò.
- Thử nghiệm biện pháp phòng chống tổng hợp bệnh sán lá Fasciola spp.
cho trâu.
- Đề xuất biện pháp phòng chống tổng hợp bệnh sán lá Fasciola spp. cho trâu, bò.
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp mổ khám, thu thập và định loại sán lá Fasciola spp. ký sinh
ở trâu, bò tại Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang
* Mổ khám 450 trâu và 60 bò theo phương pháp mổ khám không toàn diện
của Skrjabin (1928), thu thập toàn bộ sán lá ở gan, ống dẫn mật và túi mật của trâu, bò.
* Định danh sán lá đã thu thập bằng phương pháp thường quy theo khóa định
loại của Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) [34], căn cứ vào đặc điểm hình thái, kích
thước và cấu tạo của sán trưởng thành để xác định (trên mẫu sán tươi và trên tiêu
bản sán nhuộm carmin), kết hợp với quan sát hình ảnh cấu trúc siêu vi của sán.
* Sử dụng kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) giải trình tự gen trong
định loại một số mẫu sán lá gan có hình dạng khó xác định loài bằng phương pháp
thường quy.
Các bước thực hiện phương pháp PCR giải trình tự gen sán lá gan:
- Tách ADN tổng số từ mô cơ, sử dụng QIAamp DNA extraction kit
(Qiagen, Đức).
- Nhân bản gen đích (COI và Cytb) bằng kỹ thuật PCR và sử dụng Taq
Mastermix 2X (Qiagen, Đức) trên máy Eppendorf Mastercycler với cặp mồi đặc hiệu:
JB3F cox1 TTTTTTGGGCATCCTGAGGTTTAT
JB4.5R cox1 TAAAGAAAGAACATAATGAAAATG
Trong cơ thể động vật gồm 2 hệ gen: Hệ gen ty thể và hệ gen nhân.
47
Hệ gen ty thể là một vòng kép DNA có kích thước khoảng 16 - 20 kb, gồm
36 - 37 gen mã hoá cho 12 - 13 loại protein, 2 RNA ribosome (rRNA) và 22
RNA vận chuyển (trn). Các gen trong ty thể có hệ số biến đổi nhanh hơn gen
trong nhân tế bào 10 - 15 lần, do vậy, đây là chỉ thị phân tử thuận lợi cho nghiên
cứu về tiến hoá và biến đổi di truyền. Hệ gen ty thể có hướng di truyền theo
dòng mẹ, các gen ty thể trong cùng chủng, cùng loài có tính bảo tồn sinh học cao
ở một số gen như: cox1, nad1, bất cứ sự thay đổi nhỏ nào cũng là dấu hiệu giá trị
trong giám định và phân loại. Mặt khác, vùng giao gen ITS-2 của hệ gen nhân
cũng được khảo sát để khẳng định về sự di truyền dòng bố cũng như biến đổi hệ
gen trong quần thể sán lá gan lớn. Trong nghiên cứu này, chúng tôi dùng gen ty
thể để xác định loài sán lá gan lớn.
Cả ba đoạn gen trên (cox1, Nad1, ITS - 2) đều có thể sử dụng để định loài
nhưng để xác định loài sán lá gan đơn thuần chỉ cần sử dụng hệ gen ty thể để xác định
(cox1, Nad1). Trong đó đoạn gen cox1 hiện đang có nhiều dữ liệu trong ngân hàng gen
hơn đoạn gen Nad1. Do vậy chúng tôi sử dụng đoạn gen ty thể cox1 để định loài.
- Chu trình nhiệt 5 phút ở 94oC, tiếp theo 30 chu kỳ: 94
oC trong 1 phút, 54
oC
trong 1 phút, 72oC trong 2 phút, phản ứng kết thúc 72
oC trong 2 phút.
- Sản phẩm PCR được điện di trên gel agarose 1,5% trong đệm TBE, nhuộm
Ethidium Bromide và hiển thị kết quả dưới ánh sáng tử ngoại (302 nm). Vạch sản
phẩm đặc hiệu có kích thước đúng như thiết kế khi so sánh với thang chuẩn kích
thước phân tử (DNA ladder 1 Kb - Invitrogen, Mỹ) được cắt và tinh sạch bằng
Qiaquick gel extraction kit (Qiagen, Đức).
- Phản ứng giải trình tự trực tiếp sử dụng BigDye terminator cycler v3.1
(Applied Biosystem, Mỹ) sử dụng cặp mồi như trên.
- Tinh sạch sản phẩm trình tự bằng sắc ký lọc gel (Sephadex G50 - Sigma,
Mỹ) và đọc kết quả trên máy ABI 3100 Avant Genetic Analyzer (Applied
Biosystem, Mỹ).
- Các trình tự ADN sẽ được so sánh từ cơ sở dữ liệu, sử dụng các phần mềm
ClustalW, xây dựng cây phát sinh chủng loại bằng các phương pháp Maximum
Parsimony, Maximum Likelihood bằng các phần mềm PAUP v4.0 và MrBayes v3.1.2.
* Phương pháp chụp ảnh cấu trúc siêu vi của sán:
48
- Mẫu được cố định trong 2,5% glutaraldehyte /cacodylate 0,1M (4oC qua đêm).
- Rửa mẫu trong dung dịch 0,1M cacodylate 3 lần (10 phút).
- Cố định mẫu lần 2 trong 1% OsO4 /cacodylate 0,1M (15 phút)
- Rửa mẫu trong dung dịch 0,1M cacodylate 3 lần (10 phút).
- Hút nước trong mẫu lần lượt bằng cồn 50o, 70
o, 90
o, 100
o (5 phút /lần)
- Để mẫu khô tự nhiên.
- Gắn mẫu lên đế, phủ màng dẫn điện Pl-Pd.
- Đưa mẫu vào kính FE-SEM S4800, đọc kết quả và chụp ảnh.
2.4.2. Phương pháp điều tra tình trạng vệ sinh thú y và phòng chống bệnh sán lá
Fasciola spp. cho trâu, bò
Xây dựng các tiêu chí điều tra và đánh giá.
Trực tiếp quan sát thực trạng chăn nuôi trâu, bò ở các địa phương thu thập mẫu.
Phỏng vấn và phát phiếu điều tra về một số tiêu chí đã xây dựng.
2.4.3. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá Fasciola spp. ở trâu, bò
2.4.3.1. Quy định về lứa tuổi trâu, bò và mùa vụ:
* Tuổi trâu, bò: trâu, bò được phân thành 4 nhóm tuổi:
+ Dưới 2 năm tuổi
+ 2 - 5 năm tuổi
+ 5 - 8 năm tuổi
+ Trên 8 năm tuổi
Tuổi của trâu, bò được xác định bằng cách hỏi chủ gia súc, kết hợp với phương
pháp xem răng đoán tuổi (căn cứ vào sự thay răng và mòn răng của con vật).
* Mùa vụ: theo dõi một số chỉ tiêu trong 4 mùa:
- Mùa Xuân: tháng 2 - tháng 4;
- Mùa Hè: tháng 5 - tháng 7;
49
- Mùa Thu: tháng 8 - tháng 10;
- Mùa Đông: tháng 11 - tháng 1 năm sau.
2.4.3.2. Bố trí thu thập mẫu
- Thu thập mẫu theo phương pháp lấy mẫu phân tầng: mỗi tỉnh chọn ba huyện,
mỗi huyện chọn ba xã để thu thập mẫu.
Tùy từng loại mà mẫu được thu thập ngẫu nhiên trên trâu, bò tại các nông hộ,
các trang trại chăn nuôi trâu, bò hoặc tại chuồng, tại khu vực xung quanh chuồng
nuôi, trên bãi chăn thả trâu, bò ở ba tỉnh: Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang.
- Các loại mẫu được xét nghiệm ngay trong ngày hoặc xét nghiệm sau khi bảo
quản theo quy trình bảo quản mẫu trong nghiên cứu ký sinh trùng.
Số lượng mẫu các loại được thu thập theo bảng sau:
Bảng 2.1. Sơ đồ bố trí thu thập mẫu
Loại mẫu Số lƣợng
mẫu Số huyện/tỉnh Số xã/huyện
Mẫu phân trâu 5.400 3 3
Mẫu phân bò 1.890 3 3
Mẫu nền chuồng 2.160 3 3
Mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng 2.160 3 3
Mẫu đất bề mặt bãi chăn 1.350 3 3
Mẫu nước trên bãi chăn 1.350 3 3
Ốc nước ngọt (con) 6.480 3 3
* Ghi chú: Mỗi trâu, bò chỉ lấy 01 mẫu phân
2.4.3.3. Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica trên
trâu, bò.
* Phương pháp thu thập mẫu phân
- Thu nhập mẫu phân ngẫu nhiên ở trâu, bò nuôi tại các nông hộ, các trại chăn
nuôi. Lấy phân trực tiếp từ trực tràng con vật. Mỗi trâu, bò lấy khoảng 30 gam
phân. Để riêng mỗi mẫu vào một túi nilon nhỏ, mỗi túi đều có nhãn ghi: loại gia súc
50
(trâu hoặc bò), địa điểm, tuổi, trạng thái phân, thời gian lấy mẫu và các biểu hiện
lâm sàng của trâu, bò (nếu có). Ngoài ra, căn cứ vào những yếu tố cần xác định có
liên quan đến đặc điểm dịch tễ để lấy mẫu cho tương đối đồng đều về các yếu tố khác.
* Phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm sán lá Fasciola spp. trên trâu, bò
Sử dụng phương pháp lắng cặn Benedek (1943) để xét nghiệm mẫu tìm trứng sán.
Nguyên lý: dùng lực khuấy mẫu trong nước để tách trứng sán lá gan ra khỏi
phân, do tỷ trọng của trứng sán nặng hơn tỷ trọng của nước nên trứng sẽ lắng
xuống. Vì vậy, có thể lấy cặn lắng, quan sát dưới kính hiển vi, độ phóng đại 100
lần để tìm trứng sán.
Những mẫu phân tìm thấy trứng sán lá gan được xác định là có nhiễm,
ngược lại là không nhiễm.
* Phương pháp xác định cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp. ở trâu, bò
Xác định cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp. bằng phương pháp đếm trứng
Mc. Master (đếm số trứng /gam phân trên buồng đếm Mc. Master theo tài liệu của
Jorgen Hansen và Brian Perry (1994) [112]).
2.4.4. Phương pháp nghiên cứu trứng và ấu trùng sán lá Fasciola spp. ở ngoại
cảnh và trong ký chủ trung gian
2.4.4.1. Phương pháp nghiên cứu sự ô nhiễm trứng sán lá Fasciola spp. ở nền
chuồng và khu vực xung quanh chuồng nuôi trâu, bò
* Phương pháp thu thập mẫu
- Mẫu đất hoặc cặn nền chuồng trâu, bò: tại mỗi chuồng nuôi, lấy mẫu đất
(cặn) ở 4 góc chuồng và ở giữa chuồng, trộn đều được một mẫu xét nghiệm (khối
lượng 100 gam /mẫu). Mỗi mẫu được để riêng trong túi nilon, có nhãn ghi loại mẫu,
chuồng nuôi loại gia súc nào, địa điểm và thời gian lấy mẫu.
- Mẫu đất bề mặt ở khu vực xung quanh chuồng nuôi trâu, bò: lấy mẫu đất bề
mặt trong vòng bán kính 5 mét xung quanh chuồng nuôi trâu, bò. Cứ 5 m2 lấy 200
gam, trộn đều rồi lấy được một mẫu xét nghiệm có khối lượng 100 gam. Mẫu có
nhãn ghi tương tự như trên.
51
* Phương pháp xét nghiệm mẫu
Xét nghiệm mẫu bằng phương pháp lắng cặn Benedek (1943) để phát hiện
trứng sán lá Fasciola spp..
2.4.4.2. Phương pháp nghiên cứu sự ô nhiễm trứng sán lá Fasciola spp. ở khu vực
chăn thả trâu, bò.
* Phương pháp thu thập mẫu ở khu vực chăn thả trâu, bò
- Mẫu đất bề mặt ở khu vực chăn thả trâu, bò: Tại mỗi khu vực chăn thả, cứ 25
m2
lấy ở vị trí 4 góc và ở giữa (ở mỗi vị trí lấy khoảng 200 gam), trộn đều rồi lấy
một mẫu xét nghiệm có khối lượng 100 gam. Mỗi mẫu được để riêng trong túi nilon,
có nhãn ghi loại mẫu, địa điểm và thời gian lấy mẫu.
- Mẫu nước ở những chỗ trũng trên khu vực bãi chăn thả: dùng que khuấy đều
nước, dùng cốc thủy tinh lấy ngay nước với lượng 500 ml /mẫu, mỗi mẫu để riêng
trong một túi nilon có nhãn ghi loại mẫu, địa điểm và thời gian lấy mẫu.
* Phương pháp xét nghiệm mẫu
Xét nghiệm mẫu bằng phương pháp lắng cặn Benedek (1943) để phát
hiện trứng sán lá Fasciola spp..
2.4.4.3. Phương pháp thu thập và xác định loài ốc nước ngọt - ký chủ trung gian
của sán lá gan.
Thu thập mẫu ốc (ốc không có nắp miệng): Bắt ốc ở các ruộng lúa, mương, rãnh
nước, ao rau muống, các chỗ nước đọng trên khu vực chăn thả trâu, bò. Ốc thu thập
được để trong hộp nhựa chứa nước, có nhãn ghi địa điểm và thời gian thu thập mẫu.
Sau khi đưa về phòng thí nghiệm, ốc được nuôi trong các bể thủy tinh có kích thước
40 x 30 x 30 cm. Nước dùng nuôi ốc có pH = 6 - 7, được lấy từ các ao, ruộng (nơi có
ốc sinh sống). Trong bể có thả cây thủy sinh để làm giá thể cho Adolescaria bám vào.
* Định loại ốc theo khóa định loại của Đặng Ngọc Thanh và cs. (1980) [46].
2.4.4.4. Phương pháp xác định tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm Adolescaria
- Phương pháp lấy mẫu
Lấy mẫu cỏ thủy sinh ở rìa bờ ao, kênh, mương, rãnh nước gần chuồng hoặc
trên bãi chăn thả trâu, bò. Lấy ở các vị trí khác nhau, mỗi mẫu lấy khoảng 100 gam.
Đựng mẫu trong túi nilon sạch có nhãn ghi thời gian và địa điểm lấy mẫu.
52
- Phương pháp xét nghiệm
Tìm Adolescaria trong các mẫu cỏ thủy sinh bằng các phương pháp sau:
+ Dùng kính lúp soi kĩ từng cây cỏ trong một mẫu để tìm kén Adolescaria bám
trên thân và lá cỏ, kiểm tra hình thái Adolescaria trên kính hiển vi với độ phóng đại 4 x
10 lần, từ đó xác định sự phát tán ấu trùng sán lá gan ở cỏ thủy sinh.
+ Rửa mẫu cỏ thủy sinh trong cốc thủy tinh dung tích 500ml có chứa nước
sạch, rửa kỹ từng cây cỏ, sau đó vớt cây cỏ ra, để yên 20 - 30 phút cho Adolescaria
lắng xuống, rồi gạn phần nước ở trên đi, giữ lại cặn. Dùng công tơ gút hút cặn nhỏ
lên phiến kính, đậy lamen và soi dưới kính hiển vi độ phóng đại 40 lần để tìm
Adolescaria.
+ Dùng dao nhỏ nhẹ nhàng nạo lấy lớp ngoài của cỏ thủy sinh, cho vào cốc thủy tinh
có nước, khuấy kỹ rồi để yên 20 - 30 phút cho cặn lắng xuống, gạn từ từ nước ở trên đi,
dùng công tơ gút hút cặn nhỏ lên phiến kính, đậy lamen và soi dưới kính hiển vi độ phóng
đại 40 lần để tìm Adolescaria.
2.4.5. Nghiên cứu thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. ở ngoại cảnh
(khi không rơi vào môi trường nước)
2.4.5.1. Nghiên cứu thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. trong phân trâu, bò
* Thí nghiệm 1: Theo dõi thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. trong
phân trâu, bò (trường hợp trứng sán lưu cữu trong phân)
- Lô 1: gồm 5 mẫu, mỗi mẫu khoảng 1.000 gam phân, là hỗn hợp phân của
một số trâu, bò nhiễm sán lá Fasciola spp. với mức độ trên 500 trứng trong 1 gam
phân). Mỗi mẫu được đặt trong một chậu thủy tinh có đường kính 30 cm, cao 20
cm, có dán nhãn ghi tên thí nghiệm, ngày, tháng bắt đầu thí nghiệm. Mẫu được để
tự nhiên mẫu ở điều kiện nhiệt độ và ẩm độ không khí bình thường, có đủ ánh sáng,
có mái che.
- Lô 2: bố trí như lô 1, chỉ khác là các mẫu phân luôn được duy trì trong trạng
thái ẩm ướt. Hàng ngày kiểm tra trạng thái ẩm ướt của các mẫu phân bằng phương pháp
cảm quan và dùng bình phun sương bổ sung nước để duy trì độ ẩm cần thiết.
Mỗi ngày lấy 5 gam phân từ mỗi mẫu ở cả 2 lô, xét nghiệm mẫu phân bằng
phương pháp lắng cặn Benedek (1943) để tìm trứng sán lá Fasciola spp..
53
Xác định thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. trong phân bằng cách
quan sát hình thái của trứng, vỏ trứng và phôi bào bên trong trứng, kiểm tra xem
trứng có biến đổi gì không. Sau đó, những trứng này được cho vào cốc thuỷ tinh
chứa nước, theo dõi trong 15 ngày để xác định những trứng này có tiếp tục phát
triển được trong môi trường nước hay không. Nếu trứng bị biến đổi khi quan sát
dưới kính hiển vi: phôi bào bị dung giải hoặc chuyển màu đen, vỏ trứng nhăn nheo
hoặc nứt vỡ, đồng thời khi cho vào môi trường nước trứng không phát triển được
thành Miracidium thì những trứng này đã bị chết. Từ đó có thể xác định được thời
gian sống của trứng khi trứng lưu cữu trong phân trâu, bò ở hai lô thí nghiệm.
Thí nghiệm được bố trí trong 4 mùa: mùa Xuân, mùa Hè, mùa Thu và mùa Đông.
2.4.5.2. Nghiên cứu thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. trong đất
Phương pháp cảm quan trong phân loại đất theo độ ẩm và duy trì độ ẩm cần thiết.
Theo Lê Văn Khoa và cs. (1996) [16], có thể phân ra ba loại đất: đất khô, đất ẩm, đất ướt.
- Đất khô: là đất khi dùng tay nắm đất lại rồi mở ra, đất tơi ra ngay, không
dính lại, tay vẫn khô và không bị ướt.
- Đất ẩm: khi nắm đất rồi mở tay ra, tay hơi ẩm, đất không nở ra mà dính lại
với nhau, một lát sau mới từ từ nở ra.
- Đất ướt: khi nắm đất rồi mở tay ra có nước rỉ ra kẽ tay, đất dính chắc lại và
giữ ở trạng thái như vậy trong một thời gian dài sau khi mở tay ra.
Hàng ngày kiểm tra độ ẩm đất của mỗi lô thí nghiệm bằng phương pháp cảm
quan, dùng bình phun sương bổ sung nước để duy trì độ ẩm cần thiết của đất trong
suốt thời gian thí nghiệm.
* Thí nghiệm 2: Theo dõi thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. trong lớp
đất bề mặt (trường hợp trứng sán lá Fasciola spp. phát tán ra đất, chưa rơi vào môi
trường nước)
Cho 3 loại đất (đất khô, đất ẩm, đất ướt) vào 6 khay (đất ở mỗi loại độ ẩm
được bố trí trong 2 khay, khay có kích thước 40 x 20 x 5 cm). Lớp đất trong khay
dày 4 cm. Trộn đều một số lượng lớn trứng sán lá Fasciola spp. đã thu nhận được từ
phân trâu, bò với lớp đất bề mặt ở mỗi khay. Duy trì độ ẩm đất cần thiết theo
từng lô thí nghiệm: Lô I (đất khô), Lô II (đất ẩm), Lô III (đất ướt).
54
Hàng ngày lấy 5 gam đất bề mặt trong mỗi lô, xét nghiệm bằng phương pháp
lắng cặn Benedek (1943) để tìm trứng sán lá Fasciola spp..
Xác định thời gian sống của trứng sán lá Fasciola spp. trong đất ở các độ ẩm
khác nhau bằng cách: kiểm tra hình thái của trứng, vỏ trứng, phôi bào bên trong
trứng. Sau đó, số trứng này được cho vào cốc thuỷ tinh chứa nước để theo dõi sự
phát triển của trứng trong môi trường nước. Nếu trứng bị biến đổi khi quan sát dưới
kính hiển vi: phôi bào dung giải hoặc chuyển sang màu đen, vỏ trứng nhăn nheo
hoặc nứt vỡ, khi cho vào môi trường nước trứng không phát triển được thành
Miracidium thì những trứng này đã bị chết. Từ đó xác định được thời gian sống của
trứng sán lá Fasciola spp. trong đất ở các độ ẩm khác nhau.
Thí nghiệm được bố trí trong 4 mùa: mùa Xuân, mùa Hè, mùa Thu và mùa Đông.
2.4.6. Nghiên cứu thời gian thoát vỏ và thời gian sống của Miracidium trong nước
2.4.6.1. Nghiên cứu thời gian Miracidium thoát vỏ trong nước
* Thí nghiệm 3: theo dõi thời gian Miracidium thoát vỏ trong nước
Bố trí thí nghiệm gồm 3 lô (lô I, lô II và lô III), mỗi lô gồm 10 đĩa petri đường
kính 15 cm, cao 2 cm (có dán nhãn ghi tên thí nghiệm và thời gian bắt đầu thí
nghiệm). Mỗi đĩa petri chứa gần đầy nước thu thập từ các khu vực chăn thả trâu, bò.
Xác định pH của nước (đo bằng giấy quỳ), nhiệt độ của nước (đo bằng nhiệt kế).
Cho số lượng lớn trứng sán lá Fasciola spp. đã thu nhận được từ phân trâu, bò vào
mỗi đĩa petri. Các lô thí nghiệm được để ở điều kiện có mái che tránh mưa, có ánh
sáng mặt trời và nhiệt độ không khí bình thường.
Hàng ngày, dùng đũa thủy tinh khuấy đều nước ở mỗi đĩa petri và dùng công
tơ gút hút nước ở mỗi đĩa petri, đặt 3 giọt trên lam kính, đậy lamen, soi dưới kính
hiển vi độ phóng đại 100 lần để theo dõi sự phát triển của trứng sán lá Fasciola
spp.. Từ đó xác định được thời gian Miracidium thoát vỏ trong nước kể từ khi cho
trứng vào môi trường nước.
Thí nghiệm được bố trí trong 4 mùa: mùa Xuân, mùa Hè, mùa Thu và mùa Đông.
55
2.4.6.2. Nghiên cứu thời gian Miracidium sống trong nước (khi Miracidium không
gặp ký chủ trung gian)
* Thí nghiệm 4: Theo dõi thời gian sống của Miracidium trong nước (khi
không gặp ký chủ trung gian)
Tiếp tục theo dõi các lô thí nghiệm trong thí nghiệm 3, thu nhận các
Miracidium mới thoát vỏ để bố trí thí nghiệm xác định thời gian sống của chúng
trong nước (nếu chưa gặp được ký chủ trung gian).
Khi trứng sán lá F. gigantica chuẩn bị bật nắp (Miracidium trong những trứng
này đã phát triển hoàn chỉnh và co rút mạnh trong vỏ trứng), chúng tôi tách riêng
những trứng đó để theo dõi bằng cách: dùng công tơ gút hút riêng những trứng đó
đặt lên lam kính trong, sạch, rồi đưa lên kính hiển vi kiểm tra để xác định chính xác
đó là những trứng sắp bật nắp. Quan sát liên tục trên lam kính dưới kính hiển vi để
xác định thời gian Miracidium thoát vỏ. Sau khi Miracidium thoát vỏ ra môi trường
nước, bằng mắt thường cũng nhìn thấy trên lam kính có Miracidium như những hạt
bụi li ti màu trắng di chuyển trong nước, quan sát dưới kính lúp thấy chúng lớn hơn.
Những Miracidium cùng thoát vỏ trong một thời điểm được chúng tôi dùng công tơ
gút hút và tập trung chúng vào 1 đĩa petri (đường kính 10 cm, cao 2 cm) có chứa
nước. Kiểm tra tình trạng sống /chết của Miracidium ở mỗi đĩa petri (dưới kính lúp
và dưới kính hiển vi). Từ đó xác định được thời gian sống của Miracidium trong
nước khi chưa gặp ký chủ trung gian.
2.4.7. Nghiên cứu về thời gian phát triển của ấu trùng sán lá Fasciola spp. trong
ốc Lymnaea viridis - ký chủ trung gian
* Phương pháp tạo ra “ốc sạch” để bố trí thí nghiệm
Theo Phan Địch Lân (2004) [33], ốc L. viridis có tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán
lá gan cao hơn ốc L. swinhoei, do vậy chúng tôi dùng ốc L. viridis để bố trí thí
nghiệm nghiên cứu thời gian phát triển của ấu trùng sán lá Fasciola spp. trong ốc
- ký chủ trung gian.
Thu thập, định loại và bố trí thí nghiệm tạo ốc L. viridis sạch thế hệ II từ ốc
L. viridis trưởng thành.
56
Ốc L. viridis trưởng thành được nuôi ở điều kiện nhiệt độ và độ ẩm không khí
bình thường, trong các bể thuỷ tinh (kích thước 40 x 30 x 30 cm) có chứa nước và
các cây cỏ thuỷ sinh.
Môi trường nước nuôi ốc trong các bể thủy tinh là nước ao, có pH = 6 - 7 (đo
pH bằng giấy quỳ); cứ 3 ngày thay nước một lần.
Cỏ thuỷ sinh thả trong bể nuôi ốc một phần ngập trong nước, một phần nổi
trên mặt nước để cho ốc bám vào và có thể bò lên khỏi mặt nước.
Rau xà lách sạch kết hợp với thức ăn viên của cá được dùng làm thức ăn nuôi
ốc hàng ngày, ốc phát triển tốt và khả năng sống cao.
Sau khi nuôi ốc trưởng thành 7 - 8 ngày thì chúng bắt đầu đẻ trứng. Mỗi ốc đẻ
nhiều trứng, trứng tập trung thành ổ. Loại bỏ ốc mẹ sau khi đẻ trứng. Quan sát bằng
mắt thường có thể thấy trứng ốc tập trung thành những dải màu trắng hơi đục và
nhầy. Gặp nhiệt độ thích hợp (30 - 37oC) trứng nở thành ốc con sau 8 - 10 ngày.
Nuôi ốc con tới khi đạt chiều dài 10 - 15 mm (thời gian phát triển từ ốc mới nở đến
khi gây nhiễm khoảng 20 - 25 ngày) thì tiến hành gây nhiễm.
* Thí nghiệm 5: Theo dõi thời gian phát triển của ấu trùng sán lá Fasciola
spp. trong ốc L. viridis - ký chủ trung gian
Dùng “ốc sạch” để bố trí thí nghiệm.
Thí nghiệm gồm 5 lô, mỗi lô là một bể thủy tinh có 100 ốc L. viridis. Nuôi
trứng sán lá F. gigantica trong nước cho đến khi Miracidium bắt đầu thoát vỏ, thu
nhận Miracidium và đưa vào các bể thủy tinh nuôi “ốc sạch” để gây nhiễm ấu trùng
Miracidium cho ốc.
Sau khi gây nhiễm cho ốc 5 ngày thì thay nước trong các lô thí nghiệm, sau đó
cứ 3 ngày thay nước một lần cho tới khi Cercaria ra khỏi ốc, hình thành
Adolescaria.
Cách theo dõi thời gian phát triển của ấu trùng: mỗi ngày lấy 5 ốc ở 5 lô, ép ốc
và kiểm tra dưới kính hiển vi để tìm ấu trùng trong ốc, theo dõi thời gian
Miracidium phát triển thành Sporocyst, thời gian từ Sporocyst thành Redia,
thời gian từ Redia thành Cercaria và thời gian từ Cercaria thành Adolescaria.
Chụp ảnh, quay video các dạng ấu trùng và sự vận động của chúng.
57
Xác định thời gian từ khi trứng rơi vào nước đến khi phát triển thành
Adolescaria: sau khi cho trứng sán lá Fasciola spp. vào môi trường nước, theo dõi
cho đến khi ấu trùng Cercaria ra khỏi ốc và tạo thành Adolescaria. Từ đó tính được
thời gian từ trứng phát triển thành Adolescaria.
Khi Cercaria ra khỏi ốc hình thành Adolescaria, nhiều Adolescaria bám
vào phần cây thủy sinh chìm trong nước, một số Adolescaria vẫn lơ lửng trong
nước, không bám vào cây thủy sinh. Chúng tôi dùng phương pháp lắng cặn để
tìm Adolescaria trong môi trường nuôi ốc, tìm Adolescaria bám vào cây thủy
sinh bằng cách rửa kỹ từng cây thủy sinh trong chậu thủy tinh chứa nước sạch.
Để lắng cặn, gạn bỏ phần nước bên trên, lấy phần cặn ở đáy để tìm Adolescaria
của sán lá Fasciola spp.. Có thể quan sát thấy Adolescaria bằng mắt thường
hoặc kính lúp, song dưới kính hiển vi độ phóng đại 40 lần thấy rõ hơn nhiều.
Adolescaria là những kén tròn nhỏ, màu nâu đen, lớp vỏ bao ngoài ấu trùng có
màu nâu đen sẫm hơn phần giữa ấu trùng.
2.4.8. Phương pháp xác định tương quan giữa số trứng sán Fasciola spp. trong 1
gam phân với số sán lá ký sinh /trâu, bò
- Trên cùng một trâu hoặc một bò nhiễm sán lá Fasciola spp., cùng lúc thu
thập 2 loại mẫu:
+ Thu thập toàn bộ sán lá ký sinh ở gan, ống dẫn mật và túi mật.
+ Thu thập mẫu phân ở trực tràng.
Đếm số sán lá gan ký sinh ở từng trâu, bò và đếm số trứng sán /gam phân.
Các loại mẫu nói trên được thực hiện trên 264 trâu và 22 bò nhiễm sán lá gan.
Những số liệu thu được được xử lý trên phần mềm Minitab 14.0 để xác định
tương quan giữa số trứng sán Fasciola spp. trong 1 gam phân với số sán lá ký sinh
/trâu, bò. Kết quả tương quan được thể hiện ở phương trình hồi quy tuyến tính y = a + bx.
2.4.9. Phương pháp xác định hiệu lực của thuốc tẩy sán lá Fasciola spp.
2.4.9.1. Xác định hiệu lực của một số thuốc tẩy sán lá Fasciola spp. đã sử dụng
nhiều năm trên trâu, bò
Sau khi xét nghiệm phân, phát hiện được những trâu, bò bị nhiễm sán lá F.
gigantica, chúng tôi đã dùng một số thuốc tẩy sán đã được sử dụng trong nhiều năm
58
để tẩy cho trâu, bò nhiễm sán. Nội dung này được thực hiện lặp lại 3 lần trên trâu và
3 lần trên bò, mỗi lần trên 50 trâu và 30 bò.
Trước khi dùng thuốc, xác định cường độ nhiễm sán bằng cách đếm số
trứng/gam phân. Sau khi dùng thuốc 15 ngày, xác định hiệu lực thuốc bằng phương
pháp xét nghiệm lại phân trâu, bò tìm trứng sán và đếm số lượng trứng sán /gam phân.
Đánh giá hiệu lực của thuốc: nếu xét nghiệm không thấy còn trứng sán F.
gigantica trong phân thì đánh giá là thuốc có tác dụng triệt để với sán; nếu vẫn thấy
trứng sán trong phân nhưng số lượng giảm đi rõ rệt thì đánh giá thuốc có hiệu lực tẩy
sán nhưng chưa triệt để; nếu thấy số lượng trứng sán trong phân không giảm hoặc giảm
rất ít so với trước khi dùng thuốc thì đánh giá thuốc không có hiệu lực tẩy sán.
Nội dung này được chúng tôi thực hiện đối với 2 loại thuốc:
- Thuốc han - dertil B:
Thuốc được trình bày dưới dạng viên nén màu hồng. Trong 1 viên thuốc có:
triclabendazole 300 mg, albendazol 300 mg
Liều điều trị theo khuyến cáo của nhà sản xuất: 10 mg /kg TT.
