Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
Thống đốc NHNN vừa ban hành Thông tư
số 20/2018/TT-NHNN quy định về giám sát
các hệ thống thanh toán nhằm tăng cường
hoạt động giám sát của NHNN đối với các hệ
thống thanh toán quan trọng. Mục tiêu giám
sát các hệ thống thanh toán quan trọng bao
gồm đảm bảo an toàn, ổn định và hiệu quả
của các hệ thống quan trọng, đảm bảo việc
tuân thủ quy định pháp luật có liên quan đến
các hệ thống thanh toán quan trọng, phát hiện
kịp thời và cảnh báo tổ chức vận hành nhằm
giảm thiểu các rủi ro phát sinh trong quá trình
vận hành hệ thống toán, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của khách hàng sử dụng dịch vụ
thanh toán, tăng cường niềm tin của khách
hàng vào các dịch vụ thanh toán.
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 05/09)
VN - Index 968,44 0,77%
HNX - Index 110,47 0,68%
D.JONES CK Mỹ 25.974,99 0,09%
STOXX CK C.Âu 3.315,62 1,30%
CSI 300 CK TQ 3.298,14 1,95%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 06/09)
SJC Ng.đ/L 36,770 0,16%
Quốc tế USD/Oz 1194,9 0,18%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.688 - 0,00%
EUR/USD 1,1648 0,54%
Dầu
WTI USD/th 68,49 1,31%
6
Thứ Năm, ngày 06/09/2018
Tin nổi bật
Tăng cường giám sát các hệ thống thanh
toán quan trọng
UBS: Thị trường vốn Việt Nam sẽ tăng
trưởng đáng kể trong 5 năm tới
Có nên cấm cho vay USD?
Lên kịch bản cho nợ công
World Bank: Việt Nam là một trong những
quốc gia đi đầu về thu hút vốn FDI
Thâm hụt thương mại Mỹ tăng mạnh nhất
trong 3 năm
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Tăng cường giám sát các hệ
thống thanh toán quan trọng
Thống đốc NHNN vừa ban hành Thông tư số 20/2018/TT-NHNN quy
định về giám sát các hệ thống thanh toán nhằm tăng cường hoạt động
giám sát của NHNN đối với các hệ thống thanh toán quan trọng. Theo
đó, các hệ thống thanh toán quan trọng quy định tại Thông tư 20 gồm:
hệ thống thanh toán điện tử liên NH quốc gia, hệ thống thanh toán
ngoại tệ (do NH Vietcombank vận hành), hệ thống thanh toán tiền giao
dịch CK, hệ thống bù trừ, chuyển mạch giao dịch tài chính. Mục tiêu
giám sát các hệ thống thanh toán quan trọng bao gồm đảm bảo an
toàn, ổn định và hiệu quả của các hệ thống quan trọng, đảm bảo việc
tuân thủ quy định pháp luật có liên quan đến các hệ thống thanh toán
quan trọng, phát hiện kịp thời và cảnh báo tổ chức vận hành nhằm giảm
thiểu các rủi ro phát sinh trong quá trình vận hành hệ thống toán, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán,
tăng cường niềm tin của khách hàng vào các dịch vụ thanh toán. Các
hoạt động giám sát bao gồm theo dõi hoạt động của hệ thống thanh
toán quan trọng, đánh giá hệ thống thanh toán quan trọng, cảnh báo
khuyến nghị đối với các tổ chức vận hành hệ thống thanh toán quan
trọng; trong đó, hướng dẫn về nguồn thông tin, tài liệu, dữ liệu; cách
thức so sánh kiểm tra, tổng hợp, phân tích các thông tin tài liệu, dữ liệu,
các định kỳ mà đơn vị giám sát thực hiện đánh giá và xây dựng báo cáo
giám sát các hệ thống thanh toán và các trường hợp đưa ra cảnh báo,
khuyến nghị. Ngoài ra, Thông tư 20 cũng quy định về nội dung giám sát
đối với từng hệ thống thanh toán quan trọng như tình hình hoạt động
của hệ thống thanh toán, rủi ro phát sinh và quản trị rủi ro của hệ thống
thanh toán. Các nội dung giám sát đối với từng hệ thống thanh toán
quan trọng (tương ứng với các hoạt động giám sát) gồm: Tình hình hoạt
động của hệ thống thanh toán quan trọng; tình hình rủi ro phát sinh và
quản trị rủi ro của hệ thống thanh toán quan trọng; việc tuân thủ các
quy định pháp luật liên quan đến quản lý, vận hành hệ thống thanh toán
quan trọng; và những thay đổi trong hoạt động của hệ thống thanh toán
quan trọng. Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019.
