VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ MỸ HẠNH
ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA
CỦA THUẬT NGỮ MĨ THUẬT TIẾNG VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9229020
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Quang Năng
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 26 tháng 02 năm 2019
Tác giả luận án
Lê Thị Mỹ Hạnh
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn lãnh đạo khoa Ngôn ngữ học, Ban lãnh đạo
Học viện cùng toàn thể cán bộ, các thầy giáo, cô giáo của Học viện Khoa học
xã hội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu, triển khai thực hiện luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Hà Quang
Năng
đã luôn tận tình hướng dẫn, định hướng cho tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận án của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Nghệ
thuật Trung ương đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên
cứu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
luôn quan tâm, động viên và đồng hành cùng tôi, tạo điều kiện để tôi hoàn
thành luận án này.
Hà Nội, ngày 26 tháng 02 năm 2019
Tác giả luận án
Lê Thị Mỹ Hạnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN .............................................................................................................. 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở nước ngoài và ở Việt Nam 7
1.2.Cơ sở lí luận ............................................................................................ 19
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 54
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ PHƢƠNG THỨC TẠO THÀNH
THUẬT NGỮ MĨ THUẬT TIẾNG VIỆT ................................................ 55
2.1. Yếu tố cấu tạo thuật ngữ ........................................................................ 55
2.2. Các phương diện và cách thức khảo sát ................................................. 60
2.3. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt xét về mặt cấu tạo .................................. 60
2.4. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt xét về mặt từ loại ................................... 77
2.5. Thuật ngữ mĩ thuật xét về mặt nguồn gốc ................................................. 80
2.6. Nhận xét chung về đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt 82
2.7. Phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt ........................... 86
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 99
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ ĐỊNH DANH CỦA THUẬT
NGỮ MĨ THUẬT TIẾNG VIỆT ............................................................... 102
3.1. Ý nghĩa của thuật ngữ .......................................................................... 102
3.2. Sự thể hiện ý nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt ........................... 106
3.3. Đặc điểm định danh của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt ....................... 114
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 140
KẾT LUẬN ................................................................................................. 142
DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
ĐĐĐD Đặc điểm định danh
MHCT Mô hình cấu tạo
Nxb Nhà xuất bản
TNMT Thuật ngữ mĩ thuật
TNMTTV Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt
Tr. Trang
YTCT Yếu tố cấu tạo
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ
Số TT Tên bảng Trang
1. Bảng 2.1: Bảng tổng hợp các mô hình cấu tạo của thuật
ngữ mĩ thuật tiếng Việt
76
2. Bảng 2.2: Bảng tổng hợp đặc điểm từ loại của thuật
ngữ mĩ thuật tiếng Việt
79
3. Bảng 2.3: Bảng tổng hợp nguồn gốc cấu tạo thuật ngữ mĩ
thuật tiếng Việt là từ
81
4. Bảng 2.4: Bảng tổng hợp nguồn gốc yếu tố cấu tạo
thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là cụm từ
82
5. Bảng 2.5: Bảng tổng hợp phân bố số lượng TN mĩ thuật
tiếng Việt theo yếu tố cấu tạo
83
6. Bảng 2.6: Tổng hợp các phương thức tạo thành thuật
ngữ mĩ thuật tiếng Việt
98
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu thuật ngữ, xây dựng hệ thống thuật ngữ và biên soạn,
xuất bản các từ điển thuật ngữ đang là nhu cầu cần thiết trong xu thế phát
triển mạnh mẽ của tất cả các ngành khoa học trên thế giới. Điều này cũng hết
sức cấp thiết đối với nước ta hiện nay. Tuy nhiên, muốn làm tốt công tác này,
chúng ta phải xây dựng được nền tảng lí luận vững vàng về thuật ngữ học,
cũng như hiểu biết và xác định rõ phương pháp biên soạn các loại từ điển
thuật ngữ. Rất tiếc, cả hai vấn đề này đều còn chưa được quan tâm nghiên cứu
đúng mức ở Việt Nam.
1.2. Trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ, thuật ngữ là đơn vị từ vựng có
phạm vi hoạt động và sử dụng hạn chế. Đó là những đơn vị từ vựng của ngôn
ngữ được sử dụng để biểu đạt khái niệm cụ thể hay trừu tượng trong hệ thống
lí thuyết thuộc một lĩnh vực chuyên môn nhất định. Vì vậy, thuật ngữ là một
đối tượng đặc biệt, khác với từ và cụm từ như là đối tượng của ngôn ngữ học.
Mặc dù trong đa số trường hợp thuật ngữ học xem xét các đơn vị từ vựng đó
như là ngôn ngữ học, nhưng ở thuật ngữ có những đặc trưng khác. Thuật ngữ
có những yêu cầu chuẩn mực khác với những yêu cầu mà ngôn ngữ học đòi
hỏi ở các đơn vị từ vựng khác. Vì vậy, để hiểu rõ đặc điểm hệ thống thuật ngữ
của bất kì ngành khoa học, kĩ thuật nào đều cần phải nghiên cứu kĩ lưỡng toàn
diện và hệ thống thuật ngữ đó. Đó là lí do vì sao hiện nay ở nước ta, trong địa
hạt thuật ngữ học, bên cạnh nhiều công trình nghiên cứu lí thuyết về thuật ngữ
tiếng Việt, cũng có nhiều công trình nghiên cứu các hệ thuật ngữ của các
chuyên ngành cụ thể. Kết quả nghiên cứu hệ thống thuật ngữ của các chuyên
ngành cụ thể sẽ góp phần thiết thực vào việc phát triển khoa học, kĩ thuật và
công nghệ của nước ta.
2
1.3. Mĩ thuật là một trong những bộ môn nghệ thuật ra đời sớm nhất của
loài người. Mĩ thuật học là ngành khoa học nghiên cứu những vấn đề lí luận
của các loại hình nghệ thuật tạo hình như hội họa, điêu khắc, đồ họa,... về các
phương diện như thể loại, chất liệu, hoạt động sáng tạo, đặc trưng ngôn ngữ,
các trường phái, xu hướng của các loại hình nghệ thuật kể trên. Đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu về mĩ thuật ở nước ta từ nhiều phương diện khác
nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt chưa
được chú ý nghiên cứu, ngoài một số công trình từ điển được biên soạn trên
cơ sở dịch các thuật ngữ mĩ thuật nước ngoài, chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt về phương diện
lí thuyết.
Vì những lí do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Đặc điểm cấu tạo và
ngữ nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt ” cho công trình luận án của
mình. Luận án của chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những đặc điểm cấu tạo,
nội dung ngữ nghĩa (bao gồm ý nghĩa và đặc điểm định danh), phương thức
tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng
Viêt. Đó là các từ, cụm từ biểu thị các khái niệm, sự vật, hiện tượng, quá
trình, hoạt động, tính chất… thuộc phạm vi của mĩ thuật truyền thống, gồm
các ngành: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án giới hạn ở các phương diện cấu tạo, ngữ
nghĩa và phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt dựa trên tư liệu
là 1.320 thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt được thu thập từ các từ điển mĩ thuật,
giáo trình mĩ thuật học tiếng Việt thuộc phạm vi của mĩ thuật truyền thống,
gồm các ngành: hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng rõ đặc điểm cấu tạo,
đặc điểm ngữ nghĩa, đặc điểm định danh (ĐĐĐD) và phương thức tạo
thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
a. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuật ngữ nói chung, thuật ngữ mĩ
thuật nói riêng trên thế giới và ở Việt Nam, qua đó xác lập cơ sở lí luận cho
việc nghiên cứu;
b. Khảo sát, thống kê, phân loại thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt; tìm hiểu
đặc điểm cấu tạo thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt gồm: xác định khái niệm thuật
ngữ mĩ thuật để nhận diện thuật ngữ, tìm hiểu đặc điểm cấu tạo, miêu tả và
phân tích các mô hình cấu tạo (MHCT) thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt;
c. Tìm hiểu nội dung ý nghĩa thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt, gồm có
các phương thức tạo nên ý nghĩa của thuật ngữ và các phạm trù nội dung ý
nghĩa làm cơ sở định danh của các đơn vị thuật ngữ trong hệ thống thuật
ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
d. Tìm hiểu các phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
4. Tƣ liệu khảo sát
Tư liệu khảo sát của luận án là các thuật ngữ mĩ thuật rút từ các từ điển
thuật ngữ mĩ thuật và được thu thập từ những giáo trình mĩ thuật học, sách
báo, tạp chí về mĩ thuật bằng tiếng Việt. Cụ thể là:
- Thuật ngữ mĩ thuật Pháp - Việt, Việt - Pháp ( Viện Ngôn ngữ học,
Hà Nội, 1978);
- Từ điển mĩ thuật phổ thông (Đặng Thị Bích Ngân (chủ biên), Nxb.
Mĩ thuật, Hà Nội, 2000);
4
- Từ điển mĩ thuật (Lê Thanh Lộc biên soạn, Nxb. Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội, 1998);
- Lược sử mĩ thuật và mĩ thuật học (Chu Quang Chứ, Phạm Thị
Chỉnh, Nguyễn Thái Lai, Nxb. Giáo dục, 1998);
- Các thể loại và loại hình mĩ thuật (Nguyễn Trân, Nxb. Mĩ thuật, Hà
Nội, 2005);
- Mĩ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb. Mĩ thuật, Hà Nội, 1996;
- Nghệ thuật học (Đỗ Văn Khang, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004);
- Điêu khắc (Nguyễn Thị Hiên, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008);
- Điêu khắc hiện đại Việt Nam, Nxb. Mĩ thuật, Hà Nội, 2000.
- Lịch sử mĩ thuật học (Trần Tiểu Lâm, Phạm Thị chính, Nxb. Đại
học Sư phạm, Hà Nội, 2013);
- Lịch sử mĩ thuật Việt Nam (Phạm Thị Chính, Nxb. Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2010);
- Hình họa 1 (Triệu Khắc Lễ, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2004).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu và các nội dung nghiên cứu đã
đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp và thủ pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phƣơng pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả được sử dụng để thu thập, thống kê các thuật ngữ
mĩ thuật từ các nguồn tư liệu khảo sát, miêu tả các phương thức tạo thành
thuật ngữ, các kiểu cấu tạo thuật ngữ, các lớp thuật ngữ được sử dụng trong
lĩnh vực chuyên môn của chuyên ngành mĩ thuật và đặc điểm ý nghĩa và định
danh của hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
5.2. Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp
Phương pháp này được áp dụng để mô tả quan hệ ngữ pháp giữa các
yếu tố cấu tạo (YTCT) trong cấu trúc nội bộ của các thuật ngữ, xác định
các kiểu MHCT của hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt theo quan hệ
5
ngữ pháp giữa các YTCT trong cấu trúc của thuật ngữ mĩ thuật. Từ đó, tìm
ra được các nguyên tắc tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt và các quy
tắc cụ thể tạo nên hệ thống thuật ngữ này.
5.3. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa
Phương pháp này được áp dụng để tìm hiểu những cách thức tạo thành ý
nghĩa thuật ngữ, phân tích ý nghĩa của các thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt. Dựa
vào các phạm trù nội dung ý nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt để phân
chia hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt thành các tiểu phạm trù ngữ nghĩa
và xác định các đặc trưng làm cơ sở định danh của hệ thuật ngữ và các kiểu
quan hệ ngữ nghĩa là cơ sở tạo nên thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt. Từ đó lập
các mô hình định danh thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
5.4. Thủ pháp thống kê
Là một thủ pháp của phương pháp miêu tả, thủ pháp thống kê được sử
dụng để xác định số lượng, tần số xuất hiện, tỉ lệ phần trăm của các phương
thức tạo thành thuật ngữ, các MHCT, mô hình định danh thuật ngữ. Các kết
quả thống kê sẽ được tổng hợp lại dưới hình thức của bảng biểu giúp hình dung
rõ hơn tổng thể diện mạo cấu tạo, định danh của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
6. Ý nghĩa và đóng góp của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện phương diện cấu
tạo, nội dung ngữ nghĩa, các phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng
Việt, luận án sẽ có những đóng góp về mặt lí luận và thực tiễn như sau:
6.1. Ý nghĩa lí luận
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp thêm vào việc nghiên cứu lí
thuyết chung về thuật ngữ học, đồng thời chỉ ra được những đặc điểm riêng
về phương diện cấu tạo, đặc điểm ngữ nghĩa ( ngữ nghĩa và định danh) và
phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ:
6
- Cho phép đề xuất được các biện pháp, phương hướng cấu tạo các thuật
ngữ mĩ thuật mà tiếng Việt hiện chưa có;
- Là cơ sở để biên soạn từ điển giải thích thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt, góp
phần vào việc nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực thuật ngữ học tiếng Việt.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho công tác nghiên cứu, biên soạn giáo trình ngành mĩ thuật học và
giảng dạy ngành mĩ thuật học ở nước ta;
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 3
chương được bố cục như sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chƣơng 2: Đặc điểm cấu tạo và phƣơng thức tạo thành thuật ngữ mĩ
thuật tiếng Việt
Chƣơng 3: Đặc điểm ngữ nghĩa và định danh của thuật ngữ mĩ thuật
tiếng Việt
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
"Mĩ thuật học là một môn khoa học nghiên cứu những vấn đề lí luận về
mĩ thuật" [16; 5]. Loại hình nghệ thuật này có quan hệ đến sự cảm thụ bằng
mắt và sự tạo thành các hình tượng lấy từ thế giới vật chất bên ngoài để đưa
lên mặt phẳng hoặc một không gian nào đấy. "Mĩ thuật là một trong những bộ
môn nghệ thuật ra đời sớm nhất của loài người, khởi đầu bằng sự khai thác và
phát huy tác dụng của các nhân tố không gian như hình khối, đường nét, màu
sắc,...để diễn đạt và truyền cảm. Nó bao gồm nhiều thể loại, tựu trung lấy việc
kiến tạo các quan hệ không gian làm phương tiện diễn đạt và lấy việc gây cảm
hứng thị giác làm mục đích truyền đạt. Do đó mĩ thuật được liệt vào loại nghệ
thuật thị giác hay nghệ thuật không gian" [87, tr.5]. Các nhà nghiên cứu cho
rằng: "nếu nói một cách chính xác hơn, nên dùng danh từ "nghệ thuật tạo
hình". Trên thế giới, danh từ "nghệ thuật tạo hình" đã trở nên phổ cập và
được chính thức đưa vào bách khoa toàn thư, từ điển" [16; 5]. Như vậy, thuật
ngữ "nghệ thuật tạo hình" đồng nghĩa với thuật ngữ "mĩ thuật". Tuy nhiên để
đảm bảo tính nhất quán, trong luận án này chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ
"mĩ thuật".
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở nước ngoài và ở Việt Nam
1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở nước ngoài
Theo những nghiên cứu và tổng kết của Hà Quang Năng [86, 80 - 86],
việc nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới đã sớm bắt đầu ngay từ thế kỉ 18. Các
nghiên cứu về thuật ngữ ở thời kì này đều tập trung vào nội dung tạo lập thuật
ngữ, xác định các nguyên tắc cho việc xây dựng một hệ thống thuật ngữ riêng
cho từng ngành khoa học. Đi tiên phong trong công tác nghiên cứu thuật ngữ
ở thời kì này là các nhà khoa học như: Carl von Linné (1736); Beckmann
(1780); A.L. Lavoisier, G.de Morveau, M.Berthellot và A.F.de Fourcoy
8
(1789) và William Wehwell (1840). Carl von Linné (1707 - 1778) có thể
được coi là người xác lập công tác nghiên cứu thuật ngữ, trong đó gồm có
việc nêu quy tắc tạo thuật ngữ, xác định chuẩn mực của thuật ngữ và lập kế
hoạch xây dựng các hệ thuật ngữ khoa học. Bởi vì chỉ từ khi tác phẩm
Fundamenta botanica (1736) của ông ra đời thì người ta mới có thể nói đến
một hệ thuật ngữ thực vật học được xác định theo quy tắc nhất định. Có đến
gần 1000 thuật ngữ đã được ông giải thích ý nghĩa và chỉ rõ cách sử dụng
chúng rất tỉ mỉ. Trong khi Linné dựa vào ngôn ngữ khoa học đang được sử
dụng ở châu Âu thời bấy giờ là tiếng Latinh để xây dựng thuật ngữ khoa học,
thì ngay từ giữa thế kỉ 18, M.V. Lomonosov đã đưa ra một hệ thống thuật ngữ
lí - hoá riêng của tiếng Nga, trong đó ông sử dụng tối đa các thuật ngữ bằng
tiếng Nga và chỉ sử dụng các thuật ngữ ngoại lai khi không thể tìm ra các
tương đương trong tiếng Nga.
Thời kì này ở nước Pháp người ta cũng nỗ lực xây dựng hệ thuật ngữ
hoá học. A. L. Lavoisier, G. de Morveau, M. Berthellot và A. F. de Fourcroy
đã xây dựng được một hệ thuật ngữ gọi tên các chất hoá học trong công trình
Méthode de nomenclature chimique xuất bản năm 1787. Hệ thống thuật ngữ
này đã thể hiện rõ các mối quan hệ qua lại trong các kết hợp của các chất (ví
dụ ở các kết hợp với lưu huỳnh: sulphite, sulphate, sulphurate v.v.) để tạo ra
một hệ thuật ngữ thống nhất và bao quát được toàn bộ hệ thống tên gọi các
chất hóa học.
Một bước quan trọng tiếp theo được Johann Beckmann (1739 - 1811)
thực hiện với việc lập ra một hệ thuật ngữ công nghệ. Ông đã xây dựng hệ
thống thuật ngữ kĩ thuật trong lĩnh vực thủ công. Beckmann biết rõ trong các
nghề thủ công người ta sử dụng rất nhiều các thuật ngữ khác nhau nhưng
chúng lại không thống nhất giữa các ngành. Có nhiều thuật ngữ rất khác nhau
lại được dùng để gọi tên những quá trình hay những phương tiện kĩ thuật
giống nhau. Những người thợ thủ công đã không thể dùng tiếng Latinh, thứ
9
tiếng của các học giả thời đó, để đặt thuật ngữ cho ngành nghề của mình. Còn
các ngôn ngữ quốc gia lại rất khó khăn để có thể diễn đạt được đầy đủ và rõ
ràng các thuật ngữ chuyên ngành trong lĩnh vực kĩ thuật. Theo tinh thần đó,
Beckmann cho rằng để có một hệ thuật ngữ công nghệ được quy định thống
nhất thì, một mặt, "phải loại bỏ đi các từ đồng nghĩa, mặt khác, phải dần tiếp
nhận một lượng từ ngữ mới”. Tuy nhiên, những chỉ dẫn về việc chuẩn hoá
thuật ngữ của Beckmann phải mãi 150 năm sau mới được thực hiện đối với hệ
thống thuật ngữ về kĩ thuật.
Công tác nghiên cứu và xây dựng một hệ thuật ngữ mang tính hệ thống
bằng tiếng mẹ đẻ của mỗi một dân tộc hay bằng ngôn ngữ quốc gia chỉ được
tiến hành mãi sau chiến tranh thế giới thứ nhất và đạt được đỉnh điểm của nó
vào đầu những năm 30 của thế kỉ 20. Ý tưởng về một khoa học thuật ngữ phải
đến đầu thế kỉ 20 mới hình thành, việc nghiên cứu thuật ngữ mới có được
định hướng khoa học và được công nhận là một hoạt động quan trọng về mặt
xã hội.
Từ những năm 1930, việc nghiên cứu thuật ngữ thực sự diễn ra một cách
đồng thời với những công trình nghiên cứu thuật ngữ của các học giả Liên Xô
cũ, Cộng hòa Tiệp Khắc và Áo. Việc nghiên cứu thuật ngữ ở thế kỉ 20 thực sự
diễn ra từ những năm 1930 một cách đồng thời nhưng độc lập bởi các học giả
người Áo, Liên Xô cũ và Tiệp Khắc. Những nghiên cứu này được coi là nền
tảng cho sự khởi đầu của ngành thuật ngữ học trên thế giới. Đây là ba cái nôi
nghiên cứu thuật ngữ tiêu biểu và lớn nhất trên thế giới tạo thành ba trường
phái nghiên cứu thuật ngữ.
Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Áo gắn liền với tên tuổi của
E.Wuster (1898 -1977). Ông không chỉ được coi là người đầu tiên đặt nền
móng cho công tác nghiên cứu và phát triển thuật ngữ hiện đại ở thế kỉ 20 mà
còn là người có ảnh hưởng rất lớn đến việc nghiên cứu thuật ngữ của nhiều
học giả sau này. Các phương pháp nghiên cứu thuật ngữ của trường phái này
10
chủ yếu dựa theo những nguyên tắc được trình bày rất rõ ràng trong tác phẩm
Lí luận chung về thuật ngữ của Wuster (1931). Trong tác phẩm này, Wuster
đã đề cập đến những phương diện ngôn ngữ học của công tác nghiên cứu
thuật ngữ liên quan đến hệ thống tên gọi các khái niệm, đối tượng trong lĩnh
vực kĩ thuật. Ông đã xác lập được các phương pháp nghiên cứu thuật ngữ, đưa
ra một số nguyên tắc xây dựng thuật ngữ và xác định các phương pháp xử lí
ngữ liệu thuật ngữ. Công trình của ông đã được Leo Weisgeber (1975) đánh
giá như là một cột mốc của ngôn ngữ học ứng dụng.
Đặc điểm quan trọng nhất của trường phái nghiên cứu thuật ngữ Áo là tập
trung vào các khái niệm và hướng việc nghiên cứu thuật ngữ vào chuẩn hóa các
thuật ngữ và các khái niệm. Việc nghiên cứu của trường phái này nhằm phục vụ
nhu cầu của các nhà kĩ thuật, các nhà khoa học là chuẩn hóa thuật ngữ trong lĩnh
vực của họ để đảm bảo sự giao tiếp hiệu quả và có thể chuyển tải kiến thức trong
lĩnh vực chuyên môn. Những nguyên tắc nghiên cứu thuật ngữ của trường phái
này được trình bày cụ thể trong các tài liệu về chuẩn hóa từ vựng của thuật ngữ.
Đa số các nước vùng Trung Âu và Bắc Âu (Áo, Đức, Na Uy, Thụy Sĩ, Đan
Mạch) đều nghiên cứu thuật ngữ theo hướng này.
Trường phái thuật ngữ học của Tiệp Khắc với đại diện tiêu biểu là L.
Drodz, một trong những người khởi xướng và phát triển công tác nghiên cứu
thuật ngữ ở Tiệp Khắc từ cách tiếp cận ngôn ngữ học về mặt chức năng của
Trường phái ngôn ngữ học Praha. Trong nghiên cứu, các nhà khoa học của
trường phái này quan tâm đặc biệt đến việc miêu tả cấu trúc và chức năng của
các ngôn ngữ chuyên ngành, trong đó thuật ngữ đóng vai trò quan trọng. Theo
quan niệm của Trường phái ngôn ngữ học Praha, thì các ngôn ngữ chuyên
ngành mang đặc điểm của phong cách khoa học, tồn tại cùng với các loại
phong cách chức năng khác như phong cách chính luận, phong cách hành
chính - công vụ, phong cách văn học nghệ thuật và phong cách khẩu ngữ. Họ
xem thuật ngữ như là những đơn vị tạo nên diện mạo của phong cách khoa
11
học. Mối quan tâm nhất của trường phái này là vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ và
chuẩn hóa thuật ngữ.
Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Nga - Xô Viết
Theo tổng kết của các tác giả công trình "Thuật ngữ học - Những vấn đề
lí luận và thực tiễn" [84], sự phát triển khoa học về thuật ngữ ở Nga và Liên
Xô trải qua 4 thời kì.
- Thời kì chuẩn bị: Bắt đầu từ năm 1780 và kéo dài đến cuối thập niên 20
của thế kỉ 20. Đây là thời kì lựa chọn, xử lí sơ bộ các thuật ngữ và xác định
các khái niệm chuyên biệt liên quan. Sự bắt đầu thời kì này được đánh dấu
bằng việc dịch các thuật ngữ và biên soạn từ điển thuật ngữ học đầu tiên vào
năm 1780.
- Thời kì thứ nhất: từ năm 1930 đến năm 1960 của thế kỉ 20. Đặc điểm
cơ bản thời kì này là sự ra đời các lí thuyết về thuật ngữ học và những hoạt
động thực tiễn về thuật ngữ học trên nền tảng giáo dục kĩ thuật của hai chuyên
gia là D. S. Lotte và E.K.Drezen, cũng như những đóng góp lớn lao cuả A. A.
Reformatsky và G. O.Vinokur. Trong các công trình khoa học của mình, D.S
Lotte và E.K.Drezen đã đưa các quan điểm ngôn ngữ học vào việc tìm hiểu sự
phát triển khoa học về thuật ngữ ở Nga. Đại diện tiêu biểu của trường phái
nghiên cứu thuật ngữ Nga - Xô viết là Đ.X. Lotte (1898 -1950) với công trình
Nguyên lí xây dựng hệ thuật ngữ khoa học kĩ thuật, ông được coi là người
đứng đầu trong công tác phát triển hệ thuật ngữ hiện đại của Liên Xô. Lotte
đã tạo ra nền móng về mặt lí thuyết và phương pháp cho công tác thuật ngữ
của Liên Xô.
- Thời kì thứ hai kéo dài từ năm 1970 đến 1990 của thế kỉ 20: Thuật ngữ
học trở thành một ngành khoa học độc lập. Những thành tựu trong ngôn ngữ
học, logic học và tiến bộ trong công nghệ thông tin đã dẫn đến việc xác định
rõ chủ thể và khách thể của thuật ngữ học với những cải tiến về phương pháp
nghiên cứu, góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản của thuật ngữ học. Hoạt
12
động của các Ủy ban về thuật ngữ trong phạm vi nghiên cứu mang tính hàn
lâm cuả các nước cộng hòa trong Liên bang Xô Viết về công tác chuẩn hóa
thuật ngữ được đặc biệt chú ý. Thời kì này, ở Cộng hòa Liên bang Nga đã tổ
chức một số hội nghị, hội thảo về thuật ngữ học, hàng chục chuyên khảo đã
được công bố, gần 20 tuyển tập các bài báo về thuật ngữ đã được xuất bản và
hơn 100 luận án Phó tiến sĩ, Tiến sĩ đã được bảo vệ. Ngoài ra, hàng nghìn các
từ điển bách khoa và từ điển thuật ngữ học, bao gồm từ điển thuật ngữ kĩ
thuật tổng hợp, từ điển thuật ngữ khoa học công nghệ chung và các loại từ
điển chuyên ngành sâu… đã được biên soạn với sự đóng góp của các nhà
khoa học như L.N. Beljaeva, L. I. Borisova, L.Ju. Bujanova, A.S. Gerd, B.N.
Golovin, S.V. Grinev, V.P. Danilenko, G.A. Dianova, A. D. Hajutin, T.L.
Kandenlaki, R.Ju. Kobrin, Z.I. Komarova, T.B. Kryuchkova; O. D.
Mitrofanova,V.I. Mikhailova, S.E. Nikitina, A. V. Superanskaja, V.D.
Tabanakova, V.A. Tatarinov, L.B. Tkacheva, N.I.Tolstoy, O.N. Trubachev,
N.V. Vasilieva, M.N. Volođina.
- Thời kì thứ ba là thập niên cuối cùng của thế kỉ 20. Đặc điểm của thời
kì này là việc nghiên cứu thuật ngữ được thực hiện trong bối cảnh sau khi
Liên Xô sụp đổ, với những thay đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế, xã hội,
khoa học. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thuật ngữ học được đánh dấu
bằng sự khủng hoảng ở nửa đầu thập niên và những đổi mới ở nửa sau thập
niên cuối cùng của thế kỉ 20. Trong những thập niên đầu của thế kỉ 21, số
lượng các công trình nghiên cứu thuật ngữ ở Nga không ngừng tăng lên,
tập trung nghiên cứu những phương thức sáng tạo thuật ngữ, nguyên tắc
xây dựng các hệ thống thuật ngữ mới và chỉnh lí một số hệ thống thuật ngữ
đã có. Hiện nay các nhà nghiên cứu cũng đã tập trung nghiên cứu thuật ngữ
theo hướng ngôn ngữ học tri nhận, như vấn đề tính đa dạng trong cách tri
nhận, trong sáng tạo thuật ngữ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu thuật ngữ
theo hướng tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận, như: "Cơ sở ngôn ngữ - tri
13
nhận của việc nghiên cứu thuật ngữ chuyên ngành", "Nghiên cứu từ vựng
chuyên ngành từ góc độ định danh - tri nhận (trên tư liêu tên gọi các cây
thuốc", "Mô hình hóa và cơ sở tri nhận hệ thống thuật ngữ bệnh học trong
tiếng Anh hiện đại", "Thuật ngữ học từ vựng là một hệ thống",v.v.[86]
Như vậy, cả ba trường phái nói trên đều có chung quan điểm là nghiên
cứu thuật ngữ dựa trên ngôn ngữ học. Các nhà khoa học đều xem thuật ngữ
như là một phương tiện để diễn đạt và giao tiếp trong lĩnh vực chuyên môn.
Vì vậy cả ba trường phái đã hình thành cơ sở lí thuyết về thuật ngữ và những
nguyên lí xây dựng thuật ngữ mang tính phương pháp chi phối những ứng
dụng của thuật ngữ. Những thành tựu nghiên cứu thuật ngữ của các trường
phái này là một trong những động lực quan trọng cho việc phát triển những
hướng mới nghiên cứu thuật ngữ sau này - đó là thuật ngữ được nghiên cứu
theo hướng dịch thuật và kế hoạch hóa ngôn ngữ.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam
Thuật ngữ khoa học tiếng Việt xuất hiện chưa lâu, chỉ từ nửa đầu thế kỉ
20 trở lại đây. Mãi đến đầu thế kỉ 20, một số thuật ngữ tiếng Việt mới lẻ tẻ
xuất hiện và cũng chỉ hạn chế trong một vài lĩnh vực rất hẹp, cũng không
được phổ biến rộng rãi. Những thuật ngữ này lúc đầu chủ yếu là về khoa học
xã hội và nhân văn, nhất là về chính trị và triết học, sau mới phát triển sang
các ngành khoa học khác. Đóng góp quan trọng cho sự hình thành hệ thống
thuật ngữ tiếng Việt giai đoạn này là một số tờ báo, một số văn kiện của tổ
chức đảng tiền thân, một số văn bản ở giai đoạn 1900 – 1930 và những thuật
ngữ Hán Việt xuất hiện trong Từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh. Lần đầu
tiên trong từ điển này có nhiều mục từ là các thuật ngữ thuộc nhiều môn khoa
học khác nhau được nhận diện và giải thích. Việc đặt thuật ngữ khoa học
tiếng Việt cũng đã được các nhà khoa học chú ý và phát triển trong báo Khoa
học (1942 - 1943). Đáng chú ý nhất là quan điểm về thuật ngữ trong công
trình "Danh từ khoa học" của Hoàng Xuân Hãn, người tiên phong trong
14
nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ tiếng Việt. Trong công trình này, lần đầu
tiên Ông đã tổng kết ba phương thức xây dựng thuật ngữ dựa vào từ thông
thường, mượn tiếng Hán và phiên âm từ các tiếng Ấn - Âu và đề ra 8 yêu cầu
đối với việc xây dựng thuật ngữ khoa học. Như vậy, giai đoạn 1930 - 1945, hệ
thống thuật ngữ tiếng Việt đã hình thành.
Thấy rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng hệ thống thuật ngữ tiếng
Việt, nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ khoa học,
dần dần tiêu chuẩn hoá và thống nhất thuật ngữ trong các ngành chuyên môn,
cuối tháng 12 - 1964, Uỷ ban Khoa học Nhà nước đã triệu tập Hội nghị bàn
về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học với sự tham gia nhiều cán bộ nghiên
cứu khoa học, giảng viên các trường đại học thuộc các ngành chuyên môn
khác nhau đã tới dự. Một bản Quy tắc phiên âm thuật ngữ khoa học nước
ngoài (gốc Ấn - Âu) ra tiếng Việt đã được soạn thảo sau hội nghị. Bản Quy tắc
này đã góp phần đẩy công tác thuật ngữ lên một bước và một loạt gần 40 tập
thuật ngữ đối chiếu đã ra đời. Tuy vẫn còn những có những ý kiến khác nhau
trong vấn đề bàn về các tiêu chuẩn của thuật ngữ: khoa học, dân tộc, đại chúng
nhưng về cơ bản, ý kiến của các nhà nghiên cứu đều thống nhất với những
nguyên tắc trong đề án Quy tắc phiên âm thuật ngữ khoa học nước ngoài ra
tiếng Việt do Ủy ban Khoa học xã hội công bố. Chính điều này đã góp phần
đẩy mạnh việc thống nhất và tiêu chuẩn hóa thuật ngữ. Vì vậy, việc xây dựng
các hệ thống thuật ngữ và biên soạn từ điển thuật ngữ giai đoạn này đã phát
triển mạnh mẽ.
Ở miền Nam, Lê Văn Thới là nhà khoa học có nhiều đóng góp với công
tác xây dựng thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Lê Văn Thới đã soạn thảo
nguyên tắc xây dựng danh từ chuyên môn làm tài liệu hướng dẫn chính thức
cho công việc xây dựng thuật ngữ khoa học ở miền Nam. “Qua hơn mười
năm áp dụng bản nguyên tắc đó, các nhà thuật ngữ học miền Nam đã hoàn
thành được một khối lượng công việc đáng kể. Hơn 50 cuốn thuật ngữ đối
15
chiếu đã được biên soạn. Trong hoàn cảnh chính trị lúc bấy giờ, rõ ràng là
phải nhiệt tình lắm mới có thể làm được những việc như thế” [127; 28]. Sau
khi nước nhà thống nhất, công tác xây dựng thuật ngữ tiếp tục được đẩy
mạnh và phát triển trong phạm vi cả nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, ở
thời kì đầu sau cách mạng tháng Tám, số lượng thuật ngữ khoa học, kĩ thuật
có vào khoảng 40.000 đơn vị, sau 20 đến 25 năm đã lên tới 900.000 đơn vị
[83]. “Trải qua hơn nửa thế kỉ, thuật ngữ tiếng Việt đã có những bước phát
triển nhanh chóng về số lượng. Đáng chú ý hơn, bên cạnh mặt số lượng,
thuật ngữ tiếng Việt đã thay đổi cả về chất” [83;121]. Tuy nhiên, trong thời
kì này còn nhiều vấn đề như xác định khái niệm thuật ngữ, những tiêu chuẩn
của thuật ngữ; phương thức đặt thuật ngữ; vay mượn và xử lí thuật ngữ
nước ngoài trong tiếng Việt; vấn đề chuẩn hóa hệ thuật ngữ tiếng Việt vẫn
chưa có những nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống.
Từ 1986 trở đi, khi đất nước ta từng bước hội nhập vào không gian kinh
tế của khu vực và quốc tế, cùng với sự phát triển vũ bão của khoa học kĩ
thuật, đặc biệt là ngành công nghệ thông tin, ngành tài chính, ngân hàng,
ngành kinh tế, luật…số lượng thuật ngữ khoa học vay mượng nước ngoài
trong tiếng Việt tăng lên rất nhiều, nhưng lại chưa có những nguyên tắc, cách
thức xử lí toàn diện và nhất quán.
Trong thời kì này, công tác nghiên cứu thuật ngữ về phương diện lí
thuyết cũng được quan tâm, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu chuyên
sâu về lí luận thuật ngữ. Công trình “Sự phát triển của từ vựng nửa sau thế kỉ
XX” [83] đã dành một chương nghiên cứu về thuật ngữ tiếng Việt, chỉ rõ
những chặng đường phát triển của tiếng Việt và thuật ngữ tiếng Việt, nêu rõ
những con đường hình thành thuật ngữ tiếng Việt cũng như những giải pháp
cụ thể trong việc tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài vào tiếng Việt.
Đề tài cấp Bộ “Những vấn đề thời sự của chuẩn hóa tiếng Việt” của Viện
Ngôn ngữ học (do Vũ Kim Bảng và Nguyễn Đức Tồn làm chủ nhiệm đề tài)
16
đã dành riêng cho việc nghiên cứu, xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng
Việt trong thời kì hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay. Nội dung nghiên cứu tập
trung vào việc tổng kết những vấn đề lí luận truyền thống về thuật ngữ như
vấn đề định danh ngôn ngữ và vấn đề xây dựng thuật ngữ, vấn đề vay mượn
thuật ngữ nước ngoài và vấn đề áp dụng lí thuyết điển mẫu vào nghiên cứu
thuật ngữ và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt.
Đề tài "Một số vấn đề lí luận và phương pháp luận biên soạn từ điển
chuyên ngành và thuật ngữ" của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt
Nam (do Hà Quang Năng làm chủ nhiệm) tập trung tìm hiểu những vấn đề
nghiên cứu lí luận và thực tiễn của thuật ngữ học ở nước ngoài và ở Việt
Nam, trong đó trình bày những kết quả nghiên cứu về nhiều khái niệm cơ
bản của thuật ngữ học như: YTCT thuật ngữ, tiêu chuẩn của thuật ngữ, ý
nghĩa và định danh thuật ngữ, xây dựng từ điển thuật ngữ,...đã được trình
bày cụ thể. Kết quả nghiên cứu của đề tài này đã được công bố trong công
trình: Thuật ngữ học - Những vấn đề lí luận và thực tiễn" [84].
Đề tài "Nghiên cứu hệ thuật ngữ tiếng Việt hiện đại nhằm góp phần xây
dựng nền văn hóa tri thức Việt Nam" [108] do Lê Quang Thiêm làm chủ
nhiệm đã nghiên cứu điều tra tổng hợp đánh giá, miêu tả sự hình thành và
phát triển hệ thuật ngữ tiếng Việt quốc ngữ Latinh hóa theo định hướng văn
hóa từ 1907 đến 2005. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự phát triển của tiếng
Việt, đặc biệt là bình diện nghĩa, cấp độ từ vựng - ngữ nghĩa mà cụ thể là hệ
thuật ngữ tiếng Việt hiện đại. Tìm hiểu sự phát triển hệ thuật ngữ tiếng Việt
theo định hướng văn hóa, đề tài này nghiên cứu thuật ngữ trong mối quan hệ
với sự phát triển, phổ biến tri thức khoa học và công nghệ; chuyển từ xem xét
thuật ngữ như một lớp từ vựng xét về mặt phạm vi sử dụng sang xem xét, đối
xử với thuật ngữ với tầm mức và quy mô phát triển của nó, với đặc điểm đa
ngành, liên ngành ngôn ngữ - tri thức - văn hóa - giáo dục, như một phân
17
ngành, ngành thuật ngữ với tư cách một ngành khoa học nghiên cứu về thuật
ngữ - thuật ngữ học của Việt Nam.
Công trình "Thuật ngữ học tiếng Việt hiện đại" [110] là công trình tổng
kết một số thành tựu mới nhất nghiên cứu về thuật ngữ tiếng Việt. Công trình
đã tổng quan tình hình nghiên cứu và xây dựng thuật ngữ trên thế giới và ở
Việt Nam, trình bày khái niệm thuật ngữ và các tiêu chuẩn của thuật ngữ
trong sự phân biệt với các đơn vị từ vựng phi thuật ngữ, lí thuyết điển mẫu và
vấn đề chuẩn hóa thuật ngữ. Công trình này cũng trình bày những đặc điểm
thuật ngữ của một ngành khoa hoc với tư cách là những nghiên cứu trường
hợp cụ thể (hệ thuật ngữ vật lí học; hệ thuật ngữ ngôn ngữ học; hệ thuật ngữ
khoa học kĩ thuật xây dựng; hệ thuật ngữ thương mại). Trên cơ sở đó tổng kết
tình hình nghiên cứu, xây dựng và sử dụng thuật ngữ tiếng Việt hiện nay và
đề xuất 6 kiến nghị cụ thể về các giải pháp xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ
tiếng Việt trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế để làm cơ sở xây dựng luật ngôn ngữ.
Các công trình khảo cứu chuyên sâu về hệ thống thuật ngữ của một
chuyên ngành khoa học nhất định chủ yếu là các luận văn thạc sĩ, luận án tiến
sĩ. Cho đến nay đã có hàng chục luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ khảo sát,
nghiên cứu nhiều hệ thống thuật ngữ của từng ngành khoa học và kĩ thuật cụ
thể [26, 33, 40, 43, 44, 70, 78, 106,...]. Các luận án tập trung nghiên cứu các
nội dung chủ yếu sau đây:
- Thu thập, thống kê thuật ngữ của các ngành khoa học, kĩ thuật khác
nhau, xác định YTCT thuật ngữ rồi tiến hành phân loại thuật ngữ theo đặc
điểm cấu tạo, đặc điểm từ loại và nguồn gốc của thuật ngữ;
- Miêu tả đặc điểm cấu tạo thuật ngữ theo số lượng các YTCT thuật ngữ;
- Xác định các MHCT thuật ngữ và biểu diễn các mối quan hệ ngữ pháp
giữa các YTCT thuật ngữ theo sơ đồ chúc đài;
18
- Tìm hiểu những phương thức định danh thuật ngữ, xác định các đặc
điểm, dấu hiệu được sử dụng để định danh thuật ngữ và miêu tả ĐĐĐD thuật
ngữ bằng các mô hình định danh;
- Khảo sát một số thuật ngữ không chuẩn căn cứ vào các tiêu chuẩn thuật
ngữ, từ đó đề xuất phương hướng chuẩn hóa thuật ngữ và cách xử lí các thuật ngữ
không chuẩn;
- Đối chiếu chiếu thuật ngữ tiếng Anh với thuật ngữ tiếng Việt về
phương diện cấu tạo, định danh để tìm hiểu những điểm tương đồng và khác
biệt giữa hai hệ thuật ngữ của hai ngôn ngữ.
- Tiến hành khảo sát vấn đề dịch thuật ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt
để xác định các kiểu tương đương trong cách dịch thuật ngữ.
Như vậy, công tác nghiên cứu thuật ngữ và thuật ngữ học ở nước ta
trong thời gian qua đã đạt được những kết quả rõ rệt. Có thể thấy rằng, các
vấn đề thuật ngữ học được nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu là từ góc độ thực
tiễn: xây dựng các thuật ngữ khoa học kĩ thuật. Kết quả là hàng loạt cuốn từ
điển thuật ngữ đối chiếu các ngôn ngữ nước ngoài và tiếng Việt đã được
xuất bản. Giai đoạn cuối thế kỉ 20 đầu thế kỉ 21, công tác nghiên cứu thuật
ngữ ở nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới: nghiên cứu chuyên sâu về hệ
thống thuật ngữ của một chuyên ngành khoa học cụ thể. Hàng loạt các luận
án tiến sĩ nghiên cứu một các toàn diện, có hệ thống đặc điểm cấu tạo,
ĐĐĐD và các phương thức tạo lập các hệ thống thuật ngữ tiếng Việt hoặc
đối chiếu hệ thống thuật ngữ tiếng Anh với hệ thống thuật ngữ tiếng Việt
của nhiều ngành khoa học kĩ thuật và công nghệ đã được bảo vệ thành công.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ mĩ thuật ở nước ngoài và ở
Việt Nam
1.1.3.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ mĩ thuật ở nước ngoài
Là một trong những bộ môn nghệ thuật ra đời sớm nhất của loài người,
ngành mĩ thuật học đã có lịch sử phát triển lâu dài. Trên thế giới đã có rất
19
nhiều công trình nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các loại hình nghệ
thuật phản ánh cái đẹp bằng màu sắc, đường nét, hình khối. Tuy nhiên, không
có nhiều công trình nghiên cứu TNMT (TNMT) từ phương diện ngôn ngữ
học. Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay có nhiều công trình ngôn ngữ học
nghiên cứu đặc điểm thuật ngữ trong hệ thống thuật ngữ của các ngành khoa
học khác nhau. Trong đó có những công trình nghiên cứu thuật ngữ của lĩnh
vực mĩ thuật học. Chẳng hạn, công trình "Lịch sử hình thành hệ thuật ngữ
nghệ thuật tạo hình trong tiếng Nga thế kỉ 18 đến đầu thế kỉ 19" và "Hệ thống
thuật ngữ nghệ thuật tạo hình trong tiếng Nga thế kỉ 19 - 20" của B.N
Xécgheev; "Thuật ngữ thiết kế (design) trong hệ thống từ vựng tiếng Nga" của
N.L. Tukhareli. Các công trình nghiên cứu này chủ yếu dành cho việc tìm
hiểu những con đường hình thành và phát triển hệ thống thuật ngữ thuộc lĩnh
vực nghệ thuật học nói chung trong tiếng Nga. Công trình "Hệ thống thuật
ngữ hội họa trong tiếng Nga (các bình diện cấu trúc và chức năng" của Jan
Lanlan dành cho việc nghiên cứu toàn diện và có hệ thống đặc điểm cấu tạo,
ĐĐĐD, nguồn gốc, phương thức sáng tạo thuật ngữ hội họa và hoạt động
hành chức của thuật ngữ hội họa trong lĩnh vực chuyên môn và phi chuyên
môn, tìm hiểu hoạt động của thuật ngữ hội họa trong một số tác phẩm của
Gôgôn, Sêkhốp và các tác phẩm thi ca tiếng Nga. [86]
1.1.3.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ mĩ thuật ở Việt Nam
Việt Nam là một dân tộc có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ
nước suốt mấy nghìn năm nay. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, dân tộc ta đã
tạo ra một nền mĩ thuật phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc, mặc
dù mỗi lần đất nước bị xâm lăng là một lần nền văn hóa dân tộc bị thử thách.
Cho đến nay, nền văn hóa nghệ thuật của chúng ta không những không bị
đồng hóa mà bản sắc dân tộc càng được khẳng định hơn. Các nhà nghiên cứu
mĩ thuật đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, hệ thống TNMT
tiếng Việt (TNMTTV) lại chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ. Cho đến
20
nay, chỉ có một vài quyển từ điển mĩ thuật được xuất bản theo cách dịch các
từ điển mĩ thuật nước ngoài [71, 87] và hai bài báo đề cập đến thuật ngữ liên
quan đến lĩnh vực TNMT: "Góp ý về một vài thuật ngữ văn học, mĩ học quan
trọng" [89] của Hoàng Xuân Nhị và "Về những thuật ngữ tạo hình thuộc bốn
nhóm: "kiến trúc", "sơn nhựa", "khắc gỗ", "màu sắc" [121] của Nguyễn Văn
Tỵ. Thực tế này cho thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu hệ thống TNMTTV
một cách toàn diện và hệ thống.
1.2. Cơ sở lí luận
Xét về mặt ngôn ngữ học, thuật ngữ là từ hay tổ hợp từ của một ngôn
ngữ tự nhiên nào đó. Việc phân tích từ góc độ ngôn ngữ học các thuật ngữ,
lớp từ vựng chuyên ngành, là nhiệm vụ đầu tiên, thiết yếu nhất của thuật ngữ
học và hệ thống thuật ngữ. Là một lớp từ vựng chuyên ngành, thuật ngữ đều
là những từ, cụm từ của ngôn ngữ tự nhiên, có đặc điểm cấu tạo giống như bất
kì đơn vị từ vựng nào. Vì vậy, chúng tôi coi những đặc điểm cấu tạo, đặc
điểm ngữ pháp của từ, cụm từ tiếng Việt là một cơ sở lí luận để nghiên cứu
thuật ngữ tiếng Việt nói chung, TNMTTV nói riêng.
1.2.1. Một số vấn đề về từ, cụm từ và quan hệ ngữ pháp trong tiếng Việt
1.2.1.1. Vấn đề từ và cấu tạo từ tiếng Việt
a. Quan niệm về từ
Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có, luôn được hiểu như một loại đơn
vị cơ bản và chủ yếu nhất của hệ thống tín hiệu ngôn ngữ. Tuy thế, từ vẫn
không phải là một đơn vị cụ thể mà nó là một loại đơn vị trừu tượng thuộc
bình diện hệ thống của ngôn ngữ. F. de Saussure đã từng nói: "Ngôn ngữ có
tính chất kì lạ và đáng kinh ngạc là không có những thực thể thoạt nhìn có thể
thấy ngay được, thế nhưng người ta vẫn biết chắc là những thực thể đó tồn
tại, và chính sự giao lưu giữa những thực thể đó làm thành ngôn ngữ" [103;
187]. Trong số những thực thể đó có từ. Do tính chất hiển nhiên, có sẵn của
các từ mà ngôn ngữ của loài người bao giờ cũng được gọi là ngôn ngữ của các
21
từ. Từ là một đơn vị trung tâm trong toàn bộ cơ cấu của ngôn ngữ, nhưng khái
niệm này rất khó định nghĩa. Tính phức tạp của việc định nghĩa từ, do chính
bản thân từ trong các ngôn ngữ và ngay trong một ngôn ngữ không phải
trường hợp nào cũng như nhau. Chúng có thể khác nhau về:
+ Kích thước vật chất
+ Loại nội dung được biểu thị và cách biểu thị
+ Cách thức tổ chức trong nội bộ cấu trúc
+ Mối quan hệ với các đơn vị khác trong hệ thống ngôn ngữ như hình vị, câu
+ Năng lực và chức phận khi hoạt động trong câu nói.
Vì vậy, không có sự thống nhất trong cách định nghĩa về từ. Nói chung,
không có định nghĩa nào về từ làm mọi người thoả mãn. Hiện nay có tới trên
300 định nghĩa khác nhau về từ.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cũng dành sự quan tâm đặc
biệt trong việc nghiên cứu về từ. Nguyễn Kim Thản quan niệm: "Từ là đơn vị
cơ bản của ngôn ngữ, có thể tách ra khỏi đơn vị khác của lời nói để vận dụng
một cách độc lập và là một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng hoặc
ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp" [105; 64]. Nguyễn Thiện Giáp trong công
trình “Dẫn luận ngôn ngữ học” cho rằng: “Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ,
độc lập về hình thức và ý nghĩa” [28; 61]. Hay nhóm tác giả công trình “Cơ sở
ngôn ngữ học và tiếng Việt” cho rằng: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của
ngôn ngữ, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên
câu” [17;136]. Khi nghiên cứu đối tượng là từ, Đỗ Hữu Châu đã nêu lên những
đặc điểm của từ: "có hình thức ngữ âm và ngữ nghĩa; có tính có sẵn, cố định,
bắt buộc; là những đơn vị thực tại, hiển nhiên của ngôn ngữ (...) là đơn vị lớn
nhất của hệ thống ngôn ngữ, nhưng lại là đơn vị nhỏ nhất ở trong câu, là đơn vị
trực tiếp nhỏ nhất để tạo câu" [13; 133]. Từ nhận xét này, ông đưa ra định
nghĩa về từ của tiếng Việt: “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố
định, bất biến mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những
22
kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất
trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu" [13; 139]. Đây là định nghĩa về từ
được nhiều người chấp nhận, chỉ ra được đặc điểm khái quát cơ bản của từ là:
1/ Vấn đề khả năng tách biệt của từ (tính độc lập của từ); 2/ Vấn đề tính hoàn
chỉnh của từ (từ có vỏ âm thanh hoàn chỉnh, có nội dung). Chúng tôi dựa vào
quan niêm từ của Đỗ Hữu Châu làm cơ sở cho nghiên cứu của luận án.
Chúng ta có thể phân biệt từ với các đơn vị khác: Phân biệt với YTCT
nên từ (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, nhưng không dùng trực tiếp để đặt câu);
phân biệt với cụm từ và câu (các đơn vị có nghĩa nhưng không nhỏ
nhất)…Như vậy, rõ ràng từ là một thực thể, tồn tại hiển nhiên sẵn có trong
mỗi hệ thống ngôn ngữ với những đặc điểm hình thức, cấu trúc nội tại và có
thể có cách biểu thị nội dung (ý nghĩa) khác nhau, được người bản ngữ tri
giác (hiện thực về mặt tâm lí).
b. Phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt
Về nguyên tắc, cấu tạo từ là những vận động trong lòng một ngôn ngữ để
sản sinh ra các từ cho ngôn ngữ, phục vụ những nhu cầu mới về mặt diễn đạt
mà xã hội đặt ra. Vận động cấu tạo từ sản sinh ra không phải chỉ một từ riêng
lẻ mà sản sinh ra hàng loạt từ cùng một kiểu. Muốn tạo ra các từ phải có các
YTCT từ và các phương thức cấu tạo từ.
