276
ECKHART TOLLE THGII MI MC TIÊU CA ĐỜI NGƯỜI Chuyn ng: Kathy Thuy Nguyen MC LC 1

THE GIOI MOI 1

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: THE GIOI MOI 1

ECKHART TOLLE

THẾ GIỚI MỚI MỤC TIÊU CỦA ĐỜI NGƯỜI

Chuyển ngữ : Kathy Thuy Nguyen

MỤC LỤC ! 1

Page 2: THE GIOI MOI 1

CHƯƠNG MỘT : SỰ TIẾN HÓA CỦA TRI THỨC CON NGƯỜI

Hồi tưởng………………………………………………………………….. 7 Mục tiêu của quyển sách…………………………………… 10 Bản chất con người ……………………………………. 13 Tâm thức mới trỗi dậy ……………………………….. 18 Tôn giáo và tâm linh ………………………………….. 22 Sự chuyển hóa tối cần thiết ………………………. 25 Đất trời mới ………………………………………………. 27

CHƯƠNG HAI : BẢN NGÃ, HIỆN TRẠNG CỦA CON NGƯỜI Bản ngã giả ……………………………………………….. 31 Tiếng nói thầm trong đầu …………………………. 34 Cách vận hành và chứa đựng của bản ngã .. 38 Bản ngã đồng hóa với tài vật …………………….. 39 Chiếc nhẫn kim cương ………………………………. 42 Ảo tưởng sở hữu ……………………………………….. 46 Ham muốn không ngừng ………………………….. 49 Bản ngã đồng hóa với cơ thể ………………………52 Cảm nhận bên trong cơ thể ……………………….. 55

Nguồn sống bị lãng quên ……………………………………. 57 An bình ………………………………………………………………… 58

! 2

Page 3: THE GIOI MOI 1

CHƯƠNG BA : CỐT LÕI CỦA BẢN NGÃ Than phiền và bực tức …………………………………………. 63 Phản ứng và khổ đau …………………………………………… 66 Đúng và sai ………………………………………………………….. 68 Bảo vệ ảo tưởng ………………………………………………….. 68 Chân lý : tương đối hay tuyệt đối? ……………………… 70 Bản ngã là vấn đề chung của con người …………….. 73 Chiến tranh là do tư tưởng định đoạt ………………… 75 Hòa bình hay xung đột? ……………………………………… 77 Vượt lên bản ngã : nhân cách chân thật ……………… 78 Mọi hình tướng đều không bền vững ………………… 80 Bản ngã cần trội hơn người ………………………………… 81 Bản ngã và danh tiếng ………………………………………… 83 CHƯƠNG BỐN : VAI TRÒ CỦA BẢN NGÃ Can phạm – nạn nhân – tình nhân ……………………… 86

! 3

Page 4: THE GIOI MOI 1

Từ bỏ những định danh về mình ……………………….. 88 Các vai trò trước khi thành lập ……………………………. 89 Các vai tạm thời ………………………………………………….. 92 Nhà sư với bàn tay rịn ướt ………………………………….. 93 Hạnh phúc trong vai trò và hạnh phúc chân thật.. .94 Làm cha mẹ : vai trò hay chức năng? …………………. 95 Đau khổ trong tỉnh thức ……………………………………. 99 Nuôi dạy con trẻ một cách sáng suốt ………………… 101 Hiểu biết con trẻ ………………………………………………, 103 Hãy từ bỏ vai trò ……………………………………………… 105 Bản ngã bịnh hoạn ………………………………………….. 108 Bản chất đau khổ ……………………………………………. 111 Chìa khóa của hạnh phúc ……………………………….. 113 Những hình thức bịnh hoạn của bản ngã ……… 116

! 4

Page 5: THE GIOI MOI 1

Hành động vô ngã và có bản ngã ………………….. 118 Bản ngã trong cơn đau …………………………………… 120 Bản ngã trập thể ………………………………………………. 121 Bất tử ……………………………………………………………….. 124

CHƯƠNG NĂM : ĐAU BỊNH Cảm xúc …………………………………………………………… 128 Cảm xúc và bản ngã ………………………………………… 130 Con vịt và tư tưởng con người ………………………… 132 Quá khứ in sâu ………………………………………………… 133 Cá nhân và tập thể ………………………………………….. 135 Nỗi đau tái lập ………………………………………………… 136 Nghiệp cảm tạo bi kịch …………………………………… 137 Nghiệp cảm sâu đậm ……………………………………… 139 Giải trí, truyền thông và cảm xúc ……………………. 140

! 5

Page 6: THE GIOI MOI 1

Cộng nghiệp của phụ nữ ………………………………… 142 Cộng nghiệp của dân tộc ………………………………… 143

CHƯƠNG SÁU : VƯỢT THOÁT Thực tại ……………………………………………………………. 148 Nghiệp cảm tái diễn ………………………………………… 150 Nghiệp cảm của trẻ con …………………………………….. 151 Đau khổ ……………………………………………………………… 154 Chấm dứt đồng hóa với nghiệp cảm …………………. 154 Nghiệp cảm bộc phát ………………………………………… 157 Nghiệp cảm trở thành động lực tỉnh thức ………… 158 Tiêu trừ nghiệp cảm ………………………………………….. 159 CHƯƠNG BẢY : NHẬN RA MÌNH CHÂN THẬT Mình là ai? ………………………………………………………… 161 Thịnh vượng ……………………………………………………… 164

! 6

Page 7: THE GIOI MOI 1

Biết mình và biết về mình …………………………………. 166 Tình trạng hỗn tạp và trật tự cao hơn ………………. 167 Tốt và xấu …………………………………………………………. 168 Hoàn cảnh đến rồi đi ………………………………………… 170 “Thế à” ………………………………………………………………. 171 Bản ngã và hiện tại ……………………………………………. 173 Nghịch lý của thời gian ……………………………………… 175 Triệt tiêu thời gian …………………………………………….. 177 Giấc mơ và người nằm mơ ………………………………… 179 Vượt qua giới hạn ……………………………………………… 181 An bình ………………………………………………………………. 183 Giảm thiểu bàn ngã …………………………………………… 184 Bên trong ra sao, bên ngoài y như vậy ………………187 CHƯƠNG TÁM : KHÁM PHÁ CHÂN KHÔNG

! 7

Page 8: THE GIOI MOI 1

Tâm không ………………………………………………………… 193 Vượt thoát tư tưởng ………………………………………….. 195 Truyền hình ……………………………………………………. 196 Nhận ra chân không ……………………………………… 197 Tiếng suối reo ………………………………………………… 200 Hành động đúng ……………………………………………. 201 Nhận biết và không đặt tên …………………………… 202 Người kinh nghiệm ………………………………………… 203 Hơi thở …………………………………………………………… 205 Dính nhiễm ……………………………………………………. 207 Tĩnh thức nội tâm ………………………………………….. 208 Chân không bên trong và bên ngoài …………….. 209 Mất mình là tìm lại mình ………………………………… 210 Tĩnh lặng ………………………………………………………… 211 CHƯƠNG CHÍN : MỤC TIÊU BÊN TRONG

! 8

Page 9: THE GIOI MOI 1

Tĩnh thức ……………………………………………………….. 214

CHƯƠNG MƯỜI : THẾ GIỚI MỚI Đời người ……………………………………………………… 231 Tĩnh thức và trở về ………………………………………… 233 Tĩnh thức và hoạt động bên ngoài ………………… 237 Tâm thức ……………………………………………………….. 240 Hành động trong thức tỉnh …………………………… 242 Ba trạng thái của hành động thức tỉnh …………. 244 Chấp nhận …………………………………………………….. 245 Vui thích ……………………………………………………….. 246 Nhiệt thành ………………………………………………….. 250 Thường còn …………………………………………………. 255 Thế giới mới không phải là ảo tưởng …………. 257 CHƯƠNG MỘT

! 9

Page 10: THE GIOI MOI 1

SỰ TIẾN HOÁ CUẢ TRI THỨC CON NGƯỜI

HỒI TƯỞNG Cách đây hằng triệu năm, trái đất đón nhận bông hoa đầu tiên hé nở lung linh dưới những tia nắng ấm. Trước đó, quả địa cầu chỉ toàn là rừng rậm hoang vu trãi qua hằng triệu năm cho tới khi có bông hoa xuất hiện, báo hiệu tiến hóa của loài thảo mộc. Bông hoa đầu tiên không sống lâu, vài bông hoa nở tiếp cũng hiếm hoi lẻ tẻ, do các điều kiện chưa thích hợp để cho bông hoa nở rộ. Đến khi tri thức con người khởi lên ý thích những đóa hoa xinh tươi, từ đó thế giới màu sắc và hương thơm phát triển nhanh chóng và lan tràn khắp nơi. Hoa thơm sắc thắm đã thu hút con người, nhưng khi tri thức mở mang, họ biết rằng các loài hoa không có giá trị thực dụng, nghĩa là không thể dựa vào chúng để sinh tồn; loài hoa chỉ cung cấp nguồn cảm hứng cho giới nghệ sĩ, thi sĩ và các nhà thần học. Chúa Jesus dạy chúng ta ngắm nhìn bông hoa để rút tỉa bài học xem chúng sống an nhiên ra sao. Đức Phật cũng dạy "Bài Pháp không lời" khi cầm cành hoa đưa lên và chăm chú vào nó, khi đó Ngài Mahakascyana, một đệ tử của Phật mĩm cười, nụ cười có nghĩa là hiểu

! 10

Page 11: THE GIOI MOI 1

biết, là nhận ra Thực Tại an nhiên, và sau này lần lượt trao truyền cho 28 vị Thầy kế thừa. Ngắm nhìn vẻ đẹp an nhiên của bông hoa có thể làm con người tĩnh thức, vì vẻ an nhiên vốn là nền tảng của nội tâm hay là bản nhiên chân thật của con người. Sự khám phá ra vẻ đẹp an nhiên là một trong những sự kiện quan trọng nhứt trong tiến trình nhận thức. Từ đó con người mới có cảm giác ưa thích vẻ đẹp, nếu không, bông hoa chỉ có hình sắc xinh tươi, thanh nhã, không dính gì đến tâm thức con người. Vì bản chất của bông hoa mong manh, duyên dáng hơn các loài thảo mộc, chúng ta có thể ví bông hoa như những sứ giả giữa thế giới hình tướng và thế giới không hình tướng. Loài hoa không những có sắc thắm làm ưa lòng người, lại còn tỏa hương thơm tinh túy cũng giống như "nguồn tâm" là tinh túy của con người. Dù là loài động vật, thảo mộc hay khoáng chất, tất cả đều trãi qua tiến trình biến hóa, tuy nhiên, tình trạng này cũng hiếm hoi vì không phải là sự tiến hóa thông thường, mà là bước nhảy vọt, vượt hẵn tầm mức bình thường; điều đáng chú ý hơn cả là tiến trình tiến hóa làm giảm bớt phần quan trọng của vật chất.

! 11

Page 12: THE GIOI MOI 1

Có vật gì cứng và rắn chắc hơn tảng đá? Vậy mà vẫn có vài loại đá đã thay đổi cấu trúc phân tử, biến thành pha lê trong suốt dưới ánh sáng. Vài loại than đá, dưới áp lực và sức nóng không thể hiểu nổi, biến thành kim cương, và vài loại khoáng chất rắn chắc khác cũng biến dạng thành các loại đá quý. Đa số các loài bò sát, loài bám chặt vào đất liền nhiều nhất, đã không tiến hóa từ hằng triệu năm qua, tuy nhiên, có vài loại đã mọc lông, mọc cánh và trở thành chim chóc, vượt thoát trọng lực đã giữ chặt chúng khá lâu. Từ thời Thượng cổ, các loài hoa, đá quý, thủy tinh, chim chóc đã chiếm vị trí đặc biệt trong tâm thức con người, cũng giống như mọi hình tướng khác, các loài này chỉ tạm mang hình dạng dưới một đời sống và tâm thức. Sở dĩ con người có cảm giác ưa thích và bị chúng thu hút vì lẽ có liên hệ với bản chất tinh túy của chúng. Khi lắng lòng, tĩnh lặng và chú tâm vào thực tại, con người có thể cảm nhận nguồn tâm nội tại hay là bản nhiên tinh túy thâm sâu, cũng chính là nguồn sống đồng nhất của mọi loài. Nhân loại chưa tiến tới nguồn đồng nhất để có một “thế giới mới”, bởi đa số chỉ thấy hình tướng bên ngoài, không nhận ra bản nhiên tinh túy bên trong, nên họ đồng hóa với hình tướng và tâm lý mà thôi.

! 12

Page 13: THE GIOI MOI 1

Tuy nhiên, ngay đối với những người thiếu tĩnh thức hay chưa thức tỉnh, khi ngắm nhìn bông hoa, thủy tinh, đá quý hay chim chóc, đôi lúc họ cũng cảm nhận nơi các loài đó có cái gì hơn là hình tướng bên ngoài, dù họ không biết tại sao lại bị thu hút và ưa thích chúng như vậy. Do bản chất mong manh, các hình tướng này ít che mờ phần nguồn tinh túy hơn các loài khác. Ngoại trừ các hình tướng yếu ớt như trẻ sơ sinh, trừu non, gà con...mà cấu tạo vật chất chưa đầy đủ, còn các loài khác, đẹp đẽ và quý hiếm, toát ra ánh lung linh trong sáng, người vô tình đến đâu cũng phải ưa thích. Vì vậy, lúc chúng ta ngắm nhìn bông hoa, đá quý hay chim chóc, không qua trí suy tưởng, là lúc ta đi vào ngưỡng cửa của thế giới vô hình tướng. Lối vào này tuy hiếm hoi, cũng là mở lối đưa đường vào thế giới tâm linh, vào nguồn sống đồng nhất. Ta mới có thể giải thích được do đâu các loài nói trên đã giữ phần quan trọng trong tiến trình tâm thức của con người từ thời xưa; do đâu mà Tôn giáo lấy hoa sen hay chim bồ câu trắng làm biểu tượng. Chúng đã chuẫn bị nền tảng cho tiến trình tâm thức cao hơn trên hành tinh này, đặc biệt là cho con người. Hiện nay chúng ta đang bắt đầu chứng kiến tình trạng thức tỉnh tâm linh của nhân loại.

! 13

Page 14: THE GIOI MOI 1

MỤC TIÊU CỦA QUYỂN SÁCH Có thể nào con người CHẤM DỨT sự bưng bít dày dặc của trí óc để biến đổi như đá quý, khơi dậy nguồn sống đồng nhất? Làm sao con người có thể VƯỢT THOÁT sức thu hút của vật chất, thoát khỏi sự đồng hóa với hình tướng đã giữ chặt và giam hãm chúng ta từ lâu nay? Khả năng chuyển hóa là trọng tâm của các giáo lý thâm sâu, uyên bác của loài người, những sứ giả như Đức Phật, Chúa Jesus...là các vị sớm tỉnh sáng của nhân loại như những bông hoa đầu tiên. Các Ngài là bậc tiên phong siêu phàm và quý hiếm, tuy nhiên vào thời đó, thông điệp của các Ngài chưa được phổ biến rộng rãi, lại còn bị hiểu lầm nên đã sai lạc nghiêm trọng. Do đó, nhân loại đã không chuyển hóa được, ngoại từ một thiểu số rất hiếm hoi. Ngày nay phải chăng con người chuẫn bị sẵn sàng hơn là vào thời các Ngài? Tại sao? Chúng ta có thể làm gì để phát khởi hay làm tăng trưởng sự chuyển hóa? Điều gì tiêu biểu cho tâm vị ngã cố hửu và dấu hiệu nào chứng tỏ tâm thức mới được nhận ra? Quyển sách này sẽ đề cập đến các câu trên và các câu hỏi thiết yếu khác, hơn nữa, quyển sách tự nó chỉ là phương tiện để chuyển hóa, qua đó tâm thức mới sẽ khơi dậy và phát triển. Những ý kiến và quan niệm trình bày trong sách có thể quan trọng nhưng chúng

! 14

Page 15: THE GIOI MOI 1

không gì hơn là phương tiện nhắm chỉ sự tỉnh thức, khi bạn đọc sách, sẽ có sự chuyển biến bên trong. Mục tiêu chính của quyển sách không nhằm thêm vào trí óc dữ kiện mới hay niềm tin hoặc cố thuyết phục bạn điều gì, mà chỉ đem lại sự chuyển đổi trong tâm hay nói cách khác là để TỈNH THỨC, với chủ yếu này, quyển sách sẽ không đem lại niềm thích thú, vì còn thích thú là còn khoảng cách do tư tưởng phân biệt giữa thích và không thích. Vấn đề trọng yếu từ quyển sách này là hoặc nó sẽ làm thay đổi tâm thức con người hoặc là nó không có nghĩa gì cả. Nó chỉ có thể làm thức tỉnh cho những ai đã chuẫn bị sẵn sàng. Không phải ai ai cũng được, nhưng có nhiều người đã sẵn sàng và mỗi con người tỉnh sáng sẽ đẩy mạnh sức phát triển tâm thức nhân loại và làm cho những người khác dễ dàng hơn. Nếu bạn không hiểu tỉnh thức là gì, bạn cứ nên tiếp tục đọc, đến khi tỉnh thức, bạn mới có thể hiểu rõ nghĩa thực sự của từ này, đọc lướt qua cũng đủ khai mở tâm thức, không thể quên được; đối với nhiều người, dù chưa nhận ra, nhưng tiến trình chuyển đổi sẽ bắt đầu, quyển sách này sẽ giúp họ nhận ra; một số người khác, khi họ bị mất mát hay đau khổ, họ mới thức tỉnh. Ngoài ra có những người do tiếp xúc với giáo lý và các vị thầy tâm linh hoặc đọc quyển " Sức mạnh của

! 15

Page 16: THE GIOI MOI 1

Thực tại" (Power of NOW) hay các sách về tâm linh hoặc do sự kết hợp tất cả các sự kiện trên, tiến trình thức tỉnh sẽ khởi phát trong tâm, quyển sách này giúp tăng cường thêm sức tỉnh thức. Phần thiết yếu của thức tỉnh là NHẬN RA bản ngã đang lầm lẫn trong ý nghĩ, lời nói và hành động, cũng như NHẬN RA ra quá trình đầu óc bị khống chế, chìm đắm trong mê lầm tự lâu đời. Quyển sách này sẽ vạch rõ những trạng thái của bản ngã đã vận hành ra sao trong mỗi con người hay trong tập thể nhân loại. Có 2 nguyên do liên hệ nhau: Nguyên do thứ nhứt là trừ phi bạn biết rõ bộ máy căn bản lèo lái, điều hành bản ngã, nếu không, bạn sẽ không nhận ra và sẽ bị bản ngã đánh lừa và đồng hóa mãi mãi, nói cách khác, bản ngã sẽ thay thế bạn, giả làm bạn. Nguyên do thứ hai là khi bạn tự nhận ra bản ngã giả, là một trong những cách khai mở tâm thức, ngay khi nhận ra mình đã mê lầm, là tâm thức sẽ khởi phát hay là thức tỉnh. Bạn không thể tranh đấu chống lại bản ngã để dành phần thắng, cũng như không thể chống lại bóng đêm, vì chính bạn là ánh sáng. Ánh sáng của tỉnh thức là tất cả những gì thiết yếu nhất trong đời.

! 16

Page 17: THE GIOI MOI 1

BẢN CHẤT CON NGƯỜI Nếu chúng ta đào sâu vào tín ngưỡng cổ xưa và các giáo lý truyền thừa của nhân loại, chúng ta sẽ khám phá rằng dưới những sắc thái khác nhau có hai cốt lõi tiềm ẩn mà hầu hết đều giống nhau, từ ngữ dùng để diễn tả tuy khác nhưng đều nhắm chỉ chân lý thâm sâu. Phần đầu là nói về trạng thái "bình thường" của trí óc con người mà hầu hết đều chứa đựng yếu tố cường động có thể gọi là phản xạ hay nhiễu loạn. Ấn độ giáo có lẽ sớm nhận ra tình trạng mê lầm này như là bệnh tâm thần tập thể của nhân loại. Họ gọi đó là "maya", bức màn ảo giác. Nhà hiền triết Ấn độ Ramana Maharshi khẳng định thẳng thắn rằng "Trí óc là maya". Phật giáo dùng các từ khác, theo Đức Phật trí óc con người ở trạng thái bình thường điều động bằng "dukha" (khổ đế), có thể dịch là đau khổ, không thỏa mãn hay bất an. Đức Phật biết đó là bản chất cuả con người, dù ở đâu hay làm bất cứ gì, con người đều giáp mặt với khổ đế và gốc khổ này không sớm thì muộn cũng sẽ xãy ra. Theo Cơ đốc giáo, trạng thái bình thường của con người là một trong "tội lỗi gốc rễ". Từ lâu danh từ tội lỗi đã bị hiểu lầm và diễn dịch sai lạc. Trong Kinh thánh tân ước, từ "tội lỗi" dịch từ nguyên văn cổ Hy lạp chính xác có

! 17

Page 18: THE GIOI MOI 1

nghĩa là “lạc hướng”, mất mục tiêu; người "phạm tội" là người mất cội nguồn, sống mù quáng, nên phải chịu đau khổ. Như vậy, từ tội lỗi cũng nhắm chỉ tình trạng mê lầm thường trực của con người. Ngày nay, không ai có thể phủ nhận thành quả của văn minh nhân loại tiến triển đến mức vượt bực. Con người không ngừng sáng tạo trong các lãnh vực khoa học, văn chương, âm nhạc, hội họa, kiến trúc và điêu khắc. Gần đây, khoa học kỹ thuật đem đến những đổi thay tận gốc rễ trong đời sống và còn có khả năng sáng chế các phát minh có thể coi là mầu nhiệm so với 200 năm trước. Thật vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, trí óc con người thông minh bén nhạy quá độ đưa đến tình trạng bị giao động mãnh liệt. Khoa học kỹ thuật đã tăng cường tác động phá hoại do đầu óc méo mó của con người gây ra cho trái đất, cho các loài khác và cho chính con người nữa. Diễn tiến lịch sử trong thế kỷ 20 cho thấy rõ nạn mê lầm tập thể của nhân loại, mê lầm ngày càng gia tăng vượt bực. Thế chiến thứ nhứt bùng nổ năm 1914, rồi những cuộc chiến khốc liệt và phá hoại do lòng tham của con người muốn chiếm đoạt quyền lực đã thường xuyên xãy ra trong lịch sử loài người, và những cảnh bạo tàn, tra tấn, nô lệ diễn ra khắp nơi do nạn kỳ thị chủ nghĩa và tôn

! 18

Page 19: THE GIOI MOI 1

giáo. Con người đã chịu đau khổ cùng cực gây ra bởi con người nhiều hơn là bởi thiên tai. Cho tới năm 1914, trí óc thông minh cao độ của con người không những phát minh động cơ máy nổ, đồng thời cũng chế ra bom, súng máy, tàu ngầm, trái sáng và hơi độc. Loại thông minh này đã phục vụ cho nông nổi và ngông cuồng! Ở Pháp và Bỉ, hằng triệu thây người chất chồng trong hầm hố do chiến tranh gây ra. Vào năm 1918, khi những cuộc chiến chấm dứt, người sống sót quá đỗi kinh hoàng nhìn thấy hậu quả kinh khiếp, ngoài con số 10 triệu sinh linh bị giết chết, những người bị tàn tật và dị hình không sao kể xiết! Chưa bao giờ xãy ra nạn xung đột khốc liệt như vậy gây ra do đầu óc con người loạn động. Ấy vậy mà đó mới chỉ là giai đoạn khởi đầu. Cuối thế kỷ 20, con số người bị thảm sát bởi bàn tay độc ác của đồng loại lên đến 100 triệu người! Họ bị giết không những do chiến tranh mà còn do nạn diệt chủng và tàn sát tập thể, chẳng hạn như cuộc thảm sát 20 triệu dân thuộc thành phần bị gán là "kẻ thù, gián điệp và phản nghịch" xãy ra ở Nga sô dưới thời Stalin hoặc cuộc hủy diệt thảm khốc ở Đông Đức. Thêm nữa, vô số người bị giết chết trong những vụ xung đột nội bộ, chẳng hạn như cuộc nội chiến tương tàn ở Tây ban Nha, chế độ khờ

! 19

Page 20: THE GIOI MOI 1

me đỏ ở Campuchia mà hơn 1/4 dân số trong nước bị thảm sát! Chưa hết, chúng ta chỉ cần theo dõi tin tức hằng ngày trên T.V. cũng nhận ra là mối ngông cuồng vẫn chưa giảm bớt, vẫn đang tiếp diễn qua thế kỷ 21. Mặt khác, con người còn gieo rắc bạo tàn chưa từng có lên số phận của những loài khác và làm hại thiên nhiên và trái đất đã dung chứa mình. Đó là nạn hủy hoại dưỡng khí rất cần yếu cho cây cối, thảo mộc và sinh vật; cách chăn nuôi giam cầm ác độc trong những xưởng trại; và việc gây độc hại cho sông ngòi, biển cả làm ô nhiễm không khí. Do lòng tham quá độ, bất chấp ảnh hưởng tới muôn loài, con người tiếp tục mù quáng và điên rồ, chắc chắn sẽ đưa tới hậu quả là tự hủy diệt chính con người. Lịch sử nhân loại đã bị hoen ố do nạn mê lầm tập thể xuất phát từ tim đen. Đó là những ảo tưởng bệnh hoạn mê lầm đưa tới bạo hành và giết hại những người bị coi là thù nghịch. Tuy nhiên con người dù có gây tội ác đến đâu cũng còn chút ít lương tâm xen kẻ. Lòng tham lam, nỗi sợ hãi và muốn chiếm giữ quyền hành là những động lực tâm lý không những gây ra xung đột tệ hại giữa các quốc gia, chủng tộc, tôn giáo mà còn là lý do gây mâu thuẫn triền miên trong quan hệ giữa con người với nhau.

! 20

Page 21: THE GIOI MOI 1

Do tham sân, con người đã nhận thức méo mó về tha nhân cũng như về mình, đã diễn dịch sai lạc trong mọi tình huống khiến hành động mù quáng để tránh sợ hãi và để thỏa mãn túi tham không đáy. Chúng ta phải nghiêm túc nhận ra một cách thấu đáo rằng tâm tham lam, tâm sợ hãi bắt nguồn từ mê lầm, từ ảo tưởng dai dẵng ẩn sâu trong tiềm thức con người. Biết bao đạo giáo khuyên dạy chúng ta nên để cho tham sân đi qua. Nhưng các phương pháp thực tập này thường ít có hiệu quả, vì không đào sâu tận gốc rễ của nạn mê lầm. Tham, sân và muốn quyền lực không phải là những yếu tố tất yếu gây tạo nguyên nhân. Bởi vì khi gắng sức cố làm người tốt tức là làm theo mệnh lệnh của đầu óc và sự gắng sức này không thể đạt đến rốt ráo trừ phi có sự chuyển hóa trong tâm thức. Khi gắng sức làm người tốt cũng chỉ là hình thức tinh tế của bản ngã muốn được tôn lên, làm tăng cường quan niệm và ý tưởng riêng tư. Do đó bạn không thể trở thành hoàn hảo bằng nỗ lực, mà hãy nhận chân rằng mình đã có sẵn lòng tốt bên trong, chỉ cần nhận ra và thể nhập. Muốn vậy, phải có sự chuyển hóa sâu đậm trong tâm thức. Lịch sử cho ta thấy rõ, những chủ nghĩa độc tài ban đầu đều có lý tưởng cao đẹp, nhưng chỉ chú trọng đến nỗ lực thay đổi vật chất bên

! 21

Page 22: THE GIOI MOI 1

ngoài - để tạo ra một xã hội mới - mà không quan tâm đến việc thay đổi bên trong mới chính là yếu tố quyết định. Họ lập ra những chương trình, dự án tốt đẹp, nhưng không màng đến gốc rễ sai lầm mà mỗi con người đều sao chép lại, đó là bản ngã ích kỷ cố hữu của con người.

TÂM THỨC MỚI TRỖI DẬY Đa số các đạo giáo cổ xưa và truyền thống tâm linh đều nhận thức chung là đầu óc "bình thường" của con người mang bản chất mê lầm sâu đậm. Tuy nhiên loài người có khả năng chuyển hóa tâm thức của mình tận gốc rễ. Theo Phật giáo, khả năng đó gọi là giác ngộ hay chấm dứt khổ đau. Chúa Jesus gọi đó là sự cứu rỗi. Các từ ngữ khác như tĩnh thức hay tỉnh sáng cũng dùng để diễn tả sự thay đổi tâm thức. Thành quả cao quý nhất của nhân loại không phải là những sáng tác nghệ thuật, khoa học hay kỹ thuật, mà là việc NHẬN RA tình trạng mê lầm của chính mình. Trong lịch sử loài người, chỉ có vài cá nhân đã nhận ra tình trạng này. Cách nay gần hai ngàn sáu trăm năm ở Ấn Độ có một thanh niên tên Gautama Siddhartha có lẽ là người nhìn thấy tình trạng này rõ ràng nhất. Sau đó người ta tôn phong

! 22

Page 23: THE GIOI MOI 1

Ngài bằng danh hiệu "Phật", từ ngữ Phật có nghĩa là "người giác ngộ". Cũng vào thời kỳ đó, ở Trung Quốc xuất hiện một bậc sớm giác ngộ khác, đó là Lão Tử. Vị này đã để lại cho đời một văn kiện tâm linh sâu sắc, đó là Đạo đức kinh. Một khi con người phát hiện ra tâm mê lầm có nghĩa là bắt đầu lóe ra tâm sáng suốt, khởi đầu cho sự hàn gắn và hướng thiện. Khi đó tâm thức nhân loại sẽ thay đổi theo chiều hướng mới, khai mở cho thời kỳ tốt đẹp. Từ lâu các bậc tỉnh sáng đã truyền dạy cho đệ tử, đã vạch rõ thế nào là tội lỗi, là khổ đau, là ảo tưởng của nhân loại. Các Ngài dạy rằng :"Hãy quan sát cách chúng ta sống, xem chúng ta đang làm gì, và mọi đau khổ đều do chúng ta tự gây tạo". Sau đó các Ngài vạch ra khả năng thức tỉnh để thoát khỏi ác mộng tập thể mà con người tưởng là "bình thường". Họ chỉ dạy các phương pháp, đường lối để thức tỉnh và giải thoát bản ngã. Dù vậy thế giới vẫn chưa sẵn sàng chuyển đổi. Hơn nữa giáo điều của các Ngài phần lớn không khỏi bị đệ tử hiểu lầm và những thế hệ tiếp theo cũng vậy. Giáo lý của các vị tỉnh sáng tuy đơn giản mà rất hiệu lực, nhưng một số trường hợp đã bị méo mó và diễn dịch sai lạc dù được các đệ tử lưu lại bằng chữ viết. Qua bao thế kỷ, nhiều sự kiện bị thêm thắt vào,

! 23

Page 24: THE GIOI MOI 1

chẳng ăn nhập gì đến giáo lý nguyên thủy mà lại còn phản ảnh nhiều lầm lẫn sâu đậm. Một số các thầy đã làm trò lố bịch nên bị sĩ nhục hay bị giết; một số khác buộc các đệ tử tôn mình là thánh nhân. Các giáo điều nhắm chỉ đường lối để thoát khỏi đầu óc mê lầm tập thể của nhân loại, đã bị méo mó và trở thành một phần của nạn sai lầm. Vì thế các tôn giáo, trong phạm vi rộng lớn, trở thành các đoàn thể chia rẽ hơn là thống nhất. Thay vì chấm dứt bạo tàn và thù hận do sự khám phá ra mọi loài đều có cùng nguồn sống vô biên, ngược lại các tôn giáo gây thêm nhiều bạo hành và thù hận, nhiều chia rẽ giữa con người với nhau, giữa các tôn giáo và ngay cả giữa những nguời cùng chung tôn giáo nữa. Chúng trở thành những hệ tư tưởng, những hệ thống tín ngưỡng mà người gia nhập đã đồng hóa vào và dùng chúng để làm mạnh thêm bản ngã giả. Dựa vào tôn giáo, họ cho mình là "đúng" và người khác là "sai" và họ tự phân biệt với những người họ cho là "thù nghịch" tức là những người "vô đạo" hay "ngoại đạo", họ lại tự biện hộ là đúng khi muốn giết những người thù nghịch này. Con người đã dựng lên "Thượng đế" trong tâm tưởng riêng của mình. Họ đã đánh giá thấp nguồn sống vô biên, không hình tướng và bất diệt thành một hình tượng trong tâm tưởng bắt con người phải tin

! 24

Page 25: THE GIOI MOI 1

là "thượng đế của tôi" hay "thượng đế của chúng tôi" Tuy nhiên bất chấp những văn kiện sai lạc xâm nhập dưới danh nghĩa tôn giáo, Chân lý vẫn sáng ngời trong cốt lõi của các đạo giáo dù có bị che mờ qua hằng hằng lớp lớp lầm lẫn và méo mó. Tuy vậy con người chỉ có thể nhận ra Chân lý khi ít nhất bên trong đã có sẵn những tia sáng Chân lý lóe ra. Xuyên qua lịch sử nhân loại, rất hiếm các nhân vật có kinh nghiệm chuyển hóa tâm linh, nhận ra bản tâm chân thật mà mọi tín ngưỡng đều nhắm chỉ. Các tôn giáo đã dùng ý thức hệ của riêng tôn giáo mình để diễn tả Chân lý không hình tướng. Qua các trường phái, các đạo giáo xuất phát từ các tôn giáo chính, không những chứng tỏ sự khôi phục lại, mà còn quãng bá chân lý của giáo lý nguyên thủy. Đạo cơ đốc và đạo Thần bí xuất hiện sớm nhất, kế tiếp có đạo Tin lành, đạo Hồi, đạo Do thái, Thiền tông và Tịnh độ tông từ Phật giáo. Phần lớn các giáo phái này đều bài trừ tôn giáo. Họ gạt bỏ hệ thống tín ngưỡng đã hằng hằng lớp lớp gây mê đầu độc con người, họ đi ngược lại với đạo giáo cũ nên thường bị nghi ngờ. Khác với xu hướng tôn giáo, các tông phái nhấn mạnh việc nhận ra tình trạng mê lầm của con người và tiến trình chuyển hóa nội tâm. Chính nhờ các tông phái

! 25

Page 26: THE GIOI MOI 1

này mà phần lớn các tôn giáo khôi phục lại trọng tâm của giáo lý nguyên thủy, tuy trong đa số các tường hợp, chỉ có thiểu số người là thấu đáo. Số người thức tỉnh vẫn chưa đủ gây ảnh hưởng đáng kể cho đại đa số người còn mê lầm. Thời gian qua, một số các tông phái kiên quyết sắp xếp lại thành hệ thống để tăng cường và duy trì hiệu quả.

TÔN GIÁO VÀ TÂM LINH Khi tâm thức mới phát khởi, vai trò của các tôn giáo là gì? Nhiều người đã nhận ra sự khác biệt giữa trạng thái tâm linh và tôn giáo. Họ biết rằng con người hấp thụ hệ thống tín ngưỡng - một lô những tư tưởng mà người ta coi là sự thật tuyệt đối- sẽ không thấu suốt tâm linh, chẳng cần biết đức tin đó thuộc tôn giáo nào. Thật ra, càng đồng hóa với tư tưởng (tín ngưỡng), càng xa rời mức độ tâm linh trong nội tâm. Nhiều người "theo đạo" bị bế tắc ở chỗ này. Họ xem chân lý ngang hàng với tư tưởng, họ bị trí óc đồng hóa hoàn toàn, nhận chắc chân lý là của riêng mình trong cố gắng mê lầm bảo vệ sự đồng hóa đó. Họ không nhận ra những giới hạn của tư tưởng. Trừ phi bạn tin hay suy nghĩ giống y như họ, nếu không, trong mắt họ bạn là người khác đạo cần phải trừ đi.

! 26

Page 27: THE GIOI MOI 1

Cho tới nay, vẫn còn một số người hành sử như vậy. Trạng thái tâm linh mới mẻ hay là sự chuyển hóa của tâm thức phát khởi rộng rãi ngoài tầm của các tổ chức tôn giáo. Trong các tín ngưỡng bị đầu óc chiếm ngự vẫn luôn có chút tia sáng về tâm linh dù giáo hội cố gắng ngăn chận vì cảm thấy bị đe dọa. Trạng thái tâm linh thoát ra ngoài những tổ chức tín ngưỡng ngày càng lan rông là sự khai triển hoàn toàn mới mẻ. Trong quá khứ, sự kiện này không thể tin nổi nhất là ở phương Tây, nơi mà hầu hết mọi sinh hoạt văn hóa đều bị tư tưởng khống chế, nơi mà nhà thờ Thiên chúa giáo giữ đặc quyền về tâm linh. Bạn không thể đứng lên giảng đạo hoặc xuất bản sách về tâm linh trừ phi được nhà thờ chuẫn y, nếu không họ sẽ bắt bạn im lặng ngay lập tức. Nhưng hiện nay, ngay cả trong nhà thờ và các tôn giáo, có những dấu hiệu thay đổi. Dù chỉ là hình thức cởi mở nhỏ nhiệm cũng là dấu hiệu tốt đẹp như sự kiện Đức giáo Hoàng John Paul đệ nhị viếng thăm một thánh đường Hồi giáo và môt nhà thờ Do Thái. Môt phần do các giáo phái xuất hiện ngoài vòng các tổ chức tôn giáo, nhưng cũng do trào lượng của các đạo giáo cổ ở phương Đông, số người theo các đạo giáo cổ truyền tăng gia có thể thoát khỏi đồng hóa với hình tướng, với hệ

! 27

Page 28: THE GIOI MOI 1

thống tín ngưỡng chặt chẽ. Họ khám phá cốt lõi thâm sâu ẩn chứa trong giáo lý cổ truyển, đồng thời khởi phát nguồn linh thâm sâu bên trong. Họ nhận ra trạng thái tâm linh chẳng ăn nhập gì đến các tín điều, mà chỉ liên quan đến trạng thái tâm thức. Do tâm thức mà bạn sẽ hành động với thế giới như thế nào và quan hệ với người khác ra sao. Bất cứ ai không thể nhìn thoát ra ngoài hình tướng sẽ ngày càng chấp cứng vào tín ngưỡng của mình, nghĩa là chấp cứng vào tư tưởng. Ngày nay chúng ta đang chứng kiến một trào lưu tâm thức không theo lề thói cũ nhưng đồng thời cũng chứng kiến tình trạng bản ngã ngày càng củng cố và mạnh mẽ. Một số các tổ chức tôn giáo đón nhận luồng tâm thức mới, một số khác vẫn còn củng cố vị trí cũ và trở nên thành phần của các cơ cấu nhân tạo trong đó bản ngã tập thể sẽ tự bảo vệ và chống trả lại. Một số các nhà thờ, giáo phái, hay đoàn thể tôn giáo là các thực thể vị kỷ tập thể, bị trí óc đồng hóa mạnh mẽ tương tợ như người theo bất cứ lý tưởng chính trị nào. Nhưng bản ngã có khuynh hướng bị phân hủy kể cả những cấu kết chai lì dù dưới hình thể tổ chức nào : tôn giáo, hiệp hội, đoàn thể hay chính phủ cũng sẽ bị phân tán từ bên trong dù tổ chức có chặt chẽ đến đâu. Những cơ cấu vững chắc nhất, tưởng không thể lay

! 28

Page 29: THE GIOI MOI 1

chuyển được, lại bị sụp đổ trước nhất. Sự kiện này đã xãy ra ở Nga sô, tổ chức thật là kiên cố, độc quyền và mạnh mẽ làm sao, vậy mà chỉ trong vài năm, đã bị phân hóa từ nội bộ. Chẳng ai tiên đoán được, tất cả đều rất ngạc nhiên. Còn nữa, còn nhiều ngạc nhiên hơn nữa sắp xãy đến cho chúng ta.

SỰ CHUYỂN HÓA TỐI CẦN THIẾT Khi khủng hoảng trầm trọng xãy ra, khi bản chất nguyên sơ của con người trong quan hệ với nhau và với thiên nhiên không còn hiệu quả nữa, khi sự tồn vong bị đe dọa bởi những vấn nạn không vượt qua nổi, sẽ có một loài sinh vật hoặc bị diệt chủng hoặc vượt lên những trở ngại bằng bước tiến nhảy vọt. Thuở ban sơ, hình tướng tiến hóa đầu tiên xuất hiện từ vùng biển. Vào thời chưa có loài thú nào xuất hiện trên mặt đất, vùng biển đã có đầy sinh vật. Một thời gian sau, một trong các loài hải sản buộc phải phiêu lưu vào vùng đất khô. Lúc đầu, có lẽ chúng chỉ bò thử gần thôi, nhưng bị sức hút quá lớn của trái đất, chúng phải trở lui xuống nước để có thể sinh sống dễ dàng hơn. Nhưng sau đó, chúng cũng ráng bò lên nhiều lần và mãi về sau chúng mới thích nghi với đời sống trên mặt đất, mọc chân thay vì mọc vãy, phát triển phổi thay vì mang.

! 29

Page 30: THE GIOI MOI 1

Hình như rất ít có một loài nào dám mạo hiểm vào vùng xa lạ để trải qua tiến trình thay đổi trừ phi bị bắt buộc bởi hoàn cảnh ngặt nghèo nào đó. Có lẽ do vùng biển lớn bị tách rời khỏi đại dương, nước bị rút lùi xa dần qua hằng ngàn năm, bắt buộc loài cá phải rời nơi sinh sống và chuyển biến. Cũng thế, hiện nay thế giới đang trong thời kỳ khủng hoảng trầm trọng liên quan đến sự tồn vong của nhân loại nên chúng ta phải cấp bách đáp ứng. Trí óc vị kỷ nhiễm ô của con người, đang đe dọa sự sống còn, được khám phá hơn 2,500 năm trước bởi các vị thầy tỉnh sáng và ngày nay được khoa học và kỹ thuật chứng minh. Mãi tới gần đây, sự chuyển hóa của tâm thúc con người chỉ do một số ít người hiếm hoi nhận ra, không phân biệt quá trình văn hóa hay tôn giáo. Nhân loại chưa chuyển biến tâm thức một cách đáng kể vì họ thấy chưa cấp bách lắm. Chẳng bao lâu nữa, sẽ có số ngưòi khá đông nhận ra, bằng không nhân loại sẽ đương đầu với một lựa chọn quá rõ rệt : hoặc chuyển hóa hoặc hủy diệt. Số người trãi nghiệm nội tâm hãy còn ít, nhưng cũng đã tăng nhanh, những con người biết rõ sự đổ vỡ của đầu óc vị kỷ rập theo khuôn mẫu, và thể nhập nguồn tâm thức mới.

! 30

Page 31: THE GIOI MOI 1

Phong trào phát khởi hiện nay không phải là hệ thống tín ngưỡng mới hay tôn giáo mới nào cả. Chúng ta đi tới thời kỳ kết liễu không những các thần giáo, mà cả ý thức hệ và các hệ thống tín ngưỡng. Sự thay đổi sẽ sâu xa hơn cả những gì chứa trong đầu óc, sâu hơn cả tư tưởng của bạn nữa. Thật ra, trong thâm sâu con người có khả năng siêu việt vượt trên tư tưởng, nhận ra bản tâm sâu thẳm vô cùng tận. Sau đó, bạn không còn bị tư tưởng chỉ huy nữa, bạn không phải là "tiếng nói trong đầu". Đây là sự giải thoát phi thường. Vậy thì ta là ai? Ta là người BIẾT sự kiện này. Cái biết bao giờ cũng trước cái "suy nghĩ" nghĩa là có khoảng cách rồi mới tới cái suy nghĩ và cảm xúc. Bản ngã không gì khác hơn là nạn đồng hóa với hình tướng mà chính yếu là tư tưởng. Con nguời bị đồng hóa hoàn toàn với hình thức : sắc tướng, tư tưởng, cảm xúc, hậu quả là hoàn toàn vô minh không hòa nhập với toàn thể, ý thức phân biệt ngăn cách với tha nhân và cả Nguồn tâm thâm sâu. Trạng thái mê mờ tức là tội lỗi nguyên thủy, cũng là trạng thái đau khổ và là ảo tưởng của nhân loại. Khi ảo tưởng phân biệt hoàn toàn điều động tất cả những gì ta suy nghĩ, nói năng và hành động sẽ gây tạo hậu quả như thế nào? Để trả lời, chỉ cần quan sát mối quan hệ giữa con người với nhau hay

! 31

Page 32: THE GIOI MOI 1

tìm đọc một quyển sách về lịch sử, hoặc chỉ cần xem tin tức trên truyền hình tối nay. Nếu cơ cấu trí não con người vẫn giữ nguyên, không thay đổi thì chúng ta sẽ luôn lẫn quẫn tạo lại thế giới này, cùng những nạn tồi tệ và mê lầm.

ĐẤT TRỜI MỚI Nguồn cảm hứng cho tựa đề quyển sách này xuất phát từ tiên đoán trong Kinh thánh gần như thích hợp hơn lúc nào hết. Trong Cựu ước và Tân ước đều đề cập đến thời kỳ sụp đổ của thế giới cũ và xuất hiện một "Đất trời mới". Ở đây chúng ta nên hiểu "Trời" không phải là nơi chốn bên ngoài mà là lãnh vực của tâm thức bên trong. Đây là nghĩa ẩn dụ của từ ngữ mà cũng là lời phán của Chúa Jesus. Còn từ "Đất" là hình tướng bên ngoài nhưng lúc nào cũng biểu hiện nội tâm bên trong. Vì chuỗi tâm thức của nhân loại liên hệ chặt chẽ với đời sống trên trái đất này. "Một trời mới" là một khẫn thiết của tâm thức nhân loại biết chuyển hóa, và "một đất mới" là biểu hiệu trong lãnh vực vật chất. Bởi tâm thức con người và đời sống của họ cũng như đời sống của muôn loài trên hành tinh này, bản chất chỉ là một, cho nên khi tâm thức cũ tan biến, sẽ ảnh huởng tương quan tới môi trường khí hậu và hoàn cảnh địa lý đồng

! 32

Page 33: THE GIOI MOI 1

thời xãy ra trên trái đất này mà hiện chúng ta đang chứng kiến một số hiện tượng xãy ra.

CHƯƠNG HAI

BẢN NGÃ : HIỆN TRẠNG của NHÂN LOẠI

Ngôn ngữ, dù được diễn tả hay phát âm ra thành lời hay còn nằm trong đầu đều có thể làm cho con người tưởng lầm. Chúng ta có thể chạy theo chúng, đánh mất mình dễ dàng, chúng ta tin tưởng tuyệt đối rằng khi ta gán ghép từ ngữ vào một vật gì, ta tưởng ta biết rõ vật đó; thật ra ta không biết vật đó là gì, chúng ta chỉ bọc cốt lõi ẩn tàng bằng một tên gọi, thế thôi. Bất cứ loài nào, dù là chim muông, cây cối, ngay cả viên đá, và rõ rệt

! 33

Page 34: THE GIOI MOI 1

nhất là con người, đều không được biết đến phần cốt lõi tinh túy bên trong. Tất cả những gì chúng ta trông thấy, kinh nghiệm, hay nghĩ về chỉ là lớp bề mặt của sự thật. Dưới hình dạng bên ngoài, tất cả mọi loài không những liên hệ với nhau, mà còn có cùng chung NGUỒN SỐNG nguyên thủy từ đó phát sinh ra tất cả. Ngay cả viên đá, hay dễ thấy hơn là con chim, đóa hoa... chúng có thể cho ta biết lối trở về Nguồn, về Thượng đế, về chính nội tâm ta. Khi ta nhìn chăm chú những vật đó hay cầm trong tay và thấy chúng y như vậy, không gán ghép từ ngữ hay nhãn hiệu vào, trong lòng dâng lên cảm giác tuyệt diệu lạ lùng. Bản nhiên tinh túy của chúng lặng lẽ giao hòa với ta và phản ảnh bản nhiên trong ta. Đó là lý do giải thích do đâu những nghệ sĩ chân chính cảm xúc trước thiên nhiên và truyền đạt vào các tác phẩm bất hủ. Chẳng hạn ông Van Gogh khi nhìn chiếc ghế cũ, ông không nói “Đây là cái ghế cũ”, ông lặng lẻ ngắm nhìn, nhìn mãi, và cảm thông được cốt lõi của chiếc ghế; rồi ông ngồi trước gía vẽ và cầm cọ. Cái ghế cũ gía chỉ có vài dollars, nhưng trị gía bức họa cái ghế lên đến 25 triệu dollars hiện nay. Khi chúng ta không che phủ thế giới bằng ngôn ngữ và nhãn hiệu, chúng ta sẽ cảm nhận đời sống nhiệm mầu mà bao năm qua nhân loại đã đánh mất bởi thay vì xử dụng tư tưởng,

! 34

Page 35: THE GIOI MOI 1

ta đã bị tư tưởng xử dụng. Đời sống trở lại có chiều sâu, mọi vật lấy lại sự mới mẻ, tươi tốt; và điều mầu nhiệm lớn lao nhất là kinh nghiệm được bản tâm cốt lõi của mình, ưu tiên hơn bất cứ ngôn ngữ, tư tưởng, nhãn hiệu hay hình ảnh nào. Để được như vậy, chúng ta cần thóat ra khỏi những phức tạp của cái “tôi”, ra khỏi tất cả những gì cái tôi đã bị trộn lẫn, nghĩa là bị đồng hóa. Mục tiêu của quyển sách này là làm sao thóat khỏi những phức tạp đó. Người nào càng nhanh chóng dính chặt vào sự vật, đối tượng hay hòan cảnh bằng những nhãn hiệu, người đó càng xa rời chân lý, đời sống sẽ hời hợt và thiếu sinh khí. Khi đó, chúng ta có thể lanh lợi nhưng không sáng suốt và như vậy sẽ thiếu vắng niềm vui, tình thương, sức sáng tạo và sự linh hoạt. Chúng bị chôn giấu trong lổ hỏng im lìm giữa trạng thái cảm nhận và diễn đạt. Dĩ nhiên con người cần xử dụng ngôn ngữ và tư tưởng, chúng có cái hay riêng của chúng, nhưng chúng ta có cần bị chúng giam cầm cả đời không ? Ngôn ngữ làm giảm sự thật về sự vật mà tư tưởng con người muốn diễn đạt. Ngôn ngữ gồm 5 tiếng căn bản phát xuất từ những thanh âm, đó là các nguyên âm a, e, i, o, u; những tiếng khác là những phụ âm xuất phát từ áp lực không khí : s, f, g, v.v. Có thể nào sự kết hợp

! 35

Page 36: THE GIOI MOI 1

những âm căn bản do có thể giải thích được bạn là ai hay nói lên được mục tiêu tối hậu của thế giới, hoặc ngay cả có thể diển tả được cây cối hay viên đá với cốt lõi của chúng?

BẢN NGÃ GIÃ Chữ “tôi” thể hiện nhiều lầm lẫn, tùy nó được xử dụng ra sao. Chữ “tôi” là chữ được dùng thường nhất, cùng với các chữ liên hệ như “của tôi”, “riêng tôi”, ”từ tôi” và cũng là một trong những lầm lẩn lớn nhất của con người. Hàng ngày trong ngôn ngữ thường dùng, chữ “tôi” thể hiện sai lầm nguyên khởi, một lầm lẩn về chính mình, và là ảo tưởng về tư cách con người. Đó chính là bản ngã. Cái ngã ảo giác trở thành tiến trình của tư tưởng, diển dịch sai lạc về chân lý, về mối tương quan giữa con người. Thế nên chúng ta trở thành phản ứng của ảo tưởng nguyên thủy. Tuy nhiên, khi nhận ra đó là ảo tưởng thì nó sẽ biến mất. Lúc nhận biết cũng là lúc nó chấm dứt. Vì chúng ta lầm lẫn về sự thật nên ảo tưởng mới sống còn. Cái “ta” chân thật sẽ tự phơi bày khi nhận ra mình không phải là những thứ giã hiệu. Khi bạn đọc chậm rãi và nghiêm túc chương sách này và các chương kế tiếp, mô tả cách

! 36

Page 37: THE GIOI MOI 1

vận hành của cái ”tôi” bản ngã, ta sẽ trải nghiệm cái ta chân thật.

Bản chất của cái ngã giã là gì? Khi ta dùng chữ “tôi” để nói, thường chẳng liên quan gì đến cái ta chân thật. Tiếng “tôi” phát xuất từ dây thanh âm hay từ trong ý nghĩ và bất cứ gì tôi bị đồng hóa, đã bị thu hẹp một cách nông cạn. Khi một bé thơ bắt đầu học một chuỗi tiếng nói do cha mẹ phát âm tên của bé, đứa nhỏ thu nhận vài chữ trong đầu, trở thành ý tưởng nó là ai. Trong giai đoạn đầu, một số trẻ con xem chúng là ngôi thứ ba ” Tý đói bụng quá”, “ Bi buồn ngủ rồi”... Sau đó chẳng bao lâu, trẻ học được chữ “tôi” và coi chữ này tương đương với tên chúng, cái tên được coi là mình. Kế tiếp những ý nghĩ khác từ từ đến và nhập vào ý nghĩ “tôi” đầu tiên. Giai đoạn tiếp theo là tư tưởng “của tôi”, “về tôi” để ám chỉ những vật liên quan tới “tôi”. Đó là sự đồng hóa với sự vật tức là những tư tưởng sau cùng đại diện cho sự vật do bản ngả đồng hóa với chúng. Do đó khi đồ chơi “của tôi” bị lấy hay bị hỏng, đau khổ phát sinh; chẳng phải do giá trị của món đồ – có khi chỉ là mảnh giấy và đứa bé cũng mau chóng muốn thứ khác – chính do ý nghĩ “sở hữu của nó”. Qua món đồ chơi, đứa trẻ phát triển lần hồi cái “tôi” hay là bản ngã.

