9
Thiên Cơ Đạo Lý Đức Pht Thầy Tây An ra đời thuyết pháp tnăm Kdu 1849, để li bao lời tiên tri ng nghim nhim mầu. Tiên tri thời Tây Mỹ, có đoạn sm Pht Thy cho biết: Nói cho lớn nhghi lòng, Ngày sau mới biết rõ trong sự tình. Gili Thy dạy đinh ninh, Hết Tây ri li thiệt tình ti U. * Lành thời nim Phật công phu,tướng Tướng Pháp de Castries Dthi chu chlao tù hổ ngươi. Tướng MWestmoreland (Đức Pht Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào Hưng biên khảo, nhà xut bn Long Hoa n tống năm Quý tị 1953) Đức Pht Thy cho biết hết thi Tây (Pháp) cai tr, sti M{U=USA} ạt đưa hơn 500 ngàn quân qua Việt Nam nra cuc chiến tranh chết chóc vô cùng khốc liệt. Ngài khuyên người đạo hãy giữ bn phn tân, trung quân ái quốc, yêu nước thương nòi chống xâm lăng, tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ. Sau này, Đức Pht Thy lại tái thế mượn xác ông Ba Nguyễn văn Thới (1866-1926) viết bsm Kim CKQuan năm 1915, tiếp tục tiên tri thời Tây Mrõ hơn: Khhnguơn bẩm lại cà lì, Coi thân cực sướng nỗi gì cho thân. Tây chưa mãn tới vic U phân, * Ngi bun thy khmuôn dân não nề. Lương kế Thánh nhơn chí kế h, Ngậm ngùi Nam Vit nng nlao thân. (Kim CKQuan 30: 60, ông Ba Thới viết năm 1915) đs Trần văn Chương Cm tU phân, chU USA là Mỹ, chphân phân chia đất nước Việt Nam ra làm 2 miền Nam Bc. Sau năm 1954, toàn dân Việt chtng tuyn cthng nht VN theo ni dung hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhưng ngày 12- 12-1955, đại sTrần văn Chương đại diện chánh phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố M: Skhông có tổng tuyn cVN. Hiệp định Genève không bắt buộc, chánh phủ Mng hlập trường này. Câu sấm tiên tri rất là chính xác: Tây chưa mãn tới việc U phân. Mng hgiải pháp không tổng tuyn cthng nht VN, Mquyết định phân chia VN vĩnh viễn. Mun có được một nước VN thng nht, ắt là chỉ có con đường chiến tranh như đã xảy ra…{VN War}. * Cm tNam Vit ám chỉ tên nước ta vào triều đại Triệu Vũ Vương năm 207 trước tây lịch có biên giới bao gm 2 tnh Quảng Đông Quảng Tây {Lưỡng Qung}, giặc phương bc ln chiếm mưu đồ Hán hóa, tổ tiên ta phải bđất Lưỡng Qung, di xuống Thăng Long bảo tn ging Hng Lc. Đến năm Kỷ Mão 1939, Đức Pht Thầy tái thế làng Hòa Hảo mượn xác vị thanh niên Huỳnh Phú Sổ, lại tiên tri thời Tây Mỹ bng nhng câu sấm như sau: Đừng ham làm chc nc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi! Tu hành như thể thtrôi, Nay lmai bi chẳng có thiền tâm. Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê. Hùm beo tây tượng bn b, Lại thêm ác thú mãng xà rít to. Bá gia ai biết thì lo, Gác tai dèm siểm đôi co ích gì. Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nng vậy thì thiết tha! Dân nay như thể không cha, Tướng Pháp de Castries Chng ai dy dthiệt là thảm thương! Tướng MWestmoreland (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thy Huỳnh Giáo Chủ viết tại làng Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939) Ghi chú: Câu sấm: Hết Tây rồi đến Huê K, bchánh quyền Bảo Đại thời Pháp kiểm duyt, bt buc phi sa li là: Hết Đây rồi đến DK. Sau khi sa chTây thành Đây, và chữ Huê Kỳ thành DK, giáo hội mới được phép ấn hành để phbiến cho đồng đạo. Lut Thiên Điu là: Bôi sửa kinh sấm đáng tội đày địa ngc. Cm tkhóa không chìa ám chỉ năm 1975, người bnhốt vào tù {trại ci tạo} nhưng không biết thi hạn ngày ra tù. Qua năm 1948, Đức Pht Thy chiết hn linh tái thế mượn xác Ngài Thanh Sĩ (21 tui). Khi Tokyo kinh đô Nhựt vào năm 1968, Ngài tiên tri bàn cờ toàn dân Việt phá thế trn U phân, và thống nht Nam Bc:

Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

  • Upload
    others

  • View
    10

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

Thiên Cơ Đạo Lý

Đức Phật Thầy Tây An ra đời thuyết pháp từ năm Kỷ dậu 1849, để lại bao lời tiên tri ứng nghiệm nhiệm mầu. Tiên tri thời Tây Mỹ, có đoạn sấm Phật Thầy cho biết:

Nói cho lớn nhỏ ghi lòng, Ngày sau mới biết rõ trong sự tình.