Tài chính – Ngân hàng
3
UBS: Thị trường vốn VN sẽ tăng
trưởng đáng kể trong 5 năm tới
Bộ phận đầu tư của NH Thụy Sỹ UBS vừa ra báo cáo chiến lược đánh
giá thị trường CK VN với chủ đề “Bước tiến xa hơn của thị trường tài
chính VN”. Báo cáo UBS nhận định, thị trường vốn VN hiện mới chỉ ở
giai đoạn đầu phát triển (Vietnamese capital markets are still at a very early
stage of development). Trong 5 năm tới, thị trường tài chính VN sẽ tăng
trưởng đáng kể. VN vẫn là quốc gia duy nhất trong KV (ngoại trừ TQ)
phụ thuộc quá nhiều vào tín dụng NH khi dư nợ tại KV này vượt tổng giá
trị trái phiếu niêm yết và cổ phiếu lưu hành. Để VN bắt kịp mức trung
bình tại Đông Á vào năm 2023, UBS ước tính tổng giá trị trái phiếu lưu
hành cần tăng lên 200 tỷ USD (gấp 4 lần) và thị trường cổ phiếu sẽ đạt
khoảng 173 tỷ USD (100%) vào 2023. NH này cũng đưa ra dự báo Vn-
Index sẽ tăng lên 1.070 điểm vào tháng 12/2018 và 1.360 điểm vào
tháng 12/2019, #36%, dựa trên tăng trưởng EPS và lợi suất trái phiếu.
VN hiện được xếp loại là thị trường biên (FM) theo kết quả của các chỉ
số MSCI, không phải thị trường mới nổi (EM). Sự xếp loại này quan
trọng bởi các chỉ số có tính khác biệt, đánh giá nhiều khía cạnh. UBS tin
rằng VN đã đáp ứng tiêu chí quy mô và tính thanh khoản để được nâng
hạng. Chướng ngại chủ yếu hiện nay là tiêu chí tiếp cận thị trường. UBS
hy vọng Luật CK mới sẽ giải quyết một số lo ngại của MSCI, cho phép
VN có tên trong danh sách các thị trường mới nổi đáng theo dõi. UBS
cho rằng CK VN sẽ “có giá trị hơn” nhưng thị trường có thể còn biến
động cao liên quan đến chính sách của Chính phủ, những hạn chế về
thanh khoản, thông tin và dòng vốn nước ngoài tăng. TTTD tại VN
mạnh mẽ nhưng đang chậm lai, nguyên nhân có thể là chính sách thận
trọng hơn. Nhà chức trách đã hạ chỉ tiêu TTTD dù những yếu tố thái
quá như áp lực lạm phát, thâm hụt tài khoản vãng lai, chưa xuất hiện.
Do chưa có dấu hiệu về các yếu tố thái quá và tăng trưởng còn được
thúc đẩy bởi nhiều động lực khác, UBS không quá lo ngại về khả năng
TTTD giảm tác động mạnh đến tăng trưởng GDP. Theo UBS, nợ hiện
chưa phải một vấn đề với VN. Mức nợ, trong cả lĩnh vực công và tư
nhân, tương đối cao so với mức độ phát triển của VN nhưng không phải
là bất hợp lý. Mức nợ như vậy hiện khó có thể tác động đến tăng trưởng
và dường như sẽ làm chậm TTTD trước. Đồng nội tệ suy yếu có thể là
dấu hiệu cũng như nguyên nhân gây ra rắc rối KT. VND mất giá thường
xảy ra sau khi CNY của TQ chạm đáy mới. UBS tin CNY nhìn chung sẽ
ổn định tới cuối 2018, giảm xuống 6,9 CNY đổi 1 USD.
4
Nợ xấu trở lại?
NHTM CP Sài Gòn (Saigonbank) cho hay, tỷ lệ nợ xấu của NH này
chiếm đến 6,48% tổng dư nợ, với quy mô 897 tỷ đồng. Với một NH có
quy mô nhỏ như Saigonbank, quy mô nợ xấu này về tuyệt đối cũng
không lớn trên thị trường, nhưng lại quá cao về tỷ lệ tuyệt đối. Không
chỉ có Saigonbank mà nhiều NH khác cũng đối mặt với tình trạng chung
là quy mô nợ xấu đang tăng lên đáng kể. Cùng với tăng trưởng cho vay,
số dư nợ xấu tại nhiều NH tăng cao và có tới 12/17 NH có tỷ lệ nợ xấu
tăng so với cuối 2017. Thống kê số liệu từ báo cáo tài chính của 15 NH
niêm yết cho thấy tổng nợ xấu 9,8% về quy mô so với thời điểm đầu
năm. Đáng chú ý hơn, tổng số nợ nhóm 5, tức nợ có khả năng mất vốn,
tăng đến 17,9%, chiếm 54% tổng dư nợ, 2 điểm % so với hồi đầu
năm. Ở nhóm các NH niêm yết, VPBank hiện là NH có tỷ lệ nợ xấu cao,
chiếm gần 4,07% trên tổng cho vay, trong khi cùng kỳ 2017 ở mức gần
