43
Tiểu luận QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP NGUYÊN NHÂN SỰ SỤP ĐỔ CỦA CÔNG TY MINH PHỤNG VÀ CÔNG TY ENRON Ts. Bùi Hữu Phước Thành viên làm đề tài: Hồ Minh Trí Phạm Ngọc Trung Bùi Anh Tú

Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

  • Upload
    triminh

  • View
    98

  • Download
    1

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Trên thế giới, ở các quốc gia có nền thị trường phát triển, phá sản được coi là hiện tượng bình thường ở bất kì doanh nghiệp nào đang hoạt động. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam, hiện tượng này cũng đang dần trở nên phổ biến. Đây là xu thế tất yếu, khách quan của quá trình cạnh tranh, quá trình đào thải và sự chọn lọc tự nhiên: các chủ thể làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả tất yếu phải chấm dứt sự tồn tại của mình qua việc bị tuyên bố phá sản và đương nhiên, chỉ có các chủ thể kinh doanh hoạt động thực sự có hiệu quả mới có thể tiếp tục tồn tại trong nền kinh tế thị trường ngày nay. Phá sản đã góp phần làm lành mạnh hóa thị trường, cơ cấu lại nền kinh tế, làm cho kinh tế thị trường trở nên đúng với bản chất của nó hơn. Tuy nhiên phá sản là một vấn đề từ lý luận đến thực tiễn là một quá trình tìm hiểu và nghiên cứu bởi khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và đặc biệt là quyền lợi của người lao động ít nhiều sẽ bị xáo trộn như tiền lương, các chế độ, việc làm và các vấn đề tiêu cực phát sinh và các khoản nợ của doanh nghiệp.Đối với nước ta việc phá sản vẫn là một vấn đề còn mới mẻ. Cho nên thực tiễn giải quyết việc phá sản của nước ta trong thời gian qua còn gặp không ít khó khăn vướng mắc. Vì vậy nhóm chúng Em chọn đề tài .“ Nguyên nhân sự sụp đổ của công ty Minh Phụng và Enron(Mỹ)”

Citation preview

Page 1: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Tiểu luậnQUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

NGUYÊN NHÂN SỰ SỤP ĐỔ CỦA CÔNG TY MINH PHỤNG VÀ CÔNG TY ENRON

Ts. Bùi Hữu Phước

Thành viên làm đề tài: Hồ Minh Trí

Phạm Ngọc TrungBùi Anh Tú

Page 2: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

LỜI NÓI ĐẦU

Trên thế giới, ở các quốc gia có nền thị trường phát triển, phá sản được coi là

hiện tượng bình thường ở bất kì doanh nghiệp nào đang hoạt động. Hiện nay,

trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam, hiện tượng này cũng đang dần trở nên

phổ biến. Đây là xu thế tất yếu, khách quan của quá trình cạnh tranh, quá trình

đào thải và sự chọn lọc tự nhiên: các chủ thể làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả tất yếu

phải chấm dứt sự tồn tại của mình qua việc bị tuyên bố phá sản và đương nhiên,

chỉ có các chủ thể kinh doanh hoạt động thực sự có hiệu quả mới có thể tiếp tục

tồn tại trong nền kinh tế thị trường ngày nay. Phá sản đã góp phần làm lành mạnh

hóa thị trường, cơ cấu lại nền kinh tế, làm cho kinh tế thị trường trở nên đúng với

bản chất của nó hơn. Tuy nhiên phá sản là một vấn đề từ lý luận đến thực tiễn là

một quá trình tìm hiểu và nghiên cứu bởi khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá

sản nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và đặc biệt là quyền lợi của người lao

động ít nhiều sẽ bị xáo trộn như tiền lương, các chế độ, việc làm và các vấn đề

tiêu cực phát sinh và các khoản nợ của doanh nghiệp.

Đối với nước ta việc phá sản vẫn là một vấn đề còn mới mẻ. Cho nên thực tiễn

giải quyết việc phá sản của nước ta trong thời gian qua còn gặp không ít khó

khăn vướng mắc. Vì vậy nhóm chúng Em chọn đề tài .“ Nguyên nhân sự sụp đổ

của công ty Minh Phụng và Enron(Mỹ)”.

Page 3: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

1. Khái niệm về đầu tư.

Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt

động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn

lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc

đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà nhà

đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.Nguồn lực được nói đến ở đây có thể

là tài chính, tài nguyên, công nghệ, nhà xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục

đích hướng tới chính là sự tăng lên về tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất

(nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy móc…), tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn,

kỹ năng tay nghề, năng suất lao động, trình độ quản lý… ) trong nền sản xuất xã

hội.Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy

sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò

quan trọng trong mọi lúc , mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với

toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế xã

hội được thụ hưởng. Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của

nhà đầu tư trực tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền

kinh tế cũng được tăng thêm. Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này

đem lại cho nhà đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu

dùng (cho sản xuất và cho sinh hoạt ) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho

ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động…Trình độ nghề nghiệp,

chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có

thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn lực có kỹ thuật cho

nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao

dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia.

2. Phân loại đầu tư.

Page 4: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem

lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại

và đầu tư phát triển.

Đầu tư tài chính:

Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các

giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả

hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính không tạo

ra tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực

này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt

động của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút

ra nhanh chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư

phát triển.

Đầu tư thương mại:

Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng

hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi mua

và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không

xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư trong quá

trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà

đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có

tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra.

Từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho

phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.

Đầu tư phát triển :

Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế,

làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện

Page 5: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói

cách khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, kết

cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào

tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động

của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và

tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.

Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau, trong đó

đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển hoạt động

đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện tiên quyết

cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch

vụ. Bên cạnh đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để

tăng cường đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong khuôn khổ của đề tài này chúng ta

chỉ đi sâu, tiềm hiểu, xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư phát triển- loại đầu tư

quyết định trực tiếp sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết

cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch

vụ.

3. Rủi ro trong kinh doanh và đầu tư

Rủi ro là tình huống trong đầu tư hay trong kinh doanh mà tại đó những sự cố

không tốt đẹp xảy ra thua lỗ.

Rủi ro là sự bất ổn về hoạt động kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp. Bất ổn là

bản chất rủi ro và bất ổn có nghĩa là không chắc chắn, không ổn định hay thay

đổi.

Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro có quan hệ mật thiết với lợi nhuận. Thông

thường nơi nào có rủi ro cao nơi đó hứa hẹn lợi nhuận cao và ngược lại. Do đó,

nhà đầu tư lo sợ rủi ro nhưng không ngại rủi ro.

Mục tiêu của nhà đầu tư: tìm kiếm lợi nhuận tối đa với mức rủi ro tối thiểu. Song

mục tiêu này không dễ đạt được trong môi trường cạnh tranh.Do đó, nhà đầu tư

thường chấp nhận mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận với mức rủi ro chấp nhận được.

Page 6: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

MINH PHỤNG

1. Đôi nét về giám đốc công ty Minh Phụng:

Ông Tăng Minh Phụng sinh năm 1957, học tới lớp 10/12. Từ khi còn đi học, ông

Phụng đã đi làm công, đi bỏ mối hàng hóa chất cho khu sản xuất mặt hàng cao su

Phú Bình (quận 11). Ông Hứa Thanh Huy, một người làm công cho Minh Phụng

từ năm 1981 kể : trong thời gian bỏ mối hàng hóa chất, ông Phụng học được công

thức sản xuất bột nổi (loại hóa chất làm dép xốp), học lóm, nhưng có sáng chế

thêm để sản xuất nhiều. Ông Phụng cùng với hai ông Phì Lũ, A Bửu hùn vốn

chừng 18 lượng vàng mở tổ hợp sản xuất bột nổi. Dạo đó, bột nổi của Tăng Minh

Phụng bán rất chạy, người mua phải đặt tiền trước mới có hàng. Về sau, hai ông

Phì Lũ và A Bửu đi Mỹ, ông Phụng ở lại. Ông Phụng nói :   ông muốn làm ăn ở

đây, ông muốn có trong tay 100.000 công nhân . Lúc đó tổ hợp của Minh Phụng

mới chỉ có 10 công nhân.

