Upload
thanhhai2014
View
120
Download
4
Embed Size (px)
Citation preview
Prebiotic:
Định nghĩa:
Khái niệm prebiotic lần đầu tiên được Gibson GR, Roberfroid MB định nghĩa vào
năm 1995. Kể từ đó, prebiotic đã thu hút sự chú ý của giới khoa học cũng như như các
nhà công nghệ. Nhiều polysaccharide và oligosaccharide sử dụng trong thực phẩm ngộ
nhận như prebiotic, tuy nhiên khái niệm prebiotic và công năng của nó chỉ mới được xác
định rõ những năm gần đây.
Prebiotic là các thành phần thực phẩm không tiêu hoá được, có tác dụng kích thích
sự phát triển và hoạt động một số loài vi khuẩn có lợi cho sức khoẻ đồng thời ức chế một
số loài vi khuẩn khác trong ruột kết (ruột già) góp phần tăng cường sức khoẻ.(a)
Định nghĩa của prebiotic được Gibson và Roberfroid đưa ra khá giống định nghĩa
chất xơ trong thực phẩm, chỉ có sự khác biệt duy nhất là prebiotic có khả năng kích thích
sự phát triển của một số vi khuẩn có lợi cho sức khoẻ. Chủng vi khuẩn muốn chỉ định ở
đây là Bifidobacteria do chúng có khả năng sử dụng một số oligosaccharide như
fructooligosaccharides và inulin, transgalactosylated oligosaccharides, và
oligosaccharides từ đậu nành. (e)
Đến báo cáo gần đây nhất (2007) Gibson và Roberfroid khẳng định không phải bất
cứ loại carbonhydrate nào cũng có thể xếp vào nhóm prebiotic mà chúng cần thoả mãn
các yêu cầu sau: (a)
Chống chịu được môi trường acid của dạ dày, không bị phân giải bởi enzyme
động vật và không bị hấp thu ở ruột.
Có khả năng lên men bởi các vi khuẩn đường ruột
Kích thích có chọn lọc sự phát triển và/hoặc hoạt tính của các vi khuẩn có lợi cho
sức khoẻ.
Prebiotic không nhất thết phải là các chất không bị tiêu hoá mà chỉ cần khi đến ruột
kết chúng vẫn còn một lượng đủ lớn để làm cơ chất cho quá trình lên men ở đây.
Cũng theo Gibson và Roberfroid hiện nay chỉ có hai chất đáp ứng được các yêu cầu
đối với prebiotic: đó là inulin và trans-galactooligosaccharides (TOS). (a)
Tính chất của prebiotic
Prebiotic là những chất khó tiêu:
Prebiotic khó tiêu là do cấu trúc hoá học của nó.(viết lại)
Hai công trình nghiên cứu của Bach Knudsen và cộng sự (1995) và Ellegard (1997)
đã chứng minh prebiotic vẫn giữ nguyên một lượng lớn (86 – 89%) khi đến ruột già. (d)
Bảng: Khả năng tiêu hoá của một số prebiotic trên đường ruột người (d)
Cơ chất Mô hình thí
nghiệm
Lượng
nạp vào
Lượng
còn lại
Phần trăm
còn lại
Tác giả công bố, năm
(g) (g) (%)
Inulin
Kỹ thuật
mở thông
ruột hồi
7.07 6.1 86 Bach Knudsen và Hessov,
199521.2 18.4 87
Inulin nt 17.0 15.0 88Ellegard và cộng sự, 1997
Oligofructose nt 15.5 13.8 89
Oligofructose nt 20.1 6.0 89 Molis và cộng sự, 1996
Một số kết quả nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra khả năng không bị tiêu hoá của
prebiotic như: khi dung nạp prebiotic thì lượng đường trong máu không tăng (Hidaka,
1986; Rumessen, 1990). Prebiotic khó bị phân giải bởi dịch tiêu hoá từ dạ dày (Nilsson và
cộng sự, 1988).
Những kết quả trên cùng với hàng loạt nghiên cứu khác đã chứng tỏ prebiotic không
bị tiêu hoá trong đường tiêu hoá của người.
