Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

Embed Size (px)

Citation preview

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    1/64

    HT Thích Thanh Từ 

    Ph ần 1

    Khương Tăng Hội

    Thích Đạo Thi ền

    Thích Huệ Th ắng

    Đồ bi ểu phái Thi ền Tông ở Trung Hoa truy ền sang Việt Nam

    Đồ bi ểu phái thi ền Tỳ-ni-đa-lưu-chi

    Đồ bi ểu phái thi ền Vô Ngôn Thông

    Đồ bi ểu phái thi ền Thảo Đường

    Thi ền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi (? - 594)

    Thi ền sư Pháp Hiền (? - 626)

    Thi ền sư Thanh Biện (? - 686)

    Thi ền sư Định Không (730 - 808)

    Thi ền sư Vô Ngôn Thông (? - 826)

    Thi ền sư Cảm Thành (? - 860)

    Thi ền sư Thiện Hội (? - 900)

    Trưởng lão La Quí (852 - 936)

    Thi ền sư Pháp Thuận (914 - 990)

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    2/64

    Thi ền sư Vân Phong (? - 956)

    Đại sư Khuông Việt (933 - 1011)

    Thi ền sư Ma-ha

    Thi ền Ông Đạo Giả (902 - 979)

    Thi ền sư Sùng Phạm (1004 - 1087)

    Thi ền sư Định Huệ 

    Thi ền sư Vạn Hạnh (? - 1018)

    Thi ền sư Đa Bảo (thời Lý Thái T ổ)

    Định Hương trưởng lão (? - 1051)

    Thi ền Lão thi ền sư (thời Lý Thái Tông)

    Thi ền sư Thảo Đường (thời Lý Thánh Tông)

    Thi ền sư Viên Chiế u (999 - 1090)

    Phụ bản Tham Đồ Hi ển Quy ế t

    Khương Tăng Hội

    (K’ang-Sen-Houci)

    Ngài Khương Tăng Hội (K’ang-Sen-Houci) người nước Khương Cư (Sogdiane), cha mẹ sang Giao Châubuôn bán. Ngài m ồ côi cha mẹ từ lúc mười tu ổi. Sau thời kỳ cư tang, Ngài xuất gia, chăm học kinh điển,trở thành một tăng sĩ nổi danh thời ấ y. Ngài tánh tình chân thật hòa nhã r ấ t thông minh. Ngài thông hi ểuTam tạng, Lục kinh còn nghiên cứu toán s ố, thiên văn, văn chương và chánh trị. Ngài sang Đông Ngôtuyên dương Phật pháp trong thời Ngô Tôn Quy ền (229-252).

    Ngài đế n thành Ki ế n Nghiệp (Nam Kinh) nh ằm năm thứ mười niên hiệu Xích Ô nhà Ngô (247) c ấ t một

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    3/64

    túp l ều ở đó tu trì và mở trường giảng dạy. Ngô Tôn Quy ền th ấ y Ngài thi th ố nhi ều phép lạ l ấ y làm tínphục, xây dựng ngôi chùa Ki ến Sơ thỉnh Ngài ở. Từ đây Phật giáo thạnh hành mi ền Giang Tả.

    Ngài phiên dịch nhi ều kinh chữ Phạn ra chữ Hán và vi ế t tựa trong kinh An Ban Thủ Ý, biên tập chú sớ cáckinh khác, Ngài tịch khoảng niên hiệu Thiên Kỷ thứ tư nhà Ngô (280).

    Thích Đạo Thi ền

    Thích Đạo Thi ền(1) người Giao Chỉ, sớm xu ấ t gia lập hạnh tinh nghiêm, giới luật trong sạch, ch ẳng kém

    các bậc cao đức. Dân chúng tăng tục đều kính quí đức kh ắc kỷ và sự d ốc chí tu hành của Sư. Chùa núiTiên Châu xưa bị nhi ều cọp qu ấ y nhi ễu, Sư đế n ở đó nạn ấ y li ền h ết. Nghe Cánh Lăng Vương nhà Tề rộngmở Thi ền luật, lập nhi ều ch ỗ giảng dạy, người xa g ần rong ru ổi kéo đến Kim Lăng. Họ là những người tàiđức b ốn phương trong đạo. Sư giảng dạy kinh điển r ất thông, ban đêm ít ngủ tham khảo kinh sách c ố 

    tìm chân lý. Đến năm Vĩnh Minh thứ nh ất (483), Sư dạo đến kinh đô ở chùa Vân Cư Hạ tại Chung Sơn. Sưvâng lệnh Vua điều khi ển Tăng chúng, nổi ti ế ng vì rộng dùng luật Thập Tụng...

    Sư thích diệt giác và quán, luôn ẩn núi xa, n ế u cảnh ồn náo li ền tìm cách lui bước. Sư thích ăn những

    thức ăn hoang dã, mặc đồ rách rưới, miệng không bao giờ nói chuyện phù phi ế m; n ế u có ai cho thứcngon đồ đẹp đều đem cấp phát cho người nghèo ốm. Sư sống một đời thi ểu dục tri túc, ít ai sánh kịp. V ề già, Sư đế n ở nhà của chùa, chôn d ấ u mình ở núi rừng không giao thiệp với kẻ cao sang, s ống trong cảnhkh ổ hạnh. Người ta cho th ế  là bu ồn, song Sư vẫn th ấ y là an vui của mình. Niên hiệu Đại Thông thứ nh ấ t(527) Sư mấ t ở chùa núi, thọ bảy mươi tuổi.

    --------------------------------------------------------------------------------

    (1) Theo Cao Tăng Truyện vi ế t.

    Thích Huệ Th ắng

    Thích Huệ Th ắng(1) là người Giao Chỉ, ở chùa núi Tiên Châu, lánh ngụ rừng đầm, thong dong ngoại vật,tụng kinh Pháp Hoa, ngày đế n một bi ế n, m ỗi năm càng sâu. Sư ăn mặc đơn sơ, tùy thân vui dùng, theoThi ền sư nước ngoài là Đạt-ma-đề-bà (Dharmadeva) học pháp quán hạnh. M ỗi l ần Sư nhập định đế nngày mai mới xu ất định.

    Lưu Tích ở Bành Thành khi làm Thái thú ở Nam Hải, nghe đạo phong của Sư, lúc về nước thỉnh Sư cùngđi. Khi về tới Bành Thành, Sư cư trú tại chùa U Thê. Sư giữ kín ch ỗ kỳ đặc, thường tỏ ra ngu ng ốc. Nhưngngười ở lâu với Sư rấ t kính trọng, những học giả v ề Thi ền r ấ t khâm phục. Ở chùa U Thê, Sư không đòi

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    4/64

    ph ần ăn, chỉ s ống b ằng kh ấ t thực, hoàn toàn tuân theo sự thanh liêm.

    Năm Vĩnh Minh thứ năm (487), Sư dời v ề Tinh xá Diên Hi ền tại núi Kh ế  Chung. Từ trẻ đến già, Sư giữ gìn

    một tâm trinh chánh.

    Sư mấ t khoảng niên hiệu Thiên Giám (502-519), tu ổi vừa bảy mươi. 

    --------------------------------------------------------------------------------

    (1) Theo Cao Tăng Truyện vi ế t.

    Đồ bi ểu phái Thi ền Tông ở Trung Hoa truy ền sang Việt Nam

    Đồ bi ểu phái thi ền Tỳ-ni-đa-lưu-chi

    Đồ bi ểu phái thi ền Vô Ngôn Thông

    Đồ bi ểu phái thi ền Thảo Đường

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    5/64

    Thi ền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi

    (Vinitaruci)

    (? - 594)

    (T ổ khai sáng dòng Thi ền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt Nam)

    Sư là người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khácthường, đi khắp mi ền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thi ền tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, Sưlại sang Đông Nam. 

    Sư sang Trung Quốc nh ằm đời Tr ần Tuyên Đế  niên hiệu Thái Ki ến năm thứ sáu (574) vào đến Trường An.Gặp thời Chu Vũ Đế  phá diệt Phật pháp, Sư lại phải sang qua đấ t Nghiệp (H ồ Nam). Lúc ấ y, T ổ Tăng Xánđang mang y bát ở  ẩn trong núi Tư Không, bỗng nhiên Sư tìm gặp được T ổ. Th ấ y cử chỉ phi phàm của T ổ,

    Sư phát tâm kính mộ, đến trước vòng tay ba l ần, T ổ v ẫn ng ồi im nh ắm m ắt không nói. Sư đứng suy nghĩgiây lát b ỗng nhiên tâm có sở đắc. Sư liền sụp xu ống lạy ba lạy, T ổ cũng chỉ gật đầu ba cái. Sư lùi lại babước thưa: 

    - Đệ tử lâu nay không được an, Hòa thượng vì lòng đại từ bi, xin cho con theo h ầu hạ Ngài.

    T ổ bảo:

    - Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. 

    Sau khi được tâm ấn nơi Tổ, Sư từ biệt sang Quảng Châu trụ trì tại chùa Ch ế  Chỉ. Thời gian sáu năm ở đây, Sư dịch xong bộ kinh “Tượng Đầu Tinh Xá” chữ Phạn ra chữ Hán(1).

    Đế n niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân(2). Nơiđây, Sư dịch xong bộ kinh Đại Thừa Phương Quảng T ổng Trì(3).

    Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập th ấ t là Pháp Hi ền bảo:

    - Tâm ấ n của chư Phật, không có lừa d ối, tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại,không được không m ấ t, ch ẳng một ch ẳng khác, ch ẳng thường ch ẳng đoạn; v ốn không có ch ỗ sanh, cũngkhông có ch ỗ diệt, cũng chẳng xa lìa, mà ch ẳng phải ch ẳng xa lìa. Vì đối với vọng duyên mà giả lập tên ấ ythôi. Bởi th ế, chư Phật trong ba đời cũng như thế , nhi ều đời T ổ sư cũng do như thế  mà được, ta cũng donhư thế  được, ngươi cũng do như thế  được, cho đế n hữu tình vô tình cũng do như thế  được. T ổ TăngXán khi ấ n chứng tâm này cho ta, bảo ta mau v ề phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. Đã trải quanhi ều nơi, nay đến đây gặp được ngươi quả là phù hợp với lời huy ền ký. Vậy ngươi khéo giữ gìn, giờ đicủa ta đã đế n.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    6/64

    Nói xong, Sư chắp tay thị tịch. Pháp Hi ền làm l ễ hỏa táng, lượm xá-lợi năm sắc, xây tháp cúng dường.Năm ấ y nh ằm niên hiệu Khai Hoàng thứ mười b ốn nhà Tùy (594).

    V ề sau, vua Lý Thái Tông (1028-1054) có làm bài kệ truy tán phong tặng Sư: 

    Mở l ối nước Nam đế nNghe Ngài giỏi tập thi ền.Hiện bày các Phật tánhXa hiệp một ngu ồn tâm.Trăng Lăng-già sáng rỡ Hoa Bát-nhã ngạt ngào.

    Bao giờ được gặp mặtCùng nhau bàn đạo huy ền.

    (Sáng tự Nam lai qu ốc

    Văn quân cửu tập thi ềnỨng khai chư Phật tánhVi ễn hợp nh ấ t tâm nguyênHạo hạo Lăng-già nguyệt

    Phân phân Bát-nhã liên

    Hà thời hạnh tương kiế nTương dữ thoại trùng huy ền.)

    --------------------------------------------------------------------------------

    (1) Phật thuy ế t Tượng Đầu Tinh Xá Kinh, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng s ố 466.

    (2) Chùa Pháp Vân cũng gọi là chùa Dâu tên chữ là chùa Diên Ứng ở xã Thanh Khương, huyện ThuậnThành, tỉnh Hà B ắc, hiện nay cách Hà Nội khoảng 25km v ề hướng Đông. Chùa này thời Lý gọi là chùa C ổ Châu (làng C ổ Châu, huyện Siêu Loại); đời Tr ần gọi là chùa Thi ền Định hay chùa Siêu Loại; đời Hậu Lê gọilà chùa Diên Ứng.