Năm 1983 tổ hợp của Minh Phụng chuyển sang làm dép xốp ; 1986 làm dép nhựa.

Cả hai loại dép đều thắng. Ông Phụng lúc này từ một người ở thuê nhà ông Chín

Dượng trong khu Phú Bình, năm 1985 xây được căn nhà một trệt, một lầu ở số 1G

Lạc Long Quân. Từ năm 1988, ông Phụng bắt đầu mở xưởng may ở số 210 Lạc

Long Quân, đất mua của quận. Sau đó mua thêm lô đất 210 bis của tư nhân. Từ

năm 1988 bắt đầu phất nhờ xuất hàng may theo nghị định thư sang Đông Âu.

Theo ông Nguyễn Đình Hạ, Phó giám đốc Minh Phụng mãi tới năm 1991, ông

Tăng Minh Phụng mới vay khoản tín dụng đầu tiên 600 triệu đồng tại ngân hàng

quận 11 mua đất và xây dựng xưởng may, xưởng làm bao tay y tế ở Hóc Môn.

Page 7: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Cũng từ đó Minh Phụng bắt đầu quan hệ với các ngân hàng và bắt đầu sử dụng

các khoản tín dụng vào địa ốc

2. Thất bại đến từ sự nóng vội

Vào thời gian năm 1993-1995, qua các phương tiện thông tin đại chúng, người ta

có thể thấy Công ty Minh Phụng nổi lên như là 1 “tập đoàn” kinh tế năng động và

rất thế lực. Mức độ tăng trưởng và sự bành trướng các lĩnh vực kinh doanh của

DN này thể hiện qua số liệu các trang quảng cáo của rất nhiều tờ báo, tạp chí làm

cho không ít người kinh ngạc. Thực tế, thì sự cả tin vào tiềm lực của Minh Phụng

không phải là không có căn cứ. Hình thành từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế

kỷ trước, với chức năng chủ yếu là sản xuất, gia công hàng may mặc, giày dép

xuất khẩu, giai đoạn đầu Công ty Minh Phụng có những bước phát triển rất ổn

định, doanh số có năm lên tới nhiều triệu USD. Tính đến trước khi xảy ra vụ án,

Minh Phụng có tới 15 phân xưởng SX gồm 10 phân xưởng may mặc, 1 phân

xưởng chuyên ngành nhựa, 1 phân xưởng dệt gòn, 1 phân xưởng bao bì PP, 1

phân xưởng thiết kế mỹ thuật cho hàng hóa ngành may và 1 phân xưởng thiết kế

vi tính. Quy mô SX thời điểm cao nhất có trên 9000 lao động. Vào thời gian đó,

Minh Phụng không chỉ khẳng định được uy tín trên thị trường mà cả ngoài nước,

điều mà ở thời điểm những năm đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường, khó

tưởng tượng có thể có ở một doanh nghiệp tư nhân.

Nếu chỉ có vậy, hẳn người ta sẽ vẫn thấy một Minh Phụng thành đạt trên thương

trường. Mọi chuyện bắt đầu kể từ khi Minh Phụng nhảy vào cuộc phiêu lưu kinh

doanh địa ốc (khoảng từ 1992 trở đi), cho dù khi đó, hoạt động kinh doanh địa ốc

của Minh Phụng bị coi là hoàn toàn bất hợp pháp, vì doanh nghiệp không có chức

năng này. Cuộc chơi vô tiền khoáng hậu này thực sự biến Minh Phụng trở thành

con bạc lớn, càng chơi càng say, càng say càng thua và càng khát…

Page 8: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Tính về mức độ tăng trưởng, khó có DN nào có thể so sánh được với Minh Phụng.

Tính đến đầu năm 1997, ngoài các nhà xưởng SX về ngành may mặc, giày dép,

các dây chuyền SX hoàn chỉnh có tới hàng ngàn bộ máy may, tổng danh mục BĐS

của Minh Phụng có tới 169 biệt thự, nhà ở, văn phòng các loại; hệ thống nhà

xưởng tập trung, kho tàng tại các khu công nghiệp có 78 đơn vị với diện tích trên

1,2 triệu m2; đất chuyên dùng có trên 2,6 triệu m2. Các tài sản trên phân bố khắp

địa bàn TP.HCM và các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Lâm Đồng… Xét ở

khía cạnh nào đó, người ta có thể phải thừa nhận Minh Phụng khi đó thực sự là

một đại gia về địa ốc. Chỉ có điều, khối tài sản khổng lồ này có được không phải

nhờ sự thành công của chiến lược kinh doanh, không phải nhờ tiềm lực tự thân

của Doanh Nghiệp này, mà hoàn toàn từ vốn vay ngân hàng. Thực chất, toàn bộ

khối tài sản đồ sộ đứng tên Minh Phụng chỉ tồn tại như 1 thứ “con tin”, ngay khi

ra đời, “giấy khai sinh” của nó (tức là toàn bộ giấy chứng nhận quyền sử dụng,

quyền sở hữu) đều lập tức quay trở lại “nhà hộ sinh” (tức các ngân hàng cho vay

vốn để Minh Phụng tạo dựng tài sản)! Do sự tăng trưởng quá nóng, đến giai đoạn

1993-1996, có thể nói Minh Phụng đã ở vào thế cưỡi trên lưng cọp. Không khó để

hình dung sự khó khăn của Minh Phụng khi phải duy trì, phát triển khối tài sản

khổng lồ trên. Trong khi vốn đầu tư cho kinh doanh địa ốc thì “càng nhiều càng

ít”, nợ vay ngân hàng chồng chất, khả năng sinh lời từ tài sản không thể có được

trong ngày một ngày hai. Lẽ dĩ nhiên khi không còn cách nào khác, Tăng Minh

Phụng phải lựa chọn phương thức lừa đảo các ngân hàng để có thể tạo vốn. Theo

quy định của Ngân hàng Nhà nước vào thời điểm đó, một Doanh Nghiệp chỉ được

vay vốn không quá 10% vốn tự có, để có thể có vốn Minh Phụng đã thành lập

hàng loạt công ty con, cấu kết với các quan chức ngân hàng sử dụng trên 40 pháp

nhân để vay vốn. Tính đến khi xảy ra vụ án, Minh Phụng đã thực hiện trên 60 hợp

đồng tín dụng với 7 ngân hàng, trong đó tại 4 ngân hàng lớn: Incombank tổng dư

nợ trên 4200 tỷ đồng; Vietcombank (trung ương và chi nhánh TP.HCM) trên 6

triệu USD và hơn 219 tỷ đồng; Eximbank trên 15 triệu USD; Sài Gòn công

Page 9: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

thương trên 100 tỷ đồng… Với số nợ lớn như vậy, không phải ai khác, chính các

con nợ đã ký vào mình bản án tử hình.

.

Có lẽ chính vì sự khác biệt này mà cho đến nay, hầu hết các nhà phân tích vẫn

cho rằng sự sụp đổ của Minh Phụng chủ yếu do các nguyên nhân:

(1) Quá nóng vội muốn trở thành một nhà “đại tư sản dân tộc”, không muốn

mãi chỉ làm một anh thợ gia công may mặc, sản xuất giày dép (vốn đang

rất ăn nên làm ra);

(2) Sai lầm lớn trong chiến lược kinh doanh, bất chấp sự cấm đoán, ràng buộc

về pháp lý, bất chấp nguồn vốn hạn hẹp, lao vào lĩnh vực kinh doanh BDS-

xây dựng trên quy mô lớn với chiêu thức “ bóc ngắn cắn dài”.

Phải chăng bi kịch lớn nhất của Minh Phụng đó là sự đổ vỡ của những tham vọng

hoang tưởng. Như vậy sẽ công bằng hơn nếu có sự đánh giá thật khách quan

những yếu tố góp phần làm tan rã “tập đoàn Minh Phụng”.

