146
BGIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIN HÀN LÂM KHOA HC VÀ CÔNG NGHVIT NAM HC VIN KHOA HC VÀ CÔNG NGHBÙI NGC THANH NGHIÊN CU HIN TRNG U TRÙNG SÁN LÁ CÓ KHNĂNG LÂY TRUYỀN CHO NGƢỜI NHIM TRÊN CÁ KHU VC MIN NÚI PHÍA BC VIT NAM LUN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC HÀ NI - 2017

NGHIÊN CỨ Ệ ẠNG CÓ KHẢ NĂNG LÂY TRUYỀN CHO NGƢỜI …gust.edu.vn/media/25/uftai-ve-tai-day25975.pdfCÓ KHẢ NĂNG LÂY TRUYỀN CHO NG ... thầy hƣớng dẫn có

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

BÙI NGỌC THANH

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG ẤU TRÙNG SÁN LÁ

CÓ KHẢ NĂNG LÂY TRUYỀN CHO NGƢỜI NHIỄM

TRÊN CÁ Ở KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC

HÀ NỘI - 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ

CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

BÙI NGỌC THANH

NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG ẤU TRÙNG SÁN LÁ

CÓ KHẢ NĂNG LÂY TRUYỀN CHO NGƢỜI NHIỄM

TRÊN CÁ Ở KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: KÝ SINH TRÙNG HỌC

MÃ SỐ: 62.42.01.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. PHAN THỊ VÂN

2. TS. NGUYỄN VĂN HÀ

HÀ NỘI - 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình do bản thân tôi thực hiện. Các trích dẫn

trong Luận án theo các nguồn công bố đầy đủ. Số liệu, kết quả nêu trong Luận án là

trung thực và chƣa công bố hoặc công bố trong các bài báo khoa học mà tôi là tác

giả hoặc đồng tác giả.

Tác giả luận án

Bùi Ngọc Thanh

ii

LỜI CÁM ƠN

Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phan Thị Vân,

ngƣời thầy đã luôn động viên, khích lệ đúng lúc và có những góp ý, phản biện khoa

học sâu sắc giúp tôi hoàn thành Luận án này.

Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới TS. Nguyễn Văn Hà, một ngƣời

thầy hƣớng dẫn có nhiều kinh nghiệm và chuyên môn sâu về lĩnh vực ký sinh trùng,

làm việc với TS. Hà đã giúp tôi tích lũy nhiều kinh nghiệm quý báu.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt cho GS. Darwin Murrell, ngƣời đã hỗ trợ tôi

rất nhiều trong công tác nghiên cứu và cũng là ngƣời cộng tác khoa học nhiệt tình

của tôi trong hơn 10 năm qua.

Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Tập thể cán bộ và Lãnh đạo Trung

tâm Quan trắc Môi trƣờng và Bệnh Thủy sản khu vực miền Bắc, đặc biệt là chị

Nguyễn Thị Nguyện và em Phạm Thị Thanh vì những hỗ trợ đắc lực trong công

tácphân tích, xét nghiệm và làm thí nghiệm. Xin đƣợc cảm ơn ông Trần Anh Tuấn,

giám đốc Trung tâm Tƣ vấn, Sản xuất, Dịch vụ và Chuyển giao Công nghệ Thủy

sản, đã luôn tạo điều kiện thuận lợi trong công việc để tôi có thể hoàn thành tốt

Luận án này. Xin cảm ơn tất cả những tình cảm và chia sẻ của tập thể Phòng ký sinh

trùng, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ

Việt Nam.

Xin đƣợc cảm ơn Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia

(NAFOSTED) đã tài trợ kinh phí cho nghiên cứu này.

Cuối cùng, tôi xin giành lời cảm ơn đặc biệt vợ đã luôn ở bên cạnh, động

viên, chăm sóc và lo lắng mọi công việc gia đình để tôi yên tâm nghiên cứu, học tập

và hoàn thành Luận án này.

Một lần nữa xin đƣợc cảm ơn tất cả vì sự ủng hộ cho bản Luận án này!

