193
BGIÁO DC VÀ ĐÀO TO TRƯỜNG ĐẠI HC LUT TP. HCHÍ MINH NGUYN HU THTRCH QUYN BÀO CHA CA BCAN, BCÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TTNG HÌNH SVIT NAM Chuyên ngành: Lut hình sMã s: 62.38.40.01 LUN ÁN TIN SĨ LUT HC Người hướng dn khoa hc: PGS.TS. TRN VĂN ĐỘ TP. HCHÍ MINH - 2014

NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH

QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 62.38.40.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2014

Page 2: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số

liệu nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả

những số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa từng được ai công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày …… tháng ……. năm 2014

NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH

Page 3: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BCVND : Bào chữa viên nhân dân

BLHS : Bộ luật hình sự

CCTP : Cải cách tư pháp

CTN : Chưa thành niên

CQĐT : Cơ quan điều tra

CƯQT : Công ước quốc tế

HĐXX : Hội đồng xét xử

HTND : Hội thẩm nhân dân

NBC : Người bào chữa

QBC : Quyền bào chữa

QCN : Quyền con người

THTT : Tiến hành tố tụng

TTHS : Tố tụng hình sự

TAND : Tòa án nhân dân

TNHS : Trách nhiệm hình sự

TGPL : Trợ giúp pháp lý

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

VAHS : Vụ án hình sự

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Page 4: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

MỤC LỤC

Phần 1: PHẦN MỞ ĐẦU 1

Phần 2: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8

Phần 3: NỘI DUNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 31

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 31

1.1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam 31

1.2. Vai trò và đặc điểm của quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên 42

1.3. Quyền bào chữa của người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự nước ngoài 66

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 80

2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên 80

2.2. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự 112

CHƯƠNG 3: TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 137

3.1. Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa trong cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 137

3.2. Một số giải pháp 143

KẾT LUẬN 163

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

Page 5: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

1

Phần 1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử, là một

trong những giá trị quý báu nhất của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày

nay. Những giá trị nền tảng tạo nên QCN là: Nhân phẩm - Tự do - Bình đẳng -

Nhân đạo - Khoan dung và Trách nhiệm. Đây là những giá trị vốn có ở tất cả các

nền văn hóa, được quốc tế hóa nhằm bảo vệ nó trong đời sống xã hội. Trong các

quyền cơ bản đó, QCN trong tố tụng hình sự (TTHS), trong đó có quyền trẻ em và

việc bảo đảm quyền trẻ em là rất quan trọng và vì thế việc nghiên cứu làm sáng tỏ

những giá trị cao quý về QCN, nhất là các quyền nêu trên đều được quan tâm

nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu khoa học.

Việt Nam đang trong tiến trình cải cách tư pháp (CCTP) nhằm xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định

quyết tâm chính trị mạnh mẽ của mình trong việc thực hiện chủ trương và triển khai

các nhiệm vụ CCTP. Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ chính trị về CCTP đã tạo sự

chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ cơ quan tư pháp, các ngành, các

cấp và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tư pháp. Qua đó, hệ

thống các cơ quan tư pháp đã được củng cố cả về tổ chức bộ máy và công tác cán

bộ. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và các hoạt động bổ trợ tư pháp từng bước

được nâng cao. Việc bắt, giam giữ đã được xem xét, kiểm tra thường xuyên, công

tác xét xử được xem xét thận trọng đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Sau tám năm thực thi chiến lược CCTP, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhận xét

bước đầu quá trình cải cách đã thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ

quan tư pháp, hướng tới xây dựng nền tư pháp “trong sạch, vững mạnh, dân chủ,

nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người”. Tuy nhiên, công tác tư pháp

vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu,

Page 6: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

2

trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, vấn đề bảo

đảm QCN nhất là quyền bào chữa (QBC) của bị can, bị cáo nói chung và của bị can,

bị cáo là người chưa thành niên (CTN) nói riêng còn có hạn chế, sai sót. Vẫn còn

tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, nhất là đối với bị can, bị cáo là

người CTN. Pháp luật TTHS đã quy định thủ tục giải quyết những vụ án do người

CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy

nhiên, trong thực tiễn vận dụng do xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, chủ

quan nên chất lượng điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm các

quyền và lợi ích hợp pháp của họ, còn bộc lộ nhiều thiếu sót, dẫn đến việc giải quyết

những vụ án không đạt hiệu quả cao cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người

CTN bị xâm hại, chưa đáp ứng đòi hỏi của tiến trình đổi mới tư pháp ở Việt Nam.

Xét từ góc độ quy định pháp luật, việc nghiên cứu về QBC trở nên cấp thiết

hơn nữa khi Hiến pháp 2013 bên cạnh việc xác định nguyên tắc tranh tụng là

nguyên tắc trong hoạt động xét xử của tòa án cũng đã xác định QBC là một trong

các QCN, quyền cơ bản của công dân. Pháp luật hiện hành, cụ thể là Bộ luật TTHS

2003 đã dành một chương riêng (chương XXXII) quy định về thủ tục đối với người

CTN. Đó là những quy định thủ tục đặc biệt về việc bắt, tạm giữ, tạm giam; về thủ

tục điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà

trường, của người bào chữa (NBC)… đối với những vụ án có người CTN phạm tội.

Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy những quy định của Bộ luật TTHS 2003 đối

với người CTN phạm tội tuy đã tương đối hoàn chỉnh, nhưng không khó để nhận

thấy tính chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của các

quy định này. Những bất cập này đã dẫn đến sự tùy tiện của cơ quan tiến hành tố

tụng (THTT) và người THTT xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người

CTN. Với những vấn đề nêu trên, quy định của pháp luật TTHS đối với người CTN

phạm tội đặt ra những vấn đề cần phải hoàn thiện theo hướng cần thiết phải có

những quy định cụ thể, chặt chẽ, thống nhất hơn nữa trong Bộ luật TTHS về thủ tục

tố tụng đối với bị can, bị cáo là người CTN.

Page 7: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

3

Về mặt thực tiễn, việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với những vụ án

mà bị can, bị cáo là người CTN trong những năm qua cho thấy khi áp dụng những

quy định về thủ tục đặc biệt này còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Nguyên nhân

một phần là do cơ quan THTT chưa nắm vững và vận dụng chưa chính xác, triệt để

quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến quá trình giải quyết vụ án do người

CTN phạm tội và một phần do nhận thức của một bộ phận cán bộ những người

THTT còn xem nhẹ vai trò CCTP, thậm chí do lợi ích cục bộ, không chấp hành

nghiêm ngặt các quy định của pháp luật TTHS, thiếu tôn trọng và xem nhẹ quyền

lợi của bị can, bị cáo là người CTN.

Từ các góc độ quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật nói trên,

việc nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề bảo đảm QCN nói chung và QBC của bị can, bị

cáo là người CTN trong TTHS nói riêng theo tinh thần CCTP ở Việt Nam hiện nay

là hoàn toàn cấp thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền

bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt

Nam” làm luận án Tiến sĩ.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào cũng

đều trả lời cho câu hỏi: việc thực hiện công trình nghiên cứu nhằm vào cái gì? Đây

cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu. Không nằm ngoài cách tiếp

cận trên, chúng tôi xác định mục tiêu của luận án nhằm nâng cao hiệu quả thực thi

cơ chế đảm bảo QBC của bị can bị cáo là người CTN.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nếu như mục tiêu nghiên cứu đặt ra câu hỏi: nghiên cứu nhằm đạt được cái

gì thì nhiệm vụ nghiên cứu lại trả lời cho câu hỏi – cần phải làm như thế nào để đạt

được mục tiêu.

Trên cơ sở mục tiêu nêu trên, chúng tôi xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu như

sau:

Page 8: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

4

Thứ nhất, phải phân tích, đánh giá được sự tác động của lý thuyết về QBC

của bị can, bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến chất

lượng của quy định pháp luật về quyền này.

Thứ hai, xác định, phân tích được các yếu tố tạo nên tính chất đặc thù của bị

can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia tố tụng.

Thứ ba, phân tích và đánh giá được thực trạng quy định pháp luật về QBC

của bị can, bị cáo là người CTN cũng như quy định pháp luật về cơ chế đảm bảo

thực thi quyền này.

Thứ tư, phân tích và đánh giá quy định pháp luật của một số quốc gia điển

hình về QBC của bị can, bị cáo là người CTN.

Thứ năm, trên cơ sở so sánh quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị

can, bị cáo là người CTN với kinh nghiệm của một số nước, đưa ra được các kiến

nghị nâng cao hiệu quả nhằm đảm bảo thực thi quyền này.

3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu

3.1. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu có thể hiểu là đối tượng nghiên cứu được khảo sát, nghiên

cứu trong phạm vi nhất định về mặt thời gian, không gian và lĩnh vực nghiên cứu.

Về mặt thời gian:

- Về văn bản pháp luật, luận án chủ yếu được viết trên cơ sở phân tích, đánh

giá quy định pháp luật TTHS từ năm 1998 đến nay. Bên cạnh đó để làm rõ quá trình

hình thành và phát triển của chế định QBC nói chung và QBC của bị can, bị cáo là

người CTN nói riêng luận án có để cập tới những nội dung chủ yếu của quy định

pháp luật về vấn đề này từ giai đoạn năm 1945.

- Về số liệu khảo sát thủ tục TTHS, luận án sẽ phân tích trên các số liệu từ

trước năm 2009 đến năm 2012.

Page 9: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

5

Về mặt không gian, đối tượng nghiên cứu sẽ được phân tích và đánh giá qua

quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Liên

Bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Về số liệu khảo sát, luận án sẽ thu thập số liệu về thực tiễn tiến hành hoạt

động tố tụng từ các Đoàn luật sư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang,

Tiền Giang, Lâm Đồng; Tòa án nhân dân (TAND) tối cao và đặc biệt là TAND

Thành phố Hồ Chí Minh. Việc chọn lựa các địa bàn khảo sát nói trên được giải

thích bởi các lý do như sau:

Thứ nhất, người thực hiện luận án là cán bộ tư pháp của phía Nam với trên

10 năm kinh nghiệm thực tế thì việc tích góp và thu thập số liệu trên địa bàn phía

Nam sẽ là thuận lợi đầu tiên. Nhưng chính điều này cũng là một hạn chế cho việc

thu thập số liệu ở các địa bàn khác, đặc biệt là khu vực phía Bắc. Trên địa bàn khu

vực phía Nam, nếu xét về số lượng vụ án thì các tỉnh Kiên Giang, Tiền Giang, Lầm

Đồng và đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng vụ án hình sự (VAHS)

liên quan tới người CTN phạm tội cao hơn so với các địa bàn khác (có thể tham

khảo Phụ lục 3, 4, 5, 6). Xét về góc độ áp dụng pháp luật, mục đích của việc lựa

chọn các địa bàn và đối chiếu giữa thực tiễn tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ Chí

Minh với các địa bàn trên nhằm cho thấy mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ

quan của người THTT đến hiệu quả thực thi pháp luật nói chung và QBC của người

CTN nói riêng.

Thứ hai, việc không tiến hành lấy số liệu khảo sát từ khu vực phía Bắc hoàn

toàn không xuất phát từ việc phủ nhận giá trị thực tiễn của số liệu. Vấn đề ở chỗ,

thực tiễn THTT tại khu vực phía Bắc đã được nghiên cứu, xem xét qua các diễn

đàn, Hội thảo, tập huấn, các tài liệu báo cáo chuyên ngành. Cùng với những khó

khăn mang tính chất chủ quan và khách quan của việc thu thập số liệu, thay vì tiến

hành lấy khảo từ các cơ quan THTT ở phía Bắc, chúng tôi sẽ tiến hành phân tích

Page 10: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

6

các số liệu có được từ các bài viết trên Hội thảo, diễn đàn khoa học và Báo cáo

chuyên ngành.

Về lĩnh vực nghiên cứu: trọng tâm nghiên cứu của luận án là các vấn đề lý

luận và thực tiễn về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam.

Bên cạnh đó, để có thêm tính thuyết phục cho cơ sở thực tiễn và lý luận của việc

đưa ra các kiến nghị, luận án thực hiện việc phân tích, so sánh với pháp luật tố tụng

của một số nước trên thế giới trong lĩnh vực liên quan. Việc lựa chọn hệ thống pháp

luật nước ngoài để so sánh được dựa trên các tiêu chí như tính tương đồng về các

điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tính chất điển hình về cơ sở pháp lý

cũng như thực tiễn của hoạt động TTHS liên quan tới đối tượng nghiên cứu của

luận án.

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu khoa học là QBC của bị can, bị cáo là người CTN theo

quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia.

4. Những điểm mới của luận án

Luận án đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về QBC của bị can, bị

cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam; đánh giá được vai trò của QBC và xác

định rõ những đặc điểm về nội dung và hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo

là người CTN trong TTHS Việt Nam;

Luận án đã khái quát được pháp luật TTHS Việt Nam về QBC nói chung và

của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng và làm rõ được sự hình thành, phát triển

của chế định này trong pháp luật TTHS Việt Nam, rút ra những kế thừa cần thiết

cho việc tiếp tục hoàn thiện chế định này;

Luận án đưa ra được những thông tin khoa học về chế định QBC của người

bị buộc tội là người CTN trong pháp luật của Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Cộng hòa

Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đó là những quốc gia đại diện

cho các truyền thống pháp luật khác nhau, đồng thời cũng là những nước mà pháp

Page 11: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

7

luật Việt Nam có những ảnh hưởng nhất định. Từ những nghiên cứu đó luận án có

những so sánh và tiếp thu có chọn lọc, từ đó kiến nghị những giải pháp về mặt pháp

luật nhằm hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong

TTHS Việt Nam;

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, luận án đã đề xuất

được một hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện QBC của

bị can, bị cáo là người CTN, đồng thời bảo đảm xác định sự thật của vụ án khách

quan, toàn diện và đầy đủ, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện,

chuyên sâu về vấn đề QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS và các biện

pháp bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN.

Luận án với những phân tích sâu sắc các vấn đề lý luận về thủ tục TTHS đối

với người CTN phạm tội và những khảo sát, phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng

các quy định pháp luật TTHS về QBC của bị can, bị cáo là người CTN sẽ đóng góp

không nhỏ trước hết cho các nhà lập pháp. Định hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS

2003 và những kiến nghị cụ thể hoàn thiện các quy định cụ thể của Bộ luật TTHS

2003 liên quan đến QBC của bị can, bị cáo là người CTN hoàn toàn có thể là các

vấn đề mà các nhà lập pháp có thể nghiên cứu, cân nhắc, xem xét trong quá trình

sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS 2003.

Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên

cứu chuyên sâu, tài liệu tham khảo có giá trị trong hoạt động lập pháp TTHS, trong

thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng như trong nghiên cứu, giảng dạy về TTHS.

Page 12: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

8

Phần 2

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS là nội dung được nhiều nhà

nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước đề cập. Đặc biệt, QBC của bị can, bị cáo là

người CTN trong TTHS luôn được các nhà nghiên cứu chú trọng, xuất phát từ đặc

điểm tâm sinh lý, nhận thức…của người CTN phạm tội và chính sách chăm sóc, bảo

vệ trẻ em của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Các công trình nghiên cứu

về vấn đề này có thể khái quát như sau:

Trước hết là các công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham

khảo, giáo trình, bình luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến

cung cấp những tri thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài luận án, cụ thể như:

- A guide to juvenile court law của tác giả Gilbert H.F.Mumford, nội dung

chủ yếu đề cập đến khái niệm người CTN và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

(TNHS) là từ 14 đến 17 tuổi. Để đưa ra khái niệm này, tác giả đã dựa vào định

nghĩa của The Children and Young Persons Act của những năm 1933 và 1938. Bên

cạnh đó, tác giả còn đề cập đến phiên tòa xét xử người CTN phạm luật sẽ được tiến

hành theo các hình thức như đưa ra xét xử giản đơn như một cuộc thảo luận (chỉ có

một thẩm phán tham gia) hay xét xử tại Tòa án với sự có mặt của Bồi thẩm đoàn.

Thành phần xét xử sẽ gồm 3 thẩm phán và trong đó ít nhất phải có một người là nữ

giới.

- Law of Juvenile Delinquency của tác giả Frederick B. Sussmann, A.B.,

M.S. in Ed., LL.B xuất bản năm 1968 tại New York đề cập đến quy trình, thủ tục

điều tra và xét xử đối với người CTN phạm tội. Tuy nhiên, nhóm tác giả này chỉ

mới nêu được khái quát các thủ tục TTHS đối với VAHS sự tham gia của người

CTN phạm tội mà chưa chỉ ra được quy trình, thủ tục điều tra sẽ bắt đầu như thế

nào...

Page 13: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

9

- Human rights in the English criminal trial – Human rights in criminal

procedure, Editor John M. Andrew, United Kingdom National Committee of

Comparative Law, 1982. (K. W. Lidstone, Quyền con người trong các phiên tòa

hình sự ở Anh – Tạp chí Quyền con người trong TTHS, Biên tập John M. Andrew,

Ủy ban Quốc gia về Luật so sánh của Anh quốc, năm 1982). Nội dung chủ yếu phân

tích về những yêu cầu nhằm đảm bảo những quyền cơ bản của con người trong một

phiên tòa hình sự tại Anh quốc như có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn; quyền có

một Bồi thẩm đoàn công tâm (không thiên vị); quyền có một phiên tòa công bằng

và thẩm phán không thiên vị; tự do báo chí tại phiên tòa; quyền được hưởng sự trợ

giúp pháp lý (TGPL); quyền tranh luận và có người đại diện; bị cáo phải được cho

là không có tội trước khi bản án được phán quyết; quyền được giữ im lặng; quyền

được kiểm tra và kiểm tra chéo đối với nhân chứng; quyền kiểm tra chứng cứ và các

lời cáo buộc… Ngoài ra, tác giả đã tập trung phân tích vào hai quá trình then chốt là

“thẩm vấn/ tra hỏi” (inquisitorial procedures) và “truy tố/ tố tụng” (accusatorial

procedures). Và tác giả cho rằng cả hai quá trình này đều phụ thuộc vào yếu tố

người THTT và kết luận nếu như không đảm bảo được “quyền” (quyền giữ im lặng,

quyền nhờ NBC, quyền đưa ra yêu cầu…) cho người phạm tội thì QCN sẽ không

được đảm bảo. Để làm rõ QBC của người phạm tội, tác giả sử dụng phương pháp so

sánh quyền này giữa các nước Tây Âu: Vương quốc Anh (Anh Quốc, Cộng Hòa

Ireland, Wales, Scotland), Tây Đức, Pháp…Tóm lại, tác giả đã phân tích về mặt kỹ

thuật pháp lý các quyền của những người tham gia phiên tòa hình sự đặc biệt là

quyền của bị cáo.

- The guarantees for accused persons under Article 6 of the European

Convention on Human Rights tạm dịch Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội theo

Điều 6 Công ước châu Âu về nhân quyền của tác giả Stephanos Stavros, NXB

Sweet & Maxwell, Anh quốc, năm 1993. Công ước châu Âu về nhân quyền, tên

chính thức là Công ước bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do căn bản (Convention

for the Protection of Human Rights and Fundamental Freedoms). Điều 6 đưa

Page 14: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

10

ra quyền được xét xử công bằng cách chi tiết, trong đó có quyền được xét xử công

khai trước một tòa án độc lập và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền được

coi là vô tội khi chưa có phán quyết của tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với

những người bị cáo buộc một tội hình sự (đủ thời gian và các điều kiện để chuẩn bị

việc biện hộ bảo vệ họ, tiếp cận với đại diện pháp luật, quyền thẩm vấn các nhân

chứng chống lại họ, quyền được có thông dịch viên miễn phí). Công trình phân tích

một cách đầy đủ về các vụ án cụ thể tại các quốc gia thành viên EU và sử dụng

phép so sánh giữa những vụ án được xét xử theo Công ước châu Âu về nhân quyền

với những phán quyết được dựa trên sự áp dụng của các quốc gia thành viên. Tác

giả đã kết luận rằng Điều 6 đã được hiểu và vận dụng vào trong các luật quốc gia

theo cách khác hoàn toàn với những chuẩn mực được quy định trong Công ước.

Vấn đề là các quốc gia thành viên hiểu, vận dụng thế nào về những quy định của

Công ước phù hợp với truyền thống lập pháp của quốc gia mình.

- Criminal process and human rights của tập thể tác giả là các giáo sư, phó

giáo sư của các Trường Đại học Luật tại Melbourne: Jeremy Gans, Terese Henning,

Jill Hunter và Kate Wamer, NXB New South Wales, Australia, 2011. Nội dung bàn

về vấn đề thực thi QCN tại Australia đặc biệt là trong quá trình TTHS phải đảm bảo

các quyền tự do của con người trong bắt giữ, giam giữ, xét xử; quyền được giữ im

lặng; quyền được xét xử một cách công bằng.

- The Criminal Law Handbook của tác giả Paul Bergman & Sara J.Berman-

Barrett, NXB Nolo năm 2003. Được xem như là một quyển sổ tay về Luật hình sự

với các nội dung chủ yếu như hệ thống hoạt động và lý do tại sao cảnh sát, luật sư

và thẩm phán làm những gì họ làm, bao gồm: bắt giữ, phí bảo lãnh, tìm kiếm và thu

giữ bảo vệ bằng chứng thử nghiệm…chi phí bào chữa, kết án người CTN.

- Children, Rights and the Law, của tác giả Philip Alston, Stephen Parker và

John A. Seymour, NXB Oxford University Press, The United States of America

năm 1992. Nội dung mà các tác giả đề cập đến là việc áp dụng trong tháng 11 năm

1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã

báo trước sự xuất hiện của một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của quyền trẻ

Page 15: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

11

em. Tính đến tháng 3 năm 1991 có hơn 75 quốc gia đã phê chuẩn Công ước. Việc

số lượng các quốc gia tham gia vào Công ước và thực hiện Công ước như một đóng

góp chương trình khung và nhằm đánh giá lại những ưu điểm và nhược điểm của

việc tiếp cận các vấn đề phúc lợi của trẻ em và hạnh phúc qua lăng kính của một

cách tiếp cận “quyền”. Mục đích là để có một cái nhìn mới về những vấn đề này và

làm như vậy với tài liệu tham khảo cụ thể cho một hiệp ước quốc tế chắc chắn sẽ

được phê chuẩn bởi một số lượng rất lớn của các nước trong mọi khu vực của thế

giới và sẽ sớm được ràng buộc pháp lý ở nhiều tiểu bang.

- Criminal Law cases, marterials and problems của tác giả David S.

Rudstein, NXB West Group, The United Sates of America năm 2002. Công trình

bao gồm các trường hợp và quy chế từ khu vực pháp lý khác nhau, cũng như những

đoạn trích từ BLHS Model. Ngoài ra, tác giả đã đặt vấn đề chiến lược trong suốt

công trình để học sinh có thể áp dụng pháp luật được quy định trong các trường hợp

và quy chế các tình huống thực tế mới, do đó cho phép họ kiểm tra kiến thức và

củng cố sự hiểu biết của họ về các nguyên tắc pháp lý có liên quan. Mục đích của

công trình gồm hai phần: đầu tiên, để giúp học sinh đạt được một sự hiểu biết về các

nguyên tắc chung của pháp luật hình sự Anh-Mỹ; thứ hai, để hỗ trợ sinh viên phát

triển kỹ năng của họ trong trường hợp phân tích, giải thích theo luật định, tổng hợp

các trường hợp, và giải quyết vấn đề.

- Juvenile Court: An Overview của tác giả Kathleen Michon, JD. Tác giả nêu

lên một số khái niệm về Tòa án Vị thành niên. Mỗi tiểu bang có những Tòa án đặc

biệt, thường được gọi là Tòa án Vị thành niên để xét xử người CTN, những người

đã bị cáo buộc vi phạm một đạo luật hình sự. Thông thường, Tòa án Vị thành niên

vẫn giữ quyền hợp pháp đối với người CTN cho một khoảng thời gian cho đến khi

người CTN trở thành thành niên, hoặc đôi khi thậm chí lâu hơn, nghĩa là thông

thường Tòa án ra quyết định, xử phạt và quyết định đó có hiệu lực cho đến khi vị

thành niên đủ tuổi thành niên. Một người trẻ tuổi phải là một “vị thành niên” theo

luật tiểu bang thì mới được đưa ra xét xử ở Tòa án này. Trong hầu hết các quốc gia,

tuổi tối đa cho người CTN là 18 tuổi. Trong một vài tiểu bang tuổi là 16 hoặc 17, và

Page 16: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

12

trong một số khác tuổi tối đa là 19 tuổi. Các quốc gia cũng đặt ra giới hạn tuổi thấp

hơn cho đủ điều kiện xét xử ở Tòa án Vị thành niên. Hầu hết các bang xem xét trẻ

em dưới 7 tuổi không có khả năng xác định sự khác biệt giữa đúng và sai. Vì vậy,

trẻ em dưới bảy tuổi thường được miễn trách nhiệm đối với hành vi mà họ thực

hiện. Thay vào đó, cha mẹ có thể phải bồi thường thiệt hại cho bất cứ ai là nạn

nhân. Trong một số trường hợp, tòa án cho rằng cha mẹ không thích hợp để chăm

sóc cho một đứa trẻ có hành vi sai trái và cam kết sẽ giao con cho người thân hoặc

cha mẹ nuôi chăm sóc, quản lý. Cho dù trẻ đó trong độ tuổi từ 7 đến 14 tuổi có thể

hình thành một ý định phạm tội và điều này phụ thuộc vào Tòa án. Nếu thẩm phán

cảm thấy rằng đứa trẻ có khả năng hình thành ý định phạm tội, đứa trẻ sẽ được đưa

ra Tòa án Vị thành niên để xét xử. Hầu hết các bang coi trẻ em 14 tuổi trở lên là có

khả năng hình thành ý định phạm tội, vì vậy phần lớn các trường hợp liên quan đến

những người trẻ tuổi từ 14 đến 18 tuổi được xét xử tại Tòa án Vị thành niên. Trong

một số trường hợp, người CTN có thể được xét xử tại tòa án hình sự người thành

niên. Về thủ tục tố tụng, khi một người CTN bị tình nghi vi phạm một đạo luật hình

sự, các thủ tục TTHS dành cho người CTN khác với các thủ tục dành cho thành

niên. Tất cả các nước đã tạo ra một hệ thống Tòa án Vị thành niên đặc biệt cho

người CTN. Dù có những điểm khác nhau, nhưng những người THTT điển hình

gồm cảnh sát, công tố viên, thẩm phán. Cảnh sát, công tố viên, các quan chức Tòa

án Vị thành niên chuyên trách, và các thẩm phán Tòa án Vị thành niên đều có suy

xét kỹ lưỡng để thực hiện các bước chính thức hơn trong việc xử lý các trường hợp.

Kết quả là, nhiều người CTN phạm tội không đạt đến mức điều trần xét xử. Tương

tự như vậy, các quyền Hiến định của người CTN là khác với các quyền của người

thành niên, những người đã bị cáo buộc phạm tội. Ví dụ: người CTN phạm tội có

quyền có luật sư tại một buổi điều trần xét xử, trong hầu hết các bang họ không có

quyền cho vụ án của họ xét xử bởi một Bồi thẩm đoàn. Một số vụ án người CTN

phạm tội được chuyển giao cho Tòa án dành cho người thành niên. Người CTN

phạm tội có quyền có một buổi điều trần để xác định xem trường hợp của họ nên

được chuyển giao cho Tòa án dành cho người thành niên.

Page 17: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

13

- Magistrate Court Act, tạm dịch Đạo luật Thẩm phán Tòa án của Vương

quốc Anh, quy định về việc thành lập Tòa án; quy tắc của Tòa án; giới hạn lãnh thổ,

thẩm quyền của Tòa án; bổ nhiệm thẩm phán, thư ký tòa án; thẩm quyền dân sự,

thẩm quyền hình sự của Tòa án; thẩm quyền đặc biệt trong những trường hợp nhất

định; chức năng và thẩm quyền của thẩm phán; nhiệm vụ của thư ký tòa án…Một

điều quan trọng trong Đạo luật Thẩm phán Tòa án có quy định thông thường người

CTN sẽ được xét xử ở Tòa án Vị thành niên, tuy nhiên trong một số trường hợp thì

sẽ được xét xử ở Tòa án dành cho người thành niên. Cụ thể là trong các trường hợp:

tội sát nhân (homicide), sở hữu vũ khí quân dụng, tội trạng vượt quá 14 năm cho

người CTN, xâm phạm tình dục, xâm phạm tình dục với trẻ em, những tội đặc biệt

nghiêm trọng có thể bị phạt từ 10 năm tù giam cho người CTN (sát nhân, bắt cóc,

v.v..), xét xử cùng với đồng phạm là người thành niên.

- Police and Criminal Evidence Act 1984, tạm dịch là Đạo luật Cảnh sát

hình sự và chứng cứ 1984. Đây là một đạo luật của Quốc hội nhằm tạo ra một

khuôn khổ pháp lý cho quyền lực của nhân viên cảnh sát tại Anh và xứ Wales

chống tội phạm, cũng như cung cấp các quy trình cho việc thực hiện những quyền

lực. Khi thực hiện quyền lực đối với các trường hợp là người CTN, đạo luật cũng

quy định thật chi tiết từng hành vi cụ thể của cảnh sát: khi bắt giữ người CTN, việc

đầu tiên là nhân viên cảnh sát sẽ phải thông báo ngay với phụ huynh, người đỡ đầu,

cơ quan địa phương, v.v.. về việc lý do người CTN bị bắt giữ. Liên quan đến quy

trình thẩm vấn, lấy lời khai, hỏi cung người CTN, nếu trong trường hợp mà phụ

huynh, người đỡ đầu của người CTN không thể có mặt thì nhân viên cảnh sát sẽ tiến

hành lập một tuyên bố bằng văn bản (written statement) có chữ ký của người CTN

để chứng minh cuộc thẩm vấn không có người lớn tham dự. Tuy nhiên, việc làm

này còn phụ thuộc vào các yếu tố như: phải có sự xác nhận (hay ủy quyền) của một

người đứng đầu của cảnh sát về việc hài lòng khi cuộc thẩm vấn không gây ảnh

hưởng xấu đến sức khỏe, tinh thần và thể xác của người CTN; sự trì trệ có thể xảy

ra và dẫn đến sự ngăn cản hoặc xâm phạm đến bằng chứng liên quan đến tội trạng,

ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người khác, xâm hại hay đánh mất tài sản, thông

Page 18: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

14

báo cho người bị nghi là có sự tham gia trong tội trạng nhưng chưa bị bắt giải…

Còn khi thẩm vấn có sự hiện diện của phụ huynh, người đỡ đầu thì người lớn phải

khuyên bảo người CTN trong quá trình thẩm vấn; giám sát cuộc thẩm vấn diễn ra

một cách công bằng và chuẩn xác; giúp cho cuộc điều tra được thuận lợi, tốt đẹp…

Trong số tài liệu tiếng nước ngoài liên quan tới đề tài luận án cũng có thể kể

tới các tài liệu như: Hệ thống tư pháp hình sự của một số nước Châu Á, bản dịch

tiếng Việt của Viện khoa học Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao;

Bộ luật tố tụng hình sự của Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, bản dịch tiếng Việt của

Viện khoa học Kiểm sát, VKSND tối cao; có hiệu lực thi hành năm 1992;

“Principle of Criminal procedure” tạm dịch “ Nguyên tắc của xét xử vụ án hình sự”

của tác giả Neil Andrews; “Human rights in the English criminal trial – Human

rights in criminal procedure” tạm dịch “Quyền con người trong xét xử vụ án hình

sự” của tác giả K. W. Lidstone; “Sự phát triển của thanh niên và xét xử người vị

thành niên” của tác giả Cauffman và Steinberg, năm 2008.

Các tài liệu trên đây có thể có giá trị rất cao về tính khoa học cũng như độ tin

cậy của thông tin nhưng trong luận án này chúng tôi chỉ dừng ở mức độ sử dụng các

tài liệu này dưới góc độ thông tin về tình hình nghiên cứu ở các nước xuất phát từ

các lý do sau: đầu tiên, rào cản ngôn ngữ không cho phép nắm bắt đầy đủ, chính xác

ý tưởng của các tác giả và thêm nữa là sự khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông

tin chính gốc. Các tài liệu được dịch ra tiếng Việt tự thân đã là các tài liệu thuộc

nguồn thông tin thứ cấp vì thế độ chính xác, tính tin cậy của thông tin cũng bị hạn

chế bởi sự có thể có những lồng ghép quan điểm chủ quan của người dịch, sự áp đặt

hiểu biết, kiến thức về pháp luật nước mình trong quá trình dịch, sự khác biệt của

ngôn ngữ chuyên ngành. Nói như vậy không có nghĩa tài liệu nước ngoài không

đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đề tài. Trái lại, việc nắm bắt chính xác,

đầy đủ thông tin pháp luật nước ngoài sẽ nâng cao chất lượng khoa học của luận án.

Đánh giá chung về các công trình trên, có những điểm tương đồng với pháp

luật Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực TTHS. Những quy trình TTHS đặc biệt đối

Page 19: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

15

với người CTN khi tham gia vào VAHS. Những quy định đối với người THTT là

cần phải có kiến thức, sự am hiểu về tâm sinh lý đối với người CTN khi tiến hành

các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người CTN phạm tội. Tuy nhiên, so với

những quy định về thủ tục TTHS đặc biệt đối với người CTN, pháp luật nước ngoài

cũng có những điểm ưu việt, nổi trội hơn. Đặc biệt, đa số các quốc gia đều có Tòa

án chuyên trách để xét xử người CTN và xây dựng riêng luật cho người CTN (Law

for parents Counselors). Để có thể đảm bảo cho người CTN thực hiện được đầy đủ

các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, pháp luật nước ngoài cũng quy định rất

chặt chẽ các hoạt động của các cơ quan THTT như cơ quan điều tra (CQĐT), viện

công tố, tòa án và kể cả người THTT bằng việc xây dựng các đạo luật riêng cho

từng đối tượng cụ thể, như Đạo luật Thẩm phán Tòa án và Đạo luật Cảnh sát hình

sự và Chứng cứ 1984.v.v..

Tuy vậy, một cách tổng quan có thể thấy các tài liệu nước ngoài chủ yếu đề

cập đến QCN nói chung và QCN trong TTHS và các quyền này đều có nền tảng từ

các quy định của Công ước châu Âu về QCN. Nhiều vấn đề lý luận quan trọng như

làm thế nào để bảo đảm quyền cơ bản của công dân khi tham gia TTHS, đó là QBC;

cơ chế bảo đảm thực thi QBC theo nghĩa vụ pháp lý trong TTHS ra sao…còn bị bỏ

ngỏ hoặc đã được đề cập ở mức độ nhất định nhưng còn thiếu đồng bộ, thiếu thống

nhất, chưa đầy đủ. Do vậy, đa số các công trình chủ yếu phân tích các quy định của

pháp luật thực định, có so sánh với thực tiễn để tìm ra những bất cập, hạn chế về

QBC nói chung và của người CTN riêng trong TTHS.

Nhìn chung thủ tục tố tụng đối với người CTN phạm tội, trong phạm vi

người viết tra cứu được, cũng chỉ được đề cập ở một phạm vi rất nhỏ trong các tài

liệu dịch như đã thống kê.

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Bên cạnh các sách chuyên khảo và các đề tài khoa học của các nhà nghiên

cứu nước ngoài, còn có các công trình của các học giả trong nước dưới góc độ

nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục tố tụng đối với người CTN. Có thể kể đến các đề

Page 20: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

16

tài nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài luận án, tác giả phân thành các nhóm

như sau:

- Đề tài khoa học, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ luật học:

+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Bảo đảm quyền con người trong tố

tụng hình sự Việt Nam, chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc, trường Đại

học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009. Đề tài nghiên cứu vấn đề QCN,

quyền công dân và Nhà nước pháp quyền, bảo đảm QCN trong TTHS. Đề tài phát

triển lý luận về QCN và bảo đảm QCN trong hoạt động TTHS như: bảo đảm QCN

của các chủ thể tham gia hoạt động TTHS: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị can,

bị cáo là người CTN, NBC, người làm chứng, người bị hại. Cơ chế bảo đảm QCN

trong TTHS và các thành tố của cơ chế; mối quan hệ giữa CCTP và mở rộng QCN,

tăng cường bảo đảm QCN trong TTHS. Riêng về lĩnh vực hoạt động TTHS thì đề

tài cũng không phải là công trình nghiên cứu đầu tiên về QCN và bảo đảm QCN.

Đã có một số công trình nghiên cứu khoa học ở nhiều cấp độ khác nhau về đề tài

này. Cần phải kể đến sách chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình

sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Trần Quang Tiệp và một số luận văn thạc

sỹ, bài viết về đề tài này. Các nghiên cứu này đã bước đầu đề cập đến một số nội

dung của QCN trong TTHS ở những khía cạnh cụ thể. Tuy nhiên, cần phải khẳng

định rằng các nghiên cứu kể trên còn có những hạn chế nhất định ở tính hệ thống,

tính toàn diện. Nhiều khái niệm cơ bản của vấn đề QCN và bảo đảm QCN trong

TTHS nói chung hoặc QCN và bảo đảm QCN của những chủ thể tham gia hoạt

động TTHS chưa được nhìn nhận một cách đồng bộ và sâu trong các nghiên cứu

này. Tóm lại, công trình nghiên cứu Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình

sự Việt Nam đã làm rõ thực trạng bảo đảm QCN trong Bộ luật TTHS 2003 và đề

xuất một số giải pháp hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003 theo hướng mở rộng QCN và

bảo đảm QCN của những chủ thể tham gia hoạt động TTHS.

+ Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố

tụng hình sự Việt Nam, của TS Lại Văn Trình, Đại học Luật TP.HCM năm 2011.

Page 21: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

17

Luận án nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận về QCN và bảo đảm QCN của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS; hệ thống hóa được các biện pháp bảo đảm; làm

rõ những điểm chung và những đòi hỏi đặc thù trong bảo đảm QCN của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn TTHS khác nhau. Ngoài ra, luận án đã

phân tích có hệ thống các quy định của Bộ luật TTHS và đánh giá đầy đủ, toàn diện

thực tiễn bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam,

từ đó tìm ra được những hạn chế, bất cập về bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo trong TTHS và nguyên nhân của những bất cập hạn chế. Luận án cũng

đã đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của

pháp luật TTHS Việt Nam và tăng cường bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo trong hoạt động TTHS.

+ Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng đối với người chưa

thành niên trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Đỗ Thị Phượng, Khoa

luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007. Luận án đã nghiên cứu một cách có hệ

thống về thủ tục đối với người CTN và thực tiễn áp dụng những quy định này trên

địa bàn cả nước, góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện các quy định của Bộ luật

TTHS. Luận án nghiên cứu các quy định chung về thủ tục tố tụng đối với người

CTN trong Bộ luật TTHS Việt Nam để qua đó làm sáng tỏ về mặt lý thuyết những

ưu điểm và hạn chế, bên cạnh đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định

của Bộ luật TTHS hiện hành. Tác giả đã nghiên cứu thực tiễn áp dụng các thủ tục

tố tụng đối với người CTN trong phạm vi cả nước từ năm 1997 đến năm 2007, đánh

giá những kết quả đạt được và những tồn tại, thiếu sót để đề xuất một số giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các loại vụ án này trong tình hình hiện nay và

những năm tiếp theo. Ngoài ra, tác giả còn xây dựng và thống nhất các khái niệm về

người CTN, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người CTN; xây dựng mô hình tổ

chức của Tòa án người CTN tại Việt Nam.

+ Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – so sánh giữa

luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ, của TS Lương Thị Mỹ Quỳnh, Đại học

Page 22: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

18

Luật TP.HCM năm 2011. Luận án nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung những quy định

hiện hành của pháp luật quốc tế, của luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm

quyền có NBC trong sự so sánh để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt,

lý giải sự tương đồng và khác biệt đó, đồng thời phân tích và chỉ ra những ưu điểm

và hạn chế của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về bảo đảm quyền có NBC.

Luận án còn đánh giá được thực trạng bảo đảm quyền có NBC ở Việt Nam, Đức và

Mỹ trong sự so sánh để thấy được những hiệu quả và khó khăn trong việc áp dụng

pháp luật ở mỗi quốc gia. Trên cơ sở nghiên cứu nền tảng lý luận và pháp luật hiện

hành cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật của Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có

NBC, luận án đã đề xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện

hành nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền này trong TTHS.

+ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp

luật tố tụng hình sự Việt Nam, của TS Trần Hưng Bình, Học Viện Khoa học xã hội,

năm 2014. Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần giải quyết

về mặt lý luận quyền của người CTN nói chung và quyền, lợi ích hợp pháp của

người CTN trong TTHS nói riêng. Về ý nghĩa thực tiễn, luận án góp phần hoàn

thiện pháp luật TTHS cũng như góp phần thay đổi nhận thức của người CTN, các

cơ quan và người THTT, gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội.

+ Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong Tư pháp hình sự Việt Nam,

của Thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh, năm 2008. Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề

lý luận chung về bảo vệ quyền của người CTN trong tư pháp hình sự, như: khái

niệm người CTN; bảo vệ quyền cho người CTN trong tư pháp hình sự Việt Nam.

Phân tích lược sử hình thành và phát triển các quy phạm tư pháp hình sự Việt Nam

về bảo vệ quyền của người CTN. Nghiên cứu những quy định của tư pháp hình sự

Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền của người CTN và thực tiễn áp dụng những

quy định của tư pháp hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền của người CTN. Nêu các

giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của người CTN trong tư

pháp hình sự Việt Nam: hoàn thiện các quy định của BLHS và Bộ luật TTHS bảo

Page 23: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

19

vệ quyền của người CTN; các giải pháp đảm bảo như thành lập Tòa án dành cho

người CTN, tăng cường hợp tác quốc tế.

+ Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thành lập cơ quan xét xử người chưa

thành niên phạm tội, của Thạc sỹ Lê Thị Hồng Minh, Đại học Luật Thành phố Hồ

Chí Minh, năm 2003. Đề tài nghiên cứu về cơ sở lý luận cho việc thành lập cơ quan

xét xử người CTN phạm tội. Đồng thời tác giả cũng làm rõ được thực trạng tội

phạm người CTN cũng như cách đánh giá một cách khách quan về thực tiễn xét xử

người CTN phạm tội trong thời gian qua mà chủ yếu là những hạn chế, vướng mắc

làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN. Đặc biệt là

những vướng mắc trong quy định của pháp luật và thực trạng cơ quan, đội ngũ cán

bộ làm công tác xét xử người CTN phạm tội. Tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị

góp phần vào quá trình CCTP nói chung và cải cách tòa án nói riêng cũng như

nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.

- Ngoài nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục tố tụng đối với người CTN trong

pháp luật TTHS Việt Nam nêu trên còn có một số công trình tiêu biểu đề cập đến

những vấn đề lý luận chung như: sách chuyên khảo:

+ Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, của Trường

Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2010 do TS. Võ Thị Kim Oanh chủ

biên mà điển hình là các bài viết của PGS. TS. Trần Văn Độ “Bảo vệ quyền con

người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu

cải cách tư pháp” và của tiến sĩ Nguyễn Bá Ngừng “Bảo đảm quyền bào chữa của

bị can, bị cáo - Một trong những nguyên tắc quan trọng góp phần bảo đảm quyền

con người trong tố tụng hình sự”. Công trình này tập hợp có hệ thống các công trình

nghiên cứu của các nhà khoa học về những vấn đề chung về bảo vệ các QCN bằng

pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, bảo vệ QCN của người bị tạm giữ, bị can,

bị cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng trong tư pháp hình sự đáp

ứng yêu cầu CCTP, một số vấn đề bảo vệ QCN trong TTHS Việt Nam…

Page 24: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

20

+ Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự của NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, năm 2011 của các tác giả PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung, GS.TS.

Phạm Hồng Thái, GS. TSKH Lê Văn Cảm, TS. Vũ Công Giao và ThS. Lê Khánh

Tùng đồng chủ biên. Công trình này là tập hợp các tài liệu của lớp tập huấn về bào

chữa hiệu quả cho một số nhóm đối tượng dễ bị tổn thương trong TTHS do khoa

Luật Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức và sự hỗ trợ của Dự án Tư pháp quốc tế (IJP)

và chương trình Sáng kiến pháp quyền của Hội Luật gia Hoa Kỳ (ABA ROLI).

Công trình giới thiệu về một số vấn đề pháp lý và thực tiễn trong việc bảo vệ các

nhóm dễ bị tổn thương trong TTHS trên thế giới và ở Việt Nam.

+ Hướng dẫn thực hành các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến tư pháp người

chưa thành niên, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội năm 2000 phối hợp với Tổ chức

cứu trợ trẻ em của Thụy Điển (Radda Barnen) xuất bản. Công trình giới thiệu về

những tiêu chuẩn về QCN trong tư pháp người CTN, tập hợp các nguồn luật quốc tế

về QCN, quyền của trẻ em và hướng dẫn thực hành cho các cán bộ tư pháp người

CTN, các nhà chính sách và các lực lượng truyền thông.

- Trong số các tài liệu trong nước về TTHS nói chung và bảo đảm QBC của

bị can, bị cáo là người CTN còn có các tài liệu như sau: giáo trình Luật TTHS Việt

Nam năm 2008 của Trường Đại học Luật Hà Nội; sách Bình luận khoa học Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2003 của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, NXB Bộ Tư

pháp, năm 2005; sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm

2003 của tác giả Đinh Văn Quế, Chánh tòa Tòa hình sự TAND tối cao, NXB Tổng

hợp Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007; sách Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2003 của các tác giả ThS. Vũ Mạnh Thông và Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp,

NXB Lao động và Xã hội, năm 2009.v.v…

- Dưới góc độ nghiên cứu chuyên ngành, cũng có nhiều công trình liên quan

đến vấn đề QBC của bị can, bị cáo. Một nguồn tài liệu có độ tin cậy và giá trị pháp

lý cao mà không thể bỏ qua trong quá trình thực hiện luận án là các bài viết trên

các tạp chí, tài liệu hội thảo chuyên ngành. Trong số các bài viết đó cần phải đề cập

Page 25: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

21

tới các bài viết của các tác giả sau đây: bài viết của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc

“Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong tố tụng hình sự” đăng trên Tạp chí

Khoa học Pháp lý số 4 năm 2007; các bài viết của TS. Nguyễn Văn Tuân “Bảo đảm

quyền có người bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, “Quyền bào

chữa và sự tham gia của bị cáo ở phiên tòa” và “Bàn về sự tham gia của Luật sư

trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên” đăng trên Tạp chí Dân

chủ và Pháp luật số chuyên đề 1995; bài viết “Hoàn thiện quy định của pháp luật

nhằm đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên” của ThS.

Nguyễn Hải Ninh đăng trên Tạp chí Luật học số 11 năm 2009, trang 41; bài viết

“Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên

phạm tội” của ThS. Cao Thị Oanh đăng trên Tạp chí Luật học số 10 năm 2007,

trang 36; bài viết của TS. Đỗ Thị Phượng “Sự cần thiết phải thành lập tòa án người

chưa thành niên ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí TAND số 21 năm 2009, trang 1; bài

viết “Một số đặc tâm lí của người chưa thành niên phạm tội” đăng trên Tạp chí

Luật học, số 1 năm 2008, trang 39; bài viết “Việc áp dụng khoản 2, Điều 57 Bộ luật

tố tụng hình sự” của Lê Văn Sua đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11 năm

2006, trang 26; bài viết “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội

– một số vấn đề cần được nghiên cứu” của TS. Lê Đăng Doanh đăng trên Tạp chí

TAND số 9 năm 2009, trang 25; bài viết “Nguyên tắc xử lý người thành niên phạm

tội” của ThS. Mai Bộ đăng trên Tạp chí Nghề luật số 3 năm 2008, trang 19; bài viết

“Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng

đối với người chưa thành niên phạm tội” của TS. Trịnh Tiến Việt đăng trên Tạp chí

TAND số 13 năm 2010, trang 9; báo cáo của PGS. TS. LS. Phạm Hồng Hải về

“Quyền tự bào chữa trong tố tụng hình sự ở Việt Nam và việc thực hiện trong thực

tiễn” tại Hội thảo Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam (do Liên đoàn

Luật sư Việt Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc tổ chức tại Thành phố

Hồ Chí Minh vào tháng 12 – 2010); báo cáo của PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc về

“Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà

nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại Hội thảo Quyền con người trong

Page 26: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

22

tố tụng hình sự (do VKSND tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức vào

tháng 3 – 2010).

Qua nghiên cứu các tài liệu trong nước, chúng tôi nhận thấy, việc nghiên cứu

về thủ tục tố tụng đối với người CTN của các tác giả đã đạt được những thành quả

nhất định. Các công trình nghiên cứu trong nước nói trên đã tập trung những vấn đề

sau:

- Về đặc điểm tâm sinh lý của người CTN nói chung và người CTN phạm tội

nói riêng.

Người CTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần. Họ là

người ở độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi, đa số họ còn đang sống phụ thuộc vào người

thành niên. Người CTN là người còn có rất ít kinh nghiệm sống, ít va chạm, tiếp

xúc với các hiện tượng xã hội nhưng đồng thời họ lại là người rất hiếu động, thích

tìm hiểu, khám phá những điều mới lạ trong thế giới xung quanh mình. Do đó họ dễ

bị lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm. Người CTN phạm tội về cơ

bản cũng có những đặc điểm tâm sinh lý như người CTN bình thường, tuy nhiên do

tiếp xúc nhiều với những điều kiện tiêu cực trong đời sống xã hội cho nên về tâm

sinh lý của họ có những biểu hiện lệch lạc, cực đoan. Sự hiểu biết về pháp luật cũng

như các chuẩn mực trong xã hội của người CTN phạm tội thường rất mơ hồ. Khả

năng nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của họ còn rất

hạn chế.

- Về chính sách hình sự đối với người CTN.

Hầu hết các tài liệu trên đều đề cập tới nguyên tắc xử lý về hình sự đối với

người CTN phạm tội. Về cơ bản, nhà nước Việt Nam không chủ trương xử lý về

hình sự mang tính chất trừng phạt người CTN phạm tội mà với mục đích giáo dục,

giúp đỡ họ tích cực sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để họ trở thành những

công dân có ích cho xã hội. Dựa trên nguyên tắc này, pháp luật hình sự của Việt

Nam đã có những qui định mang tính chất nhân đạo đối với người CTN phạm tội.

Cụ thể: Người CTN có thể được miễn truy cứu TNHS nếu người đó phạm tội ít

Page 27: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

23

nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và nếu được gia đình

hoặc một tổ chức xã hội nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục... hoặc khi xét xử, nếu

thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người CTN phạm tội, thì toà án

áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được qui định tại Điều 70 BLHS 1999.

Người CTN khi bị áp dụng hình phạt tù thì mức hình phạt mà toà án áp dụng cho họ

cũng nhẹ hơn mức hình phạt được quyết định đối với người thành niên phạm tội. Bên

cạnh đó pháp luật cũng không cho phép được áp dụng hình phạt tử hình và chung

thân đối với người CTN phạm tội. Các công trình này đã lý giải tại sao Việt Nam lại

có những chính sách nhân đạo đối với người CTN phạm tội và việc cụ thể hoá các

chính sách này trong pháp luật hình sự và TTHS như thế nào. Những qui định mang

tính nhân đạo này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người CTN.

- Về các qui định của pháp luật TTHS đối với người CTN và thực tiễn áp

dụng.

