18
157 Phụ luc 1- Các mốc thay đổi Phụ lục này trình bày một loạt các mốc thay đổi theo thời gian đối với việc phân cấp trao quyền và trách nhiệm giải trình. Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay đổi này là đưa ra một phác họa cho thấy việc phân cấp trao quyền và trách nhiệm giải trình được tiến hành như thế nào ở Việt Nam. Tuy nhiên, các mốc thay đổi này không chỉ mô tả những sự kiện cụ thể, mà còn đưa ra cảm nhận về một loạt thay đổi đã diễn ra. Phân cấp trao quyền, được thể hiện ở phần trên của mũi tên, đề cập đến các sự kiện pháp lý tác động đến quyền ra quyết định, trách nhiệm và nhiệm vụ, nguồn ngân sách, nhân lực và quyền được hình thành hợp pháp. Trách nhiệm giải trình, được trình bày ở phía dưới mũi tên, đề cập đến sự kiện pháp lý làm tăng trách nhiệm giải trình lên tận các cơ quan chính phủ thông qua các phê duyệt, các yêu cầu báo cáo, thanh kiểm tra, các chế tài, tiêu chuẩn và các điều kiện khác. Các mốc thay đổi theo thời gian này còn bao gồm cả các sự kiện pháp lý làm tăng trách nhiệm giải trình xuống tận người dân và doanh nghiệp thông qua việc tăng minh bạch, ít cơ hội hơn cho tham nhũng, sự tham gia của cộng đồng, cơ cấu quản trị nhà nước, giám sát từ bên ngoài của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức dân sự, các cơ quan dân cử và kiểm toán nhà nước. Có hai điểm cần lưu ý. Thứ nhất, việc đưa ra các mốc thay đổi như thế này đòi hỏi nhiều lần đánh giá. Một số thay đổi có thể có các đặc điểm cả của phân cấp trao quyền và trách nhiệm giải trình. Một số chỉ có thể là hệ thống hóa hoặc thống nhất các thực tiễn pháp lý khác lại, thậm chí cả các thực tiễn không chính thức. Chúng tôi đã cố gắng tập trung vào các thay đổi trong môi trường pháp lý và với hiểu biết của mình, chúng tôi thấy các sự kiện được mô tả trong các mốc lịch sự này là vẫn mới. Thứ hai là, các phân tích chỉ chủ yếu dựa trên các chính sách đưa ra trong văn bản pháp lý, chứ không phải là việc thực hiện thực tế. Ngày được xem xét ở đây là ngày ban hành các văn bản pháp lý, chứ không phải ngày văn bản pháp lý có hiệu lực.

Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

157

Phụ luc 1- Các mốc thay đổi

Phụ lục này trình bày một loạt các mốc thay đổi theo thời gian đối với việc phân cấp trao quyền và trách nhiệm giải trình. Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay đổi này là đưa ra một phác họa cho thấy việc phân cấp trao quyền và trách nhiệm giải trình được tiến hành như thế nào ở Việt Nam. Tuy nhiên, các mốc thay đổi này không chỉ mô tả những sự kiện cụ thể, mà còn đưa ra cảm nhận về một loạt thay đổi đã diễn ra.

Phân cấp trao quyền, được thể hiện ở phần trên của mũi tên, đề cập đến các sự kiện pháp lý tác động đến quyền ra quyết định, trách nhiệm và nhiệm vụ, nguồn ngân sách, nhân lực và quyền được hình thành hợp pháp. Trách nhiệm giải trình, được trình bày ở phía dưới mũi tên, đề cập đến sự kiện pháp lý làm tăng trách nhiệm giải trình lên tận các cơ quan chính phủ thông qua các phê duyệt, các yêu cầu báo cáo, thanh kiểm tra, các chế tài, tiêu chuẩn và các điều kiện khác. Các mốc thay đổi theo thời gian này còn bao gồm cả các sự kiện pháp lý làm tăng trách nhiệm giải trình xuống tận người dân và doanh nghiệp thông qua việc tăng minh bạch, ít cơ hội hơn cho tham nhũng, sự tham gia của cộng đồng, cơ cấu quản trị nhà nước, giám sát từ bên ngoài của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức dân sự, các cơ quan dân cử và kiểm toán nhà nước.

Có hai điểm cần lưu ý. Thứ nhất, việc đưa ra các mốc thay đổi như thế này đòi hỏi nhiều lần đánh giá. Một số thay đổi có thể có các đặc điểm cả của phân cấp trao quyền và trách nhiệm giải trình. Một số chỉ có thể là hệ thống hóa hoặc thống nhất các thực tiễn pháp lý khác lại, thậm chí cả các thực tiễn không chính thức. Chúng tôi đã cố gắng tập trung vào các thay đổi trong môi trường pháp lý và với hiểu biết của mình, chúng tôi thấy các sự kiện được mô tả trong các mốc lịch sự này là vẫn mới. Thứ hai là, các phân tích chỉ chủ yếu dựa trên các chính sách đưa ra trong văn bản pháp lý, chứ không phải là việc thực hiện thực tế. Ngày được xem xét ở đây là ngày ban hành các văn bản pháp lý, chứ không phải ngày văn bản pháp lý có hiệu lực.

Page 2: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

158

1996: Việc phân bổ và thực hiện ngân sách địa phương phải được Hội đồng nhân dân các cấp có quyền phê duyệt và giám sát.

Các quy định về thu phí, lệ phí và đóng góp của nhân dân tại cấp địa phương phải được Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định tỷ lệ phân bổ giữa trung ương và địa phương đối với các loại thuế địa phương được giữ một phần.

Các khoản phân bổ ngân sách trung ương cho các tỉnh và các ngành phải được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt.

Kiểm toán Nhà nước thuộc Chính phủ có thẩm quyền kiểm toán tất cả các cơ quan nhà nước và các đơn vị có thu chi ngân sách nhà nước.

1998: Cá nhân và tổ chức có thể khiếu nại về các quyết định/hành vi hành chính và tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của các cấp chính quyền địa phương hoặc của công chức.

Chính quyền cấp xã có nhiệm vụ công bố công khai dự toán và tình hình sử dụng ngân sách xã hàng năm, trong đó có cả ngân sách cấp phát và đóng góp của dân chúng. Nhân dân có quyền giám sát ngân sách xã theo nhiều hình thức.

2002: Phân bổ ngân sách và giao chỉ tiêu thu ngân sách cho ba cấp địa phương phải do Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh thông qua.

Các cơ chế và định mức chi tiêu và phân bổ ngân sách ở các cấp địa phương phải do Hội đồng Nhân dân tỉnh phê chuẩn theo các quy định của chính phủ.

Thẩm quyền phê chuẩn phân bổ ngân sách trung ương cho các tỉnh và ngành được chuyển từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội sang phiên toàn thể của Quốc hội.

2003: Chính quyền cấp xã phải công bố các quy định về đối tượng nộp thuế, các sắc thuế và thuế suất, các loại phí và mức phí.

2004: Chính quyền địa phương tất cả các cấp phải công bố dự toán và tình hình sử dụng ngân sách nhà nước hàng năm, công khai các khoản cấp phát nhận được từ chính quyền cấp cao hơn, và việc thu và sử dụng nguồn đóng góp của nhân dân. 2005: Cá nhân, các tổ chức quần chúng và các phương tiện truyền thông có quyền yêu cầu cung cấp thông tin từ chính quyền các cấp và có quyền nhận được thông tin trong vòng 10 ngày, trừ một số trường hợp. 2007: Ở cấp xã, thời gian, hình thức và trách nhiệm công bố thông tin ngân sách đã được cải thiện. Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng có trách nhiệm giám sát ngân sách xã. Các cấp phó phòng trở lên ở các cấp chính quyền tỉnh và huyện, và một số cán bộ chính quyền cấp xã đều phải kê khai toàn bộ tài sản và thu nhập của mình. Các tổ chức dân sự xã hội, khu vực tư nhân, cơ quan truyền thông và công dân có trách nhiệm và nhiệm vụ khác nhau trong việc ngăn chặn và phát hiện tham nhũng tại tất cả các cấp chính quyền ở địa phương.

1990: Hai cấp ngân sách được quy định: ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh.

1996: Chính quyền cấp tỉnh được chính quyền trung ương cho phép sử dụng 100% khoản thu từ một số loại thuế, và được giữ lại một phần khoản thu từ một số loại thuế khác. Các loại thuế tỉnh được giữ lại một phần bao gồm: VAT, thuế thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp và thuế kiều hối. Các loại thuế tỉnh được giữ lại 100% bao gồm: các loại thuế nhà đất, thuế tài nguyên, các loại phí và lệ phí.

Chính quyền cấp huyện và cấp xã được phép sử dụng những khoản thu không đáng kể khác (thuế môn bài, thuế giết mổ, các loại phí, lệ phí, và đóng góp của nhân dân). Chính quyền cấp huyện và cấp xã cũng được giao một phần ngân sách tỉnh theo quy định của pháp luật.

Quyền quyết định chi tiêu trong nhiều hoạt động được phân cho chính quyền cấp tỉnh, và trong một số hoạt động được phân cho chính quyền cấp huyện và cấp xã. Chính quyền cấp huyện và cấp xã không được quyền chi tiêu cho các hoạt động thuộc lĩnh vực giáo dục, y tế, công nghệ và môi trường, và một số lĩnh vực khác.

Chính quyền tỉnh được trao quyền xây dựng các quy định về việc thu phí và mức đóng góp của nhân dân ở các cấp địa phương

2000: Các tỉnh được khoán ngân sách cho tất cả các chương trình mục tiêu quốc gia (NTPs) và có quyền tự do quyết định việc phân bổ nguồn vốn trong mỗi chương trình hoặc giữa các chương trình với nhau.

2002: Chính quyền tỉnh được trao quyền xây dựng phân bổ ngân sách và giao chỉ tiêu thu thuế cho chính quyền cấp dưới.

Chính quyền tỉnh được trao quyền xây dựng cơ chế và định mức chi tiêu và phân bổ ngân sách cho các cấp dưới tuân theo.

Việc phân bổ ngân sách cân đối từ cấp trung ương xuống cấp tỉnh ổn định cho từng giai đoạn từ 3 đến 5 năm.

Chính quyền cấp tỉnh được quyền chia sẻ quyền sử dụng số thu từ hai loại thuế nữa với chính quyền trung ương: thuế tiêu thụ đặc biệt và phí xăng dầu, đồng thời có thể vay từ nguồn trong nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, với số tiền vay tối đa bằng 30% ngân sách của tỉnh.

2004: Quyền quyết định phân bổ khoán kinh phí giữa các chương trình mục tiêu quốc gia được trao lại cho chính quyền trung ương, nhưng cấp tỉnh vẫn giữ quyền phân bổ vốn cho các dự án cụ thể trong mỗi chương trình mục tiêu.

2006: Các tỉnh được phân bổ các khoản ngân sách dành cho đầu tư xây dựng cơ bản theo cách thức minh bạch và công bằng hơn, dựa trên các tiêu chí như dân số, dân tộc và mức nghèo.

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

Chính quyền địa phương - Ngân sách nhà nước

1986 2009

Page 3: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

159

Chính quyền địa phương - Lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1989: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm của cấp chính quyền nào thì do cấp đó quyết định.