* Đơn vị cấu tạo từ
Trong tiếng Việt, "các yếu tố cấu tạo từ là những hình thức ngữ âm có
nghĩa nhỏ nhất - tức là những yếu tố không thể phân chia thành những yếu tố
nhỏ hơn nữa mà cũng có nghĩa - được dùng để cấu tạo ra các từ theo các
phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt" [13; 25]. Yếu tố có đặc điểm và chức
năng như trên được gọi là hình vị (morpheme).
Một từ có thể gồm một hoặc một số hình vị kết hợp với nhau theo
những nguyên tắc nhất định. Ví dụ: nhà, ghế, đi, chạy, đẹp, xanh, và, với, sẽ
23
(từ có một hình vị); binh lính, họa sĩ, nhanh nhẹn, cha mẹ, sân bay (từ có hai
hình vị); sinh vật học, hợp tác xã, (từ có ba hình vị).
* Phương thức cấu tạo từ
Nói về cấu tạo từ là phải phân tích thành phần cấu tạo của từ để thấy nó
được cấu tạo bằng những thành tố nào và phương thức tổ chức nào. Phương
thức cấu tạo từ là những cơ chế, những quá trình xử lí các nguyên liệu hình vị
để cho ra các từ của ngôn ngữ. Có thể hình dung như sau:
Hình vị Từ
Mỗi phương thức cấu tạo từ có một cách xử lí riêng các hình vị nguyên
liệu, cho nên các từ được tạo ra từ một phương thức cấu tạo từ nào đó sẽ có
những đặc điểm giống nhau và khác biệt với những từ được tạo ra bằng các
phương thức khác.
Trong tiếng Việt, từ được tạo thành chủ yếu theo các phương thức sau:
+ Từ hoá hình vị là phương thức tạo từ bằng cách tác động vào bản thân
một hình vị, làm cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến
hình vị thành từ mà không thêm bớt gì vào hình thức của nó. Ví dụ, các từ: bàn,
cây, ăn, tốt, mì chính, lốp, chè, búp, cành, đốn,... được cấu tạo bằng phương thức
từ hoá hình vị. Trong tiếng Việt phương thức từ hóa hình vị thể hiện rõ "khi một
hình vị (thậm chí một hoặc một số âm tiết vốn không có nghĩa) của một từ nhiều
hình vị được tách ra và được dùng với những đặc trưng ngữ nghĩa, ngữ pháp của
của cả từ trọn vẹn" [13; 86].
+ Phức hóa hình vị là cách tổ hợp hai hoặc một số hình vị vốn độc lập
với nhau, tách biệt nhau lại với nhau để tạo ra từ. Phép kết hợp hình vị lại chia
thành hai kiểu:
- Ghép là cách kết hợp hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa với nhau để
sản sinh ra một từ mới mang đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa như một từ. Ví
dụ, phương thức ghép tác động vào các hình vị nhà, cửa tạo thành từ ghép
Phương thức cấu tạo
24
nhà cửa, tác động vào các hình vị sân, bay để tạo thành từ ghép sân bay.
Mô hình của phương thức ghép là:
Hình vị A + B từ ghép AB.
- Láy là phương thức tác động vào một hình vị nguyên liệu để lặp lại hình
vị nguyên liệu một số lần làm xuất hiện một hình vị láy giống nó toàn bộ hay
bộ phận về âm thanh. Cả hình vị nguyên liệu và hình vị láy tạo thành một từ
láy. Ví dụ, phương thức láy tác động vào hình vị xanh tạo thành từ láy xanh
xanh, tác động vào hình vị ló, túng cho ta hình vị láy lấp, lúng để tạo thành các
từ láy lấp ló, lúng túng. Mô hình của phương thức láy là: Hình vị A -> AA'
* Phân loại từ theo phương thức cấu tạo
Sự phân loại từ về mặt cấu tạo cần phải chú ý đầy đủ đến tất cả các nhân
tố tham gia vào cấu tạo từ để phát hiện ra cơ chế của cấu tạo từ. Nói đến cấu
tạo từ trước hết là nói đến cấu tạo hàng loạt các từ giống nhau về ngữ nghĩa,
cho nên phải lấy ngữ nghĩa làm tiêu chí hàng đầu để tiến hành phân loại. Một
loại cấu tạo về ngữ nghĩa như vậy sẽ tương ứng với một kiểu cấu tạo về hình
thức xét theo quan hệ và tính chất của các hình vị trong nội bộ cấu trúc của từ.
Theo quan niệm phân loại như vậy, có thể phân chia các từ tiếng Việt về mặt
cấu tạo thành:
Từ đơn phương thức từ hóa
Từ phức từ ghép phương thức ghép
từ láy phương thức láy
- Từ đơn
Là những từ được cấu tạo theo phương thức từ hoá hình vị, do đó, trong
cấu tạo của từ đơn chỉ có một hình vị. Ví dụ: tranh, khối, màu, vẽ, khắc, nét,
bút, sơn, trổ,… Về ngữ nghĩa, chúng không lập thành những hệ thống có một
kiểu ngữ nghĩa chung, nên phải ghi nhớ nghĩa của từng từ riêng lẻ. Từ đơn có
thể là một âm tiết, cũng có thể nhiều âm tiết.
25
- Từ ghép
Là những từ được tạo ra theo phương thức ghép hai hoặc một số hình vị
tách biệt, riêng rẽ, đối lập với nhau. Ví dụ: các từ mực tàu, sơn dầu, họa sĩ,
điêu khắc, màu sắc, phù điêu, thủ pháp, thợ đúc, khuôn mẫu, đồ họa, nghệ
thuật, mĩ học, mĩ thuật,... trong tiếng Việt.
Căn cứ vào quan hệ ngữ pháp giữa các hình vị và các kiểu ý nghĩa của từ
ghép, người ta còn chia từ ghép thành các loại:
Từ ghép đẳng lập (từ ghép hợp nghĩa): màu sắc, trang nhã, đậm
nhạt,…
Từ ghép chính phụ (từ ghép phân nghĩa): bút sắt, bút lông, dao trổ, dầu
thông, dầu lanh, dây dọi, dao nghiền, dựng hình, vẽ phác, vẽ mẫu, đánh bóng,
đặt mẫu, đất sét, điểm tụ, gạch men, đường trục, hình nổi,…
- Từ láy
Là những từ được tạo ra theo phương thức láy. Ví dụ: sạch sẽ, bập bềnh,
khanh khách. Căn cứ vào sự giống nhau giữa hình vị gốc và hình vị láy, người
ta chia từ láy ra thành: Từ láy hoàn toàn: xinh xinh, vàng vàng, đèm đẹp, đo
đỏ; Từ láy bộ phận: đẹp đẽ, bối rối. Loại từ láy này lại chia thành: từ láy âm
(láy lại phụ âm đầu): đẹp đẽ, thập thò, nhỏ nhắn; từ láy vần (láy lại phần vần):
lộp độp, lạch cạch, lập cập...
Căn cứ vào số lượng tiếng (hình vị) tạo thành, từ láy có thể chia thành
các loại: từ láy đôi: sạch sẽ, bập bùng, lấp ló, bâng khuâng, ầm ầm, lao xao,
đủng đỉnh…; từ láy ba: sạch sành sanh, dửng dừng dưng, xốp xồm xộp, cỏn
còn con, tẻo tèo teo, khít khìn khịt,...; từ láy tư: khấp kha khấp khểnh, gập gà
gập ghềnh, bì bà bì bõm, vội vội vàng vàng, bổi hổi bồi hồi,…
1.2.1.2. Quan niệm về cụm từ
Từ kết hợp với từ một cách có tổ chức và có ý nghĩa làm thành những tổ
hợp từ, tức là những kiến trúc lớn hơn từ. Mỗi từ trong tổ hợp từ là một thành
tố. Tổ hợp từ có thể là một câu, có thể là một kiến trúc tương đương với câu
26
nhưng chưa thành câu, cũng có thể là một đơn vị có nghĩa của câu. Các tổ hợp
từ chưa thành câu được gọi chung là tổ hợp từ tự do. Về nguyên tắc, tổ hợp từ
tự do có thể chứa kết từ ở đầu để chỉ chức vụ ngữ pháp của toàn bộ phần còn
lại trong tổ hợp từ này. Người ta gọi đó là giới ngữ. Tổ hợp từ tự do không
chứa kết từ chỉ chức vụ ngữ pháp như vậy, được gọi là cụm từ. Khi đề cập đến
đơn vị này, các nhà Việt ngữ học đã đưa ra những tên gọi khác nhau cả về nội
hàm và ngoại diên. Lê Văn Lý gọi phrase là nhóm từ ngữ, Trương Văn Chình,
Nguyễn Hiến Lê gọi là từ kết, Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Văn Tu lại gọi là
từ tổ, Nguyễn Tài Cẩn và các tác giả công trình "Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng
Việt" gọi là đoản ngữ, Cao Xuân Hạo gọi là ngữ đoạn,...Các tác giả “Từ điển
giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học”cho rằng: “Ngữ kết hợp hai hoặc nhiều
thực từ (không hoặc có cùng với các hư từ có quan hệ với chúng gắn bó về ý
nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một khái niệm thống nhất, và là tên gọi phức tạp
biểu thị các hiện tượng của thực tại khách quan” [128;176]. Diệp Quang Ban
cho rằng: "Cụm từ là những kiến trúc gồm hai từ trở lên kết hợp tự do với
nhau theo những quan hệ ngữ pháp hiển hiện nhất định và không chứa kết từ
ở đầu (để chỉ chức vụ ngữ pháp của kiến trúc này)" [2; 6]. Theo ông, quan hệ
giữa các thành tố trong tổ hợp từ, ngoài tính chất lỏng (tổ hợp từ tự do, cụm
từ) và chặt (ngữ cố định), còn được xét ở kiểu quan hệ. Các thành tố trong
một cụm từ nhỏ nhất của tiếng Việt có thể có ba kiểu quan hệ cú pháp: quan
hệ chủ - vị (quan hệ giữa chủ ngữ với vị ngữ); quan hệ chính phụ (quan hệ
giữa thành tố chính với thành tố phụ; quan hệ bình đẳng (quan hệ giữa hai yếu
tố bình đẳng với nhau về ngữ pháp). Cụm từ thường được gọi tên theo từ loại
của thành tố chính trong cụm. Trong tiếng Việt có các loại cụm từ: cụm từ có
danh từ làm thành tố chính, gọi là cụm danh từ; cụm từ có động từ làm thành
tố chính, gọi là cụm động từ; cụm từ có tính từ làm thành tố chính, gọi là cụm
tính từ; cụm từ có số từ làm thành tố chính, gọi là cụm số từ; cụm từ có đại từ
làm thành tố chính, gọi là cụm đại từ. Trong số các cụm từ nêu trên, cụm danh
27
từ và cụm động từ là những cụm từ có cấu tạo đa dạng hơn các loại cụm từ
còn lại. Mỗi loại cụm từ thông thường có thể chia thành ba bộ phận rõ rệt:
phần phụ trước, đứng trước thành tố chính; phần trung tâm là phần chứa thành
tố chính; phần phụ sau đứng sau thành tố chính. Cụm từ cũng có chức năng
định danh và tạo câu như từ, nhưng không hoàn toàn giống từ về cấu tạo và
ngữ nghĩa.
Như vậy, từ những quan niệm về cụm từ nêu trên, ta thấy cụm từ là một tổ
hợp từ có quan hệ nhất định với nhau và có những đặc điểm sau:
* Về cấu tạo: Cụm từ là một kiểu kết cấu cú pháp được tạo thành bởi hai
hoặc nhiều thực từ trên cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc - theo quan hệ phù hợp,
chi phối hay liên hợp. Trong một cụm từ, từ đóng vai trò chủ yếu về ngữ nghĩa
và ngữ pháp gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố chính là thành
tố phụ. Thành tố chính của cụm từ có thể là danh từ (tạo nên cụm danh từ), động
từ (tạo nên cụm động từ), tính từ (tạo nên cụm tính từ).
* Về quan hệ giữa các thành tố: Xét quan hệ giữa các thành tố trong hệ
thống ngữ pháp, các thành tố trong một cụm từ nhỏ nhất của tiếng Việt có thể
có 3 kiểu quan hệ cú pháp phổ biến sau đây:
- Quan hệ giữa chủ ngữ với vị ngữ, gọi tắt là quan hệ chủ - vị.
- Quan hệ giữa thành tố chính và thành tố phụ về ngữ pháp, gọi là quan hệ
chính phụ.
- Quan hệ giữa hai yếu tố bình đẳng với nhau về ngữ pháp, gọi là quan hệ
đẳng lập.
Tương ứng với 3 kiểu quan hệ cú pháp đó là 3 kiểu loại cụm từ sau: cụm
chủ vị, cụm đẳng lập, cụm chính phụ.
Vì cụm từ đẳng lập thường đơn giản về mặt cấu trúc, còn cụm từ chủ vị
luôn nằm trong một cú và quan hệ chủ vị lại là một trong những quan hệ chính
của nòng cốt câu, nên giới ngôn ngữ học thường quan tâm nhiều đến cụm từ
chính phụ. Cụm từ chính phụ thường được phân chia thành ba phần rõ rệt: phần
28
phụ trước, phần trung tâm, phần phụ sau. Theo đó, người ta căn cứ vào từ loại
của thành phần trung tâm của cụm từ để gọi tên cụm từ đó.
* Về chức năng: Cũng giống như từ, cụm từ cũng là phương tiện định
danh biểu thị sự vật, hiện tượng, quá trình, phẩm chất, trạng thái,... Cụm từ
là phương tiện định danh, biểu thị sự vật, hiện tượng quá trình, phẩm chất,
ý nghĩa ngữ pháp của cụm từ được tạo nên bằng quan hệ nảy sinh giữa các
thực từ kết hợp lại trên cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng. Cụm
từ thường được chia ra thành hai kiểu: cụm từ tự do và cụm từ cố định.
Cụm từ tự do bao gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập của tất cả các thực từ
tạo thành cụm từ đó; mỗi liên hệ cú pháp của các yếu tố trong cụm từ tự do
là mối liên hệ linh hoạt và có sức sản sinh. Còn trong cụm từ cố định thì
tính độc lập về mặt từ vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị
mất và ý nghĩa từ vựng của cụm từ cố định trở nên giống như ý nghĩa của
một từ riêng biệt.
1.2.1.3. Quan hệ ngữ pháp
a. Khái niệm quan hệ ngữ pháp
Trong ngôn ngữ, mỗi đơn vị đều là tổng hòa các mối quan hệ của nó
với những đơn vị khác. Trước hết, phải nói đến những mối quan hệ trên
trục liên tưởng (còn gọi là trục dọc hay trục đối vị). Những quan hệ này xác
định giá trị tự thân của từng đơn vị. Chẳng hạn, nghĩa của từ bút lông
trong tiếng Việt được xác định trên cơ sở đối chiếu nó với hàng loạt từ
khác như bút dạ, bút sắt, bút mực,... Bên cạnh các mối quan hệ trên trục
liên tưởng, các đơn vị ngôn ngữ cũng quan hệ với nhau theo trục hình
tuyến (trục ngang). Những quan hệ này xác định giá trị lâm thời (chức
năng) của đơn vị. Chẳng hạn, từ bút trong câu Bút này rất đẹp có quan hệ
với các từ này, đẹp, và những mối quan hệ ấy xác định chức năng chủ ngữ
của từ bút. Cũng trong câu Nó mua bút này thì bút có quan hệ với mua,
29
này, và nó sắm vai trò bổ ngữ. Loại quan hệ giữa các từ trên trục hình
tuyến chính là quan hệ ngữ pháp.
Vấn đề đặt ra là cần tìm những dấu hiệu hình thức cho phép nhận biết
các mối quan hệ ngữ pháp trong câu. Theo một số nhà nghiên cứu, hai từ
trong câu được coi là có quan hệ ngữ pháp với nhau nếu tổ hợp mà chúng tạo
nên có những đặc điểm như sau:
a) Có thể được vận dụng độc lập vào các bối cảnh khác nhau;
b) Có thể được xem như là dạng rút gọn của một kết cấu phức tạp hơn;
c) Có ít nhất một thành tố có thể được thay bằng từ nghi vấn. [88; 152]
Như vậy, "quan hệ ngữ pháp là quan hệ hình tuyến giữa các từ tạo ra
những tổ hợp từ có khả năng được vận dụng độc lập, được xem như là dạng
rút gọn của một kết cấu phức tạp hơn, và có ít nhất một thành tố cú pháp
khả năng được thay thế bằng từ nghi vấn". [88; 254]
b. Các kiểu quan hệ ngữ pháp
Quan hệ ngữ pháp giữa các từ tuy đa dạng, nhưng có thể được quy
thành ba kiểu chính là: quan hệ đẳng lập, quan hệ chính - phụ và quan hệ
chủ - vị. Quan hệ đẳng lập là quan hệ giữa các thành tố không phụ thuộc vào
nhau, trong đó chức vụ cú pháp của các thành tố chỉ được xác định khi đặt
toàn bộ tổ hợp do chúng tạo nên vào một kết cấu lớn hơn. Ví dụ, các tổ hợp
bố mẹ và con cái, vui vẻ và hòa thuận được xây dựng trên cơ sở quan hệ
đẳng lập. Chức vụ của từng thành tố chỉ có thể được xác định khi đặt toàn bộ
tổ hợp vào những kết cấu lớn hơn. Ví dụ: Bố mẹ và con cái rất vui vẻ và hòa
thuận: bố mẹ, con cái đều là chủ ngữ; vui vẻ, hòa thuận là vị ngữ.
Quan hệ chính - phụ là quan hệ phụ thuộc một chiều giữa một thành tố
chính với một thành tố phụ, trong đó chức vụ cú pháp của thành tố chính chỉ
được xác định khi đặt toàn bộ tổ hợp chính - phụ vào một kết cấu lớn hơn,
còn chức vụ của thành tố phụ có thể được xác định mà không cần điều kiện
ấy. Ví dụ, vẽ tranh, màu đỏ là những tổ hợp từ chính - phụ. Không cần đặt
30
các tổ hợp ấy vào một kết cấu nào lớn hơn, ta cũng biết tranh là bổ ngữ, đỏ
là định ngữ. Trong tiếng Việt, trật tự thông thường của tổ hợp chính - phụ
giữa thực từ với thực từ là thành tố chính đứng trước, thành tố phụ đứng sau.
Quan hệ chủ - vị là quan hệ giữa hai thành tố phụ thuộc lẫn nhau, trong
đó chức vụ cú pháp của cả hai đều có thể được xác định mà không cần đặt tổ
hợp do chúng tạo nên vào một kết cấu nào lớn hơn. Ví dụ: Ông ấy là họa sĩ
là tổ hợp từ xây dựng trên cơ sở quan hệ chủ - vị. Chức vụ chủ ngữ của ông
và chức vụ vị ngữ của là họa sĩ được xác lập ngay trong bản thân tổ hợp mà
chúng tạo nên.
c. Tầng bậc của các quan hệ ngữ pháp
Mỗi từ trong câu có thể có quan hệ với một hoặc nhiều từ khác nhau.
Câu càng gồm nhiều từ thì càng chứa nhiều mối quan hệ.
Ví dụ:
Tranh đẹp : câu có 2 từ, chứa 1 quan hệ ngữ pháp
Tranh này đẹp : câu có 3 từ, chứa 2 quan hệ ngữ pháp
tranh này rất đẹp : câu có 4 từ, chứa 3 quan hệ ngữ pháp
Quan hệ ngữ pháp giữa các từ tạo ra nhiều tổ hợp lớn nhỏ khác nhau
trong câu. Đó là biểu hiện tính tầng bậc của các quan hệ ngữ pháp trong câu.
1.2.2. Vấn đề nghĩa của từ và nghĩa của thuật ngữ
1.2.2.1. Khái niệm về nghĩa của từ
Trong ngôn ngữ học, các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước đã có
rất nhiều cách hiểu về nghĩa từ vựng khác nhau. A.I.Smirnitski cho rằng :
“Nghĩa của từ là sự phản ánh hiển nhiên của sự vật, hiện tượng hay quan hệ
31
trong ý thức (hay là sự cấu tạo tâm lý tương tự về tính chất, hình thành trên
sự phản ánh những yếu tố riêng lẻ của thực tế) nằm trong cấu trúc của từ với
tư cách là mặt bên trong của từ” [Dẫn theo 21, 119].
Trong Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu (2006), cho rằng:
“nghĩa của từ là một thực thể tinh thần”. Theo ông, nghĩa của từ gồm 4 thành
phần tương ứng với 4 chức năng quan trọng mà từ đảm nhận bao gồm: “a. Ý
nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật. b. Ý nghĩa biểu niệm ứng với chức
năng biểu niệm. c. Ý nghĩa biểu thái tương ứng với chức năng biểu thái. Ba
thành phần ý nghĩa trên được gọi chung là ý nghĩa từ vựng” và “d. Ý nghĩa
ngữ pháp ứng với chức năng ngữ pháp” [13; 97]. Trong các thành phần nghĩa
của từ, thì ý nghĩa biểu vật là sự phản ánh sự vật, hiện tượng v.v. trong thực tế
và ngôn ngữ. Đó là những mẩu, những mảnh, những đoạn cắt của thực tế
nhưng không hoàn toàn trùng với thực tế [13, 108] và thuật ngữ ngữ nghĩa
học hiện nay gọi mỗi dấu hiệu (logic) được đưa vào ý nghĩa biểu niệm là một
nét nghĩa. Ý nghĩa biểu niệm là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng,
khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa
có những quan hệ nhất định [13; 113]. Tập hợp này ứng với một hoặc một số
ý nghĩa biểu vật của từ. Tập hợp các nét nghĩa phạm trù, khái quát chung cho
nhiều từ được gọi là cấu trúc niệm. Tập hợp một số nét nghĩa tạo thành ý
nghĩa biểu niệm là một tập hợp có quy tắc, giữa các nét nghĩa có những quan
hệ nhất định. Các từ thuộc các từ loại khác nhau, có cách tổ chức các nét
nghĩa khác nhau. [13; 115].
1.2.2.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của từ
Ngữ nghĩa học hiện đại đã chứng minh được rằng ý nghĩa của từ là sự
phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức và được thể hiện ở ngôn ngữ.
Sự phản ánh đó tồn tại trong từ dưới dạng một cấu trúc do một chùm những
thành tố (còn được coi là nét nghĩa) được kết hợp với nhau theo quy tắc nhất
32
định, chi phối, quy định lẫn nhau và có quan hệ hữu cơ với nhau, được tổ
chức theo một tôn ti nhất định. Từ luận đề chung này có thể suy ra rằng:
"1. Nghĩa của phần lớn các từ không phải là không phân tích ra được nữa;
2. Nghĩa bao hàm những đơn vị nhỏ hơn gọi là nét nghĩa. Nét nghĩa là đơn
vị cơ bản phản ánh thuộc tính hoặc quan hệ có giá trị khu biệt của hiện tượng, sự
vật trong thế giới khác quan. Nhưng nét nghĩa không phải bao giờ cũng là yếu tố
trực tiếp tạo ra nghĩa từ. Nó thường là yếu tố tạo nên những thành tố trực tiếp
của nghĩa từ;
3. Thành tố nghĩa là đơn vị trung gian giữa nét nghĩa và nghĩa từ, nó do
một hay nhiều nét nghĩa tạo nên." [39, 33].
Dựa theo luận điểm này, trong bài Phân tích ngữ nghĩa, khi phân tích nghĩa
của các từ mẹ, cha, vợ, chồng, Hoàng Phê (1975) đã kết luận: “Nói tóm lại,
nghĩa của từ nói chung:
a. Là một tập hợp những nét nghĩa có quan hệ quy định lẫn nhau.
b. Giá trị các nét nghĩa không như nhau (giữa các nét nghĩa có quan hệ cấp
bậc) biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào việc thực hiện chức năng
thông báo.
c. Các nét nghĩa có tính độc lập tương đối” [95, 10 -26].
Những phân tích trên đây cho chúng ta tấy rõ rằng: nét nghĩa là thành
tố nghĩa cơ sở tạo nên nội dung nghĩa của từ. Các nét này cũng giống như dấu
hiệu khu biệt trong âm vị khi quan niệm rằng âm vị là tổ hợp một số nét khu
biệt như R.Jacobsơn quan niệm. Các nét nghĩa của từ có phân biệt nét nghĩa
chung cho nhiều từ, cho nhiều nghĩa trong các nghĩa của từ đa nghĩa. Tổ hợp
các nét nghĩa để tạo thành nghĩa là một cấu tạo “có quy tắc”, “có quan hệ quy
định lẫn nhau” . Cấu tạo nghĩa từ vựng của từ tổ hợp bởi các nét nghĩa thành
nghĩa là cấu tạo cấp một, cấp các nghĩa riêng biệt của từ để phân biệt với cấu
tạo cấp hai là cấp hệ thống con nghĩa của các từ đa nghĩa.
33
1.2.2.3. Sự biến đổi ý nghĩa của từ
Biến đổi ý nghĩa của từ là một “phương thức để tạo thêm từ mới bên cạnh
các phương thức ghép hoặc láy”. Sự biến đổi nghĩa của từ thực chất là lấy một
từ để biểu đạt một số loại sự vật có quan hệ gần gũi với nhau về một phương
diện nào đấy, cho nên giữa các nghĩa của từ nhiều nghĩa vẫn có những mối liên
hệ nhất định. Sự khác nhau giữa các nghĩa của từ nhiều nghĩa không phải là sự
khác nhau hoàn toàn. Sự biến đổi ý nghĩa ở đây thường đi theo xu hướng làm
thay đổi một thành phần ý nghĩa nào đấy của từ. Theo Đỗ Hữu Châu (1999), quá
trình biến đổi nghĩa của từ có một số đặc điểm sau:
- Trong sự chuyển biến ý nghĩa, có khi nghĩa biểu vật đầu tiên (nghĩa
nguyên thủy) không còn nữa. Nhưng thường thường thì cả nghĩa đầu tiên lẫn
nghĩa mới đều cùng tồn tại, cùng hoạt động.
- Giữa nghĩa đầu tiên và các nghĩa/nét nghĩa mới có thể diễn ra sự biến
đổi theo kiểu móc xích. Nghĩa đầu tiên chuyển sang nghĩa S1, từ S1 chuyển
sang S2, từ S2 chuyển sang S3 v.v. . Phần lớn các trường hợp nghĩa của từ biến
đổi theo kiểu tỏa ra, các nghĩa mới đều dựa vào nghĩa đầu tiên mà xuất hiện.
- Các từ có nghĩa biểu vật cùng thuộc một phạm vi hoặc các nghĩa biểu
niệm cùng một cấu trúc thì chuyển biến ý nghĩa theo cùng một hướng giống
nhau.
- Sự biến đổi ý nghĩa có thể dẫn đến kết quả là nghĩa sau khác hẳn với nghĩa
trước.
- Khi các nghĩa chuyển biến còn liên hệ với nhau, sự biến đổi ý nghĩa
có thể làm cho nghĩa của từ mở rộng hoặc thu hẹp. Các nghĩa/nét nghĩa đó
làm thành hệ thống các nghĩa/nét nghĩa của từ.
- Sự biến đổi ý nghĩa có thể làm thay đổi nghĩa biểu thái của từ.
1.2.2.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ
Cùng với sự phát triển của xã hội, ngôn ngữ cũng phát triển theo. Ngoài
việc xuất hiện những từ mới biểu thị những khái niệm, sự vật mới còn có tình
34
trạng các từ biểu thị những sự vật, khái niệm chuyển nghĩa để biểu thị những
sự vật, khái niệm trong phương diện khác. Việc một nghĩa của từ được hình
thành dựa trên một nghĩa đã có của từ được gọi là sự chuyển nghĩa của từ. Sự
chuyển nghĩa của từ, theo Đỗ Hữu Châu, có các khả năng sau:
- Giữa nghĩa đầu tiên với các nghĩa mới có thể diễn ra sự biến đổi theo
kiểu móc xích: nghĩa đầu tiên chuyển sang nghĩa S1, từ S1 chuyển sanhg S2,
từ S2 chuyển sang S3,v.v. Mối liên hệ giữa nghĩa đầu tiên với những nghĩa
xuất hiện sau có khi còn thấy rõ nhờ nét nghĩa cơ sở.
- Các từ có ý nghĩa biểu vật thuộc cùng một phạm vi hoặc có ý nghĩa
biểu niệm cùng một cấu trúc thì chuyển biến ý nghĩa theo cùng một hướng.
- Sự chuyển nghĩa có thể dẫn tới kết quả là nghĩa sau khác hẳn với
nghĩa trước. Thậm chí, ngay cùng một từ, sự chuyển nghĩa có thể khiến cho
nó trở thành đồng nghĩa với từ trái nghĩa trước kia của nó.
- Khi các nghĩa chuyển biến còn liên hệ với nhau, sự chuyển nghĩa có
thể làm cho ý nghĩa của từ mở rộng ra hoặc thu hẹp lại. Nói nghĩa của từ mở
rộng tức là nói tính khái quát của nó tăng lên, các nét nghĩa cụ thể quy định
phạm vi biểu vật bị loại bỏ hay mờ nhạt đi. Sự thu hẹp nghĩa của từ đi kèm
với sự cụ thể hóa ý nghĩa, đi kèm với việc tăng thêm những nét nghĩa cụ thể
quy định phạm vi biểu vật của từ. [14, 147]. Hai phương thức chuyển nghĩa
của phổ biến nhất là ẩn dụ và hoán dụ. Ẩn dụ là phương thức chuyển đổi tên
gọi dựa trên sự liên tưởng so sánh những mặt, thuộc tính,... giống nhau giữa
các đối tượng được gọi tên. Hoán dụ là phương thức chuyển tên gọi dựa trên
mối liên hệ logic giữa các đối tượng được gọi tên.
1.2.2.5. Vấn đề nghĩa của thuật ngữ
Khả năng biến đổi ý nghĩa của từ (cái được biểu hiện) có một giới
hạn là thuật ngữ. Đó là trường hợp mặt biểu hiện (vỏ ngữ âm) của từ và cái
biểu vật giữ nguyên không thay đổi, còn ý nghĩa thì thay đổi. Theo Ju. X.
Xtêpanov, những ý nghĩa thay đổi nằm trong bước chuyển từ quan niệm
35
sang khái niệm đơn giản rồi sau đó phát triển và làm phong phú thêm khái
niệm đó. Sự khác nhau về ý nghĩa đó được A. A. Potebnhja phân biệt thành
hai loại – ý nghĩa gần nhất và ý nghĩa tiếp theo. “Khi nói đến ý nghĩa của
từ thì nói chung, ta phân biệt hai cái khác nhau; một là cái mà ngôn ngữ
học nghiên cứu gọi là ý nghĩa gần nhất của từ; hai là cái mà khoa học khác
phải nghiên cứu gọi là ý nghĩa tiếp theo của từ” [125; 45]. Theo cách hiểu
này thì từ mặt trăng có nghĩa gần là “một tinh tú toả sáng ban đêm; tháng”,
còn ý nghĩa xa, nghĩa thuật ngữ là một khái niệm “vệ tinh tự nhiên của Trái
Đất, phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời và chiếu sáng Trái Đất về ban
đêm, có hình dạng nhìn thấy thay đổi dần từng ngày – từ khuyết đến tròn
và ngược lại” [124; 621]. Ý nghĩa của các đơn vị từ vựng được thể hiện
trong quá trình hoạt động, trong những ngữ cảnh cụ thể. Ý nghĩa của từ
được bộc lộ trong hoạt động ngôn ngữ chung. Trong những hoàn cảnh sử
dụng khác nhau, ở mỗi một giai đoạn, thời đại nhất định các nghĩa khác
nhau của từ dần được bộc lộ và định hình. Từ nghĩa ban đầu, “nghĩa gần
nhất” của mình, từ đồng thời cũng hoạt động trong những phạm vi giao tiếp
khác nhau, đặc biệt là trong ngôn ngữ khoa học với “các ý nghĩa” tiếp theo
của nó. Các ý nghĩa tiếp theo được phát triển trên cơ sở các ý nghĩa gần
nhất, đi đến chỗ khác với ý nghĩa gần nhất để cuối cùng trở thành những
thuật ngữ chuyên môn” [125; 46]. Trong quá trình biến đổi, phát triển
nghĩa của từ nhiều nghĩa, ý nghĩa thuật ngữ vẫn còn nằm lại trong hệ thống
ý nghĩa của từ xuất phát của ngôn ngữ chung. Ý nghĩa thuật ngữ này vẫn
còn gắn liền với một ý nghĩa nào đó của từ ngữ thông thường. Quá trình
phát triển các ý nghĩa của từ nhiều nghĩa theo hướng từ nghĩa thông thường
đến nghĩa thuật ngữ chính là quá trình biến đổi nghĩa từ vựng của từ thông
thường theo hướng từ nghĩa biểu thị (*denotational meaning) thuộc tầng
nghĩa thực tiễn (pratical stratum) chuyển thành nghĩa biểu niệm khái niệm
khoa học (scientific concept) thuộc tầng nghĩa trí tuệ (intellectual stratum)
36
theo quan niệm của Lê Quang Thiêm. [107;1-10]. Quá trình biến đổi và
phát triển nghĩa của từ thông thường để tạo ra một nghĩa phái sinh là nghĩa
thuật ngữ.
Thực chất nghĩa thuật ngữ đó là một nghĩa phái sinh trên cơ sở nghĩa
ban đầu của từ ngữ thông thường hoặc trên cơ sở một hay một vài nét nghĩa
cơ bản trong cấu trúc biểu niệm của từ. “Nét nghĩa cơ sở của cấu trúc biểu
niệm trung tâm sẽ đảm bảo cho sự thống nhất giữa các ý nghĩa biểu vật. Như
thế các nghĩa biểu vật của từ tuy khác nhau, tuy đối lập với nhau nhưng giữa
chúng vẫn có sự thống nhất trên cơ sở nét nghĩa chung. Nói khác đi, các ý
nghĩa khác nhau của một từ lập nên một hệ thống nghĩa trong lòng một từ
nhiều nghĩa” [14;133].
1.2.3. Một số vấn đề về thuật ngữ học
1.2.3.1. Các quan niệm về thuật ngữ
Khái niệm thuật ngữ là một trong những vấn đề được được rất nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước bàn đến. Nhưng đến nay vẫn chưa có một
định nghĩa thống nhất về thuật ngữ. Mỗi nhà nghiên cứu tiếp cận thuật ngữ từ
những góc nhìn khác nhau. Vì vậy, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về
thuật ngữ. Chẳng hạn, trong bài báo năm 1970, Golovin B.N. đã đưa ra 7 định
nghĩa khác nhau; năm 1977 trong cuốn sách của mình, Danilenko V.P. đã đưa
ra 19 định nghĩa và nói rằng chưa hết, còn có thể kề thêm nữa [22; 5 ]. Thậm
chí Reformatxki A.A. khẳng định có thể viết hẳn một cuốn sách về vấn đề thế
nào là thuật ngữ [Dẫn theo 18, 100]. Lí do của điều này Superanskaja (2007)
cho rằng, vì khi đó bộ môn thuật ngữ học chưa hình thành và vì thuật ngữ là
đối tượng của nhiều ngành khoa học khác nhau nên mỗi ngành khoa học
thường nhấn mạnh một đặc điểm, hoặc đưa ra các cách tiếp cận khác nhau với
thuật ngữ. Mặc dù có rất nhiều quan niệm thuật ngữ khác nhau như vậy nhưng
có thể nhận thấy ba xu hướng định nghĩa thuật ngữ cơ bản dưới đây:
37
Một số nhà nghiên cứu nước ngoài khi định nghĩa thuật ngữ đã quan
tâm tới việc chỉ ra sự khác biệt giữa thuật ngữ với từ thông thường. Chẳng
hạn Kuz'kin N.P. (1962) cho rằng: "Nếu như từ thông thường, từ phi chuyên
môn tương ứng với đối tượng thông dụng, thì từ của vốn thuật ngữ lại tương
ứng với đối tượng chuyên môn mà chỉ có một số lượng hạn hẹp các chuyên
gia biết đến" [Dẫn theo 26;10]. Tương tự, Moiseev A.I. (1970) khẳng định
:"Chính biên giới giữa thuật ngữ và phi thuật ngữ không nằm giữa các loại từ
và cụm từ khác nhau mà nằm trong nội bộ mỗi từ và cụm từ định danh"
[80;10]. Cùng quan niệm này Kapanadze L.A. cũng nhấn mạnh:"Thuật ngữ
không gọi tên khái niệm như từ thông thường mà là khái niệm được gán cho
nó dường như là gắn kèm theo nó cùng với định nghĩa" [45; 4].
Bên cạnh đó, khá nhiều nhà nghiên cứu khi định nghĩa thuật ngữ lại
chú ý đến chức năng mà thuật ngữ đảm nhiệm. Chẳng hạn, Vinokur G.O.
(1939) cho rằng "Thuật ngữ - đấy không phải là những từ đặc biệt, mà chỉ là
những từ có chức năng đặc biệt” và đó là “chức năng gọi tên” [Dẫn theo 26;
4]. Đồng thời ông cho rằng bất cứ từ nào cũng được cấu tạo để có vai trò là
một thuật ngữ. Quan niệm của Vinokur G.O. cho thấy nền tảng của thuật ngữ
chính là ngôn ngữ, cụ thể là các đơn vị từ vựng. Bên cạnh đó, Vinôgrađốp
V.V. (1947) chỉ rõ thuật ngữ không chỉ có chức năng gọi tên mà còn có chức
năng định nghĩa: “Trước hết từ thực hiện chức năng định danh, nghĩa là hoặc
nó là phương tiện biểu thị, lúc đó nó chỉ là một kí hiệu đơn giản, hoặc nó là
phương tiện của định nghĩa lôgíc, lúc đó nó là thuật ngữ khoa học” [Dẫn theo
26,14]. Tương tự, Gerd A.X. trong định nghĩa của mình cũng nhấn mạnh chức
năng định nghĩa của thuật ngữ: "Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng ngữ nghĩa
có chức năng định nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt bởi các đặc
trưng như tính hệ thống, tính đơn nghĩa" [27;19].
Phần lớn các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khi định nghĩa thuật
ngữ đã tập trung đến việc xác định thuật ngữ trong mối quan hệ với khái
38
niệm. Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Tu là người đầu tiên đưa ra định nghĩa về
thuật ngữ. Trong đó, ông chỉ rõ thuật ngữ không chỉ biểu thị khái niệm khoa
học còn biểu thị cả tên các sự vật: "Thuật ngữ là từ hoặc nhóm từ dùng trong
các ngành khoa học kỹ thuật, chính trị ngoại giao, nghệ thuật...và có một ý
nghĩa đặc biệt, biểu thị chính xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc ngành
nói trên.". [113;176].
Tương tự, định nghĩa thuật ngữ của Đỗ Hữu Châu cũng nhấn mạnh thuật
ngữ không chỉ biểu thị khái niệm khoa học mà thuật ngữ còn chỉ tên cả sự vật,
hiện tượng khoa học: "Thuật ngữ là những từ chuyên môn được sử dụng trong
phạm vi một ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kỹ thuật nào
đấy. Có thuật ngữ của ngành vật lý, ngành hóa học, toán học, thương mại,
ngoại giao,vv...Đặc tính của những từ này là phải cố gắng chỉ có một nghĩa,
biểu thị một khái niệm, hay chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học, kỹ
thuật nhất định" [13; 367].
Sau này, nhiều nhà nghiên cứu khác (Lê Khả Kế, Hoàng Văn Hành,
1983; Lưu Vân Lăng và Như Ý, 1977; Dương Kỳ Đức, 1981; Nguyễn Thiện
Giáp,1985, Vương Toàn, 1986...), cũng đưa ra các định nghĩa về thuật ngữ.
Nhìn chung các định nghĩa đều nhấn mạnh đến tính chính xác của khái niệm
và đối tượng chuyên môn mà thuật ngữ biểu thị. Chẳng hạn, Hoàng Văn Hành
định nghĩa “Thuật ngữ là những từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác
định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định.
Toàn bộ hệ thống thuật ngữ của các ngành khoa học hợp thành vốn thuật ngữ
của ngôn ngữ” [36; 26]. Nguyễn Thiện Giáp cũng quan niệm: "Thuật ngữ là
bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố
định là tên gọi chính xác của các khái niệm và các đối tượng thuộc lĩnh vực
chuyên môn của con người" [29; 270].
Ở nước ngoài, một số nhà ngôn ngữ học Nga khi đưa ra định nghĩa
cũng nhấn mạnh đến khái niệm và đối tượng chuyên môn thuật ngữ biểu thị.
39
Chẳng hạn, Akhmanova O.S. (1966) định nghĩa: "Thuật ngữ là từ hoặc cụm
từ của ngôn ngữ chuyên môn (ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ kỹ thuật,v.v...)
được sáng tạo ra (được tiếp nhận, được vay mượn.v.v...) để biểu hiện chính
xác các khái niệm chuyên môn và biểu thị các đối tượng chuyên môn” [Dẫn
theo 26; 173]. Kondakor N.I (1971) cũng đưa ra quan niệm về thuật ngữ khá
rộng: Thuật ngữ là “từ ngữ chuyên môn dùng để chỉ bất kỳ một cái gì đó
trong một lĩnh vực, một ngành nghề, chứ không hạn chế ở khái niệm khoa học
được xác định chặt chẽ” [Dẫn theo 26, tr.173].
Những năm gần đây ở Việt Nam, khi bàn về vấn đề thuật ngữ nói chung
hoặc trong các công trình nghiên cứu về thuật ngữ thuộc một số các chuyên
ngành cụ thể, hầu hết các nhà nghiên cứu cũng đều đưa ra định nghĩa thuật
ngữ hoặc chấp nhận quan điểm định nghĩa thuật ngữ trong mối quan hệ với
khái niệm.[ Nguyễn Thị Bích Hà, 2000; Nguyễn Thị Kim Thanh, 2005;
Nguyễn Đức Tồn, 2010; Mai Thị Loan, (2012)…].
Ngoài ba xu hướng định nghĩa chủ yếu trên, Superanskaja A.V, (2007)
còn tổng kết và nêu ra 7 cách định nghĩa của giới khoa học và ngôn ngữ về
thuật ngữ, đó là cách định nghĩa của triết học - nhận thức luận, logic, kí hiệu
học,tin học, ngôn ngữ học, logic-ngôn ngữ học, thuật ngữ học. Trong đó, đáng
chú ý là cách xác định thuật ngữ theo quan điểm thuật ngữ học của tác giả
Leichik (2009 ) được đánh giá mang tính toàn diện nhất: "Thuật ngữ là một
sản phẩm kết hợp đa tầng, gồm tầng nền là ngôn ngữ tự nhiên và tầng thượng
thuộc về logic. Trong đó, tầng thượng (superstratum) ở trên và tầng nền
(substratum) ở dưới, bao bọc hạt nhân thuật ngữ, gồm cấu trúc hình thức, cấu
trúc chức năng, cấu trúc khái niệm chuyên ngành. Ba cấu trúc này tác động
qua lại với tầng nền ngôn ngữ và tầng thượng lô gic" [84; 24]. Một số nhà
nghiên cứu hiện nay cho rằng, chỉ khi sự thừa nhận sự tồn tại tầng nền ngôn
ngữ trong thuật ngữ, chúng ta mới giải quyết được nhiều vấn đề về phương
pháp luận của thuật ngữ, trước hết là vấn đề truyền thống về bản chất ngôn
40
ngữ của thuật ngữ, hay vấn đề bản chất thuật ngữ hoặc vấn đề đặc thù của
thuật ngữ. Bởi vì nếu chỉ đứng trong khuôn khổ thuần túy của ngôn ngữ học
thì không thể phát lộ ra các nét đặc trưng, cơ bản của thuật ngữ phân biệt với
các đơn vị từ vựng khác, những cái phi thuật ngữ [109; 9].
Như vậy, rõ ràng các nhà nghiên cứu nhìn nhận thuật ngữ ở nhiều góc
độ khác nhau, nên đưa ra khá nhiều nội dung về khái niệm thuật ngữ như về
vị trí, chức năng, hình thức, nội dung, phạm vi sử dụng…của thuật ngữ. Tuy
nhiên, có thể nhận thấy hai nội dung rất quan trọng mang tính đặc trưng bản
chất của khái niệm thuật ngữ mà các nhà nghiên cứu đã nêu ra:
* Về hình thức: thuật ngữ là những từ hoặc cụm từ.
* Về nội dung: thuật ngữ biểu thị chính xác các khái niệm hoặc đối
tượng chuyên môn của một ngành khoa học hoặc một lĩnh vực chuyên môn
nhất định.
Từ hai nội dung cơ bản của khái niệm thuật ngữ nêu trên, chúng tôi tạm
liên kết thành định nghĩa mang tính chất làm việc, coi đây như là tiêu chí để xác
định thuật ngữ trong sự phân biệt với các đơn vị phi thuật ngữ: Thuật ngữ là
những từ và cụm từ biểu thị chính xác các khái niệm hoặc đối tượng chuyên môn
của một ngành khoa học hoặc một lĩnh vực chuyên môn nhất định.
Dựa trên những quan điểm đã nêu và tìm hiểu lược sử mĩ thuật và mĩ
thuật học, tìm hiểu khái niệm mĩ thuật trong các giáo trình mĩ thuật học cùng
với kết quả khảo sát, thống kê TNMTTV từ nhiều nguồn khác nhau, chúng tôi
đưa ra định nghĩa TNMT như sau: Thuật ngữ mĩ thuật là các từ, cụm từ được
sử dụng trong ngành mĩ thuật để biểu thị những khái niệm, sự vật, hiện tượng,
quá trình, hoạt động, tính chất… thuộc các ngành: hội họa, điêu khắc, kiến
trúc, đồ họa và trang trí.
1.2.3.2. Phân biệt thuật ngữ và một số khái niệm liên quan
a. Thuật ngữ và danh pháp
41
Việc phân biệt thuật ngữ và danh pháp lần đầu tiên được Vinokur
G.O.(1939) bàn đến. Ông cho rằng bản chất của danh pháp là võ đoán và
không có quan hệ trực tiếp với tư duy. Khác với thuật ngữ, danh pháp: "là một
hệ thống phù hiệu hoàn toàn trừu tượng và ước lệ, công dụng duy nhất của nó
là tạo những phương tiện thuận lợi nhất về mặt thực tiễn để biểu đạt những sự
vật không quan hệ trực tiếp với những nhu cầu của tư duy lí luận lấy các sự
vật ấy làm căn cứ” [106; 7].
Reformatxki G.O (1961) cũng chỉ ra sự khác biệt giữa thuật ngữ và danh
pháp: “Hệ thuật ngữ trước hết có mối liên hệ với hệ khái niệm của một môn
khoa học nào đó, còn danh pháp chỉ nhãn hiệu hóa đối tượng của khoa học
thôi. Vì vậy, danh pháp có thể coi là thế liên tục của các chữ cái (vitamin A,
vitamin B…), hay là thể liên tục của các con số (MAC -5, MAC-8) và của
mọi thứ dấu hiệu có tính ước lệ, tùy tiện khác. Danh pháp không tương quan
trực tiếp với các khái niệm của khoa học. Vì vậy, danh pháp không tiêu biểu
cho hệ khái niệm của khoa học” [106; 4]. So với thuật ngữ số lượng của danh
pháp là rất lớn: “Nếu cái máy nào đó chẳng hạn có mấy nghìn chi tiết và mỗi
chi tiết như thế lại có tên gọi riêng của mình thì điều này cũng không có nghĩa
là phải có bằng ngần ấy khái niệm” [13; 145].
Tương tự, Superanskaja khẳng định, mặc dù danh pháp có gắn với khái
niệm nhưng nó hướng đến sự vật nhiều hơn và số lượng của nó nhiều vô kể.
Còn thuật ngữ của mỗi ngành khoa học lại là một số lượng hữu hạn, vì người
ta phản ánh hệ khái niệm của nó bằng từ ngữ [104; 9]
Nguyễn Thiện Giáp cũng phân biệt thuật ngữ và danh pháp một cách
khá rõ. Ông cũng khẳng định, danh pháp không gắn liền trực tiếp với khái
niệm của một khoa học như thuật ngữ mà danh pháp chỉ gọi tên các sự vật
trong khoa học đó mà thôi. “Về bản chất, danh pháp là tên riêng của các đối
tượng. Nếu như ở thuật ngữ người ta nhấn mạnh đến chức năng định nghĩa
42
của nó thì đối với danh pháp chức năng gọi tên mới là chức năng quan
trọng".[29; 309].
Ngoài ra, tác giả còn chỉ rõ, nội dung của thuật ngữ ít nhiều tương ứng
với ý nghĩa của các từ tạo nên chúng. Còn danh pháp có thể được xem như là
một chuỗi kế tiếp nhau của các chữ, chuỗi các con số hoặc bất kỳ cách gọi tên
võ đoán nào. Ví dụ, trong lĩnh vực mĩ thuật, các từ như tranh, tượng, chủ
nghĩa ấn tượng, trường phái siêu thực được coi là những thuật ngữ, còn tên
riêng của các họa sĩ, nhà điêu khắc, viện bảo tàng tranh, loại báo, tạp chí như
tạp chí Mĩ thuật, Viện Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam, Trường Đại học Mĩ thuật
thành phố Hồ Chí Minh... lại thuộc về danh pháp. Như vậy, danh pháp không
có quan hệ trực tiếp với khái niệm khoa học như thuật ngữ, danh pháp chỉ là
tên gọi các sự vật, hiện tượng cụ thể trong một ngành khoa học nhất định.
Theo Hà Quang Năng, giữa thuật ngữ và danh pháp cũng có điểm giống nhau
duy nhất đó là “tính độc lập của danh pháp và của thuật ngữ khỏi ngữ cảnh và
tính chất trung hòa về tu từ của chúng, tính mục đích rõ ràng trong sử dụng,
tính bền vững và khả năng tái hiện trong lời nói” [84;124]. Ngoài ra, trong
một số trường hợp, danh pháp có thể chuyển hóa thành thuật ngữ.
Superanskaja A.V cho rằng, thực ra, giữa thuật ngữ và danh pháp không có
ranh giới tuyệt đối, hai lớp từ vựng này tác động qua lại lẫn nhau, danh pháp,
trong những trường hợp nhất định, có thể chuyển thành thuật ngữ khi nó rơi
vào trong hệ thống từ vựng khác [104; 7].
b. Thuật ngữ và từ thông thường
So với từ thông thường, thuật ngữ có ngoại diên hẹp hơn nhưng nội hàm
sâu hơn và được biểu thị một cách lôgíc chặt chẽ hơn. Mặc dù từ thông
thường cũng biểu thị khái niệm nhưng đó chỉ là “khái niệm đời thường” còn
khái niệm mà thuật ngữ biểu thị là là “khái niệm khoa học” có tính nghiêm
ngặt. Điều này cũng có nghĩa là: "Nghĩa biểu vật của thuật ngữ trùng hoàn
toàn với sự vật, hiện tượng có thực trong thực tế của ngành kĩ thuật tương
43
ứng. Và ý nghĩa biểu niệm của thuật ngữ cũng là những khái niệm về các sự
vật hiện tượng này đúng như chúng tồn tại trong tư duy” [14; 241]. Vì vậy,
mặc dù cả hai đơn vị này đều có chức năng định danh, nhưng định danh ở từ
thông thường chỉ là gọi tên sự vật, còn ở thuật ngữ là gọi tên khái niệm.
Vì ý nghĩa của thuật ngữ là định nghĩa một cách lô gích khái niệm,
chứa đựng nội dung thuần lí trí, nên thuật ngữ không mang tính biểu cảm,
biểu thị sự đánh giá chủ quan của con người, không có đồng nghĩa, trái nghĩa
và các biến thể phong cách chức năng như từ thông thường. Vì vậy, nội dung
của từ thông thường có thể thay đổi trong trong những hoàn cảnh sử dụng
khác nhau nhưng nội dung của thuật ngữ luôn luôn là cố định. Sự thay đổi của
nội dung của thuật ngữ chỉ phụ thuộc một cách khách quan vào sự phát triển
của khoa học chứ không phải do việc sử dụng thuật ngữ trong những hoàn
cảnh khác nhau thường ngày tạo nên. Nghĩa là, nội dung của thuật ngữ chỉ
thay đổi khi khái niệm mà thuật ngữ diễn đạt được xác lập lại khi mà khoa
học phát triển. Ví dụ, ở thời cổ đại khái niệm nguyên tử được hiểu khác ngày
nay. Điều này rất đúng với nhận định của Superanskaja: “Hầu như mỗi bước
tiến của khoa học cũng là một sự thiết lập hoặc làm chính xác các thuật ngữ
khoa học” [104; 5].