Thuốc được khuyến cáo là có tác dụng với sán lá ở cả giai đoạn trưởng thành
và giai đoạn ấu trùng. Thuốc được dùng bằng cách cho uống, hiệu lực cao và an toàn.
- Thuốc Fasiolid 25%:
Fasiolid là dạng dung dịch màu vàng nâu, chứa 25% hoạt chất nitroxynil.
Tiêm dưới da theo liều khuyến cáo: 0,04 ml /kg TT (tương đương với 10 mg
/kg TT).
* Sau khi đánh giá hiệu lực của thuốc với liều khuyến cáo, chúng tôi thấy 2 loại
thuốc trên vẫn có tác dụng tẩy sán lá Fasciola spp. song hiệu lực không cao. Vì vậy,
chúng tôi đã tiến hành các thử nghiệm tiếp theo.
2.4.9.2. Xác định hiệu lực tẩy sán lá Fasciola spp. và độ an toàn trên trâu, bò của 3
loại thuốc albendazol, triclabendazole, nitroxinil - 25 với mức liều cao hơn liều
khuyến cáo
* Thử nghiệm trên diện hẹp: Dùng thuốc albendazol và nitroxinil - 25, liều 12
mg /kgTT; thuốc triclabendazole liều 15 mg /kgTT tẩy sán lá Fasciola spp. cho 5
trâu và 5 bò cùng lứa tuổi mắc bệnh.
59
Trước khi dùng thuốc, xác định cường độ nhiễm bằng cách đếm số trứng sán
/gam phân. Sau khi dùng thuốc, xét nghiệm lại phân ở ngày thứ 5, 10 và 15 sau tẩy,
đếm số trứng /gam phân để xác định hiệu lực của thuốc.
* Thử nghiệm trên diện rộng: Sau khi có kết quả thử nghiệm trên diện hẹp,
chúng tôi tiếp tục thử nghiệm 3 loại thuốc với liều trên để tẩy sán lá Fasciola
spp. cho số lượng trâu, bò lớn hơn trên thực địa.
Nội dung này cũng được thực hiện lặp lại 3 lần trên trâu và 3 lần trên bò, mỗi
lần trên 50 trâu và 30 bò.
Trước khi dùng thuốc, xác định cường độ nhiễm bằng cách đếm số trứng
sán /gam phân. Sau khi dùng thuốc 15 ngày, xác định hiệu lực thuốc bằng
phương pháp xét nghiệm lại phân trâu, bò tìm trứng sán và đếm số lượng trứng sán
/gam phân.
Theo dõi trạng thái cơ thể trâu, bò trước và sau khi dùng thuốc để đánh giá độ
an toàn của liều thuốc tẩy đã sử dụng.
Để sử dụng đúng liều thuốc tẩy, chúng tôi đã xác định khối lượng trâu, bò
bằng cách đo kích thước một số chiều đo và tính khối lượng trâu, bò theo Trần Đình
Miên, 1975 [40]. Các công thức tính khối lượng trâu, bò:
Khối lượng trâu (kg) = 88,4 × (VN)2
× DTC (± 5%) (Đơn vị thước đo: mét.)
Khối lượng bò vàng (kg) = 89,8 × (VN)2 × DTC (± 5%) (Đơn vị thước đo: mét.)
Khối lượng bò Lai Sind (kg) = 90,05 × (VN)2 × DTC (± 5%) (Đơn vị thước đo: mét.)
2.4.10. Thử nghiệm biện pháp phòng bệnh sán lá Fasciola spp. trên trâu.
- Địa điểm thực hiện: huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên
- Đối tượng thử nghiệm: trâu 2 - 4 năm tuổi
Nội dung triển khai:
* Xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp. của trâu trước
khi thử nghiệm
Trâu trước khi thử nghiệm được xét nghiệm phân để xác định tỷ lệ và cường
độ nhiễm sán lá Fasciola spp. bằng phương pháp lắng cặn Benedek (1943) và đếm
trứng trên buồng đếm Mc Master.
60
* Bố trí thử nghiệm
Trâu được phân thành 2 lô: thử nghiệm và lô đối chứng. Trâu ở 2 lô tương đối
đồng đều về các yếu tố: tuổi, khối lượng, tính biệt, phương thức chăn nuôi, tình
trạng vệ sinh thú y, tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp..
Lô thử nghiệm được áp dụng biện pháp phòng bệnh sán lá Fasciola spp. như:
+ Tẩy sán lá gan cho trâu bằng thuốc triclabendazole, liều 15mg /kg TT.
+ Vệ sinh thức ăn, nước uống.
+ Vệ sinh bãi chăn thả, chuồng trại và khu vực xung quanh chuồng trại.
+ Diệt vật chủ trung gian của sán lá gan.
+ Thu gom phân trâu để ủ bằng phương pháp nhiệt sinh học.
Lô đối chứng không được áp dụng các biện pháp phòng bệnh nói trên.
* Xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp. của trâu sau 2
tháng thử nghiệm
Sau 2 tháng thử nghiệm, xét nghiệm phân để xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm
sán lá Fasciola spp. của lô thử nghiệm và lô đối chứng bằng phương pháp lắng cặn
và đếm số trứng trong 1 gam phân. Từ đó đánh giá sơ bộ hiệu quả của các biện pháp
phòng bệnh đã áp dụng.
* Xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá Fasciola spp. của trâu sau 4
tháng thử nghiệm
Sau 4 tháng thử nghiệm, xét nghiệm phân để xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm
sán lá Fasciola spp. của trâu ở lô thử nghiệm và lô đối chứng bằng phương pháp
lắng cặn, đếm số trứng trong 1 gam phân. Từ đó đánh giá hiệu quả của các biện
pháp phòng bệnh đã áp dụng.
* Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh sán lá Fasciola spp. cho trâu, bò
Biện pháp phòng chống bệnh sán lá F. gigantica cho trâu, bò được đề xuất dựa
trên những cơ sở khoa học sau:
61
- Kết quả nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ của bệnh.
- Kết quả thử nghiệm biện pháp phòng trị bệnh trên trâu.
2.5. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Số liệu thu được được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh học (theo tài liệu
của Nguyễn Văn Thiện, 2008) [48], trên phần mềm Excel 2003 và phần mềm
Minitab 14.0.
62
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại ba tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang
Để xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc
Kạn và Tuyên Quang, chúng tôi đã mổ khám 450 trâu và 60 bò, thu thập sán lá gan
lớn ở ống dẫn mật trâu, bò. Kết quả mổ khám, thu thập mẫu được thể hiện ở bảng
3.1 và 3.2.
Bảng 3.1. Kết quả mổ khám trâu và thu thập sán lá gan
Địa phƣơng
(tỉnh)
Số trâu mổ
khám (con)
Số trâu
nhiễm (con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(Số sán lá gan/trâu)
min ÷ max
Thái Nguyên 150 89 59,33 5 - 89
Bắc Kạn 150 78 52,00 3 - 72
Tuyên Quang 150 97 64,67 6 - 78
Tính chung 450 264 58,67 3 - 89
Bảng 3.2. Kết quả mổ khám bò và thu thập sán lá gan
Địa phƣơng
(tỉnh)
Số bò mổ
khám (con)
Số bò
nhiễm (con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(Số sán lá gan/bò)
min ÷ max
Thái Nguyên 20 8 40,00 7 - 52
Bắc Kạn 20 6 30,00 1 - 45
Tuyên Quang 20 8 40,00 4 - 64
Tính chung 60 22 36,67 1 - 64
Kết quả bảng 3.1 và 3.2 cho thấy: mổ khám 450 con trâu và 60 con bò ở ba tỉnh,
tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu là 58,67%, cường độ nhiễm tính chung là 3 - 89 sán /trâu,
tỷ lệ nhiễm ở bò là 36,67% với số lượng 1 - 64 sán /bò.
63
Trong ba tỉnh, Tuyên Quang là tỉnh có tỷ lệ trâu bị nhiễm sán lá gan qua mổ
khám là cao nhất (64,67%), sau đó đến hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Về tỷ lệ
nhiễm sán lá gan ở bò qua mổ khám, Bắc Kạn là tỉnh có tỷ lệ nhiễm thấp nhất (30%),
hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang đều có tỷ lệ nhiễm là 40%.
Như vậy, có thể thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên trâu, bò của ba tỉnh là khá cao.
Trâu, bò mổ khám đều nằm trong lứa tuổi từ 2 - 8 năm tuổi.
Kết quả về tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu mổ khám của chúng tôi tương đồng với
kết quả của Pfukenyi D. M. và cs. (2004) [138] tại Zimbabwe; nhưng thấp hơn so
với kết quả mổ khám trâu của Võ Thị Hải Lê (2010) [36] tại Nghệ An (67,76%). Còn
đối với bò, tỷ lệ nhiễm của bò mổ khám ở ba tỉnh nghiên cứu cũng thấp hơn so với kết
quả của Nguyễn Văn Diễn và cs. (2006) [3] tại Đắk Lắk (58,63%), kết quả của Nguyễn
Hữu Hưng và cs. (2009) [14] tại Đồng Tháp (64,08%).
Tỷ lệ nhiễm sán lá gan qua mổ khám trâu, bò ở Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên
Quang cao hơn so với kết quả về tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở dê của Nguyễn Thị Kim Lan
(1999) [24]. Tác giả cho biết đàn dê nuôi tại các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên
Quang và Cao Bằng bị nhiễm sán lá gan với tỷ lệ 7,35% - 15,51%. Như vậy, tỷ lệ
nhiễm sán lá gan trên trâu, bò cao hơn nhiều so với tỷ lệ nhiễm trên dê. Điều này phù
hợp với nhận xét của Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [50], Phạm Văn
Khuê và Phan Lục (1996) [17] về khả năng cảm thụ với sán lá gan của các loại động
vật, trong ba loại súc vật là trâu, bò và dê thì trâu cảm thụ nhất, sau đó là bò và cảm thụ
ít hơn ở dê.
Bằng phương pháp định loại qua hình thái, cấu tạo của sán lá Fasciola spp. theo
khóa định loại của Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) [34], kết hợp với quan sát cấu trúc
siêu vi của sán và kỹ thuật PCR, kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò
của tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang được trình bày ở bảng 3.3. và 3.4.
64
Bảng 3.3. Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò
Địa phƣơng
(tỉnh)
Số sán
định loại
(con)
Kết quả định loại
Loài
Fasciola
gigantica
Loài
Fasciola
hepatica
Số sán có dạng
trung gian
giữa hai loài
Số con % Số con % Số con %
Thái Nguyên 262 258 98,47 0 0 4 1,53
Bắc Kạn 356 347 97,47 0 0 9 2,53
Tuyên Quang 538 517 96,10 0 0 21 3,90
Tính chung 1.156 1.122 97,06 0 0 34 2,94
Bảng 3.3 cho thấy, trong 1.156 sán lá được định loại có 97,06% thuộc loài F.
gigantica, không có sán nào thuộc loài F. hepatica, tỷ lệ này biến động từ 96,10% -
98,47% giữa các tỉnh. Tuy nhiên, có 34 sán (2,94%) có dạng trung gian giữa 2 loài
F. gigantica và F. hepatica (những sán này có “vai” nhưng không rõ ràng). Vì vậy,
chúng tôi đã tiếp tục xác định lại số mẫu này bằng phương pháp sinh học phân tử.
Kết quả giải trình tự gene 3 mẫu đại diện cho thấy, các mẫu này đều có mức độ
tương đồng 99% trình tự CO1 của sán F. gigantica trên genbank. Đối chiếu trình tự
nucleotide và axit amin cho thấy, hai mẫu sán F. gigantica có trình tự giống nhau,
một mẫu khác 5 nucleotide và khác 3 axit amin so với trình tự của hai mẫu còn lại.
Như vậy, những sán lá có dạng trung gian trên cũng đều là loài F. gigantica.
Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả định loại sán lá gan bằng phương
pháp sinh học phân tử của Nguyễn Quốc Doanh và Lê Thanh Hòa (2006) [5] trên
bò tại Nghệ An và Cao Bằng; và cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thế Hùng và cs. (2008) [13] trên trâu, bò tại Hà Nội; kết quả của Đỗ Ngọc
Ánh và cs. (2011) [1] trên trâu, bò tại Quảng Nam.
Kết quả xác định loài sán lá gan lớn ký sinh ở trâu, bò của 3 tỉnh được trình
bày ở bảng 3.4.
65
Bảng 3.4. Loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại ba tỉnh miền núi phía Bắc
Loại
gia
súc
Loài sán lá
gan
Vị trí ký
sinh
Phân bố Tỷ lệ
thƣờng
gặp (%)
Thái
Nguyên
Bắc
Kạn
Tuyên
Quang
Trâu Fasciola
gigantica Ống dẫn mật + + + 100
Bò Fasciola
gigantica Ống dẫn mật + + + 100
Trâu Số loài phát hiện 1 1 1 100
Bò Số loài phát hiện 1 1 1 100
Bảng 3.4 cho thấy: Chỉ có 1 loài sán lá gan thuộc giống Fasciola, đó là loài F.
gigantica ký sinh ở ống dẫn mật trâu, bò, thấy phổ biến ở cả 3 tỉnh với tỷ lệ thường
gặp ở các địa phương là 100%. Như vậy, F. gigantica là loài sán lá gan duy nhất ký
sinh và gây tác hại cho trâu, bò ở tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang mà
chúng tôi đã xác định được. Loài sán này có chiều dài thân gấp 3 lần chiều rộng, “vai”
không có hoặc không rõ rệt, nhánh ruột chia toả ra nhiều nhánh ngang, dài 25 - 75 mm,
rộng 3 - 12 mm, u lồi hình nón của đầu là phần tiếp theo của thân. Hai rìa bên thân
sán song song với nhau, đầu cuối của thân tù, giác bụng tròn lồi ra.
Chúng tôi đã ghi lại hình ảnh siêu cấu trúc một số bộ phận của sán lá gan F.
gigantica dưới kính hiển vi điện tử quét như: lớp biểu bì của sán, giác bám... để
nhận biết chi tiết hơn về hình thái, cấu tạo của loài sán này.
Dưới kính hiển vi điện tử quét, lớp biểu bì của sán lá F. gigantica gồm nhiều
tấm xếp kế tiếp nhau như ngói lợp, trên mỗi tấm biểu bì có nhiều gai cutin. Khi sán
ký sinh, chính những tấm biểu bì với nhiều gai cutin này đã kích thích vào niêm
mạc ống dẫn mật, gây tổn thương và viêm ống mật. Giác miệng và giác bụng sán
được cấu tạo bằng lớp cơ vòng chắc, khỏe. Nhờ có lớp cơ vòng này mà sán có thể
bám chắc vào thành ống dẫn mật trong lúc ký sinh và hút máu vật chủ.
Như vậy, kết quả xác định loài sán lá gan của chúng tôi phù hợp với kết quả
nghiên cứu của: Phan Địch Lân (1980) [30], Lê Thanh Hòa và Nguyễn Văn Đề
(2002) [12], Nguyễn Thế Hùng và cs. (2008) [13]… Các tác giả trên đều cho biết,
loài sán lá gan ký sinh và gây hại cho gia súc nhai lại ở nước ta là loài F. gigantica.
66
3.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan ở trâu, bò
3.2.1. Điều tra thực trạng chăn nuôi và phòng chống bệnh ký sinh trùng cho đàn
trâu, bò ở ba tỉnh nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành điều tra thực trạng chăn nuôi và phòng chống bệnh ký
sinh trùng cho đàn trâu, bò ở tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang. Kết quả
được trình bày ở bảng 3.5.
Bảng 3.5. Thực trạng chăn nuôi và phòng chống bệnh ký sinh trùng cho đàn
trâu, bò ở ba tỉnh miền núi phía Bắc
Thực trạng chăn
nuôi và phòng
chống bệnh ký
sinh trùng
Thái Nguyên Bắc Kạn Tuyên Quang
Số
hộ
điều
tra
Số hộ
áp
dụng
Tỷ lệ
(%)
Số
hộ
điều
tra
Số hộ
áp
dụng
Tỷ lệ
(%)
Số
hộ
điều
tra
Số hộ
áp
dụng
Tỷ lệ
(%)
TĂ hoàn toàn dựa
vào tự nhiên 850 168 19,76 850 185 21,76 850 215 25,29
TĂ tự nhiên + ăn
thêm tại chuồng 850 682 80,24 850 665 78,24 850 635 74,71
Chuồng trại xây
dựng hợp vệ sinh 850 245 28,82 850 336 39,53 850 109 12,82
Chuồng trại đảm
bảo vệ sinh 850 263 30,94 850 246 28,94 850 242 28,47
Thu gom phân ủ 850 82 9,65 850 116 13,65 850 71 8,35
Vệ sinh bãi
chăn thả 850 0 0,00 850 0 0,00 850 0 0,00
Tẩy sán lá gan 850 118 13,88 850 138 16,24 850 123 14,47
Tẩy giun tròn 850 217 25,53 850 155 18,24 850 165 19,41
Kết quả bảng 3.5 cho thấy:
- Tại tỉnh Thái Nguyên, đa số các hộ chăn nuôi trâu, bò bằng phương thức
chăn thả, chăn dắt tự nhiên, kết hợp cho ăn thêm cỏ tại chuồng (682/850 hộ áp
dụng, chiếm tỷ lệ 80,24%). Tại tỉnh Bắc Kạn, số hộ chăn nuôi theo phương thức này
chiếm tỷ lệ 78,24%. Tỷ lệ hộ chăn nuôi trâu, bò theo phương thức chăn thả dựa vào
thức ăn tự nhiên, kết hợp cho ăn thêm cỏ tại chuồng ở tỉnh Tuyên Quang là 74,71%.
67
- Về xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh: chỉ có 39,53% số hộ tại tỉnh Bắc Kạn;
28,82% số hộ tại tỉnh Thái Nguyên và 12,82% số hộ tại tỉnh Tuyên Quang thực hiện
biện pháp này.
- Về vệ sinh chuồng trại thường xuyên để đảm bảo yêu cầu vệ sinh thú y: tỷ lệ
các hộ áp dụng tại ba tỉnh từ 28,47% (Tuyên Quang) đến 30,94% (Thái Nguyên).
- Về thu gom phân ủ: có rất ít các hộ thực hiện, trong đó tỉnh Bắc Kạn có số hộ
áp dụng nhiều nhất, song cũng chỉ chiếm 13,65%, ở tỉnh Tuyên Quang chỉ có 8,35%
số hộ thu gom phân trâu, bò để ủ trước khi sử dụng bón cho cây trồng.
- Về vệ sinh khu vực chăn thả trâu, bò: không có hộ nào tại 3 tỉnh thực hiện
nội dung này
- Về tẩy sán lá gan: có 16,24% số hộ tại Bắc Kạn; 14,47% số hộ tại Tuyên
Quang và 13,88% số hộ tại Thái Nguyên có sử dụng thuốc tẩy sán lá gan cho trâu,
bò. Qua điều tra chúng tôi thấy, rất nhiều hộ chăn nuôi trâu, bò còn chưa có những
hiểu biết cơ bản nào về bệnh sán lá gan, vì vậy cũng chưa có biện pháp phòng
chống bệnh cho trâu, bò.
- Về tẩy giun tròn: Các hộ chăn nuôi ở 3 tỉnh nghiên cứu đã sử dụng thuốc tẩy
giun tròn cho trâu, bò nhiều hơn so với việc tẩy sán lá gan. Cụ thể, có 25,53% số hộ
tại tỉnh Thái Nguyên; 19,41% số hộ tại tỉnh Tuyên Quang và 18,24% số hộ tại tỉnh
Bắc Kạn áp dụng (trong khi chỉ có 13 - 16% số hộ tẩy sán lá gan cho trâu, bò).
Như vậy, thực trạng công tác phòng chống bệnh ký sinh trùng nói chung và
bệnh sán lá gan cho trâu, bò nói riêng ở cả ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên
Quang còn nhiều hạn chế. Phần lớn các hộ chăn nuôi trâu, bò chưa thực sự quan
tâm đến việc xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh; khâu vệ sinh chuồng trại và khu vực
xung quanh chuồng nuôi còn kém. Chỉ có một số ít hộ dân đã thực hiện biện pháp
thu gom phân ở chuồng nuôi để ủ và tẩy sán lá gan cho trâu, bò. Từ thực tế này, đàn
trâu, bò nuôi tại các tỉnh trên có nguy cơ nhiễm sán lá gan cao là hệ quả khó tránh khỏi.
Bãi chăn thả là nơi trâu, bò đã nhiễm sán lá gan thải phân có nhiều trứng sán,
trứng phát triển đến giai đoạn ấu trùng có sức gây bệnh. Sở dĩ khu vực bãi chăn là
nơi mầm bệnh dễ phát tán và bệnh dễ lây lan nhất là do trâu, bò ở các địa phương
thuộc 3 tỉnh nói trên phần lớn được nuôi theo phương thức chăn thả, dựa vào nguồn
thức ăn sẵn có trong tự nhiên là chính. Vì vậy, trâu, bò rất dễ bị nhiễm sán lá gan do
ăn cỏ thủy sinh ở những bãi chăn gần ruộng nước, khe suối…
68
Sau khi đã điều tra và biết được thực trạng chăn nuôi trâu, bò và công tác
phòng chống bệnh ký sinh trùng ở các tỉnh, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về tình
hình nhiễm sán lá F. gigantica trên đàn trâu, bò của ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn
và Tuyên Quang.
3.2.2. Tình hình nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò tại ba tỉnh miền núi phía Bắc
3.2.2.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò tại các địa phương
Chúng tôi đã tiến hành thu thập các mẫu phân của trâu, bò nuôi ở ba tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang để đánh giá tình hình nhiễm sán lá F. gigantica
bằng phương pháp lắng cặn Benedek (1943), kết quả về tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá
F. gigantica trên trâu, bò tại ba tỉnh được thể hiện ở bảng 3.6 và 3.7 và hình 3.1, 3.2
Bảng 3.6. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu tại các địa phƣơng
Địa phƣơng
(tỉnh, huyện)
Số
trâu
kiểm
tra
(con)
Số
trâu
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(trứng /g phân)
200 > 200 - 500 > 500
n % n % n %
* Thái Nguyên 1.800 851 47,28b
447 52,52 262 30,79 142 16,69
Đồng Hỷ 600 335 55,83c
162 48,36 111 33,13 62 18,51
Võ Nhai 600 238 39,67a
151 63,45 58 24,37 29 12,18
Đại Từ 600 278 46,33b
134 48,20 93 33,45 51 18,35
χ2= 31,779; P = 0,000
* Bắc Kạn 1.800 733 40,72a
461 62,89 191 26,06 81 11,05
Chợ Mới 600 320 53,33b
186 58,13 102 31,87 32 10,00
Bạch Thông 600 190 31,67a
141 74,21 30 15,79 19 10,00
Ngân Sơn 600 223 37,17a
134 60,09 59 26,46 30 13,45
χ2= 63,055; P= 0,000
* Tuyên Quang 1.800 934 51,89c
568 60,81 289 30,94 77 8,25
Yên Sơn 600 336 56,00b
228 67,86 89 26,49 19 5,65
Hàm Yên 600 275 45,83a
166 60,36 82 29,82 27 9,82
TP.Tuyên Quang 600 323 53,83b
174 53,87 118 36,53 31 9,60
χ2= 13,784; P = 0,001
Tính chung 5.400 2.518 46,63 1.476 58,62 742 29,47 300 11,91
χ2= 45,551; P = 0,000
* Ghi chú: Theo hàng dọc, những số mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa
thống kê.
69
47,2840,72
51,89
0
10
20
30
40
50
60
Thái Nguyên Bắc Kạn Tuyên Quang
Tỷ lệ %
Địa phương
Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu tại 3 tỉnh
Bảng 3.6 và hình 3.1 cho thấy:
Trâu ở 3 tỉnh nhiễm sán F. gigantica tới 46,63%, biến động từ 40,72% -
51,89%. Sự sai khác về tỷ lệ nhiễm giữa 3 tỉnh rất rõ rệt (P < 0,001). Trong đó, trâu
ở tỉnh Tuyên Quang nhiễm nhiều nhất (51,89%), sau đó đến trâu ở tỉnh Thái
Nguyên (47,28%), thấp nhất là trâu ở Bắc Kạn (40,72%).
Các cột biểu thị tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở hình 3.1 cao thấp khác nhau. Sự
khác nhau về tỷ lệ nhiễm sán F. gigantica phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố
địa hình đóng vai trò quan trọng. Độ cao và tính chất phức tạp của địa hình khác nhau
giữa các tỉnh, mặc dù cả ba tỉnh đều là tỉnh miền núi. Bắc Kạn là tỉnh có nhiều núi cao,
đồi trọc, ít sông suối, khe rạch, nhiều ruộng cạn nên môi trường thích hợp để ốc nước
ngọt phát triển bị hạn chế (độ cao trung bình của tỉnh Bắc Kạn so với mặt nước biển là
70
500 - 600 mét). Thái Nguyên và Tuyên Quang là các tỉnh có địa hình thấp hơn (tỉnh Thái
Nguyên và Tuyên Quang có độ cao trung bình so với mặt nước biển lần lượt là 200 - 300
mét và 100 mét), có sông chảy qua và nhiều khe suối đổ ra, có nhiều chân ruộng trũng,
có nước quanh năm, là điều kiện tốt cho ốc nước ngọt tồn tại và phát triển. Về mùa mưa
nước sông thường dâng lên các bãi soi, các thửa ruộng ven sông suối, là khu vực thường
xuyên chăn thả trâu, bò. Đặc điểm địa hình này gắn liền với chế độ nhiệt, độ ẩm dẫn đến
sự khác nhau về khí hậu giữa các vùng. Vì vậy, tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò
của tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang cao hơn so với tỉnh Bắc Kạn.
Cả ba tỉnh trong phạm vi nghiên cứu của đề tài đều nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới gió mùa, chia làm hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 với đặc trưng là
nóng, ẩm, mưa nhiều. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, thời tiết khô và rét do các đợt
gió lạnh từ phía Đông Bắc tràn xuống. Nhiệt độ không khí cũng thể hiện hai mùa rõ rệt:
nóng và lạnh. Số giờ nắng trong năm giảm dần từ Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn
do ảnh hưởng của địa hình rừng núi. Độ ẩm không khí cũng thay đổi theo mùa: mùa
mưa, độ ẩm không khí cao (có thể trên 90%); mùa khô, độ ẩm không khí thấp (có
khi tới 50 - 60%).
Tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu của ba tỉnh cao như đã phân tích ở trên hoàn
toàn phù hợp với kết quả điều tra về thực trạng chăn nuôi và phòng chống bệnh ký sinh
trùng ở các tỉnh. Đa số các hộ chăn nuôi đều chưa chú ý xây dựng chuồng trại hợp vệ
sinh, một số hộ còn làm chuồng tạm bằng tre, nứa, lá. Các hộ dân cũng chưa chú ý tới
việc vệ sinh chuồng và khu vực xung quanh chuồng, thu gom phân ủ, để phân lưu cữu
trong chuồng và vương vãi ra xung quanh. Khi có mưa xuống, phân lại theo nước mưa
trôi xuống những chỗ trũng, tạo điều kiện thuận lợi cho sán lá F. gigantica hoàn thành
giai đoạn ấu trùng rồi tiếp tục nhiễm vào trâu, gây bệnh cho trâu.
Về cường độ nhiễm, tính chung trâu có cường độ nhiễm ở mức độ nhẹ là chủ yếu.
Cụ thể, trâu nhiễm cường độ nhẹ chiếm 58,62%; cường độ trung bình chiếm 29,47%;
cường độ nặng chiếm 11,91%.
71
Hình 3.2. Biểu đồ cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu tại 3 tỉnh
72
Qua hình 3.2 chúng tôi thấy:
Trâu nuôi tại tỉnh Bắc Kạn nhiễm nhẹ là nhiều nhất (62,89%).
Trâu nuôi tại tỉnh Tuyên Quang nhiễm cường độ trung bình nhiều nhất (30,94%).
Trâu nuôi tại tỉnh Thái Nguyên có tỉ lệ nhiễm nặng cao nhất (16,69%)
Trong quá trình thu thập mẫu chúng tôi thấy, Thái Nguyên là tỉnh có nhiều suối và
những cánh đồng ẩm thấp. Do thiếu bãi chăn nên đàn trâu chủ yếu được chăn thả dọc
theo các khe suối và trên các cánh đồng - là nơi có ốc ký chủ trung gian của sán F.
gigantica tồn tại và phát triển. Khi chăn thả trâu, bò ở những nơi ẩm ướt đã làm tăng
nguy cơ mắc bệnh sán lá gan do nuốt phải ấu trùng có sức gây bệnh. Đồng thời, tình
trạng vệ sinh thú y kém, trâu thải phân trực tiếp ra ngoài môi trường làm phát tán mầm
bệnh… Đây là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trâu bị nhiễm sán lá gan với tỉ lệ
nhiễm cao và cường độ nhiễm nặng. Trâu ở tỉnh Tuyên Quang cũng nhiễm sán lá gan ở
cường độ trung bình và rất nặng cao là do đàn trâu được chăn thả ở những nơi ẩm thấp,
ngoài ra nhiều hộ chăn nuôi còn cho trâu ăn thêm tại chuồng bằng cỏ cắt ở các bờ ruộng
lúa, trên các cánh đồng trũng. Mặt khác, trâu, bò không được tẩy sán lá gan định kỳ
nên tỷ lệ nhiễm cao. Những nguyên nhân trên làm cho đàn trâu ở hai tỉnh Thái Nguyên
và Tuyên Quang bị nhiễm sán lá F. gigantica với tỉ lệ nhiễm cao và cường độ
nhiễm nặng.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của Trịnh Văn Thịnh
và Đỗ Dương Thái (1978) [50]; Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) [17]; Nguyễn Thị
Kim Lan và cs. (1999) [24]; Phan Địch Lân và cs. (2002) [32]; Nguyễn Thị Kim Lan
và cs. (2008) [27]. Các tác giả đều thống nhất rằng: điều kiện địa hình có mối
liên quan chặt chẽ với tình hình nhiễm sán lá gan, nơi nào có nhiều sông, suối,
có điều kiện thuận lợi cho ốc - ký chủ trung gian phát triển thì nơi đó trâu, bò
nhiễm sán lá gan với tỷ lệ cao và cường độ nhiễm nặng.
73
Bảng 3.7. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá gan ở bò tại các địa phƣơng
Địa phƣơng
(tỉnh, huyện)
Số bò
kiểm
tra
(con)
Số bò
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(trứng /g phân)
200 > 200 - 500 > 500
n % n % n %
* Thái Nguyên 630 243 38,57b
144 59,26 75 30,86 24 9,88
Đồng Hỷ 210 110 52,38b
47 42,73 44 40,00 19 17,27
Võ Nhai 210 63 30,00a
45 71,43 15 23,81 3 4,76
Đại Từ 210 70 33,33a
52 74,29 16 22,86 2 2,85
χ2= 25,846 ;P = 0,000
* Bắc Kạn 630 188 29,84a
123 65,43 51 27,13 14 7,44
Chợ Mới 210 80 38,10b
48 60,00 27 33,75 5 6,25
Bạch Thông 210 69 32,86b
52 75,36 12 17,39 5 7,25
Ngân Sơn 210 39 18,57a
23 58,97 12 30,77 4 10,26
χ2= 20,485; P= 0,000
* Tuyên Quang 630 225 35,71b
136 60,45 77 34,22 12 5,33
Yên Sơn 210 67 31,90 39 58,21 25 37,31 3 4,48
Hàm Yên 210 75 35,71 46 61,33 23 30,67 6 8,00
TP.Tuyên Quang 210 83 39,52 51 61,45 29 34,94 3 3,61
χ2= 2,655; P = 0,265
Tính chung 1.890 656 34,71 403 61,43 203 30,95 50 7,62
χ2= 11,015; P = 0,004
* Ghi chú: Theo hàng dọc, những số mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa
thống kê.