    (3) Phật thuy ết Đại Thừa Phương Quảng T ổng Trì Kinh, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng s ố 275.

    Thi ền sư Pháp Hiền

    (? - 626)

    (Đời thứ 1, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    7/64

     

    Sư họ Đỗ quê ở Chu Diên (Sơn Tây), thân hình to lớn cao đế n bảy thước ba t ấ c (2m30). Khi mới xu ấ t gia,Sư theo Đại sư Quán Duyên ở chùa Pháp Vân thọ giới. Đế n lúc T ổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi sang Việt Nam vào

    chùa Pháp Vân gặp Sư, Tổ nhìn kỹ vào mặt hỏi:

    - Ngươi họ gì?

    Sư đáp: 

    - Hòa thượng họ gì?

    - Ngươi không có họ sao?

    - Họ thì ch ẳng không, Hòa thượng làm sao bi ết được?

    - Bi ết để làm gì?

    Sư bỗng nhiên tự tỉnh, li ền sụp xu ống lạy. T ổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi ấ n chứng, từ đây về sau Sư luôn luôn theoh ầu T ổ.

    Sau khi T ổ tịch, Sư vào núi Từ Sơn tu thiền định, thân như cây gỗ, vật ngã đều quên. Các loài c ầm thúthường qu ấn quít chung quanh Sư. Người đời th ấ y th ế  càng thêm kính mộ, đệ tử tìm đế n học đạo càngngày càng đông. Nhân đó, Sư mới lập chùa nhận đồ đệ ở tu, s ố học chúng h ằng ngày trên ba trăm vị.Thi ền tông phương Nam từ đây được thạnh hành.

    Thích sử Lưu Phương nghe danh của Sư, bèn dâng sớ v ề Trung Qu ốc tâu lên vua nhà Tùy:

    “... Cõi này người khâm sùng Phật giáo, lại có những vị cao đức danh tăng...” 

    Vua Tùy sai sứ mang năm hòm xá-lợi Phật và tờ điệp, bảo Sư xây tháp cúng dường. Sư bèn xây tháp ở chùa Pháp Vân và các chùa danh ti ế ng ở các châu Phong, Hoan, Trường, Ái... cũng đều dựng tháp cúngdường.

    V ề sau, Sư trụ trì tại chùa Chúng Thiện, núi Thiên Phước huyện Tiên Du.

    Niên hiệu Võ Đức năm thứ chín đời Đường (626), Sư an tường thị tịch. Thi ền sư Thanh Biện là người k ế  thừa dòng thi ền của Sư.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    8/64

    Thi ền sư Thanh Biện

    (? - 686)

    (Đời thứ 4, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

    Sư họ Đỗ quê ở C ổ Giao, năm mười hai tu ổi theo ngài Pháp Đăng ở chùa Ph ổ Quang tu học. Khi ngàiPháp Đăng sắp thị tịch, Sư hỏi:

    - Sau khi Hòa thượng đi, con nương tựa vào đâu? 

    Pháp Đăng bảo:

    - Con chỉ Sùng Nghiệp mà thôi.

    Sư mờ mịt không hi ểu.

    Pháp Đăng tịch r ồi, Sư chuyên trì kinh Kim Cang lấy đó làm sự nghiệp.

    Một hôm có Thi ền khách đế n vi ế ng, th ấy Sư trì kinh, bèn hỏi:

    - Kinh này là mẹ chư Phật trong ba đời, th ế  nào là ý nghĩa mẹ Phật?

    Sư thưa: 

    - Từ trước đến nay trì kinh mà chưa hiểu ý kinh.

    Thi ền khách hỏi:

    - Ông trì kinh đế n giờ đã được bao lâu?

    - Đã tám năm. 

    - Trì kinh đã tám năm mà một ý kinh cũng không hiểu, dù trì mãi đến trăm năm nào có công dụng gì?

    Sư liền đảnh l ễ, thưa hỏi ch ỗ thâm sâu ấ y. Thi ền khách bảo đế n Thi ền sư Huệ Nghiêm ở chùa SùngNghiệp giải quy ết cho. Sư chợt tỉnh, nói:

    - Nay tôi mới bi ế t lời của Hòa thượng Pháp Đăng, quả phù hợp như vậy.

    Sư bèn khăn gói hỏi Thi ền khách đường đế n chùa Sùng Nghiệp. Đến nơi, Sư làm lễ ra m ắt.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    9/64

    Thi ền sư Huệ Nghiêm th ấ y li ền hỏi:

    - Ngươi vì việc gì đế n?

    Sư thưa: 

    - Con trong tâm có ch ỗ chưa ổn.

    Huệ Nghiêm hỏi:

    - Ngươi chưa ổn cái gì?

    Sư liền đem việc trước thuật lại đầy đủ.

    Huệ Nghiêm than r ằng:

    - Ngươi tự quên m ấ t r ồi, sao không nhớ trong kinh nói “Chư Phật trong ba đời và pháp A-nậu-đa-la tam-miệu tam-b ồ-đề, đều từ kinh này ra”, đâu không phải là nghĩa mẹ chư Phật ư? 

    Sư thưa: 

    - Phải. Th ế  là con tự quên.

    Huệ Nghiêm hỏi:

    - Kinh này là người nào nói?

    - Đâu không phải Như Lai nói sao? 

    - Trong kinh nói “Nếu nói Như Lai có nói pháp tức là chê bai Phật, người ấ y không th ể hi ểu nghĩa ta nói”,ngươi khéo suy nghĩ đó. Nế u nói kinh này không phải Phật nói là chê bai kinh, n ế u nói là Phật nói tức chêbai Phật. Ngươi phải làm sao? Nói mau! Nói mau!

    Sư toan mở miệng, Huệ Nghiêm c ầm ph ấ t tử đánh ngay miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ. Li ền sụp xu ốnglạy tạ. Sư ở lại đây một thời gian.

    Sau, Sư đế n trụ trì chùa Ki ến Dương ở làng Hoa Lâm phủ Thiên Đức.

    Hóa duyên đã mãn, Sư thị tịch năm Bính Tuấ t nh ằm niên hiệu Thùy Cung thứ hai đời Đường (686).

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    10/64

    Thi ền sư Định Không

    (730 - 808)

    (Đời thứ 8, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

    Sư họ Nguy ễn quê ở làng C ổ Pháp, con nhà danh giá, lại thâm hi ểu v ề th ế  s ố. Những hành động của Sưđều hợp pháp t ắc, người trong làng quí kính gọi là Trưởng lão.

    Lúc tu ổi đã lớn, Sư đế n pháp hội Long Tuy ền Nam Dương nghe pháp, liền lãnh hội ý chỉ. Nhân đây Sưphát tâm xu ấ t gia theo Phật.

    Đời Đường khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-804), Sư lập ngôi chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Khi đàođất đắp n ền chùa gặp được một quả hương đề và mười cái khánh. Sư sai đem xuống nước rửa, một cáikhánh lăn đế n tận đáy ao mới dừng. Sư giải r ằng:

    - Chữ thập, chữ kh ẩu hợp thành chữ c ổ. Chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ pháp. Th ổ là chính ch ỗ chúngta ở, tức chỉ đấ t này.

    Nhân đây, Sư đổi tên làng là C ổ Pháp (trước tên Diên U ẩn), lại làm bài tụng:

    Đấ t dâng pháp khíMột món thu ần đồng.Ấy điềm Phật pháp hưng long Đặt tên làng là C ổ Pháp.

    (Địa trình pháp khíNh ấ t ph ẩm tinh đồng.Trị Phật pháp chi hưng long Lập hương danh chi Cổ Pháp.)

    Sư lại nói:

    Pháp khí hiện ra mười cái chung đồngHọ Lý làm vua ba ph ẩm thành công.

    (Pháp khí xu ấ t hiện thập kh ẩu đồng chungLý hưng vương tam phẩm thành công.)

    Lại nói:

    Thập, kh ẩu, thủy, th ổ, khứ 

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    11/64

    Danh hiệu làng C ổ Pháp.Gà ở sau loan nguyệtChính là Tam Bảo thạnh.

    (Thập, kh ẩu, thủy, th ổ, khứ 

    C ổ Pháp danh hương hiệu.Kê cư loan nguyệt hậuChánh thị hưng Tam Bảo.)

    Sau, Sư trụ trì tại chùa Thi ền Chúng ở làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức (nay là làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn,B ắc Ninh).

    S ắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện đế n bảo:

    - Ta mu ốn mở rộng làng xã, nhưng giữa chừng e gặp họa nạn, ắt có người khác đế n phá hoại đất đai của

    chúng ta (quả nhiên, sau có Cao Bi ền đời Đường đế n tr ấ n ở đây). Sau khi ta tịch, ngươi khéo gìn giữ pháp của ta. Khi nào gặp người họ Đinh sẽ truy ền thì nguyện của ta được mãn vậy.

    Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ bảy mươi chín tuổi, nh ằm đời Đường niên hiệu Nguyên Hòa thứ ba

    (808) năm Bính Tý. 

    Thông Thiện xây tháp thờ Sư ở phía tây chùa Lục T ổ và ghi lời phó chúc rành rõ.

    Thi ền sư Vô Ngôn Thông

    (? - 826)

    (T ổ khai sáng dòng Thi ền Vô Ngôn Thông ở Việt Nam)

    Sư họ Trịnh quê ở Quảng Châu, xu ấ t gia tại chùa Song Lâm xứ Vũ Châu. Tánh Sư điềm đạm ít nói màthông minh, nên thời nhân gọi là Vô Ngôn Thông.

    Sư lễ Phật, có một Thi ền khách đế n hỏi:

    - Tọa chủ l ễ đó là cái gì?

    Sư đáp: 

    - Là Phật.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    12/64

    Thi ền khách bèn chỉ tượng Phật hỏi:

    - Cái này là Phật gì?

    Sư không đáp được.

    Đế n t ối, Sư y phục chỉnh t ề đế n l ễ Thi ền khách, thưa: 

    - Hôm nay Th ầy hỏi, tôi chưa biế t ý chỉ th ế  nào?

    Thi ền khách hỏi:

    - Tọa chủ được m ấ y hạ?

    Sư thưa: 

    - Mười hạ.

    Thi ền khách bảo:

    - Đã từng xu ất gia chưa? 

    Sư càng thêm mờ mịt.

    Thi ền khách khuyên Sư đồng đế n tham v ấ n với Mã T ổ. Đi đế n Giang Tây nghe tin Mã T ổ đã tịch, bèn đế ny ế t ki ến Bá Trượng Hoài Hải.

    *

    * *

    Một hôm trong giờ tham v ấ n, có vị Tăng hỏi Bá Trượng:

    - Th ế  nào là pháp môn đốn ngộ của Đại thừa?

    Bá Trượng đáp: 

    - Đấ t tâm n ế u không, mặt trời trí tuệ tự chi ế u.

    Nghe câu này, Sư hoát nhiên đại ngộ.

    *

    * *

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    13/64

     

    Sau, Sư về Quảng Châu trụ trì tại chùa Hòa An. Có người hỏi:

    - Th ầy phải Thi ền sư chăng? 

    Sư đáp: 

    - B ần đạo ch ẳng từng học thi ền.

    Sư lặng thinh giây lâu, gọi người kia.

    Người kia đáp: 

    - Dạ!

    Sư chỉ cây tòng lư (cây móc). 

    *

    * *

    Một hôm, Sư bảo Huệ Tịch đem giường lại. Huệ Tịch đem đế n.

    Sư bảo:

    - Đem lại ch ỗ cũ. 

    Huệ Tịch vâng theo.

    Sư hỏi:

    - Cái giường ở bên này là vật gì?

    - Không vật.

    Sư gọi:

    - Huệ Tịch!

    Huệ Tịch đáp: 

    - Dạ!

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    14/64

    Sư bảo:

    - Đi! 