Các nghiên cứu đều chỉ ra các qui định về thủ tục TTHS đối với người CTN

trong Bộ luật TTHS là tương đối đầy đủ, tuy nhiên vẫn còn một số qui định mang

tính chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể. Chính vì vậy mà việc áp dụng các qui định

này trên thực tế đã gặp không ít những khó khăn. Có rất nhiều các cơ quan THTT

đã nhận thức chưa đầy đủ, chưa thống nhất dẫn đến việc vận dụng sai các qui định

của pháp luật TTHS khi giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện, điều này

đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN. Đôi khi

cũng có trường hợp do cẩu thả, xem nhẹ các qui định này mà các cơ quan THTT đã

vi phạm nghiêm trọng các thủ tục TTHS đối với người CTN.

- Các kiến nghị sửa đổi Bộ luật TTHS và các văn bản pháp luật liên quan.

Trên cơ sở phân tích nhằm làm rõ những qui định của pháp luật về thủ tục

TTHS đối với người CTN và thực tiễn áp dụng thủ tục tố tụng này, các nghiên cứu

nói trên đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định pháp luật TTHS và

chủ yếu là về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, việc nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ tư pháp, việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN

như sự tham gia của NBC, đại diện gia đình, tổ chức xã hội. Một số nghiên cứu

Page 28: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

24

cũng đề cập tới việc cần thiết phải thành lập Toà án người CTN trong hệ thống

TAND song mới chỉ dừng lại ở việc nêu vấn đề mà chưa phân tích cụ thể cơ sở lý

luận cũng như cơ sở thực tiễn có tính thuyết phục cho việc cần thiết phải thành lập

Toà án người CTN, cơ cấu tổ chức, nguồn cán bộ của tòa án.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã khái quát được các qui định

của pháp luật về thủ tục tố tụng đối với người CTN.

Tuy nhiên các công trình này mới chỉ dừng lại ở mức độ phân tích, so sánh,

đánh giá những mặt hạn chế và đạt được ở từng khía cạnh trong việc áp dụng các

qui định của pháp luật đối với người CTN mà chưa đi sâu phân tích một cách toàn

diện các khía cạnh pháp lý. Một trong những nội dung chưa được đề cập đến nhiều

như thủ tục điều tra thân thiện đối với người CTN chưa được các tác giả tập trung

nghiên cứu. Theo đánh giá của các chuyên gia pháp lý, mặc dù Việt Nam đã có rất

nhiều nỗ lực nhưng hệ thống tư pháp hiện hành đối với người CTN, đặc biệt là

trong việc bảo đảm sự bảo vệ và hỗ trợ đầy đủ cho người CTN hiện vẫn còn một số

khiếm khuyết cả về pháp luật lẫn thực tiễn. Các nghiên cứu cho biết hệ thống xử lý

người CTN vi phạm pháp luật của Việt Nam còn nặng tính trừng phạt, nếu so sánh

với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử chưa thực

sự phù hợp với nhu cầu bảo vệ đặc biệt của người CTN có liên quan đến hệ thống tư

pháp. Việc bảo vệ sự riêng tư của bị can, bị cáo CTN là một số vấn đề cần quan

tâm. Hiện chưa có đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư, cán bộ

TGPL được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp với người CTN. Kỹ năng điều

tra, truy tố, xét xử thân thiện với người CTN của các cán bộ THTT còn rất hạn chế.

Một nội dung khác cũng chưa được đề cập một cách chuyên sâu, đó là trong bối

cảnh hiện nay, nhất là để thực hiện chủ trương CCTP theo Nghị quyết 49-NQ/TW,

việc xúc tiến thành lập tòa án chuyên trách về người CTN như trên đã được xác

định là rất cần thiết và đây là thời điểm thích hợp. Các TAND như hiện nay xét xử

người CTN vi phạm pháp luật hoặc xét xử các vụ việc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của người CTN khi bị xâm phạm không còn phù hợp đòi hỏi cần phải có

Page 29: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

25

tòa án chuyên trách để xét xử những vụ án liên quan tới người CTN. Hơn nữa, Nhà

nước ta đã sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và đang nghiên cứu sửa đổi, bổ sung

Luật Tổ chức TAND và các văn bản pháp luật khác có liên quan, đồng thời triển

khai thực hiện Nghị quyết 49 về CCTP thì việc tổ chức, thành lập tòa án cho người

CTN là phù hợp với thực tiễn.

Điều này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, toàn diện

hơn nữa để từng bước hoàn thiện quy định pháp luật TTHS trong giải quyết vụ án

do người CTN thực hiện là việc làm cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn

hiện nay.

2. Mục tiêu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu có thể hiểu là câu trả lời cho câu hỏi việc thực hiện

luận án để làm cái gì? Với cách tiếp cận này, chúng tôi xác định mục tiêu của luận

án là đề xuất các giải pháp pháp lý hoàn thiện quy định pháp luật về QBC của bị

can, bị cáo là người CTN, đặc biệt là các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về

cơ chế thực thi quyền này.

2.2. Cơ sở lý thuyết

2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu

Nhằm làm rõ mục tiêu nghiên cứu của luận án, chúng tôi đặt ra các câu hỏi

nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, có hay không sử ảnh hưởng của lý thuyết về QBC của bị can, bị

cáo nói chung và bị can, bị cáo là người CTN nói riêng đến hiệu quả cơ chế đảm

bảo thực thi quyền này?

Thứ hai, những yếu tố nào tạo nên tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là

người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia hoạt động tố tụng? Những yếu tố này là

bất biến hay có thể thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống (kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội…)?

Page 30: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

26

Thứ ba, tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc

biệt tham gia tố tụng đã được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong quy định pháp luật về

QBC của các chủ này hay chưa?

Thứ tư, nếu như quy định pháp luật hiện hành về QBC của bị can, bị cáo là

người CTN đã thể hiện đầy đủ yếu tố đặc thù của các chủ thể này thì việc áp dụng

các quy định này trên thực tiễn diễn ra như thế nào? Có hay không sự sai lệch giữa

quy định pháp luật (tạm gọi - pháp luật trên giấy) và thực tiễn áp dụng? Nếu có sự

sai lệch thì nguyên nhân xuất phát từ đâu? Việc thiếu quy định pháp luật hay có quy

định pháp luật nhưng tính chất chung chung, khái quát của kỹ thuật lập pháp cho

phép người áp dụng hiểu và vận dụng pháp luật theo cảm quan cá nhân hay không?

Sự ảnh hưởng từ nhận thức, ý thức của người áp dụng pháp luật đến hiệu quả áp

dụng pháp luật ở mức độ nào? Cần có những giải pháp nào để hạn chế sự vi phạm

QBC của bị can, bị cáo là người CTN?

2.2.2. Lý thuyết nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ

nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền với tinh thần

“thượng tôn pháp luật” và đề cao QCN. Các quan điểm của Đảng về CCTP cũng là

cơ sở cho phương pháp luận của luận án.

Đề tài luận án có trọng tâm là QBC của bị can, bị cáo là người CTN nên lý

thuyết nghiên cứu của luận án sẽ bao gồm các khái niệm, học thuyết, định nghĩa

liên quan tới QCN nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng.

Trước tiên, phải nói tới học thuyết luật tự nhiên được hình thành từ thời Hy

lạp cổ đại nhưng phát triển mạnh mẽ ở châu Âu vào thế kỷ XIII [48] dựa trên một

trật tự chung – trao những quyền vốn có của con người cho tất cả mọi người. Các

quyền vốn có của con người vào thời điểm đó trong sâu thẳm tâm hồn nhân loại

được xem là quyền tự do không bị áp bức, quyền tự do lựa chọn và không bị chịu

những hành vi bạo lực. Giá trị của lý thuyết luật tự nhiên ở chỗ đã đặt nền móng

cho Cuộc cách mạng giải phóng của Hoa Kỳ với sự ra đời của Bản Tuyên ngôn độc

lập và kế đó là cuộc cách mạng tư sản Pháp với bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và

Page 31: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

27

Dân quyền (1789). Cũng chính từ các bản tuyên ngôn này là sự hình thành của

nguyên tắc suy đoán vô tội là một lý thuyết không thể thiếu trong việc xây dựng cơ

chế đảm bảo QCN nói chung trong TTHS và QBC của bị can, bị cáo là người CNT

nói riêng. Với vai trò là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về đặc điểm thể chất, tinh

thần của người CTN, nội dung luận án sẽ là dựa trên học thuyết về sự phát triển của

con người của Eric Erikson. Theo học thuyết này giai đoạn thứ 5 của con người có

tên gọi giai đoạn vị thành niên (từ 13 đến 20 tuổi) mang đặc điểm có sự thể hiện bản

thân và sự lẫn lộn về vai trò. Nếu được học hỏi và có thêm những cảm nghiệm tích

cực về bản thân, lòng tự hào, tự trọng, biết tôn trọng người khác sẽ được hình thành

ở trẻ. Ngược lại, trẻ sẽ mất ý thức về giá trị và địa vị chính mình trong mối tương

quan với xã hội và nhưng thái độ, hành vi thể hiện sự không tôn trọng trẻ hay những

lời quở trách, phê phán đối với trẻ dễ làm cho trẻ tự ái hay dỗi hờn. Trên nền tảng

của học thuyết về sự phát triển của con người trong khoa học luât hình sự hình

thành học thuyết về tội phạm [85] và các nhánh lý thuyết về tội phạm như “lý luận

chung chung về cấu thành tội phạm” [83], “lý luận chung về định tội danh” [77],

[41]. Với học thuyết này việc quy định QBC và việc bảo đảm thực thi quyền này

cũng dựa trên cơ sở đặc điểm tâm, sinh lý của người CTN đòi hỏi cần có sự đánh

giá kỹ lưỡng, chuyên biệt đối yếu tố chủ thể tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm

là 2 trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm. Bên cạnh các lý thuyết nền tảng nói trên,

luận án sẽ được thực hiện dựa trên sự kế thừa, tiếp thu, đánh giá các khái niệm, định

nghĩa như khái niệm QBC, khái niệm người CTN, khái niệm bị can, bị cáo, khái

niệm phạm tội.

2.2.3. Các giả thuyết nghiên cứu

Trong khả năng nhận định của chúng tôi giả thuyết nghiên cứu có thể xem là

nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu hoặc là câu trả lời sơ bộ, cần

chứng minh, vào câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Theo quan điểm của chúng tôi đặt

ra một giả thuyết sai vẫn còn hơn không đặt ra một giả thuyết nào vì giả thuyết

nghiên cứu sẽ giúp chúng tôi có định hướng rõ hơn trong nghiên cứu. Dựa theo các

câu hỏi nghiên cứu đã được đưa ra, chúng tôi có các giả thuyết nghiên cứu như sau:

Page 32: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

28

Giả thuyết thứ nhất, lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo nói chung và bị can,

bị cáo là người CTN nói riêng có ảnh hưởng đến hiệu quả cơ chế đảm bảo thực thi

quyền này.

Giả thuyết thứ hai, yếu tố tâm, sinh lý là những yếu tố nào tạo nên tính chất

đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ thể đặc biệt tham gia hoạt động tố

tụng. Những yếu tố này có thay đổi theo sự thay đổi của môi trường sống (kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội…).

Giả thuyết thứ ba, tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người CTN như chủ

thể đặc biệt tham gia tố tụng đã chưa được thể hiện đầy đủ, rõ ràng trong quy định

pháp luật về QBC của các chủ này.

Giả thuyết thứ tư, với các nguyên nhân khách quan, chủ quan, việc áp dụng

quy định pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN chưa có tính hiệu quả

và cần phải có những giải pháp để hạn chế sự vi phạm QBC của bị can, bị cáo là

người CTN.

2.2.4. Hướng tiếp cận của đề tài nghiên cứu

Luận án kế thừa (có chọn lọc, phân tích, đánh giá) các kết quả nghiên cứu đã

được công bố trước đó với mục đích bổ sung, hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực

tiễn liên quan tới đối tượng nghiên cứu của luận án.

Luận án sẽ được thực hiện theo hướng gắn kết chặt chẽ pháp luật với các học

thuyết khoa học cũng như thực tế cuộc sống, thực tiễn áp dụng pháp luật. Cách tiếp

cận này sẽ cho phép đánh giá tính phù hợp, tính tương thích của quy định pháp luật

với lý luận và thực tiễn. Kết cấu các chương của luận án phản ánh hướng tiếp cận

này.

Để đạt được mục đích nghiên cứu, việc đánh giá tính phù hợp, tính tương

thích của quy định pháp luật Việt Nam về QBC của bị can, bị cáo là người CTN

được tiếp cận theo hướng không chỉ gói gọn việc nghiên cứu trong phạm vi pháp

luật Việt Nam. Nhưng việc tiếp nhận kinh nghiệm nước ngoài nhằm hoàn thiện lý

luận cũng như pháp luật Việt Nam liên quan tới đề tài sẽ theo hướng lấy các yếu tố

Page 33: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

29

kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam là căn cứ đánh giá mức độ tiếp thu

kinh nghiệm nước ngoài.

Các giải pháp như một trong những kết quả không thể thiếu của đề tài cũng

sẽ được đưa ra theo hướng – có sự phân biệt giải pháp trọng tâm và các giải pháp

mang tính hỗ trợ và có sự đánh giá tính khả thi của việc đưa các giải pháp vào áp

dụng.

2.2.5. Dự kiến kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu của đề tài dù ở mức độ dự kiến cũng sẽ gắn liền với các

câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu đã được xác định.

Luận án dự kiến đạt được các kết qua sau đây:

Thứ nhất, bổ sung, phát triển lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo là người

CTN phạm tội.

Thứ hai, làm rõ mối liên hệ giữa yếu tố tạo nên tính đặc thù của bị can, bị

cáo là người CTN với việc cần thiết hình thành, phát triển chế định QBC cho đối

tượng này cũng như cơ chế đảm bảo thực thi quyền.

Thứ ba, có được những giải pháp pháp lý cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả

thực thi cơ chế đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người CTN.

2.2.6. Nội dung, kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, phụ lục và

danh mục tài liệu tham khảo, luận án cấu trúc gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền bào chữa của bị can, bị cáo là

người chưa thành niên

Chương 2: Thực trạng quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa

thành niên trong tố tụng hình sự

Chương 3: Tăng cường bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người

chưa thành niên trong tố tụng hình sự

2.3. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau

để làm rõ đối tượng nghiên cứu. Quá trình thực hiện luận án không thể tách rời các

Page 34: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

30

nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Các nguyên lý này dẫn tới trong qua trình phân tích, so sánh pháp luật Việt Nam và

pháp luật các nước, các kết luận được đưa ra không thể mang tính chất khen hay chê

mà chỉ có thể là sự khác biệt và tương đồng. Nhưng sự khác biệt và tương đồng này

lại phải được đánh giá trong bối cảnh của một hiện tượng pháp luật và ở các giai đoạn

lịch sử khác nhau của sự hình thành, phát triển các hiện tượng pháp luật. Tư tưởng Hồ

Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về

Nhà nước pháp quyền, về bảo đảm QCN đã được sử dụng khi tiếp cận vấn đề QBC

để thấy rằng QBC là một quyền cơ bản, mang tính lịch sử và có sức ảnh hưởng lớn

đến hiện thực xã hội và nhận thức về QBC là một quá trình khách quan.

Phương pháp phân tích, so sánh đã được sử dụng khi phân tích những quy

định của Bộ luật TTHS 2003, kết quả nghiên cứu so sánh còn chỉ ra được những ưu

điểm và hạn chế, bất cập của chúng và so sánh với yêu cầu của CCTP để xác định

những định hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS 2003. Phương pháp tổng hợp được sử

dụng khi đưa ra những đánh giá về thực trạng của Bộ luật TTHS 2003 liên quan đến

QBC của người CTN phạm tội khi tham gia hoạt động TTHS, những kiến nghị hoàn

thiện Bộ luật TTHS 2003. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực

tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan THTT tại một số tỉnh, thành, nghiên

cứu hồ sơ, tài liệu các vụ án làm cơ sở cho việc nghiên cứu. Bên cạnh đó, phương

pháp đàm thoại cũng được tiến hành để trao đổi với các chuyên gia làm công tác

thực tiễn như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư và những người làm

công tác nghiên cứu về pháp luật TTHS. Phương pháp tiếp cận được thực hiện

nhằm làm rõ ý kiến của các đối tượng được hỏi ý kiến về những nội dung cụ thể

làm cơ sở cho việc đánh giá, đề xuất những kiến nghị cụ thể. Như vậy có thể nói

luận án được thực hiện trên sự kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và

phương pháp nghiên cứu định lượng.

Page 35: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

31

Phần 3

NỘI DUNG, KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN,

BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.1. Khái niệm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành

niên trong tố tụng hình sự Việt Nam

Quyền con người, một trong những giá trị quý báu nhất của nhân loại, được

ghi nhận hầu hết ở các văn kiện pháp lý quốc tế, điển hình và nền tảng nhất là

Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền như Công ước quốc tế (CƯQT) về các quyền Dân

sự và Chính trị (1966) và CƯQT về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966).

Bên cạnh việc khẳng định giá trị QCN, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948)

cũng nhấn mạnh việc thực hiện các quyền cơ bản và quyền tự do của con người có

thể bị những giới hạn nhất định, do luật quy định, với mục đích nhằm bảo vệ sự

thừa nhận các quyền và tự do của người khác và nhằm đáp ứng các yêu cầu về đạo

đức, trật tự công cộng cũng như nhằm đảm bảo lợi ích chung trong xã hội dân chủ.

Ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, Nhà nước luôn có quy định

cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng như phương thức bảo đảm

thực hiện. Một trong các phương thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được

nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật

trong đó có QBC. Hoạt động TTHS là hoạt động tổng thành của ba chức năng cơ

bản: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Ba chức năng

này không tách rời nhau, quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Nếu có chức năng buộc

tội mà không có chức năng bào chữa thì hoạt động tố tụng sẽ mang tính một chiều

và tính quy buộc. Để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện

và đầy đủ, không làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm thì việc bào chữa là điều cần

thiết, nó giúp cho các cơ quan THTT xác định sự thật khách quan của vụ án được

Page 36: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

32

chính xác. Chính vì lẽ đó, TTHS sẽ không được thừa nhận là dân chủ khi chức năng

buộc tội không có sự đối trọng là chức năng bào chữa.

Hiện nay, trong pháp luật vẫn chưa có định nghĩa chính thức nào về QBC.

QBC là một chế định quan trọng trong luật TTHS và cho đến nay nó vẫn cần được

làm sáng tỏ từ góc độ lý luận để làm tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc đảm bảo

QBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung. Tuy nhiên, khái niệm QBC

hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, những quan điểm này đã được các học giả

đề cập trong các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết.

Một trong những quan điểm phổ biến trong các sách báo pháp lý về QBC

trong TTHS là quan điểm của nhà luật học Xô viết Stragovich M.S cho rằng: “Bào

chữa là tổng hợp các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định

bị can không có lỗi hoặc làm giảm trách nhiệm hình sự (TNHS) của bị can” [53, tr.

196]. Khái niệm bị can được Stragovich dùng theo nghĩa rộng của từ này. Theo ông

khái niệm bị can rộng hơn khái niệm bị cáo vì bất cứ bị cáo nào cũng từng là bị can

nhưng không phải bị can nào cũng sẽ là bị cáo. Theo đó, ông viết “Quyền bào chữa

của bị cáo là tất cả các quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định cho bị can để

bảo vệ khỏi mọi sự buộc tội và được bị can sử dụng để bác bỏ sự buộc tội, để đưa

ra các lý lẽ và chứng cứ trong việc biện minh hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm của

mình”. Với quan điểm này, khái niệm QBC của Stragovich đã được nhiều tác giả

ủng hộ. Một trong những tác giả này có Ph.N.Phatkylin, ông cho rằng bào chữa

trong TTHS không chỉ là tổng hợp các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự

buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm mà “bào chữa thậm chí được thể hiện

trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi

chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm nhẹ trách nhiệm của bị trong vụ

án”. Và theo ông, bị can (theo nghĩa rộng) và chức năng bào chữa chỉ xuất hiện từ

thời điểm truy cứu TNHS một con người cụ thể bằng quyết định khởi tố bị can.

Page 37: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

33

Khác với quan điểm trên, một số tác giả cho rằng chức năng bào chữa thậm

chí có cả trong trường hợp mà ở đó không có sự buộc tội. Theo đó, các tác giả của

quan điểm này khẳng định không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc

bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy, nếu

quyền lợi của họ bị xâm hại. Chúng tôi cho rằng quan điểm này không chính xác, vì

theo pháp luật TTHS thì những chủ thể trên hoàn toàn không chịu sự buộc tội từ

phía nhà nước hay các cơ quan THTT. Mặt khác, xuất phát từ quan điểm bào chữa

và buộc tội phải song song tồn tại, ở đâu có buộc tội, ở đó có bào chữa cho nên

trong các trường hợp trên rõ ràng những chủ thể này không thể có QBC. Tuy nhiên,

điều đó không có nghĩa rằng người chưa bị buộc tội (khởi tố bị can hoặc ít nhất là bị

tạm giữ) thì không có quyền được bảo vệ lợi ích của mình khi bị xâm hại. Quyền

bảo vệ quyền và lợi ích của mình luôn luôn tồn tại ở mỗi con người, mỗi công dân;

nhưng theo chúng tôi, đó chưa phải là QBC nếu chưa có sự buộc tội.

Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải: “Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là

tổng hòa các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án

thực hiện trên cở sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần

hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ

trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”. Theo chúng tôi cách hiểu như

vậy là quá rộng. Người bị kết án là người đã có bản án có hiệu lực của Tòa án kết

luận là có tội và phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật, nếu nói rằng họ có

QBC thì vô hình chung đã làm mất hiệu lực của bản án và như vậy TTHS sẽ không

có điểm dừng.

Ngoài các quan điểm nêu trên, tiếp cận các quy định pháp luật TTHS của các

nước chúng ta thấy có một số quan niệm khác nhau về QBC và chúng có thể được

khái quát theo các nhóm quan điểm sau:

- Pháp luật TTHS của những nước theo truyền thống pháp luật Ăng – Lô –

Xắc – Xông cho rằng TTHS được coi là bắt đầu từ thời điểm VAHS được chuyển

Page 38: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

34

sang Tòa án, và theo đó chức năng bào chữa chỉ xuất hiện từ thời điểm đó và QBC

chỉ thuộc về bị cáo. Một số nước khác cũng trong hệ thống pháp luật này mặc dù

cho rằng TTHS bắt đầu từ thời điểm khởi tố vụ án nhưng pháp luật quy định QBC

là quyền của bị cáo.

-Theo pháp luật TTHS của một số nước XHCN thì QBC được hiểu là quyền

của bị can lẫn bị cáo nhưng QBC của bị can bị hạn chế vì họ chỉ có quyền có NBC

trong một số trường hợp cụ thể.

Xuất phát từ quan điểm buộc tội và bào chữa phải song song tồn tại, ở đâu có

buộc tội, ở đó có bào chữa, bị can, bị cáo có QBC vì họ bị buộc tội, những người

tham gia tố tụng khác không bị buộc tội nên vấn đề bào chữa không đặt ra đối với

họ. Trong pháp luật TTHS Nga quy định QBC là quyền của bị can, bị cáo được tự

mình hoặc nhờ NBC đưa ra các chứng cứ hoặc yêu cầu để bác bỏ sự buộc tội hay

làm giảm nhẹ trách nhiệm của mình; sự tham gia của NBC không bị hạn chế ở giai

đoạn xét xử mà được bắt đầu ngay từ giai đoạn điều tra. Đồng tình với quan điểm

trên, tác giả Hoàng Thị Sơn đưa ra quan điểm của mình: “QBC của bị can, bị cáo là

tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có thể sử dụng nhằm bác

bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho họ”.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm trên khi cho rằng đối với những chủ thể

không bị buộc tội thì vấn đề bào chữa không đặt ra đối với họ. Tuy nhiên, chúng ta

thấy rằng ngoài bị can, bị cáo thì người bị bắt, tạm giữ, tạm giam cũng là đối tượng

bị buộc tội. Chỉ trên cơ sở coi người bị bắt, tạm giữ, tạm giam là đối tượng bị buộc

tội thì cơ quan THTT mới có quyền ra quyết định tạm giữ, tạm giam một con người

– xâm phạm quyền tự do về thân thể của họ, một trong những quyền Hiến định của

công dân và áp dụng các biện pháp điều tra đối với họ như lấy lời khai, thu thập

chứng cứ, vì vậy quy định cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam có QBC để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình là hoàn toàn hợp lý khi mà họ đã và đang bị áp

dụng biện pháp cưỡng chế TTHS. Nói cách khác, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam là

Page 39: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

35

chủ thể bị buộc tội. Đối với bị can, bị cáo thì sự buộc tội đối với họ đã được khẳng

định bằng quyết định khởi tố và bản cáo trạng nên đương nhiên pháp luật phải quy

định cho họ QBC. Như vậy QBC thông thường xuất hiện khi một người bị cơ quan

THTT ra quyết định khởi tố bị can, trong trường hợp có người bị bắt, tạm giữ, tạm

giam thì QBC xuất hiện sớm hơn khi họ bị cơ quan THTT ra quyết định tạm giữ,

tạm giam và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Trên cơ sở tiếp thu những điểm tích cực của các quan điểm nêu trên về khái

niệm QBC, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm QBC của bị can, bị cáo là người

CTN trong TTHS Việt Nam như sau: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người

chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam là tổng thể những hành vi tố tụng

mà pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cho phép người đã bị khởi tố về hình sự và

người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử là người dưới 18 tuổi có thể sử dụng

nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

hoặc làm sáng tỏ tình tiết về sự vô tội của mình”.

Do tầm quan trọng của nó mà quyền này được Hiến pháp 2013 quy định tại

Khoản 4 Điều 31: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” và là một nguyên tắc

cơ bản trong Bộ luật TTHS. QBC là một tổng thể các quyền và những biện pháp tố

tụng cần thiết đảm bảo cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo tích cực

tham gia TTHS; có khả năng thực tế để bày tỏ thái độ của mình đối với việc buộc

tội; lưu ý các cơ quan THTT về những tình tiết này hay tình tiết khác của vụ án; khả

năng nêu ra những tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ tội cho bị can, bị cáo. Nếu như

QBC là khả năng sử dụng những quyền tố tụng để bảo vệ những quyền và lợi ích

hợp pháp thì biện pháp bào chữa là các hành động cụ thể để thực hiện quyền ấy

(viết đơn khiếu nại, kháng cáo, tranh luận…). Khái niệm QBC phản ánh những

quyền cụ thể mà Bộ luật TTHS đã quy định cho bị can, bị cáo được thực hiện để

bảo vệ lợi ích chính đáng của mình trước việc các cơ quan và những người THTT

đã khởi tố VAHS, khởi tố họ với tư cách bị can, hoặc đã quyết định truy tố và đưa

Page 40: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

36

họ ra xét xử; bao gồm cả quyền họ được chứng minh là mình không có tội hoặc có

những tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trong khi đó, đảm bảo QBC được xem là cơ chế thực

hiện QBC, ghi nhận trách nhiệm của cơ quan, người THTT, các tổ chức xã hội, cơ

quan nhà nước khác phải tạo điều kiện giúp bị can, bị cáo nói chung thực hiện QBC.

Theo quy định của Bộ luật TTHS, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa để bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức pháp luật,

kỹ năng bào chữa (đặc biệt là đối với người CTN) và có thể do đang bị giam giữ

nên họ không thể thực hiện được việc tự bào chữa có hiệu quả. Họ cần có người

khác có khả năng để bào chữa, do đó, bên cạnh quyền tự bào chữa, pháp luật đã quy

định họ có quyền nhờ luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân

(BCVND) bào chữa cho mình. Quy định về NBC, các quyền và nghĩa vụ của họ tại

các Điều 56, 57 và 58 của Bộ luật TTHS. Tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa

là quyền của bị can, bị cáo, không phải là nghĩa vụ của họ.

Để những người có lỗi thực hiện một cách có hiệu quả quyền tự bào chữa,

Điều 11 Bộ luật TTHS Việt Nam thừa nhận QBC gồm 02 nội dung quyền tự bào

chữa và nhờ người khác bào chữa. Quy định trong điều 11 Bộ luật TTHS không

mâu thuẫn với Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 9 Luật tổ chức

TAND năm 2002. Trong đó, điều 11 Bộ luật TTHS 2003 quy định QBC của người

bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đây chính là bước phát triển về chất của chế định QBC

trong luật TTHS của nước ta, nó hoàn toàn phù hợp với lý luận TTHS hiện đại trên

thế giới.

Khái niệm QBC trong TTHS đã được các nước tiếp cận ở nhiều góc độ khác

nhau nhưng mục đích chung duy nhất vẫn là bảo đảm quyền của con người khi

tham gia TTHS.

Như vậy, qua sự phân tích, so sánh các quan điểm khoa học và quy định

pháp luật của các nước về khái niệm QBC cho thấy, chế định QBC trong TTHS

Việt Nam mang tính tính ổn định, tính lịch sử và kế thừa. Tính ổn định được thể

Page 41: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

37

hiện ở chỗ QBC được ghi nhận như một nguyên tắc Hiến định nhằm đảm bảo cho bị

can, bị cáo sử dụng tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để bảo vệ mình

trước Tòa án; pháp luật dành cho bị can, bị cáo mọi quyền cần thiết để chứng minh

sự vô tội của mình và các tình tiết giảm nhẹ TNHS, đưa ra các yêu cầu của mình,

xuất trình chứng cứ…Tính lịch sử được thể hiện ở những bảo đảm pháp lý về QBC

bị can, bị cáo được ghi nhận và ngày càng hoàn thiện để phù hợp với từng giai đoạn

lịch sử, đáp ứng với khả năng thực tế của các cơ quan THTT và người THTT trong

quá trình giải quyết VAHS.

Điều 1 phần 1 CƯQT về quyền trẻ em có hiệu lực từ ngày 02-9-1990 quy

định: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ

trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em đó quy định độ tuổi thành niên sớm

hơn”. Theo Công ước, trẻ em bao gồm tất cả những ai chưa phải là người lớn, nghĩa

là những ai dưới 18 tuổi thì được hưởng mọi quyền lợi được ghi nhận trong Công

ước. Bên cạnh Công ước quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp

quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người CTN, hay còn gọi là Quy tắc Bắc

Kinh (United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile

Justice/Beijing Rules) do Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 29-11-1985

cũng là một văn bản pháp luật quốc tế sử dụng khái niệm này. Quy tắc Bắc Kinh

không nêu rõ người CTN là người dưới 18 tuổi mà chỉ đưa ra khái niệm trẻ em hoặc

người ít tuổi. Theo Quy tắc Bắc Kinh thì “người chưa thành niên phạm pháp là trẻ

em hay người ít tuổi bị cho là hay bị phát hiện là phạm pháp”. Quy tắc cũng định

nghĩa người chưa thành niên và phạm pháp là những nhân tố của người chưa thành

niên phạm tội. Nhưng giới hạn độ tuổi phụ thuộc vào từng hệ thống pháp luật của

các quốc gia thành viên.

Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về phòng ngừa người CTN hư hỏng, còn gọi

là Hướng dẫn RIYADH (United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile

delinquency/Riyadh Guidelines) được thông qua ngày 14-12-1990 quan niệm về trẻ

Page 42: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

38

em (child) là người dưới 18 tuổi, người CTN (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi,

thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi.

Cho dù còn có những cách đặt vấn đề khác nhau, song nhìn chung quan niệm

về người CTN được hiểu là: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa

phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, chưa đủ khả

năng để sử dụng quyền và gánh vác nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.

Như vậy, có thể thấy rằng, khi đưa ra khái niệm về trẻ em hay người CTN,

trong pháp luật quốc tế không dựa vào các đặc điểm tâm – sinh lý hay sự phát triển

thể chất, tinh thần…mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Kể

cả khái niệm trẻ em và khái niệm người CTN đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng

thời đưa ra khả năng mở cho các quốc gia tùy điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa,

truyền thống của mình có thể quy định độ tuổi sớm hơn. Nội dung các quy tắc trên

có tính đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và

tinh thần của tư pháp người CTN, đề ra những nguyên tắc mong muốn và thông lệ

đối với việc quản lý những người CTN vi phạm pháp luật.

Ở Việt Nam, người CTN được xác định tương đối thống nhất trong Hiến

pháp năm 2013, BLHS 1999, Bộ luật TTHS 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân

sự, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Các

văn bản pháp luật đều quy định tuổi của người CTN là dưới 18 tuổi và trong từng

lĩnh vực cụ thể đều có những chế định pháp luật hoặc các quy định riêng cho người

CTN.

Người chưa thành niên phạm tội là thuật ngữ được sử dụng trong ngành luật

hình sự và TTHS. Tuy BLHS 1999, Bộ luật TTHS 2003 đã dành một chương riêng

quy định về người CTN phạm tội nhưng lại chưa đưa ra một khái niệm pháp lý

chính thức nào để giải thích thế nào là người CTN phạm tội. Trong khoa học pháp

lý có nhiều quan điểm về khái niệm người CTN phạm tội.

Page 43: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

39

Quan điểm thứ nhất cho rằng, “khái niệm người chưa thành niên trong pháp

luật hình sự Việt Nam chỉ bao gồm những người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18

tuổi” [61, tr. 166]. Quan điểm thứ hai cho rằng tại điểm n khoản 1 Điều 48 BLHS

1999 quy định “xúi giục người chưa thành niên phạm tội” là tình tiết tăng nặng.

Nếu theo quan điểm thứ nhất, chỉ xúi giục người CTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18

tuổi mới bị coi là tình tiết tăng nặng. Theo quan điểm thứ hai, khi một người đã

thành niên xúi giục người CTN phạm tội (tức là người dưới 18 tuổi, kể cả người

dưới 14 tuổi), người CTN càng nhỏ tuổi thì trách nhiệm của người xúi giục hoặc sử

dụng người CTN phạm tội càng lớn, càng nguy hiểm hơn. Chính vì vậy quan điểm

thứ hai phủ nhận quan điểm thứ nhất.

Đồng thời khi xác định về tuổi chịu TNHS, Điều 12 BLHS quy định: “1.

Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người

từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội

phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Theo quy

định như trên thì BLHS nước ta đã xác định độ tuổi của người CTN phạm tội là

người có độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi. Do đó, cần lưu ý rằng người CTN theo

pháp luật hình sự phải được nhìn từ hai góc độ, không nên đồng nhất thuật ngữ

người CTN và người CTN phạm tội.

Ở góc độ thứ nhất, người CTN là người bị hại, người bị xúi giục, người CTN

sẽ bao gồm tất cả những người ở độ tuổi dưới 18 tuổi. Còn ở góc độ thứ hai, người

CTN bằng năng lực, nhận thức của mình thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm,

nghĩa là người CTN phạm tội, thì tại thời điểm họ thực hiện hành vi phạm tội, pháp

luật quy định họ phải đang ở độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và họ phải có năng

lực TNHS.

Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như luật hình sự và luật TTHS nói riêng

đều thể hiện thống nhất khái niệm người CTN là để chỉ những người dưới 18 tuổi.

Hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể về người CTN phạm tội ở Việt Nam. Tuy nhiên,

Page 44: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

40

dựa trên khái niệm tội phạm và độ tuổi chịu TNHS được nêu trong BLHS thì người

CTN phạm tội có thể hiểu là: người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có hành vi vi

phạm hình sự, đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Nói cách khác, người CTN phạm tội là

những người từ đủ 14 tuổi trở lên đến chưa đủ 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do

cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, và những người từ đủ 16 tuổi trở lên nhưng

chưa đủ 18 tuổi phạm các tội phạm khác. Việc quy định vấn đề người CTN phạm

tội trong luật hình sự trước hết mang ý nghĩa xác định ranh giới giữa tội phạm với

không phải là tội phạm. Một người CTN chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội cho dù hậu quả đặc biệt nghiêm trọng hoặc người CTN từ đủ 14

tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc rất nghiêm

trọng do vô ý đều không phải chịu TNHS. Ngoài ra, quy định vấn đề người CTN

phạm tội trong luật hình sự còn có ý nghĩa thể hiện nguyên tắc cá thể hóa TNHS,

nguyên tắc bình đẳng trong luật hình sự, làm cơ sở cho việc quyết định hình phạt

bảo đảm mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội.

Người CTN là người chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất và tinh thần.

Trong quá trình phát triển về thể chất, các đặc điểm tâm lý cũng được hình thành và

phát triển. Sự phát triển về tâm lý, sự phát triển về nhân cách cũng được hình thành

cùng với sự phát triển của cơ thể và cũng trải qua những biến động trong từng giai

đoạn phát triển. Quá trình phát triển đó có sự kế thừa và chi phối chặt chẽ qua các

giai đoạn. Tâm lý của người CTN qua các giai đoạn, độ tuổi khác nhau có sự phát

triển khác nhau. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu những đặc điểm tâm lý của

người CTN là một hoạt động cần thiết đối với người THTT. Ở người CTN, về cơ

bản họ cũng có những trạng thái tâm lý khác như người bình thường. Nhưng do đặc

trưng lứa tuổi và sự phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tinh thần, kinh nghiệm sống

ít ỏi, trình độ nhận thức còn hạn chế mà ở họ tồn tại những đặc điểm tâm sinh lý

riêng biệt.

Bộ luật TTHS cần phải có những quy định đặc biệt về thủ tục tố tụng đối với

người CTN phạm tội dựa trên cơ sở đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt sau đây:

Page 45: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

41

- Những kết quả nghiên cứu về người CTN phạm tội cho thấy họ có những

đặc điểm tâm lý và những nét tính cách nổi bật sau: đặc điểm về cấu trúc và sự hình

thành nhân cách. Khi nghiên cứu về người CTN phạm tội các công trình nghiên cứu

tiếp cận dưới góc độ nhân cách của người CTN phạm tội cho thấy: về mặt cấu trúc,

các thành phần của tâm lý cá nhân người CTN phạm tội và trẻ em bình thường

không có khác biệt, nhưng ở nhóm tâm lý người CTN phạm tội có những đặc thù về

tính chất của các thành phần tạo nên đời sống tâm lý. Trong cấu trúc của người

CTN phạm tội có điểm nổi bật là: xu hướng chung không sẵn sàng hoạt động,

không kiên định thực hiện hành vi hợp chuẩn và hợp pháp (không có nhu cầu hứng

thú, tâm thế…tích cực đối với hành vi hợp chuẩn và hợp pháp) vì thế trong những

hoàn cảnh thuận lợi, thích hợp các em thực hiện hành vi không hợp chuẩn và không

hợp pháp.

- Quá trình phát triển sinh lý đã ảnh hưởng đến tính cách của người CTN,

làm cho họ dễ xúc động, khi thì trầm tư, lúc thì sôi nỗi. Nên khi bị phát hiện hành vi

phạm tội thường các em rất sợ hãi, nhất là sau khi bị khởi tố tâm lý thông thường

các em rất lo sợ sẽ bị hình phạt nặng, do đó hiện tượng tâm lý này đã kìm hãm lời

khai trung thực của các em. Bên cạnh đó, các em do tuổi đời còn nhỏ, tư duy nông

cạn, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế cũng là một nguyên nhân quan trọng ảnh

hưởng đến sự khai báo thành khẩn của các em.

- Thái độ khai báo của các em còn phụ thuộc vào quan điểm, quan niệm cũng

như thói quen và cách sống của các em. Nhất là cần chú ý đến tình cảm gia đình,

bạn bè của bị can cũng tác động trực tiếp đến lời khai báo của bị can. Khi bị can

nhận thấy lời khai nhận tội của mình sẽ ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của bản thân

và gia đình hoặc xấu hổ trước mọi người thì sẽ không dám nói và ngược lại điều tra

viên khi tiến hành hỏi cung bị can là người CTN mà nắm được đặc điểm này, hiểu

được điều này thì sẽ có cách hỏi và động viên đúng lúc, kịp thời sẽ thúc đẩy bị can

thành khẩn khai báo. Ở lứa tuổi này, các em do còn non nớt nên dễ xúc động, nếu

ngay từ đầu điều tra viên tạo được cho các em những ấn tượng tốt, gây được niềm

Page 46: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

42

tin trong các em, các em nhận thấy đó là niềm an ủi, là chỗ dựa cho mình thì các em

sẽ có thái độ hợp tác, thành khẩn khai báo. Nhưng nếu điều tra viên có biểu hiện

lạnh lùng, quát nạt thì sẽ tạo cho các em cảm giác sợ hãi, không có niềm tin, chỗ

dựa…thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự khai báo của các em.

Những nét tính cách cơ bản trên là những nét tính cách mang tính nổi bật, có

ảnh hưởng trực tiếp tới những hành vi làm trái pháp luật của người CTN. Nhưng

không phải người CTN nào cũng có đầy đủ những nét tính cách đó. Vì vậy, với

những đặc điểm tâm sinh lý của người CTN phạm tội như vậy cho nên đòi hỏi Bộ

luật TTHS cần phải có những quy định đặc biệt về thủ tục tố tụng đối với bị can, bị

cáo là người CTN sao cho phù hợp với lứa tuổi, với những đặc điểm tâm sinh lý của

họ. Có như vậy mới có thể bảo đảm được QBC cho bị can, bị cáo là người CTN.

1.2. Vai trò và đặc điểm của quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người

chưa thành niên

1.2.1. Vai trò quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên

Quyền bào chữa là một quyền lợi đặc thù, cơ bản của công dân, là nguyên tắc

hiến định được tất cả các bản Hiến pháp nước Việt Nam ghi nhận. Hiến pháp năm

1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định quyền

tự bào chữa tại Điều 67 “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mướn luật sư”.

Sau đó, những bản Hiến pháp tiếp theo đều quy định nội dung này. Cụ thể, tại Hiến

pháp năm 1959 quy định tại Điều 101 như sau: “Quyền bào chữa của người bị cáo

được bảo đảm”. Tiếp đến, Hiến pháp năm 1980 (Điều 133) – Hiến pháp năm 1992

tiếp tục khẳng định QBC được bảo đảm. Tại Điều 132 – Hiến pháp năm 1992 quy

định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc

nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo

và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo

vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Kế thừa các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm

2013 quy định rõ hơn về QBC của công dân. Tại khoản 4, Điều 31 Hiến pháp 2013

đã quy định rất cụ thể: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố,

Page 47: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

43

xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”.

Như vậy, có thể thấy Hiến pháp mới đã mở rộng phạm vi các đối tượng được đảm

bảo QBC, không chỉ bị cáo mới có QBC như các Hiến pháp cũ quy định, mà ngay

từ khi một người bị bắt đã phát sinh quyền tự bào chữa, hoặc nhờ luật sư bào chữa

đối với họ, được đảm bảo bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Điều

này cũng hoàn toàn phù hợp, thể chế hóa ở một mức độ cao hơn đối với các quy

định về đảm bảo QBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ở Bộ luật TTHS 2003.

Cụ thể tại các Điều 48, 49, 50 Bộ luật TTHS đều quy định người bị tạm giữ, bị can,

bị cáo có quyền: “tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”. Đồng thời được cụ

thể hóa tại Thông tư 70/TT-BCA ngày 10-10-2011 về đảm bảo QBC trong giai

đoạn điều tra VAHS. Điều 4 của Thông tư quy định: “Khi giao quyết định tạm giữ

cho người bị tạm giữ, quyết định khởi tố cho bị can, Điều tra viên phải đọc và giải

thích cho họ biết rõ về quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can theo quy định

tại Điều 48, 49 Bộ luật tố tụng hình sự và lập biên bản giao nhận quyết định. Trong

biên bản phải ghi rõ ý kiến của người bị tạm giữ, bị can về việc có nhờ người bào

chữa hay không”. Trong trường hợp họ có yêu cầu nhờ NBC thì điều tra viên có

trách nhiệm hướng dẫn họ viết giấy yêu cầu và gửi tới cơ quan, tổ chức, người được

yêu cầu bào chữa theo hướng dẫn tại Điều này. Trong trường hợp họ chưa nhờ

NBC, thì trong lần đầu lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, điều tra viên

tiếp tục phải hỏi rõ họ về việc có nhờ NBC không và phải ghi ý kiến của họ vào

biên bản, nếu họ nhờ NBC thì thực hiện như trên.

Đồng thời Bộ luật TTHS còn quy định cụ thể về việc đảm bảo có NBC trong

trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà khung hình phạt đối với tội đó có mức cao

nhất là tử hình được quy định tại BLHS; bị can, bị cáo là người CTN, người có

nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất (khoản 2 Điều 57). Cụ thể hóa điều này,

Thông tư 70 quy định rõ hơn: nếu sau khi giải thích và thông báo cho bị can, người

đại diện hợp pháp của họ về quyền được nhờ người bào chữa mà họ từ chối thì Cơ

quan điều tra đang thụ lý vụ án phải làm văn bản yêu cầu Đoàn luật sư hoặc Ủy

ban Mặt trận tổ quốc, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho họ;

Page 48: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

44

trường hợp Đoàn luật sư, Ủy ban Mặt trận tổ quốc, tổ chức thành viên của Mặt trận

đã cử người bào chữa nhưng bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ vẫn từ

chối, Điều tra viên phải lập biên bản ghi rõ ý kiến của họ; trường hợp họ đề nghị

thay đổi người bào chữa thì Cơ quan điều tra phải có văn bản yêu cầu Đoàn luật sư

hoặc Ủy ban Mặt trện tổ quốc, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người khác bào

chữa cho họ (khoản 3 Điều 4).

Các nhà lập pháp của nước ta đã nhận thức được ý nghĩa to lớn về chức năng

bào chữa trong hoạt động TTHS nên ngay từ Bộ luật TTHS 1988 và Bộ luật TTHS

2003 đã cụ thể hóa QBC – quyền hiến định của bị can, bị cáo và sau này bổ sung

thêm người bị tạm giữ, nâng yêu cầu bảo đảm QBC cho các chủ thể trên thành một

trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS nước ta (Điều 11 Bộ luật TTHS 2003).

Bộ luật TTHS 2003 quy định bị can, người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc

nhờ người khác bào chữa. QBC là một quyền tố tụng quan trọng, là hình thức chủ

đạo thực hiện chức năng bào chữa của bị can, bị cáo, người bị tạm giữ trong TTHS.

Các chủ thề này được quyền sử dụng tất cả những biện pháp gì mà pháp luật không

cấm để chống lại, bác bỏ, phủ nhận lời buộc tội của Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện

kiểm sát hoặc để giảm nhẹ TNHS của mình trong vụ án. QBC được xem như là

phương tiện pháp lý cần thiết để những chủ thể nói trên bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của mình. Thừa nhận QBC là thừa nhận tính tranh tụng trong hoạt động tố

tụng, điều kiện không thể thiếu được cho việc xét xử khách quan, công minh. Càng

mở rộng phạm vi QBC bao nhiêu thì càng mở rộng tính tranh tụng bấy nhiêu và kết

quả tương ứng là càng hạn chế khả năng làm oan sai người vô tội trong xét xử.

Như đã phân tích trong hoạt động TTHS, bào chữa là quyền quan trọng nhất

của người vi phạm pháp luật hình sự. QBC được xem như là một phương tiện pháp

lý cần thiết để bị can, bị cáo nói chung bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đối với đối tượng là người CTN, do những hạn chế nhất định về sự phát triển thể

chất cũng như tinh thần, cho nên có thể họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn và quyền lợi

hợp pháp của họ có thể bị xâm hại nếu không có NBC trong quá trình điều tra, truy

tố và xét xử. Chính vì vậy, rất cần có sự tham gia của NBC trong những vụ án đối

Page 49: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

45

với người CTN. Việc bào chữa trong những vụ án do người CTN thực hiện tội

phạm tuân theo những quy định chung của Bộ luật TTHS. Tuy nhiên, do những hạn

chế trong sự phát triển về thể chất cũng như tinh thần của người CTN so với người

đã thành niên, cho nên pháp luật quy định thủ tục bắt buộc phải có sự tham gia của

NBC trong những vụ án này. Đây là điểm khác biệt giữa việc bào chữa trong những

vụ án do người CTN thực hiện so với vụ án do người đã thành niên thực hiện. Việc

tôn trọng và bảo đảm thực hiện trên thực tế QBC trong TTHS là một biểu hiện sinh

động của việc bảo vệ QCN. QBC còn có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc suy

đoán vô tội Điều 9 Bộ luật TTHS quy định: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có

bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Việc thực hiện nguyên tắc suy

đoán vô tội là tiền đề bảo đảm cho những người bị buộc tội thực hiện QBC của họ

và ngược lại, việc ghi nhận QBC là một biểu hiện cụ thể, sinh động của nguyên tắc

suy đoán vô tội. Từ khi người bị tình nghi bị bắt giữ cho đến khi trở thành bị can, bị

cáo họ vẫn được xem là người chưa có tội. Do vậy, pháp luật TTHS quy định cho

họ có quyền sử dụng tất cả biện pháp để chứng minh sự vô tội hoặc để làm giảm

nhẹ TNHS của họ.

Trên cơ sở tôn trọng QBC của người bị buộc tội, các cơ quan THTT phải

thận trọng hơn trước, trong và sau khi đưa ra quyết định gây bất lợi cho người bị

buộc tội. Chính vì sự thận trọng ấy làm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được

khách quan, công bằng, dân chủ và khi đó nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ trở thành

hiện thực trong TTHS. Ngược lại, việc không ghi nhận hoặc hạn chế QBC của

người bị buộc tội chẳng những vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc suy đoán vô tội

mà còn biến các cơ quan THTT trở thành các cơ quan độc đoán, biến những người

THTT thành những kẻ áp bức và khi đó toàn bộ hoạt động TTHS sẽ trở thành hoạt

động có tính chất khủng bố, nhất là đối với người CTN, QBC càng được tôn trọng,

ghi nhận nhiều hơn nữa.

Tóm lại, vai trò QBC của bị can, bị cáo là người CTN không chỉ có ý nghĩa

quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội là

Page 50: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

46

người CTN mà chính ở đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo hiệu quả của hoạt

động TTHS, sâu xa hơn nó còn thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước pháp quyền

Việt Nam.

1.2.2 . Đặc điểm về nội dung, hình thức thực hiện quyền bào chữa của bị

can, bị cáo chưa thành niên

1.2.2.1. Đặc điểm về nội dung

Trong lịch sử TTHS thế giới, trải qua nhiều thế kỷ người ta thấy rằng hầu

như không có sự phân biệt đáng kể trong thái độ của nhà nước và xã hội đối với bị

can là người thành niên và bị can là người CTN trong VAHS. Người ta quan niệm

giản đơn bị can là người CTN chỉ là bị can thành niên còn nhỏ. Sở dĩ như vậy là bản

thân giai đoạn phát triển CTN đã không được nhìn nhận là giai đoạn phát triển có ý

nghĩa xã hội quan trọng đối với cá nhân, đối với nhà nước và xã hội. Chỉ đến cuối

thế kỷ 19 mới hình thành thái độ mới của nhà nước về bị can là người CTN trong

VAHS. Lúc này trong tư duy lập pháp TTHS đã thay đổi cách nhìn về bị can là

người CTN như là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt và hình thành chiến lược lập

pháp TTHS đối với bị can là người CTN. Sự phát triển của tư duy lập pháp này tùy

thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau ở mỗi quốc gia như chính sách hình sự của

nhà nước, sự phát triển của khoa học pháp lý, tình trạng tội phạm của người CTN,

sự phát triển và chuyên môn hóa trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan THTT

và đã trở thành xu hướng chung ngày càng có tính nhân văn, hình thành những

chuẩn mực chung về thái độ của nhà nước đối với bị can, bị cáo là người CTN.