Giữ lời Thầy dạy đinh ninh, Hết Tây rồi lại thiệt tình tới U. *

Lành thời niệm Phật công phu,tướng Tướng Pháp de Castries Dữ thời chịu chữ lao tù hổ ngươi. Tướng Mỹ Westmoreland

(Đức Phật Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào Hưng biên khảo, nhà xuất bản Long Hoa ấn tống năm Quý tị 1953)

Đức Phật Thầy cho biết hết thời Tây (Pháp) cai trị, sẽ tới Mỹ {U=USA} ồ ạt đưa hơn 500 ngàn quân qua Việt Nam nổ ra cuộc chiến tranh chết chóc vô cùng khốc liệt. Ngài khuyên người đạo hãy giữ bổn phận tứ ân, trung quân ái quốc, yêu nước thương nòi chống xâm lăng, tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ. Sau này, Đức Phật Thầy lại tái thế mượn xác ông Ba Nguyễn văn Thới (1866-1926) viết bộ sấm Kim Cổ Kỳ Quan năm 1915, tiếp tục tiên tri thời Tây Mỹ rõ hơn:

Khổ hạ nguơn bẩm lại cà lì, Coi thân cực sướng nỗi gì cho thân.

Tây chưa mãn tới việc U phân, * Ngồi buồn thấy khổ muôn dân não nề.

Lương kế Thánh nhơn chí kế hề, Ngậm ngùi Nam Việt nặng nề lao thân.

(Kim Cổ Kỳ Quan 30: 60, ông Ba Thới viết năm 1915) đs Trần văn Chương

Cụm từ U phân, chữ U là USA là Mỹ, chữ phân là phân chia đất nước Việt Nam ra làm 2 miền Nam Bắc. Sau năm 1954, toàn dân Việt chờ tổng tuyển cử thống nhứt VN theo nội dung hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhưng ngày 12-12-1955, đại sứ Trần văn Chương đại diện chánh phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố ở Mỹ: Sẽ không có tổng tuyển cử ở VN. Hiệp định Genève không bắt buộc, chánh phủ Mỹ ủng hộ lập trường này. Câu sấm tiên tri rất là chính xác: Tây chưa mãn tới việc U phân. Mỹ ủng hộ giải pháp không tổng tuyển cử thống nhứt VN, Mỹ quyết định phân chia VN vĩnh viễn. Muốn có được một nước VN thống nhứt, ắt là chỉ có con đường chiến tranh như đã xảy ra…{VN War}. * Cụm từ Nam Việt ám chỉ tên nước ta vào triều đại Triệu Vũ Vương năm 207 trước tây lịch có biên giới bao gồm 2 tỉnh Quảng Đông Quảng Tây {Lưỡng Quảng}, giặc phương bắc lấn chiếm mưu đồ Hán hóa, tổ tiên ta phải bỏ đất Lưỡng Quảng, dời xuống Thăng Long bảo tồn giống Hồng Lạc. Đến năm Kỷ Mão 1939, Đức Phật Thầy tái thế ở làng Hòa Hảo mượn xác vị thanh niên Huỳnh Phú Sổ, lại tiên tri thời Tây Mỹ bằng những câu sấm như sau:

Đừng ham làm chức nắc nia, Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!

Tu hành như thể thả trôi, Nay lở mai bồi chẳng có thiền tâm.

Mưu sâu thì họa cũng thâm, Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.

Hùm beo tây tượng bộn bề, Lại thêm ác thú mãng xà rít to.

Bá gia ai biết thì lo, Gác tai dèm siểm đôi co ích gì.

Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,* Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!