    *

    * *

    Năm Canh Tý niên hiệu Nguyên Hòa thứ mười lăm đời Đường (820), Sư sang An Nam ở chùa Ki ến Sơlàng Phù Đổng, huyện Tiên Du B ắc Ninh. Ở đây trọn ngày, Sư ngồi xây mặt vào vách, su ốt m ấy năm màkhông ai bi ế t, chỉ Thi ền sư Cảm Thành (trụ trì chùa này) bi ết Sư là vị Cao tăng đắc đạo trong nhà thi ền.Cảm Thành h ế t lòng kính trọng tôn thờ Sư làm thầy.

    Một hôm, Sư gọi Cảm Thành đế n bảo:

    - Ngày xưa Tổ sư là Nam Nhạc Hoài Nhượng khi s ắp tịch có dặn m ấ y lời:

    T ấ t cả các pháp đều từ tâm sanhTâm không ch ỗ sanh, pháp không ch ỗ trụ.N ếu đạt tâm địa ch ỗ trụ không ngại

    Ch ẳng gặp thượng căn dè dặt chớ dạy.

    (Nh ấ t thi ết chư pháp giai tùng tâm sanhTâm vô sở sanh pháp vô sở trụ.Nhược đạt tâm địa sở trụ vô ngạiPhi ngộ thượng căn thận vật khinh hứa.)

    Nói xong, Sư chấ p tay thị tịch, nh ằm năm Bảo Lịch thứ hai đời Đường (826). Cảm Thành rước Sư lên hỏađàn, thu hài cốt xây tháp thờ ở núi Tiên Du.

    Thi ền sư Cảm Thành

    (? - 860)

    (Đời thứ 1, dòng Vô Ngôn Thông)

    Sư quê ở Tiên Du, không rõ họ gì, chỉ bi ế t mới xu ất gia đạo hiệu là Lập Đức, ở tại quận nhà chuyên l ấ yviệc trì tụng làm sự nghiệp. Có Hương hào họ Nguy ễn ở làng Phù Đổng m ến đức hạnh cao cả của Sư,tình nguyện đem gia trạch cúng cho Sư làm ngôi chùa. Sư một mực từ ch ối. Ban đêm Sư mộng th ấ y th ầnnhân mách: “Nế u theo ý họ Nguy ễn, thời gian ch ẳng lâu sẽ được điều lành lớn.” Nhân đó, Sư mới nhậnlời, nay chính là ngôi chùa Ki ến Sơ ở làng Phù Đổng ấ y vậy.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    15/64

     

    Quả như lời th ần nhân mách, Sư về trụ trì chưa bao lâu, Thiền sư Vô Ngôn Thông đế n. Bi ế t Thi ền sưch ẳng phải là hạng thường, Sư hôm sớm h ế t lòng thờ kính, không h ề bi ế ng tr ễ. Vì th ế  Thi ền sư Vô NgônThông đổi hiệu Sư là Cảm Thành.

    Một hôm, Thi ền sư Vô Ngôn Thông gọi Sư vào dạy:

    - Xưa đức Th ế  Tôn vì một nhân duyên lớn mà xu ấ t hiện ở đời, hóa duyên viên mãn Ngài vào Ni ế t-bàn.Diệu tâm này tên Chánh pháp Nhãn tạng, Thật tướng không tướng, pháp môn chánh định, chính Ngàitrao cho đệ tử là Tôn giả Ma-ha Ca-di ếp làm Sơ tổ. Đời đời truy ền nhau đế n T ổ Đạt-ma, từ Ấn Độ sangTrung Hoa trải bao nguy hi ểm, vì truy ền pháp này. Cứ th ế  đế n Lục t ổ Tào Khê được nơi Ngũ Tổ, v ẫn dòng

    phái Đạt-ma. T ổ Đạt-ma lúc mới đến, vì người chưa tin hiểu nên l ấ y việc truy ền y bát để rõ ch ỗ đắcpháp. Nay ni ềm tin đã thuần thục, thì y là đầu m ối của sự tranh giành. Th ế  nên, Ngũ Tổ dặn: “Phải dừngngay nơi ông, không nên truyền nữa.” Do đó, đế n nay chỉ dùng tâm truy ền tâm mà ch ẳng trao y bát.

    Khi ấ y, T ổ sư Nam Nhạc Hoài Nhượng nhận được chân truy ền này, bèn trao cho Mã T ổ Đạo Nh ấ t, Mã T ổ trao cho Bá Trượng Hoài Hải. Ta ở ch ỗ Tiên sư Bá Trượng nhận được tâm pháp ấy đã lâu, nghe ở phương này (Việt Nam) có nhi ều người hâm mộ Đại thừa, vì th ế  mà đến phương Nam để tìm thiện trithức. Nay ta gặp ngươi đây, ấ y bởi túc duyên đã sẵn. Nghe ta nói kệ:

    Các nơi đồn đạiD ối tự huyên truy ềnR ằng thủy t ổ taG ốc từ Tây Thiên.Truy ền pháp Nhãn tạngGọi đó là ThiềnMột hoa năm cánh Hạt gi ống liên miên.Th ầm hợp lời mậtMuôn ngàn có duyên

    Đều gọi Tâm tôngThanh tịnh bản nhiên.Tây Thiên cõi này

    Cõi này Tây Thiên

    Xưa nay nhật nguyệtXưa nay sơn xuyên. Chạm đế n thành trệ Phật T ổ thành oanSai đó hào ly M ất đó trăm ngàn. Ngươi khéo quán sát Chớ lừa cháu con

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    16/64

    Ngay như hỏi taTa v ốn không lời.

    (Chư phương hạo hạoVọng tự huyên truy ền

    Vị ngô thủy t ổ Thân tự Tây Thiên.Truy ền pháp nhãn tạngMục vị chi thi ềnNh ất hoa ngũ diệpChủng tử miên miên.

    Ti ềm phù mật ngữ Thiên vạn hữu duyênHàm vị Tâm tôngThanh tịnh bản nhiên.

    Tây Thiên thử độ Thử độ Tây ThiênC ổ kim nhật nguyệtC ổ kim sơn xuyên. 

    Xúc đồ thành trệ Phật T ổ thành oanSai chi hào ly

    Th ấ t chi bách thiên.Nhữ thiện quán sátMạc trám nhi tônTrực nhiêu v ấ n ngãNgã b ổn vô ngôn.)

    Nghe xong bài kệ, Sư liền lãnh ngộ.

    *

    * *

    Có vị Tăng đế n hỏi:

    - Th ế  nào là Phật?

    Sư đáp: 

    - Kh ắp t ấ t cả ch ỗ.

    - Th ế  nào là Phật tâm?

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    17/64

     

    - Ch ẳng từng che d ấ u.

    - Học nhân ch ẳng hội.

    - Đã lầm qua r ồi.

    *

    * *

    V ề sau, Sư không bệnh mà tịch vào năm Canh Thìn, nhằm năm đầu niên hiệu Hàm Thông (860) nhà

    Đường.

    Thi ền sư Thiện Hội

    (? - 900)

    (Đời thứ 2, dòng Vô Ngôn Thông)

    Sư quê ở Điển Lãnh, thuở nhỏ theo th ầy Tiệm Nguyên ở chùa Đông Lâm bản hương xuấ t gia, hiệu là T ổ Phong. Lớn lên, Sư vân du khắp nơi để tìm th ầy tham học. Khi đế n chùa Ki ến Sơ gặp Thi ền sư Cảm Thànhbèn xin ở lại đây. Phục vụ Thi ền sư Cảm Thành hơn mười năm, mà Sư không biế t mỏi mệt.

    Một hôm, Sư vào thấ t hỏi:

    - Trong kinh có nói: “Đức Thích-ca Như Lai đã từng tu hành trải vô s ố ki ế p mới được thành Phật.” NayTh ầy dạy r ằng: “Tâm tức là Phật”, con chưa hiểu lẽ đó, cúi xin Thầy một phen khai ngộ cho.

    Thi ền sư Cảm Thành bảo:

    - Trong kinh là người nào nói?

    Sư thưa: 

    - Đâu không phải là Phật nói ư? 

    - N ế u là Phật nói, tại sao trong kinh Văn-thù lại nói: “Ta trụ ở đời b ốn mươi chín năm, chưa từng nói mộtchữ dạy người.” Cổ đức nói: “Người tìm nơi văn, chấp nơi chứng càng thêm trệ; kh ổ hạnh c ầu Phật làmê, lìa tâm c ầu Phật là ngoại đạo; ch ấ p tâm c ầu Phật là ma.” 

    - Như thế , tâm ấ y cái gì ch ẳng phải Phật, cái gì là Phật?

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    18/64

    - Xưa có người đế n hỏi Mã T ổ: “Tâm tức là Phật, tâm nào là Phật?” Mã Tổ bảo: “Ông nghi cái nào chẳngphải Phật chỉ ra xem?” Người kia không đáp được. T ổ dạy: “Đạt thì kh ắp t ấ t cả cảnh, ch ẳng ngộ h ằng tráixa.” Chỉ câu nói này, ngươi lại hội chăng? 

    Li ền đó, Sư thưa: 

    - Nay con hội r ồi.

    - Ngươi hội th ế  nào?

    - Kh ắp t ấ t cả ch ỗ không đâu chẳng phải tâm Phật.

    Nói xong Sư sụp xu ống lạy.

    Thi ền sư Cảm Thành bảo:

    - Th ế  là ngươi hiểu đúng rồi.

    Nhân đó, Thiền sư Cảm Thành cho Sư hiệu là Thiện Hội.

    Sau, Sư trụ trì ở chùa Định Thi ền làng Siêu Loại để truy ền bá Tâm tông. Năm thứ ba niên hiệu Quang Hóađời Đường (900), Sư tịch tại bản tự.

    Trưởng lão La Quí

    (852 - 936)

    (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

    Sư họ Đinh người An Chân, đi du phương từ thuở nhỏ, tham y ế t kh ắp các bậc th ầy n ổi danh trong nhàThi ền. Trải nhi ều năm như thế, mà pháp duyên chưa hợp, Sư sắp th ối chí. Sau gặp Thi ền sư Thông Thiệnở chùa Thi ền Chúng nói một câu, tâm Sư liền khai ngộ. Từ đây, Sư ở lại h ầu hạ th ầy.

    Thi ền sư Thông Thiện s ắp tịch gọi Sư đế n bảo:

    - Xưa thầy ta là Định Không từng dặn dò r ằng: “Con khéo giữ gìn pháp của ta, gặp người họ Đinh sẽ truy ền.” Ngươi gắng đảm đương lấy. Nay ta đi vậy.

    Sư đã được pháp tùy phương diễn hóa, chọn đấ t c ấ t chùa. M ỗi khi nói ra lời nào đều phù hợp s ấ m ngữ.Sư tổ chức đúc tượng Lục T ổ b ằng vàng tại chùa Lục T ổ. Sau vì sợ trộm cướp nên đem chôn trước cửachùa. Sư di chúc rằng:

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    19/64

    Gặp vua sáng thì hiệnTh ấ y chúa t ối nên ẩn.

    (Trị minh vương tắc xu ấ tNgộ ám chúa t ắc tàng.)

    Sư trụ trì chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức.

    S ắp tịch, Sư bảo đệ tử là Thi ền Ông r ằng:

    - Thuở trước Cao Bi ền xây thành bên sông Tô Lịch, vì bi ết vùng đấ t làng C ổ Pháp có khí tượng đế  vương,

    nên cho đào đứt con sông Điềm và những h ồ ao liên hệ v.v... đến mười chín ch ỗ để mà ếm đó. Nay ta đãsai Khúc Lãm l ấ p lại như xưa. Lại ta có tr ồng một cây Miên ở chùa Minh Châu để tr ấ n ch ỗ bị đứt. Bi ế t saunày ắt có vua hi ền ra đời, để vun b ồi chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, ngươi nên đắp lên một n ền đấ t,xây lên ngọn tháp, l ấy pháp để kín trong ấ y, chớ cho người th ấ y.

    Nói xong, Sư thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, nh ằm niên hiệu Thanh Thái thứ ba nhà Hậu Đường (936).

    Lúc tr ồng cây Miên, Sư có làm bài kệ:

    Đại sơn đầu r ồng d ấ yĐuôi to ẩn Châu MinhThập bát tử định thànhCây gạo hiện hình r ồngThỏ gà trong tháng chuộtQuy ế t th ấ y mặt trời lên.