Bùi Ngọc Thanh

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................i

LỜI CÁM ƠN ............................................................................................................ ii

MỤC LỤC ................................................................................................................. iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................................vi

DANH MỤC BẢNG ................................................................................................ vii

DANH MỤC HÌNH ...................................................................................................ix

PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

Đặt vấn đề__________________________________________________________ 1

Mục tiêu nghiên cứu __________________________________________________ 2

Nội dung nghiên cứu _________________________________________________ 2

Những đóng góp mới của Luận án _______________________________________ 3

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............................................................. 4

1.1. Đặc điểm vòng đời sán lá truyền qua cá _______________________________ 4

1.2. Nghiên cứu sán lá truyền lây qua cá trên thế giới ________________________ 5

1.2.1. Sán lá truyền qua cá trên ngƣời ____________________________________ 5

1.2.2. Ấu trùng sán lá truyền qua cá ở động vật thủy sản _____________________ 8

1.3. Nghiên cứu sán lá truyền lây qua cá trong nƣớc ________________________ 12

1.3.1. Sán lá truyền qua cá trên ngƣời ___________________________________ 12

1.3.2. Sán lá truyền qua cá trên động vật _________________________________ 14

1.3.3. Ấu trùng sán lá truyền qua cá trên ốc _______________________________ 16

1.3.4. Ấu trùng sán lá trên cá __________________________________________ 17

1.4. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực miền núi phía Bắc ___________ 29

1.4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ________________________________ 29

1.4.2. Đặc điểm hồ Thác Bà, Yên Bái ___________________________________ 30

iv

1.5. Những tồn tại trong nghiên cứu về sán lá truyền qua cá __________________ 32

CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 34

2.1. Cách tiếp cận ___________________________________________________ 34

2.2. Đối tƣợng nghiên cứu ____________________________________________ 35

2.3. Thời gian, địa điểm nghiên cứu ____________________________________ 35

2.4. Phƣơng pháp thu mẫu, bảo quản và định danh cá _______________________ 36

2.5. Kỹ thuật phân lập và định loại sán lá truyền qua cá _____________________ 39

2.5.1. Phân lập ấu trùng sán lá từ cá _____________________________________ 40

2.5.2. Định loại sán lá truyền qua cá ____________________________________ 42

2.6. Xác định điều kiện bất hoạt và lƣu giữ ấu trùng sán lá truyền qua cá _______ 45

2.6.1. Bố trí các thí nghiệm xác định điều kiện bất hoạt _____________________ 46

2.6.3. Kỹ thuật xác định ấu trùng bất hoạt ________________________________ 54

2.6. Phân tích và xử lý số liệu _________________________________________ 54

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................................ 56

3.1. Thành phần ấu trùng sán lá nhiễm trên cá ở khu vực miền núi phía Bắc ____ 56

3.1.1. Ấu trùng sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis _________________________ 56

3.1.2. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis pumilio ________________________ 59

3.3.3. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis taichui _________________________ 62

3.3.4. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis yokogawai ______________________ 64

3.3.5. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Procerovum varium ________________________ 65

3.1.6. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Centrocestus formosanus ____________________ 66

3.2. Kết quả khảo sát nhanh ấu trùng sán ở khu vực miền núi phía Bắc _________ 68

3.2.1. Tình hình nhiễm ấu trùng sán lá trên cá _____________________________ 68

3.2.2. Thành phần ấu trùng sán lá nhiễm trên cá ở các loại hình mặt nƣớc _______ 68

3.3. Kết quả nghiên cứu về sán lá nhiễm trên cá tại hồ Thác Bà _______________ 75

3.3.1. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ _________________________________________ 75

3.3.2. Ấu trùng sán lá gan nhỏ ________________________________________ 79

v

3.4. Điều kiện bất hoạt ấu trùng sán lá truyền qua cá _______________________ 85

3.4.1. Điều kiện đông lạnh ____________________________________________ 85

3.4.2. Điều kiện gia nhiệt _____________________________________________ 91

3.4.3. Điều kiện ƣớp muối ____________________________________________ 94

3.4.4. Điều kiện kháng sinh và praziquantel ______________________________ 97

3.4.5. Điều kiện nƣớc chanh và rƣợu ____________________________________ 99

3.5. Thảo luận chung _______________________________________________ 102

3.5.1. Hiện trạng ấu trùng sán lá nhiễm trên cá ở Khu vực miền núi phía Bắc ___ 102

3.5.2. Sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis _______________________________ 104

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................. 112

4.1. Kết luận ______________________________________________________ 112

4.2. Kiến nghị _____________________________________________________ 113

NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN ............................................................................................................... 114