Về mặt sử dụng, từ thông thường được dùng phổ biến trong xã hội còn
thuật ngữ chủ yếu chỉ được sử dụng nhiều trong phạm vi hoạt động của khoa
học đó. Từ thông thường được sử dụng trong những tình huống khác nhau,
trong khi việc sử dụng thuật ngữ thuộc một lĩnh vực chuyên ngành lại chỉ giới
hạn trong lĩnh vực chuyên ngành đó. Thuật ngữ thường được sử dụng để nói
về những chủ đề chuyên môn, còn từ thông thường được sử dụng để nói về
bất kì chủ đề nào trong cuộc sống hàng ngày, để diễn đạt cảm xúc, ra lệnh hay
nói về bản thân ngôn ngữ. Thuật ngữ chỉ được dùng trong một số loại diễn
ngôn như khoa học và kĩ thuật và trong một số văn bản mang tính khách
quan, còn từ thông thường được sử dụng trong tất cả các loại diễn ngôn [109].
44
Nhưng bên cạnh sự khác biệt, giữa thuật ngữ và từ thông thường còn có
mối quan hệ khá gần gũi với nhau [Lê Khả kế, 1979; Nguyễn Thiện Giáp,
1985; Lotte D.S, 1978]. Thuật ngữ và từ thông thường luôn có sự xâm nhập
qua lại, điều này thể hiện ở hai khía cạnh: thuật ngữ có thể trở thành từ thông
thường và từ thông thường có thể được thuật ngữ hóa. Thực tế cho thấy cùng
với sự phát triển của xã hội, xu thế chuyển hóa từ thông thường thành thuật
ngữ và ngược lại thuật ngữ khoa học đi vào ngôn ngữ của toàn dân đang diễn
ra ngày càng phổ biến.
Khi từ thông thường trở thành thuật ngữ, ý nghĩa của chúng bị hạn chế
chỉ còn lại tính chất chuyên môn hóa. Ngược lại, khi thuật ngữ trở thành từ
thông thường thì không phải toàn bộ khái niệm mà thuật ngữ diễn đạt đều
chuyển vào ngôn ngữ toàn dân mà chỉ là cái vỏ ngữ âm của chúng được sử
dụng. Đồng thời, thuật ngữ sẽ mở rộng phạm vi hoạt động, không chỉ còn bó
hẹp trong phạm vi hệ thống thuật ngữ nào đó mà nó còn được sử dụng cả
trong phạm vi của ngôn ngữ văn học. Như vậy, sự khác biệt cơ bản của những
từ ngữ thông thường được thuật ngữ hóa với các từ ngữ thông thường được
thể hiện rõ ở đặc điểm sử dụng.
Việc chuyển hóa giữa thuật ngữ và từ thông thường đưa đến sự xuất
hiện hàng loạt các đơn vị vừa là thuật ngữ đồng thời là những từ thông
thường như âm, nước, lợi, tiếng, bù....Nhờ có sự chuyển hóa từ thông
thường có thể trở thành thuật ngữ đã mở ra khả năng cấu tạo hàng loạt
thuật ngữ trên cơ sở từ ngôn ngữ thông thường.
c. Thuật ngữ và từ nghề nghiệp
Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng các nhà nghiên cứu ở trong
nước cũng như ở nước ngoài đều có nhận thức chung coi thuật ngữ là từ ngữ
biểu thị các khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của
con người. Thuật ngữ có ý nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện
tượng…có trong thực tế khách quan, là đối tượng của ngành khoa học và
45
ngành kĩ thuật tương ứng. Các thuật ngữ không xảy ra sự chia cắt thực thể
khách quan theo cách riêng của ngôn ngữ. Thuật ngữ có các tính chất sau:
tính chính xác; tính quốc tế; tính hệ thống.
Khi tìm hiểu đặc điểm của thuật ngữ và từ nghề nghiệp, Đỗ Hữu Châu
thấy rằng, giữa thuật ngữ và từ nghề nghiệp có nét tương đồng:
1) Chúng đều là lớp từ được dùng trong một ngành nhất định, thuộc về
lớp từ được sử dụng hạn chế trong xã hội.
2) Cả hai lớp từ đều có ý nghĩa biểu vật trùng với sự vật, hiện tượng thực
có trong ngành nghề và ý nghĩa biểu niệm đồng nhất với cái khái niệm về sự
vật, hiện tượng đó.
Tuy nhiên giữa chúng cũng có sự khác biệt căn bản:
1) Từ nghề nghiệp có tính cụ thể và gợi hình cao hơn do gắn với những
hoạt động sản xuất hoặc ngành nghề cụ thể, trực tiếp;
2) Mức độ khái quát của ý nghĩa biểu niệm trong từ nghề nghiệp thấp
hơn thuật ngữ. Thuật ngữ biểu thị khái niệm của các ngành khoa học, ngành
kĩ thuật - tài sản chung của thế giới nên chúng mang tính quốc tế. Từ nghề
nghiệp chỉ lưu hành trong phạm vi một ngành nghề nên không mang tính
quốc tế;
3) Thuật ngữ là biến thể của phong cách khoa học, phong cách viết, còn
từ nghề nghiệp thuộc phong cách khẩu ngữ, từ vựng nói, hội thoại [13; 237].
Mặc dù có những điểm giống và khác nhau, nhưng giữa thuật ngữ và từ
nghề nghiệp vẫn diễn ra quá trình xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau. Cụ thể là
có khá nhiều từ nghề nghiệp vốn ban đầu chỉ được sử dụng trong phạm vi một
nhóm người làm việc trong một nghề nào đó, nhưng khi ngành nghề đó phát
triển, được công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì các từ nghề nghiệp được sử
dụng rộng rãi và được chuyển hóa thành các thuật ngữ. Mặt khác, các ngành
nghề thủ công đang tồn tại song song với các ngành sản xuất công nghiệp
46
tương ứng cũng lại sẵn sàng tiếp nhận các thuật ngữ khoa học, biến chúng
thành từ nghề nghiệp nhằm hiện đại hóa cho nghề của mình.
Trong ngôn ngữ học, khái niệm từ nghề nghiệp thường được xem xét
trong mối quan hệ với chức năng và phạm vi sử dụng. Từ nghề nghiệp thường
được các nhà nghiên cứu quan niệm đó là các từ vựng được sử dụng giữa
những người cùng làm trong một ngành nghề cụ thể tại một làng, một vùng cư
dân nào đó, và đó là các nghề thủ công như nghề gốm sứ, nghề dệt, nghề mộc,
nghề giấy... Có thể nhận thấy một số điểm tương đồng và khác biệt của lớp từ
này so với thuật ngữ như sau:
Thứ nhất, về mặt nội dung, từ nghề nghiệp và thuật ngữ đều là những tên
gọi duy nhất của hiện tượng trong thực tế, đồng thời, cả thuật ngữ và từ nghề
nghiệp đều có thể chuyển hóa thành từ thông thường khi những khái niệm của
chúng được sử dụng phổ biến trong xã hội, làm giàu thêm vốn từ vựng chung
của dân tộc. “Từ ngữ nghề nghiệp là những tên gọi duy nhất của hiện tượng
thực tế. Chúng không có từ đồng nghĩa trong ngôn ngữ toàn dân. Cho nên từ
nghề nghiệp đều dễ dàng trở thành từ vựng toàn dân khi những khái niệm
riêng của chúng trở thành phổ biến rộng rãi trong toàn xã hội [13; 303]. Về
điểm này, Đỗ Hữu Châu cũng cho rằng, thuật ngữ và từ nghề nghiệp đều có
đặc tính cơ bản là ý nghĩa biểu vật trùng với sự vật hiện tượng thực có trong
ngành nghề và ý nghĩa biểu niệm đồng nhất với các khái niệm về sự vật, hiện
tượng đó [13; 253].
Thứ hai, xét về mặt sử dụng, từ nghề nghiệp cũng giống như thuật ngữ là
lớp từ được dùng hạn chế, chúng chỉ được dùng nhiều trong một ngành nghề
nhất định. “Từ nghề nghiệp là những từ ngữ biểu thị những công cụ, sản
phẩm lao động và quá trình sản xuất của một ngành nào đó trong xã hội.
Những từ ngữ này thường được những người cùng trong ngành nghề đó biết
và sử dụng” [13; 303].
47
Tuy nhiên, khác với thuật ngữ, vì từ nghề nghiệp gắn liền với những
hoạt động sản xuất hoặc ngành nghề cụ thể một cách trực tiếp, cho nên từ
nghề nghiệp thường mang tính cụ thể, gợi hình ảnh cao. Vì vậy, từ nghề
nghiệp còn được dùng cả trong phong cách của ngôn ngữ văn học, và nghệ
thuật, đặc biệt các nhà nghiên cứu đều cho rằng mức độ khái quát của các ý
nghĩa biểu niệm của chúng thấp hơn thuật ngữ khoa học. “Thuật ngữ chuyên
môn gồm thuật ngữ những ngành khác nhau trong khoa học, các thuật ngữ -
định nghĩa, xác định ra khái niệm, nghĩa những thuật ngữ này không mang
bất cứ thành tố xúc cảm và biểu cảm nào. Từ nghề nghiệp là những hiện
thực của các ngành sản xuất khác nhau, của các nghề thủ công v.v…- có thể
mang sắc thái xúc cảm và biểu cảm’ [68; 132-133]. Bên cạnh đó, Kapanadze
(1965) chỉ ra một đặc điểm khác biệt khá quan trọng của từ nghề nghiệp so
với thuật ngữ đó là từ nghề nghiệp “không bao giờ tạo thành một hệ thống
khép kín - đó là những đơn vị rời rạc không liên kết với nhau” [46;14].
1.2.3.3. Các tiêu chuẩn của thuật ngữ
Việc xây dựng, thống nhất thuật ngữ khoa học liên quan chặt chẽ tới
việc xác định các tiêu chuẩn của thuật ngữ. Đây là một trong những vấn đề
được các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Ở Việt Nam, Hoàng Xuân Hãn (1942)
không chỉ là người đầu tiên tổng kết lên ba phương thức xây dựng thuật ngữ,
mà còn là người đầu tiên đề ra các tiêu chuẩn của thuật ngữ, khi đó ông gọi là
các “điều kiện” của một “danh từ khoa học”. Theo đánh giá của Lưu Vân
Lăng, các tiêu chuẩn mà Hoàng Xuân Hãn nêu ra cho đến nay (những năm
70) vẫn là những yêu cầu cần và đủ cho hệ thống thuật ngữ và có thể hệ thống
hóa chúng thành 3 tiêu chuẩn chính: khoa học, dân tộc và đại chúng. [65; 62].
Đây cũng chính là ba tiêu chuẩn đã được hầu hết các nhà khoa học nhất trí
thống qua trong Hội nghị năm 1964 bàn về vấn đề dùng thuật ngữ khoa học
nước ngoài, trong đó việc xác định và thống nhất các tiêu chuẩn của thuật ngữ
là một nội dung quan trọng được thảo trong hội nghị. Trong ba tiêu chuẩn
48
khoa học, dân tộc và đại chúng thì tính khoa học được tất cả các nhà khoa học
đánh giá là tiêu chuẩn quan trọng bậc nhất.
Đáng chú ý, ngoài các tiêu chuẩn nói trên, một số nhà nghiên cứu còn
cho rằng cần phải chú ý cả tính tính quốc tế của thuật ngữ. Đặc biệt, một số
tác giả không chỉ đề xuất mà còn phân tích, đánh giá cao tính quốc tế của
thuật ngữ, coi đây là một tiêu chuẩn bắt buộc mà thuật ngữ phải có. Như vậy
có thể thấy, các nhà nghiên cứu đưa ra khá nhiều tiêu chuẩn cho thuật ngữ.
Tuy nhiên, có thể khái quát chúng lại thành các tiêu chuẩn: tính khoa học,
tính quốc tế, tính dân tộc, tính đại chúng, bởi vì một số tiêu chuẩn các nhà
nghiên cứu nêu ra đã bao hàm nhau, ví dụ, trong tính chính xác đã bao hàm
tính đơn nghĩa, trong tính đại chúng bao hàm tính dễ dùng… hoặc cùng một
tính chất nhưng được diễn đạt khác nhau, ví dụ tính dân tộc có tác giả lại gọi
là tính bản ngữ…Trong số các tiêu chuẩn của thuật ngữ nêu trên, tính khoa
học được tất cả các nhà nghiên cứu từ trước đến nay coi đó là tiêu chuẩn
quan trọng bậc nhất. Các tiêu chuẩn còn lại cũng rất quan trọng nhưng
không được các nhà nghiên cứu chú trọng như nhau. Nhìn chung, quan niệm
của các nhà nghiên cứu thời kì những năm 60 -70 của thế kỉ trước, ngoài
tính khoa học chỉ quan tâm đến tính dân tộc và đại chúng, còn tính quốc tế
thì chưa được chú ý và hầu như ít được đề cập đến. Trong giai đoạn hiện
nay, tất cả các nhà nghiên cứu đều khẳng định, tính quốc tế là một trong
những phẩm chất bắt buộc của thuật ngữ, bên cạnh tính khoa học.
Sau đây là tổng hợp các tiêu chuẩn về thuật ngữ tiếng Việt mà các nhà
nghiên cứu đưa ra:
49
Các tiêu chuẩn của thuật ngữ tiếng Việt
TT Tiêu chuẩn của thuật ngữ Ngƣời
đƣa ra
Năm
đƣa
ra
Tài
liệu
1. 1. Mỗi ý phải có một danh từ để gọi
2. Danh từ ấy phải dùng riêng về ý ấy
3. Mỗi ý đừng có nhiều danh từ
4. Danh từ phải làm cho dễ nhớ đến ý
5. Danh từ trong các môn phải thành
một toàn thể duy nhất và liên lạc
6. Danh từ phải gọn
7. Danh từ phải có âm hưởng Việt Nam
8. Danh từ phải đặt theo lối đặt các tiếng
thường và phải có tính chất quốc gia.
Hoàng
Xuân Hãn
1942
[35].
2. 1. Tính khoa học (chính xác, hệ thống)
2. Tính dân tộc và đại chúng
3. Tính ngắn gọn, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ
Lê Khả Kế
1967 [51].
3. 1. Chính xác; 2. Có hệ thống;
3. Có tính bản ngữ (dân tộc);
4. Ngắn gọn, cô đọng;
5. Dễ dùng
Lưu Vân
Lăng
1977
[65].
4. 1. Tính định danh; 2. Tính chính xác; 3.
Tính hệ thống; 4. Tính bản ngữ” Như Ý 1979 [127].
5. 1. Ổn định về cấu tạo; 2. Ngắn gọn;
3. Có sức sản sinh Hồng Dân 1979 [19].
6. 1. Tính chính xác; 2. Tính quốc tế;
3. Tính hệ thống
Đỗ Hữu
Châu 1981 [13].
7. 1. Tính chính xác; 2. Tính hệ thống;
3. Tính quốc tế
Nguyễn
Thiện Giáp 1985 [29].
8. 1. Tính đơn nghĩa; 2. Tính chính xác
3. Tính trung hòa về tu từ
Vũ Quang
Hào 1991 [40].
9. 1. Tính chính xác
2. Tính hệ thống
3. Tính chất ngôn ngữ dân tộc
4. Tính ngắn gọn và tính dễ dùng
5. Tính quốc tế
Hà Quang
Năng
2009 [83].
10. 1. Tính khoa học (tính chính xác, tính hệ
thống và tính ngắn gọn)
2. Tính quốc tế
Nguyễn
Đức Tồn 2016 [110].
50
Trong nhiều tiêu chuẩn của thuật ngữ được nêu ra ở đây cần phân
biệt những tiêu chuẩn với tư cách là những đặc trưng của thuật ngữ để
phân biệt thuật ngữ với những lớp từ vựng khác và những yêu cầu khi xây
dựng thuật ngữ. Cụ thể, tính khoa học và tính quốc tế là những đặc trưng
cơ bản mà thuật ngữ ở bất kì ngôn ngữ nào cũng có. Nhưng khi xây dựng
thuật ngữ tiếng Việt không những phải bảo đảm được tính chất cơ bản của
thuật ngữ mà còn phải bảo đảm cả tính chất chung của thuật ngữ với tư
cách là một lớp từ vựng đặc biệt trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, đó là
tính dân tộc của thuật ngữ.
a. Tính khoa học
Thuật ngữ có tính khoa học nghĩa là thuật ngữ phải mang tính chính xác,
tính hệ thống hệ thống và tính ngắn gọn
*Tính chính xác
Tính chính xác được tất cả các nhà khoa học trong và ngoài nước từ
trước đến nay thừa nhận là một yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với thuật
ngữ. Tính chính xác đòi hỏi phải biểu hiện đúng khái niệm một cách rõ ràng,
không gây những chỗ hiểu lầm sai lệch. Lotte quan niệm, một thuật ngữ chính
xác nếu thuật ngữ đó chứa đựng những đặc trưng bản chất của khái niệm do
nó biểu đạt [74; 3]. Tương tự, Lê Khả Kế cũng chỉ rõ: “lí tưởng nhất là thuật
ngữ phản ánh được đặc trưng cơ bản, nội dung bản chất của khái niệm”. Đối
với một số trường hợp thuật ngữ chỉ phản ánh một đặc trưng không cơ bản
của khái niệm nhưng vẫn đủ điều kiện để phân biệt trong thế đối lập với các
thuật ngữ khác, thì vẫn có thể chấp nhận được. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sinh
học cùng là Graine nhưng có hai thuật ngữ: hột và hạt. [52; 33].
Tính chính xác của thuật ngữ còn đòi hỏi thuật ngữ phải có tính một
nghĩa, tức là trong cùng một ngành khoa học hoặc một lĩnh vực chuyên môn
mỗi khái niệm chỉ có một thuật ngữ hay nói cách khác mỗi thuật ngữ chỉ biểu
đạt một khái niệm. "Một thuật ngữ chính xác là một thuật ngữ khi nói ra, viết
ra, người nghe, người đọc hiểu một và chỉ một khái niệm khoa học (đúng hoặc
sai) ứng với nó mà thôi". [13; 243].
51
Như vậy, để đảm bảo tính một nghĩa của thuật ngữ đòi hỏi phải loại bỏ
hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa trong hệ thống thuật ngữ của cùng một
ngành khoa học. Tuy nhiên, “Do chỗ số lượng các tên gọi bao giờ cũng ít hơn
các sự vật hiện tượng được gọi tên, nên không ít những thuật ngữ biểu thị các
sự vật, hiện tượng, đối tượng của các ngành khoa học khác nhau” [13; 243].
Vì vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng, giữa những hệ thống thuật ngữ
của các ngành khoa học khác nhau vẫn có thể chấp nhận hiện tượng đồng âm
đồng nghĩa bởi vì chúng không vi phạm đến mức chính xác của thuật ngữ
khoa học, cũng không phá vỡ tính hệ thống của thuật ngữ. Ví dụ: thuật ngữ
than hiện xuất hiện trong nhiều hệ thống thuật ngữ khác nhau. Than trong
ngành mỏ công nghiệp: chỉ một chất nhất định, chẳng hạn như ta nói mỏ than.
Trong hội họa, than chỉ một loại than đặc biệt đốt từ cây phụ danh dùng để vẽ
(vẽ than). Trong y học và thú y, than chỉ một loại bệnh do trực khuẩn gây ra
(sốt than)... Trong nông nghiệp về bệnh cây, than chỉ một loại bệnh do nấm
gây ra. Rõ ràng, trong mỗi lĩnh vực chuyên môn thuật ngữ than biểu thị các
khái niệm hoàn toàn khác nhau và trong mỗi lĩnh vực chuyên môn nó chỉ
mang một nghĩa.
*Tính hệ thống
Tính hệ thống là một tiêu chuẩn cần thiết và bắt buộc đối với thuật
ngữ. Mỗi ngành khoa học đều có một hệ thống các khái niệm được thể hiện
bằng hệ thống các thuật ngữ, trong đó mỗi thuật ngữ bao giờ cũng là yếu tố
của hệ thống thuật ngữ và chiếm một vị trí nhất định trong hệ thống thuật
ngữ cụ thể nào đó. Giá trị của mỗi thuật ngữ chỉ được xác định trong mối
quan hệ của nó với những thuật ngữ khác trong cùng một hệ thống. Nếu
tách thuật ngữ đó ra khỏi hệ thống thì nội dung thuật ngữ của nó không còn
nữa. “Nói đến tính chất hệ thống của thuật ngữ khoa học, chúng ta cần phải
chú ý đến cả hai mặt: hệ thống thuật ngữ và hệ thống kí hiệu” [65; 27].
Như vậy, tính hệ thống của thuật ngữ cần phải được hiểu một cách toàn
diện, không chỉ về mặt hình thức thức biểu hiện bằng từ ngữ mà còn phải xét cả
về mặt nội dung khái niệm. Lưu Vân Lăng (1977) đã phân tích khá kĩ và toàn
52
diện tính hệ thống của thuật ngữ. Theo ông, tính hệ thống của thuật ngữ phải
được chú ý trên cả hai mặt: mặt nội dung (hệ thống khái niệm) và mặt hình thức
(hệ thống kí hiệu). Trong khoa học, hệ thống khái niệm được thể hiện ở chỗ:
“các khái niệm được tổ chức thành hệ thống, có tầng, có lớp, có bậc hẳn hoi, có
khái niệm hạt nhân làm trung tâm tập hợp nhiều khái niệm khác thành từng
trường khái niệm, thành từng nhóm, từng cụm. Mỗi trường khái niệm có thể là
một hệ thống con. Mỗi hệ thống nhỏ có một khái niệm hạt nhân” [65; 5-6]. Như
vậy, trong mỗi hệ thống lớn bao gồm nhiều hệ thống nhỏ và các hệ thống nhỏ
này được sắp xếp thành tầng bậc theo một trật tự nhất định.
Tính hệ thống kí hiệu thường được thể hiện ở mối quan hệ liên tưởng
(nghĩa là thay thế theo trục dọc) và mối quan hệ ngữ đoạn (nghĩa là nối tiếp theo
trục ngang) của các tín hiệu ngôn ngữ. Như vậy, để đảm bảo được hệ thống về
mặt kí hiệu, cần phải dựa vào thế đối lập giữa các tín hiệu trong hệ thống. Bởi vì
mỗi thuật ngữ có một giá trị nhất định về nội dung chính là do sự đối lập kí hiệu
này với kí hiệu khác trong cùng một hệ thống kí hiệu. Khi đặt thuật ngữ, ta có
thể dựa vào sự đối lập giữa các tín hiệu về mọi mặt có trong ngôn ngữ, kể cả
những tín hiệu đồng nghĩa khác âm như không, vô, bất, phi ... để tạo ra rất nhiều
các khái niệm khác nhau. [65; 6]. Như vậy, nhờ vào tính hệ thống chúng ta thấy
được khả năng phái sinh của thuật ngữ là rất lớn.
* Tính ngắn gọn
Tính ngắn gọn liên quan chặt chẽ tới tính chính xác và tính hệ thống của
thuật ngữ. Tính chính xác về mặt ngữ nghĩa của thuật ngữ còn đòi hỏi về mặt
cấu trúc hình thức của chúng cũng phải chính xác, cụ thể là hình thức của thuật
ngữ phải ngắn gọn, chặt chẽ. “Tính ngắn gọn của thuật ngữ cần được hiểu là,
trong thành phần cấu tạo thuật ngữ, chỉ cần chứa một số lượng đặc trưng tối
thiểu cần thiết, nhưng vẫn đủ để đồng nhất hóa và khu biệt hóa các khái niệm
được phản ánh bằng thuật ngữ đó” [84; 31 - 32]. Đây cũng là điều hoàn toàn phù
hợp với nguyên tắc định danh thuật ngữ, đó là chỉ lựa chọn những đặc trưng đủ
để khu biệt sự vật, khái niệm này với các sự vật, khái niệm khác, chứ không thể
đưa tất cả đặc trưng của đối tượng cần định danh vào bên trong tên gọi của nó.
53
Xét ở khía cạnh này, tính ngắn gọn không mâu thuẫn với tính chính xác của
thuật ngữ. Mặt khác, tính ngắn gọn của thuật ngữ cũng rất phù hợp với “quy luật
tiết kiệm trong ngôn ngữ” [84; 53].
Liên quan đến tính ngắn gọn của thuật ngữ, gần đây trong các công trình
nghiên cứu thuật ngữ của mình, các nhà ngôn ngữ học Nga đã đưa ra khái niệm
về "độ dài tối ưu và cấu trúc tối ưu của thuật ngữ" [84; 21] thay cho tiêu chuẩn
tính ngắn gọn. Theo một số nhà ngôn ngữ học Nga, độ dài tối ưu của thuật ngữ
là gắn với một bộ tối ưu các yếu tố thuật ngữ. Điều này cho phép kết nối vấn đề
tính tối ưu giữa cấu trúc hình thức với cấu trúc nội dung của nó, tức là tập hợp
các đặc trưng của khái niệm được phản ánh trong thuật ngữ [80; 26]. Như vậy có
thể thấy độ dài tối ưu của thuật ngữ là độ dài mà trong đó mỗi yếu tố thuật ngữ
biểu đạt một khái niệm từ hệ thống khái niệm của một lĩnh vực chuyên môn.
Tuy nhiên các nhà nghiên cứu cũng lưu ý độ dài tối ưu của thuật ngữ cần phải
tính đến các điều kiện hiện thực cấu tạo thuật ngữ trong một hệ thống thuật ngữ
nhất định, tức là khả năng biểu đạt các khái niệm chủ yếu bằng các yếu tố thuật
ngữ. Ví dụ, “tranh" và "chân dung” là những khái niệm chủ yếu, từ đây phái
sinh ra các thuật ngữ như tranh chân dung tự họa, tranh chân dung toàn thân…
Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu còn đưa ra tiêu chuẩn cụ thể về số
lượng YTCT thuật ngữ. Chẳng hạn, Reformatxki cho rằng đối với thuật ngữ là
từ ghép, từ tổ chỉ có thể gồm hai, ba hoặc tối đa là bốn yếu tố bởi vì nếu thuật
ngữ quá dài sẽ không được chấp nhận trong thực tế [100].
b. Tính quốc tế
Tính quốc tế là một yêu cầu tất yếu bởi vì thuật ngữ là những từ, ngữ
biểu thị các khái niệm mà khái niệm khoa học được coi là thành tựu chung của
trí tuệ, tri thức nhân loại, không thuộc về riêng ai hay riêng quốc gia nào.
Nhưng khi biểu thị những khái niệm khoa học chung đó, mỗi dân tộc sử dụng
các yếu tố và phương thức cấu tạo từ vốn có trong mỗi ngôn ngữ khác nhau.
Chính vì vậy, thuật ngữ vừa mang tính quốc tế vừa mang tính dân tộc. Tính
quốc tế thực ra không mâu thuẫn với tính dân tộc bởi vì khi nói đến tính quốc
tế là người ta nhấn mạnh đến mặt nội dung của thuật ngữ, còn nói đến tính dân
54
tộc là người ta chú ý đến mặt hình thức của thuật ngữ. Thậm chí đối với một số
TNMTTV tưởng chừng mang đậm tính dân tộc cả về hình thức và nội dung
khái niệm như tranh thêu, tranh khắc, tranh sơn mài, tranh ghép mảnh…nhưng
xét về khía cạnh nội dung chúng vẫn mang tính quốc tế bởi vì khi các thuật ngữ
này được phổ biến ra nước ngoài thì chúng sẽ trở thành tri thức chung của cả
nhân loại chứ không còn của riêng TNMT Việt Nam.
Đi vào cụ thể, tính quốc tế về mặt nội dung của thuật ngữ thường được
nhấn mạnh ở hai khía cạnh. Thứ nhất, các khái niệm do thuật ngữ biểu thị
mặc dù được thể hiện bằng các ngôn ngữ khác nhau nhưng những nguời hoạt
động trong cùng một lĩnh vực chuyên môn ở các nước khác nhau đều hiểu nội
hàm các khái niệm chuyên môn đó giống nhau. Thứ hai, cùng một sự vật,
hiện tượng hay khái niệm khoa học nhưng các ngôn ngữ khác nhau cùng chọn
một đặc trưng nào đó để làm cơ sở định danh cho việc đặt thuật ngữ. Như
vậy, xét về nội dung của thuật ngữ thì rõ ràng tính quốc tế là một đặc trưng
quan trọng, là một tính chất cơ bản của thuật ngữ vì chúng biểu hiện những
khái niệm chung cho toàn nhân loại, trong khi các lớp từ ngữ khác chỉ mang
đặc trưng của dân tộc.
c. Tính dân tộc
Thuật ngữ ở bất kì ngành khoa học nào, ở bất kì nước nào trước hết vẫn
phải là một bộ phận của ngôn ngữ dân tộc, vì vậy thuật ngữ phải mang những
đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ dân tộc. Tính dân tộc thường được thể hiện ở
các mặt: từ vựng (YTCT thuật ngữ thường là những yếu tố thuần Việt, Hán
Việt hoặc đã được Việt hóa), ngữ pháp (trật tự ghép các yếu tố tạo nên thuật
ngữ theo cú pháp tiếng Việt), ngữ âm và chữ viết: phù hợp với đặc điểm tiếng
nói, chữ viết của dân tộc như dễ hiểu, dễ viết, dễ đọc.[50; 16]
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tùy thuộc vào từng lĩnh
vực chuyên môn mà thuật ngữ đáp ứng được yêu cầu này ở mức độ nào. Tính
dân tộc của thuật ngữ có thể đạt được đối với bộ phận thuật ngữ được tạo ra
trên cơ sở chất liệu tiếng Việt và đó thường là các thuật ngữ khoa học xã hội.
Nhưng còn một bộ phận không nhỏ các thuật ngữ của một số ngành khoa học
55
tự nhiên phải phiên âm từ các ngôn ngữ Ấn Âu hầu như không thể đòi hỏi
được tính dân tộc. Vì vậy, đòi hỏi thuật ngữ phải có hình thức dân tộc là
không thể thực hiện được một cách đầy đủ đối với toàn bộ hệ thống thuật ngữ.
1.2.4. Lí thuyết định danh và định danh ngôn ngữ
Định danh được coi là một chức năng rất đặc biệt của ngôn ngữ, theo Đỗ
Hữu Châu [14;157] chức năng định danh là cầu nối giữa chức năng giao tiếp và
chức năng làm công cụ tư duy trừu tượng của ngôn ngữ. Định danh
(nomination) là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh với nghĩa là tên gọi.
Thuật ngữ này biểu thị kết quả của quá trình gọi tên của các đơn vị ngôn ngữ.
Theo Từ điển Bách khoa ngôn ngữ học thì định danh là: "việc tổ chức các đơn
vị ngôn ngữ mang chức năng gọi tên, nghĩa là phục vụ cho việc gọi tên và phân
chia các khúc đoạn hiện thực và sự hình thành của những khái niệm tương ứng
về chúng dưới hình thức của các từ, các tổ hợp từ, các thành ngữ và các câu"
[143; 336]. Về bản chất, định danh đã được KolshanskyT.V. chỉ rõ: “Định danh
(nomination) là gắn cho một kí hiệu ngôn ngữ một khái niệm-biểu niệm
(significat) phản ánh những đặc trưng nhất định của một biểu vật (denotat) -
các thuộc tính, phẩm chất và quan hệ của các đối tượng và quá trình thuộc
phạm vi vật chất và tinh thần, nhờ đó các đơn vị ngôn ngữ tạo thành những yếu
tố nội dung của giao tiếp ngôn ngữ” [110; 51].
Như vậy định danh hiểu một cách đơn giản chính là việc đặt tên gọi cho
một sự vật, hiện tượng. Tên gọi có vai trò quan trọng đối với nhận thức và tư
duy. "Nhờ các tên gọi mà sự vật, hiện tượng thực tế khách quan tồn tại trong
lí trí của chúng ta, phân biệt được với các sự vật, hiện tượng khác cùng loại
và khác loại…Vì các tên gọi làm cho tư duy trở nên rành mạch sáng sủa, cho
nên một sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan chỉ thực sự trở thành
một sự vật được nhận thức, một sự vật của tư duy khi nó đã có một tên gọi
trong ngôn ngữ" [14; 98 - 99]. Như vậy, định danh là một trong những chức
năng của các đơn vị từ ngữ của ngôn ngữ. Hiểu một cách đơn giản nhất thì
đây chính là chức năng gọi tên: gọi tên những đối tượng, thuộc tính hoặc
những hành động.
56
Tiểu kết
Trong chương này, chúng tôi đã tổng quan tình hình nghiên cứu thuật
ngữ trên thế giới và ở Việt Nam và trình bày một số vấn đề lí luận liên quan
đến luận án. Đó là các vấn đề sau:
1. Về các vấn đề chung của thuật ngữ: chúng tôi hệ thống hóa, phân tích
các quan điểm về khái niệm thuật ngữ, tiêu chuẩn của thuật ngữ, phân biệt
thuật ngữ với danh pháp, từ thông thường và từ nghề nghiệp. Thuật ngữ là từ
hoặc cụm từ biểu đạt khái niệm, thuộc tính, đối tượng, sự vật, hiện tượng…
thuộc một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn. Để xác định thuật ngữ cần
một tập hợp các tiêu chuẩn, đó là: tính khoa học (bao gồm tính chính xác, tính
hệ thống, tính ngắn gọn), tính quốc tế, tính dân tộc.
2. Trong chương này chúng tôi cũng trình bày hai vấn đề lí thuyết phục vụ
cho việc nghiên cứu TNMTTV - đó là vấn đề từ, cụm từ, quan hệ ngữ pháp
trong tiếng Việt; vấn đề nghĩa của từ, nghĩa của thuật ngữ và lí thuyết định danh
ngôn ngữ. Những cơ sở lí thuyết được trình bày trong chương này tạo nên một
khung lí thuyết rõ ràng và chắc chắn để tiến hành các nội dung nghiên cứu tiếp
sau của luận án.
3. Trên cơ sở xác định khái niệm thuật ngữ, các tiêu chuẩn dùng để xác
định thuật, chúng tôi đã trình bày sơ lược những thông tin thiết yếu về mĩ
thuật Việt Nam và xác định khái niệm TNMTTV làm cơ sở nghiên cứu trong
luận án.
Dựa trên những cơ sở lí luận chung về thuật ngữ và cùng với các nội
dung chính của ngành mĩ thuật, chúng tôi đã đưa ra được định nghĩa TNMT
mang tính chất để làm việc: Thuật ngữ mĩ thuật là các từ, cụm từ được sử
dụng trong ngành mĩ thuật để biểu thị những khái niệm, sự vật, hiện tượng,
quá trình, hoạt động, tính chất… thuộc các ngành: hội họa, điêu khắc, kiến
trúc, đồ họa và trang trí.
57
Chƣơng 2
ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ PHƢƠNG THỨC TẠO THÀNH
THUẬT NGỮ MĨ THUẬT TIẾNG VIỆT
Thuật ngữ trước hết là loại đơn vị thuộc hệ thống từ vựng - ngữ nghĩa
của một ngôn ngữ. Xét về mặt ngôn ngữ học, thuật ngữ là từ hay cụm từ (tổ
hợp từ) của một ngôn ngữ tự nhiên nào đó. Vì vậy, theo các nhà nghiên
cứu, việc phân tích thuật ngữ từ góc độ ngôn ngữ học được coi là nhiệm vụ
đầu tiên, thiết yếu nhất của thuật ngữ học và hệ thống thuật ngữ. Việc phân
tích ngôn ngữ học thuật ngữ chính là việc miêu tả cấu trúc ngôn ngữ của
thuật ngữ, bao gồm đặc điểm cấu tạo, đặc trưng cú pháp và ngữ nghĩa của
chúng. Áp dụng nguyên lí này, luận án sẽ lần lượt đi vào tìm hiểu, phân
tích cấu trúc ngôn ngữ học của TNMTTV ở từng phương diện nói trên.
Trước hết là đặc điểm cấu tạo TNMT tiếng Việt.
Trong khuôn khổ của luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu đặc
điểm về cấu tạo và phương thức tạo thành của 1.320 TNMTTV được thu
thập. Các thuật ngữ này mang đầy đủ các tiêu chuẩn bắt buộc cần phải có
của một thuật ngữ, bao gồm tính khoa học (tính chính xác, tính hệ thống,
tính ngắn gọn), tính quốc tế và tính dân tộc.
2.1. Yếu tố cấu tạo thuật ngữ
Xét về mặt ngôn ngữ học, thuật ngữ là từ hay cụm từ của một ngôn
ngữ tự nhiên nào đó. Việc phân tích cấu tạo của thuật ngữ chính là việc
miêu tả cấu trúc ngôn ngữ của thuật ngữ từ góc độ ngôn ngữ học. Khi phân
tích thành phần cấu tạo của các thuật ngữ cần xét đến yếu tố cơ sở để cấu
tạo thuật ngữ. Các thành phần được chia tách ra trong cấu trúc của một
thuật ngữ được gọi là YTCT thuật ngữ. Các tài liệu nghiên cứu về thuật
ngữ ở trong nước và ở nước ngoài cho thấy có hai quan niệm khác nhau về
YTCT thuật ngữ.
58
Quan niệm thứ nhất cho rằng: YTCT thuật ngữ tiếng Việt là tiếng (chữ)
(Nguyễn Văn Tu, Hoàng Văn Hành, Lê Khả Kế, Nguyễn Thiện Giáp, Vũ
Quang Hào, Nguyễn Thị Bích Hà, Nguyễn Thị Kim Thanh...). Thực tế cho
thấy, thuật ngữ bao gồm cả từ và cụm từ, tiếng là đơn vị trực tiếp tạo nên từ
nhưng không phải là đơn vị tạo nên cụm từ. Quan niệm coi tiếng là YTCT
thuật ngữ tiếng Việt chỉ đúng với các thuật ngữ là từ. Nếu lấy tiếng làm đơn
vị phân tích thuật ngữ là cụm từ, ta chỉ có thể lấy tiếng làm đơn vị cơ sở để
thống kê số lượng các tiếng có mặt trong cấu trúc của thuật ngữ, chứ không
phản ánh được đặc điểm cấu tạo của chúng. Đơn vị cơ sở tạo nên các thuật
ngữ là cụm từ chính là từ, chứ không phải là các tiếng.
Quan niệm thứ hai cho rằng: Mỗi yếu tố thuật ngữ tương ứng với khái
niệm hay tiêu chí của khái niệm trong lĩnh vực chuyên môn nào đó [84; 20
- 21]. Đây là quan niệm của các nhà thuật ngữ học Nga - Xô Viết và đã
được một số tác giả Việt Nam áp dụng nghiên cứu cấu tạo các hệ thống
thuật ngữ khác nhau. Khái niệm yếu tố thuật ngữ (терминоэлемент) được
D.S. Lotte nêu ra lần đầu tiên trong công trình "Nguyên lí xây dựng thuật
ngữ khoa học - kĩ thuật: Những vấn đề lí thuyết và phương pháp": "Yếu tố
thuật ngữ là bộ phận cấu thành nhỏ nhất của thuật ngữ biểu thị một cách rõ
ràng ý nghĩa của thuật ngữ" [72; 27]. Khái niệm này sau đó được V.P
Danilenko và T.L. Kandeljaki hoàn thiện. Theo đó, yếu tố thuật ngữ được
hiểu là "hình vị trong thuật ngữ là một từ, là từ hoàn chỉnh (thậm chí là tổ
hợp từ) trong thuật ngữ là cụm từ. Thuật ngữ có thể gồm một hay một số
yếu tố thuật ngữ, mỗi yếu tố thuật ngữ tương ứng với một khái niệm hay với
một đặc trưng của khái niệm trong lĩnh vực chuyên môn nào đó" [142;
179]. Quan niệm yếu tố thuật ngữ như trên dẫn đến khái niệm độ dài tối ưu
và cấu trúc tối ưu của thuật ngữ, được trình bày theo công thức: n +1, ở đó
n là số lượng các tiêu chí khu biệt của khái niệm chuyên ngành tương ứng
do thuật ngữ phản ánh.
59
Ví dụ: "shvetnaja phototekhnika kĩ thuật ảnh màu, gidroelektrostantshija
nhà máy thủy điện" [84; 21].
Để phân tích cấu tạo của hệ thống TNMTTV, chúng tôi sử dụng đơn vị cơ sở
cấu tạo thuật ngữ đó là yếu tố theo quan niệm của các nhà thuật ngữ học Nga - Xô
viết nêu trên đây. Yếu tố thuật ngữ chính là một đơn vị có cấu trúc nhỏ nhất tham
gia vào việc cấu tạo thuật ngữ. Chúng có thể là hình vị trong thuật ngữ là từ đơn,
từ ghép, là từ hoặc kết hợp từ trong thuật ngữ là cụm từ. Về mặt ngữ nghĩa, mỗi
yếu tố thuật ngữ tương ứng với một khái niệm hay một đặc trưng của khái niệm
trong lĩnh vực chuyên môn nhất định [142; 179]. Cho nên về cấu trúc, yếu tố thuật
ngữ có thể gồm hai loại: hình vị và từ. Yếu tố thuật ngữ là hình vị khi thuật ngữ là
từ (từ đơn, từ ghép) và yếu tố thuật ngữ là từ khi thuật ngữ là cụm từ. Theo cách
hiểu như vậy, chẳng hạn, TNMTTV: khối, tranh, màu, gốm, than, sơn, hình, gạch
men, sơn, dầu, tĩnh vật, giấy, triển lãm, phác họa, phối cảnh, trưng bày, cổ điển,
hiện thực, lãng mạn, đỏ, tía, hồng, tươi, bệ, khuôn, vuốt, đỡ, hoa, nền, hình, trạm
có cấu tạo là từ (từ đơn và từ ghép), YTCT thuật ngữ là các hình vị: khối, tranh,
màu, gốm, than, sơn, hình, gạch, men, dầu, tĩnh, vật, giấy, điệp, phác, họa, phối,
cảnh, trưng, bày, đỏ, hồng, tía, tươi, bệ, đỡ,....
Ví dụ, họa sĩ là một thuật ngữ ngữ mĩ thuật có cấu tạo là từ ghép gồm hình vị
họa (có nghĩa là vẽ) kết hợp với hình vị sĩ (có nghĩa là người- cách gọi tôn kính,
quý trọng) để tạo thành từ họa sĩ (có nghĩa là người chuyên vẽ tranh nghệ thuật).
Như vậy, hình vị họa và hình vị sĩ đều có nội dung ngữ nghĩa riêng, biểu thị một
phần đặc trưng của khái niệm họa sĩ.
Các thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt: điêu khắc hoành tráng, đồ họa máy tính,
chủ nghĩa cổ điển, chân dung tự họa, trục đối xứng, tranh trang trí, tượng chân
dung, khắc a xít, chạm nổi cao, nâu vandic, xanh côban, vàng anh điêng có cấu
tạo là cụm từ, YTCT các thuật ngữ này là từ: điêu khắc, hoành tráng, đồ họa, máy
tính, chủ nghĩa, cổ điển, chân dung, tự họa, trục, đối xứng, tranh, trang trí, tượng,
chân dung, khắc, a xít, chạm, nổi, cao, nâu, vandic, xanh, côban, vàng, anh điêng.
60
Chẳng hạn, thuật ngữ điêu khắc hoành tráng sẽ được phân tích thành hai YTCT là
điêu khắc và hoành tráng, trong đó điêu khắc là một từ ghép có nghĩa là "Nghệ
thuật thực hiện những tác phẩm có không gian ba chiều (tượng tròn) hoặc hai
chiều (chạm khắc, chạm nổi) bằng cách gọt, đẽo, gò, đắp, gắn,... những khối vật
liệu rắn như gỗ, đá, kim loại,...Điêu khắc còn là nghệ thuật nặn tượng hoặc tạc
tượng bằng đôi bàn tay khéo léo của người nghệ sĩ, đồng thời là nghệ thuật đúc
tượng thông qua việc đổ vào khuôn (chất làm tượng được làm chảy ra, sau đó đổ
vào khuôn, nó sẽ cững chắc lại nhờ tự khô hoặc nung)" [87; 51]. Từ này biểu thị
một một khái niệm hoàn chỉnh. Hoành tráng là từ ghép (gồm hình vị hoành có
nghĩa là lớn, rộng, hình vị tráng có nghĩa là có khí thế) có nghĩa "(tranh, tượng) có
quy mô đồ sộ nhằm thể hiện những đề tài lớn" [71; 85]. Khi trở thành TNMT,
hoành tráng có nghĩa "Tính chất to lớn về kích thước, độc đáo về phong cách, sâu
sắc về nội dung, thường gắn với các công trình kiến trúc lớn. Nhờ các đặc điểm
ấy, sự hoành tráng nói chung diễn tả được vẻ uy nghi, hùng vĩ với tầm vóc to lớn
bằng những đường nét rộng rãi, khỏe khoắn, gây ấn tượng bền vững, tồn tại lâu
dài với thời gian."[87; 77]. Từ này cũng biểu thị một khái niệm hoàn chỉnh. Khi
kết hợp lại để tạo thành một thuật ngữ mới thì nghĩa của thuật ngữ điêu khắc
hoành tráng được tạo nên từ nội dung ngữ nghĩa của hai yếu tố này: “Nghệ thuật
thực hiện những tác phẩm có không gian ba chiều (tượng tròn) hoặc hai chiều
(chạm khắc, chạm nổi) bằng cách gọt, đẽo, gò, đắp, gắn,... những khối vật liệu
rắn như gỗ, đá, kim loại,...với quy mô đồ sộ nhằm thể hiện những đề tài lớn”.
Với cách hiểu rõ ràng về yếu tố thuật ngữ như vậy, thì thuật ngữ đồ họa máy
tính sẽ có hai YTCT: đồ họa và máy tính; thuật ngữ nghệ thuật gô tích sẽ có hai
YTCT: nghệ thuật và gô tích; thuật ngữ nguyên lí hội họa thời cổ đại Trung Hoa
sẽ có 5 yếu tố cấu tạo: nguyên lí, hội họa, thời, cổ đại, Trung Hoa.
Các TNMT: tranh bút chì, tranh bút sắt, tranh cắt dán, tranh ghép mảnh,
tranh ghi chép, tranh in đá, tranh in lưới, tranh khắc gỗ, tranh khắc kim loại,
phương pháp làm tranh khắc phẳng, tranh phấn màu, tranh sơn mài, tranh sơn
61
dầu, tranh sơn khắc, tranh trổ giấy, tranh chạm lửa, tượng đầu người, tranh chạm
nổi,... có cấu tạo là cụm từ, YTCT của các thuật ngữ này là từ và tổ hợp từ.
Ví dụ:
- Thuật ngữ chạm nổi cao sẽ có hai YTCT: yếu tố thứ nhất là tổ hợp từ
chạm nổi, yếu tố thứ hai là cao;
- Thuật ngữ phương pháp làm tranh khắc phẳng sẽ có 4 YTCT: phương
pháp, làm, tranh khắc và phẳng;
- Thuật ngữ: tranh ghép mảnh, tranh trổ giấy, tranh in lưới, tranh khắc
kim loại sẽ có hai YTCT: yếu tố thứ nhất là các tổ hợp từ: tranh ghép, tranh
trổ, tranh in, tranh khắc, yếu tố thứ hai là các từ: mảnh, giấy, lưới, kim loại.
- Thuật ngữ: tượng đầu người, dao nghiền màu, phương pháp sáp chảy, kĩ
thuật cốt sáp, giấy vẽ màu nước sẽ có 2 YTCT: tượng/ đầu người, dao nghiền/
màu, phương pháp/ sáp chảy, kĩ thuật/ cốt sáp, giấy vẽ/ màu nước; trong đó các
yếu tố: đầu, màu, phương pháp, kĩ thuật, giấy vẽ, màu nước là từ, còn các yếu
tố: đầu người, dao nghiền, sáp chảy, cốt sáp, là tổ hợp từ.
Qua phân tích trên và dựa vào đặc điểm đặc trưng của thuật ngữ là thuật
ngữ có cấu tạo không đồng nhất (có thể là từ, có thể là cụm từ), chúng tôi sử
dụng khái niệm yếu tố thuật ngữ (gọi tắt là yếu tố) do các nhà thuật ngữ học
Nga - Xô viết đề xướng để chỉ yếu tố cơ sở dùng để cấu tạo thuật ngữ. Đây là
đơn vị có nghĩa làm thành tố cấu tạo trực tiếp của thuật ngữ. Yếu tố cấu tạo
thuật ngữ phải đảm bảo hai điều kiện:1) là đơn vị có nghĩa từ vựng; 2) làm
thành tố cấu tạo trực tiếp của thuật ngữ. Ví dụ: Thuật ngữ tượng chân dung
gồm hai yếu tố: tượng, chân dung; thuật ngữ chủ nghĩa ấn tượng gồm hai yếu
tố: chủ nghĩa, ấn tượng,…
Yếu tố cấu tạo thuật ngữ có hình thức cấu tạo là hình vị (trong tiếng Việt
còn gọi là tiếng) nếu TNMT có cấu tạo là từ. Chẳng hạn, thuật ngữ bệ đỡ được
tạo bởi các hình vị (tiếng) bệ, đỡ; thuật ngữ hoa nền, được tạo bởi các hình vị
(tiếng) hoa, nền, thuật ngữ bích họa được tạo bởi các hình vị (tiếng) bích (có
62
nghĩa là tường), họa (có nghĩa là vẽ); thuật ngữ hồng quế được tạo bởi hai hình
vị (tiếng) hồng và quế…
Yếu tố cấu tạo thuật ngữ có hình thức là từ trong các thuật ngữ có cấu tạo
là cụm từ. Chẳng hạn, thuật ngữ lớp lót màu đồng sẽ có YTCT là: lớp, lót, màu
đồng; thuật ngữ tranh biếm họa có 2 YTCT là từ: tranh và biếm họa.
Yếu tố cấu tạo thuật ngữ có hình thức là một tổ hợp từ trong các thuật ngữ có
cấu tạo là cụm từ. Chẳng hạn, thuật ngữ tranh đồ họa độc bản có 2 yếu tố cấu tạo:
tranh đồ họa và độc bản, trong đó yếu tố cấu tạo tranh đồ họa là một tổ hợp từ.
Về nội dung ý nghĩa, YTCT thuật ngữ có thể biểu hiện khái niệm loại, khái
niệm bộ phận hay đặc trưng của khái niệm được thuật ngữ định danh. Chẳng
hạn, thuật ngữ bảng pha màu gồm 2 YTCT: bảng và pha màu, trong đó:
- Bảng là yếu tố biểu thị khái niệm loại có nghĩa là "vật có mặt phẳng hình
chữ nhật hay hình quả thận có khoét một lỗ nhỏ có thể luồn ngón tay cái qua để
họa sĩ cầm nó trong khi vẽ" [87; 15];
- Pha màu là yếu tố biểu thị chức năng của khái niệm loại với nghĩa "pha
trộn những màu sắc khi vẽ" [87; 15].
2.2. Các phƣơng diện và cách thức khảo sát
Với mục đích cuối cùng là tìm ra các mô hình cấu tạo TNMTTV điển
hình, có sức sản sinh cao để làm cơ sở xây dựng các thuật ngữ mới và chuẩn
hóa các TNMT đã có, trong chương này, chúng tôi sẽ tìm hiểu đặc điểm cấu
tạo của 1.320 TNMTTV. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu đặc điểm cấu tạo TNMT
còn nhằm trả lời cho các câu hỏi: TNMT được cấu tạo từ mấy yếu tố, đó là
những yếu tố nào, quan hệ ngữ pháp, MHCT và đặc điểm từ loại của chúng ra
sao. Vì vậy, đặc điểm cấu tạo TNMT sẽ được xem xét theo các nhóm thuật
ngữ. Cơ sở của việc phân loại nhóm là dựa trên số lượng của các YTCT thuật
ngữ. Đồng thời, trong mỗi nhóm, chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu đặc điểm cấu
tạo của chúng trên các phương diện: số lượng các yếu tố cấu tạo thuật ngữ
(thuật ngữ gồm một hay hơn một yếu tố); phương thức cấu tạo (thuật ngữ là
từ gồm từ đơn, ghép hay cụm từ); quan hệ ngữ pháp giữa các YTCT (các yếu
63
tố có quan hệ chính phụ hay đẳng lập); từ loại của thuật ngữ (thuật ngữ là
danh từ/ cụm danh từ, động từ/ cụm động từ hay tính từ/ cụm tính từ); nguồn
gốc của thuật ngữ là từ và nguồn gốc các yếu tố cấu tạo TNMT là cụm từ
(thuần Việt, Hán Việt hay Ấn Âu).
