51
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH BÀI TIỂU LUẬN LUẬT KINH TẾ Đề tài: CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA Ở VIỆT NAM. GVHD : Th.S Dương Mỹ An Nhóm SV : Nguyễn Tấn Đương Nguyễn Thị Diễm Hương Nguyễn Thị Thanh Loan Lê Đình Toàn 1

Tiểu luận luật kinh tế

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tiểu luận luật kinh tế

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI TIỂU LUẬN LUẬT KINH TẾ

Đề tài:

CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN

HÓA Ở VIỆT NAM.

GVHD : Th.S Dương Mỹ An

Nhóm SV : Nguyễn Tấn Đương

Nguyễn Thị Diễm Hương

Nguyễn Thị Thanh Loan

Lê Đình Toàn

Tháng 5 năm 2010

1

Page 2: Tiểu luận luật kinh tế

MỤC LỤC

I. Những vấn đề cơ bản về công ty cổ phần

1. Lịch sử hình thành của công ty cổ phần………………………….3

2. Công ty cổ phần…………………………………………………..7

3. Tính tất yếu khách quan của sự ra đời loại hình công ty cổ phần

và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế thế giới………………..11

II. Thực trạng của các CTCP và tình hình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam hiện nay

1. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường….……13

2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam……………..20

3. Thành công và những tồn tại của các công ty cổ phần ở Việt Nam

trong thời gian qua……………………………………………...............25

4. Nguyên nhân những hạn chế trong quá trình cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước……………………………………………………..27

III. Phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm đẩy

nhanh quá trình phát triển các công ty cổ phần trong nền kinh

tế hiện nay

1. Phương hướng tiếp tục thực hiện việc hình thành và phát triển

công ty cổ phần thông qua cổ phần hóa…………………………...........30

2. Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của công ty cổ phần………….32

2

Page 3: Tiểu luận luật kinh tế

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN

1. Lịch sử hình thành của công ty cổ phần:

a. Trên thế giới:

Ở các nước khác nhau, CTCP có thể có những tên gọi khác nhau.

Ở Pháp là công ty vô danh (anonymous Company), ở Anh là công ty với

trách nhiệm hữu hạn (Company LTD), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh

doanh (Commercial Coporation), và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ

phần (Kabushiki Kaisha)…

Các giai đoạn hình thành CTCP:

- Giai đoạn mầm móng: góp vồn theo nhóm bạn – hoạt động liên

kết lỏng lẻo.

- Giai đoạn hình thành: bắt đầu phát hành cổ phiếu, bước đầu xuất

hiện giao dịch chứng khoán, hoạt động có tổ chức hơn.

- Giai đoạn phát triển: CTCP trở nên phổ biến ở các nước công

nghiệp. Xuất hiện các hình thức đa quốc gia, các trung tâm giao dịch

chứng khoán lớn.

- Giai đoạn trưởng thành: hình thức công ty xuyên quốc gia, đa quốc

gia; thu hút công nhân mua cổ phiếu; cơ cấu công ty cổ phần hoàn thiện,

pháp luật hoàn thiện.

Quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế

kỷ 18, 19 cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã

làm xuất hiện loại hình CTCP. Sự phát triển mạnh mẽ của Chủ nghĩa Tư

bản đòi hỏi sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng to lớn, cạnh

tranh và độc quyền có mức độ ngày càng gay gắt. Các chủ tư bản đi đến

thoả hiệp với nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành trướng hơn

3

Giai đoạn trưởng thành

-các hình thức công ty đa quốc gia-khuyến khích công nhân mua cổ phiếu-cơ cau công ty hoàn thiện, pháp luật hoàn thiện

Page 4: Tiểu luận luật kinh tế

nữa thế lực kinh tế của mình. CTCP là hình thức kinh doanh thoả mãn

được những nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và

tập trung tư bản, nhu nhận định của Các Mác “Qua các công ty cổ phần,

sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt”

Về mặt lịch sử hình thành, CTCP ra đời sau các loại công ty đối

nhân nhưng là hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn. Khác với

sự ra đời của hình thức công ty TNHH – là sản phẩm của các nhà lập

pháp xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, CTCP được hình

thành trong hoạt động kinh doanh và do nhu cầu của các nhà kinh doanh

rồi sau đó mới được pháp luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một

chế định pháp lý. Chẳng hạn như ở Anh, Luật công ty được ban hành lần

đầu tiên năm 1844 nhưng trước đó hơn 100 năm đã có sự xuất hiện của

các công ty cổ phần. Và đến năm 1856, ở Anh mới có Luật về công ty cổ

phần.

Công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông

Ấn (East India Company) của Anh (1600-1874). Nó được thành lập ngày

31/10/1860 abởi một nhóm có 218 người, và được cấp phép độc quyền

kinh doanh trong vòng 15 năm ở vùng Đông Ấn, các quốc gia và hải

cảng ở châu Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả các hải cảng của các đảo,

thị trấn và địa điểm ở châu Á, châu Phi và Mỹ hay bất kỳ địa điểm nào

như thế nằm ngoài Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) và Eo biển

Magellan. Ngày 01/6/1874, Công ty bị giải thể khi giấy phép lần sau

cùng không được gia hạn. Công ty đầu tiên này hoạt động hết sức lỏng

lẻo: “Người đầu tư góp vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi chuyến đi

biển nhận lại vốn cổ phần và tiền lãi”. Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện

4

Page 5: Tiểu luận luật kinh tế

các công ty cổ phần theo hình thức tương tự công ty Đông Ấn của Anh,

rồi lần lượt CTCP xuất hiện ở Thụy Điển, Đan Mạch, Đức…

Ở Mỹ, CTCP phát triển rất mạnh. Lúc đầu là vì phải xây dựng

đường xe lửa, sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên

toàn lãnh thổ rộng lớn của Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty

làm đường xe lửa mà thị trường chứng khoán ở NewYork phát triển.

Năm 1811, bang NewYork ban bố luật về tính trách nhiệm hữu hạn dành

cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về NewYork và

tính hữu hạn kia trở thành phổ biến vì bang nào không dùng đến nó là

không thu hút được vốn.

Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, CTCP bắt đầu phát triển

ở nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các ngành

chế tạo cơ khí, ngân hàng, bảo hiểm…ở các nước tư bản phát triển và về

sau phát triển rộng rãi ở các nơi khác trên thế giới. Đến những năm 20,

30 của thế kỷ XIX, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ

thuật, nền kinh tế thế giới có bước phát triển mạnh mẽ, điều đó dẫn đến

nhu cầu phải tập trung những nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sơ hạ tầng

kinh tế - xã hội. Công ty cổ phần là một trong những công cụ giúp thực

hiện nhanh chóng vấn đề tập trung vốn. Vì vậy, có ý kiến bình luận rằng

“Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho số tư bản riêng lẻ lớn

lên đến mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ

đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt”. Sự ra đời của CTCP đã

giúp cho các nhà doanh nghiệp giải quyết được mâu thuẫn về tiền vốn

một cách sáng tạo.

