Upload
trantu
View
223
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
PHONG TỤC DÂN GIAN KIÊNG KỴPHONG TỤC DÂN GIAN KIÊNG KỴ
Tác giả: TRIỀU SƠN
LỜI NÓI ĐẦU
Theo tư duy nông nghiệp và ảnh hưởng của chế độ phong kiến, trong
dân gian, tín ngưỡng, phong tục được hiểu là những quy luật bất thành văn,
là thứ vô hình nhưng thiêng liêng và ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa xã
hội của con người. Hạt nhân của tín ngưỡng văn hóa là tính thiêng liêng,
trong đó bao gồm rất nhiều kiêng kỵ và hèm tục.
Người nông dân với quan niệm “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành” đã
góp phần gìn giữ những kiêng kỵ, hèm tục trong đời sống dân gian. Họ bị
những điều kiêng kỵ quy định và điều chỉnh trong mọi sinh hoạt cuộc sống và
cũng chính họ là lực lượng duy trì và phổ biến những điều kiêng kỵ đó cho thế
hệ nối tiếp. Cứ như vậy từ đời này qua đời khác nó trở thành tập quán văn
hóa.
Các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nước chia những điều
kiêng kỵ thành nhiều nhóm khác nhau như: Những hành động cần kiêng kỵ,
những người phải kiêng kỵ, những sự vật phải kiêng kỵ, những lời ăn tiếng
nói cần kiêng kỵ... Có thể nói những kiêng kỵ đã chứa đựng trong nó rất nhiều
tri thức dân gian về mọi lĩnh vực trong sinh hoạt cuộc sống và trong lao động
của con người nhằm mục đích bảo vệ, khuyến cáo con người khỏi những bất
trắc, tạo ra những nét văn hóa cộng đồng bền vững.
Xuất phát từ thực tế trên, để giúp bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo về
những điều kiêng kỵ trong phong tục dân gian, chúng tôi xin trân trọng giới
thiệu ấn phẩm Phong tục dân gian kiêng kỵ.
Cuốn sách giới thiệu đến bạn đọc những kiêng kỵ trong sinh hoạt cuộc
sống, nghi lễ đời người như dựng nhà, cưới hỏi, sinh đẻ, đặt tên, ốm đau,
tang ma, lễ tết... với cách diễn giải đơn giản, dễ hiểu và gần gũi với thực tế
cuộc sống.
Hy vọng cuốn sách sẽ đem lại cho bạn đọc những thông tin thú vị để
hiểu thêm về văn hóa, phong tục dân gian và có cách hành xử đúng mực
trong cuộc sống.
Chúc các bạn thành công!
NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI
Chương 1. KIÊNG KỴ VỀ CƯỚI HỎI
Kiêng kỵ tuổi xung trong hôn phối
Trong lễ vấn danh, ngoài những kiêng kỵ về tuổi kết hôn còn có những
kiêng kỵ về tướng tinh (còn gọi là sinh tiêu), tức xem nam nữ sinh vào năm
nào, cầm tinh con gì trong số 12 Địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ,
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) tương ứng với 12 con vật: Chuột, trâu, hổ, mèo
(thỏ với người Trung Quốc), rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, lợn.
Cách quy ước này không biết khởi nguyên tự bao giờ, cho đến nay vẫn
có nhiều cách giải thích khác nhau: Có người cho rằng đó là kết quả từ sự
tổng hợp cách ghi năm tính tuổi của người Hoa Hạ và các dân tộc thiểu số
thời cổ. Tương truyền, thời xưa các dân tộc miền Tây và miền Bắc Trung
Quốc từng sáng tạo ra cách ghi năm tính tuổi bằng tên của động vật, như
sách Đường thư viết: “Nước Hiệp Giáp Tư lấy mười hai con vật để ghi năm
tính tuổi, ví dụ năm Dần, tức là năm con hổ”. Trong sách Cai dư tòng khảo
của Triệu Dực (thời Thanh) chép: “Phong tục ở miền Bắc ban đầu chưa có
tên gọi theo 12 Địa chi, nhưng người ta gọi tên năm bằng các con vật: Chuột,
trâu, hổ... và cách ghi năm tính tuổi ấy dần dần trở nên phổ biến ở Trung
Quốc.
Những thư tịch ghi chép sớm nhất về 12 Địa chi hiện còn giữ được là
Kinh thi (trong bài Xa công, phần Tiêu nhã): “Cát nhật Canh Ngọ, Ký tu ngã
mã”; hay bài Quý đông, phần Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký: “Xuất thổ Sửu,
tống hàn khí”. Đến thời Đông Hán, cách ghi này đã được Vương Sung ghi
khá rõ trong trước tác Luận hành (phần Vật thế thiên): “Ngọ là ngựa, Tý là
chuột, Dậu là gà, Mão là thỏ, Hợi là lợn, Mùi là dê, Sửu là trâu, Tỵ là rắn,
Thân là khỉ, Tuất là chó, Dần là hổ, tổng cộng đã nhắc đến 11 con giáp, cộng
với câu “Ngô tại Thìn, kỳ vị long” (tức Thìn là rồng) là đủ 12 con giáp. Theo
sách Ngô Việt xuân thu do Triệu Diệp (thời Đông Hán) soạn thì đã đủ 12 con
giáp. Như vậy, có thể thấy rằng từ trước thời Đông Hán, cách ghi tuổi người
bằng tên con vật đã tương đối phổ biến.
Dù 12 loại động vật trong 12 Địa chi được tuyển chọn và sắp xếp như
thế nào trong việc tính năm sinh của con người, thì sau khi ra đời, nó đã tạo
cho dân gian sự liên tưởng giữa nhân phẩm và tướng tinh. Nghĩa là họ cho
rằng người nào sinh nhằm năm con vật gì thì tính cách sẽ rất giống với con
vật ấy, hoặc chí ít cũng giống hao hao. Đến thời Đường Tống, quan niệm này
đã ảnh hưởng đến thượng tầng xã hội, phát triển thành quan niệm xem tướng
tinh con người chính là thần bản mệnh của người đó. Ví dụ, Liễu Tông
Nguyên thời Đường từng miêu tả một người cầm tinh con chuột, xem chuột là
thần bản mệnh của ông ta. Tương truyền vua Tống Huy Tông cầm tinh con
chó, và tể tướng của ông ta tâu rằng: “Trong 12 cung, chó ở cung Tuất, đó là
bản mệnh của bệ hạ, vậy từ nay phải cấm chỉ việc giết mổ chó ở kinh sư”.
Cho đến tận bây giờ, không ít người vẫn có niềm tin và quan niệm sai lầm vô
thức về mối liên hệ giữa tính cách, số phận con người và tướng tinh.
Nhưng trong xã hội cũ, nhất là thời phong kiến, tập tục này lại rất được
xem trọng, nhất là trong hôn nhân đại sự, đàng trai và đàng gái không thể
không tìm hiểu tướng tinh của nhau để xem tướng hợp hay xung khắc.
Lúc hợp hôn, có rất nhiều kiêng kỵ về tướng tinh, ví dụ tục kiêng kỵ phụ
nữ cầm tinh con hổ phổ biến rất rộng. Điều kiêng kỵ này có lẽ trực tiếp xuất
phát từ tâm lý sợ hổ của con người, từ đó dân gian cho rằng, con gái tuổi Dần
sẽ hung dữ như mãnh hổ. Người ta còn cho rằng, hổ thường bắt người ăn thịt
vào ban đêm, nên họ rất kỵ ban đêm ra đường gặp người nữ cầm tinh con
hổ, đặc biệt kỵ gặp lúc nửa đêm về sáng vì dân gian cho rằng đó là lúc hổ
xuống núi còn hung dữ hơn cả hổ lên núi (vào lúc đầu tối đến nửa đêm).
Cũng vì thế mà người ta cho rằng các cô gái sinh vào trước 12 giờ đêm năm
Dần (hổ lên núi) thì may ra còn có người dám lấy, chứ nếu sinh ra sau 12 giờ
đêm về sáng năm Dần (hổ xuống núi) thì ít người dám cưới.
Ngày xưa một số vùng thuộc dân tộc Hán còn có tục kỵ cô dâu tuổi Mùi,
bởi cho rằng con gái cầm tinh con dê sẽ khắc phu, hại chết chồng sau khi
cưới. Trong phần Trực ngôn bổ chứng, ở sách Thông tục biên của Địch Hao
thời Thanh có dẫn câu ngạn ngữ: “Nữ tử thuộc dương thủ không phòng”
nghĩa là con gái cầm tinh con dê sau khi cưới sẽ trở thành quả phụ. Vấn đề ở
đây không phải là vì đàn bà con gái tuổi Mùi hung dữ như trường hợp tuổi
Dần ở trên, mà vì dân gian quan niệm rằng: “Nhãn lộ tứ bạch, ngư phu thủ
trạch” (mắt lồi tròng trắng nhiều hơn tròng đen sẽ hại chết năm đời chồng),
mà mắt con dê bị xem là nhãn lộ tứ bạch, vì vậy con gái tuổi Mùi cũng bị đưa
vào trường hợp cần kiêng kỵ trong kết hôn.
Như vậy, không lẽ tất cả những cô gái tuổi Dần và tuổi Mùi xưa đều
không thể kết hôn? Hầu hết là như vậy, nhưng nhà gái cũng có nhiều cách để
đánh lừa nhà trai, thay đổi tướng tinh, vận mệnh của mình. Nếu cô nào sinh
nhằm năm Dần thì năm sinh của cô sẽ được cha mẹ tăng lên 1 thành tuổi
Sửu, hoặc giảm đi 1 thành tuổi Mão; còn cô nào sinh nhằm tuổi Mùi thì năm
sinh của cô cũng sẽ được tăng lên 1 thành tuổi Ngọ, hoặc giảm đi 1 thành tuổi
Thân. Do đó, bát tự của các cô gái thường không chính xác, cho nên dân gian
mới có câu: “Nữ mệnh vô chân, nam mệnh vô giả”. Điều đó cũng phản ánh vị
trí thấp kém của nữ giới trong xã hội nam quyền xưa.
Trước đây, các phương gia thuật sỹ còn liên hệ giữa tướng tinh con
người với sự tương sinh tương khắc trong Ngũ hành: Kim Mộc Thuỷ Hoả
Thổ, biến nó thành hiện tượng tương sinh tương khắc trong tướng tinh của
con người. Thời xưa, có người cho rằng Ngũ hành là năm thứ vật chất
thường thấy đã sinh ra và làm thay đổi mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ.
Quan niệm này mang yếu tố của chủ nghĩa duy vật, nhưng sau đó nó đã bị
các đạo sỹ, thầy bói khoác lên chiếc áo thần bí, tạo thành sự mê tín, theo
hướng duy tâm. 12 Địa chi được quy về ứng với Ngũ hành: Dần Mão thuộc
Mộc, Tỵ Ngọ thuộc Hoả, Thìn Mùi Tuất Sửu thuộc Thổ, Thân Dậu thuộc Kim,
Hợi Tý thuộc Thuỷ. Bởi giữa Ngũ hành có quan hệ tương sinh tương khắc,
cho nên giữa tướng tinh của con người cũng có quan hệ tương sinh tương
khắc, và từ đó dần dần nó đã bị biến thành một trong những tiêu chuẩn hết
sức quan trọng trong việc phối hôn.
Vương Sung là học giả cực lực phản đối quan niệm tương sinh tương
khắc trong tướng tinh ấy. Trong thiên Vật thế ở sách Luận hành ông đã nêu
ra sự bất hợp lý: “Thuỷ thắng Hoả, sao chuột không đuổi ngựa? Kim thắng
Mộc, sao gà không mổ mèo? Thổ thắng Thuỷ, sao trâu và dê không giết lợn?
Hoả thắng Kim, sao rắn không cắn khỉ? Nhưng những người có tư tưởng như
Vương Sung rất hiếm hoi, đa phần người ta tin theo. Không những vậy, nó
còn nhanh chóng trở thành tín tục dân gian, hình thành quan niệm lành, dữ
trong phối hôn nam nữ.
Ngoài ra, dân gian còn lưu truyền một số câu đúc rút về những điều
kiêng kỵ trong phổi hôn, ví dụ như:
Long hổ tương đấu, tất hữu nhất thương (Rồng và hổ đánh nhau, tất sẽ
có một con bị thương).
Long hố tương đấu, tất định đoản thọ (Rồng và hổ đánh nhau, tất sẽ
chết sớm).
Lưỡng chỉ dương, hoạt bất trường (Hai dê chung chuồng, không thể
sống lâu)
Trư hầu bất đáo đầu (Lợn và khỉ không thể sống lâu với nhau).
Lưỡng hổ bất đồng sơn (Hai hổ không thể sống chung một núi).
Bạch mã phạ thanh ngưu (Ngựa trắng sợ trâu xanh).
Kệ cẩu bất nhất gia (Gà chó không thể sống cùng nhà).
Thanh long khắc bạch hổ (Rồng xanh khắc hổ trắng).
Hổ thử bất kết thân (Hổ và chuột không thể thân nhau).
Bạch mã phạ kim ngưu, thử dương bất đáo đầu (Ngựa trắng sợ trâu
vàng, chuột và dê không sống lâu được với nhau).
Xà kiến mãnh hố như đao toả, tư kiến anh hầu lệ trường lưu (Rắn gặp
hổ như đao gặp kiếm, lợn gặp khỉ khóc mãi không thôi).
Tý thử kiến dương vạn niên sầu, bất khiếu bạch mã kiến thanh ngưu
(Chuột gặp dê buồn vạn thuở, nhưng cũng chẳng bằng ngựa trắng gặp trâu
xanh).
Hổ kiến xà như đao cát, thố tử kiến long bất trường cửu (Hổ thấy rắn
như dao chém, mèo thấy rồng chẳng được lâu).
Dậu kê bất dữ khuyển tương kiến, Hợi trư bất khả kiến viên hầu (Gà kia
chớ gặp chó, khỉ nọ đừng gặp lợn).
Tự cổ bạch mã bất phối ngưu, dương thử tương phối nhất đán hưu (Từ
xưa ngựa chẳng phối cùng trâu, dê, chuột nào ở với nhau bao giờ).
Kim kê bất dữ cẩu tương kiến, thanh long kiến thố lệ giao lưu (Gà vàng
gặp chó làm chi, rồng xanh thấy mèo tức thì rơi lệ).
Trư hầu kiến diện như đao cát, hổ xà tương phối bát đáo đầu (Khỉ lợn
gặp gỡ là tranh, hổ xà gặp gỡ yên lành được sao).
Ô trư phạ viên hầu, xà phạ mãnh hổ như đao đoạn (Lợn đen mà sợ khỉ
vàng, rắn sợ mãnh hổ rõ ràng chẳng sai).
Dương thử tương phùng nhất đán hưu, hắc cẩu bất năng tiến dương
quyển (Dê, chuột gặp gỡ nhau chi, chó đen xớ rớ làm gì chuồng dê).
Những đúc rút trên phần lớn đều được lưu hành ở Trung Quốc một số
trong đó có ảnh hưởng nhất định đến quan niệm của người Việt.
Kiêng kỵ cưới hỏi vào những nắm Kim lâu
Do hôn nhân là việc trọng đại của cả đời người, nhiều khi có quan hệ
tới sự hưng thịnh của cả gia tộc, dòng họ nên các cụ ta ngày xưa và nhiều
bậc cha mẹ ngày nay, thường cẩn thận trong việc chọn thời điểm tổ chức hôn
lễ cho con cái. Khi xem tuổi cưới, người ta thường căn cứ vào ngày sinh
tháng đẻ của cô gái, và thường tránh cưới hỏi vào năm Kim lâu vì cho rằng
cưới hỏi vào năm này là không tốt.
Sở dĩ như vậy vì người ta cho rằng, nếu cưới vào năm Kim lâu (năm
tuổi của nữ) thì sẽ gặp hoặc nhiều rủi ro trong quan hệ vợ chồng, hoặc hôn
nhân dễ tan vỡ, hoặc khó có con, hoặc vợ chồng sẽ khắc khẩu, lục đục, hoặc
hay cãi cọ, bất hòa. Vì thế người ta tránh tổ chức cưới vào năm Kim lâu. Tuy
vậy, có nhiều ý kiến khác lại cho rằng, kể cả năm Kim lâu cũng vẫn cưới
được, với điều kiện là phải qua ngày Đông chí.
Tuổi Kim lâu của nữ được xác định như sau: Lấy tuổi nữ giới trừ đi 9
hoặc bội số của 9 sao cho số còn lại nhỏ hơn 10. Nếu số dư là 1, 3, 6, 8 thì
năm đó là năm Kim lâu.
Không kỵ khi chọn ngày cưới
Chọn ngày cưới thì phải xem lịch, đại thể ngày nào có nhiều sao cát
tinh như Thiên đức, Nguyệt đức, Thiên ân, Thiên hỷ... hoặc là ngày Trực khai,
Trực kiến, Trực bình, Trực mãn thì là ngày tốt. Ngày nào có những sao hung
tinh như sao Trùng tang, Trùng phục, Thiên hình, Nguyệt phá thì là ngày xấu.
Kiêng kỵ nhất là ngày Sát chủ, ngày Thụ tử, việc gì cũng phải tránh.
Mỗi tháng có ba ngày là ngày 5, 14, 23, gọi là ngày nguyệt kỵ, việc gì cũng
nên kiêng kỵ và nhất là nên kiêng kỵ nhập phòng.
“Mồng năm, mười bốn, hăm ba
Đi chơi cũng thiệt, huống là đi buôn”
Trong một năm lại có 13 ngày gọi là ngày Dương công kỵ nhật, hết thảy
việc gì cũng phải tránh những. Hễ phạm phải ngày ấy thì việc gì cũng hư
hỏng không thành. Phàm việc lại cần kén ngày hợp mệnh, mà kiêng kỵ ngày
tuổi. Còn những ngày Thập linh, ngày Đức hợp là tốt, ngày Thập ác đại bại,
ngày Tứ lỵ, ngày Tứ tuyệt là xấu.
Cưới xin nên tìm ngày Thiên đức, Nguyệt đức, kỵ ngày Trực phá, Trực
nguy. Còn như kén giờ thì việc gì lúc mới bắt đầu như lúc mới xuất hành, lúc
mới ra ngõ đi cưới đều kén lấy giờ hoàng đạo.
Dưới đây xin trình bày cụ thể hơn:
Trong tháng 5 có thể kết hôn vào các ngày 10, 13, 15, 16, 17, 19, 21,
23, 25, 28. Ngày tốt nhất là mùng 10, 16, 25. Nhưng cần chú ý, mùng 10
không tốt cho những người tuổi Dậu, ngày 25 không lợi cho tuổi Tý. Tháng 10
cũng là tháng thích hợp cho kết hôn với các ngày: 2, 4, 6, 8, 16, 19, 25. Trong
đó ngày mùng 2 không tốt cho người tuổi Tuất, ngày 4 không lợi cho người
tuổi Tý, ngày 6 không lợi cho người tuổi Sửu, mùng 8 không tốt cho người
tuổi Thìn, ngày 19 không lợi cho người tuổi Mão, ngày 25 không tốt cho tuổi
Dậu.
Khi chọn phù rể và phù dâu cũng cần chú ý tuổi của họ xem có khắc
với cô dâu chú rể không.
Kiêng kỵ cưới hỏi vào 3 tháng hè
Ngày nay, nhiều bạn trẻ theo quan niệm mới và tư duy mới cũng như
đời sống mới đã ít kiêng kỵ trong việc tổ chức cưới hỏi. Các cụ và dân gian
nói chung thì vẫn kiêng kỵ cữ như thường. Trong khi đó, nhiều bạn trẻ thấy
người ta nói một số ngày, tháng, năm phải kiêng kỵ không tổ chức cưới thì
làm theo nhưng không biết rõ lý do vì sao phải kiêng kỵ. Lại có người cho
rằng năm Kim lâu vẫn cưới được. Liệu có đúng như vậy?
Ở nước ta, việc cưới hỏi thường được tổ chức vào các tháng 8, 9, 10,
11 và các tháng 2, 3 (sau khi ăn tết xong), tất nhiên không phải mọi vùng,
miền đều giống nhau, ở phía Bắc, thường người ta kiêng kỵ tổ chức hôn lễ
vào 3 tháng hè là do thời tiết giai đoạn này thường nóng nực, không phù hợp
cho việc tổ chức các cuộc vui. Đặc biệt, tháng 7 là tháng có sự tích ông Ngâu,
bà Ngâu nên cũng phải kiêng kỵ cưới hỏi. Việc kiêng kỵ này đã có từ xa xưa,
lâu đời và ngày nay vẫn được duy trì, tồn tại. Vì vậy, nếu có ai đột nhiên tổ
chức cưới vào một ngày trong 3 tháng hè thì có thể bị dư luận cho là đám
cưới “chạy” do ăn cơm trước kẻng.
Những năm trước đây, những đám cưới nói trên khách mời thường đến
ít, gia chủ cũng thường bị chê trách. Tuy nhiên, thời gian gần đây cái nhìn
định kiến như vậy cũng có phần nhiều được cải thiện.
Kiêng kỵ cưới hỏi vào ngày Ngưu Lang - Chức Nữ
Nhiều người đều biết rằng theo quan niệm dân gian thì mối tình Ngưu
Lang - Chức Nữ là mối tình đầy bi kịch, là nỗi bất hạnh của đời sống vợ
chồng. Vì thế người ta tối kỵ việc tổ chức cưới hỏi vào những ngày được gọi
là ngày Ngưu Lang - Chức Nữ (còn gọi là Hoàng vu tứ quý). Ngay cả việc xây
dựng nhà cửa, tư gia hoặc khai trương trụ sở, cơ quan nhiều người có tính
cẩn thận cũng tránh những ngày đó.
Ngày Ngưu Lang - Chức Nữ cụ thể được tính như sau: Mùa xuân kỵ
ngày Thân; mùa hạ kỵ ngày Dần; mùa thu kỵ ngày Thìn; mùa đông kỵ ngày
Tỵ.
Bên cạnh những ngày trên, khi tổ chức cưới hỏi, các cụ ta ngày xưa và
nhiều bậc phụ huynh nay, còn tránh những ngày không phòng, tức là: Mùa
xuân kỵ ngày Thìn, Tỵ, Tý; mùa hạ kỵ ngày Tuất, Hợi, Mùi; mùa thu kỵ ngày
Mão, Dần, Ngọ; mùa đông kỵ ngày Thân, Dậu, Sửu.
Cô dâu khi bước chân theo chồng kiêng kỵ ngoái đầu trở lại
Cô dâu khi bước chân ra khỏi nhà không được bước giật lùi hoặc ngoái
đầu trở lại vì người ta sợ sẽ nhớ nhà mẹ đẻ mà không làm tròn bổn phận với
nhà chồng, điều đó cũng nhằm tránh sự ly tan của hai vợ chồng.
Trong ngày cưới cô dâu được quay về nhà mình cũng là vì lý do trên.
Kiêng kỵ mẹ cô dâu đi đưa dâu
Trong chế độ phong kiến cũ hôn nhân cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt
đâu, con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định mọi
việc, người mẹ chỉ biết tuân theo. Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái
oăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhưng ngươi thì khóc lóc, buồn
tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm bé chưa rời
mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; mẹ thương con còn thơ dại, cũng mủi lòng
sụt sùi khóc. Thế là, trong khi hai họ đang vui mừng yên ấm ở nhà ngoài thì
hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về.
Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám đại
loại như vậy người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu,
dần dần bắt chước nhau, trở thành tục lệ. Một vài địa phương, cả bố cô dâu
cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả bán cho người. Tuy rằng
trong văn sách có ghi “Giá thú bất luận tài” nghĩa là không bàn đến tiền tài
trong việc cưới hỏi, nhưng không hiểu vì sao trong ngôn ngữ Việt Nam lại kết
hợp hai chữ “gả bán” liền nhau.
Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau, kết hôn trên cơ sở
tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn, vậy thì cha mẹ có
nên có mặt dự hôn lễ của hai con không? Đã có nhiều đám cưới ngày nay bỏ
tục kiêng kỵ này.
Kiêng kỵ mẹ chồng giáp mặt con dâu khi rước dâu về
Xưa mẹ chồng thường lánh mặt một lúc (cầm bình vôi sang nhà hàng
xóm) khi con dâu vừa bước chân vào nhà chồng. Điều này có hàm ý sâu xa
là, từ hôm nay mẹ chồng đã trao quyền quán xuyến gia đình cho cô dâu,
nhưng quyền lực trong gia đình thì vẫn thuộc về bà (bình vôi là tượng trưng
cho quyền lực).
Kiêng kỵ khi chọn đường đón dâu
Lựa chọn xe cưới cũng cần chú ý, tốt nhất nên chọn màu xe phù hợp
với Ngũ hành và mệnh của cô dâu chú rể. Tránh đi qua những tuyến đường
có bệnh viện, tòa án, miếu thờ, nghĩa trang. Bởi người xưa quan niệm những
nơi đó có điềm dự báo không tốt cho hôn nhân.
Kiêng kỵ treo ảnh cưới ở phương Bạch hổ
Ảnh cưới là cũng là một bằng chứng hôn nhân. Treo ảnh cưới ở vị trí
thích hợp sẽ giữ cho cuộc hôn nhân ổn định. Thông thường nên treo ảnh
cưới ở hướng Tây Bắc hoặc hướng Tây Nam; vì hướng Tây Bắc chính là quẻ
Càn, đại biểu cho đấng nam nhi, hướng Tây Nam là quẻ Khôn đại biểu cho
người phụ nữ. Không được treo ảnh bên phải giường, vì bên phải chính là vị
trí Bạch hổ, chọn vị trí đó sẽ làm cuộc hôn nhân khó hạnh phúc. Anh cưới nên
đặt bên trái (vị trí Thanh long), như thế mới góp phần cuộc hôn nhân thành
công mỹ mãn.
Chương 2. KIÊNG KỴ VỀ SINH ĐẺ
Một số vùng kiêng kỵ sinh đẻ gần nơi ở
Sinh đẻ là giờ phút trẻ sơ sinh rời khỏi cơ thể người mẹ, là giờ khắc
thần thánh giáng sinh trên cõi đời, cũng chính là thời khắc mang tính quyết
định vận mệnh sinh tử của người mẹ, vì vậy mà dân gian có rất nhiều điều
kiêng kỵ.
Việc sinh đẻ của sản phụ là một chuyện quan trọng mà hung hay cát
đều chưa đoán biết trước được, vì vậy, thông thường thì người ta sẽ dựng
riêng một nơi chuyên dành cho việc sinh nở, còn những điều cấm kỵ về
phương diện này thì chủ yếu có nguồn gốc tại ở nơi ở cũ.
Nhiều nơi, sản phụ không được sinh đẻ ở nhà cũ, mà phải đến nơi
cách đó rất xa (có nơi chỉ yêu cầu không để sản phụ ở trong nhà, có thể ở
ngoài vườn), và dựng lên một Củ ha hán để sinh đẻ.
Tục lệ này thịnh hành ở Trung Quốc và một số nước phương Đông.
Sản phụ tộc Tạng không sinh con ở trong lều, nơi sinh đẻ nhất định phải cách
xa nơi ở. Tộc người Độc Long cũng cấm kỵ không cho sản phụ sinh đẻ ở
trong phòng, họ sợ khí không sạch sẽ của sản phụ sẽ phạm đến những vật
dụng săn bắn trong nhà như cung nỏ, khiến cho họ đi săn mà không có thú.
Khi sản phụ sinh đẻ thì nhất thiết là phải đi ra bên ngoài, sau khi sinh con
xong mới có thể bế con trở vào nhà. Có nơi sản phụ phải sinh con trong
chuồng trâu, chuồng dê.
Kiêng kỵ về nhà mẹ đẻ sinh con
Nhiều nơi đều có tập tục cấm kỵ việc sản phụ trở về nhà mẹ để sinh
con. Khuê nữ một khi đã xuất giá thì đã trở thành người bên nhà chồng, về
nhà mẹ ruột để sinh con là một điều không hợp lý lẽ. Nếu mẹ và con có gì bất
trắc thì nhà mẹ ruột cũng không thể gánh vác nổi.
Còn một lý do nữa là những máu dơ, khí uế của việc sinh nở sẽ mang
đến cho nhà mẹ ruột huyết quang chi tai (nạn đổ máu).
Ở Trung Quốc, sau khi thai phụ tộc Miêu mang thai được tám tháng, sẽ
bị cấm không cho trở về nhà mẹ ruột, sợ do sinh sớm mà sinh con tại nhà mẹ
ruột. Tục cho rằng con gái sinh con của họ khác tại nhà mẹ mình thì sẽ mang
phúc khí của nhà đi mất, và để lại chỉ là tai họa. Thai phụ tộc người Miêu nếu
như không kịp về đến nhà mẹ chồng để sinh con thì sẽ được người nhà bên
mẹ ruột của mình (thông thường sẽ do em gái của cô ta) dựng một cái lều cỏ
ở bên ngoài nhà và cô ta sẽ sinh con ở đấy, nếu như đến lều cỏ mà cũng
không dựng kịp thì sẽ sinh con trong nhà mẹ ruột, và đợi đến một tháng sau
khi sinh sẽ trở về nhà chồng, phải để cho chồng mời một thầy pháp đến nhà
chồng để làm nghi thức tịnh ốc (làm sạch nhà cửa).
Trong Phong tục thông nghĩa có nói rằng: “Không nên về nhà cũ sinh
con, tục cho rằng sẽ khiến cho người ta suy vi. Theo đó, người đàn bà sẽ dễ
vào tay người đàn ông khác, vì thế mà không cho trở về là vậy”. Điều này là
do, một là sợ thân thể thai phụ sẽ dễ bị tổn thương, suy nhược; hai là sợ sau
khi trở về nhà mẹ ruột, người khác sẽ di hoa tiếp mộc, thay họ của anh ta. Ở
một số vùng, người ta cho rằng, hiện tượng sinh con tại nhà mẹ ruột sẽ khiến
cho nhà bên ngoại suốt đời bần cùng. Ở một số nơi khác thì cho rằng, những
đứa trẻ sinh ra ở nhà người mẹ ruột sẽ không thể thành người. Có nơi khi
người vợ đã sinh con ở nhà người mẹ ruột thì người chồng phải dùng trâu
cày một bên nhà mình thì mới có thể hóa giải được.
Kiêng kỵ đối với trẻ sơ sinh
Trẻ mới sinh trong vòng một năm, thời kỳ này là giai đoạn yếu đuối nhất
trong đời người, cần phải được chăm sóc cẩn thận về mọi mặt.
Sau khi trẻ chào đời được ba ngày, theo dân gian, thường phải tắm cho
bé một lần. Sau khi tắm cho bé xong, lúc đó mới có thể mặc một chiếc áo
ngắn, nhưng kỵ mặc quần. Dân gian cho rằng, trẻ em khi sinh ra chưa đầy
một trăm ngày thì không được mặc quần, khi không mặc quần thì chân không
bị vướng víu, nếu như phải bị chết yểu thì cũng sẽ nhanh chóng được chuyển
sinh. Nếu không, quần sẽ quấn chặt vào chân, khi đến âm gian sẽ không trở
lại. Nước dùng để tắm lần đầu cho bé mới sinh ra không được phép đổ bừa
bãi, vì e rằng sẽ làm ô uế đến thần minh.
Sau khi trẻ được sinh ra, thì ở các khu vực, các dân tộc đều có những
tập tục cấm kỵ liên quan đến việc treo vật làm tín hiệu. Một trong những lý lẽ
trong đó là, người ta kiêng kỵ không cho trẻ nhìn thấy người lạ. Ở một số nơi,
trẻ sơ sinh chưa đủ ba tháng thì không được cho ra cửa, ở bên ngoài cũng
cấm không cho khách bước vào nhìn thấy trẻ tránh trẻ phải vía mà quấy khóc.
Tộc Dao cho rằng, khi có người ngoài mặc áo trắng, mang giày cỏ từ
ngoài bước vào buồng sinh thì sẽ khiến cho trẻ kêu khóc ngày đêm, không bú
và cũng không ngủ, hậu quả sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn, người tộc Bạch
còn cấm không cho người mang cung nỏ bước vào nhìn thấy bé gái, nhưng
nếu nhìn thấy bé trai thì không có vấn đề gì. Người Đài Loan kỵ không để
người tuổi hổ nhìn thấy trẻ sơ sinh, sợ trẻ bị giật mình. Đối với người tộc
Đồng, nếu trong nhà có thêm đầy tớ và con cái, thì người đầu tiên đến nhà sẽ
được gọi là người thái sinh (đạp lên sự sinh sôi). Nếu như người đàn ông đạp
lên bé gái, thì họ cho rằng dương khí sẽ rất nặng, không tốt cho bé gái, khó
mà nuôi lớn thành người. Mà người thái sinh lại gặp xui ba năm, nên chủ
nhân cần phải đón tiếp nhiệt tình. Nếu như người đàn bà đạp bé trai, thì họ
cho rằng âm khí sẽ rất nặng, không tốt cho đứa bé trai, sẽ yếu bệnh, bạc
nhược. Người thái sinh tất sẽ gặp may suốt ba năm, nhưng vì thế mà sẽ bị
chủ nhà đối xử lạnh nhạt.
Trong dân gian còn kỵ việc bình phẩm, đánh giá sự gầy hay béo của trẻ
(quở). Nếu bảo là gầy thì sợ sẽ gầy đi thật; nếu bảo là béo, thì sợ thần linh
nghe thấy và nhầm tưởng rằng họ đang chê béo, và sẽ khiến cho bé gầy đi.
Tục cho rằng, sau khi trẻ được sinh ra không lâu, đôi mắt rất sạch sẽ,
có thể nhìn thấy cả cuộc đời trần thế, lại có thể nhìn thấy cả ma quỷ, vì thế
mà người ta tránh không để cho trẻ sơ sinh tham gia hoặc ở gần những nơi
diễn ra các nghi thức triều bái, tế tự, cúng Phật, lập đạo tràng, xây miếu.
Thông thường, người ta cũng không được cho trẻ sơ sinh ở gần những nơi
có chuyện tang ma, cưới xin. Nếu không cẩn thận gặp phải những trường
hợp cấm kỵ này thì cần phải tránh ngay lập tức và mời thầy đến xem quẻ hóa
giải.
Kiêng kỵ một số người vào buông sinh
Buồng sinh là nơi đều kiêng nhau, rất nhiều người không được bước
vào buồng sinh. Rất nhiều tộc người, đều có tập tục cấm nam giới vào trong
buồng sinh. Tục này với mỗi nơi lại được giải thích với lý do khác nhau.
Chẳng hạn như ở Trung Quốc:
Người nam tộc người Ngạc Luân Xuân không được đi vào buồng sinh,
bao gồm cả phòng của người chồng. Khi sản phụ sinh con, nếu như trong
nhà không có đàn bà con gái lo liệu thì người nam phải lo việc cơm nước,
dùng một cái cán gỗ để đẩy thố cơm vào buồng sinh cho vợ ăn. Khi sản phụ
của tộc người Di sinh con, người chồng cũng không được phép ở lại trong
buồng sinh đề phục vụ vợ, mà cũng phải đi ra khỏi nhà giống như những
người đàn ông khác trong gia đình. Nếu như sản phụ muốn ra cửa, thì cần
phải chọn ngày lành, đồng thời phải rửa mặt, quét nhà, nếu không sẽ bị cho là
mang những đồ bẩn ra ngoài nhà.
Theo dân gian Việt thì việc kỵ nam giới vào buồng sinh (hoặc đi thăm
gái đẻ) chủ yếu là để tránh cho người đó gặp phải những đen đủi.