Prebiotic là nguồn dinh dưỡng của vi sinh vật có lợi trong đường ruột.
Như vậy prebiotic sau đi qua gần hết ống tiêu hoá vẫn còn một lượng lớn. Khi đến
ruột già prebiotic trở thành nguồn dinh dưỡng cho hệ vi sinh vật ở đây. Lúc này prebiotic
được lên men. Các kết quả nghiên cứu đã chứng tỏ prebiotic được lên men bởi hệ vi sinh
vật tại ruột kết. Đa số các vi sinh vật có khả năng sử dụng prebiotic là các vi khuẩn có lợi.
(d)
Sở dĩ các vi sinh vật này có khả năng sử dụng prebiotic là do chúng có thể tiết ra
một số enzyme ngoại bào có khả năng phân giải các liên kết -(2-1)glycosidic. Sản phẩm
của quá trình lên men prebiotic là acid béo mạch ngắn, sinh khối vi sinh vật, CO2, H2. Tuy
nhiên chỉ một chủng vi sinh vật thì chưa đủ để lên men tuyệt đối prebiotic mà cần sự phối
hợp của nhiều chủng khác nhau. Ví dụ như các chủng Bacteroides có khả năng sử dụng
carbohydrate có chỉ số polymer hoá (DP) cao, trong khi các chủng Bifidobacteria chỉ sử
dụng được các loại carbohydrate với chỉ số DP thấp.
Khả năng lên men của prebiotic còn phụ thuộc vào cấu trúc của nó. Prebiotic mạch
thẳng thì dễ lên men hơn prebiotic mạch nhánh. Prebiotic có cấu trúc càng giống tự nhiên
thì càng dễ tiêu thụ bởi các vi sinh vật đường ruột.
Hình: Tỉ lệ phân tử lượng của acetate, propionate, và butyrate được sinh ra do quá trình
lên men prebiotic bởi hệ vi sinh vật có trong phân người. (d)
Trong một số nghiên cứu khác đã khẳng định prebiotic, đặc biệt là inulin có khả
năng kích thích sự phát triển của Bifidobacteria. (d)
Các khí gas sinh ra trong quá trình lên men prebiotic còn có tác dụng tăng nhu động
ruột, làm nhuận tràng giảm táo bón. Tuy nhiên chúng cũng là nguyên nhân của việc hạn
chế liều lượng prebiotic sử dụng, bởi quá nhiều prebiotic có trong thực đơn sẽ gây đầy
hơi.
Ngoài tác dụng đối với hệ vi sinh vật thuộc đường tiêu hoá, prebiotic còn có một số
ưu điểm khác như không làm tăng cholesterol trong máu, tăng khả năng hấp thụ khoáng
đặc biệt là Ca và Mg và chống lại một số bệnh ung thư do vi khuẩn đường ruột gây ra.
Các loại prebiotic
Inulin: C6nH10n+2O5n+1
Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Inulin
Hình: cấu trúc hoá học của inulin
Inulin là chất có vị ngọt tinh tế có thể dùng thay cho đường, bột và chất béo. Inulin
đã được chứng minh có vai trò như prebiotic.
Cấu trúc hoá học của inulin:
Inulin là một polymer mạch thẳng được cấu tạo từ các đơn phân là fructose, các
monomer này liên kết với nhau bằng liên kết -(2-1) glycosidic, và mạch polymer thường
tận cùng bằng gốc glucose.
Inulin tận cùng bằng gốc glucose được gọi là alpha-D-glucopyranosyl-[beta-D-
fructofuranosyl](n-1)-D-fructofuranosides (GpyFn).
Inulin tận cùng không có gốc glucose được gọi là beta-D-fructopyranosyl-[D-
fructofuranosyl](n-1)-D-fructofuranosides (FpyFn).
Do được tạo thành bởi các liên kết -glucosidic nên inulin không bị thuỷ phân bởi
các enzyme có trong đường tiêu hoá mà chỉ bị thuỷ phân một phần bởi enzyme
endoinulinase (EC 3.2.1.7) thành oligofructose.
Nguồn sản xuất inulin:
Inulin được chiết tách từ thực vật thuộc họ Composithae ví dụ như rau diếp xoăn.
