Upload
others
View
8
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
NĂM 2017
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2017 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới
tiếp tục đà phục hồi1, các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên
minh Châu Âu đạt mức tăng trưởng khả quan. Hoạt động đầu tư, thương mại
toàn cầu có xu hướng cải thiện rõ rệt cùng với niềm tin của người tiêu dùng tăng
lên là các yếu tố tác động tích cực đến sản xuất trong nước. Tuy nhiên, xu hướng
gia tăng của chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ sản xuất, bảo hộ mậu dịch
cùng những thay đổi về địa chính trị, chính sách thương mại của một số nước
lớn đang là những thách thức đối với kinh tế nước ta. Ở trong nước, bên cạnh
các vấn đề tồn tại của nền kinh tế như chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động và sức cạnh tranh thấp, sự sụt giảm của ngành khai khoáng, cùng với giá
thịt lợn giảm mạnh, thiên tai, bão, lũ liên tiếp xảy ra tác động tiêu cực tới sản
xuất nông nghiệp và thách thức mục tiêu tăng trưởng năm 2017 của cả nước.
Trước tình hình đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã lãnh đạo, chỉ đạo
quyết liệt các bộ, ngành và địa phương tập trung thực hiện đồng bộ, có hiệu quả
Nghị quyết số 01/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều
hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà
nước năm 2017; kiên định mục tiêu tăng trưởng đề ra, ban hành kịp thời các
Nghị quyết, Chỉ thị nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy sản xuất;
thường xuyên đôn đốc, kiểm tra kết quả thực hiện, theo dõi sát diễn biến tình
hình quốc tế, có đối sách, biện pháp chỉ đạo phù hợp, kịp thời. Nhờ đó, tình hình
kinh tế - xã hội năm 2017 tiếp tục chuyển biến tích cực và rõ nét. Kết quả các
ngành, lĩnh vực trong năm 2017 như sau:
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2017 ước tính tăng 6,81% so với
năm 2016, trong đó quý I tăng 5,15%; quý II tăng 6,28%; quý III tăng 7,46%;
quý IV tăng 7,65%. Mức tăng trưởng năm nay vượt mục tiêu đề ra 6,7% và cao
hơn mức tăng của các năm từ 2011-20162, khẳng định tính kịp thời và hiệu quả
của các giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các
ngành, các địa phương cùng nỗ lực thực hiện. Trong mức tăng 6,81% của toàn
nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã có sự phục hồi đáng kể
1 Trong tháng 10/2017, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2017 lên 3,6%, tăng 0,1 điểm phần trăm so với mức 3,5% đã dự báo trong tháng 7/2017 và cao hơn hẳn mức tăng 3,2% của năm 2016.
2 Mức tăng GDP so với năm trước của một số năm: Năm 2011 tăng 6,24%; năm 2012 tăng 5,25%; năm 2013 tăng 5,42%; năm 2014 tăng 5,98%; năm 2015 tăng 6,68%; năm 2016 tăng 6,21%; năm 2017 tăng 6,81%.
2
với mức tăng 2,90% (cao hơn mức tăng 1,36% của năm 2016), đóng góp 0,44
điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
8,00%, đóng góp 2,77 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,44%, đóng góp
2,87 điểm phần trăm.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành thủy sản có mức tăng
cao nhất với 5,54% do sản xuất thủy sản năm 2017 có nhiều khởi sắc so với năm
2016, đóng góp 0,17 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Ngành lâm nghiệp
tăng 5,14%, do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm.
Ngành nông nghiệp tăng 2,07% (năm 2016 tăng 0,72%), đóng góp 0,24 điểm
phần trăm, cho thấy dấu hiệu phục hồi của ngành nông nghiệp sau những ảnh
hưởng nặng nề của thiên tai năm 2016, xu hướng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm
trong nội bộ ngành theo hướng đầu tư vào những sản phẩm có giá trị kinh tế cao
đã mang lại hiệu quả.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 7,85%,
cao hơn mức tăng 7,06% của năm 2016, đóng góp 2,23 điểm phần trăm vào mức
tăng chung. Điểm sáng của khu vực này là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
với mức tăng 14,40% (là mức tăng cao nhất trong 7 năm gần đây3), đóng góp
đáng kể vào mức tăng trưởng chung với 2,33 điểm phần trăm. Ngành khai
khoáng giảm 7,10%, làm giảm 0,54 điểm phần trăm của mức tăng chung, đây là
mức giảm sâu nhất từ năm 2011 trở lại đây4, chủ yếu do sản lượng dầu thô khai
thác giảm hơn 1,6 triệu tấn so với năm trước; sản lượng khai thác than cũng chỉ
đạt 38 triệu tấn, giảm hơn 180 nghìn tấn. Ngành xây dựng duy trì tăng trưởng
khá với tốc độ 8,70%, đóng góp 0,54 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức
tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ đạt mức tăng 8,36% so với năm
trước, là ngành có đóng góp cao nhất vào mức tăng trưởng chung (0,79 điểm phần
trăm); dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức tăng trưởng khá cao 8,98% so với mức
tăng 6,70% của năm 2016, đóng góp 0,33 điểm phần trăm; hoạt động tài chính,
ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,14% (mức tăng cao nhất trong 7 năm gần đây5),
3 Mức tăng so với năm trước của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo một số năm: Năm 2011 tăng 14,08%; năm 2012 tăng 9,05%; năm 2013 tăng 7,22%; năm 2014 tăng 7,41%; năm 2015 tăng 10,60%; năm 2016 tăng 11,90%; năm 2017 tăng 14,40%.
4 Mức tăng/giảm so với năm trước của ngành khai khoáng một số năm: Năm 2011 tăng 2,90%; năm 2012 tăng 5,14%; năm 2013 giảm 0,23%; năm 2014 tăng 2,26%; năm 2015 tăng 6,50%; năm 2016 giảm 4,00%; năm 2017 giảm 7,10%.
5 Mức tăng ngành hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm một số năm: Năm 2011 tăng 7,45%; năm 2012 tăng 5,58%; năm 2013 tăng 6,88%; năm 2014 tăng 5,83%; năm 2015 tăng 7,38%; năm 2016 tăng 7,79%; năm 2017 tăng 8,14%.
3
đóng góp 0,46 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,07%
(mức tăng cao nhất kể từ năm 20116), đóng góp 0,21 điểm phần trăm.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước các năm 2015-2017
Tốc độ tăng so với
năm trước (%)
Đóng góp của các
khu vực vào tăng
trưởng năm 2017
(Điểm phần trăm) Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Tổng số 6,68 6,21 6,81 6,81
Nông, lâm nghiệp và thủy sản 2,41 1,36 2,90 0,44
Công nghiệp và xây dựng 9,64 7,57 8,00 2,77
Dịch vụ 6,33 6,98 7,44 2,87
Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sp 5,54 6,38 6,34 0,73
Quy mô nền kinh tế năm 2017 theo giá hiện hành đạt 5.007,9 nghìn tỷ
đồng; GDP bình quân đầu người ước tính đạt 53,5 triệu đồng, tương đương
2.385 USD, tăng 170 USD so với năm 2016. Về cơ cấu nền kinh tế năm nay,
khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 15,34%; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 33,34%; khu vực dịch vụ chiếm 41,32%; thuế sản
phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,00% (Cơ cấu tương ứng của năm 2016 là:
16,32%; 32,72%; 40,92%; 10,04%).
Xét về góc độ sử dụng GDP năm 2017, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,35% so
với năm 2016, đóng góp 5,52 điểm phần trăm (trong đó tiêu dùng cuối cùng của
hộ dân cư đóng góp 5,04 điểm phần trăm); tích lũy tài sản tăng 9,8%, đóng góp
3,30 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ ở tình
trạng nhập siêu làm giảm 2,01 điểm phần trăm của mức tăng trưởng chung.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
a. Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong năm 2017 gặp nhiều khó khăn do chịu ảnh
hưởng của thời tiết biến đổi bất thường, bão, mưa lớn gây ngập úng, vỡ đê bao
tại một số địa phương phía Bắc và hiện tượng lũ sớm ở Đồng bằng sông Cửu
Long ảnh hưởng đến tiến độ, diện tích và năng suất cây trồng.
Sản lượng lúa cả năm 2017 ước tính đạt 42,84 triệu tấn, giảm 318,3 nghìn
tấn so với năm 20167 do cả diện tích và năng suất đều giảm so với năm trước.
6 Mức tăng ngành kinh doanh bất động sản một số năm: Năm 2011 tăng 3,80%; năm 2012 tăng 1,32%; năm 2013 tăng 2,17%; năm 2014 tăng 2,80%; năm 2015 tăng 2,96%; năm 2016 tăng 4,00%; năm 2017 tăng 4,07%.
4
Diện tích lúa cả năm 2017 ước tính đạt 7,72 triệu ha, giảm 26,1 nghìn ha so với
năm 2016; năng suất lúa cả năm đạt 55,5 tạ/ha, giảm 0,2 tạ/ha.
Trong sản xuất lúa, vụ đông xuân năm nay cả nước gieo cấy được 3,08 triệu
ha, giảm 5,7 nghìn ha so với vụ đông xuân trước. Diện tích lúa đông xuân thời
gian gần đây có xu hướng thu hẹp dần (tập trung chủ yếu tại Đồng bằng sông
Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long) do ảnh hưởng của thời tiết và một số địa
phương chuyển đổi một phần diện tích trồng lúa sang sử dụng cho mục đích
khác8. Năng suất lúa đông xuân đạt 62,2 tạ/ha, giảm 0,7 tạ/ha so với vụ đông xuân
trước; sản lượng đạt 19,15 triệu tấn, giảm 259 nghìn tấn, trong đó một số địa
phương sản lượng giảm nhiều: Đồng Tháp giảm 165,8 nghìn tấn; Long An giảm
96,5 nghìn tấn; Hà Tĩnh giảm 86,8 nghìn tấn; Cần Thơ giảm 59,1 nghìn tấn.
Diện tích gieo cấy lúa hè thu năm 2017 đạt 2,11 triệu ha, tương đương vụ
hè thu năm 2016; năng suất đạt 54,5 tạ/ha, tăng 1,2%; sản lượng đạt 11,49 triệu
tấn, tăng 1,3%. Năng suất và sản lượng lúa hè thu năm nay của hầu hết các vùng
tăng so với năm trước (riêng vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung do
ảnh hưởng của mưa, bão và sâu bệnh nên năng suất và sản lượng giảm), trong
đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long năng suất đạt 54,8 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha; sản
lượng đạt 9,05 triệu tấn, tăng 37,2 nghìn tấn.
Diện tích lúa thu đông tại Đồng bằng sông Cửu Long năm nay ước tính đạt
769,4 nghìn ha, giảm 3,3 nghìn ha so với năm 2016; năng suất ước tính đạt 52,2
tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; sản lượng đạt 4,02 triệu tấn, tăng 124,2 nghìn tấn. Diện tích
gieo trồng lúa thu đông giảm mạnh ở An Giang (giảm 17,8 nghìn ha) và Đồng
Tháp (giảm 15,1 nghìn ha) do các địa phương chủ động xả lũ vào ruộng để tăng
cường phù sa và ngăn ngừa dịch bệnh cho vụ lúa sau.
Sản xuất lúa mùa năm nay, đặc biệt là ở miền Bắc gặp nhiều khó khăn do
ảnh hưởng của thời tiết và sâu bệnh, mưa lớn trên diện rộng đúng thời kỳ xuống
giống, bệnh lùn sọc đen lây lan gây hại suốt thời kỳ lúa sinh trưởng, cuối vụ tiếp
tục chịu tác động của bão, gây ngập lụt nghiêm trọng. Diện tích gieo cấy lúa
mùa của cả nước đạt 1,76 triệu ha, giảm 17,5 nghìn ha so với vụ mùa năm trước;
năng suất ước tính đạt 46,4 tạ/ha, giảm 1,4 tạ/ha; sản lượng ước tính đạt 8,18
triệu tấn, giảm 327,3 nghìn tấn. Trong đó, diện tích lúa mùa của miền Bắc đạt
1,13 triệu ha, giảm 18,7 nghìn ha so với năm trước, chủ yếu do các địa phương
7 Nếu tính cả 5,13 triệu tấn ngô thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2017 ước tính đạt 47,97 triệu tấn, giảm 709,8 nghìn tấn so với năm 2016.
8 Riêng vụ đông xuân năm nay, diện tích gieo cấy của vùng Đồng bằng sông Hồng giảm 10,1 nghìn ha so với cùng kỳ năm trước (2,8 nghìn ha chuyển sang đất phi nông nghiệp; 2,5 nghìn ha sang trồng cây lâu năm; 1,2 nghìn ha trồng cây hàng năm khác và 1,9 nghìn ha diện tích không sản xuất). Vùng Đồng bằng sông Cửu Long giảm 16,3 nghìn ha (0,2 nghìn ha chuyển sang đất phi nông nghiệp; 6 nghìn ha chuyển sang trồng cây lâu năm; 7,7 nghìn ha chuyển sang trồng cây hàng năm khác; trên 1 nghìn ha chuyển sang nuôi trồng thủy sản và 1,4 nghìn ha không sản xuất).
5
chuyển một phần diện tích trồng lúa sang sử dụng cho mục đích khác9; năng suất
ước tính đạt 46,1 tạ/ha, giảm 3,8 tạ/ha; sản lượng đạt 5,23 triệu tấn, giảm 527,1
nghìn tấn. Một số địa phương có sản lượng lúa mùa giảm mạnh so với năm
trước: Nam Định giảm 130,2 nghìn tấn; Thái Bình giảm 107,3 nghìn tấn; Hải
Dương giảm 63,7 nghìn tấn; Hà Nội giảm 46,4 nghìn tấn. Tại các tỉnh phía Nam,
diện tích gieo cấy lúa mùa đạt 629,6 nghìn ha, tăng 1,2 nghìn ha so với năm
trước; năng suất ước tính đạt 47 tạ/ha, tăng 3,1 tạ/ha; sản lượng đạt 2,96 triệu
tấn, tăng 199,8 nghìn tấn.