CƯQT về quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và

trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý

trước cũng như sau khi ra đời”. Nội dung chủ đạo của tư duy lập pháp này có thể

tóm tắt ở yêu cầu phải mở rộng QCN và bảo đảm QCN của bị can, bị cáo là người

CTN như là những bổ sung cần thiết so với người đã thành niên. Từ đó đã xuất hiện

sự cần thiết phải thay đổi bản thân tiến trình TTHS và những thủ tục tố tụng của nó

Page 51: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

47

theo hướng là những thủ tục tố tụng chuyên biệt hóa để phù hợp yêu cầu bảo đảm

cao hơn QCN của đối tượng này.

Bộ luật TTHS 2003 của Việt Nam đã bắt kịp xu hướng chung này của TTHS

thế giới khi nhìn nhận thủ tục TTHS đối với người CTN là một trong những thủ tục

tố tụng đặc biệt quy định tại Chương XXXII. Tính chất đặc biệt của thủ tục này thể

hiện ở chỗ chúng được áp dụng đối với người CTN đồng thời đối với những quy

định khác của Bộ luật TTHS nếu các quy định này không trái với những quy định

đặc thù. BLHS năm 1999 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về chính sách

hình sự đối với người CTN phạm tội tại Điều 69 chủ yếu liên quan đến năng lực

chịu TNHS, mục đích áp dụng TNHS nặng về giáo dục, giúp họ sửa chữa sai lầm,

phát triển lành mạnh để họ trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội chứ không nặng

về trừng phạt. Còn chính sách hình sự trong TTHS đối với người CTN là bị can, bị

cáo là những quy định nhằm bảo đảm một cách tốt nhất QBC cho đối tượng này,

hạn chế một cách tối đa việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế một cách

thấp nhất những tác động không thể tránh khỏi về tâm lý đối với bị can, bị cáo là

người CTN do hoạt động TTHS gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho

việc làm rõ những nguyên nhân, điều kiện phạm tội của họ để Tòa án có thể xét xử

và tuyên bản án có tác động tích cực nhất đến tâm lý của đối tượng này. Để thống

nhất với tư tưởng chủ đạo trong CƯQT về quyền trẻ em đã nêu ở trên, về lý thuyết

chính sách hình sự trong lĩnh vực TTHS đối với bị can, bị cáo là người CTN cần

bao gồm hai nội dung sau đây:

- Mở rộng QCN tức là quyền tố tụng của người CTN so với người thành

niên. Bị can, bị cáo là người CTN có đầy đủ các quyền tố tụng như bị can, bị cáo là

người thành niên. Bên cạnh đó, họ còn được thừa nhận những quyền tố tụng đặc thù

để có thể bảo vệ một cách tốt nhất, thuận lợi nhất lợi ích chính đáng của mình.

- Mở rộng những bảo đảm QCN của họ trong hoạt động TTHS. Một trong

những bảo đảm quan trọng QCN của đối tượng này là những quy định, trình tự,

Page 52: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

48

điều kiện riêng hoặc có tính chất bổ sung khi thực hiện những hành vi tố tụng đối

với họ. Kết quả là hình thành thủ tục tố tụng đặc biệt dành cho đối tượng này, được

xây dựng trên cơ sở những đặc thù về tâm sinh lý của họ, trên cơ sở yêu cầu đảm

bảo QCN của họ cao hơn so với đối tượng là người thành niên. Những thủ tục đặc

biệt này đặt ra những yêu cầu cao hơn, chặt chẽ hơn về nghĩa vụ tố tụng của các cơ

quan THTT trong quan hệ với bị can, bị cáo là người CTN, và thuận lợi hơn, hỗ trợ

nhiều hơn cho họ trong việc sử dụng các quyền tố tụng của mình, hạn chế nhiều hơn

những tác động tiêu cực có thể có đối với quá trình giải quyết vụ án.

Trong hoạt động TTHS, QBC là quyền quan trọng nhất của người vi phạm

pháp luật hình sự. Đây là tổng hợp các hành vi tố tụng do bị can, bị cáo thực hiện

nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của các cơ quan THTT, làm giảm

nhẹ hoặc loại trừ TNHS của mình trong VAHS. Thông thường sự tham gia của NBC

phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo. Họ có thể trực tiếp mời hoặc ủy quyền cho

người thân của mình mời NBC. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt luật quy

định sự tham gia của NBC vào trong vụ án không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị

cáo. Đó là các trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS 2003

khi những chủ thể này hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời NBC thì các

cơ quan THTT có nghĩa vụ yêu cầu Đoàn luật sư hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc cử NBC cho họ. Đó là những trường hợp liên quan đến các bị can, bị cáo là

người CTN, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, hoặc bị can, bị cáo về

tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.

Sự tham gia bắt buộc của NBC trong TTHS là quy định mang đầy tính nhân

đạo của pháp luật TTHS Việt Nam. Quy định về sự tham gia của NBC vào trong vụ

án không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo là làm tăng thêm tính bảo đảm QBC

cho họ. QBC và sự tham gia của NBC không chỉ cần thiết, có ích cho người bị can,

bị cáo là người CTN mà còn cần thiết, có ích cho hoạt động tố tụng của chính các

cơ quan THTT. Sự đối trọng, phản biện của hoạt động bào chữa đối với hoạt động

của các cơ quan thực hiện chức năng buộc tội CQĐT, VKSND chính là yếu tố hạn

Page 53: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

49

chế sai lầm, hạn chế làm oan người vô tội trong hoạt động của những cơ quan này

đồng thời buộc những cơ quan này phải không ngừng hoàn thiện năng lực chuyên

môn nghiệp vụ của mình nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong đấu

tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ QCN trong TTHS.

1.2.2.2. Các hình thức thực hiện quyền bào chữa

Trong lịch sử pháp luật TTHS trước đây, địa vị pháp lý của bị can, bị cáo

chưa được xác định rõ ràng nên họ thường bị coi là có tội và một khi đã bị coi là có

tội, mặc nhiên số phận của họ là số phận của kẻ bị tước phần lớn các quyền công

dân [36, tr. 20]. Hiện nay, với nguyên tắc coi bị can, bị cáo là những người chưa có

tội nên pháp luật TTHS đã dành cho họ nhiều quyền trong suốt các giai đoạn tố

tụng. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là

không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết

tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Mục đích của những quy định chủ yếu là

đặt ra những yêu cầu đối với các cơ quan và những người THTT phải có sự thận

trọng, vô tư và đề cao tinh thần trách nhiệm làm rõ các chứng cứ buộc tội cũng như

gỡ tội, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và bỏ

lọt người phạm tội. Việc nâng cao hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật

không thể thiếu sự củng cố và tăng cường nguyên tắc bảo đảm QBC của bị can, bị

cáo. Nếu như QBC là khả năng sử dụng những quyền tố tụng để bảo vệ những

quyền và lợi ích hợp pháp thì biện pháp bào chữa là các hành động cụ thể để thực

hiện quyền ấy như làm đơn khiếu nại, kháng cáo.v.v. Nói cách khác, đảm bảo QBC

chính là cơ chế thực hiện QBC, ghi nhận trách nhiệm của cơ quan, người THTT,

các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước khác phải tạo điều kiện giúp bị can, bị cáo

thực hiện QBC. Tại điểm d khoản 3 Điều 14 của CƯQT về các quyền chính trị, dân

sự quy định khi bị khởi tố về hình sự, bất cứ ai (bao gồm cả trẻ em) cũng có quyền:

“tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý của người khác theo sự lựa chọn

của mình; được thông tin về quyền trên nếu họ không có người bào chữa; và trong

Page 54: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

50

trường hợp cần thiết được cử người bào chữa mà không phải trả tiền nếu họ không

có đủ tiền để trả”.

Theo quy định tại Điều 11 Bộ luật TTHS quy định về việc bảo đảm QBC

của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, trong đó nêu rõ: “Người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực

hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”. Tại Điều này tuy

không quy định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của trẻ em

nhưng với quy định chung về quyền này của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thì

đương nhiên trẻ em trong trường hợp là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng sẽ có

đầy đủ quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Còn các cơ quan THTT

có trách nhiệm bảo đảm để cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện QBC của

mình.

Về quyền tự bào chữa

Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc thù được pháp luật ghi nhận và bảo

đảm cho phép bị can, bị cáo tự thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm

minh oan, bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ TNHS của mình. Tự bào chữa là một

trong những hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo và là nội dung quan trọng

của QBC trong TTHS. Pháp luật cho phép họ được tự mình thực hiện các hành vi tố

tụng, như dùng lý lẽ đưa ra chứng cứ và những yêu cầu có lợi cho mình khi tham

gia tố tụng mà không nhất thiết phải có sự tham gia của NBC.

Đối với bị can, bị cáo là người CTN, bị nhược điểm về tâm thần hoặc thể

chất hoặc bị truy tố về một tội mà khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được

quy định tại BLHS mà bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không

mời NBC thì CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công

Văn phòng luật sư cử NBC cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình.

Page 55: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

51

Từ những phân tích trên đây, chúng tôi có thể đưa ra khái niệm tự bào chữa

cho bị can, bị cáo là người CTN như sau:“ Tự bào chữa là quyền năng tố tụng đặc

thù được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho phép bị can, bị cáo là người chưa

thành niên tự mình có thể thực hiện các hành vi tố tụng và quyền tố tụng nhằm bác

bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình”.

Để thực hiện quyền tự bảo vệ mình trước sự buộc tội của các cơ quan THTT,

Bộ luật TTHS quy định cho bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì; được nhận

quyết định khởi tố, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn;

bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ,

tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác

theo quy định của pháp luật TTHS; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Tại điểm ii (b)

khoản 2 Điều 40 CƯQT về quyền trẻ em quy định: “mọi trẻ em bị coi là đã vi phạm

pháp luật hình sự; được thông báo nhanh chóng và trực tiếp về những điều bị buộc

tội và nếu thích hợp thông báo qua cha mẹ hay người giám hộ pháp lý, được sự

giúp đỡ về pháp lý hoặc những giúp đỡ thích hợp khác để chuẩn bị và trình bày sự

bảo vệ của mình”.

Tuy được pháp luật quy định cho các quyền nêu trên nhưng trong thực tế vì

trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, sự hạn chế về mặt nhận thức hay vì những

lý do khác nhau mà bị can, bị cáo là người CTN thường không thể vận dụng có hiệu

quả quyền tự bào chữa. Do đó, để bảo đảm quyền tự bào chữa của bị can, bị cáo là

người CTN đòi hỏi CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm giải thích cho

họ biết những biện pháp do luật định và tạo mọi điều kiện để họ có thể vận dụng các

quyền nêu trên. Nếu các cơ quan THTT không đảm bảo cho bị can, bị cáo là người

CTN thực hiện QBC có nghĩa là vi phạm quy định của pháp luật TTHS.

Về quyền nhờ người khác bào chữa

Quyền nhờ người khác bào chữa là hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sư hay

những người khác theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ cho bị can, bị cáo thực

Page 56: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

52

hiện QBC của mình khi họ không đủ khả năng tự mình thực hiện hoặc trong những

trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có NBC nhằm bảo đảm tính khách

quan và tính hợp pháp của các hoạt động TTHS. Quyền nhờ người khác bào chữa là

một phần QBC và là một đảm bảo quan trọng để bị can, bị cáo thực hiện các quyền

tố tụng khác mà pháp luật quy định để bào chữa trước sự buộc tội của cơ quan

THTT.

Quy tắc 15.1 của Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp

người CTN (Quy tắc Bắc Kinh) quy định: “trong suốt quá trình tố tụng, người chưa

thành niên có quyền được nhờ cố vấn pháp lý đại diện cho mình hoặc yêu cầu sự

giúp đỡ pháp lý miễn phí như điều khoản quy định sự giúp đỡ như thể ở quốc gia

đó”. Và tại Quy tắc 18 (a) của Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người CTN bị

tước quyền tự do quy định: “người chưa thành niên cần phải có quyền có luật sư

bào chữa và có quyền yêu cầu sự giúp đỡ pháp lý không phải trả tiền, nếu sự giúp

đỡ đó có sẵn, và có quyền thường xuyên tiếp xúc với luật sư của mình. Các bí mật

và sự riêng tư trao đổi đó phải được đảm bảo”.

Thực tiễn cho thấy, không phải người bị buộc tội nào cũng có khả năng thực

hiện quyền tự bào chữa một cách có hiệu quả, bên cạnh đó, xuất phát từ đặc điểm

tâm sinh lý của người CTN, là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện, tinh thần,

nhận thức pháp luật hạn chế, nên người CTN không thể tự mình bào chữa mà họ

phải cần có sự hỗ trợ và đối xử đặc biệt ngay cả trong trường hợp họ vi phạm pháp

luật. Chính vì sự phát triển chưa đầy đủ đó có thể cản trở, gây khó khăn, hạn chế họ

thực hiện QBC của mình. Vì vậy, để đảm bảo hơn cho QBC của bị can, bị cáo CTN,

đồng thời để giúp đỡ họ về mặt pháp lý, nhà làm luật đã quy định rằng cơ quan

THTT có trách nhiệm mời NBC cho các chủ thể này khi họ hoặc đại diện hợp pháp

của họ không mời được NBC mà muốn có NBC. Sự tham gia tố tụng của NBC là

rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình, NBC tham

gia vào quá trình giải quyết vụ án để có thể giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của người CTN. Đồng thời, sự tham gia của NBC cũng góp phần vào việc xác định

Page 57: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

53

sự thật của vụ án, không để người CTN bị buộc tội oan sai. Trong trường hợp quy

định tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS, cơ quan THTT có nghĩa vụ phải

bảo đảm có NBC tham gia tố tụng. Đây được coi là trường hợp bào chữa bắt buộc.

Như vậy, với quy định này trong Bộ luật TTHS thì không những pháp luật đã chính

thức thừa nhận QBC của bị can, bị cáo là người CTN mà còn đưa ra cơ chế nhằm

bảo đảm cho người CTN thực hiện được QBC trên thực tế. Chính vì vậy mà pháp

luật quy định trong những trường hợp đó phải có sự bào chữa của những người am

hiểu pháp luật và hoàn cảnh đặc thù của người CTN vi phạm. Đây chính là một quy

định tiến bộ của pháp luật TTHS nhưng cũng chính là một quy định rất tiến bộ về

quyền trẻ em, điều này một lần nữa khẳng định thái độ nhất quán của Nhà nước

Việt Nam là tôn trọng và bảo vệ QCN, trong đó có quyền trẻ em. Việc cơ quan

THTT không thực hiện nghĩa vụ triệu tập NBC trong trường hợp trên bị coi là hành

vi vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng.

Việc thực hiện QBC thông qua sự trợ giúp của NBC luôn đi đôi với những

bảo đảm pháp lý không chỉ đối với người bị buộc tội mà đối với cả NBC của họ.

Trong một chừng mực nhất định, trách nhiệm của các cơ quan THTT là yếu tố

quyết định hiệu quả trong hoạt động bào chữa của NBC. Và NBC là người bảo vệ

tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN trước sự buộc tội

của các cơ quan có chức năng. Như đã phân tích ở trên, quyền được nhờ người khác

bào chữa là một quyền cơ bản của người bị buộc tội, song song với quyền tự bào

chữa. Họ có thể đồng thời tự mình thực hiện việc bào chữa và nhờ người khác bào

chữa. Việc lựa chọn NBC phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội (khoản 1 Điều

57 Bộ luật TTHS). Họ có quyền thực hiện hoặc từ chối quyền được nhờ NBC.

Trong trường hợp người bị buộc tội tự thuê NBC, thì chi phí cho việc bào chữa sẽ

do họ tự chi trả. Tuy nhiên trong hai trường hợp trên, người bị buộc tội cũng có

quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC do cơ quan THTT cử (khoản 2 Điều 57

Bộ luật TTHS).

Page 58: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

54

Quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa là hai nội dung của

QBC, nó có tác dụng bổ sung cho nhau chứ không triệt tiêu lẫn nhau và có thể cùng

song song tồn tại. Điều này có nghĩa là khi bị can, bị cáo nhờ người khác bào chữa

cho mình thì họ vẫn có quyền tự bào chữa và ngược lại, như tại phiên tòa, sau khi

kiểm sát viên trình bày lời luận tội bị cáo được quyền trình bày lời bào chữa, nếu bị

cáo có nhờ NBC thì sau khi NBC bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền bổ sung ý

kiến bào chữa. Tại điểm d Điều 37 của CƯQT về quyền trẻ em quy định các quốc

gia thành viên phải bảo đảm rằng: “những trẻ em bị tước quyền tự do có quyền đòi

hỏi được nhanh chóng hưởng sự giúp đỡ về pháp lý và những sự giúp đỡ thích hợp

khác, cũng như quyền chất vấn tính chất hợp pháp của việc tước quyền tự do của

các em trước một Tòa án hay cơ quan khác có thẩm quyền, độc lập và có quyền đòi

hỏi một cách nhanh chóng về bất kỳ hành động nào như vậy”.

1.2.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo CTN trong TTHS

1.2.3.1. Bảo đảm về mặt pháp lý

Quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng của luật TTHS.

Trong thực tế, khi nói đến bào chữa, người ta thường cho rằng đó là chức năng đối

lập với chức năng buộc tội. Nếu hiểu như vậy là hoàn toàn sai lầm, bởi lẽ khi Viện

kiệm sát đã truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì việc bào chữa không

làm cho bị cáo trở thành vô tội, mà chỉ có thể đưa ra những tình tiết giảm nhẹ

TNHS cho bị can, bị cáo. Buộc tội và bào chữa luôn song song tồn tại. QBC, đó là

một trong những quyền cơ bản của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là bị

can, bị cáo. Bảo đảm QBC của bị can, bị cáo nói chung xuất phát từ yêu cầu bảo vệ

QCN và bảo đảm nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong TTHS. Cơ sở pháp lý

của việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến

pháp của nước ta từ năm 1945 đến nay. Đồng thời việc ghi nhận đó là cơ sở để xây

dựng nguyên tắc cơ bản đảm bảo QBC của bị can, bị cáo tại Điều 11 Bộ luật TTHS

của nước ta.

Page 59: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

55

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được ghi nhận trong các văn bản pháp luật

hiện hành một cách đầy đủ nhất. Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị bắt,

tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật

sư hoặc người khác bào chữa”. Cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, Điều 11

Bộ luật TTHS 2003 đã quy định việc bảo đảm và cơ quan có trách nhiệm trong việc

bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo. Ngoài ra Bộ luật TTHS còn có nhiều

quy định liên quan đến việc thực hiện và tạo điều kiện cho việc thực hiện QBC của

bị can, bị cáo ở các điều khác nhau như các điều 56, 57, 58, 190, 217…Trong đó

quy định về quyền của bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng; về nghĩa vụ của NBC,

những trường hợp cơ quan THTT phải đảm bảo có sự tham gia của NBC; trường

hợp bào chữa chỉ định mà NBC vắng mặt tại phiên tòa thì HĐXX phải hoãn phiên

tòa; NBC được trình bày lời bào chữa sau khi kiểm sát viên trình bày lời luận tội.

Những trường hợp vi phạm các quy định trên đều ảnh hưởng tới QBC của bị can, bị

cáo nói chung và bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tùy theo giai đoạn

tố tụng mà có các chế tài tố tụng khác nhau như trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay

hủy án để điều tra lại hoặc xét xử lại. Luật Tổ chức TAND năm 2002 cũng quy định

cụ thể: “Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo”. Văn bản pháp lý góp phần

quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo, đó là Luật luật sư

năm 2006. Đây là một trong những bước tiến mới trong quá trình hoàn thiện chế định

luật sư nói chung và QBC của bị can, bị cáo nói riêng. Luật Luật sư năm 2006 thể

hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động bổ trợ tư pháp nói chung

và QBC của bị can, bị cáo nói riêng. Luật Luật sư đã pháp điển hóa Nghị quyết lần

thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đề ra.

Xuất phát từ yêu cầu về tương đồng của pháp luật Việt Nam với các điều ước

quốc tế mà Việt Nam tham gia. Việt Nam là nước châu Á đầu tiên và là nước thứ

hai trên thế giới tham gia ký và phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền

trẻ em (20/02/1990) ngay sau khi ký Công ước được mở cho các nước ký kết. Công

ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc đã thể hiện sự quan tâm của cả nhân loại

Page 60: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

56

đối với trẻ em nói chung và người CTN nói riêng. Để đảm bảo các quyền của trẻ

em, Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật, luật liên quan tới quyền trẻ em.

Các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục TTHS đối với người CTN mặc dù

chưa được đầy đủ nhưng cũng đã thể hiện rõ chính sách hình sự của Nhà nước Việt

Nam đối với người CTN. Ngay từ khi xây dựng Bộ luật TTHS đầu tiên (1989),

chúng ta đã dành một chương riêng quy định về thủ tục đối với những vụ án mà bị

can, bị cáo là người CTN. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, các quy định này càng

ngày càng hoàn thiện hơn.

1.2.3.2. Bảo đảm về tổ chức

Bộ luật TTHS 2003 đã dành toàn bộ Chương XXXII – Phần thứ bảy để quy

định về thủ tục tố tụng đối với người CTN. Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt,

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người CTN được áp dụng theo quy định của

Chương XXXII, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật TTHS không trái

với những quy định của Chương này. Nhà nước Việt Nam luôn luôn quan tâm đến

việc bảo vệ quyền trẻ em và có những nỗ lực rất lớn trong lĩnh vực này. QCN nói

chung và quyền trẻ em nói riêng được thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau, rất đa

dạng. Chính vì vậy mà việc bảo vệ các quyền đó cũng rất đa dạng, bằng những

phương thức, phương tiện và biện pháp khác nhau cả về mặt tổ chức, quản lý, hành

chính, kinh tế lẫn các biện pháp pháp lý, đặc biệt là lĩnh vực TTHS. Luật TTHS bảo

vệ các quyền của trẻ em theo cách riêng của mình. Đó là trao cho các em những

quyền tố tụng để họ tự bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời quy định những điều

khoản nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử VAHS được khách quan,

toàn diện và đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội.

Như chúng ta đều biết, khi nói đến TTHS là nói đến trình tự, thủ tục điều tra,

truy tố, xét xử một VAHS cũng như quyền và nghĩa vụ của những người tham gia

tố tụng. Người CTN tham gia TTHS với nhiều tư cách rất khác nhau, do đó địa vị

pháp lý của họ trong TTHS cũng rất khác nhau. Từ đó, các quy định của pháp luật

Page 61: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

57

TTHS để bào đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN cũng có

những nét riêng. Trước hết, người CTN tham gia TTHS với tư cách là bị can, bị

cáo. Chúng ta đều biết rằng trong TTHS bị can, bị cáo là nhân vật trung tâm, mọi

hoạt động TTHS đều xoay quanh việc tìm kiếm các chứng cứ để kết tội hoặc gỡ tội

cho bị can, bị cáo. Có thể nói rằng không có bị can, bị cáo thì không có VAHS.

Chính vì bị can, bị cáo có một vị trí trung tâm, một địa vị pháp lý đặc biệt để tự bảo

vệ mình và nếu bị can, bị cáo lại là người CTN thì cần có những cơ chế hữu hiệu

hơn để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các em, bởi lẽ họ là những người còn non

nớt, chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về trí tuệ và thể chất, họ đang ở trong thời kỳ

hình thành nhân cách, nhận thức và hiểu biết xã hội còn hạn chế. Xuất phát từ nhận

thức này mà Bộ luật TTHS Việt Nam đã dành một chương riêng quy định về thủ tục

TTHS đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN. Tư tưởng này hoàn

toàn phù hợp với Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959 và Công ước về quyền trẻ

em mà trong đó trẻ em được coi là người còn non nớt về thể chất và trí tuệ và vì thế

cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý

trước cũng như sau khi ra đời. Những điều khoản của Chương XXXII là những quy

định đặc biệt áp dụng cho bị can, bị cáo là người CTN. Tuy nhiên ngoài những quy

định này ra thì những quy định chung khác của Bộ luật TTHS cũng được áp dụng.

Để cơ quan THTT thực hiện tốt nhiệm vụ trên theo quy định của pháp luật, nhà

nước đã thành lập một số cơ quan, tổ chức như các đoàn luật sư, văn phòng luật sư,

các tổ chức TGPL, các cơ quan bổ trợ tư pháp…các cơ quan, tổ chức này đã góp

phần không nhỏ vào việc bảo vệ có hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp của công dân

cũng như QBC của bị can, bị cáo nói chung. Trước hết, cơ quan THTT là những cơ

quan được Bộ luật TTHS quy định có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực

hiện QBC của họ như đã khẳng định ở trên, phải được tổ chức một cách hợp lý

nhằm tăng cường tốt hơn nữa mối quan hệ giữa CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án trong

quá trình tiến hành giải quyết VAHS, đảm bảo đúng thời hạn theo quy định của

pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Page 62: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

58

Trách nhiệm của Cơ quan điều tra

Với nhiệm vụ điều tra vụ án, CQĐT đóng vai trò rất quan trọng trong quá

trình giải quyết vụ án. Có thể nói, phân nửa kết quả của việc giải quyết vụ án nằm ở

giai đoạn điều tra. Chính vì vậy, bất cứ một sai phạm nào từ hoạt động của CQĐT

cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến số phận pháp lý của bị can, bị cáo. Thêm vào đó,

kết quả từ hoạt động của CQĐT sẽ là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định truy tố hay

không bị can ra trước Tòa án và là cơ sở để Tòa án xem xét làm căn cứ khi xét xử

đối với bị cáo. Do đó, hơn lúc nào hết quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo

phải được bảo đảm ngay từ giai đoạn điều tra. Trách nhiệm bảo đảm QBC trong giai

đoạn điều tra chủ yếu thuộc về CQĐT. Để bảo đảm QBC, CQĐT phải tạo những

điều kiện cho bị can tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác thực hiện QBC, đặc

biệt là đối với người CTN.

Trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát

Trách nhiệm của cơ quan THTT trong đó có Viện kiểm sát đảm bảo cho bị

can, bị cáo nói chung thực hiện QBC là một bộ phận hợp thành nội dung của

nguyên tắc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo. Viện kiểm sát phải tạo những khả năng

thực tế, những điều kiện cần thiết và những biện pháp do pháp luật quy định để bị

can, bị cáo là người CTN có thể hưởng những quyền mà pháp luật quy định cho họ;

đồng thời tạo điều kiện cho NBC có thể tham gia tích cực vào việc bảo vệ các

quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể đặc biệt này. Thêm vào đó, bằng chức

năng, hoạt động của mình, Viện kiểm sát phải ngăn ngừa, hạn chế và xử lý kịp thời

các hành vi gây cản trở hoặc xâm hại đến QBC của bị can, bị cáo là người CTN.

Trách nhiệm của Viện kiểm sát thể hiện qua các hoạt động của kiểm sát viên. Kiểm

sát viên trong VAHS vừa thực hiện chức năng buộc tội, vừa thực hiện chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTHS. Chính vì lẽ đó, kiểm sát

viên phải rất khách quan và thận trọng trong hoạt động của mình. Trong các giai

đoạn TTHS từ khởi tố, điều tra, xét xử có nhiều chủ thể tham gia vào mỗi giai đoạn

Page 63: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

59

cụ thể, trong đó Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất tham gia trong tất cả các giai

đoạn của TTHS. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm QBC của bị can,

bị cáo là người CTN được thể hiện ở những hoạt động sau: kiểm sát việc khởi tố,

điều tra và áp dụng các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan THTT; đảm bảo QBC

của bị can, bị cáo là người CTN trong giai đoạn hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát và

giai đoạn xét xử.

Trách nhiệm của cơ quan Tòa án

Việc xét xử tại phiên tòa có ý nghĩa hết sức quan trọng trong toàn bộ quá

trình giải quyết một VAHS. Ở đây, Tòa án tiến hành thẩm tra toàn bộ chứng cứ,

nghe ý kiến tranh tụng và ra phán quyết đối với bị cáo. Để việc xét xử tại phiên tòa

luôn có hai bên tham gia: bên buộc tội và bên gỡ tội (bên bào chữa), do đó Tòa án

phải bảo đảm cho bị cáo là người CTN và NBC của họ được tham gia phiên tòa.

Theo quy định tại Điều 187 Bộ luật TTHS thì “bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo

giấy triệu tập của Tòa án…”. Quy định này cho thấy, việc có mặt của bị cáo tại

phiên tòa là bắt buộc, đây là cơ sở để Tòa án thực hiện việc xét xử trực tiếp, công

khai bằng lời nói và liên tục. Bởi theo quy định tại Điều 184 Bộ luật TTHS thì “Tòa

án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến

của bị cáo…”. Chính vì vậy bị cáo là người CTN phải có mặt và sự tham gia phiên

tòa của bị cáo cũng chính là điều kiện để bị cáo thực hiện QBC của mình. Bị cáo là

đối tượng bị phán xét bởi Tòa án, chính vì vậy, các quyền và lợi ích hợp pháp của bị

cáo chỉ có thể được bảo đảm có hiệu quả khi họ tham gia phiên tòa. Xuất phát từ cơ

sở này, pháp luật quy định trong trường hợp “Nếu bị cáo vắng mặt không có lý do

chính đáng thì bị áp giải, nếu vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.

Nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác thì Hội đồng xét xử tạm

đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh. Nếu bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét

xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điềi tra truy nã bị cáo” (khoản 1 Điều

187 Bộ luật TTHS). Như vậy, việc tham gia phiên tòa là nghĩa vụ bắt buộc đối với

bị cáo là người CTN, đồng thời cũng là điều kiện để Tòa án tiến hành việc xét xử.

Page 64: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

60

Tòa án chỉ được tiến hành xét xử khi có mặt bị cáo, trừ những trường hợp pháp luật

quy định tại khoản 2 Điều 187 Bộ luật TTHS như sau: bị cáo trốn tránh và việc truy

nã không có kết quả; bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;

nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho việc xét xử và họ đã được giao giấy

triệu tập hợp lệ.

Tòa án có nghĩa vụ phải bảo đảm QBC cho bị cáo là người CTN theo những

nội dung sau: Tòa án có nghĩa vụ giải thích cho bị cáo các quyền và nghĩa vụ của

họ; Tòa án bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào

chữa. Theo khoản 2 Điều 217 Bộ luật TTHS quy định: “Bị cáo trình bày lời bào

chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có

quyền bổ sung ý kiến bào chữa”. Hoạt động tranh tụng trong TTHS là một quy định

mang tính dân chủ; Tòa án đảm bảo cho bị cáo đưa ra chứng cứ và những yêu cầu;

Tòa án bảo đảm cho bị cáo nói lời sau cùng.

Vì vậy, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan THTT phải

chú trọng thực hiện hai nhiệm vụ: bảo vệ sự thật, bảo vệ pháp luật; bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN. Chính các biện pháp bảo đảm

QBC của bị can, bị cáo là người CTN sẽ tạo điều kiện cho cơ quan THTT, người

THTT, người tham gia tố tụng phát huy được năng lực trí tuệ của mình, làm cho

hoạt động tố tụng thực sự khách quan, công bằng trên cơ sở tôn trọng các quyền cơ

bản của người CTN.

Người CTN phạm tội luôn là nạn nhân, nạn nhân của môi trường thiếu sự

chăm sóc, giáo dục, nạn nhân của sự nghèo đói, sự thiếu cơ hội được học hành, nạn

nhân của sự thiếu hiểu biết pháp luật, nạn nhân của sự lạm dụng trẻ em để thực hiện

các hành vi phi pháp [61, tr. 156]. Hành vi phạm tội của người CTN, phần lớn là

nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ. Trong nhiều trường hợp, các hành vi này bị chi

phối bởi sự thôi thúc của xung năng, của bạn bè, của sự thất vọng, sự tức giận,

chống đối, mặc cảm, của sự bồng bột…Cho nên, người CTN cần được giúp đỡ để

Page 65: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

61

lấy lại bình tĩnh, đánh giá mình một cách khách quan, nhìn nhận và chấp nhận hiện

thực, khám phá những kinh nghiệm vốn có, những điểm mạnh của cá nhân, từ đó

giúp các em trở nên mạnh mẽ, tự tin hơn và đưa ra được sự lựa chọn tốt nhất trong

bất kỳ hoàn cảnh nào mà họ gặp phải trong cuộc sống. Để làm được điều này,

chúng ta phải tôn trọng, chú ý lắng nghe và cảm thông với các em và đảm bảo các

quyền ưu tiên của trẻ.

Bên cạnh những bảo đảm nêu trên, pháp luật còn quy định: điều tra viên,

kiểm sát viên, thẩm phán phải là những người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý

học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của

người CTN (khoản 1 Điều 302 Bộ luật TTHS 2003). Theo số liệu thống kê của

TAND tối cao thì hiện nay, cả nước có 700 TAND cấp huyện, 63 TAND cấp tỉnh

và TAND tối cao. Tính đến tháng 12 năm 2012, ngành Tòa án có 3.915 thẩm phán

TAND cấp huyện; 1.070 thẩm phán TAND cấp tỉnh và 113 thẩm phán TAND tối

cao. Tại Nghị quyết số 473a/NQ-UBTVQH13 ngày 28-3-2012 của Ủy ban thường

vụ Quốc hội về tổng biên chế và số lượng thẩm phán của TAND và Tòa án Quân sự

các cấp đã bổ sung cho các TAND địa phương đến năm 2013 là 1.713 biên chế;

theo đó tổng số biên chế của TAND các cấp là 15.237 người, bao gồm: tổng biên

chế của TAND tối cao là 722 người, trong đó có 120 thẩm phán TAND tối cao

(được giữ nguyên theo Nghị quyết số 770/2009/UBTVQH12 ngày 23-2-2009 của

Ủy ban thường vụ Quốc hội); tổng biên chế của TAND cấp tỉnh là 4.088 người,

trong đó có 1.170 Thẩm phán trung cấp; tổng biên chế của TAND cấp huyện là

10.427 người, trong đó có 4.865 Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Qua

số liệu trên cho thấy đội ngũ thẩm phán ngày càng được bổ sung để đáp ứng yêu

cầu và nhiệm vụ mới được giao cũng như đòi hỏi của tình hình kinh tế - xã hội. Tuy

nhiên, trong số này không có thẩm phán nào được phân công chuyên giải quyết các

vụ án do người CTN gây ra [58]; trên thực tế họ phải thực hiện việc xét xử đối với

cả những bị cáo đã thành niên và bị cáo CTN.

Page 66: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

62

Xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý của người CTN, nếu đội ngũ những

người THTT là những người có kiến thức chuyên môn về tâm sinh lý lứa tuổi thì sẽ

dễ dàng trong việc nắm bắt tâm tư, tình cảm của người CTN, qua đó giúp người

CTN phạm tội nhận thức được lỗi lầm, tự giác sửa chữa lỗi lầm để trở lại thành

công dân tốt. Đây cũng là những tiêu chí, điều kiện cần thiết để những người THTT

có thể hiểu và có những phương pháp phù hợp khi tiến hành hoạt động điều tra, truy

tố, đảm bảo nguyên tắc “Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm

giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân

có ích cho xã hội” (khoản 1 Điều 69 BLHS)

Việc phân công thẩm phán giải quyết các vụ án có người tham gia tố tụng là

người CTN hiện nay còn bất hợp lý. Theo quy định của pháp luật TTHS, khi một vụ

án được Tòa án thụ lý sẽ do Chánh án TAND cấp huyện phân công một thẩm phán

thụ lý, giải quyết và làm chủ tọa phiên tòa (Luật Tổ chức TAND năm 2002; Điều 38

của Bộ luật TTHS 2003; Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004). Phó Chánh

án có thể được Chánh án ủy nhiệm phân công án. Theo Báo cáo khảo sát nhu cầu

của TAND cấp huyện trên toàn quốc, phần lớn ý kiến được khảo sát cho rằng việc

phân công án phụ thuộc quá nhiều vào ý kiến của lãnh đạo Tòa án. Các lãnh đạo

Tòa án phân công công tác cho thẩm phán dựa trên hai tiêu chí chính là khối lượng

công việc mà thẩm phán đó đang giải quyết và chuyên môn hoặc kinh nghiệm của

thẩm phán trong vụ việc giải quyết. Ngoài ra, còn có lãnh đạo Tòa án áp dụng các

tiêu chí khác để phân công công việc như [32, tr. 81-83]: phân công phù hợp với vị

trí và thâm niên công tác của thẩm phán; theo tính chất vụ án; tuần tự…Những tiêu

chí phân công nêu trên cho phép Chánh án chủ động và linh hoạt trong việc phân

công thẩm phán. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến một số khiếm khuyết như vụ án

được phân công dựa trên những quyết định cá nhân của lãnh đạo Tòa án dẫn đến

tình trạng có thẩm phán nhiều việc, có thẩm phán ít việc, hoặc có những vụ án được

phân công không đúng đối tượng chuyên môn, lĩnh vực xét xử.

Page 67: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

63

Ngoài Đoàn luật sư ra còn có các cơ quan bỗ trợ tư pháp khác như: các tổ

chức TGPL ở các tỉnh, thành phố trong cả nước cũng đã được thành lập nhằm tư

vấn miễn phí cho các đối tượng nhất định như người nghèo; người có công với cách

mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc

thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn (Điều 10

Luật TGPL). Trong đó có nội dung tư vấn về hình sự và giới thiệu luật sư bào chữa

trước Tòa án. Tính đến tháng 5 năm 2013, hiện nay cả nước có 9.190 cộng tác viên

(trong đó có 1.000 luật sư tham gia cộng tác viên), bình quân có 145 cộng tác viên ở

một trung tâm TGPL. Theo báo cáo tại Hội nghị Quốc gia về hỗ trợ pháp lý miễn

phí cho xã hội (National Conference on free legal assistance to the public) tại Hà

Nội vào tháng 5 năm 2013: trong 6 năm triển khai thực hiện Luật TGPL (2006-

2013) tổng số vụ việc được TGPL là 609.599 vụ. Trong đó, hoạt động TGPL lĩnh

vực TTHS (tham gia bảo vệ cho bị can, bị cáo là người CTN ngay từ giai đoạn điều

tra và bào chữa trước tòa án) cộng tác viên đã tham gia tổng số 37.590 vụ việc [120,

tr. 7]. Riêng trong năm 2012 số vụ việc liên quan đến TTHS được giải quyết là

5.895 vụ.

Như vậy, để bảo đảm thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong

quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, các cơ quan THTT, các cơ quan bổ trợ tư

pháp như đoàn luật sư, văn phòng luật sư, các tổ chức TGPL phải luôn được hoàn

thiện về mặt tổ chức cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn đề ra. Sự hoàn thiện về tổ

chức của các cơ quan nói trên cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,

đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành và tham gia

tố tụng thì việc giải quyết VAHS sẽ được tiến hành một cách nhanh chóng, kịp thời,

đúng pháp luật, bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

1.2.3.3. Bảo đảm về mặt nhận thức

Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người CTN không thể thực hiện được

một cách triệt để hiệu quả, khi mà cơ quan THTT, người THTT, người tham gia tố

Page 68: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

64

tụng cũng như các cơ quan nhà nước khác, tổ chức xã hội và mọi công dân không

nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó.

Cơ quan và người THTT là những chủ thể trực tiếp tiến hành các hoạt động

tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm

sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng minh và tiến hành giải quyết vụ án trọng

phạm vi quyền hạn của mình. Trước hết họ phải nhận thức được việc bảo đảm thực

hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN chính là giúp họ giải quyết vụ án một

cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đây cũng là nhiệm vụ mà nhà nước giao cho

họ thực hiện. Nhiều điều tra viên chưa nhận thức đúng vai trò của NBC trong

TTHS. Đối với kiểm sát viên, thẩm phán cũng không ít người có nhận thức tương

tự. Họ cho rằng, tội phạm đã rõ ràng thì luật sư không thể bào chữa cho kẻ phạm

tội. Thậm chí một số thẩm phán cho rằng luật sư chỉ gây khó khăn cho công tác xét

xử, vì thế mà có thái độ không đúng đối với luật sư… Trong khoa học TTHS và

thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn xuất hiện tư tưởng hạ thấp vai

trò của NBC. Điều này rất nguy hiểm vì cho rằng NBC gây khó khăn cho việc điều

tra tội phạm, làm yếu đi hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm, giúp cho kẻ

phạm tội trốn tránh TNHS. Quan niệm như vậy đối với NBC là trái với quy định

của pháp luật và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Việc bào chữa kiên

định, dũng cảm trong TTHS chẳng những không cản trở mà còn thúc đẩy cuộc đấu

tranh chống tội phạm, khắc phục những sai lầm trong việc xử lý án, xét xử không có

căn cứ người vô tội [103].

Với nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và

đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; những tình tiết

tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo CTN, bảo vệ kỷ cương

pháp luật song song với việc phát huy tính dân chủ, thì trách nhiệm của cơ quan

THTT một mặt phải nghiêm chỉnh tuân thủ, tránh tình trạng vi phạm pháp luật trong

quá trình giải quyết vụ án, một mặt phải bảo đảm đúng pháp luật, tránh mọi sai lầm

có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo CTN. Do vậy,

Page 69: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

65

việc góp phần cùng cơ quan THTT xác định sự thật khách quan trong vụ án của

NBC là cần thiết. Đó không phải là gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử

như một số người THTT thường nghĩ. Khi giải quyết VAHS, cơ quan THTT phải

nhận thức rằng:

- Là người trực tiếp giải quyết VAHS, hơn ai hết người THTT phải am hiểu

thấu đáo những quy định của pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN.

Họ có nghĩa vụ phải giải thích cho bị can, bị cáo là người CTN hiểu rõ QBC, đồng

thời tạo điều kiện thuận lợi để những chủ thể này và NBC thực hiện QBC. Muốn

vậy, ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn những người THTT phải có ý thức

tuân thủ và nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn về vấn đề này;

- Sự tham gia của NBC là yếu tố khách quan để vụ án giải quyết được đúng

đắn. NBC có vai trò quan trọng trong việc đưa ra những chứng cứ và đánh giá

chúng giúp cơ quan THTT tránh được thiếu sót đáng tiếc có thể xảy ra khi giải

quyết vụ án. Về phía NBC, họ là những người am hiểu pháp luật cùng với việc tham

gia tố tụng để bảo vệ bị can, bị cáo là người CTN họ còn có nhiệm vụ bảo vệ pháp

luật vì thế, hơn ai hết, NBC nhận thức rất đầy đủ về vấn đề này. Bảo vệ bị can, bị

cáo là người CTN không có nghĩa là giúp họ lẩn tránh hoặc thoát khỏi sự trừng phạt

của pháp luật đối với hành vi phạm tội mà bị can, bị cáo là người CTN đã gây ra,

mà phải trên cơ sở của pháp luật bảo đảm nguyên tắc không để lọt tội phạm, không

làm oan người vô tội. Cùng với trình độ chuyên môn và kiến thức pháp luật, kỹ năng

bào chữa thành thạo với tinh thần trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp, khi đã nhận thức

đúng đắn bản chất của việc bào chữa thì chắc chắn NBC sẽ thành công trong việc bào

chữa và giúp bị can, bị cáo là người CTN thực hiện tốt hơn QBC của họ.

Việc tham gia tố tụng của NBC không chỉ bảo vệ bị can, bị cáo mà còn là

một hình thức giám sát việc thực thi pháp luật của cơ quan THTT. Sự có mặt của

NBC trong một số trường hợp góp phần vào việc phòng chống các hiện tượng bức

cung, nhục hình đối với bị can. Khi tham gia tố tụng, bị can, bị cáo thường cho rằng

Page 70: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

66

đối với điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán thì họ chỉ là người phạm tội do vậy,

cho dù họ có thanh minh hay giải thích gì thì cũng chỉ là vô ích mà thôi. NBC tham

gia giúp bị can, bị cáo nhận thức đúng đắn hơn nữa QBC của mình.

Việc nhận thức đúng QBC của bị can, bị cáo CTN còn giúp nhân dân có khả

năng giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan và người THTT. Khi phát

hiện việc làm trái pháp luật của những cơ quan và những người nói trên, họ có

quyền khiếu nại hoặc tố cáo với cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp

luật.

1.3. Quyền bào chữa của người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng

hình sự nước ngoài

1.3.1 . Trong tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp

- Vấn đề tuổi chịu TNHS: quan niệm về tuổi chịu TNHS và năng lực nhận

thức của chủ thể trong luật hình sự Cộng hòa Pháp khác biệt so với quan niệm về

tuổi chịu TNHS và năng lực nhận thức của chủ thể trong luật hình sự Việt Nam. Cụ

thể, luật hình sự Việt Nam quy định về độ tuổi chịu TNHS được bắt đầu từ đủ 14

tuổi. Dưới độ tuổi này, hành vi nguy hiểm đến mấy cũng không cấu thành tội phạm,

vì không đủ điều kiện của chủ thể, và người thực hiện hành vi phạm tội sẽ không bị

xử lý bằng con đường TTHS. Họ sẽ bị áp dụng những biện pháp hành chính như

giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng. Tuy nhiên, những

biện pháp này cũng chỉ được áp dụng đối với những người CTN từ 12 tuổi trở lên.

Ngược lại, người từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện hành vi mà theo quy định của

BLHS, cấu thành một tội phạm, thì người phạm tội về cơ bản sẽ bị khởi tố, điều tra,

truy tố và xét xử. Trong luật hình sự Việt Nam, các chuyên gia còn phân biệt rõ

ràng: năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Người có năng lực TNHS

là người vừa có năng lực nhận thức vừa có năng lực điều khiển hành vi. Thiếu một

trong hai năng lực này đều không thể truy cứu TNHS. Trong luật hình sự Cộng hòa

Pháp, tuổi chịu TNHS là một nội dung gây tranh cãi rất nhiều trong giới luật gia.

Page 71: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

67

Theo các Điều 2, Điều 15-1, Điều 20-2 và 20-9 sắc lệnh số 45 – 174 ngày 02 tháng

2 năm 1945 và Điều 128 mục 8 BLHS Cộng hòa Pháp: luật hình sự không xác định

cụ thể tuổi chịu TNHS, mà căn cứ vào năng lực nhận thức của chủ thể (la capacite

du discernement) khi thực hiện hành vi để xác định người đó có phạm tội hay

không. Chính vì vậy mà trẻ vị thành niên 10 tuổi, thậm chí dưới 10 tuổi có thể bị coi

là tội phạm nếu bản thân họ được đánh giá là có thể nhận thức được đúng, sai, về

hành vi mà họ đã thực hiện. Tuy nhiên, chỉ những người từ đủ 13 tuổi trở lên mới

có thể bị áp dụng những biện pháp có tính chất trấn áp: như bị tạm giữ, bị tạm giam,

hoặc bị tuyên một hình phạt. Tóm lại, đều là sự đánh giá của các cơ quan THTT,

nhưng ở Việt Nam, sự đánh giá trước hết căn cứ vào yếu tố luật định: người thực

hiện hành vi là người đã đủ 14 tuổi hay chưa. Nếu đủ 14 tuổi thì có thể bị khởi tố,

điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, trong luật hình sự Việt Nam, tuổi chịu TNHS là một

yếu tố cấu thành tội phạm. Còn trong luật hình sự Cộng hòa Pháp, các cơ quan

THTT có thẩm quyền rộng hơn trong sự đánh giá về khả năng nhận thức của chủ

thể đối với một hành vi nguy hiểm cụ thể, để xác định một người CTN đó có thể bị

coi là tội phạm hay không. Cụ thể, ở Pháp không tồn tại một mức độ tuổi cụ thể để

xác định TNHS của chủ thể, mà chỉ tồn tại các mức độ khi áp dụng các biện pháp

trong TTHS như tạm giam, tạm giữ, hoặc áp dụng hình phạt: phạt tiền, phạt tù có

thời hạn…Chính vì vậy, chúng ta thấy ở Pháp một người CTN 10 tuổi có thể bị đưa

ra Tòa án để xét xử. Theo một số chuyên gia luật hình sự, việc ấn định, trong nhiều

trường hợp không bảo đảm sự công bằng của người phạm tội trước pháp luật vì:

cùng một hành vi thực hiện như nhau, người sinh trước vài ngày thì bị coi là tội

phạm, ngược lại, người sinh sau vài ngày lại không bị coi là tội phạm, mà trong

phạm vi vài ngày, thậm chí vài tháng, không thể nói có sự khác biệt về “chất” đối

với khả năng nhận thức của chủ thể. Như vậy, theo các luật gia Pháp:sự nhân đạo

trong luật hình sự và luật TTHS không nhất thiết là phải ấn định một độ tuổi nhất

định, dưới độ tuổi đó, người thực hiện hành vi (xét về khách quan là tội phạm)

không phải chịu TNHS, mà là việc nhà nước tạo ra một hệ thống các biện pháp

Page 72: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

68

(không loại trừ các biện pháp hình sự) để nhằm giáo dục, cảm hóa, và có khả năng

ngăn ngừa sự tái phạm của người phạm tội [39].

- QBC của bị can là người CTN trong giai đoạn điều tra: được thực hiện từ

khi người đó bị tiếp nhận một cuộc điều tra về một tội phạm nào đó. Bị can là người

CTN sẽ được nhận sự viện trợ về TGPL ngay lập tức và được đại diện bởi một luật

sư của cơ quan bảo vệ tư pháp người CTN (Protection justice de la jeunesse). Song

song với việc được TGPL về mặt pháp lý, phụ huynh của những người CTN này sẽ

được các cơ quan THTT thông báo về thông tin liên quan đến hành vi của con em

mình. Phụ huynh của những đối tượng này có quyền mời luật sư khác bên ngoài hệ

thống cơ quan bảo vệ tư pháp người CTN. Ở Việt Nam, tương ứng với ba hoạt động

điều tra, truy tố, xét xử là ba cơ quan đó là: CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án. Ba cơ

quan này hoạt động độc lập với nhau. Bộ luật TTHS quy định thẩm quyền điều tra

VAHS. Ngoài các CQĐT thuộc Bộ Quốc phòng hay VKSND tối cao, hoạt động

điều tra phần lớn thuộc về CQĐT của Bộ Công an (Điều 1, 8, 15 Pháp lệnh điều tra

năm 1989 và các Điều 1, 11, 12, 15 và 16 Pháp lệnh về Tổ chức điều tra hình sự số

23/2001/Pl-UBTVQH 11 ngày 28-8-2004). Nhìn từ góc độ các hoạt động điều tra

trong luật TTHS Cộng hòa Pháp, chúng ta thấy có sự khác biệt so với Việt Nam. Cụ

thể, hoạt động điều tra về cơ bản lại thuộc thẩm quyền của thẩm phán điều tra [25],

[12], còn cảnh sát tư pháp lại chỉ tiến hành các hoạt động điều tra sơ bộ, hoặc những

trường hợp hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm thấp (contravention). Khi nghiên

cứu các quy định của luật hình sự và luật TTHS Cộng hòa Pháp có nội dung liên

quan đến sự chuyên biệt hóa đối với các VAHS do người CTN phạm tội thực hiện,

chúng tôi thấy, sự chuyên biệt hóa thể hiện ở ba khía cạnh: Trợ giúp Tư pháp trẻ vị

thành niên (Les Auxilliare de justice); Tòa án vị thành niên và cuối cùng là thẩm

phán vị thành niên và Tòa đại hình chuyên xét xử VAHS do người CTN phạm tội

thực hiện. Các tổ chức TGPL trẻ vị thành niên: ở Pháp, các cơ quan có tính chất

TGPL trẻ vị thành niên phạm tội khá hoàn thiện. Các cơ quan này bao gồm: cơ quan

bảo vệ tư pháp người CTN, bộ phận trợ giúp các hoạt động có tính chất giáo dục

Page 73: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

69

bên cạnh các Tòa án (service educative aupres des tribunaux) và các trung tâm giáo

dục (centre educatif). Tính chất trợ giúp tư pháp thể hiện ở chỗ các cơ quan này

thực hiện kiểm tra, theo dõi, việc thực hiện các biện pháp có tính chất giáo dục do

cơ quan tư pháp áp dụng; hoặc là cơ quan đề xuất với thẩm phán việc áp dụng biện

pháp giáo dục áp dụng đối với từng vụ việc cụ thể; ngoài ra, luật còn quy định trong

trường hợp cần áp dụng biện pháp tạm giam người CTN phạm tội, thẩm phán điều

tra buộc phải hỏi ý kiến của cơ quan này.

