163
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ VĂN THIỆP PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 62.38.01.07 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. LÊ MAI THANH TS. ĐẶNG VŨ HUÂN HÀ NỘI - 2016

PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

  • Upload
    others

  • View
    7

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN THIỆP

PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 62.38.01.07

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS. LÊ MAI THANH

TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI - 2016

Page 2: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các thông tin, số liệu nêu trong Luận án là trung thực.

Các luận điểm được kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết

quả nghiên cứu của Luận án chưa từng được công bố

trong công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Văn Thiệp

Page 3: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

1. Thƣơng mại điện tử - TMĐT

2. Ủy ban nhân dân - UBND

3. Thƣơng mại điện tử -E-Commerce

(Electronic commerce)

4. Kinh doanh điện tử - E-Business

(Electronic business)

5. Tổ chức Thƣơng mại Thế giới - WTO

(World Trade Organization)

6. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - OECD

(Organization for Economic Co-operation and Development)

7. Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng - APEC

(Asia-Pacific Economic Cooperation)

8. Cộng đồng kinh tế Asean - AEC

(ASEAN Economic Community)

9. Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật thƣơng mại quốc tế - UNCITRAL

(United Nations Commission on International Trade Law)

10. Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới - WIPO

(World Intellectual Property Organization)

11. Chính phủ với Chính phủ - G2G

(Government-To-Government)

12. Chính phủ với Doanh nghiệp - G2B

(Government-To-Business)

13. Chính phủ với Công dân - G2C

(Government-To-Consumer)

14. Doanh nghiệp với Chính phủ - B2G

(Business-To-Government)

Page 4: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

15. Doanh nghiệp với Doanh nghiệp - B2B

(Business-To-Business)

16. Doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng - B2C

(Business-To-Consumer)

17. Ngƣời tiêu dùng với Doanh nghiệp - C2B

(Consumer-To-Business)

18. Ngƣời tiêu dùng với ngƣời tiêu dùng - C2C

(Consumer-To-Comsumer)

19. Ngƣời tiêu dùng với Chính phủ - C2G

(Consumer-To-Government)

20. Quy phạm pháp luật - QPPL

21. Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dƣơng - TPP

(Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement)

22. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN

(Association of Southeast Asian Nations)

23. Hiệp định tự do thƣơng mại - FTA

(Free Trade Agreement)

24. International Business Machines - IBM

25. Electronic Data Interchange - EDI

Page 5: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ .1

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN

ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN. ................................................. 8

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......... ................................... 8

1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU... ................................................ ..19

CHƢƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN

TỬ VÀ PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ... .................................. .24

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ... ....................... .24

2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT THƢƠNG

MẠI ĐIỆN TỬ VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.... ......................................................................... .29

2.3. CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN

TỬ ................................................................................................................... 45

2.4. NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ QUỐC TẾ VÀ

MỘT SỐ QUỐC GIA - KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM ................ 50

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC

HIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM TRONG

THỜI GIAN QUA.. ....................................................................................... 61

3.1. KHUNG PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM. ....... 61

3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM.................... ............................... .65

3.3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.... ......................................................................... .83

3.4. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ XỬ LÝ VI

PHẠM TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ................ .................................. 89

3.5. XỬ LÝ VI PHẠM BẰNG CÁC BIỆN PHÁP KHÁC............. ............... 97

Page 6: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CHƢƠNG 4: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆNPHÁP

LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ... ........................................................ .103

4.1. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

. ...................................................................................................................... 103

4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN

TỬ Ở VIỆT NAM............... ........................................................................ ..122

KẾT LUẬN................. ................................................................................. 143

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............. ..................................... .146

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ..... ........................ ..157

Page 7: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Hiện nay trên thế giới, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học - kỹ

thuật nói chung và công nghệ thông tin nói riêng, thì thƣơng mại điện tử đang

nắm giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, chính nó đã góp

phần quan trọng thúc đẩy tăng tỷ trọng GDP của những quốc gia có nền kinh

tế phát triển. Thƣơng mại điện tử là sự phát triển của thƣơng mại truyền

thống, đƣợc cấu thành bởi nhiều thành tố, trong đó có sự áp dụng các thành

quả của khoa học - kỹ thuật phục vụ đời sống con ngƣời cũng nhƣ việc thỏa

mãn các nhu cầu khác. Đây là xu hƣớng tất yếu của sự phát triển trên mọi

phƣơng diện về kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia trong thời kỳ toàn cầu hóa.

Thực tế cũng cho thấy, các quan hệ thƣơng mại điện tử đã và đang hình thành

và phát triển mạnh mẽ ở nhiều nƣớc trên thế giới và cũng đang phát triển ở

Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa,

hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới vận

hành trên nền tảng của công nghệ điện tử và công nghệ viễn thông, đòi hỏi

phải có cơ chế điều chỉnh pháp luật phù hợp, tƣơng thích nhằm đảm bảo để

các quan hệ về thƣơng mại điện tử phát triển hiệu quả, khả thi, có tính định

hƣớng đúng đắn, lành mạnh và bền vững. Pháp luật về thƣơng mại điện tử ở

nhiều quốc gia tiên tiến đã và đang nắm giữ vai trò quan trọng trong việc điều

chỉnh các quan hệ thƣơng mại điện tử.

Thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, bao

gồm cả hoạt động cung cấp hàng hóa và dịch vụ cùng với các ứng dụng

những thành tựu về công nghệ thông tin và truyền thông vào lĩnh vực kinh

doanh thƣơng mại. Với cách hiểu cụ thể, hoạt động thƣơng mại điện tử là việc

tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thƣơng mại bằng

phƣơng tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn thông di động

hoặc các mạng mở khác.Trong những năm qua, thƣơng mại điện tử ở Việt

Page 8: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2

Nam đã phát triển khá nhanh, hoạt động giao dịch mua bán qua mạng rất sôi

động và đã thực sự trở thành công cụ để doanh nghiệp nâng cao sức cạnh

tranh, đặc biệt là doanh nghiệp v a và nhỏ. Mua bán hàng hóa qua các sàn

giao dịch thƣơng mại điện tử trong nƣớc hiện đang ở giai đoạn bùng nổ. Tuy

nhiên, việc kiểm soát chất lƣợng và các hành vi gian lận thƣơng mại khác khi

mua qua các gian hàng trên mạng đang bị buông lỏng. Rất nhiều vụ việc tranh

chấp thƣơng mại xuất phát t kênh phân phối qua thƣơng mại điện tử, nhƣng

vai trò điều tiết quản lý và trọng tài của các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền

chƣa thực sự đƣợc phát huy. Có thể nói, sự phát triển của thƣơng mại điện tử

trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và

đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải

th a nhận rằng, những rủi ro gặp phải trong quá trình giao dịch, kinh doanh

trên mạng là hiện thực và việc này đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về

mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình thành đƣợc một cơ sở pháp lý đầy đủ.

Những kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy, để thúc đẩy thƣơng mại

điện tử phát triển thì vai trò của Nhà nƣớc phải đƣợc thể hiện rõ nét trên hai

lĩnh vực: (i)Xây dựng chính sách, tạo môi trƣờng thuận lợi trong lĩnh vực

cung ứng dịch vụ điện tử; và (ii) Xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ,

thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ thƣơng mại điện tử. Nếu nhƣ

chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc cho thƣơng mại điện tử hoạt

động thì các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc giải

quyết các vấn đề có liên quan và các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cũng

sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát đƣợc các hoạt động kinh doanh thƣơng mại

điện tử.

Với tốc độ phát triển mạnh mẽ của thƣơng mại điện tử hiện nay, thì

việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đƣợc coi là yếu tố rất quan

trọng. Hơn thế nữa, thƣơng mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ, cho nên tạo

đƣợc niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thƣơng mại điện tử là

một việc làm có tính cấp thiết, mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra

Page 9: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3

đƣợc một sân chơi chung với những quy tắc đƣợc thống nhất một cách chặt

chẽ. Tuy nhiên, cho đến nay, do nhiều lý do cả về chủ quan lẫn khách quan,

quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thƣơng mại điện tử chƣa đƣợc

quan tâm đúng mức, chƣa phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Luật Giao dịch

điện tử của Việt Nam đƣợc Quốc hội khóa XI ban hành ngày 29/11/2005, có

hiệu lực thi hành t ngày 01/03/2006 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành còn

đơn giản, chƣa có những khái niệm pháp lý đầy đủ và chƣa dự liệu đƣợc

những quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử phát sinh khi áp dụng.Sau đó

Chính phủ ban hành Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 9/6/1006 về Thƣơng mại

điện tử để hƣớng dẫn các cá nhân, tổ chức khi họ thực hiện các hoạt động

thƣơng mại điện tử. Với sự phát triển nhanh chóng các hoạt động thƣơng mại

điện tử, các quy định cũ trở nên bất cập nên sau 7 năm, Chính phủ đã ban

hành Nghị định số 52/NĐ- CP ngày 16/5/2013 về Thƣơng mại điện tử. Cho

đến nay, khi Bộ luật Dân sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

cũng có những thay đổi nhất định về hình thức hợp đồng cũng nhƣ công nhận

chứng cứ điện tử, tuy nhiên vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu giải quyết tranh

chấp phát sinh trong lĩnh vực này và Nghị định 52/NĐ-CP cũng chƣa đáp ứng

đƣợc các yêu cầu về tính đồng bộ, thống nhất dẫn đến các quy định không

đảm bảo tính khả thi. Pháp luật hiện hành cũng chƣa quy định rõ về giải quyết

tranh chấp phát sinh trong giao dịch thƣơng mại điện tửtheo hƣớng các quy

phạm nội dung phải phù hợp với các quy định về tố tụng hoặc các phƣơng

thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng. Thực tế cho thấy, các vấn đề liên

quan đến giải quyết tranh chấp giao dịch thƣơng mại điện tử cần phải đƣợc

quy định chặt chẽ, đầy đủ và rõ ràng bởi tính đặc thù của nó, đặc biệt là các

quy định liên quan đến việc sử dụng các văn bản điện tử hay chữ ký điện tử

với tƣ cách là chứng cứ trong các hoạt động tố tụng. Đồng thời cũng cần phải

đƣa ra các quy định về tội phạm trong thƣơng mại điện tử để tăng cƣờng đấu

tranh, phòng ng a, ngăn chặn và xử lý các loại tội phạm mới xuất hiện cùng

với quá trình phát triển của thƣơng mại điện tử. Pháp luật Việt Nam cũng

Page 10: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4

đang thiếu vắng những quy định mở đối với việc lựa chọn pháp luật trong các

giao dịch thƣơng mại nói chung và giao dịch thƣơng mại điện tử nói riêng,

cũng nhƣ việc bảo đảm lợi ích kinh tế và các lợi ích liên quan khác của quốc

gia, của các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng.

T những phân tích khái quát ở trên cho thấy, việc đặt vấn đề nghiên

cứu toàn diện về pháp luật thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện nay là có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các quan

hệ thƣơng mại điện tử ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu có

hệ thống, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật thƣơng

mại điện tử sẽ làm rõ những khái niệm pháp lý gắn với những thuật ngữ có

nội hàm kỹ thuật cao, tiên lƣợng những phát sinh có thể xảy ra trong thực tế

và trong tƣơng lai, đóng góp những tri thức đối với khoa học pháp lý nói

chung và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động thƣơng mại

điện tử nói riêng, thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. Đây cũng là lý do mà

nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam

hiện nay”để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học.

2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, đặc điểm, nội dung và thực

tiễn thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử nhằm đề xuất hoàn thiện pháp luật

thƣơng mại điện tử và đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật

thƣơng mại điện tử ở Việt Nam

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích của đề tài, thì nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:

- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về thƣơng mại

điện tử, làm rõ các đặc trƣng cơ bản, cơ chế thực hiện của pháp luật về thƣơng

mại điện tử.

Page 11: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

5

- Nghiên cứu đánh giá về thực trạng pháp luật và cơ chế thực hiện pháp

luật về thƣơng mại điện tử, chỉ ra các hạn chế, bất cập và nguyên nhân là cơ

sở thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.

- Đƣa ra các kiến nghị về định hƣớng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện

pháp luật cũng nhƣ nâng cao hiệu quả cơ chế thực hiện pháp luật về thƣơng

mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới.

3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là pháp luật thƣơng mại điện tử ở Việt

Nam và thực trạng thực hiện pháp luật.

Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề

lý luận, đặc điểm và nội dung cơ bản về pháp luật thƣơng mại điện tử ở Việt

Nam,không dàn trải theo nền tảng của pháp luật thƣơng mại truyền thống.

Nội dung nghiên cứu liên quan đến một số nội dung cơ bản của pháp

luật thƣơng mại điện tử, cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm,

giải quyết tranh chấp. Luận án chú trọng đến giải quyết tranh chấp giữa các

chủ thể giao dịch thƣơng mại điện tử mà không đi sâu vào các biện pháp giải

quyết khác.

Việc nghiên cứu pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới chỉ mang

tính chất tham khảo, so sánh nhằm đánh giá những tiếp thupháp luật quốc tế

có phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam hay không.

Về mặt thời gian, với đặc thù của hoạt động thƣơng mại điện tử ở Việt

Nam, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật thƣơng mại điện tử t thời

điểm Luật Thƣơng mại 2005, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Luật Công

nghệ thông tin năm 2006 cùng hệ thống các văn bản hƣớng dẫn thi hành về

vấn đề này đƣợc ban hành cho đến nay.

4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, Luận án sử dụng các phƣơng pháp

mang tính truyền thống nhƣ phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử. Ngoài ra, trên cơ sở tìm ra quy luật phát triển của thƣơng mại điện tử và

Page 12: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

6

sự phù hợp giữa phát triển thƣơng mại điện tử với chính sách, pháp luật về

thƣơng mại điện tử. Luận án nghiên cứu sử dụng các phƣơng pháp phân tích,

tổng hợp, hệ thống, luật học so sánh và dự báo trên cơ sở các tài liệu thu thập

đƣợc t các công trình khoa học của các nhà khoa học trong và ngoài nƣớc để

trả lời các câu hỏi nghiên cứu trong phạm vi đề tài một cách thấu đáo.

Trong t ng nội dung nghiên cứu, các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử

dụng một cách linh hoạt, cụ thể:

- Chƣơng 1: Phƣơng pháp tổng hợp, hệ thống hóa, thu thập, phân tích,

so sánh luật học nhằm đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến

đề tài luận án.

- Chƣơng 2: Phƣơng pháp tổng hợp, thống kê, thu thập, phân tích,

nhằm làm rõ khái niệm, đặc điểm của thƣơng mại điện tử; phƣơng pháp lịch

sử, thống kê, quy nạp, phân tích, diễn giảng, chứng minh để làm sáng tỏ một

số vấn đề lý luận cơ bản, đặc điểm cũng nhƣ cơ chế bảo đảm thực hiện của

pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.

- Chƣơng 3: Phƣơng pháp phân tích, so sánh, diễn giảng, quy nạp lịch

sử, khảo sát thực tiễn v.v...nhằm khái quát và đánh giá thực trạng pháp luật

cũng nhƣ cơ chế thực thi pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.

- Chƣơng 4: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, dự báo, khái quát hoá để

xác định các yêu cầu cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

thực thi pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN

- Trên cơ sở phân tích một cách khoa học các vấn đề lý luận của pháp

luật về thƣơng mại điện tử; đúc rút các bài học kinh nghiệm điều chỉnh pháp

luật đối với thƣơng mại điện tử ở một số quốc gia trên thế giới, luận án đã làm

rõ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trên cơ sở nghiên cứu các nguyên tắc cũng

nhƣ nội dung cơ bản của pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.

- Luận án đã đánh giá tổng thể về thực trạng pháp luật và cơ chế thực

hiện pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam, làm rõ các yêu cầu cấp thiết

Page 13: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

7

của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về

thƣơng mại điện tử với những đặc thù về nội dung cũng nhƣ phƣơng thức

thực hiện ở Việt Nam hiện nay.

- T các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đƣa ra các định hƣớng

và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp

luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.

6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN

Về mặt khoa học, luận án là công trình khoa học đƣợc nghiên cứu khá

chuyên sâu về các vấn đề pháp lý nhằm đảm bảo tính an toàn, hợp pháp cho

các quan hệ thƣơng mại điện tử, t đó, góp phần làm rõ đặc trƣng của pháp

luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.

Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài luận án sẽ là công trình

khoa học có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về

pháp luật thƣơng mại điện tử. Đồng thời Luận án có thể sử dụng nhƣ nguồn tƣ

liệu nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng nhƣ nâng

cao hiệu quả cơ chế thực thi pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam

trong thời gian tới.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án

đƣợc kết cấu làm 4 chƣơng (có kết luận cho t ng chƣơng) với những nội dung

cơ bản nhƣ sau:

Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan

đến đề tài

Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về pháp luật thƣơng mại điện tử

Chƣơng 3: Thực trạng pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam

hiện nay.

Chƣơng 4: Định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thƣơng mại

điện tử ở Việt Nam.

Page 14: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

8

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc liên quan đến

pháp luật về thƣơng mại điện tử

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trong đó có mạng

Internet và các mạng mở khác, việc ứng dụng các thành tựu này trong hoạt

động thƣơng mại đã hình thành thƣơng mại điện tử.Trên thế giới và Việt Nam

đã có nhiều công trình nghiên cứu về thƣơng mại điện tử dƣới góc độ kinh tế

cũng nhƣ pháp lý.

Việc nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học liên quan đến đề tài

luận án có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ, những công trình này là cơ sở cho việc

nghiên cứu đề tài, mặt khác còn gợi mở những vấn đề tiếp theo cần phải giải

quyết, đồng thời, đây cũng là những tài liệu tham khảo có ý nghĩa trong quá

trình triển khai nghiên cứu đề tài.

Qua nghiên cứu tổng quan, các công trình này có thể sắp xếp thành các

nhóm nhƣ sau:

a) Những nghiên cứu lý luận về pháp luật thương mại điện tử

Các quốc gia phát triển đã xuất hiện hoạt động thƣơng mại điện tử t

rất sớm và đều có quá trình nghiên cứu sâu sắc để xây dựng khung pháp luật

cho riêng mình nhằm điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội mới phát sinh

trong thƣơng mại điện tử. Để đảm bảo tính thống nhất trong ứng xử và giải

quyết các vấn đề về thƣơng mại điện tử, tại Phiên họp lần thứ 29 của Đại hội

đồng Liên Hiệp Quốc (tháng 12 năm 1996), Uỷ ban Liên Hợp quốc về Luật

thƣơng mại quốc tế (UNCITRAL) đã thông qua Luật mẫu về Thƣơng mại

điện tử. Tinh thần của Luật mẫu là bảo đảm những giao dịch thƣơng mại điện

tử đƣợc th a nhận giá trị pháp lý và nếu cần thiết thì sẽ có những hành động

Page 15: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

9

thích hợp để tăng cƣờng khả năng thi hành cho những giao dịch bằng phƣơng

tiện điện tử. Tuy nhiên, cũng phải tới những năm đầu của thế kỷ XXI, một số

quốc gia mới nghiên cứu, xây dựng và ban hành pháp luật để điều chỉnh các

quan hệ về thƣơng mại điện tử nhƣ: Hoa Kỳ, Đức, Áo, Hà Lan, Albania,

Australia, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mehico, Thái Lan.v.v...

Tài liệu nghiên cứu cả các Tác giả trong và ngoài nƣớc chủ yếu nghiên

cứu về thƣơng mại điện tử dƣới góc độ kinh tế nhƣng trong đó có một phần

đề cập đến khung pháp lý về thƣơng mại điện tử.

Trƣớc hết phải kể đến công trình “Thương mại điện tử” (Electronic

Commerce) Đề tài Luận án Tiến sĩcủa tác giả Mihaela-Roxanafercală –

Romani - Trƣờng Đại học Babes - Bolyai năm 2011 [52]. Tác giả đã xây dựng

khái niệm thƣơng mại điện tử, các đặc điểm và vai trò của thƣơng mại điện tử,

khái quát khung pháp lý của một số quốc gia và chủ thể quốc tế cũng nhƣ

pháp luật của Romani về TMĐT. Qua nghiên cứu thấy rằng, khái niệm cũng

nhƣ các đặc điểm cơ bản của thƣơng mại điện tử trong công trình này có

những điểm tƣơng đồng với Luật mẫu về thƣơng mại điện tử (UNCITRAL)

của Ủy ban Thƣơng mại Quốc tế khuyến nghị các quốc gia thành viên trong

việc xây dựng pháp luật về thƣơng mại điện tử của mình.

Cuốn “Cẩm nang pháp lý về hợp đồng điện tử” do GS. TS. Nguyễn

Thị Mơ chủ biên [16] đã làm rõ các vấn đề nội hàm khái niệm của hợp đồng

điện tử; những vấn đề pháp lý cần nắm bắt khi giao kết hợp đồng điện tử;

khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử trên cơ sở làm rõ các đặc điểm

của hợp đồng thƣơng mại điện tử, thời điểm phát sinh hiệu lực và giá trị pháp

lý, hậu quả pháp lý đối với việc giải quyết các tranh chấp

“Tài liệu hướng dẫn học tập thương mại điện tử” của tác giả Trần

Thanh Điện [9] Đại học Cần Thơ nghiên cứu và biên soạn năm 2013 đã phản

ánh những vấn đề cơ bản về thƣơng mại điện tử, vấn đề an toàn và bảo mật

trên mạng, các chính sách và pháp luật về thƣơng mại điện tử.

Page 16: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

10

Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Văn Thoan về “Ký kết và

thực hiện hợp đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc

tế”[24] tại Đại học Ngoại Thƣơng năm 2010 đã nghiên cứu chủ yếu dƣới góc

độ kinh tế của hợp đồng điện tử nhƣ các loại hợp đồng điện tử, đƣa ra định

nghĩa về thƣơng mại điện tử, các chủ thể tham gia, các mô hình hợp đồng

điện tử, nghiên cứ vai trò, tác động đối với nền kinh tế, một số kiến nghị về

xây dựng khung pháp luật để điều chỉnh hợp đồng điện tử, định hƣớng các

giải pháp để thúc đẩy thƣơng mại điện tử.

Bên cạnh đó, Luận án Tiến sĩ kinh tế của Đào Anh Tuấn về “Quản lý

nhà nước về thương mại điện tử” [28] tại Trƣờng Đại học kinh tế Quốc dân

2014 đã nghiên cứu khái niệm thƣơng mại điện tử theo nghĩa rộng, với quan

điểm này thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu là việc tiến hành một khâu hoặc toàn

bộ quy trình của hoạt động kinh doanh bằng các phƣơng tiện điện tử có kết

nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.

Luận án đã nghiên cứu xây dựng và đề xuất bộ tiêu chí để đánh giá hoạt động

quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử trên cơ sở vận dụng mô hình

Outcome và phƣơng pháp luận về đánh giá chính sách của Ngân hàng thế

giới.

Dƣới góc độ pháp lý liên quan đến hình thức hợp đồng điện tử, có một

số công trình nhƣ:

Công trình nghiên cứu của TS. Luật học Trần Văn Biên về “Hợp đồng

điện tử theo pháp luật Việt Nam” [3]đã đề cập những vấn đề lý luận và thực

tiễn nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng điện tử

trong giai đoạn hiện nay. Theo nội dung của cuốn sách, tác giả đã xây dựng

khái niệm về hợp đồng điện tử, về địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia

quan hệ hợp đồng điện tử, điều kiện làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng điện

tử, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng điện tử,

hậu quả pháp lý đối với hợp đồng điện tử có hiệu lực cũng nhƣ hợp đồng điện

tử vô hiệu.

Page 17: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

11

Ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Hà Vũ [30] với đề tài:

“Xây dựng khung pháp lý nhằm phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam” đã

đi sâu nghiên cứu những yêu cầu đối với pháp luật thƣơng mại điện tử

nhƣ:Th a nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu; quy định về giá trị

pháp lý và các nội dung cụ thể của chữ ký điện tử và vấn đề bản gốc; đảm bảo

sự thống nhất giữa các quy định pháp luật về kinh tế - thƣơng mại – dân sự và

đảm bảo sự phù hợp với pháp luật thƣơng mại quốc tế; hoàn thiện các quy

định pháp luật về thuế và thanh toán điện tử; xây dựng các quy định pháp luật

về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng phù hợp với thƣơng mại điện tử; bảo vệ

bí mật cá nhân trong môi trƣờng thƣơng mại điện tử; quy định cụ thể về bảo

vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện tử; phòng chống tội phạm và

các vi phạm hành chính trong thƣơng mại điện tử; đảm bảo giá trị chứng cứ

của thông điệp dữ liệu.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu ở trên đã bƣớc đầu tiếp cận ở

những mức độ khác nhau về lý luận của pháp luật thƣơng mại điện tử nhƣng

chƣa xây dựng đƣợc các khái niệm hoàn chỉnh hay chỉ ra các đặc điểm, cơ

chế thực hiện, cơ chế giải quyết tranh chấp đặc thù của pháp luật thƣơng mại

điện tử so với pháp luật thƣơng mại truyền thống. Các tác giả chƣa nghiên

cứu các nguyên tắc, nội dung cũng nhƣ đặc điểm của pháp luật thƣơng mại

điện tử, cơ chế thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử. Các kết quả nghiên

cứu của các tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp

đồng điện tử.

b) Những nghiên cứu về thực trạng pháp luật thương mại điện tử

Các công trình nghiên cứu về thƣơng mại điện tử đều nghiên cứu về

thực trạng pháp luật thƣơng mại điện tử đặt trong mối quan hệ giữa thƣơng

mại điện tử với các quy định hiện hành và đặt ra các yêu cầu chung về hoàn

thiện hệ thống pháp luật có liên quan. Trong luận án Tiến sĩ nghiên cứu về

“Hợp đồng điện tử” của tác giả Trần Văn Biên [3] có nghiên cứu về chế định

hợp đồng của Bộ luật Dân sự, Luật Thƣơng mại, Luật Giao dịch điện tử, Luật

Page 18: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

12

Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, Nghị định về thƣơng mại điện tử và các

văn bản pháp luật khác để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hợp đồng điện

tử trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật bảo vệ các chủ thể tham gia hợp đồng

cũng nhƣ xác định đối tƣợng của hợp đồng trong mối quan hệ giữa Luật

chung và Luật chuyên ngành. Tác giả cũng đánh giá về thực trạng giải quyết

tranh chấp hợp đồng điện tử. Tác giả đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh

hợp đồng điện tử còn thiếu, bất cập và cần hoàn thiện để đảm bảo tính thống

nhất, minh bạch, khả thi.

Luận án Tiến sĩ của tác giả Lại Kiên Cƣờng [4] với đề tài“Phòng chống

tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử”. Với mục đích góp phần xây

dựng hệ thống lý luận về tội phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, luận án

nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhƣ khái niệm, đặc điểm của tội phạm trong

lĩnh vực thƣơng mại điện tử [4, tr35]. Trên cơ sở nghiên cứu, luận án đã xây

dựng có hệ thống những vấn đề lý luận về hoạt động phòng ng a tội phạm

trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử nhƣ: khái niệm, cơ sở pháp lý, nội dung,

biện pháp, mối quan hệ phối hợp và hợp tác quốc tế trong phòng ng a tội

phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử.

Luận án cũngđã nghiên cứu thực trạng pháp luật về các biện pháp chế

tài của pháp luật thƣơng mại điện tử, trong đó đi sâu vào nghiên cứu nguyên

nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội, chế tài hình sự, công cụ để đấu

tranh, phòng chống tội phạm liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử của

lực lƣợng cảnh sát Nhân dân, cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trong lực

lƣợng. Phòng chống tội phạm chỉ là một phƣơng diện trong tổng thể các quy

phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử nhằm đảm

bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nƣớc, lợi ích hợp pháp

của các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử và ngăn ng a, răn đe

các hành vi tƣơng tự. Luận án đã tiến hành khảo sát, đánh giá thực tiễn thực

trạng phòng ng a tội phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử của lực lƣợng

Page 19: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

13

Cảnh sát nhân dân trên phạm vi toàn quốc t năm 2006 đến tháng 6 năm

2014.

Luận án của tác giả Nguyễn Đức Tài [23] về “Giải pháp nâng cao hiệu

lực quản lý nhà nước đảm bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam”

cũng đánh giá thực trạng hiệu lực quản lý nhà nƣớc trong vấn đề đảm bảo an

toàn trong thƣơng mại điện tử ở Việt Nam, một trong bảy nội dung cơ bản của

pháp luật TMĐT. Tác giả tập trung nghiên cứu cơ chế quản lý của các cơ

quan t trung ƣơng tới địa phƣơng cũng nhƣ đánh giá thực trạng hiệu quả

quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử.

Còn Luận án Tiến sĩ của tác giả Đào Anh Tuấn với đề tài “Quản lý nhà

nước về thương mại điện tử” [28] đã nhận định về pháp luật thƣơng mại điện

tử là chƣa điều chỉnh hết nhiều lĩnh vực mới nảy sinh trong thƣơng mại điện

tử, chƣa đảm bảo độ an toàn, tin cậy dẫn đến niềm tin của ngƣời tiêu dùng đối

với thƣơng mại điện tử còn thấp, các chính sách pháp luật về phát triển nguồn

nhân lực cho thƣơng mại điện tử còn chƣa đáp ứng đƣợc các yêu cầu thực tiễn

pháp luật quy định về hoạt động kiểm tra, thanh tra thƣơng mại điện tử chƣa

đƣợc chú trọng.

Tác giả Lê Hà Vũ [30] với đề tài “Xây dựng khung pháp lý nhằm phát

triển thương mại điện tử ở Việt Nam”khi đánh giá thực trạng pháp luật

vềthƣơng mại điện tử thì cho rằng, chƣa có quy định pháp luật điều chỉnh về

vấn đề tài sản ảo; còn thiếu các quy định về thuế, quản lý thuế điện tử và

thanh toán điện tử. Luật Sở hữu trí tuệ hiện nay cũng chƣa thật phù hợp với

việc phát triển thƣơng mại điện tử v.v…

Khi nghiên cứu thực trạng pháp luật TMĐT, các tác giả chỉ nghiên cứu

thực trạng của Hợp đồng điện tử, thực trạng và đánh giá hiệu quả quản lý nhà

nƣớc và đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực này, kết quả nghiên

cứu chƣa đƣợc toàn diện và đầy đủ về các nội dung cũng nhƣ cơ chế thực

hiện pháp luật thƣơng mại điện tử trên cơ sở các quy định của pháp luật

TMĐT, chƣa nghiên cứu thực trạng bảo đảm thực hiện các nguyên tắc, nội

Page 20: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

14

dung cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử. Các tác giả chỉ quan tâm

nghiên cứu đến các chế tài hành chính trong quản lý nhà nƣớc và đấu tranh

phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử. Việc nghiên cứu cơ

chế giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp thay thế hay trọng tài, giải quyết

bằng thủ tục tố tụng tại tòa án chƣa đƣợc nghiên cứu.

c) Về những kiến nghị hoàn thiện pháp luật thương mại điện tử

Những kiến nghị, đề xuất của các tác giả trong các công trình nghiên

cứu về pháp luật thƣơng mại điện tử hoặc có liên quan đều tập trung vào việc

hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử. Tác giả

Nguyễn Đức Tài trong “Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đảm

bảo an toàn trong thương mại điện tử ở Việt Nam” đề xuất một số giải pháp

nhƣ: Cần công nhận thƣơng mại điện tử là một ngành trong hệ thống các

ngành kinh tế quốc dân; quy định rõ về trách nhiệm, quyền hạn của các bên

tham gia thƣơng mại điện tử đối với các hình thức thƣơng mại điện tử mới

nảy sinh; hoàn thiện các quy định về thƣơng mại điện tử xuyên biên giới;

công nhận giá trị pháp lý của chứng cứ điện tử; hoàn thiện các quy định về

giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử” [23]. Trong công trình về

“Hợp đồng điện tử” của tác giả Trần Văn Biên cũng đƣa ra một số giải pháp

về hoàn thiện pháp luật liên quan đến hợp đồng và hợp đồng điện tử nhƣ: Bổ

sung chế định riêng về hợp đồng điện tử trong Bộ luật Dân sự [3, 3, tr.186];

công chứng hợp đồng điện tử và công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật [3,

tr.191] và một số giải pháp khác về hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp

hợp đồng điện tử v.v…

Trên cơ sở nhận thức lý luận, khảo sát thực tiễn, Luận án của tác giả Lại

Kiên Cƣờng [4] với đề tài “Phòng chống tội phạm trong lĩnh vực thương mại

điện tử” đã đƣa ra những nhận định, đánh giá, kết luận có căn cứ, chỉ ra

những hạn chế và nguyên nhân tồn tại, dự báo những yếu tố ảnh hƣởng đến

hoạt động phòng ng a tội phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử. Luận án

đã đề xuất 06 nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả phòng ng a tội

Page 21: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

15

phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.

Tác giả Lê Hà Vũ với đề tài “Xây dựng khung pháp lý nhằm phát triển

thương mại điện tử ở Việt Nam” [30] cũng đƣa ra ba nhóm giải pháp để hoàn

thiện khung pháp lý về thƣơng mại điện tử và đề xuất những nguyên tắc cơ

bản trong quá trình hoàn thiện nhƣ: Tiến hành song song giữa việc ban hành

các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Giao dịch điện tử, Luật Thƣơng mại với

việc ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật điều chỉnh

các vấn đề cụ thể liên quan đến thƣơng mại điện tử. Kết hợp cụ thể hóa và

đồng bộ hóa để đảm bảo sự thống nhất, tƣơng thích giữa các quy định pháp

luật về thƣơng mại điện tử; hoàn thiện các quy định của pháp luật về thƣơng

mại điện tử theo chuẩn mực chung của thế giới. Hoàn thiện pháp luật về

thƣơng mại điện tử để ngăn ng a, hạn chế các rủi ro nhƣng tránh sự bó buộc,

không phát huy những ƣu thế vốn có của các giao dịch điện tử. Hoàn thiện

các quy định pháp luật về thƣơng mại điện tử cần tính đến những đặc điểm về

văn hóa, tâm lý, thói quen, sự sẵn sàng về thƣơng mại điện tử và trình độ phát

triển của công nghệ ở nƣớc ta.

Nhƣ vậy, các công trình nghiên cứu có liên quan đến TMĐT hay các

Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Luật đều đƣa ra kiến nghị, trong đó hoàn thiện

pháp luật để thúc đẩy TMĐT phát triển là yếu tố tiên quyết. Các công trình

đều có điểm chung là đƣa ra các định hƣớng hoàn thiện pháp luật dựa trên các

tiêu chí nhƣ: Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, kinh tế và

phù hợp với điều kiện Việt Nam đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh

tế thế giới; đảm bảo lợi ích nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ

thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử, qua đó thúc đẩy thƣơng mại điện

tử phát triển tƣơng xứng với lợi thế và tiềm năng.Tuy nhiên, các công trình

chƣa đƣa ra đƣợc phƣơng hƣớng và đề xuất tổng thể hoàn thiện pháp luật

TMĐT trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc và nội dung đặc thù của pháp luật

TMĐT cũng nhƣ cơ chế thực hiện trong đó có cơ chế giải quyết tranh chấp.

Page 22: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

16

1.1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và các vấn đề luận án kế

thừa

Qua nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên cứu đã công bố có liên

quan đến pháp luật về thƣơng mại điện tử ở ngoài nƣớc cũng nhƣ ở trong

nƣớc thời gian qua, có thể đƣa ra các nhận xét nhƣ sau:

Thứ nhất, các tác giả trong và ngoài nƣớc khi nghiên cứu về thƣơng

mại điện tử và pháp luật về thƣơng mại điện tử đều xây dựng khái niệm

thƣơng mại điện tử, các đặc trƣng cơ bản của thƣơng mại điện tử nhằm phân

biệt với thƣơng mại truyền thống, mục đích điều chỉnh pháp luật đối với

thƣơng mại điện tử v.v. Trong nội dung nghiên cứu, các tác giả nhấn mạnh

đến những tác động của thƣơng mại điện tử đối với sự phát triển kinh tế, đặc

biệt là những vấn đề phát sinh liên quan đến thuế, chống rửa tiền, các yếu tố

bảo mật và việc bảo đảm an toàn cho các giao dịch thƣơng mại điện tử.

Thứ hai, kể t khi thƣơng mại điện tử hình thành và phát triển tại Việt

Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thƣơng mại điện tử dƣới nhiều

góc độ khác nhau, nhƣng chủ yếu là nghiên cứu góc độ kinh tế xã hội của

thƣơng mại điện tử, vị trí, vai trò của thƣơng mại điện tử đối với đời sống xã

hội cũng nhƣ xu hƣớng phát triển của thƣơng mại điện tử trong giai đoạn

trƣớc mắt cũng nhƣ về lâu dài. Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu

trong và ngoài nƣớc đều tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về thƣơng mại

điện tử, đặc điểm của thƣơng mại điện tử, tính ƣu việt cũng nhƣ xu hƣớng

phát triển tất yếu của thƣơng mại điện tử trong thời kỳ toàn cầu hóa trên mọi

phƣơng diện của thế giới hiện đại. Những nghiên cứu chuyên sâu đối với t ng

yếu tố ảnh hƣởng tới hoạt động thƣơng mại điện tử, chính sách phát triển

thƣơng mại điện tử của mỗi quốc gia cũng nhƣ trên bình diện toàn cầu. Yếu tố

hợp tác quốc tế đối với những vấn đề phát sinh trong giải quyết tranh chấp

liên quan đến hoạt động thƣơng mại nói chung và thƣơng mại điện tử nói

riêng cũng đƣợc nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ và đƣợc coi nhƣ khung cơ bản

của các kiến nghị.

Page 23: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

17

Mặc dù, các nghiên cứu về thƣơng mại điện tử không phải là dƣới góc

độ khoa học pháp lý thuần túy, nhƣng trong các kiến nghị, giải pháp đƣợc nêu

ra trong các công trình nghiên cứu trên luôn đặt vấn đề chính sách pháp luật,

khung pháp luật cũng nhƣ yêu cầu hoàn thiện pháp luật giữ vai trò quan trọng,

tiên quyết cho việc phát triển thƣơng mại điện tử, đặc biệt là trong điều kiện

Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, trên cơ sở dữ liệu của Thƣ viện Quốc gia và các công cụ tìm

kiếm trên internet, thì trong các công trình nghiên cứu đã công bố, nhu cầu

xây dựng hành lang pháp lý để đảm bảo tính an toàn cho các giao dịch điện

tử, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động công tác này cũng

đã đƣợc đề cập nhƣng chỉ mang tính khái quát, chƣa có tác giả nào nghiên

cứu một cách tổng quát, toàn diện về pháp luật thƣơng mại điện tử kể t khi

thƣơng mại điện tử và pháp luật thƣơng mại điện tử hình thành và phát triển ở

Việt Nam.

Thƣơng mại điện tử và pháp luật thƣơng mại điện tử còn mới mẻ ở Việt

Nam nhƣng đang có xu hƣớng phát triển mạnh mẽ. Để kịp thời điều chỉnh

pháp luật đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thƣơng mại điện

tử, Nhà nƣớc cần phải hoàn thiện pháp luật trên cơ sở nghiên cứu khoa học

cũng nhƣ các kết quả khảo sát, điều tra xã hội học để xây dựng cho phù hợp.

Qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả về thƣơng mại điện tử và

một số khía cạnh của pháp luật thƣơng mại điện tử, quản lý nhà nƣớc về

thƣơng mại điện tử đã công bố cho thấy, các tác giả đã phân tích và hệ thống

một cách tƣơng đối toàn diện, đầy đủ những vấn đề lý luận về thƣơng mại

điện tử cũng nhƣ xây dựng, làm rõ khái niệm, đặc điểm cũng nhƣ vai trò của

thƣơng mại điện tử đối với nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam. Các nghiên

cứu về pháp luật thƣơng mại điện tử cũng đã bƣớc đầu làm rõ khái niệm, đặc

điểm và các nguyên tắc của pháp luật thƣơng mại điện tử trên phƣơng diện lý

luận, thực trạng cũng nhƣ đề xuất các kiến nghị giải pháp trong việc hoàn

thiện pháp luật thƣơng mại điện tử.

Page 24: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

18

Thứ tư, thông qua các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và

ngoài nƣớc, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những giá trị cơ bản, thiết yếu

mang tính nền tảng của thƣơng mại điện tử, tác giả sẽ kế th a và tiếp tục phát

triển những vấn đề lý luận đã đƣợc nghiên cứu làm tƣ liệu để xây dựng và

hoàn thiện đề tài “Pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” đó là

những vấn đề sau đây: (i) Khái niệm và đặc điểm của thƣơng mại điện tử;

những bộ phận hợp thành của thƣơng mại điện tử; mục tiêu điều chỉnh pháp

luật... (ii) Đặc trƣng cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử xuất phát t các

đặc điểm của phƣơng thức giao dịch TMĐT cũng nhƣ nhu cầu điều chỉnh

pháp luật; (iii) Thực trạng pháp luật về thƣơng mại điện tử tại Việt Nam hiện

nay với khung pháp luật hợp thành bởi những văn bản có liên quan cũng nhƣ

áp dụng tập quán trong thƣơng mại quốc tế và cơ chế thực hiện còn nhiều bất

cập; (iv) Những kiến nghị, giải pháp về hoàn thiện chính sách, pháp luật của

Việt Nam nhằm phát triển thƣơng mại điện tử một cách bền vững và hiệu quả

trên cơ sở của những dự báo chính xác.

1.1.3. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở kế th a những công trình khoa học đã đƣợc nghiên cứu, tác

giả cho rằng, thƣơng mại điện tử là xu thế tất yếu trong sự phát triển thƣơng

mại, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao

chất lƣợng cuộc sống của ngƣời dân và năng cao khả năng cạnh tranh của nền

sản xuất, thƣơng mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để đƣa ra các

đề xuất, kiến nghị, giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện tử

thì cần phải nghiên cứu đầy đủ các tri thức lý luận về thƣơng mại điện tử và

pháp luật thƣơng mại điện tử. Có nhƣ vậy mới có cơ sở lý luận vững chắc, sát

với thực tiễn để đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, khả thi của các ngành

luật, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại của các cá

nhân, tổ chức đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử.

Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này trên phƣơng

diện luật học không nhiều, những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra chƣa đƣợc

Page 25: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

19

giải quyết triệt để hoặc chỉ còn mang tính lịch sử trong khi các quan hệ xã hội

đa dạng đã thay đổi mạnh mẽ. Vì vậy, đề tài cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu một

cách nghiêm túc, thỏa đáng:

Thứ nhất, trên cơ sở khái niệm về thƣơng mại điện tử, cần xây dựng

khái niệm về pháp luật thƣơng mại điện tử, chỉ ra các nguyên tắc cơ bản của

pháp luật thƣơng mại điện tử, yêu cầu thực hiện pháp luật và những nội dung

chủ yếu của pháp luật thƣơng mại điện tử. Nghiên cứu cơ chế thực hiện pháp

luật và cơ chế giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử cũng nhƣ cơ chế

phối hợp giữa các chủ thể quản lý nhà nƣớc trong việc tổ chức thực hiện, thực

thi pháp luật thƣơng mại điện tử.Hệ thống hóa và làm sâu sắc thêm những vấn

đề lý luận về pháp luật thƣơng mại điện tử.

Thứ hai, kế th a kết quả nghiên cứu trƣớc đây, Luận án tiếp tục nghiên

cứu để giải quyết những vấn đề chƣa phù hợp, hạn chế; trên cơ sở lý luận và

nghiên cứu thực trạng pháp luật, thực trạng thực thi pháp luật, luận án đề xuất

quan điểm, định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện tử

bảo đảm tính khả thi và mang lại hiệu quả thực hiện pháp luật đối với các

quan hệ xã hội phát sinh trong thƣơng mại điện tử.

Thứ ba, Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền

kinh tế thế giới, tham gia các Hiệp định Thƣơng mại tự do (FTA) và đã ký

Hiệp định TPP đã đặt ra nhiều thách thức đối với khả năng cạnh tranh của các

doanh nghiệp trong nƣớc. Nên việc hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy phát

triển thƣơng mại điện tử là một giải pháp vô cùng quan trọng và hiệu quả.

1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU

1.2.1. M t số l thuyết nghiên cứu đƣ c sử dụng trong luận án

- Các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng thể chế kinh tế thị

trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế với những

cam kết quốc tế về thƣơng mại, dịch vụ theo cơ chế thị trƣờng. Đặc biệt là các

quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật với tầm nhìn đến năm 2020.

Page 26: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

20

- Các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về việc đẩy mạnh ứng dụng và

phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, trong đó có yêu cầu về tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong các

lĩnh vực thƣơng mại bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững

của thị trƣờng.

