314
Đặc San CHU VĂN AN TOÀN CẦU 2017 Chủ Trương Hội Ái Hu Cu Hc Sinh Chu Văn An Bc California Với sự đóng góp bài viết của: Phạm Đỗ Chí, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Lân Đính, Hoàng Cơ Định, Trần Thế Đức, Trần Lam Giang, Trần Văn Giang, Ngô Tằng Giao, Hoàng Mạnh Hải, Đoàn Thạch Hãn, Nguyễn Duy Hảo, Nguyễn Tấn Hồng, GS Lưu Trung Khảo, Trần Mộng Lâm, Viên Linh, Nguyễn Tá Mẫn, Đoan Nghi, Vũ Trọng Phòng, Phan Lạc Phúc, Lê Duy San, Ngô Quốc Sĩ, Ký Thiệt, Nguyễn Đức Thịnh, Phan Lạc Tiếp, Lê Văn Tỉnh, GS Dương Thiệu Tống, Nguyễn Mạnh Trinh, Lữ Tuấn, Nguyễn Lương Tuyền, Nguyễn Vũ Văn, GS Nguyễn Xuân Vinh, Lưu Văn Vịnh.

TOÀN CẦU 2017

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: TOÀN CẦU 2017

Đặc San

CHU VĂN AN TOÀN CẦU

2017

Chủ Trương

Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu Văn An Bắc California

Với sự đóng góp bài viết của:

Phạm Đỗ Chí, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Lân Đính,

Hoàng Cơ Định, Trần Thế Đức, Trần Lam Giang,

Trần Văn Giang, Ngô Tằng Giao, Hoàng Mạnh Hải,

Đoàn Thạch Hãn, Nguyễn Duy Hảo, Nguyễn Tấn Hồng,

GS Lưu Trung Khảo, Trần Mộng Lâm, Viên Linh,

Nguyễn Tá Mẫn, Đoan Nghi, Vũ Trọng Phòng,

Phan Lạc Phúc, Lê Duy San, Ngô Quốc Sĩ, Ký Thiệt,

Nguyễn Đức Thịnh, Phan Lạc Tiếp, Lê Văn Tỉnh,

GS Dương Thiệu Tống, Nguyễn Mạnh Trinh, Lữ Tuấn,

Nguyễn Lương Tuyền, Nguyễn Vũ Văn,

GS Nguyễn Xuân Vinh, Lưu Văn Vịnh.

Page 2: TOÀN CẦU 2017

MỤC LỤC

01 Từ Ái Hữu đến Hội Ngộ Toàn Cầu Ban Biên Tập 01

02 Về gốc tích trường Bưởi Nguyễn Lân Đính 05

03 Phu Tử Chu Văn An … Trần Lam Giang 13

04 Chu Văn An, thơ ngát hương thiền Ngô Tằng Giao 23

05 Ai đã giết GS Dương Quảng Hàm Lê Duy San 30

06 Một kỷ niệm về GS Dương Q. Hàm Nguyễn Tấn Hồng 37

07 GS Hoàng Xuân Hãn … Dương Thiệu Tống 42

08 Thiên chức nhà giáo GS Ng. Xuân Vinh 47

09 Thầy Vũ Ngô Xán GS Lưu Trung Khảo 59

10 Thầy Việt của con Lê Văn Tỉnh 67

11 Thầy Vũ Khắc Khoan Trần Lam Giang 70

12 Thi sĩ Vũ Hoàng Chương … Đoàn Thạch Hãn 80

13 Bình Ngô Đại Cáo Trần Văn Giang 88

14 Lời trăn trối của TT NĐ Diệm Ký Thiệt 112

15 Hãy xóa bỏ huyền thoại HCM Hoàng Cơ Định 121

16 Việt Nam: Một dân tộc … Ng. Lương Tuyền 128

17 Đã đến lúc VN phải tỉnh ngủ Phạm Đỗ Chí 138

18 Chu Văn An và tôi Võ Kỳ Điền 144

19 Lớp P2/B2 CVA 1964-1971 Nguyễn Tá Mẫn 151

20 Thế mà đã 60 năm! Nguyễn Duy Hảo 158

21 Vĩnh biệt Chu Toàn Chung Lê Duy San 164

22 Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn Phan Lạc Tiếp 173

23 Nhớ Phạm Đình Chương Phan Lạc Phúc 185

24 Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy Trần Thế Đức 199

25 Người Việt, chim Việt, cá Việt Lưu Văn Vịnh 212

Page 3: TOÀN CẦU 2017

26 Nhân ngày quốc hận, nhớ về SG Ng. Lương Tuyền 214

27 Ngày chia đôi đất nước … Ng. Mạnh Trinh 220

28 Hà Nội 80 ngày: Đi hay Ở Viên Linh 234

29 Từ Hà Nội tới Sài Gòn Lữ Tuấn 240

30 Tháng Tư, Bảo tàng (thơ) Nguyễn Vũ Văn 260

31 Người Hanội, người Sàigòn Ban Biên tập 258

32 Hà Thành thanh lịch, nay còn đâu! Đoan Nghi 265

33 Thương nhớ Saì Gòn Hoàng Mạnh Hải 277

34 Bắc và Nam Trần Mộng Lâm 291

35 Cảm tạ miền Nam Ngô Quốc Sĩ 397

36 TTQGKTPT ủy lạo chiến sĩ TS Nguyễn Đức Thịnh 301

37 Danh sách các cựu học sinh CVA Ban Biên Tập 309

Page 4: TOÀN CẦU 2017
Page 5: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 1

Từ Hội Ái Hữu

CỰU HỌC SINH CHU VĂN AN

đến Hội Ngộ

CHU VĂN AN TOÀN CẦU

Sau năm 1945, trường Bưởi được đổi tên thành

trường Chu Văn An và tới năm 1954, trôi theo mệnh nước,

các cựu học sinh trường Bưởi phần lớn cũng di cư vào Nam

cùng với trường Chu Văn An. Tới năm 1960 (?) Hội Ái

Hữu Cựu Học Sinh Trường Bưởi đưọc ra đời. Vị Hội

Trưởng đầu tiên là cụ Lê Đình Chung, Tổng Thư Ký là cụ

Phạm Quang Khai và tờ Nội San Trường Bưởi cũng đã

được ra đời vào dịp này.

Sau năm 1975, lại một lần nữa, các cựu học sinh

trường Bưởi phải bôn ba ra hải ngoại. Vì tuổi hạc đã cao,

lại thêm số người còn lại cũng chẳng được bao nhiêu nên

cũng không ai nghĩ tới lập hội hay ra đặc san; nhưng đã có

thế hệ đàn em, thế hệ con cháu nối tiếp. Đó là thế hệ Chu

Văn An. Các hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu Văn An hoặc

Bưởi-Chu Văn An khắp nơi trên thế giới được thành lập và

Đặc san Chu Văn An hoặc Bưởi-Chu Văn An cũng được ra

đời.

Ngay từ đầu năm 1982, khi làn sóng người Việt tỵ

nạn đổ xô về California, các anh em cựu học sinh Chu Văn

An định cư tại San Jose đã tìm tới nhau và tổ chức những

buổi họp mặt bỏ túi tại gia. Người đầu tiên đứng ra tổ chức

là anh Nguyễn Văn Hiền. Kế tiếp là các anh Đinh Xuân

Thảo, Nguyễn An Cường, Vũ Ngọc Anh, Lê Duy San và

Đỗ Đình Lợi. Tới tháng 11 năm 1987, các anh Vương Tứ

Cảnh, Phạm Hữu Độ, Nguyễn Hoàng Hải, Nguyễn Văn

Page 6: TOÀN CẦU 2017

Trang 2 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Hiền, Nguyễn Thanh Hà, Lê Duy San, Hoàng Đức Trí…

mới quyết định tổ chức một buổi họp mặt nới rộng tại nhà

hàng Thiên Nam vào ngày 20/12/1987 để tiến tới việc

thành lập Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu Văn An tại Bắc

California. Trong buổi họp này, hầu hết các anh em tham

dự đã tín nhiệm ban tổ chức và đề cử thêm một số người

tham gia để bầu lên một ban Chấp Hành Lâm Thời. Ngày

18/01/88, ban Chấp Hành Lâm Thời của Hội Ái Hữu Cựu

Học Sinh Chu Văn An Bắc California đã ra đời với thành

phần như sau:

Hội Trưởng : Anh Nguyễn Hoàng Hải.

Phó Hội Trưởng : Anh Phạm Hữu Độ.

Tổng Thư Ký : Anh Lê Duy San.

Phó Tổng Thư Ký : Anh Nguyễn Khắc Điệp.

Thủ Quỹ : Chị Đỗ-Khắc Thị Nhuận.

Anh Lê Duy San (TTK) và anh Nguyễn Hoàng Hải (HT)

Nhiệm kỳ I (1988-1990).

Anh Lê Duy San đã được trao trọng trách soạn thảo

bản Điều lệ và Nội quy cùng lo thủ tục pháp lý thành lập

Page 7: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 3

Hội và Hội đã được bà March Fong Eu, Bộ Trưởng Nội Vụ

tiểu bang California cấp giấy phép vào ngày 18 tháng 11

năm 1988.

Tiếp theo anh Nguyễn Hoàng Hải là các anh Phạm

Hữu Độ, Lại Quốc Ấn, Nguyễn Thanh Giản, Phạm Huy

Thịnh, Vũ Mạnh Phát, Phạm Nguyên Khôi, Lê Duy San,

Nguyễn Đức Lâm, Lê Văn Tỉnh đã lần lượt đảm nhận chức

vụ Hội Trưởng.

Từ trái: các anh Vương Tứ Cảnh, Phạm Phúc Hưng, Vũ Thế Bắc,

Hoàng Đức Trí, Lê Duy San, Nguyễn Văn Hiền, Chị Đỗ Khắc Thị

Nhuận, các anh Nguyễn Hữu Trương, Phạm Hữu Độ, Đào Văn Sơn,

Bùi Đức Lạc.

Sinh hoạt của các hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu

Văn An và Bưởi CVA hàng năm thường là họp mặt Tân

Niên, Picnic Hè và đôi khi có những buổi nói chuyện về

văn hoá, về hiện tình đất nước và chỉ có tính cách địa

phương.

Năm 2004, anh Nguyễn Đức Năng, lúc đó đang là

Hội trưởng Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Bưởi-Chu Văn An

Page 8: TOÀN CẦU 2017

Trang 4 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Nam California đã cùng một số anh em Chu Văn An tổ

chức Hội Ngộ Chu Văn An Toàn Cầu vào hai ngày 1 và 2

tháng 7 năn 2004 và cho phát hành Đặc san Chu Văn An

Toàn Cầu đầu tiên.

Hội Ngộ Chu Văn An Toàn Cầu Kỳ 2 vào ngày 3,

4, và 5 tháng 8 năm 2007 tại Bắc California do anh Lê Duy

San là Trưởng ban Tổ chức và cũng là Hội trưởng Hội Ái

Hữu Cựu Học Sinh Chu Văn An Bắc California với số

người tham dự kỷ lục lên tới gần 800 người.

Kế đó là Washington DC vào năm 2010 do anh

Nguyễn Đức Nam làm Trưởng ban Tổ chức; Houston

Texas năm 2013 do anh Nguyễn Văn Bình làm Trưởng ban

Tổ chức; Nam California năm 2015 do anh Bùi Đức Uyên

và cũng là Hội trưởng Hội Ái Hữu Bưởi-Chu Văn An Nam

California làm Trưởng ban Tổ chức.

Năm nay, 2017, Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Chu

Văn An miền Bắc California lại một lần nữa đảm nhận tổ

chức Hội Ngộ Chu Văn An Toàn Cầu kỳ 6. Lần này do anh

Lê Văn Tỉnh, đương kim Hội trưởng, làm Trưởng ban Tổ

chức. Ngoài các tiết mục của một ngày hội ngộ, Ban Tổ

chức xin gửi đến quý thầy và quý đồng môn cuốn Đặc san

Chu Văn An Toàn Cầu năm 2017 với chủ đề: “Nhìn lại

quá khứ” . Vì thế nội dung cuốn đặc san này gồm có, ngoài

những bài viết liên quan tới trường, thầy và bạn còn có

những bài viết gợi nhớ lại thời thơ ấu của chúng ta tại Hà

Nội cũng như lúc trưởng thành của chúng ta tại Sai Gòn,

đầy ắp kỷ niệm thân thương với những hình ảnh thơ mộng

và đáng yêu của các đồng môn và thân hữu đóng góp.

Rất mong được quý thầy và quý đồng môn đón

nhận và ủng hộ.

Thay mặt Ban Biên tập

San Jose, ngày 10 tháng 9 năm 2017

Lê Văn Tỉnh

Page 9: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 5

Phỏng vấn Cụ Đào-văn-Minh

một lão hội viên về

gốc tích TRƯỜNG BƯỞI

Nguyễn Lân Đính, Bưởi

LTS. Chúng tôi nhận được bài này từ một đồng môn, thân

nhân của BS Nguyễn Lân Đính, là người đã lưu giữ được

bài phỏng vấn của “Phóng viên Vác Dù”, tác giả bài viết.

* Cụ đã 73 tuổi, cảnh già điền viên, nhưng cụ cũng

vẫn nhanh nhẹn, ưa hoạt động, và rất thiết-tha với Ái-Hữu.

Biết trước tính cụ không ưa khách sáo, nên Phóng Viên

Vác Dù vào câu chuyện ngay. Dưới đây, xin thuật lại

những câu hỏi và câu trả lời của cụ:

Hỏi.- Thưa cụ, Trường Bưởi có phải là Trường

Trung-học đầu tiên được mở tại Hà-Nội không?

Đáp.- Có thể nói là đúng, vì có mấy trường mở

trước, tuy lấy tên là “Collège”, nhưng chỉ là những trường

chuyên đào-tạo thông ngôn hoặc giáo viên cấp thời.

Trường Yên-Phụ (phía Bắc Hà-Nội) được mở vào

tháng 10 năm 1892. Ngôi nhà ấy đến sau này đã được sửa

chữa, để dùng làm trường-sở trường Tiểu-học Yên-Phụ.

Hồi bắt đầu mở trường “Collège des Interprètes” Yên-Phụ,

đất Bắc còn thờ-ơ với việc học tiếng Pháp, nên đa số thông

ngôn đều là các ông phán Sài-gòn. Đến năm 1899, Trường

được chuyển tới một tòa nhà, trụ-sở cũ của Nha Thương-

Chính (Quan Thuế) ở đường Bờ Sông (tên thời Pháp là

Quai Clémenceau và nay là đường Nguyễn-trường-Tộ) nên

người ta quen mồm gọi là Trường Thương-Chính.

Trường Collège Jules Ferry mở tại Nam-Định, năm

Page 10: TOÀN CẦU 2017

Trang 6 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

1904, lấy mấy lớp nhất của Trường Tiểu-học Nam-Định

(Trường mệnh danh là Trường Trong, gồm từ lớp ba trở

lên; còn Trường Ngoài gồm từ lớp tư trở xuống) làm

trường sở. Trường này cũng là trường theo một chương

trình cấp tốc, với mục đích đào tạo thông ngôn.

Trường Collège Doudart de Lagrée, mở tại đường

Hàm-Long, Hà-Nội, năm 1906, đặc biệt để đào tạo giáo

viên.

Như tôi đã nói ở trên, tuy những trường kể trên

được mở trước Trường Bưởi, nhưng chỉ có tính cách những

lớp cấp tốc đào tạo thông ngôn hoặc giáo viên cần thiết cấp

thời, nên chương trình học cũng như việc cho học trò lên

lớp, đều co dãn, tùy theo nhận xét của Ban Giáo sư và Ban

Giám đốc.

Trường Bưởi tức là Collège du Protectorat, là

Trường Trung học đầu tiên có quy-củ, có chương trình 4

năm học, mở cho người Việt-Nam, tại Bắc-Hà. Trường

được đặt nền móng năm 1907, trên một bất động sản mua

lại của nhà in Schneider, bên bờ Hồ Tây, thuộc địa phận

làng Thụy-Khuê, huyện Hoàn-Long, tỉnh Hà-Đông. Khu

đất rất rộng, nằm từ ven Hồ-Tây ra tới đường xe điện chạy

Hồ Hoàn-Kiếm - Yên-Thái. Làng Yên-Thái, tên nôm là

làng Bưởi, nên đường xe điện lên Yên-Thái được gọi nôm

là đường lên Bưởi. Hồi đó, phương-tiện giao-thông tiện lợi

nhất là xe điện, nên đa số học-sinh đi học Collège du

Protectorat đều sử-dụng xe điện lên Bưởi. Do đó, phát

nguyên danh-từ “Trường Bưởi”.

Cả khu trường được sửa sang và nhà dựng lên lần

lần, nên niên học chính-thức đầu tiên, 1908-1909, còn thiếu

thốn về mọi phương diện. Buổi đầu, chưa có phòng tắm

cũng như phòng rửa mặt, nên lưu trú học sinh đều phải

chạy xuống Hồ-Tây rửa mặt buổi sáng và tắm buổi chiều.

Đến sau, nhà trường mua (hay đi xin được) 50 vỏ thùng

rượu vang, mang mỗi thùng cắt đôi, để học sinh dùng làm

Page 11: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 7

thùng tắm. Chiều chiều, lao công gánh nước Hồ-Tây, đổ

đầy các thùng, vào khoảng 4 giờ, để đến 5 giờ, học sinh lưu

trú luân phiên tắm gội. Chúng tôi có thói quen vui nhộn, hò

nhau cùng ngồi vào thùng tắm, nhúng cả mình, trước khi ra

mặc áo quần. Ông Hiệu trưởng đầu tiên của trường, là ông

Cyprien Mus, tính nết hòa nhã, nhân đi qua, nghe thấy tiếng

chúng tôi hò nhau vui vẻ, nên ghé tới xem chúng tôi tắm.

Tôi ngồi ngay ở thùng đầu tiên, tự nhiên phản ứng như lúc

ông Hiệu trưởng vào thăm lớp học, vội vàng đứng dậy

chào. Tức thì, các bạn tôi cũng làm như tôi, mọi người

cùng tồng ngồng đứng trong thùng rượu bổ đôi. Ông Hiệu

trưởng vừa cười, vừa chào trả lại.

Hỏi.- Được biết cụ đã học Collège Jules Ferry,

trước khi lên trường Bưởi. Vậy xin cụ cho biết qua về

trường ấy.

Đáp.- Tiếng gọi là Collège, nhưng chương trình học

và sự sắp xếp lớp học rất co dãn. Muốn có ngay học sinh

niên khóa đầu tiên, 1904-1905, đặc cách cho Cours

supérieur tiểu học là 1re

année, rồi cuối năm thi đậu bằng

Tiểu học, cho lên 2e année. Đến cuối niên học 1905-1906,

cho ngay 10 người đầu lớp 2e année lên Hà-Nội thi Đíp-

Lôm (Diplôme de fin d’études complémentaires franco-

annamites). Năm 1906 là năm đầu tiên có kỳ thi Đíp-Lôm;

thí sinh chỉ gồm có 10 học sinh Collège Jules Ferry và ngót

hai mươi học sinh Collège des Interprètes Hà-Nội. Người

đỗ đầu khóa thi ấy, là cụ Nguyễn-phan-Long (con cụ cố

Thông phán Nguyễn-phan-Toán, lúc đó làm việc tại tòa sứ

Nam-Định) học sinh trường Collège Jules Ferry. Đậu Đíp-

Lôm xong, cụ lại được bổ nhiệm làm giáo sư ngay ở trường

Collège Jules Ferry cụ học trước. Niên khóa 1906-1907, cụ

dậy lớp 3e année, nghĩa là dậy ngay bạn đồng học 2

e année

cũ, nhưng mọi người đều thán phục tài đức của cụ, trong

việc giảng dạy. Mấy tháng sau, có kỳ thi Tham-tá quan

thuế, cụ dự thí, lại đỗ đầu và được bổ nhiệm ngay tại Hà-

Nội. Nhưng chỉ vài năm sau, nhân cụ thân sinh về hưu-trí,

Page 12: TOÀN CẦU 2017

Trang 8 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

trở lại Nam-Phần, cụ xin thôi nghề công chức, để về làm

báo tại Saigon, như chúng ta đã biết. Có một hồi, lúc tuổi

già, cụ đã gánh vác nhiệm vụ Thủ-tướng Chính-phủ.

Trong số 10 cụ đậu “Đíp-Lôm” đầu tiên của trường

Collège Jules Ferry, chỉ còn có 3 cụ còn sống, là cụ Đào-

đức-Tầm, 80 tuổi, cụ Hoàng-mạnh-Ngọc, 76 tuổi, hiện nay

vẫn mạnh khỏe, ở tại Saigon, và cụ Nguyễn-văn-Bằng, 78

tuổi, ở lại Nam-Định.

Chuyện lên lớp ở Collège Jules Ferry rất co dãn,

như tôi đã nói. Tôi còn nhớ số chước tịch của cụ Nguyễn-

phan-Long và Hồ-sĩ-Nam là 922 và 921, còn số của tôi là

2.394; có sự cách biệt con số như trên, vì khi hai cụ ấy học

lớp nhất, tôi mới học lớp chín. Lẽ ra phải thua tám lớp,

nhưng trong một năm, nhờ về những bài thi chính tả chữ

Pháp liên tiếp được trội điểm hơn cả, tôi đã nhẩy tới 5, 6

lớp, thậm chí đến niên học 1905-1906, tôi chỉ còn kém hai

cụ có một lớp.

Trường Collège Jules Ferry được đóng cửa vào cuối

niên học 1907-1908, để dồn học-sinh lên Trường Bưởi.

Thực ra, nhờ về sự chuyển học-sinh này, Trường

Bưởi mới có đủ các lớp từ 1re

année đến 4e année, vào niên-

khóa 1908-1909. Với việc dồn trường ấy, tôi trở thành học-

sinh Trường Bưởi.

Hỏi.- Xin cụ cho biết qua về việc giảng dạy ở

Trường Bưởi hồi bấy giờ. Thi cử ra sao? Đời sống lưu-trú

học-sinh như thế nào?

Đáp.- Niên học 1908-1909, Trường Bưởi gồm có

Petit Collège, cho bậc tiểu học, có chừng 250 học sinh và

Grand Collège, cho bậc trung học phổ thông có chừng 120

học-sinh. Học trò phải đậu tiểu học mới được thi vào 1re

année, và hết 4e année mới được thi trung-học phổ-thông.

Vì mục đích lúc đó là đào tạo công chức, nên đến 4e année,

mỗi lớp tùy theo sự lựa chọn của học-sinh, chia làm hai

Page 13: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 9

ban: ban hành chánh (section administrative) thi ra làm ông

phán (thư ký), ban sư-phạm (section normale) thi ra làm

ông giáo viên tiểu-học. Đặc biệt có niên-khóa 1909-1910,

có 11 người, vì bài Pháp văn không đủ điểm, nên thi rớt

Đíp-Lôm; nhà trường cho học lại, nhưng cho ngồi riêng

một lớp, gọi là 5e année, có ý đề cao học-sinh đàn anh về

niên học. Cuối niên-học sau (1910-1911) mười người thi

đậu “Đíp-Lôm”, một người thi rớt, nhưng chỉ một tháng

sau, đậu kỳ thi thông ngôn Tòa sứ.

Vị hiệu-trưởng đầu tiên là ông Cyprien Mus, tính

nết hòa nhã, vui vẻ, rất gần gũi học-sinh, luôn luôn bình

tĩnh ôn tồn, dầu xảy ra việc gì không vừa ý. Ông nói

chuyện thân mật với học-sinh, nói tiếng Pháp thanh thanh

rất dễ nghe. Ông cho học-sinh biết: ông là người tỉnh

Tours, vùng Touraine, đã đậu thủ khoa trường Ecole

Normale Saint-Cloud. Ông vừa làm hiệu-trưởng, vừa dạy

4e année, về môn sư-phạm. Vì tôi học ban sư-phạm, nên

cảm thấy giờ học ông là những giờ thích-thú nhất. Ông săn

sóc đến học-sinh từ chỗ học, đến nơi ăn, chốn ngủ, thường

nếm cả cơm cùng các thức ăn, và lúc nào cũng chú ý đến

lời kêu ca của học-sinh.

Trừ một giáo sư có bằng cử nhân văn khoa, toàn thể

giáo sư Pháp dạy hồi đó là giáo viên tiểu học bên Pháp

sang. Tuy vậy, chính ông giáo sư có bằng cử nhân, nhưng

không hề học qua lớp sư phạm, lại dạy học không có kết

quả nhất. Giáo sư Việt-Nam có hai vị: 1o cụ Trần-hữu-Đức,

người Hà-Nội, hồi đó chừng 50 tuổi, dạy phiên dịch Việt-

Pháp (thème et version), tài chuyển ngữ Việt Pháp có phần

trội hơn cả cụ Nguyễn-văn-Vĩnh; sau này, cụ tham dự

phong trào cách mạng và tạ thế tại Hà-Nội, nên không ai

nhắc đến tên cụ nữa, 2o cụ tú tài Ngô-tiến-Tiệp dạy chữ

Nho.

Học-sinh hồi đó là con cháu các gia-đình hấp thụ

Nho phong, nên đối với giáo sư hết sức kính cẩn. Sự kính

cẩn đối với thầy ấy đã làm cho một giáo sư người Pháp tên

Page 14: TOÀN CẦU 2017

Trang 10 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

là Roland đi quá trớn; trong khi rầy la học trò, đã dùng

những danh từ quá đáng. Cả Ban Trung-học (gồm chừng

120 người đã có tới 100 người là lưu trú học-sinh, vì được

hưởng học bổng) phẫn uất về cách ăn nói trên, nên một

buổi tối, sau bữa cơm chiều, thảo luận về thể thức phản ứng

lại. Mọi người đồng thanh cùng ký một lá đơn xin đổi giáo

sư Roland. Sáng hôm sau, một bạn ở lớp trung-học có giờ

giáo sư Roland đầu tiên, viết lên bảng câu: “Socrate a dit: Il

ne m’aime pas. Que pourrai-je lui apprendre?”. Lúc ông

Roland đến, học-sinh đứng dậy chào như thường lệ và yêu

cầu ông đọc câu trên bảng. Đọc xong, ông nổi cơn thịnh nộ

và đe dọa: cửa Trường Bưởi mở rộng! Một học-sinh đấu

khẩu trả lời xin để ông hiệu-trưởng giải quyết. Đồng thời,

mọi người ra khỏi lớp học, sắp hàng đôi, đi rất trật tự và

bình tĩnh, từ lớp học đến phòng giấy ông hiệu-trưởng, đệ lá

đơn xin đổi ông Roland, mà mọi người đã ký từ đêm hôm

trước. Ông hiệu-trưởng Cyprien Mus, như đã nói ở trên, rất

gần gũi học-sinh, nên sau khi đọc xong đơn, khuyên học trò

bình tĩnh trở lại lớp học, chờ cuộc điều-tra của ban giám-

đốc nhà trường, và trong khi chờ đợi, giáo sư Roland sẽ

tạm ngưng giảng dạy. Chỉ trong vòng một tuần lễ sau, giáo

sư Roland có sự-vụ-lệnh thuyên chuyển sang Lèo và toàn

thể lưu trú học-sinh Ban Trung-học phải phạt không được

ra chơi phố, hai tuần lễ (2 privations de sortie). Chúng tôi

đã vui vẻ chịu phạt.

Sách học hồi đó phát đủ cho học-sinh, không phải

mua, nói là cho mượn, nhưng cuối niên học, cũng không

lấy lại.

Việc thi hồi đó cũng giản dị lắm. Không phải lập

hồ-sơ giấy tờ phiền toái như ngày nay. Độ nửa tháng trước

ngày thi Đíp-Lôm, ông hiệu-trưởng lập danh sách thí sinh

trường mình, lấy chữ ký từng thí sinh, rồi gửi tới Nha Học

chính là đủ. Vào năm tôi đi thi (niên học 1911-1912), trước

ngày thi, chúng tôi được ông hiệu-trưởng báo cho biết đến

thi tại trường Trung-học Pháp Paul Bert (hồi đó chưa có

Page 15: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 11

Lycée Albert Sarraut; chỉ có Collège Paul Bert, ở đường

Đồng-Khánh, gần nhà Gô-Đa), chúng tôi thấy vẻn vẹn có

30 thí sinh, mà Trường Bưởi đã có tới 25 thí sinh, toàn thể

lại là lưu trú học-sinh, chỉ có 5 thí sinh tự do (candidat

libre), thật là phiền phức cho chúng tôi, về sự chuyển vận

tới nơi thi. Lập tức, ông hiệu-trưởng Cyprien Mus, can

thiệp với Nha Học-chính và chúng tôi được thi tại Trường

Bưởi. Vì cận ngày quá, không kịp báo cho 5 thí sinh tự do,

nên sáng sớm ngày thi, Nha Học-chính cho người đón 5 thí

sinh tự do tại Collège Paul Bert để chuyển lên Trường

Bưởi. Kỳ thi ấy, 18 thí sinh Trường Bưởi đậu, rớt 7 người,

và 5 thí sinh tự do đều hỏng cả vì học không đủ để làm bài.

Lúc đó, thi rớt “Đíp-Lôm” cũng không buồn, vì luôn luôn

có những kỳ thi tuyển thư ký: học lực đi thi “Đíp-Lôm” dư

để thi đậu thư ký, vì phần đông thí sinh Thư ký chỉ vừa mới

thi xong bậc Tiểu-học. Câu chuyện khi đó xảy ra cũng

ngược đời: đậu “Đíp-Lôm” tháng 6, đến tháng 9 mới được

bổ nhiệm làm công chức; nhưng thi hỏng “Đíp-Lôm”, đậu

kỳ thi thư ký, vào tháng 7 chẳng hạn, đầu tháng 8 đã được

bổ nhiệm làm công chức rồi.

Hồi đó, ông Hiệu-trưởng sống thân mật với học-

sinh lắm: mỗi kỳ thi Đíp-Lôm xong là ông khao một bữa

ngay tại trường, cấp cho chừng 5, 7 con gà tây quay bơ và

mươi chai rượu vang, tùy theo số người mãn khóa.

Đời sống lưu trú học-sinh cũng dễ chịu lắm. Giám

thị đối với học-sinh 4e année, nhất là đặc biệt 5

e année, hầu

như không có ảnh hưởng; anh em 5e année và 4

e année chia

nhau, mỗi người săn sóc chừng dăm em lớp dưới, cả từ lúc

ăn lẫn lúc học, như anh cả đối với các em nhỏ. Thực đơn

hàng tuần đều do chúng tôi xếp đặt và đề nghị với nhà

trường.

Tôi xin kể một chuyện xảy ra trong niên học 1910-

1911, nhân dịp ông Giám thị tên là Tuân tạ thế. Học sinh

phải làm điếu văn, lúng túng mãi không biết gọi bằng

“ông”, hay “thầy”, hay là “anh” vì vừa năm trước, ông ấy

Page 16: TOÀN CẦU 2017

Trang 12 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

cũng là học-sinh trường Bưởi. Việc mang ra thảo luận gay

go, sau tôi mang ra một tờ nguyệt san giáo dục Pháp có in

một bài điếu văn của một giáo sư, tiến sĩ văn chương, khóc

một đồng nghiệp, vừa là thầy cũ bậc tiểu-học, vừa là bạn cũ

bậc đại-học, lại vừa là học trò cũ, cũng bậc đại-học. Bài

điếu văn ấy bắt đầu như sau:

“Thưa Thầy thân ái,

“Thưa Bạn thân ái.

“Thưa Học trò thân ái,”

Mọi người thỏa thuận để bài điếu văn bắt đầu bằng

“Thưa Anh”, và người đại diện đọc điếu văn là một học

sinh lớp 4e année.

Khi điếu văn vừa đọc xong, cụ Giám thị Nguyễn-

đình-Quế, tỏ vẻ tức bực, khó chịu và ứng khẩu mấy câu

chua chát như sau: “Thưa Anh! Anh Tuân ơi! Tuy anh

chẳng dạy được ai, nhưng anh cũng đã dầm sương, dãi

nắng ở sân nhà trường. Than ôi! Dã tràng xe cát biển

Đông!…”

Đến đây, Phóng Viên Vác Dù thấy đã quá kéo dài

cuộc phỏng vấn, làm cụ lão hội viên mất nhiều thời giờ và

thêm mệt mỏi, nên xin cáo lỗi đối với cụ, để xin rút lui.

Nhưng cụ lão hội viên Đào-văn-Minh, cụ già quắc thước

đáng kính mến, mặt như sáng thêm lên và niềm nở bảo tôi

rằng:

Tôi lấy làm thích thú góp phần tinh thần vào Ái hữu

Cựu học sinh trường Bưởi và kể xong cho ông nghe câu

chuyện trường xưa, thầy và bạn cũ, tôi đã quay lại cuốn

phim thiếu thời, riêng tôi cảm thấy như mới ngày hôm qua,

còn sống ở ký túc xá trường Bưởi, không mệt mỏi đâu.

Nguyễn Lân Đính, Bưởi

Page 17: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 13

Phu Tử

Chu Văn An:

Bậc Lương Sư

Tiêu Biểu

Trần Lam Giang, CVA 59

Quốc học nước ta gắn liền với giòng lịch sử, tạo nên

nhân phong cao cả, văn hiến nhân bản độc lập và sáng tạo,

không vay mượn của bất cứ ngoại chủng nào. Nền văn

minh nông nghiệp định cư là nền văn minh tồn trữ đầu tiên

ở phương Đông, do trí tuệ và tấm lòng của Việt tộc khai

sáng và bồi đắp.

Lịch sử Việt Tộc ta, có khúc vinh quang rực rỡ, có

khúc đắm đuối thê lương. Nhưng, khúc nào cũng có những

vị lương sư hưng quốc, hoặc nổi danh, hoặc ẩn danh. Nhờ

Page 18: TOÀN CẦU 2017

Trang 14 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

vậy, giải non sông gấm vóc Việt Nam, dẫu có bị làm sao,

dẫu có bị thế nào, thì rồi trước sau cũng vẫn của người Việt

Nam, những người đồng bào cùng huyết thống Rồng Tiên

làm chủ. Anh em chúng ta thử nghĩ mà xem giải lãnh thổ từ

ải Nam Quan đến mũi Cà-Mâu có tấc đất nào là không

thấm nhuần mồ hôi nước mắt, máu xương tim óc người dân

Việt ta đâu? Vậy nên người Việt làm chủ lãnh thổ ấy, là

hợp tình, hợp lý, hợp đạo nghĩa làm người.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám tại Hà Nội, Việt Nam

Về các bậc lương sư hưng quốc, phu tử Chu Văn

An được tôn là tiêu biểu, thờ ngài trong Văn Miếu cùng

Khổng Tử. Các pho chính sử nước nhà đều cung kính ghi

chép về ngài. Văn học dân gian đến nay còn truyền tụng

thánh tích thương dân của ngài.

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư do sử thần Ngô Sĩ Liên

biên soạn, về phu tử Chu Văn An đã viết: “Ngày 26 tháng

11 năm Canh Tuất (1370) Quốc Tử Giám tư nghiệp Chu

Văn An mất, được vua truy tặng tước công, Thụy Văn

Trinh và đưa vào thờ ở Văn Miếu (cùng Đức Khổng Tử).”

Page 19: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 15

“Ngài người ở Thanh Đàm, tính cương trực, khắc

kỷ, “sống theo điều nghĩa luyện lòng trong sáng, vững bền

tiết tháo, không màng khoa danh tước lộc. Ở nhà đọc sách,

hiểu biết uyên áo, tiếng tăm vang khắp gần xa. Người đến

xin học đầy cửa”. Có những người đỗ đại khoa, giữ việc

triều đình, thành đạt hiển danh như Phạm Sự Mạnh, Lê Bá

Quát. Đã làm đến hành khiển, vẫn giữa lễ học trò. Khi đến

thăm hỏi ngài, thì quỳ lạy ở dưới giường ngài ngồi. Được

nói chuyện với thầy mấy câu rồi đi xa, đã lấy làm vui mừng

lắm vậy. Kẻ học trò nào làm điều xấu, đến thăm, ngài

nghiêm khắc răn dậy, mắng mỏ. Có kẻ ngài quát nạt, không

cho vào gặp. Ngài quả là bậc trong sạch, ngay thẳng,

nghiêm nghị lẫm liệt đáng kính sợ.”

“Vua Minh Tông mời ngài làm tư nghiệp quốc tử

giám, dậy Thái Tử ? Thái Tử lên ngôi, tức vua Trần Dụ

Tông, ham mê chơi bời, bỏ bê chính sự. Bọn gian nắm

nhiều quyền hành, làm nhiều điều trái phép. Ngài khuyên

can, vua không nghe, bèn dâng sớ xin chém 7 tên gian thần,

đều là những kẻ quyền thế được vua sủng ái. Bấy giờ gọi là

“Thất trảm sớ”, sớ dâng không được vua trả lời. Ngài trao

trả mũ áo, trở về sống với ruộng vườn. Vì yêu phong cảnh

Chí Linh, đến ẩn cư ở đấy. Chỉ những khi Triều đình có đại

hội ngài mới đến kinh sư. Vua Dụ Tông muốn ủy thác việc

triều chính cho ngài. Ngài từ chối, không nhận. Bà Hiến Từ

Hoàng Thái Hậu nói rằng: “Bậc hiền sĩ thanh cao, vua cũng

không bắt làm bầy tôi được, giao chính quyền cho bậc ấy

làm sao được.”

“Mỗi khi vua sai nội thần đem phẩm vật ban

thưởng, ngài lạy tạ mà nhận, rồi đem cho người khác hết.

Thiên hạ đều phục ngài là bậc khí tiết cao.”

“Khi Vua Dụ Tông băng hà, quốc thống suy vi.

Được tin các quan tôn lạy vua mới là Trần Nghệ Tông;

Ngài mừng lắm, chống gậy đến lạy mà từ chối không nhân

chức gì. Trở về quê, mất ở nhà. Vua sai quan đến tế tặng

tên Thụy. Ít lâu sau, có lệnh tòng tự ngài ở Văn Miếu”.

Page 20: TOÀN CẦU 2017

Trang 16 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Sau phần ghi chép những dữ kiện cụ thể về ngài, sử

thần Ngô Sĩ Liên đã nhận định: “Ngài là bậc thờ vua thì

thẳng thắn can ngăn. Xuất và xử đều đúng với đạo nghĩa.

Dạy học trò hun đúc thành nhân tài, công khanh hiển đạt

đều từ cửa ngài mà ra. Tiết tháo cao thượng, đến thiên tử

cũng không thể bắt làm bày tôi. Nhân cách chính đáng, đạo

làm thầy giữ đức nghiêm; lời nói lẫm liệt khiến bọn gian

thần xiểm nịnh phải sợ hãi. Ngàn năm sau, nghe phong độ

ngài, há không làm cho kẻ gian tham thành liêm chính, kẻ

yếu hèn biết tự lập tự cường hay sao?”

Pho Việt Sử Tiêu Án của Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ,

một vị đại khoa thời cuối Lê Trung Hưng, sáng lập Ngô gia

văn phái, ngòi bút viết sử của ông cứng rắn độc đáo, phê

bình các triều đại không chút kiêng dè. Các bậc minh quân

phạm gì sơ xuất, ông cũng chê trách, chỉ trích đến cùng kỳ

lý. Vậy mà khi viết về phu tử Chu Văn An, ông một mực

cung kính và tỏ lòng biết ơn vị sư biểu đã làm sáng tỏ đạo

lý.

Pho Khâm Định Việt Sử Thông giám cương mục

của Nguyễn triều, biên tập với Phan Thanh Giản làm tổng

tài cùng 14 danh nho đương thời, 3 năm hoàn tất. Lại khiến

3 danh nho duyệt và chép lại. Công việc này hoàn tất trong

một năm. Lại khiến 2 danh nho duyệt kiểm. Công việc này

được hoàn tất trong 4 năm. Lại khiến 2 danh phúc kiểm,

công việc này được hoàn tất trong 2 năm. Lại khiến 2 danh

nho duyệt và sửa chữa. Công việc này được hoàn tất trong

3 năm. Sau cùng khiến 2 danh nho kiểm duyệt trong 3 năm,

pho sử hoàn thành và được ấn hành.

Xem vậy, pho khâm Định Việt Sử của Nguyễn

Triều là công phu nghiêm túc của 45 danh nho, ròng rã 16

năm mới hoàn thành. Pho này có thêm lời bàn của Vua Tự

Đức. Vua mà bàn thì còn kiêng nể gì ai nữa? Vậy mà khi

viết về phu-tử Chu Văn An, cả 45 vị danh nho triều

Nguyễn, một mực cung kính tôn trọng và vua Tự Đức

không dám cầm bút bàn một lời. Đủ biết uy đức phu tử to

Page 21: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 17

tát là nhường nào.

Pho Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu của sử gia Đặng

Xuân Bảng, vị đại khoa cuối triều Nguyễn, người làng

Hành Thiện, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. Tuy gọi là

tiết yếu, nhưng cũng giúp cho người đọc biết đủ ngọn

nguồn lịch sử nước nhà. Cũng như các pho sử kể trên, về

phu tử Chu Văn An, ông viết với lời lẽ cực kỳ kính trọng,

bày tỏ tấm lòng ngưỡng mộ tôn thờ.

VĂN HỌC DÂN GIAN

Văn học dân gian truyền tụng rằng: Phu tử Chu Văn

An quê ở Thôn Vân, làng Thanh Liệt (có người nói rằng

ngài người làng Quang Liệt?) huyện Thanh Đàm tỉnh Hà

Đông. Huyện Thanh Đàm, đến thời Lê Trung Hưng đổi

thành Thanh Trì vì kiêng húy vua Lê Thế Tông, ngài húy là

Lê Duy Đàm.

Thủa đó, nhà Trần suy vi, Vua ham mê chơi bời, bỏ

bê chính sự, sủng tín bọn gian thần xiểm nịnh. Phu tử can

ngăn, không nghe. Ngài dâng sớ xin chém bảy tên gian thần

tặc tử. Vua không trả lời. Ngài bèn cởi mũ áo, treo ấn từ

quan, ẩn cư trên núi Phượng Hoàng thuộc huyện Chí Linh.

Cũng ở đấy, ngài mở lớp dậy học.

Hoàng Tử con út của Long Vương- Vua dưới thủy

tề biết phu tử là bậc thầy đức cao học rộng, bèn lên cõi trần,

giữ kín thân thế, xin làm môn sinh. Gặp năm hạn hán, ngũ

cốc mất mùa, cuộc sống người dân đã khổ sở vì triều đình

rối nát, lại thêm khốn đốn vì tai trời. Một hôm, tan buổi

giảng, phu tử giữ Hoàng tử Thủy Tề lại và bảo:

Trong triều gian thần lộng quyền, khiến cho âm

dương rối loạn, sinh nạn hạn hán, người dân điêu đứng đói

khổ. Người có lòng nhân ai cũng đau xót. Thầy mong anh

cứu vớt đám lê dân.

Hoàng tử trầm ngâm cúi đầu, thưa:

Page 22: TOÀN CẦU 2017

Trang 18 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

“Chống lại vận hành của tạo hóa sẽ phải gánh chịu

tai nạn lớn. Nhưng lời thầy đã dậy, kẻ học trò nguyện đem

hết tâm sức tuân hành.”

Rồi xin nghiên mực của phu tử nói:

“Con phun nước vào nghiên này, trời ắt đổ mưa cho

đến đủ nước cấp cày. Nhưng, một điều quan trọng là hậu

duệ thày, không một ai khoa bảng vì nghiên của thầy đã hết

mực.”

Chu phu tử gật đầu:

“Tốt lắm. Nhà ta dứt khoa bảng, đổi lại lê dân được

no ấm. Như thế còn gì bằng? Anh hãy làm mưa đi.”

Người học trò múc gáo nước, ngậm mà phun vào

chiếc nghiên. Chỉ một thoáng, trời đang nắng chang chang,

mây đen bỗng vần vũ, rồi mưa như trút nước. Chàng bái

biệt thầy ba lạy:

“Từ nay con xin thôi học.”

Hôm sau, Chu phu tử đi dạo ra đầm nước trước nhà,

nước đen như mực, có xác một con giao long nổi lềnh

bềnh. Ngài sa lệ, gọi các môn sinh đến kể chuyện. Ai cũng

cảm động, vớt xác lên chôn cất cẩn thận, gọi là mộ Giao

Long. Ngôi mộ ấy linh ứng lắm, người dân lập đền thờ,

khói nhang không dứt.

Sách Lưu Dị Ký chép: con út Long Vương ham

học, nghe biết Chu Văn An mở lớp, bèn lên cõi trần xin

làm đệ tử. Chàng giữ bí mật thân thế, không ai biết. Gặp

buổi hạn hán, nhà nông mất mùa. Tiên sinh giảng bài xong,

ngồi lặng ưu tư. Hoàng tử út của Long Vương kính cẩn hỏi

vì cớ gì? Tiên sinh nói:

“Vì lũ gian thần lộng quyền, không biết điều hòa

âm dương, đến nỗi sinh nạn hạn hán. Người có lòng nhân ái

cũng xót xa. Lòng ta đau xót lắm.”

Chàng thưa:

Page 23: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 19

“Đệ tử tài hèn, khó mà kéo lại máy tạo hóa. Nhưng

cũng xin thử, may ra có thể được.”

Rồi cầm gáo nước hắt vào nghiên mực của thầy,

một lát sau mưa như xối nước. Chàng bái biệt thầy:

“Từ nay con xin thôi học.”

Khi về đến bờ sông Nhuệ giang, gặp vị thiên sứ.

Thiên sứ hỏi: Cớ gì khiến người làm mưa? Chàng liền ngã

xuống đất mà chết, hóa ra một con giao long. Dân làng

chôn chàng, lập mộ gọi là mộ “Giao Long Hạt Túc”. Hơn

tháng sau thấy có linh ứng, bèn lập đền thờ, nay vẫn còn.

Qua điều truyền tụng trong dân gian cũng như ghi

chép nơi sách Lưu Dị Ký, cho thấy rõ Chu phu tử là bậc đối

với môn sinh thì đào tạo tâm hồn, mở mang trí tuệ, đối với

dân nước thì thực lòng yêu thương: dứt khoa danh hậu duệ

để dân được áo ấm cơm no. Học trò ngài, ngoài những vị

khoa bảng đạt nhân, lại có cả đến vị đổi mạng sống để làm

điều đúng do thầy sai khiến. Thật là xúc động lòng người.

Hậu duệ ngài, cho mãi đến cuối thời Lê Trung

Hưng, xét trong danh sách khoa bảng, tuyệt nhiên không có

một người.

Triều đình cử tiến sĩ Phạm Quý Thích đi tìm, mới

hay hậu duệ Chu phu tử rời về Thanh Hóa định cư, tất cả

gồm 17 xuất định. Họ đều chất phác đơn thuần, sống bằng

nông nghiệp, không quan tâm về cử nghiệp. Ông Phạm

Quý Thích có chọn được mấy người thông minh mẫn tuệ,

xin với triều đình cho về theo học trường Quốc Tử Giám.

Việc chưa thành thì lịch sử biến động. Nhà Tây Sơn đi vào

lịch sử như sấm sét chớp nhoáng. Rồi nhà Nguyễn nắm giữ

sơn hà. Việc cho hậu duệ Chu phu tử tòng học nơi Quốc Tử

Giám bị quên lãng. Không biết có phải nghiên của phu tử

hết mực hay không?

Trên đây là nói về lập công, lập đức của ngài. Về

lập ngôn, ngài viết những tác phẩm giá trị: Thất Trảm Sớ,

Page 24: TOÀN CẦU 2017

Trang 20 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Tiều Ẩn Thi Tập, Tiều Ẩn Quốc Ngữ Thi, Tứ Thư Thuyết

Ước. Không may cho văn học nước nhà, dưới thời giặc

Minh đô hộ, với chính sách thưc dân văn hóa ngược nhân

tình: đốt sách tịch thu sách quý đem về Tầu, nay chỉ tìm

được 12 bài thơ chép trong Toàn Việt Thi Lục. Tôi chép

dưới đây một bài, phiên âm và dịch nghĩa.

Đề Lãng Ngộ

Thượng nhân Viễn công duệ

Lãng ngộ hữu cao thức

Lũ kết Bạch xã minh

Vị ái thanh liên sắc

Phương đường trữ bích y

Hoàn dĩ phù cừ thực

Thượng cấu thủy hoa đình

Ý dữ liên tỷ đức

Hảo phong thời nhất lai

Mãn tọa văn phương phức.

Ẩn kỷ quan chúng diệu

Du nhiên tâm tự đắc

Bất tri thanh tịch thân

Dĩ tại hà hoa trắc

Minh nguyệt tương hữu bằng

Nhàn vân đồng yển tức

Khát khuynh châu lộ ẩm

Bão trích ngọc phòng thực

Hồi đầu tạ thế phân

Tiêu diêu du bát cực

Dịch nghĩa:

Đề Giác Ngộ Trong sáng[1]

Cao tăng[2]

giòng viễn công[3]

Giác ngộ trong sáng, kiến thức cao sâu,

Luôn giữ lời kết minh ở thôn Bạch.

Vì yêu sắc sen xanh,

Nên ao vuông chứa sóng biếc gợn lăn tăn,

Page 25: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 21

Trồng toàn sen ở chung quanh.

Trên mặt ao dựng đình Thủy Hoa,

Ngụ ý sánh đức cùng sen.[4]

Mỗi khi gió mát thoảng qua,

Đưa hương thơm ngào ngạt khắp chỗ ngồi.

Tựa ghế quan sát mọi diệu lý.

Thỏa mái nhẹ nhàng vì tự nhận thấy được chân

tâm[5]

Không biết đến thân thanh tịnh.

Đã ở bên hoa sen.

Bạn bè với trăng sáng,

Nghỉ ngơi cùng mây nhàn.

Khát, nghiêng giọt sương ngọc mà uống.

Đói, hái hạt sen ngọc mà ăn.

Ngoái đầu lại tạ từ cõi đời phiền toái,

Thong dong dạo chơi tám cõi[6]

Chú Thích:

[1] Nguyên tác “Lãng Ngộ” lãng là sáng, ngộ: tỉnh

mà nhận ra, tức giác ngộ. Lãng Ngộ bao hàm ý nghĩa: tĩnh

ngộ bỏ bến bờ vô minh (tăm tối) do vọng động sinh ra, đi

sang bờ bên kia, trong sáng lắng đọng.

[2] Cao tăng: Nguyên tác là “Thượng Nhân” nghĩa

là bậc ở trên, bề trên; tôi định là cao tăng.

[3] Viễn công: Ông viễn, tức cao tăng Tuệ Viễn, trụ

trì ở chùa Đông Lâm, đã thỉnh được 126 vị cao tăng và túc

nho, cùng nhau minh ước giữ tinh thần “Công hồ dị đoan,

tư hại giã dĩ” nghĩa là “chống đối, đả phá những giềng mối

tư tưởng khác nhau, chỉ có hại cho chính tâm thân mình và

nhân quần”.

[4] Đức của sen:

Trong đầm gì đẹp bằng sen?

Lá xanh, hoa trắng, lại chen nhị vàng.

Nhị vàng, hoa trắng, lá xanh,

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Page 26: TOÀN CẦU 2017

Trang 22 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Đức của sen như đức của người quân tử. Người

quân tử không ghét kẻ tiểu nhân (vô ố tiểu nhân, thị vi quân

tử) gần gũi dễ dẫn giắt và che chở chúng, nhưng không hùa

theo chúng. Cũng như sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi

bùn.

[5] Tử nhận được chân tâm: nguyên tác là “tự đắc”

Thông thường “tự đắc” là thái độ tâm lý của kẻ tiểu nhân,

thỏa mãn một cách hợm hĩnh về chính mình hoặc về việc

làm tầm thường của mình. Nhưng, trong bài này, “tự đắc”

được hiểu là “tự tìm được chân tâm mình, nói một cách

khác, tự nhìn thấy chân diện mục.”

[6] Tám cõi: nguyên tác là “bát cực” cám ơn Phạm

Nhữ Tiếp, Thiền cư sĩ đã dùng biểu tượng của Nho làm thí

dụ để giảng cho tôi hiểu được phần nào lẽ của Sắc Không.

Âm dương giao dịch (tương thôi) mà có càn, khảm,

cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài. Lại biến hóa thành 64 quẻ.

Rồi lại tương thôi thành vô cùng, vô cực, không ngừng,

không dứt. Vũ trụ vật lý và vũ trụ tâm linh đều do đấy mà

có. Sự tương thôi ấy chính là điều mà nhà Phật gọi là vọng

động. Toàn thể vũ trụ vật lý và vũ trụ tâm linh là vô minh,

là “bát cực” hay dịch là “tám cõi” cũng được. Không

vướng mắc gì với tám cõi, không bận lòng gì đến tám cõi,

thong dong dạo chơi tám cõi vì đã nhận được chân diện

mục.

Trần Lam Giang, CVA59

Page 27: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 23

CHU VĂN AN

thơ ngát hương Thiền

Ngô Tằng Giao, CVA 59

Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã

nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu

danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách. Sau khi thi đậu Thái học sinh

(Tiến sĩ) cụ không ra làm quan, chỉ ở nhà mở trường dạy

học. Học trò theo học rất đông. Trong số môn đệ cụ có

nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều.

Năm Khai Thái đời vua Trần Minh Tông (1314-

1329) cụ mới nhận chức Quốc tử giám tư nghiệp, dạy cho

thái tử học. Đến đời Trần Dụ Tông (1341-1369), vì nhà vua

mải mê chơi bời, tình cảnh xã hội nhiễu nhương, chính sự

thối nát, dân tình đói khổ, cụ đã dũng cảm dâng “Thất trảm

sớ” xin chém bảy tên nịnh thần nhưng vua không nghe. Cụ

bèn treo mũ, cởi áo từ quan lui về ở ẩn. Cụ tính ưa đọc sách

nên dựng một ngôi nhà ở sườn đồi, cạnh bờ đầm tại núi

Phượng Hoàng (Chí Linh), vừa làm thư viện, vừa làm

trường và là nơi soạn sách. Cụ lấy hiệu là Tiều Ẩn (có

nghĩa là người đi hái củi ẩn dật). Cụ dạy học và viết sách

cho tới khi qua đời tại đây. Khi cụ mất, vua Trần đã dành

cho cụ một vinh dự lớn bậc nhất đối với một trí thức là

được thờ ở Văn Miếu. Sự nghiệp của cụ được ghi lại trong

văn bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Cụ được tôn kính là

người Thầy vĩ đại, được coi là “Vạn thế sư biểu”. Các tác

phẩm của cụ phần lớn đã bị giặc Minh thâu góp và tiêu

hủy. Hiện chỉ còn lưu truyền lại mười hai bài thơ.

Page 28: TOÀN CẦU 2017

Trang 24 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Cụ Chu Văn An tìm về với cuộc sống ẩn dật để di

dưỡng tâm thần, để xa lánh cõi đời trần tục thoát khỏi trò

đua chen chốn quan quyền và nêu cao khí tiết của bậc chính

nhân quân tử. Bài thơ “Xuân Đán” (Sáng mùa Xuân) cụ

làm khi về ở ẩn:

春 旦

寂 寞 山 家 鎮 日 閒,

竹 扉 斜 擁 護 輕 寒。

碧 迷 草 色 天 如 醉,

紅 濕 花 梢 露 未 乾。

身 與 孤 雲 長 戀 岫,

心 同 古 井 不 生 瀾。

柏 薰 半 冷 茶 煙 歇,

溪 鳥 一 聲 春 夢 殘

XUÂN ĐÁN

Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn.

Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn

Bích mê thảo sắc thiên như túy,

Hồng thấp hoa sao lộ vị can.

Thân dữ cô vân trường luyến tụ,

Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.

Bách huân bán lãnh trà yên yết,

Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.

(Nhà trên núi vắng vẻ, suốt ngày thảnh thơi. Cánh cửa phên

che nghiêng ngăn cái rét nhẹ. Màu biếc át cả sắc cỏ, trời

như say. Ánh hồng thấm nhành hoa sương sớm chưa khô.

Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi lưu luyến hốc núi.

Lòng giống như mặt giếng cổ, chẳng hề gợn sóng. Mùi

khói thông sắp hết, khói trà đã tắt. Một tiếng chim bên suối

làm tỉnh mộng xuân).

Page 29: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 25

SÁNG MÙA XUÂN

Nhà trên núi vắng cảnh an nhàn

Phên cửa nghiêng che tiết lạnh sang

Cỏ biếc trời cao say chất ngất,

Hoa hồng sương sớm đượm miên man.

Thân như mây lẻ vương non thẳm

Lòng tựa giếng xưa lặng sóng vàng

Hương gỗ thông tan, trà cạn khói,

Chim bên suối hót mộng xuân tàn.

(Tâm Minh dịch thơ)

Đây là ngôi nhà tranh cửa trúc nhỏ bé hoang lặng

nơi cụ Chu Văn An ở ẩn tại làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh,

một vùng sơn thủy hữu tình với núi Côn Sơn, ngọn Phượng

Hoàng, sông Thanh Lương và ao Miết Trì... Cánh cửa phên

chỉ che nghiêng ngăn cái rét nhè nhẹ, có lẽ vì cụ vẫn còn

muốn đón nhận cái khí lành lạnh của trời đất ban cho. Cụ

không tâm niệm là với một thời thế nhiễu nhương như thế,

kẻ sĩ không còn cách gì để cống hiến cho đời. Về ở ẩn

không phải là một sự thất bại, một nỗi khổ đau. Ẩn dật

chính là môi trường sống lý tưởng. Dạy học cũng là một

cách phục vụ nước nhà một cách hữu ích.

Cụ sống giản dị và thư thái an nhàn, xa lánh cõi đời

trần tục hòa đồng với cảnh thiên nhiên đơn sơ, đạm bạc

thinh lặng, vắng vẻ. Cụ thích ngắm hoa thơm cỏ lạ. Đất trời

đang vào Xuân, cụ cảm nhận thấy vạn vật phô sắc với các

loại kỳ hoa dị thảo, trong đó có làn cỏ xanh biếc tốt

tươi. Màu biếc át cả sắc cỏ. Trời trên cao như say chất ngất.

Những ánh hồng thấm vào các nhành hoa đượm miên man

trong sương sớm. Cảnh giới thanh u như gột sạch hết phiền

não, thoát vòng tục lụy chẳng còn vương vấn chút bụi trần

thời khác chi Phật giới. Và chỉ có một tâm hồn đã đạt đạo

được trọn vẹn mới có thể cảm nhận thiên nhiên được như

thế.

Thân như đám mây lẻ loi cô đơn mãi mãi lưu luyến

Page 30: TOÀN CẦU 2017

Trang 26 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

hốc núi, vấn vương với non thẳm. Non thẳm tượng trưng

cho đạo lý hay lẽ phải muôn đời mà sĩ phu yêu nước không

thể nào ly khai. Khi trong đời trần tục bao kẻ tiểu nhân đắc

chí lộng hành, thời người quân tử thường bị thất thế, tự ví

thân mình như cụm mây gần núi, thoái lui, ẩn khuất, tránh

đời, xa lánh tiểu nhân, cứ giữ vẻ uy nghiêm mà lui về ở ẩn,

ứng với quẻ “Thiên Sơn Độn”, còn gọi là quẻ Độn là quẻ

thứ 33 trong Kinh Dịch.

Lòng tựa giếng xưa, giống như mặt giếng cổ, chẳng

hề gợn sóng, luôn dâng hiến dòng nước tươi mát, không hề

pha lẫn với các dòng đời ô tạp rác rưởi khác, luôn làm ích

lợi cho đời, cho muôn người đang khát khao đạo lý và kiến

giải nhưng vẫn lặng sóng vàng. Tương tự như ý trong

quẻ “Thủy Phong Tỉnh” (còn gọi là quẻ Tỉnh) là quẻ thứ

48 trong Kinh Dịch. Theo đó thì làng xóm có khi thay đổi,

còn giếng nước vốn cố định, không dời chỗ. Đổi làng xóm,

đổi ấp chứ không đổi giếng. Nước giếng không kiệt mà

cũng không thêm, ở chỗ nào cứ ở yên chỗ đó. Người có tài,

muốn giúp đời, nhưng không được dùng, ví như cái giếng

nước trong mà không ai múc. Nếu được ông vua sáng suốt

dùng, thì người đó sẽ giúp cho mọi người được nhờ.

Cụ muốn bộc lộ tấm lòng mình là dù cho phải dời

chỗ ở về núi Phượng Hoàng nhưng tấm lòng son của người

quân tử vẫn chẳng hề phai. Hình ảnh này đã nói lên cái tâm

như nhất đầy ắp chính khí của kẻ sĩ hết lòng phù dân giúp

nước. Cụ nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Làm ích lợi

cho đời nhưng lòng tĩnh lặng không sinh ra sóng. Nơi đây

gợi ra hình ảnh của cái tâm được đề cập tới trong Thiền

Tông đó là “chân tâm”, “diệu tâm”.

Mùi khói thông thoạt tiên hình thành, rồi hương gỗ

tồn tại tỏa rộng ra, sau biến dần đi và cuối cùng là tan hết.

Làn khói trà tỏa ra rồi cũng tương tự theo những giai đoạn

như trên mà tan biến. Một tiếng chim bên suối hót vang lên

làm tỉnh giấc mộng trong buổi sáng mùa Xuân. Phải chăng

cụ thấy được sự vận hành của Đạo cùng với lẽ “vô

Page 31: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 27

thường”, đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều

kiện, qua các giai đoạn “thành, trụ, hoại, không” hay “sinh,

trụ, dị, diệt” là bốn quy luật chi phối mọi hiện tượng giới.

Đạo Phật gọi Thế gian là vô thường nghĩa là “không chắc

chắn”, “không trường tồn.”

Từ giữa đời Trần về sau, Nho giáo thịnh dần, Phật

giáo suy yếu. Tuy thế nhiều nhà Nho trước đây đã từng lên

án chỉ trích Phật giáo gay gắt vậy mà cuối đời lại vào chùa

sống cuộc đời thanh đạm và viết những vần thơ ca ngợi

cảnh đẹp già lam như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh...

Cụ Chu Văn An cũng không trực tiếp bài bác Phật

giáo mà trái lại cụ còn sáng tácnhững vần thơ ca ngợi thiên

nhiên, bộc lộ tâm tình tiêu dao, phóng khoáng tự tại, mang

cốt cách của thiền sư, của đạo sĩ với một tâm hồn đạt đạo.

Thơ của cụ được Phan Huy Chú nhận xét là: “lời thơ trong

sáng u nhàn”. Thơ cụ chịu ảnh hưởng của đạo Phật trong

giai đoạn về ở ẩn này như nhiều nhà thơ thời ấy. Nói chung

thơ các ẩn sỹ thường có phong vị u nhàn, nhưng với cụ u

nhàn chỉ là ở cái giọng thơ.

*

Sự ngưỡng mộ Phật giới thanh u (trong sạch và tĩnh

lặng), thoát vòng tục lụy của cụ Chu Văn An cũng tỏ lộ ra

vào một lần cụ dừng chân tạm nghỉ ở núi thôn Nam. Cảm

thấy thân nhàn nhã như đám mây lẻ loi trên bầu trời, tự do

phân tán, nhẹ bay khắp Nam, Bắc. Gió mát thổi bên gối,

tâm tình để ngoài cuộc đời, xúc cảnh sinh tình Cụ làm bài

thơ “Thôn Nam Sơn Tiểu Khế” (Tạm nghỉ núi thôn nam):

村 南 山 小 憩

閑 身 南 北 片 雲 輕,

半 枕 清 風 世 外 情。

佛 界 清 幽 塵 界 遠,

Page 32: TOÀN CẦU 2017

Trang 28 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

庭 前 噴 血 一 鶯 鳴。

THÔN NAM SƠN TIỂU KHẾ

Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,

Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.

Phật giới thanh u, trần giới viễn,

Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.

(Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp Nam, Bắc. Gió mát

thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời. Cõi Phật thanh u,

cõi trần xa vời. Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh

kêu).

TẠM NGHỈ NÚI THÔN NAM

Thân nhàn Nam Bắc áng mây trôi,

Bên gối gió qua, nhẹ việc đời.

Cõi Phật thanh u, xa cõi tục

Trước sân hoa đỏ, tiếng oanh vui.

(Tâm Minh dịch thơ)

*

Một lần vân du cụ dừng chân bên sông đứng một mình đếm

thuyền về bến. Trước ghềnh, gió gấp, một tiếng sáo gợi

cảnh thu. Thơ đã tàn, mặt trời xế bóng, ánh hồng nhàn nhạt.

Màu biếc mênh mông. Cụ làm bài thơ “Giang Đình Tác”

(Làm thơ ở Giang Đình). Trong thơ cụ có sự cô độc nhưng

vắng bặt hẳn sự tiếc nuối thở than. Quả thật đây vẫn là Phật

giới thanh u, xa lánh cõi trần tục. Bốn câu cuối bài thơ:

功 名 已 落 荒 唐 夢,

湖 海 聊 為 汗 漫 遊。

自 去 自 來 渾 不 管,

滄 波 萬 頃 羨 飛 鷗。

Page 33: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 29

Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,

Hồ hải liêu vi hãn mạn du.

Tự khứ tự lai hồn bất quản,

Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.

(Công danh đã rơi vào giấc mộng hoang đường. Tạm dạo

chơi miền hồ hải. Đi lại tự mình, chẳng gì trói buộc. Thèm

cảnh chim âu bay liệng trên muôn khoảnh sóng xanh).

Công danh chót lạc vùng mơ ảo

Hồ biển tạm chơi thú nẻo xa

Đây đó lang thang đời tự tại,

Ước như chim lướt sóng bao la.

(Tâm Minh dịch thơ)

*

Trong một bài thơ khác cụ lại đã ca ngợi một vị sư

đạo cao đức trọng. Cụ tán dương tư cách thanh cao của các

nhà sư như tư cách của một nhà Nho quân tử sống ẩn dật

chịu ảnh hưởng Lão–Trang trong bài “Đê Dương công

Thuỷ Hoa đình”.

*

Như vậy ta thấy ý thơ của Chu Văn An luôn ngát hương

thiền. Chính vì đã chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật mà

khi về ở ẩn tiên sinh bình tĩnh dạy học, viết sách và sống

yên vui đến cuối đời.

NGÔ TẰNG GIAO (Virginia, 12-2016)

Page 34: TOÀN CẦU 2017

Trang 30 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Ai đã giết Giáo Sư

DƯƠNG QUẢNG HÀM ?

Lê Duy San, CVA 59

Đã là học sinh trung học, dù là học sinh trường

công hay trường tư, không ai là không biết tới hai tác phẩm

văn học vô cùng giá trị của giáo sư Dương Quảng Hàm đó

là Việt Nam Văn Học Sử Yếu xuất bản năm 1941 và Việt

Nam Thi Văn Hợp Tuyển xuất bản năm 1942. Cả hai tác

phẩm này đều được được Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam

Cộng Hòa chính thức công nhận làm sách giáo khoa cho

chương trình trung học.

1/ Thân thế và sự nghiệp

Giáo Sư Dương Quảng Hàm, hiệu là Hải Lượng,

sinh ngày 14 tháng 7 năm 1898 tai làng Phú Thị, xã Mễ Sở,

Page 35: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 31

huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông là nhà nghiên cứu

văn hóa và đã đặt nền móng cho môn lịch sử văn học và

văn học so sánh ở Việt Nam. Ông là người khởi xướng

chương trình quốc học cho nền giáo dục hiện đại và cũng là

người thầy xuất sắc đã đào tạo hàng ngàn môn đệ trong một

phần tư thế kỷ.

Thân phụ ông là nhà Nho yêu nước Dương Trọng

Phổ và anh cả ông là nhà văn Dương Bá Trạc, một trong

các nhà văn đi tiên phong ở đầu thế kỷ 20. Cả hai đều tham

gia tích cực vào phong trào Đông Kinh Nghĩa thục đầu thế

kỷ XX.

Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển và Việt Nam Văn Học Sử Yếu

Năm 1920, tốt nghiệp thủ khoa trường Cao đẳng Sư

phạm Đông Dương.

Từ năm 1920 đến 1946, ông là giáo sư trường

Bưởi (tức trường Trung học Bảo hộ, tiền thân của

trường Chu Văn An sau này). Sau Cách mạng tháng

Tám năm 1945, ông được bổ nhiệm làm Thanh tra Trung

học, rồi làm Hiệu trưởng trường Chu Văn An. Ông mất tích

Page 36: TOÀN CẦU 2017

Trang 32 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

vào đúng ngày chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, ngày

19/12/1946, để lại vợ và 6 người con trong đó có nhà vật lý

Dương Trọng Bái.

Ngoài hai tác phẩm nổi danh và giá trị trên, giáo sư

Dương Quảng Hàm còn để lại nhiều tác phẩm văn học giá

trị cho hậu thế. Đó là :

- Lectures littéraires sur L’Indochine (Bài tuyển

văn học về Đông Dương, biên soạn cùng với Pujarnicle).

- Quốc văn trích diễm (1925).

- Tập bài thi bằng sơ học yếu lược (1927, soạn

chung với Dương Tự Quán),

- Những bài lịch sử Việt Nam (1927).

- Văn học Việt Nam (1939).

- Việt văn giáo khoa thư (1940).

- Lý Văn Phức - tiểu sử và văn chương (viết xong

khoảng năm 1945).

- Và rất nhiều bài báo tiếng Việt, tiếng Pháp đăng

trên các báo Nam Phong, Hữu Thanh, Tri Tân và báo của

người Pháp…

2/ Ai đã giết giáo sư Dương Quảng Hàm

Cái chết của giáo sư Dương Quảng Hàm rất bí mật

nên nhiều giả thuyết đã được đặt ra. Trong bài “ Dương

Quảng Hàm và những ngày Hà Nội nổ súng, 19/12/1946”,

nhà văn Viên Linh đã viết : “Dương Quảng Hàm chết như

thế nào? “mất,” “mất tích,” “chết trong đám cháy,”

“Pháp giết” hay “bị CS ám hại” vì ông là Việt Quốc (1)

?

Chúng ta cần làm sáng tỏ cái chết của ông.

Theo ông Phạm Xanh, cán bộ Việt Cộng, giáo sư

Đại Học Quốc Gia Hà Nội thì: “Tháng 3-1945, Nhật đảo

chính Pháp, trường mới quay lại nơi cũ. Ngày 12-6-1945,

Khâm sai Bắc Bộ Phan Kế Toại ra quyết định đổi tên

trường thành Quốc lập trung học hiệu Chu Văn An và Giáo

Page 37: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 33

sư Nguyễn Gia Tường làm Hiệu trưởng. Đó là hiệu trưởng

người Việt đầu tiên của ngôi trường danh tiếng này. Rồi

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Tháng 9-1945, Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe

ký quyết định cho phép Trường trung học Chu Văn An hoạt

động trở lại. Giáo sư Dương Quảng Hàm được bổ nhiệm

làm Hiệu trưởng nhà trường dưới chế độ mới. Mới triển

khai chưa được một niên khóa thì thực dân Pháp quay trở

lại thay quân Tưởng gây hấn ở Hà Nội. Ngày kháng chiến

tới gần, dân Hà Nội lục tục sơ tán. Với cương vị là hiệu

trưởng, Giáo sư Dương Quảng Hàm ở lại bám trụ theo sát

tình hình. Rồi ngày 19-12-1946, người Hà Nội hưởng

ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh

nhất tê đứng dậy cầm súng đánh Pháp ở Thủ đô. Trong

những ngày chiến sự diễn ra ác liệt trên các đường phố Hà

Nội đó, nhiêu người Hà Nội đã ngã xuống, trong số đó có

Giáo sư Dương Quảng Hàm đã ngã xuống vì mái trường

Chu Văn An giàu truyên thống yêu nước, hưởng dương 48

tuổi, cái tuổi đang đầy năng lực sáng tạo và cống hiến dưới

chế độ mới (sau này ông được truy phong là liệt sĩ)”.

Giáo sư Dương Quảng Hàm chỉ là một nhà giáo

dục, một nhà văn hoá, vậy thì ở lại bám trụ theo sát tình

hình để làm gì? Ông đâu phải là một nhà quân sự hay

chính trị. Vậy thì lý do này không đứng vững.

Bà Lê Thi (tên thật là Dương Thị Thoa), con gái của

giáo sư Dương Quảng Hàm thì nói: “Sau ngày 2 tháng

9 năm 1945, nhà giáo Dương Quảng Hàm được Việt Minh

giao làm Hiệu trưởng Trường Bưởi (2)

. Tuy nhiên, đến 19

tháng 12 năm 1946 ông bị Pháp bắt và đem đi tử hình. Bà

buồn rầu kể: "Khi Pháp đàn áp rất ác liệt, cả nhà tôi bảo

bố trốn đi, không ở nội thành nữa, nhưng ông nhất quyết

không đi với lý do chưa nhận được chỉ thị của cấp trên. Bố

tôi bị Pháp bắt và đem đi tử hình ở đâu cũng không biết,

đến nay gia đình tôi vẫn chưa tìm thấy xác của cụ".

Page 38: TOÀN CẦU 2017

Trang 34 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Lời nói của bà Thoa có thể tin được không? Bà nói :

Bố tôi bị Pháp bắt, nhưng bà có thấy không hay chỉ là sự

suy đoán của bà ? Giáo sư Dương Quảng Hàm chỉ là một

nhà văn hoá, nhà giáo dục. Người Pháp đang cần sự cộng

tác của những người như giáo sư Dương quảng Hàm,

không lý gì họ lại giết ông?

Hơn nữa, Pháp cũng đã bắt nhiều nhân vật chính trị

nổi tiếng như Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ, Giáo Sư Hoàng

Xuân Hãn, nguyên Bộ Trưởng Giáo Dục trong chính phủ

Trần Trọng Kim, Luật Sư Phạm Khắc Hoè, Đổng Lý văn

phòng Bộ Nội Vụ trong chính phủ Liên Hiệp của Hồ Chí

Minh v.v... Tại sao Pháp không giết ai cả mà lại đi giết một

nhà văn hoá, một nhà giáo dục là Giáo Sư Dương Quảng

Hàm ?

Theo bác sĩ PMC, người Hà Nội, nhà ở gần nhà

giáo sư Dương Quảng Hàm ở phố Hàng Bông, thì Giáo sư

Dương Quảng Hàm là người mà Việt Minh không ưa.

Chúng biết ông không có ý định tản cư, sợ để ông ở lại, ông

sẽ theo người Pháp. Nên ngay đêm 19/12/1946 chúng đã

bắt ông đem đi thủ tiêu (3)

. Sau khi Pháp làm chủ tình hình,

chúng gom các xác chết vô thừa nhận và cho đem chôn

chung trong một ngôi mồ tập thể bên hông Tòa Án Hà Nội,

nằm trên đường Lý Thường Kiệt. Ngôi mộ này là mồ chôn

tập thể xác của các tù nhân của nhà giam Hỏa Lò Hà Nội

mà đa số các tù nhân này là các đảng viên của Việt Nam

Quốc Dân Đảng hoặc của các đảng phái quốc gia khác, đối

lập với Việt Minh. Họ bị chính quyền Việt Minh bắt giữ từ

trước và một số những người mới bị bắt trong đêm

19/12/1946.

Học giả Nguyễn Hiến Lê, một cựu học sinh của

trường Bưởi, niên khóa 1929-1930 đã viết: “Có nguồn tin

kể rằng cụ bị chết cháy, trong một căn nhà bốc lửa khi

tiếng súng nổ chát chúa xa gần. Ngoài cửa ngôi nhà, có vài

cán bộ (Việt Minh) nhưng không có ai can thiệp”.

Page 39: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 35

Như vậy, phải chăng ngay khi chiến tranh Việt Pháp

bùng nổ, Việt Minh sợ giáo sư Dương Quảng Hàm ở lại

theo Pháp nên đã bắt ông đem đi thủ tiêu? Sau khi chúng

giết ông và một số người khác, chúng đã đốt căn nhà, nơi

chúng đã bỏ xác ông ở đó để phi tang?

Tóm lại, tuy không có một bằng chứng rõ ràng nào

về nguyên nhân cái chết của giáo sư Dương Quảng Hàm.