Dân nay như thể không cha, Tướng Pháp de Castries Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương! Tướng Mỹ Westmoreland

(Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ viết tại làng Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939)

Ghi chú: Câu sấm: Hết Tây rồi đến Huê Kỳ, bị chánh quyền Bảo Đại thời Pháp kiểm duyệt, bắt buộc phải sửa lại là: Hết Đây rồi đến Dị Kỳ. Sau khi sửa chữ Tây thành Đây, và chữ Huê Kỳ thành Dị Kỳ, giáo hội mới được phép ấn hành để phổ biến cho đồng đạo. Luật Thiên Điều là: Bôi sửa kinh sấm đáng tội đày địa ngục. Cụm từ khóa không chìa ám chỉ năm 1975, người bị nhốt vào tù {trại cải tạo} nhưng không biết thời hạn ngày ra tù. Qua năm 1948, Đức Phật Thầy chiết hồn linh tái thế mượn xác Ngài Thanh Sĩ (21 tuổi). Khi ở Tokyo kinh đô Nhựt vào năm 1968, Ngài tiên tri bàn cờ toàn dân Việt phá thế trận U phân, và thống nhứt Nam Bắc:

Page 2: Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

Nước Việt do dân Việt chủ quyền, Khó ai chi phối giống Rồng Tiên. Chung quy yêu nước hơn tư tưởng, Nam Bắc cuối cùng một mái hiên. (trích trong Hiển Đạo, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ở Tokyo ngày 30-8- 1968)

Trong hoàn cảnh ngoại xâm phân chia đất nước, Ngài Thanh Sĩ khuyên toàn dân Việt đoàn kết một lòng, gác bỏ mọi dị biệt về tư tưởng, cùng chung sức phá thế trận U phân, đánh đuổi quân giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Có như thế, nước nhà mới thống nhứt Nam Bắc cùng một mái hiên. Năm 1966, đất nước lâm vào cảnh khói lửa mịt mù khi Mỹ đổ quân trực tiếp tham chiến, chết chóc thật hãi hùng, lòng dân hoang mang, ông Phan Khắc Sửu nguyên quốc trưởng chánh quyền miền Nam nhiều lần viết thơ qua Nhựt hỏi ý kiến, và được Ngài Thanh Sĩ viết thơ phúc đáp; sau đây là một trong những bài thơ mà Ngài đã phúc đáp cho ông Phan Khắc Sửu:

Yêu nước bao đành để nước vong, Cùng nhau yêu nước phải chung lòng. Rẽ phân khó tránh người chia trị, Đoàn kết mới không bị trói tròng. Độc lập tự do toàn lãnh thổ, Chủ quyền dân chủ khắp non sông. Nước mình chính phải dân mình định, Giải cứu quốc gia một chữ đồng. (Lá Thơ Đông Kinh Q. 1, tr. 199, Bồ Tát Thanh Sĩ viết ngày 24-4-1966 ở Tokyo) QT. Phan Khắc Sửu Bồ Tát Thanh Sĩ

Cụm từ Rẽ phân ám chỉ U phân; cụm từ toàn lãnh thổ, khắp non sông ám chỉ câu: Nam Bắc cuối cùng một mái hiên. Bài thơ nhắn nhủ ông Phan Khắc Sửu rằng: Hãy đoàn kết dân tộc phá thế trận U phân giành độc lập thống nhứt nước nhà; muốn tránh thảm họa ngoại xâm, toàn dân phải giữ một chữ đồng: Đoàn kết. Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939) và Ngài Thanh Sĩ (1968) viết sấm ký với công tâm trung thực của bậc Tiên Phật, trung quân ái quốc, không chinh nghiêng, không bóp méo sự thật. Vậy chúng sanh không nên nghi ngờ theo phàm tánh, kẻo mang tội với các đấng Thiêng liêng. Cuối hạ nguơn tà ma dày đặc lộng hành, Đức Phật Thầy Tây An chiết hồn linh tái thế nhiều lần, Phật pháp vô biên thần thông quảng đại, thiên biến vạn hóa, mượn xác khi nam khi nữ khi già khi trẻ, phương tiện gần gũi người đạo để truyền Phật pháp cứu bá gia. Năm Đinh Mùi 1967, Phật Thầy cũng chiết hồn linh tái thế mượn xác vị Pháp Chủ Huỳnh Đạo thuyết sấm giảng Tiền Giang, Trung Giang, và Hậu Giang. Sau đây là vài đoạn trích trong Sấm Giảng Trung Giang:

Thi Bài: Mở đầu Sấm Giảng Trung Giang.