3,4%. Theo báo cáo tài chính hợp nhất, TTTD của VPBank 8,9%,
trong khi quy mô nợ xấu 30,5%. Quy mô nợ xấu đang tăng nhanh ở
nhiều NH khác. Chẳng hạn như tại SHB, mặc dù chi phí dự phòng trong
6th/2018 giảm so với cùng kỳ, nhưng quy mô nợ xấu 21,7% so với hồi
đầu năm, đẩy tỷ lệ nợ xấu của NH từ mức 2,33% cùng kỳ lên mức gần
2,7%. Tương tự ở NH Techcombank hay ACB. Nhưng con số trước đó
cho thấy tỷ lệ nợ xấu trên thị trường đang có diễn biến tích cực hơn. Tại
diễn đàn M&A VN, Chính phủ cho biết, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành đã giảm
từ mức 10,08% vào đầu 2016, giảm xuống còn 6,9% tính đến tháng
06/2018. Trong khi đó, báo cáo của Công ty CK Sài Gòn (SSI) cho biết
tỷ lệ nợ xấu “thực” (bao gồm cả nợ xấu theo báo cáo của NH, nợ xấu bán cho
VAMC và các khoản nợ tái cấu trúc), đã giảm từ mức 12,4% trong 2015, về
còn 8,4% vào 2016 và 7,5% vào 2017. Mục tiêu của Chính phủ là đưa
tỷ lệ này về mức <3% vào 2020, nhưng không bao gồm các NH “0
đồng” và các nhà băng đang có chương trình tái cấu trúc riêng. Tỷ lệ nợ
xấu tăng trở lại rõ ràng có thể làm chậm đi quá trình tái cấu trúc này.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết, để giải quyết căn bản tình
trạng nợ xấu, cần tiếp tục xử lý vấn đề sở hưu chéo, nghiêm cấm các
hành vi NH cho vay các công ty tập đoàn có chung một chủ sở hưu chi
phối, nhất là đối với các dự án đầu tư ở nước ngoài…
Có nên cấm cho vay USD?
Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng mới đây đã yêu cầu toàn ngành NH
kiểm soát chặt chẽ việc cho vay bằng ngoại tệ, giảm dần và có lộ trình
chấm dứt cho vay bằng ngoại tệ. Mục đích nhằm hạn chế việc găm giữ
5
ngoại tệ, chống đôla hóa nền KT. Để chống đôla hóa nền KT, giảm bớt
ảnh hưởng của đồng USD tới nền KT trong nước, thời gian qua NHNN
đã 2 lần ngừng cho vay ngoại tệ nhưng sau đó lại mở lại để tháo gỡ khó
khăn cho cộng đồng DN, nhất là các công ty XNK. Và ở thời điểm hiện
nay, NHNN đang duy trì cho vay ngoại tệ nhằm hỗ trợ cho các DN và
các NH vẫn nhận tiền gửi là USD để khuyến khích nguồn kiều hối gửi
về VN. Việc được vay USD với LS thấp góp phần gia tăng năng lực
cạnh tranh cho hàng hóa VN khi XK ra thế giới, nhất là trong bối cảnh tỷ
giá USD biến động khá mạnh trong thời gian gần đây. Đó là chưa kể
việc DN được vay bằng ngoại tệ cũng đóng góp một phần vào doanh
thu cho NH. Do đó, nếu NHNN chấm dứt việc cho vay bằng ngoại tệ thì
nguồn thu của nhiều NH sẽ giảm xuống. TS.Bùi Quang Tín, chuyên gia
KT, nêu quan điểm: Chống đôla hóa không có nghĩa là triệt tiêu đôla
hóa. Lý do là có rất nhiều chủ thể trong nền KT cần vay ngoại tệ để duy
trì hoạt động KD, để tăng sự cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế. Nếu khách hàng không được vay ngoại tệ sẽ phải chuyển sang
vay vốn bằng VND, trong khi LS VND chắc chắn sẽ cao hơn LS vay
USD, dẫn đến chi phí vay vốn tăng lên. Chuyên gia TCNH Nguyễn Trí
Hiếu cho rằng ở thời điểm này, việc chấm dứt cho vay ngoại tệ chưa thể
thực hiện ngay, nên kéo dài một thời gian nữa để hỗ trợ DN XK. Ông
Hiếu cũng khuyến cáo trong bối cảnh chủ trương chống đôla hóa của
NHNN sẽ được thực hiện, cộng đồng DN cần chuẩn bị sẵn kịch bản sẽ
không được vay ở một tỷ lệ nào đó cho đến khi chấm dứt hoàn toàn vay
ngoại tệ. “DN nên đi tìm những nguồn tài trợ giá rẻ để giảm áp lực chi
phí hoạt động. Nguồn này đến từ những công cụ tài chính như phát
hành trái phiếu, hay tìm cách sử dụng vốn của các đối tác thương mại”.