- Các lý thuyết đƣợc áp dụng trong quá trình thực hiện đề tài nhƣ:Lý

thuyết về tự do kinh doanh, Lý thuyết về công bằng trong thƣơng mại, Lý

thuyết về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, Lý thuyết về Xã hội học pháp

luật; Lý thuyết về tính công khai, minh bạch;

1.2.2. Hƣớng tiếp cận nghiên cứu đề tài

Đề tài sẽ tiếp cận đến các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thƣơng mại

điện tử mà luật điều chỉnh, đồng thời tiếp cận những quy phạm pháp luật

thƣơng mại điện tử không chỉ khung pháp luật thƣơng mại mà trong các

ngành luật khác nhau nhƣng có liên quan đến thƣơng mại điện tử nhƣ công

nghệ thông tin, viễn thông, bảo mật và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ

ngƣời tiêu dùng v.v... Nghiên cứu các quy phạm pháp luật thực định, đánh giá

tiêu chí, yêu cầu chung đối với các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh

các quan hệ TMĐT đặc thù cũng nhƣ cơ chế thực hiện. Luận án tiếp cận dựa

trên các yêu cầu mang tính chuyên ngành phù hợp với đặc điểm của thƣơng

mại điện tử và pháp luật thƣơng mại điện tử.

1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

Để giải quyết các vấn đề thuộc nội dung của đề tài nghiên cứu, các câu

hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu đƣợc xây dựng và đặt ra nhƣ sau:

a. Về khía cạnh lý luận, câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:

Câu hỏi nghiên cứu 1: Khái niệm, đặc điểm và của thƣơng mại điện tử

có phù hợp với thực tiễn hiện nay hay không?

Giả thuyết nghiên cứu: Thƣơng mại điện tử là lĩnh vực thƣơng mại đặc

thù, có sự khác biệt với thƣơng mại truyền thống. Các thành tố nền tảng hợp

thành thƣơng mại điện tử cũng có những đặc điểm riêng. Hiện nay khái niệm

Page 27: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

21

về thƣơng mại điện tử đã đƣợc ghi nhận, tuy nhiên, do sự phát triển nhanh

chóng của thƣơng mại điện tử thì khái niệm về thƣơng mại điện tử có còn phù

hợp hay không? Việc xây dựng khái niệm đó có bao quát đƣợc hết các quan

hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử mà luật điều chỉnh hay

không.

Câu hỏi nghiên cứu 2: Yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với thƣơng

mại điện tử?

Giả thuyết nghiên cứu: Do thƣơng mại điện tử có nhiều các yếu tố đặc

thù, đặt ra nhu cầu có các quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh trong quá trình các cá nhân tổ chức mua bán hàng hóa, dịch vụ

thông qua phƣơng tiện điện tử. Sự tác động của pháp luật đối với các quan hệ

xã hội phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử sẽ đảm bảo tính an toàn

và hiệu quả cho các giao dịch thƣơng mại điện tử.

Câu hỏi nghiên cứu 3: Khái niệm và đặc điểm của pháp luật thƣơng

mại điện tử?

Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật về thƣơng mại điện tử là một lĩnh vực

đặc thù của pháp luật thƣơng mại truyền thống với những đặc trƣng riêng. Vì

vậy, cần nghiên cứu để nhận diện đặc trƣng của pháp luật thƣơng mại điện tử

với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu 4: Cơ chế thực hiện của pháp luật thƣơng mại điện

tử?

Giả thuyết nghiên cứu: Cơ chế thực hiện pháp luật về thƣơng mại điện

tử là cách thức mà các chủ thể áp dụng pháp luật sử dụng các quy phạm pháp

luật tác động lên các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thƣơng mại điện

tử; quy định các chủ thể và thiết chế tổ chức thực hiện pháp luật về thƣơng

mại điện tử.

Câu hỏi nghiên cứu 5: Những nội dung cơ bản của pháp luật thƣơng

mại điện tử?

Page 28: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

22

Giả thuyết nghiên cứu: Những nội dung cơ bản của pháp luật thƣơng

mại điện tử bao gồm các vấn đề chủ yếu điều chỉnh trong quá trình thực hiện

giao dịch thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử nhằm bảo đảm tính an

toàn, hiệu quả và công bằng trong các quan hệ này.

b. Về thực trạng pháp luật câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:

Câu hỏi nghiên cứu 6: Thực trạng hệ thống các quy định pháp luật

thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện nay?

Giả thuyết nghiên cứu: Thực trạng pháp luật thƣơng mại điện tử hiện

nay đã bao quát các vấn đề liên quan đến thƣơng mại điện tử, tuy nhiên chƣa

đồng bộ, thống nhất và chƣa thật sự hiệu quả.

Câu hỏi nghiên cứu 7: Thực trạng cơ chế áp dụng pháp luật thƣơng

mại điện tử ở Việt Nam hiện nay nhƣ thế nào?

Giả thuyết nghiên cứu: Do hệ thống pháp luật về thƣơng mại điện tử

chƣa toàn diện, thống nhất và hiệu quả, nên thực trạng thực thi pháp luật trong

lĩnh vực này kém hiệu quả, còn nhiều hạn chế và bất cập, năng lực của các cơ

quan thực thi và cơ chế phối hợp của các chủ thể áp dụng pháp luật thƣơng

mại điện tử còn hạn chế.

Câu hỏi nghiên cứu 8: Yêu cầu hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện

tử ở Việt Nam là gì?

Giả thuyết nghiên cứu: T các vấn đề thuộc khung lý luận về pháp luật

thƣơng mại điện t , t thực trạng pháp luật và thực trạng cơ chế thực hiện, đặt

ra các yêu cầu là phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả cơ chế thực

hiện pháp luật về thƣơng mại điện tử.

c. Về đề xuất, kiến nghị câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:

Câu hỏi nghiên cứu 9: Các quan điểm, định hƣớng hoàn thiện pháp luật

thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện nay là gì?

Giả thuyết nghiên cứu: Các quan điểm, định hƣớng hoàn thiện pháp

luật thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện nay phải xuất phát t yêu cầu hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế

Page 29: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

23

khu vực và thế giới, phúc đáp đƣợc yêu cầu phát triển mạnh mẽ của thƣơng

mại điện tử ở Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu 10: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật thƣơng mại

điện tử là gì?

Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam

cần đƣợc hoàn thiện nhằm đáp ứng các yêu cầu của các giao dịch TMĐT

trong bối cảnh tăng cƣờng, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

cũng nhƣ đảm bảo yêu cầu phát triển của thƣơng mại điện tử ở Việt Nam và

tăng cƣờng hiệu quả thực thi pháp luật về thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Qua một số công trình nghiên cứu về thƣơng mại điện tử và một số khía

cạnh của pháp luật thƣơng mại điện tử, quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện

tử đã công bố cho thấy, các tác giả đã phân tích và hệ thống một cách tƣơng

đối toàn diện, đầy đủ những vấn đề lý luận về thƣơng mại điện tử cũng nhƣ

xây dựng, làm rõ khái niệm, đặc điểm cũng nhƣ vai trò của thƣơng mại điện

tử đối với nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam. Các nghiên cứu về pháp luật

thƣơng mại điện tử cũng đã làm rõ khái niệm, đặc điểm và các nguyên tắc của

pháp luật thƣơng mại điện tử trên phƣơng diện lý luận, thực trạng cũng nhƣ

đề xuất các kiến nghị giải pháp trong việc hoàn thiện pháp luật thƣơng mại

điện tử.

T việc nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu, cho phép tác giả

chỉ ra đƣợc các vấn đề về lý luận và thực tiễn cần kế th a, t đó làm rõ những

nội dung cần phải triển khai nghiên cứu trong nội dung luận án của mình.

Cũng t tổng quan tình hình nghiên cứu, trong Chƣơng 1, tác giả đã dự kiến

đƣợc cơ sở lý thuyết nghiên cứu, đặt ra các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

nhằm hình thành các luận điểm nghiên cứu chính trong nội dung luận án.

Page 30: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

24

CHƢƠNG 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ PHÁP LUẬT

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

2.1.1. Khái niệm thƣơng mại điện tử

Thƣơng mại điện tử, hiểu theo nghĩa thông thƣờng nhất là giao dịch

thƣơng mại thông qua môi trƣờng điện tử. Khái niệm của International

Business Machines (IBM) - một tập đoàn công nghệ máy tính đa quốc gia

đƣa ra trong thập niên 1990 về thƣơng mại điện tử là: “Hiểu theo nghĩa rộng,

thƣơng mại điện tử bao gồm tất cả các loại giao dịch thƣơng mại mà trong đó

các đối tác giao dịch sử dụng các kỹ thuật thông tin trong khuôn khổ chào

mời, thảo thuận hay cung cấp dịch vụ”. Chiến dịch quảng cáo của IBM trong

năm 1998 dựa trên khái niệm “E-Commerce” đƣợc sử dụng t khoảng năm

1995, khái niệm mà ngày nay đƣợc xem là một lĩnh vực nằm trong kinh

doanh điện tử (E-Business). Các quy trình kinh doanh điện tử có thể đƣợc

nhìn t phƣơng diện trong nội bộ của một doanh nghiệp hay t phƣơng diện

ngoài doanh nghiệp (thị trƣờng điện tử, E-Commerce,…).

Các tổ chức quốc tế đã xây dựng khái niệm dựa vào phân tích về nghĩa

hẹp và nghĩa rộng của thƣơng mại điện tử. Hiểu theo nghĩa hẹp, thƣơng mại

điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp trong việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông

qua các phƣơng tiện điện tử, nhất là qua Internet và các mạng liên thông

khác.Theo Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), thƣơng mại điện tử bao

gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm đƣợc mua bán

và thanh toán trên mạng Internet, nhƣng đƣợc giao nhận một cách hữu hình,

cả các sản phẩm giao nhận cũng nhƣ những thông tin số hoá thông qua mạng

Internet. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), thƣơng mại

điện tử là việc làm kinh doanh thông qua mạng Internet, bán những hàng hoá

Page 31: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

25

và dịch vụ có thể đƣợc phân phối không thông qua mạng hoặc những hàng

hoá có thể mã hoá bằng kỹ thuật số và đƣợc phân phối thông qua mạng hoặc

không thông qua mạng.Uỷ ban Thƣơng mại điện tử của Tổ chức hợp tác kinh

tế châu Á-Thái Bình Dƣơng (APEC) cũng định nghĩa, thƣơng mại điện tử là

công việc kinh doanh đƣợc tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công

nghệ tin học kỹ thuật số. Còn theo Hiệp hội Thƣơng mại điện tử (AEC),

thƣơng mại điện tử là làm kinh doanh có sử dụng các công cụ điện tử. Định

nghĩa này rộng, coi hầu hết các hoạt động kinh doanh t đơn giản nhƣ một cú

điện thoại giao dịch đến những trao đổi thông tin EDI phức tạp đều là thƣơng

mại điện tử.

Luật mẫu về thƣơng mại điện tử của Uỷ ban Liên Hợp Quốc về thƣơng

mại quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: “Thƣơng mại điện tử là việc trao đổi

thông tin thƣơng mại thông qua các phƣơng tiện điện tử, không cần phải in ra

giấy bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch [42].Thuật ngữ

thƣơng mại (commerce) cần đƣợc diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các

vấn đề phát sinh t mọi quan hệ mang tính chất thƣơng mại dù có hay không

có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thƣơng mại (commercial) bao gồm,

nhƣng không chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về

cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện

hoặc đại lý thƣơng mại, uỷ thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn

(leasing); xây dựng các công trình; tƣ vấn, kỹ thuật công trình (engineering);

đầu tƣ; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô nhƣợng,

liên doanh và các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên

chở hàng hoá hay hành khách bằng đƣờng biển, đƣờng không, đƣờng sắt hoặc

đƣờng bộ”. Theo định nghĩa này, phạm vi hoạt động của thƣơng mại điện tử

rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó, hoạt động

mua bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thƣơng mại

điện tử.

Page 32: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

26

Theo Uỷ ban châu Âu, thƣơng mại điện tử gồm nhiều hành vi nhƣ hoạt

động mua bán hàng hoá; dịch vụ; giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên

mạng; chuyển tiền điện tử; mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử; đấu giá

thƣơng mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên trên mạng; mua sắm công cộng; tiếp

thị trực tiếp với ngƣời tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối với thƣơng

mại hàng hoá (nhƣ hàng tiêu dùng, thiết bị y tế chuyên dụng) và thƣơng mại

dịch vụ (nhƣ dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt

động truyền thống (nhƣ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục) và các hoạt động

mới(nhƣ siêu thị ảo) v.v... Với cách định nghĩanày, “thƣơng mại” (commerce)

trong “thƣơng mại điện tử” không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ (trade)

theo các hiểu thông thƣờng, mà bao quát một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, do

đó việc áp dụng thƣơng mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của

hầu hết nền kinh tế. Theo ƣớc tính đến nay, thƣơng mại điện tử có tới trên

1.300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một

lĩnh vực ứng dụng.

Ở Việt Nam, khái niệm thƣơng mại điện tử cũng đƣợc các nhà nghiên

cứu đƣa ra.Theo tác giả Nguyễn Hữu Anh, thƣơng mại điện tử là hình thái sử

dụng các phƣơng tiện và phƣơng pháp điện tử để thực hiện các hoạt động

thƣơng mại không cần đến giấy tờ tại bất kỳ công đoạn nào của quá trình giao

dịch (còn đƣợc gọi là thƣơng mại không giấy tờ - paperless trade).Còn theo

tác giả Mai Anh thì thƣơng mại điện tử bao gồm mọi giao dịch đƣợc thực

hiện nhờ công nghệ số, nhất là việc dùng Internet, các mạng riêng để trao đổi

thông tin (EDI) và thẻ tín dụng [1].

Ở Việt Nam, khái niệm thƣơng mại điện tử đã đƣợc ghi nhận trong các

văn bản quy phạm pháp luật, theo đó thƣơng mại điện tử là việc tiến hành một

phần hay toàn bộ quy trình của hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện

tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông hoặc các mạng mở khác.

Nhƣ vậy, theo định nghĩa đó, thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu theo nghĩa

rộng, trên cơ sở đó khái niệm về thƣơng mại điện tử đƣợc hiểu một cách

Page 33: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

27

thống nhất là:

“Thương mại điện tử là việc thực hiện một ph n ho c toàn bộ các quy

trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử được kết nối với

mạng Internet, mạng vi n thông di động ho c các mạng mở khác”.

Việc xây dựng khái niệm thƣơng mại điện tử theo nghĩa rộng đặt ra yêu

cầu điều chỉnh pháp luật thƣơng mại điện tử tƣơng ứng.

2.1.2. Đặc điểm của thƣơng mại điện tử

So với các hoạt động thƣơng mại truyền thống, thƣơng mại điện tử có

một số đặc điểm cơ bản nhƣ sau:

Thứ nhất,các bên trong giao dịch thương mại điện tử không tiếp xúc

trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải có quan hệ quen biết từ trước.Trong

thƣơng mại truyền thống, các bên thƣờng gặp gỡ trực tiếp để tiến hành đàm

phán, thỏa thuận và ký kết các hợp đồng. T khi xuất hiện mạng máy tính

toàn cầu Internet thì việc trao đổi thông tin trong các hoạt động thƣơng mại đa

dạng đã mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lƣợngngƣời

tham gia ngày càng gia tăng. Những ngƣời tham gia là cá nhân hoặc doanh

nghiệp, có thể đã biết hoặc hoàn toàn chƣa biết nhau bao giờ.

Thứ hai, thương mại điện tử được thực hiện trong một thị trường

không có biên giới hay nói cách khác, thương mại điện tử được thực hiện trên

một thị trường thống nhất trên toàn c u. Trong nền kinh tế số, thông tin đƣợc

số hóa thành các byte, lƣu trữ trong máy tính và truyền qua mạng với tốc độ

cao. Điều này tạo ra những khả năng hoàn toàn mới làm thay đổi thói quen

tiêu dùng và mua bán của con ngƣời, mà trong đó ngƣời bán và ngƣời mua

hàng có thể giao dịch với đối tác ở bất cứ đâu trên thế giới.

Nếu nhƣ trong thƣơng mại truyền thống,biên giới quốc gia có một ý

nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng

hóa thì trong thƣơng mại điện tử, khái niệm biên giới quốc gia không còn ý

nghĩa quá lớn.

Thứ ba,ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch thương mại

Page 34: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

28

truyền thông, trong giao dịch thương mại điện tử xuất hiện thêm một bên thứ

ba là các nhà cung cấp dịch vụ qua mạng, các cơ quan chứng thực và quản

lý... Đây là những ngƣời tạo môi trƣờng cho các giao dịch thƣơng mại điện tử

đƣợc thực hiện. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực, quản lý

có nhiệm vụ chuyển đi, lữu trữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch

thƣơng mại điện tử, đồng thời họ cũng xác nhận tính xác thực của các thông

tin trong giao dịch thƣơng mại điện tử.

Thứ tư,đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là

phương tiện để trao đ i dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới

thông tin chính là thị trường. Các trang Web nổi tiếng nhƣ Yahoo! America

Online, Google hay AltaVista v.v... đóng vai trò nhƣ các website gốc đƣa

khách hàng truy cập vào nhiều trang web khác với vô số thông tin. Các trang

web này đã trở thành các “khu chợ" khổng lồ trên mạng Internet.

Thứ n m, các loại hình giao dịch trong thương mại điện tử là rất

phong ph , bao gồm:(i) Mô hình giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh

nghiệp (B2B - Business to Business) đƣợc xem nhƣ là một trong hai mô hình

phát triển mạnh nhất trong ngành thƣơng mại điện tử, mô hình B2B áp dụng

trong việc giao tiếp, mua bán, sử dụng dịch vụ sản phẩm giữa các doanh

nghiệp với doanh nghiêp; (ii) Mô hình giao dịch giữa doanh nghiệp với khách

hàng (B2C - Business to Consumer) là mô hình phát triển mạnh nhất, phổ

thông nhất ở Việt Nam, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều Website, phƣơng

tiện hoạt động theo mô hình này; (iii) Mô hình giao dịch giữa doanh nghiệp

với cơ quan nhà nƣớc (B2G - Business to Government) là mô hình Website

thƣơng mại trong đó các doanh nghiệp có vai trò trong việc cung cấp thông tin,

dịch vụ, sản phẩm cho Nhà nƣớc. Việc tiêu thụ các sản phẩm phục vụ cho công

việc quản lý, điều hành của Nhà nƣớc cũng đƣợc xếp trong mô hình này; (iv)

Mô hình giao dịch trực tiếp giữa các cá nhân với nhau (C2C - Consumer to

Consumer) là mô hình trong đó các cá nhân là những ngƣời mua bán hàng hóa

hoặc sử dụng dịch vụ của cá nhân khác mà không phải là tổ chức kinh doanh.

Page 35: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

29

Thứ sáu, hoạt động thương mại điện tử có tính rủi ro cao do lệ thuộc

vào các yếu tố kỹ thuật.

Hoạt động thƣơng mại điện tử đƣợc thực hiện qua các phƣơng tiện điện

tử có kết nối mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở

khác, do vậy, tiềm ẩn nhiều rủi ro nhƣ: Thông tin có thể bị đánh cắp hoặc bị

tiết lộ phục vụ mục đích khác, an toàn hệ thống có thể bị ảnh hƣởng do các

nguyên nhân khách quan nhƣ trục trặc kỹ thuật, hệ thống hoạt động không ổn

định v.v...

Nhƣ vậy, có thể nói đây là đặc điểm quan trọng của thƣơng mại điện tử

so với thƣơng mại truyền thống.

2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT

THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

2.2.1. Khái niệm pháp luật thƣơng mại điện tử

Trong bối cảnh công nghệ phát triển với một tốc độ nhanh chóng và các

tiến bộ kỹ thuật đƣợc sử dụng trong hoạt động thƣơng mại, và thƣơng mại

điện tử đã hình thành và phát triển, làm cho các loại hình thƣơng mại trở nên

phong phú, đa dạng, đáp ứng đƣợc nhu cầu của các cá nhân, tổ chức cũng nhƣ

thúc đẩy thƣơng mại phát triển. Những quan hệ xã hội phát sinh khi các chủ

thể là các cá nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động thƣơng mại đƣợc thực

hiện bằng các phƣơng tiện điện tử có kết nối mạng internet, mạng viễn thông

di động và các mạng mở khác ngày càng trở nên phổ biến và có tỷ trọng đáng

kể trong hoạt động thƣơng mại bởi những ƣu điểm của thƣơng mại điện tử.

Trên thực tế, những ƣu điểm của thƣơng mại điện tử luôn ẩn chứa những rủi

ro, là môi trƣờng mà ở đó các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại luôn có

thể bị xâm hại bởi các hành vi vi phạm của các đối tƣợng khác và có thể gây

ra những tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp

pháp của các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử. Để bảo

đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

Page 36: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

30

chức tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử, Nhà nƣớc phải xây dựng,

banhành các quy định chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật để

điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử.

Do những đặc điểm của thƣơng mại điện tử rất đa dạng nên pháp luật

điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này cũng có sự

tƣơng ứng. Các vấn đề pháp lý trong thƣơng mại điện tử liên quan đến nhiều

chế định pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Trong thƣơng mại truyền

thống, các bên thƣờng gặp nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch hoặc là những

ngƣời đã quen biết nhau t trƣớc. Còn trong thƣơng mại điện tử, các chủ thể

không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau t trƣớc.

Các giao dịch thƣơng mại truyền thống đƣợc phân định rõ ràng về ranh giới

quốc gia, trong khi đó thƣơng mại điện tử lại đƣợc thực hiện trong môi trƣờng

hay thị trƣờng phi biên giới. Tuy nhiên, thƣơng mại điện tử không thể thực

hiện đƣợc nếu không có ngƣời thứ ba là các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Nếu

nhƣ trong thƣơng mại truyền thống mạng lƣới là phƣơng tiện để trao đổi

thông tin thì trong thƣơng mại điện tử, mạng Internet chính là một thị trƣờng,

do vậy các vấn đề pháp lý nảy sinh trong thị trƣờng ảo là hoàn toàn khác.

Trên thực tế, thƣơng mại điện tử về cơ bản là việc ứng dụng các

phƣơng tiện điện tử vào hoạt động kinh doanh, thƣơng mại. Chủ thể tham gia

hoạt động thƣơng mại điện tử bên cạnh việc tuân thủ các quy định trực tiếp về

thƣơng mại điện tử, còn phải thực hiện các quy định pháp luật liên quan khác

nhƣ đầu tƣ kinh doanh, thƣơng mại, dân sự và công nghệ thông tin v.v… Vì

vậy, với tƣ cách là nhằm đảm bảo tính an toàn về mặt pháp lý cho những hoạt

động kinh doanh, thƣơng mại trên thị trƣờng ảo là mạng Internet, pháp luật về

thƣơng mại điện tử tập trung điều chỉnh những quan hệ phát sinh chủ yếu

trong lĩnh vực này mà hệ thống pháp luật kinh doanh, thƣơng mại truyền

thống chƣa điều chỉnh hoặc không thể điều chỉnh vì những đặc thù riêng của

các quan hệ thƣơng mại trong môi trƣờng điện tử.

Page 37: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

31

Với cách lập luận ở trên, có thể đƣa ra khái niệm về pháp luật thƣơng

mại điện tử nhƣ sau:

“Pháp luật thương mại điện tử là t ng hợp các nguyên tắc, quy phạm

pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh

trong quá trình các chủ thể là các cá nhân, t chức thực hiện các hoạt động

thương mại được thực hiện một ph n hay toàn bộ quy trình thương mại bằng

các phương tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng vi n thông di

động hay các mạng mở khác ”.

Nhƣ vậy, với khái niệm nhƣ trên, các quan hệ xã hội phát sinh trong

hoạt động thƣơng mại điện tử đều đƣợc pháp luật điều chỉnh và đảm bảo đƣợc

lợi ích nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt

động thƣơng mại điện tử.

2.2.2. Đặc điểm của pháp luật thƣơng mại điện tử

T đặc thù của thƣơng mại điện tử, pháp luật về thƣơng mại điện tử

bao gồm những đặc trƣng cơ bản nhƣ sau:

Thứ nhất,quá trình hình thành các quy phạm pháp luật thương mại

điện tử được ra đời do sự xuất hiện của công nghệ thông tin và mạng Internet

trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam

Khi công nghệ thông tin, viễn thông, trong đó có mạng Internet đƣợc

sử dụng thì việc mua bán hàng hóa đã đƣợc nâng lên một tầm cao mới và

ngày càng phát triển nhanh chóng. Khi sản phẩm máy tính cá nhân phổ cập,

hạ tầng viễn thông phát triển, việc kết nối Internet trở thành nhu cầu tất yếu

của mọi cá nhân, gia đình, tổ chức, doanh nghiệp thì hoạt động thƣơng mại

truyền thống đã có bƣớc ngoặt lớn, thúc đẩy quá trình lƣu thông hàng hóa. Sự

hình thành các quan hệ thƣơng mại điện tử luôn tiềm ẩn những rủi ro xuất

phát t những đặc thù của phƣơng thức thƣơng mại mới cần sự điều chỉnh

bằng pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham

gia quan hệ này.Trƣớc yêu cầu đó, pháp luật TMĐT đƣợc xây dựng kịp thời

để điều chỉnh các hoạt động thƣơng mại điện tử.

Page 38: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

32

Thứ hai,nguồnpháp luật thương mại điện tử của các quốc gia có sự

tiếp thu từ pháp luật thương mại điện tử quốc tế và có sự vận dụng để điều

chỉnh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển ở từng quốc gia

Khi tham gia vào các tổ chức thƣơng mại khu vực hay toàn cầu hoặc

các điều ƣớc quốc tế liên quan thì các quốc gia cũng phải xây dựng pháp luật

của mình trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử đảm bảo các nguyên tắc chung cơ

bản theo luật chơi của các thiết chế đó. Trên thực tế, khi xây dựng pháp luật

thƣơng mại điện tử, các quốc gia thƣờng hoàn thiện theo hƣớng tiệm cận với

các tiêu chuẩn chung của quốc tế để đảm bảo các yếu tố, điều kiện hội nhập

của mình cũng nhƣ thực hiện các cam kết quốc tế khác mà mình công nhận

hoặc tham gia. Việc tiếp thu các quy định của luật quốc tế cũng dựa trên đặc

điểm của thƣơng mại điện tử là tính chất phi biên giới của các hoạt động

thƣơng mại điện tử.

Thứ ba, đối tượng điều chỉnh của quan hệ pháp luật thương mại điện

tử là một bộ phận của quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật thương

mại truyền thống.

Tuy nhiên, quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử là những quan hệ đặc

biệt, đƣợc thực hiện một phần hoặc toàn bộ thông qua phƣơng tiện điện tử

nhƣ điện thoại, điện thoại thông minh, máy tính có kết nối mạng internet,

mạng nội bộ hoặc các mạng mở khác. Về bản chất thì thƣơng mại điện tử

cũng nhƣ thƣơng mại truyền thống, tuy nhiên một phần hay toàn bộ các hành

vi thƣơng mại thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử.

Thứ tư,các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật thương mại điện tử

được xây dựng trên cở sở khuyến cáo bởi Luậtt mẫu của ULCITRAL.

Nhằm tạo khung pháp lý cho phát triển thƣơng mại điện tử, năm 1996,

Uỷ ban Luật Thƣơng mại Quốc tế của Liên Hợp Quốc (UNCITRAL) đã soạn

thảo Luật mẫu về thƣơng mại điện tử [42], hình thành những quy định mẫu về

th a nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu. Luật mẫu có thể đƣợc sử

dụng nhƣ một tài liệu tham khảo cho các nƣớc trong quá trình xây dựng pháp

Page 39: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

33

luật về thƣơng mại điện tử của mình. Tinh thần của Luật mẫu là bảo đảm

những giao dịch thƣơng mại điện tử đƣợc th a nhận giá trị pháp lý và nếu cần

thiết thì sẽ có những hành động thích hợp để tăng cƣờng khả năng thi hành

cho những giao dịch bằng phƣơng tiện điện tử. Nhiều quốc gia đã thể hiện các

nguyên tắc và nội dung của Luật mẫu UNCITRAL vào hệ thống pháp luật

quốc gia của mình.

Thứ n m,quan hệ pháp luật thương mại điện tử có sự tham gia của

người thứ ba – chủ thể cung cấp dịch vụ thông tin, kỹ thuật, dịch vụ chứng

thực nội dung số, thanh toán trung gian hay các đơn vị cung cấp dịch vụ

logictis

Đặc điểm của thƣơng mại điện tử, việc thực hiện các hành vi thƣơng

mại điện tử còn có một thành tố quan trọng là bên thứ ba bảo đảm sự vận

hành liên tục của mạng Internet, máy chủ lƣu trữ dữ liệu, các đơn vị cung cấp

các dịch vụ liên quan nhƣ đăng ký tên miền, cho thuê đƣờng truyền v.v... Đặc

điểm này đặt ra yêu cầu điều chỉnh pháp luật phức tạp hơn khi xây dựng các

quy phạm pháp luật nội dung cũng nhƣ hình thức (quy phạm pháp luật tố

tụng) để xác định hiệu lực pháp luật, xác định thẩm quyền giải quyết tranh

chấp trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp

giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc liên quan khi thực thi pháp luật đảm bảo

các yêu cầu về quản lý nhà nƣớc theo chức năng nhiệm vụ của các chủ thể

này.

Thứ sáu, nội dung của pháp luật thương mại điện tử quy định ch t chẽ

về an ninh, an toàn trong hoạt động thương mại điện tử.

Do việc tiến hành một phần hay toàn bộ quy trình thƣơng mại dựa trên

mạng internet, mạng viễn thông di động hay các mạng mở bằng thiết bị điện

tử nên việc đảm bảo an toàn hệ thống thông tin, viễn thông, bảo mật thông tin

cá nhân là vấn đề đƣợc quan tâm đặc biệt khi xây dựng pháp luật điều chỉnh

các quan hệ thƣơng mại điện tử. Trong thƣơng mại điện tử, các thông tin đƣợc

chuyển thành thông điệp dữ liệu hoặc thông tin chuyển tải bằng kỹ thuật

Page 40: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

34

tƣơng tự (Analog) nên tất cả đều tiềm ẩn các rủi ro nhƣ: Sập hệ thống, trục

trặc kỹ thuật, bị mất dữ liệu hoặc bị đánh cắp dữ liệu cho các mục đích khác

v.v... chính vì vậy để bảo vệ thông tin cá nhân, bảo đảm an toàn thông tin,

pháp luật thƣơng mại điện tử phải quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của các

chủ thể cung cấp dịch vụ viễn thông, thông tin về việc bảo đảm an ninh, an

toàn trong thƣơng mại điện tử.

2.2.3. Các n i dung cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử

Hoạt động thƣơng mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ

quy trình của hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện tử có kết nối với

mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác, bởi vậy, nội

dung pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử ngoài các vấn đề

chung nhằm đảm bảo tính an toàn, hiệu quả và hợp pháp của một giao dịch

thƣơng mại điện tử đƣợc trình bày trong cơ chế điều chỉnh pháp luật nhƣ các

quy định của pháp luật dân sự và thƣơng mại truyền thống, các vấn đề liên

quan đến khía cạnh pháp lý của giao dịch điện tử, các yêu cầu về mặt pháp lý

liên quan tới giải quyết tranh chấp, bảo vệ ngƣời tiêu dùng, bảo vệ quyền sở

hữu trí tuệ, phòng chống tội phạm. Các nghiên cứu về vấn đề này đã khái quát

các nội dung chủ yếu của pháp luật về thƣơng mại điện tử bao gồm các vấn đề

sau đây:

Một là: Chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử

Pháp luật thƣơng mại điện tử là một bộ phận của pháp luật thƣơng mại

và do vậy, việc quy định cụ thể các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật

thƣơng mại điện tử một cách cụ thể sẽ xác lập địa vị pháp lý của chủ thể đó.

Trong pháp luật thƣơng mại điện tử, các chủ thể đƣợc quy định cụ thể gồm:

- Ngƣời sở hữu website thƣơng mại điện tử bán hàng là các thƣơng

nhân, tổ chức, cá nhân tự lập website thƣơng mại điện tử để phục vụ hoạt

động xúc tiến thƣơng mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ.

Page 41: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

35

- Thƣơng nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ thƣơng mại điện tử thiết lập

website để cung cấp môi trƣờng cho thƣơng nhân, tổ chức cá nhân khác xúc

tiến thƣơng mại, bán hoặc cung cấp dịch vụ TMĐT.

-Bên bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ thƣơng mại điện tử là các thƣơng

nhân, cá nhân, tổ chức sử dụng website của bên cung cấp dịch vụ TMĐT để

bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, xúc tiến thƣơng mại.

- Khách hàng chính là cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân mua hàng hóa

dịch vụ trên website của bên bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên

website thƣơng mại điện tử.

- Các thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân cung cấp hạ tầng kỹ thuật cho

ngƣời sở hữu website TMĐT bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ.

- Các cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân sử dụng thiết bị điện tử có kết nối

mạng để tiến hành hoạt động thƣơng mại.

Nhƣ vậy, Chủ thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật thƣơng mại điện tử

đa dạng, các quan hệ pháp luật hình thành dƣới bất kỳ hình thức nào cũng đều

làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở các quy định của pháp luật

thƣơng mại điện tử.

Trong các chủ thể của quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử xuất hiện

bên cung cấp hạ tầng kỹ thuật, thiết lập môi trƣờng mạng để cung cấp cho các

chủ thể khác tiến hành một phần hay toàn bộ quy trình thƣơng mại bằng các

phƣơng tiện điện tử.

Sự khác biệt nhƣng cũng chỉ mang tính tƣơng đối nếu đặt trong mối

quan hệ của các chủ thể thƣơng mại truyền thống là họ không giao tiếp trong

các không gian của đời sống xã hội mà tƣơng tác chủ yếu trên môi trƣờng

điện tử.

Hai là:Quy định về các hình thức hoạt động thương mại điện tử

Việc pháp luật quy định các hình thức hoạt động thƣơng mại điện tử

chính là để phân loại nhằm mục đích xác lập các quyền và nghĩa vụ của các

chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử. Việc quy định các

Page 42: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

36

hình thức khác nhau trên cơ sở phƣơng thức hoạt động của mỗi loại hình, trên

thế giớii cũng nhƣ Việt Nam, có một số hình thức hoạt động thƣơng mại điện

tử phổ biến sau:

- Website thƣơng mại điện tử bán hàng, cung cấp dịch vụ do các

thƣơng nhân, cá nhân, tổ chức thiết lập.

- Website thƣơng mại điện tử cung cấp môi trƣờng điện tử cho các cá

nhân, tổ chức, thƣơng nhân khác tiến hành các hoạt động TMĐT nhƣ: Sàn

giao dịch điện tử, Website đấu giá trực tuyến, Website cung cấp các dịch vụ

xúc tiến thƣơng mại, khuyến mãi v.v...

Ngoài ra còn có các hình thức website khác nhƣ mạng xã hội đƣợc thiết

kế dƣới dạng website mở với nhiều tính năng trong đó có chức năng quảng

cáo, xúc tiến thƣơng mại, bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ nhƣ FaceBook,

Yahoo chat v.v...

Tùy t ng điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà pháp luật có

quy định các hình thức hoạt động thƣơng mại điện tử phù hợp để quản lý

cũng nhƣ điều chỉnh bằng pháp luật đối với các hình thức hoạt động thƣơng

mại điện tử.

Ba là: các nguyên tắc hoạt động của thương mại điện tử

Theo UNCITRAL, Luật thƣơng mại điện tử cần đƣợc xây dựng dựa

trên sáu nguyên tắc cơ bản [42], bao gồm:

(i) Tƣơng đƣơng thuộc tính: Tài liệu điện tử có thể đƣợc coi có giá trị

pháp lý nhƣ tài liệu ở dạng văn bản nếu thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật nhất

định nhƣ các yếu tố: Khả năng chứa thông tin, các thông tin có thể đƣợc lƣu

giữ và tham chiếu lại khi cần thiết; đảm bảo đƣợc tính xác thực và tính toàn

vẹn của thông tin…

(ii) Tự do thoả thuận hợp đồng: Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận

trong giao dịch thƣơng mại điện tử nhằm đảm bảo các chủ thể tham gia hoạt

động thƣơng mại điện tử có quyền tự do thỏa thuận không trái với quy định

của pháp luật để xác lập quyền và nghĩa vụ của t ng bên trong giao dịch.

Page 43: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

37

Thỏa thuận này là căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá

trình giao dịch.

(iii) Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phƣơng thức truyền thông điện

tử.

Về bản chất, quan hệ thƣơng mại là tự do thỏa thuận, tự nguyện thực

hiện các hành vi thƣơng mại. Với đặc điểm của thƣơng mại điện tử là các chủ

thể tham gia hoạt động thƣơng mại phải sử dụng các thiết bị điện tử có kết nối

mạng internet, mạng viễn thông di động hay các mạng mở khác thì đƣơng

nhiên quyền đƣợc tự do lựa chọn các phƣơng thức truyền thông điện tử để

phục vụ cho yêu cầu của mình.

(iv) Tự nguyện lựa chọn sử dụng phƣơng tiện điện tử để thực hiện giao

dịch; tự thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện giao dịch

điện tử và không một loại công nghệ nào đƣợc xem là duy nhất trong giao

dịch điện tử.

Nếu chủ thể kinh doanh tiến hành hoạt động bán hàng hóa, cung ứng

dịch vụ và xúc tiến thƣơng mại trên website thƣơng mại điện tử không nêu cụ

thể giới hạn địa lý của những hoạt động này, thì các hoạt động kinh doanh đó

đƣợc coi là không giới hạn.

(v) Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong giao dịch điện tử.

Nguyên tắc này sẽ đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể khi tham

gia hoạt động thƣơng mại điện tử không phân biệt thân phận pháp lý cũng

nhƣ số lƣợng, giá trị của giao dịch thƣơng mại. Trong khi tiến hành một phần

hay toàn bộ quy trình thƣơng mại đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử,

nguyên tắc an toàn phải đƣợc đặt lên hàng đầu nhằm loại tr các rủi ro trong

hoạt động thƣơng mại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham

gia các hoạt động thƣơng mại điện tử.

(vi) Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại điện

tử với các yêu cầu:

Page 44: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

38

- Ngƣời sở hữu website thƣơng mại điện tử bán hàng và ngƣời bán trên

website cung cấp dịch vụ thƣơng mại điện tử phải tuân thủ các quy định của

pháp luật về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ

cho khách hàng;

- Khách hàng trên website cung cấp dịch vụ thƣơng mại điện tử là

ngƣời tiêu dùng dịch vụ thƣơng mại điện tử và là ngƣời tiêu dùng hàng hóa,

dịch vụ do ngƣời bán trên website này cung cấp;

- Trƣờng hợp ngƣời bán trực tiếp đăng thông tin về hàng hóa, dịch vụ

của mình trên website thƣơng mại điện tử thì thƣơng nhân, tổ chức cung cấp

dịch vụ thƣơng mại điện tử và thƣơng nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng không

phải là bên thứ ba cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật bảo vệ

quyền lợi ngƣời tiêu dùng.

Nhƣ vậy, việc tiếp thu các nguyên tắc cơ bản của luật mẫu về Thƣơng

mại điện tử của UNCITRAL sẽ đƣợc điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện

kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.

Bốn là: Các hành vi bị cấm trong thương mại điện tử.

Trong pháp luật của mỗi quốc gia, không có tự do tuyệt đối trong

thƣơng mại, và không phải mọi thứ đều trở thành hàng hóa, dịch vụ có thể

cung ứng. Mỗi quốc gia có những đặc thù riêng về văn hóa, tín ngƣỡng, điều

kiện kinh tế xã hội cũng nhƣ đƣờng lối đối ngoại nên có những quy định về

các hành vi bị cấm trong thƣơng mại phù hợp với hoàn cảnh của mình. Việc

quy định những hành vi bị cấm trong thƣơng mại điện tử nói riêng và thƣơng

mại nói chung rõ ràng là sự tiến bộ của pháp luật vì khi đã quy định rõ hành

vi bị cấm thì các cá nhân, tổ chức đƣợc làm tất cả những gì mà pháp luật

không cấm, điều này rõ ràng tích cực hơn so với việc các cá nhân, tổ chức chỉ

đƣợc làm những gì luật cho phép.

Trong thƣơng mại điện tử, việc quy định những hành vi bị cấm đƣợc

quy định rõ ràng sẽ đảm bảo tính thống nhất với các ngành luật trong hệ thống

pháp luật của mỗi quốc gia, mặt khác, nó chỉ rõ các hành vi không đƣợc làm

Page 45: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

39

khi tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử của các cá nhân, tổ chức, giúp họ

tránh những rủi ro pháp lý cũng nhƣ có niềm tin vào thƣơng mại điện tử.

N m là: Vấn đề an ninh, an toàn trong thương mại điện tử

Trong thƣơng mại truyền thống, các chủ thể tham gia giao dịch thƣờng

có sự tiếp xúc với nhau để thƣơng lƣợng, xem xét hàng hóa, dịch vụ là đối

tƣợng của hợp đồng mua bán cho nên vấn đề an toàn, an ninh đƣợc quan tâm

ở mức độ thấp hơn so với hoạt động thƣơng mại điện tử. Đặc điểm của

thƣơng mại có những yếu tố nhƣ ngƣời mua, ngƣời bán không tiếp xúc trực

tiếp với nhau hoặc có thể trao đổi nhƣng cũng sử dụng các phƣơng tiện điện

tử, đồng thời, một phần hay toàn bộ các hành vi thƣơng mại đƣợc thực hiện

thông qua mạng internet, mạng viễn thông hay các mạng mở khác nên mức độ

an toàn của hệ thống cũng nhƣ các yếu tố bảo mật khác phải đƣợc quan tâm ở

mức độ cao hơn so với thƣơng mại truyền thống. Các quy định về an ninh

mạng để bảo mật các thông tin của khách hàng cũng nhƣ của bên bán hàng,

cung cấp dịch vụ là vấn đề tất cả các chủ thể tham gia quan hệ đều coi là yếu

tố đặc biệt quan trong. Trong hoạt động thƣơng mại điện tử, bên mua hàng

hóa, dịch vụ còn thực hiện nghĩa vụ than toán bằng các loại thẻ thanh toán,

thẻ tín dụng tức là không thực hiện nghĩa vụ trả tiền hàng hóa, dịch vụ bằng

tiền mặt nên yêu cầu về bảo đảm an toàn trong thanh toán điện tử là vấn đề

quan trọng, đây là vấn đề dễ phát sinh vi phạm hoặc tội phạm .

Sáu là: Các vấn đề liên quan đến việc giao kết hợp đồng thương mại

điện tử

Theo quy định của pháp luật, hợp đồng đƣợc xác lập khi các bên đạt

đƣợc sự nhất trí về các điều khoản ghi trong hợp đồng bất kể là thoả thuận

miệng hay bằng văn bản. Vấn đề nảy sinh là xác định nơi giao kết hợp đồng

để xác định luật giải quyết khi có tranh chấp. Trong hầu hết các trƣờng hợp,

thì quốc gia nơi đặt máy chủ (Websever) không hề đƣợc quan tâm và không

phải lúc nào vị trí của máy cũng rõ ràng. Domain name cũng không phải là

căn cứ để xác định nơi giao kết hợp đồng. Nói chung, các loại hợp đồng đều

Page 46: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

40

có thể giao kết qua mạng, tuy nhiên, cũng có một số loại hợp đồng theo quy

định của pháp luật phải thể hiện bằng văn bản, có công chứng, đăng ký. Pháp

luật của các nƣớc đều không phủ nhận giá trị pháp lý của hợp đồng ảo chỉ vì

nó là dạng dữ liệu (bản ghi điện tử).

Có nhiều loại hợp đồng trong không gian ảo, đó là hợp đồng hàng hoá,

dịch vụ và các dịch vụ số hoá.Hàng hoá khi chào bán trên mạng phải đảm bảo

chất lƣợng.phù hợp với mục đích sử dụng, an toàn và không có khuyết điểm

nhỏ. Sẽ không đƣợc coi là có khuyết điểm nhỏ nếu nhƣ ngƣời bán chỉ ra cho

ngƣời mua trƣớc khi ký kết hợp đồng. Cung cấp dịch vụ chính là cung cấp

sức lao động, kỹ năng. Việc mua một phần mềm tại cửa hàng thì phần mềm là

hàng hoá, còn hợp đồng với một công ty tin học thuê viết một phần mềm thì

đó là hợp đồng cung cấp dịch vụ. Dịch vụ số hoá là ngƣời bán có thể gửi cho

ngƣời mua các loại sản phẩm nhƣ băng video, âm nhạc, sách báo, phần mềm

v.v... qua mạng Internet.

Công ƣớc về Sử dụng chứng t điện tử trong hợp đồng quốc tế đã đƣợc

phiên họp lần thứ 60 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua tại Nghị

quyết số A/RES/60/21 ngày 9/11/2005. Về nội dung chuyên môn, Công ƣớc

này do Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật thƣơng mại quốc tế (UNCITRAL) xây

dựng, nhằm đƣa ra một khung quy định chung cho những vấn đề cơ bản nhất

của giao kết và thực hiện hợp đồng thông qua phƣơng tiện điện tử. Việc áp

dụng rộng rãi và đồng nhất những quy định này giữa các quốc gia sẽ góp phần

xóa bỏ trở ngại đối với việc sử dụng chứng t điện tử trong giao dịch thƣơng

mại quốc tế, nâng cao tính chắc chắn về phƣơng diện pháp lý cũng nhƣ tính

ổn định về phƣơng diện thƣơng mại của hợp đồng điện tử, giúp doanh nghiệp

tiếp cận đƣợc những phƣơng thức tiến hành thƣơng mại hiện đại, hiệu quả

nhất.