    (Đại sơn long đầu khởiC ầu vỹ  ẩn Chu MinhThập bát tử định thànhMiên thọ hiện long hìnhTh ố kê thử ngoạt nộiĐịnh ki ế n nhật xu ấ t thanh.)

    Thi ền sư Pháp Thuận

    (914 - 990)

    (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

    Sư họ Đỗ, không rõ quê quán ở đâu, xuấ t gia từ thuở bé, thọ giới với Thi ền sư Long Thọ Phù Trì. Sau khiđắc pháp, Sư nói lời nào cũng phù hợp s ấ m ngữ.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    20/64

     

    Nhà Ti ền Lê mới dựng nghiệp, thường mời Sư vào triều luận bàn việc chánh trị và ngoại giao. Khi qu ốcthái dân an, Sư không nhận sự phong thưởng. Vì th ế, vua Lê Đại Hành r ấ t kính trọng, không dám gọi tên,

    chỉ gọi là Đỗ pháp sư. Nhà vua nhờ Sư trông coi việc soạn thảo văn kiện, thư từ ngoại giao.

    Năm Thiên Phước thứ bảy (986), nhà T ống sai sứ là Lý Giác sang phong tước hiệu cho vua Đại Hành. Vuanhờ Sư cải trang làm lái đò để đón sứ. Trên sông, b ấ t chợt Lý Giác th ấ y hai con ng ỗng bơi, cảm hứng li ềnngâm:

    Song song ng ỗng một đôi Ngửa mặt ngó ven trời.

    (Nga nga lưỡng nga ngaNgưỡng diện hướng thiên nha.)

    Sư đang chèo, ứng kh ẩu ngâm ti ế p:

    Lông tr ắng phơi dòng biế cSóng xanh chân h ồng bơi. 

    (TT. Mật Th ể)

    (Bạch mao phô lục thủyH ồng trạo bãi thanh ba.)

    Lý Giác r ấ t thán phục.

    *

    * *

    Vua Đại Hành hỏi vận nước dài ng ắn th ế  nào, Sư đáp bằng bài kệ:

    Vận nước như dây quấ nTrời Nam s ống thái bìnhRảnh rang trên điện cácCh ốn ch ốn dứt đao binh. 

    (Qu ốc tộ như đằng lạcNam thiên lý thái bình

    Vô vi cư điện cácXứ xứ tức đao binh.) 

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    21/64

    V ề sau, Sư trụ trì chùa C ổ Sơn làng Thừ, quận Ải.

    Niên hiệu Hưng Thống thứ hai (990), Sư không bệnh mà tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi. Tác ph ẩm của Sư

    có:

    * B ồ-tát Hiệu Sám H ối Văn 

    * Thơ tiế p Lý Giác

    * Một bài kệ.

    Thi ền sư Vân Phong

    (? - 956)

    (Đời thứ 3, dòng Vô Ngôn Thông)

    Sư họ Nguy ễn, quê ở Từ Liêm quận Vĩnh Khương. Khi mẹ mang thai Sư, thường trai giới tụng kinh, lúcsanh ra có hào quang chi ế u sáng cả nhà. Bởi cha mẹ nhận th ấ y sự linh dị  ấy nên cho Sư đi xuấ t gia.

    Đế n lớn, Sư theo hầu Thi ền sư Thiện Hội ở Siêu Loại. Sư thuộc hàng cao đệ, được th ầy truy ền dạy thi ềny ế u. Thiện Hội thường bảo Sư: 

    - S ống ch ế t là việc lớn, c ần phải th ấ u triệt.

    Sư hỏi:

    - Khi s ống ch ết đến làm sao tránh được?

    - Hãy n ắm l ấ y ch ỗ không s ống ch ế t mà tránh.

    - Th ế  nào là ch ỗ không s ống ch ế t?

    - Ngay trong s ống ch ế t nhận l ấ y mới được.

    - Làm sao mà hi ểu?

    - Ngươi hãy đi, chiều sẽ đế n.

    Chi ều Sư lại vào. Thiện Hội bảo:

    - Đợi sáng mai, chúng sẽ chứng minh cho ngươi. 

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    22/64

     

    Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, li ền sụp xu ống lạy.

    Thiện Hội hỏi:

    - Ngươi thấy đạo lý gì?

    Sư thưa: 

    - Con đã lãnh hội.

    - Ngươi hội th ế  nào?

    Sư bèn đưa nắm tay lên thưa: 

    - Ch ẳng tỉnh ngộ là cái gì?

    Thiện Hội li ền thôi.

    *

    * *

    Sau, Sư trụ trì chùa Khai Qu ốc trong kinh đô Thăng Long. Đến năm thứ ba niên hiệu Hi ển Đức đời Châu(956), Sư thị tịch.

    Đại sư Khuông Việt

    (933 - 1011)

    (Đời thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông)

    Sư tục danh Ngô Chân Lưu, quê làng Cát Lợi quận Thường Lạc, dòng dõi của Ngô Thuận Đế. Sư dáng mạokhôi ngô, ý chí l ỗi lạc và tánh tình bình thản. Thuở nhỏ theo nghiệp Nho, lớn lên trở v ề Phật. Sư thọ giáovới Thi ền sư Vân Phong ở chùa Khai Qu ốc, th ấ u tột thi ền y ếu và đọc kh ắp các kinh điển.

    Năm bốn mươi tuổi, danh Sư vang khắp tùng lâm, vua Đinh Tiên Hoàng mời vào cung hỏi đạo. Sư ứngđối rành rẽ, Vua r ấ t m ế n phục, phong chức Tăng thống. Năm sau, niên hiệu Thái Bình thứ hai (971), Vualại phong Khuông Việt đại sư. 

    Đến đời vua Lê Đại Hành, Sư càng được kính trọng. Bao nhiêu việc binh, việc nước, Vua đều mời Sư vào

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    23/64

    hỏi.

    Năm thứ bảy niên hiệu Thiên Phước (986), nhà T ống sai sứ là Lý Giác sang nước ta, vua Đại Hành s ắc Sưra đón tiế p sứ. Khi Lý Giác v ề có để lại một bài thơ: 

    May gặp minh quân giúp việc làmMột mình hai lượt sứ mi ền Nam.M ấ y phen qua lại lòng thêm nhớ Muôn dặm non sông m ắt chửa nhàm.Ngựa đạp mây bay qua su ối đá Xe vòng núi chạy tới dòng lam.

    Ngoài trời lại có trời soi rạngVừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.

    (TT. Mật Th ể)

    (Hạnh ngộ minh thời tán thạnh duNh ất thân lưỡng độ sứ Giao ChâuĐông đô tái biệt tâm vưu luyế n

    Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu. Mã đạp yên vân xuyên lãng thạchXa từ thanh chướng phi ếm trường lưu Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chi ế uKhê đàm ba tịnh ki ế n thi ềm thu.)

    Vua Đại Hành đưa bài thơ ấy cho Sư xem, và hỏi có ý gì không.

    Sư tâu: 

    - Câu thứ bảy sứ T ống có ý tôn Bệ hạ ngang hàng với Vua của họ.

    Vua Đại Hành nhờ Sư làm một bài ti ễn sứ. Sư vâng lệnh làm bài từ theo điệu “Tống vương lang qui”: 

    Gió hòa ph ấ p phới chi ế c bu ồm hoaTh ần tiên trở lại nhà.Đường muôn ngàn dặm trải phong baCửa trời nh ắm đường xa.Một chén quan hà dạ thi ế t thaThương nhớ bi ế t bao là.N ỗi ni ềm xin nhớ cõi Nam hàB ầy tỏ với Vua ta.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    24/64

    (TT. Mật Th ể)

    (Tường quang phong hảo c ẩm phàm trương 

    Th ần tiên phục đế  hương. Thiên lý vạn lý thiệp thương lương 

    Cửu thiên qui lộ trường.Nhân tình thảm thi ết đối ly thương Phan luy ế n sứ tình lang.Nguyện tương thâm ý vị nam cương. Phân minh t ấ u ngã hoàng.)

    Sau, Sư viện lẽ già y ế u xin từ quan, v ề quê dựng một ngôi chùa hiệu Phật-đà trên núi Du Hí, làng Cát Lợi,quận Thường Lạc, r ồi trụ trì ở đó. Học giả b ốn phương tụ họp v ề học v ấ n r ất đông. 

    Một hôm, đệ tử nhập th ất là Đa Bảo hỏi:

    - Th ế  nào là trước sau học đạo?

    Sư đáp: 

    - Trước sau không vật tợ hư không, Hội đắc chân như thể tự đồng.

    (Thủy chung vô vật diệu hư không, Hội đắc chân như thể tự đồng.)

    - Làm sao gìn giữ?

    - Không ch ỗ cho ngươi hạ thủ.

    - Hòa thượng nói rõ r ồi.

    - Ngươi hội th ế  nào?

    Đa Bảo hét một ti ế ng.

    *

    * *

    Năm thứ hai niên hiệu Thuận Thiên tri ều Lý (1011) ngày r ằm tháng hai, Sư gọi Đa Bảo lại nói kệ:

    Trong cây s ẵn có lửa,

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    25/64

    Có lửa, lửa lại sanh.N ế u bảo cây không lửa,Cọ xát làm gì sanh.

    (Mộc trung nguyên hữu hỏa,

    Hữu hỏa, hỏa hoàn sanh.Nhược vị mộc vô hỏa,Toản toại hà do manh.)

    Dạy kệ xong, Sư ngồi ki ế t-già thị tịch, thọ bảy mươi chín tuổi.

    Thi ền sư Ma-ha

    (Ma-ha Ma-da)

    (Đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

    Sư gốc người Chiêm Thành, sau đổi họ là Dương. Cha tên Bối Đà, tinh thông sách lá b ối, làm quan dướitri ều Lê là B ối trưởng (xưa gọi Đà phan). Lớn lên Sư có nhận thức th ấu đáo, học thông cả hai thứ chữ Phạn và Hán.

    Năm hai mươi bốn tu ổi, Sư nối nghiệp cho cha k ế  th ế  trụ trì ngôi chùa cũ. Một hôm, đang lúc giảng kinhth ấ y Hộ pháp Thiện th ần xu ấ t hiện quở r ằng: “Đâu cần cái học bên ngoài ấ y làm gì? Ắt không th ể thông

    lý.” Do đây hai mắt Sư bị mù. Sư hết lòng ăn năn hối l ỗi, toan gieo mình xu ống vực sâu mà ch ế t. B ỗnggặp Đông Lâm Viễn ngăn rằng: “Dừng! Dừng!” Sư nghe lời này li ền tỉnh ngộ.

    V ề sau, Sư đế n chùa C ổ Sơn thọ giáo với Thi ền sư Đỗ Pháp Thuận. Ở đây Sư chuyên việc sám h ối và tụngĐại Bi tâm chú, ròng rã ba năm chưa từng có một phút giây bi ế ng tr ễ. Cảm B ồ-tát Quan Âm l ấy nướccành dương rưới trên đảnh và mặt m ắt. B ỗng nhiên m ắt Sư sáng lại tâm càng thanh tịnh.

    Niên hiệu Thuận Thiên năm thứ năm (1014), Sư dời v ề ngọn núi Đại Vân ở Trường An ngày ngày chuyênc ần tu tập được “Tổng trì tam-muội” và các pháp thuật, người đời không th ể lường n ổi.

    Hoàng đế  Lê Đại Hành ba l ần triệu Sư vào cung thưa hỏi, Sư chỉ ch ắp tay cúi đầu mà thôi. Đế n l ần thứ ba, Sư mới đáp: “Cuồng tăng ở chùa Quan Ái.” Vua nổi giận sai c ầm Sư ở chùa Vạn Tu ế  trong Đại nội, c ắtngười canh gác. Sáng hôm sau th ấy Sư ở ngoài phòng tăng, mà cửa v ẫn kín như cũ. Vua rấ t kinh dị, bèntrả tự do cho Sư. 