Tóm lại, trải qua quá trình phát triển lâu dài, CTCP đã từ phạm vi

ở một nước, một khu vực nhất định đã phát triển thành những công ty đa

quốc gia, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng như nhận định:

5

Page 6: Tiểu luận luật kinh tế

“Công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước từ đơn giản đến phức

tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một

quôc gia đến nhiều quốc gia thông qua các công ty đa quốc gia”

Ở Mỹ, năm 1989, số lượng các công ty cổ phần chiếm 31,7% trong

tổng số các xí nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm

công nghiệp. Ngày nay, công ty cổ phần đã chiếm vị trí thống lĩnh trong

các ngành công nghiệp, dịch vụ công cộng và trong các ngành khác nhau

của nền kinh tế Hoa Kỳ.

Ở các nước phương tây, công ty cổ phần là mô hình phổ biến nhất

cho các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ở Đức, vốn cơ bản trung bình của

các công ty cổ phần năm 1980 là 43 triệu DM, trong khi đó vốn trung

bình của một công ty TNHH chỉ là 0,38 triệu DM. Trong 100 công ty lớn

nhất của Đức năm 1980 có tới 66 công ty cổ phần. Ở Pháp, vào năm

1986, có tới 123.303 công ty cổ phần, chiếm tới 15,22% tổng số các

doanh nghiệp.

b. Ở Việt Nam:

Trong lịch sử hình thành và phát triển có hai phương pháp để thành

lập công ty cổ phần đó là thành lập mới các công ty cổ phần và cổ phàn

hóa các doanh nghiệp nhà nước đã có.

Do nền kinh tế Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt so với các

nước khác trên thế giới nên việc thành lập mới các công ty cổ phần

không được chú trọng phát triển. Chính việc cải cách DNNN bằng cách

cổ phần hóa là con đường khả thi và có hiệu quả nhất được Đảng và Nhà

nước ta quán triệt nên chúng ta chỉ tập trung đi sâu vào việc hình thành

công ty cổ phần bằng cách cổ phần hóa DNNN.

Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo ba

phương thức: thứ nhất, giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và

6

Page 7: Tiểu luận luật kinh tế

phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút cổ đông; thứ hai, bán một

phần doanh nghiệp hiện có của doanh nghiệp; thứ ba, tách một bộ phận

doanh nghiệp đã đủ điều kiện cổ phần hóa.

Quá tình cổ phần hóa ở nước ta trải qua 3 giai đoạn:

Giai đoạn thí điểm (1992 - 1995).

Giai đoạn mở rộng (5/1996 - 6/1998).

Giai đoạn đẩy mạnh cổ phần hóa (từ 6/1998).

2. Công ty cổ phần:

a. Khái niệm

Công ty cổ phần là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn,

được thành lập và tồn tại độc lập đối với những chủ thể sở hữu nó. Vốn

của công ty được chia nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và

được phát hành huy động vốn tham gia của các nhà đầu tư thuộc mọi

thành phần kinh tế trên cơ sở tư nguyện để tiến hành các hoạt động sản

suất nhằm thu lợi nhuận.

Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:

- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;

các cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp một phần hay

toàn bộ phần vốn góp gọi là cổ đông.

7

Page 8: Tiểu luận luật kinh tế

 

- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác

trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;

- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho

người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết;

- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba

và không hạn chế số lượng tối đa.

Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh và có quyền phát hành chứng khoán ra

công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.

Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và

Giám đốc (Tổng giám đốc). Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ

đông phải có Ban kiểm soát.

b. Nguyên tắc cơ cấu:

Công ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh

nghiệp hình thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông.

Trong công ty cổ phần, số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ thành

8

Page 9: Tiểu luận luật kinh tế

các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ

phần được gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở

hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Chỉ có công ty cổ phần mới được phát hành

cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một bằng chứng xác nhận quyền sở

hữu của một cổ đông đối với một Công ty Cổ phần và cổ đông là người

có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Công ty cổ phần là một trong loại

hình công ty căn bản tồn tại trên thị trường và nhất là để niêm yết trên thị

trường chứng khoán.

Bộ máy các công ty cổ phần được cơ cấu theo luật pháp và điều lệ

công ty với nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch

và hoạt động có hiệu quả.

Công ty Cổ phần phải có Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng Quản trị

và Ban Điều hành. Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông

phải có Ban Kiểm soát.

c.Cơ cấu tổ chức:

Khái niệm công ty cổ phần được xem đồng nghĩa với công ty đại

chúng bởi cấu trúc, mục tiêu và tính chất của nó. Quy định trong một số

bộ luật, trong đó có Luật Việt Nam ghi rõ công ty cổ phần cần có tối

thiểu 3 cổ đông, bất kể đó là pháp nhân hay thể nhân Tuy nhiên, các quy

định đối với một công ty niêm yết thường yêu cầu công ty phải có số cổ

đông lớn hơn nhiều. Các quy định cụ thể của cả 6 sàn chứng khoán Hoa

Kỳ đều cho thấy điều này, từ các sàn sơ khai như Pink

Sheet, OTCBB, NASDAQ, NYSE; trong đó OTCBB yêu cầu công ty ít

nhất có 40 cổ đông, còn NYSE lại yêu cầu công ty phải có ít nhất 2.000

cổ đông.

9

Page 10: Tiểu luận luật kinh tế

Cơ quan tối cao của các công ty cổ phần là Đại hội đồng Cổ đông.

Các cổ đông sẽ tiến hành bầu ra Hội đồng Quản trị với Chủ tịch Hội đồng

Quản trị, các Phó Chủ tịch và thành viên (kiêm nhiệm và không kiêm

nhiệm). Sau đó, Hội đồng quản trị sẽ tiến hành thuê, bổ nhiệm Giám đốc

(Tổng giám đốc) và/hoặc Giám đốc điều hành. Hội đồng này cũng có thể

tiến hành thuê, bổ nhiệm các Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) hoặc

ủy quyền cho Ban Giám đốc (công ty) làm việc này.

