169
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ MINH THÙY VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2017

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

  • Upload
    ngotu

  • View
    225

  • Download
    5

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ MINH THÙY

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP

NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP

XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2017

Page 2: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ MINH THÙY

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP

NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP

XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

Mã số: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. TRẦN MINH TRƯỞNG

2. PGS.TS. DOÃN THỊ CHÍN

HÀ NỘI - 2017

Page 3: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả

Nguyễn Thị Minh Thùy

Page 4: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN 5

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan 5

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục làm

rõ trong luận án 24

Chương 2: HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH 27

2.1. Một số khái niệm 27

2.2. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh 32

Chương 3: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP

NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1986-2016 - KẾT QUẢ VÀ BÀI

HỌC KINH NGHIỆM 67

3.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến đường lối đối ngoại của

Đảng Cộng sản Việt Nam 67

3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh

xây dựng đường lối đối ngoại giai đoạn 1986 - 2016 73

3.3. Một số thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong quá trình vận

dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh (1986 - 2016) 93

Chương 4: TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ

CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ

QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI 109

4.1. Nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới và những vấn

đề đặt ra đối với công tác ngoại giao 109

4.2. Tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình

hình mới 119

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

Page 5: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất

Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ là Người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng

Cộng sản Việt Nam mà còn sáng lập nền ngoại giao hiện đại. Hồ Chí Minh đã kế

thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo ngoại giao truyền thống để hình thành hệ thống

quan điểm, tư tưởng ngoại giao tiến bộ, phù hợp với các nguyên tắc quan hệ quốc tế

mới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có hệ thống phương pháp ngoại giao hết sức

sáng tạo, độc đáo, bền vững góp phần quan trọng vào những thắng lợi của nền

ngoại giao hiện đại của Việt Nam trong hơn tám thập niên qua. Có thể khẳng định

rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,

hoạt động ngoại giao ngày càng lớn mạnh cùng với những bước đường cách mạng

của cả dân tộc, đóng góp xứng đáng vào những thắng lợi của đất nước. Cùng với sự

phát triển của đất nước, ngoại giao Việt Nam cũng đã không ngừng lớn mạnh,

trưởng thành, trở thành một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh tổng

hợp, phấn đấu vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh.

Kế thừa và phát huy những truyền thống cũng như thành tựu trên lĩnh vực

ngoại giao nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận

dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh để xây dựng đường lối và chỉ đạo thực

hiện hoạt động ngoại giao nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện quốc

tế thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…Trong tình hình mới, công tác

nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và phương pháp ngoại giao Hồ Chí

Minh nói riêng vẫn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng

Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả của việc vận dụng phương pháp ngoại giao

Hồ Chí Minh còn một số tồn tại nhất định, đòi hỏi tiếp tục vận dụng tốt hơn trong

bối cảnh mới.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh

công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, với hai nhiệm vụ chiến lược xây

Page 6: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

2

dựng và bảo vệ Tổ quốc, tình hình quốc tế có nhiều biến động. Trên thế giới, trong

những năm tới tình hình quốc tế sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, mâu thuẫn giữa

các nước lớn ngày càng gay gắt, gây ra nhiều thách thức đối với các quốc gia, dân

tộc có chủ quyền, tình hình an ninh chính trị thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn

biến rất phức tạp khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp

lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến

tranh cục bộ, chiến tranh mạng… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cục diện

thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều

chỉnh chiến lược, vừa hợp tác vừa thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế

lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Vì thế, Việt Nam

đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội mới, nhưng đồng thời cũng có nhiều

thách thức đan xen. Tuy nhiên, hiện nay, hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác

và phát triển vẫn là xu thế lớn. Các cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn được các

nước trên thế giới chủ yếu giải quyết bằng con đường đàm phán, hòa bình để đi tới

thống nhất.

Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong những năm gần đây, vấn đề

tranh chấp chủ quyền trên biển Đông giữa các quốc gia trong khu vực nói chung và

Trung Quốc đối với Việt Nam nói riêng diễn biến rất phức tạp, cùng với đó, các thế

lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chiến lược “diễn biến hoà bình” hòng làm

mất ổn định chính trị, lật đổ chính quyền... Trước tình hình trên, vấn đề đặt ra hết

sức quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc và

ngoại giao đã và đang là một mặt trận quan trọng hàng đầu.

Vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí

Minh có ý nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn, là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt

Nam huy động các nguồn lực từ bên ngoài kết hợp với nguồn lực nội sinh của dân

tộc tạo ra sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay. Với những lý do đó, tác giả lựa chọn đề

tài: “Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc hiện nay” làm luận án tiến sĩ của mình.

Page 7: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Mục đích của luận án: Trên cơ sở những nội dung cơ bản của phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh để tiếp tục vận dụng vào xây dựng đường lối đối ngoại của

Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đáp ứng được yêu cầu mới của

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2.2. Nhiệm vụ

- Luận giải các khái niệm cơ bản của đề tài.

- Nghiên cứu làm rõ nội dung phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh.

- Nghiên cứu sự vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh

của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc hoạch định đường lối, chính sách đối

ngoại trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016).

- Đánh giá về những thành tựu và kinh nghiệm trong việc chỉ đạo thực hiện

đường lối chính sách ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

- Trên cơ sở phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh phân tích xu hướng, diễn

biến của thế giới và khu vực trong bối cảnh hiện nay, đánh giá những thành công và

những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

- Đề xuất giải pháp tiếp tục vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ

Chí Minh trong xây dựng và thực hiện đường lối chính sách và chỉ đạo hoạt động

ngoại giao để giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh; vận dụng phương pháp ngoại giao

Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam giai đoạn hiện nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu một số phương pháp ngoại giao

Hồ Chí Minh: Dĩ bất biến ứng vạn biến, Biết thắng từng bước; Thêm bạn bớt thù;

Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao; Phương

pháp thực lực và nắm đúng thời cơ; Ngoại giao tâm công; Kết hợp đấu tranh chính

trị, quân sự và ngoại giao, vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách

Page 8: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

4

mạng; Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời

đại để giành thắng lợi. Đồng thời, nghiên cứu sự vận dụng của Đảng ta trong tiến

trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới.

- Về thời gian: Toàn bộ quá trình hình thành và phát triển phương pháp ngoại

giao Hồ Chí Minh từ 1945-1969; sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình cách

mạng, đặc biệt là thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả vận dụng

các phương pháp chung, các phương pháp liên ngành và chuyên ngành sau: Kết hợp

phương pháp logic với phương pháp lịch sử; và các phương pháp khác như: Phân

tích, tổng hợp; thống kê, định lượng, định tính, so sánh, văn bản học, phân tích hành

vi, phỏng vấn,...

5. Đóng góp mới của Luận án

- Luận án làm rõ hơn hệ thống nội dung phương pháp ngoại giao Hồ Chí

Minh và sự vận dụng của Đảng về phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc

tiến hành các hoạt động ngoại giao nhằm thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

- Đề xuất giải pháp tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh

để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Việt Nam giai đoạn hiện nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án

- Làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đào

tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm ngành khoa học chính trị, khoa học xã

hội và nhân văn.

- Ứng dụng giảng dạy chuyên đề cho đối tượng đại học và sau đại học

chuyên ngành Hồ Chí Minh học của Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Báo

chí và Tuyên truyền.

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả đã

công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu

thành 4 chương, 9 tiết.

Page 9: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

5

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Từ những năm 90 đến nay, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung

và nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh nói riêng ở nước ta được đẩy mạnh

và đã đạt được những thành tựu to lớn. Thực tiễn cho thấy, vấn đề ngoại giao được

khá nhiều cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu một cách

cẩn thận, nghiêm túc. Thực hiện nghiên cứu đề tài về Vận dụng phương pháp ngoại

giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tác giả

tiếp cận với các công trình khoa học tiêu biểu sau đây:

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng, phương

pháp ngoại giao Hồ Chí Minh

Trong đề tài "Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh" của Nguyễn Đình Bin (chủ

nhiệm) [15], các tác giả đã phân tích các nội dung: Bối cảnh ra đời, nguồn gốc, quá

trình phát triển, nội dung cơ bản của đối ngoại Hồ Chí Minh, phương pháp, phong

cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.

Cuốn sách "50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam" [73] là công trình đã tập hợp các báo cáo, tham luận của các nhà

nghiên cứu, các nhà ngoại giao chuyên nghiệp, các nhà hoạt động thực tiễn tổng kết

về công tác đối ngoại và hoạt động ngoại giao dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ

tịch Hồ Chí Minh; sự nhìn nhận, đánh giá về tình hình thế giới và xu thế phát triển

trong quan hệ quốc tế; những quan điểm chỉ đạo về đường lối, chiến lược, sách lược

ngoại giao của Đảng, của Hồ Chí Minh đã góp phần làm nên thắng lợi của sự

nghiệp cách mạng; nhiều bài viết đã giúp người đọc có cái nhìn khái quát về nền

ngoại giao Việt Nam qua 50 năm hoạt động, phát triển.

Đề tài "Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ

Chí Minh trong tình hình mới" do Trần Minh Trưởng (chủ nhiệm) [178] bao gồm 4

chương: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh;

Page 10: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

6

Nội dung tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có nghệ thuật:

Thực hiện phương châm ngoại giao thêm bạn bớt thù, phân hóa kẻ thù, Ngoại giao

phải có thực lực, Ngoại giao phải “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”…; Đảng Cộng sản

Việt Nam vận dụng và phát triển tư tưởng và nghệ thuật ngoại giao thời kỳ đổi mới

và hội nhập quốc tế. Nhóm tác giả đề tài phân tích ngoại giao Việt Nam thời kỳ

1975-1985, nêu những vấn đề quốc tế tác động trực tiếp đến ngoại giao Việt Nam

thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay), từ đó phân tích đường lối, chính sách ngoại giao

của Việt Nam thời kỳ đổi mới - Thành tựu, hạn chế và bài học; Tiếp tục vận dụng

sáng tạo và phát triển tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình

mới. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu về tư tưởng nghệ thuật ngoại giao

Hồ Chí Minh cả về cơ sở lý luận, thực trạng và sự vận dụng, là tài liệu tác giả có thể

tham khảo, kế thừa khi nghiên cứu viết luận án.

Cuốn "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề quốc tế" của Phan

Ngọc Liên [108] là công trình nghiên cứu về các hoạt động quốc tế của Hồ Chí

Minh, từ khi ra đi tìm đường cứu nước, tham gia thành lập và chỉ đạo hoạt động ở

một số tổ chức cách mạng quốc tế, đến những hoạt động đối ngoại và ngoại giao

của Người trên cương vị nguyên thủ quốc gia. Thông qua các sự kiện, khẳng định

Hồ Chí Minh đã có đóng góp to lớn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc

tế; những hoạt động của Hồ Chí Minh đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với

phong trào cách mạng thế giới; tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của phong trào

cách mạng thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Tác giả đã bước đầu khái quát

một số nội dung mang tính lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về quan

hệ quốc tế.

Cuốn sách "Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995), tập 1, Ngoại

giao Việt Nam 1945-1975" của tác giả Lưu Văn Lợi [113]. Cuốn sách làm sống lại

những ngày đầu kháng chiến và độc lập của dân tộc ta, được thấy rõ hơn những khó

khăn của 2 cuộc kháng chiến trường kỳ. Tác giả đã chọn lọc đúng những thời điểm

quan trọng nhất trong 30 năm đầu đấu tranh ngoại giao của dân tộc ta từ 1945-1975.

Đánh giá về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tác giả Lưu Văn

Lợi khẳng định:

Page 11: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

7

Trong cuộc đấu tranh cả trên ba mặt trận quân sự, chính trị, đấu tranh

ngoại giao của ta là tiến công chiến lược nhằm xây dựng và củng cố hậu

phương quốc tế của nhân dân ta, thêm bạn bớt thù, tranh thủ sự đồng

tình, ủng hộ về tinh thần, chính trị và vật chất của các lực lượng cách

mạng và tiến bộ trên thế giới đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta,

lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, hỗ trợ cho các mặt đấu tranh

trong nước, góp phần từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng có

lợi cho ta [113, tr.393].

Như vậy, cuốn sách đã có sự khái quát một số phương pháp ngoại giao được

vận dụng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, tác giả cuốn sách

chưa đi sâu nghiên cứu các phương pháp đó mà chỉ mới dừng lại nêu ra sau khi

phân tích các sự kiện lịch sử của hai cuộc kháng chiến.

Trong cuốn "Hồ Chí Minh: Nhà trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện

đại" của Nguyễn Phúc Luân [117] đã làm rõ một số quan niệm của Hồ Chí Minh về

bạn thù, về sách lược tập hợp lực lượng bên ngoài, về chính sách đối ngoại, phương

pháp dự báo thời cuộc...

Về bạn thù, tác giả nêu lại quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin mà Hồ Chí

Minh đã nhắc lại: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai

là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù” [137, tr.453]. “Thêm bạn bớt thù”

trở thành nhiệm vụ trung tâm của hoạt động đối ngoại, cơ sở của đường lối quốc tế,

chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Tác giả phân tích, trong quá trình

chỉ đạo và trực tiếp tham gia vào thực hiện nhiệm vụ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

để lại những kinh nghiệm, bài học về trí tuệ và sách lược đáng chú ý như sau: Về

nhận thức và sách lược đối với kẻ thù trong những giai đoạn cách mạng; vấn đề

“thêm bầu bạn” mở rộng đội ngũ đồng minh, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của

quốc tế to lớn đã trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi cuả sự nghiệp cách

mạng giải phóng dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh. Tư tưởng “thêm bầu bạn”,

tranh thủ lực lượng bên ngoài của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua sự vận dụng trong

thực tiễn cách mạng Việt Nam, nổi lên những vấn đề cơ bản cần chú ý: Một là: Thể

hiện sự nhất quán về quan điểm: chỉ trên cơ sở tự lực tự cường, không ngừng củng

Page 12: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

8

cố khối đại đoàn kết dân tộc bên trong, mới tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ, sự

hợp tác rộng rãi của các lực lượng khác nhau bên ngoài…; Hai là: Thể hiện định

hướng nói trên vào thực tiễn quan hệ quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng

Cộng sản Việt Nam đã khôn khéo tùy từng thời điểm cụ thể, giương cao ngọn cờ

hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội…; Ba là: Chủ tịch Hồ Chí

Minh là người mở ra trang sử mới cho mối quan hệ đoàn kết hữu nghị và giúp đỡ

lẫn nhau giữa các dân tộc anh em, láng giềng, đặc biệt là giữa các dân tộc Đông

Dương…; Bốn là: Luôn luôn sáng suốt phân biệt giữa các tầng lớp nhân dân lao

động, tiến bộ ở các nước thù địch với thế lực thực dân, đế quốc xâm lược; Năm là:

Kết hợp ngoại giao nhà nước với vận động tranh thủ sự đồng tình, đi đến ủng hộ

ngày càng mạnh mẽ của nhân dân ở nhiều nước khác nhau trên thế giới cùng

chung hoặc khác nhau về ý thức hệ đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta.

Như vậy, theo tác giả, quan điểm của Hồ Chí Minh về “thêm bạn”, tức là chúng ta

mở rộng quan hệ với tất cả các lực lượng cách mạng trên thế giới để tranh thủ sự

ủng hộ, tăng cường sức mạnh của dân tộc, “thêm bạn” tức là ta cũng hạn chế bớt

được “thù”.

Cuốn "Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao" của Vũ Khoan [93]

đã nêu lên những sự kiện kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước lãnh đạo cách

mạng tới khi cách mạng Tháng Tám thành công và thời kỳ sau cách mạng Tháng

Tám tới khi Người qua đời vào năm 1969. Qua hoạt động ngoại giao của Chủ tịch

Hồ Chí Minh rút ra được những tư tưởng, bài học, phương pháp ngoại giao mà Hồ

Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng trong thực tiễn, đem lại những

thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu quý để tác giả nghiên cứu,

tham khảo.

Lời tựa của cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh"

của Bộ Ngoại giao [13] có nêu: Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh

vừa kỷ niệm 55 năm ngày thành lập. Nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh đã đi

cùng dân tộc trong suốt những chặng đường đáng ghi nhớ của lịch sử cách mạng

Việt Nam. Ngoại giao phản ánh thời đại, mang hơi thở của thời đại, góp phần làm

nên và đóng dấu ấn thời đại. Năm mươi lăm năm qua là thời gian xây dựng và phát

triển và trưởng thành của nền ngoại giao Việt Nam cách mạng và hiện đại.

Page 13: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

9

Trong đó, phần 2 của cuốn sách có bài tham luận: “Tư tưởng ngoại giao Hồ

Chí Minh” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề cập những nội dung lớn của tưởng

ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có khái niệm tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh

và một số nội dung hết sức cô đọng như độc lập tự chủ, tự lực tự cường; tư tưởng

hòa bình, chống chiến tranh phi nghĩa theo truyền thống nhân văn của dân tộc là

một tư tưởng lớn của ngoại giao Hồ Chí Minh; “Thêm bạn, bớt thù” là một chủ

trương quan trọng của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; “Dĩ bất biến ứng vạn

biến” là tư duy biện chứng, là phương châm, biện pháp xem xét và giải quyết

những vấn đề chiến lược; Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam xem ngoại

giao là một mặt trận, một nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Chiến

lược ngoại giao là một bộ phận trong chiến lược chung của cách mạng, bản thân nó

lại có nội dung tổng hợp, kết hợp sức mạnh dân tộc.

Tác giả Vũ Dương Huân trong chuyên đề: “Tư tưởng và phong cách ngoại

giao Hồ Chí Minh” khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chính trị lỗi lạc, một

danh nhân văn hóa, một nhà tư tưởng lớn trong thời đại của chúng ta. Tác giả nêu:

Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một bộ phận hữu cơ trong tư tưởng chung.

Nói đến tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là nói ngắn gọn. Đúng ra là tư tưởng Hồ

Chí Minh về quốc tế, chính sách đối ngoại và ngoại giao. Đặc biệt, trong bài viết,

tác giả có nêu lên một số phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có

phương pháp: Thứ nhất, kiên trì nguyên tắc, linh hoạt sách lược, nhân nhượng có

nguyên tắc (nói cách khác là tư tưởng Dĩ bất biến ứng vạn biến); thứ hai, triệt để lợi

dụng trong hàng ngũ kẻ thù, phân hóa và cô lập chúng đến cao độ; thứ ba, kết hợp

trong nước và ngoài nước, phối hợp các lĩnh vực, trước hết là giữa chính trị, quân sự

và ngoại giao, tạo sức mạnh cho đấu tranh ngoại giao; thứ tư, giành thắng lợi từng

bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn với tư tưởng tiến công cách mạng; thứ năm,

dự đoán và dự báo các sự kiện quốc tế và đất nước ta; thứ sáu, nắm bắt thời cơ.

Mặc dù các bài viết trong cuốn sách đã nêu được một số phương pháp ngoại

giao Hồ Chí Minh nhưng chưa đi sâu phân tích một cách sâu sắc các phương pháp

đó trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên có thể thấy cuốn sách là nguồn

tài liệu qúy để tác giả nghiên cứu, tham khảo.

Page 14: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

10

Cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành độc lập, tự do

(1945 - 1975)" của Nguyễn Phúc Luân [118] đã nghiên cứu những chủ trương,

chính sách ngoại giao lớn của Đảng và Nhà nước ta trong suốt thời kỳ lịch sử 1945 -

1975. Đây cũng là công trình nghiên cứu có tính chất tổng kết kinh nghiệm và lịch

sử đấu tranh của nền ngoại giao nước nhà trong thời kỳ thực hiện nhiệm vụ cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Trong đấu tranh ngoại giao thời kỳ giữ vững và củng cố Nhà nước cách

mạng non trẻ (8/1945-12/1946), Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

đã xác định nhiệm vụ cách mạng, chủ trương đối ngoại và những biện pháp ngoại

giao đầu tiên của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cuốn sách nêu: “Thấm

nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì

phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”, ta đã

đề ra nhiều biện pháp sách lược quan trọng và coi việc thêm bạn, bớt thù là một

trong những nhiệm vụ trọng tâm của đường lối quốc tế trong cách mạng Tháng

Tám” [118, tr.37].

Tác giả nhận định: Chính sách ngoại giao đầu tiên của Nhà nước Việt Nam

độc lập đã biết vận dụng khôn khéo các chủ trương “Hòa để tiến”, Hiệp định sơ bộ

6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm có tính

phương pháp luận về nhận định xu thế thời cuộc, về kẻ thù, về đánh giá và lựa chọn

khả năng phát triển của cách mạng nước ta, về phương pháp thêm bạn bớt thù, lợi

dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù...

Trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta cũng

vận dụng các phương pháp ngoại giao vào đấu tranh, phối hợp với mặt trận chính trị

và quân sự. Tác giả khái quát: “Chuyển biến thắng lợi trên chiến trường từ Tết Mậu

Thân và hệ quả tích cực mà mặt trận ngoại giao đem lại cùng với lập trường và

nghệ thuật đàm phán đúng đắn linh hoạt, sáng tạo của ta trở thành những nhân tố

hàng đầu thúc đẩy sự hình thành khuôn khổ đàm phán ở Pari và đưa cuộc đàm phán

đó đến thắng lợi” [118, tr.299]. Như vậy, tác giả cuốn sách đã nhấn mạnh vai trò

của phương pháp đàm phán đã đưa đến ký kết Hiệp định Pari về chấm dứt chiến

tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đó là một thắng lợi ngoại giao quan trọng, to

lớn và ý nghĩa nhiều mặt.

Page 15: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

11

Cuốn "Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao" của Vũ

Dương Huân [78] gồm một số bài nghiên cứu của nhiều tác giả đã và đang tham

gia công tác nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động trên Mặt trận đối ngoại của Bộ

Ngoại giao. Các bài viết được chia thành 4 phần: Phần 1: Khái quát chung về

ngoại giao Hồ Chí Minh; Phần 2: Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại

giao; Phần 3: Một số vấn đề về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; Phần 4: Phương

pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Phần 4 của cuốn sách có đề cập đến hai phương

pháp ngoại giao:

Phương pháp thứ nhất là, Hồ Chí Minh và vấn đề lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù

trong đấu tranh ngoại giao của tác giả Vũ Dương Huân. Tác giả khẳng định: “Lợi

dụng mâu thuẫn kẻ thù một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hổ Chí Minh.

Những luận điểm về mâu thuẫn và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương

đã được các nhà kinh điển đề cập và Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo và

phát triển trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta” [78, tr.146]. Tác giả

nêu tư tưởng Hồ Chí Minh về lợi dụng mâu thuẫn trong từng giai đoạn của cách

mạng. Tác giả kết luận vấn đề bằng nhận xét của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn: “mẫu

mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch

và về nhân nhượng có nguyên tắc” [31, tr.31].

Cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam 1945-2000" của Nguyễn Đình Bin [10] là

công trình viết về ngoại giao khá toàn diện. Các tác giả đã phác họa những nét

chính của hoạt động ngoại giao Việt Nam trong 55 năm, từ 1945 đến 2000, một thời

kỳ đầy những biến động và biết bao thay đổi ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

Cuốn "Ngoại giao Hồ Chí Minh - Lấy chí nhân thay cường bạo" của Nguyễn

Phúc Luân [119] được trình bày thành 3 phần chính: 1. Vai trò lịch sử của Hồ Chí

Minh trong quan hệ quốc tế; 2. Ngoại giao trong tâm thức Hồ Chí Minh; 3. Một số

luận lý ngoại giao Hồ Chí Minh cần nghiên cứu và ứng dụng.

Đặc biệt, trong cuốn sách, tác giả đưa ra những khái lược về thời, thời cơ;

những dự báo lớn của Hồ Chí Minh về những bước quanh của quan hệ quốc tế và

thời cơ cách mạng chuyển mình; khả năng cách mạng Việt Nam bùng nổ và giành

thắng lợi trong thế kỷ XX; phương pháp nhận thức các khả năng và tiếp cận với vấn

Page 16: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

12

đề thời cơ trong hoạt động đối ngoại. Tác giả khẳng định việc phát hiện và nắm

vững thời cơ có ý nghĩa quyết định để giành thắng lợi. Cuốn sách là tài liệu để tác

giả tham khảo khi nghiên cứu phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về thời cơ.

Cuốn sách "Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pari về Việt Nam" của

Bộ Ngoại giao [16] là công trình tập hợp những bài viết, bình luận của một số nhà

ngoại giao lão thành đã từng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia Hội nghị Pari. Cuốn

sách đề cập cuộc đàm phán Paris và Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa

bình ở Việt Nam là đỉnh cao của mặt trận ngoại giao Việt Nam thời kỳ chống Mỹ,

cứu nước và là thành công lớn nhất trong lịch sử ngoại giao của dân tộc thời đại Hồ

Chí Minh, để lại những bài học thực tiễn vô giá về đấu tranh ngoại giao.

Tại Hội nghị Paris, khả năng đàm phán của phái đoàn Việt Nam được nâng

lên thành nghệ thuật. Và những yếu tố cơ bản tạo nên nghệ thuật đàm phán đó là:

Chúng ta đã xác định và kiên trì phương pháp “vừa đánh, vừa đàm” trong suốt quá

trình đàm phán; Đàm phán phục vụ đấu tranh quân sự, chính trị với mục tiêu hàng

đầu là tấn công, kiềm chế địch, tranh thủ sự ủng hộ và đồng tình của bạn bè và dư

luận quốc tế; Xác định phương châm giành thắng lợi từng bước, tiến đến giành

thắng lợi cuối cùng…Những bài viết có giá trị, những bài học bổ ích được rút ra

trong cuốn sách không những là tài liệu thiết thực trong lĩnh vực đối ngoại mà còn

là một tư liệu quý để tác giả nghiên cứu khi đề cập đến đánh và đàm trong ngoại

giao Hồ Chí Minh.

Cuốn "Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1954-1969" của

Trần Minh Trưởng [176] trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quá trình vận

động trong quan hệ quốc tế từ sau Hiệp định Giơnevơ đã hệ thống lại những hoạt

động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến

năm 1969; làm nổi bật vai trò và những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

ngoại giao trong công cuộc xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước, củng cố tình đoàn kết trong phong trào Cộng sản và công

nhân quốc tế. Bằng nguồn tư liệu phong phú, tin cậy, cuốn sách đã cho thấy tư duy

lãnh đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh trong

việc phân tích, nhận định, đánh giá, xử lý các tình huống, sự kiện trong quan hệ

quốc tế phức tạp, đa chiều của thời kỳ đầy biến cố và sôi động.

Page 17: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

13

Trong cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng

trong thời kỳ đổi mới" của Đinh Xuân Lý [124] đã khái quát bối cảnh ra đời, quá

trình phát triển, nguồn gốc, nội dung cơ bản tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Bên

cạnh đó, cuốn sách cũng giúp chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu

cho công tác đối ngoại hiện nay, từ đó xây dựng chủ trương, chính sách đối ngoại

và sự chỉ đạo hoạt động đối ngoại phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới của cách

mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

Trong cuốn "Hồ Chí Minh trong ký ức bạn bè quốc tế" của Đỗ Hoàng Linh,

Phạm Hoàng Điệp [111] đã ghi lại những phát biểu, suy nghĩ và cảm tưởng của các

nhà lãnh đạo, bạn bè trên thế giới về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà lãnh đạo kiệt xuất

của Việt Nam, người bạn lớn của nhân dân thế giới.

Cuốn "Suy ngẫm về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh" của Võ Văn

Sung [159] là một công trình công phu, ghi lại một số dấu ấn sâu đậm trong lĩnh

vực đối ngoại và phương pháp ngoại giao của Hồ Chí Minh, phân tích những nét

độc đáo của ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh…Tác giả cuốn sách đặt ra

vấn đề nếu có thể cần phải từng bước làm sáng tỏ sự độc đáo nổi bật của nền

ngoại giao Việt Nam trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt, trong chương

II của cuốn sách nêu: Cách mạng Việt Nam đã khẳng định rằng, phương pháp

cách mạng là một vế có ý nghĩa hết sức quyết định trong ba vế đảm bảo thắng lợi

của cách mạng, đó là: Đường lối cách mạng, quyết tâm cách mạng và phương

pháp cách mạng. Đương nhiên, đường lối đúng đắn và quyết tâm cao là rất cơ bản

nhưng diễn biến cách mạng Việt Nam cho thấy phương pháp cách mạng lại có ý

nghĩa quyết định nhất. Nhờ phương pháp cách mạng của nước ta theo tư tưởng Hồ

Chí Minh và phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh chính là cách đảm bảo cho

chính nghĩa được tất thắng qua hai cuộc kháng chiến. Tuy đề cập đến phương

pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, nhưng cuốn sách mới chỉ nói về phương pháp “Dĩ

bất biến ứng vạn biến”, tạo sức mạnh tổng hợp và phương pháp “Vừa đánh, vừa

đàm”. Trong phần kết luận, tác giả khái quát trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh

có nhiều nội dung nhưng yếu tố cốt lõi, vấn đề xuyên suốt qua mọi vấn đề là

“ngoại giao phải tự tấm lòng”. Vì nói cho cùng, quan hệ quốc tế đúng nghĩa của

Page 18: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

14

nó phù hợp với nguyện vọng sâu xa của mọi người mà thể hiện quan trọng nhất là

hòa bình, hữu nghị và hợp tác.

Cuốn "Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nước Châu

Á, (1954-1969)" của Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch [98] là tập hợp các

sự kiện hoạt động đối ngoại và ngoại giao của Hồ Chí Minh đối với các nước khu

vực châu Á. Qua đó khẳng định những cống hiến to lớn của Người trong việc thiết

lập cây cầu hữu nghị, đoàn kết giữa Việt Nam với các dân tộc châu Á vì hòa bình

và tiến bộ xã hội, cùng phát triển.

Cuốn sách "Ngoại giao và công tác ngoại giao" của Vũ Dương Huân [86]

gồm 15 chương giới thiệu một cách có hệ thống các nội dung của ngoại giao như:

Nhận thức chung về ngoại giao và công tác ngoại giao, cơ quan đại diện ngoại giao,

tiếp xúc ngoại giao, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá, lễ tân ngoại giao, ngoại

giao đa phương... Chương I, cuốn sách đề cập đến nhận thức chung về ngoại giao

và công tác ngoại giao, trong đó nêu khái niệm ngoại giao, phân loại ngoại giao, vài

nét về sự phát triển của ngoại giao…Cuốn sách là tài liệu tham khảo giúp tác giả đi

vào làm rõ các khái niệm về ngoại giao và một số khái niệm liên quan.

Trong cuốn “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Nguyễn Hùng Hậu [67], các tác

giả nghiên cứu phương pháp này dưới góc độ triết học và khẳng định: “Dĩ bất biến,

ứng vạn biến” là nội dung cơ bản của phương pháp biện chứng cách mạng được Hồ

Chí Minh quán triệt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Cái bất

biến lớn trong tư tưởng của Người là “Không có gì quý hơn độc lập tự do” [139,

tr.131], độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cuốn sách là tài liệu bổ ích để

tác giả tham khảo khi đi vào phân tích phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”

trong ngoại giao Hồ Chí Minh.

Cuốn "Ngoại giao Việt Nam góc nhìn và suy ngẫm" của Nguyễn Khắc

Huỳnh [90] gồm một số bài viết, bài nghiên cứu đã được chọn lọc của tác giả trong

thời gian gần đây và một số bài tham luận tại các cuộc Hội thảo trong nước và ngoài

nước nhân dịp các sự kiện ngoại giao lớn như 55 năm ký Hiệp định Giơnevơ, 35

năm ký Hiệp định Pari về Việt Nam... Tác giả tập trung trình bày và làm rõ thêm

một số vấn đề, sự kiện lớn trong quan hệ quốc tế, đường lối, chính sách đối ngoại

Page 19: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

15

của Đảng và Nhà nước ta. Trong bài Tư tưởng nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh,

tác giả trình bày đặc điểm hình thành tư tưởng - nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí

Minh; mấy vấn đề tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; mấy vấn đề về nghệ thuật

ngoại giao Hồ Chí Minh.

Cuốn sách "Những quan điểm nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế của

Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong tình hình mới" là công trình nghiên

cứu khá sâu về lĩnh vực quan hệ quốc tế của Trần Minh Trưởng [177]. Cuốn sách

nêu bật những quan điểm và nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế nhằm khẳng

định chủ quyền quốc gia, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, theo nguyên tắc tôn

trọng lẫn nhau, cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới. Những

quan điểm, nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế của Hồ Chí Minh được vận

dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam và đưa đến thắng lợi trong sự nghiệp bảo

vệ, xây dựng đất nước; đồng thời trở thành cơ sở nền tảng trong quan hệ đối ngoại,

góp phần cùng với nhiều quốc gia yêu chuộng hòa bình, tiến bộ xây dựng nên

“Năm nguyên tắc chung sống hòa bình” trên thế giới.

Cuốn sách "Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh" của Trần Thị Minh Tuyết

[181]. Tác giả mở đầu cuốn sách:

Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà chính trị lỗi

lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất đồng thời cũng là nhà ngoại giao thiên

tài của dân tộc Việt Nam. Do ngoại giao luôn là một hoạt động trọng yếu

của đất nước nên để lãnh đạo hoạt động văn hóa chính trị ở tầm cao này,

Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ thống tư tưởng ngoại giao toàn diện và sâu

sắc [181, tr.10].

Cuốn sách đề cập đến tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, tác giả đi vào

phân tích khái niệm ngoại giao, tư tưởng ngoại giao, tư tưởng đối ngoại Hồ Chí

Minh. Từ đó phân tích cơ sở, quá trình hình thành tư tưởng ngoại giao Hồ Chí

Minh. Nội dung tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh được tác giả triển khai 4 nội

dung cơ bản, trong đó tác giả có đề cập đến tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” và “dĩ

bất biến ứng vạn biến”, về ngoại giao tâm công. Bám sát vào các sự kiện lịch sử

diễn ra trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, tác giả phân tích làm nổi bật lên tư

Page 20: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

16

tưởng “thêm bạn, bớt thù” và “dĩ bất biến ứng vạn biến” với tư cách coi đó là vừa

là phương pháp vừa là nghệ thuật trong ngoại giao Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, tác

giả đi vào vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay với

hai nội dung: Tổng kết đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong

thời kỳ đổi mới, từ đó xác định nhiệm vụ và thách thức đặt ra cho ngoại giao Việt

Nam, vạch ra phương hướng vận dụng tư tưởng ngoại giao Việt Nam trong giai

đoạn hiện nay. Những nội dung trong cuốn sách là nguồn tài liệu để tác giả tham

khảo, nghiên cứu.

Luận án "Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao thời kỳ chống Mỹ, cứu nước

(1965-1973)" của Phạm Hồng Chương [27]. Luận án phân tích và luận giải về chủ

trương, đường lối, chiến lược, sách lược của Đảng ta trên mặt trận đấu tranh ngoại

giao chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và

Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: “vừa đánh, vừa

đàm” đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật, thông qua ngoại giao, kết thúc chiến tranh

bằng đàm phán hòa bình. Ngoại giao trở thành phương tiện, vũ khí sắc bén tấn công

kẻ thù; phát huy được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, góp phần làm nên

chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta.

"Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ 1945-1946" của Nguyễn Thị

Kim Dung [33] phân tích, luận giải về đường lối đối ngoại của Đảng; tư tưởng,

nghệ thuật chỉ đạo, chiến lược, sách lược ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “lợi

dụng mâu thuẫn kẻ thù”; “thêm bạn bớt thù”; “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”... góp

phần giữ vững chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng, trong những năm đầu

mới thành lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

“Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pari về Việt Nam (1968-

1973)” của Lương Viết Sang [157] đã đề cập tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối

của Đảng chỉ đạo cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam ở Hội nghị Pari đã giành

thắng lợi, góp phần vào chiến thắng của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ,

cứu nước.

"Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1945-1954” của

Đặng Văn Thái [160]. Luận án phân tích bối cảnh lịch sử năm 1945 và đường lối,

Page 21: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

17

chính sách đối ngoại của Đảng kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, hoạt động đối

ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến năm 1954.

Những luận án, luận văn đó đã đóng góp một phần quan trọng để làm rõ

những quan điểm của Hồ Chí Minh về đối ngoại, hoạt động ngoại giao và sự vận

dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Đây đồng thời cũng là nguồn tài liệu để tác

giả tham khảo trong quá trình thực hiện luận án.

Một số bài báo, tạp chí liên quan đến ngoại giao:

"Hồ Chí Minh với "Dĩ bất biến, ứng vạn biến"" của Phạm Hồng Chương,

Phùng Đức Thắng [28]. Hai tác giả viết: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” câu nói ấy là

tổng quan phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh mà Người đã thực hiện trong suốt

cuộc đời cách mạng của mình và cũng là một bài học kinh nghiệm quý giá của cách

mạng Việt Nam. Trong bối cảnh lúc đó điều bất biến ở đây chính là vấn đề dân

tộc… Còn vạn biến là hàng loạt chủ trương sách lược đấu tranh trong những tình

huống cụ thể. Và qua thực tế hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các luận điểm

của Người cho thấy, muốn đạt tới cái bất biến trong mục tiêu cần phải ứng vạn biến

trong những điều kiện lịch sử cụ thể.

""Thêm bạn, bớt thù" - nguyên tắc chiến lược trong tư tưởng ngoại giao Hồ

Chí Minh" của Trần Thị Minh Tuyết [180]. Tác giả viết: Thực tiễn chứng minh, sự

đúng - sai trong việc tập hợp lực lượng luôn là một nhân tố quyết định sự thành -

bại của cuộc đấu tranh. Với mục đích tập hợp lực lượng rộng rãi, cô lập kẻ thù, tạo

nên tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng, Hồ Chí Minh đã tìm ra phương

pháp xác định bạn - thù chính xác và sử dụng linh hoạt các phương cách đạt trình độ

nghệ thuật. Theo tác giả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng linh hoạt, hiệu quả các

phương pháp, chủ trương khác nhau, trong đó chủ trương “thêm bạn, bớt thù” trong

đấu tranh cách mạng vẫn là một viên ngọc lấp lánh trong di sản tư tưởng của Người.

Là một dân tộc nhỏ, trong cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi chân chính của dân

tộc, Việt Nam nhất thiết phải thực hiện tư tưởng “thêm bạn, bớt thù”, phải coi đó là

một nguyên tắc chiến lược chứ không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị. Bài

báo là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả khi đi vào nghiên cứu phương pháp

“thêm bạn, bớt thù” trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.

Page 22: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

18

Ngoài ra còn có nhiều cuốn sách, tạp chí khác nghiên cứu các vấn đề liên

quan đến ngoại giao, phương pháp ngoại giao.

1.1.2. Những công trình liên quan đến vận dụng phương pháp ngoại

giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

hiện nay

Cuốn "Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn"

của Nguyễn Phú Trọng [174] là công trình tổng kết thực tiễn một số lĩnh vực chủ

yếu qua hai mươi năm đổi mới, trong đó có lĩnh vực ngoại giao, làm rõ những thành

tựu và hạn chế, rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm góp phần làm sáng tỏ hơn

và bổ sung phát triển đường lối đổi mới ở Việt Nam. Về vấn đề nâng cao năng lực

và sức chiến đấu của Đảng, tác giả khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh là nền tảng tư tưởng.

Trong cuốn "Quá trình Việt Nam hội nhập khu vực Châu Á - Thái Bình

Dương theo đường lối đổi mới của Đảng" của Đinh Xuân Lý [123] đã đề cập quá

trình Việt Nam thiết lập, mở rộng quan hệ với các nước, hội nhập khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương theo đường lối, chủ trương đổi mới đối ngoại của Đảng. Đồng

thời, từ thực tiễn quá trình hội nhập khu vực rút ra một vài kinh nghiệm có ý nghĩa

tham khảo cho công tác đối ngoại trong thời gian tới.

Cuốn "Việt Nam - Thế giới và hội nhập" của Vũ Dương Ninh [150] nhấn

mạnh đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam qua 60 năm chiến đấu và xây dựng, về

quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đồng thời, cuốn sách là công trình nghiên cứu về lịch

sử cận - hiện đại và lịch sử quan hệ quốc tế.

Trong cuốn "Vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội

nhập quốc tế" của Bộ Ngoại giao, Ban Nghiên cứu lịch sử ngoại giao [21], các tác

giả đã nghiên cứu và khái quát được một số vấn đề về tư tưởng đối ngoại, phương

pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh; Về việc vận dụng tư tưởng

đối ngoại, phương pháp, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong thời

kỳ 1945-1975 và thời kỳ mới. Đề tài cũng đưa ra một số kiến nghị về tiếp tục

nghiên cứu, vận dụng tư tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Mặc dù có

nhiều đóng góp, nhưng nhìn chung, kết quả nghiên cứu còn mang tính khái lược,

Page 23: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

19

chưa có chiều sâu, chưa thật sự bao quát trên tất cả các nội dung tư tưởng ngoại

giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

Cuốn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận dụng trong công

cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay" của tác giả Đặng Văn Thái [162] đã phân tích,

luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế, nêu rõ sự vận dụng vào công

cuộc đổi mới đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học và công nghệ

hiện nay...

Trong cuốn "Một số vấn đề quan hệ quốc tế chính sách đối ngoại và ngoại

giao Việt Nam", tập 1 của Vũ Dương Huân [83] đã nêu tư tưởng đối ngoại, phương

pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, tác giả phân

tích những thay đổi lớn của tình hình thế giới, những nét mới của ngoại giao Việt

Nam. Tác giả đưa ra những yêu cầu đang đặt ra cho ngoại giao Việt Nam. Từ đó,

theo tác giả để giải quyết các vấn đề trên cần có những luận giải mới tư tưởng đối

ngoại, phương pháp, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới. Tác

giả mới dừng lại ở nêu phương hướng giải quyết mà chưa đi vào vận dụng tư tưởng

đối ngoại, phương pháp, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới.

Cuốn "Một số vấn đề quan hệ quốc tế chính sách đối ngoại và ngoại giao

Việt Nam", tập 2, của tác giả Vũ Dương Huân [84]. Trong phần 1 và phần 2 của

cuốn sách, tác giả phân tích khá sâu sắc chính sách đối ngoại Việt Nam trước đổi

mới và chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập

quốc tế. Tác giả khẳng định sau khi triển khai đường lối đối ngoại đổi mới, chúng ta

đã thu được nhiều thành tựu to lớn về đối ngoại. Tuy nhiên trong công tác ngoại

giao còn có những tồn tại. Từ đó tác giả nêu những bài học kinh nghiệm rút ra về

ngoại giao trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại.

Cuốn "Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020" của Phạm Bình

Minh [140] là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài KX.04.03/06-16: “Xu thế

phát triển của cục diện thế giới đến năm 2020 và định hướng chiến lược đối ngoại

của Việt Nam”. Nội dung cuốn sách tập trung trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về

đối ngoại; lợi ích quốc gia, dân tộc trong hoạt động đối ngoại Việt Nam; trường

phái ngoại giao Việt Nam, về độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; về xác lập lòng tin

Page 24: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

20

trong quan hệ quốc tế và định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến 2020; đề

ra một số biện pháp nhằm nâng cao vị thế Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế; hiệu

quả hội nhập quốc tế; vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế mà Việt Nam

tham gia.

"Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới" của Phạm

Bình Minh [141] (chủ biên) là cuốn sách tập hợp các công trình của các nhà nghiên

cứu trong lĩnh vực đối ngoại nhằm luận giải nội hàm các chủ trương, định hướng

quan trọng của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới, đặc biệt là những

phát hiện mới trong tư duy đối ngoại của Đảng ta qua những văn kiện của Đại hội

XI, ngoài ra các tác giả còn đưa ra các cách tiếp cận và phương pháp triển khai mới

để đạt được các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất

nước… Trên cơ sở đánh giá kết quả hoạt động đối ngoại trên một số lĩnh vực, các

tác giả cũng đề xuất một số phương hướng, nhiệm vụ cụ thể nhằm nâng cao hiệu

quả công tác đối ngoại, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết XI của Đảng.

Những tư liệu trong cuốn sách là nguồn tài liệu để tác giả nghiên cứu làm rõ sự vận

dụng tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh của Đảng trong thời kỳ mới.

Nội dung cuốn "Chính sách đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới" của

Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế [62] trình bày về đổi mới tư duy đối ngoại

của Đảng trong 25 năm (từ 1986). Cuốn sách bao gồm 4 nội dung chính: Cơ sở

hoạch định đường lối đối ngoại của Đảng; Những nội dung chủ yếu trong chính

sách đối ngoại; Quá trình triển khai chính sách đối ngoại; Kết quả, bài học kinh

nghiệm trong hoạt động đối ngoại. Đây là nguồn tài liệu để tác giả tiếp cận, tham

khảo, kế thừa, đi vào giải quyết phần thực trạng vận dụng phương pháp ngoại giao

của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

Trong cuốn "Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay" của

Nguyễn Hoàng Giáp [63] đã đề cập tới những vấn đề có tính thời sự của nền chính

trị quốc tế hiện nay như xu thế toàn cầu hóa, mối quan hệ giữa các nước lớn, chống

chủ nghĩa khủng bố, trật tự thế giới mới…Cuốn sách cho thấy một bức tranh đa

dạng về nền chính trị của từng nước nói riêng cũng như cả thế giới nói chung. Đồng

thời, trong cuốn sách các tác giả cũng đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm đổi

Page 25: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

21

mới và tăng cường chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh toàn

cầu hóa, hội nhập quốc tế. Đặc biệt, cuốn sách là tài liệu quý để tác giả nghiên cứu

sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối đối ngoại và ngoại giao

trong giai đoạn hiện nay.