SẤM động Đông Nam Á khởi kỳ, trận chiến giành mỏ dầu Biển Đông GIẢNG truyền Huỳnh Đạo hộ cơ nguy. TRUNG Sơn Vương Phật Phong Thần định, Di Lạc ra đời GIANG bảo Quân Sư thế thành quy. Minh Vương Cửu Long Giang TÂN tạo kim đầu danh khuyết tịch, NIÊN y bạch quỷ thứ cao phi. ĐINH Mồ Tiên Phật hiền nhơn trạch, VỊ quy tam hà định khổn nguy. VỊ nói mẹo ám chỉ năm MÙI Pháp Chủ Huỳnh Đạo

Đây tạm mượn một bài văn thuyết, Phân thời cơ cho biết hậu kỳ. Trung Ương sấm nổ ầm ì, Trung Ương = Địa Cầu Nơi nào cũng thấy loạn ly điêu tàn. Trai đôi mươi nghinh ngang hung dữ, Gái thì không còn giữ tiết trinh. Bạc vàng xem nặng hơn mình, Cho nên nhồi quả văn minh hội này. Anh, Mỹ, Úc liên dây kinh tế, Á, Phi tầm huynh đệ nương nhau. Liên Sô ngồi ngó trước sau,

Page 3: Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

Mặc tình Tào Tháo lao đao nhiều bề. ĐINH niên hạ Hồng KÊ Mao tận, chiết vế ghép tự sẽ có: Đinh Kê = Đinh Dậu 2017, và Hồng Mao=Đảng CS Trung Quốc

Thượng mồ lai hỏa vận Đông Hồ. Trung sơn định cứ kinh đô, Phúc lai bất nhị họa vô đơn hành. phước không đến 2 lần, họa tới dồn dập

Dài vằng vặc chiến tranh khổ não, Động Xiêm đài ứng khảo Cao Miên. Thư hùng một trận cương biên, Ôm nhau mà khóc bỏ tiền quên ăn. Đêm mờ tối liềm trăng làm chủ, Lập lòe sao vần vũ địa cầu. Bình minh hiện xuống năm châu, Rọi tan ác trược đối đầu âm tinh. THÁI BÌNH DƯƠNG thình lình nổi sóng, trận chiến Bể Đông Cuộn phong ba khơi động Nam Đài. Hắc Long thừa kế ra oai, Bạch Long chớp nhoáng chia hai con đường. Một theo Phật hầu nương bổn giác, Hai luân hồi chịu phạt thảm thê. TA nay mượn bút khai đề, Vâng theo điệp chỉ sắc phê Thượng Tòa. Đức Di Lạc Long Hoa sắp ngự, Di Lạc ra đời Khai triều nguơn độ dữ phong hiền. Chia ra Thần Thánh Phật Tiên, Chọn trang đạo pháp kỳ duyên dồi mài. Hạ chánh chiếu chuyển khai Huỳnh Đạo, Xuống bút huyền cơ khảo nặng mang. Muốn nên được mối Đạo Vàng, Lửa hồng cam chịu mới hòng kim chuyên. Ai nãn chí nặng phiền thế cuộc, Bệnh trầm kha đắng thuốc mới lành. Thời chưa mãn thế chưa sanh, ẩn nhẫn chờ thời

Cho nên các bậc hùng anh còn chờ. Cơm Phiếu Mẫu tạm thời lúc đói, Hàn Tín xin cơm nguội ăn chờ thời thuở hàn vi Buổi hàn vi ai khỏi ưu phiền. lòn trôn thằng mổ thịt giữa chợ Hoài Âm Trong khi thế tục đảo điên, Đạo Vàng ẩn ánh để khuyên trợ đời. Châu Văn Vương ngộ thời phạt Trụ, Chờ Tử Nha tướng phụ lương tài. câu không ngạnh chờ thời Văn minh cơ xảo đời nay, Tích xưa bàn luận mặc ai chê cười… (Sấm Giảng Trung Giang tr. 7-8) …………………………………………………………

…Từ nhơn quả giang san xã tắc, Giống Lạc Long định đặt mối giềng; Trung Giang Sấm Giảng ban truyền, Chờ người đức cả trọn duyên quay về. Đừng chuốc việc nửa mê nửa tỉnh, Chấp tâm phàm bất định ngụy, chơn; Cũng đừng tính thiệt so hơn, Sanh lòng ganh ghét giận hờn mê si. Lòng khoan dung từ bi xả hỉ, Cuộc trần này có quý chi đâu; Tóc xanh cho đến bạc đầu,