Quan hệ giữa Hội đồng Quản trị và Ban giám đốc là quan hệ quản trị

công ty. Quan hệ giữa Ban giám đốc và cấp dưới, người lao động nói

chung là quan hệ quản lý. Xung quanh vấn đề quan hệ giữa các chủ sở

hữu là cổ đông của công ty và những người quản lý thông thường cần

được tách bạch và kể cả các đại cổ đông cũng không nhất nhất là được

hay có thể tham gia quản lý công ty. Để đảm bảo khách quan, nhiều công

ty đã quy định chặt chẽ về điều này.

d. Ưu điểm:

Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp

vốn trong công ty;

Quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ

việc huy động vốn cổ phần;

Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi

khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức

chuyển nhượng, mua bán cổ phần;

Việc hoạt động của công ty đạt hiệu quả cao do tính độc lập giữa

quản lý và sở hữu.

e. Nhược điểm:

10

Page 11: Tiểu luận luật kinh tế

Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế mà công ty phải thực hiện

nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu

nhập bổ sung từ nguồn cổ tức và lãi cổ phần theo qui định của luật

pháp;

Chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp khá tốn kém;

Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính bị hạn chế do công ty

phải công khai và báo cáo với các cổ đông;

Khả năng thay đổi phạm vi lĩnh vực kinh doanh cũng như trong hoạt

động kinh doanh không linh hoạt do phải tuân thủ theo những qui định

trong Điều lệ của công ty, ví dụ có trường hợp phải do Đại hội đồng Cổ

đông của Công ty Cổ phần quyết định

3. Tính tất yếu khách quan của sự ra đời loại hình công ty cổ phần

và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế thế giới:

a. Tinh tất yếu:

Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát

triển của nền kinh tế thị trường. Do đó, việc hình thành các công ty cổ

phần (CTCP) và vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) là

tất yếu đối với quá trình phát triển mạnh của nền kinh tế thị trường.

a.1 Quá trình xã hội hóa tư bản, tăng cường tích tụ và tập trung tư

bản ngày càng cao.

Trong nền sản xuất hàng hóa quy luật giá trị tác động mạnh đến sự

cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản. Điều này đã thúc đẩy họ phải

nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, năng suất lao động…mà làm đươc

điều đó chỉ có các nhà tư bản lớn mới đủ sức thực hiện. Vì thế các nhà tư

11

Page 12: Tiểu luận luật kinh tế

bản vừa và nhỏ đã liên kết để mạnh hơn nhằm tiếp tục cạnh tranh và phát

triển và thu lại lợi tức sau 1 thời gian nhất định.

a.2 Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí tạo điều

kiện cho sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần.

a.3 Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong kinh doanh và tạo thế

mạnh quản lý. Khi công nghệ phát triển, sự cạnh tranh ngày càng khốc

liệt thì rủi ro trong kinh doanh cũng ngày càng lớn. Để tránh rủi ro này,

các nhà tư bản đã phân tán vốn của mình đầu tư ở nhiều ngành, nhiều

công ty khác nhau nhằm phân tán rủi ro và tập trung sức mạnh trí tuệ…

a.4 Sự phát triển của tín dụng tạo điều kiện thúc đẩy công ty cỏ phần

ra đời và phát triển.

Tóm lại, sự ra đời của công ty cổ phần là 1 tất yếu khách quan

trong sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường và tập trung tư

bản.

b.Vai trò:

- CTCP có khả năng huy độn vốn nhanh chóng với quy mô lớn để

thực hiện các dự án khổng lồ mà không nhà đầu tư riêng biệt nào làm nổi.

- CTCP góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn do sử

dung nguồn vốn huy động bị sức ép chia lợi tức từ phía các cổ đông và

khả năng sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi ở nhiều kênh khác nhau.

- CTCP tạo được 1 cơ chế riêng biệt nhằm hạn chế tối đa các tác

động tiêu cực vào thị trường khi các doanh nghiệp này lâm vào khủng

hoảng.

- CTCP vận động được sự tham gia đông đảo của dân chúng lại có

cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phân định rõ giữa quyền sở hữu và quyền kinh

12

Page 13: Tiểu luận luật kinh tế

doanh, nó đã đem lại quyền lợi cho người lao động được quản lý thực sự

công ty.

-CTCP là hình thức tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ ngoại quốc

thông qua hình thức liên doanh.

II. THỰC TRẠNG CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ TÌNH HÌNH CỔ PHẦN HÓA DNNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:

1. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường;

- Trong nền kinh tế thị trường, việc huy động vốn đưa vào SXKD

thông qua thị trường chứng khoán là một kênh rất quan trọng. Mà muốn

"gia nhập" thị trường chứng khoán thì chỉ có các doanh nghiệp cổ phần.

Bạn thấy đấy giá trị giao dịch hàng ngày trên các sàn chứng khoán Việt

Nam lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng/ngày; nhờ vậy, đã huy động được

mọi nguồn vỗn trong xã hội đưa vào lưu thông, làm cho đồng tiền không

"ngủ yên" mà luân chuyển không ngừng nghỉ. Tốc độ luân chuyển tiền tệ

càng nhanh thì kinh tế càng phát triển mạnh.

- Giờ đây, không chỉ có nhà doanh nghiệp mới kinh doanh; mà bất

cứ ai khi đã mua cỏ phần, chứng khoán thì cũng đã trở thành người

SXKD rồi.

- So với các loại hình doanh nghiệp khác hiện nay ở nước ta, thì loại

hình doanh nghiệp là công ty cổ phần (hình thức pháp lý liên kết các nhà

đầu tư, các chủ thể kinh doanh cùng nhau hùn vốn để thành lập và tổ

chức vận hành công ty theo những mục đích nhất định) có nhiều lợi thế

hơn hẳn. Lợi thế hơn hẳn đó xuất phát từ những lợi ích và đặc điểm pháp

lý mà pháp luật qui định và được thể hiện ở những khía cạnh sau:

13

Page 14: Tiểu luận luật kinh tế

Công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập. Pháp

luật về công ty của các nước đều xác lập một cách cụ thể về

các quyền và nghĩa vụ pháp lý của công ty cổ phần với tư cách

là một pháp nhân độc lập, có năng lực và tư cách chủ thể riêng,

tồn tại độc lập và tách biệt với các cổ đông trong công ty.

Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về các

khoản nợ của công ty bằng chính tài sản của mình; với tư cách

chủ thể là pháp nhân thông qua người đại diện của mình theo

qui định của pháp luật, công ty có thể trở thành nguyên đơn

hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại tòa án. Khi

công ty mua sắm các tài sản mới, thì tài sản đó thuộc sở hữu

của công ty chứ không thuộc sở hữu của các cổ đông công ty vì

lúc này công ty cổ phần là một pháp nhân, tách biệt hoàn toàn

với các cổ đông. Trong trường hợp này, cổ đông không được

xem tài sản mà công ty mới mua sắm là tài sản của cá nhân

mình; mặc dù trên thực tế cổ đông là chủ sở hữu một số quyền

lợi có giá trị của công ty cổ phần như:quyền tham gia quản lý,

điều hành công ty theo qui định, quyền được chia cổ tức, quyền

được chia tài sản theo tỷ lệ cổ phần sở hữu khi công ty giải thể

… Tuy nhiên, với tư cách là một pháp nhân, công ty có quyền

sở hữu tài sản riêng còn các cổ đông chỉ được sở hữu cổ phần

trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối với tài

sản của công ty.

Các cổ đông trong công ty cổ phần chịu trách nhiệm hữu hạn.