! 37

Page 38: THE GIOI MOI 1

Khi trẻ con lớn lên, cái ý nghĩ “tôi” ban đầu kéo theo những ý nghĩ khác về cái tôi: nó đồng hóa với giới tính, sở hữu, thân thế, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo, nghề nghiệp… Ngoài ra, cái tôi còn đồng hóa với các vai trò: làm cha mẹ, làm chồng, làm vợ... Cái tôi tích lũy kiến thức và quan niệm, thích và không thích. Cái tôi còn trãi qua những hoàn cảnh đã xảy ra trong quá khứ, đó là “tôi và câu chuyện đời tôi”, ký ức ngày càng nhiều do tư tưởng tích lũy. Rút cục chúng chỉ là những ý nghĩ lộn xộn liên miên của cái bản ngã nắm hết quyền hành. Mổi khi chúng ta suy nghĩ hay nói tiếng “tôi”, không có nghĩa là cái TA chân thật, mà là cái bản ngã vị kỷ phát xuất từ trí óc, cho đến khi ta tỉnh thức, ta vẫn dùng tiếng ”tôi” nhưng xuất phát từ nội tâm sâu sắc hơn. Hầu hết nhân loại vẩn còn lệ thuộc vào dòng tư tưởng tuôn chảy triền miên, vào sự suy nghĩ bị bắt buộc mà phần lớn là tái diễn một cách vô ích. Dòng tư tưởng và những cảm xúc đi liền theo sau thật ra chẳng ăn nhập gì đến cái “ta chân thật”. Khi có ai cho biết có tiếng nói miên man trong đầu, người ta liền hỏi “Tiếng nói gì?” hoặc là giận dỗi không chấp nhận, thực ra là có tiếng nói thầm trong đầu hay là cái máy suy nghĩ chưa được điều chỉnh. Có thể nói tiếng nói

! 38

Page 39: THE GIOI MOI 1

đó là một thực thể làm chủ con người hoàn toàn. Tuy nhiên, vẫn có số người không làm sao quên được khi trí óc lắng đọng nhường chỗ cho tâm tĩnh sáng và họ trãi nghiệm giây phút rỗng rang ngắn ngủi. Số người khác chỉ kinh nghiệm khi họ tập trung triệt để theo phương pháp tinh vi. Ngoài ra có số người cảm nhận được niềm vui tự tại và an bình bên trong mà chẳng hiểu do đâu.

TIẾNG NÓI THẦM TRONG ĐẦU Ngày tôi còn là sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Luân Đôn, tôi phải đáp xe điện ngầm mỗi tuần 2 lần đến thư viện nhà trường. Một ngày nọ, khoảng 9 giờ sáng, tôi ngồi đối diện với một phụ nữ trạc 30 tuổi trên chuyến xe. Tôi đã gặp cô này vài lần trước đây. Ai ai cũng phải nhìn cô ta. Xe đông nghẹt khách nhưng chỗ ngồi 2 bên cô vẫn còn trống vì cô ta có vẻ điên khùng. Trông cô ta bị căng thẳng cực điểm và nói liên tu một mình đầy vẻ tức giận. Cô này bị tư tưởng quấn chặt đến nổi hòan tòan mê man, không còn kể gì đến người chung quanh. Đầu cô ta ngã về bên trái, làm như đang nói với người ngồi ở chỗ trống cạnh cô ta. Tôi không chú ý đến nội dung lời nói, nhưng cô cứ lập đi lập lại: ”Mày là kẻ phản bội,

! 39

Page 40: THE GIOI MOI 1

sao còn dám xin lỗi tao. Mày là đứa lợi dụng, vì tao đã tin mày nên bị mày phản lừa”. Giọng nói cô ta đầy tức giận một người nào đó đã làm sai và đang bào chữa. Khi chuyến xe tiến đến gần nhà ga, cô ta đứng lên và ra cửa với tiếng nói liên miên không dứt. Tôi cũng xuống ga này nên tôi đi sau cô ta. Xuống đường cô ta đi về công trường Bedford, vẫn tiếp tục lớn tiếng lập đi lập lại một mình. Trí tò mò nổi lên, tôi quyết định đi theo cô. Dù luôn bị cuộc đối thoại tưởng tượng chiếm hết đầu óc, hình như cô ta cũng biết mình đang đi đâu. Chẳng mấy chốc cô bước vào sãnh đường uy nghi của tòa nhà Thượng Viện,Tòa Hành chánh và thư viện của trường Đại học. Tôi giựt mình, chẳng lẽ cô ta đến địa điểm giống mình chăng? Đúng rồi cô ta đang tiến về phía đó. Có phải cô là giáo sư hay sinh viên hoặc là nhân viên văn phòng hay nhân viên của thư viện? Cũng có thể cô ta làm dự án nghiên cứu về tâm lý? Tôi không có câu trả lời. Tôi đi bộ cách sau cô khoảng 20 bước và khi tôi tiến vào tòa nhà, cô ta mất hút vào trong thang máy. Tôi hơi ngạc nhiên về việc tôi vừa chứng kiến, khi ấy, là sinh viên Đại học trưởng thành, 25 tuổi, tôi tự coi mình là người trí thức đang đi lên và tôi tin chắc trước mọi hoàn cảnh khó

! 40

Page 41: THE GIOI MOI 1

khăn của con người, chỉ trông cậy vào kiến thức tức vào trí óc mà thôi. Tôi chưa nhận ra được là kiến thức nếu không đi đôi với sáng suốt tỉnh thức chính là mối nguy cơ nhất cho con người. Lúc ấy tôi thán phục những vị giáo sư như là bậc thánh vì họ có thể giải đáp mọi vấn đề và tôi cũng xem trường Đại học là trung tâm của kiến thức. Làm sao có thể tin được cô gái điên dại mà tôi vừa gặp có thể là thành viên của trung tâm kiến thức chứ? Nhưng rõ ràng là cô ta bị cảm xúc giận dữ xâm chiếm hoàn toàn do trí óc cô dính chặt vào hoàn cảnh. Tôi tiếp tục suy nghĩ về cô ta lúc tôi vào phòng vệ sinh trước khi vào thư viện. Đang rửa tay, tôi nghĩ tiếp “Hi vọng là mình sẽ không bị bế tắc như cô ta”. Người đàn ông đứng cạnh liếc nhìn tôi, tôi bỗng giựt mình khi nhận ra mình vừa thốt bằng lời một cách vô ý thức.” Trời ơi! Mình giống cô ta mất rồi”. Đầu óc tôi cũng lộn xộn liên miên như cô gái, chỉ hơi khác một chút thôi. Cô ta thì nói ra tiếng, còn tôi thì phần lớn ý nghĩ nằm trong đầu. Nếu cô ta khùng khùng thì ai nấy cũng khùng khùng cả rồi, chỉ khác nhau về mức độ ít nhiều mà thôi. Trong thoáng chốc, tôi lắng đọng nhìn lại mình, ngừng nghỉ cái đầu một chút và nhận ra có khoảng trống ngắn ngủi giữa suy nghĩ và tỉnh thức. Tôi vẫn đứng yên trong phòng vệ

! 41

Page 42: THE GIOI MOI 1

sinh ngắm mặt mình trong gương, đầu óc trống rỗng, tôi bật cười lớn. Cái cười của người vừa mới tỉnh thức, vỡ lẽ rằng đời sống không quá nghiêm trọng như trí óc vẫn gạt tôi. Tuy nhiên chỉ được trong thoáng chốc rồi mất. Sau đó, tôi lại bị đầu óc xâm chiếm trở lại và 3 năm tiếp theo tôi sống trong lo âu và buồn chán kinh khủng. Sự việc trên cho tôi bài học về một thoáng thức tỉnh đầu tiên, nó cũng gieo trồng mối nghi ngờ về giá trị tuyệt đối của kiến thức. Vài tháng sau, tin thảm thương đưa đến càng làm mối nghi trong tôi tăng thêm. Đó là vào sáng thứ hai, khi chúng tôi đến dự buổi giảng của vị giáo sư mà tôi vẫn thán phục, người ta cho hay vị này đã tự tử bằng súng hôm cuối tuần. Tôi bàng hoàng kinh ngạc vì vị này là người thầy rất được kính nể do ông ta có thể giải đáp được tất cả. Dù vậy tôi vẫn chưa tìm ra một lựa chọn nào khác hơn là tiếp tục vun bồi tư tưởng. Tôi chưa nhận ra rằng tư tưởng chỉ là một trạng huống nhỏ của tâm thức, cũng như tôi chẳng biết gì về bản ngã để có thể phát hiện nó. Sau đó tôi bị suy sụp trầm trọng đến nổi đi gần tới tự tử nếu không nhờ được thức tỉnh trở lại và lần này kéo dài lâu hơn lần trước. Về sau, tôi trở nên hoàn toàn tự tại, thoát khỏi cái suy nghĩ giả hiệu đã khống chế tôi từ bao năm qua.

! 42

Page 43: THE GIOI MOI 1

CƠ CẤU VẬN HÀNH và CHỨA ĐỰNG của BẢN NGÃ Tư tưởng vị ngã hoàn toàn tùy thuộc vào quá khứ và gồm có 2 phần: phần chứa đựng và cơ cấu vận hành. Trường hợp đứa bé khóc la khi đồ chơi bị lấy mất, đồ chơi tức là vật mà bản ngã chứa đựng, vật này thường đổi thay từ món đồ này đến món đồ khác hoặc từ đối tượng này đến đối tượng khác. Đứa bé đồng hóa với vật chứa, dù món đồ chơi có thể là miếng gỗ hay đồ điện tử mắc tiền, đối với nó không có gì khác khi món đồ bị lấy đi. La khóc giận dữ vì cái “của tôi” bị mất. Khi đứa trẻ lớn lên, vật chứa mà nó đồng hóa tùy thuộc vào môi trường xung quanh nó. Sự đồng hóa ngày càng gia tăng với những đối tượng hình thành chặt chẽ trong đầu óc vị ngã. Từ ngữ “đồng hóa” rút căn từ mẫu tự La tinh “idem” và “facere” nghĩa là “giống” và “làm như”. Khi tôi đồng hóa với vật gì đó nghĩa là tôi làm giống như vật đó. Giống cái gì? Giống với tôi; tôi gán cho nó cái nghĩa “tư hữu” để sau đó nó trở thành một phần của tôi. Một trong các đồng hóa căn bản nhất là tài vật, món đồ chơi sau này lớn lên sẽ là xe hơi, ngôi nhà, nữ trang, đồ đạc...của tôi. Nhiều người gắn chặt

! 43

Page 44: THE GIOI MOI 1

dính nhiễm vào tài vật cả đời và kết thúc bị chúng cuốn hút và mất mình. BẢN NGÃ ĐỒNG HÓA với TÀI VẬT Sống trong thời đại quãng cáo, người ta vẫn biết rõ là muốn bán cho được những sản phẩm không cần thiết, kỹ nghệ quãng cáo phải thuyết phục rằng những sản phẩm sẽ làm tăng giá trị con người hoặc người ngoài sẽ thấy được giá trị đó; nói cách khác là làm tăng thêm cái bản ngã. Chẳng hạn họ nói là ai dùng sản phẩm này sẽ nổi bật giữa đám đông và niềm tự hào sẽ dâng lên. Nghệ thuật quãng cáo còn tạo ấn tượng trong con người về liên quan giữa sản phẩm và một người nổi tiếng hay một người tươi trẻ nào đó. Ngay cả hình ảnh những người già hay người chết đã nổi tiếng cũng nằm trong mục tiêu của hệ thống quãng cáo. Họ tạo ra ảo tưởng cho bạn nghĩ là mua những sản phẩm đó sẽ có vài phép lạ làm bạn trở nên giống người nổi tiếng hay ít ra cũng được hình tướng bên ngoài gần giống. Do đó trong nhiều trường hợp bạn không mua sản phẩm mà là mua sự kiện “đồng hóa gia tăng”. Những danh hiệu đặc biệt trên thị trường đều là những đồng hóa đầu tiên và liên tục của người đi mua sắm. Chúng rất đắt tiền và trở thành những “độc hiệu”. Giả sử ai nấy đều có thể mua loại sản phẩm này, chúng sẽ mất trị giá độc đáo, chỉ còn lại phần

! 44

Page 45: THE GIOI MOI 1

vật chất bằng ngang với con số mà người ta trả tiền. Những sản phẩm bị đồng hóa thay đổi từng người tùy theo tuổi tác, lợi tức, giai cấp, thời trang,môi trường xung quanh...Nạn đồng hóa mê lầm đã ăn sâu mọc rễ, những gì mình đồng hóa là tất cả những vật bản ngã chứa đựng. Đầu óc vị kỷ của con người đã vận hành theo cơ cấu khuôn mẫu như vậy. Nếu xã hội tiêu thụ cứ tiếp tục đi lên thì kết quả đi ngược lại là con người chỉ tìm mình qua sản phẩm và vì thỏa mãn của bản ngã quá ngắn ngủi nên con người cứ mãi phải tìm hoài. Trên bình diện vật chất, sống trên bề mặt của trái đất này, chúng ta vẫn dùng những vật dụng cần thiết và chúng cũng chiếm một phần trong cuộc sống con người. Chúng ta cần nhà ở, quần áo,đồ đạc,dụng cụ,phương tiện di chuyển... những phẩm vật hữu ích cho đời sống, chúng ta cần gìn giữ thế giới đồ vật bằng cách không phí phạm. Tuy nhiên chúng ta sẽ không thật sự quý đồ vật nếu ta dùng chúng làm phương tiện để tăng bản ngã, nghĩa là chúng ta cố tìm mình qua đồ vật. Vì bản ngã đồng hóa với sự vật, tư tưởng con người đã dính mắc chặt chẽ gây tạo một xã hội tiêu thụ và một nền kinh tế tiến triển bằng cách phải có thêm sản phẩm mới hoài. Sự phát triển bừa bãi không ngừng nghỉ

! 45

Page 46: THE GIOI MOI 1

thật ra là tệ nạn và bịnh hoạn của nhân loại. Cũng giống như tệ hại của những tế bào ung thư, chúng chỉ có mục tiêu sinh sôi nảy nở, không ngờ lại phá hủy toàn bộ cơ cấu. Đa số đời sống con người bị ám ảnh bởi sự vật. Một trong những căn bịnh thời đại là dính chặt vào vật chất. Con người phải lấp đầy đời sống bằng vật chất vì họ không cảm nhận được đời sống thật sự là gì. Để thực tập tâm linh, chúng ta nên xét lại quan hệ của mình với thế giới vật chất và đặc biệt là những đồ vật mà ta gán vào 2 chữ “của tôi”. Chúng ta nên thành thực và xét kỹ mình như sau: - Có phải bản ngã dính chặt vào những vật

ta sở hữu không? - Có phải một số vật chất làm tăng ảo giác

về địa vị quan trọng hơn? - Có phải ta cảm thấy thấp kém đối với

những người có nhiều vật chất hơn? - Thỉnh thoảng ta có khoe khoang những vật

mình sở hữu hoặc chú ý đến những vật sở hữu của người khác?

- Ta có buồn khổ khi mất mát một vật sở hữu?

Hầu hết những nền văn hóa cổ xưa đều tin rằng mọi vật, ngay cả những vật vô tri vô giác,

! 46

Page 47: THE GIOI MOI 1

cũng có hồn sống nên người xưa gần gũi với thiên nhiên vạn vật hơn là người thời nay. Chúng ta sống trong thế giới bị vây hãm bởi ảo tưởng nên khó cảm nhận nguồn sống của muôn loài. Dưới hình tướng bên ngoài tạm thời, mọi vật đều bắt nguồn từ sức sống vô hình. Do dính mắc vào vật chất, đa số người thời nay không sống trong chân thật mà chỉ sống trong tư tưởng và thành kiến.

CHIẾC NHẪN KIM CƯƠNG Khi tôi trở thành giáo học tâm linh, tôi có đến thăm một phụ nữ mỗi tuần 2 lần theo yêu cầu. Cô này từng làm giáo sư, khoảng hơn 40 tuổi và theo các bác sĩ, cô chỉ còn sống độ hơn vài tháng. Trong những lần thăm viếng, thỉnh thoảng có đối thoại xen vào nhưng thường là chúng tôi ngồi yên lặng, do đó cô ta có những thoáng đầu tiên tĩnh lặng mà cô chưa từng có trong suốt cuộc đời bận rộn. Cho tới một ngày, tôi đến bắt gặp cô đang giận dữ và khổ sở. Tôi hỏi “Chuyện gì thế?” Thì ra cô bị mất chiếc nhẫn kim cương và quả quyết cô người làm đã ăn cắp khi đến giúp việc vài giờ mỗi ngày. Cô ta nói, ” Sao có người nhẫn tâm lấy cắp món đồ kỷ niệm vô giá?”. Cô ta hỏi tôi là nên giáp mặt với

! 47

Page 48: THE GIOI MOI 1

cô người làm hay là nên gọi cảnh sát ngay? Tôi nói rằng không thể khuyên cô nên xử sự ra sao nhưng tôi hỏi chiếc nhẫn bị mất quan trọng ra sao đối với đời cô? Cô ta kể: ”Tại ông không rõ, chứ đó là chiếc nhẫn của bà tôi để lại, tôi đeo luôn cho tới khi tôi bị bịnh và ngón tay tôi teo lại. Nó không phải là chiếc nhẫn thường mà là vật kỷ niệm, làm sao tôi không đau lòng chứ? Phản ứng mau lẹ cộng với lời nói đầy tức giận chứng tỏ cô chưa đủ sáng suốt để nhìn lại bên trong và để thoát khỏi phản ứng trước sự cố. Nỗi tức giận và bảo vệ là những dấu hiệu chỉ rõ bản ngã vẫn xâm chiếm cô ta. Tôi nói tiếp: ”Tôi sẽ hỏi cô vài câu, cô không cần trả lời liền mà hãy nhìn kỹ bên trong để tìm câu giải đáp. Sau mỗi câu tôi sẽ ngừng lại một chút. Khi cô có câu trả lời, không nhất thiết phải bằng ngôn ngữ”. Cô ta trả lời tôi là cô ta đã sẵn sàng. Tôi bắt đầu hỏi: ”-Cô có nhận ra là tới một lúc nào đó cô sẽ để lại chiếc nhẫn và có lẽ cũng không còn bao lâu? -Cô cần bao nhiêu thời gian nữa để sẵn sàng rời bỏ chiếc nhẫn đó? -Khi cô không đeo chiếc nhẫn,cô có trở nên thấp kém không?

! 48

Page 49: THE GIOI MOI 1

-Khi tự hành hạ mình vì mất mát, khi đó cô là ai vậy? Sau câu hỏi cuối cùng này, có vài phút im lặng. Tiếp theo cô ta có vẻ dễ chịu và nụ cười thoáng hiện trên gương mặt. Cô ta nói: “Câu hỏi cuối của ông khiến tôi nhận ra vài điều quan trọng; thoạt đầu tôi suy nghĩ để tìm câu trả lời và tôi nghĩ : mình đã tự hành hạ mình. Kế tôi lập lại câu hỏi lần nữa : mình là ai khi tự làm khổ mình? Lúc này tôi cố cảm nhận hơn là suy nghĩ câu trả lời. Bỗng nhiên tôi nhận ra bản tâm của mình, tôi cảm nhận tâm thức phong phú bao la mà tôi chưa từng được. Thì ra đó là bản nhiên chân thật hay là mình thật sự khi mình hoàn toàn không tự làm khổ mình. Tôi có thể cảm nhận trạng thái này ngay bây giờ, trạng thái an bình mà rất là trong sáng”. Tôi nói với cô ta : ”Đó là niềm vui chân thật an nhiên mà ta chỉ cảm nhận được khi thoát khỏi đầu óc. Bản ngã không hề biết trạng thái này vì tư tưởng là hiện tượng phải có cái gì chứa đựng. Chiếc nhẫn đã xâm chiếm trí óc khiến cô lầm tưởng đó là mình hay là một phần của mình. Do bản ngã không cảm nhận được bản tâm an nhiên nên nó quen tìm tòi để dính mắc vào bất cứ gì hầu thay thế liên tục. Cô vẫn có thể qúy đồ vật nhưng bất cứ khi nào cô phiền khổ dính mắc vào đồ vật thì biết đó là bản ngã. Do tư tưởng trong đó có “tôi” và cái

! 49

Page 50: THE GIOI MOI 1

“của tôi” sở hữu mà cô dính chấp. Khi cô hoàn toàn nhận chịu sự mất mát hay không muốn làm khổ mình nữa, cô thoát khỏi bản ngã, khi đó cô nhận ra cô là ai hay là trở lại tâm thức an nhiên có sẵn.” Cô ta tiếp theo “Bây giờ tôi mới hiểu phần nào câu nói của chúa Jesus :” Nếu ai lấy của bạn cái áo sơ mi, hãy cho hắn luôn cái áo khoác.” Tôi nói “Đúng vậy, điều này không có nghĩa là chúng ta không cần đóng cửa nhà, chỉ có nghĩa là đôi khi chúng ta nên bỏ qua các sự vật hơn là chống đối hay cố nắm giữ và việc buông xả này có hiệu quả tốt hơn nhiều.” Trong mấy tuần cuối của cuộc đời, trong khi cơ thể cô suy yếu dần, cô vẫn bình tỉnh sáng suốt tợ như ánh sáng đã soi rọi vào. Cô dâng hiến nhiều tài sản, tặng thưởng cho cả người giúp việc mà cô nghĩ là đã ăn cắp chiếc nhẫn. Cứ mỗi lần ban tặng là niềm vui của cô càng tăng. Khi mẹ cô ta gọi báo tin cô qua đời, bà cũng cho tôi hay là chiếc nhẫn bị mất đã tìm thấy trong tủ thuốc phòng tắm. Có phải người giúp việc trả lại chiếc nhẫn? hay chiếc nhẫn đã bị để quên ở đó? Không ai biết cả. Chúng ta chỉ biết rằng bất kỳ kinh nghiệm nào mình trãi qua trong cuộc đời đều giúp ích rất nhiều cho tiến trình tâm thức của ta.

! 50

Page 51: THE GIOI MOI 1

Có phải chúng ta lầm lẫn khi tự hào về những sở hữu của mình? Chúng ta có bị phiền muộn vì thiếu thốn thua kém người khác? Cảm giác tự hào hay thua sút đều do bản ngã, do lầm lẫn chứ không phải do đúng hay sai. Khi bạn quan sát được bản ngã bên trong, bạn bắt đầu vượt lên nó. Khi bạn phát hiện thái độ ích kỷ của mình, hãy mĩm cười xem nhẹ bản ngã. Nhiều khi bạn còn phá lên cười rằng tại sao loài người giữ thái độ ích kỷ lâu như vậy? Hơn nữa, bạn biết rõ bản ngã không phải riêng rẽ của ai. Nếu xem bản ngã là vấn đề riêng tư của cá nhân thì bản ngã ngày càng lớn mạnh.

ẢO TƯỞNG về SỞ HỮU

Khi ta sở hữu một vật, thực sự nghĩa là gì? Khi ta coi một vật là của mình thì có nghĩa gì không?

Nếu bạn đứng trên một con đường ở New York chỉ một nhà lầu chọc trời mà nói: ”Tôi sở hữu tòa nhà đó và nó là của tôi” thì hoặc là bạn giàu sụ hay là bạn nói láo hoặc là bạn tưởng tượng. Dù là trường hợp nào, bạn vừa nói trong đó tư tưởng ”tôi”và tư tưởng ”tòa nhà” nhập làm một. Nếu mọi người đồng ý, bạn sẽ có tờ giấy xác nhận, nghĩa là bạn giàu sụ. Nếu không, bạn sẽ bị gởi tới Viện tâm thần.

! 51

Page 52: THE GIOI MOI 1

Dù được công nhận hay không cũng chẳng ăn nhập gì đến cái ”ta chân thật”. Thật là quan trọng để phát hiện ra nơi đây câu chuyện và những tư tưởng làm nên câu chuyện, cho dù được mọi người công nhận đi nữa cũng chỉ là ảo tưởng. Phần lớn người ta không nhận ra điều này cho tới khi họ nằm trên giường bịnh chờ chết và mọi vật ở bên ngoài sắp rời xa họ. Khi cái chết gần kề, ý niệm về sở hữu càng trở nên vô nghĩa. Trong giai đoạn cuối đời họ mới nhận ra đáng lẽ phải sớm biết “cái có ý nghĩa” hơn, cái chân thật lúc nào cũng sẵn có nhưng đã bị che mờ bởi sự đồng hóa với vật chất hay là đồng hóa với tư tưởng. Chúa Jesus đã nói :”Cao cả thay cho những tâm hồn thanh thản, họ sẽ hưởng phúc lạc đời đời”. Những người này bên ngoài không đuổi theo vật chất và bên trong không dính nhiễm ý niệm sở hữu. Họ không còn phân biệt và chứa chấp, nên tâm rỗng rang, tự tại an trú trong bản nhiên thâm sâu. Từ ngàn xưa, từ bỏ hay giảm thiểu sở hữu vật chất vẫn là phương pháp tu tập ở phương Đông lẫn phương Tây. Tuy nhiên từ bỏ của cải không hẳn tự động thoát được bản ngã. Bản ngã muốn sống còn nên tìm kiếm bất cứ gì khác để tiếp tục đồng hóa, chẳng hạn có người hiến trọn sở hữu và cảm thấy mình cao thượng

! 52

Page 53: THE GIOI MOI 1

vượt trội mọi người. Họ dám từ bỏ vật chất nhưng giữ lại bản ngã lớn hơn những triệu phú khác. Bởi khi chúng ta thoát được một dính mắc, bản ngã nhanh chóng tìm một thứ khác, bất chấp dưới dạng nào miễn là có để thay thế. Vì vậy chủ trương chống đối sở hữu hay chủ trương không tiêu thụ đều là hình thức khác của tư tưởng. Chúng ta cho điều này là đúng và điều kia là sai. Sau này chúng ta sẽ thấy tự cho mình đúng và người khác sai là một trong các mê lầm căn bản, khuông mẫu của đầu óc vị kỷ. Chúng ta có thể nói cách khác là bản ngã chỉ thay đổi vật chứa đựng mà thôi. Loại đối tượng vật chất rắn chắc và bền bỉ sẽ củng cố bản ngã thêm rắn chắc và bền bỉ. Sở hữu nhà cửa và nhất là đất đai được con người nghĩ tưởng là sẽ không bao giờ mất. Lịch sử loài người cho thấy việc sở hữu đất đai rõ ràng phi lý. Trong thời kỳ định cư của người da trắng, những cư dân bản xứ ở Bắc Mỹ mù tịt về việc sở hữu đất đai. Khi người Âu châu bắt họ ký những tờ giấy, họ chẳng hiểu đó là gì. Và sau đó họ mất đất trong khi họ vẫn cảm thấy đất đai đó là của họ dù không còn thuộc về mình nữa. Bản ngã có khuynh hướng coi nó ngang bằng với bản tâm chân thật. Càng sở hữu nhiều, cái tôi càng lớn bởi vì “tôi có” nên “tôi là”, bản ngã sống được là nhờ so

! 53

Page 54: THE GIOI MOI 1

sánh, người khác nhìn ta ra sao thì ta cũng thấy mình như thế. Một ngày nào đó giả tỉ nếu tất cả mọi người đều sống trong lâu đài tráng lệ hoặc sở hữu nhiều của cải thì những thứ này không còn làm mạnh tự ngã nữa. Khi đó bạn có thể dọn tới ở một căn phòng đơn giản, cho hết của cải, trở lại nhận ra mình là ai. Trong hầu hết các hoàn cảnh, giá trị của bản ngã dính chặt với giá trị của bạn dưới mắt người khác. Người ngoài xem bạn như thế nào y như tấm gương soi cho bạn thấy bạn là ai. Bạn cần người khác cho bạn cái tự ngã, và nếu sống trong nền văn hóa tập quán chỉ đánh giá con người qua sở hữu vật chất và nếu ta không vượt lên khỏi ảo tưởng tập thể đó, ta sẽ bị bắt buột theo đuổi vật chất cả đời trong vô vọng kiếm tìm phẩm chất và hoàn hảo cho bản ngã.

Làm sao để buông bỏ dính mắc vật chất? Đừng cố gắng phí công, chỉ khi nào chúng ta không còn tìm kiếm mình trong đó, sự dính mắc sẽ tự tháo gỡ. Đôi khi ta không biết đang bị đồng hóa cho tới lúc bị mất mát hay đe dọa bị mất. Sau đó nếu ta lo buồn, đau khổ có nghĩa là ta bị dính mắc. Từ nay về sau, chỉ có cách là nhận ra mình có dính chấp vật chất nghĩa là nhận biết mình bị đồng hóa với sở hữu, thì sự đồng hóa sẽ không còn chế ngự. Khi biết rõ “có dính mắc”

! 54

Page 55: THE GIOI MOI 1

hay biết rõ “cái dính mắc” không phải là TA CHÂN THẬT, tâm thức sẽ bắt đầu chuyển hóa.

HAM MUỐN KHÔNG BAO GIỜ DỪNG

Bản ngã đồng hóa với “muốn có” nhưng mọi cái có đều hời hợt và không bền lâu. Che dấu bên trong nổi khát khao đã ăn sâu không bao giờ lấp đầy hay “vẫn chưa đủ”. Khi bản ngã nói thầm ”tôi chưa có đủ” nghĩa là nó muốn nói ”Tôi là chưa đầy đủ”. “Muốn có” hay ”chưa đủ” vật chất đều là ảo tưởng do bản ngã lập lại để củng cố thêm sức mạnh và làm bền vững tư thế của nó. Lòng ham muốn ngự trị là động lực mạnh mẽ ẩn sâu bên trong. Không có bản ngã nào tồn tại lâu dài mà không có ham muốn. Do đó ham muốn làm cho bản ngã sống lâu hơn cả sở hữu nữa. Bản ngã luôn luôn ham muốn khao khát hơn là sở hữu. Vì sự thỏa mãn nông cạn của cái có cho nên bản ngã luôn thay thế bằng cái muốn có hoài. Tâm lý tham đắm bị đồng hóa với sở hữu vật chất, khác với nhu cầu cần thiết của con người. Trong một số trường hợp, lòng tham đắm của bản ngã biểu lộ rõ rệt thành khát khao vô tận. Chẳng hạn những người bị chứng bội thực tự làm cho mình ói ra để tiếp tục ăn nữa; cái

! 55

Page 56: THE GIOI MOI 1

đầu của họ đói chứ không phải cơ thể. Bịnh ăn uống rối loạn này có thể chữa nếu họ biết thay vì tiếp tục đồng hóa với trí óc,họ tiếp xúc thẳng với cơ thể để thấy rõ nhu cầu thực sự của cơ thể hơn là những đòi hỏi giả tạo của cái đầu vị ngã. Một số bản ngã theo đuổi tham vọng bằng những quyết định kinh hoàng : Stalin,Hitler... là vài thí dụ điển hình của lòng tham vô bờ bến, có hành động trái nghịch với lẽ công bằng đưa họ tới kết liễu thảm hại. Họ đã tạo địa ngục ở thế gian, tự tạo đau khổ cho mình và cho nhiều người khác. Hầu hết bản ngã có tham muốn khác nhau, chống chọi nhau. Vào các thời kỳ khác nhau, bản ngã ham muốn những sự việc khác nhau hoặc có thể không biết mình muốn gì, chỉ trừ họ không muốn điều quan trọng nhứt, đó là THỰC TẠI. Kết quả của ham muốn không dừng là bất an, lo toan, phiền nhiễu...Tham lam là động cơ căn bản nên không có thỏa mãn nào lấp đầy bản ngã khi cơ cấu vận hành cứ theo khuôn mẫu cũ. Trong thời niên thiếu, đa số bản ngã phát triển và bành trướng mãnh liệt, một số bản ngã vì không được thỏa mãn nên lâm vào trạng thái tiêu cực triền miên. Hiện nay trên trái đất, những nhu cầu vật chất như nước, thức ăn, quần áo, nhà ở và các

! 56

Page 57: THE GIOI MOI 1

tiện ích căn bản có thể đáp ứng dễ dàng cho toàn thể nhân loại, chứ không phải làm mất quân bình tài nguyên do lòng khao khát vô độ của bản ngã. Trong nền kinh tế cơ cấu hiện đại, nhan nhãn những đại tập đoàn là những thực thể vị kỷ cạnh tranh với những tập đoàn khác để có nhiều vật chất hơn. Mục tiêu duy nhất của họ là lợi nhuận, là vật chất và theo đuổi mục tiêu bằng mọi phương tiện tàn nhẫn. Thiên nhiên, thú vật, con người ngay cả nhân viên của họ không gì khác hơn là những con số trên mục kế toán. Họ xử dụng những đối tượng một cách máy móc rồi sau cùng loại bỏ dễ dàng. Những ý nghĩ “tôi” và ”của tôi”, ”tôi muốn”, ”tôi phải có”, ”tôi vẫn chưa đủ” đều là cơ cấu của bản ngã. Chừng nào ta còn bị đồng hóa với chúng tức chúng còn giữ nguyên vị trí cũ, ta sẽ tin tất cả những gì chúng nói, ta sẽ bị buộc làm theo những ý tưởng mê lầm đó, buộc phải tìm kiếm hoài vì không có sở hữu, nơi chốn, con người hay điều kiện nào có thể thỏa mãn được, không có vật chứa đựng nào làm thỏa mãn khi cơ cấu vị kỷ còn giữ nguyên vị trí. Bất luận ta đạt hay có được bao nhiêu đều không làm ta mãn nguyện, ta muốn tìm cái gì khác nữa hứa hẹn hoàn hão, hứa hẹn sẽ lấp đầy túi khát khao luôn có bên trong.

! 57

Page 58: THE GIOI MOI 1

ĐỒNG HÓA VỚI CƠ THỂ

Con người còn đồng hóa với một dạng căn bản khác, đó là đồng hóa với “thân thể của tôi”. Ban đầu do cơ thể là nam hay nữ nên hầu hết con người đều đồng hóa với giới tính của mình. Sự đồng hóa này rất rõ vào thời niên thiếu, đẩy con người vào một vai trò, vào những khuôn mẫu có điều kiện ảnh hưởng suốt cuộc đời, chứ không phải chỉ có sự kiện hấp lực nam nữ mà thôi. Những vai trò mà phần lớn con người lầm lẫn, nơi những xã hội cổ truyền con người còn bị vướng mắc nhiều hơn trong các xã hội phương Tây, nơi mà sự đồng hóa với giới tính giảm bớt phần nào. Đời sống con người bị hướng dẫn bởi giới tính nơi các xứ theo tập tục cổ xưa theo đó số phận xấu nhất của phụ nữ là bị hiếm muộn và không được tái giá. Bên phía nam giới là thiếu khả năng tình dục và không thể có con. Ở phương Tây, sắc diện bề ngoài của thân thể chiếm phần lớn cảm nghĩ của con người : mạnh khỏe hay ốm gầy phô bày vẻ đẹp hay không đẹp dưới mắt người khác. Đối với nhiều người, nhân cách gắn chặt với sắc dạng thể hình : vạm vỡ, nhìn đẹp mắt, bề ngoài hấp dẫn... Một số người khác có mặc cảm vì sắc diện bề ngoài không đẹp đẽ. Ngoài ra có số

! 58

Page 59: THE GIOI MOI 1

người lầm lẫn có ý nghĩ méo mó về thân thể của mình. Một số phụ nữ trẻ nghĩ là mình nặng ký nên thường nhịn ăn trong khi thực sự cô ta cũng vừa người. Cô ta gần như không thấy cơ thể mình mà chỉ ”thấy” cái đầu cô ta nói ”tôi bị mập” hay “tôi sẽ mập”. Trong những thập niên gần đây, bịnh ăn kiêng là một trong những chứng bịnh thời đại có mức tăng gia thảm hại do con người ngày càng bị đồng hóa với tư tưởng, ngày càng bị nhiễm sâu. Nếu bịnh nhân sáng suốt nhìn thẳng vào cơ thể mình không cho tư tưởng xen vào phê phán này nọ, hoặc biết nhận ra và quan sát những phê phán đó, hoặc khá hơn nữa là hãy trầm tỉnh lắng sâu cảm nhận cơ thể từ bên trong, người bịnh sẽ dần dần thức tỉnh. Những ai đồng hóa với sắc đẹp, thể hình hay năng khiếu của mình đều sẽ kinh nghiệm khổ đau khi tất cả những phụ thuộc đó bắt đầu tàn tạ và mất dần. Nhân ngã của họ dựa trên những thứ đó sẽ bị đe dọa bởi suy tàn. Cơ thể con người cũng có chung số phận của mọi hình tướng là vô thường và chắc chắn sẽ hư rã. Song song với cái thân xác yếu già, bịnh hoạn và sau cùng là “tôi chết”chắc chắn sẽ đưa tới khổ đau. Không đồng hóa với hình tướng bên ngoài không có nghĩa là khinh thường hay không săn sóc nó. Nếu bề ngoài của ta đẹp đẽ, mạnh

! 59

Page 60: THE GIOI MOI 1

khỏe hãy cứ thưởng thức những phụ thuộc đó,trong lúc chúng còn. Ta cũng có thể tăng cường sức khỏe cho cơ thể bằng dinh dưỡng đúng mức và bằng thể dục thường xuyên. Nếu con người không bị đồng hóa, không dính chấp vào sắc tướng thể chất bên ngoài thì khi sắc đẹp tàn, sức lực hay cơ thể yếu kém sẽ không ảnh hưởng đến phẩm giá hay nhân cách hay cái ta chân thật. Ánh sáng của tỉnh thức không hình tướng và vô cùng tận ngày càng chiếu rọi. Ngoài ra con người còn bị đồng hóa với cơ thể có vấn đề hay tật bịnh làm thành nhân ngã. Người này nghĩ tưởng và tự cho mình là nạn nhân của những khiếm khuyết đó. Do những người xung quanh và bác sĩ cứ xác nhận liên tục làm mạnh thêm ý nghĩ trong đầu mình là bịnh nhân.Thế là người đó nhận lầm mình là tình trạng yếu kém đó và trở thành phần quan trọng nhất trong đời mình. Một khi bản ngã đã đồng hóa, nó lập đi lập lại mãi trong đầu và dính chặt không buông. Chỉ trừ phi bản ngã tìm kiếm một dính nhiễm khác mạnh hơn để thay thế.

! 60

Page 61: THE GIOI MOI 1

CẢM NHẬN BÊN TRONG THÂN THỂ

Mặc dù cơ thể là một trong những nơi bị dính chấp mạnh nhất, tuy nhiên nó cũng là nơi mà ta có thể dễ vượt thoát nhất. Việc này không phải do cố gắng thuyết phục rằng mình không phải là thân thể mà là do chuyển đổi sự chú trọng từ hình tướng bên ngoài qua sức sống bên trong, thay đổi tư tưởng từ thân thể đẹp/xấu, mạnh/yếu... qua cảm nhận nguồn sống linh hoạt bên trong. Bất chấp hình dạng bề ngoài ra sao, hãy tập trung kiên trì vào sức sống thâm sâu và vô cùng vô tận. Ban đầu nếu chưa quen với cảm nhận “bên trong thân thể”, hãy khép mắt lại một lúc và chú tâm vào sự hoạt động của đôi tay. Đừng hỏi cái đầu vì nó sẽ nói ”Tôi có thấy gì đâu” hoặc nó có thể nói ”Hãy nghĩ tới những điều thú vị hơn”. Do đó nên tập trung thẳng vào sức sống của đôi tay. Lúc đầu ta chỉ được chút cảm giác, sau đó nếu ta duy trì sức chú tâm, cảm giác sống động sẽ tăng dần. Làm như vậy tức trở về nhận lại những cảm giác tinh tế bên trong lúc nào cũng có sẵn, chỉ cần chú tâm vào. Có người không cần phải nhắm mắt, họ cũng cảm nhận “sự sống ở đôi tay” trong khi đang đọc sách. Tiếp theo, ta chú ý vào sức sống của đôi chân, rồi sau đó tập chú tâm cùng

! 61

Page 62: THE GIOI MOI 1

lúc sự linh hoạt của đôi tay lẫn đôi chân. Sau cùng, kết hợp các bộ phận khác như đùi, cánh tay, cổ, bụng, ngực... vào cùng cảm nhận đó cho tới khi ta nhận ra toàn bộ cơ thể bên trong là một nguồn sống linh động. Gọi là “thân thể bên trong” nhưng thực ra không còn là thân thể mà là một sức sống linh động như nhịp cầu nối giữa hình tướng bên ngoài và vô hình tướng bên trong.

HÃY TẬP THÀNH THÓI QUEN CẢM NHẬN BÊN TRONG THÂN THỂ CÀNG NHIỀU CÀNG TỐT.

Sau một thời gian, không cần phải khép mắt mà vẫn có thể cảm nhận bên dù trong lúc đang lắng nghe người khác. Khi tiếp xúc với bên trong, ta không còn đồng hóa với thân thể, cũng chẳng đồng hóa với tư tưởng nữa. Ta đang chuyển đổi từ thế giới hình tướng sang thế giới không hình tướng mà chúng ta gọi là nguồn tâm chỉ huy mọi hoạt động ở thế giới bên ngoài. Cảm nhận bên trong không những neo chặt ta an trú trong hiện tại, mà còn là lối thoát ra khỏi ngục tù bản ngã. Cảm nhận bên trong còn làm gia tăng hệ thống miễn nhiễm và cơ thể có khả năng tự chữa lành bịnh.

! 62

Page 63: THE GIOI MOI 1

NGUỒN SỐNG BỊ LÃNG QUÊN

Ngoài thân thể và những đối tượng vật chất còn một thứ sâu hơn liên tục nổi lên trong tâm thức chúng ta, đó là tư tưởng. Chúng là những dạng thức năng động ít lộ liễu nhưng tinh vi hơn. Chúng là những tiếng thì thầm trong đầu không ngừng nghỉ, con người bị bắt buộc phải nghe chúng giống như người mắc bịnh ghiền. Khi tư tưởng xâm chiếm hoàn toàn, khi ta là tiếng nói trong đầu và những cảm xúc đi kèm, ta bị mất mình trong mỗi tư tưởng, mỗi cảm xúc : ta hoàn tòan bị bản ngã kềm kẹp. Bản ngã là quá trình suy tưởng dày dặc và là khuôn mẫu cảm xúc dính kèm bị đầu độc bởi cái “tôi” to lớn. Khi bản ngã trỗi dậy che mờ bản tâm chân thật là ta bị đồng hóa hay là nguồn sống bị lãng quên. Đó là căn bản mê lầm tiên khởi đã chia cắt chân thật thành ảo tưởng.

Từ sai Lầm của Descartes đến Khả năng Thấu đáo của Jean Paul Sartre Vào thế kỷ 17, triết gia Descartes, người được xem là sáng lập ra triết lý tân tiến, nói câu nổi tiếng mà ông ta nghĩ là chân lý :”Tôi có suy nghĩ nên tôi mới tồn tại”. Câu này nói lên

! 63

Page 64: THE GIOI MOI 1

sai lầm cơ bản, do ông ta luôn suy tư nên ông ta nhập tư tưởng với tâm thức hay là đồng hóa “tôi” với tư tưởng. Thay vì khám phá ra chân lý, ông cũng không biết là đã tìm ra gốc rễ của bản ngã. Cho tới khoảng 300 năm sau, triết gia nổi tiếng là Jean Paul Sartre đã nhìn sâu và nhận ra rằng khi đang suy nghĩ, ”cái biết” nhận ra không phải là “cái suy nghĩ”. Nếu không có gì cả ngoại trừ ”cái suy nghĩ” thì ta sẽ không biết là đang suy nghĩ. Ta sẽ nhập với tư tưởng của ta giống như người nằm mơ nhập với hình ảnh trong mơ, không hề hay biết. Nhiều người sống như người bị mộng du, dính kẹt trong tư tưởng tái diễn liên tục thành nỗi ám ảnh triền miên. Khi ta biết ta đang mơ là bắt đầu ra khỏi cơn mơ hay là mức độ tri thức cao hơn len lõi vào. Khả năng thấu đáo bên trong của Ông Sartre cũng sâu, tuy nhiên ông vẫn còn suy nghĩ để nhận ra điểm chính yếu ông ta vừa khám phá, đó là tầng tâm thức ở mức độ cao hơn.

AN BÌNH NỘI TẠI

Một số người đã kinh nghiệm tâm thức mới ló dạng khi trong đời họ bị mất mát lớn. Có người mất cả tài sản, người khác mất con, mất chồng, mất địa vị, mất danh dự hay mất năng

! 64

Page 65: THE GIOI MOI 1

lực. Có người bị mất tất cả những thứ trên cùng một lúc do thiên tai hay chiến tranh và trở nên trắng tay. Những gì họ đồng hóa với, những gì đã tạo thành tự ngã nay bị tiêu hủy. Sau đó nỗi đau khổ ngập tràn đẩy một số người thoát khỏi sợ hãi một cách kỳ lạ, tới trạng thái an nhiên hiện tiền. Hiện tượng này được Thánh St.Paul diễn đạt là “ An bình của Thượng đế, vượt trên tư tưởng”. Mọi người đều tự hỏi, ”Khi đối diện với vấn nạn, làm sao tôi cảm nhận được an bình ?” Câu trả lời giản dị thôi khi ta khám phá ra cơ cấu vận hành của bản ngã. Khi những vật chất, điều kiện mà ta đồng hóa bị sụp đổ thì bản ngã cũng tan tành. Khi không còn gì để đồng hóa, để bám vào thì khi đó ta là ai? Khi mọi bám víu xung quanh vuột khỏi hay khi tử thần gần kề, ta vượt thoát vướng mắc đã giam hãm tự bấy lâu. Ta nhận ra chân ngã chính là tâm thức sẵn có, chứ không phải là tâm thức bị dính nhiễm. Đó là nguồn sống bất tận, là an bình của Thượng đế hay là bản tâm chân thật tức “tôi là”, chứ không phải ”tôi là thế này” hay “tôi là thế kia”. Nguồn sống đó là bản nhiên vô hình tướng, là thực tại vô tận, là nguồn sống của muôn loài, là tất cả chỉ là Một. Tuy nhiên, không phải ai ai bị mất mát lớn cũng thức tỉnh hoặc hết dính nhiễm vào sắc tướng. Có số người không biết nhân quả, họ

! 65

Page 66: THE GIOI MOI 1

nghĩ là do số phận hay Thượng đế bất công, bị tư tưởng khống chế mãnh liệt, tạo ra cảm xúc giận dữ, căm tức, rồi phản ứng, xung đột... Họ mê lầm thay thế bằng những dính mắc lớn hơn, khổ hơn hay nói cách khác, bản ngã mau chóng tìm một vật chứa khác, càng chấp cứng sâu đậm hơn là tình trạng cũ. Tóm lại, khi mất mát lớn con người hoặc sẽ chống đối phản ứng lại hoặc buông xả được. Nếu chống đối, con người trở nên gay gắt và phiền não thảm hại. Nếu biết buông, con người trở nên dễ chịu, dễ mến hơn và biết thương người. Buông xả nghĩa là trong tâm chấp nhận và cho qua thực tại đang diễn ra, người này đã mở rộng lòng. Chống đối hay phản ứng là hiện tượng co thắt bên trong của cái bản ngã dày dặc và lì lợm, người này hãy còn đóng chặt cửa. Bất cứ chống đối tiêu cực nào bên trong, sẽ gây ra phản ứng bên ngoài và khi đó ta bất lợi hoàn toàn vì chung quanh không ai đứng về phe mình. Khi biết buông xả, tâm hé mở, ánh sáng soi vào, nếu có hành động cần thiết cũng là hành động hướng dẫn bởi trí sáng suốt, khi đó ta hội nhập với hoàn cảnh mới nên chung quanh người người đều thân thiện, hợp tác. Nếu ta yên lặng không có hành động, ta cũng an trú trong tỉnh thức an bình, trong tình thương Thượng đế.

! 66

Page 67: THE GIOI MOI 1

CHƯƠNG BA

CỐT LÕI CỦA BẢN NGÃ

Hầu hết con người dính mắc hoàn toàn với tiếng nói trong đầu của mình. Tiếng nói này là dòng tư tưởng triền miên không kềm hãm được và theo sau là những cảm xúc đi kèm. Có thể nói ngắn gọn là đầu óc con người đã sở hữu tư tưởng và cảm xúc. Khi chưa phát hiện ra điều này, ai cũng tưởng trí suy nghĩ chính là mình. Nhưng đó chỉ là cái trí ích kỷ vì có bản ngã, có cái “tôi” trong mỗi tư tưởng, mỗi quan niệm, thành kiến, phản ứng và cảm xúc. Đó là trạng thái không trung thực, không trong sáng nghĩa là bị méo mó, sai lạc. Trí óc chứa đầy ý tưởng và hình ảnh luôn phải liên hệ quá khứ như ảnh hưởng gia đình, nơi sinh trưởng, tập quán... Trung tâm hoạt động chính của đầu óc gồm những ý nghĩ tái lập liên tục, những cảm xúc, phản ứng rập theo khuôn mẫu cố hữu mà ta hoàn toàn dính mắc. Phần lớn khi con người nói chữ ”tôi” nghĩa là bản ngã đang nói chứ không phải “ta chân

! 67

Page 68: THE GIOI MOI 1

thật”. Bản ngã gồm tư tưởng và cảm xúc của nhóm ký ức mà mình dính nhiễm; đó là “tôi” và “câu chuyện của tôi” gồm một chuỗi nào là chủng tộc, tôn giáo, địa vị, đảng phái... con người vẫn diễn vai trò hoài mà không hề hay biết. Bản ngã chứa thêm nhân dạng, dáng vẻ bề ngoài, chưa kể những sở hữu vật chất, lại còn chất chứa ý kiến chủ quan, phân biệt so sánh hoặc khá hơn hay tệ hơn người khác, hoặc được còn hay thua mất … Bản ngã chứa đựng nhiều hơn hay ít hơn tùy từng người nhưng cơ cấu vận hành giống y nhau. Nói cách khác, bản ngã chỉ khác nhau trên bề mặt, trong cơ bản chúng giống hệt nhau. Bản ngã giống nhau ra sao? Sở dĩ bản ngã sống còn hoài là do ta DÍNH MẮC và PHÂN BIỆT. Những người sống hoàn toàn dựa vào trí óc thì nhân cách rất dễ lung lay vì tư tưởng và cảm xúc thay đổi luôn. Do bản ngã có khuynh hướng phấn đấu để tồn tại, chúng luôn tự bảo vệ chặt chẽ và muốn bành trướng. Chẳng hạn ý niệm ”tôi” không thể tồn tại nếu không có ý niệm “người khác”. Để bảo vệ tư tưởng”của tôi”, cần phải có tư tưởng đối lập của người khác. Người khác đây hầu như là tất cả những người không phải là “tôi” nên tôi có thể coi họ là nghịch. Trên cán cân mê lầm rập theo khuôn

! 68

Page 69: THE GIOI MOI 1

mẫu vị ngã, một bên là thói quen tìm lỗi trách phiền người khác, một bên là mâu thuẫn giữa cá nhân (hay là xung đột giữa các nước). Vì vậy Chúa Jesus nói, ”Tại sao ta thấy hạt bụi trong mắt người khác,mà không thấy cục ghèn trong mắt mình?”. Trong Thánh kinh câu hỏi của Chúa không có câu giải đáp, nhưng có thể trả lời rằng: khi tôi chỉ trích hay đổ lỗi người khác, tôi tưởng lầm sẽ làm tôi tốt hơn, cao qúi hơn.

PHIỀN TRÁCH và TỨC GIẬN

Phiền trách là một trong những chiến lược làm bản ngã mạnh thêm. Chuyện nhỏ lặt vặt không đáng kể mà cái đầu ta quen thói cằn nhằn trách phiền mà ta vẫn tưởng là đúng. Dù phiền hà ra lời hay thầm lặng trong trí cũng không khác gì nhau. Một số bản ngã có lẽ không còn gì nhiều để dính mắc, chỉ tồn tại nhờ vào trách phiền. Lúc đó ta bị bản ngã kềm kẹp thành thói quen than phiền mà mình không hề biết. Do chứa sẵn thành kiến nên ta hay dán nhãn hiệu lên người khác, khi đối diện, khi nói về người đó hay chỉ cần nghĩ đến cũng phiền hà được. Thường là gán cho người đó những nhãn hiệu như ngốc ngếch, hoang phí, hèn hạ... do bản ngã phân biệt ta “đúng” người

! 69

Page 70: THE GIOI MOI 1

“sai”. Bước xuống mức độ thấp hơn là la mắng, lớn tiếng và thấp hơn nữa là bực tức hạ thủ bằng tay chân. Tức giận là cảm xúc đi chung với phiền trách làm bản ngã mạnh thêm. Tức giận là cảm xúc bất mãn,cay đắng do thấy người khác tham lam, bất lương, xấu ác...tức những gì họ nói, giận những gì họ làm hay không chịu làm. Bản ngã thích những việc như vậy : thay vì vượt lên mê lầm của người khác, ta lại mắc kẹt vào đó. Tại sao vậy? Chính do mình : bản ngã. Có khi cái ”lỗi” của người khác không còn nữa hay cái lỗi nhỏ thôi, nhưng ta chỉ nhắm vào nó, gạt ra những cái khác, ta thổi phồng lên, bản ngã lớn mạnh thêm. Một trong những cách hiệu quả nhất là không phản ứng lại bản ngã của người khác, không những ta thoát khỏi bản ngã của mình còn làm tiêu tan bản ngã của người kia. Muốn vậy ta phải nhận ra mê lầm của người khác cũng xuất phát từ bản ngã và là nạn mê lầm chung của tập thể. Khi biết rõ bản ngã không phải là vấn nạn riêng tư cá nhân, ta sẽ không còn máy móc phản ứng như trước kia. Do không phản ứng lại bản ngã, ta sẽ mang tình thương cho người khác, tình thương vô điều kiện. Có người coi bản ngã mê lầm là riêng rẽ của đối phương, sẽ khiến thành thù nghịch.