Inulin có nguồn gốc tự nhiên là những inulin không phân nhánh thường được tách chiết từ
rễ. Loại inulin này có đơn phân là glucose, fructose, sucrose. Mức độ polymer hoá (DP)
của inulin từ rau diếp xoăn từ 2 đến 60 với giá trị polymer hoá trung bình (DPav) là 12. Sở
dĩ có chỉ số polymer hoá trung bình vì inulin có nguồn gốc thực vật thường là một hỗn
hợp có mức độ polymer hoá khác nhau. Chỉ có 10% inulin từ rau diếp xoăn có chỉ số DP
từ 2(F2) đến 5(GF4). (a)
Từ inulin người ta sản xuất oligofrutose, loại oligofructose này có chỉ số DP từ 2 – 7
với DPav = 4, bao gồm oligosaccharide mạch thấp như 1-kestotriose, 1,1-kestotetraose,
1,1,1-kestopentaose cũng như inulobiose, inulotriose và inulotetraose. Loại oligofructose
thường là hỗn hợp chứa cả GpyFn và FpyFn. Oligofructose cũng có thể tổng hợp nhở
enzyme -frructosidase (EC 3.2.1.7) thu nhận từ Aspergillus niger. Phản ứng tổng hợp
này phỏng theo cơ chế tổng hợp oligossacharide trong thực vật với cơ chất là sucrose kết
hợp với 1, 2 hay 3 phân tử fructose. Sản phẩm này có DP từ 2 đến 4 với DPav = 3.6 và tất
cả sản phẩm đều là GpyFn. Oligofructose còn được gọi với một tên khác là
fructooligosaccharide, chỉ những inulin oligomers với DPmax <10. (b)
Oligofructose phối hợp với inulin cao phân tử tạo nên sản phẩm Synergy. Tuỳ theo
các chỉ số DP, DPav, DPmax mà các sản phẩm Synergy có sự khác biệt ít nhiều. (a)
Hình: Mối quan hệ giữa inulin, oligofructose và các dẫn xuất của chúng (b)
Tác dụng của inulin:
Cho đến ngày nay tác dụng của inulin đã được nghiên cứu khá nhiều và khá hoàn
thiện. Vai trò lớn nhất của inulin là cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột (ở ruột già) trong
đó chúng sẽ kích thích các vi sinh vật có lợi cho sức khoẻ như lactobacilli, bifidobacteria,
fusobacteria và ức chế sự phát triển của một số vi sinh vật có hại như Escherichia coli,
clostridia, veillonellae, candida. Cho đến nay cơ chế ảnh hưởng của inulin lên sự phát
triển của các vi khuẩn có lợi vẫn chưa được làm rõ. Tuy nhiên người ta đã đưa ra phỏng
Inulin GpyFn
(n = 2 ÷ 60, Dpav = 12)
Inulin GpyFn
(n = 2 ÷ 60, Dpav = 12)
Oligofructose GpyFn và FpyFn
(n = 2 ÷ 7, Dpav = 4)
Oligofructose GpyFn và FpyFn
(n = 2 ÷ 7, Dpav = 4)
Inulin HP GpyFn
(n = 10 ÷ 60, Dpav = 25)
Inulin HP GpyFn
(n = 10 ÷ 60, Dpav = 25)
Synergy 1 GpyFn và FpyFn
(n = 2 ÷ 7 và 10 ÷60)
Synergy 1 GpyFn và FpyFn
(n = 2 ÷ 7 và 10 ÷60)
Phân tách
Trộn lẫn Sucrose
-fructosidase
endoinulinase
đoán, các vi sinh vật này có khả năng tiết ra enzyme ngoại bào inulinase có khả năng phân
giải inulin, sử dụng inulin như là một nguồn dinh dưỡng của chúng. (b)
Gibson & Wang (1994) đã tiến hành nuôi các chủng vi khuẩn Bifidobacteria,
Escherichia coli, Clostridium perfringens trên môi trường chứa inulin và các môi trường
có nguồn cacbon khác. Kết quả cho thấy Bifidobacteria phát triển tốt trên môi trường
chứa inulin, trong khi đó Escherichia coli, Clostridium perfringens hầu như không phát
triển trên môi trường chứa inulin. Gibson và Wang đồng thời tiến hành nghiên cứu tác
động của inulin lên hệ vi sinh vật từ phân người, kết quả đạt được cho thấy inulin là một
tác nhân kích thích sự phát triển của chủng Bifidobacteria. Khi so sánh tác dụng của
inulin, oligofructose và sucrose đối với Bifidobacteria thì oligofructose cho kết quả tốt
nhất.
