Upload
hien-nhan
View
35
Download
5
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------------------
HOÀNG ANH
THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Việt Nam đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, hệ thống giá trị cũng thay
đổi. Nhiều giá trị mới được tạo dựng, một số giá trị truyền thống khác được mở
rộng về nội dung, v.v… Điều này đã ảnh hưởng đến định hướng hệ thống giá trị của
mỗi cá nhân, nhất là thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
Giá trị được hiểu là tổ hợp các thuộc tính tâm lý của nhân cách. Giá trị tạo nên
bản chất của nhân cách và qui định chiều hướng, tính chất của hành vi. Giá trị thể
hiện ở vai trò, vị trí, lối sống của cá nhân. Vì thế, giá trị được coi là cốt lõi của nhân
cách.
Giá trị qui định hoạt động của cá nhân, là cơ sở để cá nhân tự đánh giá và điều
chỉnh hoạt động và hành vi ứng xử trong cuộc sống. Vì thế lựa chọn giá trị phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại, với truyền thống của dân tộc, phù hợp với yêu cầu
của nghề nghiệp và điều kiện của bản thân là vấn đề phải cần quan tâm nghiên cứu
một cách thoả đáng.
SVSP cần định hướng giá trị đúng đắn để không chỉ tích cực trong học tập và
rèn luyện ở trường sư phạm mà còn định hướng giá trị cho học sinh của mình khi đã
là giáo viên. Do đó, xác định cấu trúc giá trị đạo đức và định hướng giá trị đạo đức
cho SVSP có ý nghĩa xã hội to lớn.
Nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị đã được các tác giả trong nước và
trên thế giới đề cập đến như Ph.N. Gônôbôlin, V.A. Cruchetxki, Nguyễn Quang
Uẩn, Trần Trọng Thủy, Thái Duy Tuyên, Đặng Hữu Toàn, v.v… Trong những công
trình nghiên cứu, các tác giả đã đề cập đến nhiều bình diện của giá trị và định hướng
giá trị ở thanh niên như “Định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong nền
kinh tế thị trường”, “Vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay”, “Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị Chân –
Thiện – Mỹ”, “Giá trị đạo đức – Giá trị bản thân và giá trị xã hội”, v.v…
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có một đề tài nào nghiên cứu cụ thể về
giá trị và định hướng giá trị đạo đức ở sinh viên các trường sư phạm nói chung và
SVSP tại TPHCM nói riêng. Vì lẽ đó, tìm hiểu cụ thể các giá trị và định hướng giá
trị đạo đức của SVSP là cần thiết.
Từ những lý do trên, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài “Thực trạng
định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng định hướng giá trị đạo đức ở SVSP, đề xuất
một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức của SVSP Thành phố Hồ Chí
Minh.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Nhân cách của SVSP
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của
SVSP Thành phố Hồ Chí Minh
4. Giả thuyết nghiên cứu
Hiện nay, SVSP ở TPHCM có nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức khá tích
cực trong các mối quan hệ của cuộc sống.
Trong hệ thống giá trị đạo đức của SVSP ở TPHCM có sự kết hợp những giá
trị đạo đức truyền thống và những giá trị đạo đức hiện đại.
Có sự khác biệt tương đối giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên ở
các tỉnh lên thành phố học với sinh viên sống tại TPHCM, giữa sinh viên năm đầu
và sinh viên năm cuối, và giữa sinh viên một số trường sư phạm ở TPHCM.
Nếu xác định được các giá trị đạo đức ở SVSP hiện nay sẽ tìm ra các giải pháp
giáo dục định hướng giá trị đạo đức một cách đúng đắn cho SVSP.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận về giá trị đạo đức và định hướng giá
trị đạo đức.
5.3. Khảo sát thực trạng định hướng giá trị đạo đức của SVSP TPHCM
5.4. Đề xuất một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho
SVSP.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu định hướng giá trị đạo
đức trong hệ thống giá trị nhân cách.
6.2. Về phạm vi khảo sát: khảo sát định hướng giá trị đạo đức của sinh
viên ở một số trường sư phạm trong địa bàn TPHCM năm học 2006 – 2007.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận: Triết học Mac – Lênin, quan điểm hệ thống cấu
trúc, quan điểm hoạt động – nhân cách
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, so sánh, trừu tượng
hoá, khái quát hóa,…
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra bằng phiếu câu hỏi,
phỏng vấn, quan sát
- Phương pháp toán thống kê: Sử dụng SPSS
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
● Giá trị là một khái niệm được nghiên cứu trên phạm vi rất rộng và ở nhiều
lĩnh vực khác nhau như kinh tế, tâm lý và giáo dục. Trong kinh tế, “Giá trị” có khi
được dùng chỉ tính tiện ích của hàng hoá. Trong Tâm lý học, “giá trị” được dùng để
chỉ thuộc tính tâm lý cá nhân. Còn trong Giáo dục học, “giá trị” được hiểu như là
thành phần cốt lõi của đạo đức cần giáo dục cho học sinh.
Trong những năm cuối của thế kỉ 20, vấn đề giá trị và định hướng giá trị ngày
càng được nhiều nước quan tâm và nghiên cứu như Ba Lan, Liên Xô, Bungary,
Nhật Bản, Hungary, v.v... Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề
của giá trị như nội dung (gồm giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị thẩm mỹ) [41,
tr.108], cấu trúc của giá trị và một số giá trị cơ bản như hợp tác, tự do, hạnh phúc,
trung thực, khiêm tốn, tình yêu, hòa bình, tôn trọng, trách nhiệm, giản dị, khoan
dung, đoàn kết [72, tr.1], công cụ để đo đạc và kiểm chứng giá trị, những tác động
của thế giới đến sự thay đổi các giá trị và nhấn mạnh sự khủng hoảng giá trị là một
vấn đề toàn cầu và những giá trị được toàn cầu chấp nhận trong giai đoạn hiện nay,
đó là tinh thần tập thể, sự bảo vệ đời sống con người, bảo vệ thiên nhiên và chân giá
trị nhân loại, sự công bằng, tự do, bình đẳng.
Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị
như “Tổng quan về giá trị và giáo dục giá trị”, đề tài KX-07-04 (1993) do Lê Đức
Phúc và Mạc Văn Trang thực hiện; “Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” (1995), Luận án Tiến sĩ của Dương Tự Đàm;
“Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” - Đề tài KX-07-04 (1995)
do Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang làm chủ nhiệm. Các đề tài
đã nêu định hướng giá trị chung trên các lĩnh vực nhân cách, nghề nghiệp, khu vực
và giới tính.
Trong cuốn “Về giá trị và giá trị châu Á”, Hồ Sỹ Quý đã phân tích những giá
trị truyền thống Châu Á và nền văn hoá Việt Nam đồng thời phân tích sự biến động
một số giá trị ưu trội trong bảng giá trị Châu Á tại Việt Nam như cần cù, hiếu học,
gia đình và cộng đồng trước tác động của quá trình toàn cầu hoá.
Chức năng và ý nghĩa cơ bản của giá trị cũng như những giá trị mới trong tư
tưởng và lối sống của thanh niên Việt Nam cũng được các nhà khoa học, nhà giáo
Việt Nam như Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thuỷ, Đỗ Long trình bày trong các
bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành hay trong các công trình nghiên
cứu (Luận án Tiến sĩ của Đỗ Ngọc Hà, 2002).
● Đạo đức và giáo dục đạo đức là một vấn đề được nghiên cứu từ xa xưa. Nhà
Triết học cổ Hy Lạp Platon đề cao giáo dục “chân, thiện, mỹ” trong nghiên cứu
Triết học. Aristote đã nói đến đức dục trong ba mặt: Thể, Đức, Trí [64, tr.43]. Đặc
biệt Khổng Tử đã đưa ra những chuẩn mực cần có của người quân tử. Theo ông,
người quân tử phải sống theo chữ “Nhân” và tôn thờ chữ “Lễ”, giữ kỷ cương trật tự
của luật gia, phép nước [65, tr.57].
Các quan niệm về đạo đức, về thiện, ác lần lượt xuất hiện trong các tác phẩm
của Ph. Ănghen, Heghen, Phơbach, Kant. Hêghen quan niệm “ác” là những dục
vọng xấu xa của con người như “lòng tham lam”, “sự thèm muốn”; Phơbach coi
“cái thiện tuyệt đối” là tình yêu thương đồng loại [28, tr.7]. Đặc biệt Kant đã cho ra
đời hẳn một học thuyết về đạo đức, được gọi là “Đạo đức học Kant”.
N.A. Lyapin, A.G. Côvalép, Liđya và Bôgiôvic (1962), trong cuốn “Cơ sở tâm
lý học của đức dục” đã trình bày các thành phần của đạo đức gồm “thói quen đạo
đức”, “tình cảm đạo đức”, “quan điểm – khái niệm đạo đức” như là những thành
phần tạo nên “niềm tin” – cốt lõi của vấn đề hình thành và giáo dục đạo đức.
Ở Việt Nam, “đạo đức” từ lâu đã trở thành tiêu chí đánh giá về tư tưởng và lối
sống của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn
hoá coi tư tưởng, lối sống mà cụ thể là việc định hướng giá trị đạo đức có quan hệ
mật thiết đến mức tổ hợp thành một vấn đề trọng tâm và cấp bách trong quá trình
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghiên cứu về các giá trị đạo đức, nguồn gốc hình thành giá trị đạo đức Việt
Nam và định hướng giá trị đạo đức được Trần Văn Giàu, Vũ Khiêu, Trần Văn
Khuê, Huỳnh Khái Vinh, v.v… trình bày trong các công trình nghiên cứu của mình.
Lối sống đạo đức của SVSP với nhiều mặt biểu hiện, đề xuất nhiều biện pháp
tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên được Nguyễn Quang
Uẩn phân tích trong đề tài “Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên Đại
học Sư phạm, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, mã số 96/08.
Một nhóm tác giả thuộc trường ĐHSPKT TPHCM thực hiện đề tài “Đạo đức
sinh viên Việt Nam hiện nay – thực trạng và xu hướng biến đổi” (2006), trong đó,
các vấn đề như đạo đức, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội, những yêu cầu
về nội dung đạo đức của sinh viên trong sự phát triển của xã hội Việt Nam, thực
trạng đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay ở các tỉnh phía Nam, v.v… được đề
cập.
Những bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như Triết học, Tâm lý học, Giáo
dục đã nêu lên nhiều quan điểm, ý kiến phân tích vấn đề định hướng giá trị và giá trị
đạo đức của thanh niên hiện nay. Như trong bài “Những suy nghĩ về sự thay đổi
thang giá trị đạo đức trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam
hiện nay” [20], tác giả Trần Hoàng Hảo đã nêu lên những nguyên nhân dẫn đến sự
biến động phức tạp trong giá trị đạo đức ở nước ta, đó là sự bất cập giữa lý luận với
thực tế xã hội, mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý trí với tình cảm,
giữa lý tưởng và hiện thực,.v.v… Tác giả kết luận: “…đạo đức truyền thống là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo ra môi trường bền vững cho sự phát
triển kinh tế công nghiệp hoá - hiện đại hoá”.
Nhìn chung, tất cả những đề tài khoa học đã nghiên cứu về giá trị, định hướng
giá trị, đạo đức và giáo dục đạo đức đều thể hiện một cách chung chung hoặc chỉ đề
cập theo diện rộng với các giá trị truyền thống của dân tộc, hoặc đi theo hướng giáo
dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Cần phải có những công trình nghiên cứu hệ thống giá
trị đạo đức của một nhóm khách thể cụ thể dưới góc độ lứa tuổi, hay ngành nghề
nhất định.
1.2. Giá trị và định hướng giá trị
1.2.1. Giá trị
a. Khái niệm giá trị
Giá trị (Value) được nhiều khoa học nghiên cứu như Triết học, Xã hội học,
Tâm lý học dưới nhiều bình diện, khía cạnh khác nhau như sự hình thành, tồn tại,
nội dung và điều kiện hình thành, cũng như ý nghĩa của giá trị đối với cá nhân và xã
hội nhất định.
• Triết học Mácxít nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính nhận thức và
tính thực tiễn của giá trị. Chủ nghĩa Mac – Lênin coi giá trị là những hiện tượng xã
hội đặc thù, mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của con người. Nói
đến quan điểm giá trị, bao giờ cũng nói đến mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể.
Các giá trị đều được nhận thức và kiểm nghiệm bằng thực tiễn.
Rõ ràng là giá trị gắn với hoạt động của con người. Giá trị tồn tại thật, nhận
thức được, kiểm chứng được và được hình thành, thay đổi trong thực tiễn cuộc sống
xã hội của con người.
• Tâm lý học xã hội nghiên cứu giá trị và định hướng giá trị trong cộng đồng,
đồng thời, giải thích vai trò của chúng trong sự hình thành và phát triển của các hiện
tượng tâm lý xã hội như tâm lý dân tộc, nhu cầu, thị hiếu, tập quán, lối sống của các
nhóm xã hội.
• Tâm lý học hoạt động đã xác định “giá trị là cái được chủ thể đánh giá thừa
nhận trên cơ sở mối quan hệ với sự vật, hiện tượng đó”. Các nhà Tâm lý học nghiên
cứu khái niệm giá trị nhằm mục đích tìm hiểu hành vi, hoạt động của con người và
dự báo phát triển nhân cách. Trong đó chuyên ngành Tâm lý học nhân cách đề cập
đến giá trị như là một bộ phận cấu thành nên tâm lý – nhân cách con người.
Có thể nói giá trị là một phạm trù không thể thiếu được khi đề cập đến vấn đề
nhân cách: Hoạt động – Giao tiếp – Giá trị - Nhân cách” [5, tr.261].
Giá trị được hiểu như thế nào? Có nhiều ý kiến khác nhau về giá trị, phổ biến
nhất, tập trung nhất vẫn là tính có ích của giá trị đối với cá nhân và xã hội. Cụ thể
như:
“Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân,
hoặc xã hội đều có một giá trị” (J.H.Fichter, nhà Xã hội học Hoa kỳ) và đồng tình
với quan niệm này còn có V.P. Tugarinov, L. Dramaliev, J. Makiguchi,v.v...
Makiguchi viết “giá trị của sự vật (có thể hiểu là bao gồm sự vật và hiện tượng –
người nghiên cứu) là cái được chủ thể thừa nhận, trên cơ sở mối quan hệ của sự vật
với chúng ta là có tầm quan trọng trong cuộc sống” [41, tr.108].
Một số tác giả Việt Nam như Trần Văn Giàu, Phạm Minh Hạc, Trần Trọng
Thủy, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Khái Vinh, v.v… đều cho rằng giá trị là tính có
nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng quý, có ích của các đối tượng với các chủ thể. Chủ thể
ở đây có thể là một nhóm người, một giai tầng, một dân tộc hoặc một thời đại [63,
tr.49]. Theo Nguyễn Quang Uẩn, giá trị của một sự vật hay hiện tượng đều được
thừa nhận một cách khách quan dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể và nhu cầu đối
với sự vật, hiện tượng đó.
Từ những phân tích ở trên, theo chúng tôi, giá trị có thể được hiểu là mức độ
cho thấy tính có lợi ích, có ý nghĩa của sự vật, hiện tượng, gắn liền với nhu cầu của
cá nhân con người hay nhóm người.
b. Phân loại giá trị
Có nhiều cách phân loại giá trị. Tùy thuộc vào mục đích tiếp cận mà các tác
giả phân chia giá trị như sau:
- Dựa vào sự thỏa mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần của con người
mà giá trị được chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị vật chất như giá
trị sử dụng, giá trị kinh tế. Giá trị tinh thần như giá trị khoa học, giá trị chính trị, giá
trị đạo đức, giá trị pháp luật, giá trị tôn giáo.
- Căn cứ vào các giá trị chi phối hệ thống hành vi lớn của con người, M.
Popon và J.R. William đã đề xuất các giá trị chủ yếu gồm các giá trị tồn tại sinh
học, các giá trị tính cách, các giá trị văn hóa và các giá trị xã hội [77, tr.58].
- Dựa trên các lĩnh vực hoạt động của con người, Huỳnh Khái Vinh chia giá trị
thành các nhóm: Giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị văn hoá, giá trị chính trị,
luật pháp, giá trị kinh tế. [83, tr.60]. Đồng quan điểm với Huỳnh Khái Vinh có J.H.
Fichter, M. Popon và J.R. William. Mặc dù cách phân loại này mang tính toàn vẹn
trong cấu trúc hệ thống của các loại giá trị, nhưng vẫn chưa thể hiện một cách tách
bạch trong sự biểu hiện các giá trị cụ thể, và điều này dẫn đến khó khăn trong khi
nghiên cứu.
Mỗi cách phân loại giá trị thể hiện mỗi khía cạnh khác nhau và không có cách
phân loại nào thể hiện đầy đủ mọi phương diện giá trị vốn dĩ rất phong phú trong
cuộc sống. Điều quan trọng là khi xem xét các giá trị, cần xác định chúng trong một
hệ thống - cấu trúc, đặt chúng theo các thứ bậc và chú ý tính đa dạng trong các biểu
hiện sinh động của từng giá trị.
Trong đề tài này, chúng tôi phân loại giá trị dựa trên mức độ nhu cầu của con
người, trong đó, đạo đức là một trong những nhóm giá trị tinh thần quan trọng, chi
phối hành vi lối sống của con người (được trình bày ở phần dưới).
c. Hệ giá trị, thang giá trị và chuẩn giá trị
- Hệ giá trị (hay còn gọi là hệ thống giá trị) là một tổ hợp giá trị khác nhau
được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định, thành một tập hợp
mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá
của con người theo những phương thức vận hành nhất định của giá trị [77, tr.62].
Các hệ giá trị có vị trí độc lập tương đối và tương tác với nhau theo những thứ
bậc phù hợp với quá trình thực hiện các chức năng xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử
cụ thể. Do vậy, hệ thống giá trị luôn mang tính lịch sử xã hội và chịu sự chế ước bởi
lịch sử - xã hội. Trong hệ thống giá trị có chứa đựng các nhân tố của quá khứ, của
hiện tại và có thể cả những nhân tố trong tương lai, các giá trị truyền thống, các giá
trị thời đại, các giá trị có tính nhân loại, tính dân tộc, tính cộng đồng, tính giai cấp,
tính lý tưởng và tính hiện thực v.v...
- Thang giá trị (thước đo giá trị) là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị
được sắp xếp theo một trật tự ưu tiên nhất định.
Thang giá trị biến đổi theo thời gian, theo sự phát triển, biến đổi của xã hội
loài người, cộng đồng và từng cá nhân. Trong quá trình biến đổi đó, thang giá trị
của xã hội, của cộng đồng và của nhóm chuyển thành thang giá trị của từng người,
cứ thế qua từng giai đoạn lịch sử của con người.
Thang giá trị là một trong những động lực thôi thúc con người hoạt động. Hoạt
động được tiến hành theo những thang giá trị cụ thể sẽ tạo nên những giá trị nhất
định, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người. Chính trong hoạt động tạo ra
những giá trị lại góp phần khẳng định, củng cố, phát huy, bổ sung, hoàn thiện hoặc
thay đổi thang giá trị.
- Chuẩn giá trị là những giá trị giữ vị trí ở thứ bậc cao, vị trí cốt lõi, then chốt
trong thang giá trị, là chuẩn mực chung cho nhiều người. Hay nói cách khác, chuẩn
giá trị là các giá trị cốt lõi được lựa chọn, đánh giá và được xác định như các chuẩn
mực chung cho đại đa số thành viên xã hội [83, tr.62].
Chuẩn giá trị luôn tồn tại và phát triển thông qua mối quan hệ tương tác, nhất
là các mối liên hệ cấu trúc theo tầng bậc trong bảng giá trị xã hội để bảo đảm tính
ổn định và tính đa dạng của thang giá trị xã hội. Các chuẩn giá trị xã hội đóng vai
trò chuẩn mực cho các giá trị khác và là chuẩn cơ bản cho định hướng giá trị của đại
đa số thành viên xã hội.
Ở Việt Nam, chuẩn giá trị thường mang ý nghĩa luân lý sâu sắc. Theo Hồ Chủ
tịch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung với nước, hiếu với dân là thang giá
trị cao nhất, là thước đo giá trị của người Việt Nam, trong đó cái “đức”, cái “thiện”
là cốt lõi, là chuẩn của mọi giá trị.
Theo Trần Văn Giàu, những giá trị đạo đức tốt đẹp, chuẩn mực thường được
gọi là phẩm giá, phẩm chất [77, tr.65].
Trải qua nhiều thời kỳ với bao khó khăn, thăng trầm của đất nước, dân tộc,
nhưng hạt nhân cơ bản của thang giá trị, thước đo giá trị và nhân phẩm con người
Việt Nam ngày nay vẫn là các giá trị nhân văn truyền thống như lòng tự hào dân
tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, trung với nước, hiếu với dân, nhân nghĩa, cần cù,
thông minh, năng động, sáng tạo.
Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải thừa nhận, xã hội Việt Nam hiện tại đang có
sự biến động nhanh chóng, rõ nét thậm chí khủng hoảng, đảo lộn về thang giá trị,
chuẩn giá trị xã hội trong một bộ phận thanh niên Việt Nam thể hiện trong suy nghĩ,
lối sống và trong hành vi ứng xử như “sống suy đồi, thoái hoá một cách nghiêm
trọng, ham tư lợi, vị kỉ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng.v.v… suy đồi đến
mức lãng quên, coi thường những chất liệu sống cơ bản”. Điều quan trọng không
phải là lên án, kết tội một bộ phận nhỏ lớp trẻ đang có lối sống như trên, mà cần tiếp
tục nghiên cứu để có những nhận định, đánh giá đúng đắn, khách quan tình hình
biến đổi của thang giá trị, chuẩn giá trị ngày nay, để có những định hướng giá trị
đúng đắn cho xã hội, cho từng nhóm người, từng cá nhân để họ tạo ra những giá trị
tốt nhất cho xã hội.
d. Vai trò của giá trị
Giá trị có tác dụng như những chuẩn mực, quy tắc để định hướng con người
hướng tới mục tiêu, thúc đẩy và điều chỉnh hành động của con người nhằm đạt tới
những mục tiêu đó. Giá trị là cơ sở của việc đánh giá thái độ, hành vi nào là đúng và
nên có, ngược lại thái độ, hành vi nào là sai và không nên có. Sự thống nhất, ổn
định về tâm lý, tinh thần, đạo đức của cá nhân và xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị.
Nó là thang bậc, chuẩn hành vi để các thành viên của xã hội so sánh, đối chiếu,
phân biệt được những hành động và suy nghĩ tốt đẹp, tích cực hoặc tiêu cực, sai
lệch. Các giá trị hình thành nên ý thức, thái độ và sức mạnh dư luận của đạo đức để
đối phó với những hành vi đi ngược lại lợi ích xã hội.
Giá trị có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển nhân cách, đối với mỗi
một con người (cá nhân, nhân cách), giá trị có hai chức năng cơ bản:
Thứ nhất, là cơ sở cho sự hình thành và bảo tồn những định hướng giá trị
trong ý thức của con người, cho phép cá nhân giữ một lập trường xác định,
bày tỏ quan điểm của mình, đánh giá và phê phán. Các giá trị - đó là một bộ
phận của ý thức mà thiếu nó thì không thể có nhân cách được.
Thứ hai, thúc đẩy hành vi, hoạt động, bởi vì sự định hướng của con
người trong thế giới xung quanh và nguyện vọng đạt được các mục đích riêng
lẻ của họ đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc nhân cách.
1.2.2. Định hướng giá trị
Định hướng (theo cách hiểu thông thường) nghĩa là lựa chọn, xác định cho
mình lối đi, cách làm hay rộng hơn là hành động, lối cư xử sao cho phù hợp với bản
thân, với tồn tại xung quanh. Hiểu như vậy, “định hướng” có liên quan đến “xu
hướng” trong Tâm lý học.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư Xô viết, “Hệ thống định hướng giá trị tạo
thành nội dung xu hướng của nhân cách và là cơ sở bên trong các mối quan hệ giữa
cá nhân với thực tại” [77, tr.66]. Vì thế, khi nghiên cứu “định hướng giá trị” không
thể không tìm hiểu “xu hướng”
Xu hướng là một trong những thuộc tính tâm lý của nhân cách cùng với tính
cách, khí chất và năng lực tạo thành toàn bộ các đặc điểm tâm lý ổn định của con
người, quy định hành vi và giá trị xã hội của cá nhân. Vì thế, Xu hướng được hiểu
là một thuộc tính tâm lý điển hình của cá nhân, bao hàm trong nó một hệ thống
những động lực qui định sự lựa chọn các thái độ của nó” [78, tr.186]. Xu hướng
nhân cách được biểu hiện ở một số mặt chủ yếu như nhu cầu, hứng thú, lý tưởng,
thế giới quan, niềm tin.
Những phạm trù nằm trong xu hướng trên đều hàm chứa nội dung những giá
trị sống mà mỗi cá nhân hay tập thể xác định cho mình trong quá trình hình thành
và phát triển nhân cách. Như vậy, xu hướng có thể được xem là nguồn gốc để nảy
sinh những định hướng giá trị của con người, vì nếu không có những động lực qui
định, người ta sẽ không lựa chọn những giá trị vật chất hay tinh thần tương tự.
Định hướng giá trị được hiểu theo nhiều hướng như:
• “Định hướng giá trị là phương thức chủ thể sử dụng để phân biệt các sự vật
theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó hình thành nội dung cơ bản của xu
hướng, động cơ hoạt động” [13, tr.60]. Hiểu theo hướng này thì định hướng giá trị
nằm trong nội hàm ý nghĩa của “xu hướng”, và có quan hệ chặt chẽ với các hoạt
động tâm lý tiền thân của sự hình thành nhân cách như tình cảm, ý chí…
• “Định hướng giá trị là khuynh hướng chung đã được qui định về mặt xã hội,
được ghi lại trong tâm lý của cá nhân, nhằm vào mục đích và phương tiện hoạt động
trong lĩnh vực nào đó” [34, tr.56].
• Ladov cho rằng: “Định hướng giá trị là những biểu tượng của con người về
những mục đích chủ yếu của cuộc đời và các phương tiện cơ bản đạt những mục
tiêu ấy. Định hướng giá trị đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chương
trình hành vi lâu dài. Chúng hình thành trên cơ sở nhu cầu của chủ thể về việc nắm
vững những hình thức cơ bản của hoạt động sống trong những điều kiện lịch sử cụ
thể xác định và do tính chất của các quan hệ xã hội qui định. Các quan hệ xã hội này
là nguồn gốc khách quan hình thành những nhu cầu ấy”.
• Một số tác giả Việt Nam như Phạm Minh hạc, Trần Trọng Thuỷ, Huỳnh
Khái Vinh đều cho rằng “định hướng giá trị là sự lựa chọn, sắp xếp các giá trị với tư
cách là những tiêu chuẩn hành vi của mình, định hướng giá trị là cơ sở bên trong
của hành vi, quyết định lối sống của cá nhân”.
Thật khó có thể thâu tóm khái niệm định hướng giá trong một hai dòng, nên
chúng tôi tiếp cận “định hướng giá trị” theo các ý sau đây:
- Định hướng giá trị là sự lựa chọn, sắp xếp các giá trị với tư cách là những
tiêu chuẩn hành vi của cá nhân hay của nhóm.
- Định hướng giá trị được hình thành trong quá trình cá nhân hoặc nhóm người
gia nhập vào các quan hệ xã hội với tư cách chủ thể của các hoạt động đó, hướng
vào các giá trị có ý nghĩa cơ bản đối với cá nhân hay nhóm.
- Quá trình định hướng giá trị bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố nhận thức
(đánh giá), ý chí và cảm xúc (thử nghiệm) cũng như các khía cạnh đạo đức, thẩm
mỹ trong sự phát triển nhân cách.
- Định hướng giá trị là cơ sở bên trong của hành vi, quyết định lối sống của cá
nhân đó.
Từ cách tiếp cận trên, khi nghiên cứu về định hướng giá trị cần nhìn nhận một
cách toàn diện về nhận thức, thái độ đánh giá, lựa chọn và biểu hiện ra thành hành
vi của cá nhân hay nhóm đối với các giá trị trong quá trình sống và hoạt động của
mình.
Quá trình hình thành định hướng giá trị
Có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh quá trình định hướng giá trị. Paths,
Harmin và Simon đã đề xuất bảy giai đoạn của quá trình định hướng giá trị [77,
tr.73], được nêu trong bảng 1.2.2.
Từng giai đoạn được các tác giả giải thích như sau:
- Chọn tự do là sự lựa chọn không bị thúc đẩy bởi một quyền lực hay một sự
cưỡng bách nào đó mà cá nhân tâm niệm, gửi gắm vào một sở thích, một mục đích
nào đó. Còn chọn từ các khả năng lựa chọn khác nhau là có nhiều khả năng lựa
chọn, cần phải xác định một tiêu chuẩn thích hợp làm cơ sở cho một mối quan tâm,
một chủ định, hay một hành động. Cuối cùng, lựa chọn trên cơ sở đã dự đoán kết
quả có thể có của từng khả năng lựa chọn.
- Cân nhắc và tâm niệm là người ta ấp ủ tâm niệm hoặc cân nhắc một cái gì
mà người ta có cảm tình với nó. Còn khẳng định là sau khi cái lựa chọn đã được cân
nhắc và tâm niệm, người ta khẳng định và gắn bó với các lựa chọn đó.
- Hành động theo lựa chọn là giai đoạn quan trọng trong quá trình định hướng
giá trị, thông qua hành động mà cái lựa chọn bộc lộ bản chất của giá trị. Lặp lại
hành động: Đây là bước cuối cùng trong quá trình định hướng giá trị. Các giá trị
phải được bộc lộ qua quá trình lặp lại hành động. Các cá nhân hành động phù hợp
và kiên trì theo các giá trị mà mình ấp ủ, tâm niệm.
Bảng 1.2.2. Các giai đoạn của quá trình định hướng giá trị
Các quá trình Các giai đoạn Chọn lựa 1. Tự do
2. Từ các khả năng lựa chọn khác nhau 3. Sau khi dự đoán kết quả của từng khả năng lựa chọn
Cân nhắc (đánh giá)
4. Tâm niệm, cảm thấy vui mừng với những lựa chọn đã tiến hành 5. Sẵn sàng khẳng định sự lựa chọn đó một cách công khai
Hành động 6. Làm một cái gì đó theo sự lựa chọn 7. Lặp lại hành động một vài dịp theo mẫu đó trong đời
Như vậy, tập hợp những quá trình trên đây xác định sự đánh giá giá trị. Kết
quả của quá trình định hướng giá trị là khẳng định được giá trị. Định hướng giá trị
đó chính là hình thành nhân cách, chịu sự tác động của cả yếu tố chủ quan lẫn khách
quan. Hệ thống giá trị mà cá nhân hay nhóm định hướng được đều mang tính đặc
thù riêng biệt, đan xen vào nhau, thể hiện tính lịch sử và xã hội rõ rệt. Do vậy, các
giai đoạn trên diễn ra trong suốt quá trình sống và hoạt động của con người, không
lúc nào ngừng nghỉ.
Định hướng giá trị là một trong những yếu tố quan trọng của xu hướng, của
cấu trúc bên trong nhân cách, là cơ sở điều chỉnh hành vi và lối sống cá nhân. Sự
định hướng giá trị ổn định tạo nên những nét đặc trưng của ý thức, động cơ, đảm
bảo tính mục đích, tính tích cực và sự kiên định của nhân cách trong hoạt động, khi
xử trí các quan hệ xã hội theo một phương hướng và nguyên tắc nhất định. Định
hướng giá trị còn có vai trò hết sức quan trọng trong nhận thức chính trị, tư tưởng,
trong việc hình thành ý thức, ý chí và cảm xúc của con người. Nó vừa là nhân, vừa
là quả của đạo đức, lối sống, niềm tin, lý tưởng của con người trong quá trình sống.
Việc xây dựng hệ thống giá trị và định hướng giá trị đúng đắn, tích cực có vai
trò rất lớn trong công tác giáo dục thanh thiếu niên nói chung, sâu xa hơn là phòng
ngừa tội phạm và giáo dục vị thành niên phạm pháp. Nó góp phần hình thành ý thức
công dân, trách nhiệm công dân trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Giáo dục
giá trị và định hướng giá trị theo chuẩn mực chung của xã hội thể hiện trong việc
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, trong việc thực hiện các nghĩa vụ cá nhân, tập
thể và xã hội, nhằm hạn chế tính vị kỷ cá nhân, lơ là trách nhiệm của mình trước tập
thể, trước xã hội.
1.3. Giá trị đạo đức và định hướng giá trị đạo đức
1.3.1. Giá trị đạo đức
a. Đạo đức
Từ trước đến nay, khái niệm đạo đức đã trở thành đối tượng nghiên cứu
của rất nhiều ngành khoa học về con người như Triết học, Tâm lý học, Đạo
đức học, Giáo dục học v.v...
Đạo đức theo nghĩa gốc trong tiếng La tinh là “mos” - lề thói, có nghĩa là
nói đến những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người
và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.
- Dước góc nhìn của Triết học, Triết học Mac – Lênin định nghĩa: “Đạo
đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn
mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm
tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”
[39, tr.196].
Những hình thái của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp
quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và
triết học.
Hình thái ý thức đạo đức là thành phần cốt lõi, là một trong những hình
thái ý thức ra đời rất sớm trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thuỷ. Hình thái
ý thức đạo đức bao gồm toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái
xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, lòng tự trọng, v.v... và về những quy
tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân
với cá nhân trong xã hội.
Đạo đức bị qui định, bị chi phối bởi tồn tại xã hội, và cũng tác động góp
phần làm thay đổi tồn tại xã hội. Đấy chính là tính biện chứng của giá trị đạo
đức, theo cách tiếp cận của Triết học.
- Dưới góc nhìn của Tâm lý học, đạo đức là một bộ phận, một thành
phần trong cấu trúc nhân cách, bao gồm hệ thống phẩm chất (đức), và hệ
thống năng lực (tài).
Trong hệ thống phẩm chất, có phẩm chất xã hội như thế giới quan, niềm
tin, lý tưởng, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động; phẩm chất cá nhân
gồm các nết, các thói, các “thú” (ham muốn); và phẩm chất ý chí như tính kỷ
luật, tính tự chủ, tính mục đích, tính quả quyết, tính phê phán… Phẩm chất
cũng bao gồm cả cung cách ứng xử như tác phong, lễ tiết, tính khí…
Rõ ràng, trong cách tiếp cận khái niệm đạo đức theo quan điểm Tâm lý
học hoạt động như trên, đạo đức đã được thu lại trong một phạm vi hẹp, đó là
những thái độ, hành vi tốt đẹp trong giao tiếp, ứng xử giữa cá nhân với người
khác, cá nhân với chính mình trong các dạng quan hệ hoạt động xã hội khác
nhau.
- Dưới góc độ của Đạo đức học, đạo đức gắn với hành vi và động cơ
hành vi của con người; đạo đức chỉ được xác định dựa trên ý nghĩa “lợi” hay
“hại” của hành vi và động cơ con người. G. Banzeladze nói: “Nếu như động
cơ hành vi của con người là xu hướng đem lại ích lợi cho xã hội thì chúng ta
nói rằng động cơ này là một động cơ có đạo đức, hành vi được qui định bởi
động cơ này là hành vi có đạo đức, và chủ thể của hành vi này là người có đạo
đức. Ngược lại – có nghĩa là làm hại cho xã hội hoặc người khác – là vô đạo
đức. Còn nếu như hành vi không làm lợi mà cũng không làm hại cho ai thì
động cơ của hành vi, bản thân hành vi và chủ thể đó chẳng mang một giá trị
đạo đức nào cả” [3, tr.99].
Theo Banzeladze, “Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự
quan tâm tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và
trong quan hệ với xã hội nói chung” [3, tr.104]. Tác giả còn phân tích một số
phạm trù của đạo đức như Chuẩn mực đạo đức – đó là yêu cầu mà cá nhân
đưa ra cho chính mình trong quá trình quan hệ qua lại với những người khác;
Nghĩa vụ đạo đức – là tính tự xác định bên trong của cá nhân trong quan hệ
với những người khác; Lương tâm – là tình cảm trách nhiệm trước nghĩa vụ
đạo đức.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, đạo đức hiểu theo nghĩa rộng là
một hình thái ý thức xã hội, bao gồm một hệ thống những nguyên tắc, chuẩn
mực xã hội được con người nhận biết, lực chọn, biểu hiện trong hành vi của
mình sao cho phù hợp với lợi ích của người khác và tiến bộ xã hội trong mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Hiểu theo nghĩa hẹp, đạo đức là toàn bộ những phẩm chất tốt đẹp của
con người trong giao tiếp và ứng xử với người khác, với cộng đồng.
b. Vai trò của đạo đức
Đạo đức có vai trò quan trọng trong cuộc sống cá nhân và xã hội. Khi
đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là “cái
gốc”, là nền tảng của người cách mạng. Người so sánh: "Cũng như sông thì có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo” [66, tr.84].
Đạo đức có vai trò to lớn trong việc giúp con người sáng tạo ra hạnh
phúc, nâng cao phẩm giá của cá nhân, giữ gìn và bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của
xã hội. Đạo đức thực hiện chức năng định hướng giáo dục: cung cấp cho con
người hệ thống những tri thức, quan điểm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo
đức cơ bản để con người có những hành xử hợp lý, được mọi người và xã hội
chấp nhận; chức năng điều chỉnh hành vi: trong cuộc sống, con người có nhiều
vấn đề cần phải giải quyết, có những vấn đề đòi hỏi bản thân phải đặt mình
trong các mâu thuẫn giữa cái phải làm và cái không nên làm. Khi đó, đạo đức
giúp cá nhân có sự lựa chọn, cân nhắc và điều chỉnh hành vi phù hợp với
chuẩn mực xã hội và mang lại sự an bình cho chính lương tâm của mình.
Đạo đức còn thực hiện các nhiệm vụ như chi phối các mối quan hệ xã
hội. Mỗi cá nhân có thể tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội như quan hệ
kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ văn hoá, quan hệ khoa học… Mối quan hệ
nào cũng đều chứa đựng trong nó quan hệ đạo đức sâu sắc, góp phần làm cho
các quan hệ đó có ý nghĩa. Khi đặt thành tố đạo đức vào quan hệ nào thì nó sẽ
mang sắc thái đặc thù do các quan hệ đó chi phối. Đạo đức còn vạch ra những
yêu cầu, tiêu chuẩn, nguyên tắc đạo đức phù hợp với những giá trị tốt đẹp,
nhân cách mới của xã hội để cá nhân lựa chọn, định hướng, điều chỉnh hành vi
ứng xử của mình trong quan hệ với người khác và xã hội. Mặt khác, đạo đức
còn có nhiệm vụ đấu tranh, phê phán, chống lại những khuynh hướng của đạo
đức lạc hậu, không lành mạnh, cản trở cá nhân và xã hội vươn lên những giá
trị văn minh, nhân bản.
c. Giá trị đạo đức
Như đã nói ở trên, giá trị đạo đức nằm trong hệ thống giá trị tinh thần,
đóng vai trò là một yếu tố cấu thành nên diện mạo của một thời đại, một xã
hội, một dân tộc, một nền văn hóa. Giá trị đạo đức là gì?