Bên cạnh Công ƣớc về Sử dụng chứng t điện tử trong hợp đồng

thƣơng mại Quốc tế, UNCITRAL cũng đã cho ra đời một loạt văn bản cốt lõi

của hệ thống luật quốc tế liên quan đến thƣơng mại điện tử nhƣ Luật mẫu về

Page 47: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

41

Thƣơng mại điện tử năm 1996 và Luật mẫu về Chữ ký điện tử năm 2001.

Những văn bản này đã đặt nền tảng chuyên môn cho việc xây dựng pháp luật

về thƣơng mại điện tử ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Về thời điểm, địa điểm gửi, nhận thông điệp điện tử.Thời gian giao kết

hợp đồng rất quan trọng để xác định thời điểm bắt đầu nghĩa vụ của các bên.

Do các bên trong hợp đồng thƣơng mại điện tử có thể không quen biết nhau, ở

xa nhau, liên lạc với nhau qua mạng, nên xác định thời điểm giao kết thƣơng

mại là khó khăn và các bên rất dễ hiểu khác nhau về thời điểm giao dịch. Điều

đó dễ dẫn đến các tranh chấp. Ngƣời đƣợc chào hàng có thể chấp nhận lời

chào hàng và theo đó tạo ra một hợp đồng trực tiếp. Sự phản hồi của khách

hàng chấp nhận đơn chào hàng là sự trả giá. Trƣờng hợp này ngƣời mua là

ngƣời trả giá, ngƣời bán là ngƣời chấp nhận hợp đồng. Việc xác lập hợp đồng

không nhất thiết phải do con ngƣời thực hiện, mà có thể chấp nhận tự động

bằng hệ thống máy móc v.v... Khi tiến hành giao kết hợp đồng trong thƣơng

mại điện tử, ngƣời chào hàng có thể quy định thời gian gửi ý kiến chấp nhận,

khi đó thời điểm chấp nhận hợp đồng là thời điểm thông tin chấp nhận của

khách hàng nhập vào hệ thống của ngƣời chào hàng. Thời gian nhận đƣợc

thông điệp điện tử đƣợc xác định theo nguyên tắc sau: (i) Nếu ngƣời nhận chỉ

định một hệ thống thông tin để nhận thì thời gian nhận là khi thông điệp điện

tử nhập vào hệ thống thông tin đó hoặc khi nhập vào hệ thống thông tin khác

nhƣng ngƣời nhận đang làm việc để truy lục thông điệp điện tử; (ii) Nếu

ngƣời nhận không chỉ định hệ thống thông tin thì tính thời điểm nhận là thời

điểm thông điệp điện tử truy nhập vào hệ thống thông tin của ngƣời nhận.

Bảy là: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử

Với sự xuất hiện của nhiều công nghệ mới, đặc biệt là các ứng dụng

công nghệ thông tin, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có ý nghĩa quan trọng.

Phần lớn các đối tƣợng thuộc quyền sở hữu trí tuệ nhƣ tác phẩm văn học –

nghệ thuật, tài liệu khoa học – kỹ thuật, chƣơng trình máy tính, cơ sở dữ liệu

có tính sáng tạo, nhãn hiệu, bí mật thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý, thiết kế kiểu

Page 48: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

42

dáng công nghiệp v.v... đều có thể xuất hiện dƣới hình thức cho phép truyền

tải dễ dàng qua Internet và các mạng mở khác. Nhiều vấn đề mới khiến các

quy định về phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trƣớc đây không còn phù

hợp.

Đối tƣợng cần đƣợc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện

tử gồm: sáng chế (văn bằng bảo hộ độc quyền patent) tạo nên các giải pháp kỹ

thuật góp phần vào hạ tầng công nghệ cho các bên thực hiện giao dịch; quyền

tác giả (copyright) đối với phần mềm và các trang web thể hiện các giao dịch

thƣơng mại giữa các bên; và nhãn hiệu (trademark), bao gồm biểu tƣợng có ý

nghĩa và t ngữ cũng nhƣ chỉ dẫn thƣơng mại khác giúp nhận diện hàng hóa,

dịch vụ cùng loại. Bằng độc quyền sáng chế cho phép chủ sở hữu có cơ sở

pháp lý để bảo vệ công trình sáng tạo của mình không bị đánh cắp hay sử

dụng trái phép. Quyền tác giả xuất hiện ngay t khi tác phẩm phần mềm hay

giao diện trang web đƣợc tạo lập nên. Nhãn hiệu, chỉ dẫn thƣơng mại giúp

cho ngƣời ta phân biệt sản phẩm hay dịch vụ của hãng này so với hãng khác.

Một nhãn hiệu càng có giá trị cao khi càng đƣợc nhiều ngƣời biết, tin tƣởng

và yêu mến. Việc đánh giá tầm quan trọng của một công ty thƣơng mại điện

tử dựa trên giá trị và số lƣợng các tài sản trí tuệ đƣợc bảo hộ. Giá trị này một

mặt tạo nên uy tín sản phẩm, công ty, mặt khác giúp định giá vốn hóa doanh

nghiệp ở mỗi thời điểm, và cuối cùng đƣợc trƣng dẫn mỗi khi xảy ra kiện

tụng.

Trên thực tế, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện tử

có ý nghĩa rất lớn. Nó có thể làm cho một doanh nghiệp phát triển nhanh

chóng hay bị lụn bại. Internet tạo nên thị trƣờng toàn cầu và sự cạnh tranh nơi

đó không kém khốc liệt.

Để có thể bảo hộ tốt trong thƣơng mại điện tử, pháp luật về sở hữu trí

tuệ cần đƣợc điều chỉnh theo hƣớng: Thứ nhất, phần mềm máy tính và cơ sở

dữ liệu nguồn đòi hỏi phải có những quy định bảo hộ chúng, cách thức bảo hộ

có thể nhƣ với đối tƣợng của quyền tác giả hay quyền sở hữu công nghiệp.

Page 49: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

43

Thứ hai, nhiều đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ có thể đƣợc biểu hiện dƣới

dạng các ứng dụng công nghệ thông tin nhƣ tên miền, giao diện website, t

khoá sử dụng để tìm kiếm thông tin và các ứng dụng công nghệ thông tin

khác. Do pháp luật chƣa xác định chúng thuộc đối tƣợng quyền sở hữu trí tuệ

nào nên chƣa có cơ chế bảo hộ. Ví dụ: Website có nên coi là hình thức biểu

hiện của một tác phẩm nghệ thuật không? Tên miền của một công ty có đƣợc

hƣởng các cơ chế bảo hộ nhƣ nhãn hiệu không? v.v...

Ngoài ra, Internet và các mạng mở khác là môi trƣờng lý tƣởng cho

việc trao đổi, chia sẻ các đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ. Một tác phẩm

văn học có thể nhanh chóng bị phát tán trên Internet; các bí mật kinh doanh

đƣợc lƣu trên máy tính một công ty có thể bị tiết lộ ra bên ngoài qua kết nối

Internet; một bản nhạc mới đƣợc phát hành, nếu đƣa lên mạng thì ai cũng có

thể tải về sử dụng v.v... Môi trƣờng mới tác động đến mọi đối tƣợng quyền sở

hữu trí tuệ. Vì vậy, pháp luật sở hữu trí tuệ phải hình thành các quy định thêm

về giới hạn, ngoại lệ thực hiện các quyền và nghĩa vụ cho phù hợp.

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) đã có những nghiên cứu sâu

về tác động của môi trƣờng số hoá đối với các đối tƣợng của quyền sở hữu trí

tuệ. Năm 1996, WIPO đã thông qua hai hiệp định là Hiệp định về Quyền tác

giả và Hiệp định về Tín hiệu ghi âm và biểu diễnvà bắt đầu có hiệu lực trong

năm 2002. Các hiệp định này có điều chỉnh những vấn đề mới nảy sinh trong

môi trƣờng Internet. Nhiều quốc gia đã chuyển tải các quy định của WIPO

vào pháp luậtquốc gia nhƣ Mỹ, châu Âu và Canada v.v...

Tám là: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Tham gia vào một giao dịch thƣơng mại điện tử trên Internet hoặc các

mạng mở khác ngƣời tiêu dùng không biết rõ các thông tin về hàng hoá, dịch

vụ đƣợc cung cấp nhƣ ngƣời bán, khả năng bị thiệt hại cao hơn, vì vậy cần có

những quy định pháp luật bảo vệ họ.

Page 50: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

44

Năm 2000, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đã ban hành

Hƣớng dẫn về Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong bối cảnh thƣơng mại điện tửvới

những nguyên tắc cơ bản sau:

- Bảo vệ minh bạch và hiệu quả;

- Phù hợp với thông lệ thị trƣờng, quảng cáo và kinh doanh trung thực;

- Cung cấp các thông tin rõ ràng về doanh nghiệp, hàng hoá, dịch vụ,

chi tiết giao dịch, quy trình xác nhận;

- Cơ chế thanh toán an toàn, dễ sử dụng và phải thông tin cho khách

hàng về mức độ an toàn của cơ chế đó;

- Có các quy định về giải quyết tranh chấp và bồi thƣờng và đƣợc bảo

vệ bí mật cá nhân.

Chín là, cơ chế giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm trong thương mại

điện tử

Cơ chế giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử đƣợc thực hiện

thông qua thƣơng lƣợng giữa các bên, bằng các phƣơng thức giải quyết tranh

chấp thay thế nhƣ hòa giải, trọng tài hoặc bằng thủ tục tƣ pháp thông qua Tòa

án. Tuy nhiên, do đặc thù của các quan hệ thƣơng mại điện tử, vì vậy, cơ chế

giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử cần phải thiết kế các phƣơng

thức đặc thù nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình giải quyết.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định rõ về một số nguyên tắc nhƣ: (i)

Thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân sở hữu website thƣơng mại điện tử bán hàng

có trách nhiệm tiếp nhận và xử lý khiếu nại của khách hàng liên quan đến hợp

đồng đƣợc giao kết trên website thƣơng mại điện tử của mình: (ii) Tranh chấp

giữa thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ với

khách hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng phải đƣợc giải quyết trên cơ

sở các điều khoản của hợp đồng công bố tại website vào thời điểm giao kết

hợp đồng và quy định của pháp luật có liên quan; (iii) Thƣơng nhân, tổ chức,

cá nhân bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ không đƣợc lợi dụng các ƣu thế

Page 51: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

45

của mình trên môi trƣờng điện tử để đơn phƣơng giải quyết những vấn đề

tranh chấp khi chƣa có sự đồng ý của khách hàng.

2.3. CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG

MẠI ĐIỆN TỬ

2.3.1.Vai trò của cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật thƣơng mại

điện tử

Các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động TMĐT không tự nó đi

vào cuộc sống mà cần có những cơ chế thực hiện bằng những hình thức phù

hợp thì các quy định mới đạt đƣợc hiệu quả thực tế.

Hoạt động TMĐT không chỉ bao gồm các cá nhân, tổ chức tham gia

mua, bán hàng hóa dịch vụ thông qua các phƣơng tiện điện tử, mà còn có bên

thứ ba là các nhà cung cấp hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin v.v...Để

các chủ thể này tuân thủ, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình

trên cơ sở quy định của pháp luật, thì rất cần sự phối hợp chặt chẽ của các chủ

thể áp dụng pháp luật khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Nếu các

cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, trong quá trình áp dụng pháp luật vận dụng

sáng tạo các quy định của pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp

luật một cách đầy đủ thì sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho những đối tƣợng chịu sự

điều chỉnh của pháp luật TMĐT tuân thủ một cách tự giác, thực hiện một cách

chủ động các quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện hay tham gia các giao

dịch TMĐT.

Mặt khác, chính các chủ thể áp dụng và thực thi pháp luật mới trực tiếp

giải quyết những mối quan hệ thực tiễn, trên cơ sở đó nắm bắt đƣợc tâm tƣ,

nguyện vọng của các cá nhân, tổ chức về những bất cập, thiếu phù hợp hoặc

lạc hậu của các quy định pháp luật để có ý kiến phản hồi góp ý cho các cơ

quan xây dựng luật nhằm điều chỉnh cho phù hợp để đảm bảo tính khả thi.

Việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đúng quy định của pháp luật của các

chủ thể nhƣ: Bao gồm các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu các Website bán

hàng, gian hàng trên Sàn giao dịch điện tử hoặc kinh doanh trên các trang

Page 52: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

46

mạng xã hội, quảng cáo trên các phƣơng tiện truyền thông nhằm mục đích

thƣơng mại, ngƣời mua hàng hóa, dịch vụ v.v... sẽ đảm bảo không chỉ quyền

lợi cho chính họ mà còn đảm bảo trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin cho các

cá nhân tổ chức tham gia TMĐT, thúc đẩy các giao dịch này phát triển. Mặt

khác, khi các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ này đƣợc thực hiện hiệu

quả sẽ tiết kiệm đƣợc nhiều chi phí xã hội, các vụ tranh chấp hay xử lý vi

phạm vốn gây tốn kém thời gian, tiền bạc và gây bức xúc đối với ngƣời dân

sẽ hạn chế hơn khi cơ chế thực hiện pháp luật không nhịp nhàng, hiệu quả.

2.3.2. Các chủ thể bảo đảm thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử

Ở Việt Nam, để thực hiện có hiệu quả vai trò quản lý nhà nƣớc trong

lĩnh vực thƣơng mại điện tử cũng nhƣ bảo đảm cho các quan hệ pháp luật

TMĐT vận hành đúng hƣớng, bảo đảm an toàn cho các giao dịch, đảm bảo

trật tự xã hội cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại

điện tử, các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật TMĐT bao gồm các

nhóm chủ thể sau:

Thứ nhất, nhóm các chủ thể quản lý nhà nước về thương mại điện tử:

a. Bộ Công thƣơng

i) Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin là tổ chức trực

thuộc Bộ Công thƣơng, thực hiện chức năng tham mƣu, giúp Bộ trƣởng quản

lý nhà nƣớc và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực hoạt động thƣơng

mại điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin v.v... Trong lĩnh vực thƣơng mại

điện tử, Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin có trách nhiệm xây

dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp

luật hƣớng dẫn về hoạt động thƣơng mại điện tử;

Trong chức năng nhiệm vụ của mình, Bộ Công thƣơng có thẩm quyền

thanh tra, kiểm tra hoạt động của các chủ thể chịu sự quản lý của pháp luật

thƣơng mại điện tử, xử lý các vi phạm nếu phát hiện trong quá trình thanh tra,

kiểm tra.

ii) Hội bảo vệ ngƣời tiêu dùng

Page 53: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

47

Là cơ quan trực thuộc Bộ Công thƣơng thực hiện việc bảo vệ quyền lợi

ngƣời tiêu dùng nói chung trong đó có ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện

tử.

Hội bảo vệ ngƣời tiêu dùng đƣợc có cơ cấu tổ chức t trung ƣơng đến

địa phƣơng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Hội trực tiếp tiếp

nhận các thông tin, phản hồi t ngƣời tiêu dùng về các vấn đề chất lƣợng hàng

hóa dịch vụ, quảng cáo sản phẩm, thanh toán trong các quan hệ pháp luật

thƣơng mại, phản ánh những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động

thƣơng mại điện tử nhƣ: L a dối khách hàng, xâm phạm quyền bảo hộ sở hữu

trí tuệ, mua bán hàng giả, hàng nhái tới các cơ quan có thẩm quyền để xử lý

theo quy định của pháp luật.

b. Bộ Thông tin truyền thông

Bộ Thông tin và truyền thông là cơ quan thuộc chính phủ thực hiện các

chức năng nhà nƣớc trên nhiều lĩnh vực trong đó có thƣơng mại điện tử. Theo

quy định của pháp luật, Bộ thông tin và truyền thông có chức năng quản lý

nhà nƣớc về hạ tầng viễn thông và truyền thông quốc gia, quản lý các hoạt

động quảng cáo trên mạng viễn thông cũng nhƣ các loại hình báo chí. Bộ

Thông tin và truyền thông còn có trách nhiệm hƣớng dẫn, tổ chức thực hiện

các quy định về bảo đảm an toàn, an ninh hạ tầng thông tin truyền thông và

ban hành các giải pháp bảo đảm an toàn hạ tầng thông tin và truyền thông.

Trong hoạt động thƣơng mại điện tử, Bộ Thông tin và truyền thông là

cơ quan cấp pháp đăng ký tên miền của các website phải đăng ký trong đó có

website thƣơng mại điện tử của bên bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cũng nhƣ

các tổ chức,cá nhân, thƣơng nhân sở hữu website cung cấp môi trƣờng cho

các chủ thể khác hoạt động thƣơng mại điện tử nhƣ sàn giao dịch điện tử, các

mạng xã hội có hoạt động thƣơng mại điện tử. Ngoài ra, Bộ Thông tin truyền

thông còn có chức năng thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin liên quan đến các hoạt động thƣơng mại điện tử.

c. Ủy ban nhân dân các cấp

Page 54: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

48

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ƣơng thực hiện

chức năng quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động thƣơng mại điện tử tại địa

phƣơng. Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trong việc tuyên truyền, phổ biến

pháp luật, chấp hành các quy định pháp luật về thƣơng mại điện tử. Tại các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, quản lý nhà nƣớc về hoạt động thƣơng

mại điện tử đƣợc giao cho Sở Công thƣơng thực hiện, cơ quan này có trách

nhiệm thanh tra, kiểm tra các hoạt động thƣơng mại điện tử trên địa bàn mình

quản lý.

Thứ hai, nhóm các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử

a. Đối với ngƣời sở hữu Website thƣơng mại điện tử bán hàng: Bao

gồm các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu các Website bán hàng, gian hàng trên

Sàn giao dịch điện tử hoặc kinh doanh trên các trang mạng xã hội, quảng cáo

trên các phƣơng tiện truyền thông nhằm mục đích thƣơng mại. Để các cá nhân

tổ chức có thể vận hành đƣợc các hoạt động mua bán hàng hóa trên các

phƣơng tiện điện tử còn có các cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao

dịch thƣơng mại điện tử.

b. Ngƣời kinh doanh bán hàng qua các phƣơng tiện điện tử:

Ngƣời kinh doanh bán hàng trong thƣơng mại điện tử là những ngƣời

có hàng hóa, dịch vụ cần trao đổi, mua bán nhằm mục đích kinh doanh đƣợc

thực hiện bằng các phƣơng tiện điện tử phổ biến nhƣ: Bán hàng qua điện

thoại, quảng cáo trên các phƣơng tiện điện tử, thực hiện một phần hay toàn bộ

nghĩa vụ thánh toán bằng phƣơng tiện điện tử nhƣ: Thanh toán bằng thẻ tín

dụng, chuyển khoản qua Ngân hàng, hoặc thanh toán qua trung gian.

Các cá nhân bán hàng qua các phƣơng tiện điện tử cũng có đầy đủ các

quyền và nghĩa vụ phát sinh trong hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ nhƣ

các chủ thể kinh doanh thƣơng mại ở các hình thức khác

c. Đối với ngƣời mua hàng trong thƣơng mại điện tử:

Là những cá nhân, tổ chức có nhu cầu mua sắm hàng hóa, dịch vụ theo

nhu cầu của mình và đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử.

Page 55: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

49

Pháp luật cũng quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của ngƣời mua hàng

trong thƣơng mại điện tử nhƣ các chủ thể khác trong thƣơng mại truyền

thống.

Thứ ba, T chức xã hội trong hoạt động thương mại điện tử

Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam (VECOM) là một tổ chức phi

Chính phủ với hội viên là các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trực tiếp kinh

doanh bằng thƣơng mại điện tử; hoặc ứng dụng thƣơng mại điện tử phục vụ

hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoặc nghiên cứu hay cung cấp các dịch vụ về

thƣơng mại điện tử. Hiệp hội hoạt động trên cơ sở tự nguyện, phi lợi nhuận,

nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết, hợp tác, hỗ trợ, bảo vệ các hội viên để phát

triển lĩnh vực thƣơng mại điện tử ở Việt Nam. Hiệp hội Thƣơng mại điện tử

Việt Nam hoạt động trong phạm vi cả nƣớc, theo pháp luật của nƣớc Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngoài việc tiến hành các hoạt động trao đổi chuyên môn về TMĐT,

Hội còn thực hiện các tuyên truyền phổ biến pháp luật đến các Hội viên, đồng

thời giúp các chủ thể tham gia hoạt động TMĐT giải quyết những khó khăn,

vƣớng mắc cũng nhƣ giải quyết các tranh chấp giữa các Hội viên. Với tƣ cách

là Tổ chức xã hội nghề nghiệp, Hiệp hội còn thống kê các số liệu, tiếp thu ý

kiến của các Hội viên để kịp thời kiến nghị tới các cơ quan quản lý nhà nƣớc

trong lĩnh vực TMĐT để điều chỉnh các chính sách liên quan một cách hữu

hiệu.

Nhƣ vậy, trong cơ chế thực hiện pháp luật TMĐT, các cơ quan quản lý

nhà nƣớc phải xây dựng đƣợc cơ chế phối hợp chặt chẽ, hoạt động chủ động

và sáng tạo khi vận dụng pháp luật để thực hiện chức năng nhiệm vụ của

mình thì mới đảm bảo hiệu quả, mới đƣa các quy định của pháp luật TMĐT

vào thực tiễn cuộc sống.

Thứ tư, các cơ quan giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm

Khi các hoạt động thƣơng mại điện tử có phát sinh tranh chấp, việc giải

quyết tranh chấp của các chủ thể sẽ đƣợc giải quyết bằng hình thức khiếu nại

Page 56: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

50

trực tiếp để giải quyết các tranh chấp trên các phƣơng tiện điện tử có kết nối

internet, mạng viễn thông di động hay các mạng mở khác. Nếu các bên không

thể giải quyết đƣợc các tranh chấp thì có thể lựa chọn các biện pháp khác

nhƣ:Trọng tài thƣơng mại,Tòa án nhân dân các cấp để giải quyết theo thủ tục

tố tụng. Tuy nhiên, thời gian để giải quyết các vụ án kinh doanh thƣơng mại

sẽ kéo dài, nhiều thủ tục phức tạp nên không đƣợc nhiều chủ thể lựa chọn.

Mặt khác, giá trị của các giao dịch thƣơng mại điện tử thƣờng không có giá trị

lớn nên các cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân thƣờng ít chọn biện pháp giải

quyết này.

Trong trƣờng hợp phải xử lý hình sự thì các cơ quan tiến hành tố tụng

nhƣ: Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân sẽ tiến

hành khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật.

Hiện nay, cơ chế phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực thƣơng mại điện tử chủ yếu là tố táo tội phạm của các cá nhân, tổ chức,

thƣơng nhân bị thiệt hại do các hành vi của tội phạm gửi tới cơ quan chức

năng. Việc tố giác gần nhƣ không xảy ra vì nếu không tham gia các hoạt động

thƣơng mại điện tử thì các các nhân, tổ chức không thể phát hiện. Các cơ

quan chức năng chƣa tự mình phát hiện đƣợc hầu hết các vi phạm hay tội

phạm, do vậy công tác xử lý vi phạm hay xử lý hình sự chƣa đáp ứng đƣợc

các yêu cầu của thực tiễn.

2.4. NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA - KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI

VIỆT NAM

2.4.1. Pháp luật quốc tế về thƣơng mại điện tử

Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ký kết một số Điều ƣớc

quốc tế nhƣ TPP, đang quan tâm để tham gia Công ƣớc về giao dịch điện tử

của Liêp hợp quốc năm (Công ƣớc 2005). Trên thực tế, khi xây dựng khung

pháp luật về TMĐT, Việt Nam đã tiếp thu các nguyên tắc, nội dung cơ bản

của Luật Mẫu về thƣơng mại điện tử cũng nhƣ Luật Mẫu về chữ ký điện tử,

Page 57: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

51

cả hai Luật Mẫu này đều do Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thƣơng mại quốc

tế (UNCITRAL) ban hành.

a) Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans – Pacific Strategic

Economic Partnership Agreement - TPP)

Với mục tiêu thiết lập một khu vực tự do mậu dịch và thắt chặt hơn mối

quan hệ kinh tế giữa các quốc gia tham gia, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế cho

các quốc gia thành viên, Hiệp đinh Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (Trans –

Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - TPP) đã đƣợc các thành

viên tham gia Hiệp định ký kết vào ngày 4/2/2016 tại Auckland, Niu Di-lân

gồm 12 quốc gia thành viên.Hiệp định TPP gồm 30 chƣơng, đề cập đến nhiều

lĩnh vực trong đó có thƣơng mại điện tử. Trong Hiệp định, các vấn đề pháp lý

về TMĐT đƣợc quy định tại chƣơng 14 với 18 điều ( T 14.1- 14.18), nội

dung của phần quy định về vấn đề pháp lý đối với các hoạt động TMĐT gồm:

- Ghi nhận và tôn trọng quyền tự do, tự nguyện lựa chọn phƣơng tiện

điện tử để thực hiện các hành vi thƣơng mại trên cơ sở đƣợc truy cập,

kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông, các mạng mở khác.

- Th a nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử cũng

nhƣ các quy định về chứng thực chữ ký điện tử, quy định các điều kiện

để đảm bảo giá trị của việc chứng thực chữ ký điện tử.

- Không phân biệt đối xử đối với sản phẩm số.Vấn đề thƣơng mại phi

giấy tờ.

- Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử (Khách hàng trên

mạng) và quy định về tin nhắn thƣơng mại không mong muốn (Tin

nhắn rác).

Điểm nhấn của Hiệp định TPP về pháp luật thƣơng mại điện tử đó là:

“ Mỗi bên phải duy trì khung pháp lý kiểm soát các giao dịch điện tử

sao cho phù hợp với các nguyên tắc của Luật Mẫu về thương mại điện

tử năm 1996 của UNCITRAL ho c Công ước Liên hiệp quốc về sử

Page 58: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

52

dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế ký kết tại New York

ngày 23/11/2005“và:

“Mỗi bên phải phấn đấu tránh đ t ra những trách nhiệm pháp lý không

c n thiết đối với các giao dịch điện tử và tạo điều kiện thuận lợi cho

các cá nhân quan tâm tham gia vào việc xây dựng khung pháp lý của

mình đối với các hoạt động giao dịch điện tử”

Và một vấn đề quan trọng khác là giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực

thƣơng mại điện tử đó là hợp tác và giải quyết tranh chấp cũng đƣợc quy định

trong chƣơng 14 của Hiệp định này.

b) Công ước Liên hợp quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp

đồng quốc tế

Với mục đích áp dụng một cách thống nhất và hài hòa trong các giao

dịch thƣơng mại điện tử của các quốc gia thành viên, Công ƣớc Liên hợp

quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế (Công ƣớc

TMĐT) đƣợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 23/11/2005 tại

New York, Hoa Kỳ, Công ƣớc này mới có hiệu lực kể t ngày 1/3/2013 khi

có 3 nƣớc phê chuẩn là Dominican, Honduras và Singapore. Hiện nay Công

ƣớc này đã đƣợc 18 quốc gia tham gia ký kết và một quốc gia gia nhập.Công

ƣớc 2005 về TMĐT bao gồm 4 chƣơng và 25 điều quy định về việc sử dụng

thông tin điện tử trong hợp đồng quốc tế, công nhận giá trị pháp lý cho hợp

đồng điện tử, các yêu cầu về hình thức, thời gian và địa điểm liên quan đến

chứng t điện tử, lời đề nghị giao kết hợp đồng hay sử dụng hệ thống thông

tin tự động hay tình huống lỗi nhập thông tin.

Hiện nay Việt Nam chƣa ký kết hay gia nhập Công ƣớc Liên hiệp quốc

về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế ngày 23/11/2005

nhằm ràng buộc các trách nhiệm pháp lý trong hệ thống pháp luật củamình

trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, tuy nhiên việc gia nhập sẽ giúp Việt Nam

tiếp cận các chuẩn mực pháp lý quốc tế cũng nhƣ hội nhập sâu rộng vào nền

kinh tế thế giới.

Page 59: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

53

c) Luật Mẫu về thương mại điện tử

Để hạn chế các xung đột khi các cá nhân tổ chức ở các quốc gia khác

nhau thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa dịch vụ, Ủy ban Liên hợp

quốc về Luật thƣơng mại quốc tế (UNCITRAL) đã ban hành Luật Mẫu về

thƣơng mại điện tử ngày 12/6/1996 (Sửa đổi năm 1998) với hai phần gồm 17

điều. Luật mẫu đƣợc soạn thảo dựa trên các nguyên tắc cơ bản nhƣ:

- Tƣơng đƣơng thuộc tính, hay công nhận giá trị pháp lý nhƣ văn bản.

- Tự do thoả thuận hợp đồng.

- Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phƣơng thức truyền thông điện tử.

- Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng.

- Xác định thời điểm, nơi gửi và nhận thông điệp dữ liệu.

- Giá trị pháp lý của hợp đồng và tính ƣu việt của những quy định pháp

lý về hình thức hợp đồng: những đòi hỏi đối với hợp đồng để có giá trị

pháp lý và khả năng đƣợc thi hành phải đƣợc tôn trọng.

Việc xây dựng, ban hành Luật Mẫu về thƣơng mại điên tử đƣợc nhiều

Quốc gia thành viên tiếp thu những nguyên tắc, nội dung cơ bản để xây dựng

pháp luật về thƣơng mại điện tử cho riêng mình.

d) Luật Mẫu về chữ ký điện tử

Để bảo đảm an toàn cho các giao dịch điện tử, việc xây dựng Luật Mẫu

về chữ ký điện tử đã đƣợc Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thƣơng mại quốc tế

(UNCITRAL) ban hành ngày 5 tháng 7 năm 2001 nhằm mục đích khuyến

nghị các quốc gia thành viên xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật liên

quan đến sử dụng chữ ký điện tử một cách thống nhất hoặc ít có khác biệt.

Luật Mẫu về chữ ký điện tử với 12 điều, với các nguyên tắc cơ bản

nhƣ: Nguyên tắc tƣơng đƣơng chức năng, nguyên tắc không phân biệt và

trung lập về công nghệ. Ngoài các nguyên tắc, Luật Mẫu về chữ ký điện tử

còn quy định một số nội dung cơ bản nhƣ sau:

- Công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử.

- Những điều kiện để chữ ký điện tử đảm bảo độ an toàn và tin cậy v.v...

Page 60: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

54

Việc xây dựng Luật Mẫu về chữ ký điện tử đã đƣa ra các quy định về

tiêu chuẩn kỹ thuật và các điều kiện đảm bảo giá trị hiệu lực của chữ ký điện

tử. Hiện nay, nhiều quốc gia thành viên đã tiếp thu những nguyên tắc và nội

dung cơ bản của Luật Mẫu về chữ ký điện tử trong pháp luật của mình.

2.4.2.Pháp luật về thƣơng mại điện tử ở m t số quốc gia

a. Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là nƣớc đi đầu trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, tháng 7 năm

1999, Hiệp hội các thanh tra viên về pháp luật các tiểu bang Hoa Kỳ đã thông

qua Luật mẫu về các giao dịch điện tử và gửi cho các cơ quan lập pháp ở t ng

bang để thông qua và ban hành dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản là: (i) Các bên

đƣợc tự do xác lập quan hệ hợp đồng với nhau khi thấy phù hợp; (ii) Các quy

định phải có tính chất trung lập về mặt công nghệ và phải có tính mở cho

tƣơng lai, có nghĩa là không đƣợc quy định về một loại công nghệ cụ thể nào

đó và không đƣợc hạn chế việc sử dụng hay phát triển của các công nghệ

tƣơng lai; (iii) Các quy định hiện hành cần đƣợc sửa đổi, bổ sung và ban hành

mới trong trƣờng hợp cần thiết để hỗ trợ cho việc sử dụng công nghệ điện tử;

(iv) Các quy định phải công bằng cho cả các doanh nghiệp đã áp dụng rộng

rãi các công nghệ mới và các doanh nghiệp còn chƣa áp dụng.

Nhằm tạo lập một khung pháp lý thống nhất cho giao dịch thƣơng mại

điện tử ở Hoa Kỳ. Ngày 30/6/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký Luật

Thƣơng mại quốc gia và quốc tế về chứ ký điện tử. E-Sign th a nhận chữ ký

điện tử có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng giá trị chữ ký truyền thống trong ký kết

hợp đồng và không thể bị phủ nhận hay t chối chỉ vì lý do đó là chữ ký điện

tử. Luật E-Sign của Hoa Kỳ ra đời đã đánh dấu một mốc quan trọng về mặt

pháp lý cho các giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng.

Riêng đối với doanh nghiệp Hoa Kỳ, E-Sign đƣợc ban hành đã tạo môi trƣờng

pháp lý cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ sử dụng chữ ký số hoá trong các giao

dịch điện tử. Luật thống nhất về Giao dịch điện tửlà một văn bản ngắn gọn,

quy định về sự công nhận giá trị pháp lý của các dữ liệu điện tử, chữ ký điện

Page 61: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

55

tử và các văn bản điện tử khác. Văn bản này không quy định bất kỳ ƣu thế

nào cho bất kỳ một phƣơng thức hay công nghệ nào.Luật mẫu về các giao

dịch điện tử là một văn bản có tính linh hoạt cao có thể tồn tại lâu dài và là cơ

sở pháp lý phù hợp cho các giao dịch thƣơng dịch điện tử trong suốt một giai

đoạn dài.

b. Canada

Để tạo một môi trƣờng pháp lý hoàn chỉnh cho các giao dịch thƣơng

mại điện tử, Chính phủ Canada đã tiến hành rà soát, sửa đổi các văn bản hiện

hành đồng thời ban hành các văn bản mới liên quan đến thƣơng mại điện tử

nhƣ luật về chữ ký điện tử, chứng cứ điện tử v.v... Luật về Chữ ký điện tử của

Canada cho phép các cơ quan liên bang quyền quyết định các yêu cầu của

pháp luật hiện hành về hình thức giao dịch có thể đƣợc thoả mãn bằng các

phƣơng tiện điện tử nhƣ thế nào. Chữ ký điện tử có thể đƣợc sử dụng trong

các giao dịch thƣơng mại điện tử. Vấn đề đặt ra là phải xác định đƣợc mối

liên hệ giữa chữ ký điện tử với ngƣời ký tài liệu điện tử.

Hiện nay, Canada đã có các quy định pháp luật về thu thập, sử dụng và

tiết lộ thông tin về cá nhân do các cơ quan nhà nƣớc quản lý. Luật bí mật cá nhân

liên bang có hiệu lực t năm 1982, đƣợc áp dụng đối với tất cả các cơ quan nhà

nƣớc cấp liên bang và một số doanh nghiệp có quy mô liên bang [110]. Gần đây,

Canada đã ban hành Luật Bảo vệ thông tin cá nhân và tài liệu điện tử.Đây là một

bƣớc tiến mới trong việc bảo vệ thông tin cá nhân. Ngoài ra các cơ quan nhà

nƣớc còn phải tuân thủ luật về quyền riêng tƣ (the Privacy Act).

Về vấn đề thuế, hiện nay Canada đang cùng một số thành viên khác của

OECD phát triển chiến lƣợc quốc tế trong đó có các hiệp ƣớc về thuế đối với

thƣơng mại điện tử, hƣớng dẫn xử lý việc chuyển giá, về việc áp dụng thuế

tiêu thụ và về hàng rào thuế quan cửa khẩu.

c. Hàn Quốc

Ở Hàn Quốc, ngay t năm 1999, Chính phủ đã xây dựng “Đạo luật cơ

bản về thƣơng mại điện tử”và chuẩn bị một loạt các đạo luật liên quan đến

Page 62: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

56

thƣơng mại điện tử, liên tục nâng cao khuôn khổ pháp lý thƣơng mại điện tử

bằng cách chỉnh sửa luật hiện hành, ban hành luật mới. Các đạo luật chính đã

đƣợc ban hành bao gồm:Luật khung về thƣơng mại điện tử đƣợc ban hành

năm 1999, sửa đổi năm 2002, 2005 đã tạo khung pháp lý trụ cột vững chắc

cho các bộ luật khác về thƣơng mại điện tử ở Hàn Quốc. Luật Bảo vệ ngƣời

tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử đƣợc ban hành năm 2002 và sửa đổi năm

2005. Luật Chữ ký điện tử đƣợc ban hành năm 1998, sửa đổi năm 2001, 2005.

Luật Phát triển ngành đào tạo điện tử đƣợc ban hành năm 2004. Luật Phát

triển ứng dụng mạng công nghệ thông tin và truyền thông và bảo vệ thông tin

đƣợc ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2002, 2004 và 2005.

Bên cạnh đó là một số đạo luật khác nhƣ: Luật Kinh doanh tài chính về

tín dụng; Luật Khuyến khích ngành nội dung số trực tuyến; Luật Sản phẩm

trò chơi, sản phẩm hình ảnh và âm thanh; Luật về các nguồn địa chỉ Internet;

Luật Bản quyền; Luật Chính phủ điện tử; Luật Bảo vệ chƣơng trình máy tính;

Luật Hóa đơn điện tử cũng đƣợc ban hành nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động

thƣơng mại điện tử.

d. Singapore

Năm 1998, Singapore cho ban hành Luật Giao dịch điện tử (Electronic

Transaction Act 1998) nhằm mục đích giải quyết vƣớng mắc, khó khăn về

mặt pháp lý khi các chủ thể tham gia vào các giao dịch trong một môi trƣờng

phi giấy tờ và không tiếp xúc trực tiếp với nhau.

Nguyên tắc cơ bản để xây dựng Luật Giao dịch điện tử là nhằm: Tuân

theo các tiêu chuẩn quốc tế và mô hình quốc tế để có thể hoà nhập với khung

pháp luật thƣơng mại điện tử toàn cầu; tránh các quy định quá chặt chẽ; linh

hoạt và trung lập về mặt công nghệ để theo kịp môi trƣờng luôn thay đổi; quy

định rõ ràng, minh bạch và có khả năng tiên liệu trƣớc. Mục tiêu của đạo luật

là thiết lập một quy tắc thực hành (Code of Conduct) chung để hỗ trợ cho các

giao dịch thƣơng mại điện tử; xây dựng cơ sở hạ tầng về công chứng; cho

phép nộp đơn, hồ sơ và cấp phép điện tử ở các cơ quan quản lý nhà nƣớc;

Page 63: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

57

đồng thời, làm rõ trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ mạng đối với nội

dung thông tin của bên thứ ba.

Luật Giao dịch điện tử của Singapore [111] đã đƣa ra những quy tắc

thƣơng mại nhằm làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong một

giao dịch thƣơng mại điện tử. Những quy tắc nằm trong đạo luật này mang

các tính chất đặc trƣng của những quy định mẫu quốc tế, đặc biệt là các quy

định của Luật mẫu UNCITRAL về thƣơng mại điện tử. Quy tắc thực hành

chung trong Luật Giao dịch điện tử của Singapore cũng chứa đựng các điều

khoản điều chỉnh việc ký kết hợp đồng qua các phƣơng tiện điện tử thông qua

việc quy định về thời gian, địa điểm gửi và nhận thông tin điện tử.

Đạo luật này còn quy định về giá trị pháp lý của các bản ghi và chữ ký

điện tử, cùng với độ an toàn của chúng. Mặt khác, để hỗ trợ cho việc sử dụng

chữ ký điện tử, một cơ sở hạ tầng về công chứng đã đƣợc xây dựng. Theo đó,

cơ quan công chứng sẽ xác nhận một mã khoá chứng thực có mối liên hệ với

một cá nhân nhất định. Một cơ quan công chứng có thể xác minh về một cá

nhân nào đó trƣớc khi cấp một chứng thực dƣới dạng giấy chứng nhận kỹ

thuật số. Giấy chứng nhận này có thể dùng để xác minh chữ ký của cá nhân

đó. Luật Giao dịch điện tử của Singapore đã tạo một môi trƣờng pháp lý khá

phù hợp cho thƣơng mại điện tử và các giao dịch điện tử khác. Đạo luật này

đã xoá bỏ đƣợc những trở ngại trong các quy định pháp luật hiện hành và tạo

đƣợc lòng tin cho các doanh nghiệp, cá nhân khi tham gia vào thƣơng mại

điện tử.

2.4.3. Kinh nghiệm pháp luật về thƣơng mại điện tử quốc tế và m t

số quốc gia trên thế giới đối với Việt Nam

Nhìn chung, pháp luật của nhiều quốc gia đã thể hiện các nguyên tắc,

nội dung Luật mẫu về thƣơng mại điện tử của UNCITRAL vào hệ thống pháp

luật quốc gia của mình và pháp luật về thƣơng mại điện tử đều phải quan tâm

điều chỉnh các vấn đề cơ bản nhƣ sau: Th a nhận tài liệu điện tử có giá trị

pháp lý nhƣ tài liệu ở dạng văn bản nếu thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật nhất

Page 64: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

58

định; tôn trọng nguyên tắc tự do thoả thuận hợp đồng; tôn trọng việc sử dụng

tự nguyện phƣơng thức truyền thông điện tử; đảm bảo tính hợp pháp của hợp

đồng trong môi trƣờng số; Luật chỉ áp dụng đối với hình thức hợp đồng, mà

không đề cập nội dung; pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng đƣợc xây dựng

trên nguyên tắc bảo vệ bên yếu thế trong hợp đồng thƣơng mại điện tử.

Qua nghiên cứu cho thấy, năm vấn đề pháp lý về thƣơng mại điện tử

đều đã đƣợcghi nhận và quy định trong pháp luật về thƣơng mại điện tử của

Việt Nam, bao gồm:

(i)Quy định rõ các vấn đề pháp lý đối với các nội dung giao dịch

thƣơng mại qua các phƣơng tiện điện tử;

(ii) Quy định kỹ thuật về chữ ký điện tử nhằm bảo đảm tính xác thực,

toàn vẹn, bảo mật của thông tin đƣợc trao đổi trong thƣơng mại điện tử;

(iii) Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện tử;

(iv) Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử;

(v)Ngăn ng a vi phạm và tội phạm trong thƣơng mại điện tử.

Ngoài ra, pháp luật về thƣơng mại điện tử cũng quan tâm đến cơ chế

giải quyết tranh chấp phát sinh trong thƣơng mại điện tử. Đối với các quy

định này, pháp luật Việt Nam cũng đã gây dựng đƣợc cơ chế giải quyết tƣơng

đối phù hợp với điều kiện của mình nhằm nhanh chóng giải quyết các tranh

chấp phát sinh.

Có thể nói, Việt Nam đã tiếp thu những khuyến cáo, quy định hợp lý

của Luật mẫu về thƣơng mại điện tử của UNCITRAL cũng nhƣ các quy định

về thƣơng mại điện tử của các quốc gia thành viên WTO để xây dựng pháp

luật thƣơng mại điện tử của mình trên phƣơng châm hội nhập quốc tế sâu

rộng trên mọi lĩnh vực.

Thƣơng mại điện tử là phƣơng thức mới trong hoạt động thƣơng mại

toàn cầu, áp dụng thƣơng mại điện tử đã và đang là sự lựa chọn tất yếu của

nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thƣơng mại

điện tử đang đặt ra nhiều thách thức trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực

Page 65: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

59

pháp lý, bảo đảm sự tin cậy cần thiết cho quá trình hội nhập và phát triển ở

nƣớc ta. Bởi vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu, để thƣơng mại

điện tử của chúng ta phát triển mạnh mẽ và bền vững, cần thiết phải tham

khảo kinh nghiệm pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về vấn

đề này, t đó, đƣa ra các yêu cầu và định hƣớng hoàn thiện pháp luật về

thƣơng mại điện tử ở Việt Nam.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về thƣơng mại điện tử đã tìm ra

những đặc điểm, khái niệm cơ bản có ý nghĩa khi nghiên cứu về pháp luật

thƣơng mại điện tử. Trên cơ sở các đặc điểm, khái niệm của thƣơng mại điện

tử sẽ xác định đƣợc đối tƣợng điều chỉnh, cơ chế điều chỉnh, khái niệm, đặc

điểm, của pháp luật thƣơng mại điện tử. Việc nghiên cứu các nguyên tắc, nội

dung của cơ chế thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử, các chủ thể tham gia

quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử và cơ chế giải quyết tranh chấp đã xây

dựng đƣợc những luận điểm để đánh giá thực trạng pháp luật thƣơng mại điện

tử nhằm đƣa ra các kiến nghị phù hợp trong vệc hoàn thiện pháp luật thƣơng

mại điện tử. Nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của các nƣớc trên thế giới cho

thấy, để thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển, bên cạnh việc cung ứng hiệu

quả các dịch vụ điện tử, thì Nhà nƣớc phải xây dựng một hệ thống pháp luật

đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ thƣơng mại điện tử.

Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong việc xậy dựng pháp luật

thƣơng mại điện tử có ý nghĩa rất quan trọng đối với Việt Nam.

Pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc ra đời do nhu cầu điều chỉnh pháp

luật đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong các quan hệ pháp luật thƣơng

mại đƣợc thực hiện bằng các phƣơng tiện điện tử có kết nối Internet, mạng

viễn thông và các mạng mở khác. Pháp luật của nhiều quốc gia về thƣơng mại

điện tử đều có sự tiếp thu t các điều ƣớc quốc tế và tài liệu tham khảo nhƣ

Luật Mẫu của tổ chức quốc tế và có sự vận dụng để điều chỉnh phù hợp với

điều kiện, hoàn cảnh phát triển ở t ng quốc gia. Đối tƣợng và phạm vi điều

Page 66: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

60

chỉnh của pháp luật thƣơng mại điện tử là các quan hệ thƣơng mại trên các

phƣơng tiện điện tử, các vấn đề liên quan mà pháp luật thƣơng mại truyền

thống không đề cập, bởi vậy, cơ chế điều chỉnh và nội dung pháp luật về

thƣơng mại điện tử có những đặc trƣng riêng. Điều này thể hiện pháp luật

phải bảo đảm tính an toàn, hợp pháp và minh bạch trong hoạt động thƣơng

mại điện tử; th a nhận các thông điệp nội dung giao dịch thƣơng mại qua các

phƣơng tiện điện tử; th a nhận chữ ký điện tử nhằm bảo đảm tính xác thực,

toàn vẹn, bảo mật của thông tin đƣợc trao đổi; quy định cụ thể các vấn đề có

liên quan đến việc giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử; bảo hộ quyền sở

hữu trí tuệ và bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử; quy định cơ

chế giải quyết tranh chấp và việc xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động

thƣơng mại điện tử..

Page 67: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

61

CHƢƠNG 3

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA

3.1. KHUNG PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT

NAM

Trƣớc năm 2000, thƣơng mại điện tử còn là thuật ngữ pháp lý mới.Hệ

thống pháp luật Việt Nam có quy định nhƣng chƣa thể hiện đƣợc bản chất và

tầm quan trọng của thƣơng mại điện tử. Luật Thƣơng mại năm 1997 nhắc tới

hình thức hợp đồng bằng phƣơng tiện điện tử nhƣ fax, telex, thƣ điện tử và

coi chúng là văn bản (Điều 49). Quy định này chỉ mang tính hình thức và

chƣa cụ thể hoá các khía cạnh kỹ thuật đủ cho việc áp dụng một cách có hiệu

quả. Trong một số vụ án kinh tế liên quan tới giá trị chứng cứ của thƣ điện tử,

bản fax trong giao dịch hợp đồng, nhƣng các quy định pháp lý chƣa đủ để giải

quyết.

Trong giai đoạn 2000 - 2003, một số văn bản pháp lý chuyên ngành đã

có những quy định khá cụ thể về giao dịch điện tử nhƣ: Bộ luật Hình sự năm

1999, Luật Hải quan năm 2001, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, những văn

bản dƣới luật trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Tuy nhiên, do nhận thức

chƣa toàn diện về thƣơng mại điện tử, các chế định pháp lý trên còn thiếu dẫn

tới việc khó áp dụng trên thực tiễn.

Nhìn chung, những văn bản đƣợc coi là quan trọng nhất nhằm hình

thành khung khổ pháp lý đầy đủ cho ứng dụng và phát triển thƣơng mại điện

tử đều đƣợc khởi động xây dựng trong năm 2004 và đƣợc ban hành trong năm

2005, tạo cơ sở hình thành các văn bản pháp lý chi tiết hơn về những vấn đề

nhƣ bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, thông tin cá nhân

trong thƣơng mại điện tử, cơ chế điều chỉnh các hình thức ứng dụng thƣơng

mại điện tử cụ thể, cơ chế xác định chứng cứ và giải quyết tranh chấp. Cho

Page 68: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

62

đến nay, khung pháp lý cho hoạt động thƣơng mại điện tử đã đƣợc hình thành

tƣơng đối đầy đủ với hệ thống các văn bản pháp luật khá toàn diện, phúc đáp

các yêu cầu về mặt pháp lý đối với việc phát triển thƣơng mại điện tử ở Việt

Nam.

Hai văn bản cốt lõi nhất điều chỉnh hoạt động thƣơng mại là Bộ luật

Dân sự và Luật Thƣơng mại đã th a nhận giá trị pháp lý của giao dịch điện tử

thông qua việc th a nhận thông điệp dữ liệu – hình thức biểu hiện cụ thể của

giao dịch điện tử. Bên cạnh Bộ luật Dân sự và Luật Thƣơng mại, ngƣời tham

gia thƣơng mại điện tử còn phải tuân thủ quy định khác liên quan tới hoạt

động kinh doanh, thƣơng mại nhƣ Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng,

Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Quảng cáo, v.v... Những văn bản luật này cũng dành

một số điều cụ thể quy định về giao dịch điện tử.

Khung pháp lý cho giao dịch điện tử nói chung và thƣơng mại điện tử

nói riêng đƣợc hình thành với hai trụ cột chính là Luật Giao dịch điện tử 2005

và Luật Công nghệ thông tin 2006, tám nghị định hƣớng dẫn Luật Giao dịch

điện tử và các Luật có liên quan, cùng một loạt thông tƣ quy định chi tiết

những khía cạnh cụ thể của giao dịch điện tử trong t ng lĩnh vực ứng dụng

đặc thù. Luật Giao dịch điện tử 2005 đặt nền tảng pháp lý cơ bản cho các giao

dịch điện tử trong xã hội bằng việc th a nhận giá trị pháp lý của thông điệp

dữ liệu, đồng thời quy định khá chi tiết về chữ ký điện tử, một yếu tố đảm bảo

độ tin cậy của thông điệp dữ liệu khi tiến hành giao dịch. Nếu Luật Giao dịch

điện tử tập trung điều chỉnh các khía cạnh pháp lý của giao dịch điện tử, thì

Luật Công nghệ thông tin chủ yếu quy định về hoạt động ứng dụng và phát

triển công nghệ thông tin cùng những biện pháp bảo đảm về mặt chính sách

và hạ tầng cho các hoạt động này.

Trong số năm nghị định hƣớng dẫn Luật Giao dịch điện tử, có ba nghị

định tập trung điều chỉnh về thông điệp dữ liệu trong các lĩnh vực kinh tế đặc

thù là thƣơng mại, tài chính và ngân hàng. Nghị định về Thƣơng mại điện tử

tiếp tục đƣợc chi tiết hóa bằng hai thông tƣ, trong đó một thông tƣ hƣớng dẫn

Page 69: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

63

về việc cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện

tử, một thông tƣ quy định về quản lý hoạt động của các website thƣơng mại

điện tử bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Hai nghị định hƣớng dẫn về giao

dịch điện tử trong hoạt động tài chính và ngân hàng cũng đƣợc cụ thể hóa

bằng một loạt thông tƣ để điểu chỉnh t ng nghiệp vụ đặc thù nhƣ chứng

khoán, thuế, kho bạc, hóa đơn, thanh toán điện tử liên ngân hàng v.v…

Khác với ba nghị định nói trên, Nghị định về chữ ký số số

26/2007/NĐ- CP ngày 15/2/2007 và dịch vụ chứng thực chữ ký số có tính kỹ

thuật cao hơn và bao gồm những quy phạm pháp luật khá cụ thể, đặt nền tảng

cho việc triển khai dịch vụ chứng thực chữ ký số - giải pháp công nghệ phổ

biến nhất hiện nay để đảm bảo tính pháp lý của thông điệp dữ liệu trong các

giao dịch kinh tế, thƣơng mại và dân sự. Tƣơng tự, Nghị định về chống thƣ

rác số 77/2012/NĐ- CP ngày 5/10/2012 cũng điều chỉnh khá chi tiết một hoạt

động cụ thể của ứng dụng công nghệ thông tin và thƣơng mại điện tử là việc

gửi thƣ điện tử và tin nhắn với số lƣợng lớn, bao gồm cả thƣ điện tử và tin

nhắn quảng cáo. Bên cạnh các văn bản thuộc hệ thống Luật Giao dịch điện tử,

hoạt động thƣơng mại điện tử còn chịu sự điều chỉnh của Luật Công nghệ

thông tin cùng những văn bản hƣớng dẫn thi hành.

Để xử lý vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, ngày 15/11/2013

Chính phủ ban hành Nghị định số 185/2013/NNĐ-CP quy định về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực thƣơng mại, sản xuất,buôn bán hàng giả,

hàng cấm và bảo vệ ngƣời tiêu dùng.

Có thể nói, theo các yêu cầu bảo đảm về mặt pháp lý đối với việc phát

triển thƣơng mại điện tử, các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng

mại điện tử đƣợc Nhà nƣớc ta ban hành trong những năm qua đang dần đƣợc

đáp ứng. Pháp luật Việt Nam đã ghi nhận các hoạt động kinh doanh, thƣơng

mại trên các phƣơng tiện điện tử, quy định kinh doanh dịch vụ thƣơng mại

điện tử là một ngành, nghề kinh doanh;th a nhận giá trị pháp lý của chứng t

điện tử; các quy định về thuế nhƣ hƣớng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực

Page 70: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

64

thuế, công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng về giao dịch điện tử

trong hoạt động Hải quan; quy định về vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng khi

tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử nhƣ trong giao dịch thƣơng mại truyền

thống.

Các văn bản liên quan đến vấn đề bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng

mại điện tử thời gian qua chủ yếu tập trung vào 2 khía cạnh đặc thù là bảo vệ

thông tin cá nhân của ngƣời tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng

trong quá trình giao kết hợp đồng trên Website thƣơng mại điện tử. Bảo vệ

thông tin cá nhân của ngƣời tiêu dùng bao gồm vấn đề quản lý và sử dụng

thông tin cá nhân trong thƣơng mại điện tử, chống thƣ rác và quản lý thƣ

quảng cáo thƣơng mại, xử lý tội phạm về thông tin cá nhân. Còn bảo vệ ngƣời

tiêu dùng trong quá trình giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện tử

chủ yếu đƣợc giải quyết thông qua các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông

tin và quy trình giao kết hợp đồng trên môi trƣờng điện tử, nhằm thu hẹp

khoảng cách về bất bình đẳng thông tin đối với ngƣời tiêu dùng và nâng cao

tính minh bạch của môi trƣờng thƣơng mại điện tử.

Nhằm tạo lập môi trƣờng pháp lý an toàn và ổn định cho các hoạt động

thƣơng mại điện tử, Nhà nƣớc cũng đã có các quy định cụ thể về quản lý

website thƣơng mại điện tử, trong đó quy định về đăng ký, quản lý website

thƣơng mại điện tử trên cơ sở tạo lập môi trƣờng kinh doanh minh bạch, cạnh

tranh, bảo đảm an toàn thông tin trong giao dịch thƣơng mại điện tửv.v...; các

quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong thƣơng mại điện tử (trong đó có

các quy định về xử lý vi phạm hành chính và phòng chống tội phạm trong lĩnh

vực này). Ngoài ra, trong thời gian qua. Các văn bản pháp luật về sở hữu trí

tuệ phù hợp thông lệ quốc tế và tạo thuận lợi cho sự phát triển của thƣơng mại

điện tử; các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật khuyến khích các hoạt

động kinh doanh dịch vụ trực tuyến và các mô hình thanh toán trực tuyến.

Page 71: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

65

3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC NỘI DUNG CỦA PHÁP

LUẬT VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

3.2.1. Thực trạng thực hiện các nguyên tắc của pháp luật thƣơng

mại điện tử

Để đảm bảo sự hài hòa và thống nhất khi xây dựng pháp luật của các

quốc gia thành viên trong hoạt động thƣơng mại điện tử, Ủy ban Liên Hợp

quốc về thƣơng mại quốc tế đã ban hành Luật Mẫu về thƣơng mại điện tử

năm 1996 (Sửa đổi năm 1998) và Luật Mẫu về chữ ký điện tử năm 2001 với

các nguyên tắc và những nội dung cơ bản làm nền tảng để các thành viên

tham khảo khi xây dựng khung pháp luật điều chỉnh hoạt động TMĐT của

quốc gia mình. Với tƣ cách là thành viên của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới,

khi xây dựng pháp luật về thƣơng mại điện tử, Việt Nam đã tiếp thu gần nhƣ

đầy đủ các nguyên tắc cơ bản, các nguyên tắc này đƣợc thể hiện trong các đạo

luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử. Việc tiếp thu các nguyên tắc cơ

bản của Luật Mẫu về thƣơng mại điện tử đã cho thấy Việt Nam đang hội nhập

sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cũng nhƣ tiếp cận các chuẩn mực quốc tế

một cách tích cực. Việc quy định các nguyên tắc cơ bản trong các đạo luật,

văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong

hoạt động thƣơng mại điện tử là cần thiết và quan trọng, làm nền tảng cho

việc thực hiện các nội dung cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử.

Trong Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013về thƣơng mại

điện tử (Nghị định số 52/2013/NĐ-CP) quy định một số nguyên tắc hoạt động

thƣơng mại điện tử gồm:

a) Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận

Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sựnăm 2015 quy định về nguyên tắc tự do,

tự nguyện cam kết, thoả thuận, theo đó, “cá nhân, pháp nhân xác lập, thực

hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện

cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của

luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải

Page 72: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

66

đƣợc chủ thể khác tôn trọng”. Điều 11 Luật Thƣơng mại cũng quy định về

nguyên tắc này nhƣ sau: “Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với

các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập

các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thƣơng mại. Nhà nƣớc tôn

trọng và bảo hộ các quyền đó. Trong hoạt động thƣơng mại, các bên hoàn

toàn tự nguyện, không bên nào đƣợc thực hiện hành vi áp đặt, cƣỡng ép, đe

dọa, ngăn cản bên nào. Khoản 1 Điều 26 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP quy

định về các nguyên tắc hoạt động thƣơng mại điện tử cũng quy định: “Các

chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử có quyền tự do thỏa thuận

không trái với quy định của pháp luật để xác lập quyền và nghĩa vụ của t ng

bên trong giao dịch. Thỏa thuận này là căn cứ để giải quyết các tranh chấp

phát sinh trong quá trình giao dịch”. Nhƣ vậy, văn bản quy phạm pháp luật có

liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử đều đã quy định rõ ràng nguyên

tắc này một cách nhất quán. Trong thực tế thì khi thực hiện nguyên tắc này

đòi hỏi phải có các quy định chặt chẽ hơn về các nghĩa vụ của bên Bán hàng

trên Website bán hàng, Sàn giao dịch điện tử, Website đấu giá trực tuyến về

các yêu cầu kỹ thuật khi thiết kế các giao diện cần thiết để các chủ thể tham

gia thƣơng mại điện tử khi thực hiện các giao dịch đƣợc tự do thỏa thuận ví

dụ nhƣ: Có thiết kế các cửa sổ hay trên các giao diện để cho ngƣời tiêu dùng

chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, giao kết hợp đồng hay hủy giao kết hợp

đồng, đặc biệt là xây dựng nhiều trƣờng trong giao diện hay phần mềm để

điều chỉnh các quyền và nghĩa vụ phát sinh nhằm đảm bảo cho nguyên tắc

này đƣợc thực hiện triệt để, đầy đủ trên thực tế. Hiện nay số Website bán

hàng có đăng ký chỉ chiếm khoảng 4% nên việc thực hiện các quy định của

pháp luật về thƣơng mại điện tử chƣa đƣợc đáp ứng [38], hầu hết các Website

bán hàng luôn xây dựng các phần mềm, thiết kế các giao diện có lợi cho

ngƣời bán. Nhƣ vậy, khi xảy ra các tranh chấp thì ngƣời tiêu dùng thƣờng ở

thế bất lợi hơn, không những thế, việc không thanh toán qua trung gian, tức

bên thứ ba thực hiện việc giám sát quá trình giao nhận hàng trƣớc khi thực

Page 73: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

67

hiện thay việc thanh toán hiện nay chƣa phổ biến nên chƣa thể đảm bảo

nguyên tắc tự do thỏa thuận hay nói đúng hơn tự do thỏa thuận với việc thực

hiện các thỏa thuận đó chƣa có các điều kiện để bảo đảm.

b) Nguyên tắc xác định phạm vi hoạt động kinh doanh trong thƣơng

mại điện tử

Theo khoản 2 điều 26 quy định nếu thƣơng nhân, tổ chức cá nhân tiến

hành hoạt động bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và xúc tiến thƣơng mại trên

website thƣơng mại điện tử không nêu cụ thể giới hạn địa lý thì các hoạt động

kinh doanh đó đƣợc coi là tiến hành trên phạm vi cả nƣớc. Thực chất, việc

quy định nguyên tắc này là để xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp

phát sinh giữa các chủ thể khi họ tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử.

Trên thực tế, nếu các bên không giải quyết đƣợc mà phải đƣa vụ việc ra tòa án

để giải quyết thì thẩm quyền của Tòa án theo pháp luật Tố tụng dân sự sẽ là

nơi cƣ trú của Bị đơn hoặc nơi thực hiện hợp đồng, trong đó nơi Bị đơn có trụ

sở hoặc cƣ trú sẽ đƣợc lựa chọn chủ yếu. Trong thời gian v a qua, các tranh

chấp xảy ra chƣa có nhiều vƣớng mắc khi xác định về phạm vi kinh doanh

của hoạt động thƣơng mại điện tử.

c) Nguyên tắc xác định nghĩa vụ bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng

mại điện tử

Ngƣời tiêu dùng là ngƣời mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích

tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.Theo quy định của Luật

Bảo vệ ngƣời tiêu dùng năm 2010, Nhà nƣớc tạo điều kiện thuận lợi để tổ

chức, cá nhân chủ động tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng.

Khuyến khích tổ chức, cá nhân ứng dụng, phát triển công nghệ tiên tiến để

sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ an toàn, bảo đảm chất lƣợng. Đẩy mạnh

hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm quản lý

trong việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng. Nhƣ vậy, khi Nhà nƣớc đã quy

định trong Luật các quyền của ngƣời tiêu dùng, đồng thời khuyến khích việc

ứng dụng công nghệ khi thực hiện việc mua hàng hóa, dịch vụ bằng các

Page 74: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

68

phƣơng tiện điện tử thì một yêu cầu đặt ra chính là đảm bảo các quyền bằng

sự thống nhất, đồng bộ trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan

đến việc bảo vệ ngƣời tiêu dùng khi họ tham gia quan hệ mua bán hàng hóa

dịch vụ. Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng cũng quy định

rõ, quyền lợi của ngƣời tiêu dùng đƣợc tôn trọng và bảo vệ theo quy định của

pháp luật và là trách nhiệm chung của Nhà nƣớc và toàn xã hội. Các hành vi

xâm phạm quyền lợi ngƣời tiêu dùng phải đƣợc xử lý kịp thời, công bằng,

minh bạch, đúng pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu

dùng không đƣợc xâm phạm đến lợi ích của Nhà nƣớc, quyền, lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và tổ chức, cá nhân

khác (Điều 4).

Luật Quảng cáo năm 2012 cũng có rất nhiều quy định để bảo vệ ngƣời

tiêu dùng trong đó bao gồm cả hoạt động quảng cáo thực hiện qua phƣơng

tiện điện tử.

Trên thực tế hiện nay, việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng chƣa đƣợc

thực thi một cách có hiệu quả. Các hành vi xâm phạm quyền lợi ngƣời tiêu

dùng ngày càng nhiều và biến dạng dƣới nhiều hình thức nhƣ: Mua bán danh

sách số điện thoại để phát tán tin nhắn rác, gọi điện thoại quảng cáo bán hàng

hóa dịch vụ trái với ý muốn của ngƣời tiêu dùng, quảng cáo tràn lan trên các

báo điện tửv.v... gây bức xức cho ngƣời tiêu dùng và gây tâm lý xấu đối với

thƣơng mại điện tử.

Nhƣ vậy, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc

quy định rải rác trong văn bản pháp luật Việt Nam, thực tế này gây khó khăn

cho quá trình áp dụng, tuân thủ và thực hiện pháp luật. Mặt khác, trong các

bản án hay quyết định của các cơ quan có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật

đều không viện dẫn các nguyên tắc làm căn cứ áp dụng dẫn đến việc quy định

các nguyên tắc chỉ mang tính hình thức, còn tuân theo hay không thì không có

căn cứ để nhận biết.

Page 75: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

69

d) Nguyên tắc kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh

hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện thông qua thƣơng mại điện

tử.

Thực chất, trong các quy định của pháp luật hiện hành cũng đã có

những quy định về hạn chế kinh doanh hoặc chỉ rõ những ngành nghề kinh

doanh có điều kiện, việc đƣa vấn đề này thành nguyên tắc của hoạt động

thƣơng mại điện tử nhƣ khẳng định lại hoặc có tính chất cảnh báo cụ thể hơn

mà thôi. Trong hoạt động thƣơng mại điện tử, do các thông tin trao đổi giữa

ngƣời mua, ngƣời bán đƣợc thực hiện thông qua môi trƣờng mạng và các thiết

bị điện tử thuộc sở hữu của các chủ thể tham gia nên không bị giám sát, kiểm

tra chặt chẽ, đây là kẽ hở để hoạt động mua bán hàng hóa bị cấm, bị hạn chế

kinh doanh vẫn trở thành đối tƣợng của các giao dịch thƣơng mại điện tử.

Hiện nay, khi mạng xã hội trở nên phổ biến và dễ sử dụng, những ngƣời bán

hàng hóa, dịch vụ thƣờng thiết lập các “Nhóm kín” để thực hiện những hành

vi bị cấm cũng nhƣ mua bán hàng hóa dịch vụ bị hạn chế kinh doanh, đây là

hiện tƣơng mới không thể kiểm tra, giám sát bởi các cơ quan chức năng.

Nhƣ vậy, các nguyên tắc trong hoạt động thƣơng mại điện tử đƣợc quy

định trong Nghị định 52/2013/NĐ-CP chƣa đáp ứng đƣợc các yêu cầu về bảo

đảm an toàn cho các hoạt động thƣơng mại điện tử, chƣa phù hợp với pháp

luật tố tụng khi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động này. Việc

quy định nguyên tắc xác định phạm vi kinh doanh không có nhiều ý nghĩa khi

việc áp dụng luật để giải quyết tranh chấp vì áp dụng pháp luật dân sự, thƣơng

mại hay thƣơng mại điện tử đều thống nhất trên phạm vi lãnh thổ.

Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt

động thƣơng mại điện tử, lợi ích nhà nƣớc cũng nhƣ đáp ứng các yêu cầu hội

nhập, đảm bảo tính thống nhất đối với các ngành luật khác trong hệ thống

pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử thì cần

phải bổ sung các nguyên tắc khác nhƣ :

Page 76: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

70

i) Nguyên tắc tƣơng đƣơng thu c tính

. Hiện nay, trong điều 9 của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP có quy định

về chứng t điện tử, qua đó quy định về tính hợp pháp, có giá trị nhƣ bản gốc

của thông điệp dữ liệu khi đƣợc khởi tạo lần đầu tiên dƣới dạng một thông

điệp dữ liệu hoàn chỉnh.Nội dung của thông điệp dữ liệu đƣợc xem là toàn

vẹn khi nội dung đó chƣa bị thay đổi, tr những thay đổi về hình thức phát

sinh trong quá trình gửi, lƣu trữ hoặc hiển thị thông điệp dữ liệu và có thể truy

cập, sử dụng đƣợc dƣới dạng hoàn chỉnh khi cần thiết.

Nhƣ vậy, công nhận tƣơng đƣơng thuộc tính đã ghi nhận các hình thức

văn bản hay thỏa thuận bằng lời nói khác chứa đựng các thông tin về các chủ

thể tham gia hợp đồng, nội dung của hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng

v.v...sẽ đƣợc phản ánh đầy đủ trong các thông điệp dữ liệu (là thông tin đƣợc

tạo ra, đƣợc gửi đi, đƣợc nhận và lƣu trữ bằng phƣơng tiện điện tử). Trên thực

tế, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh

trong hoạt động quảng cáo, thƣơng mại, thanh toán bằng các phƣơng tiện điện

tử đều đƣợc quy định cụ thể, chi tiết các điều kiện để công nhận tƣơng đƣơng

thuộc tính của văn bản điện tử cũng nhƣ thông điệp dữ liệu.

Tuy nhiên, việc không quy định nguyên tắc này phát sinh nhiều bất cập

trong giải quyết các tranh chấp liên quan trong hoạt động thƣơng mại điện tử

khi các đƣơng sự cung cấp chứng cứ điện tử nhƣ: Email, nội dung tin nhắn,

chứng t điện tử, các hợp đồng giao kết bằng phƣơng tiện điện tử đƣợc in ấn

bằng văn bản, nội dung các cuộc điện thoại v.v...Quá trình giải quyết các vụ

án kinh doanh, thƣơng mại theo quy định tại điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự

2005 (Sửa đổi bổ sung năm 2011) của Tòa án thƣờng đòi hỏi tính xác thực

của chứng cứ bằng các biện pháp nhƣ: Trƣng cầu giám định, xác minh tại các

đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông, tin học v.v...hoặc ít nhất là các hình ảnh,

chƣơng trình phần mềm đó phải còn lƣu giữ. Nhƣ vậy, để hiện thực hóa

nguyên tắc tƣơng đƣơng ở trên, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung pháp luật tố

tụng dân sự theo hƣớng quy định rõ các chứng cứ điện tử nhƣ thế nào là hợp

Page 77: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

71

pháp, việc thu thập nhƣ thế nào cho đúng trình tự, thủ tục, đồng thời phải có

những chƣơng trình đào tạo phù hợp để nâng cao năng lực của đội ngũ nhân

lực trong cơ chế hiện giải quyết các vụ án liên quan đến thƣơng mại điện tử.

ii) Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phƣơng thức thƣơng mại điện

tử

Các phƣơng thức thƣơng mại truyền thống đã, đang và sẽ vẫn tồn tại

nhƣng quy mô sẽ thu hẹp để nhƣờng chỗ cho phƣơng thức mới ƣu việt hơn đó

là phƣơng thức thực hiện các hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện tử

nhƣ thƣơng mại, quảng cáo, thanh toán điện tử. Sự thay thế này chủ yếu tập

trung ở các vùng đô thị với nhóm các sản phẩm sản xuất hàng loạt, tất nhiên

là có một số hàng hóa dịch vụ không thể thực hiện đƣợc bằng phƣơng thức

thực hiện trên các phƣơng tiện điện tử.

Luật Giao dịch điện tử năm 2005 không quy định nguyên tắc này

nhƣng quy định gián tiếp trong các hành vi bị cấm tại khoản 1 và 2 Điều 9,

các hành vi cản trở việc lựa chọn sử dụng giao dịch điện tử; cản trở hoặc ngăn

chặn trái phép quá trình truyền, gửi, nhận thông điệp dữ liệu là các hành vi bị

nghiêm cấm trong giao dịch điện tử. Nghị định số 52/2013/NĐ-CP cũng

không quy định nguyên tắc này mà chỉ ghi nhận nguyên tắc tự do thỏa thuận

với nội hàm rộng hơn nhƣng khó minh định, dễ bị áp dụng tùy tiện.

Và nhƣ vậy, cần phải đƣợc bổ sung vào các nguyên tắc hoạt động

thƣơng mại điện tử để có căn cứ áp dụng cũng nhƣ thực hiện pháp luật của

các chủ thể liên quan.

iii)Tự nguyện thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực

hiện giao dịch điện tử

Trong thƣơng mại điện tử, các phƣơng tiện điện tử đƣợc sử dụng để

thực hiện hoạt động thƣơng mại rất phong phú và đa dạng, t cấp độ đơn giản

đến phức tạp nhƣ: Gọi điện thoại, tin nhắn, Email, Website bán hàng, Website

đấu giá trực tuyến, quảng cáo, thanh toán điện tử v.v... Các phƣơng tiện điện

tử này đƣợc sử dụng đơn lẻ hay toàn bộ, t ng giai đoạn hay toàn bộ quá trình

Page 78: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

72

nên việc tự nguyện thỏa thuận về loại công nghệ đƣợc sử dụng trong các giao

dịch thƣơng mại sẽ do các chủ thể tham gia tự thỏa thuận chọn lựa.

Pháp luật thực định tôn trọng sự thỏa thuận lựa chọn các loại công nghệ

để tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử. Nguyên tắc này đƣợc quy định tại

khoản 2 Điều 5 Luật Giao dịch điện tử để công nhận giá trị pháp lý của hợp

đồng đã giao kết phù hợp về mặt hình thức và nội dung hợp đồng sẽ làm phát

sinh quyền và nghĩa vụ liên quan của các bên, đồng thời các quy định của

pháp luật tố tụng cũng không loại tr sự thỏa thuận này khi giải quyết các

tranh chấp liên quan.

Trên thực tế, việc tự nguyện lựa chọn phƣơng thức, lựa chọn công nghệ

khi tiến hành các giao dịch của các chủ thể hoàn toàn đƣợc ghi nhận và thực

hiện, tuy nhiên vẫn phải đƣợc quy định cụ thể trong các nguyên tắc của hoạt

động thƣơng mại điện tử để có căn cứ pháp luật khi áp dụng hay thực hiện

hoạt động thƣơng mại điện tử.

iv)Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong giao dịch điện tử

Thực trạng về thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự bình đẳng và an toàn

trong giao dịch điện tử đã đƣợc tiếp thu và đƣợc quy định cụ thể trong các văn

bản pháp luật có liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử. Sự bình đẳng

giữa các chủ thể tham gia giao dịch là một nguyên tắc quan trọng.

Trên cơ sở các nguyên tắc chung của Bộ luật Dân sự, Luật Thƣơng mại

đã quy định: “Thƣơng nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trƣớc

pháp luật trong hoạt động thƣơng mại”, Luật Giao dịch điện tử cũng quy định

nguyên tắc này, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP không quy định nguyên tắc này

tại điều 26. Về nguyên tắc, mọi chủ thể đều đƣợc xác định có vị thế bình đẳng

trong các giao dịch cũng nhƣ khi giải quyết các tranh chấp tại các cơ quan có

thẩm quyền, tham gia tố tụng với tƣ cách là nguyên đơn, bị đơn, ngƣời có

quyền và nghĩa vụ liên quan gọi chung là đƣơng sự khi vụ việc đƣợc giải

quyết tại Tòa án có thẩm quyền. Tuy nhiên việc bảo đảm an toàn trong giao

Page 79: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

73

dịch điện tử mới là vấn đề trọng tâm và quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch, hoạt động thƣơng mại điện tử.

Trên thực tế, nguyên tắc này chƣa thực sự đƣợc thực hiện triệt để trên

thực tế bởi hiệu quả quản lý nhà nƣớc yếu kém, việc thanh tra, kiểm tra chƣa

đầy đủ dẫn đến tình trạng trốn thuế, chất lƣợng hàng hóa không đúng nhƣ

quảng cáo, chào hàng nên xuất hiện sự cạnh tranh thiếu lành mạnh đối với

hoạt động thƣơng mại truyền thống, ảnh hƣởng đến nguyên tắc bình đẳng của

các chủ thể tham gia giao dịch TMĐT.

Một ví dụ điển hình trong việc không đảm bảo nguyên tắc bình đẳng

giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh cùng cung cấp một loại dịch vụ đó là:

Các hãng Taxi hoạt động bình thƣờng t trƣớc tới nay phải tuân thủ rất nhiều

quy định nhƣ hình thức của xe, thông tin, biển hiệu để nhận diện, hiệu lệnh

kiểm tra, thanh tra v.v...là đối tƣợng chịu sự điều chỉnh của Luật Giao thông

Đƣờng bộ năm 2016 và một số văn bản pháp luật hành chính cá biệt (Ví dụ

Quyết định số 21/2013/QĐ- UBND thành phố Hà Nội) nên không thể đi vào

một số tuyến phố bị cấm hoặc bị cấm đỗ, cấm d ng, di chuyển ở một số

khung giờ nhất định. Nhƣng khi Taxi kết nối theo dịch vụ Grab hay Uber xuất

hiện (Sử dụng phƣơng tiện điện tử để kết nối khách hàng và ngƣời có xe nhàn

rỗi) bản chất không thay đổi nhƣng khi hoạt động không có dấu hiệu nhận

diện đặc định và do vậy không phải tuân thủ các quy định nhƣ với xe Taxi

truyền thống, có thể ra vào đƣờng cấm xe Taxi hay cấm đỗ, cấm d ng v.v...

Nhƣ vậy sẽ xuất hiện sự cạnh tranh thiếu lành mạnh và không thể có sự bình

đẳng giữa các chủ thể tham gia kinh doanh, cung cấp hàng hóa dịch vụ trong

hoạt động thƣơng mại v.v...

Ngoài ra, một số trƣờng hợp tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử

nhƣng không chịu sự điều chỉnh của pháp luật về kế toán, thuế, thanh tra,

kiểm tra v.v...điều này gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các hình

thức thƣơng mại khác và thể hiện sự bất bình đẳng của các chủ thể tham gia

quan hệ thƣơng mại.

Page 80: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

74

Đây chính là những bất cập, chƣa đầy đủ của quy định về các nguyên

tắc hoạt động của thƣơng mại điện tử.

3.2.2.Thực trạng giao kết h p đồng thƣơng mại điện tử

Kể t khi thƣơng mại điện tử hình thành và phát triển mạnh ở Việt

Nam, mặc dù hạ tầng viễn thông cũng nhƣ số ngƣời sử dụng Internet và thiết

bị di động có kết nối mạng có số lƣợng rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế thƣơng

mại điện tử mới chỉ chiếm 2,5% tổng doanh số bán lẻ tại Việt Nam, chiếm

một tỷ trọng rất nhỏ so với lợi thế, tiện ích cũng nhƣ tính ƣu việt mà thƣơng

mại điện tử đem lại [38].

Thực tế ở trên cho thấy, thực trạng giao kết hợp đồng thƣơng mại điện

tử ở Việt Nam chƣa đƣợc ngƣời tiêu dùng, các doanh nghiệp quan tâm đúng

mức cũng nhƣ ngƣời tiêu dùng chƣa có đủ niềm tin để tham gia các hoạt động

thƣơng mại điện tử. Các giao dịch thƣơng mại điện tử chƣa đƣợc sử dụng phổ

biến trong cộng đồng dân cƣ để khai thác triệt để các lợi thế của TMĐT. Bên

cạnh đó, ngƣời dùng chƣa mặn mà với mua, bán trực tuyến là do họ không tin

vào chất lƣợng hàng hóa, dịch vụ khi mua bán qua mạng. Ngoài ra, họ cũng

không an tâm khi thanh toán trực tuyến. Một số ngƣời không biết cách mua

hàng trực tuyến vì chƣa sử dụng máy tính hay các thiết bị điện tử một cách

thuần thục. Thực tế đã xảy ra, ngƣời mua đặt mua hàng này nhƣng ngƣời bán

lại giao hàng khác. Một hạn chế khác nữa là tình trạng l a đảo, mạo danh để

đánh cắp thông tin và tài khoản giao dịch nên ngƣời dùng càng e dè không

dám sử dụng thanh toán trực tuyếnv.v...Trong khi họ chỉ đƣợc cam kết bởi

doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và chƣa có cơ sở pháp lý để bảo vệ họ

v.v...Về mặt bản chất, hợp đồng thƣơng mại điện tử chỉ khác biệt với hợp

đồng thƣơng mại truyền thống ở phƣơng thức giao kết, các phƣơng tiện để

trao đổi thông tin giữa các bên và các thao tác bằng phƣơng tiện điện tử. T

những đặc điểm đó, pháp luật không có các quy định riêng về hợp đồng

thƣơng mại điện tử mà vẫn áp dụng các đạo luật quy định chung về hợp đồng

nhƣ Bộ luật Dân sự, Luật Thƣơng mại, Luật Giao dịch điện tử, Nghị định về

Page 81: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

75

thƣơng mại điện tử và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để điều

chỉnh các quan hệ thƣơng mại đƣợc thực hiện một hay toàn bộ quá trình mua

bán hàng hóa dịch vụ bằng phƣơng tiện điện tử.

Trong quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử, nếu xem xét về chủ thể

của các quan hệ pháp luật thì có ba nhóm đó là: Chính phủ, doanh nghiệp và

ngƣời tiêu dùng hoặc khách hàng tùy t ng quan hệ đƣợc xác lập, các quan hệ

chủ yếu đƣợc xác lập gồm: B2B (Business to Business) là mô hình thƣơng

mại điện tử giữa các doanh nghiệp với nhau, B2C (Business to Consumer) là

mô hình thƣơng mại giữa các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng liên quan,

C2C (Consumer to Consumer) là mô hình thƣơng mại điện tử giữa các cá

nhân và ngƣời tiêu dùng với nhau đây là những mô hình có số lƣợng giao dịch

phổ biến và chiếm tỷ lệ lớn nhất trong thƣơng mại điện tử ở Việt Nam hiện

nay. Khi các bên giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử thì xác lập nên quan

hệ pháp luật thƣơng mại điện tử làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các

doanh nghiệp trên cơ sở hợp đồng đã thỏa thuận. Theo các báo cáo về thƣơng

mại điện tử những năm qua, thì đây là những mô hình thƣơng mại điện tử phổ

biến và chiếm tỷ lệ lớn nhất, chiếm tới trên 80% doanh số thƣơng mại điện tử,

có thể thấy rằng, sự nhận thức đầy đủ về các quy định của pháp luật, sự tiếp

cận dễ dàng các dịch vụ hạ tầng viễn thông – thông tin cũng nhƣ các chính

sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nƣớc nên

các doanh nghiệp có đủ những hiểu biết cần thiết, sự tin cậy khi tham gia vào

quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử và các tranh chấp trong quá trình giao

kết thực hiện hợp đồng điện tử của hình thức giao dịch này chiếm tỷ lệ rất ít.

Chỉ số thƣơng mại điện tử nêu trên cho thấy nếu việc tuyên truyền, phổ biến

pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật thì sẽ thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát

triển.Mặt khác, khi có những hiểu biết đầy đủ và tuân thủ pháp luật thì sẽ loại

tr các rủi ro trong hoạt động thƣơng mại điện tử.

Tuy nhiên, thực trạng pháp luật cho thấy các quy định về hợp đồng

thƣơng mại điện tử còn tản mát ở các văn bản pháp luật khác nhau, sử dụng

Page 82: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

76

các thuật ngữ chuyên ngành, kỹ thuật và hàn lâm dẫn đến khó khả thi. Vì để

t bỏ hoặc thay đổi thói quen khi tham gia quan hệ thƣơng mại truyền thống,

ngƣời tiêu dùng luôn phải có đủ niềm tin cũng nhƣ có đầy đủ căn cứ pháp lý

để chứng minh cho yêu cầu của mình khi xảy ra tranh chấp. Nếu trong thƣơng

mại truyền thống, các hợp đồng đƣợc giao kết bằng lời nói thƣờng xảy ra

trong trƣờng hợp mua bán hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ, các bên trực tiếp

thƣơng lƣợng, xem xét rồi thực hiện nghĩa vụ, hoặc nhiều trƣờng hợp là ngƣời

quen biết hoặc có địa điểm kinh doanh cố định nhƣ chợ hay cửa hàng, nên

ngƣời tiêu dùng có niềm tin khi tham gia giao dịch thƣơng mại. Ở một số

hàng hóa, dịch vụ khác, thì hợp đồng đƣợc lập thành văn bản và có chữ ký

xác nhận hay con dấu của doanh nghiệp, ngƣời mua hàng có chứng cứ vật

chất dễ xác nhận và lƣu giữ để có thể sử dụng làm chứng cứ khi có tranh

chấp. Trong thƣơng mại điện tử, các thông điệp dữ liệu đƣợc lƣu giữ ở cơ

quan cung cấp dịch vụ hoặc các cơ quan cung cấp dịch vụ chứng thực, ngƣời

tiêu dùng có tâm lý lo ngại trƣớc các rủi ro tiềm ẩn, không có chứng cứ vật

chất, việc thu thập chứng cứ, tài liệu t các phƣơng tiện điện tử không ổn

định, dễ bị thay đổi hoặc sẽ rất tốn kém khi phải giám định hay lập vi bằng

v.v... nên ngƣời tiêu dùng là các cá nhân, tổ chức không muốn thực hiện giao

kết hợp đồng thƣơng mại điện tử vì lo ngại, không tin tƣởng, không đủ hiểu

biết nhất định về hợp đồng điện tử, đây là các trở ngại xuất phát t việc xây

dựng, ban hành, tuyên truyền phổ biến pháp luật và thực thi pháp luật trong

lĩnh vực thƣơng mại điện tử.

Đối với các doanh nghiệp, việc xác định chủ thể của hợp đồng phải là

ngƣời đại diện cho pháp nhân hoặc ngƣời đƣợc ủy quyền hợp lệ ký mới làm

phát sinh hiệu lực của hợp đồng điện tử, nên rất khó nhận biết chủ thể nào

tham gia ký kết nếu không có các thỏa thuận bằng hình thức đáng tin cậy nhƣ

chữ ký số hoặc cơ quan chứng thực hợp pháp. Mặt khác, dịch vụ trung gian

thanh toán cũng mới chỉ thực hiện đƣợc chức năng thanh toán, tức thực hiện

nghĩa vụ của bên mua trong hợp đồng thƣơng mại điện tử, việc giao nhận

Page 83: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

77

hàng hóa cho bên mua không có các quy định về việc kiểm tra, đánh giá chất

lƣợng, kiểm đếm về số lƣợng nên ngƣời tiêu dùng luôn lo sợ bị thiệt hại hoặc

yếu thế khi giao kết hợp đồng điện tử. Các số liệu của Báo cáo thƣơng mại

điện tử về số website bán hàng đƣợc đăng ký còn ít dẫn đến thiếu sự kiểm tra

giám sát các hành vi thƣơng mại điện tử diễn ra nhanh chóng trên mạng. Việc

không kiểm tra, thanh tra có hiệu quả các hành vi quảng cáo trong thƣơng mại

điện tử của các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử sẽ dẫn đến tình trạng

quảng cáo hàng cấm, các văn hóa phẩm độc hại, trái với thuần phong mỹ tục,

trái đạo đức xã hội nhƣng các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng thƣơng mại

điện tử vẫn thực hiện bình thƣờng. Vấn đề về thuế trong việc giao kết hợp

đồng thƣơng mại điện tử chƣa đƣợc quy định rõ ràng và cũng chƣa kiểm soát

đƣợc các giao dịch thƣơng mại điện tử do đặc điểm là các thông điệp dữ liệu

đƣợc kết nối trực tiếp giữa các bên nhƣ trong mô hình C2C chẳng hạn, ngƣời

mua và ngƣời bán tự tìm kiếm thông tin, tự thỏa thuận sau đó thực hiện việc

mua bán hàng hóa, dịch vụ dẫn đến thất thu thuế cho ngân sách. Khi nghĩa vụ

thuế không đƣợc thực hiện một cách công bằng thì rõ ràng là đã xảy ra tình

trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các Doanh nghiệp kinh doanh thƣơng

mại truyền thống. Đây cũng là vấn đề mới cần đƣợc quan tâm sâu sắc, bảo

đảm các lợi ích của nhà nƣớc.Vấn đề thanh toán điện tử là phƣơng thức thực

hiện nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng thƣơng mại điện tử hiện chƣa có

nhiều hình thức phù hợp để tạo thuận lợi cho các bên giao kết hợp đồng.Thực

tiễn tại Việt Nam hiện nay đã có phƣơng tiện thanh toán điện tử, thể hiện dƣới

hình thức thẻ ngân hàng và ví điện tử. Việc nêu rõ các phƣơng tiện thanh toán

không dùng tiền mặt nhƣ séc, lệnh chi, thẻ ngân hàng, ví điện tử sử dụng

trong thanh toán là rất quan trọng để thực hiện vai trò quản lý nhà nƣớc về các

phƣơng tiện thanh toán trong nền kinh tế. Để khắc phục tình trạng này Ngân

hàng nhà nƣớc đã ban hành Thông tƣ số 39/2014/TT-NHNN hƣớng dẫn về

dịch vụ trung gian thanh toán đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến

hoạt động cung ứng và sử dụng dịch vụ trung gian thanh toán với các loại

Page 84: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

78

dịch vụ trung gian thanh toán.Việc pháp luật quy định về thanh toán điện tử

sẽ hỗ trợ rất lớn trong việc thực hiện hợp đồng điện tử, khai thác những tiện

ích của việc thanh toán phi tiền mặt.

Sự thiếu thống nhất trên phƣơng diện xây dựng pháp luật để điều chỉnh

quan hệ pháp luật trong giao kết hợp đồng điện tử dẫn đến tình trạng các chủ

thể tham gia giao kết hợp đồng khó tiếp cận các quy định của pháp luật, việc

sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên ngành trong điều kiện xã hội nhƣ Việt Nam

sẽ gây khó hiểu, hiểu không đúng, không đầy đủ dẫn đến những sai phạm, vi

phạm đáng tiếc khi thực hiện giao kết hợp đồng điện tử. Giữa các quy phạm

nội dung và các quy phạm hình thức cũng nhƣ các quy định khác có liên quan

đến giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử chƣa đồng bộ, việc thiếu sự đồng

bộ sẽ gây ra những khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp bằng thủ tục

tố tụng tại Tòa án sẽ gây khó khăn cho việc chứng minh của các đƣơng sự

nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh chấp phát sinh.

Thực trạng pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng thƣơng mại điện tử hiện

nay còn nhiều bất cập, các nguyên tắc không đƣợc tuân thủ, quyền và lợi ích

hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng luôn bị đe dọa vì thiếu các cơ chế

hữu hiệu trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm.