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 115

vi

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CĐN Cƣờng độ nhiễm

DANIDA Viện trợ phát triển quốc tế của Đan Mạch - Danish International

Development Agency

ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu long

ĐBSH Đồng bằng sông Hông

EFSA Cơ quan an toàn thực phẩm Châu Âu - European Food Safety

Authority

FDA Tổ chức quản lý thuốc và thực phẩm Hoa kỳ - Food Drug

Administration

FIBOZOPA Dự án Ký sinh trùng có nguồn gốc Thủy sản – Fishborne Zoonotic

Parasites in Vietnam

IARC Hiệp hội nghiên cứu ung thƣ quốc tế - International Association

Research Cancers

Max Giá trị lớn nhất – Maximum

Min Giá trị nhỏ nhất – Minimum

MNPB Miền núi phía Bắc Việt Nam

N Số lƣợng mẫu kiểm tra

NTTS Nuôi trồng thủy sản

PBS Nƣớc muối sinh lý (0,89% muối) – Physical Biology Saline

SD Độ lệch chuẩn – Standard deviation

SLTQC Sán lá truyền qua cá lây nhiễm cho ngƣời

TLN Tỉ lệ nhiễm

WHO Tổ chức Y tế thế giới – World Health Organization

vii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Sán lá truyền qua cá trên người tại một số vùng dịch tễ ở nước ta ......... 14

Bảng 1.2: Sán lá truyền qua cá trên động vật tại một số vùng dịch tễ ở nước ta ..... 15

Bảng 1.3: Danh mục loài cá đã được xác định nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ ...... 23

Bảng 1.4: Danh mục loài cá đã được xác định nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ ...... 24

Bảng 2.1: Địa điểm thu mẫu khảo sát ấu trùng sán lá truyền qua cá ...................... 35

Bảng 2.2: Các loài cá thu được ở khu vực miền núi phía Bắc ................................. 36

Bảng 2.3: Các loài cá thu được ở hồ Thác Bà, Yên Bái ........................................... 38

Bảng 2.4: Thí nghiệm thực nhằm xác định điều kiện bất hoạt ấu trùng sán lá ........ 46

Bảng 2.5: Thí nghiệm đông lạnh nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá ruột nhỏ .............. 47

Bảng 2.6: Thí nghiệm đông lạnh bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ ......................... 48

Bảng 2.7: Thí nghiệm đông lạnh bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ trong cá........... 48

Bảng 2.8: Thí nghiệm gia nhiệt nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá ruột nhỏ ................ 49

Bảng 2.9: Thí nghiệm gia nhiệt nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ ................. 50

Bảng 2.10: Thí nghiệm ngâm muối nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ ........... 50

Bảng 2.11: Thí nghiệm ướp muối cá nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ ......... 51

Bảng 2.12: Thí nghiệm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ bằng praziquantel .......... 52

Bảng 2.13: Thí nghiệm dùng nước chanh để bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ ...... 53

Bảng 2.14: Thí nghiệm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ bằng rượu gạo ............... 53

Bảng 2.15: Tiêu chí căn cứ xác định ấu trùng sán lá bất hoạt ................................. 54

Bảng 3.1: Ấu trùng các loài sán lá truyền qua cá ở khu vực miền núi phía Bắc ..... 56

Bảng 3.2: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis ................... 58

Bảng 3.3: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis pumilio ................... 60

Bảng 3.4: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis taichui .................... 63

Bảng 3.5: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis yokogawai.............. 64

Bảng 3.6: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ Procerovum varium .................. 66

Bảng 3.7: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruôt nhỏ Centrocestus formosanus ......... 67

Bảng 3.8: Tỉ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng sán lá trên cá ..................................... 68

viii

Bảng 3.9: Thành phần và mức độ nhiễm ấu trùng sán lá theo thủy vực .................. 69

Bảng 3.10: Thành phần và mức độ nhiễm ấu trùng sán lá trên cá ao ...................... 70

Bảng 3.11: Thành phần ấu trùng sán lá nhiễm trên cá sông suối ........................... 71

Bảng 3.12: Thành phần ấu trùng sán lá trên cá hồ chứa ......................................... 73

Bảng 3.13: Ấu trùng sán lá ruột nhỏ nhiễm trên cá hồ Thác Bà .............................. 75

Bảng 3.14: Thành phần, tỉ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng sán lá ........................... 77

Bảng 3.15: Tỉ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ .................................. 79