2003: Chính quyền địa phương tất cả các cấp có trách nhiệm cao hơn trong việc điều phối, phân bổ ngân sách và hoàn thành các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội tại cấp chính quyền tương ứng.

2005: Sự tham gia của các chính quyền địa phương vào việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia năm năm ngày càng được đẩy mạnh, đặc biệt là việc các cấp này sớm tham gia vào quá trình xây dựng kế hoạch.

2006: Các quy định về việc xây dựng kế hoạch phát triển vùng được thông qua, trong đó nêu rõ trách nhiệm thể chế, kể cả của chính quyền địa phương.

1989: Chính quyền địa phương phải xây dựng kế hoạch của họ dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia, kế hoạch ngành và vùng kinh tế.1998: Chính quyền cấp xã có nhiệm vụ công bố kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của xã, và tiếp thu nhận xét của công chúng đối với dự thảo kế hoạch này.

2004: Hội đồng Nhân dân tất cả các cấp có quyền ban hành các văn bản pháp luật để quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội tại địa phương mình.Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm và hàng năm của cấp tỉnh phải được xây dựng dựa trên bằng chứng và tham vấn ý kiến của công chúng.

2006: Tất cả các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ công bố trên trang web của mình các chiến lược và quy hoạch tổng thể.Các kế hoạch vùng cũng phải được công bố.2007: Ở cấp xã, trách nhiệm, hình thức và thời điểm công bố và tham vấn về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đã được cải thiện.2009: Việc công bố kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và tiến hành lấy ý kiến của quần chúng đối với dự thảo kế hoạch đã được thể chế hóa ở ba cấp chính quyền dưới chính quyền trung ương (đang đợi phê chuẩn).

Page 4: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

160

Chính quyền địa phương - Đầu tư công

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1996: Chính quyền tỉnh có quyền phân công trách nhiệm ở các cấp địa phương trong chi tiêu cho các dự án đầu tư công. Chính quyền địa phương tất cả các cấp được chi tiêu cho các dự án đầu tư công.1999: Chính quyền cấp tỉnh được trao quyền quyết định các dự án đầu tư công thuộc nhóm B và C (những dự án ít quan trọng).

2000: Ngưỡng giá trị của các dự án đầu tư nhóm B và C đã tăng lên, cho phép chính quyền cấp tỉnh quyết định các dự án đầu tư có giá trị cao hơn.

2005: Việc phân cấp quyết định đầu tư cho cấp tỉnh được thực hiện không tính đến loại hình và quy mô dự án, song các dự án hạng A (các dự án có tầm quan trọng cao hơn) phải được Thủ tướng quyết định, và số tiền cho từng dự án loại A phải được tỉnh và các bộ cùng nhau quyết định.

Chính quyền cấp tỉnh được phép ban hành giấy phép đầu tư nước ngoài.

2006: Việc đánh giá và phê duyệt các dự án có vốn ODA được phân cấp.

Các tỉnh được phân bổ chi tiêu ngân sách một cách minh bạch và công bằng hơn.

2007: Chính quyền cấp tỉnh có quyền phê duyệt danh sách và cấp phép cho các dự án đầu tư trong các dự án hợp tác nhà nước - tư nhân như các dự án BOT, BTO và BT.

1996: Việc phân trách nhiệm tại các cấp địa phương trong chi tiêu cho đầu tư công phải do Uỷ ban Nhân dân tỉnh phê duyệt.

1998: Cá nhân và tổ chức có thể khiếu nại về các quyết định hành chính\các hành vi trái với pháp luật của các cấp chính quyền địa phương và các công chức nhà nước.

Chính quyền xã phải công bố thông tin về các dự án đầu tư tại xã, dự toán và tình hình sử dụng nguốn vốn nhà nước và đóng góp của dân chúng cho các dự án đầu tư.

Người dân tại xã có quyền quyết định hình thức và mức đóng góp của họ đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, có quyền giám sát tất cả các dự án xây dựng ở cấp xã.

1999: Kế hoạch đầu tư của chính quyền cấp tỉnh phải phù hợp với kế hoạch phát triển địa phương và kế hoạch phát triển ngành, đồng thời phải phù hợp với kế hoạch vốn ngân sách. Kế hoạch đầu tư của cấp huyện và cấp xã phải được chính quyền địa phương cấp cao hơn thông qua.

Tất cả các dự án đầu tư bắt buộc phải có các nghiên cứu tiền khả thi.

2003: Hướng dẫn về giám sát và đánh giá các dự án đầu tư cấp tỉnh đã được ban hành. Các Ban quản lý dự án (PMU) phải thực hiện báo cáo đánh giá dự án do họ quản lý mỗi quý một lần.Mua sắm công được tăng cường thông qua hình thức đấu thầu mở (cạnh tranh) và một Bản tin thông báo cơ hội đấu thầu, kết quả trúng thầu, danh sách các công ty không được nhận hợp đồng nhà nước và các thông tin khác liên quan đến đấu thầu.Chính quyền cấp xã phải lấy ý kiến quần chúng về kế hoạch và quy trình thực hiện dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trước khi ra quyết định.2004: Việc phân bổ và sử dụng vốn đầu tư ở tất cả các dự án đầu tư sử dụng nguồn ngân sách nhà nước phải được công bố.2005: Các dự án đầu tư nước ngoài do chính quyền tỉnh cấp phép phải phù hợp với năng lực quản lý và tình hình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.Bắt buộc phải có sự tham gia của cộng đồng trong quá trình xây dựng kế hoạch đầu tư trong lĩnh vực xây dựng. Sau khi thông qua, các kế hoạch này phải được công bố.Nhiều thông tin hơn liên quan đến đấu thầu phải được công bố trên trang web và trên bản tin.Việc giám sát quy trình đấu thầu được cải thiện thông qua việc thành lập thanh tra đấu thầu và hội đồng tư vấn đấu thầu khi có khiếu nại về đấu thầu.Khung pháp lý của việc thành lập và vận hành Ban Giám sát đầu tư cộng đồng đã được thông qua. Ban này được phép giám sát các chương trình và các dự án đầu tư công có ảnh hưởng trực tiếp tới dân cư tại các xã.Các cá nhân, tổ chức quần chúng và phương tiện truyền thông có quyền yêu cầu cung cấp thông tin từ chính quyền các cấp và có quyền nhận được thông tin trong vòng 10 ngày, trừ một số trường hợp. 2006: Các quy hoạch tổng thể về cơ sở hạ tầng phải dựa trên kế hoạch phát triển vùng rộng hơn.

2007: Tiêu chuẩn và báo cáo chi tiết được áp dụng đối với tất cả các dự án đầu tư công có vốn ODA. Những báo cáo này phải được trình lên Quốc hội, Thủ tướng và các tổ chức quần chúng.Các nguyên tắc hiện đại về tính minh bạch và quản trị doanh nghiệp được áp dụng đối với nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng cấp tỉnh.Các tổ chức dân sự xã hội, khu vực tư nhân, cơ quan truyền thông và công dân có trách nhiệm và nhiệm vụ khác nhau trong việc ngăn chặn và phát hiện tham nhũng kể cả các cấp chính quyền ở địa phương.Ở cấp xã, hình thức, trách nhiệm và thời điểm công bố và tham vấn về các kế hoạch và dự án đầu tư đã được cải thiện.Việc giám sát của nhân dân đối với đầu tư cơ sở hạ tầng tại cấp xã đã được cải thiện, đặc biệt là việc trao quyền cho Ban giám sát đầu tư cộng đồng và Ban thanh tra nhân dân.2008: Tiêu chí lựa chọn các dự án đầu tư công cấp tỉnh ngày càng nghiêm ngặt. Các dự án không có vốn đối ứng hoặc không có mục tiêu phù hợp sẽ bị đình lại. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải rà soát lại tất cả các dự án và đình chỉ các dự án được cho là không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp.Kiểm tra việc mua sắm công là bắt buộc đối với một số dự án đầu tư và đối với các PMU của tất cả các cấp chính quyền địa phương, thường dựa trên kế hoạch hoặc khi phát hiện vấn đề bất thường.Một đơn vị đường dây nóng (thường trực) của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã được thành lập để nhận và giải quyết khiếu nại liên quan đến đấu thầu.2009: Tiêu chuẩn giám sát và đánh giá đối với tất cả các dự án đầu tư, kể cả các dự án sử dụng nguồn vốn trong nước, đã được áp dụng.

Page 5: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

161

Chính quyền địa phương - Đầu tư công theo chương trình 135

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1998: Chương trình 135 được khởi động. Chính quyền cấp huyện được quyền nhận vốn trung ương cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng ở những xã đặc biệt khó khăn do chính quyền trung ương quyết định. Các dự án đầu tư trong danh mục có thể được chính quyền xã lựa chọn, nhưng kế hoạch của xã phải được cấp huyện thông qua.

2000: Quyền lập kế hoạch, phân bổ và quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia được chuyển giao từ các cơ quan trung ương tới các tỉnh. Các tỉnh được phân bổ vốn đối với tất cả các chương trình mục tiêu và được tự do phân bổ nguồn vốn giữa các chương trình mục tiêu với nhau, kể cả chương trình 135.2004: Quyết định phân bổ kinh phí khoán của các chương trình mục tiêu quốc gia được trả lại cho chính quyền trung ương, nhưng các tỉnh vẫn giữ quyền quyết định phân bổ vốn giữa các dự án cụ thể trong mỗi chương trình mục tiêu.

2006: Giai đoạn 2 của chương trình 135 được thông qua cho giai đoạn 2006-2010. Chương trình này đã hoàn toàn trao quyền quản lý các dự án đầu tư cho cấp xã.

1998: Thông tin về các dự án đầu tư tại xã cần phải được công bố. Dự toán và tình hình sử dụng nguốn vốn nhà nước và đóng góp của dân cho các dự án đầu tư cũng phải được công bố. Người dân tại xã có quyền quyết định hình thức và mức đóng góp của họ đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, có quyền giám sát tất cả các dự án xây dựng ở cấp xã.

2003: Chính quyền xã có trách nhiệm lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về dự thảo triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, kể cả chương trình 135.2005: Giám sát cộng đồng đối với các chương trình và các dự án đầu tư công có ảnh hưởng trực tiếp tới dân cư trong xã được thực hiện thông qua việc áp dụng khung pháp lý thành lập và hoạt động của Ban Giám sát đầu tư cộng đồng. Báo cáo và đề xuất của các ban này sẽ được chuyển tới chính quyền địa phương, Hội đồng Nhân dân, Bộ Kế hoạch Đầu tư và Thủ tướng.

2006: Chương trình 135 tăng sự tham gia của dân trong quá trình lập kế hoạch và quản lý đầu tư ở cấp xã. Đồng thời, đối thoại ở cấp này cũng thúc đẩy sự tiếp cận của dân chúng với thông tin về chương trình 135.2007: Thời điểm và hình thức công bố thông tin ở cấp xã đã được cải thiện. Hình thức lấy ý kiến dân về kế hoạch dự thảo cũng đã được cải tiến. Trách nhiệm của chính quyền xã trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ này cũng được quy định rõ và được tăng cường.Giám sát của người dân đối với đầu tư cơ sở hạ tầng ở cấp xã đã được cải thiện, đáng chú ý là việc trao quyền cho Ban Giám sát đầu tư cộng đồng và Ban Thanh tra Nhân dân.