Xem xét trên bình diện xã hội, giá trị đạo đức được định nghĩa: “là
những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng và những quy tắc ứng xử nhằm
điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi của con người” [73, tr.35].
Xem xét tính lợi ích, bình diện cá nhân, giá trị đạo đức được định nghĩa
là “những cái được con người lựa chọn và đánh giá như một việc làm có ý
nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận
biểu dương” [46, tr.62].
Từ những ý kiến trên, theo chúng tôi, giá trị đạo đức được hiểu là những
tiêu chuẩn lối sống được con người hay nhóm người thừa nhận và áp dụng
trong hệ thống hành vi, thái độ của mình một cách có ích đối với các mối quan
hệ trong đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương.
Kế thừa xuất sắc các quan điểm trong Triết học Mac – Lênin, Hồ Chí
Minh đã xây dựng nên một hệ thống những tư tưởng về “đạo đức cách mạng”.
Theo Người, “đạo đức cách mạng” là đạo đức của người làm cách mạng, của
những người sống và làm việc để xây dựng đất nước, xây dựng xã hội luôn
vận động đi lên. Từ quan điểm đó, hình thành nên những giá trị đạo đức cơ
bản của con người Việt Nam trong thời đại mới, bao gồm:
- Trung với nước, hiếu với dân
"Trung" và "hiếu" không hiểu theo nghĩa "Trung với vua, hiếu với
cha mẹ", mà là trung thành với tổ quốc, với đất nước, hiếu với nhân dân.
Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Nội dung chủ yếu của “trung với nước” là biết đặt lợi ích của Đảng,
của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, lên trước hết; quyết tâm phấn
đấu thực hiện mục tiêu cách mạng; thực hiện tốt mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung chủ yếu của “hiếu với dân” là khẳng định vai trò sức
mạnh thực sự của nhân dân; tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân,
gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận động nhân dân thực hiện tốt đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
- “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là một biểu hiện sinh
động của phẩm chất "trung với nước, hiếu với dân".
“Cần” tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. “Kiệm” là tiết
kiệm vật tư, tiền bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang phí.
“Liêm” là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng.
“Chính” là thẳng thắn, đứng đắn. “Chí công vô tư” là không nghĩ đến
mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào; là đặt lợi ích của
cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành “chí công vô
tư” cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng
cao đạo đức cách mạng.
Các đức tính này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần mà không
kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy
gì mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Như một cây cần có gốc
rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh.
- Thương yêu con người là phải biết gần gũi thân thương đối với
từng số phận con người, quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của
từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân.
Tình thương yêu con người luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu
vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.
- Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung là tôn trọng và thương
yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình
đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc.
Từ những giá trị đạo đức mà Hồ Chủ Tịch nêu ra cho người cách mạng,
các nhà nghiên cứu đã phân tích hệ thống giá trị đạo đức cho thanh niên Việt
Nam trong giai đoạn hiện đại gồm ba nhóm, đó là:
* Những giá trị đạo đức trong mối quan hệ với tổ quốc gồm:
- Lòng yêu nước: Yêu mến dân tộc và tự hào về đất nước, trung
thành và tận tụy với dân tộc, đất nước, sẵn sàng hy sinh khi tổ quốc lâm
nguy.
- Bình đẳng giữa các dân tộc: Tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa
các dân tộc và cộng đồng.
- Hài hòa tinh thần dân tộc và quốc tế: Biết chung sống hòa bình
giữa các dân tộc, hài hoà giữa lợi ích dân tộc và quốc tế.
* Những giá trị đạo đức với bản thân như:
- Tự trọng: Biết giữ gìn nhân phẩm trong mọi điều kiện
- Can đảm: Sẵn sàng chấp nhận sự rủi ro do quyết định của bản
thân, không tránh trách nhiệm, bảo vệ niềm tin, lẽ phải.
- Trung thực: Có năng lực giải quyết các vấn đề, tự tin và không
phụ thuộc vào người khác.
- Khiêm tốn: Cho mình là người bình thường, không kiêu căng,
không tự tán dương.
- Kiên trì: làm việc gì đó đến cùng dù có gặp nhiều khó khăn trở
ngại.
- Lạc quan: Tinh thần vui sướng, tin tưởng ở tương lai dù gặp khó
khăn.
- Tự phê bình: Tự giác, thành thật trong việc tự nhận xét những ưu
khuyết điểm của bản thân.
- Yêu cầu cao: Đặt ra những hướng phấn cao để tự hoàn thiện mình.
* Những giá trị đạo đức trong mối quan hệ với người khác – bao gồm
các mối quan hệ gần gũi xung quanh như cha mẹ, thầy cô, bạn bè:
- Tin tưởng: Tin vào con người, tin vào điều thiện.
- Tôn trọng: Kiềm chế, không làm tổn hại đến lòng tự trọng của
người khác, giải quyết tốt các mối quan hệ cá nhân với cộng đồng.
- Ân cần: Biết yêu thương, chăm sóc mọi người.
- Ngay thẳng: Bảo vệ sự thật, thật thà trong lời nói, việc làm.
- Sẵn sàng tiếp thu cái mới: Sẵn sàng cởi mở, tạo ra cơ hội và khả
năng mới, sẵn sàng thay đổi, lắng nghe ý kiến người khác nếu thấy hợp
lý.
- Hài hước: Tạo ra bầu không khí vui vẻ, hạnh phúc cho người
khác.
- Chân thành: Thành thật trong lời nói, việc làm, hết lòng giúp
người.
- Đồng cảm: Đặt mình vào vị trí người khác, thấu hiểu, thông cảm
và hành động vì lợi ích của người khác.
- Khoan dung: Sẵn sàng tha thứ cho lỗi lầm của người khác.
- Lòng yêu thương: Yêu mến và chăm sóc những người xung quanh
không phân biệt giới tính, chủng tộc, tín ngưỡng, địa vị xã hội.
- Lịch sự: Tôn trọng người khác, có ngôn ngữ, hành vi giao tiếp văn
hóa.
- Biết ơn: Tỏ lòng biết ơn người giúp đỡ, động viên mình; biểu thị
lòng kính trọng và cố hết sức làm cho người đó vui lòng.
- Đoàn kết: Không chia rẽ, tách rời tập thể.
Với sinh viên, nhiệm vụ chính trị, trọng tâm là học tập, vì thế một số giá
trị đạo đức trong học tập của sinh viên là:
- Hiếu học: Tìm thấy niềm vui trong học tập, quyết tâm theo đến
cùng con đường học hành, kiên trì, vượt khó trong học tập.
- Sáng tạo: Chủ động tìm kiếm những cái mới mà người khác
không nghĩ ra, có tinh thần canh tân, đổi mới.
- Tính mục đích: Xác định đúng đắn động cơ học tập, xác định rõ
những mục tiêu cần phải đạt được trong học tập.
- Tính kế hoạch: Có thời gian và kế hoạch làm việc học tập cụ thể,
thực hiện đúng kế hoạch đã vạch ra.
- Tính hiệu quả: Tiết kiệm được tiền bạc, thời gian mà vẫn đạt kết
quả học tập tốt.
- Độc lập: Có chủ kiến riêng trong mọi vấn đề, chủ động trong suy
nghĩ.
- Thích ứng: Khả năng làm việc tốt trong các môi trường khác
nhau.
Hệ thống giá trị đạo đức được xác định trên đây chỉ là cơ sở tương đối
cho sự định hướng giá trị đạo đức của mỗi cá nhân hoặc tập thể trong từng
thời kỳ xã hội nhất định. Trong khuôn khổ nghiên cứu của mình, đề tài cũng
dựa trên hệ thống giá trị truyền thống này, và sẽ bổ sung một số giá trị đạo đức
của thanh niên Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đồng thời đi sâu vào hệ thống giá trị đạo đức của nghề dạy học (trình
bày ở phần dưới).
1.3.2. Định hướng giá trị đạo đức
a. Định hướng giá trị đạo đức
Trên cơ sở định nghĩa định hướng giá trị và giá trị đạo đức, chúng tôi xin
đưa ra định nghĩa chung nhất về định hướng giá trị đạo đức như sau:
Định hướng giá trị đạo đức là một hệ thống giá trị đạo đức chuẩn phù
hợp với yêu cầu của xã hội, có tính phổ biến được nhiều người thừa nhận,
công nhận và tuân thủ thực hiện. Hệ thống giá trị đạo đức đó có tác dụng vừa
là mục tiêu, đối tượng phải chiếm lĩnh, vừa là động cơ thúc đẩy con người
hoạt động để hoàn thiện nhân cách, phát huy vai trò chủ thể của con người
trong sự phát triển cá nhân, xã hội và tự nhiên.
Dưới góc độ Tâm lý học, có thể định nghĩa: “Định hướng giá trị đạo đức
là sự nhận thức, đánh giá, lựa chọn các giá trị đạo đức trong quá trình hoạt
động của cá nhân, từ đó thúc đẩy, điều chỉnh hành vi, hành động của mình
nhằm hình thành tâm lý và phát triển nhân cách”.
b. Các yếu tố trong định hướng giá trị đạo đức
Định hướng giá trị tự bản thân nó đã bao hàm ba yếu tố, đó là nhận thức,
thái độ và biểu hiện ra bên ngoài bằng những hành vi cụ thể. Việc tìm hiểu
định hướng giá trị đạo đức trong đề tài này cũng dựa trên ba yếu tố đó.
Nhận thức về giá trị đạo đức là cơ sở, là nền tảng cơ bản để cá nhân thực
hiện một hành vi đạo đức. Nói đến nhận thức của con người đối với các giá trị
đạo đức là nói đến những vấn đề sau:
- Sự hiểu biết của chủ thể về các giá trị đạo đức. Chủ thể biết đâu là
những giá trị đúng và đâu là những giá trị sai đối với cá nhân, đối với cộng
đồng và dân tộc. Chủ thể biết gọi tên, xác định những hiện tượng đạo đức của
bản thân mình và xung quanh.
- Nhận thức về sự cần thiết phải có những giá trị đạo đức mới trong một
cuộc sống mới. Hiểu được rằng xã hội luôn phát triển và biến đổi không
ngừng, vì thế mà con người cần phải thay đổi để thích nghi với cuộc sống,
trong đó có các giá trị đạo đức, lối sống.
- Nhận thức được sự cần thiết phải biết kết hợp hài hòa giữa các giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc và các giá trị đạo đức hiện đại.
Tình cảm (thái độ) đạo đức là những thái độ rung cảm của cá nhân đối
với hành vi của người khác và với hành vi của chính mình trong quá trình
quan hệ của cá nhân với người khác và với xã hội. Tình cảm khơi dậy những
nhu cầu đạo đức, thúc đẩy con người hành động một cách có đạo đức trong
mối quan hệ giữa mình với người khác, với tập thể và với xã hội. Tình cảm
đạo đức là một trong những tình cảm cấp cao mang bản chất xã hội của con
người, rung cảm tích cực về những giá trị đối nhân xử thế của con người, cho
thấy thái độ đồng tình hay phản đối trong lối sống.
Đơbraliuốp đã khẳng định vai trò của tình cảm đối với hành vi đạo đức
“Tri thức chỉ coi là có thật khi nó đã đi vào trong con người, đã hòa lẫn với
tình cảm và ý chí của con người” [27, tr.69].
Hành vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động
cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức. Hành động đó thường được biểu hiện thông qua
lối sống, cách cư xử. Hành vi đạo đức là sự thể hiện nhận thức, tình cảm đạo
đức trong thực tế.
Các yếu tố định hướng giá trị đạo đức có quan hệ khăng khít với nhau.
Nhận thức đúng, có tình cảm tích cực thì sẽ có hành vi tốt, hoặc ngược lại.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, ở các cá nhân khác nhau, hành vi lại
không thể hiện tương ứng với nhận thức và thái độ. Nguyên nhân có thể là do
các yếu tố ngoại cảnh tác động, hoặc do kinh nghiệm cá nhân của người đó
trong việc xử lý các tình huống.
Vì vậy, khi đánh giá bộ mặt đạo đức của một cá nhân, người ta thường
đánh giá qua hành vi, nhưng cũng cần biết rằng tỉ lệ chính xác là không tuyệt
đối, cần phải xem xét nguồn gốc của hành vi ấy, nằm trong nhận thức và tình
cảm của cá nhân. Từ đó sẽ có được những nhận định phù hợp nhất, góp phần
trong việc định hướng giá trị đạo đức nói riêng và giá trị lối sống nói chung
của cá nhân.
1.4. Hệ thống giá trị đạo đức của SVSP
Như đã trình bày ở trên, giá trị đạo đức của SVSP là sự lựa chọn những giá trị
đạo đức truyền thống với những giá trị đạo đức của thanh niên thời hiện đại, kết hợp
với những giá trị đạo đức nghề dạy học.
Những giá trị nhân cách mà thanh niên sinh viên hiện nay lựa chọn (dựa trên
đề tài KX-07-04 của PGS. PTS. Nguyễn Quang Uẩn) là có trình độ học vấn rộng,
sống có tình nghĩa, có khả năng tổ chức quản lý, sáng tạo trong học tập, lao động,
dám nghĩ, dám làm, năng động, nhanh thích nghi, có tư duy kinh tế, biết tính toán,
biết xây dựng cuộc sống gia đình và sử dụng thành thạo ngoại ngữ [77, tr.98]
Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy sinh viên lựa chọn những giá trị rất cơ
bản của con người, thể hiện sự chủ động, tích cực trong việc định hướng, dự tính
tương lai cho riêng mình. Những giá trị trên đại diện cho xu hướng, hoài bão, ước
mơ, lý tưởng của tuổi trẻ trên con đường thành đạt, được thể hiện trong quá trình
học tập.
Bên cạnh những giá trị truyền thống, những giá trị đạo đức mới mang phong
cách của thời đại cũng bắt đầu hình thành ở sinh viên. Nổi bật có một số giá trị như
sự tự tin, lòng say mê, sáng tạo, cầu tiến trong học tập. Tuy nhiên nhiều giá trị đạo
đức mới như yêu cầu cao, bình đẳng, độc lập, sòng phẳng, dũng cảm và hy sinh vẫn
chưa trở thành những giá trị của phần lớn sinh viên.
Những giá trị đạo đức trong quan hệ với người khác như đối với cha mẹ và
bạn bè, đó là yêu thương, hiếu thảo và không vụ lợi. Bên cạnh đó, điều đáng lo ngại
là sinh viên vẫn có một số thái độ không tích cực đối với các giá trị đạo đức trong
mối quan hệ với thầy cô giáo.
Đối với SVSP, theo nhận định của chúng tôi, họ hướng về những giá trị của
nghề sư phạm rõ nét hơn. Bên cạnh giá trị "trình độ học vấn", SVSP còn đề cao việc
cống hiến công sức của mình cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, cho công cuộc xây
dựng xã hội. Ngoài ra, những giá trị đạo đức cũng luôn nằm trong sự lựa chọn của
họ.
Đánh giá về những giá trị nghề nghiệp, SVSP tự đánh giá khá cao về những
giá trị như yêu thương học sinh, có lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, yêu nghề, có thế giới
quan khoa học, ý chí vượt khó. Theo họ đó là những giá trị cần thiết để trở thành
một giáo viên trong tương lai, cũng là mục tiêu mà những sinh viên ngành sư phạm
theo đuổi.
Những giá trị phổ biến của nghề dạy học được đa số SVSP xác nhận là “tinh
thần trách nhiệm cao, giáo dục chuẩn mực đạo đức, xã hội ở học sinh, góp phần
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài”.
1.4.1. Một số phẩm chất cơ bản của người giáo viên
Vấn đề phẩm chất người thầy giáo, hiện nay trong các giáo trình và tài liệu, có
nhiều tác giả đề cập và trình bày một cách phong phú nhưng chưa mang tính hệ
thống.
Theo V.A. Cruchetxki, cho rằng những phẩm chất là những mặt biểu hiện của
năng lực sư phạm, như "năng lực giao tiếp" thì cần phải có tình thương yêu, thái độ
quan tâm ân cần đối với học sinh, sự công bằng… ; "năng lực xây dựng uy tín" cần
phải có các phẩm chất ý chí như tính quả quyết, tính tự kiềm chế… [10].
Còn A.V. Petrovski thì cho rằng các phẩm chất nghề nghiệp của người giáo
viên thuộc xu hướng nhân cách [57].
Hoặc A.G. Kôvalev khái quát các phẩm chất cần thiết của người thầy giáo
theo 3 thành phần: xu hướng sư phạm, tính cách sư phạm, khí chất của người giáo
viên bên cạnh năng lực sư phạm. [56]
Trong đề tài này, người nghiên cứu trình bày các phẩm chất đạo đức của người
người giáo viên theo cách phân chia của tác giả Lê Văn Hồng [27]. Trong cách
phân loại này, tác giả xem phẩm chất tâm lý của người giáo viên xã hội chủ nghĩa là
một hệ thống (gồm bộ mặt đạo đức như thế giới quan, tính tích tực xã hội…, chí
hướng và hứng thú sư phạm, và tình cảm của người thầy giáo như thái độ đối với
trẻ, tình yêu công việc…) bên cạnh một hệ thống năng lực sư phạm. Quan điểm
phân chia của tác giả phản ánh tính hệ thống, lôgic, mối quan hệ giữa các phành
phần, nội dung của cấu trúc nhân cách.
a. Thế giới quan khoa học
Thế giới quan, theo các nhà nghiên cứu, có thế giới quan xã hội và thế giới
quan của cá nhân. Thế giới quan xã hội là lĩnh vực nghiên cứu trước hết của Triết
học, còn thế giới quan của cá nhân thuộc về lĩnh vực nghiên cứu của Tâm lý học.
Ở đây, người nghiên cứu xem xét khái niệm "thế giới quan" dưới góc độ Tâm
lý học - thế giới quan của cá nhân, được biểu hiện là “một hệ thống những quan
điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, những tư tưởng, những giá trị tinh thần được
hình thành ở mỗi người và xác định phương châm hành động của người ấy" [55,
tr.194].
Thế giới quan khoa học của một cá nhân có nghĩa là thế giới quan duy vật
biện chứng, "được thể hiện ở chỗ các quan điểm đều nhất quán, lôgic với nhau và
các luận điểm mà cá nhân đó bảo vệ đều được chứng minh, kiểm nghiệm" [55,
tr.197].
Người thầy giáo phải xác định được thế giới quan khoa học của mình. Nếu
như không có thế giới quan khoa học, người thầy giáo sẽ không có được một cái
nhìn đúng đắn, rõ ràng, thống nhất về những gì xung quanh mình, sẽ không có lập
trường vững chắc, không có niềm tin vào chân lý, vào những tri thức khoa học mà
mình truyền đạt cho học sinh và không tin cả vào bản thân mình nữa. Từ đó, tất yếu
học sinh cũng sẽ không xác định được thế giới quan của mình, dẫn đến những sai
lầm trong hành động không những của một cá nhân học sinh mà còn của cả một thế
hệ trẻ.
Hiển nhiên, thế giới quan của người thầy giáo xã hội chủ nghĩa phải là thế giới
quan Mac-Lênin, vì đó là thế giới quan khoa học và tiến bộ nhất, phản ánh đúng
đắn, lôgic và nhất quán những qui luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trên quan điểm duy vật biện chứng, người thầy giáo luôn muốn xem xét từng sự vật
và hiện tượng không độc lập nhau, mà trong mối liên kết với các sự vật và hiện
tượng khác.
Thế giới quan của người thầy giáo biểu hiện ở quá trình rèn luyện của họ:
- Trước hết đó là việc nắm được một cách có hệ thống những tri thức về
tự nhiên và xã hội, đồng thời nghiên cứu các bộ môn mà mình giảng dạy.
- Nghiên cứu Triết học, tức là đưa những tri thức về thế giới, những quan
điểm duy vật đã hình thành vào những luận chứng có cơ sở khoa học chặt chẽ.
- Thể hiện những quan điểm Triết học tiên tiến của mình qua hoạt động
dạy học và giáo dục thực tiễn.
Chỉ khi nắm vững triệt để thế giới quan duy vật biện chứng, người thầy giáo sẽ
không bao giờ cảm thấy đơn điệu vì phải dạy một nội dung kiến thức lặp đi lặp lại.
Bởi luôn có sự liên hệ với cuộc sống và với những nội dung kiến thức khác.
Thông thường, thuật ngữ "thế giới quan" được hiểu theo nghĩa hẹp, tức là một
hệ thống những quan điểm về xã hội hay những quan điểm về chính trị - đạo đức.
Trong nghiên cứu này, thế giới quan khoa học của người thầy giáo tập trung ở các
biểu hiện sau:
- Có ý thức tốt đối với chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Tin tưởng và chấp hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Có ý hướng học tập chính trị để phục vụ cho chế độ.
- Có ý thức tốt đối với chính quyền.
- Quan tâm tìm hiểu các vấn đề thời sự, chính trị, xã hội.
Từ những quan điểm về thế giới khách quan ấy, người thầy giáo đề ra cho
mình những mục tiêu phấn đấu cao đẹp cho cuộc đời và cho sự nghiệp. Những mục
tiêu đó chính là lý tưởng nghề nghiệp.
b. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ
Gônôbôlin đã nhận xét: "Đặc điểm của người thầy giáo Xô viết, nhất là giáo
viên trẻ, là thường xuyên có khát vọng vươn lên những lý tưởng cao cả của chủ
nghĩa cộng sản" [16, tr.11]. Và lý tưởng cao cả đó của họ là "đào tạo thế hệ trẻ".
Lý tưởng, “là một mục tiêu cao đẹp được phản ánh vào đầu óc con người dưới
hình thức một hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh có tác dụng lôi cuốn toàn bộ cuộc
sống của cá nhân vào hoạt động để vươn tới mục tiêu đó” [55, tr.190].
Lý tưởng là mặt biểu hiện tập trung nhất của xu hướng nhân cách. Ở đây, lý
tưởng đào tạo thế hệ trẻ còn là hạt nhân trong cấu trúc của nhân cách, là "ngôi sao
dẫn đường" giúp cho thầy giáo luôn đi lên phía trước, thấy hết được giá trị lao động
của mình đối với thế hệ trẻ, đối với xã hội.
Mặt khác, lý tưởng của thầy giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân
cách học sinh. Có thể khẳng định rằng, không thể nào trở thành một nhà giáo chân
chính nếu tự bản thân mình không có được lý tưởng cao đẹp là phụng sự cho giáo
dục, cho công cuộc giáo dục và đào tạo lớp trẻ của đất nước. Trong mục tiêu chung
của người thầy giáo, có nhiệm vụ quan trọng là giúp người học hình thành được một
lý tưởng cao đẹp. Để hoàn thành được nhiệm vụ này, đòi hỏi mỗi thầy giáo phải tự
xây dựng cho mình những lý tưởng cao đẹp tương ứng, trước hết là lý tưởng nghề
nghiệp, lý tưởng phục vụ, để học sinh soi vào đấy mà noi theo. Chính vì thế, giáo
viên luôn là tấm gương sáng cho học sinh của mình.
Lý tưởng của người thầy giáo biểu hiện ở niềm say mê công việc, lòng yêu trẻ,
lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hy sinh vì lợi ích chung, tác phong làm việc cần cù,
trách nhiệm, lối sống giản dị và thân tình… Những điều đó để lại những dấu ấn
đậm nét trong tâm trí học sinh, nó có tác dụng hướng dẫn, điểu khiển quá trình hình
thành và phát triển nhân cách học sinh. Và những dấu ấn tốt đẹp ấy được tạo ra bởi
một tình thương yêu trẻ sâu sắc, một tấm lòng vì học trò của người thầy.
c. Lòng yêu trẻ (yêu thương học sinh)
J.A. Cômenxki đã từng nói: "Không thể trở thành người thầy nếu không phải
là một người cha". Theo ông, người thầy giáo không nên xem học sinh của mình
đơn thuần chỉ là người đi học, mà hãy đặt nơi các em một tình thương ấm áp, không
tính toán, xem hạnh phúc của học sinh như hạnh phúc của mình - đó như là một tình
thương của người cha, người mẹ dành cho con vậy.
Tình thương yêu học sinh rất tự nhiên, trong sáng. Thứ tình yêu đó như một
chất xúc tác đặc biệt để thành công trong nghề sư phạm. "Điều trước tiên đòi hỏi ở
người giáo viên là tình yêu trẻ. Chúng ta cần phải yêu trẻ. Từ tình yêu trẻ sẽ nảy
sinh ra tình yêu lao động sư phạm. Tình yêu đó tạo ra tài nghệ trong công tác" [16,
tr.129].
Lòng yêu trẻ của thầy giáo được biểu hiện:
- Cảm thấy sung sướng khi được tiếp xúc với trẻ, khi đi sâu vào thế giới độc
đáo của trẻ. Có không ít giáo sinh khi được hỏi vì sao lại chọn nghề sư phạm, câu
trả lời của họ không đề cập đến năng khiếu dạy học hay một ước nguyện gì đó cao
xa, chỉ đơn giản là “thích chơi với trẻ, cảm thấy lòng mình thoải mái khi nhìn chúng
hoạt động, khi được hướng dẫn chúng một điều gì đó”.
- Thái độ quan tâm đầy thiện ý và ân cần đối với trẻ, kể cả các em học kém và
vô kỷ luật. Mọi sự quan tâm, giúp đỡ của giáo viên đến với học sinh phải rất khéo
léo, chân thành và giản dị. Đặc biệt là "sự công bằng", điều mà các em cho là quan
trọng nhất và luôn đòi hỏi ở người giáo viên. Đó cũng chính là thái độ của giáo viên
gây tác động mạnh mẽ nhất đến tình cảm của học sinh đối với mình.
Điều quan trọng là thái độ quan tâm, giúp đỡ đó của giáo viên không bao giờ
được biến thành ủy mị, nhu nhược, mà phải luôn đi kèm với yêu cầu cao và nghiêm
khắc nếu cần thiết. Vấn đề này đòi hỏi ở người giáo viên một bản lĩnh vững vàng,
phải luôn xứng đáng là điểm tựa vững chắc cho học sinh.
- Yêu thương học sinh, cũng có nghĩa là tin tưởng nơi học sinh. Một nhà giáo
giàu kinh nghiệm đã nói về lòng yêu trẻ như một tình yêu rộng lớn với đầy tâm
huyết: "Tôi muốn nói về thứ tình yêu tích cực. Yêu học sinh bằng cách truyền cho
các em những tri thức của mình, chuẩn bị cho các em bước vào đời - đó là điều tôi
mong muốn. Yêu học sinh, có nghĩa là tin tưởng vào năng lực, sự trưởng thành,
tương lai của các em, tin tưởng các em sẽ đạt được thành tích thậm chí cả khi mọi
người nói rằng em ấy không còn hy vọng gì nữa" (Gônôbôlin) [16, tr.131].
Đối với học sinh, lòng tin của thầy cô nơi mình càng làm tăng thêm sức mạnh
của bản thân, khích lệ tinh thần của các em rất nhiều. Lòng tin ấy Makarenko gọi là
"sự lạc quan sư phạm" [65, tr.257].
Có thể nói rằng, bí quyết thành công của một nhà giáo chân chính là bắt nguồn
từ thứ tình cảm vô cùng sâu sắc nhưng lại tự nhiên và giản dị - tình yêu trẻ, một tình
yêu đúng nghĩa xuất phát từ cái "tâm" của người thầy.
d. Lòng yêu nghề
Lòng yêu trẻ và yêu nghề gắn bó chặt chẽ với nhau, lồng vào nhau. Cố Tổng
Bí thư Lê Duẩn nhận định về tình yêu của người thầy giáo: “Càng yêu người bao
nhiêu càng yêu nghề bấy nhiêu, yêu người mới có cơ sở để yêu nghề” [11, tr.9].
Không có lòng thương người, yêu trẻ thì khó mà tạo ra cho mình những động lực
mạnh mẽ để suốt đời phấn đấu vì lý tưởng phục vụ nghề nghiệp. Hai phẩm chất này
đều là mặt biểu hiện tình cảm cao cả của người thầy.
Tình yêu nghề trước tiên phải xuất phát từ tình yêu lao động. Một giáo viên
phải là một người yêu lao động, điều đó rất quan trọng. Những người nào có phẩm
chất này thường tự nguyện và dễ dàng làm việc ngay cả khi công việc không đem
lại sự thích thú. Biểu hiện của tình yêu lao động sư phạm ở người thầy giáo:
- Luôn nghĩ đến việc cống hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ. Tức là
lý tưởng nghề nghiệp phải trong sáng và vững chắc, thực sự xem đấy là kim
chỉ nam cho mọi công việc của mình, dù là nhỏ nhặt. Từ đó, làm nảy sinh ở
người giáo viên sự thích thú, niềm say mê trước hết là quá trình truyền tri thức
của mình và sau là quá trình giáo dục con người.
- Trong công tác giảng dạy và giáo dục, giáo viên luôn luôn làm việc với
tinh thần trách nhiệm cao, luôn luôn cải tiến nội dung và phương pháp, không
tự thỏa mãn với trình độ hiểu biết và tay nghề của mình.
Những giáo viên nào thật sự có uy tín đối với trẻ? Đó là những người
giỏi công việc của mình, bộ môn của mình và nhiệt tình say mê bộ môn đó.
Gilbert Highet, một giáo sư người Mỹ, đã khuyên các thầy, cô giáo phải biết
tìm tòi, khám phá, sưu tầm những tri thức xung quanh bộ môn giảng dạy của
mình một cách sâu rộng. Để làm gì? - ông nhấn mạnh: "Để tránh những sai
lầm thô thiển. Để tránh những điều mình giảng trở nên vô vị, nhàm chán đối
với học sinh, do đó làm cho chúng mất hết hứng thú học hỏi, khám phá những
điều mới lạ thuộc về bộ môn đó" [24, tr.13].
- Niềm vui khi tiếp xúc với trẻ, với học sinh cũng là mặt biểu hiện của
lòng yêu nghề. Sự giao tiếp này sẽ làm phong phú cuộc đời người thầy giáo,
càng làm cho họ có nhiều cảm xúc tích cực và sự say mê.
Vì thế, như D.I. Ravkin đã khẳng định “Để làm một người thầy giỏi, trước hết
phải biết yêu cái điều mình dạy và yêu những người mình dạy”, chúng ta nhận thấy
rõ vai trò, ý nghĩa của những phẩm chất trên đối với sự rèn luyện nhân cách người
thầy giáo.
1.4.2. Một số phẩm chất đạo đức đặc trưng và phẩm chất ý chí của người
giáo viên
Khác với các hoạt động khác, hoạt động của người thầy giáo nhằm làm thay
đổi con người (học sinh). Do vậy, mối quan hệ người - người nổi lên như một vấn
đề cốt yếu. Nội dung, tính chất và cách xử lý mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng dạy học và giáo dục. Nếu người thầy giáo xây dựng được mối quan
hệ với học sinh sao cho khơi dậy ở các em tính tích cực hoạt động; với tập thể đồng
nghiệp sao cho hòa hợp và nâng cao hiệu quả công tác; với phụ huynh học sinh sao
cho thống nhất trong nội dung và phương pháp giáo dục học sinh v.v… thì chắc
chắn kết quả sư phạm sẽ cao.
Để làm được điều đó, người thầy giáo một mặt phải tuân thủ những qui luật
khách quan của sự phát triển về mọi mặt từ phía khách thể quan hệ, một mặt phải
đảm bảo ở bản thân mình những phẩm chất đạo đức đặc trưng và ý chí cần thiết.
- Những phẩm chất đạo đức của người giáo viên thuộc về nét tính cách sư
phạm - đó là một hệ thống các thái độ có liên quan đến việc hình thành các hoạt
động của người giáo viên, bao gồm hoạt động trong và ngoài nhà trường.
Trong khuôn khổ công việc của mình, đó là những thái độ đối với ban lãnh
đạo, với đoàn thể, thái độ đối với đồng nghiệp, với học sinh, phụ huynh học sinh.
Ngoài ra còn có thái độ đối với công việc, những tình huống, trường hợp và điều
kiện khác nhau nảy sinh…
Ở ngoài nhà trường thì đó là những thái độ đối với pháp luật, chính quyền,
nhân dân, các cơ quan tổ chức, các sự kiện xã hội…
Bao trùm lên tất cả là thái độ đối với chính bản thân mình - sự tự ý thức.
Các phẩm chất đạo đức, cụ thể đó là tinh thần nghĩa vụ, tinh thần "mình vì mọi
người, mọi người vì mình", lòng nhân ái, tôn trọng, công bằng, chính trực, tính tình
ngay thẳng, giản dị, khiêm tốn… và những tính cách khác, gọi là "thái độ khéo léo
đối xử sư phạm". Bên cạnh đó, tình cảm đạo đức của người giáo viên còn thể hiện
là niềm vui sướng, sự cảm phục mọi người, cảm thấy tự thỏa mãn do thực hiện
những tiêu chuẩn đạo đức mà xã hội qui định.
- Ý chí, "là mặt điều chỉnh của ý thức, là một phẩm chất tâm lý quan trọng
nhằm giúp con người vượt qua những khó khăn trở ngại để thực hiện được những
hành động có mục đích" [55, tr.99]. Một điều tất nhiên rằng công việc của thầy giáo
vẫn thường có những khó khăn trở ngại mà khi đó sự hỗ trợ của ngoại lực không
đáng kể, thì sức mạnh ý chí là điều tối cần thiết.
Ý chí của người thầy giáo biểu hiện ở tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên
nhẫn; biết tự kiềm chế, biết tự chiến thắng với những thói hư tật xấu; khả năng điều
khiển tình cảm, tâm trạng cho thích hợp với các tình huống sư phạm v.v… Như đã
nói, người thầy giáo dục học sinh bằng cả tấm gương cá nhân, bằng cả hành vi riêng
của mình, bằng toàn bộ nhân cách của mình, do đó trong số những phẩm chất ý chí
trên thì tính tự kiềm chế những cảm xúc của bản thân có ý nghĩa đặc biệt. Điều này
rất dễ hiểu, vì:
+ Phản ứng mạnh của giáo viên, trước hành vi của học sinh có khi hiệu
quả, nhưng đồng thời cũng cần nhớ rằng người nào dễ bị kích động có thể mất
cảm xúc về mức độ cần thiết, do vậy mà họ cũng có thể thu được kết quả
ngược lại.
+ Sự tức giận thường tác động đến tình cảm nhiều hơn là đến ý thức của
con người. Và đối với các giáo viên hay nổi nóng thì học sinh thường giữ kỷ
luật vì sợ hãi chứ không phải vì mến phục. Những kết quả quan sát cho thầy
rằng ở những giáo viên hay nổi nóng thì sau lưng họ, các em ít khi hành động
tốt hơn là ở những giáo viên điềm đạm, bình tĩnh nhưng đồng thời yêu cầu
tương đối cao.
+ Điều quan trọng là phải chú ý đến thực chất của công việc. Thường có
những hành động nhất thiết đòi hỏi phải thể hiện xúc cảm mạnh mẽ nhưng
giáo viên lại "ức chế thần kinh" của bản thân mình cũng như của học sinh một
cách vô lý qua những hành vi nhỏ nhặt, những lỗi lầm không đáng kể.
+ Giáo viên hãy có niềm tin vào sự đúng đắn của mình. K.D. Usinxki
viết: "Chỉ có lòng chân thành mới sinh ra sự chân thành". Trẻ em cũng yêu
mến những giáo viên hay nổi nóng nếu các em thấy rằng sự tức giận của họ
xuất phát từ tình cảm không hài lòng thực sự và nhiệt tình mong muốn giúp đỡ
các em sửa chữa những thiếu sót nào đó.
Như vậy, một thầy giáo giỏi phải là người làm chủ được bản thân mình trong
mọi trường hợp, biết cái gì nên làm, biết lúc nào là hợp lý. Có như vậy, công tác sư
phạm không những là một khoa học mà còn là một nghệ thuật.
Trên đây người nghiên cứu vừa trình bày những phẩm chất (hay còn gọi là
những giá trị) cơ bản trong nhân cách của người thầy giáo xã hội chủ nghĩa (nhấn
mạnh về mặt đạo đức). Những phẩm chất này có liên hệ rất chặt chẽ với nhau, cái
này chứa đựng cái kia, cái này là điều kiện và là kết quả của cái kia, tạo thành một
hệ thống. Việc rèn luyện phẩm chất người thầy giáo không chỉ một mà là tất cả
những phẩm chất, kể cả những vấn đề khác không trình bày ở đây cũng nằm trong
phạm trù phẩm chất nhân cách, như là nề nếp, tác phong, cử chỉ, lời nói…
Cruchetxki đã khẳng định: "… khi nói về người thầy giáo, về các phẩm chất của họ,
thì ở đây không có gì là chuyện nhỏ nhặt cả. Ngay cả bộ mặt bên ngoài của giáo
viên cũng có ảnh hưởng đến uy tín và sự thành công của họ" [10, tr.241]. Những nét
nhân cách đó, không chỉ những giáo viên đã vào nghề mới cần phải hoàn thiện, mà
những SVSP và ngay cả những bạn thanh niên đang có chí hướng trở thành nhà
giáo, cũng phải học tập và rèn luyện liên tục.
1.5. Yếu tố tác động đến định hướng giá trị đạo đức của SVSP
Tác động đến định hướng giá trị đạo đức của SVSP, chúng ta có yếu tố bên
trong và yếu tố bên ngoài.
1.5.1. Yếu tố bên trong - đặc điểm lứa tuổi thanh niên sinh viên
Thuật ngữ "thanh niên sinh viên" được Vũ Thị Nho sử dụng với cách hiểu là
thanh niên đang ngồi trên ghế nhà trường đại học, cao đẳng, dạy nghề… và tác giả
thống nhất lứa tuổi của thanh niên sinh viên kéo dài từ 19 đến 25 tuổi [49, tr.137].
Do những công trình nghiên cứu về lứa tuổi này còn ít nên thuật ngữ cũng như giới
hạn độ tuổi ở đối tượng này còn chưa được thống nhất. Theo Tâm lý học phương
tây, lứa tuổi này là trung gian giữa trẻ vị thành niên (adolessence) và người trưởng
thành (adulthood), cho nên gọi giai đoạn này là giai đoạn đầu của người trưởng
thành trẻ tuổi.