Tộc người Đạt Oát Nhĩ cũng cấm kỵ không cho nam giới vào buồng
sinh, theo họ thì nam giới sẽ dễ đạp phải trẻ. Nếu có người nam nào vô tình
bước vào trong buồng sinh, thì sau khi anh ta đi ra, mà đứa trẻ có mắc phải
bệnh gì, thì đó chính là do người đó dẫm phải đứa bé, cần phải đi tìm và cắt
vài miếng móng chân của anh ta, đem về cùng đốt chung với cây ngải hao,
đợi đến khi bốc khói thì ôm đứa bé đến hơ vài lần trên khói, nhổ miếng nước
bọt vào và nói rằng: “Xuỵt xuỵt, tà khí, mày chạy đi này”. Làm như thế mới có
thể giải trừ được tai ách. Trong vòng bảy ngày khi sản phụ tộc người A
Xương sinh con, những người đàn ông của những gia đình khác bị cấm kỵ
không được phép vào sân nhà của nhà có người sinh con.
Không những chỉ cấm nam giới không được vào buồng sinh, mà người
nữ cũng không được tự tiện bước vào nếu không có việc gì nhất là những
người bị cho là nặng vía. Số người trong buồng sinh không được quá nhiều.
Ở nhiều nơi dân gian vẫn có niềm tin là nếu người trong buồng sinh quá
nhiều thì sẽ khiến cho sản phụ khó sinh. Theo họ, nêu trong buồng sinh có
thêm một người thì thời gian sinh sẽ kéo dài thêm hai tiếng đồng hồ, thai nhi
cũng sẽ ra muộn hơn hai tiếng đồng hồ. Vì vậy, trong buồng sinh thường là
chỉ có người nữ, mà càng ít càng tốt.
Sau khi sản phụ của tộc người Tạng sinh con xong, kiêng kỵ không cho
người nữ vào trong nhà, theo niềm tin của dân tộc này thì họ sẽ dẫm phải sữa
của sản phụ. Điều này chính là do họ sợ người đàn bà khác đến hút lấy năng
lực mớm bú của sản phụ mà chuyển sang bản thân mình. Tương tự như
điểm này, trong nhà của người tộc Bạch nếu có trâu hoặc ngựa đẻ thì cũng
cấm không cho phụ nữ bước vào nhà, vì sợ người phụ nữ đạp hết sữa của
trâu, ngựa.
Thai phụ, quả phụ, những người tuổi Dần, cô dâu mới, những người
đang chịu tang thì lại càng bị cấm kỵ vào buồng sinh. Có nghĩa là, thông
thường thì người ta cho rằng, người chăm sóc sản phụ khi sinh nở thích hợp
nhất là người trong nhà, nếu như thuộc vào những trường hợp trên thì sẽ bị
chặn lại bên ngoài cửa, không được đi vào bên trong. Những người đang bị
đau mắt thì cũng không được vào buồng sinh, nếu không thì bệnh đau mắt ấy
sẽ ngày càng nghiêm trọng.
Nhiều nơi dân gian thường dùng một vài tàu lá dứa dại treo trước cửa
để người ngoài biết nhà có gái đẻ và cũng là để kỵ vía độc.
Có nơi dùng 7 chiếc lá mít (với bé trai) hoặc 9 lá (với bé gái), đem quệt
phân su của trẻ vào đó đặt dưới chiếu cũng với mục đích kỵ vía.
Buồng sinh kỵ ồn ào, đặc biệt là sau khi sản phụ sinh con xong, cấm kỵ
việc cạo nồi, bửa củi bên cạnh nơi sinh đẻ. Đây chính là do sợ tiếng chói tai
từ việc cạo nồi và tiếng ầm ầm từ việc bửa củi sẽ khiến cho bé gái kinh sợ.
Kiêng kỵ trong sinh đẻ của người Cờ Lao
Trong thời kỳ ở cữ, người phụ nữ Cờ Lao phải kiêng kỵ nhiều điều để
mong đẻ dễ và con cái mạnh khoẻ. Nếu đẻ khó gia đình thường mời người
già trong bản tới rửa tay vào một chậu nước rồi múc một chén trong chậu đó
cho sản phụ uống.
Họ tin rằng, trước kia có thể vợ hay chồng cãi nhau với người già và bị
nguyền rủa, nên bây giờ phải mời người già tới rửa lời nguyền ấy. Cũng có
khi người ta rửa con thoi dệt vải và lấy nước đó cho sản phụ uống để mong
sẽ đẻ dễ như thoi đưa. Có gia đình còn bắt con gián đất đem rang khô, giã
nhỏ rồi hoà với nước cho người đẻ uống. Người Cò Lao ở Đồng Văn không
có tục chôn hay treo rau đẻ lên cây mà thường đem đốt. Tro than được bỏ
vào hốc đá trên rừng. Người ta quan niệm rằng tro đó không sạch, sợ chó,
lợn dẫm phải trời sẽ sinh ra sấm sét hại người.
Đối với bé trai sau 3 ngày 3 đêm, với bé gái sau 2 ngày 3 đêm, cha mẹ
sẽ tổ chức lễ đặt tên cho con. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo mới cho
con, người cha giết gà cúng tổ tiên và thần Ghi trếch (thần bảo vệ trẻ em).
Sau đó người ta làm trễ trừ ma cho đứa trẻ bằng cách đặt những hòn đá
nung nóng ở các cửa trong nhà, chỗ đẻ đứa trẻ,... trên mỗi hòn đá để một cây
ngải cứu. Người mẹ bế đứa trẻ tới gần hòn đá đó, một người khác phun nước
vào để cắt rốn đứa trẻ. Vừa làm như thế người ta vừa nói “sạch rồi!” (nói ba
lần, phun nước ba lần ở mỗi hòn đá). Sau khi cúng xong, cả gia đình cùng ăn
cơm. Theo phong tục, đứa con đầu lòng do bà ngoại đặt tên. Hôm đó ông bà
ngoại hay ông cậu nhất thiết phải có mặt và cho cháu quà.
Ở Hoàng Su Phì người Cò Lao Đỏ đặt tên cho con khi đầy tháng. Trong
buổi lễ người ta phải cúng Hoa nương thần (Hoa nhiáng sần - thần trông coi
trẻ nhỏ) và cạo trọc đầu đứa trẻ. Sau đó, cha mẹ tự đặt tên cho con.
Kiêng kỵ trong sinh đẻ của người Lô Lô
Sinh con là niềm hạnh phúc của cả gia đình, nên phụ nữ Lô Lô khi
mang thai thường được cả nhà quan tâm, ít phải lao động nặng nhọc, tránh
ảnh hưởng đến sức khỏe người mẹ và thai nhi.
Tuy nhiên, theo quan niệm cũ, người Lô Lô lại phải kiêng kỵ không ăn
những thức bổ dưỡng, sợ thai to khó sinh. Trẻ sinh ra, rốn cắt bằng dao hoặc
kéo. Nhóm Lô Lô đen thường chôn nhau thai ở góc vườn sao cho không lẫn
vào đất, với quan niệm làm như vậy sẽ tránh cho đứa trẻ khỏi đau mắt. Nhóm
Lô Lô Hoa thường bỏ nhau thai vào ống tre, chôn trong khe đá núi sâu, tránh
không bị nước mưa, với quan niệm làm như vậy để tránh cho đứa trẻ không
bị điếc.
Sau khi sinh ít nhất 10 ngày cấm kỵ sản phụ đi qua bàn thờ tổ tiên và
cửa chính vì sợ ô uế, thần linh sẽ quở trách. Tháng đầu sản phụ phải kiêng kỵ
làm việc nặng, không ăn rau xanh vì sợ đau bụng. Vùng cao lúa ít ngô nhiều,
bột ngô là lương thực chính, nên sản phụ chỉ ăn cơm trong tháng đầu sau
sinh, những tháng sau cũng ăn ngô đồ như mọi người trong gia đình.
Việc chăm sóc trẻ sơ sinh trai cũng như gái, lọt lòng thì cho bú sữa, rồi
lớn dần cho ăn cháo, ăn cơm. Xưa các em nhỏ thường không có quần, còn
áo thì bé trai hay bé gái thường mặc như nhau. Đến 5 - 6 tuổi, trẻ em mới
được tập dần công việc theo giới tương đối rõ: Bé gái tham gia nhiều vào việc
bếp núc, chăn lợn, gà; bé trai bắt đầu phụ giúp thả bò. Đặc biệt, ngay từ lúc 7
- 8 tuổi, con gái đã học cách thêu may.
Kiêng kỵ trong sinh đẻ của người Dao
Dưới chế độ cũ, ở người Dao, nạn “hữu sinh vô dưỡng” hoặc hiếm con
rất phổ biến, nên sinh đẻ là điều mong ước chính đáng của những người đã
thành vợ thành chồng.
Nhưng trước đây, ở miền núi nói chung, ở vùng đồng bào Dao nói riêng
hầu như không có bệnh viện, trạm xá, vì vậy việc sinh đẻ đều do mỗi người,
mỗi gia đình tự lo liệu, chăm sóc lấy. Ngoài việc biết chạy chữa bằng một số
vị thuốc lá, rễ cây cổ truyền, đồng bào chỉ còn cách tổ chức cúng lễ để tổ tiên,
thần thánh phù hộ cho việc sinh đẻ và nuôi nấng con được tốt lành. Và tuỳ
theo từng nhóm người Dao, tuỳ từng địa phương mà người có thai (có khi cả
những người trong gia đình, nhất là người chồng) có những tục kiêng kỵ khác
nhau để tránh cái xấu có thể xảy ra đối với bản thân hoặc đối với những
người và những vật xung quanh: Người có thai kiêng kỵ đến những chỗ đặt
bàn thờ, nhất là bàn thờ tổ tiên; kiêng kỵ tiếp xúc với thầy cúng thầy tào; kiêng
kỵ vào những nơi để hạt giống, để rượu, kiêng kỵ trèo cây, hái quả; cả hai vợ
chồng không được buộc lạt, không ăn thịt rùa, thịt diều hâu, thịt thú bị hổ bắt...
Đồng bào cho rằng, một năm kiêng kỵ sáu thứ nên khi người phụ nữ có
thai vào những tháng nào thì trong những tháng đó họ đều phải ăn kiêng kỵ:
Tháng giêng, tháng bảy, hồn thai ở cửa chính “thất chỏi muần chín”, kiêng kỵ
không đào đất, không sửa chữa động đến cửa chính; tháng hai, tháng tám
hồn thai ở giữa sân “nhị sết chỏi tồng thình”, kiêng kỵ không đào đất, không
đốt lửa, không đặt những vật nặng vào sân; tháng ba, tháng chín, hồn thai ở
cối giã gạo “phạm chùa chỏi tòi tạp”, kiêng kỵ không di chuyển cối; tháng tư,
tháng mười hồn thai ở bếp “phỉa chiệp chỏi dua tòng”, kiêng kỵ không giội
nước lã vào bếp; tháng năm, tháng mười một hồn thai ở trong buồng “hửng
chiệp đất chỏi tồng tào”, kiêng kỵ sửa chữa buồng của người thai nghén;
tháng sáu, tháng mười hai, hồn thai ở bụng mẹ “lụa chiệp nhậy chỏi puốn
diền”, kiêng kỵ không nhúng quần áo người thai nghén vào nước sôi.
Người Dao đẻ ngồi và phải đẻ ngay trong buồng ngủ, kỵ đẻ ở nơi khác.
Chồng, mẹ chồng đỡ hộ hoặc sản phụ tự đỡ lấy, rất ít khi nhờ người ngoài đỡ
giúp. Khi đứa trẻ lọt lòng mẹ, người ta chờ khi nào nó khóc mới bế lên, tắm
rửa bằng nước ấm. Nếu đứa bé chưa khóc, người ta thường lấy sách cúng
quạt cho nó, tin rằng làm như vậy đứa trẻ sẽ khóc được và sau này đứa trẻ
được đặt tên là “Sách” (Slâu). Người ta cắt rốn cho trẻ bằng dao nứa và cho
rau vào trong cái sọt gác lên cành cây hoặc cho vào ống nứa đem lên rừng
chôn ở nơi khô ráo, làm như vậy, theo quan niệm của đồng bào đứa bé mới
được mát mẻ, khoẻ mạnh. Cuống rốn được sấy khô, để làm thuốc chữa
bệnh.
Ngay từ sau khi đẻ, người sản phụ được ăn các thức ăn nấu với gừng
và rượu. Người ta còn cho sản phụ ăn nhiều cơm nếp, thịt gà, giò lợn nấu lẫn
với các vị thuốc bổ (thường là cây thuốc hái ở rừng) để sức khỏe chóng hồi
phục.
Khi nhà có người đẻ, người ta treo cành lá xanh hay cái hoa chuối
trước cửa làm dấu cấm cữ để mọi người biết không vào nhà, nhất là những
người sắp làm dám “chẩu đàng” (bàn vương), cấp sắc “tẩu slai” hoặc sắp làm
các nghi lễ lớn khác. Nếu chưa kịp làm dấu mà đã có người chót vào nhà và
nếu người ấy là đàn ông thì phải nhận đứa trẻ làm con nuôi và đứa trẻ được
đặt tên là “Khách”. Nhưng nói chung người ta không muốn người ngoài, nhất
là khách lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ. Người trong
gia đình kiêng kỵ tới những nơi thờ cúng linh thiêng, ít tiếp xúc với người
ngoài vì sợ hồn vía độc ở ngoài sẽ theo về làm hại đứa trẻ. Ngược lại, người
ngoài cũng không muốn đến nhà có người đẻ đang độ cấm cữ vì họ cho đó là
nơi “không sạch”, có thể ảnh hưởng xấu đến mình, nhất là các thầy mo, thầy
cúng thì sợ ảnh hưởng xấu đến pháp thuật. Riêng ở nhóm Dao quần trắng,
người lạ và bà con trong thôn xóm có thể đến thăm hỏi người đẻ.
Sản phụ, khi có nhiều sữa kiêng kỵ vắt sữa xuống tro bếp, người ta tin
rằng làm như vậy sẽ bị tro “hút” hết sữa, sợ “mẹ sữa” phật ý làm mất sữa.
Sản phụ kiêng kỵ đến các nơi thờ cúng, không ra gian nhà ngoài, không ngồi
cạnh bếp nấu ăn hay bếp khách. Nếu sản phụ cần đi lại thì phải đi qua cửa
phụ ở phía sau. Tã lót và quần của sản phụ chỉ được phơi ở chỗ khuất, nhất
thiết không được phơi phía trước nhà.
Khi đẻ sinh đôi, nếu là một trai một gái, đồng bào thường làm lễ “hợp
cẩn” giả cho hai đứa trẻ, và họ tin rằng làm như vậy mới nuôi được cả hai.
Những đứa trẻ khi lọt lòng mẹ có tràng hoa quấn cổ thì cho là khó nuôi và
muốn để cho dễ nuôi, đứa trẻ ấy phải gọi ông bà là bố mẹ và gọi bố mẹ là anh
chị, tuy nhiên không phải nhóm nào cũng có tục lệ này. Trước đây, người Dao
còn có tệ tục là khi đứa con lọt lòng mà không quay mặt về phía người mẹ thì
cho là điềm xấu phải cúng bái rất nhiều mới để nuôi, có người bỏ không nuôi;
nếu đứa bé còn phun nước bọt nữa thì bị bỏ hẳn. Trẻ sơ sinh quá ốm yếu thì
người ta đặt tên cho trẻ ấy rồi ghi vào mảnh giấy nhỏ đem “gửi” vào một hốc
đá nào đó, sau này đứa trẻ sẽ gọi hòn đá ấy là bố và tên thường ngày của nó
sẽ được gọi là “Thạch”. Cũng có thể nhờ một thầy cúng đứng ra bảo lãnh cho
đứa bé, nhận đứa bé làm con nuôi.
Trẻ sơ sinh được ba ngày thì gia đình lập đàn cúng mụ gọi là lễ “nam
han”. Người ta thường mổ một lợn, một gà, một vịt để cúng tạ ơn bà mụ ở
động Đào - hoa Lâm - châu đã ban cho họ đứa trẻ và cầu mong ở mụ sự phù
hộ lâu dài. Mỗi khi làm lễ phải mời hai thầy cúng, một người cúng hồn đứa
trẻ, một người cúng hồn người mẹ, nhưng cả hai đều cầu mong ma mụ phù
hộ cho người mẹ và đứa bé. Cúng xong, cha đứa trẻ bưng một khay rượu
đến trước thầy cúng và khách dự lễ, lạy mỗi người bốn lạy để tạ ơn. Trừ thầy
cúng, còn khách đến dự đều mừng tiền cho chủ nhà (thường là vài hào bạc
trắng).
Ở nhóm Dao quần trắng, khi làm lễ cúng ma mụ đồng bào phải chọn
ngày tốt. Khi cúng người ta làm lễ dâng hoa. Con gái dâng hoa màu đỏ, con
trai dâng hoa màu trắng; hoa bằng giấy và gắn vào các que nứa được đặt
trên chiếc yếm của phụ nữ đang dệt dở. Đồng bào tin rằng làm lễ “dâng hoa”
là để bà Chúa hoa hay bà mụ mải mê với hoa và các vật cúng khác mà không
đến quấy rầy đứa trẻ.
Đồng bào Dao chăm sóc trẻ sơ sinh khá chu đáo. Hằng ngày đồng bào
thường tắm rửa cho đứa trẻ bằng nước đun với lá cây có hương thơm, cho
trẻ ăn mật ong...
Nhìn chung, đồng bào Dao rất thương yêu con trẻ. Cha mẹ ít đánh đập,
chửi mắng con, kể cả với con nuôi cũng vậy, cho nên con nuôi cũng gắn bó
với cha mẹ nuôi không khác gì đối với cha mẹ đẻ.
Chương 3. KIÊNG KỴ VỀ ĐẶT TÊN
Những điều kiêng kỵ chung khi đặt tên
Tên gọi sẽ đi theo cuộc đời mỗi con người, vì vậy, khi chọn tên cho con
cái, bạn cần tránh những điều sau:
Chọn tên qua loa, tùy tiện
Tên gọi là đại diện của con người, thể hiện vị thế của người đó trong xã
hội. Một cái tên đẹp sẽ góp phần tạo thuận lợi cho công việc, quan hệ giao
tiếp cũng như thời vận của người đó. Vì vậy, khi đặt tên cho con, bạn cần
phải suy xét thật kỹ nhiều phương diện, tuyệt đối tránh sự qua loa, tùy tiện.
Chọn tên có ý nghĩa tự cao tự đại một cách lộ liễu
Cái tên có nghĩa tự cao tự đại là biểu hiện của sự thiếu tế nhị trong việc
bộc lộ cá tính; thậm chí, đó còn là sự bất kính, khiếm nhã với người khác, dễ
gây tâm lý phản cảm.
Chọn tên tầm thường, nông cạn
Một cái tên đẹp, dễ nhớ, giản dị hay cái tên mới mẻ, độc đáo đều không
có chỗ cho sự tầm thường, nông cạn. Để tránh điều đó, không nên dùng
những tên nằm trong các đề tài đã trở nên sáo mòn (như Phúc Lộc Tài, Nhân
Thọ An Khang) hoặc lạm dụng thành ngữ, tục ngữ trong việc đặt tên.
Chọn tên thô tục
Không một ai muốn có cái tên thô tục để làm hành trang theo suốt cuộc
đời mình. Vì vậy, không nên để con cái mình mang theo điều không như ý đó.
Sự không hòa âm trong tương quan giữa tên, họ, đệm
Khi chọn tên cho con, nên tránh những âm thiếu ngữ nghĩa hoặc có
ngữ nghĩa không đẹp. Hơn nữa, bạn cũng cần chú ý tránh những những từ
có thể gây phản nghĩa trong quá trình sử dụng để đặt tên.
Nếu không suy xét cho thấu đáo trong việc đặt tên, bạn sẽ dễ vấp phải
những sơ suất về mặt ngữ nghĩa của từ được chọn (do tính đa nghĩa của từ)
và tạo ra những kết hợp không hay, không mang lại ý nghĩa tốt đẹp như mong
muốn.
Tục kỵ húy
Tra cứu đến ngọn nguồn việc kiêng kỵ tên (kỵ, huý) là một vấn đề khoa
học phong phú và lý thú, nhưng rất nhiều khó khăn. Ở đây chỉ xin được xem
xét việc kiêng kỵ tên trong phạm vi gia đình và trong giao tiếp cộng đồng.
Trước hết, nói đến kiêng kỵ huý, người ta nghĩ ngay đến luật kỵ, huý
được ban ra từ các triều đình phong kiến.
Chuyên gia về chữ huý Ngô Đức Thọ đã khảo sát và chỉ ra rằng, những
chữ huý quan trọng là tên cha mẹ vua, ông bà nội vua và tên vua. Các triều
đại phong kiến đặt ra lệ kỵ huý mục đích để tạo sự tôn nghiêm cho vương
triều và có lẽ cũng còn để nhắc nhở người dân phải luôn nhớ và tôn kính,
thần phục những người đang trị vì đất nước.
Tục kiêng kỵ tên quả cũng gây ra nhiều phiền phức, song nếu nhìn từ
góc độ khác thì tục lệ đó cũng là một nét đẹp.
Ngôn ngữ Việt Nam có một hệ thống đại từ rất giàu tính biểu cảm. Các
nước phương Tây có lệ yêu kính ai thì lấy tên người đó đặt cho con mình,
Việt Nam bây giờ cũng có nhiều người làm theo cách đó. Đó là ý tưởng hay,
nếu trở thành phong tục thì cũng có thể xem là mỹ tục.
Song việc đó không mâu thuẫn với việc trân trọng không gọi tên cúng
cơm của các bậc cao niên một cách suồng sã. Xem ra cách kiêng kỵ tên,
cách tránh gọi tên kiêng kỵ một cách suồng sã cũng là một nét văn hoá, có
thể coi là một khía cạnh của sự nền nếp.
Đối với tổ tiên là các vị đã khuất, sự kiêng kỵ tên càng được giữ gìn
hơn. Khi con cháu làm một điều gì không phải, bị người khác gọi tên ông bà
cha mẹ đã khuất ra mà réo chửi thì bị coi là một điều tủi hổ, sỉ nhục cho gia
đình và dòng họ, có thể gây nên thù oán sâu đậm. Chính để tránh cho người
khác khỏi xúc phạm đến tổ tiên mình, mọi người đều giữ gìn trong điều ăn
nếp ở, cố làm sao không gây bất cứ sự đụng chạm nào.
Trong lúc cúng giỗ phải khấn đến tên tổ tiên, người gia trưởng cũng
lâm râm khấn rất khẽ, e khấn to có người nghe tiếng là phạm tội bất kính.
Các con cháu nhỏ không được biết tên tổ tiên, e chúng nhắc bậy bạ,
gây điều bất hiếu cho cha mẹ. Trước khi đặt tên cho các con, bố mẹ phải
kiêng kỵ, không được đặt tên của tổ tiên.
Đối với thành hoàng làng, người ta cũng kiêng kỵ gọi thẳng tên ra, hoặc
tránh đặt tên trùng với tên thành hoàng. Sự kiêng kỵ về cách đặt tên, gọi tên
còn đúng cả trong trường hợp tên vua hay hoàng tộc. Trong những giai đoạn
lịch sử nhất định, việc phạm húy tên của vua và hoàng tộc còn bị coi là tội,
phải chịu quở trách hoặc nặng hơn thì phạt theo luật.
Hèm được coi là biểu hiện cao nhất của khái niệm kiêng kỵ, kỵ. Hèm
thường đi kèm với những hoạt động mang tính cộng đồng cao như việc cúng
tế thành hoàng làng và thể hiện cao qua lễ hội. Thông thường, hèm của mỗi
làng là những hành động, nghi lễ mang tính bí mật, riêng tư gắn với lai lịch vị
thần làng đang thờ. Những hèm đó có chung đặc điểm là bí mật riêng, phải
giấu giếm đối với người ngoài cuộc (cộng đồng khác) và giấu giếm với chính
quyền trung ương. Chính các nghi lễ hèm đã tạo ra dấu ấn riêng cho cộng
đồng sở hữu nó và trở thành niềm tin linh thiêng khi oai linh của các vị thần có
hèm phù trợ cho cộng đồng an lành, thịnh vượng.
Nếu như kiêng kỵ có tính khá phổ biến trong xã hội, kỵ có tính ít phổ
biến hơn thì hèm là một đặc sản riêng. Có lẽ đến hiện nay, chưa có một tổng
kết nào trong nghi lễ thờ phụng mà lại có hèm trùng nhau, cho dù cùng chung
một đối tượng thờ phụng. Đã có một thòi, hèm bị coi là sản phẩm điển hình
của mê tín dị đoan, song thực chất, chính hèm lại chứa đựng nhiều nghi lễ,
phong tục cổ, những lớp văn hóa sớm hơn, thô sơ, mộc mạc, khi con người
còn non nớt trước cuộc sống đầy bất trắc.
Kiêng kỵ là hiện tượng phổ biến trong đời sống nông thôn Bắc bộ. Đặc
biệt, trước Cách mạng tháng Tám, việc kiêng kỵ được người dân tuân thủ khá
nghiêm với tinh thần tự giác. Cộng đồng mỗi làng xã khép kín sau lũy tre xanh
dường như đều có những bí mật kiêng kỵ rất riêng tư. Do vậy, những lực
lượng ngoài cộng đồng không dễ gì thâm nhập vào thế giới kiêng kỵ riêng tư
đó. Tuy nhiên, một hiện tượng trái ngược cũng thường xảy ra. Có khi, việc
kiêng kỵ tại cộng đồng này lại không có ý nghĩa hay giá trị gì với cộng đồng
khác, dù cho hai cộng đồng này liền kề nhau về lãnh địa. Như vậy, vấn đề
kiêng kỵ, hèm húy cũng có những nét phổ quát và dị biệt khi đặt chúng trong
bối cảnh nhất định.
Kiêng kỵ đặt tên trùng tên huý của bề trên
Tư Mã Thiên khi viết Sử ký đã đổi tên của “Triệu Đàm” thành “Triệu
Đồng”, “Lý Đàm” đổi thành “Lý Đồng”. Nguyên nhân là vì cha ông tên là
“Đàm”, bởi vậy cần phải tránh. Trong thời đại phong kiến khi trò chuyện, viết
văn, làm những bài thi, cần tránh sử dụng tên húy. Ngoài việc không sử dụng
đến tên của tổ tiên, điều quan trọng khi đặt tên cho con nên tránh những cái
tên húy ấy.
Thứ nhất là do truyền thống của dân tộc Hán rất coi trọng thế hệ đi
trước. Dùng tên của tổ tiên để đặt không chỉ làm đảo lộn trật tự giữa các thế
hệ mà còn bị coi là không tôn trọng tổ tiên. Lý do thứ hai là do tính đặc thù
của dân tộc Hán quyết định.
Họ của người Hán, đầu tiên là theo họ của cha, sau đó mới thêm đến
tên của riêng mình, nhưng một số dân tộc thiểu số hoặc người nước ngoài
vừa có tên mình, lại có cả tên của cha hoặc tên mình thêm họ của cha mẹ.
Như họ tên của người Pháp thông thường phân làm ba bộ phận, đó là tên
của mình, thêm họ của cả cha mẹ. Nếu như họ tên của ngưòi Hán sau khi
mang họ của cha rồi lại thêm cả tên của tổ tiên nữa thì cả hai chữ ấy đều
không có gì khác biệt cả, như thế sẽ không có cách nào để phân biệt được
vai vế.
Dưới chế độ phong kiến, mọi người không chỉ cần “tôn tổ kính tông” mà
còn cho rằng đó là cái tôn nghiêm lớn nhất. Bởi vậy, nếu trực tiếp gọi tên
người đó chúng ta cũng đã vô tình phạm vào tội đại nghịch bất đạo. Thời Ung
Chính, Càn Long đời nhà Thanh, chỉ cần phạm vào điều này cũng đã bị khép
vào tội chết, đồng thời chu di cửu tộc. Vì thế kiểu kiêng kỵ này được gọi là
“Quốc húy”.
Đời nhà Đường có người để tránh tên huý của Lý Hổ là tổ phụ của
Đường Cao Tổ đã sửa câu thành ngữ “bất nhập hổ huyệt, yên đạt hổ tử”
thành “bất nhập thú huyệt, yên đạt thú tử”, đổi “họa hổ bất thành phản loại
khuyển” thành “họa long bất thành phản loại khuyển”. Vị vua Càn Long đời
nhà Thanh đã không cho phép dân chúng được treo câu “Ngũ phúc lâm môn”,
lý do là bởi tổ tiên của ông là hoàng đế Thuận Trị có tên là “Phúc Lâm”.
Thời Ngũ Đại có một người tên là Phùng Đạo, rất giỏi làm quan và đã
từng làm Thừa tướng, mọi người gọi ông là ông Bất Đảo. Có một ngày ông
đã gọi người canh cổng lại và bắt anh ta đọc Đạo đức kinh. Câu đầu tiên của
Đạo đức kinh là “Đạo, khả đạo, phi thường đạo”. Người canh cổng thấy trong
một câu mà có đến ba chữ “đạo” phạm vào tên huý của ông Phùng Đạo liền
tuỳ cơ ứng biến đọc chữ “đạo” thành “không dám nói”. Bởi vậy câu ấy đã trở
thành “không dám nói, khả không dám nói, phi thường không dám nói”.
Cuối đời nhà Minh còn có một anh tuần phủ tên là Tống Nhất Hạc, một
lần anh tới gặp tổng giám Dương Tự Xương vì việc công. Do cha của Dương
Tự Xương tên là Hạc, bởi thế để tránh phạm huý, anh bèn sửa lại tên của
mình thành “Tống Nhất Điểu”.
Những câu chuyện hài hước trên đã phản ánh được phong tục kiêng kỵ
của người dân Trung Quốc xưa. Ngày nay, khi đặt tên cho trẻ nhỏ thông
thường họ không dùng tên trùng với tên của cha mẹ. Bên cạnh đó cũng hết
sức tránh đặt theo họ tên của người đã chết hoặc của những người nổi tiếng.
Kiêng kỵ đặt tên có ý nghĩa phổ biến, nông cạn
Sau khi đứa con trai đầu tiên của mình ra đời, tác giả Úc Đạt Phu đã
đặt cho thằng bé cái tên là Phi, mượn từ cái tên Nhạc Phi. Khi đứa con thứ
hai được sinh ra, ông lại đặt tên con là Vân, mượn tên của Nhạc Vân - con
của Nhạc Phi. Đến lúc đứa trẻ thứ ba sắp chào đời, Úc Đạt Phu đã nói với vợ
mình là Vương Ánh Hà rằng, nếu sinh con gái thì sẽ gọi là Ngân Bình, bởi vì
Ngân Bình chính là con gái của Nhạc Phi, như thế vừa khéo, nhà mình lại có
đủ tên của nhà họ Nhạc.
Vương Ánh Hà nói, nếu như sinh con trai thì sẽ đặt tên con là Danh
Lượng. Lý do là Phi (tức Trương Phi) và Vân (tức Triệu Vân) là hai tướng thời
Tam Quốc, nếu như đã có hai đại tướng tài giỏi, ắt không thể thiếu được đại
thần quân sư. Trong các nhân sỹ có tài mưu binh chiến lược trong lịch sử,
Vương Ánh Hà khâm phục nhất là Gia Cát Lượng, giả sử như đứa bé là con
trai, thì nhà họ Úc sẽ có các nhân vật nổi tiếng của Tam Quốc, Úc Đạt Phu
nghe xong rất tán thành, không lâu sau vợ ông đã sinh ra một bé trai, bởi vậy
ông đã đặt tên con là Danh Lượng.
Như vậy, cách đặt tên con của Úc Đạt Phu vẫn chưa hay bằng Vương
Ánh Hà vợ mình. Nhạc Phi, Nhạc Vân là hai cha con, nhưng hai đứa con thứ
nhất và thứ hai của Úc Đạt Phu thì lại là hai anh em, như vậy đặt tên hai con
là Phi và Vân theo tên của Nhạc Phi, Nhạc Vân không hay bằng đặt theo tên
của Trương Phi và Triệu Vân.
Bởi vậy, tên cũng cần phải có một ý nghĩa nhất định, đây chính là
truyền thống lâu đời của người phương Đông. Đứa trẻ được hy vọng sau này
sẽ trở thành người như thế nào thì cái tên của nó sẽ hàm chứa ý nghĩa như
vậy. Ví dụ như bạn mong muốn con mình thành tài, thì có thể đặt tên con là
“Lương Đống”, Đống chính là cái tài của Đống Lương. Nhưng tốt nhất chúng
ta không nên đặt tên con là “Thành Tài”, bởi vì cái tên này quá phổ biến,
thường sẽ bị trùng tên. Nếu như bạn hy vọng con mình sẽ thành danh trên
con đường âm nhạc, thì nên đặt tên con là “Vận Sinh” sẽ có ý nghĩa rất phù
hợp, ý là đứa bé đã được thai nghén từ trong âm nhạc.
Tên chính là một công cụ để giao lưu giữa người và người, trong rất
nhiều trường hợp, cái tên sẽ là ấn tượng đầu tiên. Vì thế, khi đặt tên cần
tránh đặt tên có những từ hoặc có ý nghĩa phổ biến. Đặt tên mà theo quy luật
“Tục sáo cổ quy”, tên dùng “Tục ngữ” thì sẽ thể hiện sự lạc hậu trong nhân
sinh quan và kiến thức thẩm mỹ, đây chính là biểu hiện của chữ “tục”.
Trong cuộc sống hàng ngày, rất nhiều người đặt tên xoay quanh những
chữ như là Phúc Thọ An Khang, Quang Tôn Huy Tổ, Tam Cương Ngũ
Thường. Khi con cái họ được sinh ra thì xuất hiện hàng loạt. Đây đều là tên
“tục”.
Mỗi cái tên sẽ đi theo chúng ta đến hết cuộc đời, tên của một người có
thể sẽ thể hiện tình cảm, sở thích, thẩm mỹ cũng như mong ước của người
đó. Nếu như một người có cái tên thông tục bình thường, thì cũng giống như
một cô gái xinh đẹp tài giỏi lại mặc một bộ quần áo không hợp thời trang. Một
cái tên tốt sẽ khiến cho con người cảm thấy vô cùng hãnh diện và tự hào,
nhưng với một cái tên thông tục, phổ biến thì lại đem đến cho họ một cảm
giác không tự tin, một tâm lý không vui, bởi thế cha mẹ nên tránh đặt cho con
cái những cái tên như vậy.
Nếu như mỗi cái tên đã có một hàm ý nhất định nào đó, thì không nên
thể hiện nó một cách nông cạn. Tên mà có ý nghĩa nông cạn, thiếu sự cô
đọng, súc tích sẽ không gây được ấn tượng cho người khác. Ví dụ như
Vương Nhất, Mãn Thương, Lai Hỷ, Dư Đại Hữu, Trương An Sinh, Phú Quý...
Những cái tên này giống như những hòn đá chưa qua gia công nên tính nghệ
thuật của nó không cao. Bởi vậy chúng khó có thể đem lại cho người khác
một ấn tượng tốt đẹp. Cái tên đó bắt nguồn từ sự đơn giản trong tư duy,
nguyên nhân là do tố chất về văn hoá của người đặt vẫn còn lạc hậu, kiến
thức thẩm mỹ còn chưa phong phú.
Nếu như tên người có nội dung đơn giản, ý nghĩa nông cạn sẽ không
thể gây được sự chú ý của người khác và tạo cho họ một ấn tượng tốt đẹp.