! 70

Page 71: THE GIOI MOI 1

Ta hãy sáng suốt để bảo vệ trước những người mê lầm sâu dày. Không phản ứng không phải là yếu hèn nhu nhược mà là người có nội lực rất mạnh. Không phản ứng có nghĩa là thông cảm, tha thứ hay là nhìn vượt lên trên. Tuy nhiên, con người dù bị bản ngã kềm kẹp, vẫn còn tình thương bên trong hay là nguồn sống nguyên thủy bị che mờ. Ngoài việc phiền giận người khác, bản ngã còn phiền hà hoàn cảnh. Giận người hay giận hoàn cảnh đều giống nhau: tha nhân hay hoàn cảnh trở nên thù nghịch. Con người thường than phiền rằng: -Tôi không muốn sống ở đây nữa! -Tôi bị đối xử không tốt! -Tôi chán lắm rồi,tôi muốn thay đổi không khí. -Phải chi đừng xãy ra hoàn cảnh này cho tôi....... Bản ngã có một kẻ thù lớn nhất là đời sống hiện tiền tức là cái đang là. An trú ngay trong hiện tiền, cái đầu không thể hoạt động được. Chúng ta đừng nhầm lẫn phiền trách với thông báo cho người khác sự sơ xuất để điều chỉnh lại. Khi ta nói với người hầu bàn là tô súp nguội cần hâm lại thì không có bản ngã xen vào. Nếu ta bị dính vào sự kiện nóng hay lạnh (nóng/lạnh không tốt cũng không xấu), ta sẽ có thái độ phiền trách, ”Tại sao đem cho tôi tô

! 71

Page 72: THE GIOI MOI 1

súp lạnh như vậy?” Chữ “tôi” tức bản ngã hay buộc tội và thấy người khác là sai. Trách phiền là thái độ phục vụ cho bản ngã và bản ngã muốn bành trướng nên tiếp tục phiền trách. Nếu ta có thể nhận ra tiếng nói trong đầu, bắt kịp ngay trong lúc nó định phiền giận và biết nó chính là tiếng nói của bản ngã rập theo khuôn mẫu cũ. Khi ta để ý tiếng nói đó, ta sẽ nhận ra đó không phải là mình, vì mình là người biết có tiếng nói. Ta là nhận thức biết có tiếng nói trong đầu. Bên trong có cái biết, phía trước có tư tưởng và tiếng nói. Nhận ra như vậy ta thoát bản ngã, thoát khỏi cái đầu vô minh. Bản ngã tức vô minh, lầm lẫn. Bản ngã và tỉnh thức không thể đi chung với nhau. Thói quen dính nhiễm của trí óc, tiếng nói trong đầu có thể vẫn tái xuất hiện vì đã mọc rễ ăn sâu, tuy nhiên mỗi khi ta nhận ra, nó sẽ yếu dần đi.

PHẢN ỨNG và KHỔ ĐAU

Tư tưởng phiền hà sẽ đi chung với cảm xúc bực bội hay một cảm xúc mạnh hơn là giận tức hay là một cảm xúc khác là chán nản.Khi đó phiền hà trở thành phản ứng hay là bản ngã bành trướng mạnh mẽ.

! 72

Page 73: THE GIOI MOI 1

Có nhiều người lúc nào cũng như đợi chuyện kế tiếp để phản ứng lại do bản ngã muốn tăng thêm phiền nhiễu. Họ quen phản ứng hết việc này đến việc nọ. Họ chen vào việc người khác để bản ngã có job làm. Họ dính kẹt vào rối rắm thường xuyên y như người ghiền ma túy vậy. Bực bội kéo dài gọi là phiền muộn. Mang mối phiền muộn là thường trực “chống đối”, nhiều người cả đời phiền muộn vì trạng thái này đã ngư trị phần lớn bản ngã. Mối ưu phiền tập thể của một bộ lạc hay dân tộc có thể kéo dài hằng thế kỷ và châm ngòi cho các cuộc bạo động không bao giờ dứt. Ưu phiền là cảm xúc tiêu cực mãnh liệt xuất phát từ biến cố đã qua nhưng vẫn sống hoài do tiếng nói trong đầu lập đi lập lại hoặc do kể lễ, ”Họ đã đối xử với “tôi” ...” hoặc “Họ đã hành động với “chúng ta”...”. Ưu phiền còn gây hệ lụy nhiều mặt khác. Chẳng hạn khi mang mối sầu đau, ta sẽ bóp méo những hoàn cảnh đến trong hiện tại, nó còn là ảnh hưởng đến thái độ và lời nói của ta trong hiện tại. Mối sầu não in sâu xâm chiếm gần hết mọi sinh hoạt sẽ duy trì và củng cố bản ngã. Hãy thành thật xét lại tâm mình xem có còn phiền muộn nặng nề không vì người ”đối nghịch”, người mà trong đời ta không thể tha thứ. Nếu có, nên nhận ra mối ưu phiền cả hai

! 73

Page 74: THE GIOI MOI 1

mặt tư tưởng và cảm xúc, nghĩa là để ý những tư tưởng và những cảm xúc đi kèm. Đừng cố gắng chấm dứt phiền não hay cố gắng tha thứ sẽ không có hiệu quả. Khi nhận ra phiền não chỉ có mục đích làm mạnh thêm bản ngã là tha thứ sẽ đến một cách tự nhiên. Chỉ cần nhận ra, biết được là thoát được. Chúa Jesus nói”Hãy tha thứ cho kẻ thù.” Tha thứ hay là không phản ứng vì phản ứng là một trong những cơ cấu khuôn mẫu của đầu óc vị ngã. Thật ra quá khứ không đủ mạnh đến nổi ta không an trú trong hiện tiền. Chỉ vì mối phiền não quá khứ đeo đẳng, là hành trang của những tư tưởng và cảm xúc tái diễn.

HỄ có ĐÚNG là phải có SAI

Thói quen than phiền, thấy lỗi người khác và phản ứng lại CHỈ làm mạnh thêm bản ngã. Nó gieo cho bản ngã cảm giác cao quí hơn. Chỉ có mình là đúng, còn người khác hay hoàn cảnh đều là sai. Những lúc nói về nạn kẹt xe, bàn về chính trị, về những đại gia hay những kẻ lười biếng, về bạn đồng nghiệp, về người chồng hay người vợ cũ... cũng chỉ đề cao mình hơn. Do đó khi than phiền là có bản ngã xen vào.

! 74

Page 75: THE GIOI MOI 1

Không gì làm mạnh bản ngã cho bằng xem mình là đúng. Do dính nhiễm hoàn toàn với tư tưởng, thành kiến, phỏng đoán, phán xét với câu chuyện. Dĩ nhiên để bảo vệ mình đúng thì phải có người sai, nên bản ngã cần tìm lỗi người khác để tồn tại. Ngay cả thời tiết, thiên nhiên … cũng làm con người phiền hà.

BẢO VỆ ẢO TƯỞNG

Nếu ta nói ”Ánh sáng đi nhanh hơn âm thanh” và ai đó nói ngược lại thì rõ ràng là ta đúng và người kia sai. Chỉ cần quan sát hiện tượng sấm sét cũng xác minh được là tia chớp đi trước tiếng sét. Như vậy có cái BIẾT là đúng chứ không phải “tôi” là đúng. Có bản ngã xen vào hay không? Có thể có nhưng không cần thiết. Nếu ta chỉ đơn thuần nêu lên sự kiện, hiện tượng xác thực, không cần bảo vệ thì không có bản ngã. Tư tưởng có thói quen len lỏi vào để bảo vệ và nói, ”Tôi biết chắc là...” hay “Tôi tin chắc là...”thì là có bản ngã xen vào. Bản ngã ẩn núp dưới chữ ”TÔI”, câu nói giản dị” Ánh sáng đi trước âm thanh” tuy đúng nhưng nếu có cái “tôi” xen vào, nó bị ô nhiễm vì trở thành riêng tư cần bảo vệ và lỡ người nào nói ngược lại, cái tôi bị giảm uy tín hay bị

! 75

Page 76: THE GIOI MOI 1

mất mặt, sẽ phản ứng lại và đi tới cãi cọ xích mích. Vì bản ngã lấy mọi sụ kiện làm riêng tư nên dễ dàng đụng chạm. Có phải bản ngã bảo vệ sự thật? Không phải, vì sự thật không cần bảo vệ. Ánh sáng, âm thanh không màng đến ai nghĩ như thế nào. Chính ta đang bảo vệ mình, bảo vệ tư tưởng giả làm ta, bảo vệ ảo tưởng. Những sự kiện, hiện tượng rất giản đơn, xác thực còn bị tư tưởng làm lệch lạc, méo mó, tưởng tượng huống hồ gì đến những quan điểm, lập trường, phê phán... những loại suy tưởng này còn dễ dàng pha trộn với cái ”TÔI” hay ”CHÚNG TÔI”! Hầu hết bản ngã đều nhầm lẫn ý kiến, quan điểm với sự kiện. Bản ngã cũng nhầm lẫn hoàn cảnh và phản ứng lại hoàn cảnh. Bản ngã là ông thầy của suy diễn và lựa chọn sai lệch. Chỉ có tỉnh thức, con người mới minh định giữa quan điểm và sự kiện. Nhờ tỉnh thức, ta mới biết rõ đâu là hoàn cảnh và đâu là cảm xúc giận cũng như biết cách quan sát hoàn cảnh để đáp ứng thuận lợi. Chỉ có tỉnh thức, con người mới thấy hoàn cảnh chung hay tổng thể, thay vì cái thấy bị giới hạn qua suy tưởng riêng tư.

CHÂN LÝ : TƯƠNG ĐỐI hay TUYỆT ĐỐI?

! 76

Page 77: THE GIOI MOI 1

Bản ngã thường quả quyết “Tôi đúng và bạn là sai” là mối nguy hiểm trong giao dịch cá nhân cũng như trong liên hệ giữa các tổ chức, quốc gia, các vấn đề tôn giáo ... Nhưng nếu cho rằng “đúng hay sai” đều là bản ngã dẫn đến đụng chạm thì không có “đúng hay sai” sao? Một triệu người bị giết ở Kampuchia bởi tên độc tài điên khùng Polpot đã ra lịnh giết hết những người đeo kính trắng vì theo hắn người đeo kính thuộc thành phần trí thức, tư sản bóc lột giai cấp nông dân. Họ cần bị khai trừ để có chỗ cho trật tự xã hội mới. Những tin tưởng này của kẻ độc tài chỉ là chuỗi tư tưởng loạn động. Lịch sử Cơ đốc giáo là thí dụ tiên khởi của niềm tin sở hữu chân lý hay là bảo vệ cái đúng đã dẫn tới hành động điên cuồng. Họ coi là đúng khi tra tấn hay chôn sống những người khác ý kiến với chủ trương của nhà thờ dù chỉ khác đôi chút. Những nạn nhân ”làm sai” này có khi chỉ vì diễn dịch kinh thánh một cách khách quan. Vì họ xem kinh thánh là “chân lý” và những người làm sai đã phạm lỗi lớn cần phải giết đi. Chân lý được coi quan trọng hơn sinh mạng con người. Và đối với họ chân lý là gì? là những điều mà họ cho là phải tin, tuy nhiên đó chỉ là một mớ tư tưởng của đầu óc! Hiện nay, Công giáo và các thánh đường tu chỉnh lại khi đưa ra thuyết tương đối, họ cho

! 77

Page 78: THE GIOI MOI 1

rằng không có chân lý tuyệt đối để hướng dẫn con người. Thực ra chúng ta không thể tìm chân lý ở nơi không thể tìm được như các chủ nghĩa, chủ huyết, chế độ, luật lệ, qui tắc... tất cả những sắc thái này đều do tư tưởng tạo ra. Tư tưởng có thể tới gần sự thật nhất, nhưng tư tưởng không phải là sự thật. Vì thế Phật giáo có câu “ngón tay chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng”. Mọi tôn giáo đều có thể đúng hay sai, tùy cách mà con người áp dụng: dùng tôn giáo để phục vụ cho bản ngã hay áp dụng để phụng sự chân lý. Nếu ta tin chỉ có tôn giáo mình là đúng, ta đã dùng để phục vụ cho bản ngã, theo đó tôn giáo trở thành hệ thống tư tưởng tạo ảo giác về địa vị cao qúy gây ra chia rẽ và đụng chạm. Dùng tôn giáo để phụng sự chân lý: giáo lý là những tấm bản đồ để đánh thức con người, để giúp khai mở tâm linh, thoát khỏi dính nhiễm vào hình tướng. Tấm bản đồ rồi cũng sẽ bỏ đi hay là vượt qua sông rồi sẽ không dùng bè nữa. Chỉ có một chân lý tuyệt đối và những lẽ thật khác phát xuất từ đó. Khi nhận ra chân lý, mọi hành động của ta sẽ hợp nhất với nó. Hành động của con người có thể phản ảnh chân lý hay phản ảnh ảo tưởng. Chân lý có thể viết ra bằng chữ nghĩa không? Được, nhưng chữ nghĩa không phải đích thực là nó, chỉ nhắm chỉ chân lý mà thôi.

! 78

Page 79: THE GIOI MOI 1

Chân lý không tách rời ta. Phải, ta chính là chân lý, cái nguồn sống trong ta chính là chân lý. Nếu tìm kiếm chân lý ở nơi nào khác, ta sẽ bị lừa. Chúa Jesus cố gắng truyền đạt chân lý khi Ngài nói,”Ta là sự sống đời đời”. Lời này của Chúa là một trong những chỉ điểm trực tiếp mạnh mẽ nhất về chân lý nếu được hiểu đúng, còn nếu diễn dịch sai lệch sẽ thành mối nghi lớn. Thực ra chúa Jesus nói về bản nhiên thầm lặng, tinh túy thâm sâu trong mọi người, mọi loài. Chúa nói về nguồn sống bên trong. Một số mục sư Cơ đốc giáo gọi đó là Chúa trong ta, Phật giáo gọi đó là Phật tánh, Ấn Độ Gíao gọi là thần Atman, Thượng đế ngự bên trong. Khi tiếp xúc với nội tâm, thể nhập với nguồn sống, mọi hành động và tương giao phản ảnh sự đồng nhất với mọi loài. Đó là tình thương không có điều kiện. Còn những luật lệ, mệnh lệnh, qui tắc...chỉ cần thiết cho những ai đã tách rời khỏi chân lý bên trong. Những văn kiện đó ngăn ngừa những tệ hại quá đáng của bản ngã và thường là không đạt được mục tiêu tối hậu. Thánh Augustine nói, ”Có tình thương thì có thể làm bất cứ gì”.

BẢN NGÃ KHÔNG PHẢI LÀ VẤN ĐỀ RIÊNG TƯ

! 79

Page 80: THE GIOI MOI 1

Trên bình diện tập thể, do trí óc con người đã in sâu thành kiến “chúng ta đúng, chỉ có họ sai”, do đó khắp năm châu bốn biển, đâu đâu cũng xãy ra xung đột giữa các bộ lạc, dân tộc, tôn giáo, chế độ... chống đối nhau triền miên không dứt. Cả hai phía đều cùng dính chặt vào “việc riêng”, ”ước vọng riêng” của mình hay là bị tư tưởng đồng hóa. Cả hai phía không nhìn thấy ”việc riêng”, ”ước vọng riêng”của bên kia, dù cũng có thể có lý. Nhà văn Do thái Y. Halevi đề nghị giải pháp “Thích nghi với hoàn cảnh tranh đua” nhưng đa số thế giới vẫn chưa chịu làm! Cả hai phía tin là mình đúng, mình là nạn nhân, còn phe kia là “xấu ác”, là kẻ thù. Họ hình thành trong đầu ý tưởng như vậy nên mất cả nhân tính, gây mọi bạo động cho người khác kể cả trẻ con. Họ bị sập bẫy trong tội lỗi điên rồ và cứ mãi lao đầu vào thù hận, cả hai phe đều hành động và phản ứng, gây thù chuốc oán lẫn nhau. Bản ngã nhân loại trong tình trạng tập thể mê lầm nguy hiểm hơn là bản ngã của cá nhân, dù cơ bản hoàn toàn giống nhau. Hơn nữa, hầu hết những bạo động con người gây hấn cho nhau không phải do những người bịnh thần kinh, mà là do những công dân “bình thường” được nễ trọng! Những công dân này đi phục vụ cho bản ngã tập thể. Nếu nhìn rộng có thể nói trên trái đất này người “bình thường”

! 80

Page 81: THE GIOI MOI 1

cũng giống như người rồ dại. Do đâu nhân loại mãi duy trì tình trạng mê lầm, tình trạng thâm căn cố đế mọc rễ trong con người? Đó là do con người không thoát được tư tưởng và cảm xúc tức là bản ngã của mình. Tham lam, ích kỷ đưa tới tức giận và tàn bạo vẫn còn nhiều trên hành tinh này. Khi con người chưa nhận ra tư tưởng và hành động xấu ác là căn bịnh tâm trí tiềm ẩn của cá nhân và tập thể, con người rơi vào sai lầm nhân cách hóa những tệ hại đó. Khi ta nhầm lẫn bản ngã với nhân cách, bản ngã của ta sẽ mạnh thêm vì tự thấy mình đúng và cao qúy hơn. Ta sẽ phản ứng bằng cách buộc tội và căm tức kẻ thù nghịch. Tình trạng cách biệt với tha nhân ngày càng mạnh, bản ngã bành trướng và “đặc tính khác thường” của kẻ thù bị thổi phồng tới mức con người không còn biết đến tính nhân bản giống nhau, cũng chẳng nhận ra nguồn sống đồng nhất mà ta chia xẻ với mọi loài. Khuôn mẫu ích kỷ mê lầm nhận bản ngã của người khác là nhân cách của họ cũng giống như khuôn mẫu ích kỷ trong ta nhưng ta không thể hay không muốn phát hiện. Có phải chúng ta có nhiều thứ để học hỏi từ phe đối nghịch? Cái gì nơi họ làm ta chán ghét, tức giận? Có phải tánh ích kỷ, tham lam, muốn có nhiều quyền lợi nên khống chế người khác? Tính lừa đảo đi tới tàn ác... Tất cả những thứ

! 81

Page 82: THE GIOI MOI 1

đó làm ta tức giận và phản ứng nhưng chúng đều có trong ta cả. Mọi thứ đó không gì khác hơn là bản ngã cho nên không phải của riêng ai. Những tệ hại đó không ăn nhập gì đến cái ta chân thật, cũng chẳng ăn nhập gì đến bản nhiên chân thật của người khác. Chỉ khi nào vướng mắc những tệ hại mà nhận ra được và biết quan sát chúng ở bên trong là báo hiệu bản ngã đang bị lung lay, sức tỉnh sáng dần dần thay thế.

CHIẾN TRANH LÀ DO TƯ TƯỞNG ĐỊNH ĐOẠT.

Có những hoàn cảnh cần bảo vệ để khỏi hại mình hay người khác, nhưng chúng ta nên cẩn thận, đừng để sứ mạng ”triệt tiêu xấu ác” trở thành gần giống như việc chúng ta chống đối. Phản ứng lại mê lầm cũng dẫn ta vào mê lầm nốt. Thái độ ích kỷ mê lầm không bao giờ bị đánh bại bằng phản ứng hay tấn công. Ngay khi ta thắng được đối phương, sẽ bị phản kháng lại hay là sự đối nghịch càng mạnh thêm. Bất cứ khi nào ta chống đối, ta càng mê lầm vì bản ngã sẽ tăng cường, sự đối nghịch sẽ xuất hiện dưới dạng khác. Gần đây, có chiến dịch chống các tệ nạn, người ta hô hào chống chiến tranh, chống ma túy, chống khủng bố, chống tội lỗi, chống ung

! 82

Page 83: THE GIOI MOI 1

thư, chống nghèo khổ... Chẳng hạn, bất chấp chiến dịch chống tội lỗi và ma túy, điều đáng buồn là tội hình sự về ma túy vẫn gia tăng trong 25 năm qua. Ở Hoa Kỳ theo thống kê tháng 6 năm 2004 của Bộ Tư Pháp, số tội phạm tăng từ 3oo ngàn năm 1980 lên tới 1 triệu 100 ngàn năm 2004. Về chiến dịch chống bịnh hoạn, phải kể đến việc tìm ra trụ sinh. Ban đầu, thuốc trụ sinh thành công kỳ diệu, có hiệu lực thắng được những bịnh nhiễm trùng. Nhưng hiện nay nhiều chuyên gia đồng ý rằng xử dụng trụ sinh bừa bãi gây ra bom nổ chậm, phản ứng của trụ sinh tạo ra vi khuẩn gọi là siêu vi trùng sẽ xâm nhập trở lại và có thể lan truyền khắp cơ thể. Theo báo cáo của Bộ Y tế Hoa Kỳ, chữa trị bằng y khoa là nguyên nhân gây tử vong đứng hạng thứ ba sau bịnh tim và ung thư. Phương cách chữa bịnh chỉ dùng số lượng thuốc ít hoặc dùng cây cỏ thiên nhiên (Đông y) là hai cách thức để tiếp cận với chứng bịnh mà không coi nó là kẻ thù phải triệt tiêu nên không tạo ra bịnh khác. Cũng vậy, chống đối lại kẻ thù bằng mọi hành động phát xuất từ tư tưởng sẽ làm thù hận sâu thêm. Nếu chiến thắng, sẽ sinh thêm kẻ thù mới, lúc đó ta cũng xấu ngang hàng hoặc ác hơn kẻ bại trận nữa. Khi con người dính nhiễm tư tưởng hiếu chiến, họ chỉ muốn

! 83

Page 84: THE GIOI MOI 1

những gì mình lựa chọn. Từ ảo tưởng này, loại hành động nào sẽ xãy ra? Chỉ cần nhìn vào T.V. tối nay, sẽ thấy tư tưởng con người liên hệ chặt chẽ với các sự kiện xãy ra bên ngoài. Hãy nhận ra ảo tưởng rồ dại của trí óc con người hay là nạn mê lầm của bản ngã tập thể. Khi nhận ra, ta không còn xem bản ngã là riêng tư của ai cả. Biết rõ về bản ngã sẽ giúp ta bớt chống đối hay phản ứng. Ta sẽ giảm dần thái độ phiền trách, đổ thừa, buộc tội, tức giận,thù hằn ... tất cả đều do bản ngã trong mọi con người. Khi nhận ra khổ đau xuất phát từ tư tưởng đảo điên, ta sẽ không đổ dầu thêm vào ngọn lửa thảm kịch, dần dần lấy lại sức sáng suốt, lòng rộng mở, tình thương thay thế từ từ.

CHÚNG TA MUỐN HÒA BÌNH HAY XUNG ĐỘT? Ai cũng muốn hòa bình, không ai là không muốn hòa bình. Nhưng cái gì trong ta còn muốn xung đột, còn muốn bi kịch?Trong lúc này có thể ta không cảm thấy như vậy. Có lẽ phải đợi gặp những hoàn cảnh như : người khác trách móc hoặc xâm phạm sở hữu, chất vấn nghi ngờ hoặc tranh cãi ... Những lúc đó, ta có thể nào nhận ra cảm xúc của mình đang dâng lên, bực bội,tức giận? Có thể nào ta nhận ra giọng nói của ta trở nên khó nghe,lớn tiếng?

! 84

Page 85: THE GIOI MOI 1

Có thể nào ta nhận ra trí óc đang chạy đua để dành phần thắng? để đổ lỗi, để bảo vệ, để tấn công? Nói cách khác, khi hoàn cảnh xãy ra ta có thể bình tỉnh, sáng suốt để thấy trong ta đang có giặc, đang có cảm giác bị đe dọa và ta muốn sống còn bằng mọi giá? Hay là ta cần bi kịch để xác nhận mình chiến thắng trên sân khấu? Hoặc ta nghĩ rằng còn có cái gì đúng hơn là hòa bình?

VƯỢT LÊN BẢN NGÃ : NHÂN CÁCH CHÂN THẬT Khi bản ngã đang vận hành, phải nhận ra là ảo tưởng đang tranh đấu để tồn tại. Lúc đầu,không dễ gì tỉnh thức,nhứt là thói quen của đầu óc và cảm xúc lâu đời sống lại, nhưng nếu chịu thực tập an trú trong hiện tiền ngày càng nhiều, bản ngã sẽ giảm cường độ và ta trãi nghiệm thực tại từ từ nhiều hơn. Kết quả là nội lực chiếm cứ, lớn hơn tư tưởng, mạnh hơn bản ngã. Nhận thức này là tất cả những gì đòi hỏi để ta thoát khỏi bản ngã, vì tỉnh thức và bản ngã không thể sống chung nhau được. Thức tỉnh là sức mạnh kỳ diệu trong hiện tại nên cũng gọi là Thực tại. Có thể nói mục tiêu tối hậu của sự tồn vong của nhân loại hay là mục tiêu của đời người là truyền đạt sức mạnh tỉnh thức lan rộng khắp

! 85

Page 86: THE GIOI MOI 1

địa cầu. Chúng ta không thể đặt mục tiêu để đạt tỉnh sáng ở một thời điểm tương lai, chúng ta chỉ có thể tỉnh sáng ngay bây giờ trong hiện tại, chứ không phải hôm qua hay ngày mai. Chỉ có an trú trong Thực tại là vượt thoát bản ngã, xóa bỏ quá khứ và do đó chuyển hóa tâm thức. Nhận thức tâm linh là gì? Nếu chỉ là niềm tin thì cũng chỉ là tư tưởng mà thôi. Thật ra nhận thức tâm linh là nhận rõ những gì trãi nghiệm,suy tư,hay cảm nhận rằng ta không thể tìm ta trong những hoàn cảnh đã qua. Có lẽ Đức Phật là người đầu tiên thấy rõ điều này nên vô ngã (anata) là cứu cánh của Phật giáo. Cũng như khi chúa Jesus nói, ”Hãy từ chối chính mình” nghĩa là chối từ bản ngã, vượt qua ảo tưởng bản ngã, nhận ra nguồn sống chân thật. Nếu quả thật bản ngã là ta thì thật là vô lý để “từ chối “nó. Những kinh nghiệm, học thuyết, chủ trương, quan điểm, tư tưởng và cảm giác... tất cả đều đến rồi đi. Duy chỉ có ánh sáng tâm linh, chân ngã thâm sâu hay là cái ”TA” chân thật là vô cùng tận, là điều khiển thế giới hình tướng này. Biết rõ như vậy rồi, những hoàn cảnh xãy ra trong cuộc đời đều có tầm mức tương đối, không còn nghiêm trọng cực đoan nữa. Chỉ có điều thiết yếu duy nhứt là : TÔI CÓ THỂ CẢM NHẬN CHÂN NGÃ LÀ NỀN TẢNG CỦA ĐỜI TÔI TRONG BAO LÂU? Nói rõ hơn,tôi có

! 86

Page 87: THE GIOI MOI 1

cảm nhận nguồn sống vô biên ngay lúc này không? Cũng có thể hỏi cách khác: tôi có bị mất mình trong những hoàn cảnh, trong tư tưởng cả đời hay không?

MỌI CƠ CẤU CÓ HÌNH TƯỚNG ĐỀU KHÔNG BỀN VỮNG Dù dưới bất cứ dạng thức nào, mọi mê lầm ẩn sau bản ngã đều để làm mạnh thêm ảo tưởng về cái“tôi”. Bản ngã hình thành khi tư tưởng-mối lợi lớn cũng như bất hạnh lớn-thay thế và che lấp an bình thâm sâu, hòa nhập với nguồn sống, với Thượng đế. Động lực chính che dấu của bản ngã đều giống nhau: bản ngã muốn khống chế, muốn vùng dậy,muốn quyền hành, muốn mình đặc biệt, muốn được chú ý và muốn nhiều thứ nữa... những cái muốn dẫn tới cách biệt với người khác hay là có người đối lập, người nghịch lại. Bản ngã luôn cần bất cứ gì từ tha nhân hay từ hoàn cảnh. Lúc nào cũng có một danh sách ẩn dấu,một cảm giác “còn thiếu,chưa đủ” cần phải lấp đầy. Bản ngã xử dụng hoàn cảnh và tha nhân để đạt những gì nó muốn, nhưng khi được rồi cũng chẳng thỏa mãn được lâu. Bản ngã bị trở ngại trong chính ý đồ của nó và túi tham không đáy là nỗi lo âu triền miên của nó.

! 87

Page 88: THE GIOI MOI 1

Cảm xúc lo sợ điều hành mọi hoạt động của bản ngã. Lo mất,lo thiếu,sợ vắng,sợ chết. Mọi hoạt động của bản ngã chủ yếu để làm giảm thiểu mối lo sợ qua sở hữu vật chất, qua quan hệ mật thiết, qua thành công hay thắng lợi nhưng bao giờ cũng chỉ là giải pháp tạm thời. Vì đâu lo sợ? Vì bản ngã xuất phát từ việc đồng hóa với hình tướng mà nó vẫn biết không có hình tướng nào còn hoài, nên lúc nào bản ngã cũng bị vây quanh bởi cảm giác bất an. Khi tôi đi dạo với người bạn quanh vùng Malibu thuộc tiểu bang California, một khu rừng còn thiên nhiên hoang sơ rất đẹp, chúng tôi đi tới một gia trang đổ nát do bị hỏa hoạn từ nhiều thập niên qua. Nơi đây cây cối mọc chằn chịt và các loài thảo mộc đẹp tuyệt vời,khi tới gần,chúng tôi thấy bên cạnh con đường nhỏ có tấm biển đề: ”Coi chừng nguy hiểm! Mọi cấu trúc đều không vững bền”. Tôi nói với người bạn, ”Đây là một bài pháp thâm sâu” và chúng tôi đứng yên lặng, cảm kích. Khi ta biết và chấp nhận mọi hình tướng đều vô thường, niềm an bình len lõi vào trong ta. Việc nhận ra tính chất vô thường của sự vật đánh thức bản nhiên thường còn trong ta, vượt ra ngoài sống chết. Chúa Jesus gọi đó là “sự sống đời đời”.

! 88

Page 89: THE GIOI MOI 1

Ngay lúc ta nhận ra bản ngã trong ta cũng là lúc nhận ra cái ta chân thật, vượt ngoài bản ngã, vừa nhận ra cái giả là cái thật phát hiện.

BẢN NGÃ CẦN CẢM GIÁC TRỘI HƠN NGƯỜI Bản ngã có nhiều hình thức rất tinh tế, nếu không để ý ta không thể nhận ra. Chẳng hạn ta sắp báo cho người nào những tin tức mới. ”Bạn biết tin gì không,bạn chưa biết sao,để tôi kể bạn nghe”. Nếu ta đủ sáng suốt, ở ngay trong hiện tại, ta có thể phát hiện cảm giác thỏa mãn trong khoảnh khắc trước khi loan tin, dù đó là tin xấu. Dưới mắt của bản ngã, có sự so đo hơn kém giữa ta và người; trong khoảnh khắc đó, ta biết”nhiều hơn”người. Cảm giác tự hào, ta lúc nào cũng hay hơn người khác do bản ngã mà ra. Dù người đối diện là ông chủ tịch hay vị giám mục, ta vẫn có cảm giác trội hơn trong khoảnh khắc đó vì ta biết tin tức đó. Vì vậy mà nhiều người dính chặt vào các tin đồn. Thường thường các tin đồn chuyên chỡ các yếu tố chỉ trích và phán đoán về người khác, làm mạnh thêm bản ngã qua ảo tưởng dấu kín “ta trội hơn người” khi ta phán đoán tiêu cực về người khác. Ngược lại, nếu so sánh với người giỏi hơn,giàu hơn, cái “tôi” bị đe dọa bởi cảm giác “kém hơn”, bản ngã bị hạ thấp trong quan hệ

! 89

Page 90: THE GIOI MOI 1

với người khác. Thế là bản ngã cố gắng điều chỉnh bằng mọi cách; bản ngã sẽ chỉ trích hoặc coi thường tài sản, kiến thức hay khả năng của người khác. Bản ngã cũng có thể thay đổi chiến lược, thay vì tỵ hiềm, bản ngã tự tôn lên bằng cách kết giao với người đó.

BẢN NGÃ VÀ DANH TIẾNG

Người được nổi tiếng thường bị che phủ bằng chuỗi ảo tưởng. Phần lớn những người chúng ta gặp đều muốn tự tôn; chính họ cũng không biết là họ chẳng quan tâm đến ta, chủ yếu là tăng thêm cảm giác vị ngã của họ mà thôi. Họ tin là qua ta, họ thấy trội hơn, cao hơn, hay giỏi hơn. Hiện nay, việc đánh giá một số người quá cao một cách lố bịch là một trong nhiều biểu lộ sai lầm. Một số người nổi tiếng vướng vào sai lầm này, dính mắc vào ảo tưởng tập thể, vào hình ảnh quần chúng, và những phương tiện truyền thông đã tạo ra họ. Họ bắt đầu thấy mình trội hơn, cao hơn người thường. Hậu quả là ngày càng lệ thuộc vào tiếng tăm, vây quanh bởi hình ảnh quần chúng thổi phồng lên,

! 90

Page 91: THE GIOI MOI 1

họ ngày càng cách biệt người khác và có thể không có quan hệ chân thật. Nhà bác học Albert Einstein, một bậc siêu nhân nổi tiếng nhất trên thế giới, nhưng ông không hề dính nhiễm vào hình ảnh của tư tưởng quần chúng đã tạo ra danh tiếng cho mình. Ông vẫn giữ đức khiêm nhường, không chấp ngã. Ông nói một cách chân thật rằng: ”Dư luận khen chê của quần chúng về những thành quả của tôi không phải là cái tôi chân thật, cũng không phải là khả năng tôi có thể làm gì cho người khác”. Rất khó cho người nổi tiếng có quan hệ chân thật với người khác. Trong quan hệ chân thật, con người có lòng rộng mở, luôn quan tâm đến người khác mà không đòi hỏi ngược lại. Trong quan hệ ích kỷ, bản ngã luôn đòi hỏi và khi không còn gì để đòi, nó quay lưng chẳng quan tâm gì đến người khác. Có ba diễn tiến trong quan hệ do bản ngã điều hành: ham muốn khao khát, ham muốn gặp trở ngại sinh ra trách phiền, đổ lỗi , tức giận, và sau cùng là quay lưng.

! 91

Page 92: THE GIOI MOI 1

CHƯƠNG BỐN

VAI TRÒ CỦA BẢN NGÃ

Bản ngã luôn đòi hỏi từ người khác và từ chối những gì nó không muốn. Để có những “nhu cầu”, nó thường đóng nhiều vai trò. Nó đòi có vật chất, quyền hành, địa vị, những thứ nó thích. Con người thông thường không để ý đến những vai trò, vì chính họ là những vai trò. Có những vai tinh tế, có những vai rõ rệt mạnh bạo. Có một số vai trò đơn giản chỉ để gây chú ý của người khác. Vì bản ngã không thể biết nguồn sống vô hình tướng bên trong, nên nó mãi tìm cầu hình tướng ở bên ngoài. Nó cần

! 92

Page 93: THE GIOI MOI 1

được đối phương chú ý, ca tụng, công nhận... để tồn tại. Người nhút nhát sợ tiếp xúc với người khác không phải là thoát khỏi bản ngã. Người này có bản ngã hai chiều, một là sợ, hai là muốn cái khác. Sợ người khác chê bai hay chối từ cũng là bản ngã tự hạ thấp thay vì đề cao. Nơi người nhút nhát, lo sợ mạnh hơn nhu cầu muốn được chú ý. Nhút nhát thường đi đôi với tự ti mặc cảm vì nghĩ là mình bị khiếm khuyết. Bất cứ tư tưởng nào về mình, dù tích cực (thấy mình là đẹp, tốt) hay tiêu cực (mình không được đẹp, tốt) đều là bản ngã. Tư tưởng tích cực ẩn chứa nỗi lo chưa đủ tốt, tư tưởng tiêu cực ẩn chứa cái muốn tốt hơn. Tóm lại, bản ngã luôn thầm kín khát khao muốn được người khác coi trọng. Nhiều người sống trong giao động giữa mặc cảm tự ti và tự tôn, tùy theo hoàn cảnh hay người mà họ tiếp xúc. Điều thiết yếu là hãy sáng suốt quan sát chính mình: bất cứ khi nào cảm thấy tự tôn hay tự ti trước người khác tức là bản ngã muốn trỗi dậy.

TỘI PHẠM-NẠN NHÂN-NGƯỜI YÊU Một số bản ngã không được coi trọng, sẽ biểu lộ duới hình thức khác để gây chú ý. Bản

! 93

Page 94: THE GIOI MOI 1

ngã tìm chú ý tiêu cực để gợi phản ứng từ người khác. Một số trẻ con làm những hành vi xấu để đươc người xung quanh chú ý. Có số người phạm tội để được nổi tiếng. Họ gây sự chú ý bằng tiếng xấu và chê bai của người khác. Bản ngã nói, ”Tôi không phải là vô nghĩa, tôi đang có mặt”. Những vai trò tiêu cực rõ ràng đặc biệt khi bản ngã phóng đại cơn đau thể xác nghĩa là cảm giác đau cũ sống lại làm cơn đau nặng thêm. Vai trò rất thường thấy của bản ngã là vai nạn nhân, nó gợi sự chú ý của người khác bằng tội nghiệp. Tự thấy mình là nạn nhân, ”tôi và chuyện của tôi” hay là vấn đề của tôi là khuôn mẫu vị kỷ của bản ngã biểu lộ bằng cách than phiền, bất mãn, bực dọc... Khi dính mắc bám chặt vào một vấn đề mình cho là nạn nhân, bản ngã không muốn chấm dứt, không muốn kết thúc “vấn nạn” vì vấn nạn vốn là bản chất của nó (vật chứa hay vốn liếng của bản ngã). Nếu không còn ai muốn nghe ”câu chuyện của tôi”, tôi tự kể lể trong đầu, lập đi lập lại để tội nghiệp mình, rồi đổ lỗi cho người khác, cho số phận, cho Thượng đế bất công. Ngoài ra, hầu hết nhân loại đều vướng vào quan hệ mật thiết được mệnh danh là “tình yêu lãng mạn”; thời kỳ đầu của quan hệ này là vai trò rất thông thường muốn hấp dẫn và gìn giữ người kia do bản ngã thấy rằng người đó sẽ

! 94

Page 95: THE GIOI MOI 1

làm TÔI hạnh phúc, sẽ làm TÔI cảm thấy đặc biệt, và sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu CỦA TÔI”. Cả hai người mặc nhiên đồng ý một cách mê lầm rằng, ”TÔI sẽ đóng vai anh thích, và anh đóng vai TÔI muốn”. Tuy nhiên vai trò này ngày càng nặng nề nên không thể duy trì dài lâu nhứt là khi có cuộc sống chung. Bất hạnh thay! trong hầu hết trường hợp bản ngã thô thiển che mờ cốt lõi chân thật bên trong. Nổi mong muốn giờ đây đổi thành tức giận và đổ cho người kia đã làm hỏng trong việc giải tỏa nỗi lo âu và cảm giác thiếu thốn của bản ngã. Trong hầu hết trường hợp, tình yêu dồng nghĩa với nỗi khát khao và đòi hỏi mãnh liệt. Một người trở thành dính nhiễm vào một người khác hay là hình ảnh của người này. Nếu là tình yêu chân thật thì không chứa đựng ham muốn cũng chẳng đòi hỏi gì cả. Ngôn ngữ Tây ban Nha rất trung thực khi đề cập đến ý niệm tình yêu, ”Te quiero” có nghĩa là “Tôi muốn anh”, còn từ ”teamo” nghĩa là “Tôi thương anh” rất ít khi được dùng vì tình yêu chân thật rất hiếm hoi.

HÃY TỪ BỎ NHỮNG ĐỊNH DANH VỀ MÌNH. Vào thời văn minh cổ xưa, khi những bộ lạc phát triển, phận sự bắt đầu giao phó cho một số người : trưởng tộc, linh mục, nhà nông,

! 95

Page 96: THE GIOI MOI 1

thương nhân, thủ công nghệ, lao động... Từ đó hệ thống giai cấp bắt đầu phát triển. Nhân cách của một người hình thành qua sự kiện mình sinh ra nơi đâu, thuộc thành phần nào, mình là gì trong mắt người khác cũng như trong mắt mình. Phận sự trở thành vai trò nhưng không được nhận ra vì đã được định sẵn mình là ai hay người khác nghĩ tưởng về mình là gì. Vào thời ấy, rất hiếm người như Đức Phật hay Chúa Jesus nhận thấy tình trạng bất lợi lớn lao của đẳng cấp xã hội do con người bị dính mắc vào hình thức và bị đồng hóa có điều kiện nên đã che mờ ánh sáng của nguồn sống bên trong. Trong thời hiện đại, xã hội các nước bớt khắc nghiệt, bớt phân chia rõ rệt như thời xưa. Dù vậy, đa số người vẫn dính vào môi trường chung quanh, vào phận sự và coi là nhân cách của mình. Trên thực tế, trong nền văn minh hiện đại, nhiều người ngày càng hoang mang không biết nơi đâu là thích hợp, mục tiêu cuộc đời là gì, ngay cả không biết mình là ai. Khi tôi gặp người nào nói câu, ”Tôi không biết tôi là ai nữa”, tôi liền chúc mừng. Họ bối rối nhìn tôi và hỏi, ”Bộ ông cho thắc mắc như vậy là tốt sao?”. Tôi khuyên họ nên tự khám phá chính mình.

! 96

Page 97: THE GIOI MOI 1

“Tôi không biết” không có nghĩa là tôi bối rối. Tôi bối rối có nghĩa là ”Tôi chưa biết nhưng nên biết hoặc cần biết” Chúng ta nên tự hỏi: -“Có thể nào ta bỏ qua niềm tin là nên biết mình là ai?” -“Có thể nào ta không suy tư về nhân cách của ta?” -“Có thể nào ta ngưng tìm hiểu về bản ngã? Khi ta buông xả hết thắc mắc mình là ai, bất chợt sự bối rối biến mất. Khi hoàn toàn chấp nhận rằng mình không biết, ta an trú trong trạng thái bình thản, gần gũi với ta chân thật hơn là mãi nghĩ ngợi về mình. Bởi con người đồng hóa với những định danh, nghĩ tưởng mình ở trong mắt người khác nên tự giới hạn và ngăn cách với chính mình.

NHỮNG VAI TRÒ TRƯỚC KHI ĐƯỢC THÀNH LẬP Trên thế giới này, dĩ nhiên con người có thứ bậc để đáp ứng những phần hành khác nhau. Con người tùy theo khả năng, kiến thức, tài nghệ, năng lượng mà giữ những chức năng khác nhau. Điều cốt yếu là do ta đồng hóa với phận sự nên ta thủ diễn vai trò hay là đang mê mà không biết. CHỈ KHI NÀO NHẬN RA MÌNH ĐANG DIỄN TRÒ, LÀ CÓ KHOẢNG CÁCH GIỮA MÌNH VÀ VAI TRÒ. Đó là khởi đầu thoát khỏi

! 97

Page 98: THE GIOI MOI 1

vai trò. Khi ta dính mắc hoàn toàn vào vai trò, ta bị đồng hóa với khuôn mẫu ứng xử, ta tự động chỉ định vai trò của người khác tương ứng với ta. Chẳng hạn, ông bác sĩ nào bị đồng hóa với vai trò sẽ coi bịnh nhân là con bịnh hay là tập hồ sơ bịnh lý, chứ không phải là một con người. Dù xã hội hiện đại bớt khắc khe hơn xưa, vẫn còn nhiều chức năng mà con người bị đồng hóa vào vai trò của mình, đó là một phần của bản ngã. Nguyên do này tạo ra những quan hệ không trung thực, ích kỷ, xa lạ và có khi mất cả nhân tính nữa. Những vai trò đặt để cho ta vài cảm giác tiện lợi về nhân cách, nhưng ta dễ bị mất mình trong đó. Trong những tổ chức nghiêm nhặt như quân đội, chính phủ, nhà thờ, tập đoàn... con người có khuynh hướng dẫn tới đồng hóa với chức năng của mình. Khi bị mất mình trong những vai trò, quan hệ trung thực giữa người và người rất khó xãy ra. Có một số vai trò có thể gọi là khuôn mẫu của tập quán xã hội. Có thể đan cử vài trường hợp điển hình như vai trò nội trợ của giai cấp trung lưu (không còn phổ biến như xưa nhưng hãy còn nhiều), vai trò người nam muốn làm chủ gia đình đàn áp vợ con, vai làm người lớn, vai trò người có “trình độ” (thường thấy ở Âu châu) phô trương kiến thức văn học, nghệ

! 98

Page 99: THE GIOI MOI 1

thuật, âm nhạc giống như những người khoe xe hơi mới hay y phục đắt tiền. Khi diễn vai trò, ta coi mình là quan trọng nên không có quan hệ trung thực, bình đẳng. Tánh vô tư, trong sáng, an bình và tình thương chân thật không nằm trong những vai trò đó. Vào những năm 1960 phong trào “Hippi”xuất hiện ở miền Tây duyên hải Hoa Kỳ, sau đó lan rộng khắp phương Tây. Phong trào này bắt nguồn từ giới trẻ phản đối những khuôn mẫu của xã hội, những vai trò định sẵn do tư tưởng của người lớn. Giới trẻ từ chối những vai trò mà cha mẹ và xã hội muốn đặt để cho chúng. Phong trào “Hippi”xãy ra cùng lúc với nỗi sợ hãi của cuộc chiến Việt Nam trong đó có hơn 57 ngàn thanh niên Hoa Kỳ và 3 triệu người Việt đã bị giết chết; thực trạng này chứng tỏ ý thức hệ của con người đã mê lầm như thế nào. Trong khi vào những năm 1950, phần lớn người Hoa Kỳ còn rất bảo thủ, vậy mà vào những năm 1960, hàng triệu người nhận ra nạn mê lầm tập thể, bắt đầu từ bỏ đồng hóa với chuỗi tư tưởng. Phong trào”Hippi” tiêu biểu cho sự thất bại của những cơ cấu khe khắc in sâu trong tâm thức nhân loại. Phong trào tự nó đã thoái hóa và đã chấm dứt, nhưng nó để lại cho hậu thế một sự khai mở không chỉ riêng cho giới trẻ. Sự kiện này khiến vấn đề tâm linh và triết lý

! 99

Page 100: THE GIOI MOI 1

Đông phương xâm nhập vào phương Tây và giữ vai trò thiết yếu trong việc khai sáng tâm thức nhân loại.

NHỮNG VAI TRÒ TẠM THỜI

Nếu ta đủ tỉnh thức, đủ nhận biết để có thể quan sát thái độ, cách cư xử của mình, ta sẽ nhận ra những thay đổi vi tế trong lời nói, thái độ tùy theo người mà ta đang tiếp xúc. Cách ta nói chuyện với ông chủ khác với cách ta nói với người phu rác. Cách ta nói chuyện với trẻ con khác với cách ta nói chuyện với người lớn. Tại sao vậy? Vì ta đang diễn vai trò. Ta không phải là ta chân thật dù đang nói với ông chủ, với người phu rác hay với trẻ con. Khi ta đi mua đồ, vào tiệm ăn, tới ngân hàng, bưu điện...ta bị cuốn hút vào những vai trò định sẵn. Ta là người khách hàng nên ta nói và hành động như vầy; ta được tiếp đãi bởi người bán hàng hay người hầu bàn cũng đang đóng vai tuồng giống như khách hàng đang diễn. Không phải là giao tiếp giữa hai con người, mà là những định kiến ảo tưởng đang giao tiếp với nhau. Người nào càng dính chặt vào vai trò tương ứng, thì mối quan hệ càng trở nên không trung thực. Ta mang ý tưởng không những về người khác mà còn về chính mình, nhất là khi đang giao

! 100

Page 101: THE GIOI MOI 1

thiệp với người khác. Do đó không có sự giao cảm giữa người với người mà chỉ là tư tưởng của mình đang giao thiệp với tư tưởng của người kia và ngược lại cũng vậy. Tư tưởng về mình chính nó tự tạo, và tư tưởng mình tạo cho người khác. Tư tưởng của người kia thường cũng giống như vậy. Đó là mối giao thiệp vị ngã của bốn loại tư tưởng nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy có quá nhiều xung khắc trong tương giao và rất hiếm có quan hệ chân thật giữa con người.

NHÀ SƯ VỚI BÀN TAY CÒN RỊN ƯỚT Ngày nọ vị thiền sư tên Kasan chính thức đến dự đám tang của một trưởng giả có tiếng trong vùng. Trong lúc đứng đợi quan đầu tỉnh và những vị trưởng giả khác đến viếng, nhà sư nhận thấy hai lòng bàn tay của mình rịn ướt. Hôm sau vị sư họp tất cả đệ tử lại và thú nhận rằng ông chưa sẵn sàng để làm một vị thầy chân thật. Nhà sư giải thích là ông chưa thật sự bình đẳng trước mọi chúng sinh,nghĩa là vẫn còn phân biệt vua và dân. Nhà sư chưa có thể nhìn xuyên qua giai cấp và vai trò trong xã hội, để giao cảm chân thật giữa người và người. Sau đó ông thầy rời khỏi chùa và đi đến xin thọ giáo một vị cao tăng. Tám năm sau nhà

! 101

Page 102: THE GIOI MOI 1

sư thức tỉnh, trở về ngôi chùa cũ gặp lại những đệ tử trước kia.

HẠNH PHÚC LÀ VAI TRÒ và HẠNH PHÚC CHÂN THẬT Người ta thường hỏi nhau :”Anh có khỏe không?” hoặc “ Anh có khá hơn không?”, những câu này đúng hay sai?. Trong nhiều trường hợp, hạnh phúc là vai trò con người hay diễn nên ẩn sau nụ cười bên ngoài vẫn là nỗi đau trong lòng. Khi bất hạnh xâm chiếm, người ta buồn nản, thất vọng và hay phản ứng mà ngoài mặt vẫn ráng giữ nụ cười. Khi phản đối như vậy, con người bực bội với cả chính mình tức là càng khốn đốn hơn. Câu trả lời :”I am ok” là một vai trò mà bản ngã diễn rất thông dụng ở Hoa kỳ hơn là ở các nơi khác, vì ở các nước khác đời sống khó khăn hầu như thông thường và được xã hội chấp nhận. Có thể tôi nói hơi quá đáng nhưng tại thủ đô của một trong các nước Bắc Âu, nếu bạn mĩm cười với một người xa lạ trên đường cũng gần giống như bạn bị chận bắt vì uống rượu lái xe. Nếu không vui trong lòng, trước tiên ta cần nhận ra nó, nhưng đừng nói,”Tôi không vui”; nên nói, ”Có sự không vui trong tôi”. Rồi quan sát và xem xét trạng thái không vui. Bạn sẽ

! 102

Page 103: THE GIOI MOI 1

bình tỉnh ứng phó để thay đổi hoàn cảnh hoặc rời bỏ hoàn cảnh đó. Còn nếu không thể làm gì được, nên giáp mặt với cái không vui và nói, ”Được rồi, hoàn cảnh là như thế này, hoặc là tôi chấp nhận, hoặc là tự làm khổ mình. Nguyên do đầu tiên của khổ chẵng phải là hoàn cảnh, mà chính là những ý nghĩ của mình về hoàn cảnh đó. Thay vì điểm tô thêm câu chuyện,hãy nói về SỰ KIỆN mà thôi. Giáp mặt với sự kiện bao giờ cũng làm tăng sức mạnh. Hãy chú ý coi mình suy nghĩ những gì, và phát sinh những cảm xúc nào. Hãy nhận ra DÂY LIÊN HỆ nối liền tư tưởng và cảm xúc của mình.Thay vì nhập cuộc với tư tưởng và cảm xúc, hãy làm sức chú tâm quan sát chúng. Đừng tìm kiếm hạnh phúc. Nếu đi tìm, bạn sẽ không gặp đâu vì tìm kiếm là tương phản với hạnh phúc. Hạnh phúc bao giờ cũng khó nắm giữ, nhưng thoát khỏi bất hạnh có được ngay bây giờ bằng cách giáp mặt với sự kiện hơn là tô điểm câu chuyện về nó. Đau khổ hay bất an thường che lấp bản nhiên vốn trong sáng tự tại, căn nguồn của hạnh phúc chân thật.

LÀM CHA MẸ : VAI TRÒ HAY CHỨC NĂNG? Nhiều người lớn diễn vai trò khi họ nói chuyện với trẻ con. Họ dùng lời lẽ và giọng nói

! 103

Page 104: THE GIOI MOI 1

quạu quọ. Họ nói năng không tốt với trẻ con vì họ không xem đứa trẻ bình đẳng với họ. Người lớn biết nhiều hơn hay cao lớn có sức mạnh hơn, nhưng không phải vì vậy mà đứa trẻ không được coi bình đẳng. Đa số người lớn, trong một giai đoạn nào đó của cuộc đời, làm cha mẹ, một trong những vai trò phổ thông nhất. Vấn đề quan trọng là : liệu họ có thể hoàn thành chức năng một cách tốt đẹp, không bị đồng hóa hay dính nhiễm vào nhiệm vụ, nghĩa là không biến nó thành một vai diễn? Nhiệm vụ thiết yếu của người làm cha mẹ là chăm sóc nhu cầu của con trẻ, ngăn ngừa những nguy hiểm có thể xãy ra, và hướng dẫn chúng những gì nên làm và những gì không nên làm. Nếu cha mẹ đồng hóa với vai trò của mình, bản ngã phát sinh phần lớn từ vai trò đó, chức năng làm cha mẹ dễ trở thành quá đáng. Cha mẹ quá đặt nặng vai trò của mình. Khi đó cung cấp nhu cầu cho con trẻ một cách thừa thải sẽ trở nên dễ hư hỏng; ngăn ngừa chúng trước những nguy hiểm trở thành bảo vệ quá chặt chẽ và can thiệp cả vào nhu cầu tìm hiểu thế giới của chúng; hướng dẫn chúng điều nên làm và không nên làm trở thành kiểm soát, khống chế và chống đối.

! 104

Page 105: THE GIOI MOI 1

Hơn thế nữa, cha mẹ còn cố bám chặt vào vai tuồng của mình cho tới mãi về sau dù nhu cầu của con cái đã qua rồi. Cha mẹ đã quen diễn vai trò của mình dù lúc con cháu trở thành người lớn. Họ bị dính nhiễm và không từ bỏ nhu cầu cần thiết của con họ. Họ đã bị mắc kẹt vào ý tưởng “Mình luôn biết những gì tốt cho con nhất” dù khi đó con họ đã 40 tuổi. Cha mẹ vẫn còn diễn vai tuồng giống như người bị ghiền bịnh và do đó không có quan hệ trung thực giữa cha mẹ và con cái. Cha mẹ cố gìn giữ vai trò của mình bằng cách kiểm soát hay ảnh hưởng hoàn toàn vào hành động của con cái, họ chỉ trích, không tán đồng hay làm cho chúng thấy có lỗi. Họ tin chắc là họ quan tâm đến con cái và bề ngoài cũng có vẽ như vậy, nhưng thực sự là họ quan tâm bảo vệ vai trò làm cha mẹ, bảo vệ bản ngã của mình. Nếu nhìn sâu, chúng ta sẽ thấy những tác động vị kỷ đều để tự tôn và làm lợi mình, dù bản ngã rất khéo ngụy trang. Ngoài ra, cha mẹ còn cố gắng để trở thành hoàn hão dưới mắt con họ. Cha (mẹ)thường thường nói với con họ những lời lẽ như sau : - “ Cha mẹ muốn con hoàn thành những gì cha mẹ chưa đạt được. - Cha mẹ muốn con trở thành một người giỏi trên thế giới để cha mẹ được nở mày nở mặt.