Kết quả sản xuất hoa màu và một số cây hàng năm: Sản lượng ngô đạt 5,13
triệu tấn, giảm 114,6 nghìn tấn so với năm 2016 do diện tích gieo trồng giảm 52,9
nghìn ha (năng suất ngô tăng 1,1 tạ/ha). Sản lượng khoai lang đạt 1,35 triệu tấn,
tăng 81,9 nghìn tấn (diện tích tăng 1,6 nghìn ha); mía đạt 18,32 triệu tấn, tăng
1,11 triệu tấn (diện tích tăng 12,8 nghìn ha); sản lượng sắn đạt 10,34 triệu tấn,
giảm 569,1 nghìn tấn (diện tích giảm 34,4 nghìn ha); lạc đạt 461,5 nghìn tấn,
giảm 2,1 nghìn tấn (diện tích giảm 4,1 nghìn ha); đậu tương đạt 102,3 nghìn tấn,
giảm 22 nghìn tấn (diện tích giảm 16,1 nghìn ha); sản lượng rau các loại đạt 16,49
triệu tấn, tăng 562,8 nghìn tấn (diện tích tăng 29,5 nghìn ha); sản lượng đậu các
loại đạt 162,3 nghìn tấn, giảm 5,3 nghìn tấn (diện tích giảm 10 nghìn ha).
Năm 2017, diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm ước tính đạt 2.215,1
nghìn ha, tăng 35,2 nghìn ha so với năm 2016, trong đó diện tích cao su đạt 971,6
nghìn ha, giảm 0,2% so với năm trước do một số tỉnh Tây Nguyên và Đông Nam
Bộ đang có xu hướng phá bỏ cây cao su già cỗi, chuyển đổi sang trồng tiêu và cây
trồng khác, sản lượng cả vụ đạt 1.086,7 nghìn tấn, tăng 5%; hồ tiêu diện tích đạt
152 nghìn ha, tăng 17,6%, sản lượng đạt 241,5 nghìn tấn, tăng 11,6%; cà phê diện
tích đạt 664,6 nghìn ha, tăng 2,2%, sản lượng đạt 1.529,7 nghìn tấn, tăng 4,7%;
điều diện tích đạt 297,5 nghìn ha, tăng 1,5%, sản lượng đạt 210,9 nghìn tấn, giảm
30,9%; chè diện tích đạt 129,3 nghìn ha, giảm 3,1% do vùng chè Yên Bái và một
số tỉnh miền núi phía Bắc đã chuyển sang trồng nhóm cây có múi (chủ yếu là cây
cam), sản lượng chè búp đạt 1.040,8 nghìn tấn, tăng 0,7%.
Sản lượng cây ăn quả năm nay đạt khá do nhiều cây trồng tăng về diện tích
và có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định. Sản lượng cam đạt 772,6 nghìn tấn,
tăng 20,4% so với năm trước; quýt đạt 175,5 nghìn tấn, tăng 6,3%; bưởi đạt
571,3 nghìn tấn, tăng 13,4%; xoài đạt 788,2 nghìn tấn, tăng 8,3%; chuối đạt
2.066,2 nghìn tấn, tăng 5,2%; thanh long đạt 952,8 nghìn tấn, tăng 14,2%. Riêng
9 Trong đó: Diện tích chuyển sang đất phi nông nghiệp là 4 nghìn ha; chuyển sang cây trồng hàng năm khác là 3,7 nghìn ha; chuyển sang cây trồng lâu năm là 2,4 nghìn ha; chuyển sang nuôi trồng thủy sản là 1,6 nghìn ha; diện tích đất bỏ hoang là 2,9 nghìn ha và 1,9 nghìn ha không thể gieo trồng do ảnh hưởng của mưa bão đầu vụ.
6
sản lượng nhãn, vải đạt thấp do nhiều cây trồng không mang lại hiệu quả bị chặt
bỏ ở miền Bắc và chịu ảnh hưởng của sâu bệnh tại các tỉnh phía Nam10
.
Chăn nuôi trâu, bò nhìn chung ổn định, nuôi gia cầm đạt khá, riêng chăn
nuôi lợn còn gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ chưa có nhiều chuyển biến, giá
thịt lợn ở mức thấp khiến quy mô đàn giảm. Theo kết quả điều tra chăn nuôi, tại
thời điểm 01/10/2017, đàn trâu cả nước có 2,5 triệu con, giảm 1,1% so với cùng
thời điểm năm trước; đàn bò có 5,7 triệu con, tăng 2,9%, đàn lợn có 27,4 triệu
con, giảm 5,7%; đàn gia cầm có 385,5 triệu con, tăng 6,6%.
Sản lượng thịt hơi các loại năm nay đạt khá, trong đó sản lượng thịt trâu đạt
87,9 nghìn tấn, tăng 1,5% so với cùng thời điểm năm trước; sản lượng thịt bò đạt
321,7 nghìn tấn, tăng 4,2%; sản lượng thịt lợn đạt 3,7 triệu tấn, tăng 1,9%; sản
lượng thịt gia cầm đạt 1 triệu tấn, tăng 7,3%. Sản lượng trứng gia cầm đạt khá,
ước tính năm 2017 đạt 10.637,1 triệu quả, tăng 12,6% do trong năm có nhiều
doanh nghiệp, trang trại đầu tư mở rộng quy mô sản xuất phục vụ nhu cầu thị
trường trong và ngoài nước. Một số địa phương có sản lượng trứng tăng cao: Sóc
Trăng tăng 39%; Ninh Thuận tăng 28,8%; Long An tăng 27%; Tiền Giang tăng
20,5%; Phú Thọ tăng 18,1%; Bắc Giang tăng 15%; Lâm Đồng tăng 14,9%. Sản
lượng sữa bò cả năm 2017 đạt 881,3 triệu lít, tăng 10,8% so với năm 2016. Tính
đến thời điểm 25/12/2017 cả nước không còn dịch bệnh trên gia súc, gia cầm.
b. Lâm nghiệp
Thời tiết trong năm tương đối thuận lợi cho hoạt động trồng, chăm sóc rừng
và khai thác lâm sản. Năm 2017, diện tích rừng trồng tập trung của cả nước ước
tính đạt 241,3 nghìn ha, tăng 1,2% so với năm 2016, trong đó diện tích rừng sản
xuất ước tính đạt 228 nghìn ha, tăng 1,3%; rừng phòng hộ, đặc dụng đạt 12,7
nghìn ha, giảm 1,5%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán cả năm đạt 99,8 triệu
cây, tăng 0,6%. Sản lượng gỗ khai thác năm 2017 ước tính đạt 11,5 triệu m3,
tăng 12,4% do các thị trường tiêu thụ gỗ truyền thống như Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn Quốc tăng trưởng tốt. Một số địa phương có sản lượng gỗ khai
thác tăng cao: Bình Định đạt 853 nghìn m3, tăng 17,9%; Bắc Giang đạt 575
nghìn m3, tăng 14,9%; Nghệ An đạt 515 nghìn m
3, tăng 22%; Quảng Bình đạt
440 nghìn m3, tăng 55,8%; Hà Tĩnh đạt 419 nghìn m
3, tăng 55,4%. Sản lượng
củi khai thác đạt 26,3 triệu ste, tăng 0,4% so với năm 2016.
Công tác bảo vệ, phòng chống cháy rừng đã được các cấp, các ngành quan
tâm thực hiện, đồng thời năm nay mưa nhiều nên diện tích rừng bị cháy giảm
mạnh. Năm 2017, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.515,6 ha, giảm 55,9% so với
năm 2016, trong đó diện tích rừng bị cháy là 471,7 ha, giảm 80%; diện tích rừng
bị chặt phá là 1.043,9 ha, giảm 2,9%.
c. Thủy sản
10
Ước tính năm 2017, diện tích trồng nhãn tăng 2,9% so với năm 2016, sản lượng giảm 1,1%; diện tích trồng vải giảm 4,7%, sản lượng giảm 24,1%.
7
Sản xuất thủy sản năm 2017 có nhiều khởi sắc. Sản lượng thuỷ sản cả năm
ước tính đạt 7.225,0 nghìn tấn, tăng 5,2% so với năm trước, trong đó cá đạt
5.192,4 nghìn tấn, tăng 4,8%; tôm đạt 887,5 nghìn tấn, tăng 8,8%.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản năm 2017 đạt khá, nhất là nuôi tôm nước lợ
và cá tra. Sản lượng thủy sản nuôi trồng cả năm ước tính đạt 3.835,7 nghìn tấn,
tăng 5,2% so với năm 2016, trong đó cá đạt 2.694,3 nghìn tấn, tăng 4,2%; tôm đạt
723,8 nghìn tấn, tăng 10,3%. Nuôi cá tra gặp thuận lợi do giá cá tra nguyên liệu
cao hơn nhiều cùng kỳ năm 201611
và liên tục tăng qua các tháng đã khuyến khích
người nuôi yên tâm đầu tư, thả nuôi trở lại. Diện tích nuôi cá tra năm 2017 ước
tính đạt 6.701 ha, tăng 18,9% so với năm trước; sản lượng ước tính đạt 1.251,3
nghìn tấn, tăng 5,0%. Nuôi tôm nước lợ gặp nhiều thuận lợi về thời tiết và giá cả.
Năm 2017, diện tích nuôi tôm sú ước tính đạt 478,8 nghìn ha, tăng 1,1% so với
năm trước, sản lượng đạt 254,9 nghìn tấn, tăng 4,4%; diện tích nuôi tôm thẻ chân
trắng đạt 105,1 nghìn ha, tăng 8,2%, sản lượng đạt 432,3 nghìn tấn, tăng 14,3%.
Thời tiết trong năm tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác, đánh bắt
thủy sản trên biển, cùng với dịch vụ hậu cần nghề cá phát triển đã tạo điều kiện
cho ngư dân ra khơi bám biển, đánh bắt xa bờ. Bên cạnh đó, hoạt động khai thác
thủy sản biển ở các tỉnh Bắc Trung Bộ đã phục hồi trở lại sau sự cố môi trường
biển trong năm 2016. Năm 2017, sản lượng thủy sản khai thác của cả nước ước
tính đạt 3.389,3 nghìn tấn, tăng 5,1% so với năm 2016, trong đó cá đạt 2.498,1
nghìn tấn, tăng 5,4%, tôm đạt 163,7 nghìn tấn, tăng 2,6%. Sản lượng thủy sản
khai thác biển ước tính đạt 3.191,2 nghìn tấn, tăng 5,1%, trong đó cá đạt 2.363,8
nghìn tấn, tăng 5,4%, tôm đạt 150,2 nghìn tấn, tăng 2,8%.
3. Sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng cao trong tháng cuối năm. Chỉ số sản
xuất toàn ngành công nghiệp tháng Mười Hai ước tính tăng 11,2% so với cùng
kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 10%; công nghiệp chế biến, chế
tạo tăng 17,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 9%; cung cấp nước và xử lý rác
thải, nước thải tăng 15,7%.
Tính chung cả năm 2017, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng
9,4% so với năm 2016 (quý I tăng 4%; quý II tăng 8,2%; quý III tăng 9,7%; quý
IV ước tính tăng 14,4%), cao hơn nhiều so với mức tăng 7,4% của năm 2016.
Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 14,5% (mức tăng
trưởng cao nhất trong 6 năm trở lại đây12
), đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng
chung toàn ngành công nghiệp với 10,2 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân
11
Giá cá tra bình quân dao động từ 22.000-25.000 đồng/kg (tăng 4.000-5.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước), có thời điểm lên đến 28.000-30.000 đồng/kg (tăng 5.000-6.500 đồng/kg).
12 Tốc độ tăng chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo các năm 2012-2017 lần lượt là: 5,5%; 7,6%; 8,7%; 10,5%; 11,3%; 14,5%.
8
phối điện tăng 9,4%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử
lý rác thải, nước thải tăng 8,7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai
khoáng giảm sâu 7,1%, làm giảm 1,5 điểm phần trăm mức tăng chung.
Chỉ số sản xuất công nghiệp giai đoạn 2015-2017
Đơn vị tính: %
2015 2016 Ước tính
2017
Toàn ngành công nghiệp 109,8 107,4 109,4
Khai khoáng 107,1 93,2 92,9
Công nghiệp chế biến, chế tạo 110,5 111,3 114,5
Sản xuất và phân phối điện 111,4 111,5 109,4
Cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải 106,9 108,0 108,7
Xét theo công dụng của sản phẩm, các sản phẩm trung gian (phục vụ cho
quá trình sản xuất tiếp theo) năm 2017 tăng 11% so với năm trước; sản phẩm
phục vụ cho sử dụng cuối cùng tăng 8,6% (trong đó sản phẩm là tư liệu sản xuất
tăng 7,3%; sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng của dân cư tăng 9,2%). Chỉ số sản
xuất sản phẩm trung gian cao hơn chỉ số sản xuất sản phẩm phục vụ cho sử dụng
cuối cùng cho thấy, sản phẩm trung gian trong sản xuất công nghiệp của nước ta
đã có sự thay đổi theo hướng giảm dần phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.
Trong năm 2017, một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sản xuất tăng
cao so với năm trước, đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng của ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm
quang học tăng 32,7% (tập trung ở sản xuất điện thoại di động thông minh giá trị
cao và linh kiện điện tử xuất khẩu toàn cầu), đặc biệt tăng mạnh trong quý IV
với mức tăng 55,6% (quý I tăng 5,9%, quý II tăng 20,5%, quý III tăng 47%); sản
xuất kim loại tăng 17,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 14,4%;
sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 13,5%; dệt,
sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy cùng tăng 10,2%. Một số ngành có mức tăng
thấp hoặc giảm: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 3,3%; sản xuất xe
có động cơ tăng 0,2%; khai thác than cứng và than non bằng năm trước; sản xuất
thuốc lá giảm 0,1%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 9,3%13
.
Trong năm 2017, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với
năm trước: Sắt, thép thô tăng 31,6%; ti vi tăng 30,5%; thép cán tăng 17,5%; vải
dệt từ sợi tự nhiên tăng 12,6%; phân urê tăng 11,4%; phân hỗn hợp NPK và sữa
bột cùng tăng 10,4%. Một số sản phẩm tăng thấp hoặc giảm: Thức ăn cho gia
súc tăng 3,6%; thuốc lá điếu tăng 2%; giày, dép da tăng 1,5%; than đá giảm 13
Giá dầu thô giữ ở mức ổn định, trung bình 55 USD/thùng, cao hơn 11 USD/thùng so với mức giá trung bình năm 2016.