Page 4: Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

Chung quy đồng gánh nghiệp sầu trầm luân. Kìa cái chết qua từng hơi thở, Cảnh vật này tạm bợ mà thôi; Nhìn xa thông lý đạo rồi, Chấp chi chuyện nhỏ bồi hồi tâm can. Mượn Linh Bút vài hàng nhắn gởi, Riêng môn đồ mong đợi Sấm Truyền; trò mong hiểu thiên cơ Tịnh thần nghe tiếng Thầy khuyên, Thầy hứa lộ thiên cơ Dầu xa vạn dặm chớ phiền đợi trông. Vì Thiên Cơ trần hồng khó hiểu, Đây mấy lời sơ thiểu cho con; Thầy sẽ hé lộ chút thiên cơ Thương trò mong đợi mỏi mòn, Thầy còn chịu cảnh chiều lòn độ nhân. Huống chi chuyện xây vần tà thuyết, Là Ma Vương chúng quyết ngăn đường; Trung thành dầu nát thịt xương, Hồn linh theo Phật hầu nương Liên Đài. Tình thắm thiết tỏ bày chơn lý, Sấm Trung Giang suy nghĩ tận tường; Tìm trong văn nghĩa phi thường, Cũng là đắc được pháp cương tâm truyền. Điều thứ nhứt Thầy khuyên nên nhớ, Lòng trung kiên muôn thuở còn nêu; Dù ai nặng nhẹ trăm điều, Quyết không bỏ lý cao siêu của Thầy. Nhiều thử thách đang vây con đó, Nếu ngả lòng công khó tiêu tan; Việc chi còn ở trần gian, Là điều huyễn hoặc chớ mang nơi lòng. Điều thứ hai Thầy mong đệ tử, Tình bạn bè giữ chữ thủy chung; Luôn luôn tha thứ khoan dung, Nhủ khuyên nhỏ nhẹ chớ dùng lời thô. Dìu dắt nhau điểm tô công quả, Phải thật thà với cả chung quanh; Thiệt thòi cam chịu đã đành, Vô vi phẩm vị Thầy dành cho con. Điều thứ ba vẹn toàn hạnh đức, Tuy bán buôn cơ cực tảo tần; Đổi công nuôi lấy tấm thân, Đừng ham những chuyện phi nhân gạt lường. Dù vàng bạc đầy rương tràn tủ, Cuộc trần này chưa đủ con ơi; Ác gian cũng hưởng một thời, Thà nghèo trong sạch thảnh thơi tâm hồn. Điều thứ tư pháp môn quy luật, Hạnh trường chay cố sức trau giồi; Thịt thà xương cá tanh hôi, Cỏ cây rau cải cũng rồi bữa ăn. Đức từ bi thường hằng thể hiện, Không sát sanh lòng thiện ta còn; Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon, Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng. Điều thứ năm quyết không hờn giận,

Page 5: Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

Ghét ganh chi cho bận lòng mình; Con xem vạn quyển thiên kinh, Hiền nhân quân tử rộng tình vô câu. Muôn việc xảy bắt đầu sân nộ, Là nguyên nhân thống khổ ly tan; Chơn truyền chánh pháp đạo vàng, Học xong chữ nhẫn Niết Bàn đâu xa. Điều thứ sáu thiết tha Thầy dặn, Ngày tứ thời lẳng lặng công phu; Việc chi dầu quá cần cù, Cũng nhơn vài phút tập tu nguyện cầu. Khi rảnh việc đồng sâu chợ búa, Xem pháp kinh kệ của Thầy ban; Học cho thông thuộc đôi hàng, Ngâm nga trong lúc thanh nhàn băn khoăn. Điều thứ bảy quyết tăng công quả, Giúp đỡ người già cả ốm đau; Tùy duyên có thể giúp vào, Lâm cơn hoạn nạn khi nào cần con. Phước đức đó vẫn còn muôn thuở, Tuy vô hình đừng ngỡ là không; Con ơi trong cõi trần hồng, Ít ai có được tấm lòng thanh cao. Điều thứ tám lời nào Thầy dạy, Dầu khổ đau chớ ngại công trình; Biết rằng con đã hy sinh, Phật Tiên đâu nỡ quên tình hay sao? Đừng chán việc núi cao rừng thẳm, Dù đường dài muôn dặm xa trông; Hễ con thề giữ trọn lòng, Đương nhiên đắc đạo thoát vòng tử sanh. Điều thứ chín đạo lành căn bản, Giữ làm sao thêm bạn bớt thù; Từ đây con nhớ rằng tu, Hạ mình nhận lỗi mặc dù rằng không. Lời nói sao hòa trong hiệp ngoại, Dù thua người dù phải ép lòng; Đừng ham những chuyện mênh mông, Vừa no đủ ấm đèo bồng mà chi. Điều chót hết mười ghi trăm nhớ, Phật pháp tăng con chớ quên ơn; Gia đình trọng nghĩa là hơn, Tình thương xã hội giúp cơn thiết cần. Ân Tổ tiên dành phần con cháu, Nhớ những lời Thầy bảo Thầy mong; Con ơi hãy khá ghi lòng, Bấy nhiêu tâm huyết mấy dòng thi văn. Vài tiên tri nguyên căn đệ tử, Xem qua rồi nên giữ vào tim; Luận suy chơn nghĩa công tìm, Dầu thông thiên lý nên yên ẩn gìn. KHỈ ngồi đợi KÊ minh ngọc thố, Chờ đến năm Dậu (kê) vào mùa thu (trăng sáng=minh ngọc thố), Mỹ đánh tan Trung Quốc. Bắc Kinh di bạch lộ sơn phong; Triều Tiên xương chất đầy đồng,