38,57
29,84
35,71
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Tỷ lệ (%)
Thái Nguyên Bắc Kạn Tuyên QuangĐịa phương
Hình 3.3. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò tại 3 tỉnh
74
Bảng 3.7 và hình 3.3 cho thấy, bò ở 3 tỉnh nhiễm sán lá F. gigantica là 34,71%
(thấp hơn rõ rệt so với trâu), tỷ lệ nhiễm cao nhất thấy ở bò của tỉnh Thái Nguyên
(38,57%), thấp nhất là ở bò của tỉnh Bắc Kạn (29,84%). Tuy nhiên, sự khác nhau về tỷ lệ
nhiễm sán lá gan của bò ở Thái Nguyên và Tuyên Quang không rõ rệt (P > 0,05). Về tỷ
lệ nhiễm ở mỗi tỉnh, tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn có tỷ lệ nhiễm giữa các huyện khác
nhau (P < 0,001), nhưng tại tỉnh Tuyên Quang thì sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm giữa các
huyện không rõ rệt (P > 0,05).
Về cường độ nhiễm, tính chung cường độ nhiễm nhẹ ở bò là 61,43%, cường độ
nhiễm trung bình là 30,95%, chỉ có 7,62% số bò nhiễm sán lá gan với cường độ nhiễm
nặng. Cường độ nhiễm nhẹ và trung bình ở bò nhiều hơn so với trâu, nhưng cường độ
nhiễm nặng thì ít hơn.
Hình 3.4. Biểu đồ cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở bò tại 3 tỉnh
75
Từ kết quả bảng 3.6 và 3.7 cho thấy: trâu có tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F.
gigantica cao hơn so với bò. Sở dĩ trâu nhiễm sán lá gan nhiều là do đặc tính ưa nước của
chúng. Trâu là loài vật thích ăn và đằm tắm ở những nơi có nước, trong khi bò là loài vật
ít ưa nước hơn. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Võ Thị Hải
Lê (2010) [35], Jahed Khaniki G. R. và cs. (2013) [108].
Như vậy, kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò tại tỉnh Thái Nguyên,
Bắc Kạn và Tuyên Quang thấp hơn so với tỷ lệ nhiễm sán lá gan của bò ở tỉnh Đồng
Tháp (53,31%) (Nguyễn Hữu Hưng và cs., 2009 [14]); và thấp hơn so với tỷ lệ nhiễm
trên bò ở tỉnh Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa (45,30%) (Sam Thi Nguyen và cs., 2012)
[147]; nhưng cao hơn so với tỷ lệ nhiễm của bò tại Kenya (26%) (Mungube E. O. và
cs., 2006) [133]; ở bò tại Pakistan (25,5%) (Khan M. K. và cs., 2009) [116]; ở bò tại
Ethiopia (4,9%) (Abunna F. và cs., 2010) [58] và ở bò tại Campuchia (5 - 20%)
(Dorny P. và cs., 2011) [89].
3.2.2.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tuổi trâu, bò
Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [50], Phạm Văn Khuê và
Phan Lục (1996) [17], Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [29]… tuổi của gia súc là một
trong những yếu tố ảnh hưởng đến tính cảm thụ đối với bệnh ký sinh trùng. Vì vậy,
tỷ lệ nhiễm theo tuổi là một chỉ tiêu xác định gia súc lứa tuổi nào nhiễm sán lá F.
gigantica nhiều nhất, để từ đó có kế hoạch phòng trị bệnh thích hợp.
Để đánh giá tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tuổi trâu, bò,
chúng tôi đã xét nghiệm mẫu phân trâu, bò các lứa tuổi. Kết quả được trình bày ở
bảng 3.8 và 3.9 và hình 3.5, 3.6.
Bảng 3.8. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tuổi trâu
Tuổi
trâu
(năm)
Số
trâu
kiểm
tra
(con)
Số trâu
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(trứng /g phân)
200 > 200 - 500 > 500
n % n % n %
2 1.333 385 28,88a
284 73,77 79 20,52 22 5,71
> 2 - 5 1.683 727 43,20b
499 68,64 184 25,31 44 6,05
> 5 - 8 1.498 810 54,07c
416 51,36 275 33,95 119 14,69
> 8 886 596 67,27d
277 46,48 204 34,23 115 19,29
Tính
chung
5.400 2.518 46,63 1.476 58,62 742 29,47 300 11,91
χ2= 361,672; P = 0,000
* Ghi chú: Theo hàng dọc, những số mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê.
76
28,88
43,20
54,07
67,27
0
10
20
30
40
50
60
70
80
2 > 2 – 5 > 5 – 8 > 8
Tỷ lệ %
Tuổi trâu (năm)
Hình 3.5. Đồ thị tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu theo lứa tuổi
Bảng 3.8 cho thấy, tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica tăng dần theo tuổi trâu. Trâu
dưới 2 năm tuổi nhiễm sán lá gan là 28,88%, trâu 2 - 5 năm tuổi nhiễm với tỷ lệ
43,20%, trâu 5 - 8 năm tuổi nhiễm với tỷ lệ 54,07% và tỷ lệ này là 67,27% ở trâu trên 8
năm tuổi. So sánh thống kê thấy, sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm giữa các lứa tuổi đều
khác nhau rất rõ rệt (P < 0,001). Đồ thị ở hình 3.5 có chiều đi lên từ phía dưới bên trái
tới bên phải phía trên, độ dốc của đồ thị rất rõ ràng. Điều này minh họa rõ hơn biến
động nhiễm sán lá gan theo tuổi mà chúng tôi đã trình bày ở bảng 3.8.
Cường độ nhiễm sán lá gan cũng nặng dần theo tuổi trâu: nhóm trâu dưới 2
năm tuổi có 5,71% nhiễm nặng, nhóm trâu 5 - 8 năm tuổi có 14,69% nhiễm nặng,
nhóm trâu trên 8 năm tuổi có 19,29% nhiễm sán lá gan ở cường độ nặng.
Kết quả về tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu tại ba tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang tương đồng với kết quả nghiên cứu của Nguyễn
Trọng Kim (1997) [20], Holland W. G. và cs. (2000) [103], Maqbool A. và cs.
(2002) [122], Đỗ Ngọc Ánh và cs. (2011) [1].
Xét về cường độ nhiễm, trâu nhiễm ở mức độ nặng hầu hết ở lứa tuổi từ 5 năm
tuổi trở lên. Như vậy, tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan tăng tỷ lệ thuận với lứa
tuổi của trâu. Nguyên nhân dẫn đến quy luật nhiễm này là do tuổi trâu càng cao thì
trâu càng có nhiều thời gian tiếp xúc với môi trường sống có mầm bệnh, trâu cứ
77
nhiễm dần dần dẫn đến bội nhiễm. Ngoài ra, do thời gian sống của sán lá F. gigantica
trong cơ thể trâu dài. Điều này cũng là lý do giải thích tình trạng nhiễm nhiều và tỷ lệ
nhiễm nặng khá cao ở trâu của các địa phương nghiên cứu. Kết quả này của chúng tôi phù
hợp với nhận xét của Phan Địch Lân (1985) [31], Lê Hữu Khương và cs. (2001) [18].
Bảng 3.9. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tuổi bò
Tuổi bò
(năm)
Số bò
kiểm
tra
(con)
Số bò
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(trứng /g phân)
200 > 200 - 500 > 500
n % n % n %
2 395 81 20,51a
53 65,43 22 27,16 6 7,41
> 2 - 5 635 197 31,02b
146 74,11 45 22,84 6 3,05
> 5 - 8 592 234 39,53c
135 57,69 82 35,04 17 7,27
> 8 268 144 53,73d
69 47,92 54 37,50 21 14,58
Tính
chung
1.890 656 34,71 403 61,43 203 30,95 50 7,62
χ2= 87,822; P = 0,000
* Ghi chú: Theo hàng dọc, những số mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa
thống kê.
53,73
39,53
31,02
20,51
0
10
20
30
40
50
60
2 > 2 – 5 > 5 – 8 > 8
Tỷ lệ %
Tuổi bò
(năm)
Hình 3.6. Đồ thị tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở bò theo lứa tuổi
78
Bảng 3.9 và hình 3.6 cho thấy kết quả về tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica theo
tuổi bò cũng theo quy luật tương tự như ở trâu: tỷ lệ và cường độ nhiễm tăng dần
theo tuổi. Tỷ lệ nhiễm ở bò dưới 2 năm tuổi là 20,51%, ở bò 2 - 5 năm tuổi là
31,02% và ở bò trên 8 năm tuổi là 53,73%. Tỷ lệ nhiễm ở từng lứa tuổi của bò đều
thấp hơn so với trâu. Sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm giữa các lứa tuổi bò cũng rất rõ
rệt (P < 0,001). Bò trên 8 năm tuổi nhiễm sán lá F. gigantica ở cường độ nặng là
nhiều nhất (14,58%). Kết quả về tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo tuổi bò của chúng tôi
tương đồng với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Hưng và cs. (2011) [15], Sam
Thi Nguyen và cs. (2012) [147].
Từ kết quả bảng 3.8 và 3.9 chúng tôi thấy rằng, các địa phương cần chú ý
phòng trị bệnh sán lá gan cho trâu, bò ở mọi lứa tuổi; đặc biệt chú ý tới trâu, bò trên
5 năm tuổi, nên loại thải những trâu, bò trên 8 năm tuổi.
Những kết quả nghiên cứu về tình hình nhiễm sán lá F. gigantica theo tuổi
trâu, bò và theo dõi về tình hình thời tiết, khí hậu của các tỉnh miền Bắc nước ta
trong mấy năm gần đây cho phép chúng tôi nhận xét: mặc dù đặc điểm thời tiết, khí
hậu có nhiều thay đổi (nhiệt độ cao dần lên, độ ẩm cũng tăng lên so với nhiều năm
trước đây), song quy luật nhiễm theo tuổi của trâu, bò vẫn không thay đổi.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác so với kết quả nghiên cứu
của Khan M. K. và cs. (2009) [116] trên bò ở Pakistan. Theo tác giả, không có sự
khác nhau về tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo tuổi bò. Getachew M. và cs. (2010) [96]
cũng cho biết, không có sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo lứa tuổi lừa.
3.2.2.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò theo mùa vụ
Chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố mùa vụ đến tỷ lệ và cường độ
nhiễm sán lá F. gigantica trâu, bò tại ba tỉnh. Kết quả được trình bày ở bảng 3.10
và 3.11; hình 3.7 và 3.8.
79
Bảng 3.10. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu theo mùa vụ
Địa
phƣơng
(tỉnh)
Mùa
Số
trâu
kiểm
tra
(con)
Số
trâu
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(trứng /g phân)
200 > 200 - 500 > 500
n % n % n %
Thái
Nguyên
Xuân 450 173 38,44a
78 45,09 63 36,42 32 18,49
Hè 486 291 59,88c
165 56,70 80 27,49 46 15,81
Thu 414 218 52,66b
117 53,67 69 31,65 32 14,68
Đông 450 169 37,56a
87 51,48 50 29,59 32 18,93
χ2= 66,906; P= 0,000
Bắc Kạn
Xuân 378 115 30,42a
80 69,57 31 26,96 4 3,47
Hè 468 245 52,35c
146 59,59 66 26,94 33 13,47
Thu 450 202 44,89b
119 58,91 54 26,73 29 14,36
Đông 504 171 33,93a
116 67,84 40 23,39 15 8,77
χ2= 55,697; P = 0,000
Tuyên
Quang
Xuân 503 254 50,50b
136 53,54 93 36,61 25 9,85
Hè 453 271 59,82c
187 69,00 63 23,25 21 7,75
Thu 412 220 53,40bc
138 62,73 67 30,45 15 6,82
Đông 432 189 43,75a
107 56,61 66 34,92 16 8,47
χ2= 23,653; P = 0,000
Tính
chung
Xuân 1.331 542 40,72a
294 54,24 187 34,5 61 11,26
Hè 1.407 807 57,36c
498 61,71 209 25,9 100 12,39
Thu 1.276 640 50,16b
374 58,44 190 29,69 74 11,87
Đông 1.386 529 38,17a
310 58,60 156 29,49 65 11,91
χ2= 129,022; P = 0,000
* Ghi chú: Theo hàng dọc, những số mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê.
40,72
57,36
50,16
38,17
0
10
20
30
40
50
60
Tỷ lệ (%)
Xuân Hè Thu Đông Mùa
Hình 3.7. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu theo mùa vụ (tính chung cả ba tỉnh)
80
Kết quả bảng 3.10 và hình 3.7 cho thấy:
* Về tỷ lệ nhiễm:
Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu tính chung tại ba tỉnh có sự khác nhau theo mùa.
Tỷ lệ nhiễm cao nhất vào mùa Hè (57,36%), sau đó đến mùa Thu (50,16%); mùa
Xuân (40,72%) và thấp nhất là vào mùa Đông (38,17%). Tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm sán
lá gan của trâu ở mùa Đông và mùa Xuân khác nhau không rõ rệt (P > 0,05).
Biến động về tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu theo mùa vụ như trên được
lặp lại ở cả ba tỉnh mà chúng tôi nghiên cứu.
* Về cường độ nhiễm:
Trâu chủ yếu nhiễm ở cường độ nhẹ và trung bình ở cả bốn mùa trong năm. Ở
cường độ nặng, tỷ lệ trâu, bò nhiễm vào mùa Hè và mùa Đông cao hơn.
Bảng 3.11. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá gan ở bò theo mùa vụ
Địa
phƣơng
(tỉnh)
Mùa
Số bò
kiểm
tra
(con)
Số bò
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(trứng /g phân) 200 > 200 - 500 > 500
n % n % n %
Thái
Nguyên
Xuân 160 45 28,13a
23 51,11 17 37,78 5 11,11
Hè 163 79 48,47b
55 69,62 18 22,78 6 7,60
Thu 166 77 46,39b
42 54,55 26 33,77 9 11,68
Đông 141 42 29,79a
24 57,14 14 33,33 4 9,53
χ2= 22,974; P = 0,000
Bắc Kạn
Xuân 143 34 23,78a
26 76,47 7 20,59 1 2,94
Hè 175 67 38,29b
41 61,19 21 31,34 5 7,47
Thu 166 49 29,52ab
32 65,31 12 24,49 5 10,2
Đông 146 38 26,03a
24 63,16 11 28,95 3 7,89
χ2= 9,496; P = 0,023
Tuyên
Quang
Xuân 139 41 29,50a
24 58,54 16 39,02 1 2,44
Hè 158 66 41,77b
43 65,15 19 28,79 4 6,06
Thu 162 66 40,74b
39 59,09 22 33,33 5 7,58
Đông 171 52 30,41a
30 57,69 20 38,46 2 3,85
χ2= 8,745; P = 0,033
Tính
chung
Xuân 442 120 27,15a
73 60,83 40 33,33 7 5,84
Hè 496 212 42,74b
139 65,57 58 27,36 15 7,07
Thu 494 192 38,87b
113 58,85 60 31,25 19 9,90
Đông 458 132 28,82a
78 59,09 45 34,09 9 6,82
χ2= 37,291; P = 0,000
* Ghi chú: Theo hàng dọc, những số mang chữ cái khác nhau thì khác nhau có ý nghĩa thống kê.
81
27,15
42,74
38,87
28,82
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
Tỷ lệ (%)
Xuân Hè Thu Đông Mùa
Hình 3.8. Biểu đồ tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở bò theo mùa vụ
(tính chung cả ba tỉnh)
Bảng 3.11 và hình 3.8 về tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở bò theo
mùa vụ cũng cho kết quả tương tự như ở trâu. Bò nhiễm sán lá gan với tỷ lệ cao nhất
là vào mùa Hè (42,74%), sau đó đến mùa Thu (38,87%). Tỷ lệ nhiễm ở mùa Đông
(28,82%) và mùa Xuân (27,15%) khác nhau không rõ rệt (P > 0,05). Cường độ nhiễm
sán trong các mùa cũng khác nhau.
Theo chúng tôi, vào mùa Xuân, ốc vật chủ trung gian bắt đầu sinh sản và sinh
trưởng mạnh, là điều kiện thuận lợi cho ấu trùng sán lá F. gigantica xâm nhập và
phát triển thành ấu trùng có sức gây bệnh. Khi trâu, bò nuốt phải ấu trùng có sức
gây bệnh sẽ bị nhiễm sán, sau 3 tháng sán trưởng thành lại đẻ trứng theo phân trâu,
bò ra ngoài. Vì vậy, xét nghiệm phân trâu, bò trong mùa Hè thấy tỷ lệ nhiễm cao
nhất. Về mùa Đông, nước ở các sông, ngòi, rạch thường xuống thấp, nước ở các
cánh đồng lúa thường cạn khô nên các nông hộ chuyển sang trồng màu, đồng thời
nền nhiệt độ mùa Đông thấp nên hạn chế sự phát triển của ốc. Những nguyên nhân
trên làm cho tỷ lệ nhiễm sán lá gan vào mùa Đông thấp. Kết quả này của chúng tôi
phù hợp với nhận xét của Trịnh Văn Thịnh, Đỗ Dương Thái (1978) [50], Phan Địch
Lân (1985) [31], Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [17], Nguyễn Thị Kim Lan
(2008) [27].
82
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả của Menkir M.
Sissay và cs. (2007) [127], Sam Thi Nguyen và cs. (2012) [147]. Theo Menkir
M. Sissay và cs. (2007) [127], tỷ lệ dê, cừu bị nhiễm 2 loại sán lá gan F.
gigantica và F. hepatica vào mùa mưa cao hơn rõ rệt so với mùa khô. Kết quả
nghiên cứu của Sam Thi Nguyen và cs. (2012) [147] về tỷ lệ nhiễm sán lá gan
của trâu, bò tại 3 tỉnh miền trung Việt Nam là Bình Định, Khánh Hòa và Phú
Yên cũng cho kết quả tương tự: tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò vào mùa mưa
cao hơn so với mùa khô (50,8% so với 38,1%).
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Ali Khanjari và cs. (2014) [60] trên
2.391 con dê và cừu tại Iran cho thấy, tỷ lệ nhiễm sán lá gan cao nhất vào mùa
Xuân (8,3%), sau đó đến mùa Thu (8,1%), mùa Đông (5,9%) và thấp nhất vào
mùa Hè (4%). Bulent Elitok và cs. (2006) [74] cũng cho biết, bò ở Thổ Nhĩ Kỳ
nhiễm sán lá F. hepatica nhiều nhất vào mùa Xuân. Như vậy, kết quả nghiên cứu
của chúng tôi khác với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên. Theo chúng tôi,
có thể do điều kiện thời tiết, khí hậu của Việt Nam và của Iran, Thổ Nhĩ Kỳ khác
nhau nên dẫn tới sự khác nhau này. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cũng khác với kết quả nghiên cứu của Conceição M. A. P. và cs. (2004) [81],
Phiri A. M. và cs. (2005) [139] khi các tác giả cho rằng mùa vụ không ảnh
hưởng tới tỷ lệ nhiễm sán lá gan.
3.2.2.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò theo tính biệt
Theo nhận xét của một số tác giả (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996 [17],
Nguyễn Thị Kim Lan, 2012 [29]), sức miễn dịch giữa gia súc đực và cái là tương
tự nhau, trừ một số trường hợp cá biệt. Trong thời kỳ sinh dục, bò cái có chửa và
bò cái đang cho con bú có sức chống đỡ với bệnh tương đối yếu hơn những con
khác. Vậy, trong bệnh sán lá gan, tính biệt của trâu, bò có ảnh hưởng đến tỷ lệ
nhiễm không? Để làm sáng tỏ vấn đề này, chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng
của tính biệt đến tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò. Kết quả
được thể hiện ở bảng 3.12 và 3.13.
83
Bảng 3.12. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tính biệt của trâu
Địa
phƣơng
(tỉnh)
Tính
biệt
trâu
Số
trâu
kiểm
tra
(con)
Số
trâu
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(trứng /g phân)
200 > 200 - 500 > 500
n % n % n %
Thái
Nguyên
Đực 720 330 45,83 160 48,48 118 35,76 52 15,76
Cái 1.080 521 48,24 287 55,09 144 27,64 90 17,27
Bắc Kạn Đực 792 320 40,40 204 63,75 87 27,19 29 9,06
Cái 1.008 413 40,97 257 62,23 104 25,18 52 12,59
Tuyên
Quang
Đực 486 240 49,38 143 59,58 76 31,67 21 8,75
Cái 1314 694 52,82 425 61,24 213 30,69 56 8,07
Tính
chung
Đực 1.998 890 44,54 507 56,97 281 31,57 101 11,46
Cái 3.402 1.628 47,85 969 59,52 461 28,32 198 12,16
χ2= 5,540; P = 0,019
Kết quả ở bảng 3.12 cho thấy: tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica tính chung ở trâu
cái cao hơn so với trâu đực (47,85% so với 44,54%), sự khác nhau này có ý nghĩa
thống kê (P < 0,05). Đối với từng tỉnh, chúng tôi cũng thấy sự khác nhau này lặp lại
ở tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang (hai trong ba tỉnh nghiên cứu). Kết quả này
của chúng tôi cũng tương đồng với kết quả của Phiri A. M. và cs. (2005) [139].
Theo tác giả thì tỷ lệ nhiễm ở trâu cái là 65,2%, cao hơn so với trâu đực (36,3%).
Sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica giữa trâu đực và trâu cái có thể
giải thích như sau: ngoài việc cày kéo và lao tác như trâu đực thì trâu cái còn phải
đảm nhận thêm chức năng mang thai, sinh đẻ và nuôi con. Trong các khoảng thời
gian này trâu cái phải huy động năng lượng và chất dinh dưỡng của cơ thể cho thai
và tiết sữa nuôi con. Do đó, nếu trâu cái không được chăm sóc cẩn thận, thức ăn
không đầy đủ, điều kiện thời tiết khí hậu không thuận lợi... sẽ làm cho trâu cái suy
nhược cơ thể, gầy yếu, giảm sức đề kháng, tạo cơ hội cho mầm bệnh xâm nhập vào
cơ thể, phát triển và gây bệnh. Vì vậy, người chăn nuôi cần chú ý tăng cường công
tác quản lý, sử dụng, chăm sóc nuôi dưỡng, cung cấp đầy đủ thức ăn cho trâu cái
đang mang thai hoặc nuôi con, đặc biệt phải chú ý tẩy giun sán định kỳ cho trâu cái
để hạn chế tỷ lệ nhiễm giun, sán nói chung và tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn nói riêng,
từ đó giảm thiệt hại do bệnh gây ra.
Về cường độ nhiễm: Trâu đực và trâu cái đều có tỷ lệ nhiễm nhẹ và trung bình
là chủ yếu. Song trâu cái có tỷ lệ nhiễm ở cường độ nặng cao hơn so với trâu đực.
84
Bảng 3.13. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá F. gigantica theo tính biệt của bò
Địa
phƣơng
(tỉnh)
Tính
biệt
bò
Số bò
kiểm
tra
(con)
Số bò
nhiễm
(con)
Tỷ lệ
nhiễm
(%)
Cƣờng độ nhiễm
(trứng /g phân)
200 > 200 - 500 > 500
n % n % n %
Thái
Nguyên
Đực 239 85 35,56 51 60,00 26 30,59 8 9,41
Cái 391 158 40,41 93 58,86 49 31,01 16 10,13
Bắc Kạn Đực 284 86 30,28 53 61,63 28 32,56 5 5,81
Cái 346 102 29,48 70 68,63 23 22,55 9 8,82
Tuyên
Quang
Đực 164 58 35,37 34 58,62 21 36,21 4 5,17
Cái 466 167 35,84 102 61,08 56 33,53 8 5,39
Tính
chung
Đực 687 229 33,33 138 60,26 75 32,75 17 6,99
Cái 1.203 427 35,49 265 62,06 128 29,98 33 7,96
χ2= 0,901; P = 0,342
Bảng 3.13 cho thấy, tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở bò đực là 33,33% và bò
cái là 35,49%. So sánh thống kê thấy tỷ lệ nhiễm ở bò đực và bò cái không có sự
khác nhau rõ rệt (P > 0,05). Về cường độ nhiễm, giữa bò đực và bò cái cũng không có
sự khác nhau có ý nghĩa thống kê. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu trên
trâu, bò của Nguyễn Trọng Kim và Phạm Ngọc Vĩnh (1997) [21], kết quả nghiên
cứu trên dê của Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (1999) [24], Khan M. K. và cs.
(2009) [116].
Menkir M. Sissay và cs. (2007) [127] cũng cho biết, không có sự khác nhau
về tỷ lệ nhiễm sán lá F. hepatica giữa cừu đực và cừu cái, giữa dê đực và dê cái.
Từ kết quả ở bảng 3.12 và 3.13 chúng tôi có nhận xét rằng: biến động nhiễm
sán lá F. gigantica theo tính biệt của trâu, bò không theo quy luật rõ rệt. Tuy nhiên,
nếu trâu, bò cái giảm sức đề kháng do mang thai hoặc nuôi con thì có thể nhiễm sán lá
F. gigantica nhiều hơn, đồng thời nhiễm nặng hơn so với trâu, bò đực. Vì vậy, người
chăn nuôi cần tăng cường chăm sóc nuôi dưỡng, quản lý, khai thác, sử dụng trâu,
bò cái hợp lý, đặc biệt là vào thời kỳ trâu, bò cái động dục, mang thai hoặc nuôi
con. Các hộ chăn nuôi cần định kỳ tẩy sán lá gan cho trâu, bò cái vào thời điểm
trước phối giống để trâu, bò cái đủ sức khỏe sinh sản và nuôi con.
85
3.2.3. Nghiên cứu về trứng và ấu trùng sán lá F. gigantica ở ngoại cảnh và trong
ký chủ trung gian
3.2.3.1. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở chuồng trại, bãi chăn thả
Để kiểm tra sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở nền chuồng và xung quanh
chuồng trâu, bò, chúng tôi đã thu thập và xét nghiệm mẫu nền chuồng và mẫu đất bề
mặt xung quanh chuồng trâu, bò ở các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang.
Kết quả được trình bày ở bảng 3.14 và 3.15.
Bảng 3.14. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở chuồng và khu vực
xung quanh chuồng nuôi trâu
Địa phƣơng
(tỉnh, huyện)
Trên nền chuồng Xung quanh chuồng
Số mẫu
kiểm
tra
Số
mẫu
(+)
Tỷ lệ
(%)
Số mẫu
kiểm
tra
Số mẫu
(+)
Tỷ lệ
(%)
* Thái Nguyên 450 192 42,67 450 132 29,33
Đồng Hỷ 150 74 49,33 150 47 31,33
Võ Nhai 150 50 33,33 150 36 24,00
Đại Từ 150 68 45,33 150 49 32,67
* Bắc Kạn 450 174 38,67 450 121 26,89
Chợ Mới 150 76 50,67 150 44 29,33
Bạch Thông 150 45 30,00 150 37 24,67
Ngân Sơn 150 53 35,33 150 40 26,67
* Tuyên Quang 450 224 49,78 450 141 31,33
Yên Sơn 150 82 54,67 150 52 34,67
Hàm Yên 150 65 43,33 150 43 28,67
TP. Tuyên Quang 150 77 51,33 150 46 30,67
Tính chung 1.350 590 43,70 1.350 394 29,19
χ2 = 11,585; P= 0,003 χ
2= 2,158; P = 0,340
Bảng 3.14 cho thấy:
Tại tỉnh Thái Nguyên có 192/450 mẫu nền chuồng (42,67%) và 132/450 mẫu đất
bề mặt xung quanh chuồng trâu, bò (29,33%) bị ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica.
Tại tỉnh Bắc Kạn có 38,67% số mẫu nền chuồng và 26,89% số mẫu đất bề mặt
xung quanh chuồng bị ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica.
86
Tại tỉnh Tuyên Quang, tỷ lệ mẫu nền chuồng và mẫu đất bề mặt xung quanh
chuồng trâu, bò phát hiện có trứng sán lá F. gigantica là cao nhất trong ba tỉnh
nghiên cứu (49,78% và 31,33%).
Tính chung cả ba tỉnh có 43,70% số mẫu nền chuồng và 29,19% số mẫu đất bề
mặt xung quanh chuồng (trong vòng bán kính 5 mét) dương tính với trứng sán lá F.
gigantica. Từ kết quả ở bảng này, chúng tôi có hai nhận xét sau:
Một là, cả nền chuồng và khu vực xung quanh chuồng nuôi trâu, bò đều bị ô
nhiễm trứng sán lá gan. Tỷ lệ mẫu dương tính ở các địa phương thuộc tỉnh Tuyên
Quang cao hơn hai tỉnh còn lại.
Hai là, vấn đề vệ sinh chuồng trại và khu vực xung quanh chuồng trại nuôi
trâu, bò ở cả ba tỉnh còn chưa tốt, tình trạng phân trâu, bò tồn lưu trong chuồng và
rơi vãi ra xung quanh chuồng còn rất phổ biến. Đây là nguyên nhân làm trứng sán lá
gan phát tán, tiếp tục phát triển trong vật chủ trung gian và ở ngoại cảnh, để rồi
nhiễm vào cơ thể trâu, bò và gây bệnh.
Bảng 3.15. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở chuồng và khu vực
xung quanh chuồng nuôi bò
Địa phƣơng
(tỉnh, huyện)
Trên nền chuồng Xung quanh chuồng
Số mẫu
kiểm
tra
Số mẫu
(+)
Tỷ lệ
(%)
Số mẫu
kiểm
tra
Số mẫu
(+)
Tỷ lệ
(%)
* Thái Nguyên 270 98 36,30 270 61 22,59
Đồng Hỷ 90 45 50,00 90 28 31,11
Võ Nhai 90 25 27,78 90 16 17,78
Đại Từ 90 28 31,11 90 17 18,89
* Bắc Kạn 270 75 27,78 270 46 17,04
Chợ Mới 90 33 36,67 90 21 23,33
Bạch Thông 90 26 28,89 90 15 16,67
Ngân Sơn 90 16 17,78 90 10 11,11
* Tuyên Quang 270 93 34,44 270 57 21,11
Yên Sơn 90 27 30,00 90 19 21,11
Hàm Yên 90 32 35,56 90 20 22,22
TP. Tuyên Quang 90 34 37,78 90 18 20,00
Tính chung 810 266 32,84 810 164 20,25
χ2= 4,915; P = 0.086 χ
2= 2.,768; P = 0,251
87
Bảng 3.15 cho thấy, tỷ lệ ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở nền chuồng và
xung quanh chuồng nuôi bò là 32,84% và 20,25%. So với kết quả đã trình bày ở
bảng 3.14 thì tỷ lệ ô nhiễm trứng sán ở các khu vực nuôi bò thấp hơn. Sự khác nhau
này cũng khá phù hợp với kết quả về tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu và bò (trâu nhiễm
sán lá gan với tỷ lệ cao hơn và cường độ nhiễm nặng hơn rõ rệt so với bò).
Qua kết quả trên chúng tôi thấy: các mẫu cặn nền chuồng và mẫu đất bề mặt
xung quanh nền chuồng nuôi trâu, bò nhiễm trứng sán lá gan với tỷ lệ khác nhau. Sở
dĩ có sự khác nhau như vậy là do công tác vệ sinh thú y ở các địa phương miền núi
còn chưa tốt. Những hạn chế trong chăn nuôi như: chuồng nuôi tạm bợ, phân trong
chuồng không được thu gom hàng ngày, nền chuồng bằng đất lại không được quét
dọn và không thể cọ rửa, trâu, bò thải phân ở cả trong và xung quanh chuồng… là
các nguyên nhân dẫn đến sự ô nhiễm trứng sán lá gan ở nền chuồng và xung quanh
chuồng nuôi trâu, bò.
Ở tỉnh Tuyên Quang, nhiều hộ nuôi trâu, bò có điều kiện kinh tế, đầu tư xây
dựng chuồng nuôi trâu khá chắc chắn, song có rất ít hộ chú ý đến công tác vệ sinh
thú y trong quá trình nuôi, vì vậy mà nền chuồng và xung quanh chuồng đều có
phân trâu, bò tồn lưu và vương vãi.
Ở tỉnh Thái Nguyên, chuồng nuôi trâu, bò của phần lớn các nông hộ còn tạm
bợ, hoặc nhốt trâu, bò dưới gầm nhà sàn. Nhiều hộ chăn nuôi trâu, bò không có hố
chứa phân, hoặc có nhưng không thu gom phân vào hố ủ. Tình trạng mất vệ sinh
diễn ra ở hầu hết ở các hộ nuôi trâu dẫn đến tỷ lệ mẫu nền chuồng và khu vực xung
quanh chuồng nhiễm trứng sán lá gan khá cao (36,30% và 22,59%).