Giá trị cổ phiếu niêm yết trên
HNX đạt gần 124.000 tỷ đồng
Tháng 8/2018, Sở Giao dịch CK Hà Nội (HNX) có thêm 1 DN mới niêm
yết cổ phiếu và 3 DN hủy niêm yết. Tổng số CK niêm yết tính đến ngày
31/08 là 376 mã cổ phiếu với tổng khối lượng niêm yết hơn 12,3 tỷ cổ
phiếu, tương ứng giá trị niêm yết toàn thị trường đạt gần 124.000 tỷ
đồng. Diễn biến trên thị trường theo chiều hướng tăng, và tăng mạnh
vào ½ cuối tháng 8. HNX - Index đạt 112,79 điểm tại thời điểm đóng
cửa phiên giao dịch cuối cùng của tháng, 6,63 điểm so với thời điểm
cuối tháng trước. Giá trị vốn hóa thị trường đạt gần 203.000 tỷ đồng,
>4,6% so với thời điểm cuối tháng 7/2018. Thanh khoản trên thị
trường tăng so với tháng trước. Tổng khối lượng giao dịch toàn thị
6
trường đạt hơn 972 triệu cổ phiếu, giá trị giao dịch đạt >14.000 tỷ đồng.
Bình quân, khối lượng giao dịch đạt 42,3 triệu cổ phiếu/phiên (4,2% so
với tháng trước), giá trị giao dịch đạt hơn 620 tỷ đồng/phiên (#13,8% so
với tháng trước). So với tháng trước, chỉ số giá cổ phiếu các ngành đều
tăng trong đó ngành tài chính tăng trưởng mạnh nhất với 5,93%,
#198,54 điểm. Tháng này, NĐTNN giao dịch tổng cộng 50,3 triệu cổ
phiếu, 2,4% so với tháng trước, giá trị giao dịch đạt gần 836 tỷ đồng,
#12,7% so với tháng trước, trong đó tổng giá trị giao dịch mua vào đạt
>521 tỷ đồng, tổng giá trị giao dịch bán ra đạt gần 412 tỷ đồng. Tính
chung trong cả tháng, trên thị trường cổ phiếu niêm yết, NĐTNN đã
mua ròng 110 tỷ đồng. Tổng khối lượng giao dịch của nhóm cổ phiếu
HNX30 đạt hơn 618 triệu cổ phiếu, tương ứng với giá trị giao dịch đạt
gần 11.600 tỷ đồng, #63,59% về khối lượng giao dịch và 81,13% giá trị
giao dịch toàn thị trường.
7
Lên kịch bản cho nợ công
Bộ KH&ĐT cho biết, đến cuối năm 2017, dư nợ công là 3.073.500 tỷ
đồng, #61,37% GDP và nợ Chính phủ là 2.593.200 tỷ, #51,8% GDP.
Quy mô vay trong nước của Chính phủ tăng nhanh, từ mức 235.000 tỷ
đồng năm 2011 lên đến 342.000 tỷ đồng năm 2017, trong khi quy mô
vay nước ngoài có xu hướng giảm, cơ cấu vay thay đổi theo hướng
giảm tỷ trọng ODA (do VN đã trở thành nước có thu nhập trung bình - MIC)
và tăng tỷ trọng vốn vay ưu đãi. Vay nước ngoài của Chính phủ tập
trung chủ yếu vào một số nhà tài trợ chính như: WB chiếm khoảng
29%; ADB chiếm 20%; Nhật 34%; Trung Quốc 4%; Hàn Quốc 4% và
Pháp 3%. Tổng vốn nước ngoài ký kết trong giai đoạn 2016-2017 đạt
9.198 triệu USD, trong đó vốn vay là 8.981 triệu USD (vay ODA: 6.781
triệu USD, vay ưu đãi: 2.200 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 216,8 triệu
USD). Với sự nỗ lực và chỉ đạo sát sao của Chính phủ, VN đã thu hút
được hết số vốn IDA của NH Thế giới phân bổ cho VN trước khi tốt
nghiệp nguồn vốn này vào ngày 01/07/2017. Đến nay, VN đã ký kết
thực tế hơn 84 tỷ USD vốn ODA. Dư nợ nước ngoài của Chính phủ tính
đến 2017 đã lên tới hơn 45,8 tỷ USD, tỷ lệ nợ nước ngoài của Chính
phủ chiếm khoảng 20,52% GDP và tỷ lệ ODA giải ngân/nợ nước ngoài
của Chính phủ chiếm 7,9% đòi hỏi phải sử dụng các nguồn vốn có hiệu
quả hơn và Chính phủ đã đề ra chủ trương cơ cấu lại nền KT, trong đó
có tái cơ cấu đầu tư nói chung, nhất là đầu tư công để tăng hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền KT. Xây dựng các kịch bản phát triển KT giai
đoạn 2018-2020 để làm cơ sở cho xây dựng kịch bản về nợ công, Bộ
KH&ĐT dự báo tăng trưởng KT VN giai đoạn 2018-2020 có thể diễn ra
theo 2 kịch bản: cơ sở và cao. Trong đó, kịch bản cơ sở với nhiều khả
năng xảy ra nhất. (i) Nếu CSTT và tỷ giá tương đối linh hoạt để duy trì
ổn định KTVM; các hiệp định thương mại có hiệu lực sẽ giúp đầu tư và
XK VN cải thiện hơn. Khi đó, tăng trưởng KT giai đoạn 2018-2020 có
thể đạt mức 6,53%, trong khi lạm phát duy trì ở mức thấp, khoảng
3,92%. (ii) Ở kịch bản cao, cũng có thể đạt được, nếu nền KT đạt được
những kỳ vọng đã đặt ra như kịch bản cơ sở, nhưng tiến trình cải cách
cũng như chuyển đổi nền KT được diễn ra mạnh mẽ hơn. Năng suất
Kinh tế Việt Nam
8
của nền KT, hiệu quả đầu tư công sẽ được cải thiện rõ nét. Những yếu
tố gây bất ổn KTVM như nợ công hay rủi ro hệ thống tài chính được giải
quyết triệt để. Khi đó, không những nền KT có thể đạt mức tăng trưởng
và ổn định cao hơn (tương ứng tăng trưởng KT và lạm pháp trung bình của
giai đoạn là 6,75% và 4,71%) mà còn có thể duy trì được sự phát triển bền
vững, tạo tiền đề cho những năm tiếp theo. Với các kịch bản về tăng
trưởng KT và cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong giai đoạn tới thì dự báo về
mức nợ công theo kịch bản cơ sở, năm 2018, nợ công/GDP là 63,92%;
năm 2019 là 63,46% và năm 2020 là 62,58%.