Kaplan & Hutkins (2000) tiến hành sàng lọc 28 chủng vi khuẩn sinh acid lactic và
Bifidobacteria dựa trên khả năng sử dụng inulin và oligosaccharide trên môi trường rắn
MRS cho thấy 12 trên 16 chủng vi khuẩn sinh acid lactic và 7 trên 8 chủng vi khuẩn
Bifidobacteria có khả năng dùng inulin và oligosaccharide. Đồng thời bằng kỹ thuật phân
tích phân tử Sghir và cộng sự (1998) lại khẳng định một lần nữa vi khuẩn Bifidobacteria
và vi khuẩn sinh acid lactic có thể sử dụng inulin và oligofructose. Và oligofructose có
khả năng kích thích sự phát triển của những chủng vi khuẩn này.
Từ những kết quả khả quan của thực nghiệm in vitro tác dụng của inulin tiếp tục
được kiểm tra trên mô hình chuột và người. Phương pháp tiến hành là xác định lượng vi
khuẩn có lợi ban đầu trong phân, sau đó cho các đối tượng thử nghiệm ăn các khẩu phần
có inulin với hànm lượng khác nhau. Khảo sát sự thay đổi của các vi khuẩn có lợi sau khi
đã ăn inulin.
Kruse và cộng sự (1999) đã nghiên cứu ảnh hưởng của inulin trên 8 người khoẻ
mạnh. Những đối tượng thử nghiệm này được cho ăn inulin với hàm lượng 15% trong
khẩu phần ăn. Kết quả cho thấy số lượng vi khuẩn Bifidobacteria tăng rõ rệt trong khi
lượng acid béo mạch ngắn (SCFA), lượng lipid trong máu và khí gas sinh ra hầu như
không đổi.
Gibson và cộng sự (1995) cũng tiến hành nghiên cứư khả năng kích thích
Bifidobacteria của inulin và oligosaccharide. Kết quả cho thấy cả hai loại này đều có khả
năng kích thích sự phát triển của Bifidobacteria, đồng thời lượng vi khuẩn Bacteroides,
Clostridia và Fusobacteria giảm dưới tác dụng của oligofructose, lượng cầu khuẩn Gram
dương giảm dưới tác dụng của inulin. Tổng số vi khuẩn hầu như không đổi và rất ít
SCFA cũng như khí gas sinh ra.
Tác dụng của inulin trên các đối tượng khác nhau với các liều dùng khác nhau cũng
đã được khảo sát. Bouhnik và cộng sự (1999) đã tiến hành nghiên cứu liều lượng
oligofructose lên sự phát triển của Bifidobacteria. Ông đã đưa ra kết luận với liều lượng
10g/ngày oligofructose cho kết quả tốt nhất mà không gây ra tác dụng phụ gì.
Những kết quả trên đã chứng minh inulin hoàn toàn có khả năng tăng cường sự phát
triển của các vi sinh vật có lợi trong đường ruột, từ đó giúp cân bằng hệ vi sinh vật đường
ruột, giải quyết các bệnh đường ruột.
Bên cạnh tác dụng giúp cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột, inulin còn có tác dụng
có lợi cho sức khoẻ khác như tăng cường sự hấp thụ khoáng chất, đặc biệt là Ca, Mg,
giảm cholesterol trong máu … Với những ưu thế như vậy, inulin đã được đưa vào các sản
phẩm sữa chức năng chữa bệnh đường ruột.