Chỉ có những cái tên phong phú về nội dung và có ý nghĩa sâu sắc mới không
khiến cho nó giống như một cốc nước lã vô vị. Vì thế, khi đặt tên cho con trẻ
nên cố gắng đặt sao cho giữa họ và tên có một mối quan hệ cân xứng, làm
cho ý nghĩa của cái tên thêm phong phú, thêm sâu sắc, tránh sự đơn điệu. Từ
đó, sẽ tạo được tính đa nghĩa cho tên gọi, khiến cho nó trở nên đặc biệt,
không giống những cái tên khác. Ngoài ra còn cần phải chú ý đến kết cấu của
họ và tên sao cho thật phong phú, không phải chỉ là sự sắp xếp trật tự một
cách đơn giản, kết cấu của họ tên cũng giống như kết cấu khi xây những bức
tường của trường học vậy, có những bức tường rỗng và có cả những bức
tường không rỗng. Nếu như giữa họ, tên đệm và tên có sự phối hợp nhịp
nhàng thì không chỉ làm cho kết cấu tầng lớp mới mẻ, mà ý nghĩa cái tên còn
trở nên sâu sắc hơn rất nhiều.
Khi đặt tên tốt nhất ý nghĩa của nó nên cô đọng, hàm súc và có sự hài
hòa. Có rất nhiều những cái tên hay, có tiết tấu như thi ca, ví dụ như Lâm Hải,
Lâm Sâm, Hạ Vũ, Như Vân, Lâm Mặc Hàm, Dương Tái Xuân, Thư Khánh
Xuân (Lão Xá)... Những cái tên này không chỉ cô đọng, súc tích mà còn tràn
đầy sức sống.
Kiêng kỵ đặt tên có “hài âm bất nhã”
Trước đây, tại huyện Hưng Hoá tỉnh Phúc Kiến có một người tên là
Diêu Bách Tài, là một tiến sỹ đa tài lại tinh thông việc ghi chép sổ sách, có tài
trong việc quản lý tài sản, thế nhưng tất cả các công ty có tiếng trong vùng
đều không dám nhận ông vào làm, tại sao vậy? Do hài âm (âm đọc giống
nhau hoặc gần giống nhau) tên của người đó khi đọc lái đi thành ‘Yếu phá tài”
(tức sắp phá sản), bởi vậy nên ai cũng kiêng và tránh né nhận ông vào làm.
Do đó mặc dù ông là người có tài, nhưng chí lớn khó thành.
Còn có một thương nhân tên là Bùi Cảnh Quang, mặc dù người này
cũng rất có tài làm ăn buôn bán, nhưng do họ tên của ông đọc lái đi thành
“Bồi Tinh Quang” (tức là bồi thường cho đến trắng tay), làm cho mọi người
liên tưởng đến kết quả không tốt, điều đó đã ảnh hưởng đến công việc làm ăn
của ông, tương lai đã không còn mở ra trước mắt ông nữa. Sau đó công việc
của ông càng ngày càng trở nên khốn khó, và cuối cùng ông đã lâm vào cảnh
nợ trắng tay.
Tên của một số người, nhìn bề ngoài thấy rất nhã nhặn, nhưng khi đọc
lên lại giống hoặc gần giống với thanh điệu của một số chữ khiếm nhã khác,
rất dễ bị mọi người giễu cợt, trêu đùa, từ đó nảy sinh ra những tình huống bi
hài không mong muốn. Ví dụ như cái tên “Diêu Bồi Khiêm”, ý nghĩa là “phải
bồi dưỡng đức tính khiêm tốn”, nhưng khi nói lái đi lại bị chuyển thành ý nghĩa
tiêu cực là “Yếu bồi tiền” (tức phải đền tiền). Đây chính là ý nghĩa xấu của
việc chưa suy nghĩ một cách kỹ lưỡng trước khi đặt tên.
Đặt tên nếu chú ý đến âm thì cái tên được đặt khi gọi sẽ thấy hay.
Phương pháp thường gặp nhất để có được âm hay đó là tránh đặt những cái
tên có hài âm bất nhã. Nhất là khi dùng hữ Hán, hàm ý trong tiếng Hán vô
cùng phong phú, những từ đồng âm, đồng tự nhưng không đồng nghĩa và
đồng âm không đồng tự rất nhiều. Ví dụ, “Tài” (tài giỏi) với chữ “Tài” (tài sản),
“Vương” và “Vong” (diệt vong), “Châu” và “Trư” (con lợn).... Khi đặt tên, chúng
ta nên cần nhắc một cách kỹ lưỡng trước khi quyết định, tuyệt đối không để
nảy sinh khuynh hướng xấu.
Kiểu từ ngữ hài âm bất nhã này được phân làm hai loại: Kiểu thứ nhất
là những từ ngữ quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, kiểu thứ hai là
những từ ngữ mang ý nghĩa tiêu cực. Ví dụ: Hạnh Văn (tin tức), Cung Ngạn
Cúc (công an cục), Thái Đạo Phong (thái đao hồng), Lư Huy (lư khôi) (cái lư
xám), Đào Hoa Vận (đào hoa vân), Lý Tông Đồng (lý tổng thống), Thang Cầu
(đường cầu), Châu Thạch (trư thỉ - con lợn), Bao Mẫn Hoa (bao mễ hoa), Lý
Tư (nhĩ thi) (thi thể), Hàn Uyên (hàm oan - oan uổng)...
Có một số tên khác rất dễ bị mọi người nhầm sang nghĩa xấu, như:
Bạch Nghiên Lương (bạch nhãn lang - con sói mắt trắng), Hồ Lễ Kinh (hồ ly
tinh), Nồng Kình Binh (bệnh thần kinh), Dương Vĩ (hư ngụy - giả dối), Châu
Phi (trư phì - con lợn béo), Ngô Liên (vô kiểm - mất mặt)... Hài âm lúc này đã
biến thành tên lóng. Như vậy, các bậc cha mẹ khi đặt tên cho con mình nếu
không chú ý sẽ rất dễ gây ra những hiểu lầm cho người đọc và người nghe,
đồng thời tạo ra tâm lý tự ti cho con trẻ.
Đời nhà Minh có một người tên là Phùng Mộng Long đã sưu tầm rất
nhiều truyện cười như thế trong cuốn cổ kim đàm khái, có một đề mục là “Giả
Hoàng Trung, Lô Đa Tốn”, kể rằng vào những năm đầu của triều đại nhà
Tống, có hai vị tên là Giả Hoàng Trung và Lô Đa Tốn đều làm việc tại nha
môn. Một ngày nọ, trong kinh thành rộ lên nạn đỉa hoành hành, Lô Đa Tốn
cười nói với Giả Hoàng Trung: “Tôi nghe nói đây đều là “giả hoàng trùng”
(những con đỉa giả - từ đồng âm với tên Giả Hoàng Trung).
Giả Hoàng Trung thấy anh bạn đang lấy tên mình làm trò cười cũng
không chịu thua, tiếp lời: “Tôi cũng nghe nói là chúng không cắn lúa mà chỉ
thích ăn lau sậy thôi. Bởi vậy nên không có hại cho đồng ruộng, chẳng qua
chỉ là “Lô Đa Tổn” (gây hại cho cây lau) mà thôi” (hài âm của tên Lô Đa Tốn).
Câu chuyện cười trên chỉ là do hai vị quan nhỏ đã lợi dụng tên của
nhau để khoe tài văn chương, có hàm ý châm chọc, mỉa mai và cũng là trò
tiêu khiển vui đùa của các bậc văn sỹ quan lại thời xưa. Nhưng có một số
người do tên có hài âm bất nhã mà đã mất cả chức quyền và tài sản của
mình.
Vì thế khi đặt tên cho con nên tránh những từ ngữ có hài âm bất nhã,
giữa họ và tên nên có sự kếp hợp nhịp nhàng mang ý nghĩa tốt đẹp. Giống
như những cái tên: Phan Phong, từ đồng âm (hài âm) là “Phan Phong”, có
nghĩa là trèo lên đỉnh núi; Văn Sản Bác, “Sản Bác” có hài âm là “Uyên Bác”,
những chữ đồng âm không đồng dạng này tạo cho người nghe những cái tên
này lần đầu tự nhiên sẽ nghĩ ngay đến những từ ngữ có âm tương đồng
mang một ý nghĩa nào đó cụ thể. Điều này khiến cho nội dung của tên càng
trở nên phong phú hơn. Những cái tên trên có hài âm rất hay đã nói lên được
mong muốn sâu xa của người đặt ra chúng.
Khi đặt tên có hài âm hay cần phải biết cách sắp xếp hợp lý, tránh để
hài âm biến thành “tà âm” (âm mang nghĩa xấu). Những hài âm hay có trong
các họ như: Lưu (Lưu - lưu giữ) Thanh Sơn, Hà (Hà) (sông) Tư Nguyên,
Châu (Châu - ngọc trai) Bảo Đình, Vu (Ngư - con cá) Đạt Thuỷ... còn có
những hài âm tên như sử Tĩnh (Kính - kính trọng) Hiền, Đặng Ngải (Ái - yêu)
Dân, Khổng Tòng Châu (Chu), Lý Công Phác (Bộc), Phùng cẩm Vấn (Văn),..,
những hài âm này cũng rất hay.
Kiêng kỵ đặt tên đơn điệu, lặp đi lặp lại
Trong một đơn vị có hai người cùng tên là Lý Quân, thư của bạn gái Lý
Quân B thường bị Lý Quân A xem, còn các bưu phẩm của Lý Quân A thì lại bị
Lý Quân B lấy mất. Câu chuyện này có thể các bạn không tin là thật nhưng
trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta lại gặp không ít những trường hợp
như thế.
Trong số các doanh nhân đương đại, có hai người đều tên là Lý Đạt,
một văn, một võ. Một người giỏi về văn chính là nhà lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin nổi tiếng Lý Đạt. Còn một người giỏi về võ là nhà quân sự đại tài,
thượng tướng Lý Đạt. Năm 1958, khi cuốn Tạp chí Hồng Kỳ được bắt đầu
phát hành, trong cuộc họp của Uỷ ban biên tập, Uỷ viên văn Lý Đạt đã đến,
nhưng kỳ lạ là võ Lý Đạt cũng được mời đến. Chủ tịch hội Đặng Tiểu Bình
nhận ra là đã mời nhầm người, ông liền nói với võ Lý Đạt: “Chào anh! anh
đến rồi à, xin mời anh ngồi cùng nghe với chúng tôi!”.
Những người cùng tên ở có tỷ lệ rất cao, để tránh khỏi tình trạng cùng
họ, cùng tên và những vấn đề xã hội mà việc đặt tên không phù hợp đã đem
lại, khi đặt tên cho trẻ nhỏ cần tránh đặt những tên quá đơn giản. Tên nên đặt
ít nhất có hai chữ, hoặc từ hai chữ trở lên, như vậy mới có thể giảm thiểu
được tình trạng trùng tên. Giả sử như có thể dùng 5.000 cách tính toán để đặt
tên bằng tiếng Hán thì trong 5.000 chữ ấy khi hai chữ một kết hợp với nhau ít
nhất có thể tạo thành 2.500 vạn tổ hợp từ, 2.500 vạn tổ hợp từ này dùng để
đặt tên người ít nhất có thể giảm được 7.000 vạn người trùng tên. Như vậy,
có thể thấy dùng tên kép để hạn chế hiện tượng trùng tên là một biện pháp
hữu hiệu. Còn nếu có thể dùng tên có hai chữ trở lên hoặc cả họ và tên có ba
chữ trở lên sẽ có tác dụng lớn hơn rất nhiều trong việc giảm thiểu tình trạng
này.
Nếu chúng ta đã dùng chữ Hán Việt để đặt tên thì không chỉ đơn giản là
quan tâm đến vẻ đẹp cao nhã thoát tục về mặt ý nghĩa mà còn cần chú ý đến
vẻ đẹp hình tượng đa sắc thái trong cách viết. Một số người khi đặt tên rất
thích dùng kết cấu hình thể của chữ Hán để tạo nên tác phẩm cho riêng mình.
Ví dụ như ba cái tên: Thạch Lỗi, Lâm Sâm, Nhiếp Nhĩ đều có cùng một
phương pháp như vậy. Hiệu quả thẩm mỹ của cách đặt tên này rất hay,
nhưng số họ của chúng ta có thể dùng được như thế lại rất hạn chế. Hơn nữa
trong họ Thạch, Lâm, Nhiếp thì không phải ai cũng có thể sử dụng phương
pháp như vậy để đặt tên.
Hồi thứ 86 tác phẩm Kinh hoa duyên có nhân vật nữ Ngọc Nhi đã kể
câu chuyện có nội dung: Có một nhà họ Vương, anh em có đến tám người
nên đã nhờ người khác đặt tên cho, đồng thời đặt biệt hiệu cho cả tám anh
em. Yêu cầu là cái tên được đặt cần phải giống với cách viết của họ Vương
đó.
Có người đã thử đặt tên cho tám anh em họ Vương lần lượt là: Người
thứ nhất, trên đầu chữ Vương thêm vào một chấm sẽ thành một chữ khác,
tên sẽ trở thành chữ “Chủ”, biệt hiệu là “Vương đại cứng đầu”; người thứ hai,
bên cạnh chữ Vương cho thêm một chấm, tên đổi thành “Ngọc”, biệt hiệu là
“Vương nhị trộm hũ rượu”; người thứ ba được gọi là Vương Tam, biệt hiệu là
“Vương tam vô lương tâm”; người thứ tư sẽ có tên là Vương Phong với biệt
hiệu “Vương Tỷ bắn súng ống”; người thứ năm sẽ được gọi la Vương Ngũ,
biệt hiệu là “Vương ngũ ưa lươn lẹo”; người thứ sáu sẽ là Vương Nhiệm, biệt
hiệu là “Vương lục óc bã đậu”; người thứ bảy là Vương Mao, biệt hiệu là
“Vương thất vuốt đuôi”; người thứ tám sẽ có tên là Vương Toàn, nói đến đây
Ngọc Nhi bỗng nhiên kể với mọi người: Tên Toàn này quy về bộ bát, nghĩa từ
cũng không dùng để chỉ người, nên biệt hiệu của Vương Toàn sẽ gọi thành
“Ba ba chưa thành nhân”. Câu chuyện này khiến cho mọi người được một
phen cười vỡ bụng và hiểu hơn tầm quan trọng của một cái tên hay.
Những phương pháp trên đều là do sự biến đổi ly hợp của hình chữ,
tạo được tính thú vị khi đặt tên. Trước đây khi sử dụng hình chữ để đặt tên có
hai phương pháp, phương pháp thứ nhất là chiết họ thành danh, phương
pháp thứ hai là tăng họ thành danh. Chiết họ thành danh nghĩa là lấy một
phần của họ để làm tên, hoặc là phân họ làm hai phần để làm tên. Ví-dụ, tên
của nhà âm nhạc nổi tiếng đương đại Nhiếp Nhĩ, nhà văn tài hoa Thư Xá Dư,
Lão Xá, Dương Mục Dị đều có một phần được lấy từ họ. Ngoài ra còn có
những họ được tách thành hai phần để thành tên như: Lôi Vũ Điền, Hà Nhân
Khả. Vào thời cổ đại còn có một số người tách tên thành chữ, ví dụ như tên
Lâm Cát tách ra thành chữ Cát Nhân, Mao Kỳ Linh tách ra thành chữ Đại
Khả.
Còn có một số người tách họ tên thành biệt hiệu như đời Thanh có ông
Hồ có biệt hiệu là Cố Nguyệt Lão Nhân, Từ Vị có biệt hiệu Thuỷ Nguyệt Điền
Đạo, tất cả đều là biệt hiệu được tách ra từ tên. Còn phương pháp “tăng họ
thành danh” nghĩa là trên cơ sở các nét của họ thêm một số nét hoặc bộ thủ
nào đó tạo nên một chữ mới để thành tên, ví dụ như Vương Khuông, Lâm
Sâm, Vu Dụ, Kim Hâm, Lý Quý.
Một số người lại rất thích dùng các chữ có bộ thủ giống nhau để đặt
tên, đồng thời cho rằng đó là một phương pháp hay và nên được sử dụng
rộng rãi, như Lý Quý, Trương Trì. Nhưng trên thực tế phương pháp này lại
không nên được mọi người biết đến, bởi vì các bộ thủ thiên bàng trong ba
chữ của họ và tên mà giống nhau thì sẽ tạo ra một cảm giác đơn điệu, nhàm
chán. Đặc biệt khi ký tên chúng ta sẽ cảm nhận được điều này một cách rõ
nhất. Các tên có bộ thủ thiên bàng giống nhau như Giang Lãng Đào, Hà Tín
Nhân, bất luận sắp xếp bố cục như thế nào thì đều khiến cho bạn có cảm giác
đơn điệu, tẻ nhạt, không tạo ra được hiệu quả thẩm mỹ như mong muốn.
Kiêng kỵ đặt tên lạ, ít gặp, mang nghĩa khó hiểu
Có một số người khi đặt tên đã lựa chọn những chữ lạ, suy nghĩ của họ
rất đơn giản, đó chính là họ không muốn cái tên lại mang phong cách tầm
thường, theo khuôn sáo cũ. Thế nhưng các chữ thường dùng mà một người
bình thường nhận biết được lại hữu hạn, mà đặt tên gọi chủ yếu là để cho
người khác gọi, chứ không phải là để khoe khoang học vấn. Nhiệm vụ chính
của tên là để phục vụ cho giao tiếp, nếu không nó sẽ mất đi giá trị tồn tại của
mình.
Những cái tên kỳ lại cũng giống những người có tính cách lập dị vậy,
rất khó được người khác hiểu và tiếp nhận. Trong nhiều trường hợp, mọi
người đã phải đi tìm hiểu ý nghĩa của những từ này qua các cuốn sách tra
cứu, bởi vậy nó đã tạo nên một khoảng cách rất lớn trong giao tiếp. Trong
thời đại công nghệ thông tin, hiện nay hầu hết các máy tính đều chỉ cho phép
lưu giữ các chữ Hán (người Việt vốn có thói quen dùng Hán để đặt tên) trong
phạm vi các từ thông dụng nhất, bởi thế nếu như dùng một số chữ lạ trong
tên của mình, máy tính sẽ không thể xử lý chính xác, từ đó sẽ làm cho công
việc trở nên khó khăn hơn và phức tạp hơn. Ví dụ như:
Giới truyền thông đại chúng đưa tin, ông Dân Vương sống tại thành
phố Trịnh Châu đã đến đồn cảnh sát quận Tây Đại thành phố Trịnh Châu để
nhập hộ khẩu cho con mình là “Vương @” mấy năm nay máy vi tính càng
ngày càng trở nên phổ biến, “@” (hài âm là “yêu anh ấy”) cũng là một ký hiệu
mới, ước tính chưa có ai dùng cái tên này.
Anh cảnh sát quản lý về hộ tịch đồn cảnh sát quận Tây Đại nói với anh
Vương rằng, cái tên ấy quá lạ so với bình thường, theo quy định của cục
quản lý hộ tịch, các ký tự khác trong họ tên bắt buộc phải đổi sang tiếng
Trung văn mới có thể nhập hộ khẩu được. “@” là một ký tự latinh, bởi vậy
không thể nhập khẩu, đồng thời trong tên nếu xuất hiện số từ, hoặc trẻ con
mà không theo họ của cha mẹ cũng không được nhập khẩu. Kết quả là ông
Vương vẫn chưa đạt được nguyện vọng của mình. Hiện nay nhiều người có
cảm giác nếu đặt tên cho trẻ càng lạ càng thâm thuý, sâu xa. Thực ra không
phải vậy, những chữ lạ không đơn thuần đã là những chữ có ý nghĩa sâu sắc,
mà nhược điểm lớn nhất của nó lại làm người khác rất khó nhận ra, có nhiều
trường hợp rất khó viết. Tên mà quá ít gặp sẽ gây ra rất nhiều phiền toái, đầu
tiên đó là người khác không biết, đọc sai sẽ dẫn đến nhiều chuyện không hay.
Nếu như tên của một đứa trẻ mà có quá nhiều nét thì khi đứa trẻ viết tên mình
sẽ rất vất vả tương tự với tiếng Việt là một cái tên với quá nhiều chữ cái.
Khi đặt tên nên tránh sự giống nhau, không nên sử dụng các chữ hiếm
gặp để tránh gặp phải những rắc rối. Nếu dùng các chữ lạ thì không chỉ làm
ảnh hưởng đến hình tượng của bạn mà còn gây trở ngại đến giao tiếp. Nói
tóm lại, những cái tên có liên quan đến các chữ hiếm gặp đều không phải là
tên hay.
Ngoài ra, đặt tên cho trẻ nhỏ cũng cần dùng chữ có quy phạm, không
nên dùng chữ tự tạo. Trước đây có người dùng chữ tự tạo để đặt tên, thời
xưa thì ảnh hưởng không lớn, nhưng nay là thời đại của công nghệ, trong
máy tính không có chữ tự tạo, bởi vậy nó đem lại rất nhiều điều phiền toái. Có
chữ trong từ điển không thấy, trong máy tính cũng không có, nếu như dùng
những chữ đó để đặt tên sẽ gây ra nhiều bất tiện. Có một nhà biên tập đã
dùng bí danh của mình là loại chữ này, vì không có chữ ấy nên phải dùng
máy tính để phiên âm, nhưng hiệu quả khi phiên âm ra đều rất đặc biệt.
Người hiện đại ngày nay càng không thể bắt chước theo Võ Tắc Thiên tự tạo
chữ, bởi đây chính là việc tự tạo rắc rối cho chính mình.
Kiêng ky đặt tên chắp vá
Có một vị phụ huynh đặt tên cho con là Điền Xuyên Lưu, cái tên này khi
mới nghe qua thì hình dung ra đồng ruộng, có dòng nước chảy, một bức
tranh phong cảnh tuyệt đẹp, có ý thơ, có sức sống, một cái tên thật hay.
Nhưng khi chú ý kỹ chúng ta sẽ nhận thấy rằng, cái tên Điền Xuyên Lưu này
nói chủ yếu là về điền, xuyên hay là lưu, hay là điền xuyên, xuyên lưu? Thật
khó có thể giải thích rõ được. Ý nghĩa chính mà không rõ ràng sẽ làm cho
người khác không hiểu rõ được. Mối quan hệ giữa “Điền” và “Xuyên” là mối
quan hệ hỗ trợ cho nhau hay là tương khắc với nhau? Nếu không xác định rõ
mối quan hệ về ý nghĩa thì sẽ tạo nên sự lẫn lộn trong tư duy.
Có tên chưa được suy nghĩ một cách thấu đáo, chưa lựa chọn kỹ mà
chỉ là tuỳ ý chọn một vài chữ sau đó lắp ghép chúng lại với nhau. Những cái
tên chắp vá kiểu như vậy không mang ý nghĩa chính rõ ràng, sự kết hợp giữa
các chữ cũng không hài hòa, thậm chí giữa chúng còn tồn tại mâu thuẫn hoặc
sự lộn xộn. Ví dụ với tên Trần Diệu Hán, chữ “Diệu” và chữ “Hán” không phù
hợp với nhau: Chữ “Diệu” thường được dùng cho con gái, có vẻ đẹp dịu dàng
nữ tính; “Hán” thông thường lại được dùng cho con trai, mang vẻ đẹp mạnh
mẽ. Hai từ này có sự đối lập với nhau, nhưng lại kết hợp với nhau tạo ra cảm
giác khó hiểu. Phải chăng đây là một chàng trai có tính cách uỷ mị của một cô
gái, hay đây lại là một cô gái có tính cách cương trực của đàn ông?
Có tên ý nghĩa giữa họ và tên không có sự hài hòa thậm chí là đối lập
tạo nên mâu thuẫn và sự lộn xộn về ý nghĩa. Như Mao Thiết Kiều, chữ “Mao”
và chữ “Kiều” sẽ kết hợp với nhau như thế nào cho phù hợp? Tề Như Sơn,
“núi bằng và đều” không có ý nghĩa phong phú, mà hiểu “đều như núi” thì
cũng không phù hợp, sự tồn tại song song giữa “tề” và “sơn” làm cho cái tên
đi ngược lại với lẽ thường, đây chính là ví dụ điển hình của hiện tượng chắp
vá.
Bởi vậy khi đặt tên cho con chúng ta cần phải chú ý và cân nhắc kỹ
lưỡng, tránh những cách đặt tên không phù hợp, có như vậy mới làm cho cái
tên mang lại hiệu quả tốt nhất.
Kiêng kỵ đặt tên đảo lộn giữa nam và nữ
Có một bé gái rất xinh xắn tên là Trương Khang Hùng, cái tên nam tính
hoá này gây ra cho cô bé rất nhiều rắc rối, cô bé kể: “Mỗi lần cháu đến một
nơi mới để đăng ký học là thầy cô giáo lại phân cháu đến ký túc xá nam ở.”.
Một bà mối rất nhiệt tình đã giới thiệu một công tử hào hoa phong nhã
cho một cô gái, cô gái hỏi chàng trai tên gì, bà mối liền nói với cô chàng trai
tên là “Giang Mãn Muội”. Vừa nghe xong cô gái cảm thấy trong lòng rất bồn
chồn: “Một chàng trai tuấn tú sao lại đặt cái tên như con gái?” Cô gái nghĩ,
không chừng đây lại là một người đàn ông nhu nhược, yếu đuối, làm bạn với
người như thế này liệu có tốt hay không” Vì thế cô kiên quyết từ chối cuộc
mối mai này, thậm chí cô cũng không muốn đến gặp chàng trai đó.
Có thể thấy, dùng những cái tên đảo lộn giữa nam và nữ sẽ dễ gây cho
mọi người sự hiểu nhầm. Tên của con trai mà đặt cho con gái, còn tên con
gái lại gắn với con trai sẽ rất dễ làm cho người khác lẫn lộn giữa nam và nữ.
Một cái tên hay nên thể hiện một cách rõ ràng đặc điểm, tính cách để thuận
tiện trong cuộc sống giao tiếp xã hội. Những cái tên “dị hoá” không phù hợp
với những yêu cầu này, vì thế chúng ta không nên dùng.
Trong cuộc sống thực tại chúng ta vẫn gặp những cái tên có khuynh
hướng “dị hoá” rõ ràng như nam giới dùng các chữ Hồng, Thái, Hoa, Hương,
Tĩnh để đặt tên; nữ giới dùng các chữ như Hùng, Hào, Trạng, Vĩ, Phi, Long.
Những cái tên hoàn toàn “dị hoá” như nam dùng các chữ Nữ, Muội, Ni, Tú
như: Vương Thái Phượng, Cù Thái Hồng, Triệu Kế Anh, Lâm Văn Phương,
Cung Bội Trân, Tào Như Ngọc, Hầu Thuận Hương, Vu Thự Hoa, Chu
Phượng Ngọc, Tiêu sở Nữ, La Lâm Muội....; nữ dùng các chữ như Nam,
Lang, Hán để đặt tên, như: Ngô Kiến Hùng, Chu Chí Hào, Mã Hiểm Phong,
Từ Lâm Hiệp, Tạ A Man, Diêm Hồng Vĩ, Lưu Hư Thành, Trương Long Địa,
Đinh Lộc Phi, Lý Liệt, Du Lôi, Miêu Lâm Lang, Hùng Hàn Xán...
Một số người do được đặt những cái tên như vậy mà dường như có
tính cách và khí chất tương đối đặc biệt, thậm chí có trường hợp nó lại trở
thành ưu điểm. Nam giới tính cách mềm mỏng, khí chất nho nhã, lịch sự, tinh
tế, đây đều là những phong cách của nữ giới; nữ giới lại có tính cách cương
trực, khí chất phóng khoáng, tinh nhanh, đây đều là tính cách của các nam tử
hán. Ví dụ, một cô gái có tên là Lưu Soái, tính cách của cô rất giống với khí
chất của nam nhi, bề ngoài cô có dáng vẻ giống con trai, phong cách làm việc
lại rất dứt khoát, phóng khoáng.
Vì thế khi đặt tên cho trẻ cần phải tìm hiểu rõ ý nghĩa và những chuẩn
mực nhất định, giữa chữ cái âm (nữ) và chữ cái dương (nam) phải có sự cân
bằng, phù hợp với đặc trưng giới tính. Không để những cái tên “dị hoá”, nếu
như không phù hợp với thực tế thì những cái tên đó sẽ không có lợi.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Tý
- Tý và Ngọ xung khắc nhau, vì vậy những chữ có bộ Ngọ hoặc Mã thì
nên kiêng kỵ. Ví dụ Mã, Tuấn, Thắng, Hứa...
- Tránh chữ có chứa Hỏa, vì Tý là Thủy, mà Thủy Hỏa khắc nhau. Ví
dụ, các tên Liệt, Viêm, Chiến, Hoàng, Nhiên...
- Tránh dùng chữ có bộ Nhật vì chuột không thích nhìn thấy ánh sáng
mặt trời, thường sợ hoạt động vào ban ngày sẽ gặp nhiều nguy hiểm, dễ bị
thương. Ví dụ, các tên Đan, các tên Húc, Minh, Hôn, Vượng, Xương, Xuân,
Cảnh, Trí, Thanh.
- Tránh sử dụng chữ có bộ Dương (con dê), vì Tý Mùi khắc nhau. Ví
dụ, các chữ Dương, Thiên, Mỹ, Quần, Mộ, Muội, Đạt.
- Tránh dùng chữ có bộ Nhân, vì chuột sợ người. Ví dụ, các tên Giới,
Nhiệm, Trọng, Tác, Dư, Phục, Gia, Tuấn, Tín, Tu, Vỹ, Kiệt.
- Tránh dùng chữ có bộ Kỷ, Cung, Quai xước, vì những chữ này giống
như chữ “Xà” (rắn), chuột gặp rắn thì sẽ bị sát hại. Ví dụ các tên: Ba, Khổng,
Trương, Nghênh, Phùng, Liên, Tiến, Đạo, Vận, Viễn, Bang.
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Tý:
- Chuột là loài động vật ăn tạp, thích ăn ngũ cốc. Khi đặt tên nên dùng
các chữ có chữ hoặc bộ là đậu, mạch, mễ, lương, thảo. Ví dụ như, các chữ
Mạch, Cốc, Tinh, Phương, Dung, Nghệ, Tô, Thành...
- Chuột là con vật đứng ở vị trí đầu tiên trong 12 con giáp, xếp đầu tiên
có thể xưng Vương, trong tên nên dùng các chữ Vương, Quân, Lệnh. Ví dụ
như: Linh, Cầm, Trân, Kỳ.
- Tập tính của chuột là thích đào hang để ẩn náu, nên dùng các chữ có
bộ Khẩu, Ất, Miên. Ví dụ, các chữ: Thái, Quân, Hợp, Hòa, Phẩm, Như,
Thương, Siêu, Đơn, Hỷ, Gia, Viên, Vũ, Gia, Dung, Phù, Thực.
- Chuột thích cắn áo quần, cắn vải, có thể dùng chữ có bộ Sam, Cân,
Mịch, Y để đặt tên. Ví dụ như: Bân, Thái, Hy, Soái, Điểm, Hồng, Thuần, Kết,
Tử, Kinh, Lục, Cương, Duyên, Tục...
- Chuột thích hoạt động về đêm, nên đặt tên có bộ Mịch, ví dụ như:
Minh, Đa, Ngoại, Mộng.
- Năm chuột là năm Tý cho nên Thân, Tý, Thìn là tam hợp, nếu dùng
những chữ có bộ Thân, Thìn có thể giúp cơ thể khỏe mạnh, tài vận thuận lợi,
sức mạnh của tam hợp rất lớn. Ví dụ, các tên như: Khôn, Viên.
- Hợi, Tý, Sửu là tam hợp. Có tam hợp là có vận quý nhân phù trợ. Có
thể dùng các chữ có chữ Hợi, Sửu, Ngưu, Như, Tượng, Gia, Hào, Tụ, Sinh,
Sửu, Đặc, Sản.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Sửu
- Kiêng kỵ chữ có bộ Mã, vì trâu mà gặp ngựa thì không chiến đấu đến
cùng được mà sẽ bỏ chạy. Ví dụ: Quân, Mã, Phùng, Lạc... những tên này nếu
đặt thì sẽ không được như ý.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Dương (dê) vì trâu và dê xung khắc nhau. Ví dụ,
Quần, Tường, Mỹ, những tên này dễ sinh ly tử biệt, gặp việc không như ý.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Sam, Cân, Y, Mịch. Vì những chữ này liên quan
đến quần áo, vải vóc. Khi trâu mặc vải lên người thì có thể biến thành vật tế
lễ. Ví dụ các tên: Thái, Bân, Tổ, Lộc, Phúc, Lễ, Tường.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Vương, Đại, Trường, Quán. Trâu sợ mình to quá,
khi nó quá to thì dễ biến thành vật hy sinh. Ví dụ các tên: Lĩnh, Trân, Lý,
Châu, Cầm, Kỳ, Du, Hoàn, Ương, Khuê...
- Kiêng kỵ chữ có bộ Nhật, Sơn, vì trâu cày ruộng dưới ánh mặt trời thì
sẽ rất mệt mỏi, nhọc nhằn. Đường núi gập ghềnh, trâu leo lên cũng rất khó
khăn. Ngày xưa, trâu được dùng để tế trời dưới ánh nắng. Ví dụ các tên: Húc,
Dị, Vương, Tinh, Trí, Khâu, Sùng.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Kỳ, vì Kỳ nghĩa là tế lễ. Từ xưa đến nay người ta
thường dùng trâu làm vật để tế lễ. Tốt nhất nên kiêng kỵ các chữ như Tiêu,
Bẩm.
- Kiêng kỵ các tên có chữ Ưng, Hy, Thuấn... Những người sinh năm
Sửu lấy tên vua làm tên mình thì cuộc đời vất vả, có thể làm tổn hại đến sức
khỏe.
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Sửu:
- Nên dùng chữ có bộ Thảo đầu. Thảo (cỏ) là thức ăn chính của trâu,
khi đặt tên có bộ thảo, có nghĩa là lương thực đầy đủ, suốt đời không phải lo
chuyện cơm áo. Ví dụ: Lợi, Hoa, Chi, Miêu, Như, Liên, Cần, Tô, Phương,
Nhược.
- Nên dùng chữ có bộ Quai xước, vì bộ này có hình dáng giống như
rắn. Ngoài ra còn có thể dùng các bộ Dậu, Điểu, Vũ. Tỵ, Dậu, Sửu là tam
hợp, chúng giúp đỡ lẫn nhau. Ví dụ: Phối, Tây, Điềm, Hoàng, Thu, Trạch,
Cảng, Phi, Kiến...
- Nên dùng chữ có bộ Miên (mái nhà) đại diện cho sự bình yên của trâu
nghỉ ngơi trong chuồng. Ví dụ các tên: Gia, Thủ, An, Bảo, Tân, Nghị, Đình,
Thẩm.
- Chữ có bộ Hòa, Mạch, Mễ, Đậu, vì đây là những loại lương thực chủ
yếu có vai trò quan trọng, tên của người sinh năm Sửu mà có các bộ này có
nghĩa là lương thực phong phú, đầy đủ, cả đời không phải lo chuyện cơm áo.
Ví dụ, các tên Tú, Khoa, Tần, Trình, Cốc, Tích, Mễ, Lương, Đậu.
