43
Nguyễn Hoàng Hải Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt Web: hoicudem.com/ Câu 1:Khái niệm văn hoá, cấu trúc của văn hoá? Khái niệm văn hoá: Đã rất nhiều các tổ chức, các quốc gia và các chuyên gia nghiên cứu về văn hoá đưa ra các khái niệm về văn hoá và các vấn đề liên quan, và hiện tại chưa một khái niệm nào về văn hoá được thống nhất tuyệt đối. thể đưa ra một số quan niệm, khái niệm định nghĩa về văn hoá như sau: Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Cố TT Phạm Văn Đồng: Văn hóa bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh. PGS.TS Trần Ngọc Thêm: Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội của mình. UNESCO: Văn hoá hôm nay có thể coi là một tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những phong tục và những tín ngưỡng. Cấu trúc văn hoá : - Văn hoá sản xut: Nền văn minh nông nghiệp xóm làng với không gian định hình sinh tn và phát trin là miền Đồng Bằng sông nước ta núi tiếp bin. - Văn hoá vũ trang: Nghthut chiến đấu của người Việt là cơ động bng thuyn - tho thuchiến và dung dân binh htrquân binh. - Văn hoá sinh hoạt: Li sng ca tng cộng đồng, từng gia đình và từng cá nhân được thhiện qua cách ăn, cách mặc ,cách . Câu 2: Cách ứng xử của người Việt với đặc điểm môi trường 1. Môi trường tự nhiên: Khái niệm : Môi trường là tổng thể những nhân tố tự nhiên xung quanh chúng ta gồm bầu khí quyển, nước, thực vật, động vật, thổ nhưỡng,… Con người sống trong quan hệ chặt chẽ với thiên nhiên cách ứng xử với môi trường tự nhiên là thành tố quan trọng thứ 3 của hệ thống văn hóa. Trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên có thể xảy ra 2 khả năng, những gì có lợi cho mình thì con người hết sức tranh thủ tận dụng còn những gì có hại thì ra sức ứng phó.

Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Đã có rất nhiều các tổ chức, các quốc gia và các chuyên gia nghiên cứu về văn hoá đưa ra các khái niệm về văn hoá và các vấn đề liên quan, và hiện tại chưa có một khái niệm nào về văn hoá được thống nhất tuyệt đối. Có thể đưa ra một số quan niệm, khái niệm và định nghĩa về văn hoá như sau: Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.

Citation preview

Page 1: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Câu 1:Khái niệm văn hoá, cấu trúc của văn hoá?

Khái niệm văn hoá:

Đã có rất nhiều các tổ chức, các quốc gia và các chuyên gia nghiên cứu về văn hoá đưa ra các

khái niệm về văn hoá và các vấn đề liên quan, và hiện tại chưa có một khái niệm nào về văn hoá

được thống nhất tuyệt đối. Có thể đưa ra một số quan niệm, khái niệm và định nghĩa về văn hoá

như sau:

Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo

và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,

những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những

sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.

Cố TT Phạm Văn Đồng: Văn hóa bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với

phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài

sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không

ngừng lớn mạnh.

PGS.TS Trần Ngọc Thêm: Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do

con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con

người với tự nhiên và xã hội của mình.

UNESCO: Văn hoá hôm nay có thể coi là một tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật

chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã

hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con

người, những hệ thống các giá trị, những phong tục và những tín ngưỡng.

Cấu trúc văn hoá :

- Văn hoá sản xuất: Nền văn minh nông nghiệp xóm làng với không gian định hình sinh

tồn và phát triển là miền Đồng Bằng sông nước tựa núi tiếp biển.

- Văn hoá vũ trang: Nghệ thuật chiến đấu của người Việt là cơ động bằng thuyền - thạo

thuỷ chiến và dung dân binh hỗ trợ quân binh.

- Văn hoá sinh hoạt: Lối sống của từng cộng đồng, từng gia đình và từng cá nhân được

thể hiện qua cách ăn, cách mặc ,cách ở.

Câu 2: Cách ứng xử của người Việt với đặc điểm môi trường

1. Môi trường tự nhiên:

Khái niệm : Môi trường là tổng thể những nhân tố tự nhiên xung quanh chúng ta gồm

bầu khí quyển, nước, thực vật, động vật, thổ nhưỡng,…

Con người sống trong quan hệ chặt chẽ với thiên nhiên cách ứng xử với môi trường tự

nhiên là thành tố quan trọng thứ 3 của hệ thống văn hóa.

Trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên có thể xảy ra 2 khả năng, những gì có lợi cho

mình thì con người hết sức tranh thủ tận dụng còn những gì có hại thì ra sức ứng phó.

Page 2: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Việc ăn uống là lĩnh vực tận dụng môi trường tự nhiên còn mặc, ở và đi lại thuộc lĩnh vực

ứng phó. Mặc và ở là để ứng phó với thời tiết, khí hậu, đi lại là ứng phó với khoảng cách.

Ranh giới tận dụng và ứng phó không phải lúc nào cũng rạch ròi để ứng phó với thời tiết,

khí hậu con người đã tận dụng các chất liệu để đặt ngôi nhà sao cho có lợi nhất. Để ứng

phó với khoảng cách , con người đã tận dụng tối đa địa hình và địa vật chọn cho mình

phương tiện thuận lợi nhất.

a) Ăn

Quan niệm về ăn và dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn.

* Hiển nhiên để duy trì sự sống ăn luôn là việc quan trọng số 1 tuy nhiên quan niệm của con

người về chuyện này thì ko phải ai cũng giống ai, có những dân tộc coi ăn là chuyện tầm thường

ko đáng nói nhưng người Việt Nam nông nghiệp luôn quan niệm : "Có thực mới vực được đạo".

Nó còn quan trọng đến mức Trời cũng ko dám xâm phạm " Trời đánh tránh miếng ăn" . Mọi

hành động của người Việt đều lấy ăn làm hàng đầu như: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi,

ăn tiêu, ăn cắp, ăn trộm...

Ăn uống là văn hóa chính xác hơn đó là văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên cho nên ko có gì

ngạc nhiên khi cư dân các nền văn hóa gốc du mục như phương tây , bắc trung hoa thiên về ăn

thịt, còn bữa ăn của người Việt luôn mang đậm dấu ấn truyền thống nông nghiệp lúa nước.

+. Tục ngữ có câu: " Người sống về gạo

Cá bạo về nước

Cơm tẻ mẹ ruột "

Hay: "Đói thì thèm thịt thèm xôi

Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường "

Không phải ngẫu nhiên mà người Việt gọi " bữa ăn là bữa cơm" coi cây lúa là tiêu chuẩn của

cái đẹp (em xinh là xinh như cây lúa).

+ Trong bữa ăn của người Việt Nam sau lúa gạo thì đến " Rau Quả " nằm ở 1 trong những trung

tâm trồng trọng, Việt Nam có 1 danh mục rau quả mùa nào thức ấy, phong phú vô cùng . Đối với

người Việt Nam thì " đói ăn rau, đau uống thuốc " là chuyện tất nhiên.

" Ăn cơm không rau như người già chết ko kèn trống "

Hay " Ăn cơm không rau như đánh nhau ko có người đỡ ".

Tuy nhiên nói đến rau trong bữa ăn không thể ko nhắc đến 2 món đặc thù là rau muống và dưa

cà.

Anh đi anh nhớ quê nhà

Page 3: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Các loại gia vị đa dạng như: hành , gừng, tỏi , ớt, tiêu, húng, mùi, răm, thì là... cũng ko thể thiếu

đc trong bữa ăn của người Việt

+ Đứng thứ 3 trong cơ cấu ăn và đứng hàng đầu thức ăn động vật của người Việt là các loại thủy

sản, sản phẩm của vùng sông nước. Sau " Cơm rau" thì " Cơm cá" đó là món ăn thông dụng nhất

" Có cá đổ vạ cho cơm , con cá đánh ngã bát cơm là thế". Từ các loại thủy sản người việt có thể

chế ra nhiều loại nước chầm đc biệt như các loại nước mắm, thiếu nước mắm chưa thể thành bữa

cơm, cơm nước mắm ko phải lúc nào cũng đồng nghĩa với bình dân, các bà phi tần nhà nguyễn

từng lấy nc mắm để tiến vua. Từ tiếng việt danh từ " Nước mắm " đã đi vào ngôn ngữ loài người

và có mặt trong từ điển bách khoa đông tây.

+ Ở vị trí cuối cùng trong cơ cấu bữa ăn người Việt là thịt, phổ biến như thịt gà, lợn, trâu, bò...

Đặc sản bình dân như thịt chó và các sơn hào hải vị khác.

* Đồ uống hút

Truyền thống của người Việt có trầu, cau , thuốc lào, nước vối. rượu gạo, chúng đều là những

sản phẩm cổ truyền của nghề trồng trọt đông nam á.

+ Ăn Trầu Cau

+ Rượu

+ Cây chè và tục uống chè

Tính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt .

Tính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt trước hết là cách chế biến đồ ăn, hầu hết

các món ăn người Việt đều là sản phẩm pha chế tổng hợp, nói về cách chế biến tổng hợp tục ngữ

VN có 1 hình ảnh so sánh thật dí dỏm: " Nấu canh xuông ở chuồng mà nấu ". Cách pha chế tổng

hợp ko chỉ cầu kì ở mùi vị món ăn mà còn cầu kì ở các cách chế biền món ăn như: xào, nấu,

luộc, sốt vang, rán, tạo nên nét đặc trưng riêng ko chỉ ngon mà còn đẹp.

Tính cộng đồng và tính mực thước trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt.

Tính tổng hợp kéo theo tính cộng đồng như ăn chung, hay còn gọi cách khác là bữa ăn gia

đình tạo nên nét ấm cúng trong bữa ăn của người Viêt và thú uống rượu cần của người vùng cao

là biểu hiện triết lý thâm thúy về tính cộng đồng sống chết có nhau.

Tính cộng đồng đòi hỏi ở con người 1 thứ văn hóa cao trong ăn uống " Ăn trong nồi ngồi trong

hướng". Vì nét truyền thống của người Việt trong bữa ăn là mực thước, tính mực thước là biểu

hiện của khuynh hướng quân bình trong âm dương nó đòi hỏi " ăn chậm nhai kĩ "

Khi ăn cơm khách 1 mặt phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ nhà, mặt

khác phải chừa ra 1 ít trong các đĩa đồ ăn để tỏ rằng mình không chết đói, không tham ăn. Tục

ngữ có câu : Ăn hết bị đòn. ăn còn mất vợ "

Page 4: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Tính cộng đồng và tính mực thước trong bữa ăn thể hiện qua nồi cơm và chén nước mắm.

Tính biện chứng , linh hoạt trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt.

* Tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăn

* Tính linh hoạt còn thể hiện trong dụng cụ ăn : truyền thống sử dụng dụng cụ là đôi đũa, đó là

cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt xuất phát từ những thứ ăn những thứ

ko thể dùng tay bốc hoặc mó tay vào được ( cơm, cá, nước mắm..)

* Biểu hiện ko kém quan trọng hơn cả của tính biện chứng trong việc ăn là ở chỗ người Việt

Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chúng Âm- Dương bao gồm 3 mặt liên quan mật thiết

với nhau là: âm dương của thức ăn, sự quân bình âm dương trong cơ thể và sự cân bằng âm

dương giữa con người với môi trường tự nhiên.

+ Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương người Việt phân biệt thức ăn theo 5 mức

âm dương ứng với ngũ hành: hàn ( lạnh ), nhiệt ( nóng ), ôn ( ẩm ), lương ( mát ), bình ( trung

tính ).

+ Để tạo nên sự quân bình âm dương trong cơ thể ngoài việc ăn các món chế biến có tính đến sự

quân bình âm dương người Việt Nam còn sử dụng thức ăn như những vị thuốc để điểu chỉnh sự

mất quân bình âm dương trong cơ thể. Mọi bệnh tật đều do mất quân bình âm dương vì vậy mọi

người bị ốm do quá ân cần ăn đồ dương và ngược lại ốm do quá dương cần ăn đồ âm để khôi

phục lại sự thăng bằng đã mất.

+ Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường thì người Việt có tập quán ăn

uống theo vùng khí hậu , theo mùa. Ăn theo mùa tức là tận dụng tối đa môi trường tự nhiên để

phục vụ con người là hòa mình vào tự nhiên tạo nên sự cân bằng biện chứng giữa con người với

môi trường. Thức ăn theo mùa hay mùa nào thức ấy " Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể, chim

ngói mùa thu, chim cu mùa hè..."

+ Tình biện chứng trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thời tiết , phải đúng

mùa, và người Việt Nam sành ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị ( chuối sau, cau

trước,đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm..). Thời điểm có giá trị còn là lúc thức ăn đang trong

quá trình âm dương chuyển hóa, đang ở dạng âm dương cân bằng hơn cả và vì vậy mà rất giàu

chất dinh dưỡng ( trứng lộn, nhộng, lợn sữa, ong non..)

b) Mặc

* Người việt chon trang phục do ảnh hưởng bởi 2 nhân tố

+ Khí hậu

+ Nghề nghiệp

* Đặc điểm trang phục của người Việt:

- Ăn chắc mặc bền

- Ăn no mặc ấm

- Người đẹp vì lụa lúa tốt vì phân

- Chân tốt vì hài , tai tốt vì hoa

* Trang phục vủa người Việt:

Nam giới: Khố , áo bà ba , áo the , quần , khăn đóng,…

Page 5: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Nữ giới: yếm , áo cánh , áo dài, váy , quần , khăn , nón ,…

c) Ở và đi lại

Ứng phó với khoảng cách giao thông.

+) Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định

cư cho nên con người ít có nhu cầu di chuyển.Đặc biệt nhiều cụ già ở nông thôn thậm chí còn ít

khi đi xa.Vì vậy ,dễ dàng hiểu được giao thông trước đây chủ yếu bằng đường bộ,thuộc loại lĩnh

vực kém phát triển.

Từ thế kỉ XX còn phát triển các phương tiện đi lại bằng gia súc: trâu, ngựa, voi. Nhưng phổ

biến vẫn là đôi chân.

+) Hoạt động chủ yếu của người nông nghiệp Việt Nam là di chuyển gần từ nhà ra đồng,từ nhà

lên nương.Ruộng nước và nương rẫy là nơi không thể đưa các phương tiện xe nên họ dùng sức là

chủ yếu là dùng sức.Chính vì vậy trên thế giới này không một ngôn ngữ có số lượng chỉ hoạt

động vận chuyển bằng sức người đa dạng và phong phú như tiếng việt.

Ứng phó với thời tiết, khí hậu : nhà cửa, kiến trúc

Đối với nông nghiệp thì ngôi nhà chính là tổ ấm để đối phó với thời tiết nóng lạnh, nắng mưa,

gió bão- 1 trong những yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo cho họ 1 cuộc sống định cư ổn định: "

Có an cư thì mới có lạc nghiệp " hay " thứ nhất dương cơ, thứ nhì âm phần ". Do ngôi nhà chiếm

vị trí quan trọng đặc biệt trong cuộc sống nên Nhà ( chố ở ) được đồng nhất với gia đình.

Ngôi nhà ở Việt Nam có những đặc điểm sau:

+. Do khu vực cư trú nên ngôi nhà của người Việt thường gắn liền với môi trường sông nước.

Những người sống bằng nghề sông nước ( chài lưới, chở đò..) thường lấy thuyền, bè là nhà ở gọi

là nhà thuyền, nhà bè, nhiều gia đình gọi là xóm chài và làng chài. Tuy vậy nhưng họ vẫn có nhà

trên sàn trên mặt nước để ứng phó với việc ngập lụt và khí hậu nhiệt đới với độ ẩm cao thêm vào

đó là hình mái cong. Mái cong ngoài ý nghĩa là con thuyền thì ko có tác dụng thực tế gì, tạo dáng

vẻ thanh thoát đặc biệt và gợi cảm giác bay bổng cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng

để hòa mình vào thiên nhiên.

+. Để đối phó với môi trường tự nhiên tiêu chuẩn ngôi nhà ở Việt Nam về mặt cấu trúc là nhà

cao cửa rộng.

Kiên trúc mở tạo không gian thoáng mát, giao hòa với tự nhiên, cái cao của ngôi nhà VN bao

gồm 2 yêu cầu : sàn và nền cao so với mặt đất và mái cao so với sàn/ nền. Nhà cao mà cửa ko

cao mà phải rộng, của ko cao để tránh ảnh nắng chiếu xiên vào còn cửa rộng để đón gió mát và

tránh nóng.

+. Biện pháp quan trong ko kém là chọn hướng nhà, chọn đất, tận dụng tối đa thế mạnh của môi

trường tự nhiên.

Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam " Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam ". Nhưng tùy thuộc vào

địa hình địa vật xung quanh vào sự có mặt của núi rừng, của sông, của con đường... " Phong" và

" Thủy" là 2 yếu tô quan trọng nhất, thuật phong thủy được xây dựng trên âm dương ngũ hành do

vậy mà nhà phong thủy cần nắm vững hướng gió và hướng nước để âm dương được điều hòa là

tốt nhất. Tuy nhiên trong việc " chọn nơi mà ở " thì người Việt còn có tính cộng đồng mà ko thể

quên làng " Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền "

+. Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà VN truyền thống là rất động và linh hoạt.

Chất động linh hoạt đó trước hết được thể hiện ở lối kết cấu khung, cốt lõi của ngôi nhà là bộ

phận khung chịu lực tạo nên bởi các bộ phận liên kết với nhau trong ko gian 3 chiều: theo chiều

đứng, theo chiều ngang và theo chiều dọc. Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau

bằng mộng, mộng là cách ghép theo nguyên lý âm dương phần lồi ra của 1 bộ phận này với chỗ

lõm vào có hình dáng và kích thước tương ứng của 1 bộ phận khác.

Page 6: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

+. Về hình thức kiến trúc thì ngôi nhà là tấm gương phản ánh đặc điểm của truyền thống văn hóa

dân tộc.

Trước hết là môi trường sông nước phản ánh qua cách làm nhà sán với vách riêng và mái cong

hình thuyền. Rồi tính cộng đồng thể hiện ở việc trong nhà ko chia thành nhiều phòng nhỏ biệt lập

như phương tây.

Người Việt Nam có truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách cho nên việc ưu tiên cho bộ bàn

ghế tiếp khách là ko ngoại lệ. Hình thức kiến trúc ngôi nhà còn tuân thủ nguyên tắc coi trọng số

lẻ của truyền thống văn hóa nông nghiệp : Ngọ môn 5 cửa 9 lầu, cột cờ 3 cấp, số gian của ngôi

nhà bao giờ cũng là số lẻ.