Page 6: Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

Thái, Cao, Lèo chuyển cuối RỒNG GÀ bay. cuối Rồng=Long Vĩ=cuối Thìn= cuối tháng 3 âl; Gà = năm Dậu 2017= Đinh Kê NAM VIỆT ứng một ngày tân tạo, * Lục cửu duyên quả báo kim vương; Mặt trời lố dạng Nam Phương, Trung Đông chiến họa dân lương điêu tàn. Cùng lực tận MỸ hoang NGA tán, ANH tiêu điều, PHÁP nạn, TRUNG suy; NHỰT mưu, ĐỨC lược, ẤN bi, Việt Nam Thánh xuất phục quy kim thành. Chừng gặp cảnh tan tành đô thị, Nhìn ruộng hoang tận chí chân trời; Thở than kêu khóc hết lời, Mới tường luật định của Trời ban ra. Đây nói đoạn san hà dồn dập, Bày ra điều tranh chấp dân binh; Chừng nào được Đấng anh minh, Lo cho xã tắc quên mình mới yên. Giờ do lũ Tây phiên định liệu, Giống Lạc Hồng cam chịu vì sao? Mật kia để trước mũi dao, mỏ dầu Biển Đông

Nghe mùi phưởng phất tranh nhau giựt giành. động lòng tham vẽ bản đồ hình chữ U (lưỡi bò) Chừng đứt lưỡi em anh cùng khóc, bom nguyên tử nổ Thế mới tường bài học si mê. Khi nào khách nọ ra về, Tài gia tan nát trăm bề đảo điên. Cầu Ngọc Đế diệu huyền ban bố, Nguyện Phật Tiên cứu độ dân lành; Nam Mô Thượng Tổ Tam Thanh, Trạch trang trung liệt lập thành Thượng Nguơn.

(trích cuối bài pháp Sấm Giảng Trung Giang tr. 19-22, do Pháp Chủ Huỳnh Đạo thuyết nhân dịp Xuân Đinh Vị {Đinh Mùi 1967}, Hội Thánh Nhị Giang, Tòa Thánh Bửu Sơn, Cẩm Sơn, Tri Tôn {Châu Đốc} ấn hành).

- Người hành đúng theo Sấm Truyền này tự cứu được mình, còn cứu được Cửu Huyền Thất Tổ; - Người có công đức ấn tống kinh này thời gia đình sẽ tránh được hoạn họa bất kỳ trong thời lửa binh mạt pháp; - Người học thuộc kinh đem thuyết giảng cho chúng sanh nghe sẽ được thoát mê khải ngộ đắc đạo Long Hoa. Thừa bút Huệ Linh khai truyền Sấm Giảng Trung Giang, Xuân Đinh Vị { Mùi }.

Pháp Chủ Huỳnh Đạo.

Tùy cơ ứng biến, Bồ Tát Phật Bửu Sơn Kỳ Hương tái lâm phải ẩn núp khi ở Thánh Thất Đạo Cao Đài, khi ở chùa Phật thuyết sấm giảng để tránh tín đồ tà hãm hại. Bồ Tát Thanh Sĩ viết trong Lá Thơ Đông Kinh như sau:

Thầy Tiên môn đệ tục, Đạo chánh tín đồ tà. Cha hiền sanh con dữ, Tức bụng Chị HẰNG NGA. (Lá Thơ Đông Kinh Q.1, tr. 132, Bồ Tát Thanh Sĩ viết 10-6-1964 ở Tokyo) Người Thiện Nữ

* Ghi chú: Cụm từ Xuân Đinh Vị, chữ Vị là cách nói mẹo ám chỉ chữ Mùi, tức là ám chỉ năm Đinh Mùi 1967 chính là thời điểm Đức Pháp Chủ Huỳnh Đạo thuyết bài Sấm Giảng Trung Giang.