Trong cuốn "Một số vấn đề quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại của

Đảng, Nhà nước Việt Nam" của Phạm Thành Dung, Nguyễn Thị Thúy Hà và Phạm

Thanh Hà [34], các tác giả đi vào nghiên cứu nhiều nội dung khác nhau, trong đó đi

sâu phân tích đặc điểm và xu hướng phát triển của thế giới, tình hình trong nước.

Việc phân tích những đặc điểm này có giá trị sâu sắc, là căn cứ, cơ sở để Đảng và

Nhà nước định đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự do, đa phương hóa, đa

dạng hóa quan hệ quốc tế trong giai đoạn mới.

Cuốn "Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010)" của Vũ Dương

Ninh [153] là cuốn sách trình bày những nét cơ bản về đường lối, chính sách đối

ngoại của Đảng và Nhà nước qua từng giai đoạn, bối cảnh quốc tế và trong nước

dẫn đến các sự kiện, diễn biến trong quan hệ đối ngoại để từ đó rút ra những nhận

định chung và những bài học kinh nghiệm. Do cuốn sách chỉ tập trung vào những

vấn đề đối ngoại nên những vấn đề khác như quân sự, kinh tế, văn hóa… chỉ được

đề cập những nét lớn để phác họa bối cảnh chung của lịch sử trong từng giai đoạn.

Cuốn sách giúp tác giả có được cái nhìn tổng quát về tình hình thế giới và trong

nước, từ đó đi vào nghiên cứu, bước đầu mạnh dạn đưa ra những định hướng vận

dụng phương pháp ngoại giao trong thời kỳ mới.

Cuốn sách "Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam

hiện nay" của Nguyễn Tất Giáp, Nguyễn Thị Quế và Mai Hoài Anh [64], thuộc đề

án: Nghiên cứu, tổng kết và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về công cuộc đổi mới

đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đề án luận giải về mối quan hệ biện chứng của

hai mặt đối lập là độc lập dân tộc và hội nhập quốc tế trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các tác giả đã tập trung phân tích và trình bày quan điểm

về việc xử lý hài hòa mối quan hệ đó trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Việt

Nam không thể tách rời cộng đồng quốc tế, nhưng đồng thời vẫn kiên định đường

lối độc lập tự chủ.

Page 26: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

22

Trong cuốn "Nguyên tắc, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận

dụng của Đảng ta" của Nguyễn Thị Luận, Nguyễn Thị Thanh Nga [122], các tác

giả cuốn sách có nêu ra 4 phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, từ đó đi vào

phân tích sự vận dụng các phương pháp đó của Đảng Cộng sản Việt Nam trong

thời kỳ đổi mới với 4 nội dung: Một là, Xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự

chủ và hội nhập quốc tế; Hai là, Đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối

ngoại trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; Ba là, Đường lối đối

ngoại phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc; Bốn là, Kết hợp sức mạnh dân tộc với

sức mạnh thời đại. Từ quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng qua 30

năm đổi mới, các tác giả nêu thành tựu và rút ra bài học kinh nghiệm, nêu một số

kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động đối ngoại của Đảng trong

giai đoạn tiếp theo.

Cuốn "Ngoại giao Việt Nam quá trình triển khai đường lối đối ngoại Đại hội

toàn quốc lần thứ XI của Đảng" của Phạm Bình Minh [143] gồm một số bài viết

quan trọng của tác giả được triển khai theo 3 phần chính: Đường lối, chính sách đối

ngoại của Đại hội lần thứ XI; Trên đường triển khai Đại hội lần thứ XI; Phát huy

truyền thống đường lối ngoại giao trong tình hình mới.

Những công trình này đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong quan

hệ quốc tế nói chung và các sự kiện ngoại giao cụ thể của Việt Nam, những nhận

định, bình luận, dự báo là cơ sở giúp cho Đảng ta xây dựng chính sách đối ngoại

thích hợp với từng nước, từng đối tượng cụ thể. Những nội dung mà tác giả đề cập

đến là tài liệu nghiên cứu có giá trị trong việc đánh giá những bài học thành công và

rút ra kinh nghiệm triển khai công tác đối ngoại của đất nước kể từ sau Đại hội

Đảng lần thứ XI.

Luận án “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ

1986-1996” của Vũ Quang Vinh [185] trình bày đường lối và hoạt động đối ngoại

của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm đầu đổi mới (1986-1996), phân tích

tình hình kinh tế, chính trị thế giới, tiếp tục đường lối độc lập, tự chủ, đa dạng hoá,

đa phương hoá quan hệ đối ngoại của Đảng thời kỳ 1986-1996, phát triển và mở

rộng quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thành tựu và kinh nghiệm

Page 27: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

23

hoạt động đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 10 năm

đổi mới (1986-1996).

Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quan

hệ quốc tế được công bố trên các tạp chí, các kỷ yếu đề tài khoa học các cấp, kỷ yếu

các hội thảo khoa học về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó còn có những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số ít lãnh tụ của một quốc gia được đông

đảo học giả trên thế giới để tâm nghiên cứu. Theo con số thống kê, cho đến nay đã

có trên 350 tác phẩm và các công trình nghiên cứu, hàng trăm bài tạp chí, hàng

ngàn bài báo của các nhà nghiên cứu Lịch sử, Văn học, Triết học, Tâm lý học, Văn

hóa học, các nhà thơ, các phóng viên của các tờ báo lớn, đặc biệt là nhiều chính

khách, tướng lĩnh trên thế giới... viết về Hồ Chí Minh. Năm 1987, Hồ Chí Minh

được tổ chức Văn hóa Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) ra Nghị quyết

khuyến cáo các quốc gia thành viên, tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ Chí

Minh: Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, ghi nhận và tôn vinh

những cống hiến của Hồ Chí Minh đối với dân tộc và nhân loại.

Nói về chủ đề Hồ Chí Minh - nhà ngoại giao, nhà đàm phán mềm dẻo, khôn

khéo và kiên quyết, đã có một số công trình đề cập đến, nhưng chỉ là một chương

hoặc một phần trong công trình, tác phẩm, mà dường như không thấy có công trình,

tác phẩm nghiên cứu mang tính chuyên khảo. Ví dụ, trong cuốn Hồi ký của mình,

N. Khơrútxốp dành một mục Hồ Chí Minh, để nói về người lãnh tụ giản dị, khiêm

nhường, nhưng hết sức thông minh, kiên trì và mềm mỏng. Những đức tính đó được

thể hiện qua phong cách ứng xử của Người tại Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công

nhân quốc tế ở Mátxcơva (1960), đã làm cho Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên

Xô - N. Khơrútxốp hết sức kính nể. Ông đã gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là ông Thánh

cộng sản.

Một số tác giả khác như: Jean Sainteny với tác phẩm: "Face à Ho Chi Minh

(Đối diện Hồ Chí Minh)" [154 ]; Singô Sibata: "Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng", trong

quyển “Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” [158], X.

Aphônhin, E Côbêlép: "Đồng chí Hồ Chí Minh" [29], Furuta Matoo: "Hồ Chí Minh

Page 28: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

24

giải phóng dân tộc và đổi mới" [60]... đi sâu nghiên cứu về cuộc đời hoạt động của

Hồ Chí Minh, trong đó có dành một dung lượng khá lớn để đề cập đến tư tưởng,

hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh.

1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

CẦN TIẾP TỤC LÀM RÕ TRONG LUẬN ÁN

1.2.1. Những vấn đề đã được đề cập và tiếp tục đặt ra

Các công trình khoa học trên đây đã phân tích, đề cập nhiều khía cạnh khác

nhau liên quan trực tiếp tới những nội dung mà đề tài mà nghiên cứu sinh dự định

nghiên cứu như: Khái niệm ngoại giao, đối ngoại, phương pháp ngoại giao; phương

pháp ngoại giao Hồ Chí Minh; các công trình đã nghiên cứu một số phương pháp

ngoại giao, tuy nhiên chưa đầy đủ. Những vấn đề liên quan tới sự vận dụng của

Đảng ta trong từng thời kỳ cách mạng để hoạch định đường lối đối ngoại, chính

sách ngoại giao; định hướng ngoại giao trong thời gian tới...

Tuy nhiên, trong các công trình trên chưa có công trình nào đi sâu nghiên

cứu, làm rõ một cách đầy đủ hệ thống các phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh và

vận dụng các phương đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh, khi mà tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt

vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo ở khu vực Biển Đông đang có những diễn

biến hết sức phức tạp vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường, ảnh hưởng trực

tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bởi

vậy, việc vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - đề tài mà tác giả dự định thể hiện

chính là muốn góp một phần vào việc bổ sung những kết quả của các công trình

nghiên cứu trước đó. Đề tài sẽ là công trình có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn

hiện nay về công tác ngoại giao.

1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu giải quyết

Từ tổng quan nghiên cứu đề tài, tác giả lựa chọn hướng nghiên cứu vào các

vấn đề sau:

- Hệ thống nội dung phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Các phương

pháp đó là: Dĩ bất biến ứng vạn biến; Biết thắng từng bước; Thêm bạn bớt thù; Lợi

Page 29: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

25

dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao; Phương pháp dự

báo và nắm đúng thời cơ; Ngoại giao tâm công; Kết hợp đấu tranh chính trị, quân

sự và ngoại giao, vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng;

Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để

giành thắng lợi.

- Sự vận dụng và phát triển sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh

của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, bao gồm:

+ Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí

Minh trong việc đề ra đường lối, chính sách ngoại giao trong bối cảnh toàn cầu

hóa và hội nhập.

+ Trên cơ sở phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, phân tích, đánh giá

những thành tựu và bài học kinh nghiệm quá trình thực hiện chiến lược, sách lược

ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.

- Tiếp tục vận dụng nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao theo phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Tiểu kết chương 1

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên lĩnh vực ngoại giao, Hồ

Chí Minh đã để lại nhiều di sản quý báu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là

một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam,

là hệ thống các quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế, về đường

lối đối ngoại, chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta; là kết quả của sự vận

dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin và khoa học quan hệ quốc tế

vào điều kiện Việt Nam; tư tưởng về ngoại giao bao hàm cả phương pháp, phong

cách, nghệ thuật ngoại giao, là ngọn đuốc soi đường cho hoạt động đối ngoại của

Đảng và Nhà nước ta trong thời đại Hồ Chí Minh.

Thấy được tầm quan trọng của tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí

Minh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay, tác giả lựa

chọn vấn đề này để nghiên cứu. Qua quá trình nghiên cứu các công trình khoa học

Page 30: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

26

của các nhà nghiên cứu, có thể khẳng định có khá nhiều công trình về tư tưởng đối

ngoại, ngoại giao Hồ Chí Minh. Đã có một số cuốn sách đặt vấn đề và đề cập ít

nhiều về phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh cũng như sự vận dụng các phương

pháp đó trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Tuy nhiên, có thể thấy chưa có công trình

nào hệ thống lại các phương pháp ngoại giao đầy đủ nhất và chưa đi sâu nghiên

cứu về sự vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Trong bối cảnh, khi mà tình hình thế giới và khu

vực đang có những diễn biến hết sức phức tạp vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó

lường, ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

xã hội chủ nghĩa.

Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các công trình

nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án đã rất được quan tâm. Đây chính là cơ

sở để xác định nhiệm vụ nghiên cứu và là nguồn tư liệu quan trọng để nghiên cứu

sinh tiếp thu, kế thừa và phát triển, phục vụ cho việc nghiên cứu, hoàn thành luận

án của mình.

Page 31: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

27

Chương 2

HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH

2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

2.1.1. Khái niệm Ngoại giao

Đối ngoại và ngoại giao là hai khái niệm riêng biệt tuy gắn bó chặt chẽ với

nhau, nhưng vẫn có sự khác biệt nhất định. Đối ngoại là toàn bộ mục tiêu, nhiệm

vụ, phương hướng, nguyên tắc, phương châm, biện pháp mà quốc gia theo đuổi

trong quan hệ với các quốc gia khác hoặc chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế

nhằm phục vụ cho lợi ích của quốc gia.

Cùng với đối ngoại, ngoại giao là một lĩnh vực nghiên cứu rộng lớn, được

các nhà khoa học nghiên cứu đưa ra từ lâu, đến hiện nay có nhiều cách hiểu khác

nhau về khái niệm “Ngoại giao”.

Ở nước ngoài: Từ “ngoại giao” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “diploma”

với nghĩa là giấy chứng nhận, giấy ủy quyền mà sứ giả nước này trao cho người phụ

trách công tác ngoại giao của quốc gia đó với các nước khác. Từ đó xuất hiện từ

“diplomacy” với nghĩa là ngoại giao [86, tr.13].

Từ điển tiếng Anh Oxford định nghĩa: “Ngoại giao là việc tiến hành quan hệ

quốc tế bằng cách đàm phán, là phương pháp mà các đại sứ, công sứ... sử dụng để

điều chỉnh và tiến hành các quan hệ đó, là công tác hoặc nghệ thuật của nhà ngoại

giao” [146, tr.15]. Tác giả Garden trong Giáo trình môn ngoại giao cho rằng:

“Ngoại giao là khoa học về quan hệ đối ngoại”, còn theo nghĩa hẹp: “Ngoại giao là

đàm phán chính thức” [146, tr.11]. Từ điển Le Nouveau Petit Robert của Pháp đưa

ra định nghĩa: “Ngoại giao là hoạt động chính trị liên quan đến các mối quan hệ

giữa các quốc gia” [96, tr.649]. Đại Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô ghi:

“Ngoại giao là hoạt động chính thức của người đứng đầu nhà nước, chính phủ và

của các cơ quan chuyên trách về quan hệ đối ngoại, nhằm thực hiện mục tiêu,

nhiệm vụ của chính sách đối ngoại của quốc gia cũng như nhằm bảo vệ quyền lợi

quốc gia ở nước ngoài” [97, tr.359]. Cuốn Từ điển ngoại giao của Liên Xô do Bộ

trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô (giai đoạn 1957-1985) A.A.Gromyko chủ biên định

nghĩa: “Ngoại giao là công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia, là tổng

Page 32: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

28

thể những biện pháp phi quân sự, những phương pháp, thủ thuật được sử dụng có

tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm của yêu cầu nhiệm vụ; hoạt động chính thức

của người đứng đầu nhà nước, chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, các cơ quan

đại diện ngoại giao ở nước ngoài, các đoàn đại biểu các hội nghị quốc tế nhằm thực

hiện mục tiêu và nhiệm vụ chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi

ích quốc gia, pháp nhân và công dân của mình ở nước ngoài. Đồng thời, ngoại giao

là nghệ thuật đàm phán nhằm ngăn chặn, hoặc dàn xếp những xung đột quốc tế, tìm

cách thỏa hiệp và đưa ra những giải pháp có thể được các bên chấp nhận, cũng như

việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế'’ [179, tr.327].

Ở Việt Nam: Trong Từ điển tiếng Việt viết “Ngoại giao là sự can thiệp với

nước ngoài để bảo vệ quyền quốc gia mình và để góp phần giải quyết những vấn đề

quốc tế chung” [184, tr.683].

Các tác giả Giáo trình Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại giao nêu

nhận thức:

Ngoại giao là một khoa học mang tính tổng hợp, một nghệ thuật của

những khả năng, là hoạt động của những cơ quan làm công tác đối ngoại

và các đại diện có thẩm quyền, là công tác đối ngoại của nhà nước, bảo

vệ quyền lợi, lợi ích, quyền hạn quốc gia, dân tộc ở trong nước và trên

thế giới, góp phần giải quyết những vấn đề quốc tế chung bằng con

đường đàm phán và các hình thức hòa bình khác [74, tr.19-20].

Trong “Ngoại giao và công tác ngoại giao”, tác giả cuốn sách đề cập đến

khái niệm ngoại giao:

Ngoại giao - công cụ thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia - được

hiểu là tổng thể những biện pháp phi quân sự, những phương pháp, thủ

thuật được sử dụng có tính đến điều kiện cụ thể và đặc điểm của yêu cầu,

nhiệm vụ; là hoạt động chính thức của người đứng đầu Nhà nước, Chính

phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước

ngoài, các đoàn đại biểu tại các hội nghị quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu

và chính sách đối ngoại của quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia,

pháp nhân và công dân mình ở nước ngoài. Ngoại giao là nghệ thuật đàm

phán nhằm ngăn chặn hoặc dàn xếp những xung đột quốc tế, tìm cách

Page 33: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

29

thỏa hiệp và những giải pháp có thể được các bên chấp nhận, cũng như

việc mở rộng và củng cố hợp tác quốc tế. Lãnh đạo hoạt động ngoại giao

của quốc gia là Chính phủ, trước hết trực tiếp của Bộ Ngoại giao. Ngoại

giao bất cứ quốc gia nào đều mang tính giai cấp. Nội dung, nguyên tắc,

mục đích, nhiệm vụ của ngoại giao do chế độ kinh tế - xã hội của quốc

gia quyết định và lợi ích giai cấp cầm quyền chi phối đường lối đối ngoại

của quốc gia [86, tr.20-21].

Như vậy có thể thấy có nhiều cách hiểu khác nhau về ngoại giao. Từ những

cách tiếp cận trên có thể rút ra một số nhận xét như sau về ngoại giao: Là hoạt động

của nhà nước trong lĩnh vực đối ngoại, ngoại giao là công cụ quan trọng nhất, công

cụ hòa bình thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia; Là tất cả các cơ quan

chuyên trách về quan hệ đối ngoại ở trung ương cũng như ở nước ngoài và những cán

bộ làm công tác ngoại giao nhà nước; Là nghề nghiệp của các nhà ngoại giao; Là

khoa học và nghệ thuật, trước hết là nghệ thuật đàm phán; Mang tính giai cấp sâu sắc.

2.1.2. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh

Để nghiên cứu phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là gì? Trước hết cần

tìm hiểu phương pháp là gì? Phương pháp Hồ Chí Minh là gì?

Phương pháp thực chất là những cách thức mà con người thực hiện các mục

tiêu đã định sẵn, là sự phù hợp giữa hoạt động chủ quan có hướng đích của con

người với quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Trong “Phương pháp và

phong cách Hồ Chí Minh”, tác giả cuốn sách nêu khái niệm về phương pháp:

Phương pháp là toàn bộ những cách thức với tính chất là một hệ thống các

nguyên tắc xuất phát từ các quy tắc tồn tại và vận động của đối tượng,

khách thể đã được nhận thức, để định hướng và điều chỉnh hoạt động nhận

thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người, nhằm tác động vào đối

tượng, khách thể để thực hiện mục đích đã định [100, tr.24-25].

Về phương pháp Hồ Chí Minh, trong cuốn “Một số vấn đề phương pháp

luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh”, tác giả Song Thành đưa ra khái

niệm phương pháp:

Phương pháp là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực, cách thức điều chỉnh

nhận thức và hoạt động của con người trong việc tiếp cận lý luận và khảo

Page 34: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

30

sát thực tế. Phương pháp hình thành tư lý luận, nhưng không phải một

chiều. Lý luận đẻ ra phương pháp, phương pháp tác động trở lại lý luận,

làm cho lý luận phát triển, hình thành lý luận mới; đến lượt nó, lý luận

mới lại đẻ ra phương pháp mới [165, tr.28].

Trong cuốn “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh”, cũng đã đề cập đến

phương pháp Hồ Chí Minh:

Phương pháp Hồ Chí Minh là phương pháp ở tầm tư tưởng, lý luận, thể

hiện sự nhuần nhuyễn giữa lý luận với thực tiễn trong các lĩnh vực hoạt

động của Người, lý luận hóa thực tiễn gắn liền với thực tiễn hóa lý luận.

Phương pháp Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện một trình độ tư tưởng mà

còn là năng lực và bản lĩnh sáng tạo văn hóa, với tầm nhìn rộng lớn, dự

báo sáng suốt và ứng xử linh hoạt, tinh tế [9, tr.12-13].

Từ nghiên cứu phương pháp Hồ Chí Minh sẽ đi đến tìm hiểu phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh. Vậy phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là gì?

Ngoại giao muốn đạt được mục đích thì phải có phương pháp. Trong toàn bộ

cuộc đời hoạt động ngoại giao của mình, Hồ Chí Minh thường xuyên xác định

đường lối cách mạng đúng đắn và lựa chọn phương pháp cách mạng thích hợp.

Đường lối quyết định phương pháp, phương pháp lại đưa đường lối vào cuộc sống,

thể hiện đường lối trong hoạt động thực tiễn.

Trong hoạt động ngoại giao, phương pháp đóng vai trò quan trọng đặc biệt. Bởi

lẽ, môi trường hoạt động ngoại giao là thế giới không ngừng biến đổi, không ngừng

vận động, cần phải có những cách thức đánh giá, nhận định, dự báo tình hình thế giới

một cách khoa học, năng động. Sự thay đổi của tình hình đòi hỏi phải có phương pháp

mới. Mặt khác, do đối tác của ngoại giao đa dạng và phức tạp, cần có sự linh hoạt, chủ

động và sáng tạo trong việc lựa chọn phương pháp cho phù hợp với từng đối tượng. Hồ

Chí Minh với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, đã xác định đường lối và

phương pháp cách mạng chủ yếu trong hoạt động thực tiễn. Trong hoạt động ngoại

giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng xác định được đường lối và phương pháp ngoại giao

phong phú và đa dạng góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng.

Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong tư

tưởng của Người, góp phần hình thành nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Ngoại

Page 35: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

31

giao vừa là khoa học, ứng xử, giao tiếp, đàm phán, vừa là chính trị. Ngoại giao

muốn đạt mục đích đề ra phải có phương pháp.

Đánh giá về tầm quan trọng của phương pháp hoạt động chính trị, đồng chí

Trường Chinh khẳng định:

Lịch sử phát triển cách mạng thế giới cho thấy một phong trào nào đó có

khi bế tắc, không lối ra, thậm chí thất bại, không phải vì không có mục

tiêu và phương hướng rõ ràng, cũng không phải không tổ chức được lực

lượng cách mạng, mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách mạng và hình

thức đấu tranh thích hợp [26, tr.149].

Đối với Hồ Chí Minh, phương pháp ngoại giao được thể hiện rất đa dạng,

phong phú. Đó là Phương pháp Dĩ bất biến ứng vạn biến; Thêm bạn bớt thù; Vừa

đánh, vừa đàm; Biết thắng từng bước; Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

trong đấu tranh ngoại giao; dự báo và nắm đúng thời cơ; Ngoại giao công tâm; Phối

hợp các lĩnh vực, trước hết là chính trị, quân sự và ngoại giao, tạo sức mạnh tổng

hợp cho đấu tranh ngoại giao...

Như vậy, có thể hiểu: Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là bộ phận rất

quan trọng trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, bao gồm một hệ thống các

cách thức, các phương thức khác nhau để giải quyết các vấn đề trong quan hệ

quốc tế nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của cách mạng

Việt Nam.

Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh không đồng nhất với những quan

điểm, quan niệm trong ngoại giao Hồ Chí Minh mà từ những quan điểm đó để đưa

ra những cách thức xử lý tình huống, vấn đề cụ thể. Ngoại giao muốn đạt được mục

đích thì phải cần có phương pháp. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là nét đặc

sắc trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, góp phần tạo nên bản sắc của nền ngoại

giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh đã phát

huy hiệu quả to lớn trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam. Mặc dù, việc vận dụng tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí

Minh trong hoạch định đường lối ngoại giao và thực hiện nhiệm vụ đối ngoại trong

Page 36: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

32

hoàn cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, song chúng ta vẫn đạt được những thành

tựu cơ bản, quan trọng.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là hai

nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hai nhiệm vụ

đó có sự liên quan mật thiết với nhau, có mối quan hệ khăng khít, chi phối mọi

hoạt động và lĩnh vực của đời sống xã hội đất nước. Xây dựng Tổ quốc giàu mạnh

trên các phương diện sẽ là điều kiện hết sức cơ bản để bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời,

nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện trọn vẹn, tạo lập môi trường hòa bình,

ổn định để phát triển đất nước. Thực hiện hài hòa và tốt đẹp hai nhiệm vụ chiến

lược này sẽ hướng tới mục tiêu chung là xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu,

nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam hiện nay có nghĩa là vận dụng những cách thức xử lý tình huống,

vấn đề cụ thể ở lĩnh vực ngoại giao theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nhằm mục tiêu xây dựng, thúc đẩy phát triển

các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống

nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội,...

Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống

nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo.

Giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

2.2. PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH

2.2.1. Dĩ bất biến ứng vạn biến

Ngày 31-5-1946, trước khi lên đường sang nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí

Minh nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng - người vừa được ủy nhiệm làm quyền Chủ

tịch nước: Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó

khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết. Mong Cụ dĩ bất biến ứng vạn biến.

“Dĩ bất biến ứng vạn biến” vừa là phương châm, vừa là phương pháp có tính

nguyên tắc trong hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh. Phương pháp này xuất

phát từ tư duy triết học phương Đông “lấy cái không thể thay đổi để ứng phó với

muôn sự thay đổi”, hay lấy cái bất biến để ứng với cái vạn biến. Hồ Chí Minh đã

Page 37: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

33

kết hợp hài hòa triết lý phương Đông với phép biện chứng duy vật mácxit. Điều

“bất biến” trong phương pháp ngoại giao của Hồ Chí Minh là lợi ích dân tộc, mục

tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, lý tưởng của cuộc cách mạng dân tộc,

dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là sợi chỉ

đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình đấu tranh trên các phương diện, đặc biệt là trong

đấu tranh ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, để đạt được những mục tiêu

cơ bản là độc lập, tự do, thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đánh giá đúng tình hình

quốc tế và so sánh lực lượng ở những thời điểm cụ thể để vận dụng sách lược một

cách linh hoạt, mềm dẻo, giành thắng lợi từng bước. Người chỉ ra rằng: “Mục đích

bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của

ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt” [132, tr.555].

Phương pháp ngoại giao "Dĩ bất biến ứng vạn biến" được vận dụng một cách

linh hoạt trong đấu tranh đàm phán với kẻ thù. Khi đàm phán với kẻ thù, Hồ Chí

Minh luôn giữ nguyên tắc bất biến là: độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ

quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân, quyền cơ bản của dân tộc, đó là những thứ

không thể đổi chác, không thể nhân nhượng. Nguyên tắc đó được thể hiện bằng

quyết tâm: "Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho

được độc lập, nước có độc lập" [65, tr.196]. Để đảm bảo nguyên tắc “bất biến” phục

vụ cho mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Trước hết là phải giành

cho kỳ được độc lập, tất cả cho độc lập, "không có gì quý hơn độc lập tự do" [139,

tr.131]. Nhưng khi có độc lập rồi phải xây dựng chế độ xã hội mới, đem lại tự do

hạnh phúc cho nhân dân. Vì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có độc lập mà dân không

được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì.

Hòa bình, độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân

là mục tiêu đấu tranh và phấn đấu của mọi người Việt Nam. Nhưng con đường đi

đến mục tiêu đó là con đường dài, đầy khó khăn gian khổ, đòi hỏi phải có sự phấn

đấu, hy sinh của nhiều lớp người, nhiều thế hệ. Trong mỗi bước đi lên, cách mạng

phải đối phó với muôn vàn biến đổi, đòi hỏi người cách mạng phải sáng suốt, tỉnh

táo, nhạy bén để thay đổi cách thức ứng phó với những điều kiện lịch sử mà cuộc

Page 38: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

34

đấu tranh đặt ra. Chiến lược, sách lược cách mạng phải linh hoạt, phù hợp: "ứng

vạn biến" trong mỗi thời điểm, điều kiện nhất định sao cho đạt được mục tiêu cuối

cùng đã xác định. Phương pháp "Dĩ bất biến ứng vạn biến" của Hồ Chí Minh hoàn

toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong đấu tranh cách

mạng phải giành cho được thắng lợi để từng bước tiến lên, nhưng không phải chỉ

biết mục tiêu trước mắt mà quên mục tiêu lâu dài, cũng không thể hy sinh mục

tiêu lâu dài chỉ vì những mục tiêu trước mắt. Trong đấu tranh ngoại giao, có

những lúc cần thỏa hiệp, nhân nhượng, nhưng thoả hiệp phải có nguyên tắc, không

được rời bỏ những vấn đề có tính nguyên tắc khi thương lượng với kẻ thù. Có

nghĩa là phải xác định giới hạn của nhân nhượng trong ngoại giao, đó là không

được làm tổn hại đến chủ quyền của quốc gia và lợi ích dân tộc. Năm 1946, Đảng

ta khẳng định “Tạm ước ngày 14 tháng 9 là một bước nhân nhượng cuối cùng.

Nhân nhượng nữa là vi phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng

của dân tộc” [45, tr.148]. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã kiên quyết đấu

tranh để có “ngoại giao riêng”, vì “nếu quân đội và ngoại giao Việt Nam ở dưới

quyền Pháp tức là Việt Nam chưa được độc lập hẳn và vẫn là thuộc địa của Pháp”

[139, tr.494].

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta để đạt được những mục tiêu cơ

bản là độc lập, tự do, thống nhất đất nước, Hồ Chí Minh đánh giá đúng tình hình

quốc tế và so sánh lực lượng ở những thời điểm cụ thể để vận dụng sách lược một

cách linh hoạt, mềm dẻo, giành thắng lợi từng bước. Căn cứ vào thực lực cách

mạng và tương quan lực lượng trong những thời điểm nhất định, Chủ tịch Hồ Chí

Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra những hình thức đấu tranh thích hợp,

những sách lược phù hợp để tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được trên

trường quốc tế, ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn

biến” được thể hiện ở nỗ lực tìm kiếm những cơ hội hòa bình trong mối quan hệ với

Pháp... của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau Cách mạng Tháng Tám. Điều đó

cũng đã thể hiện rõ lập trường có tính nguyên tắc của nước ta trong giữ gìn nền độc

lập, hòa bình cho dân tộc, tránh nguy cơ chiến tranh. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946,

Page 39: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

35

Tạm ước 14/9/1946 được ký với Pháp trước thời điểm ta buộc phải kháng chiến

toàn quốc khi cơ hội hòa bình cuối cùng không còn nữa là minh chứng điển hình.

“Dĩ bất biến ứng vạn biến” còn là sự linh hoạt mềm dẻo trong sách lược

nhưng cũng phải thể hiện thái độ kiên quyết và biết tận dụng mọi cơ hội để tấn công

ngoại giao. Tháng 1-1966 trong thư gửi một số nước có liên quan đến Hiệp định

Giơnevơ, Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ Mỹ phải tuyên bố công nhận lập trường

bốn điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chứng tỏ điều đó

bằng những việc làm thực sự” [138, tr.665]. Tháng 1 năm 1947, trong thư gửi tướng

Leclerc, Hồ Chí Minh thể hiện thái độ quyết tâm và kiên quyết trong việc giải quyết

vấn đề Việt Nam với Pháp “Chúng tôi đã nhất quyết ở trong khối Liên hiệp Pháp,

cộng tác thành thực với nước Pháp và tôn trọng quyền lợi kinh tế, văn hóa Pháp

trong nước chúng tôi. Nhưng chúng tôi cũng nhất quyết chiến đấu đến cùng cho độc

lập và thống nhất quốc gia” [129, tr.65].

Trên thực tế, Hồ Chí Minh cũng đã biết tận dụng mọi cơ hội để mở mặt

trận ngoại giao tấn công kẻ thù. Ngay sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng

ta đã tiến hành ngay việc ký kết Hiệp định Giơnevơ, lợi dụng phong trào phản

đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam trong những năm từ

1954-1960, Người chỉ đạo tích cực vận động quốc tế mở mặt trận ngoại giao,

chủ động đấu tranh ngoại giao và coi đây là một bộ phận quan trọng trong đấu

tranh cách mạng.

Nhìn nhận kết quả Hiệp định Giơnevơ, đánh giá về tương quan so sánh lực

lượng thời điểm đó, thấy rằng phương châm, phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn

biến” đã được Hồ Chí Minh và Đảng vận dụng hết sức sáng tạo, linh hoạt để giành

thắng lợi. Nhân dân Việt Nam phải chấp nhận sự hi sinh mất mát và phải nhân

nhượng để có được hòa bình ở miền Bắc sau Hiệp định Giơnevơ. Nhưng nhờ cái

“vạn biến” đó mà cách mạng Việt Nam có điều kiện xây dựng hậu phương miền

Bắc, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ ở miền Nam và sau này

trở thành nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Trong bức thư gửi Tổng

thống Mỹ ngày 15-12-1967, Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất

thiết tha với độc lập, tự do và hòa bình... con đường đưa đến hòa bình ở Việt Nam là

Page 40: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

36

Mỹ phải chấm dứt xâm lược…; phải rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền

Nam Việt Nam” [139, tr.301].

Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mỹ, nguyên tắc này luôn

được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam vận dụng để chủ động đàm

phán để đưa lại chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam vào năm 1975.

“Dĩ bất biến ứng vạn biến” không chỉ được vận dụng trong thực hiện ngoại

giao với các nước xâm lược Việt Nam trong quá trình tiến hành cách mạng mà còn

được thực hiện trong quan hệ ngoại giao với các nước trong hệ thống xã hội chủ

nghĩa và các nước khác trên thế giới. Hồ Chí Minh luôn có một nhận thức sâu sắc

về nhân tố quốc tế trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người không chỉ đấu tranh

cho dân tộc mình mà còn đấu tranh cho các dân tộc khác. Theo Hồ Chí Minh, cần

phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để thành lập nên mặt trận nhân dân thế giới ủng

hộ Việt Nam chống xâm lược, góp phần đưa mục tiêu cách mạng đi tới thắng lợi

cuối cùng.

Tóm lại, phương pháp ngoại giao “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là phương

pháp ngoại giao Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt, xử lý thành công nhiều tình huống,

nhiều sự kiện có tính phương pháp luận trong hoạt động ngoại giao của Người, góp

phần đưa ngoại giao Việt Nam từng bước tạo thế và lực làm thay đổi cục diện chiến

tranh và tương quan lực lượng có lợi cho ta. "Dĩ bất biết ứng vạn biến" không chỉ là

một phương châm hành động, mà là hạt nhân phép biện chứng Hồ Chí Minh, trên

cơ sở đó xử lý linh hoạt, hiệu quả mọi tình huống nhiệm vụ đặt ra.

2.2.2. Phương pháp biết thắng từng bước

Biết thắng lợi từng bước là một trong những phương pháp cách mạng của

Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời cũng là phương pháp và nghệ thuật ngoại giao

Hồ Chí Minh. Phương pháp này được thể hiện rõ nhất trong đấu tranh giành chính

quyền, trong giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Lê Duẩn cho rằng:

Biết thắng từng bước cho đúng có nghĩa là ở mỗi thời kỳ nhất định hay

mỗi tình thế nhất định, biết đề ra được mục tiêu cụ thể sát hợp nhất, biết

Page 41: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

37

dựa theo quy luật khách quan mà điều khiển cuộc đấu tranh thế nào để

thực hiện mục tiêu đó với mức thắng lợi tối đa, mở đường cho cách

mạng tiến lên những bước mới cao hơn và tạo ra triển vọng chắc chắn

nhất cho thắng lợi cuối cùng [32, tr.565-566].

Phương pháp biết thắng từng bước có cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác -

Lênin, đó là quan điểm phát triển biện chứng từ tuần tự đến nhảy vọt. Trong tiến

trình lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam thường phải đối phó với kẻ

thù mạnh hơn mình như: Các triều đại phong kiến Trung Hoa, thực dân Pháp, quân

phiệt Nhật và đế quốc Mỹ. Cũng có khi chúng ta cũng phải đối phó với nhiều kẻ thù

cùng một lúc như giai đoạn 1945-1946. Do vậy, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống

mạnh, phương pháp hợp lý nhất, hiệu quả nhất là giành thắng lợi từng bước để đi

tới giành thắng lợi hoàn toàn [83, tr.45].

Để thực hiện mục tiêu cách mạng, giành thắng lợi trước quân xâm lược,

Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối

độc lập tự chủ, sáng tạo, và đã lãnh đạo quân và dân nắm vững tư tưởng chiến lược

tiến công, đánh thắng địch từng bước, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ tiến lên giành

thắng lợi hoàn toàn. Trong cách mạng giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành

thắng lợi hoàn toàn là chủ trương chiến lược đúng đắn, sáng tạo, thể hiện bản lĩnh,

tầm nhìn và nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Đảng.

Hiệp định Sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 năm 1946 thể hiện rất rõ phương pháp

giành thắng lợi từng bước trên mặt trận ngoại giao. Trên cơ sở giữ vững độc lập tự

chủ, linh hoạt trong đấu tranh, chủ động kiên quyết và khôn khéo, luôn hướng đích,

việc nhân nhượng này cho phép cách mạng trong những thời điểm nguy nan của đất

nước biến nghịch thành thuận, biến những khả năng mỏng manh thành hiện thực có

lợi cho cách mạng. Nói cách khác, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nắm vững quy luật

cách mạng, nắm vững thời và thế, từ đó giành thắng lợi từng bước, đi từ nhỏ đến

lớn, từ thấp đến cao và đi tới thắng lợi cuối cùng.

Thắng lợi ở Hội nghị Giơ-ne-vơ là thắng lợi trong cuộc đấu tranh ngoại giao

bằng việc quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, bằng đường lối đối thoại độc

lập, tự chủ, bằng nội lực của dân tộc và sự khôn khéo tranh thủ sự đồng tình ủng hộ

Page 42: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

38

của dư luận tiến bộ trên thế giới để có bước phá vây quốc tế có kết quả thuận lợi,

tạo cục diện quốc tế có lợi cho nước ta trong một bối cảnh phức tạp lúc đó.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Đảng

Cộng sản Việt Nam dự tính cần thực hiện những bước đi phù hợp với điều kiện

thực lực của cách mạng Việt Nam lúc đó. Đảng đã chỉ đạo phát huy thế mạnh về

chính trị, dựa vào sức mạnh to lớn là lực lượng chính trị của quần chúng. Và thực tế

lịch sử chứng tỏ đó là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam trong lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng.

Căn cứ vào thắng lợi quân sự hai mùa khô 1965-1966, 1966-1967 và trên cơ

sở thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cách mạng

Việt Nam đã chủ động mở rộng mặt trận đấu tranh ngoại giao, buộc phía Mỹ và

chính quyền Sài Gòn phải ngồi vào bàn đàm phán tại Hội nghị Pa-ri, mở ra giai

đoạn "vừa đánh vừa đàm". Thực hiện phương hướng chiến lược mà Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã chỉ ra là đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào và để biến phương

hướng chiến lược đó thành hiện thực, đồng thời với việc tiếp tục đẩy mạnh tiến

công quân sự, trong quá trình đàm phán chúng ta chủ trương thiết lập tại miền Nam

một chính quyền liên hiệp ba thành phần, xem đó là một bộ phận trong giải pháp

buộc phía Mỹ phải chấp nhận rút hết quân ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt sự dính líu

quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ và nhịp nhàng giữa đấu tranh chính

trị với đấu tranh quân sự, đã triển khai và phát triển thế trận chiến tranh nhân dân

trên ba vùng chiến lược là rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, thực hành chiến

lược tiến công địch cả về chính trị, quân sự và ngoại giao; đánh địch bằng phương

thức kết hợp giữa chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, chiến tranh nhân

dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực hợp thành.

Bằng cuộc tiến công Tết Mậu Thân, cách mạng Việt Nam đã giáng cho địch

một đòn chí mạng, buộc Mỹ phải đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném

bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán, mở ra giai đoạn "vừa đánh vừa đàm". Đây

là thắng lợi bước đầu, nhưng có ý nghĩa chiến lược quan trọng, góp phần làm cho

hậu phương thêm vững chắc, tiềm lực cách mạng được tăng cường và chi viện cho

chiến trường miền Nam thêm thuận lợi. Do đó yêu cầu chính của cách mạng Việt

Page 43: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

39

Nam là giữ vững những thắng lợi mới giành được và chuyển sang đấu tranh đòi Mỹ

rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam.

Phương pháp ngoại giao giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn

toàn là phương pháp sáng tạo phù hợp của một nước nhỏ đối đầu với một nước

lớn hùng mạnh, một quân đội nhà nghề, quân số đông, vũ khí hiện đại…Nắm

vững phương châm đánh lâu dài, tranh thủ thời cơ, làm suy yếu kẻ địch, giành

thắng lợi từng bước, tiến lên đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của địch. Đó là

một thành công trong chỉ đạo chiến lược, sách lược “biết người biết ta”. Trong

từng giai đoạn đấu tranh, để đánh bại âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, Đảng Cộng

sản Việt Nam, trên cơ sở đánh giá khách quan, khoa học, phân tích rõ những điểm

mạnh yếu của địch và của ta để đề ra nhiệm vụ, mục tiêu cho phù hợp. Đảng đã

quán triệt tư tưởng chiến lược tiến công cho toàn quân, toàn dân, liên tục tiến công

địch, liên tục tạo lực, tạo thế, nắm vững thời cơ, đánh bại từng biện pháp và kế

hoạch chiến lược của địch. Những bài học kinh nghiệm, đặc biệt là những nét đặc

sắc trong nghệ thuật giành thắng lợi từng bước trên mặt trận ngoại giao của Chủ

tịch Hồ Chí Minh có giá trị sâu sắc trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng của

Đảng và nhân dân Việt Nam.

2.2.3. Phương pháp thêm bạn bớt thù

Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ

của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng

hộ của nhân dân thế giới” [139, tr.675]. Người đặt cách mạng Việt Nam trong quỹ

đạo cách mạng thế giới, tranh thủ tối đa các lực lượng có thể, thêm bạn, bớt thù, mở

rộng đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập tự chủ là chiến lược, nguyên tắc ngoại giao

cơ bản trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.

Phương pháp “thêm bạn, bớt thù” chỉ có thể thực hiện trên cơ sở xác định

đúng mâu thuẫn. Từ nhận thức đó sẽ giúp người cách mạng xác định đúng nhiệm

vụ, xác định chính xác những lực lượng nòng cốt của cách mạng. Với nhãn quan

chính trị sắc bén và tinh thần dân tộc cao cả, Hồ Chí Minh xác định mâu thuẫn xã

hội bằng cách đặt các quyền dân tộc cơ bản: độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ lên

trên hết. Từ đó, Người nhận ra mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật trong xã hội Việt Nam

Page 44: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

40

luôn là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thế lực đế quốc xâm lược và

vì vậy, kẻ thù chính yếu của nhân dân Việt Nam là đế quốc cướp nước, áp bức bóc

lột dân ta.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân biệt

rõ ai là bạn ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù” [137, tr.453]. Đó là

nguyên tắc chung của mọi cuộc cách mạng, đối với một dân tộc nhỏ lại phải đối đầu

với các kẻ thù mạnh và thâm độc thì việc làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và

nhiều bạn đồng minh hơn hết càng trở nên cấp thiết. Bên cạnh đó, phương pháp

thêm bạn bớt thù còn hướng tới mục tiêu lớn hơn là góp phần tập hợp lực lượng cho

cách mạng Việt Nam.

Dựa trên đặc điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh còn phát

triển thêm những phương cách mới để tư tưởng “thêm bạn, bớt thù” của Người

được vận dụng với những chủ trương hết sức linh hoạt và phong phú như lợi dụng

mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù; nhân nhượng có nguyên tắc để lôi kéo đồng minh;

phân biệt chính phủ hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hòa bình của nước đối

phương; độ lượng, khoan dung, lôi kéo những người con của dân tộc đã lầm lạc đi

theo đế quốc... Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, “thêm bạn, bớt thù” vừa là tư tưởng,

vừa là phương pháp đã đạt tới trình độ nghệ thuật để mang lại những hiệu quả to

lớn... Điều này đã đưa Nguời trở thành một nhà ngoại giao kiệt xuất đầy trí tuệ và

bản lĩnh. Có thể hiểu phương pháp ngoại giao “thêm bạn, bớt thù” bao gồm những

nội dung cơ bản sau:

Một là: Để “thêm bạn, bớt thù” phải biết lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong

hàng ngũ kẻ thù là chủ trương, biện pháp quan trọng mà Hồ Chí Minh đã thực hiện.

Bài học về lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù để phân hóa kẻ thù sau Cách mạng Tháng

Tháng Tám năm 1945 mà Hồ Chí Minh chỉ đạo, thực hiện là một minh chứng sinh

động trong lịch sử ngoại giao Việt Nam.

Sau Cách mạng Tháng Tám, các thế lực đế quốc Mỹ, Tưởng, Anh, Pháp lợi

dụng danh nghĩa quân Đồng Minh vào tước khí giới phát xít Nhật để thực hiện

mưu đồ đen tối của chúng là bóp chết chính quyền nhân dân của Việt Nam, thành

lập chính quyền tay sai của chúng, biến nước Việt Nam thành thuộc địa của

Page 45: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

41

chúng. Hai mươi vạn quân Tưởng vào nước ta mang theo bè lũ tay sai phản động

Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội

(Việt Cách). Nhìn rõ mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc là Anh - Pháp và Mỹ -

Tưởng, chỉ trong vòng hơn một năm, nền ngoại giao non trẻ Việt Nam dưới sự

chèo lái của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện các sách lược ngoại giao khác

nhau, thậm chí trái ngược nhau như lúc thì hòa với Tưởng để tập trung chống

Pháp ở miền Nam (8-1945 đến 3-1946), lúc thì hòa với Pháp để đuổi Tưởng về

nước (3-1946 đến 12-1946).