Nhưng qua những lời nói của những người trong trong gia

đình cũng như những người quen biết hoặc có lưu tâm tới

cái chết của giáo sư Dương Quảng Hàm thì chúng ta cũng

có thể kết luận rằng ông đã bị Việt Minh giết. Nhưng tại

sao chúng lại vinh danh ông là liệt sĩ và lấy tên ông đặt cho

một con đường ở Hà Nội ? Đây chỉ là cái trò lưu manh cố

hữu của bọn Việt Cộng, muốn đánh lạc hướng của những ai

nuốn tìm hiểu về nguyên nhân cái chết của giáo sư Dương

Qủang Hàm.

Lê Duy San

Chú thích:

(1) Giáo Sư Dương Quảng Hàm không phải là Việt

Quốc tức Việt Nam Quốc Dân Đảng. Giáo Sư Nguyễn Gia

Tường, vị Hiệu Trưởng tiền nhiệm của giáo sư Dương

Quảng Hàm mới là Việt Quốc. Chính vì ông là Việt Quốc

nên Việt Minh mới tìm cách đẩy ông đi và cử giáo sư

Dương Quảng Hàm về thay thế.

(2) Sau ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp và trao

trả độc lập cho Việt Nam, chính phủ Trần Trọng Kim ra đời

và Bộ Trưởng bộ Mỹ Nghệ là giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã

ký nghị định đổi tên trường Bưởi tức Lycée du Protectorat

là trường Chu Văn An.

(3) Những xác chết trong ngôi mồ tập thể này

không thể là những xác chết của những thường dân vô tội;

bởi vì trước đêm đó, hầu hết dân chúng Hà Nội đã được

Page 40: TOÀN CẦU 2017

Trang 36 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Việt Minh ra lệnh di tản từ trước. Số còn ở lại, nếu có, hầu

hết là Tự Vệ Thành. Nhưng nếu là xác của Tự Vệ Thành thì

tại sao bây giờ cộng sản lại san bằng ngôi mồ này đi mà

không hề dựng một đài tưởng niệm cho họ, những người đã

hy sinh vì tổ quốc? Còn nếu là xác chết của những đồng

bào vô tội ở rải rác kháp nơi trong thành phố thì tại sao lính

Pháp không chôn ở nơi khác mà lại mất công đem về tập

trung ở đây và chôn tại nơi đây? Vậy chỉ có thể là xác chết

của các tù nhân của nhà giam Hỏa Lò Hà Nội và các xác

chết của những người mà Việt Minh đã bắt ngay trong đêm

19/12/1946 và đã ra lệnh hành quyết trước khi rút lui. Vì số

xác chết quá nhiều, nên lính Pháp đã phải đào một cái hố

lớn ngay giữa con đường nhỏ cạnh tòa án Hà Nội trên

đường Lý Thường Kiệt để chôn cho tiện và xác của giáo sư

Dương Quảng Hàm có thể đã được vùi chôn trong ngôi mộ

tập thể này.

Page 41: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 37

Một Kỷ Niệm

VỀ GIÁO SƯ

Dương Quảng Hàm

BS Nguyễn Tấn Hồng, Bưởi

LTS. Học giả Nguyễn Hiến Lê, cựu học sinh trường Bưởi,

niên khóa 1929-1930 đã có nhận xét về nhân dáng và tư

cách của giáo sư Dương Quảng Hàm như sau:

“Mấy năm trước, những khi thấy cụ đi qua sân

trường, tôi thường để ý: cụ đi bộ, lúc nào cũng rảo bước,

cụ thấp bé mà bước những bước dài, nhón gót (người ta

bảo là tướng yểu), như lúc nào cũng vội vàng -- cụ có bao

giờ biết thơ thẩn, mơ mộng không nhỉ? -- mà ngồi xe đạp

thì trái lại, cụ đạp rất chậm, tốc độ đêu đêu, chỉ độ mười

cây số một giờ. Tới cửa lớp, cụ thận trọng hãm lại, cho xe

nghiêng qua một bên, khoan thai bước xuống, gác xe, gỡ

cái kẹp ống quần ra, tháo chiếc cặp phồng những sách vở,

rồi ôm cặp tiến vô lớp. Gặp bạn đồng sự cụ niêm nở bắt

tay, nhưng ít khi đứng lại để trò chuyện; cụ tới lớp không

khi nào trễ, nhưng cũng không khi nào quá sớm, chỉ dăm

ba phút là cùng, như vậy thì đâu có thì giờ để trò chuyện.

Tôi có cảm tưởng cụ là một chiếc đồng hồ mà thì giờ của

cụ đã tính trước đâu vào đấy hết. Chúng tôi phục cụ ở điểm

đó.

Cụ sống rất giản dị. Từ nhà ở giữa phố Hàng Bông

lên trường, đường dài vào khoảng ba cây số, mà quanh

năm, Hè cũng như Ðông, mưa cũng như nắng, ngày nào cụ

cũng chầm chậm đạp một chiếc xe cũ; suốt hai năm học cụ,

Page 42: TOÀN CẦU 2017

Trang 38 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

tôi nhớ chỉ một hai lần cụ đi xe kéo vì mưa gió lớn quá

hoặc vì trong mình khó ở. Có lần chúng ‘thổi’ mất chiếc xe

của cụ và bọn chúng tôi được một dịp cười: con người cẩn

thận như vậy mà cũng để mất xe ư? Và chiếc xe ‘tàng’ như

vậy mà chúng cũng ‘thổi’ ư?

Y phục của cụ hình như chỉ có vài bộ, một cổ lỗ,

nhưng lúc nào cũng sạch và có nếp. Tóc thì chắc chắn một

tháng cụ mới húi một lần và chỉ khi nào húi cụ mới cạo

râu, vì vậy râu cụ đã thưa lại lởm chởm, trông y như

limailles de fer (mặt sắt, mài giũa) và chúng tôi dùng danh

từ Pháp đó để đặt biệt hiệu cho cụ.

Sau đây thêm một chi tiết mà cũng theo Nguyễn

Hiến Lê, là đã học được từ cụ “một bài học lặng lẽ và cao

thượng”:

“Theo lệ, cụ mở cuốn sổ tay ra chấm tên một học

sinh vào hạng trung bình. Anh này chắc cũng chỉ thuộc lõm

bõm, trả được một vài câu rồi ngừng, thú rằng không

thuộc. Cụ gọi thêm một anh khác, cũng không thuộc nữa.

Cụ ngạc nhiên, hỏi tại sao? Một anh bạo dạn đứng lên

thưa rằng, chúng tôi không ai thuộc cả vì không ưa Jules

Boissière, một tên thực dân không có cảm tình với dân tộc

mình. Rồi chúng tôi trình với cụ tất cả những điêu chúng

tôi trách hắn. Cả lớp chờ sự phản ứng của cụ.

Cụ làm thinh một vài phút rồi bỗng nhiên tôi thấy

hai giọt nước mắt lăn trên má cụ. Cụ vẫn ngồi yên nhìn

xuống phía cuối lớp, cũng không lấy chiếc khăn tay nhỏ xíu

bằng vải trắng để lau nước mắt nữa, mặc cho nó rơi xuống

mặt bàn và tự khô trên má. Hôm đó cụ không cho điểm ai

cả.”

Hình bóng ấy của Dương Quảng Hàm chỉ có học

trò của cụ ghi nhớ được. Thế hệ sau ít ai còn biết rõ. Ngay

cả cái chết của cụ cũng không sách vở nào nói đến. Chỉ là

lời đồn. Chỉ là nghe nói. Có nguồn tin kể rằng cụ bị chết

cháy, trong một căn nhà bốc lửa khi tiếng súng nổ chát

Page 43: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 39

chúa xa gần. Ngoài cửa ngôi nhà, có vài cán bộ nhưng

không có ai can thiệp. Có người nói cụ bị chết trong can

qua. Những cuốn sách in ở Hà Nội vừa qua, nói cụ “mất”

ở Hà Nội. Một cuốn in ở Sài Gòn nói cụ “mất tích.”

Phải có một ngày sự thực hiện ra. Nhưng nó không

tự nhiên hiện ra. Nếu các thế hệ sau không tìm hiểu, không

tra vấn, không tìm lại những bài học lịch sử, lịch sử sẽ bị

lãng quên hay bị biết đến trong sai lạc, cố ý hay vô tình.

Dương Quảng Hàm, nghe qua cái tên, bất cứ ai

quan tâm đến nền văn học Việt nam đều biết đó là một vị

giáo sư có công lớn trong nền văn học nước nhà. Ngoài

việc dạy học cho nhiều thế hệ học sinh, thầy còn nghiên

cứu văn học và đã để lại cho hậu thế những công trình khảo

cứu nghiêm túc và có giá trị (Việt nam văn học sử yếu, Việt

nam thi văn hợp tuyển ...) Ở đây chỉ có ý nhắc đến một câu

chuyện có thật xảy ra vào những năm tháng thầy còn phụ

trách giảng dạy môn văn cho trường Bưởi ngoài Hà nội.

Khi còn là giáo sư ở trường Bưởi, thầy Hàm nổi

tiếng là một ông thầy nghiêm, cả trường đều "rét" cái oai

của thầy, hiếm khi thầy ban cho học sinh một nụ cười, phải

nói là một ông thầy luôn có..."bộ mặt hình sự". Có lần một

học sinh đã dùng com-pa vạch trên mặt bàn một vạch nhỏ

để ghi dấu khi thầy Hàm nở nụ cười, dù chỉ là cười mĩm.

Cho đến cuối năm học, anh chàng học sinh chuyên "sưu tập

nụ cười thầy Hàm" đã làm "tổng kết" và công bố cho bạn

bè đều biết là chỉ có … ba vạch mà thôi!! Học với thầy là

một ước mơ của những học sinh nào mê văn học, nhưng

phải trả giá bằng cách gồng mình chịu những hình thức kỷ

luật, suốt niên học phải chịu "rét" nhiều hơn là ấm áp.

Vậy mà một hôm, trong một lớp học của trường

Bưởi, thầy Hàm đang say sưa giảng về một thể thơ gọi là

"yết hậu" (một thứ thơ đường luật biến thể, gồm bốn câu:

Page 44: TOÀN CẦU 2017

Trang 40 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

ba câu đầu có bảy chữ, và câu cuối chỉ có một chữ mà

thôi). Cũng nên nói thêm là khi thầy Hàm giảng bài thì ông

hay nói say sưa như lên đồng, đến không kịp … nuốt nườc

bọt. Có khi thì đang huyên thuyên như thế, bất chợt ông

dừng lại … nuốt nước bọt đánh ực một phát, rồi mới nói

tiếp. Đó là cố tật của thầy Hàm mà học sinh cả trường đều

biết. Trở lại chuyện bài thơ yết hậu, sau khi giảng tất cả

những niêm luật của thể thơ này, thầy Hàm đưa ra một thí

dụ bằng một bài thơ do chính thầy cảm tác tại chỗ. Bài thơ

có nội dung mô tả một anh chàng bợm nhậu, khi chết

xuống âm phủ được gặp mặt Diêm vương mà trên tay vẫn

còn cắp theo be rượu. Thơ rằng:

“Sống ở dương gian đánh chén nhè,

“Chết vê âm phủ cắp kè kè

“Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?

“Be” (tức là be rượu. )

Sau khi ngâm nga dứt bài thơ ngắn đó, thầy hất hàm

ra hiệu cho cả lớp và nói: "Em nào cho tôi một thí dụ tương

tự xem nào."

Một quãng im lặng kéo dài hơn một phút, rồi đột

ngột từ hàng ghế cuối lớp có một cánh tay giơ lên, thầy ra

dấu cho phép học sinh kia đứng lên để đọc bài thơ của

mình.

Sau một lúc chần chừ, anh chàng mới bắt đầu cất

tìếng:

“Sống ở dương gian chỉ nuốt đàm,

“Chết vê âm phủ nói làm nhàm.

“Diêm vương phán hỏi rằng ai đó?

Cậu học sinh nọ chỉ vừa đọc dứt câu ba, thì không

ai bảo ai, cả lớp đều đồng thanh hét thật to:

“Hàm!!”

Nghe đến đây, chắc bà con đều nghĩ rằng cả lớp sẽ

Page 45: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 41

bị “ông hung thần” nghiêm trị, còn anh chàng học sinh chủ

xướng kia chắc không tránh khỏi một trận đòn tuốt xác ra.

Vậy mà như một phép lạ. thầy Hàm lại mỉm cười, một nụ

cười thật tươi và hoàn toàn mang vẻ đôn hậu, dễ thương

đến tội nghiệp. Và thưa bà con, nếu như năm học đó có anh

chàng nào muốn “sưu tập nụ cười”, thì chắc chắn sẽ được

… bốn vạch trên mặt bàn học đấy.

Hôm nay, nhân ngày Nhà giáo Việt nam, tui muốn

nhắc lại mẫu chuyện này, để tỏ lòng nhớ đến thầy Hàm,

mong ông sẽ gặp toàn những người tử tế ở thế giới bên kia,

đang say sưa giảng bài cho học sinh, môn Văn học Việt

Nam.

Một đôi lời ngắn ngủi, coi như một nén hương cho

thầy, có gì thất thố, kính mong thầy lượng thứ.

BS Nguyễn Tấn Hồng, Bưởi

Page 46: TOÀN CẦU 2017

Trang 42 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

GIÁO SƯ

HOÀNG XUÂN HÃN

Người khai sinh

nền Giáo dục Việt Nam

Dương Thiệu Tống, Bưởi

Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn

LTS: Là học sinh trung học Việt Nam, không ai là không

biết tới cuốn “Danh từ khoa học” của giáo sư Hoàng Xuân

Hãn. Ông là cựu học sinh trường Bưởi. Sau sang Pháp du

học và tốt nghiệp Thạc Sĩ Toán Học tại đại học Sorbonne

năm 1936. Trở vê nước ông dậy toán tại trường Bưởi. Năm

1945, ông là Bộ Trưởng bộ Giáo Dục và Mỹ Nghệ trong

nội các của chính phủ Trần Trọng Kim. Với chức bộ

trưởng, ông đã thiết lập và ban hành chương trình giáo dục

bằng Việt ngữ ở các trường học và áp dụng việc thi Tú

Tài bằng tiếng Việt và dùng tiếng Việt trong những công

Page 47: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 43

văn chính thức. Ông cũng chính là người đã đổi tên Lyceé

du Protectorat (tức trường Bưởi) thành Trung Học Chu

Văn An.

*

Có lẽ rồi đây sẽ có nhiều người viết về GS. Hoàng

Xuân Hãn như là một nhà trí thức tiêu biểu, một thầy giáo

toán học tài năng, một nhà khoa học Việt Nam lừng danh,

một nhà nghiên cứu cổ văn và nhà sử học nghiêm túc v.v…

vì ông là tất cả những mẫu người ấy. Cũng sẽ có người đầy

đủ tư cách hơn tôi để viết về tiểu sử của GS. Hoàng Xuân

Hãn vì họ là những người thân thuộc, đồng tuổi, đồng

nghiệp, những học sinh cũ hay bạn bè gần gũi, thân thiết.

Nhưng tôi không được may mắn thuộc vào các loại người

ấy, mà chỉ là một trong các thầy giáo thuộc lớp đầu tiên

thực hiện chương trình trung học Việt Nam do chính ông

khai sinh vào tháng 6-1945 và được áp dụng vào khoảng

tháng mười năm ấy tại các trường học ở miền Trung.

Hồi còn theo bậc trung học giữa thập niên 1930 và

đầu thập niên 1940, chúng tôi biết tên của hầu hết các nhà

khoa bảng Việt Nam xuất thân từ các trường đại học Pháp,

vì số người này lúc ấy có thể đếm trên đầu ngón tay, nhưng

GS. Hoàng Xuân Hãn là người mà chúng tôi vẫn hằng

ngưỡng mộ qua các bài viết của ông trên tạp chí Khoa học,

một tờ báo đầu tiên về khoa học viết bằng tiếng Việt, do

một nhóm trí thức chủ trương. Sự kiện một tờ báo Việt đề

cập đến các vấn đề khoa học bằng tiếng Việt, kèm theo bản

Danh từ khoa học của GS. Hoàng Xuân Hãn, xuất hiện chỉ

hơn một năm sau thời kỳ nước Pháp bại trận (giữa 1940),

cho thấy việc làm này không phải ngẫu nhiên mà là sự

chuẩn bị có tính cách “chiến lược” cho việc phục hồi vị trí

của tiếng Việt trong nền quốc học Việt Nam. Điều này, các

nhà giáo dục Việt Nam về sau đã nhận thấy rõ và chính GS.

Hoàng Xuân Hãn, gần đây (1993) cũng xác nhận: “Từ khi

vào Trường Vinh hay Hà Nội, tôi đã sớm nhận thấy hoàn

Page 48: TOÀN CẦU 2017

Trang 44 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

toàn thiếu phần quốc học, và càng thấy phần quốc học suy

đồi, anh em ít người chú tâm; đến cả thầy giáo cũng vừa

non nớt vừa uể oải.

Tôi lại nhận thấy rằng nếu mình thiếu phần tối thiểu

vê khoa học, thì dân ta không thể có lý luận chính xác

nghiêm túc và những kiến thức cách trí không thể truyên bá

vào tập quán của dân ta, chỉ quen với từ chương mơ hồ

luộm thuộm. Vì những lẽ ấy, khi tôi được vào Trường

Polytechnique, năm 1930, tôi bắt đầu nghĩ đặt danh từ

khoa học cho có nên tảng hữu lý và quốc gia… Không bao

lâu thì cuộc chiến tranh Âu châu bùng nổ… Tôi cùng một

nhóm bạn lập ra tạp chí Khoa học, và tôi tự đem in tập

Danh từ khoa học của tôi. Thực ra, bấy giờ tôi chịu những

lời phê pháp hiêm nghi của một số người pháp trong chính

quyên cao cấp” [1]

Qua lá thư trích dẫn trên đây của GS. Hoàng Xuân

Hãn, tôi lại càng ngưỡng mộ ông hơn, và hiểu được vì sao

ông vốn là một nhà khoa học, một thầy giáo toán học, được

đào luyện trong môi trường giáo dục Pháp, mà đồng thời lại

nhà một nhà nghiên cứu Hán Nôm, một nhà sử học Việt

Nam nghiêm túc, và gần đây hơn nữa ông lại có ý định

“khảo cứu dài về khoa cử và giáo dục Việt Nam” vì “mình

phải làm gương mẫu cho xứ ngoài”, như ông đã viết trong

lá thư nói trên. Có lẽ không ai có đầy đủ khả năng hơn ông

để thực hiện công trình lớn lao này.

Chỉ bốn năm sau khi ông cho xuất bản tập Danh từ

khoa học, niềm mong ước của ông nói trên đã được thực

hiện. Không đầy một tuần lễ, sau ngày binh đội Pháp đầu

hàng quân đội Nhật tại Huế (9.3.1945), các trường trung

học Huế được mở cửa trở lại và tất cả các môn học từ tiểu

học đến bậc tú tài đều được giảng dạy bằng tiếng Việt. Đó

là một thành tích không dễ gì đạt được nếu không có sự

chuẩn bị của GS. Hoàng Xuân Hãn nhiều năm trước đó với

cuốn Danh từ khoa học của ông, và cũng là một sự kiện

Page 49: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 45

giáo dục chưa từng có tại bất cứ một quốc gia nguyên thuộc

địa nào đã bị thực dân đô hộ lâu dài.

Ngày 17.4.1945, ông được cử giữ chức Bộ trưởng

Giáo dục trong Chính phủ Trần Trọng Kim, rồi đến cuối

tháng 6.1945, kỳ thi tú tài đầu tiên của nền giáo dục Việt

Nam được tổ chức tại trường Quốc học Huế với tất cả các

bài thi viết bằng tiếng Việt. Năm 1993, trong lá thư kể trên,

ông còn nhớ lại về kỳ thi này: “… Những bài làm rất tốt, kể

cả bài thi triết học. Đầu tháng 7.1945, tôi phải ra Hà Nội để

thu nhận các cơ quan đại học mà Nhật trả; tôi đã mang theo

bản chương trình trung học và bản tập lục những bài thi

xuất sắc để đem in. Tiếc thay, nhà in bị cháy, tôi chỉ cứu

được một bản chương trình trung học …”.

Chương trình trung học này được thảo luận tại Bộ

Giáo dục (tức Nha Học chánh cũ, sau lưng trường Quốc

học Huế) tại một hội đồng giáo sư do GS. Hoàng Xuân Hãn

chủ tọa và sau đó được soạn thảo tại trường Quốc học Huế.

So với các chương trình trung học Việt Nam về sau đó,

chương trình Hoàng Xuân Hãn là một chương trình cải tổ

nền trung học Việt Nam sâu rộng nhất, từ việc thay đổi cấu

trúc nền trung học cho đến việc đặt ra những môn học mới,

thay đổi nội dung các môn học cũ, nhưng nó đã được thực

hiện trong thời gian ngắn nhất và với số giáo sư tham gia ít

ỏi nhất. Mỗi môn học chỉ có một hoặc hai người soạn thảo

cho tất cả các lớp của bậc trung học từ lớp đệ nhất niên cho

đến lớp đệ tam chuyên khoa. Một trong các vị giáo sư đã

tham dự vào việc soạn thảo “chương trình Hoàng Xuân

Hãn” về môn Anh văn cho nền trung học Việt Nam trong

các năm 1945, 1946, đó là thầy Hà Thúc Chính, nay đã 92

tuổi và hiện sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn không những là người đã

đặt ra đường hướng đầu tiên cho việc xây dựng chương

trình, mà song song với việc làm ấy, ông cũng còn là người

đầu tiên mạnh dạn đặt ra qui chế “giáo sư phụ khuyết” để

tuyển dụng những thanh niên có bằng tú tài làm giáo viên

Page 50: TOÀN CẦU 2017

Trang 46 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

giảng dạy tại các trường trung học, thay thế tất cả các giáo

viên người ngoại quốc, một điều nhà nhiều quốc gia

nguyên thuộc địa không làm được ngay sau khi giành được

độc lập. Những công trình lớn lao nói trên đã được hoạch

định chỉ trong vòng ba tháng trong khi GS. Hoàng Xuân

Hãn giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục, nhưng tất cả chỉ

được thực hiện sau khi ông rời chức vụ ấy, dưới chính thể

Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Tôi ngưỡng mộ GS. Hoàng Xuân Hãn vì tài năng trí

tuệ lớn lao của công cho nền giáo dục Việt Nam, tôi mến

yêu ông vì tấm lòng yêu đất nước, yêu con người của công,

nhưng trên tất cả, tôi kính trọng ông về “khí tiết” của người

trí thức Việt Nam mà ông đã tóm tắt trong lời nói đầu của

cuốn La Sơn phu tử: “Trong cơn dông tố, gốc cây đại thụ

đứng tin; giữa dòng nước cuốn, cột đá chân cầu không

chuyển; đó là đặc tính chắc rắn của gốc cây, cột đá. Chuyện

La Sơn phu tử là chuyện một cá nhân đặc biệt, một cá tính

đặc biệt mà thôi. Đặc biệt vì khí tiết của cụ đã được thử

thách trong những trường hợp éo le, nhiều khi mâu thuẫn

cùng nhau, thế mà chung qui vẫn tròn khí tiết” [2]

Tôi nghĩ rằng, với tư cách là một miêu duệ của

Nguyễn Thiếp tiên sinh, GS. Hoàng Xuân Hãn xứng đáng

nhận lãnh những điều ông đã nhận xét như trên về nhân vật

lịch sử ấy.

Dương Thiệu Tống. Bưởi (Trích chương X (tr. 105-109) cuốn

“Suy nghĩ vê văn hóa giáo dục Việt Nam”, Nxb Trẻ)

------------------------------------

[1] Nguyễn Q Thắng, Khoa Cử và Giáo Dục Việt Nam.

NXB Văn hóa Thông tin, Tp. HCM, tr. 136. Thư của GS

Hoàng Xuân Hãn, Paris 20-3-1993.

[2] Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử. NXB Minh Tân,

Paris. Lời tựa thứ hai viết tại Hà Nội tháng chin năm Canh

Dần, 1950.

Page 51: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 47

Thiên ChỨc

cỦa NhÀ GiÁo

GS Nguyễn Xuân Vinh

Năm 2013 đã đi qua một cách quá nhanh đối với

tôi, vì là một năm tôi có nhiều chuyến đi, cũng như có

nhiều việc phải làm. Tôi đã sinh ra và lớn lên trong một

giai đoạn đất nước có nhiều biến chuyển nên cũng như các

bạn cùng lứa tuổi, nổi trôi theo vận nước, sự nghiệp của tôi

cũng qua nhiều lần thay đổi, từ nghiệp Văn, sang nghiệp

Giáo, đến nghỉệp Binh, rồi lại trở về nghiệp Giáo. Nhân dịp

đầu Xuân Giáp Ngọ, ngồi viết mấy dòng tản mạn cho Đặc

San Bưởi-Chu Văn An, tôi lại nghĩ đến vị Thầy đã được tôn

vinh là “Vạn Thế Sư Biểu” với khí phách của người mà

hơn bẩy trăm năm sau vẫn còn toả xuống để chúng ta noi

theo. Nghĩ đến tình hình trên đất nước hiện nay, sau hai lần

Hội chúng ta tổ chức Hội Luận, tôi lại nhớ đến bài thơ của

Lê Quát là một trong những cao đồ của vị danh sư

Thư Hoài-Ky Nhị

“Niên lai, thế sự dữ tâm vi,

Nhật vọng gia sơn phú Thức Vi.

Thuỷ quốc thiên hàn kinh tuế mộ,

Mộc lan hoa lão vũ phi phi”.

Bài thơ xin tạm dịch là:

“Cuộc đời trái với sự lòng,

Hướng vê quê cũ, ngâm dòng Thức Vi.

Nước triêu, trời lạnh năm đi,

Mộc lan tàn cánh hoa vì mưa bay”.

Page 52: TOÀN CẦU 2017

Trang 48 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Năm mới tới, mà thế sự trái với lòng mình mong

muốn. Hàng ngày nhìn núi xa về phía quê nhà, ngâm câu

thơ Quốc Phong ở Thi Kinh, bộc lộ tâm sự của người lưu

lạc, tuy lòng buồn nhưng vẫn tiếp tay với những người còn

muốn làm được điều gì cho quê hương. Xét những gì mình

có thể làm được, tôi thấy thực ra lúc nào tôi cũng mang

nặng nghiệp Giáo, nghĩa là dù ở đâu hay trong hoàn cảnh

nào, tôi cũng đưa những gì mình đã học hỏi được trong

những năm qua để san sẻ những hiểu biết của mình tới mọi

người.

Những năm còn ở quê nhà, vì nhu cầu của Bộ Quốc

Gia Giáo Dục, tôi được giấy phép đặc biệt của Bộ Quốc

Phòng, dậy môn Toán mỗi tuần 4 giờ, và theo thứ tự thời

gian, dậy cho Trường Trung Học Võ Tánh ở Nha Trang, và

sau đó cho những Trường Trung Học Petrus Ký, và Chu

Văn An ở Sài Gòn. Sau năm 1960, chiến sự chống cộng sản

xâm nhập từ miền Bắc gia tăng, tôi không còn nhiều thì giờ

tới trường giảng dậy nhưng vẫn để bài giảng cho Bộ Quốc

Gia Giáo Dục in ra chính thức thành hai cuốn sách Cơ Học

và Lượng Giác Học, và mỗi kỳ hè vẫn nhận lời chấm thi Tú

Tài khi có thư mời.

Page 53: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 49

Tôi rời nước vào tháng 8 năm 1962, chính thức như

là một sinh viên theo học chương trình tiến sĩ, nhưng sau

mấy tháng ở Đại học Colorado thì vị giáo sư dậy môn “Cơ

Học Thể Lỏng” (Fluid Mechanics) chuyển sang trường

khác, và vì môn này trước đây tôi đã học ở Trường Sĩ Quan

Không Quân Pháp ở Salon de Provence nên Đại Học nhờ

tôi dậy thế. Từ đó cho đến năm 2000 khi tôi về hưu trí, tôi

đã trở lại nghiêp Giáo và đã được mời giảng dậy hay thuyết

trình ở rất nhiều nơi trên thế giới. Một vài trường hợp khá

đặc biệt tôi ghi lại dưới đây để gửi tới qúy bạn như là

những chuyện vui để đọc những ngày còn Xuân.

Chúng ta thường nghĩ rằng người Nhật là những

người rất hãnh diện về văn hoá của dân tộc họ và vào

những thành tích họ đạt được trên phương diện kỹ thuật cao

cấp. Vì vậy tôi cũng thấy ngạc nhiên khi nhận được thư

mời của Viện Đại Học Quốc Phòng (National Defense

Academy) ở Yokosuka, Nhật Bản để sang bên đó hai tuần

lễ vào năm 1997 dậy một khoá về “Planetary Entry

Dynamics & Optimization”. Tuy là một khoá học cấp tốc

nhưng họ đã tổ chức rất chu đáo. Những tài liệu tôi gửi

sang trước ngày khai giảng đã được in thành một tập sách

dầy hơn một trăm trang và tin tức về khóa học cũng được

phổ biến rộng rãi cho các hãng kỹ nghệ lớn như Mitsubishi

Heavy Industries để cử kỹ sư tới theo học. Số học viên có

thể lên tới gần một trăm người ngồi trong một giảng đường

lớn và tôi đã phải dùng hệ thống phóng thanh để thuyết

trình. Trong suốt thời gian tôi ở xứ này, Viện Đại Học đã

đề cử ba khoá sinh là sĩ quan thuộc Lục Quân và Không

Quân làm sĩ quan tùy viên. Họ thay phiên nhau mỗi ngày

có một người đưa xe đến khách sạn đón tôi tới trường và lo

cho tôi tất cả những gì cần thiết. Trong khi tôi giảng bài thì

sĩ quan trực hôm đó cũng là người thu hình trên video và

sau khóa học tôi được tặng tất cả những tấm băng thu hình

để giữ làm tài liệu. Lễ mãn khoá cũng được cử hành tuy

đơn giản nhưng trang trọng và ông Viện trưởng đã thân

hành tới để tặng tôi tấm bảng tri ân.

Page 54: TOÀN CẦU 2017

Trang 50 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Hình với các sĩ quan tùy viên

Kỷ Niệm từ Viện Đại Học Quốc Phòng Nhật Bản

Một lần khác tôi nhận được thư mời của ông Viện

Trưởng của Đại Học Quốc Gia Bách Khoa ở Toulouse,

Pháp quốc (Institut National Polytechnique de Toulouse) để

làm giám khảo trong hội đồng chấm thi tiến sĩ cho cô

Page 55: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 51

Sophie Geffroy là một kỹ sư làm việc ở Trung Tâm Không

Gian của Pháp. Luận án của Sophie có liên hệ tới một số

những công trình tôi đã làm trước đây, và sau khi được

chấm đậu và dự tiệc xâm banh như theo thủ tục ở Pháp, cô

còn xin tôi ký tên vào luận án để làm kỷ niệm. Một vài lần

khác, tôi cũng nhận được thư mời phê bình luận án từ

những Đại Học Princeton ở Hoa Kỳ, Đại Học McGill ở

Montreal, Canada và Viện Kỹ Thuật ở Bangalore, Ấn Độ.

Những lần này thì thường những giáo sư cố vấn họ gửi xin

ý kiến để lấy thêm uy tín cho luận án họ bảo trợ.

Cô tân khoa Sophie Geffroy với cặp mắt nhìn ngưỡng mộ của

người bạn trai dù bị đau tay cũng tới hỗ trợ

Một dạng thuyết trình khác là ở những hội nghị

khoa học và kỹ thuật, tầm vóc quốc gia hay quốc tế, đôi khi

ban tổ chức mời một giáo sư hay khoa học gia có uy tín đến

thuyết trình về một đề tài có liên quan đến chương trình

chung của hội nghị. Trong chương trình họ đề những bài

này là “invited lectures”, có nghĩa là bài thuyết trình được

mời, thường để quảng cáo cho đông người tới tham dự hội

nghị nếu diễn giả là người có tiếng tăm được nhiều ngừơi

mến mộ. Trong những năm dậy học và làm khảo cứu tôi

Page 56: TOÀN CẦU 2017

Trang 52 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

cũng có vài lần được mời làm diễn giả đặc biệt như vậy.

Nhưng lần được mời thuyết trình đáng ghi nhớ nhất của tôi

là lần được đại học Oklahoma ở thành phố Norman, tiểu

bang Oklahoma, mời đến thuyết trình trong chương trình

Charles E Foster.

Đại Học có một ngân khoản do sự tài trợ của nhà tỷ

phú Charles E Foster, Tổng Giám Đốc của công ty điện

thoại SBC, để mỗi năm mời một khoa học gia hàng đầu tới

thuyết trình về một đề tài về hàng không và không gian.

Chương trình diễn giảng được thiết lập từ năm 1990 và tôi

là diễn giả thứ 9 được mời. Mục đích chính của chương

trình này là để quảng bá cho sự phát triển ngành hàng

không và không gian trên thế giới nên khán thính giả được

mời rộng rãi cho cả đại học chứ không riêng cho những

sinh viên và giáo sư chuyên ngành. Ngày hôm đó trong đại

giảng đuờng rộng lớn dành cho những buổi nói chuyện

tổng quát, và có thêm sự cổ động của Hội Sinh Viên Việt

Nam tại Đại Học Oklahoma, người dự thính đã đến đông

chật. Như trong thiệp loan tin in lại ở dưới đây của School

Page 57: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 53

of Aerospace and Mechanical Engineering, tôi đã chọn một

đề tài thuyết trình phổ thông cho đại chúng là “Navigating

in The Solar System”.

Theo sự trình bầy của tôi thì, mới đây trong những

lớp băng giá của Nam cực địa cầu, người ta đã tìm thấy

những thiên thạch được chứng tỏ là có nguồn gốc xuất xứ

từ Hoả Tinh. Như vậy có thể suy luận rằng qua hàng triệu

năm, những chuyển động hỗ tương giữa các hành tinh trong

Thái Dương Hệ có thể làm cho vật thể từ hành tinh này

chuyển sang hành tinh khác. Trong thế kỷ hiện tại, những

chuyên gia tính qũy đạo đã tạo dựng những lý thuyết tối ưu

để có thể dùng hai nguồn lực thiên nhiên là trọng lực hấp

dẫn của các hành tinh và sức cản của các bầu khí quyển

chung quanh các hành tinh, cùng với phản lực của các động

cơ nhân tạo để hướng dẫn các phi thuyền không gian từ trái

đất di chuyển tới tất cả các hành tinh trong Thái Dương Hệ,

trừ Diêm Vương Tinh ở quá xa, với phí tổn nhiên liệu tối

thiểu. Tôi cũng đã kết luận bài nói chuyện bằng một lời viết

tiên tri của triết gia người Pháp là Francois-Marie Arouet,

Page 58: TOÀN CẦU 2017

Trang 54 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

bút hiệu là Voltaire (1694-1778): “Notre voyageur

connaissait merveilleusement les lois de la gravitation et

toutes les forces attractives et repulsives. Il s’en servait si

à propos, que tantôt à l’aide d’un rayon de soleil, tantôt

par la commodite d’une comete, il allait de globe en globe,

lui et les siens, comme un oiseau voltige, de branche en

branche”. (Người du hành của chúng ta biết một cách

nhiệm mầu những luật hấp dẫn vạn vật, những sức hấp và

sức đẩy. Khách không gian đã khéo biết lợi dụng, lúc thì

nương một tia sáng mặt trời, lúc dựa theo đà một ngôi sao

chổi, cùng với quyến thuộc, khách đi từ tinh cầu nọ tới tinh

cầu kia, như một con chim bay truyên cành).

Lần đi này tôi đã phải mất nhiều thi giờ chuẩn bị

hơn là những lần tham dự những hội nghị chuyên ngành vì

phải trình bầy cho một số khán thính giả rộng lớn, nhiều

người không theo học ngành kỹ thuật. Hơn nữa tôi được

biết là sẽ có nhiều sinh viên Việt Nam đang theo học ở Đại

học Oklahoma đến nghe tôi nói nên tôi không muốn để cho

họ thất vọng khi thấy bài giảng không được cử toạ chăm

chú nghe. Cũng may là tôi có một số cựu sinh viên đang

làm việc tại các Trung Tâm của Cơ Quan Không Gian nên

tôi đã nhờ họ sưu tầm và làm giúp cho những đoạn phim

ngắn giải thích sự việc như trường hợp, muốn bay tới Hoả

Tinh, phi thuyền phải đi vòng qua Kim Tinh để nhờ sức

hấp của hành tinh này tăng thêm tốc độ trên chặng đường

đi. Cũng vì thế mà chuyến đi Oklahoma của tôi đã lưu lại

cho cộng đồng người Việt ở nơi đó những kỷ niệm tốt đẹp.

Trong suốt thời gian làm giáo sư đại học, mỗi lần

tôi được mời đi thuyết trình hay tham dự những hội nghị ở

những nơi có đông người Việt cư ngụ, tôi thường dành thì

giờ để qua những tổ chức cộng đồng mà có dịp tiếp súc với

các học sinh và sinh viên trẻ mà tôi nghĩ sẽ là những người

lãnh đạo một đất nước Việt Nam tươi sáng trong tương lai.

Riêng ở Oklahoma, tôi nhận thấy rằng người Việt ở tiểu

bang này đã gây được sự kính nể và quý mến của chính

Page 59: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 55

quyền địa phương. Tuần lễ tôi đến thành phố Oklahoma

City, là thành phố lớn gần trung tâm Đại Học, cũng trùng

ngày giỗ tổ mồng Mười tháng Ba Âm lịch nên tôi được

cộng đồng người Việt mời tham dự như là diễn giả danh dự

đến từ phương xa. Tôi nghĩ là theo lời giới thiệu của người

đồng hương nên Quốc Hội Tiểu Bang, cả Thượng Viện lẫn

Hạ Viện đã cử dân biểu và thượng nghị sĩ đến dự lễ và trao

tặng tôi những bản tuyên dương và đón mừng, thật là

những vinh hạnh tôi không chờ đợi trong khi thi hành

nhiệm vụ của một nhà giáo.

Tôi thấy cần phải nói trong phần kết luận của bài

này về thành tích của những người trước tôi đã được mời

đến làm diễn giả danh dự trong chương trình Charles E

Foster, để hiểu rõ thêm về tiêu chuẩn chọn lựa của Đại học.

Nếu đọc trong giấy phổ biến của Đại học Oklahoma để mời

người đến tham dự có ghi tên của những diễn giả những

năm trước thì ta được thấy có những khoa học gia nổi tiếng

thế giới như tiến sĩ Paul B. MacCready, diễn giả thứ 2, là

Page 60: TOÀN CẦU 2017

Trang 56 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

người đã kiến tạo được chiếc phi cơ chỉ dùng sức ngưòi đạp

mà bay được qua eo bể Manche từ Pháp sang Anh quốc.

Ông được nổi tiếng khi chế tạo được chiếc phi cơ

“Gossamer Condor” chỉ dùng sức người đạp mà ngày 23

tháng 8 năm 1977 do tay đua xe tài tử Bryan Allen đã thực

hiện được đường bay theo hình số 8 và thành tích này đã

chiếm được giải thưởng Kremer trị giá 50 ngàn bảng Anh

được kỹ nghệ gia Henry Kremer đặt ra năm 1959. Chiếc

phi cơ nay được lưu trữ tại viện bảo tàng Smithsonian

National Air and Space Museum ở Hoa Thịnh Đốn. Sau

thành tích này, ông MacCready, cùng với hãng

AeroVironment, tiếp tục chế tạo được phi cơ dùng sức

người đạp “Gossamer Albatross”, bay qua bể Manche,

thực hiện ngày 12 tháng 6 năm 1979 và đoạt giải Kremer

lần thứ hai, lần này là 100 ngàn bảng Anh. Sau đó TS

MacCready kiến tạo phi cơ “Solar Challenger” dùng điện

lực tạo bởi ánh sáng mặt trời, cũng bay được qua bể

Manche và hiện nay ông cộng tác với cơ quan NASA trong

chương trình “Pathfinder/Helios” để chế tạo loại phi cơ

dùng năng lượng ánh sáng mặt trời bay trên thượng từng

không khí. Tìm hiểu trên trang Bách khoa Wikipedia thì có

những lời giới thiệu như sau:

“The aircraft was designed and built by a team led

by Paul B. MacCready, a noted US aeronautics engineer,

designer, and world soaring champion. Gossamer

Albatross was his second human-powered aircraft, the first

being the Gossamer Condor, which had won the first

Kremer prize on August 23, 1977 by completing a mile-

long figure-eight course. The second Kremer challenge was

then announced as a flight across the Channel recalling

Louis Blériot's crossing of 1909. The Albatross was

powered using pedals to drive a large two-bladed

propeller. On June 12, 1979, piloted by amateur cyclist

Bryan Allen, it completed the 35.8 km (22.2 mi) crossing in

2 hours and 49 minutes, achieving a top speed of 29 km/h

(18 mph) and an average altitude of 1.5 metres (5 ft”).

Page 61: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 57

Gossamer Albatros

đặt tại Viện Bảo Tàng Hàng Không ở Seattle

Một diễn giả khác, người thứ 7, mà những sinh viên

tiến sĩ nào theo học ở Đại học California ở Berkeley cũng

phải biết là Giáo sư tiến sĩ khoa trưởng kỹ thuật George

Leitmann. Ông là nhà khoa học lừng danh về môn Động

Lực Học và Điều Khiển (Dynamics and Control). Năm

2005, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thứ 80 của GS Leitmann,

một hội nghị quốc tế về môn này đã được tổ chức để vinh

danh ông tại Hội trường của Hãng Daimler/Chrysler gần

Stuttgart, Đức quốc và khoa học gia từ 15 quốc gia đã tới

trình bầy những bài khảo cứu quanh vấn đề ông lưu tâm tới

trong 55 năm qua.

Có một điều đặc biệt với khoa học gia George

Leitmann, nay cũng là Giáo Sư Danh Dự (Professor

Emeritus) của Đại học California, Berkeley, là cùng chuyến

Âu du này, ông được Bộ Quốc phòng Pháp mời đến nghỉ ở

Câu Lạc Bộ Quân Lực ở Paris để được tưởng thưởng Chiến

công Bội tinh với nhành dương liễu (Croix de Guerre avec

Palmes). Năm 2005 cũng là năm kỷ niệm 60 năm trận chiến

Colmar ở vùng Alsace Lorraine. Vào đầu tháng Hai năm

1945, Tiểu đoàn 286 Công binh Hoa Kỳ mà chàng trai trẻ

George Leitmann phục vụ, lúc đó biệt phái sang Đệ Nhất

Lộ Quân Pháp đã có công trong chiến thắng Colmar và anh

Page 62: TOÀN CẦU 2017

Trang 58 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

được thưởng huy chương này. Vào thời điểm đó, vì không

có săn huy chương nên anh chỉ nhận được một miếng băng

nhỏ. Sáu mươi năm sau, tại Câu Lạc Bộ Quân Lực ở Paris,

Đại tướng Louis-Alain Roche, đã đại diện cho Tổng

Trưởng Quốc Phòng Pháp để trao tặng chiến công bội tinh

với nhành dương liễu cho giáo sư George Leitmann.

Đại tướng Louis-Alain Roche với Giáo sư George Leitmann

Huntington Beach ngày 9/2/2014

GS Nguyễn Xuân Vinh

Page 63: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 59

Thầy Xán

GS Lưu Trung Khảo, CVA54

Giáo Sư Vũ Ngô Xán

Năm 1951, tôi nhập học lớp đệ Tam trường trung

học Chu Văn An qua một kỳ thi tuyển. Năm đó trường có

ba lớp đệ tam: Khoa Học Toán, Khoa Học Thực Nghiệm và

Sinh Ngữ. Hai lớp Khoa Học sĩ số tương đối đầy đủ, nhưng

lớp Sinh Ngữ còn vắng hoe. Khách văn chương xưa nay

vốn vẫn hiếm. Nhà trường bèn ra thông cáo thi tuyển học

sinh các trường tư vào cho đủ số 50. Cùng với Dương Văn

Hoàn lúc đó đang học trường tư thục Hàn Thuyên, chúng

tôi hăng hái góp đơn dự thi và đi coi kết quả. Kết quả tốt:

Cả hai chúng tôi đều trúng tuyển. Thế là chúng tôi giã từ

ngôi trường hàng xóm của trường Trưng Vương để lên cửa

Bắc thành Hà Nội mà học trường Chu Văn An.

Page 64: TOÀN CẦU 2017

Trang 60 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Các lớp đệ nhị cấp của trường nằm trên lầu 3. Hiệu

trưởng năm đó là thày Vũ Ngô Xán, Giám học là thày Vũ

Đức Thận. Thày Thận thấp nhỏ, quanh năm suốt tháng mặc

một bộ đồ màu trắng. Trời nắng, trời mưa hay giông bão đi

nữa, thày bao giờ cũng đứng ở cầu thang lối lên xuống để

nhìn học sinh xếp hàng vào lớp hay ra về. Thày Xán

thường mặc bộ đồ màu xám và dùng xe đạp để di chuyển.

Sau này vào Nam, tôi vẫn thấy thày đạp chiếc xe cọc cạch

đó mà dẫn sinh viên trường Đại Học Sư Phạm đi thực tập.

Khác với thày Thận lúc nào cũng nghiêm trang, thày Xán

luôn luôn giữ một nụ cười hiền hòa, một giọng nói thẳng

thắn, cởi mở và chân thành. Nụ cười đó, giọng nói đó, thày

luôn luôn dùng để giao thiệp với cấp trên cũng như thuộc

cấp và sinh viên học sinh của thày. Không bao giờ thay đổi.

Năm đó, Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Văn Tâm đến

thăm trường. Dư luận đồng bào ngoài Bắc nói chung và Hà

Nội nói riêng không ưa con cọp xám Cai Lậy. Cựu hoàng

Bảo Đại trong cuốn hồi ký “Con rồng An Nam” cho rằng

cử Nguyễn Văn Tâm làm Thủ Hiến Bắc Việt là vì ông Tâm

có khả năng và vì ba kỳ đã thống nhất thật sự. Cử ông Tâm,

một người gốc miền Nam ra điều khiển cơ quan hành

chánh lớn nhất miền Bắc lúc bấy giờ, Cựu hoàng muốn tỏ

Page 65: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 61

rằng chế độ Nam Kỳ tự trị đã hoàn toàn cáo chung. Cựu

hoàng có toàn quyền bổ nhiệm bất cứ người nào vào một

chức vụ nào ở bất cứ nơi nào trên lãnh thổ. Thế nhưng dư

luận vẫn không ưa ông Tâm. Người ta cho rằng ông Tâm

thân Pháp, rằng ông chỉ biết nói tiếng Pháp, rằng ông và cả

nhà ông đều có quốc tịch Pháp, rằng ông đã cai trị quá tàn

nhẫn khi ông làm chủ quận Cai Lậy, Mỹ Tho. Biết dư luận

không ưa mình, ông Tâm đi thăm viếng nhiều nơi để tiếp

xúc với dân chúng hầu gây cảm tình tốt. Ông khai mạc các

cuộc triển lãm tranh và thường mua vài bức cao giá để giúp

các họa sĩ. Họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh tức Thịnh Del, giáo

sư hội họa trường trung học Nguyễn Trãi, trong lần tổ chức

triển lãm tranh ở nhà Thủy tạ bên hồ Hoàn Kiếm đã dành

cho tranh chân dung của Nguyễn Văn Tâm một kích thước

quá lớn và trưng bày ở vị trí cao quý nhất. Bên dưới bức

tranh đó, họa sĩ còn ghi rõ bằng tiếng Việt: Ngài Thủ Hiến

Bắc Việt Nguyễn Văn Tâm và tiếng Pháp: Son Excellence

Nguyễn Văn Tâm Gouverneur du Nord Viet Nam. Một

giáo sư cùng dạy trường Nguyễn Trãi, sau khi đi xem một

vòng đã chỉ vào bức tranh chân dung Nguyễn Văn Tâm mà

nói với giáo sư Thịnh: “Trong số các bức tranh này của toa

là đạt nhất.”

Ông Tâm còn thường mời các cụ Tú, cụ Cử đến tư

dinh Thủ Hiến để nói chuyện và vịnh thơ văn. Ông làm thơ

luật ký tên là Chính Đạo để tỏ cho mọi người biết rằng ông

cũng sử dụng tiếng Việt rành rẽ chứ không phải chỉ biết

tiếng Pháp. Nhân đó mà xảy ra giai thoại bức đại tự lưu

hành trong dân gian.

Người ta kể rằng một ông Đồ một hôm đem tặng

ngài Thủ Hiến một bức hoành phi trên đó có khắc bốn chữ:

Đại điểm quần thần. Cụ Đồ giải thích: Ngài Thủ Hiến

người bầy tôi quan trọng của Đức Quốc trưởng cũng giống

như một điểm lớn trong đám quần thần của Cựu Hoàng, rất

xứng đáng để được xưng tụng như bốn chữ trong bức đại

tự. Nguyễn Văn Tâm khoái lắm, thưởng cụ Đồ một món

Page 66: TOÀN CẦU 2017

Trang 62 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

tiền và cho treo bức hoành phi lên. Ít lâu sau, có người mới

giải thích cho ông Tâm rõ tác giả bốn chữ kia muốn chửi xỏ

ngài Thủ hiến:

Đại điểm là chấm to, quần thần là bầy tôi. Nói lái lại

chó Tâm bồi Tây!

Giai thoại trên có nhiều phần là không thật nhưng

rất phổ biến. Người ta còn nói rằng ông bị Việt Minh chặt

cụt một ngón tay. Có người lại bảo ông tự chặt ngón tay đó

để thề sống còn với Việt Minh. Bàn tay thiếu ngón của ông

Tâm, tôi đã thấy trong dịp ông viếng trường Chu Văn An.

Trước giờ ông đến trường, bốn năm chiếc xe Jeep

chở công an võ trang cùng mình chia nhau đi trấn giữ

những địa điểm quan trọng xung quanh trường và bốn góc

sân. Học sinh chúng tôi được các thày giám thị bắt xếp

hàng cho ngay ngắn trật tự để đón rước. Vẫn bộ đồ âu phục

màu xám cố hữu, vẫn nụ cười hiền hòa và giọng nói rộn

ràng thẳng thắn, thày Xán đã bắt tay chào mừng ông Thủ

hiến Tâm. Khi bắt tay viên Thủ hiến, thày vẫn đứng thẳng

như một cây tùng, mắt nhìn thẳng vào vị thượng khách.

Dẫn vị thượng khách đi duyệt qua đám học sinh chúng tôi,

thái độ thày vẫn đĩnh đạc tự nhiên. Thày dùng tiếng Việt

trong khi vị thượng khách dùng tiếng Pháp. Lúc lên khuyên

nhủ học sinh chúng tôi thì may quá, ông Tâm nói tiếng

Việt. Bạn tôi, anh Đỗ Tiến Đạt thắc mắc:

“Lạ thật, giờ Pháp văn, thày nói tiếng Pháp và bắt

mình nói tiếng Pháp suốt giờ mà sao thày lại dùng tiếng

Việt để đàm thoại với ông Thủ hiến chỉ quen nói tiếng

Pháp?”

Mai Dũng cười:

“Thì cụ nói tiếng Việt để nhắc ông Thủ hiến rằng

mình là người Việt chứ đâu phải là người Pháp!”

Năm đệ tam đó, chúng tôi học môn Pháp văn với

thày Xán. Mọi người chúng tôi được nhà trường cho mượn

Page 67: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 63

một lô sách Pháp văn khá đầy đủ. Chúng tôi chỉ phải mua

cuốn văn phạm của Crouzet bìa nâu và cuốn Littérature

expliquée của Des Granges bìa xanh. Chương trình học là

văn chương cổ và cổ điển Pháp không lấy gì làm hứng thú

lắm. Thày Xán dạy rất đúng phương pháp sư phạm và tận

tâm. Đầu mỗi giờ học, thày biên lên bảng công việc phải

làm trong giờ đó:

- Đọc bài nào, của ai, trang bao nhiêu.

- Học thuộc lòng đoạn nào của bài giảng.

- Sửa soạn bài nào cho tuần tới.

Và giao cho Trần Quang Liễn, người giữ sổ điểm

công việc gọi học sinh lên trả bài học thuộc lòng bằng tiếng

Pháp. Chúng tôi làm quen với Corneille, Racine, Ronsard

… qua thày Xán. Khác với các giáo sư khác, số điểm cho

học sinh thường rất thưa thớt, điểm Pháp văn của thày Xán

bao giờ cũng đầy đủ nhất. Một tháng chúng tôi có tới bốn,

năm điểm Pháp văn về học thuộc lòng, về giảng văn, về

chính tả, về luận văn và dịch văn. Các giáo sư dạy bậc

trung học nhất là trung học đệ nhị cấp thường rất “lười”

cho điểm vì công việc này chiếm mất khá nhiều thì giờ.

Thày Xán không như vậy, có lẽ vì thày, trước khi theo học

trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, đã tốt nghiệp Sư

phạm bậc Tiểu học và đã dạy Tiểu học ở tỉnh Thái Bình

một thời gian.

Cuối mỗi tháng, điểm bài học và bài làm được ghi

vào Thông tín bạ và được đưa về cho phụ huynh kiểm

nhận. Thày Xán với tư cách Hiệu trưởng đã phê bình và

kiểm ký từng cuốn trước khi giao cho học sinh. Thày làm

công việc này rất đều đặn và kỹ lưỡng từ tháng này qua

tháng khác, từ năm này qua năm khác và từ Bắc vào Nam.

“Khá”, “Vẫn khá”, “Trung bình”, “Cần cố gắng về

Toán”, “Còn kém, phải cố gắng hơn...” Biết bao những lời

phê như vậy đã được thày ban phát cho học sinh không

ngừng nghỉ, không biết mệt trong những năm thày làm hiệu

Page 68: TOÀN CẦU 2017

Trang 64 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

trưởng trường Chu Văn An ở Hà Nội và Sài Gòn.

Suốt ba năm học ở trường Chu Văn An Hà Nội, tôi

đều “bị” anh em giao cho công việc viết và đọc chúc từ

ngày cuối năm. Thày Xán không bao giờ vắng mặt trong

những dịp này ở bất cứ một lớp nào. Mà tiệc liên hoan tất

niên của học sinh thì nào có gì là cao lương mỹ vị đâu: Một

ít bánh kẹo, mứt, hạt dưa, nước ngọt, một vài câu đối, bức

tranh vẽ vội trên bảng do một họa sĩ học sinh có hoa tay,

đôi khi một vài tờ bích báo nữa. Nhưng với thế giới học

đường, đó là đại yến, đó là cái đạo không thể thiếu được

của trò đối với thầy. Thầy trò hể hả uống nước ngọt, ăn

bánh, kẹo, cắn hạt dưa. Thầy Xán ngồi chính giữa một cái

bàn dài kê đối diện với đám học sinh chúng tôi, quây quần

xung quanh bởi các vị giáo sư khả kính khác. Sau khi đọc

bài chúc từ, tôi tiến lên trao bài cho thầy. Thầy đứng lên

nhận bài chúc từ, bắt tay tôi và ứng khẩu nói về việc học

của lớp trong năm qua, khuyên nhủ chúng tôi và không bao

giờ quên chúc chúng tôi và gia đình chúng tôi được mọi sự

tốt lành trong năm tới. Những nhận xét của thày rất đúng

đắn và chính xác chứng tỏ thầy có quan tâm và theo dõi rất

kỹ.

Tốt nghiệp cao đẳng sư phạm xong, tôi may mắn

được bổ nhiệm dạy tại trường Chu Văn An. Lúc này, thày

Xán đã được bổ nhiệm làm Thanh Tra Trung Học. Thày

phụ trách soạn đề thi cho bậc Trung Học Đệ Nhất cấp, Tú

Tài I và Tú Tài II. Tôi nhớ một năm đề thi Pháp văn cho

bằng Trung Học Đệ Nhất cấp bị dư luận than phiền là quá

khó vì trích trong tập Informations et documents ra. Tôi có

dịp lên nha Trung Học và thày có hỏi tôi về việc đó. Tôi

thẳng thắn thưa là đề có khó thật vì trình độ Pháp văn của

học sinh bây giờ khác hẳn với thời trước. Thày suy nghĩ và

năm sau, tôi thấy năm sau đề thi Pháp văn có dễ hẳn đi.

Vào tháng chín năm 1959, tôi nhận được sự vụ lệnh

cử làm thư ký hội đồng giám khảo kỳ thi Tú tài ở Huế.

Thầy Xán làm Chánh chủ khảo cùng với cụ Đỗ Văn Trần,

Page 69: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 65

Hiệu Trưởng trường Mạc Đĩnh Chi (Phó Chủ Khảo), giáo

sư Nguyễn Văn Kỷ Cương (Phó Chủ Khảo), Giáo sư Phan

Huy Đương (Thư ký), giáo sư Nguyễn Đình Quỹ (Thư ký),

giáo sư Đỗ Minh Tiết (Giám khảo). Ban chỉ huy hội đồng

thi và các giám khảo từ Sài Gòn ra ăn ở ngay trong trường

Quốc Học ngoại trừ anh Đỗ Minh Tiết và anh Nguyễn Văn

Kỷ Cương. Anh Đỗ Minh Tiết lúc này sắp lập gia đình với

chị Nguyễn Thị Tiết, Hiệu trưởng trường Đồng Khánh nên

ăn ở bên ngoài cho tiện, còn anh Nguyễn Văn Kỷ Cương ra

Huế chấm thi để nhân dịp thăm quê ngoại nên cũng không

ở trong trường. Suốt trong ba tuần lễ này, tôi có dịp gần gũi

thày Xán hơn. Chúng tôi từ cụ Đỗ Văn Trần trở xuống sau

giờ làm việc của Hội đồng là ra phố thăm nơi này, nơi khác

dưới sự hướng dẫn của giáo sư Đinh Quy cũng là một thành

viên của hội đồng giám khảo, là người rất bặt thiệp, có đức

độ khoan hòa, từ ái, đã để lại trong tâm tưởng tôi rất nhiều

cảm tình và sự kính trọng, nay đã ra người thiên cổ. Lăng

Tự Đức, lăng Khải Định, chùa Thiên Mụ, núi Ngự, sông

Hương, cửa biển Thuận An, bãi biển Tiên Sa Đà Năng ...

làm sao quên được. Thày Xán họa hoằn lắm mới đi chung

với anh em. Những lúc anh em đi ra ngoài, thày nằm nhà

đọc sách. Một bữa tôi tò mò để ý nhìm xem thày đọc sách

gì thì thấy đó là cuốn Tam Quốc Chí diễn nghĩa loại rẻ tiền

in ở Chợ Lớn. Tôi ngạc nhiên, tưởng thày dạy Pháp văn thì

chuyên đọc sách Pháp văn chứ có ngờ đâu là thày lại thông

thạo cả chữ Hán nữa.

Sau ngày về hưu, thày Xán chịu không nổi cuộc

sống hưu trí buồn lạnh và tẻ nhạt, thày đứng làm hiệu

trưởng cho một trường trung học tư thục: Trung học tư thục

Trí Đức ở đường Cao Thắng, Sài Gòn. Lại đứng trên bục

giảng với bảng đen, phấn trắng, học trò. Lại phê bình hàng

tháng trên Thông tín bạ của học sinh. Lại quây quần với

bạn bè đồng nghiệp, đồng sự cũ: Thầy Nguyễn Đình Phú,

ông Tổng Giám Thị Nguyễn Hữu Lãng. Tuy rất bận rộn

vào thời gian đó, tôi cũng có dành mấy tiếng đồng hồ để

phụ trách một lớp Việt văn cho trường Trí Đức hầu “có dịp

Page 70: TOÀN CẦU 2017

Trang 66 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

để anh em thỉnh thoảng gặp gỡ nhau,” ông Tổng Lãng nói

với tôi như vậy. Sau này, thày Xán còn hướng dẫn anh em

sinh viên trường Đại Học Sư Phạm đến các trường Trung

học ở đô thành để thực tập nữa. Các anh Nguyễn Trung

Quân, Nguyễn Thành Long, Phạm Quân Hồng mỗi khi nói

đến thày Xán đều ca ngợi đức tính giản dị, tận tâm của

thày.

Qua năm 1982, tôi được tin thày ở miền Đông Hoa

Kỳ. Lúc này thày đã già lắm rồi. Tôi tự hứa biết bao lần là

phải biên thư vấn an thày, nhưng cuộc sống như ma đuổi

nơi quê người đã làm tôi không giữ trọn lời hứa với chính

mình. Đến khi nhận được điện thoại của các anh Trần Huy

Bích, Long Ân báo tin thày không còn nữa, tôi bàng hoàng

ngơ ngẩn. Đành rằng cuộc sống của con người là có hạn,

nhưng có những việc mình dự trù sẽ xảy ra đến khi thực sự

xảy ra rồi, mình vẫn không tin là thật. Buổi lễ cầu hồn thày

Xán ở trong quận Cam trong dịp lễ Tạ Ơn 1984, đã được

rất đông người đến tham dự, chắc không phải chỉ để kỷ

công một bực thầy đáng kính. Tôi nghĩ thày Xán có nhiều

điểm vượt lên trên mức đó: Thày đã nối tiếp dòng mô phạm

của Chu Văn An triều Trần, của Nguyễn Bỉnh Khiêm đời

Mạc, của La Sơn Phu Tử đời Tây Sơn. Thày đã theo gương

của nhà mô phạm nước Lỗ “dạy người không biết mỏi” và

không bao giờ từ chối bất cứ việc làm nào trong sứ mạng

trồng người.

GS Lưu Trung Khảo, CVA54

Page 71: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 67

Thầy Việt

của con

Lê Văn Tỉnh, CVA 65

(Hình trước 1954)

Hôm nay đọc được email của anh Dzũng tự nhiên

con nhớ đến Thầy mà muốn khóc. Ngày tân niên của Hội

Ái hữu cựu Học sinh Chu Văn An Bắc California tại

Milpitas, anh Dzũng có hỏi con : “Tại sao có người gọi anh

là Tịnh mà cũng có người gọi anh là Tỉnh, vậy tên thật của

anh là Tịnh hay là Tỉnh”. Con có thưa với anh : Tên thật

của con là Lê văn Tịnh, một đứa học trò nghịch ngợm,

Page 72: TOÀN CẦU 2017

Trang 68 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

nhưng chưa bao giờ hỗn với thầy cô, đã bị đuổi khỏi trường

từ năm đệ Ngũ. Sau đó con theo học trường Thăng Long

gần ngã tư quốc tế Sài Gòn. Tại đây tính hư hỏng vẫn còn,

con đã trở thành một tên du đãng chỉ huy trên 30 người.

Nhờ đọc được cuốn Binh pháp Tôn Tử của anh con mang

ra áp dụng và đã trấn áp được các băng du đãng tại nơi này,

có lẽ trong đó có cả Năm Cam. Tuy là du đãng nhưng con

vẫn chăm chỉ học vì khi bị đuổi khỏi trường công Bố con

đã không đánh mà chỉ thở dài. Đậu Trung học hàng bình

con xin lại và được nhận vào Chu Văn An. Bố con sợ con

không được nhận vì trước đó đã bị đuổi nên đã sửa tên

thành Lê Văn Tỉnh do vậy những người bạn cũ gọi con là

Tịnh còn những người bạn mới thì gọi con là Tỉnh.

Là một học sinh ngỗ nghịch, một hôm con đá banh

và đã làm vỡ một cái cửa kính của trường. Xui mà là hên vì

hôm đó Thầy đứng gần đó. Thầy vẫy con lại. Thầy ơi, con

điếng hồn đã bị đuổi một lần, lần này bị đuổi nữa thì không

biết con sẽ phải ăn nói thế nào với Bố con, bạn bè con và

rồi tương lai của con sẽ đi về đâu. Con sợ quá Thầy ạ.

Nhưng khi con lại gần, Thầy chỉ chỉ vào kính vỡ và nói với

con “Con ơi, con muốn chơi banh thì hãy ra xa mà chơi.

Con thấy không? kính vỡ rồi, trường lại phải bỏ tiên ra

sửa”, thế rồi Thầy bỏ đi. Nhưng Thầy ơi, hôm ấy tự nhiên

con hiểu thế nào là giáo dục, thế nào là tình yêu của Thầy

cho trò. Con đã trở nên một học sinh biết kính thầy, yêu

bạn, yêu trường và nhờ Thầy còn đã nên người.

Sau này có khoảng thời gian đi dạy học, con theo

gương Thầy, luôn luôn yêu quý, rộng lượng nâng đỡ học

trò. Có lẽ câu nói nhẹ nhàng của Thầy đã làm thay đổi đời

con, thay đổi đời các học trò của con và biết đâu đã thay

đổi đời của những người bạn đáng quý của con.

Thưa Thầy, năm ngoái nhân họp thường niên của

Hội Ái hữu cựu Học sinh Chu Văn An các bạn đề cử con ra

làm hội trưởng vì anh San đã phục vụ hội trên 20 năm, nay

đã già yếu, anh Lâm rất bận tổ chức những chương trình về

Page 73: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 69

văn hóa Việt Nam trên đài truyền hình để phục vụ đại

chúng nên mọi người có đề cử con ra làm hội trưởng để tổ

chức Hội ngộ Chu Văn An Toàn cầu 2017. Con ngại quá vì

chung quanh con toàn là những người tài đức, đã để lại biết

bao công trình cho đất nước mà con thì trẻ tuổi hơn và lại

chỉ là người thợ sửa ống nước làm sao con gánh vác được.

Nhưng nghĩ tới Thầy, tới trường, tới các bạn, hơn nữa con

đã về hưu, mỗi ngày chỉ làm việc 3 hay 4 tiếng nên con đã

nhận lời. Sau khi tiếp xúc với những đồng môn mà con

tưởng con không đáng là học trò của họ thì lại chính là

những người đã truyền kinh nghiệm và khuyến khích con

làm con cảm động vô cùng, bây giờ con lại hiểu thêm thế

nào là tình đồng môn. Con sẽ rán tổ chức kỳ hội ngộ này để

xứng đáng là học trò của Thầy và lòng tin tưởng của các

bạn.

Các đồng môn niên trưởng, các bạn, các em, hãy tới

tham dự, phải tới gặp nhau để gặp lại những người bạn năm

xưa, để rồi biết đâu chẳng bao giờ gặp lại nữa, hãy tới để

mày mày tao tao, để ôn lại những kỷ niệm cũ, biết đâu

Thầy ở trên trời nhìn xuống thấy là học trò của mình thân

thiết Thầy cười và tự nhủ chúng xứng đáng là học trò của

mình. Con là dân kỹ thuật nên không biết kết luận bài này

như thế nào chỉ vì cảm xúc mà viết, xin tất cả mọi người,

mọi đồng môn thương mà châm chước cho.

Lê Văn Tỉnh, CVA65

Page 74: TOÀN CẦU 2017

Trang 70 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

THẦY

VŨ KHẮC KHOAN,

Cựu Học Sinh Bưởi,

Chiến Sĩ Cách Mạng Duy Dân

Trần Lam Giang, CVA59

Đảng cách mạng Đại Việt Duy Dân, trong giai đoạn

lịch sử cận đại, đã đóng góp cho dân tộc Việt một công

trinh to tát bằng máu xương và tim óc.

Trong hiện tại và tương lai, lý tưởng đảng được

thực hiện phần nào, trách nhiệm đặt trên vai những đảng

viên ý thức, tin yêu triết lý đạo đức chính trị Duy Dân.

Page 75: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 71

Người viết bài biên khảo này, không phải là đảng

viên Duy Dân đảng, chỉ mong đóng góp chút ít dữ kiện lịch

sử đang bị nhạt mờ dần, như đang chìm vào huyền thoại.

Một đảng cách mạng vì nước vì dân bị huyền thoại huyễn

hoặc che phủ khuất lấp, là một điều đau xót.

Nhân thân Thư Ký Trưởng, đảng Đại Việt Duy Dân.

Cho đến nay, chưa có một tài liệu in ấn, nói đầy đủ

và minh bạch về nhân thân ông. Bên những lời kể lại đơn

sơ thiếu sót, là những huyền thoại không thoả mãn óc cầu

tri, nếu không muốn nói là khiêu khích trí phán đoán!

Được biết thầy cũ tôi, giáo sư Vũ Khắc Khoan là

đảng viên nồng cốt của Duy Dân, bạn thiết của ông là lý

thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng, người có liên hệ gắn bó với

Thư Ký Trưởng Lý Đông A, tôi đã trực tiếp hỏi hai vị về

nhân thân ông.

Khi tôi hỏi :

- Vì cơ duyên nào thầy gia nhập Duy Dân, thưa

thầy ?

Thầy tôi trả lời như căn vặn :

- Cơ duyên ? Cơ duyên vong quốc !

Rồi ông cười ngậm miệng :

- Quen thói dạy sử ! Buổi ấy… À không, buổi nào

thì hồn sử cũng sống trong lòng người. Phải không ?

- Dạ.

- Trong thời vong quốc, tôi tự biết không phải là

người có thể lập một đảng cách mạng, chỉ có thể dấn thân

theo một đảng cách mạng. Do bằng hữu, tôi được biết Duy

Dân. Tên đảng mới lạ, nhưng hai tiếng Duy Dân kích thích

tôi lắm. Bằng hữu dẫn tôi đến dự một buổi nói chuyện của

ông Lý ở Hà Nam. Mọi người ngồi chờ, một lúc khá lâu thì

Page 76: TOÀN CẦU 2017

Trang 72 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

thấy một thiếu niên khoảng 15, 16 tuổi, mặt trái xoan, da

trắng xanh, vẻ hiền lành ngoan ngoãn, mặc áo dài trắng

thong thả đi vào. Tôi ngạc nhiên vì thấy mọi người tỏ vẻ

kính cẩn nghiêm trang. Người thiếu niên ấy đi thẳng đến

bàn chủ toạ, chào hỏi với tư cách đảng trưởng, rồi giảng

thuyết. Thực ra lúc đó ông đã ngoài 20. Tôi nghe giọng ông

nói ấm cúng như giọng thân phụ tôi, vừa gần gũi, vừa che

chở. Lời ông giảng, như vị thầy soi sáng tâm thức tôi. Ngay

từ buổi ấy tôi theo ông.

Tác giả Thành Cát Tư Hãn trầm ngâm nhả khói

thuốc, nói tiếp :

- Có lần trên thuyền vượt sông Đà, tôi đã ngâm bài

Chính Khí Việt (thơ Lý Đông A) cho ông và một số anh em

tôi nghe. Thơ ông gieo vần khúc mắc nhưng cảm động …

Anh em tôi trên con thuyền ấy, nay đã nên người thiên cổ !

Tôi châm thuốc, đợi nét buồn của vị thầy cũ qua đi,

hỏi tiếp :

- Con muốn được biết thêm chi tiết về nhân thân

ông Lý.

Thầy tôi trố mắt :

- Cái anh này ! Tôi coi ông ấy như bố, như thầy !

Tôi theo ông ấy. Nói như vậy, chưa đầy đủ về ông ấy hay

sao ?

Rồi thầy tôi cười :

- Giang muốn biết về lý lịch tiểu sử ông Lý phải

không ? Ông sư Tịnh Liên biết tõ hơn tôi. Cứ “phỏng vấn”

ông ấy. (Giáo sư Vũ Khắc Khoan thường thân mật gọi lý

thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng là “ông sư Tịnh Liên”, lý

thuyết gia gọi giáo sư là “Khoan tôi”.)

- Dạ, chắc cụ Hồng gia nhập Duy Dân cùng với

thầy ?

Page 77: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 73

Lý thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng vui vẻ đỡ lời :

- Không ! Tôi không bao giờ là đảng viên Duy Dân.

Tôi với Lý Đông A tức Nguyễn Hữu Thanh là bạn thân từ

tuổi ấu thơ. Chúng tôi học cùng lớp, ngồi cùng bàn suốt 6

năm bậc tiểu học. Lớn lên, bạn tôi lập đảng, tôi đến giúp

bạn, chứ không phải đảng viên của “luý” như các ông này

(lý thuyết gia vừa nói vừa chỉ vào giáo sư Vũ.)

“Luý” cực thông minh. Đời này tôi chưa gặp được

ai thông minh như “luý”. Thuở bé học với nhau, tôi ra sức

chăm chỉ vẫn không bao giờ theo kịp, trong khi “luý” chỉ

chăm đọc sách của người lớn mà luôn luôn đứng đầu lớp.

Con người này lạ lùng ! Học giỏi như vậy mà chỉ học xong

bậc tiểu học là thôi, không cắp sách đến trường nữa. Bỏ

làng lên Hà Nội. Mới tí tuồi đầu đã giao tiếp với sinh viên

cao đẳng, nhờ mượn sách thư viện về đọc. Đọc thông cả

các tài liệu của trường Viễn Đông Bác Cổ. Có dạo còn lên

chùa Yên Tử đọc sách, tu thiền mấy năm, rồi qua Liễu

Châu bên Tàu, tuyên thệ vào Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Khi qua Liễu Châu, giấy tờ tuỳ thân của “luý” chỉ có bức

hình cụ Phan Bội Châu, sau hình có bút tự của cụ, viết 4

chữ “Cứu Quốc Tồn Chủng.” Nhận ra bút tự cụ Phan, cụ

Nguyễn Hải Thần rất tin yêu “luý”, nhận làm nghĩa tử, trao

cho tất cả những gì cụ Phan viết về triết lý đạo đức chính trị

khi còn ở bên Tàu. “Luý” thường đêm đêm lên tháp chùa ở

Liễu Châu chong đèn đọc sách cụ Phan, nên được đặt hỗn

danh là ông Ngọc Thỏ. Khi ông Trần Trung Lập tiến quân

về đánh Lạng Sơn, “luý” cũng cùng về, bí danh là Hoàng

Lương. Nhật tráo trở, ông Trần Trung Lập thất trận, bị

Pháp hành quyết. Hoàng Lương tức Nguyễn Hữu Thanh Lý

Đông A dẫn các đồng chí sống sót rút qua Tàu. Khi cụ

Nguyễn Hải Thần dẫn quân về nước, “luý” đã là Thư Ký

Trưởng, tức đảng trưởng đảng Duy Dân, vẫn gánh vác

trách nhiệm và bổn phận của một trong 20 uỷ viên trung

ương Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông Nhượng Tống là uỷ

Page 78: TOÀN CẦU 2017

Trang 74 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

viên bí thư. Xem thế, Việt Quốc, Việt Cách, Duy Dân, tuy

danh xưng có khác nhưng tựu trung vẫn là một.

Trong khi lý thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng nói, tôi

lắng nghe và ghi chép. Ông ngừng lại uống nước trà. Tôi

chờ đợi. Ông hiều ý, mỉm cười :

- Quên chưa nói với anh về lý lịch Lý Đông A

Nguyễn Hữu Thanh. “Luý” người xã Yên Tập, tổng Yên

Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, sinh năm 1920, ngày

tháng tôi không nhớ, con trai cụ Nguyễn Chi Phương. Cụ

có hiệu là Phượng Tường. Như vậy cũng tạm đủ rồi. Còn

về Việt Quốc, Việt Cách, Việt Minh, tài liệu chắc anh cũng

đầy đủ. Mà không đầy đủ thì tìm kiếm lấy nhé ! Thiếu gì,

phải không ?

- Dạ.

Ông nheo mắt :

- Anh định viết về các đảng phái cách mạng chắc ?

Sao ghi chép cẩn thận vậy ?

- Dạ, bây giờ thì cháu chưa có ý định ấy. Mai này

thì chưa biết.

Trên đây là tài liệu sống, có giá trị xác thực về nhân

thân lãnh tụ Lý Đông A.

Viết đến đây, tôi có liên lạc với giáo sư Đinh Khang

Hoạt qua điện thoại để bổ túc. Giáo sư Đinh Khang Hoạt,

trước 1975 dạy ban Cao Đẳng Sư Phạm Nông Lâm Súc,

sau 1975 dạy ở Đại Học Cộng Đồng Portland. Ông là nhà

biên khảo, chiến sĩ cách mạng, đảng viên trung kiên của

Đại Việt Duy Dân. Giáo sư Hoạt cho biết lãnh tụ Lý Đông

A đã cùng 5 đồng chí dựng đảng : Tư Long Nguyễn Duy

Mỹ, Thái Kim, Việt Bằng, Hoài Nam, Đỗ Khuê. Cả 5 vị đã

hoà xương máu vào đất mẹ. Khi mới lập đảng, lãnh tụ Lý

Đông A có bí danh là Thuần.

Page 79: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 75

Sự vắng mặt của Lý Đông A và vụ giết hụt Nghiêm

Xuân Hồng.