2.3. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt xét về mặt cấu tạo
2.3.1. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là từ
Kết quả thống kê cho thấy, trong 1.320 TNMTTV được khảo sát có 566
thuật ngữ có cấu tạo là từ, chiếm 42,88% tổng số TNMT được khảo sát, ví dụ:
màu, sơn, giá, khối, nổi, khắc, sắc, ve, đục, tượng, tranh, thạch cao, đậm
nhạt, dã thú, đối chọi, đối xứng, bố cục, biếm họa, đa sắc, dao vẽ, dao trổ, bút
lông, bút chổi, bút dạ, bút phun, bút sắt, cách điệu, chạm khắc, nước bóng,
tĩnh vật, phù điêu, khuôn thủng, chất liệu, chi tiết, cổ điển, cơ bản, dã thú, ván
gió, dầu lanh, dầu khô, dầu thông, đa sắc, dựng hình, đánh bóng, chạm lọng,
bản kiểu, điểm tụ, điểm nhìn,…
2.3.1.1. Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật là từ đơn
Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là từ đơn có số lượng không nhiều. Trong
số 566 TNMT là từ chỉ có 107 thuật ngữ là từ đơn, chiếm 18,90%. Ví dụ:
sơn, bút, màu, tranh, khắc, mài, bay, cuốn, cốt, điệp, độ, hồ, keo, dầu, lanh,
đục, lưới, khuôn, trổ, vẽ, nạo, nẹp, phai, sành, gốm, men, than, then, tráng,
tượng, trục, nét, nền, nâu, hồng, lục, nhạt, đậm, khối, đường, mảnh, chàm,
bóng, goát, mực, bột, gôm,...Các TNMT là từ đơn không có mô hình cấu tạo.
2.3.1.2. Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật là từ ghép
TNMT là từ ghép chiếm số lượng áp đảo với 459 đơn vị (81,09%), trong
đó hầu hết đều là từ ghép chính phụ gồm 428 đơn vị (93,25%): họa sĩ, điêu
khắc, hoành tráng, đồ họa, biếm họa, biểu cảm, bo tranh, bút dạ, bút chổi, bút
lông sơn ta, xương đất, mực nho, nhát bút, men trong, tranh đơn, đất nâu, chì
thỏi, nước thuốc, đỏ tía, hồng tươi, trang nhã, đen nhánh, vàng nhạt, lam chói,
đánh bóng, hóa trang, điểm xuyết, tạo hình,dao trổ,…Chỉ có 31 thuật ngữ có
64
cấu tạo là từ ghép đẳng lập (6,75%): hình thể, màu sắc, sắc điệu, đường nét,
họa đồ, hình dáng, hình thể, chất liệu, cân bằng, cân đối, cơ bản,...
2.3.1.3. Mô hình cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật là từ
Trừ 107 TNMTTV là từ đơn không có mô hình cấu tạo, 459 TNMT là từ
ghép đều được tạo thành từ 2 yếu tố (viết tắt là Y).
Thuật ngữ mĩ thuật là từ ghép chính phụ có 2 mô hình cấu tạo như sau:
- Thuật ngữ mĩ thuật là từ ghép chính phụ nguồn gốc Hán Việt có chung
MHCT gồm 2 yếu tố, trong đó yếu tố chính (Y1) đứng sau, yếu tố phụ (Y2)
đứng trước phụ cho yếu tố chính, gồm 97 thuật ngữ, chiếm 21,13%:
* Mô hình 1:
Ví dụ: Bảo tàng
Biếm họa
Đa sắc
- Thuật ngữ mĩ thuật là từ ghép chính phụ thuần Việt có MHCT gồm 2
yếu tố, trong đó yếu tố phụ (Y2) đứng sau phụ cho yếu tố chính (Y1) đứng
trước, gồm 331 thuật ngữ, chiếm 72,11%:
* Mô hình 2:
Ví dụ: Bút chì
Bút lông
Bìa sách
Bảng màu
Dao vẽ
giá vẽ
Y1 Y2
biếm họa
Y2 Y1
65
- Thuật ngữ mĩ thuật là từ ghép đẳng lập cũng có MHCT gồm 2 yếu tố,
trong đó các yếu tố có quan hệ bình đẳng với nhau, gồm 31 thuật ngữ,
chiếm 6,76%:
* Mô hình 3:
Ví dụ: Chất liệu
Chạm khắc
Cân bằng
Đậm nhạt
2.3.2. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là cụm từ
Như đã nêu trên, trong số 1.320 TNMTTV đã thu thập, có 566 thuật ngữ có
cấu tạo là từ, chiếm 42,88% tổng số TNMT được khảo sát. Còn lại 754 TNMT
có cấu tạo là cụm từ, chiếm 57,12%, kiểu như: chủ nghĩa lập thể, cấu trúc cơ
bản, chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng, trường phái dã thú, dao nghiền màu, độ
trung gian, độ đậm nhạt, đúc tượng kĩ thuật cốt sáp, đường chân trời, đường tầm
mắt, giải phẫu tạo hình, giấy vẽ màu nước, nghệ thuật gô - tích, hình họa nghiên
cứu, họa tiết trang trí, hội họa hành vi, in tranh đồ họa, khiếu thẩm mĩ, khung
căng vải vẽ, kĩ thuật và phương pháp làm tranh khắc lõm, kĩ thuật in bóc, ngôn
ngữ nghệ thuật tạo hình,… Đây là các thuật ngữ thứ cấp, được tạo ra từ các thuật
ngữ nguyên cấp bằng cách ghép với các thuật ngữ nguyên cấp khác hoặc ghép
với từ toàn dân biểu thị đặc trưng khu biệt để loại biệt hoá ý nghĩa của một thuật
ngữ nguyên cấp. Trong số 754 TNMTTV là cụm từ thì đại đa số đều có cấu tạo
là những cụm từ chính phụ có từ hai yếu tố (là các từ) trở lên: một yếu tố trung
tâm đứng làm nòng cốt, các yếu tố khác được ghép vào sau yếu tố chính có chức
năng bổ sung ý nghĩa cho yếu tố trung tâm.
đường nét
Y1 Y2
66
Từ những miêu tả, phân tích đặc điểm cấu tạo TNMTTV, chúng tôi tổng
hợp thành bảng dưới đây:
Bảng 2: Bảng tổng hợp phương thức cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt
Phƣơng thức cấu tạo Số lƣợng Tỉ lệ (%)
Từ
Từ đơn 107 566 18,90 42,88
Từ
ghép
Chính phụ 428 459
93,24 81,10
Đẳng lập 31 6,76
Cụm từ 754 57,12
Tổng số 1.320 100
Theo kết quả thống kê và phân loại của chúng tôi, TNMT là cụm từ có
cấu tạo từ 2 đến 6 yếu tố. Tuy nhiên, thực tế khảo sát và phân tích đặc điểm
cấu tạo TNMT cho thấy chỉ các thuật ngữ có cấu tạo từ 2 đến 4 yếu tố có số
lượng lớn. Các thuật ngữ có cấu tạo đến 5, 6 yếu tố có số lượng rất ít. Dưới
đây chúng tôi sẽ trình bày các mô hình cấu tạo của TNMTTV là cụm từ.
2.3.2.1. Mô hình cấu tạo thuật ngữ mĩ thuật là cụm từ hai yếu tố
Thuật ngữ mĩ thuật là cụm từ gồm 2 YTCT có 528 đơn vị, chiếm tỉ lệ
cao nhất (70,03%) trong tổng số các thuật ngữ được khảo sát: trường phái ấn
tượng, nghệ thuật dân gian, khuynh hướng hoành tráng, mĩ thuật ứng dụng,
nghệ thuật giả động, sản phẩm sơn mài, nghệ thuật đại chúng, mĩ nghệ ren,
hình đồ khuôn, tranh sơn mài, xu hướng siêu thực, phương pháp khắc phẳng,
phối cảnh đường nét, phối cảnh đậm nhạt, mặt đứng, khung tranh, màu nóng,
màu lạnh, giá chống, bột mài, máy phun, đường viền, điểm vàng, màu cơ bản,
tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống,…
67
Các TNMT là cụm từ 2 yếu tố đều là các tổ hợp chính phụ với trật tự
chính trước – phụ sau. Mô hình cấu tạo TNMT là cụm từ 2 yếu tố khá đơn
giản, chỉ có một mô hình sau:
(Y: yếu tố)
Ví dụ: nét chồng
chủ nghĩa biểu hiện
nghệ thuật Ba - rốc - cơ
2.3.2.2. Mô hình cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuât là cụm từ 3 yếu tố
Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là cụm từ có cấu tạo ba yếu tố có số
lượng lớn thứ hai với 132/754 đơn vị, chiếm 17,51%, ví dụ: hình/ xoắn/ ốc,
người/ đồ/ khuôn, người/ làm/ tượng, đất/ nâu/ cháy, xưởng/ làm/ mẫu, bản/
khắc/ gỗ, thuốc/ cầm/ màu, nước/ khắc/ đồng, bàn/ in/ thạch, người/ làm/
mẫu, giấy/ vẽ/ màu nước, bản/ vẽ/ mẫu, bảng/ pha/ màu, dao/ nghiền/
màu,…
Mô hình cấu tạo thuật ngữ mĩ thuật là cụm từ gồm 3 yếu tố khá đa dạng,
gồm các mô hình sau:
* Mô hình 3.1: Đây là mô hình cấu tạo của 92 thuật ngữ (69,70%). Theo
mô hình này, thuật ngữ có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: Y3 phụ cho Y2. Bậc 2: cả
Y3 và Y2 phụ cho Y1.
Ví dụ: màu lá úa
màu hoa cà
nghệ thuật chạm chìm
thuật vẽ bản đồ
người vẽ hình
màu hạt dẻ
Y1 Y2 Y3
trường phái chính xác
Y1 Y2
68
vật làm mẫu
chất hãm màu
Chẳng hạn, thuật ngữ nghệ thuật chạm chìm gồm 3 yếu tố có 2 bậc quan
hệ: bậc 1 là quan hệ chìm phụ cho chạm tạo thành kết cấu chạm chìm, sau đó
cả kết cấu này phụ cho nghệ thuật trong quan hệ bậc 2 để tạo ra thuật ngữ
nghệ thuật chạm chìm, trong đó yếu tố nghệ thuật giữ vai trò nòng cốt.
* Mô hình 3.2: Đây là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: Y2 phụ cho Y1.
Bậc 2: Y3 phụ cho cả Y1 và Y2.
Ví dụ:
vải lanh thô
chạm nổi thấp
Có 25 thuật ngữ có cấu tạo theo mô hình này, chiếm 18,94%. Ví dụ,
thuật ngữ tranh khắc kim loại gồm 3 yếu tố: tranh, khắc, kim loại có 2 bậc
quan hệ. Bậc 1: khắc phụ cho tranh tạo thành tranh khắc. Bậc 2: kim loại phụ
cho tranh khắc để tạo thành tranh khắc kim loại.
* Mô hình 3.3: Đây là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: Y2 phụ cho Y3.
Bậc 2: cả Y2 và Y3 phụ cho Y1.
Ví dụ: đồ vật tự bộc lộ
hình sáu cạnh
nghệ thuật vô hình thể
Có 15 thuật ngữ cấu tạo theo mô hình này, chiếm 11,36%. Chẳng hạn,
thuật ngữ nghệ thuật vô hình thể được tạo bởi 3 yếu tố: nghệ thuật, vô, hình
bút chổi dẹt
Y1 Y2 Y3
đồ vật tự bộc lộ
Y1 Y2 Y3
69
thể với hai bậc quan hệ. Bậc 1: vô phụ cho hình thể tạo thành kết cấu vô hình
thể. Bậc 2: kết cấu vô hình thể phụ cho nghệ thuật tạo thành thuật ngữ nghệ
thuật vô hình thể trong đó nghệ thuật giữ vai trò nòng cốt.
Nhìn chung, thuật ngữ mĩ thuật là cụm từ gồm 3 yếu tố chủ yếu được
cấu tạo theo mô hình 3.1 có số lượng lớn nhất (chiếm 69,70%), mô hình
3.2 được sử dụng ít nhất.
2.3.2.3. Mô hình cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật là cụm từ 4 yếu tố
Có 47 thuật ngữ có cấu tạo bốn yếu tố, chiếm 6,23% tổng số các TNMT
có cấu tạo là cụm từ. Đó là các thuật ngữ kiểu: người/ chuyên/ vẽ/ quảng cáo,
màu/ cổ/ chim/ bồ câu, kiểu/ trang trí/ đường/ lượn, hình/ trang trí/ lá/ ô rô,
màu/ lục/ hạt/ đậu, thợ/ khắc/ bản/ kẽm, đường/ viền/ chỉ/ tết,…
Mô hình cấu tạo TNMT là cụm từ 4 yếu tố cũng đa dạng. 47 TNMT là
cụm từ 4 yếu tố được cấu tạo theo các mô hình sau:
* Mô hình 4.1: Đây là mô hình phổ biến nhất trong các thuật ngữ mĩ
thuật có cấu tạo 4 yếu tố. Mô hình này có cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: Y4 phụ cho
Y3. Bậc 2: cả Y3 và Y4 phụ cho Y2. Bậc 3: cả Y4, Y3 và Y2 phụ cho Y1.
Ví dụ: xanh màu lá liễu
thuật vẽ nhiều màu
Có 19 thuật ngữ có cấu tạo theo mô hình này, chiếm 40,43%. Ví dụ:
thuật ngữ màu cổ chim bồ câu có cấu tạo 3 bậc. Bậc 1: Bồ câu phụ cho chim
màu cổ chim bồ câu
Y1 Y2 Y3 Y4
70
thành chim bồ câu. Bậc 2: Chim bồ câu phụ cho cổ thành cổ chim bồ câu. Bậc
3: Cổ chim bồ câu phụ cho màu thành màu chim bồ câu.
*Mô hình 4.2: Là mô hình có cấu trúc 2 bậc. Bậc 1: Y2 phụ cho Y1, Y4
phụ cho Y3. Bậc 2: cả Y3 và Y4 phụ cho Y1 và Y2.
Ví dụ: hình trang trí lá ô rô
nhà điêu khắc chuyên về thú vật
giấy màu vẽ sơn dầu
màu lục hạt đậu
Có 13 thuật ngữ được tạo thành theo mô hình này, chiếm 27,66%. Ví dụ,
cấu tạo của thuật ngữ nhà điêu khắc chuyên về thú vật có: Bậc 1: thú vật phụ
cho chuyên (về) tạo thành chuyên về thú vật, điêu khắc phụ cho nhà tạo thành
nhà điêu khắc. Bậc 2: chuyên về thú vật phụ cho nhà điêu khắc tạo thành thuật
ngữ nhà điêu khắc chuyên về thú vật.
* Mô hình 4.3: Đây là mô hình có cấu trúc 3 bậc của 8 thuật ngữ, chiếm
17,02%. Bậc 1: Y3 phụ cho Y2. Bậc 2: cả Y3 và Y2 phụ cho Y1. Bậc 3: Y4
phụ cho cả Y1, Y2 và Y3.
Ví dụ: thợ khắc đồng (bằng) a xít
Chẳng hạn, hội đồng mĩ thuật công nghiệp thế giới là thuật ngữ có cấu
tạo 3 bậc. Bậc1: công nghiệp phụ cho mĩ thuật tạo thành mĩ thuật công
nghiệp. Bậc 2: mĩ thuật công nghiệp phụ cho hội đồng tạo thành hội đồng mĩ
thuật công nghiệp. Bậc 3: thế giới phụ cho hội đồng mĩ thuật công nghiệp tạo
kiểu trang trí đường lượn
Y1 Y2 Y3 Y4
hội đồng mĩ thuật công nghiệp thế giới
Y1 Y2 Y3 Y4
71
thành thuật ngữ hội đồng mĩ thuật công nghiệp thế giới. Hội đồng là yếu tố
giữ vai trò nòng cốt.
* Mô hình 4.4: Đây là mô hình của 5 thuật ngữ (10,64%) được cấu trúc
theo quan hệ 3 bậc. Bậc 1: Y4 phụ cho Y3. Bậc 2: Y3, Y4 phụ cho Y2 . Bậc
3: cả Y2, Y3 và Y4 phụ cho Y1.
Ví dụ: ngành tạo dáng công nghiệp
Chẳng hạn, thuật ngữ ngành tạo dáng công nghiệp có cấu tạo: Bậc 1:
Công nghiệp phụ cho dáng thành dáng công nghiệp. Bậc 2: Dáng công
nghiệp phụ cho tạo thành tạo dáng công nghiệp. Bậc 3: Tạo dáng công
nghiệp phụ cho ngành thành ngành tạo dáng công nghiệp.
* Mô hình 4.5: Đây là mô hình của 2 thuật ngữ (4,26%) được cấu trúc
theo quan hệ 3 bậc. Bậc 1: Y2 phụ cho Y1. Bậc 2: Y3 phụ cho Y1 và Y2. Bậc
3: Y4 phụ cho cả Y1, Y2 và Y3.
Ví dụ: giấy cứng Briton (để) vẽ
Chẳng hạn, thuật ngữ lớp lót màu đầu tiên có cấu tạo: bậc 1: lót phụ cho
lớp tạo thành lớp lót, bậc 2: màu phụ cho lớp lót tạo thành lớp lót màu, bậc 3:
đầu tiên phụ cho lớp lót màu tạo thành thuật ngữ lớp lót màu đầu tiên.
lớp lót màu đầu tiên
Y1 Y2 Y3 Y4
họa sĩ chuyên màu nước
Y1 Y2 Y3 Y4
72
Trong số các mô hình cấu tạo của TNMT là cụm từ gồm 4 yếu tố, thì mô
hình 4.1, mô hình 4.2, mô hình 4.3 sản sinh ra nhiều thuật ngữ hơn cả. Các
kiểu mô hình 4.4, 4.5 có khả năng sản sinh không nhiều.
2.3.2.4. Mô hình cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật là cụm từ 5 yếu tố
Kết quả khảo sát cho thấy, số lượng TNMTTV có cấu tạo 5 yếu tố là
39/754 đơn vị, chiếm 5,17% tổng số các TNMT có cấu tạo là cụm từ, ví dụ:
kỹ thuật/ (và) phương pháp/ làm/ tranh khắc/ nổi, phương pháp/ khắc/ có/
nhiều/ sắc độ, chà/ xát/ đồ vật/ tạo/ chất, phương pháp/ đúc/ tượng/ kỹ
thuật/ cốt sáp…
Các thuật ngữ mĩ thuật là cụm từ có 5 yếu tố được cấu tạo theo các mô
hình sau đây.
* Mô hình 5.1: Đây là mô hình phổ biến nhất của thuật ngữ có 5 yếu tố, có
10 thuật ngữ có cấu tạo theo mô hình này, chiếm 25,64%. Các yếu tố trong mô
hình này có quan hệ 4 bậc, trong đó bậc 1: Y4 phụ cho Y3, bậc 2: Y3, Y4 phụ
cho Y2. Bậc 3: Y5 phụ cho Y2, Y3, Y4. Bậc 4: Y2, Y3, Y4 và Y5 phụ cho Y1 .
Ví dụ: điểm tụ (dưới) đường chân trời
Thuật ngữ nguyên lí hội họa thời cổ đại Trung Hoa là một thuật ngữ có
cấu tạo theo mô hình 4 bậc: Bậc 1: cổ đại phụ cho thời thành thời cổ đại. Bậc
2: thời cổ đại phụ cho hội họa thành hội họa thời cổ đại. Bậc 3: Trung Hoa
phụ cho hội họa thời cổ đại thành hội họa thời cổ đại Trung Hoa. Bậc 4: Hội
họa thời cổ đại Trung Hoa phụ cho nguyên lí thành nguyên lí hội họa thời cổ
đại Trung Hoa.
Nguyên lí hội họa thời cổ đại Trung Hoa
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5
đất sét làm đồ gốm
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5
73
* Mô hình 5.2: Là mô hình có cấu trúc 4 bậc. Bậc 1: Y4 phụ cho Y5.
Bậc 2: Y4 và Y5 phụ cho Y3. Bậc 3: cả Y3, Y4 và Y5 phụ cho Y2. Bậc 4: cả
Y2, Y3, Y4 và Y5 phụ cho Y1.
Ví dụ:
Có 9 thuật ngữ được cấu tạo theo kiểu mô hình này, chiếm 23,08%. Ví
dụ: thuật ngữ mép viền quanh bức tranh, trong đó bậc1: bức phụ cho tranh
tạo thành bức tranh. Bậc 2: bức tranh phụ cho quanh tạo thành quanh bức
tranh. Bậc 3: quanh bức tranh phụ cho viền tạo thành viền quanh bức tranh.
Bậc 4: viền quanh bức tranh phụ cho mép tạo thành thuật ngữ mép viền quanh
bức tranh.
* Mô hình 5.3: Là mô hình có cấu trúc 4 bậc. Bậc 1: Y4 phụ cho Y3. Bậc
2: Y2 phụ cho cả Y3 và Y4. Bậc 3: Y5 phụ cho Y2, Y3 và Y4. Bậc 4: Y2, Y3,
Y4 và Y5 phụ cho Y1 .
Ví dụ:
Có 6 thuật ngữ được cấu tạo theo mô hình này, chiếm 15,38%. Ví dụ:
trong thuật ngữ điểm những đốm màu khác nhau: Bậc 1: màu phụ cho đốm
tạo thành đốm màu. Bậc 2: những phụ cho đốm màu tạo thành những đốm
màu. Bậc 3: khác nhau phụ cho những đốm màu tạo thành những đốm màu
mép viền quanh bức tranh
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5
điểm những đốm màu khác nhau
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5
74
khác nhau. Bậc 4: những đốm màu khác nhau phụ cho điểm tạo thành thuật
ngữ điểm những đốm màu khác nhau.
* Mô hình 5.4: Là mô hình có cấu trúc 4 bậc. Bậc 1: Y5 phụ cho Y4.
Bậc 2: Y3 phụ cho Y2. Bậc 3: cả Y4, Y5 phụ cho Y2 và Y3. Bậc 4: cả Y2,
Y3, Y4 và Y5 phụ cho Y1.
Ví dụ:
Mô hình này xuất hiện trong 5 thuật ngữ, chiếm 12,82%. Ví dụ, thuật
ngữ bột đánh bóng đồ bạc có cấu tạo 4 bậc. Bậc 1: bạc phụ cho đồ tạo thành
đồ bạc. Bậc 2: bóng phụ cho đánh tạo thành đánh bóng. Bậc 3: đồ bạc phụ
cho đánh bóng tạo thành đánh bóng đồ bạc. Bậc 4: đánh bóng đồ bạc phụ cho
bột tạo thành thuật ngữ bột đánh bóng đồ bạc.
* Mô hình 5.5: Là mô hình có cấu trúc 3 bậc, chỉ có 4 thuật ngữ, chiếm
10,26%. Bậc 1: Y5 phụ cho Y4; Y2 phụ cho Y1. Bậc 2: Y5, Y4 phụ cho Y3.
Bậc 3: cả Y3, Y4, Y5 phụ cho Y1 và Y2.
Ví dụ:
Thuật ngữ Bàn quay làm đồ gốm có cấu tạo: Bậc 1: gốm phụ cho đồ
tạo thành đồ gốm; quay phụ cho bàn tạo thành bàn quay. Bậc 2: đồ gốm
phụ cho làm tạo thành làm đồ gốm. Bậc 3: làm đồ gốm phụ cho bàn quay
tạo thành bàn quay làm đồ gốm.
bàn quay làm đồ gốm
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5
bột đánh bóng đồ bạc
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5
75
* Mô hình 5.6: Là mô hình có cấu trúc 3 bậc, chỉ có 3 thuật ngữ, chiếm
7,70%. Bậc 1: Y5 phụ cho Y4; Y2 và Y3 có quan hệ bình đẳng với nhau. Bậc
2: Y4 và Y5 phụ cho Y2 và Y3. Bậc 3: cả Y2, Y3, Y4 và Y5 phụ cho Y1.
Ví dụ:
Thuật ngữ thuật chạm khắc đá quý có cấu tạo 3 bậc. Bậc 1: quý phụ cho
đá tạo thành đá quý; chạm và khắc có quan hệ bình đẳng tạo thành chạm
khắc. Bậc 2: đá quý phụ cho chạm khắc tạo thành chạm khắc đá qúy. Bậc 3:
chạm khác đá quý phụ cho thuật tạo thành thuật ngữ thuật chạm khắc đá quý.
Mô hình 5.7: Là mô hình có cấu trúc 3 bậc, chỉ có 2 thuật ngữ, chiếm
5,13%. Bậc 1: Y4 phụ cho Y5; Y3 phụ cho Y2. Bậc 2: Y4, Y5 phụ cho Y2 và
Y3. Bậc 3: Y2, Y3, Y4 và Y5 phụ cho Y1.
Ví dụ:
Thuật ngữ lớp màu lót bức họa có cấu trúc 3 bậc. Bậc 1: bức phụ cho
họa tạo thành bức họa; lót phụ cho màu tạo thành màu lót. Bậc 2: bức họa
phụ cho màu lót tạo thành màu lót bức họa. Bậc 3: màu lót bức họa phụ cho
lớp tạo thành lớp màu lót bức họa.
Trong các mô hình cấu tạo nêu trên, mô hình 5.1 là MHCT phổ biến nhất
của các TNMT có cấu tạo là cụm từ có 5 yếu tố. Tuy nhiên, sự chênh lệch về số
lượng thuật ngữ được sản sinh giữa các mô hình 5.1, 5.2, 5.3, 5.4, 5.5, 5.6, 5.7 là
thuật chạm khắc đá quý
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5
lớp màu lót bức họa
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5
76
không lớn. Các TNMT có cấu tạo 5 yếu tố tuy có số lượng ít nhưng lại rất đa dạng
về MHCT. Đây là một điểm khác biệt giữa TNMTTV với các thuật ngữ có cấu
tạo 5 yếu tố của các hệ thuật ngữ khác trong tiếng Việt.
2.3.2.5. Mô hình cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật là cụm từ 6 yếu tố
Theo thống kê của chúng tôi, thuật ngữ mĩ thuật là cụm từ có cấu tạo 6 yếu
tố chỉ có 8 đơn vị, chiếm 1,06% trong tổng số các TNMT có cấu tạo là cụm từ. Đó
là các thuật ngữ: tranh /vẽ/ theo/ luật/ xa/ gần, hình/ vẽ /men/ xanh/ trên /đồ/gốm,
bức/ tranh/ của /một/ tạo/ vật/ sống.
Cũng như thuật ngữ mĩ thuật có cấu tạo 5 yếu tố, TNMT 6 yếu tố có số
lượng rất ít nhưng lại đa dạng về MHCT. Mô hình cấu tạo TNMT là cụm từ 6 yếu
tố như sau :
* Mô hình 6.1: Đây là mô hình có cấu trúc 4 bậc. Bậc 1: Y5 và Y6 có quan
hệ bình đẳng , Y2 phụ cho Y1 ; Bậc 2: Y5, Y6 phụ cho Y4. Bậc 3: Y4, Y5 và
Y6 phụ cho Y3. Bậc 4: Y3, Y4, Y5, Y6 phụ cho Y1 và Y2.
Ví dụ:
Có 4 thuật ngữ cấu tạo theo mô hình này, chiếm 50,00%. Ví dụ, thuật ngữ
tranh vẽ theo luật xa gần có quan hệ bậc 1: xa và gần có quan hệ bình đẳng tạo
thành xa gần, vẽ phụ cho tranh tạo thành tranh vẽ . Bậc 2: xa gần phụ cho luật
tạo thành luật xa gần. Bậc 3: luật xa gần phụ cho theo tạo thành theo luật xa
gần. Bậc 4: theo luật xa gần phụ cho tranh vẽ thành tranh vẽ theo luật xa gần.
* Mô hình 6.2: Đây là mô hình có cấu trúc 4 bậc. Bậc 1: Y1 phụ cho Y2;
Y5 phụ cho Y4. Bậc 2: Y3 phụ cho Y4 và Y5. Bậc 3: Y6 phụ cho Y3, Y4 và
Y5. Bậc 4: Y3, Y4, Y5,Y6 phụ cho Y1 và Y2.
tranh vẽ theo luật xa gần
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5 Y6
77
Ví dụ:
Thuật ngữ bức tranh của một tạo vật sống có cấu tạo 4 bậc. Bậc 1: bức
phụ cho tranh tạo thành bức tranh, sống phụ cho vật tạo thành vật sống . Bậc
2: vật sống phụ cho tạo thành tạo vật sống. Bậc 3: một phụ cho tạo vật sống
thành một tạo vật sống. Bậc 4: một tạo vật sống phụ cho bức tranh tạo thành
bức tranh của một tạo vật sống. Có 2 thuật ngữ cấu tạo theo mô hình này,
chiếm 25%.
* Mô hình 6.3: Đây là mô hình có cấu trúc 3 bậc của thuật ngữ: hình vẽ men
xanh trên đồ gốm. Bậc 1: Y2 phụ cho Y1, Y4 phụ cho Y3, Y6 phụ cho Y5. Bậc
2: Y3, Y4 phụ cho Y1, Y2. Bậc 3: Y5 và Y6 phụ cho cả Y1, Y2, Y3 và Y4.
Ví dụ:
Thuật ngữ hình vẽ men xanh trên đồ gốm có cấu tạo 3 bậc. Bậc 1: vẽ phụ
cho hình tạo thành hình vẽ, xanh phụ cho men tạo thành men xanh, gốm phụ
cho đồ tạo thành đồ gốm. Bậc 2: men xanh phụ cho hình vẽ thành hình vẽ men
xanh. Bậc 3: đồ gốm phụ cho cả hình vẽ men xanh tạo thành hình vẽ men xanh
trên đồ gốm. Có 2 thuật ngữ được cấu tạo theo mô hình này, chiếm 25,00%.
hình vẽ men xanh (trên) đồ gốm
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5 Y6
bức tranh (của) một tạo vật sống
Y1 Y2 Y3 Y4 Y5 Y6
78
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp các mô hình cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật tiếng
Việt
TT Loại thuật ngữ Mô hình
cấu tạo Số lƣợng Tỷ lệ %
1 Thuật ngữ 2 yếu tố là từ ghép
Mô hình 1 97
459
21,13
37,84 Mô hình 2 331 72,11
Mô hình 3 31 6,76
2 Thuật ngữ 2 yếu tố là cụm từ 1 Mô hình 528 100 43,53
3 Thuật ngữ 3 yếu tố là cụm từ
Mô hình 1 92
132
69,70
10,88 Mô hình 2 15 11,36
Mô hình 3 25 18,94
4 Thuật ngữ 4 yếu tố là cụm từ
Mô hình 1 19
47
40,43
3,87
Mô hình 2 13 27,66
Mô hình 3 8 17,02
Mô hình 4 5 10,64
Mô hình 5 2 4,25
5 Thuật ngữ 5 yếu tố là cụm từ
Mô hình 1 10
39
25,64
3,21
Mô hình 2 9 23,08
Mô hình 3 6 15,38
Mô hình 4 5 12,82
Mô hình 5 4 10,26
Mô hình 6 3 7,69
Mô hình 7 2 5,13
6 Thuật ngữ 6 yếu tố là cụm từ
Mô hình 1 4
8
50,00
0,67 Mô hình 2 2 25,00
Mô hình 3 2 25,00
TỔNG 22 1.320 100
79
2.4. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt xét về mặt từ loại
2.4.1. Đặc điểm từ loại của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là từ
Trong số 566 thuật ngữ là từ chỉ có 107 thuật ngữ là từ đơn, chiếm
18,90%: tượng, dó, mẫu, màu, khung, hình, nhã, vóc, mép, lề, thuật (cần
kim loại), ,… trong đó:
- Thuật ngữ là từ đơn danh từ: 52/107, chiếm 48,60%: màu, sơn, tranh,
lụa, khung, hình, lề, bìa, dáng, dó, điệp, nét, khối, hình, đường, giấy, lụa, gỗ,
đá, ngọc, goát, hồ, keo, phông, sắc,...
- Thuật ngữ từ đơn là động từ có 20 đơn vị (18,69 %): đắp, chạm, xay,
tán, nghiền, tỉa, nặn, phác, di, chạm, tạc, vẽ, in, kẻ...
- Thuật ngữ từ đơn là tính từ có 35 đơn vị (32,71%): đỏ, đen, trắng,
thuận, xám, xanh, tím, thảm, đẹp, bạc.
Về mặt từ loại của thuật ngữ là từ ghép, kết quả khảo sát 459 TNMTTV là
từ ghép cho thấy:
- Có 354 thuật ngữ là từ ghép thuộc từ loại danh từ (77,12 %): hình
thể, màu sắc, sắc điệu, đường nét, họa đồ, hình dáng, hình thể, chất liệu,
màu điều, màu bột, màu dầu, màu đất, màu chát, vệt màu, bức họa, màu
ngà, màu phấn, lớp trát, màu keo, màu gốc, màu rợ, màu sáp, bố cục, hoa
văn, mảng màu, mực nước, ống phun, họa sĩ, ống xì, độc bản, họa đồ, vựng
tập, đường cuốn, đường lượn, đường trục, đường viền, dầu lanh, tĩnh vật,
hình họa, kí họa, hội họa, họa tiết, phù điêu, nước bóng, mặt nền, hình
chạm, ren tua, khuôn tô, khuôn thủng, đường gân, bệ đỡ, khung vòm, bản
kiểu, đồ khắc, vải nhám, màu tái, lục sẫm, mẫu vẽ, xưởng vẽ, xưởng nặn,
áo bìa, bảng màu, bút lông, ván gió, dầu cọ, bản rập, điểm nhấn, điểm
nhìn, điểm màu,…
- Có 46 đơn vị thuật ngữ là từ ghép thuộc từ loại động từ (10,02 %): hửng
màu, khắc nổi, lên nước, khắc chìm, đóng khung, dựng hình, chạm nổi, chạm
80
lọng, đánh bóng, phác họa, tráng men, phủ men, khắc chìm, điểm xuyết, tạo
hình, trang trí, trưng bày, triển lãm, đánh bóng, dựng hình, đặt mẫu,…
- Có 59 đơn vị thuật ngữ là từ ghép thuộc từ loại tính từ (12,85%): cân
bằng, cân đối, cơ bản, lục thẳm, phản quang, rực rỡ, siêu thực, xanh gio, vàng
chanh, ánh hồng, vàng kim, vàng đất, sắc dịu, sắc ấm, sắc lạnh, trắng ngà,
đậm nhạt, đơn sắc, đỏ tía, hài hòa, nâu thẫm, hồng tươi, xanh đồng, mềm dẻo,
đen nhánh, trang nhã, vàng nhạt, xám xịt, lam chói, hồng điều, lam gio, lam
phổ, xanh xám, đen muội, đỏ tươi, nâu xám, nâu gạch, nâu đỏ, nâu đen,…
2.4.2. Đặc điểm từ loại của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt có cấu tạo là cụm từ
Như đã nêu trên, trong 1.320 TNMT có 754 thuật ngữ là cụm từ, chiếm
57,12% tổng số các thuật ngữ được thu thập để nghiên cứu. Tất cả các thuật
ngữ là cụm từ đều có cấu tạo là cụm từ chính phụ, trong đó phần lớn là cụm
từ chính phụ gồm 2 yếu tố. Cụ thể, thuật ngữ là cụm từ chính phụ có 2 yếu tố
đến 528 đơn vị (70,03% ): khuynh hướng hoành tráng, mĩ thuật ứng dụng,
nghệ thuật giả động, sản phẩm sơn mài, nghệ thuật đại chúng, mĩ nghệ ren,
hình đồ khuôn, tranh sơn mài, xu hướng siêu thực, phương pháp khắc phẳng,
phối cảnh đường nét, tượng chân dung, tranh dân gian, thợ kim hoàn, tranh
tứ bình, xưởng điêu khắc. Thuật ngữ là cụm từ gồm 3 yếu tố có 132 đơn vị
(17,51%): tranh khắc kim loại, chạm nổi thấp, nung đồ gốm, in tranh đồ họa,
chất hãm màu, màu hoa đào, vết chấm đốm, tranh màu nước, đồ đắp nổi,
đường chân cảnh…
Về mặt từ loại, đối với thuật ngữ là cụm từ, căn cứ vào từ loại của yếu tố
chính để xác định từ loại cho cụm từ. Khảo sát 754 TNMT là cụm từ cho kết
quả như sau:
- Có 626 TNMT là cụm danh từ, chiếm 83,02%: chủ nghĩa ấn tượng, chủ
nghĩa tân thời, đất nung, đường viền, khung viền, khuôn trổ, màu nước, vân đá,
sáp màu, nhựa thông, chủ nghĩa tiền phong, xu hướng hiện thực, xu hướng tượng
81
trưng, chủ nghĩa tượng trưng, bức tranh sáp màu, hội họa tổng thể, phong cách
biểu hiện, bức họa đồng quê, chất liệu sơn dầu, bức tranh màu phấn…
- Thuật ngữ mĩ thuật là cụm động từ có 38 đơn vị, chiếm tỉ lệ không đáng
kể (5,03%): Thiết kế in, không pha màu, không sơn, nghiền màu, thêu trang trí,
khắc nổi thấp, khắc nổi cao, in tranh đồ họa, chạm nổi cao, chạm nổi thấp,…
- Thuật ngữ mĩ thuật là cụm tính từ có 90 đơn vị (11,94%): đậm nhạt cùng
sắc, trắng ti tan, trắng kẽm, đen hạt huyền, vàng crôm, đỏ cát mi, xanh cô ban,…
Dưới đây là bảng tổng hợp kết quả.
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp đặc điểm từ loại của thuật ngữ mĩ thuật
tiếng Việt
Phƣơng thức
cấu tạo &
quan hệ ngữ
pháp
Từ loại Số lƣợng
Tỉ lệ
phần
trăm
(%)
Từ đơn
Danh từ 52 (48,60%)
107 8,10 Tính từ 35 (32,71%)
Động từ 20 (18,69%)
Từ
ghép
Chính
phụ
Danh từ 323 (75,46%)
428(93.24%)
459 34,78
Tính từ 59 (13,78%)
Động từ 46 (10,75%)
Đẳng
lập
Danh từ 31 31(6,76%)
Cụm từ
Cụm danh từ 626 (83,02%)
754 57,12 Cụm tính từ 90 (11,94%)
Cụm động từ 38 (5,03%)
Tổng 1.320 100
82
2.5. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt xét về mặt nguồn gốc
2.5.1. Nguồn gốc của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là từ
Các thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt có cấu tạo là từ gồm 566 đơn vị, có
nguồn gốc khá phong phú, bao gồm cả các thuật ngữ Việt, Hán Việt và Ấn Âu,
trong đó thuật ngữ có nguồn gốc Hán Việt chiếm tỉ lệ rất lớn. Cụ thể:
Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt có cấu tạo là các YTCT Hán Việt chiếm tỉ lệ
cao nhất với 408 đơn vị (chiếm 72,10%): khỏa thân, tạo hình, độc bản, đường nét,
bích họa, biếm họa, bối cảnh, họa sĩ, đồ án, thủ pháp, mĩ nghệ, mĩ thuật, mĩ học,
mô hình, ấn tượng, bích họa, bảo tàng, biểu cảm, chân dung, lập thể, biểu trưng,
biểu tượng, cách điệu, cân đối, chi tiết, lập thể, dã thú, cổ điển, cổ đại, tượng
trưng, trừu tượng, trường phái, đồ họa, đối xứng, hình thể, hiện thực,...
Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt có cấu tạo là các yếu tố Việt có 125 đơn vị
(22,01%): bìa, cắt, dàn dựng, đĩa, dòng, dựng, đường nét, ghi chép, lề, loa,
sóng, xén, giấy, giấy bồi, mẫu vẽ, xương nặn, dao khắc, dao vẽ, giấy can, giấy
phấn, sơn then, than chì, sơn mài, đất áo, đất sét, dây dọi, thuốc tím, cửa cuốn,
bút sắt, đỏ tươi, xanh đồng, đen nhánh, đánh bóng, nung hấp, gạch men, giá
vẽ, giấy dó, giấy điệp, đánh bóng, đậm nhạt, đất sét, điểm nhìn, điểm nhấn,
dựng hình, bút chì, bút chổi, bút sắt, bút lông, sơn then, sơn ta, dầu khô, dầu
thông, dầu lanh, đường trục...
Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt có các YTCT Ấn Âu có 22 đơn vị, chiếm tỉ
lệ thấp nhất (3,88%): a-cri-lich (acrylic), a-qua-tanh (aquatint), áp phích
(affiche), bo tranh (border), đa-đa (dada), goát (gouache) ma-nơ-canh
(mannequin), ma két (maquette), đi-dai (design), ga-lơ-ri (gallerie), gô-tich
(gothic), áp phích, ba-hau (bauhaus), bo-đi-át (body art), đi-đai (design), ga-
lơ-ri (gallery), ghéc-ni-ca (guernica),ma két (maquettce), pa-nô (panel),...
Ngoài ra, TNMTTV còn có 11 thuật ngữ có cấu tạo hỗn hợp là sự kết
hợp giữa một yếu tố Hán Việt với 1 yếu tố Việt (1,94%): dựng hình, đặt mẫu,
điểm tụ, giấy điệp, họa nét,...
83
Bảng tổng hợp dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ điều này.
Bảng 2.3: Bảng tổng hợp nguồn gốc cấu tạo thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt
là từ
Nguồn gốc Số lƣợng Phần trăm (%)
Hán Việt 408 72,08
Việt 125 22,08
Ấn Âu 22 3,89
Hán Việt - Việt 11 1,95
Tổng 566 100
2.5.2. Nguồn gốc các yếu tố cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là
cụm từ
Các thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là cụm từ được tạo thành bằng cách
ghép các thuật ngữ là từ lại với nhau để biểu đạt những khái niệm mới trong
lĩnh vực mĩ thuật học. Kết quả khảo sát cho thấy, các TNMT là cụm từ cũng
có cấu tạo đa dạng về nguồn gốc: cụm từ gồm các yếu tố Việt, cụm từ gồm
các yếu tố Hán - Việt, cụm từ gồm các yếu tố Việt và Hán Việt, cụm từ gồm
hỗn hợp các yếu tố Việt, Hán Việt và Ấn Âu. Trong 754 TNMT có cấu tạo là
cụm từ, các thuật ngữ có cấu tạo là các yếu tố có nguồn gốc khác nhau cụ thể
như sau:
- Thuật ngữ được tạo thành từ các yếu tố có nguồn gốc Hán Việt có số
lượng lớn nhất, với 354 đơn vị, chiếm 46,94%. Ví dụ: đơn tuyến bình đồ, hình
họa nghiên cứu, họa tiết trang trí, hội họa hoành tráng, kí họa động, lục pháp
luận, mĩ thuật ứng dụng, nghệ thuật đại chúng, chủ nghĩa ấn tượng, chủ
nghĩa lập thể, xu hướng nghệ thuật, chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng, họa tiết
trang trí, hội họa hành vi,...;
84
- Các thuật ngữ được tạo thành từ các yếu tố Việt với 199 đơn vị, chiếm
26,40%. Ví dụ: bảng pha màu, bản vẽ mẫu, bồi tranh, bút lông dẹt, bút lông
tròn, chà xát đồ vật tạo chất, dao nghiền màu, đường tầm mắt, giấy vẽ màu
nước, kẻ chữ, khắc tranh,, khối cứng, khối mềm, khối chìm, khối nổi, khung
căng vải vẽ, mảng màu phẳng, màu sượng, mặt trước, mặt sau,...
- Các thuật ngữ có cấu tạo gồm các yếu tố gốc Ấn Âu có số lượng không
nhiều với 98 đơn vị, chiếm 13,00%. Ví dụ: funk art (nghệ thuật kinh sợ),
plastic art, antipodeans, anecdotes of painting, baldacchino (trướng phía trên
bàn thờ), abstract art (nghệ thuật trừu tượng), academy figure (hình khỏa
thân), academy board (giấy bồi dùng để vẽ), plein air (vẽ ngoài trời),...
- Thuật ngữ có cấu tạo hỗn hợp các yếu tố có 103 đơn vị, chiếm
13,66%. ví dụ: sơn acrilic, phong cách Meuse, trường phái sông Meuse,
nghệ thuật Amarna, kĩ thuật khắc màu a xít, đồ gốm Arretium, trường phái
Ash-can, thảm Aubusson, trường phái Avignon, đá ba zan, mĩ thuật
Canada, trường phái Cologne, nghệ thuật by-dăng-tin,... Bảng tổng hợp
kết quả dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ điều này.
Bảng 2.4: Bảng tổng hợp nguồn gốc yếu tố cấu tạo thuật ngữ mĩ thuật
tiếng Việt là cụm từ
Nguồn gốc Tổng Phần trăm (%)
Việt 199 26,40
Hán Việt 354 46,94
Ấn Âu 98 13,00
Hỗn
hợp
Hán Việt + Việt
103
37
13,66
35,92
Hán Việt + Ấn Âu 23 22,33
Việt + Ấn Âu 18 17,47
Hán Việt + Việt + Ấn Âu 25 24,29
Tổng 754 100 %
85
2.6. Nhận xét chung về đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật
tiếng Việt
Từ các kết quả miêu tả và phân tích đặc điểm cấu tạo của hệ thống
TNMTTV trên, cho phép rút ra một số nhận xét sau:
1. Hệ thống TNMT tiếng Việt được cấu tạo theo số lượng từ 1 yếu tố đến 6
yếu tố. Tuy nhiên, các TNMT có cấu tạo từ 4 yếu tố đến 6 yếu tố có số lượng
không nhiều, mà chủ yếu tập trung vào nhóm thuật ngữ có cấu tạo 2 và 3 yếu tố.
Chỉ tính riêng thuật ngữ 2 yếu tố đã chiếm tỉ lệ áp đảo với 987/1.320 thuật ngữ
chiếm 74,77% tổng số các thuật ngữ được khảo sát. Tiếp đến là thuật ngữ được
cấu tạo từ 3 yếu tố với 132/1.320 thuật ngữ chiếm 10,00% ( 132/1.320) và thuật
ngữ 1 yếu tố là 107 đơn vị, chiếm 8,11%. Số lượng các thuật ngữ có cấu tạo từ 4
yếu tố, 5 yếu tố và 6 yếu tố không nhiều. Dưới đây là bảng tổng hợp về sự phân
bố thuật ngữ theo đặc điểm cấu tạo cụ thể:
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp phân bố số lượng TN mĩ thuật tiếng Việt theo
yếu tố cấu tạo
TT Yếu tố cấu tạo Số lƣợng TN Phần trăm (%)
1 1 yếu tố 107 8,10
2 2 yếu tố 987 74,77
3 3 yếu tố 132 10,00
4 4 yếu tố 47 3,56
5 5 yếu tố 39 2,96
6 6 yếu tố 8 0,61
TỔNG 1.320 100
Từ kết quả nói trên có thể thấy, về mặt cấu trúc hình thức, các TNMT
nói chung đã đáp ứng được yêu cầu về mặt hình thức của thuật ngữ đó là tính
ngắn gọn. Thậm chí, nếu so với yêu cầu lí tưởng mà Reformatxki đưa ra thì
86
có thể thấy hầu hết các TNMT đã đáp ứng được yêu cầu này: “Thuật ngữ là từ
ghép, tổ hợp từ chỉ có thể gồm hai, ba hoặc tối đa là bốn yếu tố bởi vì nếu
thuật ngữ quá dài sẽ không được chấp nhận trong thực tế” [76, 225] . Đồng
thời, thuật ngữ đáp ứng được yêu cầu ngắn gọn, không có yếu tố dư thừa cũng
có nghĩa là chúng đảm bảo cho sự chính xác, khoa học của TNMT. Kết quả
này của luận án góp thêm một bằng chứng khẳng định rằng, thuật ngữ của các
ngành khoa học nói chung tồn tại trong thực tế với số lượng nhiều nhất là các
thuật ngữ có cấu tạo từ 2 đến 4 yếu tố.
2. Về phương thức cấu tạo thuật ngữ và quan hệ ngữ pháp của các yếu
tố trong cấu tạo của TNMT, kết quả nghiên cứu cho thấy TNMT chủ yếu
được cấu tạo từ cụm từ và theo quan hệ chính phụ. Trong tổng số 1.320
thuật ngữ được khảo sát có đến 754 thuật ngữ là cụm từ chiếm 57,12%,
thuật ngữ là từ chiếm tỉ lệ khá lớn với 566 đơn vị, chiếm 42,88%. Đồng
thời, trong số 1.320 thuật ngữ được khảo sát, số lượng thuật ngữ được cấu
tạo theo quan hệ đẳng lập chiếm tỉ lệ không đáng kể, chỉ có 31/1.213 thuật
ngữ có cấu tạo từ 2 yếu tố trở lên, chiếm tỉ lệ rất nhỏ 2,56%. Còn lại có đến
1.182/1.213 thuật ngữ (chiếm 97,44%) có cấu tạo từ 2 yếu tố trở lên có cấu
tạo theo quan hệ chính phụ và hầu như là theo trật tự cú pháp tiếng Việt.
Nghĩa là yếu tố đứng trước là yếu tố chính mang tính khái quát, yếu tố
đứng sau là yếu tố phụ bổ sung ý nghĩa cho yếu tố chính nhằm cụ thể hóa,
chi tiết hóa hay khu biệt cho thuật ngữ đó. Kết quả này cho phép chúng tôi
khẳng định rằng về mặt cú pháp, trật tự các yếu tố cấu tạo TNMT mang đặc
trưng của cú pháp của tiếng Việt (chính trước - phụ sau). Như vậy rõ ràng,
phần lớn các TNMT đã thể hiện được tính dân tộc trong đặc điểm cấu tạo
của mình. Đồng thời, cũng chính nhờ có phương thức cấu tạo ghép theo mô
hình cấu trúc chính phụ mà chúng ta có thể định danh được các TNMT
khác nhau.
87
3. Về đặc điểm từ loại của thuật ngữ, kết quả khảo sát cho thấy, TNMT
tuy được cấu tạo khá phong phong phú bao gồm cả danh từ/cụm danh từ,
động từ/cụm động từ, tính từ/cụm tính từ, tuy nhiên thuật ngữ là động từ/cụm
động từ và tính từ/cụm tính từ chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ (21,81%) với 288 đơn vị,
còn thuật ngữ là danh từ/cụm danh từ vẫn chiếm tỉ lệ áp đảo 78,18% với
1.032 đơn vị. Điều này khá phù hợp với tính chất định danh của thuật ngữ.
Kết luận này của chúng tôi cũng trùng khớp với nhận định về ĐĐĐD
thuật ngữ mà Hà Quang Năng đã nêu ra: "Từ là đơn vị cơ bản mà việc định
danh dựa vào (nghĩa là việc ghi nhận, chốt lại những hiện tượng đã được lựa
chọn của thực tế khách quan nhờ cách đặt tên bằng ngôn ngữ) trong nhận
thức chung của chúng ta. Các từ loại danh từ, tính từ, động từ đều có thể
định danh. Với các từ thuộc từ loại đó thì nội dung mới thường xuyên được
hình thành và những tên gọi mới được tạo lập. Danh từ có thể chuyển đổi nội
dung của các từ thuộc các từ loại định danh khác và nó có đầy đủ những
phương tiện hình thái thích hợp để làm việc đó. Giá trị định danh tuyệt đối là
thuộc tính của danh từ, thuộc tính này ở các từ loại định danh khác thì yếu
hơn chút ít. Những cấu trúc khác nhau tất nhiên cũng có thể có được chức
năng định danh khi sử dụng thứ cấp, tuy nhiên đối với chúng điều dễ thấy là
chúng hoạt động như danh từ. Nếu như ta cho tập hợp từ một giá trị định
danh tuyệt đối thì nó phải có khả năng thoát ra, vượt ra khỏi các quan hệ cú
pháp của câu. Có được khả năng này chỉ là những tổ hợp từ tương đương với
danh từ. Tính định danh cao nhất và khả năng lớn nhất tham gia vào việc
định danh thuật ngữ là các danh từ. Thuật ngữ có thể là tính từ, động từ,
trạng từ nhưng khả năng định danh của chúng thấp hơn nhiều…danh từ là từ
loại có tính định danh cao nhất” [92; 19].