9
0,5%; ô tô giảm 6,6%; khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 7,7%; dầu thô khai
thác giảm 10,8%; khí hóa lỏng (LPG) giảm 14,8%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2017 so với năm 2016 của một số địa
phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Bắc Ninh tăng 37,2%; Hải Phòng
tăng 21,6%; Thái Nguyên tăng 18,1%; Bình Dương tăng 11%; Vĩnh Phúc tăng
10,9%; Hải Dương tăng 10,5%; Đà Nẵng tăng 9,5%; Đồng Nai tăng 8,7%; thành
phố Hồ Chí Minh tăng 7,9%; Cần Thơ tăng 7,3%; Hà Nội tăng 7,1%; Quảng
Ninh tăng 3,7%; Quảng Nam giảm 2,3%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 3,1%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2017
tăng 1% so với tháng trước và tăng 18,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính
chung 11 tháng, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng
13,6% so với cùng kỳ năm 2016 (cùng kỳ năm trước tăng 8,4%), trong đó một
số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Dệt tăng 28,7%; sản xuất kim loại tăng
27,6%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 21,7%; sản xuất giường, tủ,
bàn, ghế tăng 20,2%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 17,6%; sản
xuất trang phục tăng 16,7%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng thấp: Sản xuất
thiết bị điện tăng 7,7%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 6,3%; sản xuất xe có
động cơ tăng 4%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm
1/12/2017 tăng 8% so với cùng thời điểm năm trước, là mức tồn kho thấp
nhất trong nhiều năm qua14
, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng
thấp hơn mức tăng chung hoặc giảm: Sản xuất trang phục tăng 2,3%; sản xuất
phương tiện vận tải khác tăng 1,9%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 1,1%;
sản xuất da và các sản phẩm có liên quan bằng cùng kỳ năm trước; sản xuất
thuốc lá giảm 0,1%; sản xuất kim loại giảm 2,7%; sản xuất thuốc, hóa dược
và dược liệu giảm 9,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 30,2%.
Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn mức tăng chung: Sản xuất đồ
uống tăng 49,1%; sản xuất xe có động cơ tăng 35,2%; sản xuất sản phẩm điện
tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 29,7%; sản xuất thiết bị điện tăng
20,7%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 18,2%; sản xuất sản phẩm từ
khoáng phi kim loại tăng 16,2%.
Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 11 tháng
năm 2017 là 65,9% (cùng kỳ năm trước là 66,1%), trong đó một số ngành có tỷ
lệ tồn kho cao: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 112,5%; sản xuất xe có
động cơ 84,8%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 84,7%; sản xuất, chế
biến thực phẩm 74,9%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác 74,2%.
14
Cùng thời điểm năm 2013 tăng 10,2%; năm 2014 tăng 10%; năm 2015 tăng 9,5% và năm 2016 tăng 8,1%.
10
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời
điểm 1/12/2017 tăng 5,1% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động
khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,7%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng
3,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 6,9%. Tại thời điểm
trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng giảm
1,1% so với cùng thời điểm năm trước; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
tăng 5,4%; ngành sản xuất, phân phối điện giảm 1%; ngành cung cấp nước, xử
lý rác thải, nước thải tăng 0,7%.
Lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/12/2017 so
với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp
lớn như sau: Bắc Ninh tăng 21,6%; Đà Nẵng tăng 13,5%; Vĩnh Phúc tăng
12,8%; Hải Phòng tăng 9,9%; Thái Nguyên tăng 8,6%; Hải Dương tăng 8,1%;
Cần Thơ tăng 5,5%; Đồng Nai tăng 4,8%; Hà Nội tăng 3,6%; Quảng Nam và
Bình Dương cùng tăng 3,5%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,7%; Quảng Ninh
giảm 0,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 3,2%.
Nhìn chung, trong năm 2017 mặc dù ngành khai khoáng giảm sâu so với
năm trước nhưng sản xuất công nghiệp vẫn tăng trưởng tích cực nhờ đóng góp
của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng trưởng cao trong nhiều
năm trở lại đây; tình hình tiêu thụ sản phẩm thuận lợi, tồn kho ở mức hợp lý và
an toàn. Tuy nhiên, tăng trưởng công nghiệp nước ta vẫn chủ yếu dựa vào tăng
trưởng về số lượng doanh nghiệp, vốn đầu tư và lao động, trong khi năng suất,
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn hạn chế.
4. Hoạt động của doanh nghiệp
a. Tình hình đăng ký doanh nghiệp15
Trong tháng Mười Hai, cả nước có 10.814 doanh nghiệp thành lập mới với
số vốn đăng ký là 164,1 nghìn tỷ đồng, giảm 1% về số doanh nghiệp và tăng
49,3% về số vốn đăng ký so với tháng trước16
; vốn đăng ký bình quân một
doanh nghiệp đạt 15,2 tỷ đồng, tăng 50,8%; tổng số lao động đăng ký trong
tháng của các doanh nghiệp thành lập mới hơn 96,3 nghìn người, tăng 8,7%.
Trong tháng, cả nước có 1.245 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm
7% so với tháng trước; có 3.633 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động (bao gồm:
1.602 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn và 2.031 doanh
nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể), giảm 31,6%; có
1.299 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 27,4%.
15
Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
16 So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tăng 28,5%; số vốn đăng ký tăng 75,7%; vốn đăng ký bình quân 1 doanh nghiệp tăng 36,7%.
11
Tính chung cả năm 2017, cả nước có 126.859 doanh nghiệp đăng ký thành
lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.295,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% về số doanh
nghiệp và tăng 45,4% về số vốn đăng ký so với năm 2016; vốn đăng ký bình
quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 10,2 tỷ đồng, tăng 26,2%17
. Nếu tính
cả 1.869,3 nghìn tỷ đồng của hơn 35,2 nghìn lượt doanh nghiệp thay đổi tăng
vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong năm 2017 là 3.165,2
nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 26.448 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động,
giảm 0,9% so với năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới
và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm lên 153,3 nghìn doanh
nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong
năm 2017 là 1.161,3 nghìn người, giảm 8,4% so với năm 2016.
Theo lĩnh vực hoạt động, trong năm 2017 có 45,4 nghìn doanh nghiệp
thành lập mới trong ngành bán buôn, bán lẻ (chiếm 35,8% tổng số doanh nghiệp
thành lập mới), tăng 16,6% so với năm trước; 16,2 nghìn doanh nghiệp công
nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 12,8%), tăng 9,4%; 16 nghìn doanh nghiệp xây
dựng (chiếm 12,6%), tăng 10,6%; 9,4 nghìn doanh nghiệp khoa học, công nghệ,
dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và chuyên môn khác (chiếm 7,4%), tăng
11,4%; 6,7 nghìn doanh nghiệp dịch vụ việc làm, du lịch, cho thuê máy móc
thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác (chiếm 5,3%), tăng 21,7%; 6,3 nghìn
doanh nghiệp dịch vụ lưu trú và ăn uống (chiếm 5%), tăng 19,5%; 5,1 nghìn
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản (chiếm 4%), tăng 62%; 3,4 nghìn doanh
nghiệp giáo dục và đào tạo (chiếm 2,7%), tăng 23%...
Số doanh nghiệp thành lập mới trong năm nay tại các vùng đều tăng so với
năm trước. Trong đó: Vùng Đông Nam Bộ có 53,7 nghìn doanh nghiệp, tăng
14% (vốn đăng ký 680,6 nghìn tỷ đồng, tăng 84,2%); Đồng bằng sông Hồng
38,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 13,8% (vốn đăng ký 306,3 nghìn tỷ đồng, giảm
2,8%); Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 17,6 nghìn doanh nghiệp, tăng
18,4% (vốn đăng ký 160,3 nghìn tỷ đồng, tăng 74,6%); Đồng bằng sông Cửu
Long 9 nghìn doanh nghiệp, tăng 14% (vốn đăng ký 70,6 nghìn tỷ đồng, tăng
27,1%); Trung du và miền núi phía Bắc 5,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 26,4%
(vốn đăng ký 54 nghìn tỷ đồng, tăng 29,8%); Tây Nguyên 3,2 nghìn doanh
nghiệp, tăng 23% (vốn đăng ký 24,1 nghìn tỷ đồng, tăng 36,9%).
Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong năm 2017 là 60.553 doanh
nghiệp, giảm 0,2% so với năm trước, bao gồm 21.684 doanh nghiệp đăng ký
tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 8,9% và 38.869 doanh nghiệp tạm
17
Năm 2016, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 16,2% so với năm 2015; số vốn đăng ký tăng 48,1%; vốn đăng ký bình quân 1 doanh nghiệp tăng 27,5%.
12
ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, giảm 4,6%. Trong tổng số
doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, có 9.234 công ty trách
nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 42,6%); 6.882 công ty trách nhiệm hữu hạn
2 thành viên (chiếm 31,7%); 3.665 công ty cổ phần (chiếm 16,9%); 1.900 doanh
nghiệp tư nhân (chiếm 8,8%) và 3 công ty hợp danh. Theo lĩnh vực hoạt động,
số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn trong ngành bán
buôn, bán lẻ là 8,6 nghìn doanh nghiệp (chiếm 39,7%), tăng 7,1% so với năm
trước; 3,2 nghìn doanh nghiệp xây dựng (chiếm 14,6%), tăng 11,1%; 2,8 nghìn
doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 12,8%), tăng 7,3%; 1,2
nghìn doanh nghiệp dịch vụ lưu trú và ăn uống (chiếm 5,5%), tăng 5,8%.... Đối
với doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, có
17.300 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 44,5%); 11.377 công ty
trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 29,3%); 7.485 công ty cổ phần (chiếm
19,2%); 2.706 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 7%) và 1 công ty hợp danh.
Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong năm 2017 là 12.113 doanh
nghiệp, giảm 2,9% so với năm trước, trong đó 11.087 doanh nghiệp có quy mô
vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 91,5%. Nếu phân theo loại hình doanh nghiệp, trong
tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, có 5.242 công ty trách nhiệm hữu
hạn 1 thành viên (chiếm 43,3%); 3.459 công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành
viên (chiếm 28,6%); 1.806 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 14,9%); 1.603 công ty
cổ phần (chiếm 13,2%) và 3 công ty hợp danh.
b. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2017 cho thấy: Có 44,8% số doanh nghiệp
đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV năm nay tốt hơn quý III; 18,7%
số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 36,5% số doanh nghiệp cho rằng tình
hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý I/2018 so với quý IV năm nay,
có 48,2% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 16,1% số doanh nghiệp
dự báo khó khăn hơn và 35,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất
kinh doanh sẽ ổn định.
Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong quý IV, có 61,1% số doanh nghiệp cho rằng khả năng cạnh tranh
cao của hàng hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp; 45,1% số doanh nghiệp cho rằng do nhu cầu
thị trường trong nước thấp; 32,7% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài
chính; 31,5% số doanh nghiệp cho rằng không tuyển được lao động theo yêu
cầu; 27,9% số doanh nghiệp cho rằng lãi suất cao và 22,2% số doanh nghiệp cho
rằng tính cạnh tranh cao của hàng nhập khẩu là yếu tố quan trọng.
13
Về khối lượng sản xuất, có 46,2% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản
xuất quý IV năm nay tăng so với quý trước; 18,4% số doanh nghiệp đánh giá
khối lượng sản xuất giảm và 35,4% số doanh nghiệp cho rằng ổn định. Về xu
hướng quý I/2018 so với quý IV năm nay, có 49,2% doanh nghiệp dự báo khối
lượng sản xuất tăng lên; 14,9% số doanh nghiệp dự báo giảm và 35,9% số doanh
nghiệp dự báo ổn định.
Về đơn đặt hàng, có 39,3% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý IV năm
nay cao hơn quý trước; 18,3% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm và 42,4%
số doanh nghiệp có đơn đặt hàng ổn định. Xu hướng quý I/2018 khả quan hơn
so với quý IV/2017 với 43,6% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên;
14,9% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm và 41,5% số doanh nghiệp dự
kiến có đơn hàng ổn định.
Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý IV năm nay so với quý trước, có 32,3% số
doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu cao hơn; 16,8% số doanh
nghiệp có đơn hàng xuất khẩu giảm và 50,9% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất
khẩu ổn định. Xu hướng quý I/2018 so với quý IV/2017, có 35,8% số doanh
nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu; 14% số doanh nghiệp dự kiến giảm và
50,2% số doanh nghiệp dự kiến ổn định.
5. Hoạt động dịch vụ
a. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng thang Mười Hai
ước tính đạt 352,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% so vơi thang trươc va tăng 12% so
vơi cung ky năm 2016, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 258,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 1,5% và tăng 11,8%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 47,9
nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% và tăng 14,6%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,6
nghìn tỷ đồng, tăng 9,3% và tăng 8%; doanh thu dịch vụ khác đạt 42 nghìn tỷ
đồng, tăng 1,3% và tăng 10,6%.
Tính chung cả năm 2017, tông mưc ban le hang hoa va doanh thu dich vu
tiêu dung ước tính đạt 3.934,2 nghìn tỷ đồng, tăng 10,9% so với năm trước
(Năm 2016 tăng 10,1%), nếu loại trừ yếu tố giá tăng 9,46%, cao hơn mức tăng
8,33% của năm trước.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2017 ước tính
đạt 2.937,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 74,7% tổng mức và tăng 10,9% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ ô tô tăng 14%; đá quý, kim loại quý tăng
13,2%; hàng gỗ và vật liệu xây dựng tăng 12,8%; lương thực, thực phẩm tăng
11,1%; vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 10,2%; may mặc tăng 9,6%; phương
14
tiện đi lại tăng 8,6%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 8,5%. Một số
địa phương có mức tăng khá: Thanh Hóa tăng 13,7%; Tiền Giang tăng 13,3%;
Hà Giang tăng 12,8%; Hải Phòng tăng 12,5%; Hà Nội tăng 11,4%; thành phố
Hồ Chí Minh tăng 10,1%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống năm 2017 ước tính đạt 494,7 nghìn tỷ
đồng, chiếm 12,6% tổng mức và tăng 11,9% so với năm 2016. Một số địa
phương có doanh thu tăng khá: Nghệ An tăng 22,7%; Hải Phòng tăng 18,3%;
Khánh Hòa tăng 16,5%; Lâm Đồng tăng 14,2%; thành phố Hồ Chí Minh tăng
10,3%; Hà Nội tăng 8,2%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng khá do lượng
khách quốc tế và du lịch trong nước năm nay tăng mạnh, đồng thời hoạt động ăn
uống ngoài gia đình không còn bị ảnh hưởng của sự cố môi trường biển tại các
tỉnh miền Trung năm 2016.
