1
LỊCH SỬ NGÀNH TUYÊN HUẤN
TỈNH CẦN THƠ
(1929 – 2000)
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY CẦN THƠ
2
“… Giáo dục tƣ tƣởng và lãnh đạo tƣ tƣởng là việc quan trọng
nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tƣ tƣởng…”
HỒ CHÍ MINH
3
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi có các tổ chức tiền thân của Đảng đến Đảng bộ Đảng Cộng
sản Việt Nam tỉnh Cần Thơ ra đời lãnh đạo phong trào cách mạng trong
tỉnh, thì ngành Tuyên huấn cũng xóm đƣợc hình thành phục vụ nhiệm vụ
chính trị của Đảng bộ, tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức trong
nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, về con đƣờng giải phóng dân tộc,
động viên lực lƣợng quần chúng, sẵn sàng đi theo ngọn cờ của Đảng đấu
tranh chống kẻ thù xâm lƣợc, giành độc lập tự do của Tổ quốc.
Trong những bƣớc thăng trầm của phong trào cách mạng tỉnh nhà
trong 71 năm qua, nhất là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc đầy
gian khổ ác liệt của nhân dân ta, có lúc cũng tƣởng chừng không vƣợt qua
đƣợc, nhƣng đội ngũ làm công tác Tuyên huấn của Đảng đã vƣợt qua mọi
gian khổ hy sinh, nằm hầm, ngủ bụi, ăn củ chuối thay cơm, nhƣng luôn
vững vàng trung thành với lý tƣởng của Đảng, giữ vững trận địa chính trị
tƣ tƣởng trong mọi tình huống.
Các binh chủng chuyên môn của ngành Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ
với tƣ tƣởng cách mạng tiến công, sẵn sàng lao về phía trƣớc bất chấp
hiểm nguy bám sát dân tuyên truyền giáo dục nâng cao giác ngộ, hƣớng
dẫn nhân dân đấu tranh chống kẻ thù giành từ thắng lợi khác góp phần với
Đảng bộ giành thắng lợi hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ ác liệt đó, có gần 100 đồng chí
cán bộ Tuyên huấn anh dũng hy sinh, nhiều đồng chí bị thƣơng tật vinh dự
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng giao.
Chúng ta rất tự hào về bề dày về truyền thống của ngành và một đội
ngũ cán bộ Tuyên huấn của Đảng bộ tỉnh Cần Thơ rất kiên cƣờng, thành
tựu của ngành Tuyên huấn trong 71 năm qua rất to lớn và có nhiều tấm
gƣơng cao đẹp. Việc biên soạn quyển lịch sử ngành Tuyên huấn tỉnh Cần
Thơ, tuy nhóm biên soạn có nhiều cố gắng sƣu tầm tập hợp tƣ liệu và đƣợc
sự đóng góp quí báu của các đồng chí cách mạng lão thành trong ngành,
nhƣng không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi tự nhận thấy quyển
sách chỉ phản ánh bức tranh khái quát, chƣa khắc đậm những dấu ấn sâu
sắc của từng thời kỳ lịch sử của ngành.
Nhân dịp lễ kỷ niệm lần thứ 72 ngày Truyền thống ngành Tƣ tƣởng
– Văn hóa, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cần Thơ mạnh dạn xuất bản quyền
Lịch sử ngành Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ (1929 – 2000), mong các đồng
chí mong các đồng chí cách mạng lão thành và cán bộ trong ngành nhiệt
tình đóng góp bổ sung để quyển lịch sử ngành Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ
đƣợc phong phú, hoàn chỉnh hơn, góp phần giáo dục, phát huy truyền
thống của ngành Tƣ tƣởng – Văn hóa tỉnh nhà.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY CẦN THƠ
4
5
PHẦN MỞ ĐẦU
VỊ TRÍ, ĐỊA LÝ
Tỉnh Cần Thơ nằm bên triền hữu ngạn sông Hậu, ở vị trí trung tâm
đồng bằng sông Cửu Long, Bắc giáp tỉnh An Giang và Đồng Tháp, Nam
giáp tỉnh Bạc Liêu và Sóc Trăng, Đông giáp tỉnh Vĩnh Long, Tây giáp tỉnh
Kiên Giang. Diện tích tự nhiên 2.985,6 km2, trong đó 2.502 km
2 là diện
tích nông nghiệp (chiếm 84,4%). Dân số: 1.843.019 ngƣời gồm: 1.774.195
ngƣời kinh; 23.218 ngƣời Hoa; 35.842 ngƣời Khmer; 764 ngƣời thuộc các
dân tộc khác (số liệu năm 2000). Tôn giáo: 192.636 tín đồ Phật giáo;
119.922 tín đồ Công giáo; 245.390 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo; 33.821 tín đồ
Cao Đài; 5.489 tín đồ Tin lành; 566 tín đồ Cơ đốc Phục lâm, một số tôn
giáo khác có số lƣợng tín đồ ít nhƣ: B’hai, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn
Kỳ Hƣơng v.v… (theo số liệu năm 1999).
Về địa lý hành chính năm 1945 gồm thị xã Cần Thơ và 5 quận: Châu
Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp, Trà Ôn, Cầu Kè. Trong kháng chiến chống
thực dân Pháp có điều chỉnh lại địa giới, vào 2 năm 1948 và 1949, Cần
Thơ nhận thêm huyện Thốt Nốt (tỉnh Long Xuyên), huyện Long Mỹ, Gò
Quao, Giồng Riềng và thị xã Rạch Giá (tỉnh Gạch Giá), huyện Kế Sách
(tỉnh Sóc Trăng), giao lại 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè về tỉnh Trà Vinh
(Vĩnh Long – Trà Vinh).
Từ sau Hiệp định Geneve (1954) và trong kháng chiến chống đế
quốc Mỹ, địa giới tỉnh Cần Thơ có thay đổi một phần.
Tháng 11/1954, giao các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng,
thị xã Rạch Giá về tỉnh Rạch Giá, huyện Kế Sách về tỉnh Sóc Trăng, huyện
Thốt Nốt về tỉnh Long Xuyên, nhận lại 2 huyện: Trà Ôn và Cầu Kè. Nhƣ
vậy, tỉnh Cần Thơ vào cuối năm 1954 gồm có thị xã Cần Thơ, các huyện:
Châu Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp, Trà Ôn, Cầu Kè.
Năm 1956, huyện Trà Ôn và Cầu Kè giao lại tỉnh Vĩnh Long, Trà
Vinh (trong thời điểm này Mỹ ngụy lập ra tỉnh Tam Cần).
Năm 1957, huyện Long Mỹ về tỉnh Cần Thơ.
Năm 1958, huyện Kế Sách về tỉnh Cần Thơ.
Năm 1963, huyện Thốt Nốt về tỉnh Cần Thơ.
Trong kháng chiến chống Mỹ huyện Châu Thành chia thành Châu
Thành A, Châu Thành B. Nhƣ vậy trong thời điểm này, tỉnh Cần Thơ gồm
có: Thị xã Cần Thơ, huyện Ô Môn, Thốt Nốt, Châu Thành A, Châu Thành
B, Kế Sách, Phụng Hiệp, Long Mỹ.
Năm 1966, tách 1 phần huyện Long Mỹ thành lập thị xã Vị Thanh,
năm 1969, tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ hình thành thành phố
Cần Thơ trực thuộc khu Tây Nam bộ.
6
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng vào tháng 3/1976, thành
phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng hợp nhất thành tỉnh Hậu
Giang. Tháng 4/1992, tách tỉnh Hậu Giang, tái lập tỉnh Cần Thơ và tỉnh
Sóc Trăng.
Tỉnh Cần Thơ có thành phố Cần Thơ vào năm 1992 đƣợc Trung
ƣơng công nhận đô thị loại II và 6 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành,
Phụng Hiệp, Vị Thành, Long Mỹ. Năm 2000, huyện Vị Thanh đƣợc chia
ra tái lập thị xã Vị Thanh và thành lập huyện Vị Thủy.
Tính đến năm 2000 tỉnh Cần Thơ có: thành phố Cần Thơ (đô thị loại
2), thị xã Vị Thanh (đô thị loại 4) và 5 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu
Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, với 105 đơn vị xã, phƣờng, thị trấn (7 thị
trấn, 19 phƣờng và 79 xã).
Tỉnh Cần Thơ đƣợc xác định là trung tâm văn hóa, khoa học kỹ
thuật, giáo dục đào tạo, quốc phòng an ninh và là đầu mối giao thông thủy
bộ giữa các tỉnh và thành phố Hồ Chí Minh. Trên địa bàn tỉnh Cần Thơ có
trƣờng Đại Học Cần Thơ, Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long là hai trung
tâm giáo dục và nghiên cứu khoa học của đồng bằng sông Cửu Long. Cần
Thơ còn có Bộ Tƣ lệnh Quân Khu 9, Đài Phát Sóng VN2, Đài Truyền hình
Trung ƣơng khu vực đồng bằng sông Cửu Long,… Cơ quan thƣờng trú
Báo Trung ƣơng, thành phố Hồ Chí Minh và ngành Trung ƣơng cùng với
hệ thống Phát thanh – Truyền hình tỉnh, nhật báo Cần Thơ, có sân bay
quốc tế và cảng biển… Từ vị trí địa lý, kết cấu dân số tỉnh Cần Thơ từng thời kỳ có nhiều
thay đổi và sự phát triển về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội.v.v… đã tác
động mạnh đến đời sống tinh thần các tầng lớp xã hội tỉnh nhà, nhất là khi
có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Sự ra đời ngành Tuyên huấn và công tác
Tuyên huấn dƣới sự lãnh đạo của Đảng đã góp phần thúc đẩy sự phát triển
đời sống chính trị của nhân dân tỉnh Cần Thơ quá trình hơn nửa thế kỷ qua.
7
8
9
10
11
PHẦN THỨ NHẤT
CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN TRƢỚC KHI
CÓ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG, BẤT KHUẤT, TƢ TƢỞNG
TIẾN BỘ, CÁC PHONG TRÀO YÊU NƢỚC, CÔNG TÁC TUYÊN
HUẤN PHỤC VỤ CÁC TỔ CHỨC TIỀN THÂN CỦA ĐẢNG.
Trƣớc khi có Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Cần Thơ ra
đời, nhân dân Cần Thơ đặc biệt là giới trí thức, thanh niên học sinh đƣợc
các sĩ phu trí thức yêu nƣớc: Nguyễn An Ninh, Phân Châu Trinh truyền bá
tƣ tƣởng tiến bộ, chủ nghĩa yêu nƣớc chống ngoại xâm. Vào những năm
1925, 1926, 1927 ảnh hƣởng của cách mạng tháng mƣời Nga, ánh sáng của
chủ nghĩa Mác – Lênin, những tài liệu sách báo của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc nhƣ: “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đƣờng Kách mệnh”, “Ngƣời
cùng khổ”, v.v… bí mật gởi về nƣớc và đến tay những thanh niên, học sinh
trƣờng College de Cần Thơ (nay là trƣờng phổ thông trung học chuyên ban
Châu Văn Liêm, thành phố Cần Thơ) đã truyền bá tƣ tƣởng tiến bộ, yêu
nƣớc và con đƣờng chống áp bức, bất công, giải thoát cuộc đời nô lệ.
Những thanh niên có tƣ tƣởng tiến bộ là những hạt nhân bí mật tuyên
truyền sách báo cách mạng từ nƣớc ngoài gởi về đã gây một ảnh hƣởng và
gieo mầm cách mạng trong thanh niên học sinh.
Nhiều trí thức, nhân sĩ nhƣ ông Khánh Ký (hiệu thuốc Đông y, thị
xã Cần Thơ), ông Trần Kim Giáp, Trần Nhật Tân (thầy thuốc giỏi ở Ô
Môn), ông Nguyễn Ngƣơn Hanh (ở Cầu Kè) v.v… là những ngƣời bí mật
phổ biến sách báo, tài liệu của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tuyên truyền tổ
chức quần chúng vào các “Hội kín” và hƣởng ứng vận động phong trào
Đông Du, đƣa những thanh niên học sinh ra nƣớc ngoài học tập để về nƣớc
làm cách mạng. Vào năm 1927, 9 thanh niên ở Cần Thơ đi sang Quảng
Châu (Trung Quốc)(1)
để tham dự lớp huấn luyện chính trị do đồng chí
Nguyễn Ái Quốc tổ chức.
Do tác động của những sách báo, tài liệu tiến bộ và công tác tuyên
truyền giáo dục về tinh thần yêu nƣớc trong nhân dân, nên phong trào yêu
nƣớc trong tỉnh dấy lên mạnh mẽ, với khẩu hiệu: “Anh hùng tử, khí hùng
bất tử..” đòi thả Nguyễn An Ninh, ân xá Phan Bội Châu, đặc biệt là cuối
tháng 3/1926 tại Trƣờng College de Cần Thơ giáo chức và học sinh tổ
chức cuộc mít tinh có trên 1.000 ngƣời dự để tang và truy điệu nhà yêu
nƣớc Phan Chu Trinh đƣợc học sinh một số trƣờng trong thị xã, công nhân,
tiểu tƣ sản, tiểu thƣơng hƣởng ứng.
Thời kỳ trƣớc khi Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng ra đời ở Cần
Thơ, các nhà yêu nƣớc, tƣ tƣởng tiến bộ đã truyền bá trong nhân dân nhất
là công nhân, trí thức, học sinh về tài liệu “Bản án chế độ thực dân Pháp”
12
để mọi ngƣời hiểu khổ nhục của ngƣời dân nô lệ mất nƣớc và chế độ cay
trị tàn bạo của thực dân Pháp đối với dân tộc ta. Tiếp theo là sự ra đời tác
phẩm “Đƣờng Kách Mệnh” đã tuyên truyền giáo dục ngày càng rộng trong
nhân dân, về nội dung vạch ra lực lƣợng căn bản và quan trọng của cách
mạng Việt Nam: “Công nông là gốc cách mạng, còn học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ… là bầu bạn cách mạng của công nông” và chỉ rõ tầm quan trọng
là phƣơng pháp cách mệnh: “Phải biết cách làm thì mới nhanh chóng” và
“trƣớc hết phải có Đảng cách mệnh”(2)
.
Năm 1928, một số đồng chí đi học tập từ Trung Quốc về cùng với
đồng chí Ung Văn Khiêm, Trần Ngọc Quế ở Kỳ Bộ Hội Việt Nam Thanh
niên cách mạng về một số làng của huyện Châu Thành, Ô Môn, Cầu Kè
tiếp tục truyền bá tài liệu về “Con đƣờng Kách mệnh”, về chủ nghĩa Mác -
Lênin đã nâng cao một bƣớc giác ngộ cho một số nhà trí thức, yêu nƣớc
tỉnh nhà dẫn đến tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng ra đời, chi
bộ đầu tiên ở Bù Hút (làng Phong Hòa), tiếp theo một số chi bộ khác ở
làng Thới Lai, Thới Thạnh, Thới An v.v… cũng đƣợc thành lập.
Thực hiện chủ trƣơng của Kỳ bộ Hội Việt Nam Thanh niên cách
mạng, Tỉnh bộ đã giáo dục học tập cho hội viên chủ trƣơng “Vô sản hóa”,
hội viên tự nguyện đi hòa mình vào Sở Trƣờng Tiền, Sở Vệ sinh, Xƣởng
sửa chửa ô-tô Năm Tàu, Tƣ Quờn v.v… đồn điền Cờ Đỏ v.v… với khẩu
hiệu “đấu tranh kinh tế kết hợp chặt với đấu tranh chính trị”, đòi dân sinh
dân chủ, chống áp bức bóc lột, đòi độc lập dân tộc v.v…
13
Do công tác tuyên truyền và khẩu hiệu của Hội Việt Nam Thanh
niên cách mạng phù hợp với lòng dân nên đã nhanh chóng tập hợp quần
chúng vào các tổ chức, thanh niên, Phụ nữ phản đế, Công hội đỏ, Nông hội
đỏ và các hình thức tổ chức biến tƣớng khác nhƣ: Hội Tƣơng tế cứu tế, Hội
đọc báo, Hội banh, Hội Nhà vàng, v.v… để tuyên truyền rộng rãi cho các
tầng lớp nhân dân về chủ trƣơng của Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng.
Để các tài liệu tuyên truyền giáo dục trong chi bộ và các tổ chức
quần chúng của Đảng, đồng chí Hà Huy Giáp đã dịch: “Tuyên ngôn của
Cộng Sản Đảng”, “Chủ nghĩa Cộng sản sơ giải” và ra tờ báo “Lao Nông”
in bằng “xu xoa” (ra mỗi lần từ 40 đến 50 bản). Đây là tờ báo đầu tiên của
Tỉnh Đảng bộ Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng Cần Thơ.
14
PHẦN THỨ HAI
CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN KHI CÓ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
I. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN PHỤC VỤ NHIỆM VỤ CHÍNH
TRỊ CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ 1930 – 1939.
Để nâng cao giác ngộ và trình độ lý luận lãnh đạo cách mạng, Tỉnh
bộ Cần Thơ liên lạc với kỳ bộ xin cho một số đồng chí ra nƣớc ngoài
học tập. Vào đầu năm 1929, đồng chí Ung Văn Khiêm đƣợc Kỳ bộ cho
đi bồi dƣỡng lý luận chính trị tại Trung Quốc. Tỉnh bộ Cần Thơ đã mở
đƣợc các lớp lý luận chính trị ngắn ngày tại Tham Tƣớng (Cần Thơ),
Phong Hòa (Ô Môn), tài liệu chính dựa vào quyển “Đƣờng Kách
Mệnh” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và một số lý luận chính trị của
các đồng chí đã học trƣớc ở Trung Quốc truyền đạt lại. Từ đó, đã nâng
lên trình độ hiểu biết về chủ nghĩa Mác – Lênin, con đƣờng cách mạng
Việt Nam, càng củng cố vai trò trách nhiệm của hội viên Hội Việt Nam
Thanh niên cách mạng trƣớc vận mệnh của đất nƣớc.
Năm 1929, tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng tỉnh Cần
Thơ đã bí mật truyền bá những tài liệu cách mạng, báo Lao Nông v.v…
và đƣa ra những khẩu hiệu thích hợp đòi dân sinh, dân chủ chống áp
bức bóc lột, chống sƣu cao, thuế nặng.v.v... đƣợc nhân dân hƣởng ứng,
phong trào phát triển ở nhiều vùng trong tỉnh. Đặc biệt, nhân ngày
Quốc tế Lao động 1- 5- 1929, lần đầu tiên ở Cần Thơ các tổ chức cách
mạng đã treo cờ đỏ búa liềm, rải truyền đơn và dán khẩu hiệu kêu gọi
nhân dân chống thực dân Pháp. Từ khi có Chi chi bộ An Nam Cộng sản
Đảng (1929), đến Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3 – 2 – 1930), thì
các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đƣợc sâu
rộng hơn, nâng cao giác ngộ chính trị, nên phong trào đấu tranh của
nhân dân trong tỉnh đạt hiệu quả hơn.
Trong những năm 1930 – 1931, nƣớc Pháp lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế trầm trọng, thực dân Pháp ra sức vơ vét, sƣu cao, thuế
nặng, sa thải công nhân, bắt nông dân đi làm xâu, thuế thân cũng tăng
đã làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân Việt Nam nói chung, Cần
Thơ nói riêng bần cùng nghèo đói. Trƣớc tình hình đó, thực hiện lời kêu
gọi của Trung ƣơng Đảng, các chi bộ đã tuyên truyền phát động trong
nhân dân bằng mọi hình thức vừa bí mật, vừa công khai, bán công khai,
bán hợp pháp rộng rãi, từ hình thức thấp đấu tranh thƣờng xuyên ở
nông thôn, ở các nhà máy với khẩu hiệu đấu tranh đòi quyền lợi thiết
thân nhƣ hoãn đi xâu, miễn thuế (trong nông dân), trong công nhân “đòi
giữ nguyên lƣơng”, “mỗi ngày làm việc 8 giờ”, “cải thiện điều kiện lao
động và sinh hoạt” v.v… đến hình thức cao hơn là tổ chức mít tinh,
15
diễn thuyết, tán phát truyền đơn, xuống đƣờng biểu tình, đình công đƣa
yêu sách v.v…
Điển hình là vào đêm 18 – 5 – 1930, tại Nhà Đèn, Sở Vệ sinh, chợ
Bình Thủy… các chi bộ đã tổ chức mít tinh, tán phát truyền đơn, treo
cờ Đảng, khẩu hiệu trong thị xã và các vùng phụ cận. Sáng hôm sau, Cờ
đỏ búa liềm tung bay trên những cây sao trƣớc dinh chánh Tham biện
Cần Thơ, trên các cột đèn đƣờng xuống Cầu Bắc, Cát Răng và chợ Bình
Thủy. Các khẩu hiệu, truyền đơn dán rải khắp nơi trong thị xã kêu gọi
nhân dân chống thực dân Pháp và bọn tay say vơ vét bóc lột nhân dân,
đòi gảm thuế, tô tức, kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân đoàn kết đánh đổ
thực dân Pháp và địa chủ phong kiến. Phong trào đấu tranh của nông
dân các làng ở quận Châu Thành, Ô Môn, Trà Ôn, Cầu Kè, diễn ra liên
tiếp. Đặc biệt là cuộc phối hợp đấu tranh của 300 công nhân làm đƣờng
trên lộ Cần Thơ – Long Xuyên, với khẩu hiệu: đòi tăng lƣơng, chống
cúp phạt v.v… đƣợc nông dân một số làng của quận Ô Môn ủng hộ,
cuộc đấu tranh thắng lợi. Trong năm 1930 và những tháng cuối năm
1931, phong trào đấu tranh lại sôi động, nổi bật là cuộc đấu tranh của
hàng ngàn nông dân kéo đến “nhà việc” Hựu Thành, Trà Côn đấu tranh
chống sƣu cao, thuế nặng, đòi cứu đói cho dân… cuộc đấu tranh bị đàn
áp đẫm máu, nhƣng đã làm cho kẻ thù lo sợ. Vào những ngày này, các
cuộc khủng bố trắng của địch đã gây cho Đảng ta từ Trung ƣơng đến cơ
16
sở thiệt hại nặng nề. Nằm trong tình hình chung đó, ở Cần Thơ địch
cũng khủng bố dã man, nhiều cơ sở Đảng bị tan vỡ, nhiều cán bộ, đảng
viên và quần chúng yêu nƣớc bị bắt, bị đày ra Côn Đảo và các nhà tù
khác…
Tình hình trên, đã làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng trong
tỉnh hoang mang lo sợ. Lúc này, vai trò của công tác tuyên truyền, vận
động quần chúng vô cùng quan trọng và cấp bách. Những đảng viên
cộng sản, cán bộ cốt cán còn lại bám chắc quần chúng tuyên truyền
miệng cho từng ngƣời với nội dung giáo dục lòng câm thù địch, đồng
thời xây dựng niềm tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng, mặt dù cách
mạng trƣớc mắt có khó khăn những nhất định sẽ thắng lợi. Từng bƣớc
đã củng cố tinh thần cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu nƣớc. Do yêu
cầu quan trọng của công tác tuyên truyền, nên khi Xứ ủy lâm thời Nam
kỳ đƣợc tái lập thì nhanh chóng ra tờ báo “Cờ Đỏ” , Đặc ủy Hậu Giang
ra tờ báo “Cùng Khổ”. Các tờ báo này lần lƣợt đến tận cơ sở Đảng và
quần chúng cách mạng ở cách mạng ở các tỉnh miền Tây.
Vào năm 1936, khi Mặt trận Bình dân ở Pháp lên cầm quyền đã ban
hành một số điều tiến bộ có lợi cho các nƣớc thuộc địa. Trƣớc tình hình
mới có nhiều thuận lợi, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng họp ở Thƣợng Hải (Trung Quốc) vào tháng 7/1936 đề ra
mục tiêu đấu tranh trực tiếp trƣớc mắt. Sau khi có chủ trƣơng của Trung
ƣơng, các chi bộ Đảng và các tổ chức quần chúng của Đảng nhanh
chóng phục hồi và tập trung tuyên truyền trong tầng lớp nhân dân về
nội dung: chống chính sách phản động thuộc địa, chống phát xít và
chiến tranh đế quốc, đòi dân chủ dân sinh, đi đôi tuyên truyền thành lập
“Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dƣơng” (sau đổi thành “Mặt trận
thống nhất dân chủ Đông Dƣơng”) gọi tắt là “Mặt trận dân chủ Đông
Dƣơng” để tập hợp đoàn kết nhân dân vào Mặt trận đấu tranh chống
chính sách phản động thuộc địa, đòi dân chủ, dân sinh… phát động một
phong trào đấu tranh mới kết hợp hoạt động không hợp pháp với nửa
hợp pháp và công khai, cả trong nghị trƣờng và ngoài đƣờng phố; bằng
báo chí công khai và những cuộc biểu tình, mít tinh, hội họp bao gồm
các tầng lớp nhân dân, kể cả trí thức, nhân sĩ, nghệ sĩ, dân tộc, tôn giáo
đều tham gia. Nổi bật là phong trào Đông Dƣơng Đại hội và vận động
thành lập các Ủy ban hành động ở thị xã Cần Thơ, Châu Thành, Trà
Ôn, Phụng Hiệp, Ô Môn, Cầu Kè để lấy dân nguyện đòi chính phủ
Pháp ban hành các quyền lợi về dân sinh, dân chủ, nhất là tự do ngôn
luận (ra báo chí), thƣ tín, lập hội, đi lại…
Phong trào đấu tranh dân chủ đã phát triển mạnh mẽ, Ủy ban hành
động đã thành lập ở các nơi. Bọn địch hoảng sợ ra lệnh cấm đoán,
nhƣng dƣới sự lãnh đạo của Ủy ban hành động, phong trào đấu tranh
công khai dân chủ diễn ra nhiều hình thức sôi nổi. Trong những năm
1937, 1938, 1939 ở thị xã Cần Thơ, các làng Long Tuyền, Nhơn Ái,
Tân Phú Thạnh, Thới An, Phong Hòa, Thới Thạnh (Ô Môn), Phú Hữu,
17
Thƣờng Phƣớc (Phụng Hiệp), Trà Ôn, Cầu Kè đã tổ chức nhiều cuộc
mít tinh kỷ niệm ngày mất của nhà chí sĩ yêu nƣớc Phan Châu Trinh.
Các Ủy ban hành động đã tuyên truyền phát động trong nhân dân học
tập tinh thần yêu nƣớc của Cụ, cùng nhau đoàn kết đấu tranh chống sự
đàn áp bóc lột của thực dân Pháp.
Tiếp theo, Đảng bộ đã lãnh đạo Ủy ban hành động tổ chức cuộc diễn
thuyết do ông Nguyễn An Ninh – nhà trí thức yêu nƣớc, thuyết trình
trƣớc 500 trí thức, giáo viên, sinh viên, công nhân tại rạp Trần Đắc, thị
xã Cần Thơ thật sôi động hấp dẫn. Nội dung tuyên truyền tập trung gợi
lại lịch sử truyền thống yêu nƣớc đấu tranh chống ngoại xâm của dân
tộc ta, kêu gọi mọi ngƣời đoàn kết chống lại hiểm họa của chiến tranh
phát xít, chống bọn phản động thuộc địa, đòi quyền lợi thiết thân về dân
sinh, dân chủ.v.v…
Một sự kiện nổi bật, để thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng Đảng,
nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày cách mạng tƣ sản Pháp thắng lợi
(14/7/1789 - 14/7/1939) các nơi tiến hành các hình thức đấu tranh công
khai nhƣ tổ chức mít tinh, biểu tình, rải truyền đơn v.v…
Tại thị xã Cần Thơ, Tỉnh Đảng bộ tổ chức cuộc mít tinh công khai
tại rạp Casino (nay là rạp Thanh Bình), tuyên truyền vận động hàng
nghìn quần chúng ở các quận: Ô Môn, Cầu Kè, Trà Ôn, Phụng Hiệp
kéo về cùng với nhân dân tại thị xã trên 4.000 ngƣời để dự cuộc mít
tinh. Ông Dƣơng Bạch Mai, nhà trí thức ở Sài Gòn cùng 10 diễn giả
khác đã lên diễn thuyết về: ý nghĩa cuộc cách mạng Pháp 14/7/1789, về
vai trò của công nhân, nông dân, trí thức, học sinh, phụ nữ, về đoàn kết
để phòng thủ Đông Dƣơng trƣớc họa phát xít Nhật xâm lƣợc.v.v…
đƣợc quần chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Cuộc mít tinh kết thúc bằng
một bản kiến nghị gởi đến Chủ tỉnh Pháp. Mọi ngƣời ra về sau khi
chấm dứt bài Quốc tế ca và Quốc ca Pháp. Với hình thức mít tinh công
khai đã có tiếng vang và ảnh hƣởng cách mạng to lớn trong nhân dân
tỉnh Cần Thơ và khắp miền Tây Nam bộ. Ngoài các hình thức trên,
Đảng bộ Cần Thơ rất chú trọng truyền bá sách báo tiến bộ đến các tầng
lớp nhân dân, bằng các hình thức tổ chức công khai, nửa công khai nhƣ:
mở hiệu sách “Đời Mới” (gần cầu tàu chợ Cần Thơ) để phổ biến sách
tiến bộ của Đảng. Tổ chức Hội truyền bá Quốc ngữ, các tổ đọc sách báo
để tuyên truyền giáo dục về lòng yêu nƣớc, đoàn kết đấu tranh chống
hành động phát xít của bọn phản động thuộc địa v.v…
Đi đôi với công tác tuyên truyền giáo dục các tầng lớp nhân dân.
Tỉnh ủy quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ của Đảng bằng những
lớp chính trị ngắn ngày. Vào cuối năm 1937, tại Ngã Lá, làng Phú Hữu,
đồng chí Phan Văn Bảy, Trần Văn Bảy, Quản Trọng Hoàng đã mở 03
lớp chính trị, đào tạo đƣợc 29 cán bộ cho các Đảng bộ miền Tây.
Cũng trong thời gian này, đồng chí Tạ Uyên đƣợc chỉ định làm Bí
thƣ Đặc ủy đã chỉ đạo việc phát triển Đảng, lập các chi bộ cơ sở, tiến
18
tới lập các Quận ủy, Tỉnh ủy và bí mật mở lớp huấn luyện, đào tạo cán
bộ. Từ đó nhiều lớp chính trị ngắn ngày đã đƣợc mở ở Trà Côn, Vĩnh
xuân (Cầu Kè), Phú Hữu (Phụng Hiệp). Tiếp theo, Tỉnh ủy mở 2 lớp tại
2 làng Trà Côn, Vĩnh Xuân, đƣợc 22 học viên. Khóa huấn luyện cuối
cùng kết thúc vào cuối tháng 3 – 1938. Những học viên do Đặc ủy đào
tạo là cán bộ từ Đảng bộ cơ sở (bí thƣ, phó bí thƣ), có một số ít đảng
viên đã qua thử thách và có triển vọng… Cần Thơ là nơi đƣa học viên
đi học nhiều nhất so với các tỉnh miền Tây.
Tóm lại: Thời kỳ từ 1936 – 1939, ngoài các hình thức mít tinh để
tuyên truyền các chủ trƣơng của Đảng, về Mặt trận dân chủ v.v…; công
tác Tuyên huấn còn tập trung phát động về tinh thần đấu tranh dân chủ
trong các tầng lớp nhân dân, tập hợp các tầng lớp tiểu tƣ sản, trí thức,
các nhân sĩ tiến bộ vào Mặt trận Dân chủ chống bọn thực dân thuộc địa,
chống phát xít. Nhiều nơi trong tỉnh còn diễn ra các cuộc tọa đàm, câu
lạc bộ tranh luận chung quanh vấn đề quan điểm duy vật và duy tâm,
giữa Đệ tam và Đệ tứ chống các phần tử “Trốt – skít v.v… với nhiều
hình thức rất phong phú.
Nhìn chung, trong thời kỳ vận động cách mạng, nhất là từ khi có sự
lãnh đạo của Đảng, công tác tuyên truyền giáo dục, giác ngộ quần
chúng do toàn Đảng làm, xem đây là công tác cơ bản, trung tâm của các
cán bộ Đảng và công tác tuyên truyền miệng là phƣơng thức chủ yếu
của Đảng đi sâu vào quần chúng. Thông qua các tổ chức yêu nƣớc, chi
bộ Đảng đã phổ biến trong nhân dân lao động và giới trí thức trong tỉnh
về đƣờng lối cách mạng của Đảng, về chủ nghĩa Mác – Lênin… qua đó
nâng cao lòng yêu nƣớc thấy rõ tội ác của kẻ thù, từng bƣớc giác ngộ về
chính trị và tập hợp đƣợc rộng rải quần chúng nhân dân đi theo ngọn cờ
của Đảng.
II. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN PHỤC VỤ CHO SỰ CHUYỂN
HƢỚNG ĐƢỜNG LỐI CHIẾN LƢỢC CỦA ĐẢNG, DẪN ĐẾN
CUỘC KHỞI NGHĨA NAM KỲ 1940 VÀ TIẾN TỚI GIÀNH
THẮNG LỢI TRONG CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG 8/ 1945.
A. CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG TRONG THỜI KỲ
CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC CỦA
ĐẢNG.
Ngày 1 - 9 - 1939 chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Chính
quyền ở Pháp lên cầm quyền đã ban hành hàng loạt chính sách phản
động: giải tán Đảng Cộng sản ở chính quốc kể cả các nƣớc thuộc địa;
đóng cửa các báo chí tiến bộ, giải tán các hội quần chúng và hoạt động
của phong trào dân chủ v.v… ở Cần Thơ, thực dân Pháp tiến hành các
cuộc khủng bố tàn bạo đã gây cho Đảng bộ Cần Thơ khó khăn, tổn thất
nặng nề, một bộ phận đảng viên và quần chúng dao động.
Trƣớc tình hình mới, Đảng ta đã có những nhận định mới và kịp thời
chuyển hƣớng về chỉ đạo chiến lƣợc, thay đổi về chính sách, phƣơng
19
pháp đấu tranh. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng lần thứ VI
(từ 6 - 8 - 11 - 1939) đánh dấu bƣớc chuyển hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc
của Đảng ta, đƣa cách mạng nƣớc ta tiến mạnh sang thời kỳ mới: Thời
kỳ trực tiếp đánh đổ chế độ thống trị của thực dân Pháp, giành độc lập
tự do cho nhân dân. Hội nghị cũng quyết định thành lập “Mặt trận
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dƣơng” thay cho Mặt trận dân chủ
Đông Dƣơng và thay đổi tất cả hình thức và phƣơng pháp đấu tranh phù
hợp tình hình mới, chuẩn bị bƣớc tiến tới làm cách mạng giải phóng
dân tộc.
Thực hiện chủ trƣơng của Hội nghị Trung ƣơng lần thứ IV, sau Hội
nghị Tỉnh ủy Cần Thơ (tháng 12 – 1939) các cán bộ đƣợc đƣa xuống
bám sát cơ sở tổ chức học tập để thông suốt chủ trƣơng của Trung ƣơng
về chuyển hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc, tuyên truyền và khôi phục các tổ
chức quần chúng bí mật của Đảng nhƣ: Thanh niên, phụ nữ, nông dân
phản đế và tổ chức học tập tạo ra một sự phấn khởi trong tổ chức đoàn
thể quần chúng và ra nhân dân tích cực chuẩn bị theo sự chuyển hƣớng
chỉ đạo chiến lƣợc của Đảng, đòi chính quyền thành lập các tổ chống
cƣớp, luyện tập võ nghệ tiến tới thành lập đội vũ trang tự vệ v.v…
Công tác tuyên truyền của Đảng đã giữ một vai trò rất lớn trong thời kỳ
này, vừa củng cố lòng tin trong cán bộ đảng viên và nhân dân trƣớc tình
hình khó khăn của phong trào cách mạng trong tỉnh; đồng thời phổ biến
nhanh chóng chủ trƣơng của Đảng tập hợp quần chúng vào “Mặt trận
thống nhất dân tộc phản đế Đông Dƣơng” tập trung mục tiêu tiến tới
giải phóng dân tộc đã tạo một sự phấn khởi trong cán bộ, đảng viên và
quần chúng của Đảng.
B. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN TRONG KHỞI NGHĨA NAM KỲ
1940.
Nƣớc Pháp bại trận buộc ký hiệp ƣớc với Đức. Bọn thực dân Pháp ở
Đông Dƣơng hoang mang tột độ, chuẩn bị đầu hàng phát xít Nhật.
Trƣớc đó, Tỉnh ủy Cần Thơ tiếp thu chủ trƣơng của Hội nghị Xứ ủy
(tháng 7, tháng 9/1940) và “đề cƣơng khởi nghĩa”, Tỉnh ủy đã trực tiếp
triển khai đến các chi bộ và nhanh chóng tuyên truyền, giáo dục hội
viên các tổ chức đoàn thể quần chúng của Đảng, đã tạo ra sự phấn khởi,
tất cả đều muốn nổi dậy kể cả cơ sở binh lính trong hàng ngũ địch cũng
yêu cầu khởi nghĩa, tỏ rõ thái độ, phát biểu: “Thà chết cho cách mạng
còn hơn ra mặt trận làm bia đỡ đạn cho quân thù”. Vì anh em biết thực
dân Pháp sẽ đƣa quân đánh với Xiêm. Sau 4 tháng triển khai “đề cƣơng
khởi nghĩa” khí thế cách mạng của quần chúng dâng lên mạnh mẽ,
nhiều nơi thanh niên luyện tập quân sự, tổ chức các đội du khích, rèn vũ
khí, thành lập các ban khởi nghĩa, tổ chức nhiều cuộc mít tinh diễn
thuyết ở các thôn xóm, vạch cho quần chúng rõ tội ác của thực dân
Pháp và chúng sắp đầu hàng, thời cơ cách mạng đã đến, kêu gọi mọi
ngƣời đứng lên giành chính quyền giải thoát cuộc đời nô lệ, quần chúng
hƣởng ứng sẵn sàng chờ lệnh.
20
Giờ khởi nghĩa nổ ra vào đêm 22 rạng sáng 23/11/1940 tỉnh Cần
Thơ quần chúng ở nhiều nơi nhƣ: Cầu Kè, Trà Ôn, Châu Thành… đã
nổi dậy bao vây tề làng, dinh quận, treo băng cờ búa liềm, đốn cây, phá
cột dây thép.v..v… riêng quân khởi nghĩa làng Phú Hữu, quận Phụng
Hiệp (nay là huyện Châu Thành) phá nhà việc, thiêu hủy giấy tờ, họp
mít tinh v.v… quần chúng nhiệt liệt hƣởng ứng.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở Cần Thơ bị thực dân Pháp đàn áp dã
man, một số cơ sở cách mạng bị tan rã, nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo
và quần chúng yêu nƣớc bị bắt. Sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ở Cần
Thơ tình hình tƣ tƣởng đảng viên và quần chúng yêu nƣớc có hoang
mang dao động. Nhƣng sự lãnh đạo của Xứ ủy kịp thời tăng cƣờng cán
bộ về cho Cần Thơ nên Tỉnh ủy đƣợc củng cố, lãnh đạo cán bộ, đảng
viên bám sát dân tuyên truyền giáo dục lòng căm thù giặc Pháp, vạch rõ
tình hình tuy có khó khăn trƣớc mắt nhƣng cách mạng nhất định sẽ
đánh đổ thực dân Pháp, đó là con đƣờng cứu lấy mình, đƣợc nhân dân
ủng hộ cách mạng, các tổ chức quần chúng của Đảng đƣợc khôi phục.
Để có đủ tài liệu tuyên truyền giáo dục trong các chi bộ và tổ chức
quần chúng, nên đầu năm 1941 Tỉnh ủy chủ trƣơng ra tờ báo “Tiến lên”
và lập cơ quan in ấn để in tài liệu, truyền đơn. Năm 1942, Liên Tỉnh ủy
ra tờ báo “ Chiếu đấu”; đặc biệt ở Cần Thơ vào cuối năm 1942 đầu năm
1943 đã xuất hiện một số tờ báo tiến bộ, góp phần rất lớn củng cố tƣ
tƣởng và tạo đƣợc niềm tin trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
C. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN TRONG TỔNG KHỞI NGHĨA
THÁNG 8 – 1945.
Trƣớc Cách mạng Tháng 8 – 1945, có sự kiện chính trị quan trọng là
Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội gọi tắt là Việt Minh ra đời có tuyên
ngôn, điều lệ, đặc biệt là chƣơng trình cứu quốc của Việt Minh. Đây là
điều kiện thuận lợi cho công tác Tuyên huấn, công tác tuyên truyền để
vận động quần chúng củng cố và phát triển phong trào, tập hợp rộng rãi
vào Mặt trận tích cực chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Tỉnh ủy Cần Thơ chủ chƣơng mỗi cán bộ, đảng viên đều ra sức
tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân về Tuyên ngôn, Điều
lệ, chƣơng trình cứu quốc, chính sách đại đoàn kết của Mặt trận Việt
Minh v.v… Các tầng lớp nhân dân kể cả nhân sĩ, trí thức, tôn giáo, dân
tộc v.v… phấn khởi tìm hiểu và học tập, sẵn sàng tham gia vào Mặt trận
Việt Minh cùng nhau đoàn kết đánh đổ Nhật Pháp. Đây là cái mốc quan
trọng của phong trào cách mạng trong tỉnh chuẩn bị cho Tổng khởi
nghĩa tháng Tám.
Sự kiện lớn thứ hai, Đảng ta biết tận dụng thời cơ vận động và nắm
tổ chức Thanh niên Tiền Phong là một nhân tố, điều kiện thúc đẩy cách
mạng Tháng Tám giành thắng lợi. Nắm đƣợc chủ trƣơng của Trung
ƣơng, Xứ ủy, Tỉnh ủy Cần Thơ đã xây dựng trong Đảng bộ về nhận
thức, làm chuyển biến tốt tƣ tƣởng lợi dụng tổ chức địch lập ra, cần
21
nắm chắc lực lƣợng này để phục vụ cho cách mạng thắng lợi. Từ đó,
phát động rộng rãi ra quần chúng nhất là lực lƣợng thanh niên và tập
hợp đông đảo thanh niên vào tổ chức này. Quá trình tập hợp thanh niên
vào Thanh niên Tiền Phong, ở Cần Thơ đã tổ chức nhiều hình thức
tuyên truyền, phong phú để nâng cao tinh thần và trách nhiệm thanh
niên đối với họa ngoại xâm, gợi lên nổi khổ nhục của nhân dân ta phải
chịu cảnh nô lệ một cổ hai tròng Nhật – Pháp. Đại hội Thanh niên Tiền
Phong Tây đô, tại thị xã Cần Thơ đã tập hợp trên 2 vạn thanh niên,
trƣơng băng cờ, hát vang bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lƣu Hữu
Phƣớc, kéo về sân vận động Cần Thơ tổ chức mít tinh với khí thế hừng
hực cách mạng đoàn kết đấu tranh chống quân xâm lƣợc. Ngoài ra,
Thanh niên Tiền Phong còn tổ chức luyện tập quân sự, chuẩn bị vũ khí
thô sơ, đƣợc lực lƣợng thanh niên cứu quốc tuyên truyền nung nấu tinh
thần sẵn sàng chiến đấu và làm nòng cốt trong cuộc khởi nghĩa Cách
mạng Tháng 8 /1945.
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp ở Cần Thơ tình hình vô cùng
hỗn loạn; trƣớc khi quân Nhật đến, ở thị xã Cần Thơ đã xuất hiện cờ “ó
đen” tung những luận điệu tuyên truyền về thuyết “Đông Nam Á”, dán
những khẩu hiệu mị dân của bọn Huỳnh Khai tay sai thân Nhật nhƣ:
“Ngƣời da vàng của ngƣời da vàng”, hoặc “Nhật sẽ ủng hộ Việt Nam
độc lập” v.v… để kích động tinh thần nhân dân bài Pháp. Cùng với bọn
tay sai thân Nhật, một số tên đầu sỏ phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng
tình hình này cũng tăng cƣờng hoạt động tuyên truyền mị dân làm cho
tình hình phức tạp thêm. Trƣớc tình hình rối ren và nhiểu loạn này,
Đảng bộ Cần Thơ chỉ đạo cho tổ chức đoàn thể quần chúng không mơ
hồ ảo tƣởng với những lời tuyên truyền mị dân của bọn thân Nhật; đồng
thời tuyên truyền 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh, nhất là
tuyên truyền phát động phong trào đánh đổ Pháp Nhật giành độc lập.
Tại thị xã Cần Thơ ta rải truyền đơn và dán khẩu hiệu trên các phố, làm
cho quần chúng phấn khởi tin tƣởng cách mạng sẽ giành thắng lợi.
Thực hiện lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa của Hồ Chủ tịch, ngày 17/8/
1945, Tỉnh ủy Cần Thơ họp bàn kế hoạch khởi nghĩa trong toàn tỉnh.
Đặc biệt là đẩy mạnh công tác tuyên truyền phát động quần chúng
về lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa của Hồ Chủ tịch, động viên một khí thế
cách mạng sôi sục trong các tầng lớp nhân dân đứng lên giành chính
quyền. Không khí khởi nghĩa lan rộng từ thành thị đến nông thôn, nhân
dân chuẩn bị gậy gộc, tầm vông, mã tấu, truyền đơn, khẩu hiệu và tập
hợp tổ chức lực lƣợng quần chúng ở tƣ thế sẵn sàng.
Trong thời điểm này, khí thế khởi nghĩa trong nhân dân dâng cao
chƣa từng có, lại đƣợc tin khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn
và một số tỉnh nhƣ: Long Xuyên, Vĩnh Long, Châu Đốc.v.v… liên tiếp
dội về, tinh thần của bọn tay sai thân Pháp, Nhật hoang mang tột độ;
khí thế cách mạng của quần chúng càng dâng cao. Công tác tuyên
22
truyền giáo dục phát động quần chúng càng rộng rãi sôi động bằng các
hình thức: treo cờ, rải truyền đơn, các đoàn thể Thanh niên Tiền Phong,
Cứu quốc họp mít tinh kêu gọi các tầng lớp nhân dân xuống đƣờng
giành độc lập.
Sáng ngày 26 -8 -1945, Ủy ban Dân tộc giải phóng tỉnh Cần Thơ tổ
chức cuộc mít tinh trên 2 vạn quần chúng. Với những lời kêu gọi động
viên mọi ngƣời đoàn kết một lòng giành chính quyền để giải thoát cuộc
đời nô lệ, khổ nhục. Sau đó, quần chúng xuống đƣờng biểu tình tay cầm
vông, giáo mác, trƣơng băng, cờ đỏ sao vàng, hô vang khẩu hiệu:
“Nƣớc Việt Nam độc lập muôn năm”, “Chính quyền về tay nhân dân”.
Trƣớc sức mạnh áp đảo của quần chúng buộc Tỉnh trƣởng Lƣu Văn
Tàu giao chính quyền cho cách mạng và quân Nhật ở Cần Thơ cũng
phải xuôi tay. Nhƣ vậy ngày 26 – 8 -1945, nhân dân Cần Thơ dƣới sự
lãnh đạo của Đảng bộ đã giành chính quyền trong toàn tỉnh Cần Thơ
trên tay Nhật, Pháp.
Nhìn chung, thời kỳ trƣớc Cách mạng Tháng Tám, nhất là khi cuộc
khởi nghĩa Nam kỳ thất bại, tình hình cực kỳ khó khăn phức tạp…
Nhƣng dƣới sự lãng đạo của Đảng đã kịp thời nhanh chóng chuyển
hƣớng chỉ đạo đƣờng lối chiến lƣợc, phƣơng thức tuyên truyền vận
động quần chúng, chú trọng tuyên truyền chiều sâu, hình thức phổ biến
là tuyên truyền miệng cho từng ngƣời, từng nhóm, tán phát truyền đơn,
treo băng cờ, khẩu hiệu, họp mít tinh, hoặc bí mật chuyền tay những
sách, báo tiến bộ và dựa vào tin tức thời sự hƣớng dẫn dƣ luận nhân
dân. Đặc biệt là các tổ chức cách mạng biết vận dụng nhiều hình thức
thích hợp với tình hình từng lúc, từng nơi, và từng đối tƣợng. Nội dung
tuyên truyền chủ yếu là giáo dục tinh thần yêu nƣớc, tính giai cấp và
tình đoàn kết dân tộc; vạch tộc ác của bọn thực dân Pháp, phát xít Nhật
và bè lũ tay sai, địa chủ phong kiến v.v… Công tác tuyên truyền vận
động quần chúng gắn liền với công tác tổ chức, xây dựng và phát triển
các Hội quần chúng cách mạng.
Tình hình càng khó khăn, thì Đảng bộ càng quan tâm công tác giáo
dục chính trị nội bộ, học tập các Nghị quyết, tài liệu về chủ nghĩa Mác
– Lênin và mở lớp học đào tạo bồi dƣỡng ngắn ngày với số lƣợng nhỏ.
Đối tƣợng chủ yếu là cán bộ, đảng viên và quần chúng cốt cán của
Đảng ở cơ sở, thƣờng xuyên củng cố tƣ tƣởng chính trị, giữ vững niềm
tin ở sự lãnh đạo của Đảng.
23
PHẦN THỨ BA
CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN TRONG THỜI KỲ
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(8/1945 – 7/1954)
I. CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN, ĐÀO TẠO BỒI DƢỠNG
CÁN BỘ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ ĐẾN TOÀN QUỐC
KHÁNG CHIÊN (tháng 8/1945 – 12/1946)
A. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TƯ TƯỞNG
VÀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân cả nƣớc nói chung, Cần
Thơ nói riêng, tinh thần vô cùng phấn khởi vì đã thoát cuộc đời nô lệ trên
80 năm, trở thành ngƣời chủ đất nƣớc. Nhƣng cán bộ, đảng viên và nhân
dân rất băn khoăn lo lắng phải đƣơng đầu trƣớc mọi khó khăn phức tạp do
hậu quả chính sách vơ vét của thực dân Pháp, phát xít Nhật, chuẩn bị đối
phó với mọi âm mƣu của bọn phản động trong tỉnh và bọn thực dân Pháp
lăm le tái chiếm nƣớc ta.
Thực hiện chủ chƣơng của Hội nghị Tỉnh ủy Cần Thơ (ngày 7- 9 -
1945) cán bộ, đảng viên đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong mọi tầng
lớp nhân dân cùng với Đảng bộ ra sức xây dựng chính quyền và vận động
nhân dân tham gia vào mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc; xây
dựng lực lƣợng vũ trang; gìn giữ an ninh trật tự thôn xóm.v.v… đồng thời
giáo dục trong nhân dân, nhất là quần chúng tín đồ Phật giáo Hòa Hảo hiểu
rõ chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo của chánh quyền cách mạng và
vạch trần âm mƣu của bọn phản động đội lốt Phật giáo Hòa Hảo tuyên
truyền lừa mị, xúc giục tín đồ đi biểu tình lật đổ chính quyền cách
mạng.v.v… Sau khi ta dẹp cuộc bạo loạn của bọn cầm đầu phản động đội
lốt Phật giáo Hòa Hảo ở thị xã Cần Thơ (9 – 9 – 1945), Tỉnh ủy chủ
chƣơng cho các cán bộ đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể mở một
đợt tuyên truyền vạch mặt lên án bọn phản động, ổn định tinh thần tƣ
tƣởng của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo cùng với nhân dân xây dựng chính
quyền cách mạng, ra sức ổn định đời sống v.v…
Lúc này mặc dù chƣa thành lập chính thức ngành Tuyên huấn,
nhƣng Tỉnh ủy Cần Thơ rất quan tâm công tác tuyên huấn, công tác tuyên
truyền, giáo dục và đào tạo bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ công – nông có trình
độ văn hóa, chính trị để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng.
Thời kỳ sau Cách mạng Tháng 8/1945, Tỉnh ủy chỉ đạo các ngành
các cấp, các bộ phận làm công tác tuyên truyền, nhƣ đoàn tuyên truyền lƣu
động của tỉnh đƣợc thành lập tập trung tuyên truyền phát động lời kêu gọi
của Trung ƣơng Đảng, của Bác Hồ “Toàn dân chống giặc đói – giặc dốt và
giặc ngoại xâm”, đƣợc nhân dân nhiệt liệt hƣởng ứng.
24
Về chống giặc đói, công tác tuyên truyền động viên quần chúng đẩy
mạnh phong trào gia tăng gia sản xuất, với khẩu hiệu: “Không một tấc đất
bỏ hoang”, “tấc đất tấc vàng”; đồng thời kêu gọi địa chủ hƣởng ứng chủ
trƣơng giảm tô, giảm tức cho nông dân từ 25 đến 50%... Từ đó phong trào
sản xuất đem lại hiệu quả, giải quyết nạn đói trong tỉnh còn tiếp tế cho
đồng bào miền Đông và Sài Gòn đang bị đói.
Về diệt giặc dốt cũng rất sôi động, phong trào chống nạn mù chữ,
mở mang kiến thức cho nhân dân lao động cũng đƣợc tuyên truyền mạnh
mẽ học tập lời kêu gọi của Bác Hồ “Những ngƣời đã biết chữ dạy cho
những ngƣời chƣa biết chữ… Những ngƣời chƣa biết hãy cố gắn mà học
cho biết”(3)
. Do công tác tuyên truyền chống dốt tốt, cán bộ và nhân dân ta
thoát dốt nên đã tham gia quản lý chính quyền và phát huy quyền làm chủ
của mình. Cùng với 2 phong trào trên, công tác tuyên truyền trong tỉnh tập
trung chuẩn bị cho kháng chiến chống thực dân Pháp lăm le xâm lƣợc đất
nƣớc ta lần thứ hai, dấy lên phong trào thanh niên gia nhập vào Cộng hòa
vệ binh, vào các đơn vị vũ trang làng ấp. Phong trào ca hát dấy lên mạnh
mẽ trong thanh niên, hát những bài ca cách mạng: Lên Đàng, Tiếng gọi
thanh niên của Lƣu Hữu Phƣớc và nhiều bài hát khác nhƣ Tiếng hát công
nông binh, cùng nhau ta đi Hồng quân v.v… vang lên từ thành thị đến
nông thôn.
Công tác tuyên truyền vận động các tầng lớp trí thức, nhân sĩ, tƣ sản,
tôn giáo, dân tộc cũng đƣợc Tỉnh ủy quan tâm, ngày 18 – 9 -1945 đồng chí
Trần Văn Khéo, Chủ tịch Ủy ban Hành chính lầm thời tỉnh triệu tập cuộc
họp có hơn 100 nhân sĩ, trí thức, tƣ sản trong tỉnh để giới thiệu chính sách
25
đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh và chủ trƣơng của Nhà nƣớc kêu
gọi tích cực ủng hộ cách mạng và đƣợc các giới này nhiệt liệt hƣởng ứng.
Đặc biệt, để chuẩn bị đón tiếp đoàn tù chính trị thứ hai từ Côn Đảo
trở về Cần Thơ (30 - 9 - 1945)(4)
, Tỉnh ủy phân công cán bộ đi tuyên
truyền, giáo dục quần chúng ở thị xã Cần Thơ, Cái Răng, Bình Thủy v.v…
Hiểu rõ sự dã man của địch, về tinh thần yêu nƣớc, chí khí cách
mạng của những ngƣời chiến sĩ cộng sản bị địch giam cầm ở Côn Đảo.
Đoàn tù chính trị đƣợc nhân dân đón tiếp với tinh thần thƣơng yêu, khâm
phục và chăm sóc chu đáo. Sau đó, các đồng chí trong đoàn tù chính trị
tung ra đi tuyên truyền, kể chuyện về cách mạng, về những chiến sĩ đã bị
giặc Pháp giam cầm hành hạ hy sinh ngoài Côn Đảo, làm cho nhân dân
hiểu rõ về sự hy sinh đóng góp lớn lao của những ngƣời chiến sĩ cộng sản
để có ngày độc lập, tự do hôm nay.
Song song với công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, Tỉnh ủy
Cần Thơ luôn quan tâm nâng cao trình độ và năng lực lãnh đạo cho đội
ngũ cán bộ đảng viên. Vào trung tuần tháng 9 – 1945, tỉnh Cần Thơ đã tổ
chức 1 lớp Mác – xít đầu tiên tại trƣờng Bassac do đồng chí Nguyễn Văn
Dực(5)
phụ trách, cho cán bộ trong tỉnh và các tỉnh bạn. Nội dung chƣơng
trình gồm: Duy vật biện chứng, Lịch sử Đảng và Điều lệ Đảng Cộng sản
Đông Dƣơng, Mƣời chính sách của Mặt trận Việt Minh, Năm bƣớc công
tác cách mạng, chủ chƣơng, chính sách trƣớc mắt của Đảng. Vào cuối năm
1946, Tỉnh ủy mở lớp Mác – xít thứ hai tại Cầu Kè do đồng chí Đinh Ngọc
Thủy phụ trách, có 40 – 50 học viên là cán bộ trong tỉnh. Sau đó Tỉnh ủy
liên tiếp mở các lớp bồi dƣỡng kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lênin,
về đƣờng lối chủ trƣơng, các chính sách quan trọng của Đảng, Nhà nƣớc,
mở 1 lớp tại ấp Phú Lễ, xã Phú Hữu, huyện Châu Thành và mở 1 lớp tại
Tham Tƣớng thị xã Cần Thơ, mỗi lớp có từ 25 – 70 học viên do đồng chí
Nguyễn Xuân Hoàng phụ trách. Số cán bộ đƣợc tỉnh đào tạo, Tỉnh ủy đã
tăng cƣờng cho các quận, các đồng chí tích cực mở các lớp để bồi dƣỡng
cho cán bộ ở cơ sở. Đi đôi với bồi dƣỡng về chính trị, tỉnh mở 2 lớp huấn
luyện tân binh để bổ sung vào các đơn vị Cộng hòa vệ binh của tỉnh, do
đồng chí Huỳnh Thủ và đồng chí Quản Trọng Linh phụ trách. Tỉnh ủy còn
chủ trƣơng mở lớp huấn luyện quân sự cho trên 20 cán bộ quân sự của các
quận tại Xóm Chài thị xã Cần Thơ, do đồng chí Võ Quang Anh phụ trách.
Hƣởng ứng lời kêu gọi của Trung ƣơng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Tỉnh ủy Cần Thơ phát động “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ đồng, chì,
thau”. Để đạt kết quả cao, các tổ chức cơ sở Đảng, cơ quan đoàn thể tích
cực tuyên truyền, vận động, khơi dậy và động viên lòng yêu nƣớc của nhân
dân tích cực đóng góp của cho Nhà nƣớc, góp phần khắc phục khó khăn và
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Chỉ trong thời gian
ngắn các điền chủ, tƣ sản, trí thức, các nhà chùa và nhân dân trong tỉnh đã
sôi nổi đóng góp nhiều vàng và tài sản cho cách mạng.
26
Trong lúc tỉnh nhà đang khẩn trƣơng xây dựng chính quyền, mặt
trận các đoàn thể và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, thì thực dân Pháp đã
gây hắn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam lần thứ
hai. Do đó, công tác tuyên truyền giáo dục trong nhân dân về Lời kêu gọi
của Ủy ban kháng chiến Nam bộ (23/9/1945), Thơ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh gởi cho đồng bào Nam bộ (26/9/1945). Cán bộ, đảng viên và nhân
dân tỉnh nhà đều khẳng định quyết tâm và lòng tuyệt đối của Bác:
“Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lƣợng đoàn kết của
Quốc dân”.
“Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc đấu tranh của chúng ta là
chính đáng”(6)
. Từ đó, nhân dân tỉnh Cần Thơ ráo riết chuẩn bị mọi mặt
cho cuộc kháng chiến, nhất là mặt tinh thần tƣ tƣởng sẵn sàng chiến đấu
chống địch.
Sáng 30/10/1945, giặc Pháp tấn công tỉnh lỵ, Cần Thơ. Quân dân ta
chiến đấu rất dũng cảm bám trận địa, đánh trả nhiều đợt tấn công của địch
và vây chặn không cho chúng bung ra đánh chiếm nhanh chóng các tỉnh
miền Tây, để các tỉnh có đủ thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Lúc
này, Tỉnh ủy chỉ đạo tăng cƣờng thật mạnh công tác Tuyên huấn để đáp
ứng tình hình nhiệm vụ mới.
Tỉnh ủy thành lập ngay Ban Tuyên truyền gồm có đồng chí Hồ Bá
Phúc (Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy) phụ trách cùng đồng chí Nguyễn Phúc
Long và một số cán bộ, đảng viên trƣởng thành từ phong trào học sinh,
sinh viên. Ban Tuyên truyền cùng với tổ chức Đảng và các tổ chức quần
chúng, bằng nhiều biện pháp hình thức tuyên truyền nhƣ: tuyên truyền
miệng, truyền đơn khẩu hiệu, phát loa, họp mít tinh v.v…
Nội dung tuyên truyền: Tập trung giáo dục lòng yêu nƣớc, chí căm
thù giặc, qua đó động viên tinh thần cán bộ, chiến sĩ và nhân dân tin tƣởng
vào sự lãnh đạo của Đảng, của Hồ Chủ tịch và tích cực tham gia kháng
chiến bảo vệ độc lập vừa mới giành đƣợc của đất nƣớc. Tuyên truyền về
lệnh tản cƣ của Ủy ban kháng chiến tỉnh Cần Thơ ra khỏi thị xã, lệnh tiêu
thổ kháng chiến, về gƣơng chiến đấu đánh địch của chiến sĩ ta tại Mặt trận
Cần Thơ, gƣơng anh hùng và sự hy sinh anh dũng của đội cảm tử Lê Bình
v.v… Đặc biệt lúc này, quân dân ta vừa lo đánh giặc lại phải dồn sức công
tác tuyên truyền cho sự kiện chính trị trọng đại, làm cho nhân dân hiểu rõ
quyền dân chủ của công dân một nƣớc độc lập, động viên đông đảo mọi
công dân đi bầu cử đại biểu Quốc hội đầu tiên của nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa vào ngày 25/12/1945, đƣợc Trung ƣơng cho phép trƣớc ngày
06/01/1946. Nhằm phát huy sức mạnh của công tác tuyên truyền phục vụ
cho kháng chiến, trong năm 1945, tỉnh ra tờ báo “Giết giặc” do đồng chí
Hồ Bá Phúc làm chủ biên, đây là báo tuần, đƣợc phát hành khắp các tỉnh
miền Hậu Giang. Báo đƣợc in tại nhà in An Hà của một nhà tƣ sản Trần
Đắc Nghĩa tại thị xã Cần Thơ. Tờ báo đã góp phần quan trọng trong việc
27
động viên tinh thần chiến đấu đối với chiến sĩ ở tiền tuyến, cũng nhƣ nhân
dân ở địa phƣơng.
Tháng 8 – 1946, sau khi thành lập Tỉnh ủy lâm thời, Ban Tuyên
truyền của Mặt trận Việt Minh tỉnh cũng ra đời do đồng chí Nguyễn
Truyền Thanh (Ba Lê) Bí thƣ Tỉnh ủy kiêm Trƣởng Ban. Sau đó, Tỉnh ủy
phân công đồng chí Nguyễn Hữu Thành làm Trƣởng Ban, thay cho đồng
chí Nguyễn Truyền Thanh.
Từ khi Tỉnh ủy, các Quận ủy lâm thời đƣợc thành lập, công tác
tuyên truyền – công cụ đắc lực của Đảng càng đƣợc phát huy và mở rộng
hơn. Các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, của Mặt trận Việt Minh, nội
dung, ý nghĩa của Hiệp ƣớc sơ bộ 6 - 3 - 1946 và Thỏa hiệp án 14 - 9 -
1946 đƣợc phổ biến sâu rộng, tạo ra sự phấn khởi trong nhân dân ta có
điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển lực lƣợng chuẩn bị cho kháng
chiến lâu dài. Địch phản bội Hiệp ƣớc sơ bộ và Thỏa hiệp án mở rộng
chiến tranh ra cả nƣớc, công tác tuyên truyền động viên toàn dân thực hiện
lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Trung ƣơng Đảng và của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy lòng yêu nƣớc, tinh thần chiến đấu: “Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nƣớc, nhất định
không chịu làm nô lệ”. Từ đây, nhân dân Cần Thơ cùng nhân dân cả nƣớc
bƣớc vào cuộc kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, trƣờng kỳ kháng chiến”
chống thực dân Pháp xâm lƣợc.
II. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN PHỤC VỤ ĐƢỜNG LỐI KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC (1947 – 1954)
Tỉnh Cần Thơ, đƣợc địch đánh giá là vị trí quan trọng của miền Tây,
ngoài tập trung quân các loại đánh phá, chúng còn thực hiện âm mƣu thâm
độc lừa bịp, mua chuộc, lôi kéo thành lập những đơn vị vũ trang Phật giáo
Hòa Hảo, Cao Đài phản động chống phá cách mạng, thực hiện âm mƣu
“dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt”. Địch thƣờng xuyên càn quét, bắn giết
tàn sát cán bộ, nhân dân và đốt phá nhà cửa, cƣớp bóc tài sản, mở rộng
việc chiếm đóng đồn bót… làm cho đời sống nhân dân vốn đã khó khăn
càng khó khăn hơn. Tình hình trên đã tác động tƣ tƣởng, tâm trạng của một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, có một bộ phận nhỏ cán bộ là
thành phần địa chủ chạy ra vùng địch tạm chiếm đóng, đại bộ phận đƣợc
sắp xếp rút xuống rừng U Minh củng cố lực lƣợng và luồn sâu bám quần
chúng hoạt động. Sau một thời gian rút lui xuống rừng, cán bộ và lực
lƣợng vũ trang ta trở về cùng với số còn tại chỗ tuyên truyền vận động
nhân dân trừ gian diệt ác, xây dựng củng cố lại Đảng bộ, mặt trận, đoàn
thể.
Đặc biệt là để phá âm mƣu chia rẽ của địch, thực hiện chủ trƣơng
của Trung ƣơng, mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất, các cấp tập trung
tuyên truyền việc thành lập Hội Liên Hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là
Hội Liên Việt) Mặt trận Liên Việt và đoàn thể quần chúng đi sâu tuyên
truyền, giáo dục khơi dậy lòng yêu nƣớc, vạch rõ âm mƣu và tộc ác của
28
giặc Pháp, đoàn kết một lòng chống kẻ thù chung của dân tộc. Đồng thời
tuyên truyền, vận động quần chúng tín đồ, các tôn giáo phân hóa, cô lập
những tên cầm đầu phản động đội lốt tôn giáo làm thất bại âm mƣu chia rẽ
dân tộc, dùng tôn giáo chống lại cách mạng.
Năm 1947, song song với xây dựng các tổ chức, các đội võ trang
tuyên truyền cũng đƣợc tổ chức và hoạt động khá mạnh ở thị xã Cần Thơ
và các thị trấn, vừa tán phát truyền đơn, vừa làm nhiệm vụ trừ gian, diệt ác.
Có lần truyền đơn của ta có mang hình sọ ngƣời (dấu hiệu của “sát gian
Đảng”) bí mật dán ngay trên lƣng tên Pháp quản đốc Khám lớn Cần Thơ,
đã tác động mạnh mẽ vào tinh thần của quân đội Pháp.
Phong trào cách mạng tỉnh Cần Thơ càng phát triển, Tỉnh ủy chủ
trƣơng thành lập đội tuyên truyền lƣu động để đƣa tiếng nói của kháng
chiến đến khắp các xã, ấp, thôn, xóm, nhất là tuyên truyền ra vùng ven,
vùng địch tạm chiếm; Đội tuyên truyền lƣu động rất gọn nhẹ, nên di
chuyển rất nhanh. Nội dung tuyên truyền tập trung vào các chủ đề: Động
viên toàn dân kháng chiến, “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”,
thông tin về thắng lợi của quân dân khắp nơi chống thực dân Pháp; tuyên
truyền về đời sống mới, chống mê tín dị đoan và đoàn kết ủng hộ kháng
chiến v.v… Hình thức tuyên truyền khá phong phú nhƣ: Truyền đơn, báo
chí, tổ chức mít tinh diễn thuyết .v.v… Để chống lại luận điệu tuyên
truyền, và tài liệu, báo chí phản động của địch, ta viết, in rải những tờ
bƣớm để giải thích, vạch trần những luận điệu xuyên tạc phản động chống
phá cách mạng của chúng, đƣợc quần chúng đồng tình ủng hộ. Vào những
năm 1947, Khu 9 tổ chức hội nghị sơ kết công tác thông tin tuyên truyền
toàn khu. Hội nghị nhận xét đánh giá công tác thông tin tuyên truyền của
các tỉnh trong khu 9 khá tốt, nổi nhất là tỉnh Cần Thơ đã thành lập sớm đội
tuyên truyền lƣu động và hoạt động có hiệu quả.
Cũng trong năm 1947, Tỉnh mở 2 lớp bồi dƣỡng chính trị cho cán bộ
tại xã Lƣơng Tâm (Long Mỹ), mỗi lớp có từ 70 – 80 học viên do các cán
bộ ở Côn Đảo về phụ trách việc giảng dạy, gồm các nội dung: Quyển
“Trƣờng kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trƣờng Chinh,
5 bƣớc công tác, chƣơng trình Việt Minh v.v… Đông chí Mai Chí Thọ
(Tỉnh ủy viên) mở lớp bồi dƣỡng cho cán bộ Quốc gia tự vệ cuộc (công an)
tại làng Mỹ Khánh và Giai Xuân. Đồng chí Trần Văn Khéo Chủ tịch Ủy
ban kháng chiến – hành chánh tỉnh chỉ đạo mở 2 lớp nghiệp vụ cho Chủ
tịch ủy ban kháng chiến – hành chánh các làng; mở 1 lớp bồi dƣỡng tuyên
truyền viên cho cán bộ xã, ấp. Qua các lớp này đã nâng cao 1 bƣớc kiến
thức về chính trị cho cán bộ, tạo điều kiện tốt làm công tác tuyên truyền.
Từ năm 1948, vùng giải phóng đƣợc mở rộng, các hoạt động thông
tin, tuyên truyền cũng phát triển khá mạnh. Các tờ báo “Tiếng súng kháng
địch” của khu 9, tờ báo “Hiệp Nhất” của Hội Liên Việt tỉnh Cần Thơ đƣợc
phát hành rộng rãi trong nhân dân. Nhiều ấp, làng đã tổ chức các nhóm đọc
báo và các tổ phát loa, thƣờng xuyên hàng đêm phổ biến chủ trƣơng của
29
Đảng, chính quyền, tin thắng lợi trên các chiến trƣờng, đặc biệt là các trận
đánh giao thông trên lộ Tầm Vu trong năm 1947, nhất là trận Tầm Vu 4
(19 – 4 – 1948) đã làm nức lòng quân, dân tỉnh Cần Thơ, khu 9 và Nam
bộ. Từ đó, nhân dân hăng hái tham gia xây dựng vùng giải phóng, tích cực
hƣởng ứng phong trào chống giặc dốt, phong trào xây dựng đời sống mới,
phòng gian bảo mật và tích cực ủng hộ kháng chiến, ủy lạo bộ đội v.v…
Ngày 20/01/1948, Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
đã kiểm điểm tình hình sau 2 năm kháng chiến; đồng thời cũng vạch ra
những phƣơng hƣớng và biện pháp lớn nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến
trong giai đoạn mới trên các lĩnh vực: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa
và xây dựng Đảng.