    Sư dạo phương Nam châu Ái, đế n tr ấn Sa Đảng. Nhân dân ở đây rấ t sùng mộ quỉ th ần, l ấ y việc sát sanhlàm chủ y ếu. Sư khuyên họ ăn chay làm phước, họ đồng đáp: “Thiên thần của chúng tôi, họa phước

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    26/64

    không dám trái.” Sư bảo: “Các ngươi nế u bỏ ác làm lành, dù có quỉ th ần xúc hại Lão tăng sẽ gánh chịucho.” Dân làng thưa: “Gần đây có người mang bệnh hủi nặng, các th ầy thu ốc đều bó tay, n ế u ông trị lànhđược bệnh này, chúng tôi sẽ nghe theo lời khuyên.” Sư bảo d ẫn người bệnh ấy đế n. Họ đến, Sư liền tụng

    chú, l ấy nước phun vào người bệnh, ch ẳng bao lâu bệnh được lành. Dân làng tuy cảm phục, mà tậpnhi ễm của họ đã lâu, chưa có thể nh ấ t thời cảm hóa được.

    Trong đó, có Hương hào họ Ngô nhân ăn thịt u ống rượu bèn đem nài ép Sư: “Hòa thượng có th ể thưởngthức cái vui này với chúng tôi, chúng tôi sẽ tuân theo lời Ngài dạy.” Sư đáp: “Đã mời thì ch ẳng dám từ,chỉ sợ e đau bụng thôi.” Hương hào mừng rỡ thưa: “Có đau thì tôi xin thay cho.” Sư nhận lời, ăn uốngđược vài tu ần rượu, chợt bụng sình to lên, hơi thở hào h ển. Sư kêu to: “Ông Hương hào đâu chịu thaycho tôi!” Ông Hương hào và cả bọn mặt xám ng ắt, không bi ế t làm sao.

    Sư tự ch ấ p tay niệm lên: “Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng cứu con.” Giây lát, Sư mửa ra thịtthì bi ế n thành thú chạy, cá thì hiện cá nhảy, rượu thì hóa thành nước đồng. Mọi người trông th ấy đềukinh hãi. Sư bảo: “Thân các ngươi bệnh thì ta chữa được lành, ta đau bụng các ngươi không thay thế  

    được. Vậy từ nay các ngươi có theo lời ta dạy hay không?” 

    T ấ t cả dân làng đều bái tạ xin vâng.

    Năm Thiên Thành thứ hai (1029), quan Đô úy Nguyễn Quang Lợi mời Sư trụ trì chùa Khai Thiên, phủ TháiBình. Ở đây được sáu năm, Sư lại rời châu Hoan. Từ đó về sau ch ẳng bi ết Sư trụ ở phương nào.

    Thi ền Ông Đạo Giả 

    (902 - 979)

    (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

    Sư họ Lữ quê làng C ổ Pháp, tu ổi nhỏ đã không thích việc đời. Sau theo Đinh trưởng lão xu ất gia và đắcpháp.

    Sư trụ trì ở chùa Song Lâm làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức. Niên hiệu Thái Bình thứ mười tri ều Đinh (979)nh ằm năm Kỷ Mão, Sư viên tịch, thọ bảy mươi tám tuổi.

    Thi ền sư Sùng Phạm

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    27/64

    (1004 - 1087)

    (Đời thứ 11, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

    Sư họ Mâu, dáng vẻ mạnh mẽ to lớn, hai trái tai thòng đế n vai. Xu ất gia xong, Sư đế n tham v ấ n với ngài

    Vô Ngại ở Hương Thành. Sau khi được tâm ấn, Sư dạo kh ắp nước Thiên Trúc để c ầu học hỏi sâu rộng.Mãn chín năm Sư trở v ề nước g ồm thông giới định.

    V ề sau, Sư trụ trì chùa Pháp Vân làng C ổ Châu, Long Biên thuy ế t pháp giáo hóa, học giả các nơi quihướng r ất đông.

    Hoàng đế  Lê Đại Hành nhi ều phen thỉnh Sư vào cung để thưa hỏi huy ền chỉ. Vua l ấ y l ễ đãi Sư rấ t trọnghậu.

    Đến năm Quảng Hựu thứ ba tri ều Lý (1087) nh ằm năm Đinh Mão, Sư viên tịch, thọ tám mươi bốn tu ổi.

    Vua Lý Nhân Tông có làm bài kệ truy tặng Sư: 

    Nước Nam ngài Sùng Phạm

    Tâm không thi đậu v ề Tai dài hiện tướng lạ Pháp pháp thảy nhiệm m ầu.

    (Sùng Phạm cư Nam quốcTâm không cập đệ qui

    Nhĩ trường h ồi thụy ch ấ tPháp pháp tận ly vi.)

    Thi ền sư Định Huệ 

    (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

    Sư họ Khúc quê ở C ẩm Điền, Phong Châu. Lúc đầu, Sư cùng Thiền sư Vạn Hạnh thờ Thi ền Ông Đạo Giả làm th ầy, và được truy ền tâm ấn. Sau Sư về trụ trì ở chùa Quang Hưng, làng An Trinh, phủ Thiên Đức.

    Khi s ắp tịch, Sư trao Pháp ấ n lại cho đệ tử Lâm Huệ Sinh.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    28/64

     

    Thi ền sư Vạn Hạnh

    (? - 1018)

    (Đời thứ 12, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

    Sư họ Nguy ễn, quê ở làng C ổ Pháp, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã thông minh khác thường,thông su ốt Tam học và nghiên cứu Bách luận, mà v ẫn xem thường công danh phú quí.

    Năm hai mươi mốt tu ổi Sư xuấ t gia, cùng Thi ền sư Định Huệ, thọ học với Thi ền Ông Đạo Giả ở chùa Lục

    T ổ làng Dịch Bảng phủ Thiên Đức. Khi việc rảnh r ỗi, Sư học hỏi quên cả mỏi mệt.

    Sau khi Thi ền Ông tịch, Sư kế  ti ế p trụ trì chùa này và chuyên tập pháp “Tổng trì tam-ma-địa” lấy đó làmsự nghiệp. B ấ y giờ Sư có nói ra lời gì dân chúng đều cho là lời s ấm ký. Vua Lê Đại Hành r ất tôn kính Sư. 

    Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nh ất (980), tướng T ống là H ầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta,đóng binh ở Cương Giáp, Lạng Sơn, vua Lê Đại Hành mời Sư đế n hỏi:

    - Quân ta th ắng bại th ế  nào?

    Sư đáp: 

    - Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui.

    Quả đúng như lời Sư đoán. 

    Có kẻ gian tên Đỗ Ngân âm mưu hại Sư. Biết trước sự việc, Sư đưa cho y một bài thơ: 

    Th ổ mộc sanh nhau C ấ n với Kim,Vì sao ôm ấ p lòng hận phi ền?B ấ y giờ tôi bi ế t lòng bu ồn dứt,Thật đế n sau này ch ẳng bận tâm.

    (Th ổ mộc tương sanh Cấ n bạn Câm (kim)(1)Vân hà mưu ngã uẩn linh khâm?Đương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệtChân chí vị lai b ấ t hận tâm.)

    Được thơ này gã Ngân hoảng sợ không ti ến hành mưu hại nữa.

    Lúc vua Lê Ngọa Tri ều ở ngôi quá tàn bạo, mọi người đều oán ghét. Khi ấ y Lý Thái T ổ còn làm chức Thân

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    29/64

    vệ, chưa lên ngôi. Bấ y giờ trong nước có những điềm lạ xu ấ t hiện liên miên. Tùy theo ch ỗ th ấy nghe, Sưđều bàn giải phù hợp với triệu chứng nhà Lê s ắp m ấ t, nhà Lý lên thay.

    Ngày vua Lý Thái T ổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục T ổ mà v ẫn bi ết trước, báo tin cho chú và bác vua Lý hay:“Thiên tử đã băng hà, Lý thân vệ đã khuấ t phục trong thành nội, túc trực trong vài ngày Thân vệ  ắt được

    thiên hạ.” Và để chiêu an bá tánh, Sư ra yế t thị r ằng:

    Tật Lê chìm bi ển B ắcCây Lý che trời NamB ốn phương binh đao dứtTám hướng thảy bình an.

    (Tật Lê tr ầm b ắc thủyLý tử thọ nam thiênTứ phương qua can tịnh

    Bát bi ểu hạ bình an.)

    *

    * *

    Niên hiệu Thuận Thiên thứ chín (1018) ngày r ằm tháng năm, Sư không bệnh chi, mà gọi chúng nói kệ:

    Thân như bóng chớp có r ồi không,Cây cỏ Xuân tươi, Thu đượm h ồng,Mặc cuộc thạnh suy không sợ hãi,Thạnh suy như cỏ hạt sương đông. 

    (Thân như điện ảnh hữu hoàn vôVạn mộc Xuân vinh Thu hựu khô.Nhậm vận thạnh suy vô b ố úyThạnh suy như lộ thảo đầu phô.)

    Nói xong, Sư lại bảo chúng: “Các ngươi cần trụ ch ỗ nào? Ta ch ẳng l ấ y ch ỗ trụ mà trụ, ch ẳng y không trụ mà trụ.” Ngừng giây lát, Sư tịch.

    *

    Vua Lý Thái T ổ và đệ tử làm l ễ hỏa táng, nhặt xá-lợi xây tháp cúng dường.

    V ề sau vua Lý Nhân Tông có làm bài truy tán Sư rằng:

    Vạn Hạnh thông ba mé(2)

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    30/64

    Thật hợp lời s ấm xưa. Quê nhà tên C ổ PhápDựng gậy vững kinh vua.

    (Vạn Hạnh dung tam t ế ,

    Chơn phù cổ s ấm cơ (ky). Hương quan danh Cổ PhápTrụ tích tr ấ n vương kỳ.)

    --------------------------------------------------------------------------------

    (1) Chữ Th ổ chữ Mộc hợp thành chữ Đỗ, chữ C ấ n chữ Kim hợp thành chữ Ngân.

    (2) Ba mé: quá khứ, hiện tại, vị lai.

    Thi ền sư Đa Bảo

    (Đời thứ 5, dòng Vô Ngôn Thông)

    Ch ẳng rõ Sư người ở đâu và họ gì. Chỉ bi ế t, khi Khuông Việt đại sư mở trường giáo hóa ở chùa KhaiQu ốc, Sư đế n tham học. Được Đại sư khen là bậc gặp cơ lãnh ngộ, xử sự r ất đặc cách, riêng cho vào th ấ t.

    Sau khi đắc pháp, Sư chỉ một mình một bình bát tiêu dao ngoại vật.

    Lúc Lý Thái T ổ còn nhỏ, Sư trông thấ y dung nghi dị thường, bèn bảo: “Đứa bé này c ốt tướng phi thường,sau này ắt làm chủ nước Nam.” Thái Tổ nghe nói th ất kinh thưa: “Nay Thánh thượng anh minh còn tại vị,ch ốn hải nội đều trị yên, cớ sao Th ầy lại nói lời phải tội tru di này?” Sư bảo: “Mệnh trời đã định, ngườidù mu ốn tránh cũng chẳng được nào.” 

    Đế n khi Thái T ổ lên ngôi, thường thỉnh Sư vào cung thưa hỏi y ế u chỉ Thi ền và ân l ễ Sư rấ t thâm hậu. Vuaxu ống chi ế u trùng tu ngôi chùa Ki ến Sơ làng Phù Đổng là nơi Sư trụ trì.

    Sau không rõ Sư tịch ở đâu và lúc nào.

    Trưởng lão Định Hương

    (? - 1051 )

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    31/64

     

    (Đời thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông)

    Sư họ Lữ, quê ở Chu Minh, xu ấ t gia h ồi thuở nhỏ, theo học với Thi ền sư Đa Bảo. Sư theo hầu th ầy ngóthai mươi b ốn năm, thâm hiểu Thi ền chỉ. Trong nhóm môn đồ của Đa Bảo, Sư là người xu ấ t s ắc nh ấ t.

    Một hôm Sư hỏi th ầy:

    - Làm sao th ấy được Chân tâm?