Khi một tổ chức hay cá nhân mua cổ phiếu của công ty cổ

phần tức là họ đã chuyển dịch vốn của mình theo những

14

Page 15: Tiểu luận luật kinh tế

phương thức nhất định vào công ty cổ phần và trở thành tài sản

thuộc sở hữu của công ty cổ phần, nhưng cổ đông vẫn được

hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Với tư

cách là một pháp nhân, công ty có năng lực pháp luật độc lập,

có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo qui

định của pháp luật nên các quyền và nghĩa vụ của công ty hoàn

toàn tách biệt khỏi các quyền và nghĩa vụ của cổ đông vì công

ty là chủ thể của quyền sở hữu công ty. Vốn thuộc sở hữu công

ty chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên

toàn bộ số vốn đã đầu tư vào công ty, nên trách nhiệm của

những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được hạn chế

trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu của mình. Xét về

phương diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có

quyền đối với tài sản của công ty cổ phần nên họ không chịu

trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty cổ phần; công ty cổ

phần chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả công ty

cổ phần lẫn chủ nợ của công ty đều không có quyền kiện đòi

tài sản của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ công ty do chưa

đóng đủ tiền góp vốn hoặc chưa thanh toán đủ cho công ty cổ

phần số tiền mua cổ phiếu phát hành. Đây là điểm khác nhau

cơ bản về trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh, đối với

công ty hợp danh hay doanh nghiệp tư nhân (theo pháp luật

Việt Nam) và đối với công ty đối nhân hay doanh nghiệp một

chủ của hầu hết các nước thì các thành viên hợp danh (hay

thành viên nhận vốn) và chủ doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm

cá nhân vô hạn về các nghĩa vụ của công ty hay của doanh

15

Page 16: Tiểu luận luật kinh tế

nghiệp bằng tài sản của mình, bất kể tài sản đó có liên quan

đến hoạt động kinh doanh hay không.

Việc chuyển nhượng các phần vốn góp được thực hiện một

cách tự do. Hầu hết pháp luật về công ty của các nước trên thế

giới đều qui định và cho phép chuyển nhượng một cách dễ

dàng và tự do các loại cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành

từ cổ đông sang chủ sở hữu mới. Vì khác với các loại công ty

khác, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều

phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là

mệnh giá cổ phiếu. Việc góp vốn vào công ty cổ phần được

thực hiện bằng cách mua cổ phiếu nên cổ phiếu được xem là

hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ đông. Các cổ phiếu

do công ty cổ phần phát hành là hàng hóa nên các cổ đông khi

sở hữu cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng; hơn thế nữa trách

nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn trong phạm vi giá trị các

cổ phiếu mà họ sở hữu nên khi họ muốn rút lui khỏi công việc

kinh doanh hay muốn bán cổ phiếu của mình cho người khác

thì họ thực hiện rất dễ dàng. Trong khi đó đối với công ty trách

nhiệm hữu hạn theo qui định của pháp luật Việt Nam thì khi

chuyển nhượng các phần vốn góp của mình, thành viên đó phải

chuyển nhượng trước hết cho các thành viên còn lại trong công

ty hoặc chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là

thành viên công ty trong trường hợp các thành viên còn lại

không mua hoặc không mua hết. Đó là lý do giải thích vì sao

có rất nhiều người muốn đầu tư vào công ty cổ phần chứ

không muốn đầu tư vào các loại hình doanh nghiệp khác. Đây

16

Page 17: Tiểu luận luật kinh tế

cũng là một trong những yếu tố cần thiết cho việc hình thành

và phát triển thị trường chứng khoán.

- Công ty cổ phần có cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt

Công ty cổ phần không thể được thành lập và hoạt động nếu không có

vốn. Vốn là yếu tố quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội

bộ cũng như quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ,

vốn của công ty được xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trưng là

loại hình công ty đối vốn, quyền lực trong công ty cổ phần sẽ thuộc về

những ai nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty. Trong quan hệ với bên

ngoài, vốn của công ty cổ phần là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính

của công ty. Tuy nhiên, khác với nhiều yếu tố khác, vốn trong công ty cổ

phần là yếu tố năng động nhất. Các qui luật kinh tế thị trường chỉ ra rằng

cùng với sự lưu thông hàng hóa là sự lưu thông tiền tệ, tức là sự chu

chuyển các nguồn vốn. Sự phát triển của công ty cổ phần tỷ lệ thuận với

sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn

trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui luật

kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. Điều này đặt

ra một đòi hỏi là con người phải tạo ra cách thức góp vốn, cách tổ chức

và quản lý vốn để có thể đáp ứng được sự vận động linh hoạt của vốn.

Sự linh hoạt trong vận động của vốn vừa phải thích ứng với yêu cầu

đòi hỏi đa dạng của nhà đầu tư, vừa không mất đi bản chất vốn có của

công ty cổ phần. Điều đó có nghĩa là phải tạo cho bản thân công ty cổ

phần khả năng chuyển dịch các phần vốn góp một cách dễ dàng song tư

cách pháp nhân của công ty không vì sự chuyển nhượng đó mà bị thay

đổi.

17

Page 18: Tiểu luận luật kinh tế

Theo các qui định của Luật Doanh nghiệp thì công ty cổ phần ở Việt

Nam có thể qui định và phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau như: cổ

phiếu phổ thông, cổ phiếu ưu đãi (trong cổ phiếu ưu đãi có: cổ phiếu ưu

đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi hoàn lại và các

loại cổ phiếu ưu đãi khác…) và các loại trái phiếu. Đây sẽ là những loại

chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng nhằm tăng khả năng

thu hút vốn đầu tư cho kinh doanh của công ty. Ngoài ra, khi xây dựng

giá trị các cổ phiếu của công ty thì các công ty thường xác lập mệnh giá

của cổ phiếu thấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư dù cho

khả năng tài chính không nhiều nhưng vẫn có khả năng tham gia đầu tư

vốn vào công ty cổ phần.

- Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về

thời gian tồn tại

Với các loại hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh, sự tồn

tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tư cách của chủ sở

hữu doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh; bởi vì hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết,

sự rút lui hay sự khánh tận của chủ doanh nghiệp tư nhân hay của một

trong các thành viên hợp danh của công ty. Nhưng đối với công ty cổ

phần thì hoạt động kinh doanh của công ty hoàn toàn không phụ thuộc

vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với các cổ đông trong công ty; bởi vì

công ty cổ phần có tư cách pháp nhân độc lập nên nếu có bất kỳ sự rút

lui, sự phá sản hoặc thậm chí cái chết có xảy ra đối với các cổ đông thì

công ty cổ phần vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mà hoàn toàn không hề

bị ảnh hưởng gì. Đây chính là một ưu điểm bảo đảm cho việc kinh doanh

của công ty diễn ra một cách liên tục và ổn định. Mặt khác, các luật công

18

Page 19: Tiểu luận luật kinh tế

ty hiện đại của một số nước đều không hạn chế thời gian tồn tại của công

ty cổ phần trừ những trường hợp như: công ty phá sản hoặc các cổ đông

cùng thỏa thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều

lệ công ty qui định. Chính sự ổn định trong kinh doanh và thời gian hoạt

động lâu dài đã tạo cho các công ty cổ phần có được sự thu hút mạnh mẽ

và được ưa chuộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác .

- Công ty cổ phần có cơ chế quản lý tập trung cao

Với tư cách là một pháp nhân độc lập, trong công ty cổ phần có sự

tách biệt giữa quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Đó là việc các cổ đông sẽ

bầu ra Ban giám đốc và Ban giám đốc sẽ thay mặt các cổ đông quản lý

công ty cổ phần. Như vậy, trong công ty cổ phần việc quản lý được tập

trung hóa cao vào Ban giám đốc mà không dàn trải đều việc quản lý cho

các cổ đông như đối với công ty hợp danh; bởi vì trong công ty hợp danh

việc quản lý công ty được thực hiện bởi các thành viên hợp danh với tư

cách là những người chịu trách nhiệm vô hạn hoặc liên đới chịu trách

nhiệm vô hạn về các khoản nợ trong kinh doanh của công ty nên họ được

toàn quyền quản lý công ty và nhân danh công ty trong các hoạt động. Sự

tách biệt giữa quyền sở hữu và việc quản lý còn được thể hiện ở việc luật

công ty hiện đại của một số nước còn qui định cho phép giám đốc quản lý

công ty có thể không phải là cổ đông của công ty. Giám đốc có thể là

người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, là người điều hành các

hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Rõ ràng việc qui định như

vậy một mặt thu hút được những người quản lý chuyên nghiệp được công

ty thuê làm công tác quản lý, mặt khác tách biệt vai trò chủ sở hữu với

chức năng quản lý đã tạo cho công ty cổ phần có được sự quản lý tập

trung cao thông qua cơ chế quản lý hiện đại, lành nghề nên rất phù hợp

19

Page 20: Tiểu luận luật kinh tế

với điều kiện quản lý các doanh nghiệp có qui mô lớn. Khác với doanh

nghiệp tư nhân là việc quản lý mang tính chất nội bộ gia đình, công ty cổ

phần có một cơ chế quản lý hợp lý, minh bạch rõ ràng.

Tóm lại: Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam khi chúng ta chủ

trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa

thì việc giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội theo hướng khai

thác các tiềm năng sẵn có về vốn, lao động, trình độ quản lý và các nguồn

lực vật chất cần thiết khác cho nhu cầu đầu tư và phát triển của đất nước

là một nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc thực hiện thành công các

nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu

toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong tiến trình đẩy

mạnh việc khai thác các nguồn lực quốc gia, chúng ta không thể không

tính đến yếu tố nội lực. Nhìn lại các loại hình doanh nghiệp hiện nay mà

pháp luật Việt Nam cho phép thành lập và hoạt động, tuy mỗi loại đều có

những điểm mạnh nhất định đòi hỏi các nhà kinh doanh cần nắm bắt để

khai thác và vận dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện và sở

thích của mình; nhưng chúng ta không thể phủ nhận những lợi thế hơn

hẳn của loại hình doanh nghiệp là công ty cổ phần so với các loại hình

doanh nghiệp khác. Chính những ưu điểm vượt trội như thế, một mặt đã

tạo nên lực hút rất lớn của xã hội đầu tư vào hình thức kinh doanh này,

mặt khác cũng đòi hỏi nhà nước ta cần có chính sách tạo hành lang pháp

lý thuận lợi, an toàn cho các nhà đầu tư khi thành lập các công ty cổ phần

để kinh doanh, nhất là việc hình thành một cơ chế quản lý thích hợp

nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý công ty cổ phần ở Việt Nam.

2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam:

20

Page 21: Tiểu luận luật kinh tế

Việt Nam với một nền kinh tế còn non kém chưa thoát ra sự yếu

kém và nghèo nàn, một nền kinh tế chiếm đa số là nông nghiệp lạc hậu,

hệ thống kinh tế Nhà nước chưa năng động, không tận dụng hết các

nguồn lực tiềm năng vốn có. Thời gian chuyển đổi cơ cấu kinh tế chưa

lâu còn mang nặng tính tập trung bao cấp nặng sức, phó thác cho Nhà

nước. Người lao động chưa có tinh thần làm chủ vì thực chất tài sản đó

không phải của họ và cũng chẳng phải là của ai mà toàn dân. Chuyển

sang nền kinh tế, sự tiếp thu chậm chạp và bảo thủ đã hạn chế rất đáng kể

khả năng pháp triển nền kinh tế. Nền kinh tế Nhà nước vẫn mang vai trò

chủ đạo và được Nhà nước bảo hộ nhưng trong thực tế các doanh nghiệp

Nhà nước hoạt động kinh doanh không hiệu quả trong thị trường thậm

chí Nhà nước phải bù lỗ, kiến thức kinh tế của các nhà quản lý này có thể

là khiêm tốn cũng có thể là do sức ì cho Nhà nước giải quyết.

Năm 2009, cả nước thực hiện, sắp xếp được 105 doanh nghiệp.

Trong đó, cổ phần hóa 60 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp, đạt 8,4%

kế hoạch giai đoạn 2009 - 2010. Có thể nhận thấy, tiến độ cổ phần hóa

trong năm 2009 là rất chậm so với kế hoạch đã được Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt.

Quá trình cổ phần hóa diễn ra chậm là do khách quan. Khi kinh tế

suy giảm, đem doanh nghiệp ra bán cũng không ai mua. Chính phủ vẫn

quyết tâm đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa nhưng không có nghĩa làm

bằng mọi giá, mà phải làm theo cách có hiệu quả nhất, đảm bảo phát huy

được thị trường hóa cổ phần hóa. Có doanh nghiệp muốn cổ phần hóa để

đổi mới chu trình quản trị quản lý nhưng vì chưa tìm được đối tác chiến

lược, nên phải tạm dừng để tìm kiếm.

21

Page 22: Tiểu luận luật kinh tế

Nhiều chủ trương sắp xếp đổi mới cũng thể hiện quyết tâm cổ phần

hóa, cho phá sản những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và thua lỗ

kéo dài, Nghị quyết của Quốc hội cũng thể hiện điều này. Chủ trương của

Chính phủ là giữ một số tổng công ty lớn trong những lĩnh vực nhạy cảm,

nhưng đồng thời vẫn hình thành những tập đoàn đa sở hữu.

Chẳng hạn ngành xăng dầu, tiếp đến là những tập đoàn mà Nhà

nước vẫn đang nắm giữ 100% vốn, trong điều kiện cho phép sẽ cổ phần

hóa. Nhà nước là chủ sở hữu chỉ cần nắm tỷ lệ vốn nhất định đủ để chi

phối chứ không cần 100%, trừ những lĩnh vực đặc biệt.

Cổ phần hóa là giai đoạn thí điểm, vừa làm vừa hoàn thiện cơ chế

nên vai trò quản lý Nhà nước là rất quan trọng, nếu không sẽ xảy ra tình

trạng như các nước là người lao động bị đưa ra ngoài. Chúng ta làm rất

thận trọng nên cơ chế thay đổi liên tục, thay đổi để phù hợp với thực tế,

đảm bảo nâng cao hiệu quả, phát huy tính dân chủ của người lao động và

huy động được các nguồn lực.