! 105

Page 106: THE GIOI MOI 1

- Cha mẹ đã hi sinh quá nhiều, con đừng làm cha mẹ thất vọng. - Những điều cha mẹ không chấp nhận có nghĩa là con đã phạm lỗi và cuối cùng con phải tuân theo ý của cha mẹ. - Dĩ nhiên là cha mẹ biết cái gì tốt nhứt cho con. - Cha mẹ rất thương con và sẽ tiếp tục thương nếu con làm những gì cha mẹ cho là đúng….” Những tác động này ngày càng trở nên rõ rệt cho tới khi người làm cha mẹ nhận ra sự mê lầm do bản ngã ẩn núp phía sau, cha mẹ liền nhận thấy chúng mới vô lý làm sao. Khi tôi đề cập chuyện này với một số cha mẹ, họ bỗng nhận ra,” Trời! Tôi đã làm như vậy thật sao?”. Khi ta nhận ra ta đang làm gì hay đã làm gì, thói quen mê lầm mới tự tháo gỡ được. Bằng cách nhận ra hay thức tỉnh mới có sự chuyển đổi bên trong. Về phía người làm con, khi cha mẹ mình bị bản ngã điều động như vậy, đừng chỉ trích cha mẹ là mê lầm vì bản ngã ưa thích chống đối và bảo vệ, làm vậy sẽ khiến cha mẹ tăng cường bản ngã. Người con chỉ cần sáng suốt nhận biết đó là do bản ngã trong cha mẹ, chứ không phải là họ chân thực. Chống đối chỉ làm bản ngã mạnh thêm, những thói quen vị ngã đã ăn sâu mọc rễ, chỉ do không bị chống đối hay phản ứng mới phai nhạt dần. Cho dù cha mẹ

! 106

Page 107: THE GIOI MOI 1

chậm thay đổi, người con nên sáng suốt chấp nhận thái độ của cha mẹ mình bằng tình thương, và biết rõ bản ngã là vấn đề chung của con người. Người làm cha mẹ có thể chưa dứt bỏ được vai trò của mình ngay, họ vẫn nghĩ : ”Phải rồi, nhưng tôi vẫn cảm thấy không vui trừ phi con cái thuận theo và hiểu biết”. Con cái tuân theo hay không tuân theo đâu có dính dáng gì đến cái ta chân thật. Nếu ta đủ tỉnh thức, ta có thể nhận ra đó là những tiếng nói trong đầu cũ rích, dai dẳng. Người làm con thì nói, ”Cha mẹ nên hiểu tôi và chấp nhận con người tôi”. Thực ra người làm cha mẹ không thể làm được vì tầng tâm thức của họ chưa nhảy vọt tới mức độ tỉnh thức. Người làm con nên sáng suốt, quan sát nội tâm mình khi tiếp thu lời nói của cha mẹ, ”Con làm cha mẹ buồn quá, con không bao giờ đạt những gì ta mong ước.” Những lời này thường là những phán đoán và tưởng tượng. Chỉ có tỉnh thức hay là an trú ngay trong hiện tiền mới tiêu trừ quá khứ mê lầm trong ta. “Nếu ta nghĩ ta đã thức tỉnh, hãy viếng thăm cha mẹ một tuần lễ”, đây là lời khuyên tốt vì mối quan hệ với cha mẹ không chỉ là quan hệ đầu tiên, ảnh hưởng những quan hệ theo sau, mà còn là bài kiểm tra tốt đo lường mức độ tỉnh thức trong ta. Càng quan hệ lâu trong quá

! 107

Page 108: THE GIOI MOI 1

khứ, ta càng cần an trú nhiều trong hiện tiền, nếu không ta bị buộc sống trong quá khứ cứ mãi lập đi lập lại trong ta.

ĐAU KHỔ TRONG TỈNH THỨC Lúc con cái còn nhỏ, người lớn có phận sự giúp đỡ, hướng dẫn cũng như bảo vệ chúng với tất cả khả năng của mình, nhưng hãy chừa chỗ cho chúng phát triển. Chúng ta nên nhớ : con cái đến thế giới này qua chúng ta, nhưng chúng không phải là “SỞ HỮU” của ta. Cha mẹ thường dính mắc trong trí là “mình biết những gì tốt nhứt cho con”, ý nghĩ này có thể đúng khi chúng còn nhỏ, đến khi chúng lớn, ý này ngày càng ít đúng. Cha mẹ nào càng ước muốn đời con cái phát triển đúng theo ý họ thì càng dính chặt vào bản ngã, thay vì sáng suốt an trú trong hiện tiền. Thỉnh thoảng chúng có thể phạm lỗi lầm và chúng sẽ kinh nghiệm vài nỗi khổ giống như bao nhiêu người khác. Trên thực tế, con cái có thể chỉ có lỗi dưới cái nhìn của cha mẹ. Hãy cho chúng nhiều hổ trợ và giáo huấn nhưng chúng cũng có thể lầm lỗi nhứt là khi lớn lên, kết quả là chúng sẽ buồn bả hay đau khổ. Chúng ta nên để chúng chịu đựng vì cha mẹ có thể nào ngăn ngừa tất cả mọi khổ đau của chúng chăng? Không thể nào. Nếu có chăng, chúng sẽ không phát triển tự nhiên như

! 108

Page 109: THE GIOI MOI 1

muôn người và sẽ có cuộc sống hời hợt, dính mắc toàn những chuyện bên ngoài. Thật ra đau khổ mới làm con người có chiều sâu. Điều nghịch lý là : căn nguyên của đau khổ do bám chặt vào hình tướng, nhưng cũng chính đau khổ làm xoáy mòn sự dính chấp vào hình tướng. Phần lớn tư tưởng hay bản ngã gây ra khổ đau cho con người và sau cùng chính khổ đau sẽ hủy diệt bản ngã, khổ đau làm con người thức tỉnh. Nhân loại tìm cách thoát khổ nhưng không phải cách mà bản ngã nghĩ tưởng. Một trong những tư tưởng mê lầm là “Tôi không phải chịu đau khổ”, tư tưởng này truyền thừa qua người thân của mình: ”Con tôi không phải chịu đau khổ”. Tư tưởng này làm bản ngã mạnh thêm, làm đau khổ nhiều hơn, đó là sự nghịch lý và là gốc rễ của khổ đau. Chừng nào ta còn chống lại khổ đau thì bản ngã khó dập tắt và khó có sự chuyển hóa bên trong. Thật ra đau khổ có kết quả lạ lùng là tâm thức sẽ chuyển hóa và bản ngã nhỏ dần. Người trên cây thập giá là mô hình tiêu biểu nhất, Ngài cũng là con người như chúng ta; chấp nhận đau khổ là có sự tích lũy trong tiến trình thức tỉnh, là bản ngã nhỏ dần. Có thể chấp nhận đau khổ cho riêng ta hay chấp nhận cho người khác như con cái hay cha mẹ. Trong đau khổ tỉnh thức đã có sẵn sự

! 109

Page 110: THE GIOI MOI 1

chuyển hóa, cảm nhận đau khổ cũng là ánh sáng của tâm thức hé mở. Tóm lại, ta cần chấp nhận đau khổ trước khi ta có thể vượt thoát qua nó.

NUÔI DẠY CON TRẺ MỘT CÁCH SÁNG SUỐT Nhiều đứa trẻ giữ kín nỗi bực dọc và giận hờn cha mẹ, đây là nguyên do của mối quan hệ không trung thực giữa cha mẹ và con cái. Điều sâu sắc mà con trẻ mong ước là cha mẹ hành xử đúng theo một con người thực sự, chứ không phải là một vai trò, dù vai trò này có diễn tận tâm đến đâu. Chúng ta làm tất cả những việc tốt nhất mà ta có thể làm cho con cái dù vậy việc tốt nhất đó cũng không phải là đầy đủ. Thực ra việc làm không bao giờ đủ nếu ta QUÊN MẤT THỰC TẠI. Nếu ta bị bản ngã kềm kẹp khống chế, ta tưởng lầm rằng mình phải làm nhiều hơn mãi để tích lũy đủ ”những việc làm” hầu đươc an toàn trong tương lai. Nhưng không thể được, ta chỉ hoài công và tự đánh mất mình. Cũng vậy, toàn bộ nền văn minh của nhân loại đã trở thành vô hiệu vì chỉ hướng ra bên ngoài chia chẻ phân biệt, không xuất phát từ nguồn tâm đồng nhất bên trong. Trong thế giới hiện đại, làm sao có thể đem thế giới không hình tướng vào cuộc sống bận rộn? Điều then chốt là dạy cho con trẻ biết có

! 110

Page 111: THE GIOI MOI 1

hai loại chú tâm: chú tâm căn bản (bên ngoài) và chú tâm không hình tướng (bên trong). Loại chú tâm căn bản bao giờ cũng liên quan đến sự việc bên ngoài như: “Con làm bài xong chưa? Con đánh răng đi. Con dọn dẹp căn phòng lại. Con làm việc này đi. Nhanh lên, xong chưa?... Dĩ nhiên loại chú tâm căn bản là cần thiết nhưng nếu chỉ có vậy thôi thì phương diện sống động nhất bị đánh mất và thực tại bị che lấp bởi vì chúng ta chỉ chú tâm đến việc làm y như chúa Jesus đã từng nói, ” Thế giới chỉ để tâm vào những việc làm...” Chúng ta nên thường tự hỏi, ”Ngoài công việc ra, ta cần phải làm gì nữa? Câu hỏi này sẽ giúp đánh thức chúng ta an trú trong thực tại, trong khi ta giúp con cái làm việc này việc kia, ta sáng suốt nhìn chúng, sáng suốt lắng nghe, sáng suốt tiếp xúc với chúng, nhận biết rõ ràng, hoàn tòan an trú trong thực tại, trong hiện trạng đang diễn ra trước mắt. Lúc đó ta không đóng vai cha mẹ mà ta chính là trạng thái sáng suốt, trong lặng, hiện tiền (không bị tư tưởng chi phối) đang lắng nghe chúng, đang giúp, đang nhìn chúng và ngay cả khi đang nói với chúng; ta chính là trạng thái tỉnh thức đang điều khiển mọi hành động. Loại chú tâm vô hình tướng là thiết yếu

! 111

Page 112: THE GIOI MOI 1

cho con người để có quan hệ trung thực, bình đẳng.

HIỂU BIẾT CON TRẺ

Về mặt hình tướng so với con trẻ, dĩ nhiên là ta cao lớn hơn, mạnh hơn, biết nhiều hơn, có thể làm giỏi hơn, nhưng nếu ta chỉ chú tâm tới mặt này mà thôi, ta có cảm tưởng là ta hơn nó, đó là mê lầm. Do đó ta coi con cái thấp kém hơn cũng là mê lầm nốt. Vì chỉ có chú tâm tới hình tướng nên không có quan hệ bình đẳng. Ta vẫn yêu thương trẻ nhưng chỉ là tình thương có điều kiện, sở hữu và không liên tục. Thật ra ai cũng là một CON NGƯỜI, lẽ sống là tìm thế quân bình giữa CON và NGƯỜI. Nếu cha mẹ chỉ quan tâm phạm vi “người” mà quên lãng phần “con” tức “nội tâm”, con trẻ sẽ cảm nhận mối quan hệ không hoàn hão, vì phần linh hoạt chính yếu đã đánh mất, nỗi đau xót trong con trẻ chất chồng làm nó bực tức cha mẹ. Nó muốn nói to lên, ”Tại sao cha mẹ không hiểu nó?”. Tất cả những phận sự ta đảm nhận, từ làm cha làm mẹ,làm chồng,làm con ... dù là phần hành nào đều có vị trí riêng và cần được tôn trọng. Cho dù chúng ta cố gắng hoàn thành đến đâu, những việc làm này không bao giờ

! 112

Page 113: THE GIOI MOI 1

đầy đủ. Tuy nhiên ta có sẵn bản tâm trong lặng vốn tự đầy đủ,nếu ta sáng suốt an trú trong tâm này để hành sử thì mọi việc đều tốt đẹp, cả hai thân và tâm không hề rời nhau mà đan kết vào nhau. Khi ta an trú trong nguồn tâm vô biên, ta mới nhận ra trạng thái vô hình tướng bên trong hay là tình thương chân thật, khi ấy mới có quan hệ bình đẳng,trung thực. Ta nhận ra nơi người khác cũng có đồng một nguồn tâm, khi ấy con cái sẽ cảm nhận được tình thương chân thật, vững bền. Thương yêu là giao hòa, là biết mình và người cùng có bản tâm đồng nhất, mình là người, người là mình, những khác biệt bên ngoài đều giả tạm thuộc về thế giới hình tướng. Niềm ao ước của con trẻ là được cha mẹ cảm thông chứ không phải chỉ trên bình diện hình tướng vật chất mà thôi. Khi ta thông cảm người khác, ta và người cùng góp phần vào an bình thế giới. Ta không những quan hệ bình đẳng với con cái mà còn nên áp dụng trong tất cả các mối quan hệ khác. Tình thương là việc nhận ra bản tâm an nhiên, cùng một nguồn sống đồng nhất của muôn loài trong thế giới tươngđối. Tình thương chính là Thượng đế trong thế giới hình tướng,

! 113

Page 114: THE GIOI MOI 1

nhờ có tình thương mà thế giới bớt trần tục, bớt khổ đau.

HÃY TỪ BỎ VAI TRÒ Hiện tại chúng ta nên thực tập bài học chủ yếu là làm bất cứ việc gì, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, đừng đồng hóa với vai tuồng nghĩa là không dính mắc vào nó. Nếu hành động không phải là phương tiện để bảo vệ hay làm lợi cho vai trò, thì hành động sẽ có tác dụng mạnh. Vì mọi vai trò đều núp dưới bản ngã giả nên trở thành vị kỷ. Dù bất cứ đảm nhận vai trò nào,ý tưởng “TÔI” sẽ làm vai trò sai lệch, méo mó, không trung thực. Do đó phần lớn những người có thế lực trên thế giới như chính khách, đại gia, người nổi tiếng cũng như nhà lãnh đạo tôn giáo, ngoại trừ một số ít quý hiếm, hầu như bị đồng hóa hoàn toàn vào vai trò của mình. Trong thế giới loài người, họ được xem là hàng danh dự nhưng cũng chỉ là những diễn viên trong trò chơi vị ngã, trò chơi có vẻ rất quan trọng rốt cục lại đánh mất mục tiêu chân thực. Vì vậy, nhà văn nổi tiếng Shakespeare đã viết, ”Giống như một người u mê kể một câu chuyện ác liệt nhưng chẳng có nghĩa lý gì cả”, nhà văn này kết luận,”Câu chuyện hấp dẫn nhưng chẳng có lợi gì”.

! 114

Page 115: THE GIOI MOI 1

Nếu bi kịch trên thế giới tiếp diễn do đầu óc vị kỷ, sẽ có hậu quả là ngày càng có nhiều đau khổ hơn trên thế giới, và đau khổ do phần lớn bản ngã gây ra đi tới tận diệt bản ngã, đó là ngọn lửa tự thiêu hủy bản ngã. Trong thế giới đầy dãy những vai trò riêng rẽ, một số rất ít người ngoại lệ, làm phận sự của mình bằng chân tâm xuất phát từ trong cốt lõi, chỉ có họ mới làm cho thế giới này chuyển hóa. Họ là người đem đến tầng tâm thức mới. Họ có thể xuất hiện trên truyền hình, truyền thông và cả trong thương trường, nhưng không cố ý xuất hiện nhiều. Họ rất là giản dị, chân thành và người có bản ngã lớn có thể coi thường họ. Tuy nhiên bất cứ gì họ làm đều có ảnh hưởng lớn vì ăn khớp với mục tiêu của thế giới. Chỉ cần sự hiện diện của họ, giản dị, bình thường, tự nhiên cũng làm cho người gặp gỡ phải xem xét lại chính mình. Khi ta không còn dính mắc vào vai trò, không còn bản ngã xen vào, sẽ không còn sức mạnh bảo vệ, kết quả là hành động của ta sẽ vượt trội hơn nhiều. Ta hoàn tòan chú tâm vào hoàn cảnh một cách trong sáng, khi đó ứng phó sẽ có hiệu quả thuận lợi. Đừng cố gắng làm một người đặc biệt, khi nào ta còn cố trở thành nhân vật này, nhân vật nọ tức là ta còn diễn trò, hãy làm con người

! 115

Page 116: THE GIOI MOI 1

“thật”, con người “tự nhiên,tự phát” là ta sẽ mạnh nhất, có hiệu lực nhất. Hãy làm con người thật, lời khuyên này tốt mà rất dễ hiểu lầm. Vì ta không nên cố gắng dính chặt vào mình, sẽ lại diễn một vai khác nữa. Do trí óc hay xen vào nói, ”Làm thế nào để làm con người thật”, cái đầu còn hỏi thêm, ”Làm sao làm con người thật, phải làm gì đây?”, những câu thắc mắc này đều sai cả vì đều ngụ ý ta phải làm cái gì đó để làm người thật, người tự nhiên. Thật ra ta chỉ cần ngừng hết mọi thắc mắc, dính chấp, không thêm thắt bất cứ gì vì ta vốn là con người tự nhiên, trung thực. Thỉnh thoảng cái đầu cũng còn hỏi, ”Tôi không hiểu làm con người tự nhiên nghĩa là gì? Tôi cũng không biết tôi là ai nữa?” Khi ta không còn chút thắc mắc nào hay là thể nhập hoàn toàn vào con người tự nhiên, chân thật, ta an trú trong nguồn sống vô biên mà cũng là cốt lõi tinh túy thường còn. Hãy từ bỏ vai trò đối với người và đối với chính mình, làm con người trung thực, không chết chóc gì đâu, ta sẽ sống chân thật, không giả dối và không quan tâm đến người khác khẳng định về mình. Khi họ phê bình mình là việc của họ và họ đã tự bị giao động. Như thế, dù quan hệ với bất kỳ ai, chủ yếu là an trú trong hiện tại sáng suốt thay vì diễn vai tuồng.

! 116

Page 117: THE GIOI MOI 1

Tại sao bản ngã diễn vai trò? Do tư tưởng sai lầm đã ăn sâu mọc rễ tự lâu đời, thói quen ảo tưởng không được soi xét. Cái đầu lúc nào cũng nói ”Tôi vẫn còn thiếu, tôi cần diễn vai trò để được đầy đủ, tôi cần có thêm để khá hơn”.Thực ra ta không cần có hơn vì dưới hình tướng vật chất và tâm lý, ta là nguồn sống chân nhất. Trên bình diện hình tướng, ta bao giờ cũng hoặc cao hơn hoặc thấp hơn, trong tinh túy thâm sâu ta không cao thấp với ai cả, từ đó khởi phát đức khiêm tốn và cao qúy chân thật. Trong mắt của bản ngã, khiêm tốn và cao qúy là kẻ thù của bản ngã, trong chân thật chúng chẳng khác.

BẢN NGÃ BỊNH HOẠN Theo nghĩa tổng quát, từ ngữ “bản ngã” có nghĩa là “bệnh hoạn” dù dưới bất cứ hình thức nào. Chữ bản ngã rút căn từ cổ ngữ Hy Lạp “pathos” diễn tả tình trạng bệnh hoạn. Cách nay gần 2 ngàn sáu trăm năm Đức Phật đã khám phá ra tình trạng khổ đau của con người là do bản ngã. Con người dính chặt vào bản ngã, không nhận ra hoàn cảnh chỉ là hoàn cảnh, lại dính chặt vào phản ứng của mình và chính phản ứng mới là đau khổ. Bản ngã mê lầm không

! 117

Page 118: THE GIOI MOI 1

thể thấy rằng đau khổ do chính bản ngã gây ra khiến mình phải chịu và người khác cũng chịu lây. Đau khổ là bịnh tâm thần do bản ngã khởi lên và có tính cách lây truyền. Đau khổ là nội tâm ô nhiễm giống như ô nhiễm môi trường trên trái đất này. Con người mang những trạng thái bất ổn như nóng giận, lo âu,bất mãn, ganh tỵ, phiền trách… những trạng thái hoàn toàn tiêu cực mà họ không nhận ra là do bản ngã tự gây ra, lại còn mê lầm đổ thừa cho người hay hoàn cảnh bên ngoài. Bản ngã lúc nào cũng nói thầm,”Tôi nhứt quyết là do người khác làm tôi đau khổ”. Bản ngã không thể phân biệt hoàn cảnh với phản ứng của hoàn cảnh. Chẳng hạn lúc thời tiết không đúng ý, người ta hay nói,”Thật là khó chịu quá!”, do không nhận ra cái lạnh, cái nóng, mưa nhiều hay bất cứ thời tiết nào đều là thiên nhiên và như vậy là như vậy, chỉ do ta phản ứng mà thôi. Cảm xúc khó chịu là do phản ứng bên trong chống lại thời tiết. Thi hào Shakespeare đã viết, ”Chẳng có gì là tốt hay xấu, nhưng tại ta suy nghĩ như thế!”. Hơn nữa, bất an hay tiêu cực thường bị bản ngã nhận lầm là tốt, bởi qua đau khổ, bản ngã mới tăng cường. Thật vậy, giận dữ hay bực tức làm bản ngã lớn mạnh vô cùng, khi đó làm gia tăng sự cách biệt giữa mình và người, làm mạnh thêm sự đối nghịch của người, củng cố điều tôi nghĩ là

! 118

Page 119: THE GIOI MOI 1

“đúng”. Lúc giận tức, nếu ta quan sát được những thay đổi sinh lý bên trong cơ thể xem nó gây ảnh hưởng bất lợi nào cho tim, cho hệ thống miễn nhiễm, tiêu hóa và vô số những chức năng của cơ thể, thì rõ ràng là bịnh hoạn thật sự chứ không ích lợi gì. Lúc ta ở trong tạng thái tiêu cực, có cái gì bên trong khiến ta phản ứng, lầm tưởng là sẽ được những gì ta muốn. Nói cách khác, có cái ”muốn” (tham) theo sát với tiêu cực, tự làm cho mình và người đau khổ, gây binh hoạn xáo trộn cho cơ thể. Do đó khi vừa mới nhuốm tiêu cực, nếu ta có thể nhận ra ngay lúc đó ”cái gì” khiến ta sắp trở thành đau khổ tức là ta trực tiếp nhận ra bản ngã. Liền khi đó “cái tôi”chuyển từ bản ngã qua tỉnh thức : bản ngã giảm sụt và tỉnh thức tăng lên. Một cách khác nữa ngay khi nhuốm tiêu cực (phiền trách, giận hờn, buồn nản…) ta tập thói quen nhận ra “Ta đang tự tạo khổ đau” là ta sẽ vượt lên những phản ứng và những bó buộc của bản ngã. Trong tỉnh thức tâm ta sẽ rộng mở vô tận, có khả năng ứng phó với mọi hoàn cảnh một cách sáng suốt. Ta sẽ tự tại an nhiên, thoát khỏi bất an. Còn tiêu cực là còn bản ngã vì bản ngã thích “quậy”; còn tiêu cực là không sáng suốt. Bản ngã có thể lanh lợi, bén nhạy nhưng không thông tuệ. Lanh lợi, khéo léo thường chỉ nhắm

! 119

Page 120: THE GIOI MOI 1

mục tiêu riêng tư, còn thông tuệ thấy biết khối đông trong đó vạn vật đều liên quan với nhau. Phần lớn các chính khách và các nhà tư bản đều khéo léo, lanh trí, nhưng rất hiếm người thông tuệ. Người khéo léo bị điều hành bởi tư lợi, họ quên mất bất cứ gì tóm thâu được nhờ lanh lợi đều ngắn ngủi, không cố định và cuối cùng còn có thể làm hại mình. Người lanh lợi luôn bị phân tán, người thông tuệ lúc nào cũng hòa hợp.

BẢN CHẤT ĐAU KHỔ Bản ngã tạo ra phân chia và phân chia gây tạo khổ đau. Như vậy rõ ràng bản ngã là bịnh hoạn. Ngoài những chứng rõ rệt như giận dữ, thù ghét v.v… có những trạng thái tiêu cực vi tế khó nhận ra mà rất là thông thường như ray rứt, khó chịu, lo âu, buồn nản. Chúng tạo thành một bản chất không an mà nhiều người vẫn mang nặng trong tâm. Ta cần tuyệt đối tỉnh thức và an trú trong hiện tiền mới phát hiện chúng. Bất cứ lúc nào nhận ra là lúc tỉnh thức, không bị tư tưởng đồng hóa. Sau đây là một trong những trạng thái tiêu cực thường có nhứt khiến người ta không để ý, vì có thể đã quen với trạng thái này, đó là cảm giác không vừa ý, có thể diễn tả như là một loại của bản chất buồn khổ, nó có thể đặc biệt

! 120

Page 121: THE GIOI MOI 1

hay không đặc biệt. Có nhiều người vướng vào tình trạng này,họ bị đồng hóa dính chặt đến nổi không thể xem xét lại mình. Ẩn sau những cảm giác này là tư tưởng đầy mê lầm giống như nằm mộng trong giấc ngủ hay là mơ mà không biết mình đang mơ. Sau đây là một số những tư tưởng thông dụng nhất nuôi dưỡng cảm giác không vừa ý,những tư tưởng chứa dầy trong kho tàng trữ, mãi lập đi lập lại của những người có quá khứ không vui : - Tôi(Mẹ) rất buồn vì những việc đã xãy

ra,phải chi đừng xãy ra thì tôi(mẹ) đã được hạnh phúc”.

- “Tôi buồn vì việc tốt chưa đến, phải có cái gì xãy đến tôi mới có hạnh phúc. Có lẽ sự buồn phiền của tôi sẽ làm nó xãy ra”.

- Đáng lý việc này không nên xãy ra làm tôi không được hạnh phúc hiện nay”.

Thường thường những tin tưởng mê lầm này chỉa vào một người và “chuyện xãy ra” trở thành hành động: “Anh hay con cái phải làm như thế này để tôi (mẹ) có hạnh phúc. Và tôi buồn bực vì anh hay con cái chưa làm. Có lẽ nỗi bực tức sẽ khiến anh hay con cái phải làm”…. “Sự việc anh đã làm hay nói hoặc đã không chịu làm khiến tôi không được hạnh phúc”.

! 121

Page 122: THE GIOI MOI 1

“Sự việc anh(con) đang làm hay không chịu làm hiện nay khiến tôi không được hạnh phúc”. Cho tới lúc ta nhận ra rõ ràng những tư tưởng mê lầm vô tích sự này, ta quan sát chúng, tách rời chúng, tháo bỏ kho chứa và những vật chứa, chỉ còn lại cái khung trống rỗng.

CHÌA KHOÁ CỦA HẠNH PHÚC

Tất cả những tư tưởng trên đều là giả tưởng, hay là những tư tưởng không được xem xét nên bị lầm lẫn. Chính do bản ngã tạo ra để thuyết phục là ta không thể có an bình ngay đây. Bản ngã thường nói: có lẽ sắp tới tôi mới có an bình khi có điều kiện gì đó xãy ra, hay là tôi đạt được điều gì đó hoặc là tôi phải trở thành như thế nào đó. Bản ngã cũng thường nói, ”Tôi không có an bình vì những việc xấu đã xãy ra”. Lắng nghe việc riêng của hầu hết mọi người trên thế giới, có thể đặt tựa đề chung là : ”Tại sao ta không thể có an bình ngay bây giờ (NOW)?” Bản ngã không biết hay có thể biết nhưng sợ ta phát hiện ra điều này: CHỈ CÓ DUY NHỨT NGAY BÂY GIỜ LÀ TA CÓ AN BÌNH.

! 122

Page 123: THE GIOI MOI 1

An bình và ta chỉ là một, khi bản ngã triệt tiêu, chỉ còn lại an bình. Làm sao để có an bình ngay bây giờ? Chúng ta chơi trò chơi an bình ngay đây. Hiện tại là bối cảnh để đời sống diễn ra, những hoàn cảnh không thể diễn nơi nào khác hơn là trong hiện tại. Ta du hí trong hiện tiền, bất cứ hoàn cảnh nào xãy ra, ta với hiện tại là một, ta không chìm nổi theo hoàn cảnh, mà hoàn cảnh là những vũ công nhảy múa cho ta xem chơi. Bản ngã có thói quen không an trú trong hiện tiền. Hiện tiền tức thực tại nghĩa là gì?. Đức Phật gọi đó là như thị (tatata) hay là đời sống đang diễn ra ngay lúc này. Bản ngã thì ngược lại, nó muốn có vấn đề, nó tạo ra tiêu cực, nó thích bất an. Do bị bản ngã kềm kẹp, con người tiếp tục tạo đau khổ cho mình và cho người, tạo địa ngục trên trần gian mà không hề hay biết. Đời sống chìm trong mê lầm, bản ngã bất lực không nhận ra cơ cấu vận hành tệ hại của mình. Bản ngã u mê hay chỉ trích, đổ tội y hệt như đối phương đã làm, nó lại còn biểu lộ mạnh hơn như tranh cãi, cự tuyệt, bóp méo sự thật để tự bảo vệ. Hầu hết con người đã hành xử như vậy, những hội đoàn đã làm như vậy, chính quyền cũng làm như vậy. Nếu thất bại, bản ngã còn dùng trăm phương ngàn kế để lấn

! 123

Page 124: THE GIOI MOI 1

áp hoặc tranh đấu ác liệt hơn nữa. Hậu quả sau cùng là tất cả đều thảm hại. Bây giờ chúng ta mới hiểu thấu đáo lời của Chúa trên thánh giá, ”Nên tha thứ cho tất cả vì họ không hề biết những việc họ làm”. Để chấm dứt đau khổ đã đè nặng con người từ hàng ngàn năm qua, phải bắt đầu ngay bây giờ trong ta và nên tỉnh thức trong mỗi lúc. Lúc nào cũng nên kiểm soát nội tâm mình, thường tự hỏi: “NGAY BÂY GIỜ MÌNH CÓ HOÀN TOÀN THOẢI MÁI KHÔNG,CÒN CHÚT BỨT RỨT NÀO KHÔNG?”. Thường theo dõi tư tưởng và cảm xúc khởi lên. Chú ý trạng thái tinh thần xuống thấp như ray rứt, khó chịu, buồn nản. Canh chừng những tư tưởng khởi lên để biện minh cho những trạng thái bất ổn đó. Lúc nhận ra trạng thái tiêu cực trong ta nghĩa là ta đã thành công rồi. Khi ta tỉnh thức ta mới tháo gỡ hay thoát khỏi tư tưởng, cảm xúc và những phản ứng. Đừng nhầm lẫn với sự đè nén hay tránh né, chỉ cần ta nhận ra là tỉnh thức đến một cách tự nhiên. Con người sẽ trãi qua tuần tự chuyển hóa: trước kia ta là tư tưởng/cảm xúc và phản ứng, bây giờ là thức tỉnh, là sáng suốt, là bản tâm chân thật hiện tiền quan sát những trạng thái đó. Bản ngã thường hay nói, ”Một ngày kia tôi sẽ thoát khỏi bản ngã”. Thật ra để thoát khỏi bản

! 124

Page 125: THE GIOI MOI 1

ngã thật sự, không phải”hành động” gì cả mà là sáng suốt nhận ra, do đó đâu phải là việc nhọc nhằn gì đâu, chỉ là việc nhỏ thôi. Chỉ cần giáp mặt với tư tưởng và cảm xúc khi chúng khởi lên, chẳng cần hành động nào cả. Khi có sự đổi thay từ suy nghĩ qua tỉnh thức, con người bắt đầu vận dụng cuộc đời mình bằng trí tuệ sáng suốt, hơn hẵn sự lanh lợi của bản ngã. Bản nhiên chân thật phát lộ, không còn cái “tôi” riêng rẽ nữa. Chuyện riêng của đời mình chỉ là chuỗi tư tưởng và cảm xúc, chẳng còn chiếm đóng vị trí quan trọng trong đầu. Chuyện của mình không còn làm nền tảng cho nhân cách mình nữa. Ta trở lại với ánh sáng tỉnh thức,với thực tại vô cùng tận.

NHỮNG HÌNH THỨC BỊNH HOẠN CỦA BẢN NGÃ Nhiều người bình thường có khi nói dối một số vấn đề để cho mình quan trọng hơn trong trí người khác. Một số người khác nói dối một cách quen thuộc và bị bó buộc do bản ngã cảm thấy thua sút; phần lớn chuyện họ nói đều là hão huyền, hư cấu do bản ngã bịa ra để cảm thấy mình quan trọng hơn. Hình ảnh thổi phồng đôi khi có thể gạt người khác, nhưng cũng không lâu. Chứng bịnh tâm thần này gọi là bịnh hoang tưởng, một hình thức khuếch đại của bản ngã.

! 125

Page 126: THE GIOI MOI 1

Do bản ngã lo âu triền miên nên nó chế ra câu chuyện giả tưởng. Đôi lúc có các tổ chức hoặc cả nước mắc bịnh hoang tưởng. Bản ngã tập thể lo sợ nên nghi ngờ “đối phương”, vạch tìm và dính mắc vào lỗi lầm của người khác, rồi phóng đại và biến ”đối phương” thành những quái vật bạo tàn. Bản ngã mang nặng tính chất đối nghịch và lo sợ bản ngã khác, mà nó lại cần có bản ngã khác. Triết gia Sartre đã viết, ”Tha nhân chính là địa ngục”. Bịnh hoang tưởng đã gây những kinh nghiệm tệ hại, những người mang bản ngã lớn cũng cảm nhận phần nào sự tệ hại đó. Bản ngã càng mạnh thì càng tưởng chắc rằng tha nhân chính là đầu giây mối nhợ gây ra khổ đau.Ta cũng làm cho người khác khổ đau mà cũng không biết, và người khác dường như cũng đối phó với ta như vậy. Mối quan hệ đi vào vòng lẫn quẫn. Người bị bịnh hoang tưởng có bản ngã mạnh, và thấy mình bị ngược đãi, hay đe dọa bởi người khác. Cảm giác mình là nạn nhân sẽ khiến người này tự thấy mình đặc biệt, làm người khác chú ý. Bản ngã tập thể của các bộ lạc, dân tộc, các tổ chức tôn giáo cũng mang bịnh hoang tưởng. Tập thể bản ngã chống lại những kẻ họ cho là xấu. Đây là nguyên nhân mối đau khổ lớn lao của nhân loại. Những thời kỳ đau thương diễn

! 126

Page 127: THE GIOI MOI 1

ra trong lịch sử như thời các nhà thờ khủng bố những người “ngoại đạo” hay tòa án dị giáo ở Tây ban nha xử hỏa thiêu những người bị gán là “phù thủy”; quan hệ bất ổn giữa các nước đưa tới đệ I và đệ II thế chiến, ”chiến tranh lạnh” ở Hoa kỳ vào thời 1950 kéo dài xung đột ở Trung đông… tất cả đều là thảm trạng bắt nguồn từ bịnh hoang tưởng tập thể trầm trọng. Càng nhiều cá nhân, đoàn thể hay dân tộc mê lầm, càng nhiều bản ngã bịnh hoạn đưa tới bạo động. Bạo động lan tràn mau chóng trong đó bản ngã tự biện minh là đúng và người khác là sai. Với những người quá mê lầm, tranh cãi cũng dễ dẫn tới mâu thuẫn và bạo hành. Tranh cãi chỉ là 2 hay nhiều người phát biểu những ý kiến không giống nhau. Mỗi người đều dính vào tư tưởng của mình và phát ra những ý kiến. Tư tưởng ngày càng dày thêm trong tâm trí,đầu tư vào bản ngã. Tôi nhập với tư tưởng của tôi hay nói cách khác chúng đã trở thành quán tính. Tôi bảo vệ ý kiến hay tư tưởng của tôi và hành động mê lầm để bảo vệ bản ngã. Tôi có cảm nhận như đang tranh đấu cho sự sống còn nên bị xáo trộn, bất an; rồi những phản ứng đi kèm như tức giận, phòng bị, hiếu chiến … Cuối cùng, tôi nghĩ tôi cần phải thắng với bất cứ giá nào để khỏi bị tiêu diệt. Tất cả đều là ảo

! 127

Page 128: THE GIOI MOI 1

tưởng. Bản ngã tức cái đầu chỉ biết nghĩ tưởng mà không hề biết quan sát. Giáo lý nhà Thiền có câu, ”Đừng cố tìm chân lý, hãy dừng tất cả ý niệm đang chứa chấp” nghĩa là hãy buông tất cả những dính nhiễm vào đầu óc; khi vượt thoát tư tưởng, sẽ lộ ra “ con người chân thật”.

HÀNH ĐỘNG CÓ BẢN NGÃ VÀ HÀNH ĐỘNG VÔ NGÃ Nhiều người có những thoáng chốc thoát khỏi bản ngã. Trong khi thi hành phận sự, họ thoát khỏi bản ngã hay một phần lớn. Họ có thể không biết nhưng công việc của họ là thực tập tâm linh. Phần nhiều họ an trú trong thực tại trong lúc chú tâm làm việc và trở lại tương đối mê lầm khi trở về đời sống riêng tư. Thời gian an trú trong thực tại bị giới hạn trong một lãnh vực của cuộc sống. Tôi đã gặp những nghệ sĩ, thầy giáo,bác sĩ,y tá,khoa học gia,cán sự,hầu bàn,thợ hớt tóc… họ làm việc một cách chú tâm và không vị ngã, hoàn toàn đáp ứng trong lúc hành nghề. Họ nhập cuộc với những gì họ làm, hòa nhập với người và phận sự mà họ đang phục vụ, hòa nhập với thực tại. Ảnh hưởng của những người này trội hơn phận sự của họ. Họ ít để bản ngã xen vô trong lúc giao tiếp. Không ngạc nhiên chút nào khi những

! 128

Page 129: THE GIOI MOI 1

người này đều thành công lạ thường. Bất cứ ai hòa nhập với phận sự của mình sẽ tạo nên một thế giới mới. Ngay cả những người có bản ngã lớn đôi lúc cũng bắt đầu xả bớt, không diễn vai trò trong lúc quan hệ . Có những người tốt một cách máy móc trong việc làm nhưng bản ngã không ngừng phá hoại việc làm của họ. Số người này chỉ chú tâm phần nào vào việc làm, còn phần khác thì bị bản ngã chỉ huy. Do bản ngã không bao giờ thấy đầy đủ, ”Sao người khác có nhiều thứ hơn tôi?”, nó tiêu hao biết bao sinh lực vì còn thấy thiếu. Bản ngã nhắm mục tiêu lợi lộc hay quyền hành,coi việc làm chỉ là phương tiện để đạt mục tiêu chứ không có phẩm chất. Khi gặp đối tượng hay hoàn cảnh nghịch ý, trước trở ngại hay khó khăn, thay vì lập tức hòa đồng với hoàn cảnh mới và đáp ứng những yêu cầu ngay trong hiện tại, họ lại phản ứng chống lại hoàn cảnh nên trở thành nghịch cảnh. Do cảm nhận cái “tôi”riêng tư bị chọc tức, bản ngã sai lầm tiêu hao năng lượng khi tức giận và phản kháng, thay vì có thể dùng năng lượng đó để giải quyết hoàn cảnh. Hơn nữa, phản ứng hay chống đối gây tạo thêm nghịch cảnh mới, chướng ngại mới. Ngoài ra có nhiều người do bản ngã quá lớn nên lại là kẻ thù của cả chính mình. Họ cố triệt

! 129

Page 130: THE GIOI MOI 1

hạ người khác hay không hợp tác vì sợ sẽ thành công hơn hay được lợi lộc hơn “tôi”. Bản ngã mê mờ không biết là càng mở rộng lòng bao nhiêu, càng hòa hợp với người, việc làm càng trôi chảy và nhiều sự dễ dàng sẽ đến. Trái lại khi ta hẹp hòi không hòa hợp, giúp đỡ người khác tức là ta lập hàng rào chướng ngại thì thế giới cũng sẽ rẽ chia vì ta đã tự tách mình ra khỏi toàn bộ. Bản ngã mê lầm tận gốc rễ, do tham lam cảm thấy “chưa đầy đủ” nên phản ứng với sự thành công của người khác, tưởng lầm là thành công đó sẽ lấy bớt phần của mình (tôi). Bản ngã ngu mê không biết là khó chịu về thành công của người khác là đã giảm bớt cơ hội để thành công.

BẢN NGà KHI ĐAU BỊNH Khi lâm bịnh, bản ngã hoặc sẽ mạnh thêm hoặc yếu bớt. Nếu ta đau buồn, than thở là bản ngã mạnh thêm. Bản ngã còn mạnh hơn nữa nếu ta nhập với đau bịnh làm một :”TÔI là người đau khổ vì cơn bịnh này”. Một số người khác có bản ngã lớn nhưng khi bị ốm đau họ bỗng thay đổi, trở nên tử tế và hiền dịu hơn, ”À giờ đây ta biết bạn là ai rồi”. Có lẽ họ có dịp nhìn vào nội tâm mà chưa từng làm trong đời thường. Có lẽ họ bằng lòng đi

! 130

Page 131: THE GIOI MOI 1

vào thế giới tâm linh. Tuy nhiên khi họ bình phục, bản ngã tiếp tục vận hành trở lại. Trong cơn bịnh, năng lượng giảm sụt, cơ thể tự thích nghi dùng số năng lượng còn lại để tự chữa, do đó không còn lại bao nhiêu cho trí óc và cảm xúc riêng tư. Tuy nhiên, có một số người bịnh mà bản ngã chỉ giữ lại một số năng lượng nhỏ, còn bao nhiêu dành cho mục đích riêng rẽ của nó, người có kinh nghiệm bản ngã lớn mạnh trong cơn đau yếu, sẽ lâu bình phục hơn. Ngoài ra có một số bệnh nhân mà đau bịnh trở thành tình trạng kinh niên và thường trực của bản ngã.

BẢN NGÃ TẬP THỂ Sao ta sống với ta khó khăn như vậy? Bản ngã lại cố thoát ra khỏi tình trạng riêng rẽ, không tự mãn bằng cách nới rộng và tăng cường thêm bản ngã như gia nhập các tổ chức, đảng phái, hội đoàn, câu lạc bộ… Có một số trường hợp trong đó bản ngã gần như mất hẵn khi họ hiến trọn đời để làm việc vị tha cho số đông. Họ không màng sự đền đáp hay phần thưởng nào cả. Đó là sự giải vây thoát khỏi gánh nặng của tự ngã. Những hội viên cảm thấy vui sướng và hoàn hão dù làm việc mệt nhọc và hi sinh tất cả. Họ xuất hiện vượt thoát bản ngã.

! 131

Page 132: THE GIOI MOI 1

Bản ngã tập thể vận hành cùng những đặc tính giống bản ngã cá nhân, chẳng hạn nhu cầu cần mình đúng đối với phe đối lập, nhu cầu cần có nhiều hơn… Sớm muộn gì tập thể bản ngã cũng sẽ xung đột với những tập thể khác, chúng mê lầm tìm mâu thuẫn và đối nghịch để xác định ranh giới và tự ngã. Kết quả là hội viên hay đoàn viên sẽ gánh lấy khổ đau không tránh được của bất cứ hành động nào do bản ngã thúc đẩy. Thoạt đầu họ có thể cảm thấy đau đớn khi bừng tỉnh và hiểu ra là tập thể mà họ đã tham gia và dính mắc chỉ là mê lầm. Một số người trở nên hoài nghi hoặc cay đắng và từ đó về sau họ từ chối, khinh nhờn mọi giá trị. Họ lại chọn một niềm tin mới để thay thế. Họ chỉ trốn chạy bản ngã và đầu thai vào bản ngã mới chứ không biết giáp mặt chấm dứt bản ngã. Bản ngã tập thể thường mê lầm đậm hơn những cá nhân trong tập thể. Chẳng hạn tập thể có thể bạo tàn mà cá nhân đơn lẻ tách rời khỏi tập thể đó không thể làm được. Những dân tộc không dễ nhận ra tập thể bản ngã mê lầm, nơi cá nhân dễ nhận ra chứng bịnh tâm thần này hơn. Khi tâm thức mới phát lộ, một số người sẽ triệu tập thành những nhóm tiêu biểu cho sự tỉnh thức. Những nhóm này không phải là tập

! 132

Page 133: THE GIOI MOI 1

thể bản ngã. Những cá nhân trong nhóm không có phân định chức năng, họ không xác định mình là ai dưới bất cứ hình tướng nào. Dù những thành viên chưa hoàn toàn thoát khỏi bản ngã, họ cũng đủ tỉnh thức bên trong để nhận ra bản ngã của mình hay của người khác khi chúng nổi lên. Dù vậy rất cần thiết an trú miên mật trong tỉnh thức vì bản ngã muốn nắm quyền và dành lại vị trí với bất cứ giá nào. Vì vậy chấm dứt bản ngã bằng cách soi rọi nó bằng ánh sáng của tỉnh thức là một trong các mục tiêu chính của các tổ chức dù đó là tổ chức từ thiện, học đường, nghiệp đoàn hay cộng đồng chung sống với nhau. Những tập thể tỉnh sáng sẽ thực hiện sứ mệnh quan trọng : khai mở và phát triển tâm thức mới. Nếu những tập thể vị ngã đã đưa con người vào lầm lẫn khổ đau, thì tập thể tỉnh sáng là cơn chuyển động cuả tâm thức mở rộng sự chuyển hóa trên hành tinh này.

BẤT TỬ Bản ngã phát sinh là do tư tưởng con người phân biệt theo đó nhân cách rẽ chia làm 2 phần: “tôi” và “của tôi”. Do đó bản ngã nào cũng phân tán. Con người sống với một hình

! 133

Page 134: THE GIOI MOI 1

tưởng về mình, một nhận thức cá biệt về mình mà mình đã quen. Khi con người nói “đời tôi” nghĩa là đời sống đã hình thành trong đầu cho nên ngăn cách hoàn toàn với nguồn sống chân thật vô biên. Khi ta nói hay nghĩ về “đời tôi” và tin chắc vào lời nói đó ( không biết rằng đó chỉ là ngôn ngữ phương tiện), tức là ta đang đi vào mộng huyễn. Nếu quả thật có “đời của tôi”, tất nhiên “đời sống” và “tôi” là hai sự kiện khác nhau và tôi có thể đánh mất “đời sống”, vật sở hữu tưởng tượng của tôi. Lúc đó tử thần trở thành sự thật và là mối đe dọa thường trực. Ngôn ngữ và tư tưởng đã chia cắt đời sống thành những mãnh rời rạc hoàn toàn không có thực tướng. Chúng ta có thể nói ý niệm “đời tôi” là ảo tưởng nguyên thủy của sự phân rẽ, căn nguồn của bản ngã. Nếu tôi và sự sống là hai, nếu tôi tách rời khỏi đời sống thì tôi cũng tách rời mọi sự vật và mọi người. Nhưng tôi không thể tách rời đời sống hay sự sống. Cái “tôi” đâu thể nào tách khỏi đời sống, tuyệt đối không thể được. Do đó không có ý niệm gì gọi là “đời tôi” vì tôi chính là sự sống, tôi và đời sống là một, không thể khác hơn. Vậy làm sao tôi đánh mất sự sống được, cái đó chính là tôi thì làm sao mất được.

! 134

Page 135: THE GIOI MOI 1

CHƯƠNG NĂM

ĐAU BỊNH

! 135

Page 136: THE GIOI MOI 1

Tư tưởng của con người hầu hết đều không do con người chủ động mà bị lập đi lập lại một cách máy móc, tự động. Đây là loại tâm thức cố hữu, trường kỳ nhưng không có mục đích thực sự. Nói cách khác, ta không làm chủ suy nghĩ mà là suy nghĩ tự xãy ra trong đầu ta. Câu ”Tôi suy nghĩ” bao hàm tự ý mình có quyền suy nghĩ, nhưng hầu hết con người đều bị suy nghĩ, cho nên nói ”tôi suy nghĩ “là sai giống như nói “tôi tiêu hóa” hay “tôi lưu thông máu huyết”. Tiêu hóa tự động xãy ra trong ta, máu huyết tự động lưu thông và suy nghĩ cũng y như vậy. Hầu hết con người đều bị đầu óc hay cái suy nghĩ làm chủ, và vì tư tưởng ta dính chặt vào quá khứ nên ta bị bắt buộc phải lùi về quá khứ mãi. Ta cũng không biết là ta bị đồng hóa với tiếng nói trong đầu. Chỉ khi ta nhận ra có tiếng nói, biết quan sát tiếng thì thầm đó, ta sẽ không bị nó khống chế nữa. Từ lâu nhân loại bị tư tưởng làm chủ và tình trạng này ngày càng gia tăng. Qua sự đồng hóa với tư tưởng, bản ngã giả mới ngự trị được. Bản ngã mạnh hay yếu tùy thuộc vào mức độ bị đồng hóa nhiều hay ít. Thật ra tư tưởng chỉ là phạm vi nhỏ của tổng thể tâm thức.

! 136

Page 137: THE GIOI MOI 1

Mức độ đồng hóa với tư tưởng khác nhau tùy từng người. Một số người được tự tại, thoát khỏi suy tưởng trong những khoảng ngắn nhưng cảm thấy đời sống có ý nghĩa và những lúc dó được an lạc và sinh động tuyệt vời. Cũng là lúc mà sự sáng tạo, tình thương và lòng từ phát khởi. Ngoài ra số đông người bị mê lầm bởi tự ngã vị kỷ. Họ tự tách rời và xa lánh người và thế giới xung quanh. Họ có nét mặt căng thẳng hay đôi mắt đăm chiêu, mối quan tâm của họ bị tư tưởng thu hút nên họ không thật sự nhìn và lắng nghe người khác. Dù ở hoàn cảnh nào họ không ở trong thực tại mà bị quá khứ và tương lai chi phối. Họ chỉ liên hệ với người khác qua một số vai trò họ diễn. Có một số người bị cách ngăn đến nổi họ có thái độ thật “dởm”. Tự ngăn cách hay xa lạ là không bao giờ bằng lòng dù ở đâu, với ai hay hoàn cảnh nào và ngay cả với chính họ. Người đó cũng cố trở về “nhà” nhưng không an bình. Một số văn hào trong thế kỷ 20 đã nhận ra “trạng thái xa lạ” tức tình trạng phân rẽ của con người hiện nay. Họ cảm nhận sâu sắc bên trong nên diễn tả rất rõ trạng thái bất an của nhân loại. Tuy họ không nêu lên giải pháp nào nhưng khi nhận ra tình trạng bất an là khởi đầu để vượt qua.

! 137

Page 138: THE GIOI MOI 1

CẢM XÚC Cảm xúc là một mặt khác của bản ngã. Không phải tất cả tư tưởng và cảm xúc đều là bản ngã. Chúng chỉ trở thành bản ngã khi ta đồng hóa hoàn toàn với chúng. Cơ thể con người tức cơ cấu vật chất rất bén nhạy giống như cơ cấu mọi loài khác. Cơ thể phản ứng tự động những gì cái đầu nói có nghĩa cảm xúc là phản xạ của cơ thể do tư tưởng mà ra. Sự bén nhạy của tư tưởng gắn liền với sự bén nhạy của toàn thể vũ trụ. Chính sự bén nhạy tạm thời kết hợp những nguyên tử và phân tử tạo nên cơ thể con người, cũng giống như hoạt động của các bộ phận trong thân thể, biến đổi dưỡng khí và thực phẩm thành năng lượng, sự tuần hoàn của máu và nhịp đập của tim, hệ thống miễn nhiễm để bảo vệ cơ thể, sự truyền tin của giác quan thành xung lực gởi lên não bộ, giải quyết ở đó và biểu hiện ra ngoài. Tất cả hoạt động đó cũng như hàng ngàn hoạt động khác phối hợp hoàn hão do sự bén nhạy của cơ thể. Con người không điều khiển cơ thể mình, chính sự bén nhạy làm việc này. Chung quanh ta, các loài có hình tướng khác cũng hoạt động bén nhạy tương tợ như vậy. Trái đất cũng bén nhạy về hình thể… Trước đe dọa, mọi loài đều phản ứng theo bản năng rất máy móc. Loài động vật cũng

! 138

Page 139: THE GIOI MOI 1

phản ứng giống như cảm xúc con người : giận, lo, thích… đó là những biểu lộ sơ khởi của cảm xúc. Trong một số hoàn cảnh, con người phản ứng theo bản năng giống loài vật. Trước nguy cơ, khi sự sống bị đe dọa, trái tim đập nhanh hơn,cơ bắp co rút lại, hơi thở dồn dập để sẵn sàng đối phó hay lẫn trốn. Đó là lo sợ sơ khởi. Khi bị dồn vào thế kẹt, năng lượng tăng gia tạo sức mạnh cho cơ thể, đó là giận dữ sơ khởi. Những phản ứng theo bản năng đó nổi lên tương tợ như cảm xúc, nhưng thật ra chúng không phải là cảm xúc theo đúng nghĩa văn từ. Phản ứng theo bản năng là ứng đáp trực tiếp với hoàn cảnh bên ngoài, còn cảm xúc là phản ứng của cơ thể đối với tư tưởng con người. Nói một cách gián tiếp,cảm xúc cũng có thể là phản ứng của hoàn cảnh nhưng được nhìn xuyên qua màn lọc của trí óc, nghĩa là qua ý tưởng phân biệt tốt xấu, đúng sai, sở hữu. Chẳng hạn ta không có chút cảm xúc khi nghe tin có chiếc xe bị mất cắp, nhưng nếu xe đó là của tôi, tôi liền bị dao động… Cơ thể rất bén nhạy nhưng nó không biết khác biệt giữa hoàn cảnh và tư tưởng. Do đó cơ thể phản ứng với mọi ý tưởng như là hiện thực vậy. Cơ thể không biết đó chỉ là tư tưởng, đối với nó, ý tưởng sợ sệt hay đáng lo dồng nghĩa với “tôi đang bị nguy hiểm” và nó liền phản ứng dù lúc đó đang nằm trên chiếc

! 139

Page 140: THE GIOI MOI 1

giừơng êm ấm. Trái tim cũng đập nhanh, cơ bắp co rút, hơi thở dồn dập, nguồn năng lượng gia tăng nhưng chỉ là trong tâm tưởng nên năng lượng không có lối thoát. Thế là một phần năng lượng tiếp tế thêm cho trí não tăng gia mối ưu tư. Phần năng lượng còn lại biến thành độc chất xâm nhập vào cơ thể.