-QBC của bị cáo là người CTN trong hoạt động xét xử: hoạt động xét xử của

thẩm phán vị thành niên được tiến hành theo hai phương thức: hoặc là họ tiến hành

xét xử giản đơn – đây là hình thức xét xử không mở phiên tòa công khai, thẩm phán

vị thành niên là người xét xử duy nhất, ngoài ra có sự tham gia bắt buộc của bị cáo,

luật sư, công tố viên – hoặc tiến hành xét xử tập thể (Tòa án vị thành niên – với tính

chất công khai; và HĐXX bao gồm thẩm phán và hội thẩm). Tòa án vị thành niên

tiến hành hoạt động xét xử như một tòa án thông thường. Sự có mặt của luật sư bảo

vệ quyền lợi cho bị cáo là luôn luôn bắt buộc để luôn bảo đảm rằng quyền lợi của bị

cáo sẽ được đảm bảo một cách tốt nhất.

1.3.2. Trong tố tụng hình sự Hoa Kỳ

Trong pháp luật Hoa Kỳ, định nghĩa về người CTN là rất khác nhau giữa các

tiểu bang. Nhưng trong hầu hết các tiểu bang, District of Columbia, và trong tất cả

các huyện liên bang, thì bất kỳ người nào dưới 18 tuổi được coi là người CTN.

Trong một số tiểu bang khác như New York, Connecticut và North Carolina, một

người CTN là độ tuổi từ 16 tuổi hoặc ít hơn, và trong Georgia, Illinois, Louisiana,

Massachusetts, Michigan, Missouri, New Hampshire, South Carolina, Texas và

Wisconsin thì người đủ 17 tuổi hoặc ít hơn thì được coi là người CTN. Wyoming là

một tiểu bang miền Tây Hoa Kỳ với vỏn vẹn 509.294 người lại quy định về độ tuổi

của người CTN là từ 19 tuổi trở xuống. nhưng về độ tuổi chịu TNHS cũng được

quy định rất khác nhau giữa các bang. Luật về vị thành niên bao gồm luật và thủ tục

Page 74: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

70

TTHS hoàn toàn riêng rẽ [70]. Trên lý thuyết, hệ thống luật pháp và các thiết chế

này, được sáng tạo bởi những nhà cải cách cấp tiến đầu thế kỷ XX, đã hoạt động “vì

lợi ích tốt nhất của trẻ em” [68]. Trên thực tế, hệ thống này không còn phản ánh chủ

nghĩa lý tưởng của các nhà sáng lập ra nó. Luật về vị thành niên được đưa ra tại các

Tòa án vị thành niên hoặc Tòa án gia đình, chứ không phải tại các phiên tòa hình sự

thông thường. Mục tiêu không phải là trừng phạt hay răn đe mà là phục hồi. Độ tuổi

theo đó người phạm tội được coi là đủ điều kiện để đối xử như người CTN dao

động từ dưới 16 tuổi tới dưới 21 tuổi tùy theo quy định của từng khu vực tài phán

và trong cùng một khu vực tài phán, tùy theo loại tội trạng mà người phạm tội bị

cáo buộc. Như vậy, có các quy định cho phép (và trong một số trường hợp là bắt

buộc) đối xử với một người CTN như một người trưởng thành nếu tội trạng là giết

người hoặc các tội mang tính bạo lực nghiêm trọng khác. Nhìn chung, hệ thống luật

pháp dành cho người CTN đối xử với các bị cáo khoan dung hơn so với hệ thống

dành cho người trưởng thành, mặc dù hệ thống luật pháp vị thành niên mang lại ít

quyền về thủ tục hơn.[43, tr. 467- 468]

- QBC của bị can là người CTN trong giai đoạn điều tra: pháp luật TTHS của

Hoa Kỳ quy định rất rõ ràng các trình tự khi bắt giữ, tạm giam một người CTN.

Trong quá trình tiếp nhận điều tra, người CTN phạm tội có các quyền như sau:

quyền được đọc lời cảnh báo Miranda; quyền từ chối trả lời cảnh sát khi chưa có

cha mẹ hoặc luật sư (quyền im lặng); quyền được tham khảo với một luật sư và có

một luật sư trước khi bắt đầu cuộc thẩm vấn chính thức; quyền được gọi cho cha mẹ

khi bị tạm giữ; quyền được cử luật sư để đại diện (đây là một quyền Hiến định).

- Việc bắt và tạm giam người CTN phạm tội: khi các cơ quan THTT bắt giữ

người CTN phạm tội đối với một tội “trọng tội” hay một “tội nhẹ” thì các cơ quan

THTT phải ngay lập tức thông báo cho cha mẹ hoặc người giám hộ của người CTN

thực hiện hành vi phạm tội biết. Kế đến, cho phép người CTN này hoàn thành các

cuộc gọi cho cha mẹ hay luật sư biết về tình trạng của mình. Khi lấy lời khai của

người CTN phạm tội bắt buộc phải có sự tham gia của cha mẹ hay người giám hộ

Page 75: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

71

của người CTN và đặc biệt là phải có mặt của luật sư. Một luật sư do các cơ quan

THTT bổ nhiệm để biện hộ cho người CTN trong tất cả quá trình tố tụng. Cha mẹ

hay người giám hộ của người CTN có quyền yêu cầu thêm một luật sư biện hộ cho

con em mình trong suốt quá trình tố tụng.

- QBC của bị cáo là người CTN trong hoạt động xét xử. Cũng giống như

Cộng hòa Pháp, khi bị cáo là người CTN bị đưa ra xét xử trước Tòa án vị thành niên

thì sự tham gia của luật sư để bào chữa cho bị cáo là bắt buộc. Bị cáo CTN không bị

cáo buộc một tội do luật quy định, mà bị cáo buộc là “phạm lỗi”. Tuy nhiên, bị cáo

CTN có quyền có luật sư và quyền được coi là vô tội trước khi bị kết tội [118]. Bị

cáo là người CTN không có quyền được xét xử bởi bồi thẩm đoàn, nhưng xấp xỉ ¼

số bang đã thông qua các quy định cho phép lựa chọn xét xử bởi bồi thẩm đoàn

trong các vụ việc của người CTN. Nếu thẩm phán nhận thấy rằng bị cáo CTN là có

tội (nằm ngoài sự nghi ngờ hợp lý), thẩm phán có quyền tuyên án treo đối với người

CTN hoặc giam giữ tại một trung tâm cải huấn hoặc cải tạo dành cho người CTN

trong khoảng thời gian không xác định cho tới năm 21 tuổi, tại thời điểm đó người

CTN phải được trả tự do. Người CTN cũng có thể được thả sớm hơn tùy theo quyết

định của cơ quan có thẩm quyền tại trung tâm giáo dưỡng và tùy thuộc vào các điều

kiện mà cơ quan có thẩm quyền này có thể áp đặt.

1.3.3. Trong tố tụng hình sự Liên Bang Nga

Khi nghiên cứu Bộ luật TTHS Liên Bang Nga, chúng tôi nhận thấy có nhiều

nét tương đồng giữa Bộ luật TTHS Liên Bang Nga và Bộ luật TTHS Việt Nam. Bộ

luật TTHS Liên Bang Nga đã dành hẳn một chương riêng là Chương XVI (phần thứ

4) quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt đối với vụ án do người CTN thực hiện. Tuy

nhiên, Điều 391 Bộ luật TTHS Liên Bang Nga quy định thủ tục của Chương XVI

được áp dụng đối với các vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi tại thời điểm

thực hiện tội phạm mà không quy định độ tuổi tối thiểu phải chịu TNHS. Nhưng

hầu hết các quy định về thủ tục đối với người CTN là giống Bộ luật TTHS Việt

Page 76: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

72

Nam như những tình tiết cần phải xác định rõ trong vụ án người CTN, tạm giữ, tạm

giam người CTN (nhưng không thấy quy định về việc bắt người CTN); giao người

CTN để giám sát (nhưng Bộ luật TTHS Liên Bang Nga lại có quy định về trường

hợp vi phạm nghĩa vụ thì cha mẹ, người đỡ đầu bị cảnh cáo hoặc bị phạt tiền, Bộ

luật TTHS Việt Nam không quy định trách nhiệm của cha mẹ khi vi phạm nghĩa vụ

giám sát); việc tham gia phiên tòa phải có đại diện hợp pháp của người CTN…

Ngoài ra Điều 396 quy định có sự khác biệt đó là tách riêng vụ án người CTN từ khi

điều tra sơ bộ trong vụ án người CTN phạm tội cùng người đã thành niên.

Tại Điều 426, 428 Bộ luật TTHS Liên Bang Nga đã được sửa đổi ngày 12-

02-2009 có quy định: Khi trẻ em, người CTN bị khởi tố về một tội phạm nào đó, thì

bắt buộc phải có người đại diện hợp pháp. Người đại diện hợp pháp đó có các

quyền đầy đủ khi tham gia tố tụng. Nếu có cơ sở của Tòa án cho rằng người đại

diện đó mang lại tổn thất cho quyền lợi của người CTN phạm tội, có thể cử người

đại diện khác (theo cơ sở xác nhận của Tòa án). Người đại diện hợp pháp của người

CTN phạm tội được tham gia quá trình tố tụng với tư cách là NBC hoặc chịu trách

nhiệm dân sự theo Điều 53, 54 của Bộ luật.

Để có cơ sở thực hiện chức năng gỡ tội và tham gia tranh tụng giữa các bên

trong hoạt động TTHS, Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên Bang Nga (Đuma Cộng hòa

Liên Bang Nga thông qua ngày 22-11-2001) có các quy định nhằm bảo đảm quyền

tố tụng của bên bào chữa như: quyền được biết những cáo buộc; quyền được biết

những hoạt động tố tụng có liên quan đang diễn ra; quyền được đưa ra yêu cầu;

quyền được bào chữa và quyền được khiếu nại đối với các quyết định tố tụng.

Được gặp gỡ riêng và bí mật với NBC trước khi lấy lời khai của họ, kể cả

trước lần hỏi cung đầu tiên, không bị hạn chế về số lần và thời gian. Người bị tình

nghi, bị can, bị cáo là người CTN có quyền mời luật sư trong bất kỳ thời điểm tố

tụng nào theo yêu cầu của họ, nhân viên điều tra ban đầu, dự thẩm viên, kiểm sát

viên, Tòa án bảo đảm sự tham gia của NBC. NBC có quyền sử dụng những phương

Page 77: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

73

pháp và biện pháp bào chữa khác không bị Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên Bang Nga

cấm để thực hiện QBC cho thân chủ của mình.

Với những quy định trên, trong Bộ luật TTHS Cộng hòa Liên Bang Nga,

QCN được thực sự coi trọng ở chỗ vào thời điểm xuất hiện bên buộc tội với chức

năng buộc tội một ai đó thì pháp luật cũng dành cho người bị buộc tội những quyền

để thực hiện chức năng gỡ tội từ bản thân, từ người đại diện của người bị buộc tội là

người CTN và NBC của họ. Bên buộc tội và bên bào chữa có địa vị tố tụng là ngang

bằng nhau và các phương tiện mà pháp luật dành cho hai bên trong việc bảo đảm

thực hiện chức năng của mình là như nhau. Mặc dù bên bào chữa có nhiều chủ thể

khác nhau (người bị tình nghi, bị can, NBC, người đại diện cho người bị tình nghi,

bị can là người CTN) nhưng pháp luật tố tụng đều dành cho họ những quyền nhất

định trong việc thực hiện chức năng gỡ tội và với nguyên tắc suy đoán vô tội “Bị

can được coi là không có tội, chừng nào tội của họ không được chứng minh theo

đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và không bị Tòa án tuyên phạt bằng

bản án đã có hiệu lực pháp luật” [88].

1.3.4. Trong tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

- Vấn đề tuổi chịu TNHS: theo pháp luật Trung Hoa thì độ tuổi chịu TNHS

từ 14 tuổi trở lên. Pháp luật Trung Hoa cũng đề cập đến vấn đề người CTN nhưng

đề cập rất ít và không quy định thành một chương riêng như của Việt Nam và một

số nước trên thế giới. Về chế định hình phạt đối với người CTN, pháp luật hình sự

của Trung Hoa cũng có quy định giống như pháp luật hình sự Việt Nam là “không

được áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên dưới 18 tuổi”.

- QBC của bị can là người CTN trong giai đoạn điều tra: theo luật TTHS và

Luật về Luật sư của Trung Hoa, người bị buộc tội (kể cả người CTN phạm tội)

được thực hiện QBC ngay sau khi hoạt động điều tra đầu tiên của cảnh sát đối với

nghi phạm hoặc khi có biện pháp buộc tội với nghi phạm. Theo đề nghị, luật sư có

thể tiến hành tư vấn pháp lý cho nghi phạm hoặc người đại diện cho thân chủ trong

Page 78: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

74

việc kiện hoặc bác tội. Trong trường hợp nghi phạm bị giam giữ, luật sư có thể thay

mặt nghi phạm nộp đơn xin bảo lãnh thả nghi phạm cho đến khi xét xử. Khi vụ việc

đang trong quá trình điều tra, theo đề nghị của nghi phạm, luật sư có thể là NBC

cho nghi phạm, tham gia quá trình điều tra cho đến khi xét xử vụ án. Khi tham gia

tố tụng, luật sư có quyền thu thập và thẩm định các tài liệu liên quan, gặp gỡ hay

giữ liên lạc với nghi phạm hoặc bị cáo đang bị giam giữ [47, tr. 618]. Pháp luật

TTHS của Trung Hoa quy định khi tiến hành bắt giam nghi can là người CTN phải

báo cho người đại diện của nghi can biết cũng như với mục đích đảm bảo QBC của

người bị buộc tội là người CTN cũng như bảo đảm sự tham gia vào quá trình tố

tụng của NBC Bộ luật TTHS Trung Hoa đề ra các quy định buộc các cơ quan

THTT phải thực hiện như: “…trong các vụ án có người chưa thành niên phạm tội,

có thể báo cho nghi can và người đại diện của bị cáo có mặt vào thời điểm thẩm

vấn và xét xử” (Điều 14 Bộ luật TTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa). Như

vậy, ngay từ giai đoạn điều tra, khi tiến hành thẩm vấn và cho đến khi bị cáo là

người CTN được đưa ra xét xử đều cần phải có người đại diện của họ tham gia.

Nhưng trong luật TTHS Trung Hoa không thấy đề cập đến vấn đề bắt buộc phải có

NBC cho bị can là người CTN trong quá trình điều tra. Pháp luật TTHS của Trung

Hoa sử dụng thuật ngữ “người đại diện pháp lý” chứ không sử dụng thuật ngữ

“người đại diện hợp pháp” như pháp luật TTHS Việt Nam và một số nước khác trên

thế giới. Theo Bộ luật TTHS Trung Hoa thì: “Người đại diện pháp lý là bố mẹ đẻ,

bố mẹ nuôi, người giám hộ của người được đại diện và đại diện cơ quan nhà nước

hoặc tổ chức có trách nhiệm bảo vệ”.

- QBC của bị cáo là người CTN trong hoạt động xét xử: thứ nhất, “…nếu bị

cáo là người mù, câm hoặc điếc hoặc là người chưa thành niên và do đó không chỉ

định bất kỳ ai làm người bào chữa thì Tòa án nhân dân phải chỉ định một luật sư có

nghĩa vụ trợ giúp pháp lý làm người bào chữa cho họ” (Điều 34 Bộ luật TTHS

nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa). Điều luật này có nhiều nét tương đồng với

Điều 57 Bộ luật TTHS 2003 của Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo và quan

Page 79: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

75

tâm đến trẻ em là người CTN phạm tội và trường hợp người có nhược điểm về tâm

thần hoặc thể chất. Nhưng có điểm khác biệt về quyền lựa chọn và thay đổi NBC

khi nghiên cứu pháp luật TTHS Trung Hoa so với pháp luật TTHS Việt Nam về

quyền này. Tại Điều 39 Bộ luật TTHS Trung Hoa quy định: “Trong quá trình xét

xử, bị cáo có thể từ chối NBC tiếp tục bào chữa cho mình và có thể chỉ định người

bào chữa khác”. Nghĩa là, việc lựa chọn, thay đổi NBC được thực hiện trước khi xét

xử cho đến khi trong quá trình xét xử, bị cáo có quyền thực hiện quyền này, khác

với quy định của luật TTHS Việt Nam là chỉ được lựa chọn, thay đổi trước khi xét

xử bị cáo. Có thể nói bị cáo có thể sử dụng QBC của mình tương đối rộng hơn. Thứ

nhì, hầu như tất cả các vụ án xét xử người CTN phạm tội đều không được đưa ra xét

xử công khai. Điều 152 Bộ luật TTHS Trung Hoa quy định: “Tòa án nhân dân xét

xử sơ thẩm công khai. Tuy nhiên, không được xét xử công khai những vụ án liên

quan đến bí mật quốc gia hoặc bí mật đời tư. Không xử công khai các vụ án do

người vị thành niên phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Nhìn chung, cũng

không xử công khai các vụ án do người vị thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến

dưới 18 tuổi. Phải tuyên bố trước Tòa án lý do không xử các vụ án công khai”.

Về QBC, cũng như các nước trên thế giới, pháp luật TTHS Trung Hoa quy

định về QBC như sau: “Ngoài quyền tự bào chữa, bị can, bị cáo có thể chọn một

hoặc hai người làm người bào chữa. Những người sau đây có thể được chọn là

người bào chữa: luật sư, người do tổ chức hoặc đơn vị công tác của bị cáo đề nghị,

người giám hộ hoặc họ hàng và bạn bè của bị can, bị cáo. Người đang chấp hành

hình phạt hoặc người mà quyền tự do cá nhân bị tước đoạt hoặc hạn chế theo luật

không được làm người bào chữa” (Điều 32 Bộ luật TTHS Trung Hoa). Về NBC,

pháp luật TTHS Trung Hoa đưa ra một khái niệm rộng hơn khái niệm NBC của

pháp luật TTHS Việt Nam, họ có thể là luật sư, người do tổ chức hoặc đơn vị công

tác của chính bị cáo đề nghị, người giám hộ hoặc họ hàng, bạn bè của bị

cáo…Trong khi đó, NBC trong TTHS của Việt Nam là luật sư, BCVND, người đại

diện hợp pháp của bị can, bị cáo.

Page 80: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

76

Tóm lại, trên thế giới, mỗi nước đều có một hệ thống pháp luật mang tính

chất đặc trưng riêng của nước mình. Sở dĩ có sự khác nhau trong quy định của pháp

luật mỗi nước là tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị cũng như phong tục, tập

quán, truyền thống văn hóa, lịch sử, tình hình tội phạm… và sự phát triển tư duy lập

pháp TTHS của mỗi nước là khác nhau. Sự phát triển tư duy lập pháp này tùy thuộc

vào các yếu tố khác nhau ở mỗi quốc gia như chính sách hình sự của nhà nước, sự

phát triển của khoa học pháp lý, tình trạng tội phạm người CTN, sự phát triển và

chuyên môn hóa trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan THTT. Quá trình phát

triển tư duy lập pháp này trên thế giới trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và đã trở

thành xu hướng chung ngày càng mang tính nhân văn, hình thành những chuẩn mực

chung về thái độ của nhà nước đối với nhóm chủ thể đặc biệt này – người CTN

phạm tội và được thể hiện trong các văn kiện pháp luật quốc tế. Điểm chung nhất

của chính sách hình sự trong TTHS đối với người CTN là bị can, bị cáo là những

quy định nhằm bảo đảm một cách tốt nhất QBC cho đối tượng này, hạn chế một

cách tối đa việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế một cách thấp nhất

những tác động không thể tránh khỏi về tâm lý đối với bị can, bị cáo là người CTN

do hoạt động TTHS gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc làm rõ

những nguyên nhân, điều kiện phạm tội của họ để Tòa án có thể đưa ra một quyết

định có hiệu quả nhất đến tâm lý của các chủ thể đặc biệt này nhằm giúp họ trở

thành những công dân có ích cho xã hội.

Page 81: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

77

KẾT LUẬN CHƯƠNG I

Các quốc gia trên thế giới đều thống nhất rằng mọi người đều phải được đối

xử bình đẳng và chung sống với nhau trong hòa bình và tự do. Điều này là dựa trên

niềm tin rằng tất cả mọi người đều có các “quyền” bình đẳng như nhau và ai cũng

phải thừa nhận và tôn trọng quyền của người khác. Tất cả trẻ em cũng đều có các

quyền như vậy và những quyền này đều được thừa nhận trong Công ước của Liên

hợp quốc về Quyền trẻ em. Những quyền này nhằm để đảm bảo rằng trẻ em được

hưởng những gì mà các em cần để lớn lên, phát triển và học tập trong hòa bình, sức

khỏe và trở thành người có ích cho xã hội. Tất cả các quyền này đều rất quan trọng

và cần phải được tôn trọng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Một trong những quyền

quan trọng mà các em dễ bị xâm phạm nhất đó là quyền được bảo vệ khỏi những

khó khăn trong suốt quá trình tư pháp. Có nghĩa, các em có quyền được bảo vệ khỏi

mọi hình thức xâm phạm, ngược đãi từ thời điểm hành vi phạm pháp bị phát hiện

cho đến suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Bảo vệ trẻ em chính là bảo vệ sự phát triển trong tương lai của quốc gia.

Nhận thức được tầm quan trọng này, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt

Nam đã có nhiều hoạt động thiết thực nhằm thúc đẩy việc bảo vệ trẻ em và người

CTN. Công ước về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và

trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý

trước cũng như sau khi ra đời”. Việt Nam cũng đã xây dựng được một hệ thống

pháp luật khá đầy đủ tạo căn cứ pháp lý quan trọng cho các cơ quan bảo vệ pháp

luật để đảm bảo các quyền của trẻ em nói chung và người CTN trong các VAHS nói

riêng. Thủ tục được áp dụng đối với người CTN còn là việc thực hiện nghĩa vụ cam

kết của Việt Nam khi tham gia Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, buộc

Nhà nước Việt Nam phải tôn trọng những nguyên tắc, những quy định quốc tế chủ

yếu như: Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (20-2-1990), Quy tắc Bắc

Kinh (1985), Hướng dẫn Riyadh (1990) hay những nguyên tắc tối thiểu phổ biến

của Liên hợp quốc về bảo vệ người CTN bị tước quyền tự do… Bên cạnh đó, khi

nghiên cứu để xây dựng các quy định của pháp luật TTHS đối với người CTN, Việt

Page 82: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

78

Nam cũng phải tính đến có sự tương đồng với pháp luật quốc tế, pháp luật các nước

về vấn đề này. Trong chính sách hình sự đối với người CTN của mỗi quốc gia lại

phải tính đến sự phù hợp với mức độ phát triển về tâm sinh lý của lứa tuổi, sự phát

triển của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội cũng như truyền thống pháp lý của từng

dân tộc. Mặc dù về hình thức, pháp luật hình sự, TTHS của các nước và các văn bản

pháp luật hình sự quốc tế đều có những tiêu chí giống nhau để xác lập về TNHS, về

NBC, về việc bảo vệ quyền lợi của người CTN trong các giai đoạn của TTHS. Tuy

nhiên, khi quy định về những vấn đề này lại phải căn cứ vào rất nhiều yếu tố trong

đó có hệ thống pháp luật của nước đó thế nào.

Các quy định của pháp luật Việt Nam về thủ tục TTHS đối với người CTN

mặc dù chưa được đầy đủ nhưng cũng đã thể hiện rất rõ chính sách hình sự của Nhà

nước Việt Nam đối với người CTN. Có thể nói, toàn bộ hệ thống các nguyên tắc

TTHS, cũng như trình tự, thủ tục tố tụng là những bảo đảm buộc cơ quan THTT,

người THTT phải thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của

những người tham gia tố tụng. Biểu hiện rõ nét nhất của các quyền năng tố tụng của

những người tham gia tố tụng là nguyên tắc bảo đảm QBC – một quyền Hiến định,

và nhất là đối với các chủ thể là người CTN. Vì vậy, các giai đoạn TTHS được quy

định trong luật là bảo đảm để cơ quan THTT, người THTT phải thực hiện những

nghĩa vụ trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia

tố tụng, nhất là bị can, bị cáo là người CTN.

Việc ghi nhận và thực hiện bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN

thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm thực hiện có hiệu quả các QCN trong lĩnh vực tư

pháp – một lĩnh vực nhạy cảm được toàn xã hội quan tâm. Nhà nước ban hành pháp

luật TTHS là việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về TTHS, bảo đảm

mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; là tạo cơ sở vững chắc

cho mọi người tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện các giá trị xã hội

được thừa nhận, bảo vệ, mà nổi bật trong các giá trị đó là QCN, quyền của bị can, bị

cáo. Pháp luật TTHS là công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước để bảo đảm thực

hiện quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo nói chung. Với những đặc điểm

riêng của mình, những quy định của pháp luật về bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là

Page 83: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

79

người CTN có tính bắt buộc bằng cách xác lập những điều cấm mà bất cứ ai, kể cả

người THTT cũng không được vi phạm, đồng thời, pháp luật được bảo đảm thi

hành bằng bộ máy nhà nước cùng với sức mạnh xã hội. Vì vậy, các quy định của

pháp luật về quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN được đảm bảo

bằng sự cưỡng chế của Nhà nước, chống mọi hành vi xâm hại. Như vậy, pháp luật

TTHS còn là thước đo việc bảo đảm thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của bị can,

bị cáo nói chung.

Qua công tác thực thi pháp luật TTHS, có thể rút ra những bài học bổ ích cho

việc bảo đảm ngày một tốt hơn QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS.

Cũng chính từ việc ghi nhận QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS, mà

pháp luật TTHS trở thành phương tiện để họ có điều kiện bảo vệ mình. Quyền và

lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS đã được pháp luật

TTHS ghi nhận và bảo đảm thực hiện, tất yếu phải được bảo vệ khỏi bất cứ hành vi

xâm hại nào. Do đó, pháp luật TTHS trước hết là cơ sở vững chắc để bị can, bị cáo

là người CTN bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, pháp luật

không thể không ghi nhận trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan THTT, người THTT,

tổ chức và cá nhân trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo

là người CTN trong TTHS.

Đối với các cơ quan THTT, bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN

có ý nghĩa định hướng và chỉ đạo trong lĩnh vực TTHS hết sức khó khăn và nhạy

cảm. Đây là lĩnh vực mà QCN nói chung và quyền trẻ em nói riêng dễ bị xâm hại từ

phía các cơ quan THTT, người THTT. Vì vậy, việc nắm vững bản chất, ý nghĩa bảo

đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN sẽ giúp cho những người thực thi pháp

luật tránh được những sai sót, vi phạm QCN, vi phạm quyền trẻ em. Việc bảo đảm

QBC của bị can, bị cáo là người CTN còn cung cấp cơ sở pháp lý cho việc nhận

thức đúng đắn địa vị pháp lý của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS để cơ

quan THTT có thái độ khách quan, thận trọng trong việc nhận thức VAHS một cách

khoa học, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.

Page 84: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

80

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị

can, bị cáo là người chưa thành niên

2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị

can, bị cáo là người chưa thành niên trước khi pháp điển hóa luật tố tụng hình

sự (năm 1988)

Trong pháp luật TTHS Việt Nam, những bảo đảm pháp lý về QBC của người

CTN luôn gắn liền với những quy định pháp luật liên quan đến chế định về QBC

của bị can, bị cáo nói chung. Chính vì vậy, việc tìm hiểu những quy định của pháp

luật TTHS về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam không

thể tách rời quá trình hình thành và phát triển chế định về QBC nói chung. Trong

phần này, việc nghiên cứu được bắt đầu với thời điểm lịch sử của việc ra đời nước

Việt Nam dân chủ Cộng hòa vào năm 1946. Đây là thời điểm chấm dứt sự tồn tại

của chế độ quân chủ chuyên chế qua nhiều thế kỷ, đồng thời đánh dấu sự khởi đầu

của quá trình hình thành và phát triển của toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam

trong một thể chế mới.

2.1.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1975

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ

cộng hòa ra đời. Nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ đầu này là củng cố chính quyền cách

mạng nên không thể kịp thời ban hành các văn bản pháp luật để ổn định các quan hệ

xã hội, ổn định chính trị. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh

số 47/SL ngày 10/10/1945 cho phép áp dụng luật cũ không đi ngược lại với nguyên

tắc độc lập và chế độ chính trị của nhà nước mới. Song trong lĩnh vực TTHS, luật

cũ không được áp dụng. Bởi nó là phương tiện để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của giai

cấp phong kiến, sự bất bình đẳng trong xã hội.

Page 85: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

81

Ngày 19-8-1945, lực lượng Công an nhân dân được thành lập thì đến ngày

13-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33B/SL quy định thể lệ bắt

người để đưa đi an trí. Trong đó có quy định về điều kiện và thủ tục bắt. Sau đó,

Nhà nước ta ban hành một loạt các sắc lệnh quy định: tổ chức các đoàn thể luật sư.

Trong đó, nổi rõ một số chính sách sau: quy định các luật sư có quyền làm nhiệm vụ

bào chữa tại tất cả các tòa án tỉnh trở lên và trước các tòa án quân sự (số 46/SL ngày

10-10-1945); quy định thành lập Đoàn thể luật sư và các luật sư có quyền biện hộ

trước tất cả tòa án trừ tòa án sơ thẩm (số 13/SL ngày 10-10-1945), thể hiện một nền

dân chủ trong xã hội mới. Tuy nhiên, QBC của bị can, bị cáo lúc này chưa được coi

trọng, bởi nó chỉ được đề cập để thông qua quyền biện hộ của luật sư. Đó chính là

điểm yếu về mặt lập pháp của nhà nước ta trong những năm đầu thành lập nước.

Khắc phục thiếu sót này, Điều 5 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14-2-1946 về Tổ chức Tòa

án quân sự đã quy định rõ ràng hơn và mở rộng hơn hình thức thực hiện QBC: “Bị

cáo có quyền tự bênh vực hay nhờ luật sư hoặc nhờ người khác bênh vực cho”.

Song song với việc ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh những

quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực, Nhà nước đã quan tâm xúc tiến những công

việc cần thiết chuẩn bị cho việc dự thảo và ban hành Hiến pháp. Ngày 9-11-1946,

tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khóa 1, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam

Dân chủ cộng hòa đã được thông qua đề cập đến nhiều nguyên tắc, trong đó có

nguyên tắc “người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (khoản 2

Điều 67 Hiến pháp năm 1946). Như vậy, QBC có hai nội dung: a) bị cáo được

quyền tự bào chữa lấy; b) mượn luật sư bào chữa cho.

Như vậy, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vấn đề bảo đảm QBC

cho bị cáo được quy định là một nguyên tắc Hiến pháp - quy định đầu tiên đặt nền

tảng cho sự phát triển và hoàn thiện chế định QBC trong TTHS Việt Nam sau này.

Cụ thể hóa hai nội dung trên, ngày 18-6-1949, Sắc lệnh số 69/SL quy định về chế

định BCVND: “Từ nay đến khi nào có thể lệ khác, trước các tòa án thường và tòa

án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình, trừ tòa án binh tại mặt trận, bị can có thể

Page 86: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

82

nhờ một công dân không phải là luật sư, bào chữa cho. Công dân do bị can đã chọn

để bênh vực mình phải được ông Chánh án thừa nhận. Nếu bị can không có ai bênh

vực, ông Chánh án có thể, tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can, cử một người ra

bào chữa cho bị can” [34, tr. 182]. Điểm đặc biệt của chế định này là: a) bị can có

quyền nhờ NBC trước Tòa án; b) NBC cho bị can có thể không nhất thiết là luật sư;

c) NBC này không được nhận tiền thù lao của bị can hay thân nhân bị can. Chủ tịch

Hồ Chí Minh luôn coi QBC là một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền

tự do dân chủ của người công dân và như Đại hội luật gia dân chủ quốc tế nhóm

họp năm 1956 đã từng nhận định: Quyền tự do bào chữa là “thành trì cần thiết cho

các quyền tự do khác” [86, tr. 328]. Xâm phạm đến quyền tự do bào chữa thì không

thể nào thực hiện được các quyền tự do dân chủ khác, mặc nhiên thủ tiêu quyền tự

do đó. Tuy nhiên, sau khi giành chính quyền, đất nước bước vào cuộc kháng chiến

trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp, mặc dù đã duy trì trên pháp lý tổ chức luật

sư, nhưng thực tế hoạt động gặp rất nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến tình trạng

bị can chưa được sử dụng đầy đủ quyền chọn NBC của mình, chưa có một danh

sách những người bào chữa mà mình có thể lựa chọn. Hơn nữa, việc tổ chức phiên

tòa và xét xử trong điều kiện thời chiến là cực kỳ khó khăn, “có khi phải xử án ngay

trong lòng địch bằng những hình thức phiên tòa lưu động, lanh lẹ, những thủ tục

đơn giản thích hợp” [46, tr. 214]. Bối cảnh thực tế đó là nguyên nhân khách quan

dẫn đến việc Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định biện pháp tình thế là cho phép

những người không phải là luật sư, nhưng do bị can lựa chọn hoặc Chánh án chỉ

định QBC trước Tòa án.

Năm 1956, khi cả nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước, thì ngày 20-6-1956 một văn bản quan trọng đã được thông qua tại Hội nghị

Tư pháp toàn quốc. Đó là “Đề án về quyền bào chữa của bị cáo”. Đặc biệt trong đề

án đã ghi nhận các quyền cụ thể của NBC khi tham gia tố tụng: NBC có thể bắt đầu

công tác từ khi mở cuộc thẩm cứu; được có mặt cùng với bị cáo trong cuộc hỏi

cung; được yêu cầu điều tra thêm nếu chứng cứ không đầy đủ, không rõ ràng; sau

Page 87: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

83

khi công bố việc luận tội, NBC được trình bày lời bào chữa của mình, đề ra những

điểm không đồng ý với công tố viên và biện bác, xuất phát từ quan điểm bảo vệ

pháp luật, chính sách và quyền lợi của bị can; được chống án thay cho bị can nếu bị

can yêu cầu hoặc được sự đồng ý của bị can; có quyền tiếp tục bênh vực cho bị can

tọa Tòa án cấp trên…So với các văn bản trước đây, Đề án về quyền bào chữa của bị

cáo đã quy định tương đối cụ thể quyền của NBC khi tham gia tố tụng nhằm bảo

đảm cho bị cáo thực hiện QBC của mình một cách hiệu quả.

Vào thời điểm này, các thủ tục tố tụng dành cho bị can, bị cáo là người CTN

chưa được quy định trong các văn bản pháp luật thời kỳ này [1, chương VI]. Hoạt

động tố tụng trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN nhìn chung vẫn

phải tuân thủ đầy đủ các quy định về thủ tục dành cho bị can, bị cáo là người thành

niên. Các quy định của pháp luật trong thời kỳ này tập trung vào việc xây dựng các

nguyên tắc cơ bản của luật TTHS như nguyên tắc xét xử có phụ thẩm nhân dân

tham gia, nguyên tắc xét xử công khai, hay các quy định về tổ chức của Tòa án mà

không quy định về các thủ tục đặc biệt đối với người CTN. Tuy nhiên, trong một số

văn bản đã thể hiện được việc bảo vệ các QCN người trong TTHS, trong đó có bị

can, bị cáo là người CTN. Mặc dù quy định này còn rất giản đơn nhưng cũng đã thể

hiện được một số quyền của bị can, bị cáo khi tham gia tố tụng. Ví dụ: “người bị

cáo được quyền bảo chữa lấy hoặc mướn luật sư” (Điều 67), “cấm không được tra

tấn, đánh đập, ngược đãi bị cáo và tội nhân” (Điều 68). Một số quy định khá tiến

bộ như: “Nếu có thể được, những phạm nhân thành án nên phân loại như sau và

giam riêng: phạm nhân dưới 18 tuổi…” (Điều 9) [24]. Mặc dù QBC của công dân

đã trở thành nguyên tắc Hiến định và tổ chức luật sư, BCVND đã được duy trì và

hoạt động, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy trong điều kiện chiến tranh,

quyền này không được coi trọng cả về quan điểm lẫn thực tế từ phía các cơ quan tư

pháp, trong đó nổi lên là việc “chưa nhận thấy một cách sâu sắc tầm quan trọng

của quyền tự do bào chữa trong chế độ dân chủ nhân dân của ta nói chung và trong

nền tư pháp dân chủ nhân dân của ta nói riêng”. Là người hết sức quan tâm trong

Page 88: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

84

công tác tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo Bộ Tư pháp lúc bấy giờ tự kiểm

điểm lại việc thực hiện QBC của bị can trong công tác điều tra và xét xử về hình sự.

Người nói: “Công việc tư pháp cũng như mọi công việc khác càng làm ta càng tiến

bộ, nhưng càng tiến bộ ta càng thấy rõ những sự trở ngại và những khuyết điểm nó

còn sót lại. Và ta phải càng cố gắng để giải quyết hoặc khắc phục những trở ngại

và khuyết điểm ấy”. Theo kiểm điểm của Bộ Tư pháp vào thời điểm năm 1956,

những biểu hiện của việc không coi trọng QBC của bị can thể hiện ở chỗ trong điều

tra thường có hiện tượng mớm cung, bức cung, trấn áp không để bị can được tự do

khai nại, “đến nỗi nhân chứng khai có lợi cho bị can cũng bị trấn áp như bị can”, bị

can ra trước Tòa không biết rõ nội dung buộc tội mình như thế nào để chuẩn bị việc

bào chữa và sau khi tuyên án cũng có Tòa án không báo cho bị can biết họ có quyền

kháng cáo; đoàn thể luật sư chưa được chú ý giúp đỡ trong khi chế độ BCVND

chưa được xây dựng đến nơi đến chốn…

Hơn nữa, chế định bào chữa là một chế định trọng yếu trong tố tụng, giúp

cho công tác xét xử tiến hành được toàn diện và khách quan, xét xử được chính xác,

bênh vực được quyền lợi hợp pháp cho bị can và bảo vệ pháp chế. Từ nhận thức đó,

Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 2225/HCTP ngày 24-10-1956 khẳng định

“nếu bị can không được sử dụng đầy đủ quyền bào chữa thì không gọi là công lý”

và xác lập nguyên tắc tranh tụng bình đẳng giữa công tố viên và NBC trong việc

làm sáng tỏ sự việc, mới bảo đảm nguyên tắc tố tụng quan trọng là “trước khi tuyên

án bị can phải được coi như người vô tội”.

Hiến pháp 1959 ra đời, QBC của bị cáo một lần nữa được ghi nhận tại Điều

101 với nội dung: “Quyền bào chữa của người bị cáo được đảm bảo”. Như vậy, nếu

Hiến pháp 1946 chỉ dừng lại ở việc quy định QBC cho bị cáo thì Hiến pháp 1959 đã

tiến bộ hơn – khẳng định cả cơ chế bảo đảm QBC của bị cáo. Bên cạnh đó, Hiến

pháp 1959 được ban hành không những kế thừa các quy định của Hiến pháp 1946

trong thái độ đối với vấn đề bảo vệ quyền trẻ em mà đã phát triển, nâng cao, bổ

sung bằng những nội dung, phương diện mới. Những quy định trong Hiến pháp

Page 89: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

85

1959, về cơ bản đã đảm bảo cho bị can, bị cáo nói chung được xét xử một cách

công bằng, khách quan theo quy định của pháp luật, đặt nền móng cho sự hình

thành và phát triển các chế định về thủ tục đặc biệt mà bị can, bị cáo là người CTN

ở các giai đoạn sau này.

Sau khi Hiến pháp 1959 ra đời, trong một số văn kiện của Đảng và Nhà nước

Việt Nam đã thể hiện sự quan tâm, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi

đồng. Chỉ thị 197-CT/TƯ năm 1960 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chỉ rõ:

quan tâm đến thiếu niên, nhi đồng tức là quan tâm đến tiền đồ của sự nghiệp cách

mạng, đến tương lai của tổ quốc. Trước tình trạng người CTN phạm tội đã đặt ra

yêu cầu cần có những quy định thủ tục tố tụng đối với vụ án mà bị can, bị cáo là

người CTN. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật thời kỳ này vẫn chưa thể hiện được rõ

nét các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN thể hiện thông

qua các quy định của pháp luật TTHS. Luật tổ chức TAND và Luật tổ chức

VKSND (1960) đã đánh dấu một bước phát triển mới trong hoạt động, tổ chức tư

pháp của Việt Nam. QBC của bị can, bị cáo cũng đã được quy định tại Điều 7 Luật

tổ chức TAND: QBC của bị cáo được bảo đảm. Ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có

thể nhờ luật sư bào chữa cho mình. Bị cáo cũng có thể nhờ người công dân được

đoàn thể nhân dân giới thiệu hoặc được TAND chấp nhận bào chữa cho mình. Khi

cần thiết, TAND chỉ định NBC cho bị cáo. Tuy nhiên, thế nào là trường hợp “cần

thiết” lại không được quy định cụ thể, do đó, việc áp dụng quy định này trở nên khó

khăn. Để xác định rõ hơn tư cách và quyền của bị cáo, Thông tư số 06-TC ngày 9-9-

1967 của TAND tối cao đã hướng dẫn những trường hợp “Tòa án cần chỉ định

người bào chữa cho bị cáo trong những vụ án có ảnh hưởng chính trị lớn, những vụ

án mà bị cáo là người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần mà không thể tự

bào chữa được và những vụ án mà bị cáo có thể bị xử phạt tù chung thân hoặc tử

hình”. Việc chỉ định NBC cho bị cáo được bổ sung theo bản hướng dẫn về trình tự

xét xử sơ thẩm về hình sự (kèm theo Thông tư số 16 Tòa án tối cao ngày 27-9-1974

của TAND tối cao) là: bị cáo là vị thành niên, là người có nhược điểm về thể chất

Page 90: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

86

hoặc tinh thần mà phạm pháp nghiêm trọng. Nếu bị cáo là vị thành niên…thì NBC

có quyền chủ động kháng tố để bảo vệ những quyền lợi của bị cáo mà không cần

phải được sự đồng ý của họ. Điều này lại càng khẳng định ngay trong các văn bản

pháp luật TTHS thời kỳ đó đã đặc biệt quan tâm đến việc bảo đảm QBC, quyền

kháng cáo của bị can, bị cáo là người CTN.

Về việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội, theo đánh

giá Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965-1968) của TAND tối cao cho thấy: Tòa

án chưa chú ý triệu tập những người có trách nhiệm trong việc quản lý, giáo dục bị

cáo ra trước Tòa để tìm hiểu về môi trường sinh sống, hoàn cảnh giáo dục và hoàn

cảnh phạm pháp của bị cáo để có thêm tài liệu để cân nhắc, lượng hình, đồng thời

trực tiếp vạch rõ phần trách nhiệm của họ trong việc phạm pháp của con em họ. Để

giải quyết những thiếu sót này, Thông tư số 16 ngày 27-9-1974 của TAND tối cao

đã có hướng dẫn: “Nếu bị cáo là người chưa thành niên, Tòa án có thể yêu cầu cha

mẹ, người giám hộ hoặc giáo viên giúp đỡ đặt câu hỏi cho bị cáo nhưng cũng có thể

yêu cầu những người này tạm rời phòng xử án nếu sự có mặt của họ làm cho bị cáo

không dám khai. Sau khi bị cáo đã khai, chủ tọa phiên tòa phải nhắc lại lời khai đó

cho người đã tạm rời phòng xử án biết”. Một điểm rất tiến bộ trong đường lối giải

quyết những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN thời kỳ này là mặc dù đất nước

còn đang chiến tranh, đội ngũ cán bộ pháp lý không đầy đủ, pháp luật hiện hành còn

thiếu và kinh nghiệm công tác còn ít, số vụ án do người CTN thực hiện không

nhiều, nhưng TAND tối cao cũng đã khẳng định đây là “một công tác rất quan

trọng mà Tòa án cần phải cố gắng làm tốt hơn nữa”. Và “để làm tốt công tác này, ở

các Tòa án địa phương có điều kiện, nên bước đầu mạnh dạn chuyên trách hóa cán

bộ theo dõi loại việc này. Nói chuyên trách ở đây, không có nghĩa là có cán bộ chỉ

chuyên theo dõi riêng loại việc này, mà vẫn có thể kiêm nhiệm các phần việc khác”

[56]. Để giải thích thêm như thế nào là cán bộ chuyên trách, TAND tối cao cũng

nhấn mạnh, đối với “người cán bộ xét xử phải có sự hiểu biết cần thiết về tâm lý trẻ

em, phải có đức tính nhẫn nại, kiên trì, mến trẻ, phải có sự liên hệ thường xuyên với

Page 91: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

87

các đoàn thể thanh niên, với Ủy ban thiếu niên nhi đồng hoặc với các ngành có

trách nhiệm khác” [56].

2.1.1.2. Thời kỳ từ năm 1975 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự

1988

Sau khi thống nhất đất nước, thể chế chính trị và tổ chức hành chính giữa hai

miền Nam, Bắc vẫn chưa được thống nhất. Ngày 11-6-1976 Bộ Tư pháp của Chính

phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã có Thông tư số 06 về

việc thực hiện chế độ bào chữa ở miền Nam. Về thủ tục TTHS đối với người CTN

vẫn chưa có những quy định cụ thể, nhưng nhìn chung pháp luật TTHS thời kỳ này

đã có nhiều tiến bộ, đảm bảo được các quyền và lợi ích của bị can, bị cáo là người

CTN song vẫn còn có một số hạn chế như: “chưa có chế độ xóa án tích hoặc chế độ

giảm án đặc biệt cho người chưa thành niên, chưa có tổ chức có tính chất xã hội để

xử lý các trường hợp phạm tội không nghiêm trọng, chưa có pháp luật quy định

trách nhiệm của gia đình…” [57]. Tuy nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh kinh tế,

chính trị, xã hội lúc bấy giờ thì có được những quy định như trên là một điều đáng

trân trọng và tự hào. Tất cả những quy định trên đều xuất phát từ đường lối xử lý

người CTN phạm tội: “Lấy biện pháp giáo dục và phòng ngừa là chủ yếu; trong

trường hợp cần thiết phải xử lý về hình sự thì kết hợp chặt chẽ các biện pháp giáo

dục và trừng trị” [57]. Hiến pháp 1980 ra đời, tiếp tục khẳng định QBC của bị cáo

tại Điều 133: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, tổ chức luật sư được

thành lập để giúp bị cáo và các đương sự về mặt pháp lý”. Ngày 03-7-1981, Quốc

hội thông qua Luật Tổ chức TAND được sửa đổi, bổ sung theo Luật Tổ chức

TAND năm 1960 và ngày 04-7/1981 Quốc hội thông qua Luật Tổ chức VKSND

được sửa đổi, bổ sung theo Luật Tổ chức VKSND năm 1960 cũng đánh dấu một

bước tiến mới trong việc xây dựng, tổ chức và sắp xếp lại hệ thống của các cơ quan

Tòa án và Viện kiểm sát. Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam ra đời. Cũng từ đây, những vấn đề về người CTN phạm tội được quy định

cụ thể trong Chương VII gồm 11 điều (từ Điều 57 đến Điều 67). Nội dung cơ bản

Page 92: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

88

của những quy định này thể hiện đường lối xử lý người CTN phạm tội của Đảng và

Nhà nước Việt Nam chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm khuyết

điểm để trở thành công dân có ích cho xã hội. Vì thế chỉ đưa người CTN phạm tội

ra xét xử và áp dụng hình phạt đối với họ trong trường hợp thật cần thiết, căn cứ

vào tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân

và yêu cầu của công việc phòng ngừa ( khoản 3 Điều 5 BLHS 1985).

Cùng với sự phát triển của xã hội trên nhiều lĩnh vực khác nhau, một bước

phát triển quan trọng của việc hoàn thiện chế định QBC trong TTHS, đáp ứng các

quyền cơ bản của công dân, với tất cả sự nỗ lực, cố gắng của các nhà làm luật, ngày

28-6-1988, Bộ luật TTHS đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được Quốc

hội thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 01-01-1989. Bộ luật TTHS đầu tiên

quy định về trình tự, thủ tục giải quyết VAHS.

Điều 12 với tên gọi “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo” quy định

“bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát và Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện

quyền bào chữa của họ”. Bộ luật TTHS 1988 xác định không chỉ có bị cáo mà bị

can cũng có QBC; Bộ luật cũng đã phân biệt rõ khái niệm bị can, bị cáo, theo đó:

“bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định

đưa ra xét xử” (khoản 1 Điều 34 Bộ luật TTHS 1988). Đồng thời, tại khoản 2 Điều

34, nhà làm luật khẳng định lại một lần nữa: “bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa

hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm QBC

trong Bộ luật TTHS 1988 đã thể hiện rõ ba nội dung: a) bị can, bị cáo có quyền tự

bào chữa; b) bị can, bị cáo có quyền nhờ người khác bào chữa; c) CQĐT, Viện

kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện QBC của họ.

Riêng thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN, Bộ luật TTHS đã

quy định một chương riêng – Chương XXXI “Thủ tục đặc biệt” từ Điều 271 đến

Điều 280. Đây là sự kế thừa và phát triển pháp luật TTHS nước Việt Nam từ Cách

Page 93: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

89

mạng tháng Tám đến nay nhằm bảo đảm chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét

xử và thi hành án đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN.

Khái quát quá trình phát triển những quy định của pháp luật TTHS về QBC

của bị can, bị cáo là người CTN trong giai đoạn này, chúng tôi có thể đưa ra một số

kết luận như sau:

-Thứ nhất, về ưu điểm, thời kỳ này Nhà nước Việt Nam đã ban hành những

văn bản pháp luật TTHS quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người tham gia

tố tụng, người THTT, các trình tự, thủ tục để điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án

hình sự. Trên cơ sở đó, trong các văn bản này cũng đã chú ý tới một số đối tượng

đặc biệt khi họ tham gia tố tụng, trong đó có bị can, bị cáo là người CTN. Khi tiến

hành tố tụng trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN, các cơ quan THTT

bắt buộc phải xác định về độ tuổi, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, điều kiện sinh

sống và giáo dục của họ; phải chú ý đến sự tham gia của NBC, người đại diện hợp

pháp của người CTN. Các quy định này đã thể hiện rõ hơn việc bảo vệ các quyền và

lợi ích hợp pháp của người CTN khi tham gia tố tụng, thể hiện quan điểm và chính

sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với loại đối tượng này.

-Thứ nhì, mặc dù có nhiều văn bản pháp luật TTHS được ban hành nhưng

các quy định này vẫn bộc lộ nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, nội dung các quy định

này vẫn còn những điểm chưa chặt chẽ dẫn đến những khó khăn nhất định cho các

cơ quan THTT. Các quy định của thủ tục vể những vụ án mà bị can, bị cáo là người

CTN chưa được tập hợp một cách có hệ thống, chưa được quy định một cách thống

nhất, chặt chẽ và rõ ràng.

Như vậy, giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước khi Bộ luật

TTHS 1988 có hiệu lực thi hành là giai đoạn lịch sử dài từ khi Nhà nước Việt Nam

Dân chủ cộng hòa non trẻ được thành lập, chống thù trong giặc ngoài, xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đấu

tranh giành độc lập và thống nhất đất nước. Cùng với quá trình đó, mặc dù có rất

Page 94: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

90

nhiều khó khăn nhưng nguyên tắc bảo đảm QBC trong TTHS vẫn được phát triển

theo hướng dân chủ và ngày càng hoàn thiện. QBC của bị can, bị cáo nói chung đã

được mở rộng, phát triển và được bảo đảm thể hiện tính nhân đạo và dân chủ trong

pháp luật TTHS nước ta, và đặc biệt là bảo đảm QBC cho bị cáo là người CTN

phạm tội thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước trong công tác bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp cho trẻ em. Tuy nhiên, những quy định về QBC trong thời

kỳ này không tránh khỏi những hạn chế nhất định như quy định QBC chỉ thuộc về

bị cáo và việc thực hiện QBC chỉ được thực hiện ở giai đoạn xét xử.