Hiệp Định Sơ Bộ Pháp Việt, ngày 6 tháng 3 năm

1946 được ký thuận với các thành phần sau :

- Đại diện cho chính phủ Cộng Hoà Pháp là

Sainteny.

- Đại diện cho chính phủ Việt Nam là Hồ CHí

Minh.

- Đại diện đặc biệt của hội đồng bộ trưởng Việt

Nam là Vũ Hồng Khanh.

Kèm theo là Hiệp Uớc Phụ Thuộc của Hiệp Định

Sơ Bộ Pháp Việt, được ký giữa Sainteny, Salan, Võ

Nguyên Giáp ngày 6 tháng 3 năm 1946.

Trong phạm vi bài viết tôi không phân tích kỹ càng

chi tiết nội dung của Hiệp Định và Hiệp Ước Phụ Thuộc

trên. Đại để, đó chỉ là một thứ giao kèo giữa thực dân Pháp

và cộng sản Việt Nam. Cụ Nguyễn Hải Thần tố giác cùng

quốc dân là Việt Minh phản quốc, đón thực dân Pháp trở lại

nước ta. Nhưng không ngăn chặn được thế lực liên kết giữa

bạo lực xâm lược của Pháp và Việt Minh, cụ rút quân qua

Tàu. Chưa đầy một tuần lễ sau khi ký Hiệp Định Sơ Bộ,

ông Vũ Hồng Khanh kín đáo thu chiến sĩ Việt Nam Quốc

Dân Đảng, rút lên chiến khu Việt Trì, vừa đánh vừa lui qua

Tàu. Ông đã bảo toàn được rất đông đồng chí của ông.

Sau Hiệp Định Sơ Bộ và Hiệp Ước Phụ Thuộc, Việt

Minh cấu kết với bạo lực xâm lược của thực dân, dồn các

đảng phái cách mạng Việt Nam vào thế yếu. Lợi dụng thời

cơ, cộng sản Việt Nam dưới hình thức Việt Minh đã sát hại

nhiều nhà ái quốc chân chính như Lê Ninh, Huỳnh Phú Sổ,

Phạm Tất Thắng, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Tạ Thu

Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Công Đàm,

Nguyễn Tắc Chung, Nguyễn Quỳnh v..v… Lãnh tụ Lý

Page 80: TOÀN CẦU 2017

Trang 76 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Đông A rút lực lượng Duy Dân vào chiến khu Nga Mi ở

Thanh Hoá.

Ngày 2 tháng 9 năm 1946, Việt Minh được thực dân

Pháp tiếp tế vũ khí, vây đánh tan vỡ chiến khu Nga Mi.

Tại nhà chị Gấm, ái nữ của thầy Khoan tôi, ở San

Jose, lý thuyết gia Nghiêm Xuân Hồng có kể cho tôi nghe

như sau :

- Nga Mi tan vỡ ! Cánh các ông này (giáo sư Vũ

Khắc Khoan) biết tôi thân thiết với ông Lý từ thuở ấu thơ

lại gần gũi khi khôn lớn, nhờ tôi đến nhận xét một xác, xem

có phải là Thư Ký Trưởng của các ông không ? Tôi xem

xét kỹ, đúng là xác anh Nguyễn Hữu Thanh, bạn tôi. Tôi

lầm thế nào được ! Các ông ấy hốt hoảng thu nhặt tài liệu

đem dấu hết vào nhà ông Mai Liệu (hiện ở San Jose). Dĩ

nhiên mất mát khá nhiều. Ba tháng sau, một chiều tôi đang

ngồi xe tay ở Ngọc Hà, cánh các ông này (giáo sư Vũ Khắc

Khoan) dùng súng sáu bắn tôi. Các ông bắn tệ quá! Tôi

nhảy xuống xe chạy thoát. Sau mới vỡ lẽ : mấy ông ấy định

giết tôi vì tội Lý Đông A còn sống mà tôi xác nhận là đã

chết !

Tôi hỏi lý thuyết gia :

- Thưa ý cụ thế nào ?

Ông thành khẩn đáp :

- Còn thế nào được nữa ! Ôm xác bạn trong tay, sao

tôi lại có thể lầm ?

Tôi nhìn giáo sư Vũ. Thầy tôi gật đầu :

- Ông sư Tịnh Liên không thể lầm !

Nơi chiến khu Nga Mi ông có làm bài thơ Đồi Nga

Mi như sau :

Page 81: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 77

Đồi Nga Mi

Đồi Nga Mi, mối hận chĩu bê bê.

Đồi Nga Mi, tin ngục bỗng Đông vê.

Đồi Nga Mi, vàng thau đã thử thách.

Đồi Nga Mi, làm trọn Duy Dân thê.

Hỡi tráng sĩ Duy Dân đầy khổ ải,

Hãy trau giồi thể hiện những đau thương.

Đông thê thê tuốt gươm mài khẳng khái,

Hận du du đúc ngọc trí phong sương.

Lịch sử Việt đã đến giờ quyết liệt.

Hãy kín trong trì định đáy muôn xưa :

Những năng tử thấm tàng muôn cảnh tiết,

Để đợi giờ tối hậu đột giông mưa.

Đồi Nga Mi, sẽ trút hận bê bê.

Đồi Nga Mi, tin ngục sẽ Xuân vê.

Đồi Nga Mi, vàng thau còn thử thách.

Đồi Nga Mi, làm trọn Duy Dân thế.

Đọc bài thơ trên, tôi cảm như đang nghe lời giáo sư

Vũ Khắc Khoan : “Ông sư Tịnh Liên không thể lầm!”

Tháng 2 năm 1948, đảng cách mạng Duy Dân quyết

chiến cùng bọn quốc tặc Việt Minh ở Hòa Bình. Sau trận

này Duy Dân đảng chỉ còn đóng góp với lịch sử bằng văn

hóa và triết lý chính trị nhân bản. Cũng từ sau trận này,

nhiều huyền thoại về lãnh tụ Lý Đông A được đưa ra bằng

truyền khẩu, không viết thành văn. Tại sao không viết

thành văn ? Lý do đơn giản : những huyền thoại ấy đều

hoang đường nghịch lý !!

Những pho tư tưởng Duy Dân.

Toàn pho tư tưởng Duy Dân, do một mình Thư Ký

Trưởng Lý Đông A vắt tim óc viết thành, chia làm 4 bộ :

Bộ Huấn

Page 82: TOÀN CẦU 2017

Trang 78 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Bộ Nhã

Bộ Thông

Bộ Mô

Sau trận Nga Mi do Thư Ký Trưởng trực tiếp chỉ

huy và hiến dâng thân thế cho tổ quốc, cả 4 bộ đều không

còn trọn vẹn.

Trước quốc nạn 1975, nhà xuất bản Gió Đáy, 252

đường Nguyễn Tiểu La, Chợ Lớn, do ông Hoàng Lãng

Tiến làm giám đốc có in các tập : Huyết Hoa, Chu Tri Lục,

Duy Nhân Cương Thường, Thiết Giáo (Duy Nhân Cương

Thường tập hạ), Đạo Trường Ngâm, Tuyên Ngôn, Kiến

Quốc Nghiệp Vụ, Chìa Khóa Thắng Nghĩa, Duy Dân Tinh

Chỉ.

Tập Cơ Năng Hiến Pháp có được ấn hành hạn chế.

Tập Tổ Đảng không in : sách này viết về cách tổ chức

đảng, đối nội, đối ngoại, phòng gian bảo mật. Do đó được

giữ bí mật, chỉ lưu hành kín đáo nơi cán bộ chỉ huy cấp cao.

Tư tưởng Lý Đông A mênh mang uyên áo, lấy

người làm nền tảng, lấy hạnh phúc đích thực của nhân sinh

làm cứu cánh, lấy tổ quốc làm căn nhà chung của dân tộc.

Để bảo vệ tổ quốc, để giữ cho nòi giống được sống còn

(cứu quốc tồn chủng – Phan Bội Châu) Lý Đông A đã viết

về mọi lãnh vực : lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị, ngoại

giao, binh bị, chiến lược, chiến thuật, đạo đức, triết học…

đồng thời, là nghệ sĩ đa tài, tâm hồn cao đẹp, ông làm thơ,

viết văn. Đọc tác phẩm của ông thấy ẩn hiện tư tưởng cụ

Phan Bội Châu, tinh thần ông Nguyễn Thái Học. Trong pho

Chu Tri Lục (thuộc bộ Huấn), ông đã viết : “Phan Sào Nam

là chốt khóa nối liền lịch sử từ 1865 tới 1940 của nước

Việt, mà địa vị danh dự làm tối cao lãnh tụ của cách mạng

Việt rất xứng đáng.”

Nơi Đạo Trường Ngâm, tập thơ thuộc về bộ Thông,

ông cảm khái, cung kính nhắc đến việc làm của ông

Page 83: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 79

Nguyễn Thái Học, gắn liền với cụ Phan Bội Châu :

“Thẹn đất nước dưới gót giày uế xú

Người Lâm Thao, Bến Ngự luống tâm cơ”

“Phan Sào Nam khi viết pho Vong Quốc

Còn là hồn Đại Việt đến vô cương”

Khi dựng Việt Nam Quốc Dân Đảng, anh hùng

Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí quyết sát máu với kẻ

thù của dân tộc, xác định minh bạch với nhau rằng : “Cờ

độc lập phải nhuộm bằng máu, hoa tự do phải nở bằng

máu”

Anh hùng Lý Đông A khi viết tập Huyết Hoa, thuộc

bộ Nhã, cũng cùng một ý, cùng một chí. Với bài Thi Nhiệt,

ông nói minh bạch cõi lòng quyết theo đường cách mạng

sắt máu với kẻ thù của người đi trước.

Thi Nhiệt

Ta đã vê đứng bên bờ Pắc Nậm

Mặc heo may quấn quít hồn cố hương

Thấm hàng cây lấp ló mấy khung tường

Hòa làn khói mơ màng bao nhớ ước.

Cách dòng nước ta là người mất nước.

Nước non ta, ai ngăn trở ta vê ?

Thấy người quê, không được tỏ tình quê !

Rõ trước mặt, mà tìm đâu cho thấy ?

Hảy hét lớn, hai bàn tay nắm lấy.

Hãy khua tan quân địch của Rồng Tiên.

Hãy làm cho giống Việt được đoàn viên,

Quê nước ở trong đáy dòng sống máu !

Quê nước ở trong đáy dòng sống máu !

Trần Lam Giang, CVA59

Page 84: TOÀN CẦU 2017

Trang 80 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Thi sĩ

Vũ Hoàng Chương

Sài Gòn rong chơi ký

Đoàn Thạch Hãn

LTS: Thi sĩ Vũ Hoàng Chương là giáo sư Việt Văn trường

trung học Chu Văn An và một số trường tư tại Saigon. Sau

30/4/75 sở dĩ ông bị Việt Cộng bắt vì ông là người có khí

phách, không những không a dua theo thời cuộc, trái lại

ông còn công khai chê thơ Tố Hữu là không thực, là gian

dối khi ông đọc mấy câu thơ của Tố Hữu như:

Page 85: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 81

“Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười“[1]

hoặc:

“Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin “[2].

Trên phương diện học thuật, không ai có thể phủ

nhận Vũ Hoàng Chương là một trong những cây đại thụ

của thi ca Việt Nam cận đại. Theo nhận định của nhiều nhà

phê bình văn học thuộc nhiều thế hệ, so với các nhà thơ

đồng thời, thơ Vũ Hoàng Chương có những nét riêng trau

chuốt từng câu, từng chữ, giàu nhạc điệu, nhẹ nhàng, sâu

lắng, lãng mạn và sang trọng.

Ông sinh ngày 5/5/1916 tại làng Phù Ửng, huyện

Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Nam Định (nay thuộc về

Hưng Yên). Vũ Hoàng Chương đỗ tú tài Pháp năm 1937.

Sau đó, theo học Trường Luật rồi cử nhân toán tại Hà Nội,

nhưng tất cả cũng chỉ được một vài năm rồi bỏ, để theo

nghề dạy học và làm thơ cho đến cuối đời.

Năm 1954, ông di cư vào Nam, tiếp tục dạy văn ở

một số trường trung học và trường Đại học Văn khoa Sài

Gòn. Vũ Hoàng Chương mất ngày 6/9/1976, khi vừa tròn

tuổi 60. Tôi là một người may mắn, khi có một thời gian

được tiếp xúc và gặp gỡ thi sĩ Vũ Hoàng Chương dường

như mỗi ngày. Đó là vào khoảng cuối năm 1973, đầu năm

1974, khi vợ chồng ông đang tá túc tại nhà nữ sĩ Mộng

Tuyết, trong một căn phòng được ông gọi là “gác mây”,

nằm cuối đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn

Trọng Tuyển, quận Phú Nhuận). Lúc bấy giờ, tôi đang giữ

trang thơ của nhật báo Sóng Thần. Một buổi sáng, vừa

bước vào tòa soạn ở số 133 Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi),

đã thấy nhà văn Chu Tử (chủ bút) đang ngồi uống trà với

Ngọc Thứ Lang (người dịch cuốn Bố Già) và nhà thơ

Hoàng Trúc Ly. Bỗng dưng có ai đó nhắc đến thi sĩ Vũ

Hoàng Chương và nói ông đang bệnh nặng. Thế là Ngọc

Page 86: TOÀN CẦU 2017

Trang 82 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Thứ Lang buột miệng: “Tội nghiệp, Vũ Hoàng Chương

nghèo kiết xác, nên thiếu “thóc” (thuốc phiện) là ngã bệnh,

nếu được hút đủ đô là khỏe ngay”. Điều này có lẽ không

sai, bởi hơn ai hết, Ngọc Thứ Lang cũng là một con nghiện

rất nặng và thỉnh thoảng vẫn ghé lại “gác mây” thù tạc với

Vũ Hoàng Chương. Không hỏi thêm một câu nào, ông Chu

Tử quay sang ra lệnh cho tôi, xuống ban Trị sự, lấy tiền

mua vài lạng thuốc phiện đem biếu cho thi sĩ Vũ Hoàng

Chương. Nghe thế, tôi rất vui khi biết mình sắp được gặp

gỡ nhà thơ lớn mà mình ái mộ từ lâu, nhưng chỉ nghe danh

chứ chưa được diện kiến lần nào.

Có tiền, tôi nhờ anh Ngọc Thứ Lang đưa qua con

hẻm đối diện tòa soạn, nơi có hai động hút dường như bán

công khai, mua hai lạng thuốc phiện loại hảo hạng rồi đi

ngay. Dọc đường, tôi cứ phân vân không biết phải xưng hô

với thi sĩ Vũ Hoàng Chương như thế nào cho phải phép.

Cuối cùng, tôi quyết định sẽ gọi ông bằng thầy và xưng em

là ổn nhất.

Không có gì khó khăn để tôi tìm ra nhà nữ sĩ Mộng

Tuyết. Gọi là “gác mây”, cái tên nghe rất thơ mộng, nhưng

thật ra, đó là một căn phòng nhỏ, chỉ hơn 20 thước vuông,

không có lấy một thứ đồ đạc nào đáng giá. Trên một chiếc

đi văng bằng gỗ, được trải mấy tấm chiếu hoa, Vũ Hoàng

Chương ngồi tựa lưng vào vách, gầy gò và mệt mỏi. Trên

khuôn mặt xanh xao là một cặp kiếng trắng dày cộm. Trước

mặt ông là một tờ báo và một chiếc kính lúp, mỗi khi đọc,

ông phải soi từng dòng. Ngồi trên chiếc ghế kê sát cửa ra

vào là bà Thục Oanh, vợ của ông, một người đàn bà với vẻ

bên ngoài rất bình thường, nhưng lại có đời sống rất phi

thường. Bởi lẽ, bà còn là chị ruột của thi sĩ Đinh Hùng.

Suốt đời người đàn bà này là chỗ dựa của hai nhà thơ lớn

mà ngoài tánh khí thất thường ra, cả hai còn là những con

nghiện á phiện rất nặng từ khi còn rất trẻ, nhưng chẳng bao

giờ làm ra được nhiều tiền. Vì thế, mà bà Thục Oanh âm

Page 87: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 83

thầm chịu đựng cảnh túng thiếu, cắn răng lo cho hai nhà

thơ lớn của Việt Nam mà chẳng hề ta thán.

Thấy tôi xuất hiện, bà Thục Oanh đứng dậy chào

khách và hỏi tôi muốn tìm ai? Tôi nói ngay: “Ông Chu Tử

nhờ em đem biếu cho thầy ít quà”. Tôi trở nên hụt hẫng khi

nghe Vũ Hoàng Chương nói, cho dù giọng ông chậm rãi và

nhỏ nhẹ: “Chu Tử là ai? Hình như tôi không quen người

này, nhưng tại sao lại biếu quà cho tôi, mà quà gì thế?”.

Khi nghe tôi nói tới thuốc phiện, nét mặt ông rạng

rỡ hẳn lên. Tôi ngồi xuống mép đi văng, đặt hai lạng thuốc

phiện lên tờ báo cũ mà ông đang đọc dở. Như bị ma lực của

nó thu hút, ông cầm lên, mở ra, vẻ thích thú của một tay

sành điệu: “Thuốc Thượng Lào, sản phẩm hảo hạng đây”.

Thế là câu chuyện giữa tôi và thi sĩ Vũ Hoàng Chương trở

nên thân mật hơn. Ông nói, mỗi ngày ông vẫn có thú vui

đọc báo, nhưng chỉ đọc được một tờ, bởi không có đủ báo.

Tôi hứa, mỗi ngày sẽ mang đến cho ông đủ các loại nhật

báo phát hành trong ngày. Để cho ông yên lòng, tôi nói,

mỗi ngày tôi thường đi ngang qua đây, nên rất thuận

đường. Nói thế là vì tôi mong được kết thân với ông, chứ

chẳng có viếc gì phải cần đến khu vực này cả. Ông nhận lời

một cách vui vẻ, và từ đó, chiều nào tôi cũng mang báo đến

cho ông, rồi ngồi chuyện trò với nhau đủ mọi thứ chuyện

trên đời, rồi thành thân thiết.

Vài tuần sau, một lần Vũ Hoàng Chương bất chợt

nhắc đến sức khỏe nhà văn Chu Tử. Nhân đó, tôi hỏi,

dường như ông và Chu Tử cũng quen nhau, nhưng giữa hai

người có điều gì đó lấn cấn? Ông thú thật là có quen biết.

Nhưng do mâu thuẫn gì đó với Chu Tử, nên thôi. Còn như

Chu Tử có xúc phạm Vũ Hoàng Chương hay không, cũng

chẳng ai biết hư thực ra sao, bởi đó cũng chỉ là thị phi của

người đời. Có những buổi chiều khi tôi đến thì bà Thục

Oanh vắng nhà. Tôi tự pha trà và ngồi đối ẩm với thi sĩ Vũ

Hoàng Chương. Tôi hỏi ông về chuyện tình yêu và những

bài thơ đau tình bất hủ của ông. Nét mặt ông trở nên buồn

Page 88: TOÀN CẦU 2017

Trang 84 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

vời vợi, nói như nói với chính mình: “Năm tôi 25 tuổi thì

Tố Uyển đi lấy chồng, tôi đã như điên, như cuồng. Người

ta biết nhiều đến chuyện tình ly cách và những bài thơ tôi

làm cho Tố Uyển giai đoạn này, đặc biệt là hai câu mà

nhiều người thuộc:

Tình ta, ta tiếc cùng ta khóc –

Tố của Hoàng, nay Tố của ai…

Ông nói tiếp: Thật ra còn có một người phụ nữ nữa,

cũng làm cho tim tôi và thơ tôi rỉ máu, nhưng ít được người

ta nhắc tới hơn:

Kiêu Thu hê! Tố em ơi

Ta đang lửa đốt tơi bời mái tây…

Tôi hỏi: “Thế còn cô Thục Oanh?”. Ông nói: “Đó là

một người bạn đời, người chia ngọt sẻ bùi, tuy không phải

là người tình nhưng còn hơn cả người tình”.

Thi sĩ Vũ Hoàng Chương thường nói với tôi là ông

không có bạn. Nhưng theo tôi nhìn thấy thì ông sống rất

tình nghĩa. Có lần ông hỏi tôi có thường gặp Ngọc Thứ

Lang không? Tôi nói rất thường gặp. Sáng nào cũng thấy

anh ngồi ở quá cà phê trước tòa soạn báo Sóng Thần. Dạo

này trông anh rất yếu và hay đau ốm. Thế là chẳng nói,

chẳng rằng, ông lấy trên đầu nằm ra một cục thuốc phiện,

cắt làm đôi, gói cẩn thận bằng một mảnh giấy kiếng màu

cam, rồi trao cho tôi, dặn dò: “Đưa cho Ngọc Thứ Lang và

đừng nói gì cả”.

Một buổi chiều khác, tôi gặp Lê Cung Bắc (nay là

đạo diễn - NSƯT Lê Cung Bắc) tại tòa soạn, và rủ anh ghé

Vũ Hoàng Chương chơi. Lê Cung Bắc nhận lời ngay, bởi

anh cũng là người yêu thơ và rất ái mộ thơ Vũ Hoàng

Chương. Đó là một buổi gặp gỡ hết sức thú vị.

Trước khi theo tây học, Vũ Hoàng Chương từng

học chữ Nho nhiều năm, thuộc loại uyên bác. Còn Lê Cung

Bắc lại xuất thân trong một gia đình khoa bảng, mấy đời

Page 89: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 85

ông cha liên tục đỗ đầu các đại khoa dưới triều Nguyễn. Do

đó, anh cũng rất tinh thông Tứ Thư, Ngũ Kinh … từ hồi

còn rất trẻ. Đặc biệt, Lê Cung Bắc thuộc làu rất nhiều bài

Đường thi, và cả những bài từ, bài phú. Thế là một già, một

trẻ, hết đọc rồi bình thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, đến Bạch Cư Dị,

Thôi Hiệu… say sưa cho đến sẩm tối.

Bút tích của thi sĩ Vũ Hoàng Chương

Vũ Hoàng Chương nói, ông tuy đã già nhưng tâm

hồn còn rất trẻ, nên rất thích chuyện trò với những người

bạn trẻ có được kiến thức như Bắc. Ông dặn tôi, thỉnh

thoảng nhớ rủ Lê Cung Bắc đến thăm ông, để chuyện trò

cho đỡ buồn. Khi chia tay, ông rời đi văng bước ra cửa tiễn

chúng tôi bằng những bước đi không vững, để bày tỏ lòng

mến khách. Ông nói: “Lâu lắm không bước ra đường,

chẳng biết phố xá dạo này ra sao?”. Lê Cung Bắc trả lời:

“Phố xá thì vẫn thế. Có điều, càng ngày các cuộc xuống

đường của những lực lựơng tranh đấu càng nhiều hơn.

Page 90: TOÀN CẦU 2017

Trang 86 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Ngựa sắt, hàng rào kẽm gai và khẩu hiệu, biểu ngữ xuất

hiện khắp nơi”. Ông lại hỏi: “Người ta viết gì trên đó?”.

Tôi đáp: “Thì đại loại chế độ của Tổng thống Thiệu muôn

năm, hoan hô cái này, đả đảo cái kia”. Lập tức thi sĩ Vũ

Hoàng Chương ứng khẩu, đọc liền hai câu:

Thế mà cứ chúc muôn năm mãi

Nó sống lâu thì nước chết non.

Ra đầu đường, Lê Cung Bắc nói với tôi, quả thật,

nếu cứ nhìn vào cái thân xác gầy còm, yếu ớt đó, không ai

ngờ tiềm ẩn trong tim là ngữ khí ngất trời. Điều làm tôi

cảm động nhất, là vào một buổi chiều cuối năm 1974, khi

tôi đến với ông như thường lệ đã thấy trước mặt ông là một

tập sách mỏng. Ông cầm lên đưa cho tôi và nói: “Đây là

quà của tôi biếu anh, một trong những người rất hiếm hoi

mà tôi quý mến”. Tôi lật ra, cứ tưởng như mơ. Đó là một

tập thơ của Vũ Hoàng Chương, do chính ông viết bằng đầu

tăm, chấm mực tàu viết lên giấy bổi. Tập thơ có cái tựa là

Song Kiều, ngoài bìa Vũ Hoàng Chương viết tặng đích

danh tôi, có chữ ký và triện son hẳn hoi, nhưng chỉ dày hơn

20 trang, mỗi trang có 4 câu lục bát, vì nét chữ rất to. Dĩ

nhiên là tôi vô cùng sung sướng. Cái công mỗi ngày tôi vẫn

mang báo đến tặng ông rõ ràng không bỏ.

Đầu năm 1975, khi chuyển nhà đi nơi khác, vì

không ổn định chỗ ở, tôi đã mang tập thơ quý giá, với chỉ

một ấn bản duy nhất đó, cùng một ít tư liệu riêng, gởi gắm

cho nhà thơ Huy Tưởng trên đường Huỳnh Tịnh Của. Về

sau tôi hỏi, thì Huy Tưởng nói đã nhiều lần cố lục tìm trong

đống sách vở và đồ đạc lỉnh kỉnh trong nhà anh, nhưng

chẳng biết thất lạc ở đâu. Thế là mất! Một thời gian sau, thi

sĩ Vũ Hoàng Chương rời khỏi “gác mây”, dọn về Vĩnh Hội.

Từ đó, cho đến lúc ông qua đời vào năm 1976, vì bộn bề

công việc, tôi không đến với ông được nữa. Ngay cả khi

ông nhắm mắt, tôi lại ở thật xa thành phố, nên cũng không

thể đến thắp cho ông một nén nhang như lòng tôi mong

ước. Tôi nghĩ, cho dù quá nhiều thăng trầm ở đời này, hạnh

Page 91: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 87

phúc thì ít, khổ đau thì nhiều, nhưng có lẽ thi sĩ Vũ Hoàng

Chương cũng đã mỉm cười ra đi bởi ông đã thấm đẫm tinh

thần Phật giáo như lời thơ ông:

Biển khổ mênh mông sóng ngập trời

Khách trần chèo một mái thuyên chơi

Thuyên ai ngược sóng, ai xuôi sóng

Cũng chỉ trong cùng biển khổ thôi.

Đoàn Thạch Hãn

________________________________________________

Chú thích:

[1] Bài “Khóc Stalin”

[2] Bài “Đời đời nhớ ơn ông (Stalin).”

Nhà văn VN Nguyễn Tuân, nổi tiếng cao ngạo trong văn

đàn miền Bắc, sau mấy chục năm nín thở qua sông, vào đến

miền Nam, gặp lại bạn bè, đã nói một câu để đời:

“Tao còn sống đến ngày nay, là nhờ biết sợ”

Bà Thủ tướng Đức Angela Merkel nói:

“Cộng Sản đã làm cho người dân trở thành gian dối.”

Page 92: TOÀN CẦU 2017

Trang 88 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Tuyệt phẩm thi ca

chống ngoại xâm

Bình Ngô

Đại Cáo

của Nguyễn Trãi

Trần Văn Giang

Lời giới thiệu:

1- “Bình Ngô đại cáo” (1428) là bài cáo của Nguyễn Trãi

viết thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc

cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại

Việt. [Trích từ “Bình Ngô đại cáo” của Wikipedia (Bách

khoa Toàn thư.)]

Page 93: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 89

2- Xin kính mời quý vị đọc “Bình Ngô Đại Cáo” qua hai

bản dịch nôm tiêu biểu:

- Bản dịch theo thể “văn vần” của Ngô Tất Tố

- Bản dịch theo thể “văn xuôi” của Trần Trọng Kim

(Ngoài ra còn có thêm bản dịch của Bùi Kỷ và Nhượng

Tống, nhưng tôi thấy rằng hai bản dịch tiêu biểu đê cập ở

trên đã khá đầy đủ… Nguyên bản Hán-Việt cũng được kèm

theo đây để quý vị rộng đường tham khảo)

3- Lời bàn của Ngô Quốc Sĩ, Minh Nguyệt và Hải Sơn.

Trần Văn Giang

1- “Bình Ngô đại cáo” - Bản dịch của Ngô Tất Tố

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Page 94: TOÀN CẦU 2017

Trang 90 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một

phương

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau

Song hào kiệt thời nào cũng có.

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,

Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi.

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,

Bọn gian tà bán nước cầu vinh.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay

cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu,

nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Page 95: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 91

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa

chán;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho

vừa.

Nặng nề những núi phu phen,

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được?

Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu,

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,

Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:

Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn

chốn bể khơi.

Page 96: TOÀN CẦU 2017

Trang 92 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết

đuối.

Phần vì giận quân thù ngang dọc,

Phần vì lo vận nước khó khăn,

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Lúc Khôi Huyện quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp

phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu

ngọt ngào.

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.

Sĩ khí đã hăng

Quân thanh càng mạnh.

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.

Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu

Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng

cháy

Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm

công.

Page 97: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 93

Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.

Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,

Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy

Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn

kéo lại

Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân

Nam tiến sang.

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong

Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá

Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau

Lại thêm quân bốn mặt vây thành

Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

Page 98: TOÀN CẦU 2017

Trang 94 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía

mà vỡ mật!

Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên

nhau chạy để thoát thân.

Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn

ngào tiếng khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu

đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu

mạng

Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu

sinh

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,

ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về

đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu kế kỳ diệu

Cũng là chưa thấy xưa nay

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu

Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm

phù trợ;

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng,

Nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình,

Ban chiếu duy tân khắp chốn

Page 99: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 95

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay.

2- “Bình Ngô đại cáo” - Bản dịch văn xuôi của Trần

Trọng Kim

(Bản dịch ghi trong cuốn “Việt Nam sử lược" - Quyển

I/Phần III/Chương XIV).

Tượng-mảng:

Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ

vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn-hiến đã

lâu. Sơn-hà cương-vực đã chia, phong-tục bắc nam cũng

khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập; cùng Hán,

Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương. Dẫu cường

nhược có lúc khác nhau, song hào-kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật

mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt

sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng[1].

Vừa rồi:

Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà, để trong nước nhân-

dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược[2]

, bọn

gian-tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn

Page 100: TOÀN CẦU 2017

Trang 96 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

lửa hung-tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ. Chước dối

đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại

nhân-nghĩa, nát cả càn-khôn, nặng khoa-liễm[3]

vét không

sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu,

nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn-hại cả côn-

trùng thảo-mộc; nheo-nhóc thay quan quả điên-liên[4].

Kẻ

há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no-nê chưa chán. Nay

xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa.

Nặng-nề về những nỗi phu-phen, bắt-bớ mất cả nghề canh-

cửi. Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ-bẩn thay !

nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo

thần-nhân nhịn được.

Ta đây:

Núi Lam-sơn dấy nghĩa, chốn hoang-dã nương

mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng

quân nghịch-tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng

mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn

vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh; ngẫm trước đến

nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ. Những trằn-trọc trong

cơn mộng-mị, chỉ băn-khoăn một nỗi đồ-hồi. Vừa khi cờ

nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn-kiệt như sao buổi sớm, nhân-tài như lá mùa

thu. Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần, nơi duy-ác hiếm người

bàn-bạc. Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục

đông[5];

mấy thủa đợi-chờ, luống đằng-đăng cỗ xe hư tả[6]

.

Thế mà trông người, người càng vắng-ngắt, vẫn mịt-mờ

như kẻ vọng dương[7]

; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm

vội-vã như khi chửng-nịch[8]

. Phần thì giận hung-đồ ngang-

dọc, phần thì lo quốc-bộ khó-khăn. Khi Linh-sơn lương hết

mấy tuần; khi Khôi-huyện quân không một lữ. Có lẽ trời

muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma;

cho nên ta cố-gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.

Múa đầu gậy, ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi

Page 101: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 97

đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ

một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi;

quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

Dọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn, lấy chí nhân mà

thay cường-bạo. Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy, miền Trà-

lân trúc phá tro bay. Sĩ-khí đã hăng, quân thanh càng mạnh.

Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An

tìm đường trốn-tránh. Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc, lấy

Đông-đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-kiều máu chảy thành

sông; bến Tụy-động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt

mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương thông hết cấp lo

lường, Mã Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực

kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công,

chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng

đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương,

gây mầm tội-nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho

người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ-duốc. Đến

nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên-đức[9]

, nhàm võ không thôi; lại

sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.

Năm đinh-mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu-ôn tiếng

sang; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo

đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc-quân; ta lại

sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương-đạo. Mười tám,

Liễu Thăng thua ở Chi-lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở

Mã-yên. Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong; hai-mươi-

tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo

giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến

rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ-tốt ra oai tì hổ, thần-thứ đủ mặt

trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước,

nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình-ngạc,

đánh hai trận tan-tác chim-muông. Cơn gió to trút sạch lá

khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin

lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng-giang, Lạng-sơn

thây chất đầy đường, Xương-giang, Bình-than máu trôi đỏ

Page 102: TOÀN CẦU 2017

Trang 98 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

nước. Gớm-ghê thay ! sắc phong-vân cũng đổi; thảm-đạm

thay ! sáng nhật-nguyệt phải mờ. Binh Vân-nam nghẽn ở

Lê-hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần-

trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-câu, nước sông

rền-rĩ; thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa. Hai mặt cứu

binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp

xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục

tội; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã

Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến

bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho

vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi. Nó đã sợ

chết cầu hòa, ngỏ lòng thú-phục; ta muốn toàn quân là cốt,

cả nước nghỉ-ngơi.

Thế mới là mưu-kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay

chưa có. Giang-san từ đây mở mặt, xã-tắc từ đầy vững nền.

Nhật-nguyệt hối mà lại minh, càn-khôn bĩ mà lại thái. Nền

vạn thế xây nên chăn-chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu.

Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng che-chở, giúp-đỡ

cho nước ta vậy.

Than ôi!

Vẫy-vùng một mảng nhung-y nên công đại-định,

phẳng-lặng bốn bề thái-vũ mở hội vĩnh-thanh. Bá-cáo xa

gần, ngỏ cùng cho biết.

__________________

Chú thích:

[1] Minh-trưng: chứng-cớ rõ-ràng

[2] Tứ-ngược: Hết sức tàn ngược

[3] Khoa-liễm: Thuế-má

[4] Quan: Người không vợ; quả: người góa chồng;

điên-liên: những kẻ không có nhà ở, không trông-cậy vào

đâu được.

[5] Dục đông: Ý nói muốn về Đông-đô

Page 103: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 99

[6] Hư tả: Cỗ xe không bên trái để đợi người hiền

[7] Vọng dương: Trông ra biển không thấy gì

[8] Chửng-nịch: Vớt người chết đuối

[9] Vua Tuyên-tông nhà Minh, niên-hiệu Tuyên-đức.

__________________

Phần Tham khảo

(Nguyên Bản Hán – Việt)

Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:

Cái văn:

Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,

Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.

Duy ngã Đại Việt chi quốc,

Thực vi văn hiến chi bang.

Sơn xuyên chi phong vực ký thù,

Nam bắc chi phong tục diệc dị.

Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,

Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.

Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,

Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,

Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.

Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,

Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.

Kê chư vãng cổ,

Quyết hữu minh trưng.

Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,

Trí sử nhân tâm chi oán bạn.

Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;

Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.

Hân thương sinh ư ngược diệm,

Page 104: TOÀN CẦU 2017

Trang 100 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Hãm xích tử ư họa khanh.

Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;

Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.

Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;

Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.

Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,

Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.

Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,

Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.

Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,

Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.

Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;

Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.

Châu lý chi chinh dao trọng khốn,

Lư diêm chi trữ trục giai không.

Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,

Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.

Thần dân chi sở cộng phẫn,

Thiên địa chi sở bất dung.

Dư:

Phấn tích Lam Sơn,

Thê thân hoang dã.

Niệm thế thù khởi khả cộng đái,

Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.

Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,

Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.

Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,

Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.

Đồ hồi chi chí

Ngộ mị bất vong.

Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,

Chính tặc thế phương trương chi nhật.

Page 105: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 101

Nại dĩ:

Nhân tài thu diệp,

Tuấn kiệt thần tinh.

Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,

Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.

Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;

Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

Nhiên kỳ:

Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,

Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.

Phẫn hung đồ chi vị diệt,

Niệm quốc bộ chi tao truân.

Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,

Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.

Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,

Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.

Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;

Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;

Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

Tốt năng:

Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,

Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.

Bồ Đằng chi đình khu điện xế,

Trà Lân chi trúc phá khôi phi.

Sĩ khí dĩ chi ích tăng,

Quân thanh dĩ chi đại chấn.

Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,

Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.

Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;

Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.

Page 106: TOÀN CẦU 2017

Trang 102 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;

Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.

Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;

Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.

Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,

Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.

Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;

Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.

Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,

Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.

Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,

Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.

Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;

Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.

Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn

nhi tiến,

Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam

nhi lai.

Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,

Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.

Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công,

kế trụy ư Chi Lăng chi dã;

Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở

bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.

Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi

táng khu,

Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn

thủ.

Ngã toại nghênh nhận nhi giải,

Bỉ tự đảo qua tương công.

Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,

Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.

Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,

Page 107: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 103

Thân mệnh trảo nha chi thần.

Ẩm tượng nhi hà thủy càn,

Ma đao nhi sơn thạch khuyết.

Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,

Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.

Quyết hội nghĩ ư băng đê,

Chấn cương phong ư cảo diệp.

Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,

Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.

Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,

Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.

Phong vân vị chi biến sắc,

Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng

nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;

Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần Trạm,

toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.

Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;

Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.

Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,

Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.

Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;

Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.

Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm

ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;

Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp

mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm

kinh.

Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;

Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,

Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.

Xã tắc dĩ chi điện an,

Page 108: TOÀN CẦU 2017

Trang 104 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Sơn xuyên dĩ chi cải quán.

Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,

Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.

Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,

Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.

Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu,

nhi trí nhiên dã.

Ô hô!

Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công;

Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.

Bá cáo hà nhĩ,

Hàm sử văn tri.

3- Lời bàn của Ngô Quốc Sĩ, Minh Nguyệt và Hải Sơn.

(Dựa trên bản dịch nôm của Ngô Tất Tố)

Nhắc tới những áng văn thơ chống ngoại xâm thời

dựng nước, không ai có thể quên được “Lời Hiệu Triệu”

của Hai Bà Trưng, “Tuyên Ngôn Độc Lập” của Lý Thương

Kiệt, “Hịch Tướng Sĩ” của Trần Hưng Đạo… Nhưng có thể

nói, không áng văn nào qua mặt được “Bình Ngô Đại Cáo”

của Nguyễn Trãi - Lê Lợi. Thực vậy, “Bình Ngô Đại Cáo”

được tuyên dương là áng văn thơ hay nhất, hào hùng nhất

và đánh động nhất, làm dậy lên trong lòng dân Việt một

mối hận thù ngoại tặc vô bờ và một ý chí sắt đá quyết bảo

vệ chủ quyền đất nước và xây dựng Tổ Quốc.

Nội dung "Bình Ngô Đại cáo" là một Tuyên Cáo

hùng hồn về chính nghĩa dân tộc làm căn bản cho cuộc

khởi nghĩa. Đó cũng là bản cáo trạng đầy đủ về tội ác giặc

Tàu, đồng thời công bố chiến lược và chiến thuật thắng

quân Minh, cũng như kế hoạch dựng nước cuả vị anh hùng

áo vải đất Lam Sơn.

Page 109: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 105

PHẨN I : CHÍNH NGHĨA DÂN TỘC

Mở đầu bản cáo trạng, Nguyễn Trãi đã thay lời Lê

Lợi, nêu cao chính nghĩa dân tộc như ngọn hải đăng chiếu

sáng và soi dẫn cuộc Bắc phạt của nguời anh hùng Lam

Sơn. Chính nghĩa đó trưóc hết là khát vọng quốc thái dân

an. Muốn cho yên nước yên dân, phải lấy dân làm gốc và từ

đó, phải ra tay diệt trừ các thế lực bạo ngược, phản dân hại

nước:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo khử bạo

Chính nghĩa đó cũng chính là khôi phục nền văn

hiến trên 4000 năm của Việt tộc, giúp cho đất nước giữ

vững kỷ cương, bảo toàn bờ cõi:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Nét đặc trưng của chính nghĩa dân tộc là ý thức độc

lập và chủ quyền đất nước. Nếu Lý Thường Kiệt đã khẳng

định “Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư” thì Lê Lợi cũng hãnh

diện với nền độc lập kéo dài qua nhiều triều đại:

Từ Triệu, Đinh Lê Lý Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán Đường Tống Nguyên hùng cứ một phen

Điều đáng nói là dânViệt, dù mệnh nước lên xuống,

dù là một nước nhỏ bên cạnh đại cường, luôn luôn vẫn có

anh hùng hào kiệt, hiên ngang thách đố với kẻ thù phương

Bắc:

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau

Nhưng hào kiệt đời nào cũng có

Chính nghĩa sáng chói đó đã được lịch sử ghi lại với

những nét hào hùng, những chiến tích lẫy lừng làm cho con

Page 110: TOÀN CẦU 2017

Trang 106 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

cháu Lạc Hồng cảm thấy hãnh diện vô bờ: Ai mà chẳng

nhớ Hàm Tử Bạch Đằng?

Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét

Chứng cớ còn ghi

Nhắc lại những chiến tích lịch sử hào hùng đó là để

so sánh với hiện thực đáng buồn của đất nước và dân tộc,

đang làm những người còn tâm huyết phải nức lòng.

Nào là dân tình đói khổ lầm than, một đàng do

ngoại tặc cuồng Minh, một đàng do bọn Việt gian bán nước

cầu vinh:

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nuớc cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọc lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống duới hầm tại vạ

Dối trời, lừa dân đủ muôn ngàn kế…

Đáng buồn nhất là trước hiện thực đau buồn đó, dân

Việt trông mong xuất hiện những nhân tài đem tim óc cứu

dân cứu nuớc, nhưng nhân tài lại vắng bóng như lá mùa thu

như sao buổi sớm:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm

Nhân tài như lá mùa thu

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc

Hiện thực đáng buồn của đất nước thời Lê Lợi đang

tái diễn hôm nay tại Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Một

đàng, những người thực tâm yêu nước dám dấn thân đối

đầu vơi cộng sản độc tài chỉ đếm đầu ngón tay, nên Võ Thị

Hảo mới chỉ trích “thái độ vô cảm,” và cô giáo Lam mới

lớn tiếng kêu gọi dân Việt “Xin đừng vô can.” Đàng khác,

Page 111: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 107

bọn cuồng Minh ngày xưa đã dùng bọn Việt gian tay sai

nướng dân trên lửa hung tàn, nhốt dân xuống hầm tai vạ, thì

bọn đại Hán hôm nay cũng lặp lại thủ đoạn gian ác đó, sử

dụng bọn thái thú là tập đoàn lãnh đạo Hà Nội đang dựa thế

Trung cộng để giữ đảng và giữ ghế, sống phè phỡn trên

xương máu dân lành!

Thật mỉa mai! Trong khi tổ tiên ngày xưa đã đem

chính nghĩa dân tộc với nền văn hiến cao đẹp, với ý thức tự

chủ độc lập tuyệt vời, cũng như những chiến tích lẫy lừng

gợi hứng cho sức quật cường của dân tộc, thì tập đoàn lãnh

đạo cộng sản hôm nay lại cúi mặt khiếp nhược trước manh

tâm bành trướng xâm lăng của ngoại thù!

Cha ông chúng ta đã nhắc nhở, núi sông bờ cõi đã

chia, và phong tục Tàu –Ta cũng khác, không thể sống

chung hay đồng hóa. Nhưng đau đớn thay, cộng sản Việt

Nam lại tự nguyện dâng hiến biển đảo, lãnh thổ và tài

nguyên cho kẻ thù truyền kiếp Bắc Phương! Thế là hoàn

toàn mất chính nghĩa! Tình hữu nghị “Môi hở răng lạnh”

hay “4 Tốt và 16 Chữ Vàng” chỉ là “ngụy nghĩa” và “ngụy

ngữ,” là lừa đảo, là chiêu bài che đậy ý đồ xâm lăng, tái

diễn nạn Bắc Thuộc thêm lần nữa! Và lần này, sẽ kéo dài

bao lâu? Ai mà biết được? Ai mà chẳng đau lòng đứt ruột,

và ai thấu nỗi đoạn trường..?

Phần II: CUỘC KHỞI BINH OAI HÙNG

Sau khi tuyên cáo về chính nghĩa dân tộc và hiện

thực đất nước tang thương với giặc ngoài thù trong, như lời

réo gọi của non sông, người anh hùng áo vải đất Lam Sơn

đã trịnh trọng tuyên chiến, khởi binh từ đất Lam Sơn, dõng

dạc đáp lại tiếng gọi của sông núi:

Ta đây

Núi Lam Sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Page 112: TOÀN CẦU 2017

Trang 108 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Động lực thúc đẩy Lệ Lợi khởi binh từ Lam Sơn

chính là mối thù không đội trời chung với giặc Tàu. Mối

thù giữa Việt Nam và Trung Quốc là mối thù truyền kiếp.

Mặc dầu biết rằng, giặc Tàu đang ở thế mạnh, nhưng tin

tưởng vào ngọn cờ chính nghĩa, người anh hùng áo vải đã

phải vung kiếm để trả thù dân tộc:

Ngẫm thù lớn hà đội trời chung

Căm giặc nước hề không chung sống.

Chỉ băn khoăn một nỗi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên

Chính lúc quân thù đang mạnh

Băn khoăn về tình thế bất lợi, thời điểm chưa mấy

thuận tiện vì kẻ thù đang mạnh, nhưng đáng buồn hơn là

quân thù lại được tiếp tay bởi những đứa con hoang, cam

tâm làm Việt gian bán nước cầu vinh, lót đường cho giặc:

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nước cầu vinh

Hiện tượng bán nuớc cầu vinh, rước voi giày mả tổ

thời Lê Lợi đang tái diễn hôm nay tại Việt Nam. Thật vậy,

ngày xưa bọn Chiêu Thống rước giặc Minh vào nhà, nay

bọn thái thú lại rước bọn Hán tặc vào lãnh thổ, đúng như

nhà thơ Bùi Minh Quốc đã mô tả:

Thăm thẳm một đời bao thứ giặc

Chưa giặc nào như giặc này

Quân ăn cướp quân phản trắc

Đã từng vào nhà ta

Như một người bạn thân một người đồng chí

Không biết những tên lãnh đạo cộng sản hôm nay

có chột dạ khi nghe bản cáo trạng của Lê Lợi này không?

Chắc chắn là không, vì con tim bọn chúng đã hóa đá, con

mắt của chúng đã bị thui chột, và đầu óc chúng bị bít kín

như miệng bình vôi, đúng như Hoàng Cầm và Phan Khôi

đã chua chát ghi nhận qua Nhân Văn Giai Phẩm.

Page 113: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 109

Mặc dù trước tình thế quân thù đang mạnh, lại có

bọn việt gian tiếp tay bán nước, người anh hùng áo vải vẫn

không nản lòng, nhất quyết chỗi dậy từ gian khổ với niềm

tin mãnh liệt vào tài thao lược của mình và tư duy sang suốt

về lẽ hưng phấn của trời đất. Thế chẳng là đem cái Trí hoà

hợp với cái Chí đó sao?

Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phấn đắn đo càng kỹ

Đắn đo kỹ càng, rồi nhất định tuyên chiến, quyết ra

tay đối đầu với nghịch tặc, dù biết mình cô đơn, chân

không thể bôn ba năm châu bốn biển, lại thiếu người đỡ

đần cố vấn trong cảnh khó khăn nghiệt ngã:

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc

Nhưng điểm đáng khích lệ nhất, là dù phải chiến

đấu trong cô đơn khi “nhân tài như lá múa thu, tuấn kiệt

như sao buổi sớm,” người anh hùng họ Lê đã quyết tự tin

vào khả năng của mình, tin vào tài trí của mình, can đảm

nhận lãnh sứ mệnh cao cả trời đất giao phó, nguyện xả thân

vì đại nghĩa, cứu dân đang chết đuối trong tay ngoại tặc:

Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết

đuối

Phần vì giận quân thù ngang dọc

Phần vì lo vận nước khó khăn’’

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng trí khắc phục gian nan

Nhận sứ mệnh khởi binh diệt giặc là theo mệnh trời

cứu nước cứu dân, với niềm chắc tâm rằng, địch phải bị

tiêu diệt, mình sẽ tồn tại và đất nước sẽ trường tồn “Thuận

thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”:

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần nhân chịu đuợc?

Page 114: TOÀN CẦU 2017

Trang 110 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Trời không tha, đất không dung, người không chịu

đuợc, nên Lê Lợi phải xuất quân dẹp giặc cứu nước cứu

dân. Đó là hành xử đúng theo mệnh trời, nên Lê Lợi đã

được ơn trời phù hộ, và toàn dân, toàn quân một lòng sát

cánh với nhà vua trong sứ mệnh cao cả:

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ

phấp phới.

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu

ngọt ngào.

Thế là cuộc khởi binh của người hùng Lam Sơn là

đúng theo phong thủy “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa.” Có

Trời phù hộ. Có Đất thiêng mẹ Việt Nam nâng đỡ gót chân,

và toàn dân Việt dốc quyết một lòng siết chặt tay chiến đấu.

Đó chính là lẽ tất thắng của người hùng áo vải đất Lam

Sơn, và cũng là lẽ tất thắng của toàn thể dân Việt trong

cuộc chống ngoại xâm và nội thù xưa nay.

Hẳn không ai có thể cầm lòng trước hình ảnh “cần

trúc thành ngọn cờ phấp phới” và “hoà nước sông chén

rượu ngọt ngào” trong cuộc khởi binh của Lê Lợi.. Thật

cảm động đến nghẹn lời khi nhìn thấy ngọn trúc thành ngọn

cờ và nước sông hòa vào rượu ngọt. Đó hẳn là cờ chiến

thắng Phù Đổng và rượu mừng đất nước sạch bóng quân

thù.

Với Bình Ngô Đại Cáo, đó là hiện thực, và Lê Lợi

xứng đáng là anh hùng, là đấng minh quân đúng danh thơm

Bình Định Vương. Hôm nay, nhìn vào hiện thực Việt Nam,

ngọn cờ chiến thắng và rượu mừng đất nước sạch bóng thù

vẫn còn là giấc mơ, bởi lẽ bọn Hán tặc đang thật sự xâm

lăng đất nước và bọn thái thú vẫn còn nghênh ngang cấu

kết với ngoại bang bán đứng giang sơn. Ai sẽ thay Lê Lợi

cứu vớt dân Nam đây?

Rồi sẽ có, sẽ có, sẽ có ngày toàn dân quật khởi, có

sức mạnh dân tộc vùng lên tiêu diệt ngoại tặc và nội thù,

Page 115: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 111

đúng như Hà Sĩ Phu đã khẳng quyết:

“Trong cuộc vật lộn tay đôi giữa chủ nghĩa Cộng

sản ngoại lai với nhân dân Việt Nam, thì mặc dù khó khăn

đến mấy, cuối cùng nhân dân nhất định thắng, tình tự dân

tộc máu mủ ruột rà nhất định thắng.”

Ngày đó không xa, nhưng chúng ta không thể ngồi

chờ với thái độ vô cảm hay vô can, dửng dưng, như kẻ

ngoại cuộc đứng bên lề cuộc chiến. Phải nhập cuộc, phải

xắn tay áo, phải lao đầu vào cơn bão lửa cách mạng. Dân

Việt không thể “vô cảm,” bởi lẽ vô cảm là khiếp nhược và

phản bội như lời Võ Thị Hảo và Đặng Chí Hùng:

Còn nhịp thở ta xin đừng vô cảm

Đất Mẹ hiền sẽ chẳng thể nào quên.

Và cũng xin đừng “vô can,” bởi lẽ vô can là đồng

lõa, như lời cô giáo Lam:

“Sự hèn nhát, sự sợ hãi, sự dửng dửng, vô cảm đã

biến chúng ta thành những kẻ đồng loã với cái ác. Chúng ta

đã phản bội thiên nhiên, phản bội quê hương và cái giá

chúng ta phải trả là môi trường sống của chính mình bị đầu

độc, là sức khoẻ, sinh mạng, sự tồn vong của nòi giống. Để

xảy ra thảm cảnh môi trường như ngày hôm nay, tôi, bạn,

tất cả chúng ta đều không vô can.”

Lời Đặng Chí Hùng, lời Võ Thị Hảo, lời cô giáo

Lam, lời Hà Sĩ Phu, chẳng phải là những tiếng dội anh

hùng của Bình Ngô Đại Cáo đó sao?

Ngô Quốc Sĩ, Minh Nguyệt và Hải Sơn

Trần Văn Giang (St)

Page 116: TOÀN CẦU 2017

Trang 112 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Thành kính tưởng niệm và tri ân

Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Những lời trăn trối của

Tổng thống

Ngô Đình Diệm

Sổ Tay Ký Thiệt

LTS: Đọc những lời trăn trối tâm huyết của cố Tổng Thống

Ngô Đình Diệm, chúng ta cảm thấy xót thương cho Cụ có

một tấm lòng yêu nước thương dân vô bờ bến. Đọc lời của

Cụ mà căm giận bày tướng phản quốc DVM, TTK, TTĐ,

MHX, ĐM v.v… đã vì 3 triệu đồng của Hoa Ky để bán rẽ

lương tâm, đất nước, hãm hại tổng thống và nên VNCH của

mình… Đọc lời trăn trối Cụ mà cảm thấy chán ngán cái ...

Page 117: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 113

thằng bất lương đồng minh Hoa Ky đã đối xử đồng minh

VNCH như tay sai của nó vậy… Nên vì vậy ngày nay ta

không thể nào trách tổng thống Phi đã khinh khi đồng minh

Hoa Ky, lại còn chửi dám TT Obama là ... "son of whore".

*

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể ngày Tổng thống Ngô

Đình Diệm bị giết chết trong cuộc đảo chính ngày

1.11.1963. Chính xác hơn, 53 năm đã qua nhưng thảm kịch

ấy vẫn còn là trang sử cần phải được soi sáng.

Học giả Nguyễn Anh Tuấn, một trí thức hải ngoại

đầy tâm huyết, đang viết một loạt bài với hy vọng khai quật

nhiều sự thật còn bị chôn vùi dưới những tầng lớp thành

kiến, phe cánh, mưu đồ chính trị ...

Được sự đồng ý của ông Nguyễn Anh Tuấn, và

nhân ngày 1.11.2016, mục này xin trích đăng một phần của

bài đầu tiên liên quan đến cuộc phỏng vấn Tổng thống Ngô

đình Diệm do nữ kỹ‎ giả Mỹ Marguerite Higgins thực hiện

tại Dinh Gia Long ngày 7.8.1963, không đầy 3 tháng trước

khi ông bị hạ sát.

Theo Higgins cho biết, ông Diệm trong cuộc

phỏng vấn này đặc biệt chú tâm tới những vấn đề hệ

trọng của Việt Nam như chiến tranh, cơn khủng hoảng

Phật giáo, và những đường lối đầy mâu thuẫn giữa các

viên chức Hoa Kỳ, và làm thế nào để giải quyến những

cơn khủng hoảng như thế ?

Ông Diệm chấp nhận nắm quyền hành quốc gia từ

1954. Thật khó mà hình dung được hình ảnh ông Diệm như

một nhà cách mạng đã nói với dân Việt Nam khi ông chấp

nhận lèo lái con thuyền quốc gia đang trong cơn bão tố do

Hoàng Đế Bảo Đại trao cho: “If I advance, follow me. If I

retreat, kill me. If I die, avenge for me”. (Nếu tôi tiến lên,

hãy tiến theo tôi. Nếu tôi tháo lui bỏ chạy, hãy giết tôi đi.

Nếu tôi bị chết, hãy trả thù cho tôi) [1]

.

Page 118: TOÀN CẦU 2017

Trang 114 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Higgins đã bỏ ra hơn 5 tiếng đồng hồ để trao đổi

riêng tư với TT Diệm về mối quan hệ ngoại giao giữa Việt

Nam và Hoa Kỳ. Mở đầu, Tổng thống Diệm nói:

“Nếu người dân Mỹ hiểu được những khó khăn

phức tạp của đất nước Việt Nam, và hiểu được bản chất của

chiến tranh Việt Nam, do cộng sản gây ra mà hiện nay

chúng tôi đang phải đối đầu gánh chịu. Cô Higgins đã đi

nhiều về các vùng nông thôn. Cô đã gặp những người dân

Thượng, với những giáo mác và những mê tín dị đoan của

họ. Những người dân Chàm, Cao Đài, Hòa Hảo. Những

người dân làng chất phát mộc mạc là những nơi thờ cúng tổ

tiên khắp nơi tại Việt Nam. Cô Higgins hãy nói cho tôi

nghe, thứ ngôn ngữ nào của dân chủ nghị viện có thể giải

thích cho những con người như thế, khi ý nghĩa của dân

chủ chưa tìm ra trong ngôn ngữ của họ.”

Với quá khứ của thời kỳ thực dân trên đất nước VN,

Ông Diệm nói tiếp:’

“Những người Pháp ra đi không để lại cho chúng tôi

những di sản cao quý. Trong thời kỳ trước thực dân, ngay

trong các làng người dân có thể đọc và viết. Bây giờ chúng

tôi phải xây dựng lại... Nhưng chúng tôi phải xây dựng từ

từ, bắt đầu từ các làng xã. Tại các làng xã vốn đã có săn

truyền thống dân chủ và quyền tự trị của các làng xã. Đó là

một phần văn hóa Khổng giáo...Người dân làng gắn bó với

việc thờ cúng tổ tiên... Và chúng tôi muốn loại bỏ những

gốc rễ đã ăn xuống quá sâu trong truyền thống Khổng giáo

của chúng tôi là tinh thần nho quan hủ bại trong việc xây

dựng lại xã hội Việt Nam.

Tôi biết có nhiều người Mỹ và họ cho tôi là một thứ

quan lại (mandarin)... Nhưng tôi hãnh diện với vai trò của

tôi. Đó là những kinh nghiệm mà người Mỹ chưa từng trải

qua - là giới quan lại trong hệ thống Khổng giáo, nhưng

quan lại thì phải chính trực liêm chính. Đó là linh hồn của

dân chủ. Chúng đã đi ngược lại truyền thống tốt đẹp đó để

Page 119: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 115

sao chép thứ “nho quan hủ bại” của quá khứ. Và chúng tôi

cũng muốn đem những di sản của chúng tôi vào thời hiện

đại. Người Mỹ của cô đã hoàn tất những công trình xây

dựng xã hội trên các dòng tư tưởng và những giá trị hoàn

toàn khác biệt với các giá trị trong văn hóa của chúng tôi.

Sau những cơn hỗn loạn tơi bời vừa qua của lịch sử Việt

Nam và những phá hoại của CS. Ưu tiên số một của Việt

Nam là ổn định và phải kiểm soát mọi việc thật chặt chẽ,

người dân phải tôn trọng chính quyền và tôn trọng luật

pháp quốc gia và có bổn phận bảo vệ trật tự quốc gia. Cô

Higgins có nhận thấy khi tôi chấp nhận chấp chánh để điều

hành guồng máy quốc gia,chính quyền trung ương đã đánh

mất hoàn toàn khả năng kiểm soát các vùng nông thôn.

Những người Mỹ hiểu được những gì vế truyền thống quan

lại với năm đức tính phải có mà Vương Dương Minh đã

đưa ra làm tiêu chuẩn cho những người chăn dân giữ nước

là chính trực liêm chính và coi dân như ruột thịt. Những

người Mỹ đang phá bỏ tâm lý của con người Việt Nam, và

họ cũng chẳng hiểu được là họ đang làm gì vậy.

Báo chí và truyền thông ngoại quốc chế diễu kỷ luật

quốc gia và tinh thần tôn trọng chính quyền của người dân

và cổ súy vinh danh các quyền tự do dân sự (civil liberties)

và các quyền khác của người dân cũng như cần phải có đối

lập chính trị (political opposition). Nhưng quốc gia của

chúng tôi đang đứng trước một cuộc chiến đấu vô cùng

cam go và vô cùng khó khăn trước sự sống và sự chết (life

and death). Ngay cả nước Mỹ và các quốc gia Tây Phương

cũng đã từng giới hạn các quyền tự do dân sự trong hoàn

cảnh khẩn cấp của chiến tranh”.

Về phía Mỹ Higgins muốn thấy nhận định của ông

Diệm như thế nào? Và ông Diệm cho biết:

“Ông Đại Sứ của cô đến và nói với tôi là tôi cần

phải tạo ra một khuôn mặt tự do (liberal image) cho đất

nước Việt Nam bằng cách cho phép các cuộc biểu tình trên

các đường phố và cho các đảng chính trị đối lập hoạt động

Page 120: TOÀN CẦU 2017

Trang 116 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

công khai... Tôi không thể nào nghe lời thuyết phục của

Tòa Đại Sứ, đây là đất nước Việt Nam - đây không phải

nước Mỹ. Chúng tôi có lý do chính đáng để cấm các cuộc

biểu tình trước lò lửa của chiến tranh sôi bỏng như thế này,

và lý do khác nữa là VC có mặt khắp mọi nơi ... như thế

chuyện gì sẽ xảy ra, và tai vạ nào sẽ mang đến cho chúng

tôi, nếu VC xâm nhập len lỏi và trà trộn trong các cuộc biểu

tình tại Sài Gòn này, chúng sẽ ném bom và sẽ giết hại nhiều

dân của chúng tôi, và có cả báo chí ngoại quốc. Làm sao

thoát hay chết cả lũ hay sao? Rồi đến những người thiên tả

sẽ nói gì về tôi? Và họ có tin chính quyền của tôi khi chúng

tôi nói rằng VC phải chịu trách nhiệm về những vụ giết

người hàng loạt như thế, cuối cùng chỉ có những người CS

là hưởng được tất cả lợi lộc từ những cơn hỗn loạn như thế!

Cô nên suy nghĩ nhiều về những thảm họa đã xẩy ra cho

người dân của chúng tôi tại thành phố Huế. Những quả

bom plastic do chính VC ném ra... nhưng người Mỹ của cô

đã thống trách ai? Họ đã đổ hết lỗi lầm lên đầu tôi - chỉ vì

tôi là Tổng Thống nước Việt Nam tự do, và họ đổ tội luôn

cho quân đội miền Nam của chúng tôi. Đây không phải trò

chơi đùa của bọn con nít. This is not child’s play.

Tôi đâu phải là người nặn ra những tên Việt cộng

khủng bố. Tuy nhiên khi tôi nỗ lực để bảo vệ che chở

những người dân của đất nước này, bảo vệ cả tính mạng

của người Mỹ bằng một hệ thống an ninh chặt chẽ và hữu

hiệu của cảnh sát và bảo vệ an toàn các đường phố, và khi

làm những việc khó khăn như thế, tôi đã bị mọi người lên

án là đàn áp Phật giáo”.

Khi đề cập đến những điểm đó, ông Diệm đột ngột

hỏi lại Higgins:

“Cô Higgind ơi! Cô có biết tôi nghĩ gì về chính

quyền Mỹ không? Phải chăng đơn giản tôi chỉ là một thứ

bù nhìn của người Mỹ hay sao? Hoặc như tôi vẫn thường

kỳ vọng - chúng ta có thể là những người cộng tác mật thiết

với nhau vì chính nghĩa chung (common cause) không ?

Page 121: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 117

Tại sao tôi lại đặt ra câu hỏi đó - bởi vì tôi đang cố gắng trở

thành một người đồng minh trung thành với Mỹ. Tuy

nhiên, gần như ngày nào tôi cũng nghe phát thanh của Đài

Tiếng Nói Hoa Kỳ (the Voice of America) và những nhà

báo Mỹ thảo luận với Washington là - chúng ta duy trì để

ông Diệm tiếp tục nắm quyền hay chúng ta lật đổ ông

Diệm?

Chúng tôi là một nước nhỏ và nước Mỹ là một đại

cường quốc. Tôi tôn sùng nước Mỹ về nhiều lãnh vực.

Nhưng Tổng Thống Kennedy nghĩ thế nào nếu báo chí Việt

Nam tràn ngập các bài viết toàn là những chuyện vẽ vời ra

để kêu gọi người dân Mỹ lật đổ TT Kennedy?

Chúng tôi mang ơn những viện trợ của Hoa Kỳ.

Nhưng tôi muốn tin rằng nước Mỹ không phải vì viện trợ

Mỹ mà biến thành một thứ phương tiện để Mỹ kiểm soát

chính quyền Việt Nam. Chắc chắn chỉ có thể biện minh cho

sự có mặt của Mỹ tại Việt Nam vì quyền lợi quốc gia của

Hoa Kỳ đòi hỏi phải trợ giúp Việt Nam để ngăn chặn làn

sóng CS khỏi xâm lăng Việt Nam. Nếu sự thật là như thế

thì cung cấp viện trợ cho Việt Nam như một phần trong sự

hợp tác Việt-Mỹ trong chiến tranh để đánh bại CS. Nhưng

bây giờ tôi nghe là Hoa Kỳ sẽ cắt viện trợ nếu tôi không

làm đúng những gì người Mỹ đòi hỏi. Hành xử như thế là

quá kiêu căng phách lối khi đưa ra những đòi hỏi như thế

không? Hoa Kỳ có một nền kinh tế quá lớn lao và có nhiều

điểm đáng kính trọng tôn vinh. Nhưng với sức mạnh của

Mỹ là nước Mỹ đương nhiên có tất cả quyền để bắt buộc

đồng minh của họ phải thi hành những yêu sách của Mỹ tại

Việt Nam à?

Có phải chiến tranh Việt Nam đang diễn ra vô cùng

khốc liệt và nóng bỏng, và đây là một thứ chiến tranh mà

người Mỹ chưa bao giờ trải qua những kinh nghiệm như

thế này. Nếu như Hoa Kỳ đưa ra mệnh lệnh giống như bắt

buộc tên bù nhìn phải cúi đầu tuân hành của họ, như vậy

thái độ của Hoa Kỳ có gì khác thực dân Pháp không? Tôi

Page 122: TOÀN CẦU 2017

Trang 118 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

biết rõ Hoa Kỳ đang giao tiếp âm thầm với những người

Việt Nam ở đất nước này là những người đang âm mưu để

lật đổ tôi. Những người này sẽ chẳng làm được gì nếu

không có sự tiếp tay và chấp thuận của những người Mỹ.

Nhóm người Việt Nam này biết rõ điều đó”.

Higgins tiếp tục dò hỏi ông Diệm: “Thưa Tổng

Thống, có phải thực sự ngài nghĩ rằng Hoa Kỳ đang âm

mưu lật đổ ngài hay sao ?”

Ông Diệm liền đáp lại: “Tôi không nghĩ là ông Đại

Sứ Nolting muốn lật đổ tôi. Tôi cũng thấy không phải CIA

Richarson đang có âm mưu lật đổ tôi. Tôi biết có một số

viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là những người

đang sửa soạn đưa ra quyết định để loại trừ tôi. Tôi thực sự

không biết tương lai đi về đâu. Tôi cũng không thể nào ngờ

và tin được là Hoa Kỳ đang quay lưng hãm hại đồng minh

trung thành của họ, khi quốc gia đồng minh ấy đang bị bom

đạn chiến tranh khói lửa ngút trời vây hãm bốn bề như thế

này, và chúng tôi đang điêu đứng dấn thân trong cuộc chiến

đấu để mong sống còn tồn tại của một dân tộc đau khổ tột

cùng. Nhưng có một số người quá điên rồ mê sảng, và cả

thế giới hình như cũng điên rồ mê sảng như thế.

Cô Higgins ơi! Thêm nữa, tôi hy vọng chính quyền

Hoa Kỳ của cô nên có cái nhìn sát thực tế vào nhóm tướng

lãnh trẻ đang âm mưu chiếm đoạt chiếc ghế quyền lực quôc

gia. Nhóm tướng lãnh này có thực sự trưởng thành chín

chắn chưa, hoặc họ hiểu biết được bao nhiêu về phương

diện chính trị quốc gia của họ. Làm sao nhóm tướng lãnh

này có được một George Washington trong hàng ngũ quân

đội của chúng tôi ? ”

Higgins nhận thấy cho đến khi những người Phật

giáo tranh đấu tại Huế biến vụ Phật giáo thành bi kịch quá

lớn lao, trong cơn khủng hoảng lớn lao này lực lượng

chống đối TT Diệm có tầng lớp trí thức, và các tướng lãnh

cùng các sĩ quan cao cấp khác trong quân đội miền Nam.

Page 123: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 119

Tất cả nhóm người này chỉ là thiểu số rất nhỏ bé trong dân

số của quốc gia - họ thường xuyên tranh cãi ấm ĩ với nhau

về những chuyện rất tào lao, họ không thể nào đồng ý với

nhau về sự thay đổi chế độ hay làm bất cứ điều gì cho ra

hồn. Hành động với những “âm mưu” rồi kết cục cũng chỉ

là những “âm mưu” trong các quán cà-phê hay quán nhậu,

tạo ra cảnh tranh khôn tranh dại, chẳng bao giờ giải quyết

được chuyện gì, dù rất tinh ma quỉ quái đầy mánh khóe

nhưng thường không có mục đích rõ ràng ...

Để hỏi những kẻ âm mưu này xem có chương trình

gì thảo luận cho tương lai của Việt Nam không, từ đó mới

thấy những con người này có làm được gì khác không, có

“dân chủ” hơn không, hoặc có hiệu năng hơn chế độ của

ông Diệm hay không ? Những tướng lãnh và các sĩ quan

cao cấp không có được một viễn kiến cho sự thay đổi và

tiến bộ hơn một chính quyền dân sự mà họ đang âm mưu

lật đổ, nhưng họ còn nguy hiểm hơn,vì khi nắm giữ toàn bộ

quyền hành quốc gia để phá tan nát quốc gia nếu họ hạ bệ

ông Diệm.

Ông Diệm buốn bã trả lời: “It is impossible”.

“Điều đó không thể nào có được bởi vì những người

Mỹ nên hiểu rằng về sự độc hại của những đam mê quyền

hành vô độ trên đất nước này - thứ ham mê danh lợi đó là

sản phẩm của bản chất bán khai và lạc hậu (premitive and

backward) của đất nước Việt Nam phát sinh từ hậu quả xấu

xa của gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp. Ở đó mọi

người đoàn kết với nhau trên một điểm duy nhất, đó là lòng

hận thù đối với thực dân Pháp. Tại Hoa Kỳ ngay cả những

người Cộng hòa và Dân chủ đã đoàn kết với nhau trên rất

nhiều điểm - trên nền tảng triết lý về chính quyền, một

phần là chính sách đối ngoại. Nhưng tại Việt Nam chưa hề

có một sự thỏa thuận nào về chính quyền sẽ thành lập ra

sao. Có một số thành phần tư sản không hiểu được một

cách sâu xa cái gì đã gắn bó với toàn dân về ý nghĩa về một

nền độc lập của một quốc gia.

Page 124: TOÀN CẦU 2017

Trang 120 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Vì tầng lớp trí thức tư sản này là những phần tử

hưởng đặc quyền đặc lợi của thực dân Pháp và vì thế họ

khước từ không hợp tác tích cực trong việc xây dựng và

củng cố nền độc lập quốc gia. Chúng tôi nghe nói có một số

người Việt Nam đề nghị mở rộng sự bảo hộ Việt Nam của

Hoa Kỳ. Có lẽ họ hy vọng làm được như thế thì họ sẽ

hưởng lợi từ những âm mưu của họ. Nếu Hoa Kỳ ủng hộ

cho những con người như thế sẽ là một sai lầm lớn lao vô

cùng. Những dự mưu bất chính đó sẽ làm tan nát hết khát

vọng tự do của người dân Việt Nam muốn thoát ách nô lệ

của ngoại bang”. (ngưng trích).

Marguerite Higgins là một trong số rất ít nhà báo

ngoại quốc lương thiện trong cuộc Chiến tranh Việt Nam

(1955-1975). Và đây cũng là một trong số rất ít cuộc phỏng

vấn mà TT Ngô Đình Diệm đã giành cho một nhà báo

ngoại quốc. Rất tiếc, ba năm sau cuộc phỏng vấn TT Ngô

Đình Diệm, Bà Higgins cũng đã qua đời, ở tuổi 45, không

còn có mặt tại Việt Nam những năm tháng sau đó như một

chứng nhân lịch sử để so chiếu “những lời trối trăng của TT

Ngô Đình Diệm” với những gì xảy ra sau đó trên mảnh đất

bất hạnh bị xâu xé bởi cả thù lẫn “bạn”.

Ký Thiệt

Chú thích.

[1] If I die không thể dịch là Nếu tôi bị giết mà phải

dịch là Nếu tôi chết. Mà chết thì có thể là chết vì bệnh, chết

vì tai nạn thì không có lý do gì cụ Diệm lại yêu cầu phải trả

thù cho cụ. Có thể nguyên văn câu này không phải là If I

die, avenge for me. Nên đã có người dịch là Nếu tôi chết,

hãy nối chí tôi.

* LDS: Đảng Cộng Sản là đảng Cướp. Những tên lãnh đạo

đảng Cộng Sản là những tên Tướng Cướp.

Page 125: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 121

Hãy xóa bỏ

huyền thoại

Hồ Chí Minh

Hoàng Cơ Định, CVA 59

* Đã đến lúc công khai hoá vai trò điệp viên

Trung Cộng của Hồ Chí Minh.

* Để chấm dứt lừa bịp dân tộc Việt Nam từ

nhiêu thập niên qua.

Kính gửi quý vị cao tuổi, các anh chị em

và các cháu người Việt ở trong và ngoài nước,

Hôm nay là 17/2/2017, ngày đánh dấu 38 năm trước

đây Trung Cộng đã xua quân đánh phá và tàn sát đồng bào

chúng ta trải dài suốt vùng biên giới Việt Bắc, chúng tôi xin

chọn ngày này để tố cáo cùng bà con cả nước một mưu đồ

xâm lăng bội phần hiểm độc của kẻ thù phương Bắc, đó là

biến một điệp viên của họ thành một nhân vật người dân

Việt khắp nước phải tôn thờ…

Page 126: TOÀN CẦU 2017

Trang 122 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Từ mấy chục năm qua, cả dân tộc chúng ta và toàn

thế giới đã bị lừa bởi một vở tuồng mang tên Hồ Chí Minh

do diễn viên Hồ Tập Chương, bí danh Hồ Quang, đóng vai

chính với sự dàn dựng của lãnh đạo Trung Cộng và sự đồng

loã của đảng CSVN. Trong vở tuồng này nhân vật Hồ Chí

Minh đã được tô vẽ để từ một điệp viên chiến lược của

Trung Cộng đã trở nên “Bác Hồ” Quốc Phụ của cả dân tộc

Việt Nam.

Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc, cũng

chẳng là Nguyễn Tất Thành mà ngay cả Hồ Tập Chương

cũng chỉ là cái hình hài được gán cho vô số huyền thoại và

thần thánh hóa thành nhân vật “Bác Hồ”.

Hồ Tập Chương là một người Tàu gốc Hẹ, nói rành

tiếng Việt có tài diễn xuất như một ông già người Việt. Vả

lại về diện mạo, giữa người Tàu và người Việt cũng dễ lẫn

lộn, trừ một số nhỏ lãnh đạo CSVN ở trong âm mưu từ giờ

phút đầu, số còn lại chẳng có lý do gì để thắc mắc rằng Hồ

Chí Minh có phải là người Việt hay không. Chưa kể là vì a

dua phét lác tâng bốc BÁC để lấy điểm nên đã tự lừa dối

mình và bị tẩy não lúc nào không hay. Với đại khối người

dân sống dưới chế độ CSVN, Hồ Chí Minh trở thành một

thứ thần linh mà mọi phê phán chê bai, ngay từ trong đầu,

cũng không dám hé lộ, đến nỗi thơ BÁC ngang phè, chữ

viết của BÁC tệ quá gà bới họ cũng không cảm thấy, nhìn

thấy.

Hồ Chí Minh được chính thức trở thành Nguyễn Ái

Quốc do cuốn sách “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt

Động Của Hồ Chủ Tịch” tác giả là Trần Dân Tiên. Lối

thuật chuyện của Trần Dân Tiên khiến ai cũng nghĩ chính

Hồ Chí Minh là tác giả cuốn sách đó, viết ra vào khoảng

năm 45-46 để tự giới thiệu với đồng bào, sau cùng thì chính

CSVN cũng thừa nhận Trần Dân Tiên là bút hiệu của Hồ

Chí Minh. Nhưng điều này sai hoàn toàn.

Sự thật là cuốn sách “Những Mẩu Chuyện Về Đời

Page 127: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 123

Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” nguyên tác bằng tiếng Tàu,

có tên là “Hồ Chí Minh Truyện” xuất bản vào tháng 6/1949

tại Thượng Hải, tác giả là Trương Niệm Thức. Ngay cả cái

bút hiệu Trần Dân Tiên cũng do Trương Niệm Thức đặt ra.