CẢM XÚC VÀ BẢN NGÃ Tiếng nói vị ngã trong đầu kể lễ ngày đêm mà cơ thể lại tin rồi phản ứng, phản ứng đó là cảm xúc. Đến lượt những cảm xúc nuôi thêm sức mạnh cho tư tưởng, cả hai cứ liên tục tiếp sức cho nhau. Đó là cái vòng lẫn quẫn của tư tưởng và phản ứng không được kiểm soát. Mức độ cảm xúc khác nhau tùy từng người. Một số người có phản ứng cảm xúc quá nhanh do những tư tưởng mê lầm mà tưởng là đúng. Những tư tưởng xuất phát từ quá khứ, thường là lúc còn bé. Chẳng hạn có người lầm tưởng rằng”con người không thể tin cậy được”do người này đã đánh mất niềm tin trong quan hệ đầu tiên với cha mẹ và người thân. Một số những lầm tưởng thông thường khác như: ”tôi phải tranh đấu để sống còn. Cuộc đời luôn dìm tôi xuống…”, những ảo tưởng mê lầm này tạo ra phản ứng và tạo thành nhân cách con người.

! 140

Page 141: THE GIOI MOI 1

Tiếng nói trong đầu tiếp tục phá hoại tình trạng tốt đẹp tự nhiên của cơ thể. Hầu hết cơ thể đều bị căng thẳng và mỏi mệt không phải do yếu tố bên ngoài mà do trí não. Những cảm xúc tiêu cực đi kèm theo chuỗi suy tưởng mê lầm hoành hành con người liêntục. Những cảm xúc như giận ghét, lo buồn, chán nản… gây độc hại cho cơ thể và tác động vào vận hành hài hòa của cơ thể. Chúng gây rối loạn năng lượng luân lưu trong cơ thả ,ểnh hưởnh đến tim, hệ thống miễn nhiễm, hệ thống tiêu hóa, chất nội tiết… Ngành y khoa, dù biết rất ít về sự vận hành của bản ngã, cũng bắt đầu nhận ra liên hệ giữa cảm xúc tiêu cực và bịnh hoạn của cơ thể. Ngoài ra, cảm xúc tiêu cực còn gây tác hại cho mối quan hệ và gây phản ứng dây chuyền tới vô số người khác nữa. Những cảm xúc tiêu cực có thể gọi chung bằng một từ ngữ “khổ”. Nếu vậy phải chăng những cảm xúc tích cực có ảnh hưởng ngược lại đối với cơ thể? Nó có làm cho cơ thể phấn chấn ,tăng cường hệ thống miễn nhiễm, và mau chữa lành bịnh? Thật sự là có, nhưng chúng ta cần nhận ra khác biệt giữa cảm xúc tích cực và trạng thái an lạc xuất phát từ bản nhiên hằng hữu chân thật. Những cảm xúc tích cực điều động bởi bản ngã chứa đựng sự trái nghịch nên sẽ đổi thay.

! 141

Page 142: THE GIOI MOI 1

Chẳng hạn bữa tiệc tối ăn nhậu vui nhộn, sáng hôm sau trở thành trống trải, chóng mặt… Hôm nay được ca ngợi và tưởng thưởng làm ta vui mừng, ngày hôm sau có thể bị chìm trong quên lãng làm ta thất vọng…Tóm lại, không có gì vui mà không có buồn, không có gì tốt mà không có xấu… Những cảm xúc do bản ngã điều động xuất phát từ dính nhiễm của đầu óc với những yếu tố bên ngoài nên có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Chỉ có những cảm xúc sâu lắng thật ra không phải là cảm xúc mà là trạng thái an nhiên,tự tại. Cảm xúc do bản ngã tồn tại trong lãnh vực đối nghịch, trạng thái an nhiên có thể k h ô n g r õ r ệ t n h ư n g k h ô n g c ó đ ố i nghịch….chúng sẵn có ở bên trong như lòng từ, an bình và niềm vui chân thật.

CON VỊT VÀ TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI Trong quyển “Power of Now” tác gỉa đề cập đến việc quan sát 2 con vịt tranh nhau nhưng không kéo dài lâu, sau đó chúng tách ra và rẽ hai hướng khác nhau, rồi mỗi con đập cánh đôi ba lần như để xả bỏ năng lực dư thừa còn sót lại. Sau cùng chúng lướt êm trên dòng nước như chẳng có chuyện gì xãy ra. Nếu con vịt có trí óc như con người, nó sẽ giữ lại trận đánh trong trí. Bằng suy nghĩ hoặc

! 142

Page 143: THE GIOI MOI 1

bằng kể lễ, con vịt có thể nói,”Hắn ta tiến sâu vào chỗ của tôi. Hắn tưởng hắn làm chủ cây cầu này chắc? Hắn không coi trọng tôi chút nào. Lần sau hắn đến làm phiền nữa, tôi sẽ không tha đâu. Chắc chắn hắn có toan tính gì đây, tôi sẽ dạy hắn bài học để đời v.v. và v.v.“. Nếu con vịt có trí óc như con người, đòi sống con vịt có quá nhiều vấn đề phải không? Cứ thế cái đầu xoay vòng vòng câu chuyện, tiếp tục suy diễn và nói thầm ngày này tháng nọ, hay cả những năm sau. Cho tới khi tư tưởng còn quan tâm, cuộc chíến vẫn tiếp diễn và sinh lực dùng vào việc này hao tổn và vô ích làm sao! Ấy thế mà phần lớn con người sống như vậy cả đời. Đầu óc dính chặt vào “tôi và câu chuyện của tôi” diễn đi diễn lại mãi cuốn phim cũ rích. Cho nên không có hoàn cảnh hay sự việc nào thật sự chấm dứt cả. Con người giống như mắc bịnh ghiền. Nhân loại đã thực sự đánh mất phương hướng. Chúng ta chỉ cần dừng lại, ngắm nhìn và lắng nghe thiên nhiên, cảnh trí, bông hoa, các loài động vật nhỏ bé đều có bài học cho chúng ta. Như bài học của con vịt chẳng hạn: đập đôi cánh và nhẹ nhàng rẽ lướt có nghĩa là hãy rũ bỏ câu chuyện vừa qua, trở lại với thực tại trong sáng. Đừng làm kẻ ngu mê.

! 143

Page 144: THE GIOI MOI 1

MANG NẶNG QUÁ KHỨ Con người bị tư tưởng kềm kẹp, không có khả năng tách rời để buông xả hay cho quá khứ qua đi. Câu chuyện hai vị tăng người Nhật đã minh chứng điều này. Thầy Tanzan và thầy Ekido đi dọc theo đường làng sau trận mưa lớn. Họ gặp một thiếu nữ đang cố băng ngang con đường ngập bùn lầy. Cô ta bị trở ngại vì giày vớ và áo kimono lụa dài. Không chút do dự, thầy Tazan giúp cỗng cô gái qua bên kia đường. Năm giờ sau, khi về tới chùa thầy Ekido lên tiếng, “Tại sao thầy dám cỗng cô gái, chúng ta là người tu không thể làm như vậy được”. Thầy Tanzan đáp,”Tôi đã đặt cô gái xuống mấy tiếng rồi, còn thầy vẫn tiếp tục cỗng hay sao? Con người không thể hay không muốn buông xả mọi hoàn cảnh đến rồi đi, nên tích tụ ngày càng nhiều ”rác rến”bên trong. Nếu phần lớn nhân loại mang nặng quá khứ trong tâm tưởng, thì đời sống trên trái đất sẽ ra sao? Quá khứ sống trong ta như những kỷ niệm, nhưng kỷ niệm tự nó không phải là vấn đề, chúng ta còn nhờ kinh nghiệm để tránh phạm lỗi cũ. Chỉ khi nào tư tưởng dính chặt vào quá khứ mới là vấn đề, khi đó những kỷ niệm sống đi sống lại thành “câu chuyện của tôi” và cái “tôi nhỏ bé” (bản ngã) đã che mờ bản thể chân thật của con người.

! 144

Page 145: THE GIOI MOI 1

Phần lớn nhân loại nuôi dưỡng tư tưởng phiền não và cảm xúc tiêu cực như hối tiếc, tức giận, thù hằn… Tư tưởng và cảm xúc trở thành nhân cách của họ. Đây là nghiệp cảm sâu dày của con người, tuy nhiên chúng ta có thể xả bỏ, “đập vỗ đôi cánh”, ngừng hẵn không sống trong quá khứ, dù là chuyện mới xãy ra hôm qua hay 20 năm về trước. Chúng ta có thể tập không để quá khứ sống lại bằng cách duy trì chú tâm vào thực tại vô tận. Dần dần thực tại hiện tiền trở thành nhân cách của ta, hơn là để cho tư tưởng và cảm xúc quấy nhiễu. Tất cả quá khứ không thể ngăn cấm ta an trú trong hiện tiền, vậy thì nó có sức mạnh gì đâu?

CÁ NHÂN VÀ TẬP THỂ Chúng ta phải tập nhận ra và giáp mặt với cảm xúc ngay lúc nó khởi lên thì ta mới dứt trừ nó hòan toàn. Nếu không, nó sẽ lẫn quẫn trong ta. Khi chào đời, mỗi trẻ sơ sinh mang sẵn nghiệp cảm, chỉ khác nhau về mức độ mà thôi. Chúng ra đời chia xẻ gánh nặng của nỗi đau nhân loại. Một số trẻ con có nghiệp cảm nặng nề, la khóc thường xuyên do ảnh hưởng và hấp thụ năng lượng từ nổi đau của cha mẹ. Lúc nhỏ, con người có cảm xúc tiêu cực rất mạnh và có khuynh hướng không thèm nhận ra

! 145

Page 146: THE GIOI MOI 1

chúng. Nếu người lớn không sáng suốt chỉ dẫn, bằng tình thương và thông cảm, đứa bé với phản ứng máy móc quá sớm đó, sẽ tạo thành thói quen và lớn lên là nhân cách của nó. Tánh khí nóng nãy,giận dữ,tham lam… thành tật bịnh của nó và trong nhiều trường hợp, tánh khí này sẽ phá vỡ mối quan hệ mật thiết sau này. Không ai là không mang niềm đau, cho dù cả cha lẫn mẹ đều là người sáng suốt, con trẻ lớn lên trong thế giới có quá nhiều người mê. Mối cảm xúc nếu không được nhận ra, giáp mặt và buông xả, sẽ xâu kết lại thành năng lượng sống mãi trong từng tế bào của cơ thể. Nghiệp cảm ngày càng sâu dày do cộng thêm vào những niềm đau thời niên thiếu và suốt cả quãng đời còn lại. Mối đau này do bản ngã mê lầm được minh chứng qua lịch sử loài người, từ những cuộc xung đột dai dẳng đến những bạo hành tiếp tục mà ta có thể nhìn xem hằng ngày trên T.V. hoặc nhìn những bi kịch trong quan hệ của loài người. Người mang nghiệp cảm nhẹ không nhất thiết sẽ mau sáng suốt hơn. Trên thực tế, người mang nặng nổi đau có nhiều cơ hội để chuyển hóa hơn. Trong lúc có số người chìm đắm luôn trong thảm kịch, một số khác không thể ở lâu trong khốn cùng, thoát ra được và là động lực tỉnh thức mạnh mẽ.

! 146

Page 147: THE GIOI MOI 1

Thân xác của chúa Christ với gương mặt đau đớn và cơ thể đẫm máu, có phải là hình ảnh biểu tượng trong tâm thức nhân loại? Vào thời Trung cổ, hằng triệu người chưa quen thuộc với hình ảnh này một cách sâu sắc, chưa nhận ra hình ảnh bên ngoài biểu hiện cho cảm xúc bên trong. Họ chưa đủ tỉnh thức để nhận ra từ nội tâm mình, tuy nhiên cũng là bước đầu khiến họ lưu tâm. Chúa được xem là người có khả năng siêu phàm, thể hiện sự chịu khổ của con người.

NIỀM ĐAU TÁI DIỄN Cơn đau tái tục là do phân nửa năng lượng nằm sẵn trong phần lớn con người. Giống như mọi hiện tượng khác, nó cần được nuôi dưỡng và tiếp tế để sống còn. Khi bị phiền não chụp phủ, ta không chấm dứt nó mà còn phản ứng, làm người khác khổ sở giống ta để nuôi dưỡng cảm xúc tiêu cực. Khi ta nhận ra như vậy, ta có thể rất kinh ngạc. Trong phần lớn con người, nghiệp cảm có lúc ngủ ngầm và có lúc hoạt động. Khi nó ngủ, ta dễ quên là ta vẫn mang một núi lửa đang ngủ ngầm bên trong, nó ngủ bao lâu tùy từng người, thường là vài ngày, vài tuần hay vài tháng. Rất hiếm trường hợp cảm xúc ngủ lâu cho tới khi có biến cố.

! 147

Page 148: THE GIOI MOI 1

Có khi cảm xúc sẵn sàng khởi động trước cái duyên rất tầm thường như trước một câu nói hay một việc nhỏ hay ngay cả một ý nghĩ của chính mình! Những người sống một mình, cảm xúc sẽ được nuôi dưỡng bởi chính tư tưởng của mình, rồi cảm xúc lại tiếp tế cho tư tưởng tiêu cực. Cảm xúc đau buồn choáng ngộp đầu óc ta, giả làm ta. Vòng lẫn quẫn được thiết lập giữa cảm xúc đau và tư tưởng. Sau vài giờ, có khi đến vài ngày nó trở về trạng thái ngủ ngầm, để lại một cơ thể suy yếu. Hoạt động của bản ngã giống như loại ký sinh trùng tâm thần phá hoại bên trong cơ thể con người.

NGHIỆP CẢM GÂY TẠO BI KỊCH Nếu có người ở gần mình nhất là người thân, cảm xúc đau sẽ càng khích động nhấn nút để biểu lộ mạnh mẽ. Cơn đau thích người thân vì nơi đó nó được tiếp tế mạnh nhất. Nó biết rõ yếu điểm vì con người khó kìm hãm trước cơn đau của người thân. Nó khơi dậy cảm xúc người khác để cả hai hỗ trợ nhau, LÀM KHỔ NHAU, hiện tượng này rất thường thấy ở những quan hệ mật thiết. Hàng triệu trẻ con trên thế giới phải chứng kiến những giai đoạn khủng

! 148

Page 149: THE GIOI MOI 1

hoảng của cha mẹ tái diễn. Nghiệp cảm này lập đi lập lại và truyền từ đời này qua đời khác. Một số người dùng rượu quá độ làm cảm xúc tăng cường nhất là bên phía nam giới. Một người say rượu có nhân cách hoàn toàn biến đổi vì cảm xúc mạnh đang làm chủ họ. Họ có thói quen làm khổ người thân. Lúc tỉnh rượu họ thật sự hối lỗi và nói là sẽ không tái phạm. Tuy nhiên người đang hứa hẹn không phải là thực thể đã gây ra lỗi lầm nên ta chắc rằng sự cố sẽ tái diễn trừ phi người đó thức tỉnh, nhận ra cảm xúc bên trong và không đồng hóa với nó nữa. Nếu có người sáng suốt giúp đỡ sẽ hướng dẫn người ghiền rượu thóat khỏi thói quen xấu. Tình trạng cảm xúc ngủ ngầm giống như con mèo có vẻ đang ngủ nhưng bất cứ tiếng động nào nhẹ nhất, nó cũng hướng về đó và hé mắt, sẵn sàng hoạt động. Trong quan hệ mật thiết, cảm xúc khéo nằm ngủ cho tới khi có cuộc sống chung. Lúc đó, ta không chỉ cưới người bạn đời mà còn cưới luôn nghiệp cảm đau của người đó và ngược lại. Sau khi cưới không lâu, ta khám phá ra người bạn của mình hoàn toàn thay đổi về nhân cách. Giọng nói cô ta trở nên khác lạ đối với những chuyện lặt vặt không đáng kể. Hoặc cô ta trở nên lạnh nhạt hay khó chịu ra mặt. Khi cô ta trách phiền, kể lể hay tức giận, cô ta thật khác với con người trước kia và có vẻ muốn bắt

! 149

Page 150: THE GIOI MOI 1

người bạn đời cũng phải chịu khổ như vậy. Lúc đó ta tự hỏi, ”Có phải ta đã sai lầm trầm trọng khi chọn người này hay không?” Thật ra, khi cô ta nói không phải là lời lẻ của người bạn đời mà là nghiệp cảm đang nói, đó không phải là bộ mặt thật của cô ta mà chỉ là mối cảm xúc (khổ) sống dậy đang tạm thời làm chủ. Chúng ta rất khó tìm gặp một người không mang nổi đau, nhưng có thể sáng suốt chọn một người có nghiệp cảm không quá sâu dày.

NGHIỆP CẢM SÂU ĐẬM Có một số người mang nặng mối đau khổ triền miên. Tuy bề ngoài vẫn nói cười nhưng khi gặp hoàn cảnh không như ý, họ phản ứng mạnh tức thì. Tánh khí dễ nóng giận hay là nghiệp cảm sâu dày cần nuôi dưỡng và tiếp tế nên bản ngã người này luôn tìm thêm vấn đề. Những hoàn cảnh không quan trọng cũng được thổi phồng lên và họ lôi những người xung quanh phản ứng lại để cùng chui vào thảm kịch (chuyện không có gì mà ầm ỉ). Vô số người bị lôi vào những cuộc chiến đăng đẳng và vô nghĩa. Số người khác bị liên lụy trong phiên tòa giữa các cơ quan. Ngoài ra có những người bị ám ảnh triền miên do lòng thù hận người hôn phối cũ… Những người này chưa nhận ra nghiệp cảm tích lũy bên trong, được

! 150

Page 151: THE GIOI MOI 1

họ truyền vào những hoàn cảnh qua phản ứng. Đối với họ, khổ đau xuất hiện là do hoàn cảnh mà ra. Vì thiếu sáng suốt, họ không biết khác biệt giữa hoàn cảnh và phản ứng. Hoàn cảnh nào đến cũng sẽ qua đi, do mình phản ứng và dính chặt nên mới đau khổ dài dài.

GIẢI TRÍ, TRUYỀN THÔNG VÀ CẢM XÚC Nếu chúng ta không quen với nền văn minh hiện đại, nếu ta đến từ hành tinh nào khác, một trong những sự kiện làm ta ngạc nhiên là hằng triệu người ưa thích và trả tiền để xem con người chém giết nhau, gây đau đớn cho nhau mà gọi là “giải trí”. Do đâu phim ảnh bạo động thu hút người đông như vậy? Vì họ muốn có cảm xúc mạnh nên phần lớn kỹ nghệ giải trí đáp ứng sự việc này. Chính cảm xúc tạo ra sản xuất loại phim này và cũng chính cảm xúc trả tiền để xem. Vì vậy nghĩ cảm tiêu cực và thảm kịch riêng tư được cộng thêm qua phim ảnh và truyền hình nên cảm xúc tái tạo mãi. Tuy nhiên không phải tất cả phim ảnh bạo động đều sai quấy. Có những phim diễn lại những xung đột trong phạm vi rộng lớn, cho thấy nguyên do và hậu quả của tập thể mê lầm. Những phim này chủ ý muốn đánh thức

! 151

Page 152: THE GIOI MOI 1

nhân loại, như là tấm gương nhắc nhở con người nhìn lại sự mê lầm của chính mình. Cũng có một số phim tốt mục đích chống chiến tranh để con người thấy rõ tệ nạn hơn là làm cho cuốn phim hấp dẫn. Nhưng các loại phim tốt không gây cảm xúc mạnh. Một số phim tai hại khác trong đó bạo lực được coi là bình thường hay là thái độ thích thú của con người, hoặc là hoan nghênh chiến thắng bằng bạo lực, chỉ với mục đích khích động cảm xúc tiêu cực của người xem gây ảnh hưởng xấu ác lan rộng. Tương tợ như vậy, những tờ báo lá cải không chủ yếu thông tin, chỉ cốt kích thích cảm xúc tiêu cực của con người. Tờ “Mạ lỵ” (Outrage) trắng trợn in đậm bằng chữ lớn ở trang đầu, tờ “Những đứa con hoang”(Bastard) cũng vậy. Báo lá cải của nước Anh trội hẵn về điểm này. Họ biết tờ báo khích động cảm xúc sẽ bán chạy hơn là tờ báo thông tin. Nói chung, những phương tiện truyền thông có khuynh hướng phát triển nhờ tin tức tiêu cực, càng nhiều tin xấu càng lôi cuốn vì cảm xúc con người thích những việc này.

CỘNG NGHIỆP CỦA PHỤ NỮ Nổi khổ của tập thể có mức độ khác nhau do hoàn cảnh khác biệt. Bộ lạc, dân tộc,giống nòi

! 152

Page 153: THE GIOI MOI 1

có cộng nghiệp nặng hay nhẹ hơn tùy hoàn cảnh. Hầu hết phụ nữ có cảm xúc đau hoạt động mạnh trước lúc có kinh. Từ xa xua, tập quán xã hội đã ngăn chận, đè nén và hà khắc với người nữ nên họ mang mối nghiệp cảm chung. Cộng với nổi đau tích lũy từ cả ngàn năm, qua sự thai nghén, sinh nở đến bị hiếp đáp, làm nô lệ, bị hành hạ. Trong khoảng 300 năm, từ 3 đến 5 triệu phụ nữ bị tra tấn và giết chết bởi nạn kỳ thị tôn giáo. Sự kiện này có thể sắp chung với việc dân Do thái bị tàn sát bởi bọn phát xít là một trong những trang lịch sử tối tăm nhất của nhân loại. Thật là thảm hại cho người nữ khi tỏ lòng thương yêu súc vật, đi dạo một mình hay đi hái thuốc trong rừng đều bị gán là phù thủy, bị hành hạ và thiêu sống. Ngay cả những đạo giáo như Do thái,Hồi giáo,cho đến Phật giáo cũng không cho người nữ bình đẳng với nam giới, dù với đường lối ít khe khắc hơn. Người nữ bị hạ thấp làm cái máy đẻ và là thuộc quyền sở hữu của nam giới. Ai trách nhiệm trong việc gây cho người nữ mối đau khổ tạo thành chứng bịnh hoang tưởng trầm trọng? Dĩ nhiên là người nam phải chịu trách nhiệm. Nhưng tại sao dưới thời đại xa xưa, trước Công nguyên, xứ Ai Cập và các sắc tộc cổ lại kính trọng người nữ, nên họ

! 153

Page 154: THE GIOI MOI 1

không sợ hãi lại còn được quý yêu? Nhưng sau đó, khi bản ngã của nam giới khởi phát, họ muốn kiểm soát toàn cầu nên tìm cách làm cho người nữ không còn quyền hành. Cùng lúc người nữ cũng bị bản ngã khống chế tuy không bị nặng như nơi người nam, do mgười nữ ít bị tư tưởng đồng hoá hơn. Họ lại tiếp cận với nội tâm nhiều hơn. Ngoài ra, hình tướng người nữ không rắn chắc nên rất nhạy cảm khi tiếp xúc và dễ hòa hợp với thiên nhiên hơn. Hiện nay mọi sự đã thay đổi nhanh chóng, với số đông người ngày càng sáng suốt, bản ngã bị đẩy lui dần và nơi người nữ bản ngã lui nhanh nhơn là người nam.

CỘNG NGHIỆP hay NGHIỆP CẢM CHUNG CỦA DÂN TỘC Một số dân tộc bị nhiều áp bức hoặc gây tạo bạo hành mang nghiệp cảm nặng hơn các dân tộc khác. Do đó các nước được tạo lập lâu đời có nghiệp cảm mạnh hơn. Các nước trẻ như Canada, Úc, Tân Tây Lan và nước ít bị ảnh hưởng của chung quanh như Thụy Sĩ mang nghiệp cảm nhẹ hơn. Dĩ nhiên nơi xứ đó người dân cũng có nổi khổ riêng tư phải đương đầu. Nếu bén nhạy ta sẽ cảm nhận mức độ nặng nhẹ của nghiệp cảm một xứ khi vừa ra khỏi phi cơ. Ở vài nước một người có thể cảm nhận nền

! 154

Page 155: THE GIOI MOI 1

bạo tàn ngấm ngầm ẩn dưới bề ngoài của đời sống hằng ngày. Ở vài nước như Trung Đông chẳng hạn, nghiệp cảm tập thể sâu dày đến nổi đa số dân tự thấy phải hành động trong vòng lẫn quẫn không ngừng nghỉ là gây tạo tội lỗi và báo thù. Tư tưởng và cảm xúc thù hận của họ tiếp tế cho nhau tái diễn liên tục. Cộng nghiệp rất rõ ràng nơi người dân Do thái vì họ chịu đựng khủng bố qua nhiều thế kỷ. Cũng thế người Mỹ bản xứ tức thổ dân có cộng nghiệp mạnh vì dân số bị tiêu hao phần lớn và văn hóa bị dập tắt bởi người Âu đến định cư. Nơi người Mỹ da đen công nghiệp cũng rất rõ, tổ tiên họ đã bị trừ diệt tàn bạo, bị hành hạ tới phải chịu khuất phục và bị bán làm nô lệ. Nền tảng phồn thịnh của kinh tế Hoa Kỳ là nhờ vào sức lao động của khoảng 4 đến 5 triệu người nô lệ da đen. Hiện nay nghiệp cảm của dân Mỹ da đỏ và người da đen không còn duy trì nơi 2 giống dân đó nữa mà trở thành cộng nghiệp chung của xứ Mỹ. Luật nhân quả âm thầm tác động vào kẻ chủ động lẫn nạn nhân, những gì đã gây cho người khác chắc chắn sẽ trở lại cho mình. Nơi vài xứ đã có nghiệp nặng nhưng có khuynh hướng làm giảm nhẹ bằng sự làm việc miệt mài như ở Dức, Nhật trong khi một số nước khác lao đầu vào men rượu, mà nếu dùng

! 155

Page 156: THE GIOI MOI 1

quá độ sẽ đi tới hậu quả ngược lại là kích thích thêm cảm xúc. Dân tộc Trung quốc làm giảm nhẹ cộng nghiệp một cách qui mô bằng cách tập luyện Taichi làm cho chính quyền cũng phải ngạc nhiên. Hằng ngày trên các đường phố và công viên, hằng triệu người thực tập lối thể dục thiền này để tĩnh lặng tâm trí. Cách này làm giảm bớt suy nghĩ và cảm xúc, khởi phát an trú trong hiện tiền. Thực tập tâm linh bao hàm cả vận động cơ thể như tập Taichi, Yoga… hiện nay cũng được phát triển rộng lớn ở phương Tây. Những thể dục này không gây chia cách giữa cơ thể và tâm linh, còn giúp làm giảm nhẹ cảm xúc con người. Chúng giữ vai trò quan trọng trong việc tỉnh thức của nhân loại. Cộng nghiệp của dân tộc, nòi giống hay nghiệp cảm riêng tư cá nhân chẳng khác gì nhau. Dù là trường hợp nào, con người đều có thể thoát ra bằng cách có trách nhiệm với chính nội tâm của mình. Nếu mình còn đổ thừa người khác tức còn nuôi dưỡng nghiệp cảm bằng tư tưởng của chính mình và tiếp tục bị bản ngã đánh lừa. Trên trái đất này chỉ duy nhất điều tai hại là tình trạng si mê của con người, chỉ khác nhau về mức độ thôi. Khi nhận ra điều này, chúng ta mới có lòng thông cảm và tha thứ thực sự. Khi đó nghiệp cảm sẽ giải tán và thay thế bằng

! 156

Page 157: THE GIOI MOI 1

bản tâm chân thật. Thay vì đổ lỗi cho si mê, ngu dốt, ta đem ánh sáng vào.

CHƯƠNG SÁU

VƯỢT THOÁT

Trước hết chúng ta phải NHẬN RA là ta có nghiệp cảm khổ thì ta mới thoát ra được. Kế đó quan trọng hơn nữa là bằng mọi khả năng AN TRÚ TRONG HIỆN TIỀN,để tiếp giáp với cảm xúc tiêu cực khi nó nổi lên. Khi ta nhận ra và giáp mặt với cảm xúc khổ, ta không nhập với nó, nó không thể giả làm ta nữa, không duy trì được và không tái diễn nữa. CHỈ DO SỨC TỈNH THỨC CỦA CHÍNH MÌNH MỚI THOÁT KHỎI ĐỒNG HÓA VỚI NGHIỆP CẢM. Khi hết đồng hóa với cảm xúc khổ, nó không thể tiếp tế cho tư tưởng nên không tái tục được. Trong thực tế, cảm xúc khổ không dễ dàng giải tán ngay, nhưng do ta biết có chỗ tiếp nối chắc chắn giữa cảm xúc và tư tưởng, cảm xúc sẽ giảm dần.

! 157

Page 158: THE GIOI MOI 1

Tư tưởng của ta không còn bị cảm xúc phủ trùm; năng lượng trước kia dồn vào cảm xúc đau, giờ đây chuyển tầng số trở thành sức sáng suốt. Bằng cách này cảm xúc trở thành tiếp tế cho tỉnh thức. Đây chính là lý do giải thích do đâu các bậc trí huệ trên thế giới đã từng có nghiệp cảm sâu dày. Dù mình là ai, làm gì hoặc hiện diện ra sao trên đời này, đều mang mối cảm xúc từ trong tiềm thức. Mỗi con người tiết ra một năng lượng tương ứng với nội tâm của mình. Một số người có cảm xúc quá mạnh nên lộ hẵn ra khi ta vừa gặp. Một lát sau, lời nói chữ nghĩa thay thế cho cuộc giao tiếp và phần lớn con người đều diễn vai trò chữ nghĩa. Kế đó sức chú tâm chuyển đổi vào trong phạm vi tư tưởng và hai luồng tư tưởng quan hệ với nhau, chứ không phải con người chân thật nên dễ có mâu thuẫn, xung đột. Khi chúng ta nhận ra cảm xúc đang kiếm tìm cảm xúc để có thêm đồng minh (bản ngã vận hành như vậy). Vai trò của nghiệp cảm rất rõ rệt trong các tai nạn giao thông. Có nhiều tai nạn xãy ra khi các tài xế bị cảm xúc khổ nổi lên. Có tài xế nổi cơn thịnh nộ trước hoàn cảnh nhỏ như con đường quá hẹp hay người lái xe phía trước quá chậm … Những người”bình thường “khác có lúc trở nên hung dữ, nơi tòa án luật sư thường biện hộ

! 158

Page 159: THE GIOI MOI 1

rằng, ”Vụ này hoàn toàn không phải là bản chất của thân chủ tôi”, và bị cáo cũng thường nói, ”Tôi không biết tác động nào đã khiến tôi hành xử như vậy”. Có lẽ một ngày không xa lắm, có luật sư sẽ biện hộ rằng, ”Đây là trường hợp giảm khinh vì thân chủ tôi trong lúc bị nghiệp cảm nổi lên nên ông ta không biết mình đang làm gì, chính cảm xúc khổ đã gây ra”. Nhưng nếu như thế con người không chịu trách nhiệm về những lỗi lầm đã lỡ phạm? Làm sao có thể có trách nhiệm khi con người đang mê? Tuy nhiên sự kiện này chỉ có tính cách tương đối thôi. Trong vạn vật, loài người có trù tính tiến hóa cao hơn và không muốn chịu những hậu quả khổ đau.

THỰC TẠI Một phụ nữ trạc 30 tuổi xin đến gặp tôi. Lúc chào hỏi lễ độ, cô không dấu được nổi đau khổ ẩn sau nụ cười gượng. Cô ta bắt đầu kể câu chuyện của mình và sau đó không dằn được cảm xúc, cô khóc nức nở. Thuở nhỏ, cô có người cha hung bạo và nghiện ngập đã hành hạ 2 mẹ con cô, mẹ cô đau buồn mất sớm, cô cảm thấy rất cô đơn và hụt hẫng. Tôi cảm thấy nổi đau khổ của cô không do hoàn cảnh hiện tại, mà do cô mang nặng nghiệp cảm tủi hờn. Cô nhìn cuộc đời qua màn

! 159

Page 160: THE GIOI MOI 1

lọc của cảm nghĩ khổ đau. Cô bị đồng hóa với tư tưởng và cảm xúc khổ. Cô ta chưa có thể nhận ra chính tư tưởng của mình tiếp tế cho cảm xúc, và cảm xúc nuôi dưỡng tư tưởng theo vòng lẫn quẫn ngày càng sâu đậm. Cô ta bị bắt buộc chìm đắm trong quá khứ tủi hờn giống như bị bịnh ghiền. Dù vậy cô ta cũng biết nổi đau xuất phát từ bên trong và cô muốn giải tỏa. Tôi bắt đầu hướng dẫn cô ta chú tâm vào cảm nhận bên trong, tiếp giáp trực tiếp với cảm xúc của mình. Cô ta đáp rằng tới đây để mong tôi chỉ cách thoát khỏi, chứ không phải để giáp mặt với khổ. Tuy nhiên cô cũng miễn cưỡng làm theo lời tôi. Toàn thân cô chuyển động, nước mắt cô ràn rụa. Tôi tiếp, ”Ngay lúc này cô cứ cảm nhận y như vậy, không có cách nào khác hơn. Thay vì muốn khác hơn tức thêm cảm xúc vào mối nghiệp cảm đã có. Cô chỉ cần hoàn toàn chấp nhận cảm nhận của mình trong hiện tiền” Im lặng một lúc, bỗng cô nôn nóng muốn bật dậy và tức giận nói, ”Không, tôi không muốn chấp nhận”. Tôi hỏi, ”Ai nói vậy? Cô hay là cảm giác khổ trong cô?” Tôi nói tiếp, ”Nếu cô không bận tâm đến mối sầu thì cái gì sẽ xãy ra? Cô không cần làm gì cả, cứ giáp mặt với cảm nhận, không chống đối là được rồi”

! 160

Page 161: THE GIOI MOI 1

Cô ta có vẽ bối rối một lúc, ngồi yên lặng một hồi, bỗng có chuyển đổi quan trọng nơi cô ta. Một lúc sau cô nói, ”Thật là kỳ lạ, tôi vẫn còn buồn nhưng làm như có khoảng cách bao xung quanh nổi buồn nên nó có vẻ giảm dần”. Tôi không nói gì thêm, để cô ta tự cảm nghiệm. Cô hiểu ra rằng lúc cô cô chú tâm vào cảm xúc mà không chống lại, nó không tiếp tế cho đầu óc cô nữa. Thật ra cảm xúc tự nó không phải là đau khổ, cảm xúc cộng với câu chuyện buồn mới thành khổ. Câu chuyện buồn do tư tưởng thiết lập hòa với cảm xúc khổ thành “cái tôi đau khổ”. Vì có câu chuyện buồn nên con người mới đau khổ. Chỉ có an trú trong hiện tiền mới thoát khỏi quá khứ hay là chấm dứt nghiệp cảm. Khi cô rời khỏi phòng, luồng khí âm u nặng nề hãy còn sót lại. Tôi mở các cửa sổ và đi ra ngoài ăn tối.

NGHIỆP CẢM TÁI DIỄN Tôi đi đến một tiệm ăn nhỏ của người Ấn ở gần nhà. Trong tiệm đã có rãi rác các thực khách. Gần bàn tôi có một người đàn ông trung niên ngồi trong xe lăn vừa dùng bữa xong. Người hầu bàn đến dọn dĩa, ông ta bắt đầu gây sự, ”Thức ăn gì tồi quá, dở ẹt! ”Hầu bàn đáp, ”Thế sao ông lại ăn?. ”Ông khách tức giận la

! 161

Page 162: THE GIOI MOI 1

mắng bằng những lời thô tục vang cả phòng ăn. Người ngoài có thể cảm nhận cường độ năng lượng trong từng tế bào của cơ thể đang tìm bất cứ gì để dính mắc vào. Những thực khách khác quay lại nhìn bị ông ta la mắng luôn. Tôi ngồi yên lặng an trú trong hiện tiền, hoàn toàn không dính vào hoàn cảnh. Người quản lý bước ra yêu cầu mọi người rời khỏi nhà hàng. Mọi người sững sốt nhìn người đàn ông thoát nhanh ra ngoài bằng chiếc xe lăn điện. Chỉ một phút sau ông ta trở lại, cảm xúc chưa ngưng buộc ông ta “quậy” tiếp. Dùng xe lăn vừa tông cửa vào, vừa chửi rủa ầm ỉ. Cô hầu bàn cố ngăn không cho ông ta vào. Ông ta đẩy mạnh, ép cô này sát vào tường. Các thực khác nhảy vào can thiệp bằng cách kéo ông ta ra. Tiếng la, tiếng hét náo động ồn ào. Mấy phút sau cảnh sát tới, yêu cầu ông ta ra khỏi nhà hàng và không được trở lại nữa. May mắn là cô hầu bàn không bị thương, chỉ có mấy vết bầm trên chân. Khi mọi chuyện kết thúc, viên quản lý đến bàn tôi, mĩm cười nói, ”Ông thấy chưa, chuyện không có gì mà thổi phồng lên”.

NGHIỆP CẢM CỦA TRẺ CON Trẻ con biểu lộ tánh khí bằng nhiều cách: thu mình lại ngồi một góc ôm búp bê hay nút ngón tay, hoặc khóc la thất thường, hay nhào lăn

! 162

Page 163: THE GIOI MOI 1

đập phá. Cha mẹ đứng nhìn không hiểu vì sao chỉ trong giây phút “thiên thần bé nhỏ” của họ biến thành con ”quái vật bé nhỏ”. Cha mẹ tự hỏi, ”Những bất hạnh này từ đâu tới?” và không biết xử lý ra sao. Thật ra trẻ con đã chịu ảnh hưởng của cộng nghiệp của loài người bắt nguồn từ bản ngã, chỉ khác nhau về mức độ nặng nhẹ mà thôi. Ngoài ra, chúng còn chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nghiệp cảm của cha mẹ. Đa số trẻ con chứng kiến bi kịch của cha mẹ tái đi tái lại nên chúng lớn lên với nghiệp cảm chất chồng. Hiện nay nhiều cha mẹ cố che dấu cảm xúc nặng nề trước mặt con trẻ bằng cách không gây hấn khi có mặt chúng. Tuy nhiên ngôi nhà sẽ tràn ngập năng lượng tiêu cực vì đè nén hay ngăn chận cảm xúc rất tai hại, những độc hại tinh thần này xâm nhập con trẻ làm mạnh thêm nghiệp cảm của chúng. Một số trẻ con có cha mẹ đều là người có bản ngã lớn và nghiệp cảm nặng, chịu ảnh hưởng từ trong máu. Do nó mục kích quá nhiều những thảm kịch của cha mẹ, lớn lên nó tự hỏi, ”Làm sao để giúp cha mẹ thóat khỏi khổ đau?”. Bên trong nó có sẵn hiểu biết về sự mê lầm của cha mẹ nên nó bớt hấp thụ nghiệp cảm từ họ. Trước khi tự hỏi làm sao đối phó với cảm xúc con trẻ, cha mẹ nên tự hỏi mình trước :

! 163

Page 164: THE GIOI MOI 1

-”Mình có nhận ra cảm xúc tiêu cực bên trong của chính mình? -Mình ứng xử ra sao khi cảm xúc nổi lên? -Mình có bình tỉnh giáp mặt với cảm xúc để nó không tiếp tế cho tư tưởng, biến mình thành kẻ đau khổ? Trong lúc đứa trẻ bị cảm xúc tấn công, người lớn chỉ cần giữ bình tỉnh, an trú trong hiện tại để không bị dính mắc và không phản ứng. Nên biết cảm xúc rất cần được tiếp tế nuôi dưỡng nhất là của người thân, do đó chúng ta đừng mắc kẹt vào,đừng nhập cuộc. Khi cảm xúc trẻ con bộc phát dữ dội, người lớn đừng quá bận tâm, đừng chìu theo đòi hỏi của chúng, chúng sẽ quen thói “càng làm dữ, càng được cái tôi muốn”. Thói này sẽ dẫn tới tai hại cho nó mai sau. Do người lớn giữ bình tỉnh không phản ứng, cảm xúc trẻ con mất tác dụng, sẽ mau lắng dịu hơn. Một lúc sau hoặc ngày mai, ta có thể hỏi nó những câu như sau, không nói về cảm xúc: - Hôm qua cái gì đã khiến con la khóc như vậy? - Cái đó có tốt không? - Nó có tên không, nó giống cái gì, con vẽ được không? - Khi nó ngừng, nó đi đâu? Phải nó đi ngủ không? Những câu hỏi đề nghị trên đây để khơi dậy khả năng mục kích thực tại nơi con trẻ, giúp

! 164

Page 165: THE GIOI MOI 1

chúng bớt dính vào nghiệp cảm. Người lớn cũng nên nói với con trẻ về nghiệp cảm của chính mình bằng ngôn ngữ của trẻ con. Có thể gọi nghiệp cảm là “bé xấu” và dùng cái gương để chỉ hình bé xấu trong đó. Mỗi khi nó lên cơn, có thể chỉ cái gương và nói, ”bé xấu đến kìa, không chơi với bé xấu, cho nó đi ngủ đi…” Hướng dẫn trẻ con chú ý đến cảm nhận của nó. Điều quan trọng là người lớn lúc nào cũng nên giúp đỡ con trẻ, chứ không chỉ trích và áp đảo chúng. Không phải là nghiệp cảm của con trẻ chấm dứt ngay, và cũng có thể đúa bé không nghe theo, nhưng người lớn cứ kiên nhẫn giữ bình tỉnh là cái gương tốt cho nó. Trẻ con nhớ dai, sau nhiều lần nghiệp cảm sẽ yếu dần, đứa trẻ lớn lên trong sáng suốt. Sau này chính con cái mình sẽ nhắc nhở cho người lớn khi cảm xúc tiêu cực nổi lên. KHỔ ĐAU Không phải tất cả đau khổ đều do nghiệp cảm, một số là do những phiền hà mới mẻ khi ta không an trú trong hiện tiền. Khi ta nhận ra hiện tại luôn sẵn có, trong lòng ta có sự hòa hiệp. Ta không tạo thêm phiền muộn mà còn tăng cường nội lực do không phản đối bên trong. Thường cảm xúc đau khổ vượt quá mức nguyên nhân gây ra hay là con người thường

! 165

Page 166: THE GIOI MOI 1

có những phản ứng quá tải. Sự việc tương đối không đáng kể mà người có nghiệp cảm mạnh cũng phản ứng dữ dội. Họ nhìn hiện tại bằng cặp mắt của quá khứ nên hoàn toàn sai lệch. Điều họ thấy và nghe không phải ở trong hoàn cảnh mà là ở bên trong. Phản ứng và thổi phồng là những thứ nghiệp cảm cần để tiếp tế và nuôi dưỡng bản ngã. Người có nghiệp cảm nặng do dính chặt vào “câu chuyện riêng “của mình. Câu chuyện càng lắm tiêu cực, nghiệp cảm càng sâu dày và họ tưởng lầm đó là sự thật nên khó thoát ra được. Họ bị dính kẹt trong ảo tưởng và tự tạo địa ngục ở trần gian.

CHẤM DỨT ĐỒNG HÓA VỚI NGHIỆP CẢM Người mang nghiệp cảm sâu dày thường thấy mình ở vào các hoàn cảnh trái nghịch. Tánh khí người này bộc lộ rõ rệt đủ gây xung khắc và thù nghịch. Khi gặp gỡ hạng người này, chúng ta nên thu ngắn cuộc tiếp xúc hoặc cần có sức tỉnh thức cao để tránh không phản ứng. Nếu ta có khả năng an trú trong hiện tiền, có thể khiến người kia thoát khỏi đồng hóa với nghiệp cảm, dù trong ngắn ngủi, nhưng họ kinh nghiệm được sức tỉnh thức bất ngờ giúp họ khai mở tiến trình tỉnh sáng.

! 166

Page 167: THE GIOI MOI 1

Tôi đã chứng kiến sự kiện này cách đây nhiều năm. Lúc đó gần 11 giờ đêm, bỗng chuông cửa nhà tôi reo lên. Bà hàng xóm tên Ethel nói với tôi qua máy liên lạc, giọng đầy lo âu, ”Chúng tôi cần gặp ông, có chuyện rất quan trọng, xin cho tôi vào”. Bà Ethel vào khoảng trung niên, thông minh và học thức cao. Bà có bản ngã lớn và mang nghiệp cảm nặng. Do bà thoát khỏi Đức quốc xã lúc còn niên thiếu trong khi nhiều người thân bỏ mạng trong những trại tập trung. Bà Ethel buông mình trên chiếc ghế dài, hai tay run rẫy rút xấp thư từ giấy má thả tung tóe trên ghế và sàn nhà. Khi đó tôi ngồi yên lặng chú tâm trong hiện tiền. Tôi ngồi nhìn bà, lắng nghe không suy tưởng, không phán đoán. Bà tuôn ra một tràng dài, ”Họ tiếp tục gửi thư cho tôi để gây rối rắm. Họ thù tôi lâu rồi. Ông phải giúp tôi để chống lại chúng. Luật sư gian lận của họ làm tôi mất nhà cửa, chúng hăm dọa tước đoạt hết sở hữu của tôi….” Bà Ethel nói hơn 10 phút, tôi chỉ yên lặng và lắng nghe. Đột nhiên bà ta ngưng nói, nhìn những giấy tờ ngỗn ngang như vừa ra khỏi cơn mơ. Bà ta dịu lần và trở nên dễ chịu rồi nói, ”Sự việc này đâu có gì quan trọng phải không ông? Tôi đáp, ”Phải, không có gì quan trọng cả”. Bà Ethel ngồi im lặng thêm vài phút nữa rồi nhặt hết giấy tờ và rút lui.

! 167

Page 168: THE GIOI MOI 1

Qua hôm sau, gặp tôi dưới phố, bà ngừng lại chào và hỏi, ”Ông đã giúp gì tôi tối hôm qua. Lần đầu tiên tôi ngủ rất ngon, y như đứa trẻ thơ. Thay vì hỏi tôi đã làm gì, lẽ ra bà ta nên hỏi tại sao tôi không làm gì. Do tôi không phản ứng, không phán đoán chuyện của bà là đúng hay sai, nghĩa là không tiếp tế cho tư tưởng và cảm xúc của bà. Tôi để cho bà cảm nhận thực tại trong lúc đó. Tuy nhiên những gì bà kinh nghiệm chưa phải là chuyển đổi thường trực, mà chỉ là thoáng chốc thức tỉnh rỗng rang; bước ngắn ngủi thoát ra khỏi tiếng nói trong đầu. Đó là sự trỗi dậy của nội tâm thênh thang mà trước kia bị phủ trùm bởi tư tưởng và cảm xúc rối rắm. Duy trì sáng suốt trong hiện tại luôn luôn là sức mạnh vô hạn, dù đôi khi im lặng có thể làm tăng lời nói hay hành động. Người ta tưởng giữ yên lặng, không nói, không làm gì cả nghĩa là không quan tâm, không giúp, không có tình thương. Thật ra, giữ yên lặng là giao tiếp ở mức độ sâu hơn là tư tưởng và cảm xúc. Ở mức độ đó mới có quan hệ chân thật vì mình và người đồng có bản thể đồng nhất, từ đó phát sinh tình thương chân thật tức lòng từ.

NGHIỆP CẢM BỘC PHÁT

! 168

Page 169: THE GIOI MOI 1

Một số người chỉ phản ứng dữ dội đối với hoàn cảnh đặc biệt, thường là phản ảnh nghiệp cảm đã chịu trong quá khứ. Chẳng hạn đứa trẻ sống với cha mẹ bị vấn đề tài chánh là nguyên do của thảm kịch thường xuyên, nó bị nhiễm cảm xúc lo âu về tiền bạc. Lớn lên nó dễ phiền giận dù đối với số tiền nhỏ không đáng kể. Nó có thể thông minh, học thức cao mà vẫn la lớn buộc tội người địa ốc hay người bán cổ phiếu qua điện thoại. Tiền bạc có thể gây bộc phát nghiệp cảm làm con người mê mờ hoàn toàn. Một số trẻ con bị cha mẹ bỏ bê sẽ bộc phát nghiệp cảm với hoàn cảnh phản ảnh mối đau lúc trẻ bị bỏ rơi. Chẳng hạn người bạn đời đi làm về trễ, người bạn đón trễ vài phút ở phi trường… Nếu người bạn đời rời xa hay mất đi, cảm xúc sẽ vượt mạnh nghiệp cảm đã có sẵn, làm mạnh thêm và kéo dài mối đau khổ. Một người nam thuở bé bị mẹ hất hủi, lớn lên sẽ mang nghiệp cảm trái nghịch: vừa khao khát tình mẹ vừa thù ghét phụ nữ. Người này bị bắt buộc phải cám dỗ và chinh phục hầu hết phụ nữ y gặp. Nhưng khi quan hệ trở thành mật thiết, nghiệp cảm oán giận người mẹ sống dậy và làm tan rã mối quan hệ. Dù bất cứ hoàn cảnh nào, khi nghiệp cảm bộc phát, chỉ cần lập tức nhận diện cảm xúc và duy trì sáng suốt. Cảm xúc không thể biến thành ta. Lúc đó nếu có người bạn đời bên

! 169

Page 170: THE GIOI MOI 1

cạnh, ta nên nói, ”Lời nói và hành động của cô khiến nghiệp cảm tôi nổi dậy”. Ta nên có thỏa hiệp trước với người bạn là người nào làm hay nói bất cứ gì làm nghiệp cảm người kia nổi dậy, thì phải nói lớn lên. Theo cách này, nghiệp cảm không còn tái diễn gây thảm kịch trong quan hệ và thay vì đẩy vào mê lầm, sẽ giúp trở nên sáng suốt. Nghiệp cảm còn sót lại sẽ giảm dần, tuy nó vẫn chờ dịp để trổi dậy, nhất là khi mình thiếu sáng suốt như vừa uống xong chút rượu hay sau khi xem phim bạo động. Cho dù là cảm xúc nhỏ nhất như bứt rứt, không thoải mái cũng có thể làm nghiệp cảm tái diễn. Nghiệp cảm chỉ tồn tại trong mê mờ, mỗi khi nó nổi dậy mà ta vẫn sáng suốt, dần dần nó bị tan rã và thay thế bằng trạng thái sáng suốt hiện tiền.

NGHIỆP CẢM TRỞ THÀNH ĐỘNG LỰC TỈNH THỨC Thoạt nhìn, nghiệp cảm có vẻ là trở ngại lớn nhất cho tỉnh sáng của con người. Bởi nó làm sai lệch tư tưởng, làm đổ vỡ quan hệ, làm hao mòn sinh lực con người, gây tạo đau khổ cho mình và cho người. Cảm xúc là một phần của bản ngã giả.

! 170

Page 171: THE GIOI MOI 1

Khi lâm vào hoàn cảnh quá bi đát, nghiệp cảm nổi lên mãnh liệt khiến cho cơ thể bị bịnh. Cảm xúc khủng hoảng kéo dài khiến họ không thể chịu dựng nữa, cơ cấu đầu óc vị ngã bị phá hủy tương tợ như máy móc điện tử có thể tăng cường độ bằng dòng điện, nhưng khi điện áp quá cao máy sẽ bị phá hỏng. Một số người diễn tả sự kiện này một cách rõ ràng rằng họ đã chán sống trong đau khổ. Cũng như tôi lúc xưa, không thể sống với chính mình được nữa. Họ chọn trạng thái an bình. Như vậy cảm xúc cùng cực đã đẩy họ thoát khỏi dính mắc trong tư tưởng và cơ cấu tình cảm đã tạo dựng cái”tôi đau khổ”. Nghiệp cảm trở thành động lực đưa họ đến thức tỉnh. Hiện nay chúng ta đang chứng kiến phong trào chưa từng có trên trái đất. Nhiều người không cần trãi qua đau khổ nhiều mới thoát khỏi đồng hóa với nghiệp cảm. Họ có thể “chọn” ra khỏi dính mắc vào tư tưởng và cảm xúc. Họ từ bỏ phản ứng, trở nên yên lặng và sáng suốt, hòa nhập với bên trong lẫn bên ngoài. Đây là sự lựa chọn sáng suốt của con người theo đà tiến hóa chung. Ai làm việc lựa chọn này? Chính bạn. Bạn là ai? Là sức tỉnh sáng.

TIÊU TRỪ NGHIỆP CẢM ! 171

Page 172: THE GIOI MOI 1

Người ta hay hỏi,” Bao lâu người ta sẽ dứt trừ nghiệp cảm?”. Dĩ nhiên là tùy thuộc vào 2 phương diện: mức độ nhiều ít của nghiệp cảm và sức tập trung tỉnh thức của người đó. Chính do bị đồng hóa với nghiệp cảm mà con người bị kẹt trong đó hoài. Cho nên câu hỏi quan trọng là: ”Bao lâu ta thoát khỏi đồng hóa với nghiệp cảm?” Câu trả lời là ,”Chẳng có thời gian nào cả? Mỗi khi nghiệp cảm hoạt động, chỉ cần nhận ra ,trực diện với nó và chấp nhận”. Như vậy nghiệp cảm cũ không xử dụng được mình và tái diễn nữa. Qua sự chấp nhận, để cho mọi việc xãy ra “đang là”, nội tâm ta bắt đầu chuyển hóa, trở nên thênh thang, thanh thản. Ta không còn là phần tử lẻ loi nữa, hòa nhập với tổng thể làm một, hòa nhập vời Thượng đế. Chúa Jesus đã nói, ”Hãy tự đầy đủ như Cha cũng tự đầy đủ”.

! 172

Page 173: THE GIOI MOI 1

CHƯƠNG BẢY

NHẬN RA MÌNH CHÂN THẬT

Vào thời cổ xưa, trên cổng đền thờ Oracle ở Delphi, một thành phố cổ Hy Lạp, có khắc mấy chữ ”Hãy biết mình là ai” (know thyself). Khách đến viếng không nhận ra chân lý sâu sắc ẩn sau huấn thị nói trên. Mấy chữ này hàm ý rằng câu hỏi đầu tiên thiết yếu nhất đời người là : Mình là ai? Đối với những người mê lầm, bị dính kẹt trong bản ngã suốt đời, sẽ mau mắn trả lời rằng : mình là tên tuổi, nghề nghiệp, quá khứ, hình dáng, tình trạng sức khỏe và tất cả những gì họ đồng hóa vào. Một số người có vẻ tiến hóa hơn, nghĩ rằng mình là linh hồn bất tử hay linh thiêng. Nhưng họ chỉ cộng thêm vô đầu những ý tưởng về thần linh. Thật ra biết rõ mình là ai thâm sâu hơn nhiều, không phải chỉ chấp nhận một số những ý kiến hay tín điều. ”Biết chính mình”

! 173

Page 174: THE GIOI MOI 1

một cách thâm sâu chẳng dính dáng gì đến những tư tưởng nhảy múa trong đầu.