2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị

can, bị cáo là người chưa thành niên theo Bộ luật tố tụng hình sự 1988

Kế thừa và phát triển pháp luật TTHS nước ta từ Cách mạng tháng tám 1945

đến năm 1988, và để phù hợp với những đổi mới về mọi mặt của đời sống xã hội,

ngày 20-6-1988, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội thông qua Bộ luật TTHS đầu tiên của

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-

1989. Đây là một bước tiến lớn trong lịch sử lập pháp TTHS nói chung và chế định

bào chữa nói riêng ở nước ta, nó đánh dấu sự thay đổi về chất của nguyên tắc bảo

đảm QBC. Lần đầu tiên trong lịch sử TTHS Việt Nam có một bộ luật hoàn chỉnh

quy định về trình tự, thủ tục khởi tố điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự;

chức năng nhiệm vụ quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan THTT; quyền và

nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan nhà nước, các tổ chức

xã hội và công dân, nhằm phát hiện nhanh chóng, kịp thời mọi hành vi phạm tội.

Cũng trong Bộ luật TTHS này, lần đầu tiên đã có một chương riêng “Thủ tục đặc

biệt”, quy định thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN – Chương

XXXI. Chính từ việc quy định thành một chương riêng như vậy nên các thủ tục tố

tụng đối với bị can, bị cáo là người CTN cũng trở nên chặt chẽ hơn khi chưa có Bộ

luật TTHS. Với mười điều luật (từ Điều 271 đến Điều 280), Bộ luật TTHS đã quy

định về các vấn đề như phạm vi áp dụng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và

giám sát đối với người CTN, việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự,

Page 95: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

91

việc tham gia của đại diện gia đình, tổ chức xã hội và NBC trong những vụ án mà bị

can, bị cáo là người CTN. Về phạm vi áp dụng được quy định cụ thể tại Điều 271

như sau: “Thủ tục tố tụng đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa

thành niên được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy

định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này”. Điểm

nổi bật nhất trong Chương XXXI là quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN được

thể hiện rõ nét tại Điều 273 quy định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam: “… có thể bị

bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 62, 63, 64, 68 và 71

Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý

hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng…”. Như vậy, nếu bị can, bị cáo là người CTN

phạm tội ít nghiêm trọng sẽ không bị áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam

có thể gây ra cho các em những ảnh hưởng rất lớn về mặt tâm lý. Kế thừa các quy

định về NBC, đại diện gia đình, tổ chức xã hội trong Thông tư số 16 của TAND tối

cao, Bộ luật TTHS 1988 đã quy định một cách rõ ràng và chặt chẽ hơn. Đó là,

CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử NBC cho bị can, bị cáo,

nếu bị can, bị cáo không tự lựa chọn được. Đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo có

thể lựa chọn NBC hoặc tự mình bào chữa cho bị can, bị cáo. Đồng thời bị can, bị

cáo là người CTN và người đại diện hợp pháp của họ cũng có quyền yêu cầu thay

đổi hoặc từ chối NBC (Điều 37) đối với NBC do cơ quan THTT yêu cầu Đoàn luật

sư cử. Đại diện gia đình cũng phải có mặt khi CQĐT hỏi cung bị can và phải có mặt

tại phiên tòa xét xử (Điều 276). Việc tham gia của đại diện gia đình trong các giai

đoạn tố tụng sẽ giúp cho người CTN có tâm lý bình tĩnh, tự tin hơn, khai báo rõ

ràng, đồng thời bảo vệ quyền lợi về mặt pháp lý cho họ tránh khỏi sự lạm quyền, vi

phạm pháp luật trong quá trình THTT. Bên cạnh các quy định mang tính chất bảo

vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo là người CTN khi tham gia tố tụng, Bộ luật TTHS

còn quy định trách nhiệm đối với những người THTT: “Điều tra viên, kiểm sát viên,

thẩm phán tiến hành tố tụng về những vụ án người chưa thành niên phạm tội phải

là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, về khoa học giáo dục cũng như

về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa thành niên”

Page 96: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

92

(khoản 1 Điều 272) hay “thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân

dân là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh” (khoản 1

Điều 277). Trên thực tế, các cơ quan và người THTT đã biết chú ý hơn đến những

thủ tục đặc biệt khi giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện Tuy nhiên, sau

một thời gian thực hiện, một số quy định của Bộ luật TTHS đã có nhiều bất cập, hạn

chế, một số quy định trong Chương XXXI Thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo

là người chưa thành niên có điểm không phù hợp với các điểm chung của Bộ luật,

các thuật ngữ sử dụng chưa chính xác. Bên cạnh đó là sự tiếp tục khẳng định “QBC

của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa

cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp đỡ bị cáo…” (Điều 132 Hiến

pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992), và việc ra đời của BLHS sửa

đổi, bổ sung năm 1989, các nhà làm luật đã nhận thấy sự cần thiết phải có một Bộ

luật TTHS hoàn chỉnh hơn. Để kịp thời giải quyết những khó khăn tạm thời, Bộ luật

TTHS đã tạm thời sửa đổi, bổ sung một số điều sao cho phù hợp với các đòi hỏi nêu

trên. Chính vì vậy, Bộ luật TTHS 1988 đã qua ba lần sửa đổi, bổ sung vào các năm

1989, 1992 và năm 2000. Các lần sửa đổi, bổ sung này nhằm làm cho Bộ luật TTHS

phù hợp hơn với Hiến pháp 1992 và tiến trình phát triển của xã hội, tuy nhiên nội

dung nguyên tắc bảo đảm QBC tại Điều 12 Bộ luật vẫn không thay đổi.

Qua nghiên cứu sự phát triển các quy định của pháp luật TTHS về QBC của

bị can, bị cáo là người CTN trong giai đoạn Bộ luật TTHS 1988 có hiệu lực chúng

tôi nhận thấy có những điểm sau:

- Thứ nhất, các văn bản pháp luật quy định về thủ tục tố tụng đối với người

CTN thời kỳ này được ban hành đa dạng hơn, bổ sung cho những quy định còn

thiếu sót ở các giai đoạn trước đây, đặc biệt nhất là sự ban hành ra Bộ luật TTHS

1988. Quy định về những thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là người CTN được

quy định thành một chương riêng. Qua các lần sửa đổi, bổ sung các quy định này

dần trở nên hoàn thiện hơn về cả nội dung lẫn mặt kỹ thuật lập pháp. Chính từ điều

này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của NBC nói riêng và bảo đảm QBC

Page 97: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

93

của bị can, bị cáo nói chung, đồng thời tạo tiền đề cho việc tiếp tục phát triển và

từng bước hoàn thiện chế định về QBC của bị can, bị cáo là người CTN.

- Thứ nhì, những quy định về QBC của bị can, bị cáo nói chung và của người

CTN nói riêng ngày càng được hoàn thiện theo thời gian. Điều này cho thấy, quan

điểm của các nhà làm luật của nước ta về bảo đảm QBC ở thời kỳ này là rất tiến bộ.

Điều này đã tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển và hoàn thiện nguyên tắc bảo

đảm QBC của bị can, bị cáo nói chung trong TTHS ngày nay. Bên cạnh những đóng

góp tích cực, chế định bảo đảm QBC trong các văn bản pháp luật thời kỳ này vẫn

còn nhiều hạn chế, thiếu sót nhất định và chưa phản ánh được đầy đủ các khía cạnh

bảo đảm QBC trong TTHS, đặc biệt là những quy định đảm bảo quyền và lợi ích

cho người CTN khi tham gia tố tụng vẫn chưa được đề cập đến. Mặc dù vậy, các

văn bản pháp luật trong thời kỳ này cũng đề cập nhiều đến vai trò của NBC, đồng

thời ghi nhận việc bào chữa thông qua NBC là quyền tố tụng cơ bản của bị cáo và

cần thiết phải được bảo đảm. Từ khi Bộ luật TTHS ra đời cho đến thời điểm này đã

trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên các lần sửa đổi, bổ sung vào tháng 6

năm 1990, tháng 12 năm 1992 và tháng 6 năm 2000 chúng ta chỉ mới tập trung vào

một số nội dung cấp bách để đáp ứng kịp thời yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn đấu

tranh phòng chống tội phạm, chưa có điều kiện sửa đổi một cách cơ bản và toàn

diện, do đó chưa khắc phục hết những hạn chế và bất cập. Tuy nhiên, trong cả ba

lần sửa đổi trên, Bộ luật TTHS vẫn tiếp tục quy định QBC được đảm bảo cho bị can

và bị cáo là người CTN.

2.1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền bào chữa của bị

can, bị cáo là người chưa thành niên theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Qua gần 15 năm thi hành với ba lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật TTHS 1988 đã

là một trong những căn cứ pháp lý giúp CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án tiến hành các

hoạt động của mình một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ góp phần vào việc bảo

đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi

phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, trong

Page 98: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

94

công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính, đổi mới toàn diện đất nước trên

tất cả các lĩnh vực trong đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh CCTP và

coi đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt

Nam. Nhiều tư tưởng, quan điểm, định hướng về CCTP trong các Nghị quyết của

Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã được pháp luật

hóa thành những quy định tương ứng của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung), Luật

Tổ chức TAND 2002, Luật Tổ chức VKSND 2002… và cần tiếp tục được pháp luật

hóa thành những quy định của Bộ luật TTHS. Bên cạnh đó, Bộ luật TTHS 1988 đã

không còn phù hợp nữa, bộc lộ những hạn chế và có nhiều bất cập nhất định, cần

được khắc phục nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp, bảo đảm tốt hơn

quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ giữa các văn

bản pháp luật, đáp ứng yêu cầu CCTP và cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.

Trước tình hình đó, Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ tư đã thông qua Bộ luật TTHS

2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2004.

So với những lần sửa đổi trước đây, Bộ luật TTHS 2003 đã được sửa đổi, bổ

sung một cách toàn diện, và ghi nhận thêm một số điều luật mới. Một trong những

nội dung sửa đổi quan trọng liên quan đến nguyên tắc bảo đảm QBC được quy định

tại Điều 11 với tên gọi: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo” [29]. Bộ luật TTHS 2003 một lần nữa khẳng định việc bảo đảm QBC là một

nguyên tắc cơ bản trong TTHS, đồng thời mở rộng đối tượng được hưởng QBC cả

đối với người bị tạm giữ mà không chỉ đối với bị can, bị cáo như các quy định trước

đó. Việc bổ sung quyền này đối với người bị tạm giữ xuất phát từ quan điểm cho

rằng người bị tạm giữ được xác định là người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối

với VAHS, do vậy họ có quyền được bào chữa [49]. Theo đó, Điều 11 Bộ luật

TTHS 2003 quy định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc

nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo

đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy

Page 99: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

95

định của Bộ luật này.” Như vậy, theo Bộ luật TTHS 2003, chủ thể của QBC được

mở rộng bao gồm cả người bị tạm giữ.

Người bào chữa theo quy định của Bộ luật TTHS.

Bộ luật TTHS Việt Nam quy định NBC là người tham gia tố tụng để giúp đỡ

người bị buộc tội về mặt pháp lý, làm sáng tỏ những tình tiết xác định sự vô tội,

những tình tiết giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội, đồng thời góp phần bảo vệ

pháp luật (khoản 3 Điều 58 Bộ luật TTHS 2003). Chế định NBC đã được ghi nhận

ngay trong Bộ luật TTHS 1988 khi xác định NBC là người tham gia tố tụng. NBC

không có quyền lợi ích liên quan đến vụ án. Cơ sở pháp lý cho sự hiện diện của

NBC trong TTHS chính là ý chí của người bị buộc tội và trong một số trường hợp,

sự tham gia của NBC là bắt buộc là trên cơ sở quy định của luật (các trường hợp

quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS năm 2003).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật TTHS, NBC có thể là luật sư,

Bào chữa viên nhân dân (BCVND) hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đối tượng tham gia bào chữa cho người bị buộc tội phổ

biến trong vụ án hình sự chủ yếu là đội ngũ luật sư. Hiện nay, do trình độ và ý thức

pháp luật của nhân dân ta còn hạn chế nên khi nói đến NBC người ta chỉ nghĩ đến

luật sư còn những người khác không phải là luật sư thì không phải là NBC. Tuy

nhiên, luật sư là khái niệm nghề nghiệp còn NBC là một khái niệm tố tụng.

Theo Điều 2 Luật Luật sư được sửa đổi, bổ sung số 20/2012/QH13 ngày 20-

11-2012 của Quốc Hội, quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện

hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của

cá nhân, cơ quan, tổ chức”. Khoản 1 Điều 22 Luật Luật sư quy định: “Luật sư tham

gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc

là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự”.

Page 100: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

96

Ngoài việc nhờ luật sư là NBC cho mình, bị can, bị cáo còn có thể thông qua

người đại diện hợp pháp của mình mà thực hiện QBC. Cho đến thời điểm này, Bộ

luật TTHS Việt Nam vẫn chưa có một quy định cụ thể nào về người đại diện hợp

pháp của bị can, bị cáo trong vụ án hình sự như đối với một số người tham gia tố

tụng khác. Tuy nhiên ở cấp độ văn bản dưới luật, Thông tư liên ngành số 01/TTLN

ngày 8-12-1988 của TAND tối cao, VKSND tối cao hướng dẫn một số quy định

trong Bộ luật TTHS trong đó có phần đề cập về người đại diện hợp pháp của bị cáo

là người CTN với nội dung “đại diện hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên

là bố mẹ hoặc người đỡ đầu của họ”. Theo đó, vấn đề “người đại diện hợp pháp”

của người bị buộc tội chỉ đặt ra khi họ là người CTN hoặc người có nhược điểm về

thể chất hoặc nhược điểm về tâm thần.

Đối với người CTN, ngoài quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS 2003

thì tại khoản 3 Điều 303, Điều 305 Bộ luật TTHS cũng quy định người đại diện hợp

pháp của bị cáo. Ngoài người đại diện hợp pháp, bị cáo là người CTN còn có đại

diện của gia đình; thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên

Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo có thể đồng thời là NBC cho bị cáo (nếu

bị cáo và người đại diện hợp pháp không mời NBC hoặc không chấp nhận NBC mà

Văn phòng luật sư cử). Khi người đại diện hợp pháp của bị cáo là NBC, thì họ thực

hiện quyền và nghĩa vụ của NBC theo quy định của pháp luật, đồng thời họ vẫn có

quyền và nghĩa vụ với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị cáo. Người đại

diện hợp pháp của bị cáo có thể đồng thời là người đại diện gia đình bị cáo. Nếu là

người đại diện gia đình của bị cáo thì ngoài quyền và nghĩa vụ đối với người đại

diện hợp pháp của bị cáo, họ còn có quyền và nghĩa vụ của đại diện gia đình bị cáo

theo quy định của pháp luật. Người đại diện hợp pháp của bị cáo mà lại là bố mẹ

của bị cáo thì còn có nghĩa vụ bồi thường thiệt hai thay cho bị cáo với tư cách là bị

đơn dân sự trong VAHS theo quy định của Bộ luật Dân sự. Quyền và nghĩa vụ của

người đại diện hợp pháp của bị cáo trong giai đoạn xét xử được quy định tại khoản

Page 101: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

97

2 Điều 57; khoản 3 Điều 303; Điều 304 và Điều 306 Bộ luật TTHS 2003, cụ thể là:

lựa chọn NBC cho bị cáo; có quyền tham gia tố tụng theo quyết định của Tòa án; có

mặt khi Tòa án lấy lời khai của bị cáo; hỏi bị cáo nếu được Hội đồng xét xử

(HĐXX) đồng ý; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người

THTT; tham gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm

quyền THTT và các quyết định của Tòa án; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra và

phải có mặt tại phiên tòa.

Bộ luật TTHS hiện hành không có quy định cụ thể ai là người được xem là

người đại diện hợp pháp của bị cáo nên trong quá trình vận dụng pháp luật, các cơ

quan, người THTT vẫn viện dẫn bằng những quy định tương thích giữa pháp luật

TTHS với Bộ luật Dân sự, theo đó, người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội

bao gồm: cha, mẹ, người giám hộ (đối với con CTN). Đối với người bị buộc tội là

người đã thành niên, người đại diện hợp pháp của họ là những người được cơ quan

THTT cho phép tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên về lâu dài,

Bộ luật TTHS cần thiết phải bổ sung những quy định cụ thể để việc áp dụng pháp

luật được thống nhất.

Ngoài luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo thì Bộ luật TTHS

còn quy định BCVND cũng có thể tham gia tố tụng với tư cách là NBC. Chế định

BCVND xuất hiện do hoàn cảnh lịch sử của nước ta, xuất phát từ quy định người bị

cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mướn luật sư [1]. Tại Điều 67 Hiến pháp năm

1946, khái niệm BCVND đã có từ trước khi có Bộ luật TTHS 1988 có hiệu lực và

tồn tại cho đến nay. Khoản 1 Điều 35 Bộ luật TTHS 1988 cũng quy định NBC có

thể là BCVND. Song trong suốt thời gian qua không có một văn bản nào chính thức

giải thích hay quy định BCVND là ai. Tại Hội nghị tổng kết công tác ngành TAND

năm 1993, Chánh án TAND tối cao trả lời “Cho đến nay khái niệm bào chữa viên

nhân dân chưa được chính thức giải thích”. Trước tình hình đó, nhất là khi tổ chức

luật sư chưa được tổ chức ở tất cả các địa phương và nơi đã có tổ chức luật sư rồi

thì tổ chức luật sư cũng chưa đủ điều kiện để đảm nhiệm việc bào chữa trong tất cả

Page 102: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

98

các VAHS có yêu cầu bào chữa cho bị cáo, nên có thể chấp nhận việc hội viên Hội

luật gia làm NBC cho bị cáo [58, tr. 125]. Có quan điểm cho rằng “Bào chữa viên

nhân dân người được tổ chức, đoàn thể cử ra để bào chữa cho bị cáo” [66, tr.

129]. Phân tích Điều 57 và Điều 59 Bộ luật TTHS 2003 chúng tôi nhận thấy đã có

những sửa đổi, bổ sung các quy định tại Điều 35 và Điều 42 a tương ứng của Bộ

luật TTHS 1988, nhưng theo các quy định này thì BCVND có thể là NBC cho bị

can, bị cáo và cũng có thể là người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Bên cạnh đó,

theo Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02-10-2004 của Hội đồng Thẩm phán

TAND tối cao thì một người được coi là BCVND khi người đó được Ủy ban Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của

tổ chức mình.

Như vậy, để đảm bảo tính thống nhất từ CQĐT đến Tòa án, thì cần phải có

một Thông tư liên tịch của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư

pháp hướng dẫn chế định BCVND hoặc Chính phủ ban hành một Nghị định về chế

định BCVND để đảm bảo QBC cho bị can, bị cáo cũng như hoạt động bào chữa của

những người không phải là luật sư [95].

Quyền lựa chọn, thay đổi người bào chữa

Về cơ bản bị can, bị cáo là người CTN cũng có các quyền và nghĩa vụ như

đối với bị can, bị cáo thành niên được quy định tại Điều 49 và Điều 50 Bộ luật

TTHS. Tuy nhiên, do những hạn chế về tâm sinh lý mà bị can, bị cáo là người CTN

không tự mình thực hiện được một số các quyền và nghĩa vụ cho nên để bảo về

quyền và lợi ích hợp pháp của họ, Bộ luật TTHS đã quy định một số quyền và nghĩa

vụ đặc biệt dành cho bị can, bị cáo là người CTN trong đó có QBC được quy định

tại Điều 305 Bộ luật TTHS hiện hành. QBC đó được thể hiện như sau:

Người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN có thể lựa chọn

NBC hoặc tự mình bào chữa cho bị can, bị cáo.

Page 103: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

99

Trong trường hợp bị can, bị cáo là người CTN hoặc người đại diện hợp pháp

của họ không lựa chọn được NBC thì CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu

Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử NBC cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận cử NBC cho thành viên tổ

chức mình.

Khi xác định về QBC cho bị can, bị cáo là người CTN, Bộ luật TTHS của

nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Điều 34 quy định: “…Nếu bị cáo là người mù,

câm hoặc điếc hoặc là người chưa thành niên và do đó không chỉ định bất kỳ ai làm

người bào chữa thì Tòa án nhân dân phải chỉ định một luật sư có nghĩa vụ trợ giúp

pháp lý làm người bào chữa cho họ”. Hay tại Điều 33 Bộ luật TTHS Hàn Quốc quy

định: “Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên, nếu không có bào

chữa viên, thì Tòa án sẽ đề cử bào chữa viên đại diện” … Nhìn chung pháp luật

TTHS của các nước trong đó có Việt Nam đều có những quy định cụ thể nhằm đảm

bảo QBC cho bị can, bị cáo là người CTN. Trong TTHS, đối với những vụ án mà

người phạm tội là người CTN (trừ trường hợp họ là bị can, bị cáo về tội theo khung

hình phạt có mức cao nhất là tử hình), người phạm tội được quyền lựa chọn cũng

như quyết định có hay không có sự tham gia của NBC. Pháp luật quy định đây là

quyền của họ, nếu họ có khả năng và thấy cần thiết phải có NBC thì được quyền

mời NBC, và ngược lại. Việc có hay không có sự tham gia của NBC trong những

trường hợp này không ảnh hưởng gì đối với thủ tục giải quyết vụ án của các cơ

quan THTT. Khác với những trường hợp nêu trên, trong những vụ án do người

CTN thực hiện thì việc tham gia tố tụng của NBC là bắt buộc. Bắt buộc có NBC

trong những trường hợp này không phải là đối với người CTN cũng như người đại

diện hợp pháp của họ; bắt buộc ở đây là đối với các cơ quan THTT [42, tr. 396].

Khi nghiên cứu vấn đề này, có nhiều quan điểm về sự tham gia của NBC đối với

trường hợp nêu trên.

Quan điểm thứ nhất cho rằng những vụ án do người CTN thực hiện, việc bắt

buộc có sự tham gia tố tụng của NBC là chỉ có thể thực hiện bằng cách chỉ định

Page 104: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

100

thông qua Đoàn luật sư mà không cần giải thích cho bị can, bị cáo biết quyền tố

tụng của họ, trong đó có quyền mời NBC.

Quan điểm thứ hai cho rằng quan điểm nêu trên là không hợp lý, vì việc lựa

chọn người tham gia bào chữa là quyền của bị can, bị cáo là người CTN hoặc người

đại diện hợp pháp của họ. Còn nếu họ không thực hiện quyền đó thì cơ quan THTT

mới thực hiện trách nhiệm của mình là yêu cầu Đoàn luật sư cử NBC cho họ [99].

Chúng tôi nhận thấy quan điểm thứ hai là phù hợp, bởi vì xuất phát từ nguyên tắc

bảo đảm QBC của bị can, bị cáo được ghi nhận tại Điều 11 Bộ luật TTHS 2003,

đồng thời theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS 2003 thì “nếu bị can, bị

cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan

điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng

luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức

mình”. Như vậy, quyền mời NBC tham gia tố tụng trước hết là phải do người CTN

hoặc người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Chỉ khi nào họ không thực hiện

quyền đó thì cơ quan THTT mới yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư

cử NBC cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành

viên của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình. Theo quy định tại

khoản 2, Điều 57 Bộ luật TTHS 2003, sau khi Đoàn luật sư đã cử NBC thì bị can, bị

cáo là người CTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay

đổi hoặc từ chối NBC. Với yêu cầu thay đổi NBC của bị can, bị cáo là người CTN

và người đại diện hợp pháp của họ, thì “Tòa án căn cứ vào khoản 2, khoản 3 Điều

56 Bộ luật Tố tụng hình sự để chấp nhận hoặc không chấp nhận. Trong trường hợp

Tòa án không chấp nhận yêu cầu thay đổi người bào chữa thì tiến hành xét xử vụ án

theo thủ tục chung” [55]. Trong trường hợp chấp nhận yêu cầu thay đổi NBC của bị

can, bị cáo là người CTN và người đại diện hợp pháp, cơ quan THTT phải có trách

nhiệm yêu cầu Đoàn luật sư cử NBC khác cho họ. Trong Điều 57 Bộ luật TTHS

2003 không quy định quyền yêu cầu thay đổi NBC được bao nhiêu lần, nhưng theo

Page 105: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

101

chúng tôi bị can, bị cáo là người CTN và người đại diện hợp pháp của họ chỉ có thể

được yêu cầu thay đổi một lần, như vậy vừa bảo đảm được QBC của họ và đồng

thời đảm bảo thuận lợi cho các hoạt động tố tụng.

Đối với quyền từ chối NBC của bị can, bị cáo là người CTN và người đại

diện hợp pháp của họ thì có thể hiểu là họ có quyền hoàn toàn từ chối, họ không cần

sự giúp đỡ của luật sư và tự mình thực hiện QBC. Thực tế đã xảy ra những trường

hợp bị can, bị cáo là người CTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối sự

giúp đỡ, hỗ trợ về mặt pháp lý của luật sư vì họ không được giải thích về nội dung

của QBC, như họ không hiểu biết hết về chế độ thù lao cho luật sư hay những

trường hợp được giúp đỡ mà không phải trả thù lao. Trong những trường hợp này

cơ quan THTT phải giải thích cho bị can, bị cáo là người CTN và người đại diện

hợp pháp của họ biết rõ về quyền của họ trong tố tụng đặc biệt là vai trò của NBC

trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.

Đề cập tới quyền từ chối luật sư của bị cáo CTN, Công văn số

16/1999/KHXX của TAND tối cao ngày 01/12/1999 có hướng dẫn như sau: đối với

trường hợp luật sư chỉ định theo pháp luật vắng mặt tại phiên tòa mà tại phiên tòa bị

cáo là người CTN từ chối NBC của mình, thì Tòa án lập biên bản về việc từ chối

NBC của bị cáo và biên bản phải có chữ ký của bị cáo hoặc người đại diện hợp

pháp của bị cáo lưu vào hồ sơ vụ án và tiến hành xét xử bình thường. Nếu người đại

diện hợp pháp của bị cáo yêu cầu được tự mình bào chữa cho bị cáo, thì HĐXX

chấp nhận yêu cầu đó và được ghi vào biên bản phiên tòa. Trong trường hợp này

phiên tòa vẫn được tiến hành tiếp tục, nếu không phải hoãn phiên tòa về những lý

do khác. Sau khi Bộ luật TTHS 2003 có hiệu lực, nhận thấy những vướng mắc

trong việc áp dụng các quy định ở khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS, Nghị quyết số

03/2004/NQ-HĐTP ngày 02-10-2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao

hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung”

của Bộ luật TTHS 2003 đã có những hướng dẫn cụ thể về quy định này.

Page 106: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

102

Trường hợp bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ không mời NBC

và theo yêu cầu của Tòa án, Văn phòng luật sư đã cử NBC cho họ hoặc Ủy ban Mặt

trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận đã cử BCVND bào chữa

cho thành viên của tổ chức mình, thì Tòa án phải thông báo cho bị can, bị cáo và

người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN, người có nhược điểm về

tâm thần hoặc thể chất biết. Việc thông báo có thể bằng văn bản riêng, có thể được

ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Trước khi mở phiên tòa, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ yêu

cầu thay đổi hoặc từ chối NBC thì người có yêu cầu phải làm văn bản trong đó ghi

rõ lý do yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC và người có yêu cầu phải ký tên hoặc

điểm chỉ vào biên bản. Văn bản về yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC phải được

lưu vào hồ sơ vụ án. Về yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC được giải quyết như

sau:

Trường hợp yêu cầu thay đổi NBC, thì thẩm phán được phân công làm chủ

tọa phiên tòa căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 56 của Bộ luật TTHS, hướng dẫn

tại mục 1 Phần II của Nghị quyết này để xem xét, quyết định chấp nhận hoặc không

chấp nhận. Nếu không chấp nhận thì phải thông báo bằng văn bản cho người yêu

cầu biết trong đó cần nêu rõ căn cứ của việc không chấp nhận. Nếu chấp nhận thì

yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người khác bào chữa cho bị

can, bị cáo hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của

Mặt trận cử BCVND khác bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.

Trường hợp yêu cầu từ chối NBC, thì vẫn tiến hành triệu tập NBC đã được

phân cử tham gia phiên tòa theo thủ tục chung. Nếu tại phiên tòa họ vẫn tiếp tục có

yêu cầu từ chối NBC thì HĐXX xem xét, giải quyết theo hướng dẫn tại điểm d mục

3 Phần II của Nghị quyết này.

Page 107: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

103

Tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ yêu cầu thay đổi hoặc

từ chối NBC thì phải ghi vào biên bản phiên tòa. Và yêu cầu thay đổi hoặc từ chối

NBC được giải quyết như sau:

Trường hợp yêu cầu thay đổi NBC, thì HĐXX thảo luận và thông qua tại

phòng xử án. Căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 56 của Bộ luật TTHS, hướng

dẫn tại mục 1 Phần II của Nghị quyết này để xem xét, quyết định chấp nhận hoặc

không chấp nhận. Nếu không chấp nhận thì thông báo cho người yêu cầu biết và nói

rõ căn cứ của việc không chấp nhận. Nếu chấp nhận thì phải hoãn phiên tòa và thẩm

phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa thay mặt HĐXX yêu cầu Đoàn luật sư

phân công Văn phòng luật sư cử người khác bào chữa cho bị cáo hoặc đề nghị Ủy

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử BCVND khác bào

chữa cho thành viên của tổ chức mình. Quyết định của HĐXX về chấp nhận hoặc

không chấp nhận yêu cầu thay đổi NBC không phải thành lập bằng văn bản, nhưng

phải được ghi vào biên bản phiên tòa. Trường hợp yêu cầu từ chối NBC (kể cả

trường hợp đã có yêu cầu từ chối NBC trước khi mở phiên tòa), thì HĐXX cần phải

giải thích cho họ biết NBC sẽ giúp bị cáo về mặt pháp lý nhằm đảm bảo quyền, lợi

ích hợp pháp cho bị cáo và chi phí cho NBC do Tòa án thanh toán.

Trong trường hợp bị cáo là người CTN, người có nhược điểm về tâm thần

hoặc thể chất mà cả bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo vẫn giữ nguyên ý

kiến từ chối NBC thì cần phải ghi vào biên bản phiên tòa và tiến hành xét xử vụ án

theo thủ tục chung mà không có sự tham gia của NBC đã được cử. Nếu chỉ có bị

cáo từ chối NBC, còn người đại diện hợp pháp của bị cáo không từ chối NBC hoặc

chỉ có người đại diện hợp pháp của bị cáo từ chối NBC, còn bị cáo không từ chối

NBC, thì tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung, có sự tham gia của NBC đã

được cử.

Nếu như trước đây, theo quy định của Bộ luật TTHS 1988 thì người phạm tội

nói chung trong đó có người CTN, chỉ có thể thực hiện QBC của mình kể từ khi có

Page 108: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

104

quyết định khởi tố bị can (khoản 1 Điều 36), Bộ luật TTHS hiện hành cũng ghi

nhận NBC có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can đồng thời bổ sung thêm

quy định “Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và 82 của Bộ luật

này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ”.

Tóm lại, khi tham gia TTHS, bằng những hiểu biết pháp luật và kỹ năng

nghề nghiệp của mình, NBC giúp cho bị can, bị cáo là người CTN thực hiện tốt hơn

QBC của họ theo quy định của pháp luật đồng thời giúp cho cơ quan THTT giải

quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, tránh thiên về buộc tội và

xem xét một chiều. Có thể nói, đặc trưng cơ bản trong vai trò của NBC khi tham gia

tố tụng bào chữa cho bị can, bị cáo là người CTN là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa

việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể này với việc bảo vệ chân lý

và tôn trọng pháp luật, pháp chế.

Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định Bộ luật tố tụng hình sự

Như đã nêu trên, quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người CTN

phụ thuộc rất lớn vào vai trò của NBC trong trường hợp họ thực hiện QBC của

mình thông qua NBC. Chính vì vậy, việc đảm bảo quyền nhờ người khác NBC của

bị can, bị cáo là người CTN chính là việc xem xét các quyền của NBC được pháp

luật bảo đảm như thế nào. Bộ luật TTHS 2003 đã kế thừa và đã có những bổ sung

mới, trong đó có những quy định tiến bộ hơn, mở rộng hơn về quyền của NBC.

Theo đó, Bộ luật TTHS quy định, trước Tòa án, NBC được bình đẳng với các cơ

quan THTT trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật và tranh luận dân chủ tại

phiên tòa. Các cơ quan THTT có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các

quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án (Điều 19 Bộ luật TTHS). Quy

định này được xem là nguyên tắc tố tụng cơ bản về vai trò của NBC trong VAHS.

Bên cạnh đó, Điều 58 Bộ luật TTHS đã liệt kê rất nhiều quyền của NBC cần

được bảo đảm khi tham gia bào chữa, cụ thể là: có quyền có mặt khi lấy lời khai

người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi người

Page 109: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

105

bị tạm giữ, bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về

hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến

người mà mình bào chữa; có quyền đề nghị CQĐT báo trước về thời gian và địa

điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; quyền đề nghị thay đổi người

THTT, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; quyền thu

thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân

theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước,

bí mật công tác; quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; gặp bị can, bị cáo đang bị

tạm giam; đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến

việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; tham gia tranh

luận tại phiên tòa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm

quyền THTT; kháng cáo bản án, quyết định của tòa án trong trường hợp bào chữa

cho người CTN hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại

điểm b khoản 2 điều 57 của Bộ luật này.

Song song với việc quy định các quyền của NBC, tại khoản 3 Điều 58 Bộ

luật TTHS cũng quy định các nghĩa vụ của NBC khi tham gia TTHS như sau: giúp

người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

không được từ chối bào chữa cho người mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không

có lý do chính đáng; tôn trọng sự thật khách quan và pháp luật; không được mua

chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự

thật; không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào

chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục

đích xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và

cá nhân; NBC làm trái luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi

giấy chứng nhận bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu

TNHS.

Page 110: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

106

Qua những quy định trên, chúng tôi nhận thấy, Bộ luật TTHS đã có những

quy định cụ thể và mở rộng hơn quyền hạn của NBC so với những quy định cũ, cụ

thể là: thừa nhận người bị tạm giữ có quyền có NBC và thừa nhận sự tham gia của

NBC từ khi một người có quyết định tạm giữ; mở rộng phạm vi những người có thể

trở thành BCVND tham gia vào TTHS với vai trò là NBC (khoản 2 Điều 57 Bộ luật

TTHS); mở rộng quyền tố tụng của NBC đề nghị CQĐT báo trước về thời gian và

địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; xem các biên bản về hoạt

động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người

mà mình bào chữa. Những quy định cụ thể này đã tạo ra những điều kiện thuận lợi

cho cả NBC và người THTT khi thực hiện nghĩa vụ của mình. Sự có mặt của NBC

thường xuyên hơn trong các buổi hỏi cung bị can sẽ khắc phục hiện tượng bức

cung, ép cung từ phía điều tra viên, đồng thời cũng tránh được tình trạng khi ra tòa,

bị cáo phản cung và đổ lỗi cho điều tra viên là đã bức cung, ép cung bị cáo trong

giai đoạn điều tra [119].

Tóm lại, trong TTHS quyền được nhờ người khác bào chữa đóng vai trò cực

kỳ quan trọng vì nó không những giúp cho việc giải quyết vụ án được khách quan,

nhanh chóng mà còn bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người

CTN cũng như công bằng xã hội. Trong tiến trình CCTP hiện nay ở Việt Nam, để

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai,

minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN,

xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân, việc quy định mở rộng phạm vi chủ thể của quyền được nhờ người khác

bào chữa của Bộ luật TTHS 2003 so với Bộ luật TTHS 1988 cụ thể là quyền được

bào chữa không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về người bị tạm giữ là một

bước tiến lớn trong hoạt động lập pháp, phù hợp với xu thế chung của các nước

trong khu vực và trên thế giới. Có thể nói những quy định về quyền được nhờ người

khác bào chữa trong Bộ luật TTHS 2003 một mặt giúp cho người bị tạm giữ, bị can,

bị cáo nói chung cũng như NBC có điều kiện hiểu sâu nội dung vụ án từ đó xây

Page 111: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

107

dựng được phương án bảo vệ hiệu quả, mặt khác nâng cao nhận thức của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như

tinh thần trách nhiệm của NBC đối với công việc đã đảm nhận.

Ngoài việc mở rộng QBC cho người bị tạm giữ thì Bộ luật TTHS 2003 còn

có nhiều quy định thể hiện sự tiến bộ và phát triển của nguyên tắc bảo đảm QBC

như: NBC được tham gia tố tụng sớm hơn so với quy định của Bộ luật TTHS 1988;

quy định cụ thể thủ tục chỉ định NBC trong những trường hợp phải chỉ định NBC

cho bị can, bị cáo ( khoản 2 Điều 57)…Đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là

người CTN cũng được tiến hành theo thủ tục chung mà Bộ luật TTHS đã quy định,

nhưng cũng có những điểm quy định riêng nhằm bảo đảm cho quyền, lợi ích hợp

pháp của người CTN được thực hiện theo quy định của pháp luật.

- Giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án người chưa thành niên phạm tội

Thứ nhất, chỉ ra quyết định khởi tố bị can khi người đó đã đủ tuổi chịu

TNHS theo Điều 12 BLHS. Khởi tố VAHS là giai đoạn mở đầu của TTHS trong đó

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra văn bản xác định có dấu hiệu tội phạm để

mở cuộc điều tra theo TTHS. Việc khởi tố VAHS có ý nghĩa rất quan trọng đối với

toàn bộ các hoạt động tố tụng tiếp theo. Giai đoạn khởi tố vụ án có nhiệm vụ xác

định có dấu hiệu tội phạm hay không để khởi tố hoặc không khởi tố, đảm bảo không

tội phạm nào không bị phát hiện, không một người vô tội nào bị truy cứu TNHS

oan. Quyết định khởi tố VAHS là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc điều tra.

Nhưng chỉ sau khi khởi tố bị can là người CTN, NBC và đại diện gia đình bị can bắt

đầu có quyền tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS.

Thứ nhì, trong trường hợp đã có quyết định khởi tố bị can là người CTN thì

khi áp dụng các biện pháp điều tra đối với những chủ thể này nên có mặt đại diện

gia đình bị can, bị cáo, thầy giáo, cô giáo, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên

cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội khác hoặc NBC. Khoản 2 Điều 306 Bộ

luật TTHS 2003 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, việc hỏi cung bị can tại Cơ

Page 112: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

108

quan điều tra phải có mặt đại diện gia đình bị can”. Hỏi cung bị can là một hoạt

động điều tra nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can. Đối với bị can là người

CTN thì hoạt động điều tra này đòi hỏi điều tra viên, kiểm sát viên phải là người có

những hiểu biết cần thiết về đặc điểm tâm sinh lý của các em. Là người gần gũi với

bị can, hiểu được tâm lý, thái độ xử sự của họ nên sự có mặt của đại diện gia đình bị

can sẽ giúp đỡ cho cán bộ điều tra tạo được mối quan hệ tin cậy, gần gũi, tín nhiệm

đối với bị can, làm cho bị can không còn lo lắng và từ đó có thể cho lời khai tốt

hơn. Bên cạnh đó, sự tham gia của đại diện gia đình bị can còn giúp cho cán bộ điều

tra hiểu rõ hơn nguyên nhân, điều kiện phạm tội qua điều kiện sinh sống, sự giáo

dục của gia đình, để từ đó có phương án điều tra thích hợp. Tuy nhiên, Bộ luật

TTHS hiện hành không quy định mọi trường hợp hỏi cung bị can là người CTN tại

CQĐT có mặt cha mẹ hay người đại diện của bị can. Khoản 2 Điều 306 quy định:

“…trong những trường hợp cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những

người này phải có mặt đại diện của gia đình…”. Cho đến hiện nay vẫn chưa có một

văn bản nào hướng dẫn cụ thể như thế nào là trong trường hợp cần thiết mà trường

hợp cần thiết này dễ dẫn đến sự tùy nghi áp dụng những quy định của pháp luật

TTHS và chính từ việc làm này sẽ làm ảnh hưởng đến QBC của người CTN khi

tham gia vào TTHS.

- Giai đoạn truy tố

Trong giai đoạn này Viện kiểm sát cần nghiên cứu xem xét tất cả những vấn

đề mang tính thủ tục tố tụng cũng như những vấn đề thuộc nội dung vụ án thể hiện

qua hồ sơ điều tra nhằm xác định quá trình điều tra vụ án có tuân thủ theo các quy

định của pháp luật TTHS hay không, có còn hạn chế và thiếu sót nào cần khắc phục

hay không? Để kịp thời ra các quyết định cần thiết nhằm bổ sung và hoàn thiện hồ

sơ, khắc phục những vi phạm pháp luật của CQĐT, để đảm bảo quyết định truy tố

bị can là đúng đắn, chính xác tạo cơ sở pháp lý vững chắc để Tòa án xét xử, đảm

bảo lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân. Nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất trong giai đoạn truy tố là:

Page 113: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

109

đảm bảo việc điều tra hoàn toàn tuân thủ pháp luật, khách quan, toàn diện và đầy

đủ; đảm bảo việc ra quyết định truy tố cũng như các quyết định tố tụng cần thiết

khác có căn cứ và hợp pháp.

Việc truy tố của Viện kiểm sát tạo cơ sở pháp lý để Tòa án đưa vụ án ra xét

xử. Yếu tố kịp thời, chính xác của quyết định truy tố tạo điều kiện thuận lợi cho

công tác xét xử, đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội…Đối với bị can là

người CTN, Viện kiểm sát chỉ truy cứu TNHS khi hành vi phạm tội của bị can có

mức độ nguy hiểm cho xã hội cao. Tội danh và mức hình phạt đối với bị can CTN

mà Viện kiểm sát đề nghị dựa trên các quy định của pháp luật về vấn đề người CTN

phạm tội, dựa trên chính sách hình sự và các nguyên tắc cơ bản về xử lý hành vi

phạm tội của người CTN.

- Giai đoạn xét xử người chưa thành niên phạm tội

Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Bộ luật

TTHS 2003, sự tham gia của HTND tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm là nguyên tắc

bắt buộc. Đặc điểm đặc biệt của thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người

CTN trước hết thể hiện yêu cầu của pháp luật đối với thành phần của HĐXX.

Khoản 1 Điều 307 quy định: “thành phần Hội đồng xét xử phải có một hội thẩm là

giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…”. Quy định

này nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự tham gia xét xử của những người có những

hiểu biết về tâm lý, về biện pháp quản lý và giáo dục người CTN. Theo khoản 1

Điều 307 thì thành phần của HĐXX phải có hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn

thanh niên vừa là người quản lý, giáo dục, vừa là những nhà tâm lý, sư phạm nên có

hiểu biết nhất định về lứa tuổi này. Việc họ tham gia vào HĐXX giúp cho Tòa án

đưa ra quyết định xử lý người CTN phạm tội đúng pháp luật và nâng cao tác dụng

giáo dục đối với người CTN. Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án mà bị cáo là người

CTN vẫn tuân theo quy định chung về thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa xét xử bị cáo là

người CTN phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ

chức và xã hội.

Page 114: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

110

Trong hoạt động TTHS, bào chữa là quyền quan trọng nhất của người vi

phạm pháp luật hình sự. QBC được xem như là một phương tiện pháp lý cần thiết

để bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thừa nhận QBC là

thừa nhận sự tranh tụng trong hoạt động tố tụng, là điều kiện không thể thiếu được

cho việc xét xử khách quan, công bằng. QBC có ý nghĩa quan trọng đối với bản

thân bị can, bị cáo đối với các cơ quan THTT, đối với nhiệm vụ chung của TTHS,

do vậy quyền này được nhà nước bảo đảm (Điều 31 Hiến pháp 2013). Bộ luật

TTHS 2003 đã cụ thể hóa nội dung này của Hiến pháp thành một trong những

nguyên tắc cơ bản của TTHS – đó là, nguyên tắc bảo đảm QBC của người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo (Điều 11 Bộ luật TTHS), với quy định: “Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát, Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực

hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự”. Nguyên

tắc này còn thể hiện trong các quy định về nghĩa vụ của cơ quan THTT khi tống đạt

quyết định khởi tố bị can và khi hỏi cung phải giải thích cho người bị tạm giữ, bị

can, bị cáo về các quyền, nghĩa vụ của họ trong đó có quyền tự bào chữa và quyền

nhờ người khác bào chữa (Điều 126 và 161). Bị can, bị cáo cũng có thể từ chối

không thực hiện QBC của mình. Tuy nhiên, đối với đối tượng phạm tội là người

CTN, do những hạn chế nhất định về sự phát triển thể chất cũng như tinh thần, cho

nên có thể họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, quyền lợi hợp pháp của họ có thể bị xâm

hại nếu không có NBC trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Chính vì vậy, rất

cần có sự tham gia của NBC trong những vụ án đối với người CTN. Việc bào chữa

trong những vụ án do người CTN thực hiện tội phạm tuân theo những quy định

chung của Bộ luật TTHS. Chính vì vậy cho nên pháp luật quy định thủ tục bắt buộc

phải có sự tham gia của NBC trong những vụ án này. Đây là điểm khác biệt giữa

việc bào chữa trong những vụ án do người CTN thực hiện so với vụ án do người đã

thành niên thực hiện. Đối với các trường hợp thuộc điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật

TTHS 2003 bị can là người CTN, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần

thì nghĩa vụ của CQĐT bảo đảm cho NBC, cho những bị can này xuất hiện từ thời

điểm nào? Quy định về thời điểm bắt đầu và kết thúc việc tham gia tố tụng của

Page 115: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

111

NBC trong những vụ án do người CTN thực hiện cũng giống như những VAHS nói

chung. Việc bảo đảm QBC được thực hiện suốt quá trình tố tụng từ khi người CTN

bị tạm giữ, bị khởi tố, cho đến khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử và tuyên bản án tại

phiên tòa. Quy định này được ghi nhận tại Điều 11 Bộ luật TTHS 2003 về nguyên

tắc bảo đảm QBC trong TTHS. Nếu như trước đây, theo quy định của Bộ luật

TTHS 1988 thì người phạm tội nói chung trong đó có người CTN, chỉ có thể thực

hiện QBC của mình kể từ thời điểm khi có quyết định khởi tố bị can, Bộ luật TTHS

hiện hành 2003 cũng ghi nhận NBC có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can

đồng thời bổ sung thêm quy định “trong trường hợp bắt người theo quy định tại

Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có

quyết định tạm giữ” (khoản 1 Điều 58). Như vậy, Bộ luật TTHS hiện hành quy định

thời điểm NBC có thể tham gia tố tụng sớm hơn, ngay từ khi có quyết định tạm giữ,

đây là một điểm mới của Bộ luật TTHS 2003. Quy định này nhằm bảo đảm quyền

tự do dân chủ của công dân, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan THTT, góp phần

chống oan sai trong TTHS.

Phạm vi những người được quyền tham gia bào chữa trong những vụ án do

người CTN thực hiện được pháp luật quy định cũng tuân thủ theo những quy định

chung của Bộ luật TTHS. Những người có thể tham gia tố tụng với tư cách là NBC

có thể là: luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo và BCVND Trong đó,

luật sư là người hội đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật

sư và thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Người

đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là là cha, mẹ hoặc người giám hộ của người bị

tạm giữ, bị can, bị cáo là người CTN hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc

thể chất. BCVND có thể là người được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức

thành viên của Mặt trận cử để bào chữa cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức

mình.

Vì vậy, để đảm bảo hơn cho QBC của bị can, bị cáo là người CTN, đồng thời

để giúp đỡ họ về mặt pháp lý, nhà làm luật đã quy định rằng cơ quan THTT có trách

Page 116: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

112

nhiệm mời NBC cho bị can, bị cáo CTN khi họ hoặc đại diện hợp pháp của họ

không mời được NBC mà muốn có NBC. Sự tham gia của NBC là rất cần thiết,

bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và sự hiểu biết của mình, NBC tham gia vào quá

trình giải quyết vụ án để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN.

Đồng thời sự tham gia của NBC cũng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án,

không để người CTN bị buộc tội oan sai. Quyền lựa chọn, thay đổi, từ chối NBC:

tương tự như những VAHS khác, trong những vụ án do người CTN thực hiện, thì

“Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp

của họ lựa chọn” (khoản 1 Điều 57).

Cơ sở nền tảng của việc bảo đảm QBC của người CTN phạm tội chính là các

quy định tại các bản Hiến pháp từ năm 1946 đến năm 1992 và Hiến pháp sửa đổi

năm 2013, trong đó quy định việc bảo đảm quyền tự bào chữa của công dân, là một

trong những quyền cơ bản của các QCN ở Việt Nam được quy định tại Điều 31

Hiến pháp.

2.2. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người

chưa thành niên trong tố tụng hình sự

Để đánh giá việc thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong

TTHS có căn cứ và cơ sở khoa học nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế bảo đảm QBC

của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS, công việc quan trọng là chúng ta phải

dựa trên cơ sở tổng kết, xem xét, nghiên cứu những vấn đề thực tiễn đặt ra để điều

chỉnh, bổ sung, hoàn thiện lý luận. Bởi lẽ, thực tiễn là công cụ kiểm nghiệm chính

xác nhất, là sự phản hồi hiệu quả của lý luận. Trong phạm vi đề tài chỉ đặt ra nghiên

cứu về QBC của bị can, bị cáo là người CTN dưới góc độ TTHS. Vì vậy, đề tài

phân tích kết quả của thực tiễn bảo đảm QBC của các chủ thể nêu trên thời gian qua

trên cơ sở thực tế tình hình thực hiện QBC và áp dụng pháp luật. Từ thực tế tình

hình người CTN phạm tội, năng lực của cơ quan, người THTT, NBC, hoạt động

điều tra, truy tố, xét xử đối với bị can, bị cáo là người CTN, đối chiếu với những

Page 117: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

113

quy định của pháp luật TTHS hiện hành để chỉ ra những vướng mắc, bất cập cần

được giải quyết.

2.2.1. Khái quát tình hình người chưa thành niên phạm tội

Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội

(Bộ công an) thì trong năm 2012 số trẻ em và người CTN vi phạm pháp luật là trên

13.000 em. Trong đó, người CTN phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện

có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%, từ đủ 14 tuổi đến

dưới 16 tuổi chiếm tỷ lệ khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm tỷ lệ 8% trong tổng số

các vụ phạm tội do người CTN và trẻ em thực hiện.

Theo số liệu báo cáo thống kê của TAND tối cao về tình hình thụ lý, giải

quyết các VAHS sơ thẩm có bị cáo là người CTN trong các năm từ 2007 đến năm

2012 của ngành Tòa án, thì: trong năm 2007 ngành Tòa án đã xét xử 5.466 bị

cáo/3.845 vụ (trong đó có 1.366 bị cáo là người CTN); năm 2008 xét xử 4.581 bị

cáo/3.216 vụ (trong đó có 1.145 bị cáo là người CTN); năm 2009 xét xử 3.710 bị

cáo/2.722 vụ (trong đó có 927 bị cáo là người CTN); năm 2010 xét xử 3.418 bị

cáo/2.582 vụ (trong đó có 854 bị cáo là người CTN); năm 2011 xét xử 3.243 bị

cáo/2.355 vụ (trong đó có 810 bị cáo là người CTN); năm 2012 xét xử 6.180 bị cáo/

4.557 vụ (trong đó có 1.545 bị cáo là người CTN) (phụ lục 10).