Cuốn sách “Những Mẩu Chuyện …” bằng tiếng Việt chỉ

được in ra lần đầu tiên tại Hà Nội vào năm 1955.

Về phía Trung Cộng, không rõ vì không bưng bít

nổi, hay cũng vì chẳng có nhu cầu phải duy trì bí mật tuyệt

đối, con người thật của nhân vật có bí danh là Hồ Chí Minh

dần dần xuất hiện qua nhiều tài liệu, hình ảnh.

Hồ Chí Minh tên thật là Hồ Tập Chương, bí danh

Hồ Quang, là người Tàu gốc Hẹ sinh vào năm 1901.

Nguyễn Ái Quốc, tức Nguyễn Tất Thành là người

Việt sinh tại Nghệ An vào năm 1890 đã chết tại Hồng Kông

vào tháng 6/1932 như chính tài liệu của CSVN đã xác

nhận.

Vào năm 2007, trong 1 tài liệu chung, cả Trung

Cộng lẫn CSVN đều thừa nhận Hồ Chí Minh thật sự là Hồ

Quang-Hồ Tập Chương:

Tài liệu ghi rõ: vào năm 1939 Hồ Chí Minh có bí

danh là Hồ Quang và 38 tuổi.

Page 128: TOÀN CẦU 2017

Trang 124 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Hồ Quang cũng là bí danh của Hồ Tập Chương và

Hồ Tập Chương 38 tuổi vào năm 1939.

Nếu Hồ Chí Minh là Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái

Quốc thì ông phải là 49 tuổi vào năm 1939.

Bàn tay bí mật của Trung Cộng trong việc nguỵ tạo

nhân vật Hồ Chí Minh là người Việt chỉ mang dấu ấn của

một thợ viết có tên là Trương Niệm Thức, trong khi toàn bộ

vở tuồng gian dối là do CSVN dựng lên với hàng ngàn tác

phẩm bịa đặt về “Bác”, nhiều khi mâu thuẫn nhau, và nay

họ đang bảo dưỡng một trái bom nổ chậm vĩ đại tại Ba

Đình.

Tấn tuồng dối trá Hồ Chí Minh đã có hậu quả ra

sao?

Hậu quả đầu tiên là các cuộc chiến chống Pháp và

xâm lăng Miền Nam Việt Nam (gọi là chống Mỹ), diễn ra

trong thời kỳ Hồ Chí Minh nắm quyền trong tay, có mục

tiêu mở rộng ảnh hưởng của Trung Cộng về phía Nam hơn

là cho nền độc lập và tự do của Việt Nam. Họ Hồ thật sự đã

“đánh cho Mỹ cút, đánh cho Tầu vào”.

Hậu quả thứ nhì, quan trọng không kém, là sự gắn

bó của Hồ Chí Minh với Trung Quốc đã tạo dựng nên một

tư duy lệ thuộc Trung Quốc kéo dài cho tới ngày nay, cho

Page 129: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 125

nên dầu có cuộc xâm lăng của Trung Cộng tại biên giới

Việt Bắc vào năm 1979, khi CSVN có hành động vượt quá

ý muốn của TC, cũng không xóa bỏ được đầu óc lệ thuộc

vào Trung Quốc trong giới lãnh đạo CSVN ngày nay.

Hậu quả thứ ba là tư tưởng nô lệ trong đại khối

quần chúng vào một huyền thoại mà chế độ độc tài đã tô vẽ

nên qua nhiều thập niên, đó là “Huyền Thoại Hồ Chí

Minh”, đã giúp cho chế độ độc tài CSVN ngày nay dựa

dẫm vào huyền thoại này để tiếp tục thống trị, mặc dầu

nhân vật Hồ Chí Minh đã được phần lớn giải ảo tại chính

quê hương Trung Quốc của ông ta. TQ đã nói rõ rằng Hồ

Chí Minh là người Tàu có tên là Hồ Quang Hồ Tập

Chương, không phải là Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Tất

Thành, trong khi tại Việt Nam, một số đông vẫn tự bưng

tai, bịt mắt không dám nhìn vào sự thực.

Page 130: TOÀN CẦU 2017

Trang 126 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Huyền thoại Hồ Chí Minh đã biến khối dân Việt to

lớn thành một loại con tin tự trói buộc vào quá khứ lầm lỡ.

Huyền thoại đó chính là vật cản ngăn chặn người Việt giải

phóng tư duy của chính mình để tiến tới một xã hội tự do

chân thực và khai phóng với những tư tưởng tiến bộ.

Cần công khai hoá vai trò điệp viên Tàu của Hồ Chí

Minh và hạ màn vở tuồng lừa bịp dân tộc Việt Nam và toàn

thế giới từ thế kỷ trước của Trung Cộng.

Đây là lúc đại khối người Việt, ở hải ngoại và quốc

nội, đều cần phải nắm vững tai họa và mối nhục của dân

Page 131: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 127

tộc từ bao năm qua để cùng viết lại trang sử cho dân tộc.

Huyền thoại Hồ Chí Minh là khởi điểm và cũng là

biểu tượng của thói gian dối, lừa bịp của chế độ CSVN.

Mọi người Việt Nam cần mạnh dạn xóa bỏ những

ngộ nhận trong quá khứ và gột bỏ những lề thói nô dịch,

những dấu vết xâm lăng mà bọn bành trướng phương Bắc

và tay chân tại nước Ta, đã áp đặt lên Việt Nam trong nhiều

thập niên qua, cần nhìn vào sự thực để cùng nhau xóa bỏ

Huyền Thoại Hồ Chí Minh.

Hãy dứt khoát trả lại Hồ Chí Minh-Hồ Quang-Hồ

Tập Chương cho Trung Quốc để chấm dứt các tai họa và

mối nhục mà Trung Cộng và họ Hồ đã gây ra cho dân tộc

Việt Nam chúng ta và chấm dứt tính chất phụ thuộc của

Việt Nam đối với Trung Quốc.

(Chi tiết bổ túc cho Lời Kêu Gọi này xin coi trong link:

http://loikeugoi17thang2.blogspot.com/2016/02/tai-lieu-bo-

tuc-cho-loi-keu-goi-17.html.)

Hoàng Cơ Định, CVA 59

Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma:

Page 132: TOÀN CẦU 2017

Trang 128 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

VIỆT NAM: Một dân tộc

đang đứng trước

họa diệt vong

Nguyễn Lương Tuyền, CVA 63

Khoảng đầu thập niên 70-80, Thượng tướng Trung

Cộng Trì Hạo Điền - lúc đó là Bộ Trưởng Quốc Phòng của

TC đã tuyên bố Trung Hoa cần một khoảng không gian cho

người dân của họ. Họ Trì là người chủ trương phải có chiến

tranh với Mỹ và Tây Phương trong công cuộc tìm “một

khoảng không gian cho người Tàu.” Thực sự, hiện nay

người Tàu đã có mặt tại khắp mọi nơi trên thế giới, từ

những nước hẻo lánh ở Phi Châu cho đến những nước kỹ

nghệ tiền tiến tại khắp mọi nơi trên quả địa cầu. Mặc dầu

với chính sách “một gia đình, một con” dân số Trung Hoa

vẫn tăng vọt. Hiện nay chế độ này đã bị nhà cầm quyền Bắc

Kinh bãi bỏ. Người ta chờ đợi bước tăng nhảy vọt của dân

số Trung Hoa tại lục địa trong một tương lai gần. TC cố

xuất cảng người sang các nước Phi Châu nhưng không

thành công vì phản ứng của các dân tộc sở tại.

Lúc còn sinh tiền, Mao Trạch Đông tuyên bố thẳng

thừng là Tàu không sợ chiến tranh nguyên tử với Mỹ (mà

Mao gọi là con hổ giấy) và Tây Phương. Lý do là sau chiến

tranh nguyên tử, dân Tàu vẫn còn sống sót vài chục triệu

người, đủ để làm bá chủ thế giới.

Chúng ta đang sống ở thế kỷ thứ 21, nhưng hiện

tượng nước lớn chiếm đóng nước nhỏ, tận diệt dân chúng

Page 133: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 129

của các nước đó bằng mọi thủ đoạn tàn bạo trong đó có

việc đem dân Tàu sang lập nghiệp thật đông đảo, khiến dân

tộc sở tại biến thành thiểu số trên chính quê hương của

mình. Ngoài ra Tàu Cộng còn hủy diệt văn hóa của dân bị

trị. Thí dụ: TC đã phá hủy ngôi đền nổi tiếng Larang Gar ở

thủ đô Lassan, Tây Tạng vào ngày 20/7/ 2016. TC bỏ ngoài

tai những lời kêu gọi: đừng phá hủy ngôi đền này của toàn

thế giới. Ngôi đền này tượng trưng cho văn hóa của Tây

Tạng.

Tại Tân Cương, dân Duy Ngô Nhĩ, gốc Hồi Giáo,

dưới sự cai trị bằng bàn tay sắt của người Tàu, nay đã giảm

thiểu rõ rệt. Trung Hoa, dưới thời nhà Thanh, đã chiếm

đóng Tần Cương vào năm 1821. Năm 1949, người Hán ở

Tân Cương chỉ chiếm 7% dân số. Hiện nay dân Hán ở Tân

Cương là 40%.

Tương tự, ở Ngoại Mông, dân số ở đây cũng giảm

thiểu nhiều dưới chủ trương ''trường kỳ diệt chủng'' của

người Hán.

Viễn tượng một cuộc diệt chủng tộc Việt bởi người

Hán sau khi Trung Hoa biến Việt Nam thành một Đặc Khu

của Trung Hoa như Tân Cương, Tây Tạng... đang làm

người Việt tại khắp mọi nơi thấp thỏm lo sợ cho tương lai

của dân tộc.

Việc giao thiệp giữa Việt Nam và Trung Hoa từ xưa tới

giờ

Xin nói ngay, từ xưa tới nay, Trung Hoa luôn luôn

có ý định chiếm nước Việt, sát nhập vào nước Đại Hán.

Điều này nằm trong bản tính của người Hán. Đó là thôn

tính các nước nhỏ chung quanh.

VN có mặt hàng vạn năm trước Công Nguyên

(CN). Còn nếu tính từ thời kỳ các cơ cấu nhà nước được

hình thành thì mới khoảng 700 năm trước CN. Đó là nhà

nước Văn Lang của các Vua Hùng, được nhiều người ghi

Page 134: TOÀN CẦU 2017

Trang 130 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

nhận ra là một quốc gia có tổ chức đầu tiên của người Việt

với truyền thuyết con Rồng cháu Tiên.

Theo một số sách cổ sử, các tộc người Việt (cả thảy

là 100 nhóm nên được gọi là Bách Việt) lập quốc lần đầu ở

Lĩnh Nam, bao gồm một giải đất rộng lớn ở phía Nam sông

Trường Giang, tức sông Dương Tử, bên Trung Hoa, đến

vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở Miền Bắc VN.

Truyền thuyết cho biết nhà nước của các nhóm Bách Việt

được hình thành từ năm 2879 trước CN tại vùng Động

Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Hoa ngày nay). Các biến động

trong nước Tàu vào thời kỳ này, khiến các nhóm Bách Việt

bị tan rã và bị đồng hóa. Đến thế kỷ 1 trước CN, các nhà

nước Việt đều bị người Hán thôn tính. Chỉ còn duy nhất

một nhóm đến lập nghiệp ở châu thổ sông Hồng để rồi

chống trả thành công các cuộc trường chinh xuống phía

Nam của người Hán, lập nên nước Việt ngày nay.

Nước Văn Lang lúc mới thành lập, năm 500 trước Công Nguyên

Từ hồi lập quốc tới bây giờ, VN luôn luôn phải đối

đầu với người Hán. VN đã bị người Tàu đô hộ rất nhiều

lần. Lần đô hộ lâu nhất đã kéo dài hơn 1000 năm, nhưng

người Tàu đã thất bại trong việc đồng hóa dân Việt. Văn

hóa Trung Hoa đã xâm nhập vào đời sống của người Việt,

nhưng biến dân Việt thành người Tàu thì không thể được.

Page 135: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 131

Trong những năm bị Tàu chiếm đóng, dân Việt luôn luôn

nổi dậy đánh đuổi thành công người Tàu ra khỏi nước Việt

Nam.

Người Tàu luôn luôn nuôi ý định chinh phục các nước

nhỏ ở chung quanh

Tháng 9/1959, tại Hội nghị Quân ủy Trung ương,

Mao Trạch Đông đã tuyên bố: chúng ta phải chinh phục trái

đất. Đó là mục tiêu của chúng ta.

Năm 1954, sau khi đã chiếm được cả nước Tàu,

đánh đuổi Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch ra đảo

Đài Loan, Mao Trạch Đông đã tuyên bố: vì các triều đại

vua Tàu, điển hình là nhà Mãn Thanh quá yếu nên các

cường quốc đã xâu xé nước Trung Hoa: Sau khi dùng chiến

tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã chiếm đi

nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung

Quốc. Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần

đảo Bành Hồ và Lữ Thuận; Anh chiếm Hồng Kông, Miến

Điện, Butan và Nepal; Pháp chiếm An Nam, Bồ Đào Nha

chiếm Ma Cao. An Nam là tên gọi nước Việt Nam, mà theo

TC, là một phần của nước Tàu. TC cho vẽ lại bản đồ nước

Tàu vào năm 1954. Trong bản đồ này, đế quốc Trung Hoa

bao gồm cả Việt, Miên, Lào, Thái Lan...

Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản VN: những kẻ đã toa

rập, dâng hiến đất nước cho Tàu để thực hiện mộng "làm

đỏ" dân Việt.

Pháp thuộc là giai đoạn lịch sử kéo dài 61 năm, bắt

đầu từ năm 1884 khi Pháp ép Triều Đình Huế phải nhận sự

bảo hộ của Pháp cho mãi tới năm 1945, là năm Pháp mất

quyền cai trị ở Đông Dương khi Thế Giới Đại Chiến thứ 2

nổ ra. Pháp đại bại trước sức tiến của Đức Quốc Xã.

Nhiều tài liệu khác cho rằng thời kỳ Pháp thuộc

phải được tính từ năm 1867 là thời điểm Nam Kỳ Lục Tỉnh

bị Nhà Nguyễn cắt nhượng cho Pháp. Pháp luôn luôn nuôi

Page 136: TOÀN CẦU 2017

Trang 132 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

tham vọng trở lại Đông Dương. Với sự thông đồng của Hồ

Chí Minh, lúc đó đang đứng đầu Chính Phủ Liên Hiệp,

Quân Pháp trở lại VN.

Bản đồ nước Tàu in năm 1954 bởi Trung Cộng

(đường chấm là biên giới của Trung Hoa do TC vẽ)

Chiến tranh chống Pháp luôn luôn được dân Việt

phát động với mục đích dành lại độc lập. Hồ Chí Minh và

đảng Cộng Sản của ông ta, sau thời kỳ hòa hoãn với quân

Pháp lúc đầu để họ rảnh tay tiêu diệt các đảng phái Quốc

Gia, đã độc quyền lãnh đạo, độc quyền điều khiển cuộc

kháng chiến chống lại sự đô hộ của Pháp.

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Hồ Chí Minh phát

động cuộc Toàn Quốc Kháng Chiến, kêu gọi toàn dân

chống lại quân Pháp. Đó là Cuộc Chiến Tranh Đông Dương

số 1 giữa quân Pháp và dân Việt. Gọi đây là một cuộc

kháng chiến của toàn dân vì rất nhiều người quốc gia không

Cộng Sản đã gia nhập hàng ngũ kháng chiến. Cuộc chiến

với quân Pháp tại thành phố Hà Nội hoàn toàn do các Tự

Vệ Thành của Hà Nội phát động, điều khiển. Các Tự Vệ

Thành là các thanh niên trí thức tiểu tư sản của Hà Thành.

Page 137: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 133

Họ đã cầm chân quân Pháp trong gần 2 tháng, đủ thời gian

để dân quân của Hà Nội rút ra khỏi thành phố. Các Tự Vệ

Thành, sau này tập họp lại thành Trung Đoàn Thủ Đô, rồi

biến cải thành Trung Đoàn Tây Tiến. Nhà thơ Quang Dũng

là một thành viên của Trung Đoàn này.

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

...........................................................

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh vê đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

(Tây Tiến, thơ Quang Dũng)

Đảng CSVN độc quyền lãnh đạo cuộc "kháng chiến

chống quân Pháp". Chiến tranh Đông Dương chấm dứt năm

1954. CSVN chiếm được 1/2 đất nước kể từ Bắc Vĩ Tuyến

17. Người quốc gia dắt díu nhau về phần 1/2 quê hương, ở

phía Nam của vĩ tuyến 17.

Sự liên hệ mật thiết của CS Trung Hoa với CSVN

và Hồ Chí Minh được bắt đầu ngay từ lúc Hồ Chí Minh và

các đồng chí của ông ta nhận được viện trợ từ tay Trung

Cộng của Mao Trạch Đông.

Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng Sản

Trung Hoa hoàn toàn chiếm lãnh nước Tàu. Quốc Dân

Đảng của Tưởng Giới Thạch phải bỏ lục địa sang cố thủ ở

Đảo Đài Loan. Biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa

được rộng mở sau chiến thắng của Mao Trạch Đông. Người

Pháp đã ý thức được sự hậu thuẫn của thế giới CS đối với

đám CSVN của Hồ Chí Minh và các đồng chí của Hồ, cũng

như những khó khăn của quân Pháp trong những ngày

tháng sau đó.

Hồ Chí Minh đã sang Tàu để cầu viện nhiều lần kể

từ năm 49-50:

- Sau khi thành lập Việt Nam Cách Mệnh Đồng

Page 138: TOÀN CẦU 2017

Trang 134 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Minh Hội (VNCMĐMH) gọi tắt là Việt Minh (VM) vào

năm 1941, cướp được chánh quyền vào năm 1945, Hồ Chí

Minh đã bí mật sang Quảng Tây (Tàu) ngày 16/1/1950 để

cầu viện TC. Chắc chắn Hồ đã thương lượng việc bán nước

cho TC. Vì vậy tháng 10/1953, Chánh Vụ Viện tức Quốc

Hội của TC đã chánh thức đổi tên Ải Nam Quan thành Mục

Nam Quan.

- Hồ Chí Minh đã gặp Mao Trạch Đông, Chu Ân

Lai nhiều lần, khi thì bí mật khi thì công khai, thương thảo

để nhận được viện trợ đến từ Tàu cũng như ký các hiệp

định bán nước Việt cho Tàu.

Ngay từ năm 49-50, các cố vấn Tàu đã có mặt ở

VN. Trận Biên Giới, năm 49-50 được tướng Tàu là Trần

Canh thiết kế và điều động đã gây tổn thất nặng nề cho

quân Pháp. Sau khi Trần Canh phải về Tàu làm phó cho

Bành Đức Hoài trong chiến tranh Cao Ly, đối đầu với Mỹ

và Đồng Minh, một phái đoàn cố vấn gồm Vi Quốc Thanh

(đứng đầu phía quân sự), Lã Quí Ba (đứng đầu nhóm dân

sự) để cố vấn cho CSVN về mọi phương diện hành chánh

cũng như quân sự. Do đó CSVN đã điều hành, cai trị dân

tại các "vùng giải phóng" hoàn toàn rập theo khuôn Trung

Cộng: các chiến dịch như Cải Cách Ruộng Đất, Rèn Cán

Chỉ Quân, Phong Trào Tam Phản, Đấu Tố... đều được

phỏng theo các chiến dịch cùng tên ở bên Tàu.

Trận đánh nổi tiếng Điện Biên Phủ là do các cố vấn

Tàu Cộng chỉ huy đã đánh bại quân Pháp để đưa đến Hội

Nghị Genève, chấm dứt chiến tranh Đông Dương thứ nhất.

Điều này đã đưa đến việc chia cắt đất nước ở Vĩ Tuyến 17

vào ngày 20/7/1954.

CS Bắc Việt càng ngày càng lộ rõ việc bán nước

cho Tàu. Năm 1956, Ung Văn Khiêm đã tuyên bố Hoàng

Sa, Trường Sa là thuộc về Trung Quốc. Công hàm của Thủ

Tướng VNCS Phạm Văn Đồng công nhận quyền sở hữu

của TC đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Page 139: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 135

Năm 1974, khi Hải Quân của TC đánh chiếm

Hoàng Sa, CS Bắc Việt đã im lặng. Hoàng Tùng, Ủy viên

Trung ương đảng, Tổng biên tập báo Nhân Dân lại tuyên

bố: "thà để Trung Quốc quản lý (Hoàng Sa) còn hơn là để

đảo này vào tay bọn Ngụy phản động. Khi nào ta muốn,

Trung Quốc sẽ trả lại ta." Thực là một ý tưởng ngây thơ

đến độ ngu đần!

Từ năm 1959, sau khi bắt đầu cuộc chiến xâm lăng

miền Nam trên mọi lãnh vực: quân sự, kinh tế, chính trị...

CS Việt Nam đã nhận được rất nhiều viện trợ đế từ TC. Có

lúc 300000 quân TC đã có mặt tại Bắc Việt, đề phòng Quân

Mỹ và quân đội VNCH đánh ra Bắc.

Sự rạn nứt giữa 2 nước CS "anh em" chỉ bắt đầu sau

khi CSVN chiếm được toàn Việt Nam. Cao điểm của việc

tranh chấp này là cuộc chiến biên giới vào năm 1979 và

những cuộc đụng độ tiếp theo ở biên giới và ở trên biển.

Kết quả là VN mất một số đất đai ở biên giới kể cả Thác

Bản Giốc, Ải Nam Quan, núi Lão Sơn - một địa điểm chiến

lược ở vùng biên giới v.v... VN cũng mất thêm một số đảo

thuộc quần đảo Trường Sa. Mất đảo Gạc Ma là một bi thảm

có một không hai: Bộ trưởng QP của CSVN là tướng Lê

Đức Anh đã ra lệnh cho các người lính trên đảo không

được chống cự. Quân Tàu đã hạ sát các người lính VN, gần

1 đại đội, Lính Tàu đã bắn các người lính VN như bắn bia.

Khi CS sụp đổ ở Nga, ở Đông Âu, các lãnh tụ

CSVN - để bảo vệ chế độ như nguyên Tổng Bí Thư

Nguyễn Văn Linh đã tuyên bố: "thà mất nước chứ không

mất Đảng" - đã quyết định hàng phục kẻ thù truyền kiếp

Trung Cộng. Hiệp ước Thành Đô ký năm 1991 giữa các

lãnh đạo của 2 nước chắc chắn là một hiệp ước bán nước.

CSVN cố dấu kín nội dung của Hiệp Ước nhưng những "rò

rỉ"' đã hé lộ nội dung bán nước của hiệp ước này.

Cuộc chiến biên giới năm 1979 đã cho TC một bài

học về sức mạnh quân sự của họ. Họ cũng hiểu rõ ở thế kỷ

Page 140: TOÀN CẦU 2017

Trang 136 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

này chuyện xâm lăng 1 nước láng giềng bằng các phương

tiện quân sự việc "không có thể xảy ra được". TC ra sức

canh tân quân đội song song với các phát triển về kinh tế.

TC đổi chiến lược đối với VN, thay vì dùng quân sự, TC

dùng các phương tiện khác để chinh phục Việt Nam.

Bản đồ vê sự hiện diện của người Tàu trên toàn lãnh thổ VN

TC đang tiến chiếm Việt Nam bằng các phương tiện

phi quân sự trên bốn (4) mặt:

- Phía Đông, Hải Quân của TC đã chiếm cứ hoàn

toàn biển Đông. VN chỉ còn một vùng biển hẹp ở bờ biển.

Chất độc do các công ty Tàu thải ra Biển Đông cộng với

các ngăn cấm của Hải quân TC, ngư nghiệp của VN đang

bị tiêu diệt. Hàng triệu cư dân ở vùng ven biển trở nên thất

nghiệp trong một sớm một chiều.

- Phía Tây, các đập nước ở thượng nguồn của sông

Cửu Long, nằm sâu trong đất Tàu, có thể làm thay đổi lưu

Page 141: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 137

lượng nước ở hạ nguồn của sông Cửu Long khiến Miền

Nam của VN bị hạn hán triền miên. Mùa màng ở vùng châu

thổ của Miền Nam VN bị ảnh hưởng xấu, tai hại nặng nề.

Người ta đã thấy ở một vài nơi ở Miền Nam, nạn đói đang

hăm dọa người dân. Vì hạn hán ở hệ thống sông Cửu Long,

nước biển mặn đã tràn vào đồng bằng Miền Nam. Có nơi bị

hóa mặn trên một diện tích rộng hàng chục cây số, vào sâu

trong đất liền. Việc trồng trọt bị ảnh hưởng nặng nề hơn

bao giờ hết.

- Di dân Tàu, vì lý do vào VN không cần Visa, đang

tràn ngập VN. Các đặc khu Tàu mọc lên như nấm. Người

Việt cũng như công an Việt không được héo lánh đến các

đặc khu này. Vùng Cao Nguyên đầy người Tàu làm việc

trong các cơ sở Tàu khai thác Bauxít. Có người cho rằng đó

là các lính TC trá hình. Không ai kiểm soát được.

Kinh tế của VN hoàn toàn bị TC khống chế. Hàng

TC, hàng độc từ TC hoàn toàn chi phối VN (hơn 90%). Các

công trình xây cất, các hãng kỹ nghệ đều do người Tàu

trúng thầu, làm chủ. Tóm lại về kinh tế VN đang thở bằng

"buồng phổi" của Tàu.

Về chính trị, CSVN hoàn toàn bị TC chi phối, điều

hành. Các lãnh đạo CSVN hay phải sang Tàu trình diện,

xin ý kiến.

Kết luận

Không cần tới giải pháp quân sự, TC đã thành công

trong công cuộc chiếm đóng VN. Các lãnh đạo của đảng

Cộng Sản Việt Nam đã tiếp tay cho quan thầy Trung Cộng

trong việc biến đất nước thành một đặc khu của Tàu. Lịch

sử của dân tộc sẽ nghiêm khắc lên án các tên CS tại Hà Nội

là một tập đoàn bán nước có một không hai trong lịch sử

Việt Nam.

Nguyễn Lương Tuyền

27.10.2016

Page 142: TOÀN CẦU 2017

Trang 138 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Cuối Năm Thân:

Nhìn Về Kinh Tế Việt Nam

ĐÃ ĐẾN LÚC

VIỆT NAM

PHẢI TỈNH NGỦ

Phạm Đỗ Chí, CVA 66

Cuối năm âm lịch, đời sống chính trị bên Mỹ sôi

động với lễ tuyên thệ của TT Trump và cuộc biểu tình

chống đối khổng lồ với 3 triệu người được ước tính tham

dự do Phụ Nữ Hoa Kỳ tổ chức và có rất đông các thành

phần dân chúng tham dự.

Hàng ngày lướt Internet thấy không khí rộn rịp

không kém ở Việt Nam cho tuần lễ cuối năm, nhưng là để

chờ...ăn Tết! Tin mới duy nhất là thành phần lãnh đạo của

chính phủ sang dự Hội nghị Davos ở Thụy sĩ, tổ chức hàng

năm vào dịp mùa đông lạnh lẽo này với sự tham dự của

nhiều lãnh tụ quốc gia và doanh nhân cấp CEO cũng như

một số khoa bảng nổi tiếng. Tuy không có cơ cấu chính

thức nhưng tổ chức này được coi là dịp móc nối ở cấp cao,

bàn về các vấn đề kinh tế lớn của thế giới, cũng như là dịp

cho một số quốc gia “tự quảng cáo” về mình cho vấn đề

phát triển và tìm đầu tư quốc tế. Đây có lẽ là trường hợp

của Việt Nam tham dự lần này ở cấp Thủ Tướng và có

Page 143: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 139

chương trình được chuẩn bị chu đáo, với tin tức là do sáng

kiến Bộ Ngoại giao. Theo tuyên bố chính thức, Việt Nam

đã “tìm được sự hỗ trợ cho phát triển bền vững”.

PHẢI ĐỔI MỚI LẦN 2

Đây là chi tiết lạ nhưng không đáng ngạc nhiên khi

theo dõi các tin tức từ bên nhà vào các hội nghị trong nước

cuối năm, với những nguy cơ của một thế Vỡ Trận Tài

Chính. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chính thức cảnh

cáo Hội nghị Tài chính toàn quốc về nguy cơ Nợ công đã

vượt xa mức giới hạn là 65% của GDP, từ lâu đã không

được giới hữu trách xác nhận để giữ “màu hồng” cho nền

kinh tế và tiếp tục thu hút đầu tư ngoại quốc FDI. Sự cảnh

cáo chính thức này phản ảnh trung thực mối nguy của nền

kinh tế cuối năm, và có lẽ là động cơ khiến ông không có

mặt ở nhà vào dịp tiễn ông Táo, mà thay ông Táo bay sang

Thụy sĩ gặp các “thượng hoàng” của kinh tế thế giới để

“kết thân” và chờ lúc “cầu cứu” nếu cần?

Đâu là bối cảnh của những mối lo về kinh tế cuối

năm 2016 và sự sụp đổ có thể tới năm 2017 về ngân sách

quốc gia nói riêng và nền tài chính nói chung?

Tại sao Kinh Tế Việt Nam cần Đổi Mới lần nữa

thay vì Một Chương Trình Tái Cơ Cấu Tốn Kém?

Theo tin tức từ Bộ Kế hoạch Đầu tư dịp cuối năm

2016, chương trình đầu tư được gọi là Tái Cơ Cấu (TCC)

đòi hỏi một số “vốn” khổng lồ là mười triệu tỷ VNĐ hay

480 tỷ USD cho thời gian 5 năm 2016-20. Nhưng không

nêu rõ là tiền này sẽ lấy từ đâu ra, ngân sách hay vay mượn

nước ngoài?

Một phát biểu chuyên gia, nói là sẽ có thể có tài trợ

từ Quỹ Phát Triển Hạ Tầng do Trung hoa bảo trợ, là mơ hồ

và thiếu trách nhiệm trong tinh thần muốn “thoát Trung” từ

nhiều thành phần xã hội.

Page 144: TOÀN CẦU 2017

Trang 140 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Tính ra sẽ cần gần 100 tỷ đô la đầu tư TCC cho mỗi

năm trong 4 năm sắp tới từ 2017 đến 2020, tức một nửa của

GDP năm 2015 (199 tỷ) và gấp đôi tiền tích lũy (tiết kiệm

của cả nước) hàng năm khoảng 50 tỷ. Đó là một con số

không tưởng. Và không rõ tái cơ cấu gồm những đề mục

hay các dự án nào mà tốn kém như thế, và hiệu quả ra sao

với chỉ số ICOR (7-8) đã rất lớn của Việt Nam do hiệu quả

đầu tư vốn rất kém trong vùng.

Thật sự, theo một số chuyên gia trong và ngoài

nước đã nói lên sự thực tại một cuộc Hội thảo tại Sài Gòn

cuối năm 2016 thì Việt Nam hiện không có tiền và không

cần tiền để đầu tư lớn và tốn kém như vậy. Thực trạng ngân

sách 2016 và dự báo 2017 là tiền thu ngân sách chỉ vừa đủ

để trả nợ trong và ngoài nước và chi thường xuyên. Đầu tư

chính phủ gần như hoàn toàn dựa vào tiền đi vay. Lấy đâu

ra để đầu tư tái cơ cấu như đề ra như trên?

Chương trình Đổi Mới của nền kinh tế Việt Nam

gần sụp đổ vào các năm 1986-1990 đã dựa vào đổi mới cơ

chế và tạo thành công kinh tế đáng kể trong hai thập niên

vừa qua, mà không cần đầu tư nhiều, là thí dụ về thay đổi

cơ chế sản xuất và cho giá gạo trong nước được ấn định tự

do theo thị trường.

Hai thí dụ quan trọng cho việc tái cơ cấu mà cần ít

vốn hơn là; (i) sự phối nhập giữa các hãng công nghệ trong

nước với các chương trình đầu tư của nước ngoài (FDI,

Foreign Direct Investment) để học hỏi và áp dụng công

nghệ cao hiệu quả từ bên ngoài như bài học từ kinh nghiệm

Đài Loan và Hàn quốc; và (ii) tái phân bổ nguồn lực từ khu

vực công nghệ sang khu vực dịch vụ và nông nghiệp để có

thể làm cho mức sản xuất nội địa GDP (Gross domestic

product ) tăng trưởng nhanh hơn và hiệu qủa hơn.

Nhưng quan trọng nhất, Đổi Mới lần nữa bây giờ,

theo ý kiến từ trong hay ngoài nước cũng phải dựa vào cải

cách thể chế cơ bản, là :

Page 145: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 141

(1) Phải dành nhiều tự do hơn cho khu vực kinh tế

Tư Nhân;

(2) Phải cởi trói Doanh Nghiệp và

(3) Tiến hành giải thể hay cổ phần hóa nhanh chóng

khối lượng Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đang tiếp tục

làm ăn thua lỗ và khống chế toàn nền kinh tế.

Chính sách tái cơ cấu kinh tế mới này có ý nghĩa và

thích hợp cho vai trò một chính phủ muốn “kiến tạo” như

Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc từng tuyên bố nhiều lần.

Nhưng chủ trương này chỉ có thế thành công khi Nhà nước

từ bỏ vai trò “chủ đạo”, không nhằm điều khiển hay tạo

dựng tất cả thay đổi về chính sách và điều kiện thực hiện,

mà chỉ hướng dẫn, kích thích các sáng tạo từ thị trường.

Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân cũng phải được

tôn trọng và cổ vũ để phát triển kinh tế cả nước dựa theo thị

trường tự do thật sự. Trong điều kiện này, nền kinh tế mới

phải xóa đi chủ trương mơ hồ của đảng Cộng sản Việt Nam

được gọi là “Xây dựng và phát triển đất nước theo mô

hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”

Chính nhà nước Việt Nam cũng chưa định hình

được thế nào là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa”, nhưng nhiều chuyên gia kinh tế hàng đầu trong và

ngoài nước đều đã khuyến cáo nó là lực cản phát triển cần

phải được dứt khóa cắt đứt nếu Việt Nam muốn thành

công.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam cần có một chương

trình cải cách thể chế chính trị và chính sách kinh tế một

cách toàn diện. Ưu tiên là phải “cởi trói” cho doanh nghiệp

tư nhân để tạo cú hích cho tăng tốc phát triển nền kinh tế.

Chương trình đó có thể bắt đầu với Sàigon là thí điểm, sau

đó có thể lan rộng ra các thành phố lớn như Hà nội, Đà

năng, Hải phòng, Cần thơ như đã được bàn tại “Diễn đàn

cấp cao Việt Nam 2016 : Ra khơi thuận buồm xuôi

Page 146: TOÀN CẦU 2017

Trang 142 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

gió” (tiếng Anh : Vietnam Summit 2016 - Smooth sailing

ahead), tổ chức tại Sài Gòn trong hai ngày 2 và 3/11/2016.

ĐẦU TẦU SÀI GÒN

Nhưng làm sao để Sài gòn tiếp tục giữ vị trí đầu tàu

kinh tế của cả nước Việt Nam như chủ trương của đảng

CSVN ?

Thứ nhất, cần khắc phục những khó khăn đang

“trói buộc” sự phát triển của doanh nghiệp, những rào cản

phát triển của thành phố này nói riêng và cả nước nói

chung.

Thứ hai, Sài gòn cần xây dựng một chương trình

cải cách thể chế kinh tế một cách toàn diện, gồm cải cách

hệ thống quy định pháp luật, chính sách kinh tế và cơ chế

thực thi.

Thứ ba, Sài gòn có thể phát triển thành Đặc khu

Kinh tế và Thương mại dựa trên ba trụ cột kinh tế :

(1) Thành lập và phát triển Trung tâm Công nghệ

cao vào năm 2018, gồm xây dựng Quy chế đặc biệt cho

Khu Công Nghệ cao, khuyến khích phát triển doanh nghiệp

mới đi đôi với phát triển giáo dục và công nghệ cao;

(2) Chuẩn bị cho việc hình thành Trung tâm Tài

chính vào năm 2020;

(3) Phát triển hệ thống du lịch hạng cao hơn hiện tại

với môi trường sạch đáng sống.

Các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam cũng

phải quan tâm đến điều quan trọng nhất trong cải cách thể

chế kinh tế là xây dựng pháp luật công bằng, bình đẳng về

cơ hội và tiếp cận nguồn lực giữa doanh nghiệp công và

doanh nghiệp tư nhân và ngay trong nội bộ doanh nghiệp tư

nhân. Cũng phải xoá bỏ những ưu tiên chỉ dành cho một số

ít doanh nghiệp (thí dụ để một số ít nhà đầu tư “sân sau”

Page 147: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 143

hưởng lợi lớn).

Trở lại với đầu đề chính về đe dọa cho nền kinh tế

Việt Nam cho năm mới, song hành với nợ công thật sự (kể

cả nợ của các xí nghiệp quốc doanh) được ước tính đã lên

tới trên 100% GDP, còn phải kể đến “cục đông” là món nợ

xấu ngân hàng vượt trên 10% theo ước tính quốc tế (chứ

không phải con số “đẹp” chính thức công bố là 3%). Đây là

hai lý do quan trọng có thể đưa đến một thế vỡ trận tài

chính cho năm 2017.

Nhưng lý do chính yếu cho kinh tế Việt Nam còn

phát triển tạm khá chung quanh mức tăng 6% của GDP nhờ

vào lượng đầu tư dồi dào FDI trên 10 tỷ USD mỗi năm

trong các năm vừa qua, và tỷ giá của Đồng VN cũng theo

đó đứng vững, phần lớn dựa vào hy vọng của hiệp định

TPP tương lai từ năm 2017.

Nhưng từ ngày 23/01/2017 vừa qua, chính phủ

Trump đã chính thức tuyên bố rút khỏi TPP. Với thực tế đó,

FDI liệu còn đóng nổi vai trò trụ cột đó cho Việt Nam

không? Và tỷ giá của ĐVN sẽ ra sao nếu đồng Nhân Dân

Tệ của Trung hoa sẽ xuống dốc không phanh với các biện

pháp chế tài thương mại mới của Hoa kỳ và tiếp đó là

khủng hoảng lòng tin của dân Tàu với đồng tiền của nước

họ?

Ở thời điểm giao mùa giữa hai năm cũ và mới, tất

nhiên điều mơ ước của người viết cho quê hương cũ của

mình là một đất nước tự do, thanh bình và phát triển.

Những nhà lãnh đạo hiện thời có vẻ bắt đầu tỉnh ngủ về

thực trạng kinh tế. Nhưng liệu họ có sớm tỉnh ngủ cả về

chính trị để thực hiện cho Việt Nam những cải tổ về chính

trị như Myanmar (Miến Điện) đã làm cho đất nước họ

trong vài năm gần đây? -/-

Phạm Đỗ Chí, CVA66

Page 148: TOÀN CẦU 2017

Trang 144 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

CHU VĂN AN

VÀ TÔI

Võ Kỳ Điền, CVA 60

Những ngày mới định cư ở Montréal, một thành

phố lớn của Canada, tôi được người bạn thân rủ đi chơi

Québec. Thành phố nhỏ, đẹp và xinh xắn y như một thành

phố bên Tây (vì lúc nhỏ thường coi mấy hình chụp phong

cảnh nước Pháp trong các sách vở, tạp chí.) Hai đứa đi

thang lang hết đường nầy sang ngỏ kia, cảnh đẹp như tranh

vẽ, tôi là nhà quê ra tỉnh, đâm mê man, ngó ngang ngó dọc.

Chợt thấy một nhà hàng chuyên các món ăn Pháp thuần

túy, có quảng cáo các món ăn ngon thêm câu ngộ nghĩnh -

quí khách được coi tay miễn phí. Quảng cáo nầy hấp dẫn

quá, tôi khoái chí kéo anh bạn bước vô liền. Sau khi ăn

uống no nê, tôi đến bà thầy ngồi phòng bên cạnh, rụt rè

chìa ra cái biên lai ăn uống và nhờ coi tay dùm. Gọi là bà

chớ thật ra cô đầm nầy còn trẻ, độ chừng trên dưới 30, đặc

biệt là khá đẹp. Bà nắm lấy bàn tay tôi, tôi cảm thấy tay bà

mát rượi, da đầm sao mà mượt mà, êm ái như nhung. Bà

cười nheo mắt, chắc tại tôi hơi run…

Bà nói nhiều chuyện về đời tôi, đại khái tánh tình ra

sao, ưa màu gì, tôi ưa số mấy, giao thiệp với bạn bè và hạp

với bạn gái hay bạn trai… Tôi nghe vui vui và bất chợt bà

nói câu nầy : ông là người có tài nhưng không biết xử dụng

cái tài đó. Ông làm cái gì cũng bỏ dở nửa chừng… rồi bà

cười và kết luận -cho nên kể như ông không có tài năng gì

ráo trọi, làm cái gì không ra cái gì. Lúc đó tiếng Tây tôi còn

kém, giọng Québécois lại khó nghe, đại khái tôi hiểu ý bà

Page 149: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 145

là như vậy. Tôi tự ái, hỏi lại -xin bà vui lòng giải nghĩa cho

tôi hiểu rõ hơn chỗ nầy… Bà chỉ cho tôi đường chỉ tay

ngoằn ngoèo -rồi giải nghĩa, khi nhỏ, ông sanh ở một nơi

cư ngụ một nơi, không theo một trường nào lâu dài, nay

học trường nầy, mai học trường kia, làm quen bạn gái, nay

cô nầy mai cô kia, chuyện gia đình cũng vậy, nghề nghiệp

cũng vậy, nay làm nghề nầy, mai làm nghề kia, nhà cửa

cũng vậy, các trò chơi trong đời cũng vậy… Ông mê thì mê

mang, hết mê rồi ông bỏ liền không luyến tiếc, tình cảm thì

say đắm như nghệ sĩ nhưng lý trí thì của một ông thầy giáo

chừng mực, thành ra đời ông cái gì cũng được có phân nửa,

làm sao mà thành tựu lớn cho được, phải không nào, ông

thử nghiệm lại coi. Rồi bà cười, ngay cả sống ở Việt Nam

cũng có phân nửa đời thôi, bây giờ ông ở Canada nè.. mà

chưa chắc ở Montréal hoài đâu, rồi ông sẽ đi nữa…

Mùa xuân nầy, tôi đến cư ngụ tại Toronto. Buổi trưa

nhận cú phone người bạn mới rủ viết về những kỷ niệm học

ở Chu Văn An khiến tôi đâm nhớ miên man và lan man

những thầy những bạn Chu Văn An, Chu Văn An….

Những ngày tháng mới lớn. Lời của bà đầm chợt nhớ -ông

đâu có học trường nào lâu. Quả đúng y như vậy, chuyện

học hành của tôi cũng lung tung, tôi học Chu Văn An chỉ

trọn vẹn có một năm, năm Đệ Nhứt, niên khoá 1959 -1960,

tính đến nay là một đoạn thời gian quá dài đối với một đời

người, có chuyện nhớ và chuyện quên…

Nhớ lại hồi đó, tôi hoàn toàn không có ý niệm nào

về việc học, việc chọn ngành nghề. Hễ lớn lên là phải đi

học, chớ không phải đi chơi. Như vậy là làm đủ bổn phận

rồi, mà bổn phận đối với ai, đối với cái gì thì không biết, vì

có ai nói gì đâu mà biết. Đậu xong Tú Tài Nhứt, khoẻ quá

tha hồ đi chơi, đi chơi… Có anh bạn hỏi -mầy nộp đơn

trường nào chưa. Tôi trả lời tỉnh queo -chưa, còn lâu mà.

Anh ta trợn mắt, lâu gì mà lâu, còn có mấy ngày nữa là hết

hạn nộp đơn vô mấy trường công rồi, coi chừng không kịp,

Page 150: TOÀN CẦU 2017

Trang 146 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

nộp đơn xong còn phải chờ cứu xét chấp thuận, nếu được

thì hay quá, không được thì năm nay mầy học ở đâu?

Tôi nghe mà đâm lo -theo mầy thì bây giờ tao phải

làm sao. Anh bạn nói, mầy chỉ còn cách nộp đơn vô học

Chu Văn An thôi, vì mầy đậu Bình Thứ, đương nhiên được

nhận, chớ mầy nộp Pétrus Ký thì phải chờ cứu xét, rủi đông

quá, thì có thể không được.

Tôi bèn ba chưn bốn cẳng xách đơn vô nộp Chu

Văn An mà run trong bụng. Việc được học trường nầy là

đương nhiên rồi vì có quy định rõ ràng cho người đậu cao,

nhưng không phải run vì việc đó, mà tôi là dân Nam kỳ,

đáng lẽ phải xin học Petrus Ký. Trường Chu Văn An là của

Bắc kỳ, nghe nói học sinh Bắc kỳ khôn ngoan, lanh lợi và

ma mảnh, lại ưa đánh lộn lắm. Tụi nó đánh lộn với tụi học

sinh Kỹ Thuật Cao Thắng hà rầm.. tụi Cao Thắng là dân

thứ dữ, ưa dùng bù lon, kềm búa, mà không sợ, lại dám

đánh lộn thì chắc là phải dữ hơn, tôi đoán vậy. Tôi vốn ở

tỉnh nhỏ và chưa quen gặp gỡ bạn bè người Bắc nhiều, thuở

đó người Bắc và người Nam còn xa lạ lắm, chớ không như

bây giờ.

Trường là một dãy lầu hai từng, trong khuôn viên

trường Petrus Ký, trên đường Cộng Hoà, nó vốn là ký túc

xá cho học sinh nội trú, bây giờ được dành ra cho Chu Văn

An từ ngoài Bắc di cư vô, có hàng rào kẽm gai ngăn đôi hai

trường ra. Ở ngay cổng ra vào cạnh Petrus Ký có quán bán

bánh cuốn nóng nhưn thịt của vợ con bác tùy phái. Bánh

cuốn rất ngon và thơm lừng mùi củ hành phi, không lúc nào

vắng khách hàng. Tôi còn nhớ, có lần đương học, đói bụng

quá thèm ăn bánh cuốn, trốn học lén ra quán ngồi ăn, bị

ông Tổng (giám thị) Lãng đi ruồng, chạy trốn muốn chết,

ngày đó bỏ học, lang thang ra chợ Sài Gòn, chun vô coi hát

cho hết ngày. Ngày đầu tiên vào lớp, tự nhiên đám Nam Kỳ

tụi tôi được chừng chục đứa, sớm làm quen nhau và giành

ngồi hết mấy dãy đầu bàn. Mấy bạn còn lại ngồi chỗ nào,

tôi không nhớ. Tôi may mắn gặp lại được các bạn thân là

Page 151: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 147

Huỳnh Thiếu Hoa và Chiêm Thanh Hoàng, hai bạn nầy

cùng học Văn Lang với tôi năm vừa qua. Bàn sau lưng tôi

là Triệu Quốc Mạnh, Trương Bửu Sum, Võ Văn Nho,

Huỳnh Quảng….

Như vậy trước là thầy, xung quanh tôi là bạn thân

hết, có gì mà sợ. Mà quả tình cũng không có gì đáng sợ.

Ngày qua ngày, các bạn Bắc cũng hiền lành, cũng ham học,

cũng lễ phép… y như tụi Nam chúng tôi và cũng chưa thấy

tụi nó đánh lộn lần nào. Nhưng mà chưa chắc giống y, hình

như tụi Bắc học giỏi hơn. Tôi thuộc hạng thông minh và

khá giỏi, ở mấy trường cũ, Nguyễn Trãi, Văn Lang… thầy

giảng bài là hiểu ngay liền, không thua đứa nào. Nhưng mà

bây giờ mỗi lần làm bài tập so điểm lại thua vài đứa, nhứt

là Nguyễn Hoàng Giáp, ngồi bên góc trái, tận phía sau. Tay

nầy ốm ốm đen đen, hơi xấu trai, lầm lầm lỳ lỳ mà sao học

hay quá, môn gì cũng nhứt lớp. Tôi đâm ra khó chịu, ganh

tức và tìm cách chọc phá.

Nguyễn Hoàng Giáp ngồi tuốt phía sau. Mỗi lần

thầy viết bài học trên bảng, thì Giáp đi lên trên cạnh chỗ tôi

ngồi, đóng cánh cửa sổ lại, để ánh sánh đừng phản chiếu

chói chang, cho dễ thấy. Tôi chờ khi Giáp quay lưng, đưa

tay đẩy nhẹ cánh cửa mở ra và ngồi im. Khi Giáp quay về

tới chỗ, thì vẫn không đọc được bài. Giáp tưởng là cửa

đóng không kỹ bị gió thổi tung ra.. Giáp kiên nhẫn đi trở

lên và đóng cửa lại kỹ càng, khi quay lưng đi thì Trương

Bửu Sum lẹ tay tháo chốt cửa và mở toát ra… rồi cũng ngồi

im ngoan ngoãn. Giáp trở về, nhìn lên bảng đen chói chang,

biết có đứa phá và không biết đứa nào, giận dữ và chửi

đổng -đồ khốn lạn, lạn, lạn, lạn,… giọng Bắc của Giáp

nặng sệt và kỳ cục, giọng Nghệ An-Hà Tĩnh gì đó, vang

vang giữa lớp nghe lớn lắm, chữ lạn kéo dài ngoằn. Mấy

thằng Nam tụi tôi nháy giọng của Giáp chửi lại -đồ khốn

lạng, cũng lớn không thua gì giọng Giáp. Giọng Nam của

chúng tôi cũng nghe kỳ cục lắm, khốn lạng, lạng, lạng…

Cả lớp lúc đó không còn Nam, Bắc gì hết, xúm nhau lại mà

Page 152: TOÀN CẦU 2017

Trang 148 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

cười rần rần. Giáo sư đang giảng bài là cha Khiết, dạy

Triết, cha mặc áo chùng thâm, hiền thiệt là hiền, giữa trưa

nóng bức, nghe cả lớp cãi lộn cũng ngừng lại hỏi, các con

làm gì mà ồn thế…

Bạn Nguyễn Hoàng Giáp nghe đâu sau nầy là Tiến

sĩ Dược Khoa và là giáo sư Đại Học Dược rồi hình như

nhập ngũ, bạn có thời là Giáo sư Trường Võ Bị Đà Lạt hay

Kinh Tế Chánh Trị, Kinh Doanh gì đó, tôi nghe như vậy

mà không chắc… Nếu bạn Giáp tình cờ mà đọc được

những dòng nầy thì cười lớn một phát nghen và cứ tha hồ

chửi tiếp, cái thằng Võ Tấn Phước nầy khốn lạn thiệt tình…

Cha Khiết, dạy môn Triết thiệt là khó hiểu. Cha

không soạn bài, mỗi buổi có giờ dạy thì cha cầm cuốn Triết

Học Khảo Luận của Cao Văn Luận, vừa đọc vừa giải nghĩa.

Giọng cha trầm trầm như đọc kinh. Giữa trưa, nóng bức,

lớp học lại đông, không ai còn ham muốn nói chuyện nữa,

thiệt là buồn ngủ hết sức. Vậy mà có buổi vui ghê, quên

luôn cả việc ngủ gục. Số là vào những ngày gần lễ Giáng

Sinh, cha không dạy bài trong chương trình. Cha nói

chuyện Chúa Hài Đồng được sanh ra ở thành Bethlem.

Chúa ra đời ở máng cỏ ở một xứ sa mạc hoang vu, chuyện

sanh nở chỉ trong vài giờ mà cha nói gần hai tuần, vẫn chưa

hết… Sau khi nghỉ lễ vô, thì cha nói tiếp những đêm vui

Giáng Sinh ở Pháp, ở Anh, ở Hoà Lan, ở Na uy… rồi cuối

cùng cha nói tới lễ Giáng Sinh Hà Nội. Có đứa vọt miệng

hỏi -thưa cha, tại sao trong đêm Giáng sinh người ta phải

ăn réveillon bằng ngỗng. Cha nói đó là tập tục ở Âu Châu,

có từ lâu đời. Sau đó cha nói tiếp, ở ngoài Bắc đâu có

ngỗng mà ăn, người ta ăn réveillon bằng thịt chó, có gì ăn

nấy chớ không bắt buộc.

Việc ăn thịt chó lúc đó còn quá xa lạ đối với học

sinh Nam chúng tôi và điều đó cũng là thứ cấm kỵ. Cả đám

đâm ra vô phép hỗn hào với cha : -Cha ăn thịt chó, cha ăn

thịt chó… Tôi cứ tưởng là cha sẽ giận dữ và rầy la, nào ngờ

cha cười hiền hoà và nói -ừ ừ, cha có ăn và thịt chó ngon

Page 153: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 149

lắm. Chúa sanh ra muôn loài để cho người ăn thịt như mình

ăn thịt bò, thịt heo, thịt gà vậy… Nghe cha nói, tôi chưng

hửng và thấy mình sai lầm.

Cha Trần Trinh Khiết chắc đã mất từ lâu rồi, tôi

nghĩ như vậy nhưng dáng điệu, cử chỉ khoan hoà, từ ái của

cha, tôi còn nhớ mãi. Cha đúng là nhà tu hành và là nhà

giáo đầy đạo hạnh. Tôi đem tâm phân biệt, chấp trước nặng

nề mà phê phán cha, khó mà tha thứ được, vậy mà cha

không để ý đến, coi như là không có… Bây giờ đây tuổi

đời khá cao, chuyện đời đã trải, ngọt bùi, chua cay, đắng

chát, nếm hết, tôi kính phục thương mến cha nhiều hơn thời

còn đi học. Tôi tuy học được những bài Triết khô khan

nhưng không học được công phu hàm dưỡng của cha. Lớp

Đệ Nhứt của tôi năm ấy 47 học sinh, thấy chơi nhiều hơn

học. Vậy mà thi kỳ nhứt đậu ngay 43 đứa và 4 bạn còn lại

cũng đậu nốt kỳ nhì. Toàn là đậu hạng cao, chỉ có vài bạn

đậu Thứ. Ngộ ghê chưa. Chu Văn An thiệt là giỏi.

Năm ngoái tôi có nói chuyện với bạn Chu Văn An

cũ là Chiêm Thanh Hoàng, Thiếu Tá Lôi Hổ hay Biệt Kích

gì đó, chủ tịch Hội Ái Hữu Võ Bị Đà Lạt, hiện nay ở

Boston. Hoàng nhắc lại Chu Văn An của chúng tôi ngày

xưa và hỏi tôi còn nhớ Triệu Quốc Mạnh. Tôi nói -còn chớ

sao không, cái thằng hiền lành, mập mập. Hoàng cười -nó

mà hiền, mầy có biết bây giờ nó làm gì không. Tôi trả lời

tỉnh queo -không. Rồi hỏi -nó làm gì, khá không, có vượt

biên như anh em mình không ?

Hoàng cười chua chát và cho tôi biết, sau khi

Nguyễn Văn Thiệu từ chức thì Trang Sĩ Tấn cũng từ chức

theo, luật sư Triệu Quốc Mạnh thay thế chức vụ Tổng

Giám đốc Công An Cảnh Sát thành phố Sài Gòn trong

Chánh phủ Trần Văn Hương và Dương Văn Minh. Sau

ngày mất nước thì Triệu Quốc Mạnh được trọng dụng và

làm lớn hơn nữa, nó vượt biên như anh em mình để làm

chi.

Page 154: TOÀN CẦU 2017

Trang 150 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Bà thầy coi chỉ tay nói tôi nhiều chuyện, đúng hay

sai thì bây giờ chưa biết được. Nhưng chuyện bà nói tôi

thường hay đổi trường và học trường nào cũng chỉ có phân

nửa thì thiệt là đúng. Nếu tôi học một trường thiệt dài, thiệt

lâu như các bạn ở Chu Văn An, Pétrus Ký, Võ Trường

Toản, thì có thể hy vọng tôi sẽ giỏi hơn nhiều. Tôi chỉ học

Chu Văn An vỏn vẹn có một năm, tiếc quá…

Hình ảnh trung học Chu Văn An tọa lạc khu ngả sáu

Cộng Hoà, cạnh bên Tổng Nha Cảnh Sát Đô Thành với hai

dãy lầu im lìm, cũ kỹ rêu phong, thấp thoáng trong các tàn

lá còng xanh muớt, vẫn còn lưu luyến hoài trong mớ ký ức

bề bộn…(sau đó trường sở đổi thành Đại Học Sư Phạm và

tôi cũng lại tiếp tục học nơi đây). Nhớ về ngôi trường cũ

một thời chợt đến, chợt đi, tuy thời gian có ngắn, có dài

nhưng đó cũng là khoảng thời gian đẹp của tuổi hoa niên.

Tính ra ngày đó tôi còn trẻ măng, bây giờ già ngắc già ngơ,

gần nửa thế kỷ rồi còn gì. Tìm đâu cho ra thời thơ mộng

cũ?

Võ Kỳ Điền

Page 155: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 151

Lớp P2/B2

Chu Văn An,

1964 -1971

Nguyễn Tá Mẫn & Vũ Trọng Phòng

Như chúng tôi đã trình bày trong quyển Kỷ Yếu

“Theo Giòng Lịch Sử” của Đại Hội Toàn Cầu Bưởi-Chu

Văn An, Kỳ 5 năm 2015, bài viết này một lần nữa giới

thiệu đến các bạn những sinh hoạt của lớp chúng tôi từ

ngày bắt đầu lớp Đệ Thất P2, niên khóa 1964-1965 cho đến

ngày nay, sau hơn 50 năm. Chúng tôi theo học lớp P2 từ Đệ

Thất đến Đệ Tứ, sinh ngữ chính là Pháp Văn và B2 từ Đệ

Tam đến Đệ Nhất. Tuy nhiên bắt đầu từ niên khóa 1969-

1970, Bộ Giáo Dục VNCH thay đổi tên gọi của các lớp

Trung Học, từ Đệ Thất đến Đệ Nhất nay là lớp 6 đến lớp

12, thay vì Đệ Nhị B2 nay được gọi là 11B2. Sau biến cố

Tết Mậu Thân 1968 và vì luật Tổng Động Viên năm đó,

gần một nửa lớp chúng tôi đã phải rời trường để nhập ngũ.

Năm Đệ Tam sĩ số lớp chỉ còn khoảng trên 30 học sinh, và

những năm sau đó nhà trường phải thu nhận thêm học sinh

từ các trường khác vào cho nên chúng tôi lại có thêm một

số bạn mới nữa.

Tuổi học trò nào mà không có những kỷ niệm

nghịch ngợm, mà kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất của lớp chúng

tôi là vào năm Đệ Ngũ P2, giờ Pháp Văn của thầy Nguyễn

Công Thương. Chúng tôi đã đặt pháo nổ chậm trong giờ ra

chơi trước khi thầy vào lớp, kết quả là thầy Thương đã đưa

6 học sinh ra Hội Đồng Kỷ Luật để trừng phạt. Biên bản

Page 156: TOÀN CẦU 2017

Trang 152 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Hội Đồng Kỷ Luật đã được thầy Hiệu Trưởng Dương Minh

Kính ký ngày 17 tháng 5 năm 1967, chúng tôi còn giữ lại

và đính kèm với bài viết này. Tóm tắt cuộc nghịch phá này

là Thầy Thương bắt học sinh Bùi Văn Thắng làm chủ mưu

đốt pháo, mà thật sự Thắng không có làm, sau đó Thắng

phải khai ra những bạn mình đã làm, nào Bùi Thế Đức,

mang pháo và châm ngòi lần 1, Vũ Trọng Phòng, châm

ngòi lần 1, Nguyễn Hữu Việt, đặt pháo dưới gầm và trên

cửa gần bàn giáo sư, Lê Văn Nhơn, châm ngòi pháo thứ 2,

Phạm Huy Hợp, châm ngòi pháo thứ 2 và Nguyễn Văn Tại,

chỉ cách đặt pháo lần 1. Sau đó Hội Đồng Kỷ Luật đã quyết

định như sau: Bùi Thế Đức, đuổi 15 ngày, ghi học bạ, cúp

học bổng; Vũ Trọng Phòng, đuổi 7 ngày, ghi học bạ; Phạm

Huy Hợp và Nguyễn Hữu Việt, đuổi 3 ngày, cúp học bổng;

Lê Văn Nhơn, cúp học bổng, và sau cùng Nguyễn Văn Tại,

khiển trách kỷ luật, ghi học bạ, cúp học bổng.

Trong biên bản Hội Đồng Kỷ Luật có đề cập đến

việc học sinh Phạm Huy Hợp là em trai của Giáo Sư Phạm

Xuân Lương, và hôm đó GS Lương đã đại diện cho phụ

huynh của học sinh Hợp. GS Lương đã tuyên bố tại buổi

họp xin Hội Đồng cứ thẳng thắn trừng phạt học sinh Hợp

theo tội trạng, chứ không tha thứ.

Bây giờ hơn 50 năm sau ngồi nghĩ lại tuổi học trò

thật nghịch ngợm, hồn nhiên. Quả đúng là "nhất quỉ nhì ma

thứ ba học trò Chu Văn An”.

Một kỷ niệm nghịch phá của lớp tôi vào năm Đệ

Tam B2, giờ Việt Văn của thầy Trần Đình Ý. Thầy Ý

thường đem theo cặp-táp bằng da vào lớp, thầy hay để trên

bàn và thầy luôn xuống phòng họp giáo sư để uống nước

trà trong giờ giải lao sau khi thầy dạy được một tiếng. Mỗi

lần thầy vừa rời lớp sau, lập tức những học sinh ngồi đầu

bàn chạy lên bàn giáo sư, cầm cặp của thầy và ném xuống

lớp. Các học sinh chúng tôi cứ như thế chuyền cặp của thầy

vào hết bàn này đến bàn nọ. Cặp đến tay ai thì phải chuyền

nhanh không thôi sợ rằng thầy quay lại lớp, bắt gặp cặp của

Page 157: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 153

thầy vào tay ai, học sinh đó sẽ bị phạt ngay. Dĩ nhiên lúc đó

lớp rất ồn ào, náo động. Một hôm có lẽ thầy biết được trò

chơi của chúng tôi, thầy cứ tự nhiên đi xuống phòng giáo

sư và quay lại trong chốc lát, nhìn vào khe cửa sổ để xem

chúng tôi có làm gì không. Biết được như vậy, vài học sinh

trong lớp mới la lên "Ý rình !! Ý rình !!". Thế là lớp chúng

tôi yên lặng lại, và cũng may cặp của thầy vẫn còn ở trên

bàn giáo sư, chưa được ném xuống lớp.

Một kỷ niệm vui, nghịch nữa của lớp chúng tôi là

trò chơi ném dép trong khi thầy đang viết bài trên bảng.

Ngày xưa chúng ta đi học Trung Học đều mang dép, hầu

như không có học sinh nào đi giày cả. Lúc ngồi trong lớp,

các học sinh ngồi bàn đầu hay bàn thứ hai thường hay gác

chân lẫn nhau nên một hay hai chiếc dép đều không mang

vào chân... Thế là các học sinh ngồi bàn sau mới khều chân

lấy dép, rồi chuyền mấy chiếc dép này về các học sinh ngồi

bàn cuối trong lớp (xóm nhà lá). Chúng tôi còn nhớ hôm đó

vào giờ Vật Lý lớp Đệ Tam B2, lúc thầy Sâm đang viết và

giảng bài, một học sinh mất dép đứng lên nói “Thưa thầy

em bị mất dép”, thầy bèn quát lên “Đi học có đôi dép mà

không biết giữ”, thế là cả lớp chúng tôi cười ồ lên... Lập tức

có tiếng nói từ cuối lớp vang lên “quay lên có liền”... Học

sinh mất dép, ngồi xuống quay lại nhìn lên bảng thì vài

giây sau tự nhiên có vật gì ném vào đầu mình, nhìn lại hóa

ra là chiếc dép của mình, thành ra yên lặng, không nói gì

được cả.

Tóm lại có khoảng hơn 80 học sinh đã theo học lớp

P2/B2 bắt đầu từ niên khóa 1964-1965 cho đến 1970-1971.

Bảy năm trời biết bao nhiêu kỷ niệm sâu đậm với ngôi

trường thân yêu, với các thầy và các bạn. Sau khi rời mái

trường CVA vào tháng 6 năm 1971, chúng tôi mỗi người

mỗi ngã rẽ cuộc đời, có các bạn đã theo con đường binh

nghiệp, các bạn khác tiếp tục sách đèn ở các Đại Học trong

nước hoặc du học ngoại quốc. Và cứ như thế dòng đời trôi

chảy cho đến ngày hôm nay, sau hơn nửa thế kỷ lưu lạc

Page 158: TOÀN CẦU 2017

Trang 154 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

khắp 5 châu 4 bể, các học sinh lớp P2/B2 của CVA 64-71

luôn tìm đến với nhau qua ly bia, ly rượu hầu ôn lại những

kỷ niệm êm đềm ngày xa xưa ấy… Những cuộc hội ngộ

này thường tổ chức tại Việt Nam, Nam California, Sydney,

Houston hay Montreal, nơi có nhiều cựu học sinh lớp

P2/B2 đang sinh sống.

Nguyễn Tá Mẫn & Vũ Trọng Phòng

Page 159: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 155

Page 160: TOÀN CẦU 2017

Trang 156 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Page 161: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 157

Lớp Đệ Tam B2 năm 1968-1969.

Hàng 1 (trên cao) - Thầy NgVăn Phong, DươngVăn Hiền, Ng.Trọng Hiền,

Ng.Ngọc Chương, TrầnLinh Bao, Ng.Hữu Việt, PhạmTấn Đức, Ng.Chí Thành,

LạiTừ Tâm, LêVăn Thắng, Ng.Văn Nguyễn.

Hàng 2 - MaiQuốc Phong, NgHữu Thọ, LêHữu Đức, ĐặngXuân Phú, Lê Công

Luận, Ng.Đình Hòa, Ng.Hoàng Long, ĐinhHữu Tuấn, Ng.Đông Sơ, HuỳnhVăn

Hoàng, TrịnhĐình Tá.

Hàng 3 – LêDuy Diễm, Phạm Huy Hợp, DươngNgọc Lâm, Ng.Văn Phương,

CaoXuân Mạch, LêTấn Lộc, VũTrọng Phòng, Ng.ThanhQuỳnh, Ng.Tá Mẫn,

HuỳnhAnhDũng, VũQuangLâm.

Lớp 12B2 những ngày cuối niên khóa 1970-1971.

Page 162: TOÀN CẦU 2017

Trang 158 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Kỷ niệm Bạn Cũ Trường Xưa

Thế mà đã 60 năm!

(1957-2017)

BaLăng

Cách đây ít lâu, Bác sĩ Nguyễn Ngọc Bích, cựu học

sinh CVA lớp 1A2, hiện cư ngụ tại London, Anh quốc, đã

gửi tặng tôi tấm hình kể trên. Nhìn hình với thầy cũ bạn

xưa, tôi vô cùng bồi hồi xúc động vì biết bao kỷ niệm đã

trở về trong tôi…

Làm sao tôi quên được cái hành lang của căn nhà lầu

3 tầng, phía sau của trường Petrus Ký, nơi mà từ năm di cư

vào miền Nam Tự Do (1955), chúng tôi đã nhận nơi đây là

trường sở mới của CVA. Cái số tôi không bao giờ được học

Page 163: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 159

tại trường sở mới. Theo học Y khoa thì trong 7 năm đều

học ở trường cũ số 28 đường Trần Quí Cáp Saigon. Đây

cũng là căn biệt thự của tư nhân, biến cải thành phòng ốc,

giảng đường. Đến khi vừa tốt nghiệp thì trường Đại học Y

khoa dọn về trường sở mới to tát khang trang do viện trợ

Mỹ góp công xây cất gọi là Trung tâm Giáo dục Y khoa,

toạ lạc tại đường Hồng Bàng, Chợ Lớn Saigon. Còn trường

trung học Chu Văn An di cư từ Hà-Nội vào Saigon thì sau

một thời gian học nhờ tại trường Petrus Ký đã được chuyển

về căn nhà lầu phía sau của trường. Căn nhà này trước kia

là ký túc xá của học sinh Petrus ký và nay đã được biến cải

thành phòng ốc, kể cả hành lang được lợp tôn để có thêm

chỗ học cho đám học sinh di cư đông đảo. Tuy nằm ở phía

sau trường Petrus ký nhưng trường CVA có lối đi riêng.

Cổng chính của trường đi vào là ở đường Trần Bình Trọng.

Tôi học tại trường CVA di cư này cho đến khi tốt nghiệp

Tú tài 2 năm 1958 và mãi đến năm 1960, trường CVA mới

có trường sở mới, rộng rãi khang trang tọa lạc tại góc

đường Minh Mạng-Triệu Đà Chợ Lớn Saigon.

Trong trí nhớ già nua còn lại của tôi đã hiện lên

hình ảnh Xuân Tết năm nào (Đinh Dậu 1957). Thầy trò tụ

họp để chụp chung một tấm hình kỷ niệm (hình trên), tuy

không đầy đủ các bạn thuộc lớp 1A2 nhưng tôi còn nhận ra

được những khuôn mặt thân quen thuở nào: Nguyễn Ngọc

Bích, Phạm Đình Bách, Trần Văn Thông, Nguyễn Đức

Năng, Nguyễn Hạnh (đeo kính đen), Vũ Công Dương,

Nguyễn Duy Hảo,.. và các chị thì chỉ nhận ra có chị Kim

Anh, chị Hoàng Mai, và ngoài ra thì xin chịu thua. Tuy

nhiên DS Nguyễn Đức Năng ở dưới miền Nam Cali thì có

trí nhớ tốt hơn, nhớ tên được nhiều chị học cùng lớp 1A2

và anh đã nêu tên từng người cùng lớp trong bài viết “Chu

Văn An trường tôi” đăng trong Giai phẩm Bưởi-Chu văn

An năm Quí Tỵ 2013.

Niên khóa 1956-57 chỉ có một lớp Đệ nhất A. Đến

niên khóa tôi học 1957-58 thì lại có đến 2 lớp Đệ nhất (1A1

Page 164: TOÀN CẦU 2017

Trang 160 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

và 1A2). Lớp Đệ nhất A1 thì toàn nữ sinh (có lẽ từ các

trường công lập như Trưng Vương, Gia Long gộp lại). Lớp

Đệ nhất A2 của tôi là lớp hỗn hợp, một nửa nam sinh là dân

CVA thuần túy và một nửa là nữ sinh Gia Long còn lại,

không thể nhét vào A1 được nữa vì quá đông. Lớp 1A2 của

tôi có 42 người, 22 nam sinh và 20 nữ sinh. Nam thì toàn

Bắc kỳ di cư. Nữ là con gái miền Nam chính gốc, hiền

lành, chất phác. Nam nữ hòa đồng vui vẻ không có vấn đề

kỳ thị Nam Bắc gì cả. Chỗ ngồi trong lớp cũng được xếp

đặt hợp lý do thầy giám thị Tự chỉ định. Có 3 hàng ghế

trong lớp thì các chị chiếm hàng ghế bên trái, nam sinh bên

phải. Còn hàng ghế giữa thì 2 hàng đầu dành cho các chị,

những hàng còn lại dành cho nam sinh chúng tôi. Những

anh ngồi sau hàng ghế các chị thường hay bị chế riễu, nào

là “ngửi thấy mùi hương”, hoặc hàng tháng “có gì lạ không

anh ?” Tuy nhiên các anh ở “xóm nhà lá”, nghĩa là ở những

bàn cuối cùng thì bao giờ cũng là mục tiêu “truy bài” của

thầy Lê Văn Lâm, giáo sư Lý Hoá. Thầy Lâm có tài bắn

cục phấn từ trên bàn giáo sư vào đầu mấy anh trốn xuống

xóm nhà lá để khỏi bị lên bảng trả bài. Anh Trịnh Q. B. là

một thí dụ điển hình vì cục phấn của thầy Lâm bắn trúng

nhiều nhất. Ngày thầy Lâm còn sống, thầy có tham dự buổi

họp mặt Tân niên của hội ái hữu cựu học sinh CVA tại

miền Bắc California. Gặp lại thầy, anh B. xoa tay lên đầu,

phàn nàn với thầy là hãy còn sờ thấy mấy “cục u”. Thầy

cười vui vẻ.

Các chị nữ sinh Gia Long học hành rất chăm chỉ và

cần mẫn nên nam sinh chúng tôi cũng phải cố gắng để khỏi

mất mặt “bầu cua cá cọp”. Do đó trong lớp gần như lúc nào

cũng có cuộc ganh đua học hành. Chỉ sau ít tháng học

chung, các chị Gia Long đã quen và bạo dạn hơn trong

những lúc tiếp xúc với bọn tôi. Phải thành thật mà nói thì

không có chị nào “sắc nước hương trời” hay “chim sa cá

lặn”. Nếu công bình mà nói thì nhan sắc các chị cũng thuộc

loại trung bình mà thôi (phải chăng học cao và sắc đẹp có

tỷ lệ nghịch với nhau). Tuy nhiên chỉ có chị M. và chị K.A.

Page 165: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 161

là đuợc mấy anh để ý nhiều hơn cả. Chị M. có hỗn danh là

“M. quần sà-lỏn”. Về điểm này tôi cũng phải phục mấy dân

CVA là có óc quan sát hơn người bởi vì chị M. không mặc

đồ lót “sì líp” như các nữ sinh khác mà chị mặc quần lót.

Anh Th. tuy học ban B nhưng lại để ý đến chị M. Sau này

ra trường, chị M. học Đại học sư phạm, còn anh Th. là một

công chức cao cấp trong ngành tình báo. Anh chị đã kết

hôn với nhau để trọn “Tình Bắc duyên Nam”. Gần đây tôi

có đọc được bài viết về hồi ký trong tù Cộng sản đăng trên

báo của Đại tá Võ Đại Tôn, trong đó ông có nhắc đến cái

chết của anh Th. tại một nhà giam với ông ở miền Bắc

Việt-Nam. Tôi xin nghiêng mình kính phục sự hy sinh cao

cả của anh Th. cho chính nghĩa Tự Do và thành thật chia

buồn cùng chị M. và gia đình về sự mất mát to lớn này.

Trở lại với lớp 1A2 của tôi, nơi cũng có một vài “anh

hùng tứ chiếng”. Điển hình là mấy anh nghịch ngầm, ném

đá dấu tay, đứng đầu là Lê N.Q.. Tuy nhiên mấy anh này

vẫn kính nể mấy chị trong lớp và không có làm điều gì thô

lỗ hay vô lễ cả.

Miền Nam Việt-Nam vào những năm 57, 58 được coi

là thời kỳ hoà bình, thịnh vượng. Bọn Cộng sản vừa chiếm

được miền Bắc qua hiệp định Genève đang củng cố quyền

hành bằng cách đẩy mạnh phong trào giai cấp đấu tranh

qua các đợt cải cách ruộng đất, đấu tố, giết hại cả triệu

đồng bào vô tội. Lại còn phong trào “trăm hoa đua nở”, bắt

bớ bỏ tù, đầy đọa biết bao văn nghệ sĩ tài ba. Miền Nam

chưa bị bọn cộng sản “quẫy” cho nên Tết đến, phố sá tưng

bừng nhộn nhịp. Chung quanh chợ Bến Thành, bên lề

đường dọc theo các đại lộ Lê Lợi, Lê Thánh Tôn, các sạp

hàng mọc lên san sát, bán đủ mọi thứ, thật là náo nhiệt. Các

trường học thì lo tổ chức báo Xuân, báo tường, liên hoan

văn nghệ tất niên. Màn “cúp cua, bát phố” là thường xuyên.

Mặc dù đã được thầy giám thị thông báo cấm đốt pháo

trong trường và nghiêm phạt những ai không tuân lệnh, thế

mà vẫn đì đùng tiếng pháo trong sân trường, nơi cuối lớp…

Page 166: TOÀN CẦU 2017

Trang 162 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Bầu không khí Tết đã làm mọi người chểnh mảng mọi công

việc thường ngày, kể cả việc học hành thi cử… Buổi trưa

giờ ra chơi, các chị đã không ra khỏi lớp mà túm năm tụm

ba trò chuyện vui vẻ. Nhóm nam sinh tụi tôi cũng đang đấu

láo, cười nói oang oang. Bất ngờ, Lê N.Q. từ đâu chạy vào,

thò đầu qua cửa sổ lớp học tại lầu 2, thả một trái pháo đùng

xuống dưới đất, nơi đang có một nhóm bạn anh tụ họp. Sau

tiếng pháo nổ, Q. chạy vội ra khỏi lớp ngay. Tụi tôi cũng

theo Q. chạy ra khỏi lớp vì không muốn bị liên luỵ như

phải làm nhân chứng hoặc phải tố cáo đương sự. Quả thật,

sau ít phút, thầy giám thị Tự, mặt hầm hầm tức giận tiến

vào lớp. Ô hay sao lớp vắng tanh không có một đấng nam

sinh nào cả ! Chỉ còn có ít chị nữ sinh vô tội đang ngồi đó.