Page 6: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

162

Chính quyền địa phương – Quản lý sử dụng đất

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1993: Chính quyền địa phương các cấp có trách nhiệm lập kế hoạch sử dụng đất tại địa phương.Chính quyền cấp huyện và cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định thu hồi và phân bổ đất cho các tổ chức (chính quyền tỉnh) và các hộ gia đình/các cá nhân (chính quyền huyện) để sản xuất nông nghiệp hoặc lâm nghiệp.Chính quyền cấp tỉnh có thẩm quyền quyền quyết định thu hồi và phân bổ đất vì các mục đích khác nông lâm nghiệp nhưng chỉ với các mảnh đất có diện tích nhỏ và trung bình, từ 1 đến 10 hecta, tùy trường hợp.

2001: Chính quyền cấp tỉnh hiện có quyền quyết định thu hồi, phân bổ, chuyển đổi hoặc cho thuê đất đối với tất cả các loại đất (bất kể diện tích), vì mục đích ngoài nông nghiệp và lâm nghiệp, trừ trường hợp vì an ninh/quốc phòng hay vì mục đích huy động vốn cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.Chính quyền cấp huyện có thẩm quyền quyết định thu hồi, phân bổ, chuyển đổi hoặc cho thuê đất đối với hộ gia đình/cá nhân vì mục đích ngoài hoạt động nông lâm nghiệp. Chính quyền xã được trao quyền cho thuê đất để sử dụng cho nông nghiệp và lâm nghiệp.2003: Chính quyền cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng và triển khai các dự án tái định cư để đền bù cho các cá nhân bị thu hồi đất hoặc để tái định cư cho họ. Chính quyền cấp tỉnh cũng có thẩm quyền quyết định khung giá đất hàng năm để tính tiền bồi thường và vì các mục đích khác.Thẩm quyền xây dựng kế hoạch sử dụng đất của các xã tại khu vực phát triển thành thị được chuyển từ chính quyền cấp xã cho chính quyền cấp huyện.

1993: các kế hoạch sử dụng đất do chính quyền địa phương chuẩn bị phải được Hội đồng Nhân dân phê chuẩn trước, sau đó trình lên cấp lãnh đạo trực tiếp phê chuẩn.Các quyết định về đất đai của chính quyền địa phương phải phù hợp với các kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. Việc quản lý đất của chính quyền địa phương sẽ được thanh tra đất đai chuyên biệt. Nguyên nhân, thời gian và mức đền bù thu hồi đất phải được báo trước cho người sử dụng đất liên quan. 1998: các cá nhân và tổ chức có thể đưa đơn khiếu nại về các quyết định/hành vi hành chính và tố cáo những hành vi bất hợp pháp của tất cả các cấp chính quyền địa phương và viên chức.Chính quyền xã phải công bố kế hoạch sử dụng đất và phải tham vấn với người dân về bản thảo kế hoạch sử dụng đất. Các kế hoạch và mức đền bù dự kiến cho đất bị giải tỏa. Người dân có quyền giám sát quản lý đất đai ở cấp xã.

2003: Kế hoạch sử dụng đất, các quyết định thu hồi đất, kế hoạch bồi thường thu hồi đất, địa điểm bồi thường và tái định cư, giá đất phải được công bố công khai.Người có quyền sử dụng đất được nhận số tiền bồi thường lớn hơn và được hưởng các chính sách hỗ trợ tái định cư tốt hơn. Khung giá đất áp dụng để đền bù phải gần với giá thị trường và dựa trên phương pháp định giá do chính phủ quy định.Chuyển đổi đất tự nguyện được áp dụng đối với một số dự án đầu tư thương mại. Theo thể thức này, người có đất có quyền đàm phán trực tiếp với nhà đầu tư để có giá đền bù thỏa đáng.2004: Hạn chế đối với một số loại dự án có thể thu hồi đất.Kế hoạch sử dụng đất tại các khu công nghệ cao và các khu kinh tế phải được công bố công khai. Tất cả các kế hoạch sử dụng đất phải được công bố chi tiết.Thông tin liên hệ về việc tiếp nhận các khiếu nại tố cáo liên quan đến đất đai, và các quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai phải được công bố công khai.Hệ thống định giá đất trở nên linh hoạt hơn và phải được điều chỉnh phù hợp với sự thay đổi giá trị thị trường. Các chính sách hỗ trợ chi tiết đối với người phải tái định cư đã được quy định. 2005: Dân chúng có quyền được thông tin về tiến trình lập kế hoạch sử dụng đất của cơ quan tất cả các cấp. Việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất cần đảm bảo tính dân chủ và công khai.Các hướng dẫn xây dựng kế hoạch sử dụng đất được ban hành, trong đó chỉ rõ thẩm quyền và nghĩa vụ của mỗi cấp chính quyền.2006: Khung giá đất được sử dụng cho việc tính tiền đền bù phải bằng với giá thị trường khi giá do chính quyền tỉnh quy định không phù hợp với giá thị trường. Các chính sách hỗ trợ thay đổi nghề nghiệp được cải thiện đối với các hộ gia đình bị mất hơn 30% đất nông nghiệp của mình.

2007: Dự thảo kế hoạch đền bù, hỗ trợ và tái định cư được công bố công khai để nhân dân góp ý. Phải có câu trả lời trong trường hợp có nhiều quan điểm phản đối kế hoạch dự thảo này.Thủ tục đền bù và tái định cư được làm rõ trong trường hợp người chiếm đất thiếu chứng nhận quyền sử dụng đất.Một hệ thống đền bù mới đang được thí điểm để giải quyết hiệu quả hơn các khiếu nại liên quan đến đất đai.Tại cấp xã , thời gian, hình thức và trách nhiệm công bố công khai và tham vấn kế hoạch liên quan đến đất đai đã có tiến bộ rõ rệt. Ban Thanh tra Nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng có trách nhiệm giám sát công tác quản lý sử dụng đất ở cấp xã.2008: Trong lĩnh vực phát triển lâm nghiệp, hướng dẫn về tham gia xây dựng kế hoạch sử dụng đất và giám sát độc lập đã được ban hành. 2009: Đền bù thu hồi đất phải dựa trên giá thị trường vào thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất. Các chính sách hỗ trợ cho tái định cư đã có nhiều chuyển biển tốt. Quỹ phát triển đất được giao thành lập cho chính quyền xã và huyện để thực hiện thu hồi đất, tái định cư và bồi thường đất hiệu quả hơn.Các kế hoạch phát triển đô thị cần công bố công khai cho nhân dân. Các dự thảo kế hoạch phải được tham vấn quần chúng và được gửi tới Quốc hội và Hội đồng Nhân dân.Một khuôn khổ toàn diện hơn được áp dụng đối với việc đền bù cho cá nhân, tổ chức vì những thiệt hại do hoạt động phi pháp của cán bộ nhà nước gây ra, bao gồm các hoạt động trong quá trình thu hồi, phân bổ và chuyển đổi mục đích sử dụng đất, cũng như trong quá trình đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư.

Page 7: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

163

Chính quyền địa phương - Quản lý nguồn nhân lực

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1998: Chính quyền cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý công chức phù hợp với luật pháp và quy định của Chính phủ. Công tác quản lý công chức bao gồm: tuyển dụng, bổ nhiệm, quyết định về kế hoạch nhân sự, đánh giá công tác, điều tra triển khai các quy định và các công việc khác.Các vị trí quản lý ở chính quyền địa phương có trách nhiệm về chất lượng công việc của đội ngũ cán bộ cấp dưới.

2001: Người đứng đầu các đơn vị hành chính tại tất cả các cấp chính quyền theo hình thức khoán ngân sách có quyền sử dụng tiết kiệm chi phí để tăng lương cho nhân viên lên gấp 2,5 lần lương cơ bản.

2003: Người đứng đầu chính quyền cấp tỉnh có trách nhiệm lập kế hoạch và đánh giá đội ngũ tại các đơn vị mình và của chính quyền huyện.2004: Người đứng đầu chính quyền cấp tỉnh có quyền quyết định tăng bậc lương và trợ cấp cho công chức tại tất cả các cấp ở địa phương.Chính quyền cấp tỉnh có quyền và có trách nhiệm sử dụng các nguồn tài chính của mình để trả lương cho công chức làm việc tại chính quyền địa phương.

2005: Các đơn vị hành chính cấp địa phương theo hình thức khoán ngân sách có nhiều quyền tự chủ hơn trong việc trả lương cho nhân viên của mình.Trưởng và phó các cơ quan đơn vị ở tất cả các cấp chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm ngăn chặn tham nhũng trong lĩnh vực của mình.2009: Người đứng đầu cơ quan, đơn vị ở tất cả các cấp có trách nhiệm đánh giá năng lực của công chức trong lĩnh vực của họ.Chính quyền cấp tỉnh có quyền phân cấp và tiến hành tuyển dụng công chức trong phạm vi pháp luật cho phép. Họ cũng có quyền ban hành quy định về quyền hạn, trình tự và thủ tục bổ nhiệm công chức vào các vị trí lãnh đạo hoặc quản lý.Chính quyền cấp huyện có quyền quyết định quản lý nguồn nhân lực nhưng chỉ khi họ được chính quyền cấp tỉnh giao thực hiện quyền này.

1993: Mức lương cơ bản tối thiểu và hệ số lương là chế độ bắt buộc đối với công chức ở tất cả các cấp chính quyền địa phương.1998: Việc tuyển dụng và quản lý công chức tại chính quyền địa phương cần phải phù hợp với nguyên tắc, thủ tục và kỷ luật quy định trong Pháp lệnh Công chức và Viên chức.Các công chức tại cấp địa phương có thể khiếu nại về các quyết định kỷ luật của những người có thẩm quyền nếu người đó vi phạm pháp luật và vi phạm quyền lợi chính đáng của họ.

2003: Kế hoạch nhân sự của các chính quyền địa phương phải phù hợp với định mức biên chế và các định mức do chính quyền trung ương quyết định. Việc quản lý đội ngũ của chính quyền cấp tỉnh phải được đặt dưới sự thanh tra giám sát của chính quyền trung ương.Kế hoạch đội ngũ viên chức hàng năm của chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện phải được Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh thông qua.2004: Việc tăng lương và trợ cấp phải theo đúng hướng dẫn của chính quyền trung ương.Các đơn vị thuộc chính quyền địa phương không được phép sử dụng 10% chi tiêu thường xuyên để trả lương. Ở các đơn vị này, ít nhất 35 đến 40% nguồn thu có được phải dùng để trả lương. Lương phải được trả với 50% chênh lệch giữa thu trên kế hoạch và thu thực tế của chính quyền địa phương.

2005: Tất cả các chính quyền địa phương đều phải công bố việc tuyển dụng công chức về số lượng, tiêu chí, hình thức và kết quả tuyển dụng, và kế hoạch đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, đào tạo, sa thải, kỷ luật và nghỉ hưu của cán bộ công chức.Công chức ở cấp địa phương có quyền yêu cầu cung cấp thông tin từ thủ trưởng đơn vị mà người đó làm việc, và có quyền nhận được thông tin trong vòng 10 ngày, trừ một số trường hợp.Việc quản lý công chức ở tất cả các chính quyền địa phương phải tuân theo các quy định của Luật Phòng chống Tham nhũng, ví dụ như việc luân chuyển các vị trí nhạy cảm, kê khai thu nhập và tài sản, trả lương qua tài khoản ngân hàng, hạn chế nhận quà biếu, và các quy tắc đạo đức. 2007: Chủ tịch và phó chủ tịch chính quyền xã phải do các nhóm cộng đồng khác nhau bỏ phiếu tín nhiệm.2009: Nguyên tắc cạnh tranh, dựa trên năng lực, và minh bạch phải được áp dụng trong công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt và miễn nhiệm công chức tại chính quyền các cấp ở địa phương.Tiêu chí đánh giá công chức ở tất cả các cấp chính quyền địa phương bao gồm kết quả công tác tại vị trí được bổ nhiệm và thái độ với dân chúng.