Chiến tranh thương mại Mỹ -
Trung: Việt Nam bị ảnh hưởng
lâu dài
VCCI và các chuyên gia vừa lên tiếng về những tác động mới sẽ xảy ra
với KT VN sau khi gói đánh thuế thứ 2 trị giá 200 tỷ USD của Mỹ sẽ
được xem xét thông qua sau ngày 06/09. Theo tính toán, GDP VN sẽ
0,03% năm 2018 và chiến tranh thương mại Mỹ - TQ sẽ làm GDP VN
>6.000 tỷ đồng/năm. Theo WTO, với cuộc chiến thương mại Mỹ - TQ,
ở chiều tích cực, một số hàng hóa VN có thể tận dụng được cơ hội thị
trường bị bỏ ngỏ từ các lệnh áp thuế để tăng XK vào cả hai nước. Căng
thẳng về đầu tư Mỹ - TQ cũng có thể là cơ hội cho VN trong thu hút
thêm đầu tư từ Mỹ. Tuy nhiên, ở chiều tiêu cực, hàng hóa TQ khó vào
thị trường Mỹ sẽ chuyển hướng sang các thị trường khác. VN cũng
đứng trước nguy cơ nhập siêu trầm trọng hơn từ TQ trong khi XK của
VN vào TQ cũng sẽ khó khăn hơn. “Trong lâu dài, nếu cuộc chiến này
lan rộng, khó ai có thể biết được điều gì. Đó có thể là những thị trường
đột nhiên bị bỏ trống, tạo cơ hội cạnh tranh mới cho hàng hóa VN.
Nhưng đó cũng có thể là luồng thương mại dịch chuyển sang các thị
trường thay thế sự chuyển dịch của dòng đầu tư có thể ảnh hưởng cả
tiêu cực lẫn tích cực đến các nền KT nhỏ như VN”, WTO nhận định…
World Bank: Việt Nam là một
trong những quốc gia đi đầu về
thu hút vốn FDI
Theo ông Sebastian Eckardt, chuyên gia KT trưởng của NH Thế giới
(WB) tại VN, trong 30 năm qua, VN đã khá thành công trong việc thu hút
FDI và nguồn vốn này đã đóng góp cho nền KT theo nhiều cách khác
nhau. Trong đó phải kể đến vai trò của FDI với quá trình công nghiệp
hóa đất nước. Bởi VN có lượng FDI đầu tư nhiều vào lĩnh vực chế tạo,
góp phần xây dựng năng lực SX tại một loạt ngành nghề như điện tử
cùng nhiều ngành công nghiệp truyền thống khác như may mặc và giày
dép… Ngoài ra, dòng vốn FDI cũng là yếu tố hỗ trợ hoạt động XK của
VN tốt hơn. FDI giúp kiến tạo thêm hàng trăm ngàn việc làm có hiệu
9
suất cao cùng mức lương hấp dẫn. Do đó, thu hút FDI là một mảnh
ghép rất thành công trong bức tranh KT của VN trong vòng 3 thập kỷ
qua. VN đã và sẽ là một trong những quốc gia đi đầu trong KV về khả
năng thu hút FDI. Điều này thể hiện qua tỷ lệ đóng góp của dòng vốn
này vào Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền KT. Hiện có khoảng
12.000 DN FDI đang hoạt động tại VN trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các DN FDI không chỉ góp phần vào quá trình SX mà còn giới thiệu
thêm những sản phẩm mới vào VN. Vì thế, phải nói rằng VN đã khá
thành công trong việc thu hút nhiều nguồn vốn FDI. Mặc dù vậy, vẫn có
nhiều nguồn vốn đầu tư vào VN hiện được phân bổ tới những ngành
nghề sử dụng nhiều lao động có kỹ năng thấp, thuộc khâu lắp ráp cuối
cùng. Vì thế, khi nhìn vào chuỗi giá trị toàn cầu, VN không có lợi thế
cạnh tranh vì VN chỉ đang đóng vai trò là nơi lắp ráp cuối cùng. VN cần
chuyển hướng sang thu hút FDI vào những phân khúc cao hơn, nhằm
đa dạng hóa nền KT trong chuỗi giá trị toàn cầu, và đặc biệt là chú
trọng vào SX những thành phẩm có giá trị lớn… VN cần đầu tư vào con
người và phát triển các kỹ năng cần thiết, cần đào tạo được những
nhân công với kỹ năng phù hợp để đáp ứng yêu cầu việc làm, trao cho
họ cơ hội hợp tác với máy móc, hơn là cạnh tranh với chúng. Vì thế, việc
đầu tư vào giáo dục đào tạo, đặc biệt là các môn công nghệ khoa học
và toán học, là chìa khóa để thu hút dòng vốn FDI trong kỷ nguyên kỹ
thuật số, bởi vì đây sẽ là những kỹ năng được tìm kiếm trong tương lai.