Thầy giám thị biết chắc là trò chơi tinh nghịch thả trái pháo

từ lầu 2 xuống đất là do một nam sinh rắn mắt là thủ phạm,

chứ không phải các chị nữ sinh. Mà hỏi các chị có biết ai

làm vậy không thì các chị từ chối nói là không biết… Thầy

Tự điều tra, hạch hỏi cả tuần lễ, kể cả dùng phương pháp tự

thú để được “khoan hồng” cũng không đem lại kết quả. Tụi

tôi đã chứng kiến sự việc từ đầu và biết chắc ai là thủ phạm

rồi nhưng tự nghĩ nếu tố cáp thủ phạm thì chắc chắn anh Q.

sẽ bị đuổi ra khỏi trường, tội nghiệp lắm. Thôi thì cứ giữ im

lặng coi như không biết. Và sau một tuần lễ điều tra không

ra thủ phạm vụ thả trái pháo lên đầu thầy giám thị, hội đồng

kỷ luât của trường đã quyết định đuổi cả lớp 1A2 trong một

tuần lễ, không cho phép bén mảng đến lớp, đến trường. Cả

lớp 1A2 chúng tôi “vui vẻ” chấp nhận hình phạt này và coi

như được nghỉ Tết dài hơn để có nhiều thời giờ ôn lại bài

vở ở nhà. Riêng các chị nữ sinh 1A2 cũng không phản đối

gì về hình phạt do phía nam sinh gây ra. Các chị cũng đồng

ý là có thêm thời gian sửa soạn học thi ở nhà. Sau này anh

Q. đã ngỏ lời cảm ơn toàn thể lớp 1A2 đã “bao che” cho

anh. Ngay sau khi đậu được Tú Tài 2 anh Q. đã được học

bổng đi Đức du học vì anh thuộc loại COCC (có ông anh là

tướng thời bấy giờ.) Tôi vẫn cố hỏi thăm tin tức về anh Q.

và những người bạn cùng lớp 1A2 năm nào. Nhưng đời

Page 167: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 163

người đã có biết bao thay đổi : kẻ trời Đông, người trời

Tây, người còn người mất. Ngay cả đến Đại hội toàn cầu

năm 2015 tại miền Nam California, cũng chỉ còn có 4 bạn

cùng lớp 1A2 về tham dự .

Thế mà đã qua 1 chu kỳ 60 năm ! Năm xưa Đinh Dậu

1957, năm nay cũng lại là Đinh Dậu 2017. Tôi ghi lại đây

vài kỷ niêm xưa để có bạn nào cùng lớp 1A2 đọc được,

cùng nhau ôn niệm.

California, tháng 6 năm 2017

BaLăng Nguyễn Duy Hảo, CVA58

Hình dưới đây có 4 bạn cùng lớp 1A2 niên khóa 1957-58

về tham dự Đại hội B-CVA Toàn cầu kỳ 5 tại Little Saigon

miền Nam Calfornia năm 2015. Từ trái qua phải: Trịnh

Quang Bình (Castro Valley, CA), Nguyễn Đức Năng (San

José, CA), Nguyễn Duy Hảo (Alameda, CA), Hoàng Đình

Chung (Minesota).

Page 168: TOÀN CẦU 2017

Trang 164 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Vĩnh biệt nhà thơ tình ái

Chu Toàn Chung

Lê Duy San CVA 59

Trong số các bạn Chu Văn An ra trường cùng năm

1959 với tôi, Chu Toàn Chung là người tôi không thân lắm

nhưng lại là người tôi rất quý mến vì tính tình hiền lành, dí

dỏm và dễ mến của anh. Anh không bao giờ đem chuyện

xấu của người khác ra nói. Không ưa ai thì anh không nói

chuyện, thế thôi. Đôi khi anh cũng trêu chọc bạn bè, nhưng

bằng những câu thơ trào phúng ý nhị và vô hại. Cho nên

bạn bè của anh không những không giận anh mà còn lấy

làm thích thú chẳng hạn như bài “Nghe phôn” dưới đây mà

anh đã làm để chọc tôi mà bà xã tôi đã ghi lại được như

sau:

Page 169: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 165

Cứ mỗi lần nghe thấy tiếng phôn,

Làm San sợ đến kinh hồn viá,

Chỉ e em bé từ đâu đó,

Kêu lại Bà nghe lại ốm đòn.

Tiếc rằng sợ đấy vẫn ham nghe,

Chứng tỏ San ta vẫn sính chè,

Mỗi bận đầu phôn này nũng nịu,

Nghe rồi Thầy Cãi ngẩn tò te.

Anh Chu Toàn Chung rất thích làm thơ nhất là thơ

tình. Nói tới thơ tình, người ta phải nói tới thơ của anh. Bạn

bè của anh thường gọi anh là nhà thơ chuyên trị thơ tình.

Anh có bút hiệu là Nguyên Thủy. Mặc dầu là một nhà thơ

nổi tiếng, nhưng rất ít người biết bút hiệu này của anh vì

thơ của anh không được anh gửi đăng báo hay gửi lên các

diễn đàn. Anh cũng chẳng đem in thành tập để lưu giữ. Cho

nên đi tìm thơ của anh để đọc thật là khó. Ai thích thơ anh

thì anh đọc cho nghe như bài thơ “Cô hàng cà phê” dưới

đây đã được anh Phạm Ngọc Anh ghi lại như sau:

Cà phê nhớ chỉ một phần,

Nhớ cô chủ quán trăm ngàn lần hơn.

Cà phê hay tóc cô thơm,

Ngẩn ngơ nhì nắng hoàng hôn nhớ người.

Mỗi lần tôi ghé quán cà phê,

Bịn rịn bên ai chẳng muốn vê,

Cứ vậy đứng ngồi dăm bẩy lượt,

Vê thì nhơ nhớ, ở thì quê.

Từ cô mở quán đến hôm nay,

Tính nhẩm năm năm lẻ mấy ngày,

Song chẳng hôm nào tôi vắng mặt,

Điêu này cô chủ cũng thầm hay.

Tự hỏi hay là mình đã yêu,

Không yêu sao lại vấn vương nhiêu?

Không yêu sao lại luôn thầm gọi?

Tên đẹp người ta sớm lại chiêu?

Page 170: TOÀN CẦU 2017

Trang 166 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Đôi lúc nhìn cô đến ngẩn ngơ,

Cà phê trước mặt tự bao giờ,

Nhưng hồn phiêu bạt đâu nào thấy,

Chỉ thấy nghiêng trời đôi mắt cô.

Phải nói rằng cô trông rất xinh,

Bờ môi nũng niụ chứa chan tình,

Hèn chi mỗi bận khi từ giã,

Chân bước mà nghe chẳng giống mình.

Thú nhận rằng tôi đã quá yêu,

Tuy tình nhận được chẳng bao nhiêu,

Song le tôi vẫn yêu thầm kín,

Yêu để cho đời bớt tịch liêu.

Nguyên Thủy-Chu Toàn Chung

Vào đầu năm 2007, tôi là Hội Trưởng hội Ái Hữu

Cựu Học Sinh Chu Văn An Bắc California và cũng là

Trưởng Ban Tổ Chức Hội Ngộ Chu Văn An Toàn Cầu kỳ II

tại San Jose, tôi có xin anh cho mấy câu thơ để quảng cáo

cho Hội Ngộ này. Anh có làm cho mấy câu như dưới đây

và mấy câu này có được đăng trong Tin Thư CVA số 30 ra

ngày 15/01/2007:

Hội Ngộ CVATC kỳ II 2007

Dù anh ở Á hay Âu,

Nhớ ngày Hội Ngộ rủ nhau cùng vê.

Ca Li thơ mộng tràn trê,

Hai ngàn lẻ bẩy (2007), nhớ vê với nhau.

Rủ thêm tà áo thiên thanh,

Cùng vê dự Hội, có anh có nàng.

Nơi đây thung lũng Hoa Vàng,

Toàn Cầu Đại Hội, xin chàng chớ quên.

Chu Toàn Chung (CVA Bắc Cali)

Page 171: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 167

Anh Chu Toàn Chung sinh ngày 12 tháng 11 năm

1937 tại Hưng Yên. Anh là con thứ hai trong một gia đình

gồm 6 anh chị em. Anh là cháu nội của cụ Chu Mạnh Trinh

tức cụ Nghè Phú Thị, một nhà nho nổi tiếng phóng khoáng,

hào hoa và thành thạo cả cầm kỳ thi hoạ. Cụ Chu Mạnh

Trinh có lúc làm quan Án Sát ba tinh Hưng Yên, Bắc Ninh

và Thái Nguyên.

ĐX Thảo, CT Chung, ĐH Châu, LD San, BH Khoát, PH Độ,

NĐ Phương, ĐĐ Lợi và PĐ San

Anh Chu Toàn Chung là cựu học sinh trường Chu

Văn An Saigon. Anh tốt nghiệp Tú Tài Văn Chương vào

năm 1959. Lên đại học, anh theo học tại Đại Học Văn Khoa

Saigon. Sau khi tốt nghiệp Cử Nhân Văn Chương, anh đi

dậy học. Anh bị đông viên khoá 1/68 Thủ Đức cùng anh

Trần Lam Giang. Vì anh ham thi phú, tay anh chỉ quen cầm

bút làm thơ đâu biết cầm súng, cầm gươm để giết người,

nên bạn bè anh ra trường với cấp bậc Chuẩn Úy thì anh ra

trường với cấp bậc Trung Sĩ. Vì học ban Văn Chương nên

anh có chút vốn liếng Anh Ngữ và được cho làm Thông

Page 172: TOÀN CẦU 2017

Trang 168 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

dịch viên. Tuy là Trung Sĩ nhưng anh chơi với toàn cấp Tá

và được các ông này quý mến và rủ đi cà phê, cà pháo tối

ngày, trong đó có Thiếu Tá Đặng Văn Tiếp tức dân biểu

VNCH Đặng Văn Tiếp, người đã bị Bùi Đình Thi, cũng là

tù cải tạo nhưng làm antenna cho Việt Cộng, đánh chết

trong tù cải tạo sau khi ông Tiếp tìm cách vượt ngục nhưng

thất bại (theo lời tố cáo của Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ).

Ngày 30/4/1975, trong khi nhiều người chạy ra bến

Bạch Đằng Saigon tìm đường di tản thì anh Chu Toàn

Chung lang thang trên đường Phan Thanh Giản, gần trường

nữ Trung Học Gia Long, không biết có phải để tìm nàng

thơ hay bóng hồng nào không, thì anh không may bị trúng

đạn pháo kích của Việt Cộng. Anh bị mất một nửa bàn

chân trái.

Với cấp bậc Trung Sĩ, chân lại bị thương tật nên anh

không bị bọn Việt Cộng bắt đi tù cải tạo. Anh sang Mỹ theo

diện anh em bảo lãnh vào thập niên 1980. Với trình độ Anh

ngữ của anh, anh dư sức có thể kiếm được một việc làm tại

văn phòng cho City, County hay State. Nhưng với tính tình

phóng khoáng và thơ thẩn như vậy, làm sao anh có thể sáng

vác ô đi, tối vác về để làm những công việc của một người

công chức như Eligibe Worker hay City, County Clerk?

Vợ anh Chu Toàn Chung cũng là một cô giáo, con

nhà gia thế. Các con anh đều tốt nghiệp đại học và đều khá

giả. Nhưng anh chẳng thích sống chung với vợ con nên kể

từ ngày anh xin được Housing thì anh ở riêng một mình.

Anh thuê một apartment trong một chung cư nằm

trên đường Lucretia gần đường Story, San Jose. Với chiếc

áo vest đậm mầu, với cặp kính đen, hàng ngày anh khập

khiễng đi bộ tới khu Grand Century Mall ngồi trước tiệm

bánh Century Barkery hoặc ngồi bên cạnh nhà hàng Rong

Biển uống cà phê, ngắm nhìn ông đi qua, bà đi lại. Bạn bè

thấy anh thì xà vào ngồi tán gẫu. Anh không thích đông

người, nên khi thấy có đông người tới hoặc có người anh

Page 173: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 169

không ưa thì anh lại đứng dậy đi chỗ khác hoặc lang thang

trung khu Grand Century Mall. Người mà anh hợp ý nhất

và hay đi lang thang với anh nhất có lẽ là anh Bùi Hùng

Khoát.

Trước kia anh hút thuốc lá liên miên. Nhưng kể từ

ngày anh bị pneumonia và phải vào bệnh viện nằm cả tháng

trời thì anh không còn dám hút thuốc nữa.

Anh Chu Toàn Chung có trí nhớ rất tốt. Anh có đọc

một bài ca dao riễu Cộng từ hồi anh còn nhỏ (khoảng 10

tuổi) ở quê anh cho anh Trần Lam Giang nghe và anh

Giang có đọc lại cho tôi nghe như sau:

Hôm qua đi chợ Cống Chiên,

Mua được cái khố bằng tiên Đông Dương.

Trở vê đến chợ Cống Chương,

Bộ đội tước mất, ở truồng tô hô.

Ngửng lên thấy mặt bác Hồ,

Bác ơi, bác rõ cơ đồ này chăng.

Ngoài tài làm thơ tình, anh Chu Toàn Chung còn

biết coi tướng. Tướng số, anh cho biết anh chỉ học qua sách

vở của ông Vũ Tài Lục và trước 1975, anh có duyên với cụ

Diễn (Ngô Hùng Diễn) nên đã học lỏm được vài điều từ cụ.

Không phải ai cũng có thể nhờ anh coi tướng. Chỉ những

người có duyên với anh mới được anh coi tướng và tất cả

đều thán phục anh. Anh coi tướng cũng như làm thơ, vì

hứng chứ không phải vì tiền. Anh không coi tướng để lấy

tiền của ai bao giờ. Đây cũng là lý do mà anh đã được

nhiều bà, nhiều cô ái mộ và bị mang tiếng oan là trăng hoa

khiến bà xã anh phải nhức đầu và khó chịu vì anh. Thực ra

anh rất nghiêm chỉnh trong tình yêu và cuộc đời tình ái của

anh không như người ta tưởng. Dưới đây là bài thơ “U

hoài” của anh đã nói lên nỗi lòng của anh về mối tình đầu:

U hoài

Cô đơn đất khách quê người,

Page 174: TOÀN CẦU 2017

Trang 170 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Héo hon, lạc lõng, nụ cười tri âm.

U sầu, vinh nhục, thăng trầm,

Tai nghe vẳng tiếng nguyệt cầm bi ai.

Oan khiên giọt lệ vắn dài,

Ai đau thương đó, than hoài ngàn năm.

Người bên trời ấy xa xăm,

Chờ bao giờ mới được sang thăm người

Hoa môi em thắm nụ cười,

U hoài năm tháng, tôi lười phiêu du.

Người vê đốt hết tình thư,

Giòng [1]

thời gian vẫn thiên thu vẳng sầu.

Nguyên Thủy – Chu Toàn Chung.

Nếu chú ý một chút, chúng ta còn thấy điểm đặc

biệt của bài thơ này là 8 chữ cái đầu tám câu thơ ghép lại

chính là tên của anh: Chu Toàn Chung. Bài này cũng do

anh Phạm Ngọc Anh ghi lại nhưng có vài chữ khác với bài

do anh Trần Lam Giang ghi lại. Có lẽ đã được tác giả sửa

lại vài chữ cho hoàn chỉnh hơn.

MT Hiếu, NA Cường, NT Dzũng, NT Dực, CT Chung,

LÔ Dương, PĐ San

Page 175: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 171

Đầu tuần trước anh em ngày nào cũng còn thấy anh

lang thang ngoài Grand Century Mall. Nhưng đến Thứ Bẩy

20/11/2015 anh Bùi Hùng Khoát ra Grand Century Mall thì

không thấy. Anh có gọi điện thoại cho anh Chung nhưng

không thấy trả lời. Hôm sau, Chủ Nhật anh Khoát lại ra

Grand Century Maill, nhưng cũng không thấy anh Chung.

Anh gọi điện thoại cũng không được. Anh Khoát liền chạy

lại nhà anh Chung thì thấy cửa khoá. Anh tới nhà cô em

anh Chung cũng ở cùng building để hỏi thăm thì được cô

cho biết là anh Chung đã qua đời. Anh chết khi đang ngồi ở

chiếc sofa nơi phòng khách có lẽ từ hai hôm trước mà

không ai biết. Anh ra đi một cách thanh thản, yên lặng,

không đau đớn, không ồn ào, nhưng anh đã để lại không

biết bao thương nhớ cho vợ con và bạn bè.

Nghe tin anh mất, bạn bè anh, ai cũng ngạc nhiên,

bàng hoàng và xúc động, nhất là các anh em thường lui tới

Grand Century Mall để uống cà phê, đấu láo như các anh

Nguyễn An Cường, Bùi Anh Dũng, Trần Cảnh Được, Đoàn

Phương Hải, Nguyễn Văn Hội, Nguyễn Mộng Hùng, Trần

Văn Hồng, Vi Văn Hồng, Mai Văn Hiếu, Bùi Hùng Khoát,

Nguyễn Xuân Nam, Phạm Xuân Phượng, Phạm Văn Sáu,

Trần Ngọc Sơn, Nguyễn Thanh Sơn, Phạm Tài Tấn, Trịnh

Như Toàn, Đàm Quang Toán, Phạm Bằng Tường, Huỳnh

Thắng, Nguyễn Hưu Trương v.v...

Anh Trần Huy Bích ở Nam Cali ngay sau khi biết

tin anh qua đời cũng đã gửi lời chia buồn cùng gia đình anh

và:

Mong anh

.... dựng một thiên cầu

Bể xanh vĩnh viễn, nương dâu đời đời.

Tiên sinh ôn việc đổi dời

Xiết bao ngờ vực: kiếp người đó ư?[2]

Anh Chu Toàn Chung đã bỏ anh em đi trong yên

lặng để lại không biết bao kỷ niệm cho anh em. Không biết

anh có biết rằng anh bỏ đi, các bạn bè anh buồn lắm không?

Page 176: TOÀN CẦU 2017

Trang 172 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Anh bỏ bạn bè không nói làm gì, sao anh nỡ lòng nào bỏ cả

vợ con ? Xin vĩnh biệt anh, người bạn yêu quý của tôi.

Nguyện cầu hương linh anh sớm được tiêu diêu

miền cực lạc.

Lê Duy San

(11/2015)

Chú thích:

(1) Đúng chính tả phải viết là “Dòng thời gian ...” mới

đúng. Nhưng để đúng tên anh, nên anh đã viết là

“Giòng thời gian ...”

(2) Mấy câu thơ này là thơ của thầy Vũ Hoàng Chương, ở

bài "Duyên mùa tận thế" trong tập Rừng Phong của

thầy.

Page 177: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 173

Hải Quân Thiếu Tá

LÊ ANH TUẤN

và Căn Cứ Tuyên Nhơn

Phan Lạc Tiếp

LTS: Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn (1943-1975) là cựu

học sinh Chu Văn An Chức vụ sau cùng của anh là Chỉ

Huy Trưởng Giang Đoàn 43 tại Tuyên Nhơn. Ngày

30/4/75, sau khi nghe tin ĐT Dương Văn Minh đầu hang,

anh đã chở đồng bào tị nạn tới nơi an toàn rồi anh đã dung

cúng Colt bắn vào đầu tự sát. Bài viết dưới đây của nhà

văn Phan Lạc Phúc dược căn cứ vào các cuộc gặp gỡ giữa

tác giả và Hải Quân Thiếu tá Lê Anh Tuấn lúc còn sinh

Page 178: TOÀN CẦU 2017

Trang 174 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

tiên, Trung Sĩ Vận Chuyển Nguyễn Văn Lực, cuốn Hải

Quân Việt Nam Cộng Hòa Ra Khơi của ĐiệpMỹ Linh.

Kể từ giữa năm 1974, người lính Mỹ đã là một hìh

ảnh xa mờ trên chiến trường Việt Nam. Riêng Hải Quân

Việt Nam (HQVN), như hoàn cảnh chung của quân đội, sự

thiếu hụt về tiếp liệu, cơ phận thay thế là lẽ đương nhiên,

nhưng bờ biển Việt Nam vẫn được các chiến hạm, chiến

đĩnh ngày đêm đan kín. Việc tiếp tế của Hà Nội cho cộng

sản miền Nam chỉ còn trông vào đường bộ trên hệ thống

đường mòn Hồ Chí Minh. Con đường huyết mạch của cộng

sản chạy dọc theo mé Tây của dãy Trường Sơn, nằm trên

đất Lào, vào sâu tận biên giới Miên-Việt. Từ đó, từ Mỏ

Vẹt, và dọc theo biên giới Việt Miên, nhất là xuôi theo 2

con sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây thâm nhập qua các

sông lạch chằng chịt vào đồng bằng Cửu Long.

Hai con sông Vàm Cỏ chạy xuôi theo hướng Tây

Bắc - Đông Nam, ở ngay phía Tây Nam Saigon. Một giải

đất trù phú trong vòng tay 2 con sông ấy là các điểm chiến

lược có ảnh hưởng đến sự an nguy của Saigon: Quốc Lộ 4,

cầu Bến Lức, cầu Long An, nhất là các con kinh song-song

nhau theo hướng Đông-Tây, là mạch máu nối liền với sông

Tiền, sông Hậu. Một con kinh đã đi vào lịch sử của cuộc

chiến Việt Nam, ít nhất là ở giai đoạn cuối cùng của cuộc

chiến: kinh Đồng Tiến. Kinh Đồng Tiến, bít đầu từ ngã ba

chợ Tuyên Nhơn, ở hữu ngạn sông Vàm Cỏ Tây. Trước

đây, Quận Tuyên Nhơn đóng tại ngã ba này. Sau với áp lực

quá mạnh của Việt Cộng, Quận Tuyên Nhơn, Chi Khu

Tuyên Nhơn và cả đơn vị Pháo Binh 105 ly cùng di chuyển

vào nằm sát bên cạnh Căn Cứ Hải Quân Tuyên Nhơn.

Căn cứ Hải Quân Tuyên Nhơn, nằm ở bờ Nam kinh

Đồng Tiến, cách ngã ba chợ Tuyên Nhơn độ 3 cây số.

Trước mặt là bờ kinh, làm bãi ủi cho các chiến đĩnh. Mặt

kinh rộng độ 100 thước. Bên kia bờ là một bức tường đất

cao, trên đó một hàng rào sát, kết lại bằng các mặt lưới

Page 179: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 175

chống đạn B-40. Ngoài hàng rào là la-liệt những ổ mìn do

Đội Tác Chiến Điện Tử thiết trí. Ở từ hàng rào này chạy

suốt về hướng Bắc là một rừng cây đước âm u, nơi xuất

phát của các cánh quân cộng sản từ biên giới Miên tiến về,

với chằng chịt những con lạch nhỏ. Tại bãi mìn này là nơi

mà các cán binh cộng sản lần lượt bỏ xác lại không thể nào

đếm xuể.

Ngoài các công việc nguy hiểm như hành quân, truy

lùng, và tiêu diệt quân cộng sản, những người lính Hải

Quân Việt Nam Cộng Hòa còn thực hiện nhiều công tác

dân-sự vụ để giúp đỡ và duy trì nếp sống cho những dân

lành sinh sống quanh vùng. Hình chụp một binh sĩ Hải

Quân Việt Nam Cộng Hòa thuộc lực lượng Thủy Bộ đang

cùng một người bạn cố-vấn Mỹ thăm viếng và tiếp tếp một

số dân làng sống dọc theo bờ sông Bassac (hình ảnh:

special collection).

Căn cứ Tuyên Nhơn, chạy dọc theo mé kinh, bờ

Nam, dài độ 200 thước, rộng không quá 100 thước. Phía

mặt và phía sau căn cứ cũng dầy đặc một băi mìn. Sát

ngang hàng rào, phía tay trái là sân đáp trực thăng, và sau

đó Quận Đường Tuyên Nhơn. Nơi đồn trú của Liên Đoàn

Đặc Nhiệm 214-1, gồm Giang Đoàn 43 Ngăn Chận và

Giang Đoàn 64 Tuần Thám. Đây là cái gai khó nuốt của

cộng sản, là trở ngại chết người trên con đường huyết mạch

của địch.

Vào thời gian cuối của cuộc chiến, lực lượng mạnh

mẽ của Việt Cộng tại vùng này là Đoàn 232, có nhiệm vụ

san phẳng vùng này, cắt đứt Quốc Lộ 4, để làm bàn đạp

đưa quân và đồ tiếp liệu tư biên giới Việt-Miên về Vùng 4

Chiến Thuật. Chúng đã cố sức nhiều lần muốn san phẳng

Căn Cứ Tuyên Nhơn, nhưng, dù rất nhiều lần tấn công tàn

bạo, Căn Cứ Hải Quân Tuyên Nhơn vẫn còn đó. Sau đây là

những trận đánh tiêu biểu trong thời gian ấy.

Page 180: TOÀN CẦU 2017

Trang 176 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

NHỮNG TRẬN THƯ HÙNG ÁC LIỆT.

Đêm 6 tháng 12 năm 1974, một trung đoàn cộng

sản Bắc Việt (CSBV) đã tràn ngập khu này, san phẳng các

đồn bót, chiếm chợ Tuyên Nhơn. Chúng dùng hỏa tiển 122

ly pháo như mưa vào Căn Cứ Hải Quân Tuyên Nhơn trước

khi cho bộ binh tấn công. Dưới cơn mưa pháo, các mái nhà

trong căn cứ đều bay hết, nhưng Căn Cứ Tuyên Nhơn vẫn

đứng vững. Mọi quân nhân và gia đình binh sĩ được ở dưới

hầm. Chi Khu Tuyên Nhơn, nằm sát căn cứ cũng vẫn còn

đó. Xác địch nằm la liệt bên hàng rào đơn vị.

Đêm hôm sau, 7 tháng 12 năm 1974, Việt Cộng lại

tấn công tàn bạo hơn. Căn cứ Hải Quân và Chi Khu Tuyên

Nhơn vẫn chống trả mãnh liệt. Địch lại phải rút, bỏ lại 12

xác chưa kịp đem đi. Để giải tỏa áp lực, Sư Đoàn 9 Bộ

Binh mở cuộc hành quân chận đường tiến quân của địch.

Ngày 11 tháng 12 năm 1974, bộ binh được trực thăng vận

đến. Một đại đội Trinh Sát, khi sắp sửa đáp xuống sân bay,

chiếc Chinook bị bắn rơi bằng hỏa tiển SA-7. Chiếc trực

thăng bốc cháy, và hầu như rất ít người sống sót. Chiếc trực

thăng rơi xuống như một khối lửa trước sự chứng kiến của

toàn thể thủy thủ đoàn trên các chiến đĩnh nằm tản mát trên

mặt kinh. Sau trận thư hùng này, mặt trận Tuyên Nhơn có

phần lắng dịu. Sự lắng dịu của đợi chờ, và đón nhận những

trận thư hùng khác ác liệt hơn.

Ngày đó cũng không xa. Đó là ngày 26 tháng 3 năm

1975, một cuộc tấn công quy mô hơn, tàn bạo hơn và cũng

liều lĩnh hơn đã được diễn ra tại vòng rào Căn Cứ Hải Quân

Tuyên Nhơn. Như một định mệnh khắc nghiệt, một thử

thách lạ lùng, trong các đụng độ trên, cũng như cuộc thư

hùng ác liệt hôm 26 tháng 3 năm 1975, Chỉ Huy Trưởng

Liên Đoàn Đặc Nhiệm 214-1, Hải Quân Thiếu Tá Đoàn

Quang Vũ hoặc đi hội, hoặc đi phép, cả căn cứ gồm 2

Giang Đoàn 43 Ngăn Chận và 64 Tuần Thám, chỉ có Hải

Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn là sĩ quan thâm niên hiện

Page 181: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 177

diện. Chính Thiếu Tá Tuấn đã lần lượt phải gồng mình

chống lại các cuộc tấn công này. Cuộc thư hùng thật khốc

liệt. Trận địa, sau một đêm tốc chiến, xác địch ngổn ngang,

chồng lớp. Sau trận này, Tuấn có mặt tại Saigon, và sau đây

là cuộc đụng độ ác liệt được viết lại theo lời kể của “Người

Hùng Tuyên Nhơn,” như sau:

Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thông, Tư Lệnh Lực

Lượng Trung Ương vị chỉ huy trực tiếp của Thiếu Tá Tuấn,

sau lần thanh tra, nhắc “các cậu phải cẩn thận tối đa nghe.”

Rồi Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Tư Lệnh Hạm Đội Đặc

Nhiệm 21, chỉ huy tất cả các lực lượng trong sông ở Vùng

4 cũng như các căn cứ trong vùng, cũng nhắc: “Cẩn thận

nghe Tuấn...” Tuấn chỉ “dạ” rồi nhìn lên tấm bản đồ trong

phòng hành quân. Các vị trí phản pháo đã săn. Các điểm

hỏa lực cũng được bố trí thật chu đáo. Có điều Tuấn lo là

tình trạng căng thẳng kéo dài quá lâu sợ tinh thần anh em

nản và lơ là. Vì thế, giữa cơn lo cực độ, Tuấn phải làm ra

vẻ cười đùa. Buổi chiều Tuấn hay uống bia. Đôi khi Tuấn

đem chai bia Quân Tiếp Vụ ra ụ súng uống với lính.

Hai giờ sáng, Tuấn vẫn còn thức, chăm chú trên các

trang sách của cuốn Công Pháp Quốc Tế. Tuấn gập sách

lại, đi một vòng căn cứ, luồn trong các đường hầm. Cùng

lúc ấy Tuấn gọi cho các chiến đĩnh đang tuần tiễu, phân

tán, phải săn sàng theo kế hoạch đã ấn định. Tuấn đứng trên

nóc lô cốt chính nhìn ra bốn phía. Những hàng đèn vàng èo

uột lấp loáng qua những hàng kẽm gai. Gió từ mặt kinh thổi

mát. Mặt kinh vẫn phẳng lặng. Không hiểu sao Tuấn thấy

rờn rợn. Tuấn định thần lại và sao thấy thiếu hẳn tiếng vạc

bay qua bầu trời. Tuấn cho đèn pha chiếu ra hàng rào ở mặt

trước căn cứ. Ánh sáng vừa loé lên, Tuấn thấy ở ngoài hàng

rào, lính cộng sản lô nhô, tức thì từng tràng đạn bùng lên từ

hai phía.

Ngay lúc ấy, hỏa lực của quân đội tại các ụ súng

phản pháo ngay. Các chiến đĩnh tản mác trên mặt kinh

được tức tốc chạy về. Địch đã đen kịt ở hàng rào trước mặt

Page 182: TOÀN CẦU 2017

Trang 178 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

căn cứ bên kia sông. Chúng như đàn chó đói, không sợ

chết, đang muốn vượt rào lội qua kinh để cướp tàu và áp

đảo căn cứ. Các khẩu đại bác trên các chiến đĩnh bình tĩnh

đan chéo những lằn đạn. Xác địch rụng xuống như sung.

Đợt xung phong của chúng tạm ngừng.

Trận địa bỗng yên lặng ghê rợn. Rồi một loạt hỏa

tiển 122 ly, có lẽ từ chợ Tuyên Nhơn, câu vô, rất chính xác,

nổ tung trên căn cứ và cả mặt trước. Các chiến đĩnh vội tản

ra để tránh pháo. Pháo ngưng. Lại một đợt xung phong

khác ở sau hàng rào bên kia bờ đất sát con kinh. Chúng lại

ào ào muốn lội qua kinh. Súng ở các ụ súng từ ven bờ kinh,

trên căn cứ bắn ra như mưa. Một số địch quân đã qua được

bên này kinh, bờ Nam, dùng bộc phá cắt đứt hàng rào. Tất

cả diễn tiến ác liệt nói trên Tuấn đều báo cáo đầy đủ. Trời

đã gần sáng. Địch đã khá đông ở ngoài hàng rào, đồng loạt

hô xung phong. Đúng lúc ấy, loạt mìn đĩa, hướng ra sông

nổ bùng. Từng xác người bay lên, rồi im bặt. Mặt trận lắng

lại như qua một cơn mê. Trời đã sáng. Mặt kinh phẳng

lặng. Các chiến đĩnh lần lượt quay về căn cứ. Tuấn cầm

máy báo cáo lên thượng cấp: “Địch đã rút. Xác địch nằm

đầy ngoài hàng rào.”

Vào khoảng 11 giờ trưa, 27 tháng 3 năm 1975,

chiếc trực thăng đáp xuống. Thượng cấp là Hải Quân Đại

Tá Nguyễn Văn Thông, và Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng.

Trận địa vẫn ngổn ngang xác địch và âm ỷ khói than. Ngoài

một số vũ khí vừa thu nhặt lại, còn rất nhiều xác địch nằm

ở hàng rào mặt tiền đơn vị, cũng như ở gần bên kia hàng

rào, phía bờ Bắc con kinh.

Kết quả của cuộc phản công này của căn cứ Hải

Quân Tuyên Nhơn, đã làm địch khiếp vía và tất nhiên tràn

ngập căm thù. Bên ta, hơn 30 chiến sĩ tử trận và bị thương.

Tuấn, Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn, được Thiếu Tướng

Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn IV, Vùng IV

Chiến Thuật, nhiệt liệt ngợi khen, và đề nghị thăng cấp

Trung Tá tại mặt trận. Nhưng phải chăng đó cũng là niềm

Page 183: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 179

vinh quang báo trước sự bất hạnh của một người anh hùng,

đôi bên chẳng đội trời chung. Xác địch được vứt lên GMC,

đem đi chôn tập thể. Một số xác địch chìm dưới lòng kinh,

mấy hôm sau mới nổi lên trôi đi, trôi lại trên khúc sông

này. Chợ Tuyên Nhơn cách căn cứ 3 cây số. Một số dân

còn ở lại, nhìn xác địch nỗi trôi mà bàn tán, lắc đầu. Đồng

thời tên Lê Anh Tuấn khét tiếng khắp vùng.

PHÚT CUỐI CỦA MỘT ANH HÙNG.

Tại căn cứ chiến lược Tuyên Nhơn, vào các ngày

chót của cuộc chiến nơi đồn trú của Liên Đoàn Đặc Nhiệm

214-1 vẫn sinh hoạt đều hòa, bình tĩnh. Mặc dù, gần một

nửa chiến đĩnh đã bất khiển dụng, một phần là trúng đạn

pháo kích của địch, một phần là các cơ phận thay thế đã

không còn. Chiến đĩnh nằm gác mũi vào bờ như những lô

cốt tiền sát. Qua tin tình báo và qua sự phát hiện tình cờ của

dân, đại quân của địch dù không “nuốt” được căn cứ Tuyên

Nhơn, cũng đã tràn từ biên giới Việt-Miên về. Các đồn bót

phía Bắc kinh Đồng Tiến đã bị tràn ngập. Bên kia sông

Vàm Cỏ Đông, Công Trường 7 của địch ào ạt từ Mỏ Vẹt,

Đồng Tháp Mười tiến qua kinh Ngang, đang áp đảo phía

Bắc con kinh Thủ Thừa, nối liền hai nhánh sông Vàm Cỏ

Đông và Vàm Cỏ Tây. Địch im lặng như thầm nhủ: “Để đó,

rồi mày sẽ biết tay tao.”

Lúc ấy, Saigon đang ở vào giai đoạn chót của cuộc

chiến. Mặt trận Xuân Lộc, là một biểu lộ dũng mãnh của

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cửa ngõ của Saigon. Chính

trị rối ren. Dân chúng thủ đô bắt đầu rối loạn. Nhưng cả

Vùng 4 vẫn còn yên. Căn cứ Tuyên Nhơn vẫn bình thản đợi

chờ một cuộc thư hùng khác. Nhưng không, tất cả vẫn thật

là êm ả dù áp lực của địch mỗi lúc mỗi khép lại dần, mỗi

lúc mỗi thấy khốc liệt. Ánh mắt của dân trên các con đường

qua lại, như có điều gì lo âu, e ngại. Các mặt trận khác mỗi

lúc mỗi ác. Tới tối ngày 29 tháng 4 năm 1975, Tư Lệnh

Page 184: TOÀN CẦU 2017

Trang 180 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Phó Lực Lượng Trung Ương, Hải Quân Đại Tá Vũ Xuân

An gọi cho Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn: “Bằng mọi

cách phải đưa đơn vị rời Tuyên Nhơn.” Cùng lúc này, Đại

Tá An cho Tuấn hay là “quân đội mình đã rã ngũ,” Tuấn

liên lạc lại với Hải Quân Thiếu Tá Phạm Văn Tạo, Chỉ Huy

Phó Liên Đoàn Đặc Nhiệm có mặt tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn

9 Bộ Binh, để được xác nhận: “Bộ Tư Lệnh Hải Quân

Saigon và Hạm Đội đã ra đi.”

Tầu Hải Quân Việt Nam chở đồng bào chạy trốn cộng sản

Trước hoàn cảnh này, Tuấn, với tư cách sĩ quan

thâm niên hiện diện tại căn cứ chiến lược Tuyên Nhơn, đã

họp các sĩ quan và các thuyền trưởng lại, tại hầm chỉ huy,

và tuyên bố: “Nhân danh Tư Lệnh Hải Quân, tôi tuyên bố

giải nhiệm các đơn vị trong vùng trách nhiệm... mình phải

ra khỏi đây, về Bến Lức, hoặc xuôi ra biển.” Để có thời giờ

thu xếp cuộc lui quân, đơn vị vẫn sinh hoạt điều hòa, các

vọng canh vẫn cẩn mật.

Sáng hôm sau 30 tháng 4 năm 1975 căn cứ Tuyên

Nhơn vẫn như thường. Quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa vẫn

phất phới trên cột cờ giữa sân đơn vị. Tất cả quân nhân các

cấp toàn căn cứ và thân nhân kể cả đàn bà và trẻ nhỏ độ

250 người, các chiến đĩnh còn hoạt động được của cả 2

Giang Đoàn 64 Tuần Thám và Giang Đoàn 43 Ngăn Chận

Page 185: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 181

là 23 chiếc. Mọi sửa soạn để ra đi rất bình tĩnh, chu đáo. Vì

thế, lúc gần trưa 30 tháng 4 năm 1975, khi Đại Tướng

Dương Văn Minh, TổngThống Việt Nam Cộng Hòa tuyên

bố: “Tôi yêu cầu anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hãy

bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó.”, thì căn cứ Tuyên

Nhơn đã sắp sửa hoàn tất để lên đường. Tuân theo chỉ thị

nói trên, tất cả các chiến đĩnh của căn cứ đều cắm một

mảnh vải trắng trên cần ăng ten, nhưng Quốc Kỳ Việt Nam

Cộng Hòa vẫn bay phất phới ở sau lái tàu.

Tầu Hải Quân HQ 7773

Mọi người xuống tàu vào lúc 5 giờ chiều. Trên bờ

lính bộ binh, ở ngoài hàng rào đơn vị đứng đầy. Họ ngơ

ngác, cổi áo, buông súng, nhìn theo. Trong đám người ấy

cũng có các cán binh cộng sản đội nón cối.... Đoàn tàu đi

rất chậm. Chiếc HQ 7773 do trung sĩ vận chuyển Nguyễn

Văn Lực, đi sau cùng. Chỉ độ nửa giờ đoàn tàu đã ra tới ngă

ba kinh Đồng Tiến và sông Vàm Cỏ Tây, rẽ mặt, xuôi theo

con nước, đi về phía hạ giang. Theo anh Lực nói lại: “Tàu

tiến thận trọng, lệnh ra là không được khai hỏa, nhưng phải

săn sàng. Mà, lạ lùm, trước đây ở miệt này, khi đi tuần chỉ

thấy bờ sông tối om. Sao mà hôm nay ở hai bên bờ, nhất là

bên phía mặt, có nghĩa là vùng đất phía Nam căn cứ Tuyên

Nhơn, đèn đóm ở đâu mà trùng điệp như sao xa.” Vẫn theo

lời anh Lực kể: “Ông Tuấn dặn rất kỹ cố rời căn cứ, nếu

không đến Bến Lức được thì ra biển. Trên các chiến đĩnh

đồ ăn đem đủ cho 2 đến 3 tuần.”

Page 186: TOÀN CẦU 2017

Trang 182 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Bỗng trên hệ thống âm thoại chỉ huy, có tiếng nói

của Việt Cộng xen vào rất rành rẽ: “Các anh hãy buông

súng xuống, lần lượt từng chiếc một ủi bãi vào bờ bên trái.”

Đoàn tàu khựng lại một chút và được lệnh cứ tiến. Tiếng

nói của địch rạ hạn: “Các anh hãy nghe lệnh của Quân Đội

Giải Phóng, buông súng và ủi bãi, từng chiếc một.”

Đoàn tàu cứ đi. Rồi một trái đạn bùng lên, xanh lè ở

phía trước đoàn tàu, và tôi nghe trên máy, (lời anh Lực), số

1 của 43 đã chết.” Đoàn tàu như không còn linh hồn nữa,

chùng lại. Tiếng lệnh của địch lại vang lên. Tàu tôi, chiếc

7773, đi sau chót, sát bờ bên phải, thấy xe tăng Việt Cộng

đen ngòm lội ở phía sau tàu, đang hướng đại bác vào tàu

mình. Thế là đoàn tàu lần lượt ghé mũi vào bờ bên trái con

sông Vàm Cỏ Tây, dưới ánh đèn pin ra lệnh của địch. Lúc

ấy, lúc ông Tuấn tự tử chết bằng súng Colt, vào khoảng 12

giờ đêm ngày 30 tháng 4/1975. Ông Tuấn tự tử ý ông

không muốn đầu hàng địch, mà dù có hàng địch dễ gì

chúng tha mạng cho ông. Còn có 3 người nữa chết vì bị đạn

địch bắn ra.

Xác ông Tuấn, theo anh em kể lại, vẫn lời anh Lực,

được cuốn trong cuốn drap trắng, và tẩm liệm đêm hôm ấy,

vào khoảng 3-4 giờ sáng. Người ở gần ông Tuấn, lo lắng

cho ông là anh Uy, Trung Sĩ Vận Chuyển Uy.

Sau này, gia đình anh Tuấn đã từ Mỹ về đến bờ

sông Vàm Cỏ Tây tẩm mộ anh Tuấn, thấy ngôi mộ đã được

dân chúng tự động xây cất rất to, đẹp. Đào lên giấy tờ bọc

plastic vẫn còn nguyên. Hài cốt anh đã được hỏa thiêu và

đem qua Mỹ. Gia đình Hải Quân đã làm lễ tiếp đón và truy

điệu rất trang nghiêm. Nhiều bạn bè, đại diện các đoàn thể

đến nghiêng mình trước di hài và di ảnh của Một Kẻ Anh

Hùng Ðã Chết Không Hàng Giặc.

Page 187: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 183

NHỮNG NGÀY TRONG TAY GIẶC.

Anh Nguyễn Văn Lực, Trung Sĩ Vận Chuyển, cựu

“Bố Kép” của Giang Đoàn 64 Tuần Thám kể lại:

Lên bờ thì các sĩ quan mình chúng đem đi đâu riêng

biệt. Còn tụi tôi, đâu ở đó, vẫn ở dưới tàu. Súng ống, đạn

dược vẫn còn nguyên, lúc đầu cũng sợ, sau quen dần. Các

nhân viên khác thì chúng cấp giấy cho về nhà, ngoại trừ

nhân viên cơ khí và thuyền trưởng, chúng giữ lại. Nhưng

các anh em khác, nhà gần, ở Saigon, hay đâu đó ở Miền

Nam lần lượt trốn về. Nhà tôi tận Đà Năng xa quá, không

dám trốn. Tàu tôi, (vẫn lời anh Lực) chúng cho 2 người

xuống ở cùng, đem theo súng ống. Một anh là Thượng Sĩ

Điều, đặc công bờ, gốc Nghệ An. Anh Điều nói, đại đội tôi

từ Bắc vào, giờ chỉ còn trên 10 đứa.

Anh Điều còn nói: “Cách 5 hôm trước khi các anh

buông súng, tôi có theo dõi tàu anh, biết anh là “Bố Kép”

của tàu. Tôi nhắm B-40 bắn, chưa bóp cò thì các anh đã

phản pháo, cành cây trước mặt tôi gãy, chứ nếu chậm chút

xíu thì tàu anh đã tiêu!”

Anh Uẩn, Chuẩn Úy, đặc công thủy nói: “Chúng tôi

được huấn luyện vào Nam để cướp tàu Mỹ.” Vẫn lời anh

Lực kể: “Tôi phải ở lại với bọn chúng gần 3 tháng, phải lái

tàu cho tụi nó đi đây đi đó, có lúc ghé chợ Tuyên Nhơn,

ngang ngã ba vào căn cứ. Tàu ghé chợ, gặp mấy người bán

hàng quen họ nói: “Ủa, chớ anh “Bố Kép” qua bên này hồi

nào. Thì mình chỉ cười trừ cho qua chứ nói sao.”

“Bố Kép” tên gọi quen thuộc, vừa thân tình, vừa có

chút uy lực của một vị thuyền trưởng chỉ huy một chiến

đĩnh của mình trong lửa đạn. Ai được làm thuyền trưởng là

một danh dự, thường đã phải trả bằng những gian lao, cực

khổ, nhiều khi là máu của chính mình. Trước các thuyền

trưởng của Mỹ, được họ gọi là “Bố Kép” có lẽ là chữ Boat

Cap mà ra. Anh Lực cũng không biết có phải như thế

Page 188: TOÀN CẦU 2017

Trang 184 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

không, nhưng ai đã là “Bố Kép” là một tay súng cừ khôi, là

một chiến sĩ can trường, có thể làm mọi thứ trên chiến đĩnh,

nhất là phải biết cách chỉ huy đàn em, những người lăn lộn

trong lửa đạn, coi cái chết như một sự tình cờ. “Bố Kép,”

cái tên lan ra cả một vùng lân cận: Anh A ngon à, sắp làm

“Bố Kép.”

“Bố Kép” Lực cho hay: “Giang Đoàn 43 Ngăn

Chận và Giang Đoàn 64 Tuần Thám về tay tụi nó, do tên

Tám Quốc chỉ huy. Tám Quốc người Mỹ Tho, và đơn vị có

tên mới là C-15. Còn tất cả tàu bè của mình tụ về Bến Lức,

dưới sự chỉ huy của tên Trần Đối, cứ như tên và chức vụ

mà Trần Đối ký trên giấy di chuyển của tôi thì Trần Đối là

Tham Mưu Trưởng Công Trường 5 của quân giải phóng.”

Được dịp nói chuyện với “Bố Kép” Lực, người viết

có hỏi một câu chót: “Anh nghĩ gì về cuộc chiến cũ.” Anh

Lực nói: “Thì mình là dân phải đi lính. Bên kia cũng thế.

Lúc chưa đình chiến thì bắn nhau. Ngưng tiếng súng, gặp

lại nhau thấy sao buồn cười quá.” Hiện anh Lực ở San

Diego, các con anh đã lớn, thành đạt. Anh làm nghề xây

cất, kể như rất thành công.

Phan Lạc Tiếp, 10/1999

*

Page 189: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 185

Nhớ

Phạm Đình Chương

Phan Lạc Phúc

LTS: Phan Lạc Phúc tức ký giả Lô Răng, sinh năm 1928 tại

phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây Bắc Việt. Ông theo học trường

Văn Khoa Sài Gòn, trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức (khoá

2) và Trường Thông Tin Báo Chí Rochelle University Hoa

Ky. Ông là cựu Chủ Bút nhật báo (quân đội) Tiên Tuyến.

Sau năm 1975 ông bị đưa đi tù cải tạo 10 năm. Năm 1991

ông đã sang Úc định cư ở Sydney. Ông mất ngày 25/4/2016

tại Bonnyrigg NSW. Australia.

Page 190: TOÀN CẦU 2017

Trang 186 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương ra đời tại Hà Nội vào năm

1929, trong một gia đình nghệ sĩ, học Trường Bưởi, tản cư vào

Thanh Hóa sau Toàn Quốc Kháng Chiến chống Pháp 1945. Sáng

tác nhạc trước tuổi 20, ông là tác giả những ca khúc dân tộc

như Tiếng Dân Chài, Ly Rượu Mừng, Hội Trùng Dương, hay

những sầu khúc nhạc phổ thơ như Nửa Hồn Thương Đau, Mắt

Biếc, Mộng Dưới Hoa, Người Đi Qua Đời Tôi ...

Tới Hoa Kỳ được ít năm, Phạm Đình Chương từ trần tại Quận

Cam, California vào ngày 13 tháng 7 năm Tân Mùi, nhằm ngày

22 tháng 8 năm 1991. Bài dưới đây của nhà bỉnh bút Phan Lạc

Phúc, hay Ký giả Lô Răng, một bạn học của nhạc sĩ từ Trường

Bưởi, được viết ngay sau khi có tin buồn.

*

Chuông điện thoại réo lên trong đêm khuya. Một cú

phone từ bên kia Thái Bình Dương, từ Mỹ báo tin: “Phạm

Đình Chương đã mất rồi, Hoài Bắc không còn nữa”. Tôi

đặt phone xuống mà thấy đêm khuya thêm vắng lặng mênh

mông. Ở cái tuổi mình, trên 60, cái ranh giới tử sinh thật là

mờ ảo, ở đấy rồi đi đấy, còn đấy mà mất đấy. Thành ra ít

lâu nay, tôi cứ phải làm một con tính trừ thê thảm. Mấy

năm trước mất Thanh Nam, rồi Vũ Khắc Khoan, bây giờ

Phạm Đình Chương - Hoài Bắc. Già thì càng cần có bạn,

mà bạn già thì càng ngày càng thưa thớt. Tôi đi cải tạo 10

năm, rồi sống nín thở trên 6 năm, vừa mới lặn ngòi ngoi

nước sang được đến đây thì bạn đã đi vào tịch mịch. Bạn ta

Phạm Đình Chương đã đi thật rồi, một người viết ca khúc

tầm cỡ của Việt Nam đã mất, ngôi sao bản mệnh của Ban

Hợp Ca Thăng Long đã tắt.

Tôi chơi với Phạm Đình Chương đã lâu, vào

khoảng năm 1942 - 1943, hồi tụi tôi vừa mới lớn lên. “Khi

mới lớn tuổi mười lăm, mười bảy. Làm học trò mắt sáng

với môi tươi” [1]

. Tôi biết Chương trong ngày hội học sinh

Trường Bưởi, trong những buổi cắm trại ở chùa Trầm, chùa

Thày, Tây Phương Hoàng Xá [2]

Ngày ấy, chúng tôi say mê hát “Quê nhà tôi chiêu

Page 191: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 187

khi nắng êm đêm” [3]

, “Này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời

sông núi” [4]

và Chương đã là một tay đàn giọng hát khá

nổi của học sinh Hà Nội. Nhưng mà Chương có hai người

anh nổi tiếng: anh Phạm Đình Sĩ, một cây “kịch” và

anh Phạm Đình Viêm, một cây “tenor”. Chương còn có

một người chị trứ danh, chị Thái Hằng, hoa hậu “bất thành

văn” của suốt một miền Bạch Mai - Phố Huế. Còn người

em út của Chương, Thái Thanh thì lúc ấy Thái Thanh còn

nhỏ, đang còn học tiểu học, còn là một nụ hoa. Phải đợi đến

thập niên '50, bông hoa Thái Thanh mới bắt đầu rực rỡ và

tiếng hát Thái Thanh mới được lên ngôi.

Ban Hợp Ca Thăng Long:

Hà Nội ngày ấy tuy được mệnh danh là Hà Thành

hoa lệ hay là Hà Nội của ba mươi sáu phố phường nhưng

thực chất nó là tỉnh nhỏ - người ta biết nhau cả, trực tiếp

hay gián tiếp. Và tỉnh nhỏ nó còn có tục lệ riêng của nó.

Thế hệ tiền bối ở Hà Nội có tiêu chuẩn “phi cao đẳng bất

thành phu phụ”. Thời tụi tôi thì cái standard về một đấng

trượng phu nó nôm na và thực tiễn hơn: “Đẹp trai, học

giỏi, con nhà giàu”. Phạm Đình Chương xét ra hội đủ

Page 192: TOÀN CẦU 2017

Trang 188 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

những điều kiện ấy: Học trò Trường Bưởi, người cao ráo

sạch sẽ lại là cậu út trong một gia đình nổi tiếng. Lại còn

đàn ngọt, hát hay, còn là ca trưởng của học sinh trong

những dịp hội hè, cắm trại. Trong con mắt tôi, một anh học

trò nhà quê ra tỉnh học, từ thời áo dài mũ trắng thì Phạm

Đình Chương tư cách quá.

Thời ấy, Nhật đã vào Đông Dương. Thế Chiến thứ

hai đang hồi quyết liệt, bom Mỹ dội xuống đùng đùng. Các

thành phố phải “phòng thủ thụ động”, các trường học phải

đi xa hoặc dời về miền quê. Đang học mà có còi báo động

là nghỉ; học trò kéo nhau ra các khu cây cối um tùm, hoặc

bờ đầm, bờ sông tạm lánh. Đây là dịp tốt cho một số công

tử Hà Nội, trong đó có Chương, về thăm quê cho biết sự

tình. Về quê thì tiện cho tôi quá, tôi có nhiều trò: lội sông,

câu cá, bắn chim. Hoặc là săn xe đạp, tụi tôi rủ nhau đi cắm

trại ở những thắng cảnh gần Hà Nội như chùa Thày, chùa

Tây Phương, động Hoàng Xá. Những thắng cảnh này đều

nằm trong vùng quê tôi (phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây) nên

tôi thuộc nằm lòng. Đến chùa Tây Phương thăm ông Phật

nhịn ăn mà mặc, ông nhịn mặc mà ăn, ông Phật tai dài đến

gối. Đến động Hoàng Xá tôi biết nhũ đá nào kêu thanh, nhũ

đán nào kêu đục, bắn một phát súng cao su lên vòm đá là

dơi bay tán loạn một vùng. Đến chùa Thày (Sài Sơn) thăm

chùa Cả dưới chân, chợ Trời trên đỉnh núi rồi thăm hang

Cắc Cớ nơi có dấu chân ông Từ Đạo Hạnh còn in. “Hội

chùa Thày vui thay Cắc Cớ, Trai không vợ nhớ hội chùa

Thày - Gái không chồng nhớ ngày mà đi”. Chương ơi,

Chương còn nhớ ngày hội về quê mình không? Còn nhớ

con đê Hạ Hiệp không? Mới đó mà đã 50 năm rồi, đã nửa

thế kỷ qua rồi. Chương có nhớ cũng không thể nào về thăm

được nữa. Bạn ta đã thành người thiên cổ mất rồi.

Phạm Đình Chương rất yêu miền Quốc Oai - Sơn

Tây vì không những nó là một miền thắng tích mà nơi đó

còn là quê ngoại của Chương. Bà thân của Chương ở Hạ

Hiệp, cách làng tôi chừng hai vạt cánh đồng. Chương tự

Page 193: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 189

nhận mình là người Sơn Tây và trong những năm đó

Chương về thăm quê ngoại rất thường. Anh công tử Hà Nội

và anh học trò nhà quê càng có dịp gần gũi nhau hơn Khi

mùa Xuân đã cạn ngày, hội hè đã vãn, những cây gạo miền

Bương Cấn đã tưng bừng nở đỏ thì cũng là lúc chim tu hú

lảnh lót gọi hè về trong rặng vải bên sông. “Sông Đáy

chậm nguồn qua Phủ Quốc” [5]

, con sông này ngoài mùa

ngâu nước lũ, còn quanh năm nước chảy lặng lờ. Học trò

tụi tôi lại đạp xe qua sông về rặng vải, vừa tránh bom rơi

đạn lạc ở thành phố, vừa cắm trại vừa ôn thi.

Nhưng đến năm 1945, thanh niên như Chương và

tôi không còn đầu óc nào mà học hành thi cử nữa. Bao

nhiêu vấn đề trọng đại vừa ập đến trong đời: hàng vạn,

hàng triệu người chết đói. Nhật đảo chính Pháp ngày 9

tháng 3. Chính phủ Việt Nam đầu tiên ra đời. Thế chiến II

kết liễu Đức - Ý - Nhật đầu hàng. Quân Tàu Tưởng kéo

sang Chiến Khu Việt Minh. Đổi đời. Cách Mạng Tháng 8

Quân đội Pháp trở về, thanh niên đua nhau đi dạy bình dân

học vụ, đi khất thực, đi biểu tình. Chúng tôi say mê

hát “Lên Đường”, lao đầu vào một cuộc chơi mới không

kém phần lãng mạn: đòi độc lập cho đất nước. Chúng tôi là

Tự vệ Thành Hà Nội. Chúng tôi là Trung đoàn thủ đô. Như

lớp lớp thanh niên cùng lứa, Phạm Đình Chương và tôi

khoác ba lô lên đường kháng chiến.

Tây tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiêu thơm.

(Quang Dũng)

Những năm đầu kháng chiến (1948, 1949, 1950) có

những thị trấn mọc lên vội vã. Khu 10 Việt Bắc có thị trấn

Cây Đa Nước Chảy; liên khu 3 có Đồng Quan, Cống Thần,

Chợ Đại; vào khu 4 Thanh Hóa có chợ Rừng Thông. Đây là

nơi dân tản cư tứ xứ kéo về sinh hoạt, đổi trao, mua bán tạo

Page 194: TOÀN CẦU 2017

Trang 190 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

thành những Hà Nội nhỏ. Mấy anh lính cậu ngày nào bây

giờ sốt rét, xanh rớt như tàu lá, mắt trợn trừng, tóc rụng

nhưng đêm đêm vẫn cứ mơ về Hà Nội. Và được dịp là phải

về thăm các thị trấn mới này cho đỡ nhớ ...

Đầu mùa đông năm 1948, tôi khoác ba lô, đổ bộ lên

Chợ Đại tìm ít thuốc nivaquine chống sốt rét. Trời mưa

nhớp nháp, những căn nhà tranh lụp sụp kéo dài. Chợt ở

đầu đường, hiện ra một quán nước thanh bai, lịch sự mang

một cái tên khá là kiểu cách “Quán Thăng Long”. Ở trên

vách quán, có treo song song mấy cây đàn nguyệt và một

cây thập lục. Ở dưới, bên khay trà tỏa khói có hai vị trưởng

thượng đang ngồi đối ẩm. Hai vị này tôi biết: ông thân của

Phạm Đình Chương và cụ N. T. Đức, một danh cầm của

toàn miền Bắc. Loạn ly, binh lửa mà hai vị tri âm, tri kỷ

vẫn nhàn nhã phong lưu. Chiến tranh ở chỗ nào khác chứ ở

đây Thăng Long Đông Đô, Hà Nội là vẫn cứ phải đường

hoàng, cốt cách. Cốt cách như chị Thái Hằng đang ngồi

trước quầy hàng, đi tản cư mà vẫn mang nguyên chiếc

kiềng chạm bằng bạc của một thời khuê các, như Thái

Thanh cô em nhỏ mới bắt đầu thiếu nữ đang nghiêm chỉnh

ngồi đan.

Người vui nhất khi tôi được gặp là bà thân của

Chương. Bà hỏi thăm “quê mình bây giờ Tây nó đánh đến

đâu rồi”. Bà cho biết anh Phạm Đình Sĩ có lẽ kẹt, chưa có

tin tức gì. Anh Phạm Đình Viêm (Hoài Trung) còn đang đi

ban kịch Giải Phóng, chuyên hát bài “con vỏi con

voi” và ”con mèo trèo cây cau” nhạc hài hước của Nguyễn

Xuân Khoát. Còn Phạm Đình Chương thì công tác ở liên

khu 3, chuyên về sáng tác ca khúc. Bà khoe là Chương vừa

mới được giải thưởng về bài hát “gì mà có con cò bay lả

bay la”.

À ra thế bạn ta anh công tử Hà Nội đang đưa ca dao

vào nhạc mới. Chương, Chương, có phải cánh cò ấy là cánh

cò bay qua rặng vải triền sông Đáy? Còn cánh đồng nào rào

rạt lúa thơm mềm [6]

có phải là cánh đồng Bương Cấn khi

Page 195: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 191

chúng ta “Lên núi Sài Sơn ngóng lúa vàng” [7]

Tôi nhớ mãi lời bà thân của Chương khi đưa cho tôi

gói thuốc đựng chừng 10 viên nivaquine: “Giữ lấy mà

dùng. Dạng các cậu không được phát thuốc này

đâu”. Đúng như thế, dạng “tạch, tạch, sè” (tiểu tư sản) như

Chương và tôi thì dù sốt rét vàng người, rụng tóc cũng chỉ

được phát thuốc ký ninh pha loãng là cùng. Nivaquine

thuốc mới, công hiệu, đắt tiền chỉ đủ dùng cho “tổ chức”

mà thôi. Thực tế nó là như vậy nên ngoài một số anh em

đã “áo bào thay chiếu ...” [8]

còn đa số dân tạch tạch sè là

kẻ trước người sau “dinh tê” về Hà Nội. Những va chạm

với thực tế làm cho giấc mơ tuổi trẻ lụi tàn, cuộc chơi lãng

mạn đầu đời đã trở thành một nỗi đam mê vô ích. Tôi về

cuối năm 49 còn Chương và gia đình hồi cư năm 51.

Gia đình Chương kỳ này có thêm một nhân vật lừng

danh: Phạm Duy. Năm 1949, chiến tranh lan đến vùng chợ

Đại và quán Thăng Long phải dời vào khu 4, vùng trấn

nhậm của viên tướng Mạnh Thường Quân Nguyễn Sơn. Ở

đây Thái Hằng đã trở thành bà Phạm Duy, Thái Thanh vừa

lớn để bước chân vào làng ca nhạc. Cả gia đình Chương

phục vụ trong phòng văn nghệ của một đại đoàn. Quán

Thăng Long không còn nữa nhưng tiền thân của ban Hợp

Ca Thăng Long đã được định hình. Tôi cũng không còn

nhớ rõ gia đình Phạm Đình Chương về trước hay sau cái

chết của viên tướng đầy huyền thoại Nguyễn Sơn. Chỉ biết

là ban Thăng Long vào thành nhưng không ở lại Hà Nội mà

vô thẳng miền Nam lập nghiệp.

Năm 1952 tôi cũng vào Nam, học nghề lính tại

trường Thủ Đức. Những ngày cuối tuần ra Sài Gòn chơi,

thấy đầu đường góc phố chỗ nào cũng có biểu ngữ, bích

chương, quảng cáo ban Hợp ca Thăng Long. Báo hàng

tuần, hằng ngày đều đăng hình ảnh, lịch trình diễn của Thái

Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc, Phạm Duy.

Ban Hợp Ca Thăng Long đang rực sáng, những thành viên

của nó đang được mến yêu. Người Sài Gòn vốn bộc

Page 196: TOÀN CẦU 2017

Trang 192 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

trực “yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét” mà đã

yêu thì yêu hết mình; chương trình của Ban Thăng Long

trên đài phát thanh rất được lắng nghe - trình diễn của Ban

Thăng Long lại càng ăn khách. Ngưới ta mua “giấy” báo

xem thật đông, vỗ tay thật nhiều nhưng còn chưa “đã”.

Buổi trình diễn xong rồi, người ái mộ còn ở lại để tìm cách

đến thật gần, nhìn thật kỹ hay nếu có thể bắt cái tay, đụng

cái chân vào nghệ sĩ, tài tử thần tượng của mình. Người

miền Nam ái mộ ồn ào như thế, dễ thương như thế.

Trước sự tán thưởng nồng nhiệt ấy tôi có lúc đã tự

hỏi: “Vì sao mà trong một thời gian chưa đầy hai năm, Ban

Hợp Ca Thăng Long lại lẫy lừng đến vậy?” Tôi vốn dốt về

nhạc lý, thẩm âm cũng tầm thường thôi nên không dám đưa

ra ý kiến có tính cách kỹ thuật nào. Bằng vào cái cảm quan

dân dã của mình tôi nhận thấy thực chất của Ban Hợp Ca

Thăng Long nằm trong một chữ vui. Vui rộn ràng khi nghe

tiếng hát chen tiếng ngựa hí (Ngựa Phi Đường Xa), vui

lâng lâng khi nhìn cánh cò bay lả bay la trên đồng lúa chín

vàng (Được Mùa), vui đầm ấm khi nghe tiếng hò dô vang

trên sóng nước (Tiếng Dân Chài), vui thấm thía nghẹn ngào

khi người mẹ già cầm ly rượu uống mừng người con cả vừa

mới trở về (Ly Rượu Mừng). Cái vui của nhiều cung bậc,

cái vui đã được cách điệu, nên nó dễ dàng thấm đượm lòng

người.

Đồng bào miền Nam xưa nay thừa thãi điệu buồn

nên trong cái vô thức tập thể nó thiếu một niềm vui khỏe

mạnh. Ban Hợp Ca Thăng Long phần nào đã đáp ứng được

niềm khao khát đó. Ấy là chưa kể đến một yếu tố đầy cảm

tính rất phù hợp với miền Nam: tất cả thành viên ban hợp

ca đều là anh em trong một nhà. Một gia đình tài hoa quá.

Một sự kết hợp đẹp đẽ quá. Nhất là sau đó ít lâu, ban hợp

ca Thăng Long lại có thêm một thành viên mới: Khánh

Ngọc, một bông hoa hương sắc của miền Nam, Hoài Bắc -

Khánh Ngọc một lứa đôi nghệ thuật. Ban Hợp Ca Thăng

Long càng thêm sung sức.

Page 197: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 193

Nhưng phải đợi đến đầu năm 1954, Ban Hợp Ca

Thăng Long mới lên đỉnh cao thành tựu của mình. Năm ấy

ban Hợp ca cùng với “quái kiệt” Trần Văn Trạch, thành lập

ban Gió Nam ra công diễn ở Hà Nội. Lúc ấy tôi đang là

thương binh nằm nhà thương Võ Tánh. Nghe báo chí Hà

Nội tán thưởng Nam Phong chi huân hề - Ngọn gió Nam

mát lành thay. Nghe dân chúng Hà Nội xôn xao hâm mộ

quá, tôi sốt ruột phải trốn nhà thương một buổi ra xem Gió

Nam trình diễn.

Nhưng mà ra chậm hết vé mất rồi. Nhà Hát Lớn Hà

Nội không còn chỗ. Tôi lững thững đứng ngoài nghe tiếng

vỗ tay dồn dập từng hồi như sấm mà ruột nóng như lửa đốt.

May quá gặp Ngọc Chả Cá một cây công tử Càn Long Hà

Nội tôi mới được vào (bây giờ bạn ở đâu hở Ngọc?).

Người Hà Nội xưa nay khụng khiệng ít khi nào

nồng nhiệt thế đâu. Nhưng mà lần này, người Hà Nội bị

ban Hợp ca Thăng Long chinh phục hoàn toàn. Trước đó

tân nhạc ở Hà Nội chỉ là một bà con nghèo trước cải lương,

tuồng kịch ... chỉ đảm nhiệm được vai trò phụ diễn trước

khi mở màn hoặc giữa hai lớp kịch mà thôi. Bây giờ Ban

Hợp ca Thăng Long với một chuỗi ngôi sao nhạc mới đã

chiếm lĩnh sân khấu suốt hai tiếng đồng hồ liên tục. Khán

giả Hà Nội được thưởng thức một chương trình nhạc mới

tân kỳ sinh động tràn đầy dân tộc tính. Đây là một bước

trưởng thành của tân nhạc và trở nên khuôn mẫu cho những

đại nhạc hội sau này.

Buổi trình diễn vừa kết thúc, toàn ban Gió Nam ra

chào khán giả. Đèn rực sáng. Những bó hoa trao cho những

nghệ sĩ tài năng. Hoài Bắc Phạm Đình Chương giơ cao bó

hoa vẫy vẫy, nụ cười rộng mở. Chương không thể nào biết

rằng trong số khán giả vô danh ấy, có một người bạn cũ của

Chương đang vỗ tay kịch liệt.

Thập niên 50 là thời kỳ rực rỡ nhất của ban Hợp ca

Thăng Long. Thời gian này cũng là lúc Phạm Đình Chương

Page 198: TOÀN CẦU 2017

Trang 194 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

sáng tác đều đặn nhất. Những bài ca chủ lực của ban Hợp

ca Thăng Long như Tiếng Dân Chài, Hội Trùng Dương, Ly

Rượu Mừng ... đều xuất hiện trong giai đoạn này.

Không biết tôi có chủ quan không khi nghĩ rằng

Phạm Đình Chương trong giai đoạn này vẫn mang dáng vẻ

một anh học trò mới lớn, tâm hồn trong sáng như gương,

con người, thiên nhiên đều là bè bạn. Ngựa phi đường xa

thế nào cũng tới, leo núi mệt nhọc rồi cũng đến nơi, đồng

ruộng thì đầy lúa thơm mềm, con sông thì đầy trăng và đầy

cá. Thế vẫn còn chưa hết, Chương còn rót một ly rượu

mừng, mừng khắp nhân gian. Hãy lắng nghe đi, có một nụ

cười đâu đó, khi nhẹ nhàng phảng phất, khi trào lên như

tiếng reo vui. Cũng có lúc Phạm Đình Chương nhắc đến

điệu buồn; giọt lệ rưng rưng chờ mong bóng con của người

mẹ già hay nỗi khổ của đồng bào miền đất cày lên sỏi đá:

Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi

Mùa đông thiếu áo [9]

...

Nhưng liều lượng của điệu buồn trong nhạc Phạm

Đình Chương thời kỳ này rất ít so với niềm vui ào ạt, chỉ

như một đối điểm (contrepoint), chỉ như màu đen làm nổi

lên sắc trắng mà thôi. Mà điệu buồn cũng được nhắc đến

bằng tấm lòng nhân ái, tâm hồn Chương là vậy, mở ra,

hướng ngoại, trong sáng vui tươi. Chương không phải là

người hướng nội, đi tìm thú đau thương trong những kiểm

tra, tự vấn nơi mình. Đó là thực chất nhạc Phạm Đình

Chương thời kỳ đầu cũng là đặc điểm của Ban Hợp ca

Thăng Long ...

Giai đoạn sáng tác thứ hai của Phạm Đình Chương

bắt đầu từ một kỷ niệm buồn: Ngày Khánh Ngọc rời xa vào

khoảng cuối thập niên '50. Sau đó Phạm Duy, Thái Hằng

cũng tìm về hướng khác. Ngôi biệt thự ấm cúng đường Bà

Huyện Thanh Quan không người ở. Hoài Bắc, Thái Thanh

và gia đình dọn về một căn nhà nhỏ đường Võ Tánh (Frères

Louis cũ). Chính tại ngôi nhà này tôi thường đến bầu bạn

Page 199: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 195

với Phạm Đình Chương cùng với Thanh Nam, Mai Thảo.

Tụi tôi đến “hầu bài” bà thân của Chương để được ăn

những bữa cơm nhớ mãi: canh cua rau đay, cà pháo, đậu

rán ...

Lúc này, hình như Chương muốn ra khỏi vùng hào

quang sáng chói của một ca sĩ thời danh để được sống bình

thường nếu không muốn nói là ẩn dật. Đang ăn diện kiểu

cách, Chương ăn vận xuề xòa, đi dép không quai lẹt xẹt,

chiếc xe hơi dài thòng Studebaker đã được bán đi. Nụ cười

kiểu jeune premier đã tắt và đặc biệt Chương để một hàm

râu mép chàm ràm, rậm rịt. Lúc này, tụi tôi có một tên mới

để gọi Chương: Râu Kẽm. Râu Kẽm đang phóng túng hình

hài, ít ăn ít nói hẳn đi, mà có nói cũng thường hừ một tiếng

giọng mũi. Một nhát chém hư vô đã làm thay đổi Phạm

Đình Chương.

Ban Hợp ca Thăng Long, với sự phân liệt như thế

tưởng đã rã đám. Nhưng đầu những năm '60, ban Thăng

Long gượng dậy với Hoài Trung - Hoài Bắc - Thái Thanh.

Ban Thăng Long sống lại kỳ này, tuy vẫn được tán thưởng

nhưng đó chỉ là cái bóng của chính mình. Phạm Duy đã

mang nguồn âm sắc lung linh và trầm lắng của dân tộc đi

xa, còn tiếng reo vui chan hòa và nhân ái của Phạm Đình

Chương cũng không còn xuất hiện. Trong thời kỳ này ban

Hợp ca Thăng Long có trình làng một tác phẩm rất được

hoan nghênh: Bài Ô Mê Ly. Nhưng bài hát vui tươi này

không phải của Chương mà của một tài danh khác: Văn

Phụng.

Thời kỳ hướng ngoại, tâm hồn sáng tác rõ như

gương, tha nhân và ngoại giới đều là bè bạn của Chương đã

khép lại rồi. Tiếng cười đã tắt. Thời kỳ này là của đau

thương và tiếng khóc. Nhưng khóc than rên rỉ không phải là

nghề của chàng. Như đã nói, Chương không phải là người

hướng nội, gặm nhấm đau thương làm thứ giải sầu. Nỗi đau

thì có săn và Chương muốn giữ một mình nhưng lời oán

hận thì không. Cho nên những khúc bi ca sau này như Nửa

Page 200: TOÀN CẦU 2017

Trang 196 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Hồn Thương Đau, Người Đi Qua Đời Tôi, Mưa Sài Gòn

Mưa Hà Nội, Chương đều mượn lời của Thanh Tâm Tuyền,

Trần Dạ Từ, Hoàng Anh Tuấn ... Chương làm công việc

phổ thơ, qua lời của người để phần nào nói lên tâm sự của

mình. Những ca khúc này có vị trí riêng của nó, rất được

yêu thích qua giọng hát Thái Thanh, nhưng đối với Chương

nó vẫn như một sự “Chẳng đặng đừng”. Về bề ngoài, hai

giai đoạn sáng tác của Chương có vẻ đối nghịch nhau

nhưng nhìn chung nó vẫn thống nhất trong tâm hồn nhân ái

của tác giả.

Nói cho ngay từ thập niên '60 trở đi, việc ca hát đối

với Chương cũng là một sự “chẳng đặng đừng”. Thì cũng

phải có công ăn việc làm như người ta, ngay cả việc trông

coi phòng trà ca nhạc “Đêm Màu Hồng” Chương cũng làm

chơi chơi, cho có. Nhưng chính cái vẻ chơi chơi, phóng

khoáng ấy nó lại hợp với khung cảnh Đêm Màu Hồng. Đây

là một phòng trà gợi nhớ. Nhớ về những bài hát xa xưa, về

một thuở mộng mơ đã tắt, về một khung cảnh Việt Nam đã

xa, về một ban Hợp ca Thăng Long đã tàn. Phạm Đình

Chương đi từ bàn này sang bàn khác cụng ly cùng người

mộ điệu hoặc lên sân khấu giới thiệu một bài hát vừa được

yêu cầu. Cái giọng có mang hơi rượu cùng với nụ cười

nhếch mép đã tạo nên không khí Đêm Màu Hồng vì phần

lớn khách đến đây đều là thân hữu.

Chúng tôi, những buổi phùng trường tác hí là vào

khoảng 9, 10 giờ đêm lại tà tà kéo đến Đêm Màu Hồng.

Bạn bè có chỗ ngồi riêng, giá biểu riêng. Khẩu vị như thế

nào thì chủ quán biết rồi. Vũ Khắc Khoan thì phải Con

Thuyền Không Bến, lúc nào cao hứng lại còn phi lên sân

khấu mà ngâm “Hồ Trường, Hồ trường ta biết rót vê

đâu”. Thanh Tâm Tuyền thì phải Mộng Dưới Hoa. Thanh

Nam thì Cô Láng Giềng. Hôm nào có mặt tôi, Thái Thanh

lại hỏi: Biệt Ly hay Buồn Tàn Thu đây ông? Có bữa Râu

Kẽm cảm khái quá liền ôm đàn guitare mà hát một mình (ít

khi lắm). Hát tiếng Tây ”Un jour si tu m’abandonnes”

Page 201: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 197

(Ngày nào, nếu em bỏ ta). Có khi vui anh vui em, Chương

bỏ luôn phòng trà cùng Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo kéo

lên “Quang Minh Đỉnh”.