4. Về nguồn gốc của các yếu tố cấu tạo của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt
Kết quả cho thấy, với các TNMTTV có cấu tạo là từ, các YTCT có
nguồn gốc khá phong phú bao gồm cả yếu tố Việt, Hán Việt và Ấn Âu. Điều
88
đáng chú ý là từ 3 loại yếu tố này đã tạo nên các loại thuật ngữ khác nhau,
không chỉ là 3 loại thuật ngữ với sự kết hợp các yếu tố cùng nguồn gốc Việt,
Hán Việt, Ấn Âu mà còn tạo nên một loạt các thuật ngữ hỗn hợp từ sự kết hợp
của 3 loại yếu tố này. Cụ thể như sau:
- Trong số 566 các thuật ngữ mĩ thuật là từ thì thuật ngữ có các YTCT cùng
nguồn gốc Hán Việt chiếm số lượng nhiều nhất (408/566 thuật ngữ, chiếm
72,08%).
- Các thuật ngữ ghép hai yếu tố Việt (125/566, chiếm 22,08%).
- Thuật ngữ các YTCT gốc Ấn Âu với 22 đơn vị, chiếm 3,89%.
- Thuật ngữ kết hợp giữa yếu tố Hán Việt và Việt là 11 đơn vị, chiếm 1,95%.
Với các TNMT tiếng Việt là cụm từ, kết quả khảo sát cho thấy, nguồn
gốc các YTCT cũng có nguồn gốc đa dạng: Việt, Hán Việt và Ấn Âu. Trong
754 TNMT có cấu tạo là cụm từ, các kiểu loại thuật ngữ xét theo đặc điểm
YTCT có số lượng cụ thể như sau:
- Thuật ngữ được tạo thành từ các yếu tố có nguồn gốc Hán Việt có số
lượng lớn nhất, với 354 đơn vị, chiếm 46,94%.
- Các thuật ngữ được tạo thành từ các yếu tố Việt với 199 đơn vị, chiếm
26,40%.
- Các thuật ngữ có cấu tạo gồm các yếu tố gốc Ấn Âu có số lượng
không nhiều với 98 đơn vị, chiếm 13,00%.
- Thuật ngữ có cấu tạo hỗn hợp các yếu tố có 103 đơn vị, chiếm 13,66%,
trong đó: Hán Việt + Việt có 37 thuật ngữ, chiếm 35,92% trong số 103 thuật
ngữ có cấu tạo hỗn hợp; Hán Việt + Ấn Âu có 23 thuật ngữ, chiếm 22,33%;
Hán Việt + Việt + Ấn Âu có 25 thuật ngữ, chiếm 24,29%; Việt + Ấn Âu có 18
thuật ngữ, chiếm 17,47%. Như vậy, kết quả này một lần nữa cho thấy tầm
quan trọng của các yếu tố Hán Việt trong việc cấu tạo nên các TNMTTV nói
riêng và từ tiếng Việt nói chung. Xét về mặt ngữ nghĩa, các yếu tố Hán Việt
thường mang tính trừu tượng, khái quát và mang phong cách trang trọng, bác
89
học. Đồng thời sự kết hợp của các yếu tố Hán Việt thường tạo ra một kết cấu
ngắn gọn và có cấu trúc chặt chẽ. Với những ưu thế nổi trội này, chúng rất
thích hợp trong tư cách là các YTCT nên các thuật ngữ. Đây chính là lí do làm
cho các TNMTTV được cấu tạo từ các yếu tố Hán Việt chiếm tỉ lệ rất lớn trong
tổng số các các TNMTTV được thu thập khảo sát.
2.7. Phƣơng thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt
Khi nghiên cứu các phương thức tạo thành thuật ngữ, các nhà nghiên
cứu trên thế giới và ở Việt Nam đã nêu ra nhiều phương thức khác nhau.
Trong công trình "Nguyên lí xây dựng hệ thuật ngữ khoa học kĩ thuật",
D.S. Lotte đã xác định các phương thức tạo thành thuật ngữ khoa học kĩ
thuật tiếng Nga:
- Chuyển từ thông thường thành thuật ngữ khoa học - kĩ thuật;
- Chuyển dịch thuật ngữ từ ngành khoa học - kĩ thuật này sang ngành
khoa học - kĩ thuật khác. Cụ thể là:
* Chuyển dịch thuật ngữ theo sự giống nhau của các khái niệm;
* Chuyển dịch thuật ngữ theo sự giống nhau về kĩ thuật;
* Chuyển dịch thuật ngữ theo sự giống nhau bề ngoài;
* Chuyển dịch thuật ngữ theo sự tiếp cận của các khái niệm;
- Biến đổi nghĩa các từ khi xây dựng thuật ngữ thành phần và thuật
ngữ phức hợp." [79; 75 - 118].
Ở Việt Nam, Hoàng Xuân Hãn là học giả đầu tiên xem xét một cách
tương đối hệ thống vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học. Ông đã nêu lên ba
phương sách đặt thuật ngữ khoa học: phương sách dùng tiếng thông
thường; phương sách phiên âm; phương sách lấy gốc chữ nho [35; XIX -
XXI]. Lê Khả Kế cho rằng: "Chỉ nên đề ra có hai phương thức xây dựng
thuật ngữ như sau: 1. Đặt thuật ngữ trên cơ sở tiếng Việt; 2. Tiếp nhận và
phiên thuật ngữ nước ngoài" [51; 37]. Khi tìm hiểu sự hình thành và phát
triển thuật ngữ tiếng Việt, Hoàng Văn Hành đã nêu lên ba con đường tạo
90
thành thuật ngữ. “Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy thuật ngữ trong tiếng
Việt, cũng như trong các ngôn ngữ đã phát triển khác hình thành nhờ ba con
đường cơ bản là: 1) thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường; 2) cấu tạo những
thuật ngữ tương ứng với thuật ngữ nước ngoài bằng phương thức sao phỏng
và 3) mượn nguyên thuật ngữ nước ngoài (thường là những thuật ngữ có tính
quốc tế” [39; 96]. Bàn về các tầng hệ xây dựng phát triển và chuẩn hóa thuật
ngữ, Lê Quang Thiêm cho rằng hệ tầng thuật ngữ tiếng Việt được cấu tạo,
phát triển từ các con đường khác nhau. Tổng hợp ý kiến của các nhà nghiên
cứu thuật ngữ đã đề xuất, thảo luận về con đường hình thành thuật ngữ tiếng
Việt, ông đã cân nhắc và nêu lên ba con đường, ba nguyên tắc và bốn phương
thức tạo thành, cấu tạo thuật ngữ. Đó là:
1. Ba con đường: con đường tự lực, tự cường bằng tri thức, trí tuệ, vốn
liếng ngôn ngữ của tiếng việt, của dân tộc Việt Nam vốn có, đã có; con đường
thứ hại là tiếp nhận nguyên thuật ngữ là sản phẩm của nền ngữ học, của ngôn
ngữ tiếp xúc, ngôn ngữ nguồn tiếp nhận mà có; con đường thứ ba là tự cấu
tạo, sáng tạo thuật ngữ dựa trên nội dung khái niệm, phạm trù; sao phỏng,
chuyển dịch từ ngôn ngữ nguồn để tạo thuật ngữ cho ngôn ngữ dân tộc.
2. Ba nguyên tắc: nguyên tắc tính khoa học; nguyên tắc tính dân tộc;
nguyên tắc tính quốc tế.
3. Bốn phương thức tạo thành, cấu tạo thuật ngữ: phương thức giữ
nguyên dạng; phương thức dịch cấu tạo; phương thức thuật ngữ hóa từ thường
và phương thức phiên âm chuyển chữ." [108; 206 - 211].
Điểm lại một số quan niệm của các nhà nghiên cứu thuật ngữ về các
phương thức tạo thành thuật ngữ có thể thấy rằng quan niệm về con đường
hình thành, cấu tạo thuật ngữ của các học giả là khá thống nhất với nhau. Sự
khác biệt chủ yếu chỉ là ở mức độ cụ thể hóa các con đường và phương thức
tạo thành thuật ngữ. Quan niệm về con đường hình thành, phương thức tạo
thành thuật ngữ của các nhà nghiên cứu là cơ sở vững chắc để chúng tôi soi
91
vào hệ thống TNMTTV để xác định cụ thể các phương thức tạo thành
TNMTTV được các nhà mĩ thuật học sử dụng.
Khảo sát 1.320 TNMTTV, chúng tôi xác định được các phương thức tạo
thành hệ thuật ngữ này như sau:
- Chuyển từ thông thường thành thuật ngữ mĩ thuật;
- Chuyển dịch thuật ngữ từ ngành khoa học khác thành thuật ngữ mĩ
thuật;
- Tiếp nhận thuật ngữ mĩ thuật nước ngoài.
2.7.1. Phương thức chuyển từ thông thường thành thuật ngữ mĩ
thuật
Hệ thống thuật ngữ khoa học - kĩ thuật nói chung, hệ thống TNMTTV
nói riêng được xây dựng chủ yếu trên cơ sở của những từ sẵn có. Để tạo thành
thuật ngữ bằng phương thức này, người ta sử dụng một từ thông thường đã có
sẵn và giữ nguyên thành phần ngữ âm của nó làm thuật ngữ khoa học. Ví dụ,
các từ như: đất sét, giấy, bút, mực, phấn, màu, hình, khối, sơn, dầu, gỗ, đá,
đồng, đất, thạch cao, tạc, vẽ, nặn, gò, khắc, chấm, vạch, đục, tranh, giá,
tường, trục, cuộn, đậm, nhạt, nổi, chìm, đường, nét, hồ, sinh hoạt, phong
cảnh, phong tục, thần thánh,...đã tồn tại từ rất lâu trong vốn từ vựng tiếng
Việt trước khi chúng được sử dụng với tư cách là các TNMTTV. Điều đáng
lưu ý là trong hệ thống TNMTTV có nhiều thuật ngữ có nguồn gốc từ ngữ
nghề nghiệp của các làng nghề làm giấy, vẽ tranh, đúc đồng, làm đồ mĩ nghệ,
tạc tượng ở nước ta. Đó là các thuật ngữ: giấy lụa, giấy điệp, sơn ta, sơn then,
dầu bóng, dầu khô, dầu lanh, dầu thông, dây dọi, đục, chổi quét, bút chì, bút
chổi, bút dạ, bút lông, bút sắt, bút phun, lụa, giấy điều, giấy dó, giấy bồi, giấy
bản vải lanh, chạm khắc, màu bột, màu nước, chì, mực nho, sơn mài, sơn dầu,
phẩm, son, vàng, bạc, vỏ trứng, vỏ ốc, vỏ trai, nhũ, đồng, gỗ, đá, dao trổ, dao
nghiền màu, dao vẽ, búa, mỏ hàn, bàn xoay, màu hoa hiên, màu cánh sen,
màu lá mạ, màu thanh thiên, ...
92
Các từ thông thường khi trở thành TNMTTV đều giữ nguyên cả hình
thức ngữ âm và nội dung ý nghĩa của các từ thông thường. Kết quả khảo sát
của chúng tôi cho thấy các từ thông thường trở thành thuật ngữ trong hệ thống
TNMTTV có lượng khá nhiều với 385/1.320 thuật ngữ chiếm 29,16% trên
tổng số các TNMT được khảo sát. Có thể nói rằng, chuyển từ thông thường
thành thuật ngữ là một phương thức hữu dụng để tạo thành TNMTTV.
2.7.2. Chuyển thuật ngữ từ ngành khoa học khác thành thuật ngữ mĩ
thuật
Để chuyển dịch thuật ngữ từ các ngành khoa học thành TNMT cần
phải có sự giống nhau của các khái niệm. Tìm hiểu hệ thống TNMTTV
chúng tôi thấy rằng tất cả những trường hợp chuyển dịch các thuật ngữ của
các ngành khoa học khác thành TNMT đều dựa trên sự giống nhau của các
khái niệm thuộc các ngành khoa học khác nhau. Những trường hợp chuyển
dịch thuật ngữ theo sự giống nhau của các khái niệm được thể hiện theo hai
cách sau:
a. Chuyển thuật ngữ từ ngành khoa học khác thành thuật ngữ mĩ thuật
khi giữa các khái niệm đó tồn tại một mối liên hệ với nhau.
Theo cách này, nhiều TNMT có mối liên hệ với các thuật ngữ của ngành
văn học, triết học, toán học,... dựa vào sự giống nhau của các khái niệm thuộc
các ngành khoa học khác nhau. Ví dụ, biểu cảm, biểu trưng, tượng trưng, bút
pháp, bố cục, điểm nhìn, hình tượng, khối, khối cứng, khối mềm, khối tĩnh, khối
động,..là các TNMT được chuyển dịch từ thuật ngữ của ngành văn học, tâm lí
học, ngôn ngữ học toán học. Các thuật ngữ này biểu thị các khái niệm của các
ngành khoa học khác nhau nhưng chúng lại có mối liên hệ với nhau. Theo nhận
xét của D.S. Lotte, việc chuyển thuật ngữ từ một khái niệm thuộc hệ thống này
sang khái niệm thuộc hệ thống khác chỉ có thể được mặc nhiên tiến hành trong
những trường hợp sau: "1. Nếu như các khái niệm nằm trong những hệ thống
khác nhau ấy không xung khắc nhau; 2. Nếu như thuật ngữ được chuyển (hay
93
thành tố của nó) đã không được dùng với nghĩa khác trong hệ thống mà nó
chuyển qua; 3. Nếu như cấu trúc của nó không mâu thuẫn với cấu trúc của tất cả
những thuật ngữ còn lại khác trong cùng hệ thống thuật ngữ mà nó chuyển qua"
[72; 92]. Nhận định này hoàn toàn phù hợp với các TNMTTV được chuyển từ
các thuật ngữ của các ngành khoa học khác dựa trên sự giống nhau giữa các khái
niêm. Sau đây là một số ví dụ minh họa.
Thuật ngữ ngành khoa học khác Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt
Bút pháp: Ở phương Đông bút
pháp vốn là thuật ngữ của thư pháp -
nghệ thuật viết chữ Nho, chỉ cách
cầm bút lông, cách đưa đẩy nét bút
để tạo dáng nét chữ đẹp. Trong văn
học, bút pháp là cách thức hành văn,
dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các
phương tiện biểu hiện để tạo thành
một hình thức nghệ thuật nào đó. Ở
đây bút pháp cũng tức là cách viết,
lối viết. [Từ điển thuật ngữ văn học,
tr. 28].
Bút pháp: Cách sử dụng ngôn ngữ tạo
hình của các họa sĩ, nhà điêu khắc thể
hiện qua đường nét, hình khối, màu sắc,
ánh sáng, chất cảm để tạo nên sự độc
đáo riêng trong tác phẩm của mình. Bút
pháp là một khía cạnh, một thành tố của
phong cách. Nó chỉ ra cách thực hiện tác
phẩm hoặc khả năng thực hành của
người nghệ sĩ. [87; 28]
Điểm nhìn: Vị trí từ đó người trần
thuật nhìn ra và miêu tả sự vật
trong tác phẩm. Không thể có nghệ
thuật nếu không có điểm nhìn, bởi
nó thể hiện hiện sự chú ý, quan tâm
và đặc điểm của chủ thể trong việc
tạo ra cái nhìn nghệ thuật. [Từ điển
thuật ngữ văn học, tr. 112].
Điểm nhìn: Điểm xuất phát của các tia
nhìn khi ta quan sát cảnh vật để vẽ. Tia
nhìn là những đường thẳng xuất phát từ
mắt tới bất cứ một điểm nào trong phạm
vi trường nhìn của mắt [87; 49].
Biểu trƣng: Vật hoặc hình ảnh, kí
hiệu, biểu thị một ý niệm trừu
tượng, giúp cho người ta liên tưởng
đến ý niệm này khi nhìn thấy biểu
Biểu trƣng: Những kí hiệu và hình ảnh
tượng trưng, biểu thị một đối tượng
hoặc một ý niệm nào đó, có chức năng
chuyển tải thông tin trực tiếp tới thị
94
trưng [Từ điển bách khoa Việt
nam, tập 1, tr. 290].
giác. Có nhiều dạng biểu trưng: biểu
trưng cho một nghề, biểu trưng cho một
tổ chức xã hội, biểu trưng cho thuộc tính
của một vật thể. Ví dụ, bức tranh Bồ câu
và hòa bình - 1949 của Pi-cát-xô đã trở
thành biểu trưng cho khát vọng hòa bình
trong Đại hội liên hoan thanh niên sinh
viên thế giới tại Béc-lin, 1951. [87; 23].
Nội dung ý nghĩa các thuật ngữ nêu trên thuộc các ngành khoa học khác
với TNMT tương ứng có sự tương đồng với nhau, thể hiện mối liên hệ giữa
các khái niệm khoa học thuộc các ngành khoa học khác nhau. Điều kiện quan
trọng nhất phải tuân theo khi dịch chuyển thuật ngữ từ khái niệm này sang
khái niệm khác là ở chỗ sự giống nhau phải có thật, chứ không phải là sự
giống nhau giả tạo. Sự chuyển thuật ngữ theo sự giống nhau của một vài tính
chất nào đó giữa các khái niệm khoa học thuộc các ngành khác nhau là một
phương thức tạo thành thuật ngữ hoàn toàn hợp lí để xây dựng nhứng thuật
ngữ khoa học kĩ thuật. Wuster đã nhận xét rằng: "Sự chuyển dịch sang những
khái niệm tương tự của một lĩnh vực khác có những lợi thế lớn. Đó không
những là một biện pháp tự nhiên để xây dựng những thuật ngữ mới hay hệ
thống thuật ngữ của một ngành chuyên môn đang hình thành, mà còn là một
biện pháp rất hợp lí, bởi vì nó tiết kiệm được tổng số những thuật ngữ và liên
hệ với những chuyên ngành khác nhau, cũng như giảm nhẹ công việc trong
những lĩnh vực khác nhau" [dẫn theo 72; 90].
b. Sự chuyển thuật ngữ theo sự giống nhau bề ngoài
Theo cách này, để dịch chuyển thuật ngữ thì chỉ cần một đặc điểm thứ
yếu, một đặc điểm ngẫu nhiên nào đó của một đối tượng này trùng hay có một
vài sự giống nhau nào đó với đặc điểm của đối tượng khác là đủ. Ví dụ, trong
toán học, thuật ngữ discrimen có nghĩa là "một đường thẳng phân chia hai
mặt phẳng với nhau". Khi chuyển sang TNMT thì lại có nghĩa "đường thẳng
95
chạy từ trán chia mái tóc ra làm hai phần sao cho tóc rủ xuống từ hai phía"
(đường ngôi). Sự giống nhau về bề ngoài giữa hai thuật ngữ này là cơ sở để
thuật ngữ toán học chuyển sang TNMT. Theo phương thức này, một loạt
thuật ngữ của các ngành khoa học khác đã chuyển thành TNMT:
Thuật ngữ các ngành
khoa học khác Thuật ngữ mĩ thuật
Đƣờng hình elip: Trong mặt phẳng cho
hai điểm cố định F1 và F2. Đường hình
elip là tập hợp các điểm M sao cho tổng
F1M+ F2M= 2a không đổi. Các điểm F1
và F2 gọi là tiêu điểm của elip, khoảng
cách F1.F2=2c gọi là tiêu cự của elip.
(toán học )
Đƣờng hình quả trứng: đường
cong phẳng giống với đường viền
quả trứng hoặc hình elip.
Đánh bóng: tạo nên các hình nổi trên
mặt phẳng khi vẽ, bằng cách dùng các
độ đậm nhạt khác nhau (toán học)
Đánh bóng: vẽ những bóng tối
khác nhau và chừa lại những chỗ
sáng ở trong tranh dựa theo bóng
của đồ vật tạo ra do ánh sáng chiếu
vào nó
Dựng hình: tạo ra hình bằng cách nối
các điểm khác nhau trên mặt phẳng
bằng các đường thẳng (toán học).
Dựng hình: phác hình các vật thể
theo các bước lên giấy sau khi quan
sát mẫu.
Đối xứng: sự sắp đặt các thành phần của
một tổng thể tuân thủ chặt chẽ về khoảng
cách và hướng theo một điểm chọn làm
tâm đối xứng, so với một đường thẳng
chọn làm trục đối xứng và so với một
mặt phẳng làm mặt phẳng đối xứng.
(toán học)
Đối xứng: sự tương ứng vị trí của
hai hay nhiều yếu tố thông qua một
điểm, một trục giữa hay một mặt
phẳng.
96
Giải phẫu: chuyên khoa của y học,
nghiên cứu các biến đổi về hình thái,
cấu trúc của con người nói chung, của
các mô và tế bào trong cơ thể nói riêng
để chẩn đoán bệnh. (y học)
Giải phẫu: Nghiên cứu khoa học
về hình thái, cấu trúc cơ thể sinh
vật, đáp ứng nhu cầu của nhiều
ngành khoa học trong xã hội. Giải
phẫu là một môn học cơ bản của
nghệ thuật tạo hình nhưng phương
pháp của nó có một số điểm không
giống với nhiều ngành khoa học
khác. Trong mĩ thuật học, việc
nghiên cứu giải phẫu không đi sâu
vào phần sinh lí mà chú trọng vào
hình thái, tỉ lệ, cấu trúc các bộ phận
của cơ thể để vận dụng diễn tả con
người.
Kết quả khảo sát cho thấy số lượng các TNMT được tạo ra từ phương
thức chuyển thuật ngữ từ ngành khoa học khác không nhiều, chỉ có 147/1.320
thuật ngữ, chiếm 11,13% trên tổng số TNMT được khảo sát.
2.7.3. Tiếp nhận thuật ngữ mĩ thuật nước ngoài
Trong mấy thập kỉ gần đây, khi mà tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ
phát triển đã phát huy đầy đủ các chức năng xã hội của mình và được sử dụng
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; khi sự hội nhập toàn diện về mọi mặt của
nước ta không chỉ đóng khung trong khu vực mà đã mở rộng trong phạm vi quốc
tế, thì việc tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài có xu hướng tăng lên nhanh chóng.
Việc tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài thường theo hai xu hướng. Đó là:
a. Sao phỏng cấu tạo và dịch nghĩa thuật ngữ mĩ thuật nước ngoài
Sử dụng những yếu tố và MHCT từ của tiếng Việt để tạo ra các thuật
ngữ tiếng Việt hoặc dịch nghĩa những thuật ngữ tương ứng từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt. Phương thức này được gọi là sao phỏng. Ví dụ: bìa
97
sách là sự sao phỏng cấu tạo của book cover, trong đó bìa tương ứng với
cover, còn sách tương ứng với book. Cũng vậy, điểm tụ là sự sao phỏng cấu
tạo của vanishing point, trong đó điểm tương ứng với point, còn tụ tương ứng
với vanishing. Khảo sát hệ thống TNMTTV, chúng tôi đã xác định được hàng
loạt các TNMT nước ngoài được sử dụng trong hệ thống TNMTTV theo
phương thức sao phỏng cấu tạo từ và sao phỏng ý nghĩa.
Sao phỏng cấu tạo từ là quá trình dùng chất liệu của tiếng Việt để cấu tạo
một đơn vị từ vựng dựa theo mô hình kết cấu của đơn vị tương ứng trong
tiếng nước ngoài. Thực chất của phương thức này là dịch trong thành tố cấu
tạo thuật ngữ hoặc từng từ trong thành phần cấu tạo thuật ngữ tiếng nước
ngoài ra tiếng Việt.
Ví dụ:
Book jacket : áo bìa
Wall painting : bích họa
Basic structure : cấu trúc cơ bản
Self – portrait : chân dung tự họa
General posture : dáng chung
View – point : điểm nhìn
Horizin line : đường chân trời
Water - colour paper : giấy vẽ màu nước
Dominant colour : màu chủ đạo
Contrasting colour : màu tương phản
Water colour : màu nước
Applied arts : mĩ thuật ứng dụng
Industrial arts : mĩ thuật công nghiệp
v.v…
Sao phỏng ý nghĩa là quá trình dịch khi người dịch không tìm được từ
ngữ trong tiếng mẹ đẻ có ý nghĩa tương đương với từ ngữ nước ngoài cần
98
dịch, do đó người dịch phải tạo ra một từ ngữ khác trong ngôn ngữ của mình
để diễn đạt ý nghĩa mới mẻ đó.
Ví dụ:
To combine : pha màu
Reproduction : phiên bản
Superrealism : phong cách cực thực
Tones- value : sắc độ
Black lacquer : sơn then
Plastic : tạo hình
Design : thiết kế
v.v…
“Đặc điểm chung của những thuật ngữ đang xét là có tính dân tộc về
hình thái và có tính quốc tế về ngữ nghĩa. Bởi vì, nếu chỉ xét về hình thái, thì
có thể coi những thuật ngữ này là thuật ngữ tân tạo trong tiếng Việt, là thuật
ngữ Việt. Nhưng nếu xét về ngữ nghĩa, tức là mặt khái niệm do các thuật ngữ
này biểu thị thì có thể coi chúng là thuật ngữ quốc tế” [92; 29]. Rõ ràng
những yếu tố Việt, nếu được sử dụng đúng có thể trực tiếp gợi ra được sự
hiểu biết đúng đắn dễ dàng về khái niệm của thuật ngữ, làm cho thuật ngữ có
đầy đủ tính chất khoa học, dân tộc lại vẫn đảm bảo tính quốc tế, làm cho
người sử dụng dễ dùng, dễ hiểu, dễ nhớ.
Cấu tạo thuật ngữ theo phương thức sao phỏng một mặt đòi hỏi phải có
kiến thức sâu về tiếng Việt và tiếng nước ngoài, mặt khác, phải có những hiểu
biết sâu về chuyên ngành mà thuật ngữ được sử dụng. Trong quá trình chuyển
dịch thuật ngữ nước ngoài, đã có một số thuật ngữ phù hợp bằng tiếng Việt
được tạo ra dựa trên nghĩa của thuật ngữ nước ngoài. Có thể khẳng định rằng
số lượng các TNMTTV được tạo ra theo phương thức sao phỏng cấu tạo và
dịch nghĩa chiếm tỉ lệ không nhỏ trong hệ thống TNMTTV. Kết quả nghiên
cứu hệ thống TNMTTV của chúng tôi cho phép khẳng định rằng, rất nhiều
99
TNMT tiếng Viêt được tạo ra bằng phương thức này. Có 691/1.320
TNMTTV được tạo ra từ các TNMT nước ngoài bằng phương thức sao phỏng
(sao phỏng cấu tạo và dịch nghĩa), chiếm 52,34%.
b. Tiếp nhận trực tiếp thuật ngữ mĩ thuật nước ngoài
Tạo ra thuật ngữ bằng phương thức dịch nghĩa hay sao phỏng cấu tạo là
con đường xây dựng hệ thống thuật ngữ tiếng Việt nói chung, TNMTTV nói
riêng, dựa vào nội lực của tiếng Việt, trên cơ sở tiếng Việt. Khi nào không hoặc
chưa tìm được khả năng thuật ngữ hoá từ ngữ thông thường và cấu tạo thuật
ngữ bằng sao phỏng thì các nhà khoa học tìm đến con đường thứ ba: con đường
tiếp nhận trực tiếp thuật ngữ nước ngoài. Cùng với sự phát triển của tiếng Việt,
nhiều thuật ngữ nước ngoài đã thâm nhập, đã có mặt trong hệ thống TNMTTV.
Các thuật ngữ loại này có số lượng không nhiều trong hệ thống TNMTTV. Đặc
trưng của lớp thuật ngữ đang xét là có tính quốc tế cao cả về mặt hình thái cũng
như mặt ngữ nghĩa. Cho nên có thể gọi lớp thuật ngữ này là lớp thuật ngữ quốc
tế. Các TNMT nước ngoài khi thâm nhập vào tiếng Việt đã được thể hiện dưới
nhiều dạng khác nhau, có cách đọc và cách viết khác nhau. Nhìn một cách tổng
quát, có hai cách cơ bản xử lí các TNMT nước ngoài khi tiếp nhận vào hệ
thống TNMTTV (trừ cách sao phỏng hay dịch nghĩa đã nêu trên) - đó là dùng
chất liệu tiếng Việt để phiên âm, chuyển tự các thuật ngữ nước ngoài và giữ
nguyên dạng thuật ngữ nước ngoài (chủ yếu là các thuật ngữ có nguồn gốc từ
tiếng Anh/ Mỹ, Pháp, các ngôn ngữ có chữ viết sử dụng chữ cái Latin).
Phiên âm là ghi lại cách phát âm các từ ngữ của một ngôn ngữ bằng hệ
thống kí hiệu riêng hoặc bằng hệ thống chữ cái của một ngôn ngữ khác. Các
TNMT nước ngoài được tiếp nhận vào tiếng Việt bằng con đường phiên âm
tức là dùng hệ thống chữ cái tiếng Việt để ghi lại cách phát âm các thuật ngữ
này theo cách phiên âm ngữ âm học (phát âm thế nào thì ghi lại như thế).
100
Ví dụ:
Aquatint - a-qua-tanh
Acrylic a-cri-lich
Bauhaus bau-hau
body art bo-đi-at
Dada đa-đa
Design đi-dai
Gallery ga-lơ-ri
Guernica ghéc-ni-ca
Gouache Goát
Maquette ma-ket
Mannequin ma-nơ-canh
Panel pa-nô
pochoir (tiếng Pháp)
tempera
pô-soa
tăm-pê-ra
Số lượng các TNMT tiếng Việt được mượn nguyên dạng theo cách phiên
âm như trên không nhiều, chỉ có 97/1.320 thuật ngữ, chiếm tỉ lệ nhỏ 7,37%.
Trong hệ thống TNMTTV không có các thuật ngữ nước ngoài được được tiếp
nhận nguyên dạng. Cách tiếp nhận thuật ngữ nước ngoài vào tiếng Việt (cả ba
hình thức: phiên âm, chuyển tự và nguyên dạng) nói chung được áp dụng
nhiều hay ít là phụ thuộc vào tốc độ phát triển thuật ngữ của từng chuyên
ngành, vào đặc điểm thuật ngữ của từng lĩnh vực chuyên môn, từng ngành
khoa học. Kết quả khảo sát và thống kê của chúng tôi cho thấy, trong ngành
mĩ thuật học các thuật ngữ nước ngoài xuất hiện dưới dạng phiên âm và
nguyên dạng với số lượng ít hơn nhiều so với hệ thống thuật ngữ của các
ngành khoa học kĩ thuật.
Sau đây là bảng tổng hợp kết quả khảo sát các phương thức tạo thành
thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt:
101
Bảng 2.6: Tổng hợp các phương thức tạo thành thuật ngữ mĩ thuật
tiếng Việt
STT Các phƣơng thức tạo thành thuật ngữ Số
lƣợng
Tỉ lệ
(%)
1. Chuyển từ thông thường thành thuật ngữ mĩ thuật: 385 29,16
2. Chuyển thuật ngữ từ ngành khoa học khác thành thuật
ngữ mĩ thuật: 147 11,13
3. Tiếp nhận thuật ngữ mĩ thuật nước ngoài:
a. Sao phỏng cấu tạo và dịch nghĩa thuật ngữ mĩ
thuật nước ngoài
b. Tiếp nhận trực tiếp thuật ngữ mĩ thuật nước
ngoài (phiên âm, nguyên dạng)
691
97
52,34
7,37
Tổng cộng 1.320 100
Tiểu kết:
Chương này dành cho việc miêu tả, phân tích các đặc điểm cấu tạo của
1.320 TNMTTV được thu thập để khảo sát và tìm hiểu những phương thức
tạo thành hệ thống TNMTTV. Cơ sở việc phân tích và miêu tả các đặc điểm
cấu tạo TNMT được dựa trên YTCT thuật ngữ theo quan điểm của các nhà
ngôn ngữ học Xô Viết. TNMTTV được tìm hiểu đặc điểm cấu tạo trên nhiều
phương diện. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, ở bình diện cấu tạo, TNMTTV
có sự phân bố khác nhau về YTCT, phương thức cấu tạo, quan hệ ngữ pháp,
mô hình và nguồn gốc các YTCT, trong đó nổi bật nhất đó là thuật ngữ được
cấu tạo chủ yếu từ 1, 2 và 3 yếu tố. Trong đó, các thuật ngữ được cấu tạo từ 2
và 3 yếu tố có số lượng lớn. Điều này đã kéo theo các mô hình có sức sản sinh
102
cao cũng thuộc về 2 nhóm thuật ngữ này. Ở phương thức cấu tạo, quan hệ ngữ
pháp và từ loại của các yếu tố cấu tạo TNMT đã chứng tỏ ưu thế vượt trội của
các thuật ngữ là cụm từ chính phụ và từ loại danh từ, còn trên phương diện
nguồn gốc kết quả cũng cho thấy rõ ưu thế của các yếu tố Hán Việt trong việc
cấu tạo TNMTTV. Đặc điểm cấu tạo của TNMTTV thuộc 2 loại - thuật ngữ
có cấu tạo là từ và thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ.
Kết quả thống kê cho thấy, trong 1.320 TNMTTV được khảo sát có
566 thuật ngữ có cấu tạo là từ, chiếm 42,88% tổng số TNMT được khảo
sát. Trong số 566 TNMT là từ có 459 thuật ngữ là từ ghép, chiếm 81,09%
và 107 thuật ngữ là từ đơn, chiếm 18,90%.
Về mặt từ loại, TNMTTV có cấu tạo là từ chủ yếu là danh từ/cụm
danh từ và tính từ/cụm tính từ để gọi tên khái niệm, thể loại, sản phẩm,
ngôn ngữ, trường phái, hoạt động, dụng cụ và chất liệu thuộc lĩnh vực nghệ
thuật tạo hình.
Về nguồn gốc, đơn vị cấu tạo thuật ngữ tức các YTCT thuật ngữ (đó là
tiếng đối với các thuật ngữ là từ và là từ đối với các thuật ngữ là cụm từ), có
thể nhận thấy có sự tham gia của cả 3 loại yếu tố: Việt, Hán Việt và Ấn Âu.
Trong đó, tuyệt đại đa số (72,24%) các TNMTTV là từ ghép hoặc các cụm từ
định danh được tạo thành bằng sự kết hợp các yếu tố: Hán Việt, Hán Việt +
Việt, Hán Việt +Việt + Ấn Âu. Đây là đặc điểm tương đối khác biệt của hệ
thống TNMTTV so với các hệ thống thuật ngữ khác của tiếng Việt.
Trong số 1.320 TNMTTV đã thu thập, có 566 thuật ngữ có cấu tạo là
từ, chiếm 42,88% tổng số TNMT được khảo sát. Còn lại 754 TNMT có cấu
tạo là cụm từ, chiếm 57,12%. Trong số 754 TNMTTV là cụm từ thì đại đa
số đều có cấu tạo là những cụm từ chính phụ có từ hai yếu tố (là các từ) trở
lên: một yếu tố trung tâm đứng làm nòng cốt, các yếu tố khác được ghép vào
sau yếu tố chính có chức năng bổ sung ý nghĩa cho yếu tố trung tâm. Theo
kết quả thống kê và phân loại của chúng tôi, TNMT là cụm từ có cấu tạo từ
103
2 đến 6 yếu tố. Tuy nhiên, thực tế khảo sát và phân tích đặc điểm cấu tạo
TNMT cho thấy chỉ các thuật ngữ có cấu tạo từ 2 đến 4 yếu tố có số lượng
lớn, các thuật ngữ có cấu tạo đến 5, 6 yếu tố có số lượng rất nhỏ.
Về mặt từ loại, thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ chủ yếu là cụm danh từ,
cụm tính từ và cụm động từ có tỉ lệ không đáng kể.
Về nguồn gốc, các yếu tố cấu tạo thuật ngữ là cụm từ được sử dụng nhiều
nhất vẫn là yếu tố Hán Việt, Việt kết hợp với Hán Việt. Sự kết hợp của các yếu
tố này rất đa dạng và phong phú. Có nhiều thuật ngữ được tạo bởi cách ghép lai
bằng sự kết hợp của các yếu tố khác nguồn gốc với các kiểu trật tự khác nhau:
Việt - Hán Việt, Hán Việt - Việt, Việt - Hán Việt - Ấn Âu.
Về cách cấu tạo, tuyệt đại đa số TNMTTV là cụm từ có cấu tạo giống
như thuật ngữ là từ ghép, nghĩa là đều được tạo nên chủ yếu theo mô hình
chính phụ: yếu tố chính đứng trước, yếu tố hoặc tổ hợp yếu tố phụ đứng sau.
Chính MHCT phổ biến này đã làm nên tính hệ thống về cấu tạo của thuật ngữ
mĩ thuật tiếng Việt nói riêng, thuật ngữ khoa học tiếng Việt nói chung.
Tư liệu thực tế cho thấy một số TNMTTV có cấu tạo nhiều yếu tố (từ 4
yếu tố trở lên) thường chứa các kết từ ngữ pháp và các yếu tố miêu tả thuộc
tính đối tượng khiến thuật ngữ có hình thức dài mang tính chất là cụm từ miêu
tả, hay định nghĩa đối tượng hơn là định danh tổng quát đối tượng. Có một số
thuật ngữ có thể loại bỏ kết từ ngữ pháp và các yếu tố thừa dư để thuật ngữ
gọn hơn và chặt chẽ hơn, mang tư cách là đơn vị định danh hơn.
Về các phương thức tạo thành hệ thống TNMTTV, chúng tôi đã xác định
được 3 phương thức cơ bản: Chuyển từ thông thường thành thuật ngữ mĩ thuật;
Chuyển thuật ngữ từ ngành khoa học khác thành thuật ngữ mĩ thuật; Tiếp nhận
thuật ngữ mĩ thuật nước ngoài bằng con đường sao phỏng cấu tạo, dịch nghĩa
và mượn nguyên dạng (phiên âm và giữ nguyên dạng). Trong ba phương thức
này thì phương thức tiếp nhận TNMT nước ngoài theo cách sao phỏng cấu tạo
và dịch nghĩa là phương thức chủ đạo, đã tạo thành số lượng lớn (691/1320 thuật
104
ngữ, chiếm 52,34%) TNMTTV bằng cách sử dụng chất liệu tiếng Việt, các
phương thức tạo từ của tiếng Việt. Việc tạo ra các TNMTTV theo phương thức
này vừa đảm bảo tính chính xác, tính quốc tế của khái niệm do thuật ngữ biểu
thị, đồng thời lại thể hiện được tính dân tộc của thuật ngữ. Việc tiếp nhận TNMT
ngữ nước ngoài theo cách phiên âm và giữ nguyên dạng ít được dùng, chỉ có
97/1320 TNMTTV, chiếm 7,37%. Phương thức chuyển từ thông thường thành
TNMTTV cũng là một phương thức quan trọng trong việc tạo ra các TNMTTV.
Có 385/1320 TNMT được tạo ra bằng phương thức chuyển từ thông thường
thành TNMT, chiếm 29,16%. Có 147/1320 TNMT được tạo ra bằng phương
thức chuyển thuật ngữ từ ngành khoa học khác thành TNMT, chiếm 11,13%.
105
Chƣơng 3
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA VÀ ĐỊNH DANH CỦA THUẬT NGỮ
MĨ THUẬT TIẾNG VIỆT
3.1. Ý nghĩa của thuật ngữ
Theo quan niệm của G.O.Vinokur, thuật ngữ không phải là từ ngữ đặc biệt
mà là từ hay cụm từ trong chức năng đặc biệt. Điều này hoàn toàn đúng vì thực tế
là phần lớn các đơn vị từ vựng được xem là thuật ngữ, hoặc được thu hút vào hệ
thống thuật ngữ, đều bắt nguồn từ các đơn vị từ vựng không chuyên biệt của hệ
thống ngôn ngữ. Cho nên một đơn vị từ vựng có thể tồn tại trong ngôn ngữ vừa
như một thuật ngữ vừa như một từ - phi thuật ngữ, thí dụ: mũi (mũi người) - mũi
(mũi tàu), than (các chất rắn, thường màu đen, dùng làm chất đốt) - than (chất
liệu để vẽ, thành phần gồm bột than hoặc muội trộn với chất kết dính), dáng (dáng
người) - dáng (tư thế ngồi - thuật ngữ mĩ thuật),...Về phương diện ngôn ngữ học
của thuật ngữ, thì cần phải xác định không phải là thuật ngữ, mà là đơn vị từ vựng
có các đặc trưng cuả thuật ngữ. Đơn vị từ vựng đó có thể là bất kì đơn vị nào có
chức năng định danh, hơn nữa sự định danh ở đây có đặc thù là biểu đạt khái niệm
chuyên môn trong hệ thống khái niệm. Nghĩa là đối với ngôn ngữ học thì thuật
ngữ - là đơn vị chức năng. Thuật ngữ là công cụ, là phương tiện biểu đạt tư duy
khoa học thì nghĩa được biểu đạt là khái niệm. Vì thuật ngữ là ở dạng đơn vị từ
vựng, đơn vị ngôn ngữ, cho nên chúng ta có toàn quyền để khằng định rằng: "đơn
vị từ vựng của ngôn ngữ tự nhiên là cái “ tầng nền” (sybtrat) ngôn ngữ tự nhiên
của thuật ngữ; thuật ngữ trưởng thành lên từ đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ tự
nhiên nhất định. Cần bổ sung thêm rằng: thuật ngữ “substrat” (tầng nền) ở đây sử
dụng trong cái nghĩa chung cho nhiều khoa học, nó tương ứng với cái duyên do
của từ gốc Latin “substratum” - nghĩa là "cơ sở, nền, nền tảng" [81; 24].
Như vậy, "thuật ngữ là đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ nhất định
(dùng) cho những mục đích chuyên biệt, biểu đạt khái niệm chung, cụ thể
hay trừu tượng, của lí thuyết thuộc một lĩnh vực chuyên môn nhất định của
106
các tri thức hay hoạt động" [142; 32]. Định nghĩa này đã nhấn mạnh mấy
điểm quan trọng nhất như sau:
1. Thuật ngữ có tất cả các đặc trưng ngữ nghĩa và hình thức của từ và
cụm từ của ngôn ngữ tự nhiên;
2. Thuật ngữ hiện diện chính là trong vốn từ vựng của các ngôn ngữ
dùng cho những mục đích chuyên biệt, chứ không phải trong vốn từ vựng của
một ngôn ngữ tự nhiên nào đó nói chung;
3. Trong vốn từ vựng của các ngôn ngữ dùng cho những mục đích
chuyên biệt, thì thuật ngữ phục vụ với tư cách là phương tiện biểu đạt các
khái niệm chuyên môn chung, đó là kết quả của sự tri nhận trong những phạm
vi chuyên môn của các tri thức và (hay) hoạt động;
4. Thuật ngữ là yếu tố của các hệ thống thuật ngữ phản ánh (mô hình
hóa) các lí thuyết mà nhờ các lí thuyết này miêu tả được các lĩnh vực chuyên
môn, tức là các đối tượng của các ngôn ngữ dùng cho những mục đích
chuyên biệt.
Tóm lại, cách xác định thuật ngữ học về thuật ngữ xuất phát từ: thuật
ngữ là một đối tượng đặc biệt, khác với từ và cụm từ như là đối tượng của
ngôn ngữ học. Mặc dù trong đa số trường hợp thuật ngữ học xem xét cùng các
đơn vị từ vựng đó như là ngôn ngữ học, nhưng ở thuật ngữ có những đặc
trưng khác. Đối với thuật ngữ có những yêu cầu chuẩn mực khác với những
yêu cầu mà ngôn ngữ học đòi hỏi ở các đơn vị từ vựng khác. Và chỉ trong ý
nghĩa đó có thể nói rằng: thuật ngữ - đó là những từ đặc biệt. Khi xem xét
thuật ngữ từ góc độ ngôn ngữ học như một đơn vị từ vựng, ta sẽ phân chia ra
hai mặt: nội dung và hình thức. Về mặt nội dung, đó không chỉ là ý nghĩa của
thuật ngữ mà chính là cấu trúc nội dung của thuật ngữ. Cấu trúc nội dung của
thuật ngữ thể hiện trong mối quan hệ giữa khái niệm và ý nghĩa từ vựng của
thuật ngữ. Thuật ngữ có ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa này là khái niệm. Nghĩa
của thuật ngữ là khái niệm chuyên môn. "Ý nghĩa của thuật ngữ thường gắn
107
liền với một ý nghĩa nào đó của một từ chung, đó là hiện tượng đa nghĩa của
một từ nhưng là hiện tượng đa nghĩa bậc hai, hình như nó đã vượt qua giới
hạn, đã ở trong phạm vi thuật ngữ chuyên môn" [126; 48]. Chẳng hạn, từ màu
trong tiếng Việt có các nghĩa sau:
1. Thuộc tính vật thể hiện ra nhờ tác động của ánh sáng và nhận biết được
bằng mắt, cùng với hình dáng giúp nhận biết vật này với vật khác. Màu đỏ của
hoa phượng.
2. Chất dùng để tô thành các màu khi vẽ. Pha màu. Hộp màu.
3. Màu, không kể trắng và đen (nói khái quát). Quần áo màu. Ảnh màu.
Phim màu.
4. Toàn bộ nói chung những biểu hiện bên ngoài tạo nên cảm giác có
tính chất nào đó. Bầu không khí đượm màu tang tóc [124; 791]
Trong các nghĩa đó, chỉ có nghĩa 3 là nghĩa thuật ngữ, mặc dù nghĩa này
vẫn nằm trong hệ thống ý nghĩa của từ màu. Đây là một trong những phương
thức cơ bản để tạo ra thuật ngữ: chuyên biệt hóa nghĩa của từ thông thường.
Như vậy, nghĩa của thuật ngữ là nghĩa của đơn vị từ vựng của ngôn ngữ
tự nhiên thực hiện chức năng của thuật ngữ khi mà nó có chức năng đó. Theo
đó, một bộ phận lớn các đơn vị từ vựng là có nghĩa định danh: chúng gọi tên
cái khái niệm chuyên môn (lớp đối tượng) mà thuật ngữ tương quan. Nếu đơn
vị từ vựng này có nhiều nghĩa định danh thì cái nghĩa định danh xác lập quan
hệ của nó với khái niệm chuyên môn trong phạm vi ngôn ngữ dùng cho
những mục đích chuyên biệt, sẽ hạn định nó với các nghĩa từ vựng còn lại của
đơn vị từ vựng đó. Ví dụ từ bút phun trong chức năng là thuật ngữ mĩ thuật có
nghĩa định danh của nó. Bút phun là "một dụng cụ phun sơn hay phun véc ni
qua áp lực khí nén, trông giống như một cây bút lớn quá khổ và vận hành
bằng cách ấn ngón tay trỏ lên một cái nút hoặc cần điều chỉnh lượng khí.
Dụng cụ này được các họa sĩ, nhất là họa sĩ vẽ Trừu tượng và Siêu thực rất
hay dùng để phun, vẽ lên mặt tranh" [87; 29]. Như vậy, ý nghĩa của thuật ngữ
108
- đó là định nghĩa khái niệm, là lời định nghĩa được quy vào cho thuật ngữ.
Một thuật ngữ có thể biểu đạt một khái niệm và chỉ một mà thôi. Vì vậy,
nhiều công trình nghiên cứu về thuật ngữ đã quy ước không nói về ý nghĩa mà
về cấu trúc nội dung của thuật ngữ. Thuật ngữ là một đơn vị ngôn ngữ hoàn
chỉnh về ngữ nghĩa mà nghĩa của nó không trực tiếp suy ra từ nghĩa của các
thành tố được hợp nhất theo mô hình cấu trúc - ngữ nghĩa tương ứng.
Cấu trúc nội dung của thuật ngữ được gọi là các phương thức ngữ
nghĩa cấu tạo thuật ngữ. Nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, chúng ta sẽ thấy
những quá trình ngữ nghĩa bình thường - ẩn dụ hóa, hoán dụ hóa, chuyển
đổi tên gọi theo chức năng, hay ngắn gọn hơn đó là các quá trình định danh
thứ cấp - đều là sự phát triển các ý nghĩa thứ cấp của đơn vị từ vựng cũng
là những phương thức tạo nên ý nghĩa của thuật ngữ.
Cách phân tích ngôn ngữ học về ý nghĩa của thuật ngữ ở đây cho thấy
có một bước chuyển từ các đặc trưng của tầng nền ngôn ngữ - tức đơn vị từ
vựng của một ngôn ngữ tự nhiên - sang sự xuất hiện ở đơn vị từ vựng này các
đặc trưng ngữ nghĩa của thuật ngữ, tức là sang sự hình thành trong cấu trúc
nội dung của nó cái bản chất thuật ngữ học.
Khi nghiên cứu cấu trúc nội dung của thuật ngữ, D.S. Lotte đã chỉ ra
rằng các thuật ngữ hiện nay được xây dựng chủ yếu trên cơ sở của những từ
đã sẵn có. Để thuật ngữ hóa những từ này, "người ta áp dụng phương pháp
cấu tạo từ phức, từ phái sinh, rút gọn và cụm từ. Tuy nhiên tất cả những
phương pháp đó còn lâu mới đáp ứng được những đòi hỏi của khoa học và kĩ
thuật trong việc đặt tên cho hàng chục nghìn những khái niệm khác nhau. (...)
Chính từ đây đã xuất hiện cái vai trò quan trọng, mà phương pháp đầu tiên để
đặt tên cho những khái niệm khoa học kĩ thuật - phương pháp biến đổi nghĩa
của từ - phải đảm nhiệm. Vì vậy, cần thiết phải phân tích tất cả các dạng biến
nghĩa của từ và xác định xem phương pháp ấy có thể được dùng để cấu tạo
109
các thuật ngữ mới trong những trường hợp nào" [72; 74]. Theo ông, phương
pháp biến đổi ý nghĩa của từ để tạo thành thuật ngữ có các trường hợp sau:
a. Thay đổi ý nghĩa của các từ trong vốn từ vựng của ngôn ngữ;
b. Sự chính xác hóa và biến nghĩa của thuật ngữ do sự phát triển của khái
niệm;
c. Sự dịch chuyển thuật ngữ theo sự đồng phụ thuộc có tính chất phân
loại của các khái niệm;
d. Sự biến đổi nghĩa của các từ khi xây dựng những thuật ngữ thành
phần và thuật ngữ phức hợp" [72; 73- 118].
Sử dụng các phương thức biến đổi nghĩa của từ để tạo thành nghĩa thuật
ngữ của D.S. Lotte nêu trên làm cơ sở khoa học soi chiếu vào hệ thống
TNMTTV, chúng tôi đã xác định được các phương thức biến đổi ý nghĩa của
từ để tạo thành nghĩa thuật ngữ.
3.2. Sự thể hiện ý nghĩa của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt
Cũng giống như các hệ thống thuật ngữ khoa học kĩ thuật khác, các
TNMTTV hiện nay được xây dựng chủ yếu trên cơ sở của những từ đã có sẵn.
Để thuật ngữ hóa những từ này, người ta áp dụng phương thức cấu tạo từ và
cụm từ của tiếng Việt. Tuy nhiên, các phương thức cấu tạo từ và cụm từ cũng
bị chế định bởi các quy tắc kết hợp các đơn vị từ vựng của tiếng Việt: sự kết
hợp các từ với nhau là có giới hạn, các từ không có khả năng kết hợp với bất
kì một đơn vị từ vựng nào cũng được. Hơn nữa, để tạo ra các thuật ngữ thì các
từ, các cụm từ chỉ có thể được sử dụng trong một sự kết hợp với hai, ba hoặc
nhiều là đến sáu thành tố. Thực tế cho thấy, những thuật ngữ có đến sáu
YTCT trở lên đã làm cho chúng trở nên vô dụng trong thuật ngữ học thực
hành. Chính từ thực tế này mà một phương thức đặt tên cho những khái niệm
khoa học để tạo ra thuật ngữ khoa học kĩ thuật nói chung, TNMTTV nói riêng
là con đường biến đổi nghĩa của các từ thường thành nghĩa thuật ngữ theo các
phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ, hoán dụ, mở rộng, thu hẹp nghĩa.