3.2.3.Thực trạng bảo h quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại

điện tử

Có thể nói rằng, thƣơng mại điện tử là hình thức dễ bị các hành vi xâm

phạm quyền sở hữu trí tuệ nhất bởi một số đặc điểm nhƣ: Việc giao dịch chủ

yếu trên mạng thông tin nhƣ viễn thông, internet giữa các bên tham gia giao

dịch, mọi thông điệp dữ liệu đƣợc số hóa hay công nghệ tƣơng tự nên rất khó

nhận biết, việc giao dịch đƣợc bảo mật nên rất khó để các cơ quan chức năng

thanh tra, kiểm tra để xử lý.

Theo Nghị định số 52/2013NĐ- CP về thƣơng mại điện tử, các hành vi

xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị nghiêm cấm cũng không đƣợc quy định cụ

thể mà chỉ quy định gián tiếp thông qua các hành vi khác. Việc không quy

Page 85: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

79

định rõ ràng, cụ thể trong văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp các vấn đề về

thƣơng mại điện tử đã làm giảm tính răn đe cần thiết cho những ngƣời có ý

định vi phạm, giảm tính thống nhất, minh bạch, của pháp luật. Trong Luật Sở

hữu trí tuệ năm 2005, các quy định đƣợc thể hiện rõ ràng hơn, theo đó, việc

nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao quát hơn.

Hành vi vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng

mại điện tử hiện nay diễn ra rất phổ biến, chủ yếu là việc sử dụng các phần

mềm chạy chƣơng trình bán hàng tự động, quảng cáo sản phẩm hàng hóa,

phần mềm thanh toán tự động nhƣng không trả phí bản quyền hoặc bẻ khóa

v.v...Do đặc điểm là các thông tin về sản phẩm, dịch vụ hàng hóa trao đổi

mua bán trên mạng thông tin viễn thông, mạng internet khép kín, không cần

cửa hàng hay phòng trƣng bày sản phẩm. Các sản phẩm, dịch vụ đƣợc số hóa

hay mô tả tƣơng tự, mọi thông tin khác về chất lƣợng, tiêu chuẩn kỹ thuật,

nguồn gốc xuất xứ đều do ngƣời bán cung cấp và không có gì để chứng minh.

Thông tin về giá cả, phƣơng thức giao hàng đều bí mật giữa ngƣời mua ngƣời

bán nên cơ chế phát hiện vi phạm hiện nay chỉ mang tính hình thức, hoặc

không thể phát hiện đƣợc vì công tác quản lý nhà nƣớc còn yếu, thiếu, không

đồng bộ. Do vậy, việc pháp luật không quy định cụ thể để bắt buộc các chủ

thể bán hàng hóa dịch vụ qua mạng internet và mạng viễn thông thực hiện các

biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn, phòng chống các vi phạm về quyền sở hữu

trí tuệ trong thƣơng mại điện tử sẽ không thể bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, ảnh

hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời tiêu dùng. Mặt khác, nếu

không phát hiện kịp thời để xử lý các vi phạm thì sẽ làm giảm lòng tin của

ngƣời tiêu dùng đối với thƣơng mại điện tử. Nếu sử dụng các biện pháp kỹ

thuật bắt buộc thì sẽ nhanh chóng phát hiện các vi phạm, ngoài ra còn quy

định bắt buộc về thông tin về địa chỉ, số điện thoại của nhà sản xuất hay đơn

vị quản lý đối với hàng hóa có đăng ký chỉ dẫn địa lý v.v...để ngƣời tiêu dùng

liên hệ, kiểm tra chéo nhằm tránh mua phải hàng giả hàng nhái. Đây là những

biện pháp có thể áp dụng khi xây dựng pháp luật.

Page 86: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

80

Mặc dù Luật sở hữu trí tuệ có quy định biện pháp hành chính xử lý vi

phạm quyền sở hữu trí tuệ và quy định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ

quan nhà nƣớc liên quan nhƣ: UBND các cấp, Quản lý thị trƣờng, Hải quan,

Thuế, Cảnh sát biển, Thanh tra chuyên ngành v.v...nhƣng thực chất việc phát

hiện sẽ rất khó vì các quy định chồng chéo, không thống nhất với các Luật

khác, ví dụ việc thực hiện các chính sách về hải quan điện tử có quy định về

việc thông quan nhanh không qua kiểm soát (phân luồng hàng hóa) nên không

thể phát hiện hàng hóa vi phạm.

Về các chế tài xử lý hiện nay đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu

trí tuệ hiện nay còn nhẹ, chƣa nghiêm khắc, có nhiều quy định còn chƣa rõ

ràng dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc hình sự hóa các quan hệ dân sự. Việc Bộ

luật Hình sự sửa đổi bổ sung đã thêm một số tội danh liên quan đến việc sử

dụng mạng Internet để đƣa, gửi nhận các thông tin trái pháp luật hoặc dùng

công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội đã kịp thời xử lý các hành vi tội

phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

Do không có cơ chế phát hiện các vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ,

công tác thanh tra, kiểm tra không có hoặc không hiệu quả nên việc xâm

phạm quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT rất phổ biến, có thể nói bán hàng giả,

hàng nhái trên mạng xã hội hay các sàn giao dịch điện tử là nhiều nhất vì tính

ít công khai trong việc trƣng bày hàng hóa, giao dịch chỉ có ngƣời bán ngƣời

mua thực hiện, việc giao nhận hàng diễn ra nhanh gọn có thể quan trung gian

vận chuyển v.v...

3.2.4.Thực trạng bảo vệ quyền l i ngƣời tiêu dùng trong thƣơng

mại điện tử

Trƣớc hết, để bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong TMĐT thì

nguyên tắc bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong giao dịch điện tử là nguyên

tắc quan trọng và tiên quyết. Việc tiếp thu nguyên tắc này t Luật mẫu về

Thƣơng mại điện tử (UNCITRAN) đã đƣợc quy định cụ thể trong các ngành

luật có liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử.

Page 87: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

81

Luật Bảo vệ ngƣời tiêu dùng năm 2010, Luật Quảng cáo cũng nhƣ các

văn bản pháp luật liên quan, Nhà nƣớc tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá

nhân chủ động tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng. Khuyến

khích tổ chức, cá nhân ứng dụng, phát triển công nghệ tiên tiến để sản xuất

hàng hóa, cung ứng dịch vụ an toàn, bảo đảm chất lƣợng. Triển khai thƣờng

xuyên, đồng bộ các biện pháp quản lý, giám sát việc tuân thủ pháp luật của tổ

chức,cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử là nhiệm vụ

quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nƣớc do mức độ ảnh hƣởng, sự tác

độngđối với ngƣời tiêu dùng là rất lớn. Luật Bảo vệ ngƣời tiêu dùng năm

2010 đã quy định về các nguyên tắc bảo vệ ngƣời tiêu dùng nhƣng trên thực

tế các nguyên tắc này không đƣợc tôn trọng, các hành vi vi phạm diễn ra phổ

biến, đặc biệt là trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử nhƣ quấy rối ngƣời tiêu

dùng bằng tin nhắn rác để quảng cáo, tiếp thị, rồi tình trạng lấy cắp thông tin

của ngƣời tiêu dùng t các quan hệ thƣơng mại vào mục đích khác, dẫn đến

không một ai sử dụng thiết bị điện tử không là “nạn nhân” của tin nhắn rác.

Luật Thƣơng mại năm 2005 cũng quy định thƣơng nhân thực hiện hoạt động

thƣơng mại có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực cho ngƣời tiêu dùng về

hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính

chính xác của các thông tin đóv.v...Thƣơng nhân phải chịu trách nhiệm về

chất lƣợng, tính hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh. Nhƣ

vậy, Luật Bảo vệ ngƣời tiêu dùng và Luật Thƣơng mại đã có những quy định

nguyên tắc để các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử là bên bán hàng hóa,

dịch vụ phải tuân thủ khi thực hiện các hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng

tiện điện tử.

Nghị định số 52/2013/NĐ-CP cũng quy định các hành vi bị cấm trong

thƣơng mại điện tử để bảo vệ quyền lợi của ngƣời tiêu dùng nhƣ: Lợi dụng

thƣơng mại điện tử để kinh doanh hàng giả, hàng hóa, dịch vụ vi phạm quyền

sở hữu trí tuệ; hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh

Page 88: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

82

doanh; lợi dụng danh nghĩa hoạt động kinh doanh thƣơng mại điện tử để huy

động vốn trái phép t các thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân khác; cung cấp các

dịch vụ thƣơng mại điện tử hoặc dịch vụ giám sát, đánh giá và chứng thực

trong thƣơng mại điện tử khi chƣa đăng ký, chƣa đƣợc cấp phép hoặc không

đúng với thông tin trong hồ sơ đăng ký hoặc cấp phép; có hành vi gian dối

hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thực hiện các thủ tục thông báo thiết

lập website thƣơng mại điện tử, đăng ký website cung cấp dịch vụ thƣơng mại

điện tử, đăng ký hoặc xin cấp phép các dịch vụ giám sát, đánh giá và chứng

thực trong thƣơng mại điện tử.Sử dụng các đƣờng dẫn, biểu trƣng hoặc công

nghệ khác trên website thƣơng mại điện tử để gây nhầm lẫn về mối liên hệ

với thƣơng nhân, tổ chức, cá nhân khác; sử dụng đƣờng dẫn để cung cấp

những thông tin trái ngƣợc hoặc sai lệch so với thông tin đƣợc công bố tại khu

vực website có gắn đƣờng dẫn này; thực hiện các hành vi l a đảo khách hàng

trên website thƣơng mại điện tử; giả mạo thông tin của thƣơng nhân, tổ chức,

cá nhân khác để tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử v.v...

Có thể nói, việc xây dựng, ban hành các quy định pháp luật có liên

quan đến bảo vệ quyền lợi của ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử đã

tƣơng đối đầy đủ, tuy nhiên, việc quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp

luật khác nhau đã làm giảm tính khả thi trong quá trình áp dụng, thực hiện

pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử. Trên

thực tế, quá trình thực hiện các quy định của pháp luật cũng không hiệu quả,

không đƣợc tuân thủ đúng, công tác quản lý nhà nƣớc còn lỏng lẻo dẫn đến

quyền lợi chính đáng của ngƣời tiêu dùng bị xâm phạm nghiêm trọng v.v...

Pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử dƣờng nhƣ

chƣa quy định đầy đủ các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn, phòng ng a và

đấu tranh với các hành vi vi phạm, chƣa quy định đầy đủ cơ chế phát hiện tội

phạm, vi phạm pháp luật xâm hại đến quyền lợi chính đáng của ngƣời tiêu

dùng. Thực tiễn cho thấy, pháp luật về bảo vệ ngƣời tiêu dùng có tính khả thi

Page 89: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

83

không cao và công tác tuyên truyền pháp luật cũng chƣa đạt đƣợc hiệu quả

cần thiết để thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển.

3.3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

3.3.1. Tuân thủ, sử dụng pháp luật của các chủ thể tham gia quan

hệ thƣơng mại điện tử

a) Đối với người sở hữu Website thương mại điện tử bán hàng:

Các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu và vận hành Website bán hàng phải

đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để thực hiện các hành vi kinh doanh, mua

bán hàng hóa dịch vụ qua mạng Internet theo một trình tự, thủ tục đƣợc quy

định . Trong thông tin đăng ký sẽ có đầy đủ các thông tin cần thiết để đảm

bảo sự quản lý nhà nƣớc, đồng thời bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ v.v...cũng nhƣ đáp ứng các yêu cầu về thống kê của các

cơ quan hoạch định chính sách. Ngoài ra còn các cá nhân, tổ chức thiết lập

sàn giao dịch thƣơng mại điện tử phải có trách nhiệm phải thông báo về

Website thƣơng mại điện tử bán hàng, tiến hành đăng ký với Bộ Công

Thƣơng. Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin đƣợc Bộ Công

Thƣơng giao thực hiện việc xác nhận đăng ký sàn giao dịch thƣơng mại điện

tử. Bên cạnh đó, chủsở hữu còn có trách nhiệm minh bạch thông tin và thực

hiện các nghĩa vụ khác theo pháp luật về kinh doanh, thƣơng mại;

Ý thức chấp hành pháp luật của cộng đồng doanh nghiệp đối với pháp

luật thƣơng mại điện tử cũng chƣa cao, đơn cử ở tỉnh Long An, Sở Công

thƣơng tỉnh này gửi 200 văn bản đề nghị các Website đang hoạt động tại tỉnh

cung cấp thông tin giúp cho việc quản lý về thƣơng mại điện tử, nhƣng chỉ

nhận đƣợc 40 phản hồi. Còn ở TP. Hồ Chí Minh, toàn thành phố có trên

144.000 tên miền website đã đăng ký, trong đó có gần 86.000 tên miền đã

hoạt động, với gần 80.000 website là website thƣơng mại, nhƣng thực tế chỉ

có khoảng 2% website thƣơng mại là đã đăng ký, một tỷ lệ rất lớn còn lại

đang hoạt động nhƣng không đăng ký quản lý [107]. Thực tế này đang gây

Page 90: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

84

sức ép lên các cơ quan quản lý.Số lƣợng doanh nghiệp v a và nhỏ Việt Nam

khai thác thƣơng mại điện tử không ít nhƣng không tuân thủ quy định và thủ

tục. Đáng nói nhất trong đó là việc nhận thức về luật của các doanh nghiệp

v a và nhỏ còn thấp, dẫn tới nhiều vụ tranh chấp, cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử bán lẻ, nhiều doanh nghiệp còn chƣa

thực hiện đầy đủ các yêu cầu của luật khi mở website bán hàng trực tuyến.

Bên cạnh đó, việc thiếu vắng các giải pháp thanh toán đồng bộ khiến cho việc

mua hàng của ngƣời dùng chƣa thực sự tiện lợi.

b). Đối với người kinh doanh bán hàng qua các phương tiện điện tử:

Ngƣời kinh doanh bán hàng trong thƣơng mại điện tử có nghĩa vụ

thông báo về Website bán hàng, xây dựng quy chế, giám sát và quản lý môi

trƣờng giao dịch, minh bạch thông tin và các nghĩa vụ khác theo quy định của

pháp luật về kinh doanh, thƣơng mại. Thông tƣ số 47/2014/TT- BCT ban

hành ngày 5/12/2014 và có hiệu lực kể t ngày 20/01/2015, quy định chi tiết

trình tự thủ tục đăng ký, công bố, thông báo, cơ quan tiếp nhận v.v...

Về nguyên tắc,việc thiết lập trang thông tin điện tử, việc cung cấp,

truyền đƣa, lƣu trữ, sử dụng thông tin điện tử trên Internet phải tuân thủ các

quy định của pháp luật về công nghệ thông tin, pháp luật về sở hữu trí tuệ,

pháp luật về báo chí, pháp luật về xuất bản, pháp luật về bảo vệ bí mật nhà

nƣớc, pháp luật về bản quyền, pháp luật về quảng cáo và các quy định quản lý

thông tin điện tử trên Internet. Các tổ chức, doanh nghiệp thiết lập trang thông

tin điện tử tổng hợp phải có giấy phép do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp.

Các doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử để cung cấp dịch vụ mạng

xã hội trực tuyến phải đăng ký với Bộ Thông tin và Truyền thông. Các tổ

chức, doanh nghiệp thiết lập trang thông tin điện tử và sử dụng Internet để

cung cấp dịch vụ ứng dụng chuyên ngành trên Internet thực hiện theo các quy

định của pháp luật chuyên ngành và các quy định pháp luật về thƣơng mại

điện tử.

c) Đối với người mua hàng hóa dịch vụ trong hoạt động thương mại

Page 91: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

85

điện tử.

Theo Báo cáo thƣơng mại điện tử của Bộ Công thƣơng năm 2014 thì

giá trị sản phẩm chọn mua nhiều nhất là mức t 1 đến 3 triệu đồng, chiếm

29%. Theo sau là mức trên 5 triệu đồng với 26% ngƣời chọn mua, và mức

đƣợc ít ngƣời chọn mua nhất là t 3 đến 5 triệu đồng với 11%. Do vậy, khi có

tranh chấp, ngƣời tiêu dùng nếu không khiếu nại thành công, họ chấp nhận t

bỏ quyền của mình nên việc giải quyết tranh chấp cũng vì thế không xảy ra

phổ biến.

Trên thực tế, ngƣời mua hàng hóa dịch vụ chính là những ngƣời phát

hiện các vi phạm nhanh nhất, biết rõ các thủ đoạn, mánh khóe của bên bán

hàng hóa dịch vụ trong hoạt động TMĐT nhƣng pháp luật không có các quy

định đối với họ về thông báo cho cơ quan có thẩm quyền. T việc thiếu quy

định của pháp luật nên dẫn đến các hành vi vi phạm không bị phát hiện để xử

lý kịp thời theo quy định của pháp luật.

d) Hiệp hội Thương mại điện tử

Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam (VECOM) là một tổ chức phi

Chính phủ, không phải là chủ thể áp dụng pháp luật nhƣng có vai trò rất quan

trọng trong việc tuyên truyền, phổ biến các kiến thức về thƣơng mại điện tử

và các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động TMĐT. Với hội viên là

các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trực tiếp kinh doanh bằng thƣơng mại

điện tử, hoặc ứng dụng thƣơng mại điện tử phục vụ hoạt động sản xuất, kinh

doanh, hay các đơn vị cung cấp các dịch vụ về thƣơng mại điện tử. Hiệp hội

hoạt động trên cơ sở tự nguyện, phi lợi nhuận, nhằm mục đích tập hợp, đoàn

kết, hợp tác, hỗ trợ, bảo vệ các hội viên để phát triển lĩnh vực thƣơng mại điện

tử ở Việt Nam. Hiệp hội Thƣơng mại điện tử Việt Nam hoạt động trong phạm

vi cả nƣớc, do vậy việc tiếp nhận các phản hồi t những thành viên sẽ là bức

tranh phản ánh trung thực, toàn cảnh về TMĐT ở Việt Nam và trên cơ sở đó,

có những đóng góp trong việc xây dựng, sửa đổi pháp luật nhằm đáp ứng yêu

cầu của xã hội trong lĩnh vực này.

Page 92: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

86

Đây cũng là kênh thông tin quan trọng, hỗ trợ đắc lực cho các chủ thể

tham gia TMĐT các kiến thức pháp luật để chấp hành pháp luật cũng nhƣ bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

3.3.2. Thực trạng cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật trong lĩnh

vực thƣơng mại điện tử

Để đảm bảo vai trò quản lý nhà nƣớc trong hoạt động thƣơng mại điện

tử, với tính đặc thù và chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật nên cơ chế

thực thi pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc vận hành bởi các chủ thể chính

tham gia hoạt động này, bao gồm: Các cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với hoạt

động thƣơng mại điện tử; Các cơ quan giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực

thƣơng mại điện tử nhƣ Trọng tài, Tòa án.

a) Bộ Công thương

Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin là tổ chức trực thuộc

Bộ Công thƣơng, thực hiện chức năng tham mƣu, giúp Bộ trƣởng quản lý nhà

nƣớc và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực hoạt động thƣơng mại điện

tử, ứng dụng công nghệ thông tin v.v...Cơ quan Quản lý thị trƣờng thuộc Bộ

Công thƣơng có trách nhiệm trong việc phát hiện, kiểm tra các vi phạm về Sở

hữu trí tuệ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, phối hợp với các cơ quan

khác nhƣ Hải quan, Thuế để xử lý hành chính hoặc các biện pháp khác để bảo

vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ v.v...

Theo quy định tại Thông tƣ số 47/2014/TT- BCT ngày 5/12/2014

(Thay thế Thông tƣ số 12/2013/TT-BCT) quy định về thủ tục thông báo, đăng

ký và công bố thông tin liên quan đến Website thƣơng mại điện tử. Theo nội

dung thông tƣ này thì pháp luật chỉ quy định đăng ký, thông báo đối với

những cá nhân, tổ chức kinh doanh sàn giao dịch điện tử và Website thƣơng

mại điện tử, ngoài ra không cấp phép thêm loại hình nào khác. Mặt khác, do

quy định còn chung chung, mơ hồ, không có định nghĩa rõ ràng thế nào là

Website thƣơng mại điện tử nên số lƣợng xin cấp phép trong thời gian qua

không lớn, không tƣơng xứng với tốc độ phát triển của hoạt động thƣơng mại

Page 93: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

87

điện tử dẫn đến hiệu quả quản lý kém, không đáp ứng đƣợc yêu cầu quản lý

nhà nƣớc. Mặc dù pháp luật quy định rất rõ về trách nhiệm của các chủ sở

hữu website bán hàng, sàn giao dịch điện tử hay cá nhân kinh doanh phải

đăng ký với các cơ quan có thẩm quyền, cung cấp các thông tin cơ bản nhƣ:

Địa chỉ, tên tuổi của cá nhân, số giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, mã

số thuế của doanh nghiệp v.v...nhƣng trên thực tế, số lƣợng website có đăng

ký chỉ chiếm chƣa tới 4%, riêng các cá nhân tham gia bán hàng qua mạng

internet, các trang mạng xã hội nhƣ Facebook hay Yahoo, Twiter v.v...không

đăng ký theo quy định, không cung cấp các thông tin, nên rất nhiều trƣờng

hợp ngƣời có quyền và lợi ích bị xâm hại không thể liên hệ, khiếu nại hay

khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền. Thực tiễn này cho thấy nếu không có

biện pháp quản lý phù hợp sẽ dẫn đến hệ quả là thất thu thuế, không bảo vệ

đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ TMĐT.

Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật

của các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử thì hoạt động thanh

tra, kiểm tra cũng nhƣ các cơ chế phát hiện vi phạm phải diễn ra thƣờng

xuyên, liên tục mới đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển lành mạnh của hoạt động

TMĐT.Trên thực tế thì với biên chế nhân sự không đủ, trang thiết bị phục vụ

cho công tác thanh kiểm tra rất hạn chế nên thực tế cho thấy công tác này gần

nhƣ chỉ quy định cho có, không khả thi và không đƣợc triển khai trên thực tế,

ngoại tr những vụ việc bị báo chí hay cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện.

Việc hủy bỏ, thu hồi giấy phép đăng ký hiện nay xảy ra rất ít vì không

có cơ chế phát hiện những vi phạm của chủ sở hữu Website nhƣ: Không cập

nhật thông tin, không đăng ký lại Website sau khi chuyển nhƣợng, kinh doanh

hàng hóa dịch vụ bị cấm v.v…

Hội bảo vệ Ngƣời tiêu dùng là các cơ quan nhà nƣớc về bảo vệ ngƣời

tiêu dùng đƣợc thành lập theo quy định của pháp luật, theo đó:

Bộ Công Thƣơng là cơ quan quản lý nhà nƣớc về bảo vệ quyền lợi

ngƣời tiêu dùng ở trung ƣơng. Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan giúp Bộ

Page 94: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

88

trƣởng Bộ Công Thƣơng thực hiện quản lý nhà nƣớc về bảo vệ quyền lợi

ngƣời tiêu dùng.

Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng mại điện tử cũng là

một nhiệm vụ của cơ quan này, hiện nay trên cả nƣớc mới chỉ có 50 tỉnh,

thành phố có địa chỉ liên hệ, email, số điện thoại để bảo vệ ngƣời tiêu dùng

trong khi hoạt động TMĐT đƣợc thực hiện ở mọi địa phƣơng, mọi lúc, mọi

nơi nên chƣa có cơ chế để bảo vệ họ t các cơ quan quản lý nhà nƣớc cũng

nhƣ nhận đƣợc sự giúp đỡ của cơ quan bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng.

b) Ủy ban nhân dân các cấp

Trên thực tế thì UBND các cấp chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến

hỗ trợ phát triển TMĐT trên địa phƣơng mình nhƣng trong thời gian qua, vai

trò của UBND các cấp rất mờ nhạt trong việc triển khai thực hiện các quy

định của pháp luật về TMĐT. Trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật

về TMĐT cho ngƣời dân chƣa tƣơng xứng với yêu cầu của xã hội trong vấn

đề này nên Hoạt động TMĐT chƣa phát triển nhƣ kỳ vọng, quyền và lợi ích

của ngƣời tiêu dùng chƣa đƣợc bảo đảm. Sự phối hợp của các cơ quan liên

quan cấp tỉnh nhƣ Sở Công thƣơng, Sở Thông tin và truyền thông, Hải quan,

cơ quan Thuế, Công an chƣa nhịp nhàng, đồng bộ và có hiệu quả.

c) Bộ Thông tin truyền thông

Là cơ quan chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ trong việc chủ trì, phối

hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan đến hoạt động quản lý nhà

nƣớc về công nghệ thông tin, đây là yếu tố nền tảng hình thành, tồn tại và

phát triển của hoạt động thƣơng mại điện tử.

Chính sách pháp luật về Hạ tầng công nghệ thông tin, phát triển nguồn

nhân lực, Đầu tƣ cho công nghệ thông tin, chính sách về cung cấp dịch vụ

thông tin và ứng dụng Công nghệ thông tin trong thƣơng mại là nền tảng cơ

bản cho TMĐT phát triển, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.

Việc giao chức năng nhiệm vụ cho Bộ Thông tin truyền thông về vấn

đề xây dựng các chính sách pháp luật có liên quan đến TMĐT trong thời gian

Page 95: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

89

qua đã có tác động tích cực đến hoạt động thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện

tử.

d) Các cơ quan giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực

thương mại điện tử

Các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể trong hoạt động thƣơng mại

điện tử gồm;

- Trong tài thƣơng mại

- Hệ thống Tòa án nhân dân các cấp

Trên thực tế, việc giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử đƣợc

giải quyết tại cơ quan trọng tài chỉ phát sinh khi giá trị tranh chấp lớn, thƣờng

là các tranh chấp giữa các thƣơng nhân trong quan hệ B2B, còn những quan

hệ khác có giá trị thấp hoặc các bên không có thỏa thuận trọng tài sẽ không sử

dụng biện pháp này.

Hệ thống tòa án nhân dân là nơi giải quyết cuối cùng của các tranh

chấp thƣơng mại điện tử, giải quyết các vụ kiện hành chính giữa các cá nhân,

tổ chức, thƣơng nhân khi họ không chấp nhận các quyết định hành chính của

các cơ quan quản lý nhà nƣớc có liên quan.

Trong trƣờng hợp các vi phạm pháp luật cần phải bị xử lý hình sự thì

các cơ quan tiến hành tố tụng nhƣ: Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát nhân dân

sẽ tiến hành điều tra, truy tố và vụ án đƣợc xét xử tại Tòa án nhân dân có

thẩm quyền.

3.4. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ

XỬ LÝ VI PHẠM TRONG THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

3.4.1 Những tranh chấp phổ biến và biện pháp giải quyết tranh

chấp trong thƣơng mại điện tử thời gian vừa qua.

Một trong các tranh chấp phổ biến trong hoạt động thƣơng mại điện tử

chủ yếu phát sinh trong các quan hệ B2C - (Doanh nghiệp với ngƣời tiêu

dùng), tức phát sinh giữa ngƣời tiêu dùng và doanh nghiệp hay thƣơng nhân

với nội dung tranh chấp nhƣ: Bên bán có hành vi l a dối khách hàng, giao

Page 96: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

90

hàng hóa, dịch vụ không đúng nhƣ trong nội dung quảng cáo sản phẩm. Thời

gian giao nhận hàng hóa, dịch vụ không đúng cam kết, không đổi trả hàng hóa

dịch vụ. Trên thực tế hiện nay, bên vi phạm nghĩa vụ thƣờng là Doanh nghiệp

hay thƣơng nhân sở hữu Website bán hàng hoặc tham gia bán hàng trực tuyến

trên Sàn giao dịch điện tử hay những cá nhân bán hàng trên các mạng mở

khác mà lại không phải do ngƣời tiêu dùng vi phạm nghĩa vụ. Sở dĩ có thực

trạng nêu trên là sau khi giao kết hợp đồng, ngƣời tiêu dùng hoặc phải thanh

toán trực tuyến hay thanh toán qua thẻ thanh toán hoặc qua các hình thức khác

nhƣng họ luôn là ngƣời thực hiện nghĩa vụ của mình trƣớc, đây là nguyên

nhân dẫn đến tranh chấp chủ yếu trong quan hệ thƣơng mại điện tử theo mô

hình B2C – (Doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng). Với việc sử dụng các mạng

xã hội để quảng cáo, mua bán hàng hóa thì quan hệ theo mô hình C2C cũng

xảy ra nhiều tranh chấp nhƣng thƣờng giá trị không lớn, bên bán hàng không

đăng ký vì luật không quy định, do vậy khó xác định thẩm quyền giải quyết

tranh chấp. Không chỉ vi phạm nghĩa vụ khi đã giao kết hợp đồng, để quảng

cáo sản phẩm dịch vụ, các Thƣơng nhân hoặc doanh nghiệp đã cấu kết với

nhiều cá nhân tổ chức khác để sử dụng thông tin của khách hàng để gửi tin

nhắn rác nhằm quảng cáo trên các thiết bị di động hay qua điện thoại và

Email, hành vi quấy rối này lẽ ra phải bị xử lý hành chính hoặc khởi kiện ra

Tòa án để yêu cầu bồi thƣờng các thiệt hại phát sinh, tuy nhiên do các quy

định của pháp luật còn phức tạp, nhiều thủ tục tố tụng làm mất thời gian cũng

nhƣ nhiều yếu tố khác nên các tranh chấp này không phát sinh nhiều nhƣng

trong tƣơng lai gần, đây cũng là một dạng tranh chấp cần phải giải quyết.

Đối với các quan hệ thƣơng mại điện tử theo mô hình B2B – (Doanh

nghiệp với Doanh nghiệp) có giá trị tranh chấp lớn và khi có tranh chấp xảy ra

các Doanh nghiệp hay thƣơng nhân mới tiến hành giải quyết bằng trọng tài

hay khởi kiện ra tòa án có thẩm quyền.

Page 97: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

91

Các tranh chấp nhƣ Tên miền hay quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng

mại điện tử cũng đã bắt đầu xuất hiện và có xu hƣớng tăng nhanh trong thời

gian v a qua.

Để giải quyết các tranh chấp giữa ngƣời tiêu dùng với bên bán hàng

trong thƣơng mại điện tử, pháp luật có liên quan đã quy định các trình tự thủ

tục để giải quyết các tranh chấp bằng các cách thức t đơn giản nhƣ khiếu nại

và giải quyết khiếu nại giữa khách hàng và bên bán hàng hóa dịch vụ, giữa

các bên tranh chấp có thể thƣơng lƣợng, hòa giải để giải quyết. Thực tế hiện

nay, việc giải quyết tranh chấp đƣợc giải quyết bằng những hình thức nhƣ:

Thƣơng lƣợng, hòa giải, giải quyết bằng trọng tài, giải quyết bằng biện pháp

dân sự thông qua thủ tục tố tụng tại tòa án, ngoài ra còn áp dụng biện pháp

hành chính hoặc xử lý hình sự.

3.4.2. Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp dân sự

a) Thƣơng lƣ ng, hòa giải thông qua công cụ trực tuyến

Giải quyết tranh chấp bằng hình thức thƣơng lƣợng, hòa giải bằng các

công cụ trực tuyến giữa ngƣời tiêu dùng với các Doanh nghiệp hay thƣơng

nhân sở hữu Website bán hàng hay tham gia bán hàng thông qua các Sàn giao

dịch điện tử là việc khách hàng có thể gửi các khiếu nại hay các yêu cầu thực

hiện nghĩa vụ của bên bán trên các phƣơng tiện điện tử mà mình đã t ng thực

hiện việc giao kết hợp đồng hoặc thông qua hình thức trao đổi thông tin tƣơng

tác nhƣ điện thoại hay công cụ Chat để giải quyết các bất đồng hay mâu thuẫn

phát sinh t hợp đồng. Hiện nay, hầu hết các Website bán hàng hóa, dịch vụ

hay các Sàn giao dịch điện tử đều có công bố các điều khoản về giải quyết

khiếu nại của khách hàng bằng việc cung cấp các số điện thoại Hotline hay

Email. Nhƣ vậy các hình thức có thể tƣơng tác đƣợc giữa hai bên nhằm giải

quyết dứt điểm các tranh chấp, và thực tế, bên yếu thế và phải chịu thiệt thòi

luôn là khách hàng chứ không phải doanh nghiệp bán hàng hay thƣơng nhân.

Trong Nghị định về thƣơng mại điện tử và các văn bản có liên quan đến

lĩnh vực này, việc quy định không rõ ràng, không cụ thể hay định danh các

Page 98: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

92

phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại điện tử bằng biện pháp hòa

giải, thƣơng lƣợng trên các công cụ trực tuyến nên đôi khi các Chủ Website

hay các Doanh nghiệp, Thƣơng nhân chỉ đặt ra các điều khoản mang tình

chống đối, không có thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp với ngƣời tiêu

dùng.

Thực tiễn cho thấy, nếu giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa

giải, thƣơng lƣợng thông qua các công cụ trực tuyến đƣợc quy định cụ thể,

chặt chẽ gắn với việc thanh tra kiểm tra xử lý hiệu quả thì sẽ góp phần giải

quyết dứt điểm, thỏa đáng và nhanh chóng, bảo vệ đƣợc quyền lợi ngƣời tiêu

dùng trong thƣơng mại điện tử. Nếu các hành vi thƣơng mại đƣợc giao kết

hay thực hiện một phần hay toàn bộ bằng phƣơng tiện điện tử thì cũng cần có

phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng các phƣơng tiện tƣơng ứng, coi đó

nhƣ một biện pháp cân bằng về phƣơng diện kỹ thuật nhằm tận dụng các lợi

thế của thƣơng mại điện tử không phải là nguyên nhân tiêu cực dẫn đến tranh

chấp.

b) Giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử bằng trọng tài

Việc lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài phải đƣợc các bên

tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử tự nguyện lựa chọn khi giao kết hợp

đồng hoặc khi phát sinh tranh chấp.

Hiện nay, quan hệ Thƣơng mại điện tử phát sinh chủ yếu ở một số mô

hình giao dịch là B2B - (doanh nghiệp với doanh nghiệp), B2C - (doanh

nghiệp với ngƣời tiêu dùng), C2C - (ngƣời tiêu dùng với ngƣời tiêu dùng)

thông qua các Website bán hàng trực tuyến hoặc Sàn Giao dịch điện tử và các

mạng mở khác. Thông thƣờngtrong các điều khoản của hợp đồng, trong đó có

điều khoản giải quyết tranh chấp do bên bán hàng tự đƣa ra và xây dựng hợp

đồng (Hợp đồng mẫu hay còn gọi là Hợp đồng gia nhập). Việc thỏa thuận

thực sự giữa các bên rất ít xảy ra vì các giao diện của các Website không có

các thiết kế phù hợp để các bên tự thỏa thuận trong đó có thỏa thuận về giải

quyết tranh chấp bằng Trọng tài.

Page 99: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

93

Theo quy định tại Điều 17 Luật Trọng tài thƣơng mại về quyền lựa

chọn phƣơng thức giải quyết tranh chấp của ngƣời tiêu dùng thì:

“Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người

tiêu dùng, m c dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện

chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận

trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài ho c Tòa án

để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền

khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.”

Thực tiễn cho thấy, khi giải quyết tranh chấp thƣơng mại giữa các

doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với cá nhân và ngƣợc lại thì cơ chế giải

quyết này có nhiều ƣu điểm vƣợt trội, nhanh chóng, dứt điểm, đảm bảo hài

hòa quyền và nghĩa vụ của các bên. Trên các trang Website bán hàng trực

tuyến hay Sàn giao dịch điện tử thì các thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng

Trọng tài không đƣợc đề cập, và bên bán hàng lập Hợp đồng điện tử theo mẫu

với các điều khoản đơn giản, có lợi cho mình nhƣ: Khiếu nại, bảo hành, bảo

trì hay đổi hàng hóa v.v...

Theo Báo cáothƣơng mại điện tử 2014 thì các sản phẩm, hàng hóa dịch

vụ là đối tƣợng mua bán trong thƣơng mại điện tử có giá trị không lớn, mặc

dù không có giá ngạch nhƣng phí Trọng tài cũng sẽ là cản trở khi ngƣời tiêu

dùng lựa chọn phƣơng thức này tr các giao dịch B2B - (Doanh nghiệp với

Doanh nghiệp), B2C (Doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng).

Nhƣ vậy, thứ nhất, các thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài

đã đƣợc bên bán hàng loại bỏ ngay t khi xây dựng các Website bán hàng

trực tuyến hoặc trên các gian hàng trên Sàn giao dịch điện tử bằng cách không

xây dựng nội dung hợp đồng về điều khoản giải quyết tranh chấp. Thứ hai,

nếu có thỏa thuận thì các tranh chấp t phía cá nhân cũng ít khi lựa chọn sử

dụng biện pháp Trọng tài. Trong các giao dịch khác thì các chủ thể tham gia

cũng chỉ quan tâm đến các nội dung nhƣ: Đối tƣợng của Hợp đồng là dịch vụ

hàng hóa, giá cả, phƣơng thức thanh toán, các nội dung khác nhƣng không có

Page 100: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

94

nội dung hay điều khoản về giải quyết tranh chấp và mặc nhiên đƣợc hiểu

rằng mọi tranh chấp sẽ do Tòa án giải quyết nếu có tranh chấp.

c) Giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử tại Tòa án.

Do không có các thỏa thuận hoặc do ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại

điện tử không lựa chọn Trọng tài nên việc giải quyết các tranh chấp thƣơng

mại điện tử thƣờng đƣợc các bên khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền.

Trên thực tế, có rất ít các vụ án tranh chấp liên quan đến hoạt động

thƣơng mại điện tử theo mô hình B2C – (doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng)

đƣợc Tòa án Thụ lý vì một số lý do sau:

Thông thƣờng khi khởi kiện, Nguyên đơn phải thu thập và cung cấp

cho Tòa án các chứng cứ đƣợc thể hiện dƣới dạng văn bản viết đƣợc xác nhận

của cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án mới thụ lý. Sau đó xác minh theo yêu

cầu của các Đƣơng sự nhằm chứng minh cho yêu cầu của họ. Khi chƣa thụ lý,

Tòa án hay các Đƣơng sự không thể tự mình mà thu thập chứng cứ trên

nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng dân sự đó là: “Nghĩa vụ chứng minh thuộc về

các Đương sự”.

Về mặt bản chất thì các chứng cứ điện tử có giá trị tƣơng đƣơng thuộc

tính đối với văn bản, các nguyên tắc này đƣợc quy định trong Luật Giao dịch

điện tử, Luật Thƣơng mại, Nghị định về Thƣơng mại điện tửcũng nhƣ các văn

bản có liên quan nhƣng trên thực tế thì Giá trị pháp lý và nguyên tắc tƣơng

đƣơng thuộc tính vẫn còn nhiều khó khăn khi áp dụng các chứng cứ điện tử.

Do quy định mang tính nguyên tắc, tức là có ý nghĩa trong việc áp dụng pháp

luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý nhà nƣớc cũng nhƣ áp

dụng tƣơng đƣơng thuộc tính để giải quyết tranh chấp nhƣng không có các

văn bản hƣớng dẫn của Cơ quan có thẩm quyền nhƣ Ủy ban Thƣờng vụ Quốc

Hội hay Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc

không đƣợc quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự thì sẽ không thể giải

quyết các tranh chấp thƣơng mại đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử.

Page 101: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

95

Hiện nay luật quy định rằng “Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn

được” Nhƣng không có các quy định cụ thể về hình thức vật chất chứa đựng

chứng cứ điện tử, trình tự thu thập, xác minh chứng cứ cũng nhƣ hƣớng dẫn

các trình tự thủ tục tố tụng chuyên biệt để Thụ lý giải quyết các tranh chấp

thƣơng mại có các chứng cứ điện tử.

Tranh chấp trong thƣơng mại điện tử xảy ra với nhiều ngƣời, nhiều tổ

chức, ở nhiều địa phƣơng khác nhau nên nếu chỉ căn cứ vào giá trị tranh chấp

hay quy định cứng về thẩm quyền giải quyết thì sẽ khó giải quyết. Thông

thƣờng, để thu thập một chứng cứ quan trọng trên máy tính, ngƣời tiêu dùng

phải sử dụng dịch vụ th a phát lại để lập vi bằng xác nhận tính xác thực của

các nội dung Hợp đồng điện tử đã giao kết. Theo quy định thì giá ngạch của

một dịch vụ có mức tối thiểu nhiều triệu đồng trong khi giá trị tranh chấp chỉ

có thể bằng hoặc có khi thấp hơn thì rõ ràng bên bán hàng hóa, dịch vụ đã né

tránh trách nhiệm của mình vì không lo sợ bị khởi kiện ra Tòa án. Không

những thế, việc quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án theo

nơi cƣ trú, trụ sở đăng ký của Bị đơn sẽ gây khó khăn khi trụ sở, nơi cƣ trú

của Bị đơn có khoảng cách địa lý rất xa đối với Nguyên đơn sẽ xảy ra tình

trạng không tƣơng xứng về chi phí khi lựa chọn khởi kiện tại Tòa án trong

mối quan hệ giữa giá trị hàng hóa dịch vụ và chi phí đi lại, lƣu trú mà Nguyên

đơn phải bỏ ra.

Trong thực tiễn giải quyết các vụ án giải quyết tranh chấp trong thƣơng

mại điện tử theo mô hình B2B – (Doanh nghiệp với Doanh nghiệp) thì

Nguyên đơn mới khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền vì các Hợp đồng có giá

trị lớn, nhƣng các chứng cứ điện tử đƣợc xem xét mang tính hỗ trợ cho các

chứng cứ khác nếu phù hợp mà rất hiếm khi đƣợc sử dụng độc lập. Việc Tòa

án không chấp nhận các chứng cứ điện tử có tính độc lập và có giá trị pháp lý

nhƣ văn bản viết hoặc các chứng cứ khác sẽ làm ảnh hƣởng tới quyền của các

cá nhân, tổ chức khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, đồng thời

Page 102: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

96

nguyên tắc của Bộ luật tố tụng dân sự cũng không đƣợc tôn trọng trong thực

tiễn.

Thực tiễn cũng cho thấy, khi giải quyết bằng thủ tục khiếu nại do pháp

luật quy định chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao vì trong các giao dịch thƣơng mại

điện tử thì ngƣời mua hàng hóa, dịch vụ là bên yếu thế, họ phải thực hiện

nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng bằng thẻ thanh toán hoặc chuyển tiền vào

tài khoản của bên bán trƣớc khi nhận đƣợc hàng hóa, dịch vụ nên họ chịu

nhiều thiệt thòi vì các cơ chế để bảo đảm khi họ thắng kiện bằng quyết định,

bản án của Tòa án có thẩm quyền, thì việc thi hành án cũng sẽ mất nhiều thời

gian, chi phí, tổn hại về tinh thần cũng nhƣ nhiều vấn đề phức tạp khác nên

các chủ website bán hàng hoặc các thƣơng nhân, cá nhân bán hàng hóa dịch

vụ thƣờng nắm bắt đƣợc yếu điểm này của ngƣời tiêu dùng để giành nhiều lợi

thế về cho mình. Do đặc điểm thƣơng mại điện tử là các chủ thể tham gia hoạt

động thƣơng mại điện tử có thể ở rất xa về khoảng cách địa lý nên việc giải

quyết bằng cách thức này không hiệu quả.

Các hình thức giao dịch B2B, B2C, C2C là các giao dịch chủ yếu phát

sinh các tranh chấp và thƣờng đƣợc lựa chọn giải quyết bằng thủ tục tố tụng

tại Tòa án. Các hình thức giao dịch khác nhƣ B2G, G2B, B2E v.v... thƣờng ít

phát sinh tranh chấp, hoặc nếu có thì sẽ lựa chọn các phƣơng thức giải quyết

tranh chấp khác chứ không lựa chọn thủ tục tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền

để khởi kiện vì việc thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của ngƣời

khởi kiện rất phức tạp, tốn kém hoặc ít có giá trị pháp lý, thời gian giải quyết,

chi phí tài chính không tƣơng xứng với các giá trị của tài sản, hàng hóa, dịch

vụ là đối tƣợng của hợp đồng phát sinh tranh chấp.

Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự không có quy định riêng biệt về thẩm

quyền, trình tự, thu thập chứng cứ điện tử mà chỉ có các quy định chung để

giải quyết các vụ việc dân sự. Điều này dẫn đến việc giải quyết các tranh chấp

phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử không kịp thời, nhanh chóng,

việc thu thập chứng cứ hoặc đánh giá chứng cứ không tuân thủ các nguyên tắc

Page 103: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

97

về công nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu nên không giải quyết triệt

để, khách quan, toàn diện các vụ án liên quan đến các hợp đồng, nhiều vụ án

không thể giải quyết đƣợc phải trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ, tạm đình

chỉ giải quyết vụ án.

3.5. XỬ LÝ VI PHẠM BẰNG CÁC BIỆN PHÁP KHÁC

a) Biện pháp hành chính

Để xử lý các vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử nhƣ: Có hành

vi gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi thực hiện các thủ tục thông

báo thiết lập website thƣơng mại điện tử, đăng ký website cung cấp dịch vụ

thƣơng mại điện tử, đăng ký hoặc xin cấp phép các dịch vụ giám sát, đánh giá

và chứng thực trong thƣơng mại điện tử v.v... và những hành vi cụ thể khác

nếu chƣa tới mức gây nguy hiểm cho xã hội và không cần xử lý bằng biện

pháp hình sự thì đều bị xử lý vi phạm hành chính. Tùytheo tính chất, mức độ

mà chủ thể có thẩm quyền có thể ra các quyết định hành chính cá biệt để xử

phạt đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm.