Còn ở Việt Nam, một số nhà Tâm lý học lứa tuổi gọi đây là giai đoạn dậy thì
chính thức trở đi hay còn gọi là giai đoạn hai của tuổi thanh niên [27, tr.56], tức là
từ sau dậy thì (17, 18 tuổi - tốt nghiệp trung học phổ thông) đến tốt nghiệp đại học,
cao đẳng, dạy nghề (25 tuổi).
Nhìn chung, mỗi tác giả đều theo những quan điểm khác nhau khi nhìn nhận
về thanh niên sinh viên. Nhưng ta có thể nhận thấy sinh viên, trước hết, vẫn là thanh
niên với tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, nhạy bén trước mọi vấn đề, thích khẳng định
cái "tôi" của mình, thích khám phá và có pha chút bồng bột, sốc nổi. Mặt khác, họ
đã là những công dân thực thụ với đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ trước pháp luật,
một số gần như độc lập với gia đình về kinh tế, khả năng tự ý thức cao, thể hiện sự
mẫu mực của người trưởng thành trẻ tuổi. Do đó, lứa tuổi thanh niên sinh viên có
những đặc trưng riêng thể hiện ở các hoạt động cơ bản của mình.
a. Đặc điểm về hoạt động học tập và nhận thức
Sinh viên là những người có đầy đủ các điều kiện về sinh lý, tâm lý để thực
hiện hoạt động học tập hướng đến nghề nghiệp và còn mang tính chất nghiên cứu
khoa học. Cụ thể:
Về mặt thể chất, sinh viên đã đạt đến mức phát triển hoàn thiện về thể chất để
tham gia hoạt động học tập ở đại học.
Về hoạt động trí tuệ, tư duy lý luận, các năng lực sáng tạo ở sinh viên phát
triển hơn (biểu hiện như họ thường xuyên, kiên trì đặt câu hỏi “Tại sao?”, thường tỏ
ra nghi ngờ về tính đầy đủ, tính đúng đắn của các lời giải thích). Hoạt động tư duy
của họ tích cực và độc lập hơn (biểu hiện như họ có thái độ không rập khuôn với
các vấn đề đã biết, mà theo hướng chứng minh các định đề khoa học).
Động cơ học tập của sinh viên được hình thành phụ thuộc vào một số yếu tố
như ý thức về mục đích gần xa của việc học tập, nắm vững ý nghĩa lý luận và thực
tiễn của tri thức sinh viên lĩnh hội, tính mới lạ, hấp dẫn, tính nghề nghiệp thể hiện rõ
trong tài liệu được trình bày, gây được các hoàn cảnh có vấn đề... Động cơ học tập
bị chi phối khá mạnh bởi chính vai trò của giảng viên trong việc tổ chức hoạt động
dạy học.
Nói chung về nhận thức, với sự phát triển mạnh mẽ của tư duy lý luận cùng
khối lượng tri thức lớn đã được tiếp thu trong nhà trường, gia đình và xã hội, sinh
viên bắt đầu liên kết các tri thức riêng lẻ lại với nhau để tạo nên một biểu tượng
chung về thế giới cho riêng mình, từ đó mà những chuẩn giá trị được xác định.
Xét ở khía cạnh nhận thức đạo đức, các nghiên cứu khoa học cho thấy những
tri thức về đạo đức có sự phát triển lên ở một thứ bậc cao hơn cả về mặt nhận thức.
Sinh viên không chỉ có khả năng giải thích một cách rõ ràng các khái niệm đạo đức,
quy chúng vào một hệ thống nhất định, thể hiện một trình độ khái quát cao hơn mà
ở họ còn xuất hiện một cách có ý thức nhu cầu xây dựng các chính kiến đạo đức của
riêng mình về các vấn đề mà cuộc sống đặt ra.
b. Đặc điểm về đời sống tình cảm và giao tiếp
Ở mặt tình cảm, theo B.G. Ananhev và một số nhà Tâm lý học khác, tuổi sinh
viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất của tình cảm đạo đức. Loại tình cảm này
mang tính hệ thống và tính bền vững so với các thời kỳ trước. Các chuẩn mực đạo
đức lúc này đã có được những ý nghĩa riêng tư, nhờ đó, các hành vi tương ứng với
các chuẩn mực đạo đức nhất định có thể khơi dậy ở họ những xúc cảm đặc biệt.
Niềm tin đạo đức đã bắt đầu hình thành. Sự hình thành niềm tin đạo đức chuyển
sinh viên từ chỗ là người chấp nhận, phục tùng các chuẩn mực đạo đức trở thành
chủ thể tích cực của chúng [31, tr.5].
Hoạt động giao tiếp của sinh viên hướng vào tập thể và thể hiện nhu cầu thiết
lập các mối quan hệ với người lớn. Xu hướng này nhằm khẳng định vị trí trưởng
thành của sinh viên, bên cạnh đó là việc tìm kiếm cơ hội phát triển trong học tập và
nghề nghiệp. Trong quá trình thiết lập các mối quan hệ này, sinh viên thường tỏ thái
độ nhận xét, đánh giá những cá nhân và tập thể mà mình tiếp xúc, tán đồng hay phê
phán những hành vi lối sống của những người gần gũi mình. Cụ thể sinh viên quan
tâm nhiều đến những giá trị sống của cha mẹ, thầy cô giáo và những anh chị lớn
tuổi xung quanh. Những thái độ này có thể đúng hoặc sai, có thể tích cực hoặc tiêu
cực, nhưng đã giúp sinh viên lựa chọn cho mình những giá trị sống thông qua biểu
hiện của ngưới lớn nói riêng, và cộng đồng xã hội nói chung. Mặt khác, nó cũng
góp phần phát triển sự tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục của sinh viên, được trình
bày tiếp sau đây.
c. Đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục ở sinh viên
Đối với thanh niên sinh viên, tự đánh giá là một hoạt động nhận thức phát
triển mạnh với những biểu hiện phong phú và sâu sắc, trong đó chủ thể thu thập, xử
lý thông tin về chính mình, chỉ ra được mức độ nhân cách tồn tại ở bản thân, từ đó
có thái độ, hành vi, hoạt động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn
thiện và phát triển. Sinh viên không chỉ trả lời câu hỏi "Tôi là ai?" mà còn "Tôi là
người thế nào? Tôi có những phẩm chất gì? Tôi có xứng đáng không?",v.v… Hơn
nữa họ còn có mong muốn đi sâu lý giải "Tại sao tôi là người như thế?".
Những câu tự vấn trên đã góp thêm phần khác biệt rõ nét giữa sinh viên với
các bộ phận còn lại của thanh niên, và giữa sinh viên với học sinh phổ thông.
Những thanh niên không tham gia quá trình đào tạo trong nhà trường ít có điều kiện
quan tâm đến mọi vấn đề xã hội và đến bản thân mình như sinh viên. Còn học sinh
phổ thông chưa đủ sự chín chắn để đưa ra những nhận xét đúng đắn về mình. Đặc
biệt với SVSP, mang trong mình trọng trách của những thầy cô giáo tương lai, thì
những suy nghĩ, thái độ và kể cả hành vi để tự khám phá ra mình còn sâu sắc hơn
nữa. SVSP thường xuyên nhìn nhận những thay đổi về đạo đức xung quanh bằng
quan điểm “mô phạm”, tức là e dè, kỹ lưỡng nhất là khi những thay đổi ấy có liên
hệ với bản thân. Một câu hỏi nữa cũng thường xuất hiện ở SVSP khi chứng kiến
những xuống cấp của thang giá trị đạo đức trong xã hội: “Nếu là mình, mình có làm
thế không?”.
Do vậy, nét đặc trưng vừa nêu về nhân cách đã khiến cho SVSP có sự ổn định
trong định hướng giá trị đạo đức. Trong định hướng đó, những giá trị đạo đức ở
SVSP dẫu có thay đổi, cũng rất chậm, thận trọng và đòi hỏi sự trải nghiệm ở chính
bản thân nhiều hơn so với thanh niên sinh viên nói chung.
1.5.2. Yếu tố bên ngoài
Tác động đến định hướng giá trị đạo đức của SVSP không phải chỉ do đặc
điểm tâm lý lứa tuổi thanh niên mà còn ở gia đình, nhà trường và xã hội.
a. Tác động từ gia đình. Gia đình là môi trường sống, hoạt động và giao
tiếp gần nhất của cá nhân. Gia đình có chức năng giáo dục, đặc biệt là giáo dục
các giá trị đạo đức.
Nghề nghiệp, truyền thống, nếp sống, văn hoá của gia đình và các thành
viên trong gia đình, những giá trị mà những người có uy tín trong gia đình lựa
chọn như tình yêu đối với đất nước, sự cống hiến hết sức mình cho sự phát
triển của đất nước, niềm say mê công việc, tinh thần trách nhiệm, lòng độ
lượng, khao khát học tập, trung thực trong nghề nghiệp và giao tiếp, tình
thương yêu, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong gia đình đều tác động đến sự lựa chọn
các giá trị đạo đức ở lớp trẻ. Những tác động từ gia đình tạo tiền đề nhận thức
và tình cảm đầu tiên về những giá trị đạo đức của cá nhân.
Giáo dục về thế giới quan, về lý tưởng sống từ những người lớn trong gia
đình cũng là những tác động mạnh đến định hướng giá trị của thanh niên sinh
viên.
Ngay cả mức sống, chất lượng cuộc sống của gia đình cũng tác động đến
việc lựa chọn và xếp thứ bậc cho các giá trị đạo đức của các bạn trẻ.
b. Nhà trường cũng tác động rất mạnh đến định hướng giá trị đạo đức
của SVSP. Nội dung các môn học, nhất là các môn nghiệp vụ sư phạm trong
chương trình đào tạo giáo viên có tác động đến nhận thức về các giá trị đạo
đức và đạo đức nghề nghiệp ở SVSP.
Phương pháp giảng dạy, đặc biệt sự gương mẫu của đội ngũ giảng viên
đại học có tác dụng củng cố nhận thức, hình thành tình cảm đạo đức ở SVSP.
Các hoạt động thực hành nghề nghiệp như thực tế giáo dục, thực tập sư
phạm có tác dụng củng cố niềm tin về các giá trị đạo đức và tạo điều kiện cho
SVSP trải nghiệm các giá trị đạo đức trong thực hành nghề nghiệp, từ đó hình
thành hành vi đạo đức nghề nghiệp.
Môi trường sư phạm, ở đó, tập thể sư phạm thực sự đoàn kết, nhất trí
cùng hướng đến mục tiêu chung của nhà trường là nâng cao chất lượng và
hiệu quả đào tạo, tập thể giảng viên không ngừng học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện phẩm chất đạo đức của người thầy v.v…
chắc chắn là sự định hướng giá trị đạo đức hiệu quả cho SVSP.
c. Xã hội cũng ảnh hưởng rất nhiều đến định hướng giá trị của thanh niên
sinh viên. Khoa học công nghệ phát triển, sự gia nhập của Việt Nam vào các
tổ chức thế giới đặt sinh viên trước những thách thức rất lớn về kỹ năng sống,
kỹ năng nghề nghiệp.
Sự hội nhập và giao lưu giữa các nền văn hoá của các dân tộc, các nước
trên thế giới cũng làm cho thanh niên lúng túng, có khi đảo lộn các giá tri đạo
đức căn bản, truyền thống của ông cha từ ngàn xưa.
Những tê nạn xã hội, nhất là những sai phạm của một số quan chức chính
quyền đã khiến thanh niên lung lay niềm tin đối với những người mà bấy lâu
nay họ tôn thờ, ngưỡng mộ. Sự tụt hậu của đất nước, nạn ô nhiễm môi trường,
đói nghèo và lạc hậu đã làm cho thanh niên hoang mang, lo lắng vì không biết
bằng cách nào để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng đó.
Tất cả những tác nhân trên đôi khi đã đẩy sinh viên đến chỗ lúng túng,
thậm chí bế tắc trong việc định hướng giá trị đạo đức. Cần thiết phải tác động
vào các yếu tố bên ngoài để chúng tác động tích cực đến thanh niên giúp họ tự
tin lựa chọn các giá trị đạo đức đúng đắn, được đông đảo nhân dân đồng tình
và xã hội thừa nhận.
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC
CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Thể thức nghiên cứu
Thực hiện các nhiệm vụ đã xác định, chúng tôi biên soạn các công cụ khảo sát
định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm ở TPHCM. Để xây dựng bảng
khảo sát chính thức, chúng tôi đã tiến hành thăm dò bằng một câu hỏi mở rộng
“Hãy nêu 10 phẩm chất đạo đức cần thiết ở một SVSP”. Câu hỏi này được thăm dò
trên 100 sinh viên của trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM (xem thêm Phụ
lục 2).
Từ kết quả thăm dò và cơ sở lý luận về các giá trị đạo đức của SVSP, chúng
tôi xây dựng bảng khảo sát (xem ở Phụ lục 3) gồm các thành phần như nhận thức,
thái độ và cách xử sự của sinh viên đối với những gia trị đạo đức trong các mối
quan hệ đối với xã hội, đối với người khác (gồm gia đình, thầy cô, bạn bè), đối với
bản thân, và trong đó có hoạt động học tập, đối với nghề sư phạm và với học sinh
trong tương lai; nhận định về sự thay đổi giá trị đạo đức của sinh viên những năm
gần đây; và những yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức của SVSP.
Bảng khảo sát được tiến hành điều tra trên 577 sinh viên của 5 trường sư phạm
đặt trên địa bàn TPHCM, gồm trường Đại học Sư phạm (127 sinh viên, chiếm
22.0%), Đại học Sư phạm Kỹ thuật (133 sinh viên, chiếm 23.1%), Cao đẳng Sư
phạm (96 sinh viên, chiếm 16.6%), Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo Trung ương 3
(104 sinh viên, chiếm 18.0%) và Trung học Sư phạm mầm non (117 sinh viên,
chiếm 20.3%). Trong 577 sinh viên được khảo sát có 417 nữ (chiếm 72.3%) còn lại
là 160 nam (chiếm 27.7%); 343 sinh viên học năm thứ nhất và thứ hai (sinh viên
năm đầu - chiếm 59.4%) còn 234 sinh viên học năm thứ 3,4, 5 (sinh viên năm cuối -
chiếm 40.6%); và 259 sinh viên sinh ra và lớn lên tại thành phố Hồ Chí minh
(chiếm 44,9%), còn 318 sinh viên từ các tỉnh khác đến học (chiếm 55.1%).
Với tất cả những số liệu thu được, nhóm nghiên cứu sử dụng phần mềm máy
tính SPSS để thống kê tỉ lệ phần trăm; tính điểm trung bình điều hòa (TB) và độ
lệch chuẩn (ĐLC); so sánh sự khác biệt ý nghĩa giữa các nhóm khách thể điều tra
với số lượng mẫu từ 2 trở lên (kiểm nghiệm T-test và kiểm nghiệm Anova với mức
ý nghĩa α = 0.01 / 0.05, để tìm ra biến số kiểm nghiệm F và xác suất P); và tính
tương quan ý nghĩa giữa các biến số.
Tuy nhiên, số liệu ban đầu cho thấy có sự chênh lệch khá lớn ở tỉ lệ thành phần
các nhóm trong mẫu khảo sát, điều này sẽ gây khó khăn khi phân tích sự khác biệt
về các tiêu chí giữa các nhóm trong mẫu khách thể điều tra. Do đó nhóm nghiên cứu
đã dùng phần mềm thống kê lựa chọn ngẫu nhiên trong tổng số mẫu điều tra để có
những tỉ lệ phù hợp nhất (xem bảng 1, Phụ lục 1)
Như vậy, trong phần khảo sát thực trạng này, chúng ta có 2 nhóm số liệu.
Nhóm 1 là tất cả các phiếu hợp lệ thu được dùng để phân tích tổng quan trên toàn
mẫu khách thể điều tra. Nhóm 2 là những phiếu đã được lựa chọn ngẫu nhiên theo
các nhóm khách thể dùng để phân tích tính khác biệt.
2.2. Nhận định sự thay đổi giá trị đạo đức ở sinh viên những năm gần đây
SVSP đánh giá về sự thay đổi những giá trị đạo đức ở sinh viên nói chung
trong những năm gần đây là:
Bảng 2.2. Nhận định sự thay đổi về giá trị đạo đức ở sinh viên
Nhận định Tỉ lệ % “đồng ý”
Xếp hạng
Các giá trị hiện đại xâm nhập nhiều 81 1 Sống tự do theo ý mình nhiều hơn 73 2 Các giá trị truyền thống bị mất đi nhiều 71 3 Giá trị của đồng tiền được đề cao hơn 70 4 Có nhiều biểu hiện tiêu cực 68 5 Ai cũng muốn thể hiện đẳng cấp “cái tôi” của mình nhiều hơn trong các quan hệ xã hội
67 6
Đánh giá độ thành công của công việc dựa trên mức lương và nơi làm việc
66 7
Học để lấy bằng cấp hơn là lấy tri thức cho bản thân và phục vụ xã hội
64 8
Tin tưởng nhiều vào những giá trị ảo trên Internet 64 9 Sống phô trương của cải nhiều hơn 61 10
• Trên 50% SVSP trong mẫu khảo sát nhận định đồng ý với 10 giả thuyết
chúng tôi đưa ra.
• Đa số SVSP xác nhận nhiều giá trị truyền thống bị mất đi thay vào đó
là những giá trị hiện đại ở sinh viên.
• Dẫn đến tình trạng sinh viên sống tự do theo ý mình, sống nặng về tiền
bạc và lợi ích cá nhân hơn là giá trị tinh thần và lợi ích của xã hội.
2.3. Nhận thức về các giá trị đạo đức cần thiết của SVSP ở TPHCM
2.3.1. Kết quả nhận thức chung
Bảng 2.3.1.a. Nhận thức về các giá trị đạo đức của SVSP
Quan hệ Giá trị được chọn cao nhất
Giá trị được chọn thấp nhất
Xếp hạng (theo TB)
Với xã hội Biết ơn thế hệ trước Hy sinh vì người khác 7 (2.58) Với bạn bè Không lợi dụng tình
bạn thân Quan tâm đến tâm sự
của bạn 8 (2.56)
Với gia đình Hiếu thảo Bình đẳng với cha mẹ 4 (2.66) Với thầy cô giáo Kính trọng Bình đẳng với thầy cô 5 (2.60) Trong học tập Không dựa dẫm Hoài nghi những điều
sai 3 (2.66)
Với bản thân Tự trọng Tự ái 6 (2.58) Với học sinh Uy tín Sòng phẳng 2 (2.71) Với nghề Sư phạm Yêu nghề Dũng cảm chống tiêu
cực 1 (2.74)
Từ kết quả khảo sát ở bảng 2.3.1.a cho phép chúng tôi rút ra một số nhận
xét mang tính khái quát như sau:
- Tất cả các giá trị đạo đức được chúng tôi đặt trong các mối quan hệ của
cuộc sống đều được đa số sinh viên cho là cần thiết (TB = 2.64, Min = 1; Max
= 3, ĐLC = 0.23).
- Sự nhận định về mức độ cần thiết của các giá trị đạo đức giữa các mối
quan hệ không có sự chênh lệch lớn. Tuy nhiên, các giá trị đạo đức trong mối
quan hệ với “nghề Sư phạm” được các sinh viên chú ý nhiều nhất (nhận thức ở
mức 2.74), trong khi đó, các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với “bạn bè”
được cho là cần thiết thấp nhất (ở mức 2.56). Điều này phần nào phản ánh xu
hướng tâm lý lứa tuổi sinh viên thiên về yếu tố nghề nghiệp tương lai.
- Những giá trị đạo đức được sinh viên cho là cần thiết nhất gồm “biết ơn
thế hệ trước”, “hiếu thảo với cha mẹ”, “kính trọng thầy cô”, với bạn bè “không
lợi dụng”, với bản thân thì “tự trong”, với nghề nghiệp phải “yêu nghề” và với
học sinh phải có “uy tín”. Đây chính là những giá trị đạo đức truyền thống của
con người Việt Nam trong các mối quan hệ của cuộc sống.
- Những giá trị đạo đức mà SVSP cho là cần thiết ở mức thấp gồm “hy
sinh vì người khác”, “quan tâm đến tâm sự của bạn bè”, “bình đẳng với cha
mẹ và thầy cô”, “hoài nghi những vấn đề sai trong học tập”, “tự ái với bản
thân”, “sòng phẳng với học sinh” và “dũng cảm chống tiêu cực trong nghề sư
phạm”. Điều này cho thấy SVSP chưa có nhận thức sâu sắc về các giá trị liên
quan đến ý chí, nghị lực, bản lĩnh của bản thân, liên quan đến quyền lợi cá
nhân và tinh thần phê và tự phê.
Bảng 2.3.1.b. Một số giá trị đạo đức được SVSP nhận thức
Quan hệ Giá trị lựa chọn cao Giá trị lựa chọn thấp Xã hội Chấp hành luật pháp, tự hào
dân tộc Tin tưởng vào xã hội, nhiệt tình với hoạt động xã hội
Bạn bè Trung thực, uy tín, bình đẳng, chia sẻ
Hy sinh, bao dung, sòng phẳng, dũng cảm ngăn chặn cái xấu
Gia đình Biết ơn, trung thực, hiếu thảo Bình đẳng Thầy cô Kính trọng, biết ơn, trung
thực Bình đẳng, hy sinh vì thầy cô
Bản thân Trung thực, khiêm tốn, không tự ty
Tự phê bình, yêu cầu cao
Học tập Không thụ động, kiên nhẫn, Độc lập Học sinh Nghiêm túc, tôn trọng, yêu
thương Sòng phẳng, hi sinh, bình đẳng, thẳng thắn
Nghề sư phạm
Tận tuy, siêng năng, trung thực
Tiết kiệm, giản dị trong phong cách sống
Xét riêng từng giá trị trong các mối quan hệ, kết quả khảo sát tổng hợp ở
bảng 2.3.1.b cho phép chúng tôi rút ra nhận xét sau:
- Giá trị “trung thực” luôn được SVSP cho là cần thiết trong tất cả các
mối quan hệ như đối với cha mẹ, bạn bè, thầy cô, với bản thân, với ghiệp
tương lai. Đây là một giá trị đạo đức cơ bản, quan trọng. Trung thực trong suy
nghĩ, trong lời nói và việc làm là điều mà trên các diễn đàn, thanh niên Việt
Nam cho là lý tưởng sống trong giai đoạn hiện đại. (xem thêm Phụ lục 1, 2).
- Giá trị được đa số SVSP lựa chọn ở mức thấp là “bình đẳng” trong
quan hệ gia đình, thầy cô, và với học sinh. Điều này cũng rất đáng mừng bởi
trong nhận thức của SVSP thì sự “tự do”, “dân chủ” luôn được đặt trong quan
hệ chuẩn mực của người thầy, đấy chính là tính “mô phạm” - chuẩn mực của
người làm thầy. Chính vì thế mà ngay trong quan hệ bạn bè, quan hệ với học
sinh trong tương lai thì giá trị “sòng phẳng” cũng được SVSP lựa chọn ở mức
thấp, nó thể hiện sự tế nhị, sự đúng mực của người giáo viên trong quan hệ
bình đẳng, thân tình.
Kết luận chung, trong định hướng về nhận thức các giá trị đạo đức, SVSP
TPHCM vẫn rất đề cao các giá trị truyền thống từ xưa đến nay như “biết ơn thế hệ
đi trước”, “trung thực với bạn bè”, “hiếu thảo với cha mẹ”, “kính trọng thầy cô
giáo”, “trung thực trong học tập”, “tự trọng”, “yêu nghề và trách nhiệm với học
sinh”. Bên cạnh đó, một số giá trị được xem là hiện đại như “bình đẳng”, “sòng
phẳng”, “uy tín”, “độc lập”, “học hỏi”, “yêu cầu cao” cũng được sinh viên lựa chọn.
Tuy nhiên, những lựa chọn mang tính “mới” này vẫn còn khá dè dặt. Điều đó
cũng là tất yếu, bởi đây là những nhà giáo tương lai, rất cần sự thận trọng trong định
hướng nhân cách của mình, ngay từ những nhận thức ban đầu. Kết quả khảo sát đã
chứng minh cho giả thuyết của đề tài.
2.3.2. So sánh giữa các nhóm điều tra về nhận thức giá trị đạo đức
a. Về mặt giới tính, chúng tôi nhận thấy không có sự khác biệt về mặt
nhận thức các giá trị đạo đức giữa nam và nữ SVSP (điểm trung bình chung
của nam = 2.64, và nữ = 2.63) chung cho tất cả các mối quan hệ và trong
từng mối quan hệ cụ thể. Tuy nhiên, rải rác trong từng giá trị đạo đức thì có
những khác biệt đáng kể.
Kết quả thống kê ở bảng 2.3.2.a cho thấy nữ SVSP đánh giá cao các giá
trị “thương người” trong mối quan hệ với xã hội, “lịch sự nơi công cộng”,
“đoàn kết cộng đồng”, “khôi hài” trong mối quan hệ bạn bè, “vị tha, cởi mở”
trong mối quan hệ với học sinh hơn các bạn nam SVSP.
Trong khi đó, nam SVSP lại đánh giá cao các giá trị “hiếu thảo”,
“không đòi hỏi phục vụ”, “trách nhiệm”, “không thờ ơ với mọi người” và,
“kính trên nhường dưới” trong gia đình, “kính trọng”, “không ỷ lại vào thầy
cô”, “không thụ động” trong học tập, “không thờ ơ với hoàn cảnh học sinh”
hơn các bạn nữ.
Bảng 2.3.2.a. So sánh về nhận thức giá trị đạo đức giữa nam và nữ SVSP
Nam Nữ Giá trị đạo đức TB ĐLC TB ĐLC F P
“Thương người” trong mối quan hệ với xã hội 2.67 0.51 2.80 0.46 16.395 0
“Lịch sự nơi công cộng” trong mối quan hệ xã hội 2.74 0.53 2.85 0.42 15.653 0
“Đoàn kết cộng đồng” trong mối 2.58 0.61 2.72 0.48 19.143 0
quan hệ xã hội “Khôi hài” trong mối quan hệ bạn bè 2.50 0.70 2.63 0.62 7.252 0.007
“Hiếu thảo” trong gia đình 2.93 0.31 2.86 0.40 9.567 0.002 “Không đòi hỏi phục vụ” trong gia đình 2.80 0.50 2.71 0.57 7.673 0.006
“Trách nhiệm” trong gia đình 2.88 0.40 2.77 0.55 15.656 0 “Không thờ ơ với mọi người” trong gia đình 2.86 0.36 2.79 0.49 9.635 0.002
“Kính trên nhường dưới” trong gia đình 2.87 0.37 2.80 0.47 9.612 0.002
“Kính trọng” thầy cô giáo 2.92 0.34 2.85 0.48 9.038 0.003 “Không ỷ lại vào thầy cô” 2.86 0.41 2.79 0.53 8.013 0.005 “Không thụ động” trong học tập 2.88 0.36 2.77 0.59 18.162 0 “Vị tha” trong mối quan hệ với học sinh 2.67 0.53 2.75 0.48 6.851 0.009
“Không thờ ơ với hoàn cảnh học sinh” 2.86 0.43 2.78 0.52 7.226 0.008
“Cởi mở” trong mối quan hệ với học sinh 2.74 0.51 2.81 0.43 6.820 0.009
Kết quả xử lý cho thấy nam SVSP có xu hướng quan tâm nhiều đến các
giá trị trong quan hệ với gia đình và học tập, còn nữ SVSP có xu hướng quan
tâm đến các giá trị đạo đức trong quan hệ xã hội và bạn bè. Điều này có phải
là do vị trế trụ cột của nam giới trong gia đình Việt Nam nên họ thường xác
nhận vai trò của mình trong các mối quan hệ gia đình? Còn phụ nữ thì ngược
lại họ muốn khẳng định mình về mặt xã hội để xác nhận sự bình đẳng về giới?
b. Về xuất thân gia đình, kết quả thống kê cho thấy không có sự khác
biệt về nhận thức giá trị đạo đức nói chung giữa các SVSP có hộ khẩu tại
TPHCM và ngoài TPHCM (sinh viên tại TPHCM = 2.63 và sinh viên ngoài
TPHCM = 2.64). Duy chỉ có các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với bản
thân là có khác biệt nhỏ (2.57 so với 2.59, F là 7.507 với xác suất 0.006). (xem
thêm bảng 10, Phụ lục 1)
Những SVSP có hộ khẩu tại TPHCM lựa chọn có phần cao hơn về mức
độ cần thiết so với những sinh viên đến từ các tỉnh khác ở những giá trị “lịch
sự nơi công cộng”, “không lợi dụng tình bạn thân”, “không đòi hỏi được
phục vụ” trong mối quan hệ gia đình, “siêng năng” trong học tập, “tự trọng”
trong mối quan hệ với bản thân, “không tự mãn”, “nghiêm túc” trong mối
quan hệ với học sinh.
Ngược lại, những sinh viên ngoại tỉnh đề cao những giá trị “biết ơn thế
hệ trước”, “tự hào dân tộc” trong mối quan hệ với xã hội, “trách nhiệm”
trong mối quan hệ với bạn bè, “chăm lo cho em nhỏ” trong gia đình, “say
mê” trong học tập, “tế nhị” trong mối quan hệ với học sinh, “bản lĩnh” trong
nghề sư phạm.
Điều này cho thấy sinh viên TPHCM khá nhấn mạnh các giá trị mang
tính hiện đại, thể hiện sự độc lập, bình đẳng trong các mối quan hệ với mọi đối
tượng xung quanh. Còn các sinh viên xuất thân ngoài TPHCM thì lại thể hiện
tính truyền thống, nhẹ nhàng, với xu hướng gắn bó chặt chẽ với những gì ban
đầu, hoặc gần như là thể hiện nhu cầu ổn định.
c. Về trình độ đào tạo
SVSP học những năm cuối nhận thức về các giá trị đạo đức không có sự
khác biệt so với nhóm sinh viên học những năm đầu về vấn đề này (năm đầu =
2.66 so với năm cuối = 2.62).
Tuy nhiên, khi xét đến từng mối quan hệ và từng giá trị trong mỗi quan
hệ ấy, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều sự khác nhau trong nhận thức của mỗi
nhóm khách thể, và nhận thức của SVSP học những năm đầu tích cực hơn
SVSP học ở những năm cuối. Cụ thể:
• Trong mối quan hệ với xã hội, tất cả các giá trị được sinh viên học
năm đầu lựa chọn cao hơn so với sự lựa chọn của sinh viên học những
năm cuối (xem bảng 2.3.2.c1). Điều này có thể được giải thích do sự
khác nhau về trình độ tri thức, kinh nghiệm sống và sự trải nghiệm,
chiêm nghiệm các giá trị đạo đức của sinh viên. Có thể do cách nhìn về
cuộc sống, về nghề nghiệp tương lai không còn nhiều “màu hồng” như
lúc vừa rời ghế nhà trường phổ thông để bước chân vào đại học. Các bạn
phải đi làm thêm kiếm tiền chi tiêu cho cuộc sống, phải vượt qua rất
nhiều khó khăn trong quá trình học tập ở đại học và sự lo lắng đến việc
làm, nơi làm việc, đồng thời phạm vi giao tiếp được nới rộng, vì thế, sinh
viên học năm cuối nhìn cuộc sống thận trọng và khắt khe hơn sinh viên
học năm đầu.
Bảng 2.3.2.c1. So sánh theo trình độ đào tạo với quan hệ xã hội
Giá trị đạo đức Sinh viên năm đầu
Sinh viên năm cuối F P
TB ĐLC TB ĐLC Tin tưởng vào xã hội 2.33 0.61 2.21 0.74 7.933 0.005Biết ơn thế hệ trước 2.91 0.36 2.81 0.46 22.767 0 Tự hào dân tộc 2.89 0.40 2.82 0.45 9.145 0.003Thương người 2.80 0.43 2.69 0.54 22.963 0 Chấp hành luật pháp 2.88 0.36 2.82 0.44 7.829 0.005Đoàn kết trong cộng đồng 2.72 0.53 2.60 0.57 10.884 0.001
• Trong mối quan hệ với gia đình
Kết quả thống kê (ở bảng 11, Phụ lục 1) cho thấy chỉ có giá trị “độc
lập về quyết định cá nhân” trong mối quan hệ với gia đình là được các
sinh viên năm cuối đánh giá cao hơn các sinh viên năm đầu. Điều này có
thể được giải thích do kinh nghiệm sống, trình độ hiểu biết và quan hệ xã
hội của sinh viên khi đã tích luỹ tương đối họ muốn được độc lập trong
cuộc sống, trong những quyết định cá nhân mà không muốn chịu chi
phối hay áp lực từ gia đình.
• Trong mối quan hệ với thầy cô giáo
Một số giá trị như “kính trọng”, “biết ơn” và “đón nhận tình thương
yêu từ thầy cô” được sinh viên học năm cuối lựa chọn thấp hơn sinh viên
học năm đầu (xem ở bảng 11, Phụ lục 1). Điều này có thể giải thích quan
hệ thầy trò ở đại học thường được thể hiện trong học tập và cũng chỉ xuất
hiện khi sinh viên gặp khó khăn trong tự học hay nghiên cứu khoa học.
• Trong mối quan hệ với bạn bè
Những giá trị thể hiện tinh thần tương trợ qua lại giữa bạn bè với
nhau như “trung thực”, “đoàn kết trong nhóm”, “tin tưởng lẫn nhau”,
“chia sẻ” và “trách nhiệm” cũng được sinh viên học năm đầu chọn cao
hơn sinh viên học năm cuối (xem bảng 11, Phụ lục 1). Đặc biệt phẩm
chất “tin tưởng lẫn nhau” với điểm trung bình khá cách biệt và độ lệch
tiêu chuẩn chấp nhận được. Qua đó cho thấy các sinh viên năm đầu dẫu
sao vẫn rất đề cao tình bạn trong môi trường học tập mới này.
• Trong hoạt động học tập
Những giá trị thể hiện tính độc lập, vượt khó như “không ngại
khó”, “nghiên túc”, “say mê” và “không thụ động” trong học tập được
sinh viên học năm đầu lựa chọn cao hơn sinh viên học năm cuối. (xem
thêm bảng 11, Phụ lục 1). Điều này phản ánh hứng thú, tính tích cực học
tập của SVSP bị giảm dần trong quá trình học tập ở trường sư phạm?
Theo chúng tôi, nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có thể do nội dung
chương trình đào tạo lạc hậu, chưa gắn với nghề nghiệp tương lai,
phương pháp giảng dạy chưa phát huy tính tích cực, độc lập của người
học, hình thức dạy học tẻ nhạt, phương tiện dạy học nghèo nàn và các
điều kiện dạy học khác khó khăn, thiếu thốn. (Chúng ta sẽ phân tích ở
những phần sau).
• Trong mối quan hệ với bản thân
Kết quả ở bảng 2.3.2.c6 cho thấy các sinh viên học năm đầu lựa
chọn các giá trị thể hiện sự tự tin vào bản thân cao hơn sinh viên học
năm cuối về những giá trị này. Điều này có thể do trong quá trình học tập
ở trường sư phạm, sinh viên những năm cuối đã chưa thành công trong
học tập, trong thực tập nghề nghiệp khiến họ thiếu tự tin vào bản thân.
Bảng 2.3.2.c6. So sánh theo trình độ đào tạo trong quan hệ với bản thân
Sinh viên năm đầu
Sinh viên năm cuối Giá trị đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC F P
Tự trọng 2.87 0.42 2.79 0.57 10.961 0.001Tự tin 2.74 0.52 2.65 0.60 9.530 0.002Tự kiềm chế 2.71 0.53 2.61 0.61 11.186 0.001Không tự ti 2.75 0.52 2.65 0.65 14.421 0
• Trong mối quan hệ với học sinh tương lai
Trong mối quan hệ với học sinh, với tư cách là một giáo viên tương
lai, các sinh viên năm đầu có nhiều lựa chọn giá trị đạo đức thể hiện sự
cần thiết ở mức độ cao hơn so với các sinh viên năm cuối.
Bảng 2.3.2.c7. So sánh theo trình độ đào tạo trong quan hệ với học sinh
Sinh viên năm đầu
Sinh viên năm cuối Giá trị đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC F P
Yêu thương 2.87 0.40 2.75 0.55 26.386 0 Tận tụy 2.86 0.38 2.79 0.48 11.488 0.001Vị tha 2.75 0.47 2.68 0.54 7.422 0.007Tôn trọng 2.90 0.30 2.80 0.47 30.848 0 Thẳng thắn 2.76 0.48 2.65 0.59 18.865 0 Nhiệt thành 2.77 0.49 2.69 0.56 9.528 0.002Cởi mở 2.86 0.37 2.76 0.51 24.978 0 Chân thành 2.83 0.40 2.75 0.58 15.105 0 Trách nhiệm 2.86 0.41 2.80 0.48 7.313 0.007
Kết quả bảng 2.3.2.c7 đã phần nào phản ánh sản phẩm đào tạo ở
các trường sư phạm chưa đáp ứng được mục tiêu đào tạo, nhất là mục
tiêu giáo dục nghề. Điều này nhắc nhở cán bộ quản lý và giảng viên các
trường sư phạm cần phải xem xét lại quá trình và sản phẩm đào tạo của
mình. SVSP được đào tạo ra nếu không đáp ứng được những chuẩn mực
đạo đức của nghề thì sẽ rất khó nuôi dưỡng tình yêu nghề và nỗi đam mê
với chuyên ngành giảng dạy. Kết quả so sánh trong mối quan hệ với
nghề sư phạm cũng cho kết quả tương tự.
• Trong mối quan hệ với nghề sư phạm
Kết quả thống kê ở bảng 2.3.2.c8 cũng cho thấy phần lớn các giá trị
đạo đức nghề sư phạm được sinh viên học năm đầu lựa chọn với mức
cần thiết cao sinh viên học năm cuối.
Ở những sinh viên mới vào trường sư phạm, họ không chỉ quan tâm
đến các giá trị truyền thống, mà còn xem trọng cả những giá trị hiện đại
trong nghề như “dũng cảm chống tiêu cực”, “năng động dám thay đổi”
và “bản lĩnh”. Đây là một điều đáng mừng và cũng là điều đáng lo cho
các trường sư phạm. Mừng vì các sinh viên vừa vào trường đã có ngay
những định hướng giá trị tốt, ít ra là về nhận thức; lo là vì chất lượng đào
tạo và giáo dục đã ảnh hưởng đến một phần sự “thiếu nhiệt” cho các sinh
viên lâu năm trong trường.