Bảng: Tóm lược những kết quả đạt được trong nghiên cứu ảnh hưởng của inulin lên sự phát trỉên của bifidobacteria,
khảo sát trên phân người. (a)
A: liều lượng inulin sử dụng (g/ngày); N: absolute number: B: số lượng Bifidobacteria ban đầu tính bằng log10cfu/g
phân người; C: số lượng Bifidobacteria tại thời điểm cao nhất tính bằng log10cfu/g phân người;
Bảng: Một số nghiên cứư tác dụng của inulin trên vi khuẩn khác ngoài Bifidobacteria trên các đối tượng nghiên cứu
khác nhau; (a)
Liều
dùng
Thời gian
nghiên cứu
Số đối tượng
nghiên cứu
Độ tuổi Kết quả Tài liệu
g/ngày tuần người
8 2 23 lớn tuổi Không ảnh hưởngMitsuoka và cộng sự,
1987
8 5 6 trưởng thành Không ảnh hưởng Hidaka và cộng sự, 1991
4 2 10 trưởng thành Không báo cáoWilliams và cộng sự,
1994
8 2 38 trưởng thành Clostridia giảm Rochat và cộng sự, 1994
15 2 8 trưởng thành Clostridia giảm Gibson và cộng sự, 1995
15 2 4 trưởng thành Bacteroides, Fusobacteria giảm Gibson và cộng sự, 1995
20 2 17 lớn tuổi Không ảnh hưởng Kleessen và cộng sự, 1997
5 -20 1 trưởng thành Không ảnh hưởng Bouhnik và cộng sự, 1999
8 5 8 trưởng thành Không báo cáo Menne và cộng sự, 2000
5 3 8 trưởng thành Không ảnh hưởng Rao và cộng sự, 2001
6.6 3 31 trưởng thành Clostridia giảm, Bacteroides tăng Tuohy và cộng sự, 2001
8 4 9 trưởng thành Không ảnh hưởng Tuohy và cộng sự, 2001
9 2 10 trưởng thành Không ảnh hưởng Harmse và cộng sự, 1999
8 3 19 lớn tuổi E. rectalis giảm Guigoz và cộng sự, 2002
Bảng: Tóm lược những kết quả đạt được trong nghiên cứu vai trò oligofructose. ©
Trans-galactooligosaccharide (TOS):
Trans-galactooligosaccharides (TOS) là một prebiotic thường được sử dụng trong
các sản phẩm sữa, TOS cũng tồn tại một lượng rất thấp trong sữa người. Trong công
nghiệp, TOS được tổng hợp từ lactose thông qua phản ứng transgalactosyl bằng enzyme
-galactosidase từ Aspergillus oryzae. Nguồn nguyên liệu sản xuất TOS là lactose trong
whey.
Thành phần của TOS:
TOS là một polymer có đơn phân là lactose liên kết với nhau bằng liên kết -(1-4),
-(1-3), -(1-6) glycosid và mạch polymer bắt đầu bằng phân tử glucose ở đầu khử.(f).
TOS là một hỗn hợp các oligosaccharide với chỉ số DP từ 2 – 6 phụ thuộc vào nguồn
enzyme sử dụng để tổng hợp.
Bảng: thành phần của trans-galactooligosaccharides: (f)
Loại oligosaccharide Hàm lượng Cấu trúc
Trisaccharides 50 %
Gal (1-6) Gal (1-4) Glc
Gal (1-3) Gal (1-4) Glc
Gal (1-4) Gal (1-4) Glc
Gal (1-4) Gal (1-6) Glc
Tetrasaccharides 35 %
Gal (1-6) Gal (1-6) Gal (1-4) Glc
Gal (1-3) Gal (1-6) Gal (1-4) Glc
Gal (1-6) Gal (1-3) Gal (1-4) Glc
Penta- và hexa
saccharides15 %
Gal (1-6) Gal (1-6) Gal (1-6) Gal (1-4) Glc
Gal(1-6)Gal(1-6)Gal(1-6)Gal(1-6)Gal(1-4)Glc
Gal: galactose, Glu: glucose
Đặc tính của TOS: (g)
TOS có khả năng hút ẩm tốt và độ tan cao.
Độ ngọt của TOS bằng 1/3 của đường sucrose.