110
Dưới đây chúng tôi sẽ tập trung miêu tả, phân tích những phương thức
biến đổi nghĩa từ thông thường thành nghĩa thuật ngữ trong hệ TNMTTV
được thu thập để khảo sát.
3.2.1. Thu hẹp nghĩa của từ thông thường thành nghĩa thuật ngữ mĩ thuật
Thông thường người ta sử dụng một từ thông thường đã có sẵn và giữ
nguyên thành phần ngữ âm của nó làm thành thuật ngữ mới. Theo cách này,
một từ thông thường nào đó sẽ nhận mang một nội dung hoàn toàn xác định
trong hệ thống TNMTTV, nghĩa là cùng với ý nghĩa đã được ghi nhận từ
trước, nó sẽ mang thêm ý nghĩa mới. Có thể nêu ra một vài ví dụ.
Trong vốn từ vựng tiếng Việt, từ bảng là một từ thông thường có các
nghĩa: "1. Vật có mặt phẳng, thường bằng gỗ, dùng để viết hoặc dán những gì
cần nêu cho mọi người xem. Bản yết thị. Bảng tin. 2. Bảng đen (nói tắt). Gọi
học sinh lên bảng. 3. Bảng kê nêu rõ, gọn, theo thứ tự nhất định, một nội dung
nào đó. Bảng thống kê" [124; 56]. Khi trở thành TNMTTV thì nghĩa của bảng
trong thuật ngữ bảng màu, bảng pha màu đã bị thu hẹp, cụ thể hóa và xác định.
Bảng pha màu: "Bảng phẳng hình chữ nhật hay hình quả thận có khoét
một lỗ có thể luồn ngón tay cái qua để họa sĩ cầm nó trong khi vẽ. Bảng pha
màu được sắp đặt và pha trộn những màu khi vẽ. (...) Bảng pha màu là dụng
cụ làm việc không thể thiếu của mỗi họa sĩ." [94; 15].
Bảng màu: "Sự tập hợp những màu sắc được một họa sĩ sử dụng thường
xuyên (màu đặc trưng của họa sĩ. Ví dụ, bảng màu của họa sĩ Pi-cát-xo từ
năm 1900 đến 1904 là màu lam lạnh lẽo" [87; 14].
Giải phẫu với tư cách là thuật ngữ nhân chủng có nghĩa là "hình dạng và
cấu tạo các cơ quan trong cơ thể sinh vật", trong y học có nghĩa là "mổ để
nghiên cứu hoặc chữa bệnh". Trong ngành mĩ thuật, trong thuật ngữ giải
phẫu tạo hình, thì giải phẫu đã bị thu hẹp nghĩa: với yêu cầu của mĩ thuật,
việc nghiên cứu giải phẫu không đi sâu vào phần sinh lí, cấu tạo của các cơ
quan bên trong cơ thể mà chỉ chú trọng vào hình thái, tỉ lệ, đặc điểm, cấu trúc,
111
hình khối toàn bộ và mọi bộ phận của cơ thể con người khi có những chuyển
biến về hình thái do tác động cử động tạo nên, từ đó "giúp người sáng tác
nghệ thuật diễn tả sinh động và sáng tạo, tránh được những nhược điểm trong
việc dựng và tạo hình dáng con người" [87; 85].
Đem so sánh nội dung của bảng, giải phẫu là những yếu tố của thuật ngữ
mĩ thuât (bảng pha màu, bảng màu giải phẫu tạo hình) với ý nghĩa của từ thông
thường bảng, giải phẫu là thuật ngữ của y học và nhân chủng học, chúng ta thấy
rõ ràng sự biến đổi từ bảng và giải phẫu thành TNMT đã kèm theo sự thay đổi
quan trọng về ý nghĩa của chúng: sự thu hẹp nghĩa. Trong các ví dụ nêu trên, ý
nghĩa mới của từ bảng, giải phẫu có thể được xem là là một biến thể của ý nghĩa
cũ, vì vẫn còn những liên hệ trực tiếp với ý nghĩa cũ của các từ đó.
Dáng là một từ thường có nghĩa là: "Toàn bộ nói chung những nét đặc
trưng của một người nhìn qua bề ngoài, như thân hình, cách đi đứng, cử chỉ"
[124; 318]. Trong ngành mĩ thuật, thuật ngữ dáng có nghĩa hẹp hơn là "tư thế
ngồi, đứng hoặc đi của nhân vật", nghĩa này vẫn có mối liên hệ rõ ràng với
nghĩa gốc ban đầu của từ dáng thông thường.
3.2.2. Mở rộng nghĩa của từ thông thường để tạo thành nghĩa thuật ngữ
mĩ thuật
Theo cách này, một từ thông thường nào đó ngoài nội dung ngữ nghĩa
vốn có sẽ nhận thêm nội dung mới do hoàn toàn xác định trong hệ thống
TNMTTV, nghĩa là cùng với ý nghĩa đã được ghi nhận từ trước, nó sẽ mang
thêm ý nghĩa mới do ngoại diên biểu hiện của nó được mở rộng. Có thể nêu ví
dụ sau đây:
Trong tiếng Việt, bích là một đơn vị từ vựng gốc Hán, không có khả năng
hoạt động độc lập và có nghĩa là "vách, tường" trong các từ: bích báo, bích họa.
Là TNMT, bích họa không chỉ là tranh tường, mà có nghĩa rộng hơn: "Tất cả
các hình vẽ lớn được vạch khắc lên vách hang đá, những tranh vẽ lên tường hay
112
vẽ lên vữa ướt (tranh nề) hoặc tranh ghép mảnh lên tường, tranh vẽ lên trần nhà
vẽ lên mặt trước ngôi nhà đều được gọi là bích họa" [87; 19 -20].
Dao là một từ thông thường có nghĩa là đồ dùng để chặt, cắt, gồm lưỡi
sắc và chuôi cầm. Là yếu tố tạo thành các TNMT như dao khắc, dao nghiền
màu, dao vẽ, dao trổ thì dao đã mở rộng nghĩa do các chức nhau của dụng cụ
này trong hội họa và điêu khắc.
Dao khắc: dao dùng để khắc lên gỗ, cao su, kim loại tạo thành bản khắc
để in tranh khắc gỗ, khắc cao su, khắc kim loại.
Dao vẽ: đồ dùng để pha màu và vẽ sơn dầu. Dao vẽ được làm bằng thép
tốt, có độ dàn hồi lớn với nhiều hình dạng, kích thước lớn nhỏ khác nhau để
dễ dàng trát, day, cạo, vạch, pha màu.
Dao nghiền màu: dao to hơn dao vẽ có độ cứng và độ dày hơn dao vẽ dùng
để nghiền màu trên bảng pha màu, để cạo đi lớp sơn thừa hoặc màu đã khô trên
bảng pha màu, cạo lên mặt sơn đang vẽ hoặc trát các lớp sơn chồng lên nhau.
3.2.3. Biến đổi nghĩa của từ thông thường để tạo thành nghĩa thuật ngữ mĩ
thuật
Khảo sát hệ thống TNMTTV chúng tôi thấy, nhiều TNMT được tạo ra từ
các từ thông thường đã biến đổi ý nghĩa để tạo thành nghĩa mới, là nghĩa thuật
ngữ, không còn có mối liên hệ trực tiếp với bất kì một nghĩa cũ nào của từ đó.
Sự biến đổi ý nghĩa của các từ thông thường để tạo thành thuật ngữ chủ yếu
theo phương thức ẩn dụ và hoán dụ. Có thể nêu một số ví dụ sau đây:
Trong tiếng Viêt, cứng, mềm, tĩnh, động, sượng, rợ, chua, lạnh, nóng, trầm
là những tính từ chỉ tính chất, trạng thái của sự vật hay hiện tượng được cảm nhận
thông qua các giác quan của con người: cứng, mềm, lạnh, nóng là tính chất được
cảm nhận bằng xúc giác; tĩnh, động, rợ là trạng thái được cảm nhận bằng thị giác;
sượng, chua là tính chất được cảm nhận bằng vị giác; trầm là tính chất được cảm
nhận bằng thính giác. Tỉa là một động từ chỉ động tác của con người. Khi trở
113
thành YTCT TNMT, tất cả các từ này đều biến đổi ý nghĩa của mình, tạo ra một
nghĩa mới hoàn toàn theo phương thức ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Cụ thể là:
STT Nghĩa thông thƣờng Nghĩa thuật ngữ
1. Cứng Có khả năng chịu đựng tác
dụng của lực cơ học mà
không bị biến dạng
(khối) cứng: khối được tạo nên bởi
những hình, mảng có cạnh là những
đoạn thẳng, gợi cảm giác yên tĩnh.
2. Mềm Dễ biến dạng dưới tác dụng
của lực cơ học; trái với
cứng.
(khối) mềm: khối có các mặt lồi hoặc
lõm do các hình không có góc cạnh
tạo thành, được dùng để tạo nên
những vật dụng có đường nét, hình
dáng cong mềm mại.
3. Tĩnh Ở trạng thái im ắng, yên
lặng, không ồn ào.
(khối) tĩnh: khối có tỉ lệ giữa các cạnh
và hình dáng cấu tạo tương đối cân
bằng, không quá tương phản.
4. Động Có vị trí, hình dáng, trạng
thái hoặc tính chất không
ngừng thay đổi theo thời
gian; trái với tĩnh.
(khối) động: khối có các thành phần
cấu tạo như đường nét, hình, khối
mang những độ chên lệch về tính chất
và kích thước giữa chúng với nhau để
tạo nên những góc xiên với mặt nằm
ngang.
5. Sượng Ở trạng thái nấu, nung chưa
được thật chín, hoặc bị kém
phẩm chất, không thể nào
nấu cho chín mềm được.
(màu) sượng: sự phối hợp màu sắc
với nhau không hài hòa, gây cảm giác
chối, tức mắt.
6. Chua Có vị như vị của chanh,
giấm.
(màu) chua: sự phối hợp màu sắc với
nhau không hài hòa, gây cảm giác có
vị ủng chua.
7. Lạnh Có nhiệt độ thấp hơn nhiều
so với mức được coi là
trung bình, gây cảm giác
khó chịu; trái với nóng.
(màu) lạnh: màu mang sắc xanh
(xanh lá mạ, xanh lá cây, xanh đậm,
xanh lam, xanh chàm tím...) gây ra
cảm giác lạnh cho con người.
114
8. Nóng Có nhiệt độ cao hơn so với
nhiệt độ cơ thể con người,
hoặc cao hơn mức được coi
là trung bình; trái với lạnh.
(màu) nóng: màu mang sắc đỏ (vàng,
vàng cam, da cam, đỏ cam, đỏ,...) gây
cảm giác nóng cho con người.
9. Trầm (Giọng, tiếng) thấp và ấm. (màu) trầm: màu ít có sự thay đổi về
sắc, những màu nhẹ nhàng, có các độ
chuyển về màu sắc và đậm nhạt khéo
léo, tinh tế.
10. Tỉa Nhổ bớt, cắt bớt ở chỗ quá
dày rậm để cho thưa cho gọn
tỉa: cách vẽ kĩ, tạo ra những nét tỉ mỉ,
chi tiết trong tác phẩm.
Trong các trường hợp nêu trên, các từ cứng, mềm, tĩnh, động, sượng,
chua, lạnh, nóng, trầm, tỉa khi là các YTCT thuật ngữ thì chúng đã mang
các nghĩa mới. Các nghĩa mới này không có liên hệ trực tiếp với bất kì một
ý nghĩa cũ nào của các từ đó. Các khái niệm được biểu thị bằng các thuật
ngữ: khối cứng, khối mềm, khối tĩnh, khối động, màu sượng, màu nóng,
màu chua, màu lạnh, màu trầm, tỉa không những không có mối liên hệ nào
về mặt phân loại mà giữa chúng cũng không có một sự phụ thuộc khách
quan nào. Ở đây, sự biến đổi nghĩa của từ đã xảy ra do việc chúng được sử
dụng để gọi tên những khái niệm mới, những khái niệm có nhiều điểm
giống với những khái niệm mà trước đó các từ này đã biểu thị.
3.2.4. Tạo nghĩa mới cho từ thông thường để tạo thành nghĩa thuật ngữ mĩ thuật
Khi xây dựng thuật ngữ hầu như đều xảy ra sự chuyên môn hóa nghĩa
đen của các YTCT thuật ngữ được lựa chọn. Khi tạo ra các thuật ngữ là các
cụm từ thì nghĩa của các YTCT thuật ngữ thường kèm theo sự thu hẹp, mở
rộng, biến đổi nghĩa hoặc nảy sinh nghĩa mới. Tìm hiểu đặc điểm ngữ nghĩa
của hệ thống TNMTTV chúng tôi thấy có hiện tượng giữ nguyên hình thức
ngữ âm của từ thông thường và cấp cho nó một nghĩa mới khác hẳn với các
nghĩa đã có của từ đó. Nghĩa mới này là nghĩa của từ thông thường khi trở
thành YTCT của thuật ngữ mĩ thuât. Ví dụ:
115
Dã thú là một từ thông thường trong tiếng Việt có nghĩa "thú sống ở
rừng". Khi trở thành TNMT thì nó lại có nghĩa "động vật có sức mạnh tàn
ác, hung dữ (như hổ, báo, sư tử)"; còn khi là yếu tố cấu tạo TNMT trường
phái dã thú thì dã thú có nghĩa mới hoàn toàn để chỉ trường phái hội họa
có "cách dùng màu nguyên chất, chói lọi và sự đơn giản về hình cũng như
luật xa gần" [87; 40].
Đa-đa là một từ trong từ tiếng Pháp (dada) được trẻ con thường dùng để
gọi ngựa gỗ. Khi là yếu tố cấu tạo thuật ngữ chủ nghĩa Đa - đa (dadaism) thì
đa- đa có nghĩa mới hoàn toàn, không còn liên quan gì đến ngựa gỗ nữa. Chủ
nghĩa Đa - đa là "một trào lưu nghệ thuật ra đời khoảng giữa 1915 - 1916, do
một số nghệ sĩ phản đối chiến tranh, lánh sang Thụy Sĩ, thường tụ tập ở quán
rượu Von - te khởi xướng. Cái tên Đa - đa là sự lựa chọn ngẫu nhiên trong từ
điển Pháp - Đức của nhóm này. Trào lưu này mang tư tưởng hư vô, phủ định
lí trí, phủ định mọi giá trị truyền thống, chỉ tôn thờ sáng tạo cá nhân cực
đoan" [87; 45].
Kinh sợ là từ thông thường trong tiếng việt có nghĩa "sợ hãi đến mức
chỉ muốn lánh đi xa". Khi là yếu tố cấu tạo thuật ngữ nghệ thuật kinh sợ thì
từ này đã thay đổi nghĩa hoàn toàn: nghệ thuật kinh sợ là một "thể loại
nghệ thuật có những đề tài khiêu dâm hay nghiên cứu về tình dục thể hiện
một cách phóng túng" [87; 105].
Những ví dụ nêu trên cho thấy, trong các TNMT là cụm từ, các yếu tố
cấu tạo thuật ngữ đã xuất hiện ý nghĩa hoàn toàn mới không có mối liên hệ gì
với các nghĩa đã có của từ đó. Một trong những nguyên tắc xây dựng các hệ
thống thuật ngữ nói chung, hệ thống TNMTTV nói riêng, là sự không phụ
thuộc của ý nghĩa thuật ngữ vào ngữ cảnh sử dụng, kể cả sự bảo toàn ý nghĩa
của nó trong một tổ hợp từ mà nó tham gia. Vì vậy, nghĩa mới của những yếu
tố thuật ngữ này chỉ có được khi nó được sử dụng với tư cách là yếu tố của
các thuật ngữ trong một hệ thống thuật ngữ cụ thể.
116
3.2.5. Biến đổi nghĩa của từ theo sự giống nhau về hình thức để tạo thành
nghĩa thuật ngữ mĩ thuật
Dựa vào sự giống nhau về hình thức, người ta có thể tạo ra một tên gọi cho
một đối tượng mới. Sự giống nhau bề ngoài của hai đối tượng có thể là toàn
phần hoặc chỉ từng phần. Cơ sở biến đổi nghĩa của từ đã có trong hệ thống từ
vựng tiếng Việt để tạo ra một nghĩa mới, nghĩa thuật ngữ, là dựa vào sự giống
nhau về hình thức bề ngoài của đối tượng đã có với đối tượng mới là thuật ngữ
khoa học. Ví dụ, bút là một từ đã có sẵn trong hệ thống từ vựng tiếng Việt có
nghĩa là "đồ dùng để viết, vẽ thành nét". Khi trở thành yếu tố trong TNMT bút
phun, thì bút chỉ còn giữ lại nét nghĩa hình dáng, còn chức năng thì hoàn toàn
thay đổi. Bút phun là một "dụng cụ có hình dạng giống một cây bút máy lớn quá
khổ, dùng để phun sơn hay phun véc ni qua áp lực khí nén lên một diện rộng đều
màu hay phun thành mảng, nét nhỏ".
Dao là một từ đã có sẵn trong hệ thống từ vựng tiếng Việt với nghĩa là "đồ
dùng để cắt, gồm có lưỡi sắc và chuôi cầm". Khi trở thành yếu tố trong các
TNMT dao nghiền màu, dao vẽ thì dao đã mất đi ý nghĩa thông thường của nó,
chỉ còn giữ lại hình thức gần giống con dao thông thường, còn chức năng của
dụng cụ này thì thay đổi hoàn toàn: dao vẽ là đồ dùng của họa sĩ có nhiều hình
dạng, kích thước khác nhau, dùng để pha màu và vẽ sơn dầu, để trát, day, vạch,
cạo,... Dao nghiền màu là đồ dùng của họa sĩ dùng để nghiền màu trên bảng pha
màu. Họa sĩ có thể dùng dao nghiền màu để cạo đi lớp sơn thừa, màu đã khô trên
bảng pha màu hoặc cạo lên mặt sơn đang vẽ, trát các lớp sơn chồng lên nhau.
3.2.6. Dịch nghĩa các thuật ngữ mĩ thuật vay mượn nước ngoài
Bất kì hệ thống thuật ngữ khoa học - kĩ thuật nào của tiếng Việt đều có một
số lượng không nhỏ các thuật ngữ vay mượn tiếng nước ngoài. Các thuật ngữ
vay mượn này có thể được xử lí theo nhiều cách khác nhau. Một trong các cách
xử lí đó là sao phỏng ngữ nghĩa, tức là dịch nghĩa của thuật ngữ đó ra tiếng Việt.
Trong hệ thống TNMTTV được chúng tôi thu thập để khảo sát, nghiên cứu có
117
nhiều thuật ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài, chủ yếu là các thuật ngữ chỉ các
xu hướng, trường phái mĩ thuật, phương pháp sáng tác, các kiểu loại tác phẩm
mĩ thuật. Các thuật ngữ này đều được chuyển sang tiếng Việt bằng cách dịch
nghĩa để bảo đảm tính chính xác của các khái niệm do thuật ngữ biểu thị. Xin
nêu một vài ví dụ:
"Lục pháp luận (Sáu nguyên lí hội họa thời cổ đại Trung Hoa): Nguyên
lí hội họa do họa sĩ Tạ Hách, người Nam Tề đề xướng trong sách "Họa
phẩm". Tạ Hách nêu lên một hệ thống lí luận hoàn chỉnh và khái quát. Đó là
những tiêu chí về sáng tác của hội họa Trung Hoa và trở thành nguyên lí sáng
tác. Đó là:
- Khí vận sinh động: hình tượng tác phẩm thể hiện sức sống phong phú,
nhân vật trong tác phẩm lộ rõ khí chất, tinh thần, tình cảm, phong độ.
- Cốt pháp dụng bút: tác phẩm có bút lực thâm sâu và linh hoạt.
- Ứng vật tượng hình: người vẽ phải nghiên cứu kĩ càng, có thái độ
tương thích và giao hòa với sự vật khách quan.
- Tùy loại phú thái: màu sắc phù hợp với cảm xúc về đối tượng.
- Kinh dinh vị trí: trước khi vẽ, nghệ sĩ phải suy ngẫm, cân nhắc, trù liệu
việc bố trí, sắp đặt cấu trúc bức tranh.
- Truyền di mô tả: sao chép tác phẩm của cổ nhân, học tập kĩ thuật và khí
cốt của các bậc thầy thời xưa để truyền thụ, chuyển giao rộng rãi cho các thế
hệ nối tiếp". [87; 119 - 120].
Pô - soa (pochoir): một phương pháp in được tiến hành như sau: trổ hình
vẽ theo tranh của họa sĩ trên giấy, bìa hoặc kim loại mỏng, sau đó đặt tờ giấy
đã được trổ lên một tờ giấy trắng, lăn màu, dập mà hay gạt màu thật khéo lên
trên; những chỗ được trổ sẽ bắt màu, còn chỗ không được trổ là màng chắn
cản màu [87; 116].
Bo-di-át: Nghệ thuật lấy thân thể làm phương tiện thể hiện. Loại nghệ
thuật này có liên quan với nghệ thuật ngẫu phát (Happening) và nghệ thuật
118
quan niệm (Conceptual art) trong đó thân thể của nghệ sĩ được dùng làm
phương tiện diễn đạt tác phẩm [87; 25].
3.3. Đặc điểm định danh của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt
3.3.1. Một số vấn đề về định danh
3.3.1.1. Khái niệm định danh
Định danh là một trong những chức năng của các đơn vị từ ngữ của
ngôn ngữ. Hiểu một cách đơn giản nhất thì đây chính là chức năng gọi tên:
gọi tên những đối tượng, thuộc tính hoặc những hành động…Yêu cầu của
một tên gọi là:
- Phải khái quát, trừu tượng, phải mất khả năng gợi đến những đặc điểm,
những thuộc tính riêng rẽ tạo thành đối tượng vì nó là sản phẩm của tư duy trừu
tượng. Về mặt ngữ nghĩa, nó phải tách hẳn với những dấu vết của giai đoạn
cảm tính.
- Các tên gọi có tác dụng phân biệt đối tượng này với đối tượng khác
trong cùng một loại hay phân biệt các loại nhỏ trong cùng một loại lớn. Sự
phân biệt này phải dứt khoát, có nghĩa là khi đã có tên gọi thì sự vật này, loại
nhỏ này cũng trở thành độc lập với nhau, riêng rẽ với nhau. Nhờ có tên gọi
mà sự vật có đời sống độc lập trong tư duy. [14; 190]
Tất cả các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ đều có chức năng biểu nghĩa
nhưng phải là một đơn vị cấp độ từ mới có thể định danh. Nhưng cũng chỉ có
các thực từ mới có chức năng định danh, còn các thán từ, liên từ, giới
từ…không có chức năng này. [14; 59]
Như vậy, đối tượng của lí thuyết định danh là nghiên cứu, miêu tả những
quy luật về cách cấu tạo các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ, về sự tác động qua
lại giữa tư duy - ngôn ngữ - hiện thực khách quan. Cơ sở của sự định danh
xuất phát từ mối quan hệ giữa hiện thực - khái niệm - tên gọi. Lí thuyết định
danh phải nghiên cứu và miêu tả cấu trúc của đơn vị định danh, từ đó xác định
những tiêu chí hoặc những đặc trưng cần và đủ để phân biệt đơn vị định danh
119
này với đơn vị định danh khác. Hiện thực khách quan được hình dung như là
cái biểu vật của tên gọi, nghĩa là như toàn bộ các thuộc tính được chia tách ra
trong các hành vi định danh ở tất cả các lớp sự vật do tên gọi đó biểu thị. Còn
tên gọi được nhận thức như là một dãy âm thanh được phân đoạn ứng với một
cấu trúc cụ thể của ngôn ngữ đó. Chính mối tương quan giữa cái biểu vật, cái
biểu nghĩa và xu hướng của mối quan hệ này trong những hành vi định danh
cụ thể sẽ tạo nên cấu trúc cơ sở của sự định danh.
3.3.1.2. Đơn vị định danh
Khi xem xét các đơn vị của ngôn ngữ, lí thuyết định danh phân biệt các
loại đơn vị định danh khác nhau. Nhìn từ số lượng đơn vị có nghĩa tham gia
đơn vị định danh thì có sự phân biệt:
- Định danh đơn: được tạo bởi một đơn vị có nghĩa.
- Định danh phức: được tạo bởi từ hai đơn vị có nghĩa trở lên.
Nhìn từ góc độ ngữ nghĩa thì có sự phân biệt:
- Định danh cơ bản (định danh gốc, định danh bậc một): được tạo bởi
những đơn vị tối giản về mặt hình thái cấu trúc, mang nghĩa đen, được
dùng làm cơ sở để tạo ra các đơn vị định danh khác. Hồ Lê gọi đây là định
danh phi liên kết hiện thực: “gọi tên những mẩu nhỏ nhất trong hiện thực
mà một cộng đồng ngôn ngữ quan niệm đã chia cắt ra được và nắm bắt
được từ hiện thực” [67;102]. Ví dụ như: chè,búp, cây, hoa, đất…
- Định danh phái sinh (định danh bậc hai): là những đơn vị định danh
có hình thái cấu trúc phức tạp hơn đơn vị gốc, mang nghĩa biểu trưng hóa
(dưới hình thức ẩn dụ hay hoán dụ) [37; 8] mà Hồ Lê gọi là đây là định
danh liên kết hiện thực: “Để phản ánh hiện thực khách quan một cách đầy
đủ, không chỉ gọi tên từng mẩu hiện thực nhỏ nhất mà còn phải gọi tên
những tập hợp gồm nhiều mẩu hiện thực liên kết lại” [67; 102]. Ví dụ: bút
lông, bút sắt, bút dạ, bút chì, bút phun, dao vẽ, khắc chìm, đánh bóng, khối
mềm, màu lạnh,…
120
Trong luận án, chúng tôi sử dụng khái niệm định danh cơ bản (định danh
gốc, định danh bậc 1) và định danh phái sinh (định danh bậc 2) để phân biệt
các TNMT với tư cách là các đơn vị định danh.
3.3.1.3. Các nguyên tắc định danh
Một trong những nguyên tắc cơ bản trong định danh là lựa chọn những
đặc trưng (thuộc tính tiêu biểu) mà người ta thường nói là "đập ngay vào mắt"
để gọi tên. Muốn định danh đúng thì phải hiểu rõ nội dung ý nghĩa của khái
niệm, đối tượng được định danh. Dó đó, cơ sở của định danh chính là nội
dung ý nghĩa của sự vật, đối tượng hay khái niệm. Với nguyên tắc này, những
đặc trưng được tri nhận để gọi tên sẽ là dấu hiệu khu biệt, giúp người nói liên
tưởng và hình dung đầu tiên đến sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, Serebrenikov
(1977) cho rằng: "Việc tạo ra từ theo đặc trưng nào đó chỉ là biện pháp thuần
túy kĩ thuật ngôn ngữ. Đặc trưng được chọn chỉ để tạo ra vỏ ngữ âm của từ.
Đặc trưng được chọn để gọi tên hoàn toàn không nói hết bản chất của đối
tượng, không bộc lộ hết tất cả các đặc trưng của nó. Ngoài ra, đặc trưng
được lựa chọn để gọi tên thậm chí có thể là không căn bản, không quan trọng
về mặt thực tiễn” [dẫn theo 110; 32 - 33].
V.G. Gak đã đưa ra nguyên tắc định danh đó là gắn quá trình gọi tên với
hành vi phân loại. "Nếu như cần phải biểu thị một đối tượng X nào đó mà
trong ngôn ngữ chưa có tên gọi, thì trên cơ sở các đặc trưng đã được tách ra
trong đối tượng này, nó được quy vào khái niệm "A" hoặc "B" mà trong ngôn
ngữ đã có cách biểu thị riêng cho chúng và nhận tên gọi tương ứng. Nhưng
đồng thời cũng diễn ra sự lắp ráp bản thân các từ vào hiện thực: khi người ta
bỏ đi một cái gì đó khỏi sự hiểu biết ban đầu của mình, khi thì, ngược lại, bổ
sung thêm một cái gì đó vào sự hiểu biết đầu tiên ấy" [dẫn theo 110; 165].
Như vậy, quá trình định danh một sự vật, tính chất hay quá trình gồm hai
bước là quy loại khái niệm của đối tượng được định danh và chọn đặc trưng
nào để định danh [110; 166 - 167]. Việc chọn đặc trưng bản chất hay không
121
bản chất để định danh một khách thể cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Như
vậy, định danh là cách đặt tên cho một sự vật, hiện tượng. Hành vi định danh
bao giờ cũng gắn với hành vi phân loại. Quá trình định danh một sự vật, một
tính chất hay một quá trình đều gồm hai bước, đó là quy loại khái niệm và
chọn đặc trưng khu biệt. Nếu một trong hai bước này có biến thể thì một vật
hay quá trình được định danh sẽ mang những tên gọi khác nhau. Khi định
danh, trong số rất nhiều đặc trưng của một sự vật, hiện tượng, tính chất hay
quá trình, người ta chỉ chọn những đặc trưng tiêu biểu, phản ánh những đặc
trưng nhất định của một biểu vật. Bên cạnh đó, việc chọn các đặc trưng để
làm cơ sở định danh cho những đối tượng hay khái niệm thuộc phạm vi đời
sống thường nhật có thể có những trường hợp không cần chọn đặc trưng bản
chất, miễn là đặc trưng ấy có khả năng khu biệt giúp cho việc nhận diện đối
tượng hay khái niệm cần định danh.
Hiện thực thường được gọi tên theo cách tri nhận của con người. Sự
gọi tên này tạo ra các từ, các cụm từ cố định, thành một hệ thống từ vựng.
Định danh ở cấp độ từ vựng rất quan trọng với con người: “Với khả năng
đặt tên sự vật, con người hoàn toàn chiếm lĩnh được thế giới tự nhiên cả
trong tồn tại cảm tính và cả trong tồn tại lí tính của nó”[32; 194]. Đỗ Hữu
Châu khẳng định: “Nguyên tắc tạo thành các tên gọi là nguyên tắc lí do
nhưng nguyên tắc chi phối các tên gọi trong hoạt động bình thường của nó
là nguyên tắc không có lí do” [13; 166].
Cách định danh còn cho chúng ta thấy được đặc điểm của loại hình
ngôn ngữ đó: “Cấu tạo từ như thế nào, tức định danh hiện thực như thế
nào, là một tiêu chí quan trọng để phân chia các loại hình ngôn ngữ” [13;
125]. Thông qua định danh thấy được dấu ấn về hiện thực khách quan.
Ngôn ngữ phản ánh thế giới hiện thực khách quan và là chiếc cầu nối với
hiện thực. Hệ thống từ vựng trong ngôn ngữ càng phong phú chứng tỏ con
người nhận thức về thế giới càng sâu sắc.
122
Như vậy, dựa trên nguyên tắc định danh, khi có một đối tượng cần định
danh, người ta sẽ tiến hành các thao tác sau:
i. Quy loại đối tượng mới vào nhóm đối tượng nào đó đã có tên trong
ngôn ngữ;
ii. Vạch ra những đặc trưng vốn có của đối tượng mới rồi chọn một đặc
trưng được coi là tiêu biểu mang tính khu biệt của đối tượng mới với đối
tượng khác;
iii. Sử dụng biện pháp cấu tạo từ theo loại hình ngôn ngữ làm phương
tiện định danh.
Ví dụ, để đặt tên loài cây cảnh cỡ nhỏ, thân có gai, lá kép có răng cưa,
hoa màu hồng,... có hương thơm, quá trình định danh diễn ra như sau: trước
hết, dựa vào các đặc trưng đã được tách ra như trên, người Việt quy nó vào
khái niệm đã có tên gọi trong ngôn ngữ là hoa và chọn cả đặc trưng màu sắc
đập vào mắt cũng đã có tên gọi là hồng. Khi đó, loại cây này sẽ có tên gọi là
hoa hồng. Nhưng sau đó người ta thấy màu sắc hoa của loài cây ấy không
chỉ là màu hồng, mà còn có thể là trắng, đỏ thẫm như nhung, nên đã có các
tên gọi như hoa hồng bạch, hoa hồng nhung, v.v. Định danh có vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống con người. Định danh thể hiện rõ quá trình
nhận thức của con người về thế giới, vì "chỉ có con người mới đặt tên được
cho sự vật. Với khả năng đặt tên cho sự vật, con người mới hoàn toàn chiếm
lĩnh được thế giới tự nhiên cả trong tồn tại cảm tính, cả trong tồn tại lí tính
của nó" [110; 169].
3.3.1.4. Cơ chế định danh
Trong lí thuyết định danh, người ta phân biệt giữa các đơn vị định danh
gốc và các đơn vị định danh phái sinh. Đơn vị định danh gốc là những tên gọi
sự vật, hiện tượng, quá trình hay tính chất,... có hình thức cấu tạo tối giản,
được dùng làm cơ sở tạo nên những đơn vị định danh khác. Ví dụ: tranh, vẽ,
bút, sơn, màu, vải, khắc, đỏ, lam, vàng,... Những đơn vị định danh được hình
123
thành trên cơ sở của một (hoặc nhiều hơn một) đơn vị định danh gốc nhờ cơ
chế cấu tạo nào đó được gọi là đơn vị định danh phái sinh. Ví dụ: tranh >
tranh màu; vẽ > vẽ phác; bút > bút lông,...
Quá trình cấu tạo nên các đơn vị định danh phái sinh có cơ chế nhất
định. Theo Hoàng Văn Hành, muốn xác định rõ cơ chế định danh cần phải
làm rõ hai vấn đề cốt yếu là:
a. Có những yếu tố nào tham gia vào cơ chế này và tư cách của mỗi yếu tố
ra sao?
b. Mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố đó như thế nào mà khiến ta có
thể coi đó là một cơ chế?" [39; 115]
Sự phân tích cứ liệu trong các ngôn ngữ đơn lập (tiếng Việt là tiêu biểu)
cho phép nhận định rằng để có một cơ chế cấu tạo các đơn vị định danh phái
sinh có thể vận hành được một cách có hiệu quả thì cần có một số điều kiện:
- Một là, có một hệ những đơn vị làm yếu tố gốc (nguyên tố).
- Hai là, có một hệ những yếu tố có giá trị hình thái nghĩa là có thể dùng
làm phương tiện để tạo lập những đơn vị định danh phái sinh.
- Ba là, để có đơn vị định danh phái sinh, điều cốt yếu là có một hệ quy
tắc vận hành để sử dụng các hình tố làm phương tiện mà tác động vào nguyên
tố theo một cách nhất định.
Cơ chế vừa nêu thuộc về hệ thống của ngôn ngữ. Nó có tính chất tiềm
năng, xét về mặt lí thuyết. Những sản phẩm của cơ chế này trở thành đơn vị
định danh được ghi nhận vào vốn từ vựng của ngôn ngữ hay không còn phụ
thuộc vào nhân tố thứ tư nữa, một nhân tố không kém phần quan trọng, nhân
tố xã hội. Đó chính là tính đắc dụng hay không đắc dụng của các đơn vị định
danh mới được sản sinh đối với cộng đồng bản ngữ." [37; 26 - 28]
Theo cách hiểu như trên, để tạo ra một đơn vị định danh phái sinh, chúng
ta có hai con đường: ngữ nghĩa và hình thái cú pháp.
124
Bằng con đường ngữ nghĩa, ta có thể nhân khả năng định danh của đơn
vị tổng hợp lên nhiều lần. Một từ cùng với một vỏ ngữ âm phát triển ra bao
nhiêu nghĩa sẽ có bấy nhiêu đơn vị định danh. Mỗi một biến thể từ vựng - ngữ
nghĩa sẽ tương ứng với một đơn vị định danh. Ví dụ: chân trong chân tay là
đơn vị định danh cơ bản (định danh bậc một) nhưng chân trong có chân trong
ban chủ nhiệm hợp tác xã lại là đơn vị định danh phái sinh được tạo ra bằng
con đường ngữ nghĩa.
Theo con đường hình thái cú pháp, người ta có thể tạo ra hàng loạt các
đơn vị định danh phái sinh với các đặc trưng khác nhau về cấu trúc và ngữ
nghĩa. Theo cách này thường có hai quá trình:
- Thứ nhất là quá trình tạo từ với các phương thức thường gặp là:
Phương thức suy phỏng: kiểu như bóp - móp, dìm - chìm…; Phương thức
láy: kiểu như bé - be bé, nhỏ - nho nhỏ, mảnh - mảnh mai…; Phương thức
ghép: trong phương thức này có hai cách: ghép đẳng lập (hội nghĩa, hợp
nghĩa) (như: giày dép, quần áo, đi đứng…) và ghép chính phụ (phân nghĩa,
phụ nghĩa) (như áo tắm, cười ruồi, nói đểu…) và phương thức phụ gia (tuy
nhiên tiếng Việt không sử dụng phương thức này).
- Quá trình thứ hai để tạo các đơn vị định danh phái sinh bằng con đường
cú pháp là quá trình từ vựng hóa những tổ hợp. Đó là quá trình chuyển hóa
những tổ hợp thành những đơn vị mang thành ngữ tính. Tính thành ngữ của
các đơn vị này biểu hiện ở tính bền vững về mặt hình thái cấu trúc và tính
bóng bẩy về mặt ngữ nghĩa với những mức độ khác nhau. Có hai loại tổ hợp
thường được từ vựng hóa: tổ hợp tự do và tổ hợp cố định." [37; 28 - 29]
Định danh phái sinh theo con đường hình thái cú pháp bằng phương
thức ghép chính phụ (phụ nghĩa) (dù là tạo từ hay từ vựng hóa tổ hợp tự
do) cũng chính là gắn việc khu biệt tên gọi với việc phân loại. Quá trình
này gồm hai bước: quy loại khái niệm của đối tượng được định danh và lựa
chọn đặc trưng để định danh. [37; 30 - 43].
125
3.3.2. Đặc trưng định danh của thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt
Như đã trình bày ở mục 3.1, quan điểm thuật ngữ học cho phép ta chỉ ra
cấu trúc nội dung của thuật ngữ - tức cái đơn vị từ vựng của một ngôn ngữ
nhất định dùng cho những mục đích chuyên biệt - dường như từ bên trong.
Theo quan điểm này, thuật ngữ có những thành tố ý nghĩa giống như ở từ phi
thuật ngữ: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm. Quan trọng là ở những kiểu loại
thuật ngữ khác nhau thì các thành tố nghĩa khác nhau. Chẳng hạn, tiểu loại
các danh từ trừu tượng mà phần lớn là thuật ngữ - như tên gọi của các khái
niệm trong hệ TNMTTV (ví dụ như: nghệ thuật, mĩ thuật, trường phái, nghệ
sĩ, hội họa, thư pháp, tranh sơn dầu, tranh thủy mạc, trường phái trừu tượng,
điểm nhìn,...) đều có các nghĩa biểu vật, biểu niệm. Khi sáng tạo ra thuật ngữ
thì hình thức của nó thường là có lí do. Khi phân tích các yếu tố trong thành
phần của thuật ngữ có lí do, quan trọng là các đặc trưng nào của khái niệm
được chọn làm cơ sở định danh và số lượng nào của các đặc trưng này là tối
ưu cho việc tạo ra một thuật ngữ. Về vấn đề số lượng tối ưu các đặc trưng
trong thuật ngữ có lí do, thì cấu trúc nội dung tối ưu của một thuật ngữ cần
bao hàm trong nó tên gọi đối tượng và 01 đặc trưng khu biệt. Đặc trưng khu
biệt này có thể trùng với đặc trưng cơ bản của đối tượng. Ví dụ, các TNMT
gọi tên các dụng cụ để vẽ: bút chì, bút chổi, bút dạ, bút lông, bút sắt, bút phun
là các thuật ngữ có lí do, chỉ có 2 yếu tố: yếu tố tên gọi dụng cụ và yếu tố chỉ
đặc trưng khu biệt dùng để định danh. Dựa trên cơ sở lí luận về định danh,
chúng tôi tiến hành khảo sát TNMT trong tiếng Việt để tìm hiểu cụ thể
ĐĐĐD của chúng. Cụ thể, chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu các vấn đề sau:
- Đặc điểm định danh của các thuật ngữ - đơn vị định danh cơ bản
- Đặc điểm định danh của các thuật ngữ - đơn vị định danh phái sinh.
3.3.2.1. Đặc điểm phương thức định danh cơ bản của thuật ngữ mĩ thuật
tiếng Việt
126
Như ta đã biết, khi xem xét các đơn vị của ngôn ngữ, lí thuyết định danh
phân biệt các loại đơn vị định danh khác nhau. Nhìn từ số lượng đơn vị có
nghĩa tham gia đơn vị định danh thì có sự phân biệt: Định danh cơ bản (định
danh bậc 1): được tạo bởi một yếu tố cấu tạo thuật ngữ; Định danh phái sinh
(định danh bậc 2, định danh miêu tả): được tạo bởi từ hai YTCT thuật ngữ có
nghĩa trở lên.
Trong 1.320 TNMT có 107 thuật ngữ là đơn vị định danh cơ bản. Đó là
các thuật ngữ có cấu tạo là từ đơn, mang nghĩa đen, được dùng làm cơ sở để
tạo ra các đơn vị định danh khác, không có TNMT nào định danh cơ bản có
nghĩa bóng.
Các đơn vị định danh cơ bản chiếm số lượng đáng kể trong tổng số
TNMT (107/1320, chiếm 8,10%). Đây là các thuật ngữ cơ sở để sản sinh các
thuật ngữ là đơn vị định danh phái sinh. Ví dụ: sơn, bút, giáy, hồ, vải, sáp,
tranh, tượng, màu, mẫu, hình, khối, khắc, chạm, khung, giá, đá, nung, gốm,
men, nâu, xám, hồng, lục, tía,...
3.3.2.2. Đặc điểm phương thức định danh phái sinh của thuật ngữ mĩ
thuật tiếng Việt
Tất cả các thuật ngữ là những đơn vị định danh phái sinh trong hệ thống
TNMTTV đều được tạo ra bằng con đường hình thái cú pháp: sử dụng từ hai
đơn vị có nghĩa - 2 yếu tố trở lên. Cụ thể, có 2 quá trình tạo lập các TNMT
kiểu này.
Quá trình thứ nhất là việc tạo từ với phương thức cơ bản là ghép các yếu
tố có nghĩa kết hợp với nhau theo quan hệ ghép chính phụ. Trong đó, phần
lớn yếu tố chính đứng sau, yếu tố phụ đứng trước theo trật tự cú pháp của
tiếng Hán vì đa số các thuật ngữ là từ ghép chính phụ đều là các từ Hán Việt.
Yếu tố chính đứng sau có chức năng quy loại khái niệm, yếu tố phụ đứng
trước biểu thị đặc trưng khu biệt được lựa chọn để gọi tên để xác định nghĩa
cho yếu tố đứng sau. Ví dụ: trong TNMT, thì yếu tố thuật đứng sau có chức
127
năng quy loại, yếu tố mĩ đứng trước biểu thị đặc trưng “tính chất” được lựa
chọn để cấu tạo thuật ngữ. Chỉ có một lượng rất nhỏ thuật ngữ là từ ghép
chính phụ mà các yếu tố chính có nguồn gốc Hán Việt kết hợp với nhau theo
trật tự ngược cú pháp tiếng Việt: chính sau phụ trước, như bảo tàng, bích họa,
biếm họa, cổ đại, chân dung,…
Quá trình thứ hai để tạo các TNMTTV là các đơn vị định danh phái sinh
bằng con đường cú pháp là quá trình từ vựng hóa các tổ hợp từ. Đó là quá
trình chuyển hóa những tổ hợp từ thành những đơn vị định danh mang thành
ngữ tính. Tính thành ngữ của các đơn vị này biểu hiện ở tính bền vững về mặt
hình thái cấu trúc và tính cố định về mặt ngữ nghĩa với những mức độ khác
nhau. Thông thường, có hai loại tổ hợp từ được từ vựng hóa: tổ hợp từ tự do
và tổ hợp từ cố định. Trong hệ thống thuật ngữ TNMTTV chỉ xuất hiện tổ
hợp từ tự do được từ vựng hóa và quan hệ của các yếu tố trong các tổ hợp từ
này cũng là quan hệ chính phụ: Yếu tố chính đứng trước có chức năng quy
loại khái niệm, yếu tố phụ đứng sau biểu thị đặc trưng được lựa chọn để gọi
tên, kiểu như: bút lông, bút sắt, bút phun, bút lông tròn, bút lông dẹt, chân
dung tự họa, chủ nghĩa lập thể, dao nghiền màu, dầu thông, dầu lanh, dao vẽ.
Hai quá trình tạo lập đơn vị định danh phái sinh trong hệ thống
TNMTTV như trên sẽ cho kết quả: có thuật ngữ là các từ và thuật ngữ là các
cụm từ. Trong luận án này, chúng tôi sẽ phân tích sự quy loại khái niệm của
TNMT với tư cách là những đơn vị định danh phái sinh và việc lựa chọn các
đặc trưng khu biệt để gọi tên - thuật ngữ.
"Mĩ thuật là một trong những bộ môn nghệ thuật ra đời sớm nhất của
loài người, khởi đầu bằng sự khai thác và phát huy tác dụng của các nhân tố
không gian như hình khối, đường nét, màu sắc,... để diễn đạt và truyền cảm,
lấy việc kiến tạo các quan hệ không gian làm phương tiện diễn đạt và lấy
việc gây cảm hứng thị giác làm mục đích truyền đạt" [15, tr.5]. Việc quy loại
hệ thống khái niệm của ngành mĩ thuật học trong các TNMTTV là những
128
đơn vị định danh phái sinh thành tố chính của thuật ngữ có chức năng biểu
đạt khái niệm. Do đó, dựa vào thành tố chính có thể xác định được 8 phạm
trù nội dung khái niệm mà TNMT là các đơn vị định danh phái sinh biểu thị.
Tám phạm trù nội dung khái niệm đó là:
1. Xu hướng, trường phái nghệ thuật tạo hình;
2. Loại hình/thể loại nghệ thuật tạo hình;
3. Chủ thể nghệ thuật tạo hình;
4. Ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình;
5. Dụng cụ, công cụ của nghệ thuật tạo hình;
6. Chất liệu của nghệ thuật tạo hình;
7. Hoạt động sáng tạo, kĩ thuật, phương pháp của nghệ thuật tạo hình;
8. Sản phẩm/tác phẩm nghệ thuật tạo hình.
Các thuật ngữ có thành tố chính biểu thị cùng một nội dung khái niệm
sẽ tạo thành một nhóm. Tạo sự khu biệt giữa các thuật ngữ trong nhóm là
chức năng của các thành tố phụ. Hay nói cách khác, thành tố phụ chuyển
tải đặc trưng khu biệt được lựa chọn làm cơ sở định danh cho mỗi thuật
ngữ. Chúng tôi sẽ lần lượt phân tích các đặc trưng khu biệt được lựa chọn
để làm cơ sở định danh cho mỗi thuật ngữ, từ đó xây dựng mô hình định
danh của các thuật ngữ biểu đạt cùng một nội dung khái niệm.
Trong hệ thống TNMTTV, đa số các TNMTTV là các đơn vị định danh
phái sinh đều lựa chọn một đặc trưng để làm cơ sở định danh. Tuy nhiên, cũng
có thuật ngữ chọn hai hoặc ba đặc trưng để làm cơ sở định danh. Vì vậy, chúng
tôi cũng sẽ khảo sát số lần các đặc trưng được lựa chọn để định danh nhằm xem
xét: với mỗi mảng TNMTTV, những đặc trưng nào được lựa chọn nhiều nhất và
đặc trưng nào ít được lựa chọn nhất.
a. Đặc điểm định danh của thuật ngữ chỉ trào lưu, trường phái nghệ thuật
tạo hình
129
Đây là mảng thuật ngữ có số lượng không nhiều đơn vị và các đặc trưng
được lựa chọn để định danh cũng ít nhất: 3 đặc trưng, trong đó hầu như tất cả
các thuật ngữ đều lựa chọn một đặc trưng, các thuật ngữ lựa chọn hai, ba đặc
trưng để làm cơ sở gọi tên trào lưu hay trường phái nghệ thuật tạo hình không
nhiều. Kết quả thống kê, phân loại của chúng tôi đã xác định được 97 thuật
ngữ biểu thị các trào lưu, trường phái nghệ thuật tạo hình, chiếm 7,35% tổng
số các TNMTTV được khảo sát.
Các đặc trưng được lựa chọn để định danh trào lưu, trường phái nghệ
thuật tạo hình là tính chất, địa điểm, tên riêng.
Sau đây là các mô hình định danh của thuật ngữ chỉ trào lưu, trường phái
nghệ thuật tạo hình sử dụng một đặc trưng định danh.
Mô hình 1: Trào lưu/trường phái + tính chất.
Ví dụ: nghệ thuật đại chúng, nghệ thuật "kinh sợ", nghệ thuật hồn nhiên,
nghệ thuật mới, nghệ thuật trừu tượng, khuynh hướng ấn tượng, khuynh
hướng hiện thực, khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hậu ấn tượng,
trường phái dã thú, khuynh hướng siêu thực, khuynh hướng lập thể,...Đây là
mô hình của 32 thuật ngữ với yếu tố chỉ đặc điểm, yếu tố chính chỉ trường
phái, trào lưu nghệ thuật tạo hình đứng trước.
Mô hình 2: Trào lưu/trường phái + tính chất + tên riêng.
Có 26 thuật ngữ theo mô hình định danh này. Ví dụ: nghệ thuật cổ đại
Hy Lạp, nghệ thuật Phục hưng Ý, nghệ thuật cổ đại Lưỡng Hà, khuynh hướng
lập thể Xêdan,...
Mô hình 3: Trào lưu/trường phái + tên riêng.
Có 22 thuật ngữ theo mô hình định danh này. Ví dụ: trường phái Môria
và Xuoonga, trường phái Găngđara, trường phái Matura, trường phái
Amaravati, trường phái Gupsta, nghệ thuật Rômăng, nghệ thuật Gootich,
nghệ thuật Bidăngtanh, nghệ thuật Hồi giáo, nghệ thuật Lưỡng Hà, nghệ
130
thuật Trung Hoa, nghệ thuật Nhật Bản, nghệ thuật Hy Lạp, nghệ thuật La
Mã, nghệ thuật Ấn Độ.
Mô hình 4: Trào lưu/ trường phái + thời gian/thời kì lịch sử.
Có 17 thuật ngữ theo mô hình định danh này. Ví dụ: nghệ thuật thời kì
Trung cổ, nghệ thuật thời kì cổ đại, nghệ thuật thời kì Phục hưng, nghệ thuật
thời kì hậu hiện đại, nghệ thuật đương đại.
b. Đặc điểm định danh của thuật ngữ chỉ loại hình/thể loại nghệ thuật tạo
hình
Mĩ thuật là loại hình nghệ thuật có quan hệ đến sự thụ cảm bằng mắt và
sự tạo thành các hình tượng lấy từ thế giới vật chất bên ngoài để đưa lên mặt
phẳng hoặc một không gian nào đấy. Mĩ thuật gồm có các ngành là: hội họa,
kiến trúc, điêu khắc, đồ họa và trang trí. Mỗi ngành lại được chia ra nhiều
chuyên ngành, thể loại. Kết quả thống kê và phân loại của chúng tôi đã xác
định được 87 thuật ngữ chỉ các loại hình/thể loại nghệ thuật tạo hình, chiếm
6,59% tổng số các TNMTTV được khảo sát.
Các thuật ngữ mĩ thuật thuộc loại này sử dụng một đặc trưng để định
danh theo các mô hình dưới đây.
Mô hình 1: Thể loại + đối tượng, phạm vi được thể hiện
Có 29 thuật ngữ được tạo ra theo mô hình này. Ví dụ: tranh tĩnh vật,
tranh chân dung, tranh sinh hoạt, tranh phong cảnh, tranh sơn thủy, tranh
thảo trùng, tranh hoa điểu, tranh phong tục, tranh tôn giáo, tranh lịch sử,
tranh nhân vật, tranh chiến trận, tranh cách mạng, tranh thần thoại, tranh
thần thánh, tượng tròn (gồm tượng chân dung, tượng trang trí, tương kị sĩ,
nhóm tượng), phù điêu (gồm chạm nổi, chạm khắc), tượng đài,...
Mô hình 2: Thể loại + cách thức, vị trí
Có 27 thuật ngữ được tạo theo mô hình này, ví dụ: tranh giá vẽ, tranh
tường (bích họa), tranh mái vòm, tranh hang động, tranh áp phích, đồ họa
giá vẽ, đồ họa ấn loát,...