Bảng 2.3.2.c8. So sánh theo trình độ đào tạo trong quan hệ với nghề SP
Sinh viên năm đầu
Sinh viên năm cuối Giá trị đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC F P
Yêu nghề 2.89 0.37 2.82 0.48 13.120 0 Tận tâm 2.88 0.39 2.82 0.48 8.841 0.003Dũng cảm chống tiêu cực 2.67 0.52 2.56 0.58 10.376 0.001Năng động (dám thay đổi) 2.72 0.50 2.64 0.56 9.331 0.002Trung thực 2.85 0.40 2.77 0.53 13.330 0 Bản lĩnh 2.74 0.49 2.68 0.58 6.797 0.009Quan tâm tới sự nghiệp giáo dục 2.79 0.49 2.64 0.60 27.132 0
d. Về trường đào tạo trong mẫu khảo sát
Kết quả thống kê ở bảng 2.3.2.d cho thấy nhận thức giá trị đạo đức của
sinh viên trường CĐSPMG cao hơn hẳn sinh viên trường ĐHSP.
Bảng 2.3.2.d. So sánh theo trường khảo sát
Trung bình lựa chọn trong nhận thức giá trị đạo đức nói chung
ĐHSP ĐHSPKT CĐSP CĐSPMG THSPMN F P
2.56 2.65 2.61 2.71 2.63 5.082 0.001
Sự khác biệt này được thể hiện rõ nhất trong các mối quan hệ bạn bè, bản
thân, học sinh và nghề sư phạm. Cụ thể:
• Trong quan hệ với bạn bè, kết quả xử lý ở bảng 2.3.2.d1 cho thấy
có sự khác biệt ý nghĩa giữa sinh viên hai trường CĐSPMG và ĐHSP.
Riêng giá trị “hy sinh”, “bao dung” và “trách nhiệm” là có sự khác biệt
về nhận thức các giá trị của sinh viên trường CĐSPMG với sinh viên các
trường ĐHSPKT và THSPMN.
Bảng 2.3.2.d1. So sánh giữa các trường trong mối quan hệ với bạn bè
Điểm trung bình của sinh viên trường Nhóm giá trị và các giá trị riêng lẻ
ĐHSP ĐH SPKT CĐSP CĐ
SPMG TH
SPMN F P
Giá trị chung 2.47 2.56 2.56 2.64 2.55 5.807 0 Uy tín 2.72 2.85 2.80 2.90 2.88 2.792 0.026Hy sinh 2.08 1.91 2.16 2.33 2.01 5.767 0 Bao dung với lỗi của bạn
2.27 2.44 2.32 2.56 2.25 3.847 0.004
Bình đẳng 2.73 2.91 2.80 2.93 2.85 3.438 0.009Chia sẻ 2.61 2.73 2.80 2.89 2.78 4.034 0.003Khôi hài 2.31 2.57 2.67 2.81 2.54 7.998 0 Trách nhiệm 2.62 2.67 2.73 2.88 2.44 7.393 0
• Trong mối quan hệ với bản thân, kết quả xử lý (bảng 12, Phụ lục
1) cho thấy, ngoài biểu hiện khác nhau rõ rệt giữa nhận thức của sinh
viên CĐSPMG với sinh viên các trường sư phạm khác, chúng ta còn thấy
sự khác nhau thể hiện ở việc sinh viên trường THSPMN lựa chọn cao
hơn sinh viên ĐHSP ở giá trị “trung thực”. Điều này có thể vì học sinh
của các cô giáo Mầm non là các cháu còn rất nhỏ đang “học ăn, học nói,
học gói, học mở” và “mẹ của em ở trường là cô giáo mến thương”, vì
thế, cô giáo hơn ai hết cần phải làm gương “trung thực” để các cháu noi
theo và bắt chước. Bên cạnh đó chúng ta còn thấy ở giá trị “yêu cầu cao”
và “tự phê bình”, sinh viên trường CĐSPMG lựa chọn nhiều hơn sinh
viên THSPMN.
• Trong mối quan hệ với học sinh tương lai chúng tôi cũng nhận
thấy sự khác nhau khi lựa chọn các giá trị giữa sinh viên CĐSPMG và
sinh viên ĐHSP (xem thêm bảng 12, Phụ lục 1).
Bảng 2.3.2.d5. So sánh giữa các trường trong quan hệ với xã hội
Điểm trung bình của sinh viên trường
Nhóm giá trị và các giá trị riêng lẻ ĐHSP ĐH
SPKT CĐSP CĐ SPMG
TH SPMN
F P
Giá trị chung 2.53 2.54 2.52 2.69 2.56 6.584 0 Hy sinh vì người khác
2.41 1.96 2.05 2.33 2.10 8.294 0
Giữ gìn công trình công cộng
2.64 2.80 2.80 2.85 2.64 3.696 0.006
Lịch sự nơi công cộng
2.64 2.79 2.85 2.94 2.81 4.971 0.001
Trung thành với chế độ
2.36 2.59 2.21 2.53 2.23 6.436 0
Nhiệt tình với hoạt động xã hội
2.27 2.05 2.32 2.60 2.38 8.563 0
Dũng cảm chống cái xấu
2.38 2.33 2.44 2.64 2.63 4.975 0.001
• Trong mối quan hệ với nghề sư phạm, kết quả thống kê cũng cho
thấy có sự khác biệt ở một số giá trị như “yêu nghề”, “bản lĩnh” và “tiết
kiệm” (xem thêm bảng 12, Phụ lục 1).
• Trong mối quan hệ với xã hội kết quả xử lý cũng thể hiện khá rõ
về tính chênh lệch giữa nhận thức của sinh viên các trường Sư phạm.
Trong đó nổi lên dấu hiệu khác nhau giữa sự lựa chọn của sinh viên
CĐSPMG với sinh viên ĐHSP và ĐHSPKT, cụ thể ở bảng 2.3.2.d5.
Theo đó, trong tất cả những giá trị có kết quả kiểm nghiệm khác
biệt ý nghĩa, lựa chọn cao nhất đều rơi vào các sinh viên CĐSPMG.
Sinh viên ĐHSPKT ít đề cao các phẩm chất “hy sinh vì người
khác”, “nhiệt tình với hoạt động xã hội” và “dũng cảm chống cái xấu”.
Còn sinh viên CĐSP cũng không thiết tha nhiều lắm với các giá trị
“trung thành với chế độ”.
Những kết quả trên đây mới chỉ ở mức nhận thức nên chưa thể
phản ánh hết được sự định hướng của các bạn sinh viên về các giá trị đạo
đức được nêu ra.
• Trong các mối quan hệ còn lại như với gia đình và với thầy cô,
kết quả xử lý cho biết có sự khác biệt không rõ ràng lắm. Tuy nhiên, sự
lựa chọn của sinh viên ĐHSPKT về các giá trị trong hai mối quan hệ này
thể hiện cao hơn các trường còn lại (xem thêm bảng 12, Phụ lục 1).
Tóm lại, SVSP có nhận thức khá đầy đủ những giá trị đạo đức cần thiết cho
bản thân, trong đó nhấn mạnh nhiều đến các giá trị truyền thống, và có một chút dè
dặt trong việc lựa chọn các giá trị hiện đại. SVSP học những năm cuối nhận thức
các giá trị đạo đức kém tích cực hơn SVSP học những năm đầu.
2.4. Thái độ đạo đức của SVSP ở TPHCM
2.4.1. Kết quả chung về thái độ đạo đức
Thái độ là biểu hiện tiếp theo của sự định hướng giá trị, sau nhận thức. Thái
độ chính là mặt tình cảm của con người, nó cho thấy cá nhân đồng tình hay phản
đối, hoặc nhận định thế nào về những giá trị của chính mình hay của những người
xung quanh.
Kết quả ở bảng 2.4.1 cho chúng ta các nhận định sau:
- Đa số SVSP trong mẫu khảo sát đều xác nhận những giá trị đạo đức
được đề cập đến đều phù hợp với bản thân (điểm trung bình là 2.49).
- Các giá trị đạo đức trong “mối quan hệ với xã hội” được SVSP biểu
hiện thái độ ở mức tích cực nhất (2.58), còn trong mối “quan hệ với bản thân”
được biểu hiện ở mức tích cực thấp nhất (2.34).
Bảng 2.4.1. Thái độ chung đối với các giá trị đạo đức của SVSP
Các mối quan hệ
Thái độ được biểu hiện tích cực cao
nhất
Thái độ được biểu hiện tích cực thấp
nhất
Xếp hạng (theo TB)
Với xã hội Biết ơn thế hệ trước Lịch sự nơi công cộng 1 (2.58) Với bạn bè Uy tín Khiêm tốn 4 (2.52) Với gia đình Hiếu thảo Độc lập 5 (2.48) Với thầy cô giáo Biết ơn Nhiệt thành 6 (2.46) Trong học tập Trách nhiệm Kiên nhẫn 7 (2.39) Với bản thân Khiêm tốn Tự ái 8 (2.34) Với học sinh Yêu thương Học hỏi 2 (2.57) Với nghề Sư phạm Tận tâm Yêu nghề 3 (2.56)
- Những giá trị được SVSP đồng tình ở mức cao gồm: “biết ơn các thế hệ
đi trước”, “giữ uy tín với bạn bè”, “hiếu thảo với cha mẹ”, “biết ơn thầy cô”,
“có trách nhiệm trong học tập”, “khiêm tốn với bản thân”, “thương yêu học
sinh” và “tận tâm với nghề sư phạm”,v.v… (xem thêm bảng 13, 14, 15, 16, 17,
18, 19, 20 Phụ lục 1)
Khi chúng tôi hỏi về “lòng ơn thế hệ đi trước”, sinh viên cho biết “Tôi
cảm kích công ơn của những người đã hy sinh cho đất nước này” hoặc “Tôi
không bao giờ được phép quên những gì cha ông ta để lại, tự nhủ rằng phải
biết quý trọng và học tập theo những tấm gương đó, và sống thật hết mình, đó
chính là lòng biết ơn”.
Hay khi nhắc đến các giá trị đạo đức truyền thống, sinh viên nói: “Những
giá trị ngày xưa để lại có đôi chút lạc hậu, chậm tiến, nhưng vẫn còn nhiều cái
tốt đẹp đáng duy trì”, và “Chúng ta là thế hệ đi sau, nhận xét chứ không nên
phê phán, cần phải tìm hiểu, phát huy những cái tốt và cải biến những cái
chưa tốt” (Ý kiến của sinh viên ĐHSPKT).
Hoặc hỏi về đất nước như “Các bạn nghĩ sao khi có ai đó phủ nhận giá trị
biểu tượng Tháp Rùa và Hồ Gươm của Thủ đô Hà Nội?”, hầu như tất cả đều
phê phán ý kiến đó và cho rằng “Thật đáng buồn khi có người Việt Nam nào
nghĩ như vậy! Không riêng gì biểu tượng Thủ đô mà tất cả những hình ảnh
khác của đất nước đều đáng tự hào và cần được giới thiệu cùng bè bạn quốc
tế”.
Trao đổi thêm về “uy tín” với bạn bè, sinh viên lý giải “để có tình bạn
bền lâu thì phải có “uy tín” và “chân thành” để bạn bè luôn có tâm trạng tin
tưởng, thoải mái”.
Trong xã hội mở cửa như hiện nay, gia đình hạt nhân luôn được thế hệ
trẻ lựa chọn, vậy thì việc sống chung và hiếu thảo với cha mẹ được sinh viên
chấp nhận cao. Vì sao vậy? Chúng tôi hỏi: “Hiếu thảo ngày nay có khác gì
ngày xưa hay không?”. Kết quả thu nhận được là gần 20 sinh viên đều có câu
trả lời chung rằng “chỉ khác về hình thức, còn bản chất vẫn là làm sao cho
cha mẹ không buồn lòng; quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho cha mẹ, sống thật
tốt để trở thành niềm tự hào của cha mẹ”.
Một chi tiết đáng ghi nhận nữa là có đến 80% SVSP được hỏi trả lời rằng
sẽ mua quà cho cha mẹ, hay chỉ đơn giản về “khoe” cha mẹ khi lĩnh tháng
lương đầu tiên. Thật mừng khi người đầu tiên họ nghĩ đến khi trưởng thành,
thành đạt chính là các bậc sinh thành.
Chúng tôi đưa ra một tình huống giả định “Đối với tôi, thầy cô chỉ thực
sự có ý nghĩa khi tôi còn ngồi trên ghế nhà trường”, đa số sinh viên cho rằng
“điều đó còn khó có thể chấp nhận được đối với sinh viên các ngành khác,
huống hồ là sinh viên học ngành sư phạm”.
“Lòng biết ơn” thầy cô được SVSP diễn giải rất cụ thể và bình dị như tôn
trọng những gì thầy cô đã truyền đạt cho mình, sống và làm việc sao cho xứng
đáng với điều đó, kính trọng, lễ độ đối với thầy cô - “không được nói xấu thầy
cô, nếu thầy cô có sai thì góp ý một cách khéo léo, tế nhị”. Khi chúng tôi hỏi
“Học sinh ngày nay có quyền đánh giá, thậm chí phê bình giáo viên của mình
một cách công khai hay không?”, có 70% ý kiến phản đối về vấn đề nêu ra.
Hỏi sâu về giá trị “yêu thương học sinh”, sinh viên lý giải tình yêu
thương là “tôn trọng, quan tâm đến quá trình học tập và hoàn cảnh của học
sinh” và nhấn mạnh “yêu thương ở trong một chừng mực nào đó, sao cho vẫn
giữ một khoảng cách trong quan hệ thầy trò, tránh sự bất kính của học sinh
đối với giáo viên”. Và khi chúng tôi đề cập đến tình trạng giáo viên đánh đập,
phạt nặng, hay thậm chí quấy rối tinh thần học sinh đang được dư luận xã hội
lên án rầm rộ thì SVSP đều tỏ thái độ bức xúc, phản đối ra mặt. Trong lời nói
của mình, họ cho biết “đó là những điều không thể chấp nhận được khi đối xử
với học sinh, cho dù là nhỏ tuổi hay lón tuổi”.
- Những giá trị đạo đức được sinh viên biển hiện thái độ ở mức thấp là
“lịch sự nơi công cộng”, “khiêm tốn với bạn bè”, “độc lập trong gia đình”,
“nhiệt thành với thầy cô”, “kiên nhẫn trong học tập”, “tự ái về bản thân”, “học
hỏi học sinh”, và “ yêu nghề sư phạm”. Chúng tôi đã tiến hành trao đổi, phỏng
vấn SVSP về những giá trị đạo đức này, kết quả thu được như sau:
“Khiêm tốn với bạn bè” mà SVSP chấp nhận thấp được họ giải thích vì
trong mối quan hệ bạn bè, ngày nay khiêm tốn quá thì sẽ thiệt thòi, không khéo
sẽ có nguy cơ chuyển thành “tự ti” – một đức tính không nên có đối với thanh
niên thời đại mới.
“Độc lập” trong gia đình khi được hỏi, sinh viên lý giải rằng: “Con cái
ngày nay có thể tranh luận thẳng thắn với cha mẹ về nhiều vấn đề trong cuộc
sống, nhưng phải đặt dưới sự kính trọng, không được phép cho mình là tài
giỏi, không được hỗn hào, và khi thấy cha mẹ không đồng tình với mình thì cố
gắng tìm cách thuyết phục dựa trên tình cảm gia đình chứ không được cố
chấp”.
Tìm hiểu sâu về giá trị “nhiệt thành” với thầy cô, sinh viên cho
biết“chúng em mong muốn gần gũi chia sẻ với thầy cô, nhưng điều đó dường
như quá khó bởi sự xa cách từ phía thầy cô vì quan hệ thầy trò ở đại học
không gần gũi, gắn kết như ở phổ thông, phần khác do đa số thầy cô quá bận,
một số thầy cô cho rằng nếu để cho quan hệ thầy trò quá gần thì dễ nảy sinh
tiêu cực”. Chúng ta sẽ quay lại bàn nhiều hơn về những nguyên nhân này ở
phần sau.
Giá trị “kiên nhẫn” trong học tập được sinh viên chấp nhận thấp đã cho
thấy thái độ đạo đức trong học tập của SVSP chưa thật sự tích cực như những
gì các bạn nhận thức hay trả lời trong khi phỏng vấn “SVSP phải là người
nhiệt tình, ham học hỏi”.
Giá trị “tự ái về bản thân” là một giá trị ít được sự thừa nhận của tuổi trẻ
tiến bộ. Bởi họ cho rằng trong sự phấn đấu của bản thân, nếu “tự ái” thái quá
sẽ dễ bị tách biệt trong cộng đồng, là một điều trở ngại.
Giá trị “học hỏi từ phía học sinh” nhận được sự đồng tình của sinh viên
thấp. Trong 3 sinh viên được phỏng vấn chỉ có một bạn đồng tình với giá trị
này. Biểu hiện đó cho thấy SVSP vẫn mang nặng đặc trưng của “nhà trường
truyền thống” nên việc học hỏi, rút kinh nghiệm từ những lời góp ý thẳng thắn
của học sinh vẫn còn là một việc khó tiếp nhận.
Khi chúng tôi đặt câu hỏi “điều gì không chấp nhận được ở một SVSP?”
và câu trả lời là “không yêu nghề dạy học, coi thường công việc sư phạm,
thiếu lương tâm”. Một bạn sinh viên chia sẻ “Tôi thật sự yêu qúy nghề sư
phạm ngay cả khi chứng kiến những tiêu cực trong ngành giáo dục”. Trong
khi đó, giá trị “yêu nghề” được SVSP đồng tình thấp. Khi hỏi về điều này, họ
tâm sự “chúng em có thể tận tâm với công việc mình đang làm, nhưng để đeo
đuổi nó khi gặp những khó khăn lớn (trong đó có cả vấn đề kinh tế) là điều
đáng phân vân”.
2.4.2. So sánh giữa các nhóm khách thể điều tra về thái độ đạo đức
a. Về giới tính, kết quả xử lý cho thấy không có sự biệt đáng kể giữa
nam và nữ sinh viên về thái độ đạo đức. (xem thêm bảng 21, Phụ lục 1)
Tuy nhiên, trong quan hệ xã hội, các bạn nam đồng tình cao ở giá trị
“chấp hành luật pháp” và “giữ gìn nơi công cộng”, “trung thực trong quan hệ
với bạn bè” hơn so với các bạn nữ về ba giá trị này.
Trong khi đó, giá trị “chấp nhận hy sinh vì bạn bè” tỉ lệ đồng tình ở nam
thấp hơn so với nữ sinh sư phạm.
b. Về xuất thân gia đình, các giá trị đạo đức trong mối quan hệ “với bản
thân” và “với học sinh” được sinh viên có hộ khẩu tại TPHCM hướng đến
nhiều hơn so với các sinh viên có hộ khẩu từ tỉnh khác (2.36, 2.58). Đặc biệt,
với giá trị “học hỏi từ phía học sinh” thì sinh viên tại TPHCM có thái độ tích
cực hơn hẳn sinh viên ngoài TPHCM (2,84). Trong những cuộc trò chuyện,
chúng tôi cũng nhận thấy sự cởi mở, chân thành của các bạn sinh viên thành
phố. Các bạn nói: “người thầy phải đồng thời là người anh, và người bạn của
học trò thì mới được”.
Còn những giá trị với xã hội và với bạn bè, SVSP đến từ các tỉnh khác có
cái nhìn tích cực hơn, cụ thể là “lòng biết ơn thế hệ trước”, “lòng tự hào dân
tộc” và “tính trung thực trong bạn bè” (xem chi tiết ở bảng 22, Phụ lục 1).
c. Về trình độ đào tạo, sinh viên năm đầu có thái độ tích cực hơn so với
sinh viên năm cuối ở những giá trị “biết ơn thế hệ trước”, “thương người”,
“trung thực trong học tập”, “khiêm tốn” và “tận tâm với nghề sư phạm” (xem
bảng 23, Phụ lục 1). Một lần nữa chúng ta lại thấy thời gian đào tạo ở các
trường sư phạm chưa góp phần bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức cho sinh
viên, nếu không muốn nói là giảm sút.
Khi trò chuyện với sinh viên năm nhất chúng tôi nhận thấy họ rất tha
thiết đối với những chuẩn mực tốt đẹp của thế hệ cha ông, của truyền thống
nghề dạy học… nhưng khi đi sâu hơn, các bạn thổ lộ rất thật “bây giờ thì
chúng em nghĩ như vậy, nhưng không biết qua 4 năm học ở đây chúng em có
còn những suy nghĩ ấy không, hay cũng hiện đại và sống thoải mái như những
anh chị khóa trước (!)”. Còn những sinh viên năm cuối cũng không giấu giếm
“lúc mới vào trường, còn nhiều hoài bão tốt đẹp lắm, nhưng giờ thì phải thực
tế hơn rồi”, và còn nữa “em rất thích đi dạy, nhưng nếu đồng lương quá eo
hẹp thì em đành phải làm công việc khác để nuôi thân thôi”.
d. Về trường đào tạo, kết quả thống kê (ở bảng 24 ,Phụ lục 1) cho thấy:
- Sinh viên trường CĐSPMG có thái độ tích cực hơn đối với đa số
các giá trị đạo đức trong các mối quan hệ, nhất là các giá trị trong quan
hệ với xã hội, với cộng đồng.
- Sinh viên trường ĐHSPKT thì đề cao tính “trung thực” trong tình
bạn và rất quan tâm đến thái độ “thẳng thắn góp ý với thầy cô”. Những
biểu hiện này cho thấy phần nào tính đặc thù về “kỹ thuật” lấn áp tính
“sư phạm” trong nghề nghiệp của họ. Đó cũng là hiện trạng đáng chú ý
trong mục tiêu định hướng giá trị cho sinh viên trường ĐHSPKT. Một
giáo viên dạy môn nghiệp vụ sư phạm trong trường đã nói: “tình cảm với
nghề dạy học của SVSP còn chưa được rõ ràng lắm, khi dạy các môn
nghiệp vụ chúng tôi thấy rõ điều đó, các em học theo lối đối phó và
không tự tin khi nghĩ mình ra trường sẽ theo nghiệp dạy học”.
- Điểm đáng lưu ý hơn cả là sự mờ nhạt về biểu hiện thái độ đạo
đức của sinh viên ĐHSP và CĐSP (nay là Đại học Sài Gòn cùng với
trường THSPMN), đặc biệt là trường ĐHSP TPHCM, một trong số các
trường đại học sư phạm trọng điểm của cả nước.
Khi chúng tôi hỏi một số sinh viên ĐHSP: “những điều đáng lo
ngại của đạo đức sinh viên trường chúng ta” họ tìm cách lảng tránh, hoặc
lắc đầu. Chúng tôi chỉ thu được một số ý kiến như “SVSP đã bắt đầu có
dấu hiệu tham gia vào các tệ nạn xã hội, dưới con mắt khắt khe của một
giáo viên tương lai thì tôi không thể chấp nhận điều đó’, hoặc “Ngày
20/11 hàng năm chỉ là dịp để chúng em… tổ chức các sự kiện, chương
trình cho chính mình”, “tình bạn ngày nay đa phần chỉ là đáp ứng nhu
cầu được chia sẻ khó khăn, hoặc… nhờ vả nếu có thể được”, hay “sinh
viên ngày nay phải luôn biết thể hiện bản lĩnh của chính mình, khiêm tốn
quá là thiệt thòi”.
Ý kiến của một số giáo viên trường CĐSP giải thích về thái độ đạo
đức sinh viên trường mình: “Do đầu vào là sinh viên cao đẳng nên rất ít
các bạn sinh viên thiết tha với nghề dạy học”, “sự biến động của các
ngành nghề trong xã hội phần nào cũng nâng cao vị thế của người giáo
viên, nhưng lại cũng là cơ hội rõ ràng để các SVSP so sánh sự hơn kém
về giá trị vật chất của nghề đem lại”.
Tóm lại, về thái độ đạo đức của sinh viên sư phạm nhìn chung đều mang tính
tích cực khá cao. Nổi bật trong đó là các giá trị đạo đức trong mối quan hệ xã hội.
Mặt khác, các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với bản thân chưa được đánh giá
cao lắm từ phía các sinh viên sư phạm. Nam sinh viên thể hiện thái độ tương đối tốt
hơn so với nữ sinh viên trong một số phẩm chất đối với xã hội và bạn bè. Các sinh
viên đến từ TPHCM có thái độ tương đối tích cực hơn các sinh viên đến từ các tỉnh
khác trong các mới quan hệ với thầy cô giáo, với nghề sư phạm. Vẫn có sự trội hơn
về thái độ của những sinh viên năm đầu về nhiều mặt. Cuối cùng, biểu hiện của các
sinh viên trường CĐSPMG vẫn cho thấy sự quan tâm sâu sắc đến các thái độ đạo
đức, đặc biệt là so với các sinh viên trường ĐHSP.
2.5. Hành vi đạo đức của SVSP ở TPHCM
Tìm hiểu hành vi đạo đức của SVSP, chúng tôi, một mặt căn cứ vào kết quả
thăm dò về tự đánh giá của sinh viên, mặt khác chúng tôi dựa vào kết quả xử lý tình
huống trong các mối quan hệ khác nhau ở sinh viên (mỗi tình huống sẽ đại diện cho
một giá trị đạo đức mà SVSP cần có trong định hướng của mình) kết hợp với kết
quả phỏng vấn và quan sát.
Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên tự đánh giá hành vi đạo đức của mình ở
mức khá cao (2.7). Điều này cho thấy hành vi đạo đức của SVSP khá phù hợp với
các chuẩn mực đạo đức đã lựa chọn.
2.5.1. Kết quả chung về tự đánh giá hành vi đạo đức
Nhận diện về hành vi trong tâm lý người là một việc khó, nhận diện hành vi
đạo đức lại càng khó hơn. Đặc biệt khi chúng ta cần tìm hiểu hành vi đạo đức của
SVSP trong nhiều hoạt động, nhiều mối quan hệ khác nhau thì đòi hỏi cần phải có
nhiều phương pháp nghiên cứu để thu nhận ý kiến. Những số liệu từ bảng khảo sát
chỉ là một phần kết quả tự đánh giá của SVSP trước những tình huống tiêu biểu mà
chúng tôi đưa ra, chưa thể phản ánh hết được thực trạng về hành vi. Một số biểu
hiện trong khi phỏng vấn và quan sát cũng được chúng tôi ghi nhận một cách tương
đối.
Trước tiên xét về kết quả tự đánh giá hành vi từ phiếu khảo sát, chúng tôi dựa
vào điểm trung bình điều hòa để phân tích. Với 3 hình thức đánh giá tương ứng với
3 thang điểm tích cực: mức 3, phân vân:mức 2, tiêu cực:mức 1, chúng tôi nhận thấy
tất cả các tình huống đưa ra đều được sinh viên tự đánh giá trên mức phân vân (thấp
nhất là 2.2 và cao nhất là 2.92 – xem bảng 25, Phụ lục 1). Điều này có nghĩa là
SVSP đã lựa chọn các hành vi đạo đức tích cực trong các mối quan hệ.
Bảng 2.5.1 là sự tổng hợp những hành vi đạo đức tích cực cao nhất và những
hành vi đạo đức tích cực thấp nhất của SVSP trước các tình huống đạo đức khác
nhau.
- Các hành vi đạo đức tích cực được SVSP lựa chọn nhiều nhất thuộc mối
quan hệ với học sinh (xem thêm bảng 26, Phụ lục 1). Đây sẽ là những định hướng
tốt trong giao tiếp và ứng xử với học sinh trong nghề nghiệp tương lai.
Không chỉ dựa vào kết quả của phiếu thăm dò, trong một cuộc trò chuyện với
sinh viên trường ĐHSP, các bạn cho biết “Là giáo viên không phải lúc nào cũng
đúng hoàn toàn, những lúc mình mắc lỗi mà không lắng nghe sự góp ý của học sinh
thì chẳng bao giờ tiến bộ được, có khi còn khiến học sinh bất mãn về mình”.
Bảng 2.5.1. Sự lựa chọn hành vi đạo đức của SVSP
Quan hệ Hành vi lựa chọn nhiều Hạng Hành vi lựa chọn ít HạngTin tưởng vào sự tiến bộ của học sinh
1 Với học sinh
Khiêm tốn, học hỏi những điều xứng đáng
2
Yêu thương, chia sẻ 3 Với gia đình
Yêu thương, chia sẻ với các thành viên
4
Với nghề SP
Không bảo thủ với các điều cần thay đổi
5 Yêu nghề, tha thiết với nghề dù khó khăn
34
Với bạn Sẵn sàng hy sinh 6 Nhiệt tình giúp đỡ trong công việc
7
Kính trọng, chào hỏi 8
Với thầy cô
Biết ơn 10
Thẳng thắn, góp ý sai lầm của thầy cô
32
Thương người, giúp đỡ 35 Với xã hội Lịch sự, văn minh nơi công cộng
9 Lựa chọn các việc khó khăn
38
Khiêm tốn, không kiêu ngạo khi thành công
31
Tự trọng, xấu hổ khi phạm sai lầm
30
Tự tin dù gặp khó khăn 37
Với bản thân
Yêu cầu cao trong công việc
39
Kiên nhẫn làm đến cùng 33 Với học tập
Trung thực trong thi cử 36
Hoặc khi được hỏi “Các bạn sẽ làm gì khi có một học sinh học mãi mà không
hiểu?” thì các sinh viên trả lời “Cần phải áp dụng nhiều phương pháp, vì học sinh
như vậy mới cần đến người thầy giáo”.
- Những hành vi đạo đức trong mối quan hệ với thầy cô giáo đã từng dạy dỗ
mình cũng được sinh viên lựa chọn một cách tích cực. Điều này thể hiện mong
muốn của SVSP về hành vi ứng xử của học sinh đối với mình trong tương lai.
Những nét tích cực trong quan hệ thầy trò được SVSP thể hiện trong các hành vi cử
chỉ biết ơn thầy cô nhân ngày lễ 20/11, ngày Tết cổ truyền, những tấm bưu thiếp,
những bông hoa tuy giản dị nhưng không kém phần sâu sắc về tình thầy trò mà sinh
viên viên sư phạm đã gửi tặng thầy cô.
Trong tình huống “Làm gì khi bài giảng của mình bị nhận xét là kém hiệu
quả” đạt điểm số rất cao 2.89. Đa số sinh viên lựa chọn phương án trả lời “Tiếp thu
ý kiến và sửa đổi để học sinh lĩnh hội tốt hơn”, càng khẳng định thêm tính tích cực
cao trong những hành vi hướng đến học sinh của SVSP.
- Với bạn bè, SVSP tự đề cao hành vi “sẵn sàng hy sinh”, cụ thể là chia sẻ
những khó khăn của bạn bè. Tình huống đặt ra là “làm gì khi bạn mình bệnh nguy
cấp cần được truyền máu”, đa số sinh viên lựa chọn phương án “sẵn sàng cho mà
không đòi hỏi gì” (điểm trung bình 2.88). Thực tế quan sát cũng thấy SVSP có lối
sống cư xử với nhau rất tình cảm, không ngại giúp đỡ lẫn nhau kể cả những việc
gây mất mát cho mình, ví dụ bảo vệ, bênh vực bạn, nhường học bổng, tài liệu cho
nhau.
- Trong quan hệ xã hội, sinh viên thể hiện tính tích cực trong hành vi ứng xử
nơi công cộng, cụ thể là “lịch sự, văn minh”. Tình huống rất bình thường được đặt
ra “làm gì khi cần vứt rác tại trạm chờ xe buýt”, đa số các bạn nghiêng về cách ứng
xử “đợi và bỏ vào đúng nơi chứa rác qui định” (2.85); trên các tuyết xe buýt đi và
đến tại khu vực các trường sư phạm, chúng tôi vẫn bắt gặp những hình ảnh rất đẹp
khi các bạn sinh viên tự động đứng lên để nhường ghế cho người già và trẻ nhỏ, phụ
nữ có thai, thầy cô giáo mặc dù xe rất đông.
- Những hành vi mà chúng tôi cho là khá tích cực nhưng ít được SVSP lựa
chọn để ứng xử như “Khiêm tốn, không kiêu ngạo khi thành công” (2.59), “Tự
trọng, xấu hổ khi phạm sai lầm” (2.6), “Tự tin dù gặp khó khăn” (2.48), “Yêu cầu
cao trong công việc” (2.2). Đây là dấu hiệu cho thấy SVSP chưa khiêm tốn, chưa
nghiêm khắc với bản thân và chưa nỗ lực tự hoàn thiện mình, cụ thể là các xu
hướng “không thấy xấu hổ lắm khi làm sai trước mặt người khác”,“khoe khoang
một chút khi có thành công”, “hơi nao núng khi gặp khó khăn”,“không mong chờ
kết quả xuất sắc trong công việc”.
Một số hành vi trong quan hệ xã hội như “hy sinh lựa chọn những việc khó
khăn” (2.39), “yêu thương, giúp đỡ người khác” (2.53) cũng chỉ có ít SVSP lựa
chọn hoặc đắn đo khi chọn, ví dụ“sẽ nhận những công việc ở vùng sâu, vùng xa nếu
như không có sự lựa chọn nào khác”, và “sẽ giúp đỡ người đi đường gặp tai nạn
khi thấy cần thiết hay được yêu cầu”.
Trong học tập, tính “trung thực” (2.51) và “kiên nhẫn” (2.56) cũng được SVSP
lựa chọn ở mức vừa phải. Câu trả lời biểu hiện tính trung thực là “vừa tự làm vừa
tìm cách hỏi nếu như không nhớ bài trong phòng thi”; còn câu trả lời thể hiện tính
kiên nhẫn là “không quyết chí làm đến cùng những vấn đề khó trong bài học”.
Những giáo viên ở các trường sư phạm cho biết “trung thực” trong học tập và thi cử
của sinh viên vẫn không thể mang tính tuyệt đối. Thực tế quan sát cũng cho thấy
vẫn còn hiện tượng sao chép bài của nhau trong phòng thi cũng như sao chép các
công trình nghiên cứu với các qui mô khác nhau của SVSP. Giải thích cho vấn đề
này, các bạn sinh viên đưa ra những lý do “môn học nhiều lý thuyết nên không thể
nhớ được”, “phương pháp giảng dạy không lôi cuốn” hay “bắt chước những bạn
bè xung quanh”… Nhưng tựu trung lại, các sinh viên vẫn thừa nhận “tính tự ý thức
của bản thân còn kém”.
Một hành vi đáng chú ý trong mối quan hệ với thầy cô giáo được lựa chọn ở
mức thấp (2.58) là “cần góp ý khi nhận thấy sai lầm của thầy cô”. SVSP phân vân
giữa các cách trả lời “mạnh dạn tìm cách góp ý chân thành” và “đó không phải là
chuyện của mình, nên không quan tâm”. Điều này đã được chúng tôi lý giải do quan
hệ thầy trò ở đại học khác so với phổ thông. Dù thế nào đi nữa thì thực trạng quan
hệ giữa sinh viên và giảng viên đại học cũng cần được cải thiện.
Điều đặc biệt sau cùng khi phân tích hành vi đạo đức của SVSP được thể hiện
trong phẩm chất “yêu nghề sư phạm” (ở mức 2.56), điều này phản ánh sự lưỡng lự,
do dự theo đuổi nghề sư phạm khi chế độ lương còn quá eo hẹp.
2.5.2. So sánh giữa các nhóm khách thể điều tra về hành vi đạo đức
Dưới đây sẽ là những so sánh để tìm ra dấu hiệu khác nhau giữa các nhóm
khách thể điều tra khi xét đến sự tự đánh giá hành vi đạo đức.
a. Về giới tính, chúng tôi nhận thấy, ngoài quan hệ gia đình, trong từng
mối quan hệ đều có một vài biểu hiện sự khác biệt về hành vi đạo đức giữa
nam sinh viên và nữ sinh viên. Chẳng hạn, nữ sinh thường chọn các giá trị
“giữ gìn nơi công cộng” trong quan hệ với xã hội, “trung thực” trong quan hệ
với thầy cô, “nghiêm túc, tin tưởng, học hỏi” trong quan hệ với học sinh và
“không bảo thủ” trong quan hệ với nghề nghiệp, trong khi đó đa số nam sinh
viên chọn các giá trị như “hy sinh” trong quan hệ với bạn bè, “tự tin” với bản
thân, “trách nhiệm trong học tập”,v.v...(xem bảng 27 Phụ lục 1).
b. Về xuất thân gia đình, một đặc điểm chung được biểu hiện đó là tất
cả những giá trị đạo đức có dấu hiệu khác biệt, thì ý nghĩa tích cực hơn đều
nằm trong hành vi của nhóm sinh viên từ ngoài TPHCM (xem bảng 28 Phụ
lục 1). Đó là các hành vi thuộc mối quan hệ với xã hội như “biết ơn thế hệ
trước, lịch sự nơi công cộng”, “hiếu thảo với cha mẹ”, “nhiệt thành với thầy
cô” , “yêu cầu cao với bản thân”, “nghiêm túc với học sinh” và “tận tâm, dũng
cảm chống tiêu cực, không bảo thủ” trong nghề sư phạm.
Một lần nữa chúng ta lại thấy các giá trị thuộc về quan hệ với nghề
nghiệp tương lai, với học sinh nằm trong suy nghĩ và hành vi của các sinh viên
ngoài TPHCM rõ nét hơn.
c. Về trình độ đào tạo, chúng ta lại nhận thấy sinh viên học những năm
đầu chọn những hành vi ứng xử tích cực hơn các sinh viên học những năm
cuối (xem bảng 29 Phụ lục 1). Tập trung nhiều nhất là trong quan hệ với thầy
cô giáo thì “kính trọng, biết ơn”, trong học tập thì “tích cực, cầu tiến” và với
nghề sư phạm cần “dũng cảm chống tiêu cực, không bảo thủ”. Duy chỉ có mối
quan hệ với bản thân là không có sự khác biệt.
Như vậy, những sinh viên trải qua quá trình đào tạo trong trường sư
phạm đã không có sự thay đổi tích cực đáng kể nào về hành vi đạo đức nói
riêng (ít ra là khi tự định hướng) và hệ thống các giá trị đạo đức nói chung, đặc
biệt là các giá trị đối với nghề sư phạm.
d. Về trường đào tạo
Hành vi đạo đức giữa sinh viên các trường sư phạm qua kết quả khảo sát
lại một lần nữa cho thấy sinh viên trường CĐSPMG tích cực hơn các trường
khác, đặc biệt là sinh viên ĐHSP. Trước tiên, khác biệt giữa sinh viên hai
trường này về hệ thống hành vi đạo đức nói chung (xem bảng 30 Phụ lục 1),
sau đó là nhóm hành vi thuộc các giá trị trong mối quan hệ xã hội, và một số
giá trị trong các mối quan hệ khác như “lịch sự nơi công cộng, trung thực với
thầy cô, dũng cảm chống tiêu cực trong giáo dục”.