Nhiều người đặt ra câu hỏi vì sao lựa chọn kinh doanh Bất Động Sản bằng toàn

bộ vốn vay ngân hàng mà Minh Phụng lại tăng trưởng nóng trong thời gian ngắn

đến như vậy? Và tại sao, vay đầu tư BĐS mà hầu hết là vay ngắn hạn, vay

“nóng”?

Thứ nhất, khoảng thời gian đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, đã có một đợt sốt đất

kéo khá dài. Trong khi thị trường BĐS chưa hình thành rõ nét, cơ chế, chính sách

về đất đai chưa đồng bộ, tình trạng tranh mua, tranh bán rất phổ biến. Trong bối

cảnh đó, cũng giống nhiều Doanh nghiệp khác, Minh Phụng mong muốn nhanh

Page 10: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

chóng chớp thời cơ, tích lũy được càng nhiều đất càng tốt, chờ cơ hội sẽ bán ra

được với giá cao hơn. Tuy nhiên, sự tăng trưởng quá nóng vô hình chung đã biến

Minh Phụng trở thành một “bà hàng xén” về đất đai, la liệt nhà đất khắp nơi mà

không biết xoay trở thế nào với nó. Hơn nữa, thời điểm nhận chuyển nhượng là

đỉnh điểm của cơn sốt, khi qua cơn sốt thì bán không có người mua. Cha ông ta đã

đúc kết “buôn tài không bằng dài vốn”, nếu thực sự có khả năng đầu cơ đất đai

chờ đến cơn sốt tiếp theo, hẳn là Minh Phụng đã phát tài. Song toàn bộ khối tài

sản là từ vốn vay, giả sử có chờ được cơn sốt tiếp theo, thì khoản lợi nhuận thu

được cũng khó có thể bù đắp cho số lãi mẹ đẻ lãi con, bi kịch cũng bắt đầu từ đây.

Cũng có ý kiến cho rằng, nếu lựa chọn phương thức xử lý phần tài sản trong vụ án

Minh Phụng theo cách khác như bản án đã tuyên là giao hết tài sản cho các ngân

hàng quản lý, khai thác, phát mại để thu hồi nợ, có thể kết quả sẽ khác. Thậm chí,

có người còn nói nếu cứ để Minh Phụng quản lý số tài sản và tiếp tục triển khai

các dự án, thì biết đâu có thể trả đủ được số nợ ngân hàng. Tuy nhiên, nhiều ý

kiến vẫn cho rằng, dù có tài ba đến mấy, thì một bộ máy như Minh Phụng khó có

thể quản lý hết được hàng triệu mét vuông đất chuyên dùng, không thể cùng một

lúc triển khai hàng trăm dự án về hạ tầng khắp các tỉnh thành! Thực tế cho thấy,

trong hàng chục công ty con của Minh Phụng thực chất là các doanh nghiệp ma

không hề có thực, toàn bộ số vốn đều là ảo, giám đốc, kế tóan đều là những người

làm thuê, thậm chí đó là những người vốn là bảo vệ, lái xe, lao công. Các công ty

này có nhiệm vụ duy nhất được đẻ ra để vay vốn ngân hàng, mọi hoạt động vẫn

hoàn toàn do Tăng Minh Phụng điều hành. Như vậy, viễn tưởng về sự thành công

của mô hình Minh Phụng là điều không tưởng. Có lẽ, điều có ý nghĩa nhất trong

cách thức điều hành, tổ chức hệ thống kinh doanh của Minh Phụng là đã cung cấp

trong thực tế mô hình khá hoàn chỉnh về “công ty mẹ-công ty con”- mô hình mà

hiện nay nước ta dã áp dụng.

Thứ hai, về hình thức huy động vốn, có người cho Minh Phụng thật điên khùng

khi vay ngân hàng để đầu tư vào BĐS mà chủ yếu là vay ngắn hạn với lãi suất

Page 11: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

cao. Tuy nhiên, vào thời điểm trên, những cơ chế, các quy định về bảo đảm tiền

vay rất bó buộc. Để có thể được chấp nhận vay vốn, DN phải có dự án khả thi, có

phương án kinh doanh và nhiều yêu cầu nhiêu khê khác. Nếu đáp ứng đủ các yêu

cầu này thì thời cơ đầu tư vào BĐS đã qua đi (do sự hỗn loạn mua bán trên thị

trường). Do vậy, để chớp thời cơ, Minh Phụng buộc phải chọn giải pháp cố đấm

ăn xôi như ở trên. Ngoài ra, để thỏa cơn khát vốn, Minh Phụng còn cấu kết với

cán bộ ngân hàng nâng khống giá trị tài sản thế chấp lên nhiều lần. Đến khi xét

xử vụ án, Tòa án đã xác định giá trị tài sản thế chấp thấp hơn hàng ngàn tỷ đồng.

Minh Phụng đã phải trả giá đắt cho điều này, tuy nhiên, qua đây, các nhà quản lý

cũng đã đúc rút được những kinh nghiệm quý, có thể từ đây đã hình thành cơ chế

thỏa thuận về giá trị tài sản thế chấp giữa tổ chức tín dụng và bên thế chấp, trao

quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng mà hiện ta đang áp dụng.

3. Đầu tư bất động sản đầy sóng gió

Như đã nói ở trên, tổng số BĐS của Minh Phụng có tới trên 400 danh mục gồm

các loại biệt thự, nhà ở, văn phòng, hệ thống nhà xưởng, kho tàng, đất chuyên

dùng, máy móc, phương tiện… phân bố khắp địa bàn TP.HCM và các tỉnh Bà

Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Lâm Đồng v.v.. Có thể nói không ngoa rằng, có thời

kỳ hầu như các két sắt trong các ngân hàng lớn của Việt Nam đã hoàn tòan trống

rỗng, bởi số tiền khổng lồ đó đã được Minh Phụng ném hết xuống các cánh đồng

hoang vu tại Chí Linh thành phố Vũng Tàu, vùng sình lầy ở Thủ Đức và trong các

nhà kho bỏ hoang trên Sông Bé cũ!

Tuy nhiên, dù bị coi là rất nóng vội, phiêu lưu, nhưng không thể phủ nhận tầm

nhìn khá xa, định hướng mang tính chiến lược của Minh Phụng khi đầu tư vào các

BĐS trên. Thực tế khi xử lý tài sản thế chấp sau này cho thấy, các danh mục tài

sản thế chấp là nhà xưởng, kho tàng tại các khu công nghiệp đều có giá khá cao,

với thời gian thuê khoảng 40-50 năm, chỉ tiếng riêng tiền khai thác có ngân hàng

đã thu được hàng trăm tỷ đồng. Đối với số tài sản là biệt thự, văn phòng, nhà

Page 12: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

xưởng tại khu vực TP.HCM, phần lớn giá bán đấu giá cũng đều cao hơn rất nhiều

so với giá Tòa án định khi xét xử. Riêng đối với các lô đất triển khai dự án tại

khu vực Thủ Đức trước đây (nay thuộc quận 2), theo quy hoạch của TP.HCM, hầu

hết số này nằm ở các vị trí rất đắc địa, nếu được triển khai đầy đủ theo các dự án

khả thi thì lợi nhuận từ các vùng đất này sẽ rất lớn. Chẳng thế mà có ngân hàng

được tòa án giao cho một số lô đất tại khu vực quận 2 (TP.HCM), chẳng cần phải

triển khai xây dựng dự án, cũng không cần đầu tư hạ tầng, qua một phiên đấu giá

1 lô thôi đã thu đủ toàn bộ số nợ trên 15 triệu USD, ngoài ra đơn vị này còn dư ra

được số tiền và giá trị các tài sản trị giá cả chục triệu USD!

Nếu số BĐS Minh Phụng đầu tư tại khu vực TP.HCM và tỉnh Bình Dương được

coi là rất thành công, thì ngược lại, việc đầu tư vào vùng Bà Rịa-Vũng Tàu thực

sự trở thành thảm họa.