Page 8: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

164

Các đơn vị hành chính

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1999: Các đơn vị nhận đăng ký kinh doanh được trao trách nhiệm rõ ràng trong việc nhận đăng ký và quản lý kinh doanh.2001: Các đơn vị hành chính tại tất cả các cấp chính quyền có quyền kiểm soát phân bổ đáng kể đối với khoán ngân sách cố định 3 năm từ ngân sách nhà nước dành cho chi tiêu hành chính và trả lương cán bộ. Tiết kiệm chi phí có thể được sử dụng để tăng lương cho cán bộ với mức tối đa gấp 2,5 lần lương cơ bản.

2003: Các đơn vị địa chính phải được thành lập ở cấp tỉnh, và có thể ở cả cấp xã nếu có nhu cầu. Các đơn vị này chịu trách nhiệm đăng ký các giao dịch đất đai, quản lý các hồ sơ dất đai, và thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến đất đai.2005: Các đơn vị hành chính có nhiều quyền tự chủ hơn trong các chi tiêu hành chính và trả lương cho cán bộ.

2007: Công tác quản lý thuế trên phạm vi quốc gia được phân cho các đơn vị chức năng, ví dụ như các đơn vị thu thuế, các đơn vị đăng ký người nộp thuế…Việc áp dụng chính phủ điện tử được trao cho các đơn vị công nghệ thông tin chuyên biệt ở cả cấp trung ương và cấp tỉnh.

1996: Mô hình một cửa lần đầu tiên được thí điểm ở TP Hồ Chí Minh.1998: Cá nhân và tổ chức có thể khiếu nại các quyết định/hành vi hành chính và tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác.Ở cấp xã, quy định về thủ tục hành chính và giải quyết công việc của người dân phải được công bố công khai.2001: Người đứng đầu đơn vị hành chính phải sắp xếp hợp lý cơ cấu tổ chức của mình, giảm số lượng đội ngũ, và chuẩn bị kế hoạch sử dụng số tiền tiết kiệm.

2003: Mô hình một cửa phải được triển khai ở bốn cơ quan cấp tỉnh. 6 thủ tục cấp huyện và 4 thủ tục ở cấp xã.2004: Cuộc điều tra thẻ báo cáo công dân được tiến hành thí điểm ở 4 thành phố trong các dịch vụ công khác nhau, trong đó có cả dịch vụ hành chính.2005: Các đơn vị hành chính có trách nhiệm công bố thủ tục hành chính, các quyết định giải quyết khiếu nại và tố cáo.Các tỉnh và các bộ tiến hành rà soát thủ tục hành chính để giảm số lượng thủ tục.Cuộc điều tra doanh nghiệp về Chỉ số Cạnh tranh cấp Tỉnh (PCI) đã được tiến hành để đánh giá các khía cạnh trong năng lực điều hành cấp tỉnh và các thủ tục hành chính.

2006: Tất cả các cơ quan nhà nước phải công bố trên trang web của mình những thủ tục hành chính và công chức chịu trách nhiệm thực hiện những thủ tục hành chính đó. Trang web của Nhà nước cũng phải được sử dụng để cung cấp dịch vụ trực tuyến.Các đơn vị hành chính phải có trách nhiệm công bố thông tin liên hệ về việc nhận khiếu nại tố cáo của nhân dân đối với các thủ tục hành chính.Một công cụ giám sát môi trường đầu tư với câu hỏi về thủ tục hành chính đã được áp dụng triển khai với tư cách là một phần trong cuộc điều tra doanh nghiệp hàng năm.2007: Mô hình một cửa phải được áp dụng ở tất cả các cấp và các đơn vị hành chính. Sáng kiến một cửa liên kết với các đơn vị và/hoặc các cấp hành chính khác đã được áp dụng triển khai.Các tổ chức dân sự xã hội, công ty tư nhân, cơ quan truyền thông và công dân có trách nhiệm ngăn chặn và phát hiện tham nhũng, kể cả các đơn vị hành chính.Ở cấp xã, thời điểm, hình thức và trách nhiệm công bố thủ tục hành chính đã được cải thiện.

2008: Kế hoạch đơn giản hóa thủ tục hành chính vào năm 2010 của các bộ và các tỉnh đã được ban hành.Cá nhân và tổ chức có thể gửi phản hồi về tất cả các loại thủ tục hành chính hiện hành. Kết quả giải quyết những phản hồi này phải được công bố công khai trên cơ sở dữ liệu trên phạm vi quốc gia.Điều tra mức sống hộ gia đình phạm vi quốc gia lần đầu tiên đưa thêm câu hỏi về thủ tục hành chính.2009: Các nguyên tắc tham vấn và thân thiện với người sử dụng phải được áp dụng một cách có hệ thống trong quá trình xây dựng thủ tục hành chính mới và trong quá trình rà soát các thủ tục hành chính hiện hành (chưa được thông qua).Dữ liệu điện tử quốc gia về tất cả các thủ tục hành chính được khởi động.Các bộ và các tỉnh phải cung cấp dịch vụ trực tuyến cấp 2 và ưu tiên một số dịch vụ cấp 3.Điều tra công dân và doanh nghiệp về các khoản chi phi chính thức phải được tiến hành hàng năm. Một khuôn khổ toàn diện hơn được áp dụng cho việc bồi thường cho cá nhân và tổ chức bị thiệt hại do các hoạt động phi pháp của công chức, bao gồm cả những hành vi vi phạm

Page 9: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

165

Các đơn vị cung cấp dịch vụ (đơn vị sự nghiệp) trong ngành Y tế và Giáo dục

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1989: Bệnh viện nhà nước được phép thu phí để trang trải phần nào chi phí và khắc phục khó khăn tài chính.

2002: Các đơn vị sự nghiệp tự chủ hoàn toàn hay một phần về tài chính trong ngành y tế và giáo dục được ngân sách nhà nước hỗ trợ theo khoán ngân sách 3 năm. Các đơn vị này được khuyến khích tăng nguồn thu và được phép sử dụng nguồn thu để tái đầu tư và tăng lương cho cán bộ nhân viên. Các đơn vị này được phép vay từ ngân hàng thương mại để mở rộng và cải thiện chất lượng dịch vụ, được phép giữ lại số tiền thu được từ việc thanh lý tài sản, và được tuyển nhân viên hợp đồng khi có nhu cầu. Các đơn vị sự nghiệp có nhiều quyền tự chủ hơn trong việc quy định mức phí người sử dụng đối với các dịch vụ theo yêu cầu và các dịch vụ không thiết yếu.2005: Các đơn vị sự nghiệp trong ngành y tế được phép huy động đầu tư tư nhân để thành lập liên doanh và hợp tác kinh doanh, để phát triển dịch vụ chất lượng tốt hơn cho những người sẵn sàng trả mức phí cao hơn.

2006: Các đơn vị sự nghiệp được cấp vốn nhà nước 100% cũng được trao quyền tự chủ về tài chính. Người đứng đầu các đơn vị này có nhiều thẩm quyền hơn trong việc cắt giảm chi phí và tăng thu nhập. Ngoài ra, người đứng đầu còn có quyền quản lý nguồn nhân lực (tuyển dụng, đề bạt, phân công, buộc thôi việc) và quyền đối với các đơn vị trực thuộc (thành lập, sáp nhập, giải thể). Các đơn vị hoàn toàn tự chủ về tài chính có thể tự do quy định mức lương cho nhân viên, còn việc khống chế lương nhân viên trong các đơn vị tự chủ tài chính một phần cũng đã được nhẹ bớt.

1994: Chương trình phí người sử dụng trong lĩnh vực y tế được thành lập với các loại phí cho các loại dịch vụ ở các bệnh viện khác nhau.1998: Cá nhân và tổ chức có thể khiếu nại các quyết định hành chính/các hành vi vi phạm pháp luật của tất cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác.

2002: Mức lương điều chỉnh của cán bộ tại các đơn vị tự chủ tài chính một phần hay hoàn toàn được phép lớn gấp 2 và 2,5 lần so với mức lương tối thiểu. Phần trả thêm cho nhân viên phải thực hiện dựa trên kết quả công việc. Mức lương phải được công bố công khai và tham vấn với công đoàn trước khi thông qua. Người đứng đầu các đơn vị này có trách nhiệm giải trình về các quyết định tài chính và nguồn nhân lực. Họ có trách nhiệm đệ trình dự toán ngân sách và báo cáo tài chính thường niên lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.2004: Áp dụng tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu đối với các trường tiểu học trên khắp cả nước.Các đơn vị sự nghiệp trong y tế và giáo dục phải công bố chi tiêu ngân sách nhà nước hàng năm, cũng như việc thu và sử dụng các khoản đóng góp từ các cá nhân và tổ chức.Điều tra thẻ báo cáo công dân được thí điểm tại 4 thành phố khu vực thành thị đối với nhiều loại hình dịch vụ công, trong đó có dịch vụ y tế và giáo dục.2005: Các đơn vị cung cấp dịch vụ giáo dục phải công bố thông tin tuyển sinh, thi cử, cấp bằng và chứng chỉ. Các đơn vị phân phối dịch vụ trong y tế và giáo dục phải công bố thông tin về thu, quản lý và sử dụng tài sản nhà nước.

2006: Các Bộ có trách nhiệm phải xây dựng tiêu chí cụ thể đánh giá năng lực của các đơn vị sự nghiệp trong y tế và giáo dục, bao gồm cả chất lượng dịch vụ. Phản hồi từ người sử dụng dịch vụ cũng phải được sử dụng trong đánh giá.Các đơn vị sự nghiệp trong y tế và giáo dục phải dành ra 25% thu nhập ròng của họ để đầu tư vào chất lượng dịch vụ trước khi trả lương mềm cho nhân viên. Mức lương cho nhân viên trong các đơn vị hoạt động hoàn toàn nhờ nguồn vốn nhà nước bị khống chế tối đa.Người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp trong y tế và giáo dục có trách nhiệm tạo điều kiện để Đảng và các tổ chức quần chúng cùng giám sát và quản lý các hoạt động của đơn vị mình.2007: Tiêu chuẩn năng lực đối với giáo viên tiểu học được mở rộng trên phạm vi quốc gia, bao gồm cả việc đánh giá dựa trên bằng chứng.Các tổ chức dân sự xã hội, công ty tư nhân, cơ quan truyền thông và công dân có trách nhiệm ngăn chặn và phát hiện tham nhũng , kể cả trong các đơn vị sự nghiệp trong ngành y tế và giáo dục.Người đứng đầu và quan chức cao cấp trong các đơn vị sự nghiệp trong y tế và giáo dục phải kê khai thu nhập và tài sản của mình.