Cách liên kết theo lối ghép mộng âm dương giúp cho các bộ phận vừa gắn bó chặt chẽ lại vừa cơ

động và linh hoạt. Nhìn chung chỉ trong 1 việc ở, ta cũng thấy nguyên lý âm dương và ý muốn

hướng tới 1 cuộc sống hài hòa chi phối con người Việt Nam 1 cách trọn vẹn.

2. Môi trường xã hội :

Môi trường xã hội là những nhóm người, những tập đoàn, những lĩnh vực hoạt động,

những yếu tố hợp thành một tổ chức, những thể chế (pháp luật, kinh tế, xã hội, nghề

nghiệp,…) xung quanh con người

Cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền:

Gia đình và dòng họ

Làng

Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội đó chính là cách chọn lọc, dung hòa và tích hợp nhiều

nguồn gốc tạo ra văn hóa Việt Nam. Đó là quá trình:Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội đó

chính là cách chọn lọc, dung hòa và tích hợp nhiều nguồn gốc bộc lộ tính chủ động và khả năng

chi phối, tác dộng trở lại của văn hóa bản địa trong quá trình tiếp nhận. Dung hợp giữa văn hóa

bản địa và văn hóa ngoại lai

Sự dung hợp của các hiện tượng văn hóa ngoại lai với nhau

tổng hợp các tôn giáo – xuất hiện đạo Cao Đài+ Sự tồn tại của Tam giáo (Phật giáo, Lão giáo,

Nho giáo) cao hơn là sự tích hợp văn hóa Đông – Tây với học thuyết Mác. Sự dung hợp VH

Đông – Tây

Chính sự dung hòa, hiếu hòa, linh hoạt đã làm các yếu tố VH ngoại lai sau khi được tiếp nhận

không hề xung đột.

Ứng xử là một biểu hiện của sự giao tiếp, giữa con người với con người, giữa cá nhân với

cộng đồng xã hội. Đồng thời nó cũng là sự phản ứng của người này trước sự tác động của người

khác trong một tình huống nhất định, một hoàn cảnh nhất định được thể hiện qua thái độ, hành

vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người

với nhau.

Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua

quá trình học tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân đó trong một môi trường gia đình

và xã hội nhất định. Hành vi ứng xử văn hóa được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ

của mỗi cá nhân Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với những người chung quanh, trong học

tập, công tác, với bạn bè và thậm chí ngay cả với chính bản thân mình. Chúng ta bàn nhiều về

đạo đức, nhân cách của một con người, nhưng ít ai bàn đến phép lịch sự, cách đối nhân, xử thế

Page 7: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

trong các mối quan hệ giao tiếp diễn ra hàng ngày trong gia đình, và ngoài xã hội. Con người

chúng ta sống giữa các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Các mối quan hệ này có ảnh

hưởng đến sự hình thành, phát triển nhân cách và xu hướng hành động của họ. Chính cuộc sống

đòi hỏi mỗi người phải có cách xử thế đúng đắn, thể hiện qua phép lịch sự trong quá trình giao

tiếp với các đối tác khác nhau. Cách xử thế của mỗi cá nhân trong sự giao tiếp xã hội, được gắn

với nền văn minh của từng thời đại và đặc điểm văn hoá của từng dân tộc, khu vực dân cư. Các

biểu hiện của cách ứng xử mang tính dân tộc, tính giai cấp, giới tính, tuổi tác... Nó chịu ảnh

hưởng của nghề nghiệp, địa vị xã hội và cũng mang đặc điểm cá tính của mỗi con người. Phép

lịch sự trong việc ứng xử chính là một sự tổng hợp các nghi thức được biểu hiện ra trong cách

giao tiếp, nhưng không phải là những ứng xử một cách máy móc mà là những việc làm, lời ăn

tiếng nói linh hoạt, nhiều vẻ, gắn với từng hoàn cảnh, từng môi trường cụ thể và tuỳ theo đối tác

gặp gỡ. Ví dụ: Khi gặp gỡ người quen, ta chào, chứng tỏ ta đã nhận ra họ, kèm theo lời chào có

thể là bắt tay, mỉm cười…Lời chào hỏi, liên quan đến những quy ước nhất định, chịu ảnh hưởng

của những đặc điểm văn hoá dân tộc, vùng miền. Mục đích và ý nghĩa của lời chào hỏi chính là

ta tự đặt mình trong mối quan hệ của cách xử thế đã được quy định và được xã hội chấp nhận.

Khi muốn thiết lập mối quan hệ giữa những người mới gặp, thì lời giới thiệu của người thứ ba là

rất cần thiết. Phép lịch sự dạy chúng ta tôn trọng người khác đó chính là một nghệ thuật sống tế

nhị. Tôn trọng người tiếp xúc với mình chính là ta đang tôn trọng chính bản thân mình. Trong

thời buổi cơ chế thị trường hiện nay, cuộc sống ngoài xã hội diễn ra vô cùng phức tạp, đa dạng,

những lời khuyên về những hành động ứng xử có văn hóa quả thật là khó đối với một số bạn trẻ

hiện nay, nói thế nhưng không có nghĩa là thế hệ trẻ hiện nay không quan tâm tới việc ứng xử có

văn hóa, mà do áp lực của học tập, công việc nên đôi khi họ chưa chú trọng tới việc ứng xử với

nhau có tế nhị và có văn hóa. Để có thể tiếp xúc trò chuyện với người khác một cách thoải mái

thì bản thân chúng ta phải biết thích ứng với những gì đang diễn ra xung quanh mình. Sự cân

bằng tình cảm đó sẽ đem lại cho ta một cảm giác thoải mái, tin tưởng trong sự giao tiếp. Khéo

ứng xử, và ứng xử có tế nhị là không nên làm phiền người khác, không đi sâu vào đời tư của họ,

biết giữ một khoảng cách tình cảm giữa mình với người tiếp xúc, đặc biệt khi mới gặp, không

nên kể chuyện đời tư của mình một cách dễ đãi, không mời đến nhà những người ít quen biết.

Nếu có cách đối nhân xử thế đúng đắn, có phép lịch sự trong giao tiếp thì người ta sẽ có

nhận thức đúng đắn về đạo đức tư cách lối sống của mình. Điều này giúp chúng ta ngày càng

trưởng thành lên và có kinh nghiệm sống ngày càng phong phú. Cách đối nhân xử thế là thể hiện

vốn sống của mỗi cá nhân, sự hiểu biết của mỗi người về các mối quan hệ xã hội người với

người.

Câu 3: Chức năng cơ bản của văn hoá

Page 8: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Văn hoá có 5 chức năng là: Chức năng giáo dục; chức năng nhận thức dự báo; chức năng thẩm

mỹ và chức năng giải trí, chức năng kế tục và phát triển lịch sử.

Nội dung cơ bản của các chức năng đó như sau:

- Chức năng giáo dục: là chức năng mà văn hoá thông qua các hoạt động, các sản phẩm của

mình nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người,

làm cho con người dần dần có những phẩm chất và năng lực theo những chuẩn mực xã hội đề ra.

Văn hoá thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định là truyền thống

văn hoá mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị này tạo thành một hệ thống

chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ vậy, văn hoá đóng vai trò quyết định trong việc hình

thành nhân cách ở con người, trong việc "trồng người ". Với chức năng giáo dục, văn hoá tạo nên

sự phát triển liên tục của lịch sử mỗi dân tộc cũng như lịch sử nhân loại. Văn hoá duy trì và phát

triển bản sắc dân tộc và là cầu nối hữu nghị gắn bó các dân tộc, gắn kết các thế hệ trong mục tiêu

hướng đến cái Chân- Thiện- Mỹ. Văn hoá là "gien" xã hội di truyền phẩm chất cộng đồng người

lại cho các thế hệ sau.

- Chức năng nhận thức, dự báo: Là chức năng đầu tiên, tồn tại trong mọi hoạt động văn hoá.

Bởi, con người không có nhận thức thì không thể có bất cứ một hành động văn hoá nào. Nhưng

quá trình nhận thức này của con người trong các hoạt động văn hóa lại được thông qua đặc trưng,

đặc thù của văn hóa. Nâng cao trình độ nhận thức của con người chính là phát huy những tiềm

năng ở con người.

- Chức năng thẩm mỹ: Cùng với nhu cầu hiểu biết, con người còn có nhu cầu hưởng thụ, hướng

tới cái đẹp. Con người nhào nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp cho nên văn hóa phải có

chức năng này. Nói cách khác, văn hoá là sự sáng tạo của con người theo quy luật của cái đẹp,

trong đó, văn học nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất sự sáng tạo ấy. Với tư cách là khách thể

của văn hóa, con người tiếp nhận chức năng này của văn hóa và tự thanh lọc mình theo hướng

vươn tới cái đẹp và khắc phục cái xấu trong mỗi người .

- Chức năng giải trí: Trong cuộc sống, ngoài hoạt động lao động và sáng tạo, con người còn có

nhu cầu giải trí. Các hoạt động văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, lễ hội, ca nhạc,... sẽ đáp ứng được

các nhu cầu ấy. Như vậy, sự giải trí bằng các hoạt động văn hoá là bổ ích, cần thiết, góp phần

giúp cho con người lao động sáng tạo có hiệu quả hơn và giúp con người phát triển toàn điện.

- Chức năng kế tục và phát triển:

Câu 4: Khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc

Bản sắc là những nét riêng, những đặc trưng của sự vật, hiện tượng giúp phân biệt nó

với những sự vật, hiện tượng khác.

Bản sắc dân tộc là sắc thái bao quát một cách uyển chuyển, linh hoạt những đặc điểm

của dân tộc tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc ấy, không thể đồng nhất với các dân

tộc khác trong cộng đồng khu vực hay cộng đồng loài người.

Bản sắc văn hoá của dân tộc là cách thức xây dựng nền văn hoá của dân tộc, là sự lan toả

sắc thái tư duy, tâm hồn, trí tuệ, ngôn ngữ, phong độ, cung cách, hành vi ứng xử trong

văn chương nghệ thuật, trong lao động sáng tạo ra vật chất mang tính độc đáo của dân

tộc.

Bản sắc văn hoá dân tộc là một kiểu tổng hợp, kết hợp những phẩm chất, những giá trị

văn hoá nội sinh và ngoại sinh tạo thành linh hồn, sức sống bền vững của dân tộc, có

những nét ưu trội hơn một số dân tộc khác, mang tính ổn định trong quá trình lịch sử đấu

tranh và xây dựng của dân tộc đó.

Page 9: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Các yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc

Sự gắn kết giữa Nhà – Làng – Nước

Ngôn ngữ

Tôn giáo

Câu 5: Khái niệm ngôn ngữ . Những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam

Khái niệm ngôn ngữ:

Ngôn ngữ là hệ thống để giao thiệp hay suy luận dùng một cách biểu diễn, phép ẩn dụ, và

một loại ngữ pháp theo lôgic, mỗi cái đó bao hàm một tiêu chuẩn hay sự thật thuộc lịch sử và

siêu việt. Nhiều ngôn ngữ sử dụng điệu bộ, âm thanh, ký hiệu, hay chữ viết, và cố gắng

truyền khái niệm, ý nghĩa, và ý nghĩ, nhưng mà nhiều khi những khía cạnh này nằm sát quá,

cho nên khó phân biệt nó.

Ngôn ngữ không phải là một bộ “quy tắc và ngữ pháp”. Ngôn ngữ là công cụ người ta dùng để

biểu đạt ý nghĩa và tình cảm của mình đối với người khác, qua đó để người ta hiểu nhau.

Những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam:

Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có TÍNH BIỂU TRƯNG cao. Tính biểu trưng thể hiện ở

xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa.

Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu

trưng. Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi

người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện khác của

tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.

Đặc điểm thứ hai của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam là nó rất GIÀU CHẤT BIỂU CẢM

– sản phẩm tất yếu của một nền văn hóa trọng tình cảm. Về mặt từ ngữ, chất biểu cảm này thể

hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hòa, thường có rất nhiều biến

thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh

rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè, xanh lét… Bên cạnh màu đỏ trung tính thì có đỏ

rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe…Các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến

trong tiếng Việt

Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm: à, ư, nhỉ, nhé,

chăng, chớ, hả, phỏng, sao, chứ… Cấu trúc “iếc hóa” mang sắc thái đánh giá (sách siếc, bàn

biếc…) cũng góp phần quan trọng trong việc tăng cường hệ thống các phương tiện biểu cảm cho

tiếng Việt.

Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam còn có đặc điểm thứ ba là TÍNH ĐỘNG và LINH

HOẠT.Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ pháp biến

hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thứ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì ngữ pháp tiếng

Việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp,

khiến cho người sử dụng được quyền linh hoạt tối đa. Ngữ pháp của các ngôn ngữ phương Tây

là ngữ pháp hình thức, còn ngữ pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa. Nói bằng một ngôn ngữ

châu Âu, ta bắt buộc phải chia động từ theo các thể, các ngôi…; phải đặt danh từ vào các giống,

các số, các cách…; phải đặt tính từ vào những hình thái phù hợp với danh từ…; tóm lại là phải

đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi tai quái nhất mà hệ thống ngữ pháp của ngôn ngữ đó yêu cầu (ngay

cả khi ý nghĩa ngữ pháp đó đã được thể hiện năm bảy lần trong câu bằng những hình thái khác

rồi cũng vậy). Còn trong tiếng Việt thì tùy theo ý đồ của người nói mà anh ta có thể diễn đạt,

Page 10: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

không diễn đạt hay diễn đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó. Chính vì linh hoạt như vậy

mà tiếng Việt có khả năng diễn đạt khái quát rất cao:

Tính động, linh hoạt của ngôn từ Việt Nam còn bộc lộ ở chỗ trong lời nói, người Việt

rất thích dùng cấu trúc động từ: trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ.

Tính linh hoạt, năng động còn là nguyên nhân khiến cho tiếng Việt ưa dùng cấu trúc chủ

động mà ít dùng cấu trúc bị động. Người Việt thậm chí dùng cấu trúc chủ động ngay cả trong

câu bị động: Cấu trúc bị động thích hợp cho việc diễn đạt lối tư duy hướng ngoại, khách quan

(tách rời khỏi người nói) của người Phương Tây, còn cấu trúc chủ động thì thích hợp cho việc

diễn đạt lối tư duy hướng nội, chủ quan (gắn bó mật thiết với người nói) của văn hóa

nông nghiệp phương Đông.

Như vậy, có thể nói rằng trong giao tiếp, người Việt Nam có thiên hướng nói đến những nội

dung tĩnh (tâm lý, tình cảm, dẫn đến nghệ thuật thơ ca và phương pháp biểu trưng) bằng hình

thức động (cấu trúc động từ, ngữ phápngữ nghĩa linh hoạt). Trong khi đó người phương Tây nói

riêng và truyền thống văn hóa trọng dương nói chung lại có thiên hướng nói đến những nội

dung động (hành động, sự việc, dẫn đến nghệ thuật văn xuôi và phương pháp tả thực) bằng hình

thức tĩnh (cấu trúc danh từ, ngữ pháp hình thức chặt chẽ).

Câu 5: Khái niệm lễ hội, phân tích những giá trị của lễ hội cổ truyền Việt Nam, phân tích

cấu trúc của lễ hội cổ truyền Việt Nam.

Khái niệm: Lễ hội là hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao động vất vả

hoặc là một dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, hoặc liên

quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt động có

tính chất vui chơi, giải trí nên có sức hấp dẫn cao đối với khách.

Những giá trị của lễ hội cổ truyền Việt Nam:

Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lễ

hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ hội cổ truyền vẫn thu

hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại? Nói cách khác, lễ hội cổ truyền vẫn đáp ứng nhu cầu

của con người không chỉ trong xã hội cổ truyền mà cả xã hội hiện đại. Có được điều đó là do lễ

hội cổ truyền hội tụ các giá trị sau:

Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:

Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng

xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà

thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng

họ... chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết

cộng đồng.

Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do cùng

cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu),

gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết

bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ

hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng

đồng.

Page 11: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”,

“cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và

phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều

kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố

kêt cộng đồng ấy.

Giá trị hướng về cội nguồn:

Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ

đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm

làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con

người Việt Nam - “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội

bao giờ cũng gắn với hành hương - du lịch.

Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa, con người

bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa,

với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội

như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của

mình, hoà mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng

đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hoá

truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy.

Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con

người ở mọi thời đại.

Giá trị cân bằng đời sống tâm linh:

Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là

đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân thiện mỹ - cái mà con người

ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín

ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín

ngưỡng. Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời

sống tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống

trần tục, hiện hữu.

Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được

“chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội

nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô

cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi

mở, xô bồ, “tháo khoán”... Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con người, làm

thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có

“thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”.

Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong

dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng

vọng những biểu tượng siêu việt cao cả - chân thiện mỹ, được sống những giờ phút giao cảm hồ

hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của

bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy,

đẹp đẽ khác hẳn ngày thường... Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện thực, vượt

Page 12: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời

sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực.

Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa:

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của nhân dân ở nông thôn

cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện

các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao

giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh”

của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách

biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và

hưởng thụ những giá trị văn hoá của mình.

Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân

công lao động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của con

người đã phần nào tách biệt.

Đấy là chưa kể trong xã hội nhất định, một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt”

các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến như nhu cầu giao

tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như

vậy, con người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá

trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào

xói mòn tinh thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con

người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra

quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền

là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.

Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa:

Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn,

làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy.

Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một

năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha,

tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, người

người tụ hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó, con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến

đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ

thế hệ này sang thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các

làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan...; các điệu múa xanh tiền, con đĩ đánh bồng, múa rồng,

múa lân...; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương...; các trò chơi, trò diễn:

Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh phết, trò trám... sẽ ra đời và duy trì như

thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc

sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao?

Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn hoá truyền thống

của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái làng xã nghèo nàn ấy,

ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của

cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.

Page 13: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn

cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc

trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm

là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc

Cấu trúc của lễ hội cổ truyền Việt Nam: Bao gồm 2 phần chính : phần lễ(yếu tố chính) và phần

hội ( yếu tố phát sinh)

Phần lễ:

• Phần chính, mang ý nghĩa tạ ơn và xin thần linh bảo trợ

• Gồm các nghi thức (dâng rượu, dâng trà, dâng hoa quả, dâng thức ăn mặn)

• Mỗi lễ hội chứa đựng ý nghĩa riêng

Phần hội là phần khác nhau giữa các lễ hội . Phần đáng lưu ý là trò diễn. Trò diễn là hoạt

động mang tính nghi lễ, diễn lại toàn bộ hay một phần hoạt động của nhân vật được

phụng thờ. Chẳng hạn trò diễn Thánh Gióng đánh giặc Ân trong hội Gióng hay Quang

Trung đại phá quân Thanh trong lễ hội Đống Đa.