131
Mô hình 3: Thể loại + phạm vi sử dụng, chức năng
Có 20 thuật ngữ theo mô hình trên, ví dụ: đồ họa độc lập, đồ họa sách
báo, đồ họa ứng dụng, tranh cổ động, tranh châm biếm, tranh minh họa, đồ
họa quảng cáo, tranh quảng cáo, đồ họa chính trị, đồ họa độc lập, tranh sơn
thủy, tranh thủy mạc,…
Mô hình 4: Thể loại + cách thức/hình thức biểu đạt
Có 11 thuật ngữ theo mô hình này: tượng tròn, phù điêu (phù có nghĩa là
nổi, điêu là đắp, chạm, khắc), chạm thủng, chạm lộng, chạm bong, gò nổi,
chạm chìm, tranh treo, tranh cuốn,...
c. Đặc điểm định danh của thuật ngữ chủ thể của nghệ thuật tạo hình
Chủ thể của nghệ thuật tạo hình có thể được chia thành 5 nhóm tương
ứng với 5 ngành trong mĩ thuật: họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà kiến trúc (kiến
trúc sư), nhà đồ họa, nhà trang trí. Kết quả khảo sát, chúng tôi đã xác định
được 76 thuật ngữ gọi tên các chủ thể của nghệ thuật tạo hình, chiếm 5,76%
tổng số các TNMT được khảo sát. Để định danh các chủ thể của nghệ thuật
tạo hình có thể lựa chọn nhiều loại đặc trưng khác nhau. Sau đây là các mô
hình định danh:
Mô hình 1: Chủ thể + lĩnh vực (hoạt động), trường phái
Đây là mô hình định danh có số lượng thuật ngữ không nhiều. Có 31
thuật ngữ theo mô hình này: họa sĩ chuyên nghiệp, họa sĩ nghiệp dư, nhà
điêu khắc Cực thực, họa sĩ theo phong cách lãng mạn, nghệ sĩ trường phái
Giả động, họa sĩ Kiểu cách, họa sĩ phong cảnh trường phái Barbizon, họa sĩ
trường phái Tân Cổ điển, họa sĩ Biểu hiện Trừu tượng Mĩ, nhà điêu khắc
theo phong cách Baroque, họa sĩ Trường phái Fontainebleau, họa sĩ siêu
thực, họa sĩ trường phái kiểu cách,...
Mô hình 2: Chủ thể + thể loại
Có 26 thuật ngữ theo mô hình trên, chẳng hạn: họa sĩ tĩnh vật, họa sĩ
minh họa sách, họa sĩ tranh lịch sử, họa sĩ phong cảnh, họa sĩ trang trí, nhà
132
vẽ kiểu, họa sĩ tranh sinh hoạt, họa sĩ chân dung, nhà trang trí, nghệ sĩ khắc
bản, nhà đồ họa phong cảnh, họa sĩ thiết kế sân khấu, nghệ sĩ khắc axit, họa
sĩ biếm họa, thợ chạm khắc trang trí, họa sĩ màu nước, nghệ sĩ vẽ cảnh
phông sân khấu, nhà vẽ kiểu vải, nghệ sĩ khắc bản, nhà vẽ kiểu kính màu,
họa sĩ chuyên vẽ chó, họa sĩ chuyên vẽ trò chơi, họa sĩ chuyên vẽ huy hiệu
thợ săn, nghệ sĩ khắc thạch bản, nghệ sĩ vẽ bình hình đỏ, họa sĩ vẽ bình đen,
họa sĩ chuyên vẽ cảnh nông thôn, nghệ sĩ khắc gỗ,…
Mô hình 3: Tổ chức/chủ thể + nhiệm vụ/chức năng
Có 19 thuật ngữ theo mô hình này, ví dụ: nhà bảo trợ nghệ thuật, nhà
viết sử nghệ thuật, máy chiếu tranh, trường vẽ Đường Euston, cuộc Triển lãm
Công nghiệp Quốc tế, nhà phê bình nghệ thuật, phòng triển lãm của các nghệ
sĩ Độc lập, phòng triển lãm tranh bị từ chối, nhà sưu tập nghệ thuật, nhà phê
bình nghệ thuật, hội nghệ sĩ độc lập, nhà buôn tác phẩm nghệ thuật,...
d. Đặc điểm định danh của thuật ngữ chỉ ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình
Mĩ thuật là loại hình nghệ thuật có quan hệ đến sự thụ cảm bằng mắt và
sự tạo thành các hình tượng lấy từ thế giới vật chất bên ngoài để đưa lên mặt
phẳng hoặc không gian nào đấy. Ngôn ngữ mĩ thuật bao gồm các yếu tố như:
hình - khối; đường - nét; màu sắc; sự sắp xếp bố cục, nhịp điệu,...Mỗi loại
hình cụ thể như hội họa, điêu khắc, đồ họa sẽ có cách biểu hiện khác nhau tùy
thuộc vào đặc trưng ngôn ngữ của từng loại hình nghệ thuật. Các thuật ngữ
này chọn một số đặc trưng khác nhau để làm cơ sở định danh theo các mô
hình định danh sau:
Ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình như hội họa gồm có: đường nét, màu
sắc, hình khối, bố cục và nhịp điệu; ngôn ngữ điêu khắc thể hiện bằng hình
khối, màu sắc, đường nét và bố cục; ngôn ngữ đồ họa gồm có đường, nét,
chấm, vạch, mảng, màu. Các thuật ngữ biểu thị ngôn ngữ của nghệ thuật tạo
hình có số lượng lớn nhất với 459 đơn vị, chiếm 34,77% trong tổng số các
133
TNMT được khảo sát. Các thuật ngữ biểu thị ngôn ngữ của nghệ thuật tạo
hình được định danh theo các mô hình sau:
Mô hình 1: Đường nét + phương, hướng
Có 91 thuật ngữ được tạo ra theo mô hình này, ví dụ: đường thẳng đứng,
đường nằm ngang, đường xiên, đường nghiêng, đường cong, đường lượn,
đường gấp khúc, vạch thẳng, vạch đứng,...
Mô hình 2: Đường nét + đặc điểm thể hiện
Có 77 đơn vị theo mô hình này, ví dụ: nét tô, nét tinh, nét rõ, nét mờ, nét
vung vẩy, nét chân thực, nét bay bướm, nét đậm, nét nhạt, nét thanh tú, nét
mềm mại, nét uyển chuyển, nét hoành tráng, nét hùng vĩ, nét dữ dội, vạch
đậm, vạch nhạt, vạch mờ, chấm đậm, chấm nhạt, chấm to, chấm nhỏ, nét
đanh, nét thô, nét bay bướm, nét đóng, nét mở, nét gai, nét trơn…
Mô hình 3: Màu + sắc
Đây là mô hình định danh của 65 thuật ngữ, chẳng hạn: màu đỏ, màu nâu,
màu xanh, màu đen, màu tím, màu hồng, màu vàng, màu sáng, mảng sáng, mảng
tối,…
Mô hình 4: Màu + sắc độ
Theo mô hình này có 56 thuật ngữ, như: màu lục sẫm, màu xanh chàm,
màu lục nhạt, màu xanh thẫm, màu đỏ tươi, màu hồng tươi, màu vàng úa,
màu tái xám, màu nâu đen, màu nâu sẫm, xanh lục nhạt,...
Mô hình 5: Màu + vật đại diện
Theo mô hình này có 53 thuật ngữ, như: màu vàng đất, màu xanh gio,
màu vàng chanh, màu lam gio, màu xanh chàm, màu lục ngọc bảo, màu
dâu chín, màu cá vàng, màu hoa đào, màu hoa hiên, màu nõn chuối, màu
da cam, màu hoa cà, màu lá úa, màu gỉ đồng, màu hạt dẻ, màu xanh cô
ban, màu đỏ rum, màu cánh sen, trắng ti tan, trắng chỉ, trắng kẽm, đen hạt
huyền, vàng crôm, , đen than xương, nâu van dĩ, đỏ cát mi,...
Mô hình 6: Khối + hình
134
Theo mô hình này có 42 thuật ngữ, như: khối hình hộp, khối hình lập
phương, khối hình vuông, khối hình cầu, khối hình tròn, khối hình tam giác,
khối hình chóp, khối hình nón, khối hình trụ, khối hình ống, khối hình lục
lăng, khối hình chữ nhật, khối hình quả bóng, khối hình quả trứng, khối chóp,
khối lập phương, khối tam giác đều, khối cầu, khối chữ nhật, khối trụ, khối
tháp,...
Mô hình 7: Khối + đặc điểm về hình thức
Theo mô hình này có 31 thuật ngữ, như: khối lồi, khối lõm, khối đóng,
khối mở, khối mềm, khối cứng, khối tĩnh, khối động, khối tròn, khối nổi, khối
chìm,,...
Mô hình 8: Bóng + tính chất, phương hướng
Theo mô hình này có 26 thuật ngữ, như: bóng chính, bóng cơ bản, bóng
ngả, bóng phản quang, bóng tương phản, bóng dài, bóng ngắn,...
Mô hình 9: Bóng + sắc độ, hình dáng
Theo mô hình này có 18 thuật ngữ, như: bóng mờ, bóng đậm, bóng nhạt,
bóng sáng, bóng tối, bóng gạch ngang, bóng gạch chéo, bóng gạch xiên, bóng
gạch thẳng, bóng gạch chồng nét,...
đ. Đặc điểm định danh của thuật ngữ chỉ công cụ, dụng cụ của nghệ thuật
tạo hình
Trong nghệ thuật tạo hình, nghệ sĩ sử dụng nhiều loại công cụ, dụng cụ
khác nhau trong sáng tạo nghệ thuật. Các thuật ngữ chỉ công cụ, dụng cụ có
75 đơn vị, chiếm 5,68% trong tổng số các TNMT được khảo sát. Chúng được
định danh bằng một số đặc điểm theo các mô hình sau:
Mô hình 1: Dụng cụ + chất liệu
Mô hình này có 32 thuật ngữ, như: bút chì, bút lông, bút sắt, bút dạ,...
Mô hình 2: Dụng cụ + chức năng, công dụng
Mô hình này có 27 thuật ngữ, như: bàn nặn, bàn xoay, cốt nặn tượng,
dây dọi, dao nặn, bay nạo, bay nặn, dùi nện đất, bút phun, dao khắc, đục
135
chạm, rìu chạm, dao nghiền màu, dao trổ, dao vẽ, dao khắc, giá vẽ, khung
căng vải vẽ, dao dũi, dao rẫy, dao thản, que đo, giá đỡ, bệ đỡ, bút vẽ, bàn
rập, xưởng vẽ, bảng màu, ván gió, đồ khắc, khuôn tô, khuôn thủng, khung
vòm, bản kiểu, bản vuốt, dao trổ, khuôn miếng, ống phun, ống xì, cặp vẽ,
xưởng làm mẫu, bản vẽ mẫu, vật làm mẫu, người làm mẫu, thợ làm mẫu,...
Mô hình 3: Dụng cụ + hình dáng
Mô hình này có 16 thuật ngữ, như: bút chổi, bút lông tròn, bút lông dẹt,
đục bẹt, đục móng, dao chữ V, dao chữ U,...
e. Đặc điểm định danh của thuật ngữ chỉ chất liệu của nghệ thuật tạo
hình
Chất liệu là các vật chất, phương tiện chủ yếu mà người ta dùng để thể
hiện một tác phẩm nghệ thuật. Trong mĩ thuật, chất liệu được sử dụng rất
phong phú và đa dạng, như sơn, chì, mực nho, màu bột, giấy dó,...trong hội
họa; đất nung, thạch cao, đồng, gỗ, đá, bạc, vàng, ngà voi... trong điêu khắc.
Chúng tôi đã thống kê được 46 thuật ngữ gọi tên các loại chất liệu được sử
dụng trong nghệ thuật tạo hình, chiếm 3,48% trong tổng số các TNMT được
khảo sát. Các thuật ngữ chỉ chất liệu, phương tiện được định danh theo các
mô hình sau:
Mô hình 1: Chất liệu + cách pha chế
Mô hình này có 18 thuật ngữ, như: sơn mài (gồm có chất liệu sơn ta và
kĩ thuật pha chế), sơn dầu, màu bột, màu nước, đồng thau, đồng đỏ, sơn then,
than chì, đất xỉn, đất sét, đất sứ, thuốc cầm màu...
Mô hình 2: Chất liệu + tính chất, đặc điểm về hình thức
Mô hình này có 15 thuật ngữ: bê tông xốp, đá hoa cương, đá xanh, ngọc
lục bảo, ngọc thạch, đồng đỏ, gỗ mun, đất nung, dầu khô, gạch men, màu
nước, đá hoa, đá cẩm thạch, giấy phấn, giấy bồi, giấy can, đất áo, phấn màu,
phấn vẽ, nước bóng, vải nhám, vải ráp, gỗ thớ dọc, gỗ thớ ngang, sơn cánh
dán, sơn then, sơn ta, nước khắc đồng, đa da trời, ngọc lục bảo,...
136
Mô hình 3: Chất liệu + tên gọi loài thực vật, khoáng vật
Mô hình này có 13 thuật ngữ: dầu lanh, dầu thông, giấy dó, giấy điệp,
dầu cọ, bột than chì, nhựa kim,...
g. Đặc điểm định danh của thuật ngữ chỉ hoạt động sáng tạo, kĩ thuật,
phương pháp của nghệ thuật tạo hình
Hoạt động nghệ thuật của nghệ sĩ là lao động sáng tạo để tạo ra các tác
phẩm nghệ thuật. Để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật, người nghệ sĩ phải thực
hiện nhiều loại hoạt động khác nhau, có nhiều cách thức hoạt động khác nhau.
Kết quả thống kê, khảo sát cho thấy các thuật ngữ chỉ hoạt động sáng tạo, kĩ
thuật và phương pháp của nghệ thuật tạo hình có số lượng không nhiều với 57
đơn vị, chiếm 4,32% trong tổng số các TNMT được khảo sát. Cụ thể như sau:
Mô hình 1: Hoạt động + hình mẫu
Mô hình này có 25 thuật ngữ: nặn kiểu, vẽ kiểu, đồ khuôn, làm mẫu, đặt
mẫu, dựng hình, vẽ hình, vẽ phác, pha màu, làm mẫu, nặn kiểu, vẽ kiểu, tạo
dáng công nghiệp, thiết kế in, thiết kế thẩm mĩ, phác họa, phối cảnh, tạo
hình...
Mô hình 2: Hoạt động + chất liệu
Mô hình này có 19 thuật ngữ: phủ men, làm đen, phun sơn, tô màu, mạn
ngọc, điểm màu, nhuộm màu, nghiền màu, in đá, khắc a xít, khắc cao su,
khảm gỗ, khảm trai, cẩn sà cừ, phủ sơn, trải thảm, trang trí bằng thảm...
Mô hình 3: Hoạt động + cách thức, tính chất
Chỉ có 13 thuật ngữ theo mô hình trên: chạm nổi, chạm chìn, khắc nổi,
khắc chìm, chạm lộng, thêu trang trí, kẻ ô vuông, chạm thủng, chạm nông,
nhuộm thắm, vẽ bóng, nung hấp, sơn khắc,...
h. Đặc điểm định danh của thuật ngữ chỉ các sản phẩm, tác phẩm nghệ
thuật tạo hình
Số lượng các đơn vị định danh chỉ các sản phẩm, tác phẩm nghệ thuật
tạo hình rất phong phú và đa dạng. Kết quả khảo sát và thống kê cho thấy, các
137
thuật ngữ biểu thị sản phẩm, tác của nghệ thuật tạo hình có số lượng lớn với 316
đơn vị (chiếm 23,94%) trong tổng số các TNMT được khảo sát, chỉ đứng sau các
thuật ngữ biểu thị ngôn ngữ của nghệ thuật tạo hình. Mỗi thuật ngữ này được
định danh bằng một số đặc trưng khu biệt khác nhau. Mô hình định danh cụ thể
của thuật ngữ chỉ các sản phẩm, tác phẩm nghệ thuật tạo hình như sau:
Mô hình 1: Tác phẩm + cách thức tạo ra tác phẩm
Có 71 thuật ngữ theo mô hình này, ví dụ: tranh cắt dán, tranh ghép
mảnh, tranh in đá, tranh in lưới, tranh ghi chép, tranh khảm, tranh khắc gỗ,
tranh sơn khắc, tranh trổ giấy, tranh in phun, tranh thêu, tranh trạm lửa,
tranh khắc kim loại, tranh khắc,...
Mô hình 2: Tác phẩm + phương tiện tạo tác phẩm
Chỉ có 43 thuật ngữ thuộc loại này, ví dụ: kí họa bút chì, tranh bút chì,
tranh bút sắt, tranh bút lông,...
Mô hình 3: Sản phẩm + chất liệu
Có 54 thuật ngữ thuộc loại này, ví dụ: tranh lụa, tranh sơn dầu, tranh
sơn mài, tượng đất nung, tượng đồng, tranh nề, tranh vải, tranh lụa, tranh
màu bột, tranh màu nước,...
Mô hình 4: Tác phẩm + hình dáng
Có 47 thuật ngữ thuộc loại này, ví dụ: tranh tứ bình, tượng bán thân,
tượng toàn thân, tượng đầu người,...
Mô hình 5: Tác phẩm + đặc điểm, tính chất
Có 62 thuật ngữ được định danh theo mô hình này, ví dụ: tranh trừu
tượng, tranh lập thể, tranh khỏa thân, tranh thánh, tượng thánh, tranh thủy
mạc, tranh liên hoàn, tranh hoành tráng, tranh tĩnh vật, tranh động vật, tranh
tôn giáo, tranh thờ cúng, tranh chúc tụng, tranh truyện, tranh minh họa,...
Mô hình 6: Sản phẩm + địa danh/nơi làm ra sản phẩm
Có 39 thuật ngữ được định danh theo mô hình này, ví dụ: tranh Đông
Hồ, tranh Hàng Trống, gốm Bát Tràng, gốm Chu Đậu, mĩ nghệ Hàng Bạc,
138
tranh Kim Hoàng (Hà Tây), tranh Nam Hoành (Nghệ Tĩnh), tranh Làng Sình
(Huế), gốm Thanh Hà, tượng đá Ngũ Hành Sơn,...
Từ những miêu tả, phân tích trên đây về ĐĐĐD phái sinh của hệ thống
TNMTTV, chúng tôi tổng hợp thành một bảng sau:
Các phạm trù
ngữ nghĩa
Mô hình định danh của
thuật ngữ mĩ thuật tiếng
Việt
Số
lƣợng
Tỉ lệ
(%)
1. Xu hướng, trường phái nghệ
thuật tạo hình
Mô hình 1: 32
Mô hình 2: 26
Mô hình 3: 22
Mô hình 4: 17
97 7,35
2. Loại hình/thể loại nghệ
thuật
tạo hình
Mô hình 1: 29
Mô hình 2: 27
Mô hình 3: 20
Mô hình 4: 11
87 6,59
3. Chủ thể nghệ thuật tạo hình Mô hình 1: 31
Mô hình 2: 26
Mô hình 3: 19
76 5,76
4. Ngôn ngữ của nghệ thuật
tạo hình
Mô hình 1: 91
Mô hình 2: 77
Mô hình 3: 65
Mô hình 4: 56
Mô hình 5: 53
Mô hình 6: 42
Mô hình 7: 31
Mô hình 8: 26
Mô hình 9: 18
459 34,77
5. Công cụ, dụng cụ của nghệ
thuật tạo hình
Mô hình 1: 32
Mô hình 2: 27
Mô hình 3: 16
75 5,68
139
6. Chất liệu của nghệ thuật tạo
hình
Mô hình 1: 18
Mô hình 2: 15
Mô hình 3: 13
46 3,48
7. Hoạt động sáng tạo, kĩ
thuật, phương pháp của
nghệ thuật
tạo hình
Mô hình 1: 25
Mô hình 2: 19
Mô hình 3: 13 57 4,32
8. Sản phẩm, tác phẩm nghệ
thuật tạo hình
Mô hình 1: 71
Mô hình 2: 43
Mô hình 3: 54
Mô hình 4: 47
Mô hình 5: 62
Mô hình 6: 39
316
23,94
Tổng cộng: 35 mô hình 1.213 100
3.3.3. Nhận xét chung về đặc điểm định danh của thuật ngữ mĩ
thuật tiếng Việt
Từ kết quả miêu tả, phân tích đặc điểm, cách thức định danh của các
TNMTTV, có thể nêu lên những nhận xét sau đây:
a. Có thể khẳng định rằng, ĐĐĐD của hệ thống TNMTTV là rất đa dạng
và phong phú. Có tới 35 mô hình định danh với 29 loại đặc điểm được lựa chọn
để định danh các thuật ngữ: tính chất, tên riêng (người), thời gian, thời kì lịch sử,
cách thức, chức năng, vị trí, phạm vi, cách thức biểu đạt, lĩnh vực, thể loại,
nhiệm vụ, phương, hướng, đặc điểm (về hình thức và cách thể hiện), sắc màu,
sắc độ, vật đại diện, hình, khối, hình dáng, chất liệu, công dụng, cách pha chế,
tên gọi sự vật, mẫu vật, phương tiện. Có một số dấu hiệu (đặc điểm) được sử
dụng nhiều lần để định danh các thuật ngữ thuộc các phạm trù ngữ nghĩa khác
nhau (như các dấu hiệu chỉ tính chất, đặc điểm, cách thức, chức năng, công
dụng, sắc độ, cách thức biểu đạt).
140
b. Mĩ thuật là một trong những bộ môn nghệ thuật ra đời sớm nhất của loài
người lấy việc kiến tạo các quan hệ không gian làm phương tiện diễn đạt và lấy
việc gây cảm hứng thị giác làm mục đích truyền đạt nhằm phát huy các nhân tố
không gian như màu sắc, đường nét, hình khối. Do đó mĩ thuật được liệt vào loại
nghệ thuật thị giác hay nghệ thuật không gian. Đặc trưng riêng của loại hình
nghệ thuật tạo hình này là cảm thụ bằng thị giác để nhận thức cái đẹp trong thế
giới vật chất, thế giới tinh thần mà con người đang sống và chiêm nghiệm thông
qua sắc màu, đường nét, hình khối, bối cảnh, bố cục của các tác phẩm nghệ thuật
do các nghệ sĩ sáng tạo ra. Vì vậy, số lượng các thuật ngữ biểu thị ngôn ngữ của
nghệ thuật tạo hình và sản phẩm, tác phẩm nghệ thuật tạo hình chiếm số lượng
lớn trong hệ thống TNMTTV đã được chúng tôi nghiên cứu và phân tích. Kết
quả thống kê cho thấy có 775/1.320 thuật ngữ biểu thị ngôn ngữ và sản phẩm,
tác phẩm của nghệ thuật tạo hình, chiếm 58,71% trong tổng số các TNMT được
khảo sát. Đây là đặc trưng riêng của hệ TNMTTV, làm nên sự khác biệt rõ ràng
của hệ thống thuật ngữ này.
c. Thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt là những đơn vị định danh phái sinh
(còn gọi là định danh bậc hai) có số lượng lớn hơn nhiều so với các TNMT là
đơn vị định danh cơ bản (định danh gốc, định danh bậc 1). Về hình thức,
những TNMT là đơn vị định danh phái sinh có đặc trưng hình thái - cú pháp
phức tạp và được tạo ra bằng hai con đường: phái sinh ngữ nghĩa và phái sinh
hình thái - cú pháp. Con đường ngữ nghĩa là con đường nhân khả năng định
danh của đơn vị gốc (yếu tố gốc) lên nhiều lần. Theo đó, trong hệ thống từ
vựng của một ngôn ngữ, một từ với cùng vỏ ngữ âm phát triển ra bao nhiêu
nghĩa thì ta có bấy nhiêu đơn vị định danh. Ngữ nghĩa của từ rất quan trọng
đối với nhà từ nguyên học nghiên cứu sự biến đổi của các đơn vị từ vựng
thuộc ngôn ngữ tự nhiên. Trong hệ thống thuật ngữ, thuật ngữ chỉ có được ý
nghĩa khi nằm trong hệ thống. Vì vậy, khi thuật ngữ đã được tạo lập thì nó sẽ
dứt khỏi ngữ nghĩa ban đầu và mất đi những mối liên hệ sinh động của ngôn
141
ngữ tự nhiên và rồi phát triển tự thân theo các quy luật thuật ngữ riêng của nó.
"Bất kì một thao tác định danh nào cũng là việc sản sinh ra một cấu trúc hai
mặt gồm các thành tố đồng nhất hoá và dị biệt hoá. Trong quá trình định danh
chắc chắn sẽ nảy sinh một tiểu hệ thống ngữ nghĩa. Đơn vị định danh mới
được đánh dấu phân biệt với đơn vị cũ. Nhưng những đơn vị định danh mang
tính thuật ngữ với tư cách là định danh thứ cấp lại được đánh dấu hai lần, một
lần với hệ thống ngữ nghĩa vốn có của từ khởi nguyên và lần thứ hai với hệ
thống thuật ngữ mà nó thuộc vào. Thuật ngữ tạo lập theo cách đó bắt đầu cuộc
sống tự lập của mình trong trường thuật ngữ của mình. Việc nghiên cứu quá
trình ý nghĩa gắn chặt với vỏ cấu âm có thể xác định được những phương thức
liên tưởng. Những phương thức này cho phép gắn kết đối tượng này với một
đối tượng khác trong nhận thức của chúng ta. Kết quả là những quan niệm ấy
trở thành các nghĩa được đưa vào nội dung ý nghĩa của một từ mới" [48; 38].
Để chứng minh cho nhận định trên, có thể nêu ra một số ví dụ.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa từ "dã thú" là "thú sống trong rừng" (124;
313), nhưng khi là TNMT thì "dã thú" đã bị thu hẹp nghĩa, không còn là thú
sống trong môi trường hoang dã nói chung mà chỉ là thú sống trong môi
trường hoang dã "có sức mạnh tàn ác, hung dữ (như hổ báo, sư tử..." [87; 40].
Còn khi là yếu tố trong TNMT dạng định danh phái sinh "trường phái dã thú"
thì "dã thú" đã biến đổi nghĩa hoàn toàn so với nghĩa của từ này khi là đơn vị
từ vựng thông thường: "Trường phái hội họa có cách dùng màu nguyên chất,
chói lọi và sự đơn giản về hình cũng như về luật xa gần. Phái Dã thú mang
tính tiên phong trong nền nghệ thuật châu Âu nửa đầu thế kỉ 20. Gương mặt
nổi bật trong trường phái dã thú là họa sĩ Ma-tit-xơ. Mùa thu năm 1905, cuộc
triển lãm tranh của nhóm Dã thú được khai mạc. Tên "Dã thú" được một nhà
phê bình đặt cho khi ông xem triển lãm và chỉ vào một bức tượng mang phong
cách của nhà điêu khắc Ý Đô-ma-len-tô đặt ở giữa phòng và kêu lên:"Đô-ma-
len-tô ở giữa bầy dã thú". Từ đó, phong cách hội họa của nhóm họa sĩ này
142
được gọi là "Dã thú". Phái Dã thú chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn.
Trong thời gian đó, các nghệ sĩ đã phát huy được những phong cách rất khác
nhau, sau đó, không thấy lúc nào các tác phẩm của họ giống như vậy nữa..
Phong cách Dã thú tuy chỉ chỉ tồn tại một thời gian nhưng có ảnh hưởng
quan trọng đối với phái biểu hiện Đức trong cùng khoảng thời gian 1911 -
1933" [87; 40 - 41]
Đa-đa (tiếng Anh, Pháp viết dada) "là một từ trong từ điển Pháp - Đức,
từ này trẻ con thường dùng để gọi ngựa gỗ" [87; 45]; khi đa-đa là yếu tố của
thuật ngữ thì nó đã mất hẳn ý nghĩa cũ trong thuật ngữ "Chủ nghĩa Đa-đa":
"Trào lưu nghệ thuật ra đời khoảng giữa 1915-1916, do một số nghệ sĩ phản
đối chiến tranh, lánh sang Thụy Sĩ, nhưng tụ tập ở quán rượu Von-te khởi
xướng. Cái tên Đa-đa là sự lựa chọn ngẫu nhiên trong từ điển Pháp-Đức của
nhóm này. Người dẫn đầu là nhà thơ Tờ-da-ra (T.Tzara) người Ru-ma-ni, ông
tuyên bố về Đa-đa: "Đây là tiếng thét đau khổ tột cùng, là sự sống với mọi
giao thoa của những ràng buộc, mâu thuẫn, bức bối và phi lí". Trào lưu này
mang tư tưởng hư vô, phủ định lí trí, phủ định hết thảy mọi giá trị truyền
thống, đề xướng một nền nghệ thuật vô định, không lí tưởng, chỉ tôn thờ sáng
tạo cá nhân cực đoan. (...) Tác phẩm (tranh) của họ triệt tiêu mọi sự mô tả
trung thực, thường là siêu hình bí hiểm, kết hợp nhiều hình thức nghệ thuật,
sử dụng những vật liệu có sẵn trong đời sống" [87; 45].
Bằng con đường hình thái - cú pháp, ta có thể tạo ra hàng loạt đơn vị
định danh với những đặc trưng khác nhau về cấu trúc và ngữ nghĩa. Nhìn
chung, để cấu tạo các đơn vị định danh bằng con đường hình thái - cú pháp,
thường thấy có hai quá trình: quá trình cấu tạo từ là "dựa vào đơn vị gốc
mà tạo ra các từ" bằng các phương thức cấu tạo từ khác nhau của từng
ngôn ngữ; "quá trình từ vựng hóa những đoản ngữ (syntagme) là "sự
chuyển hóa những đoản ngữ, những tổ hợp từ tự do thành những đơn vị từ
vựng mang thành ngữ tính (...) biểu hiện tính bền vững về mặt hình thái -
143
cấu trúc và tính bóng bẩy về mặt ngữ nghĩa, với những mức độ khác nhau"
[39; 327 -328]. Trong hệ thống TNMTTV, các thuật ngữ là cụm từ được
định danh bằng con đường hình thái - cú pháp chủ yếu đều theo quá trình
chuyển hóa những cụm từ tự do thành những thuật ngữ. Ví dụ: tranh phong
cảnh, tượng bán thân, tranh thủy mạc, tranh tĩnh vật, tranh trục (tranh vẽ
lên giấy hoặc lụa, khổ hẹp và dài, thường được treo theo chiều dọc), tranh
truyện, tượng đài, tượng thánh, tượng đồng, tranh sinh hoạt, tranh sơn
khắc, tranh sơn thủy, tượng khắc, tranh tứ bình, chạm nổi, chạm chìm,
trường phái ấn tượng, nghệ thuật tạo hình, chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa cổ
điển, dầu thông, sơn the, phấn màu, chổi lông, dao trổ, búa chạm,...
d. Hầu hết 1.213 TNMT là từ ghép và cụm từ được khảo sát đều chỉ lựa
chọn một dấu hiệu, một đặc điểm để định danh. Mỗi dấu hiệu hay ĐĐĐD
được thể hiện bằng một YTCT thuật ngữ "tương ứng với khái niệm hay tiêu
chí của khái niệm" [91; 20], cho nên hầu hết các TNMT đều có hình thức
ngắn mặc dù chúng có cấu tạo là các cụm từ. Ví dụ: khắc chìm, chạm nổi, họa
sĩ chân dung, trường phái dã thú, điêu khắc hoành tráng, nhà điêu khắc, nhà
hội họa, kí họa động, chủ nghĩa trừu tượng, lí thuyết màu, thạch anh tím, bút
lông tròn, xu hướng ấn tượng, màu cẩm thạch, tranh phong cảnh, tranh sơn
mài, tranh màu nước, màu chủ đạo, nhà trưng bày, phòng triển lãm, màu bổ
túc, họa tiết trang trí, hội họa hoành tráng, ...Các TNMT là các đơn vị định
danh phái sinh lựa chọn từ hai dấu hiệu hay ĐĐĐD trở lên có số lượng rất ít.
Ví dụ: tranh / thủy mạc /Trung Hoa, đúc / tượng/ kĩ thuật / cốt / sáp, giấy / vẽ/
màu / nước, in/tranh/đồ họa, khung / căng / vải / vẽ, phương pháp / làm /
tranh / khắc / nổi, phương pháp / làm / tranh / lõm, ngôn ngữ / nghệ thuật /
tạo hình, sáu / nguyên lí / hội họa / thời /cổ đại / Trung Hoa, tranh / khắc /
gỗ, tranh / ghép / mảnh, tranh / in / lưới, xu hướng / nghệ thuật / hiện đại, yếu
tố / sáng tác / trong / tác phẩm / mĩ thuật,...Kết quả này có thể khẳng định
rằng, hệ thống TNMTTV được xây dựng, tạo lập tốt, đáp ứng rất cao các tiêu
144
chuẩn: tính khoa học (gồm tính hệ thống, tính chính xác, tính ngắn gọn với
các hình thức cấu tạo thuật ngữ có độ dài tối ưu), tính quốc tế và tính dân tộc
của một hệ thuật ngữ khoa học tiếng Việt.
Tiểu kết
Chương này đã trình bày hai nội dung cơ bản của hệ thống TNMT tiếng
Viêt: Ý nghĩa của thuật ngữ và ĐĐĐD của TNMTTV. Về ý nghĩa của
TNMTTV, dựa vào các công trình nghiên cứu ý nghĩa thuật ngữ của các nhà
nghiên cứu, khảo sát hệ thống TNMTTV, chúng tôi thấy biến đổi nghĩa của từ
là phương pháp chủ yếu được sử dụng để tạo thành ý nghĩa của TNMTTV.
Chúng tôi đã xác định được 5 phương thức biến đổi nghĩa của từ thông
thường để thành ý nghĩa của thuật ngữ (thu hẹp nghĩa của từ thường; mở rộng
nghĩa của từ thường; biến đổi nghĩa của từ thường; tạo nghĩa mới cho từ
thường và biến đổi nghĩa của từ theo sự giống nhau về hình thức để tạo thành
nghĩa của thuật ngữ) và phương thức dịch nghĩa các TNMT nước ngoài.
Về đặc điểm định danh của TNMT, dựa vào nội dung ý nghĩa của thuật
ngữ để xác định đơn vị định danh, nguyên tắc và cơ chế định danh, chúng tôi
dã tìm hiểu ĐĐĐD TNMT theo hai phương diện: ĐĐĐD của các thuật ngữ là
những đơn vị định danh cơ bản và ĐĐĐD của các thuật ngữ là những đơn vị
định danh phái sinh. Trong 1.320 TNMTTV, chỉ có 107 thuật ngữ là đơn vị
định danh cơ bản chiếm 8,10 % tổng số lượng TNMT được khảo sát. Còn
1.213 TNMT là những đơn vị định danh phái sinh, chiếm 91,90% tổng số các
thuật ngữ được khảo sát.
Đặc điểm của TNMTTV là những đơn vị định danh cơ bản: chúng được
tạo bởi những đơn vị tối giản về mặt hình thái cấu trúc (một âm tiết đối với
thuật ngữ tiếng Việt và một từ đối với thuật ngữ vay mượn - phiên âm), mang
nghĩa đen, được dùng làm cơ sở để tạo ra các đơn vị định danh khác. Trong
tổng số 1320 TNMTTV được khảo sát, TNMT thuộc loại định danh cơ bản có
107 đơn vị, chiếm 8,10 % tổng số lượng TNMT. Trong đó hầu hết các thuật
145
ngữ là đơn vị định danh cơ sở đều trở thành các yếu tố cơ bản để để sản sinh
ra các thuật ngữ là đơn vị định danh phái sinh. Nhưng cũng có một số thuật
ngữ, đặc biệt là các thuật ngữ vay mượn tiếng nước ngoài (phiên âm hay giữ
nguyên dạng, kiểu như: áp phích, a-qua-tanh, a-cri-lich, bau-hau, bo-đi-at,
goat, ma-nơ-canh,...), không phải là đơn vị cơ sở để tạo thành đơn vị định
danh phái sinh.
Tất cả TNMT tiếng Việt có cấu tạo là các đơn vị định danh phái sinh
đều được tạo nên bằng con đường hình thái cú pháp: sử dụng từ hai đơn vị
có nghĩa trở lên và quan hệ nội tại của các đơn vị cấu tạo mỗi thuật ngữ là
quan hệ chính phụ. Trong đó, yếu tố chính có chức năng quy loại hệ thống
khái niệm của lĩnh vực mĩ thuật học, các yếu tố phụ đảm nhiệm chức năng
khu biệt thuật ngữ. Các đặc trưng định danh được lựa chọn để làm cơ sở
gọi tên rất phong phú. Tất cả các đặc trưng được lựa chọn để định danh
TNMTTV đều là các đặc trưng bản chất nhất của các khái niệm và các đối
tượng, đặc điểm hoạt động, cách thức hoạt động, ngôn ngữ, dụng cụ, chất
liệu, sản phẩm, đường nét, hình khối, màu sắc,... trong lĩnh vực nghệ thuật
học. Chúng tôi đã khảo sát, xác định được 29 đặc trưng (dấu hiệu) được lựa
chọn để định danh và phân tích các đặc trưng được lựa chọn làm cơ sở định
danh của hệ TNMTTV, trong đó có một số đặc trưng định danh được sử
dụng trong nhiều loại hình nghệ thuật tạo hình để đặt tên gọi cho các
TNMT. Chúng tôi đã xác định được 35 mô hình định danh TNMTTV. Các
mô hình định danh này đã được mô tả và phân tích cụ thể, tỉ mỉ.
146
KẾT LUẬN
Nghiên cứu hệ thống TNMT tiếng Việt, luận án đã đi sâu tìm hiểu đặc
điểm về cấu tạo, con dường hình thành, ý nghĩa và ĐĐĐD. Chúng tôi đã triển
khai các nội dung nghiên cứu thành các chương của luận án và đã thực hiện
đầy đủ các nội dung nghiên cứu đặt ra. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi rút
ra các kết luận sau đây:
1. Luận án đã xác lập được một cơ sở lí luận. Về các vấn đề chung của
thuật ngữ, luận án đã hệ thống hóa, phân tích các quan điểm về thuật ngữ, tiêu
chuẩn của thuật ngữ, phân biệt thuật ngữ với các khái niệm liên quan: danh
pháp, từ nghề nghiệp, từ thường. Trên cơ sở đó thuật ngữ được hiểu là từ
hoặc cụm từ biểu hiện khái niệm, thuộc tính, đối tượng, sự vật, hiện tượng…
thuộc một lĩnh vực khoa học, công nghệ hoặc chuyên môn. Thuật ngữ có các
tiêu chuẩn cơ bản: tính khoa học (gồm có tính chính xác, tính hệ thống, ngắn
gọn), tính quốc tế và tính dân tộc. Dựa trên cơ sở lí thuyết về thuật ngữ và nội
dung khái quát của mĩ thuật học, chúng tôi xác định: Thuật ngữ mĩ thuật là
các từ, cụm từ được sử dụng trong ngành mĩ thuật để biểu thị những khái
niệm, sự vật, hiện tượng, quá trình, hoạt động, tính chất… thuộc các ngành:
hội họa, điêu khắc, kiến trúc, đồ họa và trang trí.
2. Trên cơ sở phân tích 1.320 TNMTTV, luận án đã miêu tả đặc điểm
cấu tạo của chúng. Thuật ngữ có cấu tạo là từ gồm 566 đơn vị, chiếm 42,88%,
trong đó có 107 thuật ngữ là từ đơn, chiếm 18,90% và 459 thuật ngữ là từ
ghép chiếm 81,09% gồm 428 thuật ngữ là từ ghép chính phụ, chiếm 93,24%
và 31 thuật ngữ là từ ghép đẳng lập, chiếm 6,76%. Các thuật ngữ là từ đơn tiết
chủ yếu là thuần Việt. Các thuật ngữ là từ ghép chính phụ có MHCT chủ yếu
là chính trước phụ sau. Về mặt từ loại, TNMT có cấu tạo là từ chủ yếu là danh
từ và tính từ. Về nguồn gốc đơn vị cấu tạo thuật ngữ, có sự tham gia của cả 3
loại yếu tố: Việt, Hán Việt và Ấn Âu. Trong đó, đại đa số các TNMTTV là từ
ghép chủ yếu được tạo ra bởi các yếu tố Hán Việt, sau đó là thuật ngữ ghép
147
các yếu tố Việt và thuật ngữ ghép hỗn hợp do các yếu tố Việt và Hán Việt tạo
thành theo quan hệ chính - phụ, các TNMT có nguồn gốc Ấn Âu có số lượng
ít. Đây là đặc điểm khác biệt của hệ thống TNMTTV so với các hệ thuật ngữ
khác. Sở dĩ như vậy là vì mĩ thuật là một trong những bộ môn nghệ thuật ra
đời sớm nhất của loài người. Ở nước ta, mĩ thuật đã có từ thời kì nguyên thủy
và phát triển đến hiện nay với nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Hầu hết
các TNMT được tạo ra trong suốt chiều dài lịch sử đều sử dụng chất liệu ngôn
ngữ dân tộc (tiếng Việt). Chỉ khi mĩ thuật Việt Nam có quan hệ với mĩ thuật
thế giới, chúng ta mới bắt đầu vay mượn TNMT nước ngoài, trong đó chỉ một
số ít các TNMT được mượn nguyên dạng hoặc phiên chuyển sang tiếng Việt.
3. Các thuật ngữ có cấu tạo là cụm từ gồm có 754 đơn vị, chiếm hơn
57,12% tổng số TNMT được khảo sát. Căn cứ vào số lượng YTCT, các thuật
ngữ là cụm từ được chia thành các nhóm gồm từ hai yếu tố đến sáu yếu tố.
Thuật ngữ có cấu tạo hai yếu tố có số lượng lớn nhất (528 đơn vị, chiếm
70,03%), ba yếu tố là 132 đơn vị, chiếm 17,51%, bốn yếu tố là 47 đơn vị,
chiếm 6,23%). Đặc biệt, thuật ngữ năm yếu tố có 39 đơn vị, chiếm 5,17%,
thuật ngữ 6 yếu tố chỉ có 8 đơn vị, chiếm 1,06%.
Về mặt từ loại, TNMT có cấu tạo là từ và cụm từ chủ yếu là danh từ và
ngữ danh từ (1.032 thuật ngữ, chiếm 78,12%), tiếp sau là tính từ và ngữ tính
từ (171 thuật ngữ, chiếm 12,95%) và cuối cùng là động từ và ngữ động từ
(117 thuật ngữ, chiếm 8,93%).
Về nguồn gốc của các YTCT, được sử dụng nhiều nhất vẫn là yếu tố
Hán Việt, sau đó là yếu tố Việt và cuối cùng là các yếu tố Ấn Âu. Các yếu
tố kết hợp tạo thành TNMT có thể cùng nguồn gốc hoặc khác nguồn gốc.
Về cấu tạo, đại đa số TNMTTV là ngữ định danh có mô hình chính phụ:
yếu tố chính đứng trước, yếu tố hoặc tổ hợp yếu tố phụ đứng sau. Mô hình
cấu tạo của TNMTTV là cụm từ khá phong phú: Hán Việt + Hán Việt, Hán
Việt + Việt; Hán Việt + Ấn Âu; Việt + Ấn Âu; Hán Việt + Việt + Ấn Âu.
148
Chính MHCT phổ biến này đã làm nên tính hệ thống về cấu tạo của
TNMTTV nói riêng, thuật ngữ khoa học tiếng Việt nói chung.
4. Về các phương thức tạo thành hệ thống TNMTTV, chúng tôi đã xác định
được 3 phương thức cơ bản: Chuyển từ thông thường thành thuật ngữ mĩ thuật;
Chuyển thuật ngữ từ ngành khoa học khác thành thuật ngữ mĩ thuật; Tiếp nhận
thuật ngữ mĩ thuật nước ngoài bằng con đường sao phỏng cấu tạo, dịch nghĩa
và mượn nguyên dạng (phiên âm và giữ nguyên dạng). Trong ba phương thức
này thì phương thức tiếp nhận TNMT nước ngoài theo cách sao phỏng cấu tạo
và dịch nghĩa là phương thức chủ đạo, đã tạo thành số lượng lớn (691/1320 thuật
ngữ, chiếm 52,34%) TNMTTV bằng cách sử dụng chất liệu tiếng Việt, các
phương thức tạo từ của tiếng Việt. Việc tạo ra các TNMTTV theo phương thức
này vừa đảm bảo tính chính xác, tính quốc tế của khái niệm do thuật ngữ biểu
thị, đồng thời lại thể hiện được tính dân tộc của thuật ngữ. Việc tiếp nhận TNMT
nước ngoài theo cách phiên âm và giữ nguyên dạng ít được dùng, chỉ có 97/1320
TNMTTV, chiếm 7,37%. Phương thức chuyển từ thông thường thành TNMTTV
cũng là một phương thức quan trọng trong việc tạo ra các TNMTTV. Có
385/1320 TNMT được tạo ra bằng phương thức chuyển từ thông thường thành
TNMT, chiếm 29,16%. Có 147/1320 TNMT được tạo ra bằng phương thức
chuyển thuật ngữ từ ngành khoa học khác thành TNMT, chiếm 11,13%.
5. Về ý nghĩa của TNMT tiếng Việt, dựa vào các công trình nghiên cứu
ý nghĩa thuật ngữ của các nhà nghiên cứu, khảo sát hệ thống TNMTTV,
chúng tôi thấy biến đổi nghĩa của từ là phương pháp chủ yếu được sử dụng để
tạo thành ý nghĩa của TNMTTV. Chúng tôi đã xác định được 5 phương thức
biến đổi nghĩa của từ thong thường để thành ý nghĩa của thuật ngữ (thu hẹp
nghĩa của từ thường; mở rộng nghĩa của từ thường; biến đổi nghĩa của từ
thường; tạo nghĩa mới cho từ thường và biến đổi nghĩa của từ theo sự giống
nhau về hình thức để tạo thành nghĩa của thuật ngữ) và phương thức dịch
nghĩa các TNMT nước ngoài. Các phương thức thay đổi ý nghĩa của từ
149
thường để tạo nên ý nghĩa của thuật ngữ đã được miêu tả, phân tích cụ thể, rõ
ràng trên chính cứ liệu là các TNMTTV. Các phương thức biến đổi ý nghĩa
của các từ thường để tạo nên ý nghĩa của TNMTTV đã tạo nên những đặc
trưng riêng về ý nghĩa của hệ thống thuật ngữ nay.
6. Cũng trên cơ sở phân tích 1.320 TNMTTV, luận án đã miêu tả
ĐĐĐD của chúng theo hai phương diện: ĐĐĐD của các thuật ngữ là những
đơn vị định danh cơ bản và ĐĐĐD của các thuật ngữ là những đơn vị định
danh phái sinh.
Về đặc điểm định danh của TNMT - đơn vị định danh cơ bản: có 107
thuật ngữ, chỉ chiếm 8,10% và được tạo bởi những đơn vị tối giản về mặt hình
thái cấu trúc (một yếu tố cấu tạo tương đương một âm tiết đối với thuật ngữ
tiếng Việt và một từ đối với thuật ngữ vay mượn - phiên âm), mang nghĩa
đen, được dùng làm cơ sở để tạo ra các đơn vị định danh khác. Còn lại đều là
các thuật ngữ được định danh phái sinh là các ngữ định danh gồm nhiều
YTCT trong nội bộ cấu trúc của chúng.
Về đặc điểm định danh của thuật ngữ - đơn vị định danh phái sinh: Tất
cả đều được tạo nên bằng con đường hình thái cú pháp: sử dụng từ hai đơn vị
có nghĩa trở lên kết hợp với nhau theo quan hệ chính phụ. Trong đó, sự quy
loại hệ thống khái niệm của ngành mĩ thuật đều do yếu tố chính đảm nhiệm,
sự khu biệt thuật ngữ được thể hiện bằng các đặc trưng làm cơ sở định danh là
chức năng của yếu tố phụ. Các đặc trưng định danh được lựa chọn để làm cơ
sở định danh các TNMT khá phong phú và đều là các đặc trưng bản chất, nổi
bật nhất của các khái niệm và các đối tượng trong ngành mĩ thuật. Có 29 đặc
trưng được lựa chọn làm cơ sở định danh của hệ TNMT tiếng Việt, đó là: tính
chất, tên riêng (người), thời gian, thời kì lịch sử, cách thức, chức năng, vị trí,
phạm vi, cách thức biểu đạt, lĩnh vực, thể loại, nhiệm vụ, phương, hướng, đặc
điểm (về hình thức và cách thể hiện), sắc màu, sắc độ, vật đại diện, hình,
khối, hình dáng, chất liệu, công dụng, cách pha chế, tên gọi sự vật, mẫu vật,
150
phương tiện. Các đặc trưng này được ngữ nghĩa hóa thành các nét nghĩa nằm
ở trung tâm cấu trúc ngữ nghĩa của trường TNMT học đã tạo nên các mô hình
định danh khác nhau.
Mĩ thuật là một ngành khoa học có lịch sử lâu đời nên những kết quả
nghiên cứu về hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt trong luận án này chỉ là
những kết quả bước đầu. Hệ thống thuật ngữ của ngành khoa học này vẫn cần
được tiếp tục nghiên cứu theo các hướng sau:
Một là, tìm hiểu con đường hình thành thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
Hai là, bổ sung các thuật ngữ mĩ thuật mới xuất hiện và được vay mượn
tiếng nước ngoài để tiến tới hoàn thiện hệ thống thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
Ba là, tổ chức biên soạn từ điển giải thích thuật ngữ mĩ thuật tiếng Việt.
Những hướng nghiên cứu như trên cần có sự tham gia của các nhà
nghiên cứu lí luận mĩ thuật học với sự hợp tác của các nhà ngôn ngữ học.
151
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Đào Duy Anh (1992), Từ điển Hán Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Diệp Quang Ban (2006), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Văn Tu (2002), Tiếng Việt
trên đường phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Belakhov L.Iu, Những vấn đề tiêu chuẩn hóa Nhà nước về thuật ngữ, Tài liệu
dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch)
5. Belakhov L.Ju. (1976), Những vấn đề tiêu chuẩn hóa Nhà nước về thuật ngữ,
Như Ý dịch, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
6. Budagov R. A. (1976), Thuật ngữ học và kí hiệu học, Trong cuốn Con người
và ngôn ngữ của họ, Nxb. Trường Đại học tổng hợp Matxcơva, Tài liệu dịch
của Viện Ngôn ngữ học, (Tuấn Tài dịch).
7. Nguyễn Thạc Cát (1980), "Về vấn đề thuật ngữ khoa học tiếng Việt gốc Âu",
Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, Hà Nội.
8. Nguyễn Tài Cẩn (1981), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Đại học & Tung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
9. Nguyễn Tài Cẩn (2000), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán
Việt, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Nguyễn Tài Cẩn (chủ biên) (1981), Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam,
Nxb. Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
11. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng - từ ghép - đoản ngữ),
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
12. Đỗ Hữu Châu (1980), "Mấy vấn đề tổng quát trong việc chuẩn mực hóa và
giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ vựng - ngữ nghĩa", Tạp chí
Ngôn ngữ, (3), tr. 52-60.
13. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
14. Đỗ Hữu Châu (1987), Cơ sở ngữ nghĩa học học từ vựng, Nxb. Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
15. Phạm Thị Chỉnh, Chu Quang Chứ, Nguyễn Thái Lai (1998), Lược sử mĩ
thuật và mĩ thuật học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
152
16. Phạm Thị Chỉnh - Trần Tiểu Lâm (2013), Giáo trình mĩ thuật học, Nxb. Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
17. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1997), Cơ sở ngôn ngữ
học và tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
18. Coretxkji Ya. (1978), Tương quan giữa khái niệm và tên gọi, Tài liệu dịch
của Viện Ngôn ngữ học.
19. Hồng Dân (1981), Về việc chuẩn hóa từ chuyên danh, Trong sách Một số vấn
đề ngôn ngữ học Việt Nam, Nxb. Đại học &Trung học chuyên nghiệp, Hà
Nội.
20. Nguyễn Đức Dân, Đái Xuân Ninh, Nguyễn Quang, Vương Toàn (1984),
Ngôn ngữ học: khuynh hướng - lĩnh vực - khái niệm (tập 1), Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
21. Hoàng Dũng - Cao Xuân Hạo (2005), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học đối
chiếu Anh - Việt, Việt - Anh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Vũ Cao Đàm (1997), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb. Khoa
học và Kĩ thuật, Hà Nội.