    Đa Bảo đáp: 

    - Là ngươi tự nhọc.

    Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, thưa: 

    - T ấ t cả đều như vậy, đâu phải riêng con.

    - Người hội chưa? 

    - Đệ tử hội r ồi lại đồng chưa hội.

    - C ần phải gìn giữ cái ấ y.

    Sư bịt tai, xây lưng đứng.

    Đa Bảo li ền nạt: Đi! 

    Sư sụp xu ống lạy.

    Đa Bảo dạy:

    - V ề sau ngươi lại gi ống một kẻ điếc để ti ếp người.

    B ấ y giờ Đô tướng Thành hoàng sứ tên Nguy ễn Tuân r ấ t quí m ến Sư, thỉnh Sư về trụ trì chùa Cảm Ứng, ở Tiêu Sơn, phủ Thiên Đức. Học chúng các nơi vân tập đông đảo, Sư có công lớn trong việc giáo hóa người.

    Đế n ngày m ồng 3 tháng 3 năm Canh Dần nh ằm niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ ba đời Lý Thái Tông(1051), Sư gọi đồ chúng lại từ biệt và để kệ:

    Xưa nay không xứ sở Xứ sở là chân tông.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    32/64

    Chân tông như thế  huy ễnHuy ễn có là không không.

    (Bản lai vô xứ sở Xứ sở thị chân tông

    Chân tông như thị huy ễnHuy ễn hữu tức không không.)

    Dạy kệ xong, Sư im lặng mà hóa.

    Thi ền sư Thiền Lão

    (Đời thứ 6, dòng Vô Ngôn Thông)

    Không rõ tên họ và sanh quán Sư ở đâu. Chỉ bi ết Sư đế n tham học với Thi ền sư Đa Bảo ở chùa Ki ến Sơ,th ầm được tâm y ếu. Sau, Sư tìm đế n Từ Sơn cắm gậy ở đó, trụ trì chùa Trùng Minh trên núi Thiên Phúchuyện Tiên Du.

    Thi ền phong của Sư lan khắp, học giả theo học có trên ngàn người, cảnh chùa này trở thành một tùnglâm sung thạnh.

    Khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034-1038), vua Lý Thái Tông thường đế n vi ếng chùa Sư. Vua hỏi Sư: 

    - Hòa thượng trụ núi này đã được bao lâu?

    Sư đáp: 

    - Chỉ bi ế t ngày tháng nàyAi rành xuân thu trước.

    (Đản tri kim nhật nguyệtThùy thức cựu xuân thu.)

    Vua hỏi:

    - H ằng ngày Hòa thượng làm gì?

    Sư đáp: 

    - Trúc bi ếc hoa vàng đâu cảnh khác

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    33/64

    Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.

    (Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

    Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.)

    Vua lại hỏi:

    - Có ý chỉ gì?

    Sư đáp: 

    - Lời nhi ều sau vô ích.

    Vua hoát nhiên lãnh hội.

    *

    * *

    Sau khi v ề cung, Vua sai sứ đến chùa rước Sư vào triều làm c ố v ấn. Khi đến nơi, Sư đã viên tịch. Vua r ấ t

    đỗi m ế n ti ế c, ngự ch ế  thi và ai vãn, sai Trung sứ đế n cúng và tặng l ễ, thu linh c ốt xây tháp cúng dường.Tháp dựng tại cửa núi, Vua lại cho trùng tu lại ngôi chùa Sư ở và đặt người hôm sớm lo hương hỏa.

    Thi ền sư Thảo Đường

    (T ổ khai sáng dòng thi ền Thảo Đường ở Việt Nam)

    Sư người Trung Hoa, là đệ tử của Thi ền sư Trùng Hiển ở Tuy ết Đậu (Tuy ết Đậu Trùng Hi ển) nh ằm đờipháp thứ ba phái Vân Môn. Không rõ lý do gì, Sư sang ở Chiêm Thành.

    Năm Kỷ Dậu (1069), vua Lý Thánh Tông đem binh sang đánh Chiêm Thành, bắt được Ch ế  Củ là vua nước ấ y cùng một s ố tù binh. V ề tri ều, Vua ban cho bá quan những tù binh để làm nô bộc. Sư cũng nằm trongs ố tù binh ấy, và chính Sư lại rơi vào làm nô bộc cho một vị Tăng lục.

    Một hôm vị Tăng lục đi khỏi, Sư thấ y bản Ngữ lục để trên bàn có m ấ y ch ỗ sai, bèn tự ý sửa chữa lại. Vị Tăng lục đi về, xem th ấ y th ế  ngạc nhiên, hỏi ra mới bi ết Sư sửa. Ông đem việc ấ y tâu lên vua Lý ThánhTông. Vua đòi Sư vào triều, đem kinh luận và thi ền hỏi Sư. Sư ứng đối r ấ t lanh lẹ và xác đáng. Vua rấ tkính phục, truy nguyên ra mới bi ế t tông tích của Sư. 

    Từ đó, vua Thánh Tông thường thưa hỏi Phật pháp nơi Sư và phong Sư chức Qu ốc sư, mời ở chùa KhaiQu ốc trong thành Thăng Long. Đồ chúng nghe ti ếng tìm đế n tham v ấ n r ất đông. Do đây biế n thành phái

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    34/64

    thi ền thứ ba ở Việt Nam.

    Đến năm mươi tuổi, Sư có chút bệnh ng ồi ki ế t-già thị tịch.

    Phái thi ền của Sư truyền xu ống được năm đời, song ít th ấ y ghi chép lịch sử đầy đủ.

    Thi ền sư Viên Chiế u

    (999 - 1090)

    (Đời thứ 7, dòng Vô Ngôn Thông)

    Sư họ Mai tên Trực, quê ở Phước Đường, Long Đàm, là con người anh bà Linh Cảm thái hậu vợ vua LýThái Tông. Thuở nhỏ Sư rấ t thông minh và hi ế u học, nghe ở chùa Mật Nghiêm trong bản quận có vị Trưởng lão giỏi v ề tướng s ố li ền đế n nhờ xem. Trưởng lão xem xong bảo:

    - Ngươi có duyên với Phật pháp, n ế u xu ấ t gia sẽ là vị thiện B ồ-tát, b ằng không thì việc thọ y ểu khó giữ.

    Cảm ngộ lời đoán này, Sư từ giã cha mẹ đế n ấp Tiêu Sơn thọ giáo với Trưởng lão Định Hương. Ở đây

    phục dịch nhi ều năm để thâm nghiêm thi ền học. Sư thường trì kinh Viên Giác tinh thông pháp tam quán.Một đêm, trong thiền định, Sư thấ y B ồ-tát Văn-thù c ầm dao m ổ bụng Sư, rửa ruột và trao cho diệudược. Từ đây, những sở tập trong tâm rõ ràng kh ế  hợp, sâu được ngôn ngữ tam-muội, giảng kinh thuy ế tpháp thao thao.

    V ề sau, Sư tìm đế n phía tả kinh đô Thăng Long dựng một ngôi chùa để hiệu là Cát Tường và trụ trì ở đó.Học giả b ốn phương tìm đế n tham v ấ n r ất đông. 

    Có vị Tăng hỏi:

    - Phật với Thánh nghĩa ấ y th ế  nào?

    Sư đáp: 

    - Trùng dương cúc nở dưới rào,Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.

    (Ly hạ trùng dương cúc,Chi đầu thục khí oanh.)

    Tăng thưa: 

    - Cảm tạ Th ầy chỉ dạy, học nhân ch ẳng hội, xin lại nêu bày ra?

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    35/64

     

    Sư đáp: 

    - Ngày thì v ầng nhật chi ế u,Đêm đến ánh trăng soi. 

    (Trú t ắc kim ô chi ế u,Dạ lai ngọc th ố minh.)

    Tăng hỏi:

    - Đã được chân chỉ của Th ầy, còn huy ền cơ thì dạy th ế  nào?

    Sư đáp: 

    - Bưng thau nước đầy không chú ý,Một lúc s ẩy chân h ối ích gì.

    (B ấ t thận thủy bàn kình mãn khứ,

    Nh ất tao tha điệt h ối hà chi.)

    Tăng hỏi:

    - T ấ t cả chúng sanh từ đâu mà đế n? Sau khi ch ết đi về đâu? 

    Sư đáp: 

    - Rùa mù dùi vách đá, Trạnh què trèo núi cao.

    (Manh qui xuyên thạch bích,Ba mi ết thướng cao sơn.) 

    - Tâm và pháp cả hai đều quên, tánh tức chân; th ế  nào là chân?

    Sư đáp: 

    - Hoa núi mưa sa, thần nữ khóc,Tre sân gió th ổi, Bá Nha đờn.

    (Vũ trích nham hoa thần nữ lệ,Phong xao đình trúc Bá Nha cầm.)

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    36/64

     

    *

    * *

    Sư có soạn “Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn”, vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo cho sứ th ần sang Trung

    Hoa dâng vua Tri ế t Tông nhà T ống. Vua Tri ế t Tông trao cho các vị Cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Qu ốcxem. Xem xong, các ngài tâu vua T ống r ằng:

    - Đây là nhục thân B ồ-tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêmbớt chữ nào.

    Vua T ống li ền s ắc sao lại một bản, bản chánh trả lại cho Vua ta. Sứ th ần v ề kinh tâu lại, tri ều đình càngkính n ể và khen thưởng Sư. 

    *

    * *

    Tháng 9 năm Quảng Hựu thứ sáu (1090) đời Lý Nhân Tông, Sư không bệnh gọi môn đồ vào dạy:

    - Trong thân ta đây, xương lóng gân mạch, b ốn đại hòa hợp, ắt phải vô thường. Ví như ngôi nhà khi hoại,nóc mái, xà ngang đều rơi rớt. Tạm biệt các ngươi, hãy nghe ta nói kệ:

    Thân như tường vách đã lung lay, Đau đáu người đời lu ống xót thay.N ếu đạt tâm không, không tướng s ắc,S ắc không ẩn hiện, mặc v ần xoay.

    (Thân như tường bích dĩ đồi thìCử th ế  thông thông thục b ấ t bi.Nhược đạt tâm không vô s ắc tướngS ắc không ẩn hi ển nhậm suy di.)

    Nói kệ xong, Sư ngồi ngay th ẳng an nhiên thị tịch, thọ chín mươi hai tuổi, năm mươi sáu tuổi hạ.

    Tác ph ẩm g ồm có:

    - Tán Viên Giác Kinh.

    - Thập Nhị B ồ-tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.

    - Tham Đồ Hi ển Quy ế t một quy ển.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    37/64

    - Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.

    Phụ bản Tham Đồ Hi ển Quy ế t

    Nh ấ t nhật, đường ti ền tọa thứ, h ốt hữu Tăng vấ n:

    - Phật chi dữ Thánh, kỳ nghĩa vân hà? 

    Sư vân: 

    Ly hạ trùng dương cúc, Chi đầu thục khí oanh.

    Ti ế n vân:

    Tạ! Học nhân b ấ t hội, thỉnh tái chỉ thị.

    Sư vân: 

    Trú t ắc kim ô chi ế u,Dạ lai ngọc th ố minh.

    Tăng hựu v ấ n:

    Dĩ hoạch sư chân chỉ Huy ền cơ thị như hà? 

    Sư vân: 

    B ấ t thận thủy bàn kình mãn khứ.Nh ất tao tha điệt h ối hà chi!

    Ti ế n vân:

    Tạ!

    Sư chỉ vân:

    Mạc trạc giang ba nịch,Thân lai khước tự tr ầm.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    38/64

     

    Tăng hựu v ấ n:

    Thi ế u th ấ t, Ma-kiệt t ối huy ền, tự c ổ vu kim thùy k ế  tương vi chủ?

    Sư vân: 

    U minh càn tượng nhân ô th ố,Khu ấ t khúc khôn duy vị Nhạc, Hoài.

    Hựu v ấ n:

    Như hà thị đại đạo,Căn nguyên nhấ t lộ hành?

    Sư vân: 

    Cao ngạn tật phong tri kính thảo,Bang gia bản đãng thức trung lương. 