- Nên dùng chữ có bộ Xa (xe), trâu kéo xe, có nghĩa là trâu được thăng
chức lên thành ngựa. Trâu kéo xe tuy có vất vả nhưng trâu vẫn nhận mệnh
lệnh, không thoái thác và luôn hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ các tên: Liên,
Luân, Khinh, Huy.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Dần
- Kiêng kỵ chữ có hình dáng, ý nghĩa liên quan đến rắn, như chữ có các
bộ Quai xước, Nhất, Trùng, Dẫn. Vì Dậu và Tỵ, nếu gặp nhau sẽ tàn sát lẫn
nhau. Ví dụ, các tên Tuấn, Tấn, Viễn, Hoàn, Bang, Đặng, Kiến, Xuyên, Nhân,
Mật, Điệp.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Nhân, Nhân kép, vì hổ không thích bị con người
khống chế. Ví dụ các tên Nhân, Giới, Kim, Tiên, Trọng, Nhiệm, Bá, Dư, Phục,
Bảo, Tuấn, Tín, Luân, Kiện, Vỹ, Kiệt, Kiệm, Ức, Đức.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Khẩu, vì hổ mà mở miệng thì không hại người thì
cũng hại bản thân. Ví dụ các tên, Khẩu, Đài, Cổ, Danh, Đồng, Hợp, Hậu, Cát,
Hướng, Cáo, Hàm, Cốc, Như, Hòa, Chu, Hỷ, Khí, Hồi, Nhân, Cố, Quốc, Viên,
Đoàn, Âu.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Thìn, chữ Long, Bối, vì phạm vào đầu kiêng kỵ. Ví
dụ các tên: Long, Bối, Trinh, Hiến, Quý, Hạ, Tư, Ngọc, Phú, Hiền, Tán, Cố.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Nhật, Quang, vì hổ thích ở dưới tán lá hoặc ở
trong hang, không thích ở dưới ánh mặt trời. Ví dụ các tên: Nhật, Húc, Tinh,
Vượng, Côn, Tình, Xuân, Cảnh, Trí, Thế, Tăng.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Thân (con khỉ), vì Dần và Thân xung khắc nhau.
Ví dụ các tên: Thân, Viên, Hầu, Viễn.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Thảo, Điền, vì đến đồng cỏ, ruộng vườn thì hổ
không còn vẻ uy quyền nữa. Ví dụ các tên: Ngải, Phương, Hoa, Cần, Nhược,
Hà, Sa, Phi, Lai, Cúc, Bội, Tô, Lược, Trù.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Môn (cửa), vì hổ bị nhốt trong nhà thì không dễ
thể hiện được uy phong của mình. Ví dụ các tên: Thiểm, Gian, Duyệt...
- Kiêng kỵ chữ có bộ Tiểu, hổ phải to lớn mới có uy phong, nếu nhỏ thì
biến thành con mèo ốm yếu, thiếu sự dũng mãnh. Ví dụ các tên: Tiểu, Thiếu,
Thần...
- Kiêng kỵ chữ có bộ Kỳ, vì hổ không thể vào trong đền, miếu. Ví dụ các
tên: Tôn, Xà, Tổ, Sùng, Tường, Lộc, Phúc, Lễ.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Bì (da), vì phạm vào điều cấm kỵ “giết hổ lấy da”.
Ví dụ: Bì, Phá..
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Dần:
- Nên dùng bộ Sơn, Mộc, vì Hổ đều ở trong rừng, nó được gọi là chúa
sơn lâm, tên có bộ Sơn, Mộc có thể làm cho hổ có thể phát huy được uy lực
của mình. Ví dụ, các tên Sơn, Khâu, Mộc, Đóa, Lâm, Bách, Trụ, Đào, Căn,
Lương, Thâm, Vinh.
- Nên dùng chữ có bộ Vương, Quân, Lệnh, Đại, vì hổ được mệnh danh
là chúa sơn lâm, có vị trí như đại vương, nó cũng thích ra lệnh, có thể nắm
giữ được và điều khiển quyền uy. Có thể dùng các chữ Vương, Ngọc, Linh,
Phục, Dao, Hoàn, Đại, Phu, Thái, Thiên, Quần.
- Nên dùng chữ có bộ Nhục, Nguyệt, Tâm, vì hổ thích ăn thịt động vật,
tên có những bộ trên biểu thị thức ăn đầy đủ, sung túc. Có thể dùng các chữ:
Nguyệt, Hữu, Thanh, Bằng, Vọng, Thắng, Tất, Niệm, Trung, Hằng, Ý, Mộ,
Tuệ, Hoài...
- Nên dùng chữ có bộ Mã, Hỏa, Khuyển. Vì Dần, Ngọ, Tuất là tam hợp,
có thể giúp đỡ, tương trợ được lẫn nhau. Có thể dùng các chữ Mã, Phùng,
Tuấn, Viêm, Liệt, Kiệt, Uy, Thành, Thịnh, Mạch...
- Nên dùng chữ có bộ Y, Mịch, Cân, Thái, có thể làm đẹp cho cơ thể,
tăng cường vẻ uy phong, tuấn tú. Ví dụ, các tên: Biểu, Bùi, Đan, Hình, Bân,
Thái, Chương, Cân, Hy, Tịch, Thường, Tử.
- Dùng chữ có bộ chấm Thủy, chữ Thủy, bộ Chấm băng, Thủy có thể
sinh Dần, sinh Mộc. Ví dụ: Lăng, Thủy, Cần, Thẩm, Tịnh, Thanh, Dũng, Ôn,
Nguồn, Hán, Tương, Triều.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mão
- Kiêng kỵ chữ có bộ Thìn, Long, Bối. Ví dụ các tên: Thìn, Nông, Long.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Dậu, Tây, Kỷ, Vũ, Kim, vì những bộ trên đại diện
cho phía Tây - Dậu, mà Dậu - Mão xung khắc với nhau. Ví dụ các tên: Tây,
Tỉnh, Vũ, Phương, Kim, Linh, Lục, Miên, Tiền, Cảnh, Thu.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Nhật vì phạm vào quy luật “Nhật nguyệt giao
xung”. Ví dụ các tên: Nhật, Minh, Xuân, Húc, Dị, Vượng, Tấn, Cảnh, Phổ,
Vãn, Càn.
- Kiêng kỵ chữ Tâm, bộ Tâm đứng. Ví dụ các tên: Niệm, Trung, Tính,
Cung, Hằng, Ân, Huệ, Duy, Tình, Tuệ, Ức, Hoài.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Sơn, Lâm; vì nếu mèo rơi vào nơi rừng sâu, núi
cao thì đều rất nguy hiểm vì trong đó có nhiều động vật ăn thịt. Ví dụ các tên:
Sơn, Lâm, Thâm, Cương..
- Kiêng kỵ chữ có bộ Nhân, ví dụ, các tên: Nhân, Tráng, Nhiệm, Tác,
Phục, Gia, Sứ, Y, Tuấn, Tín, Luân, Tu...
- Kiêng kỵ chữ có bộ Đại, Quân, Quán, Đế, Vương, vì mèo là động vật
nhỏ bé, yếu đuối, không có phúc xưng đại vương.
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Mão:
- Nên dùng chữ có bộ Thảo đầu. Ví dụ các tên: Phương, Trà, Cúc, Phổ,
Đổng, Dung, Tưởng.
- Nên dùng chữ có bộ Hòa, Mễ, Đậu, Mạch, Lương. Đây là những loại
lương thực có thể dùng làm thức ăn cho mèo. Ví dụ các tên: Hòa, Tú, Tích,
Tô, Đậu, Mạch, Mễ, Phấn, Lương, Lê...
- Nên dùng tên có chữ Mùi, Hợi, vì Hợi, Mão, Mùi là tam hợp, mèo lợn
và dê cũng là tam hợp, có thể giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau: Ví dụ các tên:
Hào, Gia, Nghị, Chu, Mỹ, Thiện, Tường.
- Nên dùng chữ có bộ Dần, vì Dần, Mão, Thìn là tam hợp. Ví dụ các tên
Dần, Diễn, Hổ, Hư... Nhưng hổ có thể gây nguy hại cho mèo, nên cố gắng ít
dùng những chữ này.
- Nên dùng chữ có bộ Sam, Y, Thái, Cân, Kỳ, vì những thứ này có thể
làm đẹp cho hình thể của Mèo. Ví dụ các tên: Hình, Thái, Bần, Ảnh, Hồng, Tố,
Thống, Tế, Luyện, Hào, Lục, Duy, Phúc, Lễ, Chúc.
- Nên dùng chữ có bộ Mộc, vì Mộc thuộc về phương Đông, những
người tuổi Mão thuộc mệnh Mộc. Ví dụ, cái tên Đóa, Lý, Thúc, Tài, Đông,
Quả, Tùng, Mai, Trực, Thụ. Tốt nhất không nên dùng chữ Lâm, Thâm (rừng
sâu) vì khi mèo vào rừng sâu sẽ gặp nhiều nguy hiểm.
- Nên dùng chữ có bộ Khẩu, Miên, ví dụ, các tên Khẩu, Đài, Cát, Cốc,
Hướng, Cáo, Hàm, Chu, Phẩm, Vị, Tứ, Vây, Đồ, Đoàn, Dung, Tống, Thượng,
Gia, Phú...
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thìn
- Kiêng kỵ chữ có bộ Sơn, Khâu, Cấn, Dần, vì sẽ phạm vào điều cấm
kỵ “rồng hổ một núi”, Sơn là là vùng đất của Hổ, quẻ Cấn cũng có nghĩa là
Sơn. Ví dụ các tên: Sơn, Án, Khâu, Thôi, Cấn, Lương, Gian, Hổ, Dần.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Tuất, Khuyển, vì Thìn và Tuất xung khắc nhau. Ví
dụ các tên: Tuất, Thành, Mạnh, Hiến, Uy.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Khẩu. Ví dụ các tên: Đài, Danh, Đồng, Hợp, Vị,
Phẩm, Đường, Ca, Triết, Viên, Thương, Hỷ, Khí.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Quai xước, Dẫn, Cung, Kỷ, Ấp, vì những chữ này
có hình dáng giống con rắn, có cảm giác như rồng biến thành rắn, địa vị bị hạ
thấp. Ví dụ các tên: Nguyên, Cảng, Tiên, Tuyển, Phùng, Thông, Liên, Tạo,
Tiến, Vận, Viễn, Đô, Hương, Kiến...
- Kiêng kỵ chữ có bộ Miên, vì rồng không thích sống trong các hang
động. Ví dụ các tên: Tự, Thủ, Tổng, Dung, Mật, Dần, Phú, Ninh, Bảo.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Điền, vì rồng cũng không thích xuống ruộng, có
hàm ý bị vây hãm. Ví dụ các tên: Thân, Hoàng, Phú, Đơn, Tư.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Dương. Ví dụ các tên: Dương, Thiện, Mỹ, Dưỡng,
Khương, Hy.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Mão. Vì Mão với Thìn xung khắc nhau. Ví dụ, các
tên Mão, Miễn, Liễu, Nghênh...
- Kiêng kỵ chữ có bộ Tâm, Nhục, vì các bộ này đều có nghĩa là thịt,
rồng mà ăn thịt là là điều kiêng kỵ. Ví dụ, các tên Tâm, Chí, Niệm, Hằng, Huệ,
Tình, Ý, Tuệ, Mộ, Hoài.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Thần, Sỹ, Tương, Nhân, Tiểu, Thiếu, vì nó đều có
ý hạ thấp vẻ uy nghiêm của rồng xuống thần, sỹ, nhân. Ví dụ, các tên Lâm,
Hiền, Tạng, Sỹ, Thọ, Chí, Thượng, Tựu.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Thảo đầu, vì rồng không thích rơi vào lùm cỏ, vì
như vậy nghĩa là rơi vào sự bao vây. Ví dụ, các tên Phương, Hoa, Chi, Phạm,
Nhược, Anh, Như, Cúc, Đổng, Lam.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Trùng, vì trùng là rắn, đại trùng là hổ, đều kỵ với
rồng. Ví dụ các tên: Thục, Mật, Điệp, Dung...
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Thìn:
- Nên dùng bộ Vũ, Vân, Thìn, vì rồng thích ở trên trời. Ví dụ: Tinh, Vân,
Thìn, Nông, Chấn.
- Nên dùng bộ chấm Thủy, chữ Thủy, vì rồng thích nước mưa, rồng
được gọi là Thần mưa, cai quản các sông hồ. Ví dụ các tên: Thủy, Giang,
Thẩm, Chú, Hải, Thanh, Hào, Triều, Tề.
- Nên dùng chữ Vương, Đại, Quân, Lệnh, Trường; vì địa vị của rồng
trong con mắt của người Trung Quốc mang một giá trị văn hóa rất lớn, có thể
xưng là đại, ra mệnh lệnh, không nên xưng là tiểu. Ví dụ các tên: Đại, Vương,
Quân, Linh, Trân, Kỳ, Du, Dao, Hoàn, Quỳnh.
- Nên dùng chữ có bộ Nhật, Nguyệt. Ví dụ các tên: Nhật, Nguyệt,
Thanh, Hữu, Vương, Tảo, Minh, Di, Tinh, Cảnh.
- Nên dùng chữ có bộ Băng, Tư (những bộ có hình dáng với tư thế
ngẩng đầu lên). Vì rồng thích ngẩng đầu lên để thể hiện uy phong của mình.
Nếu rồng cúi đầu thì có nghĩa là bị người khác khuất phục. Ví dụ các tên:
Hữu, Tồn, Dục, Chân, Thăng.
- Dùng chữ có bộ Tý, Nhâm, Quý; vì Địa chi Thân, Tý, Thìn là tam hợp.
Ví dụ các tên: Tý, Hưởng, Thừa, Học, Lý, Nhâm, Quý.
- Nên dùng chữ có bộ Thân, Viên, vì Thân, Tý, Thìn là tam hợp. Ví dụ
các tên: Giáp, Viên.
Nên dùng chữ có bộ Mã, vì Long với Mã kết hợp lại tạo thành tinh thần
tích cực, nỗ lực hướng về phía trước. Ví dụ các tên: Phùng, Tuấn, Đằng.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Tỵ
- Kiêng kỵ chữ có bộ Hổ. Vì hổ và rắn hay sát hại nhau. Ví dụ các tên:
Hổ, Hư, Cấn, Khâu, Tiên, Điệp..
- Kiêng kỵ chữ có bộ Nhật, vì rắn sợ sức nóng của mặt trời sẽ đốt cháy
nó, bởi vậy mà rắn thường hoạt động trong hang, dưới bóng cây, rất ít khi
hoạt động dưới ánh mặt trời. Ví dụ các tên: Nhật, Húc, Tảo, Minh, Xương,
Ánh, Xuân, Tấn, Phổ, Trì.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Thảo đầu, vì rắn hoạt động trong các lùm cỏ tuy
có không gian để đi lại thoải mái nhưng lại dễ bị con người phát hiện. Ví dụ
các tên: Chi, Hoa, Nhược, Anh, Hà, Cúc, Dung, Liên, Túc, Vi, Lan...
- Kiêng kỵ chữ có bộ Hợi, vì Tỵ và Hợi xung khắc nhau. Ví dụ các tên:
Gia, Nghị, Tụ, Duyên, Chu...
- Kiêng kỵ chữ có bộ Thủy, chữ Tý, vì địa căn của rắn thuộc Thủy, tên
của người sinh năm rắn mà có bộ này sẽ phạm vào Thủy Hỏa tương khắc. Ví
dụ các tên: Thủy, Cầu, Hà, Tuyền, Thái, Động, Tân, Châu, Thanh, Du, Uyên,
Cảng, Ôn, Nguồn, Trạch, Tế...
- Kiêng kỵ các bộ chỉ các loại lương thực như Đậu, Mễ. Ví dụ các tên:
Tú, Thu, Khoa, Tần, Trình, Tích, Lương, Mễ, Phấn, Mạch, Lê.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Nhân, rắn vốn không thích gặp phải người, vì
người là kẻ địch của loài rắn. Ví dụ các tên: Nhân, Đại, Trọng, Nhiệm, Bác,
Bố, Hà, Dư, Phất, Tác, Bị, Kiệt.
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Tỵ:
- Nên dùng bộ Khẩu, Miên, Mịch, vì rắn thích ở trong hang ẩn mình,
tránh rét. Ví dụ các tên: Dung, Khả, Ngô, Chu, Phẩm, Ha, Hỷ, Gia, Tứ, Hồi,
Nhân, Quốc, Viên, Đồ, An, Tự, Phú, Ninh, Bảo, Khoang.
- Nên dùng chữ có bộ Mộc, vi rắn thích bò lên cây, có hàm ý biến thành
rồng. Ví dụ các tên: Mộc, Ban, Kiệt, Tài, Đông, Liêm, Tùng, Cách, Thâm, Thụ.
- Xên dùng chữ có bộ Mịch, Y, Kỳ, Cân. Ví dụ các tên: Hình, Bân, Kỹ,
Duy, Luyện, Duyên, Chúc, Tổ, Sư...
- Nên dùng chữ có bộ Dậu, Sửu, vì Tỵ, Dậu, Sửu là tam hợp. Ví dụ, các
tên Dậu, Tây, Kim, Phương, Đặc...
- Nên dùng có chữ Mã hoặc Dương; vì Tỵ, Ngọ, Mùi tam hợp, có thể
giúp đỡ, tương trợ nhau. Ví dụ các tên: Mã, Hứa, Hỷ, Tường, Khương, Muội.
- Nên dùng chữ có bộ Tiểu, Thiếu, Thần, Sỹ, Tịch. Ví dụ các tên:
Thượng, Nhi, Sỹ, Thọ, Hiền, Đa.
- Nên dùng chữ có bộ Điền vì rắn thích hoạt động ở ruộng. Ví dụ, các
tên Điền, Do, Nam, Thân, Giới, Họa, Đương, Trù, Phúc, Tư...
- Nên dùng các bộ có hình dạng giống rắn như bộ Quai xước, Diễn,
Cung, Tẩu, Kỷ, Trùng... Ví dụ các tên: Càn, Nguyên, Điềm, Khắc, Kiến, Tiến,
Đạo, Đạt, Vận, Viễn, Tuyển, Đặng.
- Dùng chữ có bộ Tâm, Nhục; vì rắn là động vật ăn thịt. Ví dụ, các tên
Tâm, Tất, Chí, Huệ, Tình, Từ, Tuệ, Dục..
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Ngọ
- Kiêng kỵ chữ có bộ Điền, biểu thị ngựa bị hạ thấp giá trị, phải xuống
cày ruộng. Ví dụ các tên: Phú, Điền, Giới, Đơn, Lưu, Họa.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Mễ. Ví dụ các tên: Mễ, Phần, Tinh, La.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Sơn, vì ngựa chạy đường núi thì khá vất vả, nhọc
nhằn. Ví dụ các tên: Sơn, Phong, Hiệp, Tranh.
- Không nên dùng các chữ có bộ Kỳ. Ví dụ các tên: Kỳ, Kỵ, Tề.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Nhân kép. Ví dụ các tên: Chinh, Vãng, Luật, Đắc,
Phục, Tuần, Đức, Nhân, Vi...
- Kiêng kỵ chữ có bộ Tâm, Nguyệt, vì những bộ này đại diện cho động
vật ăn thịt. Ví dụ các tên: Tư, Tâm, Tất, Chí, Trung, Ân, Từ, Tuệ, Thái, Hoài,
Dục.
- Không nên dùng chữ có bộ Tý, chấm Thủy, Nhâm, Băng, Quý, Bắc. Vì
ngựa là Hỏa, không nên dùng chữ có liên quan đến nước. Ví dụ các tên:
Thủy, Giang, Xung, Chú, Tuyền, Dương, Lãng, Hải, Thanh, Tương, Triều,
Trạch, Lãnh, Tự, Tý, Tồn, Học.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Ngưu, Sửu (trâu), vì trâu gặp ngựa chưa chiến
đấu đã bỏ chạy. Ví dụ các tên: Ngưu, Đặc, Long, Tinh, Sinh, Tạo.
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Ngọ:
- Nên dùng chữ có bộ Thảo đầu, vì ngựa là động vật ăn cỏ và cỏ là loại
thức ăn mà ngựa ưa thích nhất. Ví dụ các tên: Chi, Hoa, Phương, Trà, Như,
Thảo, Diệp, Liên, Tưởng.
- Nên dùng những chữ có hình dáng giống rồng, vì rồng là đại diện cho
tinh thần long mã, tích cực, có sinh khí, có thể thành công. Ví dụ các tên:
Long, Thìn, Nông, Kích...
- Nên dùng những bộ chỉ lương thực, như bộ Hòa, Mạch, Đậu, Lương.
Vì ngoài cỏ ra, lương thực cũng là thức ăn chính của ngựa. Ví dụ các tên: Tú,
Tần, Hòa.
- Nên dùng các bộ chỉ quần áo, vải vóc như bộ Mịch, Y, Cân, Sam. Vì
con ngựa tốt cũng có thể được phủ quần áo. Ví dụ các tên: Kỹ, Tử, Thuần,
Đan, Thái, Biên, Hy, Chương.
- Nên dùng chữ có bộ Mục, thê hiện ngựa có đôi mắt to, đẹp. Ví dụ các
tên: Mục, Trực, Tương, Khăn, Chân.
- Nên dùng chữ có bộ Dần, Tuất vì Dần, Ngọ, Tuất là tam hợp, cũng có
thể dùng chữ có bộ Tỵ, Mùi. Ví dụ: các tên: Dần, Kiến, Mỹ, Tuấn.
- Nên dùng bộ Miên. Ví dụ các tên: Thủ, An, Định, Dung, Gia, Khoan,
Bảo.
- Nên dùng bộ Mộc, vì ngựa đi lại tự nhiên trong rừng, có cây cỏ có thể
tránh được nắng. Ví dụ các tên: Mộc, Bân, Vinh, Nhu, Thâm, Dương, Thụ.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mùi
- Kiêng kỵ chữ có bộ Tâm, Nguyệt, vì dê là động vật ăn cỏ, còn những
chữ trên đại diện cho thịt, nhìn thấy thịt nhưng không ăn được, làm ta cảm
thấy bất lực. Ví dụ các tên: Tâm, Tất, Chí, Khoái, Trung, Tình, Tưởng, Hồ,
Năng.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Đại, Vương, Quân, Trưởng. Vì dê mà to quá sẽ dễ
bị làm vật tế lễ. Ví dụ các tên: Đại, Thiên, Phụng, Tấu, Anh, Trân, Chu, Cầm,
Du, Quỳnh.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Thủy, Bắc, Tý, Hợi. Dê là động vật không thích
uống nước. Ví dụ các tên: Xung, Vĩnh, Cẩu, Giang, Thẩm, Hà, Tuyền, Thái,
Dương, Thanh, Trạch.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Sửu, Ngưu, Tý; vì những vật này tương khắc với
dê. Ví dụ các tên: Long, Sinh, Tý, Khổng, Tự, Học, Du.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Kỳ, vì ở Trung Quốc, dê là một trong ba con vật
dùng để tế lễ. Ví dụ các tên: Thị, Xã, Chúc, Thần, Lộc, Phúc, Lễ.
- Kiêng kỵ chữ chỉ quần áo, vải vóc như dùng các bộ Cân, Y, Sam, vì
khi dê được phủ tấm vải đẹp lên người thì cũng chính là lúc chúng được dùng
để làm vật tế lễ. Ví dụ các tên: Hy, Thường, Thái, Bùi.
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Mùi:
- Dê là động vật ăn cỏ, nên chữ có bộ Thảo đầu là rất thích hợp cho
người sinh năm mùi. Ví dụ các tên: Phương, Nhược, Bình, Chi, Như, Tú, Hà,
Cúc, Diệp, Dung, Nghệ.
- Dê cũng thích ăn ngũ cốc, nên dùng chữ có bộ Mễ, Mạch, Hỏa, Đậu...
Ví dụ các tên: Mễ, Lương, Tú, Thu, Khoa, Cốc.
- Nên dùng chữ có bộ Mộc, ví dụ, các tên Mộc, Bẩn, Đóa, Tài, Lương,
Thâm, Sở, Vinh, Thụ...
- Dùng chữ có bộ Khẩu, Sơn, Môn, Mịch (mái nhà) tức là chỉ dê có
chuồng để nghỉ ngơi. Ví dụ các tên: Khẩu, Chu, Đường, Á, Thương, Đơn, Hồi,
Viên, Đồ, Đoàn, Tống, Dung, Gia, Phú, Khoan, An.
- Nên dùng chữ có bộ Túc (chân) vì dê rất thích chạy nhảy. Ví dụ các
tên: Túc, Khiêu, Việt...
- Nên dùng chữ có bộ Hợi và Mão; vì Hợi, Mão, Mùi là tam hợp, chữ có
bộ Tỵ, Ngọ vì Tỵ, Ngọ, Mùi cũng là tam hợp. Ví dụ các tên: Gia, Bằng, Thanh,
Mõ, Tuấn, Hứa, Kiệt, Đình, Đạt, Viễn, Tuyển, Đặng, Kiến.
- Dê cũng có thói quen quỳ để bú, nên dùng chữ có bộ Kỷ. Ví dụ các
tên: Nguyên, Điền, Khắc, Nhi.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thân
- Kiêng kỵ chữ có bộ Hòa, Điền, Mạch, Mễ. Ví dụ các tên: Điền, Đo,
Giáp, Giới, Lưu, Phân, Tú, Thu, Khoa, Tần, Cốc.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Dần, Hổ, vì Thân và Dần xung khắc nhau. Ví dụ
các tên: Dần, Hổ.
- Kiêng kỵ các chữ có bộ Kim, Dậu, Tây, Huyết, vì những chữ này đều
thuộc Kim, mà trong ngũ hành khi Kim với Kim ở gần nhau dễ xảy ra tranh
chấp. Ví dụ các tên: Kim, Danh, Tiền, Bằng, Yêu, Phối.
- Kiêng kỵ dùng chữ có bộ Hợi vì Hợi, Thân tương khắc nhau. Ví dụ các
tên: Hợi, Gia, Tượng Duyên.
- Kiêng kỵ có bộ Khẩu, vì nó mang nghĩa bị nhốt lại, bó buộc. Ngoài ra
cũng không nên dùng các chữ có bộ Bì, Đao, Lực, Nha, Quân.
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Thân:
- Nên dùng chữ có bộ Mộc, khỉ mà ở trong rừng sẽ có nguồn thức ăn
phong phú, là hoa quả, nhưng khi khỉ con học trèo cây cũng có thể bị rơi
xuống và bị thương, do đó khi dùng các chữ này nên thận trọng. Ví dụ các
tên: Bản, Đông, Quả, Lương.
- Nên dùng chữ có bộ Nhân, Ngôn, vì khỉ thích bắt chước động tác của
con người. Ví dụ các tên: Nhiệm, Trọng, Bố, Tác, Phục, Xúc, Tín, Tu, Trực,
Vỹ, Từ, Thi, Thành.
- Nên dùng chữ có bộ Khẩu, Miên, Mịch. Ví dụ các tên: Cổ, Đài, Sư,
Quân, Ngô, Chu, Đường, Khởi, Ninh, An, Tống, Hoàn, Tôn, Quan, Vũ, Định,
Bảo, Dung.
- Nên dùng chữ có bộ Vương. Ví dụ các tên: Vương, Ngọc, Linh, Trân,
Cầu, Kỳ, Hoàn, Quỳnh.
- Nên dùng chữ thuộc tam hợp (Thân, Tý, Thìn), tức là có bộ Tý, bộ
chấm Băng, bộ chấm Thủy. Ví dụ các tên: Khổng, Tự, Lý, Tôn, Học, Nông,
Vĩnh, Cầu, Trạch, Giang, Thẩm, Hà, Tuyền, Thái, Động, Hải, Chuẩn, Thanh,
Uyên, Hán, Mãn...
- Nên dùng chữ các bộ liên quan đến quần áo, vải vóc như có các bộ
Sam, Cân, Y, Kỳ... để làm đẹp cho cơ thể, nâng cao địa vị đế vương của khỉ.
Ví dụ các tên: Bân, Ảnh, Thường, Hồng, Tử, Thích, Chúc, Tổ, Tường, Lục,
Lễ.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Dậu
- Kiêng kỵ chữ có bộ Mão, vì là Dậu, trong khi đó Mão và Dậu xung
khắc nhau, nếu phạm vào điều này có thể dẫn đến tổn hại lớn, dễ mắc bệnh
nan y. Mão ở phương Đông, còn Dậu ở phương Tây, do đó các chữ có bộ
Đông, Nguyệt, chữ Mão cũng không được dùng. Ví dụ các tên: Mão, Liễu,
Miễn, Đông, Trần, Nguyệt, Bằng, Thanh, Thắng, Hữu, Vọng, Kỳ, Triều.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Kim, vì gà thuộc mệnh Kim, trong Ngũ hành Kim
với Kim ở gần sẽ dễ xung khắc nhau. Ví dụ, Kim, Danh, Tiền, Chung, Trấn.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Tâm, Nguyệt, vì những chữ trên có nghĩa là thịt,
nhưng gà lại là động vật ăn lương thực chứ không ăn thịt. Ví dụ các tên: Chí,
Trung, Niệm, Tư, Hằng, Từ, Thái, Hoài, Hồ, Năng, Tu.
- Kiêng kỵ chữ có các bộ Đại, Quân, Vương, Đế vì khi gà lớn thường bị
đem làm vật cúng tế hoặc bị con người làm thịt ăn. Ví dụ các tên: Kỳ, Tấu,
Phấn, Quân, Ngọc, Chu, Cầu, Cầm, Dao, Hoàn, Quỳnh.
- Kiêng kỵ chữ có hình dạng là phần chân tách ra, vì nếu chân của gà bị
tách ra thì thể hiện con gà đó không khỏe mạnh. Ví dụ, các tên Văn, Nguyên,
Quang, Khắc, Cung.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Khuyển, Tuất, vì Tuất cũng là chó, trong Địa chi
Tuất và Dậu xung khắc nhau, chó mà gặp gà thì sẽ đuổi bắt, cắn gà. Ví dụ,
các tên Mạch, Độc, Hiến, Thịnh, Uy.
- Kiêng kỵ chữ có quá nhiều bộ Khẩu, dễ nảy sinh những chuyện thị
phi. Ví dụ, các tên Phẩm, Dung, Cao, Khí, Ca...
- Ngoài ra, những người sinh năm Dậu kiêng kỵ những chữ có bộ Đao,
Kỳ, Lực, Thạch, Nhân, Huyết, Thủy, Tự, Hợi, Bắc.
Những chữ nên dùng khi đặt tên cho người sinh năm Dậu:
- Nên dùng chữ có bộ Hòa, Đậu, Mễ, Lương, Mạch vì gà là động vật
thích ăn lương thực, cả ngày đi bới tìm lương thực. Ví dụ các tên: Tú, Tần,
Trình, Cốc, Tích, Lương.
- Nên dùng chữ có bộ Sơn, vì gà lên đỉnh núi vẫn có thể thể hiện được
tư chất anh hùng của mình. Ngoài ra, gà vốn thích ngủ trên cành cây, thích
cuộc sống tự do tự tại. Cho nên các tên: Khâu, Khẩu, Khởi, Lương, Vinh, Thụ
là rất thích hợp.
- Nên dùng các chữ có bộ Sam, Mịch, Thái, vì những bộ này làm tăng
vẻ đẹp cơ thể của gà. Ví dụ các tên: Hình, Đan, Thái, Chương, Duy.
- Gà thích “Kim kê độc lập” nghĩa là chân gà rất khỏe, chỉ cần một chân
cũng có thể đứng vững được. Do đó, người sinh năm Dậu thích chữ có hình
dáng “Kim kê độc lập”. Ví dụ, các tên Chương, Bình, Trung, Tất.
- Người sinh năm Dậu thích hợp với tên có chữ Tiểu và chữ có nghĩa là
ngẩng đầu lên. Hơn nữa, những con gà khỏe mạnh thì đều ngẩng cao đầu. Ví
dụ, các tên Thổ, Sỹ, Cát.
- Người sinh năm Dậu ưa chữ có bộ Miên, Mịch, nghĩa là gà ở trong
chuồng, có thể cũng kỵ mưa, tránh gió, được bảo vệ. Ví dụ các tên: Thủ, An,
Tống, Vũ, Định, Tuyên, Gia, Thẩm, Ninh.
- Nên dùng chữ có bộ Tỵ, Sửu, Dậu vì Tỵ, Sửu, Dậu tam hợp. Ví dụ các
tên: Đạo, Đạt, Ngưu, Vật, Sinh, Phượng, Vũ.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Tuất
- Tránh dùng chữ có bộ Nhân kép, vì chó chỉ có thể trung thành với một
chủ, nhưng một con chó cùng lúc tuân lệnh nhiều người sẽ trở thành bất
trung. Ví dụ, các tên Chinh, Luật, Đắc, Vi.
- Chó không thích ăn ngũ cốc, mà thích ăn thịt, do đó nên tránh dùng
các chữ có bộ Hòa, Mễ, Đậu, Lương, Mạch.
- Tránh dùng chữ có hai bộ Khẩu kép, hoặc khi kết hợp họ tên lại có hai
chữ Khẩu, vì hai chữ Khẩu với chữ Khuyển ghép lại thành chữ Khốc (khóc),
nghĩa là sự không hay.
- Không nên dùng chữ Nhiệt, vì chó nhìn thấy mặt trời mọc phải sủa lên
mấy tiếng, nghĩa ám chỉ hay lo những việc không đâu. Ví dụ, các tên Nhật,
Húc, Vượng, Minh, Dị, Tinh, Xuân, Hiển, Thời, Cảnh, Trí.
- Tránh dùng chữ có bộ Điền. Ví dụ, các tên Điền, Do, Giáp, Thân, Giới,
Trù, Họa.
- Loài chó không thích nhìn thấy nhau, vì chó đều có ý thức về lãnh thổ
của mình. Nếu nhìn thấy con chó khác đến xâm phạm thì sẽ dẫn đến mâu
thuẫn, xích mích. Kiêng kỵ chữ có bộ Khuyên. Ví dụ, các tên Cô, Độc, Tráng.
- Kiêng kỵ những chữ có liên quan đến gà, vì Dậu, Tuất không hợp
nhau, như các chữ có bộ Dậu, Điềm, Kê, Tây, Kim... Ví dụ, các tên Phi, Tập,
Huy.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Mộc, vì Tuất thuộc Thổ, mà Mộc Khắc Thổ. Ví dụ,
các tên Mộc, Lâm, Thâm, Liễu, Lương, Mai, Dương, Sở, Vinh, Thụ.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Mùi, (dê), Sửu (trâu), Ví dụ, các tên Thiên, Muội,
Mỹ, Mộ.
- Kiêng kỵ chữ có các bộ liên quan đến Thủy như chữ Thủy, Chi, Tự,
Bắc, Tý, Hợi. Vì Tuất thuộc Thổ, Thổ khắc Thủy.
- Kiêng kỵ chữ Hùng (con gấu), vì theo quy luật của các loài động vật
trong rừng thì gấu là loài vật đáng sợ đối với chó. Do vậy kiêng kỵ chữ Hùng
để đặt tên.
- Thìn Tuất xung khắc do đó nên kiêng kỵ chữ có bộ Thìn, chữ Long. Ví
dụ, các tên Thìn, Tối, Thu... vì bộ Bối cũng liên quan đến rồng, nên tránh dùng
chữ có liên quan đến bộ này. Ví dụ, các tên Chân, Bối, Cống, Tài, Trách, Quý,
Mậu, Tư Chất, Tán.
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Tuất:
- Chó là loài động vật trung thành nhất với con người, do đó nên dùng
chữ Nhân, chữ Nhập, vì bộ Nhân đứng biểu thị sự trung thành với chủ nhân.
Ví dụ, các tên Nhân, Kim, Lệnh, Trọng, Bố, Vị, Trú, Bá, Phục, Gia, Kiệt,
Tuấn...
- Nên dùng chữ có bộ Miên, Mịch, nghĩa là chó ở trong gia đình, mệnh
khá tốt, có chỗ ăn, nơi ở, không phải đi lang thang. Ví dụ, các tên Tự, Thủ,
An, Ninh, Vũ, Phú, Quán.
- Nên dùng các bộ có chữ Dần, như Hổ, Hư... có chữ Ngọ. Như, Tuấn,
Lạc, Ma..., vì Dần, Ngọ, Tuất là tam hợp.