23. Danilenko V.P. (1978), Về biến thể ngắn của thuật ngữ: vấn đề đồng nghĩa
trong thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, (Lê Xuân
Thại dịch).
24. Dương Kỳ Đức (2009), "Một số vấn đề của thuật ngữ tiếng Việt trong thời kì
đổi mới và hội nhập", Ngôn ngữ và đời sống, (3), tr. 39 - 40.
25. Đinh Văn Đức (2001), Ngữ pháp tiếng Việt-từ loại, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội.
26. Quách Thị Gấm (2014), Nghiên cứu thuật ngữ báo chí tiếng Việt, Luận án
tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Gerd, A.C (1978), Ý nghĩa thuật ngữ và các kiểu loại ý nghĩa thuật ngữ, Tài
liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội (Lê Ngọc Văn dịch).
28. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
29. Nguyễn Thiện Giáp (2005), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
30. Nguyễn Thiện Giáp (2005), “Tiếng Việt trên đường hiện đại hóa”, Trong
sách: Tiếng Việt hiện nay và những vấn đề ngôn ngữ học liên ngành, Nxb.
153
Khoa học xa hội, Hà Nội. tr. 45 - 68.
31. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội.
32. Nguyễn Thiện Giáp (2016), Từ điển khái niệm ngôn ngữ học, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Bích Hà (2000), So sánh cách cấu tạo thuật ngữ kinh tế thương
mại trong tiếng Nhật và tiếng Việt hiện đại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường
Đại học Khoa học và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
34. Nguyễn Thị Bích Hà (2004), Đặc điểm cấu tạo thuật ngữ thương mại Nhật -
Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Hoàng Xuân Hãn (1948), Danh từ khoa học (Toán, lý, hóa, cơ, thiên văn),
Khoa học tùng thư, Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn.
36. Hoàng Văn Hành (1983), "Về sự hình thành và phát triển thuật ngữ tiếng
Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 26 - 34, Hà Nội.
37. Hoàng Văn Hành (1988), “Về cơ chế cấu tạo các đơn vị định danh bậc hai
trong các ngôn ngữ đơn lập”, Trong sách: Những vấn đề ngôn ngữ các dân
tộc ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
tr.109-125.
38. Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1991), Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Hoàng Văn Hành (2010), Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Vũ Quang Hào (1993), Thuật ngữ quân sự tiếng Việt, Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
41. Nguyễn Thị Hiên (2008), Điêu khắc, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
42. Trần Thị Hiền (2001), “Sự thâm nhập giữa thuật ngữ chuyên môn vào lớp từ
vựng của ngôn ngữ toàn dân”, Những vấn đề ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ
học, tr. 132 - 141.
43. Ngô Phi Hùng (2013), Nghiên cứu các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ
khoa học tự nhiên tiếng Việt (trên tư liệu thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật
lí), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh.
44. Vũ Thị Thu Huyền (2013), Thuật ngữ khoa học kĩ thuật xây dựng trong tiếng
Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
154
45. Kandelaki T. L., Hệ thống khái niệm khoa học và hệ thống thuật ngữ, Tài
liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Dương Kỳ Đức dịch).
46. Kapanadze L. A. (1965), Về những khái niệm “thuật ngữ” và “hệ thống
thuật ngữ”, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Trần Thị Tuyên dịch)
47. Kasevich V. B. (1998), Những yếu tố cơ bản của ngôn ngữ học đại cương,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
48. Katelova N.Z. (1978), Về vấn đề đặc thù của thuật ngữ, Tài liệu dịch của
Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội (Hoàng Lộc dịch).
49. Lê Khả Kế (1967), “Xây dựng thuật ngữ khoa học bằng tiếng Việt”, Trong
sách: Tiếng Việt và dạy đại học bằng tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Lê Khả Kế (1975), “Về một vài vấn để trong việc xây dựng thuật ngữ khoa
học ở nước ta, Tạp chí Ngôn ngữ, số3, tr.15 -18.
51. Lê Khả Kế (1979), “Về vấn đề thống nhất và chuẩn hoá thuật ngữ khoa học
tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3 - 4, tr. 25 - 44.
52. Lê Khả Kế (1984), "Chuẩn hóa thuật ngữ khoa học tiếng Việt", Trong sách:
Chuẩn hóa chính tả và thuật ngữ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
53. Nguyễn Văn Khang (2000), "Những vấn đề đặt ra đối với việc xử lí từ ngữ
nước ngoài trong tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, tr. 70 - 76, Hà Nội.
54. Nguyễn Văn Khang (2000), “Chuẩn hóa thuật ngữ, nhìn lại từ góc độ bối
cảnh xã hội”, Tạp chí Ngôn ngữ, số1, tr. 46 - 54.
55. Nguyễn Văn Khang (2005), “Vấn đề từ ngữ nước ngoài trong bối cảnh mới
của tiếng Việt hiện nay”, Trong sách: Tiếng Việt hiện nay và những vấn đề
ngôn ngữ học liên ngành, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.124 - 151.
56. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
57. Nguyễn Văn Khang (2008), "Những vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ và chuẩn
hóa tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số12, tr. 8 -19.
58. Nguyễn Văn Khang (2012), Ngôn ngữ học xã hội, Nxb. Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội.
59. Klimoviskij J. A. A., Thuật ngữ và tính chế ước của định nghĩa khái niệm
trong hệ thống, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch).
60. Kogotkova T. X. (1971), Lịch sử hình thành hệ thống thuật ngữ chính trị, xã
hội, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch, Tuấn Tài hiệu đính).
155
61. Kutina L.L., Những quá trình ngôn ngữ xuất hiện khi hình thành các thuật
ngữ khoa học, Bản dịch của Viện Ngôn ngữ học
62. Đức Kỳ (1973), Về công tác biên soạn từ điển thuật ngữ của ta hiện nay, Tạp
chí Ngôn ngữ, số 3, Hà Nội.
63. Lưu Vân Lăng - Nguyễn Như Ý (1971), "Tình hình và xu hướng phát triển thuật
ngữ tiếng Việt trong mấy chục năm qua", Tạp chí Ngôn ngữ, số1, tr. 44 -54.
64. Lưu Vân Lăng (1977), “Thống nhất quan niệm về tiêu chuẩn của thuật ngữ
khoa học”, Tạp chí Ngôn ngữ, số1, tr. 1-11.
65. Lưu Vân Lăng (1977), Vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học, In trong Về vấn
đề xây dựng thuật ngữ khoa học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Lưu Vân Lăng (1998), Ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
67. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
68. Hồ Lê (2003), Cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kĩ thuật Việt Nam - Hội Ngôn ngữ học Việt
Nam, Thuật ngữ tiếng Việt trong đổi mới và hội nhập, Tài liệu Hội thảo tư
vấn, tháng 12/2008, Hà Nội.
70. Mai Thị Loan (2012), Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa thuật ngữ sở hữu trí
tuệ tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
71. Lê Thanh Lộc (1997), Từ điển mỹ thuật, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
72. Lotte D.S (1961), Nguyên lí xây dựng hệ thuật ngữ khoa học kĩ thuật, Nxb.
Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Maxcơva, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ
học, (Hoàng Lộc dịch).
73. Lotte D.S (1974), Công tác thuật ngữ: Nguyên lí và phương pháp, Tài liệu
dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Dương Kỳ Đức dịch).
74. Nguyễn Văn Lợi (2010), "Những vấn đề lí luận trong thuật ngữ học ở Liên
bang Nga", Tạp chí Từ điển học &Bách khoa thư, số 6, tr. 21-31.
75. Nguyễn Văn Lợi (2011), "Thuật ngữ học ứng dụng ở Liên bang Nga, Tạp chí
Từ điển học &Bách khoa thư, số 5, tr. 1- 8.
76. Nguyễn Văn Lợi (2011), "Từ điển học thuật ngữ ở Liên bang Nga”, Tạp chí
Từ điển học & Bách khoa thư, số 4, tr. 1- 5.
156
77. Maneka K. (1978), Những vấn đề cấp thiết của hệ thuật ngữ khoa học kĩ
thuật, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Trần Thị Tuyên dịch).
78. Vương Thu Minh (2005), Khảo sát thuật ngữ y học tiếng Anh và cách phiên
chuyển sang tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
79. Moixeev A. I., Về việc định nghĩa thuật ngữ trong các loại từ điển, Tài liệu
dịch của Viện Ngôn ngữ học.
80. Moixeev A.I. (1978), Về bản chất ngôn ngữ của thuật ngữ, Tài liệu dịch của
Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, (Hoàng Lộc dịch).
81. Hà Quang Năng (2009), "Đặc điểm của thuật ngữ tiếng Việt", Tạp chí Từ
điển học và Bách khoa thư, số 2, Hà Nội.
82. Hà Quang Năng (2009), “Đặc điểm của thuật ngữ tiếng Việt”, Tạp chí Từ
điển học & Bách khoa thư, kì 1, số 2, tr. 32 -38.
83. Hà Quang Năng (2009), Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nửa sau thế kỉ
XX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
84. Hà Quang Năng (chủ biên) (2012), Thuật ngữ học - Những vấn đề lí luận và
thực tiễn, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
85. Hà Quang Năng (2013), “Đặc điểm định danh thuật ngữ”, Tạp chí Từ điển
học & Bách khoa thư, số 4, tr. 4-20.
86. Hà Quang Năng - Lê Thị Lệ Thanh (2018), "Lịch sử nghiên cứu thuật ngữ
trên thế giới", Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư, số 5, tr. 80 - 86.
87. Đặng Thị Bích Ngân (chủ biên) (2003), Từ điển mĩ thuật phổ thông, Nxb. Mĩ
thuật, Hà Nội.
88. Vũ Đức Nghiệu (chủ biên) (2010), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
89. Hoàng Xuân Nhị (1972), "Góp ý về một vài thuật ngữ văn học, mĩ học quan
trọng", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 58 - 59.
90. Nhiều tác giả (1977), Về vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
91. Nhiều tác giả (1958), Danh từ chuyên khoa trong thuật ngữ, Nxb. Đại
học Huế.
92. Nhiều tác giả (1968), Về vấn đề dùng thuật ngữ khoa học nước ngoài, Nxb.
157
Khoa học xã hội, Hà Nội.
93. Nikiforov V. K. (1978), Về tính hệ thống của thuật ngữ, Tài liệu dịch của
Viện Ngôn ngữ học, (Nguyễn Trọng Báu dịch).
94. Ovtsarenko V.M. (1975), Tính hoàn chỉnh về khái niệm, ngữ nghĩa và kí hiệu
của thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Hoàng Lộc dịch).
95. Hoàng Phê (1975), "Phân tích ngữ nghĩa", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 7 - 32.
96. Hoàng Phê (1978), "Về quan điểm và phương hướng chuẩn hóa tiếng Việt",
Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr.9-20.
97. Hoàng Phê (1980), “Chuẩn hoá tiếng Việt về mặt từ vựng”, Tạp chí Ngôn
ngữ, số1, tr. 27- 40.
98. Hoàng Phê (1997), “Chuẩn của tiếng Việt văn hoá”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời
sống, số10.
99. Prokhorova N.V. (1978), Về tính biểu cảm trong thuật ngữ, Tài liệu dịch của
Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
100. A.A.Reformatxki, Thế nào là thuật ngữ và hệ thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện
ngôn ngữ học, (Hồ Anh Dũng dịch; Phan Thị Nguyệt, Hồ Anh Dũng chỉnh lí).
101. Reformatxki A.A. (1961), Những vấn đề về thuật ngữ, Tài liệu dịch của Viện
Ngôn ngữ học, Hà Nội.
102. Iu.V. Rozdextvenxki (1997), Những bài giảng ngôn ngữ học đại cương, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, (Đỗ Việt Hùng dịch).
103. F. de Saussure (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
104. Superanskaja A.V. (1976) Thuật ngữ và danh pháp, Tài liệu dịch của Viện Ngôn
ngữ học, Hà Nội, (Như Ý dịch).
105. Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
106. Nguyễn Thị Kim Thanh (2005), Khảo sát hệ thuật ngữ tin học - viễn thông tiếng
Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội.
107. Lê Quang Thiêm (2014), “Đặc trưng nghĩa của thuật ngữ”, Tạp chí Từ điển
học &Bách khoa thư, số 3, tr. 37- 40.
108. Lê Quang Thiêm (2015), Sự phát triển hệ thuật ngữ tiếng Việt theo định
hướng văn hóa (từ 1907 - 2005) //Đề tài: Nghiên cứu thuật ngữ tiếng Việt
158
hiện đại nhằm góp phần xây dựng nền văn hóa tri thức Việt Nam, mã số:
VII2. 9. 2011. 07.
109. Thuật ngữ học (1975), Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học.
110. Nguyễn Đức Tồn (chủ biên) (2016), Thuật ngữ học tiếng Việt hiện đại, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
111. Nguyễn Trân (2005), Các thể loại và loại hình mĩ thuật, Nxb. Mĩ thuật, Hà Nội.
112. Trung tâm biên soạn sách cải cách giáo dục và Viện Ngôn ngữ học Việt Nam
(1984), Chuẩn hóa chính tả và thuật ngữ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
113. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
114. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb. Đại học &
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
115. Hoàng Anh Tuấn (1973), Tiêu chuẩn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa, Nxb. Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội.
116. Hoàng Mạnh Tuấn (1970), Về công tác tiêu chuẩn hóa thuật ngữ khoa học kĩ
thuật”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, Hà Nội.
117. Hoàng Tuệ (1979), “Một số vấn đề về chuẩn mực hóa ngôn ngữ”, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 3+4, tr.137-151.
118. Hoàng Tuệ (1983), “Nhìn lại công việc chuẩn hoá tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn
ngữ, số 1, tr. 1-11.
119. Hoàng Tuệ (1998), “Về những thuật ngữ vốn gốc ngôn ngữ nước ngoài”,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 6, tr. 21- 22.
120. Hoàng Tuệ (1999), “Giới thiệu vấn đề chuẩn mực và chuẩn mực ngôn ngữ”,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr.17-19.
121. Nguyễn Văn Tỵ (1989), Về những thuật ngữ tạo hình thuộc bốn nhóm: "kiến
trúc", "sơn nhựa", "khắc gỗ", "màu sắc", số 4.
122. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (1968), Vấn đề dùng thuật ngữ khoa học
nước ngoài, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
123. Vấn đề đặc thù của thuật ngữ (1978), Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học.
124. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Nxb.
Từ điển bách khoa, Hà Nội.
125. Xtepanov Ju.X. (1977), Những cơ sở cử ngôn ngữ học đại cương, Nxb. Đại
159
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
126. N. K. Xukhov, Công tác có tính chất quốc tế trong lĩnh vực thuật ngữ khoa
học kĩ thuật, Tài liệu dịch của Viện Ngôn ngữ học, (Như Ý dịch).
127. Nguyễn Như Ý (1992), Về phương thức cấu tạo thuật ngữ trong một số công
trình xuất bản tại Việt Nam thời kì 1954 - 1975, Tạp chí Khoa học xã hội, số
14, Hà Nội.
128. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
TIẾNG NƢỚC NGOÀI
129. Bassey E.A. (1999), Terminology and language planning, John Benjamins
Publising company, Amsterdam/ Philadelphia.
130. Peter Brett (1995), Building terminology, Oxfort P.
131. Budin G, Wright S.E. (2001), Handbook of Terminology Management, John
Benjamins Publishing, Amsterdam.
132. John C.Merrill (1995), Global journlism - Survey of International
communication, Longman Publishers.
133. Maria Teresa Cabré, Janet Ann DeCesaris, Juan C. Sager (1999),
Terminology: theory, methods and applications, John Benjamins Publishing,
Amsterdam.
134. Grinev S. (2003), “Terminological foundations of reasoming: towards the
general theory of evolution of human knowledge”, Terminology Science &
Research, Vol.14, pp. 41 - 51.
135. Kirsten Packeiser (2009), The general theory of terminology: a literature
review a critical discussion, International Business Communication,
Copenhagen Business School.
136. Sager J.C.(1990), A practical Course in Terminology Processing, John
Benjamins P blising company, Amsterdam, Philadelphia.
137. Shelov S.D. (2003), “On generic definition of a term: an attempt of linguistic
approach to term definition analysis”, Terminology Science & Research,
Vol.14, pp. 52 - 58.
138. Rita Temmerman (1984), Towards new ways of terminology description,
160
John Benjamins Publising Company, Amsterdam/ Philadelphia.
139. Temmerman R. (2000), Toward new ways of terminology description, John
Benjamins Publishing, Amsterdam/Philadelphia
140. Teresa Cabre, M. (1999), Terminology: Theory, methods and applications,
Universitat Pompeu Fabra, John Benjamins Publising Company,
Amsterdam/ Philadelphia.
141. Teresa Cabre, M. (2003), “Theories of terminology. Their description,
prescription and explanation”, Terminology, John Benjamins Publishing
Company, No 2, pp.163 -169.
142. В.М. Лейчик (2009), Терминоведение - Предмет, методы, структура,
Книжный дом "ЛИБРОКОМ", Москва.
143. Лингвистический энциклопедический словарь (1990) (Редактоp: В.М.
Ярцева), Москва, "Советская эциклопедия".
1
PHỤ LỤC
A
1 Amiăng
2 artist (m) nghệ sĩ
3 Ấn tượng nùng dạm
4 Ánh hồng
5 Ánh hồng lúc ban mai
6 Ảnh hưởng của chuyển đổi ánh sang
7 Ảnh hưởng của xu hướng thiết kế
8 Ánh sáng tỏa trong bức tranh
9 Ánh vàng, mầu vàng
10 Ảo giác
B
11 Bản can ( bản vẽ đồ lại nét vẽ)
12 Bản in khắc
13 Bàn in thạch
14 Bản in thuỷ tinh
15 Bản khắc gỗ
16 Bàn quay làm đồ gốm
17 Bản sao đúng
18 Bản thảo của tác giả
19 Bản vẽ mẫu
20 Bản vẽ phác
21 Bằng đất
22 Bảng màu, màu sắc riêng của họa sĩ
23 Bảng thang màu
24 Bắp thịt, cơ
25 Bìa cứng, giấy bồi
26 Bìa cứng, giấy bồi
27 Bích họa, tranh nề
38 Biếm họa
39 Biếm họa
40 Biển trang trí
41 Biểu tượng
42 Bình cổ cong
43 Bình phong
44 Bình vẽ hình đen
2
45 Bố cục
46 Bố cục tạo dáng
47 Bộ đôi (tranh gồm hai phần nhìn vào nhau )
48 Bo tranh
49 Bộ tranh mượn để trưng bày
50 Bồi tranh ( làm tăng bề dày của tranh)
51 Bóng đổ
52 Bóng lờ mờ
53 Bột đánh bóng đồ bạc
54 Bột mài
55 Bức chân dung
56 Bức họa đơn sắc
57 Bức họa đồng quê
58 Bức họa mang trường phái ấn tượng
59 Bức họa phong cảnh
60 Bức trang trí sau bàn thờ
61 Bức tranh cảnh tầm rộng
62 Bức tranh chân dung giống như thật
63 Bức tranh của một tạo vật sống
64 Bức tranh đẹp
65 Bức tranh kỳ cục, bức tượng kỳ cục
66 Bức tranh mầu phấn
67 Bức tranh Nhật Bản
68 Bức tranh sáp màu
69 Bức tranh tường
70 Bức tranh vẽ bằng bút mực
71 Bức tranh, hội họa
72 Bức tranh, bức ảnh, chân dung
73 Bức vẽ bằng bút chì, bút mực
74 Bức vẽ cảnh đêm
75 Bức vẽ đậm màu
76 Bức vẽ nguệch ngoạc
77 Bút chì con té
88 Bút chì conte
89 Bút chổi (dùng để phủi sạch tranh, quét nền, bồi tranh)
90 Bút lông
91 Bút pháp
92 Bút pháp, kiểu dáng của họa sĩ
3
93 Bút sắt
94 Bút vẽ
95 Bút vẽ
96 Bút vẽ
C
97 Cách điệu
98 Cái giá, bệ đỡ
99 Cái so mầu sắc
100 Cái sơn xì
101 Cải tiến mẫu mã
102 Cảm thụ mầu sắc
103 Cân bằng
104 Cân đối
105 Cẩn thận chi tiết của thợ thủ công
106 Cảnh ảm đạm
107 Cảnh bao quát
108 Cảnh đêm
109 Cảnh hùng vĩ
110 Cấu trúc
111 Cấu trúc cơ bản
112 Cấu trúc cơ bản
113 Chấm nhẹ mầu
114 Chấm nhẹ sơn lên vật gì
115 Chấm nhẹ sơn lên vật gì
116 Chạm nổi hình chuỗi hạt
117 Chân dung
118 Chân dung tự họa
119 Chất dung môi
120 Chất gôm, keo, hồ
121 Chất hãm màu
122 Chất làm phai mầu
123 Chất liệu
124 Chất liệu sơn dầu
125 Chất nhựa kino (mầu đỏ dùng để thuộc da)
126 Chất pha màu
127 Chì than để vẽ, bức vẽ bằng than
128 Chi tiết kỹ thuật
129 Chiếu, thảm
4
130 Chỗ khum của hình lọ
131 Chọn mẫu cho phù hợp
132 Chữ khắc (bia, đồng tiền)
133 Chủ nghĩa cổ điển
134 Chủ nghĩa Duy mỹ
135 Chủ nghĩa hiện thực
136 Chủ nghĩa Hiện thực Mới
137 Chủ nghĩa hình thức
138 Chủ nghĩa lập thể
139 Chủ nghĩa siêu thực
140 Chủ nghĩa Tân cổ điển, phong cách, Trường phái Tân cổ điển
141 Chủ nghĩa tự nhiên, phong cách tự nhiên
142 Chủ nghĩa, trường phái, phong cách Cổ điển
143 Chủ nghĩa, trường phái, phong cách Lập thể
144 Chủ nghĩa, trường phái, phong cách Lập thể
145 Chưa nung kỹ, non lửa (đồ gốm)
156 Có ba mầu
157 Cơ bản
158 Co dạng khác thường
160 Cổ điển
161 Có hình dạng khác nhau
162 Có hình thon dài
163 Có liên quan đến họa sĩ
164 Có mầu anh đào, mầu anh đào
165 Có mầu da cam
166 Có mầu đỏ rượi vang
167 Có mầu kaki
168 Có mầu nâu đỏ
169 Có màu nâu hạt dẻ
170 Có mầu sôcôla
171 Có men cùng mầu
172 Cọ phun
173 Có thể vẽ thành hình
174 Có tính chất ảo giác, gợi ảo giác
175 Công trình nghệ thuật bằng đất
176 Cột đỡ nóc
177 Cùng màu, đẳng sắc
178 Cuộc trưng bày tranh
5
D
179 Dải băng, nẹp
180 Dáng
181 Dáng chung
182 Dao khắc
183 Dao khắc , dao trổ
184 Dao khắc kim loại
185 Dao vẽ
186 Dầu bóng gam nóng
187 Dầu cọ
188 Dầu khô
189 Dầu lanh, chất liệu sơn dầu
190 Dây dọi
191 Dệt thổ cẩm
192 Di (dùng tay, bút, giẻ lau hoặc dụng cụ khác làm mờ đi)
193 Dựng hình
194 Dựng tượng
195 Dựng tượng
196 Đá có thạch anh
197 Đá da trời, mầu xanh da trời
198 Đá hoa, mầu cẩm thạch
199 Đá mă não
201 Đánh bóng
202 Đánh vécni, tráng men đồ sành sứ
203 Đăng đối
204 Đắp nổi
205 Đặt mẫu
206 Đất sét
207 Đất sét
208 Đất sét thịt
209 Đất sứ
210 Đạt tới sự hoàn hảo về hoạ
211 Đất xét làm đồ gốm
212 Đầu cột
213 Đen nhánh, đen hạt huyền
214 Đẹp mầu, tốt mầu
215 Đẹp như tranh, phong cảnh sinh động
216 Đẹp như vẽ
6
217 Đẹp như vẽ
218 Đgt tô màu xám
219 Điểm mầu
220 Điểm mầu
221 Điểm nhấn
222 Điểm nhìn
223 Điểm những đốm mầu khác nhau
224 Điểm tụ
225 Điểm vàng
226 Điệp ( một loại giấy điệp)
227 Điêu khắc
228 Đỉnh đầu
239 Độ (thay đổi màu đậm nhạt)
240 Đồ bằng đất nung
241 Đồ chạm nổi thấp
242 Đồ chơi
243 Đồ cổ
244 Độ đậm nhất
245 Đồ đồng cổ
246 Đồ gốm
247 Đồ gốm La Mã có đặc điểm bề mặt sáng đỏ
248 Đồ họa công nghiệp
249 Đồ họa in ấn
250 Đồ họa in ấn
251 Đồ họa máy tính
252 Đỏ hoe (râu, tóc)
253 Đồ lại hình vẽ
254 Đỏ mầu anh đào
255 Đồ sành Ý (thời Phục hưng )
256 Đồ sứ
257 Đồ sứ không tráng men
258 Đồ sứ mới nung chưa tráng men
259 Đồ sứ, đồ gốm
260 Đồ tạo tác
261 Đỏ tía
262 Đỏ tía
263 Đồ trang trí chạm bạc,vàng
264 Đồ trang trí lòe loẹt
7
265 Đồ trang trí thêu
266 Đỏ tươi
267 Đồ vật tự biểu lộ
268 Đỏ, bừng đỏ
269 Đỏ, hung hung đỏ
270 Độc bản
271 Đối chiếu, so sánh
272 Đối cực, tương phản
273 Đối tượng thiết kế
274 Đối vị
275 Đối vị
276 Đốm xám
297 Đơn sắc
298 Đóng khung (tranh, ảnh)
299 Đồng mầu
300 Đồng tâm
301 Đồng thau, đồ vật làm bằng đồng thau
302 Đồng thiếc, tượng bằng đồng thiếc
303 Đốt cháy, nung
304 Đưa nhiều họa tiết vào trong tranh
305 Đúc lặn
306 Đường có mái vòng
307 Đường diềm
308 Đường nét
309 Đường nét
310 Đường nét không rõ ràng
311 Đường nứt rạn ở đồ vật quý
312 Đường trục
314 Đường vằn
315 Đường viền bằng chỉ tết, ren tua
317 Đường viền quanh đầu cột
318 Đường viền trang sức quần áo
319 Đường, nét thô
F
320 figurine (m) tượng nhỏ
G
321 Gạch men
322 Galơri
8
323 Gây ấn tượng
324 Giá chống
325 Giả sơn dầu (tranh)
326 Giá vẽ
327 Giá vẽ, giá bảng
328 Giải phẫu
329 Giấy bồi bọc vải
330 Giấy bồi bọc vải
331 Giấy bồi Bristol
332 Giấy cứng Briton để vẽ
333 Giấy dán tường
334 Giấy màu vẽ sơn dầu
335 Giấy vẽ
336 Giấy vẽ mầu nước
337 Gợi cảm, hùng vĩ
H
338 Hài hòa màu sắc
339 Hậu ấn tượng
340 Hiện thực
341 Hiện thực hư ảo
342 Hiện thực thần diệu
343 Hiệp hội các họa sĩ thiết kế đồ họa
344 Hiệu quả
345 Hình ảnh thu nhỏ
346 Hình ảnh trung thực
347 Hình cảnh
348 Hình chạm, đồ khắc
349 Hình dáng
350 Hình hoạ
351 Hình khối
352 Hình mẫu
353 Hình sáu cạnh
354 Hình soắn ốc
355 Hình trang trí lá ô rô
346 Hình trang trí vẩy cá
347 Hình trứng
348 Hình tượng
349 Hình vẽ men xanh trên đồ gốm
9
350 Hình vòng hình khuyên
351 Hồ
352 Hồ bột
353 Họa (độ trung gian)
354 Hoa anh đào
355 Hoạ đồ
356 Họa nâu vandich
357 Hòa sắc
358 Hòa sắc
359 Họa sĩ
360 Họa sĩ bích chương
361 Họa sĩ phong cảnh biểu hiện người Anh
362 Họa sĩ sáng tác
363 Họa sĩ truyền thống
364 Họa sĩ vẽ chân dung
365 Họa sĩ vẽ tranh tường
366 Họa sĩ vỉa hè
367 Họa sĩ, nhà minh họa sách và vẽ kiểu người Anh
368 Hoàn chỉnh
379 Hoành tráng
380 Hoạt động hội hoạ
381 Hội đồng mỹ thuật công nghiệp thế giới
382 Hội đồng nghệ thuật Anh quốc
383 Hội đồng Nghệ thuật Anh quốc
384 Hội họa
385 Hội hoạ cảnh sống thực tế
386 Hội họa tổng hợp
387 Hội họa tổng hợp
388 Hội họa tổng thể
389 Hơi hồng, hồng nhạt
390 Hội nghệ sĩ tạo hình Việt Nam
391 Hơi vàng
392 Hơi xám, tô màu xám
393 Hỗn hợp, sặc sỡ nhiều mầu
394 Hồng tươi , màu đỏ tươi
395 Hồng, hơi đỏ
396 Hồng, mầu hồng
397 Hộp mầu, hộp thuốc vẽ
10
398 Hợp nhau về mầu sắc
399 Hộp thuốc vẽ
I
400 In litô
401 In mầu
402 In thạch
K
403 Keo
404 Khả năng sáng tạo
405 Khắc a xít
406 Khắc bản
407 Khác hình
408 Khác nhau về mầu sắc
409 Khắc, chạm nổi cao
419 Khắc, trổ, chạm, in sâu, khắc sâu
420 Khảm, phủ một lớp vỏ ngoài
421 Khiếu thẩm mỹ
422 Khiếu thẩm mỹ
423 Kho tàng mỹ thuật thế giới
424 Khỏa thân
425 Khoả thân (hình)
426 Khoảng cách, cảnh xa của một bức hoạ
427 Khoảng độ ( về kích cỡ)
428 Khối
429 Khôi phục lại hoàn chỉnh
430 Khối sáu mặt
431 Không bị làm mất vẻ đẹp
432 Không được trưng bầy
433 Không gây ấn tượng mầu sắc
434 Không gian trong tranh
435 Không in tranh ảnh, không minh họa
436 Không mầu
437 Không mầu, không sắc
438 Không nghệ thuật, không mỹ thuật
439 Không pha mầu
440 Không phai mầu
441 Không sơn
442 Không thanh nhã
11
443 Không thể phai mầu được
444 Không thích hợp
445 Không tô mầu, không đượm mầu
446 Không tô mầu, không mầu sắc
447 Không tô nét trải hình vẽ
448 Không tráng men đồ sành, không đánh vecni
449 Không trang trí
450 Không trang trí để tự nhiên
451 Khung căng vải vẽ , khung tranh
452 Khung trang trí
453 Khung vẽ
454 Khung vẽ
455 Khung, cốt
456 Khuôn ( mẫu, in )
457 Khuôn thủng, khuôn tô
458 Khuynh hướng
459 (kiến trúc)
460 Kiến trúc, công trình kiến trúc
461 Kiểu mẫu, mô hình, mẫu vẽ
462 Kiểu phong cách Đế chính
463 Kiểu trang trí đường lượn
464 Kiểu trang trí xoắn ốc
465 Ký họa
466 Kỹ thuật
467 Kỹ thuật công nghiệp
468 Kỹ thuật cốt sáp
469 Kỹ thuật Điểm miêu
470 Kỹ thuật in bóc
471 Kỹ thuật khắc axít
472 Kỹ thuật khắc bản
473 Kỹ thuật mô hình
L
474 Lá cây, xanh tươi
475 Làm bạc mầu, đổi mầu
476 Làm bằng tay hoặc làm sẵn từng phần (bộ phận)
477 Làm đậm, làm thắm màu
478 Làm đen
481 Làm đen, bôi đen
12
482 Làm đỏ vật gì
483 Làm mẫu, nặn kiểu, vẽ kiểu
484 Làm mờ
485 Làm phai mầu
486 Làm sẵn từng phần
487 Làm thẫm mầu lại
488 Làm trắng
489 Làm trắng, làm bạc đi
490 Lẫn mầu, pha nhiều mầu
491 Làng chạm khắc đá
492 Lịch sử nghệ thuật
493 Lờ mờ
494 Lòe loẹt, sặc sỡ
495 Lông vũ
496 Lớp lót màu đầu tiên
497 Lớp mầu lót bức hoạ
498
Lớp nhám vôi và thạch cao trộn cát (trên lớp này người ta trát lớp thạch
cao mịn để vẽ mầu lên)
499 Lớp sơn bóng , lớp men bóng
500 Lớp sơn lót mầu trắng
501 Lớp sơn mỏng trải nền khi bắt đầu vẽ
502 Lý thuyết mầu
503 Lý thuyết tạo dáng
M
504 Mạ vàng, mạ bạc
505 Mái vòm, khung vòm
506 Mảng màu
507 Mảng màu phẳng
508 Mặt nghiêng
509 Mặt phẳng của tranh
510 Mặt trước
511 Mẫu (đổ khuôn)
512 Mầu bạc
513 Mầu be
514 Mầu biếc cánh trả
515 Màu bổ túc
516 Màu bột
517 Mầu cà fê
13
518 Mầu cá vàng
519 Mầu cơ bản
520 Mầu cơ bản ( màu thật của vật )
521 Màu da
522 Mầu da cam
523 Mầu da rám nắng
524 Mầu đất son
525 Mầu dâu chín
526 Mầu đen
547 Mầu đen sạm
548 Mầu điều
549 Mầu đỏ
550 Mầu đỏ rum
551 Mầu đỏ tía
552 Mầu đỏ tươi
553 Màu gỉ đồng
554 Mầu hổ phách
555 Màu hoa cà
556 Mầu hoa cà
557 Mầu hoa đào
558 Mầu hơi đen
559 Mầu hồng
560 Màu keo
561 Mầu lá úa, mầu vàng úa
562 Mầu lục dịu
563 Mầu lục hạt đậu
564 Mầu lục nhạt
565 Mầu lục sẫm
566 Mầu lục vỏ chai, lục sẫm
567 Màu mộc, màu nâu vàng nhạt
568 Mầu nâu nhạt
569 Màu nâu sẫm
570 Mầu nâu sẫm
571 Mầu nâu vàng tóc
572 Mầu nâu xám
573 Mầu nâu xẫm
574 Màu nền
575 Màu ngà
14
576 Mầu ngọc lục bảo
577 Mầu nhẹ, nét trải trên hình vẽ
578 Màu nóng
579 Màu nước
580 Màu pha sáp
581 Màu pha sáp
582 Mầu phơn phớt
583 Mầu phơn phớt
584 Mầu quyến rũ
585 Mầu sắc choi lọi
586 Màu sắc rực rỡ
587 Mầu sáp
588 Mầu sôcla
589 Mầu tái, mầu tái sám
590 Mầu tía
591 Mầu tím, cây hoa tím
592 Màu trắng trơn
593 Mầu tương phản
594 Màu vàng
595 Mầu vàng sẫm, mầu da bò
596 Màu xám
597 Màu xám
598 Mầu xám tro
599 Mầu xám xanh óng (mầu cổ chim bồ câu)
600 Màu xám xịt
601 Mầu xám xịt
602 Mầu xanh biếc
603 Màu xanh chàm
604 Mầu xanh nhạn lai hồng
605 Mầu xanh nước biển
606 Mầu xanh thẫm
607 Màu xanh tím,
608 Màu xanh tươi của cỏ cây
609 Mầu xanh xám
610 Máy dệt, khung cửi
611 Máy phun
612 Máy thu phóng tranh vẽ
613 Mềm dẻo, dễ uốn
15
614 Men màu
635 Men, bữc vẽ trên men
636 Méo mó không ra hình thù gì
637 Mép viền quanh bức tranh
638 Mĩ thuật Đại Đá mới
639 Mĩ thuật Đại Đồ Đồng
640 Mĩ thuật Phật giáo
641 Mĩ thuật ứng dụng
642 Mô hình
643 Môi trường mỹ thuật hài hòa
644 Một bộ bốn
645 Một dụng cụ phun sơn
646 Một góc phong cảnh
647 Một mầu
648 Mốt thời trang
649 Mực nho
650 Mực nước
651 Muôn mầu, muôn vẻ
652 Mỹ nghệ
653 Mỹ thuật
654 Mỹ thuật công nghiệp
655 Mỹ thuật Phật giáo
656 Mỹ thuật trang trí
667 Mỹ thuật trang trí
668 Mỹ thuật ứng dụng
N
669 Nằm (tượng)
670 Nạm ngọc
671 Nạm vàng, nạm bạc vào kim loại
672 Nâu đen, sẫm mầu
673 Nâu sẫm
674 Nâu thẫm, mầu hạt dẻ
675 Nền màu tranh
676 Nền nghệ thuật Amarua
677 Nền tảng, nguyên lý vẽ
678 Nét chồng
679 Nét chồng lên, nét phủ lên
680 Nét cong
16
681 Nét đặc biệt mầu sắc riêng
682 Nét đậm
683 Nét dọc
684 Nét kỳ lạ ( đẹp phi thường)
685 Nét rạn, đường rạn
686 Nét rạn, đường rạn
687 Nét vẽ
688 Nét, vết (tô mầu trên bức hoạ)
689 Ngành tạo dáng công nghiệp
690 Ngày sang sửa tranh trước hôm khai mạc
691 Nghề làm đồ gốm
692 Nghệ nhân
693 Nghệ sĩ khắc bản
694 Nghệ sĩ khắc bản và in tranh Anh
695 Nghề thủ công, đồ thủ công
696 Nghệ thuật
697 Nghệ thuật Ai Cập cổ đại
698 Nghệ thuật Ai Cập cổ đại
699 Nghệ thuật Baróc
700 Nghệ thuật chạm chìm, khắc chìm
701 Nghệ thuật chạm sơ
702 Nghệ thuật Chết
703 Nghệ thuật Chết
704 Nghệ thuật chữ
705 Nghệ thuật chữ (thư pháp )
706 Nghệ thuật cổ đại
707 Nghệ thuật cụ thể
708 Nghệ thuật đại chúng
709 Nghệ thuật đại chúng
710 Nghệ thuật dân gian
711 Nghệ thuật điêu khắc
712 Nghệ thuật đồ hoạ
713 Nghệ thuật đồ họa
714 Nghệ thuật giả động
715 Nghệ thuật hình học
716 Nghệ thuật khảm
717 Nghệ thuật Mycenae
718 Nghệ thuật nguyên thủy
17
719 Nghệ thuật phẩm đồ vật
720 Nghệ thuật phẩm đồ vật
721 Nghệ thuật phế liệu
722 Nghệ thuật phi Đối tượng
733 Nghệ thuật tạo hình
734 Nghệ thuật tạo hình
735 Nghệ thuật thiết kế vườn hoa
736 Nghệ thuật thoái hóa
737 Nghệ thuật thoái hóa
738 Nghệ thuật thời phục hưng
739 Nghệ thuật tối thiểu
740 Nghệ thuật trực quan
741 Nghệ thuật tự do
742 Nghệ thuật vẽ chân dung tiểu hoạ
743 Nghệ thuật vẽ chân dung tiểu họa
744 Nghệ thuật vị nghệ thuật
745 Nghệ thuật vị nghệ thuật
746 Nghệ thuật vô hình thể
747 Nghiền mầu
748 Nghiền thô
749 Ngọc biển xanh
750 Ngọc thạch anh
751 Ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình
752 Người am hiểu nghệ thuật
753 Người chuyên vẽ quảng cáo
754 Người giả để mặc quần áo mẫu
755 Người khắc axít
756 Người làm mẫu, vật làm mẫu
757 Người mẫu khoả thân
758 Người thích nghệ thuật, có năng khiếu về nghệ thuật
759 Người vẽ hình
760 Nguyên mẫu
761 Nguyên mẫu, nguyên hình
762 Nguyên tắc vẽ phác hoạ
763 Nhà điêu khắc
764 Nhà điêu khắc
765 Nhà điêu khắc Anh
766 Nhà điêu khắc Thụy Sĩ
18
767 Nhà sưu tập người Anh
768 Nhã, trang nhã
769 Nhãn hiệu ở sản phẩm
770 Nhiều hình, nhiều dạng
771 Nhiều mặt, nhiều phía
772 Nhiều mầu
773 Nhiều mầu sắc
774 Nhiều mầu sặc sỡ
775 Nhịp điệu
786 Nhũ tượng, thể sữa
787 Nhựa thông, dầu thông
788 Những gam mầu mát.
789 Nhuốm mầu, pha mầu
790 Nhuộm nâu, làm nâu
791 Nhuộm nâu, sơn nâu
792 Nhuộm thắm, làm thấm sâu
793 Nổi bật đương nét (bức tranh)
794 Nổi thấp (đắp, khắc chạm)
795 Nữ họa sĩ
796 nuance (m) sắc thái
797 Nung
798 Nước bóng, thuốc đánh bóng
799 Nước khắc đồng
800 Nước, tranh mầu nước
O
801 Ở bên ngoài (ngoại thất)
P
802 Panô
803 Phá cách hoàn toàn về mầu sắc
804 Pha màu
805 Pha trộn hòa lẫn
806 Phác thảo
807 Phái cựu, phái cũ
808 Phái Cựu, phái Cũ
809 Phẩm lục ( oxít dùng làm chất mầu )
810 Phần bị cắt mất chữ trong bản khắc kẽm
811 Phần khuất của một vật không được chiếu sáng trong không gian
812 Phản nghệ thuật
19
813 Phản nghệ thuật
814 Phản nghệ thuật
815 Phấn, phấn mầu
816 Pháp lam
817 Phê bình
818 Phép chiếu trục lương
819 Phép chiếu trục lương
820 Phết nhẹ sơn lên bức hoạ
821 Phết nhẹ sơn lên bức hoạ
822 Phiên bản
823 Phối cảnh, tranh vẽ theo luật xa gần
834 Phong cách
835 Phong cách Ấn tượng
836 Phong cách biểu hiện
837 Phong cách bổ ô, họa pháp bổ ô
838 Phong cách Churriguera
839 Phong cách cực thịnh
840 Phong cách nghệ thuật cổ
841 Phong cách nghệ thụât ở Châu Âu cuối thế kỷ 18
842 Phong cách Tân tạo hình
843 Phong cách, Trường phái Dị điển
844 Phong cách, Trường phái Dị điển
845 Phong cảnh
846 Phong phú về mầu sắc
847 Phong trào Lãng mạn Mới
848 Phong trào Nghệ thuật và Thủ công Mỹ nghệ
849 Phòng trưng bầy tranh, phòng triển lãm
850 Phông, nền
851 Phủ sơn lên
862 Phủ thêm lớp sơn
863 Phục chế
864 Phun sơn
865 Phương pháp
866 Phương pháp khắc bản vẽ
Q
867 Quan sát
868 Quảng cáo
S
20
869 Sắc hồng, đỏ
870 Sắc tươi, mầu tươi
871 Sách in mộc bản
872 Sản phẩm khắc trên đá
873 Sản phẩm làm từ gốm
874 Sản phẩm sơn mài
875 Sáng sủa
876 Sạp nung đồ gốm
877 Siêu thực
879 Sinh động giống như thật
880 Sơn cánh gián
881 Sơn dầu
882 Sơn đè lên để cải mầu
883 Sơn lại, tô mầu lại
884 Sơn mài
885 Sơn mài nhật, đồ sứ Nhật
886 Sơn son, tô son
887 Sơn ta
888 Sơn,đồ gỗ sơn
889 Sự đánh giá mỹ thuật
890 Sự đắp (khắc chạm) đồ đắp nổi, phù điêu
891 Sự hoàn hảo
892 Sự khảm men vào đồ vật
893 Sự làm cho hợp mầu
894 Sự lãng mạng
895 Sự mạ vàng
896 Sự nung trong lò
897 Sự phản chiếu
898 Sự phối hợp mầu sáng tối
899 Sự sáng tạo, óc sáng tạo
900 Sự tạo hình mới
901 Sự thể hiện dưới dạng người
902 Sưu tập
T
903 Tác giả
904 Tác phẩm bằng sứ
905 Tác phẩm công phu
906 Tác phẩm mang dấu ấn của một thiên tài
21
907 Tác phẩm mỹ thuật thời xưa
908 Tác phẩm nghệ thuật
909 Tác phẩm, làm việc
910 Tạc trên gỗ
921 Tái bản một tác phẩm
922 Tấm ván, giấy bồi
923
Tămpêra (một loại màu vẽ có nhiều tính năng tương tự như màu bột và
Goát)
924 Tán thành bột min
935 Tạo dáng công nghiệp
936 Tạo dáng, thiết kế
937 Tạo hình
938 Tạo hình hài cụ thể
939 Táo lục
940 Thạch anh
941 Thạch anh
942 Thạch anh để nặn tượng
943 Thạch anh để nặn tượng
944 Thạch anh tím
945 Thạch cao
946 Thạch cao
947 Thạch cao
948 Thạch cao tuyết hoa
949 Thạch cao, tuyết hoa
950 Thạch trắng
951 Thảm
952 Thẫm mầu, ngăm đen
953 Thẫm, sẫm (mầu sắc)
954 Than chì
955 Thần vệ nữ
956 Thanh tú, phơn phớt mầu
965 Thể đồng hình
966 Thêu trang trí
967 Thiết kế in
968 Thiết kế môi trường
969 Thiết kế nôỉ tiếng thế giới thực tiễn
970 Thiết kế nổi tiếng về thực tế
971 Thiết kế sản phẩm công nghiệp
972 Thiết kế thẩm mỹ
22
973 Thợ
974 Thợ đúc
975 Thợ khắc bản Anh
976 Thợ khắc bản kẽm
977 Thợ khắc đá
978 Thợ khắc đồng bằng axít
979 Thợ khắc gỗ
980 Thợ kim hoàn
991 Thợ làm đồ gốm
992 Thợ làm mẫu, mô hình
993 Thủ công
994 Thuật chạm kim loại
995 Thuật chạm kim loại
996 Thuật khắc đá
997 Thuật làm đồ gốm
998 Thuật trang trí trong nhà
999 Thuật vẽ = mầu keo
1000 Thuật vẽ bản đồ
1001 Thuật vẽ bằng mầu keo
1002 Thuật vẽ nhiều mầu
1003 Thuộc gân, đường gân
1004 Thuốc hắc ín
1005 Thuốc màu
1006 Thuốc mầu
1007 Thuốc tím
1008 Thuộc tranh ảnh, diễn tả bằng tranh ảnh
1019 Thuộc về thẩm mỹ
1020 Thủy tinh
1021 Tiêu biểu, nét đặc trưng
1022 Tiểu họa
1023 Tính chất hai mầu sắc
1024 Tính đơn nhất
1025 Tính đồng nhất (hội họa)
1026 Tính đồng nhất của một bức tranh
1027 Tính đồng nhất màu sắc
1028 Tính không đối xứng
1029 Tính nghệ thuật
1040 Tính rời rạc của một bức tranh
23
1041 Tính tạo hình, tính dẻo
1042 Tính trang nhã óc thẩm mỹ
1043 Tô màu
1044 Tô màu sặc sỡ, làm cho mất tính đơn điệu
1045 Tô màu, tô điểm
1046 Toàn cảnh nhìn từ trên xuống
1047 Tối mầu, xám xịt
1058 Trải thảm, trang trí bằng thảm
1059 Trang hoàng, tô điểm
1060 Trang hoàng, trang trí
1061 Tráng men, phủ men, tô nhiều màu
1062 Trắng ngà
1063 Trạng thái khác nhau, muôn mầu muôn vẻ
1064 Trang trí
1065 Trang trí bằng đường vân
1066 Trang trí bằng mẫu vẽ
1067 Trang trí bằng ngọc trai
1078 Trang trí hình thoi trên tường
1079 Trang trí kim loại
1080 Trang trí nội ngoại thất
1081 Trang trí nội ngoại thất
1082 Trang trí, trang hoàng
1083 Trắng, bạc
1084 Tranh biếm họa
1085 Tranh cảnh trò chuyện
1086 Tranh cảnh trò chuyện
1087 Tranh chiếu hình
1098 Tranh dán
1099 Tranh dán
1100 Tranh dán
1101 Tranh dân gian
1102 Tranh độc sắc sám
1103 Tranh ghép mảnh
1104 Tranh hoành tráng
1105 Tranh hoành tráng
1106 Tranh in đá
1107 Tranh in lưới
1108 Tranh in mượt
24
1119 Tranh in mượt
1120 Tranh khắc gỗ có nhiều sắc độ
1121 Tranh khắc kim loại
1122 Tranh khổ nhỏ
1123 Tranh khỏa thân
1124 Tranh lụa
1125 Tranh mầu nước
1126 Tranh nhiều mầu
1127 Tranh phong cảnh
1138 Tranh phong cảnh
1139 Tranh phong cảnh Mỹ
1140 Tranh phóng to
1141 Tranh sơn mài
1142 Tranh thờ
1143 Tranh toàn diện
1144 Tranh trang trí
1145 Tranh tứ bình
1146 Tranh tường
1147 Tranh vải, vải để vẽ tranh
1148 Tranh vẽ cảnh biển
1159 Tranh vẽ trên vỏ cây
1160 Triển lãm công nghiệp
1161 Triển lãm nghệ thuật cơ bản của thế giới
1162 Triển lãm tranh
1163 Trộn lẫn hỗn hợp (màu)
1164 Trưng bày, cuộc triển lãm
1165 Trung tâm thiết kế
1166 Trường phái ấn tượng
1167 Trường phái Avignon
1168 Trường phái Biểu hiện Trừu tượng
1169 Trường phái chính xác
1180 Trường phái cơ bản
1181 Trường phái Cologne
1182 Trường phái Danube
1183 Trường phái Danube
1184 Trường phái Fontainebleau
1185 Trường phái khái niệm
1186 Trường phái New York
25
1187 Trường phái NewLyn
1188 Trường phái nghệ thuật trừu tượng
1189 Trường phái Norwich
1190 Trường phái sông Meuse
1191 Trường phái tạo dựng
1192 Trường phái tạo dựng
1193 Trường phái, phong cách Tân Ấn tượng
1214 Trường pháiBohemia
1215 Trừu tượng
1216 Truyện tranh
1217 Tung hung, ngăm ngăm đen
1218 Tượng bán thân
1229 Tượng bán thân
1230 Tượng cẩm thạch
1231 Tương đồng, tương ứng
1232 Tượng nửa người
1233 Tường phái Cơ bản
1234 Tượng thếp vàng
1235 Tượng trưng
1236 Tưởng tượng nghệ thuật
1237 Tuyết hoa thạch
V
1238 Vải bố
1239 Vải bố
1240 Vải đỏ, mầu đỏ tươi
1241 Vải lanh thô (dùng vẽ tranh)
1242 Vải nhám, vải ráp
1258 Vải thô mầu nâu đỏ
1259 Van đá, vân gỗ, vẽ giả vân, sơn giả vân
1260 Vàng hoe
1261 Vàng nhạt
1262 Vàng nhạt
1273 Vật quý có thể đưa vào viện bảo tàng
1274 Vật trung gian
1275 Vẽ
1286 Vẻ bề ngoài
1287 Vẽ bóng
1288 Vẽ chân dung ai
26
1289 Vẽ đẹp hơn
1290 Vẽ hình mô tả, phác hoạ
1291 Vẽ kỹ thuật
1292 Vẽ màu tươi
1293 Vẽ ngẫu nhiên bằng vệt màu loang
1294 Vẽ ngẫu nhiên, vệt màu loang
1295 Vẽ phác thảo
1296 Vẽ rõ nét
1297 Vẽ sáp màu
1298 Vẽ theo trí nhớ
1299 Vẽ trên cơ thể con người
1300 Vện nâu
1301 Vết chấm
1302 Vết chấm đốm
1303 Vệt màu dầy
1304 Việc làm bằng tay
1305 Việc thiêu, đồ thêu
1306 Viền đường viền
1307 Viện hàn lâm
X
1308 Xám xịt
1309 Xanh da trời
1310 Xanh đồng, gỉ đồng
1311 Xanh lá cây
1312 Xanh lục nhạt
1313 Xanh mầu lá liễu
1314 Xanh xám
1315 Xay, tán nghiền
1316 Xiên méo, lệch
1317 Xưởng đúc
1318 Xưởng làm mẫu
1319 Xưởng vẽ, xưởng điêu khắc
Y
1320 Yếu tố