Nhờ có vai trò Nhà nước, quá trình cổ phần hóa ở từng doanh

nghiệp đã đảm bảo điều kiện người lao động được giải quyết tốt, không

tạo sức ép về lao động đối với chương trình cổ phần hóa. Đây là những

điểm đạt được.

Mô hình doanh nghiệp lớn có đặc thù và có vấn đề lớn do đó cần

có cơ chế xử lý riêng. Định hướng của Chính phủ chỉ đạo là sửa đổi cơ

chế theo thực tế phát sinh. Điểm “vướng” nhất trong quá trình cổ phần

hóa các doanh nghiệp lớn là đổi mới toàn diện từ tư duy đến quản trị.

Vừa rồi, Quốc hội đưa ra vấn đề bán cổ phần cho cổ đông chiến lược.

22

Page 23: Tiểu luận luật kinh tế

Đây là vấn đề khó vì nhiều khi phải mời cổ đông chiến lược vào để

họ giúp cho doanh nghiệp mình. Lúc ấy, giá không quan trọng và có thể

bán với giá thỏa thuận thấp hơn giá thị trường. Cần có chủ trương quan

điểm rõ thì doanh nghiệp mới dám làm.

Khó khăn nhất của doanh nghiệp là xử lý tài chính, xác định giá trị

sở hữu đất đai, giá trị thương hiệu, mua bán cổ phần cho cổ đông chiến

lược, giải quyết thu nhập với người lao động. Do đó, cần rà soát xem cơ

chế vướng ở đâu. Kết quả khảo sát sơ bộ cho thấy vướng ở cơ chế bán,

vấn đề tài chính.

Cho đến nay, sau nhiều năm cổ phần hóa (CPH) mới có hơn 3.800

công ty nhà nước và bộ phận của công ty nhà nước chuyển sang công ty

cổ phần, 300 công ty TNHH một thành viên nhà nước. Như vậy, thời

gian còn lại để thực hiện không còn nhiều, trong khi còn khoảng 1.500

DN nhà nước phải sắp xếp, đây là một thử thách không dễ vượt qua.

Nhiều bất cập trong quá trình CPH:

Theo Bộ Tài chính, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các DN chậm

CPH. Nào là tồn tại về tài chính, do kinh doanh thua lỗ dẫn đến mất vốn

nhà nước, nợ xấu ngân hàng, nhiều tài sản tồn đọng không xử lý… đã

làm nhiều DN nhà nước không CPH được. Nhiều DN đã "ép" CPH do

đánh giá tăng giá trị tài sản, chất lượng hoạt động, nên sau CPH tình hình

sản xuất, kinh doanh không cải thiện. Thậm chí, không ít DN không thể

quyết toán để bàn giao tài chính sang công ty cổ phần. Việc huy động

vốn từ các tổ chức, cá nhân bên ngoài còn hạn chế, nên vốn nhà nước vẫn

chiếm tỷ lệ lớn trong vốn điều lệ các DN CPH (52%). Đã vậy, một tỷ lệ

lớn DN sau CPH, ban quản lý, điều hành là những người quản lý của DN

23

Page 24: Tiểu luận luật kinh tế

Nhà nước cũ, nên không đổi mới trong quản trị DN... Ngoài ra, một số

quy định pháp luật về CPH chưa thật sát với thực tế, hoặc chậm hướng

dẫn thi hành. Về các nội dung tính đủ giá trị đất, nhất là việc tính giá đất

thuê vào giá trị DN, xác định lợi thế về địa lý, giá trị thương hiệu, lựa

chọn cổ đông chiến lược, minh bạch các thông tin về CPH… làm chưa

chuẩn nên đã kéo dài thời gian CPH, hoặc bị lợi dụng trong khi thực hiện.

Bên cạnh đó, các quy định, khung pháp lý về CPH lại thay đổi

liên tục khiến DN khó cập nhật. Chẳng hạn, từ năm 2002 đến nay quy

định pháp luật về CPH được thay đổi 3 lần (Nghị định (NĐ) 64/2002/CP,

NĐ 187/2004/CP và NĐ 109/2007/CP) và các thông tư hướng dẫn

thường ban hành chậm, nên đã ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch

CPH DN nhà nước...

Đẩy nhanh tiến độ, nhưng phải bảo đảm chất lượng

Để DN hoạt động hiệu quả sau CPH, Nhà nước chỉ giữ 100%

vốn tại các loại DN như DN quốc phòng, an ninh; DN công ích quan

trọng; công ty mẹ của một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty hoạt động

một trong những ngành, nghề liên quan đến an ninh quốc gia về kinh tế,

quản lý, khai thác nguồn tài nguyên và khoáng sản quan trọng… Ngoài

ra, Nhà nước cũng cần đổi mới chính sách đầu tư tạo lập tài sản và quyền

sở hữu, quản lý tài sản phục vụ mục tiêu cung ứng sản phẩm và dịch vụ

công ích theo hướng Nhà nước có trách nhiệm đầu tư tạo lập những tài

sản cần đầu tư lớn, mà các DN không có khả năng đầu tư hoặc không

muốn đầu tư (hệ thống đập hồ, kênh mương thủy lợi liên vùng, hệ thống

cấp thoát nước đô thị lớn, thông tin tín hiệu hàng hải…) để giao hoặc tổ

chức đấu thầu cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích.

24

Page 25: Tiểu luận luật kinh tế

Được biết, địa vị pháp lý của các công ty cổ phần mà Nhà nước

giữ cổ phần chi phối chưa nhất quán. Khi cần kiểm soát, các cơ quan

quản lý coi họ là DN nhà nước, khi xét hưởng ưu đãi của nhà nước (nếu

có) họ lại bị coi là công ty cổ phần. Vì thế, nên thay đổi nhận thức không

còn tồn tại DN nhà nước nữa, mà chỉ còn DN hoạt động theo Luật DN.

Các cơ quan quản lý nhà nước nên hạn chế việc can thiệp bằng mệnh

lệnh hành chính vào quá trình quản trị điều hành của DN. Thay vào đó,

nên ban hành các quy định về người đại diện sở hữu vốn nhà nước và

thực hiện quyền của Nhà nước với DN như một cổ đông bình đẳng với

các cổ đông khác.

Một số chuyên gia cho rằng, trong thời điểm hiện nay nếu CPH

vội vàng có thể dẫn đến tình trạng "thôn tính" tài sản nhà nước. Vì thế,

mục tiêu CPH nên được nhìn nhận một cách tổng thể và dài hạn hơn.

CPH là việc cần phải làm để tái cơ cấu DN nhà nước nhằm đặt mục tiêu

tăng hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, nhưng không CPH bằng mọi giá.

Vấn đề hiện nay là đẩy nhanh tiến độ CPH các DN nhà nước, song phải

bảo đảm chất lượng khi thực hiện CPH các DN này.