Các dấu hiệu trên không bao hàm tất cả các mối quan hệ đạo đức của
SVSP, nhưng cũng đủ đi đến một nhận định rằng môi trường của trường
CĐSPMG thuận lợi hơn cả để hình thành những hành vi tích cực, còn môi
trường của ĐHSP cần phải xem xét trên nhiều yếu tố tác động. Các yếu tố đó
có thể là các qui chế, qui định trong trường, mối quan hệ trong tập thể sư
phạm với nhau và với sinh viên, phong cách làm việc và lối sống của giáo
viên, v.v…
Tóm lại, trong nội dung phân tích hành vi đạo đức của SVSP, chúng tôi nhận
thấy có sự tương đồng nhất định với nhận thức và thái độ đối với các giá trị đạo
đức.
Để kiểm chứng mức độ thống nhất giữa hành vi đạo đức với thái độ đạo đức,
và nhận thức về đạo đức của SVSP, chúng ta sẽ phân tích kết quả khảo sát mối
tương quan ở phần tiếp theo.
2.6. Mối tương quan giữa nhận thức, thái độ và hành vi trong định hướng giá
trị đạo đức của SVSP TPHCM
Kết quả phân tích từng yếu tố trong hệ thống định hướng giá trị đạo đức của
SVSP, đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát về sự tương đồng nhất định trong các
biểu hiện giữa ba yếu tố nhận thức, thái độ và hành vi. Sự tương đồng này được thể
hiện khá rõ trong một số giá trị đối với gia đình, thầy cô và đặc biệt là với nghề sư
phạm. Trong những dấu hiệu khác biệt ý nghĩa, cũng có sự tương đồng theo giới
tính, theo nguồn gốc xuất thân và theo môi trường đào tạo. Để khẳng định hơn nữa
sự tương đồng trên, chúng tôi lập bảng tương quan sau, từ đó phân tích tính chất của
các biểu hiện tương quan này:
Bảng 2.6. Hệ số tương quan giữa nhận thức, thái độ và hành vi trong định hướng
giá trị đạo đức của SVSP
Các yếu tố Nhận thức Thái độ Hành vi
Nhận thức 1 0.603 0.459
Thái độ 0.603 1 0.586
Hành vi 0.459 0.586 1
Từ kết quả kiểm nghiệm trên chúng ta thấy cả 3 mặt nhận thức, thái độ, hành
vi của các giá trị đạo đức đều thể hiện tính tương quan thuận, tức là sự biểu hiện và
thay đổi của yếu tố này sẽ dẫn đến sự biểu hiện và thay đổi của yếu tố kia. Tuy
nhiên tính chất của các mối tương quan này không thực sự cao lắm.
- Tương quan giữa nhận thức đạo đức và thái độ đạo đức có hệ số là 0.603,
một con số mang ý nghĩa “trung bình khá”, và cũng là điểm số cao nhất trong hệ
thống quan hệ này.
Tương quan thuận được thể hiện nhiều ở các giá trị đạo đức trong quan hệ với
xã hội, gia đình, thầy cô và hoạt động học tập. Trong khi đó, những mối quan hệ với
bạn bè, bản thân, nghề sư phạm hay với học sinh đôi khi không đồng nhất với nhau.
Ví dụ như phẩm chất “yêu nghề sư phạm”, trong nhận thức được các sinh viên đánh
giá cao nhất về mức độ cần thiết, nhưng trong thái độ thì nằm ở vị trí khá thấp vì
các lý do đồng lương hay môi trường công tác của nghề sư phạm.
- Tương quan giữa thái độ và hành vi cũng được thể hiện không cao lắm, ở
mức trung bình với hệ số 0.586. Hành vi luôn là yếu tố khó ghi nhận nhất trong khi
nghiên cứu tâm lý nói chung và đạo đức nói riêng. Tuy nhiên, với dấu hiệu tương
quan trên, mặc dù ở mức trung bình, nhưng cũng là một điều đáng mừng, khi nhận
thấy hành vi đạo đức của SVSP cũng không vượt ra ngoài những gì họ suy xét.
Sự tương đồng ở mức rõ nét nhất giữa thái độ và hành vi của sinh viên trong
nghiên cứu này diễn ra trong mối quan hệ đạo đức đối với bản thân, cụ thể là những
phẩm chất như “tự trọng”, “khiêm tốn”, “yêu cầu cao”. Ngoài ra những nhóm giá
trị với xã hội, gia đình, thầy cô và nghề sư phạm cũng thể hiện tính tương đồng khá
rõ, như “biết ơn thế hệ trước”, “kính trọng thầy cô giáo”, “hiếu thảo, yêu thương
trong gia đình” hay “không bảo thủ trong công việc”, “tận tâm với nghề” v.v…
- Tương quan giữa nhận thức đạo đức và hành vi đạo đức của SVSP có hệ số
0.459 là thấp nhất - sự tương quan dưới mức trung bình, dĩ nhiên là chưa đến mức
tương quan nghịch, nhưng đáng để chúng ta lưu tâm. Rất có thể kết quả này chỉ
mang tính tương đối. Điều này cũng không nằm ngoài dự đoán của chúng tôi. Ngay
cả trong kết quả phỏng vấn mở mà chúng tôi đã thực hiện với một số giáo viên và
sinh viên các trường sư phạm, các ý kiến đưa ra cũng hàm chứa tính chất này. Một
giáo viên lâu năm đã nói: “Theo nhận định chung, các biểu hiện về đạo đức của các
em sinh viên tương đối tốt, ngay cả trong những gì các em nói, suy nghĩ và thái độ
đối với các hoạt động xung quanh, nhưng điều đó cũng chưa thể khẳng định tính
toàn vẹn về đạo đức mà chúng ta mong muốn. Nếu quan sát kỹ hơn, chúng ta vẫn
bắt gặp những biểu hiện không tích cực trong đạo đức của các em, nhất là đối với
các vấn đề lớn của xã hội, hay gần gũi hơn là vấn đề học tập, thi cử”.
Một nữ sinh viên nói:“Ở trong trường thì thấy ai cũng tốt hết, nhưng đôi lúc
ra ngoài đường, hoặc đến nơi ở của các bạn, em thấy… khó chấp nhận”, hoặc
“Nếu không khoác áo SVSP, có khi sinh viên trường mình cũng có những biểu hiện
đạo đức không tốt đâu”.
Như vậy, luận điểm chung để chúng ta giải thích sự tương quan tương đối giữa
nhận thức và thái độ này chính là sự tự ý thức về vị trí của mình dưới đánh giá của
toàn xã hội, hay chính xác hơn, đó là “cái danh sư phạm”. Chính “vị thế” này đã là
động lực giúp SVSP tránh xa những hoạt động tiêu cực, những mối quan hệ không
lành mạnh, để rèn mình theo khuôn mẫu của một giáo viên trong tương lai, họ hoàn
thiện bản thân vì danh của nghề chứ không phải hoàn toàn tự giác rèn luyện theo
chuẩn mực đạo đức của xã hội.
2.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức của SVSP
Như đã trình bày trong cơ sở lý luận, các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng
giá trị đạo đức của SVSP bao gồm yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Trong
khuôn khổ của đề tài nghiên cứu này, chúng tôi nhấn mạnh đến các yếu tố bên
ngoài bởi vì chính các yếu tố bên ngoài hình thành nên các yếu tố bên trong và tác
động đến định hướng giá trị đạo đức của sinh viên. Các yếu tố bên ngoài tập trung
thành ba nhóm, đó là các yếu tố từ xã hội (XH), các yếu tố từ gia đình (GĐ) và các
yếu tố từ nhà trường (NT), được cụ thể thành 30 biểu hiện trong phiếu khảo sát
(xem Phụ lục 3).
2.7.1. Nhận định chung về ảnh hưởng của các yếu tố
Bảng 2.7.1 dưới đây cho biết thứ hạng các biểu hiện trong 3 nhóm yếu tố ảnh
hưởng.
Từ đó, chúng tôi thấy cả ba yếu tố là gia đình, nhà trường và xã hội đều ảnh
hưởng đến sự định hướng giá trị đạo đức của sinh viên, trong đó tác động của gia
đình được SVSP xác nhận có ảnh hưởng nhiều nhất đến định hướng giá trị đạo đức
ở họ.
Thứ nhất, tác động từ gia đình gồm “những lời dạy bảo, nhắc nhở từ gia
đình”, điều này đã khẳng định rằng gia đình là trường học đầu đời, cha mẹ là thầy
cô giáo đầu tiên của mỗi cá nhân. Ngoài ra, những yếu tố khác từ gia đình tác động
đến định hướng giá trị đạo đức của sinh viên là “lối sống của chính cha mẹ và
người lớn trong gia đình”, “lịch sử truyền thống của gia đình” và cụ thể hơn là “kỷ
luật nghiêm khắc của cha mẹ”. tác động từ gia đình thực chất là tác động giáo dục
của những người lớn, người có uy tín như cha mẹ và nề nếp, truyền thống, văn hoá
của gia đình.
Bảng 2.7.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức
Yếu tố ảnh hưởng Trung bình
Xếp hạng
Lịch sử truyền thống quê hương 3.89 4 Các quy định thành văn của pháp luật, xã hội và nhà trường 3.79 7
Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường 3.28 21 Sự giàu lên nhanh chóng của những người xung quanh 3.03 25
Đồng tiền mà mình kiếm được thông qua làm thêm 3.41 19
Kiến thức từ những khóa học thêm ngoài trường 3.64 11 Lối sống của người bạn thân 3.38 20 Lối sống của bạn bè ngoài xã hội 3.05 24 Lối sống của hàng xóm, khu dân cư xung quanh nơi mình ở 2.91 28
Các vấn đề thời sự về văn hóa, đạo đức, lối sống mà mình bắt gặp trên các phương tiện truyền thông
3.59 14
Những câu chuyện về lối sống từ báo chí, truyền hình 3.47 18
Những câu chuyện trong phim 2.93 27 Các mối quan hệ trên mạng Internet 2.37 30 Những gương điển hình thành đạt lớn tuổi trong thực tế 3.48 17
Những người trẻ tuổi thành đạt 3.55 15
Xã hội
Thần tượng trong một lĩnh vực nghệ thuật nào đó 2.68 29 Lịch sử truyền thống của gia đình 3.86 5 Trình độ học vấn của cha mẹ 3.14 22 Nghề nghiệp của cha mẹ 2.96 26 Lối sống của chính cha mẹ và người lớn trong gia đình 3.93 3
Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ gia đình 4.18 1 Kỷ luật nghiêm khắc của cha mẹ 3.86 6
Gia đình
Điều kiện kinh tế của gia đình 3.63 12 Lối sống của chính thầy cô giáo 3.50 16 Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ thầy cô giáo 3.77 8 Phong cách giảng dạy của thầy cô giáo 3.74 9 Kỷ luật trong nhà trường 3.61 13
Nhà trường
Lối sống của bạn bè trong trường, lớp 3.12 23
Mục tiêu của nghề nghiệp trong tương lai 4.04 2 Những kiến thức học được từ sách vở 3.74 10
Thứ hai, tác động từ phía nhà trường tập trung chủ yếu vào việc định hướng
mục tiêu nghề nghiệp, giáo dục động cơ nghề và đạo đức nghề cho sinh viên trong
suốt quá trình đào tạo; từ tri thức và phong cách làm việc của giảng viên. SVSP
thường đòi hỏi rất cao từ giảng viên, những đòi hỏi đó liên quan đến trình độ
chuyên môn, phương pháp giảng dạy và cách ứng xử với sinh viên. Qua tiếp xúc
với sinh viên, thông qua những câu chuyện, chúng tôi nhận ra có không ít sinh viên
hình thành niềm say mê nghề dạy học ngay trên giảng đường trường sư phạm sau
khi được học tập và làm việc với một giáo viên nào đó, và cũng khá nhiều sinh viên
đã bàng hoàng và từ bỏ niềm yêu thích nghề sư phạm vốn đã được hình thành rất
sớm vì một sai lầm không thể tha thứ ở người thầy mà mình từng yêu quí.
Bên cạnh đó, nội dung và ý nghĩa của những tài liệu mà sinh viên được tiếp
cận trong quá trình đào tạo cũng có ảnh hưởng đến tình yêu nghề và chuyên ngành
sinh viên đang theo học.
Thứ ba, các yếu tố từ xã hội được xác định nhiều nhất như “lịch sử truyền
thống quê hương” và “các qui định thành văn của pháp luật, xã hội và nhà trường”
với vị trí tương đối cao trong bảng xếp hạng. Những biểu hiện này là dấu hiệu đáng
mừng cho thấy SVSP rất đề cao các giá trị truyền thống của quê hương đất nước
đồng thời cũng tôn trọng các chính sách pháp luật, các qui định của xã hội, và
những tác động từ chúng giữ vị trí nhất định trong sự lựa chọn các giá trị đạo đức
của SVSP.
Từ kết quả khảo sát (xem thêm bảng 31 Phụ lục 1), chúng tôi cũng nhận thấy 5
yếu tố được sinh viên xác nhận có ảnh hưởng ít đến định hướng giá trị của họ, đó là:
nghề nghiệp của cha mẹ, phim ảnh, lối sống của khu dân cư, thần tượng trong lĩnh
vực nghệ thuật và các mối quan hệ trên mạng Internet.
Trên thực tế, xã hội đang lo ngại ảnh hưởng của phim ảnh và mạng Internet
đến đạo đức của thanh niên. Trong khi đó, sinh viên đã xác nhận ảnh hưởng của
những tác nhân này ở mức thấp đến đạo đức của họ. Một lần nữa chúng ta thấy
SVSP có một sự chọn lọc khá tốt đối với những tác động của cuộc sống hiện đại.
Cũng trong bảng xếp hạng trên, một điều khiến chúng ta đáng lưu tâm là nghề
nghiệp của cha mẹ cũng không ảnh hưởng nhiều đến định hướng giá trị đạo đức của
SVSP. Kết hợp với những yếu tố có tầm ảnh hưởng mạnh, chúng ta tạm nhận định
rằng về phía gia đình, chính lối sống và đạo đức của cha mẹ mới ảnh hưởng mãnh
liệt đến đạo đức của con cái, còn giá trị vật chất mà họ kiếm được cũng như địa vị
của nghề nghiệp thì chỉ có những ý nghĩa tương đối mà thôi.
2.7.2. So sánh giữa các nhóm khách thề điều tra về sự ảnh hưởng
a. Về giới tính, chúng tôi nhận thấy không có sự khác nhau nào về các
yếu tố nổi bật như đã nêu. Tuy nhiên vẫn có một vài dấu hiệu chênh lệch ở các
yếu tố có vai trò ảnh hưởng không cao lắm (xem bảng 32 Phụ lục 1).
Chẳng hạn, nữ sinh viên xác nhận dễ bị ảnh hưởng bởi nghề nghiệp của
cha mẹ và các mối quan hệ gián tiếp qua thế giới Internet. Còn nam sinh viên
thì dễ bị ảnh hưởng bởi lối sống của cha mẹ hơn.
b. Về xuất thân gia đình
So sánh giữa sinh viên có hộ khẩu tại TPHCM với sinh viên đến từ các
tỉnh khác, chúng tôi nhận thấy sự khác biệt thể hiện ở các yếu tố có tầm ảnh
hưởng mạnh (xem bảng 33 Phụ lục 1).
Điều đặc biệt dễ nhận thấy trong bảng là với 6 yếu tố đầu tiên (có tầm
ảnh hưởng mạnh), sự đánh giá trội hơn đều nghiêng về phía các sinh viên đến
từ bên ngoài TPHCM. Kết quả này cũng tương tự những kết quả trong phần
tìm hiểu dấu hiệu khác nhau về các mặt của định hướng giá trị đạo đức đã
phân tích. Do đó, những lo ngại của xã hội, của những người đi trước, và cả
những người trong cuộc, về tầm ảnh hưởng mạnh mẽ của lối sống đô thị đến
giới trẻ đều có cơ sở lý luận và thực tiễn của nó.
Ngoài ra cũng cần nhìn nhận thêm ở 2 yếu tố “những gương điển hình
thành đạt lớn tuổi trong thực tế” và “những người trẻ tuổi thành đạt” đều có
ảnh hưởng đáng kể đến SVSP ở tỉnh lên học.
c. Về trình độ đào tạo
Kết quả xử lý cho thấy có sự khác biệt giữa sinh viên năm đầu và sinh
viên năm cuối của các trường sư phạm ở các yếu tố như sau:
Sinh viên năm cuối đề cao vai trò của các yếu tố ngoài xã hội, trong đó
nổi lên là lịch sử truyền thống và những mối quan hệ giao tiếp rộng rãi khác,
còn sinh viên năm đầu đề cao vai trò của yếu tố nhà trường, trong đó nổi bật
lên sự ảnh hưởng của người thầy. Rõ ràng là SVSP học những năm cuối tham
gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội, còn sinh viên học những năm đầu chỉ
đóng khung trong các quan hệ nhà trường (xem thêm ở bảng 34 Phụ lục 1).
d. Về trường đào tạo
Theo kết quả ở bảng 35 Phụ lục 1, chúng tôi nhận thấy sinh viên 2
trường CĐSPMG và ĐHSP có biểu hiện trội hơn so với 3 trường còn lại trong
việc thừa nhận ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố đến định hướng giá trị đạo đức
của bản thân. Trong đó sự lựa chọn tập trung hầu hết vào các giá trị bên ngoài
xã hội. Duy nhất một trong số đó là yếu tố thuộc về gia đình, cụ thể là “truyền
thống gia đình”. Điều này có thể do các hình thức hoạt động được tổ chức một
cách phong phú hơn dành cho sinh viên trường CĐSPMG và ĐHSP.
Kết quả khảo sát mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến định hướng giá trị đạo
đức của sinh viên sẽ là cơ sở để chúng tôi đề ra các giải pháp nhằm giáo dục định
hướng giá trị đạo đức cho SVSP.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐỊNH HƯỚNG
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp
- Từ những cơ sở lý luận về giá trị, định hướng giá trị ở sinh viên đã được
trình bày ở chương 1, chúng tôi đặc biệt lưu ý các vấn đề sau đây như là những cơ
sở qui định trực tiếp đến việc đề xuất các giải pháp, đó là:
• Sự định hướng giá trị của cá nhân do chính cá nhân quyết định, không
có ai lựa chọn hay quyết định hộ. Tuy nhiên, sự lựa chọn giá trị đạo đức của cá
nhân bao giờ cũng bị chi phối, bị điều khiển bởi sự định hướng giá trị đạo đức
của xã hội tại một giai đoạn nhất định, điều này Tâm lý học gọi là quá trình
“nhập tâm”, tức là chuyển hóa và chọn lọc chủ quan những yếu tố bên ngoài
thành đặc điểm của riêng mình. Vì thế, thay đổi sự định hướng giá trị đạo đức
trong gia đình, nhà trường và xã hội sẽ làm thay đổi sự định hướng giá trị đạo
đức ở SVSP.
• Tác động đến quá trình định hướng giá trị đạo đức không chỉ có nhà
trường mà còn bao gồm cả gia đình và xã hội. Tuy nhiên, đối tượng chịu sự
tác động mà đề tài đề cập đến là SVSP, những người đã trưởng thành và có
một vị thế xã hội nhất định. Vì thế, sự ràng buộc, sự chi phối của gia đình đến
họ ít hơn so với học sinh phổ thông. Sinh viên có nhu cầu và động cơ nghề
nghiệp rõ ràng, cho nên, xu hướng nhân cách thường tập trung vào những cái
gì liên quan đến nghề nghiệp, tạo dựng nghề nghiệp trong tương lai. Do đó,
những tác động từ trường sư phạm sẽ chiếm ưu thế trong hệ thống những tác
động giáo dục đến định hướng giá trị ở SVSP.
- Từ kết quả khảo sát đã trình bày ở chương 2, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến
các ý sau:
• Sư lựa chọn các giá trị đạo đức của SVSP theo chiều hướng tích cực, và
được thể hiện ở cả ba bình diện nhận thức, thái độ và hành vi.
• Các giá trị đạo đức được sinh viên quan tâm bao gồm trong đó có các
giá trị đạo đức truyền thống với các giá trị đạo đức hiện đại.
Tuy nhiên những kết quả thu được từ phỏng vấn và quan sát về định hướng giá
trị đạo đức của SVSP lại khiến chúng ta băn khoăn về một số vấn đề sau:
Thứ nhất, có sự thay đổi những giá trị đạo đức thanh niên ở giai đoạn mới của
sự phát triển xã hội.
Thứ hai, giá trị đạo đức nghề sư phạm – nghề “trồng người” trong xã hội, ảnh
hưởng trực tiếp đến sản phẩm của lao động sư phạm, vì nhân cách của giáo viên
cũng là một công cụ, phương tiện trong của động sư phạm.
- Bên cạnh đó, Giáo dục học đã khẳng định bản chất của giáo dục đạo đức là
quá trình tác động sư phạm nhằm chuyển hoá những giá trị đạo đức, chuẩn mực xã
hội thành giá trị đạo đức cá nhân. Đặc điểm của quá trình giáo dục đạo đức mang
tính phức tạp, lâu dài và biện chứng, vì thế, giáo dục định hướng giá trị đạo đức
phải tác động đến nhận thức, tình cảm, và hành vi đạo đức của cá nhân.
Quá trình hình thành hệ thống giá trị chịu sự tác động tổng hợp của ba lực
lượng là gia đình, nhà trường và xã hội. Ba lượng lượng tác động này có khi không
thống nhất với nhau gây kho khăn cho quá tình giáo dục đạo đức. Cần phải có sự
phối hợp, thống nhất ba lực lượng, mà nhà trường là lực lược trung tâm, nòng cốt.
Từ những cơ sở phân trên, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm giáo dục
định hướng giá trị đạo đức cho sinh viên ngành Sư phạm ở TPHCM nói riêng và
SVSP nói chung.
3.2. Một số giải pháp
3.2.1. Xây dựng môi trường hoạt động giao lưu tích cực cho SVSP
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, thông tin bùng nổ, các phương
tiện thông tin đại chúng được cài đặt đến từng nhà dân thì nhu cầu cập nhật thông
tin và điều kiện thoả mãn nhu cầu cũng được cải thiện đáng kể.
Sinh viên nói riêng và thế hệ trẻ nói chung ít quan tâm đến các vấn đề xã hội,
nhất là các vấn đề mang tính lịch sử trong nước và khu vực, hơn là các vấn đề kinh
tế, kỹ thuật. Gần đây có một số cuộc điều tra xã hội học về kiến thức lịch sử của
thanh niên TPHCM, kết quả ghi nhận thật đáng thất vọng khi có quá một nửa số
người được hỏi không biết về các cột mốc lịch sử của nước nhà (như ngày Quốc
khánh, ngày thống nhất đất nước…). Trong đó, thành phần sinh viên chiếm một con
số cũng không phải là ít.
Từ đó, chúng tôi đề xuất các biện pháp xây dựng môi trường hoạt động và
giao lưu trong xã hội của sinh viên góp phần giáo dục định hướng giá trị đạo đức
như sau:
Biện pháp 1- Tạo dựng kênh thông tin dành riêng cho sinh viên
Hiện nay, số lượng báo, tạp chí phát hành hàng ngày, hàng tháng, hoặc theo
quí rất phong phú về số lượng và chủng loại phục vụ nhu cầu của đông đảo độc giả
trong xã hội. Song, số lượng báo, tạp chí dành riêng cho sinh viên còn quá ít. Tờ
báo “Sinh viên Việt Nam” được ra đời từ rất lâu của Hội sinh viên, có vai trò đại
diện cho các trí thức trẻ đang học tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp góp tiếng nói trong các lĩnh vực của xã hội. Nhưng tờ báo này (và còn một
số báo khác nữa) không thể cung cấp nhiều tri thức bổ sung ngoài giảng đường cho
sinh viên, chứ chưa muốn nói đến chất lượng của tờ báo.
Báo điện tử chính thức dành cho các tầng lớp, lĩnh vực khác trong xã hội luôn
chiếm ưu thế so với một vài báo điện tử dành cho sinh viên. Vì thế, thanh niên sinh
viên tự phát tạo ra các trang web1, blog2 dưới danh nghĩa cá nhân, nhóm của một
lớp hay một khoa thậm chí một trường đại học, cao đẳng ở khắp nơi. Tất cả những
diễn đàn tự phát này đều có một đặc điểm chung là thiếu định hướng về tri thức,
thông tin và giá trị của các nhà khoa học, nhà giáo dục, thiếu sự kiểm soát của cấp
quản lý cho người tham gia nên hiệu quả giáo dục thấp, đấy là chưa kể đến những
nhận thức sai lệch, thái độ thiếu tích cực đối với các vấn đề xã hội, nhất là các giá
trị đạo đức trong giai đoạn nhiều biến động như hiện nay.
Một kênh thông tin quan trọng trong đời sống văn hoá, tinh thần của người
dân và thế hệ trẻ phải nói đến “truyền hình”. Với sự hỗ trợ của các công ty truyền
thông, truyền hình của Việt Nam hiện rất phong phú và hấp dẫn khán giả xem đài.
Trong chương trình phát sóng cũng đã có một chuyên mục “Truyền hình thanh
niên” trên VTV1 nhưng chỉ tập trung trong 30 phút để tóm tắt những tin tức quan
trọng của giới trẻ trong cả nước. Nhiều hoạt động văn hoá, khoa học kỹ thuật, vui
chơi giải trí dành cho thanh niên, sinh viên đã được thực hiện và phát sóng như sân
chơi “SV 96”, “SV 2000”, “Rung chuông vàng”.
Xuất phát từ thực trạng trên, chúng tôi đề xuất các việc làm cụ thể sau:
1 web: trang thông tin công cộng trên mạng Internet 2 blog: trang thông tin cá nhân trên một mạng xã hội ảo của Internet
• Biên tập chuyên mục dành cho sinh viên, chuyên mục dành riêng cho
từng ngành nghề như dạy học, nghề quảng cáo, nghề người mẫu v.v... trong
các báo, tạp chí đang phát hành. Đây chính là một diễn đàn tốt để sinh viên
trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, đạo đức và lý tưởng nghề nghiệp với
nhau, với các nhà khoa học, với các nhà giáo.
• Cho ra mắt tờ báo, tạp chí hay nội san, nguyệt san dành riêng của sinh
viên do cơ quan hay tổ chức như Hội sinh viên, Thành đoàn v.v... quản lý;
trong trường đại học sẽ do Phòng Công tác chính trị, Phòng khoa học công
nghệ, chịu trách nhiệm quản lý. Việc kiểm duyệt nội dung cho tờ báo, tạp chí
hay nguyệt san, nội san nhất thiết phải do các nhà khoa học, nhà giáo chịu
trách nhiệm để thông tin được đăng tải thực sự có tác dụng tích cực đối với
sinh viên về tư tưởng, chính trị về văn hoá, khoa học kỹ thuật.
• Thiết lập trang thông tin chính thức cho sinh viên và quản lý những
trang thông tin không chính thức trên Internet là điều rất cần thiết và làm ngay
để hạn chế, bài trừ “web bẩn, blog đồi trụy…”, góp phần làm trong sạch và
lành mạnh phương tiện truyền thông hiện đại có tác dụng định hướng giá trị
cho sinh viên, thanh niên.
Nội dung các trang báo bao gồm nhiều lĩnh vực như văn hoá, khoa học
kỹ thuật, thể thao, giải trí. Lựa chọn những vấn đề thời sự, bức xúc, nhức nhối
để sinh viên có thể tham gia diễn đàn. Hình thức phải hấp dẫn có như vậy mới
lôi cuốn sinh viên hưởng ứng, tham gia.
• Có thể xây dựng một kênh truyền hình dành cho thanh niên sinh viên
về các nội dung khoa học kỹ thuật, văn hoá, thể thao, giải trí. Thời gian, lịch
phát sóng và thời điểm phát sóng trong tuần, trong ngày phải vào những ngày,
giờ sinh viên không có giờ học mới có thể theo dõi.
• Tạo ra các sân chơi dành riêng cho sinh viên nói chung và SVSP nói
riêng, xoay quanh các chủ đề lịch sử đất nước, văn hóa dân tộc và cộng đồng,
các nhân vật tiêu biểu trong và ngoài nước, các vấn đề nổi bật của xã hội
đương đại. Đặc biệt phải nhấn mạnh đến giáo dục lịch sử và văn hóa cho thanh
niên sinh viên một cách rộng rãi và thu hút đông đảo sinh viên tham gia. Riêng
ngày 20.11 hàng năm, có chương trình đặc thù dành cho SVSP.
Biện pháp 2 - Tổ chức các loại hình hoạt động văn hoá – xã hội
- Tổ chức nhiều hoạt động văn hoá – xã hội nhân các ngày lễ lớn của dân tộc,
của đất nước bằng nhiều hình thức sinh động, phong phú và hấp dẫn như các hoạt
động vui chơi, giải trí trên truyền hình, ở quảng trường hay trên các trục đường
chính tại trung tâm thành phố. Những hoạt động này có tác dụng giáo dục đến
người dân nói chung và sinh viên nói riêng. Ví dụ, trong năm 2007 vào các ngày lễ
lớn, TPHCM đã và đang thực hiện ý tưởng giáo dục lịch sử cho người dân thành
phố bằng cách treo những cờ phướn tại các trục đường chính, trên đó tóm tắt tiểu sử
của các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hoá, khoa học kỹ thuật cho thanh
niên tại các trung tâm văn hoá lớn của thành phố như nhà văn hoá thanh niên, nhà
văn hoá lao động v.v… để sinh viên có một sân chơi lành mạnh, bổ ích.
3.2.2. Xây dựng gia đình văn hoá
Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường xã hội thu nhỏ, do đó, gia đình
cũng tham gia giáo dục định hướng giá trị cho sinh viên. Những tác động của gia
đình đến nhân cách cá nhân được thực hiện ngay từ khi còn nhỏ, tạo nên những ký
ức tuổi thơ đi theo suốt cả cuộc đời của mỗi con người. Nếu là những ký ức đẹp sẽ
là động lực nâng đỡ cá nhân vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để trở thành
những người hữu ích. Nhưng nếu đó là những ký ức buồn, đau thương sẽ là những
rào cản mỗi khi cá nhân phải chiến thắng chính mình và những thách thức của cuộc
đời.
Gia đình hãy tạo dựng những ký ức đẹp, kỷ niệm tuổi thơ êm đềm cho mỗi
thành viên bằng các biện pháp sau:
• Xây dựng kinh tế gia đình ổn định, vững chắc để nâng cao chất lượng
cuộc sống, phát triển cá nhân.
• Xây dựng gia đình văn hoá, trong đó mọi thành viên trong gia đình
sống lành mạnh, thương yêu giúp đỡ nhau.
• Những người lớn trong gia đình phải gương mẫu về học tập, lao động,
sống và làm việc theo pháp luật; thống nhất giữa lời nói với việc làm; cư xử có
văn hoá với những người xung quanh v.v...
• Cha mẹ, đặc biệt người có uy tín nhất trong gia đình thường xuyên trò
chuyện với con về các vấn đề đạo đức, và đạo đức nghề nghiệp, khuôn mẫu
hành vi ứng xử trong cuộc sống, qua đó hiểu được con đang nghĩ gì mà có thái
độ như thế nào đối với các vấn đề của cuộc sống mà uốn nắn, điều chỉnh kịp
thời.
• Gia đình động viên, khuyến khích và tạo điều kiện để con tham gia các
hoạt động văn hoá, hoạt động xã hội, sinh hoạt đoàn thể và các hoạt động văn
hoá ở địa phương, ở nhà trường.
3.2.3 - Hình thành động cơ, hứng thú học tập ở SVSP
Trường sư phạm, trường đào tạo nghề nên cùng với nhiệm vụ dạy tri thức liên
quan đến nghề sư phạm còn dạy đạo đức nghề. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp là
một trong những mục tiêu của trường sư phạm.
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp trong trường sư phạm được thực hiện thông
qua toàn bộ quá trình đào tạo giáo viên. Nói một cách khác, nhiệm vụ này được
thực hiện thông qua hoạt động dạy học, và các hoạt động giáo dục trong nhà trường.
Động cơ, hứng thú học tập liên quan đến ba yếu tố: ý nghĩa mà việc học đem
lại cho sinh viên, thành công trong học tập của họ và sự giao tiếp tích cực giữa
giảng viên với sinh viên. Vì thế, hình thành động cơ, hứng thú học tập cho SVSP
cần thực hiện các biện pháp sau:
• Làm rõ ý nghĩa môn học, bài học trong chương trình đào tạo giáo viên
Môn học được cấu tạo trong chương trình đào tạo đã được cân nhắc giá
trị, vai trò của môn học đối với nghề nghiệp mà sinh viên đảm nhận trong
tương lai. Song, sinh viên có thể chưa nhận thấy giá trị này, và vì thế học chưa
tự giác, tích cực học tập bộ môn.
Một sinh viên khoa thời trang của trường đại học dân lập kỹ thuật đã tâm
sự: Khi học môn điện, em hỏi thầy dạy bộ môn: “Ở phổ thông em đã học môn
vật lý và đã học điện. Vậy điện ở đây có giống điện em học ở phổ thông
không? Và vì sao em phải học môn điện ở đại học” Thầy giáo trả lời: “Có
trong chương trình thì phải học. Anh hỏi tôi, tôi biết hỏi ai. Anh thấy cần thì
học, không cần thì nghỉ. Dạy là chuyện của tôi, còn học là chuyện của anh”.
Em nghỉ học và kết quả là em bị cấm thi.
Để làm rõ ý nghĩa của môn học trong chương trình đào tạo giáo viên, hay
ý nghĩa của một khái niệm, giảng viên có thể sử dụng các phương pháp như
tọa đàm ngắn, giải quyết tình huống, phương pháp khởi động “Nói ra mong
đợi của mình” v.v...
• Gia tăng tính “hấp dẫn” của nội dung môn học, bài học
Bản thân tri thức luôn chứa đựng những điều mới lạ nên hấp dẫn người
học. Tuy nhiên, những điều mới lạ, tính hấp dẫn của tri thức “ẩn” bên trong tri
thức ấy nên sinh viên khó có thể nhận thấy ngay. Giảng viên bộc lộ, lột tả
những điều ấy nhằm giúp sinh viên cảm nhận được.
Thực hiện công việc này bằng các cách: làm rõ logic của khái niệm và
logic giữa các khái niệm; so sánh tri thức mới với tri thức sinh viên đã lĩnh
hội, giữa lý luận với thực tiễn, định hướng vận dụng tri thức trong nghề nghiệp
tương lai, và có khi phải ngược dòng thời gian để quay trở về lịch sử hình
thành khái niệm. Nói một cách khác, trả khái niệm về nơi mà từ đó khái niệm
được hình thành.
Một số sinh viên đã tâm sự rất thật về tính kém hấp dẫn của bài giảng
“bài giảng trên lớp chẳng khác gì giáo trình. Vậy thì ở nhà đọc giáo trình còn
sướng hơn lên lớp vừa chật, vừa nóng”.
• Duy trì giao tiếp tích cực ở trên lớp
Để làm đưọc việc này, giảng viên cần lựa chọn và sử dụng phối hợp và
luân chuyển một cách khéo léo các phương pháp dạy học ở trên lớp để duy trì
giao tiếp tích cực giữa giảng viên với sinh viên và giữa sinh viên với nhau.
Qua đó, sinh viên lĩnh hội được nội dung bài học và duy trì hứng thú, tình cảm
tích cực đới với hoạt động học tập.
Phong cách sư phạm đầy tính năng động và sáng tạo của giảng viên cũng
có tác dụng giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SVSP.
• Can thiệp sư phạm hợp lý
Trong quá trình học, sinh viên luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn như
không có phương pháp học hiệu quả, thiếu phương tiện và điều kiện học tập,
một số khái niệm công cụ chưa nắm vững v.v... Vì thế, có thể sinh viên sẽ từ
bỏ việc học hoặc học tập thiếu tính tích cực.
Giảng viên cần có những can thiệp sư phạm hợp lý giúp đỡ sinh viên
theo đuổi việc học đến cùng để đạt được mục đích học. Các can thiệp đó có
thể là chia sẻ phương pháp, kinh nghiệm tự học thành công như phương pháp
nghe và ghi bài giảng ở trên lớp, phương pháp đọc và ghi chép khi đọc sách,
phương pháp hoạt động nhóm; cung cấp thêm nguồn thông tin như các địa chỉ
web, đĩa CD, tên tờ báo, tạp chí v.v...; giúp sinh viên tiếp cận lại khái niệm
công cụ để hiểu đúng nội hàm khái niệm bằng cách phân tích các dấu hiệu bản
chất của khái niệm, có thể bớt đi hoặc thêm vào nội hàm khái niệm một vài
dấu hiệu để tiếp cận khái niệm dưới một góc độ mới v.v... Đôi khi, giảng viên
còn cần phải hỗ trợ sinh viên về tình cảm, sự nỗ lực ý chí cần thiết trong học
tập – trí tuệ xác cảm (EQ).
Sự can thiệp sư phạm có thể tiến hành trong các tình huống học tập ở
trên lớp, nhưng cũng có thể diễn ra trong các tình huống học tập – giao tiếp ở
ngoài lớp. Và điều quan trọng là phát hiện ra những khó khăn, tìm đúng công
cụ giúp đỡ và thời điểm giúp đỡ để đẩy tính tích cực của sinh viên lên mức cao
nhất mà vẫn không làm lu mờ vai trò định hướng, hướng dẫn của ông thầy.
Chính tình yêu nghề, nỗi đam mê với chuyên ngành giảng dạy, tinh thần
trách nhiệm cao trong nghề nghiệp, sự nhạy cảm trước những khó khăn mà
sinh viên gặp phải trên con đường áp dụng tri thức, cũng như những giúp đỡ
hợp lý của giảng viên sư phạm, đã góp phần hình thành tình yêu nghề và thái
độ đúng đắn với nghề dạy học ở SVSP.
3.2.4. Tổ chức dạy học các môn nghiệp vụ góp phần hình thành động cơ,
hứng thú học nghề sư phạm cho sinh viên
Các môn học cung cấp tri thức, kỹ năng và giáo dục đạo đức nghề trực tiếp
cho SVSP phải kể đến các môn Nghiệp vụ sư phạm, đó là Tâm lý học, Giáo dục học
và Lý luận dạy học bộ môn. Các môn học nghiệp vụ này trực tiếp tạo nên tính sư
phạm trong trường đại học sư phạm, và phân biệt trường đại học sư phạm với các
trường đại học khác. Trên thực tế, các môn học này chưa được quan tâm đúng mức
với vai trò, vị trí của chúng trong qui trình đào tạo giáo viên, chưa được đầu tư thoả
đáng và để lại những tồn tại dưới đây:
Thời lượng môn học chưa hợp lý. Ví dụ, môn Tâm lý học đang giảng dạy tại
các trường được gói gọn trong 60 tiết – 75 tiết (tuỳ từng trường), trong đó, gồm
Tâm lý học đại cương, Tâm lý học lứa tuổi, Tâm lý học sư phạm, và Tâm lý học lao
động (dành cho trường sư phạm kỹ thuật). Thời lượng như vậy thực sự là quá ít để
giáo viên chuyển tải nội dung cơ bản trong chương trình cũng như nội dung gắn với
thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp; và cũng không thể đủ để sinh viên có thể lĩnh
hội tất cả nội dung trên, chưa nói đến việc tự đào sâu nghiên cứu, hay sáng tạo trong
chính môn học của mình. Theo đó, giảng viên khó có thể đổi mới phương pháp theo
hướng phát huy tính tích cực của sinh viên, vì bị khống chế thời gian, nên chọn
phương pháp diễn giảng là phù hợp. Kết quả là sinh viên không hứng thú học tập bộ
môn, học vì bắt buộc, vì phải hoàn thành chương trình để thi tốt nghiệp v.v… kết
quả học tập không cao (chỉ cần 5 điểm không phải thi lại), kiến thức chưa vững
chắc ở sinh viên (thi xong chữ thầy cô trả lại thầy cô), vì thế khó có thể tái sử dụng
trong các tình huống học tập khác và trong nghề nghiệp tương lai.