Trước tình thế phải đối phó với nhiều kẻ thù có ưu thế hơn ta rất nhiều về

kinh tế và quân sự, Hồ Chí Minh đã thấy rõ những điểm mạnh và điểm yếu của

chúng và khẳng định: chỗ mạnh của địch chỉ là tạm thời, chỗ yếu của chúng mới là

cơ bản. Hàng ngũ của chúng đang bị những mâu thuẫn gay gắt xâu xé, mâu thuẫn

trong việc tranh giành những thuộc địa đã mất, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc

với nhau và mâu thuẫn ngay trong bản thân mỗi kẻ thù. Ở Đông Dương, sự mâu

thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng là một vấn đề cách mạng

Việt Nam có thể lợi dụng.

Phân tích mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để phân hóa chúng, để tránh phải

đối phó với nhiều kẻ thù (Tưởng, Pháp, Anh, Mỹ), Hồ Chí Minh đã đưa ra đối sách

sáng tạo, mềm dẻo, theo phương châm làm cho mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn

đồng minh hơn hết. Muốn vậy thì phải biết đàm phán, thương lượng. Theo nhận

định của Hồ Chí Minh, kẻ thù chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là thực

dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng và phải đặt riêng

bọn thực dân Pháp xâm lược ra một bên mà đánh, đừng bỏ cả Anh, Pháp vào một bị

và đừng coi họ là một kẻ thù ngang nhau. Đối với Anh, Mỹ, Tưởng thì tránh xung

đột, giao thiệp thân thiện. Đối với bọn tay sai của Tưởng, một mặt Hồ Chí Minh

vừa mềm dẻo thuyết phục, tranh thủ những người có xu hướng yêu nước; mặt khác

buộc bọn cầm đầu phải chấp nhận hòa hoãn, kiên quyết ngăn chặn những hành

động phá hoại của chúng.

Sau này, tại Đại hội III của Đảng (1960), Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản

Việt Nam xác định: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù “là một nguyên tắc

Page 46: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

42

chiến lược chứ không chỉ là vấn đề sách lược” [1, tr.258]. Từ đó, trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, Đảng đưa ra chủ trương: “Đoàn kết bất cứ người nào có thể đoàn

kết được, tranh thủ bất cứ người nào có thể tranh thủ được, trung lập bất cứ người

nào có thể trung lập, cốt nhằm phân hóa kẻ thù đến cao độ và cô lập chúng” [35,

tr.75]. Thực hiện chủ trương đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra những biện

pháp khéo léo nhằm khoét sâu mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và các đồng minh của

họ; giữa Mỹ với các nước phụ thuộc; giữa Mỹ và chính quyền tay sai ở miền Nam

Việt Nam... Cuối cùng, Mỹ buộc phải chấp nhận xuống thang chiến tranh, đưa đến

cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975.

Hai là: Thực hiện “thêm bạn, bớt thù”, phải biết thỏa hiệp, biết nhân nhượng

để giữ vững lực lượng, lôi kéo đồng minh. Trong giai đoạn 1945 - 1946, để hòa

hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc khi cần tập trung chống Pháp ở miền Nam, Hồ

Chí Minh đã sử dụng những các biện pháp tổng hợp như tiến hành các cuộc tiếp xúc

ngoại giao với tinh thần trọng thị và chấp nhận nhân nhượng cho quân Tưởng một

số quyền lợi về kinh tế, chính trị và quân sự... Chỉ 8 ngày sau khi Tưởng và Pháp ký

Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), Hồ Chí Minh đã ký kết được Hiệp định Sơ bộ

6-3-1946 với Pháp trên tinh thần “cương quyết giữ quyền độc lập” nhưng liên minh

với Pháp, nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế, văn hóa... để Pháp

phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của ta.

Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cuộc kháng chiến chống Mỹ

đã diễn ra trên mọi mặt trận. Điển hình như tại Hội nghị Pari, trong hơn 4 năm (từ

tháng 5-1968 đến tháng 10-1972), quan điểm giữa Việt Nam và Mỹ hoàn toàn đối

chọi nhau về hai vấn đề: Việt Nam đòi Mỹ rút quân và phế bỏ chính quyền tay sai

của Mỹ để nhân dân miền Nam tự lựa chọn chính quyền của mình; Mỹ đòi Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ cùng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và giữ lại

chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Sự đối lập gay gắt về quan điểm làm cuộc đàm

phán nhiều lúc rơi vào tình trạng “giậm chân tại chỗ”. Đến tháng 10 - 1972 do

những nhận thức mới và tính toán mới, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ chấp

nhận phương án mỗi bên nhân nhượng cho nhau một điều kiện: Việt Nam đạt được

mục tiêu số một là Mỹ rút quân; Mỹ đạt được mục tiêu là giữ lại chính quyền tay

Page 47: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

43

sai. Việt Nam đã nhân nhượng yêu cầu số hai để đạt được yêu cầu số một là “đánh

cho Mỹ cút” để rồi tiến tới “đánh cho Ngụy nhào”. Bằng sự nhân nhượng này, ta đã

thu hẹp được lực lượng cần đánh đổ khi gạt ra khỏi miền Nam Việt Nam hàng chục

vạn lính viễn chinh Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc Tổng tấn công và nổi

dậy mùa Xuân 1975. Đó là minh chứng hùng hồn cho lợi ích của sách lược nhân

nhượng, thỏa hiệp đúng đắn.

Đối với Hồ Chí Minh, nhân nhượng, thỏa hiệp lẫn nhau là điều tất yếu trong

đàm phán ngoại giao nhưng đó là sự nhân nhượng có chừng mực trong nguyên tắc

và đối phương cũng phải nhân nhượng với cách mạng Việt Nam. Muốn nhân

nhượng có nguyên tắc lại phải xác định đâu là mục tiêu, lợi ích lâu dài; đâu là lợi

ích bộ phận; đâu là nguyên tắc không thể nhượng bộ… để từ đó lựa chọn hi sinh cái

bộ phận vì lợi ích lâu dài, giành thắng lợi từng bước đi tới mục tiêu cuối cùng.

Ba là: Để “thêm bạn, bớt thù”, Hồ Chí Minh phân biệt rõ giữa nhân dân yêu

chuộng hòa bình với bọn phản động, hiếu chiến trong chính phủ của nước xâm lược

và chú ý mâu thuẫn trong giới cầm quyền của chúng.

Hồ Chí Minh khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Ôxtrâylia W.Bớcsét tháng 8-

1963 và tháng 4-1964, Người khẳng định: “Trước đây, chúng tôi đã chú ý phân biệt

thực dân Pháp và nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình, thì ngày nay chúng tôi cũng

chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền thống tự do, với bọn can thiệp Mỹ và

bọn quân phiệt ở Hoa Thịnh Đốn” [138, tr.148], “chúng tôi phân biệt nhân dân Mỹ

với đế quốc Mỹ. Chúng tôi muốn có những quan hệ hữu nghị và anh em với nhân

dân Mỹ mà chúng tôi rất kính trọng...” [138, tr.148]. Trong lực lượng của đối

phương thì “thêm bạn” chính là “bớt thù”, vì khi đó nhân dân Việt Nam chỉ phải

chống chính phủ hiếu chiến của Pháp và Mỹ chứ không phải chống toàn bộ nước

Pháp và nước Mỹ. Tương quan lực lượng vì thế đã xoay chuyển theo chiều hướng

có lợi cho ta. Chủ trương đó đã làm kẻ thù bị cô lập trên thế giới và đặc biệt là ngay

trong nội bộ đất nước mình. Làm cho cả nhân loại, kể cả nhân dân nước đi xâm

lược vượt lên tình cảm dân tộc thông thường, thuần túy để trở thành bạn và ủng hộ

hết mình cho Việt Nam thì đó quả thật là kỳ tích mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng

sản Việt Nam đã làm được.

Page 48: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

44

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, những thắng lợi của ta trên chiến

trường có ý nghĩa quyết định đối với việc chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của

Pháp. Nhưng cuộc chống đối trong nội bộ của Pháp cũng đã góp một phần không

nhỏ trong việc gây sức ép lật đổ các nội các Pháp và buộc Chính phủ Men - des

France phải hứa trước quốc hội là sẽ chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.

Bốn là: Để “thêm bạn, bớt thù”, Hồ Chí Minh có chủ trương khoan hồng, đại

độ với những người Việt Nam đã từng làm tay sai cho thực dân, đế quốc xâm lược.

Các nước đế quốc, thực dân trong quá trình tiến hành xâm lược Việt Nam,

luôn cấu kết với lực lượng phản động trong nước, thi hành chính sách thâm độc

“dùng người Việt đánh người Việt”. Do đó, để chống chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí

Minh có chủ trương cô lập kẻ thù đế quốc bằng cách cảm hóa, lôi kéo những người

Việt lầm đường đó trở về với chính nghĩa, với dân tộc; loại bỏ phần tử tay sai của

chúng. Xuất phát từ quan điểm trên, Người chủ trương: “Bất kỳ ai mà thật thà tán

thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống

chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [138, tr.244]. Điều đó thể

hiện truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh

người chạy lại”. Chủ trương khoan hồng đại độ đã lôi kéo được những người lầm

đường lạc lối trở về với dân tộc, đánh bại âm mưu “chia để trị” của kẻ thù. Đây

thực sự là một phương pháp quan trọng trong đấu tranh ngoại giao của cách mạng

Việt Nam.

Là một dân tộc nhỏ, trong cuộc đấu tranh bảo vệ các quyền lợi chân chính

của dân tộc, Việt Nam nhất thiết phải thực hiện phương pháp “thêm bạn, bớt thù”,

phải coi đó là một nguyên tắc chiến lược chứ không phải là sách lược hay thủ đoạn

chính trị.

2.2.4. Phương pháp lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao là một

trong những phương pháp quan trọng trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.

Người đã tiếp thu những luận điểm về mâu thuẫn và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng

ngũ đối phương từ quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và vận

dụng sáng tạo, phát triển trong thực tiễn hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước

Việt Nam.

Page 49: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

45

Trong cuốn sách “Bệnh ấu trĩ tả khuynh” trong phong trào cộng sản và công

nhân quốc tế”, Lênin căn dặn:

Chỉ có thể thắng một kẻ địch mạnh hơn mình bằng một sự nỗ lực hết sức

lớn,và với một điều kiện bắt buộc là phải biết lợi dụng một cách hết sức

tỉ mỉ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo bất cứ một

“rạn nứt” bé nhỏ nhất nào giữa các kẻ thù, bất cứ những mâu thuẫn bé

nhỏ nhất nào về lợi ích giữa giai cấp tư sản các nước, giữa các tập đoàn

hay hạng tư sản khác nhau ở trong từng nước, cũng phải lợi dụng mọi

khả năng dù bé nhỏ nhất để có được một bạn đồng minh mạnh về số

lượng, dù đó là bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh, có điều kiện, ít chắc

chắn và ít đáng tin cậy. Người nào không hiểu được chân lý ấy thì cũng

chẳng hiểu gì về chủ nghĩa Mác, nói chung cũng chẳng hiểu gì về chủ

nghĩa xã hội khoa học hiện đại [102, tr.68-69].

Lênin cũng nhấn mạnh:

… Phải lợi dụng những mâu thuẫn và những sự đối lập giữa hai nước đế

quốc, giữa hai nhóm nước tư bản chủ nghĩa, khích động chúng chống lại

nhau chừng nào chúng ta chưa giành được toàn thế giới, chừng nào về

hai mặt kinh tế và quân sự, chúng ta còn yếu hơn thế giới tư bản chủ

nghĩa, thì chúng ta còn phải giữ vững nguyên tắc này [103, tr.67].

Trong thư gửi cho đồng chí Sau-Mi-An, viết tháng 5-1918, Lênin viết: “Nên

biết lợi dụng những sự xung đột ấy: trong lúc này cần phải học làm ngoại giao”

[104, tr.96].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển các luận điểm của

Lênin về mâu thuẫn kẻ thù trong đấu tranh ngoại giao của Việt Nam. Phương pháp

ngoại giao này được thể hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng và

Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trước năm 1945, Hồ Chí Minh đã rất chú ý theo dõi mâu thuẫn giữa các

nước đế quốc liên quan đến Đông Dương, tìm cách lợi dụng các mâu thuẫn đó có

lợi nhất cho cách mạng Việt Nam.

Page 50: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

46

Trong chính sách đối với Đông Dương, thái độ giữa Mỹ và Anh - Pháp có

khác nhau. Tại Hội nghị những người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ Liên Xô, Mỹ,

Anh tại Têhêran tháng 11-1943, khi bàn về các vấn đề thuộc địa sau chiến tranh,

Tổng thống Mỹ Rudơven đã tán thành ý kiến của Stalin là không cho Pháp tái lập

chế độ thuộc địa ở Đông Dương và đề nghị lập chế độ thác quản và sau đó trao trả

độc lập khi điều kiện chín muồi như mô hình Philippin.

Từ tình hình trên, Hồ Chí Minh quyết định phải tiếp cận với Mỹ, tranh thủ sự

đồng tình của Mỹ, vì Chính phủ Mỹ gây khó khăn cho Pháp thiết lập lại chế độ

thuộc địa ở Đông Dương, nhân dân ta bị sự áp bức một cổ hai tròng. Mâu thuẫn

giữa Pháp và Nhật cũng tăng lên cùng thời gian và đã đến đỉnh điểm là Nhật đảo

chính Pháp vào 9/3/1945. Ba ngày sau, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị

Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Chỉ thị đã phân tích tình hình và

nguyên nhân Nhật - Pháp bắn nhau và nêu những nhiệm vụ cách mạng cần phải làm

[77, tr.256-259]; lợi dụng xung đột Nhật - Pháp và chính nhờ mâu thuẫn này, tranh

thủ điều kiện thuận lợi tạo ra do quân Đồng Minh đánh tan phát xít Đức, Nhật mà

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng Tháng Tám

thành công.

Sau cách mạng Tháng Tám, trước những khó khăn chồng chất, nước Việt

Nam mới trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Về kinh tế, nạn đói mà thực dân

Pháp và quân phiệt Nhật gây ra đã làm hơn hai triệu người chết đói và nạn đói vẫn

đang đe dọa. Về chính trị, Nhà nước non trẻ vừa được thành lập, các cơ sở chính

quyền chưa hoàn chỉnh, về mặt quốc tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa

được nước nào công nhận. Bên cạnh khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã

hội, đất nước còn đối mặt với nạn thù trong giặc ngoài. Do vậy, so với các thời kỳ

khác, chưa bao giờ Việt Nam có nhiều kẻ thù đến thế.

Trong bối cảnh trên, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân

tích, đánh giá tình hình và đề ra những quyết sách, trong đó có chính sách ngoại

giao. Chỉ thị “Hòa để tiến” của Ban Thường vụ Trung ương ngày 25-11- 945 nhận

định: “Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc, giải

phóng. Cuộc cách mạng đó đang tiếp diễn, chưa hoàn thành vì ta chưa hoàn toàn

Page 51: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

47

độc lập…” [36, tr.30-32]. Về ngoại giao, Chỉ thị nhấn mạnh: Kiên trì chủ trương

ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”. Phải đặc biệt chú

trọng “lợi dụng mâu thuẫn của Tàu - Mỹ và Anh - Pháp Đờ Gôn để tranh thủ ngoại

viện, ký hiệp ước với các nước Đồng Minh, để họ thừa nhận nền độc lập của dân

tộc ta” [77, tr.265].

Như vậy trong hoàn cảnh trên, nhiệm vụ trung tâm của cách mạng Việt Nam

là củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ. Để tránh phải đối phó với

nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng đã xác định được kẻ thù chính là Pháp, tập trung

lực lượng chống kẻ thù chính, hoà hoãn với Tưởng, thực hiện chính sách Hoa - Việt

thân thiện. Sở dĩ ở đây có thể hoà hoãn với Tưởng để chống Pháp là do Pháp và

Tưởng đều có mục tiêu vào nước ta để tiêu diệt cách mạng việt Nam, song cách

thức có khác nhau. Pháp dùng quân sự để thiết lập chế độ thuộc địa, còn Tưởng lợi

dụng tư cách là quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, kéo theo bè lũ tay sai để

thiết lập chính quyền tay sai của chúng nên ta có thể hoà hoãn được với Tưởng.

Hơn nữa, lúc đó quân Tưởng gặp nhiều khó khăn lớn, như Đại tướng Võ

Nguyên Giáp trong Hồi ký có nhấn mạnh:

Khó khăn lớn nhất của bọn chúng là trước sức mạnh đoàn kết nhất trí của

nhân dân ta, chúng không tạo ngay được chỗ dựa về chính trị. Chúng

muốn lật ta nhưng nhận thấy nếu không có sự giúp đỡ của chính quyền

ta, chúng không thể nào giải quyết được những nhu cầu rất to lớn về vật

chất cho đội quân đông đảo bị nhân dân xa lánh, căm ghét. Chúng còn

phải tính cả những nguy cơ nghiêm trọng khác có thể xẩy ra đối với

chúng [65, tr.273].

Quân Tưởng còn gặp những khó khăn khác như đang phải lo đối phó với

cuộc nội chiến ở trong nước. Khó khăn khác nữa là lực lượng đông, song quân ô

hợp, binh lính ốm yếu, mặt mũi bủng beo, chân tay phù thũng, râu tóc bơ phờ, quân

phục rách rưới, gánh gồng lề mề, mang theo cả đàn bà và trẻ con... [61, tr.111-112].

Ngày 28-2-1946, Pháp và Tưởng đã ký Hiệp ước Hoa - Pháp tại Trùng

Khánh. Theo Hiệp ước, Pháp trả cho Tưởng các tô giới Thượng Hải, Hán Khẩu,

Quảng Châu, Thiên Tân, đất mướn Quảng Châu Loan, bán lại đường sắt Vân Nam,

Page 52: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

48

mở cửa Hải Phòng thành cảng tự do, hàng hoá Tưởng vận chuyển qua miền Bắc

được miễn thuế, và lót tay cho Tưởng khoản tiền lớn; Tưởng đồng ý cho quân Pháp

thay quân Tưởng ở Bắc Đông Dương.

Tình hình trên đặt cách mạng Việt Nam vào tình thế vô cùng khó khăn, nguy

hiểm. Trước đây, nhờ lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù để tránh phải đối đầu với cả Pháp

và Tưởng cùng một lúc, nay chúng đã thoả hiệp với nhau. Sau khi nghiên cứu kỹ

tình hình, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị ngày 3-3-1946.

Chỉ thị phân tích cho rằng đây không phải là chuyện mua bán riêng giữa Tưởng và

Pháp mà là sự nhân nhượng giữa Mỹ, Anh, Tưởng và Pháp về vấn đề Đông Dương.

Chúng tạm thời dẹp mâu thuẫn nội bộ để cứu vãn quyền lợi của chúng đang bị cao

trào cách mạng đe dọa…

Trong bối cảnh gian nguy đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã chủ trương

hoà với Pháp vì có hai điều lợi lớn: Phá được mưu mô của quân Tưởng, của phát xít

và Việt gian, bảo toàn được thực lực; giành được giây phút nghỉ ngơi chuẩn bị cho

cuộc chiến đấu mới.

Ngày 6-3-1946, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Pháp đã ký Hiệp

định sơ bộ với nội dung: nước Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

là nước tự do, có chính phủ, có nghị viện, có quân đội, có tài chính riêng, nằm

trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp; Pháp cam đoan sẽ thừa

nhận một cuộc trưng cầu dân ý về thống nhất ba kỳ; Việt Nam chấp nhận để

15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam, và Đông Dương nói chung, thay quân

Tưởng, hạn không quá 5 năm. Có thể đánh giá việc ký Hiệp định Sơ bộ là một

biện pháp ngoại giao sáng suốt, lợi dụng mâu thuẫn Pháp - Tưởng, nhất là khi

chúng đã thoả hiệp với nhau.

Chuyến thăm Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian họp Hội nghị

Phôngtennơblô, Người đã gặp nhiều người Pháp từ chính khách đến nhà báo, nhà

khoa học, bạn bè. Người đã giải thích rõ lập trường của Đảng và chính phủ Việt

Nam để cô lập bọn phản động Pháp, để lợi dụng “sự khác nhau” của nhân dân Pháp

và bọn thực dân Pháp có lợi cho cuộc kháng chiến của Việt Nam.

Page 53: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

49

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, Bác Hồ và Đảng

rất chú ý lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và các đồng minh của Mỹ, trước hết là Pháp.

Pháp và Mỹ vốn có mâu thuẫn trong vấn đề Đông Dương, khi Đờ Gôn trở lại cầm

quyền, mâu thuẫn đó càng tăng. Ngày 29-3-1963 tại Hội nghị Hội đồng Bộ trưởng

NATO, lần đầu tiên Đờ Gôn nhận xét: Những biến cố quan trọng đang xảy ra ở

Việt Nam làm cho Paris chú ý và lo lắng. Đó là lời chỉ trích vì lúc này Mỹ đang

tăng cố vấn, viện trợ cho ngụy quyền miền Nam Việt Nam. Ngày 23-7-1964, Đờ

Gôn đề nghị triệu tập hội nghị xem xét vấn đề Đông Dương, trung lập hoá Việt

Nam và Đông Dương, Tổng thống Mỹ Giôn xơn đã phản đối.

Nắm được những bất đồng trên giữa Pháp và Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí

Minh cùng Chính phủ Việt Nam đã đề ra chủ trương miền Nam độc lập, dân chủ,

hòa bình, trung lập tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc với việc thành lập Mặt trận

Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Với chủ trương này, cách mạng đã hạn

chế cuộc đấu tranh trong phạm vi dân tộc chống đế quốc, gắn đấu tranh của ta với

bảo vệ hòa bình thế giới, do vậy mà tranh thủ được sự đồng tình của đồng minh

cũng như Pháp, khơi sâu thêm mâu thuẫn Pháp - Mỹ có lợi cho Việt Nam.

Ngoài mâu thuẫn Pháp - Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú ý khơi

sâu mâu thuẫn giữa Mỹ và các đồng minh khác, giữa chính phủ Mỹ và nhân dân

Mỹ, các phe phái trong giới cầm quyền Mỹ, giữa Mỹ và tay sai... Cụ thể Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho người đứng đầu các nước, trong đó có Tổng

thống Mỹ, tiếp nhiều chính khách, phóng viên báo chí, viết nhiều bài…nhấn mạnh

sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, phê phán cuộc chiến tranh của Mỹ ở

Việt Nam, phân hoá hàng ngũ đối phương, tranh thủ thêm sự đồng tình ủng hộ của

bạn bè, nhân dân thế giới đối với cách mạng Việt Nam.

Ngoài ra, đối với Hồ Chí Minh, lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù không những là

vấn đề chiến lược, biện pháp sách lược của cách mạng Việt Nam mà còn là nghệ

thuật trong đấu tranh ngoại giao. Đây là sự sáng tạo lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

trong đấu tranh ngoại giao, vận dụng trong thực tiễn đã đem lại những thắng lợi to

lớn cho cách mạng Việt Nam.

Page 54: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

50

2.2.5. Phương pháp dự báo và nắm đúng thời cơ

Trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi

việc quan sát, phân tích và nhận thức những diễn biến quốc tế, khu vực Thái Bình

Dương và Đông Dương như là một trong những nhân tố quyết định để đề ra chiến

lược cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ nhất định. Qua việc tiếp cận với nhiều

nguồn thông tin, hệ thống hóa các sự kiện, nghiên cứu và suy luận. Người đã đi đến

những khái quát đúng về xu thế thời cuộc, chiều hướng phát triển của những diễn

biến chủ yếu trong quan hệ quốc tế và trong so sánh lực lượng toàn cầu… đang tác

động đến cục diện chiến tranh của nhân dân Việt Nam. Người cho rằng: "tình hình

thế giới dính dáng mật thiết với nước ta" [128, tr.37]. Trên cơ sở đó và cùng với

biến chuyển của tình hình trong nước. Người đã chỉ ra các khả năng phát triển của

cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ cụ thể, nhất là trước những khúc quanh của

thời đại.

Phương pháp ngoại giao dự báo và nắm đúng thời cơ là một phương pháp

thể hiện khả năng phân tích tình hình và dự báo xu thế phát triển của tình hình của

Hồ Chí Minh. Không phải bất cứ nhà ngoại giao nào cũng có khả năng này. Nội

dung của phương pháp này tập trung vào bốn vấn đề chủ yếu sau:

Một là, phải phân tích một cách toàn diện và hệ thống bối cảnh thế giới và

trong nước, tình hình ta và địch, chỉ ra những mối liên hệ, quan hệ biện chứng giữa

các yếu tố có liên quan và ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam và ngoại giao hai

bên. Hồ Chí Minh đã cho rằng tình hình thế giới dính dáng mật thiết với nước ta

nên sự vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam chịu tác động lớn của

những xu thế trên thế giới. Vì vậy, trong quá trình xem xét tình hình thế giới phải

gắn phân tích với tổng hợp, khái quát để rút ra những nét chung nhất, tránh tình

trạng “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”, chỉ thấy các sự kiện đơn lẻ mà không thấy

mối quan hệ qua lại, phụ thuộc chặt chẽ và tác động lẫn nhau, không thấy các xu thế

tồn tại khách quan đang chi phối sự vận động và phát triển của tất cả các dân tộc

trên thế giới trong từng thời kỳ lịch sử.

Hai là, phân tích sự xuất hiện của các cường quốc mới, mâu thuẫn giữa các

trung tâm quyền lực và các đối tác để dự báo chiều hướng vận động của quan hệ

Page 55: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

51

quốc tế và ngoại giao Việt Nam cũng như vận hội của nước nhà. Sau chiến tranh thế

giới thứ hai, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh sự thay đổi cơ bản của quan hệ quốc tế.

Người cho rằng cuộc chiến tranh thế giới đã chính thức kết liễu ở châu Âu, cũng

như Viễn Đông, chủ nghĩa dân chủ được toàn thắng, các cường quốc đồng minh đã

trịnh trọng công nhận quyền dân tộc tự quyết, điều đó sẽ mở ra một kỉ nguyên mới

đầy hy vọng cho các dân tộc Á Đông.

Ba là, phân tích tương quan lực lượng, chiều hướng phát triển của tình hình

để dự báo khả năng, thời điểm và thời cơ của cách mạng và mở mặt trận ngoại

giao. Ngay từ tháng 6-1941, Người đã đưa ra nhận định cục diện chiến tranh thế

giới và điều kiện thời cơ cho cách mạng nước ta “Nay cơ hội giải phóng đến rồi,

đế quốc Pháp bên Âu đã không thể tự cứu, càng không thể cứu bọn thống trị Pháp

ở ta” [127, tr.230]. Năm 1946, Người nêu lên một kết luận có tính chất dự báo về

triển vọng của cuộc kháng chiến “Việt Nam sẽ thắng trong cuộc chiến tranh này…

nước Việt Nam có thể bị tàn phá, nhưng nước Việt Nam sẽ lại hùng mạnh hơn sau

cuộc tàn phá đó. Còn nước Pháp chắc chắn sẽ mất hết và biến khỏi cõi Á châu”

[129, tr.19].

Bốn là, chủ động chuẩn bị lực lượng để chớp thời cơ giành thắng lợi khi thời

cơ đến. Cùng với việc dự báo chính xác thời cơ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh

luôn tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi,

từng bước khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức để tạo thế và lực mới, hình

thành tương quan lực lượng giữa ta và địch, ngày càng có lợi cho cách mạng, góp

phần thúc đẩy thời cơ.

Phương pháp ngoại giao dự báo và nắm đúng thời cơ của Hồ Chí Minh đã

tranh thủ được những điều kiện thuận lợi và đồng thời hạn chế được những khó

khăn của tình hình quốc tế và trong nước để tiến hành các hoạt động ngoại giao

giành thắng lợi dựa trên tinh thần đi trước một bước trong tư duy chiến lược, sách

lược ngoại giao. Đồng thời cũng khẳng định ngoại giao phải nắm đúng thời cơ mà

đưa ra mục tiêu của mình, phải tranh thủ tận dụng thời cơ, thời điểm có lợi cho

mình mà đàm phán trên thế mạnh của Việt Nam. Phân tích thời cơ không chỉ dừng

lại ở tìm đối sách, tình huống mà quan trọng hơn còn nhằm làm rõ chiều hướng phát

Page 56: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

52

triển của tình hình và dự đoán trước được khả năng phát triển của tình hình để chủ

động nhận thức và đón nhận thời cơ, kịp thời đề ra những quyết định điều chỉnh

chiến lược khi cần, nhằm tạo ra bước ngoặt thúc đẩy cách mạng.

2.2.6. Phương pháp ngoại giao “tâm công”

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã có truyền thống

ngoại giao lâu đời. Vì thường xuyên phải chống giặc ngoại xâm mạnh, cần phải

giao thiệp với nước lớn nên cần phải sử dụng các phương pháp ngoại giao trong đó

có phương pháp ngoại giao tâm công. Tâm công là phương pháp ngoại giao của

mọi thời đại. Tranh thủ người, thuyết phục người, chinh phục người là một trong

những mục tiêu của phương pháp ngoại giao.

Kết hợp truyền thống với hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm vận dụng

sáng tạo và đưa ngoại giao tâm công của cha ông lên một tầm cao mới trong cuộc

đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất để đạt được mục đích và nhiệm vụ cách

mạng. Cơ sở của ngoại giao tâm công chính là bản tính hướng thiện của mỗi con

người và sự chia sẻ các giá trị nhân văn chung của nhân dân tiến bộ thế giới, “tuy

phong tục mỗi dân khác nhau nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau, ấy là

dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ” [128, tr.350].

“Tâm công” có nghĩa là đánh vào lòng người là một trong những phương

pháp đặc sắc của ngoại giao truyền thống Việt Nam đã được Hồ Chí Minh kế thừa

vận dụng và phát triển trong ngoại giao Việt Nam hiện đại. Ông cha ta đã sử dụng

phương pháp “tâm công” một cách có hiệu quả trong quá trình tiến hành cuộc

kháng chiến chống quân xâm lược bảo vệ bờ cõi và chủ quyền nước Nam. Sử dụng

“tâm công” để thu phục lòng người bằng chính nghĩa, chinh phục bằng nhân tình,

thuyết phục bằng lẽ phải và đạo lý.

Tâm công dùng trong binh vận để làm nhụt nhuệ khí của địch, gây hoang

mang trong hàng ngũ đối phương, kết hợp với thắng lợi trên chiến trường buộc địch

phải nghị hoà rút quân về nước. Đó là phương sách ngoại giao đã từng được Lê Lợi

và Nguyễn Trãi sử dụng trong thời kỳ kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh

và đã đạt được hiệu quả rất cao. Từ bài thơ thần của Lý Thường Kiệt thời Lý đến

những áng văn trong thư dụ Vương Thông của Nguyễn Trãi là những kế sách “tâm

Page 57: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

53

công” của ông cha trong cuộc đấu tranh chống lại giặc phương Bắc xâm lược...

Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới,

phong trào vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; chính sự tương

đồng về tình cảm, tâm lí, yêu hoà bình và hữu nghị, yêu lẽ phải và đạo lý của nhân

loại tiến bộ cùng với tinh thần quốc tế chân chính là cơ sở để Hồ Chí Minh thực

hiện phương pháp ngoại giao “tâm công” nhằm khơi dậy và tăng cường tình đoàn

kết, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước, các tổ chức, các lực

lượng, các nhân sĩ yêu hoà bình và công lý trên thế giới đối với cuộc đấu tranh

chính nghĩa và công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam.

Đối với Hồ Chí Minh, tâm công được sử dụng như là một phương pháp

ngoại giao đối với kẻ thù và các lực lượng tiến bộ trên thế giới.

Thứ nhất, đối với bạn bè đồng chí của Việt Nam: Hồ Chí Minh luôn hướng

tới xây đắp tình cảm chân thành “vừa là đồng chí, vừa là anh em” và tinh thần quốc

tế trong sáng thuỷ chung. Trong quá trình hoạt động cách mạng đi đến đâu Người

cũng chủ động xây dựng tình hữu nghị, hữu ái với các nước. Người nhắc nhở cán

bộ làm công tác đối ngoại phải làm cho đúng đường lối chính sách đối ngoại của

Đảng và Nhà nước… tăng cường đoàn kết hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa,

tăng cường hữu nghị với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân thế giới… vì lợi ích

của hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Hay trong vấn đề quan hệ với Ấn

Độ, Người đã đề cao vai trò của Ấn Độ đối với Việt Nam “…luôn luôn biết ơn

đồng tình và ủng hộ của chính phủ và nhân dân Ấn Độ anh em, nhân dân Việt Nam

luôn luôn nhớ rằng thánh Găngđi ủng hộ cuộc kháng chiến Việt Nam ngay khi mới

bắt đầu và Thủ tướng Nêru đã nhiều lần lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm

lược ở Việt Nam” [133, tr.43]. Với những nước láng giềng của Việt Nam, Người

luôn đề cao những điểm tương đồng, nương tựa vào nhau, đoàn kết giúp đỡ lẫn

nhau như anh em một nhà. Người từng nhấn mạnh “giúp nhân dân nước bạn tức là

tự giúp mình” [131, tr.64]. Mối quan hệ với Trung Quốc luôn được Hồ Chí Minh

đặt vị trí quan trọng trong ngoại giao. Với các nhà lãnh đạo Trung Hoa, Hồ Chí

Minh kết mối thân tình, tôn trọng lẫn nhau, tạo nên quan hệ cá nhân khá sâu sắc

trong lịch sử quan hệ giữ hai nước. Có thể nói, Người đã khéo léo xử lý các mối

Page 58: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

54

quan hệ phức tạp để hình thành nên mối quan hệ quốc tế mới, có nguyên tắc, có lý,

có tình.

Thứ hai, phương pháp ngoại giao “tâm công” dựa trên cơ sở chủ nghĩa

nhân văn, tìm những điểm tương đồng để thức tỉnh và khích lệ sự ủng hộ quốc tế,

phân biệt rõ bạn thù, phân biệt nhân dân yêu chuộng hoà bình với bọn phản động

trong chính phủ của đối phương để cô lập kẻ thù và tập hợp được lực lượng rộng

rãi trên thế giới. Ngay sau khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ

được kí kết (7-1954), Hồ Chí Minh đã nêu rõ lập trường của Chính phủ Việt Nam

là bảo hộ lợi ích kinh tế và văn hoá của người Pháp ở Việt Nam và bày tỏ nguyện

vọng bình thường ngay mối quan hệ giữa hai nước trên nguyên tắc bình đẳng hai

bên cùng có lợi.

Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh cũng đã sử

dụng phương pháp ngoại giao tâm công trong thực tiễn, đi sâu vào “lương tri” của

nhân dân tiến bộ Mỹ, đánh vào những tổn thất của Mỹ về kinh tế và xương máu…

đã tạo ra phong trào phản chiến ở Mỹ, lên án cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Mỹ ở

Việt Nam. Trong quan hệ ngoại giao với Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định với nhân

dân Mỹ quan điểm của Việt Nam:

Chúng tôi không có xích mích gì với nhân dân Mỹ, chúng tôi muốn

sống hoà bình và hữu nghị với nhân dân Mỹ. Nhân dân chúng tôi được

giáo dục theo tinh thần quốc tế chân chính. Trước đây, chúng tôi đã chú

ý phân biệt thực dân Pháp và nhân dân Pháp yêu chuộng hoà bình, thì

ngày nay chúng tôi cũng chú ý phân biệt nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền

thống tự do, với bọn can thiệp và bọn quân phiệt ở Hoa Thịnh Đốn

[138, tr.148].

“Chúng tôi muốn có quan hệ hữu nghị anh em với nhân dân Mỹ và chúng tôi

rất kính trọng vì nhân dân Mỹ là một dân tộc tài năng, đã có nhiều cống hiến cho

khoa học và nhất là gần đây đã lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm lược miền

Nam Việt Nam” [135, tr.253].

Thứ ba, đối với kẻ thù và đối phương, Hồ Chí Minh vừa khơi dậy lòng tự

hào, vừa dùng những lý lẽ có sức thuyết phục để thức tỉnh lương tâm. Trong quan

Page 59: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

55

hệ với Pháp, chính người Pháp đã phải thừa nhận rằng: Hồ Chí Minh đánh chìm

chủ nghĩa thực dân Pháp mà vẫn giữ được tình hữu nghị với nhân dân Pháp.

Trong thư gửi tướng Leclerc đầu năm 1947, Hồ Chí Minh viết:

Ngài là một đại quân nhân, một nhà đại ái quốc… một nhà ái quốc

trong những nhà ái quốc nước khác. Một người yêu quê hương mình,

trọng quê hương của kẻ khác… giả thử ngài đánh được chúng tôi đi nữa

đó là một điều viển vông, vì nếu ngài mạnh về vật chất thì chúng tôi

đây mạnh về tinh thần với một ý chí chiến đấu kiên quyết cho tự do của

chúng tôi - thì những thắng lợi tạm thời kia chẳng những không tăng

thêm mà còn làm tổn thương đến uy danh quân nhân và tư cách ái quốc

của ngài [129, tr.5].

Hồ Chí Minh còn rất quan tâm tới công tác đối xử với tù binh, cảm hoá tù

binh, cùng với đó là công tác địch vận “Địch vận là tìm cách làm sao phá được địch

mà không phải đánh” [129, tr.595].

Phương pháp ngoại giao tâm công Hồ Chí Minh đã thực sự có hiệu quả nhất

định trong cuộc đấu tranh ngoại giao của cách mạng Việt Nam. Với phương pháp

này, Người đã cô lập được lực lượng kẻ thù đồng thời tập hợp được đông đảo bạn

bè và các lực lượng tiến bộ ủng hộ cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân

Việt Nam, đứng về phía cách mạng Việt Nam. Qua đó cũng làm cho đối phương

hoang mang, dao động và thể hiện tính nhân văn chính nghĩa của cách mạng, Chính

phủ và nhân dân Việt Nam.

2.2.7. Phương pháp kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao,

vừa đánh vừa đàm, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng

Phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị,

ngoại giao, giữa đánh và đàm trở thành một chủ trương, một phương pháp và là một

trong những nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh cách mạng độc đáo trong chiến tranh giải

phóng dân tộc. Theo Hồ Chí Minh kết hợp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh

chính trị, ngoại giao, giữa đánh và đàm chính là biểu hiện quan điểm ngoại giao

phải có thực lực, được vận dụng một cách sinh động và sáng tạo trong thực tiễn

cách mạng Việt Nam, và trở thành quan điểm quan trọng của nền ngoại giao cách

Page 60: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

56

mạng Việt Nam từ khi thành lập đến nay. Trong sự kết hợp giữa quân sự, chính trị

và ngoại giao, có thể thấy chiến trường quyết định trên bàn đàm phán, xong ngược

lại thắng lợi trên bàn đàm phán kiềm chế hoạt động của địch trên chiến trường; đàm

phán không cản trở đánh, không bó “chân trong” chiến trường, mà khuếch trương

chiến thắng.

Quan điểm về xây dựng thế và lực và thực hiện các phương pháp, hình thức

để tạo thế - lực trong quan hệ ngoại giao, là vấn đề đầu tiên và lâu dài để thực hiện

mục tiêu chiến lược. Hồ Chí Minh nói: “Ngoại giao ai thuận lợi hơn, thì thắng”

[135, tr.269], đó là nói về tính chính nghĩa, lẽ phải trong đàm phán. Nhưng vì có

chính nghĩa, nên sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân trong nước và nhân dân tiến

bộ trên thế giới, đó là sức mạnh để chiến thắng, đó lại là vấn đề thực lực. Do đó

phải tích cực xây dựng tiềm lực kinh tế, quốc phòng, đó là cơ sở của “chính sách

Ngoại giao mạnh”.

Năm 1944, khi lực lượng ta còn yếu, có ý kiến muốn tiến hành quan hệ ngoại

giao với chính phủ Tưởng Giới Thạch và Mỹ để cầu viện trợ, tại hội nghị Liễu

Châu (Trung Quốc) tháng 3-1944, Hồ Chí Minh đã nói rằng: "Nếu mình chưa có

lực lượng làm cơ sở thì hãy khoan nói đến ngoại giao" [95, tr.115]. Để có thực lực,

phải xây dựng đường lối đối ngoại theo phương châm: Kết hợp giữa chính trị, quân

sự, ngoại giao; kết hợp giữa đánh và đàm..., làm chuyển hóa lực lượng, để ta ngày

càng có lợi, địch ngày càng lúng túng. Đó là sự thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, biện

chứng giữa mặt trận ngoại giao với mặt trận quân sự, mặt trận đấu tranh chính trị.

Quan điểm này được khẳng định rất rõ tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-

1967), về đẩy mạnh đấu tranh ngoaị giao:

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hiện nay, đấu tranh quân sự

và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng

lợi trên chiến trường, làm cơ sở thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng

ta chỉ có thể giành trên bàn hội nghị cái mà chúng ta đã giành được trên

chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản

ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện

Page 61: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

57

nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao

giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động [42, tr.125].

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, thực lực của Việt Nam trước hết là sức

mạnh chính nghĩa của cuộc đấu tranh chống xâm lược, vì độc lập, thống nhất đất

nước. Khi tinh thần đã được khơi dậy, được động viên và phát huy, sẽ trở thành sức

mạnh vật chất, trở thành lực lượng mạnh mẽ của toàn dân tộc kết hợp với các lực

lượng tiến bộ trên thế giới hợp thành. Đặc biệt, với sức sống mãnh liệt của một dân

tộc anh hùng, bất khuất, thông minh, bền bỉ, lại quyết tâm “đem tất cả tinh thần và

lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập” [128, tr.3], sẽ

tạo nên sức mạnh đủ sức nhấn chìm mọi thế lực xâm lược. Thực lực của cách mạng

là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, là lực lượng to lớn và vô tận của nhân dân, sức

mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, là ưu thế về chính trị của Nhà nước và chế độ

mới. Thực lực trong ngoại giao được lớn mạnh cùng với sự phát triển của thực lực

cách mạng, gắn liền với sự trưởng thành và lớn mạnh không ngừng về mọi mặt của

lực lượng vũ trang cách mạng không ngại hy sinh, gian khổ để làm nên thắng lợi vẻ

vang trên chiến trường, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo ra thế có lợi trên

bàn đàm phán. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, trong các cuộc chiến tranh, tuy sức mạnh

quân sự, chiến thắng trên chiến trường có ý nghĩa quyết định đến cục diện chiến

tranh, nhưng thực lực ở đây không phải chỉ là sức mạnh quân sự hay sức mạnh của

bản thân mỗi dân tộc; nó là sức mạnh tổng hợp của các mặt trận chính trị, kinh tế,

quân sự và ngoại giao; là sự kết hợp của sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,

sức mạnh trong nước và ngoài nước.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, nếu chỉ riêng về sức mạnh kinh tế hay sức mạnh

vật chất của nền quốc phòng, thì chúng ta thua kém xa tiềm lực chiến tranh của thực

dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhưng nhờ biết khai thác, kết hợp và cộng hưởng nhiều

nguồn sức mạnh, mà chúng ta đã giành chiến thắng về quân sự, từ đó dẫn đến thắng

lợi về ngoại giao. Đồng thời, có phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng các mặt trận đấu

tranh: chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao; kết hợp các cuộc chiến đấu trên

chiến trường với cuộc đấu tranh trên chiến trường quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng

lực nhằm đánh đúng vào chỗ yếu cơ bản về chính trị của Pháp và Mỹ trong chiến

Page 62: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

58

tranh xâm lược Việt Nam, thì hiệu quả của đấu tranh ngoại giao mới góp phần tạo

thêm thế và lực mới cho cuộc chiến tranh toàn dân và toàn diện.

Thực lực trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh không chỉ là sức mạnh nội

sinh của dân tộc, mà còn là sự kết hợp với sức mạnh của giai cấp vô sản và các dân

tộc bị áp bức trên toàn thế giới đoàn kết lại, sức mạnh từ sự giúp đỡ to lớn về vật

chất và tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa, từ liên minh chiến đấu ba nước

Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Sức mạnh ấy còn được

cộng hưởng hơn rất nhiều từ sự ủng hộ của mặt trận nhân dân thế giới chống chiến

tranh xâm lược Việt Nam, từ xu thế phát triển tất yếu của cuộc đấu tranh vì hòa

bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Khẳng định ngoại giao phải có thực lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:

“Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái

chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” [128, tr.147]. Về

phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng

sản Việt Nam đã xác định: “Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các

nước trên nguyên tắc “bình đẳng tương trợ. Ngoại giao muốn thắng lợi phải biểu

dương thực lực” [45, tr.27]. Trong đấu tranh cách mạng, dù luôn cố gắng nỗ lực tìm

kiếm một giải pháp hòa bình nhưng Người cũng hết sức lưu ý: “Ta luôn luôn nhớ

rằng ngoại giao thắng hay bại phần lớn là dựa vào việc đoàn kết toàn dân, vào thực

lực của bản thân ta, chứ không phải do “lòng tốt” của thực dân Pháp” [76, tr.78].

Như vậy, thắng lợi ngoại giao lớn hay nhỏ, đàm phán thất bại hay thành công tùy

thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định là ở thực lực. Hoạt động ngoại

giao phải lấy sức mạnh bên trong làm điểm tựa và kết quả đấu tranh ngoại giao

chính là sự phản ánh cụ thể của thực lực.