Khi xét xử vụ án, để đảm bảo thu hồi số nợ của Minh Phụng, Tòa án đã giao cho

các ngân hàng hàng trăm đơn vị tài sản gồm các khu biệt thự, nhà ở, văn phòng,

một số kho tàng và trên 2,6 triệu m2 đất chuyên dùng… Quá trình xử lý tài sản

thế chấp khu vực này của các ngân hàng đều rất chật vật, ngoài số danh mục là

nhà ở, văn phòng, biệt thự đã bán được, số đất chuyên dùng bán rất chậm, thậm

chí có ngân hàng qua 6 năm nay phải ôm hơn 1 triệu m2 đất chuyên dùng mà

không sao “tiêu hóa” nổi. Nhiều báo chí đưa tin cho rằng các lô đất của Minh

Phụng tại khu vực thành phố Vũng Tàu trị giá mấy ngàn tỷ bán rẻ như

cho .Nhưng thực tế, rất nhiều lô đất được định giá xong thông báo không có

người mua, hơn nữa, với diện tích quá lớn như vậy, việc sử dụng phải theo đúng

quy hoạch của địa phương, cần có sự đầu tư rất lớn về cơ sở hạ tầng, không thể

đơn giản hóa việc chuyển nhượng theo kiểu chia lô bán nền như các đầu nậu đất

vẫn làm xưa nay. Để trút gánh nặng cho các ngân hàng, cuối năm 2005, Thủ

tướng Chính phủ đã phải quyết định cho UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và ngân

hàng nhận thế chấp thỏa thuận việc chuyển giao cho địa phương quản lý, sử dụng

trên 1,3 triệu m2 đất và thanh toán lại cho ngân hàng để thu hồi nợ. Thống kê cho

Page 13: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

thấy, số tài sản thế chấp của Minh Phụng tại khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu giá bán

được cao hơn từ 1,3 đến 2 lần so với giá tòa án đã định khi xét xử, tuy nhiên so

với giá thẩm định cho vay thì giá bán được chỉ xấp xỉ bằng 25 đến 43%. Như vậy,

dù bán hết số này cũng không thể nào thu hồi được khoản vay, nên có thể khẳng

định hầu như các dự án của Minh Phụng tại khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu đều thất

bại.

Vậy, tại sao Minh Phụng lại dốc gần như hết tâm lực vào vùng đất này đến

như vậy?

Không phải ngẫu nhiên khi Minh Phụng lại chọn Bà Rịa-Vũng Tàu là miền đất

hứa để đổ tiền đổ của và rồi ôm hận. Nếu ta nhớ lại đầu những năm 90, Bà Rịa-

Vũng Tàu được chọn là vùng trọng điểm về kinh tế phía Nam, với định hướng

phát triển ngành dầu khí, khi đó, theo quy hoạch thành phố Vũng Tàu sẽ là trung

tâm của ngành công nghiệp hóa dầu (theo quy hoạch sẽ xây dựng nhà máy lọc dầu

tại khu vực xã Long Sơn). Như vậy, sẽ phải có hàng ngàn doanh nghiệp, hàng vạn

con người tập trung ở đây, kéo theo các dịch vụ về ngân hàng, tín dụng, nhà ở,

văn phòng, biệt thự v.v và v.v.. Đón bắt được hướng phát triển này, bằng tất cả

khả năng của mình cũng như bằng mọi phương cách như chúng tôi đã đề cập ở

trên, Minh Phụng lao vào đầu cơ đất đai. Không chỉ những vị trí đẹp nhất trong

thành phố, mà cả những vùng đất sình lầy, cỏ hoang chưa có người ở cũng đều

nằm trong kế hoạch phát triển đầy tham vọng này của con người.

Nói một cách khách quan, thực sự Minh Phụng đã in dấu khá đậm nét trong quá

trình đô thị hóa ở đây. Nhưng năm 1993-1996, nếu ai đến khu vực thành phố

Vũng Tàu, hẳn dễ dàng nhận thấy sự khởi sắc từng ngày về kiến trúc đô thị. Đã có

thời kỳ, người ta nói “ở đâu có ngói đỏ, ở đó có Minh Phụng” (!). Hàng loạt khu

biệt thự to đẹp, đầy đủ tiện nghi nhanh chóng mọc lên tại thành phố Vũng Tàu.

Không những thế, cả vùng “cánh đồng hoang” khu vực Chí Linh, những địa danh

Page 14: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Đồng Sát, Hải Đăng, Long Hải, Phước Tỉnh… một ngày kia đều được gắn với tên

Minh Phụng với những dự án hoành tráng.

Tuy nhiên, sự sụp đổ có thể thấy ngay khi quy hoạch có sự thay đổi, khu công

nghiệp hóa dầu được chuyển ra Dung Quất (Quảng Ngãi), kế hoạch xây dựng nhà

máy lọc dầu tại thành phố Vũng Tàu chưa biết bao giờ mới thực hiện, khả năng

đón bắt cơ hội đã qua, các dự án không thể chờ đợi. Kết cục cũng giống như một

số đại gia khác đã lao vào đất Vũng Tàu như Ba Vinh, Phạm Huy Phước…, Minh

Phụng cũng đã phải bỏ mình tại miền đất này. Có ý kiến cho rằng, Minh Phụng

sụp đổ do sai lầm quá nóng vội, đi trước thời cuộc, nhưng những gì cho ta thấy ở

trên, có thể sẽ khách quan hơn, nếu ta nhận xét thất bại của Minh Phụng một phần

rất lớn từ rủi ro.

4. Những bài học kinh nghiệm 

Sẽ là vũ đoán nếu như những gì chúng tôi nếu dưới đây là những bài học cho các

nhà đầu tư, nhà quản lý và những ai đã và đang tham gia thương trường. Tuy

nhiên, thời gian 10 năm đã đủ không chỉ để đánh giá một cách khách quan nhất về

sự việc và qua đó, có thể đúc rút một vài điều bổ ích.

Thứ nhất, có thể nói, sự nóng vội của Minh Phụng cũng là trạng thái tâm lý của

một số người trong xã hội ta, không chỉ trước đây mà hiện nay cũng vẫn vậy.

Chính điều này đã tạo ra kiểu kinh doanh theo phong trào, bất chấp mọi quy luật

thị trường. Theo dõi trên thị trường chứng khoán gần đây cho thấy, có những thời

điểm giá cổ phiếu cũng sốt, cũng vẫn tình trạng tranh mua, tranh bán. Nhưng

đáng ngạc nhiên là các cổ phiếu giá càng cao càng được các nhà đầu tư tập trung

mua nhiều, khi giá xuống thấp thì lại đua nhau bán đổ bán tháo. Như vậy, bước

vào thương trường, chỉ có tham vọng thì chưa đủ, cần phải có sự hiểu biết nhất

định, không thể thành công với kiểu làm ăn nghiệp dư như lâu nay, và lại càng

không thể làm giàu theo lối “ăn xổi ở thì” đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh

Page 15: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

BĐS.

Thứ hai, đối với các Ngân hàng Thương mại, kinh doanh ngân hàng là loại kinh

doanh chứa đựng rất nhiều yếu tố rủi ro, nâng cao năng lực quản trị rủi ro được

coi là vấn đề cốt lõi. Trong giai đoạn kinh tế bùng nổ hiện nay, nhu cầu vốn vay

của DN rất lớn, tuy nhiên, nhiều NHTM vẫn chưa rút ra được bài học từ Minh

Phụng-Epco. Việc đánh giá năng lực của DN không sát thực tế, thẩm định tài sản

thế chấp, quản lý khoản nợ vay có thể nói còn quá nhiều sơ hở. Chẳng hạn tại tỉnh

Phú Thọ (nơi tập trung nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc), theo dự báo của cơ quan

công an, một số ngân hàng có thể mất hàng chục triệu USD vì DN vay nợ gần như

đã phá sản. Chỉ tính riêng Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn-chi

nhánh Phú Thọ đã ưu ái cho 5 doanh nghiệp thuộc “tập đoàn” TASCO vay đến 16

triệu USD, nhưng gần 3 năm nay, “tập đoàn” này hầu như không sản xuất được

gì, thậm chí trụ sở tại Hà Nội cũng phải đóng cửa do không trả tiền thuê

Với tư cách là nhà đầu tư, nếu các ngân hàng thiếu sự định hướng chiến lược,

không nâng cao khả năng dự báo, mà chỉ tập trung vào việc thẩm định tài sản thế

chấp để cho vay, thì e rằng, tương lai sẽ còn nhiều Minh Phụng và còn nhiều

trường hợp như đã nêu trên. Bài học từ Minh Phụng cũng cho thấy, nếu kinh

doanh ngân hàng mà chỉ quẩn quanh: thế chấp- cho vay- kê biên- phát mại thu hồi

nợ, thì vô hình chung, ngân hàng đã biến mình thành hiệu cầm đồ, đồng thời, nếu

chỉ coi tài sản thế chấp là phương thức bảo đảm chắc chắn cho khoản vay, thì dù

có thu giữ dược cả trăm nhà cửa, đất đai như Minh Phụng, thì vẫn thiệt hại cả

ngàn tỷ đồng.