2008: Trong lĩnh vực y tế, tất cả các đơn vị sự nghiệp phải tự đánh giá kết quả hoạt động hàng năm.Điều tra quốc gia về mức sống hộ gia đình lần đầu tiên đưa câu hỏi về chi phí, chất lượng và tham nhũng trong dịch vụ y tế công và dịch vụ giáo dục.Các hành vi tiêu cực và lạm dụng vị trí thầy thuốc để kiếm lợi nhuận, ví dụ như đòi quà biếu hoặc tiền đút lót, bị nghiêm cấm.2009: Học phí ở các trường trung học và đại học phải được điều chỉnh để phản ánh các điều kiện kinh tế địa phương và khả năng đóng góp của người dân.Một cuộc Điều tra công dân hàng năm phải được tiến hành. Tiêu chí đánh giá hiệu trưởng của các trường trung học đã được xây dựng một cách cụ thể và được sử dụng để đề bạt hay miễn nhiệm. Một hệ thống cấp giấy chứng nhận hành nghề y tế đang được phác thảo, để đảm bảo mọi thầy thuốc đều được cấp chứng chỉ hành nghề có chất lượng và có đủ phẩm chất, đồng thời quy định các hình thức kỷ luật nếu họ mắc lỗi nhiều lần (chưa thông qua).

Page 10: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

166

Các chủ thể ngoài quốc doanh trong cung cấp dịch vụ

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1993: Chính thức cho phép các đơn vị tư nhân cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế.1994: Chính thức cho phép các đơn vị tư nhân cung cấp dịch vụ giáo dục.

1999: Lần đầu tiên thông qua các chính sách khuyến khích hoạt động ngoài quốc doanh trong lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa và thể thao.Thông qua khung pháp lý cho phép các quỹ xã hội và từ thiện hoạt động với mục đích phi lợi nhuận về phát triển văn hóa, thể thao, khoa học và xã hội.

2003: Thông qua các chính sách hỗ trợ phát triển lĩnh vực chăm sóc y tế tư nhân.2005: Mở cửa giáo dục đại học cho các đơn vị tư nhân tham gia.Khu vực tư nhân được phép đầu tư vào các đơn vị cung cấp dịch vụ trong y tế qua hình thức: liên doanh, hợp tác kinh doanh và phát triển dịch vụ chất lượng tốt hơn cho những đối tượng trả thêm phí.

2006: Tất cả các tổ chức xã hội, các tổ chức nghề nghiệp xã hội, các tổ chức kinh tế, các nhóm cá nhân và cá nhân được phép thành lập cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài quốc doanh trong các lĩnh vực. Các chính sách thúc đẩy phát triển cơ sở ngoài quốc doanh bao gồm: ưu đãi tín dụng và đất đai, giảm hoặc miễn nhiều loại phí và thuế. Các cơ sở phi nhà nước được phép huy động doanh thu từ các nguồn khác nhau và phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ đóng góp của các thành viên.2007: Các quỹ xã hội và từ thiện được phép hoạt động với mục đích phi lợi nhuận thúc đẩy phát triển giáo dục và y tế.2008: Ban hành nhiều chính sách ưu đãi hơn cho các cơ sở ngoài quốc doanh trong việc cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa, thể thao và môi trường.Các doanh nghiệp tư nhân có các cơ sở, các dự án đầu tư, liên doanh hoặc đối tác trong các lĩnh vực dịch vụ kể trên được hưởng chính sách ưu tiên giống như các chính sách ưu tiên dành cho các cơ sở dịch vụ ngoài quốc doanh.

1993: Sở Y tế tỉnh có trách nhiệm thúc đẩy sự tham gia của các đơn vị tư nhân, trong đó có việc cấp phép và chứng nhận hoạt động cho các đơn vị này.

1999: Các quỹ xã hội và từ thiện phải được một hội đồng được thành lập được bầu ra quản lý và một Ban kiểm soát độc lập thanh kiểm tra. Việc thành lập, điều lệ hoạt động hoạt động, sát nhập, chia tách hay giải thể các quỹ nói trên phải được chính phủ phê chuẩn.

2003: Vai trò quản lý nhà nước của Bộ Y tế trong lĩnh vực y tế tư nhân được tăng cường.2005: Tất cả các cơ sở trong lĩnh vực giáo dục phải công bố thông tin về tuyển sinh, các kỳ thi, điều kiện cấp bằng và giấy chứng nhận.

2006: Các cơ sở dịch vụ ngoài quốc doanh phải công khai tài chính và hoạt động của họ, phải thực hiện báo cáo định kỳ và chịu sự giám sát của bộ chủ quản, bộ Tài chính và của Cơ quan Thuế. Các bộ chủ quản và chính quyền địa phương tất cả các cấp có trách nhiệm cấp và rút phép đối với các cơ sở ngoài quốc doanh và có trách nhiệm đảm bảo chất lượng dịch vụ.2008: Các doanh nghiệp tư nhân có cơ sở, các dự án đầu tư, liên doanh hoặc đối tác trong các lĩnh vực dịch vụ công phải có trách nhiệm giải trình giống như của các cơ sở dịch vụ ngoài quốc doanh.

Page 11: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

167

Hệ thống xây dựng pháp luật

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1996: Các cấp có thẩm quyền ở trung ương được ban hành các văn bản pháp luật được giới hạn ở: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chính phủ, các Bộ trưởng, người đứng đầu các cơ quan trung ương, Hội đồng Thẩm phán của Tòa án Nhân dân Tối cao, và Viện trưởng viện Kiểm sát nhân dân Tối cao.

2002: Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao được Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trao quyền ban hành các văn bản pháp luật.2004: Hội đồng Nhân dân và các Ủy ban Nhân dân được ban hành văn bản pháp luật, đồng thời triển khai thực hiện văn bản pháp luật do cấp cao hơn ban hành, đặc biệt trong các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội, ngân sách, an ninh quốc phòng, sinh kế cho người dân, và kết quả hoạt động của các chức năng quản lý nhà nước.

2008: Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trao quyền ban hành các văn bản pháp luật cho Tổng Kiểm toán Nhà nước.Các loại văn bản pháp luật do các cơ quan riêng rẽ có thẩm quyền ban hành đã giảm đi.

1996: Trước khi ban hành, các văn bản pháp luật của cấp trung ương phải được Bộ Tư pháp, Ủy ban Dân tộc của Quốc hội và/hoặc các Ủy ban Chuyên trách của Quốc hội thẩm tra.Các văn bản pháp luật đã được thông qua phải được đăng Công báo, được công khai trước công chúng và được thông báo cho các cơ quan truyền thông.Việc lấy ý kiến dân chúng về các văn bản pháp luật tùy thuộc vào tính chất và nội dung của văn bản luật dự thảo.Các tổ chức quần chúng được phép ban hành văn bản pháp luật chung với các cơ quan chính phủ, đồng thời có quyền đưa ra đề xuất đối với văn bản pháp luật dự thảo.Các văn bản pháp luật đã được thông qua phải được giám sát để phát hiện và xử lý những văn bản không hợp pháp.1998: Chính quyền xã phải công bố các văn bản pháp lý do chính quyền xã ban hành và các văn bản pháp luật do chính quyền cấp trên ban hành nhưng có liên quan tới xã mình.Tất cả các văn bản pháp luật dự thảo của Ủy ban Nhân dân đều phải được tham vấn.2001: Trách nhiệm thẩm tra luật của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội và của các Ủy ban chuyên trách của Quốc hội được quy định rõ.

2002: Trong quá trình soạn thảo, phải thu thập ý kiến của các bên liên quan chịu tác động trực tiếp của văn bản pháp luật.Ủy ban Pháp luật của Quốc hội được giao nhiệm vụ thẩm tra và đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của các dự thảo luật và pháp lệnh.Một quy trình nghe trình bày dự thảo luật và pháp lệnh trong hai kỳ hợp quốc hội đã được đưa vào áp dụng.2004: Trước khi ban hành, các văn bản pháp luật của cấp địa phương phải được thẩm tra bởi Sở Tư pháp địa phương và/hoặc bộ phận của Hội đồng Nhân dân.Ban hành hướng dẫn rõ ràng về thời điểm và quy tắc công bố các văn bản pháp luật trên Công báo.2005: Văn bản chỉ có hiệu lực thi hành khi được công bố công khai.Ban hành quy định về việc tiếp thu ý kiến của các bên liên quan chịu ảnh hưởng trực tiếp của văn bản pháp luật.Bộ Tư pháp khởi động cơ sở dữ liệu pháp luật điện tử.2006: Quốc hội cho phép dân chúng tiếp cận vào cơ sở dữ liệu pháp luật của mình.2007: Một Ủy ban riêng biệt của Quốc hội được thành lập chuyên về các vấn đề pháp luật, tạo điều kiện cho nhiệm vụ thẩm tra luạt của Quốc hội.Quốc hội công bố trang web để tiếp thu ý kiến quần chúng về dự thảo luật và pháp lệnh.Ở cấp xã, thời điểm, hình thức và trách nhiệm công bố các văn bản pháp luật đã được cải thiện.

2008: Trách nhiệm cụ thể của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội liên quan đến việc thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của các dự thảo luật và pháp lệnh được tăng cường.Tẩt cả các dự thảo tài liệu pháp lý phải được công bố trên trang web và dưới các hình thức khác trong vòng ít nhất 60 ngày để lấy ý kiến quần chúng.Tẩt cả các dự thảo tài liệu pháp lý phải được lấy ý kiến từ Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Ngoại giao về nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, môi trường và các điều ước quốc tế.Quy trình làm luật nhanh được áp dụng đối với các trường hợp khẩn cấp hoặc cần có thay đổi pháp lý ngay.Bộ Tư pháp có trách nhiệm giám sát thi hành các văn bản pháp luật, tập trung vào các vấn đề vĩ mô và các vấn đề liên bộ.2009: Các cơ quan soạn thảo phải giải thích công khai những vấn đề dư luận quan tâm.Các chương trình soạn thảo luật phải được công bố trên trang web của Bộ Tư pháp để lấy ý kiến dư luận trong ít nhất 20 ngày.Việc đánh giá tác động của các văn bản pháp luật (RIA) trở thành ưu tiên bắt buộc trước khi soạn thảo, trong quá trình soạn thảo và 3 năm sau khi văn bản có hiệu lực thi hành. Tất cả các báo cáo RIA phải được công bố công khai để lấy ý kiến dư luận.Các cơ quan soạn thảo được phép huy động các tổ chức và cá nhân đánh giá tác động của văn bản pháp luật, đánh giá quá trình thực hiện văn bản pháp luật, tiến hành điều tra và phân tích pháp luật.Các văn bản pháp luật đã được thông qua phải được các cơ quan chính phủ rà soát định kỳ, phải được pháp điển hóa 5 năm một lần theo chủ đề và lĩnh vực. Thông qua việc rà soát và pháp điển hóa, những quy định trái ngược nhau, những quy định chồng chéo, các văn bản không phù hợp và lỗi thời sẽ được xác định.

Page 12: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

168

Hệ thống tuyên truyền phổ biến pháp luật

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1987: Các luật sư được phép cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý và tham gia vào các hoạt động tố tụng với tư cách thành viên của hội luật gia.1994: Các Công đoàn có quyền tư vấn pháp luật đối với Luật Lao động.1997: Các trung tâm hỗ tư pháp của Nhà nước được Bộ Tư pháp quản lý được phép hoạt động. Chức năng của các trung tâm này là cung cấp tư vấn pháp lý và dịch vụ tư pháp miễn phí cho người nghèo và cho các đối tượng thuộc diện chính sách.