* Lời bình: Câu sấm trang 3: Đinh niên hạ hồng kê mao tận, ghép chữ tầm lý có Đinh kê, ám chỉ Đinh Dậu, nhưng Đinh Dậu nào? Lấy cụm từ niên hạ làm căn bổn, chữ hạ nghĩa là dưới, là sau, là sắp tới cận kề; còn Đinh niên thượng, chữ thượng là trên, là trước, tức Đinh Dậu 1957; theo chu kỳ lục thập hoa giáp 60 năm đáo lai, kể từ Đinh Dậu 1957 tính tới thì Đinh Dậu sau (Đinh niên hạ) chính là Đinh Dậu 2017, không sai trật. Đinh niên thượng là Đinh Dậu 1957; và Đinh niên hạ là Đinh Dậu 2017 chắc xảy ra sự cố Hồng Mao tận là nước Tàu tiêu. Tác giả viết câu sấm trên vào năm Đinh Mùi 1967.

Page 7: Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

Câu sấm: Đinh niên hạ Hồng Kê Mao tận, chiết vế ghép chữ sẽ có 2 cụm từ thiên cơ: Đinh Kê và Hồng Mao. Cụm từ Đinh Kê ám chỉ năm Đinh Dậu 2017; và Hồng Mao là đảng cầm quyền Trung Quốc. Nghĩa là đến năm 2017, đảng Cộng Sản Trung quốc chắc chắn sẽ tiêu tan. (Hồng Kê Mao tận). Câu sấm trang 5: Khỉ ngồi đợi kê minh ngọc thố: Phải chờ đến năm Dậu 2017 (Kê) vào mùa thu (minh ngọc thố=trăng sáng), sẽ có sự cố xảy ra là Hồng Kê Mao tận ám chỉ nước Tàu tiêu diêu.

Câu sấm trang 5&6 : Triều Tiên xương chất đầy đồng, Thái Cao Lèo chuyển cuối rồng Gà bay, cụm từ cuối Rồng là Long Vĩ là cuối tháng 3 âl {tháng 3 âl = tháng Giáp Thìn}, năm Đinh Dậu 2017, tình hình bán đảo Triều Tiên căng thẳng, Mỹ và Bắc Triều Tiên chuẩn bị chiến tranh hạt nhân, cảnh chết chóc sẽ vô cùng khủng khiếp! Sau khi Mỹ và đồng minh đánh phủ đầu Bắc Triều Tiên, Trung Quốc xúi Miên đánh từ phía Tây Nam Việt. Bộ đội VN phản công mãnh liệt. Miên chết nhiều vô số. Giặc Tàu tuyên chiến xua bộ binh đánh từ phía Bắc xuống và hải quân từ Biển Đông vô. Mỹ Nhựt trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Biển Đông. Thế Chiến Ba bom nguyên tử bùng nổ vô cùng khốc liệt! Từ cuối Rồng {cuối tháng 3 âl} họ đã nghĩ gì? Phụ lục:

Cuộc đời càng gắt lại càng gay, Ngặt máy thiên cơ chẳng dám bày. RẮN núp dưới hang coi NGỰA chạy, KHỈ ngồi trên ngọn ngó GÀ bay. 2016-2017

Đông tây chộn rộn trời che xác, Nam bắc ê hề đất chở thây. Nhơn vật mười phần hao bảy tám, Thần Tiên thấy vậy cũng chau mày!

(Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An)

Chó ai mà bỏ nhà hoang, 2018

Thây phơi chết đói ngổn ngang xóm làng. Heo Tôi đã đúng làm hàng, Kỷ Hợi 2019

Cạo lông chia thịt ngon toàn năm châu. Chuột nhỏ đào ổ quá sâu,

Nằm hang ca hát ai đâu biết gì. Trâu tôi rất giỏi ai bì, Tân Sửu 2021

Chờ cho nước cạn bắt thì cày chơi. Mặc tình đúng buổi nghỉ ngơi,

Thượng nguơn ăn tết chiều mơi đã gần. (Kinh Giảng Xưa của Tứ Thánh)

Kìa kìa quỷ mị khởi loàn, Xà thương Hổ giảo đa đoan hội này.

Phần thời giặc giã phủ vây, Thế Chiến Ba Phần thời đói khát thân rày chẳng yên.

Lăng xăng nhiều cuộc đảo điên, Sợ trong thế sự như thuyền chạy khơi.