Mặc dù nhấn mạnh ngoại giao muốn thắng phải có thực lực, song Chủ tịch

Hồ Chí Minh khẳng định, mặt trận ngoại giao có vai trò quan trọng, tích cực và chủ

động. Thực lực mạnh là điều kiện thuận lợi để ngoại giao sẽ thắng lợi; mặt khác,

thắng lợi ngoại giao sẽ tạo tiền đề để xây dựng, phát triển thực lực cách mạng, tạo

thế cho đất nước trong quan hệ chính trị. Chiến lược ngoại giao là một bộ phận

Page 63: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

59

trong chiến lược chung của cách mạng, bản thân nó lại có nội dung tổng hợp, kết

hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Bên cạnh việc khẳng định vai trò quyết định của đấu tranh chính trị và đấu

tranh quân sự, Hồ Chí Minh cũng đã nêu rõ nhiệm vụ và vị trí của ngành ngoại

giao: Đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến

trường, mà trong tình hình quốc tế, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch,

cuộc chiến tranh ngoại giao giữ vai trò quan trọng, tích cực và chủ động. Thông qua

tấn công ngoại giao, cách mạng Việt Nam nêu cao lập trường chính nghĩa của cuộc

đấu tranh, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, góp phần phân hóa thế lực thù

địch, làm suy yếu chúng.

Những thỏa thuận, Hiệp định được ký kết là kết quả của cuộc đấu tranh tổng

hợp trên tất cả các mặt, là sự minh chứng cụ thể của so sánh tương quan lực lượng,

là sự khẳng định vị thế của các nước trên trường quốc tế. Nếu không có thực lực

cách mạng thì chủ trương và đấu tranh ngoại giao của ta có đúng, có khôn khéo, có

hay đến đâu cũng không thể mang lại hiệu quả vì “chỉ có thực lực của ta mới quyết

định được thắng lợi giữa ta và đồng minh” [44, tr.427]. Nghị quyết Hội nghị Trung

ương lần thứ 13 chỉ rõ: Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là

nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên

mặt trận ngoại giao. Rõ ràng nếu không có những chiến thắng to lớn của quân dân

ta trong gần 9 năm kháng chiến chống Pháp thì không thể có Hội nghị và Hiệp định

Giơnevơ. Nếu không có thắng lợi của quân dân hai miền Nam - Bắc, nhờ sự lớn

mạnh không ngừng của cách mạng Việt Nam về thế và lực trên các chiến trường thì

cũng không có Hội nghị và Hiệp định Pari. Về điểm này, chính Người đã tổng kết

“Ngoại giao ở Hội nghị Giơnevơ thắng lợi là vì Điện Biên Phủ thắng lớn. Bây giờ

cũng thế, đánh thắng lợi thì ngoại giao thắng nhiều… Cố nhiên ngoại giao là rất

quan trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải đánh thắng và mình có sức mạnh thì

ngoại giao là thắng” [18, tr.72].

Tư tưởng ngoại giao phải có thực lực là biểu hiện cụ thể của tư duy độc lập

tự chủ, tự lực cánh sinh của Hồ Chí Minh. Người coi tự lập, tự cường là cái gốc, là

điểm mấu chốt của mọi chính sách, “lấy sức ta mà giải phóng cho ta” là phương

Page 64: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

60

thức, là động lực chủ yếu để phát triển cách mạng. Người chỉ ra rằng “độc lập của

Việt Nam luôn luôn nhờ nơi lực lượng của Việt Nam” [130, tr.39]. Tăng cường sức

mạnh tự thân còn là cơ sở hàng đầu để tranh thủ đồng minh và tránh sự áp đặt chèn

ép vào đồng minh, nhất là các nước lớn “rằng ta có mạnh thì họ mới chịu đếm xỉa

đến ta. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay kẻ khác, dầu kẻ ấy có thể là bạn

đồng minh của ta vậy” [44, tr.244]. Chính bởi nắm vững nguyên tắc thực lực quyết

định kết quả đấu tranh ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức lưu ý không được

ảo tưởng với kẻ thù, tránh cả hai khuynh hướng cực đoan hữu khuynh và tả khuynh

trong trong đấu tranh ngoại giao. Hồ Chí Minh nói: “Chúng ta tuyệt đối chớ có ảo

tưởng rằng, hòa bình là một việc dễ dàng. Hòa bình phải do đấu tranh gian khổ mới

giành được” [183, tr.427].

Một trong những nguyên tắc cơ bản về đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội

nghị được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng vạch ra là: “Yêu cầu của

ta chủ yếu là căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch mà định” [46, tr.185].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, muốn kháng chiến thắng lợi phải phát huy sức

mạnh dân tộc và sức mạnh đoàn kết quốc tế, lấy sức mạnh dân tộc là chủ yếu;

phải kết hợp chính trị, quân sự và ngoại giao, lấy quân sự, chính trị là chủ yếu.

Nắm vững mục tiêu và thực hiện theo nguyên tắc, là cơ sở để cách mạng Việt

Nam có thể định ra chính sách ngoại giao đúng đắn, phù hợp cho mỗi giai đoạn

cách mạng. Từ đó, đấu tranh ngoại giao mới phát huy vai trò tích cực, chủ động,

góp phần quan trọng vào việc tạo nên thế và lực, đưa cuộc kháng chiến đến

thắng lợi hoàn toàn.

Trong đấu tranh ngoại giao, phải xây dựng thực lực, sử dụng thực lực một

cách khôn khéo và phát huy thực lực cách mạng tối ưu nhất. Do đó, phải phân tích,

đánh giá đúng thực lực và nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng, tương quan so

sánh lực lượng mà đề ra mục tiêu “thắng từng bước”. Đó cũng là phương châm của

“dĩ bất biến ứng vạn biến” biết sử dụng sách lược ngoại giao để giành thắng lợi

trong từng giai đoạn cách mạng; đó là cơ sở để thực hiện đường lối ngoại giao vừa

đánh vừa đàm… để chuyển hóa lực lượng, xoay chuyển cục diện, tiến tới giành

thắng lợi cuối cùng.

Page 65: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

61

Tóm lại, phương pháp kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự với đấu

tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, vừa đánh và đàm là một nghệ thuật, phương

pháp chỉ đạo đấu tranh cách mạng độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi giai

đoạn lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã vận dụng một cách linh hoạt, mềm

dẻo và sáng tạo vào từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Trải qua quá trình lãnh đạo,

chỉ đạo chiến tranh, đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản

Việt Nam đã đạt tới đỉnh cao của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự

với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp

vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam một nghệ thuật độc đáo trong chỉ đạo

chiến tranh, trong đấu tranh cách mạng để giành thắng lợi.

2.2.8. Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại để giành thắng lợi

Những hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong

cuộc đời sự nghiệp cách mạng của Người. Nó gắn liền với mục tiêu cứu nước, đồng

thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại bị áp bức. Hồ Chí

Minh đã hoạt động hết mình gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, tìm

bạn đồng minh ở các nước, ngay cả những nước đang đô hộ mình và tranh thủ sự

ủng hộ của các nước trên thế giới đối với cách mạng Việt Nam. Qua những hoạt

động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đóng góp to lớn vào phong trào cách mạng thế giới,

Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn không những cho nhân dân Việt

Nam mà còn cho nhân dân nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Để có được những

thành công trong hoạt động quốc tế của mình có thể thấy từ rất sớm ở Hồ Chí Minh

bước đầu hình thành phương pháp vận động quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với

sức mạnh thời đại.

Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc

lập tự do. Tuy nhiên, sau Cách mạng Tháng Tám, Việt Nam rơi vào tình thế “ngàn

cân treo sợi tóc”, phải cùng lúc đối phó với nhiều lực lượng quân sự đối địch, phía

Bắc là quân Tưởng, phía Nam là quân Anh - Ấn, Pháp. Trong khi đó, chính quyền

cách mạng của ta còn non trẻ, đất nước sau nhiều năm chiến tranh, kinh tế suy kiệt,

tài chính kiệt quệ, nạn đói kéo dài. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Pháp tiếp

Page 66: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

62

xúc với các lực lượng cách mạng và tiến bộ ở Pháp, ở các thuộc địa Pháp và thế

giới, đẩy mạnh đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, Đông Dương,

ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Cũng trong lúc này, nhân

dân thế giới đã có sự ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến, đặc biệt phải kể đến

sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, phong trào giải phóng dân tộc,

các Đảng Cộng sản và công nhân các nước. Mặt trận đoàn kết quốc tế cùng với mặt

trận đoàn kết Việt Nam - Lào - Campuchia và mặt trận đoàn kết trong nước (ba tầng

mặt trận) đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn góp phần đưa đến thắng lợi cho cách

mạng Việt Nam sau này.

Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp và Phái đoàn đại biểu Chính

phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đàm phán với Chính

phủ Pháp đã thông báo cho Đảng Cộng sản Pháp biết cụ thể tình hình Việt Nam, lập

trường, nguyên tắc và các kiến nghị hợp lý của Việt Nam trong quan hệ với Pháp.

Đảng Cộng sản Pháp đã có nhiều hiểu biết về Chính phủ Việt Nam và hết lòng ủng

hộ nền độc lập của Việt Nam. Trong nhiều năm, M. Tôrê cùng với Đảng tổ chức

quần chúng đấu tranh bất chấp mọi sự đàn áp với nhiều hình thức khác nhau để ủng

hộ triệt để cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Pháp, từ năm 1950, phong trào phản chiến ở Pháp phát triển mạnh mẽ,

thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức đấu tranh phong

phú, kiên quyết và dũng cảm với các hành động quyết liệt, đòi Chính phủ phải chấm

dứt chiến tranh ở Đông Dương, rút quân viễn chinh về nước và công nhận nền độc

lập, tự do của ba nước Việt Nam, lào và Campuchia

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam ngoài sự ủng hộ của nhân dân các

nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Pháp và nhân dân Pháp, còn nhận được sự

ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân các nước trên thế giới như Xiêm, Ấn Độ, Miến

Điện… Ở các nước thuộc địa của Pháp như Mađagatxca, Tuynidi, Marốc,

Ăngiêri… phong trào đấu tranh chống bắt lính đưa sang Đông Dương, đòi độc lập

dâng lên ngày càng mạnh mẽ.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954, ngày 21-7-1954, Hiệp định

Giơnevơ về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết.

Page 67: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

63

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam, đỉnh

cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là minh chứng đúng đắn, chủ động, sáng

tạo trong đường lối đối ngoại, nghệ thuật tranh thủ và sử dụng có hiệu quả, sự giúp

đỡ của quốc tế đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng, đứng đầu

là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh

và Đảng ta luôn gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, coi đoàn kết quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa

Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế chân chính là một vấn đề nguyên tắc có quan hệ

tới sự sống còn của cách mạng và sự thành bại của công cuộc cứu nước. Thêm

nhiều hội hữu nghị, ủy ban đoàn kết với nhân dân các nước ra đời như Hội hữu

nghị Việt-Pháp, Ủy ban Việt Nam đoàn kết với nhân dân tiến bộ Mỹ, Ủy ban đoàn

kết Châu Á, Ủy ban đoàn kết nhân dân Á - Phi. Ở mặt trận đối ngoại nhân dân,

Mặt trận và các tổ chức thành viên đã cử hàng trăm đoàn đi các nước, đến cả thủ

đô nhiều nước đồng minh và sân sau của Mỹ, đồng thời đón nhiều đoàn khách

quốc tế vào Việt Nam, qua đó vận động sự ủng hộ của nhân dân thế giới đối với

Việt Nam. Hoạt động đối ngoại nhân dân đã góp phần mở đường cho việc thiết lập

quan hệ ngoại giao giữa Chính phủ Cách mạng lâm thời với nhiều quốc gia trên

thế giới.

Từ năm 1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ

trương vận động nhân dân thế giới, các tổ chức của nhân dân Á, Phi, Mỹ Latinh có

hành động phối hợp mạnh mẽ hơn đòi đế quốc Mỹ chấm dứt xâm lược Việt Nam,

để nhân dân Việt Nam tự giải quyết công việc của mình. Ở nhiều nước đã bắt đầu

có những lời kêu gọi thành lập uỷ ban đoàn kết với Việt Nam và tháng 4 - 1967, khi

Hội nghị Lơke được tổ chức để lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt

Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh đã gửi điện cảm ơn tới các vị đứng

đầu năm nước châu Phi (Cộng hoà Arập thống nhất, Angiêri, Ghinê, Môritania và

Tandania): “Chúng tôi coi đó là một sự ủng hộ quý báu đối với cuộc kháng chiến

chính nghĩa của chúng tôi và là một biểu hiện đẹp đẽ của tình đoàn kết giữa nhân

dân các nước Á, Phi” [139, tr.331].

Page 68: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

64

Bằng những quan niệm đúng đắn về bạn - thù, với thái độ thiện chí và tình

cảm chân thành, Hồ Chí Minh đã làm cho nhân dân thế giới hiểu đúng hơn về nhân

dân Việt Nam. Việt Nam trở thành trung tâm đoàn kết các dân tộc trong cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là Hội nghị Quốc tế Chống đế quốc Bảo vệ

Hoà bình thế giới họp tại Hà Nội tháng 11 - 1964. Tham dự hội nghị có 64 đoàn đại

biểu đến từ 52 nước và nhiều tổ chức quốc tế. Đánh giá về Hội nghị này, Hồ Chí

Minh nói: “Hội nghị lịch sử này là kết tinh của mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn

kết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân” [138, tr.420] và Người tỏ ý tin

tưởng rằng sau hội nghị này, tình đoàn kết vĩ đại và làn sóng đấu tranh của nhân dân

thế giới chống chủ nghĩa đế quốc thực dân sẽ dâng cao hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta,

Người đã giáo dục toàn dân phân biệt rõ ràng thực dân cướp nước, bọn đế quốc

hiếu chiến với nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý ở các nước đi xâm lược.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng rất coi trọng sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Mỹ,

Người đã tích cực thúc đẩy phong trào quần chúng Mỹ chống chiến tranh của đế

quốc Mỹ ở Việt Nam. Trong thư gửi nhân dân Mỹ (1 - 1962), Chủ tịch Hồ Chí

Minh còn nhấn mạnh: “Nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam không thù không

oán. Nhân dân Việt Nam kính trọng các bạn là một dân tộc đầu tiên đã phất cờ

chống chủ nghĩa thực dân (1775 - 1783) và chúng tôi mong muốn có quan hệ hữu

nghị với các bạn” [137, tr.307].

Tiếng nói chính nghĩa của Hồ Chí Minh đã tác động sâu sắc tới nội bộ nước

Mỹ, phân hoá hàng ngũ kẻ thù, ngày càng được nhiều người nhiều tầng lớp nhân

dân Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, lên án chính quyền Mỹ và

đòi chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Người đã nhận xét với nhà báo Anh,

Phêlích Gơirin (18-11-1965): “…Nhân dân chúng tôi đánh giá rất cao cuộc đấu

tranh ấy của nhân dân Mỹ. Chúng tôi rất cảm động trước những tấm gương anh

dũng hy sinh của bà cụ Henga Hécdơ và của các chiến sĩ hòa bình Noman Morixơn,

Rôgiơ Lapotơ và Xilin Giancaoxki…” [138, tr.669].

Có thể nói những phong trào trên đã bùng nổ và lan rộng chưa từng có trong

nước Mỹ, đưa tới đỉnh cao là những “Mùa hè nóng bỏng” vào những năm 1967 -

Page 69: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

65

1968 với những cuộc biểu tình diễu hành được tổ chức cùng một lúc trong 120

thành phố của nước Mỹ.

Nhìn lại lịch sử dân tộc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước của

Đảng và nhân dân Việt Nam (thời kỳ 1954 -1969), thấy rõ được trí tuệ thiên tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh với: ý chí, đức độ khiêm nhường, thái độ thiện chí, đã vượt

qua mọi trở ngại, khó khăn, từ trong những mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của

thời đại, đề ra được những đường lối, phương châm, phương pháp, đối sách, ứng

xử… đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với mỗi tình hình, mỗi giai đoạn cách mạng,

nên đã phát huy được tối đa sức mạnh dân tộc trong sự kết hợp với sức mạnh thời

đại như Người đã khẳng định: “Sự đoàn kết quốc tế có một ý nghĩa to lớn đối với

chúng tôi. Đúng là trước hết chúng tôi phải dựa vào sức mình, song chúng tôi còn

được sự ủng hộ về vật chất và tinh thần của nhân dân các nước khác. Và như vậy,

chúng tôi vừa có cả sức mạnh của mình, vừa có cả sức mạnh của sự đoàn kết quốc

tế” [139, tr.675], nhờ vậy “mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được những thắng

lợi to lớn” [139, tr.589].

Như vậy, có thể thấy thông qua phương pháp vận động quốc tế, kết hợp các

phương pháp khác cùng với những hoạt động thực tiễn, đã góp phần sự ủng hộ của

nhân dân quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Các nước xã hội chủ nghĩa hết lòng

ủng hộ giúp đỡ; các nước bạn bè và mặt trận nhân dân thế giới kể cả nhân dân Mỹ

luôn luôn cổ vũ, hậu thuẫn cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Đó là một thắng lợi lớn

của mặt trận ngoại giao theo đường lối, phương pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và

Đảng ta về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Tiểu kết chương 2

Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là một nội dung quan trọng trong

tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần hình thành nền ngoại giao Việt Nam hiện đại.

Nghiên cứu và hệ thống các phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là nhiệm vụ

vô cùng quan trọng. Hệ thống những phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh góp

phần đặt nền móng cho những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước trong thực hiện các nhiệm vụ cách mạng trên lĩnh vực ngoại giao qua

Page 70: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

66

các thời kỳ lịch sử và đặc biệt có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Đúng như

đánh giá của Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng về tư tưởng, phương pháp ngoại

giao Hồ Chí Minh như:

Biết đánh giá, dự báo tình hình, nắm bắt thời cơ, tổ chức lực lượng, nhận

rõ bạn thù, tranh thủ đồng minh, cô lập kẻ thù chủ yếu, kiên định về

nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, biết thắng từng bước để tiến tới thắng

lợi hoàn toàn, độc lập, tự chủ gắn liền với đoàn kết quốc tế là di sản quý

báu đối với chúng ta trong hoạt động ngoại giao để phục vụ xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc [58, tr.55].

Đường lối ngoại giao của Đảng nhằm đưa đất nước tham gia tiến trình hội

nhập quốc tế đã được chứng minh là đúng đắn và kịp thời trước tình hình thực tế

những năm cuối của thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thấy sự cần thiết phải mở rộng, phát triển

hơn nữa mối quan hệ láng giềng, hữu nghị với các nước trong khu vực và mở rộng,

giao lưu, hợp tác với các nước trên thế giới. Việc nước ta tham gia vào các tổ chức

lớn trong cộng đồng thế giới đã và đang đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan

trọng, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Do vậy, việc vận dụng các

phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào các hoạt động ngoại giao có ý nghĩa to

lớn mà Đảng ta cần nhận thức và lãnh đạo thực hiện nhằm góp phần đưa lại thành

công công cuộc đổi mới đất nước.

Page 71: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

67

Chương 3

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP

NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1986-2016

- KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

3.1. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐƯỜNG

LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

3.1.1. Bối cảnh quốc tế

Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, nước ta

bước vào giai đoạn khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội sau chiến

tranh. Đất nước độc lập, thống nhất, thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Trong 10 năm từ 1975 - 1985, từ thực tế cách mạng Việt Nam sau

khi đất nước thống nhất, bên cạnh những yếu tố tích cực, trong quá trình phát triển

đất nước gặp nhiều khó khăn, trong đó có vấn đề thuộc về nhận thức, quan điểm,

đường lối. Chính những khó khăn đã đưa đất nước ta lâm vào tình trạng khủng

hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Từ thực tế đó, Đảng ta tiến hành công cuộc

đổi mới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã diễn ra từ ngày 5 đến

ngày 18 tháng 12 năm 1986, đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Thực

hiện công cuộc đổi mới ở nước ta trong điều kiện quốc tế và trong nước có những

nét nổi bật như sau:

Một là, sự khủng hoảng và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu

và Liên Xô. Từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô và các

nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ngày càng lún sâu vào tình trạng khủng hoảng

toàn diện từ kinh tế, xã hội đến chính trị và sụp đổ vào cuối những năm 80 của thế

kỷ XX, và đến tháng 12 - 1991, Liên Xô hoàn toàn tan rã. Sự sụp đổ của Liên Xô và

các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một tổn thất lớn đối với phong trào cách

mạng thế giới và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa

bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Phong trào cách mạng thế giới mất

đi một điểm tựa quan trọng. Những tiếng nói tiến bộ, mạnh mẽ, ít nhiều chú ý đến

nguyện vọng và lợi ích của các nước nhỏ tại các diễn đàn quốc tế lớn không còn.

Đối với Việt Nam, việc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã làm

Page 72: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

68

cho Việt Nam mất đi một chỗ dựa chiến lược về kinh tế và chính trị, mất đi một

nguồn viện trợ lớn về tài chính, nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu và thị trường

buôn bán truyền thống. Như vậy, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã ảnh hưởng

không nhỏ đến tình hình thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.

Hai là, “Chiến tranh Lạnh” kết thúc, hòa bình hợp tác trở thành xu thế chủ

đạo trong các quan hệ quốc tế. Khái niệm “Chiến tranh Lạnh” được dùng để chỉ

tình trạng đối đầu căng thẳng, gay gắt, cuộc chạy đua vũ trang trong quan hệ giữa

các nước tư bản chủ nghĩa - đứng đầu là Mỹ và các nước xã hội chủ nghĩa - đứng

đầu là Liên Xô. Mặc dù không bùng nổ ra thành chiến tranh thế giới, nhưng

“Chiến tranh Lạnh” đã gây ra những cuộc chiến tranh cục bộ ở một số nơi trên thế

giới. Ví dụ như: chiến tranh ở Triều Tiên, ở Đông Dương. Tuy nhiên, vào những

năm 80 của thế kỷ XX, “Chiến tranh Lạnh” dần được giảm bớt với việc các nhà

lãnh đạo Xô - Mỹ tiến hành đàm phán, gặp gỡ nhau, thực hiện phương châm đối

thoại thay cho đối đầu. Đến khi Liên Xô tan rã, cuộc “chiến tranh lạnh” cũng

chấm dứt theo.

Sau khi “Chiến tranh Lạnh” kết thúc, quan niệm của cộng đồng quốc tế về

sức mạnh của một quốc gia đã có sự thay đổi. Nếu như trước đây sức mạnh của

một quốc gia được đánh giá qua sức mạnh quân sự thì nay nó không còn chỉ là sức

mạnh quân sự mà trước hết và quan trọng hơn chính là sức mạnh kinh tế. Sự trỗi

dậy và vươn lên mạnh mẽ của Nhật Bản và Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) -

những nước bị thiệt hại nặng nề sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đó là những

minh chứng sinh động cho quan niệm này. Muốn tập trung mọi nguồn lực cho

phát triển kinh tế, các quốc gia cần phải tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để

cùng hợp tác và phát triển. Chính vì vậy, hòa bình, hợp tác đã trở thành xu thế chủ

đạo của thế giới sau “Chiến tranh Lạnh” mặc dù ở nơi này hay nơi khác trên thế

giới vẫn còn những cuộc chiến tranh hay xung đột cục bộ. Đảng ta đã nhận định:

Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới.

Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn

giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, hoạt động khủng bố

còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Hòa bình,

hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của

Page 73: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

69

các quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân

chủ, dân sinh, tiến bộ và công bằng xã hội sẽ có những bước tiến mới

[147, tr.289].

Ba là, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và sự ra đời của kinh

tế tri thức. Từ nửa cuối thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến những bước phát triển

thần kỳ của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu

mới, do những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mang

lại. Đúng như C. Mác đã từng dự đoán, khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản

xuất trực tiếp, tạo ra lượng của cải lớn cho toàn xã hội. Tỷ trọng chất xám kết tinh

trong các sản phẩm lao động ngày càng tăng cao. Ở các nước phát triển, đối với một

số loại sản phẩm, hàm lượng trí tuệ có thể đạt tới 80 - 90% tổng giá trị sản phẩm.

Khoa học công nghệ phát triển là một động lực thúc đẩy và là yếu tố quan trọng tác

động tới diễn biến tình hình chính trị, kinh tế, an ninh của thế giới cũng như các lĩnh

vực khác của đời sống xã hội loài người. Cùng với sự phát triển của khoa học -

công nghệ, thời gian từ nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng vào thực tiễn được rút

ngắn, sự gắn kết của các ngành khác nhau, giữa các lĩnh vực khác nhau ngày càng

được tăng cường. Khoa học và công nghệ mất dần giới hạn quốc gia cả trong

nghiên cứu và ứng dụng. Một số loại công nghệ cao mở ra nhiều tiềm năng mới cho

tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề toàn cầu và nâng cao chất lượng đời sống

con người, nhưng đồng thời cũng có thể bị lạm dụng vào những ý đồ và mục đích

khác của từng quốc gia nhằm tạo ra lợi thế, sức ép trong cạnh tranh, áp đặt bất lợi

cho số đông các nước khác. Những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ

hiện đại phát triển đã biến tri thức thành yếu tố quan trọng bên trong quá trình sản

xuất và quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Với vai trò vô cùng quan trọng của

khoa học - công nghệ trong sản xuất, khái niệm “kinh tế tri thức” ra đời. Trong nền

kinh tế tri thức, đặc điểm nổi bật là lao động cơ bắp từng bước được thay thế bằng

lao động trí tuệ. Trí tuệ trở thành nguồn nguyên liệu, nguồn tài sản quý giá nhất,

hơn bất cứ một nguồn nguyên liệu nào có trong tự nhiên. Để không bị “chậm chân”

trong cuộc đua kinh tế toàn cầu, các quốc gia phải xây dựng chiến lược nhằm nhanh

chóng nắm bắt, áp dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ tiên tiến của thế

giới vào xây dựng nền kinh tế tri thức.

Page 74: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

70

Bốn là, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển mạnh mẽ, chi phối đời

sống kinh tế - xã hội toàn thế giới. Cùng với quá trình đa dạng hóa, đa phương hóa

quan hệ quốc tế, toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng cường. Các cuộc chạy đua về

khoa học - công nghệ vừa là động lực nhưng đồng thời cũng vừa là thách thức đối

với các nước. Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trở thành xu thế khách quan,

mặc dù nó có những tiêu cực, tồn tại. Các quá trình ấy làm tăng tính lệ thuộc lẫn

nhau trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quốc gia hợp tác với nhau chặt chẽ hơn, toàn

diện hơn nữa để giải quyết. Đồng thời sự va chạm, cọ xát về lợi ích và các giá trị

tinh thần, văn hóa…giữa những bên tham gia vào các quá trình toàn cầu cũng

không ngừng tăng lên. Phản ứng chống lại các tiêu cực của toàn cầu hóa cũng nảy

sinh. Việc chủ động hội nhập quốc tế có thể tận dụng các cơ hội và lợi thế từ quá

trình ấy cho từng quốc gia và giảm thiểu được nhiều tác động tiêu cực.

Mối quan hệ giữa an ninh và phát triển là vấn đề được các nước ưu tiên xử

lý. Thế và lực của mỗi quốc gia phụ thuộc rất đáng kể vào việc xử lý đúng đắn mối

quan hệ đó. Những vấn đề của từng quốc gia đều cần phải được giải quyết trong bối

cảnh chung của khu vực và toàn cầu. An ninh và phát triển mang tính chất toàn diện

hơn. Một số nước có cơ hội vươn lên trở thành cường quốc hoặc nước mạnh. Thách

thức chung đặt ra đối với đa số các nước trên thế giới là sức mạnh chính trị, kinh tế

và quân sự của một số quốc gia tiếp tục chi phối đáng kể tình hình thế giới. Có thể

khẳng định rằng, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa có tác động lớn đến đường lối

chính sách của các quốc gia để tránh không bị gạt ra ngoài sự phát triển năng động

của cộng đồng quốc tế, đồng thời tránh không bị hòa tan, đánh mất mình khi gia

nhập sân chơi mới.

Bên cạnh đó, nhân loại đứng trước những vấn đề lớn mà muốn giải quyết

phải có sự hợp tác của tất cả các nước trên thế giới. Đó là những vấn đề về môi

trường sinh thái đang bị ô nhiễm nghiêm trọng; dịch bệnh, sự bùng nổ dân số, đói

nghèo và sự phân cực giàu - nghèo ngày càng thêm sâu sắc; tội phạm; khủng bố và

chống khủng bố,... Việc giải quyết vấn đề này đòi hỏi nỗ lực của không chỉ riêng

một quốc gia, một dân tộc nào, đó phải là sự nỗ lực, chung sức của tất cả các nước,

các dân tộc trên thế giới, vì tương lai chung của nhân loại.

Page 75: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

71

3.1.2. Bối cảnh trong nước

Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam

có những đặc điểm nổi bật như sau:

Một là, Việt Nam thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và

chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ nửa sau

thập niên 70 của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khác nhau cả khách quan lẫn

chủ quan, trong đó có việc nước ta duy trì quá lâu cơ chế tập trung bao cấp đối với

nền kinh tế - xã hội, Việt Nam đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm

trọng. Biểu hiện rõ nhất của tình trạng này là sản xuất đình đốn; hàng hóa, nhất là

lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng rất khan hiếm, Việt Nam vẫn phải nhập khối

lượng lớn gạo để đảm bảo nhu cầu của người dân trong nước, lạm phát tăng vọt,

năm 1986 lạm phát lên tới 774,7%. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của tình

hình trong nước và bối cảnh quốc tế khi đó, Đảng Coognj sản Việt Nam vẫn vững

vàng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua khủng hoảng. Với tinh

thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật” [37, tr.16].

Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình, tiếp thu những sáng kiến của nhân dân và đề ra

đường lối phát triển toàn diện đất nước, trước hết là phải đổi mới tư duy về kinh tế.

Đường lối đổi mới của Đảng đã khơi dậy những tiềm năng của đất nước, của nhân

dân, đáp ứng được những mong mỏi, nguyện vọng của nhân dân nên đã được nhân

dân ủng hộ, hưởng ứng và tin theo. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của

Đảng (1996) đã nghiêm túc đánh giá tình hình đất nước sau 10 năm tiến hành công

cuộc đổi mới và khẳng định: “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,

nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu của

thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành và cho

phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”

[41, tr.67-68]. Để thực hiện tốt nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

ngoài việc phát huy cao độ nội lực đất nước, chúng ta rất cần nguồn vốn, kỹ thuật,

kinh nghiệm từ bạn bè và cộng đồng quốc tế.

Hai là, tình hình chính trị trong nước ổn định, vai trò lãnh đạo của Đảng

được giữ vững. Song song với những thành tựu về kinh tế, công cuộc đổi mới

cũng đạt được những thắng lợi về chính trị, trong đó quan trọng nhất là giữ vững

Page 76: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

72

ổn định về chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và

các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, các thế lực phản động quốc tế cho rằng

các nước xã hội chủ nghĩa còn lại sẽ nhanh chóng sụp đổ và thể chế chính trị xã

hội chủ nghĩa sẽ không còn tồn tại. Tuy nhiên, những nhận định đó hoàn toàn sai

lầm. Với bản lĩnh kiên định, sáng tạo, biết dựa vào nội lực của đất nước, dựa vào

nhân dân, Đảng ta đã giữ vững được vị trí, vai trò lãnh đạo của mình đối với đất

nước, đưa đất nước từng bước vượt qua cuộc khủng hoảng của hệ thống chính trị

xã hội chủ nghĩa. Đến nay, Việt Nam không những giữ vững thể chế chính trị và

vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn được cộng đồng quốc tế đánh giá cao là một

trong những điểm đầu tư hấp dẫn, điểm đến an toàn. Có thể thấy đây là một lợi

thế quan trọng hỗ trợ cho chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về hợp

tác quốc tế.

Ba là, các thế lực phản động trong và ngoài nước không ngừng âm mưu

chống phá cách mạng, và Việt Nam trở thành một trong những trọng điểm đánh phá

của các thế lực thù địch. Âm mưu “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ ngày

càng được thực hiện ráo riết. Chúng lợi dụng nhiều chiêu bài như: “nhân quyền”,

“tôn giáo”, “dân tộc” và cả sự tha hóa của một số cán bộ, đảng viên để ra sức xuyên

tạc, bôi nhọ bản chất chế độ. Chúng lôi kéo những người bất mãn, những người nhẹ

dạ, cả tin, hám lợi chống lại Đảng, chính quyền, đồng thời mưu toan cô lập, làm mất

uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Nằm trong chỉnh thể hệ thống các chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chủ trương, chính sách về hợp tác quốc

tế tất yếu chịu những tác động của cuộc đấu tranh nhằm làm thất bại âm mưu phá

hoại của các thế lực thù địch.

Có thể khẳng định, bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta quán triệt, vận dụng tư

tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong điều kiện quốc tế và trong nước

có những tác động đan xen, cả thuận lợi và khó khăn, cả thời cơ và thách thức. Trên

thực tế, những thời cơ và thách thức này chỉ mang ý nghĩa tương đối. Vượt qua

được thách thức thì sẽ có thời cơ đồng thời nếu không nắm bắt được thời cơ thì sẽ

gặp khó khăn, thách thức. Điều đó đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tìm tòi,

đổi mới, vượt qua thách thức, nắm bắt thời cơ, đưa đất nước đi lên.

Page 77: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

73

3.2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI

GIAO HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 1986 - 2016

Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao nói chung và phương pháp ngoại giao

Hồ Chí Minh nói riêng là cơ sở lý luận quan trọng để cho Đảng và Nhà nước Việt

Nam hoạch định đường lối và chính sách đối ngoại, đặc biệt là trong thời kỳ đổi

mới. Với bản lĩnh và trí tuệ, Đảng ta đã đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vạch ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở,

đa dạng hóa, đa phương hóa, với tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin

cậy của tất cả các nước trên thế giới. Đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn đó

đã góp phần tạo ra những thành tựu to lớn, rất quan trọng của công cuộc đổi mới,

đem lại cho đất nước thế và lực mới vững bước tiến lên trong thế kỷ XXI.

3.2.1. Xây dựng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế

Đường lối độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế hướng tới phục vụ lợi ích quốc

gia, dân tộc. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có mối quan hệ chặt chẽ với nhau

trong việc đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc. Mục đích của độc lập, tự chủ luôn là

căn cứ quan trọng để hoạch định, triển khai chính sách ngoại giao của Việt Nam.

Tuy nhiên, chính sách ngoại giao của Việt Nam luôn coi đoàn kết quốc tế là một

nguyên tắc quan trọng nhất. Có thể nhận thấy một trong những nguyên nhân dẫn

đến thành công của cách mạng Việt Nam là xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa giữ

vững độc lập, tự chủ với việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Việc xử lý đúng đắn mối

quan hệ này góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Độc lập, tự chủ là một yêu cầu nội tại của mọi quốc gia, dân tộc, nó trở thành

một trong những nguyên tắc căn bản nhất trong tổ chức và hoạt động của nhà nước,

cả trên bình diện đối nội và đối ngoại. Hội nhập quốc tế thể hiện sự tham gia của

quốc gia, dân tộc vào quá trình toàn cầu hóa với tính cách là một xu thế lịch sử

trong thế giới hiện đại. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đều mang tính khách

quan, phản ánh những tất yếu của quốc gia, dân tộc trong thời đại hiện nay. Mặt

khác, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế lại nằm trong các hoạt động của

nhà nước, cho nên, sự thành bại của chúng lại phụ thuộc trước hết vào chế độ xã

hội, đảng cầm quyền và chính quyền ở mỗi nước. Đồng thời, giữ vững độc lập, tự

chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế là phương thức hành động đúng đắn,

Page 78: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

74

được đảm bảo bởi tính khách quan của bản thân nó. Tuy nhiên, kết quả của phương

thức hành động sẽ được quyết định bởi tư duy, đường lối, chiến lược, giải pháp...

của giai cấp lãnh đạo, nhà nước và toàn xã hội.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, mối quan hệ giữa giữ vững độc

lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã được thực

hiện có hiệu quả, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử quan

trọng đối với đất nước. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Việt Nam cần tiếp

tục phát huy kết quả đã đạt được; nắm bắt kịp thời, sâu sắc những thay đổi về nội

dung, kết cấu độc lập, tự chủ của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày

càng sâu rộng. Đồng thời, cần tránh hai quan điểm lệch lạc: Một là, cho rằng độc

lập, tự chủ là hằng số bất biến, có nội dung không thay đổi, không thể tương dung

với hội nhập quốc tế, do đó tự cô lập mình. Hai là, cho rằng trong thời đại toàn

cầu hóa và hội nhập quốc tế, không cần và không thể duy trì, củng cố độc lập dân

tộc, tự chủ, chủ quyền quốc gia. Cho nên, phải hội nhập nhanh chóng bằng bất cứ

giá nào dẫn đến tình trạng coi trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, miễn là có lợi ích

của cá nhân, bộ phận.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy độc lập, tự chủ trong đối ngoại là vấn đề có

tính nguyên tắc, nhưng đồng thời phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, không tự

cô lập mình. Trên cơ sở đó, Đảng đã khẳng định: Hòa nhập, không hòa tan. Độc

lập, tự chủ nhằm phát huy sức mạnh bên trong của dân tộc, là nền tảng của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là điều kiện để mở rộng quan hệ và nâng cao uy

tín Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời vô hiệu hóa và phá thế bao vây cô lập

của các thế lực thù địch, khai thác những thuận lợi trong quan hệ quốc tế để tăng

cường sức mạnh cho ta. Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại nếu

không có tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, không đề ra được đường lối, giải

pháp đúng, phù hợp với điều kiện Việt Nam, mang nặng tư tưởng trông chờ ỷ lại

bên ngoài, không từng bước vươn lên để tạo được thế và lực thì không thể mở rộng

quan hệ quốc tế để tăng thêm sức mạnh Việt Nam.

Độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập. Nếu không có tinh thần độc lập,

tự chủ, tự lực tự cường trong đối ngoại thì sẽ không có thế và lực và cũng sẽ không

giữ vững được an ninh chính trị, đặc biệt chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình”

Page 79: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

75

của các thế lực thù địch. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường vốn là truyền thống quý

báu của dân tộc Việt Nam. Truyền thống này đã được hun đúc qua hàng ngàn năm

lịch sử, đến ngày nay càng được khẳng định khi Việt Nam tồn tại và phát triển trong

tình hình quốc tế khó khăn nhất, khi cách mạng thế giới đang thoái trào. Nhưng với

tinh thần tự lực cánh sinh, tự lực tự cường, Việt Nam sẽ sớm vượt qua và có những

bước phát triển trong tương lai.

Đường lối đối ngoại độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế từ khi tiến hành công

cuộc đổi mới (1986) đến nay đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng. Đại

hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh năm 1991 nêu

đoàn kết, trong đó có đoàn kết quốc tế là “truyền thống quý báu và là bài học lớn”

[52, tr.130] của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh còn nêu ra bài học về kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế:

Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc

lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển như vũ bão của

cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hóa

mạnh mẽ nền kinh tế thế giới, càng cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân

tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa đất

nước tiến lên [52, tr.130-131].

Do đó, Cương lĩnh đã chỉ rõ: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất

nước và thế giới như trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường,

phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ

hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành

công chủ nghĩa xã hội [52, tr.134 ].

Đại hội VII cũng chỉ ra rằng:

Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và

thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực

lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có

những chủ trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới càng phải coi

trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,

sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu

Page 80: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

76

tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ

nghĩa. Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả

các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau [39, tr.88].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) rút ra một trong

những bài học chủ yếu sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới là việc “mở rộng

hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới,

kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại” [41, tr.73-74]. Đại hội

cũng chỉ rõ:

Công cuộc đổi mới của nhân dân ta ngày nay phù hợp với xu thế phát

triển của thời đại, được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước. Đi

đôi với việc phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, động viên mọi nguồn

lực bên trong, cần khai thác tốt những điều kiện thuận lợi mới trong quan

hệ đối ngoại, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước vì hòa

bình, độc lập và phát triển, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ

những nhân tố tích cực phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước

[41, tr.73-74].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) đưa ra chủ trương lớn

về “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội

lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã

hội chủ nghĩa” [47, tr.43]. Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX (tháng 1-2004) đã chỉ

rõ nhiệm vụ trong thời kỳ còn lại của Đại hội IX về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế

là chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các

cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký và chuẩn bị tốt các điều

kiện để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) nêu chủ trương:

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp

tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng

hóa quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,

đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là

bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích

cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực [49, tr.112].

Page 81: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

77

So với các Đại hội trước, điểm mới của Đại hội X là đã bổ sung và khẳng

định rõ nội dung mang tính tiêu chí trong đường lối đối ngoại của Đảng là “hòa

bình, hợp tác và phát triển” [49, tr.112], hoàn thiện thêm quan điểm chỉ đạo hội

nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu “tích cực” đi sâu hội nhập và tham gia tích cực vào

tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Quán triệt quan điểm này nhằm mục tiêu bảo

vệ lợi ích căn bản của đất nước ta trong quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội

nhập kinh tế quốc tế, đó là độc lập dân tộc, hòa bình, phát triển bền vững theo định

hướng xã hội chủ nghĩa; tranh thủ được điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ phát

triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) chủ trương: “thực

hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;

chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” [54, tr.72]. Đại hội xác định một trong tám

mối quan hệ cần tập trung giải quyết là mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ với hội

nhập quốc tế. Để giải quyết được mối quan hệ này, bên cạnh việc nắm vững những

đặc điểm của thời đại, bối cảnh quốc tế và khu vực, cần thấy rõ một số thuận lợi và

khó khăn cùng tồn tại do hội nhập quốc tế đem lại với đối ngoại của Việt Nam. Thứ

nhất, với nội dung cốt lõi của hội nhập quốc tế là quá trình các nước tăng cường sự

gắn kết với nhau trên cơ sở nền tảng là sự chia sẻ lợi ích, mục tiêu, giá trị nguồn lực,

quyền lực và tuân thủ các luật “chơi” chung trong khuôn khổ các định chế, tổ chức

quốc tế nên hoạt động đối ngoại sẽ có nhiều cơ hội mở rộng, đi sâu vào mọi lĩnh

vực của đời sống thế giới, góp phần cùng các mặt hoạt động của quốc gia nhằm

mau chóng cụ thể hóa các mục tiêu đối nội đã đặt ra. Tuy nhiên, do phải chia sẻ lợi

ích và các giá trị nguồn lực, quyền lực của mình với các nước theo những quy định

bắt buộc của “cuộc chơi” nên các mục tiêu đối nội của các nước cũng như Việt

Nam sẽ không thể thực hiện được triệt để, kéo theo tính chất độc lập, tự chủ về đối

ngoại sẽ bị tác động ở những phạm vi khác nhau và mức độ nhất định. Thứ hai, hội

nhập quốc tế mang tính ràng buộc hơn và vượt lên trên sự hợp tác thông thường,

bởi nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính tuân thủ cao của các chủ thể tham gia. Khi các cam

kết quốc tế được ký kết sẽ tạo ra điều kiện pháp lý, trên cơ sở đó các thành viên

tham gia ký kết có thể được hưởng quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, việc có

được lợi ích luôn đi kèm với trách nhiệm và nghĩa vụ. Điều này sẽ tạo sức ép không

Page 82: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

78

nhỏ đối với các thành viên khi thực thi cũng như khi không tuân thủ. Sự độc lập, tự

chủ của đối ngoại, vì thế, sẽ phụ thuộc vào sức mạnh nội lực, mức độ am hiểu luật

pháp quốc tế, các mối quan hệ lợi ích ràng buộc, lường trước những vấn đề có thể

xảy ra cũng như khả năng đề kháng với những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài...

Thứ ba, việc hội nhập quốc tế khi được mở rộng sang các lĩnh vực sẽ mở ra nhiều

cơ hội hơn nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức hơn. Thứ tư, hội nhập quốc tế ngày

càng sâu vào một “sân chơi” đa dạng các đối tác lẫn đối tượng, phương pháp và

phong cách đối ngoại khác nhau sẽ tạo điều kiện phát triển toàn diện trí tuệ, tăng

cường nguồn lực và nâng cao bản lĩnh độc lập, tự chủ của ngoại giao Việt Nam.

Tuy nhiên, điều đó cũng thử thách sự bền vững, dẻo dai trong việc giữ vững độc

lập, tự chủ về đối ngoại. Khẳng định mình hay đánh mất mình chính là một thách

thức khi hội nhập sâu hơn vào một “sân chơi” quốc tế rộng lớn.

Trên cơ sở quan điểm Đại hội XI, Đại hội XII khẳng định “phải đặt lợi ích

quốc gia dân tộc lên trên hết; kiên định mục tiêu độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động

và tích cực hội nhập quốc tế” [55, tr.69]. Thực hiện nghị quyết Đại hội, trong giai

đoạn phát triển mới của Việt Nam - giai đoạn phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đã và

đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ

bản trở thành nước công nghiệp, theo hướng hiện đại, nhiệm vụ trung tâm của công

tác đối ngoại Việt Nam là: “Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ động hội

nhập quốc tế. Giữ gìn hòa bình, ổn định và tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để

xây dựng và bảo vệ đất nước. Nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Phấn

đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [55,

tr.272]. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị này, đối ngoại Việt Nam cần phải

quán triệt sâu sắc và thực hành đúng tư tưởng xây dựng thực lực mạnh. Thực hiện

đúng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi.

Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to tiếng mới lớn”

[128, tr.126]. Tư tưởng này khẳng định bản chất, nguồn gốc cũng như điều kiện của

sức mạnh ngoại giao Việt Nam là thực lực, “muốn người ta giúp cho, thì trước hết

mình phải tự giúp lấy mình đã” [126, tr.293]. Điều kiện để bảo đảm độc lập, tự chủ

về đối ngoại hiện nay là giữ vững ổn định về chính trị, xã hội; kinh tế tăng trưởng

nhanh và bền vững; củng cố quốc phòng - an ninh vững mạnh; xây dựng nguồn

Page 83: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

79

nhân lực đối ngoại trung thành và chuyên nghiệp; đa dạng hóa, đa phương hóa các

quan hệ quốc tế; thiết lập và duy trì được trạng thái quan hệ quốc tế cân bằng với

các nước lớn, các trung tâm tài chính, kinh tế lớn, các nhóm, khối nước khu vực có

ảnh hưởng lớn trên thế giới.

Bên cạnh đó phải chủ động tham gia vào các tiến trình khu vực và quốc tế,

nêu cao cảnh giác và có các biện pháp phù hợp trong hội nhập quốc tế. Độc lập và

tự chủ về đối ngoại của Việt Nam hiện nay luôn nằm trong các mối tương quan

chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực trên thế giới; giữa sự ổn

định, phát triển hay bất ổn, khủng hoảng ở khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái

Bình Dương; giữa tương quan lực lượng các đối tác và đối tượng. Tính biện chứng

của vấn đề độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, phụ

thuộc, chống áp đặt, lôi kéo, chi phối, can thiệp vào công việc nội bộ hay bị động,

bất ngờ trước những diễn biến của môi trường quốc tế, sự hợp tác của đối tác hay

chống đối của đối tượng mà chủ yếu còn là nêu cao và phát huy tính chủ động trong

việc tham gia vào các nội dung, tiến trình hoạt động của khu vực và quốc tế. Định

hướng hoạt động đối ngoại, Đại hội XII đưa ra nhiệm vụ giải pháp về đối ngoại:

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu

nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ

động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập và

chủ quyền lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình

đẳng cùng có lợi...[55, tr.313-314].

Để giữ được độc lập, tự chủ trong đối ngoại cần luôn chủ động tham gia vào

các tiến trình hoạt động quốc tế, với tư cách là người trong cuộc để có các dự báo

chiến lược và trực tiếp đề xuất những sáng kiến của mình trong các thỏa thuận quốc

tế, tranh thủ tối đa sự ủng hộ, hạn chế thấp nhất những khác biệt, bất đồng... Đồng

thời, cũng cần phát huy vai trò, tham gia một cách có trách nhiệm đối với việc bảo

đảm sự ổn định của khu vực và quốc tế, thông qua các sáng kiến, đề xuất được cộng

đồng chấp nhận. Mặt khác, cần luôn đề cao cảnh giác trong quan hệ đối ngoại và

hợp tác quốc tế. Tích cực thực hiện phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa các

quan hệ quốc tế, “thêm bạn bớt thù”... Bằng nhiều nội dung, biện pháp thích hợp

chống chủ nghĩa cơ hội về chính trị, sự lừa đảo và “chụp giật” về kinh tế; bằng

Page 84: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

80

nhiều hình thức đối ngoại phù hợp để chủ động tiến công các thế lực thù địch từ bên

ngoài lãnh thổ Việt Nam, thực hành tốt tư tưởng “ngoại giao là một mặt trận”. Đảng

ta cần tiếp tục quán triệt tinh thần: “Kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động

và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi” [55, tr.69].

3.2.2. Mở rộng quan hệ ngoại giao khu vực và quốc tế, song phương và

đa phương

Với quan điểm “thêm bạn bớt thù”, trước những chuyển biến của tình hình

thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức và thực hiện quá trình đổi mới

tư duy đối ngoại, với những điều chỉnh, định hướng mới phù hợp với điều kiện,

hoàn cảnh mới đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cấp bách của công cuộc

xây dựng và phát triển đất nước. Đường lối đối ngoại của Đảng được xây dựng trên

cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực

tiễn cách mạng Việt Nam.

Đảng đã đề ra chủ trương tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng

chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, tạo thế ổn định để tập trung xây dựng kinh tế,

kết hợp tốt nhất sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, đồng thời tích cực

góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, vào cuộc đấu tranh

của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Nội dung đó được thể hiện trong đường lối đối ngoại rộng mở, do Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) thông qua, mở ra một thời

kỳ mới cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam. Quán triệt tư tưởng, phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh trong quan hệ quốc tế và hợp tác giữa các quốc gia, dân

tộc, Đại hội đề ra chủ trương kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại “thêm bạn bớt

thù”, “mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”

[50, tr.561], đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng và nâng cao

hiệu quả kinh tế đối ngoại, Đảng ta đề ra chủ trương phải tham gia sự phân công lao

động quốc tế... tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các

nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư

nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Chủ trương này đáp ứng

yêu cầu của đất nước, phù hợp với xu thế phát triển, tiến bộ của thời đại và đưa lại

những thành tựu tích cực. Đó còn là tiền đề nhận thức và quan điểm phấn đấu giải

Page 85: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

81

quyết những vấn đề tồn tại, phá thế bao vây cấm vận, cải thiện quan hệ với tất cả

các nước láng giềng, các nước lớn, các tổ chức quốc tế và tạo dựng vị thế quốc tế

cao cũng như điểm xuất phát thuận lợi của Việt Nam để tham gia vào quá trình hội

nhập quốc tế sau này.

Đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam được tiếp

tục phát triển lên một bước mới với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng

(1991). Đại hội đã đánh giá những thành tựu đạt được trong việc thực hiện đường

lối đối ngoại của Đại hội VI là thắng lợi to lớn, đúng hướng: “những thành tựu đối

ngoại đã tạo môi trường thuận lợi hơn cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc, đẩy lùi một bước âm mưu bao vây, cô lập đối với nước ta, tăng thêm bầu

bạn, nâng cao uy tín của nước ta trên trường quốc tế” [39, tr.40-41]. Đại hội cũng

chỉ ra những khuyết điểm như chưa đánh giá đầy đủ và kịp thời tình hình thế giới và

quan hệ quốc tế để có chủ trương đúng, chưa tạo ra sự thống nhất cao về nhận thức

và hành động giữa một số ngành trong một số trường hợp.

Để phá thế bị bao vây, cấm vận và phát triển quan hệ đối ngoại, Đại hội VII

đã đưa ra một quyết sách mới về đối ngoại. Việt Nam chuyển từ phương pháp

“Thêm bạn bớt thù” của giai đoạn trước sang đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa

dạng hóa, đa phương hóa. Đại hội cũng đề ra nhiệm vụ đối ngoại là: “Tạo ra môi

trường quốc tế thuận lợi, mở rộng và tăng cường quan hệ quốc tế về chính trị, kinh

tế, văn hóa và khoa học, kỹ thuật trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng

có lợi, bảo vệ sản xuất, kinh tế và an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy những

truyền thống và bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc” [52, tr.91]. Đại hội đã đưa ra

một tuyên bố quan trọng: “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố

rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn

đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [39, tr.147].

Về quan hệ kinh tế quốc tế, Đảng chủ trương gắn thị trường trong nước với

thị trường thế giới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất

khẩu, đồng thời xác định rõ phương châm và các nguyên tắc trong quan hệ đối

ngoại: Mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên

nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi. Chủ trương này đã

Page 86: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

82

đánh dấu một bước ngoặt quan trọng khởi đầu cho tiến trình tham gia ngày càng sâu

rộng vào phân công lao động và quan hệ kinh tế quốc tế.

Những nội dung đó tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII của Đảng (1996). Đại hội đã đánh giá kết quả của công tác đối ngoại

sau 10 năm đổi mới và sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VII là “Phát triển

mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây, cấm vận, tham gia tích cực vào đời

sống cộng đồng quốc tế” [48, tr.449]. Việt Nam từng bước thực hiện bình thường

hóa quan hệ với Trung Quốc. Đã đẩy lùi âm mưu bao vây, cấm vận và bình thường

hóa quan hệ với Mỹ (tháng 7-1995), với Tây Âu và Bắc Âu và mở rộng quan hệ với

nhiều nước trên thế giới. Thành tựu to lớn của công tác đối ngoại đã tạo điều kiện

cho bước chuyển đầu tiên rất quan trọng và những tiền đề thuận lợi cho sự phát

triển của đất nước trong những giai đoạn tiếp theo. Trên cơ sở những thành tựu của

công cuộc đổi mới và những thắng lợi của công tác đối ngoại, Đại hội VIII tiếp tục

đề ra 5 chủ trương lớn về công tác đối ngoại như sau:

Thứ nhất, mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác song phương và đa phương với

các nước, tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền

và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình

đẳng cùng có lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp nhằm

giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh,

hợp tác và phát triển.

Thứ hai, tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ

chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi

trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế

giới, đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển

ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh và với phong trào không liên kết.

Thứ ba, tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các tổ

chức quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết

các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân và

các phương tiện giết người hàng loạt khác.

Page 87: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

83

Thứ tư, phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng

cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng

cầm quyền và các đảng khác.

Thứ năm, mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi

chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp

phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển.

Có thể thấy, đường lối đối ngoại của Đại hội VIII nêu ra là sự tiếp nối của

đường lối đối ngoại đổi mới ở Đại hội VI, VII nhưng được nâng lên tầm cao hơn,

mối quan hệ từ chiều rộng chuyển sang chiều sâu với phương châm đa dạng hóa, đa

phương hóa các mối quan hệ. Nước ta từ thế bị bao vây, cấm vận, từng bước được

nâng cao vị trí và uy tín trên trường quốc tế, cùng tham gia giải quyết các vấn đề

mang tính khu vực và toàn cầu, đồng thời mở rộng quan hệ đối ngoại ra các nước

khác để tiến tới thực hiện hợp tác kinh tế thương mại nhằm chủ động hội nhập vào

xu thế toàn cầu hóa để phát triển đất nước theo hướng có lợi nhất.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng định: “Lấy

chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ

nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận

của Đảng ta” [47, tr.84] và đồng thời nêu rõ “Thực hiện nhất quán đường lối đối

ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Việt

Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn

đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [47, tr.42]. Phát triển quan điểm của Hồ Chí

Minh về Việt Nam sẵn sàng “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây

thù oán với một ai” [129, tr.256], Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VII (1991)

đã khẳng định phương châm của đường lối đối ngoại là Việt Nam muốn là bạn với

tất cả các nước, Đại hội VIII đã bổ sung, phát triển và hoàn thiện nội dung tư tưởng

ấy thành phương châm Việt Nam sẵn sàng là bạn, Đại hội IX xác định là bạn và

đối tác tin cậy. Điều đó thể hiện bước tiến mới rất quan trọng cả về phương diện lý

luận cũng như thực tiễn trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng trong

thời kỳ hội nhập quốc tế.

Chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và tham gia hợp tác khu

vực là sự phát triển biện chứng và quan trọng trong tư duy của Đảng về đường lối

Page 88: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

84

chính sách đối ngoại, phù hợp với đòi hỏi thực tiễn của quan hệ quốc tế hiện đại của

nước ta, với đặc điểm của quan hệ toàn cầu mới và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí

Minh về thêm bạn bớt thù, tranh thủ mở rộng tối đa quan hệ của Việt Nam với thế

giới. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Hồ Chí Minh rất chú trọng

quan hệ đa phương và đa dạng giữa nước ta với các nước khác trên thế giới. Đây là

điều mà Hồ Chí Minh rất quan tâm ngay sau khi nước Việt Nam mới ra đời và

trong quá trình vừa kháng chiến vừa kiến quốc” [59, tr.86].

Đảng ta chủ trương và thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương

hóa quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế, trước hết về kinh tế, nhằm phát huy tối

đa nội lực và tranh thủ tối đa ngoại lực. Hai khía cạnh này liên quan đến nhau và bổ

sung cho nhau trong một mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ ấy thể hiện

tính độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời

đại. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế ngày nay diễn ra trong điều kiện

sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tăng lên. Chủ trương đa phương hóa, đa

dạng hóa phải nhằm tạo dựng thế ổn định lâu bền và có lợi nhất cho đất nước ta

trong các mối quan hệ quốc tế.

Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X của Đảng (2006) tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh:

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp

tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng

hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,

đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là

bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích

cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực [49, tr.112].

Việc Đại hội X tái khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại rộng

mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế góp phần củng cố hơn nữa

lòng tin cho các đối tác nước ngoài khi thiết lập quan hệ và triển khai hợp tác với

nước ta trong mọi lĩnh vực. Những quan điểm của Đảng ta chỉ đạo quá trình hội

nhập này là hoàn toàn phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng, coi hội nhập kinh

tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và cạnh

tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó, cần tỉnh táo, khôn khéo

Page 89: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

85

và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn đề,

trường hợp, thời điểm cụ thể. Điều quan trọng và có tính nguyên tắc là kết hợp chặt

chẽ là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng,

thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố

chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thực hiện “diễn biến

hòa bình” của các thế lực thù địch đối với Việt Nam.

Để tiếp tục mở rộng và tăng cường hiệu quả trong việc thực hiện đường lối

đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế, Đại hội X lần

đầu tiên nêu rõ chủ trương chú trọng “đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào

chiều sâu, ổn định, bền vững” [49, tr.112], đồng thời phát triển quan hệ với tất cả

các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế. Đương nhiên, việc

quán triệt thực hiện chủ trương này phải dựa trên cơ sở bốn nguyên tắc cơ bản trong

hoạt động đối ngoại được Đại hội X xác định là: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và

toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; Không dùng vũ

lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua

thương lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi [49, tr.39].

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã thông qua Cương

lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát

triển năm 2011). Nội dung về đối ngoại của văn kiện này khẳng định việc thực hiện

nhất quán đường lối đối ngoại:

Độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng

hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của

đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ

nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm

trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân

tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có

lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến

chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế [54, tr.83-84].

Có thể thấy đường lối đối ngoại của Đảng được thông qua tại Đại hội XI là

sự kế thừa và phát triển đường lối đối ngoại qua các thời kỳ, nhất là của 25 năm đổi

mới. Phát huy truyền thống dân tộc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về

Page 90: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

86

ngoại giao trong tình hình mới, Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) đã đề

ra đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, hóa

giải thế bị bao vây cô lập. Việc thực hiện nhất quán và không ngừng mở rộng, hoàn

chỉnh nội hàm của đường lối sáng suốt ấy, đã góp phần quan trọng vào công cuộc

bảo vệ Tổ quốc và tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất có thể để đất nước

phát triển.

Đại hội XII của Đảng (2016) tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng tại Đại

hội XI. Đại hội XII đã nêu rõ định hướng nâng cao hiệu quả các hoạt động đối

ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu. Cho đến nay, Việt Nam

đã có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước và có quan hệ về kinh tế, thương mại và

đầu tư với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ. Trong các mối quan hệ đa phương, song

phương này, Việt Nam tiếp tục ưu tiên tạo dựng khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu

nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng, khu vực. Việt Nam sẽ chủ động thúc

đẩy quan hệ nhiều mặt với các nước lớn trên cơ sở hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau và

cùng có lợi. Trong khi triển khai chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa,

Việt Nam cũng luôn coi trọng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác

với các nước bạn bè truyền thống, các nước khác ở châu Á, Đông Âu, Trung Đông,

châu Phi và Mỹ La-tinh.

Từ muốn là bạn ở Đại hội VII, đến sẵn sàng là bạn tại Đại hội VIII và là bạn

và đối tác tin cậy của Đại hội IX, X, Đại hội XI bổ sung thêm thành viên có trách

nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đại hội XII tiếp tục khẳng định quan điểm Đại hội

XI đưa ra. Nội hàm của “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm

trong cộng đồng quốc tế” [55, tr.35] này thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao

Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm tại các cơ

chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, góp phần củng cố, nâng cao

vị thế của đất nước trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao

song phương. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế nhưng Việt Nam luôn

nhận thức rõ rằng, các quốc gia tuy chia sẻ một số lợi ích chung song luôn có những

lợi ích riêng, đôi khi trái chiều nhau, nên trong quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá

trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Thành công sẽ đến khi Việt Nam chủ động, tích

cực phát huy các điểm tương đồng, có giải pháp phù hợp khắc phục những bất đồng

Page 91: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

87

nhằm thúc đẩy hợp tác để vừa bảo vệ được các lợi ích cơ bản của đất nước, vừa bảo

đảm lợi ích chính đáng của các đối tác và lợi ích chung của khu vực và cộng đồng

quốc tế. Việt Nam đã, đang và sẽ còn xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với nhiều

nước. Song, nội hàm của mỗi mối quan hệ đối tác chiến lược này không hoàn toàn

giống nhau. Có mối quan hệ hợp tác toàn diện, có mối quan hệ đặt trọng tâm vào

hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục...

Đường lối độc lập, tự chủ và chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ

quốc tế là sợi chỉ xuyên suốt tạo nên những thành tựu đối ngoại của Việt Nam trong

thời gian qua. Với sự kế thừa và phát triển của Đại hội XII, việc thực hiện nhất quán

đường lối đối ngoại này là điều kiện tiên quyết để hoàn thành nhiệm vụ giữ vững

môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ

vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của

đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân

chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới

3.2.3. Đường lối đối ngoại phục vụ lợi ích của quốc gia, dân tộc

Quán triệt quan điểm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong phương pháp ngoại

giao Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, lợi ích

cao nhất của dân tộc và cũng là lợi ích cao nhất của giai cấp công nhân là xây dựng

thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ

nghĩa; ra sức phát triển kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh, giữ vững độc lập và

thống nhất. Đây là mục tiêu bất biến của cách mạng Việt Nam, do vậy, công tác đối

ngoại phải phục vụ lợi ích chân chính đó của dân tộc và cũng là để thực hiện nghĩa

vụ quốc tế. Bước sang giai đoạn mới, việc xác định lợi ích quốc gia dân tộc trong

công tác đối ngoại là một hoạt động chính trị thường xuyên và có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng. Lợi ích quốc gia bản thân nó bao gồm các mục tiêu chiến lược, đôi khi

cả những công cụ thực hiện mục tiêu mà quốc gia theo đuổi trên trường quốc tế. Lợi

ích quốc gia của một nước sẽ chỉ đạo các nguyên tắc, phương châm, chính sách đối

ngoại và hoạt động bang giao của nước đó.

Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn là

chủ thể xác định lợi ích quốc gia của Việt Nam. Trong thời kỳ lãnh đạo cách mạng

dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng lấy độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là mục

Page 92: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

88

tiêu tối thượng. Lợi ích đó được thể hiện qua câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí

Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” [136, tr.108]. Các mục tiêu nói trên đã

được Đảng và nhân dân ta bền bỉ theo đuổi trong suốt quá trình đấu tranh giành lại

các quyền dân tộc cơ bản, từ cuộc Cách mạng Tháng Tám cho đến các cuộc chiến

tranh giữ nước sau này.

Thời kỳ đổi mới đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam

hiện đại, khởi đầu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-

1986). Đổi mới đã trở thành một chiến lược lâu dài, nhất quán của Đảng ta nhằm

mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh

quốc tế sau Chiến tranh Lạnh. Quá trình xác định lợi ích quốc gia dân tộc trong thời

kỳ đổi mới, trước mắt để ứng phó với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, Đảng ta đã

đặt lên hàng đầu mục tiêu phát triển trong khi vẫn kiên định mục tiêu bảo đảm an

ninh quốc gia. Cương lĩnh 1991 của Đảng khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội

và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi

đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn nêu cao cảnh giác,

củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc

và các thành quả cách mạng” [52, tr.112].

Quá trình thực hiện mục tiêu đảm bảo lợi ích quốc gia thời kỳ đổi mới của

Đảng, với các mục tiêu ở trên, đã trải qua một số giai đoạn trọng yếu. Giai đoạn

1986-1996 là thời gian định hình nhận thức của Đảng về lợi ích quốc gia mới, thể

hiện qua các nghị quyết của Đảng về đối ngoại như Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị

(7-1986), Nghị quyết Đại hội VI (12-1986), Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (5-

1988), Nghị quyết Đại hội VII (6-1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa

VII (6-1992)...

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996), Đảng đề ra

chiến lược “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” đất nước đến năm 2020. Sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi đôi với quá trình hội nhập quốc tế, hội nhập khu

vực, đã tiếp tục thúc đẩy nhận thức của Đảng về lợi ích quốc gia thời kỳ đổi mới.

Quan niệm của Đảng về lợi ích an ninh cũng chuyển biến từ an ninh truyền thống

tới “an ninh toàn diện”. Tháng 7 năm 2003, Trung ương Đảng thông qua Nghị

Page 93: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

89

quyết 8 về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhấn mạnh nhiều khách

thể an ninh cần được bảo vệ khỏi các mối đe dọa truyền thống cũng như phi truyền

thống. Nghị quyết 8 đã chỉ ra 6 mục tiêu an ninh, tương ứng với những khách thể an

ninh cụ thể:

Một là, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh

thổ; hai là, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;

ba là, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;

bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; năm là, bảo vệ an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; sáu là, giữ vững ổn định chính trị

và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa [6, tr.45-46].

Nhận định của Đảng về lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam cho thấy sự

liên tục và nhất quán trong suốt 30 năm đổi mới. Việc coi trọng mục tiêu phát triển

và đổi mới tư duy về mục tiêu an ninh là hạt nhân cốt lõi của lợi ích quốc gia Việt

Nam trong giai đoạn này. Lợi ích đó đã nhận được sự đồng thuận cao của nhân dân

và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Những thành công trong công cuộc công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và hoạt động đối ngoại thời gian qua đã cho thấy nhận thức của

Đảng về lợi ích quốc gia cơ bản là đúng. Cho đến nay, các quyết sách thể hiện tư

duy của Đảng về lợi ích quốc gia vẫn còn nguyên giá trị.

Việc xác định lợi ích quốc gia dân tộc phải dựa trên cơ sở thực tiễn đất nước,

quốc tế và nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao và phương pháp ngoại

giao Hồ Chí Minh. Nói cách khác “tư tưởng, phương pháp ngoại giao của Hồ Chí

Minh” đã trở thành chủ lưu trong hệ thống quan điểm và giá trị về đối ngoại của

Đảng trong thời kỳ hiện nay. Quan niệm cơ bản của Hồ Chí Minh về lợi ích quốc

gia dân tộc đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Phục vụ các quyền

cơ bản của dân tộc đi đôi với đoàn kết quốc tế là trọng tâm trong tư tưởng, phương

pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ

nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến hạnh phúc của nhân dân, phồn

vinh của quốc gia, chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo, đã trở thành giá trị độc đáo trong

mục tiêu cách mạng của Việt Nam. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xác

định lợi lợi ích quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Đảng cần coi trọng

Page 94: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

90

mục tiêu phồn vinh cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân, bên cạnh các mục tiêu

truyền thống là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Nhận định về tương quan lực lượng của tình hình thế giới có ảnh hưởng

đến việc xác định đường lối đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”, Đại hội XI

nhận định: “cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong

quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ

quốc tế…; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn

có quan hệ ảnh hưởng nhiều với nước ta, có nhiều thay đổi” [54, tr.183]. Cục diện

quyền lực đó lại vận hành trong bối cảnh các vấn đề toàn cầu như an ninh tài

chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai… không

ngừng chi phối sự quan tâm, lo lắng của các nhà lãnh đạo quốc gia, đặc biệt là các

quốc gia vừa và nhỏ. Cạnh tranh quyền lực các nước lớn và quan hệ nước lớn -

nước nhỏ sẽ càng phức tạp thêm trong tình hình “tranh chấp lãnh thổ, biển đảo

ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích

mới” [54, tr.184].

Trên cơ sở đó, Đại hội XI, XII tiếp tục khẳng định mục tiêu đường lối đối

ngoại là: “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đảng

cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu

mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là

cơ sở cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một

nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc

và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó. Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc

gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng có ý

nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định hướng: Đảng ta hoạch định và triển

khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, từ đó tái khẳng định

sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc. Khẳng

định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa là Đại hội đặt lợi

ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối ngoại. Nói cách

khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối

ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải

tuân thủ.

Page 95: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

91

3.2.4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy sức

mạnh tổng hợp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Trước tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố bất

trắc và thay đổi khó lường. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương là nơi có sự đan

xen về lợi ích và mâu thuẫn giữa các cường quốc trong khu vực và thế giới, đặc biệt

là về chủ quyền lãnh thổ và an ninh biển Đông.

Việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại chính là vận dụng quan

điểm phát huy sức mạnh tổng hợp trong phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Thế và lực của đất nước không ngừng được củng

cố tạo tiền đề thuận lợi để tranh thủ được sức mạnh của thời đại và kết hợp sức

mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc. Sức mạnh của thời đại bao hàm những nội

dung mới như đã trình bày ở trên. Chính vì thế, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với

sức mạnh của thời đại trong giai đoạn mới diễn ra đa dạng và đa tầng với phương

thức mới.

Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại là một trong những bài học lớn và

xuyên suốt nhất của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tại Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta khẳng định: “trong điều kiện mới

càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời

đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện

đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [39, tr.88].

Tiếp tục tinh thần đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng đã chỉ rõ: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh

thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế là một trong năm bài học lớn

của cách mạng nước ta.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Mở

rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế

giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” [41, tr.73].

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:

“Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Công cuộc đổi mới

diễn ra vào lúc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão,

Page 96: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

92

toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân

dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi.

Tiến hành đổi mới, nhân dân Việt Nam ra sức tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những

xu thế nói trên tạo ra”, “sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối

đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp

sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc

phòng toàn dân với sức mạnh và thế trận an ninh nhân dân” [47, tr.117]. Tiếp nối

tinh thần đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X làm sâu sắc thêm: “Phát huy cao

độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại trong điều kiện mới” [49, tr.71].

Chủ động hội nhập quốc tế và tham gia vào quá trình toàn cầu hoá cũng là để

tận dụng sức mạnh của thời đại. Việc thực hiện đa dạng hoá và đa phương hoá quan

hệ quốc tế mở ra khả năng tập hợp lực lượng rộng rãi phù hợp với mục tiêu cách

mạng trong giai đoạn mới. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại còn

đồng thời phát huy triệt để những thế mạnh của chính mình để tận dụng mặt tích

cực, hạn chế mặt tiêu cực của các quan hệ quốc tế. Thế mạnh của đất nước ta là

những mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng ta đề ra phù

hợp với xu thế phát triển tiến bộ của thời đại. Dựa vào cái chung để phát huy cái

riêng nhằm tăng thế và lực của đất nước, dùng thế và lực ấy bổ sung và hỗ trợ cho

nhau. Tham gia vào những hình thức tập hợp lực lượng quốc tế có lợi là vừa góp

phần bảo đảm an ninh quốc gia, vừa tranh thủ cao độ mọi nguồn lực từ bên ngoài để

kết hợp và bổ sung cho nội lực, phục vụ cho phát triển và bảo vệ đất nước. Trong

quá trình ấy cần nêu cao chính nghĩa, tính phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,

gắn kết sự nghiệp của đất nước với những mục tiêu tiến bộ của nhân loại, chủ nghĩa

yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với

sức mạnh quốc tế là một nội dung quan trọng trong triển khai đường lối đối ngoại

của Đại hội XI với tinh thần là “thành viên có trách nhiệm” trong quá trình “chủ

động và tích cực hội nhập quốc tế” [54, tr.236]. Theo đó hội nhập quốc tế của Việt

Nam không còn chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh

Page 97: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

93

vực khác của đời sống xã hội. Quá trình này sẽ tạo cơ hội lớn trong tiếp cận tri thức

tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất nước

trở thành một bộ phận không thể thiếu của khu vực và thế giới. Tổng kết các kinh

nghiệm thành công của phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời

đại trong lịch sử, nắm vững các bài học then chốt và vận dụng một cách linh hoạt

các bài học đó trong bối cảnh, tình hình trong nước và thế giới hiện nay là chìa khóa

để thực hiện thành công nhiệm vụ tổng quát của công tác đối ngoại mà Đảng đã xác

định tại Đại hội XII là “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận

lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam

trong khu vực và trên thế giới” [55, tr.79].

Để tận dụng được sức mạnh thời đại nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các tiềm năng

phát triển ở trong nước, cần tranh thủ mọi hình thức tập hợp lực lượng và khai thác

tính tùy thuộc lẫn nhau và sự ràng buộc lẫn nhau về lợi ích để thêm bạn bớt thù, hạn

chế sự chống phá và làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực bên ngoài gây mất ổn

định và làm suy yếu Việt Nam. Muốn xác lập được một đường lối và chính sách đối

ngoại, mềm dẻo, linh hoạt có khả năng thích ứng với những diễn biến phức tạp của

tình hình, Việt Nam phải học tập tư tưởng, phương pháp Hồ Chí Minh: Phải nhận

thức được thời đại mình đang sống một cách thật sâu rộng, chỉ có như vậy mới nắm

bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, dự đoán được tương lai.

Nói cách khác, công tác đối ngoại phải làm tốt chức năng thông tin, nghiên cứu và

dự báo tình hình khu vực và thế giới để kịp thời làm tham mưu cho Đảng về những

chủ trương, chính sách mới khi tình hình thay đổi.

3.3. MỘT SỐ THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

TRONG QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH

(1986 - 2016)

3.3.1. Một số thành tựu

Thực hiện Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa

VI), Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), và các Nghị quyết Đại hội VII, VIII, IX,

X, XI và Đại hội XII, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước được mở rộng

Page 98: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

94

chưa từng thấy, hết sức phong phú, đưa Việt Nam nhanh chóng hội nhập với khu

vực và quốc tế với những nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, giải quyết vấn đề Campuchia, bình thường hóa và có những bước

phát triển mới trong quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, các nước Đông Nam Á và nhiều

nước khác, gia nhập ASEAN.

Vào đầu những năm 80, các nước ủng hộ ba phái Khơme lấy cớ Việt Nam

duy trì quân đội ở Campuchia để thực hiện chính sách cấm vận và tiến hành các

hoạt động chống phá Việt Nam. Họ đòi hỏi Việt Nam phải rút quân đội ra khỏi

Campuchia như điều kiện tiên quyết cho việc bình thường hóa quan hệ với Việt

Nam. Như vậy, việc mở cánh cửa hội nhập với khu vực và thế giới không có cách

nào khác là giải quyết cho được vấn đề Campuchia. Thực hiện Nghị quyết 13 của

Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 6 (khóa VI), Việt Nam đã rút hết quân khỏi

Campuchia, chủ động thúc đẩy các bên liên quan tìm kiếm một giải pháp chính trị

cho vấn đề Campuchia. Ngày 5/4/1989, Việt Nam tuyên bố sẽ rút hết quân tình

nguyện trong năm 1989 dù có giải pháp hay không. Tháng 9-1989, Việt Nam rút

hết quân tình nguyện khỏi Campuchia về nước.

Với việc rút hết quân đội khỏi Campuchia, cùng với các thỏa thuận tại JIM -

1 và JIM - 2, thỏa thuận giữa các bên Campuchia và thỏa thuận giữa các nước P-5,

Hội nghị quốc tế về Campuchia được triệu tập tại Pari, các bên tham gia Hội nghị

đã đi đến ký kết Hiệp định với nội dung cơ bản là công nhận và khẳng định tôn

trong độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, trung lập và thống nhất dân tộc của

Campuchia, công nhận Hội đồng dân tộc tối cao là cơ quan hợp pháp duy nhất

trong thời kỳ quá độ; thành lập cơ quan kiểm soát của Liên Hợp Quốc (UNTAC)

kiểm soát các ngành ngoại giao, quốc phòng, tài chính, an ninh, thông tin; quy định

tổ chức tổng tuyển cử tự do để bầu Quốc hội lập hiến, soạn thảo Hiến pháp, lập

Chính phủ mới ở Campuchia… Sau Hiệp định Pari và bầu cử ở Campuchia, Việt

Nam đã điều chỉnh quan hệ với Campuchia cho phù hợp với sự thay đổi của tình

hình, theo đó Việt Nam phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện, quan

hệ với cả hai Đảng cầm quyền CPP và FUNCIPEC, đồng thời tích cực giải quyết

các vấn đề tồn tại như biên giới, lãnh thổ, Việt kiều… Đến nay, Việt Nam và

Campuchia đã ký với nhau nhiều hiệp ước giữa hai bên về chính trị như: Hiệp định

Page 99: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

95

về vùng nước lịch sử chung; Hiệp ước hoạch định biên giới (1985); Hiệp định Lãnh

sự (2006)... Về kinh tế, việc giao thương giữa hai nước ngày càng tăng mạnh, thể

hiện qua những chỉ số về đầu tư của Việt Nam sang Campuchia. Kim ngạch thương

mại hai chiều tăng đều hàng năm từ 25-35%, năm 2006 đạt 940 triệu USD. Giai

đoạn 2001-2011, tăng 17 lần, từ 169 triệu USD lên 2,83 tỷ USD, năm 2012 đạt

khoảng 3,1 tỷ USD [62, tr.125], năm 2014 đạt trên 3,225 tỷ USD [22, tr.19] và kim

ngạch thương mại song phương năm 2015 đạt 3,370 tỷ USD [23, tr.22]. Cả hai

cũng có nhiều hợp tác với nhau tại các diễn đàn quốc tế và khu vực mà hai bên có

tham gia. Tuy quan hệ hai nước đang phát triển thuận lợi, nhưng vẫn chứa đựng

những yếu tố không ổn định bởi vấn đề biên giới lãnh thổ và âm mưu chia rẽ của

các thế lực bên ngoài.

Giải quyết được vấn đề Campuchia đã góp phần tích cực vào việc bình

thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Từ sau Đại hội VI, Việt Nam đã có những

điều chỉnh quan hệ đối với Trung Quốc và coi trọng mối quan hệ với Trung Quốc.

Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách toàn diện, lâu dài và

những biện pháp nhằm từng bước khắc phục tình trạng đối đầu giữa hai nước, kiên

trì và chủ động tạo điều kiện để bình thường hóa quan hệ Việt - Trung và khôi phục

quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước; không để các tranh chấp cụ thể, cục bộ

và nhất thời ảnh hưởng đến chiến lược cơ bản và lâu dài của Việt Nam đối với

Trung Quốc. Tháng 11/1991 Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và

Thủ tướng Phan Văn Khải đã thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc theo lời mời

của các nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng và Chính phủ Trung Quốc. Cuộc đi thăm

có ý nghĩa rất quan trọng đối với quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Hai bên đã ra

thông cáo chung và ký kết một số hiệp định. Thông cáo chung Việt Nam - Trung

Quốc đánh dấu việc bình thường hóa quan hệ chính thức giữa hai nước. Sau khi

bình thường hóa quan hệ, từ năm 1992 đến nay, hai bên đã trao đổi rất nhiều đoàn

cấp cao và quan hệ hai nước đã có những bước phát triển lớn, quan hệ hữu nghị

truyền thống và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước đã được phục hồi và phát triển

nhanh chóng và được nâng lên tầm cao mới với khuôn khổ được xác lập trong

Tuyên bố chung cấp cao hai nước tháng 2 năm 1999 là láng giềng hữu nghị, hợp

tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai. Mối quan hệ Việt Nam - Trung

Page 100: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

96

Quốc phát triển ở cả ba lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và đạt được

nhiều thành tựu quan trọng cho cả hai nước. Hợp tác kinh tế thương mại giữa hai

nước được đẩy mạnh. Kim ngạch buôn bán hai chiều đã tăng từ 32 triệu USD năm

1991 lên 10 tỷ USD năm 2006. Năm 2010, kim ngạch thương mại song phương đạt

27,3 tỷ USD; năm 2012 đạt 41 tỷ USD [62, tr.129-130], năm 2015 đạt 66,6 tỷ USD

tăng 13,7 % so với năm 2014 [23, tr.24]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt

được, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vẫn còn tồn tại nhiều bất đồng, mâu thuẫn

lớn nhỏ khó giải quyết và không chỉ trong việc tranh chấp hai quần đảo Trường Sa

và Hoàng Sa.

Giải quyết vấn đề Campuchia cũng tạo cơ hội cho bình thường hóa quan hệ

với Mỹ. Sau quá trình tích cực chuẩn bị và đàm phán đầy thiện chí với tinh thần

“gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, Việt Nam đã đạt được những kết quả khả

quan. Ngày 3/2/1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ cấm vận chống Việt

Nam và thiết lập cơ quan liên lạc tại Hà Nội. Ngày 11/7/1995, chính quyền Mỹ

tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và thiết lập quan hệ ngoại giao với

nước ta ở cấp đại sứ. Từ khi bình thường hóa quan hệ cho đến nay hai bên đã

thường xuyên trao đổi nhiều đoàn cấp cao. Mốc đánh dấu quan trọng trong quan hệ

giữa hai nước Việt - Mỹ là sự kiện tháng 11 năm 2000, Tổng thống Bill Clinton

thăm chính thức nước ta. Sau đó, lãnh đạo hai nước cũng đã gặp gỡ tại nhiều diễn

đàn đa phương. Đặc biệt là chuyến thăm Mỹ của Thủ tướng Phan Văn Khải từ ngày

19 đến 26 tháng 6 năm 2005 là một sự kiện khai thông lớn. Đây là chuyến thăm Mỹ

đầu tiên của Thủ tướng Việt Nam sau 30 năm chiến tranh và sau 10 năm hai nước

bình thường hóa quan hệ. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ra tuyên bố chung

khẳng định mong muốn phát triển trên những nguyên tắc chung là tôn trọng độc

lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Từ đó đến nay, giữa Việt Nam và Mỹ

có những chuyến thăm ngoại giao giữa hai bên trên nguyên tắc đối thoại và hợp tác.

Tháng 7-2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiến hành chuyến thăm chính

thức tới Hoa Kỳ, hai bên đã ra Tuyên bố chung về Tầm nhìn quan hệ Việt Nam -

Hoa Kỳ, làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác lâu dài, tăng cường hợp tác trong các vấn

đề khu vực và toàn cầu, xác định hướng quan hệ toàn diện, ổn định cho giai đoạn

2016-2020. Tháng 5-2016, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã sang thăm Việt Nam.

Page 101: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

97

Hai bên đã ra Tuyên bố chung, nhất trí tăng cường quan hệ đối tác toàn diện theo

hướng thực chất, sâu sắc, hiệu quả hơn vì lợi ích hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp

tác và phát triển trong khu vực và thế giới. Về quan hệ kinh tế, quan hệ buôn bán

giữa hai nước tăng nhanh: từ 1,48 tỷ USD năm 2001 lên 6,16 tỷ USD năm 2004, đạt

11,7 tỷ USD năm 2007 [62, tr.170]. Trong năm 2014, kim ngạch thương mại hai

chiều đạt 34,94 tỷ USD [22, tr.34]; năm 2015 đạt 45 tỷ USD tăng 24% so với năm

2014 [23, tr.36]. Có thể thấy hiện nay, quan hệ Việt - Mỹ đang có những bước phát

triển hết sức tốt đẹp. Từ sự kiện bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, lần đầu tiên

Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước lớn trên thế giới, góp phần củng cố vị thế

của Việt Nam và tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh

tế, chính trị thế giới.

Sau khi có giải pháp hòa bình về vấn đề Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam

với từng nước ASEAN cũng như tổ chức ASEAN nói chung có những bước phát

triển nhanh chóng. Từ năm 1991, lãnh đạo Việt Nam và lãnh đạo các nước ASEAN

liên tiếp thăm viếng lẫn nhau. Giữa hai bên đã ký hàng chục hiệp định cấp chính

phủ, tạo cơ sở cho việc phát triển quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ

thuật. Năm 1992, Việt Nam tham gia hiệp ước Ba-li, trở thành quan sát viên của

ASEAN, tháng 7 năm 1995, Việt Nam đã chính thức gia nhập ASEAN, Quốc hội

Việt Nam gia nhập Liên minh Quốc hội ASEAN (AIPO). Việt Nam tham gia

ASEAN đã góp phần tạo môi trường khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất

nước, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, có thêm đối tác, nâng cao vị thế của Việt

Nam để thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế khác. Từ khi gia nhập ASEAN đến nay,

Việt Nam cũng đã có những đóng góp quan trọng thúc đẩy vị thế của ASEAN trên

trường quốc tế. Ngược lại, những thành tựu đạt được trong tham gia hợp tác, liên

kết ASEAN đã góp phần củng cố và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam ở khu

vực và trên thế giới.

Thứ hai, cải thiện và tăng cường, mở rộng quan hệ với châu Á - Thái Bình

Dương, tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) với

mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh tế và chính trị, gia nhập Diễn đàn hợp tác

Á - Âu (ASEM), tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, mở rộng quan hệ với các nước

Liên minh châu Âu (EU).

Page 102: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

98

Từ khi vấn đề Campuchia được giải quyết, quan hệ giữa Việt Nam với các

nước trên thế giới được khôi phục và không ngừng phát triển.

Với Nhật Bản, Việt Nam xác định, việc phát triển quan hệ với cường quốc

kinh tế thế giới này có tầm quan trọng hàng đầu đối với Việt Nam. Đồng thời, sự

hợp tác toàn diện giữa hai nước góp phần vào việc giữ gìn và củng cố môi trường

hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Việt Nam cũng

coi trọng quan hệ với Hàn Quốc và cũng coi Hàn Quốc là đối tác quan trọng hàng

đầu. Với Úc và NiuDilân, Việt Nam tích cực cải thiện quan hệ và có những bước

phát triển lớn trong thời gian gần đây.

Đối với các nước Tây Bắc Âu, một trong ba trung tâm kinh tế chính trị, văn

hóa lớn hàng đầu của thế giới, có vai trò và tiếng nói ngày càng quan trọng trong

đời sống chính trị và kinh tế thế giới, Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh cải

thiện quan hệ, tăng cường và mở rộng hợp tác nhiều mặt. Chủ trương này đã được

các nước Tây Bắc Âu đáp ứng vì nó phù hợp với lợi ích của các bên. Sau khi Việt

Nam rút hết quân khỏi Campuchia, các nước Tây Bắc Âu đã bỏ qua chính sách bao

vây, cấm vận của Mỹ để tăng cường quan hệ với Việt Nam. Nhiều lãnh đạo cấp cao

của các nước châu Âu đã sang thăm Việt Nam. Việt Nam đã ký kết với hầu hết các

nước Tây Bắc Âu hiệp định khung về hợp tác, hiệp định khuyến khích và bảo hộ

đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định kinh tế khác, tạo cơ sở

pháp lý cho việc xây dựng và phát triển quan hệ hợp tác lâu dài.

Phát triển quan hệ tốt với các thành viên Liên minh châu Âu (EU) đã có tác

dụng thúc đẩy tích cực quan hệ giữa nước ta với các tổ chức quốc tế và các nước

khác trên thế giới, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác giữa Việt

Nam với Liên minh châu Âu. Điều đó được thể hiện qua việc Việt Nam và Liên

minh châu Âu ký hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai bên (22/10/1990),

Nghị quyết của Cộng đồng kinh tế châu Âu về việc tăng cường quan hệ với Việt

Nam và các nước Đông Dương khác (6/1992), Hiệp định khung về hợp tác Việt

Nam - EU (17/7/1995), Hiệp định hợp tác tài chính về tài trợ cho các dự án của

các nhà đầu tư châu Âu vào Việt Nam (10/1997)… Việc ký hiệp định khung về

hợp tác Việt Nam - EU có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một giai đoạn mới trong

Page 103: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

99

quan hệ giữa Việt Nam với Liên minh châu Âu nói chung và từng nước thành viên

EU nói riêng.

Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới cũng được đẩy mạnh hơn bao

giờ hết, hoạt động ngoại giao của Việt Nam trong giai đoạn này đã kết hợp chính trị

đối ngoại với kinh tế đối ngoại, góp phần vào việc mở rộng thị trường, tranh thủ đối

tác, thu hút đầu tư. Tháng 11/1998, Việt Nam đã được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác

kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), gia nhập Tổ chức Thương mại Thế

giới WTO (13/11/2006). Việt Nam đã tham gia đầy đủ và chủ động tham gia vào

các chương trình của Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) như kế hoạch hành động

thuận lợi hóa thương mại (TAFP), kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (IPAP), hợp

tác các nhà doanh nghiệp Á - Âu, phối hợp với các nước xây dựng viễn cảnh Á - Âu

2020 để đưa hợp tác ASEM lên tầm cao mới và tháng 10/2004 Việt Nam là nước

chủ nhà cấp cao ASEM. Thành công to lớn của ASEM - 5 với những dấu ấn Việt

Nam đậm nét đánh dấu bước phát triển mới của tiến trình hợp tác Á - Âu, thể hiện

sự cam kết mạnh mẽ và đóng góp tích cực nhất của Việt Nam đối với tiến trình này

và là sự khẳng định đường lối tích cực và chủ động trong hội nhập quốc tế của Việt

Nam. Ngày 27-6-2012, Việt Nam và EU đã ký chính thức Hiệp định đối tác và hợp

tác toàn diện (CPA). Hiệp định đánh dấu một bước phát triển mới về chất trong

quan hệ Việt Nam - EU, từ chỗ EU chủ yếu hỗ trợ Việt Nam phát triển giảm nghèo,

chuyển đổi nền kinh tế sang mối quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác toàn diện cùng

có lợi, đưa thế và lực của Việt Nam ngày càng tăng cao góp phần thực hiện thành

công công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Có thể thấy hoạt động ngoại giao đa

phương góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín quốc tế của Việt Nam, tạo điều

kiện thuận lợi cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại.