Doanh thu du lịch lữ hành năm nay ước tính đạt 35,9 nghìn tỷ đồng, chiếm
0,9% tổng mức và tăng 10,4% so với năm trước. Nhu cầu du lịch trong và ngoài
nước cùng với lượng khách quốc tế đến nước ta tăng mạnh đã góp phần tăng thu
cho hoạt động du lịch lữ hành. Một số địa phương có doanh thu tăng khá: Khánh
Hòa tăng 23,8%; Bình Dương tăng 22,6%; Quảng Ninh tăng 17,7%; Hà Nội
tăng 9,5%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 9,5%.
Doanh thu dịch vụ khác năm 2017 ước tính đạt 466,3 nghìn tỷ đồng, chiếm
11,8% tổng mức và tăng 9,7% so với năm 2016, trong đó biến động doanh thu
của một số địa phương như sau: Thanh Hóa tăng 17,6%; Bến Tre tăng 12,3%;
Phú Yên tăng 10,6%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 10,9%; Hà Nội tăng 5,2%;
Ninh Bình giảm 18,5%.
b. Vận tải và viễn thông
Vận tải hành khách tháng Mười Hai ước tính đạt 364,4 triệu lượt khách,
tăng 2,6% so với tháng trước và 16,8 tỷ lượt khách.km, tăng 5,1%. Tính chung
cả năm 2017, vận tải hành khách đạt 4.081,6 triệu lượt khách, tăng 11,1% so với
năm trước và 182,8 tỷ lượt khách.km, tăng 9,1%, trong đó vận tải hành khách
đường bộ đạt 3.846,1 triệu lượt khách, tăng 11,5% và 124,6 tỷ lượt khách.km,
tăng 8,1%; đường thủy nội địa đạt 172,9 triệu lượt khách, tăng 3,8% và 3,2 tỷ
lượt khách.km, tăng 8,4%; đường biển đạt 6,8 triệu lượt khách, tăng 12,4% và
366,2 triệu lượt khách.km, tăng 11,8%. Vận tải bằng đường hàng không tăng
khá, đạt 46,4 triệu lượt khách, tăng 14,1% và 50,9 tỷ lượt khách.km, tăng 11,9%
do các hãng hàng không trong nước đẩy mạnh khai thác thị trường nội địa. Vận
tải đường sắt mặc dù đã cải tiến đảm bảo thời gian chạy tàu nhưng do giá vé
chưa cạnh tranh được với hàng không giá rẻ và vận tải ô tô đường bộ nên cả
năm 2017 chỉ đạt 9,4 triệu lượt khách, giảm 3,5% so với năm trước và 3,6 tỷ
lượt khách.km, tăng 7,2%.
15
Vận tải hàng hóa tháng Mười Hai ước tính đạt 128,2 triệu tấn, tăng 2,3% so
với tháng trước và 24 tỷ tấn.km, tăng 1,7%. Tính chung cả năm 2017, vận tải
hàng hóa đạt 1.442,9 triệu tấn, tăng 9,8% so với năm trước và 268,9 tỷ tấn.km,
tăng 6,8%, trong đó vận tải trong nước đạt 1.410 triệu tấn, tăng 10% và 136,5 tỷ
tấn.km, tăng 11%; vận tải ngoài nước đạt 33 triệu tấn, tăng 0,7% và 132,4 tỷ
tấn.km, tăng 2,7%. Xét theo ngành vận tải, đường bộ đạt 1.117,8 triệu tấn, tăng
10,4% và 72,1 tỷ tấn.km, tăng 11,2% so với năm trước; đường thủy nội địa đạt
249,6 triệu tấn, tăng 7,5% và 53,1 tỷ tấn.km, tăng 8,2%; đường biển đạt 69,6
triệu tấn, tăng 9,4% và 139,2 tỷ tấn.km, tăng 3,9%; đường sắt đạt 5,6 triệu tấn,
tăng 8,2% và 3,6 tỷ tấn.km, tăng 11,3%; đường hàng không đạt 317,8 nghìn tấn,
tăng 7,1% và 821,6 triệu tấn.km, tăng 8%.
Doanh thu lĩnh vực viễn thông năm 2017 ước tính đạt 380 nghìn tỷ đồng,
tăng 7,3% so với năm 2016. Tính đến cuối năm 2017, tổng số thuê bao điện
thoại ước tính đạt 127,4 triệu thuê bao, giảm 2,1% so với năm trước, trong đó số
thuê bao di động đạt 119,7 triệu thuê bao, giảm 1,3% do Bộ Thông tin và
Truyền thông tiếp tục thực hiện thanh tra đối với các nhà mạng trong việc quản
lý sim rác; số thuê bao Internet băng rộng cố định ước tính đạt 10,8 triệu thuê
bao, tăng 18,7% so với năm 2016.
c. Khách quốc tế đến Việt Nam
Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Mười Hai ước tính đạt 1.276,4
nghìn lượt người, tăng 8,9% so với tháng trước và tăng 42,2% so với cùng kỳ
năm trước. Đây là tháng có số lượng khách quốc tế đến nước ta cao nhất trong
năm 2017 do trong tháng bắt đầu có các kỳ nghỉ đông, nghỉ lễ cuối năm của
nhiều nước trên thế giới nên nhu cầu du lịch tăng cao, đồng thời cũng là tháng
thứ 9 tính từ đầu năm có số lượng khách đạt trên 1 triệu lượt người.
Tính chung cả năm 2017, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 12,9 triệu
lượt người, tăng 29,1% so với năm trước (tăng 2,9 triệu lượt khách), trong đó
khách đến bằng đường hàng không đạt 10,9 triệu lượt người, tăng 32,1%; đến
bằng đường bộ đạt 1,8 triệu lượt người, tăng 19,5%; đến bằng đường biển đạt
258,8 nghìn lượt người, giảm 9,1%.
Trong năm nay, khách đến nước ta từ châu Á đạt 9.762,7 nghìn lượt người,
tăng 34,4% so với năm trước, trong đó khách đến từ hầu hết các thị trường chính
đều tăng: Khách đến từ Trung Quốc đạt 4.008,3 nghìn lượt người18
, tăng 48,6%;
Hàn Quốc 2.415,2 nghìn lượt người, tăng 56,4%; Nhật Bản 798,1 nghìn lượt
18
Khách Trung Quốc hiện nay chiếm tới 31% tổng số khách quốc tế đến Việt Nam nhưng chi tiêu bình quân và thời gian lưu trú bình quân của một lượt khách Trung Quốc thấp hơn các nước khác trong khu vực Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po...
16
người, tăng 7,8%; Đài Loan 616,2 nghìn lượt người, tăng 21,5%; Ma-lai-xi-a
480,5 nghìn lượt người, tăng 17,9%; Thái Lan 301,6 nghìn lượt người, tăng
13%; Xin-ga-po 277,7 nghìn lượt người, tăng 8%.
Khách đến từ châu Âu ước tính đạt 1.885,7 nghìn lượt người, tăng 16,6%
so với năm 2016, trong đó: Khách đến từ Liên bang Nga 574,2 nghìn lượt người,
tăng 32,3%; Vương quốc Anh 283,5 nghìn lượt người, tăng 11,3%; Pháp 255,4
nghìn lượt người, tăng 6%; Đức 199,9 nghìn lượt người, tăng 13,6%; Hà Lan
72,3 nghìn lượt người, tăng 11,7%; Tây Ban Nha 69,5 nghìn lượt người, tăng
20%; I-ta-li-a 58 nghìn lượt người, tăng 13,2%.
Khách đến từ châu Mỹ đạt 817 nghìn lượt người, tăng 11,1% so với năm
2016, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ đạt 614,1 nghìn lượt người, tăng 11,1%.
Khách đến từ châu Úc đạt 420,9 nghìn lượt người, tăng 14,3%, trong đó khách
đến từ Ôx-trây-li-a đạt 370,4 nghìn lượt người, tăng 15,5%. Khách đến từ châu
Phi đạt 35,9 nghìn lượt người, tăng 25,6% so với năm 2016.
Nhìn chung, hoạt động du lịch trong năm 2017 đạt được kết quả ấn tượng với
số khách du lịch quốc tế đến nước ta đạt mức kỷ lục gần 13 triệu lượt người. Ngành
du lịch đã có nhiều chính sách, biện pháp nhằm thu hút khách du lịch, tăng cường
xúc tiến quảng bá, giới thiệu du lịch Việt Nam tại những thị trường trọng điểm như
Ôx-trây-li-a, Nhật Bản, các nước châu Âu, ASEAN (Thái Lan, Ma-lai-xi-a, In-đô-
nê-xi-a). Tiếp tục miễn thị thực cho công dân 5 nước Tây Âu19
; tham gia các hội
chợ du lịch quốc tế, tổ chức đón các đoàn đến khảo sát du lịch Việt Nam.
II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm
Tính đến thời điểm 20/12/2017, tổng phương tiện thanh toán tăng 14,19%
so với cuối năm 2016 (cùng kỳ năm trước tăng 16,47%); huy động vốn của các
tổ chức tín dụng tăng 14,5% (cùng kỳ năm 2016 tăng 16,88%); tăng trưởng tín
dụng của nền kinh tế đạt 16,96%. Mặc dù có sự chênh lệch giữa tăng trưởng tín
dụng và tăng trưởng huy động vốn nhưng thanh khoản của hệ thống ngân hàng
vẫn ở mức ổn định.
Lãi suất huy động trong năm tương đối ổn định. Lãi suất huy động bằng
đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,8%-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và
kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3%-5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến
dưới 6 tháng; 5,3%-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12
tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,5%-7,3%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay
19
Bao gồm: Vương quốc Anh, Cộng hòa Pháp, CHLB Đức, Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng hòa I-ta-li-a.
17
phổ biến của các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6%-6,5%/năm đối với ngắn hạn, 9%-
10%/năm đối với trung và dài hạn. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh thông thường ở mức 6,8%-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3%-11%/năm đối
với trung và dài hạn. Nhìn chung, cơ cấu tín dụng tiếp tục theo hướng tập trung
vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh được ưu tiên, các dự án lớn trọng tâm,
trọng điểm theo chủ trương của Chính phủ nhằm hỗ trợ có hiệu quả cho tăng
trưởng kinh tế.
Thị trường bảo hiểm năm 2017 duy trì tăng trưởng tích cực. Doanh thu phí
bảo hiểm toàn thị trường ước tính đạt 105,6 nghìn tỷ đồng, tăng 21,2% so với
năm trước, trong đó doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 65 nghìn tỷ đồng, tăng
28,9%; doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đạt 40,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,6%.
Năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm tiếp tục được nâng cao,
đóng góp vào nền kinh tế ngày càng tốt hơn. Tổng tài sản của các doanh nghiệp
bảo hiểm ước tính đạt 302,9 nghìn tỷ đồng, tăng 23,4% so với năm 2016; các
doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư trở lại nền kinh tế khoảng 247,8 nghìn tỷ đồng,
tăng 26,74%. Tổng số tiền các doanh nghiệp bảo hiểm chi trả quyền lợi bảo
hiểm năm 2017 đạt 29,4 nghìn tỷ đồng, tăng 14,9% so với năm 2016.
2. Đầu tư
Thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2017 đạt khá, đặc biệt là
vốn tư nhân và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội thực hiện năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.667,4 nghìn tỷ
đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP, bao gồm: Vốn khu vực
Nhà nước đạt 594,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 35,7% tổng vốn và tăng 6,7% so với
năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 676,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,5% và
tăng 16,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 396,2 nghìn tỷ đồng,
chiếm 23,8% và tăng 12,8%.
Tốc độ phát triển vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
các năm 2015-2017 so với năm trước
(Theo giá hiện hành)
Đơn vị tính: %
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Tổng số 111,9 108,9 112,1
Khu vực Nhà nước 106,8 107,3 106,7
Khu vực ngoài Nhà nước 112,8 109,5 116,8
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 119,9 110,4 112,8
18
Trong năm 2017, các Bộ, ngành, địa phương đã tích cực thực hiện các giải
pháp tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ giải ngân các công trình dự án theo
tinh thần Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 3/8/2017 của Chính phủ về những
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch
vốn đầu tư công. Tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện năm 2017
ước tính đạt 290,5 nghìn tỷ đồng, bằng 94,4% kế hoạch năm và tăng 7,2% so với
năm 2016, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 64,4 nghìn tỷ đồng, bằng 91,1% kế hoạch
năm và tăng 3,9% so với năm trước, trong đó vốn thực hiện của Bộ Giao thông
Vận tải là 30 nghìn tỷ đồng, bằng 94,9% và tăng 31%; Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn 5.970 tỷ đồng, bằng 95,8% và giảm 17,9%; Bộ Y tế 3.760 tỷ
đồng, bằng 73,2% và tăng 32,3%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 604 tỷ đồng, bằng
84,8% và giảm 71,7%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 493 tỷ đồng, bằng 82,9%
và giảm 27,8%; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch 470 tỷ đồng, bằng 80,1% và
giảm 16,3%; Bộ Xây dựng 455 tỷ đồng, bằng 94,2% và giảm 50,5%; Bộ Công
Thương 242 tỷ đồng, bằng 99,1% và giảm 46,9%; Bộ Thông tin và Truyền
thông 96 tỷ đồng, bằng 99,5% và giảm 23,8%; Bộ Khoa học và Công nghệ 94 tỷ
đồng, bằng 98,3% và giảm 63,7%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 226,1 nghìn tỷ đồng, bằng 95,4% kế hoạch
năm và tăng 8,2% so với năm 2016. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh
đạt 156,9 nghìn tỷ đồng, bằng 90,3% và tăng 5,6%; vốn ngân sách Nhà nước cấp
huyện đạt 57,8 nghìn tỷ đồng, bằng 106,7% và tăng 16,1%; vốn ngân sách Nhà
nước cấp xã đạt 11,4 nghìn tỷ đồng, bằng 125,4% và tăng 7,2%. Một số địa
phương có số vốn thực hiện lớn: Hà Nội đạt 32,8 nghìn tỷ đồng, bằng 101,4% kế
hoạch năm và tăng 3,6% so với năm trước; thành phố Hồ Chí Minh 25,3 nghìn
tỷ đồng, bằng 74,3% và tăng 10,7%; Quảng Ninh 8.498 tỷ đồng, bằng 116,1%
và tăng 9,9%; Hải Phòng 7.590 tỷ đồng, bằng 103,3% và tăng 66,7%; Bình
Dương 7.152 tỷ đồng, bằng 99,9% và tăng 11,2%; Nghệ An 6.515 tỷ đồng, bằng
99,5% và tăng 14,4%.