Nghị định số 185/2013/ NĐ-CP ngày 15/11/2013 đã quy định các hình

thức xử phạt vi phạm hành chính và mức phạt đối với các vi phạm cụ thể.

Trong Nghị định 185/2013/NĐ-CP dành một chƣơng để quy định về xử phạt

vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, tuy nhiên mức phạt còn rất thấp

so với thiệt hại mà vi phạm hành chính trong lĩnh vực này gây ra, ví dụ;

Tại khoản 2 điều 81 của Nghị định này quy định:

2.Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các

hành vi vi phạm sau đây:

a) Thiết lập website thương mại điện tử bán hàng mà không thông báo với cơ

quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định;

b) Không thông báo sửa đ i, b sung khi có sự thay đ i thông tin liên quan

đến website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử đã đăng ký với cơ quan

quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định.

Page 104: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

98

3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các

hành vi vi phạm sau đây:

a) Thiết lập website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử khi chưa được xác

nhận đăng ký theo quy định;

b) Nhận chuyển nhượng website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử mà

không làm thủ tục chuyển nhượng ho c không tiến hành đăng ký lại tên miền;

c) Triển khai cung cấp dịch vụ thương mại điện tử không đ ng với hồ sơ đăng

ký;

d) Gian dối ho c cung cấp thông tin sai sự thật khi đăng ký website cung cấp

dịch vụ thương mại điện tử;

đ) Giả mạo thông tin đăng ký trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện

tử;

e) Tiếp tục hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử sau khi chấm dứt

ho c bị hủy bỏ đăng ký.

4. Hình thức xử phạt b sung:

Đình chỉ hoạt động thương mại điện tử từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành

vi vi phạm quy định tại khoản 1, 2 và điểm a, b, c và d khoản 3 Điều này

trong trường hợp vi phạm nhiều l n ho c tái phạm.

5. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc thu hồi tên miền “.vn” của website thương mại điện tử đối với hành vi

vi phạm quy định tại điểm b, c, đ và e khoản 3 Điều này.”

Nhƣ vậy với mức độ tiếp cận thị trƣờng nhanh chóng và ít rào cản về

mặt địa lý, chỉ trong thời gian ngắn, các chủ sở hữu các Website bán hàng có

thể thu lợi bất chính rất lớn nên mức phạt cao nhất đến 30.000.000 đồng

không đủ sức răn đe. Mặt khác, trên thực tế việc bị đình chỉ hay thu hồi tên

miền .vn chỉ có tác dụng đối với tên miền của Việt Nam, còn dùng các tên

miền khác nhƣ .com, .org,.net v.v... thì không có ý nghĩa thực tế nếu các

Website có tên miền khác cũng có chức năng bán hàng hóa, dịch vụ.

Page 105: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

99

Hay nhƣ quy định về việc xâm phạm thông tin cá nhân tại khoản 3 điều

84 của Nghị định 185/2013/NĐ-CP có mức phạt tiền t 20.000.000 đồng

đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

“a) Thu thập thông tin cá nhân của người tiêu dùng mà không được sự đồng ý

trước của chủ thể thông tin;

b) Thiết lập cơ chế m c định buộc người tiêu dùng phải đồng ý với việc thông

tin cá nhân của mình bị chia sẻ, tiết lộ ho c sử dụng cho mục đích quảng cáo

và các mục đích thương mại khác;

c) Sử dụng thông tin cá nhân của người tiêu dùng không đ ng với mục đích

và phạm vi đã thông báo.”

Hiện nay, việc mua bán các thông tin của khách hàng diễn ra phổ biến

và giá trị mua bán rất cao, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng thông tin cá nhân

của khách hàng để bán cho những đối tƣợng khác để quảng cáo dịch vụ hay

thực hiện các mục đích khác trái với ý muốn của khách hàng, gây thiệt hại và

bức xúc cho những ngƣời bị xâm phạm thông tin cá nhân.

Trên thực tế, giữa các quy định về xử phạt hành chính và thực tiễn thi

hành pháp luật còn có một khoảng cách khá xa. Do các giao dịch thƣơng mại

điện tử diễn ra thƣờng xuyên, liên tục mọi lúc, mọi nơi và không có những

biểu hiện rõ rệt ra bên ngoài nên cơ chế phát hiện vi phạm hiện nay gần nhƣ

bất lực trƣớc thực tế này. Lý do thì có nhiều, nhƣng hiện hữu nhất chính là

nguồn nhân lực có chức năng nhiệm vụ phát hiện, xử lý các vi phạm hành

chính trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử còn thiếu về cơ số, yếu về chuyên

môn, không đƣợc trang bị các phƣơng tiện tƣơng ứng để thực hiện chức năng

nhiệm vụ của mình. Mặt khác, các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại

điện tử chƣa tích cực đấu tranh với những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

này bởi lẽ chỉ họ mới là ngƣời phát hiện vi phạm một cách chính xác nhất,

nhanh chóng nhất, đây cũng là một thực tế cần đƣợc xem xét, đánh giá để xây

dựng cơ chế phát hiện vi phạm trong các hoạt động thƣơng mại điện tử trong

thời gian tới.

Page 106: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

100

Có thể thấy, xử lý các vi phạm bằng biện pháp hành chính hiện nay

chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong hoạt động thƣơng

mại điện tử.

b) Biện pháp hình sự

Khi các hành vi vi phạm trong hoạt động thƣơng mại điện tử xâm hại

đến trật tự quản lý hành chính hay quan hệ sở hữuv.v... với tính chất, mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi và xâm hại đến những quan hệ xã hội đƣợc

Luật hình sự bảo vệ thì xử lý hình sự là biện pháp phù hợp, đảm bảo tính răn

đe riêng và phòng ng a chung trong tình hình tội phạm trong lĩnh vực này

ngày càng gia tăng cả về số lƣợng cũng nhƣ mức độ tinh vi, xảo quyệt của tội

phạm. Việc xử lý hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực này là chức năng,

nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua những trình tự tố tụng

hình sự ngặt nghèo vì tính chất của tố tụng hình sự đụng chạm đến con ngƣời

và các quyền con ngƣời cơ bản.

Để xử lý hành vi phạm tội trong hoạt động thƣơng mại điện tử nhƣ:

Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của

ngƣời tiêu dùng, l a đảo chiếm đoạt tài sản v.v... cần phải có đội ngũ cán bộ,

công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng có chuyên môn sâu, đƣợc đào

tạo các kỹ năng chuyên biệt cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nhƣng trên

thực tiễn mới chỉ có cơ quan công an có bộ phận chuyên biệt về phòng chống

tội phạm công nghệ cao, còn các cơ quan nhƣ Viện kiểm sát, Tòa án không có

các cơ quan tƣơng ứng cho nên công tác xét xử chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu

của xã hội trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động thƣơng

mại điện tử. Cơ chế phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan

quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực này chƣa có sự phối hợp ăn ý, thống nhất,

phân rõ chức năng nhiệm vụ của các bên tham gia phối hợp để giải quyết các

tranh chấp một cách hiệu quả, kịp thời, đáp ứng đƣợc yêu cầu của cá nhân, tổ

chức có yêu cầu giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử. Hiện

tại, hiệu quả của việc giải quyết các tranh chấp, điểm tựa cho ngƣời tiêu dùng

Page 107: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

101

hay các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử chƣa đáp ứng đƣợc sự

kỳ vọng của họ, do vậy làm suy giảm, hoài nghi các hoạt động thƣơng mại

bằng phƣơng tiện điện tử.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Pháp luật Việt Nam trong những năm qua đã ghi nhận các hoạt động

kinh doanh, thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử, quy định kinh doanh

dịch vụ thƣơng mại điện tử là một ngành, nghề kinh doanh; th a nhận giá trị

pháp lý của chứng t điện tử; các quy định về thuế nhƣ hƣớng dẫn giao dịch

điện tử trong lĩnh vực thuế, công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ giá trị gia

tăng về giao dịch điện tử trong hoạt động hải quan; quy định về vấn đề bảo vệ

ngƣời tiêu dùng khi tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử nhƣ trong giao

dịch thƣơng mại truyền thống v.v...Có thể nói, các khung pháp luật điều

chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử mà Nhà nƣớc ta đã ban hành đang dần

đáp ứng đƣợc yêu cầu bảo đảm về mặt pháp lý cho việc phát triển thƣơng mại

điện tử. Tuy nhiên, việc ban hành các quy định pháp luật tự thân nó không thể

giải quyết đƣợc mọi vấn đề. Các quy định pháp luật đƣợc xây dựng nhằm đƣa

ra những chuẩn mực chung về cách hành xử cho những chủ thể tham gia một

lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội. Do vậy, dù ở bất kỳ lĩnh vực nào, quy

định pháp luật cũng chỉ có thể đƣợc xây dựng sau một quá trình quan sát và

đúc kết t thực tiễn đời sống xã hội.

Việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật

thƣơng mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian v a qua sẽ đánh giá sự phù

hợp của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, về thẩm quyền của các chủ

thể áp dụng pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật thƣơng mại điện tử của các

chủ thể có nghĩa vụ tuân thủ, cơ chế thực hiện pháp luật và giải quyết tranh

chấp trong lĩnh vực này. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá sẽ tìm ra những bất

cập, những lỗ hổng pháp lý cũng nhƣ đánh giá tổng thể các tiêu chí đối với

một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam nhƣ: Tính thống nhất, tính

đồng bộ, tính khả thi, tính kinh tế, tính minh bạch v.v. Trên cơ sở đó đề xuất

Page 108: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

102

những giải pháp mang tính định hƣớng cũng nhƣ cụ thể để hoàn thiện pháp

luật thƣơng mại điện tử nhằm đáp ứng các tiêu chí cơ bản đối với các văn bản

quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử.

Việc nghiên cứu, đánh giá cơ chế thực hiện pháp luật thƣơng mại điện

tử cũng nhƣ cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này dựa trên các đặc

điểm của thƣơng mại điện tử, tập quán thƣơng mại, các trình tự tố tụng và phi

tố tụng, t đó sẽ cho thấy những hạn chế đối với cơ chế thực hiện, cơ chế giải

quyết tranh chấp. Trên cơ sở nghiên cứu sẽ hình thành đƣợc những luận điểm

nhằm đề xuất, kiến nghị những giải pháp cụ thể để hoàn thiện cơ chế thực

hiện pháp luật thƣơng mại điện tử trong thời gian tới nhằm đảm bảo tính khả

thi của các văn bản quy phạm pháp luật. Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh

chấp trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử sẽ có những tác động quan trọng trong

việc nâng cao niềm tin của ngƣời tiêu dùng đối với loại hình thƣơng mại mới

mẻ này, bảo vệ kịp thời, thỏa đáng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên

tham gia quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử.

Mặc dù thƣơng mại điện tử phát triển mạnh mẽ trong thời gian v a qua

cũng nhƣ những dấu hiệu tích cực trong thời gian tới, tuy nhiên, vẫn còn

nhiều thách thức đặt ra cho quá trình điều chỉnh pháp luật đối với các hoạt

động thƣơng mại điện tử, đặc biệt là việc xây dựng ý thức pháp luật, lòng tin

của ngƣời dân và doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của họ khi tham gia lĩnh vực này. Vấn đề này cũng đang vƣợt khỏi phạm vi

các biện pháp chế tài và quản lý hành chính của các cơ quan nhà nƣớc, mà đòi

hỏi sự chung sức của cả Nhà nƣớc, cộng đồng doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng

và toàn xã hội.

Page 109: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

103

CHƢƠNG 4

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

4.1. ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI

ĐIỆN TỬ

4.1.1. Yêu cầu điều chỉnh pháp luật đối với thƣơng mại điện tử

Kinh nghiệm thực tế của nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy, để thúc đẩy

thƣơng mại điện tử phát triển, thì vai trò của Nhà nƣớc phải đƣợc thể hiện rõ

nét trên hai lĩnh vực: (i) Cung ứng dịch vụ điện tử và (ii) Xây dựng một hệ

thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ

thƣơng mại điện tử. Nếu nhƣ chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc

cho thƣơng mại điện tử hoạt động, thì các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng sẽ

rất lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ

quan nhà nƣớc cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát đƣợc các hoạt động kinh

doanh thƣơng mại điện tử. Hơn thế nữa, thƣơng mại điện tử là một lĩnh vực

mới mẻ, cho nên tạo đƣợc niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ

thƣơng mại điện tử là một việc làm có tính cấp thiết, mà một trong những hạt

nhân là phải tạo ra đƣợc một sân chơi chung với những quy tắc đƣợc thống

nhất một cách chặt chẽ.

Trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đang tích cực tham

gia và ủng hộ sự phát triển của thƣơng mại điện tử, lý do rất đơn giản là

thƣơng mại điện tử đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền

thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh

đó,chúng ta cũng cần th a nhận rằng sẽ có rất nhiều rủi ro trong quá trình

giao dịch, kinh doanh trên mạng, đòi hỏi phải có cơ chế điều chỉnh pháp luật

phù hợp để có thể bảo đảm an toàn cho các loại giao dịch này, đồng thời, hoà

nhập và theo kịp các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy, yêu cầu

Page 110: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

104

điều chỉnh pháp luật đối với thƣơng mại điện tử phải xuất phát t các vấn đề

sau đây:

Một là, điều chỉnh pháp luật đối với thương mại điện tử phải xuất

phát từ quan điểm và các nguyên tắc nền tảng của pháp luật thương mại

truyền thống

Vai trò và giá trị cao nhất của pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã

hội. Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, pháp luật phải phản ánh các quy luật

và nguyên lý của thị trƣờng, lấy tự do, dân chủ và bình đẳng trong hoạt động

kinh tế làm phƣơng châmđiều chỉnh pháp luật. Để các hoạt động kinh doanh,

thƣơng mại diễn ra có trật tự, cần thiết phải thiết kế và xây dựng một hệ thống

các văn bản pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, có tính thống nhất cao.

Quan hệ thƣơng mại điện tử bắt nguồn t các quan hệ thƣơng mại

truyền thống, vì vậy, việc điều chỉnh pháp luật đối với thƣơng mại điện tử cần

xuất phát t các quan điểm, nguyên tắc nền tảng của quan hệ thƣơng mại

truyền thống. Pháp luật phải đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh thuộc mọi

thành phần kinh tế bình đẳng trƣớc pháp luật trong hoạt động thƣơng mại;

đảm bảo cho các bên hoàn toàn tự nguyện, tự do thoả thuận để xác lập các

quan hệ thƣơng mại không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong

mỹ tục và đạo đức xã hội; đƣợc áp dụng thói quen đã đƣợc thiết lập giữa các

bên và tập quán trong hoạt động thƣơng mại nhƣng không đƣợc trái với quy

định của pháp luật. Trong hoạt động thƣơng mại, các thông điệp dữ liệu đáp

ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì đƣợc

th a nhận có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng văn bản v.v...Bên cạnh đó, pháp luật

cũng cần xác định rõ nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh bảo vệ quyền lợi

chính đáng của ngƣời tiêu dùng nhƣ phải chịu trách nhiệm về chất lƣợng, tính

hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mà mình kinh doanh, nghĩa vụ thông tin đầy

đủ, trung thực cho ngƣời tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ mà mình kinh

doanh và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó.

Page 111: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

105

Hai là,điều chỉnh pháp luật đối với thương mại điện tử phải xuất

phát từ các yếu tố đặc thù của hoạt động thương mại điện tử

Thƣơng mại điện tử là sự phát triển của thƣơng mại truyền thống, đƣợc

cấu thành bởi nhiều thành tố trong đó có sự áp dụng các thành quả của khoa

học kỹ thuật phục vụ đời sống con ngƣời cũng nhƣ việc thỏa mãn các nhu cầu

khác của xã hội. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới vận hành trên nền tảng

của công nghệ điện tử và công nghệ viễn thông, đòi hỏi phải có cơ chế điều

chỉnh pháp luật phù hợp, tƣơng thích nhằm đảm bảo để các quan hệ về thƣơng

mại điện tử phát triển hiệu quả, khả thi, có tính định hƣớng đúng đắn, lành

mạnh và bền vững.

Pháp luật về thƣơng mại điện tử cần phải đảm bảo cho một giao dịch

kinh doanh, thƣơng mại thành công, an toàn trên mạng theo các yêu cầu sau

đây:

Thứ nhất,đảm bảo tính an toàn trongthương mại điện tử

An toàn và tin cậy là các yếu tố mà ngƣời tham gia thƣơng mại điện tử

phải cân nhắc trƣớc khi quyết định tham gia. Nếu ngƣời sử dụng cảm thấy

thông tin về giao dịch của họ không đƣợc đảm bảo an toàn, có thể bị sửa đổi

họ sẽ không tham gia thƣơng mại điện tử. Bên cạnh đó, ngƣời sử dụng cũng

đặt ra các câu hỏi rằng, có gì đảm bảo để thông tin gửi đi không bị thay đổi

trong quá trình gửi?làm sao chứng minh thông điệp đã đƣợc gửi hay đã đƣợc

nhận? Vấn đề đặt ra là cần phải có các giải pháp để đảm bảo rằng thông tin

truyền tải trên mạng không đƣợc truy cập hay sao chép bởi bên thứ ba ngoài

ngƣời gửi và ngƣời nhận; xây dựng một quy trình kiểm soát thông tin và và

xác nhận thông tin đầu cuối của quá trình truyền tải thông tin trong giao dịch

thƣơng mại điện tử. Để đạt đƣợc mục tiêu này, trƣớc hết phải xây dựng đƣợc

hạ tầng viễn thông an toàn, trên đó có các phƣơng tiện để bảo vệ thông tin,

tránh khám phá, sử dụng trái phép. Bên cạnh đó, cần phải có một hành lang

pháp lý đầy đủ phân định rõ ràng trách nhiệm của các chủ thể tham gia

thƣơng mại điện tử ở tất cả các công đoạn của giao dịch thƣơng mại mà tính

Page 112: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

106

an toàn, độ tin cậy bị đe doạ nhƣ máy trạm, máy chủ, đƣờng truyềnv.v... Đây

chính là vấn đề quan trọng, cốt yếu mà pháp luật về thƣơng mại điện tử phải

chú trọng, bởi ngoài kỹ thuật lập pháp, còn phải hiểu biết sâu sắc về các vấn

đề liên quan đến điện tử, viễn thông. Mặt khác, pháp luật cũng cần có quy

định về nhận thức của các chủ thể tham gia giao dịch phải tự bảo vệ mình

bằng các biện pháp kỹ thuật.

Thứ hai,đảm bảo tính hợp pháp trongthương mại điện tử

Trong thƣơng mại điện tử, ngƣời mua và ngƣời bán giao tiếp trong thế

giới ảo, họ không thấy mặt nhau, không biết rõ về nhau, vì vậy, làm sao để

ngƣời nhận và ngƣời gửi có thể chứng thực tƣ cách của nhau? Giải pháp là

chữ ký điện tử, thông qua phƣơng tiện điện tử, các yêu cầu về đặc trƣng của

chữ ký tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử trở

thành một thành tố quan trọng trong văn bản điện tử.

Điều chỉnh pháp luật đối với lĩnh vực này cần phải tập trung vào việc

đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ ký điện tử, cho phép các bên không liên

quan hoặc có ít thông tin về nhau có thể xác định đƣợc chính xác chữ ký điện

tử của các bên đối tác.Và để xác định đƣợc độ tin cậy của chữ ký điện tử,

pháp luật cũng cần quy định một cơ quan trung gian có thẩm quyền chứng

thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký điện tử.

Tính hợp pháp trong thƣơng mại điện tử còn đòi hỏi ở việc phải đảm

bảo tính bảo mật và tôn trọng quyền riêng tƣ. Thông tin cá nhân phải đƣợc

luật pháp tôn trọng. Cá nhân đƣợc quyền đảm bảo bí mật các thông tin về đời

tƣ. Khi thực hiện các giao dịch thƣơng mại điện tử, các chủ thể tham gia giao

dịch thƣờng đƣợc yêu cầu phải khai báo các thông tin cá nhân ví dụ nhƣ số

thẻ tín dụng, địa chỉ, ngày, tháng, năm sinh, địa chỉ nhà riêng, số điện thoại cá

nhân để phục vụ cho mục đích xác nhận, kiểm tra. Vì vậy, những thông tin về

khách hàng, đặc biệt là những thông tin quan trọng nhƣ thẻ tín dụng, email,

điện thoại v.v… phải đƣợc bảo mật và tôn trọng. Ngƣời bán không đƣợc tự ý

lƣu trữ, bán hay sử dụng trái phép những thông tin này.

Page 113: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

107

Một vấn đề đặc biệt quan trọng mà pháp luật cần quan tâm là vấn đề

bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại điện tử.Việc sở hữu và bảo vệ

các ý tƣởng có ý nghĩa nhƣ là hàng hóa. Ý tƣởng cũng đem lại tính cạnh tranh

hơn cho ngƣời sở hữu nó trong thời đại thông tin, vì vậy, cần quy định rõ về

chế độ pháp lý bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Nếu thiếu một hệ thống pháp luật

nhƣ vậy sẽ không chỉ kìm hãm sự phát triển, mà còn ngăn cản sự thịnh vƣợng

của nền kinh tế thông tin.

Thứ ba,đảm bảo tính minh bạch trongthương mại điện tử

Trong thƣơng mại điện tử, ngƣời mua và ngƣời bán giao tiếp trong thế

giới ảo, họ không thấy mặt nhau, không biết rõ về nhau, vì vậy, pháp luật

thƣơng mại điện tử cần có các quy định để đảm bảo sự tin tƣởng và minh

bạch trong các giao dịch. Trƣớc hết, trên website của ngƣời bán phải đăng tải

mọi thông tin trung thực, rõ ràng và đƣợc cập nhật một cách thƣờng xuyên.

Bên cạnh đó, ngƣời bán cũng phải đảm bảo sử dụng công nghệ truyền tin an

toàn, đảm bảo tính tin cậy về hệ thống hoạt động, không gây ra những sai sót

nghiêm trọng, đồng thời cũng phải đảm bảo sự tin cậy trong vấn đề chứng

thực nhƣ chữ ký điện tử, hợp đồng điện tử v.v...

Ngƣời mua hàng hóa hay sử dụng dịch vụ cũng phải có trách nhiệm

nắm bắt kỹ càng những thông tin này trƣớc khi quyết định mua hàng hóa hoặc

sử dụng dịch vụ.

Thứ tư, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử

Do trong thƣơng mại điện tử cả ngƣời mua lẫn ngƣời bán không cần

gặp nhau, biết nhau, nên dễ xảy ra các rủi ro và ngƣời bị thiệt thƣờng là ngƣời

tiêu dùng bởi vì họ phải trả tiền trƣớc cho các sản phẩm, dịch vụ mà họ mua

qua mạng, song lại chƣa biết đƣợc chất lƣợng sản phẩm và việc giao hàng có

diễn ra đúng nhƣ ngƣời bán đã cam kết không. Vì vậy, vấn đề bảo vệ quyền

lợi ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm

hơn so với quan hệ thƣơng mại truyền thống.

Thứ n m, phát triển hình thức giao kếthợp đồng

Page 114: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

108

Có nhiều loại hợp đồng trong không gian ảo, đó là hợp đồng hàng hoá,

dịch vụ và các dịch vụ số hoá. Hàng hoá khi chào bán trên mạng phải đảm

bảo chất lƣợng, phù hợp với mục đích sử dụng, an toàn và không có khuyết

điểm nhỏ. Sẽ không đƣợc coi là có khuyết điểm nhỏ nếu nhƣ ngƣời bán chỉ ra

cho ngƣời mua trƣớc khi ký kết hợp đồng. Cung cấp dịch vụ chính là cung

cấp sức lao động, kỹ năng. Dịch vụ số hoá là ngƣời bán có thể gửi cho ngƣời

mua các loại sản phẩm nhƣ băng video, âm nhạc, sách báo, phần mềmv.v...

qua mạng Internet.

Thứ sáu, quy định các yêu c u về tính xác thực và các thông tin khác

trong thương mại điện tử

Về hình thức văn bản, chữ ký, văn bản gốc. Có một số loại giao dịch

pháp luật quy định phải thực hiện bằng văn bản và các loại giao dịch này

thƣờng là giao dịch về tài sản có đăng ký. Các loại giao dịch mà pháp luật đòi

hỏi hình thức văn bản phải là văn bản trên giấy sẽ không tiến hành qua mạng.

Giống nhƣ các văn bản trên giấy, các giao dịch thƣơng mại điện tử cần

có chữ ký điện tử ràng buộc chủ thể với nội dung tài liệu. UNCITRAL đã đƣa

ra luật khung về chữ ký điện tử để các nƣớc tham chiếu khi xây dựng luật của

mình.

Đảm bảo tính nguyên vẹn (bản gốc) của tài liệu trong thƣơng mại điện

tử cũng là một yêu cầu. Đối với những tài liệu về quyền sở hữu hay giấy tờ có

giá (nhƣ vận đơn) khi quyền đi liền với việc chiếm hữu tài sản đó, thì điều cơ

bản là đảm bảo rằng, bản gốc phải ở trong tay ngƣời có quyền sở hữu tài sản

mà giấy tờ thể hiện. Trong thƣơng mại điện tử, con ngƣời có thể tạo đƣợc các

bản sao giống hệt nhƣ bản gốc một cách dễ dàng. Điều quan trọng là tập dữ

liệu do một ngƣời khởi tạo không bị thay đổi về nội dung, hay nói cách khác

là đảm bảo sự nguyên vẹn của dữ liệu [42].

Về thời điểm, địa điểm gửi, nhận thông điệp điện tử.Thời gian giao kết

rất quan trọng để xác định thời điểm bắt đầu nghĩa vụ của các bên. Do các bên

trong thƣơng mại điện tử không quen biết nhau, ở xa nhau, liên lạc với nhau

Page 115: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

109

qua mạng nên xác định thời điểm giao kết thƣơng mại là khó khăn và các bên

rất dễ hiểu khác nhau về thời điểm giao dịch. Điều đó dễ dẫn đến các tranh

chấp.Ngƣời đƣợc chào hàng có thể chấp nhận lời chào hàng và theo đó tạo ra

một hợp đồng trực tiếp. Sự phản hồi của khách hàng chấp nhận đơn chào

hàng là sự trả giá. Trƣờng hợp này ngƣời mua là ngƣời trả giá, ngƣời bán là

ngƣời chấp nhận hợp đồng.

Việc xác lập hợp đồng không nhất thiết phải do con ngƣời thực hiện,

mà có thể chấp nhận tự động bằng hệ thống máy móc. Ví dụ, khi ngƣời chủ

đặt máy bán nƣớc giải khát tự động, đƣợc coi là chấp nhận trả giá khi khách

bỏ tiền vào máy. Khi tiến hành thƣơng mại điện tử, ngƣời chào hàng có thể

quy định thời gian gửi ý kiến chấp nhận, khi đó thời điểm chấp nhận hợp

đồng là thời điểm thông tin chấp nhận của khách hàng nhập vào hệ thống của

ngƣời chào hàng.

Thời gian nhận đƣợc thông điệp điện tử đƣợc xác định theo các nguyên

tắc sau: (i) Nếu ngƣời nhận chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thì thời

gian nhận là khi thông điệp điện tử nhập vào hệ thống thông tin đó hoặc khi

nhập vào hệ thống thông tin khác nhƣng ngƣời nhận đang làm việc để truy lục

thông điệp điện tử; (ii) Nếu ngƣời nhận không chỉ định hệ thống thông tin thì

tính thời điểm nhận là thời điểm thông điệp điện tử truy nhập vào hệ thống

thông tin của ngƣời nhận.

4.1.2. Hoàn thiện pháp luật nhằm tăng cƣờng ứng dụng thƣơng

mại điện tử vào đời sống kinh tế - xã h i

Tính đến ngày 01/01/2015, Việt Nam có dân số là 90,7 triệu ngƣời,

trong đó có 39,8 triệu ngƣời sử dụng internet (tƣơng đƣơng với 44%), 28 triệu

ngƣời sở hữu tài khoản mạng xã hội (chiếm 31%), 128,3 triệu ngƣời có kết

nối mạng di động (tƣơng đƣơng với 141%) [105]. Với 99% các doanh nghiệp

thuộc các thành phần sử dụng máy tính, sử dụng điện thoại hữu tuyến, điện

thoại di động và các thiết bị điện tử phục vụ cho sản xất kinh doanh, trong số

này có tới 50% doanh nghiệp có kết nối với mạng Internet, cùng với sự đầu tƣ

Page 116: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

110

mạnh mẽ, đồng bộ hạ tầng thông tin viễn thông, đây là điều kiện lý tƣởng cho

thƣơng mại điện tử phát triển. Do đặc điểm của thƣơng mại chính là thƣơng

mại truyền thống nhƣng đƣợc thực hiện bằng các phƣơng tiện điện tử gắn với

công nghệ thông tin – viễn thông nên có nhiều chủ thể tham gia trong việc

vận hành hoạt động thƣơng mại điện tử, những cá nhân, tổ chức tham gia hoạt

động thƣơng mại điện tử cần có trình độ nhất định khi sử dụng các thiết bị

điện tử để thực hiện các giao dịch thƣơng mại trên các phƣơng tiện hiện đại,

công nghệ cao này. Đồng thời, thƣơng mại điện tửcó những đặc điểm nhƣ

không bị giới hạn bởi địa giới hành chính hay biên giới, các thao tác càng đơn

giản, nhanh chóng bao nhiêu thì chứa đựng nhiều rủi ro, dễ gây thiệt hại có

các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử bấy nhiêu.

Tình trạng tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện các hành vi

l a đảo, đánh cắp thông tin cá nhân, dùng thẻ thanh toán giả v.v... luôn coi

mạng thông tin là mảnh đất màu mỡ để thực hiện hành vi phạm tội, những đối

tƣợng tội phạm không chỉ là công dân Việt Nam, cƣ trú ở Việt Nam mà còn

có những đối tƣợng là ngƣời nƣớc ngoài, thực hiện hành vi phạm tội ở nƣớc

ngoài, chính vì điều này làm ảnh hƣởng tới niềm tin của ngƣời tiêu dùng đối

với hình thức thƣơng mại mới mẻ này.

Song song với các vấn đề nêu trên, để điều chỉnh các quan hệ xã hội

phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tử có rất nhiều các cơ quan nhà

nƣớc có chức năng nhiệm vụ quản lý lĩnh vực này trong quá trình thực thi

pháp luật. Do vậy, để hoạt động thƣơng mại điện tử phát triển lành mạnh cần

có cơ chế phối kết hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc với

nhau trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đạt đƣợc hiệu quả

cao nhất, đồng nghĩa với việc này là đáp ứng đƣợc các yêu cầu của xã hội,

bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân tổ chức tham gia hoạt

động thƣơng mại điện tử, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong

lĩnh vực này để đảm bảo tính răn đe, phòng ng a tội phạm cũng nhƣ các vi

phạm khác.

Page 117: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

111

Chính vì các yếu tố lo ngại rủi ro trong giao dịch TMĐT, chế tài áp

dụng và cơ chế giải quyết tranh chấp thiếu khả thi nên tạo rào cản đối với các

chủ thể tham gia giao dịch điện tử.Để tăng cƣờng ứng dụng TMĐT trong đời

sống xã hội, phải tạo môi trƣờng phù hợp với sự phát triển của các giao dịch

này, loại bỏ rào cản tâm lý lo ngại các rủi ro phát sinh khi các chủ thể tham

gia giao dịch.

Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình khoa học trên phƣơng diện

kinh tế và pháp luật nghiên cứu và khẳng định vai trò của thƣơng mại điện tử

đối với đời sống xã hội, đồng thời dự báo những xu hƣớng phát triển của hoạt

động này. T những nhận thức, tri thức về vai trò của loại hình thƣơng mại

này đối với việc nâng cao mức sống ngƣời dân, tiết kiệm chi phí xã hội, giảm

các rủi ro dễ xảy ra trong các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ, thanh toán

của thƣơng mại truyền thống, việc thúc đẩy phát triển thƣơng mại điện tử luôn

phát sinh nhu cầu về hoàn thiện pháp luật để đảm bảo rằng các quyền và lợi

ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích nhà nƣớc không bị xâm hại, cách

thức thực hiện và đảm bảo các quyền này chính là bằng pháp luật.

Việc hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển nói

riêng và kinh tế xã hội nói chung phải đảm bảo các nội dung cơ bản nhƣ:

(i) Các cơ quan xây dựng pháp luật có nhận thức đầy đủ những đặc

điểm, nguyên tắc cũng nhƣ tính cấp thiết của các quan hệ xã hội cần điều

chỉnh bằng pháp luật khi xây dựng luật. Nhận thức đƣợc đầy đủ, toàn diện vai

trò quan trọng của các quan hệ xã hội ấy với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội,

đảm bảo trật tự, an toàn xã hội cũng nhƣ những tác động đối với xã hội khi

xây dựng, tuyên truyền phổ biến và thực thi pháp luật. Khi xây dựng văn bản

quy phạm pháp luật phải có sự khảo sát, đánh giá, thu thập đầy đủ các thông

tin, sự phản hồi đa chiều của ngƣời dân và các tổ chức xã hội có liên quan để

bảo đảm tính minh bạch, thống nhất, đồng bộ và khả thi của văn bản quy

phạm pháp luật sẽ xây dựng, ban hành và triển khai đƣa pháp luật vào cuộc

Page 118: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

112

sống.Nhất là khi đối tƣợng điều chỉnh phụ thuộc vào tốc độ phát triển của

khoa học công nghệ.

(ii) Có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ đối với t ng ngành, t ng

lĩnh vực, t ng địa phƣơng và trong t ng thời điểm cụ thể nhƣ: Ƣu đãi đầu tƣ,

chính sách thuế, chính sách hỗ trợ tài chính, hỗ trợ khác cho các cá nhân tổ

chức khi tham gia vào hoạt động thƣơng mại điện tử để thúc đẩy phát triển

thƣơng mại điện tử với tƣ cách là một thành tố quan trọng, là động lực để thúc

đẩy kinh tế xã hội phát triển.

(iii) Việc xây dựng pháp luật liên quan phải đáp ứng đƣợc các yêu cầu

về hội nhập kinh tế quốc tế, rút ngắn khoảng cách cũng nhƣ những khác biệt

trong các quy định của Việt Nam với các quốc gia, chủ thể quốc tế khác, đây

là yêu cầu rất quan trọng trong xu hƣớng toàn cầu hóa hiện nay.

Việc xây dựng pháp luật phải quy định các chế tài phù hợp để đủ sức

phòng ng a các vi phạm, xử lý đƣợc các hành vi phạm tội nhƣng cũng phải

phù hợp với các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, không gây

bức xúc, phản ứng thái quá của xã hội hay lạc hậu về nhận thức đối với các vi

phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử.

Phải có các quy định cụ thể về các mối quan hệ, cơ chế phối hợp, chức

năng, nhiệm vụ quyền hạn của t ng cá nhân tổ chức liên quan để đảm bảo sự

quản lý nhà nƣớc, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức

tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử .

Các nội dung cơ bản nêu trên nếu đƣợc các chủ thể có trách nhiệm xây

dựng văn bản quy phạm pháp luật áp dụng sẽ đảm bảo công tác hoàn thiện

pháp luật đạt đƣợc kết quả cao, đáp ứng đƣợc các tiêu chí về xây dựng pháp

luật nhƣ: Minh bạch, đồng bộ, thống nhất, khả thi, kinh tế v.v...

Việc hoàn thiện pháp luật về thƣơng mại điện tử sẽ giúp cho các cá

nhân, tổ chức biết rõ các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia hoạt động

thƣơng mại điện tử. Việc các cá nhân, tổ chức hiểu rõ cơ chế vận hành đã

đƣợc quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật sẽ giảm thiểu những

Page 119: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

113

vƣớng mắc về thủ tục hành chính cũng nhƣ việc phát hiện các hành vi vi

phạm pháp luật sẽ nhanh chóng, kịp thời vì cơ chế phát hiện, xử lý vi phạm đã

đƣợc quy định cụ thể trong luật và các văn bản quy phạm pháp luật.

Trong quá trình thực hiện cơ chế thực thi pháp luật, các chế tài xử lý vi

phạm hay trách nhiệm của các cơ quan liên quan hiện chƣa đƣợc quy định cụ

thể nên dẫn đến tình trạng thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, làm giảm

hiệu lực quản lý nhà nƣớc. Những vấn đề nêu trên sẽ đƣợc giải quyết khi các

quy định của pháp luật phân công rõ nhiệm vụ, chức năng và các chế tài khác

áp dụng cho các chủ thể liên quan, điều này chỉ xảy ra khi pháp luật đƣợc

hoàn thiện theo đúng các yêu cầu và đáp ứng đƣợc các tiêu chí đối với việc

xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện.

Trên thực tiễn, các quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử phát sinh

nhiều tranh chấp liên quan đến sở hữu, quyền sở hữu trí tuệ và cả các hành vi

vi phạm pháp luật hình sự.Việc xây dựng các cơ chế giải quyết tranh chấp

đúng trình tự thủ tục, kịp thời, nhanh chóng sẽ giải quyết đƣợc nhiều vấn đề

nhƣ bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ đƣợc các quyền và lợi ích

hợp pháp của các cá nhân tổ chức đƣợc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chủ sở

hữu tài sản tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử cũng nhƣ tính đúng đắn,

nghiêm minh của các cơ quan quản lý nhà nƣớc.

Để giải quyết các tranh chấp, pháp luật phải quy định nhiều phƣơng

thức giải quyết tranh chấp, thời hạn giải quyết tranh chấp và cơ chế để bảo

đảm thi hành các quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có

thẩm quyền. Khi hoàn thiện pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp phải

dựa trên các đặc điểm, nguyên tắc của thƣơng mại điện tử nhƣ: tƣơng đƣơng

thuộc tính, công nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu v.v... hay các đặc

điểm kỹ thuật, công nghệ khác để đảm bảo tính thống nhất giữa các quy phạm

nội dung và quy phạm hình thức (tố tụng), khi có sự thống nhất giữa các quy

định nội dung và quy phạm tố tụng thì mới có các quy định cụ thể đáp ứng

đƣợc các yêu cầu về thời hạn giải quyết các tranh chấp cũng nhƣ trình tự thủ

Page 120: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

114

tục, giá trị pháp lý của các chứng cứ điện tử. Khi các quy định trong Luật và

các văn bản quy phạm pháp luật trở nên minh bạch sẽ đủ căn cứ để giải quyết

tranh chấp, giúp họ dễ dàng thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu

của mình.

Để tăng cƣờng việc ứng dụng các công nghệ mới hay các thành quả

khoa học kỹ thuật áp dụng vào hoạt động thƣơng mại thì công tác hoàn thiện

pháp luật là điều kiện tiên quyết, đảm bảo sự tin cậy vào hệ thống pháp luật

của các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử. Khi đã có niềm tin

vào sự an toàn và đƣợc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, ngƣời

tiêu dùng và các chủ thể khác sẽ tích cực tham gia vào hoạt động này.

Có rất nhiều chính sách pháp luật có liên quan mật thiết với hoạt động

thƣơng mại điện tử nhƣ: Phát triển hạ tầng công nghệ viễn thông - thông tin,

phát triển công nghiệp sản xuất thiết bị công nghệ cao, nguồn nhân lực công

nghệ thông tin, các chính sách về ƣu đãi đầu tƣ, chính sách thuế, hỗ trợ vốn

cho doanh nghiệp v.v. do vậy các chính sách nếu kịp thời, đúng thì sẽ thúc

đẩy các ngành phụ trợ cho hoạt động thƣơng mại điện tử phát triển. Đây cũng

là những vấn đề cần chú trọng để hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện tử.

Việc tăng cƣờng ứng dụng khoa học kỹ thuật vào các hoạt động thƣơng

mại sẽ là động lực phát triển kinh tế xã hội rất mạnh mẽ, tạo bƣớc ngặt trong

việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội và nâng cao đời sống của ngƣời dân.

4.1.3.Hoàn thiện pháp luật để nâng cao khả năng cạnh tranh và h i

nhập của doanh nghiệp Việt Nam thông qua giao dịch điện tử

Kể t khi đổi mới kinh tế và thực hiện chính sách ngoại giao đa

phƣơng, Việt Nam đã gia nhập và trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc

tế nhƣ: Thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn

Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dƣơng (Asia-Pacific Economic

Cooperation, viết tắt là APEC) Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO) v.v...Và

cho đến nay, Việt Nam đã ký Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình

Dƣơng (TPP -Trans-Pacific Strategic Economic Partnership

Page 121: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

115

Agreement). Ngoài ra, Việt Nam đã ký kết các Hiệp định thƣơng mại tự do

(FTA) với các quốc gia nhƣ Nhật Bản (đối tác kinh tế toàn diện), Chi Lê,

vùng lãnh thổ (Liên minh kinh tế Á ÂU) và khu vực nhƣ với EU, đang đàm

phán ký các Hiệp định thƣơng mại tự do khác trong thời gian tới đây. Các

thỏa thuận thƣơng mại của Việt Nam với các bên tạo ra sự tƣơng đồng về luật

chơi trên các thị trƣờng khác nhau.Việc hoàn thiện pháp luật thƣơng mại điện

tử của Việt Nam sẽ tạo cơ hội thúc đẩy phƣơng thức giao dịch thƣơng mại

tiên tiến, vận dụng công nghệ cao đối với giao dịch hàng hóa và dịch vụ.

Thƣơng mại điện tử là hình thức kinh doanh có nhiều ƣu điểm nhƣ:

Giảm chi phí xã hội, tiết kiệm chi phí cho các cá nhân và doanh nghiệp, tiện

lợi, tiếp cận thị trƣờng nhanh chóng, rút ngắn thời gian giao dịch hơn thƣơng

mại truyền thống, có mức độ ảnh hƣởng thị trƣờng lớn hơn, việc giao dịch

đơn giản và không đòi hỏi trình độ cao, phù hợp xu hƣớng phát triển hiện nay

v.v...Những ƣu điểm này tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp, các cá

nhân tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa ra nƣớc ngoài cũng nhƣ

sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ trong nƣớc.

Thƣơng mại điện tử phát triển sẽ giúp nhiều ngành công nghiệp khác

phát triển nhƣ sản xuất thiết bị điện tử, hạ tầng viễn thông - công nghệ thông

tin, đào tạo nguồn nhân lực v.v... Thƣơng mại điện tử phát triển sẽ kích cầu

cho xã hội và làm gia tăng giá trị sản phẩm, dịch vụ.

Vai trò của pháp luật trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các

chủ thể tham gia hoạt động kinh tế là hữu cơ và không thể tách rời.Chính sách

pháp luật thƣơng mại điện tử phù hợp sẽ thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát

triển, tạo điều kiện cho các cá nhân, doanh nghiệp tham gia hoạt động thƣơng

mại điện tử. Khi giảm đƣợc giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao

chất lƣợng dịch vụ và tiếp cận thị trƣờng nhanh chóng sẽ làm giảm chi phí sản

xuất, hạ giá thành sản phẩm và tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt

Nam, loại bỏ những khó khăn, thách thức để hội nhập thành công vào nền

kinh tế thế giới. Đây là lựa chọn đúng và không khó để thực hiện trong điều

Page 122: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

116

kiện hiện nay của Việt Nam. Trong tất cả các giải pháp để thay đổi tình trạng

kinh tế kém phát triển thì giải pháp hoàn thiện pháp luật có tác dụng nhanh,

sâu rộng, tác động lớn đến những thay đổi của nền kinh tế, đặc điểm và ƣu thế

của việc hoàn thiện pháp luật là không tốn kém nhiều về chi phí nhƣng đem

lại hiệu quả kinh tế cao.

4.1.4. Đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thƣơng mại

điện tử cũng nhƣ tính đặc thù của pháp luật thƣơng mại điện tử ở Việt

Nam.

Các quan hệ đƣợc xác lập trong hoạt động thƣơng mại điện tử luôn có

khách thể hƣớng tới là lợi ích, trong đó tùy t ng quan hệ pháp luật đƣợc xác

lập để xác định là khách thể mà các chủ thể tham gia hƣớng tới là lợi ích nhà

nƣớc hay cá nhân, tổ chức mà thôi. Việc đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà

nƣớc, quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động

thƣơng mại điện tử là động lực để phát triển thƣơng mại điện tử nói riêng và

phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nguyên tắc các bên cùng có lợi, hài hòa

lợi ích phải là nguyên tắc cơ bản khi xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật

điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các hoạt động thƣơng mại thông

qua phƣơng tiện điện tử.

Việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh

quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động TMĐT cần đảm bảo các nguyên tắc

cơ bản sau:

Thứ nhất, nguyên tắc tương đương thuộc tính

Đây là nguyên tắc quan trọng vì là căn cứ để xử lý các tranh chấp hay

xử lý vi phạm.Việc xây dựng pháp luật phải chú trọng và quy định rõ, kể cả

các biện pháp để đảm bảo thực hiện trên thực tế. Việc bảo đảm nguyên tắc

này phải đƣợc quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật nội dung cũng nhƣ

tố tụng để bảo đảm tính thống nhất, khả thi.