2001: Luật sư được phép cung cấp tư vấn pháp lý và tham gia vào các hoạt động tố tụng. Họ có thể làm việc ở các hãng luật hoặc các văn phòng pháp luật.2002: Thành lập quỹ trợ giúp pháp lý để hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp luật của nhà nước.2003: Các tổ chức dân sự xã hội được phép cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý thông qua các trung tâm tư vấn pháp lý. Họ có trách nhiệm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho một số nhóm đối tượng nhưng họ cũng có thể thu phí dịch vụ.2004: Điều lệ hoạt động mới của Hội Luật sư Việt Nam đã công nhận quyền của Hội được tham gia vào các hoạt động tư vấn và phổ biến pháp lý, quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí cho một số nhóm đối tượng.2005: Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 bao gồm mục tiêu thúc đẩy quyền hành động độc lập và quyền tự quyết của các tổ chức luật sư.Chiến lược phát triển hệ thống tư pháp đến năm 2010 bao gồm mục tiêu tăng cường phổ biến pháp luật, tư vấn pháp lý và dịch vụ trợ giúp tư pháp.

2006: Luật Luật sư mới đã đưa ra khung hành nghề luật độc lập nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi chính đáng của khách hàng.Các luật sư được phép đại diện khách hàng của họ trong tiến trình tư pháp và thực hiện hành luật không chỉ tại các tổ chức hành nghề luật mà còn có thể hành nghề riêng rẽ, độc lập với tư cách cá nhân.Các tổ chức hành nghề luật có nhiều quyền lợi hơn theo Luật Doanh nghiệp mới. Một loại hình tổ chức hành nghề luật mới được phép hoạt động: công ty luật dưới hình thức trách nhiệm hữu hạn.Các luật sư nước ngoài và chi nhánh của các tổ chức luật sư nước ngoài được đối xử như các luật sư và các công ty luật trong nước.Hiệp hội luật sư được phép hoạt động trên nguyên tắc từ chủ tài chính, có điều lệ hoạt động quy định các hành vi đối nội. Các hiệp hội này có thể đại diện và bảo về quyền lợi của các luật sư thành viên, đào tạo luật sư, tổ chức thực tập cho các luật sư, thu thập và báo cáo quan điểm của các luật sư thành viên.Các cán bộ trợ giúp pháp luật và những người cung cấp trợ giúp pháp luật đã được công nhận có quyền đại diện và bảo vệ người yêu cầu được trợ giúp pháp luật trong tiến trình xét xử.Hình thức của các tổ chức cung cấp trợ giúp pháp luật và những cá nhân cung cấp trợ giúp pháp luật đã đa dạng hơn. Tất cả các luật sư đều được khuyến khích cung cấp trợ giúp tư pháp lý miễn phí.

2007: Việc cung cấp trợ giúp pháp luật nhà nước được phân cấp và được triển khai cả ở khu vực xa xôi hẻo lánh. Các dịch vụ pháp lý lưu động và các câu lạc bộ trợ giúp pháp luật ở cấp xã được phép hoạt động theo quy định của pháp luật.Chương trình mục tiêu quốc gia bao gồm hỗ trợ tài chính cho hoạt động phổ biến và trợ giúp pháp luật ở các xã khó khăn.2008: Các viện đào tạo và đơn vị nghiên cứu pháp luật được phép cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luạt. Các trung tâm tư vấn pháp luật có quyền ký hợp đồng để trở thành đại diện hợp pháp của khách hàng trong tiến trình xét xử.2009: Hội Luật gia được thành lập, văn bản quản lý và cơ cấu tổ chức được cộng đồng luật sư.thông qua

1987: Các luật sư phải có giấy phép của hội luật sư mới được phép hành nghề luật.

2001: Các luật sư phải có giấy chứng nhận hành nghề do Bộ Tư pháp cấp, đồng thời phải qua một thời gian thử thách về chuyên môn.2003: Các trung tâm tư vấn pháp luật của các tổ chức dân sự xã hội cần có giấy phép hoặc thẻ hành nghề do Bộ Tư pháp cấp. Người tư vấn pháp luật và cộng sự phải đạt được một số điều kiện và trình độ nhất định.2005: Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 bao gồm mục tiêu tăng cường trách nhiệm giải trình.

2006: Các luật sư nước ngoài cần tuân thủ nguyên tắc hành nghề luật và các nghĩa vụ quy định trong Luật Luật sư của Việt Nam.Ban quản lý và điều lệ hoạt động của Hội luật gia phải được các thành viên trong đại hội bỏ phiếu bầu. Điều lệ hoạt động đã được thông qua của hội luật gia phải được chính phủ thông qua sau đó.Thủ tục để nhận hỗ trợ tư pháp đã hiệu quả và thuận tiện hơn cho người được nhận hỗ trợ. Việc quản lý các trường hợp được hỗ trợ tư pháp đã được tăng cường.

2007: Tiêu chí chuẩn để đánh giá chất lượng các trường hợp hỗ trợ pháp lý được thông qua. Mức độ hài lòng của người nhận hỗ trợ cũng phải được cân nhắc khi đánh giá.2008: Hội luật sư trở thành đối tượng chịu thanh kiểm tra của Bộ Tư pháp. Bộ có quyền giải quyết vi phạm và đình chỉ triển khai những quyết định đi ngược với Luật Luật sư.

Page 13: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

169

Hệ thống tư pháp

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1989: Thủ tục cho các vụ dân sự thuộc quyền xét xử của tòa án được quy định một cách có hệ thống.1992: Hiến pháp yêu cầu các thẩm phán hoạt động độc lập và chỉ tuân theo Luật pháp khi xét xử.1993: Tòa án có quyền xét xử các vụ án kinh tế. Tòa kinh tế phải được thành lập ở cấp tỉnh.

1994: Tòa án huyện có quyền xử các tranh chấp kinh tế giá trị dưới 50 triệu đồng.Thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các vụ tranh chấp lao động được hạn chế ở các vụ đã được giải quyết trước đó thông qua hòa giải và/hoặc trọng tài. Tòa án có quyền ra phán quyết cuối cùng đối với các vụ đình công và các tranh chấp lao động tập thể.1996: Tòa án có quyền xét xử các vụ án hành chính nhưng chỉ được xét xử 8 loại vụ việc.1998: Quyền hạn xét xử của tòa án đối với các vụ án hành chính đã bị hạn chế ở các vụ việc do một cơ quan chính phủ xét xử trước.

2002: Việc quản lý các tòa án huyện và tỉnh được chuyển từ Bộ Tư pháp cho Tòa án Nhân dân Tổi cao.2003: Quyền kiện ra tòa về các vụ hành chính liên quan đến quản lý đất đai bị hạn chế, và phán quyết lần thứ hai của chính quyền cấp tỉnh là phán quyết cuối cùng.2004: Thẩm quyền xét xử củaTòa án đối với các tranh chấp dân sự tăng lên. Tòa án có thể giải quyết các vấn đề dân sự và thụ lý các vụ việc từ nhiều đối tượng có quyền khiếu kiện hơn.Thẩm quyền xét xử các vụ dân sự và hình sự được mở rộng cho một số tòa cấp huyện. Các tòa án huyện đáp ứng đủ điều kiện về năng lực có quyền xét xử các tranh chấp thương mại và kinh doanh, không tính đến giá trị tranh chấp.2005: Chiến lược phát triển tư pháp đến năm 2020 nhằm tăng cường hơn nữa tính độc lập của các cơ quan tư pháp bao gồm: kéo dài nhiệm kỳ hoặc/và áp dụng bổ nhiệm suốt đời; tách biệt giữa thẩm phán, công tố viên và điều tra viên khỏi bộ phận quản lý hành chính của tòa án; tổ chức hệ thống tòa án dựa trên thẩm quyền xét xử độc lập với các cơ quan hành chính; xóa bỏ chức năng kiểm sát khỏi giám sát tư pháp.

2006: Thẩm quyền xét xử của tòa án trong các vụ án hành chính được mở rộng thành 22 loại hình vụ việc.2009: Thẩm quyền xét xử các vụ hình sự và dân sự được mở rộng cho tất cả các tòa án cấp huyện.Việc quản lý thi hành án dân sự được tăng cường thông qua quy định của một cơ quan từ cấp trung ương đến địa phương, hoạt động độc lập với sở tư pháp ở địa phương.Xóa bỏ các trường hợp chính quyền địa phương hay cơ quan thi hành phán quyết dân sự có thẻ phủ quyết phán quyết của tòa án hay trả lại phán quyết cho tòa án.Thành phố Hồ Chí Minh thử nghiệm thuê chấp hành viên tòa án tư nhân hỗ trợ thi hành án

2003: Bộ Luật Tố tụng Hình sự khẳng định nguyên tắc của Hiến pháp về việc công khai các phiên tòa xét xử cho dân chúng, trừ một số vụ hình sự cụ thể. 2004: Bộ Luật Tố tụng Dân sự khẳng định nguyên tắc của Hiến pháp về việc công khai các phiên tòa xét xử cho công chúng, trừ một số vụ dân sự cụ thể.2005: Chiến lược phát triển tư pháp đến năm 2020 dự định tăng cường hơn nữa sự giám sát đối với các cơ quan tư pháp thông qua: tăng cường các cơ chế kiếm soát nội bộ, đẩy mạnh giám sát từ phía các cơ quan dân cử và các tổ chức quần chúng, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia vào quá trình xét xử tại tòa án, tăng cường vai trò của truyền thông trong việc cung cấp và phổ biến thống tin về các hoạt động tư pháp.Chiến lược phát triển tư pháp đến năm 2020 dự định tăng tính minh bạch của các cơ quan tư pháp thông qua: dần dần công bố các phán quyết tư pháp, tăng tính mở và tính dân chủ của quá trình tố tụng.

2006: Kết quả điều tra các vụ việc tham nhũng bắt đầu được công bố công khai.2007: Một Ủy ban tư pháp riêng được thành lập trong Quốc Hội để giám sát tổt hơn các vụ việc liên quan đến tư pháp.2009: Tòa án Nhân dân Tối cao khai trương trang web và công bố trên đó một tuyển tập 258 phán quyết giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Tối cao.Thủ tục thi hành án dân sự được đơn giản hóa, hoạt động kiểm tra giám sát và hệ thống giám sát và khiếu nại được cải thiện.Một khuôn khổ toàn diện hơn được áp dụng về việc bồi thường cho các cá nhân và tổ chức bị hại do các hành động bất hợp pháp của các cán bộ nhà nước, kể cả trong khi ban hành quyết định liên quan đến thi hành án hoặc do cố ý không ban hành những quyết định này gây ra.Chấp hành viên tòa án phải do Bộ Tư pháp bổ nhiệm.