Bảng 3.16: Biến động mùa vụ ấu trùng sán lá gan nhỏ trên cá tại hồ Thác Bà....... 81

Bảng 3.17: Vật chủ của sán lá gan nhỏ ở khu vực miền núi phía Bắc ................... 106

ix

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Vòng đời sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis ............................................ 4

Hình 1.2: Các tinh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, Việt Nam .............................. 30

Hình 1.3: Khu vực vùng của hồ Thác Bà, Yên Bái ................................................... 31

Hình 2.1. Cách tiếp cận của nghiên cứu ................................................................... 34

Hình 2.2: Quy trình chung để xác định thành phần ấu trùng sán nhiễm trên cá .... 39

Hình 2.3: Quy trình phân lập ấu trùng sán lá truyền qua cá .................................. 40

Hình 2.4: Ấu trùng sán thoát khỏi bào nang ............................................................. 43

Hình 3.1: Ấu trùng sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis ........................................... 57

Hình 3.2: Sự khác biệt về kích cỡ ấu trùng sán lá gan nhỏ và sán lá ruột nhỏ ........ 57

Hình 3. 3: Bào nang ấu trùng Haplorchis pumilio ................................................... 60

Hình 3. 4: Bào nang ấu trùng Haplorchis taichui .................................................... 62

Hình 3. 5: Bào nang ấu trùng Haplorchis yokogawai .............................................. 64

Hình 3. 6: Bào nang ấu trùng Procerovum varium .................................................. 65

Hình 3. 7: Bào nang ấu trùng Centrocestus formosanus .......................................... 66

Hình 3.8: Tép dầu, vật chủ ấu trùng sán lá gan nhỏ ở hồ Thác Bà, Yên Bái ........... 80

Hình 3.9: Mương xanh, vật chủ của sán lá gan nhỏ tại hồ Thác Bà ........................ 82

Hình 3.10: Biến động ấu trùng sán lá gan nhỏ theo tháng trên cá tại hồ Thác Bà .. 83

Hình 3.11: Biến ấu trùng sán lá gan nhỏ trên Tép dầu hồ Thác Bà ......................... 84

Hình 3.12: Tỷ lệ sống sót của ấu trùng H. pumilio trong điều kiện đông lạnh ........ 85

Hình 3.13: Ấu trùng sán lá ruôt nhỏ H. pumilio trong điều kiện đông lạnh ............ 87

Hình 3.14: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong điều kiện đông lạnh ......... 88

Hình 3.15: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong cá đông lạnh ................... 89

Hình 3.16: Ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trong cá đông lạnh ........................ 90

Hình 3.17: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng H. pumilio trong điều kiện gia nhiệt ........... 91

Hình 3.18: Ấu trùng sán lá ruột nhỏ H. pumilio trong điều kiện gia nhiệt .............. 92

Hình 3.19: Tỉ lệ ấu trùng C. sinensis sống sót trong điều kiện gia nhiệt ................. 93

x

Hình 3.20: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong điều kiện muối ................. 94

Hình 3.21: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong cá ướp muối .................... 95

Hình 3.22: Ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trong điều kiện muối ..................... 96

Hình 3.23: Tỉ lệ sống của ấu trùng C. sinensis lưu giữ trong kháng sinh ................ 97

Hình 3.24: Tỉ lệ ấu trùng C. sinensis bất hoạt trong praziquantel ........................... 98

Hình 3.25: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong nước chanh ................... 100

Hình 3.26: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong rượu .............................. 101

Hình 3.27: Ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trong điều kiện đông lạnh ........... 110

1

PHẦN MỞ ĐẦU

Đặt vấn đề

Sán lá truyền lây qua cá (SLTQC) hiện vẫn đang là một vấn nhức nhối đối

với sức khỏe cộng đồng các nƣớc thuộc khu vực Châu Á. SLTQC nhƣ sán lá gan

nhỏ Clonorchis sinensis và Opisthorchis viverrini gây ra các bệnh lý về gan mật,

nhƣ xơ gan, tắc ống mật và thậm chí là có thểdẫn tới ung thƣ đƣờng ống mật ở

ngƣời bệnh [1–3]. Con ngƣời nhiễm SLTQC do ăn gỏi cá hoặc cá nấu chƣa chín có

nhiễm ấu trùng các loài sán này. Do vậy, việc nghiên cứu về ấu trùng SLTQC trên

cá là yêu cầu cấp bách nhằm tạo cơ sở khoa học để kiểm soát SLTQC, bảo vệ sức

khỏe cộng đồng.