Kết quả thực hiện vốn đầu tư những năm qua cho thấy, tỷ lệ vốn đầu tư toàn
xã hội so với GDP giảm từ 38,4% giai đoạn 2007-2011 xuống 31,9% giai đoạn
2012-2017, chủ yếu do giảm tỷ lệ vốn từ nguồn đầu tư công20
(bao gồm nguồn
vốn từ ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn tín dụng đầu
tư theo kế hoạch của Nhà nước). Nghiên cứu tác động của đầu tư đối với tăng
trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2012-2017 cho thấy, ảnh hưởng của đầu tư
công đến tăng trưởng kinh tế là không lớn. Nếu tỷ lệ vốn đầu tư công so với GDP
20
Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư công trong tổng vốn đầu tư liên tục giảm qua các năm: Năm 2012 là 31,6%; năm 2013 là 30,4%; năm 2014 là 28,4%; năm 2015 là 27,2%; năm 2016 là 26,2% và năm 2017 là 23,4%.
19
tăng 1% thì GDP tăng khoảng 0,10%, trong khi đó tăng 1% tỷ lệ vốn đầu tư so
với GDP từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước làm tăng 0,37% GDP; từ khu vực
doanh nghiệp ngoài nhà nước, hộ cá thể và hộ dân cư làm tăng 0,80%. Điều này
cho thấy chủ trương cắt giảm đầu tư công của Chính phủ trong thời gian vừa qua
là đúng đắn, giảm gánh nặng đầu tư từ ngân sách Nhà nước, giảm nợ công, tăng
cường thu hút nguồn vốn từ các khu vực khác cho đầu tư phát triển.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/12/2017 thu
hút 2.591 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 21,3 tỷ USD, tăng 3,5% về
số dự án và tăng 42,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó,
có 1.188 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư
với số vốn tăng thêm đạt 8,4 tỷ USD, tăng 49,2% so với cùng kỳ năm trước,
nâng tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong năm 2017 lên 29,7 tỷ
USD, tăng 44,2% so với năm 2016. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện
năm 2017 ước tính đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Trong năm
2017 còn có 5.002 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với
tổng giá trị góp vốn là 6,2 tỷ USD, tăng 45,1% so với năm 2016.
Trong năm nay, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi
nước và điều hòa không khí thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số
vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt 8,4 tỷ USD, chiếm 39,3%
tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,9 tỷ USD,
chiếm 32,3%; các ngành còn lại đạt 6 tỷ USD, chiếm 28,4%. Nếu tính cả vốn
đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong năm nay đạt 14,1
tỷ USD, chiếm 47,6% tổng vốn đăng ký; ngành sản xuất và phân phối điện, khí
đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí đạt 8,4 tỷ USD, chiếm 28,2%;
các ngành còn lại đạt 7,2 tỷ USD, chiếm 24,2%. Đối với hình thức góp vốn, mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư vào ngành bán buôn và bán lẻ,
sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 1,8 tỷ USD, chiếm
29,7% tổng giá trị góp vốn; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 1,8 tỷ USD,
chiếm 28,2%; các ngành còn lại đạt 2,6 tỷ USD, chiếm 42,1%.
Cả nước có 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài được cấp phép mới trong năm 2017, trong đó Thanh Hóa có số
vốn đăng ký lớn nhất với 3.159,4 triệu USD, chiếm 14,8% tổng vốn đăng ký cấp
mới; tiếp đến là Khánh Hòa 2.584,9 triệu USD, chiếm 12,1%; thành phố Hồ Chí
Minh 2.314 triệu USD, chiếm 10,9%; Nam Định 2.134,3 triệu USD, chiếm 10%;
Bình Dương 1.356,5 triệu USD, chiếm 6,4%; Kiên Giang 1.342,3 triệu USD,
chiếm 6,3%; Hà Nội 1.111,2 triệu USD, chiếm 5,2%.
20
Trong số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới
tại Việt Nam trong năm nay, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với 7.745,8 triệu
USD, chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 3.973,3
triệu USD, chiếm 18,7%; Xin-ga-po 3.771,8 triệu USD, chiếm 17,7%; Trung
Quốc 1.409,7 triệu USD, chiếm 6,6%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ)
740,4 triệu USD, chiếm 3,5%; Hoa Kỳ 637,7 triệu USD, chiếm 3%.
3. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2017 ước
tính đạt 1.104 nghìn tỷ đồng, bằng 91,1% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt
871,1 nghìn tỷ đồng, bằng 88%; thu từ dầu thô đạt 43,5 nghìn tỷ đồng, bằng
113,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 183,8 nghìn tỷ
đồng, bằng 102,1%.
Trong thu nội địa, thu tiền sử dụng đất đạt 104,4 nghìn tỷ đồng, bằng
163,8% dự toán năm; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước
167,5 nghìn tỷ đồng, bằng 86,1%; thuế bảo vệ môi trường 39,8 nghìn tỷ đồng,
bằng 88,1%; thuế thu nhập cá nhân 73,9 nghìn tỷ đồng, bằng 91,2%; thu từ
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 153,9 nghìn tỷ đồng,
bằng 76,5%. Riêng thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 196,5 nghìn tỷ
đồng, chỉ bằng 68,6% dự toán năm. Để bảo đảm hoàn thành kế hoạch năm 2017,
các cơ quan Thuế, Hải quan tăng cường công tác quản lý thu, thực hiện các giải
pháp chống thất thu, chống buôn lậu, gian lận thương mại, chuyển giá, đồng thời
quyết liệt thu hồi nợ đọng thuế, kiểm soát chặt chẽ hoàn thuế giá trị gia tăng
đảm bảo đúng quy định.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2017 ước
tính đạt 1.219,5 nghìn tỷ đồng, bằng 87,7% dự toán năm, trong đó chi thường
xuyên đạt 862,6 nghìn tỷ đồng, bằng 96,2%; chi trả nợ lãi 91 nghìn tỷ đồng,
bằng 92%; riêng chi đầu tư phát triển đạt 259,5 nghìn tỷ đồng, bằng 72,6% dự
toán năm (trong đó chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 254,5 nghìn tỷ đồng, bằng
72,3%). Chi trả nợ gốc từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2017 ước tính đạt 147,6
nghìn tỷ đồng, bằng 90,1% dự toán năm.
4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
a. Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng Mười Một đạt 19.990 triệu
USD, cao hơn 790 triệu USD so với số ước tính, trong đó giày dép cao hơn 168
triệu USD; điện thoại và linh kiện cao hơn 98 triệu USD; máy móc, thiết bị,
dụng cụ phụ tùng cao hơn 96 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn
75 triệu USD; sắt thép cao hơn 74 triệu USD; hóa chất cao hơn 37 triệu USD; gỗ
21
và các sản phẩm từ gỗ cao hơn 35 triệu USD; cà phê cao hơn 27 triệu USD; dây
điện và cáp điện cao hơn 25 triệu USD; rau quả cao hơn 22 triệu USD; cao su
cao hơn 21 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 12/2017 ước tính đạt 19,30 tỷ USD,
giảm 3,5% so với tháng trước (đây là tháng thứ năm liên tiếp trong năm nay xuất
khẩu hàng hóa đạt kim ngạch trên 19 tỷ USD21
), trong đó khu vực kinh tế trong
nước đạt 5,20 tỷ USD, giảm 1,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu
thô) đạt 14,10 tỷ USD, giảm 4,1%. Kim ngạch xuất khẩu giảm so với tháng
trước chủ yếu do một số mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn giảm mạnh: Điện thoại và
linh kiện giảm 19,5%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 16,2%; sắt thép giảm
11,6%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng: Dầu thô tăng 67,1%;
xăng dầu tăng 44,7%; cà phê tăng 32,5%; cao su tăng 22,1%. So với tháng
12/2016, kim ngạch xuất khẩu tăng 16,6%, trong đó khu vực kinh tế trong nước
tăng 6,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 20,9%. Một
số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại
và linh kiện tăng 37,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 18,1%; máy móc
thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 12,3%.
Tính chung cả năm 2017, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt
213,77 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm trước, đây là mức tăng cao nhất trong
nhiều năm qua22
, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 58,53 tỷ USD, tăng
16,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 155,24 tỷ USD,
tăng 23%23
. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2017
tăng 17,6% so với năm 2016. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực
tăng khá so với năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 45,1 tỷ USD, tăng 31,4%;
dệt may đạt 25,9 tỷ USD, tăng 8,8%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 25,9 tỷ
USD, tăng 36,5%; giày dép 14,6 tỷ USD, tăng 12,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ
phụ tùng đạt 12,8 tỷ USD, tăng 26,4%; thủy sản đạt 8,4 tỷ USD, tăng 18,5%; gỗ
và sản phẩm gỗ đạt 7,6 tỷ USD, tăng 9,2%. Xuất khẩu một số mặt hàng giảm so
với năm trước: Cà phê đạt 3,2 tỷ USD, giảm 3,7% (lượng giảm 20,1%); hạt tiêu
đạt 1,1 tỷ USD, giảm 21,7% (lượng tăng 20,9%) do giá xuất khẩu bình quân mặt
hàng này giảm tới 21,1%.
Về cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay, nhóm hang công nghiêp
năng va khoang san đạt 106 tỷ USD , tăng 32,4% so với năm trước và chiếm
49,6% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 4,2 điểm phần trăm so vơi năm 21
Trong năm 2017, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 8 đạt 19,8 tỷ USD; tháng 9 đạt 19,3 tỷ USD; tháng 10 đạt 20,3 tỷ USD; tháng 11 đạt 20 tỷ USD; tháng 12 đạt 19,3 tỷ USD.
22 Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa so với năm trước các năm 2013-2017 lần lượt là: 15,3%; 13,8%; 7,9%; 9%; 21,1%.
23 Nếu không kể dầu thô, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 2017 đạt 152,34 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2016.
22
2016); nhóm hang công nghiêp nhe va tiêu thu công nghiêp đat 79,6 tỷ USD ,
tăng 11,7% và chiếm 37,2% (giảm 3,1 điểm phần trăm ); nhóm hàng nông , lâm
sản đạt 19,8 tỷ USD , tăng 9% và chiếm 9,3% (giảm 1 điểm phần trăm ); hàng
thủy sản ước tính đạt 8,4 tỷ USD, tăng 18,5% và chiếm 3,9% (giảm 0,1 điểm
phần trăm).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu năm 2017, Hoa Kỳ vẫn là thị trường dẫn
đầu với 41,5 tỷ USD, tăng 8% so với năm 2016. Tiếp đến là EU đạt 38,3 tỷ
USD, tăng 12,8%; Trung Quốc đạt 35,3 tỷ USD, tăng 60,6%; thị trường ASEAN
đạt 21,7 tỷ USD, tăng 24,5%; Nhật Bản đạt 16,8 tỷ USD, tăng 14,2%; Hàn Quốc
đạt 15 tỷ USD, tăng 31,1%.
b. Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng Mười Một đạt 19.394 triệu
USD, cao hơn 394 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện
cao hơn 126 triệu USD; thức ăn cho gia súc và nguyên phụ liệu cao hơn 60 triệu
USD; xăng dầu cao hơn 59 triệu USD; vải cao hơn 40 triệu USD; hóa chất cao
hơn 29 triệu USD; khí đốt hóa lỏng cao hơn 25 triệu USD; máy móc thiết bị,
dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 21 triệu USD; điện tử máy tính và linh kiện thấp
hơn 4 triệu USD; sắt thép thấp hơn 49 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 12/2017 ước tính đạt 19,80 tỷ USD,
tăng 2,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,05 tỷ
USD, tăng 3,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11,75 tỷ USD, tăng
1,2%. Kim ngạch một số mặt hàng nhập khẩu tăng cao: Tân dược tăng 26%;
chất dẻo tăng 8,7%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm: Điện thoại
và linh kiện giảm 1,5%; giấy các loại giảm 1,6%; thức ăn gia súc giảm 3,7%; khí
đốt hóa lỏng giảm 34,4%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập
khẩu tháng Mười Hai tăng 16,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng
7,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 24%. Kim ngạch một số mặt hàng
nhập khẩu phục vụ sản xuất tăng so với tháng 12/2016: Điện thoại và linh kiện
tăng 70%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 39,5%; vải tăng 16,6%.