Qui trình sản xuất Galactooligosaccharide (GOS). (g)
Enzyme -galactosidase thường sử dụng là enzyme có nguồn gốc từ nấm men, nấm
mốc, hoặc vi khuẩn. Enzyme này thường cố định trên chất mang (microparticle) như nhựa
trao đổi ion, chitosan, cellulose hay agarose (bead) hay màng cotton. Loại enzyme và điều
kiện phản ứng ảnh hưởng đến liên kết hình thành.
Khử màu phản ứng có thể bằng than hoạt tính hoặc bằng phương pháp lọc.
Sản phẩm của quá trình sản xuất chứa 24 – 55% oligosaccharides và một lượng nhỏ
lactose, glucose và galactose.
Để nâng cao năng suất sản xuất GOS, enzyme -galactosidase từ chính vi khuẩn
Bifidobacteria được sử dụng. Theo phương pháp này các chủng vi khuẩn Bifidobacteria
được nuôi cấy để thu GOS.
Bảng: các nghiên cứu sử dụng các vi sinh vật khác nhau để sản xuất GOS từ lactose.
Lactose tinh sạch từ whey
Transglycosyl hoá-galactosydase
Khử màu
Cô đặc
GOS
GOS dạng syrup
Sấy
GOS dạng bột
Tác dụng của trans-galactooligosaccharide:
Tương tự như inulin, TOS cũng có tác dụng làm cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột.
Tanaka và cộng sự đã chứng minh vi sinh vật đường ruột có thể sử dụng TOS như
một nguồn dinh dưỡng. Ông tiến hành thí nghiệm với 8 chủng Bifidobacteria, 5 chủng
Bacteroides, 3 chủng Fusobacteria, 6 chủng Eubacteria, 8 chủng Clostridia, chủng
Propionibacterium acnes, 8 chủng Lactobacilli, 8 chủng Streptococci, 4 chủng
Enterobacteriaceae và chủng Staphylococcus aureus; so sánh khả năng sử dụng TOS của
các chủng này. Kết quả cho thấy các chủng Bifidobacteria, 2 chủng Bacteroidess fragilis,
4 chủng Lactobacilli, 4 chủng Enterobacteria phát triển tốt trên môi trường có TOS. Điều
này đã chứng tỏ chủng Bifidobacteria được TOS kích ứng.
Tiến hành thử nghiệm TOS trên chuột có hệ vi sinh vật đường ruột tương tự như ở
người cũng cho kết quả khả quan. Rowland và Tanaka (1993) tiến hành thử nghiệm trên
chuột, cho sử dụng khẩu phần ăn chứa 5% TOS sau 4 tuần kiểm tra thấy có sự tăng rõ rệt
lượng vi khuẩn Bifidobacteria và Lactobacilli.
Bảng: Kết quả kiểm tra vai trò prebiotic của TOS trên động vật. (e)
Đối tượng Liều lượng Thời gian Kết quảTác gỉa và
năm công bố
Chuột 5% (w/v) 7 tuần
Có sự tăng rõ rệt các vi
khuẩn bifidobacteria và
giảm staphylococci,
streptococci
Morishita và
Konishi,
1994
Chuột 10% (w/v) Không rõ
Hàm lượng Acid béo
mạch ngắn, H2, lactate,
succinate tăng; hàm
lượng butyrate, valerate
và isoacids giảm.
Andrieux và
Szylit, 1992
Chuột 5% (w/v) 4 tuần
Có sự tăng rõ rệt các vi
khuẩn bifidobacteria và
lactobacilli; vi khuẩn
enterobacteria giảm.
Rowland và
Tanaka,
1993
Nếu như kết quả thử nghiệm trên động vật khá đồng nhất thì kết quả thử nghiệm
TOS trên người có nhiều trái ngược. Ito và cộng sự (1990) đã tiến hành thử nghiệm TOS
trên người với các liều 0, 2.5, 5 và 10g/ngày trong 8 tuần thấy có sự gia tăng vi khuẩn
Bifidobacteria và Lactobacilli. Tuy nhiên trong nghiên cứu của Alles (1998) khi cho 40
người khoẻ mạnh sử dụng TOS với liều lượng 15g/ngày thấy hầu như số lượng
Bifidobacteria không đổi. Điều này có thể giải thích do số lượng vi khuẩn Bifidobacteria
trong đối tượng thử nghiệm đã khá cao (>9 log10CFU/g) nên TOS hầu như không có tác
dụng đáng kể. Như vậy khả năng kích ứng Bifidobacteria của TOS không phụ thuộc vào
liều lượng sử dụng mà phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của người sức khoẻ hay đúng
hơn là phụ thuộc vào trạng thái của hệ vi sinh vật đưởng ruột. TOS chỉ có tác dụng rõ rệt
khi hệ này mất cân bằng.