• Phần trò chơi, thi đấu, biểu diễn liên quan đến nhân vật thờ phụng

• Trình tự: từ nơi thờ vọng đến nơi diễn ra một sự kiện nào liên quan nhân vật thờ phụng .

Các trò diễn trong lễ hội là các lớp văn hoá tín ngưỡng của các thời kỳ lịch sử khác nhau

lắng đọng lại, phản ánh những sinh hoạt của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước gắn kết

với nhân dân được phụng thờ.

• Các trò chơi gắn với nhiều thời kỳ được lắng đọng lại, phản ánh cách sinh hoạt của dân

cư và nhân vật thờ phụng

• Các trò chơi gắn với ước vọng con người. Ví dụ: Cầu mưa (đốt pháo); Cầu an (Thả diều);

Ước vọng nhanh nhẹn, khéo léo (thổi cơm, dọn cỗ,…); …

Quy trình diễn ra trong lễ hội

• Cúng: Mở đầu và kết thúc lễ hội

• Tế: là một hình thức diễn xướng mang tính nghi lễ, nghi thức tưởng niệm, tôn vinh thần

linh với ngôn ngữ, ăn mặc, đi đứng, điệu bộ khác thường.

• Rước: màn đại diễn xướng, trong đó vừa mang tính nghi lễ trang nghiêm, lại vừa mang

tính vui nhộn, náo động với các điệu múa

• Diễn xướng sự tích: nhằm tái hiện sự tích và nét đặc trưng nhất của mỗi vị thần linh.

Câu 6: Nho giáo và khai thác giá trị trong văn hóa

Nho giáo Việt Nam

Page 14: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Nho giáo Việt Nam được xem là một trong những tín ngưỡng quan trọng của Việt Nam, đóng

góp trong việc xây dựng chỗ dựa vững chắc trong việc phát triển kinh tế, lịch sử, kiến trúc và tồn

tại các triều đại phong kiến như Nhà Lý, Nhà Trần, Nhà Lê, Nhà Nguyễn,... Hiện nay có khoảng

10% đến khoảng 20% dân số theo Nho giáo, nhưng hầu hết là ở Bắc Bộ và Bắc Trung bộ

QUÁ TRÌNH DU NHẬP

Đã có một số bằng chứng cho thấy Nho giáo được truyền vào thế kỷ 1 TCN khi ở Trung Quốc

nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy quyền thống trị và cho lập 3

quận tại Bắc Bộ, tuy niên tầm ảnh hưởng Nho giáo còn rất hạn chế, song song đó Nho giáo là

công cụ thống trị của chính quyền đô hộ và phục vụ cho chính quyền đô hộ, Nho giáo còn được

xem để du nhập chữ Hán vào Việt Nam và dần Hán hóa ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam tạo ra

về mặt kỹ thuật với một kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên, đó là nền văn học, sử học, triết

học, thiên văn học và y học được tiếp thu từ người Trung Hoa cổ đại.[1]

Đến thế kỷ 9, sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại của Ngô Quyền, khi dân tộc Việt Nam bước

sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây dựng nền văn minh Đại Việt trong

khuôn khổ của một nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền, thì xã hội Việt Nam lúc này mới

đặt ra những yêu cầu đối với sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, đầu tiên phải kể

đến là muốn tồn tại thì phải truyền bá Nho giáo đến người dân, củng cố quyền lực phong kiến

lớn mạnh và không bị giặc ngoài tấn công.

Vì quyền lực của nhà nước đó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung” của Nho giáo cần được

tiếp thu để củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ thời Lý – Trần, trung với vua không tách rời

trung với nước, vì đó là những ông vua thực sự điều hành cuộc chiến tranh giữ nước của dân

tộc Việt Nam đi đến thắng lợi. Ở Việt Nam, “trung” thường gắn với “nghĩa” nhằm đề cao trách

nhiệm của con người đối với Tổ quốc, quê hương, làng xóm. Cũng chính vì thế, trong Hịch

tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn thường gắn “trung” với “nghĩa”. Hơn nữa, nếu nhà nước phong kiến

tập quyền muốn trở nên hùng mạnh thì phải quan tâm đến con người, đến nhân dân và do đó,

“nghĩa” không tách rời “nhân”. Ngọn cờ nhân nghĩa là để “yên dân”, để giải phóng nhân dân

khỏi áp bức của quân xâm lược.[2]

Thời kỳ khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, Nho giáo không ngừng củng cố và phát

triển cho đến vào giữa thế kỷ 19, yêu cầu tất yếu này dần như bị suy sụp và dần nhạt phai khi sự

du nhập mạnh mẽ của phương Tây của thực dân Pháp, tuy nhiên Nho giáo vẫn là công cụ ảnh

hưởng đối với những nhà yêu nước cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học hay Hồ

Chí Minh,...

ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHÂN SINH

Nho giáo đều ảnh hưởng đến con người, giúp cho người ta hiếu học và thành công hơn trong xã

hội, đặc biệt, bản tính "Thiện" luôn đề cao các giá trị về chính trị, phẩm chất quý giá, phạm trù

với chữ "Nhân" do Khổng Tử để lại, chữ "Nhân" được coi là nguyên lý để quy định bản tính,

quan hệ giữa người với người, từ quý tộc đến nông dân[3]

Ảnh hưởng đến tác phẩm, văn học và châm ngôn

Nho giáo được xem là có sức lan tỏa và ảnh hưởng đến Văn học Việt Nam, điển hình như hai

bản tuyên ngôn độc lập như "Nam Quốc Sơn Hà" của Lý Thường Kiệt và "Bình Ngô Đại Cáo"

của Nguyễn Trãi đề cao tính dân tộc, nguyện vọng dành độc lập của Nhân dân Việt Nam, trong

đó ở tác phẩm "Nam Quốc Sơn Hà" có kể đến câu: "Sông núi nước Nam, vua Nam ở, rành rành

định phận tại sách Trời" đã nhắc đến nước Nam đã có chủ quyền và luôn chống lại sự uy hiếp từ

phía phương Bắc cho dù chứng mình với trời đất mà nhân dân kính phụng.

Page 15: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Câu châm ngôn "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" đã có từ nghìn năm của dân tộc Việt Nam, đối

với Nho giáo, chữ "Lễ" luôn nhắc đến người dân rằng phải học lễ độ, ứng xử tôn ti trật tự, đề cao

tính lễ kính với người và phải có trên dưới rõ ràng, còn chữ "Văn" luôn nhắc nhở phải học Văn

để sau này con cháu muôn thuở đời sau phải nhớ đến công lao của ông cha ta để lại trong suốt

nhiều năm liền. Câu này đã phổ biến ở khắp trường học trên cả nước, không những thế nó còn là

một công cụ hữu ích trong việc phát triển xã hội Việt Nam hiện nay.

Ảnh hưởng với tư tưởng Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh từng nói: "khởi nghĩa nước ta luôn bị dập tắt là bởi vì chưa có đường lối đúng đắn"

cho nên tư tưởng Hồ Chí Minh là một phần không thể thiếu đối với chính trị và xã hội Việt

Nam hiện nay, bao gồm những tôn giáo, triết lý phương đông như Chủ nghĩa Tam Dân, tư

tưởng Nho giáo, lối sống Phật Giáo với quan niệm "Từ bi Bác ái", "Thương người như thể

thương thân" và triết lý phương Tây như xây dựng kinh tế, cuộc cách mạng tư sản, lối sống

Câu 7: Đặc điểm môi trường tự nhiên Việt Nam

- Nằm trong khu vực Đông Nam Á (gần núi Hymalaya, dãy Thiên Sơn, gần hạ lưu các

con sông lớn, chênh lệch lớn giữa bình nguyên và núi rừng, chênh lệch nhỏ giữa bình nguyên và

mặt biển…) à ĐK khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều có gió mùa.

- Nằm ngã tư đường của các cư dân và các nền văn minh. Phổ tự nhiên VN: Nhiệt - Ẩm –

Gió mùa.

- Hệ sinh thái phồn tạp: Đa dạng sinh học, thực vật phát triển hơn động vật.

- Địa hình Việt Nam: Dài Bắc – Nam; Hẹp Tây – Đông; Đi từ Tây sang Đông có Núi -

Đồi - Thung - Châu thổ - Ven biển - Biển - Hải đảo; Đi từ Bắc vào Nam là đèo cắt ngang.

- Đa dạng môi trường sinh thái à Đa dạng văn hoá: Văn hoá sông nước và thực vật.

+ Văn hoá thực vật: Bữa cơm (Cơm – Rau - Cá), tục thờ cây.

+ Văn hoá sông nước: Kỹ thuật canh tác (xây đe, đập, kênh); Cư trú (Làng ven sông);

Ứng xử (Linh hoạt như nước); Sinh hoạt cộng đồng (Cua ghe, đua thuyền..).

- Khó khăn: Thiên tai, lũ lụt, bão à tạo tính kiên cường, tinh thần cố kết cộng đồng…

Câu 8: phật giáo và khai thác giá trị trong phật giáo

Phật giáo Việt Nam

Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam, Phật

giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo của

các nơi khác trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam.

Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát

triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến

đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến

Page 16: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì

mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá

trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với

các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu [5]

.

Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:

· từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng

khắp;

· thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;

· từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;

· từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.

Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam

Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều đó là khế

lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy

trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các nước khác.

Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật-đà

vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của

mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát[13]

.

Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào thì sự sinh

hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng[13]

. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc

gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách khác thì có thể tùy nghi phương tiện

theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo

là ứng hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng sanh.

Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù một mà không phải một, nên

có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Thái Lan, v.v. tất cả đều có tên

chung là Phật giáo, bảo rằng giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là khế cơ

là bản địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.

Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa, khiến

Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo

đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của

đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị

thiền sư có vị trí quan trọng trong các triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện mình vào lòng

dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000

năm lịch sử Phật giáo Việt Nam[5]

.

Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống

Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và

thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy

nhiên bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp

Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu

Page 17: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẽ đẹp, mà

một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng từ

mẫn v.v. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần"

hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa,

anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh

hồn đã khuất.

Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo

Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền

Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo

Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn

kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.

Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng Phật, bồ tát, la hán của các

tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết hợp Tiểu thừa vớiĐại thừa. Nhiều

chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo

lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng

còn có áo nâu, áo lam.

Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác

Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo

cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên

"Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn

giáo có cùng một mục đích). Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo

lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh

"Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa,Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu

vào tâm thức mọi người Việt[14]

.

Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo khác để hình thành Đạo

Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".

Tính hài hòa âm dương

Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác của lối tư duy nông

nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật giáo Việt Nam có phần thiên

về nữ tính.

Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị biến thành "Phật ông - Phật

bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á

nên còn được gọi là Quan Âm Nam Hải. Ngoài ra người Việt còn có những vị Phật riêng của

mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm

Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).

Tính linh hoạt]

Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật thường gọi là "tùy duyên

bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người

ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản

của nhà Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan

Âm (vốn là bồ tát), Phật Di Lặc (vốn là hòa thượng),... Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp

hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca Tuyết

Page 18: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Sơn),... Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt

Nam.

Phật giáo và Văn hóa Việt

Phật giáo đã thấm nhuần vào cách suy tư và sinh hoạt của người Việt nên dấu vết Phật giáo trong

văn hóa Việt khá đậm nét. Nhiều người Việt theo lệ ăn chay vào những ngày mồng một hay

ngày rằm.

Trong văn học thì truyện Nôm bình dân kể lại truyện Bà Chúa Ba tức truyện Quan âm chùa

Hương. Nghệ thuật trình diễn có vở chèo Quan Âm Thị Kính. Truyện Kiều của Tố nhưNguyễn

Du cũng hàm chứa nhiều tư tưởng Phật giáo.

Văn chương truyền khẩu thì số tục ngữ ca dao liên quan đến Phật giáo rất đa dạng.

Khuyên người thì có:

Dù xây chín đợt phù-đồ

Không bằng làm phúc cứu cho một người

Nhận xét nhân thế thì có:

Hiền như Bụt

Oan Thị Kính

Đi với Bụt mặc áo cà-sa

Đi với ma mặc áo giấy

Miệng thì nam-mô

Bụng bồ dao găm

Châm biếm thì có:

Trao lược cho sư

Nhất sư nhì vãi

Quay đầu trở lại

Nhất vãi nhì sư[15]

.

Câu 8: Trình bày những đặc điểm của văn hóa: nhà Nguyễn, Nhà Lý, nhà Trần, Thời kỳ

Pháp thuộc, văn hóa Việt Nam hiện đại. Có thể khai thác những giá trị văn hóa (vật thể,

phi vật thể) của thời kỳ này phục vụ hoạt động kinh doanh DL

1. Nhà Lý

Tôn giáo, tín ngưỡng

Trong các tôn giáo Đại Việt thời Lý, Phật giáo về cơ bản là tôn giáo có ảnh hưởng nhiều nhất,

ngoài ra Nho giáo và Đạo giáo cũng có tác động đến đời sống chính trị xã hội. Thời Lý, bên cạnh

tín ngưỡng dân gian truyền thống có tư tưởng tam giáo đồng nguyên, coi trọng cả 3 tôn giáo này.

Đạo Phật phát triển và truyền bá rộng rãi. Năm 1031, nhà Lý cho xây 950 ngồi Chùa. Năm

1129, khánh thành 84000 bảo tháp

Phật giáo được truyền vào từ thời Bắc thuộc, vẫn đóng vai trò ảnh hưởng lớn hơn cả. Sau khi lên

ngôi, Lý Công Uẩn cho xây dựng nhiều chùa, phát hàng ngàn lạng vàng thuê thợ đúc chuông đặt

trong các chùa.

Page 19: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Các vua Lý kế nghiệp cũng tiếp tục xây dựng chùa chiền, đúc chuông, tô tượng, cử sứ sang

Trung Quốc xin nhà Tống kinh Phật, biến các chùa thành nơi cầu đảo, làm lễ tạ ơn khi chiến

thắng quân xâm lược, lễ đại xá… Các quý tộc và nhân dân cũng đóng góp xây dựng nhiều chùa ở

các địa phương.

Việc chú trọng xây dựng chùa thời Lý được sử gia Lê Văn Hưu thời Trần ghi nhận là “xây tường

cao ngất, tạc cột chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cả cung điện của vua”

Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của Phật giáo. Chùa thời Lý được chia làm

3 hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam. Nổi lên các chùa lớn là chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa

Dạm (Bắc Ninh), chùa Long Đọi (Hà Nam). Năm 1049, Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu,

dựng cột đá ở giữa ao, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột đá. Năm 1105, Lý Nhân

Tông cho sửa lại, vét hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ Linh Chiểu, ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy

xung quanh, ngoài hồ có hành lang lại đào hồ Bích Trì có cầu bắc qua để đi lại…

Do du nhập vào Đại Việt qua những con đường khác nhau và do sự tiếp nhận của nhân dân

đương thời, Phật giáo không có một dòng duy nhất. Có dòng hòa với tín ngưỡng dân gian cổ

truyền (các chùa Pháp Vân, chùa Pháp Vũ, chùa Diên Hựu - Một Cột…), có dòng thiên về Mật

Tông (với những nhà sư giỏi về pháp thuật và chữa bệnh), có dòng thoát tục, có dòng tu tại gia

lấy “cái tâm” làm gốc… Trong trào lưu đó, giai cấp thống trị mong muốn tìm ra một tôn giáo

làm nền cho sinh hoạt tinh thần và tâm tinh người Việt, thoát khỏi hệ tư tưởng Nho giáo của

phương Bắc.

Nối tiếp ý tưởng của cha ông, Lý Thánh Tông đã có ý định sáng lập ra phái Thiền Đảo Đường

với nhiều nét của phương Nam, nhưng không thành. Dần dần hình thành sự hòa hợp giữa Phật

giáo và Nho giáo.

Nho giáo cũng được truyền vào từ thời Bắc thuộc. Nho giáo hình thành ảnh hưởng trong xã hội

qua hệ thống giáo dục và khoa cử theo mô hình Trung Quốc. Khi việc học hành được mở mang

thì nên lực lượng Nho sĩ ngày càng đông trong xã hội. Tuy nhiên, Nho giáo thời Lý nhìn chung

chưa có điều kiện phát triển mạnh mẽ như các triều đại sau.

Đạo giáo cũng được truyền vào từ thời Bắc thuộc như Phật giáo và Nho giáo, tuy có vai trò ít

hơn nhưng vẫn có ảnh hưởng nhất định. Điều đó được thể hiện trong chế độ thi cử, yêu cầu các

thí sinh hiểu biết cả 3 tôn giáo này mới có thể đỗ. Đến thời Lý Cao Tông, nhà Lý chính thức tổ

chức các kỳ thi Tam giáo. Việc thi cử bằng tam giáo phản ánh tam giáo đồng nguyên vào thời

Lý; trong đó Nho giáo là hệ tư tưởng dùng để quản lý xã hội, Phật giáo là quốc giáo, còn Đạo

giáo có ảnh hưởng nhất định trong các tầng lớp dân cư.

+Tín ngưỡng dân gian hình thành từ nhiều đời vẫn được coi trong và rất phổ biến.

Những phong tục ngày càng được mở rộng như thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các anh hùng

dân tộc, người có công với làng, với nước…

Nhà Lý đã dựng đền “Đồ đại thành hoàng”, đền “Đồng cổ” (trống đồng), đền thờ Hai Bà Trưng,

đền thờ Phùng Hưng, đền thờ Phạm Cự Lạng ở kinh thành Thăng Long; nâng lễ thờ thần Phù

Đổng Thiên Vương lên tầm quốc gia.

Các tục thờ nguyên thủy “vạn vật hữu linh” vẫn còn nhiều. Triều đình cũng tham gia vào đời

sống tín ngưỡng với dân gian

Nghệ thuật, kiến trúc Những công trình kiến trúc chủ yếu thời kỳ này là kinh thành, cung điện, dinh thự các quan lại,

lăng mộ vua chúa và đặc biệt là chùa chiền, đền miếu.

Page 20: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Kinh thành, cung điện

Đại Việt sử ký toàn thư mô tả việc xây dựng kinh thành Thăng Long thời Lý Thái Tổ như sau

Xây dựng các cung điện trong kinh thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên

làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Lại mở cửa

Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng

chính nam dựng điện Cao Minh, đều có 3 thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn

ra xung quanh bốn phía...