MÌNH LÀ AI? Cảm nghĩ mình là ai sẽ quyết định nhận thức của mình về những vấn đề mình cho là quan trọng; những vấn đề có tác dụng gây phiền não. Do đó mình sẽ phản ứng và hành động. Có thể tự hỏi, ”Những sự việc gì gây phiền não cho mình?”; nếu là những việc nhỏ thì rõ ràng mình nghĩ mình là nhỏ. Mình đã lầm lẫn vì mọi sự việc đều biến đổi, đến rồi đi nên không có gì quan trọng. Có người nói, ”Tôi quá mệt mỏi trong thế giới hỗn tạp này, tôi chỉ mong có an bình”. Nhưng khi hoàn cảnh xấu xãy đến như: thị trường chứng khoán suy sụp, xe hơi bị mất cắp, làm ăn bị thất bại, hoặc bị kiện, hay người bạn đời rời xa… thì lo âu, tức giận kéo đến. Rồi kế đến là phản ứng và hành động : đổ lỗi, tự bào chữa, phòng thủ, tấn công… tất cả diễn ra một cách tự động. Rõ ràng những chuyện này bạn coi là quan trọng hơn an bình của chính mình, mà mới vừa qua bạn nói bạn chỉ mong có an bình thôi. Do cái “tôi tầm thường nhỏ bé” hay là bản ngã lúc nào cũng muốn an toàn và hoàn hão trong thế giới hình tướng luôn thay đổi.

! 174

Page 175: THE GIOI MOI 1

Nếu an bình là điều bạn mong muốn thực sự thì bạn sẽ chọn an bình. Nếu an bình quan trọng hơn bất cứ gì khác trên đời thì bạn sẽ tuyệt đối sáng suốt để không phản ứng với bất cứ người hay hoàn cảnh nghịch ý. Do đó chúng ta nên tập chấp nhận và dung hòa, hội nhập với hoàn cảnh hơn là chống đối và chia cách. Lối ứng xử này rất hiệu quả, không biến người hay hoàn cảnh trở thành thù nghịch với mình và người. Qua cách ứng phó với người và hoàn cảnh, nhất là khi gặp trở ngại là cách chứng tỏ hay nhất để biết “mình là ai?” Thế giới bao giờ cũng muốn chỉ cho con người những gì thực sự quan trọng để chắc chắn không bị mê lầm quá lâu. Người nào càng ích kỷ hẹp hòi thì càng nhìn thấy ích kỷ, hẹp hòi nơi người khác. ”Lỗi lầm của họ đối với mình là nhân cách của họ. Mình chỉ nhìn thấy bản ngã của họ nhưng cũng chính là bản ngã của mình và như vậy bản ngã sẽ mạnh thêm hoài. Khi biết mình không phải là bản ngã, không có nghĩa là “biết mình là ai”, nhưng sự mê lầm lớn lao nhất đã được tháo gỡ. Không ai có thể làm cho bạn biết mình là ai, vì bạn đã sẵn là ai rồi. Nhưng nếu mình không nhận ra, cái ta chân thật đó không chiếu sáng vào thế giới này. Nó ở trong thế giới không

! 175

Page 176: THE GIOI MOI 1

hình tướng nhưng là ngôi nhà thực sự của mình. Tương tợ như một người nghèo khổ không biết mình có một chương mục khổng lồ trong ngân hàng nên gia tài của y chỉ là tiềm lực ngấm ngầm thôi.

THỊNH VƯỢNG Với cảm nghĩ mình là ai cũng ảnh hưởng sâu đậm đến việc người khác đối xử với mình ra sao. Nhiều người than phiền họ không được đối xử tốt: ”Tôi không được kính trọng, không được chú ý… Khi có ai đối xử tốt, họ liền nghi ngờ: ”Chắc muốn lợi dụng tôi, muốn điều khiển tôi…” Do nghĩ mình là cái ”tôi tầm thường nhỏ bé” luôn khao khát và không được đáp ứng. Nhận thức lầm lẫn căn bản này gây tạo sai lệch trong mọi giao tiếp. Họ tưởng họ bất tài không có gì để cho, nên người khác cũng từ chối họ. Khi một người nghĩ rằng mình thiếu thốn – dù là thiếu tiền, tình hay danh vị- người đó sẽ luôn thấy thiếu. Người nào nhận ra trong tâm đã mang sẵn mọi đầy đủ tốt lành là người đó thịnh vượng. Sự thật là do ý nghĩ là mình yếu kém, chẳng có gì ban cho thế giới, nên tưởng là thế giới cũng đối xử với mình y như vậy.

! 176

Page 177: THE GIOI MOI 1

Bạn hãy thử trong vài tuần, sẽ thấy sự thay đổi. Bất cứ gì bạn nghĩ người khác từ chối mình như săn sóc, giúp đỡ, thân thiện, biết ơn… bạn hãy làm cho họ. Những gì mình nghĩ là thế giới từ chối mình, thực ra mình đã có sẵn, nhưng nếu không ban ra , mình cũng không biết là đã có sẵn. Sau khi cho ra, chẳng bao lâu bạn chắc chắn sẽ nhận lại. Đó mới thực sự là thịnh vượng. Luật nhân quả được chúa Jesus diễn tả bằng hình ảnh mạnh mẽ: “Hãy cho và bạn sẽ được cho lại, hãy ban bố và bạn sẽ được nhận lại. Ông thánh Fuca viết lại trong kinh thánh: “Hãy cho ra, người sẽ cho lại mình. Người sẽ lấy đấu lớn, bỏ vô đầy tràn, lắc cho xuống, nhận ém chặt rồi trao với tình thương. Các ngươi lường mực nào thì họ cũng lường lại cho các ngươi mực ấy” Suối nguồn hạnh phúc không phải do bên ngoài mà là có sẵn ở bên trong. Nhưng ta phải bắt đầu trước tiên bằng cách nhận ra thịnh vượng ở bên ngoài, nhận ra xung quanh ta đời sống thật tốt đẹp: cơ thể được sưởi ấm dưới ánh nắng, bông hoa xinh tươi tỏa hương thơm, cây trái ngọt ngào nuôi sống ta, dòng nước tuôn chảy làm mát mẻ… Đời sống quả là đầy đủ trong từng giai đoạn. Suối nguồn hạnh phúc chung quanh được nhận ra sẽ đánh thức thịnh vượng ngủ ngầm ở bên trong. Kế hãy ban phát

! 177

Page 178: THE GIOI MOI 1

: khi mĩm cười với một người xa lạ, tức đã có phút giây ban phát. Nên tự hỏi mình luôn: ”Tôi có thể cho gì ở đây? Tôi có thể làm gì cho người này hay trong hoàn cảnh này?” Không cần phải sở hữu mới cảm thấy thịnh vượng. Nhưng nếu bạn thấy thịnh vượng luôn luôn thì mọi vật sẽ đến với bạn. Thịnh vượng chỉ đến với người đã có sẵn. Đầy đủ hay thiếu thốn là trạng thái bên trong biểu lộ bản chất của con người. Chúa Jesus nói, ”Đối với người sẵn có, sẽ được nhận lại nhiều hơn. Còn người không biết đủ, cho dù hắn có cũng sẽ bị mất”

BIẾT MÌNH và BIẾT VỀ MÌNH Nhiều người không muốn biết mình vì lo ngại ngấm ngầm rằng mình là người xấu, sợ kẻ khác tìm ra. Trái lại có người quá tò mò muốn biết về mình đến nổi nhờ nhà phân tâm học tìm tòi lục lạo thời còn thơ, tìm ra hằng hằng lớp lớp hỗn tạp đã khoác lên nhân cách và tánh tình của họ. Sau 10 năm vị bác sĩ mệt mỏi về bạn và câu chuyện của bạn, cho bạn rời khỏi với tập hồ sơ dày 5 ngàn trang. Ông ta nói cuộc nghiên cứu chấm dứt, ”Đây là tất cả về bạn, nói lên bạn là ai”. Khi đem tập hồ sơ dày cộm về nhà, cảm giác thỏa mãn ban đầu chóng qua, trở lại cảm giác bất an về mình và nghi

! 178

Page 179: THE GIOI MOI 1

ngờ ngấm ngầm rằng phải có cái gì hơn là mình như vậy. Thật ra là có hơn, không phải là số lượng nhiều dữ kiện mà là phẩm chất tinh túy bên trong của con người. Chẳng có gì sai quấy đối với phân tâm học hay tìm tòi quá khứ miễn là mình đừng lẫn lộn những điều biết VỀ mình và BIẾT MÌNH. Tập hồ sơ 5 ngàn trang là nói VỀ mình tức ký ức. Ký ức mình chứa trong tàng thức (quá khứ) không phải là nguồn sống chân thật. Muốn ra khỏi tàng thức phải vượt thoát bản ngã. Mình phải hiện hữu với chính mình mới không bị tàng thức đồng hóa. Đa số người dính mắc vào tàng thức họ chứa. Tất cả những suy nghĩ, hành động, kinh nghiệm đều dược tàng trữ. Khi họ suy nghĩ hay nói “đời tôi” họ không đề cập đời sống hiện hữu mà là đời sống CÓ thứ này, thứ kia… Con người luôn đề cập đến vật chứa như : tuổi tác, nghề nghiệp, sức khỏe, tài chánh, quan hệ, hoàn cảnh và trạng thái cảm xúc của mình; những hoàn cảnh bên ngoài và bên trong, quá khứ và tương lai, đều thuộc phạm vi chứa đựng. Duy chỉ quan trọng nhất là nguồn sống bên trong cho phép mọi sự vận hành, tức là sức tĩnh sáng của con người.

! 179

Page 180: THE GIOI MOI 1

TÌNH TRẠNG HỖN TẠP và TÌNH TRẠNG TRẬT TỰ CAO HƠN Người nào chỉ biết mình qua những vật chứa, sẽ phân biệt tốt hoặc xấu cho mình, sẽ có nhận thức phân tán và rời rạc. Thật ra đời sống là hợp nhất trong đó mỗi sự việc đều có phần hành cần thiết của nó trong tổng thể và đều liên hệ nhau. Những sự việc lần lượt xãy ra trong đời người cũng như trên thế giới đều ẩn chứa trật tự và mục tiêu cao hơn. Nhà Thiền có câu “Khi tuyết rơi, mỗi bông tuyết rơi vào vị trí thích hợp”. Trí óc con người không bao giờ hiểu trật tự cao (sự sắp xếp thiên nhiên) bởi bất cứ gì ta nghĩ đều ở trong phạm vi chứa đựng, trong khi trật tự cao xuất phát từ thế giới không hình tướng, từ sự bén nhạy của vũ trụ. Tuy nhiên chúng ta có thể nhìn thấy, hơn nữa chúng ta có thể hòa nhập hay chia xẻ với sự sắp xếp tự nhiên. Khi chúng ta đi vào một khu rừng chưa có bàn tay con người can thiệp vào, trí óc chỉ thấy sự hỗn độn, vô trật tự. Ngay cả trí óc cũng không thể phân biệt giữa sự sống và sự chết tuy khắp nơi đều có mầm sống mới vươn lên từ mục nát. Khi nào tư tưởng lắng dịu, bên trong đủ tĩnh lặng, chúng ta mới cảm nhận một sự hòa điệu âm thầm, một trật tự hài hòa, nhịp nhàng trong đó mọi vật có vị trí hoàn hão của

! 180

Page 181: THE GIOI MOI 1

nó và không gì tốt hơn là giữ nguyên vẹn như vậy. Nơi công viên cây cảnh trật tự đẹp đẽ mà con người thấy thích hơn vì nó đươc xây dựng qua tư tưởng. Nơi đây có sự sắp xếp mà đầu óc có thể hiểu được. Trong rừng rậm, sự sắp xếp không thể hiểu được mà đầu óc cho là hỗn độn. Nó vượt ra ngoài sự phân biệt của tư tưởng về đẹp và xấu. Tuy nhiên khi ta lắng lòng, ta có thể cảm nhận sự sắp xếp đó, mà không cần cố gắng tìm hiểu hay diễn dịch. Chỉ khi ta tĩnh lặng chú tâm vào sự kỳ diệu của rừng rậm, ta cảm nhận sự hài hòa thầm lặng, cùng lúc ta nhận ra ta không cách biệt với nó. Bằng cách này thiên nhiên có thể giúp con người trở lại hòa nhập với nguồn sống bên trong.

TỐT VÀ XẤU Trãi qua cuộc đời, đa số người đã kinh nghiệm không chỉ có thành đạt, thắng lợi, mạnh khỏe, vui sướng, mà cũng có thất bại, mất mát ,già yếu ,đau khổ và chết. Thông thường trí óc cho là “tốt” hay “xấu” hoặc ổn hay không ổn. Ý nghĩa của đời người đặt trọng tâm vào những cái “tốt”, nhưng nó luôn bị đe dọa cho dù có bao nhiêu hợp đồng bảo hiểm đi nữa. Những xáo trộn (cái xấu) đến bất cứ lúc

! 181

Page 182: THE GIOI MOI 1

nào như tai nạn, đau bịnh, mất mát, già yếu và chết. Tuy nhiên hậu quả của suy sụp có thể dẫn đến lối vào trật tự cao hơn. Tư tưởng con người đã cô lập hoàn cảnh khi cho là tốt hay xấu, sự phân chia này là ảo tưởng, nhưng có vẻ rất thật khi mình dính vào đó. Thật ra vũ trụ là một tổng thể hợp nhất trong đó vạn vật liên hệ với nhau chặt chẽ, không có vật nào riêng rẽ tách biệt cả. Trí óc tạo ra nhãn hiệu “tốt/xấu” hoàn toàn là ảo tưởng. Nó chỉ có tính cách tương đối và tạm thời mà thôi. Câu chuyện sau đây minh chứng điều này: Trong một cuộc xổ số, một người sáng suốt trúng một chiếc xe đắt giá. Gia đình và bạn bè ông ta đến chúc mừng. Họ nói, ”Tốt quá! Ông thật là may mắn”. Người đàn ông mĩm cười nói, ”Có lẽ vậy”. Trong mấy tuần đầu, ông ta thưởng thức lái chiếc xe mới. Sau đó, ông ta bị một tên say rượu đụng vào khi đang lái xe, ông bị thương nặng. Gia đình và bạn bè tới thăm chia buồn. Họ nói, ”Thật là không may cho ông!”. Ông ta cũng mĩm cười, ”Có lẽ vậy”. Trong lúc nằm viện, khu nhà ông cư ngụ bị đất chùi rơi xuống biển cả. Bạn bè đến thăm nói, ”Ông thật là may mắn!”. Ông ta vẫn cười nói, ”Có lẽ vậy”. Người đàn ông tĩnh thức chỉ nói ”Có lẽ vậy” tức là ông từ chối phán đoán bất cứ hoàn cảnh

! 182

Page 183: THE GIOI MOI 1

nào xãy đến. Thay vì để trí óc phán đoán tô điểm này nọ, ông chấp nhận mọi hoàn cảnh nên vẫn sáng suốt an nhiên thanh thản. Do trí óc bị hạn hẹp, tưởng là những biến cố xãy ra ngẫu nhiên. Thật ra chúng đan kết vào nhau, không có hoàn cảnh hay sự vật nào tự hiện hữu biệt lập nên không có biến cố nào là ngẫu nhiên. Nếu muốn truy tầm nguyên nhân của bất cứ sự vật nào, ta phải đi ngược lại từ khởi thủy. Trật tự của vũ trụ không có hỗn độn mà đã được sắp xếp, nhưng trí óc con người chưa thấu hiểu tuy đôi lúc cũng thấy thoáng qua.

KHÔNG BẬN TÂM VÀO HOÀN CẢNH Ông krishnamurti, nhà hiền triết Ấn Độ nổi tiếng cũng là giáo học tâm linh, đã du hành khắp thế giới hơn 50 năm để truyền đạt chân lý. Về cuối đời, ông ban cho cử tọa chìa khóa cốt yếu để nắm vững. Ông hỏi, ”Các người muốn biết bí mật của tôi không?”. Mọi người chăm chú nhìn. Ông nói tiếp, “Bí quyết của tôi là không bận tâm vào bất cứ hoàn cảnh nào xãy đến”. Ông không giải thích thêm nên có thể cử tọa càng bối rối, tuy nhiên câu nói đơn giản của ông hàm ý sâu sắc vô cùng. Không bận tâm có nghĩa là bên trong hoàn toàn chấp nhận chuyện xãy ra trong hiện tiền, nội tâm

! 183

Page 184: THE GIOI MOI 1

ngang hàng bình đẳng với sự việc nên không chống đối. Do trí óc không phân biệt tốt xấu, không phán đoán, không dán nhãn hiệu, cho phép sự việc diễn ra như vậy là như vậy. Có phải thái độ này khiến mình ù lì, không thăng tiến trong đời?.Thật ra không phải như vậy mà ngược lại, khi ta an trú trong hiện tại sáng suốt, nếu có hành động nào cũng đều là tốt cả.

“THẾ À” Ở Nhật có vị thiền sư tên Hakuin được nhiều người kính nể và thường đến nghe ông dạy pháp. Trong xóm có một gia đình có cô gái bị mang thai, cha mẹ cô giận dữ tra hỏi thì cô quýnh quáng nói thủ phạm là thiền sư Hakuin. Quá phẫn nộ, cha mẹ cô ta chạy tới la ó chửi mắng, thiền sư chỉ trả lời, ”Thế à”.Tin xấu truyền đi khắp làng và lan ra xa. Thiền sư mất hết tiếng tốt, chẳng ai tìm gặp ông ta nữa. Tuy nhiên vị thầy vẫn bất động. Khi đứa bé chào đời, cha mẹ cô gái bồng đến trao cho thiền sư ,”Ông là cha, vậy hãy nuôi nó đi”. Thiền sư thản nhiên không phản đối, còn nuôi nấng đứa bé tận tình dù gặp rất nhiều khó khăn. Một năm qua, mẹ đứa bé quá hối hận, thú nhận với cha mẹ rằng người cha thật sự của đứa nhỏ là người làm công ở hàng thịt. Cha mẹ cô gái xấu

! 184

Page 185: THE GIOI MOI 1

hổ quá, cả gia đình tới chùa tạ ơn thiền sư, xin tha lỗi và đem đứa bé về. Vị thầy trao đứa bé và cũng chỉ nói,”thế à”. Thái độ của vị thiền sư trước việc giả và thật, tin xãy đến xấu hay tốt đều giống nhau. Vị thầy chấp nhận hiện trạng y như vậy, không tham dự vào bi kịch của con người. Đối với ông chỉ có duy nhất ngay lúc này tức như thị. Những hoàn cảnh không phải đến cho riêng ai và ông không phải là nạn nhân của ai cả. Ông hòa nhập với mọi hoàn cảnh nên dù sự việc gì xãy ra cũng chẳng ảnh hưởng đến tâm ông. Khi chúng ta chống đối và phản ứng lại hoàn cảnh thì ta sẽ bị hoàn cảnh chi phối và ta để cho bên ngoài quyết định hạnh phúc hay đau khổ của ta. Do không chống đối nên hoàn cảnh xấu cũng trở thành tốt : đứa bé được vị thiền sư chăm sóc chu đáo và người mẹ được yên thân. Sau đó lúc gia đình yêu cầu lấy đứa bé lại, thiền sư luôn làm theo hiện trạng cho phép. Chúng ta hãy tưởng tượng ngắn gọn bản ngã của một người “bình thường” phản ứng ra sao trong suốt những giai đoạn khác nhau của hoàn cảnh trên và kết quả sẽ thảm hại như thế nào.

! 185

Page 186: THE GIOI MOI 1

BẢN NGÃ và THỜI HIỆN TẠI Có thể định nghĩa bản ngã tức là quan hệ lầm lẫn với thời hiện tại. Đời người quan trọng nhất là quan hệ với những gì xãy ra trong hiện tại. ĐỜI SỐNG BAO GIỜ CŨNG DIỄN RA TRONG HIỆN TẠI, CHỨ KHÔNG PHẢI NHỮNG HOÀN CẢNH ĐẾN RỒI ĐI. Chúng ta có thể quyết định mình quan hệ thế nào với thời hiện tại. Khi ta thức tỉnh phần nào, ta có khả năng quyết định. Khi ta quyết định thời hiện tại là bạn, ta sẽ thân thiện, đón nhận nó bất cứ trạng huống nào xãy đến, ta sẽ sớm thấy hiệu quả. Ta sẽ hội nhập với hoàn cảnh, đời sống trở nên thân thiện, con người trở nên có lợi ích. Quyết định này sẽ làm thay đổi con người mình. Tuy nhiên ta phải kiên trì lập đi lập lại quyết định này, cho tới khi nó trở thành cách sống tự nhiên của ta. Khi ta an trú kiên trì trong hiện tại là bản ngã không có mặt. Bản ngã không sống được trong hiện tiền, nên nó thúc bách con người chống đối và phản ứng, hạ thấp giá trị thời hiện tại. Bản ngã chỉ sống với thời gian mà thôi. Người nào bản ngã càng lớn càng bị thời gian áp đảo. Hầu hết tư tưởng đều liên quan tới quá khứ hay tương lai. Cái”tôi”lệ thuộc vào nhân cách trong quá khứ và dựa vào tương lai

! 186

Page 187: THE GIOI MOI 1

để mong hoàn hão. Lo sợ hay mong muốn đều là tâm thức sai lệch dính chấp vào thời gian. Đối với thời hiện tại, bản ngã xử lý theo 3 cách. Chúng ta lần lượt xét từng cách để khi nó vận hành bên trong, ta có thể nhận ra và quyết định trở lại. Cách thứ nhứt: bản ngã dùng thời hiện tại làm phương tiện đạt mục tiêu. Nó khiến ta coi tương lai là quan trọng hơn, dù tương lai cũng chỉ đến trong hiện tại mà thôi. Đây chỉ là một tưởng tượng trong đầu luôn làm ta bồn chồn lo lắng cố đạt một nơi nào khác. Đến khi chuyện ta mong không xãy ra đúng ý, lại phiền não. Cách thứ hai: bản ngã coi hiện tại là một trở ngại cần vượt qua. Cách này rất thường xãy ra hằng ngày nơi con người “bình thường”. Ý nghĩ “hiện tại không tốt” phát sinh cảm xúc căng thẳng, nóng lòng muốn cái khác, đầu óc nghĩ là có trở ngại cần phải vượt qua để có hạnh phúc. Nhưng vấn đề này được giải quyết, vấn đề khác lại tới. Khi nào ta còn xem thời hiện tại là trở ngại, không thể hết vấn đề được. Cách thứ ba: cách xấu nhất, bản ngã coi hiện tại là kẻ thù. Khi ta ghét việc đang làm, phiền trách người xung quanh, căm hờn những gì đã xãy ra, đổ lỗi và buộc tội. Ta làm cho đời sống thành kẻ thù, xung đột với cái đang là. Bên ngoài sẽ thành đối nghịch, chiến tranh là do ta muốn và ta sẽ có xung đột.

! 187

Page 188: THE GIOI MOI 1

Muốn biết bản ngã đang hoạt động ra sao, chúng ta nên tự hỏi thường xuyên:

TA QUAN HỆ VỚI THỜI HIỆN TẠI RA SAO? Câu hỏi này là cách tốt nhất để lột mặt nạ của bản ngã ẩn núp bên trong, để ta thức tỉnh. Hãy tự hỏi thường xuyên cho tới khi nào không cần hỏi nữa, vì sau cùng ta hòa nhập hoàn toàn với hiện tiền, ta và thời hiện tại chỉ là một. Thời hiện tại là tất cả những gì ta có được, vì đời sống không thể tách rời khỏi thực tại.

LÀM SAO THOÁT KHỎI QUAN HỆ SAI LỆCH VỚI THỜI HIỆN TẠI?

Điều thiết yếu là nhận ra trạng thái này trong tư tưởng và hành động của mình. Khi nhận ra có sai lầm là chúng bắt đầu tan biến, là ta thức tỉnh. Nhiều người cười lớn khi nhận ra mình đã lầm lẫn quá lâu. Khi nhận ra rồi, ta có quyền chọn lựa, chọn làm bạn với hiện tại, với tỉnh thức.

NGHỊCH LÝ CỦA THỜI GIAN

! 188

Page 189: THE GIOI MOI 1

Trên mặt nổi, thời hiện tại là ”cái gì đang xãy ra”. Bởi”cái đang xãy ra” thay đổi liên tục nên có vẻ như đời sống gồm cả ngàn thứ trong đó có nhiều sự việc khác nhau xãy ra. Có sự việc tốt, có sự việc xấu xãy ra hết lúc này đến lúc khác liên tiếp. Nếu nhìn kỹ hơn, ta có thể kinh nghiệm ngay bây giờ là thật ra chẳng có nhiều lúc như vậy. Ta sẽ nhận ra bao giờ cũng chỉ có NGAY LÚC NÀY mà thôi. Đời sống lúc nào cũng là bây giờ, cả cuộc đời trãi ra trong thực tại. Quá khứ và tương lai chỉ có khi ta tưởng nhớ hay mong đợi, hơn nữa lúc ta nghĩ tưởng về chúng, ta cũng nghĩ tưởng ngay trong hiện tại mà thôi. Thế tại sao thời gian xuất hiện có vẻ như có quá nhiều lúc? Bởi con người lẫn lộn thời hiện tiền với cái xãy đến. Thời hiện tại bị nhầm lẫn với cái nó hàm chứa. Nhưng làm sao chúng ta có thể phủ nhận thực tế của thời gian? Con người cần thời gian để di chuyển từ nơi này đến nơi nọ, hay để xây căn nhà, hay để đọc quyển sách … ta cần thời gian để lớn lên, để học hỏi những điều mới… Tóm lại, bất cứ ta làm gì đều có vẻ như phải dùng thời gian. Mọi sự việc đều lệ thuộc thời gian, đến nổi ông Shakespeare đã nói, ”Thời gian thật là đáng sợ! Có thể so sánh thời gian

! 189

Page 190: THE GIOI MOI 1

như một dòng sông ác liệt cuốn trôi con người hay là một ngọn lửa dữ tàn phá mọi sự vật. Tôi vừa gặp lại những người bạn cũ, một gia đình mà lâu lắm tôi không gặp, và tôi quá kinh ngạc khi trông thấy họ. Tôi hỏi, ”Mấy người có đau ốm không?” Người mẹ chống gậy khó nhọc, thân thể teo rút lại, mặt nhăn nheo như quả táo khô. Cô con gái lúc trước đang tuổi lớn, đầy sức sống, vậy mà bây giờ héo tàn ,mỏi mệt sau khi có 3 con. Tôi nhớ lại là đã hơn 20 năm không gặp họ. Thời gian làm con người thay đổi hình dạng như vậy. Tôi chắc họ cũng ngạc nhiên khi trông thấy tôi. Mọi việc có vẻ như lệ thuộc vào thời gian, nhưng tất cả đều xãy ra trong hiện tại. Nghịch lý là đây, bất cứ nhìn đâu cũng thấy dấu tích của thời gian (quả táo héo, nét mặt trong gương so với trong tấm ảnh 20 năm trước …), tuy nhiên chỉ có dấu tích, chứ không có chứng cớ trực tiếp, ta không bao giờ kinh nghiệm trực tiếp thời gian. Ta chỉ kinh nghiệm trực tiếp hiện tại hay những gì xãy ra trong hiện tại mà thôi. Do đó : NẾU TA CHỈ THEO CHỨNG CỚ TRỰC TIẾP thì sẽ KHÔNG CÓ THỜI GIAN, mà chỉ CÓ DUY NHỨT THỰC TẠI HIỆN TIỀN.

TRIỆT TIÊU THỜI GIAN

! 190

Page 191: THE GIOI MOI 1

Khi còn đặt mục tiêu muốn thoát khỏi bản ngã trong tương lai, là tự cho mình thêm thời gian; càng có thêm thời gian là còn bản ngã. Cố gắng thoát khỏi chính mình trong tương lai là hình thức ngụy trang của bản ngã. Hãy xem xét cẩn thận để ta không bị mắc bẫy bản ngã trong vấn đề tâm linh. Thoát khỏi bản ngã trong tương lai nghĩa là cần có thời gian, mà thời gian là quá khứ và tương lai do trí óc vận hành theo khuôn mẫu để bản ngã tồn tại. Thời gian là trở ngại lớn nhất để thấu suốt chính mình. Thời gian là phạm vi tri thức có giới hạn, là lớp bề mặt của những sự kiện, không phải là nguồn sống thâm sâu mà ta chỉ thể nhập qua lối vào của hiện tại. Thay vì tăng thêm thời gian, hãy cố gỡ bỏ nó đi. Việc loại trừ thời gian trong tâm thức là việc làm cho bản ngã giảm dần. Thời gian chỉ còn xử dụng cho các mục đích thực tiễn, đó là thời giờ của đồng hồ như ấn định các cuộc hẹn, lập kế hoạch cho chuyến đi… sinh hoạt của thế giới không thể nào không có đồng hồ được. Thời gian cần loại trừ là thời gian tâm lý, tức tư tưởng dính chặt vào quá khứ hay tương lai. Bản ngã không muốn hòa nhập làm một với đời sống, không an trú trong hiện tiền với cái như thị. Bản ngã muốn phân rẽ để sinh tồn.

! 191

Page 192: THE GIOI MOI 1

Bất cứ lúc nào ta an trú, chấp nhận lúc này là y như vậy, ta đã tiêu trừ thời gian và bản ngã. HÃY TẬP THÀNH THÓI QUEN CHẤP NHẬN VÀ THUẬN VỚI HOÀN CẢNH.

Do bản ngã muốn tồn tại nên nó coi thời gian quan trọng hơn hiện tại. Bản ngã không kết thân với thời hiện tại, trừ phút ngắn ngủi sau khi nó được thỏa mãn. Nhưng không có gì có thể thỏa mãn bản ngã lâu dài. Nó muốn cái này được rồi nó lại muốn thêm nữa nên nếu để bản ngã chỉ huy, con người không bao giờ có an bình. Bất cứ gì xãy đến đều là hình tướng trong hiện tiền. Khi bên trong còn phản đối hình tướng thì nó sẽ ngăn cách ta với thế giới vô hình tướng. Khi bên trong thuận với mọi hiện trạng là hòa nhập với thế giới vô hình tướng: chia cách giữa thế giới bên ngoài và Thượng đế không còn nữa. Chức năng của bản ngã là coi hiện tại là phương tiện hay là trở ngại hoặc là kẻ thù. Đó là chức năng phản tác dụng nghĩa là càng phản ứng, càng dính vào hình tướng và bản ngã càng lớn mạnh. Nội lực sáng suốt bị phủ che, không phát khởi hay chỉ là rất hiếm. Nếu ta không phản ứng, bên trong vượt thoát thế giới hình tướng, hòa nhập với thực

! 192

Page 193: THE GIOI MOI 1

tại, càng ngày ta càng lắng sâu vào chân tâm, nội lực sáng suốt thường còn, vô cùng vô tận.

GIẤC MƠ và NGƯỜI NẰM MƠ Không phản ứng là sức mạnh vượt trội nhờ đó tâm thức thoát khỏi ngục tù hình tướng. Bên trong không chống đối bất kỳ hoàn cảnh nào tức là từ chối thực tướng. Phản ứng làm cho thế giới xung quanh có vẻ thực hơn, kéo dài hơn và hổ trợ cho thế giới cũng như bản ngã. Khi đó ta thấy ta và thế giới trở nên nghiêm trọng. Sự vận hành của thế giới hình tướng bị nhận thức sai lầm như là phản ứng và tranh đấu để sống còn vậy. Tư tưởng, cảm xúc, hoàn cảnh, biến cố, bi kịch … kể cả thân người và bản ngã cũng vậy, khi chúng xãy ra có vẻ hệ trọng lắm, nhưng trước khi biết rõ chúng, chúng đã đi qua và tan biến vào hư vô. Vậy chúng có thật chăng? Hay chỉ là những giấc mộng, giấc mộng của thế giới hình tướng? Khi chúng ta thức dậy, giấc mơ đêm qua đã chấm dứt và ta nói, ”Ồ đó chỉ là giấc mơ, nó không có thực”. Tuy nhiên có vài sự việc trong giấc mơ đã thành có thực. Khi cái chết gần kề, nhìn lại quãng đời qua, ta thấy rõ nhất : chỉ là giấc mộng dài.

! 193

Page 194: THE GIOI MOI 1

Dù hôm nay ta nhớ lai kỳ nghĩ mát năm rồi hay bi kịch sáng hôm qua, cả hai đều giống giấc mơ ban đêm. Rõ ràng có giấc mơ và có người nằm mơ. Giấc mơ là vở tuồng ngắn ngủi của thế giới hình tướng. Có “cái biết” giấc mơ, cái biết này không phải là con người. Con người chỉ là phương tiện qua đó giấc mơ xuất hiện. ”Cái biết” là sự thật tuyệt đối trong đó các hình tướng đến và qua. Sự thật tuyệt đối ẩn phía sau sự tương đối của hình tướng, sự thật tuyệt đối là vô cùng tận ẩn phía sau hạn cuộc của hình tướng. Sự thật tuyệt đối chính là ta chân thật. Mục tiêu của đời người hiện nay là ra khỏi giấc mơ. Lúc đó bản ngã sẽ chấm dứt, cái bản ngã đã gây tạo bi kịch trên trái đất này. Càng có nhiều người tỉnh giấc mơ, càng mau chóng tái tạo một thế giới mới tốt đẹp ngay nơi đây.

VƯỢT QUA GIỚI HẠN Suốt trong đời có thời kỳ con người theo đuổi sự phát triển trên bình diện hình tướng. Đó là lúc ta cố vượt qua giới hạn như thiếu hụt tài chánh hay yếu kém thể chất, lúc ta thu thập kiến thức và tài năng hay sáng tạo làm cho đời sống tốt đẹp hơn. Có thể là cho ra tác phẩm nghệ thuật, một quyển sách hay, hoặc thành

! 194

Page 195: THE GIOI MOI 1

lập tổ chức hay công ty sản xuất, cung cấp dịch vụ… nghĩa là những đóng góp cần cho sự sống. Việc làm sẽ có phẩm chất cao nếu biết an trú trong thực tại. Sức sáng suốt sẽ lưu chuyển trong việc làm. Khi ta tỉnh sáng, những gì ta làm không phải là phương tiện để chỉ đạt kết quả như tiền của, danh tiếng… mà là có phẩm chất khi ta làm với niềm vui và sáng suốt. Dĩ nhiên ta không thể nào tĩnh sáng nếu không thân thiện với thời hiện tại. Những việc làm sẽ có hiệu quả tốt, không bị nhiễm ô bởi trạng thái tiêu cực. Ai cũng biết mọi hình tướng đều có giới hạn. Chúng ta có mặt nơi đây không những chỉ kinh nghiệm những giới hạn, mà còn phát triển tâm thức vượt qua giới hạn. Có một số giới hạn có thể vượt qua trên bình diện bề ngoài. Có số giới hạn khác ở bên trong, phải tập để giáp mặt với chúng và vượt qua chúng. Sớm muộn gì ai nấy đều phải đụng độ những giới hạn: hoặc ta mắc bẫy trong phản ứng vị ngã càng thêm đau khổ, hoặc ta vượt lên trên bằng nội lực của chính mình, bằng cách buông xả không liên lụy đến mình và người. Trạng thái buông xả sẽ mở ra chiều sâu bên trong. Từ đó ta tiến vào thế giới không hình tướng, an trú trong nguồn sống thênh thang, vô cùng vô tận.

! 195

Page 196: THE GIOI MOI 1

Một số người buông xả hoàn toàn những giới hạn trở thành người đi chữa bịnh hay làm vị giáo học tâm linh. Một số người khác đi làm việc vị tha để làm quà tặng cho thế giới bớt khổ đau. Hồi còn đi học, vào khoảng những năm cuối của 1970, tôi hay dùng bữa ăn trưa với một vài người bạn ở Đại học Cambridge. Gần bàn chúng tôi thỉnh thoảng có người đàn ông ngồi trong xe lăn, có 3,4 người đi theo. Một hôm, ông ta ngồi bàn đối diện với tôi. Tôi bị sốc khi nhìn ông ta hoàn toàn bị tê liệt. Thân thể tiều tụy, cái đầu sụm về phía trước. Một người cẩn thận đưa thức ăn vào miệng ông, người khác cầm cái mâm hứng vì phần lớn thức ăn bị rớt ra ngoài. Thỉnh thoảng ông khò khè vài tiếng và một người phải kê sát vào để cố nghe ông ta nói. Bạn tôi hỏi là ông ta còn biết gì không. Thì ra ông vẫn còn biết, ông là giáo sư đại học môn toán và mấy người đi kèm là học trò ông đã tốt nghiệp, theo ông để giúp đỡ. Ông ta mắc bịnh thần kinh, tế bào chuyển động làm cơ thể dần dần bị tê liệt. Đây là số phận khủng hoảng nhất có thể xãy ra cho con người. Một thời gian sau tôi gặp lại ông. Khi tôi giữ cánh cửa mở để xe lăn của ông đi vào, bốn mắt giao nhau. Tôi quá ngạc nhiên khi thấy mắt ông đã trong lặng, bình yên, chẳng còn

! 196

Page 197: THE GIOI MOI 1

chút dấu vết của bất an. Tôi biết là ông đã hoàn toàn rũ bỏ mọi chống đối, ông đã sống trong buông xả. Mấy năm sau tôi tình cờ mua một tờ tuần báo quốc tế danh tiếng, tôi ngạc nhiên khi thấy hình ông ta trên trang bìa. Thì ra không những ông ta còn sống, mà còn trở thành nhà viết vật lý nổi danh, đó là ông Stephen Hawking. Trong bài báo viết về ông có hàng chữ rất hay xác định những gì tôi cảm nhận khi nhìn vào mắt ông mấy năm trước. Bày tỏ về cuộc đời mình, ông đã nói ( với sự trợ giúp của dụng cụ thanh âm): ”Ai có thể mong mỏi gì hơn”

AN BÌNH

Bên trong bất an hay nhuốm tiêu cực là chứng bịnh của con người trên hành tinh này. Tiêu cực bên trong sẽ gây ô nhiễm ở bên ngoài. Tình trạng này xãy ra ở khắp nơi, không những ở những xứ thiếu thốn, nhưng càng nặng hơn ở những xứ dư giả. Thật vậy, thế giới càng giàu vật chất, càng bị đồng hóa nặng với hình tướng, càng bị dính kẹt vào bản ngã, càng đánh mất giá trị bên trong. Con người tin rằng hạnh phúc là phải CÓ những gì xãy đến. Họ không nhận ra là tất cả những gì xãy đến đều vô thường, đổi thay. Họ

! 197

Page 198: THE GIOI MOI 1

coi thời hiện tại như là cái gì không tốt, cái gì họ không muốn mà lại xãy ra. Họ đánh mất đời sống tốt đẹp sẵn có trong hiện tiền, nguồn sống vô tận vượt ra ngoài những gì xãy đến hay không xãy đến tức ra ngoài thế giới của hình tướng. Chấp nhận và an trú trong hiện tại, không dính vào quá khứ/tương lai, không ảnh hưởng bởi thời gian, là khám phá sự hoàn hão thâm sâu hơn bất cứ hình tướng nào. An bình, tự tại là nguồn hạnh phúc chân thật duy nhất và thường còn. Nó không thể đến từ thế giới hình tướng, sở hữu, thành công, sự kiện, con người hay bất cứ hoàn cảnh nào. Niềm an bình xuất phát từ bên trong và là một với TA chân thật.

GIẢM THIỂU BẢN NGÃ Bản ngã lúc nào cũng canh chừng bất cứ gì nó cho là giảm thiểu nó. Khi bản ngã bị chỉ trích, bị đổ lỗi hay là cái “tôi” bị hạ thấp, bản ngã lập tức bảo vệ, bào chữa, đổ thừa lại. Dù người kia đúng hay sai đều không ăn nhập gì đến bản ngã. Nó chỉ quan trọng đến việc bảo vệ hơn là sự thật. Dù là một việc tầm thường như có người tài xế la mình, mình liền la lại cũng là mê lầm của bản ngã hay sữa sai. Động cơ của bản ngã là nóng giận, tuy có tính cách

! 198

Page 199: THE GIOI MOI 1

nhất thời nhưng là sự thổi phồng lớn mạnh của bản ngã. Cuối cùng là đi tới bạo hành tức là bị bản ngã lừa gạt hoàn toàn. Hãy sáng suốt nhận ra bản ngã sai lầm, không cho nó tự động xãy ra khi có hoàn cảnh. Chẳng hạn khi có người chỉ trích hay đổ lỗi cho mình, hãy yên lặng không phản ứng và lập tức quay vào cảm nhận bên trong. Lúc đầu có thể thấy khó chịu trong vài giây, như là mình bị thu rút lại. Nhưng sau đó ta sẽ cảm nhận nội tâm thênh thang. Ta không bị giảm bớt chút nào, mà trái lại ta có cảm nhận mở rộng ra. Khi ta không phản ứng ra bên ngoài và bên trong, qua thái độ có vẽ như “giảm bớt”, thực sự ta đã “được hơn”. Khi không còn bảo vệ bản ngã, ta đã vượt thoát đồng hóa với hình tướng. Dưới cái nhìn của bản ngã là ta ‘yếu kém’, thực ra là phát triển nội lực mạnh mẽ và chừa chỗ cho nguồn sống ló dạng. Nguồn sống chân thật chiếu sáng qua hình tướng mong manh bên ngoài. Chúa Jesus nói “Hãy chối bỏ chính mình” nghĩa là từ khước bản ngã giả. Dĩ nhiên thái độ yên lặng không có nghĩa là ngu muội hay biến mình thành nạn nhân. Đôi khi có hoàn cảnh ta cần nói lên, nhưng không chống đối, không bảo vệ tự ngã nên không lớn tiếng. Nếu cần, ta có thể nói “không” một cách rõ ràng và cương quyết, đó là cái “không” sáng

! 199

Page 200: THE GIOI MOI 1

suốt có phẩm chất, không có tiêu cực, vị kỷ. Những ai sáng suốt không chống đối, không xem bất cứ gì là riêng rẽ, người đó có sức mạnh ngang hang với tổng thể. Đối với bản ngã có vẻ yếu kém mà thật ra là sức mạnh chân thực. Sức mạnh tâm linh này hoàn toàn trái ngược với thái độ ứng xử của con người trong thế giới hiện đại. Lão tử đã dạy rằng thay vì cố hết sức để làm ”ngọn núi cao”, hãy làm “thung lũng nhỏ”. Bằng cách này một người sẽ làm gương cho xung quanh tu chỉnh và mọi việc sẽ đến một cách tốt đẹp. Chúa Jesus đã dạy trong Thánh kinh “Khi bạn được mời, hãy tới và ngồi vào một chỗ khiêm nhường nhất, người chủ đến có thể yêu cầu bạn hãy ngồi lên phía trên”. Bạn sẽ được tôn trọng trước sự hiện diện của mọi người. Thường người nào tự đề cao mình, sẽ bị hạ bệ, còn người khiêm nhường, sẽ được đề cao. Chúng ta cần thực tập luôn để giảm bớt bản ngã chẳng hạn như không bao giờ làm người khác chú ý đến mình, không gây tạo ấn tượng, không làm nổi bật hay thu hút người khác. Cần lắng nghe, không suy diễn khi người khác đang trình bày.

! 200

Page 201: THE GIOI MOI 1

BÊN TRONG NHU THẾ NÀO, BÊN NGOÀI NHƯ THẾ ẤY Ban đêm khi nhìn lên bầu trời trong, ta có thể nhận ra sự chân thật giản đơn mà vô cùng thâm sâu.Ta trông thấy ánh trăng, tinh tú, dãy ngân hà lấp lánh, sao chổi và chòm sao láng giềng sáng rực hơn 2 triệu năm qua. Nếu giản dị hơn nữa, ta chỉ thấy những vật thể bay trong không gian. Vì vậy vũ trụ chỉ gồm vật thể và không gian. Nếu ta không lắng lòng khi ngắm nhìn không gian, ta đã không thực sự ngắm nhìn, cũng chẳng để ý đến tổng thể bao la vô cùng vô tận. Ta chỉ trông thấy vật thể và tìm hiểu hay đặt tên cho chúng. Ta phải hết sức an tịnh mới kinh nghiệm cảm giác uy nghi kỳ diệu khi lặng ngắm không gian.Ta phải rũ bỏ ý tưởng muốn tìm hiểu và định danh, chăm chú vào không gian sâu thẳm trong đó có nhiều thế giới tồn tại. Cảm giác uy nghi không phát xuất từ sự kiện có hàng tỷ thế giới trong đó, mà từ sự sâu thẳm bao la dung chứa tất cả trong đó. Tuy chúng ta không nghe, không thấy, không đụng chạm, nếm ngửi được không gian, sao lại biết có không gian? Câu hỏi lý luận này chúa đựng sai lầm hoàn toàn. Cốt lõi của không gian là “trống không”, vì vậy nó không “tồn tại”

! 201

Page 202: THE GIOI MOI 1

theo nghĩa thông thường của thế giới, chỉ có vật thể (hình tướng) là hiện hữu. Tại sao ta ý thức được không gian? Phải chăng có cái gì trong ta liên hệ với không gian? Câu trả lời giản dị mà sâu sắc : khi để ý không gian, thật sự là ta không để ý gì khác ngoại trừ sự lắng tâm. Khi con mắt không tìm vật gì để nhìn, sự rỗng không đó là không gian. Khi cái tai chẳng có gì để nghe, sự vắng lặng đó là rỗng không. Các giác quan được cấu tạo để nhận thức hình tướng, nhưng lúc không có hình tướng nào cả, nguồn sống vô hình tướng mới ló dạng. Ta chiêm ngưỡng không gian mênh mông sâu thẳm hay lắng tâm cảm nhận sự trong lành của buổi sớm tinh mơ, trong ta có sự hòa quyện với không gian thinh lặng. Ta hòa nhập không gian bao la vô tận với nguồn tâm thâm sâu và ta biết sự tĩnh lặng không có hình tướng nhưng quý hơn tất cả mọi sự trên đời. Kinh sách cổ của Ấn độ nhắm chỉ chân lý này qua những đoạn sau, ”Những gì không thể trông thấy bằng mắt, nhưng nhờ đó mắt có thể thấy (cái biết thấy); những gì không thể nghe bằng tai, nhưng nhờ đó tai có thể nghe được (cái biết nghe)…. ”Bản kinh còn viết thêm, ”Nguồn tâm vô hình tướng là tinh túy của con người. Ngoài ta tất cả những gì khác đều là hình tướng mà người đời lại cho là quý”.

! 202

Page 203: THE GIOI MOI 1

Vũ trụ bao gồm vạn vật và không gian tức thực chất và rỗng không giống như con người vậy. Đa số con người bị mất thăng bằng vì họ đồng hóa với hình tướng. Họ đồng hóa với tư tưởng, cảm xúc nên phần linh hoạt bị che phủ, thiếu vắng hẵn trong đời. Bất cứ gì ta trông thấy, nghe được, đụng chạm, suy nghĩ là phân nửa của hiện thực. Chúa Jesus gọi đó là “thế gian” và phần còn lại chúa gọi là “thiên đàng” hay là “đời sống vĩnh cửu”. Nhờ có không gian mới cho phép vạn vật hiện hữu và nhờ có yên lặng mới có âm thanh. Cũng vậy con người không thể hiện hữu nếu không có nguồn sống linh hoạt vô hình, phần chủ yếu cốt lõi của con người. Có thể gọi đó là “thượng đế” nếu thế giới không nhầm lẫn về danh từ này. Tôi chuộng danh từ ”chân như” vì chân như có trước hiện hữu. Chân như là bối cảnh, là nền tảng sẵn có; hiện hữu là những gì chứa đựng, là những hoàn cảnh, là hình tướng. Căn bịnh chung của nhân loại là dồn hết tâm lực vào hoàn cảnh, bị thu hút vào thế giới hình tướng bấp bênh, bị mãi mê với những chứa đựng trong đời sống, quên lãng cốt lõi tinh túy. Con người bị dính mắc vào thời gian có giới hạn, quên mất sự vĩnh hằng, là ngôi nhà thực sự mà cũng là vận mệnh của mình. Mấy năm trước khi viếng thăm Trung quốc, tôi đã viếng một ngôi chùa nằm trên ngọn núi,

! 203

Page 204: THE GIOI MOI 1

trước chùa có khắc chữ mạ vàng. Người hướng dẫn nói chữ đó nghĩa là “Phật”. Tôi hỏi sao có 2 nét chữ, người này trả lời, một nét chữ nghĩa là “người”, nét chữ kia nghĩa là “không”, cả 2 nét chữ gộp lại thành chữ “Phật”. Tôi đứng im kinh ngạc. Chữ ”Phật” chứa đựng toàn thể giáo lý của Dức Phật và đối với người sáng suốt thì đó chính là mục tiêu của đời người.

! 204

Page 205: THE GIOI MOI 1

CHƯƠNG TÁM

KHÁM PHÁ CHÂN KHÔNG BÊN TRONG

Theo một chuyện cổ xưa của Trung Đông, có vị vua luôn sống trong dao động giữa vui sướng và buồn chán. Việc gì dù nhỏ nhặt cũng làm ông ta sinh bực bội và phản ứng rất mạnh. Những việc làm ông ta vui sướng cũng mau trở thành bất mãn và buồn chán. Sau cùng vua quá mệt mỏi nên cố tìm một lối thoát. Nhà vua cho mời một người nổi tiếng là tỉnh thức. Vua nói, ”Ta muốn được như ông. Ông giúp ta đem đến sự tỉnh thức, sáng suốt và thăng bằng, ta sẽ trả bất cứ giá nào ông muốn. Vị kia trả lời, ”Tôi có thể giúp ngài. Nhưng giá đắt đến nổi cả giang sơn cũng không đủ trả”.Tuy nhiên tôi sẽ tặng cho ngài nếu ngài biết qúy nó”. Nhà vua chịu hứa và ông ta rời hoàng cung. Mấy tuần sau, ông ta trở lại và trao vua một hộp chạm ngọc rất đẹp. Vua mở ra chỉ thấy một chiếc nhẫn vàng giản dị, trên có khắc chữ ”việc này rồi cũng sẽ qua”. Vua hỏi, ”Thế nghĩa là gì?”.Ông ta đáp ”Ngài hãy đeo chiếc nhẫn này, dù bất cứ gì xãy đến, trước khi ngài cho là

! 205

Page 206: THE GIOI MOI 1

xấu hay tốt, hãy sờ chiếc nhẫn và đọc mấy chữ khắc này, ngài sẽ luôn có an bình.” Mấy chữ đơn giản đó mà có hiệu lực lớn vậy sao? Nhìn một cách hời hợt, mấy chữ đó có lẽ cho ta chút ít dễ chịu trong hoàn cảnh nghịch, nhưng chúng có lẽ cũng áp dụng cho hoàn cảnh thuận tức không nên vui quá vì cuộc vui cũng sẽ chóng qua. Mấy chữ này không phải nói lên ta không nên thưởng thức những việc tốt đẹp, cũng chẳng phải đem lại chút ít an ủi khi gặp nghịch cảnh. Mấy chữ này có mục đích sâu hơn, nói lên mọi hoàn cảnh đều vô thường do tính chất tạm thời của hình tướng. Do đó ta bớt dính chấp, bớt bị chúng đồng hóa. Bớt dính mắc không có nghĩa là không thưởng thức những tốt đẹp mà thế giới dâng tặng.Trái lại ta được thưởng thức trọn vẹn do không sợ mất mát hay lo âu vì ta biết tính cách tạm thời của mọi sự vật. Khi không dính mắc, ta an nhiên quan sát những biến cố trên đời thay vì mắc kẹt trong đó. Tương tợ như một phi hành gia quan sát quả địa cầu bao bọc bởi không gian bao la, khám phá một sự thật trái ngược : trái đất rất quí báu ngưng đồng thời nó không có nghĩa gì cả. Mấy chữ khắc “VIỆC NÀY, CŨNG THẾ, SẼ QUA” mang lại sự buông ra, không dính kẹt. Do

! 206

Page 207: THE GIOI MOI 1

đó ta sẽ không phản ứng, không phán quyết, ta trở nên nhẹ nhàng, thanh thản. Đến lúc ta không còn bị hình tướng vây hãm, ta trở nên tư tại, an nhiên. Lòng rộng mở, đôi khi bề ngoài nhìn có vẻ không được tốt, nhưng bên trong niềm an bình ngày càng thâm sâu. Từ đó mỗi khi có biến cố xãy đến, sẽ có khoảng không bao bọc. Khoảng không cũng bao bọc những cảm xúc, ngay cả những đau đớn. Trên hết có khoảng không giữa các tư tưởng, từ khoảng đó xuất phát niềm an bình không có được từ thế giới hình tướng. Đó là an bình của thượng đế. Từ đây chúng ta có thể thưởng thức những thành tựu của thế giới mà không hề cho chúng tầm quan trọng. Ta có thể tham gia tích cực vào thế giới đổi dời mà không dính mắc vào những gì xãy đến, cũng chẳng yêu cầu riêng rẽ phi lý như “Hãy cho tôi hạnh phúc, hãy cho tôi an toàn, hãy cho tôi hoàn hão, hãy cho tôi biêt tôi là ai ?… Thế giới không giải quyết những chuyện này và khi không còn mong đợi, mọi đau khổ sẽ chấm dứt. MỌI ĐAU KHỔ ĐỀU DO CON NGƯỜI ĐÁNH GIÁ QUÁ CAO HÌNH TƯỚNG VẬT CHẤT,VÀ BỎ QUÊN NỘI TÂM THÂM SÂU. Thế giới không được quan sát từ nguồn tâm vô biên, sẽ là nơi đầy lo âu chống đối, là nơi đe dọa hỗn tạp.