Nội dung môn học nặng về lý thuyết nhẹ về thực hành, kiến thức mang tính
hàn lâm chưa gắn với thực tế giáo dục, thực tiễn nghề nghiệp.
Hình thức và phương pháp giảng dạy đơn điệu, tẻ nhạt nên không kích thích
sinh viên học tập một cách tích cực và sáng tạo.
Nhằm nâng cao chất lượng dạy học các môn nghiệp vụ sư phạm, góp phần đắc
lực vào việc giáo dục định hướng giá trị đạo đức nghề sư phạm cho sinh viên,
chúng tôi đề xuất một số biện pháp cụ thể sau:
• Tăng thời lượng giảng dạy các môn nghiệp vụ, đặc biệt là hai môn Tâm
lý học, Giáo dục học đang bị cắt giảm một cách cảm tính thiếu cơ sở khoa học
trong các trường sư phạm hiện nay.
• Khoa Tâm lý - Giáo dục (hay Tổ Tâm lý - Giáo dục) và tổ phương pháp
giảng dạy của các khoa trong trường sư phạm cùng trao đổi thống nhất nội
dung chương trình, phân định rõ phạm vi kiến thức và trách nhiệm của từng bộ
môn để tránh chồng chéo, trùng lặp khi giảng dạy (ví dụ, giảng viên dạy Tâm
lý học giảng về tư duy, giảng viên dạy môn phương pháp dạy học môn Vật lý
cũng dạy về tư duy. Vậy, hai mức độ tư duy này khác nhau như thế nào?).
• Tổ bộ môn điều chỉnh nội dung chương trình các môn nghiệp vụ theo
hướng cân đối giữa lý thuyết và thực hành (tỉ lệ 1/1), giảm bớt kiến thức hàn
lâm, tăng cường tri thức mang tính nghề nghiệp; gắn nội dung môn học với
thực tiễn giáo dục, dạy học ở nhà trường phổ thông.
• Biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo, sách hướng dẫn tự học bộ môn
dưới dạng tài liệu in và tài liệu điện tử đáp ứng nhu cầu tự học của sinh viên.
Tài liệu học môn nghiệp vụ sư phạm được biên soạn phù hợp với từng chuyên
ngành đào tạo (ví dụ Tâm lý học dạy cho sinh viên khoa Giáo dục tiểu học,
Tâm lý học dạy cho sinh viên Giáo dục mầm non, Tâm lý học dạy cho khoa
Giáo dục thể chất phải có những khác biệt với Tâm lý học dạy cho sinh viên
học chuyên ngành thiết kế thời trang hay cơ khí). Điều này giúp sinh viên nắm
vững kiến thức cơ bản, dễ dàng nhìn thấy sự thể hiện của khái niệm trong thực
tế, thực tiễn nghề nghiệp và định hướng ứng dụng trong nghề nghiệp tương lai.
Thực tế cho thấy những tài liệu chung chung, không có những ví dụ, tình
huống gắn với từng chuyên ngành đào tạo đã chưa thể kích thích hứng thú,
hình thành động cơ học tập bộ môn và hạn chế khả năng ứng dụng môn học
vào thực tiễn nghề nghiệp của SVSP.
• Giảng viên phụ trách bộ môn cần làm rõ ý nghĩa của từng môn nghiệp
vụ trong trường sư phạm, đối với SVSP, với nghề nghiệp ngay khi bắt đầu
môn học và thực chứng trong suốt quá trình giảng dạy bộ môn.
• Dạy học các môn nghiệp vụ sư phạm nhất thiết phải kết hợp dạy trên
lớp với tham quan học tập, thực hành sư phạm, diễn giảng kết hợp với dạy học
theo nhóm nhỏ, tự học có hướng dẫn nhằm tạo cơ hội cho SVSP được dấn
thân, trải nghiệm những kiến thức bộ môn trong thực tiễn nghề nghiệp, để kiến
thức nghiệp vụ sư phạm không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ môn học mà vượt
ra ngoài cuộc sống và thực tiễn nghề sư phạm.
Ví dụ, khi dạy các bài như Cảm giác, Tri giác, Trí nhớ, Tư duy, Tính
cách, Đặc điểm tâm lý lứa tuổi… trong Tâm lý học, giáo viên có thể tổ chức
cho sinh viên làm các khảo sát hay trắc nghiệm nhỏ ở học sinh phổ thông. Khi
dạy các bài như Mục đích giáo dục, Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển
nhân cách, Phương pháp dạy học, Phương pháp giáo dục, Công tác giáo viên
chủ nhiệm lớp… trong môn Giáo dục học, giảng viên nên tổ chức cho sinh
viên tham quan thực tế giáo dục, làm các nghiên cứu nhỏ, sẽ rất tốt cho việc
định hướng giá trị đạo đức nghề nghiệp ở SVSP.
3.2.5. Thực hành sư phạm “tập trung” kết hợp với “không tập trung”
Rèn luyện kỹ năng dạy học, giáo dục học sinh, qua đó bồi dưỡng các giá trị
đạo đức nghề và rèn luyện hành vi đạo đức nghề sư phạm được thực hiện tập trung
trong các hoạt động thực hành nghề nghiệp, nhất là hoạt động thực tập sư phạm.
Thực hành nghề nghiệp là hoạt động nhằm vận dụng kiến thức, kỹ năng và
phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đã lĩnh hội vào thực tiễn nghề nghiệp, qua đó củng
cố, bổ sung và hoàn thiện tri thức, kỹ năng nghề ở sinh viên, bước đầu hình thành
tình yêu nghề và hứng thú nghề nghiệp ở thầy cô giáo tương lai.
Thực hành nghề nghiệp gồm nhiều hoạt động từ thấp đến cao, từ bộ phận đến
toàn thể, và được chia thành các dạng như thực tế nghề nghiệp, thực tập đợt một
(hay còn gọi là kiến tập sư phạm) và thực tập đợt hai (hay còn gọi là thực hành cuối
khoá).
Nội dung thực hành nghề nghiệp, theo chúng tôi, bao gồm các nội dung
sau:
- Thực tế giáo dục có các nội dung như tìm hiểu cơ sở vật chất, nội dung
chương trình, sách giáo khoa, chất lượng dạy học và giáo dục học sinh, những thành
tựu và tồn tại, những thuận lợi và khó khăn, xu thế phát triển giáo dục phổ thông…
- Thực tập sư phạm đợt I (kiến tập), nội dung thực hành trong đợt này gồm
nghiên cứu chương trình, kế hoạch dạy học; dự giờ và rút kinh nghiệm giờ dạy;
soạn bài và xin ý kiến đóng góp của giáo viên phổ thông; tập xây dựng kế hoạch
công tác chủ nhiệm, tham gia một số hoạt động của công tác giáo viên chủ nhiệm và
có thể tham gia một số buổi sinh hoạt của tổ chuyên môn. Về kỹ năng dạy học, rèn
luyện một số kỹ năng như phân tích kế hoạch và nội dung chương trình, phân tích
và đánh giá một bài giảng, thiết kế bài giảng. Về kỹ năng giáo dục, rèn luyện kỹ
năng tìm hiểu đối tượng, xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm, kỹ năng đi vào
quần chúng, kỹ năng đánh giá hạnh kiểm của học sinh, và một số kỹ năng chung
khác như kỹ năng tự xây dựng kế hoạch hoạt động của đợt thực hành giáo dục, kỹ
năng giao tiếp…
- Thực tập sư phạm đợt II (thực tập sư phạm cuối khoá) được thực hiện theo
phương thức "tập trung" trong 8 tuần ở học kỳ 2 năm thứ 4, chủ yếu rèn luyện kỹ
năng giảng dạy và luyện những kỹ năng sư phạm đã được rèn ở đợt thực hành giáo
dục thường xuyên.
Hình thức thực hành: thực hành “tập trung” kết hợp với “không tập trung”
Thực hành sư phạm là một hoạt động thực hành nghề hiệu quả, nên tổ chức
cho sinh viên thường xuyên được rèn luyện nghề trong môi trường nghề nghiệp
thực sự theo phương thức kết hợp thực hành sư phạm “tập trung” kết hợp với thực
hành sư phạm "không tập trung".
- Thực hành sư phạm "không tập trung" của SVSP được bắt đầu từ học kỳ II
năm thứ hai đến hết năm thứ ba với thời lượng 1 buổi / 1 tuần và theo phương thức
“gửi thẳng” – tức là giáo viên ở trường phổ thông toàn quyền hướng dẫn SVSP
trong các buổi thực hành.
Hình thức thực hành sư phạm này cho phép sinh viên học trong hành và qua
hành mà học, học hướng đến hành; kiến thức sinh viên tiếp thu được từ những bài
giảng Tâm lý học, Giáo dục học và Lý luận dạy học bộ môn ở giảng đường sư phạm
được soi rọi ngay trong thực tế giáo dục làm tăng tính bền vững và độ tin cậy của
kiến thức. Sinh viên có dịp thực hiện ở mức độ vừa sức những công việc của một
giáo viên, nhờ vậy các phẩm chất và năng lực của người giáo viên được hình thành
ở sinh viên cả về lý thuyết lẫn thực tế.
Thực hành sư phạm theo hướng này tạo điều kiện cho các trường phổ thông
tham gia nhiều hơn vào qui trình đào tạo người giáo viên tương lai từ khâu xây
dựng chương trình, kế hoạch thực hành đến hướng dẫn nội dung, thao tác và cách
thức đánh giá kết quả thực hành sư phạm. Điều này đồng nghĩa với việc trường phổ
thông, đội ngũ giáo viên phổ thông đồng chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm
của trường sư phạm; giáo viên và cán bộ quản lý của trường phổ thông được gửi
gắm cả tâm tư, tình cảm, cả kinh nghiệm và vốn sống, năng lực sáng tạo trong nghề
của mình vào qui trình sản xuất ra sản phẩm cho chính mình sử dụng và quản lý.
Đây chính là việc quán triệt và thực hiện mục tiêu đào tạo nhân lực của ngành giáo
dục (gắn đào tạo với sử dụng).
Với những kết quả thực hành nghề của sinh viên thường xuyên, liên tục và hệ
thống cho phép các khoa trong trường sư phạm điều chỉnh kịp thời những tác động
sư phạm nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Để thực hành sư phạm “không tập trung” có kết quả cần xây dựng kế hoạch
thực hành trong chương trình đào tạo, trong đó, xác định mục tiêu thực hành sư
phạm ở trường phổ thông, nội dung và yêu cầu phải đạt trong từng hoạt động thực
hành giáo dục, phương pháp và các phương tiện cần sử dụng trong từng hoạt động
thực hành như kiến thức, kỹ năng, văn bản, tài liệu… Thông báo thời gian thực
hành và chuẩn đánh giá kết quả thực hành sư phạm của sinh viên ở trường phổ
thông. Chuyển giao kế hoạch thực hành sư phạm ngay từ đầu khoá học, đầu mỗi
môn học, cụ thể:
• Cấp trường, sinh viên năm thứ nhất học qui chế 10 ngày, phòng đào tạo
đã phải thông báo chương trình, kế hoạch đào tạo và đặc biệt thông báo hình
thức thực hành đến sinh viên.
• Cấp khoa, từng khoa giới thiệu chương trình đào tạo để mỗi sinh viên
biết việc học của mình bắt đầu từ đâu và kết thúc ở điểm nào trong suốt bốn
năm học tại khoa của trường sư phạm.
• Cấp bộ môn, trong từng môn học, đặc biệt môn nghiệp vụ sư phạm,
giảng viên phụ trách bộ môn phải làm rõ giá trị thực tiễn của từng đơn vị kiến
thức để định hướng khả năng sử dụng và các hoạt động thực hành đi kèm, nhất
là những môn học và các hoạt động mang tính nghiệp vụ như Tâm lý học,
Giáo dục học, Lý luận dạy học bộ môn, thực tế giáo dục và thực tập sư phạm.
- Thực hành sư phạm đợt II được thực hiện theo hình thức tập trung như hiện
nay. Có thể “gửi thẳng” sinh viên xuống thực hành ở trường phổ thông hoặc do
trường sư phạm quản lý theo đoàn và có một giảng viên làm trưởng đoàn.
Nên kết hợp hai hình thức thực hành sư phạm “tập trung” với thực hành
“không tập trung” để đưa công tác thực hành nghề của sinh viên từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp và sẽ không gây quá tải đối với kế hoạch học của sinh viên,
với trường phổ thông nơi sinh viên về thực hành và phù hợp với qui trình rèn luyện
kỹ năng nghề.
Ý kiến của một giáo viên hướng dẫn thực tập sư phạm ở ĐHSPKT thực sự
đáng suy nghĩ: “nhiều khi đến gần hết kỳ thực tập, các em sinh viên mới thực sự
nhận thấy niềm vui và giá trị của nghề dạy học, xuất hiện những ý tưởng thú vị cho
bài giảng, cho học sinh của mình, nhưng… lại không còn thời gian để trải nghiệm”.
Qua đó cho thấy SVSP thực sự mong mỏi một thời gian vừa đủ để mình có thể trải
nghiệp tri thức, kỹ năng và cả tình cảm nghề nghiệp.
Sau mỗi đợt thực tập sư phạm, nhà trường, đặc biệt là các giáo viên hướng dẫn
các môn nghiệp vụ sư phạm cần thực hiện một cuộc điều tra để xác định các mức độ
kể cả về tri thức, kỹ năng cũng như cách phẩm chất đạo đức mà sinh viên đã đạt
được. Kết quả đó sẽ giúp nhà trường theo dõi được sự thay đổi của sinh viên qua
các thời kỳ, tránh tình trạng “càng học càng chán” như những gì kết quả khảo sát
ban đầu đem lại khi so sánh định hướng giá trị đạo đức giữa sinh viên năm đầu và
sinh viên năm cuối.
3.2.6. Tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường sư phạm phong phú,
hấp dẫn góp phần giáo dục đạo đức nghề cho SVSP
Các hoạt động giáo dục được hiểu là các hoạt động sinh hoạt đoàn thể, chính
trị, xã hội, văn hóa…
Hình thức tiến hành có thể kể ra một cách phong phú như sinh hoạt chính trị
đầu năm học, báo cáo chuyên đề, sinh hoạt câu lạc bộ, hội diễn văn nghệ, chiếu
phim tư liệu lịch sử, thảo luận về những sự kiện nổi bật của xã hội…
Những hoạt động giáo dục trên một mặt bổ sung kiến thức cơ bản cho sinh
viên, mặt khác giúp sinh viên nhận thức rõ hơn, hình thành những suy nghĩ, thái độ
đúng đắn hơn về các giá trị đạo đức cần thiết cho bản thân, cho nghề nghiệp. Tuy
nhiên thực tế cho thấy những dạng hoạt động này vẫn chưa được đầu tư thích đáng
về nội dung lẫn hình thức, vẫn còn mang tính phong trào là chính theo kiểu “cưỡi
ngựa xem hoa”, nên sinh viên tham gia một cách bắt buộc chứ không phải tự
nguyện và hứng thú. Từ thực trạng như vậy, chúng tôi đề xuất các biện pháp cụ thể
như sau:
• Mỗi khoa thành lập một câu lạc bộ theo chuyên ngành đào tạo. Ví dụ
câu lạc bộ Tâm lý -Giáo dục, câu lạc bộ thơ trẻ, câu lạc bộ hoá học vui, câu lạc
bộ toán học sáng tạo v.v… Nội dung hoạt động của câu lạc bộ có thể là tổ
chức các buổi báo cáo chuyên đề, tọa đàm với các nhân vật tiêu biểu, trình
chiếu các bộ phim có giá trị giáo dục và giáo dục nghề nghiệp, tổ chức tham
gian, dã ngoại...
• Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong trường sư phạm phối hợp tổ chức
các hoạt động sinh hoạt tập thể, văn hoá như lửa trại, hội diễn văn nghệ, làm
báo tường, thi tìm hiểu về con người, đất nước, sự kiện… nhân các ngày lễ lớn
như ngày nhà giáo Việt Nam (20/11), ngày thành lập đoàn (26/3) ngày giải
phóng miền Nam và Quốc tế lao động (30/4 và 1/5)…
• Phòng công tác sinh viên phối hợp với Đoàn trường, Hội sinh viên thực
hiện công tác tuyên truyền tư tưởng chính trị, lý tưởng nghề nghiệp dưới nhiều
hình thức phong phú hấp dẫn như bảng tin, áp phích, băng rôn, biểu ngữ, tạp
chí, nội san, nguyệt san và nhiều hoạt động khác liên quan đến tư tưởng, chính
trị, văn hoá, khoa học, đạo đức, lý tưởng nghề nghiệp.
• Tổ chức các hoạt động xã hội mang tính chất “đền ơn đáp nghĩa”,
“nhân đạo”, “từ thiện”… cho SVSP tham gia một cách thường xuyên và hệ
thống. Các hoạt động như thăm hỏi và giúp đỡ những gia đình có công với
cách mạng (các gia đình thương binh, liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng),
quyên góp cứu trợ đồng bào bị thiên tai, giúp đỡ các chiến sĩ ở biên giới, hải
đảo; tổ chức chiến dịch mùa hè xanh, thanh niên tình nguyện v.v... không chỉ
có tác dụng tích cực đến nhận thức mà còn tác động mạnh đến tình cảm và rèn
luyện hành vi đạo đức của SVSP.
Các giải pháp cho hoạt động dạy học và giáo dục vừa trình bày trên đây, được
thực hiện trong môi trường sư phạm, bởi các nhà sư phạm. Vì thế, thật thiếu sót nếu
không đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng môi trường sư phạm, điều kiện cần
thiết để thực hiện các giải pháp dạy học và giáo dục hiệu quả.
3.2.7. Xây dựng môi trường giáo dục đạo đức nghề sư phạm
Môi trường là toàn bộ các yếu tố và các điều kiện bao quanh và ảnh hưởng đến
con người. Do vậy, môi trường nối kết một cách đặc thù với đời sống sư phạm và
những người tham dự.
Sự ảnh hưởng của môi trường không chỉ nằm bên ngoài sinh viên như cơ sở
vật chất, người dạy, nhà trường, gia đình, xã hội mà nó cũng đến từ bên trong sinh
viên như trí tuệ, tình cảm, vốn sống, giá trị, đạo đức của sinh viên thi tuyển vào học
nghề sư phạm…
Các yếu tố của môi trường ảnh hưởng tích cực, hoặc tiêu cực đến người học,
buộc người học phải thay đổi hoặc sắp xếp các điều kiện môi trường mà họ phát
triển trong đó đến mức thích nghi những điều kiện ấy. Quan hệ của môi trường đến
người học là quan hệ ảnh hưởng và thích nghi. Môi trường đã trở thành một trong
những tác nhân của hoạt động dạy học – giáo dục.
Môi trường mà đề tài đề cập ở đây tức là môi trường tinh thần, liên quan đến
hai yếu tố là giảng viên đại học và SVSP. Những đề xuất sau liên quan đến tuyển
chọn, bồi dưỡng và phát huy những yếu tố tích cực từ hai chủ thể sư phạm này,
nhằm tác động đến đạo đức của SVSP, đồng nghĩa với việc xây dựng một môi
trường tinh thần đúng nghĩa trong trường sư phạm.
- Tuyển sinh vào các trường sư phạm theo hai giai đoạn
Ngành sư phạm là một trong những ngành đặc thù so với các ngành nghề
khác. Bác Hồ đã từng nói: “Dưới bầu trời này có hai nghề, nghề thầy giáo và
nghề thầy thuốc, không có tượng đồng bia đá nhưng hoàn thành nhiệm vụ là
anh hùng, anh hùng tập thể”. Hay Bác Phạm Văn Đồng khẳng định: “Nghề
dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, vinh quang nhất
trong các nghề vinh quang, sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo bởi nó
sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
Đặc điểm lao động sư phạm là lấy con người làm đối tượng, công cụ lao
động của nhà giáo là tri thức và toàn bộ nhân cách, lao động sư phạm vừa
mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Chính vì thế, đào tạo giáo viên
là một công việc phải được tiến hành một cách nghiêm túc, khoa học ngay từ
khi tuyển sinh, đào tạo cho đến sử dụng.
Tuyển sinh vào các trường sư phạm trong những năm gần đây đã không
còn tình trạng “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”, vì học sư phạm không
phải đóng học phí và khi ra trường dễ xin việc làm. Điểm trúng tuyển vào các
trường khá cao, nhưng chúng ta vẫn chưa tuyển được nhiều học sinh giỏi,
thích thú với nghề sư phạm.
Từ trước đến nay các trường sư phạm đều thực hiện tuyển sinh giống
như các trường đại học, cao đẳng khác, với cùng nội dung các môn thi và cùng
thời điểm. Trừ một số trường có thêm phần thi năng khiếu (như CĐSPMG hay
THSPMN), nhưng nhìn chung vẫn nằm trong khuôn khổ của cuộc thi tuyển
đại trà. Nay chúng tôi mạnh dạn đề ra giải pháp thay đổi qui trình tuyển sinh
đầu vào cử nhân cho các trường sư phạm như sau:
• Giai đoạn 1 – Kiểm tra sát hạch dành cho tất cả các thí sinh vào
thời điểm trước khi diễn ra kỳ thi tuyển sinh toàn quốc.
Hình thức kỳ thi sát hạch có thể là một bài trắc nghiệm hoặc một
bài tự luận bao gồm những nội dung liên quan đến điều kiện về năng lực,
phẩm chất cần thiết để trở thành giáo viên, trình bày động cơ thi vào
trường sư phạm và giải quyết những tình huống sư phạm.
Mục đích của kỳ thi này là nhằm chọn được những học sinh thực sự
yêu thích và có một chút hiểu biết về nghề dạy học, có khiếu sư phạm thì
càng tốt. Trên cơ sở đó sẽ dễ dàng đào tạo những SVSP ra trường có tâm
huyết và đạo đức với nghề.
• Giai đoạn 2 – Tuyển chọn dành cho những thí sinh đã vượt kỳ
kiểm tra sát hạch. Kỳ thi này sẽ thực hiện cùng thời điểm và cùng nội
dung với kỳ thi tuyển sinh toàn quốc.
Kết quả tuyển chọn vào trường sư phạm dựa vào kết quả của cả hai
kỳ thi tuyển trên. Điều này đồng nghĩa với việc không tuyển những thí
sinh trúng tuyển nguyện vọng 2 vào sư phạm.
Với hình thức tuyển sinh 2 giai đoạn như vậy, các trường sư phạm sẽ thu
nhận được những sinh viên ưu tú nhất về các yêu cầu cơ bản trong nghề dạy
học, có thể số lượng không nhiều, nhưng chất lượng được bảo đảm ngay từ
giai đoạn đầu. Hơn nữa với cách làm này, giá trị của nghề dạy học sẽ được
nâng lên một tầm cao hơn dưới con mắt nhìn nhận của xã hội và ngay cả bản
thân những người chọn học nghề sư phạm.
Nói thêm rằng sở dĩ chúng tôi đề ra giải pháp đưa kỳ thi “đặc biệt - mang
tính sư phạm” lên trước so với kỳ thi chính thức của các trường đại học, cao
đẳng vì như vậy sẽ không ảnh hưởng đến kế hoạch dự thi tuyển sinh thông
thường của các bạn học sinh nếu không vượt qua được kỳ thứ nhất này. Còn
nếu khi đã đạt kỳ thi lần 1 mà các bạn có xu hướng không theo ngành sư phạm
nữa thì vẫn tiếp tục tham gia thi tuyển sinh bình thường. Còn nếu đặt kỳ thi
“sát hạch” sau kỳ tuyển sinh chính thức thì đối với những ai không vượt qua
được lần thi này sẽ mất đi cơ hội vào các ngành khác.
- Tuyển chọn theo địa chỉ
Thực tế đội ngũ giáo viên hiện nay đang “thừa thiếu giả tạo”. Thừa vì
những SVSP tốt nghiệp không nhận công tác ở tỉnh mà ở lại thành phố xin
việc. Hoặc thí sinh thi tuyển đã lựa chọn những chuyên ngành được cho là
“danh giá” như Toán, Anh văn, Hoá, Tin học… Từ đó, tình trạng mất cân đối
giữa cung và cầu, SVSP ra trường không tìm được chỗ dạy, cũng ảnh hưởng
đến động cơ và mục đích học nghề của SVSP. Vì thế:
• Cần làm một cuộc khảo sát để biết chính xác nhu cầu về giáo viên
ở các bậc học, cấp học, chuyên ngành dạy và địa phương để có kế hoạch
tuyển chọn và đào tạo.
• Tăng cường đào tạo theo địa chỉ (địa phương gửi đi học), song
phải chú ý đến chất lượng đầu vào và chất lượng đào tạo.
• Cương quyết không tuyển chọn, đào tạo những thí sinh “ngồi
nhầm trường” hay những thí sinh mượn trường sư phạm làm nơi “trú
chân” ôn thi để năm sau đăng ký thi tuyển vào trường khác.
- Tuyển chọn và sử dụng, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trường sư phạm
bởi “thầy không ra thầy thì trò không ra trò”.
• Tuyển chọn giảng viên đại học, cao đẳng, trung học theo đúng
tiêu chuẩn được qui định trong Luật giáo dục (tối thiểu là thạc sỹ). Khi
tuyển chọn chú ý cả năng lực chuyên môn và đạo đức nghề. Trong thời
gian thử việc, nếu năng lực chuyên môn chưa đáp ứng, không yêu nghề,
thiếu tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp, không cố gắng học tập và tự
bồi dưỡng thì phải huỷ bỏ hợp đồng lao động. Không nên để những
giảng viên yếu về chuyên môn, nghiệp vụ và kém về phẩm chất đạo đức
trong môi trường sư phạm.
• Có kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản
lý, giảng viên dưới nhiều hình thức khác nhau (như bồi dưỡng nội bộ, tại
chỗ, cử cán bộ đi bồi dưỡng tập trung, ngắn hạn, dài hạn ở trường bạn, ở
nước ngoài).
• Khen thưởng xứng đáng đối với những cá nhân cố gắng và đạt
thành tích trong học tập. Chế độ khen thưởng phải công bằng, công khai,
thường xuyên và liên tục chứ không theo phong trào. Hình thức khen
thưởng có thể bằng vật chất như tiền, tăng lương sớm, có thể bằng tinh
thần như cho đi thăm quan, nghỉ mát ở trong nước và ngoài nước.
• Trách phạt đối với những cán bộ, giảng viên vi phạm nội qui lao
động, không cố gắng học tập đạt chuẩn theo qui định trong luật giáo dục.
Trách phạt cũng đòi hỏi công bằng, công khai và thường xuyên. Hình
thức trách phạt có thể là không được hưởng các khoản tiền thưởng,
khuyến khích lao động, kéo dài thời hạn tăng lương, thuyên chuyển công
tác trong trường hoặc buộc thôi việc, chấm dứt hợp đồng lao động.
• Điều quan trọng là trường sư phạm nó riêng và các trường đại
học, cao đẳng nói chung cần xây dựng các tiêu chí, định mức rõ ràng, cụ
thể, ngắn gọn theo học hàm, học vị để xét thi đua. Đánh giá giảng viên
được tổng hợp từ nhiều nguồn như tự đánh giá của giảnh viên, tập thể sư
phạm và sinh viên đánh giá giảng viên. Không nên bình xét chủ quan,
cảm tính hay dựa trên các tiêu chí, định mức chung chung tạo nên ảnh
hưởng tiêu cực từ hoạt động này.
- Xây dựng môi trường vật chất đáp ứng yêu cầu dạy nghề
Môi trường vật chất có thể hiểu gồm cơ sở hạ tầng, thiết bị giáo dục và
hệ thống lưu trữ tài liệu đáp ứng yêu cầu dạy học và giáo dục trong của trường
sư phạm.
• Trường đại học, cao đẳng, trung học cần có kế hoạch xây dựng
tổng thể, phân chia theo các giai đoạn, và được tự chủ về kinh phí, bản
vẽ, thi công. Xây dựng các công trình theo cơ cấu qui định (phòng học,
văn phòng, thư viện, sân, nhà để xe, khu thể thao, khu vệ sinh…). Phòng
học phải rộng rãi, thoáng mát, đủ ánh sáng, âm thanh tốt, bàn ghế gọn
nhẹ tiện di chuyển đáp ứng các hoạt động đặc trưng của dạy học như
thảo luận, seminar, hoạt động nhóm nhỏ.
Không nên để tình trạng sinh viên rất vất vả mỗi khi giảng viên
thay đổi phương pháp dạy học vì phải sắp xếp lại bàn ghế một cách khó
khăn; sinh viên mất thời gian tìm phòng trống để thảo luận nhóm chuẩn
bị cho bài thuyết trình hay tập giảng, tập viết bảng chuẩn bị đi thực tập
sư phạm. Một cách cần thiết nhất, mỗi khoa phải được trang bị một hoặc
hai phòng chuyên dụng vào những mục đích như vậy. Chính những thiếu
thốn không đáng có này đã không những ảnh hưởng đến kết quả học tập,
thực hành nghề mà còn làm mất hứng thú học tập, tình yêu nghề ở sinh
viên.
Các phòng chức năng phải có kế hoạch xây dựng tổng thể cùng nhà
trường để không phải hủy bỏ đơn lẻ mỗi khi có nhu cầu mới. Điều đó rất
lãng phí. Tránh tình trạng vừa xây dựng vừa sử dụng, biến khuôn viên
trường học thành một công trình chắp vá, thiếu thẩm mỹ.
• Mua sắm, chế tạo, nâng cấp, sử dụng thiết bị, phương tiện dạy học
đồng bộ, cơ chế quản lý gọn nhẹ để thuận lợi trong sử dụng và có bảo trì
sửa chữa định kỳ.
Quá trình dạy học không thể tiến hành đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học
mà không có những phương tiện và điều kiện dạy học tương thích. Đặc
biệt hơn, trường sư phạm là nơi đào tạo giáo viên – những người dùng
phương pháp của mình để đào tạo cho một bộ phận người học khác - thì
việc đầu tư phương tiện dạy học đồng bộ với phương pháp dạy học cần
được chú ý, quan tâm một cách sâu sắc. Cụ thể:
+ Cần bố trí các bộ phận bảo trì, sửa chữa, tư vấn sử dụng, lưu
trữ, vận chuyển máy móc thiết bị dạy học một cách hệ thống và
chuyên nghiệp, có qui định về khu vực và thời gian chặt chẽ. Điều
này nhằm tránh những trở ngại cho giáo viên và sinh viên trong quá
trình dạy học, hoặc tránh những tình huống không đáng có như thế
này: Giáo viên dạy Toán ở phòng này định nghĩa “Khúc xạ là…”
thì giọng nói của một giáo viên ở phòng bên vọng sang “Nói như
thế hoàn toàn sai”. Sinh viên trong lớp cười phá lên, còn giá viên
thì…Hay thầy và trò cứ loay hoay mãi về một máy tính hay một
máy chiếu trong khi không hề có chuyên viên kỹ thuật hay tư vấn sử
dụng.
+ 100% các phòng học lý thuyết được trang bị các phương
tiện dạy và học phù hợp với các qui luật tâm lý (sự tương quan giữa
bảng, bàn, ghế, không gian phòng, ánh sáng, nhiệt độ, âm thanh);
không sử dụng các phòng học tạm bợ không đủ những điều kiện
trên.
+ Mỗi khoa chuyên ngành trong trường cần phải có từ một
đến hai phòng chuyên dụng cho giảng mẫu, tập giảng. Những
phòng này cần được trang bị những phương tiện từ cơ bản đến hiện
đại đủ để thầy và trò phát huy tính sáng tạo trong các bài giảng của
mình.
+ Tạo điều kiện tối đa cho thầy và trò được sử dụng các thiết
bị công nghệ hiện đại, kích thích trí sáng tạo và đầu tư cho bài dạy
cũng như bài học. Niềm hứng thú sẽ dần được nâng cao cùng với sự
khích lệ từ thành quả lao động trong trường sư phạm, ở cả người
dạy lẫn người học.
• Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống thư viện
trường. Cụ thể:
+ Bổ sung thêm những sách mới, các công trình nghiên cứu,
các luận văn và luận án từ nhiều nguồn; kết hợp giữa sách in và
sách điện tử để sinh viên có thể sử dụng tại chỗ, mượn về nhà hoặc
đọc qua mạng.
+ Phòng đọc rộng, mát, yên tĩnh, đủ ánh sáng, có hướng dẫn
cặn kẽ, vị trí ngồi thoải mái và bộ phận cất giữ vật dụng cá nhân đề
người học yên tâm sử dụng thư viện, tránh những ảnh hưởng phụ từ
bên ngoài.
+ Thự viện nên mở cửa cả buổi tối, thứ 7 và chủ nhật, nhất là
vào mùa thi hay thực tập vì vào những thời gian này sinh viên có
nhiều thời gian tự học.
Trên đây là một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho SVSP,
trong đó tập trung nhiều vào hoạt động trong trường sư phạm. Cụ thể và trọng tâm
là các biện pháp nhằm hướng vào hoạt động dạy học và giáo dục, và hai nhân vật
chính thực hiện hoạt động này là giảng viên và sinh viên, cùng những yếu tố liên
quan khác.
Dĩ nhiên các giải pháp này đều phải được thực hiện đồng bộ mới có thể đem
lại hiệu quả, vì giáo dục bao giờ cũng là sự phối hợp, thống nhất của ba lực lượng
nhà trường, gia đình và xã hội. Trong đó, đặc biệt đối với SVSP, nhà trường giữ vai
trò chính trong sự phối hợp, thống nhất các lực lượng giáo dục.
Các giải pháp đề ra trong trường sư phạm nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần
tác động trực tiếp đến định hướng giá trị đạo đức nghề sư phạm cho sinh viên, và
tác động gián tiếp đến việc định hướng giá trị xã hội của SVSP.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Dựa trên những lý luận về giá trị và định hướng giá trị đạo đức, thực trạng
định hướng giá trị đạo đức, và các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức
của SVSP, đề xuất các giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho SVSP.
Chúng tôi rút ra một vài kết luận như sau:
1. Giá trị đạo đức và định hướng giá trị đạo đức cho thanh niên đã được nhiều
tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu. Tuy nhiên, những nghiên cứu về định
hướng giá trị đạo đức của sinh viên ngành sư phạm vẫn chưa được quan tâm và
nghiên cứu một cách thoả đáng.
Giá trị đạo đức là thành phần giá trị cốt lõi trong hệ thống giá trị của con
người. Giá trị đạo đức là những tiêu chuẩn lối sống được con người hay nhóm
người thừa nhận và áp dụng trong hệ thống hành vi, thái độ của mình một cách có
ích đối với các mối quan hệ trong đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư
luận biểu dương.
Hệ thống giá trị đạo đức của SVSP là những tiêu chuẩn trong các mối quan hệ
với xã hội, với gia đình, thầy cô giáo, bạn bè, trong học tập, với học sinh, nghề sư
phạm và với bản thân.
2. Định hướng giá trị đạo đức là sự nhận thức, đánh giá, lựa chọn các giá trị
đạo đức trong quá trình hoạt động của cá nhân, từ đó thúc đẩy, điều chỉnh hành vi,
hành động của mình nhằm hình thành tâm lý và phát triển nhân cách. Định hướng
giá trị đạo đức bao hàm ba yếu tố, đó là nhận thức, thái độ và biểu hiện ra bên ngoài
bằng những hành vi cụ thể.
Việc định hướng giá trị đạo đức của SVSP chịu sự tác động của các yếu tố bên
trong như đặc điểm, qui luật tâm lý lứa tuổi thanh niên, các tri thức và kinh nghiệm
sống mà sinh viên đã tích lũy, và các yếu tố bên ngoài như những tác động từ xã
hội, gia đình và nhà trường.
3. Đa số SVSP TPHCM được khảo sát đều có định hướng giá trị đạo đức khá
tích cực (các điểm trung bình: nhận thức = 2.64; thái độ = 2.49; hành vi = 2.70).
Những giá trị đạo đức mà sinh viên lựa chọn bao gồm cả những giá trị truyền thống
và cả những giá trị hiện đại, mặc dù còn thận trọng và dè dặt. Nhìn chung, kết quả
trên phù hợp với giả thuyết nghiên cứu đã được đặt ra ban đầu.
Những giá trị đạo đức được SVSP lựa chọn ở mức cao và chúng tôi tạm cho là
những phẩm chất đạo đức cần có ở SVSP, đó là “biết ơn thế hệ trước, tự hào dân
tộc, giữ gìn công trình công cộng, chấp hành luật pháp”, “hiếu thảo với cha mẹ,
bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình”, “biết ơn thầy cô giáo”, “uy tín, trung
thực với bạn bè”, “tích cực, trung thực trong học tập”, “khiêm tốn ,tự tin với bản
thân”, “trung thực, tin tưởng học sinh trong tương lai”, và “tận tâm, dũng cảm
chống tiêu cực, năng động, không bảo thủ trong nghề sư phạm”.
4. Định hướng giá trị đạo đức không giống nhau giữa nữ và nam SVSP; giữa
sinh viên sống tại thành phố Hồ Chí Minh và sinh viên sống ở tỉnh lên học; giữa
sinh viên của trường CĐSPMG với các trường sư phạm còn lại trong mẫu khảo sát.
Đặc biệt phải kể đến sự định hướng giá trị đạo đức của sinh viên học năm đầu luôn
tích cực hơn SVSP học các năm cuối. Điều này có nghĩa là hiệu quả giáo dục đạo
đức và đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trong các trường sư phạm chưa cao.