Ở các địa phương của tỉnh Bắc Kạn tỷ lệ mẫu nền chuồng và mẫu đất bề mặt
xung quanh chuồng nuôi trâu, bò nhiễm trứng sán lá gan thấp hơn so với hai tỉnh
Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Tuy nhiên, tỷ lệ mẫu nền chuồng và mẫu đất bề mặt xung quanh chuồng trâu,
bò cao hay thấp không phải là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ nhiễm sán lá gan
ở trâu, bò (vì trứng sán lá gan sau khi theo phân trâu, bò ra ngoài thì không thể tiếp
tục phát triển trên nền chuồng và trên đất bề mặt xung quanh chuồng thành ấu trùng
có sức gây bệnh). Song, tình trạng ô nhiễm này phản ánh thực trạng công tác vệ
sinh thú y trong chăn nuôi trâu, bò ở các địa phương còn chưa tốt. Từ đó mà trứng
sán lá gan có thể tiếp tục phát tán theo gió và các nhân tố trung gian khác đến những
chỗ có môi trường nước, phát triển thành ấu trùng có sức gây bệnh.
88
Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở các nông hộ chăn nuôi trâu, bò cho phép
chúng tôi khuyến cáo rằng: các hộ chăn nuôi trâu, bò cần xây dựng chuồng trại chắc
chắn và có hố chứa phân, hố phải đặt xa nguồn nước; thường xuyên thu gom phân trâu,
bò trên nền và xung quanh chuồng đưa vào hố, ủ nhiệt sinh học để diệt trứng sán gan,
ngăn chặn sự phát tán của trứng sán ra ngoại cảnh. Đó là biện pháp hữu hiệu để phòng
chống bệnh sán lá gan cho đàn trâu, bò của các địa phương.
3.2.3.2. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica trên bãi chăn thả trâu, bò
Để xác định sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica trên bãi chăn thả trâu, bò,
chúng tôi đã thu thập và xét nghiệm mẫu đất bề mặt và mẫu nước có trên bãi chăn
thả trâu, bò tại các địa phương của ba tỉnh nghiên cứu. Kết quả được trình bày ở
bảng 3.16.
Bảng 3.16. Sự ô nhiễm trứng sán lá F. gigantica ở khu vực bãi chăn thả trâu, bò
Địa phƣơng
(tỉnh, huyện)
Đất bề mặt bãi chăn Vũng nƣớc đọng
Số mẫu
kiểm tra
Số mẫu
(+)
Tỷ lệ
(%)
Số mẫu
kiểm tra
Số mẫu
(+)
Tỷ lệ
(%)
* Thái Nguyên 450 33 7,33 450 61 13,56
Đồng Hỷ 150 11 7,33 150 20 13,33
Võ Nhai 150 10 6,67 150 16 10,67
Đại Từ 150 12 8,00 150 25 16,67
* Bắc Kạn 450 38 8,44 450 63 14,00
Chợ Mới 150 14 9,06 150 23 15,33
Bạch Thông 150 13 8,84 150 25 16,67
Ngân Sơn 150 11 7,56 150 15 10,00
* Tuyên Quang 450 42 9,33 450 78 17,33
Yên Sơn 150 16 10,67 150 32 21,33
Hàm Yên 150 14 9,33 150 24 16,00
TP. Tuyên Quang 150 12 8,00 150 22 14,67
Tính chung 1.350 113 8,37 1.350 202 14,96
χ2= 1,178; P = 0,555 χ
2= 3,016; P = 0,221
Bảng 3.16 cho thấy:
Tại các địa phương thuộc tỉnh Thái Nguyên có 7,33% số mẫu đất bề mặt bãi chăn
và 13,56% số mẫu nước ở các vũng nước đọng xét nghiệm có trứng sán lá F. gigantica.
Ở tỉnh Bắc Kạn có 8,44% số mẫu đất bề mặt bãi chăn và 14,00% số mẫu nước
ở các vũng nước đọng tại các địa phương có trứng sán lá F. gigantica.
89
Tại tỉnh Tuyên Quang, tỷ lệ mẫu đất bề mặt bãi chăn và mẫu vũng nước đọng
bị ô nhiễm trứng sán lá gan là 9,33% và 17,33%.
Tính chung, có 8,37% số mẫu đất bề mặt bãi chăn và 14,96% số mẫu nước ở
các chỗ trũng trên bãi chăn thả trâu, bò xét nghiệm thấy trứng sán lá F. gigantica.
Điều này chứng tỏ, khu vực bãi chăn thả trâu, bò ở các địa phương thuộc ba tỉnh
nghiên cứu đều bị ô nhiễm mầm bệnh sán lá gan. Đặc biệt, tỷ lệ mẫu nước nhiễm
trứng sán lá gan là 14,96% (biến động từ 13,56% - 17,33%). Chúng tôi thấy, trong
rất nhiều chỗ nước đọng ở khu vực bãi chăn thả trâu, bò có ốc Lymnaea spp. sống.
Vì vậy, trứng sán lá gan trong các vũng (hố) nước này dễ dàng phát triển thành ấu
trùng có sức gây bệnh. Từ đó trâu, bò dễ cảm nhiễm sán lá gan do uống nước ở các
vũng này trong thời gian chăn thả. Theo Skjabin (1963), khi trời mưa, trứng các loài
giun, sán trên bãi chăn theo nước mưa trôi xuống những chỗ trũng, gia súc ăn cỏ dễ
nhiễm mầm bệnh do uống nước này. Vì vậy, vấn đề vệ sinh bãi chăn thả trâu, bò
(thu gom phân) để hạn chế sự cảm nhiễm sán lá gan trong khi chăn thả trâu, bò là
rất cần thiết.
3.2.3.3. Sự phân bố các loài ốc nước ngọt - ký chủ trung gian của sán lá F. gigantica
Để xác định loài ốc nước ngọt - ký chủ trung gian của sán lá F. gigantica và sự
phân bố của chúng, chúng tôi đã thu thập mẫu ốc nước ngọt tại các địa phương
thuộc ba tỉnh nghiên cứu. Kết quả được trình bày ở bảng 3.17, 3.18 và hình 3.9.
Bảng 3.17. Kết quả định loại các mẫu ốc nƣớc ngọt
Địa phƣơng
(tỉnh, huyện)
Số ốc định
loại (con)
Loài
Lymnaea
viridis
Loài
Lymnaea
swinhoei
Loài khác
n % n % n %
* Thái Nguyên 2.160 768 35,56 621 28,75 771 35,69
Đồng Hỷ 720 224 31,11 195 27,08 301 41,81
Võ Nhai 720 293 40,69 235 32,64 192 26,67
Đại Từ 720 251 34,86 191 26,53 278 38,61
* Bắc Kạn 2.160 663 30,70 437 20,23 1.060 49,07
Chợ Mới 720 221 30,69 174 24,17 325 45,14
Bạch Thông 720 230 31,94 147 20,42 343 47,64
Ngân Sơn 720 212 29,45 116 16,11 392 54,44
*Tuyên Quang 2.160 520 24,07 978 45,28 662 30,65
Yên Sơn 720 234 32,50 286 39,72 200 27,78
Hàm Yên 720 120 16,67 365 50,69 235 32,64
TP. Tuyên Quang 720 166 23,05 327 45,42 227 31,53
Tính chung 6.480 1.951 30,11 2.036 31,42 2.493 38,47
90
Hình 3.9. Biểu đồ kết quả định loại ốc nước ngọt của ba tỉnh
Bảng 3.17 cho thấy:
Tại các địa phương của ba tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang,
chúng tôi thu thập 2.160 con ốc ở mỗi tỉnh để định loại. Ở tỉnh Thái Nguyên,
kết quả định loại cho thấy: có 35,56% số ốc là loài L. viridis; 28,75% số ốc là
loài L. swinhoei; 35,69% số ốc còn lại là loài khác (không phải ký chủ trung
gian của sán lá F. gigantica).
91
Ở tỉnh Bắc Kạn, có 30,70% số ốc là loài L. viridis; 20,23% là loài L. swinhoei;
49,07% số ốc còn lại là những loài khác.
Ở tỉnh Tuyên Quang, khác với tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn, trong số 2.160
ốc định loại thì có tới 45,28% số ốc là loài L. swinhoei; chỉ có 24,07% là loài L.
viridis; còn lại 30,65% số ốc là các loài khác.
Tính chung cả ba tỉnh, trong 6.480 ốc thu thập, có 30,11% thuộc loài L.
viridis; 31,42% thuộc loài L. swinhoei; 38,47% là những loài ốc khác (không phải là
ký chủ trung gian của sán lá gan). Như vậy, có hơn 60% số ốc thu được thuộc hai
loài L. viridis và L. swinhoei. Theo Đặng Ngọc Thanh và cs. (1980) [46], Nguyễn
Trọng Kim và Phạm Ngọc Vĩnh (1997) [21] ký chủ trung gian của sán lá gan ở
miền Bắc Việt Nam là hai loài ốc L. viridis và L. swinhoei. Kết quả định loại ốc ở
Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang cho thấy, hai loài ốc này chiếm tỷ lệ khá
cao trong số ốc thu thập. Sự phân bố phổ biến với số lượng nhiều của hai loài ốc trên
là điều kiện thuận lợi cho sán lá F. gigantica hoàn thành vòng đời của chúng.
Sau khi định loại các mẫu ốc thu thập, chúng tôi cũng xác định được sự phân
bố của hai loài ốc ký chủ trung gian của sán lá F. gigantica tại 3 tỉnh Thái Nguyên,
Bắc Kạn và Tuyên Quang. Sự phân bố của hai loài ốc trên được trình bày ở bảng 3.18
Bảng 3.18. Sự phân bố các loài ốc ở ba tỉnh nghiên cứu
Loài ốc
Phân bố (tỉnh) Tỷ lệ
thƣờng gặp
(%) Thái Nguyên Bắc Kạn Tuyên
Quang
Lymnaea viridis + + + 100
Lymnaea swinhoei + + + 100
Loài khác + + + 100
* Ghi chú: (+): Có phát hiện được
Bảng 3.18 cho thấy: hai loài ốc L. viridis và L. swinhoei - ký chủ trung gian
của sán lá gan phân bố phổ biến ở tất cả các địa phương thuộc ba tỉnh nghiên cứu.
92
Qua khảo sát chúng tôi thấy, các địa phương của ba tỉnh nghiên cứu đều có
điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và sinh sản của ốc (có hệ thống kênh, mương
dẫn nước vào ruộng lúa, có suối, ao bèo, ao rau muống… là những môi trường sống
thích hợp cho ốc). Từ đó trâu, bò có nguy cơ nhiễm sán lá F. gigantica tại các địa
phương là rất cao. Điều này cũng giải thích tại sao tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở
trâu, bò tại các địa phương của tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang lại cao như đã
trình bày ở bảng 3.6 và 3.7. Những kết quả trên cho phép chúng tôi khuyến cáo: để hạn
chế bệnh sán lá gan cho trâu, bò, người chăn nuôi nên hạn chế chăn thả trâu, bò ở
các bãi chăn có nhiều chỗ trũng chứa nước và có biện pháp diệt ốc - ký chủ trung
gian của sán lá gan.
3.2.3.4. Tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm Adolescaria
Để xác định sự ô nhiễm ấu trùng sán lá F. gigantica có sức gây bệnh trên cỏ
thủy sinh, chúng tôi đã xét nghiệm các mẫu cỏ thuỷ sinh thu thập ở rìa bờ ao, kênh,
mương, rãnh nước trong khu vực nuôi và chăn thả trâu, bò. Kết quả được trình bày
ở bảng 3.19.
Bảng 3.19. Tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm Adolescaria
Địa phƣơng
(tỉnh, huyện)
Số mẫu
kiểm tra Số mẫu (+) Tỷ lệ
(%)
Số
Adolescaria/
mẫu
* Thái Nguyên 450 83 18,44 2 - 17
Đồng Hỷ 150 25 16,67 2 - 17
Võ Nhai 150 26 17,33 4 - 15
Đại Từ 150 32 21,33 5 - 11
* Bắc Kạn 450 65 14,44 2 - 16
Chợ Mới 150 22 14,67 4 – 8
Bạch Thông 150 26 17,33 2 - 13
Ngân Sơn 150 17 11,33 5 - 16
* Tuyên Quang 450 107 23,78 3 - 25
Yên Sơn 150 40 26,67 6 - 25
Hàm Yên 150 35 23,33 3 - 17
TP. Tuyên Quang 150 32 21,33 5 - 20
Tính chung 1.350 255 18,89 2 - 25
93
Kết quả bảng 3.19 cho thấy:
Trong số 450 mẫu cỏ thủy sinh thu được tại tỉnh Thái Nguyên có 83 mẫu
(chiếm tỷ lệ 18,44%) phát hiện thấy Adolescaria - ấu trùng có sức gây bệnh của sán
lá gan, với số lượng 2 - 17 Adolescaria /mẫu. Tại tỉnh Bắc Kạn, tỷ lệ nhiễm
Adolescaria của các mẫu cỏ là 14,44% với số Adolescaria /mẫu là 2 - 16. Tại tỉnh
Tuyên Quang, có tới 23,78% số mẫu cỏ có Adolescaria, với số lượng 3 - 25
Adolescaria /mẫu.
Như vậy trong ba tỉnh, Bắc Kạn là tỉnh có tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm
Adolescaria thấp nhất, tỉnh Tuyên Quang có tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm
Adolescaria cao nhất và số lượng Adolescaria /mẫu cũng nhiều nhất. Kết quả này
khá phù hợp với kết quả về tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica ở trâu, bò của ba tỉnh
(Tuyên Quang là tỉnh có tỷ lệ trâu, bò bị nhiễm sán lá gan nhiều nhất và thấp nhất là
ở tỉnh Bắc Kạn).
Tính chung, trong 1.350 mẫu cỏ thủy sinh thu thập ở ba tỉnh nghiên cứu có
255 mẫu phát hiện có Adolescaria, số ấu trùng /mẫu biến động từ 2 đến 25 ấu trùng.
Những số liệu này phản ánh sự tồn tại và lưu hành khá phổ biến của ấu trùng sán lá
gan có sức gây bệnh ở ngoại cảnh. Qua khảo sát, chúng tôi thấy, hầu hết các bãi
chăn thả thường tập trung đông trâu, bò và gần nguồn nước. Trâu, bò thải phân trên
bãi chăn, phân không được thu gom và ủ để diệt trứng sán, trứng sán phát tán trên
bãi chăn thả, gặp môi trường nước sẽ phát triển thành ấu trùng có sức gây bệnh.
3.2.3.5. Nghiên cứu về thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica ở ngoại cảnh
(khi chưa rơi vào môi trường nước)
Trâu, bò bị bệnh sán lá F. gigantica hàng ngày thải một lượng lớn trứng sán ra
ngoài môi trường. Trứng sán có thể được bảo tồn trong phân và trong lớp đất bề
mặt. Chúng tôi đã nghiên cứu về khả năng tồn tại của trứng sán lá F. gigantica
trong phân và trong đất để có cơ sở khoa học xây dựng biện pháp phòng chống
bệnh thích hợp và hiệu quả.
Kết quả nghiên cứu về thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong phân
trâu, bò được trình bày ở bảng 3.20 và 3.21.
94
Bảng 3.20. Thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong phân trâu
Mùa Lô thí
nghiệm Điều kiện mẫu phân
Số
mẫu
theo
dõi
Thời gian
trứng bắt
đầu chết
XX
m
(ngày)
Thời gian
trứng chết
hoàn toàn
XX
m
(ngày)
Xuân I Để khô tự nhiên 5 12,80 1,24 48,80 1,56
II Ẩm ướt 5 43,63 1,86 125,8 1,46
Hè I Để khô tự nhiên 5 8,60 0,68 41,40 ± 0,51
II Ẩm ướt 5 33,6 1,36 106 ± 0,25
Thu I Để khô tự nhiên 5 13,70 ± 0,56 63,50 ± 0,58
II Ẩm ướt 5 52,70 ± 1,30 118,70 ± 0,40
Đông I Để khô tự nhiên 5 19,90 ± 0,40 80,70 ± 0,90
II Ẩm ướt 5 75,20 ± 1,60 160,40 ± 0,42
Bảng 3.20 cho thấy:
Vào mùa Xuân, trứng sán lá F. gigantica có thể sống được trong 12 - 48 ngày
(trong phân để khô tự nhiên theo thời gian), 43 - 125 ngày (trong phân luôn được
duy trì độ ẩm như lúc mới thải ra ngoài).
Vào mùa Hè, thời gian sống của trứng sán là 8 - 41 ngày trong phân khô tự
nhiên và 33 - 106 ngày trong điều kiện phân ẩm ướt.
Trong mùa Thu, trứng sán lá F. gigantica có thể sống được 13 - 63 ngày (nếu
phân để khô tự nhiên), 52 - 118 ngày (trong điều kiện phân ẩm ướt).
Ở mùa Đông, trứng sán có thể sống được 19 - 80 ngày (trong phân để khô tự
nhiên), 75 - 160 ngày (trong phân được duy trì ẩm ướt).
Như vậy, trong cùng một mùa thì thời gian sống của trứng sán F. gigantica
trong phân để khô tự nhiên ngắn hơn trong phân luôn ẩm ướt. Trong 4 mùa, ở cùng
một điều kiện về độ ẩm của phân thì trứng sán F. gigantica sống được dài nhất vào
mùa Đông (80 - 160 ngày), sau đó đến mùa Xuân, mùa Thu và thời gian sống ngắn
nhất trong mùa Hè (41 - 106 ngày).
Kết quả trên cho phép chúng tôi có hai nhận xét:
Một là, ở cả 4 mùa, mặc dù độ ẩm và nhiệt độ không khí thay đổi, song trứng
sán lá F. gigantica vẫn tồn tại với thời gian khá dài khi chúng tồn lưu trong phân
95
trâu. Trường hợp này phân như một môi trường bảo vệ trứng tránh một số tác động
vật lý (ánh sáng, sự khô hạn, nhiệt độ). Trong khoảng thời gian này, cho trứng vào
môi trường nước, chúng tôi thấy trứng vẫn nở thành Miracidium.
Hai là, các nông hộ chăn nuôi cần thu gom phân trâu, bò ủ Compost hoặc ủ
nhiệt sinh học để diệt trứng sán lá gan.
Trong thực tế chăn nuôi, nguồn gieo rắc bệnh chủ yếu là súc vật nuôi nhiễm
sán lá F. gigantica. Đối với những trâu, bò có sán lá ký sinh, hàng năm thải phân có
lượng trứng khá lớn ra khu vực chuồng nuôi và các bãi chăn thả. Thời gian trứng
sán lưu cữu trong phân khá lâu (đặc biệt là trong phân ẩm ướt hay những bãi chăn
ẩm thấp, lầy lội), khi gặp điều kiện thuận lợi trứng sán phát triển thành ấu trùng có
sức gây bệnh. Trứng sán lá F. gigantica rất nhạy cảm với điều kiện khô hạn và ánh
nắng mặt trời chiếu trực tiếp. Do vậy, không chăn thả trâu, bò ở những bãi chăn lầy
lội, ẩm thấp để trứng không có điều kiện phát triển thành ấu trùng có sức gây bệnh.
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, thời gian tồn tại bình quân dài nhất của
trứng sán lá gan trong phân ẩm ướt là 160 ngày (5 tháng), ngắn hơn so với thời gian
ghi trong tài liệu của Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [17] (ở môi trường ẩm ướt,
trứng có khả năng sống đến 8 tháng).
Kết quả trên là một trong những cơ sở khoa học để xây dựng biện pháp phòng
chống tổng hợp bệnh sán lá F. gigantica cho trâu, bò ở các địa phương.
Bảng 3.21. Thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong phân bò
Mùa Lô thí
nghiệm Điều kiện mẫu phân
Số mẫu
theo
dõi
Thời gian
trứng bắt
đầu chết
XX
m
(ngày)
Thời gian
trứng chết
hoàn toàn
XX
m
(ngày)
Xuân I Để khô tự nhiên 5 13,20 0,97 52,40 1,44
II Ẩm ướt 5 41,40 2,79 132,60 1,81
Hè I Để khô tự nhiên 5 8,80 0,66 33,80 ± 0,74
II Ẩm ướt 5 30,40 ± 0,51 109,56 ± 0,35
Thu I Để khô tự nhiên 5 13,20 ± 0,52 60,60 ± 0,48
II Ẩm ướt 5 50,40 ± 0,64 121,40 ± 1,02
Đông I Để khô tự nhiên 5 20,60 ± 0,62 68,60 ± 1,10
II Ẩm ướt 5 74,70 ± 0,60 156,80 ± 0,42
96
Thí nghiệm theo dõi thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong phân bò
ở các mùa trong năm, trong điều kiện độ ẩm phân khác nhau cũng cho kết quả
tương tự như trong phân trâu.
Từ kết quả ở bảng 3.20 và 3.21, chúng tôi thấy rằng, môi trường phân trâu và
phân bò không ảnh hưởng đến sự tồn tại của trứng sán lá F. gigantica. Do trứng sán
có thể sống khá lâu (tới 5 tháng) trong phân trâu, bò nên các hộ chăn nuôi trâu, bò
cần tăng cường công tác vệ sinh thú y, vệ sinh chuồng trại, bãi chăn thả, thu gom
phân trâu, bò ủ để phòng bệnh sán lá gan cho trâu, bò.
3.2.3.6. Thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong đất
Chúng tôi đã theo dõi thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong đất
ở 3 ẩm độ khác nhau. Kết quả được trình bày ở bảng 3.22.
Bảng 3.22. Thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica trong đất
Mùa Lô thí
nghiệm Loại đất
Thời gian trứng
bắt đầu chết
XX
m
(ngày)
Thời gian trứng
chết hoàn toàn
XX
m
(ngày)
Xuân
I Đất khô 9,33 0,33 17,20 ± 0,40
II Đất ẩm 15,67 0,67 35,50 ± 0,35
III Đất ướt 23,68 0,88 61,80 ± 1,04
Hè
I Đất khô 7,33 ± 0,33 12,00 0,58
II Đất ẩm 11,33 0,88 16,00 ± 1,15
III Đất ướt 20,00 ±1,15 45,27 ± 0,42
Thu
I Đất khô 9,78 ± 0,65 12,40 ± 0,65
II Đất ẩm 17,02 ± 1,02 20,80 ± 0,45
III Đất ướt 23,80 ± 0,35 51,20 ± 0,42
Đông
I Đất khô 11,02 ± 0,35 12,33 0,33
II Đất ẩm 23,20 ± 0,45 27,00 0,58
III Đất ướt 26,40 ± 0,65 55,67 1,45
97
Bảng 3.22 cho thấy:
Khi ở trong đất khô, trứng sán lá F. gigantica có thể sống được 9 - 17 ngày
(mùa Xuân), 7 - 12 ngày (mùa Hè), 9 - 12 ngày (mùa Thu) và 11 - 12 ngày (mùa Đông).
Ở trong đất ẩm, trứng sán sống được 15 - 35 ngày trong mùa Xuân, 11 - 16
ngày trong mùa Hè, 17 - 20 ngày vào mùa Thu và 23 - 27 ngày trong mùa Đông.
Khi tồn lưu trong đất ướt, thời gian sống của trứng sán là 23 - 61 ngày vào
mùa Xuân, 20 - 45 ngày vào mùa Hè, 23 - 51 ngày trong mùa Thu và 26 - 55 ngày
vào mùa Đông.
Như vậy, thời gian sống của trứng sán lá F. gigantica khi tồn lưu ở trong đất
khô là ngắn nhất. Ngược lại, thời gian sống của trứng sán trong đất ướt là dài nhất.
Quy luật này tương tự khi theo dõi ở cả 4 mùa. Đồng thời, vào mùa Hè thời gian
trứng sán sống trong đất ngắn hơn các mùa khác, có thể do nhiệt độ cao trong mùa
Hè đã làm cho quá trình chuyển hóa vật chất của trứng sán tăng lên, từ đó thời gian
sống của trứng rút ngắn hơn.
Khảo sát thực trạng chăn nuôi ở các tỉnh miền núi, chúng tôi nhận thấy:
chuồng nuôi trâu, bò chủ yếu là nền gỗ và nền đất, chuồng nuôi thường được các
nông hộ làm ở gần ruộng, ao hoặc mương nước; bãi chăn thả còn nhiều chỗ thấp
trũng, do đó trứng sán lá gan dễ phát tán và có điều kiện tiếp tục phát triển. Vì vậy,
công tác vệ sinh thú y trong quá trình chăn nuôi cần phải được đảm bảo: thu gom
phân trâu, bò để ủ, tránh vương vãi phân ra đất bề mặt ở các khu vực mà trâu, bò
thường tiếp xúc, thường xuyên tẩy uế, khử trùng chuồng trại, nên thực hiện chăn thả
luân phiên khi bãi chăn thả có diện tích đủ lớn.
3.2.3.7. Nghiên cứu về thời gian thoát vỏ của Miracidium và thời gian sống của
Miracidium trong nước
Khi trứng sán lá F. gigantica theo phân ra ngoài ngoại cảnh, gặp điều kiện
thuận lợi trứng nở thành Miracidium trong môi trường nước. Chúng tôi đã bố trí thí
nghiệm theo dõi thời gian Miracidium thoát vỏ trong nước. Kết quả được trình bày
ở bảng 3.23.
98
* Thời gian Miracidium thoát vỏ trong nước
Bảng 3.23. Thời gian Miracidium thoát vỏ trong nƣớc
(từ khi trứng sán lá F. gigantica rơi vào môi trường nước)
Mùa Lô thí
nghiệm
Số mẫu
thí
nghiệm
to và pH
nƣớc
Thời gian bắt đầu có
Miracidium thoát vỏ
Thời gian Miracidium
thoát vỏ hết
XX
m
(ngày)
Tính
chung
(ngày)
XX
m
(ngày)
Tính
chung
(ngày)
Xuân
I 10 22 - 23
oC
6 - 7
15,40 ± 0,45
14
14,40 ± 0,36
16 II 10 14,60 ± 0,41 16,80 ± 0,25
III 10 15,20 ± 0,25 15,20 ± 0,62
Hè
I 10 26 - 27
oC
6 - 7
8,80 ± 0,33
8
9,70 ± 1,58
10 II 10 8,90 ± 0,31 8,30 ± 1,78
III 10 9,50 ± 0,23 10,10 ± 2,18
Thu
I 10 24 - 25
oC
6 - 7
12,00 ± 0,58
11
14,10 ± 2,79
15 II 10 13,70 ± 0,30 12,20 ± 2,81
III 10 11,40 ± 0,21 15,40 ± 2,92
Đông
I 10 18 - 19
oC
6 - 7
20,00 ± 0,47
19
19,70 ± 0,63
21 II 10 19,30 ± 0,74 21,10 ± 0,79
III 10 19,90 ± 0,42 20,30 ± 1,57
Bảng 3.23 cho thấy: vào mùa Xuân, Miracidium thoát vỏ sớm nhất là 14 ngày,
muộn nhất là 16 ngày; mùa Hè sớm nhất là 8 ngày và muộn nhất là 10 ngày; mùa
Thu thời gian sớm nhất là 11 ngày và muộn nhất là 15 ngày; mùa Đông thời gian
sớm nhất là 19 ngày và muộn nhất là 21 ngày. Như vậy, thời gian cần cho trứng
phát triển từ khi vào môi trường nước đến lúc nở thành Miracidium biến động trong
khoảng thời gian 8 - 21 ngày. Nhiệt độ thấp trong mùa Đông đã làm cho sự phát
triển của trứng sán F. gigantica trong nước kéo dài hơn. Ngược lại, nhiệt độ cao
trong mùa Hè khiến cho thời gian phát triển của trứng sán ngắn hơn rõ rệt.
Theo dõi sự phát triển của trứng sán lá F. gigantica trong thí nghiệm vào mùa Hè,
chúng tôi thấy: từ khi cho trứng vào môi trường nước tới khi trứng nở thành
Miracidium phải trải qua 10 giai đoạn.
Các giai đoạn cụ thể như sau:
99
Ngày thứ nhất: Trứng có nhiều tế bào phôi to đều và xếp sát vỏ trứng.
Ngày thứ 2: Phôi bào bắt đầu phân chia (trứng ở ngày thứ 2 trong nước).
Ngày thứ 3: Phôi bào tăng kích thước và phân chia thành nhiều tế bào sắp xếp
thành hình quả dâu.
Ngày thứ 4: Phôi bào tập trung lại thành hình ô van ở trung tâm trứng. Số
lượng tế bào noãn hoàng giảm dần.
Ngày thứ 5: Phôi có chiều dài bằng 1/2 chiều dài trứng, kéo dài ra, nằm ở
trung tâm trứng và được bao quanh bởi một số tế bào noãn hoàng.
Ngày thứ 6: Phôi có hình tam giác gần giống hình thái của Miracidium, phía
trước rộng và hẹp dần về phía sau.
Ngày thứ 7: Phôi có hình dạng của Miracidium rõ nét hơn, dấu vết của hai mắt
đã nhìn thấy mờ mờ. Miracidium bắt đầu xuất hiện động tác co rút yếu và chậm
chạp trong vỏ trứng, trong vỏ trứng vẫn còn một số tế bào noãn hoàng.
Ngày thứ 8: Kích thước của Miracidium tăng lên, phía sau cong lại vì
Miracidium có chiều dài lớn hơn chiều dài trứng. Có thể nhìn thấy khá rõ dấu vết
của hai mắt và lông mao bao quanh cơ thể. Miracidium đã vận động mạnh dần lên
trong vỏ trứng.
Ngày thứ 9: Miracidium đã phát triển hoàn chỉnh. Cơ thể có hình tam giác hơi
dài. Toàn thân Miracidium có một lớp lông mao bao phủ. Lúc này Miracidium
chuyển động, co duỗi rất mạnh trong trứng.
Ngày thứ 10: Miracidium thoát vỏ. Trước khi thoát vỏ, Miracidium co toàn bộ
cơ thể với cường độ co mạnh nhất, ngay sau đó duỗi ra với cường độ duỗi mạnh
nhất, đẩy bật nắp trứng và từ từ thoát ra ngoài. Vừa thoát khỏi vỏ, Miracidium đã
bơi rất nhanh trong nước. Sau khi Miracidium ra ngoài, nắp vỏ trứng vẫn còn dính ở
vỏ như một “cánh cửa” có bản lề mở ra, màng noãn hoàng và các chất dịch còn lại
trong trứng cũng dần thoát ra khỏi trứng qua “cánh cửa” đó.
Qua nghiên cứu, chúng tôi cũng thấy rằng, trứng sán lá F. gigantica phát triển
không đồng đều và nở thành Miracidium không trong cùng một thời gian. Vì vậy,
100
trong cùng điều kiện, Miracidium có thể thoát vỏ trong thời gian vài ngày. Điều này
dẫn tới hệ quả là làm cho Miracidium tăng cơ hội nhiễm vào ốc ký chủ trung gian và
làm tăng tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò.
Như vậy, yếu tố nhiệt độ và ánh sáng có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển
của trứng sán lá F. gigantica và sự thoát vỏ của Miracidium. Nhiệt độ thích hợp
giúp trứng phát triển nhanh; nhiệt độ thấp thì thời gian phát triển của trứng sán kéo
dài. Ánh sáng là yếu tố quan trọng giúp Miracidium thoát vỏ. Trong quá trình theo
dõi thí nghiệm, chúng tôi nhận thấy, vào những ngày có ánh sáng mạnh và trung bình
thì Miracidium thoát vỏ nhiều hơn rõ rệt so với những ngày ánh sáng yếu.
Theo Guralp N. và cs. (1964) [99], thời gian trứng F. gigantica phát triển và
nở thành Miracidium khoảng 10 - 11 ngày ở 37 - 38oC (tương ứng với nhiệt độ mùa
Hè của nước ta), khoảng 21 - 24 ngày ở 25oC (tương ứng với mùa Thu ở nước ta) và
33 ngày ở 17 - 22oC (tương ứng với mùa Đông ở nước ta). Phan Địch Lân (1985)
[31] cho biết ở nhiệt độ 28 - 30oC, trứng F. gigantica nở thành Miracidium sau 14 -
16 ngày; Rojo-Vázquez F. A. và cs. (2012) [144] cho rằng, ở nhiệt độ 10 - 12oC
trứng F. hepatica nở thành Miracidium sau từ vài tuần đến 2 tháng.
Như vậy, thời gian trứng sán lá F. gigantica nở thành Miracidium trong thí
nghiệm của chúng tôi không giống với công bố của những tác giả trên. So với các kết
quả nghiên cứu ở nước ngoài thì sự khác nhau này là điều dễ giải thích (do điều kiện
tự nhiên của nước ta khác rất nhiều so với các nước khác). Song, sự khác nhau giữa
kết quả nghiên cứu của chúng tôi so với kết quả nghiên cứu của Phan Địch Lân
(1985) [31] có thể do sự thay đổi về thời tiết khí hậu của những năm gần đây (mùa
Hè nóng hơn, mùa Đông giá lạnh hơn so với những năm của thập kỷ 80 và 90) đã dẫn
đến sự khác nhau này.
* Thời gian Miracidium sống trong nước (khi không gặp ký chủ trung gian)
Sau khi Miracidium thoát khỏi vỏ trứng, chúng tôi tiếp tục theo dõi thời gian
sống của chúng trong nước khi không gặp ký chủ trung gian. Kết quả được trình
bày ở bảng 3.24.
101
Bảng 3.24. Thời gian sống của Miracidium trong nƣớc
(khi không gặp ký chủ trung gian)
Mùa Lô thí
nghiệm
Số mẫu
thí
nghiệm
to và pH
nƣớc
Thời gian bắt đầu
có Miracidium chết
Thời gian Miracidium
chết hoàn toàn
XX
m
(giờ)
Tính
chung
(giờ)
XX
m
(giờ)
Tính
chung
(giờ)
Xuân
I 10 22 - 23
oC
6 - 7
6,20 ± 0,38
5
10,50 ± 0,42
10 II 10 5,35 ± 0,25 10,65 ± 0,28
III 10 5,60 ± 0,47 8,36 ± 0,15
Hè
I 10 26 - 27
oC
6 - 7
5,85 ± 0,37
5
10,70 ± 0,40
11 II 10 6,05 ± 0,30 10,60 ± 0,36
III 10 5,95 ± 0,30 11,40 ± 0,27
Thu
I 10 24 - 25
oC
6 - 7
7,15 ± 0,27
6
12,25 ± 0,41
14 II 10 6,90 ± 0,22 12,80 ±0,44
III 10 7,50 ± 0,24 14,50 ± 0,34
Đông
I 10 18 - 19
oC
6 - 7
6,10 ± 0,23
4
9,30 ± 0,27
9 II 10 4,75 ± 0,25 9,30 ± 0,27
III 10 4,00 ± 0,25 7,25 ± 0,19
Bảng 3.24 cho thấy, sau khi thoát vỏ, Miracidium tồn tại trong nước không
quá 10 giờ (trong mùa Xuân), 11 giờ (trong mùa Hè), 14 giờ (vào mùa Thu) và 9
giờ (vào mùa Đông).
Dưới kính hiển vi quang học độ phóng đại 100 lần, chúng tôi thấy: khi mới
thoát vỏ, Miracidium bơi rất nhanh trong môi trường nước nhờ lớp lông mao bao
phủ quanh thân và sự co rút cơ thể. Sau một thời gian chuyển động liên tục trong
nước, không gặp được vật chủ trung gian, Miracidium sẽ chết do cạn kiệt năng
lượng. Trước khi chết, chúng nhào lên lộn xuống mấy lần, sau đó chuyển động
chậm dần, nhanh chóng chuyển sang trạng thái lờ đờ, rồi đứng im một chỗ. Sau 7 -
10 phút chúng biến đổi hình dạng và rữa dần ra.
Theo Asanji M. F. (1988) [64], sau khi thoát khỏi vỏ trứng, Miracidium sống
trong nước khoảng 18 - 26 giờ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ngắn hơn so với
kết quả nghiên cứu của Asanji M. F. (1988) [64], song dài hơn rõ rệt so với số liệu
102
của Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [17] (Miracidium chỉ tồn tại trong vài
giờ). Với thời gian này, Miracidium tăng thêm cơ hội tìm được ký chủ trung gian
thích hợp để tiếp tục vòng đời của chúng và làm tăng nguy cơ nhiễm sán lá F.
gigantica cho trâu, bò. Ốc nước ngọt - ký chủ trung gian của sán lá gan đóng vai trò
hết sức quan trọng trong quá trình hoàn thành vòng đời của sán. Nếu không gặp
được ký chủ trung gian, Miracidium sẽ chết hết sau 9 - 14 giờ và vòng đời của sán
lá gan bị cắt đứt. Vì vậy, nếu tiêu diệt được ốc ký chủ trung gian thì đồng nghĩa với
việc tiêu diệt được ấu trùng sán lá gan ở giai đoạn Miracidium trong nước và
phòng chống được bệnh sán lá gan trên trâu, bò.
3.2.3.8. Nghiên cứu thời gian phát triển của ấu trùng sán lá F. gigantica trong ốc -
ký chủ trung gian
Sau khi trứng sán lá F. gigantica nở thành Miracidium, chúng tôi tiến hành
gây nhiễm cho ốc L. viridis “sạch” để theo dõi thời gian phát triển của ấu trùng sán
lá trong ốc. Kết quả được trình bày ở bảng 3.25.
Bảng 3.25. Thời gian hoàn thành các giai đoạn ấu trùng của sán lá F. gigantica
(từ khi trứng rơi vào nước)
Giai đoạn ấu
trùng
Mùa
Trứng
Miracidium
(ngày)
Miracidium
Sporocyst
(ngày)
Sporocyst
Redia
(ngày)
Redia
Cercaria
(ngày)
Cercaria
Adolescaria
(giờ)
Trứng
Adolescaria
(ngày)
Xuân 14 - 16 3 - 4 6 - 8 18 - 20 2 - 4* 41 - 48
Hè 8 - 10 2 - 3 4 - 7 15 - 17 2 - 4* 29 - 37
Thu 11 - 15 3 - 4 5 - 8 17 - 18 2 - 4* 36 - 45
Đông 19 - 21 4 - 5 8 - 9 20 - 21 3 - 5* 51 - 56
Kết quả ở bảng 3.25 cho thấy:
Thời gian từ khi trứng sán lá F. gigantica vào môi trường nước đến khi hình
thành Adolescaria dài nhất vào mùa Đông (51 - 56 ngày), sau đó đến mùa Xuân (41
- 48 ngày), mùa Thu (37 - 45 ngày) và ngắn nhất là vào mùa Hè (chỉ 29 - 37 ngày).
Xét về thời gian hoàn thành các giai đoạn ấu trùng: vào mùa Hè, các dạng ấu
trùng phát triển trong ký chủ trung gian đều với thời gian ngắn nhất trong bốn mùa.
Ngược lại, vào mùa Đông thời gian hoàn thành mỗi giai đoạn của ấu trùng lại dài
nhất trong năm.
103
Như vậy, trong mùa Đông, thời gian phát triển của trứng và các dạng ấu trùng
trong ốc đều dài nhất. Quy luật về thời gian phát triển của ấu trùng trong ký chủ
trung gian theo mùa cho thấy, nhiệt độ là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng lớn tới sự
phát triển của trứng và ấu trùng sán lá F. gigantica ở ngoại cảnh và trong ký chủ
trung gian.
Trong thí nghiệm của chúng tôi, dưới kính hiển vi với độ phóng đại 100 lần
thấy: Sporocyst có hình túi, màu sáng, được bao bọc bởi lớp màng mỏng, các tế bào
ngọn lửa hoạt động hình thành hầu, ống ruột và các đám phôi. Redia hình suốt chỉ,
có mấu đuôi, ít hoạt động, có miệng, hầu, ruột hình túi đơn giản, Redia già chứa
nhiều Cercaria. Cercaria được hình thành nhiều đợt, vì vậy trong một ốc có cả
Redia non, Redia già, Cercaria non và Cercaria già. Cơ thể của Cercaria gồm hai
phần thân và đuôi, Cercaria non có đuôi ngắn, to, ít vận động; Cercaria già có đuôi
dài hơn thân, đuôi vận động rất mạnh để giúp Cercaria di chuyển, thân tròn lệch,
không có điểm mắt, có nhiều hạt glycogen xếp thành hai hàng ở hai bên.
Adolescaria hình khối tròn, bên trong chứa phôi hoạt động. Nhiều Adolescaria bám
vào cỏ thuỷ sinh mà chúng tôi thả trong bể, một số thì lơ lửng trong nước.
Về kích thước, các dạng ấu trùng Sporocyst, Redia, Cercaria và Adolescaria
lớn hơn nhiều so với Miracidium. Bằng kính lúp có thể nhìn thấy ấu trùng trên lam
kính: Miracidium như những hạt bụi màu trắng, di chuyển nhanh trong nước;
Sporocyst là một bọc màu trắng; Redia là một dải màu trắng, nhỏ, chiều dài gấp 2 -
3 lần chiều rộng, cơ thể liên tục co duỗi nhẹ; Cercaria vận động nhờ đuôi co rút rất
mạnh. Khi ép ốc, phát hiện thấy ấu trùng thì có thể dùng công tơ gút hút ấu trùng
đặt lên lam kính sạch và kiểm tra dưới kính hiển vi để quan sát rõ hơn hình thái và
cấu tạo của chúng.
Phan Địch Lân (1985) [31] cho biết, sau khi gây nhiễm Miracidium cho ốc
“sạch” chúng sẽ phát triển thành Sporocyst trong 7 ngày, từ Sporocyst đến Redia
non cần 8 - 21 ngày, từ Redia đến Cercaria non cần 7 - 14 ngày và từ Cercaria non
đến Cercaria già cần 13 - 14 ngày. Ở môi trường, Cercaria ra khỏi ốc, sau 2 giờ
rụng đuôi tạo thành Adolescaria.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian hoàn thành các giai đoạn của ấu
trùng sán lá F. gigantica trong ốc có giai đoạn dài hơn, có giai đoạn ngắn hơn so
với kết quả nghiên cứu của Phan Địch Lân (1985) [31].
104
x
y
9080706050403020100
800
700
600
500
400
300
200
100
0
Thời gian phát triển từ Miracidium đến Cercaria ở trong ốc mà chúng tôi đã
xác định được cũng ngắn hơn so với kết quả nghiên cứu của Dar Y. và cs. (2010)
[85]. Theo tác giả thì thời gian này là 24 ngày ở điều kiện nhiệt độ 24oC (tương
đương với điều kiện nhiệt độ trong mùa Thu ở nước ta). Theo chúng tôi, thời gian
phát triển ấu trùng trong ký chủ trung gian và ở ngoại cảnh khác nhau có thể là do
điều kiện thời tiết khí hậu biến đổi trong những năm gần đây và sự khác nhau về
điều kiện tự nhiên giữa các nước gây ra.
3.3. Nghiên cứu tƣơng quan giữa số trứng sán F. gigantica trong 1 gam phân
với số sán lá ký sinh ở trâu, bò
* Tương quan giữa số trứng sán /gam phân với số sán lá ký sinh /trâu được
xác định trên phần mềm Minitab 14.0. Kết quả như sau:
Phương trình hồi quy tuyến tính: y = a + bx
(y: số trứng sán /gam phân, x: số sán ký sinh /trâu)
Trong đó: a = 0,194
b = 8,101
Phương trình hồi quy tuyến tính: y = 0,194 + 8,101x
Hệ số tương quan: r = 0,96
Tương quan giữa số trứng sán/ gam phân với số sán ký sinh /trâu được biểu
diễn ở hình 3.10.
Hình 3.10. Đồ thị biểu diễn phương trình y = a + bx về mối tương quan giữa số
trứng sán /gam phân với số sán ký sinh /trâu
105
x
y
706050403020100
500
400
300
200
100
0
Đồ thị ở hình 3.10 cho thấy: các điểm tương ứng giữa số sán đếm được qua
mổ khám trâu với số trứng sán trong 1 gam phân hầu hết đều nằm xung quanh
đường biểu diễn phương trình hồi quy tuyến tính y = a + bx, đi từ bên trái phía dưới
tới bên phải phía trên, không có điểm nào nằm ở xa đường biểu diễn này. Điều đó
có nghĩa là tương quan giữa số trứng sán F. gigantica /gam phân với số sán lá ký
sinh /trâu là tương quan thuận.
Hệ số tương quan r = 0,96 cho thấy tương quan này rất chặt.
* Tương quan giữa số trứng sán trong 1 gam phân với số sán lá ký sinh /bò như sau:
Phương trình hồi quy tuyến tính: y = a + bx
(y: số trứng sán /gam phân, x: số sán ký sinh /bò)
Trong đó: a = 4,145
b = 8,094
Phương trình hồi quy tuyến tính: y = 4,145 + 8,094x
Hệ số tương quan: r = 0,969
Tương quan giữa số trứng sán F. gigantica /gam phân với số sán lá ký sinh /bò
được biểu diễn ở hình 3.11.
Hình 3.11. Đồ thị biểu diễn phương trình y = a + bx về mối tương quan giữa số
trứng sán /gam phân với số sán lá ký sinh /bò
Đồ thị ở hình 3.11 cho thấy: các điểm tương ứng giữa số sán đếm được qua
mổ khám bò với số trứng sán trong 1 gam phân hầu hết đều nằm xung quanh đường
106
biểu diễn phương trình hồi quy tuyến tính y = a + bx, đi từ bên trái phía dưới
tới bên phải phía trên, chỉ có 1 điểm nằm hơi xa đường biểu diễn này. Điều đó
có nghĩa là tương quan giữa số trứng sán F. gigantica trong 1 gam phân với số sán
lá ký sinh /bò là tương quan thuận.
Hệ số tương quan r = 0,969 cho thấy tương quan này là rất chặt.
Như vậy, phương trình hồi quy tuyến tính xác định tương quan giữa số trứng
sán F. gigantica trong 1 gam phân với số sán lá ký sinh /trâu, bò có ý nghĩa thực
tiễn, dựa trên cơ sở khoa học là: từ số trứng sán đếm được trong 1 gam phân có thể
xác định một cách tương đối đúng số sán ký sinh trên 1 trâu, bò, từ đó có cơ sở khoa
học để chẩn đoán bệnh sán lá gan ở trâu, bò hoặc xác định được hiệu quả sử dụng
thuốc tẩy sán, hoặc có thể dự đoán được mức độ ảnh hưởng của sán đến những biến
đổi bệnh lý và lâm sàng của trâu, bò bị bệnh.
Theo Nguyễn Văn Thiện (2008) [48], nếu các điểm biểu thị tính trạng được
phân bố theo hướng từ bên trái phía dưới tới bên phải phía trên, hình thành dạng
một đường thẳng theo hướng từ dưới lên trên là tương quan thuận. Hệ số tương
quan (r) mang dấu dương biểu thị hai tính trạng tương quan thuận. Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của Nguyễn Văn Thiện (2008) [48].
Các kết quả được lặp lại trên hai loại gia súc (trâu và bò) như đã trình bày ở
trên cho phép chúng tôi có một nhận xét chung là: có mối tương quan thuận rất chặt
giữa số trứng sán trong 1 gam phân với số sán lá F. gigantica ký sinh ở trâu, bò Đó
là tương quan thuận theo phương trình hồi quy tuyến tính y = a + bx (hồi quy, theo
nghĩa thống kê, theo nghĩa mở rộng, có nghĩa là từ một biến số này có thể tính ra
được giá trị của một biến số khác).
Ý nghĩa của phương trình hồi quy, theo Nguyễn Văn Thiện (2008) [48] là, từ
giá trị của một tính trạng này có thể tính ra giá trị tương ứng của một tính trạng
khác. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi phải dự đoán những giá trị của các tính trạng
trong tương lai, hoặc khi phải tính những giá trị của các tính trạng khó xác định.
Như vậy, từ phương trình hồi quy giữa số trứng sán F. gigantica trong 1 gam
phân với số sán lá ký sinh /trâu, bò có thể tính được số sán ký sinh trong 1 trâu
(hoặc bò), hoặc tính được số trứng sán có trong 1 gam phân khi biết biến số kia. Từ
đó có thể biết được tường tận hơn mức độ cảm nhiễm sán lá F. gigantica, mức độ
nguy hại đối với vật chủ, hoặc dự đoán được hiệu suất của thuốc tẩy để có kế hoạch
phòng trị tiếp theo.
107
3.4. Nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh sán lá F. gigantica cho trâu, bò
3.4.1. Xác định thuốc tẩy sán lá F. gigantica có hiệu lực cao và an toàn
3.4.1.1. Xác định hiệu lực của một số thuốc tẩy sán lá F. gigantica đã được sử dụng
nhiều năm trên trâu, bò
Thuốc han - dertil B và fasiolid (nitroxinil - 25%) là hai loại thuốc đã được sử
dụng nhiều năm để tẩy sán lá F. gigantica cho trâu, bò ở các địa phương. Vậy, với liều
khuyến cáo, các thuốc này hiện nay còn có hiệu lực tẩy cao hay không? Để xác định vấn
đề này, chúng tôi đã dùng hai loại thuốc trên tẩy sán cho trâu, bò. Kết quả các đợt dùng
thuốc được trình bày ở bảng 3.26 và 3.27.
Bảng 3.26. Hiệu lực của hai loại thuốc tẩy sán lá F. gigantica đã sử dụng
nhiều năm trên trâu
Đợt
tẩy Thuốc sử dụng
Liều
khuyến
cáo
(mg/kg
TT)
Trƣớc tẩy Sau tẩy
15 ngày Hiệu lực tẩy
Số
trâu
nhiễm
(con)
Cƣờng độ
nhiễm
XX
m
(trứng/g phân)
Số
trâu
nhiễm
(con)
Cƣờng độ
nhiễm
XX
m
(trứng/g
phân)
Số
trâu
sạch
trứng
sán
(con)
Hiệu
lực
tẩy
sạch
(%)
I
Han -Dertil B 10 50 359,80 ± 29,30 8 53,50 ± 7,50 42 84,00
Fasiolid
(Nitroxinil- 25%) 10 50 296,50 ± 50,80 9 60,00 ± 5,30 41 82,00
II
Han - Dertil-B 10 50 257,20 30,00 8 56,00 6,00 42 84,00
Fasiolid
(Nitroxinil- 25%) 10 50 246,20 9,24 10 55,00 ± 6,40 40 80,00
III
Han - Dertil B 10 50 296,50 50,80 11 70,00 5,00 39 78,00
Fasiolid
(Nitroxinil- 25%) 10 50 251,50 32,50 9 60,00 ± 4,60 41 82,00
ở 3.26 : sử dụng thuốc han - dertin B, liều 10 mg
/kg TT trong 3 đợt thí nghiệm, mỗi đợt tẩy cho 50 trâu, số trâu sạch trứng sán ở
đợt 1 và 2 đều là 42 con, có 8 trâu vẫn còn trứng sán, song số lượng trứng sán
giảm từ 359 xuống 53 và 56 trứng /gam phân; đợt 3 có 39 trâu sạch trứng sán,
có 11 trâu vẫn còn trung bình 70 trứng /gam phân. Hiệu lực tẩy sạch sán đạt 78% - 84%.
Thuốc fasiolid, liều 10 mg /kg TT tẩy sán cho 150 trâu /3 đợt cho kết quả
như sau: ở đợt 1 có 41 trâu sạch trứng sán (hiệu lực tẩy sạch sán đạt 82%), có 9
trâu vẫn còn trung bình 60 trứng sán /gam phân; hiệu lực của thuốc ở đợt 2 đạt
80%, ở đợt 3 đạt 82%.
108
Bảng 3.27. Hiệu lực của hai loại thuốc tẩy sán lá F. gigantica đã sử dụng
nhiều năm trên bò
Đợt
tẩy Thuốc sử dụng
Liều
khuyến
cáo
(mg/kg
TT)
Trƣớc tẩy Sau tẩy
15 ngày Hiệu lực tẩy
Số bò
dùng
thuốc
(con)
Cƣờng độ
nhiễm
XX
m
(trứng/g phân)
Số
bò
nhiễm
(con)
Cƣờng độ
nhiễm
XX
m
(trứng/g
phân)
Số bò
sạch
trứng
sán
(con)
Hiệu
lực tẩy
sạch
(%)
I
Han - Dertil-B 10 30 255,00 ± 51,68 6 45,00 ± 6,70 24 80,00
Fasiolid
(Nitroxinil-25% ) 10 30 243,33 ± 46,01 5 57,50 ±17,50 25 83,33
II
Han - Dertil-B 10 30 286,80 ± 46,01 4 15,00 ± 4,50 26 86,67
Fasiolid
(Nitroxinil-25% ) 10 30 231,00 ± 69,10 5 45,00 ± 7,80 25 83,33
III
Han - Dertil-B 10 30 285,00 ± 62,00 6 67,50 ± 10,60 24 80,00
Fasiolid
(Nitroxinil-25% ) 10 30 210,50 ± 51,68 4 30,00 ± 6,60 26 86,67
Kết quả bảng 3.27 cho thấy, hiệu lực tẩy sạch sán trên bò của thuốc han -
dertin B đạt 80 - 86,67%, hiệu lực tẩy sạch của thuốc fasiolid đạt 83,33 - 86,67%.
Từ kết quả xác định hiệu lực của các thuốc tẩy sán lá F. gigantica trên trâu và
bò đã trình bày ở bảng 3.26 và 3.27, chúng tôi nhận thấy cả 2 loại thuốc han - dertin
B và fasiolid với liều 10 mg /kg TT vẫn có hiệu lực tẩy sán cho trâu, bò, song hiệu
lực tẩy không cao. Sau khi dùng thuốc tẩy sán lá gan cho trâu, bò, người chăn nuôi
thường tin rằng thuốc đã có tác dụng tẩy hết sán lá gan và trâu, bò đã khỏi bệnh. Vì
vậy, những trâu, bò chưa sạch sán vẫn được chăn thả và là nguồn gieo rắc trứng sán
ra ngoại cảnh. Từ thực tế này, chúng tôi thấy rằng cần phải nghiên cứu để nâng cao
hiệu lực của thuốc tẩy sán.
Một trong những biện pháp có thể thực hiện để đạt mục đích trên là, nghiên
cứu hiệu lực của liều thuốc cao hơn liều khuyến cáo mà vẫn an toàn cho súc vật
được dùng thuốc. Từ luận giải trên, chúng tôi đã thử nghiệm hiệu lực và độ an toàn
của một số thuốc tẩy sán lá F. gigantica trên trâu, bò.
109
3.4.1.2. Thử nghiệm hiệu lực và độ an toàn của một số thuốc tẩy sán lá F. gigantica
trên trâu, bò
* Thử nghiệm trên diện hẹp
Chúng tôi đã sử dụng 3 loại thuốc với liều cao hơn khuyến cáo: albendazol
(liều 12 mg /kgTT), triclabendazole (liều 15 mg /kgTT) và nitroxinil - 25 (liều 12
mg /kgTT) tẩy sán lá F. gigantica cho 5 trâu thí nghiệm /loại thuốc và 5 bò thí
nghiệm /loại thuốc. Kết quả được trình bày ở bảng 3.28 và 3.29.
Bảng 3.28. Hiệu lực tẩy sán F. gigantica của ba loại thuốc trên trâu thí nghiệm
Thuốc và liều
lƣợng
Số thứ
tự
trâu
Trƣớc
tẩy
(trứng
/g phân)
Ngày sau tẩy
(trứng /g phân)
Mổ khám sau tẩy
5 10 15
Ngày
mổ
khám
sau tẩy
Số sán
/trâu
(con)
Albendazol
(12mg /kgTT)
1 450 60 0 0 -
2 390 45 0 0 25 0
3 600 90 0 0 -
4 375 60 0 0 -
5 285 75 0 0 30 0
Triclabendazole
(15 mg /kgTT)
1 540 70 0 0 -
2 385 40 0 0 -
3 450 90 0 0 -
4 635 85 0 0 35 0
5 370 30 0 0 -
Nitroxinil - 25
(12mg /kgTT)
1 680 95 0 0 35 0
2 560 50 0 0 -
3 350 40 0 0 -
4 420 45 0 0 -
5 295 50 0 0 -
110
Bảng 3.28 cho thấy: Sử dụng thuốc triclabendazole, liều 15 mg /kgTT, hai loại
thuốc albendazol và nitroxinil cùng mức liều 12 mg /kg TT tẩy cho 15 trâu nhiễm
sán. Trước khi dùng thuốc, số trứng sán /gam phân của trâu biến động từ 285 đến
680 trứng. Sau khi dùng thuốc, xét nghiệm lại phân ở các ngày 5, 10 và 15 sau tẩy.
Ở ngày thứ 5 sau khi sử dụng thuốc, không có trâu nào sạch trứng sán nhưng số
lượng trứng sán /gam phân đã giảm đáng kể, chỉ còn 30 - 95 trứng /gam phân. Xét
nghiệm ở ngày thứ 10 sau dùng thuốc, tất cả số trâu thí nghiệm đều sạch trứng sán
hoàn toàn. Chúng tôi đã mổ khám 4/15 trâu, thấy cả 4 trâu đều sạch sán trong gan
và ống dẫn mật sau 25 - 35 ngày dùng thuốc.
Theo dõi trạng thái cơ thể của trâu thí nghiệm sau dùng thuốc, chúng tôi thấy
trâu vẫn ăn uống, nhai lại, vận động, thải phân và nước tiểu bình thường. Điều đó
chứng tỏ 3 loại thuốc sử dụng với mức liều cao hơn liều khuyến cáo vẫn an toàn
đối với trâu.
Bảng 3.29. Hiệu lực tẩy sán F. gigantica của ba loại thuốc trên bò thí nghiệm
Thuốc và liều
lƣợng
Số thứ
tự
bò
Trƣớc
tẩy
(trứng /g
phân)
Ngày sau tẩy
(trứng /g phân)
Mổ khám sau tẩy
5 10 15
Ngày
mổ
khám
sau tẩy
Số sán
/bò
(con)
Albendazol
(12mg /kgTT)
1 285 30 0 0 -
2 315 30 0 0 -
3 375 45 0 0 -
4 405 60 0 0 35 0
5 255 15 0 0 -
Triclabendazole
(15 mg /kgTT)
1 450 55 0 0 -
2 410 60 0 0 25 0
3 380 40 0 0 -
4 295 30 0 0 -
5 320 35 0 0 -
Nitroxinil - 25
(12mg /kgTT)
1 260 25 0 0 -
2 350 35 0 0 -
3 300 30 0 0 30 0
4 430 45 0 0 -
5 330 40 0 0 -
111
Bảng 3.29 cho thấy: sử dụng 3 loại thuốc cho bò nhiễm sán lá F. gigantica với
liều như trên, hiệu lực của thuốc đạt tương tự như thử nghiệm trên trâu (15/15 bò
sạch trứng sán trong phân sau 10 ngày dùng thuốc, 3/15 bò được mổ khám kiểm tra
lại đều sạch sán ở gan và ống dẫn mật sau 25 - 35 ngày dùng thuốc tẩy). Đồng thời,
cả 15 bò đều không có biểu hiện khác thường nào sau khi dùng thuốc. Như vậy, liều
của ba loại thuốc đã sử dụng an toàn đối với bò.
Từ kết quả ở bảng 3.28 và 3.29, chúng tôi nhận thấy, thuốc triclabendazole
liều 15 mg /kgTT, thuốc albendazol và nitroxinil - 25 với liều 12 mg /kg TT đều có
hiệu lực tẩy sán lá F. gigantica cao và an toàn đối với trâu, bò. Tuy nhiên, thử
nghiệm này mới chỉ được tiến hành trên số lượng ít trâu, bò thí nghiệm. Vì vậy,
chúng tôi tiếp tục thử nghiệm thuốc trên số lượng trâu, bò nhiều hơn để kiểm tra lại
hiệu lực và độ an toàn của các mức liều trên đối với trâu, bò.
* Thử nghiệm trên diện rộng
Chúng tôi đã thử nghiệm hiệu lực điều trị của thuốc triclabendazole, liều 15
mg /kgTT; thuốc albendazol và nitroxinil - 25, liều 12mg /kg TT cho 450 trâu và
270 bò ở các địa phương. Kết quả được trình bày ở bảng 3.30 và 3.31.
Bảng 3.30. Hiệu lực của ba loại thuốc tẩy sán F. gigantica cho trâu trên diện rộng
Đợt Loại thuốc
Liều
lƣợng
(mg/
kg
TT)
Trƣớc tẩy Sau tẩy 15 ngày Hiệu lực tẩy
Số
trâu
nhiễm
(con)
Cƣờng độ
( xmX )
(Trứng/ g phân)
Số
trâu
nhiễm
(con)
Cƣờng độ
( xmX )
(Trứng/ g
phân)
Số
trâu
sạch
trứng
(con)
Hiệu
lực
tẩy
(%)
I
Albendazol 12 50 465,00 ± 56,00 3 45,60 ±10,30 47 94,00
Triclabendazole 15 50 418,30 ± 48,65 0 0 50 100
Nitroxinil - 25 12 50 445,28 ± 30,50 3 35,20 ±8,70 47 94,00
II
Albendazol 12 50 520,80 ± 53,10 5 60,80 ±14,40 45 90,00
Triclabendazole 15 50 560,00 ± 46,50 0 0 50 100
Nitroxinil - 25 12 50 490,35 ± 28,50 4 50,00 ±13,40 46 92,00
III
Albendazol 12 50 420,30 ± 46,00 5 25,80 ±6,72 45 90,00
Triclabendazole 15 50 380,50 ± 60,78 0 0 50 100
Nitroxinil - 25 12 50 415,27 ± 23,60 5 40,50 ± 9,86 45 90,00
Kết quả ở bảng 3.30 cho thấy: trong cả 3 đợt điều trị, thuốc triclabendazole đều có
hiệu lực tẩy cao nhất (100%), sau tẩy 15 ngày kiểm tra không còn trứng sán trong
112
phân. Thuốc albendazol có hiệu lực tẩy khá cao, đạt 90 - 94%, cường độ nhiễm
giảm từ 420 - 465 trứng /gam phân xuống còn 25 - 60 trứng /gam phân. Thuốc
nitroxinil - 25 cũng có hiệu lực tẩy đạt 90 - 94%, cường độ nhiễm sán giảm từ 415 -
490 trứng /gam phân xuống còn 35 - 50 trứng /gam phân sau khi tẩy 15 ngày. Theo
dõi trước và sau dùng thuốc, chúng tôi thấy toàn bộ số trâu được tẩy sán vẫn vận
động, ăn uống và nhai lại bình thường, không có trâu nào có phản ứng phụ sau dùng
thuốc. Vì vậy chúng tôi đánh giá: mức liều đã sử dụng của ba loại thuốc đều an toàn
100% đối với trâu.
Bảng 3.31. Hiệu lực của ba loại thuốc tẩy sán F. gigantica cho bò trên diện rộng
Đợt Loại thuốc
Liều
lƣợng
(mg/
kg
TT)
Trƣớc tẩy Sau tẩy 15 ngày Hiệu lực tẩy
Số
bò
nhiễm
(con)
Cƣờng độ
( xmX )
(Trứng/ g phân)
Số
bò
nhiễm
(con)
Cƣờng độ
( xmX )
(Trứng/ g
phân)
Số bò
sạch
trứng
(con)
Hiệu
lực
tẩy
(%)
I
Albendazol 12 30 286,8 ± 46,01 2 35,70 ±9,50 28 93,33
Triclabendazole 15 30 321± 69,10 0 0 30 100
Nitroxinil - 25 12 30 378,5 26,40 3 30,25±7,70 27 90,00
II
Albendazol 12 30 380,50 ± 56,20 2 35,80±6,30 28 93,33
Triclabendazole 15 30 345,37± 78,40 0 0 30 100
Nitroxinil - 25 12 30 320,50 31,60 2 40,20±6,25 28 93,33
III
Albendazol 12 30 380,85 35,70 3 30,50±8,58 27 90,00
Triclabendazole 15 30 330,56± 15,30 0 0 30 100
Nitroxinil - 25 12 30 296,40 ± 35,27 1 25,70±5,32 29 96,67
Bảng 3.31 cho thấy, tẩy sán lá F. gigantica cho bò ở các địa phương với ba loại
thuốc và các mức liều trên cũng cho kết quả tương tự như thử nghiệm trên trâu: hiệu
lực tẩy sán của thuốc triclabendazole trên bò đều là 100% trong cả 3 đợt tẩy; 2 loại
thuốc albendazol và nitroxinil - 25 có hiệu lực tẩy cao hơn so với ở trâu (90 - 96,67%).
Qua kết quả ở bảng 3.30 và 3.31, chúng tôi nhận xét: cả ba loại thuốc albendazol,
triclabendazole và nitroxinil - 25 đều có tác dụng tẩy sán lá F. gigantica tốt (hiệu lực cao
và an toàn), trong đó thuốc triclabendazole liều 15mg /kg TT là thuốc có hiệu lực tẩy cao
nhất. Trong điều kiện thực tế ở các địa phương, người chăn nuôi có thể lựa chọn thuốc
đặc hiệu tẩy sán lá gan cho trâu, bò. Nếu có thể, nên sử dụng thuốc triclabendazole, liều
15 mg /kg TT để có hiệu quả điều trị tốt nhất.