Ở nƣớc ta, những năm gần đây, SLTQC trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản

(NTTS) đã bắt đầu đƣợc quan tâm bởi nó liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm.

Đã có nhiều nghiên cứu khảo sát về ấu trùng SLTQC tại nhiều vùng trong cả nƣớc

nhƣ đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và miền

Trung. Những khảo sát này đều đã ghi nhận sự hiện diện ấu trùng SLTQC trên động

vật thủy sản (cá) nhƣ một mối nguy đối với sức khỏe cộng đồng. Đặc biệt, ấu trùng

của các loài sán lá ruột nhỏ nhƣ Haplorchis pumilio chƣa từng đƣợc ghi nhận trên

ngƣời thì thì nay xuất hiện phổ biến ở cá. Trong khi đó, ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

sinensis, đƣợc cho là nhiễm phổ biến trên ngƣời [4–6] và động vật thủy sản [5,7] thì

những nghiên cứu gần đây lại ít gặp và có mức độ nhiễm thấp trên động vật thủy

sản, cá [8–11].

Khu vực miền núi phía Bắc (MNPB) là vùng thƣợng nguồn của hệ thống

sông ngòi tạo nên vùng châu thổ sông Hồng; nơi này có các hệ thống sông suối, hồ

chứa lớn, là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của động vật thủy sản nhƣ cá,

tôm,… đây là nguồn thực phẩm quan trọng của ngƣời dân và cũng có thể là mối

nguy với sức khỏe bởi SLTQC do tập quán ăn gỏi cá ở đây [12]. Hiện nay, hầu nhƣ

chƣa có khảo sát nào về vấn đề SLTQC trên các động vật thủy sản tại MNPB, ngoại

trừ có báo cáo về ấu trùng sán lá ruột Centrocestus formosanus nhƣng là trên khía

cạnh tác nhân gây bệnh cho cá [13]. Chính vì vậy, cần thiết phải tiến hành khảo sát

2

về ấu trùng SLTQC tại đây nhằm bổ sung thông tin về vùng dịch tễ, đối tƣợng

nhiễm và sự biến động mùa vụ để thấy đƣợc bức tranh tổng thể về hiện trạng

SLTQC ở Việt Nam nói chung.

Hơn nữa, hầu hết các nghiên cứu về SLTQC ở Việt Nam trong thời gian gần

chủ yếu trung vào điều tra, khảo sát nhằm xác định vùng phân bố của SLTQC, mức

độ nhiễm và đối tƣợng nhiễm. Tập quán ăn gỏi cá vẫn khá phổ biến không chỉ ở khu

vực ĐBSH [14] mà cả MNPB [12]. Trong khi đó, những mô hình can thiệp thử

nghiệm nhằm giảm thiểu sự lây nhiễm ấu trùng SLTQC trong nuôi hệ thống NTTS

vẫn chƣa thực sự hiệu quả [10,15,16]. Do vậy cần phải có những nghiên cứu xác

định các điều kiện để vô hiệu hóa khả năng lây nhiễm của ấu trùng SLTQC cho con

ngƣời, đây là cơ sở khoa học để xây dựng các hƣớng dẫn trong bảo quản, chế biến

sản phẩm thủy sản đảm bảo an toàn với SLTQC nhƣ sán lá gan nhỏ C. sinensis.

Với kinh nghiệm, hiểu biết và trăn trở của bản thân về vấn đề SLTQC ở Việt

Nam, chúng tôi đã triển khai Đề tài “Nghiên cứu hiện trạng ấu trùng sán lá có

khả năng lây truyền cho người nhiễm trên cá ở Khu vực miền núi phía Bắc Việt

Nam” làm Luận án tiến sỹ với những mục tiêu cụ thể nhƣ sau:

Mục tiêu nghiên cứu

1) Xác định đƣợc thành phần ấu trùng sán lá truyền qua cá và sự phân bố của

chúng trên cá ở khu vực miền núi phía Bắc;

2) Xác định đƣợc sự biến động mùa vụ của ấu trùng sán lá truyền qua cá phổ

biến trên cá ở khu vực miền núi phía Bắc;