Tính chung năm 2017, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 211,1 tỷ
USD, tăng 20,8% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt
84,7 tỷ USD, tăng 17%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 126,4 tỷ USD,
tăng 23,4%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2017
tăng 17,7% so với năm 2016. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ
nhu cầu sản xuất trong nước tăng so với năm trước: Điện tử, máy tính và linh
kiện đạt 37,5 tỷ USD, tăng 34,4%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 33,6
tỷ USD, tăng 17,9%; điện thoại và linh kiện đạt 16,2 tỷ USD, tăng 53,2%; vải
23
đạt 11,4 tỷ USD, tăng 9,2%; sắt thép đạt 9,1 tỷ USD, tăng 13% (lượng giảm
17,7%); chất dẻo đạt 7,4 tỷ USD, tăng 17,5% (lượng tăng 8,7%); xăng dầu đạt 7
tỷ USD, tăng 37,7% (lượng tăng 9,2%); nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt
5,5 tỷ USD, tăng 8%; kim loại thường đạt 5,4 tỷ USD, tăng 13,1% (lượng giảm
19,3%); sản phẩm chất dẻo đạt 5,4 tỷ USD, tăng 22,7%; sản phẩm hóa chất đạt
4,6 tỷ USD, tăng 19,6%; hóa chất đạt 4,1 tỷ USD, tăng 27,5%; gỗ và sản phẩm
gỗ đạt 2,2 tỷ USD, tăng 16,5%. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm
so với năm 2016: Ô tô đạt 5,3 tỷ USD, giảm 10,5% (ô tô nguyên chiếc đạt 2,2 tỷ
USD, giảm 9,6%); thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 3,2 tỷ USD, giảm
6,3%; phương tiện vận tải khác và phụ tùng đạt 830 triệu USD, giảm 40,3%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu năm 2017, nhóm hàng tư liệu sản xuất đạt
192,9 tỷ USD, tăng 21,1% so với năm 2016 và chiêm 91,4% tổng kim ngạch
hàng hóa nhập khẩu (tăng 0,2 điểm phần trăm so với năm 2016), trong đo nhóm
máy móc thiết bị , dụng cụ , phụ tùng đạt 91,2 tỷ USD , tăng 24,9% và chiếm
43,2% (tăng 1,4 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên nhiên vât liêu đat 101,7 tỷ
USD, tăng 17,8% và chiếm 48,2% (giảm 1,2 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu
dùng đạt 18,2 tỷ USD, tăng 17,4% và chiếm 8,6% (giảm 0,2 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu năm 2017, Trung Quốc vẫn là thị trường
nhập khẩu lớn nhất của nước ta với kim ngạch đạt 58,5 tỷ USD, tăng 16,9% so
với năm 2016; tiếp đến là Hàn Quốc đạt 46,8 tỷ USD, tăng 45,5%; ASEAN đạt
28 tỷ USD, tăng 16,4%; Nhật Bản đạt 16,5 tỷ USD, tăng 9,7%; EU đạt 12 tỷ
USD, tăng 7,7%; Hoa Kỳ đạt 9,1 tỷ USD, tăng 4,9%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Mười Một xuất siêu 596
triệu USD24
. Tháng Mười Hai ước tính nhập siêu 500 triệu USD, tính chung cả
năm 2017 xuất siêu 2,7 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu
26,1 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 28,8 tỷ USD. Năm
2017, Hàn Quốc trở thành thị trường nhập siêu lớn nhất của nước ta với 31,8 tỷ
USD, tăng 53,4% so với năm 2016 chủ yếu do trong năm Tập đoàn SamSung
mở rộng đầu tư sản xuất tại Việt Nam nên nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị
và linh kiện phục vụ gia công lắp ráp tăng cao; Trung Quốc ở vị trí thứ hai với
mức nhập siêu 23,2 tỷ USD, giảm 17,4%; nhập siêu từ ASEAN là 6,3 tỷ USD,
giảm 6%. Hai thị trường vẫn giữ được mức xuất siêu là Hoa Kỳ với 32,4 tỷ
USD, tăng 9% so với năm 2016; EU là 26,3 tỷ USD, tăng 15%. Năm 2017 cũng
ghi nhận một kỷ lục mới của xuất nhập khẩu Việt Nam khi tổng mức lưu chuyển
hàng hóa xuất, nhập khẩu vượt mốc 400 tỷ USD.
24
Ước tính xuất siêu 200 triệu USD.
24
c. Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ năm 2017 ước tính đạt 13,1 tỷ USD, tăng 7%
so với năm 2016, trong đó xuất khẩu dịch vụ du lịch đạt 8,9 tỷ USD, chiếm
67,6% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 7,4%; dịch vụ vận tải 2,6 tỷ USD,
chiếm 19,7% và tăng 5,7%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ năm 2017 ước tính
đạt 17 tỷ USD, tăng 1,6% so với năm trước, trong đó nhập khẩu dịch vụ vận tải
đạt 8,2 tỷ USD, chiếm 47,9% tổng kim ngạch nhập khẩu và giảm 2,8%; dịch vụ
du lịch đạt 5,1 tỷ USD, chiếm 29,8% và tăng 12,7%. Nhập siêu dịch vụ năm
2017 là 3,9 tỷ USD, bằng 29,9% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
5. Chỉ số giá
a. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2017 tăng 0,21% so với tháng trước,
trong đó nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 2,55% (dịch vụ y tế tăng
3,30%) do trong tháng có 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương điều chỉnh
tăng giá dịch vụ y tế (tác động làm CPI chung tăng khoảng 0,13%). Nhóm giao
thông tăng 0,84%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,43% do nhu cầu mua sắm
hàng mùa đông tăng lên; đồ uống và thuốc lá tăng 0,17%; nhà ở và vật liệu xây
dựng tăng 0,22% do giá gas, giá dầu hỏa và giá điện, nước sinh hoạt được điều
chỉnh tăng, cùng với nhu cầu sửa chữa nhà ở tăng cao trong những tháng cuối
năm. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,17%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng
0,12%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,03%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ
có chỉ số giá giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,23%, trong đó lương
thực tăng 0,56%, thực phẩm giảm 0,5%; bưu chính viễn thông giảm 0,03%.
Riêng nhóm giáo dục giá không đổi so với tháng trước.
CPI bình quân năm 2017 tăng 3,53% so với bình quân năm 2016, dưới mục
tiêu Quốc hội đề ra. CPI tháng 12/2017 tăng 2,6% so với tháng 12/2016, bình
quân mỗi tháng tăng 0,21%. CPI bình quân năm 2017 tăng do một số nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Các địa phương điều chỉnh giá dịch vụ y tế, dịch vụ khám chữa bệnh theo
Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC và Thông tư số 02/2017/TT-
BYT. Tính đến ngày 20/12/2017 đa co 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
điêu chinh gia dich vu kham bênh , chưa bênh đôi vơi ngươi khôn g co the bao
hiêm y tê25
làm cho CPI tháng Mười Hai tăng khoảng 1,35% so vơi tháng
12/2016; CPI bình quân năm 2017 tăng 2,04% so vơi năm 2016.
25
Giá các mặt hàng dịch vụ y tế tháng 12/2017 tăng 37,30% so vơi cuôi năm 2016; bình quân cả năm tăng 57,91%.
25
- Thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP làm
chỉ số giá nhóm giáo dục tháng 12/2017 tăng 7,29% so với tháng 12/2016, tác
động làm CPI tháng 12/2017 tăng 0,41% so với cuối năm 2016, CPI bình quân
năm 2017 tăng khoảng 0,5% so vơi năm 2016.
- Việc tăng lương tối thiếu vùng áp dụng cho người lao động ở các doanh
nghiệp từ ngày 1/1/2017 và mức lương cơ sở áp dụng cho cán bộ, công chức, viên
chức và lực lượng vũ trang từ ngày 1/7/2017 làm giá bình quân một số loại dịch
vụ như sửa chữa đồ dùng gia đình, bảo dưỡng nhà ở, dịch vụ điện, nước, dịch vụ
thuê người giúp việc gia đình năm 2017 tăng từ 3%-8% so với năm 2016.
- Ngoài ra còn một số yếu tố về thị trường, nhu cầu du lịch tăng, một số địa
phương bị ảnh hưởng thiên tai, thời tiết bất lợi cũng làm CPI năm nay tăng so
với năm 2016.
Bên cạnh đó, có một số yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI năm
2017, trong đó chỉ số giá nhóm thực phẩm bình quân năm giảm 2,6% so vơi năm
2016 (chủ yếu giảm ở nhóm thịt tươi sống); các cấp, các ngành tích cực triển khai
các biện pháp bình ổn giá cả thị trường trong dịp Tết Nguyên Đán; tăng cường
công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, tổ chức các đoàn công tác liên ngành
kiểm tra tình hình triển khai thực hiện công tác quản lý bình ổn giá tại một số địa
phương. Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách
tiền tệ kiên định mục tiêu giữ ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
Lạm phát cơ bản tháng 12/2017 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng
1,29% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2017 tăng
1,41% so với bình quân năm 2016.
b. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng
tháng 12/2017giảm 0,12% so với tháng trước; tăng 4,74% so với cùng kỳ năm
2016; bình quân năm 2017 tăng 3,71% so với năm 2016. Chỉ số giá đô la Mỹ
tháng 12/2017 tăng 0,02% so với tháng trước và giảm 0,05% so với cùng kỳ
năm 2016; bình quân năm 2017 tăng 1,40% so với năm 2016.
c. Chỉ số giá sản xuất
Chỉ số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý IV tăng 2,14% so với
quý trước và giảm 1,17% so với cùng kỳ năm 2016. Tính chung năm 2017, chỉ
sô gia san xuât nông , lâm nghiêp va thuy san tăng 0,24% so vơi năm trươc ,
trong đó chỉ số gia sản xuất nông nghiêp giảm 1,85%; lâm nghiêp tăng 4,19%;
thủy sản tăng 6,37%.
26
Chỉ số giá sản xuất công nghiệp quý IV tăng 1,48% so với quý trước và
tăng 3,47% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2017, chỉ số giá sản xuất
công nghiêp tăng 2,82% so vơi năm trước, trong đó chi sô gia sản xuất san phâm
khai khoang tăng 10,12%; sản phẩm công nghiệp chế biến , chế tạo tăng 2,14%;
điên, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 4,23%; nước
sạch, nước thải, xử lý nước thải, rác thải tăng 1,42%.
Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý IV tăng
0,95% so với quý III và tăng 2,77% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm
2017, chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 1,14%
so với năm trước, trong đó chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu sử dụng
cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 1,57%; sử dụng cho sản xuất
công nghiệp tăng 0,66%; sử dụng cho xây dựng tăng 5,61%.
Chỉ số giá cước vận tải quý IV năm nay giảm 0,51% so với quý trước và
tăng 2,22% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2017, chỉ sô gia cươc
vân tai , kho bai tăng 2,15% so vơi năm 2016, trong đó giá cước vận tải đường
sắt giảm 6,13%; giá cước vận tải đường bộ và xe buýt tăng 0,64%; đường thủy
tăng 0,56%; giá cước vận tải đường hàng không tăng 5,48%; dịch vụ kho bãi và
các dịch vụ hỗ trợ vận tải tăng 1,80%.
Chỉ số giá dịch vụ quý IV tăng 0,36% so với quý trước và tăng 3,24% so
với cùng kỳ năm 2016. Tính chung năm 2017, chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng
3,63% so với năm trước, trong đó chỉ số giá sản xuất dịch vụ của một số ngành
như sau: ngành y tế và trợ giúp xã hội tăng 27,20%; giáo dục và đào tạo tăng
6,89%; nghệ thuật vui chơi và giải trí tăng 2,94%; dịch vụ lưu trú và ăn uống
tăng 2,77%.
d. Chỉ số giá xuất, nhâp khẩu hang hoa
Chỉ số giá xuất khẩu quý IV tăng 0,80% so với quý trước và tăng 0,36% so
với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2017, chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa
tăng 2,93% so với năm trước, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm
tăng 5,83%; nhóm nhiên liệu tăng 23,76%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo
tăng 1,04%. Chỉ số giá xuất khẩu năm 2017 của một số mặt hàng như sau: Cao
su tăng 32,7%; dầu thô tăng 26,31%; xăng dầu tăng 25,74%; cà phê tăng
20,42%; sắt, thép tăng 5,86%; điện thoại và thiết bị di động tăng 5,31%; hạt tiêu
giảm 20,53%.
Chỉ số giá nhập khẩu quý IV tăng 0,51% so với quý trước và tăng 1,87% so
với cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2017, chỉ số giá nhập khẩu tăng 2,57%
so với năm 2016, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng
27
1,55%; nhóm nhiên liệu tăng 17,70%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo tăng
1,29%. Chỉ số giá nhập khẩu năm 2017 của một số mặt hàng như sau: Cao su
nguyên liệu tăng 27,27%; xăng dầu tăng 19,90%; khí đốt hóa lỏng tăng 17,60%;
kim loại thường khác tăng 12,33%; sắt, thép tăng 10,31%; máy vi tính, sản
phẩm điện tử và linh kiện tăng 2,60%; gỗ và sản phẩm từ gỗ giảm 0,54%.
Tỷ giá thương mại hàng hóa26
quý IV tăng 0,29% so với quý trước và giảm
1,49% so với cùng kỳ năm 2016. Tính chung năm 2017, tỷ giá thương mại hàng
hóa tăng 0,35% so với năm trước, trong đó tỷ giá thương mại hàng hóa của hàng
điện thoại và linh kiện tăng 14,25%; xăng dầu tăng 4,87%; hóa chất giảm
4,13%; sắt, thép giảm 4,03%.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Dân số, lao động và việc làm
Dân số trung bình năm 2017 của cả nước ước tính 93,7 triệu người, tăng
987,3 nghìn người, tương đương tăng 1,07% so với năm 2016, bao gồm dân số
thành thị 32,9 triệu người, chiếm 35,1%; dân số nông thôn 60,8 triệu người,
chiếm 64,9%; dân số nam 46,2 triệu người, chiếm 49,3%; dân số nữ 47,5 triệu
người, chiếm 50,7%.
Theo kết quả Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình năm 2017,
tổng tỷ suất sinh năm nay ước tính đạt 2,04 con/phụ nữ và ở dưới mức sinh thay
thế. Tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh là 112,4 bé trai/100 bé gái; tỷ suất sinh
thô là 14,71‰; tỷ suất chết thô là 6,84‰. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi (số
trẻ em dưới 1 tuổi tử vong/1.000 trẻ sinh ra sống) là 14,35‰. Tỷ suất chết của trẻ
em dưới 5 tuổi (số trẻ em dưới 5 tuổi tử vong/1.000 trẻ sinh ra sống) là 21,55‰.
Tỷ suất chết ở mức thấp thể hiện rõ hiệu quả của chương trình chăm sóc sức khỏe
bà mẹ và trẻ em nói riêng và công tác bảo vệ sức khỏe, nâng cao mức sống cho
người dân nói chung trong thời gian qua. Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước
năm 2017 là 73,5 năm, trong đó nam là 70,9 năm và nữ là 76,2 năm.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước năm 2017 ước tính là
54,8 triệu người, tăng 394,9 nghìn người so với năm 2016, bao gồm: Lao động
nam 28,4 triệu người, chiếm 51,9%; lao động nữ 26,4 triệu người, chiếm 48,1%.