Về xây dựng Đảng, hội nghị nêu: Nâng cao trình độ lý luận, chính
trị cho cán bộ, đảng viên theo phƣơng châm lý luận đi đôi với thực tiễn,
chống bệnh chủ quan giáo điều, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình v.v…
làm cho các chi bộ có thể tự động lãnh đạo mọi mặt công tác ở địa phƣơng;
tăng cƣờng giáo dục đảng viên về ý thức giai cấp, về tinh thần kỷ luật và
đạo đức cách mạng; thành lập các Ban Tuyên huấn, Ban Tổ chức và Ban
Kiểm soát của các cấp ủy Đảng v.v…
Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Trung ƣơng, vào giữa năm 1948
Tỉnh ủy Cần Thơ quyết định thành lập Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Cần Thơ
do đồng chí Mai Duy Hiền (Mai Thanh), Thƣờng vụ Tỉnh ủy phụ trách và
một số cán bộ, đảng viên, Trƣởng Đảng tỉnh Cần Thơ cũng đƣợc thành lập
mang tên Châu Văn Liêm do đồng chí Mai Duy Hiền làm Hiệu Trƣởng,
đồng chí Trần Ngọc Ký (Trịnh Đình Vũ) làm Hiệu Phó chuyên trách.
Nhiệm vụ trƣớc mắt của Ban Tuyên huấn trong thời điểm này là tập trung
mở lớp bồi dƣỡng đào tạo cán bộ, đảng viên.
Trƣờng đảng Tỉnh ra đời trong điều kiện hết sức khó khăn, nhƣng
trong năm 1948, đã mở 2 lớp đào tạo cho 104 cán bộ quận và làng. Quận
ủy mở lớp bồi dƣỡng ngắn hạn lấy tên “Tháng Tám” bồi dƣỡng cho cán
bộ, đảng viên trong quận.
Công tác đào tạo, bồi dƣỡng đƣợc các cấp ủy Đảng quan tâm; cán
bộ, đảng viên đƣợc bồi dƣỡng thƣờng xuyên cả về văn hóa, chính trị nên
đã nâng lên một bƣớc về lập trƣờng quan điểm và phƣơng pháp cách
mạng. Do đó, nguồn cán bộ đƣợc tăng cƣờng cho cơ quan chính quyền,
mặt trận và các đoàn thể ở các cấp ngày càng nhiều thêm. Vào năm 1950,
Tỉnh ủy cử đồng chí Nguyễn An Đông, Nguyễn Tấn Phát, Trần Ngọc Ký,
Việt Nhiên đi học trƣờng Đảng Nguyễn Văn Cừ của Trung ƣơng Cực mở.
Từ đó, có những qui định thống nhất nội dung bài vỡ, cách tổ chức trƣởng
Đảng của tỉnh.
Một nhiệm vụ quan trọng khác, ngành Tuyên huấn tập trung đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phát động trong nhân dân thực hiện các chủ
trƣơng của tỉnh: Bầu cử Hội đồng Nhân dân ở các làng trong vùng giải
phóng và vùng du kích thế ta mạnh(7)
. Tuyên truyền việc thi hành chủ
30
trƣơng giảm tô, giảm tức và ngƣời cày có ruộng của Ủy ban kháng chiến
hành chánh tỉnh Cần Thơ. Ngành Tuyên huấn phối hợp với các đoàn thể
hƣớng dẫn bà con nông dân nắm các chủ trƣơng của Đảng, chính quyền
đòi địa chủ giảm tô 25% (có nơi ta tranh thủ giáo dục một số địa chủ giảm
đến 50%). Tuyên truyền về chủ trƣơng tạm cấp đất công điền, đất địa chủ
Việt gian phản động, đất đồn điền Tây cho nông dân, đồng thời hƣớng dẫn
nông dân tăng gia sản xuất, vừa đảm bảo cuộc sống, vừa ủng hộ cho kháng
chiến, nuôi quân. Do đó, đời sống của nông dân vùng giải phóng trong tỉnh
đƣợc cải thiện, càng tin tƣởng Đảng gắn bó với chính quyền cách mạng và
tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến. Nạn trộm cƣớp trong vùng nông thôn
giải phóng không có, ban đêm nhà không đóng cửa.
Trong thời gian này, phong trào học tập văn hóa của nhân dân trong
vùng giải phóng phát triển khá mạnh. Để giúp Tỉnh ủy, chính quyền chỉ
đạo tốt phong trào chống mù chữ, bổ túc văn hóa trong cán bộ và nhân
dân. Tháng 4 – 1948, tỉnh thành lập Ty Giáo dục do đồng chí Đặng Văn Bá
làm Trƣởng Ty. Mỗi quận có Phòng giáo dục, mỗi làng có 1 Ban giáo dục.
Đến năm 1950 mới giải thể Phòng giáo dục, thực hiện chế độ kiểm sát
viên.
Phong trào văn hóa văn nghệ đƣợc Ty Thông tin phát động rộng rãi
trong nhân dân. Đêm đêm, khắp thôn xóm vang lên tiếng hát, nói thơ
kháng chiến, ca vũ, diễn kịch phát triển khá mạnh. Công tác chăm lo sức
khỏe cho con ngƣời cũng đƣợc Đảng, chính quyền chú ý đẩy mạnh. Ở cấp
tỉnh và mỗi quận có 1 dân y xá, mỗi làng có một trạm cứu thƣơng, nhà bảo
sanh. Đội ngũ cán bộ y tá, hộ sinh đƣợc khu đào tạo; cứu thƣơng, cô đỡ do
tỉnh đào tạo đƣa về các trạm y tế, nhà bảo sanh ở mỗi làng… Đời sống
nhân dân đƣợc nâng lên, các tệ nạn mê tín dị đoan, rƣợu chè, cờ bạc cơ bản
bị đẩy lùi.
Năm 1949, Ủy ban kháng chiến hành chánh tỉnh Cần Thơ tổ chức lễ
Quốc khánh 2 – 9 và mở Hội chợ tại Bà Đầm (xã Trƣờng Xuân). Hội chợ
kéo dài suốt 1 tuần lễ, với những gian hàng trình bày hình ảnh về cuộc
kháng chiến của nhân dân tỉnh nhà, nhân dân Nam bộ; những sản phẩm về
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đƣợc sản xuất trong vùng giải phóng…
Lễ Độc lập và hội chợ Bà Đầm đã thu hút hàng vạn nhân dân trong và
ngoài tỉnh đến xem, mua hàng hóa; đồng thời thƣởng thức những đêm văn
nghệ cách mạng. Hội chợ đã gây tiếng vang lớn, tạo sự phấn khởi và niềm
tin trong nhân dân đối với cách mạng.
Sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cần Thơ lần thứ nhất (cuối năm
1949) để bồi dƣỡng cán bộ có đủ trình độ và năng lực lãnh đạo, phong trào
cách mạng tỉnh nhà trong tình hình mới, Tỉnh ủy Cần Thơ lần lƣợt sắp xếp
cho các đồng chí trong Tỉnh ủy đi dự các khóa huấn luyện dài hạn ở Trung
ƣơng, ở các Trƣờng Đảng của Khu ủy, Xứ ủy và trƣờng chuyên môn của
Ủy ban Kháng chiến hành chánh Nam bộ. Trong công tác củng cố xây
dựng Đảng, kiện toàn chính quyền, mặt trận, đoàn thể, Tỉnh ủy rất quan
31
tâm bồi dƣỡng cán bộ, trƣớc nhất là tăng cƣờng đội ngũ cán bộ giỏi cho
Trƣờng Đảng tỉnh để nâng chất lƣợng công tác giảng dạy. Trong năm
1949, Trƣờng Đảng Châu Văn Liêm mở 3 lớp chính trị bồi dƣỡng cho cán
bộ cơ sở. Ngoài ra, các trƣờng bồi dƣỡng cán bộ chính quyền, công an,
quân sự, thông tin – tuyên truyền, tài chính, canh nông, y tế, giáo dục, các
đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông dân cứu quốc của tỉnh đều tiến hành mở
các lớp đào tạo bồi dƣỡng cán bộ chuyên ngành. Các Huyện ủy tổ chức lớp
tập huấn ngắn ngày bồi dƣỡng cho cán bộ Ban, ngành về các mặt công tác
cụ thể. Có thể nói, nhờ nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc đào
tạo bồi dƣỡng cán bộ, nên trong 2 năm 1949 – 1950 các cấp ủy Đảng tiến
hành nhiều hình thức đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ năng lực lãnh đạo của cán
bộ các cấp, đã thúc đẩy phong trào cách mạng địa phƣơng có bƣớc phát
triển đáng kể.
Từ năm 1950 – 1954, bộ máy Tuyên huấn Cần Thơ gồm có: Trƣờng
Đảng và Tiểu ban Huấn học. Trƣờng Đảng có các đồng chí: Nguyễn Tấn
Phát, Nguyễn Văn Phổ, Trần Ngọc Ký v.v… Đến năm 1951, đồng chí
Nguyễn Tấn Phát đƣợc điều về thị xã Cần Thơ (làm Phó Bí thƣ Thị xã ủy);
Tiểu ban Huấn học có các đồng chí Nguyễn Văn Hối, đồng chí Tấn, đồng
chí Phong Trần v.v… Đồng chí Dƣơng Thuần Chƣơng, Ủy viên Thƣờng
vụ Tỉnh ủy làm Trƣởng ban, đồng thời làm Hiệu trƣởng Trƣờng Đảng
Châu Văn Liêm. Ngoài ra, còn có 1 đồng chí phụ trách văn phòng Ban,
đồng chí thơ ký đánh máy, giao liên.
Trong thời kỳ này, Ban Tuyên huấn tỉnh tập trung thực hiện nhiệm
vụ: Đào tạo, bồi dƣỡng cho cán bộ, đảng viên về đƣờng lối trƣờng kỳ
kháng chiến, các Nghị quyết của Đảng, nâng cao sự hiểu biết về Cách
mạng Tháng Mƣời Nga; về quan điểm quần chúng của Đảng, xây dựng
tinh thần trách nhiệm phục vụ quần chúng; về tình hình thời sự trong và
ngoài nƣớc, về 5 bƣớc công tác cách mạng. Hình thức mở các lớp học tập
chính trị phần lớn là ngắn ngày, số lƣợng khoảng 40 – 50 học viên, chủ
yếu là Bí thƣ, Phó Bí thƣ xã và cán bộ cốt cán.
Sau Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ II (giữa năm 1951), Ban
Tuyên huấn làm tham mƣu cho Tỉnh ủy mở đợt học tập các nghị quyết của
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh
cho tất cả cán bộ, đảng viên, cán bộ quân dân chánh và tuyên truyền rộng
rãi ra quần chúng nhân dân trong tỉnh. Nội dung học tập lần này gồm
Tuyên ngôn, Chính cƣơng của Đảng Lao động Việt Nam. Đảng bộ các cấp
đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh chào mừng thành công của Đại hội và giải
thích lý do vì sao Đảng Cộng sản Đông Dƣơng tuyên bố tự giải tán, nay
đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam và ra hoạt động công khai;
tuyên truyền, học tập về Tuyên ngôn chính cƣơng của Đảng, các chính
sách quan trọng về tôn giáo, đảng phái, dân tộc.v.v… Đợt học tập lần này
đƣợc chỉ đạo chặt chẽ từ tỉnh đến cơ sở Đảng, bằng những hình thức nhƣ
học tập có tổ chức sát hạch để kiểm tra kết quả. Từ đó, đã nâng cao đáng
kể nhận thức về Đảng, lý tƣởng cộng sản, về những nguyên tắc và sách
32
lƣợt của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng, nó có ý nghĩa thực tiễn lớn
đối với vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Đƣợc các tầng lớp
nhân dân đồng tình, hoan nghênh.
Sau Đại hội Đảng bộ Tỉnh, Tỉnh ủy rất quan tâm công tác xây dựng
Đảng về nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ sinh hoạt Đảng, việc phê, tự
phê bình đƣợc thực hiên nghiêm túc. Xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với
quần chúng ngày càng chặt chẽ hơn, cán bộ, đảng viên sát quần chúng lãnh
đạo đấu tranh chống địch. Tổ chức Đảng trong lực lƣợng vũ trang đƣợc
chú trọng, nhất là tăng cƣờng công tác chính trị trong quân đội, đồng chí
Bí thƣ Tỉnh ủy, Huyện ủy, kiêm chính trị viên Tỉnh đội, Huyện đội. Tiếp
theo đại hội Đảng bộ tỉnh, vào năm 1952 Đại hội Đảng bộ các huyện, xã
cũng đƣợc tiến hành đây là đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn đã nâng cao về
chính trị tƣ tƣởng và tổ chức cho cán bộ, đảng viên các cấp.
Để nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ, đảng viên và nhân dân;
công tác xóa nũ chữ, bổ túc văn hóa cũng đƣợc Đảng bộ, chính quyền các
cấp quan tâm, nhƣ xây dựng các trƣờng tiều học ở xã Vĩnh Thuận Đông,
Vĩnh Viễn, Hòa An, Vĩnh Hòa Hƣng (Long Mỹ), Ngọc Hòa, Ngọc Chúc,
Trƣờng Xuân, Trƣờng Thành (Ô Môn), Hiệp Hƣng, Hòa Mỹ (Phụng Hiệp)
v.v… dạy đến lớp 5 và tổ chức thi bằng tiểu học hàng năm. Các Trƣờng
tiểu học của ta đã thu hút nhiều con em nhân dân vùng giải phóng và kể cả
vùng kềm của địch cũng vào học. Các Trƣờng Văn Chính, trƣờng bổ túc
văn hóa công nông ở tỉnh bồi dƣỡng văn hóa cho cán bộ đƣợc mở thƣờng
xuyên. Trƣờng sƣ phạm bồi dƣỡng cho giáo viên có đủ kiến thức dạy lớp
cao hơn đƣợc mở vào dịp hè. Trong năm 1952, toàn tỉnh có 201 lớp bình
dân học vụ với 3.694 học viên. Ty giáo dục mở 11 lớp đào tạo giáo viên
cho các lớp bình dân học vụ, các trƣờng tiểu học trong tỉnh tăng gấp đôi so
với năm 1951. Đặc biệt là Ty giáo dục mở trƣờng Tiểu học nội trú của tỉnh
để dạy con em cán bộ, chiến sĩ trong tỉnh, đã đào tạo một đội ngũ cán bộ
của tỉnh sau này.
Việc chăm lo sức khỏe và trị bệnh cho nhân dân trong các năm 1951
– 1953 phát triển tốt, các xã trong vùng giải phóng đều có trạm y tế, nhà
bảo sanh; đội ngũ y tá, hộ sinh, cô đỡ đƣợc đào tạo bồi dƣỡng khá đông
đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân. Nhiều đội y tế xung phong đi vào vùng
tôn giáo, dân tộc để khám và trị bệnh cho đồng bào. Việc thực hiên “đời
sống mới”, ăn đũa 2 đầu, uống nƣớc chín… thành phong trào rộng rãi
trong nhân dân.
Từ năm 1953, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ƣơng về việc chỉnh
Đảng, chỉnh quân với yêu cầu “nâng cao quan điểm, lập trƣờng giai cấp
công nhân”, Ban Tuyên huấn đã giúp cho Tỉnh ủy tiến hành đợt chỉnh
Đảng, chỉnh quân đạt kết quả, đã làm cho cán bộ, chiến sĩ quán triệt đƣờng
lối, chính sách của Đảng, sự quyết tâm của Trung ƣơng đẩy mạnh cuộc
kháng chiến để chiến thắng kẻ thù. Từ đó, đã tạo sự phấn khởi trong toàn
Đảng, toàn quân, nâng cao tinh thần chiến đấu, ý thức trách nhiệm đối với
33
nhân dân. Đảng kiên quyết chống tƣ tƣởng cá nhân, công thần và tƣ tƣởng
cầu an, co thủ sợ chết v.v… trong quân đội chống tƣ tƣởng quân sự đơn
thuần, xem nhẹ chính trị và binh vận, xây dựng lập trƣờng giai cấp công
nhân, quan điểm quần chúng, quan điểm bạo lực cách mạng cho cán bộ chỉ
huy đến chiến sĩ.
Đặc biệt năm 1953, Tỉnh ủy chỉ đạo cho Trƣờng Đảng một số lớp
căn cứ, chủ yếu nhằm bồi dƣỡng cấp ủy viên tổ chức cơ sở Đảng, cán bộ
tỉnh, huyện trình độ tƣơng đƣơng, số lƣợng mỗi lớp có 70 học viên. Nội
dung vận dụng chƣơng trình do Ban Tuyên huấn Trung ƣơng cục miền
Nam biên soạn gồm: Triết học Mác - Lênin; Lịch sử Đảng; Điều lệ Đảng
lao động Việt Nam; quan điểm quần chúng 5 bƣớc công tác cách mạng;
công tác xây dựng căn cứ địa. Công tác chi bộ, công tác chính quyền, công
an, quân sự; vấn đề nông dân và chính sách ruộng đất; công tác mặt trận và
công tác đoàn thể nông, thanh, phụ; Đạo đức cách mạng v.v…
Vận dụng nghị quyết của tỉnh, các Huyện ủy xây dựng Nghị quyết
của Đảng bộ mình phù hợp với đặc điểm từng địa phƣơng trong tình hình
mới. Nâng cao ý thức tƣ tƣởng, quyết tâm thực hiện tốt yêu cầu xây dựng
lực lƣợng ở cả 3 vùng. Các đồng chí Huyện ủy viên đƣợc phân công xuống
chỉ đạo trực tiếp các xã điểm, nhất là các xã ở các địa bàn bị địch chiếm
đóng nay trở lại hoạt động, luồn sâu tuyên truyền giáo dục nâng cao giác
ngộ quần chúng, xây dựng cốt cán, gầy dựng lại cơ sở. Đến cuối năm
1953, hầu hết các Đảng bộ trong tỉnh đều bám đƣợc địa bàn và khẩn
trƣơng chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng bƣớc vào đợt tiến công Đông Xuân
1953 – 1954.
34
Để phục vụ cho đợt tiến công này, Ban Tuyên huấn cùng với các tổ
chức Đảng, Mặt trận các đoàn thể, phát động quần chúng nổi dậy áp đảo,
giả tán ngụy quyền và lực lƣợng bán vũ trang của địch; đồng thời giáo dục
nâng cao giác ngộ của quần chúng ở hậu phƣơng sẵn sàng chi viện kịp thời
sức ngƣời, sức của chi tiền tuyến, thực hiện khẩu hiệu “tất cả cho tiền
tuyến, tất cả để chiến thắng”. Đặc biệt, công tác tuyên truyền tập trung phát
huy chiến thắng Điện Biên Phủ, đã tạo ra sự phấn khởi trong toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân Cần Thơ dồn sức tấn công địch để phối hợp chiến
trƣờng chung thắng địch, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Geneve lập lại
hòa bình ở Việt Nam. Sau khi Hiệp đinh Geneve đƣợc ký kết (20 – 7 –
1954), tình hình và nhiệm vụ có nhiều thay đổi mới, nên công tác Tuyên
huấn cũng phải thay đổi tƣơng ứng.
Tóm lại: Từ khi Ban Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ đƣợc thành lập (năm
1948) cho đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc kết thúc
thắng lợi (7 – 1954), mặc dù hoạt động trong hoàn cảnh hết sức khó khăn,
thiếu thốn nhƣng dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ, đội ngũ làm công tác
Tuyên huấn Cần Thơ rất vững vàng và kiên định, quyết tâm vƣợt qua mọi
khó khăn, thách thức, góp một phần công sức thắng lợi chung của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc, hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang
của mình đƣợc Đảng và nhân dân giao phó; đồng thời cũng chuẩn bị bƣớc
vào cuộc chiến đấu mới đầy gay go ác liệt hơn.
35
PHẦN THỨ TƢ
CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN TRONG THỜI KỲ
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƢỚC
(7/1954 – 30/4/1975)
I. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN PHỤC VỤ THỜI KỲ ĐẤU
TRANH CHÍNH TRỊ (7/1954 – 1960).
Sau khi ký kết Hiệp định Geneve, vào tháng 8 – 1954, Hội nghị Tỉnh
ủy mở rộng tại Ba Voi, xã Vĩnh thuận Đông, huyện Long Mỹ để tiếp
thu tinh thần nội dung Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ƣơng
lần thứ VI (khóa II) và nội dung Hiệp định Geneve do đồng chí Nguyễn
Thị Thập và đồng chí Nguyễn Truyền Thanh truyền đạt. Hội nghị đã
thảo luận sôi nổi, nghiêm túc và nhất trí cao về đánh giá tình hình,
phƣơng hƣớng nhiệm vụ của nghị quyết đề ra. Sau Hội nghị Tỉnh ủy
mở rộng, các đồng chí trong Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, huyện, cán
bộ có năng lực của Ban, ngành tỉnh, huyện xuống các xã triển khai làm
thông suốt, tạo ra sự nhất trí cao trong toàn Đảng và chuẩn bị tƣ tƣởng
đi vào tình hình nhiệm vụ mới. Tỉnh ủy, Huyện ủy đã huy động phần
lớn cán bộ cấp tỉnh, huyện trực tiếp xuống dân, nhất là các vùng du kích
sát thị xã, thị trấn để tuyên truyền giải thích thắng lợi của cuộc kháng
chiến và nội dung của Hiệp định đình chiến; tổ chức nhiều cuộc mít
tinh trong nhân dân, có gia đình binh sĩ ngụy, nhiều nơi có cả binh sĩ, sĩ
quan ngụy có xu hƣớng hòa bình tham gia mít tinh hƣởng ứng hiệp
định.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc của nhân dân ta đã
kết thúc thắng lợi, nhƣng nhân dân Cần Thơ cũng nhƣ nhân dân miền
Nam còn phải tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân bằng đấu tranh chính trị nhằm buộc đối phƣơng thi hành Hiệp
định Geneve. Từ hạ tuần tháng 8 – 1954 ở cấp tỉnh, cấp huyện đƣợc tổ
chức học tập về tình hình, nhiệm vụ mới, về âm mƣu thủ đoạn thâm độc
của kẻ thù, giáo dục xây dựng tƣ tƣởng cách mạng triệt để, chống ảo
tƣởng hòa bình tin địch, thi hành Hiệp định hai năm Tổng tuyển cử
thống nhất nƣớc nhà, mà phải đấu tranh triệt để quyết liệt với kẻ thù
mới buộc chúng thi hành Hiệp định Geneve; đồng thời phải chuẩn bị tƣ
tƣởng đấu tranh lâu dài với địch.
Sau Hiệp định Geneve 1954, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với
toàn miền Nam, Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ bƣớc vào thời kỳ đấu
tranh mới chống đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm cho
mục tiêu cao cả là thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc. Cuộc đọ sức
có tính lịch sử “Ai thắng ai” giữa ta và địch trên chiến trƣờng Cần Thơ
– một địa bàn trọng điểm của khu Tây Nam bộ đã diễn ra liên tục, quyết
36
liệt suốt 21 năm, từ năm 1954 đến đại thắng mùa Xuân 1975, đất nƣớc
thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, Đảng bộ và nhân dân
trong tỉnh, ngay từ mới vào trận đã phải đối đầu với những khó khăn
phức tạp, chịu đựng biết bao gian khổ hy sinh trƣớc kẻ thù mới là đế
quốc Mỹ, tên sen đầm quốc tế và tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm dƣới
chiêu bài “quốc gia – độc lập”, cùng nhau ra sức thực hiện những âm
mƣu và thủ đoạn vô cùng thâm độc, đi đôi với hành động tàn bạo hòng
tiêu diệt Đảng và phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thống trị đất
nƣớc ta.
Ngay khi chữ ký của hiệp định Geneve chƣa ráo mực và giữa lúc Ủy
ban Liên hiệp Đình chiến Nam bộ tồn tại và hoạt động tại thị trấn
Phụng Hiệp và Ủy hội Quốc tế giám sát đình chiến đang hoạt động tại
Cần Thơ. Mỹ Diệm bất chấp công luận trong, ngoài nƣớc và pháp lý
Hiệp định Geneve, đã trắng trợn triển khai lực lƣợng đánh phá phong
trào cách mạng trong tỉnh. Địch đƣa quân vào đóng đồn bót ở Long Mỹ,
Vị Thanh sớm nhất, vì nơi đây là vùng giải phóng, căn cứ cách mạng. Ở
huyện Ô Môn, Châu Thành lực lƣợng quân đội Phật giáo Hòa Hảo của
Lê Quang Vinh (Ba Cụt), Trần Văn Soái (Năm Lửa) tràn vào nông thôn
chiếm đất, cắt cứ, cƣớp giựt, đánh đập khủng bố nhân dân.
Một số địa chủ mang hận thù giai cấp, ôm chân địch trở về nông
thôn cƣớp lại đất đai của nông dân đƣợc cách mạng cấp v.v… làm cho
tình hình càng thêm khó khăn phức tạp. Mỹ ngụy ở Cần Thơ đƣa lực
lƣợng quân đội cùng với bọn công dân vụ vừa càn quét đánh phá, vừa
dụ dỗ mua chuộc nhằm triệt tiêu cán bộ, đảng viên cộng sản, chúng gọi
là Việt cộng nằm vùng; đồng thời đóng đồn bót vùng nông thôn giải
phóng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, tiến hành xây
dựng bộ máy tề, chỉ điểm, mật vụ và các tổ chức phản động nhƣ: Thanh
niên Cộng hòa, Phong trào cách mạng quốc gia tận xóm ấp v.v… Trƣớc
sự khủng bố của địch, có một số cán bộ thiếu vững vàng sợ chết, một ít
cán bộ mất phẩm chất bị cách mạng loại, chạy ra đầu hàng làm tay sai
cho giặc đánh phá cách mạng.
Trƣớc tình hình phức tạp đó, đa số cán bộ, đảng viên, đoàn viên, cốt
cán quần chúng giữ vững quan điểm lập trƣờng cách mạng, xả thân vì
sự nghiệp của Đảng, bám dân hoạt động, nhƣng cũng có một bộ phận
cán bộ, đảng viên, đoàn viên cốt cán ở cơ sở ngán ngại hy sinh, thiếu
tinh tƣởng ở đƣờng lối đấu tranh chính trị của Đảng, thiếu lòng tin cách
mạng thắng lợi, hoặc có ảo tƣởng hòa bình, hy vọng Mỹ Diệm thi hành
Hiệp định Geneve, hai năm tổng tuyển cử thống nhất đất nƣớc, dẫn tới
phân hóa dƣới nhiều dạng cầu an co thủ, chạy dài lánh nạn .v.v... làm
ảnh hƣởng không nhỏ sức chiến đấu của Đảng bộ và phong trào đấu
tranh của quần chúng.
37
Trong khi đó, Đảng bộ, nhất là ở cơ sở chƣa nắm vững sự chuyển
hƣớng chiến lƣợc của Đảng, phƣơng châm, phƣơng pháp đấu tranh
chính trị, một hình thức đấu tranh mới xuất hiện trƣớc kẻ thù độc tài
phát xít mà ta thì không đƣợc phép dùng vũ khí, dù là để tự vệ. Điều đó
đã gây những băn khoăn thắc mắc trong nhận thức của Đảng bộ. Đặc
biệt là trong thời kỳ đấu tranh chính trị, từng lúc cách mạng diễn biến
có chiều hƣớng bất lợi cho ta, tình hình cực kỳ khó khăn, trong Đảng bộ
lại xuất hiện những lệch lạc về mặt tƣ tƣởng và nhận thức nhất là sau
tháng 7 – 1956, cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nƣớc theo Hiệp định
Geneve Mỹ Diệm trắng trợn phá hoại, bắt đầu đánh phá quyết liệt, “tố
cộng”, “diệt cộng”. Đặc biệt vào năm 1959 Mỹ Diệm ban hành và thực
hiện luật 10/59 lê máy chém khắp nơi hong dìm phong trào cách mạng
trong biển máu, là thời kỳ đen tối nhất của cách mạng miền Nam. Cấp
ủy và Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ đã nắm bắt kịp thời, chủ động uốn nắn
công tác chính trị tƣ tƣởng và tổ chức, hạn chế đƣợc mặt yếu kém của
Đảng bộ; đồng thời cũng kịp thời phản ảnh tình hình và đề xuất với cấp
trên có chủ trƣơng đối phó với địch, lãnh đạo quần chúng đấu tranh
trong tình hình mới.
Công tác chính trị tƣ tƣởng của Đảng lúc này hết sức khó khăn, vừa
làm công tác chính trị tƣ tƣởng, vừa phân loại đảng viên, củng cố tổ
chức chuyển cơ sở vào hoạt động bí mật. Nội dung công tác chính trị tƣ
tƣởng lúc bấy giờ giáo dục nhân sinh quan cách mạng, củng cố lòng tin
ở sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, tin khả năng cách mạng của dân,
không mơ hồ về địch thi hành Hiệp định Geneve, xây dựng về 5 bƣớc
công tác v.v…
Ngay sau Hiệp định Geneve đƣợc ký kết, cùng với việc khẩn trƣơng
sắp xếp tổ chức Đảng các cấp, bố trí cán bộ, đảng viên, tiến hành đợt
học tập đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng trong tình hình mới. Công tác
tuyên huấn lúc này do đồng chí Thái Sơn, Bí thƣ Tỉnh ủy phụ trách và
Tỉnht ủy đã ra Nghị quyết về công tác chính trị tƣ tƣởng và triển khai
sâu rộng làm nhất quán Nghị quyết quan trọng đó trong các cấp ủy.
Trƣớc yêu cầu mới, Tỉnh ủy lập Ban Tuyên huấn tỉnh gồm vài ba cán
bộ trung cấp có kinh nghiệm công tác Tuyên huấn thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, do đồng chí Nguyễn Thành Thơ (Mƣời Khẩn), Phó bí thƣ
Tỉnh ủy phụ trách. Sau khi đồng chí Nguyễn Thành Thơ đƣợc Liên
Tỉnh ủy điều về tỉnh Tam Cần, đồng chí Đinh Công Dụng (Ba Bài) Ủy
viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy làm Trƣởng ban, đồng chí Bạch Thái An làm
Phó Trƣởng ban, đồng chí Hiềng (bí danh là Hiền G) làm cán bộ và một
ít cán bộ, nhân viên văn phòng. Bộ phận Huấn học và Trƣờng Đảng –
cũng ra đời từ đây. Ở cấp huyện và xã, cũng hình thành bộ phận công
tác chính trị tƣ tƣởng (Tuyên huấn) do một đồng chí phó bí thƣ hoặc ủy
viên Thƣờng vụ phụ trách. Ban Tuyên huấn tỉnh ủy lập ra bộ phận biên
tập in ấn. Bộ phận Biên tập – in ấn chịu trách nhiệm biên tập bài vở, tin
tức, tờ báo, biên soạn các loại tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền
38
trên mọi lĩnh vực. Ban Tuyên huấn các cấp là cơ quan chức năng trực
tiếp chỉ đạo và thực hiện các loại hình chuyên môn nhƣ thông tin –
tuyên truyền – huấn học. Nhƣng bao trùm là chức năng tham mƣu của
cấp ủy về trận địa chính trị tƣ tƣởng của Đảng bộ và nhân dân.
Bám sát và phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ là một đặc điểm
của ngành Tuyên huấn. Ngay sau khi ra đời, đƣợc sự chỉ đạo của cấp
ủy, Ban đã đề ra chƣơng trình hoạt động, đề xuất kế hoạch cho bộ phận
Huấn học, giúp cấp ủy huyện mở đợt học tập trong toàn Đảng bộ. Do
tính chất đặc biệt của đợt học tập, Tỉnh ủy tập trung trƣớc hết vào các
tài liệu:
- Đƣờng lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam.
- Lý tƣởng và nhân sinh quan Cộng sản.
Tình hình nhiệm vụ và Nghị quyết của Tỉnh ủy nhằm giáo dục nhận
thức, nâng cao quan điểm lập trƣờng Đảng trƣớc tình hình mới cho hầu
hết các cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên, đoàn viên các cấp. Tiếp theo là
đợt học tập nội dung Hiệp định Geneve, 5 bƣớc công tác quần chúng
v.v… Dựa vào các nội dung trên, các cấp ủy Đảng ở cơ sở mở đợt học
tập giáp tay cho lực lƣợng cốt cán, nòng cốt và quần chúng chí cốt cũng
nhằm giải quyết nhận thức, củng cố quan điểm lập trƣờng, khí tiết của
ngƣời cách mạng và trang bị cho lực lƣợng này về mặt pháp lý và lý lẽ,
hình thức phƣơng châm và biện pháp đấu tranh với địch. Mặt khác, Ban
Tuyên huấn tỉnh cùng cấp ủy và Ban Tuyên huấn huyện mở lớp ngắn
ngày ở các huyện Phụng Hiệp, Châu Thành, Long Mỹ cho đối tƣợng
chi ủy viên, tổ trƣởng Đảng, cả đoàn viên và cốt cán quần chúng học
các tài liệu do Ban Tuyên huấn tỉnh biên soạn. Đây cũng là nguồn cán
bộ mới xuất hiện và qua thử thách trƣởng thành để bỏ sung vào đội ngũ
ở cơ sở cho bƣớc tiếp sau.
Qua đợt học tập, đã nâng cao công tác chính trị tƣ tƣởng, đã khắc
phục các nhƣợc điểm của Đảng bộ về mặt nhận thức chủ trƣơng đƣờng
lối của Đảng trong tình hình đấu tranh mới; củng cố những lệch lạc về
quan điểm lập trƣờng, tƣ tƣởng triệt để cách mạng; phát huy mặt tích
cực, tạo ra động lực và sức chiến đấu mới trong toàn Đảng bộ, tác động
tích cực đối với phong trào cách mạng trong tỉnh.
Hoạt động Tuyên huấn trong thời kỳ này đã nổi rõ chức năng và vai
trò của mình làm tham mƣu cho cấp ủy Đảng thực hiện công tác chính
trị tƣ tƣởng trong Đảng bộ ra quần chúng, là nhân tố quan trọng rút ra
bài học kinh nghiệm quí báu của Đảng bộ. Thể hiện:
- Không chỉ là cán bộ Tuyên huấn đơn thuần làm công tác Tuyên
huấn mà mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên từ tỉnh đến cơ sở, lực lƣợng
nòng cốt, cốt cán, bằng hành động và việc làm cụ thể đã trở thành một
tuyên truyền viên của dân; cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân, ngƣời
cán bộ là ngƣời bạn chí thiết của dân, thƣờng xuyên truyền rỉ tai cho
39
dân hiểu chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, tình hình thời sự, âm mƣu,
hành động tàn bạo của địch. Từ đố, hƣớng dẫn quần chúng đấu tranh
chống địch đem lại hiệu quả cao.
Trong thời điểm này, dù bộ máy kiềm kẹp của địch trùm lên thôn
xóm; các hoạt động của Đảng bộ phải che giấu, bí mật những các hình
thức tuyên truyền nhƣ: tin tức, truyền đơn, khẩu hiệu, văn nghệ, báo chí
của ta vẫn đƣợc duy trì, có mặt thƣờng xuyên.