Thứ ba, không chỉ các ngân hàng mới phải coi trọng vấn đề rủi ro, trong môi

trường kinh doanh của VN, điều này càng phải được các nhà đầu tư tính đến khi

hoạch định chiến lược kinh doanh, mà trước hết việc hoạch định chiến lược phải

phù hợp với xu thế phát triển, với chính sách phát triển lâu dài. Kinh nghiệm từ

Minh Phụng cho thấy, chỉ cần Nhà nước có sự thay đổi về quy hoạch xây dựng

Page 16: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

nhà máy lọc dầu, thì không chỉ các dự án của Minh Phụng-Epco mà hàng loạt các

nhà đầu tư khác tại khu vực Bà Rịa-Vũng Tàu rơi ngay vào tình trạng tê liệt, phá

sản (phải chăng đây được coi là rủi ro chính sách). Những thất bại của nhiều dự

án gần đây cũng minh chứng rõ điều này. Chẳng hạn, dự án Khu kinh tế cửa khẩu

Cầu Treo (Hà Tĩnh),  trong điều kiện VN chuẩn bị hội nhập sâu vào nền Kinh tế

thế giới, hàng rào thuế quan sẽ bị cắt giảm triệt để trong thời gian không lâu, tuy

nhiên các nhà đầu tư tại đây vẫn quyết định cho xây dựng khu kinh tế cửa khẩu

dựa trên ưu thế hàng miễn thuế. Hệ quả là vốn đầu tư đã bỏ ra 450 tỷ đồng, nhưng

hàng tháng tỉnh Hà Tĩnh chỉ thu được trên dưới 30 triệu đồng . Có lẽ những bài

học từ Minh Phụng vẫn còn chưa hết tính thời sự./.

Page 17: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

ENRON(MỸ)

Từ trước đến nay, báo cáo tài chính là công cụ được sử dụng để công bố những

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy mà, nhiều công ty đã sử dụng

chính công cụ này để “che dấu” những thua lỗ trong kinh doanh, lừa dối các nhà

đầu tư. Điều này đã dẫn đến “một nghịch lý đáng buồn đối với báo cáo tài chính,

một công cụ vẫn được xem là cái gậy của các cơ quan quản lý nhằm duy trì tính

minh bạch trong các hoạt động kinh doanh, đó là càng che giấu tài chính bao

nhiêu thì lại càng dễ phơi bày những lỗi lầm bấy nhiêu”.

Vụ việc của Enron năm 2001 là minh chứng sống động cho việc làm này. Được

đánh giá là hai vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ liên quan đến tài

chính, Enron đã làm sai lệch bảng báo cáo tài chính để che giấu những bất ổn từ

bên trong công ty. Enron đã sử dụng những thủ thuật kể toán hết sức tinh vi để

đánh lừa các nhà đầu tư. Enron có những quan hệ mật thiết và có những đường

dây móc nối với Nhà Trắng, họ hậu thuẫn cho các quan chức để nhận được

những ưu đãi. Ngoài ra, họ đều được đảm bảo bởi một trong năm đại gia ngành

kiểm toán Arthur Andersen. Hai công ty này lớn đến nỗi không ai tin nó có thề

sụp đổ.

Ngày 2 tháng 12 năm 2001 Enron tuyên bố phá sản. Vậy, tại sao Enron sụp đổ,

những bài học gì được rút ra ở đây?

NỘI DUNG:

A. Công ty Enron .

Câu chuyện về Công ty Enron của Mỹ là thời sự nóng nhất trên thị trường tài

chính thế giới vào giai đoạn cuối năm 2001 và đầu năm 2002.

I.TRƯỚC KHI LÂM VÀO TÌNH TRẠNG KHỦNG HOẢNG VÀ SỤP ĐỔ:

Quá trình hoạt động của công ty:

Page 18: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Thành lập năm 1935, trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston Natural Gas và

Internorth of Omaha, cái tên Enteron (ruột) xuất phát từ ý tưởng cho rằng đó là

bộ phận không thể thiếu trong quá trình tiêu hóa, Enron nhanh chóng trở thành

một công ty đa quốc gia hùng mạnh trong lĩnh vực năng lượng sau thời gian ngắn

15 năm. Enron đã bắt đầu từ con số không để trở thành công ty lớn thứ bảy của

Hoa Kỳ và có lúc là công ty năng lượng nổi tiếng hàng đầu thế giới. Công ty có

hoạt động ở hơn 30 quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Họ sử dụng

hơn 21 nghìn nhân viên và hiện diện ở hơn 40 nước trên toàn thế giới, trong đó

có 7.500 nhân viên làm việc tại tòa nhà 50 tầng ở trung tâm Houston. Một công

ty chuyên về hơi đốt thiên nhiên ở Oiraha thuộc bang Nebraska (Mỹ) và điều

hành 59.200 km đường ống.

Năm 1989, Enron bắt đầu kinh doanh các mặt hàng hơi đốt thiên nhiên. Trong

nhiều năm, công ty trở thành nhà kinh doanh đường ống và điện năng lớn nhất

Bắc Mỹ và Anh Quốc.

Năm 1997, công ty bắt đầu mở rộng phạm vi hoạt động bằng việc sang kinh

doanh các sản phẩm than đá, giấy và bột giấy, nhựa, kim loại và viễn thông

Enron thường được xem như là trung tâm của các cuộc cách mạng liên quan đến

viễn thông, Internet, sự bãi bỏ kiểm soát về năng lượng, v.v...

Không còn gì nhiều để nói về sự thành công và thất bại đầy tai tiếng cùa ông

trùm năng lượng Enron ở Texas, cùng với việc sản xuất năng lượng, họ cũng tạo

nên một đặc trưng thương hiệu mạnh mẻ. Enron giành được giải thưỡng “ Công

ty Đột phá Nhất nước Mỹ” của tạp chí Fortune sau 6 năm hoạt động, họ cũng

được xếp hạng cao trong biểu đồ “Những công ty tốt nhất để làm việc” cũng của

tạp chí này. Công ty cũng cổ vũ hình ảnh của một công dân tốt của cộng đồng, ấn

hành các báo cáo xã hội và môi trường nhắm vào những hoạt động của công ty

với sự cẩn trọng đối với những hệ quả môi trường của công việc, các chính sách

chống hối lộ và tham nhũng cùng những mối quan hệ đồng sự.

Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong thập niên

Page 19: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

90, họ đã lột xác từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể thay đổi sự

cân bằng trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật chính sách năng lượng năm

1992 buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đường truyền tải điện cho hệ thống phân

phối của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền từ việc mua bán trên thị

trường năng lượng. Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn sắp xếp hợp đồng

giữa người mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng. Trong tay Enron, thị trường năng

lượng ngang hàng với một sự đầu cơ tài chính. Hãng này đã xây dựng những nhà

máy trị giá hàng triệu USD khắp thế giới nhưng chi sở hữu chúng khi giá năng

lượng lên ngôi, khi gặp khó khăn thì bán ngay lập tức. Nhờ hoạt động tài chính

thuận lợi, Enron đã vươn sang các mặt hàng như giấy, nước, nhựa, kim loại và

phương tiện viễn thông.