- Chó thích mặc quần áo, điều đó có nghĩa là có uy phong của hổ,
nhằm tăng cường uy thế, nâng cao địa vị của nó, do đó nên dùng các chữ có
bộ Sam, Cân, Y. Ví dụ, các tên Trân, Duy, Đan, Hình, Thái, Y, Trang, Hy,
Phục, Tịch.
- Nên dùng chữ có bộ Tâm, Nguyệt, vì chó thích ăn thịt, những chữ này
dùng biểu thị ý nghĩa như thế. Dùng những bộ này thể hiện thức ăn phong
phú và một cuộc sống thoải mái của chó. Ví dụ, các tên Tâm, Tất, Trung,
Niệm, Tư, Hằng, Ân, Tình, Từ, Tuệ, Huệ, Dục, Hữu, Thắng...
- Ngoài ra, những người sinh năm Tuất nên dùng các chữ có bộ Tiểu,
Thiếu, Sỹ, Thần. Vì chó không phải là quân, đế, tướng mà bằng lòng làm
thần, sỹ.
Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Hợi
- Lợn và rắn xung khắc nhau, do đó kiêng kỵ chữ liên quan đến rắn như
chữ có các bộ Tỵ, Dẫn, Nhất, Cung. Nếu đặt tên mà có các bộ trên thì sẽ ảnh
hưởng lớn đến tài vận, sự nghiệp, sức khỏe. Ví dụ, các tên Tấn, Nghị,
Nghênh, Đặng, Kiến, Xuyên, Châu, Nhất, Tam, Chi, Ất, Càn, Mật, Cường,
Phát.
- Kiêng kỵ dùng các chữ có liên quan đến chữ Hầu (con khỉ), như chữ
có bộ Thân, Viên, Ái, Hầu, trong bát tự Ngũ hành, Hợi và Thân xung khắc
nhau. Ví dụ, Thân, Viên, Hầu...
- Kiêng kỵ các chữ biểu thị quần áo, vải vóc như bộ Sam, Cân, Y, Mịch.
Vì lợn khi được phủ vải lên thì thường được đem lên bàn để ăn. Ví dụ, các
tên Hình, Đan, Thái, Bán, Thường, Kỹ, Hồng, Thuần, Tử, Lục, Duy.
- Kiêng kỵ dùng các chữ có bộ Vương, Quân, Đế, Đại, Trưởng, lợn là
một trong ba vật được dùng để cúng tế, do đó những con lợn lớn dễ bị đem đi
làm vật cúng tế. Ví dụ, các tên Cầm, Trân, Châu, Phục, Du, Thụy, Hoàn, Đại,
Thiên, Quân, Chủ.
- Kiêng kỵ chữ có bộ Kỳ, vì Kỳ có nghĩa là tế lễ, lợn được liệt những
con vật dùng làm đồ tế lễ. Ví dụ, các tên Xã, Chúc, Sùng, Tường, Cấm, Lộc,
Phúc, Lễ.
- Kiêng kỵ chữ có phần cuối phân khai, như Hiền, Quý, Binh, Thưởng,
Tán, vì phân khai có nghĩa là không khỏe mạnh, đứng không vững.
- Ngoài ra những chữ khác kiêng kỵ dùng là chữ có các bộ Đao, Lực,
Huyết, Bì, Kiếm, Lợi, Tắc.
Những chữ nên dùng để đặt tên cho người sinh năm Hợi:
- Nên dùng chữ có bộ Miên, Mịch, Nhân, Môn. Giống như cảm giác có
mái nhà che chở, bảo vệ, lợn được nuôi trong nhà thì không lo sợ đói. Ví dụ,
các tên Tự, Gia, Tống, An, Vũ, Phú, Khoan, Thủ.
- Nên dùng chữ có bộ Điền, nghĩa là lợn ở giữa ruộng thì đầy đủ ngũ
cốc có thể ăn. Ví dụ, các tên Điền, Giáp, Lưu, Trù.
Nên dùng chữ có bộ Hòa, Đậu, Mễ, Thảo, vì lợn thích ăn lương thực,
do đó đặt tên có những chữ này thể hiện lương thực phong phú, suốt đời
không phải lo ăn, lo mặc. Ví dụ, các tên Đậu, Mễ, Tinh, Tú, Tần, Cúc, Tô,
Mạch.
- Nên dùng chữ Khẩu, vì, lợn là động vật ham ăn, do đó chữ có bộ
Khẩu để đặt tên có nghĩa là được ăn.
- Nên dùng các chữ có bộ Mão, Mùi, Dương. Vì Hợi, Mão, Mùi là tam
hợp. Ví dụ, các tên Mão, Liễu, Mùi, Thiện, Mộ.
- Nên dùng chữ có bộ Mộc, Nguyệt, Vì Mộc thuộc về phương Đông,
phương Đông là Mão, đồng thời lợn ở dưới bóng cây thì cũng có thể được
nghỉ ngơi thoải mái. Ví dụ, các tên Lâm, Thâm, Mộc, Dương.
- Nên dùng chữ có bộ Kim, vì lợn là Hợi, mà Hợi thuộc Thủy, trong Ngũ
hành thì Kim sinh Thủy, có ý giúp đỡ, tương trợ nhau. Ví dụ, các tên Danh,
Chung, Linh.
- Nên dùng chữ có bộ Sửu, Tý và các bộ liên quan như Chấm Thủy,
Băng, chữ Ngưu vì Hợi, Tý, Sửu là tam hợp. Ví dụ, các tên Tự, Tồn, Giang,
Tương, Tuyền, Thái, Dương, Du, ôn, Trạch.
Chương 4. KIÊNG KỴ VỀ NHÀ CỬA
Kiêng kỵ khi chọn đất làm nhà
Người xưa vốn rất tin vào phong thủy gia trạch, chọn đất có tốt, gia
đình mới êm ấm, thịnh vượng. Vì vậy, họ thường xem đất rất kỹ trước khi
quyết định cất nhà ở.
Quy tắc chọn đất làm nhà
Những nguyên tắc đầu tiên về việc chọn địa thế tốt làm nhà được quan
niệm như sau:
Nơi mà Đông thấp Tây cao thì phú quý.
Trước cao sau thấp môn hộ tuyệt diệt.
Trước thấp sau cao trâu ngựa đầy đàn.
Mặt đất bằng phẳng thì gọi là Lương thổ (đất Lương).
Trước thấp sau cao thì gọi là Tấn thổ (đất Tấn), ở thì gặp chuyện lành.
Tây cao mà Đông thấp thì gọi là Lỗ thổ (đất Lỗ), ở thì gặp phú quý, hiền
nhân.
Trước cao mà sau thấp thì gọi là Sở thổ (đất Sở), ở thì gặp chuyện dữ.
Bốn phía đều cao mà ở giữa thì thấp gọi là Vệ thổ (đất Vệ), ở thì trước
giàu, sau nghèo.
Sau khi lựa chọn được mảnh đất tương đối phù hợp, cần tiếp tục xét
đến những yếu tố xung quanh như đường, ngõ, cầu cống bên cạnh. Dưới đây
là những điểm kiêng kỵ cần đặc biệt chú ý:
Kiêng kỵ với đất vùng đồi núi
- Tránh làm nhà ở trên sườn núi hoặc thung lũng, như vậy tránh được
lũ hoặc sét đánh.
- Nhà ở nếu mặt Nam có núi cao thì nhà đó chắc chắn có người ngộ
chữ. Trước cửa có núi che mất tầm nhìn, gió bấc thổi vào núi rồi hồi chuyển
vào nhà, không có lợi cho sức khỏe.
Kiêng kỵ về cầu đường
- Trước nhà kiêng kỵ có cầu chắn cửa. Cầu phải ở bên phương vượng
của nhà ở. Cầu chặn trước cửa thì nhà ở không an toàn.
- Nhà ở làm ở ngã ba đường cái (chữ Đinh), có đường đâm thẳng vào
mặt tiền. Nhà ở chỗ ngã ba dễ bị tai họa bất chợt.
- Phía Tây Nam nhà ở có ngã tư thì nhà ấy phụ nữ tính tình cứng rắn.
Phía Đông Bắc nhà có ngã tư, phụ nữ sinh đẻ dễ bị ảnh hưởng.
- Bốn bên của nhà ở đều là đường cái, nhà rơi vào chữ Tù. Nhà đơn
độc không có hàng xóm, thiếu sự giúp đỡ lẫn nhau và thiếu cảm giác an toàn,
quần cư tốt hơn độc cư.
- Đường cái trước nhà hình cánh cung hoặc chữ S, thì gia chủ chắc
chắn làm ăn khó khấm khá.
- Trước cửa, sau nhà phải có đường cái. Quan niệm phong thủy cho
rằng, phàm là đường đi mà có rẽ phải, rẽ trái, thì sát khí níu kéo, không liên
quan đến lành dữ, nếu quá hẹp và thẳng đuột, nhà ở bị tù túng.
- Nhà ở kiêng kỵ làm ở ngõ cụt. Ngõ cụt thì ra vào không thuận tiện,
không lợi cho việc trao đổi tin tức và đi lại, sẽ dẫn đến tâm trạng cô độc và
tâm lý hẹp hòi. Nếu có hỏa hoạn sẽ không có đường chạy. Ở lâu trong ngõ
cụt, con người sẽ cô độc, khổ sở, sẽ sa sút. Ngõ không được chọc thẳng vào
nhà, không được bên trong rộng bên ngoài hẹp, không được đoạn đầu to
đoạn đuôi nhỏ.
Kiêng kỵ chọn đất không “tàng phong”
Theo thuyết phong thủy của Trung Quốc, chọn đất tốt làm nhà là đất
phải tàng phong, nếu gió thốc sau lưng, nhà sẽ nghèo. Nếu chọn đất đặt mộ,
gió thổi vào huyệt sẽ hèn.
Gió là sự chuyển động của không khí. Các triết gia thời xưa có nhận
thức khác nhau về gió. Trang tử. Tiêu dao du viết: “Đất thở dài, hơi thở thành
gió”. Hoài Nam tử. Thiên văn huấn: “Khí của trời, lúc giận là gió”. Thuyết
Uyển: “Khí của trời đất giao hòa thì sinh ra gió”.
Gió giúp vạn vật thay đổi, cỏ cây tươi tốt, phấn hoa truyền đi. Gió nhẹ
làm cho đất ấm. Gió xuân làm cho vạn vật sinh sôi. Gió sa mạc khiên vạn vật
khô héo.
Gió có quan hệ đến sự lành dữ của con người. Gió làm đổ nhà đổ cửa,
tắc nghẽn giao thông, sử ký Thiên quan thư có ghi: “Gió từ phương Nam đến:
đại hạn; từ Tây Nam: hạn nhỏ, từ phương Đông: nước lớn; từ Đông Nam:
dân bị ốm đau, mất mùa”.
Tôn sùng gió, tất nhiên phải quan sát gió. Thời Hán rất thịnh hành
phong giác. Phong giác là một thuật chiêm phong (quan sát gió). Do vậy,
thuật xem đất, coi gió là một trong những nội dung quan trọng.
Phong thủy cho rằng thuyết về tám loại gió: Phía trước huyệt có ao
phong (gió từ chỗ trũng thổi ra), minh đường (bãi đất phẳng trước huyệt) tất
sẽ mất đi, án sa không có, đường khí khó thu, chủ bần hàn bại tuyệt. Phía
sau huyệt có ao phong, tất hai cánh tay bị lạnh, đương nhiên là không có chỗ
dựa, huyệt tinh không thể khởi dậy, chết yểu không con. Bên trái huyệt có ao
phong thì long sa yếu ớt, chủ con trưởng lênh đênh, sống cô độc. Bên phải
huyệt có ao phong, tất Bạch hổ khuyết, không nâng đỡ chi thứ, quặt quẹo,
chết yểu. Hai vai huyệt có ao phong, tức phương vị chủ trì việc thai nghén bị
thương tổn, dù các mặt khác đều là gió lành thì cũng chủ bại tuyệt. Hai chân
huyệt có ao phong, tất con cháu tế lễ nơi thấp, lõm, mà thủy khẩu quay
ngang, chủ tan cửa nát nhà, mất hết tài sản. Trong tám loại gió, thì gió Cấn ở
hướng Cấn là dữ nhất, là vì cung Dần là cơ tinh, cơ sinh phong tinh. Dù là
chỗ đất phong thủy sinh vượng, nếu cẩu thả ngồi cung Dần mà chiều gió Cấn,
nhẹ nhất cũng bị bại liệt hoặc mắc bệnh điên, nặng thì nhà tan người chết. Do
đó, khi chọn đất phải chú ý tới gió.
Kiêng kỵ xây nhà chữ Tù
Đây là quan niệm về phong thủy đời Đông Hán. Quan niệm này ảnh
hưởng rất nhiều đến đời sau. Các thầy phong thủy rất kỵ chữ này, xây nhà
phải thông với đường cái, phần mộ không được xây kín bốn bên, nếu không
sẽ phạm vào điều cấm kỵ là chữ tù.
Kiêng kỵ đất dữ bằng phép trấn trạch
Người Trung Quốc xưa kia cho rằng, xem đất làm nhà, phải xem hình
thế khí sắc, cây cỏ đổi thay, họa phúc xen kẽ, lành dữ còn mất. Xem đất để
mả, phải luận được thiện ác của núi đồi, chính tà của vùng đất, an nguy do
quỷ thần, hưng tuyệt của con cháu. Sách Chư tạp thôi ngũ tính đẳng trạch đồ
kinh viết: “Âm trạch phúc tại Nam, đức tại Tây. Bắc có ao đầm, Nam có đất
cao, và có rừng cây xanh tốt, ở đất ấy thì tốt (cát) lành. Nếu đất dữ phải trấn
trạch”. Sách Âm dương thư, đề cập đến phép trấn trạch, như sau: “Phàm chỗ
ở bất lợi, sinh bệnh, bỏ nhà đi, hao tài, thì lấy 90 cân đá xếp vào cửa quỷ sẽ
đại cát lợi”.
Kiêng kỵ xây nhà cạnh miếu đền, trên giếng cũ
- Nhà ở không được làm trên giếng cũ. Giếng cũ thường là đất mới san
lấp nên không chắc, rất dễ bị lún, đổ nhà. Giếng cũ có khi thoát địa khí hoặc rỉ
nước mạch, bất lợi cho người ở. Xung quanh giếng cũ nói chung không khí bị
ẩm ướt, người ở rất dễ bị phong thấp.
- Bên cạnh nhà ở có đền, miếu, thì không tốt. Đền, miếu tạo nên không
khí u uẩn, lạnh lẽo, vắng vẻ đối với người ở. Nếu như ở đây hương khói nhộn
nhịp thì lại ồn ào, suốt ngày không có lúc được yên tĩnh. Có kẻ ra người vào,
khó tránh được trộm cắp.
Những điều kiêng kỵ cho vị trí nhà
- Kiêng kỵ hai dòng nước hội lưu trước cửa nhà rồi chảy thẳng, đây là
thế tiết khí rất xấu, dễ bị phá sản, gia đình tổn hại.
- Phía sau nhà có thác nước gọi là “lâm thủy ốc”, ở nhà này hay bị sẩy
thai, đau đầu, sinh các bệnh hệ tiết niệu.
- Cửa nhà kiêng kỵ có mương nước hình cung ngược, là lục thân vô
tình, con cháu hay ngỗ nghịch.
- Trước nhà kiêng kỵ là chùa chiền, đền miếu, vì như thế sẽ bất lợi về
học hành cho trẻ con, gia vận, tài vận, sức khỏe cũng không tốt, nguy hại nhất
là rất dễ mắc bệnh thần kinh.
- Xung quanh nhà ở hay cửa hàng (hung nhất là trước cửa nhà), có
nhà tang lễ, nhà xác, nếu ở nhà này dễ mắc bệnh thần kinh, dễ mắc bệnh đi
đến cực đoan, tiêu cực, gia đình và tài vận đều bất lợi.
- Trên nóc nhà kỵ có đường điện cao thế đi qua, cũng không nên ở nhà
gần cột điện có máy biến áp, đây là ngôi nhà luôn bị uy hiếp, rất hung, bởi
điện cao thế và máy biến áp làm thay đổi từ trường, ảnh hưởng tới gia vận.
- Trước cửa nhà có tảng đá “trấn trạch” (thạch cảm đương), tuy chế
ngự được ma quỷ nhưng lại bất lợi cho trẻ nhỏ, nếu tảng đá này lệch sang
trái, bất lợi cho con trai, nếu tảng đá này lệch sang phải thì bất lợi cho con
gái.
- Nhà ở gần nghĩa trang dễ bị âm khí ảnh hưởng, dễ sinh bi quan, khí
vận kém, hôn nhân không thuận, dễ mắc bệnh âm.
- Tường rào xây quá cao, sinh khí trong nhà bị che khuất, dương khí
không vào được dễ bị khí âm lấn át, dễ mất hết láng giềng, ở lâu nhà này dễ
sinh phiền não, kiện tụng, thị phi.
- Trong nhà kiêng kỵ có giếng nước vì giếng nước là loại sát khí dẫn
ma quỷ vào nhà, rất bất lợi, dễ dẫn đến bệnh âm, giếng nước nên đặt ở phía
sau nhà (ở hai bên).
- Có một số nhà do tiết kiệm không gian (hoặc do hoàn cảnh bắt buộc),
phải kê giường ở khu vực cầu thang (hoặc dưới gầm cầu thang), trường hợp
này thường gây áp lực cho người nằm, rất bất lợi về tình cảm. Nếu kéo dài sẽ
ảnh hưởng tới sức khỏe, dễ mắc chứng đau đầu, suy nhược thần kinh.
- Cửa hàng hoặc nhà ở nằm phía dưới cầu vượt hoặc phía dưới chân
cầu, tương đối bất lợi, dễ bị đe dọa, uy hiếp. Nhà này minh đưòng bị cản khí,
người ở dễ bị đau lưng, nhất là ở bên dưới cầu có độ cong lớn, thường dễ
xảy ra tai nạn xe cộ, sự cố bất ngờ, dễ bị phá sản, kinh tế bất lợi.
- Nhà ở kiêng kỵ ở gần bãi rác, hố phân, ở nhà này dễ sinh bệnh tật,
đoản thọ, trí năng chậm phát triển, vận khí kém, người có thai không nên ở
nhà này, vì trẻ sinh ra sẽ chậm phát triển, nhiều bệnh, ngũ quan không phát
triển đều, trí năng kém.
- Kiêng kỵ ở nhà ở cuối ngõ cụt. Ở nhà này dễ bị phá sản, tài vận
không giữ được, sự nghiệp bị ảnh hưởng, khó có cơ hội thăng quan tiến
chức, gia đạo tàn lụi dễ sinh bệnh lạ.
- Kiêng kỵ ở nhà thấp bên cạnh ngôi nhà là cao ốc, rất xấu, vì bị nhà
cao chèn ép.
- Kiêng kỵ nhà nhỏ nằm lọt giữa các nhà cao tầng, hình thái như nằm
trong chiếc cũi, ở nhà này dễ mắc, kiện tụng liên miên, thị phi, ý chí nhụt dần,
có hại cho sức khỏe, sự nghiệp lụn bại.
- Kiêng kỵ trước cửa nhà này có rặng cây leo, ở nhà này dễ mắc bệnh
cửa quan, kiện tụng thị phi, sự nghiệp lụn bại, bị mất trộm.
- Kiêng kỵ dưới nền nhà có dòng nước chảy qua, vì như thế ắt mang
hết địa khí trong nhà, ở nhà này dễ hiếm muộn con, hoặc phải bỏ nhà ra đi,
của cải cũng dần tiêu tán.
- Kiêng kỵ cầu khi thẳng vào cửa nhà, nếu ở nhà này trạch vận khó tích
tụ, xấu nhất là khi dùng để kinh doanh, buôn bán.
- Kiêng kỵ tường bao vỡ một góc, như vậy tượng trưng tài vận không ra
gì, gia đạo suy, con cái không song toàn,
- Kiêng kỵ trước cửa nhà là mương nước hình cung ngược, ở nhà này
sự nghiệp bế tắc, tài vận suy thoái, tật bệnh kéo dài, con cái ngỗ nghịch,
duyên phận bạc.
- Kiêng kỵ phòng ngủ nằm ở phía dưới gian vệ sinh, ở nhà này khí độc
ám vào đầu, dễ bị vướng vào việc quan, đa sầu đa cảm, tài vận, sự nghiệp
bất lợi.
- Kiêng kỵ phòng vệ sinh bố trí ở giữa nhà làm cho long khí chia đôi,
khiến cho khí âm, khí dương xung đột nhau liên tục, ở nhà này sẽ suy thái tài
vận, nhiều bệnh tật.
- Kiêng kỵ cửa bếp ga hoặc nhà bếp chiếu thẳng vào cửa nhà vệ sinh vì
như vậy người nhà dễ mắc bệnh hệ tiết niệu, nhà hay mất trộm, dễ phạm phải
tiểu nhân.
- Kiêng kỵ nhà có các bức tường cao thấp khác nhau, chênh lệch, nếu
tường trước cao tường sau thấp như đổ dục thì rất hung, sự nghiệp dễ sụp
đổ, phá sản, không yên lành. Nếu tường trước thấp tường sau cao thì nạp khí
không đủ, bị chèn ép, dễ mắc bệnh thần kinh, sự nghiệp, tài vận đều không
tốt.
- Kiêng kỵ nhà ở hoặc cửa hàng ở giữa ngã ba đường. Nếu là phố rộng
thì được gọi là lộ xung, nếu là phố hẹp gọi là lộ sát, hai tình huống này gọi là
lộ không vong, ở nhà này dễ kiện tụng, phá sản.
- Kiêng kỵ nhà ở giữa hai ngã ba chiếu vào, hai bên xông chiếu vào nhà
sẽ rất hung, dễ bị tai nạn, phá sản, trúng phong, ngã ba chiếu bên trái thì mắc
bệnh bên trái, chiếu vào bên phải thì bên phải mắc bệnh.
- Kiêng kỵ giữa 2 nhà cao tầng có ngõ nhỏ ngăn cách gọi là “thiên trảm
sát”, ngõ này chiếu thẳng vào nhà ở (ở cửa hàng là rất xấu). Thiên trảm sát là
lưỡi dao từ trên trời chém xuống, ở nhà này dễ bị phá sản, huyết quang bất
yên.
- Kiêng kỵ trước nhà có cây quá to vì như vậy dễ cản mất dương khí
(sinh khí) âm khí sinh sôi. Ở nhà này dễ mắc bệnh âm, sức khỏe kém, dễ bị
sét đánh.
- Nhà ở hoặc cửa hàng có đoạn đường cong lưng cong hướng vào thì
rất nguy hiểm, dễ tai nạn, phá sản, nhà không yên, cá tính không thuần, con
cái ngỗ nghịch, lục thân duyên bạc.
- Cửa chính bị góc tường nhà đối diện chiếu vào cũng không tốt, sẽ bị
huyết quang, bị tổn thương, gia trạch bất an.
- Hiên nhà kỵ để cành cây che khuất, nếu không gia trạch sẽ bất ổn.
- Cửa nhà kiêng kỵ có cây hoặc cành chết, nếu không sẽ hao tài tốn
của.
- Nhà có ba cửa, cửa lớn và hai cửa nhỏ hai bên. Cửa nhỏ thường
dùng ra vào, nếu cứ để như vậy anh em dễ bất hòa, dối nhau.
- Nhà ở hay cửa hàng, nền nhà không nên quá cao so với nền đường,
phải qua nhiều bậc mới lên tới nền nhà, rất bất lợi cho nạp tài và thành công.
- Cửa nhà hay cửa hàng đều kiêng kỵ để hai cửa chính, cửa phía trước
thẳng với cửa sau nhà, nếu không của cải khó giữ lại được. Trường hợp phải
có có hai cửa thì ở giữa phải dùng một tấm bình phong để tránh thất thoát tài
vận.
- Nhà không có cửa phía sau để thoát hiểm, thông gió nếu ở lâu dài sẽ
có hại cho sức khỏe.
- Nhà ở đối diện khu vui chơi của trẻ, rất bất lợi về nhân cách.
- Nhà ở (dương trạch) hoặc phần mộ (âm trạch), phía sau có ba hoặc
nhiều đỉnh núi, con cái có chí hướng, có tài, có quan tước.
- Cửa nhà hoặc trong sân kiêng kỵ có hai cây bắt chéo vào nhau, vì
như vậy tình cảm kém, không hòa thuận, có ngoại tình hoặc hai vợ.
- Cửa nhà kỵ có cây hai chạc, vì như vậy rất bất lợi, dễ bị kiện tụng, thị
phi, vận khí kém.
- Nhà kho nên đặt phía sau nhà hoặc ở đầu hồi hai bên, kiêng kỵ đối
diện với cửa chính, nếu không sẽ làm cản trở khí vào, người nhà mắc bệnh,
vận khí kém.
- Phía sau nhà có dòng nước chảy xiết là rất xấu, dễ gây tổn thương
cho người trong nhà, dễ bị phá sản, tổn hại gia đình.
- Trước nhà kiêng kỵ có những tảng đá hoặc vật nhọn chiếu vào, nếu
không sẽ bị thương tổn (hình thế của Hỏa) dễ bị hỏa hoạn.
- Nhà ở bốn hướng, sân ở giữa, không nên trồng cây to, vì cây to ngăn
cản dương khí, khiến cho khí âm tràn vào nhà, người dễ mắc bệnh âm, đồng
thời dễ bị sét đánh.
- Cửa nhà kỵ hố nước hoặc (ao nhỏ) nhất là loại có hình nhọn chĩa
thẳng vào, người ở bất nhân, không hòa thuận, nhiều thị phi.
- Phía trước, phía sau nhà kỵ có giếng đối xứng nhau, vì giếng nước là
loại sát khí. Ở nhà này dễ bị thương, sức khỏe kém, trẻ em nói ngọng.
- Làm nhà cao vọt hơn các nhà khác gọi là “lộ phong sát”, như thế sẽ bị
cô đơn, mắc bệnh, tổn hại đến mọi người trong nhà, bị láng giềng xa lánh.
- Nhà mái ngói có xà nóc, xà này phải là một cây gỗ hoàn chỉnh, không
được nối ở giữa, nếu không người ở sẽ bị tai nạn bất ngờ, bị bệnh hen suyễn,
gia nghiệp suy bại.
- Nhà ở kỵ ở ngã ba đường vì như vậy gọi là “tiểu đao sát” rất xấu, dễ
bị phá sản, tổn hại gia đình, kiện tụng thị phi, gia trạch bất an, sự nghiệp suy
bại.
- Trước cửa nhà là một ngôi nhà cũ nát, người trong nhà dễ bị tổn
thương, phá sản, mắc bệnh huyết quang.
Kiêng kỵ nhà ở có chỗ khiếm khuyết
Chỗ thụt vào cho dù ở phía nào đều là tướng hung. Gần đây có nhiều
căn hộ để tránh ánh sáng mặt trời, nên nhiều người xây nhà thường có chỗ
thụt vào.
Ảnh hưởng xấu mà chỗ thụt vào mang đến là vận thế bị suy thoái, thậm
chí tinh thần có vấn đề hoặc mắc những bệnh của cơ quan nội tạng như dạ
dày, sức khỏe tổn hại, cũng vì thế mà ảnh hưởng xấu càng nặng. Cho nên
tuyệt đối không được xây nhà có chỗ thụt vào.
Ví dụ chỗ thụt vào một bên của kiến trúc, chỉ cần không nằm ở phạm vi
Nữ quỷ môn phía Tây Nam, Nam quỷ môn phía Đông Bắc thì mức độ ảnh
hưởng không quá lớn.
Nhưng nếu chỗ thụt vào có diện tích lớn thì cần sửa chữa, trước khi
sửa chữa kiến trúc cần tiến hành lễ cúng bái, chọn ngày lành tháng tốt, nếu
bỏ qua việc xem ngày mà khởi công, có thể gặp các ảnh hưởng xấu, vì vậy
cần lưu ý.
Khi xây thêm kiến trúc nên tiến hành sửa chữa ở mức độ như thế nào?
Điểm này tuỳ theo từng phương hướng, cụ thể:
Phía Đông, Đông Nam, Nam có tình trạng thụt vào, cách kiến trúc vốn
có khoảng 2m xây thêm có điểm lồi.
Trường hợp phía Tây Bắc, Tây có kiến trúc thụt vào, gần sát đó sửa
cho phần này trở nên lồi ra.
Bù đắp chỗ thụt vào phía Bắc cũng sử dụng phương thức sửa chữa
như trên, nhưng chỗ lồi lúc này cố gắng nhỏ vừa phải, nếu không sẽ phản tác
dụng.
Chỗ thụt vào phía Đông Bắc, Tây Nam phá bỏ. Mặt này cần bằng
phẳng. Phía này không thể có chỗ lồi hoặc thụt vào.
Ngoài ra, còn có một phương pháp khác, không cần xây thêm mà sửa
đổi chỗ thụt vào, nhưng trường hợp này chỉ giới hạn diện tích chỗ thụt vào, rồi
trồng cây có nhiều năng lượng.
Độ cao thấp của cây cần đảm bảo tính mỹ quan của công trình kiến
trúc, cần tránh loại cây ăn quả, cây cọ, cây phượng vĩ, cây liễu. Nhưng
phương pháp này không thể dùng ở phía Đông, Đông Nam, Nam. Vì dùng
phương pháp này che mất ánh mặt trời, gây phản tác dụng.
Kiêng kỵ dưới huyệt có nước hoặc đá ngầm
Theo quan niệm của người xưa, nếu dưới huyệt có nước ngầm hoặc
đá ngầm nên đặt mộ tránh đi chỗ khác để cầu phúc. Theo các nhà phong thủy
thì đất bằng phẳng là tốt nhất, thứ đến lệch về Đông Nam, Tây Bắc cao. Đất
dốc thì nước chảy không đọng xung quanh, đất cao thì đồi núi ôm lấy mà
không bị khuyết. Nếu chọn đất đúng như thế thì lành, trái lại thì dữ.
Kiêng kỵ khi lấp giếng
Nếu vị trí giếng là tướng hung, người nhà khổ vì bệnh tật không rõ
nguyên nhân. Cho dù chữa trị vẫn khó khỏi bệnh.
Nếu gặp phải ảnh hưởng xấu như vậy mà nghĩ sớm lấp đi thì cần chú ý
một số vấn đề:
Lấp giếng cần coi trọng nghi lễ cúng bái. Nếu tự ý lấp, đổ rác thải vào
trong giếng để lấp, tất gặp ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của những người
trong nhà.
Giếng trước đây trong cuộc sống của con người đóng vai trò rất quan
trọng, nếu vì không sử dụng hoặc ảnh hưởng xấu ập đến, dùng cách lấp đi,
hậu quả sẽ tai hại.
Trước tiên, trước khi đào giếng cần lưu ý mời thần phong thủy đến để
tiến hành cúng lễ dời thần nước ngự trị trong giếng. Nếu lúc này nước giếng
chưa cạn, dùng nước trong thùng, làm thần nước, chuẩn bị lễ vật đầy đủ, cẩn
thận cúng lễ mời thần nước di chuyển.
Sau đó vét toàn bộ bùn dưới đáy giếng, cho lên trên mặt đất. Dùng máy
hút hết nước dưới đáy giếng lên. Tiếp theo, đổ cát nhỏ chôn dưới đáy giếng
sâu 1m, rồi đến lớp đá nhỏ lên đến 1/4 giếng, lại dùng cát chôn 1/4, ở cuối
cùng lấp đầy bằng đất mới.
Sau khi lấp xong, ở trên có thể trồng cây, hoặc để chậu cảnh, lưu ý
không để lại vết tích giếng cũ càng tốt.
Nếu trên giếng cũ xây nhà, ít nhất phải đợi sau khi lấp một năm trở lên.
Nhưng, cho dù qua hơn một năm, phía trên cũng không thể đặt phòng
ngủ, phòng ăn, phòng sinh hoạt nơi cả nhà tập trung sinh hoạt được.
Mùa hè kiêng kỵ động thổ
Từ xưa đã tương truyền vào mùa hè không thể động thổ.
Trên thực tế kiêng kỵ này là để tránh nhiệt khí mà đất mang tới. Nếu
trong thời gian này cắt cỏ, thường vì nhiệt khí mà phát sốt.
Lúc này những nguyên tố như nitơ, canxi, sắt những nguyên tố có tác
dụng hỗn hợp, vật chất có hại cho con người trôi nổi với độ dày 1m. Những
vật chất này có hại cho sức khỏe của con người.
Nếu không thể hiểu được vận hành của tự nhiên cũng sẽ gây nhiều
phiền phức cho cuộc sống của chúng ta. Tướng nhà cũng thành lập trên cơ
sở sự dung hòa giữa tự nhiên và con người cho nên không thể bỏ qua sự vận
hành tự nhiên.
Vì vậy thời kỳ hạ chí vẫn được xem là cấm kỵ, đây là trí tuệ tương
truyền từ xưa. Do nguyên nhân phát sinh hiện tượng mục nát, về tướng nhà
mà xét, xây nhà bên trên sẽ ảnh hưởng không tốt với người trong gia đình.
Nếu đang chuẩn bị xây nhà thì đợi sau hạ chí. Xây nhà không nên gấp
gáp, trước tiên nên có kế hoạch, mua nguyên vật liệu, chuẩn bị tốt mặt bằng
xây dựng và các bước hậu cần...
Kiêng kỵ khi bố trí nhà
Theo quan niệm phong thủy; dân gian khi bố trí nhà thường kiêng kỵ
một số điều sau:
Kho để chứa lương thực, thuộc Thổ, nên xây tại phương Thổ, tức
phương sinh vượng, kỵ xây tại phương Mộc.
Sương lang (hành lang) là một bộ phận của nhà ở. Thuật phong thủy
coi hành lang như tay chân của nhà. Không có chân tay, không làm được gì.
Hành lang có nhiều quy cách, không được ngộ sát, không được thiếu hành
lang, không được xa tường. Có hậu lang (hành lang sau) tất phải có hành
lang trước. Hành lang hai bên phải dài rộng bằng nhau.
Thiên tỉnh là khoảng đất trống lộ thiên trong nhà. Thiên tỉnh không được
có hình chữ Nhất, không được làm nhà, xây phòng phía trên thiên tỉnh. Không
được chứa nước ở thiên tỉnh, cũng không được xếp đồ đạc lộn xộn ở thiên
tỉnh. Thiên tỉnh cũng không được quá sâu, quá dài, tốt nhất là vuông vắn như
bàn cờ.
Nhà xí là nơi đại tiểu tiện, nhà xí kiêng kỵ các phương Càn Hợi Nhâm
Tý Quý, lại kiêng kỵ bố trí ở chỗ lai mạch của ngôi nhà, kiêng kỵ xây ngay sau
chính đường (phòng chính). Những phương vị này đều là phương vị không
được làm ô uế. Duy phương vị khắc với tọa sơn là hữu tù thì có thể đặt nhà
xí, như Mão sơn thì Canh Thân là hữu tù; Nhâm sơn thì Cấn không là hữu tù.
Trước cửa có hố ga thì sinh bệnh đường ruột, đất nhà xí ở lai mạch trong nhà
có người mắc bệnh đậu mùa.
Kiêng kỵ với sao chiếu mệnh của con cái
Nguyên nhân con cái sinh bệnh rất nhiều, trong đó có trường hợp
nguyên nhân là do hướng nhà xấu mang lại.
Con cái ốm yếu, gia đình rơi vào cảnh túng thiếu. Vì thế để gia đình
viên mãn hơn thì không có cách nào khác là bảo vệ sức khỏe của con cái.
Muốn con cái khỏe mạnh không được bố trí nhà vệ sinh, bể lọc, nhà để
xe theo hướng sao chiếu mệnh của con trẻ.