113
3.4.2. Thử nghiệm biện pháp phòng trị bệnh sán lá F. gigantica trên trâu
Chúng tôi đã bố trí thí nghiệm trên 160 trâu 2 - 4 năm tuổi nuôi tại huyện
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Trâu thí nghiệm được phân thành 2 lô: lô thử nghiệm
và lô đối chứng, tương đối đồng đều về các yếu tố: tuổi, tính biệt, điều kiện chăm
sóc nuôi dưỡng và quản lý, tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica. Tỷ lệ và
cường độ nhiễm ở trâu của lô thí nghiệm và lô đối chứng trước khi thí nghiệm được
trình bày ở bảng 3.32.
Bảng 3.32. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán F. gigantica của trâu trƣớc thí nghiệm
Lô
Diễn giải Thử nghiệm Đối chứng Mức ý nghĩa (P)
Số trâu kiểm tra (con) 80 80 -
Số trâu nhiễm (con) 31 30 -
Tỷ lệ nhiễm (%) 38,75 37,50 > 0,05
Cƣờng độ
nhiễm
(số trứng/
gam phân)
≤ 200 n 18 17 -
% 58,06 56,67 > 0,05
>200 - 500 n 11 11 -
% 35,48 36,67 > 0,05
> 500 n 2 2 -
% 6,45 6,67 > 0,05
Bảng 3.32 cho thấy: tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica ở lô thử
nghiệm và lô đối chứng trước thí nghiệm tương đương nhau. Cụ thể:
- Tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica của trâu ở lô thử nghiệm là 38,75%, của trâu ở lô
đối chứng là 37,50%. Sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm giữa hai lô không rõ rệt (P > 0,05).
Trâu ở 2 lô thí nghiệm và đối chứng đều nhiễm sán lá F. gigantica ở cường độ
nhẹ đến nặng. Cụ thể như sau:
+ Cường độ nhiễm nhẹ: tính chung trong số 31 trâu nhiễm sán ở lô thử nghiệm
có 18 con nhiễm ở cường độ nhẹ, chiếm tỷ lệ 58,06%; trong 30 trâu nhiễm sán ở lô
đối chứng có 17 con nhiễm ở cường độ nhẹ, chiếm tỷ lệ 56,67%.
+ Cường độ nhiễm trung bình: lô thử nghiệm có 11 con nhiễm ở cường độ
trung bình, chiếm tỷ lệ 35,48%; lô đối chứng có 11 con nhiễm ở cường độ trung
bình, chiếm tỷ lệ 36,67%.
+ Cường độ nhiễm nặng: lô thử nghiệm có 2 con nhiễm, chiếm tỷ lệ 6,45%; lô
đối chứng có 2 con nhiễm, chiếm tỷ lệ 6,67%.
114
Như vậy cường độ nhiễm không có sự khác nhau đáng kể giữa lô thử nghiệm
và lô đối chứng (P > 0,05).
Chúng tôi đã áp dụng một số biện pháp phòng trị bệnh sán lá F. gigantica cho trâu
ở lô thử nghiệm như sau:
+ Dùng thuốc triclabendazole, liều 15mg /kg TT tẩy sán lá F. gigantica cho
trâu ở lô thử nghiệm.
+ Vệ sinh thức ăn, nước uống (cho ăn cỏ và uống nước không nhiễm ấu trùng
có sức gây bệnh).
+ Vệ sinh bãi chăn thả, chuồng trại và khu vực xung quanh chuồng trại (sử
dụng thuốc sát trùng HanIodin 10%).
+ Diệt vật chủ trung gian của sán lá gan.
+ Thu gom phân trâu ủ để diệt trứng sán lá F. gigantica.
3.4.2.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica sau 2 tháng thử nghiệm
Sau 2 tháng áp dụng các biện pháp phòng trị bệnh nói trên, chúng tôi đã xét
nghiệm phân của trâu cả 2 lô thử nghiệm và đối chứng để xác định lại tỷ lệ và
cường độ nhiễm sán lá F. gigantica. Kết quả được trình bày ở bảng 3.33.
Bảng 3.33. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá F. gigantica của trâu sau 2 tháng
thử nghiệm
Lô
Diễn giải Thử nghiệm Đối chứng Mức ý nghĩa (P)
Số trâu kiểm tra (con) 80 80 -
Số trâu nhiễm (con) 9 33 -
Tỷ lệ nhiễm (%) 11,25 41,25 < 0,001
Cường độ
nhiễm
(số trứng/
gam phân)
≤ 200 n 9 20 -
% 100 60,61 < 0,001
>200 - 500 n 0 11 -
% 0,00 33,33 < 0,001
> 500 n 0 2 -
% 0,00 6,06 < 0,001
Số liệu ở bảng 3.33 cho thấy: tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica của
trâu ở lô thử nghiệm giảm, trong khi tỷ lệ và cường độ nhiễm sán của trâu ở lô đối
chứng tăng lên rõ rệt so với trước khi thử nghiệm. Cụ thể như sau:
115
- Về tỷ lệ nhiễm: tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica của trâu ở lô thử nghiệm là
11,25%, trong khi tỷ lệ nhiễm sán của trâu ở lô đối chứng là 41,25%, sự khác nhau
này là rất rõ rệt (P < 0,001).
- Về cường độ nhiễm:
+ Cường độ nhiễm nhẹ: trâu ở lô thử nghiệm nhiễm nhẹ là 100%, lô đối chứng
là 60,61%, sự sai khác này cũng rất rõ rệt (P < 0,001).
+ Cường độ nhiễm trung bình: không có trâu nào ở lô thử nghiệm nhiễm ở cường
độ này, trong khi lô đối chứng nhiễm ở cường độ trung bình là 33,33% (P < 0,001).
+ Cường độ nhiễm nặng: chỉ có trâu ở lô đối chứng nhiễm cường độ nặng với
tỷ lệ 6,06%, sự sai khác giữa hai lô rất rõ rệt (P < 0,001).
Như vậy, sau 2 tháng được áp dụng biện pháp phòng trị bệnh sán lá F.
gigantica, tỷ lệ và cường độ nhiễm của trâu ở lô thử nghiệm đã giảm rõ rệt so với
lô đối chứng.
3.4.2.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica sau 4 tháng thử nghiệm
Sau 4 tháng áp dụng các biện pháp phòng trị bệnh cho trâu ở lô thử nghiệm,
chúng tôi xét nghiệm lại phân của trâu ở cả 2 lô thử nghiệm và đối chứng. Kết quả
về tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá F. gigantica được trình bày ở bảng 3.34.
Bảng 3.34. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm sán lá F. gigantica của trâu sau 4 tháng
thử nghiệm
Lô
Diễn giải
Thử
nghiệm Đối chứng
Mức ý nghĩa
(P)
Số trâu kiểm tra (con) 80 80 -
Số trâu nhiễm (con) 14 36 -
Tỷ lệ nhiễm (%) 17,50 45,00 < 0,001
Cƣờng độ
nhiễm
(số trứng/
gam phân)
≤ 200 n 13 24 -
% 92,86 66,67 < 0,001
>200 - 500 n 1 10 -
% 7,14 27,78 < 0,001
> 500 n 0 2 -
% 0,00 5,56 < 0,001
116
Bảng 3.34 cho thấy:
- Về tỷ lệ nhiễm: sau 4 tháng thí nghiệm, tỷ lệ nhiễm sán lá F. gigantica của
trâu ở lô thử nghiệm là 17,50%, trong khi tỷ lệ nhiễm của trâu ở lô đối chứng là
45,00%, sự sai khác này là rất rõ rệt (P < 0,001).
- Về cường độ nhiễm:
+ Cường độ nhiễm nhẹ: có 92,86% số trâu nhiễm sán ở lô thử nghiệm nhiễm ở
cường độ nhẹ, trong khi ở lô đối chứng tỷ lệ nhiễm nhẹ là 66,67%, sự sai khác này
là rất rõ rệt (P < 0,001).
+ Cường độ nhiễm trung bình: lô thử nghiệm có 7,14%, trong khi lô đối chứng
tỷ lệ này là 27,78%.
+ Cường độ nhiễm nặng: không có trâu nào ở lô thử nghiệm nhiễm nặng,
trong khi tỷ lệ nhiễm nặng ở lô đối chứng là 5,56%, sự sai khác có ý nghĩa thống kê
(P < 0,001).
Từ kết quả ghi ở bảng 3.34, chúng tôi có nhận xét rằng:
Trâu ở lô được áp dụng một số biện pháp phòng trị bệnh sán lá F. gigantica có
tỷ lệ nhiễm sán giảm thấp hơn và cường độ nhiễm nhẹ hơn rõ rệt so với trâu ở lô đối
chứng không được áp dụng các biện pháp phòng bệnh nói trên.
Những biện pháp mà chúng tôi đã áp dụng cho trâu ở lô thử nghiệm đều là
những biện pháp đơn giản có thể thực hiện dễ dàng ở các nông hộ và trại chăn nuôi
trâu, bò, song lại có hiệu quả phòng chống bệnh sán lá gan tốt cho trâu, bò, đồng
thời người chăn nuôi trâu, bò cần áp dụng những biện pháp kể trên để hạn chế tỷ lệ
và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò.
3.4.3. Xây dựng biện pháp phòng, trị tổng hợp bệnh sán lá F. gigantica cho trâu, bò.
Từ kết quả của đề tài, chúng tôi đề xuất biện pháp phòng chống tổng hợp bệnh sán lá
gan cho trâu, bò như sau:
1. Tẩy sán lá F. gigantica cho trâu, bò: khâu quan trọng trong biện pháp
phòng chống tổng hợp là tẩy sán lá gan cho trâu, bò. Thực tế trong điều kiện khí hậu
nóng ẩm của Việt Nam, bệnh sán lá gan tồn tại và phát triển quanh năm. Vì vậy,
ngoài việc tẩy cho những trâu, bò bị bệnh, còn phải tẩy mang tính dự phòng cho cả
đàn gia súc, đồng thời tránh mầm bệnh phát tán ra môi trường.
117
Ba loại thuốc với các mức liều đã thử nghiệm (triclabendazole, liều 15 mg /kgTT,
albendazol và nitroxinil - 25, liều 12 mg /kgTT) đều cho kết quả tẩy sán lá gan tốt. Tùy
từng địa phương, tùy điều kiện trường hợp cụ thể, mà có thể lựa chọn một trong
những loại thuốc đó để tẩy sán lá gan cho trâu, bò. Tuy nhiên, nên sử dụng thuốc
triclabendazole để có hiệu quả tẩy tốt nhất.
Ở những địa phương có điều kiện, cần chẩn đoán bệnh chính xác trước khi sử
dụng thuốc tẩy. Những địa phương không có điều kiện chẩn đoán thì căn cứ vào triệu
chứng lâm sàng và những đặc điểm dịch tễ học để xác định bệnh.
- Trước hết phải ưu tiên tẩy cho những trâu, bò bị nhiễm nặng hoặc có biểu hiện
lâm sàng của bệnh sán lá gan. Chú ý tẩy cho những trâu, bò trên 5 năm tuổi, đặc biệt
là những trâu, bò trên 8 năm tuổi.
- Định kỳ tẩy sán lá gan 2 lần /năm (đợt 1 vào tháng 4,5; đợt 2 vào tháng 9,10)
cho cả đàn trâu, bò khi kiểm tra phân thấy có 20 - 30% nhiễm sán lá gan. Khi tẩy,
nhất thiết phải nhốt trâu, bò và cho ăn tại chuồng trong 6 - 7 ngày, dọn sạch phân ở
chuồng, tập trung ủ kỹ để tránh mầm bệnh phát tán ra môi trường, bãi chăn thả.
2. Xử lý phân trâu, bò bằng phƣơng pháp nhiệt sinh học để diệt trứng sán
lá F. gigantica: hàng ngày thu gom phân ở chuồng nuôi, tập trung vào hố ủ hoặc tập
trung vào một nơi, vun thành đống, trát bùn kín dày 5 - 10 cm. Sau 2 - 3 tuần nhiệt độ
phân ủ tăng lên 50 - 60o và kéo dài trong nhiều ngày, ở nhiệt độ này toàn bộ trứng sán
lá gan sẽ bị tiêu diệt. Có thể trộn thêm tro bếp và lá xanh để tăng thêm nhiệt độ của
phân ủ. Hoặc đào hai hố ủ phân ở cạnh nhau phía sau chuồng trâu, bò, hàng ngày
gom phân vào một hố, khi đầy trát kín miệng hố bằng bùn. Tiếp tục thu gom phân
hàng ngày vào hố thứ hai. Khi đầy lại trát bùn trên miệng hố. Lúc này phân ở hố thứ
nhất đã có thể lấy ra để bón cho cây trồng.
3. Vệ sinh chuồng nuôi trâu, bò và khu vực xung quanh chuồng nuôi.
Chuồng nuôi trâu, bò phải giữ luôn khô ráo, sạch sẽ, định kỳ 2 tháng 1 lần dùng thuốc
sát trùng phun để diệt trứng sán lá F. gigantica ở nền chuồng và khu vực xung quanh
chuồng trâu, bò.
4. Cải tạo đồng cỏ, bãi chăn thả trâu, bò. Đồng cỏ, bãi chăn thả ẩm thấp, có
nhiều vũng nước đọng lâu ngày là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của trứng và
ấu trùng sán lá F. gigantica. Vì vậy, cần lấp những vũng nước đọng trên bãi chăn,
thu gom phân trên bãi chăn để ủ nhằm hạn chế sự phát tán, phát triển của trứng và ấu
trùng sán lá ở ngoại cảnh.
118
5. Diệt vật chủ trung gian của sán lá gan. Tháo cạn nước, làm khô những
đồng cỏ, bãi chăn lầy lội, ẩm ướt… là những biện pháp hữu hiệu để diệt ốc
Lymnaea spp.. Có thể diệt ốc bằng vôi bột hoặc chăn nuôi thuỷ cầm (vịt, ngan,
ngỗng). Tuy nhiên, tùy từng địa phương có thể vận dụng phương pháp diệt vật chủ
trung gian của sán lá gan cho phù hợp và hiệu quả.
6. Tăng cƣờng chăm sóc, nuôi dƣỡng trâu bò. Để nâng cao sức khỏe của đàn
trâu, bò, cần chú ý khâu quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng tốt.
Đối với trâu, bò các lứa tuổi (đặc biệt là trâu, bò sinh sản trong thời kỳ
mang thai và nuôi con) chú ý đảm bảo khẩu phần ăn đủ cả về số lượng và chất
lượng. Ngoài chăn dắt tự nhiên, cần trồng cỏ cho trâu, bò ăn thêm. Nếu có điều
kiện, nên bổ sung thêm thức ăn tinh cho trâu, bò. Có kế hoạch dự trữ và cung cấp
đủ thức ăn trong vụ Đông - Xuân, nhằm nâng cao sức đề kháng của trâu, bò, hạn
chế sự cảm nhiễm sán lá gan.
Các hộ chăn nuôi trâu, bò nên loại thải những trâu, bò già trên 10 năm tuổi để
loại bỏ bớt nguồn gieo rắc trứng sán lá F. gigantica ra ngoại cảnh, giảm khả năng lây
nhiễm cho những trâu, bò khác.
119
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
1- F. gigantica là loài sán lá ký sinh và gây bệnh sán lá gan cho trâu, bò ở 3 tỉnh
Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang, tỷ lệ nhiễm ở trâu là 58,67% và ở bò là
36,67% (qua mổ khám).
2 - Về đặc điểm dịch tễ:
+ Thực trạng chăn nuôi và phòng chống sán lá gan cho trâu, bò ở 3 tỉnh còn chưa tốt.
+ Tỷ lệ nhiễm sán lá gan qua xét nghiệm phân ở trâu tại ba tỉnh là 46,63%; ở bò
là 34,71%. Tỷ lệ và cường độ nhiễm tăng theo tuổi trâu, bò.
Trâu, bò nhiễm sán lá gan nhiều và nặng hơn trong mùa Hè và ít hơn ở các mùa
khác trong năm.
Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan không phụ thuộc vào tính biệt của trâu, bò.
+ Nền chuồng, xung quanh chuồng nuôi và khu vực bãi chăn thả trâu, bò đều bị ô
nhiễm trứng sán lá gan.
+ Ốc L. viridis và L. swinhoei - ký chủ trung gian của sán lá gan phân bố phổ biến
ở tất cả các địa phương nghiên cứu.
+ Tỷ lệ mẫu cỏ thủy sinh nhiễm kén Adolescaria với tỷ lệ 14 - 23%.
+ Thời gian sống của trứng sán lá gan trong đất khô ngắn, thời gian sống trong
đất ướt dài hơn. Vào mùa Hè thời gian trứng sống trong đất ngắn hơn các mùa khác.
+ Thời gian Miracidium thoát vỏ phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường. Nhiệt độ
càng thấp, thời gian thoát vỏ càng chậm hơn.
Sau khi thoát vỏ, Miracidium tồn tại trong nước từ 9 đến 14 giờ.
3- Tương quan giữa số trứng sán trong 1 gam phân với số sán ký sinh /trâu, bò
là tương quan thuận khá chặt theo phương trình hồi quy tuyến tính y = a + bx với hệ
số tương quan r = 0,96 và r = 0,969.
4- Với liều hướng dẫn, thuốc han - dertin B và fasiolid có hiệu lực tẩy sán lá
F. gigantica không cao (78 - 86%).
120
Hiệu lực tẩy sán F. gigantica của thuốc triclabendazole, liều 15 mg /kgTT là
100%; thuốc albendazol và nitroxinil - 25 với cùng liều 12mg /kg TT hiệu lực tẩy
đạt 90 - 96%. Cả 3 loại thuốc đều an toàn đối với trâu, bò.
5- Phòng chống bệnh sán lá F. gigantica cho trâu, bò bằng thực hiện đồng bộ 6
biện pháp chính (tẩy sán bằng thuốc triclabendazole, ủ phân, diệt ốc ký chủ trung gian,
vệ sinh thức ăn, nước uống, chuồng trại và bãi chăn thả và cần loại thải những trâu, bò
già trên 10 năm tuổi).
2. Đề nghị
- Sử dụng thuốc triclabendazol liều 15 mg /kg TT để tẩy sán lá gan lớn cho
trâu, bò ở các địa phương.
- Áp dụng rộng rãi biện pháp phòng chống tổng hợp bệnh sán lá gan lớn cho
đàn trâu, bò ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Đỗ Ngọc Ánh, Nguyễn Duy Bắc, Nguyễn Khắc Lực, Nguyễn Thị Vân, Lê Trần
Anh (2011), “Xác định loài và tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò tại huyện Đại
Lộc - Quảng Nam”, Công trình khoa học Báo cáo tại Hội nghị Ký sinh trùng
lần thứ 38, Nxb Y học, tr. 151 -156.
2. Trần Minh Châu (1998), 100 câu hỏi về bệnh trong chăn nuôi gia súc, gia cầm,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Diễn, Phan Lục, Phạm Sỹ Lăng (2006), “Một số nhận xét về giun
sán ký sinh đường tiêu hoá của bò tại một số địa điểm ở Đắk Lắk”, Tạp chí
Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XIII, số 1, tr. 54 - 59.
4. Phạm Ngọc Doanh, Nguyễn Thị Lê (2005), “Đặc điểm nhận dạng nhóm ấu trùng
cercaria của sán (Trematoda) và phân biệt cercaria của sán lá gan (F.
gigantica) trong ốc Lymnaea ở Việt Nam”, Tạp chí Sinh học, tr. 31 - 36.
5. Nguyễn Quốc Doanh, Lê Thanh Hoà (2006), “Một số đặc điểm hình thái và
phân tử của sán lá gan (Fasciola spp.) ở bò của tỉnh Nghệ An và Cao Bằng”,
Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, 3 (5), tr. 59 - 67.
6. Bùi Thị Dung (2012), “Ứng dụng và phát triển kỹ thuật PCR đa mồi trong phát
hiện sán lá gan lớn Fasciola gigantica ở ốc Lymnea viridis ở các giai đoạn ấu
trùng khác nhau”, Tạp chí Y - Dược học quân sự (10), tr. 118 - 121.
7. Nguyễn Đức Dương (1995), Điều tra tình hình nhiễm giun sán ký sinh đường
tiêu hóa của hươu sao và kỹ thuật phòng trị, Luận văn Thạc sỹ Khoa học
nông nghiệp, Hà Nội, tr.10.
8. Giang Hoàng Hà, Nguyễn Thị Giang Thanh, Đào Thị Hà Thanh (2008), “Tình
hình nhiễm ký sinh trùng đường tiêu hóa của đàn bò sữa tại Hà Nội và vùng
phụ cận”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XV, số 2, tr. 58 - 62.
9. Vũ Đức Hạnh (2009), Tỷ lệ trâu, bò tiêu chảy và thiếu máu, vai trò của sán lá
Fasciola trong hội chứng tiêu chảy và thiếu máu của trâu, bò ở huyện Yên
122
Sơn - tỉnh Tuyên Quang, biện pháp phòng trị, Luận văn Thạc sỹ khoa học
nông nghiệp, Đại học Thái Nguyên, tr. 22 - 40; 52 - 67
10. (Fasciola
-
, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập
XVI, số 4, tr. 69 - 73.
11. Hoàng Văn Hiền, Phạm Ngọc Doanh, Nguyễn Văn Đức, Phạm Văn Lực, Đặng
Thị Cẩm Thạch (2011), “Tình hình nhiễm sán lá gan trâu, bò ở Việt Nam”,
Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XVIII, số 1, tr. 80 - 83.
12. Lê Thanh Hòa, Nguyễn Văn Đề (2007), “Xác định lai ngoại loài giữa F.
gigantica và F. hepatica trong quần thể sán lá gan lớn ở Việt Nam trên cơ sở
sinh học phân tử”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, số 2, tr. 89 - 97.
13. Nguyễn Thế Hùng, Lê Thanh Hòa, Giang Hoàng Hà (2008), “Kết quả định loại
sán lá gan lớn thu thập ở lò mổ Hà Nội bằng phương pháp PCR”, Tạp chí
Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XV, số 3, tr. 50 - 55.
14. Nguyễn Hữu Hưng (2009), “Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan trên bò tại một
số địa phương tỉnh Đồng Tháp”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XVI,
số 6, tr. 51 - 55.
15. Nguyễn Hữu Hưng (2011), “Tình hình nhiễm sán lá gan ở bò tại một số tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long và thử hiệu quả tẩy trừ”, Tạp chí Khoa học Kỹ
thuật Thú y, tập XVIII, số 2, tr. 29 - 38.
16. Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Cự, Lê Đức, Trần Khắc Tiệp, Cái Văn Tranh
(1996), Phương pháp phân tích đất, nước, phân bón và cây trồng, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
17. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội, tr. 53 - 62.
18. Lê Hữu Khương, Nguyễn Văn Khanh, Nguyễn Hữu Lợi (2001), “Tình hình
nhiễm sán lá gan trâu, bò thuộc các vùng sinh thái Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học Kỹ thuật Thú y, tập VIII, số 1.
123
19. Nguyễn Trọng Kim, Phan Địch Lân, Đoàn Văn Phúc (1996), “Kết quả thử
nghiệm quy trình tẩy sán lá gan trâu, bò 3 lần/ năm (theo chu kỳ sinh học)”,
Các công trình của nghiên cứu sinh, quyển VI, Viện Khoa học kỹ thuật
Nông nghiệp Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
20. Nguyễn Trọng Kim (1997), Nghiên cứu sự liên quan giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng
sán lá gan ở ốc (KCTG) với tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò (KCCC) để
đánh giá tình hình dịch tễ của bệnh tại một số vùng ở Miền Bắc Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ nông nghiệp, Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam.
21. Nguyễn Trọng Kim, Phạm Ngọc Vĩnh (1997), “Kết quả điều tra tình hình
nhiễm sán lá gan trâu, bò ven biển Nghệ An và biện pháp phòng trừ”, Kết
quả nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam,
quyển 5, tr. 400 - 402.
22. Kunio Terasaki, Yasutaka Noda, Toshiyuki Shibahara và Tadashi Itagaki
(2010), “So sánh về hình thái, sinh học và giải quyết về nguồn gốc đa bội do
trinh sinh của Fasciola spp.”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XVII, số
6, (Người dịch: Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Thị Hương Giang).
23. Nguyễn Thị Kim Lan, Phan Địch Lân, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Văn
Quang (1998), “Biến động nhiễm giun sán đường tiêu hoá ở đàn dê Bắc Thái
theo tuổi, mùa vụ và tính biệt”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập V, số
1, tr. 73 - 80.
24. Nguyễn Thị Kim Lan, Phan Địch Lân, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Văn Quang
(1999), “Phát hiện bệnh giun sán đường tiêu hoá ở dê và dùng thuốc điều trị”,
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, 1(9), tr. 42 - 48.
25. Nguyễn Thị Kim Lan (2000), Bệnh giun, sán đường tiêu hoá của dê địa phương
ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và biện pháp phòng trị, Luận án
Tiến sĩ Nông nghiệp, Hà Nội.
26. Nguyễn Thị Kim Lan (2001), “Mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá
gan của ốc - ký chủ trung gian và tỷ lệ nhiễm sán lá gan của gia súc nhai lại
tại huyện Đồng Hỷ và Phú Lương - Thái Nguyên”, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ Nông - Lâm nghiệp, Đại học Thái Nguyên, tr. 107 - 110.
124
27. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Lê, Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Văn Quang
(2008), Ký sinh trùng học thú y (Giáo trình dùng cho bậc cao học), Nxb
Nông nghiệp Hà Nội, tr. 123 - 144.
28. Nguyễn Thị Kim Lan (2011), “Những bệnh phổ biến ở gia cầm, lợn và loài
nhai lại Việt Nam”, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr 189 - 309.
29. Nguyễn Thị Kim Lan (2012), Giáo trình ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú
y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội, tr. 62 - 70.
30. Phan Địch Lân (1980), Bệnh sán lá gan trâu do Fasciola gigantica ở phía Bắc
Việt Nam, Luận án PTS khoa học Nông Nghiệp.
31. Phan Địch Lân (1985), “Những nghiên cứu về sán lá gan và bệnh sán lá gan
trên trâu, bò ở nước ta”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, số 6, tr. 29 - 32.
32. Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang (2002), Bệnh ký sinh
trùng ở đàn dê Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 31 - 42.
33. Phan Địch Lân (2004), Bệnh ngã nước trâu bò, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 5 - 55.
34. Nguyễn Thị Lê, Phạm Văn Lực, Hà Duy Ngọ, Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Thị
Minh (1996), Giun sán ký sinh ở gia súc Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ
thuật, tr. 65 - 66.
35. Nguyễn Thị Lê, Hà Duy Ngọ, Nguyễn Thị Minh, Đặng Tất Thế, Đỗ Đức Ngái,
Phạm Ngọc Doanh, Nguyễn Kim Ninh, Nguyễn Thị Công (1996), “Kết quả
nghiên cứu tình hình nhiễm sán lá gan và biện pháp phòng chống ở đàn bò
sữa Ba Vì - Hà Tây”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập III, số 3, tr. 76 - 80.
36. Võ Thị Hải Lê (2010), “Tình hình nhiễm sán lá gan lớn của trâu, bò tại một số
địa điểm thuộc tỉnh Nghệ An”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XVII,
số 5, tr. 30 - 33.
37. Phan Lục, Trần Ngọc Thắng (1993), “Tình hình nghiên cứu ký sinh trùng
đường tiêu hóa trâu, bò vùng đồng bằng Sông Hồng và thuốc phòng trị”, Kết
quả nghiên cứu khoa học Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội (1991 -
1993), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
38. Phạm Văn Lực, Phạm Ngọc Doanh (2006), “Bệnh sán lá gan và các yếu tố nguy cơ
lây nhiễm sang người ở tỉnh Đắk Lắk”, Tạp chí Thú y thực hành, số 9, tr. 41 - 43.
125
39. Nguyễn Khắc Lực (2010), Nghiên cứu một số đặc điểm nhiễm sán lá gan lớn
(Fasciola spp.) và hiệu quả biện pháp can thiệp tại huyện Đại Lộc - Quảng
Nam, Luận án tiến sĩ Y học - Học viện Quân y.
40. Trần Đình Miên (1975), Giáo trình chọn giống và nhân giống vật nuôi, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
41. Đỗ Đức Ngái, Phạm Văn Lực, Nguyễn Văn Đức, Phạm Ngọc Doanh, Nguyễn
Văn Hà, Nguyễn Thị Minh (2006), “Tập quán chăn nuôi và tình hình nhiễm
bệnh sán lá gan trâu bò ở tỉnh Đắk Lắk”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y,
tập XIII, số 5, tr. 68 - 72.
42. Đoàn Văn Phúc, Vương Đức Chất, Dương Thanh Hà (1995), “Kết quả điều tra
sán lá gan trâu, bò khu vực Hà Nội và ứng dụng điều trị”, Công nghệ và
Nông nghiệp thực phẩm, Tạp chí Khoa học công nghệ và Quản lý kinh tế, Hà
Nội, 1/1995, tr. 36 - 37.
43. Nguyễn Quang Sức, Nguyễn Thế Hùng (1995), “Tình hình sức khỏe và khả
năng chống chịu bệnh của đàn dê bách Thảo sau hơn 3 năm nuôi ở miền Bắc
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập II, số 3, tr. 77 - 78.
44. , Lê
, Tạp chí Khoa học Kỹ
thuật Thú y 1, tr. 52 - 57.
45. Đặng Thị Cẩm Thạch, Đỗ Trung Dũng, Lê Ngọc Loan (2008), “Tình hình nhiễm
sán lá gan lớn ở Việt Nam năm 2007 và đề xuất biện pháp phòng chống”, Tạp chí
Phòng chống bệnh sốt rét và các bệnh ký sinh trùng, số 4, tr. 31 - 37.
46. Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên (1980), Định loại động vật
không xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học kỹ thuật, tr. 250.
47. Nguyễn Thị Kim Thành, Phan Địch Lân, Trương Xuân Dũng, Trần Thị Lợi
(1996), “Một số chỉ tiêu sinh lý máu của trâu mắc bệnh sán lá gan”, Tạp chí
Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập III, số 1, tr. 82 - 86
48. Nguyễn Văn Thiện (2008), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, Nhà
xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
126
49. Trịnh Văn Thịnh (1963), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông thôn, Hà Nội, tr. 281 - 292.
50. Trịnh Văn Thịnh, Đỗ Dương Thái (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở
Việt Nam, Tập 2: Giun sán ở động vật nuôi, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
51. Lương Tố Thu, Bùi Khánh Linh (1996), “Tình hình nhiễm sán lá gan (Fasciola)
và kết quả thử nghiệm Fasinex tẩy sán lá gan cho trâu, bò”, Tạp chí Khoa
học Kỹ thuật Thú y, tập III, số 1, tr. 74 - 81.
52. Lương Tố Thu, Norman Anderson, Bùi Khánh Linh, Võ Ngân Giang (1997),
“Nghiên cứu chế tạo kháng nguyên chất tiết của Fasciola spp. và sử dụng
phương pháp Elisa phát hiện kháng thể chống sán lá gan trâu, bò”, Tạp chí
Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập IV, số 2.
53. Lương Tố Thu, Đoàn Văn Phúc, Norman Anderson (1997), “Nhận định về các
loại thuốc trị sán lá gan và kết quả thử nghiệm trên trâu bò ở Việt Nam”, Tạp
chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập IV, số 3, tr. 6 - 15.
54. Hồ Thị Thuận, Nguyễn Ngọc Phương (1987), “Kết quả điều tra bệnh sán lá gan
trâu, bò và biện pháp phòng trừ”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp,
số 2, tr. 85 - 88.
55. Nguyễn Đình Trọng (2006), “Đề tài điều tra tình hình dịch tễ bệnh sán lá gan
trâu, bò và xây dựng mô hình phòng trị bệnh có hiệu quả tại tỉnh Bắc Kạn”,
Báo cáo đề tài Nghiên cứu khoa học cấp tỉnh - Tỉnh Bắc Kạn.