! 207

Page 208: THE GIOI MOI 1

TÂM KHÔNG

Phần lớn đời sống con người rất bề bộn với những sự việc vật chất, việc làm, việc suy nghĩ…Tổng Thống Churchill đã mô tả đời người như sau: ”Hết việc mê lầm này đến việc mê lầm khác!”, lịch sử nhân loại cũng đã trãi qua như vậy.Trí óc chứa đầy ý tưởng ngỗn ngang, hết ý này đến ý khác liên miên lộn xộn. Do tâm thức chỉ biết có đối tượng nên cuộc sống mất thăng bằng. Tâm thức đối tượng cần phải ngang bằng với tâm thức chân không để tinh thần con người được minh mẫn.Tâm thức đối tượng xuất phát từ các giác quan,tư tưởng và cảm xúc. Ngoài ra con người còn có tâm thức chân không tức cái biết tiềm ẩn. Chúng ta không những ý thức đối tượng mà còn ý thức được cái biết sẵn có. Bên ngoài hoàn cảnh biến cố xãy ra mà bên trong ta vẫn cảm nhận trạng thái tĩnh lặng sáng suốt. Ai cũng có cái biết này nhưng hầu hết đều không nhận ra. Đôi khi tôi nhắm chỉ cái biết bằng cách nhắc nhở, ”Bạn có cảm nhận sự hiện hữu của mình không? Tâm thức chân không tiêu biểu trạng thái tự tại, thoát khỏi bản ngã, độc lập với thế giới bên ngoài. Bất cứ khi nào ta khổ vì hoàn cảnh, biến

! 208

Page 209: THE GIOI MOI 1

cố hay vì con người, là do chúng ta đánh mất tâm thức chân không. Mấy chữ “Việc này cũng thế sẽ qua” dùng làm kim chỉ nam để khôi phục lại chân không. Chúng ta cũng có thể tâm niệm câu: ”Tôi không bao giờ bận tâm về những suy nghĩ của tôi”

VƯỢT THOÁT TƯ TƯỞNG Khi đã quá mệt mỏi, ta trở nên nghĩ xả, bình lặng, trí óc lắng dịu và ta chìm vào giấc ngủ. Nếu dùng rượu hay vài loại thuốc an thần, ta cũng được lắng dịu, không bận tâm, không bị tư tưởng đè nặng. Lúc đó người ta có thể vui mừng ca múa nên rượu cũng được gọi là để giải sầu nhưng bù lại ta phải trả một giá đắt là ta bị mù mờ, tinh thần suy kém, thay vì vượt trội lên suy tưởng, ta rơi xuống thấp hơn. Nếu uống nhiều hơn, ta sẽ thành kẻ mất trí. Cả hai trạng thái đều xa rời tư tưởng. Chỉ có khác biệt sâu xa là vượt lên tư tưởng và chìm xuống thấp hơn. Trạng thái thứ nhứt là giai đoạn kế tiếp trong tiến trình phát triển tâm thức nhân loại.

TRUYỀN HÌNH

! 209

Page 210: THE GIOI MOI 1

Xem T.V. là cách giải trí ưa chuộng của hằng triệu người trên thế giới. Người Mỹ trung lưu, cho tới năm 60 tuổi, đã mất 15 năm dán mắt lên truyền hình. Ở các xứ khác, con số cũng gần giống như vậy. Nhiều người xem T.V. để nghĩ xả. Hãy quan sát chính mình kỹ, sẽ nhận ra càng chú ý vào màn hình lâu chừng nào, trí óc càng đình chỉ hoạt động, thoát khỏi vấn nạn. Trong khoảng thời gian dài xem T.V., ta không bị tư tưởng quấy nhiễu, nhưng lại bị dính vào các sinh hoạt của TV. Trí óc không phát ra tư tưởng nhưng nó hấp thụ ý tưởng và hình ảnh từ màn hình. Ta sẽ rơi vào trạng thái hôn mê thụ động do cảm xúc tăng trưởng. Giống như người dùng rượu, xem TV đổi lấy chút ít lắng dịu cho đầu óc, nhưng sẽ mất đi sức sáng suốt. TV có sức lôi cuốn và dính nhiễm mạnh giống như người ghiền thuốc vậy. Tư tưởng bị kích thích sẽ thúc bách trí óc thêm mạnh, thành thói quen ghiền TV. Có người tay cầm remote thay vì nên tắt liền khi hết chương trình đáng coi, họ lại bấm dò lần lượt tìm đài khác. Ngón tay làm như không bấm nút tắt được. Thật ra chẳng còn gì hay để xem nhưng do thói quen dính nhiễm, ngày càng mạnh, thật là vô nghĩa hết sức. Tuy nhiên có một số chương trình rất có lợi ích cho nhiều người, làm cho con người biết mở

! 210

Page 211: THE GIOI MOI 1

rộng lòng, trở nên sáng suốt, cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Có chương trình chỉ cho thấy bản ngã của con người rồ dại. Có chương trình chỉ cho ta không nên quan trọng vấn đề, để cuộc sống trở nên dễ chịu và có những chương trình hài làm người ta vui cười thoải mái. Phần lớn TV điều hành bởi những người bị bản ngã khống chế nên sẽ làm nhiều người mê mờ hơn. Nếu con người tỉnh thức, TV sẽ là phương tiện có tiềm năng rộng lớn. Tránh xem những chương trình thương mại với những hình ảnh nhanh chóng lien tiếp thay đổi mỗi 2,3 giây. Khoảng cách thời gian quá ngắn ngủi làm cho nhận thức trở thành hời hợt. Bất cứ ta làm gì phải có sự chú tâm , mới có phẩm chất. Xem TV quá nhiều làm tâm trí rối loạn, đây là trạng thái tinh thần bất ổn cho hằng triệu trẻ con trên thế giới. Xem TV kéo dài làm tâm trí mờ tối, còn phát sinh tiêu cực làm tắt nghẽn nguồn sinh lực. Do đó đừng xem một cách ngẫu nhiên mà hãy chọn các chương trình muốn xem. Khi đang xem nên cảm nhận nguồn sống bên trong .Thỉnh thoảng theo dõi hơi thở một cách luân phiên. Những lúc nghĩ tạm hãy nhìn ra khỏi màn hình, nhìn vào khoảng không. Đừng vặn TV lớn quá khiến nó áp đải thính giác. Lúc TV quãng cáo, bấm nút câm để không nghe tiếng. Hãy chắc chắn là

! 211

Page 212: THE GIOI MOI 1

không đi ngủ liền ngay sau khi tắt TV hoặc tệ hơn nữa là ngủ gục trong lúc đang xem.

NHẬN RA CHÂN KHÔNG. Thường thường chúng ta không nhận ra khoảng trống giữa những tư tưởng.Tâm thức con người bị cuốn hút bởi kinh nghiệm và điều kiện để đồng hóa với hình tướng. Tình trạng này chắc chắn mình không biết mình là ai vì mình luôn luôn là những vật khác.Ta bị chia chẻ bởi hình tướng. Dù đôi khi ta có vẻ nhận ra mình,ta cũng biến ta thành 1 đối tượng, 1 nhóm tư tưởng, do đó ta không phải nhận ra mình,mà là nhận ra tư tưởng. Khi ta nghe khoảng trống bên trong, ta tìm nó như tìm một kinh nghiệm hay đối tượng nên không thể tìm được. Đây là tình trạng tấn thối lưởng nan của người đi tìm tỉnh sang. Vì vậy chúa Jesus đã nói, ”Nước của Thượng đế không phải là những dấu vết để quan sát, cũng không phải là ngôn ngữ, nước của Thượng đế ở ngay trong chúng ta. Nếu ta không dùng cả đời để lo âu, bất mãn, chán nản, buồn phiền hay bất cứ trạng thái tiêu cực nào, nếu ta có thể thưởng thức những cảnh tự nhiên, đơn giản như tiếng mưa rơi, tiếng gió thổi, những áng mây bay, hoặc lúc một mình không hề thấy cô đơn hay cần những giải trí để kích thích tâm trí, nếu ta có thể đối

! 212

Page 213: THE GIOI MOI 1

xử với người xa lạ bằng tấm lòng từ ái không màng đáp trả…. có nghĩa là ta đã mở rộng lòng, trái hẵn với những tiếng nói ồn ào trong đầu. Chỉ những lúc đó,dù là thoáng chốc, ta có an bình thực sự. Nhà hiền triết người Ấn gọi đó là Ananda (hỷ lạc). Vì ta bị thu hút bởi hình tướng nên ít nhận ra ngoại trừ một cách gián tiếp như ngắm nhìn thiên nhiên, giao tiếp với người bằng tâm yêu thương. Bất cứ khi nào ta nhận ra vẻ đẹp của những vật giản dị, nên nhìn lại những cảm nhận bên trong, nhưng đừng tìm nó như tìm vật gì. Ta cũng không thể tìm hiểu hay định nghĩa hay cố giữ chặt nó. Tương tợ như bầu trời trong, nó không có hình tướng. Đó là chân không, là tĩnh lặng, là an bình luôn có, không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Càng cảm nhận, càng sâu thêm. Qua các thời đại ,những thi sĩ và triết gia quan sát niềm vui chân thật đó, chúng ta tìm thấy nó trong những sự vật giản đơn, không có gì đặc biệt. Phần lớn con người chỉ đi tìm những sự việc đáng kể đối với họ, bỏ quên ngững việc giản đơn. Triết gia Nietzsche trầm tư trong tĩnh lặng đã viết, ”Hạnh phúc thật ra là từ những việc nhỏ, việc nhẹ nhàng nhất, việc giản đơn mà an lạc nhất, nhưng lúc ta lắng lòng mới thấy được”.

! 213

Page 214: THE GIOI MOI 1

Do đâu những sự việc giản đơn đem lại an lạc. Vì an lạc chân thật không phải do sự vật hay sự kiện dù ban đầu là do chúng xuất hiện. Thật ra sự kiện hay sự vật chỉ chiếm một phần nhỏ trong tâm thức, phần lớn còn lại là phần bên trong. Trong cốt lõi, tâm thức bên trong và ta là một. Nói cách khác, hình tướng chỉ chiếm phần nhỏ trong tâm, còn bao nhiêu là khoảng chân không bên trong. Niềm an lạc xuất phát từ khoảng chân không hay là phần tâm thức rỗng rang. Tuy nhiên để cảm nhận nhửng sự việc giản đơn, ta cần phải lắng lòng, phải chú tâm cao độ. Hãy lặng thinh, lặng ngắm, lắng nghe, sáng suốt trong hiện tiền. Còn một cách khác để nhận ra khoảng không bên trong : hãy nhận ra mình đang cảm nhận. Hãy nói,”tôi là” và chú tâm hoàn toàn vào tĩnh lặng mà không thêm bất cứ gì. Hãy cảm nhận sự sống của mình,sự hiện hữu không phủ che bởi hình tướng, nguồn sống mầu nhiệm luôn thường còn. Nguồn sống trung thực, bình đẳng, không phân biệt trẻ già, giàu nghèo, tốt xấu. Đó là cốt lõi, là trung tâm của hình tướng,của mọi cấu tạo vật chất. TIẾNG SUỐI REO Vị thiền sư yên lặng đi dọc theo con đường mòn ven núi cùng với người đệ tử. Họ đi tới 1 cây cổ thụ, dừng bước và ngồi nghỉ để dùng

! 214

Page 215: THE GIOI MOI 1

bữa với vài nắm cơm và rau. Ăn xong, người đệ tử trẻ, chưa nhận ra cốt lõi của thiền, lên tiếng hỏi, ”Thưa thầy,làm sao con vào được thiền?” . Vị thầy giữ im lặng, gần 5 phút qua đệ tử nóng lòng định hỏi thêm, thình lình thầy lên tiếng, ”Con có nghe tiếng suối reo từ trên núi ?” Người đệ tử không nghe tiếng suối reo vì bận suy nghĩ đến ý nghĩa của thiền. Nghe thầy nhắc, đệ tử bắt đầu lắng nghe tiếng suối, trí óc im bặt. Thoạt đầu, ông ta cũng chưa nghe, sau đó chú tâm triệt để, bỗng nhiên ông ta nghe được tiếng rốc rách rất nhỏ của con suối cách thật xa. Đệ tử buột miệng,” Dạ bây giờ con có thể nghe được rồi”. Vị thầy đưa ngón tay lên với cái nhìn rắn rỏi nhưng dịu dàng, nói với đệ tử,” Con hãy đi vào thiền từ đó”. Người đệ tử ngạc nhiên, đó là thoáng tĩnh sáng đầu tiên, ông ta thấy thế giới chung quanh linh hoạt và mới mẻ y như trông thấy lần đầu. Dần dần ông ta bị tư tưởng xâm chiếm trở lại, trạng thái rỗng rang trong sáng bị phủ che bởi tiếng ồn ào trong trí. Ông ta nói với thầy, “Thưa thầy con lại bị tư tưởng ùa vào, con không thể nghe tiếng suối reo từ xa!” . Thiền sư dừng lại, đưa ngón tay lên và nói,” Con hãy đi vào thiền từ đó”.

HÀNH ĐỘNG ĐÚNG Bản ngã thường hỏi:

! 215

Page 216: THE GIOI MOI 1

-“Làm sao tôi có thể biến hoàn cảnh này theo đúng ý tôi?” -“Tôi không muốn có hoàn cảnh này.” Chỉ khi an trú trong hiện tại, ta mới hỏi,”Làm thế nào ứng xử ngay trong lúc này?”, ta sáng suốt và chỉ chú tâm vào hiện trạng “đang là”. Thay vì phản ứng lại hoàn cảnh, ta thích nghi với hoàn cảnh nên ứng xử một cách sáng suốt. Lúc đó không phải là bản ngã ngu mê mà là tâm thức trong sáng đang quan sát hoàn cảnh và lắng nghe. Nếu có hành động thì sẽ có HÀNH ĐỘNG ĐÚNG phát ra từ tâm an bình. Đây là hành động thích ứng với toàn thể, chứ không phải riêng rẽ vị kỷ. Sau đó khi hành động xong, trạng thái trong sáng thênh thang vẫn giữ nguyên, không có đưa tay lên nói với vẽ chiến thắng kiêu ngạo, ”Yeah” hoặc nói “ Hãy xem này, do TÔI làm đấy”. Bất cứ hoàn cảnh,sự việc, hình tướng phát sinh, ta phải cảnh giác sang suốt, đừng để ý niệm “TÔI” hay “CỦA TÔI” xen vào. Nếu ta tự hào về những gì đã làm,bản ngã sẽ trở lại,che mờ bản nhiên tự tại rỗng rang.

NHẬN BIẾT VÀ KHÔNG ĐẶT TÊN Đa số người chỉ chú trọng bề ngoài của thế giới xung quanh,nhất là những gì quen thuộc. Một số người cảm thấy sống động hơn khi họ đi du lịch ,đến các nơi xa lạ, vì trong

! 216

Page 217: THE GIOI MOI 1

những lúc đó, cảm nhận kinh nghiệm, tìm hiểu chiếm ưu thế hơn là suy nghĩ. Có số người khác tuy đi xa vẫn bị tiếng nói trong đầu làm chủ, chỉ có cái thân đi du lịch, kinh nghiệm và tìm hiểu bị lệch lạc bởi cái trí phán xét mau lẹ. Lúc họ thấy một sự vật, họ thường đặt tên, suy diễn, so sánh để phân biệt tốt xấu, thích hay không thích, Họ chỉ biết đối tượng, bị vây hãm cả đời trong tư tưởng. Bản ngã vận hành theo khuôn mẫu cũ, đặt tên sự việc quá nhanh nhẫu. Tới khi thức tỉnh hay ít ra là biết mình hay đặt tên, nên quan sát khi đặt tên,sẽ có khoảng trống bên trong và không còn bị trí óc làm chủ nữa. Hãy chọn một đối tượng gần nhất – cây viết, cái tách hay chiếc ghế - ngắm nhìn nó với thích thú gần như là tò mò, hãy tránh bất cứ gì nối kết với quá khứ như mua ở đâu, ai đem tới … tránh bất cứ đối tượng nào có viết chữ trong đó, vì sẽ làm nãy sanh tư tưởng. Không nóng long, hãy thư giãn, nhưng tinh tường hoàn toàn chú tâm vào đối tượng, từng chi tiết một. Nếu tư tưởng còn nổi lên, đừng theo chúng, chỉ cần nhìn đối tượng một cách đơn thuần, không phe bình,so sánh,tô điểm thêm. Sau vài phút, hãy đảo mắt quanh phòng, mắt dừng lại mỗi vật bằng chú tâm tinh tường. Tương tợ như vậy, hãy lắng nghe bất cứ âm thanh nào, một số âm thanh tự nhiên như

! 217

Page 218: THE GIOI MOI 1

tiếng gió reo,chim hót,nước chảy… một số âm thanh khác do người tạo ra, âm thanh có thể làm vui thích hay bực bội. Nhưng đừng phân biệt tốt xấu, thích hay không thích, để cho mỗi âm thanh phát ra y “như là” , trong khi lắng nghe hoàn toàn thư giản nhưng chú tâm tinh tường.. Khi ta ngắm nhìn và lắng nghe theo cách này, ta bắt đầu chú ý đến cảm nhận tĩnh lặng vi tế hay là nền rảng của an bình hay là khoảng trống rỗng rang.Tâm thức không còn bị tư tưởng xâm chiếm nữa,trở lại trạng thái nguyên sơ không hình tướng, không điều kiện.

“NGƯỜI” KINH NGHIỆM Những gì chúng ta thấy, nghe, nếm, xúc chạm và ngửi được đều là đối tượng của giác quan, là những gì ta kinh nghiệm. Nhưng ai là người kinh nghiệm được, ai là chủ yếu? Chẳng hạn cô Jane Smith nói, ”Tôi là người Mỹ, chuyên viên kế toán, 45 tuổi, ly dị có 2 con”. Trong trường hợp này nếu cô Jane nói “tôi” là chủ từ, là người kinh nghiệm, thì cô đã lầm lẫn. Cô Jane đã đồnh hóa mình với ý tưởng, với đối tượng của kinh nghiệm, chứ không phải là chủ của kinh nghiệm. Khi nói về mình, ta nghĩ tưởng những kinh nghiệm đã qua, chúng là những đối tượng chứ không phải là chủ. Ta có thể thêm vào nhiều ý niệm về

! 218

Page 219: THE GIOI MOI 1

mình, làm tăng trưởng những kinh nghiệm về mình cũng như tăng lợi tức cho bác sĩ tâm thần của mình. Làm như vậy ta sẽ không giáp mặt với chủ tức người biết kinh nghiệm hay là người có trước các kinh nghiệm. Không có người này thì chẳng thể có kinh nghiệm được. Ta là người biết kinh nghiệm, ta chính là cái biết. Cái biết là gì? Câu này không thể trả lời được. Vì khi trả lời là đổi thành một đối tượng khác. “Cái biết” theo nghĩa nguyên thủy là tâm linh nên không thể dùng ngôn ngữ thông thường để diễn tả, cũng không thể tìm kiếm nó. Mọi hiểu biết đều thuộc thế giới nhị nguyên : có chủ và đối tượng, có người biết và vật được biết. Nếu không có chủ (người kinh nghiệm) thì không có gì có thể được biết. Khi đó tư tưởng, cảm giác, cảm xúc mãi mãi giữ nguyên vị trí không thể biết. Vì vậy, chỉ có hình tướng là có thể được biết, còn chủ cái biết là vô hình tướng, nhưng nếu không có chủ vô hình tướng thì thế giới hình tướng không thể có. Đó là nguồn sống của mọi loài từ đó thế giới hình tướng phát sinh. Nguồn sống như khoảng chân không trong sáng, thường hằng, vô cùng vô tận. Đó là TA CHÂN THẬT đời đời, những gì xãy ra trong khỏang không đều có tính chất tương đối và tạm thời : được hay mất, thắng hay bại, hạnh phúc hay khổ đau, sinh và tử phải chịu luật vô thường.

! 219

Page 220: THE GIOI MOI 1

Trỏ ngại lớn nhất trong việc nhận ra nguồn sống chân thật hay là tìm “người kinh nghiệm” do con người bị quá lôi cuốn và mất mình trong thế giới hình tướng. Con người bị dính chặt trong từng ý tưởng, từng cảm xúc,từng kinh nghiệm đến nổi con người ở trong tình trạng si mê thường trực. Đây là tình trạng “bình thường” của hầu hết nhân loại từ lâu lắm. Dù không biết về tâm linh,ta cũng có thể cảm nhận nó qua chính mình. Có thể cảm nhận nó ở bất cứ nơi đâu và trong hoàn cảnh nào, có thể cảm nhận nó ngay đây như trạng thái tỉnh sáng trong hiện tiền. Những dòng chữ trong sách này được nhận thức và trở thành tư tưởng. Có cái “TA CHÂN THẬT” hay là cái biết là nền tảng nằm bên dưới tư tưởng, cảm xúc, kinh nghiệm.

HƠI THỞ Ta có thể khám phá chân tâm hay nguồn sống bằng cách tạo ra những khoảng trống giữa tư tưởng. Thiếu khoảng trống này, tư tưởng sẽ bị lập đi lập lại,thiếu sáng tạo linh hoạt. Đừng bận tâm đến khoảng trống dài ngắn, vài giây cũng tốt rồi. Chỉ cần thường xuyên trong sinh hoạt hằng ngày, dần dần những khoảng trống sẽ dài hơn. Hãy chú ý đến hơi thở càng thường càng tốt. Bất cứ khi nào nhớ lại là tập trung vào hơi thở.

! 220

Page 221: THE GIOI MOI 1

Cảm nhận hơi thở vào ra, chú ý lồng ngực và bụng phình lên xẹp xuống theo hơi thở. Trong lúc chú tâm vào hơi thở, ta thoát khỏi tư tưởng liên miên, đầu óc có những khoảng trống. Hãy làm nhiều lần trong ngày là cách tuyệt vời mang lại rỗng rang thanh thản mà không tốn kém gì cả. Hơi thở tự nó xãy ra, ta chẳng cần cố gắng, chỉ theo dõi quan sát là đủ. Chú ý nhứt là ở cuối điểm của hơi thở ra, khi nó ngừng nghỉ một chút trước khi bắt đầu hơi thở khác. Nhiều người thở cạn cợt không tự nhiên. Nếu chú tâm chứng kiến thường xuyên, hơi thở dài và sâu tự nhiên sẽ tái lập. Từ thời cổ xưa, hơi thở được xem ngang hàng với tâm linh tức là nguồn sống không hình tướng hay là thượng đế ẩn tàng. Vì hơi thở không có hình tướng nên chú tâm vào hơi thở là phương cách cực kỳ hiệu quả dẫn lối vào chân tâm, phát triển tâm linh. Hơi thở là hiện tương nhỏ nhiệm nhất nhưng sẽ đem lại an lạc nhất. Theo dõi hơi thở là phương pháp thiền tuyệt diệu, đó là thiền khóa hằng ngày, đem sáng suốt vào đời sống. Để quan sát hơi thở, ta buộc phải an trú trong hiện tiền, chìa khóa của chuyển hóa nội tâm. Chúng ta không thể vừa suy nghĩ, vừa chú tâm vào hơi thở được. Lúc nào ta theo hơi thở là tư tưởng bị cắt đứt, cái đầu được yên. Ta vượt lên

! 221

Page 222: THE GIOI MOI 1

trên trạng thái nghĩ tưởng, hoàn toàn tỉnh táo sáng suốt, nhìn sâu hơn sẽ thấy AN TRÚ TRONG HIỆN TIỀN và TỈNH THỨC chỉ là MỘT. Chân tâm hé mở.

DÍNH NHIỄM Con người bị dính chặt vào thói quen khó thoát, nó sống mãi và làm chủ hoàn toàn. Nó làm chủ trí óc, nó hay binh vực,” Bạn làm việc mệt rồi, cần được hưởng thụ” hoặc “ Tội gì phải ép xác, sao lại từ chối những vui thú?... Do thiếu tỉnh thức, ta đồng hóa với tiếng nói trong đầu, ta đi lần tới tủ lạnh lấy chiếc bánh đầy chocolat dù đang phải ăn kiêng. Có lúc ta làm theo thóí quen sai khiến : rút điếu thuốc ra châm đốt hay rót ly rượu, những việc này làm trong mê mờ hoàn toàn. Hiện nay, nhiều người bị những thói quen bám chặt lâu đời như uống rượu, ăn nhiều, xem TV, internet… Muốn giảm bớt hay chấm dứt thói quen, nên kiên trì thực tập như sau. Trước tiên, nhận ra mình có thói quen dính nhiễm và muốn bỏ thói xấu đó. Khi thói quen nhuốm khởi lên, ta nhứt định không theo nó mà theo dõi 3 hơi thở. Sau đó CHÚ Ý QUAN SÁT sức thúc dục khao khát bên trong, KHÔNG NHẬP CUỘC với nó. Kế tiếp theo dõi vài hơi thở nữa. Sau một lúc, nỗi khao khát thúc giục sẽ hết.

! 222

Page 223: THE GIOI MOI 1

Đừng bao giờ biến thói quen thành vấn nạn của mình, hãy coi là phương cách để mình thực tập tỉnh thức như trên. Thực tập như vậy hoài, sức sáng suốt gia tăng, dính nhiễm lùi bước, lần lần giải tán. Dù vậy, thỉnh thỏang tư tưởng của thói quen dính nhiễm còn nổi lên với biện luận khéo léo. Nên tự hỏi liền, “Ai nói đó?” và ta nhận ra là bản ngã đang nói. Khi làm người quan sát cái đầu của mình, nó không thể gạt mình được.

TỈNH THỨC NỘI TÂM Do cảm nhận luồng không khí ra vào cơ thể và sử phồng xẹp của ngực và bụng, ta sẽ chú ý cả bên trong cơ thể. Sự cảm nhận luân phiên từ hơi thở qua cảm nhận bên trong và lan truyền khắp cơ thể. Con người bị tư tưởng đồng hóa, không nhận ra nguồn sống đang vận hành bên trong, nguồn sống này là ta chân thật, vốn tự đầy đủ và luôn có bên trong, điều khiển cơ cấu vật chất. Nỗi mất mát lớn nhất đời người là không giao tiếp với nguồn sống tự nhiên, để tư tưởng điều khiển hoàn toàn nên luôn bị giao động và tìm kiếm những khỏa lấp như các chất kích thích, âm nhạc rầm rộ, những sinh hoạt liều lĩnh, hoặc ám ảnh tình dục. Có người dùng cả những quan hệ bi kịch để thay thế, khỏa lấp

! 223

Page 224: THE GIOI MOI 1

trạng thái bất an, khao khát. Cách thức con người hay theo đuổi nhất là quan hệ nam nữ, hi vọng “ Tôi được hạnh phúc”. Cách này lại bị thất vọng nhiều nhất, khi bị bất an trở lại, họ đổ thừa cho người bạn. Hãy theo dõi hơi thở thường xuyên, ta sẽ cảm nhận cơ thể từ bên trong. Hãy cảm nhận từng bộ phận của cơ thể, rồi chú tâm cảm nhận toàn cơ thể. Ban đầu nên nhắm mắt để tập. Sau quen dần, mở mắt vẫn cảm nhận bên trong. Một số độc giả có thể cảm nhận bên trong trong lúc đang đọc sách này.

CHÂN KHÔNG BÊN TRONG VÀ BÊN NGOÀI Cơ thể bên trong rộng rãi và không rắn chắc . Đó là nguồn sống linh hoạt vận hành hình tướng vật chất. Sức sống đã cấu tạo và duy trì cơ thể, lại sắp xếp hằng trăm phần hành khác nhau mà trí óc con người chỉ hiểu một phần rất nhỏ. Khi chú tâm đến nguồn sống, sức sáng suốt sẽ tự ý thức được. Đó là nguồn linh, vượt khỏi trí nhớ, không nhà khoa học nào tìm ra vì tâm thức tìm nó chính là nó. Khi ta không còn lẫn lộn cái “TA CHÂN THẬT” (nguồn sống vô hình) với hình tướng tạm thời “của tôi”, nguồn linh vô tận sẽ hướng dẫn “tôi”, diễn đạt qua tôi. Tuy nhiên, nếu chỉ biết suông hay tin rằng “tôi không phải là hình tướng này thì không giúp được gì.

! 224

Page 225: THE GIOI MOI 1

Hãy tự hỏi luôn :” Tôi có cảm nhận sự hiện hữu của chân không bên trong? Tôi có cảm nhận hiện hữu của mình? “Tôi có chú tâm đến thực tại như chân không vô tận trong đó mọi việc đang xãy ra? Chúng ta nên luôn quay vào bên trong cơ thể để nhận ra sự sinh động cốt yếu bên trong, để khám phá ta không phải là hình tướng vật chất. Hằng ngày nên thực tập càng nhiều càng nhiều càng tốt, chú tâm hết sức vào nội tâm, trong lúc chờ đợi, khi lắng nghe, nhìn lên trời, cây cối, nhìn con trẻ, bao giờ cũng cảm nhận bên trong. Chú tâm kiên trì trong vô hình tướng y như neo khắn tỉnh thức trong thực tại. An trú cách này ta không bị mất mình trong tư tưởng, trong cảm xúc và hoàn cảnh bên ngoài. Lúc ta nghĩ tưởng, cảm giác và kinh nghiệm, tâm thức ta phát sinh ra hình tướng. Sự hóa thân hay đầu thai của tư tưởng, cảm xúc, kinh nghiệm cứ lộn đi lộn lại. Vòng tái sinh mãi tiếp nối . Muốn vượt thoát chỉ có cách an trú trong thực tại vĩnh viễn.

MẤT MÌNH LÀ TÌM LẠI MÌNH Bất cứ lúc nào buông xả những đòi hỏi của bản ngã là bên trong chân tâm phát triển. Đòi hỏi của bản ngã không phải là nhu yếu, chỉ là ham muốn dính nhiễm. Khi rủ bỏ những thói quen xấu, đối với bản ngã có vẻ như mất mình,

! 225

Page 226: THE GIOI MOI 1

nhưng thực ra là tìm lại mình chân thật. Ta đã tự gỡ trên bình diện hình tướng, cái ta chân thật càng phát lộ. Người yếu kém về hình tướng, sẽ mạnh mẽ về tâm linh. Ai sáng suốt sẽ nhận ra những bám chặt mê lầm của đa số người :

-Muốn được biết ơn -Muốn được chú ý -Nói về mình: về bịnh tình, về người thân, về kiến thức, về tài sản… -Phê bình, cho ý kiến riêng -Tự ái, cảm thấy bị xúc phạm -Hay than phiền, hay giận hờn Hãy mạnh dạn tháo gỡ ra khỏi những dính nhiễm mê lầm. Hãy khám phá sức mạnh vĩ đại tuôn chảy qua ta đi vào thế giới này.

TĨNH LẶNG Tĩnh lặng đồng nghĩa với chân không. Có người cho rằng tĩnh lặng là ngôn ngữ của Thượng đế. Lúc nào ta chú tâm vào tĩnh lặng là ta tiếp giáp với nội tâm sâu thẳm, vượt thoát tư tưởng và bản ngã . Có thể là tĩnh lặng giữa thiên nhiên, tĩnh lặng của buổi sáng sớm trong phòng, hay là khoảng trống rỗng lặng giữa các âm thanh. Chú tâm vào tĩnh lặng là yên lặng sáng suốt không có suy nghĩ. An trú trong tĩnh lặng là trở về nguồn sống nguyên thủy, trước khi ta tạm nhận thân

! 226

Page 227: THE GIOI MOI 1

xác và tư tưởng sinh diệt. Trong tĩnh lặng, ta là nguồn sống thênh thang, là tâm thức vô cùng tận, vượt ngoài những hình tướng tạm bợ.

CHƯƠNG 9

MỤC TIÊU BÊN TRONG ! 227

Page 228: THE GIOI MOI 1

Ngoài sự sinh tồn, ý nghĩa và mục tiêu của đời người là tối quan trọng. Nhiều người bị cuốn hút vào việc làm, chiếm hết ý nghĩa của cuộc đời. Số người khác bị căng thẳng dữ dội hoặc bị buồn nản trì trệ. Nhiều người theo đuổi thịnh vượng, nhưng sau cùng họ nhận ra vẫn không đủ làm cho đời sống có ý nghĩa. Thật ra mục tiêu thực sự không thể tìm từ bên ngoài. Nó không can hệ đến những việc ta làm, chỉ can hệ đến ta “như thế nào” tức trạng thái tâm của con người. Hãy nhận biết điều quan trọng này : đời người có mục tiêu bên ngoài và mục tiêu bên trong.

Mục tiêu bên trong là CHÍNH YẾU tức tâm thức con người; mục tiêu bên ngoài là phụ và tùy thuộc hoàn toàn vào mục tiêu bên trong. Cả hai gắn bó mật thiết đến nổi không thể có điều này mà không liên hệ đến cái kia. Chúng ta nên biết sắp xếp mục tiêu bên trong và bên ngoài của đời mình. Mục tiêu bên trong là tĩnh thức, là mục tiêu CHUNG của loài người. Đó là phần chính yếu mà mỗi con người cùng chia xẻ với mọi người trên trái đất này. Mục tiêu bên ngoài khác nhau tùy từng người nhưng giống ở chỗ đều chịu luật vô thường,

! 228

Page 229: THE GIOI MOI 1

thay đổi qua thời gian. Luôn nhận biết, hòa đồng với mục tiêu bên trong là nền tảng để hoàn thành mục tiêu bên ngoài, là căn bản của thành công thực sự. Nếu thiếu sắp xếp hòa đồng, chúng ta có thể hoàn tất việc làm qua cật lực làm việc hay thủ đoạn, nhưng việc làm sẽ thiếu phẩm chất, không có niềm vui, không đạt hiệu quả cao.

TĨNH THỨC (tĩnh lặng và sáng suốt) Tĩnh thức là tâm tĩnh lặng sáng suốt rỗng rang, không có suy nghĩ. Đa số người do thực tập và trãi qua tiến trình kiên trì, số ít người do biến cố bi thảm, vẫn trãi qua tiến trình trong đó tâm thức mới dần dần thấm vào gây chuyển đổi mọi ý nghĩ và hành động. Tù lâu, tư tưởng đã làm chủ đời ta điều khiển mọi hoạt động. Khi tĩnh thức, trí óc sẽ giúp phục vụ cho sáng suốt thay vì chỉ huy ta. Tĩnh thức đầu tiên là do duyên khởi. Ta không thể tạo ra, không thể chuẫn bị hay là tích lũy lòng tin. Chẳng có giai đoạn lý luận theo thứ tự để tiến đến thức tỉnh dù trí óc ưa làm việc này. Thức tỉnh có thể đến với bất kỳ ai, không phân biệt giàu nghèo hoặc có tội hay không. Chẳng phải hành động gì để thức tỉnh. Tất cả những gì mình cố làm đều là bản ngã muốn thêm vào làm cho “tĩnh thức” trở thành sở hữu của bản ngã. Thay vì tĩnh sáng, ta thêm

! 229

Page 230: THE GIOI MOI 1

vào đầu óc ý niệm về tĩnh sáng hoặc hình ảnh trong tâm tưởng giống người tĩnh sáng và cố gắng sống với hình ảnh này. Sống với hình ảnh vẽ ra cho mình hay do người khác vẽ về mình là một đời sống không chân thực, chỉ là bản ngã diễn một vai trò mê lầm khác. Do đó chẳng có gì có thể làm để tĩnh thức. Nếu vậy, tại sao có thể nói tĩnh sáng là mục tiêu của đời người? Vì mục tiêu có nghĩa là phải làm gì để đạt tiêu điểm? Thật ra giây phút tĩnh thức đầu tiên, một thoáng sáng suốt rỗng rang không có tư tưởng, xãy đến do duyên, chẳng phải do mình làm. Nếu ai đọc quyển sách này thấy vô nghĩa hay không lĩnh hội được, thì chưa thức tỉnh. Nếu người đọc nhận ra chân lý và bên trong có sự đồng tình, tĩnh thức bắt đầu khai mở. Khi được như vậy, không thể đi ngược lại, dù đôi khi có thể bị bản ngã trì hoãn. Đối với số người đã sẵn sang, quyển sách này sẽ giúp thúc dục và tăng trưởng tiến trình tĩnh sáng. Cuốn sách này còn có chức năng khác là giúp con người nhận ra bản ngã bất cứ lúc nào nó muốn dành lại quyền hành. Có một số người bỗng nhiên khám phá ra họ đã bị những tư tưởng lập đi lập lại mãi, nhất là những tư tưởng tiêu cực. Chợt họ thức tỉnh nhận ra những loại tư tưởng đó, chẳng có ích lợi gì.

! 230

Page 231: THE GIOI MOI 1

Có liên hệ nào giữa suy nghĩ và thức tỉnh không? Thức tỉnh là khoảng trống rỗng rang trong đó có “cái biết” (như biết có tư tưởng). An trú trong hiện tiền là tĩnh thức, là biết trực tiếp, không qua suy nghĩ. Sau đó ta sẽ có lựa chọn sáng suốt là an trú trong hiện tiền vẫn hơn là chìu theo suy nghĩ vô ích. Ta thực tập gắn chặt đời mình vào thực tại. Ta bắt đầu nhận ra ý nghĩa của tĩnh thức là vô cùng quan trọng, có thể xãy đến cho mình hay bất kỳ ai. Khi ấy lòng rộng mở hòa nhập vào tâm thức sáng suốt, và đem ánh sáng của nó vào thế giới này,đó là mục tiêu chính yếu của đời người. Nhà bác học Einstein nói, ”Tôi muốn biết trí của Thượng đế, ngoài ra những chi tiết còn lại đều không đáng kể”. Trí của Thượng đế là gì? Là sức tĩnh sáng, là cái biết sẵn có. Còn những chi tiết là gì? Là những gì xãy đến từ bên ngoài, là mục tiêu bên ngoài. Thường người ta hay đợi việc gì có ý nghĩa hơn cho đời mình, không ngờ việc có ý nghĩa nhất đã xãy ra bên trong, đó là khởi đầu của tiến trình tách rời tư tưởng và tĩnh sáng. Nhiều người đang trãi qua những giai đoạn đầu của tiến trình tĩnh thức. Họ không còn bám chặt vào mục tiêu bên ngoài. Nhìn thấy mối hiểm nguy và loạn động của văn minh nhân loại, họ tách rời và cảm thấy xa lạ với xã hội

! 231

Page 232: THE GIOI MOI 1

chung quanh. Họ không còn bị bản ngã điều hành, nhưng tĩnh thức khơi dậy chưa hòa nhập hoàn toàn vào đời sống của họ : mục tiêu bên trong và mục tiêu bên ngoài chưa sát nhập.

Mục Tiêu Bên Trong Những cuộc đối thoại sau đây tóm lược vô số chuyện của những người đang tìm mục tiêu thực sự của cuộc đời. - “Tôi không biết rõ đó là gì, nhưng tôi muốn có thay đổi trong đời. Tôi muốn làm việc gì có ý nghĩa hơn để đem đến thịnh vượng và tự do sau cùng. Tôi muốn làm việc gì đem lại sự khác biệt cho thế giới, nhưng không biết chính xác là việc gì. Ông có thể giúp tìm ra mục tiêu của cuộc đời chăng? - “Mục tiêu của ông là ở ngay đây và nói chuyện với tôi. Tới khi ông đứng dậy và làm việc khác, thì kế tiếp việc đó sẽ là mục tiêu của ông”. - “Vậy mục tiêu của tôi là ngồi ở văn phòng trong 30 năm, cho tới khi về hưu hay bị nghĩ việc?” - “Hiện tại ông không đang ở trong văn phòng, nên không phải là mục tiêu. Lúc ông ở trong văn phòng và làm bất cứ gì thì đó là mục tiêu, không phải cho 30 năm mà là cho hiện tại”.

! 232

Page 233: THE GIOI MOI 1

- “Tôi nghĩ có vài sự hiểu lầm. Theo ông, mục tiêu là việc mình đang làm. Theo tôi, mục tiêu là đích nhắm toàn bộ trong đời. Việc có tính cách lớn lao, hệ trọng mang đến ý nghĩa, đem lại sự đổi thay khác biệt. Còn việc làm trong văn phòng hằng ngày không phải là mục tiêu”. - “ Khi còn lầm lẫn, con người chỉ tìm ý nghĩa trên bình diện hành động và trong tương lai mà thôi, có nghĩa là trong phạm vi thời gian. Bất cứ gì mình tưởng là có ý nghĩa sẽ tan hoại qua thời gian, nên trên bình diện này, bất cứ việc gì đều là tạm thời và tương đối. Chẳng hạn, người nào coi nuôi dạy con cái là mục tiêu, đến khi chúng không cần nữa hay không nghe theo, việc này có còn ý nghĩa không? Người nào coi sự thành đạt là mục tiêu, mà lại luôn thất bại hoặc dù thắng lợi cũng sẽ có lúc kết thúc, thì sự thành bại có đem lại ý nghĩa không? Người nào coi việc làm từ thiện là mục tiêu tức lệ thuộc vào sự yếu kém của người khác để đời mình có ý nghĩa? Nói như vậy không có nghĩa là không làm những việc trên. Đối với đa số, nuôi dạy con cái, cố gắng làm việc, giúp đỡ người là phần quan trọng của mục tiêu bên ngoài, tuy nhiên mục tiêu bên ngoài đơn độc sẽ không đủ vì chỉ có tính cách tương đối và không bền.

! 233

Page 234: THE GIOI MOI 1

Những hoạt động cần phải nối kết với mục tiêu chính yếu bên trong để những việc làm có phẩm chất và có ý nghĩa. Nếu không sống cân bằng với mục tiêu chính yếu, bất cứ mục tiêu bên ngoài nào, dù là tạo dựng “thiên đàng” trên trái đất, cũng chỉ là bản ngã và sẽ bị diệt qua thời gian. Sau cùng cũng sẽ dẫn tới đau khổ. Nếu lãng quên mục tiêu bên trong, nếu không hành xử với tâm lành, dù việc làm thuộc về tâm linh, bản ngã sẽ lén xen vào và phương tiện sẽ làm hỏng mục tiêu. Câu nói “Con đường đi xuống địa ngục lát đầy những ý định tốt” nhắm chỉ sự thật này. Nói tóm lại, chẳng phải mục tiêu hay hành động là chính yếu, mà là trạng thái tâm thức từ đó phát xuất những việc làm. Chu toàn mục tiêu chính yếu là đặt nền tảng cho một “thế giới mới”. Khi có nền móng rồi, những việc làm bên ngoài được trang bị bằng sức mạnh của tâm bởi vì những mục tiêu và hoạch định sẽ là một với đà tiến hóa không ngừng của vũ trụ. Cốt lõi của mục tiêu bên trong là tách rời tư tưởng và tĩnh sáng bằng cách dứt trừ thời gian. Đây là thời gian tâm lý (không phải thời giờ) do thói quen bám chặt trong trí muốn tìm hoàn hão trong tương lai, nơi không thể tìm được và bỏ quên điểm duy nhất để vào, đó là hiện tại. Khi bạn xem việc đang làm là mục tiêu hay đang ở nơi đâu là mục tiêu, tức là không có

! 234

Page 235: THE GIOI MOI 1

thời gian xen vào. Dứt trừ thời gian là dứt trừ bản ngã. Khi đó bạn làm việc gì cũng rất tốt vì có sự chú tâm hoàn toàn. Bất cứ việc gì cũng chỉ được làm ngay trong hiện tại mà thôi.

-“Sống kiểu vậy có làm tắt nghẽn những mong ước thành đạt tốt đẹp hơn? Nếu cứ làm những việc nhỏ nhặt thì e tới cuối đời không thể tiến lên, không dám làm chuyện cao cả, không hoàn thành tiềm năng của tôi?

-“Những việc nhỏ cần tôn trọng và chú tâm mới làm việc lớn. Thật ra đời sống con người gồm những việc nhỏ. Bản ngã vẽ vời thổi phồng việc lớn nhưng chỉ là ảo tưởng. Nền tảng của việc lớn là chú tâm những việc nhỏ trong hiện tại thay vì theo đuổi ý niệm lớn lao. Thời hiện tại luôn nhỏ vì thường là đơn giản, nhưng chứa đựng sức mạnh lớn nhất. Giống như nguyên tử là một trong những vật nhỏ nhất lại chứa đựng sức mạnh vĩ đại. Chỉ có hòa nhập với hiện tại mới vào được sức mạnh này. Nói đúng hơn, sức mạnh này đi vào bạn và qua bạn đi ra ngoài thế giới. Lo âu, căng thẳng, tiêu cực đã ngăn trở bạn với nội lực này. Chính con người mang ảo tưởng tách biệt với nội lực làm cho vũ trụ vận hành trái nghịch. Con người bị đầu óc chỉ huy, tự phân biệt thấy mình bị lạc lõng, cần tranh đấu bảo vệ hay cố gắng hoàn thành việc nầy việc nọ. Khi không an trú trong hiện tiền, trí óc nghĩ tưởng lung tung sinh ra lo

! 235

Page 236: THE GIOI MOI 1

âu, căng thẳng bất an. Tại sao ta quay lưng với thời hiện tại? Do ta nghĩ tưởng có gì quan trọng hơn nên quên đi mục tiêu chính. Ý tưởng lệch lạc sai lầm nhỏ tạo ra một thế giới khổ đau”. - “Hòa nhập với thời hiện tại không có nghĩa là ngưng mọi hoạch định? Có phải mục tiêu nào cũng có xáo trộn tạm thời, nhưng khi đạt thành rồi thì sự hòa hợp sẽ tái lập hay có thể phức tạp hơn?” - “Chúa Jesus nói: “Hãy lặng ngắm bông hoa, chúng sống ung dung thảnh thơi vô cùng. Chúng không nhọc nhằn, cũng chẳng cố gắng…”. Cho dù tài giỏi khôn lanh vô địch, chiến thắng lẫy lừng, gom hết thiên hạ về mình, cũng chẳng được an nhiên như bông hoa. Bông hoa hay cây non là một với đời sống hay tổng thể, tự chúng không thấy tách biệt nên chẳng muốn gì cả, chẳng lo âu, chẳng nhọc nhằn. Tinh túy hay hồn sống của chúng là một với nguồn sống của muôn loài. Vượt thoát sự khống chế của tư tưởng, chỉ xử dụng trí óc cho những sự kiện thực tế thôi, con người mới sống an nhiên như bông hoa. Cũng giống như các tín đồ Lão giáo, Chúa Jesus thường hướng sức chú tâm của con người vào thiên nhiên vì chúa thấy sức mạnh từ đó mà nhân loại đã bỏ quên. Trong khi thiên

! 236

Page 237: THE GIOI MOI 1

nhiên là biểu lộ tốt đẹp của đà tiến hóa của vũ trụ, nếu con người sánh vai với tinh anh ẩn tàng trong thiên nhiên, con người sẽ tiến hóa tốt đẹp. Do đó hãy sống chân thực bằng cách hòa nhập với mục tiêu bên trong. Hãy chú tâm sáng suốt hoàn toàn vào việc mình làm, hành động đầy sức mạnh tâm linh, không có bản ngã xen vào. Việc làm không quan trọng, chính yếu là để tâm thức len lõi vào. Trước kia tư tưởng “mục tiêu” luôn gắn liền với tương lai, bây giờ mục tiêu trở nên sâu sắc mà chỉ có khi an trú trong hiện tại, chối từ thời gian. Khi gặp người nào, đang ở đâu hay làm gì, hãy ban cho họ sức chú tâm hoàn toàn. Khi đó mình không còn chính yếu là 1 người nữa, mà là 1 môi trường tĩnh thức, sáng suốt trong hiện tiền. Lý do tiếp xúc (như mua bán, sản xuất…) trở nên thứ yếu. An trú trong môi trường tĩnh thức là chính yếu trong quan hệ. Súc tĩnh sáng quan trọng hơn những gì ta nói, hơn những đối tượng vật lý hay suy tưởng. Đó là trực giác của con người quan trọng hơn bất cứ gì trên đời. Trên bình diện thực tiễn ta vẫn làm những sự việc cần thiết và hành động biểu lộ không những dễ dàng mà còn mạnh mẽ hơn khi nhận ra tâm thức là chính yếu. Đây là yếu tố cần thiết nhất cho quan hệ trong thế giới mới”.

! 237

Page 238: THE GIOI MOI 1

- “Nếu như vậy có phải ý tưởng “thành công” chỉ là ảo tưởng vị ngã? Làm sao biết thế nào là thành công chân thực?”

- “Thế giới cho rằng thành công là thắng lợi, là đạt được danh vọng và thịnh vượng. Quan niệm thông thường cho thành công là kết quả của làm việc siêng năng và may mắn, hoặc do tài năng hay quyết định hợp thời. Thật ra đó không phải là cốt lõi của thành công mà chỉ là sản phẩm phụ của thành công. Thế giới không nói với bạn, vì thế giới không hề biết rằng bạn không thể trở nên thành công. Bạn chỉ có thể là thành công và đó là sự thức tỉnh hay an trú trong hiện tại và làm việc với sức chú tâm tĩnh sáng nên việc làm có phảm chất, dù là việc đơn giản nhất. Phẩm chất đòi hỏi sức sáng suốt trong hiện tiền.

Thí dụ một doanh nhân sau 2 năm nỗ lực và căng thẳng mãnh liệt, cuối cùng ra được sản phẩm bán chạy và thu nhiều tiền. Thành công chăng? Đối với thường tình là đúng. Thật ra người đó đã tiêu hao 2 năm ô nhiễm thân xác và ô nhiễm trái đất với năng lượng tiêu cực, làm cho người chung quanh và chính mình khổ sở. Phương tiện đã không góp phần vào hạnh phúc thì kết quả cũng sẽ y như vậy. Hành trình của đời người là giai đoạn mình có được ngay trong lúc này và chỉ

! 238

Page 239: THE GIOI MOI 1

duy nhất có bước này thôi bằng cách triệt để chú tâm vào hiện tại. Nên nhớ những bước đi là chính yếu, còn nơi đến chỉ là thứ yếu.Những gì mình gặp ở nơi đến tùy thuộc vào phẩm chất của bước đi. Nói cách khác, những gì tương lai cho mình tùy thuộc vào tâm thức của mình trong hiện tại. Khi việc làm hòa hợp với nguồn tâm, ta sẽ thành công thật sự. Nếu không an trú sáng suốt trong hiện tại, ta sẽ mất mình trong việc làm, trong suy nghĩ cũng như trong phản ứng với hoàn cảnh bên ngoài”. - “Nghĩa chính xác của mất mình là gì?” - -“Tâm thức là cốt lõi của con người. Khi

tâm thức bị tư tưởng xâm chíếm và đồng hóa, nó bị mất mình trong suy nghĩ. Khi tâm thức bị đồng hóa với cảm xúc như ham muốn hay lo sợ, nó bị mất mình trong cảm xúc. Khi tâm thức bị đồng hóa với phản ứng hay hành động, nó bị mất mình trong đó. Khi bị mất mình, ta không cảm nhận niềm vui chân thật an bình bên trong nên ta đi tìm thú vui bên ngoài để thay thế. Đó là đời sống không chân thật và thành công chì là ảo tưởng. Bất cứ gì đạt thành, chẳng bao lâu lại thay dổi nữa”.

- “ Làm sao tôi khám phá ra mục tiêu bên trong để tìm những gì cần làm ở bên ngoài?”

! 239

Page 240: THE GIOI MOI 1

- “Mục tiêu bên ngoài thay đổi tùy từng người và không có mục tiêu bên ngoài nào bền vững cả. Nó lệ thuộc vào thời gian và sau đó lại có mục tiêu khác thay thế. Do thức tỉnh mục tiêu bên trong sẽ thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, khiến đời mình chuyển biến mạnh. Đối với một số người là do hoàn cảnh đã trãi qua như đổ vỡ quan hệ hay thất bại việc làm… làm cho họ thay đổi sâu đậm. Cũng có trường hợp người bạn đời cùng thức tỉnh và mối quan hệ trở nên có chiều sâu. Những mâu thuẫn dần tan biến mất. Hai người giúp nhau cùng chuyển hóa có hiệu quả. Nơi số người khác, sự thay đổi tự khai phát, không qua tiến trình đau khổ mà do ngẫu nhiên. Một sáng sớm thức giấc bỗng nhiên thức tỉnh, tự quyết định thoát ra khỏi hoàn cảnh sống giả tạm, nhận ra việc làm nào không dung hợp với mục tiêu bên trong sẽ không còn hiệu quả nữa.