Trong những năm ”Đêm Màu Hồng” tôi thường cố

giữ một nền nếp. Cứ đêm 30 Tết gần Giao Thừa là tôi kiếm

một bó hoa thường là hoa hồng đến Đêm Màu Hồng tặng

Thái Thanh. Cô em nhỏ ngày nào đi kháng chiến bây giờ

trở thành tiếng hát vượt thời gian. Có lần tôi nhận được cặp

bánh chưng của bà thân Chương và Thái Thanh gửi cho.

Tôi cầm cặp bánh mà tưởng như vừa nhận món quà Tết từ

quê hương phủ Quốc gửi vào.

Những lúc ấy, năm mới sắp sang, năm cũ sắp hết

mà tôi vẫn thấy Hoài Bắc, Mai Thảo ngồi từ từ uống rượu,

uống cho say, uống cho quên uống không không mệt mỏi.

Tôi chợt nhớ một câu của Mai Thảo “Chúng tôi thân với

nhau trong một tình thân thiết rất buồn rầu”.

Buổi cuối cùng tôi gặp Phạm Đình Chương đâu vào

khoảng tháng 5 năm 1975 khi “đứt phim” được chừng hơn

1 tháng. Gặp nhau tại nhà Thanh Tâm Tuyền bên Gia Định

có cả Mai Thảo nữa. Mai Thảo mang thêm một chai rượu

vang còn sót lại. Các bạn có ý tiễn đưa tôi và Thanh Tâm

Tuyền sắp sửa đi cải tạo. Bữa rượu im ắng thê lương.

Rồi Chương và tôi đạp xe ra về trước. Đạp toát mồ

hôi đến quãng Trần Quốc Toản thì mỗi đứa mỗi đường.

Chương ngừng lại và tôi cũng ngừng theo. Chương nắm lấy

tay tôi vẻ bùi ngùi mà nói: “đi nhé”. Tụi tôi xưa nay ít có

cái trò nắm tay, nắm chân như vậy, nhìn nhau một cái là đủ

rồi. Chừng như Chương thương cảm cho số phận tôi trước

việc đi cải tạo, một chuyến đi không biết bao giờ về.

Nhưng bây giờ, 16 năm sau, tôi đã đi cải tạo về rồi,

Chương lại làm một chuyến đi không bao giờ trở lại. Đi

nhé! Ngàn năm vĩnh biệt Phạm Đình Chương./

Phan Lạc Phúc (1998)

Page 202: TOÀN CẦU 2017

Trang 198 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Chú thích

[1] Thơ Đinh Hùng

[2] Những thắng cảnh miền Quốc Oai, Sơn Tây

[3] Nhạc Hoàng Quý

[4] Nhạc Lưu Hữu Phước

[5] Thơ Quang Dũng

[6] Được Mùa, nhạc Phạm Đình Chương

[7] Thơ Quang Dũng

[8] Áo bào thay chiếu anh về đất - Thơ Quang Dũng

[9] Hội Trùng Dương, nhạc Phạm Đình Chương

Page 203: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 199

Cái thuở ban đầu

lưu luyến ấy

Trần Thế Ðức, CVA 63

Thường thì những người có danh, có chức mới viết

hồi ký khi về già. Tôi chỉ là một nhà giáo bình thường,

chẳng có gì to lớn cả, nên chẳng bao giờ nghĩ đến việc tự

viết về mình. Tuy nhiên, qua bao năm sống còn, nghĩ lại

mình cũng còn những điều đáng nhớ nên mạo muội ghi lại:

Trong cuộc đời chúng ta, biết bao mốc thời gian, biết bao

biến cố xảy ra, nhất là những ai đã sống trong những ngày

tàn khốc nhất trên đất nước Việt Nam trong những năm

khói lửa (1945-1975). Không nhắc tới những biến cố trên

đất nước, trong cuộc đời mình, một mốc thời gian quan

trọng là lúc quyết định chọn nghề sau khi rời mái trường

trung học.

Thuở niên thiếu của tôi (cuối thập niên 1950 và đầu

1960), không có cố vấn học đường, cố vấn nghề nghiệp, và

những tài liệu hướng dẫn về các ngành học ở đại học cũng

như các trường chuyên nghiệp như ngày nay ở các nước

tiên tiến. Tài liệu duy nhất mà chúng tôi biết là cuốn sách

nhỏ “Ðây Ðại Học” do sinh viên Công Giáo soạn và tái bản

nhiều lần. Ở trường, các thầy trẻ, mới ra trường, cũng là

những người hướng dẫn chúng tôi rất nhiệt tâm. Khi tôi học

lớp đệ nhị ở Trường Trung Học Chu Văn An Sài Gòn

(1961-1962), thầy Phạm Xuân Lương, một thầy giáo trẻ,

mới tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm, coi chúng tôi như những

đứa em, và hướng dẫn chúng tôi rất nhiều.

Page 204: TOÀN CẦU 2017

Trang 200 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Ðối với những kẻ con nhà nghèo như tôi, lời khuyên

của thầy là nên học Ðại Học Sư Phạm, vì thời gian học chỉ

có ba năm, lại có học bổng (1,500 đồng một tháng) có tí

tiền tiêu xài, không cần xin cha mẹ. Vào thời đó, đây là một

số tiền lớn vì lương công chức (thư ký phù động) khoảng

trên 2,000 đồng, lương chuẩn úy 2,200 đồng ăn tô phở chỉ

tốn 5 đồng, ly cà phê 2 đồng. Từ đó tôi thấy con đường đi

trước mắt: Ðại Học Sư Phạm. Nhưng học môn gì? Tôi học

ban A, khoa học thực nghiệm nên định học môn Vạn Vật,

theo gót các thầy Nguyễn Văn Ðỉnh (vị thầy chuyên dạy

ban A, với phương pháp thật dễ hiểu) và Nguyễn Ngọc

Quỳnh (người có hai bàn tay lả lướt vẽ thành những hình

tuyệt đẹp như những bức tranh của họa sĩ, mà khi thầy xóa

bảng, chúng tôi cứ tiếc). Ðôi khi thầy Quỳnh biểu diễn

bằng cả hai bàn tay với đủ loại phấn màu… Ngoài ra,

chúng tôi có thể hỏi các anh chị của bạn bè, những người đi

trước. Một người bạn tôi có ông anh học rất giỏi, năm nào

cũng lãnh phần thưởng là những chồng sách cao, khi còn

học Chu Văn An. Sau khi đậu tú tài, anh thi đậu vào trường

Cao Ðẳng Nông Lâm Súc. Tôi rất mê ngành nông nghiệp

mà anh đang học. Anh phải đi thực tập hàng tháng trời, khi

thì ở các đồn điền cao su Long Khánh-Bình Dương, khi thì

ở các đồn điền trà Bảo Lộc-Lâm Ðồng. Ðọc cuốn luận văn

sau khi thực tập của anh (ngành trồng trà ở Bảo Lộc-Lâm

Ðồng), tôi rất thích. Nhưng tôi không thể mơ tới trường này

được, vì trong kỳ thi tuyển có bài toán ban B, chỉ bài Vạn

vật mới ở trình độ ban A. Tôi học ban A thì làm sao làm

nổi bài toán ban B.

Trường Trung Học Chu Văn An của tôi gần như là

trường ban B. Thế mà tôi lại chọn ban A. Lớp ban A của tôi

tập trung những kẻ cùng thân phận như tôi (dốt hoặc sợ

môn toán), nhưng lại là nơi khởi đầu của nhiều bạn học giỏi

đã chọn con đường thật dài và sáng giá: y khoa đại học, để

trở thành bác sĩ. Những người bạn thân của tôi từ thời đệ

thất đều khuyên và rủ tôi cùng vào APM (Année

Préparatoire de Medecine = dự bị y khoa) với họ. Nhưng

Page 205: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 201

hoàn cảnh của gia đình tôi quá eo hẹp, 7 năm học thật quá

dài. Tôi đành chọn con đường ngắn hơn chút ít: nha khoa,

chỉ học 5 năm. Chó ngáp phải ruồi, tôi đậu (họ tuyển 30

ngưởi trong số 800 thí sinh dự thi). Thế là tôi học dự bị nha

khoa (APD = Année Prépatoire Dentaire) ở Ðại Học Khoa

Học, kế bên Ðại Học Sư Phạm.

Hơn 10 mạng ban A chúng tôi thi vào Ban Vạn Vật,

Ðại Học Sư Phạm, nhưng chỉ có một đứa duy nhất đậu.

Học ban A thì phải “tụng” Vạn Vật cho kỹ. Tôi thuộc cả

đến những chỗ xuống hàng và mọi hình vẽ trong cuốn sách

dày cộm, thế mà vẫn ăn vỏ chuối. Ban Vạn Vật thực là khó:

khoảng 1,000 thí sinh, trường Ðại Học Sư Phạm chỉ lấy có

15 người. Người bạn cùng lớp với tôi đậu được là do đâu?

Có lẽ do tài khéo tay của anh ta (vẽ thật đẹp như họa sĩ), và

cũng do bài Anh Văn nữa. Kỳ thi có một bài Vạn Vật và

bài Anh Văn (dịch Anh-Việt).

Tôi học dự bị nha khoa, giờ rảnh thì cùng bạn bè

lang thang khắp nơi: hầm MPC, Ðại Học Sư Phạm, chờ giờ

học sắp tới. Bỗng tôi thấy bên Ðại Học Sư Phạm tấp nập

với những tà áo thướt tha. Ðại Học Sư Phạm đang nhận

đơn thi tuyển cho niên khóa sắp tới. Tôi gặp lại bạn bè Chu

Văn An cũ, đang học ở những đại học không mấy chắc ăn

(Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa) cũng nộp đơn thi vào

Sư Phạm cho yên.

Người ta nộp đơn thì tôi cũng lấy bằng tú tài ra và

điền đơn, đâu có mất mát gì. Nhưng thi vào môn nào? Ban

Vạn Vật thì tôi đã tiêu tùng từ năm trước, không dám đụng

đến nữa. Anh Văn và Việt Văn thì làm sao địch nổi bọn ban

C. Thôi thì nộp vào ban Sử Ðịa vậy, vô thưởng vô phạt, ai

cũng như ai. Ðến ngày, tôi cũng đi thi. Thế mà chó ngáp

phải ruồi, tôi đậu, thứ hạng cũng khá cao trong 40 thí sinh

trúng tuyển, của khoảng 1,000 người dự thi. Bao nhiêu bạn

bè của tôi đều không thấy tên. Năm trước, khi thi vào ban

Vạn Vật, tôi còn mở sách ra dò lại bài. Chứ bây giờ, tôi thi

chơi chứ có định học đâu mà ôn bài! Sau này, khi học Sử

Page 206: TOÀN CẦU 2017

Trang 202 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Ðịa ở Ðại Học Sư Phạm, tôi ngẫm nghĩ tại sao mình lại

đậu? Tôi nhớ mang máng đề thi lúc đó là: “Tình hình thế

giới giữa hai thế chiến.” Tôi đoán: khi làm bài thi, tôi đã

làm đúng phương pháp sử mà sau này tôi được học: phân

tích, tổng hợp, giải thích sự kiện. Ðó là những ý niệm tôi

rút ra khi học sử ở trung học, khác với lối học thuộc lòng

ngày, tháng, năm, tên vua này, vua nọ… chán ngấy. Hồi

đó, tôi không hài lòng về cách dạy Sử-Ðịa của vài thầy khi

còn học ở những lớp dưới. Tôi nghĩ: bài như thế thì phải

dạy học sinh thế này, thế kia, chứ bắt học sinh học thuộc

lòng thì còn gì hay nữa. Tôi đã nghĩ ra phương pháp phản

hồi đối với bài dạy, mà sau này khi học sư phạm tôi mới

được biết.

Sử Ðịa ở trung học, bị coi là môn phụ, môn ăn chơi.

Nhưng tôi lại thấy học Sử như đọc truyện nên nắm bắt

được những sự kiện chính, những mốc thời gian. Môn Sử

khiến cho con người tôi lúc thì nóng bừng lên, lúc thì giận

tím gan (phản hồi). Môn Sử tạo cho con người tinh thần

yêu nước, yêu non sông, đất Việt. Còn Ðịa Lý, tôi có cảm

tưởng như mình được đi du lịch khắp năm châu bốn biển,

biết được nhiều nơi, nhiều dân tộc trên thế giới và rút ra

những bài học cho đất nước mình. Có lẽ Sử-Ðịa đã thấm

vào trong tim óc tôi từ lâu, nên tôi đã làm bài thi đúng

phương pháp và may mắn thi đậu.

Trước ngày khai giảng ban Sử Ðịa, tôi coi thời khóa

biểu niêm yết trước văn phòng hành chánh, thấy giờ học

cũng nhàn nhã nên thử vào xem sao. Tôi cứ tưởng sẽ được

gặp các vị nổi tiếng trong lãnh vực Sử Ðịa như ông bà Tăng

Xuân An, Giáo Sư Phan Khoang, Sử Gia Phạm Văn Sơn,…

Nhưng trên thời khóa biểu chỉ thấy tên các vị giáo sư mà

trước kia tôi chưa hề nghe tiếng: Phạm Cao Dương, Phạm

Ðình Tiếu, Lâm Thanh Liêm, Nguyễn Thế Anh,… cả mấy

ông Tây nữa (Teulières, Flamand). Vị giáo sư đầu tiên mà

tôi được gặp là Giáo Sư Phạm Cao Dương. Những giây

phút đầu tiên chúng tôi học với thầy không phải là bài sử,

Page 207: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 203

mà là những lời hướng dẫn cho chúng tôi con đường chúng

tôi nên theo, nên làm. Theo thầy, trong lãnh vực Sử-Ðịa và

văn hóa của người Việt Nam, còn rất nhiều điều mà người

Việt Nam chúng ta chưa nghiên cứu, chẳng hạn lịch sử mỹ

thuật Việt Nam chưa có những công trình nghiên cứu sâu

xa. Còn sử Việt Nam, từ trước tới nay, người viết sử chỉ

nhìn dưới khía cạnh lịch sử chính trị mà không nhìn dưới

khía cạnh lịch sử văn minh. Quả thực là thật mới mẻ đối

với tôi. Thầy đã hé mở cho chúng tôi biết sử là gì. Thầy còn

nhắc: mình không làm thì ai làm? Tôi nhớ lại, khi còn học

ở trung học, các thầy tôi nhắc tới những công trình nghiên

cứu văn hóa Việt Nam do người Pháp thực hiện. Có những

ông tây da trắng, mũi lõ ngồi hút thuốc lào cùng với các

bác nông dân trên bờ ruộng để tìm hiểu văn hóa Việt Nam.

Người Pháp làm được thì tại sao mình không làm được? Vả

lại họ nghiên cứu cách nay mấy chục năm rồi, nước ta, dân

ta đã có nhiều thay đổi. Những lời đầu tiên của Giáo Sư

Phạm Cao Dương khiến tôi suy nghĩ và cảm thấy hứng

khởi. Giáo Sư Phạm Cao Dương đã xoáy vào tim bọn sinh

viên mới bước chân vào đại học. Tôi thấy cũng hay. Mình

sống, làm được chút gì là vui. Dạy trung học chỉ có 16 giờ

mỗi tuần, nghĩa là chỉ có bốn buổi, còn quá nhiều thời giờ

rảnh rỗi, mình có thể làm việc khác, tìm hiểu về văn hóa,

sử, địa của địa phương mình, và rộng ra của nước Việt

Nam chúng ta. Tôi tìm thấy nguồn vui. Những lời nói đầu

tiên của Giáo Sư Phạm Cao Dương khi tôi bước chân vào

Ðại Học Sư Phạm đã tạo nên bước ngoặt có tính cách quyết

định trong cuộc đời tôi.

Hôm sau, Giáo Sư Lâm Thanh Liêm cũng khuyến

khích chúng tôi nên ghi danh học Sử Ðịa ở Ðại Học Văn

Khoa và đi vào con đường nghiên cứu địa lý. Những lời

tâm huyết của thầy là nguồn khích lệ lớn lao cho 40 lính

mới chúng tôi: nửa lớp ghi danh học năm dự bị ở Ðại Học

Văn Khoa. Một số bạn không ghi danh ở đó vì còn học tiếp

bên Luật Khoa mà họ đã theo đuổi từ trước, hoặc bận bịu

dạy thêm ở trường tư, kiếm cơm nuôi gia đình.

Page 208: TOÀN CẦU 2017

Trang 204 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Ngoài Giáo Sư Phạm Cao Dương, chúng tôi học với

Giáo Sư Phạm Ðình Tiếu. Thầy Phạm Ðình Tiếu lôi cuốn

chúng tôi với tính tình cởi mở, gần gũi với học trò. Phong

cách thân mật với học trò, làm việc hăng say hết mình của

thầy đã thấm vào con người chúng tôi. Sau này, khi ra

trường, những nhà giáo chuyên về Sử Ðịa của lớp chúng tôi

thường lăn xả vào những sinh hoạt trong trường mà những

người chuyên dạy tư thường tránh né: tổ chức những sinh

hoạt xã hội, trại du khảo, trại công tác, đảm nhận chức vụ

hiệu đoàn phó (hiệu trưởng là hiệu đoàn trưởng). Có những

bạn phải nhận chức vụ hiệu trưởng, giám học ngay từ năm

đầu tiên nhận nhiệm sở. Những sinh hoạt trong trường

khiến đời sống trong trường học không chỉ là phấn trắng,

bảng đen, sách vở. Chính những sinh hoạt này tạo nên sự

khắng khít giữa thầy, trò, trường, lớp mà không sách vở

nào tạo nên được. Ngoài Sử Ðịa và Việt Văn, có thầy cô

dạy môn nào đào tạo học sinh trở thành những người có

tâm hồn Việt Nam? Từ thế hệ chúng tôi, học sinh không

còn nhìn ông thầy Sử Ðịa qua môn học hệ số 2, môn phụ.

Sử Ðịa không còn là môn mà bất cứ ai cũng dạy được.

Trước kia, Sử Ðịa do những giáo chức không

chuyên môn đảm nhận vì Ðại Học Sư Phạm chưa cung cấp

đủ thầy cô giáo. Còn chúng tôi do Ðại Học Sư Phạm đào

tạo vững vàng về kiến thức chuyên môn, tự tin về khả năng

sư phạm, lấy lại uy tín cho bộ môn Sử Ðịa. Có những bạn

cùng khóa chúng tôi đã “hớp hồn” học sinh: “Sau này em

sẽ học Ðại Học Sư Phạm, môn Sử Ðịa, giống thầy.” Không

biết các bạn tôi đúng hay sai? Khi “thôi miên”học sinh vào

môn học mà nhiều người vẫn coi thường, khiến học sinh

không chọn những con đường khác, nghề khác là điều thiệt

thòi cho các em. Tương tự như thế, thầy giáo trẻ mới ra

trường khiến cô nữ sinh nào đó bị say lòng, dù anh ta

không làm điều gì trái với chức năng của nhà giáo, cũng là

điều đáng tiếc, vì nếu không gặp ông thầy thần tượng của

em, biết đâu em chẳng gặp được chàng trai nào đó có chức,

có danh hơn ông thầy tỉnh lẻ. Tuy nhiên, ông thầy dạy Sử

Page 209: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 205

Ðịa tạo được ảnh hưởng đối với tương lai của học sinh đã

chứng tỏ sự thành công của nhà giáo.

Khi học với Giáo Sư Lâm Thanh Liêm về những

môn địa hình thái học (Géomorphologie) và bản đồ

(Cartographie) tôi thấy hay: Khi học ở lớp đệ tam (1960-

1961), tôi thật uể oải với môn địa chất học, phải chịu đựng

nhiều giờ trong tuần, ban A mà. Nhưng nay, đất đá là

những dạng cụ thể ở các địa hình, trên đất nước Việt Nam

và trên thế giới, là thực tế bên ngoài nhà trường, tôi lại thấy

gần gũi. Môn học này nhẹ nhàng đối với tôi. Giáo Sư Lâm

Thanh Liêm mới từ Pháp về, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ đệ

tam cấp ở Đại Học Sorbonne, Paris, một trường đại học nổi

danh.

Một môn mới lạ đối với những người mới bước

chân vào lãnh vực chuyên môn về Sử là môn Bình giảng sử

liệu do Giáo Sư Nguyễn Thế Anh giảng dạy. Tôi thích thú

với môn này, vì những dữ kiện của quá khứ nói lên rất

nhiều điều sống động, mình khám phá ra biết bao điều đã

chìm vào thời gian đã qua: xã hội, kinh tế, chính trị, giải

thích những biến cố từ sâu trong quá khứ. Giáo Sư Nguyễn

Thế Anh cũng mới từ Pháp về, với bằng thạc sĩ. Theo hệ

thống giáo dục Pháp, người có văn bằng thạc sĩ là giáo sư

đại học thực thụ, chứ không phải thạc sĩ là tên của văn bằng

cao học sau cử nhân như hiện nay trong nước gọi. Những

ngày đầu bước chân vào Ðại Học Sư Phạm, tôi thơ thới,

hân hoan. Tôi cùng các bạn cùng lớp sang ghi danh ở Ðại

Học Văn Khoa, nằm ở đường Nguyễn Trung Trực (sau này

là trụ sở của Thư viện Quốc gia). Ðây là trung tâm thành

phố Sài Gòn, sát bên đường Lê Thánh Tôn, đi bộ trăm mét

là tới đại lộ Lê Lợi, nhà sách Khai Trí, kem Mai Hương,

nước mía Viễn Ðông,… Sau giờ học, chúng tôi có thể bát

phố, ngồi quán cà phê ngắm các bóng hồng thướt tha trên

đường Lê Lợi, hoặc ghé vào rạp xi nê khi có phim hay. Tôi

ghi danh với mục đích vui chơi nhiều hơn là học.

Page 210: TOÀN CẦU 2017

Trang 206 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Trường Ðại Học Văn Khoa không có những đại

giảng đường khang trang như những đại học khác. Phòng

học ở đây nằm trong những căn nhà bệ rạc không thua gì

khu “chuồng ngựa” trường Chu Văn An của tôi. Sinh viên

dự bị nhiệm ý Sử Ðịa phải học chung nhiều môn với các

sinh viên chọn nhiệm ý khác, nên lớp học nào cũng đông

nghẹt. Các cô thường đi sớm dành chỗ cho nhau ở các hàng

ghế đầu, giống như đi xem kịch vậy. Không thể tranh giành

với các bóng hồng, lại lười đi sớm, tôi thường ngồi phía sau

lưng các bóng hồng, hoặc đứng ngoài cửa sổ mà ngóng vào

nghe giảng. Trường xập xệ như vậy nhưng thầy trò không

màng những thứ vật chất tầm thường trên thế gian và

hướng tới những cái hay, cái đẹp.

Tại Ðại Học Văn Khoa, tôi thấy những môn học

thật nhẹ nhàng, bay bướm. Cũng may, thời khóa biểu ở Ðại

Học Văn Khoa và Ðại Học Sư Phạm không trùng nhau

nhiều nên tôi có thể đi học được mà không sợ bị mất bài.

Nếu có trùng với Ðại Học Sư Phạm thì tôi mượn vở ghi

“cua” của bạn. Tôi không chủ đích học văn chương, nhưng

những giáo sư văn chương khiến tôi thấy học cũng thích

thú: Nghe Giáo Sư Nguyễn Văn Trung nói chuyện về văn

chương, về nhà văn (nhà văn, người là ai?) cũng hấp dẫn.

Còn mỗi buổi học với Linh Mục Thanh Lãng là một bài nói

chuyện lý thú về văn chương, không uổng công đứng mỏi

chân ở ngoài cửa sổ ghi chép.

Văn chương ở đại học, dù chỉ ở cấp thấp nhất (năm

dự bị) cũng khác với văn chương tôi học ở trung học. Tôi

cũng phải học môn chữ Hán. Tưởng rằng thứ chữ này thật

khó nuốt, nhưng giáo sư Lưu Khôn đã thay đổi cách suy

nghĩ của tôi. Với cách dạy của thầy, tôi thấy học loại chữ

này không khó, nhưng mình phải bỏ thời gian với nó. Qua

những bài học đầu tiên, tôi nhận ra tính thâm thúy của

người TrungHoa qua lối viết của họ. Sau này tôi sẽ bỏ thời

giờ nhiều hơn để học thứ chữ này để có khả năng đọc được

những bản văn cổ viết bằng chữ Hán.

Page 211: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 207

Thế là ở Ðại Học Văn Khoa, tôi cũng thấy học mà

vui.

Sau khi “ngao du” ở cả hai trường Sư Phạm và Văn

Khoa, tôi quyết định “xin chọn nơi này làm quê hương.” Lý

do là học ở những nơi này rất nhẹ nhàng, không mệt nhọc

như học Anatomie, Physique, Chimie,… và đến trường lại

thấy mướt mắt, cuộc đời cũng có niềm vui. Tìm hiểu sâu xa

về văn hóa dân tộc, nghiên cứu về đất nước, lịch sử dân tộc

mình cũng là nguồn vui. Sau này, khi học ở Ðại Học Văn

Khoa, được dịp dự những buổi trình tiểu luận cao học (thời

đó chưa có tiến sĩ) hoặc tìm hiểu những đề tài nghiên cứu ở

bậc cao học, tôi nhận ra đó là những khám phá về đời sống

của dân tộc mình.

Một lý do nữa khiến tôi chọn nghề dạy học là nhà

giáo vẫn còn chút giá trị tinh thần trong xã hội. Vào thời

tôi, nhà giáo vẫn được quý trọng. Bạn bè tôi có anh chị dạy

học ở tỉnh cho biết thầy cô giáo phải ăn uống trong tiệm

đàng hoàng, chứ không được ngồi ở các quán bên lề đường

hay trong chợ. Nếu không phải là thầy cô giáo thì ăn uống

ở đâu, chẳng ai để ý. Thầy giáo mà giao du với cô nào thì

ngày hôm sau cả trường đều biết và xầm xì. Các anh sĩ

quan cặp bồ với cô này, cô nọ lại là chuyện thường. Tôi

không muốn nói là cần mọi người kính nể, hay sợ bị coi là

tấm gương cho mọi người, mà chỉ muốn nói rằng nhà giáo

vẫn còn được xã hội quý mến. 10 năm sau, xã hội thay đổi,

danh dự của nhà giáo tuy có sứt mẻ, nhưng xã hội vẫn nể vì

họ những bậc thay mặt cha mẹ dạy dỗ con cái của họ.

Còn về vật chất thì ngành giáo được chính phủ ưu

đãi hơn các công chức hạng A khác: chỉ số lương của giáo

sư trung học đệ nhị cấp mới vào nghề là 470, trong khi tốt

nghiệp Quốc Gia Hành Chánh hoặc Cao Ðẳng Nông Lâm

Súc chỉ số lương là 430. Sinh viên Ðại Học Sư Phạm được

học bổng 1,000 đồng mỗi tháng, trong khi sinh viên trường

Cao Ðẳng Nông Lâm Súc phải xin học bổng, nếu được

chấp thuận mới được 700 đồng mỗi tháng. Với tiền học

Page 212: TOÀN CẦU 2017

Trang 208 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

bổng hàng tháng, tôi không cần phải xin cha mẹ hoặc đi

dạy kèm nữa. Bạn tôi ở tỉnh về Sài Gòn học, với số tiền học

bổng này, anh ta đủ trang trải tiền trọ và tiền ăn hàng tháng.

Lương giáo sư trung học đệ nhị cấp mới ra trường thời đó

khoảng 9,000 đồng mỗi tháng. Nếu dạy thêm một số giờ (vì

thiếu người dạy), lương sẽ trên 10,000 đồng/tháng. Ðây là

mức lương rất cao (gấp 5 lần lương của thư ký). Với mức

lương này, tôi nghĩ cuộc sống sẽ đầy đủ. Không mong làm

giàu, tôi chỉ mong cuộc sống yên ổn, an nhàn.

Nếu tôi học xong nha khoa, làm sao tôi có được vài

trăm ngàn đồng để mua máy làm răng? Dược sĩ không có

tiền mở nhà thuốc tây thì cho mướn bằng. Còn nha sĩ thì

không thể cho mướn bằng được. Thời đó, người mình chưa

có thói quen đi khám răng và điều trị ở nha sĩ. Khi đau răng

hoặc làm răng giả, người ta thường đến thợ trồng răng.

Tôi đã quyết định bỏ Nha Khoa, theo học Sư Phạm

song song với Văn Khoa. Thế là dạy học là nghề và nghiệp

của tôi. Tôi vui với học trò, vui với việc nghiên cứu Sử Ðịa.

Thế hệ chúng tôi chưa làm được việc gì to lớn cho đất

nước, nhưng rất vui vì đã đem hết khả năng của mình đào

tạo mầm non cho đất nước. Ðất nước Việt Nam còn đau

thương, còn chiến tranh, nhưng chúng tôi rất tự tin vì đã

được đào tạo thành những nhà giáo đầy đủ khả năng

chuyên môn, đầy nhiệt huyết để đào tạo thế hệ mai sau

thành những người có lòng và có khả năng xây dựng đất

nước. Dù các môn Sử Ðịa đòi hỏi tinh thần khách quan và

khoa học, nhưng qua những dữ kiện đó, lòng yêu nước vẫn

nảy mầm trong học sinh và các em không hổ thẹn làm

người Việt Nam. Song song với nghề nghiệp, một số chúng

chúng tôi tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu sâu rộng hơn trong

những lãnh vực sử và địa.

Khi chúng tôi tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm thì một

bạn đã trình tiểu luận cao học Ðịa Lý và bốn người hoàn tất

văn bằng cử nhân giáo khoa Sử Ðịa. Tới ngày 30 tháng 4,

1975 thì: Hai người hoàn tất văn bằng cử nhân giáo khoa

Page 213: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 209

Sử Ðịa. Hai anh này không học tiếp lên cao học vì một anh

say mê với các môn kinh tế ở Ðại Học Luật Khoa. Còn anh

kia thì bận bịu với việc dạy học ở tỉnh nhà. Một người hoàn

tất cao học Sử, do Giáo Sư Nguyễn Thế Anh bảo trợ. Hai

người đậu cao học Ðịa Lý, do giáo sư Lâm Thanh Liêm

bảo trợ. Hai người này qua được năm thứ nhất chuyên khoa

Ðịa Lý, chuẩn bị luận án tiến sĩ chuyên khoa Ðịa Lý.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biến cố đau

thương của toàn dân Việt Nam. Khi nón cối, dép râu, nón

tai bèo giẫm nát Sài Gòn, vào chiếm trường học thì cuộc

đời đã chấm dứt. Thân phận chúng tôi là những kẻ chiến

bại, những kẻ được kẻ chiến thắng cho tạm dung. Chúng tôi

bám lấy trường chỉ để bám lấy sự sống cho gia đình, để

khỏi bị tống ra ngoài thành phố mà người ta gọi là đi kinh

tế mới. Bọn con trai chúng tôi trong khóa 7 Ðại Học Sư

Phạm may mắn không phải đi tù cải tạo, vì chúng tôi chỉ

học quân sự 9 tuần, mang cấp bậc khóa sinh dự bị sĩ quan.

Các bạn từ khóa 6 trở về trước và khóa 8 trở về sau đều

phải nếm mùi tù cải tạo vì mang cấp bậc sĩ quan quân đội

Việt Nam Cộng Hòa, biệt phái. Trong xã hội cộng sản,

mình chỉ được nói những gì mà đảng cho nói, nói mà chẳng

ai tin, ngay cả chính mình. Những nhà giáo tạm dung như

chúng tôi muốn yên thân thì chấp nhận thân phận những

con vẹt để sống cho qua ngày. Người bạn cùng lớp với tôi

dạy ở trường trung học Pétrus Ký (nay là Lê Hồng Phong)

vạ mồm vạ miệng nói trước lớp: “Hoàng Sa, Trường Sa là

của Việt Nam.” Thế là đám học trò đoàn, đảng báo cáo với

ban giám hiệu và ngay hôm sau, anh bị đuổi khỏi trường.

Khi mới tiếp xúc với cộng sản, anh ta chưa nhận ra được

cách sống cho thích hợp.

Bản chất nhà giáo là sống chân thật nên khó xoay sở

trong lúc tình thế nhiễu nhương. Một số rất ít người lanh lợi

tháo vát thì kiếm sống thêm trên đường phố: buôn bán

thuốc tây chui, quần áo cũ… Chúng tôi được đào tạo về cả

Sử lẫn Ðịa, nhưng họ chỉ định dạy một môn Sử, hoặc

Page 214: TOÀN CẦU 2017

Trang 210 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Ðịa. Sử của Cộng Sản là sử đảng, sử bác. Khi Việt Cộng

mới chiếm Sài Gòn, muốn biết xem lối viết Sử của họ ra

sao, tôi tìm đọc cuốn Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam tập I.

Ngay trang đầu là hình Hồ Chí Minh to tổ bố. Vậy là gì?

Hồ Chí Minh được đặt trước các bậc tổ tiên của dân Việt,

trước cả các vị anh hùng dân tộc như Trần Hưng Ðạo,

Nguyễn Huệ,… Sau đó là lời nhắn nhủ của thủ tướng Phạm

Văn Ðồng: “… Các đồng chí phải chứng minh cho được

thời kỳ chiếm hữu nô lệ…” Như thế: Thủ Tướng Phạm Văn

Ðồng là nhà hành chánh, nhà chính trị mà các người gọi là

nhà viết sử của chế độ phải tuân lệnh thì loại văn mà họ

viết ra chỉ để vừa lòng xếp, chứ không phải là kết quả của

cuộc nghiên cứu khách quan.

Họ đặt cái cày đi trước con trâu, tìm con bò cho vừa

cái chuồng. Chưa nghiên cứu mà phải tìm cho được thời kỳ

chiếm hữu nô lệ ở Việt Nam. Cái gọi là “Sử” của Cộng Sản

chỉ là một loại văn viết theo đơn đặt hàng của đảng. Sau

này mới biết những nhân vật lịch sử mà học sinh bị nhồi sọ

như Phan Ðình Giót, Lê Văn Tám chỉ là những sản phẩm

bịp bợm. Những cuốn sách tái bản sau này của bộ Lịch Sử

Dân Tộc Việt Nam đã bỏ câu nói của Phạm Văn Ðồng,

nhưng ảnh của Hồ Chí Minh thì vẫn vậy. Dẫn chứng như

trên, tôi muốn nói: đối với cộng sản, không có môn Sử mà

chỉ có những lời tuyên truyền theo họ muốn.

Còn về Ðịa Lý? Làm sao mà dẫn chứng chủ nghĩa

tư bản đang giẫy chết trong khi nền kinh tế và trình độ khoa

học kỹ thuật vượt bậc của họ không thể bịp được đứa con

nít? Làm sao mà chứng minh: “Ðồng hồ Liên Xô tốt hơn

đồng hồ Thụy Sĩ”? và phản khoa học như: “Trăng Trung

Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ”? Cái khổ của người trí thức

không phải vì chầu chực để được nhận những hột bo bo,

con cá ươn, mớ rau thối… mà là nỗi nhục cho thân phận

của mình, và nỗi đau cho đất nước và dân tộc.

Người ta gọi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày đứt

phim, ngày đổi đời, ngày mất nước, ngày quốc hận. Ðiều

Page 215: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 211

nào cũng đúng. Phận mình còn không biết có yên thân

không thì còn nghĩ gì tới nghiên cứu. Nghiên cứu làm sao

được khi tài liệu không có. Tin tức, số liệu được công bố

thì toàn là những bịa đặt. Tất cả mọi thứ trong chế độ “ưu

việt nhất của loài người” phải được đảng lãnh đạo. Ðảng có

sai bảo thì mới được làm. Bọn nhà giáo gốc ngụy, lý lịch ba

đời đầy rẫy những vết đen thì đảng cho yên thân là tốt lắm

rồi, nói gì đến nghiêu cứu. Tinh thần đâu mà nghiên cứu

khi hàng ngày gia đình nheo nhóc, dạ dày lép xẹp. Còn về

mặt hành chánh, trường Ðại Học Tổng Hợp (thay cho Ðại

Học Văn Khoa trước kia) chỉ công nhận văn bằng cử nhân,

chứ không công nhận văn bằng cao học. Cuộc đời của

nhiều người coi như đã chấm dứt từ cái ngày đen tối đó.

Vài lời ghi lại của một kẻ đã hết lòng với cả hai

trường Ðại Học Sư Phạm và Văn Khoa Sài Gòn, nhân dịp

Hội Ngộ 40 Năm Viễn Xứ (được tổ chức tại Nam Cali,

USA) mà đường xa vạn dặm không thể tới dự được.

Trần Thế Đức, CVA63 Úc Châu, 28 tháng 8, 2015

Page 216: TOÀN CẦU 2017

Trang 212 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

NGƯỜI VIỆT -

CHIM VIỆT -

CÁ VIỆT

Lưu Văn Vịnh , CVA 57-60 Theo nhà Phật, chúng sinh bao gồm muôn loài, loài người, chó

lợn,voi ngựa…sinh tử trên giải đất Việt, loài cá sống dưới biển

Đông, đàn chim lượn trên vòm trời Nam, tất cả đêu mang chung

một cộng nghiệp, cho nên gặp thời mạt pháp, khi hàng triệu dân

lành chết oan vì bom đạn vượt biên vượt biển, thì cũng tới lượt

triệu triệu cá chết vì độc chất, triệu triệu gà lợn bị chết vì dịch

tễ, loài chim mất rừng lá, khí trời ô nhiễm, trụi lông tan tác,

chim sẻ chim xanh có cơ tuyệt chủng…

* Chim Việt đậu cành Nam phương

Cá Việt nằm phơi bóng thuỳ dương

Hồn Việt muôn đời ôm chặt giữ lấy quê hương !

Toàn con dân, chim-cá-người,

Toàn chúng sinh nước non ta

Một bầu trời-Một góc biển

Cùng cộng nghiệp chia nhau nước mặn phù sa

Cùng thở bầu linh khí vòi vọi vòm cung Đông Á

Uống máu ăn thề giữ đất giữ biển đảo quê cha

Sóng bạc đầu cuồn cuộn ầm ầm tiếng thét

Trăm ngàn bộ xương người chưa chịu hoá kiếp

Page 217: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 213

Cùng cá chết biển Đông

nằm nín hơi đáy biển

chờ một ngày quật khởi Lạc Hồng.

Thuỷ phủ họp bàn trang nghiêm trình Trời

Long quân trợn mắt vuốt râu

mở trang Sách Ước

Gậy thánh thần treo cất bốn ngàn năm

Đầu tử đầu sinh, nước Nam một dòng sinh mệnh

Vạn vạn ánh mắt nung nẩy lửa ngọn tre Thánh Gióng

Voi Quang Trung Hưng Đạo ngạo nghễ thét trời Đông

Muôn bắp tay, muôn ngàn tráng sĩ, bừng bừng sức sống

Mỗi tia mắt Việt quắc sáng lưỡi dao chuỷ thủ Kinh Kha

Mỗi thân cá Việt lấp lánh tấm áo giáp trấn giữ sơn hà

Mỗi cánh chim Việt bay cao sứ điệp mệnh trời bao la.

Rạch gươm mặt đất, quắc mắt thép, ngang trời xanh

Triệu triệu hồn chim, hồn cá, hồn người

Hải triêu âm vời vợi ầm ầm sóng biển Đông

Muôn năm vang vang lời thề khắp non sông

Khúc khải hoàn ca Lạc Việt vạn tuế vạn Vạn Xuân.

LƯU VĂN VỊNH-, CVA 57-60 Đã đọc trong ngày Tân niên CVA Bắc CA

26-2-2017 tại San Jose.

*

Page 218: TOÀN CẦU 2017

Trang 214 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Nhân ngày Quốc Hận 30/4,

Nhớ về Sài Gòn của tôi

Một thời để thương,

Một thời để nhớ

Nguyễn Lương Tuyền, CVA63

Bác sĩ Nguyễn Lương Tuyên

Lời giới thiệu: Bác Sĩ Nguyễn Lương Tuyên sinh quán tại

Hải Dương (Bắc Việt). Di cư vào Nam năm 1954. Là cựu

học sinh Chu Văn An Sàigòn từ 1956 tới 1963 và cựu sinh

viên Y Khoa Đại Học Sàigòn khoá 1963-1970.

* Đậu Thủ Khoa ky thi tuyển Nội Trú các Bệnh Viện

(Interne lauréat des Hopitaux de Sàigòn), Làm Interne

des Hopitaux 5 năm, từ 1968 tới 1973

* Giảng nghiệm Trưởng khoa Giải phẫu Trẻ em (Pediatric

Surgery) từ 1973 -1975 tại Y Khoa Đại Học Sàigòn.

Sau khi di tản qua Bắc Mỹ năm 1975 :

Page 219: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 215

* Đi học lại 6 năm trong đó có : 3 năm Giải Phẫu Tổng

Quát (General Surgery) và 2 năm Fellowship in

Pediatric Surgery ở Nhà Thương Nhi Đồng Toronto

(The Toronto Hospital for Sick Children (ĐH Toronto).

* Năm 1981: định cư tại Montreal, làm việc tại University

of McMill. Attending Pediatric Surgeon tại The

Montreal Children's Hospital cho tới ngày vê hưu năm

2010 vì lý do sức khoẻ.

Chức vụ sau cùng tại Đại học McGill trước khi vê hưu:

Associate Professor of Pediatric Surgery

Awards & Honours :

* Teacher of the year 1992

* Lifetime Achievment Award 2009 (Giải thưởng thành

tựu một đời tại Đại học McGill)

* Năm 2010: một Excellent Award mỗi năm, cho một

Resident vê Giải phẫu xuất sắc. Award này mang tên L

T Nguyen Excellent Award.

Tôi xa Sài Gòn đã hơn 40 năm. Sài Gòn là nơi nuôi

tôi lớn lên, trưởng thành. Những ngày hoa mộng của đời tôi

được bắt đầu ở thành phố yêu dấu này, để rồi bị chấm dứt

một cách tức tưởi vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Sài

Gòn bị đổi chủ, đổi tên. Tôi bị buộc phải rời xa Sài Gòn,

năm đó tôi vừa tròn 30 tuổi.

Tôi mở mắt chào đời ở Miền Bắc nước Việt. Khi

Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông từ các An Toàn Khu

ở Việt Bắc về tiếp thu Hà Nội theo đúng Hiệp Định

Genève, ký ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi theo gia đình di

cư vào Nam, đúng hơn là vào sống ở Sài Gòn. Đó là ngày

28 tháng 8 năm 1954 - chỉ hơn 1 tháng sau khi Hiệp Định

Genève chia đôi đất nước được ký kết. Tôi đặt chân đến Sài

Gòn vào khoảng nửa đêm. Mệt mỏi rã rời, tôi ngủ vùi cho

đến sáng bảnh mắt ngày hôm sau mới thức dậy.

Page 220: TOÀN CẦU 2017

Trang 216 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Tôi được nếm mùi vị văn hóa ẩm thực của Sài Gòn

ngay. Tôi được ăn món truyền thống của miền Nam: bì bún

với nước mắm dấm, tỏi, ớt cùng giá sống. Lần đầu trong

đời tôi được nếm hương vị thức ăn của Miền Nam. Sao mà

nó ngon thế!!. Dì Sáu, người giúp việc nhà của anh chị tôi,

đã reo lên khi tôi chào chị: ''Bà Thầy ơi (chị gọi Bà Chị của

tôi), thằng nhỏ này biết nói tiếng ''Ziệc''. Quả thật, vào thời

điểm đó, một số đông đồng bào miền Nam vẫn còn coi

những người di cư đến từ miền Bắc là những người đến từ

một nước khác, những người ngoại quốc...

Người dân Miền Nam đã mở rộng vòng tay, tiếp

đón gần 1 triệu người đến từ miền Bắc. Chỉ trong chưa đầy

6 tháng, Chánh quyền của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và

nhân dân Miền Nam đã thành công trong việc định cư, ổn

định đời sống gần 1 triệu người tỵ nạn CS đến từ miền Bắc.

Sài Gòn là thủ đô của Miền Nam về phương diện

chánh trị, kinh tế, giáo dục, âm nhạc nghệ thuật, báo chí

văn chương... Có thể nói Sài Gòn tượng trưng cho cuộc

sống của cả Miền Nam. Dân số của Sài Gòn vào năm 1954

có khoảng hơn 1 triệu người. Cậu bé Bắc kỳ 9 tuổi là tôi bị

hoa mắt vì những điều khác hẳn Hà Nội:

Chuyên chở công cộng ở Hà Nội chỉ có tầu điện,

xích lô, không có taxi, xe hơi rất ít. Các thương hiệu xe hơi

ở Hà Nội hồi đó là xe Citroen, xe Traction, xe Vedette. Ở

Sài Gòn, có nhiều phương tiện chuyên chở như xe bus, xe

taxi, xe xích lô, xe xích lô máy và cả xe thổ mộ do ngựa

kéo. Vào giờ ăn, giờ nghỉ trưa rất khó gọi taxi, gọi xích lô...

vì các bác tài xế cần nghỉ để ăn uống, ăn trưa. Khi tỉnh giấc

''la siette'', hầu như tất cả đều đến hiệu ăn, nhâm nhi ly cà

phê ''bí tất'', cà phê này hình như rất phổ thông ở Miền

Nam, khác hẳn cà phê filtre của Hà Nội.

Người dân Sài Gòn có những ý tưởng rất thực

dụng. Thí dụ thay vì thối lại 50 xu, người bán hàng chỉ cần

xé đôi đồng bạc 1 đồng rồi trả lại khách hàng một nửa. Sau

Page 221: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 217

vài năm, lối thối tiền thực dụng này bị chánh phủ của TT

Ngô đình Diệm bãi bỏ.

Đường phố Sài Gòn còn mang tên Tây. Thí dụ

đường Hồng Thập Tự có tên Tây là Rue Chasseloup

Laubat. Chỉ sau một thời gian ngắn Chính phủ của TT Ngô

Đình Diệm đã dùng tên Việt Nam cho các đường ở Sài

Gòn. Thí dụ Rue Catinat được mang tên mới là đường Tự

Do. Sau 30 tháng 4, các đồng chí CS đặt một tên mới là

đường Đồng Khởi. Đường Công Lý chạy ngang Tòa Án, là

đường chánh để đi vào Phi Trường Tân Sơn Nhất, được

''các đồng chí'' đổi tên là Đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa ngay

sau khi họ hoàn toàn làm chủ thành phố. Người dân Sài

Gòn bèn châm biếm

''Nam Ky Khởi Nghĩa tiêu Công Lý:

Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do''

Về ngôn ngữ, người Miền Nam dùng chữ DZ thay

cho chữ V. Thí dụ Vấn Vương được phát âm là Dzấn

Dzương. Chữ V được phát âm là DZ nhưng khi viết, người

Sài Gòn viết rất đúng. Người Sài Gòn thường hay lẫn lộn

dấu hỏi, dấu ngã. Trái lại các âm TR, S, Ch, L, N... được

phát âm rất rõ ràng. Giọng nói, cách phát âm khác biệt của

từng miền là đặc tính của ngôn ngữ Việt Nam, được hát đi

hát lại nhiều lần. Hát "ố tang ố tang tình tang'' phải dùng

giọng Huế nghe mới hay. Hát Cải Lương phải dùng giọng

Miền Nam mới hay. Đoàn Kim Chung, Tiếng Chuông

Vàng Thủ Đô Hà Nội, khi vào Sài Gòn đã đóng đô ở Rạp

Olympic ở đường Hồng Thập Tự. Đoàn đã chuyển qua

trình diễn cải lương bằng giọng của đồng bào Miền Nam.

Hát tân nhạc phải dùng tiếng Bắc mới hấp dẫn người nghe.

Ca Sĩ hát bằng tiếng Nam rất ít, có thể đếm được trên đầu

ngón tay. Có lẽ chỉ có Quái kiệt Trần Văn Trạch và da sĩ

Hải Minh ở Đài Phát Thanh Quân Đội Sau này tôi mới

được biết Ca sĩ Hải Minh chính là Giáo Sư Âm Nhạc Trần

Van Khê. Ông cũng là anh ruột của Nghệ sĩ Trần Văn

Trạch

Page 222: TOÀN CẦU 2017

Trang 218 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Tính tình cởi mở, cười nhiều hơn giận, thân thiện

với mọi người là cá tính của dân Sài Gòn nói riêng cá tính

của dân Miền Nam nói chung; dản dị như Miền Nam, chỉ

có mưa nắng hai mùa.

Tôi đã lớn lên và trưởng thành tại Thành phố Sài

Gòn. Năm năm đầu, từ 1955 tới 1960, là 5 năm thần tiên, 5

năm tuyệt vời, 5 năm hòa bình, 5 năm phát triển tột bực của

miền Nam dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa do Tổng Thống

Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Thế giới đã ngạc nhiên, thán

phục sự trỗi dậy của dân Miền Nam, trên mọi lãnh vực

trong hơn 20 năm, cho đến năm định mệnh 1975.

Sau 1975, tài liệu mật được phơi bầy. Người ta mới

hay ngay sau khi đặt bút ký vào Hiệp Định Genève năm

1954, ông Hồ đã sửa soạn xâm lăng miền Nam để nhuộm

đỏ đất nước theo lệnh các quan thầy CS Quốc Tế Nga và

Tầu.

Thực vậy, CS đã để lại Miền Nam cả một binh đoàn

gồm hàng ngàn binh lính, cán bộ. Lê Duẩn đã lén ở lại

Miền Nam, không tập kết ra Bắc theo đúng Hiệp Định

Genève. Y chính là người điều khiển các CS nằm vùng ở

Miền Nam.

Khi chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm

từ chối không tổ chức Tổng Tuyển Cử dự trù vào năm 1956

bởi Hiệp Định Genève ký ngày 20/7/1954. CSVN quyết

định xâm lăng tiến chiếm miền Nam. Trong bản Đề Cương

Cách Mạng ở Miền Nam do Lê Duẩn biên soạn năm 1958,

Lê Duẩn đã khẳng định không có giải pháp nào để chiếm

miền Nam ngoài giải pháp ''chiến tranh nổi dậy''. Đám CS

nằm vùng được lệnh đào vũ khí chôn dấu và bắt đầu cuộc

chiến tranh nổi dậy để xâm chiếm miền Nam.

Trận chiến lớn giữa quân CS và Quân Đội Quốc

Gia tại Trảng Xụp, Tây Ninh là trận đánh mở màn cho cuộc

xâm lăng miền Nam của CS vào năm 1959. Tháng 12 năm

1960, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được những người

Page 223: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 219

CS từ miền Bắc thành lập. Thực ra trước đó vài năm, CS đã

bắt đầu các cuộc phá hoại cũng như khủng bố giết chóc các

viên chức xã ấp tại Miền Nam.

Từ năm 1960, Miền Nam bị CS từ Miền Bắc xâm

nhập, phá hại, khủng bố. Trận chiến càng ngày càng tăng

cường độ. Mọi lãnh vực của đời sống của dân Miền Nam

đều bị CS phá hoại... nhưng Thủ Đô Sài Gòn vẫn an ninh,

phát triển. Tết Mậu Thân 1968, chiến tranh đã đến cửa ngõ

của Sài Gòn.

Khoảng năm 1965-1966, khi quân Mỵ và Đồng

Minh đổ bộ vào Miền Nam để trực tiếp hỗ trợ Quân Lực

VNCH, CSVN, với sự hỗ trợ đắc lực của Cộng Sản Quốc

tế, với chiêu bài ''đánh Mỹ cứu nước'' đã động viên toàn

Miền Bắc cho công cuộc xâm lăng Miền Nam. Thanh niên

Miền Bắc đã được lệnh của Đảng CSVN vượt Trường Sơn

kéo vào Nam tham dự cuộc chiến ''chống Mỹ cứu nước''.

Dư luận quốc tế bị ''nhiễm độc'' nặng tuyên truyền của CS,

đã ngả về phía Cộng Sản. Quân Dân của Miền Nam đã

chiến đấu trong cô đơn, nhất là từ đầu thập niên khi '"Đồng

Minh bỏ chạy".

Mặc dù bị CS phá hoại về đủ mọi lãnh vực, Miền

Nam vẫn thực hiện được những tiến bộ không ngờ (des

progrès déconcertants) trong mọi lĩnh vực của đời sống:

Trở lại với Sài Gòn của tôi. Trong 21 năm tôi đã

mục kích những thay đổi, tiến bộ về mọi lĩnh vực chưa

từng bao giờ có của thành phố mặc dầu quân dân miền

Nam phải đối diện hàng ngày với quân CS do CS Miền Bắc

lãnh đạo. Miền Nam chỉ có được 6 năm không tiếng súng.

Còn 15 năm, cho tới ngày đất nước bị rơi vào tay quân

Cộng Sản VN. Quân đội của CSVN đã được sự hỗ trợ của

CS Quốc Tế trong suốt cuộc xâm lăng này. Xin được tóm

tắt những tiến bộ không ngừng nghỉ trong vài lĩnh vực:

Page 224: TOÀN CẦU 2017

Trang 220 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Về giáo dục

Giáo dục, từ Tiểu học cho tới Đại Học, hoàn toàn

miễn phí

Giáo dục tại Miền Nam, vào thời điểm trước năm

1975, được xây dựng trên một triết lý. Đó là Dân Tộc,

Nhân Bản và Khai phóng. Triết lý này được đề ra sau Hội

Nghị Toàn Quốc về Giáo Dục năm 1958 dưới thời của Bộ

Trưởng Giáo Dục Trần Hữu Thế. Triết lý này luôn luôn

bàng bạc trong nền giáo dục ở Miền Nam cho tới ngày CS

chiếm Miền Nam năm 1975. Trái lại người CS chỉ có một

triết lý về giáo dục, đó là phục vụ Bác và Đảng, phục vụ Xã

Hội Chủ Nghĩa. Nền Giáo Dục tại VN bây giờ đã hoàn toàn

phá sản, chỉ tạo ra nhiều tên ăn cắp, dối trá, lừa đảo, bịp

bợm. Điều này dễ hiểu vì những người lãnh đạo ở VN bây

giờ là những tên ăn cắp. ''Thượng bất chánh, hạ tất loạn''

như người xưa đã nói.

Giáo Dục tại Miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa, dù

bị phá hoại triền miên, đã đào tạo được đầy đủ nhân tài cho

Tổ Quốc. Sinh viên VNCH, khi ra ngoại quốc du học, đã

chứng tỏ khả năng của họ. Họ không thua kém bất kỳ sinh

viên đến từ những nước khác. CSVN đã gửi một số sinh

viên ra nước ngoài, du học. Các người này đã đã làm nhục

dân tộc vì chỉ đi ăn cắp. Người Việt do CSVN gửi ra nước

ngoài rất nổi tiếng là "hay ăn cắp" tại khắp mọi nơi trên thế

giới, nhất là tại các nước ở Á Châu như Nhật, Đại Hàn, Đài

Loan, Thái Lan...

Y Tế

Nền Y Tế của Miền Nam cho đến năm 1975 là một

nền Y Tế miễn phí cho mọi người, không phân biệt giai

tầng xã hội và nhất là không hối lộ từ y công cho tới bác sĩ.

Phải vào nhà thương bây giờ là một nỗi khổ tâm không bút

nào tả xiết. Trước 1975, cũng có những nhà thương tư

nhưng rất ít so sánh với hệ thống các nhà thương công bất

vụ lợi của Bộ Y Tế.

Page 225: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 221

Văn học

Trước năm 1975, sáng tác được tự do, không có sự

can thiệp của chánh quyền. Nhóm Sáng Tạo, từ Miền Bắc

di cư vào Sài Gòn năm 1954, đã thổi một luồng gió mới

vào văn học Miền Nam. Văn Học ở Miền Nam được tự do

phát triển hơn bao giờ hết. Nhiều tác phẩm văn học có giá

trị đã ra đời trong giai đoạn này. Trong khi đó ở Bắc bờ

Bến Hải, các người cầm bút bị đàn áp, cầm tù, cấm viết vì

đã lỡ đi ra ngoài những qui định của CSVN. Có lẽ chỉ có ở

VNCS các chiến dịch đàn áp những người cầm bút như

Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm, thập niên 50 tại Cộng

Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ông Trùm văn nghệ của

Miền Bắc Tố Hữu là tác giả của những câu vè:

Thương biết mấy khi con học nói

Tiếng đầu lòng con gọi Sít Ta Lin

hay

Tin từ trong ấy loan xa

Bác Hố đang sống chuyển ra từ trần

Thơ với thẩn!!! hỡi Tố Hữu ''nhà thơ cung đình'' của

chế độ! Trong khi tại Miền Nam, văn chương lãng mạn đã

ngự trị trong tâm giới trẻ. Thơ Nguyên Sa là một thí dụ

điển hình. Thế hệ mới lớn của Miền Nam, ai mà không biết

tới những câu thơ đầy tình tự lãng mạn:

Áo nàng vàng anh vê yêu hoa cúc

Áo nàng xanh, anh mến lá sân trường

Sợ thư tình chưa rõ nghĩa yêu đương

Anh pha mực cho vừa mầu áo tím.

(thơ Nguyên Sa)

Âm Nhạc

Dù chỉ tồn tại có 21 năm, nhưng Âm nhạc tại Sài

Gòn nói riêng, tại Miền Nam nói chung đã phát triển tột

bực với một trời âm nhạc lãng mạn cực kỳ hay. Nền âm

nhạc lãng mạn này đã đi vào tâm hồn của người dân Miền

Page 226: TOÀN CẦU 2017

Trang 222 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Nam, từ thành thị đến thôn quê. Các nhạc sĩ được sáng tác

trong một bầu không khí tự do. Trong khi đó, tại Miền Bắc

Xã Hội Chủ Nghĩa của Ông Hồ và các "đồng chí", mọi

công trình nghệ thuật, kể cả âm nhạc đều phải theo một

khuôn thước, đó là: ''phục vụ chủ nghĩa, phục vụ Bác và

Đảng'' theo đúng như ''Bản Đề Cương Văn Hóa'' của Đại

Đồng Chí Trường Chinh, ra đời cuối thập niên 40. Xin hãy

nghe lời phát biểu của Trường Chinh trong một buổi hội

với văn nghệ sĩ ''Các đồng chí phải sáng tác theo tiếng gọi

của con tim, nhưng các đồng chí đã dâng hiến con tim cho

Đảng vật thì các đồng chí phải sáng tác để phục vụ Đảng.''

Một thí dụ điển hình là Nhạc sĩ TCS. Tài của ông đã

được thăng hoa khi ông sống tự do dưới chế độ tự do thời

Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam tự do. Nhiều bản nhạc

tình, lãng mạn vô cùng của TCS đã được ra đời trong giai

đoạn này. Sau 1975, tài nghệ của họ Trịnh, dưới chế độ CS,

đã bị thui chột. TCS không cho ra đời một bản nhạc tình

nào. Phải chăng ''cây quít TCS ở Miền Nam đã cho nhiều

quả ngọt, dưới chế độ Cộng Sản, cũng cây quít đó chỉ cho

toàn quả chua'',

Thay lời kết

Tôi chưa từng về thăm VN kể từ ngày rời quê

hương. Đất nước Việt nói chung, Sài Gòn nói riêng đã thay

đổi rất nhiều. Sài Gòn như Sài Gòn của tôi trước năm 1975

đã không còn nữa. Ngay từ 1975, nhóm "dép râu, nón tai

bèo" đã khai tử tên Sài Gòn để thay vào đó tên của một

người đã mang lại tang thương, chết chóc, tàn phá cho dân

tộc. Các hậu duệ của Y đang để mất quê hương vào tay kẻ

thù truyền kiếp ở phương Bắc.

Về quê để làm gì đây? khi quê hương, khi Sài Gòn

đã không còn nữa. Quê hương sắp mất vào tay kẻ thù từ

phương Bắc còn Sài Gòn bị gán cho tên tội đồ của dân tộc.

Chế độ CS đã tan rã ở khắp mọi nơi trên thế giới.

Tại Nga Sô, Thành phố St Pretesburg đã tìm lại được tên

Page 227: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 223

xưa sau gần một thế kỷ bị CS đổi tên. Tại VN, thử đô của

Miền Nam sẽ tìm lại được tên gọi của ngày xưa: Thành phố

Sài Gòn một khi chế độ bạo tàn bị tiêu diệt. Ngày ấy không

còn xa.

Khi Sài Gòn bị đổi tên ngay sau ngày 30/4/1975,

Nhạc sĩ Nam Lộc đang ở trại tỵ nạn ở Phi Luật Tân đã thốt

lên:

Sài Gòn ơi! ta đã mất người trong cuộc đời,

Sài Gòn ơi! ta đã mất thời gian tuyệt vời

. . .

(Nam Lộc: Sài Gòn ơi! vĩnh biệt)

Người tỵ nạn CS tại mọi nơi trên thế giới đều mong

được trở về lại Sài Gòn như bài thơ sau đây của tác giả:

Người di tản buồn:

Nếu một mai nước non thanh bình

Ta sẽ trở vê thăm quê xưa

Thăm lại những lối mòn ngày cũ.

Để bồi hồi bâng khuâng tưởng nhớ

những tháng ngày qua

Ta sẽ tìm lại bạn bè xưa:

ai còn?

ai đã khuất?

ai đang nức nở?

Sài Gòn ơi! lòng ta bừng sóng gió

Tình hoài hương cuồn cuộn như nước triêu dâng

Vì xa "em" ta đau đớn bội phần

Như tiếc nuối một cuộc tình đã mất

Nhiêu lúc ta mơ vê quá khứ

Tưởng như mình đang sống tại quê nhà

Khi tỉnh giấc lại âm thầm tiếc nuối

Những tháng ngày mơ mộng của đời ta

(Người di tản buồn)

(Tháng 4, Montréal Canada)

Nguyễn Lương Tuyền, CVA63

Page 228: TOÀN CẦU 2017

Trang 224 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Ngày

chia đôi đất nước

Tâm sự người xa xứ !

Nguyễn Mạnh Trinh

Cầu Hiên Lương

Hơn nửa thế kỷ trước, những năm giữa thập niên

50, những người miền Bắc di cư vào Nam với nỗi ngậm

ngùi. Thơ, văn, nhạc, hình như cũng chuyên chở nhiều tâm

sự, của “nhớ về Hà Nội”, của tâm tình hoài niệm vô bờ. Và

sau hơn hai mươi năm, thì những người Việt lưu vong xứ

người lại bồi hồi nhớ về một đất nước đã xa, một thành phố

Page 229: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 225

Sài Gòn đã mất tên và thành kỷ niệm. Những bộ môn nghệ

thuật kể trên lại được khắc ghi lại từ những cảm hoài mênh

mông, từ những nỗi niềm ấp ủ của những người yêu quê

hương đất nước và luôn ngóng về nơi chốn đó với cả những

tấm lòng. Bao nhiêu năm qua, những văn thi nhạc sĩ Việt

Nam từ những cuộc đổi dời với những tác phẩm đánh dấu

những thời kỳ đặc biệt của lịch sử Việt Nam.

Tháng 7 mỗi năm có ngày 20 là thời điểm nhớ về

một giai đoạn lịch sử cũ, mà có người đã gọi là thời kỳ của

người di cư. Cũng như sau này, ngày 30 tháng tư năm 1975

đã thành ngày của những người di tản bỏ nước ra đi. Tất cả,

cũng là của những người trốn chạy chế độ Cộng sản đi tìm

dân chủ tự do.

Hồ Gươm Hà Nội

Tại sao lại có sự nhớ lại lịch sử trong ngày 20 tháng

7 mỗi năm?

Đó là ngày mà các phe liên hệ gồm các phái đoàn

Anh, Hoa Kỳ, Nga Xô Viết, Trung Cộng, Pháp, Việt Cộng,

Lào, Campuchia ký Hiệp ước Genève chia đôi đất nước

Page 230: TOÀN CẦU 2017

Trang 226 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Phái đoàn Việt Nam Quốc gia mà

bác sĩ Trần Văn Đỗ là Trưởng Phái đoàn không chịu ký để

phản đối việc chia cắt đất nước. Sau đó là cuộc di cư vĩ đại

của hơn một triệu người miền Bắc di cư vào Nam và đã làm

thay đổi cả xã hội miền Nam về nhiều mặt kinh tế, chính

trị, giáo dục, và cả văn học nghệ thuật nữa. Và như vậy,

chúng ta mới có những tác phẩm văn thơ nhạc “Nhớ về Hà

Nội” đánh dấu một thời kỳ đặc biệt của văn học sử Việt

Nam.

Nếu có người nói đó là cuộc di cư của chữ nghĩa thì

chúng ta sẽ có nhận định ra sao? Đó là một cách nói.

Nhưng, xét trên thực tế, ngày 20 tháng 7 năm 1954 có thể

coi như bắt đầu cho hai mươi năm văn học miền Nam, một

giai đoạn văn học đáng kể từ tính chất khai phóng cũng như

có những thành tựu mà chính những người đối nghịch

chính kiến cũng không thể phủ nhận. Nền văn học ấy đã có

những cuộc lên đường của những tác giả lừng lẫy, đã có

những công trình sáng tạo nghệ thuật biểu trưng được tâm

tình của một thời đại đầy biến chuyển của một đất nước

chiến tranh.

Vùng phi quân sự, vĩ tuyên 17

Page 231: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 227

Hình như lịch sử Việt Nam đầy những chuyến đi

bất đắc dĩ và những thành phố là nơi đã chứng kiến những

cuộc chia ly. Rất nhiều người đồng ý với nhận định ấy.

Những thành phố của chia ly. Sài Gòn, sau năm

1975. Hà Nội, sau năm 1954. Những thành phố của hoài

niệm trong thời gian ấy. Năm 1954, hàng triệu người rời bỏ

miền Bắc xuôi Nam tìm tự do, cuộc di cư vĩ đại của những

người ghê sợ Cộng sản. Năm 1975, Cộng sản chiếm toàn

bộ đất nước. Hàng trăm ngàn người di tản ra ngoại quốc

sau đó đến từng đợt vượt biển của hàng triệu người. Không

gian, thời gian, của những biến cố kể trên, đã thành môi

trường và động lực thúc đẩy văn nghệ sĩ tạo thành những

tác phẩm văn chương hay âm nhạc phản ánh tâm tình thời

đại.

Trong văn chương và âm nhạc Việt Nam, chắc có

nhiều tác phẩm về đề tài này? Dĩ nhiên là rất nhiều. Những

bài viết của nhà văn Mai Thảo trong “Đêm Giã Từ Hà

Nội”, Thanh Tâm Tuyền trong “Ung Thư”, Dương Nghiễm

Mậu trong “Quyên, Dĩ vãng và Hà Nội”, Hồ Hữu Tường

trong “Phố Sinh Từ”, Vũ Bằng trong “Thương Nhớ Mười

Hai” và “Miếng Ngon Hà Nội”,… Những bài thơ của Vũ

Hoàng Chương, Đinh Hùng,Thanh Nam, Hoàng Anh Tuấn,

Nhất Tuấn, Hà Huyền Chi,… mở ra một thế giới Hà Nội

của hoài vọng, của nỗi niềm. Rồi những bài thơ phổ nhạc

mà thơ nhạc đã phối hợp và bổ túc cho nhau thành những

tuyệt tác và có tuổi thọ văn chương nghệ thuật miên viễn…

Có những bản nhạc đã có đời sống trường cửu vượt

qua được thời gian với những đề tài hoài niệm về những

thành phố vĩnh viễn cách xa. Đó là một đặc tính của âm

nhạc Việt Nam. Một dòng nhạc hoài niệm kéo dài suốt nửa

thế kỷ đã cho chúng ta những bản nhạc để đời. Những bản

nhạc mà tuổi thọ của nó dài hơn tuổi thọ của chính tác giả

sáng tạo ra nó. Nhạc sĩ có khi khuất bóng từ lâu, nhưng

nhạc phẩm vẫn còn sống, còn được hát và còn được thính

giả nghe và hâm mộ. Qua một thời gian, qua sự đãi lọc, bản

Page 232: TOÀN CẦU 2017

Trang 228 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

nhạc có thể tồn tại được phải có sức lôi cuốn từ ngôn từ và

điệu nhạc. Và nhất là, phù hợp với tâm tư của từng thời kỳ,

của hoàn cảnh mỗi người khi nghe âm điệu nhắc lại những

phần đời sống đã qua.

Thời gian mới di cư vào Nam, tôi còn nhỏ lắm và

đang học tiểu học.

Năm 1954, gia đình tôi vào Nam. Đang học ở một

trường tiểu học mà một số học sinh là người Bắc, lạ người

lạ cảnh, tâm tư như tờ giấy trắng, nhưng tôi vẫn nhớ như in

bài hát mà tôi đã gân cổ hát trong giờ sinh hoạt học đường.

Lúc ấy, hào hứng tin tưởng xiết bao. Bản nhạc “Về Miền

Nam” của Trọng Khương nhắc lại tôi ngày thơ ấu:

“Đứng vùng lên nào bao thanh niên yêu nước

Hướng vê đây miên nam thân yêu nắng sáng

Theo vết chân người xưa ta tiến lên đường đi

Bao nắng mưa sương gió nào ngại chi.

Sông nào cắt đứt đôi nơi

Sông nào xé nát tim tôi

Sông nào bóp chết thương yêu Việt nam ơi!…”

Chợ Bến Thành Saigon

Page 233: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 229

Bản nhạc mà tuổi thơ tôi đã hát say sưa như vậy đã

tạo nhiều cảm xúc cho tôi. Bài hát ấy, với tôi, tự nhiên nhắc

và nhớ đến những khuôn mặt ấu thơ. Những cô giáo, thầy

giáo khai tâm tuổi nhỏ. Cùng với ngôn từ và điệu nhạc, là

bước chân trở về. Đó, lãnh địa thiêng liêng của đời người,

mà dần dần thời gian đi qua, in sâu trên tiềm thức. Đất

nước mới, mở ra những lạc quan, như tuổi xanh ngây thơ

nhưng thật nhiều ước vọng… Bài hát như một dây chuyền

để bắt đầu cho một chuỗi liên tưởng. Vô tình, bài hát như

một contact để mở một mạch điện cho khúc phim đời sống

riêng tôi…

Dòng nhạc hoài niệm ấy chắc còn rất nhiều bản

nhạc làm cho tôi cảm khái như bản “Về Miền Nam”?

Nhưng những bài hát khác, thường là những nỗi buồn,

ngậm ngùi hướng vọng về chốn quê xa. Hàng trăm ca khúc

có chung dòng nhạc. Không phải chỉ với bài hát ấy, mà còn

nhiều bài hát khác, nhiều phim truyện khác, nhắc nhớ lại

thời kỳ đặc biệt của đất nước. Một cách khái quát, theo bài

thuyết trình “Love and Longing at the Border: Songs On

Both Sides of the 17th Parallel” của Jason Gibbs trong

seminar của Popular Culture Association tại thành phố San

Antonio, tiểu bang Texas, thì có tới 18 ca khúc của những

người di cư nhớ về quê hương cũ đã xa. Như “Bắc Một

Nhịp cầu” của Hoàng Trọng, lời Hồ Đình Phương; “Biệt

Hải Phòng” của Phó Quốc Thăng; “Chờ Anh Em Nhé” của

Xuân Tiên, lời Nhật Bằng; “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” của

Lam Phương; “Giấc mơ Hồi Hương” của Vũ Thành; “Hận

Ly Hương” của Anh Hoa và Ngọc Lang; “Hướng về Đất

Bắc” của Phó Quốc Thăng; “Hướng về Hà Nội” của Hoàng

Dương; “Lá thư gửi mẹ” của Nguyễn Hiền, lời Thái Thảo;

“Mộng ngày hồi hương” của Hoàng Trọng, Hồ Đình

Phương; “Sầu Ly Hương” của Lam Phương; “Thu Ly

Hương” của Nhật Bằng và Đan Thọ; “Tình Cố Đô” của

Lam Phương lời Mạnh Thương; “Về Bến Xưa” của

Nguyễn Hiền, lời Thiện Huấn; “Vọng Cố Đô” của Đan Thọ

Nhật Bằng; “Xa Quê Hương” của Đan Thọ, Xuân Tiên;

Page 234: TOÀN CẦU 2017

Trang 230 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

“Xuân Ly Hương” của Phó Quốc Lân. Nhưng danh sách ấy

chưa đầy đủ lắm, còn thiếu một cách đáng kể: “Mưa Sài

Gòn, Mưa Hà Nội” của Phạm Đình Chương, thơ Hoàng

Anh Tuấn; “Thương về Năm Cửa Ô xưa” thơ Tạ Tỵ, nhạc

Y Vân; “Mùa Hoa Nở” của Cung Tiến.

Hình ảnh của thành phố Hà Nội chắc in sâu trong trí

nhớ của tôi qua những bản nhạc mà tôi đã nghe trong một

khoảng thời gian dài. Trong những bài hát ấy, Hà Nội như

một hình tượng của nhung nhớ. Thành phố ấy, phải rời bỏ

đi xa với nỗi đau đớn tận cùng. Hà Nội ơi! Có phải là tiếng

kêu thảng thốt của trái tim vỡ vụn. Không phải với tôi mà

chung của rất nhiều người, Hà Nội thành thánh địa của hồi

tưởng. Lúc học trung học, hai thành phố gợi cho tôi nhiều

ấn tượng và mê đắm nhất là Paris và Hà Nội. Lúc đó, tôi

chỉ mong có ngày đặt chân đến. Paris của cậu bé Vincent

trong sách “Cours De Langue et de Civilisation” của giáo

sư Mauger mở ra biết bao nhiêu ảnh tượng kỳ thú. Còn Hà

Nội, là “Đêm Giã Từ Hà Nội” của Mai Thảo, là “Ung Thư”

của Thanh Tâm Tuyền, hay nhạc “Hướng Về Hà Nội” của

Hoàng Dương.

Có người hỏi tôi khi di cư vào Nam là lúc còn rất

nhỏ, thế mà tại sao tôi lại nhung nhớ bồi hồi một cách tận

cùng như vậy khi nghe lại những bản nhạc ấy.

Bởi vì từ nhạc, tôi cảm thấy nhiều điều. Không gian

xa cách ngàn trùng. Thời gian chia ly vời vợi. Đời sống

bỗng lênh đênh chia hai giữa buồn nhớ và hy vọng. Sẽ có

một ngày trở về, có phải? Nhưng cuộc sống như giòng

nước trôi đi lạnh lùng. Xa xứ và ly hương, như giòng sông

Bến Hải chia đôi đất nước.

Nhiều bản nhạc cũng gây rung động trong tôi như

thế? Bởi vì, đó là tâm tưởng chung của một thế hệ phải chịu

những biến chuyển nghiệt ngã của thời thế. Như lời ca từ

của “Chuyến đò vĩ tuyến” của Lam Phương, “Đêm nay

trăng sáng quá anh ơi, sao ta lìa cách bởi giòng sông bạc

Page 235: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 231

hai màu…” Hay trong “Bắc một nhịp cầu” của Hoàng

Trọng, lời Hồ Đình Phương, “Lạnh lùng phương Nam mơ

bóng cây xanh ven hồ. Ngậm ngùi phương Bắc trông lúa xa

xăm mong chờ. Vì một giòng sông xóa mờ. Tình đời lìa đôi

bến bờ…”. Nỗi lòng người đi của Anh Bằng "Tôi xa Hà

Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu... Hôm nay Sài Gòn

bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui, nhưng riêng một người

tâm tư sầu lắng đi trong bùi ngùi"... Hoặc ở trong “Vọng

Cố Đô” của Đan Thọ và Nhật Bằng, “Hà Nội ơi! Xa cách

muôn trùng dương. Những lúc sương chiêu xuống. Tìm đâu

bóng Hồ Gươm lòng bao mến thương...” Và với “Mùa Hoa

Nở” của Cung Tiến, “Chiêu mưa thương nhớ đến bao giờ.