Cấm Thành (nơi ở của vua) có trục đối xứng bắc – nam, điện Càn Nguyên ở trên núi

Nùng (Long Đỗ). Nhà Lý cho xây dựng 36 cung, 49 điện ở khu trung tâm Cấm thành Thăng

Long. Công trình hoàng thành Thăng Long, qua kết quả khai quật của giới khảo cổ học Việt

Nam từ năm 2002 đã cho thấy những dấu tích của nghệ thuật kiến trúc thời Lý. Đó là những

công trình mang các đặc điểm

Đẹp và công phu

Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một vì)

Quy mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai quật)

Trang trí rất tinh xảo, kết hợp hài hòa giữa các chất liệu gỗ - đá - gạch - đất nung

Quy hoạch thống nhất và cân xứng

Việc khai quật khu Hoàng thành Thăng Long ở 18 Hoàng Diệu (Hà Nội) còn giúp các nhà

khảo cổ nhận diện mặt bằng kiến trúc tại đây

Chân cột bằng đá, móng trụ sỏi, nền nhà lát gạch vuông, có cống thoát nước

Mặt bằng kiến trúc kiểu chữ nhật nhiều gian, có từ 3 cột đến 6 cột, bên cạnh các mặt bằng

kiểu lục giác, bát giác

Các sử gia đánh giá kiến trúc hoàng thành Thăng Long đánh dấu bước chuyển biến vượt bậc

của nghệ thuật kiến trúc và quy hoạch kinh thành Thăng Long

Bến sông Hồng có điện Hàm Quang, bên hồ Kim Minh có điện Hồ Thiên Bát Giác, trên hồ

Dâm Đàm có cung Tây Hồ. Trong kinh thành có các vườn ngự uyển như Xuân Quang,

Thượng Lâm, Quỳnh Lâm, Bảo Hoa... Đời Lý Thái Tông làm thêm điện Tuyên Đức, điện

Diên Phúc có thềm trước gọi là thềm rồng (long trì), phía đông thềm rồng đặt điện Văn

Minh, phía tây đặt điện Quang Vũ.

Chùa, đền, miếu

Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của Phật giáo. Chùa thời Lý được chia

làm 3 hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam

Nổi lên các chùa lớn là chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm (Bắc Ninh), chùa Long Đọi (Hà

Nam). Năm 1049, Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), dựng cột đá ở giữa

ao, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột đá. Năm 1105, Lý Nhân Tông cho sửa lại, vét

hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ Linh Chiểu, ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy xung quanh,

ngoài hồ có hành lang lại đào hồ Bích Trì có cầu bắc qua để đi lại…

Thời Lý có nhiều quần thể chùa – tháp lớn. Kiến trúc chùa thời Lý thường có nhiều tầng nền

giật cấp, bạt sâu vào sườn núi, cao dần lên đỉnh, chỉ một tầng nền đã có chiều dài 120 mét và

rộng 70 mét, tất cả được kè đá và bố cục đối xứng qua trục chính tâm và quy hoạch tổng thể,

kết hợp hài hòa giữa chùa và tháp. Trong chùa đặt tượng thờ, đồ thờ với nhiều chất liệu khác

nhau, kết hợp cả 3 yếu tố thiền, tịnh, mật của các tông phái Phật giáo

Page 21: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Các chùa thường có tháp lớn như tháp Báo Thiên 12 tầng – vài chục mét, tháp Phổ Minh cao

14 tầng – 21 mét, tháp Chiêu Ân 9 tầng, tháp Phật Tích 10 tầng, tháp Sùng Thiện Diên Linh

13 tầng, tháp Vạn Phong Thành Thiện… Các tháp được trang trí tượng tròn, phù điêu bằng

đá, đất nung đẹp và nhiều tranh vẽ Phật trên tường và các bức chạm lộng bằng gỗ với chủ đề

động vật, thực vật tươi vui

Ngoài chùa, nhà Lý còn xây dựng nhiều công trình khác như đền Đồng Cổ, lầu gác trên núi

Cung vua, Văn Miếu - Quốc Tử Giám... Việc xây dựng thời Lý được tuân thủ theo một

nguyên tắc quy hoạch của phương thuật địa lý thời cổ cho phù hợp với quy luật tự nhiên, hài

hòa cao với cảnh quan xung quanh, tận dụng tối đa lợi thế của môi trường. Hệ quả là tạo ra

sự hòa hợp lâu dài giữa con người với công trình và thiên nhiên[6]. Chùa thời Lý được đặt

trong một quần thể kiến trúc, tại những nơi có cảnh thiên nhiên tươi đẹp và có liên hệ cộng

đồng dân cư, gần làng sát nước

Điêu khắc, đúc tượng

Đầu rồng trang trí mái cung điện thời nhà Lý.

Nghệ thuật điêu khắc thời Lý là một thành tố hiện diện thường trực ngay cả ở những công

trình không có tên trong sử sách hay bia cổ cũng được trang hoàng uy nghiêm, bài trí lộng

lẫy.

Những công trình điêu khắc tinh tế với những tấm phù điêu mô típ hoa văn hoa cúc nhiều

cánh, hoa sen, lá cây và đặc biệt là rồng giun mình trơn nằm gọn trong chiếc lá đề. Đặc điểm

chung là chân thực, đơn giản, khỏe mạnh.

Nghệ thuật đúc chuông – tô tượng rất phổ biến. Nước Đại Việt có 4 công trình nghệ thuật

bằng đồng nổi tiếng được gọi là “An Nam tứ đại khí” thì 3 trong số đó được tạo ra thời Lý

1. Tháp Báo Thiên còn gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, được xây trên một quả gò

cạnh hồ Lục Thủy vào tháng ba năm 1057 đời vua Lý Thánh Tông, trong phạm

vi chùa Báo Thiên. Tháp xây 12 tầng, cao mấy chục trượng

2. Chuông Quy Điền (chùa Một Cột – Hà Nội) đúc năm 1080 thời Lý Nhân Tông.

3. Tượng Phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh) do nhà sư Dương

Không Lộ đúc, cao 6 trượng (khoảng 20 mét).

Ngoài 3 tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao trên, các tác phẩm khác được xem là tiêu biểu gồm có

Tượng Phật A Di Đà ở chùa Phật Tích - Bắc Ninh. Tượng được tạc năm 1057, cao 2,77

mét, liền với bệ. Nét mặt tượng trầm tư nhưng vẫn rạng rỡ

Các tượng linh điểu (Garuda)

Tượng người có cánh đánh trống (Kinnari) mang phong cách nghệ thuật Cham Pa, nét

mặt đẹp dịu dàng, trầm tư

Tượng sư tử chùa Hương Lãng dài gần 3 mét, rộng 1,5 mét có vẻ dũng mãnh

Dãy 10 con thú nằm ở cửa tiền đường chùa Phật Tích

Tượng rồng nằm dài theo bậc thềm, tượng người, voi, ngựa…

Các tượng người hay vật đều sinh động và có hồn; đường cong lớn và dày đặc, nét uyển

chuyển mềm mại, dù làm bằng chất liệu nào. Bố cục các tác phẩm điêu khắc đẹp cân xứng,

hài hòa

Page 22: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Giáo dục

Nhà Lý là triều đại phong kiến đầu tiên ở Việt Nam xác lập hệ thống giáo dục khoa cử có hệ

thống[1]. Từ đầu công nguyên thời Bắc thuộc, các triều đại Trung Quốc đã truyền bá chữ Nho,

mở trường học tại Việt Nam, với quan niệm là công cụ đồng hóa[2]

. Đến thế kỷ 10, chữ Hán đã

trở thành chữ viết chính thức, nhưng số người biết chữ Nho rất ít ỏi. Các nhà sư thường là lớp trí

thức quan trọng bên cạnh các viên chi hậu, viên ngoại lang.

Sang thời Lý, năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng nhà Văn Miếu ở kinh thành Thăng Long,

đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối 72 người hiền của đạo Nho. Năm 1076vua Lý Nhân

Tông lập ra Quốc Tử Giám. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng Quốc Tử Giám chỉ là

trường học công đầu tiên do triều đình chính thức đứng ra tổ chức, thể hiện sự quan tâm đối với

việc học hành của hoàng tộc, còn trường học tư được hình thành trước đó[3]

.

Các bộ quốc sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục không

đề cập cụ thể về hệ thống trường học tại các địa phương thời Lý. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào

ghi chép của sách Tây Hồ chí khẳng định rằng trường học tư đã được mở tại kinh thành Thăng

Long trước khi Quốc Tử Giám hình thành[3]

.

Trường học tư đầu tiên được xác nhận là trường Bái Ân của Lý Công Ân - một tông thất nhà Lý

không ra làm quan mà ở nhà dạy học[3]. Ông sống ở thôn Bái Ân, nay thuộc phường Nghĩa Đô,

quận Cầu Giấy. Lý Công Ân là một học trò của sư Vạn Hạnh, cũng là một tín đồ Phật giáo như

nhiều người đương thời nhưng ông vẫn mở trường dạy học truyền thụ kiến thức Nho giáo[4]

.

Tuy nhiên, trong những năm đầu, hệ thống trường học chưa nhiều. Có hai dạng trường lớp[5][6]

:

Một là những người biết chữ nhưng đi thi không đỗ đạt, mở lớp dạy học để kiếm sống hoặc

tầng lớp quan lại hoặc những người đã đỗ đạt, vì nhiều lý do đã về nhà (nghỉ hưu, bị sa thải,

từ quan...) mở lớp dạy cho con em mình hoặc những người thân thích.

Hai là các trường học tồn tại trong các chùa do các nhà sư giảng dạy (không chỉ dạy Phật

giáo và truyền đạt cả kiến thức Nho giáo).

Sách vở chủ yếu trong hệ thống đào tạo là Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử, Nam sử và sách của bách

gia chư tử. Tuy nhiên, do ảnh hưởng đậm nét của Phật giáo và một phần của Đạo giáo, Nho giáo

chưa có vị trí độc tôn như sau này. Các trường lớp còn dạy nhiều kiến thức về Phật giáo và Đạo

giáo[7]. Chữ viết chính thức trong giáo dục vẫn kế tục các đời trước là chữ Hán

[8].

Như vậy vào thời Lý dù rất coi trọng đạo Phật nhưng từ trung kỳ đã coi trọng đạo Nho hơn

trước, vì Nho giáo là học thuyết giải quyết được các mối quan hệ cơ bản (vua – tôi, cha – con, vợ

- chồng, bằng hữu...), làm ngọn cờ cho sự ổn định xã hội, để thống nhất và quản lý xã hội. Điều

đó không chỉ bảo vệ cho quyền lợi của nhà Lý mà còn đặt nền móng cho sự phát triển giáo dục

và khoa cử Nho học của các vương triều sau này[9]

.

Khoa cử

Cùng việc mở Quốc Tử Giám, nhà Lý quan tâm tới việc tổ chức thi cử để lựa chọn nhân tài mà

các triều đại trước đó chưa thực hiện.

Khoa thi đầu tiên được nhà Lý tổ chức vào tháng 2 năm 1075, niên hiệu Thái Ninh thời vua Lý

Nhân Tông, gọi là thi Minh kinh bác học. Lê Văn Thịnh người làng Báo Tháp xã Đông Cứu (nay

thuộc huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh) đỗ đầu cùng hơn 10 người trúng tuyển. Ông trở thành thủ

khoa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam[10]

.

Page 23: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Việc mở khoa thi Nho giáo đầu tiên đánh dấu mốc về việc nhà Lý chính thức tuyển người theo

Nho giáo làm quan bên cạnh tầng lớp quan lại thiên về kiến thức Phật giáo trước đó[11]. Trong kỳ

thi thứ tư, thí sinh phải viết luận về chủ đề Y quốc thiên (thiên trị nước) và thiên tử truyện (truyện

đế vương).

Các khoa thi không hỏi riêng về kiến thức một lĩnh vực Nho giáo đơn thuần mà hỏi cả về Phật

giáo và Đạo giáo, vì vậy đòi hỏi người ứng thí các khoa thi phải thông hiểu kiến thức cả 3 đạo

này mới có thể đỗ đạt[12]. Việc tổ chức thi Tam giáo (Phật, Nho, Đạo) chính thức được thực hiện

năm 1195 dưới triều vua Lý Cao Tông. Thi cử bằng cả Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo phản

ánh tam giáo đồng nguyên khá phổ biến vào thời Lý[13]. Sử gia Ngô Sĩ Liên thời Hậu Lê theo

quan điểm độc tôn Nho giáo không đồng tình với việc này[

Văn học và nghệ thuật

Thời Lý, sự ảnh hưởng của đạo Phật (đã có căn bản từ triều Đinh-Lê) đến chính trị, văn

hóa và văn học trở thành một đặc điểm nổi bật trong thời kỳ lịch sử này. Sách Việt Nam

cổ Văn học sử của Nguyễn Đổng Chi ghi lại Trong thế kỷ 10, cửa chùa đã đóng một vai

trò quan trọng về văn học. Cũng vì thế mà Đạo Phật ở Việt Nam từ đó càng lắm tín đồ và

được chính phủ vị nể.

Các tăng sĩ đời Lý học hiểu rất rộng, uyên thâm Hán học, họ là những người tài giỏi và

hay chữ nhất trong xã hội. Khi lực lượng nhà Nho chưa đủ nhiều để tham gia chính sự thì

triều đình thường vời đến các bậc cao tăng trưởng lão. Cũng do tính chất độc tôn của đạo

Phật trong đời sống tinh thần dân tộc đã dẫn đến nhu cầu rộng rãi trong nhân dân muốn

tìm hiểu, học tập những vấn đề triết lý của đạo Phật. Để đáp ứng nhu cầu đó, bên cạnh

việc thuyết giảng, các nhà sư còn tìm cách truyền phổ đạo Phật bằng cách thể hiện các

nội dung triết lý vốn rất trừu tượng khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh

động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp người học đạo được thuận lợi hơn trong quá trình nghiên

cứu, học tập.

Một đặc điểm ngôn ngữ quan trọng là văn tự được viết bằng chữ Hán nên chủ yếu, chỉ có các

tầng lớp vua, quan, nhà sư mới có đủ trình độ uyên bác để sử dụng chữ viết và sáng tác thơ văn.

Bên cạnh đó, bắt đầu từ thời Lý, truyền thống yêu nước trong văn học hình thành và phát triển

trong các giai đoạn sau. Chủ đề yêu nước trong mỗi tác phẩm thể hiện ở những cung bậc trầm

hùng khác nhau nhưng ý nghĩa chung nhất vẫn là tiếng nói lạc quan, mang tính thời đại, tiếng nói

tự hào của một dân tộc đang vượt qua nhiều thử thách.

Dưới hình thức này hay hình thức khác, sự phong phú của văn học thời kỳ này biểu hiện tính

chất dung hòa nhất giữa Phật giáo-Nho giáo và các tín ngưỡng dân gian thuần túy của dân tộc.

Tính chất trang trọng trong ngôn ngữ biểu hiện (chữ Hán), tính uyên bác trong chiều sâu tư

tưởng... khiến cho văn học đời nhà Lý trở thành một đỉnh cao, ảnh hưởng sâu rộng đến đời Trần

mà gần nhiều thế kỷ văn học trung đại nối tiếp khó bề sánh kịp. Tuy mức độ ảnh hưởng và quảng

bá văn chương không đi sâu vào tầng lớp bình dân nhưng văn học đời Lý vẫn khẳng định được

giá trị bác học độc đáo của mình. Thời kỳ này, văn học dân gian vẫn độc lập phát triển.

Nghệ thuật: Văn hóa phát triển phong phú. Xuất hiện nghệ thuật Tuồng, Chèo và Múa rối

nước kèm sự xuất hiện của Lễ hội.

2. Nhà Trần:

Page 24: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Tôn giáo

Tôn giáo Đại Việt thời Trần về cơ bản cũng giống như thời Lý, có ảnh hưởng lớn của Phật

giáo. Tuy nhiên so với thời Lý, Nho giáo ngày càng có vai trò lớn hơn

Phật giáo

Phật giáo vẫn đóng vai trò ảnh hưởng lớn hơn cả. Nhiều chùa được xây cất. Các vua Trần Thái

Tông, Trần Nhân Tông đi tu; vua Trần Anh Tông sai sứ sang Trung Quốc thu thập bộ kinh Đại

Tạng về lưu hành trong dân gian.

Nổi bật nhất trong các vua Trần theo Phật giáo là vua Trần Nhân Tông, người đã sáng lập ra

dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử[2]. Trước Trần Nhân Tông, Hưng Nhượng vương Trần Quốc

Tảng (con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn) cũng tu hành và trở thành Tuệ Trung thượng

sĩ. Vua Trần Nhân Tông (cũng là con rể Hưng Đạo vương) đã chịu chân truyền của Tuệ Trung

thượng sĩ[2]. Năm 1293, Trần Nhân Tông truyền ngôi cho thái tử Thuyên (Trần Anh Tông) lên

làm thái thượng hoàng, lui về phủ Thiên Trường. Ít lâu sau ông xuất gia tu ở chùa làng Vũ Lam

huyện Gia Khánh (Ninh Bình) rồi trở về Thiên Trường mở Vô Lượng pháp hội tại chùa Phổ

Minh. Năm 1298 ông sáng lập ra dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Dòng Thiền này đã thống nhất

các dòng Tì-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường cũ dưới quyền lãnh đạo của Phật

hoàng Trần Nhân Tông.

Ngoài thượng hoàng Trần Nhân Tông, phái Trúc Lâm Yên Tử còn có 2 vị tổn nữa là Pháp Loa

tôn sư và Huyền Quang tôn giả, trong đó thượng hoàng Nhân Tông được truyền tụng như Thích

Ca tái thế, Pháp Loa được tôn như Ma Ha Ca Diếp và Huyền Quang được coi như A Nan. Các

chùa trực tiếp thuộc hệ thống Trúc Lâm là Vũ Lâm ở Ninh Bình, Phổ Minh, Lâm Động và Báo

Ân ở Bắc Ninh, Sùng Nghiêm ở Hà Nội; khu Yên Tử là quan trọng nhất, được coi là gốc tổ.

Do sự thịnh hành của Phật giáo, các thiền sư được sự tôn trọng của xã hội, không tham gia chính

trị. Các chùa thường có ruộng công do làng xã cấp, ngoài ra còn có đất do những người mộ đạo

cúng tiến. Do có hoa lợi từ ruộng đất, đời sống nhà chùa được đảm bảo. Tuy nhiên, các nhà tu

hành vẫn sống khổ hạnh, nhiều người vẫn tham gia lao động sản xuất, theo thuyết hữu tác hữu

thực (có làm có ăn) trong khi vẫn cúng lễ, giảng kinh.