3. Thành công và những tồn tại của các công ty cổ phần ở Việt

Nam trong thời gian qua :

a, Những thành tựu:

Trong thời gian qua việc xất hiện hình thái công ty cổ phần đã

tạo nên sự thay đổi căn bản về hình thức quản lý, nâng cao hiệu quả sản

xuất kinh doanh trong từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế

quốc dân. Hơn nữa, mô hình này đã thu hút được nguồn vốn kinh doanh

25

Page 26: Tiểu luận luật kinh tế

của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công

nghệ và phát triển doanh nghiệp. Tạo điều kiện nâng cao vai trò làm

chủ thực sự của người nắm cổ phần, tạo điều kiện phát triển công ty.

Ngoài ra đã giải quyết được vấn đề thất nghiệp khi các doanh

nghiệp nhà nước cấu lại. các doanh nghiệp nhà nước không những

không sa thải công nhân khi cổ phần hóa, ngược lại trên thực tế đã

tuyển thêm nhiều lao động mới vì hiệu quả kinh tế tăng, thị trường mở

rộng…

Về phía nhà nước, cái lợi vừa mang tính chiến lược lại vừa cụ

thể: ngân sách nhà nước bớt được các khoản chi bao cấp, số thu ngân

sách nhà nước tăng do doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Mặt khác, thông

qua mô hình của công ty cổ phần, nhà nước tạo ra được một cách quản

lý mới có tính tập thể và hiệu quả cao. Thông qua hội đồng quản trị, từ

nay người lao động cũng được tham gia vào quá trình quản lý và kết

quả kinh doanh của doanh nghiệp.

b, Những hạn chế :

Công ty cổ phần tuy có vai trò lớn trong sự phát triển kinh tế

xã hội nhưng nó cũng có những hạn chế:

- Công ty cổ phần với chế độ trách nhiệm hữu hạn đã đem

lại những lợi ích cho công ty, nhưng lại chuyển bớt rủi ro về phía chủ

nợ.

- Công ty cổ phần gồm đông đảo các cổ đông tham gia,

nhưng đa số các cổ đông không biết nhau và nhiều người trong họ

không am hiểu kinh doanh; sự tham gia góp vốn vào công ty khác nhau

nên mức độ ảnh hưởng của các cổ đông đối với hoạt động của công ty

cũng khác nhau. Điều đó dẫn đến việc lạm dụng và lợi dụng hoặc dẫn

26

Page 27: Tiểu luận luật kinh tế

đến nảy sinh tranh chấp và phân hóa lợi ích giữa các cổ đông hoặc các

nhóm cổ đông khác nhau.

- Công ty cổ phần mặc dù có cơ cấu tổ chặt chặt chẽ nhưng

việc phân chia quyền lợi và chức năng của từng bộ phận đối với hoạt

động của công ty lại rất phức tạp.

- Công ty cổ phần là tổ chức có tính dân chủ cao trong kinh

tế nhng nó phụ thuộc đáng kể vào việc góp vốn, khiến nhiều mặt còn bị

hạn chế, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông ít cổ

phần.

- Tính công khai của công ty cổ phần là một ưu điểm đối với

nhà nước và xã hội, nhưng nó là một hạn chế đối với những hoạt động

kinh tế vốn có đặc tính “kín đáo”.

Việc giảm bớt hạn chế của công ty cổ phần phụ thuộc vào

nhiều yếu tố như sự hoàn hảo của pháp luật, tính hiệu quả và niềm tin

của pháp luật, sự phát triển chung của nền kinh tế, trình độ phát triển

cao của dân trí, và có một bộ máy nhà nước kỷ cương phép tắc.

4. Nguyên nhân những hạn chế trong quá trình cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nước:

a, Về phía khách quan:

Chúng ta tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong

bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện những bước quá độ từ sản xuất nhỏ

sang sản xuất lớn, từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường.

Trong điều kiện đó những điều kiện khách quan cho quá trình cô phần

hóa còn nhiều bất cập đó là trình độ xã hội hóa chưa chín muồi, phân

công lao động xã hội ở trình độ tương đối thấp, chất lượng và hiệu quả

kinh doanh không cao.

27

Page 28: Tiểu luận luật kinh tế

Hơn thế nữa, nền kinh tế thị trường mới hình thành chưa thể

hiện được những ưu thế vốn có của nó để mang lại những điều kiện đầy

đủ về kinh tế xã hội cho sự hình thành của hình thái công ty cổ phần.

Mặt khác, do xuất phát từ nền sản xuất nhỏ lại nhiều năm vận hành

trong cơ chế cũ nên trình độ độ kiến thức và tâm lý của ta còn bị ảnh

hưởng nặng nể chưa thích ứng được với cơ chế mới. Những hạn chế

này là lực cản không nhỏ đối với tiến trình cổ phần hóa.

b, Về phía chủ quan:

Trong điều kiện khách quan như thế. để tiến hành cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố

chủ quan song trong thời gian qua nhân tố này còn nhiều vướng mắc.

Thứ nhất, chưa làm thông suốt quan điểm chủ trương cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Chính Phủ. Cho đến nay

vẫn còn các cấp, ngành, địa phương chưa hưởng ứng tích cực chủ

trương cổ phần hóa vì cho rằng cổ phần hóa chẳng khác gì với tư nhân

hóa nó sẽ làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa, làm suy yếu vai trò

lãnh đạo của nhà nước, từ đó họ do dự, chần chừ, nghe ngóng, thiếu chủ

động. Một số cán bộ tỉnh, thành phố vì lợi ích cục bộ, muốn có một số

doanh nghiệp trong ty để “chi phối” nên cũng không muốn cổ phần hóa.

Họ sợ mất chức quyền, bổng lộc mà lại chịu trách nhiệm nặng nề hơn

nên viện lý do củng cố, sắp xếp doanh nghiệp để trì hoản côn việc này.

Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc phối hợp giữa các cấp chính

quyền không đồng bộ, thiếu thống nhất làm cho cổ phần hóa bị chậm

trễ ngay từ khâu xây dựng phương án từ cơ sở.

Thứ hai, việc điều hành triển khai cổ phần hóa còn chậm và

lúng túng. Điều này trước hết thể hiện ở một số nội dung trong các

phương án chỉ đạo, tổ chức triển khai không rõ ràng và thiếu tính hệ

28

Page 29: Tiểu luận luật kinh tế

thống. Chẳng hạn: cổ phần hóa là tự nguyện hay bắt buộc đối với doanh

nghiệp nhà nước? Gía trị đất đai có tính vào giá trị của doanh nghiệp để

cổ phần hóa hay không? Trách nhiệm của bộ ngành, địa phương trong

triển khai cổ phần hóa như thế nào? Sự chậm trễ và lúng túng trong

triển khai cổ phần hóa còn được thể hiện ở chỗ cho đến nay Chính Phủ

vẫn chưa có chương trình cổ phần hóa ở tầm vĩ mô cho toàn bộ nền

kinh tế quốc dân để làm căn cứ cho việc xác định tiến độ cổ phần hóa:

chưa có một đạo luật hay pháp lệnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện, đa số cán bộ điều

là kiêm nhiệm chưa được đào tạo có tính hệ thống. Việc giải quyết các

thủ tục pháp lý liên quan đến nhà xưởng, đất đai, xác định vốn, nợ của

các doanh nghiệp cổ phần hóa vẫn còn nhiều phiền phức và vướng mắc.