Enron đã tạo ra hơn 900 công ty con, chủ yếu nằm ở những nước dễ dãi nhất về

luật kế toán. Hệ thống công ty mẹ - công ty con được thiết kế bởi các chuyên gia

tài chính rất tài giỏi và được bảo đảm bởi một trong năm đại gia ngành kiểm toán

của thế giới : Arthur Andersen.

Trong nhiều năm, Enron chứng tỏ họ là một công ty lớn mạnh và có lợi nhuận

cao:

Thành công đáng kể nhất của Enron là trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến

năm 2000. Trong khoảng thời gian này, giá cổ phiếu của Enron tăng từ dưới 20

USD lên trên 30 USD. Năm 2000, giá trị thị trường của Enron đạt 77 tỉ USD. Lợi

nhuận của công ty cũng tăng rất nhanh, từ 20 tỉ USD trong năm 1997 lên thành

101 tỉ USD trong năm 2000, tăng hơn năm lần chỉ trong vòng bốn năm, là một

trong bảy công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng,

điển hình là tạp chí Fortune, luôn đánh bóng Enron là công ty có nhiều tiềm năng

nhất với số vốn kinh doanh 63 tỉ USD.

Từ năm 1985 đến cuối năm 2001, giá cổ phiếu của công ty liên tục tăng lên. Cao

điểm là vào tháng 10 năm 2001, giá cổ phiếu của công ty đã tăng hơn gấp đôi

trong vòng chỉ một năm.

Page 20: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Trên con đường phát triền và mở rộng lĩnh vực hoạt động, việc kinh doanh của

Enron ngày càng mang thêm nhiều rủi ro. Trong việc kinh doanh vận chuyển qua

hệ thồng đường ống, cả lượng và giá đều ổn định. Nhưng trong lĩnh vực buôn bán

khí đốt và xăng dầu, giá cả dao động rất mạnh đồng thời số lượng cũng dao động

do sức ép cạnh tranh.

Enron lớn đến mức không ai tin nó có thể sụp đổ. Vậy tại sao Enron, một công ty

năng lượng lớn nhất nước Mỹ, đứng thứ bảy trong số các công ty lớn nhất của Mỹ

lại rơi vào tình trạng khủng hoảng và phá sản nhanh đến thế.

II. KHỦNG HOẢNG VÀ SỤP ĐỔ

Khủng hoảng bắt đầu hiện ra từ cuồi năm 2001.

Ngày 10 tháng 1, Tòa Bạch Ốc chính thức thông báo lãnh đạo tập đoàn Enron,

ông Kenneth Lay, đã từng liên hệ với giới chức cao cấp của chính quyền Bush,

trong đó có Bộ Trưởng Ngân Khố Paul Oneil và Bộ Trưởng Thương Mại Don

Evans để tìm kiếm sự giúp đỡ, xin chính phủ can thiệp tài chính để thoát khỏi bờ

vực phá sản, nhưng đều bị hai Bộ Trưởng từ chối. Lúc đó, ông 0'neil đã không

thông báo cho Tổng Thống Bush vì cuộc khủng hoảng của Enron và chính quyền

cũng không làm gì để bảo vệ cho các nhân viên cũng như cổ đông của Enron.

Đến tháng 10 năm 2001, ủy ban Chứng khoán Mỹ đã điều tra sổ sách kế toán của

Enron và sự thật mới bắt đầu hé lộ.

Tập đoàn Arthur Andersen chịu trách nhiệm kiểm toán, lưu giữ chi tiết các hoạt

động tài chính của Enron vừa thú nhận rằng họ đã hủy bỏ "một số lượng đáng kể

nhưng không xác định được" những tài liệu nói về sai phạm tài chính ở Enron.

Các công tố viên cho biết số lượng tài liệu liên quan bị hủy bỏ có thể lên đến

hàng ngàn.

Nhiều nhà phân tích tài chính liên tục đánh giá cao công ty này, cho đến sát thời

điểm nó sụp đổ. Theo chuyên san tài chính Bloomberg Markets, đến trung tuần

tháng 10 năm 2001, vẫn có ít nhất sáu nhà phân tích nổi tiếng ở Wall Street tiếp

tục khuyên nên mua cổ phiếu Enron.

Page 21: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Ngày 26 tháng 10 năm 2001, công ty lần đầu tiên thừa nhận đã lỗ hàng trăm triệu

USD trong một quý:

Enron công bố lỗ 618 triệu USD trong quý III nhưng thực tế lén tới 1,2 tỷ USD.

Số nợ 1,2 tỷ USD bị giấu đi đã gây hoảng loạn trên thị trường chứng khoán khi nó

bị tiết lộ.

Vào tháng 8 năm 2001, Giám đốc điều hành Jeffrey Skilling từ chức vì lý đo cá

nhân.

Tháng 12 năm 2001,ủy ban Chứng khoán Mỹ thông báo rằng ủy ban này đã kiện

ông Fastow trước một tòa án ở Washington vì không giao nộp các tài liệu liên

quan đến các hoạt động tài chính bất minh của Enron và không trình diện ủy ban

theo trát đòi ngày 30 tháng 10. Giám đốc tài chính Fastow phải ra đi.

Khi công ty khó khăn, họ thuyết phục nhân công nhận lương và thưởng bằng cổ

phiếu. Việc trả lương bằng cổ phiếu chẳng những không thể làm cho giám đốc

điều hành đặt quyền lợi cổ đông lên trên hết mà còn gây hậu quả ngược lại - mua

lấy sự im lặng của các giám đốc này vì tình hình tài chính. Làm cách đó, giá trị

của Enron đã bị giảm sút nghiêm trọng.

Đã có những dự báo trước: Tháng 1 năm 2001, một nhân viên kiểm toán của

Andersen đã cực lực phản đối phương pháp kế toán của Enron. Vài tuần sau, nhân

viên này bị Andersen chuyển sang bộ phận khác theo đề nghị của Enron. Một

nhân viên của Merrill Lynch (công ty đánh giá xếp hạng chứng khoán) đã xếp

hạng cổ phiếu của Enron vào loại “không có triển vọng” nhân viên này bị sa thải

ngay sau đó.

Cổ phiếu của Enron tụt giá thảm hại: Ngày 15 tháng 3 năm 2001, cổ phiếu Enron

bắt đầu mất giá, đầu tháng 11 năm 2001, giá cổ phiếu của Enron giảm xuống dưới

10 USD, cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chỉ còn giá 0,6 USD.

Tháng 9 năm 2002 Hoa Kỳ đã chính thức cho chuyển hồ sơ của tập đoàn Enron

sang bộ phận điều tra hình sự. Cuộc điều tra này dự kiến được chỉ thị từ Hoa

Thịnh Đốn nhưng sẽ có Công Tố Viên nhiều tiểu bang tham gia. Trước đó, Enron

Page 22: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

đã trải qua hàng loạt cuộc điều tra dân sự khi nộp đơn xin phá sản lần thứ hai vào

tháng 12 năm 2001.

Trong thời điểm này các Công Tố Viên quan tâm đến một yếu tố có khả năng gây

chấn động: Bộ Trưởng Tư Pháp John Ashcroft trong ngày 10 tháng 1 đã tự rút lui

khỏi ban điều tra hình sự của Bộ Tư Pháp về công ty Enron, sau khi thông tin về

số tiền 61.000 Mỹ kim mà Enron đóng góp vào quỹ tranh cử vào Thượng Viện

của ông trong năm 2000 được công bố. Toàn bộ văn phòng Tư Pháp tại Houston,

cơ quan được chỉ định điều tra vụ Enron, cũng đã rút lui khỏi tiến trình điều tra

với lý do "có liên hệ tài chính" với Enron.

Ngay trong tháng 12 năm đó (ngày 2 tháng 12 năm 2001), công ty tuyên bố phá

sản.

Hàng nghìn người bị mất việc làm và "xóa xổ" tài khoản hưu trí trị giá hàng tỷ

USD của các nhân viên.