Đường vê nẻo Bắc xa mờ, mơ hồ. Đàn chim gieo thương

nhớ. Câu tiếng nước nhà…”…

Những bản nhạc ấy, trôi theo giòng sông âm nhạc

và liên tiếp nhau để thành một thời đại hoài niệm, mà tiếng

kêu tha thiết vẳng lên từ nơi chốn đã vời xa: Hà Nội. Tiếng

hát, lời ca, không còn đơn thuần là ca khúc mà đi xa hơn,

để thành chia sẻ, kỷ niệm của một phần của đời người. Bao

nhiêu năm, với bao nhiêu ban nhạc thính phòng hoặc đại

chúng, được trình diễn từ những ca sĩ tuyệt vời, những bản

nhạc ấy vẫn sống, từ thời hòa bình tạm thời đến cuộc chiến

khốc liệt. Mấy chục năm, vẫn không phai cảm xúc trong

lòng khán thính giả…

Dòng nhạc hoài niệm hình như tới bây giờ vẫn còn

hiện hữu trong nền âm nhạc Việt Nam? Vâng, đó là một trớ

trêu của lịch sử đất nước. Năm 1975, cơn hồng thủy lại đến

với dân tộc Việt Nam. Đất nước thống nhất, hòa bình

nhưng trại tù mở ra khắp nước. Kinh tế lụn bại, chính tình

hà khắc, dân chúng đói khổ. Rồi đánh tư sản, rồi vơ vét tiền

của người dân khiến hàng triệu người bỏ xứ ra đi tìm đất

sống. Những chuyện phim như “Chúng Tôi Muốn Sống”,

“Đất Lành”, …bỗng thành hiện thực. Và, dòng nhạc hoài

niệm lại tiếp nối. Tâm tư, nỗi niềm của thế hệ, của thời đại

lại phản ánh rõ nét. Ở hải ngoại, ngóng về quê hương, về

Page 236: TOÀN CẦU 2017

Trang 232 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Sài Gòn với tấm lòng tan nát. Nốt nhạc lời ca thành tiếng

vọng gửi về qua khoảng cách của hai bờ đại dương.

Hình ảnh của Hà Nội đậm nét trong văn thơ nhạc

của những người di cư vào miền Nam lập đời sống, sự

nghiệp mới. Thành phố ấy biểu trưng cho quê hương đã xa,

cho thời gian đã qua nhưng đôi khi muốn trở mình hồi sinh

sống lại. Những con đường, những hẻm phố, của 36 phố

phường ngày xưa, của ăn Bắc mặc Kinh, của một thời văn

hóa dân tộc là tinh chất của những năm dựng nước và giữ

nước. Nói về Hà Nội, quả là một câu chuyện miên man mà

thời gian một hai tiếng đồng hồ chẳng đủ cho những người

khao khát nắng gió quê nhà luôn hướng vọng về một thành

phố đã xa. Hình như có những bản nhạc có xuất xứ từ ngôn

ngữ thơ viết về Hà Nội và trở thành một vài bài hát tiêu

biểu.

Một bài thơ được phổ nhạc của một thi sĩ cho rằng

thơ và nhạc có những đặc tính khác nhau nên ở những bài

thơ được phổ nhạc thì tinh chất thi ca bị giảm sút đi và

không còn là thơ tinh tuyền nữa. Thế mà, ông có một bài

thơ được nhạc sĩ Y Vân phổ nhạc và là một bản nhạc coi

như tiêu biểu cho dòng thơ nhạc hoài niệm về Hà Nội. Đó

là thi sĩ Tạ Tỵ và bài thơ được phổ nhạc: “Thương Về Năm

Cửa Ô Xưa”.

Bài thơ như một kỷ niệm đẹp của một thời thế đã

xa, của một quê hương đã khuất. Chuyển thể thành nhạc lại

thành những giai điệu tha thiết của nhớ thương, nhắc lại

những nơi chốn đã qua khiến rung động tâm tình người xa

xứ. Thuở ấy, những nhung nhớ của tâm hồn hoài niệm cứ

mãi khắc khoải tâm tư, thì bây giờ nơi xứ lạ vẫn ngóng về

biển đông để tìm ra một tấc lòng rưng rưng theo nhịp tim

sóng vỗ. Bài thơ Tạ Tỵ như những âm vang đồng vọng của

những người khi nghĩ đến quê nhà lại xót xa thắt ruột.

Bài thơ “Thương Về Năm Cửa Ô Xưa” có những

câu như:

Page 237: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 233

“Tôi đứng bên này vĩ tuyến

Thương vê năm cửa ô xưa

Quan Trưởng đêm tàn dẫn lối

Đê cao hun hút chợ Dừa

Cầu Rên mưa dầm lầy lội

Gió vê đã buốt lòng chưa?

Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ

Nhị Hà lấp lánh sao thưa

Cầu Giấy đường hoa phượng vỹ

Nhớ thương biết mấy cho vừa…”

Bài thơ này do Y Vân phổ nhạc mà nghe từ giọng

hát Lệ Thu thì không có giây phút nào tuyệt vời hơn.

Có một bài hát mà một thời được hát với tất cả tâm

tình của người đang trong hoàn cảnh của ngày tháng Hà

Nội sắp mất và chọn sự ở lại với những khúc mắc trong

lòng. Đó là bản nhạc “Hướng Về Hà Nội” của nhạc sĩ

Hoàng Dương. Đọc một đoạn viết của nhà văn Nguyễn

Đình Toàn để có thể hiểu được tâm sự của người nhạc sĩ:

“Thế nhưng hoàn cảnh lịch sử cũng đóng một vai

trò quan trọng đối với bài hát của Hoàng Dương. Đó là

những ngày tháng Hà Nội sắp mất. Người ta đang sửa soạn

ký với nhau một hiệp định chia đôi Việt Nam ở một nơi nào

đó gọi là Genève. Hà Nội trong những ngày tháng ấy giống

như một cơ thể mắc chứng hoại huyết. Xanh xao. Vàng vọt.

Người ta bỏ đi. Người ta chạy trốn. Người “bên ngoài”

(hậu phương) đã về trộn với người bên trong (Hà Nội).

Người ta hân hoan. Người ta sợ hãi. Úp úp. Mở mở. Hà Nội

bị xé đôi bằng nỗi vui mừng và kinh hoàng thâm nhập cùng

một lúc vào lòng người Hà Nội trước khi nó thuộc về cái

phần đất nước bị cắt đôi. Hà Nội đẹp. Hà Nội buồn. Hà Nội

lãng mạn hay thực tế cũng sẽ mất như những đám sương

mù tháng bảy đang xóa bỏ nó. Người ta phải nói lời giã từ

Hà Nội. Gọi hồn Hà Nội. Hoàng Dương đã chọn ở lại Hà

Nội. Bài hát của ông có cái xa và cái gần Hà Nội. Có cái

ngọt ngào của một bản tình ca, cái não nùng của một cuộc

Page 238: TOÀN CẦU 2017

Trang 234 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

chia lìa. Cho người ở lại giấu nó trong lòng. Cho người ra

đi hát như một lời gọi vói…”

Bản nhạc “Hướng Về Hà Nội” có những lời thiết

tha:

“Hà Nội ơi! Hướng vê thành phố xa xôi.

Ánh đèn giăng mắc muôn nơi

Áo màu tung gió chơi vơi

Hà Nội ơi! Phố phường giãi ánh trăng mơ

Liễu mêm nhủ gió ngây thơ

Thấu chăng lòng khách bơ vơ

Hà Nội ơi! Những ngày vui đã ra đi

Biết người còn nhớ nhung chi

Hết rồi giây phút phân ly

Hà Nội ơi! Dáng huyên tha thướt đê mê

Tóc thê thả gió lê thê

Biết đâu ngày ấy anh vê…”

“Hướng Về Hà Nội” là lời của người chọn sự ở lại.

Thế còn những người ra đi thì sao? Có mơ mộng gì đến

ngày trở về không?

Bài “Giấc Mơ Hồi Hương” của nhạc sĩ Vũ Thành là

tiếng lòng thổn thức của tâm tư ấy. Theo một bài viết của

tác giả Quỳnh Giao thì lời ca của “Giấc Mơ Hồi Hương”

phát xuất từ một bài thơ mà nhạc sĩ Vũ Thành không nhớ

tên tác giả.

“Đau đớn nhìn Hà Nội

khuất dần sau sương rơi

sông Nhị Hà sôi nổi

cầu Long Biên xa rồi

mắt nhìn hình ảnh cuối

lòng thương nhớ khôn nguôi

nghẹn ngào tâm sự cũ

thôi rồi Hà Nội ơi!”

Page 239: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 235

Vậy ca từ của “Giấc Mơ Hồi Hương” có tương tự gì

với lời thơ ở trên không? Nếu nói rằng có ảnh hưởng để

cảm hứng thì có nhưng tương tự thì không.

“Lìa xa thành đô yêu dấu

một sớm khi heo may vê

lòng khách tha hương vương sầu thương

nhìn em mờ trong sương khói

bước đi nhưng chưa nỡ rời

lệ sầu tràn mi, đượm men cay đắng biệt ly

rồi đây dù lạc ngàn nơi

ta hướng vê phía xa vời tìm mộng xưa lãng quên

tháng ngày tàn phai…”

Nhạc sĩ Thanh Trang có một nhận xét khá dí dỏm

nhưng chính xác:

“Cùng thời niên thiếu tôi rất yêu thích những bài hát

của cố nhạc sĩ Vũ Thành như “Nhặt cánh sao rơi”, “Nhớ

bạn”. Tôi để ý thấy trong những bài hát của mình, ông Vũ

Thành chả bao giờ dùng chữ “em” khi nói đến hình ảnh

một người con gái. Chữ “em” hiếm hoi mà ông sử dụng thì

lại để chỉ…Hà Nội trong bài “Giấc Mơ Hồi Hương”…”

Tác giả Quỳnh Giao cũng viết: “Vũ Thành quả là

người khiêm tốn, vì với Quỳnh Giao lời ca của “Giấc Mơ

Hồi Hương” sâu xa và mới hơn ý của bài thơ nguyên thủy.

Thời đó gọi thành phố Hà Nội là “em” mà không là mới

sao? Và lãng mạn quá đi chứ!

Có một bản nhạc mà một nhà phê bình âm nhạc gọi

là cây cầu bắc giữa hai thành phố, hai chốn, hai nơi, hai

phận đời và hai kiếp người.

Phạm Đình Chương phổ nhạc thơ Hoàng Anh Tuấn:

“Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội”, một bài hát mà mỗi khi

người di cư nghe lại quặn đau. Hình như, thơ Hoàng Anh

Tuấn và nhạc Phạm Đình Chương đã quyện vào nhau để

Page 240: TOÀN CẦU 2017

Trang 236 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

trở thành những cảm giác của những người cùng tâm sự

chia sẻ với nhau chung một nỗi niềm…

Trong thơ Hoàng Anh Tuấn có nhiều thành phố:

Paris, Sài Gòn, Đà Lạt, San José, … Nhưng, tập thơ cuối

đời và độc nhất của ông lại là “Yêu em, Hà Nội”. Đó có

phải là một sự kiện đặc biệt? Thực sự cũng dễ hiểu.

Trong thi ca Hoàng Anh Tuấn, muôn đời miên viễn

trong tâm tưởng vẫn là Hà Nội. Chẳng phải riêng trong vô

thức, là hình bóng người tình muôn thuở. Mà cũng chẳng

phải là tình cảm đầu đời với một nơi chốn từ đó đã sinh ra

và lớn lên. Thơ ông với Hà Nội, là nỗi bí nhiệm của tổng

hợp những nỗi niềm của người từ nơi chia xa nhớ về. Nó

không đơn thuần là tình yêu đầu đời và cũng không đơn

thuần là hoài niệm về tuổi thơ. Mà, là tất cả, từ ấn tượng

không phai nhạt. Từ tâm tư của trái tim cảm lụy. Của

những “ngôn ngữ trời cho” của một bất thần vụt đến của

thơ.

Chúng ta có thể dẫn chứng một vài bài của “Yêu

em, Hà Nội”.

Những bài thơ Hà Nội, có nỗi thiết tha, có ngữ ngôn

bình dị và tự nhiên không một chút làm dáng nào. Thơ như

thể một cánh buồm phăng phăng vẫy vùng trong cái cao

rộng của đất trời, của những phương trời tuy mịt mù khói

sóng nhưng gần cận thân quen. Thơ phá vỡ đi cái biên giới

hữu hạn của không gian, thời gian. Hà Nội dệt bằng những

bài thơ, mềm như nắng và nhẹ như mây trời. Trong thơ

Hoàng Anh Tuấn.

Hà Nội, kỷ niệm:

“… xin trở lại thuở ngày xưa tinh nghịch

cầm tay nhau ngày đó để xa nhau

để ước ao khi thương nhớ nghẹn ngào

được cầm lại bàn tay em công chúa

khung cửa sổ mở ra trời yêu cũ

chẳng khuất vào sợ khuất dáng em xưa

Page 241: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 237

một nỗi buồn thoáng Hà Nội mùa thu

vẽ từng nét tình yêu em hương cốm.”

Với bài thơ mà nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã phổ

thành ca khúc thì là một bài thơ, được tháp cánh bằng nhạc,

khi được đọc hoặc hát lên, tạo thành một xúc cảm mãnh

liệt. Bài thơ “Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội” được phổ nhạc

bởi nhạc sĩ Phạm Đình Chương, mà có người đã cho là tình

khúc hoài niệm hay nhất trong những bản nhạc buồn.

Những câu thơ cứ ngân vang, rưng rưng trong lòng người

xa xứ. Những cơn mưa, mưa ngoài trời và mưa trong hồn:

“Mưa hoàng hôn

trên thành phố buồn gió heo may vào hồn

thoảng hương tóc em ngày qua

ôi người em Hồ Gươm vê

nương chiêu tà

liễu sầu úa thêm cũ nằm mơ hiên hòa

thương màu áo ngà

thương mắt kiêu sa

hiên ngoan thiết tha…”

Hai phương trời. Hai tâm tư. Quê hương Hà Nội đã

xa từ quá khứ. Tự nhiên những hạt mưa buốt lạnh. Mưa của

hoàng hôn, của những nỗi buồn cuối ngày của thi sĩ và

nhạc sĩ …

Nguyễn Mạnh Trinh

*

Page 242: TOÀN CẦU 2017

Trang 238 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Hà Nội 80 ngày,

đi hay ở

Viên Linh, CVA 58

New York Times ra ngày 21 tháng 7, 1954 :

Kết quả Hội nghị Geneve chia đôi Việt Nam. (Tài liệu Viên Linh)

Ngày ký Hiệp Ðịnh Geneve 21 tháng 7, 1954, tôi

còn ở quê nhà Ðồng Văn, và học khóa hè ở trung học Phủ

Lý, cả hai nơi đã nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh, chỉ

mới vài tuần lễ. Pháp và phía quốc gia có 80 ngày để rút

khỏi Hà Nội, 100 ngày để rút khỏi Hải Dương, 300 ngày để

rút khỏi Hải Phòng, bờ bến cuối cùng của tự do.

Họ Nguyễn trong có gia đình chúng tôi nhiều người

làm việc cho chính quyền, trong có một ông chú rể làm

trong Nha Báo Chí của ông Hoàng Nguyên, một ông chú

khác làm thư ký tòa soạn tuần báo Cải Tạo của ông Phạm

Page 243: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 239

Văn Thụ, ở Hà Nội, một ông chú ruột là “ông tỉnh” Hải

Dương, ông là người đứng tên sở đắc có định kỳ ngôi biệt

thự hai tầng ở cuối đường Chợ Ðuổi Hà Nội, nơi tôi tá túc

những ngảy niên thiếu cho tới lúc này. Như thế việc trở về

Hà Nội được hay không cũng không còn bao nhiêu ngày,

nhất là theo thời hạn cho phép, bộ đội Việt Minh sẽ vào

tiếp thu Hà Nội ngày 9 tháng 10 nếu họ muốn. Ngay lúc

này, vấn đề đi hay ở đã rõ ràng với mẹ tôi – có tin rỉ tai bà

là người thứ hai trong danh sách 5 địa chủ sẽ bị mang ra

đấu tố – tất cả mọi người trong họ đã và đang trên đường ra

Hải Phòng. Trước hết, ngay từ bây giờ cả nhà phải đi Hà

Nội rồi mới tính chuyện ra hải cảng sau.

Tôi được mẹ khuyến khích cứ đi một mình, không ở

nhà ông chú đường Chợ Ðuổi thì còn có ông bác trên phố

Hàng Bông, gần Cửa Nam, bác Tổng, hành nghề bói toán.

Bác trai và bác gái đã trên 60, không ai tính đi Nam làm gì,

nhất là thời thế đã khiến bác đang thu tiền vào như nước.

Ðược mẹ cho phép, cậu con trai với “thiết mã” tinh ròng

còn đợi gì mà không phóng về thủ đô.

Hồ Hoàn Kiếm Hà Nội

Ðây không phải lần đầu tiên đạp xe từ quê nhà ra

thành phố, cùng với Hướng người bạn lớn tuổi ở Phố Ga,

Page 244: TOÀN CẦU 2017

Trang 240 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

hắn và tôi đã từng trốn nhà đi Hà Nội chơi rồi về trong

ngày mà không ai biết. Hắn nói, “Cứ con đường Quốc Lộ 1

mà đi, tới tận Ải Nam Quan cũng được. Từ nhà tụi mình

lên thủ đô có 47 cây số, từ thủ đô lên biên giới khoảng 160

cây số nữa, có là bao xa. Vào Nam thì xa hơn, cũng cứ

Quốc Lộ 1 mà chạy, mệt thì vác xe leo lên tàu hỏa, thiết lộ

nằm trên đường cái quan, trừ những quãng băng núi chui

hầm, chỉ năm ba ngày là tới. Mày muốn đi với tao không?

Phải đi. Con trai như tao với mày, tụi mình cùng đi là

được.” Hướng có cái xe đua, ghi-đông vòng xuống như

sừng bò rừng, hắn nằm rạp trên xe phóng như một mũi tên.

Ít lâu sau tôi trở lại Hà Nội một mình.

May thay, không phải tất cả họ hàng đã ra Hải

Phòng, tôi còn có thì giờ trở về ngôi biệt thự cũ, vác xe leo

lên lầu, thấy chú thím Hai tôi ở căn phòng có lan can nhìn

xuống đường. Trước đây nguyên căn lầu 4 phòng có ông bà

nội, gia đình chú Út, cô tôi, riêng tôi ở căn nhỏ nhất, gần

đầu cầu thang. Ngôi biệt thự xây cất khang trang, một tầng

có bốn phòng lớn một phòng nhỏ rộng rãi, cửa phòng mở ra

một hành lang rộng cả hai thước. Phía mặt tiền trên tầng

cao nhất đắp nổi hai chữ bằng xi măng, quét vôi vàng nhạt,

góc cạnh mấy chữ đã hơi mòn, song còn đọc thấy: Hotel

Shanghai. Mỗi tầng có một nhà tắm, cầu vệ sinh bằng sứ

men trắng, phía trên cầu là bồn nước có giây với các khoen

sắt nối nhau, và cái tay cầm cũng bằng sứ, để giật cho nước

trên bồn dội trong cầu. [Bốn mươi năm sau qua Pháp, vào

ăn tại nhà hàng Baie d‘Along (Vịnh Hạ Long), tôi ngơ ngẩn

khi bước vào phòng vệ sinh, thấy đúng cái bồn đó, và tán

thán mãi về sự tiến bộ của nước Pháp].

Ông bà nội và con cháu chiếm nguyên tầng trên

cùng, nay không còn thấy ai, chắc đã ra Hải Phòng đi Nam,

nhưng lại thấy chú thím Hai. Nguyên ông bà nội có bốn

trai, ba người đầu, một người út, trên chú Út là cô Tư, thầy

tôi là con cả, nhưng đã thất lộc vào tháng 5, 1945. Chú Hai

chưa bao giờ ra Hà Nội, bây giờ lại ở đây, nhưng tôi hiểu.

Page 245: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 241

Tất cả mọi người đã đi, chú phải lên trông coi ngôi biệt thự

nhiều phòng cho thuê của chú Ba, thay thế chú Ba, vậy bây

giờ chú Hai là người sở đắc ngôi biệt thự mười bốn

phòng… Ông đi thu tiền nhà và sẽ gửi cho chú Ba, chắc

chắn còn là “ông tỉnh” Hải Dương. Vừa thấy tôi, ông vẫy

lại gần. “Cháu à, chú nghĩ khó khăn lắm rồi. Mấy hôm nay

chú xuống bên dưới thu tiền nhà, họ không trả. Trước kia

có xảy ra chuyện như thế không?” “Không,” tôi trả lời.

Thường là cô Tư hay chú Út xuống thu tiền nhà.

- Cô Tư nói cháu cũng từng đi thu tiền nhà?

- Có một lần thôi chú, lúc cô Tư ốm đi bệnh viện.

Tao thấy có thằng du côn lắm. Nó trừng mắt nhìn

tao. Nó nói hỗn thời thực dân bóc lột hết rồi. Cháu thử đi

thu tiền giùm chú xem sao? Họ biết cháu hết mà, cô Tư nói

thế.

- Vâng, cháu ở đây đã mấy năm, họ biết chứ.

Tầu điện ở Hà Nội

Tôi đạp xe lên phố Hàng Bông, vòng qua Cửa Nam

ngắm cảnh một vòng rồi mới đi kiếm số nhà ông Bác bên

ngoại. Không thấy số nhà, nhưng thấy cái biển kẻ tay mấy

chữ sơn đỏ Quỷ Cốc Tử tôi đoán là nhà ông chứ không thể

có hai Quỷ Cốc Tử cùng một dãy phố. Quả thế, hai bác đều

Page 246: TOÀN CẦU 2017

Trang 242 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

đã già, tuy là lần đầu tôi gặp, cả hai đều niềm nở. Cháu ở

luôn đây đi, có căn gác xép bên trên chưa cho thuê, cho

mày ở đó, rồi đưa cho các bác bao nhiêu thì đưa.

Những ngày sau, tôi chạy quanh thủ đô đi tìm bạn

bè, nhất là mấy người bạn văn nghệ tập sự thường mỗi chủ

nhật họp sau tại sân tòa án hay kéo nhau lên đồi Yên Thái ở

phía Tây Bắc Hà Nội. Chúng tôi khoảng năm người, ba

người từng có bài được chọn đăng trên các báo ở thủ đô,

trong đó truyện ngắn của tôi được đăng trên nhật báo Tiếng

Dân, còn được mời tới tòa báo lãnh nhuận bút. Ðó là sáng

tác đầu tiên tôi gửi đi, nó được đăng ngay hai ba ngày sau

và được trả tác quyền như một người lớn. Cuộc đi thăm

thất bại, không gặp một ai. [Chỉ ba năm sau khi ở Sài Gòn,

chúng tôi chỉ còn 3 người, một ở lại miền Bắc, một là

Trường Giang bị bắn chết khi năm 1956 Giang bơi qua

sông Hiền Lương Bến Hải vào Nam]. Sau khi bộ đội Việt

Minh tiến vào thủ đô ngày 10 tháng 10, tôi tới trường cũ

trình diện, được gặp Giáo Sư Tạ Quang Bửu ngồi sau chiếc

bàn thầy Hiệu Trưởng Vũ Ngô Xán vẫn ngồi các năm

trước. “Thưa thầy”… Ông ngắt lời tôi, bảo tôi gọi bằng

“Anh.” Tên trường Chu Văn An rút ngắn thành Chu An.

Ðây sẽ là chương khác của một cuốn sách.

Cuối cùng tôi phải rời Hà Nội ra Hải Phòng, không

phải trong hạn 80 ngày (ngày chót 10 tháng 10, 1954) mà

tới mãi cuối tháng 12, và đặt chân xuống phi trường Tân

Sơn Nhất vào đúng Ðêm Giáng Sinh 1954.

Tới nay là 60 năm, chưa có dịp quay về nhìn lại

kinh thành cũ. Tôi vẫn nhắn những người có thể nhắn, nếu

có về hãy thăm Hà Nội giùm tôi, cố đô Hà Nội của tôi,

không phải Hà Nội bây giờ. Lời nhắn là một bài thơ gửi

những người trẻ tuổi.

Em Có Về Hà Nội (II)

Em có vê Hà Nội

Hãy đến hỏi giùm cảnh vật thâm u

Page 247: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 243

Ðất nước tang thương em hãy hỏi Tháp Rùa

Mười thế kỷ rồi làm sao chưa hiểu?

Tâm cao khiết em hãy vào Văn Miếu

Ðọc văn bia tiến sĩ nhớ người xưa

Hỏi giùm anh, chữ nghĩa có bao giờ

Im lặng mãi như những hàng gạch ngói?

Nghe tiếng véo von, nhớ vê Hà Nội

Nơi trâu vàng ngựa đá cõi rồng xanh

Nơi hồ thiêng, sông hiển, nước xây thành

Nơi Hội Nghị Diên Hồng

Nơi Bình Ngô Ðại Cáo

Nơi sớ trảm gian thần

Nơi trả vua mũ áo

Nơi Huyên Trân bỏ nước, nước giầu them

Nơi vua Hùng đày xa xứ An Tiêm

Ngày vê nước chở vê thuyên dưa đỏ.

Anh tự hỏi khi trở vê nước cũ

Anh mang gì vê lễ tạ hồn xưa?

Anh mang gì vê lễ tạ quê hương?

Có nhớ chăng rồng ngủ Vịnh Hạ Long

Sao chưa thấy thành Thăng Long rồng dậy?

Ðời vua Lý nghìn năm xưa ở đấy

Nghìn năm sau ở đấy vẫn Thăng Long

Ðón rồng lên dựng lại nước thanh bình

Chấm dứt một thời thiên hôn địa ám.[1]

Viên Linh

Chú thích:

[1] Đoạn chót bài “Em Có Về Hà Nội” của Viên

Linh. [Vào Google, đánh máy “Viên Linh Em Có Về Hà

Nội” sẽ nghe được nhạc sĩ Nguyễn Văn Thành hát ca khúc

ông phổ từ bài thơ này].

Page 248: TOÀN CẦU 2017

Trang 244 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Từ Hà Nội

đến Sài Gòn 54 - 75

Lữ Tuấn

LTS: Lữ Tuấn là bút hiệu của anh Nguyễn Công Luận, sinh

viên Sĩ Quan Đà Lạt khóa 12, nguyên Trưởng Phòng Sưu

Tầm Nghiên Cứu, Tổng Cục CTCT. Sau năm 1975, anh bị

đi tù cải tạo hơn 7 năm. Anh định cư tại San Jose,

California, Hoa Ky.

*

Tháng 6 năm 1954 đúng 50 năm về trước, là lúc

mọi người trong vùng kiểm soát của chính phủ Quốc Gia ở

Bắc Việt cực kỳ lo lắng và hoang mang sau khi cứ điểm

Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Nhiều tin

đồn trái ngược càng làm cho mọi người thêm sợ hãi.

Khoảng 20 tháng 6, tại Nam Định và các tỉnh phụ cận, có

tin đồn được lan truyền nhanh chóng nói rằng quân đội

Pháp và quân đội Quốc Gia sẽ rút khỏi Nam Định và các

tỉnh phía Nam Hà Nội. Từ hôm ấy, hàng loạt doanh trại

được tháo gỡ vội vàng, xe vận tải quân sự chở vật liệu nặng

bắt đầu theo nhau từ Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình đổ về

Nam Định cùng các xe cộ từ Nam Định nối nhau đi Hà

Nội. Kho đạn Nam Định cho phá hàng loạt đạn súng cối và

đạn pháo binh ở vùng đất hoang phía tây thành phố.

Bộ Tư Lệnh Pháp và chính quyền Bảo Đại không hề

lên tiếng về tình hình tại Bắc Việt. Bộ Chỉ Huy Pháp tại

Nam Định vẫn tiếp tục công việc chuẩn bị cuộc diễn binh

hùng hậu vào ngày quốc khánh Pháp, 14 tháng 7 năm 1954

Page 249: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 245

mà họ đã loan báo trước. Vào lúc này, đã có tin đồn ông

Ngô Đình Diệm sẽ về nước làm thủ tướng. Những truyền

đơn đầu tiên ký tên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ủng

hộ ông Diệm xuất hiện lác đác ở Nam Định.

Ba ngày cuối cùng phi cơ quân sự lên xuống liên

tiếp. Khi đã chuyên chở gần hết vật dụng và người, trạm

hàng không quân sự Nam Định bắt đầu cho mọi người tự

do lên phi cơ C-47 còn trống nhiều chỗ để đi Hà Nội.

Nam Định bắt đầu hoảng hốt thực sự từ ngày 28

tháng 6 khi điện bị cắt. Thành phố tối mù. Nhiều người

chen chúc mua vé xe hoặc thuê xe di tản về Hà Nội. Nam

Định là nơi số doanh trại và binh lính dầy đặc nhất Việt

Nam. Trước đó từ 9 giờ khuya là giờ giới nghiêm, thành

phố vắng vẻ không một bóng người trên phố xá. Nay đột

nhiên tất cả chìm trong không gian đen thui, nhưng lại cựa

mình mạnh hơn trong bóng tối. Trên đường phố người ta đi

lại đông đúc khác thường quá cả giờ giới nghiêm.

Đường phố Hà Nội, hình chụp vào tháng 7 năm 1954.

Gia đình tôi lúc ấy đang ở một căn cư xá công chức

nơi mẹ tôi làm việc. Lúc 7 giờ sáng, một anh lính tống thư

Page 250: TOÀN CẦU 2017

Trang 246 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

viên người Pháp vào sở đưa một giấy báo di chuyển, ghi

đúng số người thuộc quyền sở này và gia đình nhân viên kể

cả 4 gia đình ở cư xá. Tất cả mau lẹ tập trung đợi xe. Sau

đó chừng 15 phút, một tiểu đội Bảo Chính Đoàn dẫn 4 xe

vận tải trưng dụng của tư nhân đến nơi và cho biết đúng 8

giờ kém 15 mọi người phải có mặt đầy đủ trên xe.

Việc di tản có vẻ đã được chuẩn bị nhiều tuần lễ

trước đó. Số người ngồi trên xe thoải mái rộng rãi vì không

ai mang theo đồ đạc gì nhiều ngoài một vài chiếc valise và

túi xách tay gọn nhẹ.

Lệnh di chuyển cho biết đoàn xe này phải qua trạm

kiểm soát phía bắc hướng đi Phủ Lý-Hà Nội vào khoảng

giờ nhất định mà tôi nhớ là sau 8 giờ và trước 8 giờ 10

phút. Lệnh này cũng cảnh cáo nếu xe nào đến sớm quá hay

muộn quá theo giờ ấn định sẽ bị ủi ra khỏi mặt đường để

tránh nhiễu loạn giao thông.

Hồi đó tôi còn là học trò. Vội vàng xếp quần áo,

hình ảnh, giấy tờ cần thiết, cuống cuồng không biết phải

mang theo gì và phải bỏ lại món nào. Lúc còn chừng 25

phút, tôi xin phép mẹ tôi chạy ra phố nói là để chào mấy

thằng bạn. Cô ruột tôi , người nuôi nấng tôi từ nhỏ không

chịu vì sợ tôi chậm trễ e sẽ kẹt lại. Nhưng mẹ tôi hiểu ý,

mỉm cười can thiệp nói, “Chị cứ cho nó đi, nó không dám

về muộn đâu.”

Mẹ tôi thừa biết tôi đi đâu. Tôi đạp xe với tốc độ

không thua các tay đua vòng quanh Đông Dương, xẹt qua

trước nhà cô bạn mà tôi thương vụng nhớ thầm từ năm 17

tuổi và chưa hề mở lời yêu đương.

Nàng đang ngồi chải tóc ở cửa sổ trên lầu. Không rõ

nàng có nhìn thấy tôi hay không, nhưng tôi vội vàng đánh

bạo thu hết can đảm hôn gió trên bàn tay phải ném về phía

cửa sổ rồi lao xe như gió về nhà, trước giờ xe chạy khoảng

10 phút. Ở miền Bắc hồi ấy trai gái còn nhút nhát, phải can

đảm lắm mới dám làm như thế vì tôi linh cảm chuyến đi

Page 251: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 247

này sẽ lâu lắm, có thể là cả đời. Sau này trong đời lính chưa

bao giờ tôi phải vận dụng can đảm cao độ như vậy dù gặp

nhiều tình thế rất khó khăn nguy hiểm.

Quân cảnh Pháp thi hành đúng giờ giấc như quy

định. Tại trạm kiểm soát Cổng Hậu, từng đoàn xe gồm năm

mười chiếc có lính hộ tống được cho khởi hành. Một vài xe

đến muộn phải đậu một bên đường chờ giải quyết sau. Trên

đường đi, tại mỗi cây cầu đều có một toán Công Binh đặt

săn chất nổ. Một trung sĩ Công Binh Việt Nam cho biết họ

phải phá nổ các cầu này khi đơn vị cuối cùng đi qua.

Buổi trưa đoàn xe chúng tôi đi đến Hà Nội. Gia

đình tôi về ở nhà người thân. Đêm hôm ấy thị xã Phủ Lý bị

một sư đoàn Việt Minh tấn công. Thành phố đã hư hại săn

nay lại chịu tàn phá gần hết những gì còn lại.

Cuộc rút lui này tuy tiêu biểu cho việc Pháp thua

trận nhưng lại là cuộc rút lui thành công. Dựa vào tài liệu

của Pháp và thực tế quan sát thấy tại chỗ, cho thấy Đại Tá

Vanuxem chỉ huy trưởng Phân Khu Nam đã điều động

cuộc rút lui mau lẹ, có trật tự với tổn thất nhẹ không đáng

kể. Đoàn quân rút lui vượt qua nút Phủ Lý trước khi bị địch

đánh chận.

Kế hoạch tỉ mỉ do bộ tham mưu Pháp bí mật soạn

thảo, trong đó chỉ có các sĩ quan từ đại úy mới được cho

tham dự. Mọi việc đánh máy, chuyển nhận công điện, văn

thư tài liệu đều do các cấp sĩ quan từ đại úy trở lên đích

thân thi hành. Bí mật được giữ đến phút chót. Chỉ có một

điều đáng tiếc là nhiều đội dân quân tự vệ ở nhiều làng mạc

các tỉnh vùng này kể cả quanh những trung tâm chiến lược

như Phát Diệm, Bùi Chu bị Pháp bỏ rơi. Nhiều dân quân

chạy không kịp bị Việt Minh bắt và giết hại.

Hà Nội vốn yên tĩnh, lúc đó đang sống thanh bình

không nghe tiếng súng. Những vũ trường, hàng quán sang

trọng và độc đáo với những thắng cảnh nổi tiếng đầy bóng

dáng người đẹp thướt tha. Cuộc di tản 4 tỉnh phía Nam làm

Page 252: TOÀN CẦU 2017

Trang 248 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

cho đường phố Hà Nội đông người thêm nhưng vẫn không

mất vẻ mỹ lệ của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.

Đồng bào đón cụ Ngô Đình Diệm vê nước ngày 25/5/1954

Lúc ấy hội nghị Genève bắt đầu họp. Ai cũng thấy

phe Cộng Sản đang nắm ưu thế. Những người có quan tâm

đều lo ngại không biết sẽ đình chiến kiểu nào. Có thể là hai

bên ngưng bắn xen kẽ mà sau này năm 1972-73 người ta

gọi là “giải pháp da beo.” Cũng có thể là chia đôi đất nước

thành hai miền Nam và Bắc. Người ta cũng bàn tán gay go

về ranh giới đình chiến sẽ nằm ở vĩ tuyến nào? Vĩ tuyến 13,

16 hay 19?

Đầu tháng 7, ông Diệm ra Hà Nội. Một số đông đảo

dân chúng chào đón ông, và nhiều người hy vọng vị nhân sĩ

này sẽ cứu vãn tình hình. Sau đó ngày 7 tháng 7 năm 1954

ông Diệm chính thức nhậm chức thủ tướng. Ông thành lập

Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt. Các đoàn thể, đảng phái chống

Cộng đều ủng hộ đường lối này. Nhiều sĩ quan, binh sĩ

cũng săn sàng tham gia việc phòng thủ lãnh thổ phe quốc

Page 253: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 249

gia đang nắm giữ. Một số đông đảo đặt niềm hy vọng lớn

lao vào sự trợ giúp của Hoa Kỳ thay thế người Pháp.

Nhóm chúng tôi là đảng viên Đại Việt và Quốc Dân

Đảng đều hăng hái tham gia tuyên truyền vận động ủng hộ

chủ trương giữ Bắc Việt. Đêm đêm, chúng tôi đi ném

truyền đơn ở khu Hồ Tây, Cổ Ngư, Ngọc Sơn và nhiều nơi

khác kể cả những nơi có lính Pháp lui tới. Hà Nội bắt đầu

có không khí căng thẳng và phảng phất mùi chiến tranh.

Đường phố Hà Nội về khuya lần đầu tiên có những

bóng dáng cảnh sát võ trang súng trận Mas-36 và quân

phục tác chiến đi tuần tiễu. Nhưng các cơ sở dân sự cơ yếu

và doanh trại quan trọng của Quân Đội Quốc Gia đều thấy

có lính Maroc hoặc da đen canh gác, rõ ràng là Pháp đang

phòng ngừa chính biến chống lại họ.

Ngày 14 tháng 7, quân đội Pháp tổ chức diễn binh ờ

Bờ Hồ phía Tòa Thị Chính. Thông cáo và bích chương của

Pháp vẽ hình nắm đấm được thấy khắp nơi. Pháp giải thích

rằng rút 4 tỉnh phía Nam là bàn tay trước kia xòe ra nay

nắm lại để đánh mạnh hơn. Tất nhiên ít ai tin vào luận điệu

này.

Đám học sinh chúng tôi từ Nam Định chạy về nhiều

đứa tình nguyện vào Khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị và lục tục lên

đường khoảng trước ngày 15 tháng 7 năm 1954. Phần còn

lại thường tìm gặp nhau trao đổi tin tức và bàn luận về tình

hình đất nước.

Chiều 21 tháng 7 năm 1954 khi bọn tôi đang tụ họp

thì có tin trên đài Con Nhạn (Hirondelle) của quân đội Pháp

vang lên lời loan báo “Hiệp Định Đình Chiến đã được ký

kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng câu ấy trên trang

nhất bằng chữ lớn. Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế

nào việc này cũng sẽ đến. Báo này cho hay đất nước phân

chia ở sông Bến Hải, Vĩ Tuyến 17.

Tân Thủ Tướng Pháp Mendès-France nhậm chức

Page 254: TOÀN CẦU 2017

Trang 250 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

ngày 17/6/54, đã tuyên bố rằng ông ta sẽ từ chức nếu không

đạt được thỏa hiệp trước ngày 20 tháng 7 năm 1954. Vì thế

hiệp định Genève về Đông Dương được ký lúc sáng sớm

ngày 21 nhưng nhà cầm quyền Pháp đã cho đồng hồ ngưng

chạy từ đêm trước để làm như lúc ấy vẫn còn là ngày 20.

Tại Việt Nam thời điểm này là trưa ngày 21.

Hà Nội liền thay đổi rõ rệt. Niềm hy vọng giữ Bắc

Việt lịm tắt dần và dân chúng nóng lòng về tin tức sẽ có

cuộc di cư. Một số bài trên báo chí đang từ thái độ chống

cộng quay dần sang ủng hộ Việt Minh. Người các tỉnh đổ

về Hà Nội đông đảo. Cán bộ Việt Minh cấp thấp ra vào Hà

Nội dễ dàng. Đồ chơi trẻ em bày bán trước dịp Trung Thu

có những chiếc máy bay, xe thiết giáp, xe chở lính, tàu thủy

được sơn cờ đỏ sao vàng. Các cơ quan an ninh chẳng ai

thèm để ý.

Một số cán bộ Việt Minh quen biết gia đình tôi đến

thăm và khuyên gia đình tôi nên ở lại nhưng mẹ tôi và tôi

đã dứt khoát ra đi. Sau đó 4 tháng, chúng tôi gặp lại vài

người trong số cán bộ này ở Sài Gòn. Chính họ cũng đã

mau chóng nhận rõ thực chất của Cộng Sản và kịp thời ra

đi trước khi cảng Hải Phòng đóng cửa tháng 3 năm 1955.

Những gia đình chuẩn bị di cư đem đồ đạc bày bán

dọc bờ hồ Thiền Quang làm thành một thứ chợ trời. Một

buổi sáng sớm khi những người đầu tiên đang lục tục khuân

đồ đạc đến chợ thì thấy có một lá cờ đỏ sao vàng treo trên

tàng cây cao chừng ba bốn mét. Một thanh niên nổi nóng

trèo lên giật lá cờ ném xuống đất.

Một trung tá người Pháp đi bộ ngang qua hung hăng

can thiệp, lớn tiếng đại ý nói đó là quốc kỳ của một nhà

nước, không được xúc phạm. Ông ta không ngờ những

người bán chợ trời đều không ưa lá cờ máu ấy. Thế là xô

xát xẩy ra, kết quả viên trung tá bị trọng thương vì gạch đá

gậy gộc cho đến lúc xe quân cảnh Pháp cấp cứu.

Tin tức về di cư được loan báo chính thức vào đầu

Page 255: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 251

tháng 8. Nhiều nhà giầu đã đi vào Nam bằng phương tiện

riêng. Đại đa số còn lại đợi ghi danh di cư bằng phi cơ và

tàu biển. Trong nhóm chúng tôi từ Nam Định lên, phần đi

Khóa 5 Thủ Đức, số còn lại một phần tham gia đoàn cán bộ

xã hội được gửi vào Nam để phụ trách các trại tiếp cư do

Bộ Xã Hội thiết lập. Tôi ở trong số này. Buổi chiều ngày 11

tháng 8 năm 1954 bốn đứa bọn tôi đi bộ thăm tất cả các di

tích và thắng cảnh quanh Hà Nội lần cuối.

Phi trường Gia Lâm

Sáng sớm 12 tháng 8 khi qua cửa kiểm soát phi

trường Gia Lâm, một trung úy Nhảy Dù người Pháp hỏi

chuyện chúng tôi vì thấy 25 đứa trong đoàn cán bộ xã hội

toàn là thanh niên còn trẻ. Sau khi nghe chúng tôi nói rõ lập

trường và mục đích ra đi, ông ta nắm tay chúng tôi giọng

xúc động nói rằng, “Nước Pháp đã liên tiếp sai lầm để các

bạn chịu hậu quả đau đớn hôm nay.” Nói xong không ai

ngờ viên trung úy trẻ dưới 30 này bật khóc, nước mắt chảy

dài trên má.

Chúng tôi cũng cảm động tuy nhiên vẫn còn cầm

được nước mắt. Nhưng khi phi cơ lượn một vòng lấy cao

độ, tất cả đều ngó xuống. Giữa tấm thảm mây mưa xám xịt

che kín bên dưới phi cơ có một khoảng trống vuông vắn

Page 256: TOÀN CẦU 2017

Trang 252 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

hiện ra Hồ Gươm và 36 phố phường. Cảnh tượng tuy tầm

thường nhưng lại gây xúc động mạnh, khiến đứa nào cũng

rưng rưng nước mắt. Đây là lần chúng tôi vĩnh biệt Hà Nội.

Vĩnh biệt miền Bắc.

Sau những giờ bay dài phi cơ đến Tân Sơn Nhất,

cảnh những con rạch đỏ ngầu giữa hai hàng dừa xanh làm

chúng tôi tươi vui hơn. Được đưa về nhận việc tại trại Bệnh

Viện Bình Dân dưới quyền Bộ Xã Hội, ngày hôm sau

chúng tôi được phân phối đi các trại tiếp cư khắp Sài Gòn,

Chợ Lớn và Gia Định. Đợt đầu tiên đồng bào di cư bằng

cầu vận chuyển của chính phủ và các nước trợ giúp đã vào

Sài Gòn từ đầu tháng 8 năm 1954.

Nhờ vào dịp hè, các trường học vùng Sài Gòn, Chợ

Lớn, Gia Định được trưng dụng để đón nhận người di cư

đến bằng phi cơ quân và dân sự, các quân vận hạm Mỹ như

Marine Serpent và Marine Addler, các mẫu hạm Anh và

Pháp. Trại tiếp cư lớn nhất vùng Sài Gòn là trại Phú Thọ

Lều (sát trường đua Phú Thọ, gồm hàng trăm lều vải lớn

mỗi lều chứa bốn năm gia đình do quân đội Mỹ dựng. Gọi

là Phú Thọ Lều để phân biệt với trại Học Sinh Di Cư Phú

Thọ ở gần kế đó. Trại Phú Thọ Lều chứa trên 10 ngàn

người.

Trợ cấp tiền mặt một ngày cho mỗi người lớn 12

đồng, trẻ em 6 đồng, dư để ăn ba bữa tươm tất. Lúc ấy một

bát phở hay một tô hủ tiếu giá 3 đồng, một bữa cơm ở quán

ăn xã hội hai món canh và mặn giá 5 đồng. Chai bia 3 đồng

kể cả nước đá, một gói thuốc lá Ruby 8 đồng. Lương giáo

viên tiểu học khoảng hơn 4,000 đồng, lương trung sĩ 2,200

đồng, lương cán bộ ngang lương thấp là 1,500 đồng. Một

căn nhà gỗ lợp tôn 4×20 mét ở mặt đường khoảng chợ Hòa

Hưng giá chừng 30,000 đồng.

Đời sống trong các trại tiếp cư rất đa dạng. Sống

chật chội chung đụng và ồn ào, làm nảy sinh nhiều vui

buồn, đụng chạm, kết bạn, rã bạn, tạo ra những mối tình ái

Page 257: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 253

lăng nhăng xấu tốt đủ cỡ đủ kiểu. Những cảnh âu yếm giao

tình nặng nhẹ bên bờ bụi gần trại trong đêm khuya vắng vẻ

của trai gái, vợ chồng đủ lứa tuổi, là những nét sinh hoạt rất

sống động có đủ vui, buồn, yêu, giận, phát khóc và nực

cười.

Từ tháng 8 năm 1954, mỗi ngày có trung bình hàng

ngàn người từ Hà Nội và Hải Phòng vào Sài Gòn bằng

đường hàng không và nhiều ngàn người mỗi tuần bằng tàu

chiến. Công việc định cư được tiến hành song song và khẩn

thiết. Phủ Tổng Ủy Di Cư lúc ấy đã thay thế bộ Xã Hội

trong nhiệm vụ chuyên biệt này.

Hình chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong một trại tạm cư với

hàng trăm căn lêu. Lúc đó, một trong những trại định cư lớn nhất ở

Saigon là trại Phú Thọ Lêu được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường

đưa Phú Thọ. Trại này có lúc đã chứa đến 10,000 người di cư. (HÌNH

ẢNH: VNCTLS sưu tầm).

Thời gian tạm cư kéo dài đến cuối năm 1954 và các

trường học được trả lại cho học sinh. Trại Phú Thọ Lều giải

tán. Người di cư theo nhau đi định cư khắp nơi, ở nhà tư

hoặc ở các trại định cư khắp các tỉnh. Tính đến chuyến tàu

Page 258: TOÀN CẦU 2017

Trang 254 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

sau cùng tháng 3 năm 1955 có khoảng 950,000 người từ

bắc Vĩ Tuyến 17 di cư vào Nam.

Nếu tính theo giấy tờ, con số này có thể lên tới hơn

1 triệu vì có sự gian lận sổ sách của một số viên chức cán

bộ lợi dụng thủ tục khai và lãnh tiền trợ cấp dễ dàng. Và

không phải 90% người di cư là tín đồ Công Giáo như nhiều

người nhận định. Số đồng bào Công Giáo di cư có lẽ chỉ

chiếm khoảng 70% tổng số.

Một điểm đáng ghi nhận là đáng lẽ số người di cư

còn cao hơn nữa nhưng vì vụ tướng Nguyễn Văn Hinh

chống ông Diệm và những cuộc giao tranh giữa quân chính

phủ và lực lượng Bình Xuyên đầu năm 1955 ở Sài Gòn nên

nhiều người Bắc không dám vào Nam. Tin tức về vụ này

làm một số rất nhiều người đã định ra đi nhưng vì e ngại

loạn lạc mà đổi ý.

Nói chung, sự xuất hiện của ông Ngô Đình Diệm và

thái độ can dự của người Mỹ đã gây được tin tưởng trong

một số đông đảo người miền Bắc khiến họ yên tâm vào

Nam. Đại đa số thành phần trí thức, chuyên viên cao cấp

như kỹ sư, bác sĩ, chuyên viên trung cấp, thợ giỏi, đã rời bỏ

đất Bắc khiến chính quyền ông Hồ Chí Minh gặp khó khăn

lớn trong mục tiêu xây dựng một đội ngũ chuyên viên kỹ

thuật mà họ cho là xương sống của nền kinh tế và khoa học

kỹ thuật Xã Hội Chủ Nghĩa.

Cuộc di cư năm 1954 tạo ra những thay đổi sâu

rộng trong lịch sử Việt Nam. Xin ghi lại một vài sự kiện

nổi bật xảy ra và những nét đặc biệt của cuộc di cư sau

Hiệp Định Genève 1954 điển hình tại vùng thủ đô Sài Gòn.

Trước hết phải nhìn nhận cuộc di cư đã giúp hàn

gắn những chia cách đáng buồn giữa hai miền trong nước.

Tình trạng chia rẽ do hậu quả của những năm dài dưới chế

độ thuộc địa Pháp đã tiêu tan mau chóng. Những dị biệt về

phong tục, ngôn ngữ vì ngăn cách, lâu ngày được san bằng

gần hết. Những ngăn cách và hiểu lầm còn lại không gây

Page 259: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 255

hậu quả nào nghiêm trọng. Về mặt chính trị và xã hội, sau

nhiều biến chuyển và chiến tranh, cuộc di cư vĩ đại năm

1954 đã góp phần thay đổi bộ mặt bề ngoài cũng như nếp

sống của dân chúng đến chỗ tốt đẹp, phong phú hơn.

Trước tháng 10 năm 1954, chính quyền địa phương

còn gần y nguyên như thời Pháp Thuộc. Văn thư, giấy tờ,

tên công sở, phố xá còn dùng tiếng Pháp. Từ khi chính phủ

Ngô Đình Diệm nắm toàn quyền sau những âm mưu đảo

chánh bất thành, luật lệ được thi hành nghiêm chỉnh. Nhiều

cải cách hành chánh đã làm giảm hẳn nạn giấy tờ nhiêu

khê. Văn thư, giấy tờ đều bắt đầu dùng tiếng Việt. Xin Tư

Pháp Lý Lịch bây giờ chỉ mất một tuần thay vì đợi 3 tháng.

Xin chứng nhận bản sao đợi lấy ngay hay sau vài giờ thay

vì một tuần lễ. Các cuộc cải tổ mạnh mẽ được tiến hành có

kết quả tốt nhờ phần nào ở sự ủng hộ tích cực của đồng bào

di cư đối với chính phủ.

Cuộc đổi tiền Đông Dương thành tiền Việt Nam

năm 1955 trong 3 ngày không giới hạn số lượng là một đòn

bất ngờ vô hiệu hóa hàng tỷ bạc Đông Dương mà chính

quyền Hồ Chí Minh thu gom được ở miền Bắc vì họ không

kịp chuyển vào Nam để đổi lấy tiền miền Nam mới. Đợt

đổi tiền này cũng chấm dứt luôn thói quen tiêu dùng coi

nửa tờ giấy bạc 1 đồng như 5 cắc (hào). Khi cần xài hay trả

lại 5 cắc, chỉ cần xé đôi tờ giấy bạc một đồng. Đành rằng

tập tục này không áp dụng cho những giấy bạc mệnh giá

trên một đồng.

Lúc ấy ảnh hưởng tuyên truyền của Cộng Sản rất

mạnh ở nam phần ngay tại Sài Gòn. Nhiều người mở đài

Hà Nội công khai mà không ai bắt bớ. Nhiều người miền

Nam ít hiểu biết về thực tế Cộng Sản đã thật thà hỏi mấy

đồng bào di cư mới gặp gỡ rằng “Ngoài Bắc đã độc lập rồi,

mấy thầy cô dô đây làm chi?” Do đó đã xẩy ra một số đụng

chạm nhỏ trong tháng đầu. Dần dần đồng bào miền Nam

mới nhìn đồng bào di cư một cách có thiện cảm hơn.

Page 260: TOÀN CẦU 2017

Trang 256 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Trong bối cảnh ấy, lực lượng học sinh di cư đã dẫn

đầu cuộc biểu tình vào dịp 20 tháng 7 năm 1955 đòi tống

xuất các đoàn đại biểu của quân đội Cộng Sản từ Hà Nội

trú đóng tại hai khách sạn Majestic và Galliéni (đường Trần

Hưng Đạo). Khi bị khiêu khích, cuộc biểu tình biến thành

bạo động, gây thiệt hại nặng cho hai khách sạn nhưng

không có thương vong quan trọng. Những hành vi cương

quyết của quần chúng khiến bọn thân Cộng Sản không còn

nhởn nhơ tuyên truyền bán công khai như trước.

Người di cư tiếp xúc, trao đổi với dân chúng địa

phương mau chóng tạo ra những hiểu biết và thông cảm.

Về kinh tế thương mại, người Bắc vào Nam đã mở mang

thương trường, ra các cửa hàng nhất là hàng ăn. Năm 1954

hầu hết cửa tiệm ăn do người Hoa kinh doanh, và họ dành

độc quyền ngành lúa gạo cũng như các sạp thịt ở mọi chợ.

Đời sống dễ dàng ở miền Nam khiến người Việt ít muốn

cạnh tranh, ngay như ngành công chức cũng không hấp dẫn

nhiều người. Bà con lao động xích lô kiếm đủ tiền tiêu

trong ngày nhiều khi đẩy xe lên lề dưới bóng cây làm một

giấc, khách gọi mấy cũng từ chối. Cách biệt giầu nghèo ở

Nam Việt lúc ấy rất ít.

Các tầng lớp dân di cư cần cù chịu đựng tham gia

thị trường lao động đã làm cho đời sống kinh tế miền Nam

lên cao nhưng lại buộc mọi người phải làm ăn chăm chỉ

hơn. Một số người địa phương không hài lòng vì nếp sống

thong thả lè phè cũ đã mất đi không còn trở lại.

Trang phục phụ nữ hai miền khác nhau, nổi rõ nhất

là giới nữ sinh trung học tuổi đôi tám. Nữ sinh Hà Nội làm

dáng sớm hơn, quần hẹp, áo dài nở vòng số một. Nữ sinh

Sài Gòn vận quần trắng rộng, áo bà ba trắng nhiều hơn áo

dài được may vòng số 1 tương đối phẳng phiu có lẽ vì đó là

cách tỏ ra là con nhà nghiêm túc. Sau hơn một năm các cô

hai miền tự nhiên hòa hợp cách ăn mặc, bọn thanh niên

sinh viên học sinh chúng tôi không còn phân biệt được gốc

gác các cô qua y phục nữa. Điều quan trọng và dễ thương

Page 261: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 257

hơn hết là những câu chuyện tình Bắc duyên Nam đã nhiều

khi hóa giải rất nhiều cho những mâu thuẫn văn hóa chính

trị.

Các trường phía Bắc di chuyển vào Sài Gòn giữ gần

y nguyên ban giám hiệu và tổ chức riêng. Từ Hà Nội vào,

Chu Văn An tiếp tục tại cơ sở cạnh Petrus Ký. Trưng

Vương học chung cơ sở nhưng khác giờ với Gia Long…

sau hai ba năm mới ra học ở các cơ sở riêng trước Thảo

Cầm Viên. Mấy năm sau nữa thì học sinh gốc hai miền dần

dần pha trộn.

Chuyện đáng nhớ là năm 1955 học sinh Bắc vào

Nam và các bạn gốc miền Nam mở chiến dịch phá bỏ tên

đường tiếng Pháp. Nhờ đó mà việc đặt tên đường mới, vốn

là việc mất nhiều công sức, đã được Tòa Đô Chánh Sài

Gòn thực hiện trong vòng khoảng một tháng.

Về mặt văn hóa và báo chí, các nhà văn, nhà thơ,

nhà báo từ Bắc vào Nam đã hòa hợp với đồng nghiệp miền

Nam tạo ra sinh khí mới, lối viết và văn phong, sắc thái

trong sáng, có sức truyền đạt hơn. Sau một thời gian ngắn

người đọc chỉ có thể nhận thấy một số khác biệt ít ỏi giữa

bài vở sách báo do các tác giả gốc từ các miền khác nhau

viết ra.

Đặc biệt là về tân nhạc, lớp nhạc sĩ và ca sĩ cũng

như những người yêu nhạc từ miền Bắc vào Nam đã lôi

cuốn được phong trào âm nhạc mới phát triển mạnh để tiến

đến tới cao điểm nghệ thuật ca nhạc trong các thập niên

sau. Và ngược lại số người Bắc di cư hâm mộ ca nhạc kịch

cải lương cũng gia tăng nhiều.

Về mặt ăn chơi, sự thay đổi rõ rệt hơn. Sòng bạc

Kim Chung, Đại Thế Giới, khu mại dâm Bình Khang bị

đóng cửa đầu năm 1955. Giữa năm 1954 cả Sài Gòn hình

như chỉ có 2 hay 3 tiệm phở Bắc. Chỉ sau vài tháng số tiệm

phở tăng đến hàng chục. Các quán cà phê cũng lục tục ra

đời cùng với các ngành buôn bán khác. Các xuất gọi là phụ

Page 262: TOÀN CẦU 2017

Trang 258 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

diễn tân nhạc trước khi chiếu phim chính ra đời dần dần

tiến đến những buổi trình diễn âm nhạc chuyên nghiệp gọi

là “nhạc hội” giúp vào việc phổ biến âm nhạc sâu rộng hơn.

Trước đó hoạt động âm nhạc chỉ được biết qua các chương

trình ca nhạc và các cuộc thi hát, tuyển lựa ca sĩ của các đài

phát thanh quốc gia, đài quân đội và đài Pháp Á cùng hai

đài Huế và Hà Nội.

Ngôn ngữ hai miền sau cuộc di cư cũng thay đổi và

pha trộn về từ ngữ tuy vẫn giữ những nét độc đáo của từng

vùng mà không lai giọng. Điểm đáng lưu ý là sau nhiều

năm gia đình gốc gác miền Bắc di cư có con cái đứa thì nói

giọng địa phương (Nam hay Trung), đứa thì nói giọng Bắc,

đứa thì nói cả hai ba giọng tùy theo môi trưởng xóm giềng

và trường học. Nhưng không mấy ai nói lẫn lộn cùng một

lúc các giọng khác nhau.

Về mặt đời sống xã hội, người di cư dần dần và

chậm chạp chịu ảnh hưởng bởi lối sống phóng khoáng,

chân thật, thẳng thắn của dân miền Nam. Sau một thế hệ,

tính nết người Bắc di cư khác hẳn tính nết của đồng hương

của họ còn ở lại quê nhà. Đến sau 30 tháng 4 năm 1975

người ta càng thấy điều này rõ rệt hơn khi gặp đợt Bắc Kỳ

mới vào Nam.

Trong đời sống tinh thần, có hai sự kiện đáng nhớ

trong thời gian ấy. Một là trước ngày Việt Minh tiếp thu Hà

Nội thì chùa Một Cột, di tích quý báu nhất của Việt Nam bị

kẻ vô danh phá bằng chất nổ. Rất may chùa chỉ hư hại một

góc. Nghe tin ấy chúng tôi đều hết sức buồn phiền. Hai là

giữa lúc nhịp độ di cư đang lên cao thì Hoàng Dương, em

nhạc sĩ Hoàng Trọng cho ra đời ca khúc Hướng Về Hà Nội

với lời ca tha thiết “Hà Nội ơi, hướng vê thành phố xa xôi…

mái trường phượng vĩ dâng hoa, dáng chiêu ủ bóng tiên

nga… biết đâu ngày ấy anh vê.” Ca khúc này khiến lứa tuổi

18, 19 chúng tôi cảm thấy rõ điều mà các văn thi nhạc sĩ

gọi là “tan nát cõi lòng.”

Page 263: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 259

Dĩ nhiên trong ngót một triệu người Bắc di cư có đủ

mọi thành phần tốt xấu kể cả đầu trộm đuôi cướp, quan lại

tham nhũng, trọc phú bất lương, tay sai thực dân và nội

tuyến Cộng Sản. Nhưng so với số các phần tử tinh hoa của

xã hội, số người yêu nước, chuyên viên giỏi các loại, các

nhân sĩ, trí thức, chiến sĩ quốc gia chân chính, thì những

phần tử xấu xa nói trên chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bé.

Một số người cho rằng người miền Bắc di cư đã là

chứng nhân lịch sử khiến đồng bào miền Nam hiểu rõ bản

chất của chế độ Cộng Sản. Điều đó có thể đúng một phần

nhỏ. Phần quan trọng hơn là chính vì thực tế những đường

lối mà Cộng Sản thi hành tại miền Nam tại nông thôn từ

khoảng năm 1961 trở đi. Từ đó họ đã thấy rằng chế độ

Cộng Sản đi ngược lại quyền lợi và sự an hòa của nhân dân

ta nhất là giai cấp nghèo khổ ở nông thôn.

Tôi và các bạn cùng lứa tuổi di cư vào ở miền Nam

gần 40 năm tính đến năm 1990 qua di trú sang Hoa Kỳ.

Tuy sinh ra trên đất Bắc nhưng chỉ ở Bắc dưới 20 năm,

trong đó mới biết chuyện đời được dăm ba năm. Vì thế

chúng tôi có hai miền quê quán. Quê quán thứ nhất ở miền

Bắc còn ở trong tim nhiều hơn. Quê quán thứ hai ở miền

Nam sau ngày di cư năm 1954 mới thực sự chứa đựng

nhiều vui buồn, yêu thương, giận dỗi, vinh quang và tủi

nhục vì trải qua quãng đường đời dài 40 năm với biết bao

nhiêu là kỷ niệm./

Lữ Tuấn

Page 264: TOÀN CẦU 2017

Trang 260 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

THÁNG TƯ

Tháng tư u uất trên không

Tiếng còi tàu đã bỏ sông bỏ nguồn

Bơ vơ thành phố không hồn

Còn ai trông ngóng bãi cồn bờ kênh

Trời cao trời cũng mông mênh

Đất sao lỡ bước chênh vênh bến bờ

Người vong quốc, kẻ rợ Hồ

Biết đâu ngày tháng đợi chờ ta đây

Thà như chiến lũy phơi thây

Thà như tội nghiệt đọa đầy nhân gian

Thà như máu cạn xương tan

Than ôi tử sĩ chết oan một ngày

Tàu đi buông tiếng bi ai

Nỗi đau xé thịt một đời sinh ly

Phố phường lặng lẽ li b ì

Nghe cơn đại nạn ấm ì ngoài xa

Bánh xe xích sắt nghiến da

Mặt trời bỗng tối, mắt nhòa bóng đêm

Bên đường quân phục không tên

Ai người lính chiến, ai quên binh đoàn

Tháng tư mơ giấc hoàng lan

Tàu về trong ánh hào quang mặt trờ i

Cờ treo, nhạc nổi, hoa mời

Bao nhiêu lễ hội đón người phương xa

Nguyễn Vũ Văn (CVA59)

Tháng 4/2017

Page 265: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 261

BẢO TÀNG

Tới đỉnh gió gọi hồn lịch sử

Cuồn cuộn mây tử sĩ xôn xao

Công thần hiển hách riêng một cõi

Còn ai thoi thóp dưới chiến hào

Áo mũ vua ban cờ đại tướng

Bia đá ghi ơn phò bạo quân

Ta nghe kèn trận như điên đảo

Tiếng hò kéo pháo ríu đôi chân

Bom đạn kinh hoàng trời đất rống

Xác chết chồng người vẫn thiêu thân

Quân lệnh như sơn mạng như rác

Dựng cờ vang dội võ tướng quân

Bạo chúa lên ngôi thời mạt trị

Trắng tay bá tính biết lầm than

Nhìn lên ngoảnh mặt về phương bắc

Nhìn xuống nô dân một lũ câm

Công thần thất sủng, ôi danh tướng

Người đã khuất rồi có hối không

Tử sĩ chết oan nay hội ngộ

Có ai đòi mạng cướp linh hồn ?

Trở lui ngoài cửa đầu như đá

Gió ù lên hồn lại sơ sinh

Trên cao trời vẫn xanh trong ngắt

Bỗng nhả ra mấy giọt phân chim

Nguyễn Vũ Văn

CVA59

Page 266: TOÀN CẦU 2017

Trang 262 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Người Hà Nội,

người Sàigòn

Ban Biên Tập, sưu tầm

Sàigòn trước năm 1975 có là Hòn Ngọc không?

Điều này còn tùy người.

Dân Sàigòn, trước năm 1975, hãnh diện về thành

phố của mình, dù nhiều người vẫn thấy Sàigòn đã có thể

chưa bằng Seoul, Singapore, Bangkok. Có người, với góc

nhìn nào đó, thấy Phnom Penh, Vientiane đẹp hơn. Có

người so sánh với các địa phương khác trong nước, thích

Huế, thích Dalat, thích Hà Nội hơn, nhưng đối với người

Sàigòn thì thành phố của họ vẫn là viên ngọc họ yêu

thương. Viên ngọc Sàigòn trong mắt họ và yêu thương

trong tim họ khác với con mắt và tình cảm yêu thích của

các tay thực dân ngồi salon từ thủ đô ánh sáng Paris nhìn

sang, tấm tắc khen công trình kiến tạo ở xứ Viễn Đông của

mình.

Sàigòn đẹp, nhưng Hà Nội có thua gì? Sàigòn làm

sao có được những hồ nước trong veo, mát rượi, thơ mộng

như Hà Nội? Sàigòn sao có được các công trình kiến trúc

lich sử như Văn miều, Trấn Quốc, Hồ Gươm, đền Ngọc

Sơn? Và nhất là Sàigòn thời trước 1954, không quy tụ được

nhiều tao nhân, mặc khách, văn nhân, thi sĩ như Hà Nội.

Người Hà Nội khác người Sàigòn. Người Hà Nội có

vẻ từ tốn, lịch lãm, tao nhã, tế nhị và khách sáo. Tế nhị và

khách sáo đến mức làm người Sàigòn khó chịu.

Page 267: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 263

Thiếu nữ Sài Gòn

Lếch thếch chạy vào Nam, bỏ lại gia tài, sản nghiệp,

xuống tàu di cư nhận 800 đồng mỗi người khi bước xuống

đất Sàigòn, người di cư Hà Nội nhíu mày, tròn xoe mắt với

cách sống của dân địa phương. Người “Sè-gòng” trần trùng

trục, thân dưới chỉ cuốn chiếc sà rông, co giò trên ghế, đổ

cà phê loại pha bằng vợt, cà phê “dớ”, ra dĩa, húp xì xụp.

Họ xé toạc đồng bạc đề trả hay “thối lại” 5 cắc. Tệ hại hơn

nữa là đi đâu cũng nghe chửi thề.

Dân Bắc đi chợ có thói quen mặc cả, trả giá kỳ kèo

thêm bớt một hai luôn làm người bán hàng Nam kỳ khó

chịu, có khi không bán hàng cho. Lần đầu tiên mua trái cây,

người Hà Nội ngỡ ngàng, ngạc nhiên thú vị khi hỏi mua

một chục, nhận được 12 trái, có khi 14, 16 thậm chí đến 20

trái.

Cách cư xử thoải mái, bình đẳng của người Sàigòn

với mọi người cũng làm dân Hà Nội lấy làm lạ. Anh xích lô

đạp, xich lô máy hay anh chạy xe ngựa cũng không khúm

múm, không ông-con, bà-cháu với khách. Anh sống vất vả

hơn, nghèo túng hơn anh công, tư chức nhưng thoải mái

không thua gì. Sáng cà phê, bánh mì, hủ tíu, xíu mại, trưa

Page 268: TOÀN CẦU 2017

Trang 264 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

kéo xe nằm dưới gốc cây làm một giấc no mắt, tối dẫn cả

nhà đi coi cải lương. Gầm cầu có thể là chỗ ngủ của cả nhà.

Anh ta có thể nói dóc chứ không nói xạo, không xảo trá.

Người Hà Nội di cư coi thường dân Sè-gòng nói

ngọng, dân Sàigòn không tinh tế nhận ra điều đó, họ thản

nhiên chấp nhận chia sẻ việc làm với hàng chục ngàn người

nhập cư, chỉ thỉnh thoảng nhướng mắt hỏi: “Hòa bình rồi,

sao không ở lại Bắc kỳ, zô Ziệc-Nam đây chi zậy?”

Người ta phân biệt dân Bắc kỳ cao su, dân Bắc kỳ

54. “Bắc kỳ cao su” nghèo mạt rệp, theo Tây mộ phu vào

dồn điền cạo mủ. Dân “Bắc kỳ 54” phải gân cổ cắt nghĩa

mãi người ta mới hiểu được tại sao cả triệu người phải bỏ

quê hương vào Nam, tha hương cầu thực, và cho đến ngày

được “giải phóng”, tất cả người miền Nam mới thật sự

đồng cảm và cùng khóc với dân 54.

Từ thập niên 70, chiến tranh lan rộng, Sàigòn có khi

bị pháo kích bằng hỏa tiễn, đêm nghe đại bác, nhìn hỏa

châu, dù phải nhận hàng trăm ngàn dân quê trốn chiến tranh

ồ ạt đổ về thủ đô giành việc làm, người Sàigòn vẫn thoải

mái bao dung. Nhà ổ chuột bắt đầu dựng cẳng cừ tràm trên

kênh Tàu Hủ, kênh Nhiêu Lộc, trên bãi rác. Bên cạnh các

cuộc biểu tình của nhiều thành phần chống chính phủ,

người Sàigòn vẫn thoải mái: Sáng ăn cơm sườn, chiêu ăn

nước tương, tối chun vô mùng nằm nghe cải lương. Câu hát

chơi, nhưng gần đúng với người Nam Bộ thời đó.

Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm

Dưới 9 năm cai trị của một ông tổng thống mà

người ta gọi là độc tài, Ngô Đình Diệm, nguyên bộ trưởng

bộ lại thời Bảo Đại phong kiến, cả miền Nam, không riêng

gì Sàigòn, đã thay đổi. Bệnh viện, nhà cứu tế, viện dưỡng

lão, quán cơm cho sinh viên nghèo, cho người lao động chỗ

nào cũng có. Ông Ngô Đình Diệm rất chú trọng đến giáo

dục. Trường học từ mẫu giáo, tiểu, trung học đến đại học

được xây dựng. Ngoài các lớp xoá nạn mù chữ, các lớp dậy

Page 269: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 265

văn hóa ban đêm, còn có các trường dạy nghề, dạy ngoại

ngữ. Nghề giáo được coi trọng, lương giáo viên trung, tiểu

học đủ nuôi vợ, nuôi con. Quân nhân, công chức được

khuyến khích, được tạo điều kiện dễ dàng đi học thêm,

nhiều sĩ quan được ông Diệm cho giải ngũ, cho học bổng

du học. Tư lệnh không quân, Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh

nằm trong trường hợp này. Trong các trường đại học, sinh

viên trẻ ngồi cạnh các công chức, sĩ quan già như Thiếu

tướng Nguyễn Đức Thắng. Sáng, chiều đường phố Sàigòn

ngập áo trắng học sinh. Hồi đó đồng phục nam sinh, chỉ áo

sơ mi trắng, quần kaki xanh, nữ sinh áo dài trắng, các

trường tư không bắt bận đồng phục, trừ hầu hết các trường

thuộc các dòng tu công giáo, nữ sinh thường mặc robe.

Sài Gòn xưa

Trung tâm Sàigòn không thay đổi mấy, hình như chỉ

có năm bảy dinh cơ làm mới, làm lớn ra: Dinh Độc lập, vì

bị ném bom, rạp cinéma Rex, khu thư viện Hoa Kỳ bên

cạnh đó và nhà hàng Caravelle là đáng để ý. Đường Duy

Tân cây dài bóng mát, đướng tản bộ của các cặp sinh viên

Page 270: TOÀN CẦU 2017

Trang 266 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

luật, Cường Để, Tú Xương và nhiều đường khác vẫn như

thời xa xưa, yên bình, thơ mộng, lãng mạn và quý phái.

Vùng xa trung tâm thành phố, khu Minh Mạng, Vườn Soài,

Lăng Cha Cả, Xóm Mới bắt đầu đông dân, nhà cửa khang

trang nhờ dân di cư.

Tội phạm ít, diện tích trên các trang báo dành cho

tòa án, tội phạm rất nhỏ, thậm chí xe cán chó cũng là tin.

Đáng chú ý và rầm rộ nhất là tin vũ nữ Cẩm Nhung bị vợ

Trung tá Thức tạt axit đánh ghen. Vụ này khiến ông quan

năm bị ngài “tông tông” Diệm nóng mặt cách tuột chức

tước. Các băng đảng cũng có nhưng họ không “bẩn” như

ngày nay. Các vụ giết người lại càng ít xảy ra. Phải nói

thêm là dù có bất cứ tội phạm loại nào xảy ra, nội vụ được

loan tin, không bao giờ báo chí có câu kết luận theo kiểu

chỉ đạo mà các báo chí miền Bắc phải viết: “Đấy là tàn dư

của chế độ cũ”. Câu đổ tội vu khống rẻ tiền này theo vào

Nam sau năm 75 làm dân Nam kỳ nóng mặt chửi thề. Đến

khoảng năm 80, cái câu tuyên truyền ngốc nghếch, bẩn thỉu

học theo cách dậy bảo của trùm tuyên truyền Đức quốc xã

Joseph Goebbels này mới chấm dứt.

Người Sàigòn hầu hết đều thật thà và đáng tin cậy,

họ thích huỵch toẹt mọi chuyện, ít để bụng nhưng cũng dễ

“nổi khùng”. Họ cũng thường không đua đòi, khoe khoang.

Quý bà, quý cô phần lớn đều vui vẻ, nền nếp, kín đáo. Ăn

nói dù không có duyên, không đằm thắm, quyến rũ lắm

nhưng thẳng thắn và thành thật, nhất là không chua chát, xỏ

xiên.

Những nhu cầu căn bản về ăn uống, quần áo, thuốc

men, tiền thuê nhà dễ chịu cho tất cả mọi thành

phần. Lương một công chức hạng thấp, một người lính, có

thể nuôi cả gia đình, giáo viên có đời sống sung túc và

được xã hội kính trọng như từng lớp trí thức. Có vài nơi

cung cấp cơm trưa cho sinh viên học sinh, miễn phí, nhưng

không được lâu.

Page 271: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 267

Kiến trúc nhà ở đẹp mắt, đa dạng, rộng rãi không

bắt chước lẫn nhau như kiểu nhà nào cũng tháp nhọn chọc

lên trời biểu hiện tính khoe khoang, thiển cận, trọc phú.

Phương tiện giao thông vận tải không tuyệt vời như

Đài Loan, nhưng đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu đi lại của

người dân. Ngoài hệ thống xe buýt rẻ tiền đến các nơi, các

khu dân cư đông đúc, xa trung tâm thành phố, còn có xe

taxi, xích lô. Trước xích lô máy khá nhiều, sau không hiểu

sao dần vắng bóng, sau này thêm xe Lam. Có điều thú vị là

sĩ quan mặc quân phục không được ngồi xích lô hay đi xe

Lam. Nói chung, dù với người không có xe, việc di chuyển

đi lại không bị hạn chế.

Các bệnh viện công khá nhiều. Có thời nhà thương

công được gọi là nhà thương thí, dù thí nhưng bệnh nhân

được chăm sóc ân cần. Rất nhiều nữ tu Công giáo lo việc

chăm sóc cho bệnh nhân nghèo, ngay cả người cùi, hủi.

Bệnh viện Bình Dân trên đường Phan Thanh Giản, bệnh

viện Sài-Gòn trên đường Lê Lợi, bệnh Viện Gia Định trên

đường Nguyễn Văn Học đều là nhà thương công. Bệnh

viện Bình Dân nổi tiếng hơn vì nhiều sinh viên thực tập và

các giáo sư dạy ở đây. Không có cảnh ghép đôi, ghép ba,

ăn tiền, hạch sách bệnh nhân. Bệnh viện Vì-Dân được bà

TT Thiệu xin tiền từ thiện xây, có hai phần, phần phải trả

viện phí, phần miễn phí dành cho thân nhân quân nhân.

Kinh phí cho phần miễn phí lấy từ nguồn thu của bên phải

trả tiền.