Thứ ba, duy trì quan hệ với các nước bạn truyền thống thể hiện tinh thần

quốc tế thủy chung trong đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Với Lào, Việt Nam lấy mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng làm nòng cốt, ra

sức mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, coi đó là tiền đề vật chất gắn kết

hai nước trên cơ sở lâu dài, bền vững. Hai nước không chỉ duy trì đều đặn các cuộc

tham khảo ý kiến thường xuyên giữa lãnh đạo cấp cao, giữa các bộ, ngành, mà còn

duy trì và tăng cường tiếp xúc giữa các địa phương, đặc biệt là giữa các tỉnh chung

Page 104: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

100

biên giới. Hai bên phối hợp chặt chẽ với nhau tại các diễn đàn khu vực và quốc tế,

tiếp tục tăng cường hợp tác, phối hợp với các thành viên khác trong ASEAN trong

việc xây dựng cộng đồng ASEAN. Mối quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện Việt -

Lào không ngừng được củng cố và phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, thể

hiện truyền thống, đoàn kết cùng phát triển lâu đời giữa hai nước.

Với Cu Ba, trước sau như một, Việt Nam ra sức tăng cường quan hệ thủy

chung, ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân Cu Ba chống bao vây cấm

vận của Mỹ, khắc phục khó khăn kinh tế - xã hội hiện nay, đồng thời tìm kiếm

phương thức hợp tác mới cùng có lợi.

Với Liên Xô trước đây và Nga hiện nay, bắt đầu từ năm 1987, Việt Nam và

Liên Xô thực hiện một số hình thức liên doanh và trực tiếp hợp tác giữa các cơ sở

sản xuất hai nước. Sau khi Liên Xô tan rã và Đông Âu sụp đổ, quan hệ Việt Nam

với các nước này tạm thời bị gián đoạn. Hiện nay, Việt Nam coi Nga có tầm quan

trọng hàng đầu trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước bạn truyền thống. Nước

Nga cũng đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam và coi Việt Nam là một

trong những đối tác chiến lược quan trọng nhất của Nga tại Đông Nam Á và châu Á

- Thái Bình Dương, chủ trương phát triển quan hệ song phương trên nhiều lĩnh vực

và củng cố vị trí của Nga ở khu vực này với cách đề cập mới. Từ năm 1993, cơ chế

hợp tác hai nước được phục hồi, Ủy ban liên chính phủ về hợp tác kinh tế, thương

mại và khoa học kỹ thuật họp trở lại. Từ năm 2001 trở lại đây, đối thoại và hợp tác

chính trị song phương đạt nhiều thành tựu nổi bật nhất trong quan hệ Việt - Nga.

Giữa hai bên liên tục có những chuyến viếng thăm và làm việc với nhau. Quan hệ

“đối tác chiến lược toàn diện” Việt - Nga mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và

Tổng thống Nga Putin đã ký tháng 5-2012 đã là cơ sở để mở rộng quan hệ chiến

lược sang lĩnh vực quân sự... Về mặt kinh tế, Nga tiếp tục là thị trường lớn, là bạn

hàng truyền thống của Việt Nam. Có thể thấy, quan hệ Việt - Nga ngày càng phát

triển, tạo động lực phát triển quan hệ hai nước nói riêng và cũng là tiền đề để hai

nước có sự phối hợp chặt chẽ trong các diễn đàn đa phương.

Với Ấn Độ, Việt Nam tiếp tục chính sách tăng cường phát triển hơn nữa

quan hệ hữu nghị truyền thống, coi trọng vị trí của Ấn Độ ở Châu Á và trên thế giới.

Page 105: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

101

Quan hệ hợp tác và buôn bán được thúc đẩy, Ấn Độ dành cho Việt Nam một số

khoản tín dụng ưu đãi.

Với Triều Tiên, Mông Cổ tiếp tục được củng cố và phát triển. Việt Nam

trước sau như một ủng hộ giải quyết các vấn đề thống nhất hai miền Nam - Bắc

Triều Tiên thông qua thương lượng hòa bình và nhiệt liệt hoan nghênh các nước

nước gặp thượng đỉnh hai miền; sẵn sàng tăng cường phối hợp với Triều Tiên tại

các diễn đàn quốc tế, khu vực…

Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập, Việt Nam cũng luôn chú trọng

mở rộng và phát triển quan hệ với các nước Nam Á, Trung Đông, châu Phi và

Nam Mỹ…

Thứ tư, bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế và

khu vực.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, những cố gắng đã đạt được

kết quả: Cuối năm 1993, Việt Nam đã nối lại quan hệ tín dụng với Quỹ Tiền tệ quốc

tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) sau 15

năm gián đoạn, tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận các thị trường vốn và tranh thủ

sự ủng hộ của cộng đồng tài trợ quốc tế cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh

tế. Đến nay các tổ chức tín dụng quốc tế đã viện trợ phát triển cho Việt Nam hàng tỷ

USD. Trong quan hệ với các tổ chức quốc tế, một mặt, Việt Nam tranh thủ sự trợ

giúp để phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp...; mặt khác, tích cực tham gia vào

việc giải quyết các vấn đề quốc tế, các vấn đề toàn cầu, nâng cao vị thế của Việt

Nam trên thế giới.

Thứ năm, thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa đã giúp

Việt Nam tranh thủ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức, thu hút vốn đầu tư

nước ngoài, mở rộng thị trường ra ngoài nước, cùng nhiều công nghệ và kinh

nghiệm quản lý tiên tiến, chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.

Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng chủ động của Việt Nam đã đưa đến

một thành tựu rất quan trọng là Việt Nam đã khắc phục tình trạng khủng hoảng thị

trường do các đối tác kinh tế thương mại truyền thống ở Liên Xô và các nước xã hội

chủ nghĩa Đông Âu trước đây bị thu hẹp đột ngột, do những tác động tiêu cực từ

Page 106: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

102

khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997; đồng thời từng bước mở rộng thị trường

xuất khẩu. Cơ cấu khu vực của thị trường xuất nhập khẩu thay đổi mạnh mẽ theo

hướng đa dạng hóa. Hàng hóa của Việt Nam từng bước tiếp cận sang thị trường các

nước Lỹ Latinh và châu Phi.

Hội nhập kinh tế đã giúp Việt Nam thu hút được nguồn vốn đầu tư nước

ngoài lớn, trước hết là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), bổ sung cho nguồn vốn

trong nước, góp phần phát huy nội lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, từng bước

khắc phục khoảng cách phát triển với các nước ở khu vực và trên thế giới. Đến hết

năm 2002, nước ta thu hút được trên 42 tỷ USD vốn FDI với trên 3600 dự án.

Các doanh nghiệp FDI đã góp phần đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, áp dụng công nghệ mới, hiện đại, chủ động chuyển dịch cơ cấu

kinh tế cũng như tạo việc làm và thu nhập cho nhiều lao động. Việt Nam đã tiến

hành đàm phán và ký kết các hiệp định xử lý nợ đa phương và song phương với các

tổ chức tài chính, tiền tệ và các nước hữu quan. Nhìn chung, Việt Nam đã xử lý thỏa

đáng vấn đề nợ nước ngoài thông qua các tổ chức như Câu lạc bộ Paris, Câu lạc bộ

London và các cuộc đàm phán song phương với từng đối tác. Điều đó góp phần ổn

định cán cân thu chi ngân sách trong giai đoạn trước mắt, tập trung nguồn lực cho

các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam ngày càng năng động tiếp thu

khoa học và công nghệ, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ quản

lý và cán bộ kinh doanh.

3.3.2. Một số hạn chế

Thứ nhất, trong một số lĩnh vực, sự đổi mới tư duy còn chậm, chưa đáp ứng

được yêu cầu phát triển trong nước và thế giới. Bước vào thời kỳ đổi mới, các nước

XHCN ngày càng trượt nhanh vào khủng hoảng, nhưng chúng ta vẫn có những hiện

duy ý chí, một chiều về cải tổ, cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Các nước lớn đi vào

thỏa hiệp để tiếp tục chi phối đời sống quan hệ quốc tế, tình hình an ninh chính trị ở

khu vực Đông Nam Á ngày càng phức tạp, sự bao vây cấm vận về kinh tế, cô lập về

chính trị ở các thế lực thù địch với nước ta tiếp tục diễn ra gay gắt… Trong giai

đoạn đầu của đổi mới (1986 -1991), chúng ta còn chập đổi mới về tư duy trong việc

thực hiện nghĩa vụ quốc tế và tập hợp lực lượng, chưa vận dụng tốt phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh về gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với

Page 107: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

103

sức mạnh thời đại, “không gây thù oán với một ai”, “dĩ bất biến ứng vạn biến”… vì

mục tiêu an ninh, phát triển, hội nhập. Việc xử lý mối quan hệ giữa Việt Nam với

các nước lớn và các nước láng giềng trong khu vực cũng phải mất một thời gian dài

mới đạt được hiệu quả như mong muốn. Quá trình giải quyết vấn đề Campuchia có

ý nghĩa quan trọng đối với việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, các nước

ASEAN và phá thế bao vây, cấm vận quốc tế. Nhưng trong quá trình giải quyết vấn

đề Campuchia chúng ta chưa lường hết sức ép từ nhiều phía, không chỉ từ các nước

lớn như Trung Quốc, Mỹ, ASEAN và ngay cả từ Liên Xô.

Thứ hai, trong không ít trường hợp, chúng ta đánh giá chưa đầu đủ, chưa

đúng các đối tác, nhất là Mỹ, Trung Quốc và Campuchia. Hoạt động đối ngoại còn

thiếu chiều sâu, nhất là trong xây dựng lòng tin và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã

hội. Chúng ta chậm có biện pháp thích hợp, phương cách xử lý, ứng xử còn thiên về

yếu tố ý thức hệ. Bài học Campuchia và quan hệ với Liên Xô cuối thập niên 70 và

trong những năm 80 của thế kỷ XX cho thấy lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia trong

nhận thức và hành động chưa được chú ý đúng mức thì sẽ dẫn tới những hậu quả

tiêu cực trong hoạt động ngoại giao.

Thứ ba, công tác cán bộ chưa ngang tầm chiến lược. Công tác nghiên cứu cơ

bản, dự báo chiến lược còn yếu. Không thể phủ nhận trong nội bộ còn những nhận

thức và đánh giá khác nhau về một số vấn đề quốc tế nhạy cảm như vấn đề thời đại,

các mâu thuẫn của thời đại trong tình hình thế giới hiện nay, quan hệ giữa lợi ích

giai cấp và dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, về đánh giá Mỹ, Trung

Quốc… dẫn đến việc hoạch định đường lối, chính sách chưa đồng bộ và toàn diện,

thậm chí còn mang tính nhân nhượng, thỏa hiệp hoặc quá cứng nhắc. Có lẽ vì thế

mà chưa phát huy được cao độ hiệu quả và tính chủ động trong một số hoạt động

đối ngoại, cho dù Việt Nam có nhu cầu, có khả năng và có cơ hội để làm được điều

đó. Việt Nam vẫn phải thường xuyên đối phó với sức ép từ nhiều phía, không chỉ từ

các nước lớn mà ngay cả từ nước nhỏ.

Thứ tư, quan điểm, nhận thức về những biến động mới trên thế giới, có nơi,

có lúc còn chưa theo kịp với diễn biến tình hình từ đó hạn chế việc đề ra những

quyết sách kịp thời, mạnh dạn, phù hợp, nhất là trong chủ trương, bước đi cải

thiện quan hệ với một số nước lớn. Trong một số trường hợp còn bị động đối phó

Page 108: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

104

với tình hình, thiếu chủ động tấn công (trong vấn đề biên giới lãnh thổ, dân chủ,

nhân quyền, dân tộc, tôn giáo). Nhận thức và việc vận dụng sách lược đối với một

số đối tượng quan trọng còn thiếu thống nhất và linh hoạt; sự phối hợp giữa hai

mặt “hợp tác” và “đấu tranh” chưa thật nhuần nhuyễn, nhận thức và việc xử lý

mối quan hệ yêu cầu giữ vững an ninh, ổn định, phát triển trong nước và mở rộng

quan hệ đối ngoại còn có lúc lúng túng, chần chừ, bỏ lỡ một số cơ hội đã được tạo

ra cho đất nước.

Thứ năm, quan hệ hợp tác với các nước, đặc biệt là các nước lớn chưa sâu và

chưa có các nhân tố vững chắc, ổn định, lâu dài. Các mối quan hệ kinh tế, an ninh,

chính trị nhiều khi chưa gắn kết mật thiết với nhau, trong một số trường hợp cụ thể

còn sơ hở. Sau thời kỳ mở rộng quan hệ chưa tạo được bước đột phá mới trong

quan hệ đối ngoại, đặc biệt với các đối tác chủ yếu, chưa xây dựng được và khai

thác tốt quan hệ lợi ích đan xen tùy thuộc lẫn nhau, nhất là với các nước lớn, các

nước láng giềng. Trong quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng và khu vực

chúng ta mới bước đầu tạo dựng được khuôn khổ quan hệ chiến lược ổn định, lâu

dài với một số đối tác chính chưa làm được với Mỹ, quan hệ còn thiếu chiều sâu,

chưa tạo được sự tương tác, đan xen lợi ích lẫn nhau, chưa tạo được đột phá mới.

Việt Nam chưa thật sự chủ động, còn dè dặt, bị động đối phó trong những vấn đề

nhạy cảm và mới nảy sinh.

Thứ sáu, nền tảng để phát triển nền kinh tế bền vững chưa vững chắc, môi

trường thu hút đầu tư thiếu hấp dẫn. Mở rộng ảnh hưởng của ta còn yếu, khả năng

của Việt Nam tác động vào đường lối, chính sách của các nước khác như

Campuchia, Lào còn hạn chế chứ chưa nói đến các nước khác.

Thứ bảy, việc xử lý một vài vấn đề trong nước cần toan tính đầy đủ hơn đến

phản ứng và tác động quốc tế nhằm hạn chế việc bị các thế lực bên ngoài lợi dụng

gây khó khăn về ngoại giao. Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại còn tỏ ra bị

động, chưa nhạy bén, hình thức chưa sinh động, hấp dẫn; cơ chế phối hợp giữa các

ngành, các cấp chưa đồng bộ, hiệu quả chưa cao…

3.3.3. Một số bài học kinh nghiệm

Trên cơ sở phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, từ thực tiễn vô cùng

phong phú và sôi động trong việc hoạch định và triển khai đường lối mở cửa, hội

Page 109: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

105

nhập trong thời kỳ đổi mới có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu, thiết

thực, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

hiện nay cũng như trong giai đoạn tiếp theo. Những bài học đó được khái quát ở

những nội dung chủ yếu như sau:

Một là, đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với

chủ nghĩa quốc tế vô sản. Tất cả các quốc gia trên thế giới, dù lớn hay nhỏ trong sự

nghiệp bảo đảm an ninh và phát triển cũng như trong các mối quan hệ quốc tế đều

đặt lợi ích dân tộc mình lên trên hết. Tính thực dụng, các nhân tố lợi ích (an ninh,

chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa…) luôn là tiêu chí hàng đầu, nội dung xuyên suốt

trong chủ trương chính sách, biện pháp đối ngoại cũng như cách ứng xử trong quan

hệ quốc tế của mỗi nước trong bối cảnh quốc tế đã thay đổi cơ bản, yếu tố này càng

được khẳng định và đề cao.

Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu và sự kết hợp hài hòa giữa

độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa

quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, với mục đích cao nhất là

xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, công bằng, văn

minh. Đây là lợi ích cao nhất của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình đổi mới Đảng

ta luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu. Sự nhìn nhận về lợi ích dân tộc qua từng

giai đoạn có khác nhau, do đó, vị trí của yếu tố này trong việc hoạch định và triển

khai công tác đối ngoại cũng khác nhau.

Đặt lợi ích dân tộc làm tiêu chí hàng đầu không có nghĩa là từ bỏ chủ nghĩa

quốc tế trong giai đoạn mới. Đảng luôn đề ra nhiệm vụ góp phần tích cực vào cuộc

đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội, phát

triển, xây dựng trật tự thế giới công bằng, bình đẳng, chống áp bức cường quyền,

chống khủng bố quốc tế..., củng cố, tăng cường và phát triển quan hệ với các nước

xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế, nhiều đảng phái cánh tả

cầm quyền và chưa cầm quyền. Bài học từ thực tiễn đổi mới 30 năm qua cho thấy

Việt Nam luôn vận dụng đúng đắn, sáng suốt, thiết thực những quan điểm này trong

hoạch định chính sách và hoạt động đối ngoại, nhờ đó ngày càng đạt được những

thành tựu to lớn, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao,

nội bộ được củng cố và thống nhất.

Page 110: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

106

Hai là, giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa

phương hóa quan hệ đối ngoại. Quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đối ngoại

độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa đã cung cấp

cho chúng ta kinh nghiệm quý báu trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Việc

giữ vững độc lập tự chủ trong quan hệ đối ngoại giúp Việt Nam chủ động trong việc

đề ra đường lối, chính sách kịp thời và phù hợp với tình hình khu vực và thế giới,

phát huy nội lực của quốc gia dân tộc. Đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa quan

hệ đối ngoại giúp chúng ta hội nhập ngày càng sâu vào đời sống kinh tế, chính trị

thế giới, tranh thủ được ngoại lực, từ đó kết hợp với nội lực tạo ra sức mạnh tổng

hợp trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Đường lối

đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và chính sách đa dạng hóa, đa phương

hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tạo nên những thành tựu đối ngoại của Việt Nam trong

thời gian qua. Việc giữ vững và nhất quán thực hiện đường lối này là điều kiện tiên

quyết để hoàn thành nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và

toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu

tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Việc

nắm vững hai mặt vừa hợp tác vừa đấu tranh giúp chúng ta khắc phục những

khuynh hướng thường diễn ra trong quá trình giao lưu, hợp tác. Nhu cầu phát triển

của mỗi nước đòi hỏi phải thiết lập và mở rộng sự hợp tác giữa các nước. Tuy

nhiên, trong quan hệ với các nước đặc biệt là với các nước có chế độ chính trị khác

nhau luôn tồn tại những mâu thuẫn. Vì vậy, vừa hợp tác vừa đấu tranh là hai vấn đề

luôn gắn liền với nhau và hiện nay đã có những phương châm hoạt động để xử lý

tốt vấn đề này.

Bốn là, tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các

nước. Việc tham gia và tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực, mở rộng

quan hệ hợp tác song phương và đa phương là phù hợp với xu thế liên kết khu vực

đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Xu thế này được nảy sinh từ nhu cầu liên kết

để vừa tận dụng tiềm năng của từng khu vực, tranh thủ thời cơ mới do quá trình

toàn cầu hóa đem lại và ứng phó với những thách thức mới nảy sinh. Xu thế này

Page 111: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

107

cũng phù hợp với Việt Nam vì Việt Nam có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế quan

trọng ở khu vực và từ đó có thể tiếp cận với nhiều đối tác như Liên minh châu Âu

(EU) thông qua cơ chế đối thoại ASEAN - EU và các cuộc gặp cấp cao Á - Âu

(ASEM). Quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và mở

rộng hợp tác với các nước khác trên thế giới phải được coi là nhiệm vụ chiến lược,

là mối quan tâm hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Quan hệ đối ngoại trước hết là đối với các nước láng giềng và khu vực vì quan hệ

này trực tiếp ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh và phát triển của Việt Nam. Nếu

quan hệ hữu nghị, thân thiện với láng giềng thì sức mạnh của ta được nhân lên, nếu

bất đồng thì sức mạnh đó bị chia sẻ và bị các lực lượng thù địch chia rẽ. Để quan hệ

với các nước láng giềng và khu vực tốt đẹp thì phải mở rộng các lĩnh vực hợp tác

nhất là hợp tác văn hóa, kinh tế, xã hội… toàn diện để quan hệ quan hệ đó hòa nhập

với xu thế liên kết khu vực và liên kết quốc tế hiện nay.

Năm là, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, theo

phương châm: “Dĩ bất biến ứng vạn biến". Nắm vững và vận dụng phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, kịp thời

nắm bắt, tận dụng thời cơ, khôn khéo trong cách xử lý các vấn đề nhạy cảm, kết hợp

đối ngoại, ngoại giao song phương xen kẽ đa phương, nhận thức về sự thống nhất

giữa chính trị đối nội và chính trị đối ngoại.

Sáu là, trong mọi hoàn cảnh cần xử lý đúng mối quan hệ với các nước lớn, vì

đó là nhân tố ảnh hưởng đến an ninh và phát triển. Việt Nam là một nước có vị trí

địa - chính trị, địa - kinh tế quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Là một quốc gia

tầm trung của thế giới với vai trò ngày càng có trọng lượng hơn nên không thể giải

quyết các vấn đề ở Đông Nam Á mà thiếu Việt Nam. Hơn nữa Đông Nam Á lại là

một bộ phận quan trọng của châu Á - Thái Bình Dương. Vì có vị trí quan trọng về

kinh tế và quân sự nên trong lịch sử nhiều nước lớn đã tìm cách chia sẻ lợi ích ở

Việt Nam. Ngày nay, xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng

trở thành đòi hỏi bức xúc giữa các dân tộc và quốc gia trên thế giới thì thị trường

Việt Nam ngày càng được coi trọng đối với các nước trên thế giới. Vì vậy, việc xử

lý mối quan hệ với các nước lớn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam trong

việc bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trong quá trình hội nhập và phát triển.

Page 112: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

108

Tiểu kết chương 3

Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong quá trình đổi mới 30 năm

(1986-2016), đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, tham gia hội nhập ngày

càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế. Trong vận

dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, nền ngoại giao Việt Nam đã đạt được

những thành công lớn. Đảng và Nhà nước ta đã đánh giá đúng tình hình trong nước

và xu thế phát triển của thế giới, qua đó đổi mới tư duy, nhận thức trên cơ sở nghiên

cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao nói chung và

phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh nói riêng, để đề ra được những quyết sách

đúng đắn về đối ngoại mà nội dung cốt lõi là mở cửa và hội nhập. Việc đề ra đường

lối, chính sách đúng đắn về hội nhập có tác dụng đẩy mạnh việc mở rộng quan hệ

hợp tác quốc tế mà nội dung chủ đạo là hợp tác kinh tế quốc tế là rất quan trọng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, ngoại giao Việt Nam còn có những hạn chế

trong vận dụng phương pháp ngoại giao. Trên cơ sở đó có thể rút ra một số bài học

kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo để thực hiện tốt đường lối đối ngoại trong thời kỳ

đổi mới. Đây cũng là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng phương

pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh thực hiện

nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Page 113: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

109

Chương 4

TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO

HỒ CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG

VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

4.1. NHIỆM VỤ XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC NGOẠI GIAO

4.1.1. Những nhân tố tác động đến tình hình hiện nay

Tại Đại hội XII (2016), ĐảngCộng sản Việt Nam xác định một trong những

nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong những năm tiếp

theo là:

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,

thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường

hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều

sâu các quan hệ đối ngoại; thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong

điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên

trường quốc tế [55, tr.52].

Tuy nhiên, do điều kiện khách quan và chủ quan, nhiệm vụ xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc đang bị chi phối bởi hàng loạt các nhân tố: chính trị, kinh tế, khoa học

công nghệ và các vấn đề khác… Những nhân tố này tác động mạnh mẽ và đặt ra

cho công tác đối ngoại và việc vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh

trong thực tiễn hoạt động ngoại giao nhiều vấn đề cấp bách mới, đòi hỏi phải được

thực hiện tốt để có thể đáp ứng với tình hình phức tạp hiện nay.

Một là, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và

hội nhập kinh tế quốc tế phát triển cả bề rộng và chiều sâu trên mọi lĩnh vực của

đời sống xã hội.

Từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ

diễn ra mạnh mẽ, theo hướng lấy công nghệ cao làm trung tâm đã tạo nên những

đột phá có tính bùng nổ với quy mô và mức độ, sức mạnh chưa từng có từ trước tới

nay, tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của mỗi quốc gia và đời sống quốc

Page 114: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

110

tế. Các nước đều coi phát triển công nghệ cao là hướng đột phá trong phát triển lực

lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng cường sức mạnh quân sự, tạo khả

năng răn đe và là nhân tố gây ảnh hưởng mạnh về chính trị, là nguồn lực thúc đẩy

tiến bộ xã hội. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, kinh tế tri

thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Kinh

tế tri thức - giai đoạn mới của các nền kinh tế phát triển cao sau giai đoạn kinh tế

công nghiệp, có vai trò nổi bật, không chỉ biểu hiện ở hàm lượng trí tuệ chiếm tỷ

trọng chủ yếu trong giá trị các sản phẩm, mà còn bằng sự dịch chuyển của khu vực

chế tạo sang khu vực dịch vụ với các đặc điểm mới.

Toàn cầu hóa kinh tế đang là xu hướng khách quan của đời sống nhân loại,

lôi cuốn mọi quốc gia tham gia. Trong quá trình đó, mỗi quốc gia đều phải đối mặt

với một môi trường mới, vừa có thời cơ, vừa có thách thức, vừa thúc đẩy hợp tác,

vừa có cả sức ép cạnh tranh… Đây là một vấn đề còn nhiều mới mẻ, khó khăn và

thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đặt ra nhiều

thách thức đối với Đảng ta khi hoạch định đường lối đối ngoại và thực thi các hoạt

động ngoại giao.

Hội nhập quốc tế phát triển mạnh cũng đã làm xuất hiện nhiều khái niệm

mới như “biên giới thông tin”, “biên giới mềm” và nhiều vấn đề mới về xã hội,

quốc phòng, an ninh phức tạp khác như “an ninh tư tưởng”, “an ninh kinh tế”, “an

ninh văn hóa”… Quá trình hội nhập quốc tế đặt ra cho những quốc gia không ít

những vấn đề phải xử lý liên quan đến độc lập chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc,

giai cấp, đến sự ổn định của hệ thống chính trị và thiết chế xã hội khác; sự gia tăng

sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, sự hạn chế thẩm quyền cũng là những

thách thức không nhỏ đối với tính độc lập tự chủ của các quốc gia trong chính sách

và hoạt động ngoại giao.

Việt Nam là một quốc gia có vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực và

trên thế giới, đồng thời là một trong những nước xã hội chủ nghĩa còn lại ở châu Á.

Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, tương quan

so sánh lực lượng có lợi cho chủ nghĩa tư bản, cũng như bất kỳ một quốc gia nào

khác trên thế giới khi tham gia quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tất yếu

Page 115: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

111

nước ta sẽ chịu những tác động theo cả hai chiều thuận lợi và khó khăn. Tình hình

đó thường xuyên tác động mạnh mẽ đối với việc thực hiện các hoạt động ngoại

giao, cũng như việc vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong hoạch

định đường lối và thực hiện các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Hai là, tình hình chính trị - quân sự thế giới có nhiều diễn biến phức tạp.

Trong những năm cuối thế kỷ XX, chiến tranh cục bộ, xung đột và chạy

đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, khủng bố, những tranh chấp về

biên giới lãnh thổ, biển đảo và các nguồn tài nguyên thiên nhiên diễn ra ở nhiều

nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Những năm gần đây, xung đột dân tộc,

tôn giáo trên thế giới tiếp tục diễn ra gay go, quyết liệt và ngày càng nóng bỏng,

đã trở thành một vấn đề phức tạp của nhân loại. Các quan hệ dân tộc, sắc tộc lại

đan kết vào nhau với vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội khác làm cho vấn

đề vốn đã phức tạp lại càng thêm phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề mới cho các hoạt

động ngoại giao.

Trật tự thế giới hai cực giữa một bên là chủ nghĩa xã hội do Liên Xô đứng

đầu và một bên là chủ nghĩa tư bản do Mỹ đứng đầu được hình thành sau Chiến

tranh thế giới thứ II đã không còn tồn tại, song những ảnh hưởng của nó vẫn

chưa mất đi. Sự phá vỡ trật tự cũ chưa hoàn tất, sự ra đời của trật tự thế giới mới

trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI chưa được định hình, là những

đặc điểm chi phối lớn đến chính sách đối ngoại và việc vận dụng phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc thực hiện các hoạt động đối ngoại của Đảng

và Nhà nước.

Các nước lớn khác sau khi trật tự thế giới hai cực tan rã, đều có những mục

tiêu và đối sách riêng của mình. Nhìn chung các nước lớn đều tìm mọi cách theo

đuổi một trật tự thế giới đa cực vì họ đều có vị thế ảnh hưởng nhất định trong đó.

Mỹ tìm mọi cách duy trì trật tự thế giới đơn cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Các nước

Liên minh châu Âu mà trong đó Đức và Pháp là nòng cốt ngày càng muốn độc lập

về quân sự với Mỹ; sự liên kết của Nga, Ấn Độ, Trung Quốc trong “Hiệp ước

Thượng Hải”; các quan hệ song phương và đa phương giữa các nước này thực sự là

một thách thức đối với Mỹ. Trật tự thế giới không chấp nhận xu hướng vận động

đơn cực do Mỹ chủ đạo, mà xu hướng đa cực ngày càng rõ nét.

Page 116: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

112

Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường.

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động đồng thời cũng

tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn

tiếp tục diễn ra gay gắt. Cộng đồng ASEAN được hình thành vào cuối năm 2015

với ba trụ cột là: Cộng đồng chính trị - an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng

văn hóa - xã hội vì mục tiêu hòa bình, ổn định, phát triển và hướng tới người dân.

Đây là những cơ hội lớn để các nước trong khu vực mở rộng hợp tác, tranh thủ

nguồn lực để phát triển, đồng thời cũng phải đối mặt với không ít thách thức:

Những khác biệt về ưu tiên chiến lược, năng lực quốc gia giữa các nước trong

ASEAN và những tồn tại về xung đột, tranh chấp lãnh thổ, thách thức an ninh phi

truyền thống có xu hướng gia tăng đang và sẽ là những bài toán lớn đặt ra đối với

các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nguy cơ đe doạ độc lập

dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị,

vai trò của Nhà nước... Các thế lực thù địch luôn xác định Việt Nam là một trong

những mục tiêu “trọng điểm” chống phá trong chiến lược “diễn biến hòa bình”

nhằm mục đích cuối cùng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo

của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng sẽ tiếp tục lợi dụng chủ trương mở rộng hội

nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới của Việt Nam để

thực hiện xâm nhập, tuyên truyền và hướng Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa

tư bản.

Trong bối cảnh như vậy, công tác đối ngoại cần tiếp tục quán triệt sâu sắc

quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa

bảo vệ lợi ích quốc gia với đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế

giới, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và tạo điều

kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, an

ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Công tác đối ngoại

phải nắm vững và vận dụng các quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác được nêu

rõ trong Nghị quyết 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến

lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Từ đó xác định đối tượng, đối tác để hợp

tác và đấu tranh nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Công tác đối ngoại phải thể

Page 117: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

113

hiện được quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là đẩy lùi và ngăn ngừa

nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng

và phát triển đất nước; góp phần tích cực trong thực hiện phương châm bảo vệ Tổ

quốc từ xa. Công tác đối ngoại phải sát cánh cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân

làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, tạo cớ để can thiệp vũ trang của các thế

lực thù địch, đồng thời phát huy nội lực, không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh,

tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu và giành thắng lợi trong mọi tình huống.

Bằng những đóng góp tích cực của mình trong 30 năm đối với phong trào

cách mạng và tiến bộ trên thế giới và đặc biệt là sự kiên định và đứng vững trước

khủng hoảng cùng với những thành tựu to lớn trong sự nghiệp đổi mới đã nâng cao

vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần bảo vệ công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ngoại giao và vận dụng

phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

Ba là, khu vực Đông Nam Á tăng cường hợp tác, nhưng bị một số nước lớn

lợi dụng, gây ảnh hưởng, chia rẽ, có nhiều mâu thuẫn, khó khăn.

Khu vực Đông Nam Á thuộc châu Á - Thái Bình Dương là một khu vực có

vị trí chiến lược quan trọng. Trong 30 năm qua, xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển

ở khu vực này tiếp tục gia tăng, nhưng cũng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn

định. Hợp tác để phát triển là một nhu cầu của các nước Đông Nam Á để trở thành

các nước công nghiệp, đồng thời chống lại sự lệ thuộc và khống chế từ bên ngoài và

gia tăng khả năng cạnh tranh với các nước lớn. Tuy nhiên, khu vực Đông Nam Á

cũng còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định, đòi hỏi mỗi quốc gia và khu vực

phải nỗ lực giải quyết và tăng cường hợp tác cùng nhau. Đông Nam Á đang phải

đối mặt với những thách thức về khả năng cạnh tranh, giá thành sản phẩm cao, chưa

thu hút được đầu tư nước ngoài như mong muốn, trong khu vực chưa hình thành

một nền tảng vững chắc cho một cộng đồng thống nhất hình thành và phát triển.

Chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á và Việt Nam

Trong những thập kỷ gần đây, về chính trị Mỹ thường xuyên giương chiêu

bài “dân chủ, tự do, nhân quyền” gây áp lực đối với ASEAN, thực thi dân chủ và

nhân quyền theo quan điểm của Mỹ, như yêu cầu ASEAN thành lập Ủy ban nhân

quyền ASEAN; bao vây, cấm vận Mianma và ủng hộ “phái dân chủ”, đòi chính

Page 118: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

114

quyền Mianma cải cách dân chủ; gây sức ép đối với Việt Nam về nhân quyền và

tôn giáo. Ngoài ra, Mỹ thực hiện nhiều biện pháp nhằm lôi kéo các nước ASEAN

khỏi ảnh hưởng của các nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc. Về kinh tế, Mỹ chủ

trương thúc đẩy khu vực Đông Nam Á mở cửa thị trường, cải thiện môi trường

cho hàng hóa và đầu tư của Mỹ… Đối với Việt Nam, do ảnh hưởng của cuộc

chiến tranh Việt Nam còn đậm, Mỹ đã đặt Việt Nam vào những toan tính chiến

lược của mình. Trong những năm gần đây, Việt Nam thắng lợi trong đổi mới, vai

trò uy tín ở khu vực và quốc tế ngày càng tăng… đã buộc Mỹ phải điều chỉnh

chiến lược. Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, chiến lược của Mỹ đối với

Việt Nam đã chuyển sang tăng cường “tiếp cận”, “dính líu”, thúc đẩy “diễn biến

hòa bình” nhằm chuyển hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm biến chất

từng bước chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiện nay, quan hệ Việt Nam - Mỹ đã

được cải thiện đáng kể, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức

thương mại Quốc tế (WTO), Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 14,

Mỹ đã thông qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt

Nam, dỡ bỏ cấm vận vũ khí sát thương. Việt Nam và Mỹ xác lập quan hệ Đối tác

toàn diện năm 2013 nhân chuyến thăm chính thức của Chủ tịch nước Trương Tấn

Sang. Quan hệ Mỹ - Việt Nam là mối quan hệ bình thường trong một thế giới

quốc tế hóa.

Chính sách của Trung Quốc đối với Đông Nam Á và Việt Nam

Chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc là sự triển khai toàn diện chính

sách ngoại giao láng giềng theo tinh thần “thân thiện với láng giềng, ổn định với

láng giềng và làm giàu với láng giềng” (Tam lân: mục lân, an lân, phú lân) của

Trung Quốc. Chính sách đó vừa nhằm tăng cường quan hệ hợp tác với các nước

trung khu vực vừa nhằm gây ảnh hưởng, chi phối với các nước Đông Nam Á, Việt

Nam có vị trí đặc biệt trong quan hệ của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Là nước láng

giềng chung đường biên giới cả trên đường bộ và đường biển; có cùng chế độ chính

trị, cùng hệ tư tưởng, gần gũi về văn hóa; là một trong những nước có nhiều tranh

chấp chủ quyền với Trung Quốc; đặc biệt là quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và

Biển Đông; là một nước ngày càng có uy tín quan trọng trong ASEAN, Việt Nam là

Page 119: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

115

đối tượng mà Trung Quốc chú ý. Sau khi bình thường hóa quan hệ, chính sách của

Trung Quốc đối với Việt Nam có những điều chỉnh theo hướng ngày càng coi trọng

Việt Nam, nhưng mang tính chất vừa hợp tác vừa đấu tranh.

Mối quan hệ ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia

Việt Nam, Lào, Campuchia là ba nước láng giềng anh em, núi liền núi, sông

liền sông. Trong hơn hai mươi năm qua, ba nước đều chú trọng đẩy mạnh quan hệ

hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại và cả quốc phòng, an

ninh. Tăng cường hợp tác và hỗ trợ trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế

như Liên Hiệp Quốc; Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie), Phong trào không

liên kết; Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); Hợp tác tiểu vùng Mêkông

(GMS); Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia; Hợp tác hành lang Đông

Tây (WEC); Hợp tác đường sắt xuyên Á, đường bộ xuyên Á…

Các thế lực thù địch lợi dụng chia rẽ, chống đối nên quan hệ giữa ba nước

gặp nhiều khó khăn, thách thức, cản trở đến sự phát triển của cách mạng từng nước.

Có thể thấy tình hình thế giới, khu vực có những biến động sâu sắc, tác

động nhiều mặt đến sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Tất cả những nhân tố nêu

trên vận động tổng hợp, tác động mạnh mẽ và đặt ra nhiều vấn đề mới đối với sự

nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Điều đó đã tác động sâu sắc và đòi hỏi hoạt

động đối ngoại nói chung và việc vận dụng tư tưởng ngoại giao cũng như phương

pháp ngoại giao Hồ Chí Minh nói riêng đưa ra được những chính sách đối ngoại,

hoạt động đối ngoại hướng tới thực hiện tốt để đáp ứng với tình hình đang và sẽ

đặt ra trong thực tiễn.

Bốn là, nước ta tiến hành công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ

nghĩa ngày càng phát triển, nhưng còn gặp nhiều khó khăn, thách thức.

Qua 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh

đạo, cách mạng Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sâu

sắc. Là một nước có điểm xuất phát thấp, kinh tế còn kém phát triển, Việt Nam đã

tích cực học hỏi kinh nghiệm từ những nước đi trước trên con đường công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là các nước phát triển trong khu vực châu Á - Thái Bình

Dương, bao gồm cả những kinh nghiệm thành công và thất bại trên các lĩnh vực

Page 120: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

116

kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh để đi tắt đón đầu, tiếp thu những thành

tựu tiên tiến trên thế giới, có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian, tiến vào

những lĩnh vực quan trọng có hiệu quả kinh tế cao để bắt kịp xu thế chung của khu

vực và thế giới.

Tuy nhiên, trong những năm qua Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn,

nguy cơ và thách thức. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với những nước trong

khu vực và thế giới là thách thức lớn và gay gắt. Vì điểm xuất phát để phát triển của

nền kinh tế của Việt Nam còn thấp, đất nước vẫn còn nằm trong tình trạng nước

nghèo, kém phát triển, lại trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, đặc biệt về vốn và

công nghệ nên gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù hiện nay, Việt Nam đã gia nhập Tổ

chức Thương mại Thế giới (WTO) nhưng kinh nghiệm buôn bán quốc tế và tác

nghiệp trong “sân chơi” này còn nhiều hạn chế, thiếu và yếu về năng lực cạnh tranh.

Nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội ngày càng phát triển cả chiều

rộng và chiều sâu, xuất hiện những tiêu cực làm cản trở quá trình phát triển kinh tế -

xã hội như: phân hóa giàu nghèo ngày một tăng, lối sống chạy theo đồng tiền, sự tha

hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, sự gia tăng các tệ

nạn xã hội… Mọi sự chủ quan, xem nhẹ sự tác động tiêu cực này đều dẫn đến

những hậu quả nguy hại đối với cách mạng, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa của

Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước, với sức

mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,

chúng ta giữ vững được ổn định chính trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để mở

rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác kinh tế và phát triển đất nước toàn diện theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng tiếp tục nhấn mạnh đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới

nhằm sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu sớm đưa nước

ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Việt Nam sẽ tiếp tục

phát triển với những thành tựu mới, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản về chính trị, kinh

tế, văn hóa, xã hội để gia tăng tiềm lực quốc phòng và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc,

đồng thời cũng đặt ra những vấn đề mới, đòi hỏi công tác đối ngoại cần phải tiếp tục

vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong các hoạt động ngoại giao của

Đảng và Nhà nước một cách khoa học và phù hợp.

Page 121: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

117

4.1.2. Yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với công tác ngoại giao trong thời

kỳ mới

Tình hình trong nước và thế giới đặt ra yêu phải tiếp tục xây dựng và đẩy

mạnh triển khai chiến lược ngoại giao toàn diện để phục vụ hiệu quả hơn nữa các

mục tiêu an ninh và phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Yêu cầu triển khai

một cách toàn diện các hoạt động đối ngoại đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác

định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ XI năm 2011. Nghị quyết

xác định:

Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận

lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc

lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất

nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,

dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới [54, tr.236].

Đây là một chủ trương đúng đắn, kịp thời và sáng suốt của Đảng và Nhà

nước, phù hợp với đòi hỏi của tình hình mới. Tại Đại hội XII, Đảng tiếp tục khẳng

định nhiệm vụ của công tác đối ngoại:

Nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh

thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời

sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,

chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,

Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín

của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân

chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới [55, tr.153].

Đứng trước những thách thức to lớn, cách mạng Việt Nam lúc này đặt ra hai

yêu cầu quan trọng và cấp bách cho ngoại giao Việt Nam là phải thực hiện các mục

tiêu sau: Một là: Thực hiện mục tiêu về an ninh, góp phần bảo vệ Tổ quốc; Hai là:

phải giải quyết những khó khăn đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, phát triển toàn

diện đất nước, khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ nhất: Về thực hiện mục tiêu an ninh, góp phần bảo vệ Tổ quốc, tuy rằng

nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới và chiến tranh cục bộ giữa Việt Nam và quốc

gia khác là không lớn nhưng nước ta đang gặp phải những thách thức vô cùng lớn

Page 122: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

118

trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Đây chính là mối quan

tâm lớn của toàn dân tộc và sự quan ngại của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, Việt

Nam vẫn là đối tượng hướng tới của các lực lượng phản động thực hiện “diễn biến

hòa bình”. Song song với các vấn đề an ninh truyền thống, Việt Nam cũng phải giải

quyết các thách thức an ninh phi truyền thống như tội phạm công nghệ cao trong

lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh...

Thứ hai: Về mục tiêu phát triển đất nước và nâng cao vị thế Việt Nam trên

thế giới. Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng nước nghèo và đang phải hoàn thành sự

nghiệp công nghiệp hóa đất nước nên đòi hỏi phải tranh thủ rất nhiều nguồn lực từ

bên ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới còn đang trong giai đoạn suy thoái

thì nhiệm vụ mở rộng hợp tác và tìm kiếm thị trường mà ngoại giao cần phải hoàn

thành là rất nặng nề. Với mục tiêu nâng cao vị thế đây là nhu cầu tất yếu của mọi

quốc gia dân tộc vì nâng cao vị thế vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để thực hiện

lợi ích dân tộc; vì vị thế dân tộc có quan hệ biện chứng với mục tiêu an ninh và phát

triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn thể hiện là một đối tác tin cậy, một

thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới. Tuy vậy, do nhiều

nguyên nhân, trong đó có tiềm lực kinh tế của đất nước chưa vững và thêm nữa là

sự hạn chế về nhân lực ngoại giao. Cho nên, việc Việt Nam hướng tới mục tiêu đảm

nhiệm những vai trò lớn hơn trên thế giới, có tiếng nói và ảnh hưởng của mình tốt

hơn là điều không dễ thực hiện.

Để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, Việt Nam phải hướng tới nền

ngoại giao toàn diện:

Nền ngoại giao thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm huy động

mọi lực lượng, binh chủng, kênh đối ngoại; vận dụng mọi hình thức,

công cụ đối ngoại; triển khai trên nhiều lĩnh vực, địa bàn và hướng đến

nhiều đối tượng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện hiệu quả

mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Nền ngoại giao ấy phải được

xây dựng trên ba kênh đối ngoại chủ lực là đối ngoại Đảng, ngoại giao

nhà nước, đối ngoại nhân dân, triển khai đồng bộ ba trụ cột là ngoại giao

chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, cùng với công tác người

Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân [141, tr.36].

Page 123: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

119

Có thể nhận thức, nền ngoại giao toàn diện là nền ngoại giao sử dụng sức

mạnh tổng hợp, sử dụng nhiều lực lượng, được triển khai trên nhiều lĩnh vực và

hướng tới nhiều đối tượng nhưng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng vì mục tiêu xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần cống hiến cho nền hòa bình và hợp tác trên toàn

thế giới.

Để thực hiện tốt chiến lược ngoại giao toàn diện như đã xác định, ngoại giao

Việt Nam phải biết khai thác những thế mạnh, những nguyên tắc, những kinh

nghiệm quý báu mà mình đã có được sau hơn 70 năm đấu tranh, trưởng thành và

đặc biệt là trong 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới và cũng phải biết vận dụng tư

tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào hoạt động ngoại giao hiện nay

cũng như trong giai đoạn cách mạng mới.

4.2. TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH

TRONG TÌNH HÌNH MỚI

4.2.1. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc nắm

bắt tình hình trong thế giới, trong nước và thực hiện công tác dự báo

Trong bối cảnh phức tạp của quan hệ quốc tế hiện nay, phải biết vận dụng

sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh nói chung và phương pháp “dự báo

và nắm bắt thời cơ” của Người nói riêng để phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển

và bảo vệ đất nước. Trên cơ sở mục tiêu đã xác định, trên những tiêu chí đặt ra,

ngoại giao Việt Nam phải nhận thức khách quan, khoa học về sự vận động mới

trong quan hệ quốc tế hiện nay, để xây dựng đường lối, chính sách và phương pháp

ngoại giao đúng đắn, phù hợp, hiệu quả.

Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, để làm tốt công tác dự báo, nắm bắt được

thời cơ trong quan hệ ngoại giao là phải tri kỷ (biết mình) và tri bỉ (biết người) để

định kế hoạch chiến lược, phương pháp thực hiện; để luôn làm chủ tình thế. “Biết

mình” là biết rõ thực lực, sở trường, sở đoản của ta trong tương quan với thực lực,

thế mạnh của người, xem xét mình có điều kiện không, “biết người” là biết rõ

những người xung quanh ta, biết rõ thực lực của người, cụ thể ở đây là phải hiểu

được đối tượng, nhất là đối với các nước lớn, dù là đồng minh hay đối thủ, biết

được mối quan tâm và chiến lược cơ bản của họ, hiểu bản chất và vận hành nội trị

Page 124: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

120

và ngoại giao từng nước lớn, quan hệ hợp tác và đấu tranh giữa các nước lớn, cùng

với những giới hạn của các mối quan hệ đó. Tri kỷ tri bỉ: Biết mình biết người, biết

người biết ta [25, tr.324]. Về tri thời, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc nhận diện

các xu thế, xu hướng của thời đại, của cục diện thế giới. Người nói: “Mọi người đều

phải theo trào lưu cách mạng thế giới” [182, tr.465].

“Biết mình, biết người” để xác định đúng vị trí của mình trong quan hệ với

người (với các nước, các khối liên minh) là một nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt

trong tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh. “Biết mình, biết người”,

“biết thời - thế”, để “biết dừng”, “biết biến” là phương pháp và cũng là nghệ thuật

ngoại giao Hồ Chí Minh, cần phải vận dụng trong sự vận động và biến đổi không

ngừng trong quan hệ quốc tế hiện nay và trong tương lai. Vận dụng nó trong thực

tiễn giúp cho ngoại giao có thể độc lập, tự chủ, nhưng vẫn mềm dẻo, linh hoạt,

không bị cô lập, từ đó có thể thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” với

những nhân nhượng có nguyên tắc và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối

phương, biết thắng từng bước để giành thắng lợi cuối cùng.

Nhìn vào thực tiễn hiện nay của ngoại giao Việt Nam, phải nhận thức được

thế và lực của Việt Nam trong tương quan với các nước trong khu vực và trên thế

giới. Đồng thời phải đánh giá đúng hoàn cảnh, tình thế của Việt Nam trên bàn cờ

chính trị và địa chính trị, trên cơ sở đó làm tốt công tác dự báo đối với sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung và công tác đối ngoại nói riêng.

Với vị trí địa lý là Việt Nam nằm trên con đường tơ lụa trên biển của tham

vọng “giấc mơ Trung Hoa”; với sự “xoay trục” sang Châu Á - Thái Bình Dương

của Mỹ hòng kiềm chế tham vọng của Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu tác động

chủ yếu của tiến trình tranh giành đó, thậm chí có người còn cho rằng, Việt Nam có

vai trò quyết định đến sự tranh đoạt ảnh hưởng toàn cầu giữa Trung Quốc và Mỹ

trước hết là sự thống trị Châu Á. “Con đường tơ lụa trên biển” mà Trung Quốc đưa

ra là sợi dây thít chặt các nước nhỏ yếu vào ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong khi

không thể tranh chấp trực tiếp với Mỹ qua phép thử ở biển Hoa Đông, Trung Quốc

lợi dụng sự chú ý của Mỹ ở nơi khác (Có thể thấy các bước này như sau: 1) Nước

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 thì năm 1956, khi Việt

Nam và thế giới đang chú ý vào việc thực thi hiệp định Giơnevơ 1954, và hai miền

Page 125: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

121

Nam Bắc chưa ổn định, Trung Quốc chiếm các đảo Đông Hoàng Sa. 2) Năm 1974,

Việt Nam tập trung vào giải phóng miền Nam, Mỹ đã rút ra khỏi Việt Nam, Trung

Quốc chiếm các đảo Tây Hoàng Sa. Năm 1988 lợi dụng Việt Nam khó khăn khi bắt

đầu đổi mới, Liên Xô khó khăn đang lo rút khỏi Ápganistan. Mỹ tập trung vào

Đông Âu và Liên Xô trong các cuộc cách mạng màu, Trung Quốc chiếm Gạc Ma.

4) Năm 2014, khi thế giới đang tập trung vào vấn đề Crưm và Ucraina, Trung Quốc

ngang nhiên thực hiện các hoạt động khẳng định chủ quyền ở Biển Đông) để từng

bước tranh đoạt ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Á bằng các hoạt động chiếm đoạt ở

Biển Đông. Khi Biển Đông trở thành khu vực va chạm lợi ích Mỹ - Trung sẽ là nơi

bùng phát lò lửa xung đột khi Mỹ - Trung không kiềm chế.

Có thể thấy, Việt Nam không chỉ trong chiến lược của Trung Quốc ở châu Á

mà còn là vấn đề tranh chấp quốc tế với Mỹ vì lợi ích của Trung Quốc. “Biết

người”- hiểu rõ và nắm được ý đồ chiến lược của Trung Quốc và Mỹ - để xác định

kế hoạch chiến lược trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền đất nước nói chung và

trong ngoại giao nói riêng là vô cùng cần thiết. Đây là bài học cực kỳ có giá trị mà

Hồ Chí Minh đã chỉ ra qua việc thực hiện xử lý quan hệ giữa các liên minh Mỹ -

Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) với liên minh Anh - Pháp ở Đông Dương sau

chiến tranh thế giới lần thứ hai (Hiệp ước Hoa-Pháp tháng 2-1946 là sự thỏa thuận

giữa hai liên minh này. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn rõ bản chất thỏa thuận lợi ích

đó để ký Hiệp định 6-3-1946 nhằm loại bỏ 20 vạn quân đội Trung Quốc (Tưởng

Giới Thạch), người láng giềng thường xuyên xâm lược Việt Nam, đẻ chống lại một

đế quốc già, ở xa và đã kiệt quệ sau chiến tranh thế giới thứ II). Nắm vững ý đồ

chiến lược của các nước lớn, thấy rõ những mâu thuẫn giữa các liên minh và trong

các liên minh lợi ích để “biết dừng, biết biến” để có phương châm đúng với việc ký

kết Hiệp định 6-3-1946 là một ví dụ điển hình của tư tưởng, phương pháp ngoại

giao Hồ Chí Minh.

Cần phải nắm vững và vận dụng linh hoạt phương pháp ngoại giao “Dĩ bất

biến ứng vạn biến” mà Hồ Chí Minh đã dạy để ứng xử với các nước lớn: Đối thoại,

không đối đầu; Kiên trì đấu tranh, không ảo tưởng; Biết thời thế nhằm phát huy cơ

sở pháp lý quốc tế, lẽ phải và thông lệ quốc tế và những tư tưởng tiến bộ của thời

đại, thông qua đó thực hiện phương châm “thêm bạn bớt thù”, làm cho nước nhà ít

Page 126: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

122

kẻ thù hơn và có nhiều bạn đồng minh hơn, tránh đối đầu để không gây thù oán với

một ai. Tất cả những quan điểm này của Hồ Chí Minh chỉ ra cho ngoại giao Việt

Nam nhằm tạo “thế” chính nghĩa về chính trị cho đấu tranh ngoại giao và để tập

hợp lực lượng, tăng cường thực lực cho ngoại giao trong cuộc đấu tranh bảo vệ hòa

bình và chủ quyền của Việt Nam.

Ngoại giao Việt Nam phải quán triệt quan điểm Hồ Chí Minh trong tuyên

bố: “Trong chính sách đối ngoại, triết lý hướng dẫn chúng tôi là sự thực hiện 5

nguyên tắc chung sống hòa bình” [134, tr.228]. Về quan hệ quốc tế, chính sách của

nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rõ ràng và trong sáng: Đó là chính sách hòa

bình và quan hệ tốt. Hồ Chí Minh cho rằng, lợi ích, khát vọng và ý chí lớn nhất của

các dân tộc, của nhân loại là xây dựng một thế giới hòa bình, nhưng đó phải là “một

nền hoà bình chân chính”. Theo Người, “một nền hoà bình chân chính” đúng nghĩa

của nó, phải được “xây trên công bình và lý tưởng dân chủ - phải thay cho chiến

tranh, rằng tự do, bình đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp các nước không phân

biệt chủng tộc và màu da ư?" [128, tr.77]. Đây chính là quan điểm Hồ Chí Minh về

cơ sở, nguyên tắc và cũng là công thức cho một trật tự quốc tế mới. Trật tự đó phải

được xây dựng trên cơ sở xác lập một thiết chế công bình, bình đẳng, dân chủ trên

thế giới, trong đó tự do, bình đẳng, bác ái được thực hiện ở tất cả các nước, nhằm

dựng xây nền "hoà bình chân chính" và vững bền trên hành tinh của Việt Nam.

Quan điểm này xác nhận và chỉ rõ công thức hòa bình Hồ Chí Minh trong quan hệ

quốc tế của thế giới văn minh.

Thực hiện chính sách hòa bình và quan hệ tốt theo phương pháp ngoại giao

mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra là tầm nhìn chiến lược, sâu sắc phải được nhận thức đầy

đủ trong hoạch định và thực hiện chính sách ngoại giao nhất quán của Việt Nam với

tất cả các nước. Để thực hiện tốt đường lối chính sách đối ngoại nhất quán, linh

hoạt, hiệu quả đưa dân tộc hội nhập với thế giới theo dòng chảy tiến bộ của nhân

loại, đòi hỏi Việt Nam phải làm tốt công tác dự báo, nắm chắc tình hình quốc tế và

trong nước, thể hiện rõ quan điểm phải “nhìn cho rộng, suy cho kỹ”, Muốn vậy, cần

phải nắm vững và vận dụng tốt phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong điều

kiện mới.

Page 127: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

123

Thực hiện phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về dự báo và nắm bắt thời

cơ, ngành ngoại giao luôn đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu sâu

sắc đặc điểm tình hình thế giới, khu vực và trong nước để đưa ra những dự báo,

định hướng chính xác. Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh, Đại hội XII chỉ rõ:

“Tăng cường công tác nghiên cứu dự báo chiến lược, tham mưu về đối ngoại; đổi

mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả tuyên truyền đối ngoại…” [55,

tr.156]. Có thể thấy từ những dự báo chính xác để trên cơ sở dự báo ấy, Đảng Cộng

sản Việt Nam đã đổi mới tư duy đối ngoại và đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn,

tranh thủ những thuận lợi của tình hình thế giới và khu vực, vượt qua những khó

khăn thử thách, tạo ra thế và lực mới, đưa đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng, đa

dạng hóa các quan hệ đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, thực hiện thành

công nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

4.2.2. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc xây

dựng chiến lược ngoại giao

Xây dựng chiến lược ngoại giao là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong việc

định hướng giải quyết các vấn đề quốc tế. Trong nhiệm vụ này, cần thiết vận dụng

phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, với tầm nhìn xa trông rộng, ngoại giao Việt

Nam phải nhìn nhận thấu suốt bản chất của sự vận động của quan hệ quốc tế trong

tiến trình toàn cầu hóa hiện nay.

Sự vận động của quan hệ quốc tế trong quá trình tác động của toàn cầu hóa

đã làm thay đổi tương quan lực lượng trong quan hệ quốc tế, dẫn đến những đổi

thay về địa chính trị trên thế giới. Lôi cuốn vào sự thay đổi có tính toàn cầu đó với

sự tranh đấu giữa Mỹ và Trung Quốc là sự tập hợp của hai liên minh lợi ích đã buộc

tất cả các nước phải lựa chọn chiến lược cho phù hợp với những biến đổi mà xu

hướng chung là thế giới sẽ bước vào một cuộc Chiến tranh Lạnh mới trong tương

lai mà thời gian phụ thuộc vào thực lực của cuộc đấu không cân sức trên thế giới

giữa Mỹ và Trung Quốc.

Thực tế hiện nay, cục diện địa chính trị khu vực đang dần đi theo hướng

“chuyển giao quyền lực” khi Trung Quốc đang tìm mọi cách mở rộng ảnh hưởng,

thách thức quyền lực đang có của Mỹ. Sự xoay trục sang Châu Á là một trong

những cố gắng của Mỹ để tìm cách kiềm chế Trung Quốc, thông qua các chiến lược

Page 128: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

124

tiêu biểu như “tái cân bằng” quân sự sang Tây Thái Bình Dương, đàm phán Hiệp

định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với các nước trong khu vực mà không

có sự tham gia của Trung Quốc. Mỹ đang cải thiện và thắt chặt quan hệ với các

nước đồng minh và đối tác, nhất là các nước láng giềng Trung Quốc; sử dụng các

công cụ như luật pháp quốc tế và các thể chế quốc tế để kiềm chế và điều chỉnh

hành vi của Trung Quốc… Vì vậy, Việt Nam phải có sự lựa chọn và xây dựng

đường lối ngoại giao phù hợp, mang lại lợi ích quốc gia cao nhất trong sự vận động

quốc tế đó.

Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, là ngoại giao phải có thực

lực, sự lựa chọn chiến lược hàng đầu của Việt Nam là phải tăng cường nội lực, về

kinh tế, quốc phòng, xây dựng sự đoàn kết và đồng thuận trong cũng như ngoài

nước. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tranh thủ tận dụng các diễn biến địa chính trị khu

vực để nâng cao vị thế chiến lược của mình, góp phần kiềm chế tham vọng của một

số nước lớn. Đặc biệt, cần tận dụng mâu thuẫn giữa các nước lớn đang dần gia tăng

để Việt Nam tăng cường quan hệ những nước có chung nhận thức về mối đe dọa và

lợi ích trên Biển Đông.

Do đó, trong khi vẫn duy trì nguyên tắc trong quan hệ ngoại giao, Việt Nam

cần từng bước thắt chặt quan hệ chiến lược an ninh với các quốc gia chủ chốt trong

khu vực dưới dạng các “liên minh mềm”, đặc biệt là với Hoa Kỳ và Nhật Bản, Nga

- Ấn Độ để có thể nâng cao vị thế chiến lược của mình trong quan hệ với Trung

Quốc, nhất là trên vấn đề Biển Đông. Đó chính là sự vận dụng đúng đắn quan điểm,

tư tưởng Hồ Chí Minh để tăng cường thế và lực cho cuộc đấu tranh ngoại giao bảo

vệ chủ quyền của đất nước. Tư tưởng đó bao gồm cả việc liên kết và ràng buộc,

cộng đồng lợi ích với những quốc gia ủng hộ lợi ích dân tộc chính đáng của Việt

Nam. Việt Nam cần thiết phải duy trì chính sách ngoại giao đa phương, đa dạng và

không ngừng thắt chặt mối quan hệ chiến lược với các nước có lợi ích chung trong

khu vực nhằm hạn chế được tối đa các tác động tiêu cực của cuộc đối đầu Mỹ -

Trung Quốc lên Việt Nam.

Để thực hiện được mục tiêu này, với chính sách ngoại giao đa phương, đa

dạng, Việt Nam phải chủ động can dự, tham gia vào các diễn biến địa chính trị khu

vực, góp phần định hình các diễn biến đó để không phải trở thành kẻ ngoài lề, bị

Page 129: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

125

động đối phó, và rốt cuộc sẽ trở thành nạn nhân bị đem ra mặc cả trong ván cờ giữa

các nước lớn như đã từng xảy ra trong lịch sử mà Mỹ và Trung Quốc đã từng thực

hiện trong thế kỷ XX. Do vậy, bên cạnh chính sách không liên kết phải tính tới việc

thực hiện “liên minh mềm” như là một biện pháp linh hoạt và hiệu quả để Việt Nam

có thể thực hiện nhằm cản trở tham vọng của Trung Quốc.

Có thể nói, trong khi tìm mọi cách cố gắng duy trì quan hệ hòa hiếu với

Trung Quốc, Việt Nam cần phải theo đuổi các mối quan hệ liên minh với các đối

tác ở các lĩnh vực và mức độ khác nhau để đối phó với các mối đe dọa từ Trung

Quốc. Theo nghĩa đó, liên minh không nên được hiểu là đi với nước này để chống

nước kia, mà là đi với nước nào để chúng ta có thể bảo vệ được tốt nhất lợi ích quốc

gia của mình. Tuy nhiên, khi thực hiện chính sách “liên minh mềm” cần phải định

rõ những nguyên tắc cơ bản như sau:

Một là, “liên minh mềm” là tùy vào yêu cầu của tình hình, Việt Nam có thể

tăng cường hay dịu bớt ưu tiên đối với chính sách này, miễn sao có thể giúp phục

vụ tốt nhất lợi ích quốc gia, thể hiện trước hết ở việc bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ,

chủ quyền quốc gia, và sau đó là đồng thời duy trì được quan hệ hòa bình, ổn định,

hai bên cùng có lợi với Trung Quốc.

Hai là, “liên minh mềm” là liên minh với đối tác đa dạng, tùy vào phạm vi

và mục đích của liên minh, dựa trên nguyên tắc phối hợp với những nước có lợi ích

tương đồng để cùng theo đuổi mục đích hay cân bằng lại mối đe dọa chung.

Ba là, “liên minh mềm” là liên minh đa dạng cả về chính trị, ngoại giao,

pháp lý…, qua đó giúp các quốc gia cùng chia sẻ lợi ích đối phó với mối đe dọa

chung. Việc hình thành các liên minh về chính trị, ngoại giao, pháp lý… với các

nước khác bản thân chúng đã có giá trị răn đe đối với các mối đe dọa. Hơn nữa,

trong trường hợp xung đột không thể tránh khỏi thì các đồng minh dù không can dự

trực tiếp về quân sự nhưng vẫn có thể mang lại những hỗ trợ quý giá về cả vật tài,

vật lực và tinh thần để giúp chúng ta chống lại sức ép quân sự từ mọi phía.

Bốn là, việc tiến hành “liên minh mềm” không đồng nghĩa với việc Việt

Nam hi sinh quan hệ với Trung Quốc. Đó chỉ là một công cụ giúp Việt Nam quản lý

và điều chỉnh mối quan hệ với Trung Quốc để Trung Quốc phải tôn trọng các lợi

ích chính đáng của Việt Nam. Vì vậy, trong trường hợp khi Trung Quốc không phải

Page 130: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

126

là một mối đe dọa đối với Việt Nam thì Việt Nam vẫn sẵn sàng phát triển quan hệ

tốt đẹp với Trung Quốc, nhất là về mặt kinh tế, văn hóa. Trên cơ sở các điều kiện và

nguyên tắc này, Việt Nam cần xác định các liên minh có thể xây dựng phù hợp.

Hiện nay, có thể xác định 3 loại hình liên minh mà Việt Nam có thể thiết lập là liên

minh chính trị - ngoại giao, liên minh pháp lý và liên minh quân sự. Đương nhiên

có thể có sự kết hợp giữa các liên minh này với nhau ở những quốc gia có cùng lợi

ích nhất định. Ví dụ có thể xây dựng liên minh pháp lý giữa Việt Nam - Nhật Bản -

Philippines vì: 1) Cả 3 nước đều có chung một mối đe doạ là Trung Quốc; 2) Cả 3

nước đều không có lợi khi giải quyết tranh chấp bằng quân sự; 3) Sự ra đời liên

minh 3 nước giúp tăng lợi thế của mỗi nước so với việc từng quốc gia đứng ra kiện

Trung Quốc; 4) Liên minh pháp lý tạo nên sự đồng thuận, qua đó thắt chặt quan hệ

chính trị - ngoại giao giữa 3 nước.

Năm là, cùng với việc xây dựng “liên minh mềm” đáp ứng nhu cầu hội nhập

và đối phó với áp lực bên ngoài, ngoại giao Việt Nam phải đồng thời tiến hành cuộc

đấu tranh chống lại sự chia rẽ mà trước hết là trong khối các nước ASEAN. Sự

không đồng thuận của ASEAN là bất lợi cho Việt Nam và là thành công của Trung

Quốc trong việc bẻ gãy từng chiếc đũa trong tập hợp không ràng buộc này. Do đó,

việc tham gia có trách nhiệm của Việt Nam trong xây dựng ASEAN chính là xây

dựng sự đồng thuận trong khối, tạo ra hậu thuẫn từ bên trong và kêu gọi sự ủng hộ

từ bên ngoài.

4.2.3. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc góp

phần mở rộng hội nhập quốc tế thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và các lĩnh

vực khác

Trong thời gian tới, trước tình hình quốc tế, khu vực và trong nước có nhiều

biến động khó lường, để tiếp tục nâng cao vị thế và vai trò cầm quyền của Đảng

Cộng sản Việt Nam trong việc hoạch định, bổ sung và phát triển đường lối đối

ngoại cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:

Đảng phải giữ vững và phát huy đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng

mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đồng thời luôn tôn trọng các

nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế là tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can

thiệp vào nội bộ của nhau và cùng có lợi.

Page 131: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

127

Đường lối đối ngoại của Đảng phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.

Trong quá trình xây dựng và phát triển đường lối đối ngoại, Đảng Cộng sản

Việt Nam cần kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao và hội nhập quốc tế

của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nổi bật hơn cả là phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn

biến”, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, kết hợp với mở rộng hợp

tác quốc tế. Hợp tác quốc tế bao gồm những nội dung rất rộng, phải có sự định

hướng và tuân thủ các nguyên tắc nhất định.

Hợp tác quốc tế trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, trước hết phải

tuân thủ nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc, không can thiệp

vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, loại bỏ sự áp đặt hay ép

buộc trong quan hệ kinh tế bởi tác động của các mối quan hệ có liên quan đến quân

sự, chính trị hay trật tự - an ninh.

Tự lực, tự cường, xây dựng tiềm lực trong nước là điều kiện để mở rộng hợp

tác quốc tế. Theo Người, độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ nơi lực lượng của

Việt Nam: “phương châm của ta hiện nay là: tự lực cánh sinh là chính, việc các

nước bạn giúp ta là phụ” [134, tr.56], “ta được các nước bạn giúp, tức là có thêm

điều kiện để tự lực cánh sinh” [134, tr.144] và “các nước bạn giúp ta cũng như thêm

vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng cho ta, phát triển khả

năng của ta” [134, tr.56]. Về thực chất, Hồ Chí Minh đã xác định đúng vị trí và giải

quyết chính xác phép biện chứng về mối quan hệ giữa nhân tố bên trong và bên

ngoài, giữa nội lực và ngoại lực trong xây dựng và phát triển kinh tế; nhân tố bên

trong, nội lực là chính, là quyết định; còn nhân tố bên ngoài, ngoại lực là phụ,

nhưng lại rất cần thiết và quan trọng.

Quán triệt phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về vận động quốc tế, kết

hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giành thắng lợi trong quan hệ đối

ngoại, cần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối

đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát

triển, chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc

tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và giải quyết tốt các

Page 132: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

128

mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh, đồng thời chú trọng một số nội

dung sau:

1. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của

Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã

hội chủ nghĩa.

Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới

sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải

phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá

nhân, khai thác hiệu quá các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân,

bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài

vào công cuộc xây dựng đất nước.

2. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; gắn kết chặt chẽ và

thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện

đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc

gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng, khu vực

trong nước.

3. Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo

thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố

quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được phát

triển đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi

phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.

4. Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích

quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi

vào thế bị động, đối đầu.

5. Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi

với chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ

quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề

xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai

trò của cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa

bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Page 133: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

129

Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo và những định hướng lớn trong hợp tác quốc

tế, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội chúng ta cần tập trung vào những

giải pháp cơ bản sau đây:

Thứ nhất, tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân về yêu cầu hội

nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức, về phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu

của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng lĩnh vực, để thống nhất nhận thức và

hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình hội nhập quốc tế.

Xây dựng và triển khai chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế, trước mắt

đến năm 2020, chú trọng việc đổi mới thể chế phát triển nguồn nhân lực, hiện đại

hóa kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy, thiết lập bộ máy đủ thẩm

quyền và năng lực để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát và phối hợp các hoạt

động hội nhập quốc tế. Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp, các

ngành từ Trung ương đến địa phương trong các hoạt động hội nhập trên các lĩnh

vực; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo.

Thứ hai, về hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung

ương 4 (khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển

nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới

(WTO): Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội hơn. Nhưng mặt

khác, thách thức cũng lớn hơn và khó khăn cũng tăng lên. Nền kinh tế và các doanh

nghiệp Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn gấp bội, trong một

môi trường quốc tế có nhiều biến động, khó dự đoán và có độ rủi ro cao. Trong điều

kiện đó, nếu không có một cơ cấu kinh tế tổng thể hiệu quả và vững chắc, một hệ

thống thể chế vận hành đồng bộ, nền kinh tế sẽ không thể hội nhập thành công,

càng không thể cạnh tranh thắng lợi và phát triển bền vững. Đây chính là điểm mấu

chốt phải tính đến khi xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta

trong giai đoạn tới.

Không ngừng cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài, gắn thu hút

đầu tư với giám sát quá trình thực thi, bảo đảm an ninh kinh tế hiệu quả kinh tế

xã hội, môi trường. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu đầu tư công, khuyến khích

Page 134: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

130

các hoạt động đầu tư tư nhân và các hoạt động hợp tác công - tư. Nâng cao hiệu

quả sử dụng vốn.

Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã thỏa thuận. Xây

dựng và triển khai chiến lược, tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác

kinh tế - thương mại quan trọng trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù

hợp với lợi ích và khả năng của đất nước. Chủ động xây dựng và thực hiện các biện

pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng

trong nước. Đẩy mạnh việc tham gia vào các thể chế thương mại - tài chính - tiền tệ

khu vực và toàn cầu, xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập trong lĩnh vực tài

chính tiền tệ phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển của đất nước.

Thứ ba, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối

tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển và an ninh của đất nước; đưa

khuôn khổ quan hệ đó xác lập đi vào thực chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa

nước ta với các đối tác.

Chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng

trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột,

củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi. Trong đó, đặc biệt chú trọng việc

tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN, phát huy vai trò của Việt Nam trong

ASEAN và các cơ chế diễn đàn do ASEAN giữ vai trò trung tâm, nhằm tăng cường

đoàn kết, gia tăng liên kết nội khối, củng cố quan hệ hợp tác với các bên đối thoại

của ASEAN, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực.

Phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn, cơ chế hợp tác mà nước ta là thành

viên. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các tổ chức, diễn đàn khác, đáp ứng

yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tích cực triển khai chủ trương

đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức quốc tế; chủ động chuẩn bị nhân

sự ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức quốc tế.

Chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, tích cực và nâng cao hiệu

quả tham gia các diễn đàn các chính đảng; tích cực tham gia các cơ chế hợp tác nghị

viện và liên nghị viện khu vực và quốc tế; mở rộng giao lưu nhân dân, tranh thủ sự

đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Page 135: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

131

Thứ tư, xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập quốc phòng, an ninh phù

hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia, khai thác hiệu

quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế quốc tế của đất nước nhằm phục vụ mục tiêu

bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương về quốc phòng, an ninh với

các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước bạn bè truyền

thống; từng bước đưa hợp tác đi vào chiều sâu, hiệu quả. Chủ động phát hiện, đấu

tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng hội

nhập quốc tế để xâm phạm an ninh quốc gia của nước ta. Đẩy mạnh quan hệ hợp

tác với các cơ quan an ninh, tình báo, cảnh sát các nước, trước hết là các nước láng

giềng, các nước lớn; chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác chống tội phạm

xuyên quốc gia và đối phó với các thách thức về an ninh lương thực, an ninh nguồn

nước, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh biển và các thách thức an ninh phi

truyền thống khác. Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc

phòng an ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ chế trong khuôn khổ

ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các

cơ chế đa phương khác; trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao

hơn, như hoạt động giữ gìn hòa bình của Liên Hợp quốc, kiểm soát phổ biến vũ khí

hủy diệt hàng loạt diễn tập chung và các hoạt động khác, đáp ứng yêu cầu của

nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và góp phần đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu

ổn định, bền vững.

Thứ năm, về văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế

và các lĩnh vực khác, cần lồng ghép các hoạt động hội nhập quốc tế trong quá trình

xây dựng và triển khai chiến lược phát triển các lĩnh vực này.

Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn hóa, xã hội, khoa học -

công nghệ, giáo dục - đào tạo, trước hết là xây dựng cộng đồng văn hóa - xã hội

ASEAN, tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất

lượng cao. Tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, tiếp thu tri thức, nhất là tri thức về

quản lý và khoa học - công nghệ, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tăng

cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Page 136: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

132

Thực hiện các cam kết và đóng góp vào việc sửa đổi, hoàn thiện và xây dựng

mới các chuẩn mực, sáng kiến của các tổ chức quốc tế mà nước ta là thành viên,

trước hết là các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc. Tích cực tham gia các thể

chế hợp tác về môi trường, đóng góp vào nỗ lực chung phòng, chống thiên tai, ứng

phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng, nguồn nước, động vật,

thực vật ở Việt Nam và trên thế giới.

Chủ động, tích cực giới thiệu, tham gia và nâng cao chất lượng thành tích

trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao... ở khu vực và thế giới.

Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, văn hóa, thông tin,

tuyên truyền; đấu tranh có hiệu quả nhằm hạn chế các tác động tiêu cực về xã hội,

văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống.

4.2.4. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc bảo vệ

lãnh thổ, các tranh chấp về chủ quyền ở Biển Đông

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng và bảo vệ chủ

quyền biên giới, biển, đảo quốc gia. Quan điểm của Người là luôn tăng cường quan

hệ, hữu nghị với các nước láng giềng bằng nhiều hình thức ngoại giao nhà nước đến

việc thiết lập quan hệ với chính quyền và nhân dân các địa phương sống chung

cùng đường biên giới, giải quyết xung đột bằng đàm phán thương lượng, để xây

dựng biên giới, vùng biển, đảo hòa bình, hữu nghị vững chắc lâu dài.

Vận dụng tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào bảo vệ Tổ

quốc, Đảng và Nhà nước đã coi trọng và chủ động thiết lập quan hệ hợp tác, hữu

nghị với các nước có chung đường biên giới, vùng biển đảo với Việt Nam. Những

năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại về

quốc phòng, an ninh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mang tính đột phá, tạo

điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Trước xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, để phát triển và thực hiện mục tiêu

chiến lược: "ổn định lâu dài biên cương quốc gia", việc tiếp tục quán triệt tư tưởng,

phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị,

bền vững có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo môi trường ổn định phục vụ sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ

Page 137: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

133

quốc gia. Đây cũng là điều kiện, giải pháp quan trọng để giải quyết triệt để mọi

nguy cơ xung đột trên tuyến biên giới, biển đảo.

Hồ Chí Minh rất yêu chuộng hòa bình và suốt đời phấn đấu cho hòa bình của

các dân tộc trên thế giới. Theo Người, hòa bình phải gắn với độc lập, tự do và chủ

quyền đất nước và kiên trì quan điểm lấy đối thoại thay cho đối đầu, đối thoại trên

cơ sở có tình, có lý để phân giải các mối bất hòa. Hồ Chí Minh luôn cho rằng, cần

có chính sách đúng đắn, phải làm sao vui lòng được mọi người…và căn dặn phải

nắm vững nguyên tắc cứng rắn với sách lược mềm dẻo… lạt mềm nhưng buộc chặt.

Thực tiễn biên giới, vùng biển, đảo thuộc chủ quyền của nước ta do lịch sử

để lại còn nhiều vấn đề phức tạp dễ dẫn đến tranh chấp, xung đột vũ trang. Giải

quyết những vấn đề trên phải bằng đối thoại trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền,

toàn vẹn lãnh thổ của nhau và quan tâm đến lợi ích của nhau thì không những giữ

được chủ quyền lãnh thổ mà còn tăng cường được tình đoàn kết, hữu nghị giữa các

nước. Ngược lại, chính quan hệ đoàn kết, hữu nghị sẽ tạo ra bầu không khí cởi mở,

thông cảm và hiểu biết lẫn nhau, giúp cho đàm phán giải quyết mọi vấn đề trên biên

giới được nhanh chóng, thuận lợi.

Hoạt động ngoại giao giải quyết các mối quan hệ trên biên giới, lãnh thổ, đặc

là vấn đề biển Đông theo phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là thực hiện theo

nguyên tắc vừa hợp tác, vừa đấu tranh, linh hoạt, khôn khéo tạo và chọn thời cơ

đàm phán và vận dụng phương pháp, nghệ thuật ngoại giao “lấy nhu chế cương”;

“nhân nhượng có nguyên tắc” nhằm giữ vững chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia,

dân tộc, đồng thời cũng là mục tiêu xây dựng và củng cố hòa bình, hữu nghị và bền

vững lâu dài.

Theo Hồ Chí Minh, trong hoạt động ngoại giao và chọn thời cơ đàm phán,

cần nắm vững phương châm kiên trì về nguyên tắc, giữ vững chiến lược, nhưng

mềm dẻo, linh hoạt về sách lược theo tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Người

cho rằng, mục đích bất biến của chúng ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân

chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì phải linh

hoạt. Phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của dân tộc, và vị trí, vai trò của nước ta

trong quan hệ chính trị quốc tế, xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam

và tình hình đối phương để xác định đúng thời cơ đàm phán.

Page 138: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

134

Ngoại giao là một mặt trận, phải luôn luôn “giữ quyền chủ động”, “giữ thế

công” trong quá trình chọn thời cơ đàm phán. Thế công được thể hiện bằng sự chủ

động của nhiều lực lượng, nhiều hình thức đấu tranh,...Hồ Chí Minh nêu quan điểm

chỉ đạo cho hoạt động ngoại giao là phải luôn chủ động để "thấy trước, chuẩn bị

trước". Người nói “Muốn thành công: thì phải biết trước mọi việc” [127, tr.588];

phải tích cực chuẩn bị các điều kiện, nhưng phải biết chọn thời cơ để giành thắng

lợi từng bước, giành thắng lợi từng bộ phận.

Chọn thời cơ đàm phán, trên cơ sở để biết người, biết mình; dự báo đúng tình

hình thời cuộc - các xu thế vận động trong quan hệ quốc tế; thái độ, chính sách của

các nước lớn đối với Việt Nam; tình hình đối phương và thực lực đất nước. Theo

quan điểm của Hồ Chí Minh, bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm

vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước.

Tranh lấy hòa bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ

gian khổ phức tạp, nó có những điều kiện có lợi, cũng có những khó khăn. “Những

điều kiện lợi cho ta là: các nước bạn ủng hộ ta, nhân dân thế giới cũng ủng hộ ta,

nhân dân ta hăng hái và tin tưởng vào Đảng và Chính phủ ta. Đảng và Chính phủ ta

lãnh đạo khéo thì nhân dân ta nhất định đoàn kết đấu tranh…” [46, tr.169].

Thời cơ đàm phán không chỉ đến từ sự tương tác của các nhân tố bên ngoài -

điều kiện quốc tế, mà thời cơ đàm phán xuất hiện còn do các nhân tố khác như: đối

phương và thực lực trong nước; do đó, việc xác định thời cơ đàm phán phải kết hợp

được các nhân tố khách quan và chủ quan. Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh “Chưa

biết mưu mô của các nước, thì không thể ngoại giao” [127, tr.571], cũng tức là nếu

chưa biết được nội tình và âm mưu của đối phương thì chưa nên quyết định việc

đàm phán. Do đó, trong ngoại giao phải tránh những hành động nóng vội; tránh tự ti

mà bỏ lỡ thời cơ; tránh ảo tưởng; phải tỉnh táo để có những dự báo chính xác về thời

cơ [147, tr.211].

Theo quan điểm Hồ Chí Minh, khi nghiên cứu tình hình, đặc điểm thế giới

và xu thế quốc tế, phải rút ra những nhận định mang tính bản chất nhất; phải nhận

thức rõ tương quan lực lượng giữa ta, phía ta với đối phương, và phía đối phương,

đồng thời thấy được chiều hướng phát triển của tình hình để dự báo khả năng, thời

điểm và thời cơ đàm phán.

Page 139: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

135

Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò, vị trí, và tầm quan trọng của chính

sách ngoại giao các nước lớn trên chính trường quốc tế. Bởi vì:

Chính sách của các nước lớn, quan hệ giữa họ với nhau tác động trên

một mức độ lớn đến tình hình thế giới và quan hệ quốc tế… trong thực

tế, không ít trường hợp, các nước lớn đã dàn xếp với nhau để đạt tới các

giải pháp có lợi cho họ và bất lợi cho các nước khác. Tuy nhiên, nếu các

nước nhỏ và vừa có đối sách đúng đắn, phù hợp với vị trí địa lý - chính

trị - kinh tế của mình, khai thác được các mối quan hệ tuỳ thuộc, ứng xử

khôn khéo, linh hoạt và kịp thời, biết kiên trì đấu tranh, thì có thể hạn chế

được những thoả hiệp nước lớn bất lợi cho mình [147, tr.148-149].

Phải lợi dụng được chính sách của các nước lớn, phải “tranh thủ sự đồng tình

và ủng hộ của nhân dân toàn thế giới” [133, tr.550]. Đó là hai trong số các điều kiện

để mở đàm phán.

Hồ Chí Minh cho rằng, hoạt động ngoại giao nói chung, thương lượng đàm

phán nói riêng là một mặt trận, cần mở rộng và tranh thủ mọi lực lượng, hình thức

đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại “muốn làm cách mạng thắng lợi

thì phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”

[137, tr.453].

Với trong nước, hoạt động ngoại giao phải dựa trên cơ sở sức mạnh bên

trong - sức mạnh của toàn dân, toàn diện, gồm sức mạnh của khối đại đoàn kết dân

tộc, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất nước - đó là sức

mạnh tổng hợp quốc gia (là thực lực). Muốn thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, Hồ

Chí Minh cho rằng phải có thực lực “Phải trông ở thực lực, thực lực mạnh, ngoại

giao sẽ thắng lợi, thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to

tiếng mới lớn” [128, tr.147]. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn quy tụ, phát

huy sức mạnh nhân dân, tạo thực lực mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, phải:

1) Tuyên bố rõ lập trường của Đảng và Nhà nước ta để củng cố niềm tin của

nhân dân vào Đảng, nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ;

2) Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, để mọi người dân hiểu biết đầy đủ về

chủ quyền lãnh thổ trên biển để nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người dân

trong việc bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc;

Page 140: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

136

3) Cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực để nhân dân biết rõ về các âm mưu,

hành động của các thế lực bành trướng xâm phạm chủ quyền biển, đảo nước ta;

4) Phát triển kinh tế biển nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng biển, đồng thời

bảo đảm thường xuyên an ninh và chủ quyền biển, đảo;

5) Tạo dựng dư luận rộng rãi, mạnh mẽ chống việc Trung Quốc xâm chiếm

biển đảo của Việt Nam từ nhân dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài.

6) Xây dựng, lực lượng vũ trang đủ mạnh để bảo vệ biển, đảo;

Với bên ngoài, Hồ Chí Minh cho rằng: “Nước ta là một bộ phận của thế

giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng

có quan hệ đến nước ta” [132, tr.346]; những hoạt động của nước ta “có muôn ngàn

sợi dây liên hệ với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ” [134, tr.401]; nhưng

phải độc lập, tự chủ, phải khôn khéo, phải “vạch rõ những phương pháp và những

biện pháp của riêng mình”, để “tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ lớn nhất của nhân

dân tiến bộ trên thế giới”; nhưng “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự

giúp lấy mình đã” [126, tr.320]. Phải thực hành chính sách đối ngoại rộng mở

“chính sách mở cửa và hợp tác”, “chính sách hoà bình và quan hệ tốt”; tránh đối

đầu, và không gây thù oán với một ai. Trong quan hệ với các nước, các tổ chức

quốc tế, cần tìm ra những điểm tương đồng, khai thác mọi khả năng có thể, nhằm

tập hợp lực lượng đoàn kết ủng hộ Việt Nam theo nhiều cấp độ. Trong hoạt động

đối ngoại phải phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại

giao văn hoá...

Để tạo được vị thế quốc tế thuận lợi cho đấu tranh ngoại giao nói chung và

đàm phán nói riêng, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý việc mở rộng quan hệ đối ngoại

trên nhiều hướng, với chính sách đối ngoại rộng mở phù hợp với đặc điểm và xu thế

quốc tế. Hồ Chí Minh đã nêu tư tưởng chỉ đạo: “Ngoại giao của ta là cốt tranh thủ

nhiều người ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của ta” [139, tr.61]. Theo

Người, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về

Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nghệ thuật ngoại giao là phải “lấy nhu chế cương”

khi Người nói: “Hai hòn đá cùng chọi nhau thì hai hòn cùng vỡ, hai cái trứng cùng

chọi nhau thì hai cái cùng vỡ. Phải một cái cứng, một cái mềm thì khi chọi nhau

Page 141: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

137

một cái mới còn. Nên hai bên cùng dùng mưu trí” [129, tr.70]. Tư tưởng chỉ đạo

hoạt động ngoại giao và đàm phán mà Hồ Chí Minh chỉ ra là người ta cương thì

mình phải nhu, phải khôn khéo lấy nhu thắng cương thì mới là biết mình biết người.

Hồ Chí Minh cho rằng, trong đàm phán ngoại giao phải có sự thoả hiệp lẫn

nhau, bởi theo Người: “Dùng lối nói chuyện thì phải nhân nhượng nhau đúng mức”

[132, tr.551]. Tuy nhiên, đó không phải là sự thỏa hiệp bằng bất cứ giá nào, bất cứ

lúc nào, mà phải trên cơ sở giữ vững nguyên tắc - phải nắm vững sự nhân nhượng

có nguyên tắc. Nghĩa là, trong ngoại giao phải biết nhân nhượng lợi ích bộ phận,

tạm thời, đúng mức, đúng lúc tại những hoàn cảnh tương quan lực lượng chưa có

lợi cho ta để bảo vệ lợi ích lâu dài, bảo tồn lực lượng cách mạng, từng bước tiến lên

và đi tới mục tiêu cuối cùng là bảo vệ quyền lợi quốc gia và lợi ích chính đáng của

các dân tộc [147, tr.273]. Đối với những nước lớn, Hồ Chí Minh hết sức tránh đối

đầu chừng nào còn có thể tránh được, tìm ra những điểm tương đồng giữa ta với họ,

cũng như hiểu quan hệ giữa họ với nhau, không để Việt Nam “bị kẹp” trong xung

đột nước lớn, tranh thủ các nước lớn nào có thể tranh thủ được; hết sức tránh gây

căng thẳng, đối đầu và thực hiện phương châm “không gây thù oán với một ai”

[147, tr.158-159].

Tuy nhiên, để có thể làm tốt những vấn đề trên, theo tư tưởng, phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh, đã đến lúc phải đánh giá lại bản chất quan hệ với các nước

như: Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ… để có định hướng chính sách đối

ngoại ứng phó với những thay đổi trong quan hệ song phương cũng như với các

nước lớn trong môi trường chiến lược. Sự đánh giá này cũng phải trên cơ sở lợi ích

quốc gia trên cơ sở của các nguyên tắc chung sống hòa bình, để không lệ thuộc vào

ý thức hệ đã bị chính các đối tác vứt bỏ.

Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, để tranh thủ sự ủng hộ

quốc tế trong đàm phán hòa bình bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam,

cần phải:

1) Thực hiện các kênh ngoại giao với nhiều hình thức, nhằm làm cho nhân

dân thế giới trong đó đặc biệt là nhân dân Trung Quốc, hiểu biết rõ về những văn

bản, những bản đồ, hiện vật chứng minh Hoàng Sa - Trường Sa từ hàng thế kỷ

trước đã thuộc quyền quản lý của người Việt; cung cấp sự thật là chính bản đồ của

Page 142: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

138

Trung Quốc từ năm 1904 thể hiện ranh giới lãnh hải của nước này chỉ đến đảo Hải

Nam. Đây là những tư liệu lịch sử quý giá, rất có giá trị pháp lý, lịch sử; phải làm

cho nhân dân thế giới hiểu rõ về Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982, cơ sở

pháp lý để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trên Biển Đông; biết rõ sự thật việc chủ

quyền biển, đảo Việt Nam đã và đang bị xâm phạm một cách trắng trợn;

2) Thể hiện công khai, minh bạch lập trường của Việt Nam tôn trọng luật

pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982)

và tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); thể hiện sự kiên

trì của Việt Nam về chủ trương giải quyết hòa bình, không sử dụng vũ lực trong các

tranh chấp chủ quyền biển, đảo;

3) Quốc tế hóa các bằng chứng chứng minh Hoàng Sa - Trường Sa từ hàng

thế kỷ trước đã thuộc quyền quản lý của người Việt, và bản đồ của Trung Quốc từ

năm 1904 lên Tòa án quốc tế, cùng đồng thời với việc quốc tế hóa sự thật về vấn đề

tranh chấp chủ quyền lãnh thổ biển đảo thuộc chủ quyền Việt Nam; cần đưa hành

động phi lý xâm phạm chủ quyền biển, đảo Việt Nam ra các thiết chế luật pháp

quốc tế;

4) Phát huy xu thế toàn cầu hóa, xu thế hòa bình, phát triển, để đẩy mạnh

các hợp tác quốc tế song phương và đa phương, nhằm bảo vệ tự do hàng hải trên

biển Đông và khai thác nguồn lợi kinh tế biển Đông, chia sẻ trách nhiệm, lợi ích,

tạo lợi ích đan xen về kinh tế biển Đông với các nước;

5) Đối với tổ chức ASEAN, cần thể hiện sâu sắc hơn tư cách thành viên chủ

động, tích cực và trách nhiệm cao; nhằm góp phần củng cố đoàn kết, tăng cường

quan hệ hữu nghị với các thành viên, giữ vững và phát huy vai trò trung tâm của

ASEAN trong cấu trúc khu vực; củng cố mối quan tâm chung của ASEAN là hòa

bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông; thực hiện đầy đủ và hiệu quả

Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy sớm xây dựng Bộ

Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) [30];

6) Trên quan điểm độc lập tự chủ, phối hợp đấu tranh với các nước có lợi

ích trực tiếp ở biển Đông đang bị Trung Quốc xâm lấn hoặc nguy cơ bị Trung Quốc

xâm chiếm (Trước việc Trung Quốc “trỗi dậy bành trướng” liên tục có những hành

động lấn lướt, hung hãn, một số nước đã hình thành các liên minh để đối phó với

Page 143: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

139

Trung Quốc trên biển Đông, như: Australia - Philippines, Mỹ - Australia, Mỹ - Nhật

Bản - Autralia, Mỹ - Nhật Bản, Mỹ - Philippines, Nhật Bản - Philippines, Mỹ - Hàn

Quốc, Ấn Độ - Nhật Bản, để làm đối trọng, bủa vây Trung Quốc tứ phía); tranh thủ

sự đồng tình ủng hộ của tất cả các nước lớn, trên cơ sở lợi ích chung về an ninh, tự

do hàng hải, lợi ích kinh tế trên biển Đông. Vận dụng tư tưởng, phương pháp ngoại

giao Hồ Chí Minh trong quan hệ với các nước lớn, tích cực mở rộng quan hệ, hợp

tác với các nước lớn trong việc đầu tư, khai thác nguồn lợi ở biển Đông, trên cơ sở

đó, ràng buộc các nước lớn trong quan hệ lợi ích với Việt Nam, để các nước ủng hộ

chủ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam ở biển Đông. Đặc biệt chú ý quan hệ

với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc những nước vừa có lợi ích tự do hàng hải ở biển

Đông, vừa có lợi ích trong việc chống lại sự độc chiếm, chi phối biển Đông của

Trung Quốc.