Về cơ cấu tội phạm, theo thống kê mới nhất của VKSND tối cao và Cục

Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, thì hành vi vi phạm pháp luật hình sự

của người CTN tập trung nhiều nhất vào các nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người; một số tội xâm phạm an

toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong đó, tội danh trộm cắp tài sản chiếm 38%,

cố ý gây thương tích chiếm 11%, đặc biệt giết người chiếm 1,4% trong tổng số tội

phạm do người CTN thực hiện.

Page 118: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

114

Về địa bàn hoạt động, các vụ vi phạm pháp luật và phạm tội do người CTN

thực hiện không chỉ xảy ra ở các thành phố, thị xã mà còn xảy ra ở các vùng nông

thôn, kể cả vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể trên phạm vi

toàn quốc thì tại các thành phố lớn, nơi kinh tế phát triển mạnh thu hút nhiều lực

lượng lao động, nhiều thành phần xã hội sinh sống, thì tỷ lệ người CTN vi phạm

pháp luật và phạm tội chiếm tỷ lệ cao hơn và có chiều hướng tăng nhanh hơn. Phần

lớn các vụ án do người CTN gây ra là trên địa bàn đô thị (chiếm hơn 70%), trong đó

tập trung ở những tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí

Minh, Đồng Nai…Đây cũng là nhóm có xu hướng tái phạm tội rất cao (khoảng

35%).

Từ thực trạng nêu trên, chúng ta có thể thấy trong những năm gần đây, số vụ

và số lượng người CTN vi phạm pháp luật và phạm tội có chiều hướng ngày càng

gia tăng. Tính chất, mức độ vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm hình sự do

người CTN thực hiện ngày càng nghiêm trọng và ngày càng trẻ hóa tội phạm.

2.2.2. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện quyền bào chữa của bị

can, bị cáo là người CTN

Thời gian qua, công tác giải quyết những VAHS nói chung, trong đó có

những vụ án do người CTN thực hiện của các cơ quan THTT đã có những chuyển

biến tích cực, nhằm thực hiện nhiệm vụ CCTP do Đảng và Nhà nước đề ra trong

Nghị quyết số 08/NQ/TW ngày 02-01-2002 và Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02-

6-2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ chính trị. Với

nhiệm vụ điều tra vụ án, CQĐT đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giải

quyết vụ án. Có thể nói, một nửa kết quả của việc giải quyết vụ án nằm ở giai đoạn

điều tra. Do đó, bất cứ một sai sót hoặc vi phạm nào từ hoạt động của cơ quan điều

tra cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến số phận pháp lý của bị can. Hơn nữa, kết quả

từ hoạt động của CQĐT sẽ là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định truy tố hay không

truy tố bị can ra trước Tòa án và là cơ sở để Tòa án xem xét làm căn cứ khi xét xử

Page 119: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

115

đối với bị cáo. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết quyền và lợi ích hợp pháp của bị can là

người CTN phải được đảm bảo ngay ở giai đoạn này. Trách nhiệm bảo đảm QBC

của bị can là người CTN trong giai đoạn điều tra chủ yếu thuộc về phía CQĐT. Để

đảm bảo QBC, CQĐT phải tạo những điều kiện cho bị can tự mình bào chữa hoặc

nhờ người khác bào chữa. Đối với cơ quan Viện kiểm sát, công tác thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung, trong đó có lĩnh vực hình sự

ngày càng đạt hiệu quả cao. Theo báo cáo tổng kết công tác năm 2011 và triển khai

công tác kiểm sát năm 2012 của ngành VKSND cho biết: “mặc dù trong nước còn

có khó khăn, suy thoái kinh tế toàn cầu, tội phạm gia tăng và diễn biến phức tạp,

nhưng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta đã vượt qua những thách

thức. Nên kinh tế có sự chuyển biến tích cực, quốc phòng, an ninh được giữ vững, vị

thế của đất nước trên trường quốc tế được tăng cường. Trong tình hình chung của

cả nước, chất lượng, hiệu quả của công tác của ngành kiểm sát tiếp tục có nhiều

tiến bộ, được thể hiện ở những mặt sau: nâng cao được chất lượng thực hành quyền

công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp…”. Nhìn chung các cấp kiểm sát đã thực

hiện đúng thẩm quyền của mình trong việc xử lý án do người CTN thực hiện đúng

theo quy định của Bộ luật TTHS và BLHS. Viện kiểm sát với chức năng, nhiệm vụ

vừa là cơ quan trực tiếp tiến hành tố tụng vừa là cơ quan kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong quá trình tố tụng, cho nên Viện kiểm sát có vai trò rất lớn trong việc

giải quyết VAHS, bảo đảm việc xử lý nghiêm minh đúng người, đúng tội, nhất là

đối với bị can, bị cáo là người CTN. Trong công tác xét xử, Tòa án các cấp đã thực

hiện đổi mới một bước thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở quy định

của Bộ luật TTHS và theo tinh thần CCTP. Tòa án đã tạo điều kiện, bảo đảm cho

những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hợp pháp của

họ, nhất là đối với bị cáo là người CTN. Việc phán quyết của Tòa án căn cứ chủ yếu

vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các chứng cứ trong hồ sơ.

Theo kết quả thống kê của một số Đoàn luật sư ở trường hợp bị can, bị cáo là

người CTN nhờ người khác bào chữa cho mình (bào chữa chỉ định), như sau: Đoàn

Page 120: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

116

luật sư Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2008 có 606 trường hợp; năm 2009 có

306 trường hợp; năm 2010 có 137 trường hợp; năm 2011 có 140 trường hợp; năm

2012 có 105 trường hợp (phụ lục 3). Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng: năm 2008 có 35

trường hợp; năm 2009 có 59 trường hợp; năm 2010 có 71 trường hợp; năm 2011 có

84 trường hợp; năm 2012 có 90 trường hợp (phụ lục 4). Đoàn luật sư tỉnh Kiên

Giang: năm 2008 có 191 trường hợp; năm 2009 có 321 trường hợp; năm 2010 có

388 trường hợp; năm 2011 có 182 trường hợp; năm 2012 có 254 trường hợp (phụ

lục 5). Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang: năm 2008 có 287 trường hợp; năm 2009 có

248 trường hợp; năm 2010 có 169 trường hợp; năm 2011 có 209 trường hợp; năm

2012 có 43 trường hợp (phụ lục 6). Với các số liệu thống kê trên tuy chưa phải là

một con số đầy đủ, chính xác nhưng kết quả thống kê cho chúng ta thấy được các

Đoàn luật sư đã phối hợp tốt, đáp ứng được tất cả các yêu cầu của các cơ quan

THTT về việc cử NBC chỉ định; không có trường hợp nào bị từ chối, gây cản trở

cho các cơ quan THTT. Việc NBC tham gia tranh tụng đặc biệt đối với những vụ án

mà bị can, bị cáo là người CTN đã giúp cho hoạt động THTT đảm bảo tính dân chủ

hơn và tình trạng oan sai từng bước được khắc phục, nhờ sự tham gia bào chữa của

luật sư. Cũng qua số liệu trên, cho chúng ta thấy được các cơ quan THTT đã bảo

đảm chỉ định NBC cho bị can là người CTN trong những trường hợp pháp luật quy

định bắt buộc phải có NBC.

Nhìn chung, các cơ quan và người THTT đã nhận thức đúng đắn và toàn diện

về những đặc điểm đặc thù của nhóm chủ thể tội phạm là người CTN, vì vậy, khi

THTT, họ đã thận trọng, vận dụng đúng quy định của pháp luật trong việc áp dụng

thủ tục tố tụng đối với từng trường hợp cụ thể. Trong suốt quá trình tố tụng, từ khi

người CTN tham gia tố tụng với tư cách bị can, bị cáo, các cơ quan THTT luôn tạo

mọi điều kiện thuận lợi để NBC, gia đình, nhà trường và tổ chức xã hội tham gia tố

tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN.

Page 121: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

117

2.2.3. Những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện quyền bào chữa

của bị can, bị cáo là người chưa thành niên

2.2.3.1. Những bất cập trong quy định của pháp luật

Mặc dù Bộ luật TTHS 2003 đã có những ghi nhận và bổ sung tiến bộ về bảo

đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN, tuy nhiên vẫn còn tồn tại những vướng

mắc, bất cập nhất định. Điều này dẫn đến việc QBC của bị can, bị cáo là người

CTN chưa được bảo đảm, đồng thời ảnh hưởng đến hiệu quả trong việc thực thi

nhiệm vụ chung của TTHS. Nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi nhận thấy

những khiếm khuyết trong quy định của Bộ luật TTHS và một số văn bản pháp luật

có liên quan tập trung hầu hết trong việc quy định về các quyền tố tụng của bị can,

bị cáo là người CTN khi tham gia VAHS, cụ thể là:

Thứ nhất, một trong những yêu cầu rất quan trọng góp phần giải quyết có

hiệu quả các vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN thực hiện, đó là điều tra viên,

kiểm sát viên, thẩm phán THTT đối với người CTN phạm tội phải là người có

những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động

đấu tranh phòng, chống tội phạm của người CTN (khoản 1 Điều 302). Để các hoạt

động tố tụng trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN đạt hiệu quả, trước

hết những người THTT phải có kiến thức về tâm lí học nói chung và tâm lí của

người CTN nói riêng. Qua đó, người THTT mới có thể thực hiện được tốt nhiệm vụ

của mình và giúp cho người CTN khai báo, hợp tác tốt. Quy tắc Bắc Kinh đã nhấn

mạnh: “Để hoàn thành chức năng của mình một cách tốt nhất, các nhân viên cảnh

sát, những người thường xuyên hoặc chuyên giải quyết những vấn đề liên quan tới

người chưa thành niên hay những người được giao làm công việc ngăn chặn phạm

pháp ở người chưa thành niên cần được hướng dẫn và đào tạo đặc biệt; ở những

thành phố lớn, cần thành lập những đơn vị cơ sở đặc biệt chuyên giải quyết những

trường hợp liên quan tới người chưa thành niên” (Điều 12). Quy định của Bộ luật

TTHS Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Quy tắc Bắc Kinh. Tuy

nhiên, quy định tại Điều 302 Bộ luật TTHS cũng chỉ mới đề cập tới việc điều tra

Page 122: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

118

viên, kiểm sát viên, thẩm phán “phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý

học, về khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh và phòng chống tội

phạm của người chưa thành niên” chứ không bắt buộc họ phải là người được đào

tạo hoặc có chuyên môn về tâm lý học, về khoa học giáo dục người CTN. Chính từ

điều này đã gây ảnh hưởng đến chất lượng điều tra, truy tố, xét xử bị can, bị cáo là

người CTN và dẫn đến sự vi phạm về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể đặc

biệt này. Hiện nay, tuy có quy định về thủ tục đặc biệt dành cho bị can, bị cáo là

người CTN, nhưng Việt Nam chưa có những cơ quan chuyên biệt cho người CTN,

nên những người THTT thường phải kiêm nhiệm giải quyết cả những vụ án do

người thành niên thực hiện và những vụ án do người CTN thực hiện. Do đó, các cơ

quan THTT cần có sự chuyên môn hóa về tổ chức cũng như về nguồn nhân lực để

giải quyết các vụ án do người CTN thực hiện.

Thứ nhì, quy định về quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối NBC bắt buộc

theo điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS còn chưa cụ thể, rõ ràng. Trong trường

hợp bị can, bị cáo là người CTN và người đại diện hợp pháp của họ không mời

NBC thì các cơ quan THTT vẫn phải yêu cầu Đoàn luật sư cử NBC cho họ. Bị can,

bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối

NBC. Đối với quyền từ chối NBC của bị can, bị cáo là người CTN và người đại

diện hợp pháp của họ có thể hiểu là họ có quyền hoàn toàn từ chối, họ không cần có

sự giúp đỡ của NBC và tự mình thực hiện QBC. Thực tế đã xảy ra những trường

hợp bị can, bị cáo CTN hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối sự giúp đỡ, hỗ

trợ về mặt pháp lý của NBC vì họ không được giải thích về nội dung của QBC, hay

về vấn đề thù lao. Trong trường hợp này các cơ quan THTT phải giải thích cho bị

can, bị cáo CTN và người đại diện hợp pháp của họ biết rõ về quyền của họ trong tố

tụng đặc biệt là vai trò của NBC trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ

[99, tr. 16]. Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng quy định trên chỉ phù hợp với đối

tượng được quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 57 tức là bị can, bị cáo theo tội có

khung hình phạt cao nhất là tử hình. Bởi lẽ những đối tượng này thường là có khả

Page 123: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

119

năng nhận thức đúng đắn và đầy đủ về hành vi từ chối NBC của mình và họ nhận

biết được hậu quả có thể xảy ra nếu từ chối NBC. Do đó, họ có quyền tự mình quyết

định việc yêu cầu hay từ chối NBC. Còn những đối tượng được quy định tại điểm

(b) là những đối tượng chưa đủ trình độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần

hoặc là người bị nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì họ khó có thể nhận thức

được đầy đủ và đúng đắn về hành vi từ chối NBC của mình. Và đồng thời họ khó có

thể hiểu được hậu quả có thể xảy ra khi họ từ chối NBC. Qua đó, chúng tôi cho rằng

cơ quan THTT cần phải xem xét quyết định chấp nhận hay không chấp nhận quyền

từ chối NBC của bị can, bị cáo là người CTN hoặc người có nhược điểm về tâm

thần hoặc thể chất. Chính vì mục đích của việc quy định trường hợp bào chữa bắt

buộc là nhằm bảo vệ tuyệt đối QCN nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người

CTN nói riêng trong những trường hợp mà nhà làm luật dự liệu là cần thiết phải có

sự có mặt của NBC. Đối với yêu cầu thay đổi NBC của bị can, bị cáo là người CTN

và người đại diện hợp pháp của họ, thì “Tòa án căn cứ vào khoản 2, khoản 3 Điều

56 Bộ luật Tố tụng hình sự để chấp nhận hoặc không chấp nhận. Trong trường hợp

tòa án không chấp nhận yêu cầu thay đổi người bào chữa thì tiến hành xét xử vụ án

theo thủ tục chung” [41]. Trong trường hợp chấp nhận yêu cầu thay đổi NBC của bị

can, bị cáo là người CTN và người đại diện hợp pháp, cơ quan THTT phải có trách

nhiện yêu cầu Đoàn luật sư cử NBC khác cho họ. Trong Điều 57 Bộ luật TTHS

không quy định quyền yêu cầu thay đổi NBC được bao nhiêu lần. Theo quan điểm

của chúng tôi, để đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người CTN và tạo sự thuận lợi

cho các hoạt động tố tụng của các cơ quan THTT thì luật nên quy định cho các chủ

thể nêu trên chỉ được yêu cầu thay đổi một lần.

Thứ ba, quy định về người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là người

CTN còn chưa rõ ràng. Bộ luật TTHS không nêu khái niệm “người đại diện hợp

pháp” như đối với những người tham gia tố tụng khác. Trong một số điều luật cũng

có xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo CTN phải có phải có người đại diện hợp

pháp tham gia (các Điều 57 và 305), Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02-10-

Page 124: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

120

2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định

trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật TTHS 2003 cũng chỉ nêu

trong trường hợp bị can, bị cáo là người CTN thì có người đại diện hợp pháp, còn ai

là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo cũng chưa hướng dẫn cụ thể. Trong

thực tiễn xét xử, việc xác định người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo là người

CTN cũng chưa thống nhất. Một số tòa án xác định bố, mẹ bị cáo là người đại diện

hợp pháp của bị cáo hoặc người giám hộ của bị cáo; có tòa án chỉ xác định anh, chị,

cô, dì, chú, bác.v.v…là người đại diện hợp pháp hoặc người giám hộ của bị cáo; có

tòa án chỉ xác định là người giám hộ của bị cáo mà không xác định họ là người đại

diện hợp pháp của bị cáo; có tòa án xác định đại diện nhà trường, Đoàn Thanh niên,

Hội phụ nữ… là người đại diện hợp pháp hoặc người giám hộ của bị cáo. Việc xác

định người giám hộ của bị cáo như trên rõ ràng chưa chính xác và không đúng với

quy định của Bộ luật TTHS về tư cách tham gia tố tụng. Khái niệm “người giám

hộ” chỉ dùng trong quan hệ pháp luật dân sự, còn pháp luật TTHS chỉ quy định

“người đại diện hợp pháp” của bị can, bị cáo. Việc xác định không chính xác tư

cách tham gia tố tụng sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý khác nhau khi cần phải xem xét

tính đúng đắn của các bản án, quyết định của Tòa án đối với quyền và nghĩa vụ của

người đại diện hợp pháp của bị cáo.

Qua đó, cần thấy rằng, người đại diện hợp pháp của bị cáo chỉ có khi bị cáo

là người CTN. Người đại diện hợp pháp của bị cáo là người CTN là đại diện đương

nhiên chứ không phải là đại diện theo ủy quyền. Không ai có thể ủy quyền cho

người khác thay mình tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo được; ngay trong

trường hợp đã có người đại diện hợp pháp, nhưng bị cáo vẫn phải tham gia tố tụng,

người đại diện hợp pháp chỉ là người giúp đỡ bị cáo thực hiện quyền và nghĩa vụ tố

tụng theo quy định của Bộ luật TTHS.

Thứ tư, quy định về trường hợp cần thiết phải có mặt của đại diện gia đình bị

can trong khi hỏi cung tại CQĐT còn chưa hợp lý. Khoản 2 Điều 306 quy định:

“trong trường hợp cần thiết, việc hỏi cung bị can tại Cơ quan điều tra phải có mặt

Page 125: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

121

đại diện gia đình bị can”. Có thể nhận thấy quy định này quá chung chung về căn

cứ để thực hiện biện pháp này. Cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản nào hướng

dẫn cụ thể như thế nào là trường hợp cần thiết mà “trường hợp cần thiết” thường

phụ thuộc vào ý chí chủ quan của CQĐT. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như

tại phiên tòa, nếu theo đánh giá của Tòa án thì trường hợp đó có thể coi là trường

hợp cần thiết, nhưng việc hỏi cung bị can tại CQĐT không có mặt đại diện của gia

đình bị can (do CQĐT đánh giá trường hợp này không phải là trường hợp cần thiết)

thì Tòa án không được trả hồ sơ để điều tra bổ sung với lý do vi phạm nghiêm trọng

thủ tục tố tụng [15]. Chính từ việc quy định chưa rõ ràng như vậy cho nên đại diện

của gia đình của bị can là người CTN hiếm khi được CQĐT mời tham dự những

buổi hỏi cung với lý do “để giữ bí mật trong quá trình điều tra tội phạm”. Thông

thường, đại diện của gia đình chỉ được CQĐT mời tham gia tố tụng khi sắp kết thúc

điều tra hay khi cần giải quyết về bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại do

người CTN phạm tội gây ra, hoặc họ tham dự phiên tòa chủ yếu là chỉ đến xem Tòa

án xét xử và nghe tuyên án.

Thứ năm, quy định việc quyết định xét xử kín đối với bị cáo là người CTN

tại khoản 1 Điều 307 Bộ luật TTHS cũng chưa rõ ràng. “Trong trường hợp cần

thiết, Tòa án có thể quyết định xét xử kín”. Tại Điều 18 quy định “trong trường hợp

đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí

mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án xét xử kín, nhưng phải

tuyên án công khai”. Tuy nhiên, đối với những vụ án mà bị cáo là người CTN thì

ngoài những điều kiện kể trên, tùy thuộc vào nội dung phạm tội mà người CTN đã

thực hiện, khi cần thiết phải giữ bí mật đời tư của người CTN, của gia đình họ, hoặc

khi thấy không nên để những người khác biết về diễn biến hành vi phạm tội của họ,

hoặc theo yêu cầu của gia đình hay bản thân người CTN…thì Tòa án có thể quyết

định việc xử kín để tránh gây ảnh hưởng xấu đối với người CTN và đảm bảo mục

đích của luật hình sự là giáo dục người CTN phạm tội trở thành một người tốt. Điều

này thể hiện được sự quan tâm, bảo vệ bị cáo là người CTN của Bộ luật TTHS.

Page 126: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

122

Nhưng theo chúng tôi cần phải quy định cụ thể hơn về những trường hợp Tòa án

phải xét xử kín trong những vụ án mà bị cáo là người CTN vì hiện nay chưa có một

văn bản pháp luật nào quy định thế nào là “những trường hợp cần thiết” mà tùy

thuộc vào các hình thức xét xử do Tòa án lựa chọn, cho nên dễ dẫn đến việc Tòa án

lạm quyền, không tôn trọng các quyền của bị cáo. Và theo quan điểm của chúng tôi

không cần thiết phải mở phiên tòa công khai trong tất cả những vụ án có bị cáo là

người CTN tham gia. Vì nếu đưa bị cáo là người CTN ra xét xử trước chỗ đông

người tham dự thì về mặt tâm lý sẽ để lại dấu ấn tâm lý tiêu cực cho người CTN.

Nghiên cứu pháp luật một số nước cho thấy, hình thức xét xử kín cũng được áp

dụng nhiều trong những vụ án mà bị cáo là người CTN. Như “không xử công khai

các vụ án nếu người phạm tội từ đủ 14 đến 16 tuổi. Nhìn chung cũng không xử công

khai các vụ án đối với người phạm tội chưa đủ 18 tuổi. Phải tuyên bố trước Tòa lý

do không xử các vụ án công khai” (Điều 111 Bộ luật TTHS nước Cộng hòa nhân

dân Trung Hoa). Còn ở Thái Lan, phiên tòa xét xử các vụ án người CTN đều phải

được xử kín (Điều 54 Luật Tổ chức Tòa án người CTN và gia đình Thái Lan 1991).

Có thể nói hầu như các văn bản pháp luật của các nước đều tôn trọng và thực hiện

quy tắc của Liên hợp quốc: “Các thủ tụng tố tụng phải nhằm đảm bảo những lợi ích

tốt nhất của trẻ em và phải được tiến hành trong bầu không khí hiểu biết cho phép

trẻ em tham gia vào và tự do bày tỏ ý kiến” [19].

Thứ sáu, những quy định chưa hợp lý của Bộ luật TTHS về đảm bảo quyền

của NBC, gây khó khăn cho NBC thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Có thể

nói, đây là những vướng mắc chủ yếu ảnh hưởng đến việc bảo đảm QBC của bị can,

bị cáo là người CTN. Cụ thể là:

- Quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC. Việc tham gia tố tụng của

NBC không chỉ bảo đảm tốt hơn QBC của bị can, bị cáo (nói chung), các đương sự

khác mà còn giúp các cơ quan THTT phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự

thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy vậy, hoạt động

tham gia tố tụng của NBC còn bị hạn chế ở một số giai đoạn, nhất là giai đoạn điều

Page 127: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

123

tra…Trong đó, giấy chứng nhận NBC được coi là một rào cản tham gia tố tụng của

NBC. Việc cấp giấy chứng nhận NBC trong trường hợp tham gia bào chữa cho bị

can, bị cáo là 3 ngày, đối với trường hợp bào chữa cho người bị tạm giữ là trong

thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đề nghị của NBC kèm theo giấy tờ liên quan

đến việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lý do (khoản 4

Điều 56 Bộ luật TTHS). Nhưng trên thực tế việc cấp giấy chứng nhận NBC không

bao giờ bảo đảm đúng thời hạn luật định. Qua nghiên cứu và khảo sát lấy ý kiến của

nhiều NBC trên nhiều địa phương khác nhau, chúng tôi nhận được 80/95 (chiếm

84,21%) phiếu thăm dò ý kiến của NBC cho rằng NBC thường gặp khó khăn trong

việc xin cấp giấy chứng nhận NBC trong giai đoạn điều tra. Bất cập về giá trị của

giấy chứng nhận NBC: theo quy định tại khoản 3 Điều 27 Luật Luật sư thì “Giấy

chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư có giá trị trong các giai đoạn tố tụng”;

nhưng khoản 4 Điều 56 Bộ luật TTHS lại quy định “trong thời hạn ba ngày, kể từ

ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc

bào chữa, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xem xét, cấp giấy chứng

nhận người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng

nhận thì phải nêu rõ lý do…”. Điều này dẫn đến sự mâu thuẫn trong cách hiểu về

giá trị của giấy chứng nhận NBC. Quy định trong Luật Luật sư được hiểu là giấy

chứng nhận của luật sư được cấp ở giai đoạn điều tra sẽ có giá trị áp dụng ở cả các

giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm; nhưng quy định trong Bộ luật TTHS

thì được hiểu là NBC tham gia tố tụng ở giai đoạn nào thì được cấp giấy chứng

nhận tham gia tố tụng ở giai đoạn đó: giai đoạn điều tra do CQĐT Bộ công an cấp,

giai đoạn truy tố do Viện kiểm sát cấp và giai đoạn xét xử do Tòa án cấp. Trên thực

tế, luật sư phải làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận trong từng giai đoạn. NBC

khi được hỏi về giấy chứng nhận NBC có phải có giá trị xuyên suốt trong hoạt động

bào chữa của luật sư hay không, có 72/95 phiếu trả lời (chiếm 75,79%) cho rằng

mỗi giai đoạn là mỗi lần phải làm lại thủ tục từ đầu. Để khắc phục những vướng

mắc này, Bộ công an đã ban hành Thông tư số 70/2011/TT-BCA ngày 10-10-2011

quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến việc bảo

Page 128: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

124

đảm QBC trong giai đoạn điều tra VAHS, cụ thể về thủ tục cấp giấy chứng nhận

NBC đối với luật sư (Điều 5), nhưng cho đến nay việc gây trở ngại cho NBC trong

việc xin cấp giấy chứng nhận NBC vẫn còn xảy ra.

Sự tham gia của NBC trong giai đoạn điều tra là sự phản biện có lợi cho

CQĐT. Bộ luật TTHS đã cụ thể hóa nội dung này của Hiến pháp thành một trong

những nguyên tắc cơ bản của TTHS – nguyên tắc bảo đảm QBC của người bị tạm

giữ, bị can, bị cáo (Điều 11), với quy định “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án

có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa

của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự”. Khi đã là nghĩa vụ do luật định

thì cơ quan THTT bắt buộc phải chấp hành và phải thực hiện. Chính vì sự quan

trọng của QBC và nguyên tắc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo cho chúng ta cơ sở

khẳng định rằng, vi phạm nghĩa vụ của cơ quan THTT về bảo đảm QBC phải được

nhìn nhận là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và các cơ quan này phải gánh

chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.

- Vấn đề thời điểm tham gia tố tụng của NBC trong các trường hợp quy định

tại điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật TTHS. Khi nào thì phát sinh các nghĩa vụ của

CQĐT bảo đảm sự tham gia của NBC theo điểm b khoản 2 Điều 57 ? Trường hợp

bị can phạm tội là người CTN nhưng đến thời điểm khởi tố bị can đã đủ tuổi thành

niên thì cần có sự tham gia bắt buộc của NBC hay không? Luật chưa quy định rõ

ràng về điều này.Theo Nghị quyết số 03 ngày 02-10-2004 của Hội đồng Thẩm phán

TAND tối cao, thời điểm xác định bị can có phải là người CTN hay không để áp

dụng khoản 2 Điều 57 không phải là thời điểm thực hiện tội phạm mà là thời điểm

khởi tố bị can. Trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ ngày tháng năm sinh của

bị can (Điều 126). Do đó, nếu tại thời điểm khởi tố bị can CQĐT có thông tin chính

thức về bị can là người chưa đủ 18 tuổi thì kể từ lúc đó CQĐT có nghĩa vụ bảo đảm

NBC cho bị can.

Page 129: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

125

- Vấn đề thù lao chi trả cho NBC cũng là vấn đề chưa được quy định cụ thể.

Nội dung này mới chỉ được ghi nhận trong Nghị định số 123/2013/NĐ-CP do Chính

phủ ban hành ngày 14-10-2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật luật sư (sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực từ ngày 01-7-2013). Theo đó, tại

khoản 1 Điều 19 của Nghị định ghi nhận: “Đối với những vụ án do cơ quan tiến

hành tố tụng yêu cầu luật sư thì mức thù lao được trả cho 01 ngày làm việc của luật

sư là 0,4 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy định”. Đây là hướng dẫn chỉ dành

cho luật sư tham gia bào chữa, còn đối với BCVND có áp dụng mức thù lao trên

hay không vẫn chưa được luật quy định. Như vậy, trong trường hợp bào chữa theo

yêu cầu của các cơ quan THTT thì thù lao nhà nước trả theo mức cố định là 0,4 x

1.150.000 đ (mức lương cơ sở theo Nghị định 66/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban

hành ngày 27-6-2013) = 460.000 đồng/ngày làm việc của luật sư. Trong khi đó, bị

can rất cần sự hiện diện và trợ giúp của NBC ở những thời điểm như: khi nhận tống

đạt quyết định khởi tố bị can; khi bị hỏi cung; khi nhận tống đạt cáo trạng…NBC

phải tham gia vào tất cả hoạt động tố tụng liên quan đến bị can, bị cáo là người

CTN. Nhưng trên thực tế, NBC ít khi được CQĐT, Viện kiểm sát thanh toán cho

các khoản thù lao này, chưa kể đến mức thù lao mà nhà nước trả cho NBC chưa

tương xứng với khối lượng công việc mà NBC đã bỏ ra. Chính từ điều này đã dẫn

đến việc thiếu trách nhiệm về đạo đức nghề nghiệp của NBC trong hoạt động bào

chữa chỉ định cho bị can, bị cáo là người CTN.

Mặc dù những quy định trong Bộ luật TTHS hiện hành đã phản ánh được

tinh thần bảo vệ quyền trẻ em đối với trường hợp người CTN phạm tội. Tuy nhiên,

qua những phân tích trên cho thấy được những hạn chế trong các quy định của Bộ

luật TTHS phần nào ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật, gây cản trở và khó khăn

cho việc bào chữa, đồng thời không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị can,

bị cáo là người CTN trong TTHS. Việc nhận biết những thiếu sót này có ý nghĩa

quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả áp dụng của các quy phạm pháp luật, để từ

đó đề xuất những hướng sửa đổi, bổ sung phù hợp.

Page 130: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

126

2.2.3.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật

- Về ý thức trách nhiệm của cơ quan THTT, người THTT: thực tế giải quyết

VAHS có người CTN phạm tội tham gia cho thấy, mặc dù chất lượng công tác bảo

đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN đã được nâng cao kể từ khi có Nghị

quyết 49/NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020”. Tuy nhiên, theo Báo cáo của Chánh án TAND tối cao về công tác

của tòa án tại kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa XIII ngày 25-10-2013, số lượng án xét

xử trong năm 2013 là 364.819 vụ án các loại trong tổng số 395.415 vụ án đã thụ lý

(đạt tỷ lệ 92,3 %), tăng 34.474 vụ so với năm 2012. Nhưng, chỉ tiêu “giảm ít nhất

1% tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan so với năm 2012”

mà Nghị quyết số 37 của Quốc hội đề ra là không đạt được (số VAHS trên phạm vi

cả nước bị xem xét lại theo thủ tục Giám đốc thẩm và Tái thẩm là 11.756 vụ). Theo

Báo cáo, nguyên nhân chính dẫn đến việc tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa là

do lỗi chủ quan của thẩm phán, một số thẩm phán, cán bộ Tòa án hạn chế về năng

lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân. Nguyên nhân khách

quan như do quy định pháp luật chưa chặt chẽ… đã dẫn đến số lượng các vụ án bị

xem xét lại theo thủ tục Giám đốc thẩm và Tái thẩm trong thời gian qua là rất lớn

[112]. Qua đó, cho thấy việc ý thức tuân thủ pháp luật của các cơ quan THTT vẫn

còn nhiều bất cập.

Khi áp dụng những quy định của Bộ luật TTHS về khởi tố, điều tra, truy tố

đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN, hiện nay chúng ta chưa có cơ

quan và đội ngũ cán bộ chuyên trách để giải quyết những vụ án do người CTN thực

hiện. Trong suốt quá trình tố tụng, từ khi bắt đầu khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,

cũng như giai đoạn thi hành án, thực tế cho thấy, không có sự phân biệt giữa việc

giải quyết những vụ án này với những vụ án do người thành niên thực hiện. Theo

Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006, 2009),

các CQĐT trong hệ thống Công an nhân dân có nhiệm vụ điều tra tất cả các loại tội

quy định từ chương XII đến chương XXII Phần các tội phạm của BLHS. Về nguyên

Page 131: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

127

tắc, CQĐT của cấp nào thì có trách nhiệm điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền

xét xử của TAND cùng cấp, trừ các tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT

VKSND tối cao và Cơ quan An ninh điều tra trong Công an nhân dân. Mỗi cơ quan

có các bộ phận chuyên trách điều tra theo nhóm tội và khung hình phạt theo BLHS

mà không có sự phân định thẩm quyền điều tra theo chủ thể thực hiện hành vi phạm

tội. Như vậy, CQĐT chưa có bộ phận chuyên trách điều tra các vụ án mà người

phạm tội là người CTN.

Đối với cơ quan Viện kiểm sát, theo Luật tổ chức VKSND thì hệ thống cơ

quan VKSND bao gồm các VKSND và các Viện kiểm sát quân sự. Về cơ cấu tổ

chức, ở mỗi cấp đều chia thành các bộ phận nghiệp vụ theo các lãnh vực thực hành

quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án

hình sự của các CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra… Như vậy, cơ cấu tổ chức của VKSND cũng không có đơn vị

chuyên trách về thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp về các

vụ án hình sự do người CTN thực hiện.

Đối với cơ quan xét xử, theo Luật Tổ chức TAND năm 2002 thì hệ thống

Tòa án bao gồm các TAND và các Tòa án quân sự. Hệ thống TAND được tổ chức

cùng với đơn vị hành chính từ cấp huyện đến cấp trung ương. Về thẩm quyền, các

TAND có thẩm quyền xét xử các VAHS, dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.

Chúng ta chưa có cơ quan xét xử riêng cho đối tượng người CTN. TAND cấp tỉnh,

thành phố trở lên thì những VAHS nói chung, trong đó có những vụ án do người

CTN thực hiện, là do Tòa hình sự giải quyết. Đối với cấp quận, huyện do số lượng

thẩm phán còn thiếu nên đa số Tòa án phân công cho một thẩm phán giải quyết tất

cả các loại án khác nhau, bao gồm cả án hình sự, dân sự, kinh tế… Chúng ta chưa

có đội ngũ thẩm phán chuyên trách có kinh nghiệm và am hiểu tâm sinh lý của

người CTN. Do đó, khi xét xử, họ không thể nhìn thấy hết được những nguyên nhân

tiềm ẩn bên trong, mục đích, động cơ thúc đẩy người CTN thực hiện hành vi phạm

tội. Họ xét xử chủ yếu là dựa trên hành vi trái pháp luật hình sự, hậu quả thực tế xảy

Page 132: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

128

ra và mức độ lỗi của người CTN. Nghiên cứu thực tiễn công tác xét xử đối với

những vụ án do người CTN thực hiện, khi được hỏi có sự khác biệt trong việc xét

xử những vụ án do người CTN thực hiện và những vụ án do người đã thành niên

thực hiện hay không, có 5% thẩm phán trả lời có sự khác biệt và 85% trả lời là

không có sự khác biệt và 10% không có ý kiến (phụ lục 2)

Qua khảo sát bằng phương pháp phát phiếu thăm dò ngẫu nhiên đối với các

đối tượng là những người làm công tác THTT: điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm

phán tại các địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Kiên Giang, Tiền Giang

và Lâm Đồng, cho chúng tôi kết quả như sau: khi được hỏi có được đào tạo chuyên

sâu về điều tra những vụ án do người CTN thực hiện hay không, kết quả có 10%

phiếu trả lời có được học cơ bản, nhưng không chuyên sâu và 90% trả lời không

được đào tạo chuyên sâu (phụ lục 7). Với kết quả này cho thấy, người THTT chưa

được trang bị những kiến thức cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như

về hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm của người CTN. Do đó, kết quả điều

tra những loại vụ án này đôi khi còn thiếu sự khách quan, còn nhiều hạn chế.

Tuy Bộ luật TTHS 2003 có một chương độc lập về thủ tục tố tụng đối với

người CTN, nhưng lại chưa có văn bản pháp luật nào quy định về đội ngũ những

người THTT chuyên trách các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình

sự đối với những vụ án do người CTN thực hiện. Điều đó cho thấy, hiện nay những

người THTT đang phải kiêm nhiệm giải quyết cả các vụ án do người thành niên

thực hiện. Hơn nữa, quy định về yêu cầu đối với những người THTT khi giải quyết

những vụ án do người CTN thực hiện phải là người có hiểu biết cần thiết về tâm lý

học, khoa học giáo dục cũng như hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của

người CTN tại khoản 1 Điều 302 Bộ luật TTHS như hiện nay còn quá chung chung,

chưa rõ ràng, cụ thể, dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau, “hiểu biết” như thế nào

được xem là “cần thiết” thì tùy thuộc vào sự đánh giá khác nhau của từng địa

phương, từng cơ quan và từng người THTT. Do đó, không có một chuẩn mực

chung, cụ thể để bắt buộc những người THTT phải đảm bảo khi THTT. Từ đó dẫn

Page 133: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

129

đến việc hầu như những người THTT không đảm bảo đáp ứng yêu cầu này. Vì vậy,

muốn đảm bảo cho các hoạt động TTHS được tiến hành thuận lợi, thì đội ngũ

những người THTT cần phải có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực tâm lý học, khoa

học giáo dục đối với người CTN.

Từ những phân tích trên cho thấy, trong hệ thống các cơ quan tư pháp, chúng

ta chưa có cơ quan, bộ phận chuyên trách để giải quyết những trường hợp người

thực hiện hành vi phạm tội là người CTN, đồng thời pháp luật nước ta chưa có sự

quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách có những tiêu chuẩn, kiến

thức cần thiết để giải quyết những vụ án này. Trên thực tế, những người THTT

thường ít có sự phân biệt khi giải quyết những vụ án do người CTN với những vụ

án do người đã thành niên thực hiện.

- Về ý thức trách nhiệm của NBC : tính đến ngày 10/11/2013, số lượng luật

sư trên cả nước là 8.265 luật sư và 3.500 người tập sự hành nghề luật sư. Riêng

Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh có 3.610 luật sư và 1.429 người tập sự hành

nghề luật sư, chiếm hơn 45% số lượng luật sư cả nước. Theo báo cáo chưa đầy đủ

của các tổ chức hành nghề, trong 5 năm vừa qua số vụ án, vụ việc do các tổ chức

hành nghề tại thành phố nhận bào chữa cho các bị can, bị cáo là 5.122 VAHS.

Trong các VAHS, 3.024 vụ có luật sư bào chữa do cơ quan THTT chỉ định và 2.098

vụ do khách hàng yêu cầu (theo báo cáo tổng kết hoạt động nhiệm kỳ 2008-2013 và

phương hướng hoạt động nhiệm kỳ 2013-2018 của Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí

Minh ngày 25-11-2013). Theo báo cáo của 51 Đoàn luật sư, từ tháng 5/2009 đến

nay, số lượng vụ việc luật sư tham gia các vụ án và các vụ việc cung cấp dịch vụ

pháp lý cho cá nhân và tổ chức là 51.109 VAHS (trong đó có 23.295 vụ được mời,

27.814 vụ theo yêu cầu của cơ quan THTT). Trong đó có khoảng 36,5% số luật sư

hành nghề trong lĩnh vực tranh tụng [3]. Số vụ án mà luật sư tham gia theo yêu cầu

của cơ quan THTT như sau: năm 2011: 7.767 vụ; năm 2012: 8.428 vụ.

Page 134: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

130

Qua tổng kết thực tiễn thi hành Luật Luật sư, cho thấy, đội ngũ luật sư đã

phát triển nhanh về số lượng. Hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư

được củng cố một bước rất quan trọng với việc thành lập Liên đoàn luật sư Việt

Nam và củng cố 63 Đoàn luật sư/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Chất

lượng của đội ngũ luật sư ở nước ta từng bước được nâng lên, số luật sư đã qua đào

tạo nghề luật sư chiếm hơn 75% tổng số luật sư của cả nước. Hoạt động bào chữa

trong các VAHS theo yêu cầu của cơ quan THTT được Liên đoàn luật sư, các Đoàn

luật sư và các luật sư xác định là nhiệm vụ chính trị-pháp lý quan trọng của đội ngũ

luật sư. Trong những năm qua, đặc biệt là những năm gần đây đội ngũ luật sư đã

đảm nhận 100% việc bào chữa trong các vụ án do cơ quan THTT yêu cầu. Chất

lượng bào chữa của các luật sư trong các vụ án nêu trên ngày càng được nâng cao.

Mặc dù mức thù lao do Nhà nước thanh toán còn rất thấp nhưng đại đa số luật sư

đều thực hiện công việc bào chữa với tinh thần trách nhiệm cao. Tuy nhiên, bên

cạnh những kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta vẫn còn

nhiều bất cập, nhiều hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề, đạo

đức và ứng xử nghề nghiệp. Còn một bộ phận luật sư vi phạm đạo đức, vi phạm

pháp luật thậm chí bị kết án [35]. Thực tiễn hoạt động bào chữa cho thấy, khi các

quy định của Bộ luật TTHS được thực hiện sẽ góp phần cùng với cơ quan THTT

xác định sự thật vụ án, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Tuy

nhiên, đã có không ít trường hợp, NBC đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ

của mình khi làm nhiệm vụ bào chữa cho bị can, bị cáo là người CTN. Nhiều NBC

do trình độ, năng lực cũng như kỹ năng hạn chế nên đã không phát hiện ra các vi

phạm nghiêm trọng trong quá trình điều tra, thực hiện nghĩa vụ một cách qua loa,

chiếu lệ. Có trường hợp bị can bị tạm giam không đủ căn cứ pháp luật; bị cáo bị xử

phạt mà không được xem xét thỏa đáng các tình tiết giảm nhẹ, hay quyết định của

Tòa án trái hẳn với nhận định của NBC nhưng sau đó NBC vẫn không bày tỏ thái

độ của mình đối với các quyết định đó, không giúp người bị buộc tội tiếp tục bảo vệ

các quyền lợi chính đáng của mình bằng cách trực tiếp kháng cáo hay khiếu nại các

quyết định, bản án mà theo NBC là chưa thỏa đáng chỉ vì một lý do đơn giản là ý

Page 135: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

131

thức trách nhiệm của NBC không có. Có tình trạng một số NBC chưa hiểu rõ vai

trò, nhiệm vụ đặc trưng của NBC là không chỉ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

bị can, bị cáo trên cơ sở của pháp luật mà còn bảo vệ sự thật khách quan của vụ án,

bảo vệ pháp chế. Hai nhiệm vụ này luôn gắn liền và không tách rời nhau. Chính vì

vậy họ đã “cố tình bảo vệ quyền và lợi ích không hợp pháp của bị can, bị cáo,

không phù hợp với tình tiết không khách quan của vụ án, trái với quy định của pháp

luật, gây mất lòng tin của Hội đồng xét xử và không được những người tham dự

phiên tòa ủng hộ”. [46]

- Những hạn chế xuất phát từ ý thức của bị can, bị cáo là người CTN: bên

cạnh những nguyên nhân chính từ phía các cơ quan THTT, người THTT và NBC, thì

một phần không nhỏ nguyên nhân khiến QBC của bị can, bị cáo là người CTN chưa

được đảm bảo trọn vẹn xuất phát từ chính bản thân họ. Bị can, bị cáo là người CTN

thiếu tính chủ động trong việc bào chữa và nhờ người khác bào chữa. Khi bị rơi vào

vòng lao lý, họ phó mặc cho các cơ quan THTT quyết định số phận của mình. Bên

cạnh tâm lý hoang mang, lo sợ và sự thiếu hiểu biết về pháp luật cũng như không có

kỹ năng bào chữa nên hầu hết các trường hợp tự bào chữa cho thấy chất lượng không

cao. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là xuất phát từ lý do sau:

Hạn chế về nhận thức từ phía bị can, bị cáo là người CTN. Bị can, bị cáo là

người CTN có thể vì nhận thức hạn chế, chưa đầy đủ nên đã có hành vi phạm tội.

Thế nhưng pháp luật bắt buộc họ phải nhận thức việc thực hiện hành vi nguy hiểm

cho xã hội là trái pháp luật và đáng phải chịu hình phạt. Sự hạn chế nhận thức là

một trong những nguyên nhân đưa đến việc một người thực hiện hành vi phạm tội

và làm xuất hiện yêu cầu thực hiện QBC. Không phải bị can, bị cáo là người CTN

nào cũng biết và tích cực thực hiện QBC của mình. Kết quả khảo sát 100 bị can, bị

cáo là người CTN trong các VAHS có đến 15% ý kiến không cần NBC vì cho rằng,

hành vi phạm tội rõ ràng các cơ quan THTT sẽ làm tròn chức năng; tội phạm đã rõ

ràng (phụ lục 1); có suy nghĩ tiêu cực về cuộc sống; bất cần... Đây là sự nhận thức

chưa đầy đủ, bởi vì về mặt lý thuyết bất cứ VAHS nào cũng có thể bào chữa được.

Page 136: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

132

2.2.3.3. Một số vướng mắc, khó khăn khác

- Về cơ sở vật chất để tiến hành hoạt động điều tra: một trong những mặt

vướng mắc, khó khăn khác không kém phần quan trọng là cơ sở vật chất để tiến hành

hoạt động điều tra, cụ thể là phòng hỏi cung. Hiện nay, bị can là người CTN vẫn bị

hỏi cung tại những nơi lấy cung của người thành niên. Do tuổi còn nhỏ và đặc tính dễ

bị tổn thương, tâm lý sợ công an nên trẻ em rất nhạy cảm với việc ép buộc hơn người

thành niên, do đó dễ dẫn đến việc cho lời khai không đúng, gây bất lợi cho mình. Khi

điều tra viên vẫn sử dụng các chiến thuật hỏi cung như hỏi cung với bị can là người

thành niên, lại không có đại diện gia đình của bị can là người CTN, sẽ gây nên sự sợ

hãi, căng thẳng cho các em. Điều đó không những ảnh hưởng đến quyền lợi của các

em mà còn dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

- Về trình tự thủ tục phiên tòa xét xử người CTN: Bộ luật TTHS nước ta mặc

dù đã quy định một chương riêng về thủ tục đặc biệt đối với người CTN nhưng vẫn

chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xét xử đối với người CTN. Các phiên tòa

xét xử người CTN hiện nay cũng giống như xét xử đối với người thành niên. Việc

xét xử được tiến hành ở phòng xử án chính thức dành chung cho cả người thành

niên và người CTN. Không khí trang nghiêm của tòa án, các thủ tục phiên tòa, cũng

như cách trang trí, các vật dụng bố trí tại phòng xử án đối với người CTN…không

có sự khác biệt. Với tâm lý chưa ổn định, nhạy cảm và dễ bị ảnh hưởng bởi tác động

bên ngoài, từ thái độ của người lớn tuổi, người CTN cần có môi trường xét xử phù

hợp, thân thiện. Việc người CTN bị đưa ra xét xử trong một môi trường giống như

các bị cáo đã thành niên (nếu họ là đồng phạm trong một vụ án) làm cho người

CTN bị ảnh hưởng tiêu cực từ phía bị cáo đã thành niên và có thể họ sẽ liều lĩnh và

nguy hiểm hơn sau khi bị đưa ra xét xử, không đáp ứng yêu cầu phòng chống tội

phạm.

Page 137: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

133

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trên cở sở lý luận tại chương 1, luận án phân tích thực trạng thực hiện QBC

của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS qua lịch sử lập pháp với các giai đoạn

khác nhau và thực tiễn áp dụng những quy định pháp luật TTHS.

Qua nghiên cứu luận án đưa ra một số nội dung nhận xét khái quát về QBC

của bị can, bị cáo là người CTN trước khi pháp điển hóa Bộ luật TTHS 1988: giai

đoạn từ năm 1945 đến năm 1975, các thủ tục tố tụng dành cho bị can, bị cáo là

người CTN chưa được quy định trong các văn bản pháp luật thời kỳ này. Hoạt động

tố tụng trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN nhìn chung vẫn phải tuân

thủ đầy đủ các quy định về thủ tục dành cho bị can, bị cáo thành niên và không có

sự khác biệt. Tuy nhiên, trong một số văn bản đã thể hiện được việc bảo vệ các

QCN trong TTHS, trong đó có bị can, bị cáo là người CTN. Mặc dù các quy định

này còn rất giản đơn nhưng cũng đã thể hiện được một số quyền của bị can, bị cáo

khi tham gia tố tụng, như “người bị cáo được quyền bào chữa lấy hoặc mượn luật

sư”, một số quy định tiến bộ “nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án có

thể tự mình hay theo lời yêu cầu của bị can cử người ra bào chữa cho bị can” (Điều

2 Sắc lệnh số 69/SL ngày 18-6-1949)… Hiến pháp 1959 ra đời không những là sự

kế thừa các quy định của Hiến pháp 1946 trong thái độ đối với vấn đề bảo vệ quyền

trẻ em mà còn nâng cao, phát triển, bổ sung bằng những nội dung, phương diện

mới. Những quy định trong Hiến pháp 1959, về cơ bản đã đảm bảo cho bị can, bị

cáo nói chung được xét xử một cách công bằng, khách quan theo quy định của pháp

luật, đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển các chế định về thủ tục đặc biệt

đảm bảo QBC cho bị can, bị cáo là người CTN ở các giai đoạn sau này. Khái quát

quá trình phát triển thủ tục TTHS đối với người CTN trong giai đoạn này, có thể

đưa đến một số nhận xét sau: về ưu điểm, bước đầu đã xây dựng được thẩm quyền

THTT của các cơ quan THTT, xây dựng các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS, đề

cập đến các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Về nhược điểm, các văn

bản pháp luật thời kỳ này vẫn chưa thể hiện được rõ nét các quyền và lợi ích hợp

Page 138: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

134

pháp của bị can, bị cáo là người CTN thể hiện thông qua các quy định của pháp luật

TTHS.

Từ năm 1975 đến trước khi ban hành Bộ luật TTHS 1988. Về ưu điểm, Nhà

nước Việt Nam đã ban hành những văn bản pháp luật TTHS quy định cụ thể về

quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, người THTT, các trình tự, thủ tục để

điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Trên cơ sở đó, các quy định này thể

hiện rõ hơn việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người

CTN khi tham gia TTHS, thể hiện quan điểm và chính sách nhân đạo của Đảng và

Nhà nước đối với các chủ thể đặc biệt này. Tuy nhiên, nhược điểm là, mặc dù có

nhiều văn bản pháp luật TTHS được ban hành nhưng các quy định này vẫn bộc lộ

sự mâu thuẫn, thiếu tính đồng bộ, nội dung các quy định vẫn còn nhiều điểm chưa

chặt chẽ dẫn đến những khó khăn nhất định cho các cơ quan THTT. Các quy định

của thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN chưa được tập hợp một

cách có hệ thống, chưa được quy định một cách thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng.