Page 14: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

170

Quốc hội và Hội đồng Nhân dân

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1992: Ủy ban Thường vụ quốc hội được thành lập thay cho Ủy ban Nhà nước cũ. Thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không được đồng thời là thành viên của Chính phủ.Vai trò người đứng đầu Quốc hội không chỉ giới hạn ở các công việc hành chính và điều phối. Người đứng đầu Quốc hội cũng là người đứng đầu Ủy ban Thường vụ quốc hội và là người chứng nhận luật và nghị quyết của quốc hội.Hiến pháp công nhận quyền của các đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân trong việc chất vấn và được trả lời chất vấn từ chủ tịch nước, người đứng đầu chính phủ, tòa án, viện kiểm sát, quốc hội và hội đồng nhân dân.1996: Ủy ban Thường vụQuốc hội được trao quyền phê chuẩn phân bổ ngân sách cho các ngành và các tỉnh. Quốc hội cũng có quyền thông qua danh mục các chương trình và dự án quốc gia.Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được trao quyền phê chuẩn các loại phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân tại mọi cấp địa phương, và được giao trách nhiệm chi tiêu cho các dự án đầu tư công tại địa phương.

2001: Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm quan chức do Quốc hội bầu ra hoặc phê chuẩn, kể cả Thủ tướng, Chủ tịch nước và các Bộ trưởng.Trách nhiệm giám sát của Ủy ban dân tộc thuộc Quốc hội và 7 Ủy ban chuyên trách của Quốc hội được xác định rõ và củng cố.Số đại biểu chuyên trách của Quốc hội phải chiếm tỷ lệ tối thiểu là 25%.2002: Quyền phân bổ ngân sách giữa các lĩnh vực, các chương trình và các tỉnh được chuyển từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho toàn thể Quốc hội.Ủy ban Pháp luật của Quốc hội được giao nhiệm vụ thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của các văn bản luật.Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh có quyền quyết định phân bổ ngân sách và giao chỉ tiêu số thu cho 3 cấp chính quyền tại địa phương, cũng như định mức phân bổ và chi tiêu ngân sách tại tất cả các cấp.

2003: Hội đồng Nhân dân có quyền bỏ phiếu tín nhiệm quan chức do Hội đồng Nhân dân bầu ra hoặc phê chuẩn.Hội đồng Nhân dân có trách nhiệm điều phối, phân bổ ngân sách và hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của mình.2004: Hội đồng Nhân dân được phép ban hành văn bản pháp luật và triển khai thực hiện văn bản pháp luật của cấp có thẩm quyền cao hơn, đặc biệt là trong các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hôi, ngân sách, quốc phòng an ninh, và sinh kế cho người dân.2005: Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp có trách nhiệm giám sát hoạt động chống tham nhũng.

2007: Các ủy ban riêng rẽ về ngân sách, kinh tế, tư pháp, luật pháp được thành lập nhằm tăng cường vai trò của Quốc hội trong những lĩnh vực này.Lần đầu tiên một Ủy ban Quốc hội được phân công nhiệm vụ giám sát việc phát hiện và chống tham nhũng. 2008: Trách nhiệm cụ thể của Ủy ban Luật pháp của Quốc hội trong việc thẩm tra tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của các dự thảo luật và pháp lệnh được tăng cường.Thông qua mô hình thí điểm xóa bỏ Hội đồng Nhân dân cấp quận và cấp phường.

1992: Hiến pháp yêu cầu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân phải tiếp xúc với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, tiếp thu quan điểm của họ, trả lời chất vấn và báo cáo hoạt động trước cử tri.1997: Thông qua một bộ luật quy định chi tiết việc bầu cử đại biểu Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ đề xuất số lượng và thành phần đại biểu. Công dân và các cá nhân không phải là Đảng viên Đảng Cộng sản đều có thể ứng cử. Mặt trận Tổ quốc giám sát quá trình bầu cử và tổ chức các hội nghị cử tri để bầu ra ứng cử viên. Cử tri có thể bày tỏ thái độ phản đối các trường hợp được đề cử.1998: Khi có khiếu nại hoặc tổ cáo của công dân, Quốc hội và Hội đồng Nhân dân có nghĩa vụ thúc giục các cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhanh vụ việc.Các phiên chất vấn bộ trưởng bắt đầu được truyền hình trực tiếp.

2001: Đoàn đại biểu Quốc hội thường trực được thành lập ở các tỉnh để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc với cử tri.2002: Ứng cử viên đại biểu Quốc hội phải kê khai tài sản.

2003: Luật về bầu cử đại biểu Hội đồng Nhân dân được thông qua, phù hợp với luật quy định chi tiết về việc bầu cử đại biểu Quốc hội.Các vị trí chính trong Hội đồng Nhân dân cấp xã cũng phải được bỏ phiếu tín nhiệm bởi các tổ chức quần chúng.Đại biểu Hội đồng Nhân dân có thể bị bãi nhiệm bởi cử tri hoặc bởi hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng Nhân dân, tùy vào mức độ vi phạm. 2006: Quốc hội cho phép dân chúng tiếp cận vào cơ sở dữ liệu pháp luật của mình.

2007: Quốc hội mở trang web để lấy ý kiến quần chúng về dự thảo luật và pháp lệnh.Ứng viên đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân, đại biểu quốc hội chuyên trách đều phải kê khai thu nhập và tài sản. Những kê khai này có thể bị xác minh.2008: Viện Nghiên cứu Lập pháp của Quốc hội được thành lập để huy động tri thức và mối quan tâm của xã hội tới hoạt động lập pháp của Quốc hội.Viện nghiên cứu dư luận quần chúng bắt đầu hỗ trợ Quốc hội trong việc lấy ý kiến quần chúng về một số dự thảo luật.

Page 15: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

171

Kiểm toán Nhà nước Việt Nam

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1994: Kiểm toán Nhà nước được thành lập như một cơ quan chính phủ.

1996: Kiểm toán Nhà nước được giao nhiệm vụ kiểm toán tất cả các cơ quan và đơn vị nhà nước có thu chi ngân sách nhà nước.

2002: Kiểm toán Nhà nước được yêu cầu kiểm toán ngân sách của tất cả các cấp chính quyền.2003: Kiểm toán Nhà nước có quyền thuê các công ty kiểm toán tư nhân để hỗ trợ công việc kiểm toán của mình.

2005: Kiểm toán Nhà nước được chuyển đổi thành một cơ quan chuyên trách độc lập do Quốc hội thành lập, có quyền kiểm toán tất cả các cơ quan và tổ chức sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.Kiểm toán Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ Ủy ban Ngân sách của Quốc hội và các cơ quan Quốc hội khác có nhiệm vụ giám sát ngân sách.Kiểm toán Nhà nước có trách nhiệm phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động kiểm toán và chuyển các vụ việc tham nhũng này tới các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.Tổng Kiểm toán được quyền ban hành các văn bản pháp luật.

1994: Tổng Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm giải trình trước thủ tướng

2002: Kết quả kiểm toán phải được báo cáo trước Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan khác, bao gồm cả Hội đồng Nhân dân.2003: Bắt đầu áp dụng kiểm toán kết quả thực hiện.

2005: Báo cáo kiểm toán thường niên, báo cáo tài chính và báo cáo kết quả thực hiện kết luận kiểm toán phải được công bố trên trang web và các ấn phẩm của Kiểm toán nhà nước và thông qua họp báo.Thông qua các tiêu chuẩn kiểm toán phù hợp với thực tiễn quốc tế.2006: Ban hành Kế hoạch hành động chống tham nhũng nhằm ngăn ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong nội bộ Kiểm toán nhà nước.

2008: Pháp luật quy định chi tiết nội dung và thời gian công bố báo cáo Kiểm toán nhà nước. Báo cáo kiểm toán của các đơn vị riêng lẻ phải được công bố công khai. Những chỗ nhầm lẫn phải được chỉnh sửa một cách nhanh chóng và minh bạch.2009: Thông qua quy trình đối với kế hoạch kiểm toán thường niên, đảm bảo đủ mức độ thường xuyên và độ bao phủ ở mỗi tỉnh

Page 16: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

172

Các tổ chức quần chúng

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1989: Một khung pháp lý mới về các tổ chức quần chúng được xây dựng và áp dụng. Khung pháp lý này giúp các tổ chức quần chúng có quyền quản lý và tài chính độc lập hơn, đồng thời khuyến khích quy chế thành viên tự nguyện

1996: Các tổ chức quần chúng được phép ban hành văn bản pháp luật chung với các cấp có thẩm quyền thuộc chính quyền trung ương, có quyền đề xuất đối với các văn bản luật dự thảo.1997: Mặt trận Tổ quốc có chức năng giám sát quá trình bầu cử quốc hội và tổ chức đề cử ứng cử viên.1998: Các tổ chức quần chúng có trách nhiệm hỗ trợ Ủy ban Nhân dân xã trong việc triển khai thực hiện dân chủ cơ sở cấp xã.Các tổ chức quần chúng có thể tham gia các tổ hòa giải để giải quyết tranh chấp cấp cơ sở.Các tổ chức quần chúng và các tổ chức dân sự xã hội khác được phép khiếu nại và tổ cáo.1999: Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được mở rộng, bao gồm: giám sát tất cả các hoạt động nhà nước, giám sát bầu cử Hội đồng Nhân dân, tổ chức đề cử ứng cử viên, tham gia lựa chọn thẩm phán và đề cử ứng viên bồi thẩm đoàn của Tòa án.

2003: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm trưởng thôn và các bộ phận quan trọng trong Hội đồng Nhân dân.Các tổ chức quần chúng và các tổ chức dân sự xã hội khác được phép cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật.2004: Các tổ chức quần chúng có trách nhiệm giám sát tính minh bạch trong tài chính công tại chính quyền các cấp.Mặt trận tổ quốc có trách nhiệm tổ chức đóng góp ý kiến của thành viên các tổ chức quần chúng đối với văn bản pháp luật do Hội đồng Nhân dân ban hành.2005: Các tổ chức quần chúng có quyền yêu cầu cung cấp thông tin đối với tất cả các cơ quan, tổ chức và đơn vị và nhận thông tin trong vòng 10 ngày, trừ một số trường hợp.

2006: Các tổ chức quần chúng và các tổ chức dân sự xã hội khác được khuyến khích thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài quốc doanh.2007: Các tổ chức quần chúng và các tổ chức dân sự xã hội tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp hỗ trợ pháp luật.Các tổ chức quần chúng có trách nhiệm hợp tác với các cơ quan nhà nước và Hội đồng Nhân dân trong phổ biến Luật Phòng chống tham nhũng và giám sát việc triển khai thực hiện Luật này.2008: Các tổ chức quần chúng và các tổ chức dân sự xã hội khác có trách nhiệm cung cấp phản hồi đối với tẩt cả các thủ tục hành chính hiện hành.2009: Các tổ chức quần chúng và các tổ chức dân sự xã hội khác có trách nhiệm góp ý đối với các văn bản luật dự thảo và cùng với các cơ quan soạn thảo đánh giá tác động của các văn bản pháp luật, đánh giá việc cưỡng chế thi hành, tiến hành điều tra và phân tích pháp luật.

1989: Việc thành lập một tổ chức quần chúng phải được người đứng đầu Ủy ban Nhân dân và/hoặc người đứng đầu Hội đồng Bộ trưởng thông qua. Các tổ chức quần chúng đặt dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước trong ngành tương ứng.

1999: Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải dựa trên nguyên tắc tham vấn.

2003: Hoạt động của các tổ chức quần chúng cấp cơ sở phải được quần chúng giám sát.2004: Các tổ chức quần chúng nhận hỗ trợ từ ngân sách nhà nước phải công bố công khai ngân sách và chi tiêu.