    Hựu v ấ n:

    Nh ấ t thi ế t chúng sanh tòng hà nhi lai,Bách niên chi hậu tòng hà nhi khứ?

    Sư vân: 

    Manh qui xuyên thạch bích,Bả mi ết thướng cao sơn. 

    Hựu v ấ n:

    “Thanh thanh thúy trúc tận chân như.” 

    Như hà thị chân như dụng?

    Sư vân: 

    Tặng quân thiên lý vi ễn,Ti ế u bả nh ấ t âu trà.

    Ti ế n vân:

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    39/64

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    40/64

     

    Thiên thượng như huyền kính,Nhân gian xứ xứ thông.

    Hựu v ấ n:

    “Độ hà tu dụng phiệt,Đáo ngạn b ấ t tu thuy ền.” 

    B ất độ thời như hà?

    Sư vân: 

    Hạc trì ngư tại lục,Hoạch hoạt vạn niên xuân.

    Ti ế n vân:

    Nhậm ma tức “tùy lưu thủy hoạch diệu lý”? 

    Sư vân: 

    Ki ế n thuy ế t Kinh Kha lữ,Nh ấ t hành cánh b ấ t h ồi.

    Hựu v ấ n:

    Kim khoáng h ỗn giao nguyên nh ấ t khí,Thỉnh Sư phương tiện luyện tinh hình.

    Sư vân: 

    B ấ t thị T ề quân khách,Na tri hải đại ngư? 

    Ti ế n vân:

    Quách quân nhược b ấ t nạpGián ngữ diệc h ề vi?

    Sư vân: 

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    41/64

    Nhược dục tiên đề  ẩm,Hưu vi xảo họa xà.

    Hựu v ấ n:

    Xà tử ư lộ thỉnh Sư cứu hoạt.

    Sư vân: 

    Nhữ thị hà phương nhân? 

    Tăng viế t:

    Bản lai sơn nhân. 

    Sư vân: 

    T ốc h ồi cựu nham ẩn,Mạc ki ế n Hứa Chân Quân.

    Hựu v ấ n:

    Hải tạng thao thao ưng bấ t v ấ n,Tào Khê trích trích thị như hà? 

    Sư vân: 

    Phong ti ền tùng hạ thê lương vận,Vũ hậu đồ trung thi ển trọc nê.

    Ti ế n vân:

    Nhậm ma tức b ấ t dị kim thời dã?

    Sư vân: 

    Ly hạ trùng dương cúc, Chi đầu noãn nhật oanh.

    Hựu v ấ n:

    Chiêu chiêu tâm mục chi gian,

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    42/64

    Lãng lãng s ắc thân chi nội.

    Nhi lý b ấ t khả phân, tướng b ấ t khả đổ, vi thập ma b ất đổ?

    Sư vân: 

    Uy ển trung hoa lạn mạn,Ngạn thượng thảo ly phi.

    Ti ế n vân:

    Tu ế  hàn qu ần miêu lạc,Hà dĩ khả tuyên dương. 

    Sư vân: 

    Hỉ quân lai tự đạt,B ấ t diệc thả hoan ngu.

    Ti ế n vân:

    Hạnh văn kim nhật quy ế tTòng thử mi ễn h ốt vô.

    Sư vân: 

    Thi ển nịch tài đề xu ấ t,H ồi đầu vạn trượng đàm. 

    Hựu v ấ n:

    “Niế t-bàn thành nội thượng do nguy.” 

    Như hà thị b ấ t nguy chi xứ?

    Sư vân: 

    Doanh sào liêm mạc thượng,M ấ n phát vi thi ều hành.

    Ti ế n vân:

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    43/64

    Nhược tao thời bách cận,Lưỡng xứ thị hà vi?

    Sư vân: 

    Trượng phu tùy phóng đãng, Phong nguyệt thả tiêu dao.

    Hựu v ấ n:

    “Nhấ t thi ế t chúng sanh

    Giai ngôn thị Phật.” 

    Thử lý vị minh,Thỉnh Sư thùy thị.

    Sư vân: 

    Khuy ế n quân thả vụ nông tang khứ,

    Mạc học tha nhân đãi thố lao.

    Ti ế n vân:

    Hạnh mông Sư hiển quy ế t,Chung b ất hướng tha c ầu.

    Sư vân: 

    Khả lân tao nh ấ t y ế t,Cơ tọa khước vong san.

    Hựu v ấ n:

    Kỷ niên đa tích nang trung bảo,Kim nhật đương trường địch diện ti ền.

    Sư vân: 

    Chỉ đãi trung thu nguyệt,Khước tao vân vũ xâm. 

    Ti ế n vân:

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    44/64

     

    Tuy văn Sư ngữ thuy ế t,Thử lý vị phân minh.

    Sư vân: 

    Ti ếu tha đồ bảo trụ,Nịch tử hướng trung lưu. 

    Hựu v ấ n:

    Như hà thị nh ấ t pháp?

    Sư vân: 

    B ấ t ki ế n xuân sanh kiêm hạ trưởng,Hựu phùng thu thục cập đông tàng. 

    Ti ế n vân:

    Nhậm ma tức thành Phật đa dã? 

    Sư vân: 

    T ổ Long khu tự chỉ,Từ Phúc vi ễn đồ lao.

    Hựu v ấ n:

    “Kiế n tánh thành Phật”, kỳ nghĩa như hà? 

    Sư vân: 

    Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát,Phong xuy thiên lý phức th ần hương. 

    Ti ế n vân:

    Học nhân b ấ t hội, nguyện Sư tái chỉ.

    Sư vân: 

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    45/64

    Vạn niên gia tử thụ,Thương thúy tủng vân đoan. 

    Hựu v ấ n:

    Ma-ni dữ chúng s ắc,B ấ t hợp b ấ t phân ly.

    Sư vân: 

    Xuân hoa dữ h ồ điệp,

    Cơ luyến cơ tương vi. 

    Ti ế n vân:

    Nhậm ma tức thùy tha h ỗn tạp?

    Sư vân: 

    B ấ t thị H ồ tăng nhãn, Đồ lao sính biện châu.

    Hựu v ấ n:

    Như hà thị xúc mục b ồ-đề?

    Sư vân: 

    Kỷ kinh khúc mộc điểu,T ần xuy lãnh tê nhân.

    Ti ế n vân:

    Học nhân b ấ t hội, cánh thỉnh biệt dụ.

    Sư vân: 

    Tủng nhân thính c ầm hưởng,Manh giả vọng thi ềm thừ.

    Hựu v ấ n:

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    46/64

    Bản tự hữu hình kiêm hữu ảnh,Hữu thời ảnh dã ly hình phủ?

    Sư vân: 

    Chúng thủy tri ều Đông hề vạn phái tranh lưu, Qu ần tinh củng B ắc h ề thiên c ổ qui tâm.

    Hựu v ấ n:

    Như hà thị “nhấ t cú li ễu nhiên siêu bách ức”? 

    Sư vân: 

    Vi ễn hiệp Thái sơn siêu Bắc hải,

    Ngưỡng phao trụ trượng nhập thi ềm cung.

    Hựu v ấ n:

    “Duy thử nh ấ t sự thật,Dư nhị t ắc phi chân.”

    Như hà thị chân?

    Sư vân: 

    Trượng đầu phong dị động,Lộ thượng vũ thành nê. 

    Hựu v ấ n:

    “Bất hướng Như Lai thi diệu tạng,B ấ t c ầu T ổ diệm tục đăng chi.”

    Ý chỉ như hà? 

    Sư vân: 

    Thu thiên đoàn thử lệ,Tuy ế t cảnh m ẫu đơn khai. 

    Hựu v ấ n:

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    47/64

     

    Như hà thị t ối diệu chi cú?

    Sư vân: 

    Nh ất nhân hướng ngung lập,Mãn tọa ẩm vô hoan?

    Hựu v ấ n:

    C ổ kim đại sự ưng vô vấ n,

    Đặc địa Tây lai ý nhược hà?

    Sư vân: 

    Xảo ngôn lệnh s ắc giả,Toản qui đả ngõa nhân.

    Hựu v ấ n:

    “Tâm pháp song vong tính tức chân.”

    Như hà thị “chân”? 

    Sư vân: 

    Vũ trích nham hoa thần nữ lệ,Phong xao đình trúc Bá Nha cầm.

    Hựu v ấ n:

    Như hà thị t ối diệu chi cú?

    Sư vân: 

    H ầu lý do t ồn ngạnh,Thường cư bấ t khoái nhiên.

    Hựu v ấ n:

    Hữu tu hữu chứng khai tứ bệnh,Xu ất đầu hà khả thoát tr ần lung.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    48/64

     

    Sư vân: 

    Sơn cao cánh đại dung tr ần trữ,Hải khoát năng thâm nạp t ế  lưu. 

    Hựu v ấ n:

    “Duy Phật dữ Phật nãi tri tư sự.”

    Như hà thị “tư sự”? 

    Sư vân: 

    Giáp kính sâm sâm trúc,

    Phong xuy khúc tự thành.

    Hựu v ấ n:

    B ấ t dụng bình thường, b ấ t dụng thiên nhiên, b ấ t dụng tác dụng nhi kim tác thập ma?

    Sư vân: 

    B ồng thảo thê đê yế n,Thương minh ẩn cự lân.

    Hựu v ấ n:

    Tứ đại đới lai do khoáng ki ế p,Thỉnh Sư phương tiện xu ấ t luân h ồi.

    Sư vân: 

    Cử th ế  súc đồ tê thị bảo,Thực ư kinh cức ngọa ư nê. 

    Hựu v ấ n:

    “Chủng chủng thủ xả, giai thị luân h ồi.”

    B ấ t thủ b ấ t xả thời như hà? 

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    49/64

    Sư vân: 

    Tòng lai h ồng hiện thù thường s ắc,

    Hữu diệp sâm si b ấ t hữu hoa.

    Hựu v ấ n:

    “Ngôn ngữ đạo đoạn” kỳ ý như hà? 

    Sư vân: 

    Gi ốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo, Sơn nham đới nguyệt quá tường lai.

    Hựu v ấ n:

    “Chư Phật thuy ế t pháp giai thị hóa vật.Nhược ngộ bản ý, thị danh xu ấ t th ế.”

    Như hà thị “bản ý”. 

    Sư vân: 

    Xuân chức hoa như cẩm,Thu lai diệp tợ hoàng.

    Hựu v ấ n:

    Như hà thị “trực tiệt nh ấ t lộ”? 

    Sư vân: 

    Đông tây xa mã tẩu,Tr ần th ổ hi ểu hôn phi.

    Hựu v ấ n:

    Hữu pháp hữu tâm khai vọng thức,Như hà tâm pháp đãng câu tiêu? 

    Sư vân:

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    50/64

    Khả đoạt tùng sao trường u ấ t u ấ t,Khởi ưu sương tuyế t lạc phân phân.

    Hựu v ấ n:

    T ổ ý dữ giáo ý như hà? 

    Sư vân: 

    Hứng lai hu ề trượng du vân kính,Kh ốn tức thùy liêm ngọa trúc sàng.

    Hựu v ấ n:

    T ổ t ổ tương truyền, hợp truy ền hà sự?

    Sư vân: 

    Cơ lai tu t ầm thực,

    Hàn tức hướng c ầu y.

    Hựu v ấ n:

    Th ế  nhân giai nh ẫm ốc,Lậu nhân hà sở tại?

    Sư vân: 

    Kim ô kiêm ngọc th ố,Doanh tr ắc mạn lao phân.

    Hựu v ấ n:

    Như hà thị Tào Khê nh ấ t lộ?

    Sư vân: 

    Khả lân kh ắc chu khách,Đáo xứ ý thông thông.

    Dịch nghĩa: 

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    51/64

    BÀY RÕ BÍ QUY ẾT CHO NGƯỜI THAM VẤN

    Một hôm ng ồi trước Tăng đường, có vị Tăng hỏi:

    - Phật và Thánh khác nhau th ế  nào?

    Sư đáp: 

    Trùng dương cúc nở dưới rào,Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.