Về văn nghệ, thông qua hệ cơ sở bí mật, ở vùng nông thôn và thành
phố xuất hiện rộng rãi phong trào văn nghệ quần chúng nhƣ Đoàn ca vũ
(ca múa), nhóm tài tử ca cổ, nhóm tân nhạc, có một vài địa phƣơng còn
lập ra đoàn kịch. Đƣợc sự bảo vệ của dân, các nhóm văn nghệ này trình
diễn phục vụ bag con khi có đám tiệc, các buổi sinh hoạt hợp pháp của
dân, nhƣ họp vạn vần đổi công, tổ sản xuất, v.v… Khi có giặc đến thì
hát – múa những bài hợp pháp, không có giặc thì trình diễn những bài
ca, điệu múa cách mạng…
Phong trào văn nghệ quần chúng chẳng những có tác dụng làm sống
lại trong lòng ngƣời dân hình ảnh tƣơi đẹp của thời kỳ kháng chiến 9
năm mà còn khơi dậy và nhắc nhở nhân dân ý thức đấu tranh chống
địch. Có nơi ta tranh thủ những tên chỉ huy ở các đồn bót cho phép
đoàn vũ, nhóm tài tử vào đồn trình diễn cho lính, vợ con lính và dân ở
quanh đồn xem. Ở thành phố Cần Thơ, các thị trấn, cán bộ hợp pháp
của ta làm nòng cốt, hình thành các đoàn ca vũ của Hội Truyền bá Quốc
ngữ, Hội Phụ nữ hoạt động công khai, hợp pháp trình diễn những bài
ca, điệu múa tiến bộ có tác dụng động viên cổ vũ phong trào đấu tranh
của các tầng lớp nhân dân đô thị, nhất là giới trí thức, giáo viên, thanh
niên, học sinh. Đồng thời có tác dụng làm hạn chế các loại hình văn
nghệ đồi trụy, phản động của Mỹ ngụy.
Sách báo, các loại tài liệu tuyên truyền bề rộng là vũ khí đấu tranh
sắc bén của Đảng bộ đƣợc duy trì thƣờng xuyên, góp phần đáng kể vào
trận địa chính trị tƣ tƣởng. Báo Hòa bình Thống nhất – tờ báo đầu tiên
của Cần Thơ trong thời kỳ chống Mỹ, ra đời sau ngày 20 – 7 – 1954,
dƣới danh nghĩa là cơ quan Thông tin xuất bản, nửa tháng ra một số (in
sáp) do bộ phận biên tập, in ấn chịu trách nhiệm biên tập in ấn và phát
hành.
Cùng với tờ Hòa bình Thống nhất, bộ phận biên tập còn biên soạn,
in ấn và phát hành thƣờng xuyên các bài tài liệu học tập nội bộ Đảng, tờ
tin tức, hiệu triệu, truyền đơn,v.v… phục vụ công tác tuyên truyền phát
động bề rộng và công tác binh vận. Sau đó (năm 1960), tập san văn
nghệ và báo “Tranh đấu” – cơ quan của Tỉnh Đảng bộ Cần Thơ ra đời.
Đặc biệt vào năm 1956, bộ phận biên tập – in ấn còn in cuốn tiểu thuyết
“Vƣợt Côn Đảo” của Phùng Quán phát hành cho một số cán bộ, đảng
viên đọc đã góp phần củng cố nhân sinh quan, khí tiết của ngƣời cộng
sản. Quyển Vƣợt Côn Đảo còn đƣa ra thị xã Cần Thơ, học sinh chuyền
40
tay nhau đọc đã gieo vào lòng một ý thức cách mạng. Ngoài ra, ta còn
sử dụng báo chí tiến bộ của Sài Gòn nhƣ tờ Nhân Loại, Tiến Thủ để
giáo dục lòng yêu nƣớc, tinh thần dân tộc v.v…
Vào thời gian này, lực lƣợng quân đội Phật giáo Hòa Hảo của Lê
Quang Vinh (Ba Cụt), Trần Văn Sóai (Năm lửa) bị Mỹ Diệm buộc
thống nhất quân đội. Lực lƣợng này chống lại, bị Mỹ Diệm đàn áp nên
chạy vào nông thôn cắt cứ chống lại Mỹ Diệm. Nhân thời cơ này, Tỉnh
ủy đƣa cán bộ nói chung trong đó có cán bộ Tuyên huấn vào khéo léo
tuyên truyền chỉ rõ âm mƣu của Mỹ Diệm, cài mâu thuẫn, tách lực
lƣợng này ra cùng với ta lập “liên quân chống Mỹ Diệm”, ra tờ báo
“Cứu đạo cứu nƣớc” làm phƣơng tiện giáo dục, giác ngộ binh lính sĩ
quan của lực lƣợng này. Tại thành phố Cần Thơ một bộ phận biên tập –
in ấn gọn nhẹ của Tuyên huấn đặt tại nhà một cơ sở mật đƣờng Lý
Thƣờng Kiệt, phụ trách biên soạn, in ấn và phát hành các tài liệu học
tập nội bộ và phục vụ công tác tuyên truyền vận động quần chúng tại
địa bàn thành phố.
Cũng nhƣ các cán bộ, đảng viên, đoàn viên khác của Đảng bộ, đội
ngũ những ngƣời làm công tác Tuyên huấn phải đối đầu với những gian
khổ, hy sinh chƣa từng có. Giữa lúc bộ máy kềm kẹp của Mỹ Diệm
khủng bố gắt gao ở nông thôn, thành thị, để tránh thiệt hại và đảm bảo
tờ báo, tin tức, tài liệu qua hệ giao liên bí mật đến tận cơ sở và quần
chúng chí cốt, các đồng chí ở bộ phận biên tập, in ấn phải làm việc dƣới
hầm bí mật, vách đôi trong nhà dân, căn cứ vững chắc lòng dân để bảo
tồn lực lƣợng và phƣơng tiện làm việc. Bất cứ ngày đêm, lúc không có
giặc thì làm việc, ăn ở bình thƣờng trong buồng kính đáo nhà dân, giặc
tới thì dọn xuống hầm bí mật. Các ba, các má, các chị, các em thiếu nhi
là ngƣời canh gác và khi có giặc là ngƣời đối phó kịp thời, có hiệu quả
trong mọi tình huống… Lắm trƣờng hợp trên mặt đất, giặc giở trò hăm
dọa, mua chuộc chủ nhà để tìm nơi làm việc bí mật của ta. Nhƣng bộ
phận in ấn vẫn tồn tại hoạt động, đƣợc sự bảo vệ của nhân dân rất chu
đáo. Đặc biệt là công việc mau sắm dụng cụ, phƣơng tiện in ấn cũng
dựa chủ yếu vào dân trong đó có sự giúp đỡ của nhân sĩ, cha cố, chức
sắc tôn giáo. Đã có một số trƣờng hợp, chị em bị giặc bắt tra tấn tù đày
đến tàn phế khi làm nhiệm vụ cao cả ấy.
Trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm 1960, ta còn sử dụng
bộ phận vũ trang tuyên truyền diệt ác, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh
chính trị của quần chúng chống các chính sách độc tài phát xít của Mỹ
Diệm, đòi chúng nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định Geneve, thực hiện
tổng tuyển cử thống nhất đất nƣớc, đòi các quyền dân chủ dân sinh. Qui
môn cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng diễn ra liên tục từ thấp
đến cao, từ lẻ tẻ đến tập trung, mức độ quyết liệt. Bắt đầu từ năm 1956,
ngoài lực lƣợng “liên quân chống Mỹ Diệm” hoạt động chủ yếu là vũ
trang làm nhiệm vụ diệt ác hỗ trợ phòng trào đấu tranh chính trị. Vào
giữa năm 1958, hàng chục tên Quận trƣởng, Trƣởng Chi công an, ủy
41
viên cảnh sát xã, đại diện Hội đồng Hƣơng chính xã, tề điệp ác ôn có
nhiều nợ máu với nhân dân bị ta diệt ngay tại hang ổ của chúng, đã gây
thối động trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền cấp quận, xã, cả cấp
tỉnh. Nhƣng sự trừng trị ấy chẳng những chƣa đủ sức ngăn chặn mọi
hành động tội ác tầy trời của Mỹ Diệm mà trái lại chúng càng lồng lộn
tiếp tục bộc lộ tột cùng bản chất ngoan cố, phản động quyết dìm cách
mạng và phong trào cách mạng của nhân dân ta vào biển máu. Mỹ diệm
cho ra đời luật phát xít 10/59, đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật,
thực chất là đạo luật cho phép bọn đao phủ tay chân Mỹ Diệm tự do
chém giết những ngƣời Cộng sản và nhân dân yêu nƣớc. Tiếp tục gây
thảm họa cho Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà, sự thiệt hại nghiêm trọng
nhất là Đảng bộ Long Mỹ, nơi đầu tiên Mỹ Diệm đem máy chém xuống
chợ Long Mỹ thị uy sự tàn bạo. Hàng ngàn đảng viên của Đảng bộ bị
giết, tù đày; không ít xã không còn đảng viên và cấp ủy (xã, ấp trắng),
cơ sở quần chúng hầu nhƣ bị tan rã, hoặc còn một ít nhƣng lắng xuống.
Đa số quần chúng cả lực lƣợng chí cốt rất căm thù giặc, tỏ rõ lòng trung
thành với cách mạng, nhƣng co lại không dám hành động. Tƣ tƣởng bi
quan, thiếu tin cách mạng thắng lợi xuất hiện trong Đảng bộ và chúng.
Đây là thời kỳ đen tối của cách mạng miền Nam nói chung và tỉnh Cần
Thơ nói riêng. Cũng là thời kỳ khó khăn nhất trên trận địa chính trị tƣ
tƣởng của Đảng bộ.
Đáp ứng kịp thời khát vọng bức thiết của Đảng bộ và quần chúng ở
miền Nam, cuối năm 1959 Nghị quyết 15 của Trung ƣơng ra đời. Nhƣ
“nắng hạn gặp mƣa rào”, toàn Đảng bộ phấn khởi tiếp thu tinh thần
Nghị quyết 15. Ban Tuyên huấn các cấp giúp cấp ủy tổ chức đợt học tập
quán triệt sâu sắc Nghị quyết từ cấp tỉnh đến cơ sở và triển khai đến
đoàn viên, lực lƣợng cốt cán, nòng cốt quần chúng và trên cơ sở đó,
Đảng bộ mở đợt tuyên truyền nội dung Nghị quyết ra dân.
Nghị quyết 15 lịch sử là điều kiện quan trọng thúc đẩy thành lập các
đơn vị lực lƣợng vũ trang của tỉnh, huyện, xã ra đời và hoạt động mở
màn những trận chiến thắng giòn giã trên khắp các địa bàn của tỉnh, có
những trận đánh thối động làm hoang mang tinh thần địch nhƣ: Cờ Đỏ,
Xẻo Cỏ, Ông Đƣa, Vàm Xáng v.v… của đơn vị Tây Đô. Với tinh thần
phấn khởi và niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi của Đảng bộ và
quần chúng trong tỉnh thật sự là sức mạnh quật khởi để cùng với toàn
miền Nam, Cần Thơ làm nên cuộc đồng khởi 1960.
Bằng sức mạnh của lòng yêu nƣớc và chí căm thù giặc sâu sắc, chỉ
trong vòng không quá một tuần lễ, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, lực
lƣợng làm nòng cốt, đã thúc đẩy tinh thần cách mạng của quần chúng
trong tỉnh, với ý chí bạo lực vùng lên khởi nghĩa phá rã toàn bộ bộ máy
kềm kẹp, bao vây bức rút, bức hàng và tiêu diệt hàng loạt đồn bót, giải
phóng đại bộ phận vùng nông thôn, đẩy địch ra sát thị xã, thị trấn, thị
tứ, các trục lộ giao thông, góp phần vào thắng lợi của cuộc Đồng khởi
toàn miền Nam, làm thất bại cuộc chiến tranh đơn phƣơng của Mỹ
42
Diệm, tạo ra bƣớc ngoặt mới vô cùng thuận lợi cách mạng miền Nam
và tỉnh Cần Thơ.
Với chức năng tham mƣu của cấp ủy trên trận địa chính trị tƣ tƣởng
của Đảng bộ, đồng thời chịu trách nhiệm về công tác tuyên truyền vận
động quần chúng, trong 6 năm – từ năm 1954 đến 1960 với chức năng
của mình hoạt động Tuyên huấn của Đảng bộ đã đem lại kết quả tốt
đẹp, cụ thể:
- Giúp cho cấp ủy Đảng lãnh đạo và đẩy mạnh công tác chính trị tƣ
tƣởng trong toàn Đảng bộ bằng mọi hình thức: Tổ chức học tập làm
quán triệt sâu sắc Nghị quyết, đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng; vào cuối
năm 1960, Tỉnht ủy thành lập khung trƣờng, đã mở liên tiếp một số lớp,
học tập các bài cơ bản cho cấp ủy viên, đảng viên và cốt cán quần
chúng. Mỗi lớp từ 5 đến 7 học viên. Từng lúc theo dõi, nắm tình hình tƣ
tƣởng của cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ, nhanh chóng phát huy mặt
ƣu điểm, uốn nắn mặt khuyết điểm, nhƣợc điểm của Đảng bộ, góp phần
đào tạo và bồi dƣỡng một đội ngũ cán bộ, đảng viên cho phong trào và
các năm tiếp sau.
- Về mặt tuyên truyền bề sâu và bề rộng đƣợc tiến hành thƣờng
xuyên, với nội dung khơi dậy lòng yêu nƣớc, truyền thống cách mạng, ý
chí căm thù địch đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao giác ngộ
cách mạng cho các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Từ đó, quần chúng hết
lòng, hết sức bảo vệ Đảng trong những thời kỳ khó khăn đen tối nhất
của cách mạng miền Nam, dấy lên liên tục phong trào đấu tranh chống
Mỹ, Diệm, đòi thực hiện hòa bình tổng tuyển cử thống nhất đất nƣớc,
làm thất bại nhiều âm mƣu và hành động tội ác của địch, nhất là phong
trào chống phá âm mƣu dồn dân của địch; đặc biệt là chống phá âm
mƣu lập khu trù mật Vị Thanh – Hảo Lựu, nhà tù khổng lồ của Mỹ
Diệm. Qua phong trào đấu tranh, bộ mặt xâm lƣợc, phản dân, hại nƣớc
của Mỹ Diệm bị phơi bày trƣớc dƣ luận, làm hạn chế những hành động
độc tài tàn bạo của chúng; làm phân hóa thối động hàng ngũ địch; buộc
địch phải giải quyết phần lớn các yêu sách thiết thân về dân chủ dân
sinh của quần chúng.
- Đặc biệt là dù trong hoàn cảnh cực kỳ khó khản gian khổ, Đảng bộ,
những bƣớc ngoặt của lịch sử, công tác Tuyên huấn đã góp phần đắc
lực việc tuyên truyền giáo dục quần chúng giữ vững lòng tin ở Đảng, ở
Bác Hồ vĩ đại, tin cách mạng thắng lợi, nuôi dƣỡng rèn luyện ý chí để
đến khi có lệnh của Đảng vùng lên làm cuộc đồng khởi 1960, đánh bại
chiến lƣợc chiến tranh đơn phƣơng của Mỹ - Diệm.
II. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN TRONG THỜI KỲ CHỐNG
CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ (1961 – 1965)
Sau đồng khởi 1960, trạng thái của cuộc chiến giữa ta và địch ở Cần
Thơ diễn ra rõ rệt ba vùng: vùng giặc chiếm, vùng tranh chấp và vùng
ta kiểm soát (vùng giải phóng). Sau thắng lợi của cuộc Đồng khởi, vào
43
ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam ra đời. Tháng 6 năm 1961, Đại hội thành lập và mắt của Mặt
trận Dân tộc giải phóng tỉnh trƣớc 20 ngàn đồng bào tại xã Thạnh Xuân
và ít lâu sau, Mặt trận các huyện, thị xã và hầu hết xã trong toàn tỉnh
cũng lần lƣợt thành lập và ra mắt nhân dân, giƣơng cao ngọn cờ đoàn
kết dân tộc đánh đổ đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, thực hiện một miền Nam hòa bình độc lập, dân chủ
và trung lập. Sự kiện lịch sử đó có ý nghĩa trọng đại và sức mạnh động
viên toàn dân vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lƣợc.
Cũng vào thời điểm này, các ban, ngành, đoàn thể giải phóng, lực
lƣợng vũ trang với 3 thứ quân đƣợc thành lập và hoạt động có hiệu quả
cùng với phong trào đấu tranh sôi nổi, liên tục của các tầng lớp nhân
dân làm cho cách mạng miền Nam nói chung và riêng Cần Thơ ngày
càng vững mạnh. Uy tín và ảnh hƣởng của Mặt trận Dân tộc giải phóng
sâu rộng trong nhân dân khắp các vùng. Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng
cao của phong trào, vào cuối năm 1960 Tỉnh ủy Cần Thơ quyết định
thành lập Ban Tuyên Văn Giáo thay cho Ban Tuyên huấn trƣớc đây, tại
xã Nhơn Ái, huyện Châu Thành. Thành phần Ban Tuyên Văn Giáo gồm
có đồng chí Phạm Trọng Yêm (chín Công), Tỉnh ủy viên làm Trƣởng
ban, đồng chí Trƣơng Văn Diễn (Tƣ Dân), Phó ban. Các ủy viên: các
đồng chí Huỳnh Thƣơng, Huỳnh Sơn Đàng và có gần đủ các bộ môn
nghiệp vụ: Tiểu ban Tuyên truyền (bộ phận phụ trách công tác tuyên
truyền phong trào, Trƣờng tuyên truyền, Đội triển lãm, Đội vũ trang
tuyên truyền, Đội chiếu bóng – (Đèn chiếu – Tổ nhiếp ảnh...); Tiểu ban
Thông tấn báo chí (Biên tập tờ báo, Tờ tin, Minh ngữ và nhà in Nguyễn
Văn Giỏi); Tiểu ban văn nghệ (bộ phận phụ trách công tác văn nghệ
phong trào, Ban biên tập san văn nghệ, bộ phận trƣờng văn nghệ, Đoàn
44
văn công…). Tiểu ban giáo dục (bộ phận tiểu học phổ thông, Bình dân
học vụ); trƣờng Tiểu học nội trú, trƣờng sƣ phạm; Nhà in giải phóng;
văn phòng. Ở các huyện, thị xã Cần Thơ cũng lần lƣợt thành lập Ban
Tuyên Văn Giáo trong năm 1961. Ở mỗi xã đều có Ban Tuyên Văn
Giáo.
Đến tháng 5 năm 1964, sau khi Tỉnh ủy đƣa hẳn bộ phận Trƣờng
Đảng và Tiểu ban Huấn học do Thƣờng vụ Tỉnh ủy trực tiếp phụ trách
về Ban Tuyên Văn Giáo thì đổi thành Ban Tuyên Văn Huấn Giáo (gọi
tắt Tuyên huấn). Và cũng từ thời điểm này, ở cấp huyện, xã Ban Tuyên
Văn Giáo cũng đổi tên gọi thống nhất là Tuyên huấn.
Từ năm 1961 đến 30 tháng 4 năm 1975, với trọng trách là cơ quan
tham mƣu của cấp ủy trên trận địa chính trị tƣ tƣởng và chức năng thực
hiện các bộ môn nghiệp vụ. Ban Tuyên Văn Giáo đến Ban Tuyên huấn
đã trải qua quá trình hoạt động 16 năm, với 5 đồng chí Ủy viên Thƣờng
vụ Tỉnh ủy luân phiên phụ trách Trƣởng ban: đồng chí Trần Trung Hậu
(Mƣời Thâu) (hy sinh mùng 5 Tết âm lịch năm 1971), đồng chí Phạm
Trọng Yêm (chín Công), đồng chí Phạm Văn Hào (Tám Thìn), đồng chí
Trần Minh Sơn (Bảy Mạnh), đồng chí Phạm Văn Phùng (Chính
Khƣơng); hai đồng chí Trƣơng Văn Diễn (hy sinh năm 1970) đồng chí
Huỳnh Thƣơng luân phiên nhau làm Phó Ban Thƣờng trực. Cũng trong
thời gian này, các đòng chí sau đây đƣợc đề bạt làm Ủy viên Ban, phụ
trách các tiểu ban: Lƣ Văn Luận (Tƣ Thái), Vũ Thanh Tâm (Quốc
Thanh), Huỳnh Sơn Đàng (Năm Thảnh), Nguyễn Văn Tân (Ba Tân),
Nguyễn Trung Vinh (Sáu Hà), Đặng Hồng, Nguyễn Văn Đăng (Ba Đê),
Trần Hoàng Phủ (Ba Hải), Trần Ngọc Diệp (Chín Thái), Phạm Văn Vui
(Năm Câu), Trần Chí Toại (Năm Bền), Vũ Xuân Hƣơng (Sơn Hòa),
Nguyễn Văn Ứng (Ba Ứng), Nguyễn Văn Khải (Bảy Khải), Trƣơng
Hoài Niệm (Ba Niệm), Đặng Văn Hơn (Năm Quang), Vũ Đình Hồng
(Vũ Giang).
45
Cùng với các lực lƣợng cách mạng của tỉnh, ngành Tuyên huấn các
cấp trong tỉnh bƣớc vào cuộc chiến đấu mới. Sau thất bại của chiến
lƣợc chiến tranh đơn phƣơng, từ năm 1961, Mỹ Diệm tiến hành chiến
tranh đặc biệt, mà nội dung chủ yếu là kế hoạch Staley Taylor bình định
miền Nam trong vòng 18 tháng, cái xƣơng sống là quốc sách ấp chiến
lƣợc, chúng dự định 18 tháng từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962 cơ
bản “bình định” xong miền Nam, dồn 90% dân tập trung vào khoảng
15.300 ấp chiến lƣợc. Tăng cƣờng nhanh chống cố vấn và nhân viên
quân sự Mỹ (cuối năm 1963 lên 17.000 cuối năm 1964 là 23.000
ngƣời). Trên địa bàn Cần Thơ, các vùng chung quanh thị xã, quận lỵ,
trên các tuyến chiến lƣợc thủy – bộ, nhất là tuyến Xà No, ven Sông
Hậu, xáng Ô Môn, Bún Tàu, Quốc lộ I, Lộ 31 (nay là Quốc lộ 61) Cái
Tắc – Vị Thanh, kể cả một số vùng giải phóng của ta ở Bắc Long Mỹ
và Nam Phụng Hiệp đều là mục tiêu để xây dựng “ấp chiến lƣợc” của
chúng; nhằm dồn dân đuổi nhà từ vùng nông thôn ra và bắt dân tại chổ
giam nhốt trong nhà tù kiểu mới, cắt đứt quan hệ giữa dân và Đảng,
biến khối nhân tài vật lực này thành công phục vụ chiến tranh đặc biệt.
Từ âm mƣu và thủ đoạn đó, địch ra sức đánh phá vùng giải phóng bằng
các cuộc hành quân với chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận, tăng
cƣờng phi pháo bắn phá vùng giải phóng, tát dân chạy ra ấp chiến lƣợc.
Tuy cƣờng độ chiến tranh chƣa cao, nhƣng địch đã đánh phá gây thiệt
hại cho nhân dân và Đảng ta cũng gặp nhiều khó khăn. Nhƣng công tác
chính trị tƣ tƣởng lúc này cũng có nhiều thuận lợi, là có Nghị quyết của
Bộ Chính trị (31- 1- 1961) soi sáng, tiếp theo Nghị quyết của Hội nghị
Trung ƣơng cục miền Nam (tháng 10 – 1961) xác định: “Con đƣờng
phát triển có lợi nhất của cách mạng miền Nam là dùng đấu tranh chính
trị và đấu tranh vũ trang song song kết hợp, coi đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang đều là cơ bản để tạo điều kiện và tranh thủ thời cơ
tiến tới tổng khởi nghĩa”(8)
.
Tỉnh ủy đã tổ chức học tập triển khai làm thông suốt tinh thần nội
dung các Nghị quyết của Trung ƣơng trong nội bộ Đảng, với quyết tâm
đánh bại chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ; đồng thời đẩy mạnh công
tác chính trị tƣ tƣởng tập trung chủ yếu nội dung động viên toàn Đảng
bộ và quần chúng cùng lực lƣợng cách mạng đẩy mạnh tấn công bằng 3
mũi bẻ gãy kế hoạch bình định và quốc sách ấp chiến lƣợc trên địa bàn
tỉnh, đi đôi với việc xây dựng lực lƣợng đảm bảo mọi mặt đảm bảo đủ
sức đánh thắng địch trong mọi tình huống.
Quán triệt Nghị quyết của Đảng, quyết tâm đánh bại “chiến tranh
đặc biệt” của Mỹ, bẻ gãy kế hoạch bình định, ấp chiến lƣợc của Mỹ
ngụy. Ban Tuyên huấn đã chỉ đạo các binh chủng chuyên môn ra quần
chúng phục vụ công tác tuyên truyền phát động trong nội bộ và ra dân
tập trung làm thất bại âm mƣu lập ấp chiến lƣợc của địch. Các binh
chủng gồm: Đoàn Văn công, tập san Văn nghệ, đội tuyên truyền vũ
trang là những binh chủng chiến đấu trực tiếp hàng ngày trên địa bàn;
46
đặc biệt báo và Thông tấn giữ vài trò quan trọng, nhất là Thông tấn
hàng ngày đƣa tin chiến thắng của tỉnh trên địa đài phát thanh giải
phóng và đài Tiếng nói Việt Nam, có sức động viên cổ vũ kịp thời
phong trào cách mạng ở tỉnh nhà rất lớn. Từ giữa năm 1961, sau khi
Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Cần Thơ thành lập và ra mắt, thì tờ
báo “Giải phóng” – cơ quan của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Cần
Thơ ra đời thay cho tờ “Tranh đấu”.
Trong thời kỳ này, Mỹ và tay sai dốc sức thực hiện kế hoạch bình
định và quốc sách ấp chiến lƣợc đã gây cho tỉnh Cần Thơ nhiều khó
khăn, nhƣng Tỉnh ủy đã chỉ đạo, Ban Tuyên huấn làm nòng cốt chuyển
khai kịp thời các Nghị quyết, chủ trƣơng của Đảng, giải quyết tƣ tƣởng
trong nội bộ Đảng, phát động mạnh mẽ ra quần chúng đẩy mạnh tấn
công địch bằng kết hợp 3 mũi, bẻ gãy âm mƣu bình định, lập ấp chiến
lƣợc của địch trên địa bàn Cần Thơ, góp phần cùng miền Nam làm thất
bại chiến lƣợc “chiến tranh đặc biệt”, buộc đế quốc Mỹ phải chuyển
sang “chiến tranh cục bộ.”
III. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN TRONG GIAI ĐOẠN ĐÁNH
BẠI CHIẾN TRANH CỤC BỘ CỦA MỸ (1965 – 1968), VIỆT
NAM HÓA CHIẾN TRANH, PHỤC VỤ CUỘC TỔNG TIẾN
CÔNG VÀ NỔI DẬY MÙA XUÂN 1975 – GIẢI PHÓNG HOÀN
TOÀN TỈNH CẦN THƠ.
Từ tháng 4 năm 1965, Mỹ leo thang sang chiến tranh cục bộ. Nội
dung chủ yếu là dùng quân đội Mỹ và chƣ hầu cộng với quân ngụy Sài
47
Gòn, hai lực lƣợng này dựa vào nhau do quân Mỹ làm nòng cốt, ra sức
thực hiện kế hoạch hai gọng kềm, “Bình định và tiêu diệt” của Óet –
mô – len hòng bẻ gãy – tiêu diệt – xƣơng sống của lực lƣợng cách mạng
(quân chủ lực) – bình định nông thôn, trấn áp phong trào đấu tranh ở
thành thị, thực hiện mục tiêu cuối cùng là quét sạch cộng sản ở miền
Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải
quân.
Tỉnh Cần Thơ là
một trong những
trọng điểm bình định
của địch ở Đồng bằng
sông Cửu Long. Để
hòng đạt mục đích là
tiêu diệt cách mạng.
Bắt đầu cuộc chiến
tranh cục bộ, tại Cần
Thơ Mỹ đã đặt cơ
quan lãnh sự Hoa Kỳ,
cơ quan tình báo CIA,
mở rộng khu quân sự,
sân bay Trà Nóc, sân
bay Lộ Tẻ, kho đạn,
quân cảng, hậu cứ
quân đoàn IV, quân
Mỹ ở Cần Thơ lên
đến 650 tên. Thực
hiện kế hoạch hai
gọng kềm địch đã áp
dụng mọi âm mƣu
thâm độc và hành
động chiến tranh tàn
bạo, chúng sử dụng
đến mức cao nhất hỏa
lực, không quân (kể cả B57), hải quân, thiết xa vận M113, pháo binh
yểm trợ cho quân ngụy càn quét bình định, với mật độ bom đạn ngày
càng gia tăng ác liệt trên khắp địa bàn. Mặt khác, chúng thiết lập Đài
Truyền hình Cần Thơ (3-12-1966), dời Đài Phát thanh Ba Xuyên (Sóc
Trăng) về Cần Thơ (ngày 20 – 12 – 1967), đẩy mạnh tuyên truyền chiến
tranh tâm lý, hoạt động do thám gián điệp, đồng thời tăng cƣờng du
nhập văn hóa lãng mạn, đồi trụy phản động, thuyết “hiện sinh” nhằm
lung lạc ý chí cách mạng của quân dân ta.
Đặc biệt là thời kỳ đế quốc Mỹ bị thất bại trong chiến tranh đặc biệt
buộc phải xuống thang chiến tranh, chuyển hƣớng bằng chiến lƣợc
“Việt Nam hóa chiến tranh” với công thức “vũ khí Mỹ cộng với quân
48
đội ngụy”, quân đội Mỹ quân chƣ hầu từng bƣớc rút về nƣớc, tăng
cƣờng vũ khí và phƣơng tiện chiến tranh cho quân đội ngụy. Thực hiện
kế hoạch “bình định cấp tốc”, “bình định đặc biệt”, “bình định bổ sung”
v.v…
Ở chiến trƣờng Cần Thơ sau Tổng tiến công Mậu Thân 1968 của ta,
địch phản kích ác liệt (kể cả B52) bình định lấn chiếm đóng đồn gần hết
vùng nông thôn giải phóng của ta, đóng 773 đồn, chúng tát dân chạy ra
vùng ven, vùng kềm. Sau Hiệp định Pari 1973 địch dồn quân về Phụng
Hiệp, Long Mỹ, Chƣơng Thiện bình định, chiếm đất, giành dân có lúc
lên đến 75 lƣợt tiểu đoàn địch.
Đây là một trong những thời kỳ ác liệt nhất của quá trình 21 năm
chống Mỹ, cũng là thời kỳ Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh gánh chịu
những thiệt hại to lớn về nhiều mặt. Thời kỳ công tác chính trị tƣ tƣởng,
công tác Tuyên huấn gay go nhất, ta mất đất, mất dân, tƣ tƣởng trong
nội bộ Đảng, trong nhân dân dao động, thiếu niềm tin thắng lợi của
cách mạng. Đồng thời, nó còn là sự thử thách tinh thần và ý chí của các
cấp ủy, cán bộ, đảng viên và quân dân, cũng nhƣ bản lĩnh của Đảng bộ
tỉnh nhà.
Nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lƣợc, dƣới ánh sáng và
sức mạnh động viên cổ vũ của Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng lần thứ 12 – (khóa III), Đảng bộ và quân dân Cần
Thơ cùng cả nƣớc sẵn sàng chấp nhận và lao vào cuộc chiến đấu mới
đầy quyết liệt, chống chiến tranh cục bộ của Mỹ. Quá trình chiến đấu và
bằng những kinh nghiệm từ tình hình thực tế, Đảng bộ, quân và dân
Cần Thơ sớm thích nghi với hoàn cảnh ác liệt, phát huy triệt để sức
mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, kết hợp chặt chẽ phƣơng
châm hai chân ba mũi giáp công, liên tục tấn công tiêu diệt địch trên
các vùng, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, từng bƣớc làm chuyển
biến cục diện đấu tranh cách mạng có lợi cho ta.
49
Trong thời kỳ này, hoạt động Tuyên huấn của Đảng bộ cũng bám sát
và phục vụ nhiệm vụ chính trị của cấp ủy. Tất cả các đồng chí lãnh đạo
Ban, các Tiểu ban, cán bộ, công nhân viên, cấp ủy, đảng viên, đoàn
viên tiếp tục vào trận, giữ vững vai trò tham mƣu cho cấp ủy về trận địa
chính trị tƣ tƣởng. Nhất là thời kỳ những năm 1969 – 1970 và sau Hiệp
định Paris 1973, công tác tuyên truyền giáo dục trong nội bộ Đảng, ra
dân xoay quanh nội dung: xây dựng lòng tin ở sự lãnh đạo của Đảng;
quyết tâm thực hiện di chúc của Bác Hồ kính yêu, ý chí “không có gì
quí hơn độc lập tự do”, thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” nhằm
động viên cao nhất nhân, tài, vật, lực cùng cả nƣớc đánh bại cuộc chiến
tranh xâm lƣợc của đế quốc Mỹ.
Về hoạt động tuyên truyền, ngành Tuyên huấn tỉnh, huyện và cơ sở
phối hợp các ngành, đoàn thể các cấp, vừa tuyên truyền bằng hình thức
chiều sâu – họp đoàn thể, họp nhóm; vừa tuyên truyền bề rộng nhƣ:
Dựa vào đề cƣơng của Ban Tuyên huấn biên soạn học tập cho hội viên
nông – thanh – phụ và các đối tƣợng khác, có tác dụng tích cực đối với
các tầng lớp nhân dân, thực hiện khẩu hiệu “một tấc không đi, một ly
không rời” bám trụ tấn công địch và xây dựng ta về mọi mặt; khẩu hiệu,
tranh ảnh, pa nô, truyền đơn treo dán trên đƣờng, nhà thông tin, trạm
dán tin ở vùng giải phóng và tán phát ra vùng tranh chấp và thành thị,
trong hàng ngũ địch.