Nhà đầu tư ngoại góp vốn, mua
cổ phần doanh nghiệp Việt: Tăng
đột biến
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH&ĐT), đầu năm 2018 đến nay, cả
nước có 4.551 lượt góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN với tổng giá trị
vốn góp gần 5,28 tỷ USD, 50,9% so với cùng kỳ 2017. Riêng tháng
8/2018, sự gia tăng đột biến thể hiện qua việc NĐT góp vốn, mua cổ
phần của 1.200 dự án, với tổng vốn đăng ký khoảng 490 triệu USD.
Trong khi, 7th trước đó, NĐTNN đầu tư qua hình thức này ở mức trung
bình 476 dự án/tháng. Theo các chuyên gia KT, việc góp vốn, mua cổ
phần của NĐTNN với các dự án trong nước là một trong các hình thức
của giao dịch mua bán sáp nhập (M&A). Đây cũng là cách được nhiều
NĐT xem đánh giá có hiệu quả và nhanh nhất để xâm nhập thị trường
và mở rộng hoạt động tại VN. Làn sóng góp vốn, mua cổ phần các dự
án trong nước đến từ NĐT của Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Hàn
Quốc… Ngoài ra, Nghị định số 60/2015/NĐ-CP cho phép tăng tỷ lệ sở
hữu nước ngoài tại các công ty niêm yết và công ty đại chúng từ 49%
10
lên 100% (trừ một số công ty hoạt động trong những ngành nghề KD có điều
kiện) giúp NĐTNN đẩy mạnh đầu tư qua hình thức M&A nhiều hơn.
Chuyên gia KT Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, NĐTNN góp vốn, mua cổ
phần tăng đột biến thể hiện sự thận trọng của NĐTNN với sự phát triển
của nền KT VN. Thay vì đầu tư các dự án mới phải thực hiện thủ tục
đăng ký và thiếu chắc chắn, NĐTNN chọn mua cổ phần của DN có
thương hiệu vững vàng trên thị trường…
Giá trị của kinh tế biển ở VN mới
đạt khoảng 80 tỷ đồng/km
Chỉ số giá trị gia tăng của KT biển chia cho chiều dài bờ biển của VN
hiện mới chỉ ước đạt khoảng 3,6 triệu USD/km (#>80 tỷ đồng/km) so với
mức BQ của thế giới đạt khoảng 4 triệu USD/km bờ biển. Trong những
năm qua, tổng sản phẩm của 28 tỉnh, thành phố ven biển tăng BQ
7,5%/năm (cả nước 6%/năm). Riêng năm 2017, tổng sản phẩm của các
tỉnh, thành phố ven biển chiếm 60,5% GDP cả nước; tổng sản phẩm
BQ/người đạt xấp xỉ 65 triệu đồng (cả nước đạt 53,3 triệu đồng). Mặc dù
chỉ số giá trị gia tăng của KT biển trong 1 thập kỷ qua có tăng, song
theo nhận định của Viện Chiến lược phát triển, thì để VN trở thành một
quốc gia mạnh về biển vẫn còn khoảng cách khá dài. Báo cáo của Viện
Chiến lược phát triển cho thấy, tăng trưởng KT biển tuy khá cao nhưng
mới bằng nhịp tăng trưởng chung của nền KT, chưa tương xứng với
tiềm năng lợi thế có biển và tạo điều kiện để nhanh chóng đưa VN trở
thành một quốc gia mạnh về KT biển. Bên cạnh đó, hiệu quả tổng hợp,
tính bền vững trong khai thác sử dụng điều kiện tiềm năng, nguồn lực
từ biển còn thấp. Kết cấu hạ tầng KT biển vẫn còn thiếu đồng bộ, đặc
biệt còn thiếu cơ sở hạ tầng lớn; xuất phát điểm về khoa học-công nghệ
liên quan đến biển, chất lượng nguồn nhân lực KT biển còn hạn chế…
11
Thâm hụt thương mại Mỹ tăng
mạnh nhất trong 3 năm
Bộ Thương mại Mỹ cho biết, thâm hụt thương mại 9,5% lên 50,1 tỷ
USD, nới rộng 2th liên tiếp. Trong khi đó, thâm hụt thương mại tháng 6
được điều chỉnh về mức 45,7 tỷ USD, thay vì 46,3 tỷ USD ghi nhận
trước đó. Thâm hụt thương mại về các hàng hóa nhạy cảm (về chính trị)
với TQ 10% lên 36,8 tỷ USD, mức kỷ lục mới… Khi đã điều chỉnh lạm
phát, khoản thâm hụt thương mại tăng lên mức đỉnh 5 tháng ở mức 82,5
tỷ USD trong tháng 7, cao hơn mức 79,3 tỷ USD hồi tháng 6. Thâm hụt
thương mại thực trong tháng 7 còn cao hơn mức trung bình Q.II là 77,5
tỷ USD. Nếu xu hướng này tiếp tục trong tháng 8 và tháng 9 thì thương
mại có thể làm giảm tăng trưởng GDP Q.III của Mỹ. Trong Q.II, thương
mại đóng góp 1,17% trong mức tăng trưởng 4,2% của nền KT Mỹ.