56. Nguyễn Hữu Vũ, Nguyễn Đức Lưu (2000), Thuốc thú y và cách sử dụng, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
II. Tài liệu tiếng Anh
57. Abou-Elhakam H., Rabee I., El Deeb S., El Amir A. (2013), “Protection against
Fasciola gigantica using paramyosin antigen as a candidate for vaccine
production”, Pak. J. Biol. Sci., pp. 1449 - 1458.
58. Abunna F., Asfaw L., Megersa B., Regassa A. (2010), “Bovine fasciolosis:
coprological, abattoir survey and its economic impact due to liver
condemnation at Soddo municipal abattoir, Southern Ethiopia”, Tropical
Animal Health and Production, pp. 289 - 292.
127
59. Alicata J. E. (1938), “Observations on the life history of Fasciola gigantica, the
common liver fluke of cattle in Hawaii and the intermediate host Fossaria
ollula”, Bulletin of the Hawaii Agricultural Experimental Station.
60. Ali Khanjari, Alireza Bahonar, Sepideh Fallah, Mahboube Bagheri, Abbas Alizadeh,
Marjan fallah, Zahra Khanjari (2014), “Prevalence of Fasciolosis and
dicrocoeliosis in slaughtered sheep and goats in Amol Abattoir, Mazandaran,
northern Iran”, Asian Pacific Journal of Tropical Disease, pp. 120 - 124.
61. Alison Howell, Lawrence Mugisha, Juliet Davies, E. James LaCourse, Jennifer
Claridge, Diana J. L. Williams, Louise Kelly-Hope, Martha Betson, Narcis
B. Kabatereine and J. Russell Stothard (2012), “Bovine Fasciolosis at
increasing altitudes: Parasitological and malacological sampling on the
slopes of Mount Elgon, Uganda”, Parasites & Vectors, pp. 186 - 196.
62. Ansari-lari M., Moazzeni M. (2006), “A retrospective survey of liver fluke
disease in livestock based on abattoir data in Shiraz, South of Iran”, Prev.
Vet. Med ., pp. 93 - 96.
63. Arias M. S., Martínez-Carrasco C., León-Vizcaíno L., Paz-Silva A., Díez-Baños P.,
Morrondo P., Alonso F. (2012), “Detection of antibodies in wild ruminants
to evaluate exposure to liver trematodes”, J. Parasitol., pp. 754 - 759.
64. Asanji M. F. (1988), “The snail intermediate host of Fasciola gigantica and the
behaviour of miracidia in host selection”, Bulletin of Animal Health and
Production in Africa, pp. 245 - 250.
65. Atle V. Meling Domke, Christophe Chartier, Bjørn Gjerde, Nils Leine, Synnøve
Vatn, Snorre Stuen (2013), “Prevalence of gastrointestinal helminths,
lungworms and liver fluke in sheep and goats in Norway”, Veterinary
parasitology, pp. 40 - 48.
66. Baldock F. C, Arthur R. J. (1985), “A survey of fasciolosis in beef cattle killed
at abattoir in south Queensland”, Aust. Vet. J., pp. 324 - 326.
67. Bennema S. J., Vercruysse E., Claerebout, Schnieder T., Strube C., Ducheyne
G. E., Hendrick J. Charlier (2009), “The use of bulk-tank milk ELISAs to
assess the spatial distribution of Fasciola hepatica, Ostertagia ostertagi and
Dictyocaulus viviparous in dairy cattle in Flanders (Belgium)”, Veterinary
Parasitology, pp. 51 - 57.
128
68. Bennema S. C., Ducheyne E., Vercruysse J., Claerebout E.,. Hendrickx G.,
Charlier J. (2011), “Relative importance of management, meteorological and
environmental factors in the spatial distribution of Fasciola hepatica in dairy
cattle in a temperate climate zone”, International Journal for Parasitology,
pp. 225 - 233.
69. Berhe G., Berhane K., Tadesse G. (2009), “Prevalence and economic
significance of fasciolosis in cattle in Mekelle Area of Ethiopia”, Trop.
Anim. Health Pro., pp. 503 - 1504.
70. Bitakaramire P. K. (1968), “Lynmaea natalensis laboratory culture and
production of Fasciola gigantica metacercariae”, Parasitology, pp. 653 - 656.
71. Boray J. C., Crowfoot P. D., Strong M. B., Allison J. R., Von Schellenbaum M.,
Orelli M., Sarasin G. (1983), “Treatment of immature and mature Fasciola
hepatica infections in sheep with triclabendazole”, Vet. Rec., pp. 315 - 317.
72. Boray J. C. (2011), “An assessment of the prevalence of fascioliasis of
ruminants in ikom abattoir of cross river state, Nigeria”. Continental J.
Veterinary Sciences, pp. 1 - 5.
73. Bouvry M., Rau M. E. (1986), “Seasonal variations in egg passage of Fasciola
hepatica in dairy cows in Quebec”, Vet. Parasitol., pp. 267 - 273.
74. Bulent Elitok, Ozgul Mukaddes Elitok, Mustafa Kabu (2006), “Field trial on
comparative efficacy of four fasciolicides against natural liver fluke infection
in cattle”, Veterinary parasitology, pp. 279 - 285.
75. Caron Y., Martens K., Lempereur L., Saegerman C., Losson B. (2014), “New
insight in lymnaeid snails (Mollusca, Gastropoda) as intermediate hosts of
Fasciola hepatica (Trematoda, Digenea) in Belgium and Luxembourg”,
Parasit. Vectors, pp. 7 - 66.
76. Catherine M. McCann, Matthew Baylis, Diana J. L. Williams (2010), “The
development of linear regression models using environmental variables to
explain the spatial distribution of Fasciola hepatica infection in dairy herds in
England and Wales”, International Journal for Parasitology, pp. 1021 - 1028.
129
77. Cawdery M. J. H., Strickland K. L., Konway A., Crowe P. J. (1977),
“Production effects of liver fluke in cattle. I. The effects of infection on live
weight gain, food intake and food conversion efficiency in beef cattle”, Br.
Vet. J., pp. 145 - 158.
78. Charlier J., De Cat A., Forbes A., Vercruysse J. (2009), “Measurement of
antibodies to gastrointestinal nematodes and liver fluke in meat juice of beef
cattle and associations with carcass parameters”, Vet. Parasitol., pp. 235 - 240.
79. Claxton J. R., Zambrano H., Ortiz P., Amorós C., Delgado E., Escurra E.,
Clarkson M. J. (1997), “The epidemiology of Fasciolosis in the inter -
Andean Valley of Cajamarca, Peru”, Parasitol., pp. 281 - 288.
80. Coelho L. H. L., Lima W. S., (2003), “Population dynamics of Lymnaea
columella and its natural infection by Fasciola hepatica in the state of Minas
Gerais, Brazil”, Journal of Helminthology, pp. 7 - 10.
81. Conceição M. A. P., Durão R. M. B., Costa I. M. H., Castro A., Louzã A. C.,
Costa J. C. (2004), “Herd-level seroprevalence of Fasciolosis in cattle in
north central Portugal”, Vet. Parasitol., pp. 93 - 103.
82. Cringoli G., Rinaldi L., Veneziano V., Capelli G.,. Malone J. B. (2002), “A
cross-sectional coprological survey of liver flukes in cattle and sheep from an
area of the southern Italian Apennines”, Veterinary parasitology, pp. 137 - 143.
83. Cucher M. A., Carnevale S., Prepelitchi L., Labbe J. H., Wisnivesky-Colli C.
(2006), “PCR diagnosis of Fasciola hepatica in field-collected Lymnaea
columella and Lymnaea viatrix snails”, Vet. Parasitol., pp. 74 - 82.
84. Da Costa C., Dreyfuss G., Rakotondravao C., Rondelaud D. (1994), “Several
observations concerning cercarial sheddings of Fasciola gigantica from
Lymnaea natalensis”, Parasite, pp. 39 - 44.
85. Dar Y., Djuikwo T. F., Vignoles P., Dreyfuss G., Rondelaud D. (2010), “Radix
natalensis (Gastropoda: Lymnaeidae), a potential intermediate host of
Fasciola hepatica in Egypt”, Parasite, pp. 251 - 256.
86. Dhar D. N, Sharma R. L, Raina D. K (1988), “Fasciolid in animal in the
Kashmir”, Valley journal of Veterinary parasitology.
130
87. Dinnik J. A., Dinnik N. N. (1963), “Effect of the seasonal variations of
temperature on the development of Fasciola gigantica in the snail host in the
Kenya highlands”, Bulletin of Epizootic Disease of Africa, pp. 197 - 207.
88. Dinnik J. A, Dinnik N. N. (1964), The influence of temperture of the succession
of redial and cercarial generation of F. gigantica in a snail host, Parasitology.
89. Dorny P., Stoliaroff V., Charlier J., Meas S., Sorn S., Chea B., Holl D., Van
Aken D., Vercruysse J. (2011), “Infections with gastroin-testinal nematodes,
Fasciola and Paramphistomumin cattle in Cambodia and their association
with morbidity parameters”, Veterinary Parasitology, pp. 293 - 299.
90. Dreyfuss G., Rondelaud D. (1997), “Fasciola gigantica and F. hepatica: a
comparative study of some haracteristics of Fasciola infection in Lymnaea
truncatula infected by either of the two trematodes”, Veterinary Research,
pp. 123 - 130.
91. Dung B. T., Doanh P. N., The D. T., Loan H. T., Losson B., Caron Y. (2013),
“Morphological and molecular characterization of lymnaeid snails and their
potential role in transmission of Fasciola spp. in Vietnam”, Korean J.
Parasitol., pp. 657 - 662.
92. Edith R., Sharma R. L., Rajesh Godara, Thilagar M. B. (2012), “Experimental
studies on anaemia in riverine buffaloes (Bubalus bubalis) infected with
Fasciola gigantica”, Comp. Clin. Pathol., pp. 415 - 419.
93. Fairweather I. (2005), “Triclabendazole: new skills to unravel an old(ish)
enigma”, J. Helminthol., pp. 227 - 234.
94. Foreyt W. J., Drew M. L. (2010), “Experimental infection of liver flukes,
Fasciola hepatica and Fascioloides magna, in Bison (Bison bison)”, J. Wildl
Dis., pp. 283 - 286.
95. Gargılı A., Tuzer E., Gulanber A., Toparlak M., Efil I., Keles V., Ulutas M.,
(1999), “Prevalence of liver fluke infections in slaughtered animals in Trakya
(Thrace), Turkey”, Turk. J. Vet. Anim. Sci., pp. 115 - 116.
131
96. Getachew M., Innocent G. T., Trawford A.F., Reid S. W., Love S. (2010),
“Epidemiological features of fasciolosis in working donkeys in Ethiopia”,
Vet. Parasitol., pp. 335 - 339.
97. Geurden T., Somers R., Thanh N. T. G., Vien L. V., Nga V. T., Giang H. H.,
Dorny P., Giao H. K., Vercruysse J. (2008), “Parasitic infections in dairy
cattle around Hanoi, Northern Vietnam”, Vet. Parasitol, pp. 384 - 388.
98. Grigoryan G. A. (1958), “Experimental study of Fasciola gigantica infestation
in sheep”, Trudy Armyansk Inst Zhivotnovodi Veterinariya, pp. 155 - 168.
99. Guralp N., Ozcan C., Simms B. T. (1964), “Fasciola gigantica and Fascioliasis in
Turkey”, American Journal of Veterinary Research, pp. 196 - 210.
100. Hamed N., Hammami H., Khaled S., Rondelaud D., Ayadi A. (2009),
“Natural infection of Fasciola hepatica (Trematoda: Fasciolidae) in Bulinus
truncatus (Gastropoda: Planorbidae) in northern Tunisia”, J. Helminthol.,
pp. 271- 273.
101. Hammami H., Hamed N., Ayadi A. (2007), “Epidemiological studies on Fasciola
hepatica in Gafsa Oases (south west of Tusinia)”, Parasite, pp. 261 - 264
102. Hariris R. E. and Charleston W. A. (1980), “Charleston Fascioliasis in New
Zealand”, A Review Veterinary Parasitology, pp. 39 - 49.
103. Holland W. G., Luong T. T., Nguyen L. A., Do T. T., Vercruysse J. (2000),
“The epidemiology of nematode and fluke infections in cattle in the Red
River Delta in Vietnam”, Veterinary parasitology, pp. 141 - 147.
104. Holmes P. H., Dargie J. D., Maclean J. M., Muligan W. (1968), “The anaemia
of Fascioliasis: Studies with 51 Cr labelled red cells”, Jounal. com. Path, pp.
415 - 420.
105. Hughes D. L. (1963), Some studies on the host parsit relation of hepatica. P.
thesis, University of London.
106. Issia L., Pietrokovsky S., Sousa - Figueiredo J., Stothard J. R., Wisnivesky-Colli C.
(2009), “Fasciola hepatica infections in livestock flock, guanacos and coypus in
two wildlife reserves in Argentina”, Vet. Parasitol., pp. 341 - 344.
132
107. Itagaki T., Tsutsumi K. (1998), “Triploid form of Fasciola in Japan: genetic
relationships between Fasciola hepatica and Fasciola gigantica determined
ITS - 2 sequence of nuclear rDNA”, Int. J. Parasitol, pp. 777 - 781.
108. Jahed Khaniki G. R., Kia E. B., Raei M. (2013), “Liver condemnation and
economic losses due to parasitic infections in slaughtered animals in Iran”, J.
Parasit. Dis., pp. 240 - 244.
109. Jean - Richard V., Crump L., Abicho A. A., Naré N. B., Greter H., Hattendorf
J., Schelling E., Zinsstag J. (2014), “Prevalence of Fasciola gigantica
infection in slaughtered animals in south - eastern Lake Chad area in relation
to husbandry practices and seasonal water levels”, B. M. C. Vet. Res. pp. 81.
110. Jill Pleasance, Herman W. Raadsma, Estuningsih S. E., Widjajanti S., Els
Meeusen (2011), “David Piedrafita Innate and adaptive resistance of
Indonesian Thin Tail sheep to liver fluke: A comparative analysis of Fasciola
gigantica and Fasciola hepatica infection” Veterinary parasitology, pp. 264 - 272.
111. John P. Dalton, Mark W. Robinson, Grace Mulcahy, Sandra M. O'Neill, Sheila
Donnelly (2013), “Immunomodulatory molecules of Fasciola hepatica:
Candidates for both vaccine and immunotherapeutic Development”,
Veterinary parasitology, pp. 272 - 285.
112. Jorgen Hansen, Brian Perry (1994), “The epidemiology, diagnosis and control
of Helminth parasites of Ruminants”, Hand book, pp. 32 - 33.
113. Kaplan R. M., Dame J. B., Reddy G. R., Courtney C. H. (1997), “The
prevalence of Fasciola hepatica in its snail intermediate host determined by
DNA probe assay”, Int. J. Parasitol., pp. 1585 - 1593.
114. Kaufmann J. (1996), Parasitic infection of domestic animal, Birkhauser verlag,
Basel, Boston, Berlin, pp. 90 - 94.
115. Kendall S. B., McCullough F. S. (1951), “The emergence of cercariae of
Fasciola hepatica from the snail Lymnaea truncatula”, J. Helminthol, pp. 77 - 92.
116. Khan M. K., Sajid M. S., Khan M. N., Iqbal Z., Iqbal M. U. (2009), “Bovine
Fasciolosis: prevalence, effects of treatment on productivity and cost benefit
analysis in five districts of Punjab, Pakistan”, Research in Veterinary
Science, pp. 70 - 77.
133
117. Kiziewicz B. (2013), “Natural infection with Fasciola hepatica (Linnaeus, 1758)
in the European bison (Bison bonasus) in Białowieża National Park, Poland”,
Parasitological Institute of SAS, Košice, Helminthologia, pp. 167 - 171.
118. Kozak M., Wedrychowicz H. (2010), “The performance of a PCR assay for
field studies on the prevalence of Fasciola hepatica infection in Galba
truncatula intermediate host snails”, Vet. Parasitol., pp. 25 - 30.
119. Kozłowska-Łój J., Łój-Maczulska A. (2013), “The prevalence of Fasciola
hepatica infection in cattle in the Lublin province in the years 2009 - 2012”,
Ann. Parasitol., pp. 207 - 208.
120. Lan Anh N. T., Thanh D. T., Hoan D. H., Thuy Do T., Khong N. V., Anderson
N. (2014), “The transmission of Fasciola spp. to cattle and contamination of
grazing areas with Fasciola eggs in the Red River Delta region of Vietnam”,
Trop. Anim. Health Prod., pp. 691 - 696.
121. Mahato S. N., Hammond J. A., Harrison L. J. S. (1995), “Laboratory based
experiment on the ability of Lymnaea auricularia race rufescens and
Lymnaea viridis to survive in drought conditions”, Veterinary Review
Kathmandu, pp. 10 - 12.
122. Maqbool A., Hayat C. S., Akhtar T., Hashmi H. A. (2002), “Epidemiology of
Fasciolosis in buffaloes under different managemental conditions”, Vet.
Arhiv., pp. 221 - 228.
123. Mas - Coma S., Angles R., Esteban J. G., Bargues M. D., Buchon P., Franken
M. (1999), “The Northern Bolivian Altiplano: A region highly endemic for
human Fascioliasis”, Trop. Med. Int. Health., pp. 454 - 467.
124. Mas - Coma S., Funatsu R., Bargues M. D. (2001), “Fasciola hepatica and
lymnaeid snails occurring at very high altitude in South America”,
Parasitology, pp. 115 - 127.
125. Mas - Coma S., Valero M. A., Bargues M. D. (2009), “Fasciola, lymnaeids
and human Fascioliasis, with a global overview on disease transmission,
epidemiology, evolutionary genetics, molecular epidemiology and control”,
Adv. Parasitol., pp. 41 - 146.
134
126. Mas - Coma S., Valero M. A., Bargues M. D. (2009), “Climate change effects
on Trematodiases, with emphasis on zoonotic Fascioliasis and
Schistosomiasis”, Vet. Parasitol., pp. 264 - 280.
127. Menkir M. Sissay, Arvid Uggla, Peter J. Waller (2007), “Prevalence and
seasonal incidence of Nematode parasites and fluke infections of sheep and
goats in Eastern Ethiopia”, Trop. Anim. Health Prod., pp. 521 - 531.
128. Mezo M., González - Warleta M., Castro - Hermida J. A., Manga - González
M. Y., Peixoto R., Mas - Coma S., Valero M. A. (2013), “The wild boar (Sus
scrofa Linnaeus, 1758) as secondary reservoir of Fasciola hepatica in
Galicia (NW. Spain)”, Vet. Parasitol., pp. 274 - 283.
129. Molina E. C., Gonzaga E. A. and Lumbayo L. A. (2005), “Prevalence of infection
with Fasciola gigantica and its relatiodnship to carcase and liver weights, fluke
and egg counts in slaughter cattle and buffaloes in South Mindanao,
Philippines”, Tropical Animal Health and Production, pp. 215 - 221.
130. Moll L., Gaasenbeek C. P., Vellema P., Borgsteede F. H. (2000), “Resistance
of Fasciola hepatica against triclabendazole in cattle and sheep in the
Netherlands”, Veterinary parasitology, pp. 153 - 158.
131. Molloy J. B., Anderson G. R., Fletcher T. I., Landmann J., Knight B. C.,
(2005), “Evaluation of a commercially available enzyme-linked
immunosorbent assay for detecting antibodies to Fasciola hepatica and
Fasciola gigantica in cattle, sheep and buffaloes in Australia”, Veterinary
parasitology, pp. 207 - 212.
132. Muhammad Kasib Khan, Muhammad Sohail Sajid, Hasan Riaz, Nazia Ehsan
Ahmad, Lan He, Muhammad Shahzad, Altaf Hussain, Muhammad Nisar
Khan, Zafar Iqbal, Junlong Zhao (2013), “The global burden of Fasciolosis
in domestic animals with an outlook on the contribution of new approaches
for diagnosis and control”, Parasitol. Res., pp. 2421 - 2430.
133. Mungube E. O., M. Bauni B. A., Tenhagen L. W., Wamae J. M., Nginyi J. M.
Mugambi (2006), “The prevalence and economic significance of Fasciola
gigantica and Stilesia hepatica in slaughtered animals in the semiarid coastal
Kenya”, Trop. Anim. Health Prod., pp. 475 - 483.
135
134. Narin Changklungmoa, Pornanan Kueakhai, Suda Riengrojpitak, Kulathida
Chaithirayanon, Pannigan Chaichanasak, Narin Preyavichyapugdee,
Pathanin Chantree, Veerawat Sansri, Tadashi Itagaki, Prasert Sobhon (2013),
“Immunization with recombinant leucine amino peptidase showed protection
against Fasciola gigantica in mice”, Parasitol. Res., pp. 3653 - 3659.
135. Nguyen T. G. T., Le T. H., Dao T. H. T., Tran T. L. H., Praetd N.,
Speybroeckd N., Vercruysse J., Dorny P. (2011), “Bovine Fasciolosis in the
human Fasciolosis hyperendemic Binh Dinh province in Central Vietnam”,
Acta. Tropica., pp. 19 - 22.
136. Olaechea F., Lovera V., Larroza M., Raffo F., Cabrera R. (2011), “Resistance
of Fasciola hepatica against triclabendazole in cattle in Patagonia
(Argentina)”, Vet. Parasitol., pp. 364 - 366.
137. Ortiz P., Scarcella S., Cerna C., Rosales C., Cabrera M., Guzmán M., Lamenza
P., Solana H. (2013), “Resistance of Fasciola hepatica against
triclabendazole in cattle in Cajamarca (Peru): a clinical trial and an in vivo
efficacy test in sheep”, Vet. Parasitol., pp. 118 - 121.
138. Pfukenyi D. M., Mukaratirwa S. (2004), “A retrospective study of the
prevalence and seasonal variason of Fasciola gigantica in cattle slaughtered
in the major abattoirs of Zimbabwe between 1990 and 1999”, Onderstepoort
Journal of Veterinary Research, pp. 181 - 187.
139. Phiri A. M., Phiri I. K., Sikasunge C. S., Monrad J. (2005), “Prevalence of
Fasciolosis in Zambian cattle observed at selected abattoirs with emphasis on
age, sex and origin”, J. Vet. Med., pp. 414 - 416.
140. Pierre Dorny, Valérie Stoliaroff, Johannes Charlier, Sothy Meas, San Sorn,
Bunthon Chea, Davun Holl, Dirk Van Aken, Jozef Vercruysse (2011),
“Infections with gastrointestinal Nematodes, Fasciola and Paramphistomum
in cattle in Cambodia and their association with morbidity parameters”,
Veterinary parasitology, pp. 293 - 299.
141. Rangel - Ruiz L. J., Marquez-Izaquierdo R., Bravo - Nogueira G. (1999),
“Bovine Fascioliosis in Tabasco, Mexico”, Vet. Parasitol., pp. 119 - 127.
136
142. Roberts J. A., Bakrie B., Copeman D. B. and Teleni E. (1991), An assessment
of the work output of buffalo infected with Fasciola gigantica, ACIAR:
Canberra.
143. Rognlie M. C., Dimke K. L., Potts R. S., Knapp S. E. (1996), “Seasonal
transmission of Fasciola hepatica in Montana, USA, with detection of
infected intermediate hosts using a DNA - based assay”, Vet. Parasitol, pp.
297 - 305.
144. Rojo-Vázqueza F. A., Meanab A., Valcárcel F., Martínez M. Valladaresd
(2012), “Update on Trematode infections in sheep”, Veterinary Parasitology,
pp. 15 - 38.
145. Rondelaud D., Vignoles P., Abrous M., Dreyfuss G. (2001), “The definitive
and intermediate hosts of Fasciola hepatica in the natural watercress beds in
central France”, Parasitology Research, pp. 475 - 478.
146. Rushton B., Murray M. (1977), “Hepatic pathology of a primany experimental
infection of F. hepatica in sheep and goats”, J. Comp. Path, pp. 459 - 470.
147. Sam Thi Nguyen, Duc Tan Nguyen, Thoai Van Nguyen, Vu Vy Huynh, Duc
Quyet Le, Yasuhiro Fukuda, Yutaka Nakai (2012), “Prevalence of Fasciola
in cattle and of its intermediate host Lymnaea snails in central Vietnam”,
Trop. Anim. Health Prod., pp. 1847 - 1853.
148. Savioli L., Chitsulo., Montresor A. (1999), “New opportunities for the control
ol Fascioliasis, Bull world heath Organ, pp. 300.
149. Schenonen H., Rojas A. (1988), Epidemiology of animal Fascioliasis in Chile,
Trendin the Privalence rates by rigion in 5 species of meat producing animal
slaughte at chilean abaltooirs 1977 - 1986, Boletino de parasotologya.
150. Schweizer G., Braun U., Deplazes P., Torgerson P. R. (2005), “Estimating the
financial losses due to bovine Fasciolosis in Switzerland”, Vet. Rec., pp. 188 -193.
151. Schweizer G., Meli M. L., Torgerson P. R., Lutz H., Deplazes P., Braun U.
(2007), “Prevalence of Fasciola hepatica in the intermediate host Lymnaea
truncatula detected by real time TaqMan PCR in populations from 70 Swiss
farms with cattle husbandry”, Vet. Parasitol., pp. 164 - 169.
137
152. Sewell M. M. H. (1966), “The pathogenesis of Fascioliasis”, Veterinary
Record, pp. 98 - 105.
153. Sharma R. L., Dhar D. N., Raina O. K. (1989), “Studies on the prevalence and
laboratory transmission of Fascioliasis in animals in the Kashmir valley”,
British Veterinary Journal, pp. 57 - 61.
154. Singh N. B., Basnyat B. M., Eichenberger G. and Bommeli W. (1973),
“Report on preparatory phase of parasite control project”, HMG/SATA:
Kathmandu, Nepal.
155. Sothoeun S., Davun H. and Copeman B. (2006), “Abattoir study on Fasciola
gigantica in Cambodian cattle”, Tropical Animal Health and Production, pp.
113 - 115.
156. Sothoeun S. (2007), Fasciolosis of cattle and buffaloes and its control
measures, Technical implementation procedure, Ministry of Agriculture,
Forestry and Fisheries, Kingdom of Cambodia.
157. Soun S., Hol D., Siek S., McLean M. and Copeman B. (2006), “Seasonal
differences in the incidence of infection with Fasciola gigantica in
Cambodian cattle”, Tropical Animal Health and Production, pp. 23 - 28.
158. Suhardono D. (2001), “Epidemiology and control of Fasciolosis by Fasciola
gigantica in ongole cattle in West Java. PhD. thesis”, Tropical Veterinary
Science, James Cook University of North Queensland: Townsville Australia.
159. Tavassoli M., Dalir - Naghadeh B., Esmaeili - Sani S. (2010), “Prevalence of
gastrointestinal parasites in working horses”, Pol. J. Vet. Sci., pp. 319 - 324.
160. Torgerson P., Claxton J. (1999), Epidemiology and control in Fasciolosis, Edited by
Dalton J. P. Wallingford, Oxon, U. K: CABI Publishing, pp. 113 - 149.
161. Tran V. H., Tran T. K., Nguyen H. C., Pham H. D., Pham T. H. (2001), “Fascioliasis
in Vietnam”, Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health, pp. 48 - 50.
162. Ueno H., Yoshihara S., Sonobe O., Morioka A. (1975), “Appearance of
Fasciola cercariae in rice fields determined by a metacercaria - detecting
buoy”, National Institute of Animal Health Quarterly, pp. 131 - 138.
138
163. Yvette M. Brockwell, Timothy P. Elliott, Glenn R. Anderson, Rex Stanton,
Terry W. Spithill, Nicholas C. Sangster (2014), “Confirmation of Fasciola
hepatica resistant to triclabendazole in naturally infected Australian beef and
dairy cattle”, International Journar for Parasitology: Drug and drug
Resistance, pp. 48 -54.
164. Wikerhauser T. (1960), “A rapid method for determining the viability of F.
hepatica metacercariae”, Am. J. Vet. Res. 21.
III. Tài liệu tiếng Pháp
165. Ripert C., Tribouley J., Luong Dinh Giap G., Combe A., Laborde M. (1987),
“Epidémiologie de la fasciolose humaine dans le sud ouest de la France”,
Bulletin de la Société Française de Parasitologie, pp. 227 - 230.
IV. Tài liệu tiếng Tây Ban Nha
166. Soulsby E. J. (1987), Parasitologia y Enfermedades Parasitarias, editorial
intermericana, Mexico D. F., Mexico, pp. 40 - 44, 235 - 236.
V. Tài liệu tiếng Bồ Đào Nha
167. Gomes D. L. (1985), Interrelação entre Fasciola hepatica L., 1758 Lymnaea
columella Say, 1817: Susceptibilidade Patogenia, PhD. thesis, Universidade
Federal Ruraldo Riode Janeiro, Itaguai, pp. 74.
VI. Tài liệu mạng internet
168. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=413&thangtk=01/2014
169. http://www.impe-qn.org.vn/impe-qn/vn/portal/InfoPreview.jsp?ID=2467
170. http://violet.vn/tracu/document/show/entry_id/2032512
139
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Nguyễn Thị Kim Lan, Phạm Diệu Thùy, Phạm Thị Trang (2012), “Tỷ lệ
và cường độ nhiễm sán lá Fasciola gigantica ở trâu, bò của tỉnh Thái Nguyên”, Tạp
chí Khoa học Kỹ thuật Chăn nuôi, số tháng 7, trang 19 - 23.
2. Phạm Diệu Thùy, Nguyễn Thị Kim Lan, Hoàng Thị Ngân (2012), “Tình
trạng nhiễm sán lá Fasciola ở đàn trâu, bò của tỉnh Bắc Kạn”, Tạp chí Khoa học Kỹ
thuật Chăn nuôi, số tháng 8, trang 26 - 31.
3. Phạm Diệu Thùy, Nguyễn Thị Kim Lan, Trần Nhật Thắng, Trần Thị
Phương Thảo (2014), “Nghiên cứu khả năng sống của trứng và thời gian phát triển
của ấu trùng sán lá Fasciola gigantica ở ngoại cảnh và trong vật chủ trung gian”,
Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, số tháng 6, trang 122 - 126.
4. Phạm Diệu Thùy, Nguyễn Thị Kim Lan, Trần Nhật Thắng, Trần Thị
Phương Thảo (2014), “Nghiên cứu sự ô nhiễm trứng và ấu trùng sán lá gan
Fasciola gigantica ở ngoại cảnh”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XXI, số 6,
trang 76 - 81.
5. Nguyễn Thị Kim Lan, Phạm Diệu Thùy, Trần Nhật Thắng, Trần Thị
Phương Thảo (2014), “Xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang và tương quan giữa số lượng trứng sán trong phân,
dịch mật với số lượng sán ký sinh” , Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y, tập XXI, số
7, trang 42 - 47.
PHỤ LỤC 1
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA ĐỀ TÀI
Ảnh 1. Trâu bị bệnh sán lá gan
(gầy, thiếu máu, tiêu chảy)
Ảnh 2. Bò bị bệnh sán lá gan
Ảnh 3. Thu thập mẫu sán lá gan và
dịch mật trâu, bò bị bệnh
Ảnh 4. Ống dẫn mật nổi rõ ở trâu bị
bệnh sán lá gan
Ảnh 5. Túi mật có rất nhiều sán lá gan
Ảnh 6. Sán lá gan ký sinh dày đặc
trong ống dẫn mật
Ảnh 7. Thành ống dẫn mật dày
và xù xì
Ảnh 8. Vùng gan bị hoại tử ở trâu bị
bệnh sán lá gan.