Đã hết lời, đã hết lời, Khuyên răn dạy biểu cho người thiện duyên.

Trách lòng nhiều sự chẳng kiêng, Ốm đau cầu giảm, an thuyên chẳng màng.

Biến sanh những sự tà gian,

Page 8: Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

Hủy tăng phá giới lòng toan hại người. Thế nay cạn, sự đã rồi!

Mở mang dời đổi Lập Đời Thượng Nguơn. Chuyển luân thiên địa tuần huờn,

Hội Này thấy lửa tàm lam cháy mày. Ít ai tỏ biết đặng hay,

Ví như cầm chén rủi tay bể rồi! (1) Thầy xưa lời dặn hẳn hòi,

Thực nhơn nhơn thực đến hồi chẳng không. Oan oan tương báo chập chồng,

Tham tài tích đại mình không xét mình. Khiến xui phụ tử tương tranh,

Cha không lành thảo con lành đặng đâu. Trung quân, phụ tử làm đầu,

Phản quân, sát phụ, hỡi câu sách nào? Trời xui trăm vật trăm hao,

Để cho đồ khổ, xiết bao nhọc nhằn. Ngọn phù thủy, cuộc đất xây,

Rồng nằm đáy biển sông hằng hứng sương. Bao giờ hưởng thọ Kỳ Hương,

Tuế tăng vạn tuế lưu phương lâu dài. (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An lưu lại từ năm Kỷ dậu 1849 tại đình Tòng Sơn, tr. 107-108, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống lần đầu 5 ngàn quyển năm 1973) _____________________________________________________________

(1) Câu sấm: Ví như cầm Chén rủi tay Bể rồi, Thiên Cơ bất khả lậu, Bồ Tát nói thiên cơ không được nói thẳng, phải nói quanh co bóng gió, nói mẹo, nói cái này ám chỉ cái kia, chiết vế ghép tự sẽ có cụm từ bể chén, cụm từ bể chén ám chỉ tên lãnh tụ cường quốc gây trận giặc Biển Đông phải chết đúng luật nhân quả. Sau khi có hiện

tượng bể chén, hai ông trùm Nga Mỹ giành giựt ngôi chúa tể hoàn cầu, gấu ó đánh nhau bằng vũ khí nguyên tử, hỏa tiễn đầu đạn hạt nhân bay rợp trời đông tây, thế giới tan nát, bịnh dịch đói khát tràn lan, nhơn loại chết 7 còn 3.

Đây là cơ Tận Thế. Vậy khi nào thấy có sự cố bể chén, bá gia biết đó là điềm báo Tận Thế và Hội Long Hoa. Ngày

nào chưa có sự cố bể chén, thì cơ Tận thế chưa đến. Sự cố bể chén là điềm báo vô cùng quan trọng!

Sau cuộc biến chuyển long trời lở đất Tận Thế và Hội Long Hoa, sàng lọc hiền còn dữ mất, nhơn loại chết bảy còn ba, người hiền đức được lên sống đời Thượng Nguơn. Trời Phật dùng phép huyền linh biến đổi ngũ hành, đất thạnh phù sa, cây lành trái ngọt, đời người trường thọ hàng trăm tuổi, thái bình vĩnh cửu, nhà ngủ khỏi đóng cửa, của rơi ngoài đường không ai lượm, bồng lai tại trần, Thánh địa Phật Di Lạc ở Nam Việt Nam.

Dương là cảnh âm là quê, Phước mình gánh vác đặng về cảnh xưa.

Hữu duyên Thần Thánh tiếp đưa, Vì mình thiện niệm sớm trưa lần hồi.

Vắn dài lời nói cạn rồi, Lạy Thầy trở lại phản hồi bổn gia.

Lầm thầm miệng niệm Di Đà, Tay lần chuỗi hột lòng ta giữ lòng. Kỉnh dưng Minh Chúa hưng long,

Dân khương vật phụ thiên xuân thái bình. Phụ từ tử hiếu trung trinh,

Hà thanh hải yến an ninh trong ngoài.

(Trích cuối bài Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An lưu ở đình Tòng Sơn năm Kỷ Dậu 1849, do Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

2-4-2017, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo

(Facebook Mõ Tre & Blog Kinh Sam That Son) https://kinhsamthatson.wordpress.com/

https://kiengxluu.wixsite.com/kinhsambuuson

Page 9: Thiên Cơ Đạo Lý - kinhsamthatson.files.wordpress.com · Từ Đức Phật Thầy Tây An (1849) tới ông Ba Thới (1915), đến Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ (1939)

Thiên Cơ Đạo Lý 9