Thứ hai, nguyên tắc tự do thỏa thuận hợp đồng

Page 123: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

117

Do thƣơng mại điện tử là hình thức thƣơng mại mới, tuy nhiên nó là

quan hệ pháp luật phái sinh trên cơ sở của thƣơng mại truyền thống nên vẫn

chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Trong quan hệ pháp luật dân sự,

nguyên tắc tự do thỏa thuận là nguyên tắc nhất quán và quan trọng. Vì những

tính chất đó, việc đảm bảo nguyên tắc tự do thỏa thuận trong các giao dịch

thƣơng mại điện tử sẽ đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của các ngành luật

trong hệ thống pháp luật Việt Nam đang điều chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng

mại điện tử.

Thứ ba, nguyên tắc tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phương thức

truyền thông điện tử.

Đây là những quyền cơ bản của công dân cũng nhƣ quyền của các

thƣơng nhân, tổ chức tham gia vào các giao dịch TMĐT. Nhƣ vậy, việc xây

dựng, ban hành, thực hiện pháp luật TMĐT phải tôn trọng nguyên tắc này để

bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các cá nhân, tổ chức cũng nhƣ thúc đẩy

TMĐT phát triển.

Thứ tư, nguyên tắc tự nguyện lựa chọn phương tiện điện tử để thực

hiện giao dịch.

Pháp luật phải tôn trọng sự tự nguyện lựa chọn một loại hay nhiều loại

phƣơng tiện điện tử để thực hiện các giao dịch thƣơng mại nhằm đáp ứng các

nhƣ cầu của các cá nhân tổ chức tham gia các hoạt động thƣơng mại điện tử.

Trong thƣơng mại điện tử, không có phƣơng tiện nào đƣợc coi là duy nhất mà

tất cả các phƣơng tiện điện tử đều có thể đƣợc các cá nhân, tổ chức lựa chọn

khi tham gia giao dịch điện tử.

Thứ n m, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn giao dịch điện tử

Để tạo thế bình đẳng về thân phận pháp lý trong các quan hệ pháp luật

thì đƣơng nhiên chỉ có thể thực hiện bằng biện pháp pháp lý. Các chủ thể

tham gia hoạt động thƣơng mại đƣợc thực hiện bằng phƣơng tiện điện tử rất

đa dạng, t cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp v a và nhỏ, doanh nghiệp lớn,

doanh nghiệp có vốn nhà nƣớc và trong tƣơng lai gần, các cơ quan nhà nƣớc

Page 124: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

118

cũng sẽ thực hiện mua sắm tài sản công bằng phƣơng tiện điện tử. T tính

chất đa dạng của các chủ thể nhƣ vậy, việc bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ

thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử là cần thiết và có ý nghĩa quan

trọng. Nguyên tắc mọi chủ thể đều bình đẳng trƣớc pháp luật là nguyên tắc

hiến định, các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận

nguyên tắc, tuy nhiên việc áp dụng nguyên tắc này trong thực thi pháp luật

cần đƣợc cụ thể hóa, có các chế tài phù hợp, tƣơng xứng với các vi phạm

nguyên tắc về sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử.

Thực tiễn cho thấy, tuy t ng mức độ, quy mô, nguồn vốn ngân sách hay vốn

tƣ nhân, các doanh nghiệp khi tiến hành các thủ tục hành chính hay giải quyết

tranh chấp thì nguyên tắc bình đẳng mới dễ nhận thấy sự khác biệt, thƣờng

các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhà nƣớc chiếm ƣu thế hơn hẳn so với

các chủ thể khác.

Bình đẳng trong quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử không chỉ trên

bình diện pháp lý, mà còn phải xây dựng các nguyên tắc bảo đảm sự bình

đẳng giữa các chủ thể trong các cơ hội tiếp cận nguồn lực, hỗ trợ tài chính hay

ƣu đãi đầu tƣ, hỗ trợ trong các quan hệ pháp luật hành chính nhƣ việc thực

hiện các thủ tục hoặc sử dụng nguồn nhân lực. Khi và chỉ khi các chủ thể

tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử bình đẳng trƣớc pháp luật, bình đẳng

trên mọi phƣơng diện thì khi đó các cơ hội kinh doanh mới chia đều cho họ,

mặt khác khi sự bình đẳng đƣợc bảo đảm thì mới sự cạnh tranh trong thƣơng

mại mới là cạnh tranh lành mạnh, tích cực, thúc đẩy Thƣơng mại điện tử phát

triển tƣơng xứng với vai trò của nó đối với đời sống xã hội.

Bảo đảm an toàn trong hoạt động thƣơng mại điện tử luôn là yếu tố

hàng đầu và là điều kiện tiên quyết để các cá nhân, tổ chức tích cực tham gia

vào loại hình thƣơng mại mới mẻ này. Do các thông tin về hàng hóa, dịch vụ

là các thông điệp dữ liệu đƣợc lƣu giữ và truyền tải trên hệ thông thông tin -

viễn thông nên thƣờng xuyên là đối tƣợng để tội phạm thực hiện các hành vi

vi phạm pháp luật với nhiều mục đích khác nhau. Các thông tin cá nhân của

Page 125: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

119

các cá nhân khi tạo các tài khoản đăng nhập hay khai báo khi tham gia các

giao dịch điện tử, thông tin hoặc các phần mềm quản lý, bí quyết kinh doanh,

bí mật công nghệ v.v...của các doanh nghiệp tham gia hoạt động thƣơng mại

điện tử có thể là đối tƣợng bị tội phạm xâm hại, ngoài ra còn nhiều vấn đề

khác rất cần đƣợc bảo đảm an toàn. Những đe dọa về an toàn thông tin mạng

và nguy cơ bị thiệt hại nhiều mặt khi tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử

của tất cả các chủ thể khiến cho niềm tin đối với thƣơng mại điện tử bị giảm

sút, trực tiếp cản trở sự phát triển của thƣơng mại điện tửở Việt Nam. Việc

bảo đảm an toàn trong thƣơng mại điện tử nguyên tắc sống còn, xuyên suốt

trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng

mại điện tử và phải đƣợc triển khai có hiệu quả trong quá trình thực hiện pháp

luật. An toàn trong các giao dịch thƣơng mại điện tử chính là bảo đảm trật tự

an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà nƣớc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

các cá nhân tổ chức tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử. Về trách nhiệm

đảm bảo an toàn trong thƣơng mại điện tử thì trƣớc hết phải xác định các cơ

quan quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực thông tin truyền thông có vai trò quan

trọng trong việc phát triển hạ tầng thông tin viễn thông tƣơng thích với đòi

hỏi của xã hội, thực hiện các biện pháp an toàn hệ thống, đảm bảo sự hoạt

động liên tục, ổn định, là nền tảng để các chủ thể khác tham gia các hoạt động

thƣơng mại điện tử, các cơ quan khác nhƣ hệ thống các cơ quan tiến hành tố

tụng có trách nhiệm xử lý các hành vi vi phạm có dấu hiệu hình sự, các cơ

quan liên quan khác có trách nhiệm phát hiện và xử lý vi phạm. Tất cả các

chủ thể khác đều có trách nhiệm phát hiện, tố giác, thông báo hoặc khiếu nại

để xử lý các hành vi vi phạm xâm hại đến sự an toàn thông tin trên mạng

thông tin – viễn thông.

Thứ sáu, nguyên tắc bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử.

Những rủi ro trong hoạt động thƣơng mại điện tử là rất lớn nên ngay

trong Luật Mẫu về thƣơng mại điện tử cũng khuyến nghị các quốc gia thành

Page 126: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

120

viên về vấn đề: Pháp luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng phải đi trƣớc, coi đây là

nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động thƣơng mại điện tử.

Không chỉ sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo các

nguyên tắc cơ bản của pháp luật thƣơng mại điện tử, trong quá trình hoàn

thiện còn phải quan tâm đến nhƣng đặc thù của pháp luật thƣơng mại điện tử

dựa trên các đặc điểm sau:

Thứ nhất, pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc ra đời do sự hình thành

và phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và mạng Internet trên toàn thế

giới, trong đó có Việt Nam.

Thứ hai, pháp luật thƣơng mại điện tử của các quốc gia có sự tiếp thu

t pháp luật thƣơng mại điện tử thế giới và có sự vận dụng để điều chỉnh phù

hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển ở t ng quốc gia.

Thứ ba, quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử là một bộ phận phái sinh

của quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật thƣơng mại truyền thống.

Thứ tư, quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử có sự tham gia của ngƣời

thứ ba – chủ thể cung cấp dịch vụ thông tin, kỹ thuật, dịch vụ chứng thực nội

dung số, thanh toán trung gian hay các đơn vị cung cấp dịch vụ logictis.

Nhƣ vậy, nhiệm vụ hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo các nguyên tắc

cơ bản của pháp luật TMĐT, các đặc trƣng cơ bản của pháp luật thƣơng mại

điện tử thực hiện tốt sẽ thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển mạnh mẽ, là

động lực để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của

ngƣời dân và các lợi ích xã hội khác.

4.1.5. Đảm bảo tính thống nhất, đồng b với pháp luật thƣơng mại

Việt Nam và tƣơng thích với các cam kết quốc tế

Do đặc điểm thƣơng mại điện tử là việc sử dụng các phƣơng tiện điện

tử để thực hiện việc mua bán hàng hóa dịch vụ, tức nó mang bản chất của

thƣơng mại truyền thống nhƣng có nhiều chủ thể, phƣơng tiện tham gia vào

chuỗi các giao dịch đó nhƣ hoạt động thƣơng mại, quảng cáo, thanh toán, dịch

vụ thông tin viễn thông, hạ tầng thông tin viễn thông, nguồn nhân lực công

Page 127: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

121

nghệ thông tin v.v...Nhƣ vậy, các quan hệ xã hội phát sinh trong mỗi lĩnh vực

lại chịu sự điều chỉnh của một ngành luật khác nhau dẫn đến yêu cầu phải

đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các ngành luật trong hệ thống pháp

luật Việt Nam. Khi đáp ứng các tiêu chí này thì khi ban hành, thực thi pháp

luật mới khả thi và đạt hiệu quả cao, thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển

nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Nếu các ngành luật, văn bản quy phạm

pháp luật thống nhất với nhau thì khi xử lý, giải quyết các vấn đề liên quan sẽ

không bị chồng chéo, khó áp dụng pháp luật làm căn cứ để ban hành các

quyết định để thực hiện mục tiêu quản lý nhà nƣớc. Ở các đối tƣợng chịu sự

điều chỉnh của pháp luật, hay nói cách khác là những chủ thể chấp hành hay

tuân thủ pháp luật không bị động, không khó lựa chọn các luật có liên quan

khi thực hiện các hành vi liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử.

Tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật thƣơng mại điện tử phải đảm

bảo cả về mặt hình thức cũng nhƣ nội dung. Thứ nhất, các quy phạm pháp

luật chứa đựng trong các ngành luật, văn bản quy phạm pháp luật hay các văn

bản hƣớng dẫn phải đảm bảo rằng nó không mâu thuẫn, không đối lập và

thuận chiều trong cách thức mà nó tác động tới các quan hệ pháp luật phát

sinh trong quá trình các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại trên các

phƣơng tiện điện tử, sự thống nhất về nội dung các quy phạm, các chế định

phải đƣợc xây dựng với kỹ thuật lập pháp cao và khoa học để dễ nhận diện và

áp dụng trong thực tiễn cuộc sống. Thứ hai, về hình thức, các đạo luật, văn

bản quy phạm pháp luật phải đƣợc kết cấu, sắp xếp hợp lý, tuân thủ các trình

tự về thời gian, hiệu lực, giá trị pháp lý và điều chỉnh các quan hệ xã hội có

tính tƣơng đồng, cụ thể. Tính thống nhất, đồng bộ phải đƣợc thể hiện tại các

văn bản quy phạm pháp luật nội dung cũng nhƣ quy phạm hình thức (tố tụng),

có nhƣ vậy mới có thể giải quyết các tranh chấp bằng trình tự tố tụng tại Tòa

án có thẩm quyền.

Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, tham gia nhiều

Hiệp định song phƣơng và song phƣơng với nhiều quốc gia, chủ thể quốc tế

Page 128: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

122

trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có lĩnh vực kinh tế. Điều kiện để gia

nhập chính là rút ngắn khoảng cách về sự bất đồng và làm giảm các khác biệt

trong việc ban hành, thực thi pháp luật liên quan. Nhƣ vậy, khi hội nhập kinh

tế quốc tế, tham gia các hiệp định song phƣơng và đa phƣơng, Việt Nam cần

phải xây dựng Luật và các văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo tính

tƣơng thích và áp dụng các nguyên tắc cơ bản để không cản trở việc thực hiện

điều ƣớc quốc tế. Việc bảo đảm nguyên tắc này còn đồng thời tạo vị thế bình

đẳng, hạn chế các rào cản đối với cá nhân, tổ chức tham hoạt động thƣơng

mại quốc tế bằng phƣơng tiện điện tử nhƣ quảng cáo, thƣơng mại, thanh toán

điện tử và giải quyết các tranh chấp liên quan theo thủ tục trọng tài thƣơng

mại hay tố tụng tại Tòa án.

Việc xây dựng hệ thống pháp luật tƣơng thích với pháp luật quốc tế sẽ

nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trƣờng quốc tế, xây dựng hình ảnh

quốc gia văn minh, thƣợng tôn pháp luật, đó là cơ sở để thu hút đầu tƣ t

nƣớc ngoài đầu tƣ vào lĩnh vực thƣơng mại điện tử, xây dựng niềm tin để hợp

tác có hiệu quả cũng nhƣ tranh thủ sự giúp đỡ, hỗ trợ của các chủ thể quốc tế

trong việc phát triển kinh tế xã hội nói chung và thƣơng mại điện tử nói

riêng. Tuy nhiên, quá trình hoàn thiện pháp luật về thƣơngmại điện tử cũng

cần phải tính đến những đặc điểm văn hóa, thói quen của ngƣời Việt Nam và

trình độ phát triển khoa học, công nghệ của nƣớc ta. Ngoài ra, việc xây dựng

và hoàn thiện khung pháp luật về thƣơng mại điện tử đòi hỏi phải có sự chỉ

đạo thống nhất, phối hợp chặt chẽ, có lộ trình hợp lý, có sự quyết liệt cần thiết

và thiết lập đƣợc sự ƣu tiên cho hoạt động lập pháp và lập quy.

4.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THƢƠNG

MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM

4.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định về n i dung của pháp luật

thƣơng mại điện tử

Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thƣơng mại điện tử, tìm động lực

mới cho phát triển kinh tế xã hội, nâng cao chất lƣợng cuộc sống của ngƣời

Page 129: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

123

dân, đồng thời hƣớng tới sự phù hợp với pháp luật quốc tế và các cam kết

quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là thực hiện nhƣ khuyến cáo của Luật mẫu về

thƣơng mại điện tử (UNCITRAL) về các nguyên tắc cơ bản. Hầu hết các quốc

gia phát triển nhƣ Mỹ, Canada, Singapore v.v... đều xây dựng pháp luật

thƣơng mại điện tử dựa trên các nguyên tắc này. Để giải quyết tốt các tranh

chấp trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, trong thời gian tới, chúng ta cần rà

soát, bổ sung và hoàn thiện nội dung của pháp luật thƣơng mại điện tử, cụ thể

tại Điều 26 Nghị định số 52/2013/ND-CP về Thƣơng mại điện tử sẽ bổ sung

thêm các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, b sung thêm các hành vi bị cấm

Với những hành vi bị cấm quy định tại điều 4 của Nghị định số

52/2013/NĐ-CP thì chƣa thể dự liệu hết các hành vi có thể gây thiệt hại đến

lợi ích của nhà nƣớc cũng các cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân tham gia hoạt

động thƣơng mại điện tử. Do vậy cần phải bổ sung thêm các hành vi bị cấm

khác, cụ thể:

- Sử dụng phƣơng tiện điện tử để liên lạc trái với ý muốn hoặc không

có sự đề nghị của cá nhân, tổ chức, thƣơng nhân.

- Thiết lập các website có tính năng tạo ra các nhóm kín trên mạng

internet, mạng viễn thông di động để thực hiện hoạt động thƣơng mại điện tử.

Thứ hai, b sung thêm các nguyên tắc trong hoạt động thương mại

điện tử

a)Tương đương thuộc tính, thừa nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện

tử

Th a nhận giá trị pháp lý của chứng t điện tử, bao gồm việc th a nhận

giá trị pháp lý của hóa đơn, chứng t kế toán ở dạng điện tử khi đáp ứng các

tiêu chuẩn cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ thuế và kế

toán khi triển khai hoạt động mua, bán trực tuyến hàng hóa hoặc dịch vụ; th a

nhận giá trị pháp lý của hồ sơ, đơn, giấy xác nhận ở dạng chứng t điện tử khi

đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể để hỗ trợ thực hiện một phần hoặc toàn bộ quy

Page 130: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

124

trình đăng ký kinh doanh, đăng ký đầu tƣ, đấu thầu mua sắm qua các phƣơng

tiện điện tử; th a nhận giá trị pháp lý của chứng t hợp đồng mua bán hàng

hóa và cung ứng dịch vụ, các loại giấy phép hay chứng nhận khác ở dạng

chứng t điện tử khi đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể để thuận lợi hóa thƣơng

mại quốc tế và triển khai thƣơng mại không giấy tờ.

Th a nhận giá trị pháp lý của các chứng t điện tử nhƣ hóa đơn thuế,

hóa đơn thanh toán và loại giấy tờ có giá đƣợc thực hiện, xuất bản bản in bằng

các thiết bị điện tử trong các giao dịch thƣơng mại chính là hiện thực hóa các

nguyên tắc tƣơng đƣơng thuộc tính và công nhận giá trị pháp lý của thông

điệp dữ liệu. Các nguyên tắc này đã đƣợc quy định trong Luật và các văn bản

quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động thƣơng mại trên các phƣơng tiện

điện tử làm căn cứ cho các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình

nhƣng lại không có giá trị chứng cứ khi giải quyết bằng thủ tục tố tụng dân sự

hay các thủ tục về thuế. Chứng t điện tử thỏa mãn các dấu hiệu của chứng

cứ, đó là những gì có thật, khách quan và liên quan, thế nhƣng do nhiều yếu

tố, việc công nhận giá trị pháp lý còn nhiều yêu cầu phức tạp và nhiêu khê,

tốn kém cho các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử. T thực trạng pháp luật

cho thấy, phải hoàn thiện pháp luật theo hƣớng đơn giản hóa các thủ tục tƣ

pháp hay hành chính để công nhận giá trị pháp lý, sử dụng nó vào tất cả các

mục đích hợp pháp phát sinh trong các giao dịch điện tử.

Bên cạnh đó, pháp luật cần quy định kinh doanh thƣơng mại điện tử là

một ngành, nghề kinh doanh có mã đăng ký riêng; quy định cụ thể hơn về

chính sách thuế, bao gồm các quy định ƣu đãi về thuế giá trị gia tăng và thuế

thu nhập doanh nghiệp để tạo môi trƣờng thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh

doanh thƣơng mại điện tử và khuyến khích ngƣời tiêu dùng mua bán trực

tuyến; các quy định về mã sản phẩm và trị giá tính thuế hải quan đối với xuất

khẩu, nhập khẩu các sản phẩm số hóa phù hợp với thông lệ quốc tế và các

cam kết quốc tế của Việt Nam.

b) Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phương thức thương mại điện tử

Page 131: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

125

Việc quy định nguyên tắc này sẽ đảm bảo quyền đƣợc tham gia vào các

hoạt động thƣơng mại, trong đó có thƣơng mại điện tử. Việc lựa chọn là

quyền tự nhiên, và do vậy phải đƣợc pháp luật ghi nhận, làm căn cứ để giải

quyết các tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử.

c)Tự nguyện thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện

giao dịch điện tử

Trong hoạt động thƣơng mại điện tử, có rất nhiều phƣơng tiện điện tử

có thể đƣợc các cá nhâ, tổ chức, thƣơng nhân sử dụng cho hoạt động thƣơng

mại điện tử, ví dụ: Máy tính có kết nối mạng internet, mạng mở, điện thoại

thông minh có kết nối mạng v.v... Nhƣ vậy, dù các cá nhân, tổ chức, thƣơng

nhân sử dụng bất kỳ thiết bị điện tử nào có kết nối mạng internet, mạng mở

khác đều có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ theo quy định

của pháp luật.Việc quy định này sẽ đảm bảo tính thống nhất giữa Bộ luật dân

sự, Luật Thƣơng mại, Luật Giao dịch điện tử.

d)Bảo đảm sự bình đẳng và an toàn trong hoạt động thương mại điện

tử

Nguyên tắc này sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh của các cá nhân, tổ

chức, thƣơng nhân trong thƣơng mại truyền thống với các cá nhân, tổ chức,

thƣơng nhân hoạt động thƣơng mại điện tử.Nếu đƣợc thực hiện tốt, nguyên

tắc này sẽ đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật

thƣơng mại truyền thống với thƣơng mại điện tử. Các cá nhân, tổ chức,

thƣơng nhân sẽ đƣợc hƣởng các quyền và lợi ích hợp pháp cũng nhƣ phải

thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Nhƣ vậy, nguyên tắc này sẽ là căn cứ pháp lý để các cơ quan quản lý

nhà nƣớc trong lĩnh vực thuế, quản lý ngành sẽ xây dựng, ban hành các quy

định phù hợp để bảo vệ lợi ích nhà nƣớc, lợi ích của các cá nhân, tổ chức

tham gia các hoạt động thƣơng mại.

Thứ ba, các quy định giao kết hợp đồng thương mại điện tử

Page 132: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

126

Hợp đồng thƣơng mại điện tử là căn cứ pháp lý quan trọng, là công

đoạn trong một chuỗi các hành vi thƣơng mại điện tử nhƣ quảng cáo hoặc mời

giao kết hợp đồng, đề nghị giao kết hợp đồng của các chủ thể tham gia hợp

đồng. Việc ký kết các hợp đồng điện tử làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ

của các bên tham gia, đồng thời có giá trị chứng cứ, là cơ sở cho sự tin cậy

giữa các bên tham gia hợp đồng. Để phát triển thƣơng mại điện tử, phải hoàn

thiện chế định hợp đồng thƣơng mại điện tử quy định trong Bộ luật Dân sự,

Nghị định về thƣơng mại điện tử để quy định đầy đủ, minh bạch hơn với hiện

nay, việc Nghị định về thƣơng mại điện tử chỉ quy định về giao kết hợp đồng

thƣơng mại điện tử hay giao kết hợp đồng đối với các website có chức năng

đặt hàng trực tuyến sẽ thu hẹp phạm vi và đối tƣợng điều chỉnh của nghị định

về thƣơng mại điện tử, mặt khác, Bộ luật Dân sự phải giải quyết đƣợc các vấn

đề pháp lý về hình thức của hợp đồng ký bằng các phƣơng tiện điện tử trên cơ

sở công nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu, tƣơng đƣơng thuộc tính

của văn bản, chứng t điện tử hoặc các thông tin sử dụng công nghệ tƣơng tự.

Luật Thƣơng mại cũng phải đƣợc sửa đổi theo hƣớng đa dạng hóa hình thức

của hợp đồng và thống nhất với Bộ luật Dân sự, Luật Giao dịch điện tử và

Nghị định về thƣơng mại điện tử, có nhƣ vậy mới đủ cơ sở pháp lý để sử dụng

các chứng cứ điện tử trong tố tụng hay các biện pháp giải quyết khác.

Hiện nay trong Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bổ sung một số loại

hợp đồng thông dụng, bên cạnh những loại hợp đồng đã đƣợc quy định hiện

nay và Bộ luật Dân sự hiện hành đã quy định riêng về 13 loại hợp đồng nhƣng

không có hợp đồng thƣơng mại điện tử, do vậy, khi áp dụng các luật chuyên

ngành sẽ phức tạp, không thống nhất và khó áp dụng. Đây là nút thắt trong

các quy định về hợp đồng thƣơng mại điện tử hiện nay vì nhƣ vậy sẽ không

thúc đẩy cá nhân tổ chức tham gia một cách tích cực các hoạt động thƣơng

mại mới mẻ này, khó áp dụng, dễ bị lạm dụng vì cách hiểu tùy nghi.

Thứ tư, bảo đảm an toàn thông tin trong giao dịch thương mại điện tử

Page 133: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

127

Bảo đảm an toàn thông tin trong giao dịch thƣơng mại điện tử bao gồm

hệ thống các quy định pháp luật về an toàn thông tin trong giao dịch thƣơng

mại điện tử; các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia áp dụng đối với các

bên tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử phù hợp với quy mô giao dịch và

chuẩn mực quốc gia và quốc tế; các quy định pháp luật về bảo vệ thông tin cá

nhân phù hợp pháp luật liên quan, đảm bảo thông tin cá nhân trong giao dịch

thƣơng mại điện tử đƣợc bảo vệ về mặt pháp luật theo chuẩn mực quốc tế và

các cam kết quốc tế của Việt Nam.

Pháp luật về thƣơng mại điện tử phải sử dụng các quy định mang tính

kỹ thuật bắt buộc các chủ thể bán hàng hóa, dịch vụ bằng phƣơng tiện điện tử

phải xây dựng, thiết kế các phần mềm hay biện pháp kỹ thuật để đảm bảo an

toàn thông tin cho các giao dịch mà các chủ thể này thực hiện. Với tƣ cách là

bên thứ ba cung cấp dịch vụ thông tin – viễn thông, các cá nhân, tổ chức tham

gia cung cấp phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật ngặt nghèo để đảm bảo hệ

thống lƣu trữ, thu phát, truyền dẫn thông tin, dữ liệu điện tử vận hành ổn định,

liên tục và an toàn bằng việc xây dựng nguyên tắc cũng nhƣ các quy phạm

pháp luật cụ thể ràng buộc các chủ thể này trong đó có các biện pháp chế tài

tƣơng xứng và nghiêm khắc. Pháp luật phải quy định về trách nhiệm, cơ chế

phát hiện các hành vi xâm phạm an toàn thông tin mạng nói chung và thông

tin phục vụ cho thƣơng mại điện tử nói riêng theo hƣớng cụ thể, chặt chẽ và

minh bạch hơn.

Thứ n m, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử

Pháp luật thƣơng mại điện tử phải quy định các biện pháp bảo vệ quyền

sở hữu trí tuệ một minh bạch và hữu hiệu, các nguyên tắc liên quan đến bảo

hộ quyền sở hữu trí tuệ phải cụ thể, chi tiết, đồng thời, pháp luật cũng cần quy

định các biện pháp kỹ thuật để có cơ chế phát hiện kịp thời các vi phạm trên

môi trƣờng điện tử cũng nhƣ mạng thông tin – viễn thông. Các vi phạm đƣợc

thực hiện trên nền tảng công nghệ thông tin thì cách phát hiện dễ nhất cũng

chính bằng công cụ kỹ thuật cao để quản lý, kiểm duyệt và phát hiện. Các quy

Page 134: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

128

phạm pháp luật phải quy định chặt chẽ các tiêu chuẩn kỹ thuật, buộc các chủ

thể liên quan phải thực hiện để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thƣơng mại

điện tử. Trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp

luật phải có nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nguyên tắc này để khuyến

khích các cá nhân tổ chức không ng ng sáng tạo các giá trị mới cho xã hội.

Thứ sáu, bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia giao dịch thương mại

điện tử theo chuẩn mực quốc tế như trong giao dịch thương mại truyền thống

Không có ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử thì thƣơng mại

điện tử không tồn tại, việc bảo vệ ngƣời tiêu dùng không chỉ đảm bảo các

quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, quan trọng hơn là bảo đảm trật tự an toàn

xã hội, tạo niềm tin của ngƣời tiêu dùng đối với hệ thống pháp luật cũng nhƣ

đối với vai trò của thƣơng mại điện tử. Hiện nay, quan hệ pháp luật thƣơng

mại điện tử đƣợc điều chỉnh bởi rất nhiều ngành luật, văn bản quy phạm pháp

luật liên quan. Do tính chất nhƣ vậy nên các nguyên tắc bảo vệ quyền lợi

ngƣời tiêu dùng đƣợc quy định trong rất nhiều ngành luật, nhƣng các quy

phạm nội dung điều chỉnh quan hệ thƣơng mại điện tử nhằm bảo vệ quyền lợi

ngƣời tiêu dùng lại đƣợc quy định chủ yếu trong Luật Bảo vệ quyền lợi ngƣời

tiêu dùng. Chế tài để xử lý các vi phạm pháp luật xâm hại đến lợi ích ngƣời

tiêu dùng gồm chế tài hành chính, hình sự cũng chƣa đƣợc quy định rõ ràng,

dẫn đến chƣa xử lý tốt các hành vi vi phạm và chƣa bảo vệ đƣợc quyền lợi

ngƣời tiêu dùng.

Nhƣ đã phân tích, vai trò của thƣơng mại điện tử rất quan trọng đối với

xã hội, với ngƣời tiêu dùng, do vậy, bảo vệ ngƣời tiêu dùng tức là loại bỏ các

rủi ro, khắc phục những nhƣợc điểm và tạo sự thuận lợi để ngƣời tiêu dùng

tích cực tham gia vào hình thức thƣơng mại mới với nhiều ƣu điểm, thông qua

đó thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển và nâng cao chất lƣợng cuộc sống của

ngƣời dân. Pháp luật phải quy định đầy đủ cũng nhƣ đảm bảo tính khả thi của

nguyên tắc này bắt đầu t khi xây dựng, tuyên truyền phổ biến, ban hành và

thực thi trên thực tế một cách hiệu quả. Do các đặc điểm khác với thƣơng mại

Page 135: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

129

truyền thống, thƣơng mại điện tử hoạt động trên nền tảng của các thiết bị điện

tử, công nghệ điện tử nên khi xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật điều

chỉnh các quan hệ thƣơng mại điện tử phải xây dựng các quy phạm pháp luật

chứa đựng các yêu cầu kỹ thuật cao, có cơ chế phát hiện, xử lý vi phạm bằng

các hình thức điện tử tƣơng ứng giúp cho ngƣời tiêu dùng nhanh chóng thông

báo tới các cơ quan quản lý nhà nƣớc để các cơ quan này kịp thời xử lý vi

phạm nhằm bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng.

Nhƣ vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các cá nhân, tổ

chức, thƣơng nhân khi họ tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử, cần bổ sung

thêm quy định đối với các chủ thể là chủ sở hữu các website bán hàng, cung

cấp dịch vụ phải tham mua bảo hiểm để tránh những rủi ro cho khách hàng

(Ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử).

Thứ bảy, xây dựng, ban hành Luật Thương mại điện tử

Cần nghiên cứu để xây dựng, ban hành Luật Thƣơng mại điện tử trên

cơ sở tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm pháp luật trong các ngành luật cùng

điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cá nhân, tổ chức thực

hiện hành vi thƣơng mại bằng phƣơng tiện điện tử. Tổng hợp các quy phạm

pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực

thƣơng mại điện tử để phân công cụ thể các cơ quan có thẩm quyền cũng nhƣ

trách nhiệm của t ng chủ thể quản lý nhà nƣớc trong quá trình thực hiện cơ

chế phối hợp để thục thi pháp luật. Việc xây dựng, ban hành, triển khai Luật

Thƣơng mại điện tử để thay thế Nghị định về thƣơng mại điện tử sẽ đảm bảo

tính tập trung, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, hiệu quả, kinh tế và khả thi

cao hơn, tránh tình trạng chồng chéo, không rõ ràng, khó thực hiện đối với đối

tƣợng điều chỉnh cũng nhƣ không quy kết đƣợc trách nhiệm cho t ng chủ thể

quản lý nhà nƣớc trong quá trình thực thi pháp luật, t đó đảm bảo tính khả

thi của pháp luật thƣơng mại điện tử. Việc xây dựng, ban hành Luật Thƣơng

mại điện tử sẽ giúp cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thƣơng mại

điện tử sẽ tập trung, dễ hiểu, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân có thêm

Page 136: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

130

nhiều hiểu biết pháp luật khi tham gia các hoạt động thƣơng mại điện tử, qua

đó tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cũng nhƣ có những hành xử phù

hợp pháp luật. Khi tạo đƣợc sự đồng thuận, trang bị đầy đủ các kiến thức

pháp luật thƣơng mại điện tử cho ngƣời dân, các tổ chức thì điều này sẽ thúc

đẩy thƣơng mại điện tử phát triển mạnh mẽ hơn.

Việc xây dựng, ban hành Luật Thƣơng mại điện tử với tƣ cách là luật

chuyên ngành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi các cá nhân, tổ

chức tham gia các hoạt động thƣơng mại có sử dụng một phần hay toàn bộ

bằng phƣơng tiện điện tử. Luật Thƣơng mại điện tử không thay thế Luật Giao

dịch điện tử.

4.2.2. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện pháp luật thƣơng mại

điện tử

Thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật TMĐT nói riêng, yếu tố

con ngƣời vẫn là yếu tố then chốt bởi vì dù là chủ thể áp dụng(thi hành) pháp

luật hay tuân thủ, sử dụng pháp luật đều là con ngƣời và thông qua con ngƣời

cụ thể. Do vậy khi hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật thƣơng mại điện tử

thì phải làm tốt những vấn đề sau đây:

Thứ nhất, tăng cường năng lực và hiệu quả công tác của cơ quan quản

lý nhà nước về thương mại điện tử

Hiện nay, Cục Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin là các đơn

vị trực thuộc Bộ Công thƣơng, thực hiện chức năng tham mƣu, giúp Bộ

trƣởng quản lý nhà nƣớc và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực

hoạt động thƣơng mại điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin v.v...

Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử quốc gia

và công nghệ thông tin ngành Công Thƣơng, Cục Thƣơng mại điện tử và

Công nghệ thông tin cần tăng cƣờng hơn nữa nhiệm vụ hoàn thiện hạ tầng cho

thƣơng mại điện tử; phổ biến pháp luật về thƣơng mại điện tử nhằm nâng cao

nhận thức xã hội; phối hợp với các đơn vị liên quan giải quyết tranh chấp và

xử lý vi phạm trong thƣơng mại điện tử; là đầu mối kết nối với các địa

Page 137: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

131

phƣơng, hiệp hội, ngành hàng và doanh nghiệp nhằm phát triển thƣơng

mại điện tử; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về thƣơng mại điện tử; Cục Thƣơng

mại điện tử và Công nghệ thông tin phải giữ trọng trách đảm bảo hệ thống hạ

tầng thƣơng mại điện tử vững chắc; tạo bƣớc tiến phát triển nguồn nhân lực

về lĩnh vực thƣơng mại điện tửvà công nghệ thông tin cho ngành Công

Thƣơng nói riêng và của cả nƣớc nói chung.

Bên cạnh đó, cần chú trọng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc về

thƣơng mại điện tử. Hiện nay, số lƣợng website bán hàng phát triển rất nhanh

nhƣng số có đăng ký rất ít, ngoài ra trên các mạng mở khác nhƣ facebook hay

Yahoo cũng đƣợc các cá nhân, tổ chức sử dụng để thực hiện các hành vi

thƣơng mại điện tử nhƣ quảng cáo, mua bán hàng hóa dịch vụ hoặc thanh toán

điện tử, các mạng mở này thƣờng có các quan hệ thƣơng mại điện tử theo mô

hình C2C (ngƣời tiêu dùng với ngƣời tiêu dùng) nên nằm ngoài tầm kiểm soát

của cơ quan chức năng. Để hạn chế các tranh chấp trong lĩnh vực này thì công

tác quản lý, hiệu lực và hiệu quả của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền có vai

trò đặc biệt quan trọng, làm tốt công tác quản lý nhà nƣớc, công tác thanh tra,

kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực này sẽ triệt tiêu tận gốc những tranh

chấp trong thƣơng mại điện tử bởi khi thực hiện việc đăng ký và chịu sự kiểm

tra, giám sát của các cơ quan chức năng thì các doanh nghiệp hay thƣơng

nhân có đăng ký kinh doanh sẽ thực hiện tốt hơn các nghĩa vụ của mình đối

với ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử [100].

Các cơ quan quản lý nhà nƣớc liên quan phải nâng cao hiệu quả thực

thi pháp luật bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong giao dịch điện tử; phát hiện kịp

thời và xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng giao dịch điện tử để l a đảo,

xâm phạm quyền lợi của ngƣời tiêu dùng. Việc giám sát hoạt động thƣơng

mại điện tử đƣợc tiến hành trực tuyến trên môi trƣờng mạng bằng phƣơng tiện

điện tử, thiết bị số với bảy nội dung chính là: (i) Giám sát việc chấp hành

pháp luật về thƣơng mại điện tử của tổ chức, cá nhân trực tiếp tham gia hoặc

có liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử; (ii) Giám sát tình hình hoạt

Page 138: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

132

động thƣơng mại điện tử trên môi trƣờng mạng; (iii) Giám sát hoạt động của

Website thƣơng mại điện tử; hoạt động của phần mềm, ứng dụng thƣơng mại

điện tử cài đặt trên phƣơng diện điện tử, thiết bị số; (iv) Giám sát hoạt động

kinh doanh phần mềm, ứng dụng, thông tin số, nội dung số, xuất bản phẩm

điện tử trên môi trƣờng mạng;(v) Giám sát hoạt động ứng dụng, chuyển giao

công nghệ trong thƣơng mại điện tử; (vi) Giám sát hoạt động đánh giá tín

nhiệm website thƣơng mại điện tử, hoạt động đánh giá và chứng nhận chính

sách bảo vệ thông tin cá nhân, hoạt động chứng thực hợp đồng điện tử; (vii)

Giám sát an toàn thông tin trong hoạt động thƣơng mại điện tử. Ngoài ra, cần

nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động cho các tổ chức xã hội bảo vệ ngƣời

tiêu dùng trong việc hỗ trợ thông tin, hƣớng dẫn và cảnh báo ngƣời tiêu dùng

về những nguy cơ bị xâm hại quyền lợi khi giao dịch điện tử, nâng cao nhận

thức cũng nhƣ trách nhiệm cho ngƣời tiêu dùng trong việc thực thi pháp luật

bảo vệ quyền lợi của họ khi tham gia giao dịch điện tử v.v...

Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ công chức

trong các cơ quan quản lý nhà nước

Để tăng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc thì điều kiện đầu tiên và

tiên quyết là yếu tố con ngƣời, vì mọi quyết định cá biệt hay chủ trƣơng,

đƣờng lối, chính sách hay triển khai áp dụng pháp luật đều bắt đầu t các cán

bộ, công chức trong các cơ quan này. Để quản lý một hoạt động mới hình

thành trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông và các thiết bị

điện tử vào hoạt động thƣơng mại với nhiều tính chất phức tạp về mặt cơ cấu

cũng nhƣ thiết chế quản lý đòi hỏi phải có đội ngũ nhân lực quản lý có trình

độ tƣơng ứng. Thƣơng mại điện tử càng thuận lợi, dễ dàng, nhanh chóng với

các chủ thể tham gia hoạt động thì sẽ càng phức tạp trong cấu trúc nền tảng

phục vụ cho hoạt động này. Để đáp ứng đƣợc nhu cầu điều chỉnh pháp luật

đối với hoạt động thƣơng mại điện tử trong tình hình mới, khi mà các nhu cầu

xã hội phát triển nhanh chóng cần đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn sâu

về công nghệ thông tin viễn thông cũng nhƣ các kiến thức pháp luật cần thiết,

Page 139: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

133

đặc biệt là pháp luật có liên quan đến thƣơng mại điện tử nhằm đáp ứng đƣợc

công tác quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử ở trung ƣơng và địa phƣơng.

Việc đào tạo, bồi dƣỡng chuyên môn cần đƣợc quy định chặt chẽ, đồng thời

thực hiện việc thanh tra, kiểm tra, sát hạch trình độ cần đảm bảo tính đúng

đắn, nghiêm minh mới tránh đƣợc bệnh hình thức hoặc các tiêu cực trong vấn

đề đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ dẫn đến tình trạng quản lý không hiệu

quả.

Thứ ba, triển khai hoạt động thống kê về thương mại điện tử và các

hoạt động hỗ trợ thương mại điện tử

Cần có các quy định chặt chẽ về công tác thống kê trong hoạt động

thƣơng mại điện tử là trách nhiệm của mọi chủ thể tham gia hoạt động này để

tiến tới hình thành các cơ sở dữ liệu quốc gia dùng chung cho các lĩnh vực hải

quan, thuế, quản lý doanh nghiệp, quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, tài chính

tín dụng, thống kê. Làm tốt công tác này sẽ xây dựng đƣợc các chỉ số định

lƣợng phục vụ cho việc hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn thiện pháp

luật thƣơng mại điện tử.

Thứ tư, xây dựng chính sách, chương trình hỗ trợ cho cộng đồng

Phải có những chính sách phù hợp cũng nhƣ bố trí nguồn lực tài chính

hợp lý để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, cá nhân hiện diện trên môi trƣờng

internet, xây dựng thƣơng hiệu trực tuyến, triển khai hoạt động tiếp thị điện

tử, mở rộng mô hình thanh toán điện tử trung gian, áp dụng chữ ký số trong

các hoạt động thƣơng mại nhằm giúp doanh nghiệp thay đổi phƣơng thức sản

xuất, kinh doanh, ứng dụng cách thức quản lý và điều hành tiên tiến.

Thứ n m, tăng cường hợp tác quốc tế về thương mại điện tử và các

lĩnh vực liên quan

Chính sách phát triển công nghệ thông tin – viễn thông của Việt Nam

đã đƣợc triển khai thực hiện t rất sớm, tuy nhiên nếu so sánh với các nƣớc

phát triển thì chúng ta còn đi sau một quãng đƣờng rất dài. T lẽ đó, đƣơng

nhiên các hoạt động thƣơng mại điện tử cũng vì thế mà phát triển muộn do

Page 140: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

134

vậy cần có những chƣơng trình hợp tác với các tổ chức kinh tế thƣơng mại

quốc tế và khu vực, các tổ chức thƣơng mại của Liên Hợp Quốc, các đối tác

trong các Hiệp định FTA song phƣơng và đa phƣơng mà Việt Nam đã ký kết.

Nhà nƣớc cần có cơ chế khuyến khích các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các

doanh nghiệp hợp tác với các đối tác nƣớc ngoài tạo môi trƣờng phát triển

thƣơng mại điện tử quốc tế, tăng cƣờng hoạt động kinh doanh trực tuyến qua

biên giới và chuyển giao công nghệ. Tăng cƣờng trao đổi, học tập kinh

nghiệm t các quốc gia tiên tiến về thƣơng mại điện tử, đặc biệt là Hoa Kỳ và

các nƣớc tham gia TPP, liên kết hợp tác trong các chƣơng trình đào tạo nguồn

nhân lực cho cơ quan quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử, tăng cƣờng

hợp tác quốc tế về thƣơng mại điện tử.

Thứ sáu, nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của các chủ thể trong

giao dịch điện tử.

Thực tiễn cho thấy, một trong những khó khăn, bất cập ảnh hƣởng đến

việc phát triển thƣơng mại bền vững, an toàn và hiệu quả ở nƣớc ta thời gian

qua là nhận thức của các chủ thể tham gia thƣơng mại điện tử và ý thức pháp

luật về vấn đề này còn hạn chế. Bởi vậy, để khắc phục tình trạng trên, các

doanh nghiệp kinh doanh thƣơng mại điện tử ngoài việc thực hiện nghiêm các

quy định của pháp luật, cần phải tập trung đầu tƣ nhiều hơn nữa cho việc phát

triển hoạt động thƣơng mại điện tử; xây dựng đƣợc lòng tin đối với ngƣời tiêu

dùng, thƣờng xuyên đổi mới và nâng cao chất lƣợng dịch vụ cũng nhƣ sản

phẩm để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng; đặc biệt, cần cam kết bảo mật

thông tin, tôn trọng sự riêng tƣ, giao hàng đúng nơi, đúng hạn, trả lời và giải

quyết các khiếu nại của ngƣời tiêu dùng một cách kịp thời, thỏa đáng v.v...

Việc nâng cao nhận thức và ý thức của các cá nhân tổ chức tham gia

vào hoạt động thƣơng mại điện tử phải đƣợc tuyên truyền, phổ biến giáo dục

thƣờng xuyên, liên tục, với nhiều hình thức đa dạng và dễ hiểu thì mới đạt

đƣợc hiệu quả. Pháp luật phải có các quy định cụ thể về nhiệm vụ tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của các cơ quan liên quan cũng nhƣ Uỷ

Page 141: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

135

ban nhân dân các cấp để cung cấp những kiến thức, những kỹ năng cần thiết

cho các chủ thể tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử để họ có thể chủ động

chấp hành, tuân thủ pháp luật một cách tự giác, thƣờng trực cũng nhƣ có thể

tự bảo vệ mình khi tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử. Khi việc tuyên

truyền phổ biến, giáo dục pháp luật đúng phƣơng pháp, các cá nhân tổ chức

còn có những phản hồi kịp thời để sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm

pháp luật phù hợp và quan trọng hơn là các chủ thể này còn có ý thức tự bảo

vệ nhau bằng những cảnh báo cho mọi ngƣời kịp thời để tránh các rủi ro. Phải

có nguồn kinh phí phù hợp và chính sách đào tạo kỹ năng cho chính những

ngƣời làm công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong các cơ quan có

chức năng đảm trách nhiệm vụ này bằng các quy định pháp luật.