Xét theo khu vực, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 17,6
triệu người, chiếm 32,2%; khu vực nông thôn là 37,2 triệu người, chiếm 67,8%.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của cả nước năm 2017 ước tính
48,2 triệu người, tăng 511 nghìn người so với năm trước, trong đó lao động nam
26
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
28
26,1 triệu người, chiếm 54,1%; lao động nữ 22,1 triệu người, chiếm 45,9%. Lực
lượng lao động trong độ tuổi lao động khu vực thành thị là 16,1 triệu người,
chiếm 33,4%; khu vực nông thôn là 32,1 triệu người, chiếm 66,6%.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2017
ước tính 53,7 triệu người, tăng 416,1 nghìn người so với năm 2016. Trong tổng
số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2017, khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản chiếm 40,3% (Năm 2016 là 41,9%); khu vực công nghiệp và
xây dựng chiếm 25,7% (Năm 2016 là 24,7%); khu vực dịch vụ chiếm 34,0%
(Năm 2016 là 33,4%). Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2017 khu
vực thành thị chiếm 31,9% (Năm 2016 là 31,7%); khu vực nông thôn chiếm
68,1% (Năm 2016 là 68,3%). Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo năm
2017 ước tính đạt 21,5%, cao hơn mức 20,6% của năm trước.
Số người có việc làm trong quý I năm nay ước tính là 53,4 triệu người, tăng
74,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; quý II là 53,4 triệu người, tăng
164,3 nghìn người; quý III là 53,8 triệu người, tăng 496,9 nghìn người; quý IV
là 54,1 triệu người, tăng 671,8 nghìn người.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2017 là 2,24% (Năm 2016
là 2,30%; năm 2015 là 2,33%), trong đó khu vực thành thị là 3,18% (Năm 2016 là
3,23%; năm 2015 là 3,37%); khu vực nông thôn là 1,78% (Năm 2016 là 1,84%;
năm 2015 là 1,82%). Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (Từ 15-24 tuổi) năm 2017
là 7,51%, trong đó khu vực thành thị là 11,75%; khu vực nông thôn là 5,87%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2017 là
1,63%, thấp hơn mức 1,66% của năm 2016 và 1,89% của năm 2015, trong đó
khu vực thành thị là 0,85% (Năm 2016 là 0,73%; năm 2015 là 0,84%); khu vực
nông thôn là 2,07% (Năm 2016 là 2,12%; năm 2015 là 2,39%).
Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp27
năm 2017 ước
tính là 57% (Năm 2016 là 57,2%; năm 2015 là 58,3%), trong đó khu vực thành
thị là 48,5%; khu vực nông thôn là 64,4%.
2. Năng suất lao động
Năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2017 ước tính
đạt 93,2 triệu đồng/lao động (tương đương khoảng 4.159 USD/lao động). Tính
theo giá so sánh năm 2010, năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2017 tăng
6% so với năm 2016, bình quân giai đoạn 2011-2017 tăng 4,7%/năm. 27
Lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp bao gồm những người không làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) người làm công ăn lương thuộc khu vực chính thức không được ký hợp đồng lao động hoặc có hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực chính thức và thành viên hợp tác xã không có bảo hiểm xã hội bắt buộc; (ii) chủ cơ sở, lao động tự làm, lao động làm công ăn lương và lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực phi chính thức; (iii) lao động tự làm phục vụ nhu cầu tự tiêu dùng của hộ gia đình và lao động làm thuê trong các hộ gia đình.
29
Năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua tuy có sự cải thiện đáng kể
theo hướng tăng đều qua các năm28
và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao
trong khu vực ASEAN29
nhưng mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp
so với nhiều nước trong khu vực. Tính theo sức mua tương đương năm 2011,
năng suất lao động của Việt Nam năm 2016 đạt 9.894 USD, chỉ bằng 7,0% của
Xin-ga-po; 17,6% của Ma-lai-xi-a; 36,5% của Thái Lan; 42,3% của In-đô-nê-xi-
a; 56,7% của Phi-li-pin và bằng 87,4% NSLĐ của Lào. Đáng chú ý là chênh
lệch về NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng30
.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động của Việt Nam thấp và
còn khoảng cách xa so với các nước trong khu vực ASEAN như: Cơ cấu kinh tế
chậm chuyển dịch, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, trong khi năng
suất lao động ngành nông nghiệp ở nước ta còn thấp; máy móc, thiết bị và quy
trình công nghệ còn lạc hậu; chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động
chưa đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra, một số yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng đến
năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua như: Xuất phát điểm của nền
kinh tế thấp; trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn
nhiều bất cập; tăng trưởng chủ yếu dựa vào đóng góp của yếu tố vốn và lao
động, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) còn thấp; còn một số
“điểm nghẽn” về cải cách thể chế và thủ tục hành chính.
3. Đời sống dân cư và bảo đảm an sinh xã hội
Đời sống dân cư năm nay nhìn chung ổn định. Năm 2017, cả nước có 181,4
nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 31,7% so với năm trước, tương ứng với 746,1 nghìn
lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 32,1%. Thiếu đói năm nay giảm so với năm trước
là kết quả chỉ đạo điều hành tích cực của Đảng, Nhà nước và cố gắng của người
dân trong sản xuất như chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; mở rộng và xây
mới các khu công nghiệp, nhà máy, công trình, phát triển làng nghề để tạo thêm
công ăn việc làm... Thiếu đói tập trung chủ yếu vào các tháng đầu năm, trong đó
tháng Một có 43,6 nghìn hộ thiếu đói, tương ứng với 179,3 nghìn nhân khẩu thiếu
đói, tháng Năm có 45,8 nghìn hộ thiếu đói, tương ứng với 187,2 nghìn nhân khẩu
thiếu đói; từ tháng Sáu cho đến cuối năm, thiếu đói trong nông dân có xu hướng
28
Năng suất lao động xã hội của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2011-2017 lần lượt là: 55,2 triệu đồng/lao động; 63,1 triệu đồng/lao động; 68,7 triệu đồng/lao động; 74,7 triệu đồng/lao động; 79,4 triệu đồng/lao động; 84,5 triệu đồng/lao động; 93,2 triệu đồng/lao động.
29 Tính chung giai đoạn 10 năm 2007-2016, NSLĐ theo PPP 2011 của Việt Nam tăng trung bình hàng năm 4,2%/năm, cao hơn so với mức tăng bình quân của Xin-ga-po (1,5%/năm); Ma-lai-xi-a (1,9%/năm); Thái Lan (2,5%/năm); In-đô-nê-xi-a (3,5%/năm); Phi-li-pin tăng (2,8%/năm); Cam-pu-chia (4,1%/năm), nhưng thấp hơn Lào (5,3%/năm) và My-an-ma (14,6%/năm) (Tính toán từ nguồn số liệu WB).
30 Chênh lệch mức NSLĐ (tính theo PPP 2011) của Xin-ga-po và Việt Nam tăng từ 115.087 USD năm 2006 lên 131.333 USD năm 2016; tương tự, của Ma-lai-xi-a từ 39.806 USD lên 46.190 USD; Thái Lan từ 14.591 USD lên 17.208 USD; In-đô-nê-xi-a từ 10.100 USD lên 13.496 USD; Phi-li-pin từ 6.691 USD lên 7.561 USD; Lào từ 220 USD lên 1.422 USD (Nguồn số liệu WB).
30
giảm dần. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các
tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 22,8 nghìn tấn
lương thực và hơn 1,1 tỷ đồng. Theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho
giai đoạn 2016-202031
, tỷ lệ hộ nghèo năm 2017 ước tính 8%.
Công tác an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm thực hiện. Theo báo cáo sơ
bộ, tổng kinh phí dành cho hoạt động an sinh xã hội và giảm nghèo trong năm
2017 là 5.832 tỷ đồng, bao gồm 3.370 tỷ đồng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối
tượng chính sách; 1.759 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo và 703 tỷ đồng cứu đói,
cứu trợ xã hội khác. Bên cạnh đó, đã có gần 17 triệu thẻ bảo hiểm y tế, sổ/thẻ
khám chữa bệnh miễn phí được phát tặng cho các đối tượng chính sách trên địa
bàn cả nước.
4. Giáo dục, đào tạo
Tính đến nay, tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đạt chuẩn
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 63 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức 1 được quy
định tại Thông tư 36 của Bộ Giáo dục, trong đó có 12 địa phương được công
nhận chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ 2.
Năm học 2017-2018, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên; trong đó
gần 5,2 triệu trẻ em bậc mầm non (0,7 triệu trẻ em đi nhà trẻ và 4,5 triệu trẻ em
đi học mẫu giáo); 7,8 triệu học sinh tiểu học; 5,5 triệu học sinh trung học cơ sở;
2,4 triệu học sinh trung học phổ thông và 1,8 triệu sinh viên cao đẳng, đại học.
Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng đa
dạng về loại hình đào tạo và mô hình hoạt động. Hiện nay, cả nước có 1.974 cơ
sở giáo dục nghề nghiệp, bao gồm 388 trường cao đẳng, 551 trường trung cấp và
1.035 trung tâm giáo dục thường xuyên. Đào tạo nghề tính đến cuối năm nay đã
tuyển mới được 2.090 nghìn người, trong đó trình độ cao đẳng, trung cấp tuyển
sinh được 540 nghìn người; trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng tuyển sinh
được 1.550 nghìn người. Bên cạnh đó, trong năm 2017 đã có khoảng 600 nghìn
lao động nông thôn và 19 nghìn người khuyết tật được hỗ trợ đào tạo nghề theo
Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020. Học sinh tốt nghiệp
trung học cơ sở và trung học phổ thông chuyển sang học nghề hiện nay còn
31
Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 như sau:
- Hộ nghèo khu vực nông thôn là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí: (1) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống và (2) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03/10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên;
- Hộ nghèo khu vực thành thị là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí: (1) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống và (2) Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03/10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
31
chiếm tỷ lệ thấp. Năm 2017, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào
đại học, cao đẳng là 50%; vào cao đẳng nghề và trung cấp chuyên nghiệp là
23%; học nghề tại trung tâm đào tạo nghề là 13%.
5. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng 12/2017, cả nước có 12,1 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất
huyết; 7,8 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 42 trường hợp mắc bệnh
thương hàn; 40 trương hơp mắc bệnh viêm não vi rút (3 trường hợp tử vong); 2
trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu; 5 trường hợp mắc bệnh ho
gà; 7 trường hợp nhiễm liên cầu lợn ở người (1 trường hợp tử vong); 4 trường
hợp mắc viêm não Nhật Bản (1 trường hợp tử vong). Tính chung năm 2017, cả
nước có 175,8 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (38 trường hợp tử
vong); gần 102,7 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 630 trường hợp
mắc bệnh thương hàn; 720 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (26 trường hợp
tử vong); 53 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (3 trường hợp
tử vong); 653 trường hợp mắc bệnh ho gà (5 trường hợp tử vong); 204 trường
hợp nhiễm liên cầu lợn ở người (17 trường hợp tử vong); 327 trường hợp mắc
viêm não Nhật Bản (16 trường hợp tử vong); 39 trường hợp nhiễm vi rút Zika;
19 trường hợp mắc bệnh bạch hầu (5 trường hợp tử vong); 62 trường hợp tử
vong do bệnh dại.
Tính đến thời điểm 17/12/2017, tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện
còn sống là 209,4 nghìn người và số trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS
là 90,1 nghìn người; số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời
điểm trên là 94,6 nghìn người.
Về ngộ độc thực phẩm, trong tháng đã xảy ra 9 vụ với 205 người bị ngộ
độc. Tính chung năm 2017, trên địa bàn cả nước xảy ra 111 vụ ngộ độc thực
phẩm, làm 3.374 người bị ngộ độc, trong đó 22 trường hợp tử vong.
6. Hoạt động văn hóa và thể dục thể thao
Hoạt động văn hóa năm 2017 tập trung chào mừng các ngày Lễ lớn, các sự
kiện trọng đại của đất nước với nhiều hình thức, bảo đảm thiết thực, hiệu quả và
tiết kiệm, tạo không khí phấn khởi trong nhân dân. Trong năm diễn ra nhiều hoạt
động nổi bật, như Tuần lễ Cấp cao APEC 2017 tại Đà Nẵng, Festival Di sản
Quảng Nam lần thứ VI; Triển lãm Telefilm 2017 tại thành phố Hồ Chí Minh;
Festival Đờn ca tài tử quốc gia lần thứ II tại Bình Dương; Lễ hội pháo hoa quốc
tế Đà Nẵng. Năm 2017 nghệ thuật Bài Chòi được công nhận là di sản văn hóa
phi vật thể nhân loại; hát Xoan Phú Thọ đã chính thức được UNESCO đưa ra
khỏi Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp và ghi danh tại
Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tính đến thời điểm
32
này, Việt Nam có 12 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại được UNESCO
công nhận. Các hoạt động Lễ hội trong năm được diễn ra trang trọng, an toàn,
tiết kiệm; lễ hội có tập tục mang yếu tố bạo lực, không phù hợp với xu thế được
chuyển đổi hình thức thực hành nghi lễ.
Hoạt động thể dục, thể thao quần chúng tiếp tục đẩy mạnh gắn với triển
khai thực hiện cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ
vĩ đại”. Ngành thể thao đã tập trung đào tạo, tập huấn lực lượng, thi đấu giành
thành tích xuất sắc trên các đấu trường thể thao quốc tế.
Trong thể thao thành tích cao, năm 2017 Việt Nam đạt nhiều kết quả nổi
bật. Tính đến 30/11/2017, thể thao Việt Nam đã giành được 1.045 huy chương
trong các giải đấu quốc tế, trong đó 425 huy chương vàng, 301 huy chương bạc,
319 huy chương đồng. Tại SEA Games 29, Đoàn Thể thao Việt Nam thi đấu
xuất sắc giành 168 huy chương các loại (58 huy chương vàng, 50 huy chương
bạc và 60 huy chương đồng), xếp thứ 3/11 quốc gia tham dự.