Bộ luật TTHS 1988 ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập

pháp của nước ta. Lần đầu tiên trong Bộ luật TTHS đã có một chương riêng quy

định về thủ tục đối với bị can, bị cáo là người CTN (Chương XXXI). Các quy định

thể hiện rõ nhất trong chương này là quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là

người CTN đã được đảm bảo hơn. Bên cạnh các quy định mang tính chất bảo vệ

quyền lợi cho bị can, bị cáo là người CTN khi tham gia tố tụng, Bộ luật TTHS còn

quy định trách nhiệm đối với những người THTT. Xuất phát từ những quy định

này, người THTT và cơ qua THTT đã biết chú ý hơn đến những thủ tục đặc biệt khi

giải quyết những vụ án do người CTN thực hiện. Tuy nhiên, sau một thời gian thực

hiện, một số quy định của Bộ luật TTHS đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, một số

vấn đề đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người CTN khi tham gia tố tụng vẫn

chưa được pháp luật tố tụng đề cập đến, tình trạng oan sai trong quá trình giải quyết

vụ án vẫn còn xảy ra. Trước tình hình đó việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS cho

phù hợp với tình hình thực tiễn, với công cuộc CCTP và đảm bảo QBC cho bị can,

Page 139: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

135

bị cáo là người CTN là một việc làm mang tính cấp bách. Đó cũng là lý do có sự ra

đời của Bộ luật TTHS sửa đổi, bổ sung năm 2003, đánh dấu một mốc quan trọng

trong giai đoạn thực thi pháp luật TTHS tiếp theo.

Pháp luật TTHS về QBC của bị can, bị cáo là người CTN không phải là một

chế định pháp luật có tính truyền thống lâu đời của pháp luật Việt Nam.Việc tổng

kết lịch sử có ý nghĩa là tìm ra được những mặt tích cực và hạn chế trong các quy

định trước đây. Các quy định về QBC của bị can, bị cáo là người CTN khi chưa có

Bộ luật TTHS đã chưa được tập hợp một cách có hệ thống, chưa được quy định một

cách thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng nhưng cũng đã thể hiện được quan điểm, chính

sách bảo vệ của Đảng và Nhà nước đối với bị can, bị cáo là người CTN. Sau khi Bộ

luật TTHS được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua và có hiệu

lực kể từ ngày 01-01-1989 đã có chương XXXI “Thủ tục về những vụ án mà bị can,

bị cáo là người chưa thành niên”. Qua các lần sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ

tục tố tụng đối với người CTN ngày một hoàn thiện hơn, QBC của người CTN ngày

được bảo đảm và thực hiện trên thực tế nhiều hơn.

Trong chương này, tác giả đã dùng các số liệu thống kê của VKSND tối cao,

TAND tối cao, Liên đoàn luật sư Việt Nam, các Báo cáo của các tổ chức Liên Hợp

quốc để chứng minh cho quá trình áp dụng các quy định của pháp luật TTHS và

thực tiễn thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN. Từ thực trạng khởi tố,

điều tra, truy tố và xét xử bị can, bị cáo là người CTN cho thấy: các cơ quan THTT,

người THTT đã chú ý đến những thủ tục đặc biệt dành cho người CTN mà pháp

luật TTHS đã quy định, tôn trọng và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các

chủ thể đặc biệt này. Các tổ chức xã hội, gia đình đã quan tâm đến người CTN hơn,

tích cực tham gia vào các hoạt động tố tụng, một mặt giúp các cơ quan THTT giải

quyết nhanh chóng, chính xác vụ án, một mặt đảm bảo quyền lợi cho người CTN.

Tình hình bào chữa cho người CTN tuy còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chúng có sự

tiến bộ rõ nét, thể hiện tinh thần, thái độ của NBC, người đại diện hợp pháp.

Page 140: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

136

Thực tiễn thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN đã phản ánh

những kết quả mà hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đã đạt được phản ánh

xu thế phát triển khách quan của thủ tục tố tụng đối với người CTN. Tuy nhiên,

thực tế cũng phản ánh những bất cập, hạn chế, vướng mắc của các cơ quan THTT

trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng.

Nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc đó là: pháp luật về TTHS đối với

người CTN chưa thực sự phù hợp, thống nhất, công tác giải thích pháp luật chưa đầy

đủ, kịp thời; các cơ quan THTT chưa thực sự đáp ứng và thực hiện tốt những quy

định của pháp luật TTHS đối với người CTN; chúng ta chưa có đội ngũ những người

THTT chuyên trách để giải quyết những vụ án này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất

lượng giải quyết các vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN. Mặc dù, trong những năm

qua ở nước ta đã có những công trình nghiên cứu, những hội thảo khoa học về bảo

đảm QCN, trong đó nội dung chủ đạo bao giờ cũng tập trung về QBC của bị can, bị

cáo là người CTN, hay tình hình người CTN phạm tội, nguyên nhân phạm tội, động

cơ…các biện pháp phòng ngừa và xử lý đối với người CTN phạm tội v.v…cũng đã

chỉ ra rằng một trong những bất cập, hạn chế, vướng mắc của hệ thống tư pháp đối

với người CTN của nước ta là chưa có Tòa án chuyên biệt dành cho người CTN.

Cũng do chưa có Tòa án cho người CTN nên người CTN là bị cáo, người bị hại hay

là người làm chứng đều phải đối diện pháp đình và thủ tục tố tụng dành cho người

lớn. Độ tuổi, sự nhận thức, điều kiện sống , hoàn cảnh phạm tội…tất cả chỉ là những

tình tiết dừng lại ở mức độ “xem xét” khi HĐXX quyết định bản án.

Tóm lại, những năm vừa qua, Việt Nam đã có những cố gắng trong việc

hoàn thiện hệ thống pháp luật tư pháp đối với người CTN, trong đó có thủ tục tố

tụng xét xử đối với người CTN. Tuy nhiên, để tạo môi trường điều tra, truy tố và xét

xử thân thiện, đáp ứng những yêu cầu bảo vệ và thúc đẩy các quyền trẻ em và QBC

của người CTN theo chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là diễn biến tình hình tội phạm

người CTN, cần sớm sửa đổi, bổ sung những bất cập còn tồn tại trong quy định của

pháp luật TTHS hiện hành là điều hết sức cần thiết.

Page 141: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

137

CHƯƠNG 3

TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

3.1. Yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa trong cải cách tư pháp và xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

3.1.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị

cáo là người chưa thành niên ở Việt Nam hiện nay.

Trong những năm qua, công tác tư pháp hình sự đã có những chuyển biến

tích cực. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các cơ

quan tư pháp ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được củng cố, kiện

toàn. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử có chuyển biến tốt. Chủ trương nâng cao

chất lượng tranh tụng tại phiên tòa được triển khai thực hiện, tạo không khí dân chủ

trong các phiên tòa, vai trò của các luật sư được nhìn nhận tích cực hơn. Tuy nhiên,

những kết quả đó mới là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề

bức xúc nhất. Công tác tư pháp hình sự vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế như:

tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp

còn bất hợp lý, chưa có sự phân định chính xác, hợp lý giữa các chức năng cơ bản

của TTHS dẫn đến việc quy định vai trò, thẩm quyền cụ thể của từng chủ thể tố

tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng còn chưa rõ ràng; còn thiếu cơ chế đảm

bảo thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế đảm bảo

QBC của bị can, bị cáo nói chung và QBC của bị can, bị cáo là người CTN nói

riêng. Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả đấu

tranh phòng, chống tội phạm, đến yêu cầu xây dựng một nền tư pháp dân chủ, minh

bạch, công bằng, nghiêm minh.

Hiến pháp 2013 đã khẳng định Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân (Điều

2). Có thể nói cùng với sự khẳng định xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta,

Page 142: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

138

vấn đề QCN đã được nâng lên tầm cao mới. Về mặt nhận thức chỉ đến năm 1994 tại

Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII khái niệm “Nhà

nước pháp quyền” mới chính thức được nêu lên [97, tr. 23]. Hiện nay trong khoa

học pháp lý thế giới và ở nước ta còn nhiều quan điểm khác nhau xung quanh các

dấu hiệu đặc trưng của nhà nước pháp quyền [96, tr. 32]. Có thể thấy rằng bên cạnh

một số khác biệt thì điểm giống nhau giữa các quan điểm này vẫn là sự khẳng định

một trong những dấu hiệu đặc trưng của nhà nước pháp quyền là vấn đề tôn trọng

và bảo đảm toàn diện QCN, quyền công dân. Tư tưởng hòa hợp giữa lợi ích cá nhân

và nhà nước là một trong những nội dung của học thuyết về nhà nước pháp quyền.

Nhà nước pháp quyền hiện nay là nấc thang phát triển cao nhất của tự do và là sự

phản ánh của tự do trong các văn bản pháp lý. Nhà nước pháp quyền là hình thức

hạn chế quyền lực bằng tự do và QCN [119]. Tự do và quyền của cá nhân là đối

trọng quan trọng của quyền lực nhà nước. Vì vậy, tính ưu tiên của QCN trong quan

hệ với nhà nước là nền tảng để xác định những dấu hiệu tiếp theo của nhà nước

pháp quyền. Căn cứ vào những đặc trưng đó của Nhà nước pháp quyền, có thể thấy

nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống

pháp luật và thực thi pháp luật nghiêm minh. Do đó, yêu cầu “cải cách tổ chức,

nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp” [40, tr. 90] là một

trong những đòi hỏi bức xúc hiện nay, là một đòi hỏi tự thân của nền công lý và dân

chủ XHCN ở nước ta.

Do vậy, ngày 02-6-2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 49/NQ-TW

về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ

Chính trị là sự kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới Nghị quyết 08/NQ-TW.

Nghị quyết 49 đã đề cập cải cách toàn diện nền tư pháp nước nhà và khẳng định

mục tiêu CCTP là xây dựng nền tư pháp vững mạnh, công lý, dân chủ, nghiêm

minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt

Nam XHCN; trong đó hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được

tiến hành thông suốt, có hiệu lực, hiệu quả. Nghị quyết 49 đưa ra định hướng về

Page 143: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

139

hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư

pháp, xây dựng các cơ quan tư pháp, hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, xây

dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bỗ trợ tư pháp, hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ

quan dân cử đối với hoạt động tư pháp, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư

pháp…Riêng về lĩnh vực TTHS, CCTP đã đặt ra những yêu cầu đối với toàn bộ các

cơ quan THTT từ CQĐT đến Viện kiểm sát, Tòa án v.v. Trong đó xác định hoạt

động xét xử là trọng tâm, Tòa án có vị trí trung tâm, do vậy cải cách Tòa án là khâu

đột phá. Trong hoạt động tư pháp thì TTHS có thể được xem như là hoạt động đặc

trưng nhất, bởi lẽ đây là hoạt động thu hút sự tham gia của hầu hết các cơ quan tư

pháp, bổ trợ tư pháp và hoạt động liên quan đến những quyền hiến định của công

dân. Những nỗ lực của CCTP trước hết phải tập trung cho lĩnh vực TTHS và những

thay đổi của TTHS sẽ phản ánh tiêu biểu cho kết quả của CCTP. Phân tích những

nội dung của Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 về Chiến lược CCTP cho thấy những

yêu cầu của CCTP trong lĩnh vực TTHS là yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm

hiệu quả hơn và yêu cầu bảo đảm QCN của những người tham gia tố tụng đầy đủ

hơn. Hai yêu cầu này xuất phát từ chính nhiệm vụ của TTHS và có mối quan hệ

biện chứng với nhau. Thực hiện dân chủ - mở rộng và tôn trọng QCN của các chủ

thể tham gia hoạt động TTHS là yêu cầu khách quan của CCTP. Dân chủ vừa là

mục đích, vừa là động lực, vừa là phương thức thực hiện TTHS. Nhiệm vụ của

TTHS là phát hiện xử lý kịp thời mọi hành vi tội phạm và kẻ phạm tội bảo vệ lợi ích

nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân xét đến cùng là

bảo vệ một trật tự mà trong đó nhân dân làm chủ nhà nước. Dân chủ là giá trị xã hội

lớn nhất mà TTHS nước ta có nhiệm vụ bảo vệ. Quan hệ giữa dân chủ và TTHS là

quan hệ giữa bản chất và hiện tượng, giữa nội dung và hình thức, giữa mục đích và

phương tiện. Mối quan hệ này là mối quan hệ thuận. Hoạt động TTHS càng hiệu

quả thì dân chủ càng được phát huy, càng được bảo đảm và ngược lại, càng dân chủ

trong TTHS thì hoạt động TTHS càng hiệu quả [89]. Bảo đảm dân chủ, bảo đảm

QCN trong lĩnh vực TTHS là nhân tố cực kỳ quan trọng quyết định ý nghĩa, nội

dung, hình thức của hoạt động TTHS. Đây cũng là cách tiếp cận mới có tính

Page 144: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

140

phương pháp luận khi nghiên cứu việc hoàn thiện TTHS. TTHS của một Nhà nước

pháp quyền phải hướng tới việc bảo vệ không chỉ quyền của người là nạn nhân của

hành vi phạm tội, quyền của những người bị truy cứu TNHS không có căn cứ, trái

pháp luật mà còn bảo vệ quyền của bất kỳ công dân nào bị lôi cuốn vào hoạt động

TTHS nhằm chống lại sự lạm quyền từ phía các cơ quan THTT. Bản chất nhân dân,

thực sự dân chủ của chế độ XHCN của nước ta được thể hiện đậm nét trong từng

chế định của mỗi Hiến pháp Việt Nam. Bản chất đó của chế độ, của chính quyền

càng được thể hiện nổi bật và rất đặc thù trong các quy định của mỗi Hiến pháp về

quyền của trẻ em. Nhìn lại một cách bao quát cả quá trình phát triển vấn đề quyền

trẻ em qua các Hiến pháp Việt Nam, từ Hiến pháp 1946 lần đầu tiên đến Hiến pháp

2013 có đầy đủ căn cứ để khẳng định quyền trẻ em đã có sự phát triển liên tục, trở

thành một bộ phận cấu thành nội dung Luật Hiến pháp Việt Nam, như một sợi chỉ

đỏ xuyên suốt nền lập hiến Việt Nam, tạo nên nét đặc thù, một sắc thái riêng. Có thể

thấy vấn đề quyền trẻ em được đặt trong khuôn khổ, trong mối quan hệ trực tiếp với

chế định quyền công dân trong chương quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân rất

quen thuộc của các Hiến pháp Việt Nam hoặc với phạm trù QCN lần đầu tiên được

chính thức khẳng định, ghi nhận trong đạo luật cơ bản của thời kỳ đổi mới – Hiến

pháp 1992 và nay vẫn tiếp tục được khẳng định một cách rõ ràng, minh bạch “Nhà

nước tôn trọng và đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của

công dân” trong Hiến pháp năm 2013. QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân được đề cao, đưa lên vị trí trang trọng hàng đầu trong Hiến pháp (chương II).

Đó là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh-Trưởng ban soạn

thảo; vừa thể hiện nhận thức mới đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan

điểm của Đảng và nhà nước ta về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ

thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Theo đó, Hiến pháp đã

khẳng định nguyên tắc nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các

quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội;

Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của Luật

trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã

Page 145: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

141

hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng (Điều 14 Hiến pháp 2013). Đây là những

nguyên tắc căn bản nhằm đề cao trách nhiệm của nhà nước trong mối quan hệ với

QCN, quyền công dân; phòng ngừa sự tùy tiện cắt xén, hạn chế, cho chỗ này, lấy lại

ở chỗ khác từ phía các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước [121].

Kể từ khi Nghị quyết 08/NQ-TW được ban hành ngày 02-1-2002 có thể nói

rằng mặc dù các quy định của Bộ luật TTHS 2003 về bảo đảm QBC của bị can, bị

cáo nói chung (trong đó có bị can, bị cáo là người CTN) không có sự thay đổi so

với trước đây, song trên thực tế, QBC của bị can, bị cáo dần dần được tôn trọng

hơn. Thực tiễn TTHS Việt Nam những năm qua cho thấy, kể từ khi Nghị quyết của

Bộ Chính trị số 08 và Nghị quyết của Bộ Chính trị số 49 được ban hành, vấn đề bảo

đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong TTHS, cụ thể QBC được mở

rộng hơn và được coi trọng rất nhiều so với trước đây và ngày một đảm bảo hơn.

Có thể nói, các nghị quyết nói trên của Đảng đã từng bước đi vào cuộc sống.

Tuy kết quả bước đầu của CCTP còn khiêm tốn, nhưng đó là những yếu tố có ý

nghĩa quan trọng để tiến hành những bước cải cách tiếp theo.

3.1.2. Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành

niên đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, nhà nước ta đã thúc đẩy

việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan

tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trường hợp

người CTN phạm tội. Điều này càng thể hiện mối quan tâm của Đảng và Nhà nước

đối với trẻ em. Chính vì thế, trong chính sách TTHS của Nhà nước đối với việc

truy cứu TNHS người CTN là nhằm giúp đỡ, cải tạo, giáo dục để người CTN nhận

ra sai lầm và từ đó sửa chữa những sai lầm của mình, tạo điều kiện để các em có

khả năng tái hòa nhập cộng đồng. Với lý do này pháp luật TTHS Việt Nam đã có

những quy định về thủ tục riêng dành cho người CTN khi họ còn là bị can, bị cáo

trong các VAHS.

Page 146: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

142

Xác định người CTN là người chưa phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý,

thiếu bản lĩnh, kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động, dụ dỗ vào các hoạt động

phạm tội, chưa tự chủ trong mọi tình huống. Do vậy, nhằm bảo đảm cho việc điều

tra, truy tố, xét xử những vụ án có bị can, bị cáo là người CTN được khách quan,

chính xác, qua đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN, Bộ luật

TTHS 2003 đã dành hẳn Chương XXXII quy định trình tự, thủ tục tố tụng đối với

những vụ án mà bị can, bị cáo là người CTN. Các quy định trình tự, thủ tục này đối

với người CTN phạm tội có những điểm khác biệt so với thủ tục TTHS áp dụng đối

với người thành niên phạm tội. Tư tưởng này là thống nhất với quy định trong

Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1953 và CƯQT về quyền trẻ em 1989 là “Trẻ em,

do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt, kể cả sự

bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Hiến pháp Việt

Nam 2013 quy định tại Điều 20: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân

thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn,

bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân

thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm…”.

Mặc dù những quy định trong Bộ luật TTHS hiện hành đã phản ánh được

tinh thần bảo vệ quyền trẻ em đối với trường hợp người CTN phạm tội. Tuy nhiên,

khi đi vào thực tiễn hoạt động cho thấy những quy định này còn có những bất cập,

vướng mắc, hạn chế như đã phân tích ở phần thực trạng bảo đảm QBC của bị can,

bị cáo là người CTN tại Chương II của Luận án. Bên cạnh đó, đất nước ta đã có

hàng loạt thay đổi sâu sắc về nhiều mặt. Chúng ta đã gia nhập Tổ chức thương mại

thế giới (WTO), hội nhập sâu vào quan hệ quốc tế như tham gia các CƯQT, đặc

biệt là Công ước về quyền trẻ em - một văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản và toàn

diện nhất về quyền trẻ em trong thời điểm hiện nay. Những chuẩn mực quốc tế

trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc sẽ tham gia ký kết

trong tương lai là những yêu cầu khách quan đòi hỏi tăng cường sự bảo đảm QCN

trong TTHS. Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng chủ đạo trong các Nghị

Page 147: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

143

quyết của Bộ Chính trị về CCTP trong lĩnh vực TTHS là “cải cách mạnh mẽ các thủ

tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ

nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động

tư pháp, bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh

tụng tại tòa án làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột

phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp…” [18]. Đặc biệt, chính sách dân

chủ trong hoạt động tố tụng của Đảng ngày càng được mở rộng từ khâu điều tra,

truy tố, xét xử đến thi hành án cùng hàng loạt yêu cầu khác về CCTP mà Nghị quyết

49 của Bộ Chính trị đã đặt ra.

Ngoài ra, Việt Nam chưa có luật riêng, toàn diện về tư pháp người CTN,

chưa có cơ quan đầu mối giám sát chấp hành các chế tài xử phạt tại cộng đồng,

chưa có lực lượng điều tra, kiểm sát viên, thẩm phán chuyên trách, chưa có Tòa án,

luật thủ tục riêng để xử lý các vụ án về người CTN. Những khiếm khuyết trên đã trở

thành những rào cản trong quá trình hoàn thiện hệ thống tư pháp cho người CTN

của Việt Nam. Chính từ những thực trạng này, cho chúng ta thấy được nhu cầu hoàn

thiện vấn đề đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người CTN là tất yếu. Cần phải có

sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của Đảng, Nhà nước, sự tham gia của chính

quyền các cấp và các ngành, đoàn thể trong việc thực hiện các quyền trẻ em; hệ

thống pháp luật TTHS và chính sách trong lĩnh vực này cần được hoàn thiện hơn

nữa về tính hiệu quả, khách quan, dân chủ và nhất là phải mang tính đồng bộ và tổ

chức thực hiện nghiêm túc. Có như thế QBC của bị can, bị cáo là người CTN mới

được thực sự bảo đảm thực hiện.

3.2. Một số giải pháp

3.2.1 Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến quyền bào chữa

của bị can, bị cáo là người chưa thành niên

Qua sự phân tích các quy định của Bộ luật TTHS 2003, các văn bản pháp

luật khác có liên quan và thực tiễn áp dụng các quy định này đã khắc họa rõ nét

QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong TTHS. Lịch sử TTHS Việt Nam hơn 50

Page 148: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

144

năm qua đã ghi nhận, khẳng định và ngày càng bảo đảm QBC của bị can, bị cáo nói

chung trong TTHS, trong đó, QBC của người CTN phạm tội được đặc biệt coi

trọng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên có lúc, có nơi

chế định QBC chưa được đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ và thực chất. Thực

trạng nói trên có thể xuất phát từ sự bất cập, hạn chế, vướng mắc của pháp luật, từ

chính sự nhận thức yếu kém của đội ngũ những người làm công tác THTT, từ NBC

và cũng có thể xuất phát từ sự thiếu tôn trọng và tạo điều kiện cho NBC thực thi sứ

mệnh của mình từ phía các cơ quan THTT… chưa đáp ứng được đầy đủ những yêu

cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới. Bộ luật TTHS

cần được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, nhằm kịp thời thể chế hóa các nghị

quyết của Đảng về CCTP, cũng như hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục

điều tra, truy tố, xét xử các vụ án người CTN, kể cả về các mặt các quyền và nghĩa

vụ tố tụng và người tham gia tố tụng nhằm tăng cường bảo đảm QBC của bị can, bị

cáo là người CTN và để từ đó tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án người CTN

một cách đúng đắn, khách quan toàn diện và có hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu đấu

tranh phòng, chống tội phạm là người CTN. Bên cạnh đó, để thành lập được Tòa án

người CTN và các CQĐT, truy tố chuyên trách đòi hỏi phải có một hệ thống hoàn

chỉnh các văn bản pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật khác liên quan.

Việc hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ chế bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là

người CTN phải trên phương hướng chung là tiếp tục phát triển, hoàn thiện những

quy phạm pháp luật về thực hiện QBC và cơ chế bảo đảm QBC của bị can, bị cáo

là người CTN hiện có. Đồng thời bổ sung các quy phạm pháp luật liên quan đến

việc thực hiện QBC và cơ chế bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN cho

thật sự đầy đủ, rõ ràng và bảo đảm thực hiện. Trong phạm vi luận án, chúng tôi xin

đưa ra một số kiến nghị sau:

Thứ nhất, về điều tra, truy tố và xét xử. Chúng ta cần phải có những hoạt

động hệ thống, củng cố lại các quy phạm pháp luật và cơ chế thực hiện QBC của bị

can, bị cáo là người CTN đang tồn tại để phát hiện những cản trở, thiếu sót đang tồn

Page 149: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

145

tại mà tìm ra giải pháp khắc phục kịp thời, như xác định những văn bản pháp luật

hiện hành trong đó có quy định những thủ tục, quy trình tố tụng, yêu cầu về chứng

cứ, hoặc trách nhiệm báo cáo có thể gây khó khăn hoặc cản trở thái quá cho những

trẻ em là người CTN vi phạm pháp luật; rà soát lại công tác điều tra hiện tại, các

chính sách quản lý trường hợp và báo cáo trường hợp để đảm bảo rằng các hoạt

động và chính sách này được xây dựng, hướng dẫn rõ ràng và thiết thực về phương

pháp tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo hướng nhạy cảm đối với

các chủ thể này, và sửa đổi những chính sách đó nếu cần thiết; xây dựng một chính

sách riêng về điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người CTN và đảm

bảo rằng chính sách đó phù hợp với luật pháp quốc tế và được thực hiện có hiệu

quả, cụ thể:

- Trên thực tế, phần lớn người THTT đối với trường hợp bị can, bị cáo là

người CTN còn có những điểm chưa đáp ứng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 302

Bộ luật TTHS 2003 quy định: “Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố

tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết về

tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội

phạm của người CTN” là không có tính khả thi, vì các yêu cầu này còn mang tính

chung chung, chưa được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể và trên thực tế nhiều

trường hợp khi tiến hành TTHS đối với trường hợp người CTN phạm tội, những

người THTT lại dựa trên kinh nghiệm và đường lối TTHS áp dụng đối với người

thành niên. Do đó, các cơ quan THTT cần có sự chuyên môn hóa về tổ chức cũng

như về nguồn nhân lực để giải quyết các vụ án về người CTN. Vì lẽ đó, điều tra

viên, kiểm sát viên, thẩm phán phải là những người được đào tạo chuyên sâu về tâm

lý học, khoa học giáo dục đối với người CTN và phải có kinh nghiệm trong hoạt

động đấu tranh, phòng chống tội phạm của người CTN. Chúng tôi kiến nghị sửa đổi

khoản 1 Điều 302 như sau: “Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tiến hành tố

tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người được đào tạo về tâm lý

Page 150: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

146

học, khoa học giáo dục chuyên sâu cũng như có kinh nghiệm trong hoạt động đấu

tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên”.

- Về việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội. Tại

Điều 306 Bộ luật TTHS có sử dụng cụm từ “đại diện của gia đình”. Như đã phân

tích tại chương II của luận án, chúng ta thấy được khái niệm “đại diện của gia đình”

rộng hơn khái niệm “người đại diện hợp pháp” của người CTN, vì người đại diện

hợp pháp chỉ bao gồm cha, mẹ, người đỡ đầu còn người đại diện gia đình còn có thể

là ông, bà, chú, bác, cô, dì, anh, chị em có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục người

CTN. Trong các quy định của Bộ luật TTHS về việc tham gia tố tụng của bị can, bị

cáo là người CTN cũng chỉ nhắc đến một cách chung chung một số quyền, nghĩa vụ

của người đại diện hợp pháp khi tham gia bảo vệ quyền, lợi ích cho họ. Điển hình

như Điều 57 (lựa chọn và thay đổi NBC), Điều 304 (việc giám sát bị can, bị cáo là

người CTN), Điều 305 (bào chữa)… Người đại diện gia đình chỉ được đề cập đến

trong Điều 306 chỉ có quyền và nghĩa vụ theo quy định tại điều luật này. Mặc dù

Điều 306 cũng quy định họ có các quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng nhưng quyền

và nghĩa vụ đó phải phụ thuộc vào quyết định yêu cầu của CQĐT, Viện kiểm sát và

Tòa án. Khi được hỏi có được CQĐT mời tham dự các buổi lấy lời khai, hỏi cung

của con em mình không, có 46% người đại diện hợp pháp trả lời là có; 47% không

được mời và 7% không có ý kiến (phụ lục 9). Hiện nay có rất nhiều ý kiến cho rằng

khái niệm đại diện gia đình và đại diện hợp pháp là đồng nhất nhau. Nếu chúng ta

đồng nhất hai khái niệm này sẽ dẫn đến cách hiểu là người đại diện gia đình cũng có

quyền giám sát bị can, bị cáo là người CTN hay có thể tự mình thực hiện QBC cho

bị can, bị cáo trong trường hợp họ không mời NBC cho mình. Chính vì không được

quy định cụ thể để đảm bảo các quyền, nghĩa vụ của mình, nên trên thực tế những

chủ thể này thường bị các cơ quan THTT lạm quyền và do đó sự tham gia của họ

không những không bảo vệ được quyền lợi của người CTN mà đôi khi nó trở thành

hình thức. Đây là một quy định chưa chặt chẽ và rõ ràng. Để tránh sự lạm quyền của

các cơ quan THTT, bảo vệ quyền của bị can, bị cáo là người CTN thì Bộ luật TTHS

Page 151: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

147

cần làm rõ vai trò của các chủ thể trong Điều 306. Từ lẽ đó, chúng tôi đề nghị thay

cụm từ đại diện của gia đình thành đại diện hợp pháp. Và nếu coi đại diện hợp pháp

là người tham gia tố tụng thì cần quy định cho họ các quyền, nghĩa vụ cụ thể chứ

không phải như hiện nay là theo quyết định của CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án

(khoản 1 Điều 306). Theo hướng đề nghị về thuật ngữ và tư cách tố tụng của người

đại diện hợp pháp trên đây, chúng tôi kiến nghị sửa đổi các khoản 2 và 3 Điều 306

Bộ luật TTHS như sau:

Nếu trước đây chỉ trong trường hợp cần thiết, việc hỏi cung bị can tại CQĐT

mới phải có mặt đại diện gia đình bị can thì hiện nay trong bất kể trường hợp nào

nếu người bị bắt, tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là

người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những

trường hợp cần thiết khác thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này bắt buộc

phải có mặt của đại diện gia đình. Trong khi đó tại Điều 9 CƯQT về quyền trẻ em

quy định: “1. Các quốc gia thành viên phải đảm bảo rằng trẻ em không bị buộc

phải cách ly cha mẹ trái với ý muốn của cha mẹ, trừ trường hợp những nhà chức

trách có thẩm quyền, tuân theo sự xem xét của pháp luật, quyết định rằng theo luật

pháp và các thủ tục thích hợp thì việc cách ly như thế là cần thiết cho những lợi ích

tốt nhất của trẻ em. 2. Trong mọi quá trình tố tụng căn cứ theo khoản 1 của Điều

này, tất cả các bên liên quan phải được tạo cơ hội tham gia quá trình tố tụng và bày

tỏ quan điểm của mình”.

Tuy nhiên, vẫn có sự bất hợp lý trong quy định tại khoản 2 Điều 306, bởi các

lý do sau:

+ Mục đích của việc có mặt của đại diện gia đình (đã đề nghị thay thế thành

đại diện hợp pháp) bị can trong khi hỏi cung. Với đặc điểm tâm sinh lý của bị can,

bị cáo là người CTN có trình độ nhận thức pháp luật hạn chế đã tạo nên sự bất lợi

cho các em trong quá trình tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các

cơ quan THTT. Do vậy, việc có mặt đại diện hợp pháp trong khi hỏi cung bị can sẽ

Page 152: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

148

đảm bảo cho hoạt động tố tụng được diễn ra công bằng, khách quan hơn. Sự tham

gia của đại diện hợp pháp cũng sẽ tạo ra tâm lý bình tĩnh, vững tin, thoải mái và

không e dè, lo sợ cho bị can là người CTN giúp các em khai báo trung thực hơn.

Chính từ điều này giúp cho các cơ quan THTT giải quyết vụ án được khách quan,

toàn diện hơn.

+ Tại khoản 2 Điều 306 Bộ luật TTHS quy định: “người bị tạm giữ, bị can từ

đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm

thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác”. Như vậy, nếu

người CTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mà không có nhược điểm về tâm thần

hoặc thể chất hoặc thuộc trong những trường hợp cần thiết khác thì khi lấy lời khai

hoặc hỏi cung người này thì không bắt buộc phải có mặt đại diện hợp pháp. Như

chúng ta biết, bị can, bị cáo CTN là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Cho nên

việc áp dụng các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với bị can, bị cáo là

người CTN là từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, trong đó có hoạt động lấy lời khai, hỏi

cung bị can. Theo chúng tôi, nhằm giúp cho người CTN có được sự tự tin, bình

tĩnh, khai báo đầy đủ, trung thực về vụ án khi CQĐT hỏi cung, lấy lời khai thì pháp

luật cần quy định trong mọi trường hợp khi lấy lời khai, hỏi cung những chủ thể này

phải có mặt của đại diện gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt

mà không có lý do chính đáng. Chính vì vậy, sự tham gia của đại diện hợp pháp của

người CTN là rất cần thiết. Để đảm bảo quyền lợi cho người CTN, đảm bảo hoạt

động tố tụng được khách quan, toàn diện chúng tôi cho rằng Bộ luật TTHS nên quy

định: “trong mọi trường hợp, việc lấy lời khai, hỏi cung bị can tại Cơ quan điều tra

bắt buộc phải có mặt đại diện hợp pháp của người chưa thành niên, trừ trường hợp

đại diện hợp pháp cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng”. Trên cơ sở những

phân tích trên, chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 306 như sau:

“1. Đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; thầy giáo, cô

giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức

khác nơi người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo học tập, lao động và sinh sống có

Page 153: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

149

quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của Cơ quan điều tra, Viện

kiểm sát, Tòa án.

2. Việc lấy lời khai, hỏi cung bị can tại Cơ quan điều tra bắt buộc phải có

mặt đại diện hợp pháp của người chưa thành niên, trừ trường hợp đại diện hợp pháp

cố tình vắng mặt mà không có lý do chính đáng.

Đại diện hợp pháp có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can, nếu điều tra viên

không đồng ý phải ghi rõ lý do vào biên bản; được quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu

cầu, khiếu nại; đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc việc điều tra.

3. Khi Tòa án xét xử bị cáo là người chưa thành niên bắt buộc phải có mặt

đại diện hợp pháp của bị cáo, trừ trường hợp đại diện hợp pháp cố ý vắng mặt mà

không có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức.

Đại diện hợp pháp của bị cáo, đại diện của nhà trường và các tổ chức tham

gia phiên tòa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến

hành tố tụng; tham gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có

thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Tòa án”.

Về xét xử, theo quy định tại khoản 1 Điều 307 Bộ luật TTHS: “Thành phần

Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm nhân dân là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn

thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…”. Hiện nay việc quy định chế định HTND

trong Bộ luật TTHS là chưa cụ thể và có sự mâu thuẫn giữa Bộ luật TTHS với các

văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đã gây khó khăn rất nhiều cho việc áp dụng

chế định này trên thực tế. Việc quy định như hiện nay sẽ tạo điều kiện cho Mặt trận

Tổ quốc và Hội đồng nhân dân các cấp lựa chọn HTND là giáo viên nhưng lại

không đảm bảo được quyền lợi của bị cáo là người CTN. Bởi vì, có rất nhiều người

là giáo viên nhưng hoàn toàn không có kiến thức về tâm sinh lý, về khoa học giáo

dục người CTN hoặc có nhưng rất ít (giáo viên mầm non, giáo viên giảng dạy bậc

đại học…). Chỉ có những thầy cô giáo ở bậc trung học cơ sở và bậc trung học phổ

thông mới được đào tạo về tâm sinh lý của người CTN và do thường xuyên tiếp

xúc, quản lý, giảng dạy những trẻ từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nên sự hiểu biết của

Page 154: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

150

họ rất sâu sắc. Dù rằng những thầy cô giáo này đến tuổi nghỉ hưu hay chuyển sang

công tác khác thì những hiểu biết về tâm sinh lý của người CTN cũng không thể

mất đi. Do vậy, sự tham gia vào thành phần HĐXX của họ mới đạt được những

hiệu quả nhất định. Bên cạnh đó, trong định hướng sắp tới, nếu như thành lập Tòa

án người CTN thì thẩm phán phải là thẩm phán chuyên trách về gia đình và người

CTN. Vì vậy, không chỉ Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng

sản Hồ Chí Minh. Chúng tôi cho rằng cần kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều

307 Bộ luật TTHS như sau: “Thành phần Hội đồng xét xử vụ án có bị cáo là người

chưa thành niên phải có một Thẩm phán chuyên trách về gia đình và người chưa

thành niên và có một Hội thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc là cán bộ

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh”.

Thứ nhì, về trình tự, thủ tục tham gia tố tụng của NBC. Để thực hiện tốt

nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như nhằm bảo đảm QBC của bị

can, bị cáo nói chung, có thể nói rằng, Bộ luật TTHS 2003 và Luật Luật sư đã tạo ra

một cơ chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh bảo đảm việc tham gia tố tụng của NBC

một cách thực chất và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để cơ chế pháp lý đó thực sự đi vào

cuộc sống và phát huy tích cực hiệu quả của nó, trên cơ sở phân tích thực trạng và

nguyên nhân của sự vi phạm các bảo đảm, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sau:

QBC là quyền Hiến định, là một quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các

quyền tự do dân chủ của công dân, trở thành một nguyên tắc tố tụng căn bản cần

được tôn trọng và triệt để thực hiện. Xâm phạm đến QBC thì không thể nào thực

hiện được các quyền tự do dân chủ khác, mặc nhiên thủ tiêu các quyền tự do đó.

Hơn nữa, chế định bào chữa là chế định trọng yếu trong tố tụng, giúp công tác xét

xử toàn diện và khách quan, chính xác, bảo đảm được quyền lợi hợp pháp cho bị

can, bị cáo nói chung và bảo vệ pháp chế XHCN. Có thể nói nếu bị can, bị cáo

không được thực hiện đầy đủ QBC thì không gọi là công lý. Mặt khác, cần nhận

thức ý nghĩa sâu sắc trong quy định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013 “Người bị

bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ

Page 155: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

151

luật sư hoặc người khác bào chữa”. Nếu xác định quyền nhờ NBC là quyền Hiến

định thì đương nhiên những người bị đặt trong vòng tố tụng phải được tiếp cận với

NBC, đồng thời NBC phải được quyền tiếp cận với đương sự ngay từ đầu và trong

suốt các giai đoạn tố tụng.

Việc làm khó NBC là điều không thể chấp nhận được, bởi chính sự làm khó

đó đã hạn chế QBC của bị can, bị cáo, xâm phạm đến nguyên tắc của TTHS. Theo

Thông tư 70/2011/TT-BCA của Bộ Công an ngày 10-10-2011 thì điều tra viên phải

giải thích cho người bị bắt quyền có luật sư và cho phép người nhà của họ được yêu

cầu luật sư. Nhưng trên thực tế, có bao nhiêu điều tra viên thực hiện đầy đủ trách

nhiệm này, có bao nhiêu vụ án mà luật sư được ngồi nghe điều tra viên lấy lời khai

từ buổi làm việc đầu tiên? Chính từ thực trạng này đã xảy ra hàng loạt án oan như

vụ “Nguyễn Thanh Chấn” (Bắc Giang), vụ “Nguyễn Minh Hùng” (Tây Ninh), vụ

“Vườn Điều” (Bình Thuận)…Khi được hỏi trong giai đoạn điều tra luật sư thường

gặp những khó khăn nào trong hoạt động bào chữa của mình, có 84.21% luật sư cho

ý kiến gặp khó khăn trong việc xin cấp giấy chứng nhận NBC; 81.36% luật sư cho ý

kiến không được CQĐT thông báo trước lịch hỏi cung, 9.47 % không thường xuyên

và 3.37% có được thông báo trước lịch hỏi cung (phụ lục 8). Để đảm bảo QBC của

bị can, bị cáo, đảm bảo nguyên tắc pháp quyền, các cơ quan có thẩm quyền phải ban

hành các quy định về các vấn đề sau:

- Một là, thể chế hóa quyền im lặng của nghi can: ngay từ lúc bắt đầu, người

bị tạm giữ, tạm giam phải được cơ quan THTT giải thích rõ “ông (bà), em (đối với

người chưa thành niên) có quyền giữ im lặng và không có nghĩa vụ khai báo điều gì

trước khi người bào chữa có mặt”. Nếu nghi can không yêu cầu luật sư hoặc chưa

mời luật sư thì cơ quan THTT phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công luật sư cho họ;

- Hai là, thể chế hóa thái độ và quy tắc ứng xử của cơ quan THTT: một trong

các thủ tục đầu tiên là cho nghi can ký vào biên bản, trong đó ghi rõ quyền và nghĩa

vụ của nghi can trong quá trình tố tụng cũng như trách nhiệm phát sinh trong trường

Page 156: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

152

hợp nghi can khai báo mà không có NBC. Nên cho nghi can được gọi điện thoại

gặp người thân để trao đổi việc bị tạm giữ, tạm giam và thống nhất việc mời NBC;

- Ba là, nâng cao vị thế của luật sư, quyền hành nghề của luật sư cần phải

được tôn trọng triệt để. Chỉ cần nghi can hoặc người thân của họ ký giấy mời luật sư

thì đương nhiên luật sư đó được tham dự ngay lập tức các buổi làm việc của CQĐT

với thân chủ. Luật sư tham gia trong TTHS là quyền hành nghề, không cần phải

“xin” cấp giấy chứng nhận NBC như hiện nay;

- Bốn là, phải có chế tài những người THTT cản trở QBC của nghi can,

quyền hành nghề của luật sư. Cho đến nay, cả Bộ luật TTHS và các văn bản hướng

dẫn vẫn chưa có chế định nào xử lý những hành vi cản trở hoạt động hành nghề của

luật sư. Trên thực tế, cũng chưa thấy vụ nào mà người THTT bị xử lý nghiêm túc,

công khai về hành vi này cả, cùng lắm chỉ là “nhắc nhở, rút kinh nghiệm nội bộ”.

Do đó, cần phải có chế tài xử lý nghiêm vi phạm của người THTT.

3.2.2. Các giải pháp về tổ chức

3.2.2.1. Thành lập Tòa án người chưa thành niên và các cơ quan chuyên

trách khác

- Thành lập Tòa án người chưa thành niên: cùng với sự phát triển của đất

nước, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày càng được quan tâm, đặc

biệt là sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em

năm 1990. Việt Nam cũng đã xây dựng được một hệ thống pháp luật, tạo cơ sở

pháp lý quan trọng cho việc bảo vệ trẻ em nói chung và người CTN trong các

VAHS nói riêng. Tuy nhiên, cho đến nay nước ta vẫn chưa có một hệ thống tư pháp

riêng đối với người CTN mà mới chỉ có một số quy định đặc thù về việc xử lý, giải

quyết các VAHS mà bị cáo là người CNT. Thực tiễn giải quyết các vụ án trong thời

gian qua cho thấy, tỷ lệ tội phạm do người CTN thực hiện vẫn có chiều hướng gia

tăng, cơ cấu, tổ chức, tính chất tội phạm ngày càng phức tạp và nghiêm trọng; có

Page 157: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

153

không ít trường hợp đã bị Tòa án xét xử, áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc

nhưng hiệu quả của việc áp dụng hình phạt chưa cao, tỷ lệ người CTN tái phạm còn

nhiều. Trong khi đó, những mâu thuẫn nảy sinh trong các gia đình có xu hướng gia

tăng, tác động tiêu cực đến tâm lý, quá trình hình thành và phát triển nhân cách của

trẻ em và người CTN là thành viên của gia đình. Với mô hình tổ chức Tòa án như

hiện nay thì đội ngũ làm công tác xét xử không phải là những thẩm phán chuyên

trách, không phải thẩm phán nào cũng có kiến thức chuyên sâu và những kinh

nghiệm cần thiết để giải quyết các vụ việc liên quan đến người CTN; việc xét xử

vẫn được tiến hành trong những phòng xử án dùng để xét xử những người đã thành

niên phạm tội. Người CTN phạm tội phải đối diện pháp đình với thủ tục tố tụng

dành cho người lớn. Độ tuổi, sự nhận thức, điều kiện sống, hoàn cảnh phạm tội…

tất cả chỉ là những tình tiết dừng lại ở mức độ “xem xét” khi HĐXX quyết định bản

án. Khi xét xử những vụ án có liên quan đến người CTN, dù họ tham gia với tư

cách bị cáo hay bị hại, cũng nên có Tòa án dành riêng cho họ với những thẩm phán,

luật sư, kiểm sát viên, nhà xã hội học chuyên về nhóm xã hội đặc thù này. Có như

vậy, quyền lợi của người CTN mới được đảm bảo một cách đúng đắn nhất.

Vì vậy, ngày 05-11-2012, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ

em trong tình hình mới, trong đó xác định: “Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu

quả các chương trình, đề án chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em…Tổ chức thực

hiện tốt Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các công ước, điều ước quốc tế

khác có liên quan mà Nhà nước Việt Nam ký kết hoặc tham gia…”; Nghị quyết số

49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược CCTP đến năm 2020 đã

đề ra phương hướng “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp

hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc;

trong đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm…”.

Từ những yêu cầu về công tác xử lý người CTN vi phạm pháp luật, công tác

chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em nói chung, đồng thời xuất phát từ những đặc

Page 158: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

154

điểm tâm sinh lý của người CTN và góp phần hoàn thiện tổ chức và hoạt động của

Tòa án nhân dân các cấp, đáp ứng yêu cầu CCTP đã được xác định trong các văn

kiện, nghị quyết của Đảng cho thấy việc xây dựng một mô hình Tòa án chuyên

trách với các thủ tục tố tụng đặc biệt để giải quyết có hiệu quả các vụ việc về người

CTN, giúp đỡ, hỗ trợ và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm sinh lý của trẻ

em, người CTN là hết sức cần thiết. Việc thành lập Tòa án người CTN cũng là bước

đi cụ thể để thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo vệ các quyền dân

sự, chính trị, các quyền của trẻ em đã được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế mà

Việt Nam là thành viên cũng như phù hợp với thông lệ của nhiều nước trên thế giới.

- Thành lập các cơ quan chuyên trách khác: để việc bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của người CTN đạt hiệu quả một cách tối ưu, bên cạnh việc thành lập Tòa

án người CTN chúng ta còn phải chú trọng tới việc nghiên cứu thành lập các bộ

phận chuyên trách ở CQĐT, Viện kiểm sát. Vì thủ tục đặc biệt giành cho người

CTN đều được thực hiện ở tất cả các giai đoạn TTHS. Thực tiễn cho thấy rất nhiều

vụ án do người CTN thực hiện đã bị CQĐT vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

như không đề nghị Đoàn luật sư yêu cầu Văn phòng luật sư cử NBC cho họ hoặc

khi hỏi cung bị can là người CTN, CQĐT đã không mời người đại diện gia đình,

thầy cô giáo hoặc tổ chức xã hội. Bên cạnh đó, cũng giống như tình trạng của thẩm

phán hiện nay, điều tra viên, kiểm sát viên đều không phải là những cán bộ chuyên

trách để điều tra, truy tố với riêng một loại đối tượng là người CTN. Họ cũng chưa

qua một khóa đào tạo chuyên sâu nào về các đặc điểm tâm sinh lý, khoa học giáo

dục đối với người CTN hoặc có hiểu biết về vấn đề này nhưng rất hạn chế. Để đảm

bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người CTN khi tham gia tố tụng, để các quy định

của pháp luật được áp dụng một cách đồng bộ, thống nhất, bên cạnh việc thành lập

Tòa án người CTN, chúng ta cần phải nghiên cứu thành lập các bộ phận chuyên

trách trong các CQĐT và Viện kiểm sát. Cụ thể, ở Phòng cảnh sát điều tra cấp tỉnh

sẽ thành lập một ban chuyên trách để giải quyết những vụ án do người CTN thực

hiện. Còn ở quận, huyện sẽ có ít nhất từ 1 – 3 cán bộ chuyên trách. Về phía Viện

Page 159: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

155

kiểm sát cũng phải thành lập các bộ phận chuyên trách để giải quyết những vụ án do

người CTN thực hiện. Mỗi Viện kiểm sát cấp tỉnh sẽ thành lập một ban chuyên

trách để kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với những vụ án mà bị

can, bị cáo là người CTN. Khi được hỏi CQĐT đang công tác hiện nay đã có

“phòng điều tra thân thiện” đối với trẻ em là người CTN phạm tội hay chưa, 100%

ý kiến trả lời của điều tra viên cho rằng chưa có (phụ lục 7).

3.2.2.2. Nâng cao trình độ, năng lực của người tham gia tố tụng hình sự

Đối với người CTN, do chưa đủ trưởng thành và thiếu kinh nghiệm sống,

thường phải chịu sức ép tâm lý lớn hơn nhiều so với người thành niên khi phải tiếp

xúc với những người THTT như điều tra viên, kiểm sát viên hay các thành viên

HĐXX. Không những thế, trong con mắt của bị can, bị cáo là người CTN, những

người THTT là những người đại diện cho quyền lực nhà nước. Vì thế, thái độ đúng

mực, tâm lý cảm thông của các cán bộ này đối với người CTN có thể khiến cho

người CTN có suy nghĩ tích cực về Nhà nước nói chung và hệ thống tư pháp hình

sự nói riêng và ngược lại. Và cũng chính ý nghĩ tích cực hay tiêu cực này của người

CTN về hành vi và cách xử sự của những người THTT sẽ có ảnh hưởng không nhỏ

đến thái độ và mong muốn cải tạo, phục hồi của người CTN trong tương lai cũng

như ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của các em về bộ máy nhà nước.

Vì lý do đó, không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều quốc gia trên thế giới, bên

cạnh việc xây dựng hệ thống Tòa án gia đình hoặc Tòa án người CTN với các thủ

tục tố tụng đặc thù, khác biệt với thủ tục TTHS chung, đã xây dựng một đội ngũ

điều tra viên, công tố viên, thẩm phán chuyên trách để xử lý các vụ án người CTN.

Ở nước ta, mặc dù chưa có đội ngũ chuyên trách này, pháp luật TTHS có quy định

những yêu cầu đặc biệt đối với điều tra viên, kiểm sát viên và thành phần HĐXX

trong vụ án người CTN xuất phát từ nhu cầu bảo vệ đặc biệt các đối tượng này.

Khoản 1 Điều 302 Bộ luật TTHS quy định điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán

THTT đối với người CTN phạm tội phải có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa

Page 160: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

156

học giáo dục, hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm là người CTN. Theo khảo

sát bằng phiếu thăm dò ý kiến dành cho điều tra viên, có 90% điều tra viên cho rằng

không được đào tạo chuyên sâu về điều tra những VAHS có người CTN tham gia

(phụ lục 7). Khi được hỏi về việc có được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ xét xử

những vụ án do người CTN thực hiện hay không, có 88% thẩm phán trả lời không

được đào tạo chuyên sâu. Có 72% thẩm phán góp ý kiến về việc đưa ra giải pháp

đào tạo đội ngũ những người THTT chuyên về công tác điều tra, truy tố, xét xử

người CTN phạm tội; xây dựng đội ngũ luật sư có kiến thức chuyên sâu về người

CTN (phụ lục 2). Cần lưu ý rằng, để có thể hiểu biết thấu đáo về hoạt động đấu

tranh phòng, chống tội phạm người chưa thành niên, người THTT nói chung và điều

tra viên trong các vụ án người CTN nói riêng, cần không những hiểu biết về thực

tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm của người CTN mà còn cần có đủ kiến thức

về các chuẩn mực quốc tế về tư pháp người CTN, theo nội dung chương trình đào

tạo hoặc bồi dưỡng chuẩn về tâm lý, khoa học giáo dục người CTN, về kỹ năng

thực hành trong công tác điều tra, truy tố và xét xử thân thiện đối với người CTN vi

phạm pháp luật, nạn nhân và nhân chứng trẻ em.

Tất cả những yêu cầu này đều nhằm đảm bảo rằng những người THTT khi

tiếp xúc với bị can, bị cáo là người CTN sẽ có cách thức xử sự đúng mực, tâm lý,

cảm thông với các em, tìm được phương thức hợp lý để khêu gợi, thúc đẩy sự hợp

tác của họ trong quá trình làm sáng tỏ vụ án, thấu hiểu những diễn biến tâm sinh lý

của các em trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội cũng như trong quá trình

tham gia tố tụng, tìm ra được giải pháp thích hợp nhất để giúp các em nhận thức lỗi

lầm, cải tạo và phục hồi. Do đó, cần tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, bồi

dưỡng nâng cao trình độ của những người làm công tác THTT.

3.2.2.3. Tăng cường đội ngũ luật sư, người bào chữa

Luật sư, NBC là người cùng với các cơ quan THTT góp phần vào quá trình

xây dựng và phát triển xã hội, bảo vệ dân chủ và công bằng. Với tư cách là một

Page 161: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

157

chức danh tư pháp tham gia độc lập vào đời sống xã hội và tố tụng tư pháp, luật sư

đóng vai trò ngày càng quan trọng trong các thiết chế dân chủ ở nước ta. Bảo đảm

QBC của bị can, bị cáo được Bộ luật TTHS 1988 ghi nhận và Bộ luật TTHS 2003

kế thừa. Vấn đề này được quy định thành một trong những nguyên tắc quan trọng,

thể hiện thái độ và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước ta đối với nhân dân nói

chung và bị can, bị cáo nói riêng. Bảo đảm được quyền tự bào chữa và quyền nhờ

người khác bào chữa cho mình khi tham gia TTHS là thể hiện được sự văn minh,

dân chủ trong quá trình tố tụng. Trong điều kiện đất nước bước vào thời kỳ đổi mới

toàn diện, theo định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vai trò của

NBC nói chung và luật sư nói riêng trong hệ thống các cơ quan tư pháp, đề ra nhiều

biện pháp quan trọng nhằm phát huy vai trò của luật sư. Hoạt động bào chữa trong

TTHS chỉ đạt được hiệu quả khi và chỉ khi hội đủ ba điều kiện cần thiết, đó là điều

kiện về pháp lý, điều kiện về tổ chức và điều kiện về con người. Trong đó, vấn đề

có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động bào chữa phải là việc nâng cao năng

lực trách nhiệm của những người làm công tác bào chữa. Để đạt được mục tiêu nói

trên, theo chúng tôi, cần phải quán triệt các yêu cầu sau:

Một là, xây dựng đội ngũ những người làm công tác bào chữa thực sự có

năng lực, không chỉ thỏa mãn các điều kiện về tiêu chuẩn pháp luật mà cái chính ở

đây là phải đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn tố tụng. Năng lực cá nhân, uy

tín, kinh nghiệm của NBC có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả bào chữa. Bởi lẽ đó,

đội ngũ những người làm công tác bào chữa phải được đào tạo chuyên sâu về người

CTN (giống như xây dựng đội ngũ những người THTT chuyên trách), bồi dưỡng về

chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề.

Hai là, phải đề cao đạo đức nghề nghiệp đối với những người làm công tác

bào chữa. NBC phải luôn là những người tôn trọng pháp luật và sự thật, trung thực

trong hoạt động của mình, có nhiệt huyết và lương tâm nghề nghiệp.

Page 162: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

158

Ba là, bổ sung và hoàn thiện các quy phạm pháp luật nhằm tăng cường số

lượng cũng như diện NBC tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người

CTN phạm tội. Tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật TTHS 2003 quy định có ba loại NBC,

đó là luật sư, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo và BCVND, nhưng trong

thực tiễn THTT chỉ có luật sư tham gia bào chữa vào giai đoạn xét xử là chủ yếu.

Trong khi đó, Luật TGPL được Quốc hội thông qua ngày 29-6-2006 và có hiệu lực

thi hành từ ngày 01-01-2007 có quy định về chức danh “trợ giúp viên pháp lý” là

những công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn: có bằng

cử nhân luật, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có

chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL… và tham gia tố tụng với tư cách người đại

diện hợp pháp của đương sự trong các VAHS (Điều 21 Luật TGPL). Như đã phân

tích tại Chương một của luận án, hiện nay có 9.190 cộng tác viên TGPL (145 cộng

tác viên/ trung tâm), trong đó có hơn 1.000 luật sư tham gia với vai trò là cộng tác

viên TGPL. Sau hơn 6 năm triển khai thực hiện Luật TGPL (2006 – 2013) có

609.599 vụ việc được TGPL (101.600 vụ/năm). Tham gia TTHS 37.510 vụ việc,

trong đó có 50.161 vụ việc [120]. Kết quả đạt được trong công tác bào chữa rất khả

quan như làm thay đổi tội danh có khung hình phạt nhẹ hơn hoặc hình phạt nhẹ hơn

so với cáo trạng và chuyển hướng xử lý người CTN phạm tội… Vì vậy, cần bổ sung

thêm Trợ giúp viên pháp lý vào khoản 1 Điều 56 Bộ luật TTHS nhằm thu hút những

người có trình độ pháp lý nhất định được tham gia làm NBC để đáp ứng nhu cầu

hiện nay.

3.2.3. Các giải pháp khác

Cùng với các phương tiện thông tin đại chúng của ngành tư pháp, các đài

phát thanh, truyền hình của tỉnh, thành phố nên xây dựng, phát triển và tuyên truyền

các tình huống pháp luật cụ thể về người CTN để phát huy tối ưu công tác tuyên

truyền pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân, giúp cho nhân dân hiểu và tuân theo

pháp luật;

Page 163: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

159

Phải xây dựng mục tiêu xây dựng một thế giới phù hợp với trẻ em – một thế

giới mà trong đó, tất cả trẻ em đều được yêu thương, tôn trọng, được học tập, vui

chơi, giải trí, được bảo vệ trước các nguy cơ xâm hại và được bảo đảm một cách

bình đẳng; Việc giáo dục, tuyên truyền về quyền trẻ em, nhận thức về vị thế của trẻ

em trong xã hội phải được đưa vào chương trình giảng dạy của hệ thống giáo dục để

từ việc coi trẻ em là đối tượng phụ thuộc, phải chịu sự chi phối của người lớn đến

chỗ trẻ em đã được thừa nhận và được đối xử với tư cách là những chủ thể của

quyền chứ không đơn thuần chỉ là đối tượng của tình thương hay lòng nhân đạo;

Cần phải có những hoạt động hệ thống, củng cố lại các quy phạm pháp luật và cơ

chế thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN đang tồn tại để phát hiện những

cản trở, thiếu sót đang tồn tại mà tìm ra giải pháp khắc phục kịp thời, như xác định

những văn bản pháp luật hiện hành trong đó có quy định những thủ tục, quy trình tố

tụng, yêu cầu về chứng cứ, hoặc trách nhiệm báo cáo có thể gây khó khăn hoặc cản

trở thái quá cho những trẻ em là người CTN vi phạm pháp luật; rà soát lại công tác

điều tra hiện tại, các chính sách quản lý trường hợp và báo cáo trường hợp để đảm

bảo rằng các hoạt động và chính sách này có tính nhạy cảm với các chủ thể này, và

sửa đổi những chính sách đó nếu cần thiết; xây dựng một chính sách riêng về điều

tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người CTN và đảm bảo rằng chính sách

đó phù hợp với luật pháp quốc tế và được thực hiện có hiệu quả có thể được đưa

vào chương trình tập huấn thích hợp; xây dựng một số hướng dẫn rõ ràng và thiết

thực về phương pháp tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo hướng

nhạy cảm đối với người CTN; Cần bổ sung và hoàn thiện các quy phạm pháp luật

một cách cụ thể về sự có mặt bắt buộc của NBC tại các buổi lấy lời khai và một số

hoạt động tố tụng khác áp dụng đối với người CTN phạm tội, coi đây là điều kiện

đảm bảo giá trị pháp lý của chứng cứ. Đối với các trường hợp các cơ quan THTT

không yêu cầu NBC tham gia bào chữa cho người CTN ngay từ giai đoạn điều tra,

thì phải coi là một trong những căn cứ xác định việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục

tố tụng và là căn cứ để hủy án sơ thẩm;

Page 164: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

160

Cần xây dựng được hệ thống tư pháp thân thiện với người CTN. Hệ thống tư

pháp thân thiện với người CTN là một hệ thống được xây dựng phù hợp với những

đặc điểm tâm sinh lý của người CTN, chú trọng và đáp ứng được những nhu cầu

đặc thù của lứa tuổi. Xây dựng một hệ thống tư pháp thân thiện với người CTN

không phải là chúng ta phủ định hệ thống hiện có của chúng ta, mà là kế thừa chủ

trương bảo vệ, chăm sóc đặc biệt đối với người CTN phạm tội và trẻ em là nạn nhân

của tội phạm trong hệ thống pháp luật hiện hành và tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp

những quy định này sao cho bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền trẻ em, đáp ứng chủ

trương của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Cụ thể là: cách sắp

xếp, trang trí phòng xử án đảm bảo tính thân thiện để tránh cho người CTN bị ám

ảnh quá nhiều bởi hành vi trái pháp luật của mình, bố trí các đồ đạc để các bên ngồi

ngang bằng nhau xung quanh một cái bàn, bỏ “vành móng ngựa”; tất cả các bên đều

mặc quần áo bình thường; cấm sử dụng còng tay hoặc phương tiện hạn chế khác ở

phòng xử án; cho phép người CTN ngồi cạnh cha mẹ hoặc luật sư của mình; yêu

cầu các bên ngồi chứ không đứng khi tiến hành thẩm vấn; yêu cầu thẩm phán giải

thích quy trình tố tụng cho người CTN ngay khi bắt đầu xét xử và giải thích đầy đủ

hành vi phạm tội của bị cáo bằng ngôn ngữ đơn giản; bảo đảm rằng, tại mọi thời

điểm, người CTN được hỏi, giải thích, đối đáp bằng ngôn ngữ mà người đó hiểu;

bảo đảm việc giải thích thường xuyên cho người CTN trong suốt quá trình xét xử;

không cho phép công chúng tham dự khi xét xử, không xử lưu động các vụ án có

liên quan đến người CTN phạm tội, hoặc là người bị hại. v.v.. Những quy định này

sẽ phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về thủ tục đối với người CTN được thể hiện

trong Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn bản có liên quan mà

Việt Nam đã tham gia và cam kết thực hiện.

Page 165: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

161

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Từ những nghiên cứu, trình bày và đề xuất của chương 3, chúng tôi có một

số kết luận sau:

1. Trong chương 3, tác giả đưa ra những kiến nghị của mình nhằm hoàn

thiện các quy định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật khác liên quan tới

thủ tục tố tụng đối với người CTN, đặc biệt là những thủ tục liên quan đến QBC của

bị can, bị cáo là người CTN. Thực tiễn giải quyết những vụ án mà bị can, bị cáo là

người CTN cho thấy phải có những giải pháp giải quyết những bất cập, hạn chế,

vướng mắc nhằm nâng cao chất lượng các vụ án này.

2. Song song với việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật là kiến

nghị thành lập Tòa án người CTN ở Việt Nam. Tác giả cũng đưa ra những ý kiến

đóng góp cho việc xây dựng cơ cấu tổ chức, đội ngũ chuyên trách của Tòa án người

CTN. Bên cạnh việc xây dựng Tòa án người CTN, cần thành lập các cơ quan

chuyên trách ở CQĐT và Viện kiểm sát để giải quyết các loại án về người CTN. Có

như vậy, mới đảm bảo các hoạt động tố tụng đối với người CTN được đạt hiệu quả

cao.

Ngoài ra, nhằm đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người CTN cần phải có

một cơ chế tư pháp toàn diện để đảm bảo thực hiện các thiết chế tư pháp người

CTN. “Một cơ chế tư pháp người chưa thành niên toàn diện đòi hỏi việc thiết lập

các phòng đặc biệt trong cơ quan cảnh sát, tư pháp, hệ thống Tòa án, văn phòng

công tố viên, cũng như những người bào chữa chuyên trách hay những người đại

diện khác để cung cấp sự trợ giúp về mặt pháp lý hay những hỗ trợ cần thiết khác

cho trẻ em” [44, tr. 807]. Để đáp ứng được mục đích trên, cần có những giải pháp

như xây dựng phòng điều tra thân thiện trong CQĐT, trang trí phòng xử án đảm bảo

tính thân thiện…để phù hợp với tâm lý của trẻ và phù hợp với các chuẩn mực quốc

tế về thủ tục đối với người CTN được thể hiện trong Công ước của Liên hợp quốc

về quyền trẻ em và các văn bản có liên quan mà Việt Nam đã tham gia và cam kết

thực hiện.

Page 166: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

162

3. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết vụ án về người

CTN phải đáp ứng được các yêu cầu về CCTP và xây dựng Nhà nước pháp quyền;

góp phần đảm bảo thực hiện mục đích của TTHS; đảm bảo tính khả thi của các giải

pháp; đảm bảo kế thừa pháp luật truyền thống của TTHS Việt Nam; có tiếp thu

chọn lọc những quy định của pháp luật các nước, đáp ứng được yêu cầu hội nhập

quốc tế.

4. Việc hoàn thiện pháp luật cần được thực hiện một cách toàn diện và triệt

để. Ngoài việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Chương XXXII Bộ luật TTHS năm

2003, các cơ quan có thẩm quyền cần xây dựng quy trình chi tiết cho hoạt động điều

tra và xử lý không những cho bị can, bị cáo là người CTN mà còn cho cả người bị

hại và nhân chứng là người CTN. Quy trình này cần được công khai để vừa đảm

bảo nguyên tắc minh bạch pháp luật, vừa có tác dụng hướng dẫn các cơ quan

THTT, người THTT và các chủ thể có liên quan trong việc tham gia giải quyết

những vụ án hình sự có người CTN.

5. Luận án bước đầu đưa ra các đề xuất về việc đảm bảo khả năng thực thi

pháp luật thông qua các chương trình, hoạt động nâng cao nhận thức của các cơ

quan THTT, người THTT, các cơ quan bổ trợ tư pháp và của xã hội về QBC của

người CTN phạm tội trong TTHS Việt Nam.

Page 167: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

163

KẾT LUẬN

Hiện nay, QCN luôn được cộng đồng quốc tế và mỗi quốc gia coi trọng và

xem đó như một thành tựu của nền văn minh và là thước đo của sự tiến bộ xã hội.

Vì vậy, nghiên cứu về QCN trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xây dựng các

cơ chế đảm bảo QCN là đòi hỏi thiết yếu của các ngành khoa học, trong đó có khoa

học TTHS. Trong bất kỳ mô hình tố tụng và ở bất kỳ quốc gia nào, việc giải quyết

hài hòa nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm đồng thời phải tôn trọng và bảo

vệ QCN, trong đó có quyền của những người bị buộc tội, bảo đảm không làm oan

người vô tội luôn được xác định là nhiệm vụ của TTHS. Đặc biệt, khi người bị buộc

tội lại là người CTN, chưa phát triển đầy đủ thể chất, tinh thần để có thể, cần được

TGPL thì việc quy định và bảo đảm thực hiện QBC cho họ càng cần được quan tâm

nghiên cứu.

Pháp luật TTHS Việt Nam đã có những quy định về QBC của bị can, bị cáo

là người CTN. Những quy định đó là tương đối đầy đủ và hợp lý, tuy nhiên vẫn còn

có những bất cập nhất định, không thực sự đáp ứng được yêu cầu của CCTP theo

hướng tăng cường tranh tụng, tăng cường việc bảo đảm QCN trong TTHS.

Thực tiễn TTHS cho thấy, việc quy định và bảo đảm QBC ở Việt Nam còn

nhiều hạn chế, vướng mắc. Việc xác định rõ những hạn chế, vướng mắc nêu trên và

làm rõ nguyên nhân của những hạn chế vướng mắc đó, trên cơ sở đó đề xuất được

những giải pháp khắc phục dù đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở

phạm vi và mức độ khác nhau nhưng vẫn rất cần được tiếp tục nghiên cứu, đặc biệt

là trong giai đoạn hiện nay, khi Hiến pháp năm 2013 đã xác định nguyên tắc tranh

tụng là nguyên tắc trong hoạt động xét xử của tòa án và xác định QBC là một trong

các QCN, quyền cơ bản của công dân. Vì vậy, trong khuôn khổ luận án Tiến sĩ tác

giả không thể giải quyết một cách toàn diện tất cả những vấn đề liên quan đến QBC

nói chung. Dưới góc độ Luật TTHS và xuất phát từ phạm vi, mục tiêu nghiên cứu,

luận án đã giải quyết được những vấn đề cụ thể như sau:

Page 168: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

164

1. Luận án đã làm rõ được một số những vấn đề lý luận về QBC của bị can,

bị cáo là người CTN trong TTHS Việt Nam; đánh giá được vai trò của QBC và xác

định rõ những đặc điểm về nội dung và hình thức thực hiện QBC của bị can, bị cáo

là người CTN trong TTHS Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn

đề lý luận và thực tiễn cũng như nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải tôn trọng

và bảo đảm QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong quá trình giải quyết VAHS

đòi hỏi phải có sự thay đổi một cách toàn diện cả về mặt lập pháp lẫn mặt nhận

thức.

2. Luận án đã khái quát được pháp luật TTHS Việt Nam về QBC nói chung

và của bị can, bị cáo là người CTN nói riêng và làm rõ được sự hình thành, phát

triển của chế định này trong pháp luật TTHS Việt Nam, rút ra những kế thừa cần

thiết cho việc tiếp tục hoàn thiện chế định này.

3. Luận án đưa ra được những thông tin khoa học về chế định QBC của

người bị buộc tội là người CTN trong pháp luật Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ, Cộng hòa

Liên bang Nga và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đó là những quốc gia đại diện

cho các truyền thống pháp luật khác nhau, đồng thời cũng là những nước mà pháp

luật Việt Nam có những ảnh hưởng nhất định. Từ những nghiên cứu đó luận án có

những so sánh và tiếp thu có chọn lọc, từ đó kiến nghị những giải pháp về mặt pháp

luật nhằm hoàn thiện pháp luật về QBC của bị can, bị cáo là người CTN trong

TTHS Việt Nam.

4. Luận án đã phân tích được thực trạng pháp luật Việt Nam về QBC của bị

can, bị cáo là người CTN và làm rõ những bất cập trong quy định của pháp luật về

vấn đề này. Với những số liệu thống kê cụ thể, kết quả khảo sát và kết quả điều tra

xã hội học, về QBC của bị can, bị cáo là người CTN, luận án đã làm rõ thực trạng

thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN ở Việt Nam trong những năm gần

đây, từ đó đánh giá những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và xác định

được nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó.

Page 169: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

165

5. Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc

đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.

Một phần quan trọng trong sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý đó là những quy định

trong trường hợp trẻ em làm trái pháp luật hoặc có liên quan đến hoạt động của các

cơ quan pháp luật. Nội dung chủ đạo của tư duy lập pháp này có thể tóm tắt ở yêu

cầu phải mở rộng QCN của bị can, bị cáo là người CTN như là những bổ sung cần

thiết so với người đã thành niên. Từ đó xuất hiện sự cần thiết phải thay đổi bản thân

tiến trình TTHS và những thủ tục tố tụng của nó theo hướng là những thủ tục tố

tụng chuyên biệt hóa để phù hợp với yêu cầu bảo đảm cao hơn QCN của đối tượng

này.

6. Với quyết tâm xây dựng một môi trường an toàn, mang tính bảo vệ cho

trẻ em, phù hợp với các chuẩn mực và hướng dẫn của quốc tế cũng như hệ thống

pháp luật và truyền thống văn hóa của Việt Nam. Từ năm 1985, Liên hợp quốc đã

thông qua nhiều văn kiện cần được tham khảo khi cân nhắc vấn đề thành lập Tòa

chuyên trách đối với người CTN ở Việt Nam. Giá trị của những văn bản kiện này

là ở chỗ nó không chỉ bó hẹp ở những khía cạnh đặc thù trong hệ thống pháp luật

của mỗi quốc gia mà còn tạo nên một tập hợp những quy phạm mang tính chuẩn

mực tối thiểu mà mỗi quốc gia đều có thể vận dụng vào hoàn cảnh riêng của mình.

Trước tình hình tội phạm do người CTN thực hiện diễn biến rất phức tạp và gia tăng

năm sau cao hơn năm trước. Tình hình nêu trên đòi hỏi một mặt phải giải quyết

nhanh các vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người CTN phạm pháp lẫn

người CTN là người bị hại, nhân chứng…Ngoài ra, hàng năm có tới 12 – 16 ngàn

người CTN phạm tội, trong đó có 4.000 – 5.000 vụ phải đưa ra xét xử tại tòa án,

mặt khác cũng có hàng ngàn vụ xâm hại trẻ em, nhất là xâm hại tình dục, bạo lực

đối với trẻ em cũng phải đưa ra xét xử tại tòa án.

Từ thực tế nêu trên chúng tôi đề xuất việc thành lập Tòa chuyên trách cho

người CTN là một giải pháp có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Việc thành lập Tòa án

chuyên trách đối với người CTN ở Việt Nam là cụ thể hóa đường lối Đảng và Nhà

nước về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em nói chung và xử lý người CTN vi

Page 170: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

166

phạm pháp luật nói riêng. Việc thành lập Tòa chuyên trách đối với người CTN là

phù hợp với Chiến lược CCTP đến năm 2020, trong đó có việc đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án, xây dựng thêm các tòa chuyên trách, xây dựng một đội ngũ

thẩm phán chuyên trách trong lĩnh vực xét xử.

7. Luận án đã nghiên cứu và phân tích những quy định của pháp luật TTHS

đối với việc thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN và những yếu tố ảnh

hưởng đến khả năng thực thi pháp luật TTHS. Những yếu tố này cũng là nguyên

nhân cơ bản làm cho pháp luật chưa được thực thi trên thực tế sau hơn 10 năm có

hiệu lực. Đó là những hạn chế, vướng mắc của những quy định pháp luật, một số

quy định về trình tự TTHS chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống

nhất, những hạn chế về trách nhiệm giữa các cơ quan và người THTT, quan hệ phối

hợp giữa các cơ quan, người THTT, là năng lực thực thi và sự hạn chế về mặt nhận

thức của một bộ phận những người THTT…Những bất cập, hạn chế, vướng mắc

vừa nêu trên đã ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan THTT trong

việc giải quyết các VAHS, chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm và vi phạm pháp luật do người CTN gây ra nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của người CTN phạm tội trong tình hình mới.

8. Trên cơ sở vận dụng các quan điểm của phép duy vật biện chứng, sử

dụng các phương pháp so sánh luật học, nghiên cứu tổng hợp, phân tích…luận án

đã cơ bản giải quyết được các vấn đề lý luận về bản chất pháp lý của những quy

định pháp luật TTHS quy định về QBC của bị can, bị cáo là người CTN, xác định

giới hạn và cách thức điều chỉnh của pháp luật TTHS đối với những chủ thể đặc biệt

này. Trên cơ sở đó, tác giả mạnh dạn đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật

TTHS quy định về QBC của bị can, bị cáo là người CTN như việc quy định cụ thể

những người THTT cũng như xác định rõ trách nhiệm cũng như những biện pháp

chế tài của những người tham gia tố tụng trong các vụ án mà bị can, bị cáo là người

CTN, xác định sự cần thiết phải thành lập Tòa chuyên trách cho người CTN…

Page 171: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

167

9. Luận án cũng nêu lên những đề xuất bước đầu về các biện pháp nâng cao

năng lực nhận thức cũng như nâng cao năng lực áp dụng pháp luật như xây dựng

chiến lược đào tạo cán bộ chuyên trách cho CQĐT, Viện kiểm sát, TAND và thậm

chí cả đội ngũ bổ trợ tư pháp như luật sư, trợ giúp viên pháp lý… xây dựng các chi

tiết về việc tham gia của đại diện hợp pháp của người CTN trong quá trình tham gia

vào quá trình điều tra cũng như khi xét xử người CTN phạm tội.

Tuy nhiên, cần khẳng định rằng các kết quả nghiên cứu của luận án vẫn có

giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Giá trị thực tiễn của luận án được khẳng

định qua những kết quả nghiên cứu về thực trạng pháp luật và khả năng thực thi của

nó. Những nội dung chưa được nghiên cứu được coi là định hướng nghiên cứu tiếp

theo cho tác giả. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đã nêu ở

trên, tác giả đã đề xuất được hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc

thực hiện QBC của bị can, bị cáo là người CTN, đồng thời bảo đảm xác định sự thật

của vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ, góp phần giải quyết đúng đắn VAHS.

Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu khoa học luật TTHS,

giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo luật cũng như trong công tác lập pháp và

công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Page 172: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ

1. Một số ý kiến về việc thành lập Tòa án cho người chưa thành niên tại

Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý số 3 (52)/2009.tr. 27-33.

2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thành lập Tòa án Vị thành niên, Tạp

chí Khoa học pháp lý số 3 (64)/2011.tr.20 – 26.

3. Đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo là người chưa thành niên

theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Sách chuyên khảo Bảo đảm

quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam. Xb.Trường Đại học

Luật TP. Hồ Chí Minh, chủ biên Ts. Võ Thị Kim Oanh, năm 2010.tr.130

-146.

4. Thủ tục thân thiện đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Tạp

chí Khoa học pháp lý số 3 (76)/2013.tr.27 – 36.

5. Human rights Vietnam and the role of Lawyers in ensuring human

rights, đồng tác giả với GS. TS. Mai Hồng Quỳ, bài viết tham dự Hội

thảo Hội Luật gia Dân chủ Thế giới từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 4 năm

2014, tổ chức tại Bỉ.

Page 173: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Danh mục văn bản pháp luật

Tài liệu tiếng Việt

1. Hiến pháp năm 1946

2. Hiến pháp năm 1959

3. Hiến pháp năm 1980

4. Hiến pháp năm 1992

5. Hiến pháp năm 2013

6. Bộ luật tố tụng hình sự 1988

7. Bộ luật tố tụng hình sự 2003

8. Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga

9. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp

10. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa

11. Luật Luật sư 2006

12. Luật số 94-101 ngày 05/02/1994 của Cộng Hòa Pháp

13. Chỉ thị số 197 CT/TW, ngày 19/3/1960 của Ban Bí thư khóa II về công tác

thiếu niên, nhi đồng

14. Công văn số 52/1999/KHXX ngày 15/06/1999 của Tòa án nhân dân tối cao về

thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với bị cáo là người

chưa thành niên

15. Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/06/2002 của Tòa án nhân dân tối cao

về việc giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ

16. Nghị định số 181-NV/6 ngày 12/06/1951 quy định chi tiết thi hành Sắc lệnh số

150-SL ngày 07/11/1950 về tổ chức trại giam

17. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”

18. Nghị quyết 48 ngày 24/05/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020

Page 174: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

19. Quy tắc tối thiểu phổ biến về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành

niên (quy tắc Bắc Kinh - United Nations Standard Minimum Rules for the

Administration of Juvenile Justice/Beijing Rules) được Đại Hội Đồng Liên

Hiệp Quốc thông qua ngày 29/11/1985

20. Sắc lệnh số 33/B của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh định thể lệ cho ty liêm phóng

và sở cảnh sát theo mỗi khi bắt người nào ngày 13/9/1945

21. Sắc lệnh số 46 của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh quy định tổ chức các đoàn thể

luật sư ngày 10/10/1945

22. Sắc lệnh số 47 của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh giữ tạm thời các luật lệ hiện hành

ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho

toàn quốc ngày 10/10/1945

23. Sắc lệnh số 21 của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh tổ chức các Toà án quân sự ngày

14/2/1946

24. Sắc lệnh số 69/SL của Chủ Tịch nước : Sắc lệnh về việc những bị can có thể

nhờ một công dân không phải là luật sư bào chữa cho, trước các toà án thường

và toà án đặc biệt xử việc tiểu hình và đại hình ngày 18/6/1949

25. Sắc lệnh số 58-1270 ngày 22/12/1958 của Cộng Hòa Pháp

26. Thông tư 2225-HCTP năm 1956 về chấn chỉnh việc thực hiện quyền bào chữa

của bị can do Bộ Tài chính ban hành

27. Thông tư số 06-TC ngày 9-9-1967 của Tòa án nhân dân tối cao tối cao

28. Thông tư số 16 ngày 27-9-1974 của Tòa án nhân dân tối cao

Tài liệu tiếng nước ngoài

29. Magistrate Court Act 1932

30. Police and Criminal Evidence Act 1984

31. The Act for the Establishment of and Procedure for juvenile and Family Court

B.E 2534

Page 175: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

B. Danh mục sách tham khảo

Tài liệu tiếng Việt

32. Báo cáo khảo sát nhu cầu của Tòa án nhân dân cấp huyện trên toàn quốc

(2007), NXB Tư Pháp, Hà Nội.

33. Bộ luật tố tụng hình sự của Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc(2012), bản dịch

tiếng Việt của Viện khoa học Kiểm sát, VKSND tối cao.

34. Bộ Tư Pháp (2001), Số chuyên đề về Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Hà Nội.

35. Bộ Tư Pháp (2012), Tờ trình số 06/TTr-BTP trình Chính phủ về dự án Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư ngày 06/03/2012.

36. Phạm Xuân Chiến, Vũ Đức Khiển, Họ vẫn chưa bị coi là có tội – Quyền và

nghĩa vụ của bị can, bị cáo, NXB Pháp Lý, Hà Nội.

37. Cauffman, Steinberg (2008), Sự phát triển của thanh niên và xét xử người vị

thành niên.

38. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao, Lê

Khánh Tùng (2011), Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự,

NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

39. Trần Văn Dũng, Hoàng Ngọc Thành, Về một số chế định pháp lý liên quan

đến người chưa thành niên phạm tội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

41. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Hình Sự Việt Nam, NXB Công

An Nhân Dân, Hà Nội.

42. Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, NXB

Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Đại học New York Khoa Luật (2007), Những vấn đề cơ bản của luật pháp Mỹ

(Fundamentals of American law), NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

44. Đại Học Quốc Gia Hà Nội Khoa Luật (2007), Quyền con người – Tập hợp

những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên Hiệp Quốc,

NXB Công An Nhân Dân, Hà Nội.

Page 176: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

45. Hệ thống tư pháp hình sự của một số nước châu Á, bản dịch tiếng Việt của

Viện khoa học Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

46. Vũ Đình Hòe (2001), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, NXB Văn Hóa

Thông Tin và Trung tâm ngôn ngữ văn hóa Đông Tây, Hà Nội.

47. Trương Phú Lâm (2003), Bảo đảm công lý và quyền con người trong hoạt

động tố tụng, tư pháp ở Trung Quốc, Quyền con người ở Trung Quốc và Việt

Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.

48. Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới (2001), NXB Văn Hóa Thông

Tin.

49. Hoàng Thế Liên (chủ biên) (1996), Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt

Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội.

50. Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2010), Bảo đảm quyền con người trong tư pháp

hình sự, NXB Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh.

51. Đinh Văn Quế (2007), Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự 2003, NXB Tổng

Hợp Thành Phố Hồ Chí Minh.

52. Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện (1999), Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố

tụng hình sự Việt Nam, NXB Công An Nhân Dân, Hà Nội.

53. Stragovich M.S (1968), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Xô Viết, NXB Khoa

Học, Tập 1.

54. Trần Quang Tiệp, Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam.

55. Tòa án nhân dân tối cao (1995), Các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố

tụng.

56. Tòa án nhân dân tối cao (1970-1974), Hệ thống hóa luật lệ về Hình sự, Tập 1.

57. Tòa án nhân dân tối cao (1975-1978), Hệ thống hóa luật lệ về Hình sự, Tập 2.

58. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Tờ trình về việc bổ sung biên chế, số lượng

Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương năm 2012-2013 tại phiên họp thứ

sáu của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 23/03/2013.

Page 177: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

59. Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển (Raddar Bernen) (2000), Hướng dẫn thực

hành các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến tư pháp người chưa thành niên,

NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

60. Vũ Mạnh Thông, Nguyễn Ngọc Điệp (2009), Bình luận Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2003, NXB Lao động và Xã hội, Hà Nội.

61. Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy

Điển (1999), Giáo án các bài giảng công tác với trẻ em làm trái pháp luật, Hà

Nội.

62. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư Pháp (2005), Bình luận khoa học Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2003, NXB Bộ Tư Pháp, Hà Nội.

63. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư Pháp (1999), Bảo vệ quyền trẻ em

trong pháp luật Việt Nam.

64. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2000), Tăng cường năng lực

hệ thống tư pháp người chưa thành niên tại Việt Nam.

65. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (Đào Trí Úc chủ biên) (1995), Tội

phạm học, Luật Hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

66. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học Bộ Luật tố tụng hình sự, NXB

Công an nhân dân, Hà Nội.

67. Vụ công tác lập pháp, Viện Khoa học Kiềm sát (2003), Những sửa đổi cơ bản

của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, NXB Tư Pháp, Hà Nội.

Tài liệu tiếng nước ngoài

68. Athony M. Platt (1969), The Child Saver: The invention of Delinquency, The

University of Chicago Press, USA.

69. David S. Rudstein (2002), Criminal Law cases, materials and problems, West

Group Press, USA.

70. Frank W. Miller, Robert O. Dawson. George E. Dix, Raymon I. Parnas

(1985)., The Juvenile justice process, 3rd Ed, Foundation Press, USA.

Page 178: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

71. Frederick B. Sussmann (1968), Law of juvenile delinquency, New York, USA.

72. Gilbert H.F.Mumford, T.J. Selwood (1974), A guide to juvenile court law,

London, UK.

73. J- M Baudoin (1990), Ordonnance n.58- 1270 du 22 décembre 1958 et la loi

organique n.94-101 du 5 février 1994; le juge des enfants, punir ou surveiller,

Paris, France.

74. Jeremy Gans, Terese Henning, Jill Hunter, Kate Wamer (2011), Criminal

process and human rights, New South Wales Press, Melbourne, Australia.

75. K. W. Lidstone (1982), Human rights in the English criminal trial – Human

rights in criminal procedure, Edited by John M. Mathew, United Kingdom

National Committee of Comparative Law, UK.

76. Kathleen Michon, Juvenile Court: An Overview, Nolo Press, California, USA.

77. Kuđriavtxev A.N (1999), Lý luận chung về định tội danh, Maxcơva, Nga

(Tiếng Nga).

78. Neil Andrews (1994), Principle of Criminal procedure, Sweet & Maxwell

Press, UK.

79. Paul Bergman, Sara J.Berman-Barrett (2003), The Criminal Law Handbook,

Nolo Press, California, USA.

80. Philip Alston, Stephen Parker, John A. Seymour (1992), Children, Rights and

the Law, Oxford University Press, UK.

81. Russell L. Weaver, W. Leslie Abramson, John M. Burkoff, Catherine

Hancook (2002), Criminal Law cases, marterials and problems, West Group,

USA.

82. Stephanos Stavros (1993), The guarantees for accused persons under Article 6

of the European Convention on Human Rights, Sweet & Maxwell Press, UK.

83. Trainhin A.N, Lí luận chung về cấu thành tội phạm, NXB. Sách Pháp Lý,

Maxcơva, Nga (tiếng Nga).

Page 179: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

C. Các bài báo, tạp chí

84. Mai Bộ (2008), “Nguyên tắc xử lý người thành niên phạm tội”, Tạp chí Nghề

luật, (3), tr. 19.

85. Lê Cảm (2008), “Học thuyết về tội phạm – Những vấn đề cơ bản”, Tạp chí

Kiểm Sát, (11), (13).

86. Công báo Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1956), (34), tr. 328.

87. Lê Đăng Doanh (2009), “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên

phạm tội – một số vấn đề cần được nghiên cứu”, Tạp chí Tòa án nhân dân,

(9), tr. 25.

88. Nguyễn Thu Hiền (2005), Tạp chí Tòa án nhân dân, (10).

89. Nguyễn Mạnh Kháng (2007), “Thực hiện dân chủ trong tố tụng hình sự trong

bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, (5).

90. Đặng Thanh Nga (2008),“Một số đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên

phạm tội”, Tạp chí Luật học, (1), tr. 39.

91. Nguyễn Hải Ninh (2009), “Hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm đảm bảo

quyền bào chữa của bị can, bị cáo chưa thành niên”, Tạp chí Luật học, (11),

tr. 41.

92. Cao Thị Oanh (2007), “Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự

của người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Luật học, (10), tr. 36.

93. Nguyễn Thái Phúc (2007), “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong

tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, (4).

94. Đỗ Thị Phượng (2009), “Sự cần thiết phải thành lập tòa án người chưa thành

niên ở Việt Nam”, Tạp chí Tòa Án Nhân Dân, (21), tr. 1.

95. Định Văn Quế (2011), “Một số vấn đề về người bào chữa không phải là luật

sư”, Tạp chí Tòa Án Nhân Dân, (13).

96. Nguyễn Duy Quý (2005), “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam –

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Cộng Sản, (12), tr. 32.

Page 180: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

97. Tô Huy Rứa (2005), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, Tạp

chí Cộng Sản, (11), tr. 23.

98. Lê Văn Sua, “Việc áp dụng khoản 2, Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự”, Tạp chí

Dân chủ và Pháp luật, (11), tr. 26.

99. Nguyễn Văn Tuân (1995), “Bàn về sự tham gia của Luật sư trong các vụ án

mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,

(số chuyên đề), tr. 16.

100. Nguyễn Văn Tuân (1995), “Bảo đảm quyền có người bào chữa của bị can, bị

cáo trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề)

101. Nguyễn Văn Tuân (1995), “Quyền bào chữa và sự tham gia của bị cáo ở

phiên tòa”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề).

102. Nguyễn Văn Tuân (2000), “Luật sư và vấn đề đạo đức nghề nghiệp”, Tạp chí

Dân Chủ và Pháp Luật, (8).

103. Nguyễn Văn Tuân (2001), “Vai trò của Luật sư trong việc bảo vệ lợi ích hợp

pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Dân Chủ và Pháp

Luật.

104. Trịnh Tiến Việt (2010), “Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và

biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí

Tòa án nhân dân, (13), tr. 9.

105. Nguyễn Văn Yểu (2005), “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí

Cộng Sản, (10).

D. Tài liệu tham khảo là các Luận án tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ

106. Trần Hưng Bình (2014), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa

thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học,

Viện Khoa Học và Xã Hội.

Page 181: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

107. Lê Thị Hồng Minh (2003), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thành lập cơ

quan xét xử người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại

học Luật TP.HCM.

108. Đỗ Thị Phượng (2007), Những vấn đề về lý luận và thực tiễn về thủ tục tố tụng

đối với người chưa thành niên phạm tội theo Bộ luật tố tụng hình sự, Luận án

tiến sỹ luật học, Đại học Quốc gia- khoa Luật, Hà Nội.

109. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), Bảo đảm quyền có người bào chữa của người

bị buộc tội – so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ, Luận án

tiến sỹ luật học, Đại học Luật TP.HCM.

110. Nguyễn Thị Thanh (2008), Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong tư

pháp hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học.

111. Lại Văn Trình (2011), Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can,

bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, luận án tiến sỹ luật học, Đại học Luật

TP.HCM.

E. Các tài liệu khác

112. Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về công tác của Tòa án tại kỳ

họp thứ 6 Quốc Hội khóa VIII (bản tóm tắt) ngày 25/10/2013.

113. Báo cáo của Liên Đoàn Luật sư Việt Nam về tổ chức, hoạt động của Liên

Đoàn Luật sư Việt Nam ngày 21/11/2013 gửi Bộ tư Pháp.

114. Báo cáo tại Hội thảo về quyền con người trong tố tụng hình sự (do Viện Kiểm

sát Nhân Dân tối cao và Ủy ban nhân quyền Australia tổ chức vào tháng 3 –

2010).

115. Báo cáo tại Hội thảo quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam (do Liên

đoàn Luật sư Việt Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc tổ chức tại

Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 12 – 2010).

116. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Bảo đảm quyền con người trong tố tụng

hình sự Việt Nam”, chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Nguyễn Thái Phúc, trường Đại

học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009.

Page 182: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

117. Đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản trong khoa học xã hội nhân văn cấp

Trường của tập thể tác giả Đại học quốc gia Hà Nội “Nguyên tắc nhân đạo

trong các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự đối với

người chưa thành niên ở Việt Nam”, năm 2005.

118. Phán quyết rất có ảnh hưởng của Tòa án tối cao Hoa Kỳ về các quyền của bị

cáo vị thành niên được đưa ra trong vụ án In Re Gault, 387 U.S.1 (1967) và vụ

án In Re Winship 397 U.S. 358, (1970).

119. Tài liệu hội thảo Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, tháng 6/2006 của Đại

học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.

120. Tài liệu Hội nghị quốc gia về hỗ trợ pháp lý miễn phí cho xã hội (National

Conference on free lagel assistance to the public) tại Hà Nội từ ngày

31/05/2013 đến 01/06/2013.

F. Tham khảo từ Internet

121. http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/583700/hien-phap-sua-doi-de-cao-

quyencon-nguoi.html (bài viết của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng -

chủ tịch Ủy ban sửa đổi Hiến pháp).

122. http://www.nolo.com

Page 183: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

Phiếu thăm dò ý kiến dành cho người đang bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người

chưa thành niên

Câu hỏi Có Không Không

nhớ rõ

1. Được cán bộ ghi lời khai (Điều tra viên) giải

thích rõ về quyền-nghĩa vụ tố tụng của mình khi

bị tạm giữ

60% 20% 20%

2.Biết mình được quyền bào chữa hay được

người khác bào chữa 15% 80% 5%

3.Cha, mẹ có được cơ quan điều tra thông báo

về việc bị bắt không 65% 27% 8%

4.Khi cán bộ ghi lời khai thì có mặt cha, mẹ hay

Luật sư 15% 55% 30%

5.Khi cán bộ ghi lời khai thì luật sư có tham dự

từ đầu đến khi chấm dứt buổi lấy lời khai 12% 67% 21%

6.Cần Luật sư bào chữa cho mình không? 85% 15% 0%

7.Biết tự bào chữa trước phiên tòa không? 11% 89% 0%

Page 184: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

PHỤ LỤC 2

Phiếu thăm dò ý kiến dành cho thẩm phán

Câu hỏi Có Không Ý kiến khác

1.Sự tham gia của Luật sư từ khi có quyết định

khởi tố bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình

sự là cần thiết

76% 14% 10%

2.Sự tranh luận của Luật sư với những người tiến

hành tố tụng sẽ giúp cho việc giải quyết vụ án

hình sự được đảm bào khách quan và công bằng

86% 14%

3.Cách thức xét xử một vụ án hình sự mà bị cáo là

người chưa thành niên và một vụ án hình sự mà bị

cáo là người thành niên là có sự khác biệt

5% 85% 10%

4.Việc thành lập Tòa án Vị thành niên là cần thiết 87% 10%

3%

Chưa cần

thiết

5.Được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ xét xử

những vụ án do ngưởi chưa thành niên thực hiện 12% 88%

6.Ý kiến của Anh (Chị) về những giải pháp sau đây nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên:

a. Đào tạo đội ngũ những người tiến hành tố tụng chuyên về công tác điều tra, truy tố, xét xử người chưa thàn niên phạm tội; Xây dựng đội ngũ Luật sư có kiến thức chuyên sâu về người chưa thành niên phạm tội (72/100; 72%)

b. Thành lập phòng điều tra thân thiện, Tòa án Vị thành niên chuyên điều

tra, xét xử những vụ án có người chưa thành niên tham gia (18/100 18%)

c. Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tố tụng hình

sự đối với người chưa thành niên phạm tội (10/100; 10%)

Page 185: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

PHỤ LỤC 3

Số liệu thống kê từ Báo cáo hoạt động của các đoàn luật sư từ

năm 2008 đến năm 2012

Năm Án có khung

hình phạt cao

Án có bị cáo là

người CTN Tổng số

2008 389 606 995

2009 327 306 633

2010 295 137 432

2011 432 140 572

2012 516 105 621

PHỤ LỤC 4

Báo cáo hoạt động Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng

Năm Án có khung

hình phạt cao

Án có bị cáo là

người CTN Tổng số

2008 23 35 58

2009 42 59 101

2010 67 71 138

2011 73 84 157

2012 69 90 159

Page 186: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

PHỤ LỤC 5

Báo cáo hoạt động Đoàn luật sư tỉnh kiên Giang

Năm Án có khung

hình phạt cao

Án có bị cáo

là người CTNTổng số

2008 209 191 400

2009 187 321 508

2010 134 388 522

2011 116 182 298

2012 119 254 373

PHỤ LỤC 6

Báo cáo hoạt động Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang

Năm Án có khung

hình phạt cao

Án có bị cáo là

người CTN Tổng số

2008 170 287 457

2009 101 248 349

2010 70 169 239

2011 101 209 310

2012 14 43 57

Page 187: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

PHỤ LỤC 7

Phiếu thăm dò ý kiến dành cho Điều tra viên

Câu hỏi Có Không Ý kiến khác

1.Khi tiến hành tạm giữ, bắt tạm

giam người chưa thành niênthực

hiện hành vi phạm tội, anh (chị) có

lập tức thông báo cho gia đình họ

biết không?

35%

65%

Thông báo từ

khi có quyết

định khởi tố

2.Sự tham gia của Luật sư từ khi

khởi tố bị can trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự có cần thiết hay

không?

85%

Giúp quá

trình giải

quyết vụ án

khách quan

15%

Không cần

thiết vì cản trở

hoạt động điều

tra của cơ

quan tố tụng

3.Được đào tạo chuyên sâu về

điều tra những vụ án hình sự có

người chưa thành niên tham gia

không?

10%

Được học

cơ bản

90%

4.Được tập huấn về những kỹ

năng điều tra nhưng vụ án hình sự

mà đối tượng là người chưa thành

niên thực hiện không?

12%

Lãnh đạo

mới được

tham dự

71%

17%

Không biết về

những buổi

tập huấn này

5.Phương pháp điều tra người

chưa thành niên và người thành

niên có khác nhau?

25% 75%

6.Tạo điều kiện cho luật sư tiến

hành các biện pháp thu thập tài

liệu, đồ vật (hoặc gặp mặt người

70%

25%

Có đối với

những hoạt

Page 188: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

bị tạm giữ, bị can là người chưa

thành niên) hoặc tham gia các hoạt

động khác trong giai đoạn ?

động không

gây cản trở

điều tra

7.Tạo điều kiện cho luật sư đọc hồ

sơ vụ án khi kết thúc điều tra 81% 19%

8. Cơ quan điều tra đang công tác

hiện nay đã có “phòng điều tra

thân thiện” đối với trẻ em là người

chưa thành niên phạm tội?

0% 100%

9. Bằng hoạt động nào, Cơ quan Điều tra tạo điều kiện cho người bị tạm giữ,bị can

là người chưa thành niên thực hiện quyền bào chữa của mình?

Thường xuyên Thỉnh thoảng

a.Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị

can cho họ biết

76%

b.Thông báo đến gia đình họ biết 14%

c.Gửi thông báo yêu cầu Đoàn luật sư

phân công Luật sư bào chữa cho họ

10%

10.Khi Anh (Chị) ghi lời khai người chưa thành niên phạm tội thường ghi ở đâu?

Thường xuyên Thỉnh thoảng

a.Khu vực hỏi cung nhà tạm giữ 97%

b.Phòng làm việc của cơ quan điều tra

đối với bị can tại ngoại

3%

Page 189: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

PHỤ LỤC 8

Phiếu thăm dò ý kiến dành cho luật sư (phát ra 100 phiếu thu về 95 phiếu)

Câu hỏi Có Không Ý kiến khác

1.Giấy chứng nhận bào chữa có giá trị cho suốt

hoạt động bào chữa của luật sư 24.215 75.79%

2.Luật sư có tiền hành các biện pháp thu thập

thêm tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến thân

chủ của mình

20% 80%

3.Cơ quan tiến hành tố tụng, Tòa án có tạo điều

kiện thuận lợi cho Luật sư tranh luận nhằm bảo vệ

thân chủ của mình

85.26

% 14.74%

4.Được cơ quan thông báo trước lịch hỏi cung 3.37% 81.36%

9.47%

không

thường

xuyên

5.Được cơ quan điều tra mời tham dự các hoạt

động điều tra để thu thập thông tin cho vụ án hình

sự mà có người chưa thành niên tham gia

20% 80%

6.Để phục vụ có hiệu quả cho hoạt động bào chữa

của mình, biện pháp nghiên cứu tài liệu hồ sơ vụ

án thật kỹ, thu thập tài liệu, đồ vật, sao chụp hồ sơ

vụ án là quan trọng nhất

100% 0%

7.Ý kiến của luật sư để bào chữa tốt phải làm gì?

………………………………………………………………………………………

……

Page 190: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

8.Trong hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích của thân chủ mình trong giai

đoạn điều tra Luật sư thường gặp những khó khăn nào?

Thưởng xuyên Thỉnh thoảng

a.Thủ tục cấp Giấy chứng nhận bào chữa 84.21%

b.Gặp mặt bị can trong giao đoạn điều tra 15.95%

9.Để được cấp giấy chứng nhận bào chữa, cơ quan điều tra thường yêu cầu Luật sư

cung cấp những loại giấy tờ nào?

Thường xuyên Hiếm khi

a.Thẻ luật sư 78.95%

b.Chứng chỉ hành nghề 6.32%

c.Giấy giới thiệu của Văn phòng luật sư 8.42%

d.Các giấy tờ khác 6.32%

10. Hoạt động hỏi, tranh luận tại phiên tòa có giúp gì cho hoạt động bào chữa của

Luật sư?

a. Giúp tranh luận tốt hơn để từ đó bảo vệ cho thân chủ một cách tốt nhất

(90/95%; 97.74%)

b. Thu thập tài liệu, đồ vật cần thiết phục vụ cho công tác bào chữa (5/95;

5.26%)

Page 191: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

PHỤ LỤC 9

Phiếu thăm dó ý kiến dành cho người đại diện hợp pháp của bị can,

bị cáo là người chưa thành niên

Câu hỏi Có Không Ý kiến

khác

1.Được cơ quan điều tra mời tham dự các buổi lấy

lời khai của con 46% 47%

7% không

được mời

2.Khi tham dự các buổi lấy lời khai của con em

mình, Ông (Bà) có được cán bộ lấy lời khai giải

thích về quyền và nghĩa vụ của mình

15% 85%

3.Có điều kiện thuê Luật sư 18% 81%

4.Được luật sư thăm hỏi về tình trạng, nhân thân,

điều kiện sinh hoạt của con mình 16% 64%

20% không

biết luật sư

là ai

5.Hài lòng với cách Luật sư bào chữa miễn phí cho

con mình 27% 11%

62% không

trả lời

6.Ông (Bà) có bị điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, thư ký Tòa án, Luật sư

bào chữa chỉ định vòi vĩnh, đặt điều kiện không?

a. Điều tra viên (25/100; 25%)

b. Kiểm sát viên (6/100; 6%)

c. Thẩm phán (4/100; 4%)

d. Thư ký (11/100; 11%)

đ. Luật sư bào chữa chỉ định (9/100; 9%)

e. Không có ý kiến (45/100; 45%)

Page 192: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

PHỤ LỤC 10

Số liệu thống kê công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có bị cáo là người

chưa thành niên từ năm 2007 đến năm 2012 (Nguồn Tòa án nhân dân tối cao).

Năm Số vụ án đã xét xử Tồng số bị cáo đã

bị xét xử

Số bị cáo là người

chưa thành niên

2007 3845 5466 1366

2008 3216 4581 1145

2009 2722 3710 927

2010 2582 3418 854

2011 2355 3243 810

2012 4557 6180 1545

Tổng cộng 19277 26598 6647

Page 193: NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH · 2019. 8. 15. · CTN thực hiện khá đầy đủ, cụ thể, trong đó có vấn đề bảo đảm QBC của họ. Tuy nhiên, trong thực

PHỤ LỤC 11

Số liệu thống kê công tác xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hồ

Chí Minh số vụ án có bị cáo là người chưa thành niên

Năm Số vụ án

Số bị cáo

là người

chưa

thành

niên

Số vụ án

đã giải

quyết

Số vụ án

còn lại

Số bị cáo

là người

CTN đã

bị xét xử

Số bị cáo

là người

CTN

chưa bị

xét xử

Từ 01/01/2009

– 31/12/2009 657 864 590 67 606 258

Từ 01/01/2010

– 31/12/2010 431 547 384 47 475 72

Từ 01/01/2011

– 31/9/2011 292 409 284 8 397 12