Khi Enron Sụp đổ, nó phá hùy hơn 60 tỷ USD giá trị thị trường;

Những công bố về lợi nhuận của công ty được minh chứng là không có thật, họ có

những món nợ khổng lồ không được thể hiện trong sổ sách của công ty.

Bất ngờ hơn vẫn là chuyện của các vị lãnh đạo chóp bu trong đó phải kể đến cựu

Giám đốc tài chính Andrew Fastow của Enron đã "tỉa" trên 33 triệu USD từ các

giao dịch, sau khi chịu sự điều tra đã bị kết án 10 năm tù năm 2004.

Công ty sụp đổ với khoảng nợ quyết đoán với 13 tỷ dollars và hàng tỷ dollars nợ

vay, tái trả tín dụng và trả các hợp đồng năng lượng. Enron phải tuyên bố phá sản

đánh dấu vụ thất bại kinh doanh lớn nhất ở Hoa Kỳ. Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ quyết

định điều tra xem có phải các giới chức Enron đã phạm tội lừa đảo trước khi công

ty phá sản hay không.

Lật lại hồ sơ, người ta thấy rằng Tổng Thống Georges W.Bush đã nhận được từ

Enron và những người liên quan đến công ty hơn 550.000 dollars, số tiền hậu

thuẩn tài chính lớn nhất .Đổi lại, ông dành cho Enron những ưu đãi đáng kể trong

việc làm ăn. Enron và Ken Lay giám đốc điều hành của Enron, người được ông

Page 23: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Bush đặt tên thân mật là "Kenny Boy" đã quyên góp tiền cho ông Bush từ hai lần

ông tranh cừ thống đốc bang Texas năm 1994 và 1998 (với tổng số tiền 312.500

dollars), đến chiến dịch tranh cử tổng thống và cả tiền cho lễ đăng quang tổng

thống hồi đầu năm 2001. Lay nói rằng ông ta ủng hộ ông Bush bởi có quan hệ lâu

với gia đình Bush. Thậm chí sự ủng hộ của Lay bắt đầu từ chiền dịch tranh cử

tổng thống của Bush cha ít nhất vào năm 1980.

Hàng loạt quan chức của Enron và Andersen hoặc đã vào tù hoặc đang chờ án tù.

Những nạn nhân chính là những người mua cổ phiếu. Những người "bên trong"

đã nhanh tay bán cổ phiếu trước khi thảm hoạ được phát hiện. Còn hầu hết cổ

đông "bên ngoài", cuộc tháo chạy giống như một thảm hoạ. Có những người đã

mua cổ phiếu với giá 90 dollars và để nhận được 0,6 dollars sau không đầy một

năm.

Enron phá sản mọi sự dính líu về chính trị cũng được phơi bày. Trong đó có

những quan hệ gần gũi của công ty này với Nhà Trắng. Enron đã ủng hộ nhiều

triệu dollars vào chiến dịch tranh cử năm 2000 của George W.Bush. Mặc dù cá

nhân ông Bush là một người bạn của vị giám đốc điều hành Kenneth Lay của

Enron, ông này mau chóng cách ly với mọi dính líu có thể gây tai tiếng với công

ty này.

Tập đoàn Enron còn hậu thuẩn tài chính cho hơn 250 thành viên quốc hội thuộc

hai đảng Dân Chù và Cộng Hòa trong thời gian từ năm 1989 đến 2001. Đứng đầu

đanh sách nhận tiền của Enron là các Thượng nghị sĩ đại diện bang Texas: Kay

Baley Hutchinson 99.500 dollars, thuộc đảng Cộng Hòa. Bộ trưởng Tư Pháp bang

Texas là John Comyn cũng đã nhận hơn 150.000 dollars của Enron và của các

nhân vật trong tập đoàn này. Ngoài ra, ít nhất 15 giới chức cao cấp trong chính

quyền Bush cho đến năm 2000 vẫn còn cổ phần ở tập đoàn Enron, trong đó phải

kể đến Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rsumsfeld, cố vấn cao cấp của Tổng

Thống là Karl Rove, Thứ trưởng Bộ Ngân Khố Peter Fisher và Đại Diện Thương

Mại Mỹ Robert Zoellick (50.000 dollars mỗi năm). Kenneth Lay từng chơi golf

Page 24: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

với Tổng thống Bill Clinton và đóng góp hàng trăm ngàn dollars cho các ủy ban

vận động tranh cử Dân chủ cũng như nhiều ông nghị Dân chủ, trong đó có thượng

nghị sĩ Challes E.Schumer và dân biểu Martin Frost (có chân trong ủy ban các

điều luật Hạ viên)...

Dù sao, trong lúc tổ chức Enron có một tác động tiêu cực với cộng đồng kinh

doanh Texas thì với những công ty trực tiếp dính líu đến Enron trong việc kinh

doanh, hậu quả thật sự là thảm họa. Với công ty kiểm toán cho Enron, Arthur

Andersen, việc dính líu này có một tác động chết người.

Hơn nữa, vụ tai tiếng Enron có liên quan đến việc kiểm toán. Đặc biệt là việc che

giấu hồ sơ liên quan đến tài khoản và những món nợ khổng lồ của Enron, một

thực tế về sự đồng lõa của công ty kiểm toán. Sự đồng lõa này càng rõ ràng hơn

khi David Duncan, kế toán trưởng của Enron ở Andersen, bí buộc phải có mặt

trong cuộc điều tra đầu tiên đã từ chối nói chuyện để cố chạy tội cho bản thân.

Ngay cả khi Joseph Berardino, trưởng ban điều hành của Andersen, ngang ngạnh

bảo vệ cho vai trò của công ty ông trong việc này cũng không thể tránh được

những tổn thương bắt buộc. Một khi họ đã bị cáo buộc là có tội trong việc hủy

hoại chứng cớ công ty gánh chịu sự tổn thương thương hiệu nghiêm trọng và

những chấn động vẫn còn cảm nhận được trong toàn ngành công nghiệp kiểm

toán.

III. NGUYÊN NHÂN PHÁ SÂN:

Chính sự bí hiểm về tài chính của Enron là cội nguồn cho sự sụp đổ của công ty

này. Giới chuyên gia cho rằng, sai lầm của công ty này chính là phụ thuộc quá

nhiều vào các giao dịch tài chính. Theo các chuyên gia kinh tế, một công ty hoạt

động lành mạnh phải công khai tài chính với các đối tác và ngược lại. Thế nhưng,

nhiều đối tác của Enron đã không tuân theo các nguyên tắc kế toán khiến họ bất

lực trong việc kiểm soát tình hình tài chính.

Do các chi phí kế toán: Andersen đã ký hợp đồng làm tư vấn cho Enron, sau đó

chính mình lại đóng vai trò kiểm toán để xác nhận những báo cáo tài chính của

Page 25: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Enron. Phí tư vấn và kiểm toán đều là những con số khổng lồ. Ví dụ, năm 2000,

Enron Corp trả Arthur Andersen chi phí kiểm toán 25 triệu dollars, chi phí tư vấn

và các phí dịch vụ khác lên đến 27 triệu dollars, và tổng số là 52 triệu dollars.

Như thế có nghĩa là công ty Enron Corp đã trả Arthur Andersen khoảng 1 triệu

dollars /tuần.

Lãnh đạo Enron đã lợi dụng kẻ hở luật pháp để lập ra các công ty con mà không

khai báo tài chính để che giấu việc công ty đã vay quá khả năng chi trả. Bằng

cách này, Enron vừa không phải công khai các khoản nợ, vừa che giấu được

những khoản lỗ. Kết quả là Enron đã thổi phồng lợi nhuận của mình và giá cổ

phiếu của công ty cũng theo đó tăng lên vun vút. Khi mà Enron phải thông báo

chính thức rằng từ năm 1997 công ty đã thua lỗ trên 500 triệu dollars, những

người "trong cuộc" đã kịp thời thu những món lợi khổng lồ từ cổ phiếu của công

ty. Cụ thể, ông Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Kenneth Lay đã giữ 138 triệu cổ

phiểu của công ty. Đầu năm 2001, Kenneth Lay bán ra với giá 79 USD một cổ

phiếu. Hầu hết những vụ mua bán này đều không được công bố.