Nhất là đối với trưởng nam, trưởng nữ, nếu không suy tính đến điểm
này thì con cái dù có khỏe mạnh, hoạt bát cũng dễ bị bệnh tật, đau ốm.
Mỗi hướng với sao chiếu mệnh của con cái sẽ mang lại những điểm
xấu nào? Xin xem xét các trường hợp sau:
Hướng Bắc kỵ: Điềm xấu đến với những người thuộc sao Nhất bạch
Thủy, những người tuổi Tý, Nhâm, Quý.
Hướng Đông Bắc kỵ: Bát bạch Thổ tinh, con cái sinh năm Dần, Sửu.
Hướng Đông kỵ: Người sinh năm Hợi, năm Giáp Ất, người thuộc sao
Tam bích Mộc tinh.
Hướng Đông Nam kỵ: Tứ lục Thổ tinh, người sinh năm Thìn.
Hướng Nam kỵ: Cửu tử Hỏa tinh, người sinh năm Ngọ, năm Đinh,
Bính.
Hướng Tây Nam kỵ: Nhị hắc Thổ tinh, người sinh năm Dậu, năm Canh
Tân.
Hướng Tây Bắc kỵ: Lục bạch Kim tinh, người sinh năm Mậu, năm Hợi.
Hướng Tây kỵ: Thất xích Kim tinh, người sinh năm Dậu, năm Canh
Tân.
Kiêng kỵ thế phòng học xấu cho trẻ
Phòng của mỗi người trong nhà, chỉ cần nhìn từ trung tâm của căn
phong, đặt theo hướng 12 sao chiếu mệnh của những người sống trong nhà
là phù hợp. Các phòng ở, phòng đọc sách và phòng làm việc nên đặt theo
hướng 12 sao chiếu mệnh cửa người ở. Đại đa số thế nhà như vậy là tốt,
nhưng những căn phòng dưới đây lại không hợp lý.
Đầu tiên là phòng mà bốn bên bị tường bao kín, không có cửa sổ,
không khí u ám dễ bị ứ đọng, ở những phòng này nhất định sẽ gây ảnh
hưởng tới sức khỏe.
Thêm nữa, sử dụng những phòng này làm phòng học thì rất dễ làm tư
tưởng phân tán, tinh thần mất tập trung, khi làm việc dễ mắc sai lầm.
Nếu sử dụng phòng cửa sổ một bên làm phòng học cho trẻ thì khả
năng học tập của trẻ sẽ không ngừng giảm sút. Bởi vì sự lưu thông không khí
không thích hợp, những luồng không khí không tốt dễ bị ngưng tụ lại.
Nếu như phòng học của trẻ mà chỉ một bên có cửa sổ thì phải có cửa
thông trên mái nhà hoặc ô thông gió, để điều hòa không khí trong phòng như
thế khả năng có thể tránh được các ảnh hưởng xấu.
Nếu như trường hợp không biết mà vẫn ở trong những căn nhà đó, thì
chắc chắn phải đối mặt nhiều điều không như ý.
Kiêng kỵ khi bố trí phòng trẻ
Cũng như tất cả các căn phòng khác trong ngôi nhà, khi bố trí phòng trẻ
cần chú ý đến một số điều kiêng kỵ nhất định.
- Không được đặt phòng của trẻ gần phòng máy hoặc dưới ban công.
Vì như vậy khiến cho thần kinh của trẻ dễ bị suy nhược do tiếng ồn.
- Phòng của trẻ kỵ đối diện với cửa nhà vệ sinh.
- Kỵ lắp gương ngay tại cửa ra vào phòng để tránh thị phi khẩu thiệt.
- Trần nhà kỵ lồi lõm, quét sơn màu trắng sữa là tốt nhất (màu tối là
xấu). Trần có thể trang trí những thanh gỗ ngang dọc nhưng tuyệt đối không
được treo những hình thù kỳ dị làm cho trẻ sợ, ngủ hay bị giật mình, nằm mơ
thấy ác mộng.
- Sàn nhà kỵ trải thảm màu đỏ sẫm hoặc thảm có lông dài để tránh mắc
bệnh viêm phế quản.
- Kỵ treo nhiều chuông gió để tránh suy nhược thần kinh ở trẻ.
- Ánh sáng phải đầy đủ. Kỵ màu hồng, đỏ, đen để tránh tạo tính cách
nóng nảy, bồn chồn, bất an.
Trong mùa hè cần chú ý thêm: Lượng formal dehyde từ trong các đồ
vật tỏa ra nhiều nhất vào mùa hè. Trẻ đang vào giai đoạn lớn, sức đề kháng
yếu kém. Do vậy, khi bố trí phòng cho trẻ lúc mùa hè, cần chú ý bốn đặc điểm
sau:
- Không trải thảm dưới đất vì thảm rất nhanh hút bụi. Vô hình trung trẻ
phải hít thứ bụi đó, không có lợi cho sức khỏe, dễ mắc bệnh viêm phế quản,
bệnh hen. Đồng thời không nên treo tranh làm bằng chất liệu xốp vì chúng
làm cho nồng độ không khí trong phòng bốc hơi nhanh hơn bình thường.
- Cánh cửa phòng phải làm bằng gỗ đánh vecni. Không nên dùng cửa
ghép quét sơn. Vì loại cửa này thải ra hàm lượng formol dehyde rất cao.
- Tường nên dùng loại sơn bảo vệ môi trường, có thể cọ rửa được khi
bị bôi bẩn.
- Sàn nhà nên lát loại gỗ mềm.
Kiêng kỵ khi kê giường ngủ cho trẻ
- Kỵ kê dưới những thanh xà ngang.
- Kỵ kê giường hướng ra cửa sổ, ánh sáng sẽ làm chói mắt trẻ, ảnh
hưởng tới sức khỏe và tinh thần hay nổi cáu.
- Giường kỵ đặt trên ban công (tức là sau khi mở rộng thêm phòng, một
phần hoặc cả giường của trẻ nằm trên vị trí ban công cũ).
- Giường kỵ kê ở phía trên hoặc dưới bếp đun của phòng bếp (trẻ hay
bị mắc bệnh da liễu, tâm trạng hay nóng nảy). Cũng không nên kê giường
phía trên hoặc dưới nhà vệ sinh.
- Chân giường kỵ chính xung với cửa hoặc bồn cầu (hay bị thương ở
chân).
- Đầu giường kỵ xung với cửa phòng hoặc hướng vào nhà vệ sinh.
- Kỵ kê giường đúng phía dưới bàn thờ (trẻ rất cứng đầu, thường bất
cần, ngang bướng).
- Không nên đặt đài hoặc đồ điện tử ở đầu giường (sóng từ trường của
chúng ảnh hưởng tới não của trẻ).
Kiêng kỵ về hình thế nhà ở
Nếu cao thấp không đều, cao đè thấp: Nhà bên trái có thể cao hơn nhà
bên phải, tuyệt đối không cho nhà bên phải cao hơn nhà bên trái. Tập tục quy
định: Tả Thanh long hữu Bạch hổ, thà rằng để Thanh long cao vạn trượng,
chứ không cho Bạch hổ phải ngẩng đầu.
Trong cùng một sân, dù là nhà của mình, cũng không được phòng bên
lớn hơn và cao hơn phòng chính, phòng trước không được cao hơn phòng
sau, nếu không đầy tớ sẽ khinh chủ.
- Trước nhà không được có ngôi nhà đổ nát dù có người ở hay không.
Có nhà đổ nát trước cửa khiến người ta mất hướng. Nhà đổ nát có nhiều vi
khuẩn; nhà bỏ hoang dễ là nơi của kẻ lang thang trú ngụ; nhà xiêu vẹo dễ đổ
sập, trẻ nhỏ chơi trong đó rất nguy hiểm. Ngoài ra, nhà bỏ hoang khiến người
ta sẽ nằm mơ thấy ma quỷ, dễ bị ảo giác.
- Cổng nhà ở đối diện với góc nhà người khác, không tốt.
- Nếu góc của tường vây (tường rào) nhà người khác chĩa vào cửa nhà
mình thì gọi là Nê tiêm sát. Nếu góc tường chĩa vào bên trái nhà, thì bất lợi
cho đàn ông; nếu góc tường chĩa vào bên phải, thì bất lợi cho đàn bà.
- Nhà kiểu chữ Bát: Mồ côi, nghèo khổ, nhiều tật bệnh.
- Nhà kiểu chữ Hỏa: Bế kinh.
- Nhà kiểu cái quạt: Vất vả, lênh đênh.
- Điệp đống (hai thượng lương chồng lên nhau) mà không có chái, nhà
đổ bị ôn dịch.
- Nhà to không thông gió: Tan nát, ít người.
- Nhìn từ xa, nhà như ở dưới hồ: Cô quả (góa vợ góa chồng), nhân
khẩu hiếm.
- Nhà trước cao nhà sau thấp: Hại con, xung khắc vợ.
- Nhà sau cao, nhà trước thấp: Già trẻ đều mê muội.
- Giữa cao, trước sau thấp: Vợ chồng không hòa thuận.
- Giữa cao, trái phải thấp: Hay bị chuyện thị phi.
- Chân tường lở: Sa sút và tai họa.
- Mặt bằng diện tích trước rộng sau hẹp: Của cải ít.
- Mặt bằng diện tích hình tam giác: Không người lẫn của.
- Bốn góc mặt bằng đều có khiếm khuyết, tuyệt đối không được ở.
- Nhà quá to, nhân khẩu quá ít, không tốt. Nhà quá nhỏ, nhân khẩu quá
đông, không tốt. Nhà ở của các con không được làm trong sân nhà cha mẹ.
- Nếu ghép hai nhà làm một thì không được nối liền mái hiên.
- Mặt tiền rộng hơn chiều dài, không tốt.
- Số phòng trong nhà, bao gồm phòng ngủ, phòng khách, bếp, nhà tắm,
nhà xí... có liên quan đến lành dữ. Một phòng là cát. Hai phòng không can hệ
gì. Ba phòng là hung. Bốn phòng, hung. Năm phòng, cát. Sáu phòng, cát. Bảy
phòng, cát. Tám phòng, hung. Chín phòng, cát. Số lượng nên là số lẻ, tránh
số chẵn.
- Nhà ở nên dùng gỗ thuộc dương, như tùng, san, mai; không được
dùng gỗ thuộc âm, như lật, nam, hòe.
- Từ bên ngoài mà có thể trông thấy cột cái thì nhà sẽ có đứa con bất
hiếu.
Kiêng kỵ đối với cửa nẻo
Cửa trước và cửa sau kiêng kỵ đối diện nhau
Nếu một ngôi nhà có trổ cửa sau, thì cửa này phải đặt so le với cửa
trước để khí lưu thông trong nhà từ trước ra sau dích dắc theo hình chữ S,
như vậy khí tụ trong nhà sẽ lâu. Khi cửa trước sau đối diện sẽ tạo luồng khí
trực xung và khí sẽ nhanh chóng lưu thông, cửa trước sau khi mở đối diện,
tuy gió lưu thông nhưng rất nguy hiếm.
Cửa nhà vệ sinh kiêng kỵ đối diện với cửa lớn vào nhà
Cửa chính của một ngôi nhà là nơi sinh khí của trời đất vào nhà và sinh
khí ấy phải lưu động dích dắc trong lòng nhà, mà không nên xộc vào.
Nếu cửa nhà vệ sinh đối diện với cửa chính thì sinh khí vào cửa chính
sẽ xộc thẳng vào nơi khí uế, âm khí nặng nề, tạo nên sự đối xung với sinh khí
vừa vào nhà qua cửa chính, như vậy giữa uế khí và sinh khí tạo nên thế đối
kháng không tốt.
Cửa bếp kiêng kỵ đối diện với phòng ngủ
Phòng ngủ là nơi để nghỉ ngơi, cần phải luôn tạo cảm giác hài hoà, yên
tĩnh, an toàn, không bị phiền nhiễu bởi nước, lửa. Bếp là nơi thường ngày
dùng lửa, có khói. Nếu cửa bếp đối diện với cửa phòng ngủ thì khi đun nấu sẽ
gây ô nhiễm không khí, khiến người nghỉ ngơi khó chịu.
Đồng thời, nước, lửa trong căn bếp đều tiềm ẩn mối nguy hiểm. Đặc
biệt là khả năng sự cố rò rỉ khí ga và cả khí than bếp. Bởi vậy, cửa bếp và
phòng ngủ phải so le và cách nhau tương đối xa, để tăng độ an toàn.
Cửa phòng nhà kho kiêng kỵ đối diện với cửa phòng ngủ
Phòng chứa đồ là nơi chứa tạp chất. Khi mở cửa phòng chứa đồ, hơi
ẩm mốc đủ loại xộc ra, sẽ tràn thẳng vào cửa phòng ngủ, đó là điều tối kỵ.
Cửa bếp và cửa phòng vệ sinh kiêng kỵ đối diện nhau
Bếp là nơi đun nấu chế biến đồ ăn thức uống, mà phòng vệ sinh là nơi
chứa vi khuẩn và không khí bẩn, nếu hai cửa đối diện nhau sẽ ảnh hưởng tới
vệ sinh, tổn hại sức khỏe.
Kiêng kỵ cửa phòng ngủ và cửa chính đối diện nhau
Cửa phòng ngủ và cửa chính cũng không nên đối diện nhau. Phòng
ngủ là nơi nghỉ ngơi thư giãn, cần phải yên tĩnh, kín đáo, còn cửa chính là nơi
người nhà, khách khứa thường xuyên ra vào, sẽ ảnh hưởng tới sự yên tĩnh
cần thiết. Cửa chính trực xung với cửa phòng ngủ dễ ảnh hưởng tới sức khỏe
người ở.
Kiêng kỵ cửa bếp đối diện cửa chính
Cửa gian bếp không nên đối diện với cửa chính. Gian bếp là nơi tượng
trưng cho sự giàu có của một gia đình theo quan niệm “Dĩ thực vi tiên”, nêu
đối diện với cửa chính thì tài khí sẽ lọt hết ra ngoài.
Kiêng kỵ thế cửa suy
Cửa là bộ mặt, là yết hầu, là tiêu chí thịnh suy của ngôi nhà. Cửa khơi
thông không gian trong với ngoài ngôi nhà, thông qua cửa, trên có thể tiếp
thiên khí, dưới có thể tiếp địa khí, đón lành tránh dữ. Vì thế người ta phân biệt
cửa vượng và cửa suy:
- Kỵ cửa đối diện với cửa quan, cửa ngục, cổng thành vì như vậy thì
cực xấu (đại hung).
- Kỵ đối diện với triều môn (cổng hoàng cung), cổng kho lẫm, vì như
vậy thì không yên ổn.
Không được xây lầu trên cổng (môn lâu), nếu xây môn lâu phải xây
đúng quy cách. Môn lâu sáng giá là môn lâu đem lại điều lành. Môn lâu không
được lệch về bên trái hay bên phải, cũng không được cao quá hoặc thấp quá.
Môn lâu phải lưng quay về hướng Bắc, mặt quay về hướng Nam, nói vậy có
nghĩa là nhà ở phương Khảm thì phương Tốn (Đông Nam) là tốt nhất.
Kiêng kỵ khi bố trí nhà bếp
Trong thuật phong thuỷ cũng có nhiều điều rất đáng lưu ý về việc bố trí
khoảng không gian này.
Trước hết, nhà bếp phải được tránh gió - theo phong thuỷ gọi là “tàng
phong tụ khí”, nghĩa là nên tránh gió để được tụ khí. Nhà bếp mà nhìn thẳng
ra cửa chính hoặc phía sau bếp có cửa sổ là không tốt. Bếp không nên đặt lộ
liễu và rất kỵ đặt ngay cửa chính. Bếp cũng nên đặt tựa vào tường chứ không
nên đặt ngay trước cửa sổ.
Bởi vì những luồng khí từ ngoài sẽ lùa thẳng vào bếp làm mất lửa. Điều
này cũng có cơ sở khoa học, hợp lý bởi nếu bếp đặt ở nơi có nhiều gió sẽ
làm cho lửa bếp không ổn định, khó cháy hoặc thậm chí nguy hiểm do hoả
hoạn.
Thuật phong thuỷ còn khuyên không nên đặt bếp đối diện với nhà vệ
sinh, đó là điểu tối kỵ về mặt an toàn thực phẩm. Nhà bếp cũng không nên đặt
đối diện với cửa phòng ngủ, dù là cách một bức tường. Vì bếp là nơi nóng
nực, nhiều khói và mùi dầu mỡ, nếu để quá gần nơi nghỉ ngơi của con người
sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, quá trình hô hấp.
Ngoài ra, trong bố trí bếp người ta còn kiêng kỵ đặt bếp ngược hướng
nhà (nghĩa là bếp quay lưng về hướng cửa), đặt bếp trên rãnh mương, trên
đường nước hay bể nước vì lửa và nước xung khắc. Cũng cần lưu ý, không
nên đặt bếp nơi có xà ngang đè bên trên và không để góc nhọn chĩa thẳng
vào bếp.
Kiêng kỵ với tường rào
Bản thân mỗi ngôi nhà là một thế giới riêng biệt. Tường rào giới hạn
cho thế giới đó. Tường rào nhà ở không được nứt vỡ, gây cảm giác không an
toàn, không phát huy được vai trò của tường rào.
- Dây leo kỵ bám đầy tường rào. Bởi dây leo dễ có sâu bọ và tăng quá
mức đô ẩm cho ngôi nhà.
- Kỵ trổ cửa sổ lớn trên tường vây, vì như vậy là chu tước khai khẩu, dễ
bị điều tiếng.
- Tường vây kỵ trước rộng sau hẹp.
- Tường vây trước hẹp sau rộng thì gọi là “thoái điền bút”, tiền không
vào nhà.
- Tường vây không được cao quá hoặc thấp quá, cũng không được áp
sát nhà. Góc Đông Bắc của tường vây không được vỡ nứt.
- Kỵ xây tường rào trước, xây nhà sau, nếu không phạm vào nhà chữ
Tù.
- Mái hiên trên tường vây kiêng kỵ rộng quá hai thước, nếu không
người vợ lẽ sẽ nắm quyền trong nhà.
- Hai bên cổng lớn, tường kỵ cao thấp rộng hẹp bằng nhau.
Kiêng kỵ với dòng nước chảy qua nhà
Theo quan niệm phong thủy, nước xung quanh nhà được chia làm sáu
loại:
- Triều thủy - Chảy như thủy triều.
- Hoàn thủy - Chảy vòng tròn như thắt lưng, như cánh cung.
- Hoành thủy - Chảy như hình chữ Nhất, dòng thẳng.
- Tà lưu thủy - Chảy xiên
- Phản phi thủy - Dội ngược lại
- Trực phi thủy - Chảy tuột đi.
Trong đó, ba loại đầu chủ cát, ba loại sau chủ hung. Vì vậy, tốt nhất nên
tránh chọn những mảnh đất có dòng nước chủ hung chảy qua.
Về hướng nước chảy:
- Kỵ dòng nước gần nhà mà cắt trước cửa (cận thủy cát môn), vì ở đây
người không yên ổn.
- Kỵ dòng nước chảy thẳng vào trước cửa (thủy trực xung môn), chủ
mất người.
Về ao trước nhà:
- Ao, hào là nơi cấp thoát nước của nhà ở, kỵ nhà to ao nhỏ, nam cô
độc, nữ chết yểu.
- Kỵ nhà nhỏ ao to, tài bạch lưu tán.
- Ao to trước cửa, không thọ.
- Ao to sau nhà, chết yểu.
- Ao trước tẳng và dài, ao sau hẹp và nhỏ, kẹp giữa ao trước và ao
sau, ao to thôn tính ao nhỏ, ao trên lấn ao dưới, trong nhà có bể nước, giữa
ao có thủy đình, trong ao có núi nhỏ, nước ao như bùn màu vàng, đều thuộc
hung cách (xấu).
- Ao trước nhà kỵ góc nhọn chĩa vào cửa, dễ bị ốm đau.
Về giếng nước:
- Giếng nước là dùng nước mạch ngầm dưới đất.
- Đào giếng, phải đào ở phương sinh vượng, kiêng kỵ phương quan
sát.
- Trên phương vị Địa chi thì nên tránh những điều sau:
+ Phương Càn, Khảm, Sửu, Dần, Thìn, Tỵ, Thân, không nên đào giếng.
+ Phương Nhâm, Cấn, Tỵ, Tân có giếng thì sẽ có cả cát lẫn hung về
các mặt phát tài, quái tật, bị cướp, tuấn tú, quan cao, nhiều con.
- Xây nhà cửa mà lấp nhiều giếng, rãnh thì khó bền.
Về rãnh thoát nước:
- Rãnh (thủy câu) là rãnh ngầm thoát nước từ trong nhà ra ngoài, phải
ngầm chứ không được lộ thiên.
- Đào rãnh thoát nước phải lựa thế đất, đào thường theo phương vị Tý
vòng vèo dẫn ra thì khí không tản mát. Nếu chảy tuột đi thì của cải không gom
góp được. Mở cửa thải nước thì của cải tản đi không ở lại.
- Chỗ thoát nước ở chỗ đối diện với cửa, cũng không giữ được của.
- Nước ở hai bên, phú quý lâu bền.
- Nếu có vài nhà ở liền nhau thì bên ngoài cửa được đào một rãnh
ngang để thoát nước.
Kiêng kỵ trồng dâu trước nhà
Cây cối chính là xiêm áo, không có cây che chở, thì không thể bảo vệ
sinh cơ. Chẳng hạn như nhà nơi thung lũng gió mạnh, không có cây che chở
sẽ không thể chống lại khí lạnh. Nơi thôn dã mà cây cối tươi tốt, chắc chắn
nhà sẽ phát vượng, cây cối xơ xác, nhà suy bại. Cây cỏ tươi tốt sinh khí thịnh
vượng, hộ ấm địa mạch, là phú quý hoàn cục.
Theo Sưu thần ký: Có một người tên là Bão Viên, nhà nghèo lại hay ốm
đau, bèn mời thuật sỹ đến xem bói. Thuật sỹ xem rằng xung quanh nhà ở có
chuyện, vì phía Đông Bắc có một cây dâu lớn. Dân gian kỵ trồng dâu trước
nhà. Tục ngữ có câu: “Trước nhà không trồng dâu, sau nhà không trồng hòe”.
Bởi chữ dâu phát âm là “tang” trùng âm với “tang” trong từ tang lễ. Cây dâu
trước nhà, đọc lên có nghĩa trước cửa có đám tang, hung sát chủ trì chuyện
chết chóc, khóc than...
Cây hợp hướng:
Phía Đông trồng đào, dương...
Phía Nam trồng mai, táo...
Phía Tây trồng thị, du...
Phía Bắc trồng hạnh, lý... sẽ đại cát lợi.
Còn nếu: Đông - hạnh, Tây - đào, Bắc - táo, Nam - lý... sẽ có chuyện tà
dâm.
Cây hợp phương:
Phương Nhâm Tỵ Quý Sửu hợp với trồng dâu, trắc. Phương Dần Giáp
Mão Ất hợp với trồng tùng, bách. Phương Thân Canh Dậu Tần, nên trồng
thạch lựu. Phương Tỵ Thìn Tốn hợp với rừng lớn.
Phương Tuất Càn Hợi hợp với rừng thấp. Những lưu ý khác:
Đào, hạnh trước cửa nhà, trai gái rượu chè bừa bãi. Cửa đối diện với
giữa rừng cây, họa lớn bệnh nặng. Hai cây song đôi trước cửa, súc vật ốm,
người khỏe. Cây một, trơ trụi, mẹ chồng con dâu bất hòa. Cây to cổ quái, khí
thống danh bại.
Rễ cây sưng phồng, đui điếc hôn mê.
Cây to góc tường, lắm chuyện kinh hoàng.
Bên trái có cây, bên phải không cây, lành ít dữ nhiều.
Cây cong như bướu lạc đà, đinh tài đều giảm. Cây ăn quả chỉ tươi tốt
nửa bên trái, mắc đủ thứ bệnh.
Cây như trâu nằm thì lắm bệnh.
Trước cửa có cây chết, mất hết đường tiến thân.
Những lưu ý trên chỉ mang tính tham khảo, trước khi chọn đất làm nhà
tốt nhất bạn nên mời thầy phong thủy về xem cụ thể miếng đất đó.
Kiêng kỵ trống cây to trước nhà
Đa phần nhà ở truyền thống của cha ông ta đều quay về hướng Nam
hoặc Đông Nam, là hướng gió chủ đạo, cây có nhiều lá trồng trước nhà sẽ
cản trở gió lành. Vì thế trước cau sau chuối là khuyến cáo trước nhà chỉ nên
trồng cây cảnh hoặc cây mảnh, dáng cao, lá sáng (cau, dừa cảnh) như một
hàng danh dự đẹp mắt. Sau nhà là những cây lá dày, rậm (như chuối, bàng)
để che bớt gió lạnh phương Bắc và Đông Bắc. Còn chuyện không may mắn
thì chắc chắn là không thể vì một cây to trước cửa, những kiêng kỵ thường
nói quá lên để mọi người trồng cây nên lưu ý (như thẩm mỹ và sự lưu thông
trong ngoài).
Không riêng gì cây to, nếu một miệng cống, trụ điện nằm ngay trước
cửa nhà thì cũng gây nhiều khó chịu về thẩm mỹ và sử dụng hàng ngày. Vì
thế các khu dân cư mới hiện nay luôn bố trí hố ga, gốc cây, cột điện... tại
điểm giữa hai nhà để giảm tác động xấu.
Kiêng kỵ khi kê bàn làm việc
Sẽ rất tai hại nếu bạn kê ghế làm việc quay lưng ra cửa hay cửa sổ.
Việc kê bàn làm việc ngay sát cửa cũng không đem lại điều tốt lành. Nhìn
tổng thế, bàn viết nên đặt nơi ánh sáng đầy đủ, không khí trong lành, thoáng
đãng. Bàn viết nên kê nơi góc phòng, như vậy phía trước bàn sẽ có một
không gian tương đối rộng.
Theo phong thủy học, góc phòng là khu vực sinh khí, khiến con người
ta cảm thấy tấm lòng rộng mở. Bàn viết nên kê xa cửa ra vào một chút, và
chếch hẳn cửa ra vào, để tránh người ngoài vừa bước vào đã nhìn thấy chủ
nhân làm gì. Sau ghế ngồi nên là một bức tường chắc chắn, cho ta cảm giác
vững chãi như được dựa vào núi.
Khi đặt bàn viết, cần chú ý những điều sau:
Cấm kỵ kê bàn ngay dưới xà ngang: Người ngồi viết có cảm giác bị đè
đầu, không thoải mái, ảnh hưởng tới kết quả học tập, làm việc.
Cấm kỵ kê sát đối diện với cửa sổ: Bàn viết vọng không (nhìn ra ngoài
trời) về mặt phong thủy là không phù hợp. Dù bỏ qua yếu tố phong thủy, thì
chỉ riêng về mặt môi trường, nếu kê bàn viết sát với cửa sổ, cảnh sắc bên
ngoài sẽ dễ làm cho người ta phân tâm, mất tập trung. Tuy nhiên, bạn có thể
kê bàn viết hơi lệch khỏi cửa sổ.
Kiêng kỵ kê đối diện với gian bếp, đối diện hoặc tựa lưng vào tường
phòng ngủ, phòng vệ sinh: Tại vị trí này, khí uế từ nhà vệ sinh cũng như mùi
khói, dầu nấu nướng từ gian bếp xộc thẳng vào, sẽ ảnh hưởng đến cả về thể
chất lẫn tinh thần người ngồi viết.
Kiêng kỵ kê sát cửa phòng: Nếu bàn viết kê sát cửa hoặc quay lưng sát
cửa, khiến người ra vào và tiếng ồn từ ngoài làm người ngồi viết không an
tâm.
Kiêng kỵ ghế ngồi quay lưng ra cửa: Phía sau là khoảng không gian
rộng lớn, người ngồi cảm thấy chông chếnh, vả lại, cửa lớn là miệng nạp khí
của cả ngôi nhà, có thể là sinh khí và cũng có thể là khí ô uế. Cảm giác trống
trải phía sau khiến ta có cảm giác không an toàn.
Người ngồi quay lưng trực tiếp ra cửa sổ: cửa sổ lắp kính là kiến trúc
phổ biến hiện nay. Cách kê này sẽ khiến người ngồi rơi vào tình thế sau lưng
không điểm tựa, điều đại kỵ theo phong thuỷ
Những điều kiêng kỵ và cách hóa giải khi đặt giường ngủ
Giấc ngủ có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con người, chính vì
vậy phong thuỷ của giường ngủ được dân gian đặc biệt quan tâm. Khi đặt
giường ngủ có rất nhiều điều kiêng kỵ cần phải né tránh.
Đầu giường không nên để xà ngang ép đỉnh
Đầu giường có xà ngang ép đỉnh gọi là Huyền trâm sát sẽ không có lợi
cho sức khỏe của gia chủ. Có ba biện pháp hoá giải như sau:
- Tránh: Đây là biện pháp tốt nhất bằng cách xê dịch đầu giường để
tránh xà ngang, làm như vậy đã hóa giải được vị trí không gian ở đầu giường.
Ngoài ra, ở đầu giường có thể đặt tủ, giá sách hay giá để dụng cụ để lấp vào,
như vậy tránh cho đầu giường không trống trải hơn nữa có thể tiết kiệm được
không gian.
- Che: Nếu diện tích căn phòng nhỏ hẹp hoặc vì nguyên nhân nào khác
mà không tránh được thì có thể dùng phương pháp che bằng cách dùng tấm
trần giả để che xà ngang. Làm như vậy sẽ bớt được áp lực về tâm lý.
- Ngăn: Nếu sử dụng biện pháp che mà gia chủ vẫn không an tâm thì
có thể đổi giường thành giường hai tầng, tầng trên để chăn đệm còn tầng
dưới để ngủ. Làm như vậy, chăn đệm ở tầng trên sẽ thay thế cho người chịu
đựng những thiệt hại do xà ngang ép xuống.
Đầu giường kiêng kỵ kê đối diện với cửa phòng
Xét về phong thuỷ học, đầu giường đối diện với cửa phòng là không tốt
lành, bởi vì hiện tượng này sẽ dẫn tới sự suy sụp về sức khỏe và công danh
của gia chủ.
Trong trường hợp này gia chủ nên xê dịch giường ngủ, không để
giường ngủ và cửa phòng tạo thành một đường thẳng. Nếu giường ngủ
không thể xê dịch được thì hãy xoay lại để ngủ cũng là một cách hóa giải.
Đầu giường kiêng kỵ kê quá sát vào cửa sổ
Nếu đầu giường kê quá sát vào cửa sổ thì sẽ không tốt. Không xét về
phong thủy học chỉ nói về môi trường sống, đầu giường kê sát vào cửa sổ khi
nắng ánh mặt trời chiếu thẳng vào đầu giường, khi mưa nước mưa bắn qua
cửa sổ sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ của người trong phòng. Để đảm bảo sức
khỏe và gia cư an toàn, không nên kê đầu giường vào sát cửa sổ.
Đầu giường kiêng kỵ chiếu thẳng vào gương
Trong phong thủy, gương dùng để ngăn sát, tác dụng phản xạ trở lại
sát khí xông thẳng vào cho nên (dù không phải là gương Bát quái hay gương
cửa) cũng không nên để chiếu trực tiếp vào giường ngủ.
Nếu để gương chiếu trực tiếp vào đầu giường thường sẽ bị giật mình
ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ dẫn tới hiện tượng mất ngủ, đau tim,
tinh thần phân tán. Tốt nhất, nên treo gương ở phía trong cánh tủ quần áo để
không làm ảnh hưởng đến sức khỏe.
Đầu giường kiêng kỵ kê sát nhà vệ sinh
Đầu giường không nên kê sát vào nhà vệ sinh vì nhà vệ sinh là nơi
không sạch sẽ. Phương pháp hoá giải tốt nhất là kê đầu giường ra chỗ khác,
không để đầu giường chiếu thắng vào cửa phòng nhà này.
Đầu giường kiêng kỵ chiếu thẳng vào bếp đun
Trước phòng ngủ có bếp đun không có lợi cho sức khỏe vì lửa bếp
cháy tỏa ra nhiệt độ cao, khói mỡ khi xào nấu xông vào rất không tốt với sức
khỏe của con người, có thể sẽ sinh ra các chứng bệnh đau tim
Giường ngủ kiêng kỵ kê sát vào bếp đun
Bếp đun là nơi nấu thức ăn, rất nóng bức vì thế mặc dù có tường, vách
ngăn cách thì đầu giường cũng không nên kê sát vào bếp đun. Tốt nhất nên
kê giường ra một chỗ khác của phòng ngủ, làm như thế có thể hóa giải được
nhiều tai nạn và bệnh tật.
Kiêng kỵ để “lộ không’’’ nơi đầu giường
Đầu giường không nên lộ không, điều đó có nghĩa là đầu giường không
kê sát vào tường, không có chỗ dựa, không có chỗ che chở, vì như thế hung
nhiều cát ít. Nếu đầu giường không kê sát vào tường được thì cuối giường
nên kê sát vào tường, còn nếu không có thế đặt kệ tủ sát đầu giường, cạnh
vách tường cũng là một cách hóa giải.
Giường ngủ kiêng kỵ chiếu thẳng vào ống khói
Phong thuỷ học cho rằng, ống khói làm cho chủ nhân khó sinh nở, vì
thế giường ngủ không nên chiếu thắng vào ống khói. Nếu xảy ra trường hợp
trên thì phải kê giường ngủ ra chỗ khác để khi ngủ trên giường không nhìn
thấy ống khói. Ngoài ra có thể dùng rèm để che cửa sổ tránh nhìn thấy ống
khói là được.
Giường ngủ kiêng kỵ cầu thang ép đỉnh
Giường ngủ đặt ở dưới chân cầu thang mặc dù là cầu thang ở bên
ngoài phòng cũng không nên. Không xét về phong thủy học, mà xét về mặt
bước chân đi lên xuống cầu thang cũng làm mất ngủ, gây bất an.
Kiêng kỵ khi bài trí các phòng
Ai cũng muốn ngôi nhà mình ở mang lại may mắn, tránh bất trắc.
Những người ít nhiều tìm hiểu về phong thủy, có thể không sâu, nhưng cũng
biết hướng nào là tốt cho căn nhà, hay nên đặt đồ đạc thế nào cho phù hợp.
Đã khi nào bạn đặt ra câu hỏi rằng: Liệu chúng ta có phạm điều cấm kỵ gì
không khi bài trí một không gian nào đó trong căn nhà mình? Dưới đây sẽ
cung cấp cho các bạn một số thông tin.
Đối với các ngôi nhà lớn, số gian thường lấy là 5, 6, 7, 9 là tốt; với
những nhà gian riêng biệt thì cứ có tường cách ta tính là một gian.
Phòng khách
Phòng khách đặt ở vị trí giữa nhà là lý tưởng nhất, kiêng kỵ trên trần có
dầm ngang. Phương vị phòng khách có quan hệ mật thiết đến sự hưng suy
của cả nhà, đó là tài vận, sự nghiệp, danh vọng, quý nhân... cho nên cần chú
ý đến cửa nhà và góc đối diện với cửa vào phòng khách.
Cửa phòng khách tuyệt đối không được ở trên cùng một đường thẳng
với cửa bếp hay cửa nhà vệ sinh.
Của cải không nên động cho nên tài vị cần ở phương không động. Nơi
đó nên đặt những bồn cây cảnh giúp cho tài vật được dồi dào, ưu tiên những
loại cây có lá tròn, to. Nếu đặt những bình nước thì độ cao phải cao hơn 1
nửa chiều cao của phòng, trong đó có thể trồng cây vạn niên thanh hay hải
đường, kỵ nhất là cây lá nhỏ, lá kim, không nên đặt đỗ quyên.