Giới đầu tư quốc tế mua mạnh
trái phiếu chính phủ Trung Quốc
Theo ước tính của Reuters dựa trên dữ liệu từ Công ty Lưu ký và Thanh
toán TW TQ, NĐTNN TQ đại lục đã tăng nắm giữ TPCP nước này thêm
53,9 tỷ CNY trong tháng 8 sv tháng 7, lên mức 1.030 tỷ CNY. Thị
trường TPCP TQ là thị trường trái phiếu lớn thứ 3 thế giới. Tháng 8 là
tháng thứ 18 liên tiếp giới đầu tư nước ngoài mua ròng tài sản này,
nâng tỷ trọng nắm giữ TPCP TQ trong tay NĐTNN lên mức cao kỷ lục
8%. Hiện NĐTNN có thể mua TPCP TQ dễ dàng thông qua thị trường
trái phiếu LNH. TQ đã có ưu đãi về thuế đối với NĐT trái phiếu nước
ngoài… TPCP TQ đang được nhiều NĐT xem như kênh đầu tư an toàn
trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung leo thang. TPCP TQ
không chịu nhiều tác động của thuế quan và mang lại LN cao hơn sv
nhiều TPCP khác ở châu Á trong 6th đầu 2018. Điểm mạnh khác của
TPCP TQ là chi phí bảo hiểm thấp. Chưa kể, do mức độ tham gia của
NĐTNN vào thị trường TPCP TQ còn ở mức thấp, thị trường này ít chịu
ảnh hưởng bởi sự thoái vốn hay biến động theo thị trường toàn cầu.
Chiến tranh thương mại, xuất
khẩu của Trung Quốc tháng 8
vẫn tăng mạnh
Theo kết quả khảo sát của Reuters, kim ngạch XK của TQ trong tháng
8 ước 10,1% sv cùng kỳ 2017, bất chấp việc Mỹ áp thuế quan bổ
sung lên 50 tỷ USD hàng NK. Tuy giảm nhẹ sv mức 12,2 % trong
tháng 7 nhưng 10,1% đánh dấu mức tăng trưởng XK 2 con số liên tục
của TQ trong 5th qua, kể từ khi căng thẳng thương mại Mỹ-Trung nổ ra.
Kinh tế Quốc tế
12
Các nhà phân tích cho rằng, các công ty XK tại TQ đang gấp rút thực
hiện các đơn hàng trước khi Mỹ tung thêm “đòn” thuế quan mới. Theo
kết quả khảo sát chính thức và riêng rẽ về tình hình SX, nhu cầu hàng
TQ trên thế giới đang có xu hướng chững lại và trong vài tháng qua, các
đơn hàng XK đã sụt giảm. Ngoài ra, các chuỗi cung ứng của TQ cũng
bắt đầu gặp khó. Kim ngạch NK của TQ trong tháng 8 có thể 18,7%
sv cùng kỳ 2017 nhưng vẫn thấp hơn nhiều sv mức 27,3% trong
tháng 7. Thặng dư thương mại của TQ dự kiến sẽ tăng từ 28,05 tỷ USD
trong tháng 7 lên 31,79 tỷ USD trong tháng 8. Việc ông Trump dọa sẽ
áp dụng mức thuế quan 25% lên 200 tỷ USD hàng NK từ TQ trong
tháng này sẽ đánh dấu mức độ leo thang nghiêm trọng của cuộc chiến
thương mại Mỹ - Trung. Morgan Stanley dự báo, các đòn trả đũa thuế
quan, gồm cả phản ứng chính sách của TQ, có thể khiến tăng trưởng
GDP của TQ 0,2 điểm % và tăng trưởng GDP của Mỹ 0,1 điểm %.