Tuy Phật giáo thịnh hành và được các vua quan tin theo nhưng vì công cuộc xây dựng nhà nước

theo mô hình Hán Đường của Trung Quốc, việc tiếp xúc thường xuyên với văn minh Trung

Hoa và việc chống ngoại xâm đã không cho phép Phật giáo phát triển thành quốc giáo. Các vua

quan sau thời Trần Nhân Tông đã xa rời dần Phật giáo.

Sang thế kỷ 14, sau thời kỳ hưng thịnh của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử (1298-1344), Phật giáo

có dấu hiệu suy thoái. Các vị tổ qua đời và không có các môn đệ xuất sắc kế tục. Các Nho sĩ chịu

ảnh hưởng của Tống nho, cùng thời ở triều đình nhà Nguyên bên Trung Quốc đã diễn ra sự kỳ

thị Phật giáo khiến Phật giáo ngày càng ít ảnh hưởng với các vua. Tại Đại Việt xảy ra điều tương

tự khiến vai trò ảnh hưởng của Phật giáo giảm đi[6]. Các sách kinh thường được tụng niệm theo

nguyên văn chữ Hán và ít được giảng dạy trong dân chúng[1]. Sự thờ phụng chỉ có hình thức, ít

người hiểu được giáo lý trong xã hội; nhiều người đi tu không phải vì mộ đạo mà chỉ để trốn

binh dịch. Do đó Trương Hán Siêu trong bài ký tế tháp Linh Tế núi Dục Thúy (Ninh Bình) đã tỏ

ý bất bình vì lắm kẻ “trốn việc quan đi ở chùa” và phê phán một số vị sư sa đọa.

Năm 1396, quyền thần Hồ Quý Ly ra lệnh sa thải bớt tăng đồ, ai chưa tới 50 tuổi mà học vấn ít

đều phải hoàn tục để tòng quân.

Page 25: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Nho giáo

Nho giáo hình thành ảnh hưởng trong xã hội qua hệ thống giáo dục và khoa cử. Vì văn học mở

mang nên lực lượng sĩ phu ngày càng đông. Họ noi gương Khổng Tử, Mạnh Tử.

Trong xã hội bắt đầu hình thành tầng lớp nho sĩ và nảy sinh việc phê phán Phật giáo. Các nho

sĩ Đại Việt đuơng thời chịu ảnh hưởng của Tống Nho (với quan điểm là “hợp lý, thực tế và kỳ

thị”). Vua Trần Thái Tông tuy chân thành mộ đạo Phật nhưng cũng chịu ảnh hưởng nhất định

của các Nho sĩ theo Tống nho, trong cách biện giải triết lý nhà Phật, vua đều lấy Nho học làm

phương tiện chính. Sau này 3 vị tổ dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử (Trần Nhân Tông, Pháp

Loa và Huyền Quang) đều theo cách đó của vua Thái Tông và điều đó được xem là bước chuyển

dịch từ Phật giáo qua Nho giáo thời Trần.

Ngoài Trương Hán Siêu phê phán một số tăng đồ, Lê Văn Hưu cũng phê phán nhà Lý quá sùng

đạo Phật nên tiêu phí tiền của vào việc xây cất. Tuy nhiên, việc phê phán Phật giáo của tầng lớp

Nho sĩ chỉ ở hình thức bên ngoài mà không bàn luận tới giáo lý.

Các nhà Nho nổi tiếng thời Trần có Lê Văn Hưu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Trương

Hán Siêu, Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An... Tuy Nho giáo có ảnh hưởng lớn hơn thời

kỳ đầu nhưng chưa thực sự thấm sâu[10], chủ yếu đáng kể ở việc đề cao tư cách đạo đức của

người quân tử, tôn trọng nghi thức thờ tự và kỷ cương triều đình. Có 3 nhà Nho từng được thờ tự

ở Văn Miếu là Chu Văn An, Trương Hán Siêu và Đỗ Tử Bình nhưng sau đó Trương Hán

Siêu và Đỗ Tử Bình bị tước bỏ, chỉ còn lại Chu Văn An.

Lê Văn Siêu cho rằng từ nửa cuối thế kỷ 14 nhà Trần có dấu hiệu suy yếu có phần ảnh hưởng từ

tôn giáo: Phật giáo không còn được sùng kính, còn Nho giáo cũng chưa ra Nho giáo chính thống,

tinh thần của toàn xã hội không có ngọn cờ nào dẫn đường ngoài những hấp dẫn của danh và lợi.

Đạo giáo

Tuy đã xâm nhập vào Đại Việt và cũng được sự trọng thị của triều đình, Đạo giáo không có đội

ngũ đông đảo truyền giảng đạo như Phật giáo và Nho giáo. Do đó Đạo giáo thời Trần không có

những tín đồ thực sự, chỉ có một số người tu tiên và các thày cúng cầu phúc trừ tà[1]

.

Tam giáo đồng nguyên

Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên kế tục từ thời Lý tiếp tục tồn tại tới thời Trần. Nhà Trần cũng

thực hiện chế độ khoa cử bằng các khoa thi Tam giáo, đòi hỏi người thi phải thông hiểu cả 3 tôn

giáo Phật, Nho và Đạo. Người đỗ Tam giáo gọi là Tam giáo xuất thân. Tuy nhiên từ sau năm

1247, chế độ khoa cử Tam giáo không còn được áp dụng nữa[13]

.

Công giáo

Tuy Công giáo chưa chính thức xâm nhập Đại Việt nhưng dưới thời Trần đã ghi nhận sự xuất

hiện của một nhà truyền giáo tại đây. Vào giữa thế kỷ 14, nhà truyền giáo Odorico de Pardonone

(Thánh Odorico de Pardonone) đã đặt chân lên lãnh thổ Việt Nam[14]. Khoảng 200 năm sau, dưới

thời Mạc, việc Công giáo truyền đạo vào Đại Việt bắt đầu được xúc tiến[14]

.

Tín ngưỡng dân gian

Ngoài 3 tôn giáo Phật, Lão và Nho, tín ngưỡng dân gian hình thành từ nhiều đời vẫn rất phổ

biến. Bên cạnh những phong tục ngày càng được mở rộng như thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các anh

hùng dân tộc, người có công với làng, với nước…, các tục thờ nguyên thủy “vạn vật hữu linh”

vẫn còn nhiều. Triều đình cũng tham gia vào đời sống tín ngưỡng với dân gian[15]

.

Page 26: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Văn học nghệ thuật

Tổng quan

Nước Việt dưới đời Trần xuất hiện nhiều thiên tài quân sự, tạo nên những chiến công sáng chói

trong lịch sử giữ nước. Tuy nhiên, nhân tài đời Trần không chỉ giới hạn trong lãnh vực quân sự,

mà còn có nhiều nhân vật kiệt xuất trong lãnh vực văn học.[1]

Nếu thi ca và văn chương là nền

tảng của tư tưởng Việt, tư tưởng từ đó được hệ thống hóa thành nhân sinh quan và triết lý Việt,

thì đóng góp của đời Trần rất quan trọng trong việc phát huy một nền văn hóa thuần túy Việt

Nam. Bắt nguồn từ một nhân vật gốc gác ngư dân thuyền chài, không biết gì về văn học, các

triều đại nhà Trần đã để lại một nền văn học có phần vượt trội, hơn hẳn đời nhà Lý.[2]

Không

những thế, dưới các triều đại này việc phổ biến chữ Nôm và Quốc ngữ thi cho ta thấy người

Việt đã bắt đầu phát huy một nền văn hóa đầy tự tin và ý thức độc lập, vượt lên khỏi ảnh hưởng

sâu đậm của Trung Quốc.[3]

Điều kiện phát triển

Một trong những lý do văn học đời Trần có những thành tựu tốt đẹp là do việc học được khuyến

khích không ngừng qua suốt các đời vua.[4]Năm Kiến Trung thứ tám (1232), vua Thái Tông đã

cải tổ lại việc thi cử của đời Lý, mở kỳ thi Thái học sinh để tuyển mộ người hiền; năm Thiên

Ứng Chính Bình thứ năm (1243) vua đặt Phạm Ứng Thần làm chức quan Thượng thư tri Quốc tử

giám đề điệu, ra lệnh các con quan văn phải vào trường này học; năm Thiên Ứng Chính Bình thứ

mười (1247) Thái Tông lập thêm tam khôi: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa để khuyến khích

thí sinh; năm Nguyên Phong thứ ba (1253) Thái Tông lập Quốc học viện để giảng dạy, truyền

chiếu toàn quốc cho các học giả, khuyên nên vào Quốc học viện giảng đọc Tứ thư Ngũ

kinh.[5]

Đời Nhân Tông năm Thiệu Bảo thứ ba (1281), vua lập nhà học ở phủ Thiên Trường, cử

quan về giảng dạy. Đến đời Phế Đế, năm Xương Phù thứ bảy (1384) lập thư viện ở núi Lạn

Kha [6], cử Trần Tông làm trưởng viện giảng dạy học trò, và vua Nghệ Tông thường đích thân

thăm viếng. Đời Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 10 vua ban chiếu cấp ruộng học cho các châu

phủ có lợi tức, đặt quan Đốc học dạy dỗ các học trò.[7]

Các việc trên đây cho thấy tuy trải qua

nhiều tai biến binh đao, các vua nhà Trần không hề xao lãng trong việc khuyến khích sự học.

Lý do thứ hai văn học đời Trần có những thành công tốt đẹp là do từ đời Thuận Tông trở về

trước, việc học chú trọng về kinh thuật, đào tạo cho người học có bản lĩnh suy luận cơ bản,

không chú trọng lối học từ chương. Do đó, nhà Trần có những học giả kiệt xuất như Chu Văn

An, Trương Hán Siêu, và những nhà tư tưởng độc lập như Hồ Quý Ly. Có học giả bình luận rằng

nhờ vậy văn học đời Trần "...có khí cốt, không ủy mị non nớt như các đời khác..."[8]

Sự xuất hiện của thơ văn chữ Nôm

Hàn Thuyên

Trước đời Trần, văn chương Quốc ngữ nước Việt chỉ có tục ngữ, ca dao, hoặc các loại văn

chương bình dân truyền khẩu [9]

. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tháng tám,

mùa thu năm Thiệu Bảo tứ tư đời Nhân Tông (1282) có con ngạc ngư lớn xuất hiện ở sông Phú

Lương, vua sai quan Hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên viết bài văn vất xuống sông đuổi cá.

Con cá bỏ đi, vua xem việc nầy giống sự tích Hàn Dũ ở Trung Quốc, nên ban lệnh đổi tên họ ông

thành Hàn Thuyên [10]. Ông có biệt tài làm được thơ phú bằng chữ quốc ngữ, đặt ra Hàn luật.

Theo Dương Quảng Hàm thì Hàn luật chính là Đường luật ứng dụng vào Việt ngữ, và công Hàn

Thuyên rất lớn, vì nhờ có ông áp dụng vào thơ phú chữ Nôm, nhiều người bắt chước theo ông,

Page 27: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

nên nền văn chương chữ Nôm được khởi đầu từ đây [11]. Tại Bách khoa toàn thư Việt

Nam viết: Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật

(kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc).

Thơ văn chữ Nôm đời Trần

Sử chép nhiều người đời Trần bắt chước Hàn Thuyên làm thơ phú quốc âm, gây thành phong

trào làm thơ phú và viết văn bằng chữ Nôm [12]. Các bài thơ văn này nay đã thất truyền, nhưng sử

còn ghi lại tên một số tác giả và tác phẩm:

1. Hàn Thuyên viết Phi sa tập.

2. Nguyễn Sĩ Cố viết một số bài thơ văn chữ Nôm.

3. Chu Văn An viết Quốc ngữ thi tập.

4. Hồ Quý Ly viết Quốc ngữ thi nghĩa.

5. Trong Nghĩa sĩ truyện của Hoàng Trừng có ghi lại năm bài văn nôm đời Trần chép sự

việc Nguyễn Biểu đi sứ, ăn cỗ đầu người, bị tướng Trương Phụ chém, như sau:

a) Bài thơ nôm vua Trần tặng Nguyễn Biểu lúc đi sứ.

b) Bài thơ nôm của Nguyễn Biểu họa lại.

c) Bài thơ nôm của Nguyễn Biểu viết lúc ăn cỗ đầu người.

d) Bài văn tế Nguyễn Biểu chữ nôm do Trần Trùng Quang viết.

e) Bài kệ chữ nôm của vị sư chùa Yên Quốc (nơi Nguyễn Biểu bị hành hình) khen ngợi

chí khí của ông. [13]

Giáo dục, thi cử

Bài chi tiết: Giáo dục khoa cử thời Trần

Đời nhà Trần, văn học rất được mở mang, Nho học cũng phát triển hơn so với thời Lý.

Ngoài Quốc Tử Giám có tại kinh đô từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc Học Viện để

giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng.

Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các

khoa thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa có mở

định kỳ. Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ theo

định kỳ cứ 7 năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để

lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn.

Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ),

lấy 283 người đỗ [10]. Có 2 khoa thi 1256 và 1266 lấy 2 trạng nguyên là Kinh trạng nguyên

và Trại trạng nguyên nên tổng số có 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi.

• Khoa cử được đẩy mạnh và tổ chức có quy củ

• Năm 1247, bắt đầu lấy Tam khôi. Năm 1305, đặt thêm Hoàng Giáp sau tam khôi

• Hệ thống thi cử: Thi Hương, thi Hội, thi Đình

• Xuất hiện nhiều nhân tài như Nguyễn Hiền (Trạng Nguyên 13 tuổi); Đặng La Ma

(Bảng Nhãn, 15 tuổi); Lê Văn Hưu (Thám Hoa, 16 tuổi)

Kiến trúc và KHCN

Page 28: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Đời nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ Đại Việt

Sử Ký và đây là bộ sử đầu tiên của Việt Nam.Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất

mực thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính

phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua Thái

Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương

và có soạn Ngự tập và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như Hịch

tướng sĩ.

Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ Nôm. Vì

thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài thơ

Nôm rất giá trị. ĐVSKTT chép:

Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên

làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc của Hàn Dũ,

bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng

nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy.

Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với

thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong cách

Chiêm Thành. Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng [11]

.

Về kiến trúc, dựa trên các tháp gốm, tháp đá, mô hình nhà bằng đất nung, mảnh ngói vỡ

khai quật được, triều Trần tiếp tục kế thừa truyền thống nhà Lý với điểm nổi bật là chùa

tháp, bộ đấu củng chống đỡ mái cầu kỳ và các hoạt tiết trang trí đậm màu sắc Phật giáo.

Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung

Quốc [12]. Một số nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến

đã truyền nghề ca hát cho dân Đại Việt, càng ngày càng phổ biến.

• Kiến trúc: Phong cách phóng khoáng, rõ nét và khỏe. Chùa Yên Tử trở thành Trung

tâm Phật giáo. Chùa và Tháp Phổ Minh được xây dựng

• Khoa học CN: Nhiều ngành khoa học phát triển như quân sự, thiên văn, y học,... Có

chế tạo súng thân cơ, đóng chiến thuyền. Với nhiền tên tuổi như Hồ Nguyên Trùng,

Trần Nguyên Đán, Tuệ Tĩnh,...

3. Nhà Nguyễn:

Tư tưởng: Chấn hưng Nho giáo, hạn chế Phật giáo, cấm đoán Thiên Chúa giáo. Lệ thuộc vào

triều Mãn Thanh đổi tên nước thành Đại Nam.

Vua Gia Long rất đề cao Nho học, cho lập Văn Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng

Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở Kinh thành Huế để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở

khoa thi Hương lấy những người có học, có hạnh ra làm quan. Cũng trong năm này, Gia

Long cũng cho ban hành hai đạo dụ về việc mở các trường ở các tỉnh, ấn định nhân viên giáo

giới và chương trình học chế đồng thời tái lập lại các khoa thi ở các trấn. Ở mỗi trấn có một

quan Đốc Học, một phó Đốc Học hay Trợ Giáo. Cứ tháng 10 hàng năm triều đình mở một kỳ

thi.[77]

Theo thông lệ cứ ba năm triều đình mở khoa thi Hương ở các địa phương. Những

người trúng cao ở khoa thi Hương gọi là cử nhân, trúng thấp gọi là tú tài. Năm sau ở Kinh đô

mở khoa thi Hội tại bộ Lễ, những cử nhân năm trước khi ứng thí, nếu trúng cách thì được

tiếp tục thi Đình ở trong điện nhà vua để lấy các bậc Tiến sĩ.

Page 29: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Trong dân chúng, việc học tập có tính chất tự do hơn. Bất kỳ người nào có học lực kha khá

cũng có thể mở trường tư thục để dạy học. Mỗi làng có vài ba trường tư thục, hoặc ở

nhà thầy, hoặc ở nhà người hào phú nuôi thầy cho con học và cho con các nhà lân cận đến

học. Theo ông Trần Trọng Kim thì người Việt Nam vốn chuộng sự học, cho nên người đi

học cũng nhiều.[78]

Dù vậy, việc học tập càng lúc càng thoái hóa. Nhiều người học chỉ để ra

làm quan

Văn hóa nghệ thuật: Văn học dân gian phát triển. Nhiều tập thơ Nôm dài có nội dung sâu sắc

của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,... Văn thơ quan tâm số phận người phụ nữ và giá trị con

người

Sử học

Phu Văn Lâu, nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức

Ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Sử học là một trong những ngành khoa học rất phát triển. Sang

đầu thế kỷ XIX, dưới thời nhà Nguyễn, ngành này lại càng phát triển hơn, có thể nói đó là ngành

phát triển nhất thời vương triều Nguyễn. Đặc biệt khi cơ quan phụ trách sử học là Quốc sử

quán ra đời năm 1820 dưới thời vua Minh Mạng với nhiệm vụ thu thập các bộ sử xưa, in lại

Quốc sử thời Lê và biên soạn các bộ sử mới. Quốc sử quán phải nói là được tổ chức kỷ cương,

hoạt động một cách đầy hiệu quả. Vương triều Nguyễn cũng cho lập các kho tàng lưu trữ các

sáng tác từ cổ chí kim.

Sử học nhà Nguyễn có các thành tựu sau:

Tìm kiếm, lưu trữ và cho in lại các tác phẩm sử học của các triều đại trước[86]

.

Biên soạn nhiều bộ sử rất lớn và các công trình sử học có giá trị lớn như: Khâm định Việt sử

Thông giám Cương mục, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam Thực lục - Tiền biên và chính

biên[86]

, Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ phỉ khẩu phương lược, Bản triều bạn nghịch liệt

truyện... Các nhà sử học cũng cho ra đời nhiều công trình của cá nhân như Lịch triều tạp

kỷ của Ngô Cao Lãng, Sử học bị khảo củaĐặng Xuân Bản, Quốc sử dĩ biên của Phan Thúc

Trực,... và nhất là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú[87]. Trong đó, Đại Nam

thực lục chính biên có tới 587 quyển.