Thêm vào đó, việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp đẻ cổ phần

hóa còn nhiều khâu rườm rà, vừa gây tốn kém, vừa mất thời gian.

Thứ ba, chế độ chính sách trong các doanh nghiệp chậm

được ban hành sửa đổi và chưa đủ sức hấp dẫn. Theo nghị quyết số

44/1998/ND-CP, các doanh nghiệp cổ phần hóa được hưởng một số ưu

đãi, tuy nhiên vẫn chưa được bình đảng so với các doanh nghiệp Nhà

nước. Chẳng hạn, các doanh nghiệp nhà nước được vay tín chấp còn

các doanh nghiệp cổ phần phải thế chấp mới được vay. Thực tế này đã

níu kéo các doanh nghiệp nhà nước không khuyến khích họ cổ phần

hóa. Khía cạnh quan trọng hơn là người lao động rất lo sợ bị mất việc

khi doanh nghiệp cổ phần hóa. Họ đã quen với chế độ bao cấp, chế độ

biên chế suốt đời. Sức ỳ này làm cho họ ngại cổ phần hóa.

Tóm lại, quá trình cổ phần hóa ở nước ta diễn ra chậm là do tác

động của cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Vì thế

29

Page 30: Tiểu luận luật kinh tế

để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và phát triển

hình thái công ty cổ phần ở nước ta Đảng, Nhà nước và Chính phủ phải

đưa ra những giải pháp và phương hướng phù hợp nhằm giải quyết

những tồn tại và hạn chế nêu trên.

III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN

NHẰM ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CÁC CÔNG TY

CỔ PHẦN TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN NAY:

1. Phương hướng tiếp tục thực hiện việc hình thành và phát triển

công ty cổ phần thông qua cổ phần hóa.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 đã chủ trương “Triển khai tích

cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước..” và

“Áp dụng nhiều hình thức góp vốn liên doanh giữa nhà nước với các

nhà kinh doanh tư nhân trong nước nhằm tạo thế tạo lực cho doanh

nghiệp Việt Nam phát triển tăng sức hợp tác cạnh tranh với bên

ngoài, đồng thời cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực

thu hút vốn đầu tư nước ngoài” cụ thể

-Thứ nhất đánh giá đúng vai trò của kinh tế tư nhân đồng thời

có chính sách thỏa đáng khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư phát

triển cả về chiều rộng lẩn chiều sâu tạo cơ sở kinh tế cho việc

chuyển hình thức tư nhân một chủ sang công ty trách nhiệm hữu hạn

và công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu. Biện pháp này sẽ tạo điều

kiện thuận lợi và phát triển công ty cổ phần theo truyền thống với

tốc độ nhanh hơn, góp phần làm cho các doanh ngiệp nâng cao

nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo điều kiện đổi mới

công nghệ, rút ngắn khoang cách tut hậu về kinh tế của hiện nay của

nước ta.

30

Page 31: Tiểu luận luật kinh tế

-Thứ hai, nắm vững mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp của

nước ta đã ghi trong quyết định 202-CT của Thủ Tướng Chính Phủ

trong khi tiến hành cổ phần hóa là:

Trên cơ sở tổ chức sắp sếp lại các doanh nghiệp nhà

nước thành bốn loại, mà đổi mối cơ cấu sở hữu làm cho sở hữu nhà

nước được củng cố và tăng cường, nắm được các vị trí then chốt,

trọng yếu để giữ vai trò chủ đạo- vai trò quyết định sự ồn định và

phát triển của nền kinh tế.

Thực hiện được tích tu và tập trung vốn của nhà nước

vào các lĩnh vực then chốt. Từ đó mà huy động vốn ngày càng nhiều

của các thành phần kinh tế khác để đầu tư và phát triển tất cả các

ngành nghề có triển vọng.

-Thứ ba trong quá trình cổ phần hóa cần nắm vững các yếu tố

thuận lợi và khó khăn tác động.

-Thứ tư, trong việc chỉ đạo và thực hiện cổ phần hóa cần coi

trọng một số vấn đề như:

Việc lựa chọn doanh nghiệp để cổ phần hóa phải căn cứ

vào chương trình tổng thể của việc tổ chức sắp sếp lại các doanh

nghiệp nhà nước chứ không chỉ căn cứ vào ý kiến giám đốc và tập

thể người lao động

Dựa vào bảng tổng kết tài sản và kết quả hoạt động sản

xuất kinh doanh để xác định mục tiêu của cổ phần hóa, giải quyết

thỏa đáng đối với từng nguồn vốn của nhà nước và vốn tự có, quỹ

phúc lợi của doanh nghiệp, để thanh toán nợ nần, những tồn động về

tài chính trước khi chuyển sang công ty cổ phần.

Xác định phương pháp và mức độ bán cổ phiếu một

cách công khai rõ rang, thủ tục đơn giản dể hiểu. Nhà nước không

31

Page 32: Tiểu luận luật kinh tế

chỉ biết thu hồi vốnma2 còn cần phải chấp nhận những phí tổn nhất

định vì lợi ích lâu dài như chí phí bảo hiểm, tạo điều kiện cho công

nhân mua được một lượng cổ phiếu tối thiểu, trợ cấp cho người lao

động mất việc làm..

Các doanh nghiệp được cổ phần hóa sẻ được hoạt động

trong khuôn khổ luật công ty cổ phần cả về hình thức lẫn hoạt động

tài chính

-Cuối cùng, nhà nước thông qua chức năng quàn lí vĩ mô của

mình, tạo hành lang và môi trường kinh tế chính trị xã hội một cách

thuận lợi và tương đối ổn định, đưa các công ty cổ phần sau khi cổ

phần hóa đi vào hoạt động bình thường và có hiệu quả.

2. Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của công ty cổ phần :

Để mô hình công ty cổ phần được nhân rộng và phát huy được

những tác dụng to lớn của nó đối với nền kinh tế nước ta trong giai

đoạn hiện nay nhà nước cần tạo điều kiện phát triển mạnh hình thái

công ty cổ phần trong phạm vi cả nước.

Mở rộng hành lang pháp lý làm cơ sở cho các công ty cổ phần

chiếm lĩnh thị trường trên những lĩnh vực khác nhau, tạo lập sân chơi

bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và các công ty cổ phần về

những điều kiện hoạt đông kinh doanh

Ngoài ra các công ty cổ phần cần tự xác định hướng đi và phát

triển sản xuất một cách có hiệu quả nâng cao năng lực kinh tế.

32