    Tăng thưa: 

    Cảm tạ Th ầy chỉ dạy, học nhân ch ẳng hội, xin lại nêu bày ra.

    Sư đáp: 

    Ngày thì v ầng nhật chi ế u,Đêm đến ánh trăng soi. 

    Tăng lại hỏi:

    Đã được chân chỉ của Th ầy, còn huy ền cơ thì dạy th ế  nào?

    Sư đáp: 

    Bưng thau nước đầy không chú ýMột lúc s ẩy chân h ối ích gì?

    Tăng thưa: 

    Đa tạ!

    Sư bảo:

    Chớ rửa sông to sóng,Chính mình đế n ch ế t chìm.

    Tăng hỏi:

    Thi ế u Th ấ t, Ma-kiệt r ấ t huy ền diệu, từ xưa đế n nay ai k ế  thừa làm chủ?

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    52/64

    Sư đáp: 

    Trời t ối, sáng soi nhờ nhật nguyệt,Đấ t hi ểm, phân ranh có núi sông.

    Tăng hỏi:

    Th ế  nào là đại đạo,Cội ngu ồn một l ối đi? 

    Sư đáp:

    Gió mạnh bờ cao bi ế t cỏ cứng,Nước nhà lận đận th ấ y tôi trung.

    Hỏi:

    T ấ t cả chúng sanh từ đâu tới,Sau khi trăm tuổi sẽ v ề đâu? 

    Đáp: 

    Rùa mù dùi vách đá, Trạnh què trèo núi cao.

    Hỏi:

    “Trúc biế c xanh xanh trọn là chân như”, thế  nào là “dụng” của chân như? 

    Đáp: 

    Tặng anh đi ngàn dặm,Cười trao một ấ m trà.

    Lại thưa: 

    Th ế  là u ổng công đế n mà vô ích?

    Đáp: 

    Ai bi ết được người chủ (Đông A), Trên đường lại bạc đầu.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    53/64

     

    Hỏi:

    Dã Hiên một nhà kín,Ai bi ế t gõ d ễ dàng.

    Đáp: 

    Kim C ốc tiêu điều hoa cỏ loạn,Mà nay sớm t ối mặc ngựa dê.

    Hỏi:

    Tại sao như thế ?

    Đáp: 

    Giàu sang v ẫn kiêu sa,Khi ế n thành l ầu chợ hoại.

    Hỏi:

    Long nữ dâng châu thành Phật quả,Đàn-na b ố thí phước th ế  nào?

    Đáp: 

    Qu ế  trong trăng muôn thuở,Héo tươi tại một v ầng.

    Lại thưa: 

    Th ế  là nhọc mà không công?

    Đáp: 

    Trên trời như treo gương, Nhân gian nơi nơi tỏ.

    Hỏi:

    Qua sông c ần dùng bè,

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    54/64

    Đế n bờ thuy ền bỏ lại.

    Khi không qua thì th ế  nào?

    Đáp: 

    H ồ khô cá m ắc cạn,S ống được muôn năm xuân. 

    Lại thưa: 

    Th ế  là theo dòng mới được diệu lý?

    Đáp: 

    Th ấ y nói bạn Kinh Kha,Một đi không trở lại.

    Hỏi:

    Quặng, vàng l ẫn lộn nguyên một loại,Thỉnh Th ầy phương tiện luyện cho tinh.

    Đáp: 

    Ch ẳng phải khách nước T ề,Đâu biế t cá to bi ển.

    Lại thưa: 

    Ông Quách ch ẳng chịu nhận,Can gián cũng làm gì? 

    Đáp: 

    N ế u mu ốn trước u ống rượu,Khéo vẽ r ắn làm gì?

    Hỏi:

    R ắn ch ết trên đường xin Th ầy cứu s ống?

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    55/64

    Sư bảo:

    Ông là người phương nào? 

    Tăng thưa: 

    V ốn là người ở núi.

    Sư bảo:

    Núi xưa về  ẩn g ấ p,

    Chớ th ấ y Hứa Chân Quân.

    Hỏi:

    Bi ển cả mênh mông trọn ch ẳng hỏi,Tào Khê giọt giọt là th ế  nào?

    Đáp: 

    Trước gió thông reo ti ế ng bu ồn bã,Mưa tạnh trên đường ít bùn l ầy.

    Lại thưa: 

    Th ế  là ch ẳng khác thời nay?

    Đáp: 

    Dưới giậu trùng dương cúc, Đầu cành xuân ấ m oanh.

    Hỏi:

    Rõ ràng trong khoảng tâm m ắt,Sáng chói ở trong s ắc thân.

    Mà lý không th ể phân, tướng không th ể th ấ y, tại sao không th ấ y?

    Đáp: 

    Trong vườn hoa khoe s ắc,

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    56/64

    Trên bờ cỏ xanh rì.

    Hỏi:

    Năm lạnh các m ầm th ối,

    L ấy gì để khoe xinh.

    Đáp: 

    Mừng ông đã thấ u su ốt,Cũng chẳng vui hay sao.

    Tăng nói: 

    Hân hạnh nghe Th ầy giải,

    Từ đây khỏi chợt không.

    Sư đáp: 

    Chìm cạn vừa ra khỏi,Quay đầu muôn trượng đầm.

    Hỏi:

    “Trong thành Niế t-bàn v ẫn còn nguy”, thế  nào là ch ỗ ch ẳng nguy?

    Đáp: 

    Xây t ổ trên rèm cháy,Râu tóc cọng hoa lau.

    Hỏi:

    N ế u gặp khi bức bách,Hai ch ỗ là làm gì?

    Đáp:

    Trượng phu tùy thong thả,Gió trăng mặc tiêu dao.

    Hỏi:

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    57/64

     

    “Tấ t cả chúng sanh đều nói là Phật”, lý này chưa rõ xin Thầy chỉ dạy?

    Đáp: 

    Khuyên ông hãy g ắng việc nông tang,Chớ học theo người đợi thỏ nhọc.

    Tăng nói: 

    Được nhờ Th ầy chỉ rõ,

    Trọn ch ẳng đế n ai c ầu.

    Sư nói: 

    Đáng thương người m ắc nghẹn,Ng ồi đói lại quên ăn. 

    Tăng nói: 

    Nhi ều năm cấ t gi ấu báu trong đãy, Ngày nay trước m ắt th ấ y rõ ràng.

    Sư nói: 

    Chỉ đợi trăng thu sáng, Đâu ngờ mây mưa che. 

    Tăng nói: 

    Tuy nghe Th ầy thuy ế t giảng,Lý n ầy v ẫn chưa rành. 

    Sư đáp: 

    Cười kẻ lu ống ôm cột,Ch ết đuối n ằm giữa dòng.

    Hỏi:

    Th ế  nào là một pháp?

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    58/64

    Đáp: 

    Ch ẳng th ấ y xuân sanh cùng hạ trưởng,

    Lại gặp thu chín và đông thâu. 

    Lại thưa: 

    Th ế  là nhi ều người thành Phật?

    Đáp: 

    T ổ Long chợt tự dừng,Từ Phúc xa lu ống nhọc.

    Hỏi:

    “Kiế n tánh thành Phật”, nghĩa này thế  nào?

    Đáp: 

    Cây khô gặp xuân hoa đua nở,Gió th ổi hương thần thơm rấ t xa.

    Tăng nói: 

    Đệ tử chưa hiểu, xin Th ầy chỉ lại.

    Sư đáp: 

    Muôn năm cây cà ấ y,Xanh tươi thấ u từng mây.

    Hỏi:

    Ma-ni cùng các s ắc,Ch ẳng hợp cũng chẳng lìa?

    Đáp: 

    Hoa xuân cùng bươm bướm,Lúc m ế n lúc chia lìa.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    59/64

    Hỏi:

    Th ế  là theo kia h ỗn tạp?

    Đáp: 

    Ch ẳng phải m ắt tăng Ấn,Lu ống nhọc trình biện châu.

    Hỏi:

    Th ế  nào là chạm m ắt b ồ-đề?

    Đáp: 

    Chim từng sợ cây cong,Người th ổi mãi rau nguội.

    Hỏi:

    Đệ tử ch ẳng hi ểu, xin Th ầy cho dụ khác.

    Đáp: 

    Kẻ điếc nghe đàn sáo, 

    Người mù ng ắm trăng lên. 

    Hỏi:

    V ốn tự có hình cùng có bóng,Có khi bóng cũng lìa hình chăng? 

    Đáp: 

    Các sông v ề Đông chừ muôn dòng tranh chảy.Chúng sao ch ầu B ắc chừ ngàn xưa v ề tâm.

    Hỏi:

    Th ế  nào là một câu sáng tỏ siêu trăm ức?

    Đáp: 

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    60/64

     

    Xa ném Thái Sơn qua biển B ắc,Ngước tung cây gậy đến cung trăng. 

    Hỏi:

    “Chỉ một việc này là thật, còn hai ắt ch ẳng chân”, thế  nào là chân?

    Đáp: 

    Đầu gậy gió d ễ động,

    Trên đường mưa thành lầy.

    Hỏi:

    “Chẳng hướng Như Lai cầu diệu tạng,Không mong đuốc T ổ n ối ngọn đèn.” 

    Ý chỉ câu này th ế  nào?

    Đáp: 

    Trời thu hoàng oanh hót,Trong tuy ế t m ẫu đơn xinh. 

    Hỏi:

    Th ế  nào là câu tuyệt diệu?

    Đáp: 

    Một người xây vách đứng,Cả nhà u ống ch ẳng vui.

    Hỏi:

    C ổ kim việc lớn thôi không hỏi,Chỉ chuyện Tây lai ý th ế  nào?

    Đáp: 

    Người nói khéo mặt lành,

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    61/64

    Kẻ dùi rùa đập ngói.

    Hỏi:

    “Tâm pháp đều quên, tánh tức chân”, thế  nào là chân?

    Đáp: 

    Hoa núi mưa sa, Thần nữ khóc,Tre sân gió th ổi, Bá Nha đàn. 

    Hỏi:

    Th ế  nào là câu tuyệt diệu?

    Đáp: 

    Trong c ổ v ẫn còn nghẹn,Thường ở ch ỗ b ấ t an.

    Hỏi:

    Còn tu còn chứng sanh b ốn bệnh,Xu ất đầu sao được thoát l ồng tr ần?

    Đáp: 

    Núi cao lại lớn dung chứa bụi,B ể cả càng sâu nhận các dòng.

    Hỏi:

    “Chỉ Phật với Phật mới bi ế t việc này”, thế  nào là việc này?

    Đáp: 

    Đường hẹp trúc um tùm,Gió th ổi thành khúc nhạc.

    Hỏi:

    Ch ẳng dùng bình thường, ch ẳng dùng thiên nhiên, ch ẳng dùng tác dụng, thì nay phải làm sao?

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    62/64

     

    Đáp: 

    Cỏ b ồng chim én đậu,Bi ển cả náu cá kình.

    Hỏi:

    Tứ đại đeo mang đã nhi ều ki ế p,Thỉnh Th ầy phương tiện thoát luân h ồi?

    Đáp: 

    T ấ t cả súc sanh tê giác quí,Ăn toàn gai góc, ngủ trong bùn.

    Hỏi:

    “Các thứ thủ xả đều là luân h ồi”, khi không thủ không xả thì sao?

    Đáp: 

    Xưa nay sam tía sắc thường khác,So le cành lá ch ẳng có hoa.

    Hỏi:

    “Đường ngôn ngữ dứt” là ý thế  nào?

    Đáp: 

    Gió th ổi ti ếng còi xuyên trúc đế n,Đầu non mang nguyệt vượt tường sang.

    Hỏi:

    “Chư Phật thuy ết pháp đều nh ằm giáo hóa mọi người, n ế u ngộ bản ý gọi là xu ấ t th ế”, sao gọi là bản ý?

    Đáp: 

    Xuân dệt hoa như g ấ m,Thu sang lá tợ vàng.

  • 8/17/2019 Thiền Sư Việt Nam - Phan 1

    63/64

     

    Hỏi:

    Th ế  nào là một đường th ẳng đứt?

    Đáp: 

    Đông Tây xe ng