Cần xuất phát từ tầm cao chiến lược, xuất phát từ lợi ích lâu dài của nhân

dân hai nước, giải quyết những tranh chấp, theo nguyên tắc công bằng và hợp lý,

hai bên cùng có lợi, thông cảm và hiểu biết lẫn nhau, đi từ dễ đến khó; tuần tự

tiệm tiến, gia tăng cường độ đàm phán; mềm dẻo, linh hoạt, kiên trì, kiên quyết và

hiệu quả.

Tóm lại, trên tinh thần nêu cao tinh thần yêu chuộng hòa bình, Việt Nam

mong muốn và quyết tâm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các quốc gia có

liên quan đến vấn đề biển Đông bằng biện pháp hòa bình, thương lượng đối thoại,

những vấn đề tranh chấp ở biển Đông sẽ sớm được giải quyết vì lợi ích của các dân

tộc, vì hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

4.2.5. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc nâng

cao hiệu quả của hoạt động ngoại giao trong tình hình mới

Thấm nhuần quan điểm, phương pháp “thêm bạn bớt thù”, đứng trước yêu

cầu mới của tình hình trong nước và quốc tế, phải tiếp tục xây dựng chiến lược

ngoại giao toàn diện, phục vụ hiệu quả hơn nữa cho các mục tiêu hòa bình và phát

triển của đất nước trong thời kỳ mới. Thực hiện nguyên tắc cao nhất của hoạt động

ngoại giao là: “Vì lợi ích quốc gia, dân tộc” [54, tr.236] và “vì một nước Việt Nam

xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Trong đó, bảo

đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ

Page 144: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

140

nghĩa và xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp lợi

ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó. Triển khai đồng

bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại và chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nhiệm

vụ của công tác ngoại giao là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống

nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc

đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” [54,

tr.236] là chủ trương đúng đắn, kịp thời và sáng suốt của Đảng và Nhà nước, phù

hợp với đòi hỏi của tình hình mới. Trên tinh thần đó, ngoại giao Việt Nam sẽ đóng

vai trò là mặt trận quan trọng, tiếp tục là khâu đột phá phục vụ cho các mục tiêu

phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, tăng cường sức mạnh quốc phòng và

nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới là quán

triệt “dĩ bất biến ứng vạn biến”, ưu tiên cao nhất là phục vụ lợi ích quốc gia, dân

tộc, coi đây là nguyên tắc bất biến và xuyên suốt trong sự nghiệp bảo vệ và xây

dựng đất nước. Ngoại giao toàn diện cần huy động được sức mạnh tổng hợp của các

chủ thể trong nước, giữa trong nước với ngoài nước; phối hợp chặt chẽ, chia sẻ

thông tin, thiết lập cơ chế hợp tác giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối

ngoại nhân dân, ngoại giao nghị viện; giữa ngoại giao với các bộ, ngành, địa

phương, doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể - xã hội... trong triển khai nhiệm vụ đối

ngoại một cách phù hợp; phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao chính trị, ngoại giao

kinh tế, ngoại giao văn hóa; giữa ngoại giao với an ninh, quốc phòng; giữa ngoại

giao song phương với ngoại giao đa phương.

Ngoại giao toàn diện phải bảo đảm tính thống nhất và tập trung ở cả trong

nước và ngoài nước dưới sự lãnh đạo tuyệt đối và thống nhất của Đảng, sự quản lý,

điều hành tập trung của Nhà nước. Đây là một trong những điều kiện then chốt nhất

quyết định sự phát triển đúng hướng của ngoại giao toàn diện trong bối cảnh mới.

Ngoại giao cần nhận thức đúng đắn, sâu sắc về chủ trương hội nhập quốc tế

và các nội hàm của ngoại giao toàn diện là một trong những điều kiện tiên quyết

đảm bảo triển khai thành công ngoại giao toàn diện trong thời gian tới. Trước hết,

cần có nhận thức và hành động thống nhất và nhất quán về hội nhập quốc tế, coi hội

Page 145: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

141

nhập vừa là nhu cầu cơ bản, lâu dài, vừa là định hướng chiến lược và phương tiện

quan trọng để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và củng cố an ninh

và độc lập tự chủ trong giai đoạn chiến lược mới, từ đó củng cố và nâng cao niềm

tin vào sự lãnh đạo của Đảng và năng lực quản lý của Nhà nước. Đồng thời, cần

quán triệt sâu sắc phương châm chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế, trước hết

là chủ động, tích cực trong nắm bắt thời cơ, nhận rõ thách thức; chủ động, tích cực

trong lựa chọn mức độ và tốc độ tham gia, thậm chí khởi xướng các liên kết khu

vực và quốc tế phù hợp với lợi ích của Việt Nam, trong tăng cường năng lực mọi

mặt để nắm bắt, tạo dựng và tận dụng cơ hội và xử lý hiệu quả các thách thức từ quá

trình hội nhập.

Bên cạnh việc nắm vững, quán triệt đầy đủ các mục tiêu, trọng tâm đối ngoại

chiến lược, dài hạn (trong mối quan hệ biện chứng với các mục tiêu chung của đất

nước), cần nhận thức đúng đắn nội hàm, yêu cầu của ngoại giao toàn diện trong tình

hình mới. Nhận thức đó cũng cần phải linh hoạt, uyển chuyển, phát triển biện

chứng; cần liên tục theo dõi, nắm bắt thực tiễn, đánh giá, tổng kết quá trình triển

khai từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để có những điều chỉnh kịp thời. Để nâng cao

hiệu quả hoạt động ngoại giao trong tình hình mới theo tư tưởng, phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh, cần thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau đây:

Thứ nhất, đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân phải

kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa, hỗ trợ thúc đẩy lẫn nhau phát huy sức mạnh tổng

hợp của Việt Nam trên trường quốc tế.

Để làm tốt được nội dung này, công tác dự báo phải đi trước một bước, đề án

triển khai phải xử lý nhanh, cần tăng thêm các sáng kiến mới tại các diễn đàn quốc

tế, chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung, nâng cao vị thế của

Việt Nam trên trường quốc tế.

Vận dụng tư tưởng, phương pháp “thêm bạn bớt thù” trong phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định đường lối đối ngoại của Việt Nam là

đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế, do đó, vừa ưu tiên hợp tác có

trọng điểm, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển quan hệ với tất cả các

nước, đặc biệt là các nước láng giềng, khu vực, những nước đối tác quan trọng, đưa

quan hệ đi vào chiều sâu bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng và thiết thực.

Page 146: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

142

Trong giai đoạn mới chúng ta phải chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế sang hội nhập

quốc tế một cách chủ động, tích cực và có trách nhiệm. Theo đó:

Một là, các hoạt động đối ngoại Đảng sẽ ngày càng được mở rộng, đa dạng

về hình thức, phong phú về nội dung; góp phần củng cố tình đoàn kết, sự hợp tác và

tin cậy lẫn nhau với các đảng cộng sản, đảng cầm quyền; tích cực mở rộng hợp tác,

trao đổi kinh nghiệm với các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả, đảng

cầm quyền, tham chính ở nhiều nước trên thế giới.

Hai là, đối ngoại Quốc hội sẽ tiếp tục góp phần tăng cường tình đoàn kết,

quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Quốc hội và nhân dân Việt Nam với Quốc hội và

nhân dân các nước trên thế giới; tham gia tích cực tại các diễn đàn nghị viện khu

vực và quốc tế. Phát huy vai trò của ngoại giao nghị viện trong tổng thể ngoại giao

nhà nước; tiếp tục phối hợp với đối ngoại Đảng và Nhà nước, ngoại giao nhân dân

thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát

triển; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế; tăng cường hoạt động đối ngoại với

nghị viện các nước láng giềng, đối tác chiến lược và các đối tác ta cần tranh thủ;

đóng góp vào việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và lợi ích quốc gia, dân tộc; tăng

cường công tác vận động, đấu tranh nghị trường trên các vấn đề dân chủ, nhân

quyền, tôn giáo; đưa quan hệ hợp tác giữa Quốc hội với nghị viện các nước đi vào

chiều sâu, hiệu quả, thực chất. Đẩy mạnh công tác lập pháp phục vụ hội nhập quốc

tế theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, nhất là trong công tác xây dựng và thẩm tra

các dự án luật, pháp lệnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài; các hiệp định, hiệp

ước, các công ước, điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội.

Ba là, đối ngoại nhân dân tiếp tục phát huy thế mạnh của mình vì sự nghiệp

hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và hợp tác nhân dân, vận động sự hỗ trợ nhiều mặt của

cộng đồng quốc tế cho công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Ngoại giao nhân

dân cũng đang dần khẳng định vai trò trong thành công chung, giúp quảng bá, nâng

cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế. Tiếp tục tinh thần

coi trọng và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân, phối hợp chặt chẽ

hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa

ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với

quốc phòng, an ninh. Tăng cường vận động viện trợ và nâng cao hiệu quả hợp tác

Page 147: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

143

với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục đổi

mới công tác đối ngoại nhân dân theo tinh thần thực hiện nhất quán đường lối đối

ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa

quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích

quốc gia, dân tộc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân

dân thế giới vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, Việt Nam là bạn, đối tác tin

cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tăng cường cơ chế

phối hợp linh hoạt, hiệu quả giữa các cơ quan, ban ngành với lực lượng đối ngoại

nhân dân, giữa Trung ương với địa phương, giữa các đoàn thể và các tổ chức nhân

dân với nhau trong việc triển khai các hoạt động đối ngoại nhân dân có tính đặc thù,

các diễn đàn, cơ chế đa phương mang tính chính trị đối ngoại cao.

Bốn là, hệ thống cơ quan ngoại vụ các tỉnh thành tiếp tục được củng cố cả về

tổ chức bộ máy, nhân sự và hoạt động. Sự phối hợp của các cơ quan ngoại vụ địa

phương với các cơ quan đối ngoại của Trung ương được tăng cường một bước, chất

lượng hoạt động ngày càng được nâng cao hơn trước, đóng góp thiết thực cho sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và mở rộng hợp tác

quốc tế của các địa phương.

Thứ hai, phối hợp chặt chẽ các trụ cột ngoại giao chính trị, kinh tế, văn hóa,

an ninh... đồng bộ, hiệu quả, toàn diện, đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh,

bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, tranh

thủ các nguồn lực để phát triển đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường

quốc tế.

Ngoại giao chính trị chiếm vị trí trọng yếu trong tổng thể triển khai quan hệ

hợp tác toàn diện với các nước, phải là công cụ chủ lực trong tạo dựng khuôn khổ

chính trị - pháp lý và tạo động lực quyết tâm chính trị cần thiết để thúc đẩy quan

hệ hợp tác. Ngoại giao chính trị còn thúc đẩy tiếp xúc và trao đổi đoàn các cấp,

đặc biệt là tiếp xúc cấp cao, qua đó tăng cường hợp tác, tin cậy và hiểu biết lẫn

nhau giữa Việt Nam với các đối tác. Tiếp tục chủ động, tích cực triển khai nhiều

hoạt động đối ngoại quan trọng, sôi động, từ song phương đến đa phương, trải

rộng trên nhiều địa bàn, trong đó hướng ưu tiên là các nước láng giềng, khu vực

và các đối tác lớn theo phương châm làm sâu sắc thêm quan hệ giữa Việt Nam và

Page 148: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

144

các nước. Tiếp tục triển khai quá trình nâng cấp quan hệ với một số đối tác ưu

tiên, quan trọng khác.

Phối hợp chặt chẽ với các ngành quốc phòng - an ninh, tuyên truyền - tư

tưởng và các lực lượng đối ngoại khác tạo thành một khối vững chắc trên mặt trận

bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên cơ sở tham mưu cho lãnh đạo Đảng và Nhà nước

và trực tiếp xử lý thỏa đáng các vấn đề phức tạp nảy sinh, góp phần bảo vệ vững

chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích an ninh và phát triển của đất nước.

Tiếp tục phát huy những đóng góp chủ động và tích cực trong việc xây dựng Cộng

đồng ASEAN, thúc đẩy đoàn kết và hợp tác nội khối, phát huy vai trò trung tâm của

ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình.

Ngoại giao kinh tế của Việt Nam ngày càng phải khẳng định vai trò là một

trụ cột quan trọng của nền ngoại giao toàn diện, tiếp tục nâng cao chất lượng công

tác thông tin, dự báo và tham mưu cho Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô,

kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định và bảo đảm an sinh xã hội, tái cấu trúc nền kinh

tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược.

Đồng thời, tiếp tục góp phần tranh thủ tối đa hợp tác quốc tế và các nguồn lực bên

ngoài để phục vụ phát triển và khắc phục những khó khăn kinh tế - xã hội trong

nước; tích cực hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp xúc tiến xuất khẩu,

đầu tư, du lịch, phối hợp với các ngành xử lý các tranh chấp kinh tế - thương mại

quốc tế. Ngoại giao kinh tế được coi là công tác trọng tâm của toàn ngành ngoại

giao với bốn nhiệm vụ lớn là tham mưu dự báo, đột phá mở đường, hỗ trợ đồng

hành và đôn đốc triển khai. Phát huy ưu thế của mạng lưới gần 100 cơ quan đại

diện, ngoại giao đó hoàn thành tốt cả bốn nhiệm vụ này, vừa là thước đo đánh giá

hiệu quả đối ngoại, vừa đóng góp trực tiếp và toàn diện cho mục tiêu phát triển.

Trong đó, phải theo sát tình hình thế giới, cung cấp thông tin, dự báo, tham mưu kịp

thời cho Đảng và Nhà nước điều hành kinh tế - xã hội; đóng vai trò tiên phong, mở

đường cho Việt Nam xâm nhập vào các thị trường quốc gia và hội nhập vào nền

kinh tế khu vực và toàn cầu; song hành cùng các doanh nghiệp Việt Nam trên con

đường hội nhập, vừa quảng bá cho sản phẩm Việt, vừa bảo vệ lợi ích cho doanh

nghiệp trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Đặc biệt, lồng ghép nội dung kinh

Page 149: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

145

tế vào các cuộc tiếp xúc cấp cao, qua đó thúc đẩy các thỏa thuận kinh tế, rồi tiếp đó

chủ động đôn đốc triển khai các thỏa thuận này.

Ngoại giao văn hóa trở thành nguồn “sức mạnh mềm” quan trọng, từng bước

khẳng định vị trí xứng đáng trong công tác đối ngoại thời kỳ mới với năm nhiệm vụ

chủ chốt: mở đường cho quan hệ giữa ta và một số quốc gia, là chất xúc tác thúc

đẩy ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, là công cụ quảng bá mạnh mẽ văn

hóa Việt Nam, là kênh vận động hiệu quả cho các di sản của đất nước, là cửa ngõ

tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Qua đó, góp phần nâng cao vị thế, phát huy

"sức mạnh mềm" của đất nước, thắt chặt hơn nữa quan hệ của Việt Nam với các đối

tác và tăng cường sự hiểu biết của thế giới về Việt Nam.

Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài vừa là nhiệm vụ đối ngoại lại vừa

là nhiệm vụ đối nội - như Nghị quyết 36 đó xác định, cộng đồng người Việt ở nước

ngoài là “một bộ phận máu thịt không thể tách rời của dân tộc Việt Nam”. Công tác

bảo hộ công dân tiếp tục chủ động, hiệu quả, kịp thời trong việc bảo vệ các quyền

và lợi ích chính đáng của công dân, pháp nhân, ngư dân và lao động ta ở nước

ngoài; quan tâm thúc đẩy giải quyết các vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của

đồng bào ta ở một số nước. Trong thời gian tới, ngoại giao cần tiếp tục tích cực hỗ

trợ bà con ổn định cuộc sống, hòa nhập và phát triển ở nước sở tại, đồng thời tiếp

tục tạo thuận lợi để bà con ngày một gắn bó hơn với quê hương đất nước, đóng góp

nhiều hơn nữa cho đất nước cả về tinh thần, trí tuệ và vật chất.

Ngoại giao an ninh tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin (CBMS) và

hoạt động ngoại giao phòng ngừa (PD) trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN

(ARF); thảo luận các nội dung liên quan đến an ninh biển, an ninh mạng, an ninh

năng lượng; tích cực hợp tác cùng các đối tác trong khu vực, các tổ chức quốc tế

thúc đẩy việc nâng cao nhận thức và đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền

thống; chủ động tham gia vào cuộc đấu tranh chung vì quyền con người và các vấn

đề an ninh trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tự do tôn giáo; mở rộng các

kênh và tổ chức các cuộc tiếp xúc của các đơn vị nghiệp vụ trong việc trao đổi

thông tin, kinh nghiệm và phối hợp nghiên cứu xây dựng các kế hoạch nghiệp vụ

chung đấu tranh chống tội phạm, nhất là tội phạm khủng bố, hoạt động của các tổ

chức phản động người Việt lưu vong; tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các đối tác an

Page 150: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

146

ninh về phương tiện chuyên dụng, thiết bị khoa học - công nghệ hiện đại, tập huấn,

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên gia... Hướng tới thúc đẩy sự phối hợp, trao đổi,

thu thập, tích luỹ và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm trong đấu tranh phòng, chống tội

phạm, nhất là tội phạm khủng bố, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia, tội

phạm ma tuý; hoàn thiện khung pháp lý hợp tác chiến lược cũng như trên từng lĩnh

vực, vụ việc cụ thể; ký kết các hiệp định khung và thỏa thuận quốc tế với lực lượng

an ninh, cảnh sát các nước trên các lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công

an, sự giúp đỡ, tài trợ phương tiện kỹ thuật công nghệ cao, bảo vệ quyền lợi của

công dân Việt Nam đang sinh sống, làm ăn ở nước ngoài, bảo vệ đoàn ra nước

ngoài công tác và các đoàn nước ngoài vào Việt Nam, nhất là các đoàn cấp Chính

phủ, cấp cao của các đối tác thăm và làm việc ở nước ta, nhằm đảm bảo tuyệt đối an

toàn cho các đoàn ra, đoàn vào, không để xảy ra đột xuất, bất lợi. Kịp thời phát hiện

từ xa các âm mưu, hoạt động của các cơ quan tình báo nước ngoài, các thế lực phản

động lưu vong thâm nhập vào Việt Nam, tạo thế chủ động về chiến lược trong công

tác đảm bảo an ninh nội bộ, nội địa, góp phần xác định rõ hơn các nguy cơ và các

mối đe doạ từ bên ngoài đối với an ninh quốc gia của Việt Nam, cả theo nghĩa

truyền thống và phi truyền thống.

Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

ngoại giao.

Đào tạo bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt của công tác cán

bộ, là yêu cầu khách quan trong xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ có số lượng hợp lý, cơ cấu đồng bộ, chất

lượng cao kết hợp với đào tạo, bồi dưỡng, tự đào tạo bồi dưỡng là yếu tố quan trọng

trong công tác cán bộ.

Hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ then chốt của việc thực hiện mục

tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm,

khủng hoảng tài chính, nợ công trên thế giới, cạnh tranh quyết liệt giữa các nước

lớn tại khu vực, tác động bất lợi đến kinh tế - xã hội nước ta, song nước ta đã đạt

được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì

mức tăng trưởng hợp lý, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định và

Page 151: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

147

nâng cao dần đời sống nhân dân. Tuy nhiên, kinh tế nước ta tiếp tục phải đối phó

với nhiều khó khăn, thử thách.

Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xuất

hiện nhiều điểm nóng phức tạp như xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ

quyền lãnh thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly

khai, khủng bố tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ nét. Các

nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh kiềm chế lẫn nhau, mà trọng điểm

là khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Tình hình trên tác động không nhỏ đến ngoại giao và công tác ngoại giao, đặt

ra những đòi hỏi mới cho cán bộ ngoại giao như đặc biệt tin cậy về phẩm chất, đặc

biệt nhạy bén về thời thế, đặc biệt linh hoạt, khôn khéo trong đàm phán và tinh tế

trong ứng xử. Đội ngũ cán bộ ngoại giao cần phải rèn luyện phong cách: suy nghĩ

kỹ càng, hành động quyền biến, kỹ năng thành thạo; về năng lực phải có trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ giỏi. Mặt khác, đội ngũ cán bộ ngoại giao phải

luôn rèn luyện bản lĩnh chính trị và tư tưởng vững vàng, kiên quyết đấu tranh với

các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tự biết bảo vệ mình và bảo vệ tổ chức

đảng. Từng cán bộ ngoại giao là hình ảnh đại diện cho dân tộc Việt Nam nên phải

biết làm rạng danh hình ảnh con người và đất nước.

Nhìn chung, Việt Nam hiện nay đã có một thế hệ cán bộ ngoại giao mới,

thông minh, hiểu biết và ham học hỏi, có phong cách làm việc tương đối chuyên

nghiệp. Nhưng vẫn còn hiện tượng làm việc cầm chừng, ngại học, ngại đi sâu

nghiên cứu, một số cán bộ ngoại giao còn không theo kịp mặt bằng chung của khu

vực về trình độ ngoại ngữ, nghiệp vụ. Tình trạng chủ quan, mất cảnh giác, phai nhạt

lý tưởng vẫn còn xảy ra đòi hỏi ngành ngoại giao phải hết sức chú trọng công tác

xây dựng đội ngũ, kết hợp công tác xây dựng cán bộ, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh

học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có vấn

đề học tập và làm theo tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh.

Page 152: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

148

Tiểu kết chương 4

Mỗi một thời kỳ phát triển của đất nước có mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể.

Trong giai đoạn mới, mục tiêu của đất nước là đảm bảo môi trường hòa bình, ổn

định, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đẩy nhanh công nghiệp hóa, độc lập, tự chủ,

đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập mọi mặt của đời

sống quốc tế, hướng tới xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Hay nói

cách khác, đó là thực hiện hai nhiệm vụ: đảm bảo an ninh quốc gia và phát triển

đất nước, khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Xác định những nhân tố tác động đến sự phát triển ngoại giao Việt Nam, có

thể thấy bên cạnh những điều kiện thuận lợi, tình hình mới cũng đặt ra những

nhiệm vụ, yêu cầu cho công tác ngoại giao. Vì vậy cần thiết phải tiếp tục vận dụng

phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề của đất nước và

quốc tế đang đặt ra hiện nay, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn

hóa - xã hội, mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước, vững bước đi lên chủ

nghĩa xã hội.

Page 153: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

149

KẾT LUẬN

1. Trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, ngoại giao Việt Nam đã

góp phần làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử dân tộc. Đảng

Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ

Chí Minh, đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát

triển; rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế

quốc tế, từ đó đã phá vỡ thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch; xây dựng

mối quan hệ hợp tác nhiều mặt, trên những nguyên tắc quan hệ và hợp tác quốc tế

mang tính phổ biến, được cộng đồng quốc tế thừa nhận, góp phần quan trọng vào

thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, phát triển đất nước.

2. Trong hệ thống phương pháp Hồ Chí Minh, có thể thấy có rất nhiều

phương pháp, trong đó tác giả lựa chọn các phương pháp sau để nghiên cứu làm rõ

giá trị của các phương pháp này trong thực tiễn cách mạng, đã được Hồ Chí Minh

và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, góp phần đem lại thành công cho cách

mạng Việt Nam. Hệ thống phương pháp đó là: Dĩ bất biến ứng vạn biến, Biết

thắng từng bước; Thêm bạn bớt thù; Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

trong đấu tranh ngoại giao; Phương pháp dự báo và nắm đúng thời cơ; Ngoại giao

tâm công; Kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, vừa đánh vừa đàm,

tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng; Phương pháp vận động quốc tế, kết hợp

sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giành thắng lợi.

3. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận quan trọng để cho

Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối và chính sách đối ngoại, đặc biệt là

trong thời kỳ đổi mới. Với bản lĩnh và trí tuệ của mình, Đảng ta đã vạch ra đường

lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, với tinh thần

Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trên thế giới.

Đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn đó đã góp phần tạo ra những thành tựu

to lớn, rất quan trọng của công cuộc đổi mới, đem lại cho đất nước thế và lực mới

vững bước tiến lên trong thế kỷ XXI. Bên cạnh những thành công, ngoại giao Việt

Nam còn có những hạn chế trong vận dụng phương pháp ngoại giao. Xuất phát từ

tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam rút ra một số bài học kinh nghiệm từ quá

Page 154: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

150

trình lãnh đạo, thực hiện đường lối đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Đây cũng là

cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ

Chí Minh trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.

4. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, xu thế hòa bình, ổn định, hội nhập và

phát triển đang chiếm ưu thế. Nhưng, tình hình thế giới đã, đang và tiếp tục

có những biến đổi phức tạp và khó lường trên nhiều lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh

tế, văn hoá… do vậy, vấn đề bảo vệ lợi ích dân tộc, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ,

biên giới, biển đảo của Tổ quốc đang trở thành vấn đề nóng. Công tác đối ngoại

của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân phải có sự điều chỉnh kịp

thời, để vừa đáp ứng nhu cầu phát triển, phù hợp với thông lệ quốc tế; đảm bảo

giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ

môi trường, trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi giữa các quốc gia.

Có thể thấy, bên cạnh những yếu tố thuận lợi còn có rất nhiều thử thách,

khó khăn trong nước và quốc tế, yêu cầu đặt ra cho công tác đối ngoại của Đảng,

ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân phải có chiến lược, sách lược mới, kịp

thời đáp ứng với những đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng trong bối cảnh hội nhập

và toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc hiện nay. Nghiên cứu tư tưởng, phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh, từ đó vận dụng vào thực tiễn, nhằm tăng cường hoạt

động ngoại giao đa phương, mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế hiệu quả, đó là

những vấn đề lớn, cấp bách và phức tạp, nhưng có ý nghĩa quan trọng cả về lý

luận và thực tiễn.

Trên cơ sở tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh, từ những bài

học kinh nghiệm trong lịch sử ngoại giao Việt Nam và thực tiễn ngành ngoại giao

trên thế giới, cần phải hoạch định đường lối đối ngoại và chiến lược ngoại giao từ

nay đến 2020, tầm nhìn 2030 và xa hơn, nhằm khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của

dân tộc và quốc tế; phát huy mọi nguồn lực (nội lực và ngoại lực) vào sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với tinh thần độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập, mở

rộng quan hệ hợp tác quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của

cộng đồng quốc tế; hướng tới xây dựng và phát triển một nước Việt Nam bền

vững; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Page 155: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Minh Thùy (2015), “Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong

sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý

luận chính trị và Truyền thông, (2), tr.28-31.

2. Nguyễn Thị Minh Thùy (2015), “Vận dụng phong cách, nghệ thuật ngoại giao

Hồ Chí Minh trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay”, Tạp

chí Giáo dục lý luận, (226), tr.6-9.

3. Nguyễn Thị Minh Thùy (2016), ““Dĩ bất biến ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh

- Nhìn từ đường lối đối ngoại và ngoại giao Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục

lý luận, (245), tr.23-25.

4. Nguyễn Thị Minh Thùy (2017), “Quan điểm “Ngoại giao phải có thực lực” -

Nét đặc sắc trong phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo

dục lý luận, (257), tr.3-5; 45.

Page 156: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết

cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi và bài học, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo tổng kết thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt

Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20

năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản

Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30

năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1996), Báo cáo về các văn kiện

trình Đại hội VIII do đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười trình bày ngày 28-6-

1996, Hà Nội.

5. Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (2001), Hồ Chí Minh sống mãi với

dân tộc Việt Nam và bầu bạn quốc tế, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

6. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu học tập Nghị quyết Hội

nghị lần thứ Tám, Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

7. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2005), Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi

mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Báo Đại đoàn kết (2011), Những chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định

chủ quyền Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

9. Hoàng Chí Bảo (2005), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận

chính trị, Hà Nội.

10. Nguyễn Đình Bin (Chủ biên) (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

Page 157: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

153

12. Bộ Ngoại giao (1999), Tổng luận 50 năm hoạt động ngoại giao Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Bộ Ngoại giao (2000), Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, Kỷ

yếu Hội thảo khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Bộ Ngoại giao (2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

15. Bộ Ngoại giao (2003), Nguyễn Đình Bin (chủ nhiệm), Tư tưởng ngoại giao

Hồ Chí Minh, Đề tài nghiên cứu khoa học đặc biệt cấp Bộ, Hà Nội.

16. Bộ Ngoại giao (2004), Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Bộ Ngoại giao (2004), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Bộ Ngoại giao (2008), Bác Hồ và hoạt động ngoại giao-một vài kỷ niệm về

Bác, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Bộ Ngoại giao (2008), Hiệp định Giơnevơ - 50 năm nhìn lại, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

20. Bộ Ngoại giao (2008), Biên niên ngoại giao Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Bộ Ngoại giao - Ban Nghiên cứu lịch sử ngoại giao (2009), Vận dụng tư

tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

22. Bộ Ngoại giao (2015), Ngoại giao Việt Nam năm 2014, Nxb Chính trị quốc

gia - Sự thật, Hà Nội.

23. Bộ Ngoại giao (2016), Ngoại giao Việt Nam năm 2015, Nxb Chính trị quốc

gia - Sự thật, Hà Nội.

24. Nguyễn Mạnh Cầm (1995), Phát biểu tổng kết Hội thảo khoa học 50 năm

ngoại giao Việt Nam, Học viện Quan hệ quốc tế tổ chức, Hà Nội.

25. Trần Văn Chánh (Biên soạn) (2000), Từ điển Hán Việt, Nxb Từ điển Bách

Khoa, Hà Nội.

Page 158: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

154

26. Trường Chinh (1991), Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb

Thông tin lý luận, Hà Nội.

27. Phạm Hồng Chương (1993) Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao thời kỳ

chống Mỹ, cứu nước (1965-1973), Luận án phó tiến sĩ Lịch sử, Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

28. Phạm Hồng Chương, Phùng Đức Thắng (2000), "Hồ Chí Minh với "Dĩ bất

biến, ứng vạn biến"", Tạp chí Lịch sử quân sự, (3), tr.29-31.

29. E. Cô-bê-lép (1985), Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

30. Dân trí (2012), "Việt Nam đóng góp quan trọng cho ASEAN", tại trang

http://dantri.com.vn, [truy cập ngày 20/11/2016].

31. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa

xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.

32. Lê Duẩn (2008), Tuyển tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Nguyễn Thị Kim Dung (2000), Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ

1945-1946, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

34. Phạm Thành Dung, Nguyễn Thị Thúy Hà và Phạm Thanh Hà (2014), Một số

vấn đề quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước Việt

Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1985), Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ,

cứu nước, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực

dân Pháp, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp

hành Trung ương Đảng (khóa VI), Nxb Sự thật, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

Page 159: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

155

40. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Đối ngoại

(1994), Báo cáo của Đoàn Đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội lần thứ 20 của

Đảng Cộng sản Nhật Bản, Tài liệu lưu Ban Đối ngoại Trung ương, số

698-Đối ngoại Trung ương, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 28, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Đối ngoại

(1998), Báo cáo về đoàn cán bộ Đảng ta thăm Pháp, Tài liệu lưu tại Ban

Đối ngoại Trung ương, số 163-ĐNTW, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 49, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 160: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

156

53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận -

thực tiễn qua 25 năm đổi mới (1986-2011), Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Phạm Văn Đồng (1976), Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc, lương tâm của

thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội.

57. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời

đại, Nxb Sự thật, Hà Nội.

58. Phạm Văn Đồng (1991), Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại và tương lai, tập 1,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Furuta Matoo (1997): Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc và đổi mới, Nxb

chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Lê Giản (1985), Những ngày sóng gió, Hồi ký, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

62. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (Đồng chủ biên) (2013), Chính sách

đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

63. Nguyễn Hoàng Giáp (2013), Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn

hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

64. Nguyễn Tất Giáp, Nguyễn Thị Quế và Mai Hoài Anh (Đồng chủ biên)

(2015), "Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam

hiện nay", thuộc Đề án: Nghiên cứu, tổng kết và làm sáng tỏ một số vấn

đề lý luận về công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb

Lý luận Chính trị. Hà Nội.

65. Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

Page 161: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

157

66. Võ Nguyên Giáp (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Nguyễn Hùng Hậu (2011), Dĩ bất biến, ứng vạn biến, Nxb Chính trị quốc gia

- Sự thật, Hà Nội.

68. Nguyễn Trọng Hậu (2004), Hoạt động đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa thời kỳ 1945-1950, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Vũ Quang Hiển (2005), Tìm hiểu chủ trương đối ngoại của Đảng thời kỳ

1945-1954, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Đỗ Đức Hinh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại - Một số nội dung

cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), "Di sản Hồ

Chí Minh trong thời đại ngày nay", Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ

niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2010),

Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.

72. Học viện Quan hệ quốc tế (1995), Thắng lợi có tính thời đại và cuộc đấu

tranh trên mặt trận đối ngoại của nhân dân ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.

73. Học viện Quan hệ quốc tế (1995), "50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh

đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội.

74. Học viện Quan hệ quốc tế (2000), Giáo trình Một số vấn đề cơ bản về nghiệp

vụ ngoại giao, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

75. Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Ngoại giao Việt Nam từ thuở dựng nước

đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.

76. Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp

giành độc lập, tự do (1945-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Học viện Quan hệ quốc tế (2001), Văn kiện Đảng về Quan hệ quốc tế và

chính sách đối ngoại, tập 1, Hà Nội.

78. Vũ Dương Huân (2001), Ngoại giao Việt Nam vì sự nghiệp đổi mới từ 1975-

2000, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.

79. Vũ Dương Huân (Chủ biên), Học viện Quan hệ quốc tế (2002), Góp phần

nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Nxb Lao động, Hà Nội.

Page 162: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

158

80. Vũ Dương Huân (Chủ biên) (2002), Học viện Quan hệ quốc tế, Ngoại giao Việt

Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975-2002), Nxb Lao động, Hà Nội.

81. Vũ Dương Huân (2002), Đấu tranh ngoại giao trong cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

82. Vũ Dương Huân (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

83. Vũ Dương Huân (2009), Một số vấn đề quốc tế. Chính sách đối ngoại và

ngoại giao Việt Nam, tập 1, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.

84. Vũ Dương Huân (2009), Một số vấn đề quốc tế. Chính sách đối ngoại và

ngoại giao Việt Nam, tập 2, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.

85. Vũ Dương Huân (2009), Một số vấn đề quốc tế. Chính sách đối ngoại và

ngoại giao Việt Nam, tập 3, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.

86. Vũ Dương Huân (2010), Ngoại giao và công tác ngoại giao, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

87. Nguyễn Quốc Hùng (2000), Quan hệ quốc tế thế kỷ XX, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

88. Nguyễn Quốc Hùng, Hoàng Khắc Nam (2006), Quan hệ quốc tế - Những

khía cạnh lý thuyết và vấn đề, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. Nguyễn Khắc Huỳnh (2006), Ngoại giao Việt Nam phương sách và nghệ

thuật đàm phán. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Nguyễn Khắc Huỳnh (2011), Ngoại giao Việt Nam góc nhìn và suy ngẫm.

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Nguyễn Khắc Huỳnh (2012), Nghệ thuật ngoại giao Việt Nam với cuộc đàm

phán Paris. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Vũ Khoan (2006), “Hai mươi năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại” trong

cuốn Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

93. Vũ Khoan (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

Page 163: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

159

94. Không rõ tác giả (1984), Từ điển ngoại giao, tập 1, Nxb Khoa học,

Mátxcơva, (tiếng Nga).

95. Không rõ tác giả (1987), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

96. Không rõ tác giả (1994), Le Nouveau Petit Robert, Dictionnaires le Robert, Paris.

97. Không rõ tác giả (1998), Đại từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô, Nxb

Moring Mátxcơva.

98. Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (2010), Hoạt động đối ngoại của

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nước châu Á, (1954-1969), Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

99. Đặng Xuân Kỳ (1995), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Chương trình

khoa học và công nghệ cấp Nhà nước KX-02 (1991-1995).

100. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên) (1997), Phương pháp và phong cách Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Đinh Xuân Lâm (2005), Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ. Mat-xcơ-va.

103. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ. Mat-xcơ-va.

104. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 50, Nxb Tiến bộ. Mat-xcơ-va.

105. Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (2003), Hoạt động đối ngoại nhân

dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Phan Ngọc Liên (1993), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại, Nxb

Lao động, Hà Nội.

107. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (1994), Hồ Chí Minh những hoạt động quốc tế,

Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

108. Phan Ngọc Liên (Chủ biên) (1995), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về một

số vấn đề quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

109. Phan Ngọc Liên (2010), Chiến sĩ quốc tế Hồ Chí Minh hoạt động thực tiễn

và lý luận cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 164: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

160

110. Phan Ngọc Liên (2014), Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động

cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

111. Đỗ Hoàng Linh, Phạm Hoàng Điệp (2009), Hồ Chí Minh trong ký ức bạn bè

quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

112. Lưu Văn Lợi (1995), Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa

và Trường Sa, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

113. Lưu Văn Lợi (1996), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945-1995, tập I.

Ngoại giao Việt Nam 1945-1975, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

114. Lưu Văn Lợi (1998), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945-1995, tập II.

Ngoại giao Việt Nam 1975-1995. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

115. Lưu Văn Lợi, Nguyễn Anh Vũ (2000), Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ

trước hội nghị Paris, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

116. Lưu Văn Lợi (2007), Những điều cần biết về Đất, Biển, Trời Việt Nam, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

117. Nguyễn Phúc Luân (1999), Hồ Chí Minh: Nhà trí tuệ lớn của nền ngoại giao

Việt Nam hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

118. Nguyễn Phúc Luân (2001), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp giành

độc lập và tự do (1945 - 1975), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

119. Nguyễn Phúc Luân (2003), Ngoại giao Hồ Chí Minh - Lấy chí nhân thay

cường bạo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

120. Nguyễn Phúc Luân (2005), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Dấu ấn trí tuệ trên mặt

trận đối ngoại, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

121. Nguyễn Phúc Luân (2005), Ngoại giao Việt Nam trong cuộc đụng đầu lịch

sử, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

122. Nguyễn Thị Luận, Nguyễn Thị Thanh Nga (2015), Nguyên tắc, phương pháp

ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

123. Đinh Xuân Lý (2003), Quá trình Việt Nam hội nhập khu vực Châu Á - Thái

Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

Page 165: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

161

124. Đinh Xuân Lý (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng

của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

125. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

126. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

127. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

128. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

129. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

130. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

131. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

132. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

133. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

134. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

135. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

136. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

137. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

138. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

139. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

140. Phạm Bình Minh (2010), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến

2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

141. Phạm Bình Minh (2011), Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong

giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

142. Phạm Bình Minh (Chủ biên), Nguyễn Ngọc Trường và Đặng Đình Quý

(2011), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến năm 2020, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

143. Phạm Bình Minh (2015), Ngoại giao Việt Nam quá trình triển khai đường

lối đối ngoại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc

gia - Sự thật, Hà Nội.

144. Nguyễn Thu Mỹ (Chủ biên) (2008), Hợp tác ASEAN+3. Quá trình phát

triển, thành tựu và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 166: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

162

145. Hoàng Khắc Nam (2014), Một số vấn đề lý luận quốc tế dưới góc nhìn lịch

sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

146. H. Nicolson (1965), Diplomacy, Oxford University, London.

147. Nguyễn Dy Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

148. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2004), Việt Nam - ASEAN: Quan hệ đa phương

và song phương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

149. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2007), Đông Nam Á - truyền thống và hội nhập,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

150. Vũ Dương Ninh (2007), Việt Nam - Thế giới và sự hội nhập, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

151. Lương Ninh, Vũ Dương Ninh (Đồng chủ biên) (2008), Tri thức Đông Nam Á,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

152. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2010), Biên giới đất liền Việt Nam - Trung

Quốc, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

153. Vũ Dương Ninh (2014), Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940-2010),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

154. M. Rajaretnam, Thái Quang Trung (2014), Một Đông Nam Á vận mệnh

chung tương lại chung, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

155. Jean Sainteny (1970), Face à Ho Chi Minh (Đối diện Hồ Chí Minh),

Éditions Seghers, Paris.

156. Đỗ Tiến Sâm, Furuta Moto (2003), Chính sách đối ngoại mở rộng của Việt

Nam và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

157. Lương Viết Sang (2004), Đảng lãnh đạo đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị

Pari về Việt Nam (1968-1973), Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh.

158. Singô Sibata (1992), "Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng", trong cuốn Giá trị tư

tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, Trường Đại học sư phạm

Hà Nội và Viện Thông tin khoa học xã hội xuất bản, Hà Nội.

Page 167: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

163

159. Võ Văn Sung (2010), Suy ngẫm về trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

160. Đặng Văn Thái (2002), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời

kỳ 1945-1954, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

161. Đặng Văn Thái (2004), Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh

trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

162. Đặng Văn Thái (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận

dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

163. Phạm Đức Thành (Chủ biên) (1998), Việt Nam - ASEAN: Cơ hội và thách

thức. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

164. Phạm Đức Thành (Chủ biên) (1998), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

165. Song Thành (Chủ biên) (1997), Một số vấn đề phương pháp luận và phương

pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

166. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính

trị, Hà Nội.

167. Phạm Thanh Thuỷ (2009), Quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, phương

châm đối ngoại và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời

kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

168. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2010), Ngoại giao nhân dân trong quan hệ đối

ngoại của Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

169. Trần Dân Tiên (1976), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

170. Trần Nam Tiến (2010), Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Thực trạng và triển

vọng, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

Page 168: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

164

171. Nguyễn Hữu Toàn (2013), Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam với cuộc đấu tranh

bảo vệ dân tộc của các nước đang phát triển sau chiến tranh lạnh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

172. Hoàng Trang (2005), Toàn dân đoàn kết chống Mỹ, cứu nước dưới ngọn cờ

tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

173. Nguyễn Duy Trinh (1979), Mặt trận ngoại giao trong thời kỳ kháng chiến

chống Mĩ cứu nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.

174. Nguyễn Phú Trọng (Chủ nhiệm) (2003), Hội đồng Lý luận Trung ương, Đổi

mới và phát triển ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, mã số: ĐTĐL-2003/18, Hà Nội.

175. Nguyễn Ngọc Trường (2014), Về vấn đề biển Đông, Nxb Chính trị quốc gia

- Sự thật, Hà Nội.

176. Trần Minh Trưởng (2005), Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh

từ 1954 đến 1969, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

177. Trần Minh Trưởng (2014), Những quan điểm nguyên tắc ứng xử trong quan

hệ quốc tế của Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong tình hình

mới, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

178. Trần Minh Trưởng (Chủ nhiệm) (2015), Vận dụng sáng tạo và phát triển tư

tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới, Đề tài khoa

học mã số KX.04.30/11-15, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

179. Nguyễn Vũ Tùng (Biên soạn), Học viện Quan hệ quốc tế (2007), Chính sách

đối ngoại Việt Nam, tập II (1975-2006), Nxb Thế giới, Hà Nội.

180. Trần Thị Minh Tuyết (2013), ""Thêm bạn, bớt thù" - nguyên tắc chiến lược

trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (4),

tr.15-18.

181. Trần Thị Minh Tuyết (2016), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

182. Viện Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2008), Hồ Chí Minh - Biên niên

tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 169: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH … _ Minh Thuy _ _nop QD_.pdf · CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH

165

183. Viện Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2008), Hồ Chí Minh - Biên niên

tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

184. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ

điển học.

185. Vũ Quang Vinh (2000), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối

ngoại thời kỳ 1986-1996, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện chính trị quốc

gia, Hà Nội.

186. Phạm Xanh (2006), Góp phần tìm hiểu lịch sử quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

187. Lê Văn Yên (1999), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế,

Nxb Lao động, Hà Nội.

188. Lê Văn Yên (2008), Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong

cách mạng giải phóng dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.