Đồng thời, các đội võ trang tuyên truyền chiếu phim, nhiếp ảnh, văn
công luôn có mặt ở những trọng điểm tham gia tấn công địch, vận động
50
quần chúng và làm công tác binh vận. Lúc này Ban Tuyên huấn tỉnh đã
in nhiều truyền đơn các loại tiếng Anh để kêu gọi lính Mỹ và quân chƣ
hầu phản chiến. Đặc biệt là Đoàn văn công ra đời trong cao trào đồng
khởi 60, với tinh thần: “tay đàn – tay súng”, “tiếng hát át tiếng bom”,
đoàn đã có mặt xuyên suốt trên các địa bàn của tỉnh phục vụ cho hàng
triệu lƣợt chiến sĩ, đồng bào, cán bộ nông thôn và thành thị kể cả binh
lính, sĩ quan ngụy với những vỡ cải lƣơng: Ngƣời con gái Đất Đỏ, Nợ
nƣớc tình nhà, Chén cháo Chí Linh, Tiếng nổ Đầu Xuân… Từ sau
Xuân Mậu Thân 1968 trong tình hình chiến tranh ác liệt, đoàn kịp thời
chuyển sang trình diễn những tiết mục gắn gọn mang tính thời sự nóng
bỏng phục vụ sát sƣờn nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ… Đoàn luôn
thích ứng với mọi hoàn cảnh nhằm đảm bảo sự tồn tại và hoạt động liên
tục. Trong Tết Mậu Thân, đoàn hoạt động tập trung trên qui mô lớn, có
cuộc trình diễn, phục vụ hàng ngàn đồng bào. Sang các năm từ 1969 –
1971, trong tình hình địch bình định lấn chiếm nông thôn, đoàn phân
tán làm 3 đội văn công xung kích, bám trụ ở ba địa bàn Châu Thành A
– Ô Môn một đội; Kế Sách – Châu Thành B một đội, Phụng Hiệp –
Long Mỹ một đội. Lúc này phần lớn trình diễn sân đất phục vụ chiến sĩ
và quần chúng bám trụ lại ở căn cứ lõm. Từng lúc tấn sát vùng ven để
diễn phục vụ đồng bào. Thời kỳ này, nhiều cán bộ, diễn viên văn công
hy sinh. Có cuộc, ngƣời xem ít hơn ngƣời diễn trên sân khấu. Đồng bào
đi xem văn công có khi phải trả giá bằng xƣơng máu. Họ đến với văn
công không chỉ để giải trí còn để thƣởng thức lời ca tiếng đàn mà thông
qua những tiết mục ngắn gọn giàu sức sống, nói lên cuộc chiến đấu và
chiến thắng của họ, tiếp thêm sức mạnh căm thù, lòng yêu nƣớc, củng
cố niềm tin tất thắng, nung nấu cho mỗi tâm hồn dũng khí mới để sáng
mai vững vàng hơn khi giáp mặt chiến đấu với quân thù. Với tay đàn,
tay súng diễn viên văn công còn tham gia bao vây tấn công đồn bót,
đánh địch càng quét, bảo vệ đồng bào và thực lực của đoàn.
Cùng với hoạt động chuyên nghiệp, Tiểu ban Văn nghệ đã cùng với
Ban Tuyên huấn các huyện hƣớng dẫn, xây dựng phong trào văn nghệ
quần chúng và các nhóm văn nghệ ở xã, ấp. Tỉnh đã nhiều lần tổ chức
hội diễn văn nghệ quần chúng trong tỉnh, mỗi cuộc có hàng chục đội
văn nghệ với hàng trăm diễn viên ở cơ sở tham dự, nhằm động viên cổ
vũ phong trào và nâng cao chất lƣợng hoạt động văn nghệ. Ngoài ra,
Tiểu ban Văn nghệ còn mở lớp đào tạo, bồi dƣỡng diễn viên ca múa,
cải lƣơng cho đội văn nghệ các xã và tuyển chọn diễn viên bổ sung cho
Văn công tỉnh.
Hai đội chiếu phim của tỉnh và đội chiếu phim của thị xã Cần Thơ
liên tục phục vụ đồng bào, cán bộ, chiến sĩ bám trụ vùng giải phóng và
đồng bào vùng ven, cả cơ sở và đồng bào nội thành vào xem phim
kháng chiến, nhất là trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu thân
1968, 2 đội đã bám chặt hoạt động ở địa bàn Vòng Cung, Xóm Chài và
ven thành phố Cần Thơ.
51
Vào 30 – 9 – 1969, Hai đội nhập lại thành một đội để đủ sức mạnh
hoạt động, đội hoạt động thƣờng xuyên ở thị xã Vị Thanh và đến tháng
10 – 1974 về hoạt động địa bàn Thốt Nốt và góp phần giải phóng hoàn
toàn huyện Thốt Nốt mùa xuân 1975. Riêng đội vũ trang tuyên truyền
ra đời vào tháng 6 – 1962 hoạt động thƣờng xuyên ở huyện Châu Thành
A và Ô Môn vào tháng 2 – 1968 thành lập thêm đội II hoạt động ở
huyện Long Mỹ và thị xã Vị Thanh. Trong thời kỳ chiến tranh cục bộ
đội tuyên truyền vũ trang đã hai lần cùng lực lƣợng vũ trang và đoàn
công tác Quân dân Chánh Đảng của tỉnh tiến quân về vùng Thốt Nốt
không những làm nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động đồng bào
Hòa Hảo và đồng bào di cƣ mà còn tham gia bao vây đồn bót, đánh
địch càn quét, lập công xuất sắc. Đội vũ trang tuyên truyền bám sát địa
bàn vùng ven, vùng kềm vừa tuyên truyền vừa cùng lực lƣợng vũ trang
trong tỉnh liên tục tấn công, bao vây đồn bót, đánh trên 30 trận diệt đồn,
có trận diệt đồn địch giữa ban ngày, nhƣ trận Tám Ngàn và diệt và bị
thƣơng hàng trăm tên địch, thu nhiều súng đạn, quân trang, quân dụng.
Ngoài đội tuyên truyền vũ trang của Ban Tuyên huấn tỉnh, các
ngành, các huyện thị xã cũng đánh giá tầm quan trọng của các đội tuyên
truyền vũ trang, nên hầu hết các huyện đều thành lập đội tuyên truyền
vũ trang và các ngành đoàn thể đều có đội tuyên truyền xung phong của
binh vận, thanh niên, phụ nữ hoạt động rất hiệu quả, đã góp phần lớn
công tác tuyên truyền chủ trƣơng của Đảng, động viên mọi tầng lớp
tham gia kháng chiến chống Mỹ, nhất là từ năm 1968 trở về sau.
Cùng với các hình thức tuyên truyền phát động chiều sâu, về bề
rộng, báo chí, Tập san Văn nghệ, Tin tức, Thông tấn, với tƣ cách là một
thứ vũ khí sắc bén của Đảng bộ trên trận địa chính trị tƣ tƣởng đã vƣợt
qua hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, có mặt kịp thời đến tận các Đảng bộ cơ
sở và nhân dân ở mọi nơi, góp phần quan trọng động viên các phong
trào hành động cách mạng của quần chúng. Vào giữa năm 1965, vì tính
chất địa phƣơng của tờ báo, tờ “Giải Phóng” đổi thành “Cần Thơ” và
đến cuối năm 1967, chuẩn bị vào cuộc Tổng tấn công Xuân Mậu Thân
1968 “Cần Thơ” đổi tên thành tờ “Cần Thơ Quyết Thắng”. Từ đó “Cần
Thơ Quyết Thắng” có mặt xuyên suốt với Đảng bộ, đồng bào, cán bộ và
chiến sĩ trong tỉnh đến ngày giải phóng. Báo “Cần Thơ Quyết Thắng”
xuân 1976 in ấn, xuất bản tại thành phố Cần Thơ là số cuối cùng. “Cần
Thơ Quyết Thắng” - cũng là tiền thân của Nhật báo Cần Thơ ngày nay.
Cùng sánh vai với báo chí và văn nghệ, nhà in Giải phóng (in chữ chì)
và nhà in Nguyễn Văn Giỏi hai đứa con sinh ra từ tháng 7 -1954 và
trong thời kỳ đồng khởi 1960, trải qua những năm tháng thăng trầm
trong ác liệt của chiến tranh, phƣơng tiện, dụng cụ làm việc phải cất dấu
dƣới hầm bí mật, bố trí bãi lửa để chiến đấu, bảo vệ ngƣời và tài sản
trong các năm 1969 – 1971.
Sau Tết Mậu Thân địch phản kích ác liệt xua quân bình định lấn
chiếm, đóng đồn dày đặc vùng nông thôn, địch bảo vây phong tỏa vùng
52
căn cứ của ta, việc tiếp liệu giấy mực gặp trở ngại, nên Ban Tuyên huấn
quyết định tách một bộ phận chữ chì của Nhà in Giải Phóng phân tán ở
một điểm khác. Có lần trong chiến dịch tràn ngập lãnh thổ của Mỹ -
ngụy sau Hiệp định Paris, nhà in ở ngọn kinh Năm Hạnh (Phƣơng
Bình), cách đồn Xáng Bộ 700m bị một trung đoàn biệt động quân, với
hàng chục máy bay các loại yểm trợ, trực thăng đổ quân đánh vào nhà
in, cắt dây chất nổ, phá hầm bí mật, lấy hết chữ chì, máy in… Với quan
điểm không lùi bƣớc trƣớc khó khăn, quyết giữ vững thế trận, Ban
Tuyên huấn và cán bộ, công nhân viên nhà in, biên tập góp nhóp chữ
chì giặc làm rơi vãi và đóng lại bàn in cùng với bộ phận chữ chì phân
tán, nên chỉ trong thời gian ngắn tiếp tục in ấn bình thƣờng. Giặc phong
tỏa, ta mua giấy mực không đƣợc thì khắc phục khó khăn bằng cách
nhờ chị em, bà lão hợp pháp ra vào giữa hai vùng, mua giấy, mực, cả
giấy tập học trò đem về để in tin tức, truyền đơn, báo, tập san Văn nghệ.
Suốt 21 năm chống Mỹ nhất là thời kỳ đấu tranh chính trị dƣới chế độ
phát xít của Mỹ ngụy và những năm chiến tranh ác liệt, cực kỳ khó
khăn, báo chí, tin tức, văn nghệ Cần Thơ không bị gián đoạn với quyết
tâm: Báo, văn nghệ ra khổ lớn không đƣợc thì ra khổ nhỏ, ra 8 trang
không đƣợc thì ra 4 trang. Làm thế nào ngƣời dân, cán bộ cơ sở có
trong tay tờ báo, tập san Văn nghệ, tờ tin, truyền đơn, giữ vững niềm tin
dù giặc Mỹ hung hãn, tàn bạo đến đâu nhƣng Đảng vẫn còn, còn Đảng
là cách mạng thắng lợi.
Ở các huyện, thị xã theo hƣớng đó, Ban Tuyên huấn cũng tranh thủ
ra tờ tin của huyện, có số xã ra tờ tin in bột phổ biến đến cơ sở và quần
chúng bám trụ. Ở thành phố Cần Thơ, từ năm 1968 Ban Tuyên huấn
thành phố ra tờ “Tin thành phố Cần Thơ” và tập san Văn nghệ (khổ
nhỏ) phổ biến trong đồng bào nội ngoại ô và vùng ven, cả trong học
sinh, sinh viên.
Đặc biệt là sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968
nổ ra, nhận đƣợc chủ trƣơng từ Tỉnh ủy, Ban Tuyên huấn viết đề cƣơng
cho các cấp trong tỉnh dựa vào đó học tập trong Đảng bộ và tuyên
truyền ra dân, nhằm động viên cao nhất nhân, tài, vật lực, phục vụ cho
tấn công giành thắng lợi. Mặt khác, Ban Tuyên huấn tỉnh phân công
nghiều ủy viên ban, các Tiểu ban, cán bộ, công nhân viên các bộ phận:
Võ trang tuyên truyền, chiếu phim, nhiếp ảnh, thông tấn, báo chí, văn
nghệ, văn công đi trọng điểm, phục vụ các lực lƣợng có mặt ở Vòng
Cung (ngoại ô thành phố Cần Thơ), thị xã Vị Thanh và từ đây cùng các
lực lƣợng tấn công, vào nội ô, bám trụ vùng ven qua mấy đợt tấn công
cho đến khi có lệnh kết thúc chiến dịch Xuân Mậu Thân.
Cùng với hoạt động các Tiểu ban khác, Tiểu ban Giáo dục một bộ
phần của ngành Tuyên huấn đã đáp ứng cơ bản nhu cầu học tập văn hóa
của quần chúng, thể hiện tính ƣu việt của vùng nông thôn giải phóng.
Cũng nhƣ các năm trƣớc, ngay từ sau đồng khởi 1960, đại bộ phận
vùng nông thôn đƣợc giải phóng, bộ máy giáo dục đƣợc thành lập từ
53
tỉnh đến cơ sở. Đƣợc sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy
và sự quan tâm của mặt trận, chính quyền cùng với sự chỉ đạo của Tiểu
ban giáo dục, phong trào học tập văn hóa trong tỉnh diễn ra đều khắp,
sôi nổi. Các tầng lớp nhân dân tích cực hƣởng ứng và tham gia phong
trào xây dựng trƣờng học cho con em. Hầu hết, con em của nông dân
đƣợc cắp sách đến trƣờng. Phong trào bình dân học vụ, bổ túc văn hóa
cho ngƣời lớn, bao gồm nhiều lứa tuổi, cả ông già, bà lão, chị em có
con nhỏ cùng tham gia học tập đều khắp ở xóm ấp. Nguồn giáo viên lấy
từ trong quần chúng, nơi nào thiếu hoặc không có giáo viên thì động
viên ngƣời biết chữ dạy ngƣời chƣa biết chữ, ngƣời biết khá dạy ngƣời
biết chữ còn yếu.
Nhờ vậy, mà việc dạy và học đƣợc giữ vững. Đặc biệt là trong
những năm ác liệt của chiến tranh cục bộ và Việt Nam hóa chiến tranh,
trƣờng lớp bị bom pháo tàn phá, ban ngày không học đƣợc thì tổ chức
học phân tán vào ban đêm, bên công sự. Sách giáo khoa do điều kiện
chiến tranh nên việc biên soạn phần lớn do Tiểu ban Giáo dục tỉnh đảm
nhân để cung cấp cho giáo viên. Ngành giáo dục Cần Thơ còn khắc
phục mọi khó khăn, mở Trƣờng bổ túc văn hóa tập trung cho đối tƣợng
thanh thiếu niên là cán bộ, nhân viên cơ quan, đơn vị lực lƣợng vũ trang
và con em cán bộ các cấp. Trong 3 năm 1964 – 1966, thời kỳ ác liệt của
chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ. Ban Tuyên huấn chỉ đạo cho
Tiểu ban giáo dục đã thành lập trƣờng cấp 1 và cấp 2 Tây Đô và trƣờng
54
sƣ phạm tại xã Vĩnh Viễn. Trƣờng Tây Đô cho ra trƣờng hàng trăm học
sinh; trƣờng sƣ phạm đào tạo và bồi dƣỡng hàng trăm cán bộ, giáo viên
cho phong trào. Đặc biệt là vào cuối năm 1971, sau khi đề ra kế hoạch
và chuẩn bị mọi điều kiện vật chất, cán bộ v.v… vào đầu năm 1972
trƣờng cấp 2 bổ túc văn hóa thanh thiếu niên mang tên anh hùng liệt sĩ
Nguyễn Việt Hồng đƣợc khai giảng, tại xã Vĩnh Viễn, với khoảng 100
học sinh. Đến năm 1973, Tiểu ban giáo dục mở trƣờng sƣ phạm của
tỉnh nhằm đào tạo bồi dƣỡng giáo viên ở cơ sở. Cả hai trƣờng tồn tại và
vƣợt qua hoàn cảnh cực kỳ khó khăn gian khổ của các năm 1970 – 1971
– 1972 cho đến ngày tỉnh nhà hoàn toàn giải phóng (30 -4 -1975).
Một đặc điểm trong hoạt động của Tiểu ban Giáo dục trong thời kỳ
chiến tranh cục bộ là tập trung cán bộ của Tiểu ban phối hợp với các
huyện, xã chỉ đạo xóa mù chữ ở ba nơi: xã Xà Phiên (Long Mỹ), ấp Phú
Trí B (Phú Hữu), ấp Hậu Bối (Đại Hải – Kế Sách). Với quyết tâm cao
trong chỉ đạo và thực hiện, chỉ trong hai năm 1965 – 1966 xã Xà Phiên
- một xã có một phần dân số là dân tộc Khmer đã thoát dốt, trở thành
điển hình của ý chí quyết thắng giặc dốt của ngành Giáo dục Cần Thơ,
cũng là ngọn cờ đầu của phong trào giáo dục trong tỉnh, là xã thoát dốt
đầu tiên trong thời kỳ khàng chiến chống Mỹ ở miền Tây Nam bộ.
Trƣờng Đảng và Tiểu ban Huấn học đã đóng góp tích cực trong
công tác đào tạo, bồi dƣỡng về chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán
bộ trong tỉnh, chủ yếu là ở cơ sở. Trong suốt cuộc kháng chiến chống
Mỹ, từ những năm đầu (1954) cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975,
Trƣờng Đảng của tỉnh đã mở 60 khóa học, mỗi khóa trên dƣới 50 học
viên bồi dƣỡng hàng ngàn cấp ủy viên chi bộ xã, cơ quan, đơn vị,
Huyện ủy viên mới bổ sung; tập huấn hàng trăm tổ trƣởng Đảng, đảng
viên, đoàn viên, cốt cán quần chúng. Trong tình hình chiến tranh ác liệt.
Từ cuối năm 1969 đến năm 1971 không mở lớp tập trung đƣợc, Tỉnh ủy
chỉ đạo chia Trƣờng Đảng thành 2 phân hiệu một ở huyện Phụng Hiệp,
phân hiệu 2 ở Long Mỹ. Đến năm 1971 – 1972, lại chia Trƣờng Đảng
thành 3 phân hiệu: phân hiệu 1 ở Phụng Hiệp, phân hiệu 2 ở Châu
Thành B, phân hiệu 3 ở Châu Thành A. Hơn 1 năm hoạt động, 3 phân
hiệu đã bồi dƣỡng cho hơn 200 đảng viên, cốt cán quần chúng hợp pháp
ở vùng kềm và đảng viên hoạt động bất hợp pháp, phục vụ tốt cho chủ
trƣơng chuyển thể, chuyển vùng trong chiến dịch tấn công địch tháng 4
– 1972. Từ cuối năm 1972 đến 30 – 4 -1975, tình hình cho phép, chủ
trƣơng của Tỉnh ủy giải thể 3 phân hiệu tập trung lại lấy tên là Trƣờng
Đảng Châu Văn Liêm. Đặc biệt trong năm 1972, Trƣờng Đảng đã cố
gắng mở 1 lớp cho trên 30 cán bộ hợp pháp của thị xã Cần Thơ, thời
gian 20 ngày (với phƣơng thức bí mật mang mặt nạ và mọi sinh hoạt
đều ngăn cách tránh bị lộ). Lớp học này nhằm bồi dƣỡng về chính trị và
phƣơng châm, phƣơng pháp hoạt động công khai hợp pháp. Trƣờng
Đảng và Tiểu ban Huấn học phối hợp cấp ủy và Tuyên huấn huyện mở
lớp tập huấn ngắn ngày đào tạo và bồi dƣỡng hàng ngàn lƣợt Tổ trƣởng
55
Đảng, đảng viên, đoàn viên cốt cán quần chúng ở cơ sở. Đây là lực
lƣợng làm vai trò nòng cốt của các phong trào cách mạng trong tỉnh qua
các thời kỳ. Trong hoạt động, Trƣờng Đảng luôn đƣợc cấp ủy quan tâm
và chỉ đạo sâu sát về mọi mặt, nhất là nội dung bài vở. Các đồng chí
phụ trách và chuyên trách Trƣờng Đảng bám sát nhiệm vụ chính trị,
nghiêm chỉnh chấp hành sự lãnh đạo của cấp ủy và chỉ đạo trực tiếp của
Ban Tuyên huấn, vƣợt mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, nỗ lực phấn
đấu giữ vững trƣờng lớp bất cứ trong tình huống nào, không để trƣờng
bị gián đoạn.
Vì vậy mà kế hoạch, chỉ tiêu đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ của trƣờng
và Tiểu ban đạt yêu cầu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Đảng bộ, có
nhiều cán bộ, đảng viên của Tiểu ban Huấn học và Trƣờng Đảng hy
sinh, với số lƣợng 13 đồng chí. Tiểu ban Huấn học ngoài nhiệm vụ kết
hợp với trƣờng lo tổ chức các lớp chính trị trong tỉnh, còn phối hợp
cùng với Ban Tổ chức Tỉnh ủy liên tục xuống các xã nắm tình hình về
nhận thức chính trị tƣ tƣởng, trình độ năng lực của cán bộ, đảng viên
đóng góp cho Tỉnh ủy và đi xây dựng củng cố chi bộ tự động, chi bộ 4
tốt. Các đồng chí ở Tiểu ban Huấn học đã vƣợt qua nhiều khó khăn gian
khổ, ác liệt hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đƣợc Tỉnh ủy giao
suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc.
Bộ phận văn phòng chính thức ra đời cùng thời với Ban Tuyên huấn
(1960). Là ngƣời trợ thủ đắc lực của Ban, một tập thể từ các đồng chí
phụ trách đến cán bộ, nhân viên ở các bộ phận: Văn thƣ, tài vụ, căn cứ,
56
bảo vệ, giao liên.v.v… đã trải qua những năm tháng đầy khó khăn gian
khổ, ác liệt của chiến tranh các đồng chí đã thể hiện đầy đủ tinh thần
trách nhiệm đƣợc giao, ra sức thực hiện sự phân công của Ban, tạo mọi
thuận lợi cho các Tiểu ban và các bộ phận trong Ban làm tốt chức năng,
nhiệm vụ chuyên môn cũng nhƣ trong chỉ đạo công tác Tuyên huấn
theo hệ thống dọc, đối với bên dƣới. Trong đó, các đồng chí trẻ ở bộ
phận bảo vệ, giao liên đã nêu một tấm gƣơng sáng trong việc bảo vệ
cán bộ, đƣa tài liệu đến cơ sở gìn giữ máu trong cơ thể của ngành lúc
nào cũng thông suốt.
Đặc biệt là trong những năm, từ tháng 1 – 1973 (ký kết Hiệp định
Paris) đến 30 – 4 – 1975, là một trong các thời kỳ hoạt động sôi nổi
quyết liệt của ngành.
Ngay khi Hiệp định Paris đƣợc công bố, trong tƣ thế chuẩn bị sẵn
sàng, hầu nhƣ các binh chuẩn của Ban Tuyên huấn đều đồng loạt ra
quân tấn công địch. Đoàn Văn Công, (các đội văn công xung kích đƣợc
sáp nhập thành Đoàn Văn Công vào năm 1972), đội tuyên truyền vũ
trang, các ủy viên Ban, cán bộ của các Tiểu ban nhƣ: Tuyên truyền,
thông tấn, báo chí, văn nghệ, giáo dục tập trung xuống cơ sở, nong ra
vùng tranh chấp mở đợt tuyên truyền phát động quần chúng về pháp lý
Hiệp định. Từ đó góp phần thúc đẩy phong trào quần chúng nổ ra hàng
loạt cuộc đấu tranh chống địch xua quân càn quét, tràn gặp lãnh thổ,
cắm cờ lấn đất, giành dân, nhất là đợt tuyên truyền vận động sĩ quan,
binh lính ngụy quân, nhân viên ngụy quyền các cấp đấu tranh đòi địch
thi hành Hiệp định, bỏ ngũ, khởi nghĩa, binh biến trở về với gia đình
làm ăn. Đợt tấn công chính trị, binh vận phối hợp với những trận đánh
của lực lƣợng vũ trang trừng trị địch vi phạm Hiệp định đã làm tan rã
nhiều tiểu đoàn, với hàng ngàn binh sĩ chủ lực, bảo an, góp phần bẻ gãy
cuộc tập trung qui mô 75 tiểu đoàn địch đánh phá lấn chiếm bình định
vùng Long Mỹ và Phụng Hiệp, giải phóng nhiều xã, ấp, đƣa hàng trăm
ngàn đồng bào về quê cũ.
Ta giữ vững thế trận tấn công này cho đến khi có lệnh của Đảng
chuẩn bị mọi mặt để vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Vài ngày
trƣớc khi vào chiến dịch, một lực lƣợng chủ yếu ngành Tuyên huấn
phối hợp với các ngành, đoàn thể tiến vào các vùng ven, vùng tranh
chấp ở các thị trấn và thành phố Cần Thơ (trọng điểm 1 của tỉnh). Một
lực lƣợng khác tham gia chiến dịch giải phóng Chƣơng Thiện, (trọng
điểm 2 của tỉnh).
Vào chiến dịch, theo lệnh chung của cấp ủy, các binh chủng ngành
Tuyên huấn nhằm thẳng các mục tiêu tấn công và góp phần giành toàn
thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Cần Thơ (30 – 4) và
Chƣơng Thiện (1-5), hoàn thành sứ mạng vẻ vang của công cuộc chống
Mỹ, cứu nƣớc trên chiến trƣờng Cần Thơ.
57
Công tác chính trị tƣ tƣởng của Đảng bộ, thông qua hoạt động của
ngành Tuyên huấn với các binh chủng, các loại hình trong suốt 21 năm
chống Mỹ, cứu nƣớc, đã lập nên những thành tích to lớn, góp phần
cùng Đảng bộ, quân dân trong tỉnh đánh bại từng chiến lƣợt chiến tranh
qua mỗi thời kỳ (chiến tranh đơn phƣơng, chiến tranh đặc biệt, chiến
58
tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh) của Mỹ ngụy trên chiến trƣờng
Cần Thơ.
Trong 21 năm đó, từ khi mới thành lập với Ban Tuyên huấn gọn nhẹ
và một bộ phận biên tập – in ấn 5 – 7 cán bộ, đảng viên hoạt động trong
hoàn cảnh nằm gai nếm mật, hy sinh gian khổ chƣa từng có cho đến khi
có đầy đủ điều kiện cho phép, với bộ máy và hệ thống chung đƣợc hình
thành trong toàn tỉnh, từ tỉnh đến cơ sở, ngành Tuyên huấn Cần Thơ
luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng, quán triệt quan điểm cách
mạng tấn công, tinh thần tự lực, tự cƣờng, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm
và chịu trách nhiệm trƣớc cấp ủy và hoàn thành nhiệm vụ là những
chiến sĩ trên trận địa chính trị tƣ tƣởng của Đảng bộ.
59
Rất đỗi tự hào về đội ngũ ngành Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ, trong
niềm tự hào chung của Đảng bộ suốt 21 năm kháng chiến, chỉ tính riêng
Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy đã có trên 100 cán bộ lãnh đạo Ban, các tiểu
ban, cán bộ, đảng viên, nhân viên đã anh dũng hy sinh trong khi thừa
hành nhiệm vụ, một số đồng chí mang thƣơng tật suốt đời. Điều đó, đã
nêu một tấm gƣơng sáng, làm rạng rỡ truyền thống của ngành Tuyên
huấn Cần Thơ.
Với quá trình hoạt động 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc,
dƣới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, ngành Tuyên huấn Cần Thơ bên cạnh
thành tích đáng trân trọng, tuy nhiên cũng có những khuyết điểm,
nhƣợc điểm, nhƣ nhận xét và đánh giá trong lời phát biểu của đồng chí
Nguyễn Tự Giác (Mƣời Quang) Bí thƣ Tỉnh ủy Cần Thơ tại cuộc họp
mặt ngành Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ, hai tháng sau ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng, tại thị xã Vị Thanh, “Tuyên huấn Cần Thơ là một
trong các ngành trực thuộc Đảng bộ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm Đảng
giao phó trong thời kỳ lịch sử 21 năm chống Mỹ, cứu nƣớc, góp phần
xứng đáng vào thắng lợi của tỉnh nhà, cần phải đề nghị cấp trên khen
tặng phần thƣởng cao quý của Đảng và Nhà nƣớc”.
Thành tích vẻ vang ấy bắt nguồn từ các nguyên nhân:
- Đảng bộ Cần Thơ mà trực tiếp là Tỉnh ủy đánh giá đúng mức tầm
quan trọng công tác chính trị tƣ tƣởng, công tác Tuyên huấn nên đã sớm
hình thành bộ máy và lãnh đạo chỉ đạo hoạt động Tuyên huấn ngay từ
vào trận chiến đấu (tháng 7 – 1954). Không những đặc biệt quan tâm,
tạo mọi điều kiện cho ngành hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị
Tỉnh ủy giao; đi đôi còn chăm lo cho đội ngũ cán bộ trƣởng thành. Nhìn
chung Tỉnh ủy và cấp ủy Đảng các cấp rất coi trọng trận địa chính trị tƣ
tƣởng trong suốt quá trình kháng chiến chống Mỹ.
- Cấp ủy Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo sáng tạo và kịp thời toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân làm công tác chính trị tƣ tƣởng, làm công tác tuyên
truyền do ngành Tuyên huấn làm nòng cốt đã trở thành mũi nhọn phát
động và tổ chức quần chúng tấn công địch, làm cho lực lƣợng kẻ thù
phân hóa sụp đổ ý chí xâm lƣợc; lực lƣợng cách mạng không ngừng lớn
mạnh, chuyển tƣơng quan lực lƣợng đánh bại từng chiến lƣợc chiến
tranh của địch, tiến lên thắng lợi hoàn toàn.
- Đội ngũ cán bộ ngành Tuyên huấn từ các đồng chí lãnh đạo Ban,
các Tiểu ban, các bộ môn luôn nêu tinh thần và ý chí cách mạng tiến
công. Ra sức chấp hành và bám sát nhiệm vụ chính trị của cấp ủy biến
thành quyết tâm chung, hoàn thành tốt chức năng tham mƣu cho cấp ủy
trên trận địa chính trị tƣ tƣởng của Đảng; đồng thời với việc vừa thực
hiện chuyên môn nghiệp vụ, vừa cầm vũ khí tham gia đánh giặc, thể
hiện phong cách nói đi đôi với làm. Trên cơ sở đó động viên toàn thể
cán bộ, nhân viên toàn ngành hoàn thành nhiệm vụ, quần chúng nhân
dân tin yêu cán bộ Tuyên huấn và hoạt động theo cán bộ tuyên huấn.
60
- Trong quá trình hoạt động, ngành Tuyên huấn đƣợc sự giúp đỡ,
ủng hộ và phối hợp hoạt động của Mặt trận, chánh quyền, các ban
ngành, đoàn thể trong tỉnh; cùng nhau tạo mọi thuận lợi cho hoạt động
vì lợi ích chung của Đảng với ý niệm tốt đẹp. Công tác Tuyên huấn là
công việc chung của các tổ chức trong hệ thống chính trị, không riêng
của ngành, đoàn thể nào, nên đã cùng nhau gắn bó chung sức, chung
lòng lo cho sự nghiệp này. Đặc biệt là ngành Tuyên huấn đƣợc các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh nuôi dƣỡng, bảo vệ chu đáo, bất cứ tình huống
nào, khi bình thƣờng cũng nhƣ lúc gian khổ, ác liệt. Chính tấm lòng của
nhân dân trong tỉnh thƣơng yêu ngành Tuyên huấn nhƣ con em ruột thịt
của mình, đó là nhân tố vô cùng vững chắc, là một trong các nguyên
nhân tạo ra thành tích vẻ vang của ngành Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ suốt
21 năm kháng chiến chống Mỹ đầy gian lao thử thách.
61
PHẦN THỨ NĂM
CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN
TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
(5/1975 – 2000)
I. CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH TUYÊN HUẤN GÓP
PHẦN KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, ỔN ĐỊNH ĐỜI
SỐNG, KHÔI PHỤC NỀN KINH TẾ (5/1975 – 3/1976)
Đại thắng mùa xuân 1975 đã đƣa cách mạng nƣớc ta chuyển sang
giai đoạn mới – giai đoạn đất nƣớc độc lập, thống nhất và đi lên xây
dựng Chủ nghĩa xã hội.
Bƣớc sang gian đoạn mới đất nƣớc nói chung, Cần Thơ nói riêng
phải vƣợt qua nhiều khó khăn phức tạp do cuộc chiến tranh kéo dài 21
năm, chính sách thực dân mới của Mỹ để lại hậu quả rất nặng nề trong
một bộ phận quần chúng lao động và gia đình binh sĩ ở thành thị cũng
nhƣ một số vùng đồng bào tôn giáo, dân tộc Khmer về đời sống gặp
nhiều khó khăn. Tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội tuy từng bƣớc
đƣợc ổn định nhƣng cũng còn nhiều phức tạp. Tại thành phố Cần Thơ
có gần 200 ngàn sĩ quan, binh lính và nhân viên ngụy quân, nguy quyền
tan rã tại chỗ, bọn phản động còn nhiều âm mƣu ngóc đầu dậy chống
phá cách mạng. Là tỉnh đông dân cƣ, nhiều đồng bào tôn giáo, dân tộc
phần lớn sống ở vùng cơ sở ta yếu, vùng địch kềm lâu, ít hiểu chủ
trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc ta, làm cho công tác tuyên
truyền vận động cách mạng gặp nhiều khó khăn. Vả lại, vừa bƣớc sang
giai đoạn cách mạng mới trong công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội
Đảng bộ còn rất lúng túng và bỡ ngỡ. Đặc biệt là từ chiến tranh chuyển
sang hòa bình, tƣ tƣởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân có nhiều
diễn biến phức tạp. Tƣ tƣởng cũ và mới đan xen đấu tranh nhau, nhất là
trong lúc ta tiến hành cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Sau ngày giải phóng (giữa năm 1975) bộ máy Tuyên huấn từ Tỉnh
đến huyện, thành phố Cần Thơ cơ bản giữ nhƣ trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ. Ban Tuyên huấn tỉnh do đồng chí Phạm Duy Khƣơng,
Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy làm Trƣởng Ban, có 8 ủy viên Ban phụ
trách các bộ phận nhƣ: Tiểu ban Tuyên truyền, Huấn học, Văn nghệ,
Thông tấn báo chí, Ty giáo dục, Ty Văn hóa – Thông tin và Trƣờng
Đảng. Có gần 100 cán bộ, đảng viên. Lúc này cơ quan Ban Tuyên huấn
đóng tại thị xã Vị Thanh.
Xuất phát từ tình hình phức tạp nêu trên, đƣợc sự chỉ đạo chặt chẽ
của Thƣờng vụ Tỉnh ủy, toàn ngành Tuyên huấn trong tỉnh xác định
nhiệm vụ chủ yếu của công tác chính trị - tƣ tƣởng là làm cho cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân nắm vững đƣờng lối, chủ trƣơng,
62
quan điểm và Nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc; nhận thức
đúng đắn tình hình, nhiệm vụ mới. Từ đó, tạo sự thống nhất tƣ tƣởng
cao từ trong nội bộ Đảng ra đến tận nhân dân; đồng thời đập tan những
luồng tƣ tƣởng phản động, những luận điệu chiến tranh tâm lý xuyên
tạc của bọn phản động và các phần tử xấu. Ngoài những nội dung nêu
trên, các lực lƣợng tuyên truyền còn tập trung phục vụ cho từng đợt
công tác cụ thể theo yêu cầu Chỉ đạo của Tỉnh ủy: Kêu gọi xóa bỏ hận
thù, kêu gọi tàn quân ngụy ra trình diện, tuyên truyền ý nghĩa thắng lợi
vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, tuyên truyền cổ động
cho Hội nghị hiệp thƣơng thống nhất đất nƣớc, cải tạo tƣ sản mại bản,
đổi tiền (lần thứ I)…
Công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền thanh, truyền hình;
phong trào văn nghệ quần chúng đƣợc đẩy mạnh, nhất là hoạt động của
các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp và các đội chiếu phim trong kháng
chiến đƣợc phát huy, đáp ứng yêu cầu thƣởng thức văn nghệ giải trí của
quần chúng.
Song song với công tác cải tạo văn hóa – văn nghệ của Mỹ - ngụy,
thu gom các văn hóa phẩm đồi trụy, phản động, tỉnh đã đẩy mạnh
phong trào xây dựng nếp sống mới, con ngƣời mới, nhất là xây dựng
phong cách lao động, chống bó lột ăn bám, chống mê tín dị đoan, thực
hiện vệ sinh công cộng v.v…
Ban Tuyên huấn đƣợc Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cùng với các ngành
chức năng tổ chức lễ mừng chiến thắng 30 -4, 1- 5 và ra mắt Ủy ban
quân quản tỉnh Cần Thơ tại thị xã Vị Thanh, có hàng chục ngàn quần
chúng tham dự, có diễu binh của lực lƣợng vũ trang và diễu hành của
quần chúng làm tăng thêm khí thế và tinh thần phấn khởi của nhân dân
trong những ngày đầu giải phóng.