Những giá trị đạo đức được SVSP lựa chọn cao thì thường họ cũng có thái độ
tích cực tương ứng và lựa chọn mẫu hành vi ứng xử phù hợp với các giá trị đạo đức
đã chọn. Ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức của SVSP thể hiện ở cả ba mặt
xã hội, nhà trường và gia đình, nhưng tập trung nhất là từ phía gia đình và trường sư
phạm
5. Các giải pháp được đề ra biểu hiện đầy đủ vai trò của ba mặt xã hội, gia
đình và nhà trường, trong đó tập trung vào các giải pháp dành cho nhà trường sư
phạm. Các giải pháp đó là:
• Xây dựng môi trường hoạt động giao lưu tích cực cho SVSP
• Xây dựng gia đình văn hoá
• Hình thành động cơ, hứng thú học tập ở SVSP
• Tổ chức dạy học các môn nghiệp vụ góp phần hình thành động cơ, hứng
thú học nghề sư phạm cho sinh viên
• Thực hành sư phạm “tập trung” kết hợp với “không tập trung”
• Tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường sư phạm phong phú, hấp
dẫn góp phần giáo dục đạo đức nghề cho SVSP
• Xây dựng môi trường giáo dục đạo đức nghề sư phạm
Kiến nghị
Từ những kết luận nghiên cứu đã phân tích ở trên, chúng tôi đề xuất một số
kiến nghị nhằm tạo cơ sở để thực hiện những giải pháp giáo dục định hướng giá trị
đạo đức cho SVSP:
Thứ nhất, Nhà nước và các cơ quan chức năng cần nghiêm chỉnh thực hiện
luật pháp, cương quyết bài trừ nạn tham ô, hối lộ, tham nhũng. Nghiêm trị những kẻ
vi phạm pháp luật nhằm xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và tiến bộ, tạo
niềm tin cho thanh niên đối với nhà nước và xã hội. Cơ quan quản lý giáo dục cần
phải thực hiện nghiêm những bộ luật, qui định trong ngành giáo dục, để không còn
những tiêu cực, bệnh thành tích trong giáo dục góp phần làm trong sạch môi trường
giáo dục, môi trường học đường.
Thứ hai, từng gia đình Việt Nam cần xây dựng phấn đấu để trở thành gia đình
văn hoá. Cha mẹ và những người lớn trong gia đình cần quan tâm giáo dục đạo đức
cho con cái, gương mẫu trong cuộc sống, trong công việc và trong giao tiếp với
những thành viên trong gia đình và với những người xung quanh.
Thứ ba, các trường sư phạm cần xác định cụ thể mục tiêu đào tạo, nhất là mục
tiêu về đạo đức nghề nghiệp làm cơ sở để xây dựng nội dung và đánh giá “đầu ra –
sản phẩm” của trường sư phạm đáp ứng yêu cầu của nghề sư phạm trong giai đoạn
hiện đại. Không ngừng đổi mới chương trình nội dung sao cho nội dung đảm bảo
cân đối giữa lý thuyết và thực hành, giữa lý luận và thực tiễn nghề nghiệp, đặc biệt
các môn nghiệp vụ trong trường sư phạm phải luôn giữ được vai trò quan trọng, góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo người giáo viên.
Thứ tư, giảng viên trong các trường sư phạm phải thực sự là một tấm gương về
đạo đức và đạo đức nghề nghiệp để sinh viên noi theo; không ngừng học tập nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và mẫu mực trong giao tiếp với đồng nghiệp,
với sinh viên và những người xung quanh.
Thứ năm, các tổ chức đoàn thể trong trường sư phạm cần tổ chức những hoạt
động ngoại khoá, sinh hoạt tập thể một cách phong phú, sinh động, hấp dẫn có tác
dụng giáo dục đạo đức và đạo đức nghề cho sinh viên.
Cuối cùng, chúng tôi mong muốn có những nghiên cứu tiếp theo về vấn đề
định hướng giá trị đạo đức của SVSP để xác định được hệ thống giá trị đạo đức của
SVSP và thực nghiệm các giải pháp nhằm xác nhận tính khả thi, tính hiệu quả của
các giải pháp, góp phần giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho SVSP một cách
hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Vân Anh (2006), “Bước đầu tìm hiểu thái độ của nữ sinh viên về sống thử”,
Tâm lý học (2). 2. Lê Trọng Ân (2005), “Tư tưởng Triết học về đạo đức”, Triết học. 3. G. Bandzeladze (1985), Đạo đức học, Nxb Giáo dục. 4. Nguyễn Văn Bắc (2004), “Thực trạng nhận thức của sinh viên sư phạm về các
giá trị văn hóa trong ứng xử”, Tâm lý học (5). 5. Nguyễn Ngọc Bích (2000), TLH nhân cách, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Nguyễn Đình Chỉnh, Phạm Trung Thanh (1999), Kiến tập và Thực tập sư phạm,
Bộ Giáo dục và đào tạo, Nxb Giáo dục. 7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (2003), Mấy vấn đề đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia. 8. Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng (1998), Đạo đức học, Nxb Giáo dục. 9. Đỗ Thị Coỏng (1999), “Tự đánh giá của sinh viên có xu hướng nhân cách khác
nhau”, Tâm lý học (3). 10. V.A. Cruchetxki, Thế Long dịch (1981), Những cơ sở của TLH sư phạm, 2,
Nxb Giáo dục. 11. Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu (1979), Về đường lối giáo
dục xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. 12. Lê Thị Ngọc Dung, Hồ Bá Thâm (2004), “Một vài hiện tượng tiêu cực trong
thanh niên hiện nay và công tác giáo dục vận động thanh niên”, Tâm lý học (8).
13. Vũ Dũng (2000), Từ điển Tâm lý học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 14. Nguyễn Văn Đồng (2005), “Văn hóa giao tiếp của sinh viên”, Tâm lý học (5). 15. Phạm Văn Đức (2006), “Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Triết học. 16. Ph.N. Gônôbôlin, Nguyễn Thế Hùng, Ninh Giang dịch (1977), Những phẩm
chất tâm lý của người giáo viên, 1, Nxb Giáo dục. 17. Lưu Song Hà (2004), “Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội”, Tâm lý học (7).
18. Lê Thị Thanh Hà (2006), “Một số vấn đề triết học về con người trong Hệ tư tưởng Đức”, Triết học (1).
19. Phạm Minh Hạc (1989), Tâm lý học, 2, Nxb Giáo dục. 20. Trần Hoàng Hảo (2005), “Những suy nghĩ về sự thay đổi thang giá trị đạo đức
trong sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam hiện nay”, Triết học. 21. Lê Văn Hảo (2004), “Tính cộng đồng và tính cá nhân qua định hướng giá trị và
hành động”, Tâm lý học (12). 22. Cao Thu Hằng (2006), “Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo đức
đối với nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Triết học. 23. Đoàn Đức Hiếu (2006), “Cá nhân và sự phát triển của cá nhân trước những yêu
cầu trong điều kiện hiện nay ở nước ta”, Triết học. 24. Gilbert Highet, Nguyễn Công Tâm biên soạn (1991), Nghệ thuật giáo dục, Nxb
Trẻ. 25. Nguyễn Thị Hoa (2004), “Định khuôn xã hội”, Tâm lý học (9). 26. Hải Hồ (2003), “Bảy căn tính khắc họa chân dung tâm lý người Việt hôm nay”,
Tâm lý học (1). 27. Lê Văn Hồng (1995), Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội. 28. Trịnh Minh Hỗ (1992), “Ý thức đạo đức phản ánh lĩnh vực nào của đời sống xã
hội”, Triết học (1). 29. Mai Xuân Hợi (2006), “Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã
hội”, Triết học. 30. Đỗ Minh Hợp (2006), “Giá trị luận”, Triết học. 31. Lê Hương (2000), “Một số nét tâm lý đặc trưng của lứa tuổi thanh niên”, Tâm lý
học (2). 32. Lê Hương (2003), “Đánh giá định hướng giá trị của con người”, Tâm lý học (7). 33. Trịnh Duy Huy (2006), “Đạo đức mới – Đạo đức cách mạng từ các cách tiếp
cận khác nhau”, Triết học (1). 34. Trần Ngọc Khuê (1998), Xu hướng biến đổi tâm lý xã hội trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Nguyễn Thị Lan (1999), Tìm hiểu về thực trạng nhận thức và hành vi văn hóa dân tộc của sinh viên thời kinh tế thị trường nhằm giáo dục nếp sống văn hóa cho sinh viên, Đại học sư phạm kỹ thuật TPHCM.
36. Vũ Thị Thu Lan (2005), “Đạo đức học Cantơ và tư tưởng văn hóa hòa bình”, Triết học.
37. Nguyễn Ngọc Lanh (2006), “Suy thoái giáo dục – do đạo đức người thầy?”, website Vietnamnet.
38. Đỗ Long (2006), “Định hướng giá trị và sự phát triển của thế hệ trẻ”, Tâm lý học.
39. Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Hữu Vui (2005), Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Bộ Giáo dục và đào tạo.
40. Phạm Bá Lượng (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Lấy dân làm gốc””, Triết học (2).
41. Tsunesaburo Makiguchi (1994), Giáo dục vì cuộc sống sáng tạo, Nxb Trẻ, Đại học tổng hợp TPHCM.
42. K. Marx, F. Engels, V.I. Lenin ,Hà Thế Ngữ, Bùi Đức Thiệp dịch (1984), Bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục.
43. Hồ Chí Minh (1977), Về vấn đề giáo dục, Nxb Giáo dục. 44. Trần Thị Quốc Minh (2002), Vai trò của trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo
TW3 trong việc giáo dục nhân cách sinh viên, Tiểu luận tốt nghiệp cao cấp Lý luận chính trị.
45. Hồ Đắc Hải Miên (2002), Tìm hiểu định hướng giá trị đạo đức và các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức của sinh viên TPHCM, Đại học sư phạm TPHCM.
46. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng giá trị đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Vương Trí Nhàn (2006), “Bảy bước tới tha hóa”, Tia sáng. 48. Vương Trí Nhàn (2006), “Thói hư tật xấu của người Việt”, Thể thao Văn hóa,
website chungta.com. 49. Vũ Thị Nho (1999), Tâm lý học phát triển, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 50. Phạm Văn Nhuận (2006), “Định hướng giá trị đạo đức của con người Việt Nam
trong hội nhập Asean hiện nay”, Đảng Cộng sản Việt Nam. 51. Hải Như (2005), “Cần biết xấu hổ”, Tiền Phong. 52. Đào Thị Oanh (2005), “Nghiên cứu định hướng giá trị của học sinh trung học
trong giai đoạn hiện nay”, Tâm lý học (8). 53. Nguyễn Thị Oanh (2005), “Giá trị sống”, Tuổi trẻ chủ nhật.
54. Bùi Ngọc Oánh, Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh (1995), Tâm lý học, 1, Đại học sư phạm TPHCM.
55. Bùi Ngọc Oánh, Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh (1995), Tâm lý học, 2, Đại học sư phạm TPHCM.
56. Bùi Ngọc Oánh, Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh (1993), Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, Đại học sư phạm TPHCM.
57. A.V. Petrovski, Đỗ Văn dịch (1982), Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, 2, Nxb Giáo dục.
58. Lê Đức Phúc (2005), “Ảnh hưởng của báo chí đối với thanh niên sinh viên”, Tâm lý học (2).
59. Ngô Thị Thảo Quỳnh (1995), Tìm hiểu một số nét nhân cách của giáo viên cấp III nội thành thành phố Hồ Chí Minh năm học 1994-1995, Đại học sư phạm TPHCM.
60. Lê Nhân Tâm (2004), Giới trẻ Việt nam trong thời kỳ đổi mới, TPHCM. 61. Lê Nhân Tâm (2005), Thế hệ mới – những cơ hội và thách đố, TPHCM. 62. Văn Tân (1977), Từ điển Tiếng Việt, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 63. Nguyễn Đức Thạc (1999), “Truyền thống dân tộc và đạo đức nhân cách của thế
hệ trẻ từ hướng tiếp cận Tâm lý học xã hội”, Tâm lý học (4). 64. Hà Nhật Thăng (1998), Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn, Nxb Giáo
dục. 65. Hà Nhật Thăng, Đào Thanh Âm (1998), Lịch sử giáo dục thế giới, Nxb Giáo
dục. 66. Mạch Quang Thắng (2005), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục. 67. Trần Đăng Thịnh (2006), Đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay – thực trạng và
xu hướng biến đổi, Đại học sư phạm kỹ thuật TPHCM. 68. Nguyễn Văn Thọ (2005), “Vấn đề bản chất con người trong Nho giáo Trung
Quốc cổ đại”, Triết học (1). 69. Nguyễn Thị Thọ (2006), “Đạo đức người thầy giáo Việt Nam xưa và nay”,
Giáo dục. 70. Phùng Bích Thủy (2005), “Tìm hiểu định hướng giá trị của sinh viên về gia
đình hạnh phúc”, Tâm lý học (1). 71. Trần Trọng Thủy (2003), “Giá trị - Định hướng giá trị và nhân cách”, Tâm lý
học. 72. Diane Tillman (2000), Chương trình giáo dục các giá trị cuộc sống,
International Coordination Office.
73. Đặng Hữu Toàn (2006), “Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị Chân – Thiện – Mỹ”, Triết học (3).
74. Khúc Năng Toàn (1999), “Nhận thức của sinh viên sư phạm về các giá trị văn hóa trong nếp sống”, Tâm lý học (5).
75. Võ Minh Trung (2001), Tìm hiểu định hướng giá trị nghề dạy học của sinh viên trường Đại học sư phạm TPHCM, Đại học sư phạm TPHCM.
76. Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc (2000), Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ, Nxb TPHCM.
77. Nguyễn Quang Uẩn (1995), Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị, Đề tài cấp nhà nhà nước KX-07-04, Hà Nội.
78. Nguyễn Quang Uẩn (1999), Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
79. Nguyễn Quang Uẩn (1995), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu nhân cách, Chương trình KHCN cấp nhà nước KX-07-04, Hà Nội.
80. Viện Khoa học giáo dục (1982), Kỷ yếu hội nghị Tâm lý học lần thứ năm, Hà Nội.
81. Nguyễn Văn Việt (2006), “Mối quan hệ giữa tình cảm và lý trí trong ý thức đạo đức”, Triết học.
82. Trần Nguyên Việt (2005), “Về phạm trù “Đức” trong học thuyết của Đạo gia”, Triết học (2).
83. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia.
84. V.A. Xukhômlinxki, Nguyễn Hữu Chương, Đặng Thị Huệ, Trần Nam Lương dịch (1983), Trái tim tôi hiến dâng cho trẻ, Nxb Giáo dục.
Phụ lục
PHỤ LỤC 1 – MỘT SỐ BẢNG KẾT QUẢ THỐNG KÊ
Bảng 1 – Tỉ lệ phân bố đồng đều số lượng mẫu khảo sát theo các nhóm
Xét theo nhóm “trường đào tạo”
ĐHSP 96ĐHSPKT 96
CĐSP 96CĐSPMG 96
THSP 96Tổng 480
Xét theo nhóm “giới tính”
Nam 160Nữ 160
Tổng 320Xét theo nhóm “thời gian đào tạo” (năm thứ)
Thời gian đào tạo Tần số
Năm đầu (năm 1, 2) 234Năm cuối (năm 3,4,5) 234
Tổng 468Xét theo nhóm “hộ khẩu thường trú”
Hộ khẩu thường trú Tần số
Ở TPHCM 259Ở tỉnh khác TPHCM 259
Tổng 518
Bảng 2 – Nhận thức giá trị đạo đức trong mối quan hệ với xã hội
STT Giá trị đạo đức Trung bình Xếp hạng
3 Biết ơn thế hệ trước 2.86 1
4 Tự hào dân tộc 2.85 2
6 Chấp hành luật pháp 2.84 3
8 Lịch sự nơi công cộng 2.81 4
7 Giữ gìn công trình công cộng 2.75 5
5 Thương người 2.74 6
9 Đoàn kết trong cộng đồng 2.65 7
14 Dũng cảm chống cái xấu 2.50 8
10 Trung thực với mọi người 2.47 9
12 Quan tâm trước thay đổi của xã hội 2.44 10
11 Trung thành với chế độ 2.40 11
13 Nhiệt tình với hoạt động xã hội 2.32 12
1 Tin tưởng vào xã hội 2.28 13
2 Hy sinh vì người khác 2.16 14
Bảng 3 - Nhận thức giá trị đạo đức trong mối quan hệ với bạn bè
STT Giá trị đạo đức Trung bình Xếp hạng
11 Không lợi dụng tình bạn thân 2.85 1
2 Uy tín 2.84 2
15 Bình đẳng 2.84 3
16 Chia sẻ 2.77 4
1 Trung thực 2.76 5
13 Đoàn kết trong nhóm 2.74 6
14 Tin tưởng lẫn nhau 2.73 7
7 Tế nhị khi giao tiếp 2.69 8
18 Trách nhiệm 2.67 9
12 Không đòi hỏi sự giúp đỡ 2.64 10
3 Khiêm tốn 2.58 11
17 Khôi hài (đem nụ cười đến cho bạn) 2.58 12
10 Tôn trọng quyết định của bạn 2.57 13
6 Dũng cảm ngăn cái xấu 2.44 14
4 Sòng phẳng 2.43 15
8 Bao dung với lỗi của bạn 2.36 16
5 Hy sinh 2.09 17
9 Quan tâm đến tâm sự của bạn 1.41 18
Bảng 4 - Nhận thức giá trị đạo đức trong mối quan hệ gia đình
STT Giá trị đạo đức Trung bình Xếp hạng
2 Hiếu thảo 2.91 1
11 Kính trên nhường dưới 2.86 2
13 Biết ơn 2.86 3
3 Trung thực 2.84 4
8 Không thờ ơ với mọi người 2.84 5
7 Trách nhiệm 2.82 6
5 Không đòi hỏi được phục vụ 2.78 7
9 Uy tín 2.76 8
6 Chăm lo cho em nhỏ 2.67 9
10 Hy sinh 2.64 10
12 Thẳng thắn 2.59 11
14 Khiêm tốn về thành công của mình 2.55 12
1 Độc lập về quyết định cá nhân 2.22 13
4 Bình đẳng với cha mẹ 1.88 14
Bảng 5 - Nhận thức giá trị đạo đức trong mối quan hệ với thầy cô giáo
STT Giá trị đạo đức Trung bình Xếp hạng
1 Kính trọng 2.89 1
5 Biết ơn 2.87 2
12 Không ỷ lại vào thầy cô 2.82 3
2 Trung thực 2.78 4
9 Không thụ động 2.77 5
6 Quan tâm với nỗi đau của thầy cô 2.76 6
10 Đón nhận sự quan tâm của thầy cô 2.70 7
4 Nhiệt thành 2.61 8
11 Tin tưởng 2.58 9
3 Thẳng thắn 2.54 10
8 Hy sinh vì thầy cô 1.97 11
7 Bình đẳng với thầy cô 1.95 12
Bảng 6 - Nhận thức giá trị đạo đức trong hoạt động học tập
STT Giá trị đạo đức Trung bình Xếp hạng
12 Không dựa dẫm 2.82 1
15 Không thụ động 2.81 2
2 Kiên nhẫn 2.79 3
4 2.77 4 Trách nhiệm
9 2.76 5 Nghiêm túc
10 2.76 6 Siêng năng
5 2.72 7 Cầu tiến
7 2.71 8 Cẩn thận
3 2.67 9 Trung thực (không gian lận)
11 2.67 10 Khiêm tốn
6 2.62 11 Không ngại khó
13 2.59 Say mê 12
1 2.49 13 Độc lập
14 Lạc quan (dù kết quả không cao) 2.47 14
8 Hoài nghi những điều sai 2.25 15
Bảng 7 - Nhận thức giá trị đạo đức trong mối quan hệ với bản thân
STT Giá trị đạo đức Trung bình Xếp hạng
1 Tự trọng 2.83 1
6 Trung thực 2.80 2
2 Khiêm tốn 2.75 3
10 Không tự ti 2.72 4
11 Không nhút nhát 2.72 5
8 Không tự mãn 2.71 6
4 Tự tin 2.68 7
9 Kiên trì 2.68 8
7 Tự kiềm chế 2.66 9
12 Lạc quan 2.65 10
14 Chấp nhận thử thách 2.62 11
13 Tự phê bình 2.47 12
5 Yêu cầu cao 2.08 13
3 Tự ái 1.76 14
Bảng 8 - Nhận thức giá trị đạo đức trong mối quan hệ với học sinh
STT Giá trị đạo đức Trung bình Xếp hạng
16 Uy tín 2.87 1
2 Nghiêm túc 2.85 2
20 Trách nhiệm 2.84 3
9 Tôn trọng 2.83 4
4 Yêu thương 2.81 5
6 Tận tụy 2.81 6
12 Không thờ ơ với hoàn cảnh học sinh 2.81 7
15 Cởi mở 2.80 8
17 Chân thành 2.78 9
1 Trung thực 2.76 10
5 Học hỏi (từ học sinh) 2.75 11
3 Tin tưởng 2.73 12
13 Nhiệt thành 2.72 13
14 Tế nhị 2.72 14
8 Vị tha 2.70 15
11 Thẳng thắn 2.68 16
10 Bình đẳng 2.64 17
7 Quyết đoán 2.59 18
19 Hy sinh 2.39 19
18 Sòng phẳng 2.19 20
Bảng 9 - Nhận thức giá trị đạo đức trong mối quan hệ với nghề Sư phạm
STT Giá trị đạo đức Trung bình Xếp hạng
1 Yêu nghề 2.86 1
2 Tận tâm 2.85 2
8 Siêng năng 2.82 3
6 Trung thực 2.81 4
7 Kỷ luật 2.76 5
9 Nhẫn nại 2.75 6
12 Quan tâm tới sự nghiệp giáo dục 2.73 7
11 Bản lĩnh 2.70 8
4 Năng động (dám thay đổi) 2.68 9
5 Giản dị (trong phong cách) 2.67 10
10 Tiết kiệm 2.61 11
3 Dũng cảm chống tiêu cực 2.60 12
Bảng 10 – So sánh nhận thức giá trị đạo đức theo xuất thân gia đình
TPHCM Ngoài
TPHCM Giá trị đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC
F P
“Biết ơn thế hệ trước” trong mối quan
hệ với xã hội 2.81 0.48 2.90 0.36 19.483 0
“Tự hào dân tộc” trong mối quan hệ
với xã hội 2.81 0.50 2.90 0.35 22.004 0
“Lịch sự nơi công cộng” 2.84 0.45 2.77 0.54 9.812 0.002
“Không lợi dụng tình bạn thân” 2.88 0.37 2.80 0.54 18.132 0
“Trách nhiệm” trong mối quan hệ với
bạn bè 2.60 0.65 2.73 0.53 21.072 0
“Không đòi hỏi được phục vụ” trong
mối quan hệ gia đình 2.81 0.48 2.74 0.57 9.283 0.002
“Chăm lo cho em nhỏ” trong gia đình 2.58 0.63 2.73 0.53 23.057 0
“Siêng năng” trong học tập 2.79 0.45 2.73 0.54 7.561 0.006
“Say mê” trong học tập 2.54 0.64 2.67 0.55 14.358 0
“Tự trọng” trong mối quan hệ với bản
thân 2.86 0.44 2.80 0.53 8.900 0.003
“Không tự mãn” 2.76 0.51 2.66 0.62 15.295 0
“Nghiêm túc” trong mối quan hệ với
học sinh 2.88 0.37 2.82 0.48 10.972 0.001
“Tế nhị” trong mối quan hệ với học
sinh 2.68 0.57 2.75 0.48 8.427 0.004
“Bản lĩnh” trong nghề Sư phạm 2.64 0.58 2.75 0.49 16.720 0
Trong mối quan hệ với bản thân 2.57 0.26 2.59 0.29 7.507 0.006
Bảng 11 – So sánh nhận thức giá trị đạo đức theo trình độ đào tạo
Sinh viên
năm đầu
Sinh viên
năm cuối Giá trị đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC
F P
Với bạn bè
Trung thực 2.78 0.45 2.72 0.55 7.646 0.006
Đoàn kết trong nhóm 2.77 0.50 2.69 0.56 8.147 0.005
Tin tưởng lẫn nhau 2.79 0.46 2.67 0.57 22.827 0
Chia sẻ 2.81 0.46 2.74 0.52 8.275 0.004
Trách nhiệm 2.70 0.55 2.63 0.65 7.407 0.007
Với gia đình
Độc lập về quyết định cá nhân 2.17 0.67 2.30 0.74 11.466 0.001
Hiếu thảo 2.94 0.26 2.89 0.38 12.167 0.001
Không đòi hỏi được phục vụ 2.83 0.44 2.77 0.54 7.261 0.007
Thẳng thắn 2.65 0.55 2.58 0.66 9.763 0.002
Với thầy cô giáo
Kính trọng 2.94 0.30 2.84 0.50 27.698 0
Nhiệt thành 2.65 0.55 2.57 0.63 7.016 0.008
Biết ơn 2.91 0.31 2.83 0.44 19.843 0
Đón nhận sự quan tâm của thầy cô 2.74 0.55 2.58 0.67 22.909 0
Với hoạt động học tập
Không ngại khó 2.69 0.65 2.57 0.69 6.985 0.008
Nghiêm túc 2.80 0.46 2.73 0.54 8.202 0.004
Say mê 2.66 0.54 2.55 0.66 15.088 0
Không thụ động 2.85 0.45 2.76 0.55 13.481 0
Bảng 12 – So sánh nhận thức giá trị đạo đức giữa các trường
Điểm trung bình của sinh viên trường Nhóm giá trị và các giá
trị riêng lẻ ĐHSP ĐHSPKT CĐSP CĐSPMG THSPMN
F P
Với bản thân
Giá trị chung 2.50 2.62 2.55 2.65 2.58 3.951 0.004
Tự trọng 2.67 2.85 2.83 2.90 2.86 3.123 0.015
Khiêm tốn 2.66 2.77 2.72 2.88 2.70 2.676 0.031
Tự tin 2.56 2.74 2.55 2.77 2.76 3.671 0.006
Yêu cầu cao 2.05 2.20 2.03 2.29 1.82 5.865 0
Trung thực 2.67 2.81 2.76 2.85 2.86 2.755 0.028
Tự phê bình 2.42 2.56 2.44 2.67 2.33 4.152 0.003
Chấp nhận thử thách 2.50 2.63 2.50 2.75 2.65 2.950 0.020
Với học sinh
Giá trị chung 2.63 2.70 2.69 2.80 2.71 3.916 0.004
Quyết đoán 2.35 2.70 2.65 2.79 2.42 8.563 0
Bình đẳng 2.48 2.65 2.53 2.76 2.76 4.439 0.002
Thẳng thắn 2.46 2.68 2.67 2.71 2.75 3.689 0.006
Hy sinh 2.32 2.35 2.43 2.60 2.24 4.052 0.003
Với nghề sư phạm
Giá trị chung 2.62 2.72 2.70 2.85 2.76 6.417 0
Yêu nghề 2.70 2.89 2.84 2.92 2.93 4.657 0.001
Năng động (dám thay đổi) 2.50 2.68 2.70 2.82 2.69 4.665 0.001
Tiết kiệm 2.53 2.52 2.50 2.83 2.70 5.736 0
Bản lĩnh 2.57 2.75 2.74 2.84 2.53 5.569 0
Quan tâm tới sự nghiệp giáo
dục
2.57 2.78 2.60 2.81 2.78 3.911 0.004
Bảng 13 - Thái độ đạo đức trong mối quan hệ với xã hội
STT Thái độ đạo đức Trung bình Xếp hạng
3 Biết ơn thế hệ trước 2.83 1
4 Tự hào dân tộc 2.80 2
7 Giữ gìn nơi công cộng 2.59 3
5 Thương người 2.54 4
1 Tin tưởng vào xã hội 2.50 5
2 Hy sinh vì người khác 2.49 6
6 Chấp hành luật pháp 2.46 7
8 Lịch sự nơi công cộng 2.42 8
Bảng 14 - Thái độ đạo đức trong mối quan hệ với bạn bè
STT Thái độ đạo đức Trung bình Xếp hạng
2 Uy tín 2.67 1
1 Trung thực 2.66 2
4 Hy sinh 2.37 3
3 Khiêm tốn 2.36 4
Bảng 15 - Thái độ đạo đức trong mối quan hệ gia đình
STT Thái độ đạo đức Trung bình Xếp hạng
1 Độc lập 2.16 4
2 Hiếu thảo 2.63 1
3 Trung thực 2.51 2
4 Bình đẳng 2.35 3
Bảng 16 - Thái độ đạo đức trong mối quan hệ với thầy cô giáo
STT Thái độ đạo đức Trung bình Xếp hạng
5 Biết ơn 2.70 1
1 Kính trọng 2.56 2
2 Trung thực 2.48 3
3 Thẳng thắn 2.28 4
4 Nhiệt thành 2.27 5
Bảng 17 - Thái độ đạo đức trong mối quan hệ với hoạt động học tập
STT Thái độ đạo đức Trung bình Xếp hạng
4 Trách nhiệm 2.50 1
1 Tích cực 2.49 2
3 Trung thực 2.43 3
5 Cầu tiến 2.42 4
2 Kiên nhẫn 2.09 5
Bảng 18 - Thái độ đạo đức trong mối quan hệ với bản thân
STT Thái độ đạo đức Trung bình Xếp hạng
2 Khiêm tốn 2.66 1
1 Tự trọng 2.55 2
4 Tự tin 2.28 3
5 Yêu cầu cao 2.14 4
3 Tự ái 2.10 5
Bảng 19 - Thái độ đạo đức trong mối quan hệ với học sinh
STT Thái độ đạo đức Trung bình Xếp hạng
4 Yêu thương 2.80 1
1 Trung thực 2.46 2
3 Tin tưởng 2.42 3
2 Nghiêm túc 2.40 4
5 Học hỏi 2.77 5
Bảng 20 - Thái độ đạo đức trong mối quan hệ với nghề sư phạm
STT Thái độ đạo đức Trung
bình Xếp hạng
2 Tận tâm 2.73 1
3 Dũng cảm chống tiêu cực 2.58 2
4 Không bảo thủ 2.53 3
1 Yêu nghề 2.39 4
Bảng 21 – So sánh thái độ đạo đức theo giới tính
Nam
sinh viên
Nữ
sinh viên Thái độ đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC
F P
C.6 Chấp hành luật pháp trong xã hội
“Tôi khó chịu với những ai vượt đèn đỏ
trên đường”
2.55 0.60 2.37 0.74 12.978 0
C.7 Giữ gìn nơi công cộng trong xã
hội
“Tôi ghét những ai tự nhiên xả rác ngoài
đường”
2.68 0.58 2.54 0.70 11.743 0.001
C.9 Trung thực với bạn bè
“Tôi ghét việc lừa dối bạn bè của mình” 2.78 0.54 2.58 0.71 27.015 0
C.12 Hy sinh cho bạn bè
“Tôi chấp nhận hy sinh vì người bạn thân
của mình”
2.42 0.66 2.43 0.56 7.380 0.007
Bảng 22 – So sánh thái độ đạo đức theo xuất thân gia đình
TPHCM Ngoài
TPHCM Thái độ đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC
F P
C.3 Biết ơn trong xã hội 2.81 0.50 2.86 0.40 7.602 0.006
C.4 Tự hào trong xã hội 2.77 0.51 2.84 0.41 10.558 0.001
C.9 Trung thực với bạn bè 2.60 0.69 2.73 0.60 14.407 0
C.18 Kính trọng thầy cô giáo 2.67 0.55 2.50 0.70 30.871 0
C.36 Yêu thương học sinh 2.83 0.43 2.77 0.55 9.060 0.003
C.37 Học hỏi từ học sinh 2.84 0.45 2.71 0.63 29.759 0
C6 Trong mối quan hệ với bản thân 2.36 0.29 2.35 0.36 8.582 0.004
C7 Trong mối quan hệ với học sinh
tương lai 2.58 0.31 2.56 0.38 10.941 0.001
Bảng 23 – So sánh thái độ đạo đức theo trình độ đào tạo
Sinh viên
năm đầu
Sinh viên
năm cuối Thái độ đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC
F P
C.3 Biết ơn trong xã hội 2.85 0.43 2.78 0.50 9.932 0.002
C.5 Thương người 2.60 0.74 2.45 0.79 7.303 0.007
C.25 Trung thực trong học tập 2.48 0.59 2.41 0.68 8.188 0.004
C.29 Khiêm tốn 2.70 0.61 2.61 0.69 7.640 0.006
C.39 Tận tâm trong nghề Sư phạm 2.78 0.48 2.70 0.53 8.899 0.003
Bảng 24 – So sánh thái độ đạo đức theo trường đào tạo
Điểm trung bình của sinh viên trường Nhóm thái độ và các
thái độ riêng lẻ ĐHSP ĐHSPKT CĐSP CĐSPMG THSPMN
F P
C.1 Tin tưởng 2.53 2.59 2.14 2.76 2.47 13.881 0
C.4 Tự hào 2.67 2.86 2.71 2.92 2.82 4.830 0.001
C.7 Giữ gìn nơi công
cộng
2.63 2.67 2.53 2.72 2.38 3.866 0.004
C.8 Lịch sự 2.52 2.30 2.40 2.57 2.22 3.630 0.006
C.9 Trung thực với bạn
bè
2.69 2.82 2.56 2.75 2.45 5.272 0
C.14 Hiếu thảo trong
gia đình
2.48 2.69 2.60 2.59 2.77 3.849 0.004
C.18 Kính trọng thầy cô
giáo
2.45 2.36 2.49 2.60 2.84 8.367 0
C.19 Trung thực với
thầy cô giáo
2.38 2.52 2.29 2.63 2.54 4.251 0.002
C.20 Thẳng thắn với
thầy cô
2.15 2.43 2.08 2.34 2.30 4.891 0.001
C.35 Tin tưởng vào học
sinh
2.28 2.46 2.28 2.56 2.53 4.446 0.002
C.36 Yêu thương học
sinh
2.65 2.81 2.77 2.77 2.95 4.566 0.001
C.38 Yêu nghề Sư
phạm
2.28 2.26 2.28 2.53 2.56 4.958 0.001
Bảng 25 – Thứ hạng hành vi đạo đức
STT Hành vi đạo đức Trung
bình
Xếp
hạng
33 Tin tưởng 2.92 1
36 Học hỏi 2.92 2
34 Yêu thương 2.91 3
16 Yêu thương, chia sẻ 2.89 4
39 Không bảo thủ 2.89 5
11 Hy sinh 2.88 6
20 Nhiệt thành 2.88 7
17 Kính trọng 2.86 8
6 Giữ gìn công trình công cộng 2.85 9
21 Biết ơn 2.85 10
8 Trung thực 2.84 11
37 Tận tâm 2.83 12
31 Trung thực 2.82 13
7 Lịch sự nơi công cộng 2.81 14
32 Nghiêm túc 2.81 15
10 Khiêm tốn 2.80 16
26 Cầu tiến 2.80 17
12 Độc lập 2.78 18
25 Trách nhiệm 2.78 19
15 Bình đẳng 2.74 20
22 Tích cực 2.74 21
18 Trung thực 2.73 22
1 Tự hào dân tộc 2.71 23
14 Trung thực 2.69 24
13 Hiếu thảo 2.67 25
4 Biết ơn thế hệ trước 2.65 26
9 Uy tín 2.65 27
5 Chấp hành luật pháp 2.63 28
38 Dũng cảm chống tiêu cực 2.62 29
27 Tự trọng 2.60 30
28 Khiêm tốn 2.59 31
19 Thẳng thắn 2.58 32
23 Kiên nhẫn 2.56 33
36 Yêu nghề 2.56 34
2 Thương người 2.53 35
24 Trung thực 2.51 36
29 Tự tin 2.48 37
3 Hy sinh vì người khác 2.39 38
30 Yêu cầu cao 2.20 39
Chú thích:
1 - 7 : Với xã hội
8 – 11: Với bạn bè
12 – 16: Với gia đình
17 – 21: Với thầy cô giáo
22 – 26: Với học tập
27 – 30: Với bản thân
31 – 35: Với học sinh
36 – 39: Với nghề sư phạm
Bảng 26 - 10 hành vi tích cực cao nhất và 10 hành vi tích cực thấp nhất
STT Hành vi đạo đức Trung
bình
Xếp
hạng
33 Tin tưởng 2.92 1
35 Học hỏi 2.92 2
34 Yêu thương 2.91 3
16 Yêu thương, chia sẻ 2.89 4
39 Không bảo thủ 2.89 5
11 Hy sinh 2.88 6
20 Nhiệt thành 2.88 7
17 Kính trọng 2.86 8
6 Giữ gìn công trình công cộng 2.85 9
21 Biết ơn 2.85 10
27 Tự trọng 2.60 30
28 Khiêm tốn 2.59 31
19 Thẳng thắn 2.58 32
23 Kiên nhẫn 2.56 33
36 Yêu nghề 2.56 34
2 Thương người 2.53 35
24 Trung thực 2.51 36
29 Tự tin 2.48 37
3 Hy sinh vì người khác 2.39 38
30 Yêu cầu cao 2.20 39
Bảng 27 – So sánh hành vi đạo đức theo giới tính
Nam
sinh viên
Nữ
sinh viên Hành vi đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC
F P
D.6 Giữ gìn nơi công cộng 2.78 .48 2.90 .36 22.949 0
D.11 Hy sinh vì bạn bè 2.92 .34 2.81 .45 21.585 0
D.18 Trung thực với thầy cô 2.62 .60 2.78 .51 16.334 0
D.25 Trách nhiệm trong học tập 2.83 .47 2.72 .58 11.651 0.001
D.30 Tự tin 2.61 .64 2.46 .72 7.046 0.008
D.33 Nghiêm túc với học sinh 2.75 .57 2.85 .44 12.046 0.001
D.34 Tin tưởng học sinh 2.83 .42 2.93 .33 18.416 0
D.36 Học hỏi nơi học sinh 2.85 .44 2.94 .26 22.633 0
D.40 Không bảo thủ trong công việc sư
phạm 2.83 .45 2.91 .35 10.460 0.001
Bảng 28 – So sánh hành vi đạo đức theo xuất thân gia đình
TPHCM Ngoài
TPHCM Hành vi đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC
F P
D.4 Biết ơn thế hệ trước 2.61 .55 2.67 .50 6.861 0.009
D.7 Lịch sự nơi công cộng 2.78 .45 2.84 .42 7.928 0.005
D.13 Hiếu thảo 2.61 .65 2.71 .57 10.530 0.001
D.20 Nhiệt thành với thầy cô 2.85 .39 2.93 .28 29.820 0
D.31 Yêu cầu cao với bản thân 2.14 .48 2.26 .50 12.254 0.001
D.33 Nghiêm túc với học sinh 2.78 .55 2.85 .45 10.923 0.001
D.38 Tận tâm với nghề Sư phạm 2.81 .49 2.86 .35 9.831 0.002
D.39 Dũng cảm chống tiêu cực trong
giáo dục 2.58 .63 2.66 .56 8.237 0.004
D.40 Không bảo thủ trong công việc sư
phạm 2.87 .41 2.92 .30 8.791 0.003
Bảng 29 – So sánh hành vi đạo đức theo trình độ đào tạo