2007: Một số vị trí tại các Tổ chức quần chúng buộc phải kê khai tài sản và thu nhập.

Page 17: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

173

Các tổ chức xã hội dân sự khác

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1992: Thông qua khung pháp lý đối với việc thành lập và hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ.1995: Thông qua khung pháp lý đối với việc thành lập và hoạt động của các nhóm hợp tác. Thành viên các nhóm này có thể đóng góp tài sản và lao động để thực hiện nhiệm vụ và cùng hưởng lợi ích chung.1998: Các tổ chức xã hội dân sự được phép đưa khiếu nại và tố cáo

1999: Thông qua khung pháp lý đối với việc thành lập và hoạt động của các quỹ từ thiện và xã hội phi lợi nhuận. Các quỹ này có thể làm việc trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, phát triển khoa học và xã hội.1999: Thông qua các chính sách khuyến khích các tổ chức xã hội dân sự và các chủ thể ngoài nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ. 2000: Quyền lợi và quyền tự chủ của các tổ chức khoa học công nghệ được mở rộng.2001: Ban hành Khung luật pháp cho việc thành lập và hoạt động của các trung tâm bảo trợ xã hội.

2003: Thông qua khung pháp lý đối với việc thành lập và hoạt động của các hiệp hội. Các hiệp hội có quyền tự chủ về tài chính từ các nguồn khác nhau, phân công nhiệm vụ cho các thành viên, đóng góp ý kiến cho các văn bản pháp luật, đưa ra ý kiến tham vấn và phản biện.Các tổ chức xã hội dân sự được phép cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật.2004: Khung pháp lý cho hoạt động của các hiệp hội kinh doanh được cải thiện.2005: Thông qua khung pháp lý đối với việc thành lập và hoạt động của các cơ quan giám sát đầu tư cộng đồng và của các ban thanh tra nhân dân.Thông qua khung pháp lý đối với việc thành lập và hoạt động của các thể chế tài chính quy mô nhỏ.2006: Thông qua các chính sách ưu đãi các tổ chức xã hội dân sự được khuyến khích thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ ngoài quốc doanh.

2007: Các hiệp hội kinh doanh và các hiệp hội nghề nghiệp có trách nhiệm chủ động tham gia chống tham nhũng.Rà soát khung pháp lý cho việc thành lập và hoạt động của các quỹ từ thiện và quỹ xã hội và các tổ chức tài chính nhỏ. Khung pháp lý cho các nhóm hợp tác được chi tiết hóa. Các cơ quan giám sát đầu tư cộng đồng và của các ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm chống tham nhũng và thực hiện dân chủ cơ sở.Tăng cường sự tham gia của các tổ chức dân sự xã hội vào hoạt động cung cấp hỗ trợ pháp lý.2008: Các tổ chức xã hội dân sự có trách nhiệm phản hồi đối với tất cả các thủ tục hành chính hiện hành.2009: Các tổ chức xã hội dân sự có trách nhiệm đóng góp ý kiến đối với các văn bản pháp luật dự thảo, cùng với các cơ quan soạn thảo tham gia đánh giá ảnh hưởng của các văn bản pháp luật, đánh giá việc thi hành, tiến hành điều tra và phân tích pháp luật.Các hoạt động của tổ chức khoa học công nghệ do các cá nhân thành lập được hạn chế trong 7 lĩnh vực.

1992: Các tổ chức khoa học công nghệ phải do Hội đồng Bộ trưởng , các Bộ trưởng hoặc các tổ chức quần chúng thành lập và phải được đăng ký ở Ủy ban Khoa học Nhà nước.1995: Hợp đồng hợp tác của các hợp tác xã phải được xác nhận bởi chính quyền xã. Người đứng đầu hợp tác xã được các thành viên bầu ra.

1999: Các quỹ từ thiện và xã hội phải được quản lý bởi một hội đồng hoặc bị thanh kiểm tra bởi một cơ quan kiểm tra độc lập. Chính phủ thông qua việc thành lập, điều lệ hoạt động, sát nhập, phân tách và giải tán của các quỹ này.2000: Không được lợi dụng ưu thế của các hoạt động khoa học công nghệ, ví dụ như quấy nhiễu hoặc trái với chính sách và luật pháp của nhà nước, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước hoặc tư nhân.

2003: Điều lệ hoạt động, người lãnh đạo, và ban kiểm soát của các hiệp hội phải được các thành viên bỏ phiếu thông qua. Chính phủ thông qua việc thành lập, ủy ban sáng lập, điều lệ hoạt động, sát nhập, chia tách và giải thể của các hiệp hội. Hàng năm, các hiệp hội phải báo cáo cho chính phủ việc sử dụng nguồn vốn và tình hình hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức của hiệp hội.Hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự cấp cơ sở do nhân dân giám sát và kiếm tra.2004: Số sáng lập viên tối thiểu của các hiệp hội được quy định đối với các hiệp hội và đối với các ủy ban huy động ban đầu.Tất cả các tổ chức xã hội dân sự nhận hỗ trợ từ ngân sách nhà nước phải công khai chi tiêu ngân sách của mình.2005: Cơ quan giám sát đầu tư cộng đồng và Cơ quan thanh tra Nhân dân được nhân dân trong xã bầu ra và được Mặt trận tổ quốc thông qua. Những cơ quan này phải đệ trình báo cáo định kỳ lên Mặt trận tổ quốc.

2007: Các hiệp hội kinh doanh và hội nghề nghiệp phải áp dụng những biện pháp ngăn ngừa và phát hiện tham nhũng trong nội bộ hiệp hội mình.2009: Việc đánh giá chính sách của chính phủ bởi các tổ chức khoa học và công nghệ do Bộ Khoa học Công nghệ trực tiếp quản lý phải được chính phủ thông qua trước khi công bố.

Page 18: Phụ luc 1- Các mốc thay đổi - World Banksiteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/phuluc1.p… · Mục đích của việc tổng hợp các mốc thay

174

Các phương tiện truyền thông đại chúng

1986 2009

PHÂN CẤP TRAO QUYỀN

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH

1989: Nhà nước, Đảng cộng sản và các tổ chức xã hội được phép thành lập cơ quan truyền thông.Cơ quan truyền thông có quyền báo cáo phản hồi của dân chúng về các sự việc chung và nhận trả lời từ phía chính phủ về những phản hồi này.Cơ quan truyền thông có quyền yêu cầu thông tin và quyền nhận thông tin từ phía các cơ quan nhà nước, những cơ quan này chịu trách nhiệm về nội dung của thông tin.Hội nhà báo Việt Nam có quyền tham gia vào việc hoạch định và triển khai thực hiện chính sách truyền thông, đồng thời bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các nhà báo.

1999: Các cơ quan truyền thông được phép sử dụng nguồn lực tài chính ngoài nguồn kinh phí từ tổ chức đỡ đầu, bao gồm cả các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh và đóng góp tự nguyện từ phía các tổ chức và cá nhân khác.

2002: Các cơ quan truyền thông được phép tổ chức các hoạt động kinh doanh và dịch vụ trong một số giai đoạn của quy trình sản xuất, ví dụ như: in ấn, phân phối, quảng cáo.Người đứng đầu cơ quan truyền thông không được đồng thời là người đứng đầu cơ quan chủ quản.Các cơ quan truyền thông được phép tỏ thái độ không đồng tình với việc sửa chữa các bài viết của họ, từ chối xuất bản những bài viết bị sửa chữa không đúng với pháp luật hoặc xâm hại tới uy tín và danh dự của họ.2005: Các cơ quan truyền thông có quyền được cung cấp thông tin trong vòng 10 ngày kể từ khi yêu cầu cung cấp từ các cơ quan, tổ chức và đơn vị của chính phủ, trừ một số trường hợp.

2006: Xử phạt hành chính đối với những người không chịu cung cấp thông tin cho các cơ quan truyền thông, cản trở hoạt động hợp pháp của họ, xâm hại thân thể hoặc đe dọa nhà báo.2007: Quy định rõ các cơ chế cung cấp thông tin từ phía chính phủ cho giới truyền thông.Truyền thông đại chúng có trách nhiệm tuyên truyền các chính sách chống tham nhũng của chính phủ, huy động nhân dân tham gia chống tham nhũng, phổ biến và ca ngợi các hành vi chống tham nhũng và lên án các hành vi tham nhũng.Truyền thông đại chúng được phép viết về những vụ án tham nhũng, yêu cầu và nhận thông tin về những trường hợp có dấu hiệu tham nhũng, được bảo vệ khi viết về những vụ việc tham nhũng.2008: Truyền thông đại chúng có quyền được cung cấp thông tin nhanh chóng về những vấn đề được đông đảo quần chúng quan tâm hoặc đang được dư luận quan tâm.

1989: Việc thành lập một cơ quan báo chí cần có sự cho phép của cơ quan quản lý báo chí của nhà nước, ví dụ như Hội đồng Bộ trưởng. Báo chí bị cấm không được đưa tin về “những lĩnh vực cấm” như bí mật quốc gia, tuyên truyền chống lại Việt nam, tuyên truyền các tư tưởng và bạo lực, thông tin sai lệch và gây tổn hại.Các biện pháp phạt nghiêm khắc được áp dụng cho các nhà báo và các cơ quan báo chí vi phạm quy định báo chí, bao gồm rút thẻ nhà báo và xem xét trách nhiệm hình sự.

1999: Quản lý nhà nước về truyền thông được chuyển giao từ Hội đồng Bộ trưởng sang Bộ Văn hóa Thông tin.Các cơ quan truyền thông phải công bố công khai đính chính những thông tin sai lệch hoặc có hại do các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân cung cấp.Cơ quan báo chí chịu sự thanh kiểm tra của bộ phận thanh tra báo chí chuyên biệt.Bộ Luật Hình sự được phê chuẩn, trong đó quy định rõ nhiều tội danh hình sự áp dụng cho truyền thông.2001: Quy định rõ nhiều hình phạt hành chính tương ứng với các vi phạm hành chính của giới truyền thông.

2002: Việc tổ chức các hoạt động kinh doanh và dịch vụ của các cơ quan truyền thông phải được phép của cơ quan chủ quản và phải được đăng ký với nhà nước.Người đứng đầu (hoặc cấp phó), tổng biên tập hoặc phó tổng biên tập các cơ quan truyền thông phải do cơ quan chủ quản bổ nhiệm, thông qua văn bản bổ nhiệm được thỏa thuận chính thức với Bộ Văn hóa thông tin.Việc phân phối các nội dung truyền thông từ nước ngoài vào Việt Nam phải có giấy phép của Bộ Văn hóa Thông tin.

2006: Tăng cường phạt hành chính để đảm bảo chất lượng và độ chính xác của các nội dung truyền thông.Nhà báo phải được đào tạo về phẩm chất đạo đức, các khóa đào tạo do cơ quan quản lý nhà nước về truyền thông tổ chức.2007: Việc công bố công khai các nội dung được đính chính phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định về thời gian, hình thức và nội dung đính chính.Quan chức cao cấp của các tòa báo sử dụng tài sản và ngân sách nhà nước phải kê khai tài sản và thu nhập.2008: Phần phụ trương, các kênh hoặc các chương trình quảng cáo trên truyền thông phải được phép của cơ quan quản lý nhà nước về truyền thông.