Đèn treo của phòng khách tốt nhất là hình tròn. Salon và tivi nên đặt ở
phía Đông, hướng Tây không nên bày biện nhiều đồ đạc rườm rà. Nếu phòng
khách quá rộng thì nên chia làm 2 phòng bằng các vách ngăn.
Phòng ngủ của chủ nhà
Phòng này nên đặt ở phía Đông hoặc trung tâm của ngôi nhà, cửa vào
phòng nên mở lệch về phía bên trái. Kỵ cửa lớn của nhà và cửa này nằm trên
cùng một đường thẳng, kỵ đối diện với phòng bếp, cửa phòng vệ sinh và nhà
kho, tốt nhất là ở xa bếp và ở phía Tây Nam.
Phòng người già
Nên đặt ở phía Đông Nam, giường hướng về phía Nam, đầu giường ở
phía Nam.
Nhà bếp
Nên ở hướng Đông, tốt nhất là phòng hình vuông, kỵ hình tam giác.
Không nên đặt bếp ở hướng Tây Nam. Đứng ngoài cửa mà nhìn thấy bếp lò
trong bếp là đại kỵ.
Nhà vệ sinh
Kiêng kỵ lớn nhất là đặt phòng vệ sinh ở trung tâm của nhà ở hoặc ở
phía Bắc. Cửa nhà vệ sinh không nên đối diện với cửa chính hoặc cửa phòng
ở. Nên đặt ở hướng Đông hơi xế Bắc hoặc Tây thì tốt.
Kiêng kỵ đối với ban công
Ban công là nơi giao hòa giữa thiên nhiên và con người nên cần đặc
biệt chú ý đến những yếu tố cấm kỵ để có một ngôi nhà đẹp và hợp phong
thủy.
- Kiêng kỵ ban công ở vị trí có con đường đối diện chọc thẳng vào nhà.
Nếu đặt ban công ở vị trí này, theo phong thuỷ, sẽ có một luồng khí
mạnh xông thẳng vào nhà. Điều này sẽ làm mất đi những vận khí tốt trong gia
đình và khiến cho những người sống trong nhà hay bị bệnh tật, ốm đau.
- Kiêng kỵ ban công đối diện trực tiếp với các góc nhọn.
Theo quan niệm truyền thống của ngươi Trung Quốc, họ thích những
hình tròn viên mãn, còn các góc cạnh nhọn mang lại nhiều điều không tốt.
Góc nhọn đâm thẳng vào ban công nhà với khoảng cách càng gần hoặc càng
nhọn thì càng bất lợi cho vận khí của ngôi nhà..
- Kiêng kỵ ban công đối diện với những con đường ngoằn ngoèo gấp
khúc.
Rất nhiều gia đình hiện nay có ban công đối diện với những con đường
lúc cong lúc thẳng. Khi nhìn từ ban công ra sẽ thấy rõ những đoạn gấp khúc.
Điều này sẽ không tốt cho phong thủy ở ban công bởi những con đường
ngoằn ngoèo đó sẽ làm giảm dòng khí tốt khi chúng đang chạy vào nhà bạn.
- Kiêng kỵ ban công đối diện với cửa ra vào (cửa chính ở phòng khách)
và nhà bếp.
Nếu ban công ở vị trí như vậy thì chúng ta có thể sử dụng rèm cửa để
ngăn cách. Hoặc cũng có thể sử dụng phòng phụ để ngăn giữa hai không
gian ban công và phòng khách. Ngoài ra có thể xử lý bằng cách ở cửa ra vào
đặt một bể cá hay một chậu cây.
Hầu hết cách bố trí ban công của các gia đình hiện nay đều có thể
phạm vào một trong những điều cấm kỵ trên. Tuy nhiên, chúng ta có thể hoá
giải những điều đó bằng cách đặt giỏ hay chậu hoa quanh ban công để ngăn
với bên ngoài, hoặc có thể đặt chuông gió, bể cá để làm giảm lượng khí xấu.
Kiêng kỵ đối với sân phơi
Trong ngôi nhà xưa nay, chỗ giặt và phơi quần áo không phải là không
gian chính, nhưng nếu sắp xếp bất hợp lý sẽ dẫn đến thiếu tiện dụng và ảnh
hưởng xấu sang các không gian khác. Tương tự như khu vệ sinh hay chỗ tập
thể dục, nơi giặt và phơi đồ trong nhà... đòi hỏi các yêu cầu đặc trưng riêng
về phong thủy.
Vị trí và phương hướng
Nếu kết hợp được chỗ giặt cùng với sân phơi sẽ giúp không phải di
chuyển nhiều, đồng thời dùng nguyên lý “tọa hung” (đối với khu bếp hay khu
vệ sinh cũng vậy) sẽ khá hữu hiệu về phong thủy. Những hướng xấu, hướng
ít giao tiếp thường bố trí sân phơi và chỗ giặt, tất nhiên là có che chắn hợp lý
để không làm hỏng máy giặt hoặc nắng gắt làm hại quần áo.
Tốt nhất là dựng thành phòng giặt (dù nhỏ) và sân phơi có mái, chung
quanh là khung lưới để tránh mưa nắng trực tiếp, đồng thời có thể ngăn đồ
đạc không bị thất lạc. Ngoài ra, nên dự phòng một phần diện tích phơi đồ để
vào mùa mưa bão kết hợp làm nơi ủi đồ.
Nơi giặt và phơi đồ cũng phải đặt khuất tầm nhìn từ ngoài vào, với nhà
1 tầng thường ở giếng trời (phía sau), còn nhà mái bằng thì dùng sân thượng
là hợp lý. Tuy nhiên, cần chú ý sân phơi nên đặt về phần sân phía sau của
nhà để vừa tránh lộ ra mặt tiền thiếu thẩm mỹ, vừa không phải mang quần áo
qua lại phòng thờ (thường hay hướng ra trước).
Kỵ treo y phục trước minh đường (khoảng trống thoáng đãng, sáng sủa
trước mỗi nhà) và nơi trang nghiêm. Các hướng Đông, Đông Bắc, Bắc và Tây
Bắc là hướng có trường khí thuộc dương, phù hợp để bố trí chỗ giặt - phơi.
Tùy theo nhà, đây cũng là những hướng đón nhiều nắng sáng hoặc nắng
chiều.
Khi đặt nơi giặt phơi tại tầng 1 cũng cần phải lát gạch - tạo dốc tốt,
tránh để sân lộ đất vì Thổ khắc Thủy, đã ẩm lại ẩm thêm. Riêng với bếp, khu
vực mang tính Hỏa, mà Thủy khắc Hỏa, do đó không nên bố trí chỗ giặt - phơi
trong hoặc bên cạnh bếp.
Nơi giặt giũ là chỗ có lượng nước sử dụng thuộc loại nhiều nhất trong
nhà, do đó đây là chỗ cần chú ý cấp thoát nước đầy đủ. Có nước nhiều
nhưng tính chất lại khác biệt nhà tắm hay nhà vệ sinh, người làm việc có thể
ngồi lâu (nếu giặt tay), do đó không nên đặt chung khu giặt giũ với khu vệ
sinh, sẽ khá bất tiện lúc sử dụng. Cũng cần làm miệng thu thoát nước riêng
và bố trí sàn âm để hạn chế nước chảy tràn lan ra sân.
Nơi giặt giũ nhiều nước luân chuyển nên tính âm cao, nếu lại đặt trong
môi trương âm nữa thì sẽ “âm thịnh dương suy”, không khí ẩm ướt, quần áo
khó khô ráo, sạch sẽ, có nhiều nước xả cũng dễ gây trơn trượt. Vì thế, tốt
nhất là nên đặt khu giặt và phơi tại chỗ có nhiều ánh sáng (dương quang)
chiếu vào để vừa cân bằng âm dương, vừa khô ráo, dễ dàng đi lại thao tác và
giúp bạn thoải mái bước vào không gian này.
Những điều đại kỵ với nhà ở
Nếu cửa sổ mở ra ban công hoặc bên ngoài có ánh nắng chiếu vào
chính diện với bếp hoặc thẳng ra cửa đi lại chính, có thể dùng rèm cửa che
chắn thường xuyên liên tục.
- Cửa ra vào chính đối với với chỗ ra ban công sẽ phạm phải “Xuyên
tâm sát”, trong nhà tiền bạc khó mà tích tụ, tất có việc phải phá tài.
Phương pháp hóa giải: Đặt một huyền quan chắn giữa cửa lớn và cửa
thông ra ban công, tại cửa lớn bố trí một bể cá (hoặc dùng bình phong).
Có thể bố trí cửa ra ban công thành cửa sổ, hoặc tốt hơn là treo rèm,
nếu không ở ban công có thể đặt nhiều chậu cây cảnh để hãm bớt luồng khí
xung xạ, hoặc trồng loại cây leo giàn.
- Ban công cũng không thể đối diện trực tiếp với phòng bếp, đây cũng
có thể coi là một loại xuyên tâm, làm cho khả năng đoàn kết nhất trí trong nhà
yếu, khiến cho gia đình khó hòa thuận, hạnh phúc.
Phương pháp hóa giải: Nên đặt chậu hoa hoặc trồng cây leo ngăn cách
cốt sao cho trong ngoài không thông nhau để hóa giải.
- Nếu là cửa đi thì dùng rèm che, cũng có thể đặt huyền quan ngăn
cách nhưng phải làm sao cho không ảnh hưởng đến sự đi lại, chỉ cần chỗ ban
công không thông thẳng với bếp là được.
- Nếu như trên trần nhà đặt loa phát âm thanh lâu dài, hoặc trên xà nhà
hay phát tiếng cót két, có thể coi như một lực lượng xung sát từ trên trần; nếu
âm thanh đó ngay trên giường ngủ thì người nằm dưới giường đó lâu dài sẽ
phát sinh bệnh tật.
Phương pháp hóa giải: Tốt nhất nên đặt giường ngủ cách xa chỗ đó,
hoặc giải quyết dứt điểm không cho phát âm thanh là tốt nhất.
- Nếu trong mệnh kỵ Thủy, trong nhà tất không nên bày bể cá, nếu chỉ
biết rằng bày bể cá để tụ tài, mà không biết hỷ kỵ của chủ nhà thì tốt nhất là
nên nhờ thầy phong thủy xem giúp.
Phương pháp hóa giải: Nên nhờ thầy phong thủy hoặc các chuyên gia
phong thủy phân tích tứ trụ của chủ nhà để xem hỷ kỵ ra sao, từ đó rút ra các
vật phẩm có tính chất kỵ với chủ nhà.
- Mái che (thường ở sân trước nhà) nên làm thành hình vòng cung,
tránh làm thành mũi nhọn; nếu không sẽ bất lợi cho chủ nhà, đặc biệt về sức
khỏe.
Phương pháp hóa giải: Không nên dùng mái che mưa, nhưng nhất định
phải làm thì nên làm hình vòm, không được làm hình nhọn.
- Bếp lò không thể đặt đối diện với cửa nhà, cửa ra ban công, cửa
phòng bếp, cửa phòng, vì như vậy sẽ dẫn đến sức khỏe không tốt và các việc
không may mắn khác.
Phương pháp hóa giải: Có thể tại cửa bếp dùng rèm hoặc bình phong
che đi.
- Trong nhà không nên tùy ý đặt gương kính, vì như vậy dễ tự mình phá
vỡ khí trường trong nhà.
Có lúc do muốn mở rộng diện tích trong nhà mà đặt kính gương, tuy
nhiên nếu là phòng ngủ thì tuyệt đối không được đặt kính, làm cho khí trường
bị phản xạ hỗn loạn.
Phương pháp hóa giải: Nếu bắt buộc phải đặt gương chỉ nên treo một
bên tường, nhất định không nên treo cả hai bên, đặc biệt là đối diện nhau, sẽ
tạo thành phản xạ.
- Trong nhà sử dụng cây cối, chậu cảnh nên thận trọng lựa chọn.
Không nên chọn lựa loại cây có lá dài nhọn, dễ làm cho chủ nhân vướng vào
các chuyện cãi cọ, tranh chấp.
Các loại cây thuộc họ quyết và cát đằng là các loại cây không nên
chọn, đây là các loại cây âm tính, nếu nó tốt tươi tất trong nhà có việc hung.
Phương pháp hóa giải: Nên chọn các loại cây có lá bản to rộng, hoặc
các loại hoa có sức sống khỏe.
- Nhà vệ sinh tuyệt đối không được ở giữa nhà, đây là điều rất quan
trọng, bởi vì trung cung là khí tổng quản cả chín cung trong nhà nên nếu để
nó ô nhiễm thì tất là tài vận và sức khỏe của người trong nhà đều không tốt.
Phương pháp hóa giải: Nếu như kiến trúc đã chọn phạm vào điều này
thì tốt nhất nên sửa đổi, còn nếu không thể sửa thì nên dọn sạch sẽ chỗ đó,
bồn tắm cũng cần cọ rửa sạch sẽ thường xuyên.
- Ngoài các kiến trúc bên trong thì kiến trúc bên ngoài cũng rất quan
trọng. Có người tại mặt ngoài nhà ở xây, đặt một vật nhô lên như đầu người,
đây là điều đại kỵ. Đây là hình tượng không tốt, nên tránh.
Phương pháp hóa giải: Nếu không phải là đặc biệt cần thiết thì không
nên tạo dựng các hình tượng như vậy, còn nếu bắt buộc thì nên tham khảo ý
kiến các chuyên gia.
Người kinh doanh kiêng kỵ ở những căn nhà có vị trí thụt vào
Không ít những ngôi nhà do thiết kế quá cầu kỳ, nhìn từ phía ngoài phải
có nhiều phần thụt thò. Nhô ra thì không thành vấn đề nhưng nếu thụt vào thì
nên tránh.
Mặc dù chỉ là một nhà kinh doanh nhỏ, nếu như nhà ở có vị trí thụt vào
thì kinh doanh sẽ không gặp được thuận lợi. Vậy thì vị trí nhà thụt vào sẽ gặp
những bất lợi ra sao?
Hướng Bắc thụt vào, có thể bị chính người giúp việc của mình không
hợp tác, cũng là một những nguyên nhân dẫn tới kinh doanh thất bại.
Phía Đông có thụt vào thì lại quá coi trọng bản thân mà vội vàng thay
đổi ý kiến hoặc phán đoán sai lầm.
Phía Tây và Tây Bắc thụt vào thì vấn đề tiền vốn là điều không thuận
lợi, bị người tín nhiệm phản lại sau lưng, vì thế mà sự nghiệp có thể gặp
nhiều khó khăn.
Những hướng này thụt vào hoặc trùng với 12 sao chiếu mệnh hoặc sao
Cửu tinh chiếu mệnh thì tai họa sẽ càng lớn hơn.
Chương 5. KIÊNG KỴ TRONG NGÀY TẾT
Kiêng kỵ quét nhà vào ba ngày tết
Dân gian cho rằng, nếu quét nhà vào 3 ngày đầu năm thì cả năm đó gia
đình sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Hoặc cũng có thể quét nhà nhưng quét gọn
rác vài một góc nhà chứ không hốt đi.
Tập tục này xuất phát từ truyền thuyết kể rằng, ngày xưa ở Trung Hoa
có một lái buôn thật thà tên là Âu Minh, khi đi qua hồ Thanh Thảo ông được
Thủy Thần thương ban cho một người hầu tên là Như Nguyệt. Từ ngày
thương gia này đem Như Nguyệt về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ vài
năm mà trở nên giàu có.
Một hôm Như Nguyệt phạm lỗi, Âu Minh không kiềm được cơn giận đã
ra tay đánh cậu bé. Như Nguyệt hoảng sợ trốn vào đống rác và sau đó biến
mất tăm. Từ ngày đó, Âu Minh làm ăn sa sút, buôn bán không được nên
nghèo kiết xác. Dân làng bàn tán xôn xao cho rằng Như Nguyệt là một vị thần
đã mang lại sự giàu có, hưng thịnh mà nhà Âu không biết quý trọng. Từ đó,
dân gian đã lập bàn thờ Như Nguyệt và đặt tên là Thần Tài với hy vọng vị
thần này sẽ độ trì cho gia đình được nhiều tài lộc.
Cũng xuất phát từ truyền thuyết này mà tết đến, nhân dân có tục kiêng
kỵ hốt rác trong ba ngày đầu năm vì sợ hốt mất Thần Tài ẩn trong đống rác
đổ đi thì cả năm đó làm ăn sẽ thất bát. Vì thế từ trước đó cho đến đêm giao
thừa, dù bận rộn đến đâu mọi người cũng phải dọn dẹp nhà cửa, sân vườn,
đồng thời ý tứ giữ gìn nhà cửa không vứt rác bừa bãi.
Riêng ở Nam bộ người ta còn cho rằng sau khi quét dọn phải cất hết
chổi, bởi nếu trong ngày Tết bị mất chổi là điềm gở, cả năm đó nhà sẽ bị trộm
vào vét sạch của cải.
Kiêng kỵ làm tang trong ngày mùng 1 tết
Tết Nguyên đán được gọi là “Tết cả”, là ngày vui nhất của một năm, có
ý nghĩa rất thiêng liêng, mở đầu cho một vận hội mới của đất trời, của con
người và cả dân tộc. Vì thế dù gia đình có tang cũng phải tạm gác chuyện
hậu sự cho người thân để đón tết trước hòng tránh cả năm gặp phải rủi ro,
tang tóc, buồn phiền.
Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng chạp mà gia
đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó. Đa số các
gia đình kiêng kỵ để sang ngày mùng một đầu năm mới phát tang hay chôn
cất. Còn nếu qua đời đúng mùng một tết thì việc phát tang sẽ phải lui lại
nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng hai làm lễ phát tang.
Kiêng kỵ cho nước, cho lửa
Người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình. Vì quan niệm lửa là
đỏ, là may mắn, cho người khác cái may trong ngày mùng một tết thì cả năm
đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều xui rủi như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng
củng, ra đương hay gặp tai vạ.
Ngoài ra, dân gian cũng kiêng kỵ cho nước đầu năm vì nước được ví
như nguồn tài lộc, nguồn tài nguyên cho gia đình. Nếu cho nước thì sẽ bị mất
lộc.
Bởi quan niệm này nên ngay từ những ngày cuối năm, dân gian luôn
chủ động trữ nước đầy ắp lu vại, lửa luôn hồng trong bếp để tránh phải đi xin
mấy ngày đầu năm.
Ngày thường, hàng xóm với nhau có thể chạy sang xin chút mồi lửa về
nhóm bếp. Tục ngữ có câu “hàng xóm tắt lửa, tối đèn có nhau” là vì thế.
Nhưng ngày tết thì tuyệt đối không có chuyện đi xin lửa hoặc cho lửa. Người
ta quan niệm ngọn lửa là vị thần linh thiêng, gìn giữ sự ấm áp, no đủ trong
mỗi nhà. Ngày tết, khách đến chơi chúc tết gia chủ, việc đầu tiên là đi thẳng
vào bàn thờ gia tiên thắp nén hương - điều này gọi là mừng tuổi ông bà, sau
đó mới trở ra uống nước, nói chuyện và chúc tết gia chủ. Trên bàn thờ gia
tiên luôn thắp sẵn nến hoặc ngọn đèn con đỏ lửa trong ba (hoặc bảy) ngày
tết. Khách thắp hương bằng ngọn lửa ấy nhưng phải khéo léo không được
làm tắt ngọn lửa. Nếu làm tắt có thể sẽ bị xem là đã mang đến cho gia chủ
những điều xui xẻo trong năm.
Kiêng kỵ nói những điều xui xẻo
Kiêng kỵ nói giông: Ngày đầu năm, dân gian hết sức tránh những ngôn
ngữ, hành động có thể đem lại sự không may, còn gọi là nói giông hoặc nói
điều xui xẻo như: “Chết rồi!”, “Tiêu rồi!”...
Ngày tết, người ta cố gắng giữ mình, từ lời nói cho đến hành động, làm
gì cũng phải cẩn thận, không để đổ vỡ ly, tách, gương...không để quên đồ
(mũ, khăn, dù...) ở nhà người khác; không cho vay, mượn... khi nói, người ta
tránh nói đến những điều xui xẻo vì sợ cả năm sẽ theo đó gặp toàn những
điều không may. Ai cũng tìm những câu chúc tốt đẹp để chúc nhau, làm hài
lòng nhau trong những ngày tết.
Những tục kiêng kỵ trong ngày tết có thể là quan niệm, cách nghĩ mang
màu sắc mê tín nhưng nhìn chung đều mong muốn hướng tới những điều tốt
đẹp, an lành trong những ngày tết và trong năm. Tuy nhỏ, nhưng nếu không
để ý, không hành xử đúng có thể làm mất đi hòa khí giữa khách và gia chủ,
tết vì thế mà sẽ kém vui...
Kiêng kỵ vay mượn, trả nợ ngày đầu năm
Người xưa dạy, không nên vay hoặc cho tiền bạc, đồ đạc vào những
ngày đầu năm mới vì sẽ khiến gia đình rơi vào cảnh túng thiếu cả năm. Điều
kiêng kỵ này xuất phát từ quan niệm ngày đầu xuân con người mở cửa để
đón lộc vào nhà, còn nếu cho mượn hoặc trả sẽ giống như dâng tài lộc vào
tay kẻ khác.
Kiêng kỵ trong việc xống đất
Theo quan niệm dân gian, sáng sớm ngày mùng một tết, vía của người
đến nhà mình đầu tiên (gọi là người xông đất) sẽ ảnh hưởng đến phúc họa
của gia đình trong cả năm đó.
Vì vậy mà dân gian ta có những kiêng kỵ trong việc xông đất như sau:
- Sáng mùng một tết kiêng kỵ vào nhà người khác khi nhà đó chưa có
người xông đất (xông nhà).
- Kiêng kỵ những người như sau đến xông đất nhà mình:
+ Người bủn xỉn, keo kiệt, vía dữ.
+ Người đang có tang.
+ Ngưòi có tuổi xung với tuổi chủ nhà.
Người trong năm gặp nạn cháy nhà, mất của, tai nạn, kiện tụng, làm ăn
thất bại...
+ Người có cha mẹ không song toàn.
+ Người mà gia đình, vợ chồng bất hòa, sinh con một bề.
+ Đàn bà, con gái.
Kiêng kỵ đi chúc tết vào sáng mùng một
Xuất phát từ phong tục xông nhà xông, xông đất đầu năm, người đầu
tiên bước vào nhà ai trong ngày mùng một tết chính là người quyết định đem
lại sự may mắn hoặc xui xẻo cho gia đình ấy trong cả năm. Vì thế người ta
nên tránh đi chúc tết vào sáng mùng một nếu không được gia chủ mời vì sợ
sẽ mang đến điều không tốt đẹp cho gia đình đó.
Kiêng kỵ giặt giũ vào mùng một và mùng hai tết
Vì ngày sinh của Thủy thần là ngày 1, 2 tháng giêng âm lịch, do đó nên
tránh giặt quần áo trong hai ngày này để phòng xui xẻo.
Kiêng kỵ chụp hình hoặc chúc tết người đang nằm ngủ
Bởi đây là tư thế của người chết, người bệnh, nên chụp hình hoặc chúc
Tết lúc này không khác gì rủa họ bệnh tật, chết chóc cả năm. Ngoại trừ
trường hợp nằm để tạo dáng chụp ảnh.
Kiêng kỵ xuất hành ngày mùng 5
Người Việt thường tin rằng mùng 5 là ngày nguyệt kỵ, không thích hợp
cho xuất hành. Chẳng vậy mà ca dao Việt Nam có câu: “Mồng năm, mươi
bốn, hăm ba. Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn”.
Tục kiêng kỵ không để cối xay gạo trống vào những ngày đầu năm
Điều này tượng trưng cho việc thất bát, mất mùa năm tới. Chính vì vậy,
người ta thường đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ ý cầu mong năm mới lúa gạo
đầy tràn.
Ngày tết có lệ ai đến nhà, bất kể giờ giấc nào, gia chủ cũng dọn cỗ, mời
uống rượu, ăn bánh. Khách không được từ chối, dù no cũng phải nhấm nháp
chút ít. Đi đâu xa cũng phải về nhà trước giờ giao thừa. Ai không về kịp xem
như cả năm sau người ấy phải bôn ba vì công việc làm ăn. Sau khi quét dọn
phải cất hết chổi. Nếu trong ngày tết để mất chổi nghĩa là năm đó gia đình sẽ
bị trộm vét sạch của. Người Nam bộ có thói quen mời những người có tên
đẹp như Phúc, Lộc, Thọ, Tài, Lợi, Phú, Quý đến xông nhà để cả năm được
thuận lợi. Trước khi bước sang năm mới, ở nông thôn, nhà nào cũng đổ đầy
nước vào bể, chum, vại. Người ta tin rằng, trong năm mới của cải sẽ nhiều
như nước. Dù ở bất cứ vùng miền nào, vài tục kiêng kỵ còn được lưu truyền
lại sẽ tạo nên màu sắc đa dạng cho ngày tết. Tuy nhiên, những tập tục quá
mê tín cần phải loại trừ.
Kiêng kỵ ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt, chuối
Đây đều là những thực phẩm mà tên gọi của nó gắn liền với những
điều không may.
Kiêng kỵ làm vỡ đồ đạc
Vỡ bát đĩa, ấm chén hoặc cãi nhau, chửi tục, khóc lóc, buồn tủi, nói
điều xui rủi sẽ khiến gia đình bất hòa, chia rẽ.
Kiêng kỵ mặc quần áo màu đen (hoặc trắng)
Theo quan niệm của người xưa, màu đen và trắng là màu của tang lễ,
chết chóc. Thay vào đó nên mặc đồ màu hồng, đỏ, vàng, xanh... tạo nên sự
phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới.
Kiêng kỵ treo tranh ảnh có nội dung tiêu cực
Không treo tranh khóc lóc, đánh ghen, tai nạn... trong ngày tết. Ngược
lại nên dùng những bức tranh thể hiện sự may mắn, sung túc như đàn lợn,
gà, em bé, vàng bạc...
Kiêng kỵ mở tủ
Một số gia đình kiêng kỵ mở tủ vào ngày mùng một tết do tin rằng mở
tủ lấy tài sản tức là tống tiễn tài lộc ra khỏi nhà. Do vậy, người lớn thường
nhắc trẻ con cần lấy sẵn đồ đạc, quần áo diện ngày đầu năm ra ngoài trước
lúc giao thừa.
Kiêng kỵ xõa tóc
Ở vùng quê Việt Nam và một số gia đình gốc Hoa, người ta kỵ việc xõa
tóc của các thiếu nữ vào ngày tết. Họ cho rằng tóc xõa rũ rượi gợi lên liên
tưởng đến những hình ảnh ma quái, cõi âm. Vì vậy, tốt nhất, vào những ngày
này, phụ nữ nên chọn các kiểu tóc buộc, tết, kẹp gọn gàng khi ra đường. Tuy
nhiên theo ghi nhận của Tiến sĩ Nguyễn Đệ, tập tục này không phổ biến lắm.
Miền Trung kiêng kỵ trong ngày tết
Một số nơi ở miền Trung, người ta không ăn tôm vì sợ công việc sang
năm sẽ lùi chứ không thể tiến tới... đi giật lùi như tôm.
Kiêng kỵ ăn một số món: Người dân miền Trung có tục kiêng kỵ ăn
trứng vịt lộn, thịt vịt trong ngày tết và cả tháng đầu năm. Người ta cho rằng ăn
thịt vịt sẽ gặp xui xẻo.
Kiêng kỵ mua quần áo màu trắng, vải trắng suốt tháng Giêng Âm lịch.
Miền Nam kiêng kỵ trong ngày tết
Ở miền Nam, khách không được từ chối bữa ăn khi gia chủ mời, dù no
cũng phải nhấm nháp chút ít.
Ở một số vùng quê Nam bộ còn có tục kiêng kỵ không để cối xay gạo
trống vào những ngày đầu năm. Điều này tượng trưng cho việc thất bát, mất
mùa năm tới. Chính vì vậy, người ta thường đổ một ít lúa vào cối xay, ngụ ý
cầu mong năm mới lúa gạo đầy tràn.
Đi đâu xa cũng phải về nhà trước giờ Giao thừa. Ai không về kịp xem
như cả năm sau người ấy phải bôn ba vì công việc làm ăn.
Ở Nam bộ sau khi quét dọn phải cất hết chổi, nếu trong ngày Tết bị mất
chổi có nghĩa là năm đó nhà sẽ bị trộm vào vét sạch của cải.
Ở nông thôn ngày Tết nhà nào cũng rắc vôi bột ở bốn góc vườn, rồi vẽ
mũi tên hướng ra cổng để xua đuổi ma quỷ.
Kiêng kỵ trong ngày tết của dân tộc Tày
Tín ngưỡng của người Tày rất đa dạng, phức tạp, đan xen, pha trộn cả
nội sinh và ngoại nhập, có cả tín ngưỡng dân gian. Đối với người Tày, việc
thờ cúng tổ tiên được coi là việc thờ chính trong nhà, nó duy trì, dạy dỗ, nhắc
nhở con cháu luôn nhớ về tổ tiên, giữ gìn truyền thống gia tộc, đồng thời nó
cũng mang tính tư hữu và kế thừa tài sản. Bàn thờ tổ tiên được đặt ngay gian
chính giữa nhà. Người Tày thường kiêng kỵ không cho phụ nữ, nhất là con
dâu, cháu dâu và những người lạ tới gần bàn thờ; kiêng kỵ không cho khách
để đồ vật lên bàn thờ, đặc biệt là trong ngày tết. Khi làm nhà mới hoặc cho
con ra ở riêng, người tày chia lửa cho con cái. Bếp lửa đối với người tày là
nơi tôn nghiêm, linh thiêng đồng thời cũng là nơi sinh hoạt vật chất và tinh
thần của mỗi gia đình. Người Tày quan niệm bếp không có lửa thì điều xấu sẽ
đến, do đó bếp của gia đình người Tày không bao giờ tắt lửa.
Người Tày quan niệm Táo Quân là vị thần bảo vệ người và gia súc
trong gia đình. Nơi thờ vị thần này được đặt ngay cạnh bếp, rất đơn giản, chỉ
có một ống tre được dán giấy đỏ làm ống hương. Khi gia đình có việc đại sự
hoặc xảy ra các việc như mất trộm, gia súc ốm đau... gia đình thường cúng,
báo cho thần bếp biết, xin thần chứng giám và phù hộ cho tai qua nạn khỏi.
Khác với người Kinh (cúng Táo Quân vào ngày 23 tháng chạp), hằng năm, cứ
đến ngày 30 tết, người Tày làm lễ tiễn đưa Táo Quân lên trời gặp Ngọc
Hoàng để báo cáo một năm thực hiện công việc ở dưới trần gian. Đên sáng
mùng 3 tết lại làm lễ đón Táo Quân từ trời trở về.
Người Tày cũng cho rằng Thổ công là vị thần bảo vệ mùa màng, làng
bản. Miếu thờ Thổ công được dựng ở gốc cây hoặc đám cây to đầu bản.
Hằng năm, người Tày cúng miếu Thổ công vào ngày tết Nguyên đán và
những ngày lễ khác trong năm cũng như các công việc hệ trọng của bản. Các
vị thánh khác như Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, thần nước, thần bảo vệ
gia súc... cũng được tổ chức cúng lễ chu đáo vào những ngày lễ tết. Đối với
người Tày, tết Nguyên đán cũng là tết lớn nhất trong năm. Các bàn thờ được
trang hoàng dán giấy đỏ. Dân bản tập trung cúng ở đình, miếu, tổ chức các
trò chơi dân gian. Theo phong tục, để đảm bảo sự tôn kính, linh thiêng, trang
trọng đối với tổ tiên, trong ngày mùng một tết, người Tày thường kiêng kỵ một
số sinh hoạt của con người. Tết của người Tày thường kéo dài đến 15 tháng
giêng, nhưng cũng có những nơi không khí tết còn kéo dài đến hết tháng
giêng âm lịch.
Cũng trong những ngày đầu xuân, người Tày thường tổ chức ngày hội
xuống đồng. Lễ vật cúng có rượu thịt gà, thịt lợn, xôi ngũ sắc, các loại bánh,
hoa quả và được tiến hành ở một thửa ruộng đầu bản. Ngoài việc khấn cầu
cho một năm mới mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hoà, súc vật sinh sôi,
bản làng yên vui hạnh phúc..., trong ngày hội xuống đồng còn diễn ra các trò
vui chơi giải trí của dân bản.
Người Dao kiêng kỵ làm việc vào dịp tết
Người Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc
mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều
trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay
trên các vách tường để đón mừng xuân.
Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là “Nhiang chằm ao” để rèn luyện
sức khỏe và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước tết Nguyên đán chừng vài ba
hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ
để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng
trống, tiếng thanh la giục giã...
Chương 6. KIÊNG KỴ VỀ BỆNH TẬT
Kiêng kỵ một số thực phẩm khi dùng thuốc Đông y
Khi đi cắt thuốc Đông y, hầu hết mọi người đều được thầy thuốc dặn
kiêng kỵ một số thức ăn tương ứng. Các thầy thuốc chủ yếu tùy vào thể trạng
của người bệnh để xác định thứ cần kiêng kỵ.
Nhưng cũng có người áp dụng danh sách thực phẩm cấm kỵ cho mọi
bệnh nhân. Có thầy dặn đã uống thuốc là phải kiêng kỵ thịt gà, có người yêu
cầu kiêng kỵ cá và các loại thủy sản, các vị chua cay, măng, rau muống...
Kiêng kỵ khi dùng thuốc Đông y là cần thiết, nhưng cần theo thể tạng
và cơ địa của bệnh nhân chứ không áp dụng chung cho mọi người. Chẳng
hạn, người tạng nhiệt hay đang bị các bệnh do nhiệt (mụn nhọt...) thì nên
kiêng kỵ những thực phẩm có tính nóng như cơm nếp, thịt gà, thịt chó, ớt,
dứa, mít..., những người tạng hàn hoặc mắc các bệnh do hàn (như rối loạn
tiêu hóa gây tiêu chảy) nên kiêng kỵ các thức ăn có tính lạnh như cua ốc...
Ngoài ra, những người có cơ địa mẫn cảm thì nên tránh các thức ăn dễ
gây dị ứng. Thực phẩm kiêng kỵ này khác nhau giữa các bệnh nhân. Trong
đó, các loại thủy hải sản hay được dặn kiêng kỵ vì trong thực tế, đó là loại
những thực phẩm dễ gây dị ứng nhất.
Không chỉ khi uống thuốc Đông y mà ngay cả lúc bình thường, những
thức ăn không phù hợp kể trên cũng cần được hạn chế. Đặc biệt, thực phẩm
nào đã gây dị ứng thì cần kiêng kỵ tuyệt đối.
Kiêng kỵ một số thực phẩm khi đang uống thuốc
Kiêng kỵ ăn uống một số loại thực phẩm khi mắc một bệnh nào đó,
hoặc khi uống thuốc để chữa bệnh là hoàn toàn đúng và có cơ sở khoa học,
đối với cả y học hiện đại lẫn y học cổ truyền.
Người mắc bệnh cao huyết áp kỵ uống rượu, ăn nhiều mỡ động vật, ăn
các chất cay nóng. Vì nếu không sẽ làm huyết áp càng tăng cao. Người bị gút
(thống phong) do rối loạn chuyển hoá protein, tích tụ axit uric ở các khớp mà
kỵ ăn thức ăn giàu đạm (thịt chó, thịt trâu, tôm...) vì như vậy bệnh sẽ nặng
lên.