Sinh viên
năm đầu
Sinh viên
năm cuối Hành vi đạo đức
TB ĐLC TB ĐLC
F P
D.4 Biết ơn thế hệ trước 2.70 .50 2.61 .54 8.859 0.003
D.7 Lịch sự nơi công cộng 2.85 .37 2.79 .48 15.651 0
D.10 Khiêm tốn trong bạn bè 2.86 .36 2.74 .47 38.143 0
D.11 Hy sinh vì bạn bè 2.91 .33 2.84 .42 12.839 0
D.15 Bình đẳng trong gia đình 2.79 .48 2.71 .54 8.793 0.003
D.17 Kính trọng thầy cô giáo 2.89 .40 2.83 .48 7.041 0.008
D.21 Biết ơn thầy cô giáo 2.88 .40 2.80 .48 12.963 0
D.22 Tích cực trong học tập 2.78 .49 2.71 .59 7.760 0.006
D.26 Cầu tiến trong học tập 2.85 .47 2.77 .54 9.609 0.002
D.35 Yêu thương học sinh 2.94 .24 2.90 .30 9.694 0.002
D.39 Dũng cảm chống tiêu cực trong
giáo dục 2.70 .56 2.55 .61 13.087 0
D.40 Không bảo thủ trong công việc sư
phạm 2.92 .33 2.86 .39 11.495 0.001
D8 Hành vi đạo đức trong mối quan hệ
với nghề Sư phạm 2.77 .30 2.68 .33 8.186 0.004
Bảng 30 – So sánh hành vi đạo đức theo trường đào tạo
Điểm trung bình của sinh viên trường Nhóm hành vi và các
hành vi riêng lẻ ĐHSP ĐHSPKT CĐSP CĐSPMG THSPMN
F P
D Hành vi đạo đức 2.6628 2.7080 2.6862 2.7881 2.7211 6.098 0
D1 Hành vi đạo đức
trong mối quan hệ xã
hội
2.5785 2.6536 2.6090 2.7575 2.6999 7.736 0
D8 Hành vi đạo đức
trong mối quan hệ
với nghề Sư phạm
2.6881 2.6580 2.6842 2.8662 2.7592 6.906 0
D.4 Biết ơn thế hệ
trước
2.53 2.59 2.51 2.81 2.73 5.965 0
D.7 Lịch sự nơi công
cộng
2.73 2.86 2.74 2.93 2.80 3.557 0.007
D.18 Trung thực với
thầy cô
2.60 2.67 2.71 2.89 2.74 3.690 0.006
D.26 Cầu tiến trong
học tập
2.59 2.72 2.84 2.85 2.92 5.925 0
D.27 Tự trọng 2.55 2.47 2.56 2.76 2.64 3.867 0.004
D.31 Yêu cầu cao 2.33 2.21 2.07 2.31 2.11 5.036 0.001
D.37 Yêu nghề Sư
phạm
2.59 2.35 2.42 2.76 2.69 10.680 0
D.39 Dũng cảm
chống tiêu cực trong
giáo dục
2.52 2.55 2.55 2.82 2.61 4.115 0.003
Bảng 31 – Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị đạo đức
STT Yếu tố ảnh hưởng Trung bình
Xếp hạng
1 Lịch sử truyền thống quê hương 3.89 4 2 Các quy định thành văn của pháp luật, xã hội và nhà trường 3.79 7
3 Lịch sử truyền thống của gia đình 3.86 5 4 Trình độ học vấn của cha mẹ 3.14 22 5 Nghề nghiệp của cha mẹ 2.96 26 6 Lối sống của chính cha mẹ và người lớn trong gia đình 3.93 3 7 Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ gia đình 4.18 1 8 Kỷ luật nghiêm khắc của cha mẹ 3.86 6 9 Điều kiện kinh tế của gia đình 3.63 12
10 Lối sống của chính thầy cô giáo 3.50 16 11 Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ thầy cô giáo 3.77 8 12 Phong cách giảng dạy của thầy cô giáo 3.74 9 13 Kỷ luật trong nhà trường 3.61 13 14 Lối sống của người bạn thân 3.38 20 15 Lối sống của bạn bè trong trường, lớp 3.12 23 16 Lối sống của bạn bè ngoài xã hội 3.05 24 17 Lối sống của hàng xóm, khu dân cư xung quanh nơi mình ở 2.91 28 18 Những kiến thức học được từ sách vở 3.74 10 19 Mục tiêu của nghề nghiệp trong tương lai 4.04 2 20 Những gương điển hình thành đạt lớn tuổi trong thực tế 3.48 17 21 Những người trẻ tuổi thành đạt 3.55 15
22 Các vấn đề thời sự về văn hóa, đạo đức, lối sống mà mình bắt gặp trên các phương tiện truyền thông
3.59 14
23 Những câu chuyện về lối sống từ báo chí, truyền hình 3.47 18 24 Những câu chuyện trong phim 2.93 27 25 Thần tượng trong một lĩnh vực nghệ thuật nào đó 2.68 29 26 Các mối quan hệ trên mạng Internet 2.37 30 27 Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường 3.28 21 28 Sự giàu lên nhanh chóng của những người xung quanh 3.03 25 29 Đồng tiền mà mình kiếm được thông qua làm thêm 3.41 19 30 Kiến thức từ những khóa học thêm ngoài trường 3.64 11
Bảng 32 – So sánh yếu tố ảnh hưởng theo giới tính
Nam
sinh viên
Nữ
sinh viên Yếu tố ảnh hưởng
TB ĐLC TB ĐLC
F P
E.5 Nghề nghiệp của cha mẹ 2.87 1.25 2.88 1.40 6.846 0.009
E.6 Lối sống của chính cha mẹ và người
lớn trong gia đình 4.00 1.08 3.87 1.22 8.253 0.004
E.26 Các mối quan hệ trên mạng Internet 2.24 1.14 2.47 1.35 13.968 0
Bảng 33 – So sánh yếu tố ảnh hưởng theo xuất thân gia đình
TPHCM Ngoài
TPHCM Yếu tố ảnh hưởng
TB ĐLC TB ĐLC
F P
E.2 Các quy định thành văn của pháp luật,
xã hội và nhà trường 3.68 1.17 3.84 1.05 6.672 .010
E.3 Lịch sử truyền thống của gia đình 3.68 1.16 4.00 .99 22.672 0
E.6 Lối sống của chính cha mẹ và người lớn
trong gia đình 3.90 1.25 3.95 1.10 7.699 .006
E.8 Kỷ luật nghiêm khắc của cha mẹ 3.76 1.08 3.97 .93 13.689 0
E.11 Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ thầy
cô giáo 3.73 1.08 3.82 .88 13.066 0
E.18 Những kiến thức học được từ sách vở 3.66 1.07 3.80 .96 7.661 .006 E.20 Những gương điển hình thành đạt lớn
tuổi trong thực tế 3.33 1.23 3.60 1.06 9.868 .002
E.21 Những người trẻ tuổi thành đạt 3.42 1.24 3.67 1.03 15.376 0
Bảng 34 – So sánh yếu tố ảnh hưởng theo trình độ đào tạo
Sinh viên
năm đầu
Sinh viên
năm cuối Yếu tố ảnh hưởng
TB ĐLC TB ĐLC
F P
E.1 Lịch sử truyền thống quê hương 3.85 1.23 3.99 1.11 6.103 .014
E.11 Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ thầy
cô giáo 3.82 .95 3.69 1.05 7.247 .007
E.16 Lối sống của bạn bè ngoài xã hội 3.07 1.14 3.14 1.31 8.052 .005
Bảng 35 – So sánh yếu tố ảnh hưởng theo trường đào tạo
Điểm trung bình của sinh viên trường Yếu tố ảnh hưởng
ĐHSP ĐHSPKT CĐSP CĐSPMG THSPMN
F P
E.3 Lịch sử truyền thống
của gia đình
4.10 3.93 3.75 4.09 3.58 4.265 .002
E.20 Những gương điển
hình thành đạt lớn tuổi
trong thực tế
3.54 3.60 3.33 3.83 3.19 4.549 .001
E.21 Những người trẻ tuổi
thành đạt
3.58 3.66 3.47 3.86 3.32 3.121 .015
E.24 Những câu chuyện
trong phim
3.07 2.72 2.75 3.22 2.84 3.083 .016
E.25 Thần tượng trong một
lĩnh vực nghệ thuật nào đó
2.77 2.47 2.49 3.07 2.69 3.560 .007
E.26 Các mối quan hệ trên
mạng Internet
2.53 2.13 2.29 2.68 2.27 3.045 .017
PHỤ LỤC 2 – MỘT SỐ KẾT QUẢ THĂM DÒ MỞ
PHỤ LỤC 3
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN Các bạn sinh viên thân mến! Để hoàn tất đề tài “Định hướng giá trị đạo đức của sinh viên ngành Sư phạm tại TP.HCM”, chúng tôi thực hiện Phiếu thăm dò này, rất mong nhận được ý kiến chia sẻ của các bạn! Tất cả câu trả lời trong phiếu này hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến kết quả học tập cũng như rèn luyện của các bạn. Các bạn vui lòng cho biết đôi điều về bản thân:
- Bạn là sinh viên trường: ....................................................................................................... - Khoa: ............................................................ - Năm thứ: 1 2 3 4 5 - Giới tính: Nam Nữ - Có hộ khẩu thường trú: Tại TP.HCM
A. Dưới đây là một số giả thuyết về thực trạng thay đổi các giá trị đạo đức của thanh niên sinh viên ngày nay so với thời kỳ trước năm 2000, hãy cho biết ý kiến của bạn bằng cách đánh dấu X vào mỗi giả thuyết mà bạn đồng ý: STT Nhận định Đồng ý
1 Các giá trị truyền thống bị mất đi nhiều 2 Các giá trị hiện đại xâm nhập nhiều 3 Có nhiều biểu hiện tiêu cực 4 Sống tự do theo ý mình nhiều hơn 5 Giá trị của đồng tiền được đề cao hơn
6 Học để lấy bằng cấp hơn là lấy tri thức cho bản thân và phục vụ xã hội
7 Sống phô trương của cải nhiều hơn 8 Tin tưởng nhiều hơn vào những giá trị ảo trên thế giới Internet
9 Ai cũng muốn thể hiện đẳng cấp “cái tôi” của mình nhiều hơn trong các quan hệ xã hội
10 Đánh giá độ thành công của công việc dựa trên mức lương và nơi làm việc
B. Dưới đây là các giá trị đạo đức trong các mối quan hệ và hoạt động hàng ngày. Bạn hãy cho điểm vào trước mỗi giá trị theo qui ước: 3 = cần thiết; 2 = phân vân; 1 = không cần thiếtI. Các giá trị đạo đạo đức trong mối quan hệ với xã hội:
1. Tin tưởng vào xã hội 2. Hy sinh vì người khác 3. Biết ơn thế hệ trước 4. Tự hào dân tộc 5. Thương người 6. Chấp hành luật pháp 7. Giữ gìn công trình công cộng 8. Lịch sự nơi công cộng
9. Đoàn kết trong cộng đồng 10. Trung thực với mọi người 11. Trung thành với chế độ 12. Bàng quan trước thay đổi của xã
hội * 13. Nhiệt tình với hoạt động xã hội 14. Dũng cảm chống cái xấu
II. Các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với bạn bè:1. Trung thực 2. Uy tín
3. Khiêm tốn 4. Sòng phẳng 5. Hy sinh 6. Dũng cảm ngăn cái xấu 7. Tế nhị khi giao tiếp 8. Bao dung với lỗi của bạn 9. Thờ ơ với tâm sự của bạn * 10. Tôn trọng quyết định của bạn 11. Lợi dụng tình bạn thân *
12. Đòi hỏi sự giúp đỡ * 13. Đoàn kết trong nhóm 14. Tin tưởng lẫn nhau 15. Bình đẳng 16. Chia sẻ 17. Khôi hài (đem nụ cười đến cho
bạn) 18. Trách nhiệm
III. Các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với gia đình: 1. Độc lập về quyết định cá
nhân 2. Hiếu thảo 3. Trung thực 4. Bình đẳng với cha mẹ 5. Đòi hỏi được phục vụ * 6. Chăm lo cho em nhỏ 7. Trách nhiệm
8. Thờ ơ với mọi người * 9. Uy tín 10. Hy sinh 11. Kính trên nhường dưới 12. Thẳng thắn 13. Biết ơn 14. Khiêm tốn về thành công của mình
IV. Các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với thầy cô giáo: 1. Kính trọng 2. Trung thực 3. Thẳng thắn 4. Nhiệt thành 5. Biết ơn 6. Vô tâm với nỗi đau của thầy
cô *
7. Bình đẳng với thầy cô 8. Hy sinh vì thầy cô 9. Thụ động * 10. Bất cần sự quan tâm của thầy cô * 11. Tin tưởng 12. Ỷ lại vào thầy cô *
V. Các giá trị đạo đức trong hoạt động học tập: 1. Độc lập 2. Kiên
nhẫn 3. Trung
thực (không gian lận)
4. Trách nhiệm 5. Cầu tiến 6. Ngại khó * 7. Cẩn thận 8. Hoài nghi những
điều sai 9. Nghiêm túc
10. Siêng năng 11. Khiêm tốn 12. Dựa dẫm * 13. Say mê 14. Lạc quan (dù kết
quả không cao) 15. Thụ động *
VI. Các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với bản thân: 1. Tự trọng 2. Khiêm
tốn 3. Tự ái 4. Tự tin
5. Yêu cầu cao 6. Trung thực 7. Tự kiềm chế 8. Tự mãn * 9. Kiên trì 10. Tự ti *
11. Nhút nhát* 12. Lạc quan 13. Tự phê bình 14. Chấp nhận thử
thách
VII. Các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với học sinh trong tương lai: 1. Trung
thực 2. Nghiêm
túc 3. Tin
tưởng 4. Yêu
thương
5. Học hỏi (từ học sinh)
6. Tận tụy 7. Quyết đoán 8. Vị tha 9. Tôn trọng 10. Bình đẳng 11. Thẳng thắn 12. Thờ ơ với hoàn cảnh
học sinh *
13. Nhiệt thành 14. Tế nhị 15. Cởi mở 16. Uy tín 17. Chân thành 18. Sòng phẳng 19. Hy sinh 20. Trách nhiệm
VIII. Các giá trị đạo đức trong mối quan hệ với nghề sư phạm: 1. Yêu nghề 2. Tận tâm 3. Dũng cảm chống tiêu cực 4. Năng động (dám thay đổi) 5. Giản dị (trong phong cách) 6. Trung thực
7. Kỷ luật 8. Siêng năng 9. Nhẫn nại 10. Tiết kiệm 11. Bản lĩnh 12. Quan tâm tới sự nghiệp giáo dục
C. Dưới đây là một số thái độ trong các mối quan hệ và hoạt động. Bạn hãy chọn các mức độ mà bạn cho là phù hợp với mình bằng cách đánh dấu X vào ô số ở cột MỨC ĐỘ theo qui ước sau:
- Đánh số 3: phù hợp - Đánh số 2: phân vân - Đánh số 1: không phù hợp
Lưu ý: Chọn 2 ; Bỏ 2 ; Chọn lại 2 STT THÁI ĐỘ MỨC ĐỘ 1 Tôi có lòng tin vào chế độ xã hội mình đang sống 3 2 1 2* Tôi đặt lợi ích cá nhân mình cao hơn lợi ích tập thể 3 2 1 3 Tôi cảm kích công ơn của những người đã hy sinh cho đất nước này 3 2 1 4 Tôi tự hào mình là người Việt Nam 3 2 1 5* Tôi không thấy mủi lòng khi thấy ai đó gặp nạn 3 2 1 6 Tôi khó chịu với những ai vượt đèn đỏ trên đường 3 2 1 7 Tôi ghét những ai tự nhiên xả rác ngoài đường 3 2 1 8 Tôi không thích những bộ trang phục hở hang nơi công cộng 3 2 1 9 Tôi ghét việc lừa dối bạn bè của mình 3 2 1 10* Tôi không quan trọng việc giữ lời hứa với bạn bè 3 2 1 11* Tôi luôn muốn chứng tỏ mình vượt trội trong một nhóm bạn 3 2 1 12 Tôi chấp nhận hy sinh vì người bạn thân của mình 3 2 1 13 Trong gia đình, tôi muốn hoàn toàn tự mình quyết định chuyện của
riêng mình 3 2 1 14 Tôi luôn làm mọi việc để cha mẹ vui lòng 3 2 1 15* Tôi nghĩ việc nói dối với các thành viên trong gia đình cũng không sao 3 2 1 16 Theo tôi, trong gia đình mọi người cần phải bình đẳng với nhau 3 2 1 17 Tôi luôn cúi chào thầy cô giáo, ngay cả khi họ không trực tiếp dạy tôi 3 2 1 18 Với tôi, nói dối thầy cô là điều không thể chấp nhận được 3 2 1 19 Tôi mạnh dạn tranh luận với thầy cô về những vấn đề mình không đồng
tình 3 2 1 20 Tôi luôn hưởng ứng những hoạt động mà thầy cô đưa ra 3 2 1 21* Đối với tôi, thầy cô chỉ thực sự có ý nghĩa khi tôi còn ngồi trên ghế nhà
trường 3 2 1
22 Tôi nghĩ, dựa dẫm vào người khác về việc học của mình là điều không tốt 3 2 1
23* Tôi hay chán nản mỗi khi việc học gặp khó khăn 3 2 1 24 Tôi chấp nhận chịu điểm kém chứ không hề gian lận 3 2 1 25 Tôi học vì bản thân mình chứ không vì một ai khác 3 2 1
X X X
26* Tôi không có tham vọng học cao hơn sau này 3 2 1 27 Tôi không làm điều gì xấu hổ với bản thân 3 2 1 28 Đối với tôi, tự kiêu sẽ làm hại mình 3 2 1 29* Tôi luôn phật ý nếu như ai nói xấu về mình dù chỉ là rất ít 3 2 1 30* Càng ngày tôi càng kém tự tin vào bản thân mình 3 2 1 31 Tôi luôn khắt khe với bản thân mình trong bất cứ việc gì 3 2 1 32 Đối với tôi, không nhận lỗi khi mình làm sai với học sinh của tôi sau
này là một điều đáng xấu hổ 3 2 1
33 Trong môi trường giảng dạy sau này, tôi không bao giờ vượt quá quan hệ thầy trò khi giao tiếp với học sinh của mình 3 2 1
34 Tôi luôn có lòng tin cao độ vào học sinh của mình sau này 3 2 1 35 Tôi sẽ luôn chỉ bảo tận tình cho học sinh của mình sau này 3 2 1 36* Đối với tôi, học sinh của mình sau này chẳng có gì hay ho để mình học
hỏi cả 3 2 1
37 Tôi thật sự yêu qúy nghề sư phạm ngay cả khi chứng kiến những tiêu cực trong ngành giáo dục 3 2 1
38 Tôi sẵn sàng giảng giải cho học sinh đến khi nào hiểu thì thôi 3 2 1 39 Tôi sẽ làm mọi cách để không có tiêu cực xảy ra trong việc dạy và học 3 2 1 40* Tôi không muốn thay đổi phong cách của mình ngay cả khi điều đó ảnh
hưởng xấu đến phương pháp học của học sinh 3 2 1 D. Bạn hãy cho biết cách xử sự của mình trong các hoàn cảnh sau bằng cách chọn câu trả lời phù hợp với hành vi của bạn (đánh dấu X vào câu trả lời a hoặc b hoặc c) 1. Khi nghe ai đó nói những điều không tốt về quê hương của bạn, bạn sẽ phản ứng: a. Thể hiện cho họ thấy bạn không đồng tình b. Chẳng bận tâm c. Thấy người ấy nói cũng có lý 2. Khi thấy ai đó gặp tai nạn trên đường, tôi sẽ: a. Hỏi thăm, giúp đỡ họ hết mình b. Sẽ giúp đỡ nếu được yêu cầu c. Thờ ơ, vì đó không phải là việc của mình 3. Sau khi ra trường, giả sử bạn được phân công về vùng sâu vùng xa công tác, thì bạn sẽ: a. Sẵn sàng đến nơi ấy để phục vụ b. Sẽ đi nếu như không còn sự lựa chọn nào khác c. Tìm mọi cách để không phải đi 4. Trong những ngày lễ tôn vinh lịch sử vẻ vang của đất nước, bạn sẽ: a. Cảm thấy vui trong lòng và tham gia hết mình vào những hoạt động kỷ niệm b. Vui thì tham gia, không thì thôi c. Cho rằng những sự tổ chức ấy là không cần thiết 5. Khi đang chạy xe trên đường trong khi vội vàng, gặp đèn đỏ và không thấy sự xuất hiện của cảnh sát, bạn sẽ: a. Vẫn dừng lại chờ đèn xanh b. Từ từ chạy qua nếu ai cũng chạy qua c. Thản nhiên chạy qua 6. Khi đang chờ xe buýt, sau khi ăn bánh mì xong và cần bỏ giấy gói bánh đi, bạn sẽ: a. Cầm cho đến khi gặp thùng rác mới bỏ b. Để vào 1 góc trạm chờ xe buýt vì thấy ai cũng vậy c. Thản nhiên bỏ xuống đất
7. Khi đang trên xe buýt, nếu ai đó vô tình giẫm vào chân bạn, bạn sẽ: a. Từ tốn nhắc nhở người đó b. Từ từ kéo chân ra và lẩm bẩm vẻ khó chịu c. To tiếng mắng cho người đó một trận 8. Khi bạn chẳng may làm mất một vật gì đó không quan trọng lắm của một người bạn thân, bạn sẽ: a. Nhận lỗi ngay và tìm mọi cách đền lại vật ấy b. Xem phản ứng của bạn mình rồi quyết định có đền hay không c. Lờ đi, nếu bị phát hiện thì đổ thừa cho hoàn cảnh 9. Khi bạn nhận giúp bạn mình một điều gì đó, trong khi vẫn đang rất bận, bạn sẽ: a. Cố gắng bằng mọi giá phải làm xong đúng hạn b. Làm xong nhưng không cần đúng hạn cũng được c. Hẹn lần hẹn lữa vì việc cá nhân của mình quá bận 10. Khi bạn được tuyên dương trong một nhóm bạn, bạn sẽ: a. Cho rằng đó là thành công của cả tập thể, và chia vui cùng mọi người b. Cho rằng bình thường, công lao của mình bỏ ra thì mình đáng được nhận c. Rất tự mãn vì không ai có thể làm được việc đó ngoài bạn 11. Khi người bạn thân của mình bị bệnh nặng và cần truyền máu gấp, chỉ có một mình bạn là có nhóm máu thích hợp, bạn sẽ: a. Sẵn sàng cho mà không đòi hỏi gì b. Lưỡng lự để xem còn ai khác có thể cho không c. Không thể cho được, vì có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của mình 12. Khi gia đình bàn về tương lai của bạn, bạn sẽ: a. Tiếp thu hết ý kiến nhưng tự mình ra quyết định cuối cùng b. Lưỡng lự khi phải nghe quá nhiều ý kiến c. Hoàn toàn nghe theo gia đình vì tự mình không thể quyết định được 13. Khi cha / mẹ bạn bị ốm, mà bạn đang có một cuộc hẹn quan trọng, bạn sẽ: a. Hủy bỏ cuộc hẹn và ở nhà chăm sóc cha / mẹ b. Thực hiện cuộc hẹn một cách cấp tốc rồi trở về nhà chăm sóc cha / mẹ c. Nhờ người thân trong gia đình chăm sóc cha / mẹ và đi đến cuộc hẹn 14. Khi bạn lỡ hẹn với gia đình trong một sự kiện nào đó, bạn sẽ: a. Nhận lỗi b. Lờ đi c. Viện một lý do gì đó để nói đỡ cho qua chuyện 15. Khi cha mẹ cấm đoán bạn điều gì đó mà bạn cảm thấy vô lý, bạn sẽ: a. Nêu rõ chính kiến của mình và thuyết phục để cha mẹ hiểu b. Im lặng nhưng không phục tùng c. Chấp nhận vì người lớn luôn luôn đúng 16. Khi em trai / gái của bạn gặp khó khăn trong kỳ thi đại học, bạn sẽ: a. Lo lắng, động viên và giúp đỡ em mình b. Mặc kệ, chuyện ai người ấy lo c. Quát mắng nó vì không chịu chăm chỉ học hành 17. Khi gặp thầy cô ngoài đường, bạn sẽ: a. Luôn luôn cúi đầu chào b. Lờ đi xem như không thấy c. Nhìn chằm chằm xem họ đang đi đâu, làm gì 18. Khi bạn bị thầy cô phát hiện gian lận trong kỳ thi, bạn sẽ: a. Nhận lỗi và chịu mọi hình thức kỷ luật b. Im lặng xem như đó là chuyện xui xẻo c. Tìm mọi cách biện hộ cho mình để thoát tội 19. Khi nhận thấy thầy cô phạm sai lầm, bạn sẽ: a. Mạnh dạn tìm cách góp ý chân thành
b. Đó không phải là chuyện của mình, nên không quan tâm c. Bàn tán xôn xao xem đó là chuyện hấp dẫn 20. Khi thầy cô cần một sự hỗ trợ chuyên môn từ bạn, bạn sẽ: a. Sẵn sàng giúp đỡ, xem đó như một cơ hội học hỏi b. Sẽ tham gia khi nào bị bắt buộc c. Tránh né, vì cho rằng mất thời gian 21. Sau này khi đã ra trường, mỗi khi ai đó nhắc đến thầy cô giáo cũ của bạn, bạn sẽ: a. Cảm thấy vui và nhớ về thầy cô với lòng biết ơn sâu sắc b. Cảm thấy rất bình thường c. Xem công lao của các thầy cô là chuyện đương nhiên họ phải làm vì công việc 22. Khi không thông hiểu một nội dung môn học nào đó, tôi thường: a. Tìm kiếm sự hỗ trợ từ tài liệu tham khảo, thầy cô hoặc bạn bè b. Im lặng tự mày mò, nếu khó khăn quá thì buông xuôi c. Nhờ người khác giải quyết hộ 23. Khi gặp vấn đề khó trong bài tập, bạn thường: a. Cố gắng làm đến khi nào được mới thôi b. Đến khi không giải quyết được thì tỏ ra bực tức c. Bỏ dở dang ngay từ đầu 24. Trong phòng thi, nếu bạn chẳng may không nhớ ra được nội dung câu trả lời, bạn sẽ: a. Làm với tất cả khả năng còn lại của mình, có thể điểm sẽ thấp b. Hỏi bạn bên cạnh nếu có thể c. Tìm mọi cách cầu cứu thậm chí quay cóp 25. Bạn quyết học cho tốt vì: a. Bản thân tương lai của bạn b. Sự hãnh diện của gia đình c. Chẳng vì cái gì cả, cứ học vậy thôi 26. Sau khi ra trường, bạn sẽ: a. Cố gắng học cao hơn nữa để có công việc tốt hơn b. Sẽ học lên cao nếu bị bắt buộc c. Không học tiếp nữa, như vậy là đủ 27. Khi bạn làm hoặc nói sai điều gì đó trước mặt mọi người, bạn sẽ: a. Cảm thấy ân hận, xấu hổ b. Hơi ngượng ngùng một chút c. Xem như không có chuyện gì, vì điều đó cũng thường xảy ra với bạn 28. Khi thành công, bạn thường biểu hiện bằng cách: a. Im lặng, đó chỉ là may mắn so với những điều to lớn hơn mà người khác đã đạt được b. Đi khoe với một vài người thân c. Cho mọi người biết đó là điều mà không phải ai cũng đạt được 29. Khi gặp những lúc khó khăn cao độ trong cuộc sống, bạn thường: a. Nghĩ về thành công trong tương lai và cố gắng hết khả năng của mình b. Đôi khi thấy nao núng và không cố gắng lắm c. Cảm thấy mình bất tài 30. Khi đảm nhận một công việc nào đó, bạn thường mong chờ kết quả: a. Phải thật xuất sắc b. Hoàn thành tốt, đúng tiến độ c. Làm xong là được 31. Khi học sinh góp ý với bạn về một lỗi lầm nào đó, với tư cách là một giáo viên, bạn sẽ: a. Vui vẻ xem xét lại mình và cảm động vì lời góp ý đó b. Ngượng ngùng khi bị phát hiện c. Tức giận vì học sinh mà lại dám lên mặt với thầy cô như vậy 32. Khi học sinh trêu chọc bạn về một điều gì đó liên quan đến tình cảm, với tư cách là một giáo viên, bạn sẽ:
a. Nghiêm túc để học sinh không nên đi quá giới hạn của quan hệ thầy trò trong nhà trường b. Lờ cho qua chuyện c. Cảm thấy thú vị và quan tâm thậm chí hưởng ứng các em 33. Bạn có một học sinh cá biệt, sau nhiều lần phạm lỗi lầm, em ấy quyết định sửa đổi, với tư cách là một giáo viên, bạn sẽ: a. Động viên và tin tưởng vào sự cố gắng của học sinh ấy b. Nghi ngờ không biết có sửa đổi được em ấy không c. Không quan tâm đến nữa, vì tính xấu thì không thể sửa đổi được 34. Khi học sinh trong lớp của bạn gặp tai nạn và phải tạm ngừng việc học, với tư cách là một giáo viên, bạn sẽ: a. Rất lo lắng, đến động viên, thăm hỏi và tìm cách hỗ trợ cho em học sinh ấy theo kịp tiến độ học tập b. Lo lắng, kêu gọi các học sinh khác trong lớp đến thăm và sợ em học sinh ấy làm ảnh hưởng đến thành tích của lớp c. Không việc gì phải lo, em học sinh ấy đã có gia đình và bạn bè thăm hỏi rồi, mình là giáo viên thì chỉ lo dạy cho tốt là được 35. Khi học sinh của bạn có hiểu biết hơn bạn về một lĩnh vực nào đó, nếu là một giáo viên, bạn sẽ: a. Cảm thấy thú vị và sẵn sàng nhận sự chia sẻ từ học sinh của mình b. Lờ đi để em học sinh đó không còn “khoe khoang” với mình nữa c. Tỏ vẻ khó chịu và mình “thua” học sinh của mình 36. Sau này nếu trở thành giáo viên, giả sử lương của bạn không đủ trang trải, bạn sẽ: a. Vẫn tiếp tục với nghề sư phạm vì tâm huyết của cá nhân mình b. Phân vân giữa nghề dạy học với một nghề khác kiếm tiền nhiều hơn c. Chuyển ngay sang công việc khác và cho rằng công sức mình học bao nhiêu năm qua là vô ích 37. Khi thấy những học trò ít còn nhớ đến mình khi ra trường, khi thấy những vất vả trong nghề sư phạm, là một giáo viên, bạn sẽ: a. Vẫn cố gắng hết sức để gìn giữ một hình ảnh đẹp về người giáo viên b. Buồn vì nghề của mình không phải là nghề “giàu và nổi tiếng” c. Có lẽ phải bỏ nghề vì thấy chán nản 38. Khi chứng kiến một giáo viên nào đó giúp học sinh gian lận trong kỳ thi, bản thân mình cũng là một giáo viên, bạn sẽ: a. Ngăn cản hoặc sẽ mạnh dạn tố cáo nếu lời can ngăn không có hiệu quả b. Không đồng tình nhưng lờ đi vì không muốn mang vạ vào thân
c. Xem đó là chuyện bình thường đôi khi cũng xảy ra trong giáo dục, nếu phải vì mục đích kinh tế có lẽ mình cũng sẽ làm như giáo viên ấy 39. Khi được nhận xét phương pháp giảng dạy của mình là kém hiệu quả (mặc dù mình đã đầu tư một thời gian dài), là một giáo viên, bạn sẽ: a. Tiếp thu ý kiến và sửa đổi để học sinh lĩnh hội tốt hơn b. Tranh cãi và sẽ thay đổi nếu như cấp trên yêu cầu c. Quyết không thay đổi vì đó là công sức của mình bỏ ra bao lâu nay
E. Bạn hãy cho biết mức độ ảnh hưởng của những yếu tố sau đây đối với việc thay đổi các giá trị đạo đức của sinh viên Sư phạm, bằng cách đánh dấu X vào các ô số tương ứng với mỗi yếu tố theo qui ước:
- Đánh số 5: ảnh hưởng rất nhiều - Đánh số 4: ảnh hưởng nhiều - Đánh số 3: phân vân - Đánh số 2: ít ảnh hưởng - Đánh số 1: không ảnh hưởng
126
STT Yếu tố ảnh hưởng Mức độ 1 Lịch sử truyền thống quê hương 5 4 3 2 1 2 Các quy định thành văn của pháp luật, xã hội và nhà trường 5 4 3 2 1 3 Lịch sử truyền thống của gia đình 5 4 3 2 1 4 Trình độ học vấn của cha mẹ 5 4 3 2 1 5 Nghề nghiệp của cha mẹ 5 4 3 2 1 6 Lối sống của chính cha mẹ và người lớn trong gia đình 5 4 3 2 1 7 Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ gia đình 5 4 3 2 1 8 Kỷ luật nghiêm khắc của cha mẹ 5 4 3 2 1 9 Điều kiện kinh tế của gia đình 5 4 3 2 1
10 Lối sống của chính thầy cô giáo 5 4 3 2 1 11 Những lời dạy bảo, nhắc nhở từ thầy cô giáo 5 4 3 2 1 12 Phong cách giảng dạy của thầy cô giáo 5 4 3 2 1 13 Kỷ luật trong nhà trường 5 4 3 2 1 14 Lối sống của người bạn thân 5 4 3 2 1 15 Lối sống của bạn bè trong trường, lớp 5 4 3 2 1 16 Lối sống của bạn bè ngoài xã hội 5 4 3 2 1 17 Lối sống của hàng xóm, khu dân cư xung quanh nơi mình ở 5 4 3 2 1 18 Những kiến thức học được từ sách vở 5 4 3 2 1 19 Mục tiêu của nghề nghiệp trong tương lai 5 4 3 2 1 20 Những gương điển hình thành đạt lớn tuổi trong thực tế 5 4 3 2 1 21 Những người trẻ tuổi thành đạt 5 4 3 2 1 22 Các vấn đề thời sự về văn hóa, đạo đức, lối sống mà mình bắt
gặp trên các phương tiện truyền thông 5 4 3 2 1 23 Những câu chuyện về lối sống từ báo chí, truyền hình 5 4 3 2 1 24 Những câu chuyện trong phim 5 4 3 2 1 25 Thần tượng trong một lĩnh vực nghệ thuật nào đó 5 4 3 2 1 26 Các mối quan hệ trên mạng Internet 5 4 3 2 1 27 Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường 5 4 3 2 1 28 Sự giàu lên nhanh chóng của những người xung quanh 5 4 3 2 1 29 Đồng tiền mà mình kiếm được thông qua làm thêm 5 4 3 2 1 30 Kiến thức từ những khóa học thêm ngoài trường 5 4 3 2 1
Chân thành cảm ơn các bạn!
PHỤ LỤC 4 – MẪU PHIẾU VÀ KẾT QUẢ TRẢ LỜI PHỎNG VẤN
127
1. Theo bạn, một sinh viên Sư phạm cần phải là người như thế nào?
2. Điều gì không thể chấp nhận được ở một sinh viên Sư phạm?
3. Người ta nói “tuổi trẻ phải sống vì quê hương đất nước, sống vì xã hội”, bạn hiểu sống như vậy là sống như thế nào?
4. Những biểu hiện đó có còn cần thiết ngày nay nữa không?
5. Nếu có ai đó nói rằng những phong tục tập quán, đạo đức lối sống của thế hệ cha ông để lại cho chúng ta bây giờ không còn cần thiết nữa, càng làm vướng bận thêm cuộc sống hiện đại ngày nay; bạn sẽ nghĩ gì và nói với họ thế nào?
6. Bạn hiểu thế nào là lòng biết ơn thế hệ đi trước?
7. Nếu có cơ hội du học nước ngoài, những người ở nơi bạn học lầm tưởng bạn là người Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore, bạn có đính chính không và nói thế nào?
8. Nếu ai đó chê tháp Rùa và Hồ Gươm là xấu, không xứng đáng là biểu tượng của thủ đô, bạn nghĩ sao?
9. Khi đi thăm những nơi tôn nghiêm như Lăng Bác, Dinh độc lập, hay Chùa, mặc dù ở đây bị cấm sử dụng máy ảnh, quay phim và đtdđ, nhưng bạn thấy một người thân của mình lén giấu những vật đó trong người để vào trong sử dụng, bạn sẽ làm gì?
10. Bạn nghĩ gì khi thấy người ta vẫn tiện tay vứt rác ngoài đường hay trong trường chúng ta sau khi ăn?
128
11. Bạn hiểu thế nào về lòng “hiếu thảo” ngày nay? Nó có khác gì ngày xưa không?
12. Nếu nói rằng “hiếu thảo” với cha mẹ là cho cha mẹ ăn ngon mặc đẹp, làm cho cha mẹ vui, vậy đã đúng chưa? Ý kiến riêng của bạn?
13. Khi lĩnh tháng lương đầu tiên với công việc chính thức, điều đầu tiên bạn nghĩ đến là gì?
14. Bạn nghĩ gì khi con cái ngày nay có thể ngồi tranh luận ngang bằng với cha mẹ về mọi vấn đề trong cuộc sống, kể cả những chuyện trong chính gia đình? Ủng hộ hay phản đối?
15. Bạn có đồng ý rằng học sinh ngày nay có quyền đánh giá, thậm chí phê bình giáo viên của mình một cách công khai không? Vì sao?
16. Ai cũng biết là học trò thì cần phải kính trọng thầy cô. Vậy biểu hiện sự kính trọng ấy như thế nào là đúng?
17. Trong quan hệ bạn bè, điều quan trọng nhất đối với bạn là gì để duy trì một tình bạn tốt?
18. Nếu người bạn thân nhất của bạn lừa dối bạn 1 chuyện gì đó, bạn có sẵn lòng tha thứ không?
19. Nếu sau này đang đứng lớp dạy, 1 học trò đứng lên phát hiện 1 chỗ sai trong bài giảng của bạn, bạn sẽ làm gì lúc đó?
20. Bạn có 1 học sinh học rất kém, bạn kèm cặp suốt mà không tiến bộ. Vậy đến khi nào bạn sẽ bỏ cuộc không kèm học sinh đó nữa?
21. Khi ra trường được đi dạy, lương bạn nhận 2 năm đầu là 1.500.000 đồng (một triệu rưỡi). Nếu đến năm thứ 3 lương không tăng, bạn có tiếp tục dạy không?
129
22. Việc “chứng tỏ cho người khác biết mình là ai” quan trọng với bạn đến mức nào?
PHỤC LỤC 5 – MỘT SỐ KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC HIỆN TRÊN INTERNET Tỉ lệ các ý kiến khi được hỏi “Bạn cho rằng đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay như thế nào?”
Về thái độ đối với thầy cô giáo:
Về lòng hiếu thảo:
130