4.2.3. Nâng cao năng lực cơ chế giải quyết tranh chấp và sửa đổi,

bổ sung chế tài xử l vi phạm trong thƣơng mại điện tử

i) Xây dựng cơ chế phát hiện vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại

điện tử

Xử lý các vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử có vai trò quan

trọng, ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, nó

còn làm lành mạnh hóa hoạt động này trên cơ sở răn đe và phòng ng a, nâng

cao ý thức của các chủ thể. Để xử lý đƣợc các vi phạm thì cơ chế phát hiện là

vấn đề quan trọng trong hoạt động thƣơng mại điện tử, trên thực tế, việc phát

hiện các vi phạm bằng thanh tra chuyên ngành còn rất hạn chế, chủ yếu tiếp

nhận thông tin vi phạm t những ngƣời tham gia mua hàng hóa dịch vụ hoặc

báo chí, do vậy cơ chế phát hiện chƣa đáp ứng đƣợc các yêu cầu về xử lý vi

phạm.

Do có sự tham gia của các phƣơng tiện điện tử nên cần thiết phải xây

dựng cơ chế phát hiện vi phạm bằng biện pháp kỹ thuật đƣợc xây dựng và

quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật để các chủ thể tham gia hoạt

động TMĐT có thể thêm đƣợc các biện pháp bảo vệ mặc định, không những

Page 142: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

136

thế, cá nhân tổ chức là bên mua hàng hóa dịch vụ có thêm các kênh thông tin

nhằm phản ánh các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực TMĐT.

Để các cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động TMĐT chủ động, tích cực

cung cấp thông tin về các vi phạm liên quan đến lĩnh vực cho các cơ quan có

thẩm quyền xử lý cần phải có cơ chế hữu hiệu bằng nhiều biện pháp khác

ngoài việc quy định về nghĩa vụ của họ trong các quy đinh pháp luật, các biện

pháp đó có thể gồm: Tuyên truyền phổ biến pháp luật, khen thƣởng, các hộp

thƣ trao đổi thông tin vi phạm qua cổng thông tin của các cơ quan chức năng

có thẩm quyền, đƣờng dây nóng v.v...

Nếu xây dựng đƣợc cơ chế phát hiện vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

thƣơng mại điện tử phù hợp, hiệu quả thì mới có thể thực hiện bƣớc tiếp theo

là xử lý vi phạm, qua đó đảm bảo quyền lợi ngƣời tiêu dùng cũng nhƣ củng

cố niềm tin cho các cá nhân, tổ chức đã và sẽ tham gia các hoạt động thƣơng

mại điện tử.

ii) Sửa đổi, bổ sung chế tài xử l đối với các hành vi vi phạm pháp

luật về thƣơng mại điện tử

Để đảm bảo tính răn đe và phòng ng a các vi phạm pháp luật trong

hoạt động thƣơng mại điện tử, các cơ quan quản lý nhà nƣớc phải xây dựng,

ban hành hay hoàn thiện pháp luật liên quan để bảo đảm rằng, các vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực này bị phát hiện nhanh chóng. Do các vi phạm xảy ra

trong lĩnh vực có các thiết bị, phƣơng tiện điện tử nên cần có các quy định về

hàng rào kỹ thuật, biện pháp kỹ thuật để phát hiện cho tƣơng thích với công

cụ, phƣơng tiện, cách thức vi phạm mà những cá nhân tổ chức đã thực hiện.

Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cần

đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, nhanh chóng, kịp thời, xây dựng lực lƣợng

thanh tra chuyên ngành t trung ƣơng tới địa phƣơng để đảm bảo tính chuyên

nghiệp với đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra có chuyên môn sâu, đúng

chuyên ngành và có đủ kiến thức cần thiết khi thực hiện công vụ vì lực lƣợng

thanh tra phải am hiểu về công nghệ thông tin nhằm truy xuất dữ liệu, tìm

Page 143: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

137

kiếm dữ liệu, vận hành các thiết bị điện tử phục vụ cho công tác thanh tra,

kiểm tra. Phải bổ sung thanh tra chuyên ngành về thƣơng mại điện tử ở cấp

tỉnh để kịp thời phát hiện các vi phạm trong lĩnh vực này. Tăng cƣờng thẩm

quyền cũng nhƣ mở rộng đối tƣợng thanh tra kiểm tra của cơ quan thanh tra

và xây dựng cơ chế thanh tra, để kịp thời phát hiện các vi phạm pháp luật

trong hoạt động thƣơng mại điện tử. Do mức độ ảnh hƣởng tới xã hội rất lớn

nên cần sửa đổi theo hƣớng tăng nặng mức xử phạt hành chính trong lĩnh vực

thƣơng mại điện tử để ngăn ng a các vi phạm pháp luật, bảo vệ tốt quyền lợi

ngƣời tiêu dùng cũng nhƣ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia

hoạt động thƣơng mại điện tử.

Để có căn cứ xử lý vi phạm trong lĩnh vực thƣơng mại điện tử, việc cần

thiết là bổ sung thêm hành vi vi phạm theo khoản 1 điều 78 Nghị định số

52/2013/NĐ-CP về thƣơng mại điện tử, theo đó:

- Tại khoản 1, điều này cần bổ sung thêm hành vi vi phạm các nguyên

tắc cơ bản của hoạt động thƣơng mại điện tử.

- Bổ sung thêm hành vi; Các chủ thể có chức năng quản lý nhà nƣớc

không áp dụng các nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thƣơng

mại điện tử, không sử dụng các nguyên tắc của hoạt động thƣơng mại điện tử

làm căn cứ khi ban hành các quyết định hành chính cá biệt xử lý vi phạm

hành chính.

Để đảm bảo tính răn đe và phòng ng a vi phạm pháp luật trong lĩnh

vực thƣơng mại điện tử, việc quy định phạt tiền là phù hợp, tuy nhiên mức

phạt cao nhất hiện nay theo Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013

đối với các hành vi vi phạm trong TMĐT là 50.000.000 đồng, quá thấp so với

giá trị hàng hóa dịch vụ bán ra vì các giao dịch TMĐT có mức doanh thu và

lợi nhuận rất lớn. Việc áp dụng hình phạt bổ sung ngoài thu hồi tên miền .vn

của các Website thƣơng mại điện tử sẽ đƣợc mở rộng sang các tên miền khác

đang hoạt động bằng biện pháp kỹ thuật. Đối với biện pháp thu hồi số tiền thu

lợi bất hợp pháp phải đƣợc giao cho cơ quan có thẩm quyền ra các quyết định

Page 144: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

138

để cƣỡng chế và quy định ngay trong các văn bản pháp luật, tránh trƣờng hợp

chỉ quy định cho có mà không đƣợc bảo đảm thi hành trên thực tế. Bên cạnh

đó, nhằm đảm bảo các nguyên tắc đƣợc thực hiện, các điều cấm không bị xâm

phạm cần có các chế tài phù hợp để xử lý các vi phạm pháp luật phát sinh,

ngoài các biện pháp chế tài hành chính thì cũng cần sửa đổi, bổ sung các tội

danh mới trong Bộ luật Hình sự để đảm bảo tính răn đe, phòng chống tội

phạm liên quan đến các hoạt động thƣơng mại điện tử. Hiện nay, Bộ luật Hình

sự 2015 (Hiện bị hoãn thi hành) đã dành một mục tại chƣơng XXI t điều 285

đến điều 294 quy định các tội về công nghệ thông tin, mạng viễn thông. Tuy

nhiên, do có nhiều tranh cãi nên trong Dự thảo Bộ luật Hình sự năm 2015 đã

bỏ điều 292 vì có sự trùng lặp với các tội danh khác, chỉ khác nhau là hành vi

phạm tội xảy ra ở hai môi trƣờng khác nhau đó là mạng ảo và đời sống thực

mà thôi.Nhƣ vậy, với 9 điều luật đã đƣợc quy định trong Bộ luật Hình sự

2015 có thể đáp ứng đƣợc yêucầu của thực tiễn để bảo vệ các quan hệ xã hội

phát sinh trong hoạt động thƣơng mại điện tửđang phát triển hiện nay ở nƣớc

ta.

Để đảm bảo tính đúng đắn, đúng pháp luật của các cơ quan quản lý nhà

nƣớc, cần xây dựng các chế tài nghiêm khắc đối với đội ngũ cán bộ, công

chức trong các cơ quan quản lý nhà nƣớc về TMĐT không hoàn thành nhiệm

vụ, thiếu trách nhiệm hay cố ý làm trái, lạm quyền trong công tác thanh tra,

kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động thƣơng mại điện tử để phát huy trách

nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức trong lĩnh vực này. Cần xây dựng quy

chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc mà trong đó quy định cụ thể

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng nhƣ trách nhiệm của các cơ quan này

làm căn cứ để giải quyết các vấn đề về bồi thƣờng nhà nƣớc nếu để xảy ra

thiệt hại đối với các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thƣơng mại điện tử,

tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm làm mất niềm tin của ngƣời dân vào các

cơ quan nhà nƣớc và pháp luật.

Page 145: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

139

Song song với các chế tài để xử lý vi phạm, cần có chế độ khen thƣởng

kịp thời, thỏa đáng và hợp lý đối với các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội, cá

nhân trong hoạt động thƣơng mại điện tử để khuyến khích, tạo động lực cống

hiến, sáng tạo, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nƣớc cũng nhƣ các

đóng góp cho thƣơng mại điện tử.

iii) Nâng cao năng lực cơ chế giải quyết tranh chấp trong thƣơng

mại điện tử

Pháp luật cần quy định phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng các

biện pháp đơn giản, trực tiếp giữa ngƣời tiêu dùng và ngƣời bán hàng qua

mạng internet, chủ các website bán hàng bằng các công cụ trực tuyến để giải

quyết các tranh chấp phát sinh nhƣ: Quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ,

thanh toán điện tử, cá nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ tin học, viễn thông bằng

các quy định chặt chẽ có nội dung quy phạm dựa trên các biện pháp kỹ thuật

để các bên có tranh chấp giải quyết nhanh gọn, kịp thời nhằm đảm bảo quyền

và lợi ích hợp pháp của họ, không gây khiếu kiện kéo dài cũng nhƣ mất an

ninh trật tự an toàn xã hội. Bởi vậy, cần có những giải pháp để nâng cao hiệu

quả giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử nhƣ bổ sung các quy phạm

pháp luật quy định giá trị pháp lý của chứng cứ là các thông điệp giữ liệu,

chứng t điện tử. Pháp luật tố tụng dân sự cũng cần bổ sung thêm chế định về

thu thập, lƣu giữ, sử dụng các chứng cứ điện tử để phục vụ cho công tác xét

xử các vụ án dân sự liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử. Bên cạnh

đó, cần có các biện pháp để bảo đảm thi hành đối với các quyết định hành

chính, bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án nhƣ thẩm quyền, biện pháp

phong tỏa tài sản, kê biên, khóa tài khoản hay các biện pháp khác để đảm bảo

rằng công lý phải đƣợc thực thi, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể

tham gia hoạt động thƣơng mại không bị xâm hại.

Cần xây dựng cơ chế, trình tự thủ tục đơn giản để giải quyết các tranh

chấp bằng trọng tài trong hoạt động thƣơng mại điện tử. Do các chủ thể thực

hiện hoạt động thƣơng mại điện tử bằng phƣơng tiện điện tử trực tuyến, nên

Page 146: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

140

cần quy định các cách thức, biện pháp giải quyết tranh chấp tƣơng ứng và đa

dạng để các chủ thể có thể lựa chọn, cụ thể:

Một là, xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua các công cụ

trực tuyến trong thương mại điện tử.Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của

ngƣời tiêu dùng thì hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp là giải pháp tiết

kiệm và hiệu quả nhất. Theo đó, cần bổ sung các quy định của pháp luật điều

chỉnh quan hệ pháp luật thƣơng mại điện tử về cơ chế giải quyết tranh chấp

trực tuyến bằng các biện pháp kỹ thuật nhƣ: Các website bán hàng hay trên

sàn giao dịch điện tử phải công bố đầy đủ các bƣớc và trình tự giải quyết để

ngƣời tiêu dùng biết các quyền và nghĩa vụ của mình; đảm bảo rằng các

website phải đƣợc thiết kế theo những giao diện tiêu chuẩn và thể hiện đầy đủ

nội dung hợp đồng với các điều khoản cụ thể về đối tƣợng, giá cả, phƣơng

thức thanh toán, quyền và nghĩa vụ của các bên cũng nhƣ phƣơng thức giải

quyết tranh chấp. Thực tiễn cho thấy, chỉ có các biện pháp kỹ thuật mới hạn

chế các rủi ro phát sinh t các hành vi sử dụng phƣơng tiện kỹ thuật. Việc giải

quyết tranh chấp trực tuyến sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí, không gây phiền hà

cho ngƣời tiêu dùng, đồng thời sẽ làm giảm chi phí xã hội, tạo tâm lý thoải

mái, yên tâm và tin tƣởng vào các hoạt động thƣơng mại điện tử của ngƣời

tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử.

Hai là, quy định cơ chế đại diện thông qua Hội Bảo vệ người tiêu

dùng.Do tính chất của hợp đồng theo mẫu (hợp đồng gia nhập) có tính chất

giống nhau, các hàng hóa, dịch vụ là sản phẩm sản xuất hàng loạt, hàng hóa

dịch vụ đơn lẻ, đặc định rất ít khi đƣợc giao dịch trong thƣơng mại điện tử,

nên các tranh chấp gần nhƣ giống nhau về bản chất. T đặc điểm này, nên

chăng cần có cơ chế đại diện thông qua cơ quan bảo vệ ngƣời tiêu dùng ở các

địa phƣơng trên cơ sở ủy quyền của ngƣời tiêu dùng để cơ quan này đứng ra

làm đại diện khởi kiện, tham gia tố tụng tại Tòa án có thẩm quyền hay đại

diện để giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thƣơng mại để bảo vệ cho nhóm

ngƣời tiêu dùng bị xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp. Nếu áp dụng cơ chế

Page 147: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

141

đại diện này thì sẽ tiết kiệm thời gian, chi phí cho ngƣời tiêu dùng và đảm bảo

an ninh trật tự, an toàn xã hội, qua đó giảm chi phí xã hội đáng kể.

Ba là, xem xét quy định về thẩm quyền, thủ tục r t gọn để giải quyết

tranh chấp.Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án có thẩm

quyền giải quyết thƣờng là nơi cƣ trú của bị đơn, trong thƣơng mại điện tử,

nếu ngƣời bán hàng là doanh nghiệp vi phạm hợp đồng thì nơi thụ lý giải

quyết sẽ là nơi cƣ trú của bị đơn. Cũng theo quy định của pháp luật tố tụng thì

Tòa án nơi thực hiện hợp đồng cũng có thẩm quyền thụ lý giải quyết, tuy

nhiên trƣờng hợp này ít đƣợc áp dụng giải quyết. Để đảm bảo việc giải quyết

tranh chấp trong thƣơng mại điện tử đƣợc nhanh chóng, thuận lợi cần có

những hƣớng dẫn cụ thể về thẩm quyền giải quyết vụ án cũng nhƣ các thủ tục

rút gọn trong tố tụng dân sự cả về thời gian cũng nhƣ cung cấp chứng cứ, có

nhƣ vậy mới đảm bảo đƣợc các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể

tham gia hoạt động này.

Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong thƣơng mại điện tử sẽ

giúp đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia vào

hoạt động thƣơng mại điện tử, củng cố niềm tin của các cá nhân tổ chức,

khuyến khích họ tham gia vào loại hình thƣơng mại này. Bên cạnh đó, cần

chú trọng xây dựng bộ máy phù hợp để giải quyết kịp thời những tranh chấp

và vấn đề phát sinh trong thƣơng mại điện tử, nâng cao năng lực của bộ máy

thực thi pháp luật để xử lý kịp thời các tranh chấp trong thƣơng mại điện tử.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4

Xét cho cùng, mục đích của việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp

luật thƣơng mại điện tử, nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật thƣơng mại

điện tử cũng chính là nhằm đƣa ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật

thƣơng mại điện tử nhằm thúc đẩy sự phát triển của thƣơng mại điện tử, đáp

ứng nhu cầu của xã hội cũng nhƣ nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh

nghiệp trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế quốc tế. Bởi vậy, nhiệm vụ nghiên

cứu và đƣa ra quan điểm và định hƣớng hoàn thiện pháp luật để t đó có

Page 148: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

142

những giải pháp hoàn thiện hành lang pháp lý rõ ràng, đầy đủ, tạo điều kiện

cho các cá nhân, tổ chức nhận thức đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình khi

tham gia vào các hoạt động thƣơng mại điện tử có ý nghĩa quan trọng và

quyết định.

Kinh nghiệm cho thấy, những rủi ro có thể gặp phải trong quá trình

giao lƣu thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử không chỉ đƣợc khắc phục

bằng công nghệ, giải pháp kỹ thuật, mà đòi hỏi cần phải có một khung pháp lý

đầy đủ. Để thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển, Nhà nƣớc phải giữ vai trò

tiên phong trên cả hai lĩnh vực: Tạo các điều kiện thuận lợi cho các doanh

nghiệp, cá nhân cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng hệ thống văn bản đầy

đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh quan hệ thƣơng mại điện tử. Nếu thiếu

các quy phạm pháp luật, các doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng phải gánh chịu

nhiều rủi ro và thiếu sự an toàn trong giao dịch, làm cho những ƣu thế rõ nét

về thời gian, chi phí của thƣơng mại điện tử không đƣợc khẳng định.

Thƣơng mại điện tử là phƣơng thức mới trong hoạt động thƣơng mại

toàn cầu, áp dụng thƣơng mại điện tử đã và đang là sự lựa chọn tất yếu của

nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thƣơng mại

điện tử đang đặt ra nhiều thách thức trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực

pháp lý, bảo đảm sự tin cậy cần thiết cho quá trình hội nhập và phát triển ở

nƣớc ta.

Page 149: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

143

KẾT LUẬN

Sau khi thực hiện nghiên cứu đề tài“Pháp luật thương mại điện tử ở

Việt Nam hiện nay”, cho phép rút ra một số kết luận chủ yếu sau đây:

1. Theo Tổ chức Thƣơng mại thế giới, thƣơng mại điện tử bao gồm

việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm đƣợc thực hiện

bằng phƣơng tiện điện tử có kết nối internet, mạng viễn thông và các mạng

mở khác, nhƣng đƣợc giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao

nhận cũng nhƣ những thông tin số hoá thông qua mạng Internet. Thƣơng mại

điện tử đang là mô hình kinh doanh có mức tăng trƣởng nhanh và ngày càng

phổ biến, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại nhờ phát huy khả

năng tiện lợi, cắt giảm chi phí và tiết kiệm thời gian cho ngƣời tiêu dùng.

Việc áp dụng thƣơng mại điện tử trong hoạt động kinh doanh hiện là một xu

thế tất yếu trên thế giới và ở Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hƣớng phát

triển chung đó. Kinh doanh trực tuyến giờ đây không còn xa lạ với ngƣời tiêu

dùng Việt Nam. Cùng với tốc độ phát triển internet, việc ứng dụng internet để

mở rộng sản xuất, kinh doanh đang đƣợc nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan

tâm.

Pháp luật thƣơng mại điện tử đƣợc ra đời do sự hình thành và phát triển

mạnh mẽ của công nghệ thông tin và mạng Internet trên thế giới và ở Việt

Nam, đồng thời, pháp luật của nhiều quốc gia về thƣơng mại điện tử đều có

sự tiếp thu t pháp luật thƣơng mại điện tử thế giới và có sự vận dụng để điều

chỉnh phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển ở t ng quốc gia. Đối tƣợng

và phạm vi điều chỉnh của pháp luật thƣơng mại điện tử là các quan hệ

thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử, các vấn đề liên quan mà pháp luật

thƣơng mại truyền thống không đề cập, bởi vậy, cơ chế điều chỉnh và nội

dung pháp luật về thƣơng mại điện tử có những đặc trƣng riêng. Điều này thể

hiện pháp luật phải bảo đảm tính an toàn, hợp pháp và minh bạch trong hoạt

động thƣơng mại điện tử; th a nhận các thông điệp nội dung giao dịch thƣơng

Page 150: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

144

mại qua các phƣơng tiện điện tử; th a nhận chữ ký điện tử nhằm bảo đảm tính

xác thực, toàn vẹn, bảo mật của thông tin đƣợc trao đổi; quy định cụ thể các

vấn đề có liên quan đến việc giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử; bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử; quy

định cơ chế giải quyết tranh chấp và việc xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt

động thƣơng mại điện tử v.v...

2. Pháp luật Việt Nam trong những năm qua đã ghi nhận các hoạt động

kinh doanh, thƣơng mại trên các phƣơng tiện điện tử, quy định kinh doanh

dịch vụ thƣơng mại điện tử là một ngành, nghề kinh doanh; th a nhận giá trị

pháp lý của chứng t điện tử; các quy định về thuế nhƣ hƣớng dẫn giao dịch

điện tử trong lĩnh vực thuế, công nhận tổ chức cung cấp dịch vụ giá trị gia

tăng về giao dịch điện tử trong hoạt động hải quan; quy định về vấn đề bảo vệ

ngƣời tiêu dùng khi tham gia giao dịch thƣơng mại điện tử nhƣ trong giao

dịch thƣơng mại truyền thống v.v... Có thể nói, các văn bản pháp luật điều

chỉnh hoạt động thƣơng mại điện tử mà Nhà nƣớc ta đã ban hành đang dần

đáp ứng đƣợc yêu cầu bảo đảm về mặt pháp lý cho việc phát triển thƣơng mại

điện tử. Tuy nhiên, để những quy định pháp luật có thể đƣợc triển khai hiệu

quả cần có sự hợp tác của cả doanh nghiệp và ngƣời dân. Doanh nghiệp cần

phải làm nhiều hơn mức chuẩn mực chung mà pháp luật quy định để xây

dựng lòng tin của ngƣời tiêu dùng vào một mô hình kinh doanh hay một đơn

vị kinh doanh cụ thể. Điều này đòi hỏi nỗ lực liên tục và lâu dài t phía doanh

nghiệp nhằm xây dựng uy tín, thƣơng hiệu. Và bản thân ngƣời tiêu dùng cũng

là một lực lƣợng đáng kể giúp xây dựng môi trƣờng giao dịch lành mạnh,

thông qua việc theo dõi, giám sát và phản hồi nhằm đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của mình.

3. Xét cho cùng, mục đích của việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về

pháp luật thƣơng mại điện tử, nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật

thƣơng mại điện tử chính cũng chính là nhằm đƣa ra các giải pháp để hoàn

thiện pháp luật thƣơng mại điện tử nhằm thúc đẩy sự phát triển của thƣơng

Page 151: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

145

mại điện tử, đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng nhƣ nâng cao khả năng cạnh

tranh của các doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế quốc tế. Bởi

vậy, nhiệm vụ nghiên cứu và đƣa ra quan điểm và định hƣớng hoàn thiện

pháp luật để t đó có những giải pháp hoàn thiện hành lang pháp lý rõ ràng,

đầy đủ, tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức nhận thức đầy đủ về quyền và

nghĩa vụ của mình khi tham gia vào các hoạt động thƣơng mại điện tử có ý

nghĩa quan trọng và quyết định.

Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về thƣơng mại điện tử ở

nƣớc ta cần tiếp cận và hài hòa hóa với các quy định của pháp luật các nƣớc

đồng thời cần tiếp cận với các chuẩn mực của quốc tế. Tuy nhiên, quá trình

hoàn thiện pháp luật về thƣơngmại điện tử cũng cần phải tính đến những đặc

điểm văn hóa, thói quen của ngƣời Việt Nam và trình độ phát triển khoa học,

công nghệ của nƣớc ta. Ngoài ra, việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp

luật về thƣơng mại điện tử đòi hỏi phải có sự chỉ đạo thống nhất, phối hợp

chặt chẽ, có lộ trình hợp lý, có sự quyết liệt cần thiết và thiết lập đƣợc sự ƣu

tiên cho hoạt động lập pháp và lập quy.

Page 152: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

146

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tiếng Việt

1. TS.Mai Anh – Thƣơng mại điện tử tƣơng lai của kinh doanh, thƣơng

mại, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 7 năm 2005.

2. TS.Lê Ngọc Anh – Thẩm quyền quản lí hoạt động quảng cáo thƣơng

mại theo pháp luật Anh, Mỹ và kinh nghiệm cho Việt Nam. (Tạp chí

Luật học số 3/2015).

3. TS.Trần Văn Biên - “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”, Nxb

Tƣ pháp, Hà Nội năm 2012;

4. TS.Lại Kiên Cƣờng (2014) - “Phòng ng a tội phạm trong lĩnh vực

thƣơng mại điện tử của lực lƣợng Cảnh sát nhân dân” Học viện Cảnh

sát nhân dân - Bộ Công an.

5. TS.Bùi Ngọc Cƣờng (2002) Vai trò của pháp luật kinh tế trong việc bảo

đảm quyền tự do kinh doanh.( Tạp chí KHPL số 7/2002)

6. TS.Vũ Ngọc C (2001), Thƣơng mại điện tử, Nxb Giao thông vận tải

7. TS.Nguyễn Thị Dung (Chủ biên) (2009), Pháp luật về hợp đồng trong

thƣơng mại và đầu tƣ - Những vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

8. TS.Nguyễn Trọng Đàn (1997), Hợp đồng Thƣơng mại quốc tế, Nxb

Thống kê;

9. TS.Trần Thanh Điện “Tài liệu hƣớng dẫn học tập Thƣơng mại điện tử”

Đại học Cần Thơ nghiên cứu và biên soạn năm 2013.

10. TS.Nguyễn Đăng Hậu - “Nghiên cứu cơ sở và phƣơng hƣớng phát triển

thƣơng mại điện tử ở Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học

Kinh tế quốc dân năm 2003;

11. PGS-TS.Nguyễn Vũ Hoàng – Thỏa thuận thƣơng mại khu vực và

những tác động tới thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế. (Tạp chí Luật học số

5/2015).

Page 153: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

147

12. TS.Phạm Thị Thanh Hồng “Những vấn đề chung về thƣơng mại điện

tử, phân tích khả năng thiết lập kênh phân phối qua mạng của các

doanh nghiệp v a và nhỏ và triển vọng của thƣơng mại điện tử ở Việt

Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Quốc Gia Yokohama Nhật

Bản năm 2005.

13. TS.Vũ Thị Minh Hiền “Đổi mới tổ chức quản trị các doanh nghiệp có

ứng dụng thƣơng mại điện tại Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại

Đại học Kinh tế quốc dân năm 2011

14. TS.Lê Linh Lƣơng “Nghiên cứu ứng dụng thƣơng mại điện tử trong các

doanh nghiệp Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Bách

Khoa Hà Nội năm 2003.

15. GS.TS Nguyễn Thị Mơ (2008), Bài giảng Chữ ký số, Hội thảo Thƣơng

mại điện tử, Bộ Công thƣơng;

16. GS.TS Nguyễn Thị Mơ (2005), Cẩm nang pháp lý về hợp đồng điện

tử, Nxb Lao động – Xã hội;

17. TS.Vũ Thị Hòa Nhƣ – Thẩm quyền quản lí hoạt động quảng cáo

thƣơng mại theo pháp luật Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam

Á – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. (Tạp chí Luật học số 9/2015)

18. TS.Trần Hoài Nam “Phát triển ứng dụng mô hình thƣơng mại điện tử

B2B ở Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Thƣơng Mại

năm 2013.

19. TS.Trần Đình Sang “Những tác động của sự phát triển công nghệ thông

tin đối với hiệu quả kiểm toán ở Việt Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế

tại Đại học Sarasota, Florida, Hoa Kỳ năm 2010.

20. TS.Trần Thị Thu Phƣơng –Thỏa thuận lựa chọn Tòa án trong giải quyết

tranh chấp thƣơng mại quốc tế. (Tạp chí Luật học số 3/2015).

21. TS.Mai Hồng Quỳ - Một số vấn đề pháp lý của thƣơng mại điện tử và

việc áp dụng ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 2 năm

2000.

Page 154: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

148

22. TS.Trần Ngọc Thái – Giáo trình Thƣơng mại điện tử, Nxb Đại học

Kinh tế Quốc dân, Hà Nội năm 2005, tr.32.

23. TS.Nguyễn Đức Tài - “Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc

đảm bảo an toàn trong thƣơng mại điện tử ở Việt Nam” - Luận án Tiến

sĩ chuyên ngành thƣơng mại tại Viện Nghiên cứu Thƣơng mại – Bộ

Công Thƣơng năm 2013;

24. PGS.TS Nguyễn Văn Thoan - “Ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử

trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế” Luận án Tiến sĩ

kinh tế tại Đại học Ngoại Thƣơng năm 2010

25. PGS.TS Nguyễn Văn Thoan (2009), Bài giảng Thƣơng mại điện tử,

Trƣờng đại học Ngoại thƣơng;

26. TS.Nguyễn Thanh Tùng – Bất cập trong việc áp dụng chế tài buộc thực

hiện đúng hợp đồng, tạm ng ng thực hiện hợp đồng trong thƣơng mại –

Một số kiến nghị. (Tạp chí Luật học số 7/2015).

27. TS.Nguyễn Thị Anh Thƣ - “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hƣởng đến ứng

dụng thƣơng mại điện tử trong các doanh nghiệp v a và nhỏ tại Việt

Nam” - Luận án Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Kinh Tế thành phố Hồ Chí

Minh năm 2006.

28. TS.Đào Anh Tuấn “Quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử “ Luận án

Tiến sĩ tại Trƣờng Đại học kinh tế Quốc dân 2014

29. TS.Lê Danh Vĩnh (2007), Các vấn đề kỹ thuật, công nghệ, chủ yếu

trong thƣơng mại điện tử: Lý thuyết và thực hành, Nxb Lao động;

30. TS.Lê Hà Vũ với “Xây dựng khung pháp lý nhằm phát triển thƣơng

mại điện tử ở Việt Nam’ Luận văn Thạc sĩ – Trƣờng Đại học Luật Hà

Nội 2006.

31. Ban Tƣ tƣởng – Văn hóa Trung ƣơng (2001), Ứng dụng và phát triển

công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc, Nxb

Chính trị quốc gia;

Page 155: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

149

32. Báo cáo Điều tra về thƣơng mại điện tử năm 2006 của Vụ Thƣơng mại

điện tử - Bộ Công thƣơng;

33. Báo cáo Thƣơng mại

34. điện tử Việt Nam năm 2007 - Bộ Công thƣơng;

35. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2008 - Bộ Công thƣơng;

36. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam 2012 - Bộ Công thƣơng;

37. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2013 - Bộ Công thƣơng

38. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2014 - Bộ Công thƣơng

39. Bài giảng về thƣơng mại điện tử của tác giả Trần Công Nghiệp –

Trƣờng Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên

40. Chính phủ (2005), Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg phê duyệt Kế

hoạch tổng thể phát triển thƣơng mại điện tử giai đoạn 2006-2010;

41. Chính phủ (2006), Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006 quy

định chi tiết Luật Giao dịch điện tử về Thƣơng mại điện tử;

42. Luật Mẫu của Uỷ ban Luật Thƣơng mại Quốc tế của Liên Hợp Quốc

(UNCITRAL) về thƣơng mại điện tử

43. Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nƣớc và pháp luật, Viện Nghiên

cứu Nhà nƣớc và Pháp luật, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm

1995, tr. 220.

44. Phòng Thƣơng mại và công nghiệp Việt Nam (2012), Báo cáo nghiên

cứu MEI 2012- Chỉ số hiệu quả hoạt động xây dựng và thi hành pháp

luật về kinh doanh của các Bộ năm 2012, Hà Nội

45. Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát

triển thƣơng mại điện tử giai đoạn 2006 - 2010;

46. Tập các bài tham luận Hội thảo về thƣơng mại điện tử quốc tế và các

chính sách cơ sở hạ tầng thông tin tổ chức vào tháng 11 năm 2002 tại

Hà Nội.

47. Thông tƣ số 09/2008/TT-BCT ngày 21/7/2008 Bộ Công thƣơng (2008)

về giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện tử;

Page 156: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

150

48. Viện khoa học pháp lý,Những khía cạnh pháp lý của thương mại điện

tử ; Trần Hoài Nam,Một số vấn đề của thương mại điện tử; Đại học

Kinh tế quốc dân Hà Nội,Giáo trình thương mại điện tử, năm 2005.

49. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc

gia;

II. Tiếng Anh

50. “Customer’s behaviour in Electronic Commerce in China” author

Hong Xin Xung and Chen Yan (Savonla University Of Applied

Sciences) .

The UK's E-Commerce Regulations http://www.out-law.com/page-431

bao 08

51. E- Commerce and economic Development in Libia - Thesis

Philosophy of Author Abdalla Hamed ( Wales University, USA) 4/ 2005.

52. Electronic Commerce - DR Mihaela-Roxanafercală- Romani- Babes-

Bolyai University, 2011.

53. The Development of E-Commerce in Malaysia

Ainin Sulaiman, Rohana Jani, Shamshul Bahri

http://link.springer.com/chapter/10.1007%2F0-306-47009-8_24

54. Marc Bacchetta, Patrick Aaditya Mattoo, Ludger Schuknecht, Hannu

Wager và Madelon Wehenr – Electronic commerce and the role of the WTO

University Cambrigde Publisshing, tr.11.

55. e-Commerce & Operations Management

https://www.ida.gov.sg/programmes-partnership/sectors/eCommerce-

Operations-Management

56. New E-commerce Law in Oman - May 18, 2008

http://cldp.doc.gov/programs/cldp-in-action/details/761

57. New E-commerce Law in Oman - May 18, 20

Page 157: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

151

III. Tài liệu trên các Website

58. Ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật đến các hoạt động thƣơng mại điện

tử tại Việt Nam - http//www. luatdongtay.com/tuvanluat/tu-van-

luat/luat...viet-nam/1006.html

59. Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2014

http://www.vecita.gov.vn/tinbai/989/Bao-cao-Thuong-mai-dien-tu-

Viet-Nam-nam-2014

60. Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong giao dịch thƣơng mại điện tử và tín dụng

tiêu dùng

http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1038/Bao-ve-nguoi-tieu-dung-trong-

giao-dich-thuong-mai-dien-tu-va-tin-dung-tieu-

dung#sthash.5VabBP3b.dpuf.( 7/10/2015)

61. Ban hành quy chế quản lý và thực hiện Chƣơng trình phát triển thƣơng

mại điện tử quốc gia

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/4844/ban-hanh-quy-che-quan-ly-va-

thuc-hien-chuong-trinh-phat-trien-thuong-mai-dien-tu-quoc-gia.aspx. (

10/3/2015)

62. Báo cáo Thƣơng mại điện tử 2014

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/4770/bao-cao-thuong-mai-dien-tu-

2014.aspx

63. Bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong các giao dịch thƣơng mại điện tử

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/5562/bao-ve-nguoi-tieu-dung-trong-

cac-giao-dich-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 23/7/2015)

64. Chứng cứ và bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong thƣơng mại điện tử.

http://www.sotuphap.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/lists/posts/post.aspx

?Source=&Category=&ItemID=1907&Mode=1. ( 8/1/2011)

65. Cơ hội mở rộng hợp tác phát triển thƣơng mại điện tử

http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=7041( 12/4/2012)

66. Cơ hội khai thác thị trƣờng APEC và châu Phi

Page 158: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

152

http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=14470. ( 12/4/2012)

67. Cần triển khai nhiều hoạt động để thúc đẩy giao dịch thƣơng mại điện

tử qua biên giới

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/258/can-trien-khai-nhieu-hoat-dong-

de-thuc-day-giao-dich-thuong-mai-dien-tu-qua-bien-gioi-.aspx. (

12/4/2012)

68. Dịch vụ hoàn tất đơn hàng: Mấu chốt để phát triển Thƣơng mại điện tử

http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1080/Dich-vu-hoan-tat-don-hang-Mau-

chot-de-phat-trien-Thuong-mai-dien-tu#sthash.HYmc3pHz.dpuf.

11/01/2015)

69. Đẩy mạnh hoạt động quản lý nhà nƣớc về thƣơng mại điện tử

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/3238/day-manh-hoat-dong-quan-ly-

nha-nuoc-ve-thuong-mai-dien-tu.aspx( 2/6/2012)

70. Đào tạo Thƣơng mại điện tử - Nhìn lại một khóa thử nghiệm

http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1034/Dao-tao-Thuong-mai-dien-tu-

Nhin-lai-mot-khoa-thu-nghiem#sthash.nNvi9nbN.dpuf. (01/10/2015)

71. Đa cấp núp bóng thƣơng mại điện tử

http://congthuonghn.gov.vn/default.aspx?page=&lang=0&cat=4&conte

nt=515. ( 16/8/2011)

72. Giải pháp thanh toán trực tuyến cho thƣơng mại điện tử và dịch vụ

hành chính công

http://congthuonghn.gov.vn/default.aspx?page=&lang=0&cat=134&co

ntent=1134.( 27/11/2014)

73. Giới thiệu cơ quan, tổ chức và cơ chế giải quyết tranh chấp bảo vệ

ngƣời tiêu dùng của Hàn Quốc ( 06-11-2014)

http://www.vca.gov.vn/NewsDetail.aspx?ID=2786&CateID=373

74. Google đánh tiếng thị trƣờng thƣơng mại điện tử bằng nút "Mua"

http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1001/Google-danh-tieng-thi-truong-

thuong-mai-dien-tu-bang-nut-Mua#sthash.foaLtmLE.dpuf.( 19/8/2015)

Page 159: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

153

75. Hệ thống quản lý Website thƣơng mại điện tử Việt Nam - (Nguồn: Cục

TMĐT và CNTT- Bộ CT)

http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/301/-he-thong-

quan-ly-website-thuong-mai-dien-tu-viet-nam/( 1/11/2010)

76. Hệ thống quản lý Website thƣơng mại điện tử Việt Nam

http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/301/-he-thong-

quan-ly-website-thuong-mai-dien-tu-viet-nam/

77. Kinh nghiệm phát triển thƣơng mại điện tử trên di động

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/5724/kinh-nghiem-phat-trien-

thuong-mai-dien-tu-tren-di-dong.aspx. ( 14/8/2015)

78. Khuyến cáo về việc giao dịch Bitcoin trên các website thƣơng mại điện

tử

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/2956/khuyen-cao-ve-viec-giao-dich-

bitcoin-tren-cac-website-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 28/3/2014)

79. Liên minh châu Âu (EU) ủng hộ sáng kiến thúc đẩy thƣơng mại điện tử

http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=20702( 6/2/2012)

80. Nghị quyết về Chính phủ điện tử

http://www.vecita.gov.vn/tinbai/1044/Nghi-quyet-ve-Chinh-phu-dien-

tu( 19/10/2015)

81. Nền tảng di động: Tiềm năng lớn cho thƣơng mại điện tử

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/4565/nen-tang-di-dong--tiem-nang-

lon-cho-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 8/1/2015)

82. Những điều cần chú ý khi mua sắm trực tuyến

http://congthuonghn.gov.vn/default.aspx?page=&lang=0&cat=150&co

ntent=1286. ( 5/8/2015)

83. Nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp nhờ Thƣơng mại điện tử

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/1943/nang-cao-tinh-canh-tranh-cua-

doanh-nghiep-nho-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 27/6/2013)

84. Những Giải Pháp Đòn Bẩy Cho Thƣơng Mại Điện Tử

Page 160: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

154

http://socongthuong.danang.gov.vn/video/2/103/nhung-giai-phap-don-

bay-cho-thuong-mai-dien-tu-/.( 24/10/2015)

85. Mạng xã hội nào phải đăng ký nhƣ sàn giao dịch thƣơng mại điện tử? -

(Nguồn: Báo Hải quan)

http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/2380/mang-xa-hoi-

nao-phai-dang-ky-nhu-san-giao-dich-thuong-mai-dien-tu/

86.Pháp luật chƣa lƣờng kịp sự phát triển của thƣơng mại điện tử -

http://laodong.com.vn/phap-luat/phap-luat-chua-luong-kip-su-phat-

trien-cua-thuong-mai-dien-tu/77778.bld

87. Pháp luật về thƣơng mại điện tử thế giới và Việt Nam;

http://ecommerce.gov.vn/346-3161/phap-luat-ve-thuong-mai-dien-tu-

tren-the-gioi-va-viet-nam.vhtml

88. Quy định về quản lý website thƣơng mại điện tử

http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/2432/quy-dinh-ve-

quan-ly-website-thuong-mai-dien-tu/

89. Sumitomo tham gia thị trƣờng thƣơng mại điện tử Việt Nam - Tri

Phương (TTXVN)

http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=7287. ( 28/8/2013)

90. Tổng kết công tác thực thi pháp luật trong thƣơng mại điện tử

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/4742/tong-ket-cong-tac-thuc-thi-

phap-luat-trong-thuong-mai-dien-tu.aspx. ( 10/12/2012)

91. Thúc đẩy phát triển thƣơng mại điện tử

http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=15464.( 20/12/2010)

92. Thƣơng mại điện tử tại Việt Nam sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới

http://baocongthuong.com.vn/thuong-mai-dien-tu-tai-viet-nam-se-phat-

trien-manh-trong-thoi-gian-toi.html.( 18/9/2015)

93. Thƣơng mại điện tử là cơ hội của mọi doanh nghiệp

Page 161: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

155

http://www.danang.gov.vn/portal/page/portal/danang/chinhquyen/tin_tu

c?p_pers_id=42058&p_folder_id=39013&p_main_news_id=38425414

&p_year_sel=

94. Tọa đàm Phát triển thanh toán trong thƣơng mại điện tử

http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/2127/toa-dam-

phat-trien-thanh-toan-trong-thuong-mai-dien-tu/

95. Thƣơng mại điện tử: cơ hội và thách thức trong thời khủng hoảng -

(P.QLTM theo báo Công Thương)

http://socongthuong.danang.gov.vn/chuyen-muc/44/319/-thuong-mai-

dien-tu-co-hoi-va-thach-thuc-trong-thoi-khung-hoang/

96. Thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu thƣơng mại

- (Theo Thời báo tài chính Việt Nam)

http://socongthuong.danang.gov.vn/tin-tuc/16/1359/thu-tuc-hai-quan-

dien-tu-doi-voi-hang-hoa-xuat-nhap-khau-thuong-mai/

97. Việt Nam tham gia hợp tác quốc tế về thƣơng mại điện tử

http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=8257.( 22/7/2009)

98. Việt Nam và APEC hợp tác đào tạo về thƣơng mại điện tử

http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=8801. ( 20/8/2008)

99. Xu hƣớng phát triển thƣơng mại điện tử

http://www.moit.gov.vn/vn/tin-tuc/1205/xu-huong-phat-trien-thuong-

mai-dien-tu.aspx. ( 7/1/2013)

100. Xử phạt các website bán hàng không đăng ký

http://socongthuong.danang.gov.vn/tin-tuc/16/1518/-xu-phat-cac-

website-ban-hang-khong-dang-ky/

101. Website: www.moit.gov.vn

102. http://bvntd.vca.gov.vn/introduction/localOrg.aspx

103. http://antt.vn/triet-pha-nhieu-vu-an-toi-pham-su-dung-cong-nghe-cao-

0110894.html.( 28/7/2015)

Page 162: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

156

104.http://sonadezi.edu.vn/dien_dan/dien_dan_khoa_quan_tri/dien_dan_khoa

_quan_tri/882471810613/file

105. http://ictnews.vn/khoi-nghiep/bao-cao-thong-ke-cac-con-so/trung-binh-

moi-nguoi-viet-nam-so-huu-1-4-thue-bao-di-dong-123053.ict

106. http://cafebiz.vn/quan-tri/lam-thuong-mai-dien-tu-o-viet-nam-phai-doi-

mat-nhung-kho-khan-gi-2014040310543638016.chn .( 3/4/2014)

107. dddn.com.vn/.../thuong-mai-dien-tu-tien-ao-hang-ao-quan-sao-

2014122.( 12/3/2016)

108. http://mutrap.org.vn/index.php/vi/explore/bao-cao-nghien-

cuu/finish/45/640( 10/2013)

109. http://tailieu.vn/doc/phat-trien-thuong-mai-dien-tu-o-viet-nam-hien-

nay-1502468.html. (20/6/2013)

110. pages.ca.inter.net/~euclid1/esiglaws.html

111. http:http://ecommerce.gov.vn/346-3161/phap-luat-ve-thuong-mai-dien-

tu-tren-the-gioi-va-viet-nam.vhtml

112. http://www.korea-law.org/

113. https://www.sba.gov/managing-business/business-law-

regulations/industry-laws-regulations/online-business-law

Page 163: PHÁP LUẬT THƢƠNG MẠI ĐIỆN T Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

157

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ

1. Lê Văn Thiệp (2016),” Pháp luật về bảo vệ Người tiêu dùng trong

Thương mại điện tử” Tạp chí Dân chủ & Pháp luật Số tháng 2 (287) năm

2016, tr 30-34.

2. Lê Văn Thiệp (2016), “Một số vấn đề về chứng cứ điện tử trong giải

quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án- một số kiến

nghị”.Tạp chí Kiểm sát số 5/2016 (Tháng 3/2016) tr 49-54.

3. Lê Văn Thiệp (2016)“Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong

Thương mại điện tử” . Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số tháng 3(288) năm

2016, tr 22-24.