Các công trình địa phương chí, và gia phả các dòng họ cũng xuất hiện rất nhiều.

Việc biên soạn các bộ địa phương chí gần như thành phong trào: từ các tỉnh lớn cho đến

tận các huyện xã cũng có chí. Trong đó có rất nhiều bộ chí được biên soạn khá công phu

với nhiều chi tiết quý mà các bộ sử lớn không có. Tiêu biểu cho địa phương chí là Gia

Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch

Thể loại Gia Phả thì có Mạc Thị Gia phả của Vũ Thế Dinh[86]

.

Ngoài ra còn có các tác phẩm soạn theo kiểu quy cách nhiều vấn đề khác nhau của lịch sử,

nổi bật của thể loại này là bô Lịch triều Hiến chương loại chí của ông Phan Huy Chú[88]

.

Năm 1942, Giám đốc Nhà lưu trữ Đông Dương Paul Boudet cho biết rằng các tài liệu trước thế

kỷ XIX (thời Nguyễn) chỉ còn lưu lại được khoảng 20 bản. Từ triều vua Minh Mạng, công tác

lưu trữ mới được quan tâm. Cũng năm 1942, số lượng địa bạ ở Tàng thư lâu giữ được có tới

12.000 quyển.[89]

Địa lý và Địa lý Lịch sử

Thời Nguyễn cũng là thời có nhiều tác phẩm địa lý học lớn như bộ Hoàng Việt Nhất thống dư

địa chí do Thượng thư Lê Quang Định soạn theo lời của vua Gia Long. Sau đó cơ quan Quốc sử

Page 30: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

quán triều Nguyễn cũng soạn tiếp nhiều công trình khác khác gồm Đại Nam nhất thống toàn

đồ, Đại Nam nhất thống chí. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm có giá trị cao khác ngoài Quốc sử

quán như Bắc Thành địa dư chí và Hoàng Việt dư điạ chí của Phan Huy Chú; Phương Đình dư

địa chí của Nguyễn Văn Siêu[88]

; Đại Việt cổ kim duyên cách địa chí khảo và Gia Định thành

thông chí của Trịnh Hoài Đức; Nam Hà tiệp lục của Quốc sử quán,...[87]

Ngoài ra thời Minh

Mạng cũng xuất hiện rất nhiều bản đồ về các địa phương của nước Đại Nam thời kỳ đó.

Nhìn chung, theo nhận xét của Dương Quảng Hàm thì tuy có nhiều giá trị nhưng do vẫn còn

thiếu một phương pháp nghiên cứu khoa học tốt nên các tác phẩm về sử học và địa lý thời kỳ này

vẫn có nhiều khuyết điểm[90]. Dù vậy, các triều đại trước cũng không khá hơn nhà Nguyễn trong

việc này.

Nghệ thuật kiến trúc nổi trội là kinh thành HuếNghệ thuật mới phát triển là tranh Đông

Hồ, Khoa học kỹ thuật: ảnh hưởng của khoa học phương Tây ít nhiều.

Kỹ thuật công nghệ

Từ các cuộc nội chiến ở Đại Việt trước, kỹ thuật công nghệ của phương Tây đã được các vua

chúa đem vào Việt Nam rất nhiều đặc biệt trong lĩnh vực quân sự. Thời nhà Nguyễn vẫn kế thừa

những thứ đã du nhập ấy, nhiều công trình được xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban của

phương Tây như thành Bát Quái, kinh thành Huế, thành Hà Nội...Thời Gia Long đã từng cho

đóng một loại thuyền lớn bọc đồng để tuần tra biển[91]

.

Sang đến thời Minh Mạng, nhiều máy móc mang tính mới mẻ đã được chế tạo gồm: máy cưa

chạy bằng sức trâu và sức nước, máy xẻ gỗ chạy bằng sức trâu[92]. Cụ thể là, năm 1834, Nguyễn

Viết Tuý dưới sự đồng ý của vua Minh Mạng đã chế tạo ra chiếc máy nghiền thuốc súng bằng

sức nước mang tên Thuỷ hoả kí tế. Sau đó những năm 1837-38, theo mẫu của phương Tây, thợ

thủ công Nhà nước đã chế tạo được máy cưa văn gỗ, xẻ gỗ bằng sức nước, máy hút nước tưới

ruộng,... và còn có cả xe cứu hoả. Đặc biệt là năm 1839, dựa theo các kiểu phương Tây, các đốc

công Hoàng Văn Lịch, Vũ Huy Trịnh cùng các thợ của ông đã đóng thành công chiếc tàu máy

hơi nước đầu tiên, được vua Minh Mạng hết sức khen ngợi. Năm sau, Minh Mạng lại chỉ đạo cho

họ đóng một chiếc kiểu mới tân tiến hơn và sửa chữa một chiếc bị hỏng. Điểu đáng tiếc là sau đó

mọi việc dường như bị đình lại.[62]

Thời Tự Đức, nhiều sách kỹ thuật phương Tây được dịch sang

tiếng Hán như Bác Vật tân biên, Khai Môi yếu pháp, Hàng hải Kim châm[92]. Nhưng một điều

đáng tiếc là những tiến bộ này vẫn chưa kịp tác động vào quá trình phát triển của xã hội Việt

Nam[92]. Đến giữa thế kỷ XIX, Việt Nam vẫn là một quốc gia với nền sản xuất nông nghiệp chậm

tiến so với thế giới phương Tây.

Kiến trúc

Sơ đồ Thành Bát Quái Sài Gòn doTrương Vĩnh Ký vẽ, Nguyễn Đình Đầu lược dịch và chú giải

Nhà Nguyễn là triều đại có nhiều đóng góp trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là một kho tàng kiến

trúc đồ sộ, mà tiêu biểu là quần thể kinh thành Huế và nhiều công trình quân sự khác

Kinh thành Huế nằm ở bờ Bắc sông Hương với tổng diện tích hơn 500 ha và 3 vòng thành bảo

vệ. Kinh thành do vua Gia Long bắt đầu cho xây dựng năm 1805 và được Minh Mạng tiếp tục

hoàn thành năm 1832 theo kiến trúc của phương Tây kết hợp kiến trúc thành quáchphương

Đông. Trải qua gần 200 năm khu kinh thành hiện nay còn hầu như nguyên vẹn với gần 140 công

trình xây dựng lớn nhỏ. [93]

Kiến trúc cung đình Huế đã tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống

thời Lý, Trần, Lê đồng thời tiếp thu tinh hoa của Mỹ thuật Trung Hoanhưng đã được Việt Nam

hóa. Huế cũng đã được hiện đại hóa bởi những công trình sư người Pháp phục vụ dưới thời vua

Gia Long. Khi xây dựng hệ thống thành quách và cung điện, các nhà kiến trúc dưới sự chỉ đạo

Page 31: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

của nhà vua đã bố trí trục chính của công trình theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Yếu tố Ngũ

hành quan trọng trong bố cục mặt bằng của kiến trúc cung thành tương ứng với ngũ phương.[94]

Thành Gia Định là một công trình là một cồn trình phòng thủ quân sự, được Nguyễn Phúc

Ánh ra lệnh xây dựng tại làng Tân Khai, huyệnBình Dương, đất Gia Định, sau này là Sài Gòn, kể

từ ngày 4 tháng 2 năm 1790 theo kiến trúc hỗn hợp Đông-Tây, dựa trên một bản thiết kế của một

người Pháp là Olivier de Puymanel (Việt danh là Ông Tín). Thành được xây có 8 cạnh nên gọi là

"Bát Quái". Thành còn có tên khác là "Thành Quy". Thành có 8 cửa, phía nam là cửa Càn

Nguyên và cửa Li Minh, phía bắc là cửa Khôn Hậu và cửa Khảm Hiền, phía đông là cửa Chấn

Hanh và cửa Cấm Chí, phía tây là cửa Tốn Thuận và cửa Đoài Duyệt. Thời Minh Mạng đổi tên

các cửa: phía nam là cửa Gia Định và cửa Phiên An, phía bắc là cửa Củng Thần và cửa Vọng

Thuyết, phía đông là cửa Phục Viễn và cửa Hoài Lai, phía tây là cửa Tĩnh Biên và cửa Tuyên

Hóa.[95]

Ngày 18 tháng 3 năm 1859, quân Pháp đốt cháy kho tàng, phá hủy thành Sài Gòn và rút

ra để tránh quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đánh chiếm lại thành. Dấu tích duy nhất ngày

nay còn lại là bức tranh vẽ ảnh thực dân Pháp tấn công thành và những tàn tích dọc đường Đinh

Tiên Hoàng về phía gần xưởng Ba Son.[96]

4. Thời kỳ Pháp thuộc

Khởi đầu quá trình tiếp xúc, giao lưu văn hoá phương Tây (Pháp). Đối tượng trực tiếp tiếp

xúc là các tầng lớp sĩ phu. Còn ở các làng quê thì ảnh hưởng của sự giao lưu rất ít. Tầng lớp

sĩ phu - những người nhạy cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá thành ba thái độ ứng xử

khác nhau:

+ Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây.

+ Chấp nhận sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy chữ Pháp, văn hoá

Pháp để ra làm quan cho chính quyền thuộc địa.

+ Chủ động tích cực giao lưu với văn hoá Pháp để tìm đường giải phóng dân tộc.

-Nho giáo tuy được phục hồi làm quốc giáo từ thời nhà Nguyễn nhưng nó đã đến hồi suy tàn,

không còn đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa trước ảnh hưởng của VH phương

Tây.

-Khởi đầu quá trình thâm nhập của VH phương Tây mà chủ yếu là Pháp và cũng là khởi đầu

thời kì VHVN hội nhập vào nền VH nhân loại.

Thành tựu văn hóa chính Nét nổi bật ở giai đoạn này là sự khởi đầu tiếp xúc với VH phương Tây đã tạo nên những

biến đổi:

-Văn hóa tinh thần:

+Về tư duy: lối tư duy phân tích của người phương Tây đã bổ sung nhuần nhuyễn cho lối tư

duy tổng hợp truyền thống.

+Ý thức về vai trò cá nhân được nâng cao dần bổ sung vào ý thức cộng đồng.

+Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của báo chí, của văn học chữ quốc ngữ gắn với sự xuất

hiện những thể loại văn học mới có nguồn gốc phương Tây (tiểu thuyết, thơ mới), những

quan điểm nghệ thuật mới (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán, phương pháp

miêu tả và phân tích tâm lý...). Bối cảnh lịch sử, văn hoá thời này đã thúc đẩy sự phát triển

của bộ phận văn học yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là các nhà thơ - chí sĩ:

Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... Về sau các nhà hoạt

động chính trị như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã dùng ngòi bút của mình tố cáo

chế độ thực dân, cổ vũ nhân dân đấu tranh cho độc lập, cho tiến bộ xã hội. Trước Cách mạng

tháng Tám, bộ phận nhà văn thuộc chủ nghĩa hiện thực phê phán đã có những tác phẩm phê

phán sắc sảo xã hội của chế độ thực dân như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Chí Phèo (Nam Cao), Số

Page 32: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

đỏ (Vũ Trọng Phụng)...

+Tiếng Pháp đưa vào dạy chính thức ở nhà trường thời Pháp thuộc. Hệ thống chữ quốc ngữ

được được sử dụng phổ biến và khi cách mạng thành công trở thành chữ viết chính thức của

nước nhà.

+Hệ tư tưởng dân chủ tự do tư sản truyền bá vào nước ta. Đặc biệt, tư tưởng cách mạng vô

sản Mác - Lênin đã được tiếp thu sáng tạo vào Việt Nam qua những trí thức trẻ giàu lòng yêu

nước như Nguyễn Ái Quốc.

-Văn hóa vật chất:

+Quá trình đô thị hóa bắt đầu và ngày càng tác động lớn đến đời sống xã hội, xuất hiện nhiều

tầng lớp, giai cấp mới: tư sản, tiểu tư sàn, công nhân, thị dân…

+Nhiều công trình kiến trúc mang dáng dấp văn hoá Pháp, tiêu biểu có Đại học quốc gia Hà

Nội, Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Nhà thờ Đức Bà tại TPHCM, đường sắt, cầu

Long Biên…

+Phát triển về khoa học, cơ sở hạ tầng xã hội: Khoa học xã hội - nhân văn nước ta vốn có

một bề dày nhưng còn lẻ tẻ và chưa có hệ thống, nay tiếp thu những phương pháp mới mới

trong nghiên cứu. Khoa học tự nhiên kĩ thuật hầu như hoàn toàn mới đã được tiếp thu nhanh.

Cơ sở hạ tầng kĩ thuật như đường quốc lộ, nhà máy điện, khai mỏ, nhà bưu điện,... bắt đầu

xây dựng.

Một số trường trung học, cao đẳng được thành lập như trường Viễn Đông Bác Cổ - Pháp

lập tại Hà Nội.

• Lĩnh vực văn hóa tổ chức xã hội:

+ Chia nước ta thành 3 xứ (Bắc, Trung, Nam) và nhiều tỉnh nhỏ để trị

+ Tỉnh trưởng là người Pháp có viên phó và các ty phụ giúp

• Cơ cấu xã hội cơ sở: Duy trì tổ chức làng xã, sử dụng bộ máy phong kiến làm việc

cho chính quyền thuộc địa

• Lĩnh vực giáo dục:

+ Duy trì Nho giáo đến năm 1915

+ Mở nhiều viện nghiên cứu như Viện vi trùng học, trường Viễn đông Bắc cổ

+ Mục đích để đào tạo đội ngũ phục vụ cho nhà nước bảo hộ

• Hai đặc trưng cơ bản:

+ Tiếp xúc cưỡng bức và giao lưu văn hóa Việt Pháp

+ Giao thoa tự nhiên với thế giới

• Sự thay đổi của văn hóa Việt:

+ Chữ quốc ngữ

+ Xuất hiện báo chí và nhà xuất bản nhằm tuyên truyền cho chính quyền thực dân

như Gia Định, Công nghiệp, Đăng cổ tùng báo,... Ngoài ra cũng có một số tờ báo tiếng

Pháp như L’annam; LeTraval

+ Văn học bẵng chữ quốc ngữ phát triển cả về nội dung và hình thức.

Page 33: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Thời kỳ hiện đại

• Phát triển nghệ thuật chuyên nghiệp

• Kế thừa và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống

• Mở rộng giao lưu văn hóa

Câu 9: Những yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam được bảo tồn và phát huy như thế

nào trong giai đoạn hiện nay.

** Trước hết, cùng nhìn lại về bản sắc. Cái máu thịt, cái cốt lõi trong con người, trong văn hóa

Việt Nam, chính là lòng yêu nước nồng nàn, tình đoàn kết keo sơn, sự tương thân tương ái; hài

hòa và thân thiết đặc biệt với thiên nhiên, với thế giới bên ngoài. Thiên nhiên đối với người Việt

Nam như trong gia đình. Nó biểu hiện ngay cả trong cách nói: Ông Giăng, Dì Gió, Mụ Trời...

Nhìn vào một bữa ăn, một tấm khăn thổ cẩm, những bày biện trên bàn thờ... đều thấy đầy ắp

thiên nhiên. Nhưng một thiên nhiên tươi đẹp, rực rỡ ấy đã mất đi khá nhiều. Nếu một ngày nào

đó, cả Tây Nguyên, Tây Bắc đều hết rừng thì sẽ ra sao? Cho nên giữ rừng, không chỉ để giữ

nguồn nước, lá phổi...mà còn giữ cả bản sắc văn hóa. Riêng tôi, mỗi lần nghe câu hát "Làng tôi

xanh bóng tre..." lại thót lòng bởi giờ còn rất ít tre trúc và cây xanh trong những làng quê Việt!

Một trong những tinh hoa, một tài sản hết sức quý giá của văn hóa dân tộc ta là Tiếng Việt. Tài

tình làm sao khi cha ông ta gọi là Tiếng Việt chứ không phải Tiếng Kinh. Tiếng Việt là hồn cốt

của cả dải đất hình chữ S, là một yếu tố căn bản làm nên sự thống nhất đất nước. Tiếng Việt cũng

như các dạng thức văn hóa khác, không phải nhất thành bất biến, phải luôn có khoảng không,

khoảng mở để tiếp nhận những tinh hoa trong quá trình giao thoa tiếp biến văn hóa. Giới trẻ đang

làm giàu cho Tiếng Việt, đáng ghi nhận công lao đó; nhưng có một bộ phận không nhỏ đang làm

hỏng đi Tiếng Việt. Trong những người làm thô, xấu đi Tiếng Việt có báo chí, nhất là báo mạng.

Không những khô khan, thiếu hình ảnh mà còn phá hoại cả từ dùng, ngữ pháp. Lại có cả những

ca sĩ, diễn viên... mới vào nghề đã vội vã lấy "nghệ danh" như một người Tây giả. Cùng với việc

giữ gìn, làm giàu đẹp Tiếng Việt, phải chú ý giữ gìn, làm giàu đẹp tiếng nói, chữ viết của các dân

tộc anh em. Tiếng mẹ đẻ là thiêng liêng! Những tác phẩm của nhà thơ Gam-datốp viết bằng tiếng

A-va, hồn A-va, một dân tộc thiểu số thuộc Liên Xô trước đây đã làm lay động cả thế giới.

Trong xã hội hiện đại, trước yêu cầu CNH, HĐH đất nước hiện nay, đòi hỏi sự tăng tốc trong

phát triển, nhưng không thể phát triển bằng mọi giá. Văn hóa lúc này không chỉ là mục tiêu,

động lực mà còn là công cụ hữu hiệu để điều tiết, hạn chế sự phát triển cực đoan. Việc đô thị hóa

nông thôn, dời dân cho những công trình lớn, cần được chú ý số một là không gian văn hóa. Câu

ca daoAnh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương làm nao lòng người xa

xứ ở ý nghĩa biểu tượng của nó: Người ta nhớ, người ta yêu quê hương vì những cái gắn bó

muôn đời, vì những cái không nơi nào có...

Cội nguồn cần được vun đắp. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trước hết

và mãi mãi là bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí quyết tâm xây dựng đất nước

không chỉ giàu mà đẹp, đẹp ở môi trường, ở lẽ công bằng, ở cách ứng xử nhân ái giữa con người

và con người. Sức mạnh ở đó, bản sắc ở đó mà sự tiên tiến cũng ở đó.