Ảnh 9. Bề mặt gan trâu, bò không
nhiễm sán lá gan
Ảnh 10. Bề mặt gan trâu, bò bị bệnh
sán lá gan
Ảnh 11. Trên bề mặt gan có những nốt hoại tử và có nhiều vệt đỏ thẫm do sán
non di hành
[Ảnh 12. Sán lá F. gigantica
thu thập từ ống dẫn mật
Ảnh 13. Trứng sán lá F. gigantica (x 100)
Ảnh 14. Đỉnh đầu sán lá F. gigantica
Ảnh 15. Phần đầu sán F. gigantica
Ảnh 16. Giác miệng sán lá F. gigantica
Ảnh 17. Giác bụng sán lá F. gigantica
Ảnh 18. Các tấm biểu bì ở phần đầu sán F. gigantica
Ảnh 19. Lớp biểu bì ở phần thân của sán lá gan F. gigantica
Ảnh 20. Chuồng trâu ngay bên cạnh
ruộng lúa
Ảnh 21. Chuồng trâu bên cạnh rãnh
nƣớc, tạo điều kiện cho Miracidium phát
triển thành ấu trùng có sức gây bệnh
Ảnh 22. Phân lầy lội xung quanh chuồng nuôi trâu
Ảnh 23. Phân trâu, bò phóng uế
bừa bãi, nguồn reo rắc mầm bệnh
Ảnh 24. Phân trâu, bò tƣơi đƣợc đem
bón ruộng
Ảnh 25. Trâu ăn cỏ thuỷ sinh và thải phân trực tiếp xuống nƣớc
Ảnh 26. Phân trâu, bò trên các vũng nƣớc ở bãi chăn
tạo điều kiện cho trứng sán lá gan phát triển
Ảnh 27. TN theo dõi thời gian sống
của trứng F. gigantica trong phân trâu
Ảnh 28. TN theo dõi thời gian sống
của trứng F. gigantica trong phân bò
Ảnh 29. Mẫu ốc không có nắp miệng
Ảnh 30. Ốc L. swinhoei đã định loại
Ảnh 31. Ốc L. viridis đã định loại
Ảnh 32. Ốc Lymnaea spp. sống ở ao
rau muống nƣớc trong, tĩnh
Ảnh 33. Ốc Lymnaea spp. ở ruộng lúa
mới cấy
Ảnh 34. Ốc Lymnaea spp. ở cống
rãnh thoát nƣớc
1 2 3
4
4
5
6
7
8
9
Ảnh 35. Các giai đoạn phát triển của trứng sán lá F. gigantica
trong môi trƣờng nƣớc (x 100)
Ảnh 36. Trứng sán lá F. gigantica bị chết (x 100)
Ảnh 37. TN theo dõi thời gian Miracidium
thoát vỏ trong trƣờng hợp trứng
F. gigantica mới thải rơi vào môi
trƣờng nƣớc
Ảnh 38. TN theo dõi thời gian sống
của Miracidium trong nƣớc
Ảnh 39. Miracidium thoát vỏ
(x 100)
Ảnh 40. Vỏ trứng đã bật nắp và
Mirracidium đã thoát ra ngoài
(x 100)
Ảnh 41. Miracidium đang chuyển
động trong nƣớc (x 100)
Ảnh 42. Khi Miracidium đã yếu và bắt
đầu ngừng vận động (x 100)
Ảnh 43. Miracidium lờ đờ trong nƣớc
(x 100)
Ảnh 44. Miracidium đang phân hủy
(x 100)
Ảnh 45. TN gây nhiễm ấu trùng sán lá F. gigantica cho ốc L. viridis để theo dõi sự
phát triển của ấu trùng trong ốc
Ảnh 46. Redia non (x 100)
Ảnh 47. Redia già trong có chứa
Cercaria (x 100)
Ảnh 48. Cercaria non (x 100)
Ảnh 49. Cercaria già (x 100)
Ảnh 50. Adolescaria trong nƣớc (x 40)
Ảnh 51. Các loại thuốc đã sử dụng tẩy sán lá gan cho trâu, bò
PHỤ LỤC 2
KẾT QUẢ ĐỊNH LOẠI ỐC NƢỚC NGỌT - KÝ CHỦ TRUNG GIAN
CỦA SÁN LÁ GAN
PHỤ LỤC 3
KẾT QUẢ GIẢI TRÌNH TỰ GEN SÁN LÁ FASCIOLA GIGANTICA
PHỤ LỤC 4
XỬ LÝ SỐ LIỆU
1. So sánh tỷ lệ nhiễm giữa các tỉnh
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 851 949 1800
839.33 960.67
0.162 0.142
2 934 866 1800
839.33 960.67
10.677 9.329
3 733 1067 1800
839.33 960.67
13.471 11.770
Total 2518 2882 5400
Chi-Sq = 45.551, DF = 2, P-Value = 0.000
2. So sánh Thái Nguyên - Bắc Cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Nhiễm Không nhiễm Total
1 851 949 1800
792.00 1008.00
4.395 3.453
2 733 1067 1800
792.00 1008.00
4.395 3.453
Total 1584 2016 3600
Chi-Sq = 15.697, DF = 1, P-Value = 0.000
3. So sánh Thái Nguyên - Tuyên Quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 851 949 1800
892.50 907.50
1.930 1.898
2 934 866 1800
892.50 907.50
1.930 1.898
Total 1785 1815 3600
Chi-Sq = 7.655, DF = 1, P-Value = 0.006
4. So sánh Tuyên Quang - Bắc Cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 934 866 1800
833.50 966.50
12.118 10.450
2 733 1067 1800
833.50 966.50
12.118 10.450
Total 1667 1933 3600
Chi-Sq = 45.136, DF = 1, P-Value = 0.000
2. So sánh trong tỉnh Thái Nguyên
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 335 265 600
283.67 316.33
9.289 8.330
2 238 362 600
283.67 316.33
7.352 6.593
3 278 322 600
283.67 316.33
0.113 0.102
Total 851 949 1800
Chi-Sq = 31.779, DF = 2, P-Value = 0.000
2.1. Đồng Hỷ - Võ Nhai
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 335 265 600
286.50 313.50
8.210 7.503
2 238 362 600
286.50 313.50
8.210 7.503
Total 573 627 1200
Chi-Sq = 31.427, DF = 1, P-Value = 0.000
2.2. So sánh Đồng Hỷ - Đại Từ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 335 265 600
306.50 293.50
2.650 2.767
2 278 322 600
306.50 293.50
2.650 2.767
Total 613 587 1200
Chi-Sq = 10.835, DF = 1, P-Value = 0.001
2.3. So sánh Võ Nhai - Đại Từ
Chi-Square Test: Nhiễm, Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm Nhiễm nhiễm Total
1 238 238 362 838
251.99 251.99 334.03
0.776 0.776 2.342
2 278 278 322 878
264.01 264.01 349.97
0.741 0.741 2.236
Total 516 516 684 1716
Chi-Sq = 7.612, DF = 2, P-Value = 0.022
3. So sánh tỉnh Bắc Cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 320 280 600
244.33 355.67
23.433 16.098
2 190 410 600
244.33 355.67
12.082 8.300
3 223 377 600
244.33 355.67
1.863 1.280
Total 733 1067 1800
Chi-Sq = 63.055, DF = 2, P-Value = 0.000
3.1. Chợ Mới - Bạch Thông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 320 280 600
255.00 345.00
16.569 12.246
2 190 410 600
255.00 345.00
16.569 12.246
Total 510 690 1200
Chi-Sq = 57.630, DF = 1, P-Value = 0.000
3.2. Chợ Mới - Ngân Sơn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 320 280 600
271.50 328.50
8.664 7.161
2 223 377 600
271.50 328.50
8.664 7.161
Total 543 657 1200
Chi-Sq = 31.649, DF = 1, P-Value = 0.000
3.3. Bạch Thông - Ngân Sơn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 190 410 600
206.50 393.50
1.318 0.692
2 223 377 600
206.50 393.50
1.318 0.692
Total 413 787 1200
Chi-Sq = 4.021, DF = 1, P-Value = 0.045
4. Tỉnh Tuyên Quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 336 264 600
311.33 288.67
1.954 2.108
2 275 325 600
311.33 288.67
4.240 4.573
3 323 277 600
311.33 288.67
0.437 0.472
Total 934 866 1800
Chi-Sq = 13.784, DF = 2, P-Value = 0.001
4.1. Yên Sơn - Hàm Yên
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 336 264 600
305.50 294.50
3.045 3.159
2 275 325 600
305.50 294.50
3.045 3.159
Total 611 589 1200
Chi-Sq = 12.408, DF = 1, P-Value = 0.000
4.2. Yên Sơn - tp Tuyên Quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 336 264 600
329.50 270.50
0.128 0.156
2 323 277 600
329.50 270.50
0.128 0.156
Total 659 541 1200
Chi-Sq = 0.569, DF = 1, P-Value = 0.451
4.3. Hàm Yên - tp Tuyên Quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 275 325 600
299.00 301.00
1.926 1.914
2 323 277 600
299.00 301.00
1.926 1.914
Total 598 602 1200
Chi-Sq = 7.680, DF = 1, P-Value = 0.006
II. Bò
1. Bò các tỉnh
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 243 387 630
218.67 411.33
2.708 1.439
2 225 405 630
218.67 411.33
0.183 0.098
3 188 442 630
218.67 411.33
4.301 2.286
Total 656 1234 1890
Chi-Sq = 11.015, DF = 2, P-Value = 0.004
Thái nguyên - tuyên quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 243 387 630
234.00 396.00
0.346 0.205
2 225 405 630
234.00 396.00
0.346 0.205
Total 468 792 1260
Chi-Sq = 1.101, DF = 1, P-Value = 0.294
Thái nguyên - bắc cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 243 387 630
215.50 414.50
3.509 1.824
2 188 442 630
215.50 414.50
3.509 1.824
Total 431 829 1260
Chi-Sq = 10.668, DF = 1, P-Value = 0.001
tuyên quang - bắc cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 225 405 630
206.50 423.50
1.657 0.808
2 188 442 630
206.50 423.50
1.657 0.808
Total 413 847 1260
Chi-Sq = 4.931, DF = 1, P-Value = 0.026
2. Tỉnh Thái Nguyên
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 110 100 210
81.00 129.00
10.383 6.519
2 63 147 210
81.00 129.00
4.000 2.512
3 70 140 210
81.00 129.00
1.494 0.938
Total 243 387 630
Chi-Sq = 25.846, DF = 2, P-Value = 0.000
Đồng hỷ - võ nhai
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 110 100 210
86.50 123.50
6.384 4.472
2 63 147 210
86.50 123.50
6.384 4.472
Total 173 247 420
Chi-Sq = 21.712, DF = 1, P-Value = 0.000
Đồng hỷ - đại từ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 110 100 210
90.00 120.00
4.444 3.333
2 70 140 210
90.00 120.00
4.444 3.333
Total 180 240 420
Chi-Sq = 15.556, DF = 1, P-Value = 0.000
Võ nhai - đại từ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 63 147 210
66.50 143.50
0.184 0.085
2 70 140 210
66.50 143.50
0.184 0.085
Total 133 287 420
Chi-Sq = 0.539, DF = 1, P-Value = 0.463
Tỉnh Bắc Cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 80 130 210
62.67 147.33
4.794 2.039
2 69 141 210
62.67 147.33
0.640 0.272
3 39 171 210
62.67 147.33
8.938 3.802
Total 188 442 630
Chi-Sq = 20.485, DF = 2, P-Value = 0.000
Chợ mới - bạch thông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 80 130 210
74.50 135.50
0.406 0.223
2 69 141 210
74.50 135.50
0.406 0.223
Total 149 271 420
Chi-Sq = 1.259, DF = 1, P-Value = 0.262
Chợ mới - ngân sơn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 80 130 210
59.50 150.50
7.063 2.792
2 39 171 210
59.50 150.50
7.063 2.792
Total 119 301 420
Chi-Sq = 19.711, DF = 1, P-Value = 0.000
bạch thông - ngân sơn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 69 141 210
54.00 156.00
4.167 1.442
2 39 171 210
54.00 156.00
4.167 1.442
Total 108 312 420
Chi-Sq = 11.218, DF = 1, P-Value = 0.001
Tỉnh Tuyên quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 67 143 210
75.00 135.00
0.853 0.474
2 75 135 210
75.00 135.00
0.000 0.000
3 83 127 210
75.00 135.00
0.853 0.474
Total 225 405 630
Chi-Sq = 2.655, DF = 2, P-Value = 0.265
Yên sơn - hàm yên
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 67 143 210
71.00 139.00
0.225 0.115
2 75 135 210
71.00 139.00
0.225 0.115
Total 142 278 420
Chi-Sq = 0.681, DF = 1, P-Value = 0.409
yên sơn - tp Tuyên quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 67 143 210
75.00 135.00
0.853 0.474
2 83 127 210
75.00 135.00
0.853 0.474
Total 150 270 420
Chi-Sq = 2.655, DF = 1, P-Value = 0.103
hàm yên - tp tuyên quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 67 143 210
75.00 135.00
0.853 0.474
2 83 127 210
75.00 135.00
0.853 0.474
Total 150 270 420
Chi-Sq = 2.655, DF = 1, P-Value = 0.103
III. Tuổi trâu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 385 948 1333
621.57 711.43
90.041 78.668
2 727 956 1683
784.78 898.22
4.254 3.716
3 810 688 1498
698.51 799.49
17.794 15.547
4 596 290 886
413.14 472.86
80.937 70.715
Total 2518 2882 5400
Chi-Sq = 361.672, DF = 3, P-Value = 0.000
- <2 và 2- 5
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Nhiễm Không nhiễm Total
1 385 948 1333
491.48 841.52
23.068 13.473
2 727 956 1683
620.52 1062.48
18.271 10.671
Total 1112 1904 3016
Chi-Sq = 65.482, DF = 1, P-Value = 0.000
< 2 và 5 -8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 385 948 1333
562.68 770.32
56.105 40.981
2 810 688 1498
632.32 865.68
49.925 36.467
Total 1195 1636 2831
Chi-Sq = 183.477, DF = 1, P-Value = 0.000
< 2 và >8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 385 948 1333
589.31 743.69
70.831 56.127
2 596 290 886
391.69 494.31
106.567 84.444
Total 981 1238 2219
Chi-Sq = 317.970, DF = 1, P-Value = 0.000
2 - 5 và 5 - 8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 727 956 1683
813.19 869.81
9.136 8.542
2 810 688 1498
723.81 774.19
10.264 9.596
Total 1537 1644 3181
Chi-Sq = 37.538, DF = 1, P-Value = 0.000
2 - 5 và > 8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 727 956 1683
866.72 816.28
22.524 23.916
2 596 290 886
456.28 429.72
42.786 45.430
Total 1323 1246 2569
Chi-Sq = 134.656, DF = 1, P-Value = 0.000
5 - 8 và > 8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 810 688 1498
883.47 614.53
6.110 8.783
2 596 290 886
522.53 363.47
10.330 14.850
Total 1406 978 2384
Chi-Sq = 40.073, DF = 1, P-Value = 0.000
Tuổi bò
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 81 314 395
137.10 257.90
22.956 12.203
2 197 438 635
220.40 414.60
2.485 1.321
3 234 358 592
205.48 386.52
3.959 2.105
4 144 124 268
93.02 174.98
27.940 14.853
Total 656 1234 1890
Chi-Sq = 87.822, DF = 3, P-Value = 0.000
< 2 và 2 - 5
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 81 314 395
106.61 288.39
6.153 2.275
2 197 438 635
171.39 463.61
3.827 1.415
Total 278 752 1030
Chi-Sq = 13.670, DF = 1, P-Value = 0.000
< 2 và 5 - 8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 81 314 395
126.06 268.94
16.109 7.551
2 234 358 592
188.94 403.06
10.748 5.038
Total 315 672 987
Chi-Sq = 39.447, DF = 1, P-Value = 0.000
< 2 và > 8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 81 314 395
134.05 260.95
20.994 10.785
2 144 124 268
90.95 177.05
30.943 15.895
Total 225 438 663
Chi-Sq = 78.617, DF = 1, P-Value = 0.000
2 - 5 và 5 - 8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 197 438 635
223.05 411.95
3.043 1.648
2 234 358 592
207.95 384.05
3.264 1.767
Total 431 796 1227
Chi-Sq = 9.722, DF = 1, P-Value = 0.002
2 - 5 và > 8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 197 438 635
239.80 395.20
7.637 4.634
2 144 124 268
101.20 166.80
18.096 10.980
Total 341 562 903
Chi-Sq = 41.348, DF = 1, P-Value = 0.000
5 - 8 và > 8
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 234 358 592
260.20 331.80
2.639 2.070
2 144 124 268
117.80 150.20
5.829 4.572
Total 378 482 860
Chi-Sq = 15.110, DF = 1, P-Value = 0.000
Trâu theo mùa Thái Nguyên
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 173 277 450
212.75 237.25
7.427 6.660
2 291 195 486
229.77 256.23
16.317 14.632
3 218 196 414
195.73 218.27
2.534 2.272
4 169 281 450
212.75 237.25
8.997 8.068
Total 851 949 1800
Chi-Sq = 66.906, DF = 3, P-Value = 0.000
Xuân - hạ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 173 277 450
223.08 226.92
11.241 11.051
2 291 195 486
240.92 245.08
10.409 10.232
Total 464 472 936
Chi-Sq = 42.933, DF = 1, P-Value = 0.000
xuân - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 173 277 450
203.65 246.35
4.612 3.812
2 218 196 414
187.35 226.65
5.013 4.144
Total 391 473 864
Chi-Sq = 17.581, DF = 1, P-Value = 0.000
xuân - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 173 277 450
171.00 279.00
0.023 0.014
2 169 281 450
171.00 279.00
0.023 0.014
Total 342 558 900
Chi-Sq = 0.075, DF = 1, P-Value = 0.784
hạ - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 291 195 486
274.86 211.14
0.948 1.234
2 218 196 414
234.14 179.86
1.113 1.448
Total 509 391 900
Chi-Sq = 4.742, DF = 1, P-Value = 0.029
hạ - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 291 195 486
238.85 247.15
11.388 11.005
2 169 281 450
221.15 228.85
12.299 11.886
Total 460 476 936
Chi-Sq = 46.579, DF = 1, P-Value = 0.000
thu - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 218 196 414
185.44 228.56
5.718 4.639
2 169 281 450
201.56 248.44
5.260 4.268
Total 387 477 864
Chi-Sq = 19.885, DF = 1, P-Value = 0.000
Tuyên quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 254 249 503
261.00 242.00
0.188 0.203
2 271 182 453
235.06 217.94
5.496 5.928
3 220 192 412
213.78 198.22
0.181 0.195
4 189 243 432
224.16 207.84
5.515 5.948
Total 934 866 1800
Chi-Sq = 23.653, DF = 3, P-Value = 0.000
xuân - hạ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 254 249 503
276.23 226.77
1.789 2.179
2 271 182 453
248.77 204.23
1.986 2.419
Total 525 431 956
Chi-Sq = 8.374, DF = 1, P-Value = 0.004
xuân - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 254 249 503
260.57 242.43
0.166 0.178
2 220 192 412
213.43 198.57
0.202 0.217
Total 474 441 915
Chi-Sq = 0.763, DF = 1, P-Value = 0.382
xuân - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 254 249 503
238.32 264.68
1.032 0.929
2 189 243 432
204.68 227.32
1.201 1.082
Total 443 492 935
Chi-Sq = 4.243, DF = 1, P-Value = 0.039
hạ - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 271 182 453
257.14 195.86
0.747 0.981
2 220 192 412
233.86 178.14
0.822 1.079
Total 491 374 865
Chi-Sq = 3.630, DF = 1, P-Value = 0.057
hạ - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 271 182 453
235.46 217.54
5.365 5.807
2 189 243 432
224.54 207.46
5.626 6.089
Total 460 425 885
Chi-Sq = 22.887, DF = 1, P-Value = 0.000
thu - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 220 192 412
199.65 212.35
2.073 1.949
2 189 243 432
209.35 222.65
1.977 1.859
Total 409 435 844
Chi-Sq = 7.859, DF = 1, P-Value = 0.005
Bắc cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 115 263 378
153.93 224.07
9.846 6.764
2 245 223 468
190.58 277.42
15.540 10.675
3 202 248 450
183.25 266.75
1.918 1.318
4 171 333 504
205.24 298.76
5.712 3.924
Total 733 1067 1800
Chi-Sq = 55.697, DF = 3, P-Value = 0.000
xuân - hạ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 115 263 378
160.85 217.15
13.070 9.681
2 245 223 468
199.15 268.85
10.557 7.820
Total 360 486 846
Chi-Sq = 41.128, DF = 1, P-Value = 0.000
xuân - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 115 263 378
144.72 233.28
6.102 3.786
2 202 248 450
172.28 277.72
5.126 3.180
Total 317 511 828
Chi-Sq = 18.194, DF = 1, P-Value = 0.000
xuân - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 115 263 378
122.57 255.43
0.468 0.224
2 171 333 504
163.43 340.57
0.351 0.168
Total 286 596 882
Chi-Sq = 1.211, DF = 1, P-Value = 0.271
hạ - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 245 223 468
227.88 240.12
1.286 1.220
2 202 248 450
219.12 230.88
1.337 1.269
Total 447 471 918
Chi-Sq = 5.112, DF = 1, P-Value = 0.024
hạ - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 245 223 468
200.30 267.70
9.977 7.465
2 171 333 504
215.70 288.30
9.265 6.932
Total 416 556 972
Chi-Sq = 33.639, DF = 1, P-Value = 0.000
thu - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 202 248 450
175.94 274.06
3.859 2.477
2 171 333 504
197.06 306.94
3.445 2.212
Total 373 581 954
Chi-Sq = 11.994, DF = 1, P-Value = 0.001
tính chung
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 542 789 1331
620.64 710.36
9.964 8.706
2 807 600 1407
656.08 750.92
34.717 30.332
3 639 637 1276
594.99 681.01
3.255 2.844
4 530 856 1386
646.29 739.71
20.924 18.281
Total 2518 2882 5400
Chi-Sq = 129.022, DF = 3, P-Value = 0.000
xuân - hạ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 542 789 1331
655.78 675.22
19.740 19.172
2 807 600 1407
693.22 713.78
18.674 18.136
Total 1349 1389 2738
Chi-Sq = 75.723, DF = 1, P-Value = 0.000
xuân - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 542 789 1331
602.96 728.04
6.163 5.104
2 639 637 1276
578.04 697.96
6.428 5.324
Total 1181 1426 2607
Chi-Sq = 23.019, DF = 1, P-Value = 0.000
xuân - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 542 789 1331
525.15 805.85
0.541 0.352
2 530 856 1386
546.85 839.15
0.519 0.338
Total 1072 1645 2717
Chi-Sq = 1.751, DF = 1, P-Value = 0.186
hạ - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 807 600 1407
758.30 648.70
3.127 3.656
2 639 637 1276
687.70 588.30
3.449 4.031
Total 1446 1237 2683
Chi-Sq = 14.263, DF = 1, P-Value = 0.000
hạ - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 807 600 1407
673.53 733.47
26.451 24.289
2 530 856 1386
663.47 722.53
26.851 24.657
Total 1337 1456 2793
Chi-Sq = 102.248, DF = 1, P-Value = 0.000
thu - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 639 637 1276
560.35 715.65
11.040 8.644
2 530 856 1386
608.65 777.35
10.164 7.958
Total 1169 1493 2662
Chi-Sq = 37.806, DF = 1, P-Value = 0.000
bò mùa vụ
tính chung
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 120 322 442
153.41 288.59
7.278 3.869
2 213 283 496
172.16 323.84
9.690 5.151
3 192 302 494
171.46 322.54
2.460 1.308
4 131 327 458
158.97 299.03
4.920 2.616
Total 656 1234 1890
Chi-Sq = 37.291, DF = 3, P-Value = 0.000
xuân - hạ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 120 322 442
156.91 285.09
8.684 4.780
2 213 283 496
176.09 319.91
7.739 4.260
Total 333 605 938
Chi-Sq = 25.463, DF = 1, P-Value = 0.000
xuân - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 120 322 442
147.33 294.67
5.071 2.535
2 192 302 494
164.67 329.33
4.537 2.269
Total 312 624 936
Chi-Sq = 14.412, DF = 1, P-Value = 0.000
xuân - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 120 322 442
123.27 318.73
0.087 0.034
2 131 327 458
127.73 330.27
0.084 0.032
Total 251 649 900
Chi-Sq = 0.236, DF = 1, P-Value = 0.627
hạ - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 213 283 496
202.91 293.09
0.502 0.347
2 192 302 494
202.09 291.91
0.504 0.349
Total 405 585 990
Chi-Sq = 1.702, DF = 1, P-Value = 0.192
hạ - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 213 283 496
178.85 317.15
6.520 3.677
2 131 327 458
165.15 292.85
7.061 3.982
Total 344 610 954
Chi-Sq = 21.240, DF = 1, P-Value = 0.000
thu - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 192 302 494
167.61 326.39
3.550 1.823
2 131 327 458
155.39 302.61
3.829 1.966
Total 323 629 952
Chi-Sq = 11.168, DF = 1, P-Value = 0.001
tỉnh thái nguyên
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 45 115 160
61.71 98.29
4.527 2.842
2 79 84 163
62.87 100.13
4.138 2.598
3 77 89 166
64.03 101.97
2.628 1.650
4 42 99 141
54.39 86.61
2.821 1.771
Total 243 387 630
Chi-Sq = 22.974, DF = 3, P-Value = 0.000
xuân - hạ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 45 115 160
61.42 98.58
4.392 2.736
2 79 84 163
62.58 100.42
4.311 2.686
Total 124 199 323
Chi-Sq = 14.125, DF = 1, P-Value = 0.000
xuân - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 45 115 160
59.88 100.12
3.696 2.211
2 77 89 166
62.12 103.88
3.563 2.131
Total 122 204 326
Chi-Sq = 11.601, DF = 1, P-Value = 0.001
xuân - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 45 115 160
46.25 113.75
0.034 0.014
2 42 99 141
40.75 100.25
0.038 0.015
Total 87 214 301
Chi-Sq = 0.101, DF = 1, P-Value = 0.751
hạ - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 79 84 163
77.29 85.71
0.038 0.034
2 77 89 166
78.71 87.29
0.037 0.034
Total 156 173 329
Chi-Sq = 0.143, DF = 1, P-Value = 0.706
hạ - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 79 84 163
64.88 98.12
3.074 2.032
2 42 99 141
56.12 84.88
3.553 2.350
Total 121 183 304
Chi-Sq = 11.009, DF = 1, P-Value = 0.001
thu - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 77 89 166
64.35 101.65
2.489 1.575
2 42 99 141
54.65 86.35
2.930 1.855
Total 119 188 307
Chi-Sq = 8.849, DF = 1, P-Value = 0.003
bắc cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 34 109 143
42.67 100.33
1.763 0.750
2 67 108 175
52.22 122.78
4.182 1.779
3 49 117 166
49.54 116.46
0.006 0.002
4 38 108 146
43.57 102.43
0.712 0.303
Total 188 442 630
Chi-Sq = 9.496, DF = 3, P-Value = 0.023
xuân - hạ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 34 109 143
45.42 97.58
2.871 1.336
2 67 108 175
55.58 119.42
2.346 1.092
Total 101 217 318
Chi-Sq = 7.644, DF = 1, P-Value = 0.006
xuân - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 34 109 143
38.41 104.59
0.507 0.186
2 49 117 166
44.59 121.41
0.436 0.160
Total 83 226 309
Chi-Sq = 1.289, DF = 1, P-Value = 0.256
xuân - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 34 109 143
35.63 107.37
0.074 0.025
2 38 108 146
36.37 109.63
0.073 0.024
Total 72 217 289
Chi-Sq = 0.196, DF = 1, P-Value = 0.658
hạ - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 67 108 175
59.53 115.47
0.937 0.483
2 49 117 166
56.47 109.53
0.988 0.509
Total 116 225 341
Chi-Sq = 2.918, DF = 1, P-Value = 0.088
hạ - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 67 108 175
57.24 117.76
1.663 0.808
2 38 108 146
47.76 98.24
1.993 0.969
Total 105 216 321
Chi-Sq = 5.434, DF = 1, P-Value = 0.020
thu - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 49 117 166
46.29 119.71
0.159 0.061
2 38 108 146
40.71 105.29
0.181 0.070
Total 87 225 312
Chi-Sq = 0.471, DF = 1, P-Value = 0.493
Tuyên quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 41 98 139
49.64 89.36
1.505 0.836
2 66 92 158
56.43 101.57
1.624 0.902
3 66 96 162
57.86 104.14
1.146 0.637
4 52 119 171
61.07 109.93
1.347 0.749
Total 225 405 630
Chi-Sq = 8.745, DF = 3, P-Value = 0.033
xuân - hạ
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 41 98 139
50.08 88.92
1.645 0.927
2 66 92 158
56.92 101.08
1.448 0.815
Total 107 190 297
Chi-Sq = 4.835, DF = 1, P-Value = 0.028
xuân - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 41 98 139
49.41 89.59
1.432 0.790
2 66 96 162
57.59 104.41
1.229 0.678
Total 107 194 301
Chi-Sq = 4.128, DF = 1, P-Value = 0.042
xuân - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 41 98 139
41.70 97.30
0.012 0.005
2 52 119 171
51.30 119.70
0.010 0.004
Total 93 217 310
Chi-Sq = 0.030, DF = 1, P-Value = 0.862
hạ - thu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 66 92 158
65.18 92.83
0.010 0.007
2 66 96 162
66.83 95.18
0.010 0.007
Total 132 188 320
Chi-Sq = 0.035, DF = 1, P-Value = 0.851
hạ - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 66 92 158
56.67 101.33
1.537 0.859
2 52 119 171
61.33 109.67
1.420 0.794
Total 118 211 329
Chi-Sq = 4.610, DF = 1, P-Value = 0.032
thu - đông
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 66 96 162
57.41 104.59
1.287 0.706
2 52 119 171
60.59 110.41
1.219 0.669
Total 118 215 333
Chi-Sq = 3.881, DF = 1, P-Value = 0.049
Trâu Đực - cái
tính chung
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Nhiễm Không nhiễm Total
1 890 1108 1998
931.66 1066.34
1.863 1.628
2 1628 1774 3402
1586.34 1815.66
1.094 0.956
Total 2518 2882 5400
Chi-Sq = 5.540, DF = 1, P-Value = 0.019
thái nguyên
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 330 390 720
340.40 379.60
0.318 0.285
2 521 559 1080
510.60 569.40
0.212 0.190
Total 851 949 1800
Chi-Sq = 1.004, DF = 1, P-Value = 0.316
bắc cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 320 472 792
322.52 469.48
0.020 0.014
2 413 595 1008
410.48 597.52
0.015 0.011
Total 733 1067 1800
Chi-Sq = 0.059, DF = 1, P-Value = 0.808
tuyên quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 240 246 486
252.18 233.82
0.588 0.634
2 694 620 1314
681.82 632.18
0.218 0.235
Total 934 866 1800
Chi-Sq = 1.675, DF = 1, P-Value = 0.196
bò đực cái
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 229 458 687
238.45 448.55
0.375 0.199
2 427 776 1203
417.55 785.45
0.214 0.114
Total 656 1234 1890
Chi-Sq = 0.901, DF = 1, P-Value = 0.342
thái nguyên
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 85 154 239
92.19 146.81
0.560 0.352
2 158 233 391
150.81 240.19
0.342 0.215
Total 243 387 630
Chi-Sq = 1.469, DF = 1, P-Value = 0.225
bắc cạn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 86 198 284
84.75 199.25
0.018 0.008
2 102 244 346
103.25 242.75
0.015 0.006
Total 188 442 630
Chi-Sq = 0.048, DF = 1, P-Value = 0.827
tuyên quang
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 58 106 164
58.57 105.43
0.006 0.003
2 167 299 466
166.43 299.57
0.002 0.001
Total 225 405 630
Chi-Sq = 0.012, DF = 1, P-Value = 0.914
xung quang chuồng trâu
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 192 258 450
196.67 253.33
0.111 0.086
2 174 276 450
196.67 253.33
2.612 2.028
3 224 226 450
196.67 253.33
3.799 2.949
Total 590 760 1350
Chi-Sq = 11.585, DF = 2, P-Value = 0.003
xung quanh chuồng bò
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 98 172 270
88.67 181.33
0.982 0.480
2 75 195 270
88.67 181.33
2.107 1.030
3 93 177 270
88.67 181.33
0.212 0.104
Total 266 544 810
Chi-Sq = 4.915, DF = 2, P-Value = 0.086
Bãi chăn trâu, bò
đất bề mặt bãi chăn
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 98 172 270
88.67 181.33
0.982 0.480
2 75 195 270
88.67 181.33
2.107 1.030
3 93 177 270
88.67 181.33
0.212 0.104
Total 266 544 810
Chi-Sq = 4.915, DF = 2, P-Value = 0.086
vũng nước đọng
Chi-Square Test: Nhiễm, Không nhiễm Expected counts are printed below observed counts
Chi-Square contributions are printed below expected counts
Không
Nhiễm nhiễm Total
1 61 389 450
67.33 382.67
0.596 0.105
2 78 372 450
67.33 382.67
1.690 0.297
3 63 387 450
67.33 382.67
0.279 0.049
Total 202 1148 1350
Chi-Sq = 3.016, DF = 2, P-Value = 0.221