Trƣờng Đảng tỉnh lúc này biên chế thành 2 phân hiệu, liên tục mở 6
khóa cho hơn 200 cấp ủy viên cơ sở, thời khóa 40 ngày, với nội dung
chƣơng trình mới phục vụ cho tình hình nhiệm vụ trƣớc mắt.
Đến đầu tháng 3 – 1976, thực hiện Quyết định của Quốc hội nƣớc
Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tỉnh tiến hành hợp nhất 3 đơn
vị: Cần Thơ, Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang.
II. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN THỜI KỲ THÀNH LẬP TỈNH
HẬU GIANG ĐẾN ĐẠI HỘI VI CỦA ĐẢNG (3 - 1976 đến cuối
năm 1986).
Sau khi hợp nhất thành tỉnh Hậu Giang, tháng 3 – 1976, Ban Tuyên
huấn tỉnh tách ra thành lập Sở Văn hóa – Thông tin và Sở Giáo dục
tỉnh. Ban Tuyên huấn tỉnh hình thành từ 3 nguồn cán bộ: Cán bộ Tuyên
huấn 2 tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng và một bộ phận cán bộ Ban Tuyên
huấn khu Tây Nam bộ đƣợc phân công về Hậu Giang. Đồng chí Lâm
Văn Hai, Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy làm Trƣởng Ban. Có 6 Phó
63
Trƣởng Ban (có 2 Tỉnh ủy viên) phân công phụ trách các phòng nghiệp
vụ gồm: Văn phòng Ban và Thƣờng trực, Huấn học, tuyên truyền cổ
động, Văn hóa văn nghệ, Trƣờng Đảng tỉnh và Trƣởng ty văn hóa thông
tin. Vào cuối năm 1976, đồng chí Lâm Văn Hai (Mƣời Tiến) Ủy viên
Thƣờng vụ Tỉnh ủy – Trƣởng Ban Tuyên huấn bệnh qua đời. Đầu năm
1977 đồng chí Tô Bửu Giám – Phó Văn phòng Trung ƣơng cục miền
Nam tăng cƣờng cho tỉnh Cần Thơ đƣợc bổ sung vào Ban Thƣờng vụ
Tỉnh ủy làm Trƣởng Ban. Trong những năm đầu thành lập, Ban có tổng
số 53 cán bộ, nhân viên, một đội ngũ cán bộ khá mạnh so với các tỉnh
trong vùng. Một đồng chí nguyên Phó Văn phòng Trung ƣơng Cục
miền Nam (đồng chí Tô Bửu Giám), 2 đồng chí nguyên phó Văn phòng
Khu ủy Tây Nam bộ: Lâm Văn Hai (Mƣời Tiến) và Lê Phƣớc Đáng
(Sáu Chánh), 3 đồng chí nguyên ủy viên Ban Tuyên huấn khu: Nguyễn
Ngọc Sƣơng (Chín Kiên), Trần Thanh Nhã và Phạm Quang, 2 đồng chí
nguyên Phó ban Thƣờng trực Ban Tuyên huấn tỉnh: Huỳnh Thƣơng, Võ
Minh Quốc, 7 đồng chí nguyên ủy viên Ban Tuyên huấn 2 tỉnh Sóc
Trăng, Cần Thơ: Nguyễn Hữu Xinh, Trƣơng Minh Tuấn, Trần Chí Toại
(Năm Bền), Trƣơng Hoài Niệm, Đặng Hồng Khuê (Đặng Hồng),
Nguyễn Trung Vinh, Huỳnh Anh Duyệt và 10 đồng chí nguyên là ủy
viên Tiểu ban Ban Tuyên huấn 2 tỉnh và cán bộ Ban Tuyên huấn khu.
Trong 16 năm (1976 – 1992) từ thành lập tỉnh Hậu Giang đến tách
tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, có 3 đồng chí ủy viên Thƣờng vụ Tỉnht ủy
luân phiên phụ trách Trƣởng Ban: đồng chí Lâm Văn Hai (Mƣời Tiến)
từ tháng 2 -1976 đến cuối năm 1976, đồng chí Tô Bửu Giám (Năm
Giám) từ tháng 4 – 1977 đến năm 1987, đồng chí Võ Hoàng Xinh (Ba
Xinh) từ năm 1987 đến tháng 3 – 1992; có 15 đồng chí kinh qua Phó
Trƣởng ban cho đến ngày tách tỉnh.
64
Trƣờng Đảng tại chức đƣợc thành lập từ tháng 01 – 1979 đến tháng
4 – 1992, Trƣờng nhiều lần đổi tên: Trƣờng Đảng tại chức, Trƣờng Lý
Luận chính trị tại chức, Trung tâm giáo dục Chính trị. Lúc đầu thành
lập và chuyển thành Trung tâm Giáo dục Chính trị trực thuộc Ban
Tuyên huấn tỉnh.
Trƣờng Đảng tỉnh (trƣờng tập trung) lúc thành lập, Trƣờng Đảng
tỉnh trực thuộc Ban Tuyên huấn, do đồng chí ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh
ủy phụ trách Tuyên huấn làm Giám đốc, đồng chí Phó Ban Tuyên huấn
phụ trách Trƣờng làm Phó Giám đốc. Cuối năm 1977, Trƣờng trực
thuộc Tỉnh ủy, nhƣng đƣợc Tỉnh ủy ủy nhiệm Ban Tuyên huấn chỉ đạo
nghiệp vụ.
Toàn tỉnh có 14 đơn vị huyện, thị, thành (12 huyện, 1 thị xã Sóc
Trăng và thành phố Cần Thơ) đều có Ban Tuyên huấn, do một Thƣờng
vụ cấp ủy phụ trách Trƣởng Ban và từ một đến hai Phó Trƣởng Ban, có
từ 5 đến 7 cán bộ, nhân viên.
Từ năm 1976 đến năm 1989, 14 Trƣờng Đảng huyện, thị, thành trực
thuộc cấp ủy cùng cấp, do Ban Tuyên huấn tỉnh trực tiếp chỉ đạo nghiệp
vụ. Hiệu Trƣởng Trƣờng Đảng do một Thƣờng vụ cấp ủy hay cấp ủy
viên phụ trách, có từ 1 đến 2 Phó Hiệu trƣởng và 5 đến 7 cán bộ, nhân
viên. Từ năm 1989 đến tháng 4 -1992 đổi thành Trung tâm Giáo dục
chính trị trực thuộc Ban Tuyên huấn huyện, thị, thành.
Toàn tỉnh có 229 xã, phƣờng, thị trấn, ¾ đơn vị đều có Ban Tuyên
giáo, tổ chức theo phƣơng thức “lồng ghép” có đồng chí Thƣờng vụ cấp
ủy hoặc cấp ủy viên chuyên trách, hoặc phụ trách lo công tác chính trị
tƣ tƣởng huấn học. Cơ cấu các Phó Ban gồm có: Đồng chí Phó Chủ tịch
văn xã phụ trách khối Khoa giáo; đồng chí Trƣờng Văn hóa Thông tin
phụ trách tuyên truyền cổ động – văn hóa văn nghệ, có địa phƣơng
thêm đồng chí phụ trách khối vận, hoặc Đoàn Thanh niên lo công tác
tuyên truyền vận động trong Mặt trận, đoàn thể… tùy từng địa phƣơng
vận dụng.
Ban Tuyên huấn các Đảng ủy Công an, Quân sự, Dân chánh Đảng,
Đại học Cần Thơ và các Ban, ngành, đoàn thể… có mối quan hệ chặt
chẽ và chịu sự chỉ đạo của Ban Tuyên huấn tỉnh về công tác chính trị -
tƣ tƣởng, nội dung chƣơng trình đào tạo bồi dƣỡng cán bộ nghiệp vụ
của ngành.
Ngoài ra, còn thực hiện quy chế làm việc, quan hệ chặt chẽ giữa Ban
Tuyên giáo tỉnh với Sở Văn hóa – Thông tin, Sở Giáo dục, Sở Y tế, Sở
Thể dục Thể thao, Hội Văn nghệ tỉnh, các cơ quan báo, đài; chỉ đạo vận
dụng đƣờng lối của Đảng về công tác chính trị tƣ tƣởng, văn hóa văn
nghệ, tuyên truyền đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nƣớc phục vụ nhiệm vụ chính trị, các trung tâm công tác
của tỉnh và các ngày kỷ niệm truyền thống.
65
Hệ thống bộ máy Tuyên huấn có hàng ngàn cán bộ, nhân viên, thuộc
nhiều “binh chủng”, vừa làm tham mƣu cho Đảng bộ vừa thực hành
nghiệp vụ từ tỉnh đến cơ sở. Qua 16 năm thử thách trong môi trƣờng
mới, hầu hết lực lƣợng này đều vững vàng, ngày càng trƣởng thành mọi
mặt, trình độ lý luận chính trị đƣợc nâng lên, quan điểm lập trƣờng
đƣợc củng cố, có phẩm chất, đạo đức lối sống trong sáng; bám nhiệm
vụ chính trị địa phƣơng, bám chức năng nhiệm vụ chuyên môn, yên tâm
công tác, tận tụy hoàn thành nhiệm vụ, tích cực góp phần đƣa tỉnh nhà
từng bƣớc tiến lên; hàng trăm đồng chí đƣợc đề bạt vào cấp ủy, vào đội
ngũ cán bộ quản lý chủ chốt các ngành, các cấp. Đó là niềm tự hào
chính đáng về truyền thống của đội ngũ cán bộ Tuyên huấn, cán bộ
công tác chính trị, tƣ tƣởng, khoa giáo, Văn hóa – Văn nghệ tỉnh nhà.
Đầu năm 1976, cơ quan Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy từ thị xã Vị Thanh
chuyển về số 6 đƣờng Phan Đình Phùng, thành phố Cần Thơ.
Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ, Ban Tuyên huấn các cấp vừa làm
nhiệm vụ tham mƣu cho cấp ủy, vừa trực tiếp chỉ đạo các cơ quan, công
cụ thực hiện công tác nghiệp vụ trên mặt trận chính trị, tƣ tƣởng – văn
hóa, khoa giáo, văn nghệ, đào tạo bồi dƣỡng cán bộ phục vụ cho nhiệm
vụ chính trị địa phƣơng. Bám vào Nghị quyết các Đại hội toàn quốc của
Đảng, các Nghị quyết tiếp theo của Trung ƣơng Đảng, Bộ chính trị, Ban
Bí thƣ; các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và chƣơng trình hành động
của Tỉnh ủy, vận dụng vào đặc điểm tình hình trong tỉnh.
Nội dung công tác chính trị tƣ tƣởng trong nội bộ Đảng và ngoài
quần chúng thời kỳ từ 3/1976 – 1986
Ban Tuyên huấn, nòng cốt là Phòng Huấn học đã làm tham mƣu cho
cấp ủy triển khai, quán triệt các Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, V, các
Nghị quyết của Trung ƣơng Đảng, các Nghị quyết đại hội Đảng bộ tỉnh,
Nghị quyết của cấp ủy địa phƣơng, phối hợp với các ban, ngành, đoàn
thể và chỉ đạo các báo, đài tuyên truyền giáo dục sâu rộng, thƣờng
xuyên liên tục ngoài nhân dân về các Nghị quyết, chủ trƣơng, các chính
sách pháp luật của Nhà nƣớc.
* Những vấn đề chính trị tƣ tƣởng lớn trong Đảng bộ và ngoài nhân
dân đã đƣợc tập trung học tập giáo dục, tuyên truyền và thực hiện trong
thời kỳ này là:
- Về đƣờng lối cách mạng XHCN.
- Nâng cao nhận thức ý nghĩa thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nƣớc, hoàn thành triệt để cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, thống nhất nƣớc nhà tạo ra bƣớc ngoặt lịch sử đƣa cả nƣớc
chuyển sang giai đoạn cách mạng mới, cách mạng XHCN, với 2 nhiệm vụ
chiến lƣợc: Xây dựng bảo vệ Tổ quốc XHCN. Nhận rõ thuận lợi và khó
khăn của đất nƣớc, xác định đƣờng lối cách mạng XHCN nƣớc ta: Tiến
hành đồng thời 3 cuộc cách mạng; thực hiện 4 mục tiêu; đƣờng lối xây
66
dựng kinh tế; những nhiệm vụ, chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 năm;
nhiệm vụ an ninh quốc phòng… theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IV, V
của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh. Những vƣớng mắc trong
nhận thức, những bỡ ngỡ, lúng túng trong hoạt động trƣớc tình hình nhiệm
vụ mới dần dần đƣợc giải quyết.
- Ngày 30 – 4- 1975, đất nƣớc vừa mới giải phóng, thì ngày 1 – 5 –
1975, bọn diệt chủng Pôn Pốt bắt đầu gây chiến tranh xâm lƣợc ở biên giới
Tây Nam Tổ quốc. Chiến tranh ngày càng ác liệt tàn bạo, lan ra các tỉnh
biên giới, gây cho ta nhiều thiệt hại. Kế đến 17-2-1979, 600.000 quân
Trung Quốc tiến công xâm lƣợc toàn tuyến biên giới phía Bắc. Tình hình
đó, tác động rất lớn đến tƣ tƣởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vì đất
nƣớc vừa mới hòa bình lại tiếp tục đối phó với chiến tranh biên giới; Ban
Tuyên huấn giúp cho cấp ủy các cấp tổ chức triển khai học tập quán triệt
Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa IV) của Đảng, giải quyết tƣ tƣởng trong
nội bộ Đảng; đồng thời phối hợp với Mặt trận, các đoàn thể và chỉ đạo báo
đài, các công cụ tuyên truyền khác tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong
nhân dân về “tình hình nhiệm vụ mới”, chủ trƣơng của Tỉnh ủy, các lời kêu
gọi của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Trung ƣơng, của Ban Chấp hành Trung
ƣơng Đảng, lệnh tổng động viên của Chủ tịch nƣớc, Nghị định của Hội
đồng Chính phủ “quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân quyết đánh
thắng bất cứ quân xâm lƣợc nào để bảo vệ Tổ quốc”. Đảng bộ và nhân dân
một số địa phƣơng trong tỉnh đã tổ chức tiếp nhận giúp đỡ nơi ăn ở cho
hàng trăm ngàn bà con ruột thịt từ biên giới tản cƣ đến, chi viện ngƣời, của
đƣa ra mặt trận Tây Nam, làm nghĩa vụ quốc tế đối với nƣớc bạn
Campuchia, tỉnh bạn Công-pong-chơ-năng kết nghĩa… Một lần nữa nhân
dân trong tỉnh cùng cả nƣớc vui mừng phấn khởi trƣớc chiến thắng vẻ
vang: Chiến tranh xâm lƣợc biên giới Tây Nam (23-12-1978); đồng thời
giúp bạn Campuchia xóa bỏ chế độ diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt, Iêng Xari
(17-01-1979).
Một nhiệm vụ quan trọng khác, công tác Tuyên huấn giúp các cấp ủy
Đảng là tập trung giáo dục trong cán bộ, đảng viên và quần chúng các Chỉ
thị, Nghị quyết về cải tạo nông nghiệp; Chỉ thị 43 của Bộ Chính trị (4-
1978) về nắm vững và đẩy mạnh cải tạo XHCN đối với nông nghiệp ở
miền Nam”; Chỉ thị 57 của Bộ Chính trị (15-11-1978) về xóa bỏ các hình
thức bóc lột của phú nông, tƣ sản nông thôn và tàn dƣ bốc lột phong kiến”;
Quyết định của Hội đồng Chính phủ “xóa bỏ triệt để các hình thức bóc lột
tƣ bản chủ nghĩa về ruộng đất và xúc tiến điều chỉnh ruộng đất ở nông thôn
miền Nam”; các chủ trƣơng kế hoạch của Ban cải tạo nông thôn phía Nam
của Trung ƣơng và các chủ trƣơng kế hoạch cụ thể hóa của Tỉnh ủy và Ủy
ban Nhân dân tỉnh về cải tạo nông nghiệp, đƣa nông dân vào các hình thức
làm ăn tập thể từ thấp đến cao. Ngoài ra, còn quan tâm giáo dục tinh thần
đoàn kết dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới.
Sau hơn 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IV của Đảng và các Nghị
quyết Trung ƣơng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cần Thơ lần
67
thứ nhất, chủ trƣơng về tình hình kinh tế - xã hội, cải tạo nông nghiệp, về
văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị đạt đƣợc một số thành tựu quan trọng. Tình hình trong cả
nƣớc khủng hoảng kinh tế - xã hội toàn diện ngày càng bộc lộ, tình hình
sản xuất tiếp tục đình trệ, hàng tiêu dùng ngày càng khan hiếm, giá cả tăng
vọt, lƣu thông phân phối ách tắc (ngăn sông cấm chợ), thu thuế, nợ không
năm nào đạt chỉ tiêu, cải tạo nông nghiệp, công thƣơng nghiệp có nhiều sai
lầm. Nông dân không hăng hái sản xuất, đời sống của cán bộ và nhân dân
vốn đã khó khăn càng khó khăn hơn.
Có thể nói,10 năm trƣớc đổi mới (1976 – 1986) là một thời kỳ công tác
chính trị tƣ tƣởng vô cùng khó khăn, do chủ trƣơng không phù hợp, duy ý
chí. Tƣ tƣởng trong Đảng và ngoài quần chúng luôn diễn biến phức tạp,
lòng tin vào chủ trƣơng, chính sách của Đảng bị giảm sút. Những sai lầm,
thiếu sót trên có nhiều nguyên nhân, nhƣng chủ yếu là do đƣờng lối chủ
trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc chƣa phù hợp, do tƣ tƣởng nóng vội, chủ quan
duy ý chí, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chi phối nặng nề (nhƣ nhận
định của Đại hội VI). Từ năm 1981, thực hiện các chủ trƣơng, Nghị quyết
của Đảng, nhất là khi triển khai thực hiện Chỉ thị 100 Ban Bí thƣ về khoán
mới trong nông nghiệp. Ở Hậu Giang có các hợp tác xã điển hình nhƣ:
Khuân Tang (Long Phú), 19-5 (Kế Sách) và Nông trƣờng Sông Hậu (Ô
Môn) đã vƣơn lên với mô hình khoán mới trong nông nghiệp.
Công tác đào tạo bồi dƣỡng cán bộ: Sau khi hợp nhất tỉnh, Ban Tuyên
huấn Tỉnh ủy Hậu Giang đƣợc hình thành đƣợc sự gợi ý của đồng chí
Phạm Văn Kiết (Năm Vận) Phó Ban Tuyên huấn Trung ƣơng: “Hậu Giang
có đội ngũ khá mạnh, nhƣng trình độ chính trị còn hạn chế nên mở lớp dạy
chƣơng trình trung cấp cho cán bộ tỉnh Hậu Giang và các tỉnh miền Tây
cũ”. Nhƣng Ban Tuyên huấn và Ban Giám đốc Trƣờng Đảng, đƣợc sự nhất
trí của thƣờng vụ Tỉnh ủy nhận xét, trƣớc mắt trong tình hình chuyển tiếp
giai đoạn cách mạng mới, đa số cán bộ, đảng viên có nhiều bớ ngỡ, lúng
túng, cần tập trung bồi dƣỡng ngắn hạn, giáp tay cho toàn thể cán bộ, đảng
viên trong tỉnh một số vấn đề cơ bản, sau đó sẽ nâng lên dần các loại
chƣơng trình sơ, trung cấp. Theo tinh thần đó, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy và
Trƣờng Đảng thống nhất nhau biên soạn chƣơng trình ngắn ngày (10 ngày)
gồm 4 bài sau đây:
Bài 1: “Chủ nghĩa Cộng sản lý tƣởng của chúng ta” (giới thiệu ngắn
gọn về mục tiêu lý tƣởng của Đảng, các giai đoạn cách mạng phải trải qua
để đi đến xã hội cộng sản. Hiện nay ta đang ở giai đoạn nào của cách
mạng).
Bài 2: “Tình hình nhiệm vụ trƣớc mắt của Đảng bộ” (giới thiệu tóm
lƣợc Nghị quyết Đại hội I của Đảng bộ tỉnh vận dụng Nghị quyết Đại hội
IV của Đảng vào hoàn cảnh Hậu giang).
Bài 3: “Nhiệm vụ của chi bộ Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”
(gồm các loại chi bộ xã, phƣờng, thị trấn, cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, nhà
68
trƣờng, bệnh viện…), đặc biệt đi sâu công tác Dân vận hiện nay, là vận
động nhân dân ủng hộ bảo vệ, xây dựng chính quyền cách mạng, tham gia
các phong trào cách mạng thực hiện quyền làm chủ đất nƣớc của mình.
Bài 4: Tƣ tƣởng đạo đức cách mạng trong giai đoạn mới hiện nay (nhấn
mạnh yêu cầu đạo đức cách mạng hiện nay có khác hơn lúc kháng chiến, là
phải giữ vững lòng trung thành với Đảng, với dân, giữ vững phẩm chất đạo
đức trƣớc viên đạn bọc đƣờng, không lơ là mất cảnh giác, phải siêng năng
học tập nâng cao trình độ, gƣơng mẫu, tận tụy với nhiệm vụ, gắn bó phục
vụ nhân dân…).
Phƣơng thức mở lớp: Trƣờng Đảng tỉnh mở liên tục, những lớp đầu,
mời cán bộ giảng dạy chƣơng trình này (phân công sẵn) của Trƣờng Đảng
huyện đến cùng dự học, sau lớp đƣợc tập huấn nghiệp vụ. Sau đó, song
song với Trƣờng Đảng tỉnh, các Trƣờng Đảng huyện, thị, thành liên tục mở
lớp bồi dƣỡng cho đối tƣợng mình phụ trách. Do khẩn trƣơng mở lớp liên
tục, lớp này nói tiếp lớp kia, cả huyện, tỉnh cùng mở lớp, nên chỉ trong
vòng 8 tháng, đã bồi dƣỡng giáp tay cho đại bộ phận đảng viên trong tỉnh.
Sau đó, Ban Tuyên huấn cùng Ban Giám hiệu Trƣờng Đảng tỉnh xây
dựng quy hoạch kế hoạch, mở lớp liên tục (bổ sung hằng năm) theo các
loại chƣơng trình cơ sở, sơ cấp, trung cấp do Ban Tuyên huấn Trung ƣơng
biên soạn hƣớng dẫn; điều chỉnh bài vở, chỉ đạo biên soạn giáo án cho phù
hợp tình hình địa phƣơng và đặc điểm đối tƣợng học viên. Ngoài ra,
Trƣờng Đảng tỉnh còn mở lớp bồi dƣỡng các chuyên đề Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ IV, thứ V. Trong 10 năm (1976 – 1986), Trƣờng Đảng
tỉnh mở 33 khóa (gồm các loại chƣơng trình), bồi dƣỡng đào tạo 7.617 cán
bộ các loại (chủ yếu là cán bộ cơ sở).
Mấy năm sau giải phóng, theo hƣớng dẫn của Trung ƣơng, Trƣờng
Đảng tỉnh đào tạo bồi dƣỡng chủ yếu là cán bộ cơ sở (cấp ủy viên và tƣơng
đƣơng), các chức danh thƣờng vụ Huyện ủy, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở,
Ban, ngành tỉnh và đội ngũ kế cận do Trƣờng Đảng, Trƣờng ngành Trung
ƣơng và khu vực phía Nam đào tạo bồi dƣỡng. Nhƣ vây, một đội ngũ cán
bộ sơ, trung cấp còn lại rất đông đang phụ trách các công tác quan trọng:
Huyện ủy viên, Trƣởng phó ngành cấp huyện, Trƣởng phó phòng cấp tỉnh,
các chuyên viên có trình độ tƣơng đƣơng… là cán bộ trung kiên của Đảng,
lớn tuổi không thể nghỉ công tác đi dự lớp dài ngày, lại không phân công
loại trƣờng nào bồi dƣỡng, các đồng chí này có tâm trạng… thiết tha đƣợc
bồi dƣỡng.
Đƣợc sự hƣớng dẫn của Ban Tuyên huấn Trung ƣơng cho tỉnh thành lập
Trƣờng Đảng tại chức, bồi dƣỡng lý luận chính trị cho đối tƣợng cán bộ
này theo chƣơng trình lý luận trung cấp, Trƣờng Đảng tại chức tỉnh ra đời
(tháng 01 – 1979), do đồng chí Tô Bửu Giám, Ủy viên Ban Thƣờng vụ
Tỉnh ủy Trƣởng Ban Tuyến huấn làm Giám đốc, một Phó Giám đốc
chuyên trách (Huỳnh Anh Duyệt) và một Phó Giám đốc là Phó Trƣởng
69
Ban Tuyên huấn phụ trách huấn học kiêm nhiệm (Trần Thanh Nhã) và 8
cán bộ nhân viên.
Hoạt động liên tục thực hiện các loại chƣơng trình: Bồi dƣỡng kiến
thức khoa học kỹ thuật cho cán bộ lãnh đạo tỉnh; chƣơng trình lý luận
chính trị trung cấp cho cán bộ sơ, trung cấp lớn tuổi; chƣơng trình lý luận
chính trị phổ thông cho cán bộ cơ sở và đảng viên cấp tỉnh, phóng viên báo
đài, công nhân kỹ thuật; chƣơng trình triết học cho bác sĩ; chƣơng trình lý
luận chính trị cho trí thức công tác các ngành tỉnh và Trung ƣơng đóng tại
Hậu Giang; chƣơng trình các chuyên đề Nghị quyết Đại hội V của Đảng;
chƣơng trình ngắn ngày bồi dƣỡng cho cấp ủy viên cơ sở (tiếp sức với
Trƣờng Đảng tỉnh). Qua 7 năm hoạt động (1979 – 1986). Trƣờng mở 16
khóa, bồi dƣỡng cho 2.617 cán bộ các loại, trong đó có 2 khóa cho gần 200
trí thức ngoài Đảng.
Trƣờng hành chính tỉnh đào tạo bồi dƣỡng hơn 7.000 cán bộ các loại
theo các chƣơng trình. Trƣờng Quân sự, Công an tỉnh, Trƣờng Tài chính,
Công nhân kỹ thuật, Trƣờng cải tạo nông nghiệp, Trƣờng các đoàn thể đào
tạo bồi dƣỡng tập huấn nghiệp vụ cho hàng trăm ngàn cán bộ các loại.
Trƣờng Đảng huyện, thị thành liên tục mở lớp bồi dƣỡng đối tƣợng
phát triển Đảng, chƣơng trình lý luận chính trị phổ thông cho đảng viên, đã
bồi dƣỡng cho hàng chục ngàn đảng viên và đối tƣợng phát triển Đảng.
Ngoài ra, tỉnh còn đƣa hàng trăm cán bộ theo chức danh chiêu sinh, các
Trƣờng Đảng, Trƣờng ngành Trung ƣơng.
Qua các hoạt động trên, thể hiện cấp ủy các cấp, Ban Tuyên huấn,
Trƣờng Đảng các cấp, các ngành rất quan tâm công tác đào tạo bồi dƣỡng
cán bộ các loại đáp ứng yêu cầu cán bộ trong tình hình mới. Qua đó, trình
độ lý luận chính trị nghiệp vụ của cán bộ đảng viên đƣợc nâng lên, đạo đức
phẩm chất đƣợc bồi dƣỡng, nhiều đồng chí trƣởng thành, đƣợc bề bạc cất
nhắc, bầu vào cơ quan lãnh đạo quản lý các cấp. Đã góp phần xây dựng
Đảng bộ ngày càng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng bộ, đƣa phong trào cách mạng trong tỉnh từng
bƣớc tiến lên. Tuy nhiên, trong thời kỳ này công tác đào tạo bồi dƣỡng cán
bộ còn nhiều hạn chế: Chƣa trên cơ sở quy hoạch, chất lƣợng đào tạo bồi
dƣỡng thấp, có khuynh hƣớng chạy theo số lƣợng; Ban Tuyên huấn tỉnh
chƣa chỉ đạo chặt chẽ nội dung chƣơng trình bài vở (phần lý luận, chính
trị) của các trƣờng ngành; chế độ chính sách đối với giảng viên và học viên
chƣa hợp lý.
Đầu năm 1977, theo gợi ý của Ban khoa giáo Trung ƣơng, Tỉnh ủy
thành lập Ban khoa giáo (tách từ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy) do một đồng chí
Tỉnh ủy viên, Phó Ban Tuyên giáo làm Trƣởng ban (Lê Phƣớc Đáng), sau
khi đồng chí Lê Phƣớc Đáng đƣợc điều sang Ủy ban nhân dân tỉnh, đồng
chí Tô Bửu Giám, Ủy viên Thƣờng vụ Tỉnh ủy, Trƣởng ban Tuyên giáo,
kiêm nhiệm Trƣởng ban Khoa giáo. Sau đó Tỉnh ủy phân công đồng chí
Bùi Bạch Quang (Năm Tuấn) Tỉnh ủy viên làm Trƣởng ban.
70
Công tác Văn hóa - Văn nghệ: Những năm đầu sau giải phóng, tỉnh tập
trung cải tạo văn hóa văn nghệ của Mỹ - ngụy để lại. Đã tịch thu hàng chục
vạn sách báo, hàng vạn băng nhạc, phim ảnh phản động, đồi trụy. Cải tạo
trên 30 đoàn cải lƣơng, ca múa xiếc, áo thuật, mô tô bay… tƣ nhân, lập
thành 3 đoàn cải lƣơng tập thể Hậu Giang 1, 2, 3; một đoàn ca múa, xiếc
ảo thuật và một đoàn mô tô bay Hậu Giang. Hằng năm vào mùa khô và Tết
Nguyên đán, các đoàn có chƣơng trình hoạt động phục vụ đồng bào vùng
nông thôn.
Từ năm 1978 về sau, lợi dụng tình hình khó khăn chung của đất nƣớc,
địch thực hiện âm mƣu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa văn
nghệ, từ bên ngoài chúng lén lúc thâm nhập nhiều phim ảnh, tác phẩm văn
hóa văn nghệ phản động đồi trụy vào tỉnh nhà, làm ảnh hƣởng về mặt đạo
đức của nhân dân nhất là trong thanh niên. Thƣờng vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị
01 về “Xây dựng và phát triển văn hóa văn nghệ cách mạng, quyét sạch
văn nghệ văn hóa đồi trụy”. Chỉ thị đƣợc tổ chức học tập từ trong nội bộ
Đảng, văn nghệ sĩ, tuyên truyền giáo dục rộng rãi ra quần chúng; tập trung
lực lƣợng nghiệp vụ, phối hợp với các đoàn thể làm nồng cốt cho phong
trào quần chúng mở liên tiếp nhiều đợt truy quyet1 văn hóa văn nghệ phản
động đồi trụy. Tỉnh tổ chức phối hợp với thành phố Hồ Chí Minh và các
tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đồng loạt truy quyeet1 văn hóa văn nghệ
đồi trụy, phản động của địch; thành lập Hội đồng xét duyệt phim ảnh gồm:
Đại diện Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, Sở Văn hóa – Thông tin và Công ty
Chiếu bóng do đồng chí Trƣởng Ban Tuyên huấn làm chủ tịch Hội đồng
hoạt động thƣờng xuyên và kéo dài nhiều năm.
Trong thời kỳ này, tỉnh tập trung đẩy mạnh xây dựng phát triển nền văn
hóa văn nghệ cách mạng tỉnh nhà, với những nội dung hình thức phong
phú đa đạng nhƣ:
- Tập trung “Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở” trên cơ sở nghiêm
chỉnh chấp hành sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Văn hóa – Thông tin và
UBND tỉnh, bám sát và phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh, phát
triển mỗi huyện 1, 2 đội thông tin cổ động và mỗi xã có 1 đội (nơi có điều
kiện). Từ năm 1979 về sau, hằng năm điều tổ chức Hội thi thông tin cổ
động, năm 1980, đội thông tin cổ động xã Thới Lai (Ô Môn) đƣợc chọn đi
dự hội thi toàn quốc đạt thứ hạng cao. Phong trào tiếng hát “Hoa phƣợng
đỏ” cũng đƣợc phát động từ cơ sở cổ vũ trong thiếu niên, nhi đồng ở các
trƣờng học trong tỉnh, phong trào sôi nổi từ thành thị đến nông thôn tồn tại
đến ngày nay. Nhiều xã có phòng đọc sách, nhà văn hóa, phòng thông tin,
câu lạc bộ, tổ ca nhạc tài tử, thƣờng xuyên tổ chức biểu diễn văn nghệ
quần chúng v.v… đã tạo đƣợc không khí vui chơi giải trí trong nhân dân.
Tỉnh ủy rất quan tâm xây dựng đời sống văn hóa đồng bào Khmer. Từ
năm 1982, vận động đƣợc sƣ sãi nhất trí cho sử dụng tất cả các chùa
Khmer xây dựng thành tụ điểm văn hóa cho đồng bào Khmer trong phum,
sóc, có loa thông tin, phòng đọc sách (tỉnh có tờ tin hàng tuần, tạp chí
71
thông tin (hàng tháng) chữ Khmer cung cấp các tụ điểm văn hóa). Các tụ
điểm văn hóa này duy trì đến ngày nay. Đặc biệt là các sƣ sãi và đồng bào
Khmer đã hƣởng ứng chủ trƣơng của Mặt trận Tổ quốc và Ban Khmer vận
tỉnh, giảm bớt kéo dài ngày các lễ lộc và tiết kiệm trong cúng kiến trở
thành một phong trào rất tốt. Đƣợc sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Sở
Văn hóa – Thông tin đã phát động mạnh rộng khắp trong tỉnh phong trào
xây dựng nếp sống mới trong nhân dân, sau đổi lại là xây dựng “Nếp sống
văn minh gia đình văn hóa” ở các xã, ấp, phƣờng, khóm. Tỉnh, huyện, xã
có ban chỉ đạo có chƣơng trình hành động hàng quý, hàng năm. Có kế
hoạch tuyên truyền vận động, có tiêu chuẩn thi đua đăng ký thực hiện từng
gia đình, có bình xét công nhận.
Tỉnh có thƣ viện, nhà bảo tàng, công ty chiếu bóng tỉnh đƣợc thành lập
và liên tục hoạt động; đồng thời phát triển đến các huyện, thành phố Cần
Thơ và thị xã Sóc Trăng có rạp chiếu phim nhựa, chiếu video, huyện có
đội chiếu bóng tại huyện lỵ và lƣu động đến các xã. Hội Văn nghệ tỉnh
đƣợc thành lập rất sớm vào năm 1976 đã tập hợp đội ngũ văn nghệ sĩ vào
tổ chức, xuất bản nhiều đầu sách, tạp chí văn nghệ, liên tiếp hàng năm mở
các trại sáng tác và các cuộc thi văn thơ, kịch bản, mỹ thuật, nhiếp ảnh, âm
nhạc v.v… năm 1984, nhà xuất bản tỉnh ra đời, có hội đồng xuất bản, hàng
năm xuất bản từ 20 đến 40 đầu sách (cả sách chữ Khmer).
Tóm lại, hoạt động văn hóa văn nghệ của thời kỳ này làm đƣợc nhiều
việc: Cải tạo văn hóa văn nghệ của Mỹ - ngụy để lại, đấu tranh quyết liệt
chống âm mƣu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ; đồng
thời xây dựng và phát triển văn hóa văn nghệ cách mạng phong phú đa
dạng, hƣớng về cơ sở, đáp ứng một phần nhu cầu thƣởng thức văn hóa văn
nghệ cho công chúng. Tuy nhiên, ở thời điểm này đời sống văn hóa ở cơ
sở, nếp sống văn minh gia đình văn hóa, văn nghệ quần chúng… phát triển
chƣa đều khắp ở cơ sở, nhiều điển hình tốt chƣa đƣợc nhân rộng. Ban chỉ
đạo nếp sống mới của tỉnh, huyện, thị, thành phố hoạt động không thƣờng
xuyên, Hội văn nghệ hoạt động còn yếu, chƣa phát huy tốt tài năng của văn
nghệ sĩ.
III. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
(từ cuối 1986 đến tháng 4 – 1992).
Từ năm 1985, thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng sáp nhập Ban
Khoa giáo, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng và Ban Tuyên huấn đổi thành
Ban Tuyên giáo. Từ đó cơ quan Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy có biên chế 5
phòng (Phòng Huấn học, Phòng Tuyên truyền, Phòng Văn hóa – Văn nghệ,
Phòng Khoa giáo, Phòng Lịch sử Đảng và Văn phòng Ban) do đồng chí Võ
Hoàng Xinh (Ba Xinh) làm Trƣởng ban. Tổng số cán bộ, công nhân viên
biến động từ 53 (lúc mới thành lập) còn 45 khi tách tỉnh (4 – 1992). Từ đây
chức năng nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo thêm công tác sƣu tầm nghiên
cứu biên soạn Lịch sử Đảng bộ và tham mƣu cho cấp ủy chỉ đạo trên các
72
lĩnh vực công tác khoa giáo: Y tế, giáo dục, khoa học – công nghệ và môi
trƣờng, thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ trẻ em…
Ở các huyện, thị, thành phố Cần Thơ, Ban Tuyên huấn cũng đổi thành
Ban Tuyên giáo.
Đây là thời kỳ đổi mới đất nƣớc. Suốt thời kỳ này về nội dung công tác
chính trị tƣ tƣởng của Đảng bộ, tập trung làm thấu suốt trong nội bộ và
ngoài nhân dân các Nghị quyết Đại hội VI, VII của Đảng nhầm làm thay
đổi nhận thức, tƣ duy về đƣờng lối của Đảng, trƣớc nhất là đổi mới kinh tế,
xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế khoán, xóa bỏ
ngăn sông cấm chợ v.v… và các Nghị quyết tiếp theo của Trung ƣơng
Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thƣ; nghị quyết của đại hội Đảng bộ tỉnh; các
chính sách và pháp luật của Nhà nƣớc.
Về hình thức, phƣơng pháp học tập trong nội bộ Đảng cũng đƣợc đổi
mới, các Nghị quyết Đại hội, Nghị quyết Trung ƣơng Đảng thì từ Bí thƣ,
Chủ tịch xã, phƣờng, thị trấn, cán bộ sơ, trung cấp công tác tại huyện, thị,
thành, các Sở, Ban, ngành cấp tỉnh và cơ quan Trung ƣơng đóng tại địa
phƣơng tập trung về tỉnh học, do Thƣờng vụ Tỉnh ủy trực tiếp triển khai;
số đảng viên cán bộ còn lại tập trung học tập tại huyện, thị, thành do
Thƣờng vụ Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy trực tiếp truyền đạt, cán bộ đảng
viên còn lại của Sở, Ban, ngành tỉnh… do Thƣờng vụ Đảng ủy khối Dân
Chánh Đảng, Đảng ủy Công an, Quân sự tỉnh và Đảng ủy Đại học Cần
Thơ trực tiếp truyền đạt cho đối tƣợng mình phụ trách. Sau khi học giáp
tay, trở về địa phƣơng đơn vị xây dựng Nghị quyết, chƣơng trình hành
động. Với phƣơng thức này, đảm bảo đƣợc chất lƣợng học tập và số lƣợng
thƣờng đạt từ 85% đến 95% cán bộ đảng viên dự học. Tuyên truyền ra dân
do các cơ quan báo, đài, các đội thông tin cổ động huyện, xã và lực lƣợng
báo cáo viên, tuyên truyền viên tổ chức tuyên truyền liên tục tinh thần nội
dung các Nghị quyết, đƣợc Ban Tuyên giáo các cấp chỉ đạo chặt chẽ về nội
dung. Tuy nhiên, chất lƣợng học tập cho cán bộ đảng viên ở cơ sở thƣờng
bị hạn chế, chủ yếu do trình độ khả năng của cán bộ truyền đạt; tuyên
truyền giáo dục ra quần chúng diện còn hẹp.
Quá trình đổi mới, công tác chính trị tƣ tƣởng, công tác Tuyên huấn có
nhiều thuận lợi là do đƣờng lối đổi mới của Đảng hợp lòng dân, đƣợc dân
hƣởng ứng nên đạt đƣợc những thành tựu bƣớc đầu rất quan trọng từ thấp
đến cao từng lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, đan xen với những tồn tại, khó
khăn thách thức giữa cũ và mới. Trong tổ chức thực hiện Nghị quyết nặng
mặt này nhẹ mặt khác, tiến lên thiếu đồng bộ nhƣ sản xuất nói chung có
phát triển, nhƣng cải tạo nông nghiệp, công thƣơng nghiệp thì buông lỏng,
sản xuất lúa phát triển, nhƣng các loại cây trồng, vật nuôi, cải tạo vƣờn tạp
thì chậm, lĩnh vực phân phối lƣu thông có nhiều ách tắc, giá cả không ổn
định làm cho ngƣời sản xuất có nhiều băn khoăn.
73
Từ năm 1990, tình hình thế giới có nhiều biến đổi xấu, nhất là sự tan rã
một mảng lớn các nƣớc XHCN Đông Âu, Liên Xô; sự tấn công nhiều mặt
của các thế lực thù địch… Tình hình đó tác động xấu, làm cho tƣ tƣởng
trong nội bộ Đảng và ngoài quần chúng diễn biến phức tạp. Một số cán bộ
đảng viên dao động, mất lòng tin về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội của
đất nƣớc…. Công tác chính trị tƣ tƣởng lúc này bám vào các Nghị quyết
Trung ƣơng vào sự chỉ đạo của cấp ủy, lấy kết quả, thành tựu của công
cuộc đổi mới, những điển hình tốt để củng cố niềm tin, động viên tinh thần
tự lực tự cƣờng, nổ lực khắc phụ khó khăn thử thách, kiên định sự nghiệp
74
đổi mới, đổi mới toàn diện theo đúng chủ trƣơng của Đảng là con đƣờng
quyết định sự tồn vong của Đảng, của chế độ, phê phán những quan điểm
sai trái, vạch trần những luận điệu tuyên truyền phản động của các thế lực
thù địch và bọn xấu dần đất nƣớc nói chung, Cần Thơ nói riêng khắc phục
mọi khó khăn, tiếp tục giữ vững và phát triển kinh tế, ổn định đời sống
nhân dân v.v… Công tác chính trị tƣ tƣởng tập trung phát huy thành tựu
công cuộc đổi mới, xây dựng niềm tin ở sự lãnh đạo của Đảng, từng bƣớc
đẩy lùi những tƣ tƣởng, diễn biến tiêu cực trong nội bộ Đảng và ngoài
nhân dân.
75
Công tác chính trị tƣ tƣởng còn tích cực phục vụ công tác xây dựng
Đảng bộ ngày càng trong sạch vững mạnh, theo hƣớng nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm nhiệm vụ mới.
Công tác bồi dƣỡng đào tạo cán bộ: Bắt đầu thời kỳ đổi mới tƣ duy lý
luận, sách giáo khoa của các loại chƣơng trình đƣợc Ban Tƣ tƣởng Văn
hóa Trung ƣơng lần lƣợt biên soạn mới; yêu cầu bồi dƣỡng lý luận chính
trị, đào tạo cán bộ các loại cho địa phƣơng ngày càng tăng. Trƣờng Đảng
tỉnh, Trƣờng lý luận chính trị tại chức sau đổi thành Trung tâm Giáo dục
Chính trị tỉnh, Trƣờng các ngành, các đoàn thể tỉnh, Trƣờng Đảng huyện
sau đổi thành Trung tâm Giáo dục Chính trị huyện, thị, thành liên tục mở
lớp đào tạo, bồi dƣỡng cho hàng chục ngàn lƣợt cán bộ đảng viên, theo các
loại chƣơng trình mới, với phƣơng châm, phƣơng thức đào tạo nhƣ: Đƣa
lớp học về ngƣời học ở các địa phƣơng; có tập trung, có tại chức v.v…
Công tác Văn hóa – Văn nghệ: Thời kỳ này, công tác văn hóa – văn
nghệ tập trung phục vụ các chủ trƣơng của Tỉnh ủy “Năm văn hóa xã hội”,
“Năm cần kiệm xây dựng quê hƣơng tập trung cho cơ sở”… Từ các phong
trào này, các cơ sở hạ tầng ở nông thôn đƣợc xây dựng, việc ăn, ở đi lại,
học hành, trị bệnh, vui chơi giải trí của nhân dân có chuyển biến đáng kể
bƣớc đầu; đời sống văn hóa, nếp sống văn minh gia đình văn hóa; ấp, xã
văn hóa, khu vực, phòng văn hóa đƣợc hình thành có những tiêu chuẩn
đƣợc bình xét đƣợc tỉnh công nhận (sau giao cho huyện công nhận). Một
sáng tạo mới của vùng sông nƣớc, thuyền văn hóa ra đời, sau tiếp tục xe
văn hóa đã có tác dụng đƣa công tác tuyên truyền, văn nghệ đến tận quần
chúng; phong trào văn nghệ quần chúng ngày càng phát triển và mở rộng
các cuộc hội thi, hội diễn đƣợc tổ chức thƣờng xuyên hằng năm và tham
gia hội thi, hội diễn của trên (khu vực và Trung ƣơng) đƣợc nhiều giải cao.
Đặc biệt, là tỉnh tổ chức nhiều cuộc Hội thảo nhƣ: Cần Thơ Vòng Cung
1968; tội ác Mỹ Diệm, lập khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu; chiến thắng
75 Tiểu đoàn ngụy sau Hiệp định Paris 1973; về Lƣu Hữu Phƣớc, Châu
Văn Liêm, Lƣơng Định Của, lòng dân Hậu Giang đối với Bác Hồ v.v…
sau hội thảo đã in thành sách kỷ yếu. Nhiều công trình di tích lịch sử văn
hóa: Khu căn cứ Tỉnh ủy (Bà Bái – xã Phƣơng Bình, Phụng Hiệp); khu di
tích lịch sử chiến thắng Tầm Vu; khu lƣu niệm chiến thắng 75 tiểu đoàn
(xã Vĩnh Viễn – Long Mỹ); mộ cụ Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị (danh
nhân văn hóa), công viên Lƣu Hữu Phƣớc, bia di tích Đặc ủy An Nam
Cộng sản Đảng v.v… tƣợng đài chiến thắng (Đầu Sấu thành phố Cần
Thơ); đền thờ Bác (xã Lƣơng Tâm – Long Mỹ); và nhiều bia kỷ niệm
truyền thống khác đƣợc xây dựng, chỉnh trang. Các công trình lịch sử - văn
hóa…. đã có tác dụng rất lớn giáo dục truyền thống cho Đảng bộ và nhân
dân trong tỉnh.
- Về hoạt động nghệ thuật, từ các đoàn nghệ thuật tập thể, tiếp tục cải
tạo thành 3 đoàn quốc doanh (2 đoàn cải lƣơng 1, 2; đoàn ca múa nhạc
Hậu Giang và đoàn ca múa Khmer). Sau khi tái lập 2 tỉnh Cần Thơ – Sóc
Trăng, tỉnh Cần Thơ thành lập đoàn cải lƣơng Tây Đô, 1 đoàn ca múa
76
nhạc, 1 đoàn xiếc nghệ thuật; tỉnh Sóc Trăng thành lập đoàn Cải lƣơng
Chuông Vàng và đoàn ca múa Khmer.
Trong nhiều năm các đoàn nghệ thuật tỉnh Hậu Giang kiên quyết không
thực hiện chạy theo diễn viên ngôi sao (theo kiểu cạnh tranh “mua đào bán
kép”), mà ra sức xây dựng phát triển đồng đều đội ngũ tập thể diễn viên,
ƣu đãi khuyến khích diễn viên vƣợt trội trong đoàn làm nồng cốt; lành
mạnh hóa kịch bản tự biên tự diễn; ngân sách địa phƣơng đài thọ một
phần, các đoàn hoạt động tự lực kinh phí, vừa đảm bảo đời sống mọi thành
viên, vừa phát triển sự nghiệp nghệ thuật phục vụ nhân dân địa phƣơng
(tập trung phục vụ nông thôn vào mùa khô), vừa lƣu diễn các tỉnh bạn để
tăng doanh thu. Qua đó, các đoàn nghệ thuật đứng vững và hoạt động liên
tục cho đến ngày tách tỉnh.
- Đi đôi phát triển các đoàn nghệ thuật tỉnh phát triển rộng rãi mạng
lƣới phát hành và đại lý tiêu thụ băng hình, băng cassette, phục vụ nhu cầu
sinh hoạt thƣởng thức phim ảnh của nhân dân. Đồng thời tăng cƣờng hoạt
động quản lý và truy quét phim, ảnh, văn hóa phẩm phản động, đồi trụy
của địch.
Công tác khoa giáo, Ban khoa giáo sau khi sáp nhập thành Ban Tuyên
giáo, trở thành một phong nghiệp vụ của Ban, nhƣng công tác khoa giáo
tiếp tục vừa làm tham mƣu cho Tỉnh ủy về công tác khoa giáo, vừa giúp
Tỉnh ủy trực tiếp nắm các ngành trong khối nhƣ: Giáo dục, y tế, thể dục thể
thao v.v… vừa làm công tác chính trị tƣ tƣởng trong khối. Thời kỳ này tập
trung làm tham mƣu cho cấp ủy Đảng triển khai các Nghị quyết của Đảng
về lĩnh vực khoa giáo nhƣ Nghị quyết Trung ƣơng 4 (khóa VII) về thanh
niên, y tế, dân số, giáo dục, khoa học công nghệ v.v…; tiếp theo là Nghị
quyết Trung ƣơng 2 (khóa VIII) về giáo dục đào tạo khoa học công nghệ
v.v… Các Nghị quyết trên của Đảng đƣợc triển khai sâu sắc trong nội bộ
Đảng, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và các bộ chuyên môn
trong lĩnh vực khoa giáo; đồng thời tuyên truyền rộng rãi ra dân làm
chuyển biến lĩnh vực này, đã nâng cao chất lƣợng chuyên môn, phát động
tốt phong trào xã hội hóa giáo dục, y tế, thể dục thể thao và đƣa khoa học
công nghệ về cơ sở phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
tỉnh nhà. Đi đôi với nâng cao chất lƣợng và phong trào, tỉnh ta cũng tập
trung đầu tƣ cơ sở vật chất cho ngành khoa giáo nhƣ: Xây dựng trƣờng học
kiên cố cho các xã anh hùng, xây dựng các trạm và trang thiết bị cho y tế
cơ sở; đẩy mạnh xã hôi hóa, đa dạng hóa giáo dục, y tế, thể dục thể thao;
đầu tƣ các công trình nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất
và đời sống nhân dân.
Công tác sƣu tầm nghiên cứu, biên soạn lịch sử Đảng: Phòng Lịch sử
Đảng (thuộc Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy) biên chế có 5 đồng chí gồm đồng
chí Phó Ban phụ trách và 4 cán bộ. Phòng thừa kế các công việc Nghiên
cứu Lịch sử Đảng tỉnh trƣớc đây, tiếp tục sƣu tầm tƣ liệu bổ sung và biên
tập hoàn chỉnh và xuất bản 2 quyển Dự thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Cần Thơ
77
tập 1 (giai đoạn 1929 – 1945) và tập 2 (giai đoạn 1945 – 1954). Phòng
cũng đã sƣu tầm và xuất bản quyển Những viên ngọc quí (tập 1) – giới
thiệu những tấm gƣơng cao quí của các đồng chí cách mạng lão thành
trong tỉnh. Ngoài ra, phòng thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy hƣớng dẫn và
tổ chức nghiệp vụ cho các huyện, thị, thành và sở ban ngành trong tỉnh tiến
hành sƣu tầm và nghiên cứu viết lịch sử truyền thống địa phƣơng và ban
ngành.
Qua 6 năm đổi mới, Hậu Giang đạt đƣợc những thành tựu quan trọng
và toàn diện. Đặc biệt Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh chủ trƣơng năm
“Văn hóa xã hội”, năm “Cần kiệm xây dựng quê hƣơng tập trung cho cơ
sở”, không chỉ về mặt văn hóa xã hội mà giải quyết về chính trị tƣ tƣởng
rất lớn trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, vì lúc này tình hình Liên Xô
và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nên có nảy sinh ra hiện
tƣợng tƣ tƣởng xét lại truyền thống cách mạng, hay định hƣớng đổi mới
v.v… Chủ trƣơng đúng đắn của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân về văn hóa đã
giải quyết tƣ tƣởng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, trong đó có sự
đóng góp tích cực của ngành Tuyên giáo tỉnh. Tuy nhiên, công tác tuyên
giáo (trên các lĩnh vực) của Đảng bộ còn nhiều hạn chế nhƣ Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần V (tháng 10 – 1992) đánh giá:
- Nhận thức, tƣ tƣởng của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh chƣa theo
kịp sự diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nƣớc; âm mƣu,
thủ đoạn, luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, “diễn biến hòa bình” của các
thế lực thù địch chƣa đƣợc ngăn chặn kịp thời.
- Chƣa đánh giá hết những thành tựu đạt đƣợc cũng nhƣ những khó
khăn thách thức của cả nƣớc và trong tỉnh. Chƣa nhận thức đầy đủ những
quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng dƣới sự quản lý của Nhà nƣớc,
theo định hƣớng XHCN; chƣa thấy hết tầm quan trọng kinh tế quốc doanh
và tập thể để ra sức xây dựng củng cố phát triển, buông lơi kinh tế tập thể.
- Công tác văn hóa văn nghệ chƣa đáp ứng kịp thời nhu cầu bức xúc
của nhân dân, có mặt giảm sút. Đời sống văn hóa ở cơ sở, nếp sống văn
minh gia đình văn hóa, phong trào văn nghệ quần chúng diện còn hẹp, chất
lƣợng thấp, tệ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác chƣa giảm. Một số
hoạt động văn hóa không lành mạnh, phản động đồi trụy ảnh hƣởng đến
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
- Công tác đào tạo bồi dƣỡng cán bộ các loại tuy có tiến bộ, nhƣng
không trên cơ sở quy hoạch cán bộ, chƣa kiểm tra đƣợc kết quả đào tạo sau
khi học viên trở về công tác thực tiễn, chất lƣợng giảng dạy và học tập còn
nhiều hạn chế v.v…
IV. CÔNG TÁC TUYÊN HUẤN CẦN THƠ TỪ KHI TÁCH TỈNH
ĐẾN NAY (tháng 4 – 1992 đến 2000)
78
Ngày 27 – 12 – 1991, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII, Quyết định
tách tỉnh Hậu Giang trở lại thành 2 tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng. Thực hiện
Quyết định của Quốc hội, đầu tháng 4 – 1992, hai tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng
bắt đầu hoạt động và ổn định dần bộ máy các Ban ngành, các cấp trong
tỉnh. Riêng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cần Thơ, sau khi tách tỉnh còn lại 40
đồng chí, do đồng chí Võ Hoàng Xinh (Ba Xinh) Ủy viên Ban Thƣờng vụ
Tỉnh ủy làm Trƣởng ban. Tháng 3 – 1992, đồng chí Võ Hoàng Xinh
chuyển công tác khác, đồng chí Nguyễn Trung Vinh, Phó Trƣởng ban,
quyền Trƣởng ban, sau đó đồng chí Trần Văn Tƣ (Tƣ tranh) Ủy viên Ban
Thƣờng vụ Tỉnh ủy thay làm Trƣởng ban. Các Phó Trƣởng ban: đồng chí
Nguyễn Thành Lai (Thanh Hùng), Phó ban trực: đồng chí Nguyễn Trung
Vinh (Sáu Hà) phụ trách Tuyên truyền – Văn hóa văn nghệ; đồng chí Lê
Tạo (Bảy Tạo), phụ trách khoa giáo và đồng chí Lê Thế Đạt (Tƣ Đạt) phụ
trách Huấn học.
Sau khi tách tỉnh (tháng 4 – 1992) Trung tâm Giáo dục Chính trị tỉnh
chuyển thành Trƣởng Đảng tỉnh. Sau đó, (tháng 8 – 1993) Trƣởng Đảng
tỉnh và Trƣờng Hành chánh tỉnh hợp nhất thành Trƣờng Chính trị tỉnh
(tháng 8 – 1993). Trƣờng thƣờng trực Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh,
quan hệ chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy về mặt nội dung trong công
tác đào tạo bồi dƣỡng cán bộ.
Ban Tuyên giáo các huyện, thị và thành phố tiếp tục ổn định và đƣa
hoạt động vào nề nếp. Trƣởng ban, do đồng chí ủy viên Thƣờng vụ phụ
trách, có từ 1 đến 2 Phó ban từ 5 – 7 cán bộ nhân viên.
79
Trung tâm bồi dƣỡng chính trị huyện, thị và thành phố tiếp tục đƣợc
củng cố tăng cƣờng. Bộ máy có từ 5 -7 cán bộ nhân viên, có 1 Giám đốc
và 1, 2 Phó Giám đốc. Thƣờng xuyên mở lớp bồi dƣỡng lý luận chính trị,
nghiệp vụ cho đối tƣợng cán bộ các loại cơ sở và đăng cai tổ chức các khóa
Trung cấp lý luận chính trị (phối hợp với Trƣờng Chính trị tỉnh). Ban
80
Giám đốc đồng thời là cán bộ giảng dạy chuyên nghiệp và sử dụng giảng
viên kiêm chức (gồm các đồng chí Trƣởng đầu ngành cấp huyện, thị và
thành phố có khả năng).
Về bộ máy Tuyên giáo cơ sở, có 94/94 xã, phƣờng, thị trấn có Ban
Tuyên giáo hợp ghép, trong đó có 86/94 xã, phƣờng, thị trấn Ban Tuyên
giáo có đồng chí cấp ủy viên chuyên trách, 8 xã do Bí thƣ hoặc Phó Bí thƣ
kiêm nhiệm. Thế nhƣng từ khi triển khai Nghị định 09 của Thủ tƣớng
Chính phủ quy định số lƣợng và chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã,
phƣờng, thị trấn; năm 1998 thì bộ máy Tuyên giáo cơ sở gặp nhiều khó
khăn, do qui định đồng chí Phó Bí thƣ cấp ủy kiêm nhiệm Trƣởng Ban
Tuyên giáo nên Ban Tuyên giáo xã, phƣờng không có đồng chí chuyên
trách, kinh phí hạn hẹp, do đó, một số Ban Tuyên giáo hoạt động khó khăn
sa sút. Đến đầu năm 2000, bộ máy Tuyên giáo xã, phƣờng, thị trấn đã ổn
định lại.
Từ tháng 6 – 1996 đến nay (cuối năm 2000), lãnh đạo Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy có nhiều thay đổi, đồng chí Phạm Thanh Vận, Ủy viên Thƣờng vụ
Tỉnh ủy về làm Trƣởng ban, đồng chí Nguyễn Thành Lai (Thanh Hùng),
đồng chí Lê Thế Đạt chuyển công tác khác. Thƣờng vụ Tỉnh ủy đề bạt 3
Phó Trƣởng ban mới: đồng chí Phạm Minh Khải, đồng chí Mai Thị Hằng,
đồng chí Hồ Văn Hoàng (tháng 3-1997), điều động đồng chí Võ Minh
Quang, Giám đốc Đài Phát thanh – Truyền hình Cần Thơ về làm Phó ban,
kiêm Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam tỉnh Cần Thơ (tháng 6-1999), đầu
năm 2000, đồng chí Nguyễn Hoàng Anh, Tỉnh ủy viên về làm Trƣởng Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy thay đồng chí Phạm Thanh Vận.
Trong những năm này, Ban Tuyên giáo làm tham mƣu và giúp Tỉnh ủy
triển khai liên tục các: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII và các
Nghị quyết tiếp theo của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng. Đặc biệt là
Nghị quyết Trung ƣơng 3, Nghị quyết Trung ƣơng 6 (lần 2) (khóa VIII) và
cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Đại hội VIII, Đại hội
IX của Tỉnh Đảng bộ. Ban Tuyên giáo phối hợp với các ngành chức năng
dự thảo chƣơng trình hành động của Tỉnh ủy; triển khai các Chỉ thị, chủ
trƣơng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc và của chính quyền địa
phƣơng. Đồng thời, chỉ đạo hệ thống Tuyên giáo các cấp, Tuyên huấn các
Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy, Tuyên huấn các ban, ngành, đoàn thể tham
mƣu cho cấp ủy Đảng chỉ đạo thành công Đại hội Đảng bộ các cấp trong
tỉnh; tổng hợp ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân đóng góp vào dự
thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII; Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ IX.
Vạch ra chƣơng trình, kế hoạch làm nòng cốt tổ chức triển khai và thực
hiện các Nghị quyết của Đảng thông suốt từ trong nội bộ Đảng ra quần
chúng cốt cán ngày càng đạt số lƣợng và chất lƣợng cao. Trong nội bộ
Đảng từ Tỉnh đến cơ sở học Nghị quyết đều đạt từ 95% trở lên, cán bộ cốt
cán đạt tỷ lệ từ 70 – 80% và ra dân đạt tỷ lệ từ 50% trở lên. Riêng Nghị
quyết Trung ƣơng 7 (khóa VIII) và đề cƣơng di chúc Bác Hồ, 5 lời thề
81
vĩnh biệt Ngƣời của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa III) cũng
đƣợc tổ chức học tập rộng rãi trong cán bộ, đảng viên.
Nét nổi trong công tác triển khai Nghị quyết của những năm này là luôn
đổi mới phƣơng pháp triển khai. Sau mỗi đợt học tập đều có sơ, tổng kết,
đánh giá rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lƣợng truyền đạt của báo cáo
viên và xây dựng cho cán bộ, đảng viên ý thức tự giác, xem học tập Nghị
quyết vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, Ban Tuyên
giáo phối hợp chặt chẽ với Ban Dân vận, các cơ quan đoàn thể, các cơ
quan báo đài học tập, tuyên truyền các Nghị quyết của Đảng sâu rộng trong
quần chúng cốt cán và nhân dân.
Về công tác đào tạo bồi dƣỡng cán bộ, Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp rất
quan tâm công tác này, thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng sáp nhập
Trƣờng Đảng tỉnh và Trƣờng Hành chánh tỉnh thành Trƣờng Chính trị tỉnh,
trực thuộc Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh; kinh phí hoạt động Trƣờng
chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi dƣỡng chính trị huyện, thành phố, do
ngân sách Nhà nƣớc cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đào tạo bồi
dƣỡng cán bộ địa phƣơng. Từ tháng 4 – 1992 (tách tỉnh) đến năm 2000
tỉnh đã đào tạo bồi dƣỡng hàng trăm nghìn lƣợt cán bộ, đảng viên theo các
loại chƣơng trình.
Khối lƣợng cán bộ, đảng viên đƣợc đào tạo bồi dƣỡng trong thời kỳ này
đông nhất so với các thời kỳ trƣớc đây, đáp ứng nhu cầu cán bộ trƣớc tình
hình nhiệm vụ mới, trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ, năng lực công tác,
đạo đức phẩm chất của đội ngũ cán bộ đƣợc nâng lên một bƣớc. Kinh phí
hoạt động đƣợc tăng hàng năm, chế độ chánh sách trong đào tạo bồi dƣỡng
cán bộ đƣợc cải tiến một bƣớc, nên cán bộ giảng dạy yên tâm, phấn khởi
hơn trong công tác. Chƣơng trình bài vở lý luận chính trị đƣợc Trung ƣơng
quan tâm cải tiến, biên soạn theo hƣớng đổi mới tƣ duy lý luận gắn với
quan điểm đƣờng lối đổi mới của Đảng. Các chƣơng trình tập huấn nghiệp
vụ thiết thực, bổ ích. Cơ sở vật chất của trƣờng đƣợc xây dựng, nâng cấp.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy luôn xem công tác giáo dục lý luận chính trị là
một bộ phận trọng yếu trong công tác tƣ tƣởng, nên đã kiên trì giữ vững và
phát huy vai trò Trƣờng Đảng nay là Trung tâm bồi dƣỡng chính trị huyện,
thị, thành xuyên suốt từ hòa bình cho đến nay. Đặc biệt từ năm 1992 đến
nay, các trung tâm chính trị các huyện, thị, thành đều phát huy tốt chức
năng nhiệm vụ của mình, hoạt động liên tục, đã bồi dƣỡng nâng cao trình
độ lý luận cho hàng trăm ngàn lƣợt cán bộ cơ sở trong toàn tỉnh, đã góp
phần tích cực vào công tác xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ngày càng
vững mạnh.
Phƣơng thức đào tạo bồi dƣỡng cán bộ đƣợc thực hiện khá sinh động và
đa dạng tùy theo điều kiện cụ thể: Tập trung, tại chức, dài hạn, ngắn hạn;
mở tại chức, tập trung theo cụm xã, hay từng xã. Nội dung chƣơng trình và
phƣơng pháp đào tạo luôn đƣợc cải tiến thiết thực và cụ thể. Thực hiện các
chƣơng trình bồi dƣỡng cán bộ theo hƣớng dẫn của Trung ƣơng; đồng thời
82
có những chƣơng trình thiết thực của địa phƣơng. Các chƣơng trình gồm:
Chƣơng trình lý luận chính trị phổ thông; chƣơng trình bồi dƣỡng chức
danh trƣởng ấp, khu vực; chƣơng trình bồi dƣỡng cấp ủy Đảng; chƣơng
trình bồi dƣỡng đối tƣợng phát triển Đảng; chƣơng trình bồi dƣỡng đảng
viên mới; chƣơng trình bồi dƣỡng cho cán bộ Tuyên giáo cơ sở. Liên kết
với chính quyền, mặt trận, các đoàn thể mở các chƣơng trình chuyên ngành
cho cán bộ xã ấp. Bộ máy các trung tâm huyện, thị, thành có từ 5 đến 7
đồng chí, đƣợc củng cố và đi vào hoạt động nề nếp. Cơ sở vật chất tiếp tục
đƣợc nâng cấp và xây dựng thêm khá khang trang.
Thời kỳ này, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo nâng cao chất
lƣợng công tác giảng dạy và học tập, đã tổ chức các lớp thí điểm rút kinh
nghiệm và hƣớng dẫn triển khai thực hiện chƣơng trình bồi dƣỡng chức
danh trƣởng ấp; dự giờ rút kinh nghiệm giảng dạy của các giảng viên ở các
trung tâm bồi dƣỡng chính trị các huyện, thị, thành. Tổ chức tổng kết 4
năm thực hiện Quyết định 100 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng về hoạt
động của Trung tâm bồi dƣỡng chính trị huyện, thành phố Cần Thơ, rút ra
những bài học, nêu những kiến nghị với Đảng, Nhà nƣớc giải quyết các
mặt vƣớng mắc, tồn tại để các trung tâm hoạt động thuận lợi. Tổ chức hội
thảo nâng cao chất lƣợng giảng dạy, học tập lý luận chính trị và nâng cao
chất lƣợng giảng dạy chƣơng trình phát triển Đảng ở trung tâm bồi dƣỡng
các huyện, thị, thành đƣợc các địa phƣơng hoan nghênh. Ngoài ra, Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy còn tổ chức tập huấn bồi dƣỡng chính trị cho cán bộ
và giảng viên ở các trƣờng, đã tạo nên phong trào học tập chính trị, khắc
phục đƣợc tình trạng ngán ngại học tập chính trị nhƣ trƣớc đây. Nhất là từ
khi có Quy định số 54 – QĐ/TW về chế độ học tập lý luận chính trị trong
Đảng.
Công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng trong thời kỳ này đã góp phần
nâng cao nhận thức tƣ tƣởng, quan điểm lập trƣờng chính trị cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân trong tỉnh nhƣ: Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, đã giải
tỏa đƣợc những băng khoăn, vƣớng mắc, đi đến thống nhất tƣ tƣởng, thống
nhất hành động; củng cố lòng tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng, điều hành
của Nhà nƣớc từ đó an tâm công tác, cố gắng học tập chính trị, văn hóa,
chuyên môn, nghiệp vụ và pháp luật… Các chi bộ, Đảng bộ tiếp tục đƣợc
củng cố nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, thể hiện đƣợc vai trò tiêu
biểu, gƣơng mẫu, hạt nhân lãnh đạo ở cơ sở và trên từng lĩnh vực công tác.
Công tác Tuyên truyền - Văn hóa văn nghệ: Từ năm 1995, Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy tham mƣu cho cấp ủy tổ chức học tập làm thông suốt nội bộ
Đảng và trong các cơ quan báo chí – xuất bản về tinh thần Chỉ thị số:
22.CT/TW của Bộ Chính trị, nhằm nâng cao nhận thức, nắm vững các
quan điểm, định hƣớng hoạt động của báo chí – xuất bản trong thời kỳ đổi
mới; Đồng thời, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy cùng với Ban cán sự Đảng, Ủy
ban nhân dân tỉnh quy hoạch mạng lƣới báo chí - xuất bản, các tờ tin tập
san trong tỉnh phát triển đúng hƣớng, đúng quy định của pháp luật. Chỉ đạo
83
giúp báo Cần Thơ tăng từ 2 kỳ lên 3 kỳ/tháng và số lƣợng phát hành tăng
dần lên. Hiện Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đang giúp báo Cần Thơ sớm hội đủ
điều kiện để đầu năm 2001 ra báo ngày đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu
Long. Chỉ đạo giữ vững, củng cố hệ thống phát thanh và nâng chất lƣợng
của truyền thanh, thông tin ấp đƣợc mở rộng và nâng cấp, ngày càng tỏ rõ
là tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh. Đặc biệt là
đài phát thanh không ngừng cải tiến về nội dung và hình thức, có các trang
tin địa phƣơng và qua đƣờng điện thoại nên tin đƣợc kịp thời và phong
phú. Riêng về truyền hình, tỉnh đã có nhiều nỗ lực cao đã phát hình bằng
máy 3KW, đến năm 2001 lên 10KW phủ sóng trong toàn tỉnh, với nhiều
chƣơng trình phong phú đa dạng, nhất là chuyên mục về nông nghiệp,
nông thôn, về khoa học kỹ thuật phục vụ cho sản xuất và đời sống v.v… đã
đƣợc nhân dân trong tỉnh hoanh nghênh.
Ban Tuyên giáo đã soạn thảo kế hoạch, đề cƣơng hƣớng dẫn nội dung,
hình thức tuyên truyền, tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn hằng năm; hƣớng
dẫn tuyên truyền thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở để phát huy năng lực,
trí tuệ của nhân dân, tăng cƣờng sự giám sát của dân đối với cán bộ, đảng
viên và với ngƣời lãnh đạo. Hƣớng dẫn tuyên truyền bầu cử Quốc hội
(khóa X), bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp và chủ trƣơng chính sách lớn
của Đảng và Nhà nƣớc. Trên cơ sở đó, Ban Tuyên giáo các huyện, thị,
thành, Tuyên huấn các Đảng ủy và đoàn thể các cấp chủ động làm tham
mƣu cho cấp ủy lãnh đạo các ban ngành, đoàn thể tổ chức tốt các hoạt
động, tạo không khí thi đua lao động, học tập sôi nổi, thiết thực góp phần
nâng cao nhận thức chính trị, chính sách pháp luật và hiểu biết lịch sử
truyền thống của địa phƣơng.