Page 34: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

** Nước ta có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có những sắc thái, bản địa riêng, chúng bổ sung

cho nhau làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc. Điều đó cho

chúng ta thấy nền văn hóa nước ta là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các

dân tộc. Vốn văn hóa truyền thống của dân tộc được gìn giữ và phát huy qua nhiều hoạt động

văn hóa. Những hoạt động ấy diễn ra thường xuyên, liên tục và trên khắp mọi miền đất nước.

Nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống: tuồng, chèo, cải lương, chầu văn, hò Huế... được gìn giữ,

được biểu diễn và thu hút nhiều người quan tâm. Những lễ hội vẫn được tổ chức thường xuyên

mỗi dịp lễ tết khắp ba miền. Nhiều festival nghệ thuật được tổ chức trong và ngoài nước. Có

thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới. Nhiều

bộ sưu tập công phu từ kho tàng văn hóa dân gian và văn hóa bác học ở Việt Nam qua các thế kỷ

được xuất bản, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, thẩm

mỹ của dân tộc ta. Nhiều tác giả có xu hướng khai thác kho tàng văn học dân gian làm chất liệu

cho sáng tác của mình.

Số đông văn nghệ sỹ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách mạng có vốn sống, giàu

lòng yêu nước, trước những biến động của thời cuộc và những khó khăn của đời sống vẫn giữ

được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân. Thể chế văn hóa mới giúp đội

ngũ này làm tốt vai trò nòng cốt trong việc sáng tạo các giá trị văn hóa mới, thực hiện tốt nhiệm

vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.

Một bộ phận quan trọng trong thiết chế văn hóa, đặc biệt là các bảo tàng gần đây đã có những

phương thức hoạt động mới có hiệu quả. Văn hóa, nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến

đáng kể. Đội ngũ những nhà văn hóa dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng, có

đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học - nghệ thuật.

Bảo vệ di sản văn hóa là một việc làm được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, vì di sản là

vốn quý của dân tộc để lại cho muôn đời sau. Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về

cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân văn hóa,

đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp đỡ những người hoạn nạn... trở thành phong trào

rộng khắp trong quần chúng. Nó góp phần gìn giữ những di sản văn hóa tinh thần quý báu: lòng

yêu nước, nhân ái, khoan dung..., nuôi dưỡng tinh thần, sức sống dẻo dai của người Việt Nam

trong lịch sử để vươn lên.

Các di tích văn hóa lịch sử đang được bảo tồn, tôn tạo để các thế hệ sau có thể sử dụng cảm thụ,

thưởng thức nhằm nâng cao hiểu biết về lịch sử dân tộc. Nước ta tự hào được UNESCO công

nhận bảy di sản văn hóa thế giới: Di sản văn hóa vật thể: Vịnh Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng,

Phố cổ Hội An, Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn. Di sản văn hóa phi vật thể: Nhã nhạc Cung đình

Huế, cồng chiêng Tây Nguyên. Tháng 11-2006, tuần Hội nghị Cấp cao APEC diễn ra tại Việt

Nam. Tuy đây là hội nghị có ý nghĩa kinh tế - chính trị lớn nhưng sự thành công rực rỡ của nó có

đóng góp một phần không nhỏ từ bản sắc văn hóa dân tộc. Trong tuần lễ đó, hàng loạt các hoạt

động văn hóa lớn được tổ chức: đại tiệc "Di sản văn hóa Việt Nam" chào mừng APEC; khái quát

lịch sử dân tộc hình thành qua hiện vật; văn hóa phi vật thể như các chương trình: "Dấu ấn văn

hóa Huế", "Tinh hoa Hà Nội"; nhiều hoạt động nghệ thuật phong phú đa dạng: ca trù, hát xẩm,

chầu văn, đờn ca tài tử Nam Bộ, ẩm thực các vùng miền.

Việt Nam đã khẳng định được mình, để lại ấn tượng tốt đẹp trong con mắt bạn bè quốc tế từ cách

giao tiếp, ứng xử cho đến vốn văn hóa riêng phong phú, đậm đà. Những bước tiến mới trong quá

trình hội nhập đang đem lại những kết quả tốt đẹp: ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở

thành thành viên WTO và chủ nhà APEC, được đề cử là ứng cử viên châu Á duy nhất vào ghế

không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Đây là sự ghi nhận của quốc tế về vị thế

của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI. Nhiều tờ báo trên thế giới đã ca ngợi: Việt Nam

không chỉ thể hiện được khả năng kinh tế, tiềm lực chính trị mà còn khẳng định được bản lĩnh,

bản sắc văn hóa dân tộc mình.

Không chỉ quan tâm giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mà nhân dân ta còn tiếp

Page 35: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

thu những tinh hoa của nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Những thành tựu

của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ

hội để chúng ta tiếp thu thành quả trí tuệ của loài người. Từ đó sáng tạo nên một nền văn hóa

mới: kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Chiếc áo dài truyền thống

có những nét cách tân trong kiểu dáng, hoa văn trang trí. Nhiều bài hát, lấy chất liệu từ dân gian

nhưng lại được phối theo những thể loại nhạc hiện đại: pop, Hiphop, Rock... tạo nên sự hấp dẫn

cho người nghe. Con người Việt Nam, đặc biệt là giới trẻ vẫn giữ được nét giản dị, thuần hậu lại

cực kỳ thông minh, nhanh nhẹn, khả năng phán đoán và nắm bắt xã hội hết sức nhạy bén trước

nhịp sống phương Tây. Bên cạnh những phong tục đẹp của ngày tết hay những lễ hội truyền

thống, người Việt Nam vẫn nô nức tham gia những sinh hoạt văn hóa vốn của phương Tây

Câu 10: Nêu những nét văn hóa đặc trưng của vùng văn hóa Tây Bắc, Việt Bắc, Châu Thổ Bắc

Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ. Những giá trị văn hóa đó có thể khai thác phục vụ mục đích

kinh doanh du lịch

Vùng văn hóa Bắc Bộ

- Văn hóa vật chất

+ Nhà: thường là nhà không chái, hình thức nhà vì kèo phát triển, có quan tâm đến phong

thủy (vd: gió không lùa vào nhà, nước không chảy vào nhà)

Kết cấu nhà rộng, thoáng mát

Gian chính giữa bên trong để bàn thờ (Tam Sơn, bình hương, hoa, chân đèn, câu đối,

hoành phi…)

Vật liệu: sử dụng vật liệu nhẹ là chủ yếu nhưng cũng tiếp thu kỹ thuật và sử dụng vật liệu

bền: xi măng, sắt, thép…

Nhà xây to đẹp, bền chắc và tương xứng với cảnh quan

Trồng cây cối quanh nơi cư trú tạo bóng mát cho ngôi nhà

+ Ẩm thực: cơ cấu bữa ăn của cư dân vung BB cũng giống như bữa ăn của cư dân vùng đất

khác gồm: cơm, rau, cá, chủ yếu là các loại cá nước ngọt.

Về mùa đông: thích dùng nhiều thịt và mỡ đẻ giữ nhiệt cho cơ thể, thích ứng với khí hậu

lạnh nơi đây.

Về gia vị thì người Việt BB sử dụng rất đa dạng và hài hòa tùy theo từng địa phương, sở

thích của từng người.

+ Mặc: cách mặc của người dân BB cũng là một sự lựa chọn thích ứng với thiên nhiên châu

thổ BB đó là màu nâu.

Nam: mặc quần lá tọa, áo cánh màu nâu sồng

Nữ: mặc váy thâm, áo nâu khi đi làm. Xưa kia phụ nữ BB còn mặc váy thâm kết hợp với

chiếc yếm với nhiều màu sắc khác nhau tùy theo mục đích sử dụng.

Page 36: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Ngày lễ tết: nam thì mặc quần trắng, áo dài the, chít khăn đen. Phụ nữ thì mặc áo dài mớ

ba mớ bảy

Còn ngày nay thì chiếc áo dài đã trở thành trang phục truyền thống không chỉ của phụ nữ

BB mà hầu hết phụ nữ trên khắp đất nước. Và cách ăn mặc thường ngày thì đã có sự thay

đổi nhiều.

Có nhiều di tích lịch sử văn hóa: đây là một vùng có bề dày lịch sử cũng như mật độ dày đặc của

các di tích văn hóa như: đền, đình, chùa, miếu, phủ, quán…

- Văn hóa tinh thần

+ Tôn giáo, tín ngưỡng:

Tôn giáo: phát triển Đạo Giáo, Thiên chúa, Nho giáo, Phật giáo nhưng phổ biến là phật

giáo Đại thừa

Tín ngưỡng: như thờ thành hoàng làng, thờ Mẫu, ông tổ nghề, tín ngưỡng phồn thực. Các tín

ngưỡng này tiềm ẩn trong tâm thức con người nơi đây.

+ Lễ hội: đây là một loại sinh hoạt văn hóa tổng hợp, có mật đọ khá dày đặc theo vòng quay

thiên nhiên và mùa vụ. dù thuộc loại nào thì khởi nguyên của các lễ hội này đều từ lễ hội

nông nghiệp kết hợp với nhiều tín ngưỡng khác nhau.

Lễ hội BB có thể ví như một bảo tàng văn hóa tổng hợp lưu giữ khá nhiều các sinh hoạt

văn hóa tín ngưỡng của cả dân nông nghiệp, là “môi trường cộng cảm văn hóa”, “cộng

mệnh” về mặt tâm linh.

+ Kiến trúc: kiến trúc ngôi nhà của người Việt vùng BB cũng giống như kiến trúc của đình,

chùa đó là tuân thủ theo nguyên tắc coi trọng số lẻ: cổng tam quan, bậc tam cấp, nhà có 3

gian, năm gian, các kiến trúc theo lối tam tòa. Số gian nhà, số bậc của lối đi bao giờ cũng là

số lẻ. Nhà ở là hình thức nhà vì kèo phát triển, mái ngói được xây dựng một cách kiên cố.

Người dân nơi đây sống tập trung thành các làng, xã theo mô hình khép kín và được bao

quanh là các rặng tre.

+ Văn hóa- nghệ thuật:

Kho tàng văn học dân gian bắc bộ có thể coi như một loại mỏ với nhiều khoáng sản quý

hiếm, phong phú như: thần thoại, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ, truyện cười, truyện trạng

mỗi thể loại đều có một tầm dày dặn, mang nét riêng của BB. Trong truyện trạng người dân

nơi đây còn sử dụng các hình thức câu đố, câu đối, nói lái, chơi chữ.

Nơi đây còn là “nơi phát sinh nền văn hóa bác học”. Sự phát triển của giáo dục, truyền

thống trọng người có chữ trở thành nhân tố tác động tạo ra một tầng lớp tri thức ở BB. Là nơi

có nhiều danh nhân văn hóa tầm cỡ trong nước và quốc tế.

Nơi đây là 1 vùng văn hóa mà quá trình tiếp biến văn hóa “diễn ra lâu dài hơn cả và với

nội dung phong phú hơn cả”

Page 37: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

+ Âm nhạc: là nơi sản sinh ra nhiều loại hình âm nhạc đặc sắc mà giờ đây đã trở thành di sản

văn hóa phi vật thể của cả trong nước và quốc tế như: hát ca trù, hát xẩm, hát xoan, hát quan

họ, chèo…

Vùng văn hóa Trung Bộ

Khác với Nam Bộ được khai phá muộn hơn, khác với Bắc Bộ là đia bàn tụ cư và khai thác lâu

đời của người Việt, vùng Trung Bộ một thời kì dài thuộc các tiểu quốc của vương quốc Chăm-

pa. Trước khi người Việt vào nơi này, Nền văn hóa chăm pa một thời rạng rỡ, như một ánh hào

quang hắt lên mặt nước trong buổi chiều tà. Vì vậy, đặc điểm thứ nhất của vùng văn hóa Trung

Bộ phải là một vùng đất chứa nhiều dấu tích văn hóa Chăm pa. Dọc miền Trung, nhiều di sản

văn hóa hữu thể còn tồn tại trên mặt đất. Đó là các tháp Chăm phơi sương gió cùng năm tháng.

Lịch sử đi qua bao nỗi thăng trầm, cuộc đời phải trải qua bao cơn dâu bể, tháp Chăm vẫn sừng

sững như một dấu ấn không thể phai mờ. ở Huế, theo tác giả Trần Đại Vinh, còn tháp đôi Liễu,

Cốc Thượng, tháp Núi Rùa. Ở Quảng Nam, Đà Nẵng, tại Mỹ Sơn đã có 7 tháp, "đại diện tiêu

biểu cho tất cả các giai đoạn và phong cách nghệ thuật kiến trúc Chămpa, tại Bằng An có 1 tháp,

tại đồng Dương có 1 tháp, tại Chiên đản có 3 tháp, tại Khương Mỹ có 3 ngôi tháp. ở Bình Dương

có tháp Phước Lộc, tháp Cánh Tiên, tháp Bánh ít, tháp Bình Lâm, tháp Thủ Thiện, ba ngôi tháp

Dương Long; hai ngôi tháp ở Hưng Thạnh. ở tỉnh Phú yên có tháp Nhạn; ở Khánh Hòa có tháp

Pô Nagar; ở Ninh thuận có cụm tháp Hòa Lai, cụm tháp Núi Trầm; ở Bình Thuận có tháp pô

Đam (hay Pô Tấm), tháp Phú Hải. Có thể nói khó có vùng văn hóa nào ở nước ta lại có nhiều

tháp Chăm như vùng văn hóa Trung Bộ.Ngoài các tháp, di vật văn hóa Chăm-pa còn trên mặt

đất, trong lòng đất khá nhiều. Đó là các tượng bà Pô Nagar, tượng Chó, đặc biệt là các tượng

linga, yoni. Đó là các phù điêu, các trụ đá, các bia đá v.v...Cùng các di sản văn hóa hữu thể, vùng

Trung Bộ còn khá nhiều các di sản văn hóa vô thể của văn hóa Chăm pa. Đó là các địa danh Việt

mà chúng ta có quyền ngờ rằng, gốc tích của nó phải là các địa danh Chăm, kiểu như Cồn Ràng,

Cồn Lồi, Cồn Mọi. Đó là các tín ngưỡng dân gian của người Chăm như thờ bà mẹ xứ sở, thờ cá

voi, thờ thần biển .v.v... Mặt khác, Trung Bộ là vùng đất được người Việt khai phá theo kiểu

tiệm tiến. Sự cộng cư với người Chăm, thái độ ứng xử với những vốn văn hóa hiện diện trên mặt

đất tàng ẩn dưới lòng đất theo bản chất hiền hòa của người Việt, tạo cho sự giao lưu văn hóa ở

đây có những điểm khác biệt. Trước hết, người Việt tiếp nhận những di sản văn hóa của người

Chăm, Việt hóa biến thành di tích văn hóa của mình. Tháp Chăm, đền Chăm khi người Chăm ra

đi thì người Việt thờ cúng, sử dụng. Chẳng hạn như Tháp Bà ở Nha Trang tỉnh Khánh Hòa, vốn

là một ngôi tháp của người Chăm, được người Việt sử dụng, coi như nơi thờ tự, linh thiêng của

tín ngưỡng thờ Mẫu, một tín ngưỡng của người Việt. Tiêu biểu cho quá trình tiếp biến văn hóa ở

Trung Bộ của người Việt là tiếp thu tín ngưỡng thờ bà mẹ xứ sở (Po yan Ina Nagar) của người

Chăm. Với tín ngưỡng thờ Mẫu ẩn trong tâm thức, khi vào Trung Bộ. người Việt gặp tín ngưỡng

này của người Chăm, họ đã tiếp thu các nữ thần Chăm và chuyển hóa thành các nữ thần Việt Nữ

thần Mưjưk của người Chăm được biến thành bà Chúa Ngọc. Câu chuyện mà Phan Thanh Giản

ghi trên bia kí ở sau Tháp Bà, là câu chuyện đã Việt hóa sự tích một nữ thần chăm tại điện hòn

Chén, thánh mẫu Vân Hương (tức thánh Mẫu Liễu Hạnh) được đưa vào điện thần cùng với bà

chúa ngọc. Nói cách khác đi là, sự tiếp biến văn hóa đã khiến diện mạo tín ngưỡng của người

Việt ở Trung Bộ thay đổi, so với người Việt Bắc Bộ. So với thiên nhiên Bắc Bộ và Nam Bộ,

Trung Bộ là vùng đệm, mang tính chất trung gian. Vì thế, sự phản ánh thiên nhiên đa dạng của

một vùng đất là đặc điểm thứ ba của vùng văn hóa này. Yếu tố biển, sông, đầm, đồng bằng, núi

non đều ánh xạ vào trong các thành tố văn hóa, từ diện mạo đến các phương diện khác. Có thể

thấy ngay điều này từ diện mạo các loại hình văn hóa, với Trung Bộ, làng làm nông nghiệp tồn

tại đan xen với làng của ngư dân. Bên cạnh lễ cúng đình của làng nông nghiệp là lễ cúng cá ông

Page 38: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

của làng làm nghề đánh cá. Điều này là đương nhiên, bởi lẽ, đồng bằng Trung Bộ thường là đồng

bằng nhỏ hẹp, sát biển.

Trong văn hóa đời thường, bữa ăn của cư dân Việt Trung Bộ đã bắt đầu có sự thay đổi, nghiêng

về các hải sản, đồ biển. Nói cách khác, yếu tố biển đã đậm đà hơn trong cơ cấu bữa ăn của cư

dân ở đây.Mặt khác, người dân Việt Trung Bộ, do tính chất khí hậu, nói rộng hơn là điều kiện tự

nhiên chi phối, nên sử dụng nhiều chất cay trong bữa ăn. Tóm lại, vùng văn hóa Trung Bộ có

những đặc điểm riêng của mình, khi đặt trong tương quan với các vùng văn hóa khác.

Vùng văn hóa Nam Bộ

Văn hóa vùng đất này là sự kết hợp giữa truyền thống văn hóa của nguồn gốc với tự nhiên, lịch

sử của vùng đất mới tạo nên vùng văn hóa này vừa có nét giống và khác so với nên văn hóa cội

nguồn

Làng xã nơi đây cũng khác, nơi đây không có tổ chức giáp mà chỉ có những dòng họ, gia phả của

người dòng họ cũng không dày như ở miền Bắc.

Con người Nam Bộ thì phóng khoáng, lạc quan, sống có tình nghĩa, ở đây họ còn có tục kết

nghĩa huynh đệ.

Người Nam Bộ hòa nhã vui vẻ. Bên cạnh đó, người Nam Bộ là những người ngư dân, họ phải

ứng xử với văn hóa tiềm thức, văn hóa mà họ mang vào, ứng xử với văn hóa của những tộc

người khác (văn hóa Chăm, văn hóa người Hoa…) và văn hóa của những tộc người đã khuất

(văn hóa Óc Eo). Do vậy để ứng xử hài hòa với văn hóa ở đây, 1 mặt người Nam Bộ sống hết

mình với sự sôi động, với sự giao lưu văn hóa. Bên cạnh đó họ cũng có tâm lý hoài cổ sầu tư về

vùng đất cội nguồn của mình.