7. Tai nạn giao thông
Trong tháng Mười Hai (từ 16/11 đến 15/12), trên địa bàn cả nước đã xảy ra
1.563 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 765 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng
trở lên và 798 vụ va chạm giao thông, làm 699 người chết; 401 người bị thương
và 873 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông
tháng 12/2017 giảm 7,8% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên
giảm 8,2% và số vụ va chạm giao thông giảm 7,5%); số người chết giảm 3,1%; số
người bị thương tăng 85,6% và số người bị thương nhẹ giảm 8,6%.
Tính chung năm 2017, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 20.280 vụ tai nạn
giao thông, bao gồm 9.770 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và
10.310 vụ va chạm giao thông, làm 8.279 người chết; 5.587 người bị thương và
11.453 người bị thương nhẹ. So với năm trước, số vụ tai nạn giao thông năm nay
giảm 7% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 5,6%; số vụ
va chạm giao thông giảm 8,3%); số người chết giảm 4,7%; số người bị thương
giảm 9,6% và số người bị thương nhẹ giảm 12,6%. Như vậy, vấn đề an toàn
giao thông đã có những chuyển biến tích cực, giảm trên cả ba tiêu chí số vụ, số
người chết và số người bị thương. Trong tổng số 9.770 vụ tai nạn giao thông từ
ít nghiêm trọng trở lên, có 9.488 vụ (chiếm 97,1%) xảy ra trên đường bộ, làm
8.089 người chết và 5.517 người bị thương; tai nạn giao thông đường sắt có 164
vụ, làm 133 người chết và 50 người bị thương; tai nạn giao thông đường thủy và
hàng hải có 118 vụ, làm 57 người chết và 20 người bị thương. Bình quân 1 ngày
trong năm 2017, trên địa bàn cả nước xảy ra 55 vụ tai nạn giao thông, gồm 27
vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 28 vụ va chạm giao thông,
làm 23 người chết, 15 người bị thương và 32 người bị thương nhẹ.
33
8. Thiệt hại do thiên tai
Do chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai ở nước ta trong những
năm vừa qua diễn ra ngày càng phức tạp, bão, lũ, lốc xoáy, mưa lớn, ngập lụt, hạn
hán đang gia tăng về cường độ, tần suất, gây tổn thất lớn về người và tài sản. Năm
2017 được đánh giá là năm của mưa, bão, lũ, thiên tai diễn ra ở hầu hết các miền
trên cả nước, trong 6 tháng cuối năm đã xuất hiện liên tục tới 16 cơn bão và 7 áp
thấp nhiệt đới trên biển đông. Trong đó, cơn bão số 10 và 12 đổ bộ trực tiếp vào
các tỉnh miền Trung là hai cơn bão mạnh nhất trong vòng 30 năm trở lại đây.
Riêng cơn bão số 12 đã làm 123 người chết và mất tích, 342 người bị thương, giá
trị tài sản thiệt hại lên tới 22,6 nghìn tỷ đồng. Mưa đá, lốc xoáy liên tục trong
những tháng đầu năm, mưa lớn kéo dài trong những tháng cuối năm gây ngập lụt
ở nhiều địa phương. Mưa lớn trái mùa xảy ra vào giữa tháng 10 khiến các hồ chứa
phải xả lũ khẩn cấp, gây lũ quét, sạt lở đất nghiêm trọng. Riêng đợt mưa lũ từ 10-
14/10/2017 tại các tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đã làm chết và mất tích hơn 100
người, bị thương 42 người, thiệt hại về tài sản 13 nghìn tỷ đồng.
Tính chung cả năm 2017, thiên tai làm 389 người chết, mất tích và 668
người bị thương, trong đó Yên Bái 53 người chết, mất tích và 32 người bị
thương; Khánh Hòa 47 người chết, mất tích và 229 người bị thương. Diện tích
lúa bị ngập, bị hư hỏng gần 234 nghìn ha, Nam Định và Thái Bình là hai địa
phương có diện tích lúa bị ngập và hư hỏng nhiều nhất, tương ứng với 65,7
nghìn ha và 48 nghìn ha; diện tích hoa màu bị ngập, bị hư hỏng hơn 130,6 nghìn
ha. Số nhà sập đổ, cuốn trôi là 8.312, gấp hơn 1,5 lần so với năm 2016 và 588,1
nghìn nhà sạt lở, tốc mái, ngập nước, gấp 1,6 lần. Tổng giá trị thiệt hại do thiên
tai năm 2017 ước tính 60 nghìn tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với năm 2016, trong đó
Khánh Hòa là địa phương chịu thiệt hại nhiều nhất với 14,7 nghìn tỷ đồng,
Quảng Bình gần 8 nghìn tỷ đồng; Hà Tĩnh 7,5 nghìn tỷ đồng.
Để chủ động ứng phó với các tình huống thiên tai, lãnh đạo Trung ương địa
phương đã triển khai kịp thời, hiệu quả các biện pháp ứng phó thiên tai, thực hiện
tốt phương châm “4 tại chỗ” không để bị động, bất ngờ. Trước các đợt thiên tai
lớn, Thủ tướng Chính phủ đã có công điện khẩn gửi các bộ, ngành các cấp, địa
phương yêu cầu theo dõi sát diễn biến tình hình thiên tai để có các biện pháp kịp
thời phòng chống lũ, sạt lở, hộ đê và cứu hộ đê khi cần thiết, đồng thời đã huy
động cả bộ máy chính trị vào cuộc, phân công các đồng chí cấp ủy phụ trách các
địa phương để chỉ đạo kịp thời, góp phần giảm thiểu thiệt hại. Đến cuối tháng 11,
các lực lượng chức năng đã chuyển đến những khu vực bị ảnh hưởng 607,1 nghìn
liều vaccine, 85 nghìn lít và 240 tấn hóa chất khử trùng. Chính phủ đã cấp hỗ trợ
các địa phương 696 tấn lúa giống, 205 tấn ngô giống, 7 tấn rau giống. Ngoài ra,
Chính phủ hỗ trợ 1.000 tỷ đồng cho 10 địa phương khắc phục thiệt hại bão lũ.
Tính chung năm 2017, Chính phủ đã hỗ trợ hơn 14,6 nghìn tấn gạo cho các địa
phương để khắc phục hậu quả thiên tai.
34
9. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ
Trong tháng 12/2017, cơ quan chức năng đã phát hiện 807 vụ vi phạm quy
định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó xử lý 622 vụ với tổng số tiền phạt
16,3 tỷ đồng. Tính chung năm 2017 đã phát hiện 16.742 vụ vi phạm quy định về
bảo đảm vệ sinh môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 13.943 vụ với
tổng số tiền phạt hơn 211 tỷ đồng. Các địa phương có số vụ vi phạm môi trường
bị phát hiện nhiều nhất là Hà Nội với 7.961 vụ và Trà Vinh 1.130 vụ.
Trong tháng Mười Hai, cả nước xảy ra 287 vụ cháy, nổ, làm 9 người chết
và 20 người bị thương, thiệt hại ước tính 52,3 tỷ đồng. Tính chung năm 2017,
trên địa bàn cả nước xảy ra 4.114 vụ cháy, nổ, làm 119 người chết và 270 người
bị thương, thiệt hại ước tính khoảng 2 nghìn tỷ đồng.
Khái quát lại, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng với nỗ lực của
cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, sự chỉ đạo, điều hành hiệu
quả, kịp thời của Chính phủ, kinh tế - xã hội nước ta năm 2017 tiếp tục chuyển
biến tích cực, đạt nhiều kết quả quan trọng. Kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát
được kiểm soát dưới mục tiêu Quốc hội đặt ra; tăng trưởng vượt mục tiêu đề ra
với chất lượng nâng lên. Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao; các ngành dịch
vụ đạt khá. Kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt mức kỷ lục mới. Môi trường đầu tư,
kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Thu hút khách quốc tế, đầu tư nước ngoài và
doanh nghiệp mới thành lập tăng mạnh. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm thấp
hơn năm trước. An sinh xã hội được quan tâm thực hiện và đạt kết quả nhất
định. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn còn những tồn tại, thách thức: Quá
trình cơ cấu lại nền kinh tế chậm; năng lực cạnh tranh còn hạn chế; giải ngân
vốn đầu tư công chậm. Thiên tai, bão lũ gây thiệt hại lớn, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sản xuất và đời sống của người dân. Ô nhiễm môi trường, an toàn, vệ
sinh thực phẩm còn diễn biến phức tạp.
Năm 2018 có ý nghĩa rất quan trọng, năm bản lề quyết định việc thực hiện
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Bên cạnh những yếu tố
thuận lợi như: Kinh tế thế giới tiếp tục xu hướng tăng trưởng ổn định; môi
trường đầu tư kinh doanh trong nước ngày càng cải thiện; kinh tế vĩ mô ổn định;
lạm phát được kiểm soát..., dự báo năm 2018 sẽ còn nhiều khó khăn, thách thức
tác động đến kinh tế nước ta, nhất là trong bối cảnh thế giới có những thay đổi
về địa chính trị, chính sách thương mại; tình hình biến đổi khí hậu; thiên tai,
dịch bệnh diễn biến phức tạp; tác động từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
4. Do đó, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao hiệu quả
quản trị nhà nước, cải thiện môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, cải cách thủ
tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, Chính phủ
và các Bộ, ngành cần xác định việc tạo lập và thực thi chính sách nhằm nâng cao
năng suất lao động là giải pháp quan trọng hàng đầu trong nâng cao năng lực
cạnh tranh và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Đồng thời nghiên cứu thấu
35
đáo nội hàm, phương thức vận hành của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4,
từ đó đề xuất thực hiện cụ thể vào một số lĩnh vực ở một số địa phương để Việt
Nam hòa chung vào dòng chảy của cách mạng công nghiệp trên thế giới.
Trước mắt, để hoàn thành tốt mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội
năm 2018 đã được Quốc hội thông qua, trong đó: GDP tăng 6,5%-6,7%, tốc độ
tăng giá tiêu dùng bình quân khoảng 4%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng
7%-8%..., các cấp, các ngành và địa phương phải nhận thức đúng và đầy đủ
những khó khăn, thách thức phía trước để kịp thời có các giải pháp khắc phục
ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm 2018, trong đó tập trung vào những
nội dung chủ yếu sau:
Một là, điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt góp phần ổn định
thị trường tiền tệ, hỗ trợ tăng trưởng và kiểm soát lạm phát. Tăng trưởng tín
dụng hợp lý, trong đó tập trung tín dụng cho các lĩnh vực ưu tiên như nông
nghiệp, nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, xuất khẩu, doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa; kiểm soát tín dụng ở một số ngành, lĩnh vực
tiềm ẩn rủi ro.
Hai là, tăng cường kỷ luật tài chính, thực hiện nghiêm các luật thuế, phí và
lệ phí; cải cách thủ tục hành chính về thuế; đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp
thời. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, chống thất thu, chuyển giá, gian lận thương
mại và nợ đọng thuế. Giám sát chặt chẽ các khoản chi từ ngân sách Nhà nước,
triệt để tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nhất là kinh phí hội nghị, tiếp khách, đi
công tác nước ngoài, sử dụng xe công.
Ba là, triển khai nhanh công tác phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư công.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn này ngay từ những tháng
đầu năm, nhất là các công trình hạ tầng bị thiệt hại do thiên tai, các dự án lớn, dự
án quan trọng, chương trình mục tiêu quốc gia, đảm bảo thực hiện và giải ngân
hết nguồn vốn đầu tư công được giao năm 2018. Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra nhằm đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công đúng mục đích,
hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng; không để xảy ra tình trạng nợ
đọng xây dựng cơ bản. Có giải pháp khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân
trở thành động lực tăng trưởng của nền kinh tế trong những năm tới. Thúc đẩy
thị trường bất động sản phát triển bền vững, đảm bảo công khai, minh bạch;
khuyến khích phát triển nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp.
Bốn là, chủ động bám sát diễn biến thời tiết để hạn chế tối đa ảnh hưởng
của thiên tai, bão, lũ tới sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản; có phương
án chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xâm nhập mặn.
Tiếp tục thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản phẩm phù hợp với lợi thế,
nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chuyển đổi diện tích đất lúa
kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả, cây công nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh liên kết sản xuất với chế
36
biến và tiêu thụ sản phẩm. Kiểm soát tốt dịch bệnh, tăng cường các biện pháp
giám sát bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, đặc biệt phải loại bỏ việc sử dụng
chất cấm trong chăn nuôi; mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nông sản cả trong
nước và ngoài nước.
Năm là, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; công
nghiệp chế biến sâu, phục vụ nông nghiệp; công nghiệp sản xuất nguyên liệu
đầu vào cung cấp cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài và gắn với
liên kết chuỗi giá trị của các tập đoàn đa quốc gia. Tập trung phát triển các
ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistics, du lịch.
Tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch, có chính sách, biện pháp thu hút hiệu
quả khách du lịch quốc tế, nhất là khách đến từ các thị trường có mức chi tiêu
cao, lưu trú dài ngày tại Việt Nam.
Sáu là, khuyến khích nhu cầu tiêu dùng trong nước, tăng khả năng cạnh
tranh của hàng hóa trong nước đối với hàng nhập khẩu, góp phần duy trì tăng
trưởng công nghiệp chế biến, chế tạo. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tăng
cường xuất khẩu thông qua việc chuẩn bị các nguồn hàng đảm bảo yêu cầu về
chất lượng, mẫu mã, vệ sinh an toàn thực phẩm để xuất sang các thị trường đã
ký kết Hiệp định thương mại tự do. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, nhất là nhập
khẩu tiểu ngạch và các hoạt động tạm nhập, tái xuất hàng nông sản. Nâng cao
hiệu quả công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng
nhái, hàng giả, kém chất lượng để bảo vệ sản xuất trong nước và quyền lợi của
người tiêu dùng. Xây dựng lộ trình và phạm vi điều chỉnh giá các hàng hóa, dịch
vụ do Nhà nước quản lý giá, bảo đảm không ảnh hưởng lớn đến mặt bằng giá và
phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2018.
Bảy là, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, chính
sách đối với người có công với cách mạng, trước mắt là trong dịp Tết Nguyên
đán Mậu Tuất 2018, đảm bảo kịp thời, đúng đối tượng. Tiếp tục thực hiện có
hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; công tác trợ
giúp đột xuất, bảo đảm người dân khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời,
sớm ổn định đời sống, khôi phục sản xuất./.
TỔNG CỤC THỐNG KÊ