Có một số thay đổi bề ngoài thấy như tiêu cực nhưng khiến cho con người thức tỉnh và có chiều sâu. Có thể có một giai đoạn bấp bênh và ta phân vân tự hỏi: “Tôi phải làm gì đây?” Khi bản ngã không còn chỉ huy đời mình, tham đắm vào những đảm bảo bên ngoài dần dần yếu đi, ta có thể sống với những đổi thay, những cái bất thường và có

! 240

Page 241: THE GIOI MOI 1

thể thưởng thức chúng nữa. Khi thản nhiên với bất thường, khả năng vô tận của con người mở rộng ra. Nếu không chấp nhận vô thường, ta sẽ mãi lo âu. Nếu chấp nhận, ta sẽ sáng suốt, linh động và sáng tạo. Nhiều năm qua, do sự thúc giục mạnh mẽ bên trong, tôi mạnh dạn bước vào một nghề hoàn toàn bấp bênh : giáo học tâm linh. Sau dó một sự việc tương tự lại xãy ra, sự thúc giục lại đến khiến tôi rời khỏi căn nhà ở Anh quốc, dời sang vùng Bắc Mỹ, mà chẳng hiểu vì sao. Tôi lại làm một việc không chắc chắn nữa là viết quyển “Sức mạnh của Thực tại” (Power of NOW). Phần lớn tôi viết ở California và Nam Mỹ trong lúc không có căn nhà để ở. Tôi không có lợi tức gì và chỉ sống bằng tiền tiết kiệm nên bị cạn kiệt mau chóng. Lúc tôi viết gần xong thì cạn túi, tuy nhiên mọi việc như được sắp xếp tốt đẹp. Tôi mua một tấm vé số và trúng 1 ngàn dollars, giúp tôi tiếp tuc thêm một tháng nữa. Tuy nhiên không phải ai ai cũng trãi qua sự thay đổi qua những hoàn cảnh bên ngoài. Có những người vẩn tận dụng khả năng, tiếp tục làm như cũ, nhưng họ trở nên thay đổi, không phải thay đổi “cái gì” mà thay đổi “ra làm sao”, họ tiếp sức vào thế giới mới. -“Có phải đó là trường hợp của mọi người? Nếu mục tiêu bên trong là hoàn hão khi an

! 241

Page 242: THE GIOI MOI 1

trú trong hiện tại, tại sao con người vẫn cảm thấy cần thay đổi việc làm hay hoàn cảnh sống?” -“ Hòa nhập với hiện tại không có nghĩa là không hành động hay không có khả năng thay đổi, mà là hành động bắt nguồn từ mức độ sâu hơn, không phải từ ham muốn hay lo âu vị ngã. Nội tâm gắn liền với thực tại sẽ rộng mở và hòa nhập với tổng thể”. -“ Tổng thể là sao?” -“Tổng thể bao gồm tất cả những gì hiện hữu hay là toàn thể vũ trụ. Tuy nhiên vạn vật hiện hữu từ nhỏ nhiệm như vi khuẫn đến con người, hay tinh tú không phải là vật hay cá thể tách rời mà là phần tử đa dạng của mạng lưới liên kết nhau trong hằng vạn tiến trình. Có 2 lý do tại sao chúng ta không thấy sự kết hợp đó. Thứ nhứt là do nhận thức của con người hạ thấp sự thật qua tầm cỡ nhỏ hẹp của giác quan. Lý do thứ hai nghiêm trọng hơn là do ảo tưởng tách biệt của dòng tư tưởng không dứt. Ta mất khả năng cảm nhận sự tương quan của vạn vật. Suy tưởng đã chia cắt sự thật thành những mãnh vụn mê mờ. Từ đó mới phát sinh mâu thuẫn xung đột, thiếu sáng suốt. Tuy nhiên, hãy còn mực độ sâu thẳm cho tổng thể trong đó tất cả chỉ là MỘT. Đó là nguồn sống đồng nhất hay nguồn tâm vô

! 242

Page 243: THE GIOI MOI 1

hình tướng của mọi loài. Đó là tinh nhuệ vô biên vận hành thế giới hình tướng. Vũ trụ thành lập do vạn vật hữu hình và nguồn sống vô hình nghĩa là thế giới và thượng đế. Khi ta hòa nhập với tổng thể, ta là một phần của tổng thể và mục tiêu của đời người là làm hiển lộ nguồn tâm, phát triển lan rộng trên thế giới này. Kết quả là mọi sự tốt lành sẽ xãy ra, cơ hội phát sinh, sự cố lợi ích bộc phát,sự kiện hòa hợp, thuận lợi. Trên bình diện chân lý không có tương quan nhân quả. Đó là trạng thái siêu việt vượt ngoài thế giới hình tướng mà trí óc không sao hiểu được. Tuy nhiên con người có thể tham gia trong việc khai mở trí tuệ đó. Thiên nhiên hiện hữu trong trạng thái tĩnh, đồng nhất với vũ trụ. Trong trận sóng thần xãy ra vào năm 2004 hầu như không có thú rừng nào bị chết, do chúng tiếp cận với tổng thể nhiều hơn là con người, thú rừng cảm nhận được sóng dữ do địa chấn trước khi thiên tai được nghe thấy nên chúng có thời giờ để lui về những nơi cao hơn. Trong khi thiên nhiên sống trong hợp nhất vô tâm thức với vũ trụ , trí óc con người lại chia chẻ sự thật bằng cách làm việc này, việc kia tại vì thế này, thế kia… Hãy sống hợp nhất với tổng thể , cho tâm thức hòa nhập

! 243

Page 244: THE GIOI MOI 1

với trí tuệ vũ trụ, đây là mục tiêu của đời người, đem tâm thức mới vào thế giới này. - “Có thể nào toàn thế giới xử dụng trí óc

con người để sáng tạo hoặc đem đến những trường hợp cân bằng với mục tiêu?”

- “ Đúng như vậy, bất cứ lúc nào có cảm ứng, an trú trong trạng thái tâm linh tức trong thượng đế là lúc có nội lực sáng tạo siêu việt mà chỉ có con người có khả năng này mà thôi.”

CHƯƠNG 10

THẾ GIỚI MỚI

Các nhà thiên văn học tìm thấy bằng chứng đoán biết rằng vũ trụ đã tồn tại 15 tỷ năm qua trong sự gia tăng và phát triển lớn lao. Sự phát triển ngày càng phức tạp và khác biệt. Các khoa học gia cũng công nhận sự tăng gia từ số ít qua số nhiều và cuối

! 244

Page 245: THE GIOI MOI 1

cùng có thể ngược lại. Vũ trụ sẽ ngừng phát triển, bắt đầu thu nhỏ lại và sau cùng trở lại tình trạng nguyên sơ, vô hình tướng, trạng thái trống không khó tin mà từ đó thế giới đã phát sinh. Sau đó có lẽ vũ trụ sẽ lập lại những chu kỳ : sinh ra, bành trướng, thu hẹp, rồi mất, v.v. và v.v… Để chi vậy? Tại sao vũ trụ trãi qua những chu kỳ để tồn tại? Nhà vật lý Stephen Hawking hỏi và nhận ra chẳng có mẫu số nào có thể giải đáp. Tuy nhiên nếu ta lắng nhìn bên trong, sẽ nhận ra ta có mục tiêu bên trong và mục tiêu bên ngoài cũng y như vũ trụ vì con người là phần tử của vũ trụ. Mục tiêu bên ngoài của vũ trụ là tạo hình tướng và những tương quan của hình tướng như vui chơi, chiêm bao, bi kịch… hay bất cứ gì ta đặt tên. Mục tiêu bên trong là thức tỉnh, nhận ra cốt lõi vô hình tướng. Sau đó sắp xếp, dung hợp mục tiêu bên ngoài và bên trong, đem ánh sáng của tâm thức hay nguồn linh vào thế giới hình tướng. Chỉ có con người có khả năng này để chuyển đổi thành một thế giới mới. Tuy nhiên mục tiêu của sự chuyển hóa vượt ngoài tầm hiểu biết của trí óc. Trên trái đất, sự chuyển hóa là phận sự chung của mỗi con người để khôi phục lại mục tiêu bên ngoài và bên trong.

! 245

Page 246: THE GIOI MOI 1

Trước khi chúng ta quay lại nhìn đời mình qua những chu kỳ phát triển và thu hẹp, chúng ta cần biết là ở đây chẳng phải đề cập tới vũ trụ thiên nhiên hay là sự thật tuyệt đối (chân lý). Không có khái niệm hay công thức nào có thể giải thích sự bao la vô cùng vô tận của vũ trụ. Chân lý là tổng thể hợp nhất nhưng trí óc con người phân biệt, chia chẻ thành những mãnh vụn. Hiện tượng này gây ra nhận thức lầm lạc trầm trọng. Do bản chất của ý nghĩ hay tư tưởng chỉ bao hàm một viễn tượng, bao hàm giới hạn nên không phải là chân lý. Chỉ có tổng thể là chân thật nhưng nó không thể nói lên hay suy nghĩ. Muốn thoát khỏi giới hạn của trí óc, thoát khỏi phân biệt chia chẻ, chỉ có cách là an trú trong hiện tại, không có thời gian. Tất cả những gì đã từng hay sẽ là cũng đều nằm trong hiện tại cả. Một ví dụ chứng minh cho sự thật tương đối và tuyệt đối, đó là mặt trời mọc và lặn. Khi nói mặt trời mọc vào buổi sáng và lặn vào buổi chiều thì chỉ đúng tương đối thôi. Trong nghĩa tuyệt đối là không đúng. Do tầm nhìn bị giới hạn của người quan sát đang ở gần hay trên bề mặt của trái đất mà thấy mặt trời mọc hay lặn. Nếu ra xa ngoài không gian, ta mới thấy mặt trời không mọc cũng chẳng lặn, mà chiếu sáng liên tục. Sau khi

! 246

Page 247: THE GIOI MOI 1

khám phá ra như vậy, ta vẫn tiếp tục nói về mặt trời mọc và lặn, vẫn nhìn thấy vẽ đẹp, làm thơ ca tụng, sáng tác họa phẩm về mặt trời, dù chúng ta cũng biết đó là sư thật tương đối mà thôi. Chúng ta hãy tiếp tục nói thêm về sự thật tương đối: vũ trụ đi vào thế giới hình tướng và rồi trở lại trạng thái không hình tướng, hàm chứa tầm nhìn giới hạn của thời gian, liên hệ đến đời sống con người. Ý tưởng “đời tôi” chỉ là tầm nhìn bị giới hạn của trí óc, một sự thật tương đối mà thôi. Trong tuyệt đối, con người là phần tử của đời sống nên chẳng có “đời tôi” riêng rẽ vì tôi và đời sống là MỘT. ĐỜI NGƯỜI Hiện tượng đi vào thế giới hình tướng cũng như trở lại thế giới không hình tướng – sự bành trướng và thu nhỏ - là hai hoạt động của vũ trụ có thể gọi là đi ra và trở về nhà. Hai hoạt động này phản ảnh qua nhiều sắc thái, chẳng hạn như quả tim con người không ngừng co thắt và giãn nở, cũng như hơi thở hít vào và thở ra. Trong chu kỳ giấc ngủ cũng vậy, mỗi đêm ta không biết là ta trở về nguồn sống không hình tướng trong giấc ngủ sâu, không chiêm bao; rồi lại trở ra sáng hôm sau, đổi mới.

! 247

Page 248: THE GIOI MOI 1

Cả hai hoạt động, đi ra và trở về, cũng phản ảnh chu kỳ của đời người. Có thể nói, bỗng nhiên “bạn” xuất hiện trên thế giới này. Tiếp theo sự sinh ra là giai đoạn phát triển. Không những phát triển về thể chất mà còn phát triển về sự hiểu biết, hoạt động, sở hữu, kinh nghiệm. Phạm vi hoạt động nới rộng và đời sống càng gia tăng phức tạp. Đó là giai đoạn bạn chăm chú theo đuổi mục tiêu bên ngoài. Thường thường bản ngã cũng lớn theo, nó bị đồng hóa với những sư vật trên, do đó nhân cách ngày càng rõ rệt. Đó cũng là thời kỳ mà mục tiêu bên ngoài gia tăng, có khuynh hướng bị bản ngã chiếm ngự mà nó không biết đến bao giờ dừng lại nên vẫn tham đắm mãi. Có lẽ khi trông thấy cái chết của người thân, kế tiếp là thể chất của mình suy kém dần, phạm vi hoạt động bị lung lay. Thay vì tiếp tục bành trướng, ta bắt đầu thu nhỏ lại, và bản ngã phản ứng bằng bằng cách gia tăng lo âu và chán nản. Thế giới của ta bắt đầu thu hẹp lại và có thể cảm thấy mình không chủ động nữa. Đời sống dần dần bị giảm thiểu. Tâm thức bị dính nhiễm với hình tướng đã lâu, giờ đây kinh nghiệm được buổi về chiều, hình tướng bắt đầu giải tán. Cho tới một ngày, ta cũng biến mất luôn. Chiếc xe lăn còn đó, nhưng thay vì có ta ngồi trên, chỉ

! 248

Page 249: THE GIOI MOI 1

còn khoảng trống không. Ta trở về nơi ta đã đi ra, qua những năm có mặt ngắn ngủi. Thật ra mỗi đời người hay mỗi hình tướng biểu hiệu cho một thế giới. Khi hình tướng giải tán, thế giới cũng giải tán, thế giới của mình là một trong vô số thế giới.

TĨNH THỨC và TRỞ VỀ Trong đời người, thời kỳ trở về hay là thức tỉnh là lúc hình tướng giải tán, dù do lớn tuổi, do bịnh hoạn, mất mát hoặc bi kịch đều có tiềm năng tĩnh sáng tâm linh hay là sự tháo gỡ tâm thức ra khỏi sắc tướng. Hiện tượng này quá hiếm hoi trong nền văn hóa hiện đại, không mấy người nhận ra đây là cơ hội, cho nên khi xãy ra cho họ hay người thân, họ nghĩ là có gì sai quấy ghê sợ, không nên xãy ra. Trong văn minh hiện đại, phần lớn con người lãng quên phần tâm linh cho nên con người càng đau khổ. Đối với nhiều người, nhất là ở phương Tây, chết là một khái niệm mơ hồ, do đó họ chẳng biết điều gì sẽ xãy ra khi hình tướng giải tán. Đa số người già yếu bị cô lập trong viện dưỡng lão. Tử thi bị dấu kín, chỉ trong những xứ xưa cũ còn để lộ ra cho xem. Ngoại trừ người chết là người thân, nếu không, ai xem tử thi sẽ bị coi gần như là phạm pháp. Trong những nhà quàng, họ

! 249

Page 250: THE GIOI MOI 1

trang điểm gương mặt người chết. Ta chỉ được phép thấy hình thức của cái chết mà thôi. Bởi chết chỉ là khái niệm mơ hồ cho nên con người hoàn toàn không chuẫn bị cho sư giải tán của hình tướng đang chờ họ. Khi nó đến giống như bị sốc, khủng hoảng, mù mờ và lo sợ. Chẳng còn ý nghĩa gì do mục tiêu và ý nghĩa mà cuộc đời mang lại cho họ bị dính chặt với tích lũy, với tiếp nối, với tạo lập, bảo vệ và ý nghỉa làm thỏa mãn. Họ bị dính nhiễm với hoạt động bên ngoài và bị đồng hóa với sắc tướng hay là bản ngã. Phần lớn con người không nhận thấy nghĩa lý gì khi đời sống hay thế giới của họ bắt đầu tàn tạ. Thật ra nó có ý nghĩa sâu hơn là hoạt động bên ngoài. Thật rõ ràng qua sự khởi đầu của thời xưa, do mất mát hay bi kịch của con người mà mức độ tâm linh đi vào đời sống. Có thể nói mục tiêu bên trong của họ chỉ hòa nhập khi mục tiêu bên ngoài bị sụp đổ và cái vỏ của bản ngã bắt đầu bị vỡ ra. Biến cố đó tiêu biểu cho khởi đầu của hoạt động trở về qua sự giải tán hình tướng. Trong đa số những nền văn hóa cổ xưa, người ta am hiểu trực tiếp tiến trình đó cho nên người già được kính nễ và tôn trọng. Đó là những nguồn tàng trữ trí huệ và tâm linh con người, nếu không chẳng có nền văn minh nào tồn tại lâu dài.

! 250

Page 251: THE GIOI MOI 1

Trong thời kỳ hiện đại, con người hoàn toàn bị đồng hóa với bên ngoài và quên lãng mức độ tâm linh bên trong, chữ “già” mang ý nghĩa tiêu cực hoàn toàn. Nó đồng nghĩa với “vô dụng”nên chúng ta coi nó hầu như là lời nhục mạ khi ám chỉ người già. Để tránh dùng chữ này, người ta dùng uyển ngữ thay thế cho nhẹ nhàng hơn : người cao tuổi hay lão niên. Tuy nhiên, hội Lão bà tòan quốc nói lên phẩm chất của các bà đối với cháu, ngày nay “bà nội, bà ngoại” được coi là rất thương mến. Tại sao tuổi già bị coi là vô dụng? Bởi vì ngày nay, thời kỳ chuyển tiếp từ làm (doing) qua an trú (being) đã bị cướp hết trong việc làm, nên con người chẳng biết gì về an trú. Một số người do mục tiêu bên ngoài bị suy sụp trầm trọng, họ quay trở về sớm hơn. Nơi số người khác sự trì trệ chỉ có tính cách giai đoạn. Chúng ta tin rằng một đứa trẻ không phải đương đầu với cái chết, nhưng sự thật là một số trẻ con phải đối diện với cái chết của một hoặc cả hai cha mẹ do bịnh hoạn hay tai nạn, có khi có thể chính cái chết của chúng. Một số các trẻ mang tật khi chào đời, sự phát triển tư nhiên bị hạn chế vô cùng. Ngoài ra, số người khác bị hạn chế trầm trọng khi còn niên thiếu.

! 251

Page 252: THE GIOI MOI 1

Tình trạng đổ vỡ của hoạt động bên ngoài trong thời kỳ “đáng lẽ chưa xãy ra” cũng hướng một người trở về thức tỉnh sớm. Trên hết chẳng có gì xãy ra mà không có nghĩa, nói cách khác chẳng có gì xãy ra mà không phải là một phần của tổng thể với mục tiêu của nó. Như vậy, sự đổ vỡ của mục tiêu bên ngoài có thể đưa tới khám phá ra mục tiêu bên trong và theo đó phát khởi một mục tiêu sâu hơn tương đương với nội tâm. Những đứa trẻ chịu đựng nhiều đau khổ thường trưởng thành sớm hơn. Mất mát ở bên ngoài sẽ được thêm ở bên trong. Trong nền văn hóa cổ xưa có những thần thoại về hình ảnh “nhà tiên tri mù” hay “người tàn tật đi giúp kẻ phiền muộn”, mất mát hay bất lực về hình tướng trở thành lối vào tâm linh. Khi con người có kinh nghiệm trực tiếp về bản chất không vững bền của mọi hình tướng, sẽ không bao giờ bị mất mình, không theo đuổi mù quáng và dính nhiễm vào hình tướng nữa. Trong nền văn hóa hiện đại, cơ hội giải tán hình tướng và nhứt là nơi người lớn tuổi, chỉ mới bắt đầu được nhận ra. Đối với đại đa số người, cơ hội đó vẫn bị bỏ quên một cách thảm thương, do bản ngã đồng hóa với hoạt động trở về y như nó đồng hóa với hoạt động bên ngoài. Hậu quả đó là do bản ngã mang

! 252

Page 253: THE GIOI MOI 1

vỏ bọc quá dày, chỉ co thắt mà không mở ra được. Bản ngã thu hẹp tiêu hao những ngày còn lại trong than vãn, phàn nàn, dính kẹt trong lo sợ và giận hờn hoặc hối tiếc hay đổ thừa, mắc bẫy trong tình trạng tiêu cực hoàn toàn. Có người thay đổi chiến lược bằng cách dính nhiễm vào ký ức, họ thường suy nghĩ, nói năng về quá khứ. Tới khi bản ngã không còn bị đồng hóa với hoạt động trở về, tuổi già hay sắp chết trở thành lối vào trạng thái tâm linh. Tôi đã gặp những người già sống trong tiến trình biểu hiện này. Nhìn họ thật là trong sáng. Ánh sáng của trí huệ chiếu rọi qua hình tướng yếu kém. Trong thế giới mới, tuổi già được khắp nơi quí trọng như là thời kỳ rực rỡ của tâm thức phát riển. Đối với những người bị mất mình trong những hoàn cảnh bên ngoài, sẽ là thời kỳ nhận ra mục tiêu bên trong, quay trở về tuy có hơi muộn. Đối với nhiều người khác, đây là thời kỳ tiêu biểu cho tiến trình thức tỉnh mạnh mẽ và cuối cùng.

THỨC TỈNH và HOẠT ĐỘNG BÊN NGOÀI Sự phát triển tự nhiên của đời người đi theo các hoạt động bên ngoài bị bản ngã cướp quyền để bành trướng cho riêng nó. Khi đứa trẻ nhận thấy sức mạnh và khả năng thể

! 253

Page 254: THE GIOI MOI 1

chất của nó phát triển, nó nói với đứa trẻ khác: ”Hãy nhìn xem tôi có thể làm được, tôi dám cá là bạn không thể làm được”. Đó là một trong những nỗ lực đầu tiên qua sự đồng hóa với hoạt động bên ngoài và ý tưởng “giỏi hơn người” là bản ngã mạnh lên do hạ thấp người khác. Tuy nhiên, khi tâm thức tĩnh sáng và khi bản ngã không còn làm chủ đời mình, ta không phải chờ tới lúc bị suy sụp hay tuổi xế chiều mới thức tỉnh mục tiêu bên trong. Khi tâm thức mới khởi đầu hòa nhập vào hành tinh này, con số tăng gia chẳng cần phải bị giao động mới thức tỉnh. Họ đón nhận tiến trình tĩnh thức một cách tư nguyện dù hãy đang bận rộn với thời kỳ phát triển ở bên ngoài. Khi thời kỳ đó không bị bản ngã chiếm quyền, tâm thức sáng suốt sẽ đi vào thế giới này qua những hoạt động bên ngoài – suy nghĩ, nói năng, hành động, sáng tạo – cũng mạnh mẽ như hoạt động bên trong – tĩnh lặng, an trú và giải tán hình tướng. Cho tới bây giờ, thông minh của nhân loại, không còn là trạng huống bé nhỏ của vũ trụ, bị sai lệch và lầm lẫn bởi bản ngã. Tôi gọi đó là “thông minh phục vụ cho rồ dại.” Phân chia nguyên tử đòi hỏi cực kỳ thông minh. Dùng thông minh đó để chế tạo và chất chứa bom nguyên tử là khùng điên tức là cực kỳ

! 254

Page 255: THE GIOI MOI 1

kém thông minh. Ngu khờ thì ít hại, nhưng thông minh rồ dại đang đe dọa sợ sống còn của nhân loại. Nếu không có yếu kém của phản chức năng vị ngã, thông minh của con người sánh bước với chu kỳ bên ngoài của vũ trụ sẽ thúc đẩy sức sáng tạo. Chúng ta trở thành phần tử sáng suốt trong việc cấu tạo hình tướng. Chẳng phải chúng ta tạo lập, mà do tinh nhuệ của vũ trụ tạo lập qua ta. Chúng ta không đồng hóa với những gì tạo lập nên chúng ta không bị mất mình trong những gì ta làm. Chúng ta học được rằng hành vi sáng tạo có thể do năng lực quyết tâm nhưng không phải là căng thẳng hay làm việc ngày đêm. Chúng ta cần hiểu rõ khác biệt giữa căng thẳng và quyết tâm. Căng thẳng hay tranh đấu là bản ngã trở lại giống như những phản ứng tiêu cực khi ta chạm trán với mê mờ. Sức mạnh ẩn núp phía sau bản ngã muốn gây tạo “những kẻ nghịch” nghĩa là có phản ứng để gây ra lực đối nghịch. Bản ngã càng lớn, ý tưởng phân biệt chia chẽ giữa người càng mạnh. Những hành vi không gây tạo phản ứng đối nghịch chỉ là những hành vi nhắm tốt cho tất cả. Chúng cùng một loại chứ không độc quyền. Chúng hòa hợp, liên kết chứ không chia rẽ. Chúng không phải

! 255

Page 256: THE GIOI MOI 1

riêng cho xứ sở “của tôi” mà cho tất cả mọi người, không phải cho tôn giáo “của tôi” mà cho tâm thức của nhân loại, không phải riêng cho loài người, mà cho tất cả mọi loài và cả thiên nhiên nữa. Chúng ta cũng học được rằng hành vi đó, dù cần thiết, chỉ là yếu tố thứ yếu phô diễn sự thật ở bên ngoài. Yếu tố chính yếu là tâm thức. Dù chúng ta hoạt động cỡ nào, nỗ lực ra sao, trạng thái tâm thức sẽ gây tạo thế giới, và nếu không có sự chuyển hóa bên trong, chẳng có số lượng hành động nào có thể làm đổi thay. Chúng ta sẽ chỉ tái lập lại những hình thức khác của cùng thế giới này , một thế giới phản ảnh bên ngoài của bản ngã.

TÂM THỨC Tâm thức tức là nhận biết. Đó là trạng thái không hình tướng, vô cùng vô tận.Tuy nhiên vũ trụ từ từ trở thành nhận biết. Tâm thức tự nó không có thời gian nên không có tiến hóa. Nó chẳng bao giờ sanh ra và cũng không chết đi. Khi tâm thức trở thành vũ trụ hình tướng, nó xuất hiện có thời gian và phải trãi qua tiến trình phát triển. Trí óc con người không thể hiểu hết nguyên do của tiến trình đó. Nhưng chúng ta có thể thoáng nhìn nó

! 256

Page 257: THE GIOI MOI 1

bên trong ta và trở thành một phần tử sáng suốt trong đó. Từ tâm thức con người hay là cơ cấu trí não mà hình tướng phát xuất. Tâm thức đã chuẫn bị cho hình tướng hằng triệu năm qua cho nên nó có thể tự phô diễn trong thế giới hình tướng. Mặc dù lãnh vực vô hình tướng tức tâm thức thuần khiết có thể được xem như ở mức độ khác, nhưng không hề tách rời thế giới hình tướng. Hình tướng và vô hình tướng giao nhập liên kết nhau. Vô hình tướng biểu hiện trong thế giới hình tướng như tĩnh thức, chân không bên trong, an trú hiện tiền. Qua hình tướng của con người mà trạng thái vô hình tướng hay là sức tĩnh sáng mới biểu hiện. Như vậy con người được cấu tạo cho mục tiêu cao quí đó, và hằng triệu hình thể khác cũng chuẫn bị nền tảng cho mục tiêu đó. Tâm thức hóa thân vào thế giới hình tướng hay là trở thành hình tướng, giống như nó đi vào trạng thái chiêm bao. Lúc đó tuy tâm thức trở thành vô thức nhưng nó vẫn biết, vẫn thông minh. Nó biến mất trong hình tướng, đồng hóa với hình tướng. Hiện tượng này có thể giải thích như từ thánh thiện xuống trần tục. Tới thời kỳ này, hoạt động bên ngoài hoàn toàn chiếm cứ trong tiến

! 257

Page 258: THE GIOI MOI 1

trình của vũ trụ cũng giống như trong giấc mơ. Những thoáng tĩnh thức chỉ đến khi hình tướng của cá nhân giải tán tức khi chết. Và cứ như thế, lại bắt đầu sự hóa thân khác, lại đồng hóa với hình tướng, lại đi vào giấc mơ nữa, một trong giấc mơ tập thể. Khi nước mắt con sư tử rời xa con ngựa rằn, tâm thức hiện thân thành ngựa rằn, thoát khỏi hình tướng và trong phút ngắn ngủi, nó trở lại bản nhiên tinh túy; sau đó nó lại tiếp tục mê để rồi hóa thân vào một hình tướng khác. Lúc con sư tử về già, không thể săn mồi nữa, khi trút hơi cuối cùng, nó còn có một thoáng tĩnh thức rỗng rang, và theo sau là giấc mơ hình tướng nối tiếp… Trên trái đất, bản ngã con người tiêu biểu giai đoạn cuối cùng trong giấc mơ của thế giới, hay là sự đồng hóa của tâm thức với hình tướng. Nó đã là giai đoạn cần thiết trong tiến trình của tâm thức. Bộ não con người là một hình tướng vô cùng đặc biệt qua đó tâm thức đi vào cơ cấu này. Não bộ có khoảng hàng trăm tỷ tế bào thần kinh, tương tợ con số tinh tú trong vũ trụ, có thể xem như là não bộ của vũ trụ. Não bộ không tạo ra tâm thức, chính tâm thức tạo ra não bộ mà não bộ là hình thể vật chất phức tạp nhất trên trái đất này. Do đó khi cơ quan não bộ bị hư, không có nghĩa là

! 258

Page 259: THE GIOI MOI 1

ta mất tâm thức, chỉ có nghĩa là tâm thức không còn xử dụng được cơ cấu đó để vận hành. Chúng ta không hề mất tâm thức vì chính chúng ta là tâm thức. Chúng ta chỉ có thể mất cái gì chúng ta có, chứ không thể mất cái ta sẵn là như vậy.

HÀNH ĐỘNG trong TĨNH THỨC Hành động sáng suốt là trạng thái bên ngoài của giai đoạn kế tiếp trong tiến trình của tâm thức. Chúng ta càng tiến gần tới giai đoạn kết thúc, bản ngã càng suy giảm năng lực, tương tợ như con sâu suy kém trước khi trở mình hóa thành bướm. Ngay khi tâm thức cũ giải tán, tầng tâm thức mới phát khởi. Hiện chúng ta đang ở giữa thời kỳ rất quan trọng trong tiến trình tâm thức của loài người, nhưng không ai đề cập tới vấn đề này trong các bản tin tức. Trên trái đất và có lẽ đồng thời ở nhiều nơi khác trong vũ trụ, tâm thức đang thức tỉnh, ra khỏi giấc mơ hình tướng. Điều này không có nghĩa là mọi hình tướng hay thế giới bên ngoài sắp giải tán, dù cũng có một số ít như vậy. Chỉ có nghĩa là tâm thức bây giờ có thể tạo ra hình tướng mà không mất mình trong đó. Nó có thể giữ vững tâm trong khi phô diễn và kinh nghiệm hình tướng. Do đâu chúng tiếp tục tạo và kinh nghiệm hình tướng? Chỉ để du hí, để

! 259

Page 260: THE GIOI MOI 1

thưởng thức mà thôi. Vì sao tâm thức làm được như vậy? Do những con người sáng suốt đã nghiên cứu về hành động trong tĩnh thức. Hành động sáng suốt là trong khi hành xử mục tiêu bên ngoài mà vẫn giữ tâm sáng suốt, song hành với mục tiêu bên trong. Qua hành động sáng suốt, ta hòa nhập mục tiêu bên ngoài với vũ trụ. Tâm thức truyền qua bạn đi vào thế giới này. Tâm thức hay nguồn sống truyền vào tư tưởng của ta và gây cảm hứng. Nó truyền vào những gì ta đang làm, hướng dẫn và tăng cường hoạt động. Không phải do những gì ta làm mà quan trọng là làm như thế nào, sẽ quyết định cuộc đời mình. Thái độ và hành động ra sao là do tâm thức mình quyết định. Tâm thức hiện tiền truyền vào những gì ta đang làm, quyết định phẩm chất của việc làm. Dù ở hoàn cảnh nào hay làm bất cứ gì, trạng thái tâm thức là chính yếu, hoàn cảnh hay hành động là thứ yếu. Hành dộng phát sinh tốt hay xấu đều do tâm thức mà ra. Thành công tùy thuộc vào và không thể tách rời khỏi tâm thức . Đó cũng có thể là do sức phản ứng lại của bản ngã, hoặc có thể do tâm thức phát khởi. Tuy nhiên, tất cả thành công thực sự bắt nguồn từ sức chú tâm trong

! 260

Page 261: THE GIOI MOI 1

sáng, chứ không từ bản ngã ích kỷ hay từ những ý nghĩ có điều kiện.

BA TRẠNG THÁI của HÀNH ĐỘNG SÁNG SUỐT

Có ba trạng thái trong đó tâm thức có thể tác động vào hành động và qua ta đi vào thế giới này. Đó là ba cách ta có thể nối kết đời mình với sức mạnh của vũ trụ. Trạng thái hay là năng lượng thường trực tiềm ẩn hòa quyện vào việc làm, nối kết hành động với tâm thức sáng suốt hòa nhập vào thế giới này. Trừ phi hành động của ta phát sinh từ một trong ba trạng thái, nếu không sẽ phát xuất từ bản ngã bất thường. Mỗi trạng thái thích hợp với một số hoàn cảnh. Chúng có thể thay đổi trong ngày, mặc dù một trong ba trạng thái có thể vượt trội hẵn trong suốt giai đoạn nào đó của cuộc đời. Ba trạng thái đó là : chấp nhận, vui thích và nhiệt thành. Mỗi trạng thái tiêu biểu cho một tần số rung động của tâm thức, Ta cần hết sức cảnh giác để chắc chắn rằng có một trong ba trạng thái này tác động vào trong bất cứ hành động dù đơn giản hay phức tạp nhất. Xét kỹ, nếu chúng ta không chấp nhận, vui thích hay nhiệt thành, ta tự tạo đau khổ cho mình và cho người khác.

! 261

Page 262: THE GIOI MOI 1

CHẤP NHẬN Bất cứ việc gì không thể vui thích khi làm, ít nhất ta nên chấp nhận đây là việc phải làm. Chấp nhận nghĩa là : ngay bây giờ, đây là hoàn cảnh cần phải làm nên ta sẵn lòng làm. Chúng ta đã đề cập nhiều lần về sự quan trọng của chấp nhận bên trong khi bất cứ gì xãy ra, và chấp nhận những gì cần làm cũng chỉ là một trạng huống khác. Chẳng hạn ta sẽ không vui thích khi phải thay võ xe bị xẹp trong lúc trời tối lại có mưa, nhưng ta có thể chấp nhận việc cần làm và nhiệt tâm làm. Làm việc gì với tâm chấp nhận có nghĩa là có an bình khi làm việc đó. An bình là năng lượng tinh xão tác động vào việc làm. Nhìn bề ngoài, ta tưởng chấp nhận là thụ động, buông xuôi, nhưng thực ra nó rất tích cực và tạo tác vì nó đem đến luồng gió mới vào thế giới này. Niềm an bình, năng lượng tinh xão đó chính là tâm thức, và một trong những cách nó đi vào thế giới là qua hành vi buông xả, một trạng huống của sự chấp nhận. Nếu không thể vui thích cũng không thể chấp nhận việc gì đó, hãy ngưng ngay. Nếu không, ta sẽ chẳng đảm nhận trách nhiệm về một sự việc quan trọng nhất, đó là trạng thái tâm của mình. Và nếu ta không đảm nhận

! 262

Page 263: THE GIOI MOI 1

trách nhiệm tâm, ta sẽ không trách nhiệm đời mình.

VUI THÍCH Niềm an bình theo cùng với sự buông xả trở thành cảm giác sống động khi ta thực sự vui thích việc đang làm. Vui thích là trạng thái thứ nhì của hành động sáng suốt. Trong thế giới mới, trạng thái ham muốn sẽ được thay thế bằng trạng thái vui thích là động lực thúc đẩy hành vi con người. Ham muốn xuất phát từ bản ngã lừa đảo rằng con người là phần tử tách biệt không giao hòa với sức mạnh linh hoạt ẩn sau mọi hình tướng. Qua trạng thái vui thích, ta giao tiếp với sức mạnh tạo tác của vũ trụ. Khi an trú ngay trong hiện tiền, thay vì lui về quá khứ hay vọng về tương lai, tiêu điểm của đời người là hiện tại, khả năng vui thích việc làm tăng lên, đem lại phẩm chất cho đời mình. Niềm vui là trạng thái sinh động trong hiện tiền. Khi sức mạnh tạo tác của vũ trụ trở thành tâm thức chung, sẽ phô diễn thành niềm vui. Chúng ta không cần chờ cái gì có ý nghĩa mang đến niềm vui trong việc làm. Triệu chứng “chờ đợi để bắt đầu sống” là một trong những ảo tưởng thông dụng nhất của tình trạng mê lầm. Thay đổi tích cực và phát triển ở bên ngoài sẽ đến với chúng ta nhiều

! 263

Page 264: THE GIOI MOI 1

hơn nếu vui thích trong việc làm, thay vì chờ đợi thay đổi nào đó mới được vui thích. Đừng hỏi đầu óc để được vui thích trong việc làm. Nó sẽ cho ta rất nhiều lý do tại sao ta không thể có được. Trí óc sẽ nói, “Không thể ngay bây giờ, không thấy ta đang bận sao? Không có thì giờ, hay là ngày mai mới bắt đầu vui thích…” Ngày mai đó không bao giờ đến, ta chỉ bắt đầu vui thích việc làm ngay bây giờ mà thôi. Khi ta nói, tôi vui thích làm việc này, việc nọ, là một nhận thức sai lầm. Bởi vì ta tưởng đó là niềm vui từ việc ta làm, nhưng không phải trường hợp ở đây. Niềm vui không đến từ cái gì ta làm, nó tác động vào công việc từ tận trong thâm tâm và đi vào thế giới. Nhận thức sai lầm niềm vui đến từ việc làm là thông thường mà cũng nguy hiểm vì nó làm cho người ta tin rằng niềm vui là do từ hoạt động hay sự vật đem lại. Ta sẽ nhìn ra bên ngoài để có được niềm vui, được hạnh phúc. Nhưng không thể như vậy được. Đó là lý do tại sao nhiều người sống trong chán nản thường xuyên. Thế giới bên ngoài không cho họ những gì họ nghĩ là họ cần. Vậy thì thế nào là liên hệ giữa việc làm và niềm vui? Bạn sẽ thưởng thức bất cứ hoạt động nào mà bạn hiện diện ngay trong lúc này, bất cứ hoạt động nào không phải chỉ là

! 264

Page 265: THE GIOI MOI 1

phương tiện để đi tới cứu cánh. Không phải do hành động bạn làm mà bạn thật sự thưởng thức, nhưng chính do tâm đi vào việc làm. Tâm thức đó chính là ta chân thật. Điều này có nghĩa là khi ta vui thích làm việc gì, ta đang thực sự trãi nghiệm niềm vui từ tận thâm tâm. Do vậy mà mà bất cứ gì bạn làm nối kết với sức mạnh phía sau mọi sáng tạo. Sau đây là thực tập tâm linh sẽ đem đến mở rộng sức mạnh và sáng tạo vào đời sống. Hãy làm một danh sách về những sinh hoạt hằng ngày , bao gồm những việc mình xem là tẻ nhạt, không thú vị, bực bội hoặc căng thẳng. Nhưng đừng bao gồm những việc mình ghét làm. Đó là trường hợp hoặc là chấp nhận làm hay là ngưng làm. Danh sách có thể gồm đi tới lui để làm, mua thực phẩm, giặt quần áo, hay bất cứ gì bạn thấy tẻ nhạt hay căng thẳng trong sinh hoạt thường ngày. Kế tiếp, bất cứ khi nào bạn làm những việc này, hãy xem chúng là phương tiện để bạn chú tâm. Hãy tuyệt đối tập trung vào việc đang làm và cảm nhận sự tĩnh lặng linh hoạt bên trong làm nền tảng cho mọi hoạt động. Chẳng bao lâu bạn sẽ thấy rằng những việc làm với sức chú tâm cao độ, sẽ trở thành thú vị thay vì bực bội, chán nản hoặc căng thẳng. Một cách rõ ràng hơn, không phải do việc làm bên ngoài khiến mình vui thích, chủ

! 265

Page 266: THE GIOI MOI 1

yếu là do tâm thức bên trong. Đó là niềm an lạc trong việc làm. Nếu bạn cảm thấy đời bạn vô nghĩa hay tẻ nhạt, do bạn chưa thực tập đó thôi. Tuy nhiên, mang tâm thức vào việc làm chưa phải là mục tiêu chính. Thế giới mới phát khởi khi càng có nhiều người khám phá ra mục tiêu của đời người là đem ánh sáng của tâm thức vào thế giới này và dùng bất cứ gì họ làm như là phương tiện cho mục tiêu này. Niềm vui thật sự là niềm an lạc trong tâm. Tâm thức tĩnh sáng thay thế bản ngã và bắt đầu điều hành đời mình. Sau đó bạn sẽ thấy những sinh hoạt lâu đời cũ kỹ, tự nhiên mở rộng lớn hơn khi được tăng cường bởi chiều sâu của tâm thức. Một số người, qua hành vi sáng tạo, làm phong phú đời sống của nhiều người khác bằng cách giản dị làm những gì họ thú vị làm nhất, họ chẳng muốn hoàn thành hoặc trở nên này nọ. Họ có thể là nhạc sĩ, nghệ sĩ, văn sĩ, nhà khoa học, dạy học, hoặc nhà xây dựng. Đôi khi trong thời kỳ đầu, ảnh hưởng của họ hãy còn nhỏ, nhưng sau đó có thể do ngẫu nhiên hoặc từ từ bành trướng lớn mạnh và ảnh hưởng vô số người khác. Thêm vào niềm vui là sự nhiệt tâm đem đến sức sáng

! 266

Page 267: THE GIOI MOI 1

tạo vượt xa bất cứ gì mà một người thường làm được. Nhưng đừng để nó vào trong đầu, vì nơi đó có thể bản ngả còn sót lại đang ẩn núp. Chúng ta hãy còn là con người bình thường. Điều lạ thường là những gì qua ta đi vào thế giới này. Tinh túy đó chúng ta chia sẻ với mọi người. Vào thế kỷ 14, thi sĩ Ba Tư và đại sư Hồi giáo diễn tả chân lý này một cách đẹp đẽ :”Hãy lắng nghe âm thanh, ta là một cái lỗ trong ống sáo mà làn hơi của Đức Chúa thổi qua”.

NHIỆT TÂM Kế tiếp còn một cách khác là lòng nhiệt thành, có thể đến với người duy trì sức sáng suốt ở bên trong. Bỗng nhiên một ngày nọ họ nhận ra mục tiêu bên ngoài. Họ có tầm nhìn rộng lớn, tức mục tiêu và từ đó họ hoạt động để thực hiện. Mục tiêu hay tầm nhìn của họ luôn luôn nối kết với những gì họ đang làm và thưởng thức việc làm đó. Đó là long nhiệt thành. Nhiệt tâm nghĩa là vui thích tận bên trong những gì ta làm cộng thêm mục tiêu hay tầm nhìn mà ta đang hướng tới. Khi đó, tầng số rung động hay là năng lượng sẽ chuyển đổi. Một mức độ chắc chắn ta có thể gọi là áp lực cơ bản cộng vào niềm vui trong việc làm

! 267

Page 268: THE GIOI MOI 1

thành sức nhiệt thành. Mọi hoạt động sáng tạo khích động bằng nhiệt tâm, tạo thành sức mạnh và năng lượng đằng sau hành động. Ta sẽ cảm giác như mũi tên đang hướng về mục tiêu và ta đang thưởng thức cuộc hành trình. Dưới cái nhìn của người khác, có vẻ như ta đang bị căng thẳng. Nhưng lòng nhiệt thành chẳng ăn nhập gì với căng thẳng. Ta chỉ căng thẳng khi nào muốn đi tới mục tiêu hơn là muốn được làm bất cứ gì đang làm. Sự quân bình giữa niềm vui và áp lực cơ bản bị đánh mất. Khi bị căng thẳng, thường là dấu hiệu bản ngã trở lại, và ta đã tự cắt đứt với sức hòa đồng của vũ trụ.Thay vào đó là sức mạnh và áp lực của lòng ham muốn và ta phải vật lộn và vất vả để đạt mục tiêu. Căng thẳng luôn luôn làm giảm phẩm chất và hiệu quả của việc làm. Ngoài ra căng thẳng còn liên hệ chặt chẽ với những cảm xúc tiêu cực như nóng giận và lo lắng. Đó cũng là chất độc cho cơ thể và hiện nay được khám phá ra là nguyên do chính yếu của những căn bệnh thời đại như ung thư và đau tim. Khác với căng thẳng, nhiệt thành có tầng số rung động cao và do đó vang dội với sức mạnh sáng tạo của vũ trụ. Vì vậy Ông Ralph Waldo Emerson đã nói,” Không có gì lớn lao mà không được hoàn thành bằng nhiệt tâm”.

! 268

Page 269: THE GIOI MOI 1

Từ “nhiệt thành” là do từ ngữ cổ Hy Lạp “en” và “theos” có nghĩa là Thượng đế. Từ ngữ lien hệ là “enthousiazein” nghĩa là “ sở hựu bởi vị thần”. Với nhiệt tâm, ta sẽ khám phá ra là ta không phải làm tất cả một mình. Thực ra là không có gì đồng nghĩa với ta có thể làm một mình. Giữ vững được lòng nhiệt thành mang lại dòng năng lượng sáng tạo, ta chỉ phải làm mỗi công việc là “lái dòng năng lượng “ đó. Lòng nhiệt thành mang lại sức mạnh vô biên trong việc làm, đến nổi những ai không có nhiệt tâm sẽ đánh giá thành công của ta như là kinh ngạc và coi đó như là ngang hàng với ta là ai. Tuy nhiên ta biết được sự thật Chúa Jesus nhắm chỉ khi nói,” Tôi có thể chỉ mình tôi không làm được gì cả”. Khác với ham muốn ích kỷ, tạo ra đối lập trong tỷ lệ trực tiếp của cường độ ham muốn, trong khi lòng nhiệt thành chẳng hề có đối lập. Nó không phải đối đầu. Hoạt động của nó không gây ra người thắng hay kẻ thua. Nó dựa vào sự dung hợp những người khác, chứ không độc quyền. Nó không cần thiết xử dụng hay điều khiển con người, vì tự nó tạo ra sức mạnh, nên nó chẳng cần năng lượng từ một nguồn nào khác. Trong khi cái muốn của bản ngã lúc nào cũng cố lấy từ vật gì hay người nào khác; lòng nhiệt thành còn cho ra sức

! 269

Page 270: THE GIOI MOI 1

phong phú của nó. Khi lòng nhiệt thành gặp phải trở ngại trong những hoàn cảnh bất lợi hay gặp người không hợp tác, nó không bao giờ tấn công mà lại cho họ ưu tiên hay chấp nhận họ, biến năng lượng trái nghịch thành giúp đỡ, kẻ thù thành ra bạn. Lòng nhiệt thành và bản ngã không thể sống chung nhau. Cái này có mặt thì cái kia vắng mặt. Lòng nhiệt thành biết rõ nơi nào mình đang đi, đồng thời nó hòa nhập với hiện tại, từ đó nó sinh động, vui tươi, quyết tâm. Lòng nhiệt thành tự nó không thiếu gì cả nên chẳng “muốn” gì. Nó hòa nhập với đời sống (hoàn cảnh) làm một nên dù những sinh hoạt sôi động ra sao, ta không bị mất mình trong đó. Và do đó luôn duy trì trạng thái yên tịnh nhưng vẫn linh hoạt sáng suốt, tinh túy của nền tảng an bình giữa mọi hoạt động. Với nhiệt tâm, ta hòa nhập với nguyên tắc tạo tác của vũ trụ, nhưng không đồng hóa với những hình tướng tạo tác đó, nghĩa là không có bản ngã. Nơi nào không có đồng hóa là không bị dính chấp. Dính nhiễm là nguồn gốc lớn của khổ đau. Một khi làn sóng năng lượng tạo tác đi ngang, áp lực bị giảm thấp dần, còn lại là niềm vui trong việc đang làm. Không ai có thể sống trong nhiệt tâm hoài. Khi làn sóng năng lượng mới lại đến dẫn tới tái tạo lòng nhiệt thành.

! 270

Page 271: THE GIOI MOI 1

Lòng nhiệt thành tùy thuộc vào chu kỳ của đời sống bên ngoài. Khi tâm hướng về giải tán hình tướng, không cần dùng lòng nhiệt thành nữa. Qua buông xả, ta có thể hòa nhập với hành trình trở về nhà. Tóm lược lại : Vui thích bất cứ gì ta đang làm, kết hợp với mục tiêu hay hướng nhìn với lòng nhiệt thành. Dù ta có mục tiêu, cần sức chú tâm triệt để những gì đang làm trong hiện tại. Phải chắc chắn là mục tiêu của mình không phải là hình ảnh thổi phồng về mình tức bản ngã, chẳng hạn MUỐN trở thành ngôi sao điện ảnh, hay nhà văn nổi tiếng, hay thương gia giàu có… Phải chắc chắn rằng mục tiêu của mình không nhắm để CÓ cái này cái nọ như lâu đài ở cạnh biển, làm chủ công ty hay có 10 triệu dollars trong ngân hàng. Hình ảnh thổi phồng về mình hoặc hướng nhìn để mình có cái này cái nọ đều là những mục tiêu dính nhiễm và sẽ không làm tăng cường nội lực. Thay vì phải chắc chắn rằng mục tiêu của mình là mạnh mẽ nhắm vào hoạt động mà mình tham dự vào và qua đó mình liên hệ với người khác cũng như với toàn thể. Thay vì tự thấy mình là ngôi sao nổi tiếng hay là đại văn hào…, nên thấy mình truyền cảm hứng cho mọi người và làm phong phú đời sống con người. Cảm nhận từng hoạt động của mình không những lợi lạc

! 271

Page 272: THE GIOI MOI 1

cho mình mà còn cho vô số người khác. Cảm nhận tâm mình mở rộng qua đó năng lượng truyền từ nguồn sống qua mình vì lợi ích của muôn người. Sau đó mục tiêu hay hướng nhìn của ta trở thành xác thực trong ta, trong tâm trí và tình cảm. Lòng nhiệt thành là sức mạnh chuyển đổi bản dự trù thành thực hiện. Đó là xử dụng trí óc để sáng tạo, tuyệt đối không có ham muốn chen vào. Qua sự làm việc cật lực và căng thẳng, ta có thể có điều ta muốn, nhưng đó không phải là cách thức trong thế giới mới. Chúa Jesus trao yếu chỉ về trí óc sáng tạo như sau, “Bất cứ gì mình tâm nguyện, chắc chắn là sẽ nhận được”.

THƯỜNG CÒN Hoạt động biểu lộ ra ngoài hình tướng khác nhau tùy từng người. Một số người cảm thấy thúc dục cần phải thành lập, sáng tạo, tham dự, hoàn thành, gây ấn tượng cho thế giới. Nếu họ mê, dĩ nhiên bản ngã sẽ thay thế và dùng năng lượng để hoạt động cho mục tiêu riêng tư. Việc này sẽ làm giảm sụt đáng kể năng lượng sáng tạo và họ cần dựa vào “sự ráng sức” để đạt điều họ muốn. Nếu họ thức tỉnh, mọi hoạt động vì người khác sẽ được gây tạo. Ngoài ra, có số người, theo đà phát

! 272

Page 273: THE GIOI MOI 1

triển tự nhiên, không chú ý bên ngoài, có vẽ như thụ động và số người này tương đối hiếm hoi. Họ chú tâm vào bên trong nhiều hơn, và họ giảm thiểu hoạt động hình tướng bên ngoài. Tâm họ trở về nhà hơn là phóng ra ngoài. Họ không hề tham dự hay thay đổi thế giới. Nếu họ có bất cứ tham vọng nào, họ luôn luôn không vượt ra ngoài tìm tòi bất cứ gì làm cho họ thành riêng rẽ. Có người thấy khó thích hơp với thế giới này. Có người may mắn tìm một chỗ thích hợp cho đời mình, một việc làm có lợi tức thông thường hay làm chủ một cửa tiệm nhỏ. Một số có thể cảm thấy theo sống trong nhóm đạo hay trong tu viện. Có người lại trở ra ngoài và sống bên lề xã hội, cảm thấy ít liên hệ với xã hội. Một số sa vào á phiện vì họ thấy sống trên đời này quá đau khổ. Có số ít người sau cùng trở thành giáo học tâm linh đi cứu giúp người khác. Trong thời gian qua, họ có thể bị xem là những người trầm lặng mà trong thời văn minh hiện đại có vẽ như không có chỗ nào dành cho hạng người này. Tuy nhiên, khi thế giới mới phát khởi, vai trò của họ cực kỳ quan trọng như là người sáng tạo, người thi hành và cũng là người cải cách. Nhiệm vụ của họ là duy trì tâm thức mới thường còn trên hành tinh này. Tôi gọi họ là những người nắm giũ sự thường

! 273

Page 274: THE GIOI MOI 1

còn. Họ ở đây để phát ra tâm thức mới qua những hoạt động thường ngày, qua liên hệ với người khác cũng như qua “nguồn sống”. Với cách này, họ cống hiến những điều có vẻ tầm thường nhưng đầy ý nghĩa sâu sắc. Nhiệm vụ của họ là đem thương yêu thanh tịnh vào thế giới này bằng cách tuyệt đối tỉnh thức trong bất cứ việc làm nào. Dù là việc giản đơn nhất nhưng có tĩnh thức nên có phẩm chất. Mục tiêu của họ là làm mọi việc với thành tâm. Khi mỗi con người là một phần của tập thể nhân loại thức tỉnh, họ ảnh hưởng toàn cầu sâu sắc hơn những gì họ trông thấy được trong đời.

THẾ GIỚI MỚI KHÔNG PHẢI LÀ “ẢO TƯỞNG” Có phải ý niệm về một thế giới mới chỉ là giấc mơ ảo tưởng khác? Không phải như vậy. Mọi ảo tưởng đều có cùng chung điều này : tư tưởng dự trù trong một tương lai khi tất cả đều tốt đẹp, khi đó chúng ta sẽ có an bình, hòa đồng và không còn vấn đề nữa. Đã có quá nhiều ý niệm về ảo tưởng như vậy. Một số chấm dứt trong thất vọng, một số trong trong thảm họa. Trong cốt lõi của mọi tầm nhìn, ảo tưởng nằm trong phản chức năng chính yếu của

! 274

Page 275: THE GIOI MOI 1

tâm thức cũ : luôn nhìn về tương lai để được đổi thay. Thực sự tương lai chỉ tồn tại trong tư tưởng con người, nên khi nhìn về tương lai để được tốt đẹp, là ta tiếp tục mê lầm dựa vào tư tưởng. Ta bị mắc bẫy trong hình tướng, và đó là bản ngã. Trong Thánh kinh có câu, “Và tôi đã thấy một đất trời mới”. Nền tảng của một đất mới là một trời mới tức là tâm thức tỉnh sáng. Đất là thực trạng biểu lộ, và chỉ là phản ảnh bên ngoài. Sự phát khởi một trời mới liên quan đến một đất mới không phải là một sự cố tương lai để làm chúng ta tự tại. Không thể có gì sẽ làm chúng ta tự tại, vì chỉ có ngay bây giờ là chúng ta được tự tại. Nhận thức này tức là tỉnh sáng. Vì vậy, một trời mới hay là tâm thức tỉnh sáng không phải là một trạng thái tương lai để đạt tới. Ngay bây giờ, một đất trời mới đang phát khởi bên trong ta, và nếu không phải vậy thì có nghĩa là một tư tưởng đang xâm chiếm và tâm thức mới không phát khởi. Chúa Jesus đã nói với các đệ tử, “Thiên đàng là ngay đây, ở giữa mọi người chúng ta”. Trong bài thuyết giáo trên núi, Chúa Jesus tiên đoán điều mà cho tới ngày nay ít người hiểu thấu. Ngài nói,” Lành thay những người thánh thiện, họ sẽ kế vị trái đất này”. Trong Tân ước ngày nay, thánh thiện nghĩa là

! 275

Page 276: THE GIOI MOI 1

khiêm tốn. Ai là người thiện lành hoặc khiêm tốn và kế vị trái đất nghĩa là gì? Người khiêm tốn là người vô ngã, là người đã phát khởi nguồn tâm, đã tỉnh thức và nhận ra bản nhiên tinh túy trong mọi người, mọi loài. Họ sống buông xả và cảm nhận sự đồng nhất với toàn thể và nguồn tâm. Họ thể hiện tâm thức tỉnh sáng làm thay đổi mọi trạng huống của đời sống trên trái đất, bao gồm cả thiên nhiên, vì đời sống trên quả địa cầu không thể tách rời khỏi tâm thức con người. Đó là ý nghĩa do đâu người thiện lành sẽ kế vị trái đất . Một loài giống mới phát sinh trên hành tinh này; hiện tại đang phát sinh mà bạn là loài đó. Hết

! 276