Chỉ đạo các cơ quan truyền thông đại chúng tuyên truyền kịp thời và
sâu rộng để nhân dân ngày càng hiểu sâu sắc đƣờng lối, chủ trƣơng, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc; các chủ trƣơng xóa đói giảm
nghèo, đền ơn đáp nghĩa, phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa”. Tuyên truyền động viên toàn dân tham gia xây dựng và thực
hiện các thiết chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hóa nội dung các tiêu chí “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và tổ chức thực hiện các qui chế ở cơ
sở, trƣớc hết là ở các cơ sở thuộc các cơ quan tƣ tƣởng – văn hóa. Nhất là
hiểu về công cuộc đổi mới của đất nƣớc; về kinh tế hợp tác, hợp tác xã; về
phát triển nông thôn toàn diện theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
các sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội nổi bật trong và ngoài nƣớc,
cũng nhƣ trong tỉnh.
Thời kỳ 1996 – 2000, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy giữ vững định kỳ họp
báo cáo viên, họp giao ban an ninh tƣ tƣởng cấp tỉnh hàng tháng; họp báo
với báo, đài hàng tuần (vào chiều thứ 6) để nắm và cung cấp thông tin,
định hƣớng chỉ đạo tuyên truyền tuần đƣợc kịp thời. Đội ngũ báo cáo viên
cấp huyện, thị, thành ổn định và đƣợc nâng cao chất lƣợng truyền đạt
thông tin. Báo cáo viên các ngành cấp tỉnh và lực lƣợng tuyên truyền viên
cấp xã, phƣờng, thị trấn không ngừng đƣợc củng cố, mở rộng và từng bƣớc
84
đi vào hoạt động nề nếp. Mỗi huyện, thị, thành phố có từ 8 đến 10 báo cáo
viên thƣờng trực, mỗi xã, phƣờng đều có báo cáo viên, phần lớn là cấp ủy
Đảng; Ban ngành cấp tỉnh đều có từ 2 đến 3 đồng chí báo cáo viên.
Tập san Thông tin công tác tƣ tƣởng của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đƣợc
ra đời từ năm 1990, tập san này luôn đƣợc cải tiến nâng cao chất lƣợng và
phát hành thƣờng xuyên (1 số/tháng) đến tận chi bộ ấp để làm tài liệu sinh
85
hoạt cho chi bộ và làm cơ sở cho báo cáo viên tuyên truyền. Ngoài ra, Ban
Tuyên giáo còn tổng hợp thêm tƣ liệu biên soạn tài liệu tuyên truyền cung
cấp cho báo cáo viên, tuyên truyền viên làm cơ sở tuyên truyền trong Đảng
bộ và ngoài quần chúng nhân dân, nhất là sau khi có Thông báo 71.TB/TW
của Thƣờng vụ Bộ Chính trị về tăng cƣờng lãnh đạo và đổi mới công tác
tuyên truyền miệng, các hoạt động báo cáo viên, tuyên truyền viên đƣợc
chú trọng đẩy mạnh và nâng cao chất lƣợng hoạt động hơn.
Với vai trò nòng cốt, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy chủ động chỉ đạo hƣớng
dẫn thƣờng xuyên, liên tục đấu tranh chống âm mƣu “diễn biến hòa bình”,
tiến công trên mặt trận tƣ tƣởng – văn hóa; kịp thời đấu tranh phê phán các
quan điểm sai trái với cƣơng lĩnh, đƣờng lối, Điều lệ Đảng, để bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ thành quả công cuộc đổi mới của
Đảng.
Tháng 12 năm 1998, Tỉnh ủy triển khai thực hiện Nghị quyết Trung
ƣơng 5 (khóa VIII); các Chỉ thị 64 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng, Nghị
định 87, 88 của Chính phủ và Chỉ thị 814 của Thủ tƣớng Chính phủ đã góp
phần tích cực trong công tác quản lý, lập lại trật tự kỷ cƣơng, ngăn chặn
các hiện tƣợng văn hóa – văn nghệ kém lành mạnh, phản động đồi trụy.
Kế thừa và phát huy những truyền thống, thành tựu văn hóa, văn nghệ.
Đặc biệt là từ năm 1990 thực hiện năm “Văn hóa – xã hội”, tiếp theo là
năm “Cần kiệm xây dựng quê hƣơng tập trung cho cơ sở”, Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy quan tâm chỉ đạo ngành hữu quan (Sở Văn hóa Thông tin) xây
dựng, củng cố và nâng cao chất lƣợng hoạt động mô hình văn hóa cơ sở.
Thành lập Ban chỉ đạo “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh các cuộc vận động của Mặt trận Tổ quốc,
ngành Công an, Văn hóa – Thông tin… góp phần nâng cao đời sống văn
hóa, tạo bộ mặt nông thôn, thành thị có nhiều đổi mới. Đồng thời góp phần
thông qua qui hoạch xây dựng và tôn tạo các công trình văn hóa nhƣ: Đền
thờ Bac Hồ (xã Lƣơng Tâm), bảo tàng, Trung tâm văn hóa tỉnh, di tích
Khám lớn, khu di tích chiến thắng 75 tiểu đoàn địch, khu lƣu niệm tội ác
Mỹ diệm, lập khu Trù Mật Vị Thanh - Hỏa Lựu; nhà truyền thống, phòng
đọc sách, thƣ viện; đẩy mạnh phong trào văn nghệ quần chúng, Câu lạc bộ
đờn ca “Tài tử”; các hội thi, hội diễn, triển lãm ảnh nghệ thuật v.v… Nổi
bật là đã giúp Tỉnh ủy củng cố chấn chỉnh Hội Văn nghệ tỉnh và phục hồi
hoạt động tập san văn nghệ của Hội, tổ chức các trại sáng tác, các cuộc thi
v.v… góp phần thúc đẩy phong trào văn nghệ trong tỉnh phát triển.
Trong thời kỳ này, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã làm tham mƣu cho Tỉnh
ủy triển khai sâu rộng trong nội bộ và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung
ƣơng 2 (khóa VIII) về giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ. Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy quan hệ chặt chẻ hơn các ngành chức năng chỉ đạo việc chấn
chỉnh việc dạy thêm và học thêm; việc bồi dƣỡng chính trị hè cho giáo
viên về nội dung các Nghị quyết Đại hội VII,VIII của Đảng và các Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VIII, IX đem lại hiệu quả, đã nâng lên bƣớc
86
nhận thức về Đảng, về đƣờng lối, quan điểm của Đảng. Chỉ đạo các kỳ thi
tốt nghiệp chặt chẽ, đạt chất lƣợng tốt. Đối với lĩnh vực khoa học công
nghệ môi trƣờng, Ban đã giúp cấp ủy tổ chức triển khai làm thông suốt
trong nội bộ và ngoài nhân dân bằng hệ báo đài, các công cụ tuyên truyền
về Chỉ thị 36 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trƣờng và khoa học công
nghệ thiết thực phục vụ đời sống nhân dân.v.v…
Về sƣu tầm nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng. Trƣớc tình hình việc
biên soạn lịch sử Đảng, lịch sử truyền thống cách mạng của các địa
phƣơng, ban ngành tiến hành chậm, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã tham mƣu
cho Tỉnh ủy ra Đảng văn nhắc nhở cho các Huyện ủy, Thị ủy, Thành ủy
chỉ đạo địa phƣơng tiến hành việc viết lịch sử Đảng bộ địa phƣơng. Ban
Tuyên giáo Tỉnh ủy đã đặt ra một tiêu chuẩn thi đua cho Ban Tuyên giáo
các cấp. Việc sƣu tầm, nghiên cứu viết lịch sử Đảng bộ địa phƣơng. Từ đó
việc sƣu tầm biên soạn lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống cách mạng
các địa phƣơng có tiến bộ hơn, đến năm 2000 có 4 huyện và thị xã Vị
Thanh đã hoàn thành quyển lịch sử Đảng bộ (giai đoạn 1930 – 1975) và 11
xã, phƣờng đã viết lịch sử truyền thống cách mạng địa phƣơng. Ban ngành
cấp tỉnh có Công an tỉnh và Tỉnh đội đã hoàn thành lịch sử ngành, từ khi
thành lập ngành đến năm 1975. Một số ngành khác nhƣ: Bƣu điện, Phụ nữ
tỉnh đã hoàn thành cơ bản lịch sử ngành. Riêng bộ phận nghiên cứu lịch sử
Đảng của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã sƣu tầm biên soạn dự thảo lịch sử
Đảng bộ tỉnh Cần Thơ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn từ năm
1954 đến năm 1968. Ngoài ra, đã sƣu tầm biên soạn và xuất bản tập Bà
mẹ Việt Nam anh hùng, Những viên ngọc quý tập 2, tập Anh hùng lực
lƣợng vũ trang tỉnh Cần Thơ .v.v…
Công tác sƣu tầm nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng, lịch sử truyền
thống các địa phƣơng, ban ngành có nhiều cố gắng, nhìn chung còn chậm
chƣa đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của Tỉnh ủy.
Tóm lại trong 25 năm qua, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cần Thơ đã bám
sát nhiệm vụ chính trị của Tỉnh Đảng bộ, đƣợc sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban
Văn hóa – tƣ tƣởng Trung ƣơng và Thƣờng vụ Tỉnh ủy Cần Thơ, Ban
Tuyên giáo phấn đấu liên tục và căn cơ, phục vụ có hiệu quả trên lĩnh vực
giáo dục lý luận chính trị và lãnh đạo công tác tƣ tƣởng – văn hóa, khoa
giáo, sƣu tầm, nghiên cứu viết lịch sử Đảng bộ, lịch sử truyền thống của
địa phƣơng .v.v… đã góp phần đắc lực vào thắng lợi chung của sự nghiệp
đổi mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội tỉnh nhà phát triển và xây dựng hệ thống
chính trị ngày càng vững mạnh.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KINH NGHIỆM
I. KẾT LUẬN
Nhìn lại truyền thống vẻ vang của ngành Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ, từ
hoạt động ban đầu đến hoạt động có tổ chức dƣới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy;
từ tuyên truyền vận động bí mật bằng tuyên truyền miệng, rỉ tai, rải truyền
đơn, khẩu hiệu, báo chí, tin tức đến tổ chức mít tinh diễn thuyết, trong sinh
87
hoạt, các cuộc hợp tổ, đội du kích, các tổ chức công, nông, thanh, phụ, Mặt
trận Việt Minh kêu gọi quần chúng đứng lên đấu tranh lật đổ chế độ áp bức
bóc lột của thực dân phong kiến. Đến khi có thời cơ Ban Tuyên huấn đã
cùng các ngành, các cấp phát động toàn dân đồng loạt nổi dậy mạnh mẽ,
với ý chí bạo lực cách mạng giành chính quyền trong cách mạng tháng 8 –
1945, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trƣờng kỳ đánh
thắng thực dân Pháp xâm lƣợc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc qua các giai đoạn địch
xem Cần Thơ là chiến trƣờng trọng điểm nên tập trung các loại binh chủng
đánh phá ác liệt, sử dụng các phƣơng tiện chiến tranh hiện đại nhất, kể cả
B52 rải thảm, chất độc hóa học .v.v… Có lúc địch tập trung cao nhất lến
đến 75 lƣợt tiểu đoàn sau Hiệp định Pari 1973, có thời kỳ chúng tập trung
quân Mỹ, quân chƣ hầu và quân ngụy phản kích đánh phá liên tục, ác liệt
với mật độ bom đạn cao chƣa từng có, đóng đồn bót dày đặc, nhất là sau
Tổng tấn công Mậu Thân 1968; địch không từ bỏ một hành động tàn bạo,
dã man nhƣ: Chặt đầu, moi gan, rút ruột v.v… hòng đè bẹp ý chiến đấu của
cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, tiêu diệt Đảng bộ và phong trào cách
mạng tỉnh nhà. Đây là thời kỳ khó khăn của tỉnh nhà, cũng là thời kỳ khó
khăn rất lớn của ngành Tuyên huấn, đã có nhiều đồng chí dũng cảm hy
sinh, ăn chuối thay cơm, nằm hầm ngủ bụi, vô cùng vất vả v.v… Với tinh
thần chịu đựng gian khổ hy sinh, phát huy ý chí cách mạng tiến công, đội
ngũ làm công tác Tuyên huấn từ tỉnh, huyện đến xã luôn luôn vững vàng là
những chiến sĩ tiên phong trong mặt trận chính trị tƣ tƣởng, dũng cảm lăn
xả vào những nơi ác liệt nhất để đƣa đƣờng lối chủ trƣơng, chính sách của
Đảng, đƣa thông tin kịp thời đến quần chúng, cổ vũ, động viên tinh thần
của quần chúng xông lên cùng với Đảng đánh địch giành từ thắng lợi này,
đến thắng lợi khác và giành thắng lợi hoàn toàn, Đại thắng mùa xuân 1975.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, với đội ngũ cán bộ Tuyên
huấn đƣợc tôi luyện và dày dạn kinh nghiệm trong chiến tranh chống kẻ
thù xâm lƣợc, nay tiếp tục phát huy ƣu điểm trên, lao vào cuộc chiến mới
vô cùng gay go, phức tạp và ác liệt hơn, đó là giai đoạn đấu tranh “ai thắng
ai” giữa 2 con đƣờng: Xã hội chủ nghĩa và tƣ bản chủ nghĩa, với 2 nhiệm
vụ chiến lƣợc: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đƣa
nƣớc ta trở thành một nƣớc công nghiệp.
II. KINH NGHIỆM
Qua hoạt động thực tiễn, ngành Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ đã rút ra một
số kinh nghiệm:
1- Mặc dù trải qua những thời kỳ thăng trầm của cách mạng, những
năm tháng cực kỳ gian khổ ác liệt, đầy thử thách, nhƣng các thế hệ của đội
ngũ cán bộ Tuyên huấn vẫn vững vàng kiên trung chiến đấu, không chùn
bƣớc, không ngại hy sinh, luôn luôn làm tròn những nhiệm vụ lớn lao,
phức tạp mà Đảng và nhân dân giao phó. Trải qua suốt chiều dài lịch sử
88
trên 70 năm qua từ khi Đảng ra đời, 2 cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ và cho đến ngày nay, trong gian lao “Lửa thử vàng, gian
nan thử sức”, đội ngũ Tuyên huấn luôn luôn trung thành với Đảng, với
dân, đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định góp phần vào sự thắng lợi vĩ đại
của Đảng, tạo sự nhất trí về chính trị và tinh thần cho toàn xã hội, tạo ra
động lực thúc đẩy cách mạng tiến lên qua các thời kỳ dẫn đến thắng lợi
hoàn toàn, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
thống nhất đất nƣớc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Suốt quá trình lịch sử, công
tác Tuyên huấn đã giúp Đảng bộ đào tạo lớp lớp cán bộ cho tỉnh nhà, một
đội ngũ cán bộ cách mạng một lòng trung thành tuyệt đối mục tiêu lý
tƣởng cao cả của Đảng, tuyệt đối tin tƣởng vào sự lãnh đạo của Đảng và
Bác Hồ kính yêu. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc
đầy gian khổ ác liệt đã có hàng trăm cán bộ Tuyên huấn dũng cảm hy sinh,
đội ngũ kế tiếp sẵn sàng lao tới xả thân vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang
của dân tộc. Trong quá trình cách mạng, ngành Tuyên huấn vừa tự xây
dựng cho mình, còn bổ sung cho Đảng bộ và các ngành, hàng trăm cán bộ
lãnh đạo, quản lý xuất thân từ Tuyên huấn.
Đây là truyền thống vẻ vang là bài học bao trùm và là niềm tự hào
chính đáng của ngành Tuyên huấn tỉnh nhà.
2- Trong mọi giai đoạn cách mạng, mọi tình huống, ngành Tuyên huấn
biết nắm vững nguyên tắc: Chủ động tiến công, tính chiến đấu, tính quần
chúng v.v… trong toàn bộ hoạt động của ngành. Nắm chắc và bám sát
phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, bám sát đƣờng lối chủ trƣơng
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc mà tuyên truyền giáo dục
làm thông suốt trong Đảng và ngoài nhân dân. Nắm vững chức năng tham
mƣu đắc lực cho cấp ủy Đảng; đồng thời điều hành các binh chủng chuyên
môn của ngành trực tiếp chiến đấu và sáng tạo những hình thức phƣơng
pháp có hiệu quả phù hợp từng đối tƣợng, sát với tình hình từng thời kỳ,
từng nơi, từng lúc triển khai công tác Tuyên huấn phục vụ nhiệm vụ chính
trị đạt hiệu quả. Thông qua quá trình hoạt động mà xây dựng lực lƣợng,
kiện toàn bộ máy Tuyên huấn đông về số lƣợng và mạnh về chất lƣợng từ
tỉnh đến cơ sở, lấy sự chuyển biến của cơ sở, phát triển toàn diện của
phong trào cách mạng trong tỉnh làm thƣớc đo chất lƣợng của công tác
Tuyên huấn phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.
3- Bất cứ thời kỳ nào, ngƣời cán bộ ngành Tuyên huấn trƣớc hết cần
nhận rõ mình đƣợc Đảng giao nhiệm vụ là ngƣời tham mƣu và thực hiện
trận địa chính trị - tƣ tƣởng. Do đó, đòi hỏi ngƣời cán bộ Tuyên huấn phải
tỏ rõ là những tấm gƣơng sáng, luôn đặc lợi ích của Đảng, của dân tộc lên
trên mọi lợi ích cá nhân hay của gia đình, không kèn cựa địa vị, không so
đo hơn thiệt, không tham ô, hủ hóa dƣới dạng này hay dạng khác, không
hách dịch cửa quyền với cấp dƣới, với nhân dân. Tất cả những biểu hiện về
chủ nghĩa cá nhân đều rất xa lạ với bản chất của ngƣời đảng viên cộng sản,
ngƣời cán bộ Tuyên huấn của Đảng.
89
4- Ngƣời làm công tác Tuyên huấn phải mẫu mực, ra sức học tập nâng
cao nhận thức lý luận để vững vàng về chính trị, rèn luyện trong sáng về
đạo đức, lối sống, tinh thông về nghiệp vụ và nhiệt tình với ngành mình
đang phục vụ. Muốn đạt đƣợc, ngƣời cán bộ Tuyên huấn phải tự trui rèn,
nghiêm khắc với bản thân, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của dân; phải
học tập để không ngừng nâng cao trình độ, năng lực để nói hay viết thạo,
thực hành giỏi, nói đi đôi với làm, không nói suông và nói hay viết đều
phải theo đúng đƣờng lối, cƣơng lĩnh và Điều lệ Đảng… Phải biết vận
động và tổ chức mọi lực lƣợng, mọi ngƣời cùng làm công tác tuyên truyền
và tích cực thực hiện tốt chủ trƣơng chính sách của Đảng, Nhà nƣớc.
5- Công tác Tuyên huấn phải chủ động giải quyết kịp thời những băn
khoăn, vƣớng mắc, những hoài nghi, dao động của đảng viên và quần
chúng, biến hoài nghi thành niềm tin, biến những băn khuân lo âu thành
quyết tâm, biến hành động tự phát thành tự giác. Điều cấm kỵ là không
đƣợc dùng dao to, búa lớn mà phải đi sâu, đi sát quần chúng dùng những lý
lẽ, dẫn chứng sát thực để thuyết phục quần chúng.
Công tác Tuyên huấn là quá trình tác động về nhiều mặt, nhiều phía,
nhiều biện pháp vào tâm tƣ, tình cảm của con ngƣời. Muốn cho công tác
Tuyên huấn đạt hiệu quả cao, phải biết tận dụng mọi hình thức, biện pháp,
biết kết hợp chặt chẽ giữa cái chung và cái riêng, biết phát huy đúng mức
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhất là các đoàn thể, các
ngành trong khối để mang lại hiệu quả cao.
Công tác Tuyên huấn khồn thụ động, công thức sẵn có, mà luôn đổi
mới để theo kịp với thực tiễn cuộc sống. Hiện nay và trong thời gian tới,
tình hình sẽ còn diễn biến phức tạp do các nguy cơ, thách thức còn tồn tại
đan xen và âm mƣu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch tác động.
Để đối phó với tình hình trên, công tác Tuyên giáo và cán bộ làm công tác
Tuyên giáo càng kiên định 6 vấn đề có tính nguyên tắc mà Nghị quyết
Trung ƣơng 6 (lần 2) của Đảng đề ra: “Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; nguyên tắc tập trung dân chủ;
chủ nghĩa yêu nƣớc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản”.
Những tấm gƣơng kiên trung bất khuất và những kinh nghiệm trong
công tác Tuyên huấn của các thế hệ đi trƣớc luôn là tấm gƣơng sáng, là
những bài học quý báu cho thế hệ kế tiếp.
Với niềm tự hào chính đáng, quá trình lịch sử của ngành Tuyên huấn
tỉnh Cần Thơ luôn luôn nắm vững đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của
Đảng, Nhà nƣớc, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ địa phƣơng trong từng
thời kỳ cách mạng, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống chiến đấu
của quần chúng mà có nội dung công tác chính trị tƣ tƣởng, nội dung tuyên
truyền cụ thể ra quần chúng, kết hợp tuyên truyền bằng hành động cách
mạng thiết thực. Từ đó, tạo ra phong trào cách mạng và sức mạnh tổng hợp
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
90
Ngày nay, tiếp nối truyền thống vẻ vang của thế hệ trƣớc, đội ngũ kế
thừa của ngành Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ luôn luôn tỏ rõ bản chất chính trị
vững vàng trƣớc mọi khó khăn thử thách, kiên quyết đấu tranh lên án
những quan điểm sai trái với Cƣơng lĩnh, Điều lệ Đảng, đấu tranh quyết
liệt với các tệ nạn tham nhũng, lãng phí, mất dân chủ… Với ý chí và quyết
tâm đó, nhất định trong giai đoạn cách mạng mới, ngành Tuyên huấn tỉnh
Cần Thơ sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị đƣợc Đảng bộ và nhân
dân giao phó.
PHỤ LỤC
DANH SÁCH
Các liệt sĩ trong Ban Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
STT HỌ VÀ TÊN CHỨC VỤ
NGÀY
THÁNG
NĂM SINH
1 Đ/c Trƣơng Văn Diễn (4 Dân) Phó Ban Thƣờng trực BTH 25/6/1970
2 Đ/c Dƣơng Bá Lộc Đội trƣởng Đội võ trang T.Tr 17/7/1971
3 Đ/c Lê Văn Sơn Đội trƣởng Đội võ trang T.Tr 7/4 /1969
4 Đ/c Vũ Thanh Tâm (6 Thanh) Ủy viên Ban Tuyên huấn 6/1970
5 Đ/c Nguyễn Văn Phú (8 Thiện) Phó VP Ban Tuyên huấn 2/4/1974
6 Đ/c Đinh Châu Phan (5 Lê) Phó Tiểu ban Tuyên truyền 28/3/1971
7 Đ/c Lê Bộ Tƣ (4 Chánh) Phó Tiểu ban giáo dục 24/10/1969
8 Đ/c Nguyễn Văn Tây
(Hai Râu)
Ủy viển Tiểu ban Văn nghệ 23/06/1971
9 Đ/c Nguyễn Văn Dễ
(Chí Sinh)
Phó Tiểu ban Văn nghệ 26/10/1971
10 Đ/c Nguyễn Văn Đăng
(Ba Đê)
Ủy viên Tiểu ban Tuyên huấn 7/1972
11 Đ/c Hồ Minh Châu (Ba Phú) Ủy viên Tiểu ban T.Tấn – báo
chí
15/3/1968
12 Đ/c Trần Thanh Phƣớc Phó Đoàn Văn công 6/1965
91
13 Đ/c Dƣơng Thị Loan Anh Nhạc công Đoàn Văn công 9/1970
14 Đ/c Nguyễn Văn Khóm
(Minh Thơ)
Diễn viên Đoàn Văn công 25/5/1969
15 Đ/c Nguyễn Văn Thống Đội Phó Võ trang tuyên truyền 3/1970
16 Đ/c Nguyễn Thanh Quang
(Ba nhỏ)
Trƣởng Văn phòng Ban TH 27/2/1970
17 Đ/c Huỳnh Văn Vũ Cán bộ Tiểu ban Tuyên truyền 26/12/1965
18 Đ/c Trần Tuyên Quang Cán bộ Tổ Nhiếp ảnh 9/12/1970
19 Đ/c Lê Văn Kiệt Cán bộ Tiểu ban Giáo dục 1969
20 Đ/c Nguyễn Văn Ánh Cán bộ Tiểu ban Giáo dục 1969
21 Đ/c Đỗ Trọng Kiên Cán bộ Tiểu ban Giáo dục 1969
22 Đ/c Lƣơng Vĩnh Thế Cán bộ tổ Minh ngữ 14/3/1968
23 Đ/c Nguyễn Văn Cơ Cán bộ Tiểu ban Giáo dục 12/1973
24 Đ/c Nguyễn Văn Thắng Cán bộ Tiểu ban Giáo dục 1969
25 Đ/c Nguyễn Hoàng Tăng Ủy viên Tiểu ban Ban Tuyên
truyền
6/12/1972
26 Đ/c Nguyễn Thanh Hoàng Cán bộ Đoàn văn công 14/8/1974
27 Đ/c Nguyễn Đức Thảo (Giáo
Sáu)
Phó Tiểu ban Giáo dục 1968
28 Đ/c La Hán (Chính Hạnh) Cán bộ Tiểu ban Giáo dục 28/11/1972
29 Đ/c Vũ Đình Hồng (Vũ Giang) UV Ban Tuyên huấn
Trƣởng Tiểu ban Giáo dục
7/1972
30 Đ/c Trần Văn Ga Diễn viên Đoàn Văn công 23/3/1970
31 Đ/c Hồ Văn Bƣớm Diễn viên Đoàn Văn công 27/3/1966
32 Đ/c Nguyễn Thị Hồng Nga Nhân viên Văn phòng BTH 1971
33 Đ/c Dƣơng Văn An Vệ sĩ Ban Tuyên huấn 1972
34 Đ/c Nguyễn Văn Hoàng Nhân viên Văn phòng BTH 1969
35 Đ/c Phạm Hoàng Y Nhân viên Nhà in 28/11/1969
36 Đ/c Nguyễn Văn Mừng Nhân viên Nhà in 1971
92
37 Đ/c Lâm Việt Hƣng Vệ sĩ Ban Tuyên huấn 30/8/1967
38 Đ/c Phạm Minh Mẫn Nhân viên Nhà in 1971
39 Đ/c Đặng Hùng Lĩnh Diễn viên Đoàn văn công 1970
40 Đ/c Lê Văn Cầu Diễn viên Đoàn văn công 23/3/1971
41 Đ/c Nguyễn Thanh Liêm Phóng viên Tiểu ban
Thông tấn báo chí
21/8/1966
42 Đ/c Võ Văn Beo Diễn viên Đoàn văn công 28/1/1973
43 Đ/c Nguyễn Thị Thu Hà Nhân viên nhà in 6/1/1970
44 Đ/c Nguyễn Thị Thu Thủy Nhân viên Tiểu ban Giáo dục 1968
45 Đ/c Nguyễn Văn Bé Nhân viên Tiểu ban Giáo dục 1970
46 Đ/c Nguyễn Văn Nhàn Nhân viên Tiểu ban Giáo dục 12/1971
47 Đ/c Hoàng Anh Vệ sĩ Ban Tuyên huấn 8/12/1974
48 Đ/c Võ Hùng Dũng Nhân viên tổ nhiệp ảnh 2/4/1974
49 Đ/c Hồ Cửu Nhân viên Tiểu ban
Thông tấn báo chí
50 Đ/c Phạm Văn Lợi Nhân viên Tiểu ban Tuyên
truyền
19/3/1969
51 Đ/c Lê Văn Thình Đội viên Đội Võ trang tuyên
truyền
24/3/1970
52 Đ/c Nguyễn Văn Nhẹ Đội viên đội điển ảnh 1971
53 Đ/c Nguyễn Văn Thống Đội viên Đội tuyên truyền vũ
trang
3/1970
54 Đ/c Nguyễn Thị Phƣợng Diễn viên Đoàn Văn công 15/2/1969
55 Đ/c Nguyễn Văn Điểm Nhân viên văn phòng BTH
56 Đ/c Nguyễn Văn Chiến Nhân viên nhà in
57 Đ/c Thái Duy Hồng Đội viên Đội Võ trang tuyên
truyền
2/1970
58 Đ/c Huỳnh Văn Phú Bảo vệ Đoàn văn công 27/3/1965
59 Đ/c Nguyễn Văn Thống Diễn viên Đoàn văn công 6/1965
60 Đ/c Nguyễn Văn Út Diễn viên Đoàn Văn công 29/12/1968
93
61 Đ/c Phạm Thanh Bình Nhân viên Văn phòng BTH
Sau chuyển qua
bộ đội hy sinh
62 Đ/c Phạm Minh Tƣớc Nhân viên Tiểu ban Thông tấn
báo chí
Chuyển qua bộ
đội hy sinh
63 Đ/c Thanh Quang Cán bộ Tiểu ban Giáo dục
64 Đ/c Hồ Văn Mến Nhân viên Trƣờng Đảng 5/1970
65 Đ/c Nguyễn Văn Mẫn Nhân viên Trƣờng Đảng 2/1972
66 Đ/c Xuổi Diễn viên Đoàn văn công
67 Đ/c Chấn Nhân viên Văn phòng BTH Chuyển qua bộ
đội hy sinh
68 Đ/c Thuận Nhân viên Văn phòng BTH Chuyển qua bộ
đội hy sinh
69 Đ/c Ba Xiêm Diễn viên Đoàn văn công Hy sinh lúc về
công tác tại địa
phƣơng
70 Bùi Văn Ngẫu Nhân viên Trƣờng Đảng 5/1970
71 Đồng Quang Thuật Nhân viên Trƣờng Đảng 6/1969
72 Nguyễn Văn Ngàn Nhân viên Trƣờng Đảng 3/1972
73 Nguyễn Văn Nhãn Nhân viên Trƣờng Đảng 5/1973
74 Nguyễn Hồng Dân Nhân viên Trƣờng Đảng 4/1963
Do việc lƣu trữ có thiếu sót, nên danh sách liệt sĩ trong Ban Tuyên huấn
tỉnh Cần Thơ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ chƣa đầy đủ, xin các
đồng chí thông cảm, đóng góp bổ sung.
DANH SÁCH
Các đồng chí Trƣởng Ban Tuyên huấn
thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)
- Đ/c Hồ Bá Phúc -
Trƣởng Ban Tuyên truyền 1945
- Đ/c Nguyễn Truyền Thanh (Ba Lê) -
Trƣởng Ban Tuyên truyền 8 – 1946
- Đ/c Nguyễn Hữu Thành -
Trƣởng Ban Tuyên truyền 1947
- Đ/c Mai Duy Hiền (Mai Thanh) -
Trƣởng Ban Tuyên huấn 1948 – 1949
- Đ/c Dƣơng Thuần Chƣơng -
Trƣởng Ban Tuyên huấn 1950 – 1954
94
DANH SÁCH
Các đồng chí Trƣởng Ban Tuyên huấn
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975)
- Đ/c Phạm Hữu Ngạt (Nguyễn Văn Giỏi): - 1954
- Đ/c Nguyễn Thái Sơn (Bảy Bình): - 1955
- Đ/c Nguyễn Thành Thơ (Mƣời Khẩn): 1955 - 1956
- Đ/c Đinh Công Dụng (Ba Bài): 1956 - 1957
- Đ/c Trần Thành Đại (Ba Mới) : 1957 - 1960
- Đ/c Trần Trung Hậu (Mƣời Thâu): 1960 - 1961
- Đ/c Phạm Trọng Yêm (Chín Công): 1961 - 4/1964
- Đ/c Phạm Văn Hào (Tám Thìn): 4/1964 - 1965
- Đ/c Trần Minh Sơn (Bảy Mạnh): 1965 - 1972
- Đ/c Phạm Văn Phùng (Chín Khƣơng): 1972 - 1975
DANH SÁCH
Các đồng chí Trƣởng Ban Tuyên giáo thời kỳ
xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN (1976 – 2000)
- Đ/c Lâm Văn Hai (Mƣời Tiến) 2/1976 - 12/1976
- Đ/c Tô Bửu Giám (Năm Giám) 4-1977 - 1987
- Đ/c Võ Hòng Xinh (Ba Xinh) 1987 – 3 – 1992
- Đ/c Nguyễn Trung Vinh (Sáu Hà) - Quyền Trƣởng Ban - 1992
- Đ/c Trần Văn Tƣ (Tƣ Tranh) 1992 - 6 - 1996
- Đ/c Phạm Thanh Vận 6/1996 - 3/2000
- Đ/c Nguyễn Hoàng Anh 4 – 2000 …..
95
MỤC LỤC
- Lời nói đầu
Phần mở đầu
- Vị trí, địa lý
Phần thứ nhất
- Công tác tuyên huấn trƣớc khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Phần thứ hai
- Công tác tuyên huấn khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Phần thứ ba
- Công tác Tuyên huấn trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
(8-1945 – 7 -1954)
Phần thứ tƣ
- Công tác tuyên huấn trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc
(7/1954 – 30/4/1975)
Phần thứ năm
- Công tác Tuyên huấn trong thời kỳ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng xã hội
chủ nghĩa (5-1975 – 2000)
Phần kết luận và kinh nghiệm
Phụ lục
- Danh sách các liệt sĩ trong Ban Tuyên huấn tỉnh Cần Thơ thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ
- Danh sách các đồng chí Trƣởng Ban Tuyên huấn thời kỳ kháng chiến
chống Pháp (1945 – 1954)
- Danh sách các đồng chí Trƣởng Ban Tuyên huấn thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ (1954 – 1975)
- Danh sách các đồng chí Trƣởng Ban Tuyên giáo thời kỳ xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN (1976 – 2000)
96
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY CẦN THƠ
Biên soạn: TRẦN THANH NHÃ
ĐẶNG HỒNG
MAI THỊ HẰNG
Biên tập: NGUYỄN TRUNG VINH
Sửa bản in: NGUYỄN THỊ THANH VÂN
NGUYỄN THỊ KIM THU
Ảnh: LÝ WẦY, LINH PHƢỢNG, ÁNH HỒNG, ĐỖ CHÍ THIỆN, PHAN CƠ
Ảnh tư liệu của Phòng nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh
Giấy phép xuất bản số: 81/GPXB-SVHTT do Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Cần
Thơ cấp ngày 9 tháng 7 năm 2002
In tại Xí nghiệp In Tổng hợp Cần Thơ, số 218 đƣờng 30-4, TP.Cần Thơ
(1) Lê Văn Sô, Nguyễn Văn Tây, Nguyễn Văn Phát, Nguyễn Văn Cưng, Trần Văn Thạnh,
Huỳnh Quảng, Nguyễn Văn Lý, Trần Ngọc Diệp, Nguyễn Văn Chiến.
(2) Trích Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, trang 77 – NXB Sự Thật.
(3) Hồ Chí Minh: Chống nạn thất học. Sđd trang 367,368.
(4) Đoàn tù chính trị thứ nhất từ Côn Đảo trở về Sóc Trăng ngày 23/9/1945.
(5) Đồng chí Nguyễn Văn Dực nguyên là học sinh Trường Đại học Phương Đông của
Quốc tế Cộng sản
(6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia.
(7) Có 19/37 làng tiến hành bầu cử HĐND.
(8) Nghị quyết Hội nghị Trung ương cục tháng 10/1961 Cục lưu trữ Văn phòng Trung
ương Đảng