Sàigòn thường có các cuộc triển lãm nghệ

thuật. Các ban nhạc quân đội thay nhau biểu diễn cuối tuần

trước trụ sở quốc hội, sau này là Hạ nghị Viện, hay tại bờ

sông, trước bộ tư lệnh Hải Quân. Nhiều cuộc hội thảo về

văn chương, đọc sách thú vị. Thị trường sách đa dạng,

phong phú, nhiều ngôn ngữ. Ngoài các nhà sách lớn như

Xuân Thu, Khai Trí còn có rất nhiều quầy sách, báo, tạp chí

trên đường Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Huệ. Đó cũng là những

điểm cho đám sinh viên, học sinh đến “xem cọp” những ấn

Page 272: TOÀN CẦU 2017

Trang 268 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

phẩm mới nhất, nhiều khi đứng đến cả giờ để ghi ghi, chép

chép. Nói đến “xem sách cọp” nhớ đến “học cọp”. Sài gòn

xưa có nhiều điểm học luyên thi, thi tú tài 1, 2. Đông học

sinh lắm, nhưng đám học cọp cũng không ít, họ vào lớp,

thấy bóng giám thị đến là dọt ra. Các thày biết ai học cọp

cũng kệ, việc đó của thày giám thị.

Các hoạt động chính trị rất phong phú, nhiều đảng

phái, nhiều nhóm như nhóm Caravelle, nhiều chính khách

salon. Các cuộc biểu tình có lúc diễn ra như cơm bữa. Sinh

viên, học sinh biểu tình xong quay về trường học, có sức

lần sau đi nữa. Đậu học tiếp, rớt đi lính rán chịu, không ai

cản trở tự do của họ.

Đám tang đi qua, xe cộ đều tránh, người đi đường

ngả mũ, cúi đầu chào vĩnh biệt. Đó cũng đánh giá được

trình độ văn hóa của người Sàigòn.

Luật pháp và chính phủ còn một số bất cập, nhưng

được đánh giá là cố gắng đem lại một nền dân chủ pháp

quyền cho dân và cố gắng làm cho đời sống người dân khá

hơn. Cảnh sát dù không được dân ưa, nhưng không đến nỗi

bị khinh ghét.

Người Hà Nội, người Sài Gòn ngày xưa như thế.

Không ai hổ thẹn, mà trái lại còn hãnh diện khi được

gọi là người Hà Nội hay người Sài Gòn. Ngày nay, nói

tới người Sài Gòn còn đỡ chứ nói tới người Hà Nội thì

thật là một điều sỉ nhục cho những người miền Bắc vì

người ta thường gọi là người Hà Lội chứ không phải là

người Hà Nội.

Ban Biên Tập, sưu tầm

Page 273: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 269

HÀ THÀNH THANH LỊCH,

NAY CÒN ĐÂU ?

*Phải biết bao năm, mới xây dựng được một nên văn hóa ?

Đoan Nghi

Thiếu Nữ Hà Thành 1930

“Vì lợi ích 10 năm, trồng cây. Vì lợi ích 100 năm,

trồng người” Và chỉ sau thời gian ngắn, với chính sách

trồng người này đã phá nát nền văn hóa Hà Thành thanh

lịch như thế nào ?

Nền văn hóa thanh lịch của Hà Nội, được hình

thành, phát triển, và củng cố từ mấy trăm năm, qua bao

nhiêu thế hệ tiếp nối nhau, vẫn phát huy rực rỡ dưới 80

Page 274: TOÀN CẦU 2017

Trang 270 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

năm đô hộ của thực dân Pháp , nhưng lại bị yểu tử dưới bàn

tay của những người Cộng Sản …

Hơn nửa thế kỷ trước, Hà Nội được mệnh danh là

đất “ngàn năm văn vật”, nơi đã trải qua “4,000 năm văn

hiến”. Hà Nội được xưng tụng là “Hà Thành thanh lịch”,

đào tạo ra những “trai thanh, gái lịch”. Các“nam thanh, nữ

tú” đã làm Hà Nội hãnh diện bằng 2 câu thơ:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.

Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng An

Hà Nội xa xưa, chỉ là một thành phố xinh xắn,hiền

hòa, với 36 phố phường và 5 cửa ô. Phố xá Hà Nội ngắn,

gọn, và sạch sẽ, nhà cửa khang trang. Người Hà Nội hầu

như quen biết nhau gần hết. Họ chung sống hài hòa, và đối

xử với nhau lịch sự tới độ khách sáo. Khoảng cách giữa

giàu và nghèo không chênh lệch là mấy.

Hà Nội còn nổi tiếng về các vùng phụ cận như làng

Nhật Tân ven Sông Hồng, nhờ thổ nhưỡng đặc biệt đã

trồng được loại hoa đào đẹp nhất miền Bắc. Hoa đào Nhật

Tân, sắc hồng thắm rực rỡ, cánh kép lâu tàn, nụ hoa chi chít

trên cành. Ngày mùng một Tết, đào Nhật Tân nở rộ, những

bông hoa tươi thắm còn ngậm sương mai, xen lẫn với các

Page 275: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 271

nụ hoa chúm chím, và lất phất những cánh lá non mươn

mướt trên cành, trông đẹp vô tả. Theo dòng lịch sử, ngày

mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi vừa chiến thắng trận

Đống Đa, vua Quang Trung vào thành Thăng Long, và đã

tới ngay làng Nhật Tân để chọn một cành đào đẹp nhất, gửi

về tặng Bắc Cung Hoàng Hậu, là công chúa Ngọc Hân.

Hà Nội còn nổi danh với khu Khâm Thiên, nơi giải

trí của các bậc thức giả phong lưu. Họ đã ngẫu hứng sáng

tác ra những bài ca trù, cho các ả đào ngâm nga bên khay

rượu. Giọng ngâm thơ, xen lẫn với tiếng trống chầu

thưởng, phạt, khen, chê đã nâng cao trình độ nghệ thuật của

một thú ăn chơi nửa thanh nửa tục. Nhiều bài hát ả đào đã

nổi danh, được lưu truyền trong văn học, và làm phong phú

thêm cho nền văn hóa Việt Nam.

Hà Nội mang nhiều dấu ấn lịch sử, trải qua nhiều

triều đại. Năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư,

ra thành Đại La, đột nhiên thấy trên trời hiện ra đám mây

mang hình dáng một con rồng đang bay lượn. Vua cho đó

là điềm lành, nên đổi tên ra Thăng Long thành. Rồi tới đời

vua Minh Mạng, năm 1831, lại đổi tên từ Thăng Long ra

Hà Nội.

Hồ Hoàn Kiếm

Page 276: TOÀN CẦU 2017

Trang 272 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Hồ Hoàn Kiếm, một danh lam thắng cảnh ở trung

tâm Hà Nội, ghi lại huyền thoại vua Lê Thái Tổ du ngoạn

trên hồ, khi vừa đại thắng quân Minh, năm 1428. Một con

rùa vàng trồi lên mặt nước, đòi lại thanh bảo kiếm, đã cho

nhà vua mượn diệt giặc. Nhận được thanh kiếm, rùa bèn

ngậm vào miệng, và lặn xuống đáy hồ. Vua Lê Thái Tổ bèn

đặt tên cho hồ, là Hồ Hoàn Kiếm.

Thăng Long thành còn ghi lại chiến tích oai hùng

của trận Đống Đa, khi vua Quang Trung đại phá quân

Thanh vào ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu, 1789, khiến Thái

Thú Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự vận, và tướng giặc Tôn

Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín, tháo chạy về Tàu.

Đất Hà Thành là đất địa linh nhân kiệt. Người Hà

Thành tao nhã, lịch sự từ lời ăn tiếng nói, tới cách phục

sức, và giao tế.

Cái văn hóa của người Hà Nội xa xưa, là hình ảnh

của những người đàn ông phong lưu, lịch lãm, tề chỉnh mỗi

khi bước ra khỏi cửa, là các bà nội trợ nề nếp, đảm đang,

khăn nhung, áo lụa, khoe tài nữ công gia chánh qua những

mâm cỗ thịnh soạn vào các ngày giỗ, ngày Tết, là các cô

Page 277: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 273

thiếu nữ duyên dáng, e ấp trong tà áo nhung, tấm khăn

quàng, lên chùa lễ Phật buổi đầu năm. Người Hà Nội, khi

vui không sôi nổi, ồn ào, khi bất bình, giận dữ, biết kiềm

chế lời ăn tiếng nói, để tránh xung đột.

Cái thanh lịch của người Hà Nội không phải chỉ tập

tành trong một sớm một chiều mà có được. Cái phong thái

đó, phải có săn trong nếp nhà, từ trước khi đứa trẻ sinh ra

đời, để rồi khi lớn lên, đứa trẻ cứ rập khuôn theo cái nếp có

săn, mà học theo cách cư sử, phép giao tế, lời ăn tiếng nói,

nếp sinh hoạt của những bậc trưởng thượng. Thêm vào đó,

là sự theo dõi, uốn nắn, dạy dỗ của các bậc phụ huynh, để

rồi khi tới tuổi trưởng thành, người con trai trở nên một

thanh niên phong lưu, lịch lãm, mạnh dạn bước vào đời, và

người con gái trở thành một thiếu nữ đức hạnh, đảm đang,

có khả năng quán xuyến một gia đình mới.

Có người nhận xét, người Hà Nội khéo ăn khéo nói,

nhưng không thực lòng, xử sự mềm mỏng nhưng thiếu

chân tình, lịch sự, nhã nhặn nhưng ngầm kiểu cách. Có

người còn nói, người Hà Nội coi trọng thể diện, giữ gìn mặt

mũi, và sợ dư luận, nên họ sống cho người ngoài, nhiều

hơn cho chính họ.

Những nhận xét đó, không phải là sai. Ngày tôi còn

nhỏ, mẹ tôi thường nhắc nhở: “Ở trong nhà thiếu thốn, thì

cũng chỉ có mình biết, nhưng bước ra ngoài, mà xử sự hẹp

hòi, thì sẽ bị thiên hạ chê cười, làng nước đàm tiếu.” Bởi

vậy, các khoản chi tiêu về giao tế như hiếu, hỷ, hay mọi

đóng góp, mẹ tôi đều rất hào phóng. Để bù lại, bà thẳng tay

cắt xén những khoản chi tiêu trong gia đình, kể cả khoản

tiền chợ mỗi ngày. Mẹ tôi còn kể cho tôi nghe rằng ngày bà

còn trẻ, trước khi đi ăn giỗ, ăn cưới, bà đều bị bà ngoại tôi

ép ăn cơm trước ở nhà, để khi tới nơi, không vì đói mà ăn

uống thô tục. Con gái của gia đình lễ giáo là phải … khảnh

ăn, thanh cao, và đài các.

Tôi đã từng theo mẹ tôi đi tham dự các buổi họp

Page 278: TOÀN CẦU 2017

Trang 274 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

mặt với bạn bè của bà. Vừa ăn xong, là các bà tranh nhau

trả tiền, để chứng tỏ rằng mình là người lịch sự, hào phóng,

nhưng khi về nhà, thì lại ngồi tiếc tiền. Có lần tôi nghe bà

bạn hỏi ý kiến mẹ tôi về cái áo choàng của chồng bà vừa

mua tặng từ Hồng Kong. Mẹ tôi hết lời khen ngợi, nhưng

khi bà khách vừa ra về, thì mẹ tôi lại nói với ba tôi là cái áo

màu mè, coi thiếu thẩm mỹ. Tôi thắc mắc về thái độ này,

thì mẹ tôi giải thích rằng: “chiếc áo đã lỡ mua rồi, không

thay đổi được, thì can chi làm buồn lòng người khác !”.

Ngày còn nhỏ, tôi cứ phân vân, không biết những

thái độ này là đúng hay sai, nhưng từ khi biết suy nghĩ, tôi

lại thấy, có lẽ những cách xử thế này, đã góp phần không

nhỏ trong việc kiến tạo cái xã hội thanh lịch của người Hà

thành. Vì họ luôn muốn vui lòng người khác, trọng “thể

diện”, và sợ tai tiếng, nên họ thận trọng từ lời ăn, tiếng nói,

tới cách thức giao tế, và dạy dỗ con cái. Thà là bản thân và

gia đình chịu o ép, thiệt thòi, chứ không để cho thiên hạ dị

nghị, chê cười. Đó là những người Hà Nội của hơn nửa thế

kỷ trước.

Người xưa nói, “cùng một giống quýt, trồng ở

Giang Nam thì ngọt, nhưng trồng ở Giang Bắc thì

chua”. Như vậy, môi trường đã đóng góp không nhỏ vào

việc hình thành phẩm chất của cây trái.

Page 279: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 275

Con người cũng vậy. Bản chất con người cũng thay

đổi theo hoàn cảnh và môi trường sống. Sau khi đất nước bị

chia đôi năm 1954, miền Bắc được giao cho CS, thì từ cảnh

quang, tới con người Hà Nội, đều mau chóng….bị phá sản.

Nếp sống lễ giáo, gia phong của người Hà Nội, bị CS lên

án là “phong kiến”, “tiểu tư sản”, và hô hào từ bỏ, để học

theo “nếp sống mới” khai thác sức lao động của con người.

Nông trường và công trường được thành lập để mọi

người tham gia lao động tập thể. Tà áo dài duyên dáng,

thướt tha, được thay thế bằng quần đen, áo ngắn, vừa gọn

gàng, vừa đỡ tốn vải. Có lao động mới được nhà nước bán

cho 15 kí gạo mỗi tháng, đuợc mua nhu yếu phẩm theo giá

quy định, và được phân phối 3 mét vải may quần áo mỗi

năm. Văn chương, thi phú, và âm nhạc bị kết tôi là văn hóa

nô dịch, văn chương tiểu tư sản, ủy mị, ru ngủ con người,

nên bị cấm lưu hành và trình diễn.

Hà Nội sau năm 1954

Vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” năm 1957, đã tận

diệt các nhà trí thức, và các văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền được

tự do sáng tác. Nhà nước nắm quyền chỉ đạo văn hóa, xử

dụng cho mục đích tuyên truyền và khích động đấu tranh.

Bằng chính sách văn nghệ chỉ huy, CS đã bóp nghẹt tự do

Page 280: TOÀN CẦU 2017

Trang 276 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

ngôn luận, và tước đi cái khả năng sáng tạo của người làm

văn nghệ. Tôn giáo cũng bị bài xích, vì cho là thuốc phiện,

làm mê muội trí óc.

Tiếp thu Hà Nội, CS chào mừng dân chúng bằng

“Tuần Lễ Vàng”, kêu gọi mọi người đóng góp vàng và các

quý kim, để nhà nước có tiền kiến thiết đất nước. Ban đầu

là tự nguyện, nhưng sau khi “ tuần lễ vàng” kết thúc, cán bộ

ngầm tiếp xúc với những gia đình khá giả, rỉ tai hăm dọa và

bắt buộc họ đóng góp theo mức ấn định của nhà nước.

“Tuần lễ vàng” là hình thức cướp của, và bần cùng hóa

nhân dân,giống như những đợt đánh tư sản tại miền Nam,

năm 75, sau khi Cộng Sản cưỡng chiếm.

Thanh niên, thiếu nữ Hà Nội sau năm 1954

Ngay khi vừa ổn định, chính quyền CS đã có kế

hoạch dồn những người Hà Nội ra các vùng phụ cận thành

phố, để lấy chỗ cho những người có công với cách mạng,

từ các vùng nông thôn Hà Đông, Nam Định, và Ninh Bình

vào nhập cư. Những người Hà Nội còn sót lại, như cá nằm

trên thớt, cố uốn mình để thích nghi theo nếp sống của

những người mới nhập cư, mong được yên thân.

Page 281: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 277

Để củng cố thể chế, nhà nước đã đặt tai mắt khắp

mọi nơi, mọi chỗ, ngấm ngầm chỉ định những người láng

giềng, bạn bè, thân tộc, nhòm ngó, theo dõi lẫn nhau, để

báo cáo cho chính quyền. Ngay cả các học sinh, cũng được

cán bộ chỉ dẫn về nhà nghe lén những lời trò chuyện trong

gia đình, để rồi báo cáo lại với thầy cô, tạo ra một bầu

không khí ngột ngạt, bất an, nghi kỵ lẫn nhau trong gia đình

và xã hội.

Đợt cải cách ruộng đất trời long đất lở, vào những

năm 54-56, đảng CS đã phá vỡ cái kỷ cương và lễ giáo của

một xã hội đặt nặng đạo đức và nền tảng gia đình,của người

dân miền Bắc. Để đạt chỉ tiêu, cán bộ đã bắt buộc, thúc

đẩy, hăm dọa, để con cháu đứng lên đấu tố ông bà, cha mẹ,

học trò tố khổ thầy, những tay chân thân tín kể tội chủ bằng

những câu chuyện bịa đặt, các lời lẽ hỗn hào, thô lỗ, thậm

chí “mày tao chi tớ”, “thằng này, con kia” bất kể tới tuổi

tác và tôn ti trật tự, ngay trước mặt đám đông.

Toà án Nhân dân đấu tố địa chủ

Nhà nước giữ độc quyền quyết định và phân phối

những nhu cầu sống căn bản của người dân như gạo,

đường, muối, vải ... Trong thời kỳ kinh tế bao cấp, người

Page 282: TOÀN CẦU 2017

Trang 278 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

dân triền miên sống trong tình trạng thiếu thốn, và trở nên

thèm thuồng đủ thứ. Con người dần dần “biến chất”, trở

thành ích kỷ, hẹp hòi, và ti tiện. Đi chơi xa, phải xách theo

khẩu phần gạo của mình, nếu không, chỉ được ngồi nói

chuyện xuông, nhìn gia đình chủ nhà ăn cơm, vì mỗi người

chỉ có đủ khẩu phần gạo cho mình. “Bần cùng sinh đạo

tặc”, xã hội nảy sinh ra nhiều tệ trang như tham nhũng, móc

ngoặc, cắt xén, phe phẩy. Người ta săn sàng bán rẻ bạn bè,

thân tộc, vì những quyền lợi vật chất nhỏ nhen. Con người

mất hết nhân phẩm.

Trong các sinh hoạt công cộng, những buổi học tập

chính trị, diễn giả đã không ngần ngại dùng những từ ngữ

thiếu văn hóa như “thằng này, con nọ”, “mày, tao, chi, tớ”,

để khích động lòng căm thù của người nghe. Thậm chí, đến

những câu vè, câu thơ, công cụ tuyên truyền, cũng mang

đầy tính chất bạo lực đến… rợn người:

“Bún xào thịt giặc mới ngon.

“Cơm chan máu địch cho con no lòng…”

hoặc

Giết! Giết nữa, bàn tay không phút nghỉ

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho Đảng bên lâu, cùng rập bước chung long

Thờ Mao Chủ tịch, thờ Stalin bất diệt [1]

Được trưởng thành trong một môi trường vô văn

hóa, thiếu nhân bản, và tràn ngập hận thù như vậy, người

dân dễ dàng trở nên hiếu động, hung hăng, săn sàng đỏ mặt,

xăn tay áo gây gổ. Mở miệng ra là chửi thề, dùng các danh

từ thô lỗ như “đéo…” “đếch…” để mở đầu câu chuyện. Xã

hội cũng xuất hiện những hàng quán loại “cơm mắng, cháo

chửi”, chẳng giống ai. Ở đây, khách hàng không phải là

thượng đế, mà bị đối xử tàn tệ hơn cả… con ở.

Nhiều người đã lập lại ngôn từ của bà chủ quán:

“Này ! không chờ được thì … xéo đi, lấy chỗ cho người

Page 283: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 279

khác, đừng có đứng đó mà lải nhải …”, hoặc là “Mắt để ở

trên trán hay sao mà xớn xác, không chịu nhìn. Nước mắm

để ở góc bàn kia kìa …” Điều ngạc nhiên là mỗi lần nghe

chửi mắng, thì thực khách trong quán đã không tức giận,

mà lại còn nháy mắt với nhau và … rú lên cười. Người ta

bảo, sở dĩ quán đông khách là vì các món ăn vừa rẻ, vừa

ngon. Hóa ra, chỉ vì tham ăn, tục uống mà người Hà Nội

bây giờ mất hết cả tư cách.

Ăn uống ở Hà Nội, thực khách xả rác vô tư. Những

xương xẩu, giấy chùi tay, đàm rãi khạc nhổ đều dùng sàn

nhà, ngay dưới chân. Cười nói, đùa rỡn quang quác như ở

chỗ không người. Ra đường, muốn đi tiểu thì quay đi quay

lại, thấy vắng người là vạch quần … xả xú bắp.

Về cảnh quang, Hà Nội ngày nay, không còn là một

thành phố hiền hòa và sạch sẽ như hơn nửa thế kỷ trước.

Cho dù, Hà Nội đã có những tòa cao ốc chọc trời, những

sân golf trưởng giả, những khách sạn nguy nga, nhưng sự

phát triển của Hà Nội, là sự phát triển không đồng đều, và

thiếu kế hoạch. Khu giàu sang sát ngay bên khu nghèo khó,

giống như một cái áo cũ mang nhiều miếng vá khác nhau.

Hệ thống thoát nước không được phát triển song hành, nên

sau mỗi trận mưa lớn, là thành phố ngập lụt, gây trở ngại

giao thông. Cảnh sống tập thể của 5, 7 gia đình trong một

căn nhà, đã thường xuyên xảy ra xung đột, xô xát, gấu ó lẫn

nhau. Vì cảnh “cha chung không ai khóc”, nên không ai

quan tâm tới việc tu bổ hoặc bảo trì nhà cửa. Vôi tường tróc

lở, mái ngói rêu phong, cửa nẻo xộc xệch, quần áo phơi kín

ban-công. Ngoài phố xá, thương buôn ngồi la liệt chật kín

vỉa hè, xả rác vô tội vạ, bất chấp khách bộ hành. Trên trời,

đường dây điện chằng chịt như bát quái trận đồ. Dưới lòng

đường, xe cộ quá tải, bụi bậm mờ mịt, khói xe đầy trời, tạo

nên nạn ô nhiễm môi trường.

Người Hà Nội ngày nay, giàu nghèo cách biệt như

hai thái cực. Giai cấp giàu có tụ tập trong những khu sang

trọng, ở nhà cửa kiến trúc theo kiểu Âu Mỹ, có bảo vệ giữ

Page 284: TOÀN CẦU 2017

Trang 280 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

an ninh, có xe hơi sang trọng, có con cái ra ngoại quốc du

học và khi đau ốm, thì bay sang các nước tân tiến điều trị.

Giai cấp nghèo thì buôn gánh bán bưng, ăn bữa sáng lo bữa

tối, sống trong những căn nhà lụp xụp, bên đống rác. Sự

cách biệt vật chất, tạo nên tình trạng phân hóa trong xã hội.

Thương buôn ở Hà Nội ngày nay chỉ biết mánh

mung, lừa lọc, làm hàng giả, hàng nhái, pha trộn hóa chất

vào thực phẩm để trục lợi. Du sinh sang Nhật, móc nối với

tiếp viên hàng không, ăn cắp mỹ phẩm trong siêu thị, mang

về VN bán kiếm lời. Nữ sinh đánh lộn, xé quần áo, lột trần

nhau giữa chốn thanh thiên bạch nhật. Thanh niên giựt bóp,

cướp xe ngay giữa ban ngày …

Bảy mươi năm trời, vận nước oan khiên đã đưa Hà

Nội vào vòng tay sắt máu của chế độ CS, khiến Hà Nội bị

… phá sản cả về hình thức lẫn nội dung. Nền văn hóa của

Hà Nội hiện nay là loại “văn hóa chợ trời” do cuộc sống xô

bồ, chụp giựt. Các nam thanh nữ tú, cũng được thay thế

bằng các chị cán bộ cục mịch, dữ dằn và các anh thanh niên

vai u, thịt bắp, chửi thề như … pháo nổ.

Trở về thăm cố hương, những người Hà Nội năm

xưa, không khỏi ngậm ngùi, tiếc nuối cho một nền văn hóa

đã từng vang bóng một thời, và dư âm còn kéo dài cho tới

ngày nay. Và rồi đây, nếu chế độ CS còn tồn tại, thì nền

văn hóa “Hà Thành thanh lịch” năm nào, sẽ dần đi vào

quên lãng với thời gian./

Đoan Nghi

Chú thích:

[1] Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc, trang 37

Page 285: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 281

THƯƠNG NHỚ

SÀI GÒN

Hoàng Mạnh Hải, CVA 58

Tôi như nhiều người không sinh ra tại Sài Gòn

nhưng suốt học trình từ tiểu học lên đại học được sống với

thủ đô của miền Nam, mà qua tên gọi mỹ miều là “Hòn

Ngọc Viễn Đông”. Tôi suy tư về nguồn gốc các danh từ Sài

Gòn và Hòn Ngọc Viễn Đông.

Theo sự truy nguyên, Sài Gòn thuở ban đầu là đất

của người Khờ-me, là một làng đánh cá, có tên đầu tiên là

Prey Nokor mà Prey là thánh thần (dieu, god) và Nokor là

Page 286: TOÀN CẦU 2017

Trang 282 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

thành phố hay đô thị (la ville; town, city), mang ý nghĩa là

“thành phố thánh thần”.

Năm 1862, Việt Nam là thuộc địa của Pháp, người

Pháp đặt tên chính thức là Saigon. Lấy theo cách giải thích

vì sao người Pháp gọi là “Saigon” do theo âm ngữ của

người Tàu (Thầy Ngòn, Xi Coón) hay Miên ngữ “Prey

Nokor”.Từ đó Saigon được Việt hóa là SàiGòn. Vì là thuộc

địa của Pháp, thành phố được Pháp xây dựng rất tối tân,

mới lạ, được xem là bậc nhất của vùng Đông Nam Á vào

thời bấy giờ. Nên Pháp xem đó là Hòn Ngọc Viễn Đông (la

Perle de l’Extrême-Orient, the Pearl of the Far East) hay

theo sự ví von của người Pháp là Paris Phương Đông (Paris

de l’Orient, Paris in the Orient) để ám chỉ là một thành phố

giàu sang, lịch lãm của Pháp ở vùng Đông Nam Á.

Giả thuyết khác như theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê

Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674 Thống suất Nguyễn

Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá

vỡ “Lũy Sài Gòn” (theo Hán Nho viết là “Sài Côn”). Đây là

lần đầu tiên chữ “Sài Gòn” xuất hiện trong tài liệu Việt

Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán - “Côn” - được dùng

thế cho “Gòn”. Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh

Sài Gòn, không phải đợi đến năm 1778 khi người Tàu ở Cù

Lao Phố bị quân Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên

Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cống.

Dù sao thì Sài Gòn và Hòn Ngọc Viễn Đông vẫn là

một nơi quyến rũ, ấp ủ con tim bao thế hệ dù là gốc Âu hay

Á. Trước khi tôi rời Sài Gòn vì biến cố chính trị 1975,

những kỷ niệm lưu luyến với Sài Gòn hay Hòn Ngọc Viễn

Đông có nhiều lắm. Thời sinh viên thuở ấy sao mà đẹp đẽ

trong ngắn ngủi, thời gian trôi qua như cái chớp mắt mà

nay đã gần 4 thập niên ly hương, nhìn lại thấy mình không

còn trẻ của lứa tuổi hai mươi của Sài Gòn mộng mơ. Tòa

nhà Quốc Hội VNCH không còn nữa kỷ niệm đêm đêm tản

bộ hóng mát dọc theo bờ sông Sài Gòn, hướng mắt về mái

nhà lồng bên kia là Thủ Thiêm từ bến đò, bến bắc, gió thổi

Page 287: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 283

mát rượi từ mé sông, không còn nữa kỷ niệm Sài Gòn mưa

lãng mạn ta phải luồn lách những vũng nước không tên,

trong cái giá lạnh khi lượn xe gắn máy chạy trong cơn mưa

rào xối xả từ trời cao mà nước mưa bắn văng tung tóe.

Sài Gòn cũng đã chìm khuất vào dĩ vãng xa xôi, rồi

khi kỷ niệm trở về chỉ còn lại những nỗi nhớ đáng yêu bằng

nước mắt ấm đầy ắp những lưu luyến yêu thương trong tâm

tưởng, đôi lúc âm thầm trở về, cơ hồ như Sài Gòn đã sống

dậy mãnh liệt trong tiềm thức cũ, mãi mãi theo ta những

nhờ nhung không nguôi như bài ca:

“Sài gòn bây giờ trời mưa hay nắng?

Tà áo em bay theo giọt nắng vàng

Con đường ta đi giòng sông kỷ niệm

Nỗi nhớ trong em nỗi nhớ dịu dàng

Sài gòn bây giờ mưa giăng ngập lối

Hai đứa bên nhau âu yếm không rời

Đôi mắt yêu thương làn môi chờ đợi

Từng đợt mưa rơi... bối rối bồi hồi

Sài gòn bây giờ lòng ai vương vấn

Mai anh đi rồi còn nhớ em không?

Đôi mắt nai tơ buồn xa vời vợi

Page 288: TOÀN CẦU 2017

Trang 284 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Cơn gió vô tình đuổi lá vàng rơi

Sài gòn bây giờ có buồn không em?

Mưa vẫn rơi rơi.. từng giọt êm êm

Suối tóc thơm bay hương tình dịu nhẹ

Ngây ngất dạt dào con phố vê đêm”

(Sài Gòn Niềm Thương Nỗi Nhớ

Tác Giả: Võ Tá Hân, Trần Ngọc)

Sài Gòn gắn bó với tôi bắt đầu bằng những ngày thơ

ngây thành phố như một chốn phồn hoa đô hội, người ta có

thể bị choáng ngợp với một đô thị mang dáng vẻ tây

phương như người con gái kiều diễm, kiêu sa, đài các, rồi

cũng ở một góc nào đó Sài Gòn ủ dột của phố đêm lầy lội

của xóm nghèo, trong nét bình dân của tiếng rao hàng,

những con kinh nước đen,...

Nhiều người sống với Sài Gòn, dù mưa hay nắng,

ban ngày hay ban đêm, bận rộn tất bật hay nhàn rỗi rong

ruổi với phố xá của nó. Thưởng thức những món ngon mà

cả nhóm bạn tôi khoái khẩu nào là mì Cây Nhãn, mì Chú

Hỏa, mì La Cay Nguyễn Tri Phương, hủ tiếu gà cá Chợ Cũ,

Page 289: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 285

hủ tiếu saté Lệ Thanh Chợ Lớn. Lề đường Sàigòn xưa có

hàng me Nguyễn Du, có hàng sao cao vút khúc Võ Trường

Toản, Trưng Vương. Tôi nhớ rõ có những hàng phượng vĩ

và hoàng điệp trong sân trường Petrus Ký, Sài Gòn có

trường Gia Long với món bò bía, xe đậu xanh đậu đỏ; có

trường Luật Khoa trên đường Duy Tân với xe nước dừa

uống môi em ngọt; có trường Dược Khoa, Văn Khoa trên

đường Cường Để chạy thẳng xuống bờ sông Sài Gòn có

Bến Bạch Đằng,… Sài Gòn có những quán kem, quán cà-

fé, quán ăn vỉa hè,… Những sinh hoạt bình dị có quán cơm

Bà Cả Đọi, quán Bắc Bà Ba Bủn; để thưởng thức những

món Sài Gòn sự khoái khẩu với hệ quả Pavlov cồn cào dạ

dầy sau những buổi tan học ngày cũ bạn bè rủ nhau đi ăn

hàng Sài Gòn. Tôi nhớ con hẻm kín đáo Casino Sài Gòn

nào những bún chả, bánh cuốn Thanh Trì, bánh tôm Cổ

Ngư; những gánh hàng rong, những xe bán thức ăn của khu

Bàn Cờ, khu Nguyễn Thiện Thuật, Chợ Vườn Chuối, Chùa

Kỳ Viên, Chợ Đũi,... xen kẻ trong trí nhớ có nhiều lưu

niệm trong ký ức xưa, có những nhà hàng, những điểm hẹn

hò như: Passage Eden, Casino Sài Gòn, Mini Rex, La

Pagode, Pôle Nord, Givral, Brodard, khu thương xá Tax,...

Nhắc đến Sài Gòn có những nơi như Continental,

Caravelle, Majestic,…

Page 290: TOÀN CẦU 2017

Trang 286 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Thương nhớ làm sao kỷ niệm Sài Gòn có nước mía

Viễn Đông, có thịt phá lấu, có gỏi đu đủ gan cháy khô bò,

có bánh bột chiên, có món bánh cay gần khu Chùa Chà Và

mà nhà văn Thinh Quang nhắc tôi hôm nọ. Những thực

khách của những nhà hàng sang trọng theo cung cách kiểu

tây phương của Sài Gòn, nhưng rồi chính họ cũng là những

giới hâm mộ thường trực tại các quán cóc trên vỉa hè Sài

Gòn. Đó là những nét đặt thù của Sài Gòn, của người Sài

Gòn, hay thuật ngữ phương tây «Saigonais», hoặc

“Saigonese”.

Nhớ Sài Gòn, làm sao quên nỗi những góc phố,

những con đường của nơi ấy nhỉ? Năm 1865, Phó đô đốc

Pierre Paul Marie de la Grandière (1807 - 1876) đại diện

cho chính quyền Pháp tiến hành việc đặt tên cho 26 con

đường trên địa bàn của thành phố Sài Gòn mà trước đó chỉ

được đánh số thứ tự. Trải qua hơn 300 năm xây dựng và

phát triển, Sài Gòn đã có hơn 1.500 con đường lớn, nhỏ và

từ lâu các tên đường thay đổi do yếu tố chính trị. Thời Pháp

thuộc thì đường Tự Do xưa của ta là đường Catinat; rồi

Pháp đặt Charner ta cho tên đường Nguyễn Huệ, Pháp đặt

tên đường Mac Mahon ta là Công Lý; và đường Bonard là

Page 291: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 287

Lê Lợi; đường Mossard là đường Nguyễn Du; đường mang

tên Phó đô đốc HQ Pháp De La Grandlière ta thay bằng tên

vua ta đường Gia Long; đường Paul Blanchy tên ta là Hai

Bà Trưng, đường Mayer là tên vua ta đường Hiền Vương;

và đại lộ Boulevard de la Somme phe ta đặt tên vua, đại lộ

Hàm Nghi, nhà tôi ở đường mang tên tây D’Espagne tên ta

là vua Lê Thánh Tôn,...

Những khách sạn thời Pháp thuộc tọa lạc ngay trung

tâm Sài Gòn đã là nhân chứng cho bao năm binh biến, vật

đổi sao dời. Khách sạn Continental được các kiến trúc sư

nổi tiếng của Pháp thiết kế và xây dựng vào năm 1880 và

nay là khách sạn lâu đời nhất Việt Nam. Continental từng

đón tiếp nhiều nhân vật nổi tiếng như nhà thơ Nobel của

Ấn Độ là Rabindranath Tagore; văn hào Pháp André

Malraux là tác giả của La condition humaine (Thân phận

con người 1933), sau làm Bộ trưởng Văn hóa Pháp (1959-

1969); văn hào Anh Graham Greene (tác giả của sách best

seller “The Quiet American” - Người Mỹ Trầm Lặng); cựu

tổng thống Pháp Jacques Chirac, và nữ tài tử điện ảnh

Catherine Deneuve (thủ diễn trong các phim đoạt giải điện

ảnh Indochine, Le Dernier Métro, Belle de Jour),...

Page 292: TOÀN CẦU 2017

Trang 288 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Quán Givral, nhà sách Xuân Thu... phố xưa như nỗi

nhớ của người Sài Gòn, hồn của người Sài Gòn.

Chủ nhân đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau,

nhà sản xuất vật liệu xây dựng, sau bán lại cho Công tước

De Montpensier. Chủ sau là Mathieu Francini. Ngoài ra,

Continental còn có tên là «Radio Catinat», nơi mà giới báo

chí truyền thông tụ hội, trao dổi, thu nhặt tin tức thời sự

“nóng” nhất, sai có, đúng có.

Nhà hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành

lập năm 1925, nằm ở góc đường Catinat và Luro (sau là

Cường Để) nhìn ra bờ sông Sài Gòn, do một thương nhân

người Tàu giàu có và nổi tiếng nhất nhì Sài Gòn thời bấy

giờ là Hui Bon Hoa (tức chú Hỏa) xây dựng theo đồ án

thiết kế của một kiến trúc sư người Pháp. Suốt gần 90 năm

tuổi của mình, Majestic đã đón tiếp nhiều nhân vật quốc tế,

hay chính khách: Tổng thống Pháp Mitterrand, Thái tử

Nhật Akishino, Thủ tướng Lý Hiển Long của Singapore,

Thái tử Đan Mạch Henrick, Thái tử Anh Andrew, Công

chúa Thái Lan Maha Chakri Sring Dhorn ...

Các quán cà phê như La Pagode là nơi hội tụ của

giới thơ văn, báo chí Sài Gòn một thuở như tụ quán Caffe

Trieste nằm trên Vallejo Street (góc đường Grant) hướng

Page 293: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 289

bắc của phố San Francisco, chủ nhân là một người Ý di cư,

nhưng quán cà phê nảy là nơi mà giới tao nhân mặc khách,

những nghệ sĩ lui tới gặp gỡ nhau, nò là phòng hội của

những nhà văn Lawrence Ferlinghetti, Alan Watts, Jack

Kerouac, Allen Ginsberg, Richard Brautigan, Bob

Kaufman, Gregory Corso, Michael McClure, Kenneth

Rexroth, Neeli Cherkovski,... nhà thơ nổi tiếng Jack

Hirschman, nghệ sĩ Peter Le Blanc, Don Moses và nhiếp

ảnh gia giải Pulitzer là Joe Rosenthal, rồi những Jimo

Perini, Bill Cosby, Paul Kantner, Liam Mayclem, Joey

Reynolds và Mal Sharpe,... Trieste còn là nơi thi sĩ gốc Nga

giải Nobel văn chương Joseph Brodsky lui tới trau chuốt

thơ của mình. Còn nữa. Rồi ở góc phòng còn phảng phất

bóng dáng của nhà đạo diễn nổi danh Francis Ford Coppola

ngồi đọc và đánh bóng kịch bản phim “The Godfather”

những năm 70.

Paris có Café de Flore, ở ngay ngã Tư của

Boulevard Saint-Germain và đường St. Benoit, nơi gặp gỡ

ngày xưa của văn và triết gia như André Breton, Françoise

Sagan, André Malraux, Francois Mauriac, Jean-Paul Sartre,

Simone de Beauvoir, Albert Camus,... Cái chung của La

Pagode của Sài Gòn, Caffe Trieste của San Francisco hay

hay Café de Flore của Paris là những địa điểm tụ họp của

giới văn hoá nghệ thuật, những nơi có lịch sử của chính nó.

Page 294: TOÀN CẦU 2017

Trang 290 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

“Nắng SàiGòn anh đi mà chợt mát

Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng...”

Sàigòn có thơ Nguyên Sa, có nhạc Ngô Thụy Miên,

hỡi những ai đã từng đi dưới cơn nắng của Sài Gòn, bạn

còn nhớ chứ? Nhà thơ Vũ Uyên Giang cho bài thơ nhớ Sài

Gòn xưa, Sài Gòn nhớ nắng, nhớ mưa:

“Nhớ quá Sàigòn của thuở xưa

Ta từ Bưu Điện bước ngang qua

Nhà thờ Đức Mẹ nằm im lặng

Con phố Hàn Thuyên nắng nhạt nhòa…

Nhớ đến Sàigòn một thuở xưa

Buổi chiêu nhạt nắng lại rơi mưa

Gọi thầm khe khẽ tên ai đó

Đất khách trong lòng đang đổ mưa.”

Vũ Uyên Giang

Sài Gòn qua nỗi nhung nhớ của nhà văn Trần Mộng

Tú:

“Âm thanh của những tiếng động hàng ngày, như

tiếng chuông nhà thờ buổi sáng, tiếng xe rồ của một chiếc

xích lô máy, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng

chuông leng keng của người bán cà rem, tiếng gọi nhau ơi

ới trong những con hẻm, tiếng mua bán xôn xao khi đi qua

cửa chợ, vẻ im ắng thơ mộng của một con đường vắng sau

cơn mưa…”

Làm lên một Sài Gòn bềnh bồng trong nỗi nhớ. Sài

Gòn mỗi tháng, mỗi năm, dần dần đổi khác. Chúng tôi lớn

lên, đi qua thời kỳ tiểu học, vào trung học thì chiến tranh

bắt đầu thấp thoáng sau cánh cửa nhà trường. Đã có những

bạn trai thi rớt Tú Tài phải nhập ngũ. Những giọt nước mắt

đã rơi xuống sân trường. Sau đó, với ngày biểu tình, với

đêm giới nghiêm, với vòng kẽm gai, với hỏa châu vụt bay

Page 295: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 291

lên, vụt rơi xuống, tắt nhanh, như tương lai của cả một thế

hệ lớn lên giữa chiến tranh.

Sài Gòn như một người tình đầu đời, để cho ta bất

cứ ở tuổi nào, bất cứ đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra

như một vệt son còn chói đỏ. Sài Gòn như một mảnh trầm

còn nguyên vẹn hương thơm, như một vết thương trên ngực

chưa lành, đang chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống.

Sài Gòn khi đổi chủ chẳng khác nào như một bức

tranh bị lật ngược, muốn xem cứ phải cong người, uốn cổ

ngược với thân, nên không còn đoán ra được hình ảnh trung

thực nguyên thủy của bức tranh

Sài Gòn bây giờ trở lại, thấy mình trở thành một du

khách trên một xứ sở hoàn toàn lạ lẫm. Tôi thương Sài Gòn

và thương cho chính mình, đã hư hao một chốn để về.” Thi

sĩ Phạm Sĩ Trung nhớ Sài Gòn:

“Sài Gòn ơi Sài Gòn

Những con đường thân quen

Hàng cây cao bóng mát

Tình yêu thật êm đêm

Sài Gòn ơi Sài Gòn

Nơi tôi đã lớn lên

Nhớ thương buồn vời vợi

Suốt đời chẳng sao quên”

Ca sĩ Quỳnh Giao hát bài «Nhớ Sài Gòn», sáng tác

của Phạm Anh Dũng:

“Nhớ đến em nhiêu này Sài Gòn ơi

Xa xôi ngàn khơi đâu tà áo trắng

Duy Tân im lìm phố vắng

Thương cây lá hoang tàn

Người xây giấc mơ hồi hương.

Này Sài Gòn yêu thương

Hãy còn đây vấn vương

Nhớ bờ sông nước êm

Ghế đá chốn công viên...”

Page 296: TOÀN CẦU 2017

Trang 292 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Khi nghe bài «Em Sài Gòn», của hai nhạc sĩ

Nguyên Phan và Minh Tuấn, có thể thính giả đồng thuận là

Em Sài Gòn cũng mang ý nghĩa Sài Gòn có em, kỷ niệm

vơi đầy có em, hỡi em Sài Gòn:

“Em Sài Gòn, một thời để nhớ để yêu

Em Sài Gòn, một thời hoa bướm nên thơ

Em Gia Long, mắt buồn sầu vương màu áo

Em Trưng Vương, một chiêu áo trắng thơ ngây

Em Sài Gòn, bây giờ dạt trôi nơi đâu

Em Sài Gòn, bây giờ còn mãi cách xa

Hay nay em, đã bước qua cầu

Để lại sông xưa, giọt nắng phai mầu

Để lại sân trường, một thời xanh tuổi mộng mơ”

Sài Gòn có gì vui không em? Em Sài Gòn, anh nghe

thời gian đã qua đi. Trong cái dĩ vãng ấy, anh tìm thấy Sài

Gòn trong thi vị, Sài Gòn trong lãng mạn. Sài Gòn mùa hè

có tiếng ve kêu vang, đèo xe giữa mùa lá me bay khi nắng

hè chói chan hay lướt đi trong mưa có sự gần gủi của lời

tình tự Sài Gòn.

Nhớ Sài Gòn như một thoáng Sài Gòn tươi màu

nắng đẹp, một thoáng Sài Gòn hạt mưa rớt rơi, tựa như cô

Page 297: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 293

gái ngây thơ ngẩn ngơ trên phố mong chờ, tà áo phất phơ ru

ngàn tiếng tơ:

“Một thoáng Sài Gòn tươi màu nắng đẹp

Một thoáng Sài Gòn hạt mưa rớt rơi

Tựa như cô gái ngây thơ ngẩn ngơ trên phố

mong chờ

Tà áo phất phơ ru ngàn tiếng tơ

Đẹp lắm Sài Gòn em vê gió lộng

Tà áo nhạt hồng để ai ngóng trông

Thời gian trôi mãi xa xăm suốt bao năm tháng

âm thầm

Thành phố đổi thay trong màu mắt ai

Đèn màu thắm ánh sáng rực rỡ đẹp như đôi mắt

mong chờ

Những đêm rong chơi đường khuya mãi nên

quên đêm vê

Sài Gòn ơi đêm nghe còn đó ngàn xưa hôm nay

vẫn rộn ràng

Điệu đàn ngân vang trong gió vài nàng tiên nga

e ấp xuống trần gian mơ màng

Một thoáng Sài Gòn khung trời lắm mộng

Một thoáng Sài Gòn ngược xuôi phố đông

Người đi xa đã bao năm vẫn nghe thương nhớ

trong lòng

Thành phố thướt tha trong tà áo hoa”

Một Thoáng Sài Gòn: Nhắc lại kỷ niệm một thoáng

Sài Gòn, có lẽ nên nhắc thêm bài ca rộn ràng, vui tươi của

nhạc sĩ Văn Phụng là bài hát tôn vinh vẻ đẹp của Sài Gòn,

hay một Hòn Ngọc Viễn Đông:

“Người ơi Saigon chốn đây

Là Ngọc Viễn Đông

Vốn đã lừng danh

Nắng lên muôn chim đùa hót

Muôn hoa cười đón

Vinh quang ngày mới

Page 298: TOÀN CẦU 2017

Trang 294 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Cùng nhau đi tới Saigon

Là nơi du khách dập dồn

Từ năm châu tới viếng thăm Thủ Đô

Dòng sông chen chúc tàu đò

Ngựa xe buôn bán hẹn hò

Người dân no ấm sống đời tự do.”

Vẻ đẹp của Sài Gòn khi mường tượng lại Sài Gòn

xưa, hay của một thoáng Sài Gòn, xin hãy lắng nghe bài ca

của nhạc sĩ Y Vân, mà nhiều người không quên các câu:

“Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi!”

Dừng chân trên bến khi chiêu nắng chưa phai,

Từ xa thấp thoáng muôn tà áo tung bay

Nếp sống vui tươi nối chân nhau đến nơi này

Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi !

Ngựa xe như nước trên đường vẫn qua mau

Người ra thăm bến câu chào nói lao xao

Phố xá thênh thang đón chân tôi đến chung vui

Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi !

Lá la la lá la, Lá la la lá la....

Saigon đẹp lắm, Saigon ơi ! Saigon ơi!”.

Hoàng Mạnh Hải

Page 299: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 295

Bắc và Nam

Trần Mộng Lâm, CVA 60

Bác sĩ Trân Mộng Lâm

Lời giới thiệu: Anh Trần Mộng Lâm sanh quán tại Nam

Định, Bắc Phần. Di cư vào Nam năm 1954. Anh là cựu học

sinh các trường trung học Nguyễn Trãi và Chu Văn An

(1957-1960). Anh nhập ngũ năm 1967 và phục vụ tại Quân

Y Viện Phan Thanh Giản Cần Thơ cho đến năm 1975. Sau

năm ngày 30/4/1975, anh bị Việt cộng bắt đi tù cải tạo từ

năm 1975 đến năm 1977. Vượt biên năm 1978, được chính

phủ Canada nhận với tư cách tỵ nạn chính trị năm 1978 và

sống tại Montréal Canada từ đó tới nay. Anh là người

chống Hán-Cộng và liên tục đấu tranh cho Tự Do, Dân

Chủ và toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. Anh nhất quyết

không vê Việt Nam nếu còn Cộng Sản.

Page 300: TOÀN CẦU 2017

Trang 296 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Cách đây vài năm, tôi tiếp tại văn phòng một khách

hàng Á châu. Cô ta khoảng chừng 20 tuổi, dáng người nhỏ

nhắn, dễ thương, có vẻ ngoan. Sau khi công việc chuyên

môn xong, tôi hỏi cô gốc gác ra sao, cô ta là người nước

nào. Cô xác nhận với tôi là cô đến từ Việt Nam. Tôi lại hỏi

cô ở thành phố nào, cô nói thành phố Hồ Chí Minh. Lúc đó

chúng tôi nói tiếng Pháp với nhau, vì đó là ngôn ngữ tôi xử

dụng hàng ngày trong công việc. Khi nghe tới tên Hồ Chí

Minh, tôi nổi giận, và tôi nói với cô : C’est un assassin,

c’est un bourreau (đó là một tên sát nhân, một tên đao thủ).

Tôi nhớ rõ cuộc đối thoại này, vì cho tới ngày hôm nay, tôi

không quên được ánh mắt của cô bé, nhìn tôi nẩy lửa.

Cô bé đó không trở lại gặp tôi một lần nào. Tôi biết

là tôi đã gây cho cô một cú sốc nặng, và tôi cũng biết rằng

vì lớn lên trong sự giáo dục sau 1975, dưới mắt cô bé,

HCM là một thần tượng, một anh hùng dân tộc.

Câu chuyện ngày hôm đó khiến tôi ý thức được một

điều, là giữa những người như tôi, trưởng thành tại Miền

Nam trước 1975, và những người như cô bé đó và thế hệ

của cô, tuy cũng sống tại Miền Nam, là một khoảng cách

quá xa, không dễ gì thông cảm được với nhau.

Thành phố tôi ở có nhiều người Việt Nam, nhưng

không phải người Việt nào cũng giống nhau. Người tỵ nạn

gốc Việt Nam Công Hòa như tôi, thì dù họ nói tiếng Bắc,

tiếng Trung, hay tiếng Nam, chúng tôi thông cảm dễ dàng.

Tuy nhiên có một số người Việt, cũng mang danh tỵ nạn

chánh trị, nhưng đến từ Miền Bắc, thì họ cũng vẫn lễ phép

khi đến gặp tôi, nhưng tuy gần, mà vẫn cách xa thế nào đó.

Khi nói tới chánh phủ Hà Nội, những người lớn tuổi gọi là :

ông Chánh Phủ, khi nói tới những sự kiện xẩy ra tại Hà

Nội, họ luôn mồm mình thế này, mình thế kia. Mình đây là

chánh quyền Cộng Sản, vì đối với họ, Cộng Sản đồng nghĩa

với tổ quốc. Tôi biết rằng họ bị sinh tử phù Cộng Sản quá

nặng, không dễ gì thay đổi dược. Người ta hay nói người

Miền Bắc hay ăn nói thô tục, hay chưởi đ.m, nhưng có lẽ là

Page 301: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 297

dân ngoài đường phố thôi, còn những người tôi gặp, thì khi

họ nói với tôi, cũng lễ phép, hay xưng em, nhỏ nhẹ thôi.

Tôi cũng có nghe họ nói với nhau, khi đó thì khác hẳn, vẫn

chính phủ mình thế này, chính phủ mình thế nọ, và nếu có

văng tục, thì cũng giữa họ với nhau thôi. Tôi có sao nói

vậy, và không thích nói tới họ một cách khinh miệt, theo

kiểu 3 thằng việt cộng không đủ để làm rớt một cọng đu đủ.

Vốn sống của tôi từ khi sanh ra tại Miền Bắc,

trưởng thành tại Miền Nam, phục vụ trong quân đội

VNCH, đi tù cải tạo, rồi hành nghề tại Montréal trên 30

năm, tiếp xúc với đủ mọi giới người Việt, cho tôi một kết

luận rất rõ ràng là Bắc và Nam là 2 nên văn hóa khác nhau,

không đến nỗi một trời một vực, nhưng không thể nào

giống nhau.

Sự kiện khác nhau của 2 miền Nam Bắc cộng thêm

với việc hiện nay tôi sống tại tiểu bang Québec nằm trong

liên bang Canada ảnh hưởng rất nhiều đến sự suy nghĩ của

tôi. Đối với Canada, thì Québec là một xã hội khác biệt,

une société distincte. Việc này được Canada công nhận,

Québec dùng tiếng Pháp trong khi các tiểu bang khác dùng

tiếng Anh, Chính Phủ Québec có khi là Tự Do trong khi

chánh quyền trung ương là Bảo Thủ hay ngược lại. Người

Quebec có quyền định đoạt số phận mình, ngay cả việc ở

lại hay tách rời khỏi Canada (đến nay đã có nhiều cuộc

trưng cầu dân ý).

Trong khi đó, tại Việt Nam, tình hình khác xa. Miền

Nam sau 1975 bị áp đặt chế độ CS. Vì mặc cảm thua trận,

cả Miền Nam ngậm miệng như hến. Hiện nay, với chánh

sách di dân từ Miền Bắc vào Miền Nam, và sự nhồi sọ của

giáo dục, văn hoá Miền Nam có cơ nguy biến mất. Còn đâu

một nền văn hóa sông nước mà chúng ta đã thấm nhuần.

Miền Bắc và Miền Nam là 2 xã hội khác nhau,

cùng lắm có thể ở trong cùng một quốc gia, nhưng phải

Page 302: TOÀN CẦU 2017

Trang 298 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

là 2 thể chế. Hãy để người Miền Nam có cơ hội định

đoạt số phận của họ bằng một cuộc trưng cầu dân ý.

Đó là lý do tại sao tôi đã viết những bài khiến tôi bị

cho là mất gốc, là quên cội nguồn dân tộc, quên tổ tiên.

Cội nguồn dân tộc, các nhiễm thể, ADN là gì ??

Nhiều khi những người cùng ADN với mình chính là

những người hành hạ mình hơn ai hết, mà việc này thì dân

Á Châu số một.

Hãy nhìn xem bên Triều Tiên. Kim Jong Un và Kim

Jong Nam không phải cùng một ông cha hay sao ?? Vậy mà

ai giết Kim Jong Nam ??

Cùng ADN nhưng cái kiểu này thà khác còn hơn.

Nghĩ tới nguồn gốc nhưng hoà hợp hòa giải với

người CS Miền Bắc, thì ngày Việt Nam trở thành một tỉnh

của Trung Cộng không xa, vì mua chuộc bằng tiền bạc, sắc

đẹp, thì việc ấy ai bằng các chú ba ?? Có vàng trong tay thì

nguồn gốc, cội nguồn là cái quái gì.

Trần Mộng Lâm

Page 303: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 299

CẢM TẠ MIỀN NAM

Ngô Quốc Sĩ, CVA60

Phan Huy, chàng “bộ đội Cụ Hồ” trước đây đã phổ

biến bài thơ “Tôi Bỏ Đảng” làm nhiều người nức lòng đến

nghẹn ngào cảm mến. Hôm nay, Phan Huy lại cho độc giả

5 châu thưởng thức bài thơ “Cảm Tạ Miền Nam” để tiếp

tục bày tỏ nỗi niềm nuối tiếc và thống hối của một người đã

đem tuổi trẻ dâng hiến cho chế độ cộng sản, nay thức tỉnh,

biết mình bị lừa và quyết đứng lên tranh đấu cho công lý,

sự thật và tự do dân chủ của dân Việt.

Mở đầu bài thơ, Phan Huy đã thổ lộ nỗi lòng thầm

kín, anh đã ấp ủ từ lâu, nghĩa là từ ngày anh cầm súng theo

đoàn quân Bắc Việt vào xâm lăng miền Nam. Có lẽ khi vào

tới miền Nam năm 1975, anh đã thức tỉnh ngay và biết

mình bị lừa, nhưng anh chưa dám mở miệng nói lên sự thực

của lòng mình. Anh cảm thấy có lỗi về sự im lặng kéo dài

đó mãi tận hôm nay:

Đã từ lâu, tôi có điêu muốn nói

Với Miên Nam, miên đất mới thân quen

Một lời cảm ơn tha thiết chân tình

Của Miên Bắc, xứ ngàn năm văn vật.

Nhưng rồi năm tháng trôi qua, nỗi ray rứt trước hiện

thực càng ngày càng bi đát do cộng sản tạo nên cho dân tộc

Việt Nam, đã thúc đẩy anh phải mạnh dạn lên tiếng. Anh đã

không thể chối bỏ sự thật về miền Nam đã bị tuyên truyền

cộng sản xuyên tạc bóp méo. Đó là sự thực thần tiên của

ấm no hạnh phúc đã bị bọn người tự mệnh danh là “đoàn

quân giải phóng” cướp mất:

Tôi còn nhớ sau cái ngày "thống nhất"

Page 304: TOÀN CẦU 2017

Trang 300 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Tôi đã vào một xứ sở thần tiên

Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiên

Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.

Phan Huy nhớ lại ngay từ lúc đặt chân vào miền

Nam, anh đã từng ngạc nhiên, thán phục trước hiện thực

miền Nam sinh động, trù phú và tự do dân chủ, hoàn toàn

trái ngược với tuyên truyền láo khoét của Đảng và Nhà

Nước:

Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục

Mở mắt to nhìn nửa nước anh em

Mà đảng bảo là bị lũ ngụy quyên

Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.

Từ ngạc nhiên, Phan Huy đã không cầm nổi nước

mắt nhìn cánh cửa tự do khép lại do bạo lực dối trá của kẻ

xâm lăng mệnh danh là giải phóng. Anh đã khóc, khóc thật

lớn, khóc vì giận đảng cộng sản nhẫn tâm lừa dối đồng bào,

lừa dối thế giới. Mà anh cũng khóc cho sự mất mát lớn lao

của dân tộc. Và hơn hết, anh đã khóc cho chính mình, một

thời ngây thơ tin vào tuyên truyền cộng sản phản bội dân

tộc. Hẳn đó là những dòng nước mắt sám hối cay nồng:

Trước mắt tôi, một Miên Nam sinh động

Đất nước con người dân chủ tự do

Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô

Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.

Khóc rồi giận. Những dòng nước mắt căm hờn đó

đã chảy thành lời trần tình, phơi bày bộ mặt thật ác độc của

cộng sản sau những huyền thoại và chiêu bài lừa phỉnh.

Cộng sản đã áp dụng chính sách tẩy não, nhồi sọ, bịt mắt,

biến con người thành những con vẹt, không những cán bộ

đảng viên, mà đa số người truyền thông, cũng là những con

vẹt nói theo đảng, nói cho đảng và nói cho mình để đổi lấy

đặc quyền đặc lợi:

Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt

Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng "kính yêu"

Page 305: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 301

Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiêu

Con người nói năng như là chim vẹt.

Những con vẹt đó mở miệng ra là ca tụng đảng, ca

tụng chế độ. Trước kia, Hữu Loan đã gọi bọn họ là lũ nịnh

bợ “ngậm vòi đu đủ, trợn mắt phùng mang, thổi vào rốn

cấp trên” thì hôm nay, 60 mươi năm sau, Phan Huy cũng

mạnh dạn lột mặt nạ bọn nịnh hót bỉ ổi này:

Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng

Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh

Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lê-nin

Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản.”

Điểm đáng nói là càng nịnh bợ, thì càng trơ trẽn lố

bịch, bởi lẽ thực tế hoàn toàn trái ngược với những gỉ bọn

nịnh bợ nói ra, viết ra. Tiêu biểu là chế độ ưu việt đã bắt

người cày thay trâu, coi con người như cỏ rác. Nếu cô giáo

Lam đã lên án cộng sản coi mạng sống con người thua cả

“cái móng tay”, thì Phan Huy cũng lên án cộng sản coi con

người như bèo dâu, như trâu ngựa, khi nhân quyền đang trở

thành giá trị phổ quát, khi nhân loại đã bước vào thời đại

văn minh kỹ thuật tân tiến, làm chủ thiên nhiên, chinh phục

không gian:

Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng

Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu

Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu

Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.

Càng căm hờn chế độ bạo cuờng phỉnh gạt, đày đọa

dân tộc, anh chàng ‘bộ đội cụ Hồ’ lại càng tỏ ra biết ơn

miền Nam. Nào là miền Nam đã mở mắt anh, giúp anh nhìn

thấy ánh sáng văn minh, tự do dân chủ. Nào là miền Nam

đưa anh về vời cội nguồn dân tộc:

Cảm tạ Miên Nam phá màn u tối

Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh

Biết được nhân quyên, tự do dân chủ

Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.

Page 306: TOÀN CẦU 2017

Trang 302 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Cảm tạ Miên Nam khai đường chỉ lối

Đưa tôi trở vê tổ quốc thiêng liêng

Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên

Chớ không là Các Mác và Lê nin ngoại tộc.

Miền Nam còn giúp anh mở rộng tầm nhìn, nhận

thức nền văn minh khoa học tiến bộ của 5 châu, thay vì bịt

mắt bưng tai vỗ ngực tự hào là “đỉnh cao trí tuệ loài

người”

Cảm tạ Miên nam mở lòng khai sáng

Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu

Mà trước đây tôi có biết gì đâu

Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ

Nhất là miền Nam đã cho anh một ân huệ. Đó là

cuộc chiến đấu can trường của quân dân miền Nam trong

công cuộc bảo vệ tự do dân chủ, chống lại kẻ thù xâm lăng

từ phương Bắc, trong đó có anh!

Cảm tạ Miên Nam đã một thời làm chiến sĩ

Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng

Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ

Dù không thành công cũng đã thành nhân.

Biết nói gì hơn? Mà có nói thêm cũng bằng thừa, vì

Phan Huy đã nói quá đủ! Chính nghĩa miền Nam đã bị cộng

sản miền Bắc bắn nát. Tự do dân chủ miền Nam đã bị “con

cháu Bác” giết chết. Hạnh phúc dân miền Nam đã bị cộng

sản Hà Nội cướp mất! Tội về ai? Công về ai? Tất cả đã đã

qúa rõ như ban ngày! Chỉ còn mong có thêm nhiều Phan

Huy, nhiều Nguyễn Đình Cống, nhiều Kim Chi và Bùi

Minh Quốc, thì dân Việt được nhờ biết mấy!

Ngô Quốc Sĩ, CVA60

Page 307: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 303

Tôi theo phái đoàn

Trung Tâm Quốc Gia

Kỹ Thuật Phú Thọ

Ủy Lạo Chiến Sĩ

Quần Đảo Trường Sa

Nguyễn Đức Thịnh

CVA 61-62

Dẫn nhập: Ngày 12 tháng 7 năm 2016 Tòa án Trọng Tài

Thường Trực quốc tế (Permanent Court of Arbitration) trụ

sở tại The Hague, Hòa Lan đã phán quyết là Đường 9

Đoạn Lưỡi Bò mà Trung Cộng vẽ ra để dành độc quyên sở

hữu Biển Đông là không có căn bản pháp lý. Phán quyết

này quốc tế hóa tranh chấp tại Biển Đông và có lợi cho các

nước nhỏ quanh vùng. Với viễn tượng lạc quan, tôi xin kể

chuyến đi ủy lạo chiến sĩ tại Trường Sa năm 1974 của phái

đoàn giáo sư và sinh viên Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật

Phú Thọ, một chuyến ủy lạo chiến sĩ ngoài biên đảo của

một cơ quan dân sự, tôi nghĩ, có một không hai dưới thời

Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Sau khi Trung Cộng tấn công và chiếm đóng quần

đảo Hoàng Sa của VNCH vào tháng giêng năm 1974,

VNCH đã tăng quân tại các đảo đang trấn giữ ở Trường Sa

để ngăn chặn Trung Cộng tấn công và chiếm đóng. Trung

Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ (TTQGKTPT) đã nhờ

Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (HQ) cung cấp phương tiện

di chuyển để đến ủy lạo chiến sĩ trấn đóng tại một số đảo

Page 308: TOÀN CẦU 2017

Trang 304 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

này. Chuyến đi đã xẩy ra trên 40 năm, nhưng có nhiều chi

tiết tôi còn nhớ rất rõ; ngược lại một số chi tiết khác thì tôi

“nhớ gì kể nấy”.

Ngày khởi hành đã bị dời lại đến mấy lần làm tôi rất

nóng ruột và đôi khi đã nghĩ là có lẽ chuyến đi sẽ không

tiến hành được. Có nhiều người ghi danh đã bỏ cuộc. Nay

nghĩ lại tôi thấy ngày khởi hành bị dời lại nhiều lần mới

hợp lý. Vì HQ khó mà cử riêng một tầu chiến dành riêng

cho chuyến đi cho chúng tôi và có lẽ phải kết hợp với

chuyến đi tiếp tế lương thực, bổ xung vũ khí hay tuần tra

các đảo của HQ. Ngoài ra còn phải chắc là Trung Cộng

không hung hăng thừa thắng xông lên trở lại tấn công

Trường Sa, có thể gây nguy hại đến sinh mạng của các giáo

sư và sinh viên viếng thăm; hay là biển Đông không có bão

lớn trong những ngày đó, sợ dân sự không quen chịu phong

ba bão táp ngoài khơi.

Nhưng rồi ngày khởi hành cũng đến. Phái đoàn

chúng tôi gồm khoảng chừng 20 người. Anh Trần Minh

Giám đại diện Trung Tâm, anh Trần Kiêm Cảnh, Công

Nghệ và tôi Công Chánh cùng khoảng 20 nam sinh viên hai

trường Công Chánh và Công Nghệ lên Tầu Khu Trục Hạm

Trần Hưng Đạo HQ1 vào một buổi sáng đẹp trời tại bến

Bạch Đằng. Chúng tôi được phân chia ngay chỗ ngủ. Các sĩ

quan trên tầu đã mau mắn nhường cabin của họ cho 3 nhà

Page 309: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 305

giáo chúng tôi, còn các sinh viên thì ngủ trong khu dành

cho hạ sĩ quan và binh sĩ phía dưới.

Ông Hạm Trưởng ân cần tiếp phái đoàn và nói

chuyện riêng với chúng tôi. Ông này rất trẻ, vào khoảng

tuổi chúng tôi (30-35), đã được huấn luyện tại Hoa Kỳ. Vì

cùng lứa tuổi, chúng tôi thân mật xưng “Anh-Tôi” và bỏ

xưng hô “Ông Hạm Trưởng-Ông Giáo Sư” khách sáo lúc

ban đầu.

Ông Hạm Phó là người đứng tuổi, tôi nghĩ phải

ngoài 50. Ông lúc nào cũng bận rộn đôn đốc mọi chuyện

trong bộ đồ HQ đã bạc màu. Tôi thấy sự tương phản với

các quân phục trắng toát, ủi phẳng phiu thấy trên màn ảnh

xi nê của những hải quân khác. Cả thủy thủ đoàn bận rộn

chuẩn bị nhổ neo cho tầu rời cảng.

“Đường Ra Cửa Biển” trên sông Saigon rất êm.

Chúng tôi lợi dụng lên boong ngắm cảnh. Sông bát ngát và

phong cảnh rất đẹp.

Đến giờ cơm trưa, anh Hạm Trưởng thân mật mời 3

chúng tôi dùng bữa với anh. Và chúng tôi đều đều dùng

bữa với anh trong suốt thời gian ở trên tầu. Một điểm đáng

ghi nhớ là anh luôn luôn đem đồ ăn “Chị Hạm Trưởng” đã

sắp săn cho anh dùng khi đi hải hành để cùng ăn (share) với

Page 310: TOÀN CẦU 2017

Trang 306 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

chúng tôi, bổ xung thêm khẩu phần vốn dĩ không được hậu

hĩ của quân đội.Chúng tôi rất cảm động về tấm thịnh tình

này của anh Hạm Trưởng, và rất e dè liệu cơm gắp mắm.

Có hôm thủy thủ đoàn đánh được cá thì chúng tôi

có bữa cháo“hải sản tươi” rất ngon!

Đêm đến, khi “thuyên đã ra khơi”, thì một cơn bão

ập đến. Ngủ trong cabin, tôi chỉ thấy người lắc lư một chút,

nhưng những tiếng rên cứ vọng lên từ phía dưới mỗi khi

tầu lắc qua một bên! Tôi nghĩ rằng các anh em sinh viên

sức người còn trẻ thì sẽ không có vấn đề gì. Thành thử tôi

cũng không có can đảm lần mò xuống hầm tầu thăm các

anh em sinh viên.

Hôm sau, “trời lại sáng”. Chúng tôi lên boong

ngắm cảnh mây nước bao la. Anh bác sĩ quân y Trần Văn

Nam cất tiếng hát:

Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt

Chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất

Và tiếng hát, và nước mắt … [1]

Rồi chúng tôi cũng tới được đảo đầu tiên; cũng là

đảo lớn nhất trong chuyến ủy lạo này. Tôi không nhớ tên

đảo, rất có thể là đảo Trường Sa Lớn, thị xã của huyện

Trường Sa. Anh Hạm Trưởng cho HQ1 neo ở chỗ nước sâu

và mọi người sẽ dùng ca nô vào bờ. Anh nói bản đồ đáy

biển đang dùng rất cũ (outdated), vẽ từ thời Pháp nên anh

phải cẩn thận, neo thật xa cho chắc ăn, phiền các anh di

chuyển bằng ca nô lâu một chút!

Sĩ quan chỉ huy trưởng đảo còn rất trẻ, cấp bậc

Trung Úy thì phải. Các binh sĩ cho anh nickname là “Chúa

Đảo”. Trung úy Chúa Đảo tập họp binh sĩ biên phòng, quân

phục chỉnh tề để tiếp phái đoàn sinh viên giáo chức Trung

Tâm, đã không quản ngại biển xa đến thăm. Sau diễn văn

chào mừng của chủ và đáp lễ của khách, các sinh viên khệ

Page 311: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 307

nệ bưng ra quà ủy lạo, phần lớn là đồ hộp, để tặng các anh

chiến sĩ biên đảo.

Đảo này khá lớn, nhưng binh sĩ chỉ có rau sam là

rau tươi. Và tôi thấy mấy con chuột. Chú nào chú nấy mập

mạp chạy rất nhanh.

Rồi chúng tôi ra “thăm biển”. Đảo là san hô bồi.

Nước trên thềm san hô khá nông, chỉ tới bụng tôi (nghĩa là

rất nông!). Nước rất trong, dù không có kính lặn (goggles)

mà tôi vẫn thấy đủ các hải sản muôn màu sặc sỡ. Các con

hải sâm mầu sám, đường kính to gần bằng gang tay trườn

mình trên đá san hô. Các con sao biển khá to di chuyển gần

đáy. Các con cá nước mặn màu sắc sặc sỡ, to nhỏ đủ loại

tung tăng bơi giữa các cây san hô. Đây cũng là lần đầu tiên

tôi thấy san hô “live” dưới biển. Các con sò đủ loại, sò sà

cừ (abalone), sò, hến to nhỏ vv... Có anh binh sĩ cho tôi hay

là “ông thầy” phải cẩn thận tránh sò khổng lồ to gần một

thước tây. Thường thì há miệng đón đồ ăn. Nhưng ai mà

đút chân vào thì lập tức nó sập miệng lại. Chỉ có nước cưa

chân thôi! Tôi tò mò lần bước ra đến bờ của thềm san hô

xem nó “ra nàm thao”. Bờ thềm san hô thẳng đứng vì nước

biển đổi từ mầu xanh lơ sang xanh thẫm gần như đen rất

đột ngột. Sợ có con bạch tuộc khổng lồ dưới biển sâu bất

thần trồi lên mặt nước, dùng các cánh tay dài ngoằng cuốn

người kéo xuống (như coi trong xi nê), tôi không khỏi rùng

mình, vội quay lại.

Tôi còn nhớ từ thời tiểu học, đã học nước ta “giang

sơn gấm vóc, rừng vàng biển bạc”. Rừng vàng thì tôi chưa

được nhìn tận mắt, nhưng “biển bạc” là đây!

Rồi mọi người được bảo lên bờ vì tới giờ đánh cá.

Một vài binh sĩ tháo chốt lựu đạn và thẩy xuống nước. Sau

tiếng “ùm” vang động thì cá nổi lên. Chiều nay chúng tôi sẽ

có cá ăn. Có anh binh sĩ tặng tôi một chuỗi vòng đeo cổ với

các vỏ ốc nhỏ đủ mầu sắc rất đẹp mắt và mấy vỏ ốc sà cừ,

ốc khác rất đẹp mà tôi không biết tên.

Page 312: TOÀN CẦU 2017

Trang 308 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

Buổi cơm chiều với các binh sĩ thật là vui. Họ biến

chế gạo sấy thành xôi, và nhiều thứ khác. Họ cười đùa rất

vui vẻ, hồn nhiên với cả phái đoàn. Tôi không thấy gì

chứng tỏ họ lo buồn về tình hình căng thẳng tại Biển Đông

lúc bấy giờ; họ cũng không tỏ ra buồn cho số phận phải ra

hải đảo, xa gia đình gì cả. Có lẽ nhiệm vụ ở đảo của họ có

tính cách định kỳ: Sau một thời gian thì toán khác ra thay

thế cho toán này lên bờ, chứ không phải đi “công tác đảo”

là coi như biết tối mật quốc gia và không biết ngày về.

Chúng tôi không ngủ đêm ở đảo nào. Xế chiều,

chúng tôi lên ca nô ra HQ1 ngủ trong khi tầu di chuyển đến

đảo khác.

Đảo thứ hai đến thăm rất nhỏ, chỉ bằng một cái sân

đá banh! Làm gì có chuyện:

Page 313: TOÀN CẦU 2017

Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017 Trang 309

Ao sâu nước cả khôn chài cá

Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà [2]

Nhưng Thiếu Úy Chúa Đảo cũng làm đủ lễ nghi

quân cách. Dưới ánh nắng chói chang của bầu trời xanh

biếc, trên một mảnh đất (hay san hô?) rộng bằng một sân đá

banh, bao quanh bởi biển rộng bao la, đứng trước toán binh

sĩ dàn chào, Chúa Đảo chào mừng đoàn khách hiếm hoi!

Khách đáp lễ biết ơn các chiến sĩ đóng chốt tại tiền đồn trên

một mảnh đất nhỏ bé để giữ nước. Sau khi tặng quà, khách

lại ra đi. Chúng tôi được cho biết có nhiều đảo còn nhỏ

hơn, có khi bị ngập hoàn toàn khi triều lên.

Đảo thứ ba, đảo cuối cùng tới thăm, thì vào khoảng

“bậc trung”. To hơn sân đá banh nhiều. Đặc biệt ở đây có

rất nhiều trứng rùa (và cả rùa là nguồn thịt tươi). Điểm đặc

biệt khác là đêm đến, chim tới “nghỉ đêm” hàng đàn. Đến

sáng lại bay đi. Nếu dùng súng bắn chim, thì tiếng súng sẽ

làm chim sợ và chúng không trở lại nữa. Do đó Chúa Đảo

này cấm bắn chim và chỉ giăng lưới. Chim nào mắc lưới

không bay theo đàn được thì bị bắt, còn đàn chim thì không

hề hay biết gì về thiếu “quân số” cả.

Chắc là có chuyện gì gấp nên HQ1 không đưa

chúng tôi về Saigon như đã định và chúng tôi được đưa về

Vũng Tầu. Từ đó có xe của cơ quan (Hải Quân, Ty Công

Chánh, Trung Tâm?) đưa chúng tôi về Saigon, vì tôi không

nhớ phải mua vé xe đò. Tôi chỉ nhớ khi tới Vũng Tầu, thấy

đủ nam phụ lão ấu qua lại, tôi mới chợt nhận ra là đã hơn

một tuần nay, tôi sống trong một thế giới toàn đàn ông,

tuyệt nhiên không có bóng dáng một người đàn bà nào cả!

Tất cả chúng tôi về đến Saigon an toàn.

Anh Giám, anh Cảnh và tôi đồng ý tổ chức một bữa

ăn ở nhà hàng với thân hữu và gia đình để hàn huyên về

chuyến đi để đời này. Và nhất là mời anh chị Hạm Trưởng,

người thì đã “share home made food”; người thì đã “made

home food” cho chúng tôi. Tôi lãnh nhiệm vụ đi mời anh

Page 314: TOÀN CẦU 2017

Trang 310 Đặc San Chu Văn An Toàn Cầu 2017

chị Hạm Trưởng nhà ở Phú Nhuận. Tiếc thay, chị Hạm

Trưởng cho hay anh đang đi hải hành.

Sau hơn một tuần, tôi đã xa rời thế giới của riêng tôi

và đã được gặp rất nhiều người có cuộc sống khác hẳn. Anh

Hạm Trưởng, ông Hạm Phó, các sĩ quan hải quân và Chúa

Đảo, các thủy thủ, và binh sĩ trấn đồn; tất cả mọi người đối

sử với chúng tôi rất lịch sự, rất tình cảm, cởi mở và chân

tình, thấy được trong một xã hội văn minh và nhân bản.

Thế mà chỉ hơn một năm sau, vật đổi sao dời, mỗi người

một ngả.

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ? [3]

Nguyễn Đức Thịnh

Chú thích:

[1] “Nửa Hồn Thương Đau”, Nhạc Phạm Đình Chương,

Thơ Thanh Tâm Tuyền

[2] “Bạn Đến Chơi Nhà”, Nguyễn Khuyến

[3] “Ông Đồ”, Vũ Đình Liên