Các nhà khoa học khuyên chỉ nên sử dụng 8 – 15g GOS/ngày. Để GOS có tác dụng
thì liều sử dụng tối thiểu phải là 10g/ngày
Ngoài 2 hợp chất trên, một số hợp chất khác hứa hẹn có vai trò như prebiotic như
glucooligosaccharides, isomaltooligosaccharides, lactosucrose, polydextrose,
oligosaccharides của đậu nành, và xylooligosaccharides. Tuy nhiên khả năng sử dụng
chúng như prebiotic vẫn chưa được chứng minh. (a)
Bảng: Thành phần một số hợp chất lưu hành trên thị trường được xem như là prebiotic
Tên sản phẩm
dry
matte
r
Ara Xyl Man Gal Glc tổng cộng
% by wt
Fructooligosaccharide 94.0 — — 34.0 0.2 53.3 87.4 ± 1.3
Isomaltooligosaccharide 77.8 — — — — 29.8 29.8 ± 0.5
Oligomate 74.9 0.1 — 0.8 18.6 22.7 42.2 ± 2.5
Palatinose 92.6 0.1 — 10.5 — 35.7 46.3 ± 2.8
Polydextrose 89.8 — — 0.3 1.9 36.5 38.7 ± 2.6
Pyrodextrin 94.3 — — — 0.2 18.8 20.0 ± 0.5
Raftiline 93.3 — 0.1 34.7 0.8 50.2 85.8 ± 3.4
Oligosaccharide từ đậu
nành76.5 — 0.1 7.5 8.4 15.6 32.3 ± 3.9
Xylooligosaccharide 94.9 0.8 25.9 0.6 — 1.6 29.4 ± 1.3
Man: manose; Glc: glucose; Ara: arabinose; Xyl: xylose; Gal: galactose;
Bên cạnh tác dụng của prebiotic với hệ vi sinh ở ruột già, prebiotic còn có tác dụng
đến hệ vi sinh vật ở ruột non (distal ileum). Tuy nhiên những phương pháp nghiên cứu
hiện nay vẫn chưa cho phép nghiên cứu ảnh hưởng của prebiotic trên hệ vi sinh vật này.
Liều lượng sử dụng prebiotic cũng được cân nhắc. Nghiên cứu cho thấy rằng liều
lượng prebiotic không quyết định tác dụng của nó lên hệ tiêu hoá người (B)
(Một số loại prebiotic sử dụng trong sữa)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(A) Marcel Roberfroid. Prebiotics: The Concept Revisited. The Journal of Nutrition 2007;
137: 830 – 837.
(b) Marcel B. Roberfroid. Introducing inulin-type fructans. British Journal of Nutrition
2005; 93: 13 – 25.
© S. Kolida, K. Tuohy and G. R. Gibson. Prebiotic effects of inulin and oligofructose.
British Journal of Nutrition 2002; 87: 193 – 197.
(d) John H Cummings, George T Macfarlane, and Hans N Englyst. Prebiotic digestion
and fermentation. Am J Clin Nutr 2001; 73: 415 – 420.
(e) Jürgen Schrezenmeir and Michael de Vrese. Probiotics, prebiotics, and synbiotics—
approaching a definition. Am J Clin Nutr 2001;73:361–364.
(f)Glenn R. Gibson, Bodun Rabiu, Catherine E. Rycroft, and Robert A. Rastall. trans-
Galactooligosaccharides as Prebiotics
(g) G.T. Macfarlane, H. Steed and S. Macfarlane. Bacterial metabolism and health-related
effects of galacto-oligosaccharides and other prebiotics. Journal of Applied Microbiology
2008; 104: 305–344