3) Xác định đƣợc các điều kiện chế biến và bảo quản có khả năng bất hoạt ấu

trùng sán lá truyền qua cá;

Nội dung nghiên cứu

Để đạt đƣợc những mục tiêu nêu trên, Đề tài đã thực hiện 3 nội dung nghiên

cứu chính nhƣ sau:

1) Nghiên cứu thành phần ấu trùng sán lá có khả năng gây bệnh cho ngƣời

trên cá tại một số tỉnh (Thái Nguyên, Yên Bái, Lào Cai, Điện Biên, và Sơn

3

La) thuộc khu vực miền núi phía Bắc;

2) Nghiên cứu sự biến động của ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên một

số loài cá tại khu vực hồ Thác Bà, Yên Bái;

3) Nghiên cứu điều kiện bất hoạt và lƣu giữ ấu trùng sán lá truyền qua cá;

Những đóng góp mới của Luận án

Đƣa Khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam vào trong bản đồ phân bố chung

của sán lá truyền qua cá (ấu trùng của 6 loài sán lá gồm C. sinensis, H. pumilio, H.

taichui, H. yokogawai, C. formosanus và P. varium) ở Việt Nam, trong đó đặc biệt

là nghiên cứu đã xác định đƣợc vùng dịch tễ mới và hết sức quan trọng của sán lá

gan nhỏ C. sinensis là vùng hồ Thác Bà, Yên Bái, đây không chỉ là đóng góp mới

với Việt Nam mà cả với khu vực.

Nghiên cứu đã phát hiện thêm 6 loài vật chủ mới gồm Tép dầu, Ngão gù, cá

Nhƣng, Cháo thƣờng, Dầm đất và Bống hoa vào danh mục vật chủ của sán lá gan

nhỏ tại Việt Nam, trong đó đặc biệt là cá Tép dầu T. houdemeri đƣợc xác định nhƣ

vật chủ đặc trƣng, vật chủ chỉ thị của sán lá gan nhỏ C. sinensis ở Việt Nam. Việc

xác định đƣợc vật chủ chỉ thị có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc khảo sát xác

định vùng dịch tễ của sán lá gan nhỏ này.

Nghiên cứu đã bổ sung cơ sở khoa học mới về điều kiện bất hoạt ấu trùng

sán lá truyền qua cá, đặc biệt là ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis góp phần xây

dựng các hƣớng dẫn trong việc chế biến và bảo quản đúng quy trình nhằm đảm bảo

an toàn đối với ấu trùng sán lá trong các sản phẩm thủy sản.

4

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1. Đặc điểm vòng đời sán lá truyền qua cá

SLTQC có vòng đời phức tạp qua nhiều giai đoạn vật chủ khác nhau; vật chủ

trung gian thứ 1 (ốc, nhuyễn thể), vật chủ trung gian thứ 2 (cá, tôm) và vật chủ cuối

cùng hay vật chủ chính (ngƣời và động vật ăn cá). Hình 1.1 là vòng đời của sán lá

gan nhỏ C. sinensis, đại diện cho SLTQC.

Hình 1.1: Vòng đời sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis

Sán lá gan nhỏ C. sinensis trƣởng thành sản sinh ra trứng (b), trứng thoát ra

ngoài theo phân của vật chủ cuối cùng, vào môi trƣờng nƣớc. Ốc (B) – Vật chủ

trung gian thứ 1, trong môi trƣờng nƣớc đã thụ động hoặc chủ động nhiễm trứng sán

Nguồn: [17]

5

trong quá trình lọc mùn bã hữu cơ làm thức ăn. Trong vật chủ ốc phù hợp, trứng sẽ

phát triển qua một số giai đoạn (c, d, e, f) để thành trùng đuôi gọi là cercariae (f).

Cercariae đƣợc thải ra ngoài môi trƣờng nƣớc khi đã phát triển hoàn thiện, sau đó

xâm nhập vào cá – Vật chủ trung gian thứ 2 (C). Cercariae rụng đuôi, xâm nhập qua

da, di chuyển đến các mô và phát triển thành bào nang gọi là metacercariae (g)

trong loài vật chủ cá phù hợp. Ngƣời hoặc động vật ăn (A) cá sống hoặc cá nấu

chƣa chín có chứa ấu trùng, nang ấu trùng bị phá vỡ trong tá tràng, sán non thoát

khỏi nang và phát triển thành sán trƣởng thành (a) trong túi mật và đƣờng ống mật

trong gan [17].