GDP ASEAN có thể tăng 1.000
tỷ USD nhờ kinh tế số
Trong báo cáo ra 04/9, hãng tư vấn Bain & Co dự báo đến 2025, các
nền KT ASEAN sẽ có thể thêm 1.000 tỷ USD do thương mại và tăng
trưởng cải thiện với thương mại điện tử và các cơ hội khác cho DN trong
thời kỳ kỹ thuật số. Nền KT số tại ASEAN hiện chỉ đóng góp 7% GDP.
Trong khi đó, con số này tại TQ là 16%, châu Âu là 27% và Mỹ là 35%.
Vì vậy, KV này có tiềm năng rất lớn. Chính phủ các nước ASEAN nên
cải thiện thanh toán kỹ thuật số trong nước và KV, đồng thời có cách
tiếp cận thống nhất về bảo vệ dữ liệu. Các lĩnh vực sẽ hưởng lợi lớn từ
tích hợp kỹ thuật số là SX, nông nghiệp, bán lẻ, giao thông, logistics,
CNTT và truyền thông. Doanh thu các DNVVN trong mảng bán lẻ sẽ
tăng trung bình 15% nếu chuyển sang thương mại điện tử. Dù vậy, 25%
DNVVN tham gia khảo sát cho rằng sự hạn chế về thanh toán xuyên
biên giới là rào cản lớn nhất của họ trong việc bán hàng online ra nước
ngoài. Gần 3/4 khẳng định logistics và quy trình XK là rào cản với
thương mại xuyên biên giới. Một vấn đề khác là sự thiếu hụt kỹ năng,
với 2/5 cho rằng không có đủ nhân lực có kỹ năng số hóa cần thiết.
13
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH https://nhipcaudautu.vn/thuong-truong/no-xau-tro-lai-3325724/
http://ndh.vn/ubs-thi-truong-von-viet-nam-se-tang-truong-dang-ke-trong-5-nam-toi-
2018090501359295p4c146.news
https://vietstock.vn/2018/09/tang-cuong-giam-sat-cac-he-thong-thanh-toan-quan-trong-757-
627376.htm
https://bnews.vn/gia-tri-co-phieu-niem-yet-tren-hnx-dat-gan-124-000-ty-dong/95380.html
https://bizlive.vn/tai-chinh/co-nen-cam-cho-vay-usd-3468000.html
Tin KT vĩ mô http://thoibaonganhang.vn/len-kich-ban-cho-no-cong-79605.html
http://cafef.vn/chien-tranh-thuong-mai-my-trung-viet-nam-bi-anh-huong-lau-dai-
20180905161113649.chn
http://cafef.vn/wb-viet-nam-la-mot-trong-nhung-quoc-gia-di-dau-ve-thu-hut-von-fdi-
20180905162142102.chn
http://cafef.vn/nha-dau-tu-ngoai-gop-von-mua-co-phan-doanh-nghiep-viet-tang-dot-bien-
20180906072551414.chn
https://vietstock.vn/2018/09/gia-tri-cua-kinh-te-bien-o-viet-nam-moi-dat-khoang-80-ty-dongkm-768-
627430.htm
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2018/09/tham-hut-thuong-mai-my-tang-manh-nhat-trong-3-nam-775-
627550.htm
https://tradingeconomics.com/united-states/balance-of-trade
http://vneconomy.vn/gioi-dau-tu-quoc-te-manh-tay-mua-trai-phieu-chinh-phu-trung-quoc-
20180905161831461.htm
https://vietnambiz.vn/chien-tranh-thuong-mai-xuat-khau-cua-trung-quoc-thang-8-van-tang-manh-
81388.html
https://vietstock.vn/2018/09/gdp-dong-nam-a-co-the-tang-1000-ty-usd-nho-kinh-te-so-1326-
627328.htm
14
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên NH LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD NH NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI NH bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT NH Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT NH thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN NH thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN NH nước ngoài NHNNg
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách Nhà nước NSNN
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Ngân sách trung ương NSTW
Dự án DA Nhập khẩu NK
Dự trữ bắt buộc DTBB Sản xuất KD SXKD
Đăng ký KD ĐKKD Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổ chức tín dụng TCTD
Giấy chứng nhận GCN Tổng tài sản TTS
Giá trị gia tăng GTGT Tổng SP quốc nội GDP
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trung Quốc TQ
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng cá nhân KHCN Trái phiếu DN TPDN
KT vĩ mô KTVM Thị trường CK TTCK
Kho bạc Nhà nước KBNN VN VN
KV KV Vốn điều lệ VĐL
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Vốn tự có VTC
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Xã hội XH
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Xuất khẩu XK
NH TG World Bank Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
NH Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Lương thực VN VFA
NH trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Hiệp hội Thép VN VSA
KV sử dụng đồng Euro EUROZONE Sở Giao dịch CK Hà Nội HNX
Liên minh châu Âu EU Sở Giao dịch CK Tp.HCM HOSE
Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO