Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
NGUOÀN ÑAÏONGUOÀN ÑAÏO Taïp Chí Vaên Hoùa Phaät GiaùoTaïp Chí Vaên Hoùa Phaät GiaùoTaïp Chí Vaên Hoùa Phaät Giaùo
Soá 108Soá 108Soá 108———--- Thaùng 8 2018Thaùng 8 2018Thaùng 8 2018 PHAÄT LÒCH 2563PHAÄT LÒCH 2563PHAÄT LÒCH 2563
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 2
GIÁO-HỘI PHẬT-GIÁO VIỆT-NAM TRÊN- THẾ- GIỚI
WORLD VIETNAMESE BUDDHIST ORDER
HỘI ĐỒNG LÃNH ĐẠO
9561 Bixby Ave Garden Grove , Ca 92841 Tel: 714-636-7725
_______________________________
CÁO BẠCH
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới
vô cùng kính tiếc báo tin:
HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG THANH
Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới
Chủ Tịch Trung Tâm Phật Giáo Việt-Mỹ Phụng Sự Xả Hội
Viện Chủ Chùa Bảo Quang
đã thu thần thị tịch tại phương trượng Chùa Bảo Quang, Santa Ana California
vào lúc 00 giờ 45 phút sáng Chủ Nhật ngày 09 tháng 06 năm 2019 (nhằm ngày
07 tháng 05 năm Kỷ Hợi).
Trụ thế: 69 năm
Hạ lạp: 44 hạ lạp
Lễ nhập kim quan được chính thức cử hành vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu ngày 14 tháng 06
năm 2019 (nhằm ngày 12 tháng 05 năm Kỷ Hợi ) tại Peek Funeral Home 7801 Bolsa Ave West-
mingter California 92683, sau đó kim quan được tôn trí và lễ phát tang tại Chùa Bảo
Quang, 713 N Newhope St, Santa Ana, CA 92703
Lễ viếng bắt đầu vào lúc 08 giờ sáng Thứ Bảy ngày 15 tháng 06 năm 2019 (nhằm ngày
13 tháng 05 năm Kỷ Hợi) và Chủ Nhật ngày 16 tháng 6 năm 2019 (nhằm ngày 14 tháng 05 năm
Kỷ Hợi)
Lễ truy niệm được cử hành lúc 08 giờ sáng Thứ Hai ngày 17 tháng 06 năm 2019 (nhằm
ngày 15 tháng 05 năm Kỷ Hợi)
Lễ Trà tỳ được cử hành tại Peek Funeral Home 7801 Bolsa Ave Westmingter California
92683 vào lúc 13:30 giờ sáng cùng ngày.
T/M Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới
Phó Thượng Thủ
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Chơn Thành
Nguồn Đạo số 108— Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang
NguÒn ñåo
Taïp Chí Vaên Hoaù
Phaät Giaùo Vieät Nam
Thöïc hieän, aán loaùt vaø xuaát baûn bôûi
Chuøa Giaùc Hoaøng
5401 16th St. N.W. Washington DC 20011
Ñieän Thoaïi: (202) 829-2423
***
Soá 108
Vu Lan
Phaät Lòch 2563
Thaùng 8 naêm 2019
Vôùi caùc baøi cuûa:
Thích Thieän Hoa - Thích Nöõ Thu Lieân -
Minh An.HDB - Thích Nguyeân Huøng -
Dieäu Oanh - Taâm Minh Ngoâ Taèng Giao -
Nguyeãn Hoøa - Thích Nöõ Nhö Luaät - Minh
Ñöùc Trieàu Taâm AÛnh - Thích Nhaät Quang -
Nhö Thieân - Phaïm Baù & YÛ Nguyeân - Leä
Nghieâm - Thích Trung Ñònh - Thuaàn Baïch
- Nguyeân Nhaõ - Hoaøng Haûi Laâm - Chôn
Khaùnh
Trò Söï:
Thöôïng Toïa Thích Thoâng Ñaït
Toøa Soaïn:
Nguyeân Ngoä - GĐPT TS Giaùc Hoaøng
Trình Baøy vaø Kyõ Thuaät:
Nguyeân Ngoä - GÑPT TS Giaùc Hoaøng
1. YÙ Nghóa Vu Lan Boàn ………………...……………………………. 2
2. Thô: Hoa Hoàng Ñoûõ Muøa Vu Lan …..………………….… 5
3. Ñieáu Vaên Tang Leã Cuï Ñoã Ñình Loäc ….…………..…. 6
4. Thieàn Daãn Nhaäp ………………………..………………………………. 9
5. Ngöôøi Cheát Coù Höôûng Phaåm Vaät Cuùng Thí .…. 11
6. Thô: Con Yeâu Meï …...………………………………………………. 13
7. YÙ Nghóa Thaät Söï Cuûa Leã Vu Lan Baùo Hieáu .… 14
8. Giôùi Luaät Laø Maïng Maïch Cuûa Phaät Phaùp ……… 17
9. Chuøm Thô Meï ………………………………………………………...… 20
10 . Phaät Daïy Caùch Baùo Hieáu ..………………………………… 21
11. Nhöõng Bieåu Hieän Cuûa Noäi Taâm Coù Tu Taäp . 24
12. Hình AÛnh Sinh Hoaït Chuøa Giaùc Hoaøng ………… 27
13. Voïng Baùi Höông Linh HT T Quaûng Thanh …. 31
14. Baø Meï Tuyeät Vôøi .…………………………………………………. 34
15. Thieàn Vôùi Beethoven …………………………………………… 35
16. Thô: Vu Lan Nhôù Meï …………………………………………… 36
17. Vai Troø Giôùi Luaät Trong Thieàn Moân …………….. 37
18. Thieàn Taäp Chaùnh Nieäm ………………………………………. 43
19. ÔÛ Ñaây Khoâng Coù Saàu Muoän ……………………………… 46
20. Buoâng …………………………………...……………………………………. 52
21. Nieàm Vui Moät Mình ………………………... …………………. 56
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 2
A. Mở Ðề
1. Công ơn sanh thành dưỡng dục rất lớn lao:
Chúng ta thường nghe câu ca dao:
"Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra".
Mẹ thì chín tháng cưu mang, ba năm cho bú mớm, suốt đời chỉ biết hy sinh cho con. Khi đang ăn cũng như khi ngủ nghỉ, hễ con cần đến là có mẹ ở bên cạnh. Con lỡ đại, tiểu tiện ở trên mình, mẹ vẫn vui cười không chút hờn giận. Gặp cảnh nghèo hèn, mẹ nhịn bớt cơm cho con ăn, dành chỗ khô ráo cho con nằm (bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn). Rủi khi con đau ốm, mẹ ngồi bên cạnh, năm canh thao thức lo âu; chỉ khi con khỏe mạnh tươi cười, mẹ mới vui tươi hớn hở. Ca dao có câu:
"Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu tử".
Còn cha mẹ phải lo làm lụng vất vả để nuôi con. Nếu gặp cảnh nghèo khó, cha phải làm thuê, ở mướn, mua tảo bán tần, đổ mồ hôi lấy bát cơm, manh áo cho con. Ngoài cha còn dạy dỗ cho con học hành, ngày đêm lo lắng đào tạo cho con thành người hữu dụng, khôn ngoan, khỏi thua chúng kém bạn.
Công ơn cha mẹ nói ra bao nhiêu cũng không cùng.
2. Vậy làm con phải báo đền ơn cha mẹ:
Bất luận luân lý đạo đức nào, Ðông hay Tây, xưa hay nay; đều lấy chữ:"Hiếu" làm đầu. Một người con đã bất hiếu với cha mẹ, thì không còn việc xấu xa gì mà không làm được. Một kẻ vong ơn bội nghĩa như thế, thì không còn biết nhân nghĩa, bác ái, công bằng là gì nữa. Bởi vậy cho nên, người xưa có câu:
"Thiên kinh vạn quyển, Hiếu nghĩa vi tiên",
(Ngàn quyển kinh, vạn quyển sách, đều lấy Hiếu làm đầu).
Kinh Thi có nói một câu rất cảm động:
" Phụ hề sanh ngã, mẩu hễ cúc ngã,
Ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù lao,
Dục báo thâm ân, hiệu thiên võng lạc".
Nghĩa là cha sanh ta, mẹ nuôi ta. Hỡi ôi, cha mẹ sanh ta cực nhọc. Muốn đền đáp ân đức của cha mẹ, như với lên trời cao chẳng cùng.
Phật cũng dạy:
"Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế".
Nghĩa là cha mẹ còn sinh tiền, cũng như Phật còn ở đời. Xem thế, Phật đã đề cao biết bao sự hiện diện quí trọng của cha mẹ. Vì cha mẹ quí trọng như thế, nên Ngài dạy thêm:
" Hiếu vi vạn hạnh chi tiên".
(Hiếu thảo đứng đầu trong mọi việc).
Ðể Phật tử làm tròn nhiệm vụ hiếu đạo, nên đức Phật dạy pháp Vu Lan Bồn dưới đây.
B. Chánh Ðề
Vu Lan Bồn là một phương pháp báo hiếu có hiệu quả nhất. Nhưng trước tiên, chúng ta hãy hiểu nghĩa Vu Lan Bồn thế nào đã.
I. Ðịnh Nghĩa
Vu Lan Bồn là phiên âm theo tiếng Phạn. Người Trung Hoa dịch là: " giả đảo huyền", nghĩa đen là cởi trói người bị treo ngược; nghĩa bóng là cứu vớt những kẻ đau khổ nặng nề như đang bị treo ngược.
II. Nguyên Nhân Phật Dạy Pháp Vu Lan Bồn
Ngài Ðại hiếu Mục Kiền Liên, sau khi tu hành chứng được 6 phép thần thông, ngậm ngùi nhớ đến công ơn cha mẹ, Ngài tìm cách báo đáp. Dùng đạo nhãn xem trong thế gian, Ngài nhận thấy mẹ
YÙ Nghóa Vu Lan Boàn
HT.Thích Thiện Hoa
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 3
mình sanh làm loài ngạ quỷ, than thể ốm gầy, da bọc xương, thân hình tiều tụy, bụng lớn, đầu to, cổ nhỏ như ống chỉ, đói khát suốt năm không được ăn uống. Thương xót quá, Ngài liền đem bát cơm đang ăn dâng mẹ. Ngài vận thần thông, bưng bát cơm đi đến chỗ mẹ ở. Bà mẹ khát khao, nên khi được cơm, lòng tham nổi lên, sợ người cướp giật, lấy tay trái che giấu bát cơm, tay mặt bốc ăn. Bởi lòng tham lam độc ác trong tiền kiếp trước nổi bừng lên, nên cơm mới đưa vào miệng, thì hóa thành ra lửa, bà chẳng ăn được.
Ngài Mục Kiền Liên thấy thế, hết sức đau buồn kêu khóc thảm thiết. Ngài liền trở về bạch Phật, thuật lại như trên và cầu Phật chỉ dạy cho phương pháp cứu độ thân mẫu.
III. Phật Dạy Pháp Vu Lan Bồn Cho Ngài Mục Kiền Liên
Sau khi nghe Ngài Mục Kiền Liên thỉnh cầu phương pháp báo hiếu, Phật dạy rằng:
" Nầy Mục Kiền Liên! Mẹ của ông do lòng tham lam, độc ác đã tạo ra tội lỗi nặng nề trải qua nhiều kiếp, nay sanh trong ác đạo, làm loài ngạ quỷ nên không thể một mình ông cứu độ được. Mặc dù lòng hiếu thảo của ông vô cùng lớn lao, cũng không sao chuyển được hoàn cảnh, chẳng khác gì chiếc thuyền con, không thể chở được tảng đá lớn. Vậy ông phải nhờ oai thần của chúng Tăng trong mười phương, đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ ông được giải thoát. Ta nay sẽ vì ông, chỉ dạy phương pháp cứu rỗi, khiến cho cha mẹ ông xa lìa được các điều tội lỗi.
Nầy Mục Kiền Liên ! Ngày rằm tháng 7 là ngày Tự Tứ của chư Tăng trong mười phương, sau ba tháng an cư kiết hạ, sách tân tu hành. Ngày ấy cũng là ngày hoan hỷ của các chư Phật , vì thấy chư Tăng sau ba tháng an cư kiết hạ, đã tiến bộ rất nhiều trên đường tu học, các nghiệp được thanh tịnh, ba món vô lậu học được tăng trưởng, công đức thêm nhiều và đến ngày viên mãn. Vậy ông nên nhân ngày ấy làm lễ Vu Lan Bồn để báo hiếu cho mẹ ông.
Ông hãy sắm đủ các món trai diên trăm mùi, năm thứ trái, cùng hương dầu đèn nến, giường chõng, chiếu chăn, mùng mền, quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay; tóm lại là đủ bốn món cúng dường quí báu trong đời. Rồi ông phải thân hành đi rước các vị Ðại Ðức Tăng trong mười phương,
hoặc những vị thiền định trong núi rừng, chứng được bốn quả Thánh, hoặc có vị kinh hành dưới cội cây được sáu phép thần thông tự tại hàng Thanh Văn, Duyên Giác, các vị Thánh Tăng, hoặc các vị thập địa Bồ Tát thị hiện làm thầy Tỳ kheo v.v...Ông phải thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường và thỉnh cầu chư Tăng chú nguyện cho vong linh mẹ ông được thoát khổ. Nhờ công đức chí thành chú nguyện, vong linh mẹ ông đã được siêu thoát. Cũng như tảng đá dù nặng trăm cân, song có nhiều người khiêng, thì dời đi đâu cũng được".
Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy, đến ngày rằm tháng 7 làm lễ Vu lan, sắm đủ các vật liệu, rước chư Tăng trong mười phương thành tâm kính lễ trai Tăng cúng dường, nên vong mẫu của Ngài được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, sanh về cảnh giới lành.
IV. Ngài Mục Kiền Liên Hỏi Phật Các Hàng Phật Tử Ðời Sau Có Thể Làm Lễ Vu Lan Bồn Ðược Không?
Sau khi thấy thân mẫu được thoát khổ, Ngài Mục Kiền Liên hết sức vui mừng, liền đến trước Phật chấp tay bạch rằng:
Bạch Thế Tôn! Thân mẫu của con được nhờ công đức Tam Bảo và oai thần của chư Tăng, nên được thoát ly kiếp ngạ quỷ khổ não. Vậy về đời sau, trong hàng Phật tử , nếu có người muốn làm lễ Vu Lan Bồn nầy, để cứu độ cha mẹ hiện tại cũng như cha mẹ nhiều kiếp trước, chẳng biết có được không?
Phật dạy rằng:
"Quý lắm! Nầy Mục Kiền Liên! Ðời sau, nếu có được các thầy Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, vua, Thái Tử, các quan tể tướng, những hàng tam công cho đến tứ dân, vì lòng hiếu thảo muốn đền đáp công ơn cha mẹ hiện tại hay quá khứ, thì cứ ngày rằm tháng 7 là ngày "Phật hoan hỷ", làm lễ Vu Lan nầy, để cúng dường trai Tăng. nhờ công đức của chư Tăng chú nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng long phước thọ, khỏi những điều tai hoạn, khổ não,còn cha mẹ bảy đời trước thì khỏi bị khổ ngạ quỷ, được sanh trong cõi nhơn thiên, hưởng phước vui vẻ không cùng".
Khi đó Ngài Mục Kiền Liên và bốn chúng Ðệ tử hoan hỷ vâng làm. Và từ đó về sau, mỗi năm cứ
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 4
đến ngày Rằm tháng 7, các hàng Phật tử chí hiếu, đều có làm lễ Vu Lan để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.
V. Ý Nghĩa đúng đắn và đầy đủ Của Sự Báo Hiếu Theo Quan Niệm Ðạo Phật
Tất nhiên sự báo hiếu không những chỉ nhắm vào một lễ Vu Lan. Không phải mỗi năm chỉ tổ chức một lễ Vu Lan, là đã tự cho mình là người con chí hiếu vì đã làm đầy đủ hiếu đạo.
Như trên đã nói, công ơn cha mẹ rộng như trời bể, làm con suốt đời báo ơn cha mẹ vẫn chưa vừa. Nhưng trong lúc báo hiếu, phải có quan niệm sáng suốt, đúng đắn mới thật có lợi ích và hiệu quả.
Báo hiếu có nhiều cách, nhưng không ngoài hai phương diện: vật chất và tinh thần.
1.Báo hiếu về vật chất: Người Phật tử phải hầu hạ vâng thờ, thay làm các việc nhọc săn sóc miếng ăn thức uống, áo quần, chiếu giường, chỗ nghỉ ngơi, không để cho cha mẹ thiếu thốn, lo nghĩ. Song người Phật tử phải sáng suốt trong khi báo hiếu, không nên quá chiều theo ý muốn của cha mẹ mà tạo những nghiệp dữ, như sát nhân, hại vật, gây tội lỗi để làm cho cha mẹ sung sướng trong vật chất. Làm như thế không phải là báo hiếu mà chính là bất hiếu, vì đã gây tạo tội lỗi thêm cho cha mẹ và cho mình.
Vả lại, báo hiếu về vật chất, dù đầy đủ cho mấy đi nữa, cũng chẳng qua làm việc cho cha mẹ được vui vẻ thỏa mãn trong một kiếp hiện tại mà thôi. Cái vui vật chất là vui giả tạm, vui trong vòng sanh tử luân hồi. Vậy sự báo hiếu về vật chất chưa phải là đủ.
2.Báo hiếu về tinh thần. Người Phật tử phải tiến lên một tầng nữa, là lo báo hiếu về tinh thần. Báo hiếu về tinh thần là làm sao cho tinh thần của cha mẹ được nhẹ nhàng, cao thượng và đi dần đến chỗ giải thoát. Phật tử phải khuyên cha mẹ tin nhơn quả tội phước và quy y Tam Bảo, bố thí phóng sinh, niệm Phật , làm các việc lành, giữ giới và tu nhơn giải thoát. Có như thế, thì không những trong hiện tại cha mẹ được yên vui, thanh tịnh và đời sau cũng được nhiều phước báo, và sinh trong cảnh giới sáng sủa nhẹ nhàng.
VI.Quyết Nghi
1. Có người nghi: Chư Tăng chỉ tụng kinh chú nguyện làm sao vong linh được siêu độ?
Ðáp: Tinh thần của người ta rất mạnh, mỗi khi chúng ta tập trung tư tưởng, chăm chú vào một việc gì, thì sẽ thấy sức mạnh của nó phi thường. Kinh nói: "Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện"; nghĩa là: để tâm định lại một chỗ, thì không việc gì làm không thành tựu. Chúng ta thấy như các nhà thôi miên, dùng tinh thần sai sử người đi, đứng, nằm, ngồi, v.v...đều được cả. Người thế gian dụng tâm còn được như thế, huống chư Tăng trị trai giữ giới thanh tịnh tu hành, tất nhiên tinh
thần phải sáng suốt, mạnh mẽ hơn. Như thế mà các vị lại tập trung tư tưởng, thành tâm chú nguyện thì vong linh quyết nhờ sức mạnh của chư Tăng mà được siêu sanh. Lại nữa, Phật và Bồ Tát sẵn có lòng từ bi tế độ, thương tất cả chúng sanh như mẹ thương con. Chúng ta cảm, thì lo gì các Ngài không ứng hiện? Cúng như mặt trăng luôn luôn sẵn có ánh sáng, nếu
nước hồ không xao động và lóng trong , thì trăng kia sẽ chiếu xuống tận đáy hồ.
2. Có người hỏi: "Y như lời Phật dạy trong kinh Vu Lan, thì phải sắm cho đủ các thứ thực phẩm và vật dụng quý báu để cúng dường chư Tăng. Như thế đối với những người nghèo hèn thì sao?
Ðáp: Bổn ý của Phật dạy chúng ta là phải chí thành và tận lực trong việc lo sắm đủ những thứ ấy. Ðối với những kẻ nghèo khó, nếu họ đã tận lực mà chỉ mua được một nén hương hay đĩa quả, nhưng có lòng chí thành, thì cũng đủ lắm rồi. Trái lại, nếu có người sắm dư giả các vật mà chưa chí thành, thì cũng chưa có thể gọi là đầy đủ.
3. Có người hỏi: Ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, tự mình có thể cứu vớt cha mẹ được , cần gì phải nhờ đến chư Tăng. Cũng như các ông quan lớn trong xứ, đủ thế lực, có thể cứu bà con có tội được rồi, cần gì phải nhờ đến các quan khác?
Ðáp: Bà Thanh Ðề bị tội khổ, do trước kia tâm bà gây nên. Hôm nay nhờ Ngài Mục Kiền Liên là con hiếu thảo, sắm các lễ vật cúng dường Phật , Tăng, lúc ấy bà sanh lòng hoan hỷ cũng muốn cúng dường Phật , Tăng. Do đổi niệm bỏn sẻn, trở lại tâm rộng rãi, mà bà được giải thoát.
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 5
Nếu như chỉ nhờ đức chúng Tăng mà tâm bà không hoan hỷ mở rộng, thì cũng khó mà cứu vớt được.
C. Kết Luận
Chúng ta đã rõ biết hiệu quả tốt đẹp của lễ Vu Lan. Vậy chúng ta nên noi theo gương của Ngài Ðại hiếu Mục Kiền Liên mà báo hiếu, thì chắc chắn cha mẹ hiện tại và bảy đời trước đều được thoát khổ ngạ quỷ u đồ, và hưởng vui giải thoát. Chuyện "Mục Liên, Thanh Ðề" không có gì là ho-ang đường, huyền bí, mà là một hiện tượng có thể giải thích được. Ðó là do lòng hiếu thảo chí thành của người con và công đức trì trai, giữ giới thanh tịnh trong ba tháng hạ, thúc liễm tu hành của chư Tăng, thành tâm chú nguyện, nên có sức mạnh cảm thông và kích thích đến tâm hồn người đau khổ, làm cho họ thức tỉnh cơn mê, xoay chuyển tâm niệm ác, hướng về nẻo thiện. Nhờ sự chuyển hướng của cái tâm này, mà họ thoát khỏi sự hình phạt đau khổ mà trước kia chính cũng do cái tâm ấy tạo ra. Trong kinh có nói: "Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp". Kìa, như nhà thôi miên học, chỉ tập trung tư tưởng mà còn có thể xoay chuyển sự vật được , huống chi sự chú nguyện của chư Tăng, là kết tinh của bao nhiêu phước đức trí huệ, thanh tịnh, lại không thông cảm đến người ở chốn tội khổ hay sao? Nghiệp lực sâu thẳm vô biên, thì tự lực và nguyện lực cũng dõng mãnh vô lượng, có thể chuyển được tâm người tạo nghiệp, đập vỡ được lao ngục xiềng xích khổ hình ở chốn u đồ.
Pháp Vu Lan nầy chính là phương pháp thần diệu để cứu rỗi vong linh cha mẹ trong cảnh khổ tối tăm.
Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng; báo hiếu không phải chỉ đợi khi cha mẹ đã khuất bóng và mỗi năm chỉ một lần cử hành lễ Vu Lan là đủ.
Người con chí hiếu, bao giờ cũng vui sướng khi thấy cha mẹ còn ở bên mình và tận lực phụng dưỡng cha mẹ, để cha mẹ được thảnh thơi về cả hai phương diện vật chất và tinh thần.
Như thế mới khỏi hối hận và than thở như Thầy Tử Lộ:
"Mộc dục tịnh nhi phong bất đình !
Tử dục dưỡng nhi thân bất tại".
(Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng !
Con nuôi dưỡng báo hiếu mà cha mẹ chẳng còn sống).
HT.Thích Thiện Hoa
Hoa Hoàng Ñoû Muøa Vu Lan
Hồng đỏ cài lên đẹp tuyệt vời
Phải nên trân trọng nhé người ơi!
Những ai còn mẹ còn hồng đỏ
Màu đỏ thắm tươi vẻ rạng ngời
Diễm phúc cho ai còn mẹ hiền
Sống trong tình mẹ thật vô biên
Vu lan báo hiếu vui bên mẹ
Thế sự thăng trầm vẫn thản nhiên
Hạnh phúc là khi còn mẹ yêu
Mẹ thương mẹ nhắc cho nhiều điều
Lúc buồn có mẹ người an ủi
Mong muốn điều chi mẹ cũng chiều
Tình đẹp nào hơn tình mẫu thân?
Chăm lo nuôi dưỡng công vô ngần
Mẹ nào tính toán công nhiều ít
Cũng chẳng bao giờ đòi trả ân
Bổn phận làm con phải đáp đền
Là người Phật tử ai đành quên?
Tinh thần vật chất luôn chu đáo
Tam Bảo mẹ về nương vững bền
Báo hiếu Vu lan hồng đỏ cài
Khắc ghi tình mẹ đến tương lai
Đường trần vạn nẻo đời sương gió
Ân nghĩa mẹ hiền không thể phai
(Thích nữ Thu Liên)
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 6
NAM MÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ
PHẬT
Ngưỡng bái bạch Chư Tôn Hòa-Thượng, chư
Thượng-Tọa, Đại-đức, Tăng, Ni.
Kính thưa Chân Linh cụ Thanh Lương Đỗ
Đình Lộc
Kính Thưa Quý Vị Pháp hửu cùng Tang gia
hiếu quyến,
Hôm nay chúng ta hiện diện trước đỉnh trầm
hương ngun ngút tỏa ngát linh đài, kính cẩn
nghiêng mình trước linh cữu của Cụ Thanh Lương
Đỗ Đình Lộc, là một Bậc Trưởng Thượng sáng lập
viên, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị “Công Đồng
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ “
Chúng tôi xin thay mặt cho HĐQT thành kính
tri ân và tưởng niệm về cuộc đời của Cụ, trước khi
chia tay lần cuối, an giấc ngàn thu...
Kính thưa Chân Linh cụ Thanh Lương,
Chúng tôi vẫn biết, cuộc đời là huyển hóa,
kiếp phù sinh như sương gá đầu cành...Nhưng tình
huynh đệ, nghĩa pháp hữu ... đứng trước cảnh
đoạn trường này...làm sao chúng tôi không khỏi
bùi ngùi, xúc động và chạnh lòng đau xót ...
Chúng tôi trộm nhớ lại, người ta được biết Cụ
Đỗ Đình Lộc là một thương gia thành đạt từ Hà
Nội tới Sai gòn và sau đó là tại Hoa Kỳ vùng An-
napolis, Maryland.
Năm 1975, khi Saigòn thất thủ, hai Cụ đã bảo
trợ nhiều gia đình người Việt tỵ nạn tới định cư tại
vùng Annapolis, tiểu bang Maryland. Kế đó cuối
năm 1976, Cụ đã cùng với hai Thầy Giác Đức,
Thanh Đạm và quý đạo hữu Vũ Phan, Nguyễn
Ngọc Linh, Nguyễn Ngọc Bích thành lập ra Công
Đồng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ, và
Chùa Giác Hoàng. Cụ đã tham gia trong HĐQT
suốt từ khi thành lập tới nay.
Đặc biệt, đối với Đạo Pháp, Cụ đúng là môt
Phật tử chân chánh, một Cư sĩ thấm nhuần giáo
pháp.
Cụ đã sớm tham gia phong trào chấn hưng
Phật giáo tại Chùa Quán Sứ Hà nội. Ngày nay, tại
hành lang Chùa Giác Hoàng chúng ta còn thấy treo
tấm hình chụp vào năm 1950, trong đó có Cụ đứng
chụp chung với các bậc tôn túc, trong Giáo Hội
Phật giáo Tăng Già Bắc Việt. Cụ đã đóng góp
nhiều tịnh tài, trong những dịp xây cất các tự viện
suốt từ Bắc chí Nam nhất là tại Hoa kỳ này.
Khi đến tuổi về hưu, Cụ đã tham dự rất nhiều
khóa tu Thiền như khóa tu tại Mạc Tư Khoa, Thái
Lan, Mã Lai Á, Trung Quốc, Đài Loan ; cùng với
những khóa tu với HT. Kim Triệu tại Cali và Bos-
ton. Nhất là các khóa Nghiên Tu An Cư hàng năm,
tại tổ đình Từ Quang do Giáo hội PGVN Trên thế
giới tổ chức.
Trong đời sống hàng ngày, lúc nào Cụ cũng
ăn mặc chỉnh tề, cử chỉ khoan thai, nói năng chậm
rãi và khiêm tốn. Cụ giao thiệp rất rộng rãi hào
phóng, bạn bè ai cũng quý mến.
ÑIEÁU VAÊN TANG LEÃ CUÏ THANH LÖÔNG ÑOÃ
ÑÌNH LOÄC
Hoäi Ñoàng Quaûn Trò Chuøa Giaùc Hoaøng vaø BCCA
Cø ñ‡ ñình L¶c
1923 - 2019
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 7
Nhờ có công phu tu tập nhiều, nên Cụ đã hun
đúc được đức tính “Khiêm Tốn” và “Khoan
Dung”.
Sau đây chúng tôi muốn kể một vài cư xử rất
khoan dung của Cụ, mà chúng tôi là những người
có hân hạnh làm việc bên cạnh Cụ, phải thán phục
về những ứng xử xứng đáng của một người Phật tử
đã thấm nhuần Đạo Pháp và đã thực hành những
lời Phật dạy.
Những câu chuyện kể ra đây không khỏi nói
đến việc vào cuối năm 2016, Chùa Giác Hoàng
xảy ra chuyện đáng buồn, khi Hòa thượng đệ nhị
trụ trì viên tịch, ngôi vị trụ trì khiếm khuyết, rồi
Phật Tử phân chia thành hai nhóm, dẫn tới sự việc
mang nhau ra pháp đình để chứng minh.
Ngày đó, trong một buổi họp của HĐQT với
luật sư Vassar của Chùa, Cụ hỏi: “Có cách nào
chứng minh bên nào hợp pháp, bên nào không hợp
lệ, mà không phải mang ra tòa không?” Ông luật
sư cười nói rằng: “Hai bên đều có luật sư biện hộ,
muốn chứng minh phải mang ra tòa phân xử, khi
tố tụng thì phải có bên nguyên cáo và bên bị cáo,
không thể tránh được!”.
Quả là Cụ đã cố áp dụng tinh thần “lục hòa”
trong mọi tình huống.
Rồi trước sự việc vị nguyên tổng thư ký niêm
yết những thông cáo bất hợp lệ, đăng những bài
xuyên tạc trên mạng và báo chí, Cụ nói với mọi
thành viên trong HĐQT: “ Xin mọi người đừng
viết những bài phản biện, những điều gì cần đính
chính xin cứ ra thông cáo dán tại Chùa, mọi
chuyện để công lý chứng minh, đâu rồi còn có đó.
Phật tử với nhau mà mang nhau ra tòa đã là một sự
không nên, nay lại còn tranh cãi trên dư luận thông
tin, lời qua tiếng lại, thì thật là quá đáng!”. Quả là
Cụ đã ứng dụng chữ “nhẫn” trong Đạo một cách
khôn khéo.
Kế tiếp, Bà Chánh Án Ronna Beck phụ trách
vụ kiện, nhân thấy hai bên kiện tụng là những bậc
cao niên từ 65 tới trên 90 tuổi, tranh chấp nhau
không phải là tiền bạc, vì quỹ Chùa còn nguyên
vẹn hợp lệ, mọi người làm việc Chùa trên tinh thần
tự nguyện, không có nhân viên nào có lương bổng.
(Không giống các cơ quan thiện nguyện bất vụ lợi
ở Mỹ). Do đó, Bà đoán sự việc là do lòng tự ái (cái
Ngã) mà ra, cho nên Bà trì hoãn vụ án, tìm cách
hòa giải lấy lại tinh thần hòa hợp. Bà đã hủy bỏ
lệnh tạm thời khẩn cấp (TRO) và cho phép mỗi
bên được xen kẽ xử dụng Chánh Điện Chùa làm lễ
1 tuần một lần, với hy vọng hai bên gặp nhau tại
Chùa sẽ lấy lại thiện cảm và tương nhượng nhau.
Trong suốt thời gian 3 tháng như vậy, mỗi tuần Cụ
đã ăn mặc chỉnh tề với áo veston, cravate, lên
chánh điện dự lễ đầy đủ, từ đầu đến cuối, bất kể là
bên nào tổ chức lễ. Cụ nói: “Tôi tới Chùa để lễ
Phật, ai làm lễ cũng vậy mà thôi”. Như ta đã thấy
Cụ đã dẹp bỏ Sân hận, gạt bỏ mọi dị biệt mà thể
hiện tinh thần hòa đồng, như Phật đã dạy.
Chừng ít lâu sau, Bà Chánh án Ronna Beck
thấy không kết quả, Bà đã kết thúc vụ án và ra
phán quyết công nhận HĐQT do Cụ Lộc làm chủ
tịch là hợp pháp. Khi Ông luật sư Vassar tới họp
mang theo kết quả phiên tòa và hỏi ý kiến về diễn
tiến kế tiếp là đòi bồi thường, thì Cụ Lộc gạt bỏ ý
tưởng tiếp tục vụ kiện và tỏ ý bãi nại. Đại ý Cụ
nói: “khởi đầu câu chuyện là ba vị cựu sáng lập
viên đã từ chức rời Chùa cả hàng mấy chục năm,
nay trở lại “nhận vơ” là họ còn có quyền hành. (Cụ
tránh dùng chữ “tiếm quyền” là một trọng tội, rồi
danh từ “nhận vơ” này đã làm cho vị thông dịch
gặp khó khăn trong việc phiên dịch sang tiếng Anh
cho Ông LS Vassar) Nay HĐQT đã được công
nhận là hợp lệ thế là đủ rồi. Dẫu Chùa có bị thua
thiệt là thiệt hại tịnh tài của bá tánh. Chùa mà còn
đòi bồi thường thì không thể gọi là Chùa được.
Xin quý vị trong ban quản trị không được “thừa
thắng xông lên” viết trên báo chí những bài phản
bác, chỉ nên thông báo bản dịch phán quyết của
Tòa Án là đủ. Câu chuyện Chùa Giác Hoàng cần
phải chấm dứt và cho trôi vào quên lãng càng sớm
càng tốt!”
Đó ta thấy Cụ đã có những nhận định sáng
suốt, áp dụng tinh thần hỷ xả khoan dung vào công
việc.
Cách đây vào khoảng 9 tháng, các thành viên
HDQT cùng với Thầy Trụ Trì đã tới vấn an Cụ tại
nhà và nhân dịp này nói lên những lời biết ơn của
ban trị sự Chùa Giác Hoàng đối với Cụ là người đã
lèo lái ngôi Chùa qua những cơn biến động, phong
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 8
ba bảo tố. Chúng tôi thiết nghĩ cần phải trang trọng
nói lên lòng tri ân tới Cụ lúc Cụ còn minh mẫn
nhận thức. Chúng tôi đã cùng nhau lần lượt ôn lại
những kỷ niệm tốt đẹp và tỏ lời cám ơn tới Cụ.
Như thông thường, Cụ chắp tay khiêm nhường và
nói đó là bổn phận của người Phật Tử. Cụ vẫn còn
căn dặn như sau: “nghe nói ai đó còn để trên
Youtube những đoạn video về việc giật micro hay
sách nhiễu tôi, chuyện đã qua rồi, thôi dẹp bỏ, xóa
nó đi! Đừng để lại những hình ảnh không đẹp ấy
nữa!”.
Đấy là những ứng xử của Cụ, trong tinh thần
thực hiện những lời dạy của Đức Phật là “Đức
Tính Khiêm Tốn” và “Đức Tính Hỷ Xả”, lòng cao
cả và độ lượng vẫn luôn luôn ở nơi Cụ
Hôm nay, Công Đồng Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam tại Mỹ đã mất đi một vị Chủ Tịch, một
sáng lập viên, Phật Tử Chùa Giác Hoàng, cũng
mất đi một vị trưởng thượng gương mẫu, trên con
đường thực hành tu tập, và sách tấn tiến tu, dấn
thân phụng sự Đạo pháp.
Đại diện cho HĐQT Công Đồng Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ, chúng tôi xin gởi lời
thành kính phân ưu sâu sắc đến với gia đình Cụ,
cùng tang gia hiếu quyến trong sự mất mát lớn lao
này.
Nguyện cầu hồng ân chư Phật gia hộ chân
linh Đạo Hữu Thanh Lương Đỗ Đình Lộc, sớm
vãng sanh nơi miền Cực Lạc.
NAM MÔ TIẾP DẪN ĐẠO SƯ A DI ĐÀ
PHẬT.
Phaân Öu Được tin buồn:
Cụ Đỗ Đình Lộc Pháp danh Thanh Lương
Nguyên là một trong những sáng lập viên của Hội Đồng Quản Trị Công Đồng Phật Giáo Tại Mỹ, Chùa Giác Hoàng Wasington DC
Là một vị Ân Nhân Bảo Trợ cho GĐPT Việt Nam Vùng Hoa Thịnh Đốn
đã mãn phần lúc 0G45 tối ngày 27 tháng 6 năm 2019
(Nhằm ngày 25 tháng 5 năm Kỷ Hợi )
Hưởng thọ 97 tuổi
Thay mặt chư Tăng-Ni, GĐPT Thiện Sinh, tòa soạn báo Nguồn Đạo, và các thành viên trong hội đồng điều hành Chùa Giác Hoàng, xin thành thật chia buồn cùng tang quyến.
Nguyện cầu hương linh Cụ Đỗ Đình Lộc, Pháp Danh Thanh Lương sớm được vãng sanh nơi miền Cưc Lạc.
Trụ Trì Chùa Giác Hoàng
Điều Ngự Tử, Thích Thông Đạt
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 9
Thiền không nhất thiết là phải ngồi mà cũng không phải chỉ thiền trong một vài phút hay vài giờ. Người tu thiền tới mức độ cao thâm thì thời gian thiền sẽ là không giới hạn.
Trọng tâm của Thiền là sự tĩnh lặng trong tâm thức và sự tập trung năng lượng tư duy vào một dòng tư tưởng duy nhất.
Thái độ của thiền gia phải toát ra sự Từ tốn; Thung dung, Thân thương, và Thanh thoát.
Những Phật tử hay con chiên, nếu không có những giờ phút tham thiền (Chánh Ðịnh/Tĩnh tâm), thì e rằng các điều Thầy, Cha giảng dạy sẽ không bám trụ trong vùng ý thức.
Thiền (Zen/Meditation) là một phương pháp tu luyện có hai mục tiêu: (1) Dưỡng Sinh (Thọ) và (2) Ðạt Ðạo (Ngộ).
Thiền có mặt ở Ấn Ðộ khoảng 3000 năm Trước Tây Lịch trong phép tu luyện Yoga hay Ðạo Bà La Môn.
Ðức Phật Thích Ca hẳn nhiên đã tu tập Thiền từ nhỏ và Ngài đã liên tục Tọa Thiền 49 ngày dưới cây Bồ Ðề trước khi đắc Ðạo (Ngộ).
Thiền từ Ấn Ðộ du nhập qua Trung Hoa, Việt Nam và Nhật Bản nhiều thế kỷ sau Tây Lịch.
Mỗi nơi có những phương thức thiền khác nhau.
Phương pháp thiền Zen của Nhật Bản được người Tây Phương biết đến nhiều nhất vì Zen ở Nhật được các Thiền Sư nâng lên một mức độ nghệ thuật cao với 4 bộ môn Thi - Trà – Thư - Họa nhằm đưa Thức (consciousness) tới trình độ Thần thức.
Thức là biểu hiện của cái gọi là Hồn hay Linh Hồn.
Theo Ðạo Phật, khi người ta chết, tất cả thân xác đều tan rã chỉ trừ có Thứ Tám (A-Lại-Da) là tồn tại.
A-Lại-Da thức tồn chứa tất cả những gì cá nhân con người chết đã suy nghĩ, đã làm; và rồi khi “duyên” (causal situation) khởi, A-Lại-Da thức nhập vào một thân thể khác để tiếp tục đi vào tiến trình của Luật Luân Hồi.
Thức được thể hiện qua lối suy nghĩ (tư duy). Chính trong ý nghĩa này, nhà hiền triết Socrates nói: “Je pense, donc je suis.”; và Tiên Ðiền Nguyễn Du có câu: “ Chết là thể xác, còn
là tinh anh.”
Chủ yếu của Thiền là làm trong sạch lại cõi tâm thức (mindfulness), nghĩa là, gột rửa những tạp tư, vọng tưởng ra khỏi vùng tâm thức.
Một khi tâm thức được trong sạch, thanh nhẹ, thì ánh sáng của Phật tính (Buddha’s nature) sẽ phát quang giúp con người nhìn thấy rõ chân tướng của sự vật.
Do đó, người khởi sự tập thiền phải tu chỉnh lại các thói quen xấu như mắt quen nhình những hình ảnh khiêu gợi; mũi quen ngưởi mùi
hương thối tha; tai quen nghe những lời châm chích; miệng quen nói những chữ tục tằn; tay chân quen đụng chạm bậy bạ; v.v.
Khi ngũ thức này hoàn chỉnh, thiền gia mới có thể tiến vào giai đoạn thiền tĩnh lặng một cách có hiệu quả.
Vị Tổ Thiền Sư Việt, Vua Trần Nhân Tôn, đã chỉ ra rằng: thiền không phải là phải vào chốn rừng sâu hay núi thẳm để tìm sự tĩnh lặng, hay ngồi nhìn vào vách tường (diện bích) hay tịnh khẩu; mà thiền là giữ sao cho tâm đối diện cảnh mà không dao động.
THIỀN
-Minh An.HDB
Thiền là một pháp môn
Trước là dưỡng sinh, sau là đạt Ðạo
“Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền”
Minh An.HDB
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 10
*
Thiền là một Pháp đạo
Chuyển Thế Giới Tâm Linh
Khởi đầu là Dưỡng Sinh
Cuối cùng là Đạt Đạo
*
Chủ yếu là Tâm Định
Tâm là Linh Quang Tố
Tạo hồn siêu tần số
Dao động quán tính (inertia)
Bởi Siêu Lực Thiên đỉnh
Trong nhân sinh đầy Dục Vọng
Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến
Là Ma Lực làm tâm Động
Tần số thêm gia tốc
Tư duy loạn sắc hình
*
Tự mình phải Tham Thiền
Đưa tâm về Trạng uyên nguyên quán tính
Sự sống sẽ an tịnh
Tiếp diễn vô hạn định
Con người Vô Lượng Thọ
Mọi điều đều Sáng Tỏ (Enlightenment)
Đó chính là Thăng Hoa
*
THIỀN TU
- Minh An.HDB
Tình, tiền, tài tụ, tán thiền tu
Thanh trí, tâm, thân thoát tục tù
Tham tích tồi tàn tiêu triệt tặc
Tức tồn táng tận tiễu trừ thù
Tinh thần thư thản: thôi toan tính
Tri thức tinh tường: tuyệt tưởng tư
Trang trải toàn thương, tăng tiến thiện
Tòa trên thượng tọa tắc thiên thu
*
DUYÊN LÀNH
- Minh An Hải Bằng.HDB
*
Duyên lành ta mới gặp nhau
Nắm tay xây dựng Ðạo mầu Vô Vi
Vô Vi mà lại Hữu Vi
Làm cho cuộc sống hết đi não phiền
Ðời là quả nghiệp triền miên
Tâm an, trí tịnh: là Tiên cõi phàm
Giải si, bỏ giận, diệt tham
Sự đời vô trụ, chấp làm thiệt sao?
Thiền Ca cất tiếng hát cao
Cho đời an lạc: đường vào Cửa Không
Nơi nơi thế giới hòa đồng
Thăng hoa lên cõi Tiên Bồng phiêu diêu
*
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 11
Không biết tự bao giờ, trong sanh hoạt dân gian, tháng Bảy được xem là tháng cô hồn. Rất nhiều chùa viện và rất đông những gia đình tổ chức cúng thí trong tiết trời tháng Bảy ảm đạm bởi những ngày mưa ngâu, làm cho không khí càng thêm u uẩn.
Chúng ta hẳn đã không ít lần tự hỏi, không biết người chết có hưởng thọ được gì hay không trong những lần ma chay, kỵ giỗ, trai đàn, cúng thí ấy, mà có khi là mâm cao cỗ đầy, có khi chỉ là vài chén cháo lá đa, một ít gạo muối?
Phạm chí Sanh Văn cũng có tâm trạng đó khi
người thân của ông qua đời. Sanh Văn, 生 聞, tên
tiếng Pāli là Jāṇussonī, được kể là một trong số những Bà-la-môn lỗi lạc đương thời Phật. Ông ở tại Xá-vệ và thường đến gặp Đức Phật để thảo luận. Sanh Văn cũng chính là người lần đầu tiên nghe kể về Đức Phật đã từ trên xe bước xuống, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay hướng về rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc ba lần làm lễ: “Nam-mô Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác” 1.
Một hôm, Sanh Văn có người thân qua đời. Ông tổ chức ma chay, mở đàn cúng thí, nhưng lòng tự hỏi không biết việc mình làm có lợi ích gì cho người thân hay không, liền đến chỗ Thế Tôn, bạch hỏi: “Thưa Cù-đàm, con có người thân tộc rất thương mến, bỗng nhiên qua đời. Con vì người ấy nên bố thí với tín tâm. Thế nào, bạch Thế Tôn, người ấy có nhận được không?” 2.
Câu hỏi ấy thật đúng với tâm trạng của không biết bao nhiêu người!
Đức Thế Tôn khẳng định có một loài chúng sanh có thể nhận được sự ủy lạo của loài người bằng cách cúng thí, đó là chúng sanh trong đường ngạ quỷ
Những đối tượng không nhận được lễ phẩm cúng thí
Đức Phật cho biết: “Nếu người thân tộc của ông sanh vào trong địa ngục, họ sẽ ăn thức ăn của chúng sanh địa ngục để nuôi sống sanh mạng của họ, chứ không nhận được đồ ăn thức uống mà ông bố thí dù với tín tâm. Nếu họ sanh vào súc sanh, hoặc loài người, họ sẽ được đồ ăn thức uống của súc sanh, loài người, mà không nhận được đồ do ông bố thí” 3.
Kinh Tăng chi bộ giải thích rõ ràng hơn: “Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói
hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào địa ngục, ăn món ăn của chúng sanh ở địa ngục ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở nơi đây, vị ấy không được
lợi ích của bố thí ấy.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh... có tà kiến. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào loại bàng sanh. Món ăn của chúng sanh ở bàng sanh ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ; trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có tâm sân hận, có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh cộng trú với loài Người. Món ăn của loài người như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn,
Ngöôøi Cheát Coù Höôûng Caùc Phaåm Vaät
Cuùng Thí?
Thích Nguyên Hùng
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 12
đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh... có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư Thiên. Món ăn của chư Thiên như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy 4.
Như vậy, nếu người chết đã tái sanh vào các cảnh giới địa ngục, súc sanh, người và trời thì không nhận đồ ăn thức uống, cho đến áo quần, nhà cửa, xe cộ, điện thoại… do người thân cúng tế.
Những đối tượng nhận được lễ phẩm cúng thí
Nhưng nếu người chết rơi vào đường ngạ quỷ thì họ sẽ nhận được các thực phẩm cúng thí. Kinh ghi: “Này Bà-la-môn, trong đường ngạ quỷ có một nơi tên là Nhập xứ ngạ quỷ. Nếu người thân tộc của ông sanh vào trong Nhập xứ ngạ quỷ kia, thì sẽ nhận được thức ăn của ông”5.
Nhập xứ được giải thích là sanh vào thân trung ấm. Nếu thân trung ấm sanh vào đường ngạ quỷ thì gọi là ‘đắc nhập xứ’, tức báo xứ (của thân trung ấm) là ngạ quỷ. Cha mẹ cùng bà con quyến thuộc sanh vào đường ngạ quỷ (khi đang ở tình trạng thân trung ấm ngạ quỷ và khi đã sanh vào báo xứ ngạ quỷ) mới nhận được sự cúng thí 6.
Kinh Tăng chi bộ giải thích rõ ràng: “Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh... có tà kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi ngạ quỷ. Món ăn của chúng sanh ngạ quỷ như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào các bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc bà con, hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hiến cúng cho vị ấy, tại đấy vị ấy sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy” 7.
Như vậy, Đức Thế Tôn khẳng định có một loài chúng sanh có thể nhận được sự ủy lạo của loài người bằng cách cúng thí, đó là chúng sanh trong đường ngạ quỷ, tức là ma giới. Hẳn nhiên, lễ
phẩm cúng thí phải là thứ ăn uống được, chứ không phải là hàng mã!
Phước báo của sự cúng thí
Trường hợp người cúng thí, gia chủ không có cha mẹ hay bà con quyến thuộc trong đường ngạ quỷ thì sự bố thí đó cũng có phước báo: “Giả sử ông vì những thân tộc quen biết mà bố thí, nhưng họ không sanh vào trong chốn ngạ quỷ và lại cũng không có những người quen biết khác sanh vào chốn ngạ quỷ, thì việc bố thí do lòng tin, tự mình sẽ được phước. Của bố thí do lòng tin của người thí chủ đó, sẽ không mất”. Kinh phân tích:
“Giả sử có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy sau lại phát tâm bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn,... cho đến những kẻ ăn xin bần cùng, đều bố thí tiền tài, áo quần, chăn mền, đồ ăn thức uống, đèn đuốc, những vật dụng trang nghiêm. Người ấy do sát sanh, lấy của không cho…, sẽ đọa lạc vào trong loài voi, nhưng vì người ấy đã từng bố thí…, nên tuy ở trong loài voi, nhưng cũng nhận được phước báo nhờ họ đã
bố thí, từ quần áo, đồ ăn thức uống cho đến những vật dụng trang nghiêm.
“Nếu lại sanh vào các loài súc sanh như trâu, ngựa, lừa, la v.v... nhưng cũng nhờ vào công đức thí ân trước, nên họ ắt sẽ nhận được phước báo kia tùy theo chỗ sanh tương ứng mà được thọ dụng.
“Này Bà-la-môn, nếu thí chủ kia lại trì giới, không sát sanh, không trộm cướp,... cho đến có chánh kiến, và bố thí cho các Sa-môn, Bà-la-môn,... cho đến những kẻ ăn xin nào là tiền của, áo quần, đồ ăn thức uống, đèn đuốc, thì nhờ công đức này mà sanh trong loài người, ngồi hưởng thụ phước báo này, từ áo quần, đồ ăn thức uống... cho đến những vật dụng như đèn đuốc.
“Lại nữa, này Bà-la-môn, nếu họ lại trì giới, thì sẽ được sanh lên cõi trời, vì họ nhờ vào những thí ân nên được hưởng những thứ phước báo về tài bảo, áo quần, đồ ăn thức uống,... cho đến những vật dụng trang nghiêm cõi trời” 8.
Như vậy, một khi gia đình chúng ta có người thân qua đời, chúng ta phát tâm thanh tịnh cúng kính hay bố thí, cúng dường cho Tăng Ni hoặc
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 13
cho người nghèo khổ, thì dù người thân đã mất của chúng ta không nhận được, bản thân của chúng ta cũng được phước báo trong mọi trường hợp.
Một sự thật là chúng ta không ai biết được người thân của mình sau khi chết đã sanh vào đường nào của lục đạo. Do đó, để tri ân người đã mất, nhất là cha mẹ, bà con thân thuộc của mình, cùng với những anh hùng liệt sĩ đã hy sanh cho tổ quốc, để họ khỏi đói lạnh, bơ vơ, để họ khỏi tủi thân vì chẳng còn ai thương nhớ… chúng ta nên làm lễ kỳ siêu cúng thí cho họ, hoặc mở hội bố thí rồi hồi hướng công đức cho họ. Vì rằng, trong bất cứ trường hợp nào, người thân của chúng ta đã tái sanh về đâu, việc làm ấy đều có phước báo cho chính bản thân mình!
Cúng thí là một trong những cách bố thí cho người đã chết. Vì vậy hãy bố thí những gì mà họ ăn uống được, đừng bố thí thức ăn giả và càng không nên đốt các loại vàng mã như nhà cửa, xe hơi, điện thoại, tiền vàng… để bố thí cho họ. Ngoài ra, với tâm thanh tịnh chúng ta cúng dường cho Tăng Ni, biếu tặng cho người nghèo khổ, hoặc làm các thiện sự như bắc cầu, đào giếng, đắp đường, trồng cây… đều là những việc làm bố thí đưa tới phước báo cho chính bản thân mình và cũng có thể hồi hướng công đức ấy cho người thân đã qua đời.
***oOo***
1 Trung A-hàm 146, kinh Tượng tích dụ.
2 Tạp A-hàm, kinh 1041. Pāli, A.10.177. Jāṇussoṇi.
3 Tạp A-hàm, kinh 1041, Sanh Văn.
4 Tăng chi bộ, (XI) (177) Jāṇussoṇi, HT.Thích Minh Châu dịch.
5 Tạp A-hàm, kinh đã dẫn.
6 Tứ phần luật hành sự sao, Tục tạng 42, N°.0736, p.1028c05.
7 Tăng chi bộ, kinh đã dẫn.
8 Tạp A-hàm, kinh đã dẫn.
Mom's smiles can brighten any moment,
Mom's hugs put joy in all our days,
Mom's love will stay with us forever
and touch our lives in precious ways...
The values you've taught,
the care you've given,
and the wonderful love you've shown,
have enriched my life
in more ways than I can count.
I Love you Mom!
Anonymous
Mẹ mà nở những nụ cười
Lúc nào cũng chiếu sáng ngời đẹp thay,
Mẹ ôm ấp trong vòng tay
Mang niềm vui tới bao ngày trong ta.
Tình yêu Mẹ khó nhạt nhòa
Đọng trong ta tháng năm qua chẳng rời
Và trên vạn nẻo đường đời
Tình này thấm đượm tuyệt vời quý sao…
Những lời Mẹ dạy ngọt ngào
Những điều chăm sóc Mẹ trao thắm tình,
Những yêu thương thật nhiệt thành
Mẹ từng biểu lộ và dành cho con
Khiến đời con đẹp thêm luôn
Tính sao cho hết, mãi còn thăng hoa.
Con yêu Mẹ thật thiết tha!
Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển ngữ
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 14
Không biết tự bao giờ, một truyền thuyết của nhà Phật đã "hóa thân" trở thành một mỹ tục trong đời sống văn hóa của người Việt Nam, để rồi mỗi năm chúng ta lại có một ngày Vu lan - ngày báo hiếu với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Tới hôm nay, dù cuộc sống đã phát triển thì mọi người vẫn cần làm cho mỗi ngày đang sống là một ngày Vu lan...
Ngay còn nhỏ, tôi cùng gia đình sơ tán về một vùng quê. Mấy năm liền, cứ đến rằm tháng bảy là tôi lại theo mẹ đi chùa. Thường thì những ngày này trời đổ mưa rả rích, mẹ tôi bảo đó là mưa ngâu. Trời mưa, chùa làng nhỏ nhưng vẫn đầy người qua lại, mẹ tôi bảo mọi người lên chùa thắp hương để báo hiếu cha mẹ, ông bà và cho những "vong hồn." Lúc được ăn chút cháo hoa, cầm gói bỏng ngô thì tôi thích lắm.
Rồi tôi lớn lên và nhập ngũ, mỗi năm về nhà một, hai lần. Thấy tôi gầy, mẹ khóc. Thấy áo tôi rách, mẹ cặm cụi ngồi vá lại cho tôi. Mẹ bắt ăn thật nhiều, dù ngày ấy cuộc sống gia đình tôi đâu có dư dả... Vậy mà tới khi biết Vu lan là gì, "xá tội vong nhân" ý nghĩa ra sao, biết nghĩ đến việc "Một lòng thờ mẹ kính cha - Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con" thì chỉ được vài năm, cha mẹ tôi về nơi chín suối.
Nghỉ mình chưa chăm sóc, giúp đỡ cha mẹ được bao nhiêu, tâm sự với bạn bè, thì ra nhiều người cũng vậy. "Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ" - câu nói của người xưa vừa là lời tổng kết, vừa là lời răn bảo mỗi người, dù đang làm cha làm mẹ cũng cần giữ gìn chữ hiếu của đạo làm con.
Truyền thuyết nhà Phật kể rằng, xưa kia ông La Bộc đi theo Ðức Phật, tu hành đắc đạo, trở thành Bồ tát Mục Kiền Liên (Mahà Moggallàna) - một trong các đệ tử thân tín của Ðức Phật, có nhiều phép thần thông. Vì mẹ đã qua đời nên Mục Kiền Liên luôn mang niềm thương nhớ. Muốn biết
mẹ mình khi ấy ra sao, ông dùng "mắt thần" tìm kiếm bốn phương, thấy mẹ đang ở trong "cõi quỷ," bị hành hạ khổ cực vì khi còn sống bà từng gây tội lỗi. Mục Kiền Liên thương mẹ, ông xuống "cõi quỷ" đưa mẹ bát cơm mà mẹ lại không được ăn.
Ông trở về hỏi Ðức Phật. Nghe vậy, Ðức Phật bảo dù tài giỏi Mục Kiền Liên cũng không cứu được mẹ, chỉ có một cách là hợp sức cùng mọi người. Rồi ngài thuyết kinh Vu lan (Ullambana Sutra) khuyên đến ngày rằm tháng bảy, Mục Kiền Liên cùng mọi người sắm sửa cúng lễ sao thật thành tâm thì sẽ cứu được mẹ. Ðức Phật còn bảo chúng sinh muốn báo hiếu với cha mẹ thì theo
cách đó mà làm. Mục Kiền Liên làm theo lời Phật, cứu được mẹ.
Có lẽ từ truyền thuyết này mà hình thành nên lễ Vu lan. Và hằng năm đến mùa Vu lan, trong đó nhằm đúng ngày rằm tháng bảy, mọi người lại cùng nhau bày tỏ tình cảm, lòng tri ân đối với ơn cha mẹ, ơn ông bà, tổ tiên. Ðó là báo hiếu đối với công ơn của người sinh thành - đạo hạnh đứng đầu trong "tứ ân" của nhà Phật, như kinh Phật viết:
"Ân đức cha mẹ vô cùng, kể không bao giờ hết, tột cùng điều thiện, không gì bằng hiếu. Tột cùng điều ác, không gì bằng bất hiếu"...
Vậy là khi lời của Ðức Phật về một yếu tố của đạo lý làm người, gặp gỡ với tâm thức, với tình cảm của dân tộc đã "hóa thân" để ra đời một mỹ tục văn hóa "Tu đâu cho bằng tu nhà - Thờ cha, kính mẹ ấy là chân tu". Nên bao đời nay, Vu lan trở thành một ứng xử nhân văn trong xã hội, góp phần duy trì và củng cố đạo lý trong gia đình, trong dòng tộc mọi người đề cao chữ hiếu để nhắc nhở đạo làm con. Hơn thế nữa, chữ hiếu trở thành một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá con người, mà nếu không thành tâm, nghiêm túc thực hành sẽ bị dư luận lên án, cộng đồng chê cười.
YÙ Nghóa Thaät Söï Cuûa Leã Vu Lan Baùo Hieáu
Nguyễn Hòa
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 15
Là người Việt Nam, hẳn là ai cũng biết đôi câu lục bát: "Công cha như núi Thái Sơn - Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Công sinh dưỡng của cha mẹ là vô tận. Mỗi người sinh ra và trưởng thành, đối với cha mẹ bao giờ cũng là niềm tự hào đồng thời là kết quả của những nỗ lực vượt qua bao nhiêu khó khăn vật chất - tinh thần. Công cha - nghĩa mẹ thấm sâu vào mỗi con người, mỗi gia đình, dòng họ, thấm sâu vào nề nếp sinh hoạt của cộng đồng, nên phải ứng xử sao cho xứng đáng.
Là một trong các nguyên tắc của đạo lý sống, trong truyền thống dân tộc, đạo hiếu là thiết thực đối với từng người con, đâu phải chỉ lúc cha mẹ lâm chung, mà chính là những năm tháng cha mẹ còn cũng như lúc yếu đau cần luôn được phụng dưỡng cả vật chất lẫn tinh thần.
Vì thế từ ngàn xưa, qua lời ru của ba của mẹ, qua điệu hát câu hò, đạo hiếu là bài học đạo đức đầu tiên được truyền lại trong mỗi gia đình và đến ngày nay, văn hóa Việt Nam vẫn bảo lưu, gìn giữ những câu tục ngữ, ca dao khẳng định và bày tỏ lòng thành kính với bậc sinh thành: "Lên non mới biết non cao - Nuôi con mới biết công lao mẫu từ," “Bao giờ cá lý hóa long - Ðền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa," "Thờ cha mẹ, ở hết lòng - ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường," "Mẹ già ở tấm lều tranh - Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con", "Chiều chiều ra đứng ngõ sau - Ngó về quê mẹ, ruột đau chín chiều"...
Không chỉ thế, với những ai xao lãng đạo làm con hoặc mượn việc "báo hiếu" để làm điều sai trái, tiền nhân cũng nhắc nhở, chê bai: "Cá không ăn muối cá ươn - Con không nghe lời cha mẹ trăm đường con hư", "Mẹ già hết gạo treo niêu - Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai", "Sống thì con chẳng cho ăn - Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi"...
Trên một ý nghĩa rộng hơn, Vu lan không những dành cho chữ hiếu, mà còn là ngày "xá tội vong nhân", như chúng ta vẫn nói đến câu: "Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân." Xưa kia cha ông
quan niệm rằng, sống ở trong cuộc đời không phải ai ai mất đi cũng có người thân cúng giỗ.
Có người mất đi vì không may gặp phải chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh. Lại có người không hướng theo điều thiện mà làm điều ác, khi qua đời họ trở thành "cô hồn" phải chịu nhục hình nơi "cõi quỷ", mỗi năm chỉ một lần được "xá tội" về với dương gian nhận phần áo quần, đồ ăn do người thân cúng tế. Với các "vong nhân" không người thân cúng giỗ, với cả những người từng làm điều ác thì vào ngày "xá tội", người đang sống phải giúp đỡ bằng việc cúng vàng mã, cháo loãng, bỏng ngô...
Ðặt sang một bên quan niệm của một thời về "hai thế giới", chúng ta nhận ra ở đây một yếu tố quan trọng góp phần làm nên cốt cách và truyền thống văn hóa của dân tộc là lòng nhân ái, là quan niệm bao dung để cùng xây dựng cuộc sống hài hòa. "Xá tội vong nhân" vừa là tình cảm dành cho người không may mắn, vừa thể hiện lòng vị tha với người từng có hành vi xấu xa đối với đồng loại. Và phải nói rằng, chính những điều này đã góp phần duy trì nền tảng đạo đức của xã hội Việt Nam truyền thống.
Hôm nay, cuộc sống đã khác trước, nhận thức về thế giới, về nhân sinh cũng đã đổi thay. Con người sống với cuộc sống thực của mình, bằng bàn tay và trí tuệ của mình để làm nên
cuộc sống cho bản thân, cho gia đình, xã hội. Cũng vì thế mà một hệ tiêu chí mới và tiên tiến về phẩm chất, hành vi của con người đã được xác lập. Ðó là tất yếu khách quan, là sự cần thiết của quá trình phát triển.
Nhưng trong tương quan giữa truyền thống với hiện đại, dòng chảy không ngừng của văn hóa lại chuyển tải trong đó một số giá trị nhân văn có ý nghĩa bất biến, chỉ có thể mở rộng, nâng cấp theo thời gian chứ không mất đi, như đạo hiếu của con người chẳng hạn. Dù xã hội văn minh đến đâu, dù cuộc sống no đủ thế nào thì mỗi người vẫn phải được cha mẹ nuôi dưỡng để trưởng thành, vì thế đạo hiếu vẫn luôn phải được đề cao. Thật đáng tiếc, trong các năm gần đây, tác động từ lối sống
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 16
chạy theo vật chất, lấy vật chất làm tiêu chuẩn đánh giá quan hệ xã hội - con người - gia đình, rồi thái độ sống vô cảm và ích kỷ... đã làm nảy sinh trong quan hệ cha mẹ - con cái một số hiện tượng đáng phê phán, phải được điều chỉnh để giữ gìn sự lành mạnh của đạo đức xã hội. Ðối với sự thiếu vắng vai trò của đạo hiếu, cần nhìn nhận trong tính hai mặt. Một mặt, xuất phát từ một số cha mẹ thiếu trách nhiệm trong giáo dục gia đình, bỏ rơi con cái, phó mặc xã hội hoặc bằng việc thỏa mãn nhu cầu mà đẩy con cái tới tình trạng tha hóa.
Mặt khác, có nguyên do từ quan niệm thiếu đúng đắn (thậm chí rất sai lạc) của một số người đối với cha mẹ. Người lơ là trách nhiệm làm con. Người coi đạo hiếu là nghĩa vụ nhiều hơn là tình cảm. Người dựa vào đồng tiền để ứng xử mà quên rằng đối với cha mẹ, đồng tiền không phải là tất cả. Thậm chí có trường hợp bạc đãi cha mẹ đã bị dư luận từng kịch liệt lên án. Chưa nói tới một số người báo hiếu rùm beng để trục lợi, tốn phí tiền bạc cúng tế cầu may chứ không hẳn thành tâm với người đã khuất... Những hành vi ấy chỉ có thể lý giải từ quan niệm lệch lạc và sự yếu kém khả năng tự điều chỉnh về đạo đức của mỗi người.
Quan niệm đúng sẽ có hành vi đúng, nhất là khi trong bản chất của nó, đạo hiếu có quan hệ chặt chẽ với tình cảm, với thái độ chân thành. Về điều này, một hiền nhân xưa kia nhận xét: "Có việc thì giúp, có rượu, có thức ăn ngon mời cha mẹ là hiếu chăng? Giữ được sắc mặt vui vẻ khi ở chung với cha mẹ mới là điều khó", "Khi cha mẹ còn sống, chỉ chăm chú vào việc làm giàu, không phụng dưỡng cha mẹ là không tròn đạo hiếu"...
Như một triết gia từng nói, mỗi huyền thoại đều chứa đựng một ý tưởng của con người về hiện thực, với mùa Vu lan và ngày "xá tội vong nhân", cha ông muốn nhắn nhủ với cháu con lời răn dạy về đạo hiếu, để có đạo lý làm người. Thành kính với cha mẹ là một mẫu số chung của văn hóa nhân loại, song mỗi nền văn hóa lại có các cách thức bày tỏ khác nhau. Tuy nhiên, ở nền văn hóa nào thì những người con hiếu đễ vẫn là tấm gương đạo đức được cộng đồng đề cao. Với người Việt Nam, Vu lan còn là ngày cảm thương đồng loại, vì thế ý nghĩa đã được mở rộng, để mọi người đều được hướng tới điều tốt lành. "Trẻ cậy cha, già cậy con", báo hiếu là chuyện hằng ngày, ở tấm lòng, ở việc làm cụ thể. Cần truyền dạy trong các gia đình những gì đạo hiếu đòi hỏi, thông qua ứng xử của cha mẹ với ông bà, tổ tiên để trở thành tấm gương cho con cháu. Xem nhẹ yêu cầu này, không ai khác, cha mẹ sẽ chịu hậu quả. Mưa ngâu rả rích,
tiết trời bắt đầu sang thu. Một mùa Vu lan đã về, các ngôi chùa lại được sửa sang đón khách hành hương. Các bà các chị lại chuẩn bị lễ chay cúng dường cha mẹ, ông bà và các "vong nhân". Lại mong không vì hiếu đễ mà mọi người bị cuốn theo sự lãng phí, cầu may, lơ là với hành vi báo hiếu thiết thực. Vì nếu thật lòng hiếu đễ, thì mỗi ngày sẽ phải là một ngày Vu lan.
Nguyễn Hòa - Vườn hoa Phật giáo
Chuyeän Vui Thieàn
Chàng trai: - Làm thế nào để kết thúc đời độc thân ạ? Thiền sư chỉ tay về ngọn núi đối diện. Chàng trai hớn hở reo lên: - Ý thầy là người có nhân duyên với con đang ở ngọn núi kia ạ?” Thiền sư: - Không, năm đó vì muốn kết thúc đời độc thân ta đã lên núi này làm sư, núi kia còn trống đấy, con có thể sang đó tu hành.
oOo
Chàng trai: - Thiền sư, con hay bị mất ngủ, nên làm thế nào ạ? Thiền sư chỉ tay về bức tường trắng xoá ngoài sân. Chàng trai ngẫm nghĩ hồi lâu: - Ý thầy là con nên vứt bỏ tạp niệm, lòng sáng như ngọc mới mong an giấc? Thiền sư bực mình nói: - Ý ta là mời cậu về cho, nửa đêm nửa hôm ko cho ai ngủ hả?”
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 17
Trong kinh Di Giáo, trước khi vào Niết bàn,
đức Phật khuyên các thầy Tỳ kheo: Sau khi Như
Lai diệt độ rồi, các Tỳ kheo phải lấy Ba-la-đề-
mộc-xoa (Giới luật) làm Thầy cũng như ta còn
tại thế. Nếu ta còn tại thế mà Tỳ kheo các ông
không y theo giới Ba-la-đề-mộc-xoa thì cũng
như ta đã diệt độ.
Trong bài tựa Nghi thức
tụng Tỳ kheo ni giới bổn có
ghi rằng:
“Thế gian, vua lớn nhất
Các dòng, bể là to
Các sao, trăng là sáng
Các Thánh, Phật là tột
Trong tất cả các Luật
Giới kinh là chơn hết”
Chính vì Ba-la-đề-mộc- xoa quan trọng và thù
thắng như vậy nên đạo Phật hưng thịnh hay suy vi
đều không ngoài phạm vi của giới luật. Ngày nay,
trên bước đường hành đạo, người tu hành gặp
những khó khăn hay những điều bất như ý thường
hay thở than “đời mạt pháp mà!”. Với một thái độ
hết sức tiêu cực, đôi khi chán nản nữa. Mạt pháp
có nghĩa là chánh pháp đã bị suy vong, suy vong
từ hình thức đến nội dung, từ nhận thức đến hành
vi. Ý thức tới chánh pháp đã đến thời cùng mạt, ai
mà chẳng buồn nản. Thế nhưng, mạt pháp từ đâu
mà đến?
Từ xã hội bên ngoài hay từ sự phát triển của
văn minh nhân loại? Quá khứ trên 2500 năm của
Phật giáo ở các nơi đã chứng tỏ Phật giáo có một
mạng sống miên viễn. Động lực chính yếu để Phật
giáo hiện hữu là do nhu cầu sống của con người.
Vì thế, dù xã hội có thay đổi thế nào đi chăng nữa
thì Phật Pháp vẫn có mặt bởi vì con người vẫn còn
nhu cầu được sống. Như thế, xã hội và văn minh
của nhân loại không thể làm cho chánh pháp đi
vào thời cùng mạt được.
Mạt pháp - can đảm mà nói
do nó đi từ bên trong, cụ thể
là từ hành động, cử chỉ, lời
nói, ý nghĩ của người tu
hành. Ngược lại chánh pháp
cũng thế, giáo pháp siêu
việt và thực tiễn của đức
Phật được sáng tỏ, có giá trị
thiết thực trong cuộc sống
hiện tại, được phổ cập rộng
rãi trong xã hội loài người,
tất cả đều tùy thuộc vào tư cách, nói chung từ hình
thức đến tâm linh của người tu hành cả. Tư cách
ấy được biểu hiện bằng sự nghiêm trì giới luật, đó
là vấn đề trọng yếu quyết định vận mệnh của Phật
pháp trong mọi thời đại và mọi nơi chốn. Giới
hạnh của người tu liên quan đến sự thịnh suy của
Phật pháp một cách mật thiết.
Chính vì thế nên khi đức Phật sắp vào Niết
bàn, Ngài vẫn còn ân cần tha thiết nhắc nhở các đệ
tử trong kinh Di giáo, rằng: “Này các Tỳ kheo sau
khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính
tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo
nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức
thầy cao cả của các thầy. Nếu ta ở đời thì cũng
không khác gì tịnh giới ấy”. Âm hưởng của lời dạy
ấy đã vượt không gian và thời gian, tồn tại đến
Thích Nữ Như Luật
Giới luật là mạng mạch của Phật Pháp. Giới luật còn là Phật Pháp còn. Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 18
ngày nay và trong chúng ta, không ai không biết
đến câu:
"Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp cửu trụ
Tỳ ni tạng diệt, Phật pháp diệc diệt."
Nghĩa là:
“Giới luật còn hành, Phật pháp cũng còn
Giới luật không còn hành, Phật pháp cũng
mất”
Bởi thế, đức Thế Tôn chế ra các giới luật. Nó
không phải bắt buộc các đệ tử phục tùng mệnh
lệnh của Ngài, mà để ngăn ngừa các nghiệp từ ý
nghĩ đến hành động, hầu thánh hóa đời sống chúng
đệ tử. Cho nên, một thầy Tỳ
kheo giới hạnh thanh tịnh là
bản sao chụp lại của đời sống
thánh giả A-la-hán một cách
rõ ràng và hiện thực. Đó là
mảnh đất tốt để tăng trưởng
thiện pháp, là nền tảng để tiến
bộ tâm linh, để phát triển
những nhận thức chân chánh,
thấy được lẽ thật của cuộc
đời.
Một khi hành giả có giới luật trang nghiêm
tức đã làm một nơi an ổn cho thế gian nương nhờ,
và cũng là một thành viên tích cực khiến cho Phật
pháp hưng thịnh. Tuy nhiên, nếu giới luật không
được nghiêm trì thì chúng đệ tử của Phật sẽ là một
cộng đồng ô hợp, có khi còn tai hại cho xã hội
nữa. Nếu người xuất gia mà không giữ gìn giới
luật thì không thể nào phân biệt được đâu là người
xuất gia, đâu là kẻ thế tục. Như vậy, chỉ có giới
luật mới tạo nên đức hạnh của người tu, đồng thời
cũng góp phần xây dựng cho chúng ta thành
những chiến sĩ trên mặt trận đạo đức, tạo nền tảng
cho Phật pháp hưng thịnh.
Lại nữa, vấn đề tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân
đức cũng liên quan đến sự hưng thịnh của Phật
pháp. Khi đã chấp nhận một người xuất gia là chấp
nhận thêm một thành viên gia nhập vào cộng đồng
đệ tử đức Phật, đồng thời cũng là chấp nhận một
viên gạch đã góp phần xây dựng nên ngôi nhà Phật
pháp. Vì thế, việc xuất gia của một người không
chỉ là vấn đề cá nhân mà là vấn đề liên đới cần
phải đặc biệt chú trọng, bởi sự tiến bộ hay sa đọa
của họ đều ảnh hưởng đến sự thịnh suy của Phật
giáo.
Việc chấp nhận một người xuất gia phải được
đặt hoàn toàn trên nền tảng giới luật và mục đích
chung của Phật giáo nhằm đảm bảo uy tín và sự
thanh tịnh của Tăng đoàn. Người xuất gia phải là
một người có tín tâm, xuất gia vì một mục đích
cao cả là hướng đến giác ngộ, giải thoát. Đồng
thời, trước khi gia nhập chính thức vào Tăng đoàn,
người ấy phải được xét duyệt qua mười ba giá nạn
và mười lăm khinh mạn mà giới luật đã quy định.
Một người xuất gia cống hiến trọn đời mình
cho lý tưởng, gửi trọn đời
mình cho vị thầy. Nếu thầy
không đủ đức độ để hướng
dẫn mà thâu nhận đệ tử thì trái
với giới luật, sẽ dẫn đến sự
suy đồi của Phật pháp, tội ấy
còn nặng hơn tên đồ tể vì họ
đã nhận chìm người đệ tử vào
trong ác đạo. Như thế muốn
độ người xuất gia, vị thầy
phải hội đủ hai yếu tố vật chất
và tinh thần. Đó là cung cấp cho đệ tử một đời
sống vật chất theo chế độ “tam thường bất
túc” (tức ba nhu cầu hằng ngày như ăn, mặc, ngủ
không được quá sung túc) và hướng dẫn đệ tử giữ
gìn giới luật, học tập kinh điển, tu tập thiền định.
Trong Luật dạy rõ, một Tỳ kheo muốn thâu nhận
một đệ tử xứng đáng là một thành viên của Tăng
đoàn nhằm tạo nên sự hưng thịnh của đạo pháp, thì
phải hội đủ các tiêu chuẩn sau:
1. Tuổi đạo phải đủ mười hạ.
2. Phải biết rõ ràng các trường hợp trì và
phạm, khinh và trọng về giới luật.
3. Kiến thức phải rộng rãi.
4. Có khả năng giải quyết những tâm tư khúc
mắc của đệ tử.
5. Có khả năng đoạn trừ tà kiến cho đệ tử.
6. Được Tăng chấp nhận và tác pháp yết-ma
súc chúng.
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 19
Tóm lại, Giới luật là mạng sống của thân cây
Phật pháp, là sinh mạng của người xuất gia, nếu
thiếu nó thì Phật pháp sẽ tàn lụi, kế đó là người
xuất gia không thành người tu giải thoát, nên trong
Luật thiện kiến có ghi lại lời Phật bảo Tôn giả A-
Nan: “Sau khi ta diệt độ, có 5 yếu tố khiến cho
chánh pháp được cửu trụ là:
1) Giới luật còn ở đời thì Phật pháp cửu trụ,
vì giới luật là bậc thầy cao cả của đại chúng.
2) Còn có luật sư ở đời thì Phật pháp cửu trụ,
vì có người thông đạt hai bộ luật và chủ trì được
tạng luật.
3) Ở đời có ít nhất năm vị trì luật thì mới có
thể khiến cho Phật pháp cửu trụ. Vì tăng bảo còn
thì Tam bảo không dứt mất,
hễ có năm vị trì luật ở xứ sở
nào thì xứ sở đó hưng thịnh
500 năm.
4) Nếu ở đô thị có được
mười vị Tỳ kheo trì luật, ở
biên địa có năm vị Tỳ kheo
thanh tịnh thì có thể làm cho
Phật pháp cửu trụ, vì làm
được việc giải tội đúng pháp
cho những vị phạm giới”
Tuy giới luật chỉ là hình thức, nhưng nếu
thiếu giới luật thì không thể tiếp nối được Tăng
bảo. Do đó, ở biên địa dù chỉ có năm vị trì luật, ở
trung ương chỉ có mười vị trì luật cũng có thể làm
cho chánh pháp cửu trụ. Như thế nếu thượng tọa là
bậc thù thắng, được cả nước tôn sùng mà không trì
giới, không am hiểu luật nghi để khuyên nhắc và
làm mô phạm cho đại chúng, tất nhiên chánh pháp
sẽ bị hoại diệt.
Qua những phần trình bày trên, ta thấy rõ một
điều rằng giới luật chính là nền tảng cho sự hưng
thịnh của Phật pháp nó góp phần đem lại hạnh
phúc lâu dài cho mình trong hiện tại và tương lai,
không những thế nó còn giữ vai trò quan trọng
trong việc làm, trong cái nhìn khách quan thuộc về
thế tục. Nó thuộc về tư thái oai nghi tác phong của
người tu sĩ Phật giáo, điển hình rõ nét nhất là đại
vương Pasenadi đã nhiều lần phải thốt lên lời thán
phục: “…Bạch đức Thế Tôn, vua chúa thường
tranh chấp với vua chúa, Sát-đế-lợi thường cãi vã
với Sát-đế-lợi, bạn bè thường hơn thua với bạn
bè…
Còn ở đây con thấy các vị Tỳ kheo sống rất
hòa thuận, thân hữu không cãi vã nhau, hòa hợp
như nước với sữa, nhìn nhau bằng cặp mắt ái
kính. Bạch đức Thế Tôn! Ngoài ra con không thấy
một phạm hạnh nào khác viên mãn, hòa hợp như
thế”. (Trung Bộ kinh II)
Con đường giải thoát duy nhất của người xuất
gia không gì khác hơn là Giới-Định-Tuệ. Trong đó
Giới luật là bước đi đầu tiên căn bản, là thềm
thang hướng đến Niết bàn an lạc, là kim chỉ nam
trong đời sống của người xuất gia. Chính vì thế mà
Giới luật được xem là nơi nương tựa an ổn nhất
cho người xuất gia. Giới luật
chính là vị đạo sư cao cả của
chúng ta. Điều này đã được
đức Phật dạy trong kinh Di
giáo như sau: “Nhữ đẳng Tỳ
kheo, ư ngã diệt hậu đương
tôn trọng trân kính Ba-la-đề-
mộc-xoa như ám ngộ minh,
bần nhân đắc bảo. Đương tri
thị tắc nhữ đẳng đại sư,
nhược ngã trụ thế vô dị thử
dã”, nghĩa là: "Này các Tỳ kheo sau khi ta diệt độ
các ông phải lấy giới luật làm thầy cũng như
người đi trong đêm tối gặp đèn sáng, người
nghèo được của báu. Phải biết giới luật là thầy
của các ông, dù Ta có trụ ở đời cũng chẳng khác
gì pháp này vậy".
Như vậy, người xuất gia thì điều cần thiết
nhất là phải nghiêm trì tịnh giới. Nỗ lực tinh tấn
không ngừng trau dồi giới đức, vì Giới là cội gốc
Bồ đề, là nền tảng Niết bàn, là ngọc anh lạc để
trang nghiêm pháp thân, là phao nổi để đưa người
qua biển khổ sanh tử và cuối cùng là kho tàng
công đức.
Cũng như bất cứ bao giờ và ở đâu, nếu giới
còn được tôn trọng và hành trì nghiêm túc thì
chánh pháp mới được trường tồn mãi mãi. Một khi
đã nhận thức rõ điều này thì hàng xuất gia phải có
nhiệm vụ bảo tồn chánh pháp tự mình tinh nghiêm
giới luật, lấy giới làm mạch sống tu hành. Mỗi
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 20
chúng ta là một nhân tố tạo lập ngôi Tam bảo,
quyết định sự tồn tại của đạo pháp. Bởi nhờ có
giới luật mà hàng tu sĩ chúng ta được cơ duyên
vun bồi phước đức, tâm thức hành nghi, un đúc
đạo đức thâm sâu, tâm hành thuần thục, cung cách
oai nghi tỏ rạng khiến cho mọi người khởi tâm
kính mộ và từ đó đem lại sự hưng thịnh cho Phật
pháp, lợi lạc nhân quần xã hội. Qua đó chúng ta có
thể khẳng định rằng “Giới luật là yếu tố cơ bản
đối với người xuất gia”. Như cổ đức đã từng tán
dương:
“Ôi! Biển Phật pháp rất là mát mẻ
Giới Thi-la là cái thềm bờ
Thánh phàm tắm gội không nhơ
Cõi lòng thanh tịnh là bờ giác kia”
Muốn cho chánh pháp tồn tại lâu dài và truyền
bá được rộng rãi thì các sứ giả Như Lai phải biết
tùy theo căn cơ thời đại và hoàn cảnh mà áp dụng
giới luật một cách uyển chuyển, linh động miễn
sao không hại đến mục đích giải thoát, nhất là
trong tình trạng đạo đức nhân phẩm đang bị xem
thường như hiện nay. Chính là lúc tất cả mọi
người đang cần đến những phương thuốc tinh thần
(giới luật) để cứu chữa căn bệnh suy thoái đạo
đức.
Như vậy, hành trì giới luật trong thời đại ngày
nay cần phải uyển chuyển theo xã hội nhưng điều
cốt yếu là phải lấy giới luật làm nền tảng căn bản
cho tự thân. Như Ngũ Phần luật quyển 22 Phật
dạy: “Tuy điều giới Ta chế nhưng phương khác
chẳng cho là thanh tịnh đều chẳng nên dùng. Tuy
chẳng phải điều Ta chế nhưng phương khác cần
phải làm thì chẳng được chẳng làm”.
Thích Nữ Như Luật - Vườn hoa Phật Giáo
(Trích "Giới luật là yếu tố cơ bản của người
xuất gia")
Caûo Thôm, Coåâ Luïc
Thắm tươi vẻ đẹp, đóa Đông phương
Báo hiếu song thân, hội Phật đường
Tục ngữ, bóng cha, xanh vạn khoảnh
Ca dao, lòng mẹ, biếc ngàn chương
Cảo thơm vi diệu, thêu vàng nguyệt
Cổ lục nhiệm mầu, dệt gấm hương
Tấc cỏ ba xuân, khôn trả vẹn
Muôn thu đền đáp, nguyện tròn gương.
Công sinh thành, dưỡng dục
Đã cạn lời ca dao
Cha mẹ như trăng sao
Mãi sáng ngời ân đức.
Mai, Haïc
Cha, dáng hạc đình am
Mẹ, bóng mai chùa miếu
Tranh thờ phụng tháng năm
Bây giờ con mới hiểu.
Vôùi Meï
Con muốn nói với mẹ
Một lời nho nhỏ thôi
Một lời mà đủ cả
Con yêu mẹ, mẹ ơi!
Vôùi Cha
Ân cha như bóng núi
Suốt một đời chở che
Trúc, tùng không tiếng nói
Cao xanh phủ bốn bề
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 21
Hôm nay là ngày rằm tháng bảy, ngày báo
hiếu, cũng là một trong những ngày lễ trọng đại
nhất của giới Phật tử chúng ta. Nói đến hiếu đạo là
nói đến đạo sống của con người. Dù là tôn giáo
nào, ai ai cũng phải lấy hiếu đạo làm gốc.
Hôm nay là ngày mọi người con Phật dâng
hết lòng thành của mình lên đấng sinh thành như
cha, mẹ, ông, bà v.v… là
những người đã tạo ra chúng
ta. Cha mẹ đã dày công sinh
thành nuôi dưỡng gầy dựng
cho chúng ta một cuộc đời,
một sự sống.
Tâm trạng lo lắng đó
không biết đến đâu là cùng.
Cho nên người xưa nói “Giọt
nước luôn chảy xuống”. Cha
mẹ trăm tuổi, con cái tám mươi hay hơn nữa, cha
mẹ cũng vẫn lo lắng. Không bao giờ cha mẹ bỏ
quên chúng ta. Luôn muốn chúng ta trưởng thành,
ấm no, sung túc. Thấy con người học giỏi cũng
muốn con mình học giỏi. Thấy con người phát đạt
cũng muốn con mình phát đạt. Muốn con luôn
luôn là người tốt, người hiếu đạo. Đó là ước
nguyện của cha mẹ.
Vì vậy để tỏ lòng hiếu kính với các bậc sinh
thành, ta phải làm gì?
Nếu cha mẹ đã quá vãng, chúng ta nên tu tạo
công đức, hồi hướng cho các vị. Nếu cha mẹ vì
nghiệp dữ phải đọa vào ác đạo, chúng ta cần thành
tâm thiết lễ trai nghi cúng dường Tam Bảo và
phúng tụng kinh kệ để chuyển hóa nghiệp dữ cho
cha mẹ.
Trong kinh Địa Tạng, Bồ tát Địa Tạng đã phát
nguyện, nếu còn một chúng sinh khổ thì ngài
nguyện không thành Phật. Còn một chúng sinh ở
địa ngục thì ngài còn ở đó cứu vớt. Chỉ khi chúng
sinh hết khổ, ngài mới lên ngôi vị chánh giác. Với
lời nguyện to lớn đó, ngài là vị đại Bồ tát thường
thị hiện trong cuộc đời, ở những chốn khổ đau để
cứu vớt chúng sinh. Trong đó có cha mẹ nhiều đời
của chúng ta.
Đức Phật luôn dặn dò các vị Bồ tát phải luôn
giúp đỡ chúng sinh khi họ gặp hoạn nạn hay bị
đọa trong ba đường ác. Phật dạy Bồ tát Địa Tạng
rằng “Nếu có người nam người nữ nào trồng chút
ít căn lành trong Phật pháp,
ông nên dùng đạo lực của ông
ủng hộ người đó tu tập lần
lần, để họ được đạo vô
thượng. Chớ để họ thoái thất.
Nếu có kẻ mới được chút ít
căn lành mà phải đọa lạc
trong các đường khổ, ông nên
khiến người ấy nhớ nghĩ danh
hiệu Phật, và dùng thần lực
khiến họ không bị đọa vào địa
ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
Sỡ dĩ có những cảnh khổ đau là do chúng sinh
tạo nghiệp không tốt mà chiêu cảm nên. Nghiệp
không tốt ấy do thân, khẩu, ý tạo ra. Ta bị các thứ
tham lam, sân hận, si mê, điên đảo kéo lôi. Điều
này tự nghiệm lấy là có thể biết. Giả như có người
chọc giận mình, mình giận người đó thì tâm không
yên. Địa ngục liền hiện tiền trong lòng mình. Địa
ngục hiện ra thì thân bức xúc, miệng chửi mắng,
rồi những ý niệm xấu xa hay những hành động hại
người xuất hiện. Làm và nghĩ như thế thì tâm mất
sự an lạc. Đó không phải địa ngục là gì? Địa ngục
hiện tiền là do chúng sinh tự gây tạo rồi chiêu cảm
lấy, kêu cầu ai bây giờ? Cầu Phật, Phật cứu được
không? Nhất định là không. Tự mình phải cứu
mình. Vì vậy Phật dạy ngài Địa Tạng phải giúp
người có chút ít căn lành tự hoàn thiện bản thân
họ. Bản thân họ được hoàn thiện rồi thì ba đường
ác cũng không còn.
Phật dạy tiếp “Nghiệp lực chúng sinh rất lớn.
có thể sánh với núi Tu di, sâu dường biển cả, có
thể ngăn đạo thánh. Vì thế chúng sinh chớ khinh
Phaät Daïy Caùch Baùo Hieáu
HT.Thích Nhật Quang
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 22
điều nhỏ cho là không tội. Sau khi chết đều có quả
báo, dù chỉ mảy mún đều phải chịu lấy”. Vì
nghiệp lực lớn và sâu như thế, nên ta tu hoài mà
chưa thành Phật. Nghiệp sâu dày quá thì thường
không có điều kiện làm thứ gì cho có công đức và
có trí tuệ. Phật tử chúng ta phải chú ý đến điều
này. Cố gắng chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp
không tốt thành nghiệp tốt. Chuyển ra sao? Những
gì không tốt đã lỡ gây tạo thì không gây tạo nữa.
Những gì chưa gây tạo, dù chỉ là một ý niệm cũng
phải nhớ lời Phật dạy “Dù chỉ mảy may đều phải
chịu lấy”, nên phải cẩn thận không gây tạo nữa.
Nghiệp một khi tạo rồi, thì dù chí thân như
cha với con cũng không gánh dùm nhau được,
thành đừng ỷ lại, cho rằng quí thầy cô
tụng kinh thì chúng ta siêu độ. Bản thân
quí thầy cô nếu không tu hành cho ra
hồn thì tự thân quí vị còn không độ được
cho mình nói là cứu chúng ta. Cho nên,
chúng ta phải tự lo, không nên ỷ lại vào
ai. Không ai cứu mình bằng mình tự
chuyển hóa lấy mình. Đó là lý do Phật
dạy chư vị Bồ tát phải giúp chúng sinh
phát triển nhân thiện của chính họ, chứ
không phải dùng khả năng của mình
theo kiểu ban phước giáng họa.
Tóm lại, chủ trương của đạo Phật là phải tự
nơi chính mình chuyển hóa mình. Phật, Bồ tát,
Tăng Ni v.v… chỉ là những trợ duyên bên ngoài
giúp ta tu hành. Muốn giúp người đuợc tốt thì đầu
tiên chúng ta phải tốt. Muốn hướng dẫn người
đúng chánh pháp thì đầu tiên chúng ta phải tu
đúng chánh pháp.
Đừng nghĩ niệm Phật thì được Phật cứu.
Niệm Phật là nhờ uy lực Phật giúp mình chuyển
hóa tâm thức của mình. Nhờ sự chuyển hóa đó mà
mình thoát khỏi kiếp khổ. Như vậy, tự mình phải
tu, phải cố gắng, phải nổ lực, cộng với sự gia trì
của chư Phật thì mới thành tựu các ước nguyện.
Làm việc thiện mà tâm được thanh tịnh nữa thì
công đức mới tròn đầy viên mãn.
Có một tiền kiếp, Phật là người con bất hiếu.
Khi chết ngài đọa vào địa ngục. Ở đó, ngài thấy
những chúng sinh kêu la thảm thiết, thân như cây
lửa, đầu đội vòng lửa. Ngài hỏi cai ngục “Những
kẻ ấy tạo tội gì mà bị hình phạt ghê gớm đó?”. Quỉ
ngục đáp “Tội bất hiếu”. Ngài rúng động, hỏi tiếp
“Bao giờ những người đó mới hết bị tội báo”.
“Chừng nào có một người con bất hiếu khác
xuống thay thì nó sẽ hết”. Nói rồi, vòng lửa liền
bay chụp lên đầu ngài. Ngài đau đớn và phát đại
nguyện “Tôi nguyện chịu thay tất cả những thống
khổ này. Nguyện trên đời này đừng ai bất hiếu để
phải đọa vào đây nữa”.Vừa phát đại nguyện xong
thì vòng lửa cũng vừa mất. Cảnh địa ngục cũng
mất.
Phật dạy chúng ta phải nổ lực tu tập để độ
mình và độ cha mẹ, thân bằng, quyến thuộc. Phật
dù có muốn kéo chúng ta, mà ta không đưa tay
cho Phật nắm thì cũng chịu. Đưa tay
bằng cách nào? Niệm Phật chứ đừng
niệm danh lợi ở thế gian. Phải giác ngộ
sáng suốt thì Phật mới kéo chúng ta lên
được. Chưa làm được việc đó thì không
ai kéo lên được. Tu thiền hay tu tịnh gì
cũng vậy. Dù ở chùa bao nhiêu năm mà
không định tỉnh, không sáng suốt,
không tự tu tập để khắc phục những
khuyết điểm của mình thì cũng chẳng
được gì.
Trong đạo Phật có nói về cứu khổ,
nhưng tinh thần của việc cứu khổ là tự mình phải
có công đức. Chúng ta có quyền cầu nguyện
nhưng chủ yếu vẫn là tự mình tu tập. Do tu tập mà
lời nguyện được đáp ứng. Nếu chỉ nguyện xuông
mà không tu tập thì không có kết quả.
Kinh Địa Tạng kể rằng: Có một nữ Bà la môn
rất kính tin Tam bảo, nhưng mẹ cô lại không chấp
nhận. Bà sinh tâm hủy báng và chống đối việc tu
học của con. Ba nghiệp của bà ngày càng xấu ác.
Khuyên không xong, cô chỉ biết nỗ lực tu tập hồi
hướng công đức cho mẹ, mong bà hồi tâm chuyển
hóa. Song vì nhân bất thiện đã đủ duyên nên bà
đọa địa ngục. Biết mẹ không tránh được đường ác
nên trong suốt thời gian 49 ngày, cô thiết tha tu
hành và cúng dường Tam Bảo, lấy đó hồi hướng
cho bà. Mong sao bà thoát cảnh khổ ngục.
Một hôm cô nằm mộng thấy mình đi đến một
bờ biển, nước sôi sùng sục, cọp, beo đồng, sắt, lửa
đỏ v.v… Chúng sinh thì bị quăng xuống đó trông
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 23
đỏ v.v… Chúng sinh thì bị quăng xuống đó trông
rất thê thảm. Cô mới hỏi quỉ ngục “Tội nghiệp gì
mà rớt xuống đây?”. Quỉ ngục trả lời “Không kính
tin Tam bảo, sát hại chúng sinh, làm những việc
bất nhân thất đức”. Quỉ sứ lại hỏi “Cô đến đây để
làm gì?”. “Tôi đến đây để tìm mẹ”. Quỉ hỏi “Mẹ
cô tên gì?”. Cô nói tên họ cha mẹ cho quỉ nghe.
Quỉ chấp tay cung kính thưa rằng “Những tội nhân
ấy cách đây ba ngày đã được thác sinh về thế giới
an lành rồi”. Cô gái mừng rỡ phát nguyện “Tôi
nguyện đời đời tu theo chánh pháp. Đời đời thay
chúng sinh chịu mọi khổ đau. Nguyện cho tất cả
chúng sinh không còn tâm hủy báng Tam Bảo,
cũng đừng tạo nghiệp bất thiện để phải rơi vào địa
ngục khổ đau”.
Tinh thần cứu khổ của đạo Phật là như vậy.
Phải tự tu tập để cứu mình và cứu người.
Tu thế nào? Đừng nghĩ bậy. Đừng nói bậy.
Đừng làm bậy. Dù là ở nhà, ở chùa hay ở chợ đều
tu dược. Có điều kiện thì đi chùa sắm nhan đèn
cúng kính. Không có điều kiện thì ở nhà. Nhưng
nhớ ai chửi đừng chửi lại mà gắng nhịn đi. Đó là
tu. Dân gian còn nói “Một sự nhịn chín sự lành”,
huống là đạo Phật, luôn dạy mình nhẫn nhục.
Đừng nghĩ nhẫn là nhục. Nhẫn được thì có đại
hùng đại lực. Nhẫn không được thì cải nhau. Cải
rồi tới đánh. Đánh rồi vô nhà thương, công an, tòa
án. Đủ thứ rắc rối, chỉ vì ngay niệm đầu mình
không nhẫn được. Thành tu gì không bằng nhẫn.
Cách này ai cũng tu được. Giàu nghèo gì tu cũng
được. Quan trọng là có chịu tu hay không.
Một việc cần thiết nữa trong vấn đề tu hành là
phát tâm bồ đề, tức là phát cái tâm giác ngộ.
Chúng ta ai cũng có sẵn tâm đó hết. Phật dạy
“Tâm bồ đề là con đường dẫn đến trí tuệ, là suối
thiêng có thể gột rửa tất cả, là cổ xe chuyên chở
các Bồ tát, là cánh cửa mở ra bồ tát hạnh”, thành
phải phát cho được tâm này. Nghĩa là, Phật tử
chúng ta, sau khi hiểu đạo, tu tập rồi, phải phát
tâm bồ đề. Chư Phật ra đời cũng vì muốn chỉ cho
ta nhận ra tâm đó. Song muốn phát tâm đó thì phải
làm sao? Phải loại bỏ tất cả vọng tưởng lăng xăng
đắm trước. Phải loại hết các thứ đó thì tâm bồ đề
mới hiện. Cho nên, chúng ta phải tĩnh giác soi
chiếu lại mình. Không hướng ra bên ngoài mà tìm
cầu. Ai có rủ uống một viên linh đơn sống ngàn
tuổi v.v… chúng ta cũng xin thôi. Chỉ cần tỉnh
giác mọi lúc mọi nơi với mọi tâm niệm của mình,
không để chúng dẫn chạy tạo nghiệp là được.
Kinh nói “Tâm bồ đề là nơi trú ngụ của tam
muội, là khu vườn hưởng thụ pháp lạc, là chỗ an
ổn của thế gian, là chỗ nương tựa của các vị Bồ
tát”. Chúng ta muốn gần gũi chư Phật chúng ta
phải có tam muội. Tam muội là chỉ cho sự định
tỉnh của mình. Như đang ngồi mà nghe ai nói gì
đó, rồi nổi sùng lên, là không có định tỉnh. Nghe
thì nghe và vẫn bình ổn yên lắng, không bị âm
thanh dẫn chạy, là mình đang có định tỉnh. Ttâm
định tỉnh này là nhân duyên giúp người tu ngộ
đạo.
Một nhà sư tu khổ hạnh, chỉ ngồi không nằm.
Thị giả là một người khá thông minh lanh lợi. Có
điều chú ít chịu nghe lời thầy. Thầy ngồi liên tục,
nhưng chú lại nằm trường kỳ. Thấy chú còn nhỏ
nên thầy cũng cho chú nằm. Có điều, chú nằm
hoài mà không thấy ngồi. Thấy vậy, thầy nhắc nhỡ
“Chú mày nằm hoài, chết không sợ thành rắn à”.
Chú trả lời “Sư phụ ngồi hoài chết sẽ thành cóc”.
Ngay câu nói đó, ông thầy ngộ đạo. Đó là do công
phu được huân tập lâu ngày, nên chỉ cần một duy-
ên nhỏ là ngài ngộ đạo. Thầy trò thành tựu cho
nhau kể cũng đặc biệt. Cho nên, trong nhà thiền,
quí ở chỗ tâm định tỉnh.
Tóm lại dù là xuất gia hay tại gia, chúng ta
đều phải để tâm vào việc tu tập. Trước là tự lợi
cho mình. Sau là để đền trả thâm ân cao trọng của
cha mẹ. Đem công đức tu tập đó hồi hướng
nguyện cho cha mẹ chưa kính tin Tam bảo thì phát
tâm kính tin Tam bảo. Phát tâm kính tin Tam bảo
rồi thì biết bỏ ác làm lành, đời đời sanh trong nhà
Phật pháp.
Nhân mùa Vu lan báo hiếu, chúng tôi xin
chúc toàn thể quí Phật tử luôn nhớ chúng ta đều có
Phật tánh, có tri kiến Phật. Chúng ta là Phật sẽ
thành. Chủ yếu là phải làm sao phát huy cho được
cái tri kiến Phật đó. Chúc quí vị thành Phật, chúng
tôi cũng thành Phật. Tất cả chúng ta đều thành
Phật.
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 24
Tu tập, một cụm từ mà chắc hẳn quý vị nghe
cũng đã nhiều, tuy nhiên cái biểu hiện rõ nhất
của người có tu không phải là vốn kiến thức
Phật Pháp tích lũy được, mà chính thái độ sống
của người đó được toát ra từ ba nghiệp Thân,
Khẩu, Ý .
Đa phần chúng ta thực hành máy móc, nghe
ai nói sao thì làm vậy, mà không có Chánh Kiến
và sự suy xét, tư duy cho thấu đáo, để từ đó có
thể rút ra kinh nghiệm trong việc
dụng tâm và tu tập. Ở bài viết này
người viết không có đi vào cụ thể
của từng pháp tu, mà chỉ trình
bày về những dấu hiệu, hay kết
quả hiện ra của một người tu
đúng, gieo nhân đúng, công phu
đúng qua một khoảng thời gian
tu nhất định, kết quả tùy vào
phước duyên và nỗ lực của từng
người.
Người tu đúng thì qua thời
gian các dấu hiệu sau thường hiện
ra :
1. Phong cách điềm nhiên, nhẹ nhàng, bình
tĩnh, thư thái:
Vì qua một quá trình dụng tâm, kiểm soát
tâm, giống như việc thuần hóa một con thú hoang
dại, quen nhảy nhót, là tâm chúng ta. Sau một thời
gian, nếu người ấy kiểm soát tâm tốt, buông bỏ cái
tôi, xả ly sự kiêu mạn thuộc về..''sở trường, sở
đoản'' của bản ngã thì sự điềm đạm, điềm nhiên và
thư thái sẽ hiện ra, nó là kết quả tự nhiên của một
cái tâm đã được chế ngự và thuần hóa.
2. Mặt mũi, tướng mạo nhìn tươi và sáng:
Vì giữa tâm và thân tướng, chúng có mối liên
hệ khá mật thiết với nhau. Một người mà trong
tâm an vui, có tu tập và chuyển hóa được các
nghiệp chướng thì dần dần diện mạo bên ngoài
của người ấy nhìn sẽ rất sáng, mặt lúc nào cũng rất
tươi vui, không có u sầu, đau buồn, lúc nào cũng
tràn đầy sức sống. Người nào có được những điều
như vậy, thì đây là một dấu hiệu của người tu
đúng.
3. Giọng nói có ái ngữ, nồng hậu:
Đây là do bên trong tâm người ấy tu qua thời
gian đã có sự tăng trưởng tâm từ tâm bi, một tình
thương bình đẳng, và rộng lớn với tất cả muôn
loài. Từ sự thương yêu chân
thành cho dù giọng nói mộc
mạc, chất phát mà vẫn đầy nhân
văn, ấm áp, nồng hậu và đến
được lòng người..
Và hơn nữa, cũng do sau một
quá trình tu và kiểm soát khẩu
nghiệp, biết cân nhắc trước khi
cất lời, nên những lời nói của họ
dần trở nên rất chuẩn mực. Như
họ không nói dối, không nói ác
khẩu, không nói hai lưỡi, không
nói chia rẻ, không nói xấu, viết
xấu đả kích, bộ nhọ sau lưng người v.v...
4. Đời sống tinh thần mãn túc, cuộc sống
vật chất ổn định không bị thiếu thốn:
Nhiều người tu, nhưng càng tu mà càng càng
nghèo túng, lúc nào cũng bị những nhu cầu vật
chất căn bản bức bách. Đây là dấu hiệu của tu mà
không có phước, thiếu phước, vì không biết làm
phước. Nên người tu đúng là tiền của, cái ăn, cái
mặc tuy không giàu như người đời nhưng lúc nào
cũng có đủ, người ấy không tham, không hưởng
thụ, và lấy đời sống đơn giản và thanh bạch làm
nguồn vui.
5. Mọi việc đều chuyển từ xấu thành tốt:
Trong cuộc sống, khi sinh hoạt, giao lưu và
làm ăn trong xã hội, không phải lúc nào chúng ta
cũng gặp toàn thuận lợi cả. Có những lúc cũng
khó khăn, hoặc bị đặt trong những tình huống khó
Nhöõng Bieåu Hieän Cuûa Ngöôøi Noäi Taâm Coù Tu Taäp
Như Nhiên -TTT
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 25
xử, khó giải quyết, rất nan giải. Thế nhưng người
tu tốt, chắc chắn sẽ chuyển được nghiệp cũ và có
được sự gia hộ của Chư Phật, nhờ đó họ sẽ từ từ
tháo gỡ ra được mọi bế tắc. Mọi việc xấu sẽ biến
thành tốt dần dần như ý nguyện. ''Phước tùy tâm
sanh. Cảnh tùy tâm chuyển'' là thế!
6. Trong gia đình thì thường gặp may mắn,
thuận hòa, an vui:
Do tâm được huân tu tốt, tâm từ lan tỏa tốt
nên tâm của người tu ấy sẽ lan tỏa những nguồn
năng lượng tốt ra xung quanh, và những người
sống chung cùng, sống gần sẽ dần bị thay đổi theo,
là cũng hiền lành, và thánh thiện dần. Một khi cảm
hóa đươc ai cũng hiền lành, tức là họ cũng đang
gieo nhân lành, tức có quả thiện quả may mắn
hạnh phúc. Hơn nữa, khi một người tu tốt từ
trường của họ sẽ tự động thu hút quý nhân giúp đỡ
cho gia đình và quyến thuộc cuả người ấy. Nên gia
đình người đó cũng sẽ gặp được nhiều may mắn
hạnh phúc.
Trên đây là những dấu hiệu cơ bản của người
tu đúng hiện ra, bạn có thể viết thêm những đặc
điểm khác dựa trên trải nghiệm cá nhân. Còn nếu
chúng ta tu thời gian mà không có dấu hiệu nào
trên đây hết. Thì cần nên xem xét lại cách tu, có
thể mình đang tu sai, tu trật điều gì đó. Tu có
nghĩa là chuyển hóa tư tưởng và hành vi và sống
có hạnh phúc hơn, và tu có nghĩa là cạo tâm chứ
chẳng phải cạo đầu.
**oOo**
Giọt Nước Lưu Linh
Giọt nước chưa biết được
Mình thuộc về biển khơi
Đã tan theo ngày nắng
Làm mây giăng ngang trời..
Giọt nước chưa dứt nợ..
Bén duyên thành kiếp mây
Mây bay hoài năm tháng
Buồn, vui cùng đó đây..
Giọt nước chưa biết được
Gió trần gian vô tình.
Một hôm mây thành nước
Rơi xuống đời lênh đênh..
Giọt nước còn say ngủ
Giấc luân trầm chiêm bao.
Sáng nay choàng tỉnh dậy
Hỏi cố hương nơi nào?..
Giọt nước chưa thấu được
Tự thể là rừng xanh..
Dưới chân là nguồn cội
Nên lên thác, xuống ghềnh..
Giọt nước đâu nhớ được
Mình vốn là dòng sông
Sông dạt dào lưu chuyển
Mặc tình.. ai biết không!
Giọt nước nhờ giọt lệ
Biết mình là đại dương
Chợt.. mỉm cười hạnh phúc
Chân thường trong vô thường!...
Như Nhiên -TTT
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 26
Caân Baèng Cuoäc Soáng Một ông lão bảo cháu của mình nắm chặt tay lại trong vòng 10 giây rồi
hỏi :
- Cháu cảm thấy thế nào ?
- Hơi mỏi tay ạ - Đứa bé trả lời.
Ông lão lại hỏi :
- Hãy cố nắm chặt thêm nữa đi!
- Đứa bé làm theo lời ông, được vài giây đã kêu lên:
- Mỏi lắm ông ạ! Tay cháu còn hơi đau nữa.
- Được rồi , bây giờ cháu hãy thả lỏng tay ra. Cháu thấy thế nào?
- Dễ chịu hơn nhiều ạ!
- Cháu thấy đấy, khi con người đã quá mệt mỏi thì điều cần làm không phải là gồng mình lên gắng
gượng mà là thả lỏng bản thân, cho phép mình được thư giản. Khi cảm thấy đã nghỉ ngơi đủ thì
mới nên tiếp tục làm những việc còn đang đang dở, kết quả sẽ có thể tốt đến không ngờ. Ngược
lại, nỗ lực một cách cố chấp thì sẽ chỉ càng làm hỏng việc thêm mà thôi.
**o O o**
Söï Bình Yeân
Một vị vua trao giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức
tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua
ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải
chọn lấy một.
Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ
vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời
xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm
bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn
hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên
trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt
trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc trên một tảng
đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang làm tổ. Ở đó, mặc cho bầu trời kia sấm chớp giận dữ trút mưa,
giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ vẫn an nhiên trên tổ của mình… Bình yên thật
sự!
Ta chấm bức tranh này! – Nhà vua tuyên bố.
Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực
nhọc, gian nan vất vả. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp, ta vẫn
cảm nhận được sự yên tĩnh nơi tâm mình. Đó mới chính là ý nghĩa bình yên thật sự.
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 27
Hình AÛnh Sinh Hoaït Chuøa Giaùc Hoaøng Ñaïi Leã Phaät Ñaûn PL 2563 - 19 May 2019
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 31
Trước giờ hành lễ khóa lễ sáng Chủ Nhật
hàng tuần, Thượng Toạ trụ trì Chùa Giác Hoàng
Hoa Thịnh Đốn thông báo hung tin về sự ra đi đột
ngột của Hoà Thượng Thích Quảng Thanh vào
ngày 9 tháng 6 năm 2019, khiến hàng Phật tử
thiện nam tín nữ chúng tôi vô cùng sửng sốt đến
xúc động. Sự viên tịch của Ngài
qủa là một mất mát lớn lao cho
hàng Phật tử chùa Bảo Quang
California và cho cả GHPG Việt
Nam trên thế giới. Thầy hiện là
Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành
GHPG Việt Nam Trên Thế Giới
kiêm Viện Chủ Chùa Bảo Quang
CA. Thầy đã sớm theo bước chân
Phật Tổ nhập Niết Bàn vào lúc
Thầy mới bước vào tuổi hạc – 68,
để lại cho đời một cơ ngơi thật là
vĩ đại cho phật tử Cali nói riêng
và một công trình Phật Giáo cho
người Viêt hải ngoại nói chung.
Riêng gia đình chúng tôi đã
có cơ duyên hạnh ngộ với
Thầy lần duy nhất từ năm
1987 trong dịp gia đình chúng tôi cung thỉnh Thày
cùng năm vị tăng sĩ từ CA qua thành phố Albu-
querque, NM để chủ lễ cho tang lễ Mẹ chúng tôi
vừa qua đời. Lúc đó Thầy còn là một Đại Đức trẻ
từ VN mới vượt biên qua Hoa Kỳ, trú xứ tại Miền
Vĩnh Nghiệm Pomona CA. Sau đó Thầy sinh hoạt
Phật sự tại Chùa Giác Hoàng HTĐ với cố HT
Thích Thanh Đạm trước khi Thầy rời về Califor-
nia.
Gia đình chúng tôi không thể nào quên được
nghi thức hành lễ và tụng niệm của tăng đoàn do
Thầy làm chủ lễ được ví như một ban hoà tấu với
chuông mõ và trống âm vang khi tăng đoàn cùng
Phật tử đi vòng quanh quan tài của Mẹ tôi và đọc
không biết bao nhiêu thời Chú Vãng Sanh. Ôi! khi
lời kinh lên bổng xuống trầm được Thầy xướng
lên, không hẳn theo lề lối tụng niệm của Phật Giáo
đại thừa Bắc Tông hay tiểu thừa của Phật giáo
Nam tông, lần đầu tiên tôi được nghe, phải nói là
được “thưởng thức” một giọng tụng niệm đầy đạo
vị cảm xúc ấy. Yên lặng! Không
một âm thanh gì khác, hầu như
mọi người tham dự trong buổi
tang lễ của Mẹ tôi trong nhà
quàn, trầm tư yên lắng theo
tiếng mõ lời kinh dìu dặt của
tăng đoàn như một điệp khúc
chiêu hồn người đã khuất. Rất
tiếc, lúc đó, vì quá đau buồn
trước sự mất mát lớn lao này,
chúng tôi đã quên không nghĩ
tới việc thâu hình để bây giờ
nghĩ lại, thấy nuối tiếc vô cùng!
Bẵng đi một thời gian dài, gần
30 năm, cho đến ngày về hưu có
dịp quay trở lại miền Cali nắng
ấm, chúng tôi dành một buổi
chìều đến chiêm bái Phật tại
Chùa Bảo Quang và được gặp lại Thầy. Quá ngạc
nhiên và ngỡ ngàng khi đứng trước cổng chùa
ngắm một công trình Phật Giáo vĩ đại tại nước
ngoài như thế này!
Chúng tôi xin phép được gặp Thầy và tự giới
thiệu với Thầy, nhắc lại những ngày chân ướt chân
ráo mới đến định cư tại vùng sa mạc NM khô cằn
sỏi đá, không quên lần đầu Thầy đến NM trong lần
công tác Phật sự tại đây, Thầy à lên một tiếng:
“Tôi nhớ ra rồi!”. Thế là Thầy trò mừng rỡ hàn
huyên. Chao ôi! được thưa chuyện với Thầy, mới
cảm nhận được cái tâm từ thanh thoát của một vị
chân tu. Thầy dắt chúng tôi đi vãng cảnh chùa
trước sau, giới thiệu tỉ mỉ hầu hết những công trình
Cố Hòa Thượng THÍCH QUẢNG THANH
Vọng bái hương linh:
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG THANH Chùa Bảo Quang – Little Saigon CA
Bài & Ảnh: PHẠM BÁ & Ỷ NGUYÊN
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 32
do chính Thầy tạo dựng: đây tôn tượng Phật Thích
Ca được đặt nằm dưới một tàng cây cổ thụ, xa kia
tôn tượng Phật Di Lặc… và còn nhiều nữa. Tất cả
đều là những Phật tích vô giá hiện hữu tại Chùa
giữa thủ đô tỵ nạn Little Saigon.
Sau một vòng chiêm ngưỡng những cảnh trí
bên ngoài, Thầy đưa chúng tôi vào chánh điện.
Chao ôi! một Đại Hùng Bảo Điện trông thật
huy hoàng, trang nghiêm… một không gian tĩnh
lặng trông như một cảnh giới Niết Bàn mà Phật tử
đã đọc qua kinh sách. Tôn tượng Đức Phật Thích
Ca như được đúc bằng đồng uy nghi ngự trên một
cao toà Phật cảnh. Chúng tôi chắp tay đảnh lễ Phật
và hạnh phúc thay! lại được chính Thầy thỉnh lên
ba tiếng chuông ngân vang… Tâm bình lặng,
chúng tôi như cảm nhận được một luồng giao cảm
tâm linh thoát tục như chưa bao giờ được chiêm
nghiệm. Thử hỏi đã có mấy ai ai cảm nhận được
những giây phút thiêng liêng ấy, như lời Phật dạy,
“Nhất trần bất đáo Bồ Đề địa; Vạn thiện đồng qui
Bát Nhã môn”. (Lòng còn vương vấn một chút bụi
trần thì khó lòng bước vào đất Phật; Mọi điều
Thiện đều tụ hội tại cửa Thiền)
Bước qua chánh đường bên cạnh, cửa đóng
then cài, Thầy mở cửa cho chúng tôi bước vào;
đây không phải là nơi thờ phượng các Đức Thế
Tôn mà là một phòng lớn như một đại sảnh. Thầy
giới thiệu một Bảo Tàng Phật Giáo hải ngoại với
không biết bao nhiêu hình tượng Phật, to có, nhỏ
có, đủ mọi loại cấu trúc bằng đồng, bằng ngọc,
bằng đá gỗ qúi mà Thầy đã dày công tốn của sưu
tầm hoặc được tặng dữ từ khắp các nơi Thầy đã đi
qua trên đường hành đạo. Vì có quá nhiều bảo vật
Phật giáo qúi gía, mà chính ngay viện bảo tàng
quốc gia tại nơi chúng tôi hiện đang cư ngụ là
Washington DC cũng chưa chắc đã có, Thầy đã
gìn giữ những báu tích này cho những thế hệ ngày
nay và cả mai sau, nên Thầy đã cho lắp ráp hệ
thống báo động tinh vi tại các cửa cùng đặt nhiều
video camera giám sát trong ngoài phòng bảo tàng.
Thầy nói, Thầy ít cho phép ai tự do ra vào trong
phòng Bảo Tàng trừ những hội đoàn đặc biệt và
Phật tử thân quen. Và vinh hạnh thay cho chúng
tôi hôm ấy, trong y phục Ngài Đường Tăng đi Tây
Tạng thỉnh kinh, Thầy cho phép chúng tôi chụp
vài pô hình để lưu niệm. Tuyệt vời quá!
Từ những năm về trước, chúng tôi chỉ được
biết Thầy là một nhà Sư trẻ có lớp dạy cắm hoa
theo trường phái Nhật Bản, nhưng sau này tôi lại
biết thêm, Thầy còn là một nhiếp ảnh gia đã có
nhiều tác phẩm đoạt huy chương vàng trong nhiều
cuộc thi nhiếp ảnh quốc tế; là một họa sĩ tranh sơn
dầu; là một nhà thơ lớn trong giới Phật Giáo với
bút danh Thanh Trí Cao đã có nhiều bài thơ Thiền
được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc. Do đó trong khuôn
viên Chùa, trong Đại Hùng Bảo Điện, trong phòng
Bảo Tàng… Thầy đã có một lối trang trí vô cùng
nghệ thuật, khiến người xem phải sững sờ không
thể thốt lên lời… Thầy quả là một nghệ sĩ đa tài,
nhưng Thầy đã vội ra đi để lại cho người đời cùng
Đại Hùng Bảo Điện Chùa BẢO QUANG
Khuông viên Chùa Bảo Quang
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 33
hàng Phật Tử khắp nơi một niềm luyến nhớ khôn
nguôi.
Từ đây, tác giả xin được mở một dấu ngoặc để
viết thêm về khía cạnh văn nghệ trong đời sống tu
hành của Thầy, bời vì không đủ khả năng viết về
giáo pháp và cũng bởi mình là người mến chuộng
văn học nghệ thuật.
Số là sau ngày Thầy lên thuyền Bát Nhã trở
về Bến Giác, ngày 9 tháng 6 năm 2019, mà mãi tới
ngày 23 tháng 6, chúng tôi mới có cơ duyên đến
được Cali trước tiên để kính vái hương linh Thầy
được an vị trong một Vãng Sanh Đường bề thế
trong Chùa Bảo Quang, nơi đã có chân dung Cố
Hòa Thượng Thích Tâm Châu – Nguyên Thượng
Thủ GHPG Việt Nam Trên Thế Giới cùng di ảnh
của Hòa Thương Thích Quảng Thanh – Nguyên
Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPG Việt Nam
Trên Thế Giới. Ngưỡng nhìn di ảnh hai vị lãnh đạo
PG hải ngoại, không riêng gì chúng tôi mà nhiều
Phật tử cùng lúc vào đảnh lễ Thầy đều bùi ngùi
thương tiếc một nhà Sư đã tận tuy hy sinh cả đời
mình cho Chánh Pháp. Riêng chúng tôi, Thầy còn
là một ân sư đã đến NM cử hành tang lễ cho Mẹ
chúng tôi ba mươi năm trước đây.
Ngay từ cửa ra vào Vãng Sanh Đường, chân
dung của Thầy được in lồng trong một đoá sen nở
rộ, bên cạnh là di bút bài thơ để đời của Thầy đã
trở thành một ca từ bất hủ của nhạc phẩm:
Dòng sông thấp thoáng con thuyền
Giác ngộ rồi, người sẽ về đâu?
Cho tôi xin bắc một nhịp cầu
Dòng sông ấy thênh thanh tĩnh lặng
Người là ai hạn hữu nghìn sau
Giác ngộ rồi người sẽ làm chi
Cho tôi xin nối kết những gì
Lý tưởng đẹp cuộc đời dâng hiến
Đường thênh thang ta mãi cứ đi
Đỉnh núi cao hay tình Người cao
Cánh cửa Không ta mở lối vào
Sở trường ấy chiều dài Tuệ Giác
Tâm ấn tâm người đã truyền trao
Sang sông rồi thuyền bỏ lại đây,
Bước ung dung tự tại như mây
Thảo am nhỏ trăng treo lơ lửng
Dấu ấn thiền hạnh ngộ Đông Tây
Sang sông rồi nguyện lực như nhiên
Tình yêu thương ứng dụng chân truyền
Tâm tình đẹp chan hoà sợi nắng
Dòng sông xưa thấp thóang con thuyền
Thanh Trí Cao
(Thơ Thanh Trí Cao – Nhạc Hoàng Quang
Huế - Ca sĩ Nguyên Khang trình bày & được
phóng thanh trong suốt thời gian tang lễ của Thầy)
Nội dung bài thơ của Thầy quá xúc tích cùng
với điệu nhạc dìu dặt đưa người nghe vào cõi tâm
linh tĩnh lặng ngay từ những linh cảm đầu tiên qua
hình ảnh một con Thuyền Bát Nhã. Chợt thoáng
nghe đâu đây, tiếng mái chèo khua đêm trong
tiếng mõ lời kinh của nhà thơ Trần Huyền Chân
cách đây trên nửa vòng thế kỷ về một “Con Thu-
yền” mà hầu hết các Phật Tử chúng ta đều chung
mang một “ảo vọng”:
“Thuyền tử vớt kiếp điêu linh
Thẳng giòng bến Giác, ngẫm kinh sớm
chiều” (THT)
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 34
Trước khi ra về, chúng tôi may mắn được gặp
Thượng Toạ Thích Phước Hậu – tân Viện Chủ
Chủ Chùa Bảo Quang, là cháu ruột cố HT Thích
Quảng Thanh gọi Ngài là Chú, đang mũ nón, săn
tay áo cặm cụi lao động trong sân chùa giữa cái
nằng hè gay gắt của miền Cali hôm ấy. TT mới
được HT bảo lãnh từ VN qua mấy tháng trước để
kế thừa trách nhiệm những bước chân đi của cố
Hoà Thượng điều hành ngôi bảo tự. TT Phước
Hậu ngậm ngùi chia sẻ với chúng tôi là Cố HT biết
mình không thể qua khỏi cơn bạo bệnh này nên đã
để lại di chúc cho vị tân Viện Chủ tiếp nối bước
chân của Phật trong cương vị mới trên một quê
hương mới mẻ này để hướng dẫn Phật tử trên con
đường tu học.
Một lần nữa, ngưỡng nhìn lại dáng vóc bi-trí-
dũng của một Vị Cao Tăng - HT Thích Quảng
Thanh, chúng tôi chợt ngộ ra rằng “Sinh ký tử
qui” là một định luật bất biến như Nguyễn Du đã
để lại trong truyện Kiều: “Trăm năm có sá gì đâu;
Đời người một nắm cỏ khâu xanh rì”…
Để khép lại giòng cảm xúc vô tận này, chúng
tôi không còn biết khấn nguyện gì hơn là xin được
kính cẩn chắp tay vọng bái hương linh Thầy trong
lặng thầm qua một ca từ nhạc Trịnh:
“Xin cho một người vừa nằm xuống
thấy bóng Thiên Đường cuối trời thênh
thang”.
Phạm Bá & Ỷ Nguyên
MD. June 2019
God made a wonderful mother,
A mother who never grows old;
He made her smile of the sunshine,
And He molded her heart of pure gold;
In her eyes He placed bright shining stars,
In her cheeks, fair roses you see;
God made a wonderful mother,
And He gave that dear mother to me.
Pat O’Reilly
Trời sinh ra Mẹ tuyệt vời
Không già mà lại suốt đời trẻ trung;
Nụ cười sáng ánh vừng dương,
Trái tim Trời đúc bằng vàng y nguyên;
Trời đem sao sáng màn đêm
Gieo trong mắt Mẹ dịu êm vô cùng.
Ta nhìn má Mẹ ửng hồng
Như hoa hồng thắm ngát hương tứ thời;
Trời sinh ra Mẹ tuyệt vời
Và ban Mẹ quý cho tôi kiếp này.
Tâm Minh Ngô Tằng Giao
Chuyển ngữ
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 35
Theo Thầy Yongey Mingyur Rinpoche, một
vị sư của Phật giáo Tây Tạng, rằng chúng ta có thể
áp dụng cách này khi nghe nhạc. Lắng nghe âm
nhạc cổ điển cũng được xem như là một cách để
quan sát cảm xúc của tâm mình.
Khi chú tâm lắng nghe những bản nhạc của
Sergei Rachmaninoff, Ludwig van Beethoven hay
những nhạc sĩ khác, chúng ta có thể quan sát được
nhiều dòng cảm xúc gợi lên trong tâm. Ngài Min-
gyur Rinpoche giải thích: Khi chú tâm vào những
dòng xúc cảm này, xúc cảm sẽ
không còn lực cuốn chúng ta
theo nữa (tự cảm xúc sẽ tan).
Bằng phương pháp này, chúng
ta có thể học cách chú tâm vào
nó mà không cần phải cố gạt
bỏ hay bám theo.
Bạn thực hành thiền nghe
như thế nào? Chúng ta chỉ cần
lắng nghe âm thanh. Nếu
bạn biết bạn đang nghe âm
thanh, đó là thiền. Thông
thường, bạn không nhận biết là bạn đang nghe vì
tâm của bạn bị cuốn theo dòng âm thanh đang
phát. Nhưng khi bạn biết mình đang nghe, tâm của
bạn không bị lạc mất. Theo cách này, bạn có thể
thưởng thức âm nhạc và thiền cùng một lúc.
Bạn không cần lo là mình phải nhận biết việc
mình có lắng nghe hay không. Đừng kiểm soát
quá nhiều. Chỉ cần đôi tai và tâm của bạn cùng
nhau lắng nghe, âm thanh và âm nhạc trở thành
đối tượng của thiền. Điều đó rất có ích cho tâm
loạn động như con khỉ điên đang nhảy nhót, vì bạn
đang cho nó một công việc. Thông thường tâm
lăng xăng cho chúng ta công việc, nhưng khi bạn
chủ động cho tâm ấy một công việc, thì bạn trở
thành ông chủ của nó.
Sau đây là cách thực tập. Đầu tiên, bạn thả
lỏng cơ thể và cố gắng giữ cho cột sống thẳng.
Hãy thư giãn và buông bỏ tất cả những lo lắng
muộn phiền. Chỉ cần tâm ở trong cơ thể của bạn;
tâm đến với từng cơ quan trong cơ thể bạn, tâm
lấp đầy cơ thể bạn, và cứ thư giãn như thể bạn vừa
hoàn thành một bài tập thể chất. Bạn ngồi trên
chiếc ghế với tư thế thoải mái nhất, hít thở một hơi
thật mạnh và dài. Từ tư thế thoải mái này, bạn bắt
đầu lắng nghe nhạc. Đừng cố gồng lắng nghe, đơn
giản chỉ cần để tâm tới âm
thanh đang phát. Giữ tâm
chánh niệm với âm thanh
đang phát trong khoảng thời
gian lâu là điều khó, thậm chí
có thể chỉ được vài giây rồi
tâm của bạn lại lang thang.
Vậy cũng được rồi. Nghe lại
một lần nữa. Bạn cứ thực tập
trong khoảng thời gian ngắn
như vậy, và lặp đi lặp lại
nhiều lần.
Bạn sẽ nhận thấy rằng bạn
có rất nhiều suy nghĩ và cảm xúc, đó là tâm loạn
động như con khỉ điên của bạn. Nhưng tâm viên ý
mã ấy không phải là vấn đề. Vấn đề là cách bạn
đối xử với nó. Chúng ta thường có hai cách đối xử
với vọng tâm. Cách thứ nhất: bạn đang nghe theo
tâm loạn động ấy và tin vào những gì nó nói. Nếu
loạn tâm nói không tốt, bạn tin rằng nó không tốt.
Điều đó dẫn đến sự tức giận, sợ hãi, ghen tị, hoang
mang, và nhiều hơn thế nữa. Cách thứ hai: bạn
ghét cái tâm lăng xăng đó, bạn chiến đấu với nó.
Nếu bạn có sự tức giận, bạn đang chiến đấu với
cơn giận. Nhưng bạn không thể đánh bại cơn giận
bằng cách chiến đấu. Nếu bạn chiến đấu với cái
tâm nhảy nhót như con khỉ điên rồ kia, nó sẽ trở
thành kẻ thù của bạn. Tuy nhiên, nếu bạn lắng
Lệ Nghiêm
LTS: Trong thiền lắng nghe, thiền sinh có thể dõi theo bất kỳ âm thanh nào phát ra xung quanh mình. Cách này giúp ta dễ dàng thực tập dù ở bất kể nơi đâu hay lúc nào.
Yongey Mingyur Rinpoche và nhà soạn nhạc Beethoven - Ảnh: Tricycle
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 36
nghe nó, bạn sẽ trở thành ông chủ của nó.
Vậy bạn nên làm gì? Thay vì nói ra ý nghĩ,
cảm xúc, như “Hãy cút đi!” hay “Vâng, thưa
ngài”, bạn hãy buông xả và giao việc cho tâm lăng
xăng ấy.
Khi tôi còn trẻ, tôi đã có những cơn hoảng
loạn, đó là niềm đau khổ lớn trong đời. Nhưng sau
đó tôi đã được học thiền, tôi biết làm bạn với tâm
hoảng loạn của mình. Cuối cùng tôi đã trở nên rất
biết ơn sự hoảng loạn đó, bởi nhờ nó mà hôm nay
tôi có mặt ở đây để chia sẻ kinh nghiệm với các
bạn.
Vì vậy, khi bạn nghe nhạc, hãy nhận biết cảm
xúc của bạn giống như cách bạn nhận biết được
âm thanh. Tâm trí của bạn có thể qua lại giữa việc
nghe nhạc và nhận biết những xúc cảm nảy sinh
trong cơ thể. Nhận biết cảm xúc giống như mặt
trời, giúp xua tan bóng tối. Khi bạn nhận biết được
cảm xúc, cảm xúc sẽ tự tan và trở nên bất lực,
không còn cuốn bạn vào những vui buồn hờn ghen
nữa.
Lệ Nghiêm dịch
“Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đuờng lên Niết Bàn
Chân nhang lấm láp tro tàn
Xâm xâm bóng mẹ trần gian thuở nào”
(Thơ Nguyễn Duy)
Vu Lan lễ hội tưng bừng
Tưởng nhớ tới mẹ tận cùng sót thương
Ô hay! Cái lý vô thường!
Cớ sao con mãi vấn vương dạ sầu
Khắc ghi dáng mẹ ăn sâu
Lời khuyên hiền mẫu tìm đâu bây giờ
Thong dong bóng mẹ mờ mờ
Lúc hiện lúc khuất mơ hồ lao xao
Tính tình hiền hậu hôm nao
Mẹ từng khuyên dậy con nào dám quên
Vu Lan Báo Hiếu kề bên
Mẹ về trong giấc ngủ yên hiền hòa
Nước da óng mượt lụa là
Tóc trần mẹ quấn hài hòa thanh xuân
Hàm răng đen nhánh tuyệt trần
Môi trầu thắm đậm bội phần tăng duyên
Bạn bè xưa vẫn thường khen
Mẹ là con gái đầu tiên trong nhà
Bố thương mẹ tính thiệt thà
Cần kiệm, chu đáo việc nhà ngoài trong
Cơm nước, dọn dẹp hết lòng
Mẹ nhanh thoăn thoắt chớ hòng than van
Đất Thanh lánh nạn gian nan
Gia đình nương nấu muôn vàn đắng cay
Cơm ăn áo mặc hằng ngày
Đều do tay mẹ no đầy tháng năm
Những đêm trời rét căm căm
Thiếu chăn thiếu áo mẹ nằm co ro
Xác thân ốm yếu gầy gò
Tảo tần lặn lội thân cò bờ sông
Yêu chồng một mực chiều chồng
Thương con mẹ vẫn một lòng lo toan
Mẹ tôi vốn dĩ đảm đang
Hai vai gánh vác giang san bên chồng
Hàm Rồng tháng lạnh mùa đông
Quán ăn Tô Hiệu ven sông thuở nào
Họ hàng ai cũng tự hào
Rằng mẹ đứng mũi chịu sào bao nhiêu
Mẹ tôi quả thật đáng yêu
Quán xuyến cửa tiệm sớm chiều bên sông
Làm bếp, chợ búa, gánh gồng
Mẹ vẫn một lòng chẳng chút bận tâm
Hôm nay lễ hội “Bông Hồng”
Tưởng nhớ đến mẹ đôi dòng kính yêu
Mẹ ơi … Con nhớ mẹ nhiều !
Diệu Oanh
Mùa Vu Lan 2019
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 37
Trong tam tạng kinh điển thì luật tạng
(vinaya) có một vai trò và vị trí vô cùng quan
trọng trong Phật giáo. Theo thứ tự sắp xếp thông
thường thì tam tạng bao giờ cũng được sắp xếp
tuần tự từ kinh, luật và luận. Nhưng theo văn học
Pāli, luật tạng được xếp đầu tiên sau đó đến kinh
và luận. Điều này cho thấy rằng, luật tạng luôn
được đặt trọng tâm trong nếp sống tu học của tứ
chúng đệ tử Phật. Ngoài luật tạng hoàn toàn mô tả
về giới luật, chúng ta cũng thấy đức Phật nói về
giới trong các bài kinh được ghi lại trong kinh
tạng Nikāya, trong đó
những bài kinh đầu của
Trường bộ kinh (Digha
nikāya) hoàn toàn mô tả về
giới luật như kinh Phạm
Võng, Kinh Sa Môn Quả, và
giới cũng được đức Phật
nhắc đến nhiều trong các bài
kinh thuộc Trung bộ
(Majjhima nikāya), Tăng chi
bộ (Anguttara nikāya) và Tương ưng bộ
(Samyutta nikāya).
Khi nghiên cứu kỷ chúng ta thấy có một sự
tương đồng và thống nhất giữa kinh và luật. Theo
lý thuyết thì kinh và luật có sự riêng biệt rõ ràng,
nhưng ở người thực hành chúng tạo nên sự hợp
nhất trong vấn đề nuôi dưỡng phát triển và đào
luyện tâm trí, tính cách như nhau. Điều này được
thấy rõ qua đoạn kinh sau:“Giáo pháp và giới luật
của đức Phật Gotami có những phẩm chất mà bạn
có thể biết. Những phẩm chất này dẫn đến sự an
tịnh, không có niềm đam mê, tham đắm; để được
giải thoát và không bị trói buộc; để buông bỏ, xả
ly mà không chấp thủ; để khiêm tốn và không tự
cao tự đại; để thỏa mãn và không để bất mãn; đưa
đến sự ẩn dật và không vướng víu; để kích thích
năng lượng tinh tấn và không lười biếng; để được
trút bỏ gánh nặng và không nặng nề chất chứa.
Bạn chắc chắn có thể thực hành. Đây là Giáo
Pháp, đây là Giới Luật, đó là những hướng dẫn
của đức Phật. [1]
Từ đoạn trích dẫn này, cho chúng ta thấy rằng
giới luật có tầm quan trọng như thế nào đối với
nếp sống thiền môn. Để làm sáng tỏ vấn đề này,
chúng ta đi vào tìm hiểu để thấy được giá trị đích
thực mà tạng luật mang lại cho hành giả tu học và
tiền đồ của Phật pháp.
1. Nhận Thức Về Tầm Quan Trọng Của
Giới Luật
Trong tam vô lậu học, giới
luật là bước đầu tiên, bước
đi cơ bản để thiết lập nền
tảng đạo đức cơ bản. Nếu
không có nấc thang này, thì
mọi bước tiếp theo sẽ
không bao giờ thành tựu.
Giới luật là chuẩn mực quy
tắc do đức Phật chế định,
nhằm làm nền tảng pháp lý để hành giả ứng dụng
trong việc thúc liễm thân tâm, tấn tu đạo nghiệp.
Giới là tự nhiên, và chánh thuận với giải thoát, nên
thực hành theo giới là thuận theo lẻ tự nhiên và
đưa đến giải thoát. Tất cả lời dạy của đức Phật
điều không ngoài mục đích đoạn trừ khổ đau mang
lại an lạc giải thoát. Giới luật được thiết lập là mở
ra lộ trình giải thoát cho tất cả mọi người ứng
dụng thực hành. Do đó, giới luật có vai trò và tầm
quan trọng đối với tất cả chúng đệ tử Phật. Tầm
quan trọng này được Đức Phật khẳng định: “sau
khi ta nhập diệt, giới luật sẽ là thầy của các
người”. Lời tuyên bố này cũng được tìm thấy
trong cả hai truyền thống Nam tạng và Bắc tạng
Phật giáo. “Hãy tôn trọng cung kính Ba la đề mọc
xoa, hãy lấy giới luật làm nơi nương tựa, chớ
nương tựa một ai khác”[2] Và trong Trường Bộ
kinh đức Phật nhấn mạnh: “Này Ananda, Pháp và
Vai trò Cûa gi§I luÆt trong n‰p
sÓng thiŠn môn
Thích Trung Định
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 38
Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta
diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo Sư của
các Ngươi.”[3]
Lời tuyên bố này nhằm xác tính vai trò quan
trọng của giới luật trong nếp sống thiền môn. Tầm
quan trọng của giới luật được thấy rõ trong phần
giới thiệu đầu của giới bổn Ba la đề mộc xoa, văn
bản Hán tạng của ngài Pháp Hộ (Dharmagupta):
“Nếu như một người bị gảy đôi chân của mình thì
người đó không còn có thể đi bộ được; cũng vậy
một người phá giới thì
không thể sinh vào cõi
lành, thiện thú thiên
giới.”[4] Nó cũng được
nhấn mạnh thêm như trong
lời tựa của giới kinh rằng:
“Trong thế gian, vua là
hơn hết, trong các sông
ngòi ao hồ thì đại dương là
hơn hết, trong tất cả các
sao, mặt trăng là hơn hết,
trong tất cả bậc thánh,
Phật là hơn hết, trong tất cả kinh sách, giới kinh
là hơn hết. (And further: “As a king is supreme
among men, as the ocean is chief of all flowing
waters, as the moon is chief among the stars, as
Buddha is pre-eminent among Sages, (this) Book
of Precepts is the best.”[5])
Giới luật chủ yếu chứa những quy định,
hướng dẫn trực tiếp mọi hành động việc làm trong
đời sống hằng ngày của người xuất gia. Giới luật
rõ ràng và dứt khoát là đặt ra để quy định những
hành động bị cấm (vì có hại), và những hành động
nên làm (vì hữu ích hoặc đưa đến lợi lạc), những
hành động vô hại hoặc trung tính và do đó không
bị cấm cũng không khuyến khích thực hành. Như
vậy có ba loại quy định về giới luật: ngăn cấm
(prohibitions), chỉ định (prescripts) và cho phép
(permissions), hay nói khác hơn đó là tính khai,
giá, trì và phạm của giới.
Một đời sống tu học thực sự là phải khép
mình trong sự tuân thủ nghiêm trì giới luật. Điều
quan trọng là chúng ta không nên nghĩ rằng những
quy định của giới luật như đang được áp đặt từ
bên ngoài do một sức mạnh không thể cưỡng lại.
Giới luật phải đến từ bên trong. Nó phải dựa trên
nhận thức rõ ràng về giá trị của nó cũng như một
mức độ nhất định của nội quan và chánh niệm.
Một khi chúng ta ý thức rõ về giá trị soi sáng của
giới luật thì nó là chánh thuận, tự nhiên, chứ
không phải áp đặt. Thọ trì giới là vấn đề tự nguyện
và phát tâm, nên giới sẽ thực sự giúp chúng ta phát
triển toàn diện về hai phẩm chất rất quan trọng của
tâm: sự tỉnh giác và chánh niệm. Khi chúng ta phát
triển hai yếu tố cơ bản của sự tỉnh thức, chúng ta
sẽ có những công cụ mạnh mẽ nhất để đạt được sự
nhất tâm. (đó là đúng
nghĩa của nhân giới sanh
định).
Chúng ta hiểu rằng, pháp
chế của một quốc gia nếu
không kiện toàn, thì nước
ấy tất sẽ loạn; Tăng đoàn
Phật giáo nếu như không
có giới luật thì Tăng đoàn
cũng tan rã. Trong ba kỳ
kết tập kinh điển thì
nguyên nhân chính đều có liên quan đến giới luật.
Kỳ kết tập kinh tạng lần thứ nhất được tổ chức tại
hang Thất diệp, thành Vương Xá, sau khi Đức
Phật nhập niết bàn ba tháng. Một trong nhiều lý do
khác đã được Tổn giả Ma-ha-ca-diếp muốn ngăn
chặn dư luận cho rằng các đệ tử của Đức Phật chỉ
giữ giới khi ngài còn sống. Vì vậy, kỳ kết tập kinh
điển đã được tổ chức để bảo vệ sự trong sáng của
giáo pháp cũng như để củng cố Tăng đoàn. Kỳ kết
tập kinh điển lần thứ hai được tổ chức tại Vesali
một thế kỷ sau đức Phật nhập diệt. Theo Tiểu
Phẩm, các tu sĩ của vùng Vajji đã có liên quan đến
thập sự phi pháp.[6] Vì vậy, đại hội kết tập kinh
điển tổ chức để giải quyết về thập sự phi pháp, bảo
vệ và tuân thủ sự nguyên vẹn của giới luật. Đại hội
kết tập kinh điển lần ba tổ chức tại Hoa Thị Thành
(Pāṭaliputta) dưới sự bảo trợ của hoàng đế Phật
giáo nổi tiếng A Dục (Asoka). Sau khi A dục
vương hồi đầu Tam bảo, ông thực hiện nhiều chủ
trương chính sách hộ trì Phật pháp. Từ đó, đời
sống của chư vị tu sĩ Phật giáo trở nên sung túc,
các tu viện được xây dựng khang trang, to lớn. Lợi
dụng điều kiện này, những kẻ dị giáo đã len lỏi gia
nhập Tăng đoàn. Họ sống đời sống tu sĩ nhưng
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 39
nhưng tâm vẫn còn mạng nặng thế tục, không tuân
thủ giới luật, nếp sống quy cũ thiền môn. Và chính
họ là nhân tố làm mất hòa hợp Tăng và đời sống
thanh tịnh vốn có của giáo đoàn Phật giáo. Điều
này dẫn đến đau buồn cùng tột đối với những bậc
tôn túc lo cho tiền đồ của Phật giáo, đến nổi ngài
Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Thera Moggaliputta)
phải lui về ẩn tu trên đồi Ahoganga bên bờ sông
Ganga và ở đó trong bảy năm. Số người dị giáo và
tu sĩ giả chiếm một số lượng lớn trong Tăng đoàn
thời đó, kết quả này đã làm cho tín đồ Phật giáo
mất niềm tin và ngày càng xa lánh Phật giáo. Hệ
quả này đã làm cho Tăng đoàn trong suốt bảy năm
mà không tổ chức được lễ bố tát tụng giới, an cư
kiết hạ và tự tứ. Những vị tu sĩ chân chín từ chối
không tham gia an cư bố tát
với những thành phần tu sĩ dị
giáo và giả dạng. Sự thất bại
nặng nề này đã khiến cho
Hoàng đế A Dục đau buồn và
ông đã gởi kiến nghị thực
hiện lễ bố tát trở lại. Vì vậy,
kỳ kết tập kinh điển lần thứ
ba được tổ chức để ngăn
chặn những người dị giáo và
thiết lập sự thanh tịnh và hòa
hợp trong Tăng đoàn Phật
giáo. Sau đó, Tăng đoàn mới bắt đầu thực hiện lễ
Bố tát trở lại. Từ những dẫn dụ ở trên chúng ta
thấy rõ vai trò của giới luật là vô cùng quan trọng,
nó quyết định lấy sự sống còn của đời sống tu sĩ.
Trong lời bài kinh cuối cùng trước lúc Thế
Tôn diệt độ, ngài ân cần căn dặn chúng đệ tử rằng:
“Này các Tỳ kheo sau khi ta diệt độ, các thầy
phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như người mù
mà được mắt sáng, nghèo mà được ngọc quý.
Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các
thầy. Nếu ta ở đời thì cũng không khác gì tịnh
giới ấy.”[7] Người xuất gia luôn lấy giới luật làm
cương lĩnh tu tập để chuyển hóa thân tâm, trang
nghiêm huệ mạng; Tăng đoàn phát triển đều do
nương vào giới luật để thiết lập sự hòa hợp và
thanh tịnh. Như vậy, giới luật nhằm ổn định quy
củ Thiền môn, là áo giáp phòng chống giặc phiền
não, là đạo quân tiên phong mở cánh cửa giải
thoát. Do vậy, cả hai truyền thống Phật giáo Nam
tang cũng như Bắc tạng đều xác quyết tầm quan
trọng của giới luật rằng: ‘Giới luật là Đấng đạo sư’
và một bên thì khẳng định ‘Nếu ta ở đời thì cũng
không khác gì tịnh giới ấy’ đủ để thấy tầm quan
trọng của giới luật như thế nào.
2. Giới luật làm thúc đẩy sự hòa hợp thanh
tịnh Tăng
Bản chất của tăng là thanh tịnh và hòa hợp.
Yếu tố then chốt đưa tăng đoàn hoàn thiện hai
phẩm chất ấy đó là giới luật. Giới luật đưa đến sự
hòa hợp trong Tăng đoàn gồm có ba ưu điểm:
Thứ nhất, giới luật nhằm để hướng dẫn nếp
sống của người xuất gia. Mỗi giới điều có công
năng hướng dẫn chỉ đạo trực tiếp đến đời sống của
người tu sĩ. Giới luật chỉ ra
cho chúng ta biết rõ những
gì nên làm và những gì
không nên làm, thiết lập một
cấu trúc về đời sống đức
hạnh, nhằm thành tựu phạm
hạnh xuất gia chân chính vì
lý tưởng giải thoát giác ngộ
và vì lý tưởng phụng sự
nhân sinh. Mỗi giới trực tiếp
liên quan đến cuộc sống của
chúng ta, rằng là tất cả các
việc ác nên tránh và tất cả các việc thiện gắng làm
và để thanh tịnh tâm ý cho chính mình.
Thứ hai, giới mang lại sự thanh bình và hạnh
phúc cho hành giả tu hành. Giới giúp cho hành giả
tự điều chỉnh lấy hành vi, lời nói và suy nghĩ của
chính họ, nhằm thiết lập sự bình an trong nội tâm.
Nhờ tính năng phòng hộ và chế ngự của giới, làm
cho hành giả cảm thấy an ổn, an trú trong pháp và
luật này. “Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi
hối hận, không hối hận là để được hân hoan,
hân hoan để được hỉ, hỉ để được khinh an, khinh
an để được lạc, lạc để được định, định để được
chánh kiến, chánh kiến để được vô dục, vô dục
để được ly tham, ly tham để giải thoát, giải thoát
để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để đi
đến vô thủ trước Niết bàn.” [8]
Giới luật của đức Phật chế định nhằm ngăn
chặn các tác nhân đưa đến bất an và đau khổ, đồng
thời kiến tạo sự an lạc hạnh phúc trong đời sống
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 40
nội tạng. Những tác nhân đưa đến bất an và đau
khổ đó là sự phóng túng tâm ý, đam mê thỏa thích
với tham dục của sáu giác quan. Người hành giới
nghiêm mật là tự chế tác năng lượng phòng hộ sáu
căn môn, không phóng túng tâm ý, những nhân tố
kích thích tham dục bị từ bỏ, do đó vị ấy sinh khởi
sự an lạc hạnh phúc trong đời sống hằng ngày.
Thứ ba, giới luật là để bảo vệ nếp sống thiền
môn. Giới không chỉ ngăn chặn những hành vi bất
thiện của cá nhân, mà còn bảo vệ và đem lại sự
sống hài hòa trong cộng đồng Tăng chúng. Trong
các kiền độ luật nghi quy định về
các quy tắc giữ gìn nếp sống thanh
tịnh và hòa hợp Tăng. Phá hòa hợp
Tăng là một trong những trọng tội
của một vị Tỷ kheo. Khi tất cả mọi
thành viên trong Tăng chúng sống
theo tinh thần giới luật, thì họ
không chỉ kiện toàn về nếp sống
phạm hạnh, mà còn xây dựng một
nếp sống lục hòa cộng trụ thật sự
trong Tăng đoàn.
Tuy nhiên, không phải lúc nào
trong tăng chúng cũng hài hòa,
thanh tịnh. Đôi khi cũng có những
pháp hữu lậu và bất đồng xảy ra
trong Tăng đoàn. Những lúc như vậy, theo tinh
thần giới luật Tăng chúng phải tác pháp yết ma và
xử lý để tăng đoàn hòa hợp thanh tịnh trở lại. Thất
diệt tránh pháp trong kiền độ luật nghi giúp cho
hành giả ứng dụng một cách trí tuệ để giải quyết
các vấn đề trong tăng đoàn. Pháp bố tát hằng nửa
tháng và tự tứ sau ba tháng kiết hạ an cư là những
pháp lý cơ bản để đem lại sự hòa hợp và thanh
tịnh trong đời sống tu viện. Giới luật tạo hành lang
pháp lý để ngăn chặn các bất thiện pháp chưa sanh
và trừ diệt các ác pháp đã sanh. Đồng thời giới
luật cũng thúc đẩy và chế tác năng lượng thiện
thông qua hành động, lời nói và suy nghĩ. Từ đó
giới luật giúp cải thiện các mối quan hệ trong cộng
đồng tăng chúng. Đó là ba lý do mà giới luật thúc
đẩy sự hòa hợp trong Tăng đoàn.
Trường bộ kinh dạy rằng, nếu các vị Tỷ kheo
hành trì giới luật nghiêm mật, không sứt mẻ,
không tỳ vết thì Tăng đoàn Phật giáo sẽ được
hưng thịnh. “Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-
kheo sống với các bạn đồng tu, tại chỗ đông người
và vắng người, trong sự thọ trì những giới luật
đúng với Sa-môn hạnh, những giới luật không bị
gẫy vụn, không bị sứt mẻ, không bị tỳ vết, không bị
uế trược, những giới luật đưa đến giải thoát, được
người có trí tán thán, không bị ô nhiễm bởi mục
đích sai lạc, những giới luật hướng đến định tâm,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.”[9]
Như vậy cuộc sống của Tăng đoàn dựa trên
nền tảng của Giới luật không chỉ
đưa đến sự an lạc, thanh tịnh và hòa
hợp mà còn làm cho Tăng chúng
cường thịnh, phát triển.
3. Giới luật làm cho chánh pháp
cửu trụ
Ưu điểm nổi bật cuối cùng và đó
cũng là mục tiêu tối thượng của
giới là để duy trì Phật pháp cửu trụ
trên thế gian này. Sự tồn tại của
Phật pháp là nhờ vào sự truyền thừa
liên tục của Tăng -những người đã
luôn tôn trọng và bảo vệ các quy
định của giới Luật trong gần 2.600
năm mà chúng tôi tìm thấy chính
mình ngày hôm nay với sự sang trọng để giử gìn
những lời dạy vô giá của Phật pháp. Nếu không có
giới luật, và những người tiếp tục nghiêm trì luật
cho đến ngày nay thi Phật pháp sẽ không còn tồn
tại trên thế gian này.[10]
Một người xuất gia có giới hạnh đầy đủ, vị ấy
có thể mang lại niềm tin chơn chánh cho những
người chưa tin vào Phật pháp và sẽ làm tăng
trưởng niềm tin cho Phật tử các giới. Với giới luật
kiện toàn, vị ấy có thể tiến sâu vào sự thực hành
thiền định và trí tuệ, đạt được mục tiêu cuối cùng
của lộ trình giác ngộgiải thoát, niết bàn. Bởi vì,
khi vị ấy trọn vẹn trong giới pháp thì đức hạnh và
trí tuệ của vị ấy sẽ có ảnh hưởng rất lớn đối với tất
cả mọi người. Vị ấy có niềm tin, kiên định trong
niềm tin do đó mang lại cho người khác có niềm
tin bất hoại trong chánh pháp. Vị ấy có an lạc giải
thoát nhờ hành trì giới mang lại, do đó sẽ khiến
cho người khác có an lạc và giải thoát trong chánh
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 41
pháp. Gương sáng đức hạnh bao giờ cũng có sức
ảnh hưởng lớn trong tâm thức của mọi người. Nhờ
sự ảnh hưởng này sẽ tạo ra sự cung kính và tôn
trọng tịnh giới. Giới pháp cần phải được gìn giữ và
truyền lại cho người khác, làm cơ sở thực hành
cho hành giả xuất gia cũng như phật tử tại gia qua
nhiều thế hệ. Làm được như vậy mới có thể tiếp
tục duy trì và xiển dương lời dạy của Đức Phật
mãi mãi trong thế gian. Pháp Phật phải được duy
trì từ trong nội bộ cũng như bên ngoài quảng đại
quần chúng.
Trong Tạng luật Đại phẩm 1, chương trọng
yếu khẳng định rằng: “Cho đến khi kinh và vi diệu
pháp bị quên lãng mà Luật chưa bị tiêu hoại thì
Giáo Pháp vẫn còn tồn
tại.”[11] Luật Thiện Kiến
khẳng định: “…Dù trên
thế gian này chỉ còn tồn
tại năm người xuất gia
giữ giới thanh tịnh thì
giáo pháp của đức Phật
vẫn còn thọ mạng lâu dài
vì số lượng năm người
này có thể thực hiện việc
truyền giới cụ túc. Và
như thế Tăng đoàn sẽ được sản sinh và phát
triển.” [12]
Ngài Phật Âm trong luận thư của mình cũng
nói rằng: “giới luật là thọ mạng của Phật pháp.
(Buddhaghosa also said that the vinaya constitutes
the life-blood of the sāsana.[13]) Vì giới luật còn
thì Phật pháp còn, giới luật diệt thì Phật pháp cũng
diệt. (Tỳ ni tạng trụ, Phật pháp diệc trụ). Khi nói
rằng, giới luật là thọ mạng của Phật pháp không có
nghĩa là coi thường vai trò của Giáo Pháp đối với
giới luật trong Tăng chúng, hoặc có thể được so
sánh nặng nhẹ giữa Kinh và Luật. Điều này được
nói rằng, quy tắc giới luật là rất cần thiết cho đời
sống tu sĩ. Cuộc sống của một người tu sĩ được
điều chỉnh bởi các quy tắc giới luật. Vì giới luật
mới đưa người tu sĩ lên bậc trên, chắp thêm đôi
cánh để bay về vùng trời giải thoát giác ngộ. Nói
cách khác, giới giúp cho cuộc sống của mình đạt
được một giai đoạn cao hơn. Hơn nữa, với quy tắc
giới luật, các môn đệ biết rõ những gì nên làm và
những gì không nên. Vì vậy, họ có thể tránh tội và
có thể có được hạnh phúc trong cuộc sống phạm
hạnh. Giới luật đã được Đức Phật ban hành để diệt
trừ ô nhiễm của một số nhà sư, để bảo vệ chúng
khỏi giai đoạn thấp hơn và có khả năng nâng cao
chúng trong cuộc sống này rất hay đời sau.
Một điều quan trọng khác cần phải ghi nhớ
trong tâm trí rằng, đức Phật chỉ dạy con đường
tâm linh chơn chánh đó là ‘pháp và
luật’ (Dhamma-vinaya)- Giáo Lý (dhamma) và
Giới Luật (Vinaya) – cho thấy một chỉnh thể thống
nhất của trí tuệ và đào luyện đạo đức. Do đó giới
luật là một khía cạnh không thể thiếu và là nền
tảng của tất cả các lời dạy của Đức Phật. Không
thể tách rời Giáo Pháp và giới luật riêng biệt. Và
chỉ có những người tuân thủ, hành trì giới pháp
mới xứng đáng trọng
trách truyền trì Như lai
tạng mà thôi. Các cư sĩ
Phật tử sẽ tìm thấy trong
Luật Tạng nhiều bài học
có giá trị liên quan đến
bản chất con người,
hướng dẫn về làm thế nào
để thiết lập và duy trì một
cộng đồng hài hòa, tổ
chức, và nhiều giáo lý sâu sắc của Phật pháp.
Nhưng giá trị lớn nhất của nó, có lẽ, nằm trong
khả năng để truyền cảm hứng cho các cư sĩ Phật tử
để thấy được khả năng phi thường được thể hiện
bởi một đời sống cuộc sống thực sự từ bỏ, một
cuộc sống hoàn toàn phù hợp với chánh pháp.
Tóm lại, tuân thủ giới luật là một trong những
cách hộ trì Phật pháp của người xuất gia, điều này
được nêu rõ trong lời giới thiệu về luật tạng như
sau: “Đó là, nếu như, Xá Lợi Phất, hoa khác nhau
được đặt trên một mảnh gỗ, ràng buộc với nhau
bởi sợi (như một vòng hoa), không phân tán,
không xoay chiều, hoặc bị phá hủy bởi gió. Lý do
cho điều đó là gì? Chúng được gắn với nhau bởi
sợi dây liên kết. Điều này có nghĩa là chỉ đơn giản
rằng những cơn gió vô thường có thể không phải
như vậy dễ dàng tiêu diệt các khía cạnh khác nhau
của Pháp khi chúng được bảo đảm bởi các sợi của
Luật.”[14] Như vậy, giới luật là sợi dây kết nối và
bảo vệ chánh pháp cữu trụ trên thế gian này.
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 42
(Thích Trung Định)
**oOo**
Ghi chú:
[1] The Buddhist Monastic Code I, The
Patimokkha Rules, Translated & Explained by
Thanissaro Bhikkhu (Geoffrey DeGraff), The Ab-
bot Metta Forest Monastery P.O. Box 1409, Val-
ley Center, CA 92082 U.S.A, 1994, p. 11.
[2] Dhyāna Master Hsuan Hue, The Diamond
Sutra, A General Explanation of the Vajra Prajña
Paramitā Sūtra, published by the Sino-American
Buddhist Association, Incorporated, 1974, Edited
by: Bhiksu Heng Kuan Bhiksuni. Heng Hsien;
Upasaka Tun Kuo-tsun, p. 52-53.
[3]Maurice Walshe, (trans.), Dīgha nikāya,
The Long Discourses of the Buddha, Wisdom
publication, Boston,, 2012, p. 270.
[4] Samuel Beal, A Catena of Buddhist Scrip-
tures from the Chinese, London, 1871, p. 207.
[5] Relevance of Vinaya in modern circum-
stances, http://thubtenchodron.org/, 6/09/2016, at
5 pm.
[6] 1. Singilonakappa: it was the practice of
carrying salt in a horn. 2. Dvangulakappa: the
practice of taking meals when the shadow is two
fingers broad. 3. Gamantarakappa: the practice of
going to another village and taking a second meal
there on the same day. 4. Avasakappa : the ob-
servance of the Uposatha ceremonies in various
places in the same parish. 5. Anumatikappa : ob-
taining sanction for a deed after it is done. 6. Acin-
nakappa : using customary practices as precedents.
7. Amathitakappa : the drinking of buttermilk after
meals. 7. Jalogim-patum : the drinking of toddy. 9.
Adasakam-nisidanam : using a rug which has no
fringe. 10. Jataruparajatam : the acceptance of
gold and silver.
[7] Bhikkhu Khantipālo, The Buddhist
Monk’s Discipline, Some Points Explained for
Laypeople, Buddhist Publication Society, Kandy,
Sri Lanka, 2008, p. 12.
[8] See, Bhadantácariya Buddhaghosa, Visud-
dhi Magga, Bhikkhu Náóamoli (tran.s), The Path
of Purification, Buddhist Publication Socie-
ty,Columbo, 2010, p.48.
[9]Maurice Walshe, (trans.), Dīgha nikāya,
The Long Discourses of the Buddha, Wisdom
publication, Boston, 2012, p. 234.
[10] Vinaya Pitaka, The Basket of the Disci-
pline, http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/vin/
index.html, 27/09/2016, at 1 pm.
[11]Vinayapitake Mahāvaggapāli, vol.1, Sri
Lanka: Buddhist Cultural Centre, 2009, p.245.
[12] Samantapàsàdikà Nàma Vinayatthakathà
Hán dịch: Tăng-già-bạt-đà-la Sanghabhadra)Việt
dịch: Tỳ kheo Tâm-Hạnh (Caràna-citto Bhikkhu)
Phật Lịch 2543 (1999), p. 128.
[13] Jotiya Dhirasekera, (ed), Buddhist mo-
nastic discipline : a study of its origin and devel-
opment in relation to the Sutta and Vinaya Pitakas,
Sri Lanka: Colombo, 1982,
[14]Bhikkhu Khantipālo, The Buddhist
Monk’s Discipline, Some Points Explained for
Laypeople, Buddhist Publication Society, Kan-
dySri Lanka, 2008, p. 10.
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 43
CHÁNH NIỆM LÀ GÌ?
“Chánh niệm là tỉnh giác, mục đích tập trung
vào hiện tiền và không phán đoán.”
Học tập và tu chánh niệm thường xuyên là
một trong những quà tặng sâu sắc nhất chúng ta có
thể tự ban cho mình.
Chúng ta vẫn sống với những chi tiết thường
tình trong đời, nhưng khác xa ở chỗ tỉnh giác
chánh niệm khi chúng ta mang
động tác đánh răng, nấu ăn bữa tối,
lúc dùng bữa, lúc tắm gội.
Chánh niệm có nghĩa là chú ý
trong giây phút hiện tại và không
phán xét và biết chấp nhận thực tại.
Chánh niệm là một nghệ thuật
sống Tỉnh Giác.
“Chánh niệm là khi nói biết
mình đang nói gì, khi nghĩ biết
mình đang nghĩ gì, và khi làm biết
mình đang làm gì”.
Chư tổ: “Bất phạ niệm khởi, duy chủng giác
trì”, nghĩa là không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác
chậm.
PHÁP BẢO ĐÀN
Đối trong tất cả thời mỗi niệm tự thấy, muôn
pháp đều không kẹt.
“Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp mà
tâm không nhiễm trước ấy là vô niệm, dụng tức
khắp tất cả chỗ, cũng không dính mắc tất cả chỗ.”
Nếu nói chấp tịnh, tánh người vốn là tịnh, bởi
vì vọng niệm che đậy chân như, chỉ không có
vọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh. Khởi tâm chấp
tịnh trở lại sanh ra cái tịnh vọng.
TẠI SAO PHẢI THỰC HÀNH?
Giảm căng thẳng
Điều phục cơn đau
Giảm phản ứng: Bằng cách nuôi dưỡng tỉnh
giác ẩn sau sự suy nghĩ của chúng ta, dần dần
chúng ta bắt đầu nhận ra niệm tưởng không phải là
mình.
Khi không còn đồng hóa với niệm tưởng của
mình, chúng ta có nhiều không gian xung quanh
thái độ chúng ta đối phó với nhiều người và tình
huống khác nhau; do đó có thể
chúng ta không tức giận hoặc
phản ứng nhanh chóng.
Tăng trưởng lòng từ bi:
Giảm trò chuyện với niệm tưởng
tiêu cực và lo sợ
Tạo điều kiện cho ý chí và lòng
khuất phục được thong dong
Đặc tính mềm dẻo của não bộ:
Duy trì Thiền tập lâu bền sẽ dẫn
đến não bộ mềm dẻo, được định
nghĩa là khả năng chuyển hóa,
theo cấu trúc và chức năng, dựa
trên sự nhập liệu môi trường.
Giữ trí óc chúng ta khỏe mạnh: Sự nghiên
cứu cho thấy những người tu thiền có vỏ não dày
hơn so với những người không tu. Điều này có
nghĩa não bộ của họ già chậm hơn. Độ dày vỏ não
cũng liên quan đến việc ra quyết định, chú tâm và
ghi nhớ.
Lợi ích vật chất: Giấc ngủ được cải thiện và
hạ huyết áp.
LUYỆN TẬP 7 PHÚT
Pháp tu này có thể thực hành bất cứ nơi nào,
bất cứ lúc nào trong ngày. Nếu ở sở làm, chỉ cần
đóng cửa phòng riêng, hoặc tìm một phòng họp,
nơi bạn có thể ngồi yên tĩnh trong bảy phút.
Thuần Bạch
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 44
Hoặc nếu đó là một ngày đẹp trời ngoài
đường, có một công viên bạn có thể ngồi nơi nào
cảm thấy ngồi được mắt khép lại? Có thể đặt nút
cắm điện thoại di động vào tai giả vờ như đang
nghe nhạc. Nếu đang ở nhà, hãy tìm một nơi thoải
mái để ngồi. Cố đảm bảo bạn sẽ không bị quấy
rầy.
Ngồi như thế nào bạn cảm thấy thư giãn và
thẳng đứng, ở vị thế vững chãi nhưng không cứng
ngắt. Đôi mắt nhắm lại, bàn chân đặt trên mặt nền
hoặc ngồi tréo chân, lưng thẳng tắp với cổ, cằm
hơi nghiêng xuống, đỉnh đầu sẽ
ngước cao và xương sống thẳng
đứng, và hai bàn tay nằm trên lòng;
mang tỉnh giác vào hơi thở.
Bạn sẽ lợi lạc chỉ trong 7 phút
tọa thiền, nhưng bạn sẽ thấy lợi ích
hơn với 20 phút mỗi ngày. Trong
cả hai trường hợp, 7 phút mỗi ngày
tốt hơn một giờ mỗi tháng. Tu tập
chánh niệm hằng ngày là tốt nhất.
LUYỆN TẬP ĐI BỘ 7 PHÚT
Bắt đầu khởi động: đứng dạng hai chân. Đầu
gối chùn xuống một chút, và đưa sự chú tâm đến
đan điền – trung tâm năng lượng – là khoảng cách
hai hoặc ba ngón tay dưới rốn, và ngay giữa chiều
ngang cơ thể.
Và có lúc bạn sẽ nhận thấy niệm tưởng của
mình bắt đầu đi lang thang. Hãy nói với chính
mình bằng lòng từ và bi mẫn, “Ồ, ý nghĩa của tôi
lang thang, tôi mang sự chú tâm trở lại vào đan
điền và thời điểm hiện tại”.
Bạn chỉ cần đi lòng vòng trong phòng, hoặc
nếu đi ra ngoài, hãy theo kế hoạch đã soạn, vì vậy
bạn không cần phải nghĩ đến bất cứ điều gì khác
khi thiền hành.
ĂN TRONG CHÁNH NIỆM 7 PHÚT
Đôi chi chúng ta chỉ cần lấy bất cứ thứ gì
chúng ta có thể tìm thấy để ăn và nhai thường nuốt
ngấu nghiến mà không hề ý thức món gì chúng ta
đang ăn.
Để thực hành chánh niệm trong khi ăn, hãy
thử tu chánh niệm theo Phật giáo khi ăn một quả
nho khô và tưởng tượng rằng bạn chưa bao giờ
thấy hoặc nếm thử bất cứ thứ gì giống như thế
trước đây. Giữ quả nho trong tay, và ghi nhận kích
thước, màu sắc, hình dạng, trọng lượng, kết cấu.
Mất khoảng 7 phút để sử dụng mỗi một trong
những giác quan của bạn; quả nho chi tiết trong
như thế nào – làm thế nào bạn mô tả cho một
người mù chưa bao giờ thấy một trái nho khô?
Làm thế nào quả nho có âm thanh nếu bạn
chà bóp giữa ngón cái và ngón khác để gần lỗ tai
bạn? Nho có mùi gì nếu chẻ ra? Chạm vào nho
cảm giác thế nào – dùng từ nào để
mô tả kết cấu của nho? Tất cả
những gì bạn có thể đánh giác cao
sau khi ăn nho khô thiêng liêng?
Hãy sáng tạo – tác động vào bán
cầu não phải của bạn và ghi nhận
những điều về nho khô mà bạn
chưa bao giờ nhận thấy trước đây.
Khi bạn ăn nho, chỉ cần cắn rứt ra
một chút và cuộn quanh miệng khi
nhai, thưởng thức càng nhiều càng
tốt, trong khi bạn liên tục chú tâm
thế nào để hiểu rõ giá trị của nho khô.
Hãy thưởng thức mỗi lần cắn, mỗi lần nhai,
cảm giác của nho trong miệng, mùi vị từng miếng,
cảm giác trên lưỡi, màu sắc, kết cấu, bạn có thể
ngửi thấy?
CHỜ ĐỢI CHÁNH NIỆM 7 PHÚT
(HOẶC ÍT HƠN)
Vốn là người thiếu kiên nhẫn, khi tôi đọc về
pháp tu này, như thể một bóng đèn tiếp tục sáng.
Có cơ may nào để thực tập chánh niệm trong bất
kể khoảng thời gian, tốt hơn lúc chúng ta chờ đời
– vì bất cứ việc gì.
Ví dụ, chờ máy tính đang tải, chờ tắt chương
trình phần mềm, đứng chờ khi xếp hàng, ngồi chờ
khi kẹt xe.
Lợi dụng cơ hội để chú tâm vào hơi thở của
bạn, và thực tập chánh niệm ngắn. Hãy hiện diện ở
đây trọn vẹn trong khoảnh khắc hiện tại ngay bây
giờ, hít vào và thở ra. Chỉ cần đơn giản trải
nghiệm khoảnh khắc, mà không cảm thấy sốt ruột
chờ sự việc tiếp theo xảy ra. Hãy tin tôi, tôi biết
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 45
điều này rất dễ viết, nhưng phải mất cả cuộc
đời mới có thể thực hành được.
THIỀN LẮNG NGHE
Tập trung sự chú ý của bạn vào cảm giác hơi
thở, hãy theo dõi hơi thở trong ít phút. Rồi đưa sự
chú tâm từ hơi thở tới lắng nghe những tiếng động
chung quanh.
Vài tiếng ở gần, vài tiếng ở xa; có âm thanh
bạn thích nghe (như tiếng phan linh, một đoạn âm
nhạc), có âm thanh bạn không thích (tiếng còi xe
hụ, tiếng máy khoan điện, tiếng tranh cãi trên
đường phố). Trong bất cứ trường hợp nào, chúng
chỉ đơn thuần là những tiếng động khởi lên và qua
đi. Dù êm dịu hay chói tai, bạn ghi nhận tiếng
động và buông xả.
Bạn không phải làm gì về những tiếng động
này; bạn có thể nghe mà không phải cố gắng gì cả.
Bạn không cần phản ứng lại (trừ khi đó là còi báo
động lửa cháy, hay là con của bạn đang khóc);
không cần phán đoán, tìm cách điều khiển, hay
ngăn cản. Bạn cũng không cần hiểu hay cố đặt tên.
Hãy để ý xem có phải bạn chỉ nghe tiếng
động mà không cần đặt tên hay giải thích. Hãy chú
ý đến cường độ hay âm lượng khi tiếng động đi
qua bạn, không bị trở ngại, không bị phán đoán –
chỉ khởi lên và chìm xuống, khởi lên và chìm
xuống.
Nếu bạn thấy mình đang co rút lại vì một
tiếng động hay ước mong nó qua đi, hãy ghi nhận
điều đó và để ý xem bạn có thể có mặt cùng với nó
một cách kiên nhẫn và cởi mở không. Hãy giữ
thân bạn được thư giãn. Nếu tiếng động làm bạn
bực mình, hãy trở về với việc theo dõi hơi thở
trong ít phút. Đừng cố gắng lắng nghe, chỉ sẵn
sang để nghe tiếng động kế tiếp.
Nếu bạn thấy mình ham muốn nghe them, hãy
thở một hơi sâu và thư giãn. Hãy chỉ đơn thuần
ghi nhận có một tiếng động khởi lên, rồi bạn có
phản ứng lại, và có một khoảng cách giữa hai sự
kiện. Hãy sẵn sàng nghe tiếng động kế tiếp, biết
tiếng động tiếp tục đến và đi, ngoài tầm kiểm soát
của ta.
Nếu bạn thấy căng thẳng khi phản ứng với
tiếng động, hãy thở sâu và thư giãn, nên dùng cách
nào hiệu nghiệm đối với bạn; có thể hướng hơi thở
đến vùng nào căng thẳng trong cơ thể. Hay nếu có
thể, vào bất cứ nơi nào, hãy trở về với hơi thở như
cắm dây neo, như là một điều nhắc nhở để thư
giãn rộng rãi một cách dễ dàng.
Nếu niệm tưởng dấy lên, hãy ghi nhận và để
đi qua. Bạn đừng thêm thắt. Tất cả những điều bạn
phải làm là nghe. Tất cả những điều bạn phải làm
là có mặt.
Thực tập lắng nghe là tỉnh giác về tiếng động
khi nó khởi lên, dừng trụ, và lặn mất. Lắng nghe
tinh thuần và sáng rõ, không bị tô vẽ thêm với bất
cứ thứ gì.
Không đánh giá khi chúng ta lắng nghe,
không phân tích nội dung đang nghe hãy những gì
xuất hiện trong tâm thức của chúng ta, chúng ta
tiếp tục trở lại việc lắng nghe.
Trở lại lắng nghe là trở về với thực tại hiện
tiền. Không quẹo trái, không rẽ mặt, không đi tới,
không bước lui, chỉ lắng nghe tròn đầy từng giây
phút. Người ta chỉ có thể lắng nghe ngay bây giờ.
Chúng ta không thể lắng nghe quá khứ; chúng ta
không thể lắng nghe tương lai; chúng ta không thể
lắng nghe hiện tại. Lắng nghe là một hiện trạng
từng phút giây này tới phút giây kia, không tùy
thuộc vào thời gian hay sự suy nghĩ.
Đừng đánh giá, đừng chỉ biết về mình. Hãy
lắng nghe.
Thuần Bạch biên soạn
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 46
“Ở đây không sầu muộn” (Idam anupaddu-
tam) là lời khẳng quyết được Đức Phật dùng để
thức tỉnh cho Yasa ra khỏi mê lầm khổ đau, khi
chàng thanh niên lịch thiệp xứ Barànàsì này rơi
vào tâm lý chán ngán sự đời bởi lối sống tù túng tẻ
nhạt của thế giới dục lạc. Tài liệu Mahàvagga
thuộc Luật tạng Pàli cho biết Yasa là con trai một
gia đình nhân sĩ giàu có ở cổ thành
Barànàsì, có đời sống phong lưu,
giao thiệp rộng rãi với mọi người
và có uy tín lớn đối với bạn bè.
Yasa sở hữu ba tòa lâu đài thích
hợp với ba mùa thời tiết khác nhau
ở Ấn Độ. Dinh thự của ông thường
xuyên đón tiếp nhiều khách quý
đến viếng thăm và tham dự yến
tiệc. Mặc dù sống trong cảnh giàu sang tràn đầy
lạc thú, Yasa có đời sống tâm linh tiến triển vượt
trội.
Chuyện thuật rằng hôm ấy sau khi nhìn thấy
các ca kỹ và vũ nữ nằm ngủ la liệt trên sàn sảnh
sau cuộc yến tiệc linh đình trông như những thây
chết, công tử Yasa chán ngán cảnh đời hư huyễn,
rời khỏi dinh thự bỏ đi lang thang ngoài đường,
vừa đi vừa lẩm bẩm: “Ôi sầu khổ thay; ôi nguy
hiểm thay!”. Gặp Đức Phật ở vườn Nai với lời
tuyên bố: “Ở đây không có sầu muộn; ở đây không
có nguy hiểm”1 , Yasa bừng tỉnh và lặng lẽ ngồi
xuống nghe bậc Đạo sư thuyết pháp. Nghe xong,
Yasa cầu xin Đức Thế Tôn cho mình được xuất
gia tu đạo giải thoát và sau đó trở thành vị A-la-
hán, một con người hoàn toàn thức tỉnh, không
còn bị sầu khổ chi phối.
Đức Phật đã thức tỉnh cho Yasa ra khỏi tâm lý
sầu muộn luẩn quẩn với lời khẳng quyết về con
đường đi ra khỏi sầu khổ. Một tâm hồn bí lối về tự
do nhanh chóng tìm thấy chân lý giải thoát. “Ở
đây không có sầu muộn” chính là thông điệp thức
tỉnh, là cánh cửa giải thoát Đức Phật đã mở ra
đúng lúc cho Yasa kết thúc chuỗi mê lầm sầu
muộn bất tận.
Yasa sống trong thế giới dục vọng, thụ hưởng
dục lạc, tìm thấy vị ngọt (assàda) trong các dục,
nhận ra sự nguy hiểm (àdìnàva) của các dục nhưng
chưa biết đến sự xuất ly (nissarana) dục vọng.
Yasa bị chìm đắm trong cảnh giới dục lạc bất chợt
nhận ra sự nguy hiểm của các dục thì liền ngao
ngán và lo sợ về thế giới dục vọng. Yasa bắt đầu
tỉnh ra “các dục là vô thường,
trống rỗng, giả dối, thuộc ngu si
tánh”2 , nhưng không biết cách
nào thoát ly chúng. Mâu thuẫn
này xảy ra khiến cho ông trở nên
hoang mang rối loạn, bỏ đi lang
thang ngoài đường với những lời
nói gần như mê sảng. Lịch sử
nhân loại cũng cho thấy mâu
thuẫn tương tự từng xảy ra khiến cho một số người
rơi vào bế tắc, thậm chí dẫn đến bi kịch. May mắn
cho Yasa khi ông gần như lâm vào đường cùng thì
được Đức Phật cứu độ. Lời khẳng quyết của đấng
Giác ngộ đã đánh thức Yasa ra khỏi cơn mê sầu
muộn.
Đáng chú ý rằng Đức Phật từng rơi vào hoàn
cảnh giống như Yasa, nghĩa là bị giam hãm trong
thế giới dục lạc với nỗi ray rứt về con đường xuất
ly3 . Tài liệu kinh Tương ưng bộ cho biết trước khi
xuất gia tìm cầu chân lý giải thoát, Siddhattha từng
trăn trở: “Thật sự thế giới này bị hãm trong khổ
não, bị sanh, bị già, bị chết, bị đoạn diệt và bị tái
sanh; và từ nơi đau khổ này, không biết sự xuất ly,
thoát khỏi già chết; từ nơi đau khổ này, không biết
khi nào được biết đến sự xuất ly già chết?”4 . Rồi
Ngài quyết tâm xuất gia tìm kiếm chân lý giải
thoát và đã đạt đến hoàn toàn tỉnh thức, trở thành
bậc Giác ngộ, chấm dứt cơn mê sinh tử luân hồi.
Ngài ngộ ra rằng hết thảy mọi thứ làm cho con
người thích thú hay sầu muộn đều là hiện tượng
tương sinh tương diệt, giả hợp, hư huyễn, không
thực thể, không tồn tại mãi. Cái vui cái buồn của
con người do đó cũng là hiện tượng tương liên
sinh diệt, giả hợp, hư huyễn, không thực thể,
ÔÛ ÑAÂY KHOÂNG SAÀU MUOÄN
Nguyên Nhã
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 47
không tồn tại mãi. Chỉ do con người không nhận
ra bản chất sanh diệt hư huyễn của chúng nên mới
rơi vào ái luyến chấp trước mọi thứ, tự ôm ấp sầu
muộn, tự mời gọi khổ đau. Đức Phật đã hoàn toàn
tỉnh ra cơn mê sầu muộn này khi Ngài nhìn sâu
vào nỗi khổ sanh, già, chết của kiếp nhân sinh và
phát hiện ra bản chất hư huyễn, trống không,
không thực thể của chúng; tất cả chỉ là duyên sanh
và duyên diệt, giả hợp, không ngã tính, không
thường hằng, không tồn tại mãi. Ngài sống với cái
tâm thoát ly mọi nương tựa và bám víu, không
duyên theo sự sanh diệt của các
hiện tượng để tự mời gọi chuỗi
sầu muộn luẩn quẩn. Ngài đã
hoàn toàn giải thoát, bặt dứt mọi
ý niệm có-không, hơn-thua, được
-mất, vui-buồn. Có vị chư Thiên
đến hỏi Ngài:
- Thưa Sa-môn, Ngài có hoan hỷ
không?
- Ta được cái gì, này Hiền giả, mà Ta hoan hỷ?
- Nếu vậy, thưa Sa-môn, có phải Ngài sầu muộn?
- Ta mòn mỏi cái gì, này Hiền giả, mà Ta sầu
muộn?5 .
Yasa đang ở trong tâm trạng sầu muộn đối với
thực tại đầy phiền muộn cố vùng vẫy thoát ly
nhưng không biết thế nào là lối ra. Ông chưa thấy
pháp Duyên khởi; chưa nhận ra ngũ uẩn là các
hiện tượng sanh diệt, giả hợp, không phải của
mình; chưa ngộ ra các căn-trần là trống không,
rỗng không, không thực thể. Ông bị cái “tôi” ám
ảnh nên sầu muộn sinh khởi theo những gì mắt
thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân cảm xúc,
ý nhận thức. Yasa không biết rằng sự sầu muộn và
những gì làm phát sinh sầu muộn chỉ là các hiện
tượng sanh diệt hỗ tương, không thực thể, không
tồn tại mãi, không dính dáng gì đến ông. Ông bị
cảm giác sầu muộn đeo bám vì đồng hóa cảm giác
sầu muộn ấy là của mình. Nói cách khác, ông chưa
biết thế nào là tâm giải thoát, tuệ giải thoát, theo
đó bản thân ông (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là
các hiện tượng sầu muộn nhưng tâm ông thì không
sầu muộn. Ông được Đức Phật đánh thức khỏi tâm
lý sầu muộn và bắt đầu học cách thức tỉnh để ra
khỏi sầu muộn.
Thế nào là ở đây không có sầu muộn? Đó
chính là sự khẳng quyết về pháp giải thoát do Đức
Thế Tôn chứng ngộ và tuyên thuyết, tức con
đường Thánh tám ngành hay Giới-Định-Tuệ, được
mệnh danh là pháp Bất tử (Amattadhamma), con
đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng
sinh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu
chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Pháp giải thoát của
Phật được gọi là không sầu muộn vì pháp ấy
hướng con người ra khỏi sầu muộn, thoát ly sầu
muộn, được cụ thể hóa như thế này:
Không sầu vì không làm ác
Trước hết, đặc điểm nhất quán
của pháp giải thoát do Đức Phật
tuyên thuyết là nói không với
mọi điều ác, không chấp nhận
cái ác dưới bất kỳ hình thức
nào; tựa như biển lớn không
chấp chứa xác chết, nếu có xác
chết ở trong biển lớn thì lập tức
bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền6 . Đức Phật
chứng ngộ lý nhân quả nghiệp báo nên dạy các
học trò mình tuyệt đối không làm ác, không tạo
các ác nghiệp để tránh khỏi sầu muộn khổ đau.
Ngài nhắc nhở:
Không trên trời, giữa biển,
Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp”7
“Nếu người làm điều ác,
Chớ tiếp tục làm thêm;
Chớ ưa thích điều ác,
Chứa ác, tất chịu khổ”8
“Nay sầu, đời sau sầu,
Kẻ ác, hai đời sầu;
Nó sầu, nó ưu não,
Thấy nghiệp uế mình làm9 .
Sầu muộn là cảm thọ sầu khổ phát sinh do
nhiều nguyên nhân trong đó làm ác được xem là
nguyên nhân trực tiếp tạo ra sầu muộn. Theo lời
Phật thì làm ác dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc
thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác, đều là ác
nghiệp đưa đến quả báo sầu khổ cho người tạo tác
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 48
ngay trong đời này hay ở đời sau. Chẳng hạn, Ngài
nói đến năm kết quả sầu muộn xảy ra cho người
làm ác nghiệp, theo ác giới: (1) tổn thất tài sản, (2)
tiếng xấu đồn xa, (3) lo ngại đám đông, (4) tâm
thần mê loạn khi mệnh chung, (5) đọa cõi dữ sau
khi chết10. Cụ thể hơn, người tạo ác nghiệp thì đi
đâu cũng mang theo nỗi ám ảnh nặng nề về các
nghiệp ác mà mình đã làm: “Ví như, này các Tỷ-
kheo, vào buổi chiều, những bóng các đỉnh núi
treo nằm, treo áp, treo đè trên đất; cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, khi người ngu ngồi trên ghế, hay
ngồi trên giường, hay nằm dưới đất, trong khi ấy
các nghiệp quá khứ của người ấy,
tức là thân ác hành, khẩu ác
hành, ý ác hành, treo nằm, treo
áp, treo đè trên người ấy. Ở đây,
này các Tỷ-kheo, người ngu suy
nghĩ như sau: ‘Thật sự ta không
làm điều phước, không làm điều
thiện, không làm điều chống lại sợ
hãi, lại làm điều ác, lại làm điều hung bạo, lại làm
điều tội lỗi. Do không làm điều phước, không làm
điều thiện, không làm điều chống lại sợ hãi, do
làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều tội lỗi
nên phải đi đến ác thú; ác thú ấy sau khi chết ta
phải đi’. Người ấy sầu muộn, than van, than khóc,
đấm ngực, rên la và rơi vào bất tỉnh”11.
Khác với quả báo sầu muộn do duyên ác
nghiệp, người sống theo pháp giải thoát hiền thiện
của Phật - thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ
thiện - nhận được những kết quả lợi lạc do lối
sống làm thiện, không làm ác, của mình. Người đó
(1) không tổn thất tài sản, (2) được tiếng lành đồn
xa, (3) tự tin khi ở giữa đám đông, (4) tinh thần
minh mẫn, không mê ám khi mệnh chung, (5) sau
khi chết được sanh các cõi lành12. Trong đời sống
hàng ngày, vị ấy cảm nhận sự thanh thản an lạc
nhờ lối sống làm thiện, không làm ác, của mình:
“Ví như, này các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, những
bóng các đỉnh núi treo nằm, treo áp, treo đè trên
đất; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi người trí ngồi
trên ghế hay ngồi trên giường, hay nằm dưới đất,
trong khi ấy các nghiệp quá khứ của người ấy, tức
là thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành,
treo nằm, treo áp, treo đè trên người ấy. Ở đây,
này các Tỷ-kheo, người trí suy nghĩ như sau: ‘Thật
sự ta không làm điều ác, không làm điều hung
bạo, không làm điều tội lỗi, lại làm điều phước,
làm điều thiện, làm điều chống sợ hãi. Do không
làm điều ác, không làm điều hung bạo, không làm
điều tội lỗi, do làm điều phước, làm điều thiện,
làm điều chống sợ hãi, được đi đến thiện thú nào,
thiện thú ấy sau khi chết, ta được đi’. Vị ấy không
sầu muộn, không than van, không than khóc,
không đấm ngực, không rên la và không rơi vào
bất tỉnh”13.
Không sầu vì biết đủ đối với cuộc đời
Một phương pháp khác của đạo
Phật giúp cho con người thoát
khỏi sầu muộn là học cách đối
diện thanh thản với thực tại sầu
muộn của hiện hữu, gọi là biết đủ
đối với cuộc đời. Biết đủ tức là
biết rõ giới hạn của cuộc đời,
hiểu rõ quy luật có sanh tức có
diệt của mọi hiện hữu, tin tưởng
vững chắc vào lẽ sống giác ngộ hiền thiện, không
lo âu sầu muộn khi đối mặt với thực tại bất như ý
xảy đến với mình. Đức Phật đến với thế gian này
không phải để thay đổi quy luật sanh diệt bất như
ý của cuộc đời; Ngài đến để thức tỉnh cho mọi
người về sự thật biến hoại không thể tránh của
kiếp nhân sinh, giúp cho con người biết cách thanh
thản đón nhận mọi biến cố phiền muộn xảy ra liên
quan đến bản thân mình. Ngài nói rõ quy luật sanh
diệt của hiện hữu và nêu ra hai hạng người, kẻ vô
văn phàm phu và vị đa văn Thánh đệ tử, để nhấn
mạnh tầm quan trọng của lẽ sống sáng suốt, có trí
tuệ, biết nhổ bỏ các mũi tên sầu muộn ra khỏi đời
mình
Ngài thuyết giảng:
“Này các Tỷ-kheo, có năm sự kiện này không
thể có được bởi Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma
hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời. Thế nào là
năm?
Phải bị già, muốn khỏi già, là một sự kiện
không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà-la-
môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở
đời. Phải bị bệnh, muốn khỏi bệnh, là một sự kiện
không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà-la-
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 49
môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở
đời. Phải bị chết, muốn khỏi chết, là một sự kiện
không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà-la-
môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở
đời. Phải bị hoại diệt, muốn khỏi hoại diệt, là một
sự kiện không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà
-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở
đời. Phải bị tiêu diệt, muốn khỏi tiêu diệt, là một
sự kiện không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà
-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở
đời.
Với kẻ phàm phu không học, này các Tỷ-kheo,
phải bị già và già đến; khi già đến, kẻ ấy không
suy tư: ‘Không phải chỉ một mình ta
phải bị già và già đến, nhưng đối
với loài hữu tình, có đến, có đi, có
diệt, có sanh, tất cả loài hữu tình
đều phải bị già và già đến. Và nếu
phải bị già và khi già đến, ta lại sầu,
bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất
tỉnh, thời ăn uống không làm ta ưa
thích, thân ta trở thành xấu xí; các
công việc không có xúc tiến; kẻ thù
sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn’. Kẻ
ấy phải bị già, khi già đến, sầu, bi, than khóc, đập
ngực, đi đến bất tỉnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, với kẻ phàm phu,
không học phải bị bệnh và bệnh đến… phải bị chết
và chết đến… phải bị hoại diệt và hoại diệt đến…
phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến; khi tiêu diệt đến,
kẻ ấy không suy tư: ‘Không phải chỉ một mình ta
bị tiêu diệt và tiêu diệt đến, nhưng đối với các loài
hữu tình, có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả loài
hữu tình đều phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến. Và
nếu phải bị tiêu diệt, và khi tiêu diệt đến, ta lại
sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời
ăn uống không làm ta ưa thích; thân ta trở thành
xấu xí; công việc không có xúc tiến, kẻ thù sẽ hoan
hỷ, bạn bè sẽ lo buồn’. Kẻ ấy phải bị tiêu diệt, khi
tiêu diệt đến, sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến
bất tỉnh.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kẻ phàm phu
không học, bị mũi tên sầu muộn tẩm thuốc độc bắn
trúng, kẻ ấy tự làm mình ưu não.
Với vị Thánh đệ tử có học, này các Tỷ-kheo,
phải bị già và già đến; khi già đến, vị ấy suy tư
như sau: ‘Không phải chỉ một mình ta phải bị già
và già đến. Nhưng đối với các loài hữu tình, có
đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả các loài hữu
tình đều phải bị già, và già đến. Và nếu phải bị già
và già đến, ta lại sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi
đến bất tỉnh, thời ăn uống không làm ta ưa thích,
thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có
xúc tiến; kẻ thù sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn’. Vị
ấy phải bị già, khi già đến, không sầu, không bi,
không than khóc, không đập ngực, không đi đến
bất tỉnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, với vị
Thánh đệ tử có học phải bị bệnh và
bệnh đến… phải bị chết và chết
đến… phải bị hoại diệt và hoại diệt
đến… phải bị tiêu diệt và tiêu diệt
đến; khi tiêu diệt đến, vị ấy suy tư
như sau: ‘Không phải chỉ một mình
ta phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến.
Nhưng đối với các loài hữu tình, có
đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả
các loài hữu tình đều phải bị tiêu
diệt và tiêu diệt đến. Và nếu phải bị tiêu diệt, và
khi tiêu diệt đến, ta lại sầu, bi, than khóc, đập
ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống không làm ta
ưa thích, thân ta trở thành xấu xí; các công việc
không có xúc tiến; kẻ thù sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo
buồn’. Vị ấy phải bị tiêu diệt, khi tiêu diệt đến,
không sầu, không bi, không than khóc, không đập
ngực, không đi đến bất tỉnh.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là vị Thánh đệ tử có
học, được nhổ lên là mũi tên sầu muộn có tẩm
thuốc độc mà kẻ phàm phu không học bị bắn
trúng, tự mình làm ưu não. Không sầu muộn,
không bị bắn tên, vị Thánh đệ tử làm cho chính
mình được hoàn toàn tịch tịnh”14.
Như vậy, kẻ vô văn phàm phu, do không có
cơ duyên học Phật, không trang bị cho mình một
tri kiến vững chắc về bản chất giới hạn và bất an
của hiện hữu, sống theo tập quán tham ái và chấp
thủ, tự để cho mình rơi vào lo âu sầu muộn khi đối
diện với thực tại sanh diệt biến hoại của cuộc đời.
Trái lại, vị đa văn Thánh đệ tử, nhờ nghe pháp giải
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 50
thoát của Phật, hiểu rõ tính chất hữu hạn và bất
toàn của sự kiện hiện hữu, chấp trì lối sống biết đủ
đối với mọi giới hạn của cuộc đời, tự giải thoát
mình khỏi lo âu sầu muộn khi đối mặt với hiện
thực bất như ý của hiện hữu.
Không sầu vì ngộ ra tính chất hư huyễn,
không thực, của sầu muộn
Một phương pháp thực tập khác nhanh chóng
xua tan cảm giác sầu muộn của con người là vận
dụng tâm định tĩnh nhìn thẳng vào hiện trạng sầu
muộn và nhận ra tính chất hư huyễn của nó. Đây
gọi là sống với tâm giải thoát ngay trong hiện tại,
tức quán sát hiện tượng sầu muộn đang xảy ra với
một tâm thức hoàn toàn tỉnh táo và sáng suốt, thấy
rõ bản chất chuyển biến sanh diệt của sầu muộn,
không đồng hóa cảm giác sầu muộn là “ta” hay
“của ta”, tâm tư đạt đến tịch tĩnh, không có bóng
dáng sầu muộn. Nói cách khác, đó là tiếng nói của
tâm giải thoát, tuệ giải thoát được hiển lộ trên cơ
sở hành sâu Thiền định, chỉ (samatha) và quán
(vipassanà), với các hiện tượng thân, thọ, tâm,
pháp hay ngũ uẩn làm đối tượng quán sát. Khi
hành giả Niệm xứ tập trung nhìn sâu vào các hiện
pháp với tâm định tĩnh thì bấy giờ các pháp ấy
hiện rõ là các hiện tượng giả hợp, do nhân duyên
sanh, trống không, không thực thể, thay đổi, biến
hoại, không có gì đáng được xem là “ta” hay “của
ta”. Đây chính là sự thấy biết như thật
(yathàbhùtam pajànàti) đưa đến tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, tức tuệ tri các pháp hay các hiện tượng
có mặt là hoàn toàn do nhân duyên, thường xuyên
thay đổi, không thực thể, không tồn tại măi, không
phải của mnh. Đạo Phật gọi phương pháp tu tập
như vậy là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh
cho chúng sanh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu,
thành tựu chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức thực
chứng tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngộ ra có hiện
tượng sầu muộn xảy ra do nhân duyên nhưng
không có người sầu muộn.
Đáng chú ý rằng sầu muộn chỉ là một loại
cảm thọ phát sinh do duyên sự xúc chạm giữa các
căn và các trần. Đó là một dạng tâm thức khó chịu
khởi lên do sự cố này hay sự cố khác xảy ra gắn
liền với đời sống của con người15. Rõ ràng, không
ai muốn sầu muộn nhưng sầu muộn vẫn cứ xảy ra,
vì không ai tránh được các sự cố phiền toái già,
bệnh, chết của kiếp nhân sinh. Vấn đề là làm sao
thoát ly được sầu muộn ở trong một thế giới vốn
thuộc bản chất sầu muộn như thế. Ở đây, câu
chuyện Thế Tôn giáo giới cho gia chủ Nakulapità
và sự cắt nghĩa của Tôn giả Sàriputta về lời khẳng
định “thân có bệnh nhưng tâm không bệnh” của
đấng Giác ngộ cho chúng ta một chỉ dẫn quan
trọng về phương pháp thoát ly sầu muộn. Chuyện
kể như vầy:
Hôm ấy, gia chủ Nakulapità tuổi đã lớn đi đến
yết kiến Thế Tôn và thưa:
- Bạch Thế Tôn, con đã già, tuổi lớn, trưởng
lão, cao niên, đã đạt đến tuổi thọ, thân bệnh hoạn,
luôn luôn ốm đau. Bạch Thế Tôn, con không được
thường thấy Thế Tôn và các vị Tỷ-kheo đáng kính.
Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn hãy giáo giới cho
con! Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn hãy giảng dạy
cho con! Nhờ vậy, con được hạnh phúc, an lạc lâu
dài.
- Thật sự là vậy, này Gia chủ. Thật sự là vậy,
này Gia chủ. Thân của Gia chủ, này Gia chủ, là
bệnh hoạn, ốm đau, bị nhiễm ô che đậy. Ai mang
cái thân này, này Gia chủ, lại tự cho là không
bệnh, dầu chỉ trong một giây phút; người ấy phải
là người ngu! Do vậy, này Gia chủ, Gia chủ cần
phải học tập như sau: ‘Dầu cho thân tôi có bệnh,
tâm sẽ không bị bệnh’. Như vậy, này Gia chủ, Gia
chủ cần phải học tập.
Rồi gia chủ Nakulapita sau khi hoan hỷ, tín
thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, đi đến Tôn
giả Sariputta; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Sari-
putta rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Sariputta
nói với gia chủ Nakulapita đang ngồi một bên: …
- Thế nào, này Gia chủ, là thân bệnh và tâm
bệnh?
Ở đây, này Gia chủ, có kẻ vô văn phàm phu
không thân cận các bậc Thánh, không thuần thục
pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc
Thánh, không thấy rõ các bậc Chân nhân, không
thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập
pháp các bậc Chân nhân, quán sắc như là tự ngã,
hay tự ngã như là có sắc, hay sắc ở trong tự ngã,
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 51
hay tự ngã ở trong sắc. Vị ấy bị ám ảnh: ‘Sắc là
ta, sắc là của ta’. Do bị ám ảnh: ;Sắc là ta, sắc là
của ta!’ nên khi sắc biến hoại, đổi khác, vị ấy khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, não! Vị ấy quán thọ như là tự
ngã…
Vị ấy quán tưởng như là tự ngã… Vị ấy quán
các hành như là tự ngã… Vị ấy quán thức như là
tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay thức ở
trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Vị ấy bị ám
ảnh: ‘Thức là ta, thức là của ta’. Do bị ám ảnh:
‘Thức là ta, thức là của ta!’ nên khi thức biến
hoại, đổi khác, vị ấy khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!
Như vậy, này Gia chủ, là thân có bệnh và tâm
có bệnh.
Thế nào, này Gia chủ, là thân có bệnh nhưng
tâm không có bệnh?
Ở đây, này Gia chủ, vị đa văn Thánh đệ tử
thân cận các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc
Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, hiểu rõ các
bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân
nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, không quán
sắc như là tự ngã, hay tự ngã như là có sắc, hay
sắc ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong sắc. Vị ấy
không bị ám ảnh: ‘Sắc là ta, sắc là của ta’. Do vị
ấy không bị ám ảnh: ‘Sắc là ta, sắc là của ta’ nên
khi sắc biến hoại, đổi khác, không khởi lên sầu, bi,
khổ, ưu, não!
Vị ấy không quán thọ như là tự ngã… Vị ấy
không quán tưởng như là tự ngã… Vị ấy không
quán các hành như là tự ngã… Vị ấy không quán
thức như là tự ngã, hay tự ngã như là có thức, hay
thức ở trong tự ngã, hay tự ngã ở trong thức. Vị ấy
không bị ám ảnh: ‘Thức là ta, thức là của ta’. Do
vị ấy không bị ám ảnh: ‘Thức là ta, thức là của ta’
nên khi thức biến hoại, đổi khác, không khởi lên
sầu, bi, khổ, ưu, não.
Như vậy, này Gia chủ, là thân có bệnh, nhưng
tâm không có bệnh”16.
Lời giảng giải của Thánh giả Sàriputta cho
chúng ta một chứng cứ xác thực về phương pháp
thoát ly sầu muộn. Đó là tập trung nhìn vào ngũ
uẩn và thấy rõ sắc, thọ, tưởng, hành, thức là duyên
sinh, vô ngã, không còn xem sắc, thọ, tưởng, hành,
thức là “ta” hay “của ta”. Khi sắc, thọ, tưởng,
hành, thức được thấy rõ là trống không, không
thực thể, không thuộc tự ngã thì những gì xảy ra
liên quan đến sắc, thọ, tưởng, hành, thức chỉ là các
hiện tượng hư huyễn, không thực thể, không phải
của mình. Sầu muộn là một loại cảm thọ thuộc ngũ
uẩn, do duyên sinh, chịu sự thay đổi, biến hoại,
không thực thể, vô ngã. Nó là một hiện tượng tâm
thức do duyên sinh và do duyên diệt, không phải
của ai, không dính dáng đến người nào. Thiếu hiểu
biết, thiếu tu tập mà rơi vào chấp trước sầu muộn,
cho rằng cảm thọ ấy là của mình tức là tự mời gọi
khổ đau. Có hiểu biết và có tu tập thì không chấp
trước sầu muộn, không xem cảm giác sầu muộn là
của mình tức là thoát ly khổ đau. Đó là thông điệp
giải thoát mà Thế Tôn đã đem đến cho thế gian
này, một thông điệp nói rõ có sự kiện sầu muộn
phát sinh do ngã chấp nhưng sầu muộn ấy sẽ chấm
dứt nhờ biết buông bỏ ngã tưởng. “Ở đây, không
sầu muộn”, tức có sự kiện sầu muộn xảy ra nhưng
không có người sầu muộn là thế.
_________
Chú thích:
1. Vinaya Pitakam, Vol. I, tr.15.
2. Kinh Lợi ích bất động, Trung bộ.
3. Tiểu kinh Khổ uẩn, kinh Màgandiya, Trung bộ.
4. Kinh Thành ấp, Tương ưng bộ.
5. Kinh Kakudha, Tương ưng bộ.
6. Kinh A-tu-la Pahàraha, Tăng chi bộ.
7. Kinh Pháp cú, kệ số 127.
8. Kinh Pháp cú, kệ số 117.
9. Kinh Pháp cú, kệ số 15.
10&12. Kinh Ác giới, Phá giới, Tăng chi bộ.
11&13. Kinh Hiền ngu, Trung bộ.
14. Kinh Sự kiện không thể có được, Tăng chi bộ.
15. Kinh Phân biệt sự thật, Trung bộ. Kinh Nakulapità,
16. Tương ưng bộ
Nguyên Nhã
Văn Hóa Phật Giáo
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 52
LTS: Phàm làm người, khó có ai chưa nắm
mà buông. Nhưng không phải thế mà ta học
nắm lấy nó rồi buông bỏ, việc đó tạo thành một
vòng luẩn quẩn của đời người.
Cái cốt là để lại, ở nơi mà chúng ta đi qua rất
ngắn ngủi đó điều gì. Không phải làm để ghi danh,
nhưng đó là sự tự nhiên đáng trân quý. Cho những
người cạnh ta, sau ta hiểu được, nhận lấy được để
cùng buông.
Tôi còn nhớ câu nói của thầy tôi, ông ấy làm
thợ đẽo cày. Từ một khúc gỗ to xù xì thành một
chiếc cày đẹp đẽ. Đó là
sự cố tình, nó xuất phát
từ ý thức con người.
Nhưng, từ ý thức đó để
hiểu ra chân lý rất…
chân phương: “Có gọt
bớt khúc gỗ mới thành
cày. Những mạt gỗ cũng
nhẹ nhàng hơn khi tách
ra từ khúc gỗ làm nên
chiếc cày. Cả hai đều nhẹ
nhàng”. Lúc đó, tôi còn nhỏ lắm. Cứ rối rắm khi
nghe câu nói này, lớn lên chút thầm nghĩ ra, giờ
mới thấm thía điều đó.
Mọi cái không thể tự nhiên, phải cần đến bàn
tay và khối óc của con người. Buông cũng thế, nó
cần có ý thức. Mà “lượng” ý thức này cũng như
mạt gỗ, nhỏ vừa đủ để nhẹ nhàng. Còn nếu quyết
tâm buông, lúc đó ta lại vướng nó vào lòng, càng
đục khoét thêm những gì ta muốn buông bỏ.
Buông bỏ là nhận lại. Và khi buông, ta nắm được
cái vô cùng quý giá, đó là sự nhẹ nhàng.
Nếu con người không có tình yêu, sẽ không
có sự bao dung và tha thứ. Và buông lúc này chỉ là
sự bất lực. Buông khi ta quá sức, hoặc giả không
đạt được nó nên buông tay cũng là điều chẳng nên
làm. Hãy nhớ, vốn dĩ ta chẳng có gì cả, không nên
mộng tưởng quá nhiều thứ: của cải, vật chất, tiền
tài. Và ngay cả tinh thần rồi nó sẽ mất đi, việc gì
phải lao đao lận đận đuổi bắt những thứ hư không
như thế.
Ai chịu quan sát, sẽ thấy rằng bài học này có
từ dòng sông, từ con nước chảy xuôi dòng. Cứ thế,
như nước chảy. Cứ sống như sông rồi sẽ qua
những ngày tháng rất nhẹ nhàng, êm ái. Thường
con người sẽ có hai khía cạnh nổi trội, hoặc là tạo
nên yêu thương cho nhau
hoặc là tạo nên sự thù
ghét. Cũng có thể có cả
hai trong một, yêu
thương và thù ghét. Vì
điều ấy, nó nằm giữa lằn
ranh giới rất mỏng
mảnh, sợi dây suy nghĩ
chỉ lệch hướng, hành
động con người chỉ cần
xê dịch là mọi thứ trở
nên hỗn độn.
Chúng ta có thể dựng xây toàn những yêu
thương? Đừng mơ tưởng điều ấy, nếu có yêu
thương thì sẽ có thù hận. Cái tốt luôn song hành
cùng cái xấu. Chỉ khi ta buông tất cả, cứ sống như
sông mới có được sự an lành.
Tôi còn nhớ cách đây hơn chục năm, yêu
thương đậm sâu và thù ghét, đến ngày sau nhìn lại
mới thấy rằng mình thực tình ngu dại. Giữ lấy là
cách làm đau chính mình, và có thể nó làm đau
những người xung quanh. Nhưng không giữ lấy thì
sợ mất, cái mà thực ra không là của ai cũng chẳng
phải là của mình nên con người cứ tạo ra một vòng
tròn tham vọng: có được tiền, được tình, cố chiếm
Hoàng Hải Lâm
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 53
hữu… rồi lại chấp nhận mất đi. Đó mới thực sự là
giây phút tột đỉnh đau thương của con người, sau
bao nhiêu cố gắng dựng xây, giành giật, chắt chiu,
chuẩn bị kỹ càng để đón lấy nhưng như cái chớp
mắt, mọi thứ chắc hẳn sẽ ra đi khi ta chưa chuẩn bị
được gì nhiều. Và hành trình đó, con người không
thôi hy vọng, nó le lói bên mình rồi bỗng chừng
vụt tắt, lặng im.
Tôi ví việc cha mẹ sinh con như việc đúc
tượng cho mình. Những đứa trẻ đáng yêu, những
người lớn chân thành, những người lớn hơn dối
gian, lọc lừa, thủ đoạn, những người già đầy tuyệt
vọng trên cõi mưu sinh… những ngày chẳng biết
mình sẽ về đâu khi sinh lực mỗi lúc một mất đi,
hơi thở cạn dần và bầu trời trước mắt đen lại. Thực
tình, từ khi con người mới sinh ra đã nhận biết
được dấu hiệu này, người ta hay gọi đó là “tiếng
khóc phản quang”, khi đứa bé vừa lọt lòng, tuột ra
khỏi chiếc tổ ấm áp, âm u là thế giới của ánh sáng
lạnh giá. Đứa trẻ chẳng phải tự nhiên thét lên, nó
đã nhận biết được sự bất an ở quanh mình.
Hãy dạy cho những bức tượng mình đúc ra
cuộc sống an nhiên mới là hạnh phúc. Còn mọi
thứ, đều là ảo ảnh. Đôi lúc lại bi kịch, thường
người giàu sống khổ và người thiếu tiền cũng sống
một cách nhọc nhằn. Chỉ những người sống an
nhiên mới có được hạnh phúc. Và lắm lúc, khối
người chẳng nhận ra điều này. Cho đến khi họ rơi
vào bi thảm của vòng xoáy được mất trong đời.
Buông là được an nhiên. Buông không phải là
điều ghê gớm, nó chẳng phải là tượng đài, chẳng
phải là cõi Niết-bàn hay một cái gì đó cao sang.
Nó rất giản đơn mà ai cũng có thể làm được. Bạn
hãy buông một lần rồi sẽ thấy, khi ta buông tức là
ta nắm được, cái sự vô cùng lớn lao nhưng lại nhỏ
bé, nó cứu ta thoát khỏi những nhọc nhằn. Ví như
sáng hôm nay, tôi đi qua chiếc cầu, lúc đó gặp gió
lớn, chiếc khăn choàng cổ chẳng may bị gió cuốn
xuống sông và trôi theo dòng nước. Chẳng cần vội
vàng chạy vớt nó, chẳng cần phải luyến tiếc mặc
dù mình phải bỏ tiền mới mua được chiếc khăn.
Cứ xem cái cầu là “khúc đời” thì chiếc khăn là thứ
chẳng còn duyên với ta nữa, ta phải trả, khi đi qua
cầu gặp gió, thế thôi.
Ví như chiều hôm nay, ta gặp một người, đầy
dẫy những thói hư tật xấu, chẳng cần phải lánh xa
họ, họ là con người. Và con người này không hẳn
hoàn toàn là dị biệt, họ vẫn có điều đáng trân trọng
mà ta chưa nhận ra. Nghĩ như thế cũng là buông
cho mình, buông cho người, đừng cố vận vào mình
cái mà người khác chưa chắc đã có.
Ví như ngày mai có ai đó làm ta tổn thương,
làm ta thù ghét… ta đừng vội vàng, hãy suy nghĩ
đến điều này: không ai muốn mình bị người khác
ghét bỏ cả, tất cả mọi người ai cũng muốn mình
được yêu thương…
Trên đời này có vô khối điều khiến ta tiếc
nuối. Không phải dửng dưng mà trong đầu ta tồn
tại điều đó, nó được xây đắp, nhìn thấy, lượm
lặt… trong một thời gian dài. Ta cố dành dụm
những cái chẳng bao giờ là của ta mà đánh mất cái
của ta đó là buông bỏ.
Đừng luyến tiếc, nó sẽ mất. Ngay chính bản
thân mình, khối vật chất giữ lấy vô cùng những
thứ có trong cuộc đời ta cũng chẳng giữ nổi. Một
khi, chẳng nắm tay lại được thì mọi thứ sẽ trôi đi.
Và con tim ngừng đập chính là lúc cánh cửa được
mở ra thật nhẹ nhàng, mọi thứ ắt hẳn sẽ trôi đi.
Đến phút chót điều này thật dễ hiểu, buông để
sống nhẹ nhàng.
Hoàng Hải Lâm
Caøng buoâng xaû
ta caøng thaáy nheï nhoõm vaø bình an
Caøng tích goùp
caøng lo laéng vaø meät moûi
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 54
Một buổi tối khuya, mấy nguời bạn đang chơi
vui trong một căn phòng. Một nguời bỗng hỏi:
“Được ngủ không?” Mấy nguời kia nhao nhao lên:
“Không được ngủ!” Đến thật khuya, sau khi cuộc
chơi tàn, tắt đèn rồi, trằn trọc mãi, một nguời gọi
người bạn kế bên: “Ngủ được không?” Người bạn
trả lời: “Không ngủ được!”
Căn bệnh mất ngủ hay khó ngủ là một căn
bệnh khó trị, gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm
cho người bệnh, nếu không có biện pháp chữa dứt
căn nguyên của bệnh. Không có thống kê về bao
nhiêu người bị bệnh khó ngủ, vì hầu
như bất cứ ai trong đời cũng không
nhiều thì ít đã trải qua những giai
đoạn khó ngủ.
Có ba cấp độ khó ngủ: bất ngờ và
ngắn ngủi (transient), nặng nhưng
ngắn hạn (acute but short term), kịch
liệt và lâu dài (chronic). Trong cấp độ
kịch liệt và lâu dài, có nhiều trường
hợp dẫn đến tử vong. Theo một cuộc
khảo sát với 288 người thuộc một gia
đình ở Ý, qua 6 thế hệ, có 29 người bị bệnh mất
ngủ dẫn đến cái chết. Trong 6 tháng đầu tiên, bệnh
nhân cảm thấy khó ngủ, rồi ngủ không được luôn.
Khoảng nửa năm sau, gặp những cơn khủng
hoảng, căng thẳng, bồn chồn liên tục. Cũng
khoảng nửa năm nữa, người bệnh liệt nhược, héo
rũ đi rồi chết. Nguyên nhân gây ra căn bệnh này là
do sự biến dạng của “gene” (sắc thể di truyền), và
chỉ có thể chữa trị bằng cách sửa đổi “gene”, điều
mà khoa học vẫn còn đang lúng túng. Trên toàn
thế giới có 28 gia đình có di truyền về bệnh này,
tuy nhiên không phải người nào trong giòng họ
đều mắc bệnh, chỉ một vài kẻ kém may mắn mới
có triệu chứng bệnh. Cũng có một hai trường hợp
hiếm có là có người không ngủ cả chục năm, vẫn
sống bình thường. Tuy nhiên, đây là trường hợp
đặc biệt, thông thường, nếu không ngủ được sẽ
mau già, mất trí nhớ, và có thể chết sớm nếu
không bị bệnh về thần kinh. Trong một cuộc thí
nghiệm cách đây không lâu, một nhóm 10 thanh
niên 20 tuổi ngủ rất ít trong khoảng một tháng.
Sau đó, được đưa đi thử nghiệm các chức năng cơ
thể, thì khám phá thấy toàn bộ sinh hoạt thần kinh,
tim mạch, tiêu hóa... đều có các vấn nạn của tuổi
60!
Các nguyên nhân hay gây ra sự khó ngủ: bị
kích thích, căng thẳng vì một sự kiện nào trong
ngày; bồn chồn chờ đợi một chuyện gì sắp đến;
gặp khó khăn trong việc làm; tài chánh eo hẹp
hoặc bị thúc nợ; không thỏa mãn về tình dục; đau
nhức trong cơ thể; ảnh huởng của sự
tắt kinh hay là thời kỳ tiền mãn kinh;
và một số thực phẩm làm nặng bụng.
Một khi mắc bệnh khó ngủ, người
bệnh thường tìm đến một trong bốn
phương cách sau đây (hoặc cả bốn
phuơng pháp một lúc): uống thuốc
Tây, châm cứu, kiêng khem, và
dùng thuốc Nam. Phương pháp thứ
nhất, dễ nhất và nhanh nhất, nhưng
lại có thể làm cho nguời bệnh bị
“ghiền” (addicted). Mới đầu thì nửa viên một
ngày, sau một thời gian, có thể phải tăng lên thành
một viên... Châm cứu làm cho nguời bệnh ngủ liền
tức khắc, nhưng ngày hôm sau, lại cần đến châm
cứu nữa. Kiêng khem có tác dụng bất thường,
chưa chắc kiêng ăn đã đem lại giấc ngủ. Thuốc
Nam cũng có tác dụng tốt, nhưng cũng phải uống
nhiều lần, và cũng có thể bị ghiền. Ngoài ra,
không ai biết những tác dụng phụ của thuốc Nam
ảnh hưởng đến tim mạch, thận, sinh hoạt tình dục,
… như thế nào.
Ở một vài địa phương, nguời ta dùng một số
loại dược thảo đặc biệt để trị bệnh mất ngủ. Người
Polynesian dùng rễ chính của loại cây Kava Kava
(hay Kawa), một loại cây xanh mọc thành bụi,
giòng họ của Ớt. Một số nuớc Âu Châu dùng rễ
cây Valerian, hoặc hoa cái của cây Hops là một
loại cây dại mọc ven đường.
TAÄP THIEÀN TRÒ BEÄNH MAÁT NGUÛ
Chu Taát Tieán
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 55
Với chúng ta, những người không muốn uống
thuốc, sợ châm cứu, ngán thuốc Nam, có thể áp
dụng những phuơng cách như: tránh uống ruợu, cữ
cà phê, trà, không ăn nhiều vào buổi tối, tập thể
dục vào buổi chiều, và không bao giờ mang việc
làm ở Sở vào phòng ngủ. Hơn nữa, người khó ngủ
có thể uống một ly sữa ấm hoặc một ly sữa mật
ong, tắm nước ấm trước khi đi ngủ. Một cách đơn
giản hơn là nếu nằm hoài mà không ngủ được, thì
bỏ luôn cái giường ấy, bỏ không gian ấy mà sang
phòng khác, giường khác, may ra có thể ngủ đuợc,
vì đôi khi có người cảm thấy “chán” cái không khí
lẩn quẩn của cái phòng ngủ của chính mình mà
ngủ không được.
Nhưng trên hết, một phương pháp đơn giản
nhất, hiệu nghiệm nhất, lâu dài nhất, không những
đem lại một giấc ngủ thoải mái mà còn giải thoát
được mọi buồn sầu, lo lắng, tăng cường sức mạnh
tinh thần, thêm thông minh, bổ dưỡng sức khỏe
thể chất, chống lại sự lão hóa quá nhanh... là Ngủ
Thiền.
“Thiền” là một phương pháp tập trung tư
tưởng, tạo sức khỏe tinh thần. Mục đích của Ngủ
Thiền là làm cho khí lực, tinh thần hợp nhất, tạo
thêm nghị lực để gạt bỏ mọi phiền muộn, lo lắng,
chú trọng vào cái Tâm của chính mình, nhu cầu
thực tế và cấp thiết của mình là Ngủ.
1- Chuẩn bị tư tưởng: Phải tâm niệm hai điều:
Thứ nhất: Giường là chỗ để Ngủ và để Yêu đương,
không phải là chỗ để làm việc. Thứ hai: Ta lên
giường để Ngủ Thiền, và nhất định sẽ ngủ được.
NHẤT ĐỊNH NGỦ, NGỦ, NGỦ!
2- Chuẩn bị thể xác: Nằm thẳng (không gối),
hai tay để xuôi theo thân mình, bàn tay để sấp
(hoặc ngửa) xuống mặt giường (mới ngủ không
gối sẽ thấy khó chịu, nhưng dần sẽ quen đi). Khi
nằm không gối, vị trí đầu ngang với cơ thể, nên
máu lưu thông từ tim lên đầu thoải mái, không tạo
ra áp suất cao trong máu. Nếu gối cao, da cổ phía
sau bị kéo căng, bắp thịt cổ phải làm việc, không
được nghỉ ngơi, trong khi máu phải chạy ngược
lên, sẽ có một chút thay đổi về huyết áp.
- Bắt đầu nhắm mắt, làm “nóng khí huyết”
bằng cách hít thở thật chậm. Hít vào từ từ bằng
mũi, rồi thở ra thật chậm cũng bằng mũi. Theo dõi
hơi thở của mình khi đi qua mũi. Khi thở hết ra,
đếm “Một!”, rồi tiếp tục đợt thở khác, đếm tiếp tục
cho đến “Muời.”
Cứ nằm Thiền như vậy, chỉ chừng 15 phút là
những người có tiền sử mất ngủ từ nhiều năm đã
bắt đầu… ngáy to.
Trường hợp làm đầy đủ như vậy rồi mà vẫn
không ngủ được thì phải nhớ lại xem khi mình hít
thở có tập trung tư tưởng đủ chưa? Có theo dõi hơi
thở từ lúc vào đến lúc ra không? Có nén hơi
không? Người tập lâu có thể nén hơi đến một phút.
Hy vọng bài viết ngắn ngủi này sẽ đem lại cho
quý vị những giờ phút ngủ thoải mái, tinh thần
minh mẫn, làm việc hoài không biết mệt và...
Hạnh Phúc.
CHU TẤT TIẾN
Nguồn Đạo số 108 —Vu Lan 2019 (PL 2563) Trang 56
LTS: - Tiếng chổi xào xạc chen nhau đánh
thức một ngày mới. Năm nào cũng vậy, hạ
trường dành phần tảo sái, tri viên (quét dọn,
làm vườn) cho các cụ cao niên vừa tham gia
chấp tác vừa có thể vận động cơ thể, hít thở
không khí trong lành của buổi sớm…
Nhìn những chuyển động nhiệm mầu mà buổi
sáng vội vã đánh rơi, tôi thấy
hạnh phúc thật dung dị. Chỉ
cần chậm lại, ngồi yên một
chút thôi ta có thể hít căng
một bầu bình yên cho cả
ngày mới.
Có đến bốn sư anh lần
lượt đi ngang, hỏi cùng một
câu: Làm gì ngồi một mình,
buồn vậy? Thả câu hỏi lửng
lơ mà chẳng cần câu trả lời,
bởi các sư anh còn bận với
nhiệm vụ của mình. Định hỏi
ngược lại các sư anh: Vậy ai ngồi một mình cũng
là đang buồn ư?
Và dường như tôi cũng từng hỏi câu này khi
đi ngang ai đó đang một mình, dù chẳng biết cõi
lòng họ đang thênh thang hoan hỷ hay gặm nhấm
nỗi buồn nào đó. Và lúc này tôi cũng một mình
nhưng hình như không hẳn một mình. Tôi đang
bận chạy theo mấy chú chim đang râm ran hót
chào nhau trên mái chùa, đang chạy theo mấy nụ
cười ấm áp của các cụ tay đong đưa nhịp chổi quét
sân và miệng cười kể cho nhau nghe điều gì đó
dường như bình an lắm.
Ngồi một mình, tôi tận hưởng cái bình yên
hạnh phúc theo cách của mình. Ngồi một mình mà
tâm bình yên, mà lòng hạnh phúc! Tận hưởng một
buổi sáng trọn vẹn, kẻo nắng lên mình lại vội chạy
theo guồng quay của công việc, rồi hối hả hòa vào
đám đông cười chung, ăn chung, nói chung mà
chẳng thấy gì đọng lại… như cách mà chúng ta đã
và đang sống phí mỗi ngày.
“Này các Tỷ-kheo! Được xem là trẻ con trong
giới luật của bậc Thánh, tức là cười quá đáng để lộ
cả răng” (Kinh Tăng chi bộ - phẩm Chánh giác).
Dường như chúng ta mãi là những đứa trẻ nên toe
toét cười mới gọi là vui.
Khi sự an bình và niềm vui lớn tràn trề trong
tâm thì chỉ nụ cười nhẹ cũng đủ để thấy cả bầu trời
an yên, chỉ ngồi một mình
nhưng là cả một không gian
hạnh phúc. Đừng lo sợ một
mình khi tâm đã đủ vững
chãi!
Một hồi chuông vừa đổ,
tiếng í ới gọi nhau vào ăn
sáng, lại thêm một niềm vui
cho cái bụng đói, mới thấy
hạnh phúc quanh mình đầy
ắp mà ta cứ lang thang.
Đừng chờ đợi đến ngày mai,
khi còn lại những ngày ít ỏi
mới về thu dọn lại cuộc đời chuẩn bị cho chuyến
đi lớn, lúc đó lục lọi tìm mãi những mảnh hạnh
phúc cũng xếp không đầy một góc nhỏ của hành
trang. Cứ chờ đợi một hạnh phúc khác, ở một nơi
khác, sao không phải là bây giờ và ở đây!
Chơn Khánh
Chơn Khánh
Góp nhặt bình an - Ảnh minh họa
Vu Lan