Quá trình tiếp biến văn hóa ở đây diễn ra mau lẹ, có sự pha trộn về ngôn ngữ miền Bắc với ngôn

ngữ Khơme.

- Văn hóa vật chất

+ Ẩm thực: cơ cấu bữa ăn của người Nam Bộ cũng là cơm, rau, cá nhưng có sự thay đổi

đó là họ sử dụng nhiều nguồn đạm thủy sản hơn ở những vùng khác. Các món ăn được

chế biến từ thủy sản cũng có nhiều về số lượng, phong phú về chất lượng và sử dụng

nguồn hải sản cũng nhiều hơn so với Bắc Bộ.

Thiên hướng trong cơ cấu bữa ăn của người Nam Bộ là nghiêng về chọn các món có tác

dụng giải nhiệt. Cách chế biến món ăn cũng rất đơn giản chứ không cầu kỳ phức tạp như

ở miền Trung và miền Bắc.

Về đồ uống thì họ đặc biệt thích sử dụng dừa và đồ uống từ quả. Đặc biệt trà ở Nam Bộ

thì dùng để giải khát chứ không để thưởng thức như ở Bắc Bộ.

+ Trang phục: do đặc điểm về thời tiết, địa hình và phương thức canh tác nông nghiệp mà

người dân nơi đây đã chọn cho mình những bộ trang phục phù hợp, mang tính đặc trưng. Về gam

màu cũng như miên Bắc họ chọn những gam màu tối như đen, nâu sậm, ít khi mặc màu sáng trừ

khi có lễ hội, đám tiệc.

Page 39: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Trang phục phổ biến nơi đây là chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn, dường như nó đã trở thành nét

đặc trưng cơ bản không thể lẫn được với các vùng miền khác. Và mỗi vàng miền, dân tộc lại

chọn cho mình những màu sắc khác nhau sao cho phù hợp với tôn giáo, tín ngưỡng của họ.

+ Nhà ở: nhà ở của người Việt Nam Bộ có 3 loại chính đó là: nhà đất cất dọc theo ven lộ,

nhà sàn cất dọc theo ven kênh rạch và nhà nổi trên sông nước.

Khác biệt hẳn với nhà của vùng Bắc Bộ thì nơi đây họ ít khi xây dựng nhà kiên cố vì họ ít chú

trọng tới việc xây nhà, và việc làm nhà cũng không chú trọng tới vấn đề phong thủy, kiến trúc

như ở miền Bắc. Tùy theo từng địa hình khác nhau mà họ xây dựng lên những ngôi nhà sao cho

phù hợp.

- Văn hóa tinh thần

+ Tôn giáo, tín ngưỡng

Là một vùng đất đa tộc người, Nam Bộ cũng là nơi gặp gỡ của các tín ngưỡng, tôn giáo từ khắp

nơi trên đất nước. Vì vậy đây chính là vùng đất phong phú nhất về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt

Nam. Ở đây họ ít bị ràng buộc bởi Nho giáo nên ở đây đã đâm chồi 1 số tôn giáo mới như: Cao

Đài, Hòa Hảo… Ngoài ra còn có một số đạo lạ như Đạo Dừa, Đạo đi chậm, Đạo câm…

Cũng giống như các vùng khác nơi đây cũng dành ưu tiên cho đạo Phật và có sự kết hợp với tín

ngưỡng vạn vật hữu linh.

Ngoài ra mỗi dân tộc khác nhau ở đây cũng có những đạo riêng cho dân tộc minh chẳng hạn:

Người Khơme Nam Bộ thì theo đạo Phật Tiểu Thừa Theravada. Ở dân tọc này còn có tín

ngưỡng thờ Neak tà (các nam thần) và thờ Arăk (là bà tổ dòng họ).

Người Hoa Nam Bộ theo các tín ngưỡng dân gian và thờ cúng tổ tiên. Một bộ phận khác

thì theo đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành.

Người Chăm thì theo đạo Hồi (Islam)

+ Lễ hội: do nơi đây tồn tại rất nhiều loại tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau nên lễ hội ở

vùng này cũng rất phong phú, đa dạng và mang nhiều nét đặc trưng hơn cả. Mỗi dân tộc lại có

cho riêng minh những lễ hội đặc trưng, tiêu biểu cho văn hóa của riêng minh như:

Ngư dân thì có lễ hội Nghinh Ông (Bến Tre), lễ Lệ Cô Long Hải…

Lễ hội truyền thống của người Khơme có 2 loại chính: lễ mang màu sắc phật giáo như lễ Phật

Đản, lễ nhập hạ, lễ cầu phước… và lễ hội văn hóa lịch sử như lễ Tết (Chôl Chnam Thmây), lễ

cúng tổ tiên (lễ Đôn Ta), lễ cúng trăng (Ăk Âmbok)…

Người Hoa thì có cũng có các lễ tết như người Việt Bắc Bộ nhưng có thêm một số lễ khác như lễ

vía Ngọc Hoàng (9/1), lễ vía Quan Công (13/1), lễ vía Ông Bổn (15/3)…

Lễ hội của người Chăm thì có lễ Tolakbala vào thứ tư tuần cuối thang Safa (tháng 2 theo đạo

Hồi), lễ Raya Iadil Fitrah vào tháng cuối cùng của tháng chay nhịn Ramadan (tháng 9)…

+ Văn hóa, nghệ thuật

Page 40: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Nam Bộ là một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú: ca dao, dân ca, vè, truyện thơ…

Trong đó vè chiếm vị trí quan trọng, có những vè tiêu biểu như vè Chàng Lía, vè Trịnh Hâm, vè

Thầy Thông Chánh… Truyện thơ thì có Lục Vân Tiên, Phạm Công- Cúc Hoa, Thoại Khanh-

Châu Tuấn…

Văn hóa bác học ở Nam Bộ cũng bước đầu phát triển với những thi đàn, thi xã như tao đàn Chiêu

Anh Các, Bình Dương thi xã… Trong đó tao đàn Chiêu Anh Các còn để lại tác phẩm Hà Tiên

vịnh thập.

Bên cạnh đó còn có các thể loại truyện cổ tích, thần thọa…được chia làm hai mảng lớn đó là văn

xuôi và văn vần và một số loại hình văn học nghệ thuật khác của các dân tộc sinh sống ở nơi đây.

+ Âm nhạc

Đây là quê hương của các bài vọng cổ, loại hình âm nhạc đờn ca tài tử mà chỉ có người dân Nam

Bộ mới có. Nhắc tới Nam Bộ là người ta nhắc tới các bài vọng cổ buồn man mác như nỗi lòng

người xa xứ muốn trở về quê hương.

Bên cạnh đó còn có các điệu lý, điệu hò, các bài hát huê tình, hát ru em, hát đồng dao và loại

hình khá phổ biến khác và cũn rất được ưa chuộng đó là hát tuồng và hat cải lương.

Ngoài ra các dân tộc ở đây cũng đã góp phần làm phong phú thêm loại hình nghệ thuật nơi đây

với các như ở người Khơme tuồng tích Yukê là một loại tuồng cổ của người dân Khơme, kịch

hát Yukê, múa rôbam, kịch hát rôbam…

Vùng văn hoá Tây Bắc:

Về cơ bản, vùng Tây Bắc là không gian văn hóa của dân tộc Thái, nổi tiếng với điệu múa

xòe tiêu biểu là điệu múa xòe hoa rất nổi tiếng được nhiều người biết đến. Thái là dân tộc có dân

số lớn nhất vùng. Ngoài ra, còn khoảng 20 dân tộc khác như H'Mông, Nùng... Ai đã từng qua

Tây Bắc không thể quên được hình ảnh những cô gái Thái với những bộ váy áo thật rực rỡ đặc

trưng cho Tây Bắc. tây bắc là vùng có sự phân bố dân cư theo độ cao rất rõ rệt: vùng rẻo

cao(đỉnh núi) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, Tạng Miến,với

phuơng thức lao động sản xuất chủ yếu là phát nương làm rẫy, phụ thuộc rất nhiều vào thiên

nhiên; vùng rẻo giữa(sườn núi) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer,

phương thức lao động sản xuất chính là trồng lúa cạn, chăn nuôi gia súc và một số nghề thủ

công; còn ở vùng thung lũng, chân núi là nơi sinh sồng của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ

Việt - Mường, Thái - Kadai,điều kiện tự nhien thuận lợi hơn để phát triển nông nghiệp và các

ngành nghề khác. sự khác biệt về điều kiện sinh sống và phương thức lao động sản xuất cũng gây

ra sự khác biệt văn hóa rất lớn! mặc dù văn hóa chủ thể và đặc trưng là văn hóa dân tộc Thái.

Sự gắn bó của đồng bào về quê hương xứ sở, Tổ quốc đã trở thành truyền thống trong quá trình

bảo vệ và dựng xây đất nước. Lao động cần cù, sáng tạo, tính cộng đồng cao. Đời sống kinh tế-

văn hóa-xã hội gắn bó và hòa đồng với thiên nhiên, các ngành nghề thủ công tinh xảo, phản ánh

sáng tạo văn hóa của mỗi tộc người. Kho tàng tri thức dân gian phong phú được đúc kết qua

nhiều thế hệ liên quan đến các hoạt động sản xuất, làm ăn, bảo vệ môi trường thực sự là tài sản

quý giá trong hành trang của mỗi tộc người, làm nên bản sắc tộc người. Sự gắn bó của mỗi thành

viên trong đời sống gia đình và cộng đồng đã tạo nên sự cố kết đậm nét trong đời sống. Tính tự

hào dân tộc, tính tự trọng cao; con người trung thực, cầu thị, tin người, mến khách. Văn hóa dân

gian phong phú đa dạng, giàu bản sắc. Văn hóa mang đặc trưng vùng miền rõ nét; sự giao lưu

văn hóa giữa các tộc người diễn ra mạnh mẽ, tăng cường sự hiểu biết gắn bó giữa các tộc người

Page 41: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

trong vùng và trong khu vực.

Có thể nêu lên nhiều giá trị văn hóa khác nữa. Điều chúng tôi muốn khẳng định ở đây là Văn hóa

các tộc người vùng Tây Bắc khá phong phú và đa dạng, giàu bản sắc, gắn liền với quá trình tụ cư

lâu đời của cư dân từ nhiều nguồn và nhiều thời điểm khác nhau. Chính vì vậy trong chiến lược

phát triển vùng cũng như tiểu vùng, điều có ý nghĩa sống còn là giải quyết hài hòa mối quan hệ

giữa truyền thống và hiện đại, truyền thống và đổi mới tại khu vực này. Có như vậy mới có thể

phát triển bền vững kinh tế xã hội ở vùng đất vốn giàu tiềm năng và có kho tàng văn hóa phong

phú.

Vùng Việt Bắc:

Gồm các tỉnh Cao Bằng , Bắc Thái , Lạng Sơn , Tuyên Quang , Hà Giang , phần đồi núi Phú Thọ

, Bắc Giang và tỉnh Quảng Ninh. Cư dân chủ yếu của vùng Việt Bắc là người Tày – Nùng ngoài

ra còn có các dân tộc khác như H’Mông, Dao, Hoa, Lô Lô, Sán, Chày … nhưng trong đó văn hoá

tày Nùng giữ vai trò chủ thể và có ảnh hưởng tới các văn hoá của các tộc người khác . Do vị trí

địa lý lịch sử mà từ lâu vùng đất này đã gắn bó chặt chẽ với trung tâm đất nước, với người Việt ở

vùng châu thổ Bắc Bộ. Đồng thời đây cũng là vùng cửa ngõ, hành lang giao lưu văn hoá giữa

nước ta với phương Bắc, nên bên cạnh những ảnh hưởng văn hoá của người Kinh thì còn thấy rõ

ảnh hưởng của văn hoá Hán.. Những đặc trưng văn hoá vùng được thể hiện qua nếp sống lâu đời

của các cư dân ở đây, qua các phương thức lao động, qua cách ứng xử với môi trường tự nhiên,

qua các thói quen trong sinh hoạt( ăn , mặc , ở , đi lại) của họ. Tín ngưỡng của các cư dân ở đây

pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng nông nghiệp, thờ cúng tổ tiên,..) với các ảnh

hưởng Đạo giáo , Khổng giáo và Phật giáo.

Các sinh hoạt văn hoá cộng đồng thể hiện tập trung ở các lễ hội cổ truyền , điển hình là hội Lồng

Tồng – hội xuống đồng và sinh hoạt văn hoá chợ , đây là 1 sinh hoạt văn hoá đặc thù ở vùng Việt

Bắc. Các thể loại văn học dân gian Việt Bắc khá đa dạng và phong phú. Một điều đáng chú ý nữa

là tầng lớp trí thức Tày Nùng hình thành từ rất sớm đầu tiên là các trí thức dân gian (như các thầy

Mo, Then,…) và sau đó là tầng lớp trí thức Nho học rồi Tây học. Ngày nay việc đào tạo trí thức

cán bộ khoa học cho Việt Bắc cũng được Đảng và Nhà nước hết sức chú ý.

Câu 11: Phân tích đặc điểm môi trường xã hội Việt Nam

GiáoDục

Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang cố gắng hội nhập với các nước trong khu vực Đông Nam

Á và trên Thế giới. Ở Việt Nam có 5 cấp học: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, đại

học và sau đại học. Các trường Đại học chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là Hà

Nội và TP.Hồ Chí Minh

tế

Về cơ sở hạ tầng tính đến năm 2010 có: 1030 bệnh viện , 44 khu điều dưỡng , 622 phóng khám

đa khoa khu vực với tổng số giường bệnh là 246300 giường .

Bên cạnh các cơ sở y tế nhà nước thì đã bắt đầu hình thành hệ thống y tế tư nhận bao gồm

19895 cơ sở hành nghề y , 14048 cơ sở hành nghề dược , 7015 cơ sở hành nghề y học cổ truyền ,

5 bệnh viện có vốn đầu tư nước ngoài

80% số thôn bản có nhân viên y tế hoạt động

100% số xã có trạm y tế trong đó 2/3 đạt chuẩn quốc gia

Tuy nhiên sự phát triển chưa đồng đề ở mỗi cấp , bị tham nhũng ở nhiều cấp , không đảm bảo sự

Page 42: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

công bằng trong chăm sóc sức khỏe của người dân

Giao Thông

Các tuyến giao thông nội địa chủ yếu từ đường bộ,đường sắt, đường hàng khôngđều theo

hướng bắc - nam,

giao thông đường thủy chủ yếu theo hướng đông – tây dựa trên các con sông lo ngs đều đổ từ

hướng tây ra biển

Hệ thống đường bộ gồm các : quốc tộ tỉnh lộ huyện lộ … . phần đa đã được trải nhựa và bê tông

hóa chỉ còn lại 1 số huyện lộ thuộc vùng sâu vùng xa đang còn là đường đất

Hệ thống đường sắt : tổng chiều dài là 2652km . Tuyến chính là Hà Nội – Hồ chí Minh dài

1726km

Hệ Thống đường hàng không gồm các sân bay quốc tế có các tuyến bay đi các nước và các sân

bay nội địa trải đều ở khắp ba miền , 3 sân bay quốc tế hiện đang khai thác là : Tân sơn nhất(

TPHCM) sân bay đà nẵng ( đà nẵng ) và Nội bài ( hà nội). Và còn 1 số sân bay dự kiến khai thác

đường bay quốc tế trong time tới

Hệ thống đường biển xuất phát từ các cảng biển lớn ở 3 miền như cảng Hải Phòng, cảng Cái

Lân (miền Bắc), cảng Tiên Sa, cảng Quy Nhơn (miền Trung) và cảng Sài Gòn, cảng Thị

Vải (miền Nam). Các tuyến đường thủy nội địa chủ yếu nằm theo hướng đông - tây dựa theo các

con sông lớn

Truyền thông

Truyền thông Việt Nam hiện có đủ bốn loại hình báo chí là báo in, báo nói,báo hình và báo điện

tử. Việt Nam hòa mạng internet quốc tế vào năm 1997

tất cả các cơ quan truyền thông, báo chí hoạt động dưới sự quản lý và giám sát của Bộ Thông tin

và Truyền thông Việt Nam, và dưới sự định hướng của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng

sản Việt Nam.

Tội Phạm và tệ nạn

Việt Nam có tỷ lệ tội phạm ở mức rất thấp so với các nước có cùng trình độ phát triển, thậm chí

là thấp hơn so với nhiều quốc gia phát triển.Tuy nhiên, Việt Nam là địa điểm thuận lợi cho

những đầu dây tội phạm trong và ngoài nước lộng hành để lợi dụng cho mục đích cá nhân đặc

biệt là các đầu dây mại dâm, ma túy. Chịu ảnh hưởng từ những địa danh buôn ma túy khét tiếng

như Tam giác vàng và Trăng lưỡi liềm vàng. Theo thống kê thì tới cuối năm 2012 cả nước có

ước tính khoảng 170 nghìn người nghiện ma túy.

Các tệ nạn phổ biến nhất bao gồm cờ bạc, cá độ, sử dụng và buôn bán ma túy, mại dâm...

Thể thao

Các môn thể thao truyền thống thịnh hành từ ngàn đời này ở Việt Nam là võ thuật.Trong khi hiện

tại thì môn bóng đá được nhiều người chơi và xem nhất. Những môn thể thao thịnh hành khác ở

phương Đông và phương Tây cũng rất thịnh hành ở Việt như cầu lông, tennis, bóng chuyền, ping

pong, billiards snooker và cờiệt Nam bắt đầu tham gia Olympic mùa hè từ năm 1952 cho tới nay.

ột số môn thể thao là nét riêng của Việt Nam như đá cầu, vật cổ truyền, cầu mây...

CácNgàylễ chính

baogồm :Tếtdươnglịch, Tếtnguyênđán, ngàygiỗ tổ hùngvương , ngàythốngnhấtđấtnước ,

ngàyquốctế laođộng , quốckhánh

Page 43: Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected] FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Rất mong nhận được sự ủng hộ và góp ý của các

bạn. Mình mong muốn sẽ có thêm nhiều tài liệu để

chia sẻ cùng các bạn hơn nữa. Nếu cần tài liệu gì các

bạn có thể gửi email hoặc inbox mình để có thông

tin phản hồi nhanh nhất nha. Xin cảm ơn!

Nguyễn Hoàng Hải

Email: [email protected]

FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/

Skype: Hainh.tmdt