Những hoạt động tài chính của Enron đều được dựa trên sự thiết kế và vận hành

của điều mà nhiều nhà phân tích đặt tên là "những liên minh ma quái". Một mạng

lưới chằng chịt quan hệ giữa Enron, một số quan chức chính phủ và đặc biệt là

Công ty kiểm toán Arthur Andersen đã giúp Enron. Kế toán trưởng của Enron là

Richard Causey, người đã thiết kế ra hệ thống lừa dối cổ đông, nguyên là kiểm

toán viên của Andersen chuyển sang.

Sự sa thải liên tiếp các lãnh đạo cao cấp của công ty, một số nhân viên và việc

dành hàng trăm triệu dollars cho các quan chức và nhân viên mua cổ phiếu hay

chứng khoán với giá đặc biệt là một nguyên nhân không kém phần quan trọng.

IV. BÀI HỌC TỪ ENRON:

Những bài học đắt giá mà ban kiểm toán Enron chỉ ra:

Thứ nhất, việc công bố thông tin,theo qui định: Các công ty phải công bố một số,

nhưng không phải tất cả, ràng buộc tài chính với các giám đốc. Nhưng tại Enron,

Page 26: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

Enron đã công bố hợp đồng tư vấn với một thành viên ban kiểm toán, nhưng

không đả động gì đến khoản đóng góp từ thiện cho những tổ chức liên danh của

hai thành viên khác trong ban.

Vì vậy, bài học đặt ra ở đây: công bố toàn bộ các ràng buộc về tài chính là việc

làm cần thiết đối với các công ty.

Thứ hai, về trình độ chuyên môn, theo qui định: các thành viên ban kiểm toán

phải cho thấy trình độ hiểu biết cơ bản về tài chính, và một thành viên phải là

chuyên gia tài chính. Nhưng ủy ban của Enron gồm một giáo sư ngành kế toán,

một nhà kinh tế học, và hai doanh nhân. Rõ ràng họ không nhìn nhận được sự rủi

ro trong những quan hệ đối tác nhằng nhịt của công ty.

Bài học: ban kiểm toán phải hợp mặt làm việc thường xuyên hơn, xem xét các

báo cáo kiểm toán nội bộ và được đào tạo về kiến thức tài chính trong ngành công

nghiệp mà công ty đang hoạt động.

Thứ ba, lợi ích người lao động : Hầu hết các công ty đang trả lương giám đốc chủ

yếu bằng cổ phiếu để gắn bó quyền lợi của họ với quyền lợi cổ đông tại Enron,

một số giám đốc đã bán cổ phần trước ngày công bố kết quả kinh doanh tháng 3

năm 2000. Việc cho phép các giám đốc này sơ hữu một lượng lớn cổ phiếu đã

khiến cho họ mất đi khả năng chất vấn đội ngũ quản lý về tình hình hoạt động yếu

kém của công ty.

Bài học: Hãy trả lương bằng cổ phiếu, nhưng không cho phép bán ra trong nhiệm

kỳ làm việc.

ĐỐI VỚI NGÀNH KIỂM TOÁN MỸ :

Sự phá sản của các tập đoàn lớn ở Mỹ kéo theo công ty tư vấn kế toán hàng đầu

thể giới như Arthur Andersen sụp đổ. Sai lầm của ngành kiểm toán Mỹ chủ yếu là

do nhân viên kiểm toán (CPA) và các doanh nghiệp bị kiểm toán “ăn rơ” cùng

nhau. Các CPA vốn là những người thiếu tính độc lập và ngay chính bản thân họ

Page 27: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

cũng không biết giữ tính thận trọng trong khi tác nghiệp và cả sự hoài nghi cần

thiết.

Chính những kẻ hở trong hệ thống kế toán đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công

ty làm sai lệch sổ sách kế toán. Vì vậy, lựa chọn và thiết lập hệ thống các quy tắc

kế toán chính xác là việc làm cần thiết.

Việc biển thủ tiền trong một công ty của Mỹ không được coi là làm trái các quy

định trong hệ thống kế toán, nhưng việc sửa chữa lại dữ liệu kế toán thì ngược

lại, theo các quy định trong hệ thống kế toán, đó là sự vi phạm nghiêm trọng.

Nhưng miễn đó là sự trùng hợp tình cờ với dữ liệu thực tế thì lại được chấp nhận.

Việc lợi dụng khuyết điểm của hệ thống để khiến cho các nhà đầu tư bị lỗ, hiện

tượng này thường bị các nhân viên CPA bỏ qua trong quá trình kế toán. Thông

thường, các nhân viên CPA chỉ chú tâm đến chi tiết của các tài chính kế toán, mà

không đánh giá tính hợp lý trong các báo cáo tài chính. Việc này có thể dẫn đến

sự thất bại trong quá trình kiểm toán và do đó gây ra một loạt các vụ biển thủ tài

chính xảy ra.

Sai sót về mô hình kiểm toán:

Các mô hình kiểm toán hiện đại bao gồm mô hình kiểm toán trên cơ sở hệ thống (

dựa trên phân tích và đánh giá hệ thống quản lý nội bộ để đạt được mục tiêu kiểm

toán) và mô hình kiểm toán trên cơ sở các rủi ro (tập trung hết sức lực để phân

tích các thương vụ và quản lý rủi ro cho khách hàng, nhưng lại không chú trọng

đến việc tiến hành kiểm tra thực sự để trực tiếp hổ trợ kết luận kiểm toán). Kiểm

toán dựa trên cơ sở rủi ro có thể khiến các nhân viên CPA không tuân thủ theo

các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp nhằm tiết kiệm chi phí kiểm toán. Cần phải

hoàn thiện hơn nữa hệ thống kiểm toán trong các công ty kiểm toán.

Kiểm toán viên làm việc thiếu độc lập, tự chủ trong công viêc:.

Tính độc lập tự chủ là nhân tố quan trọng bảo đảm chất lượng kiểm toán, khiến

cho xã hội tin tưởng vào các công ty kiểm toán. Tuy nhiên, tính độc lập của

ngành kiểm toán của nước Mỹ lại đang bị “lợi nhuận” đe dọa nghiêm trọng. Sự

Page 28: Nguyên Nhân Sự Sụp Đổ Của Công Ty Minh Phụng Và Enron

độc lập là vấn đề cốt lõi của kiểm toán, cũng là nguồn gốc của sự phát triển nghề

CPA. Một trong những lý do chính của sự thất bại trong kiểm toán là sự thiếu độc

lập trong quá trình kiểm toán.

Tăng cường giám sát các công ty kế toán:.

Nếu việc quản lý công ty và kiểm toán bên trong mỗi công ty là yếu tố đầu tiên

đảm bảo thông tin trung thực và tin cậy của kế toán, kiểm toán độc lập là khâu

cuối cùng để bảo vệ chống lại các lỗi kế toán và biển thủ. Nếu khâu cuối cùng sai

lệch, các thông tin kế toán sẽ bị bóp méo, thị trường chứng khoán sẽ hỗn loạn và

toàn bộ nền kinh tế cũng bị tác động. Do đó, công tác giám sát kiểm toán phải

được tăng cường.

Tăng cường đào tạo cho CPA

Khi tiến hành các thủ tục kiểm toán, CPA thường bộc lộ nhược điểm của họ là

thiếu tính thận trọng và tính hoài nghi nghiệp vụ cần thiết, và do đó thường tin

vào lời giải thích của các vị lãnh đạo quản lý công ty. Kiểm toán là một quá trình

đòi hỏi sự đánh giá chuyên nghiệp. Vì vậy tăng cường kiến thức cho CPA sẽ cải

thiện trình độ và khả năng kinh doanh. CPA phải thành thạo các kỹ năng kế toán,

các thủ thuật kiểm toán và tránh những lỗi trong kiểm toán và giảm sai sót trong

kiếm toán.