Các vị thuốc Đông y hay các hoạt chất của thuốc tân dược đều có thể
bị các thành phần của thực phẩm phản ứng làm giảm tác dụng chữa bệnh.
Theo nguyên tắc uống thuốc chữa bệnh, chứng hàn phải dùng thuốc ôn
nhiệt, kỵ ăn phải thức ăn nguội lạnh hoặc thực phẩm có tính hàn vì như vậy
sẽ làm mất tác dụng của thuốc.
Đa số các vị thuốc Đông y và các hoạt chất tân dược đều bị giảm hiệu
lực khi dùng nước trà để uống thuốc, vì trong trà có nhiều tanin, làm mất tác
dụng của hoạt chất.
Bị đau nhức tay chân, đầu gối (phong tê thấp), phải kiêng kỵ ăn thịt chó,
thịt trâu, cua, bởi đó là những thức ăn giàu purin và các dẫn xuất của nó như
adrenalin và guamin, khi vào cơ thể sẽ làm tăng đau.
Chuối tiêu, đu đủ, su hào là những loại rau quả kỵ các vị thuốc chữa
phong tê thấp như độc hoạt, khương hoạt, ngưu tất, thổ phục linh... vì thế
phải kiêng kỵ.
Nói chung, việc kiêng kỵ một số thực phẩm trong khi điều trị một số
bệnh phải dựa trên cơ sở khoa học và kinh nghiệm dân gian đã được tổng kết
và phải có hướng dẫn về chuyên môn.
Kiêng kỵ dùng một số vị thuốc Đông y khi mắc bệnh
- Ra mồ hôi trộm: Kiêng kỵ dùng ma hoàng.
- Tăng huyết áp, kiêng kỵ dùng ma hoàng, thận trọng trong dùng dương
kim hoa.
- Người có bệnh về động mạch vành, tim đập quá nhanh, kiêng kỵ dùng
ma hoàng.
- Khi bị nôn, kiêng kỵ dùng thương nhĩ tử, hoàng dược tử, hoàng liên
(nếu là hư hàn).
- Ăn uống không ngon miệng (chán ăn), kiêng kỵ dùng chi tử, hoàng
cầm, huyền sâm, sơn đậu căn, lô hội, phòng kỷ, a giao và ba ba.
- Các chứng xuất huyết: Kiêng kỵ dùng quế chi (nhiệt mạnh) nha đảm
tử (xuất huyết da dày và ruột), nhục quế (huyết nhiệt), tam thất (trường hợp
âm hư có nhiệt), xuyên khung, tạo giác (bồ kết nếu khạc ra máu), lộc nhung
(nhung hươu nếu là dương nhiệt).
- Các chứng huyết hư: Kiêng kỵ dùng cao bản, thương nhĩ tử, ngân tử
hồ, toàn hạt.
- Trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ, kiêng kỵ dùng đại hoàng, phan
tử diệp, mạch nha.
- Thời gian hành kinh, cẩn thận trong việc dùng quê chi, đại hoàng,
phan tử diệp.
- Khi kinh nguyệt ra quá nhiều, kiêng kỵ dùng đan bì, xuyên khung, tam
lang, nga truật, ngưu tất.
- Khi bị thong manh mắt, kiêng kỵ dùng thạch dương tử, dương kim
hoa, thục địa.
- Khi đầy bụng, kiêng kỵ dùng sinh địa, hoài sơn, đại táo, đường mạch
nha, mật ong, đương quy, thục địa, cùi long nhãn, hoàng tinh, kha tử.
- Khi bị thủy thũng do tỳ hư, kiêng kỵ dùng nha đảm tử, hoàng dược tử,
chu sa, đại phong tử.
- Sốt do cảm hàn bên ngoài, kiêng kỵ dùng địa cốt bì, ngân tử hồ,
dương kim hoa, hoàng kỳ, đông trùng hạ thảo, thạch môn đông, hạt ngũ vị, ô
mai, ngũ bội tử, rễ ma hoàng, kha tử.
- Người hư nhược (gầy yếu) cẩn thận trong khi dùng cam toại, đại kích,
nguyên hoa, ba đậu, thiên kim tử, uy linh tiên, dương kim hoa, thường sơn,
đảm phàn, lê lô, minh phàn, ban miệu.
- Người khí hư, kiêng kỵ dùng thanh bì, hạt cải củ
- Da dễ bị dị ứng, kiêng kỵ dùng hạt cải trắng.
- Viêm loét dạ dày, cần thận trọng khi dùng viễn chí, tạo phân.
- Chứng thực, chứng nhiệt kiêng kỵ dùng nhân sâm.
- Phụ nữ có thai kiêng kỵ dùng đan bì, thận trọng khi dùng quế chi, tê
giác, ngưu bàng, mộc thông, thông thảo, hạt đông quỳ, gừng khô, chỉ thực,
dương kim hoa, đại giả thạch, băng phiến, quy bản, xích thạch chỉ, xạ can, đại
hoàng, mang tiêu, phan tả diệp, lô hội, cam toại, ba kích, nguyên hoa, ba đậu,
quả khiên ngưu, thương lục, thiên kim tử, cù mạch, phụ tử, ô đầu, bồ hoàng,
nhu hương, một dược, tam lăng, nga truật, hổ tượng, đào nhân, ngưu tất,
xuyên sơn giáp.
- Người bị bệnh thận kiêng kỵ dùng thu thạch.
Kiêng kỵ khi dùng nhân sâm tẩm bổ
Muốn dùng nhân sâm cho đúng, trước hết cần phải biết loại nhân sâm
nào dùng cho bệnh nhân nào, vì không phải mọi loại sâm đều có công dụng
như nhau.
- Hồng sâm (sâm chế chín) có tính ấm, vị ngọt, dùng để bổ dương,
chữa các hội chứng tỳ thận hư hàn, chân dương suy yếu, khí ở tỳ vị không
phấn chấn.
- Bạch sâm (sâm chế nửa chín nửa sống) và sâm tương (đã phơi) có
tính mát, dùng để dưỡng âm, thanh hư nhiệt, chủ yếu chữa người âm hư có
hỏa như: người thấy nóng sốt sau khi bị mất máu, ra quá nhiều mồ hôi, mất
nhiều tinh dịch.
- Dù là sắc hay hấp cách thủy cũng không được dùng đồ kim loại đề
chế biến nhân sâm. Sau khi dùng nhân sâm, không được uổng trà vì trà sẽ
làm giảm tác dụng của sâm.
- Không nên ăn củ cải và đồ biển sau khi uống sâm: Theo y học cổ
truyền, củ cải và đồ biển đại hạ khí còn nhân sâm đại bổ khí, hai thứ triệt tiêu
lẫn nhau, gây hại cho người sử dụng.
- Không nên cho trẻ ăn món có nhân sâm: Trẻ dùng các thực phẩm
hoặc thuốc bổ chứa nhân sâm có thể bị kích thích phát dục sớm, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát dục bình thường và gây hậu họa nhiều mặt cho trẻ.
- Không dùng quá nhiều: Do nghĩ rằng nhân sâm là thuốc bổ, dùng
càng nhiều càng tốt nên một số người đã dùng sâm thay nước uống hằng
ngày, có người lại ăn nhân sâm như nhai kẹo... Việc lạm dụng nhân sâm có
thể đưa đến nhiều hậu quả nguy hiểm.
Ngày kiêng kỵ thăm bệnh theo quan niệm xưa
Trong quan hệ xã hội, chúng ta thường cũng hay thăm bạn bè, thân
nhân ốm đau. Cổ thư ghi lại những điều kiêng kỵ khi đi thăm bệnh nhân để
gần lành tránh dữ.
Những ngày cần tránh đi thăm bệnh nhân là:
Nhâm Dần, Nhâm Ngọ, Canh Ngọ, Giáp Dần, Ất Mão, Kỷ Mão trong
các tháng. Nên tránh không thăm bệnh những ngày này.
Có câu phú như sau:
Nhâm Dần, Nhăm Ngọ liên Canh Ngọ.
Giáp Dần, Ất Mão, Kỷ Mão phòng.
Thần tiên lưu hạ thử lục nhật
Thám nhân tật bệnh thế nhân vong.
Sáu ngày này thầy thuốc (sát sư) đại kiêng kỵ đi thăm bệnh (khám và
bốc thuốc).
Đa số thầy thuốc Đông y nào cũng kiêng kỵ sáu ngày trên. Trong dân
gian coi những ngày này là ngày “Thần tiên lưu hạ” chỉ nên cầu phúc cúng tế
(có lẽ tương tự như ngày vía của các bậc thánh). Gặp trường hợp cấp cứu,
bệnh nguy kịch thầy thuốc vẫn chữa nhưng sẽ lâu khỏi hoặc khó khỏi.
Những vị trí cần tránh khi đến thăm bệnh
Khi đến thăm bệnh nhân có những vị trí cần tránh trong nhà theo dân
gian lưu truyền là:
Mùng 1 tại trung đường.
Mùng 2 tại Đông lang hạ.
Mùng 3 tại đại môn.
Mùng 4 tại trung môn.
Mùng 5 tại ngoại phương.
Mùng 6 Đông tường hạ.
Mùng 8 tại lang Tây (hành lang hướng Tây).
Mùng 9 - 10 tại ngoại.
Ngày 11 tây tường.
Ngày 12 không kiêng kỵ.
Ngày 13 tại Tây tường.
Ngày 14 tại Nam đường ở phía Nam.
Ngày 15 tại bích tiền tường trước.
Ngày 16 tại táo tiền.
Ngày 17 tại giường bệnh nhân.
Ngày 18 tại trung đình thượng.
Ngày 19 tại táo biên phòng.
Ngày 20 tại cư ư xã.
Ngày 21 tại Đông Tây thụ - cổ thụ.
Ngày 22 tại đường tiền.
Ngày 23 tại lộ thượng lập.
Ngày 24 tại phương Đông.
Ngày 25 tại lộ quy sư.
Ngày 26 tại trù hạ (dưới bếp).
Ngày 27 bệnh sàn biên.
Ngày 28 phương Bắc.
Ngày 29 Ngoại phương hành.
Ngày 30 giường người bệnh.
Chương 7. KIÊNG KỴ VỀ TANG MA
Những kiêng kỵ trong tang lễ
- Xung quanh linh cữu không treo màn trướng, trang trí đèn đuốc.
Tang quyến không nên nhờ thầy lãnh làm sớ điệp, nhà kho, đốt vàng
bạc, đồ thế.... Vì trong Tam tạng kinh điển chính tông không có dạy làm việc
ứng phú này.
- Kỵ bất cứ ai khóc lóc, kể lể gần thi thể của người chết trong khoảng
thời gian đang hấp hối cho đến khi hạ huyệt.
- Không nên cúng tế bằng sinh vật để tránh mang tội sát sinh, làm trở
ngại cho sự siêu độ vong linh.
Không tổ chức ăn thịt uống rượu, không đàn kèn trống nhạc, không đốt
giấy tiến vàng bạc, không làm nhà kho, đồ minh khí. Không cần khóc than kể
lể mà phải bình tĩnh lo sắp xếp mọi việc.
Kiêng kỵ nói cười trong đám tang
Dù thân hay sơ, đã đến dự đám tang phải nghiêm túc, biểu lộ lòng
thành kính đối với người đã khuất, sự cảm thông đối với tang quyến. Thật là
bất lịch sự nếu bô bô cười nói, đùa giỡn trong lúc tang chủ đau buồn.
Ở nông thôn, nhiều nơi còn tục lệ cỗ bàn ăn uống linh đình trong đám
tang, thực không hợp tình, hợp cảnh.
Việc ăn uống là không tránh khỏi, nhưng chỉ nên hạn chế trong số
người đến giúp việc và thân nhân ở xa về.
Cũng cần lưu ý các bạn trẻ: Khi đi dự đám tang không nên ăn mặc loè
loẹt, hở hang, lố lăng, như vậy rất không hợp cảnh sẽ gây khó chịu cho nhiều
người.
Kiêng kỵ hiện tượng “quỷ nhập tràng”
Đó là hiện tượng xác chết tự nhiên bật dậy. Hiện tượng này rất hiếm
nhưng đã xảy ra, do đó trong phong tục đã có sự kiêng kỵ để phòng xa, gọi là
“quỷ nhập tràng” nhưng thực ra không có ma quỷ nào nhập vào xác chết.
Nguyên nhân: Do điện âm tích tụ trong thi thể người mới chết chưa kịp thoát
ra hết, gặp phải luồng điện dương cực mạnh cuốn hút.
Xác chết tự nhiên bật dậy là do sự cuốn hút bởi một ngoại lực có cảm
ứng điện trường. Vì vậy theo quan niệm dân gian, khi trong nhà có người mới
chết kiêng kỵ nhất là không để cho con mèo bất thần nhảy qua xác chết
(người ta phải canh giữ, phải nhốt mèo lại). Đã có trường hợp, chén rượu hắt
văng vào xác chết, giọt nước mắt có hơi ấm nhỏ vào xác chết cũng tạo thành
luồng khí, có thể cuốn hút xác chết bật dậy nhưng ngã xuống ngay tức thì.
Hiện tượng xác chết đuổi theo người sống: Xác chết không thể bước đi được
mà do hơi nóng của người sống cuốn hút, hoặc trường hợp có luồng không
khí đối lưu cân bằng khi xác chết ở tư thế đứng song song với người sống.
Việc dỡ ngói hay tranh trên mái nhà để ánh sáng mặt trời trực tiếp rọi vào
cũng nhằm triệt tiêu hiện tượng cuốn hút đó.
Kiêng kỵ táng ở chỗ trước đây đã táng
Đất táng hoặc dở, được coi là có liên quan đến lành (cát) dữ (hung).
Người Tống cho rằng, không nên táng ở chỗ đất trước đây đã táng. Tiềm Hi
Bạch chép rằng, vợ của Tiền Văn Bỉnh chết, Tiền thạo môn địa lý từ nhỏ,
chọn được một huyệt trong rừng thông bên cạnh viện Báo Ân. Một nhà sư
bảo Văn Bỉnh chỗ đấy là mộ cũ cửa thánh hiền, không thể sử dụng lại mộ
huyệt. Văn Bỉnh không nghe, đào lên thì thấy mấy phiến đá, trong đá bay ra
một mũi tên đen trúng vào lông mày bên phải của Văn Bỉnh. Đầu Văn Bỉnh
sưng to bằng cái đấu, đêm hôm đó thì y chết. Nghe nói đây là mộ của Do Dư
không được động đến. Từ đó, người Tống luận rằng, mộ huyệt cũ của thánh
hiền thì không được động vào, nếu không sẽ gặp chuyện dữ. Do đó dân gian
hết sức coi trọng chuyện chôn cất.
Chu tử gia lễ chép: “Người dân thường chết sau ba tháng mới chôn, vì
đầu tiên là phải tìm đất, sau đó là chọn ngày đào huyệt”.
Kiêng kỵ táng vào huyệt hung
Huyệt cát
- Nhập thủ đầy đặn: Nhập thủ là nơi long mạch vào mộ. Nếu nơi đó hơi
lồi như mu con rùa, đầy đặn, cỏ cây tươi tốt thì nên chọn đặt mộ, gia chủ và
con cháu sẽ phú quý.
- Màu sắc đất: Sau khi đào, thấy đất ở dưới mịn, có màu ngũ sắc, màu
hồng vàng, màu son đậm, hồng có vân.
- Đồi đất và dòng nước bao bọc: Huyệt mộ nằm trong thế này được
xem là huyệt quý.
Huyệt hung
- Huyệt bần: Huyệt mộ không có gò đồi, dòng nước bao bọc. Trong
trường hợp này, dòng nước sẽ chảy thẳng vào huyệt mộ.
- Huyệt hèn: Cũng giống như huyệt bần, huyệt này cũng không có gò
đồi, dòng nước che chắn, bao bọc. Dòng nước quay lưng chảy qua huyệt mộ.
- Huyệt cát táng hung: Tìm được huyệt cát địa nhưng sau khi an táng
lại trở thành huyệt hung. Táng đất này chủ sẽ mất chức, gia đình sa sút.
Họa này là do không hiểu phép “Hóa huyền không lý khí” khi đặt mộ.
Theo phép này, nếu đặt mộ nằm ở Nhâm hướng Bính hoặc nằm ở Bính
hướng Nhâm thì trong 20 năm đầu của vòng Thượng nguyên (vòng Lục thập
Hoa giáp 1) phạm phản ngâm phục ngâm. Nếu an táng theo, họa khắc sinh
ra.
Huyệt cát táng hung còn do chọn giờ, ngày, tháng, năm hạ huyệt. Sách
Tuyết tâm phú chép: “Tuy là huyệt cát vẫn kỵ táng hung”. Sách Táng kinh nói:
“Huyệt cát táng hung như là vứt thây”. Vì vậy chọn giờ hạ huyệt vô cùng quan
trọng.
Tránh hung phùng cát
Căn cứ vào phép sinh khắc Ngũ hành để đặt hướng mộ, cần chọn giờ,
tháng, năm phù hợp.
- Tọa Đông (thuộc Mộc): Mộ hướng Tây
- Đại kỵ động thổ, hạ huyệt giờ, ngày, tháng, năm Tỵ, Dậu, Sửu (tam
hợp Kim cục).
- Tọa Tây (thuộc Kim): Mộ hướng Đông
- Đại kỵ động thổ, hạ huyệt giờ, ngày, tháng, năm Hợi, Mão, Mùi (tam
hợp Mộc cục).
- Tọa Nam (thuộc Hỏa): Mộ hướng Bắc
- Đại kỵ động thổ, hạ huyệt giờ, ngày, tháng, năm Thân, Tý, Thìn (tam
hợp Thủy cục).
- Tọa Bắc (thuộc Thủy): Mộ hướng Nam
- Đại kỵ động thổ, hạ huyệt giờ, ngày, tháng, năm Dần, Ngọ, Tuất (tam
hợp Hỏa cục).
Bất kể huyệt mộ đặt như thế nào chỉ cần chọn ngày Hoàng đạo thì gặp
hung hóa cát. Các ngày có sao: Thái tuế, Tuế phá, Kiếp sát, Diệt sát, Tuế sát,
Ngũ hoàng, Nguyệt kiến, Nguyệt phá, Nguyệt yếm, Tứ tuyệt, Tứ ly thì tuyệt
đối không được động thổ, an táng.
Kiêng kỵ huyệt có long hổ không cân đối
Long hổ không cân đối tức là hoặc có long mà không có hổ, hoặc có hổ
mà không có long. Nếu không có long thì dòng nước chảy đến phải ôm vòng
qua bên trái. Nếu không có Hổ dòng nước chảy đến phải ôm vòng sang phía
bên phải.
Tuy không lấy dòng nước để định cách cục nhưng trong huyệt nhất
thiết cần phải tránh được gió. Để nhận biết được đặc điểm này cần phải có vị
trí quan sát phù hợp và tiến hành quan sát một cách tỉ mỉ, cẩn thận. Nếu long
mạnh hổ yếu hoặc long yếu hổ mạnh đều khiến cho những người trong nhà
dễ bị bệnh nặng, cần phải đề phòng điều tối kỵ này.
Nếu có long sa mà không có hổ sa cũng chính là dạng Tả đan đề hay
Tả tiên cung như vừa trình bày ở trên. Nếu chỉ có hổ sa không có long sa là
dạng Hữu đan đề hay Hữu tiên cung. Đan đề hay tiên cung tuy thiếu đi một
bên là long sa hoặc hổ sa nhưng lại có sự tiếp ứng, hộ vệ từ đường nước
hoặc từ các sa khác ở bên ngoài. Thân long nếu có dòng nước men theo bên
trái mà chảy vòng sang phía bên phải (tức là khi không có long sa), hoặc
dòng nước đến men theo bên phải mà ôm vòng qua bên trái (khi không có hổ
sa), đều có thể khiến các đường nước chảy đến huyệt mộ tụ lại nên sinh khí
cũng được tích tụ. Khi đó long hổ sa lại có tác dụng ngăn chặn dòng nước
chảy đi. Các đường nước đến huyệt mộ tụ lại nên sinh khí cũng được tích tụ,
do vậy cũng không nhất thiết phải có đầy đủ long sa và hổ sa.
Không nên lấy dòng nước để làm căn cứ để định cục. Hình thế của nó
cũng tương tự dòng nước đang chảy hoặc như dòng nước bị cạn khô nơi đầu
nguồn (có dòng nước khi chảy xuống thấp tự nhiên lại hồi phục lại dòng chảy)
mà sa thủ hữu tình là tốt. Núi cao không bàn về nước (có dòng nước chảy
qua là đư), đất bằng không luận về gió (chỉ cần không có gió thổi thốc vào
huyệt là đủ).
Cho dù có thủy đến bao quanh, nhưng cũng cần có sa thủ quay đầu lại.
Loại hình thế này tuy bảo vệ huyệt mộ, nhưng còn có tác dụng tránh gió thổi
và mưa tạt vào huyệt mộ. Đó cũng được xem là hình thế tốt vậy. Hình thế của
đan đề như hai bàn tay của con người, một tay đang nâng vật, một tay đang
thả lỏng. Tuy hình thế của nó có sự hiển thị không rõ ràng nhưng cũng không
hoàn toàn không có tác dụng bảo vệ huyệt.
Nếu có dòng nước bao quanh mà không có đan đề, tiên cung bảo vệ
cũng không thể kết huyệt tạo táng. Do vậy, khi chọn nơi kết huyệt cần phải có
sự quan sát kỹ càng, tỉ mỉ, không nên qua loa, đại khái. Nên chọn đường
nước tốt để bảo vệ không cho gió thổi thẳng vào huyệt đường. Do vậy nơi kết
huyệt phải có núi bảo vệ, che chắn ở phía ngoài. Mặt khác, cũng không nên
lấy đường nước làm tiêu chuẩn để xác định cục. Huyệt mộ tốt là nơi có sơn
thủy hài hoà, có khả năng bảo vệ được huyệt trường tránh khỏi sự tàn phá
của mưa gió. Dòng nước không nhất thiết phải bao quanh nhưng các dãy núi
ở bên ngoài cần phải chiếu ứng vào huyệt thì mới đủ yếu tố tạo được phúc
âm cho con cháu.
Điều tôi kỵ nhất đối với hình thế của long hổ đó là hổ mạnh, long yếu,
nếu được thế hổ sa thuần phục là cát. Long cao mà hổ thấp bé hoặc hổ cao
mà long thấp bé thì chủ nhân sẽ mắc nhiều chứng bệnh hiểm nghèo. Nếu hổ
mạnh nhưng có phần đầu cúi thấp, phần đuôi nhô lên cao cũng không gây trở
ngại. Một điều tối kỵ khác đó là long hổ có phần đầu xoay ngang hoặc áp quá
sát vào huyệt trường. Trái lại, sức mạnh của long và hổ nên ở thế cân bằng,
không nên có sự chênh lệch mạnh yếu. Nếu có sự chênh lệch tất sẽ không tốt
cho huyệt và đặc biệt là sự tạo phúc âm cho con cháu.
Kiêng kỵ không đắp mộ trong vòng tang
Theo phong tục, sau ba ngày an táng là làm lễ mở cửa mả. Trong buổi
đó, sửa sang mộ cao ráo, đắp cỏ, làm rãnh thoát nước, chặt bỏ cây bụi xung
quanh để phòng rễ mọc lan, xuyên vào mộ, chọc thủng áo quan. Kể từ ngày
mở cửa mả, con cháu đến viếng thăm, thắp hương chỉ lấy đất xung quanh
đắp thêm vào những chỗ đất bị sụt lở, tuyệt đối không trèo lên mộ, không
động thuổng, cuốc vào.
Xét ra tục kiêng ấy rất có lý. Trong ba năm đó áo quan và thi thể đang
trong thời kỳ tan rữa, đã xảy ra những trường hợp do không biết đề phòng mà
mồ mả bị sập. Sập mả, động mả dù là hiện tượng tự nhiên cũng sẽ gây cho
tang gia nhiều điều lo lắng.
Dẫu làm đến tể tướng trong triều, khi khách đến viếng cha mẹ mình,
bất kể sang hay hèn cũng phải cung kính chào mời và lạy tạ (hai lạy hay ba
vái dài). Khi ra đường, người cư tang không được sinh sự với bất cứ người
nào, trong nhà, đối với kẻ ăn người ở cũng không được to tiếng.
Ba năm sầu muộn, tự nghiêm khắc với chính mình, rộng lượng với kẻ
dưới, cung kính với khách bạn cũng là để tỏ lòng thành kính với cha mẹ.
Kiêng kỵ trong cải táng
Người Việt Nam, Trung Quốc... thường có tập quán mai táng hai lần.
Thời kỳ chôn cất lúc đầu được gọi là hung táng – người chết chôn tạm thời ở
nghĩa trang (có nơi còn gọi là ký táng), sau ba hoặc bốn năm cải táng, đưa
lên nghĩa trang vĩnh viễn gọi là bốc mộ (cải táng).
Khi nhập quan, người ta thường lót ở đáy quan tài một tấm ni-lông
(hoặc loại vải nào khác không mục nát trong khoảng thời gian từ 3 đến 5
năm). Chuẩn bị thêm 4 túi ni-lông hoặc túi vải để bọc hai bàn tay và hai bàn
chân, nhằm khi bốc mộ, các đốt xương tay, xương chân không lẫn với bùn
đất khác, mà vẫn nằm gọn trong túi.
Tục cải táng có nhiều nguyên nhân, song có một nguyên nhân tâm lý là
người ta tin rằng cái huyết mạch của tổ tiên và con cháu có quan hệ với nhau.
Hễ hài cốt tổ tiên có ấm thì con cháu mới mát mặt, nếu hài cốt không yên thì
con cháu cũng không yên ổn.
Thông thường gia chủ phải chọn ngày, giờ cải táng cho hợp với mùa,
với thời tiết và với nhu cầu của gia đình. Nhân dân vùng đồng bằng Bắc bộ
nước ta có thói quen cải táng vào mùa đông (từ Tiểu hàn đến Đại hàn).
Giò giấc cải táng chỉ nên làm vào sáng sớm và được tính toán rất chi
tiết, làm sao phải hoàn tất trước khi sáng rõ mặt người. (Theo quan niệm dân
gian: Khi còn trời tối ở dương gian, là ban ngày ở âm phủ. Mặt khác, người
dân tránh làm công việc này vào ban ngày cũng là để giữ vệ sinh chung, và
cũng không muốn để mọi người xung quanh trông thấy mình đang làm một
công việc hệ trọng và thiêng liêng).
Mọi người làm nhiệm vụ bốc mộ đều phải đeo khẩu trang, rửa tay bằng
rượu, nước ngũ vị (nếu dùng găng tay cao su thì càng tốt). Những người
tham dự bốc mộ chỉ nên đứng ở đầu gió để tránh ô nhiễm.
Thông thường trước hôm cải táng, gia chủ phải làm lễ cáo yết tổ tiên.
Đêm hôm cải táng phải làm lễ khấn thổ công nơi để mả mới. Toàn bộ hài cốt
thu được trong quan tài phải được rửa thật cẩn thận bằng nước ngũ vị (hoặc
bằng rượu), xương sọ được rửa kỹ hơn, nhất là hai hốc mắt. Nhiều người
quan niệm rằng, có rửa sạch hai hốc mắt thì con cháu được “phù hộ” làm ăn
thuận lợi. Tất cả xương được lau khô bằng giấy bản và xếp vào tiểu sành
theo đúng vị trí cấu trúc của cơ thể thu nhỏ. Xương sọ được xếp ngay ngắn,
đệm bằng những xương nhỏ cho chặt, đảm bảo xương quai hàm dưới ở tư
thế như được gắn liền. Các xương chân tay được xếp ở hai bên (xương bên
phải được xếp ở bên phải, xương bên trái được xếp ở bên trái). Tất cả các
xương khác xếp giữa. Sau đó trải các xương sườn úp xuống thành hai hàng
bên phải và bên trái. Trước khi xếp hài cốt, cần phải lót giấy màu hoặc vải vào
trong tiểu sành và hai bên thành tiểu, rồi phủ vải hoặc giấy lên trên. Khi xong
người ta thường đậy nắp tiểu bằng những viên gạch đặt nằm ngang một lượt
(gạch này được chọn lựa rất cẩn thận - gạch được nung đúng độ lửa, phẳng
phiu, độ dày mỏng đều đặn).
Sau khi cải táng, hài cốt được chôn vĩnh viễn. Lúc này có thể xây mộ
cẩn thận để tránh xói mòn, sụt lở do mùa nắng. Kiểu dáng ngôi mộ được xây
tuỳ theo thị hiếu và thiết kế của từng gia đình, nhưng không nên quá cầu kỳ,
tốn kém, hoặc quá lớn làm ảnh hưởng đến quy hoạch chung của nghĩa trang.
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương 1. KIÊNG KỴ VỀ CƯỚI HỎI
- Kiêng kỵ tuổi xung trong hôn phối
- Kiêng kỵ cưới hỏi vào những năm Kim lâu
- Kiêng kỵ khi chọn ngày cưới
- Kiêng kỵ cưới hỏi vào 3 tháng hè
- Kiêng kỵ cưới hỏi vào ngày Ngưu Lang - Chức Nữ
- Cô dâu khi bước chân theo chồng kiêng kỵ ngoái đầu trở lại
- Kiêng kỵ mẹ cô dâu đi đưa dâu
- Kiêng kỵ mẹ chồng giáp mặt con dâu khi rước dâu về
- Kiêng kỵ khi chọn đường đón dâu
- Kiêng kỵ treo ảnh cưới ở phương Bạch hổ
Chương 2. KIÊNG KỴ VỀ SINH ĐẺ
- Một số tộc vùng kiêng kỵ sinh đẻ gần nơi ở
- Kiêng kỵ về nhà mẹ đẻ sinh con
- Kiêng kỵ đối với trẻ sơ sinh
- Kiêng kỵ một số người vào buồng sinh
- Kiêng kỵ trong sinh đẻ của người Cò Lao
- Kiêng kỵ trong sinh đẻ của người Lô Lô
- Kiêng kỵ trong sinh đẻ của ngươi Dao
Chương 3. KIÊNG KỴ VỀ ĐẶT TÊN
- Những điều kiêng kỵ chung khi đặt tên
- Tục kỵ húy
- Kiêng kỵ đặt tên trùng tên huý của bề trên
- Kiêng kỵ đặt tên có ý nghĩa phổ biến, nông cạn
- Kiêng kỵ đặt tên có “hài âm bất nhã”
- Kiêng kỵ đặt tên đơn điệu, lặp đi lặp lại
- Kiêng kỵ đặt tên lạ, ít gặp, mang nghĩa khó hiểu
- Kiêng kỵ đặt tên chắp vá
- Kiêng kỵ đặt tên đảo lộn giữa nam và nữ
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Tý
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Sửu
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Dần
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mão
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thìn
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Tỵ
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Ngọ
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Mùi
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Thân
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Dậu
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Tuất
- Kiêng kỵ khi đặt tên cho người tuổi Hợi
Chương 4. KIÊNG KỴ VỀ NHÀ CỬA
- Kiêng kỵ khi chọn đất làm nhà
- Kiêng kỵ chọn đất không “tàng phong”
- Kiêng kỵ xây nhà chữ Tù
- Kiêng kỵ đất dữ bằng phép trấn trạch
- Kiêng kỵ xây nhà cạnh miếu đền, trên giếng cũ
- Những điều kiêng kỵ cho vị trí nhà
- Kiêng kỵ nhà ở có chỗ khiếm khuyết
- Kiêng kỵ dưới huyệt có nước hoặc đá ngầm
- Kiêng kỵ khi lấp giếng
- Mùa hè kiêng kỵ động thổ
- Kiêng kỵ khi bố trí nhà
- Kiêng kỵ với sao chiếu mệnh của con cái
- Kiêng kỵ thế phòng học xấu cho trẻ
- Kiêng kỵ khi bố trí phòng trẻ
- Kiêng kỵ khi kê giường ngủ cho trẻ
- Kiêng kỵ về hình thế nhà ở
- Kiêng kỵ đối với cửa nẻo
- Kiêng kỵ khi bố trí nhà bếp
- Kiêng kỵ với tường rào
- Kiêng kỵ với dòng nước chảy qua nhà
- Kiêng kỵ trồng dâu trước nhà
- Kiêng kỵ trồng cây to trước nhà
- Kiêng kỵ khi kê bàn làm việc
- Những điều kiêng kỵ và cách hóa giải khi đặt giường ngủ
- Kiêng kỵ khi bài trí các phòng
- Kiêng kỵ đối với ban công
- Kiêng kỵ đối với sân phơi
- Những điều đại kỵ với nhà ở
- Người kinh doanh kiêng kỵ ở những căn nhà có vị trí thụt vào
Chương 5. KIÊNG KỴ TRONG NGÀY TẾT
- Kiêng kỵ quét nhà vào ba ngày tết
- Kiêng kỵ làm tang trong ngày mùng 1 tết
- Kiêng kỵ cho nước, cho lửa
- Kiêng kỵ nói những điều xui xẻo
- Kiêng kỵ vay mượn, trả nợ ngày đầu năm
- Kiêng kỵ trong việc xông đất
- Kiêng kỵ đi chúc tết vào sáng mùng một
- Kiêng kỵ giặt giũ vào mùng một và mùng hai tết
- Kiêng kỵ chụp hình hoặc chúc tết người đang nằm ngủ
- Kiêng kỵ xuất hành ngày mùng 5
- Tục kiêng kỵ không để cối xay gạo trống vào những ngày đầu năm
- Kiêng kỵ ăn thịt chó, cá mè, thịt vịt, chuối
- Kiêng kỵ làm vỡ đồ đạc
- Kiêng kỵ mặc quần áo màu đen (hoặc trắng)
- Kiêng kỵ treo tranh ảnh có nội dung tiêu cực
- Kiêng kỵ mở tủ
- Kiêng kỵ xõa tóc
- Miền Trung kiêng kỵ trong ngày tết
- Miền Nam kiêng kỵ trong ngày tết
- Kiêng kỵ trong ngày tết của dân tộc Tày
- Người Dao kiêng kỵ làm việc vào dịp tết
Chương 6. KIÊNG KỴ VỀ BỆNH TẬT
- Kiêng kỵ một số thực phẩm khi dùng thuốc Đông y
- Kiêng kỵ một số thực phẩm khi đang uống thuốc
- Kiêng kỵ dùng một số vị thuốc Đông y khi mắc bệnh
- Kiêng kỵ khi dùng nhân sâm tẩm bổ
- Ngày kiêng kỵ thăm bệnh theo quan niệm xưa
Chương 7. KIÊNG KỴ VỀ TANG MA
- Những kiêng kỵ trong tang lễ
- Kiêng kỵ nói cười trong đám tang
- Kiêng kỵ hiện tượng “quỷ nhập tràng”
- Kiêng kỵ táng ở chỗ đất trước đây đã táng
- Kiêng kỵ táng vào huyệt hung
- Kiêng kỵ huyệt có long hổ không cân đối
- Kiêng kỵ đắp mộ trong vòng tang
- Kiêng kỵ trong cải táng
---//---
PHONG TỤC DÂN GIAN KIÊNG KỴ
Tác giả: TRIỀU SƠN
NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI
Nhà B15. Mỹ Đình 1, Từ Liêm, Hà Nội
Điện thoại: (04) 62872630
Chịu trách nhiệm xuất bản: BÙI VIỆT BẮC
Biên tập: MINH QUỲNH
Vẽ bìa: MINH LÂM
Kỹ thuật vi tính: MINH LÂM
Sửa bản in: MINH ĐỨC
In 1.500 cuốn, khổ 13,5 x 20,5cm. Tại DNTN In Hà Phát. Số đăng ký
KHXB:425-2010/CXB/29/07-14/TĐ. In xong và nộp lưu chiểu quý 2 năm 2011.