1.2. Nghiên cứu sán lá truyền lây qua cá trên thế giới

1.2.1. Sán lá truyền qua cá trên người

1.2.1.1. Sự phân bố của sán lá truyền qua cá

Ngƣời đƣợc xem là vật chủ chính của SLTQC. Tổng kết qua những công

trình nghiên cứu đăng trên tạp chí quốc tế, Nguyễn Mạnh Hùng và cs. (2013) đã

công bố; toàn cầu có 12 loài sán lá gan nhỏ thuộc họ Opisthorchiidae và 47 loài sán

lá ruột nhỏ thuộc 3 họ trong đó 36 loài thuộc họ Heterophidae, 10 loài thuộc họ

Echinostomatidae và 1 loài thuộc họ Nanophyetidae [18]. Hầu hết các nghiên cứu

về SLTQC đều quan tâm đến nhóm sán lá gan nhỏ trong đó đặc biệt là C. sinensis

và O. viverrini.

Sán lá gan nhỏ C. sinensis phân bố chủ yếu ở các quốc gia và khu vực bao

gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, khu vực miền Bắc Việt Nam và vùng Viễn Đông Nga

[1,19–21]. Hiện có khoảng 200 triệu ngƣời có nguy cơ lây nhiễm và hơn 15 triệu

ngƣời đã nhiễm C. sinensis trên toàn cầu, trong đó Trung Quốc có số ngƣời nhiễm

nhiều nhất, khoảng 13 triệu ngƣời [17], Hàn Quốc có khoảng 1,4 triệu ngƣời nhiễm

C. sinensis và nơi có tỉ lệ nhiễm cao nhất (40-48%) là cộng đồng dân cƣ gần Sông

Nakdong [22]. Vùng Viễn Đông thuộc Nga, đặc biệt khu vực gần Sông Amur, ƣớc

tính có khoảng 3000 ngƣời nhiễm sán lá gan nhỏ C. sinensis [23,24].

Vùng dịch tễ của O. viverrini chủ yếu là các khu vực thuộc hệ thống sông

6

Mekong qua các nƣớc Thái Lan, Lào, Căm-Phu-Chia và Việt Nam. Trong đó, Thái

Lan là vùng dịch tễ lớn nhất của sán lá gan nhỏ O. viverrini, tỉ lệ nhiễm trung bình

là 14%, ƣớc tính khoảng 7 triệu ngƣời nhiễm theo kết quả điều tra năm 1980-1981

[25]. Sau nhiều nỗ lực can thiệp, Thái Lan hiện có khoảng 6 triệu ngƣời nhiễm O.

viverrini [26]. Tại Lào, có khoảng 1,7 triệu ngƣời nhiễm sán lá gan nhỏ O. viverrini

năm 1992 [24]. Vùng dịch tễ của O. viverrini trên ngƣời tại Lào cũng nằm dọc theo

sông Mekong, nhƣ tỉnh Khammuane, Saravane hoặc Savannakhet, nơi có tỉ lệ

nhiễm tƣơng ứng là 32,2%; 21,5% và 25,9% [27], một số vùng của huyện Saravane

còn đƣợc ghi nhận tỉ lệ nhiễm loài sán lá gan này tới 58,5% trong báo cáo cách đây

khoảng 10 năm [28]. Tại Căm – Pu - Chia, trong một điều tra nghiên cứu tập trung

vào sán lá gan nhỏ O. viverrini tại một số cộng đồng ngƣời sống dọc sông Mekong

cho thấy tỉ lệ nhiễm O. viverrini là trên 10% [29] và trƣớc đó O. viverrini cũng

đƣợc báo cáo tại đây [30].

Sán lá gan nhỏ O. felineus, mới đây tiếp tục đƣợc ghi nhận trên ngƣời ở khu

vực phía Tây Siberia (Liên Bang Nga) nhƣ Tomsk Oblast, Khanty Mansiysk

Autonomous Okrug [31]. Một điều tra dịch tễ trên ngƣời dựa trên phƣơng pháp

Kato-Katz, các nhà khoa học đã cho biết có tới 55,3% số ngƣời đƣợc xét nghiệm

dƣơng tính với trứng của O. felineus tại cộng đồng dân cƣ khu vực phía Tây Siberia

[32].

1.2.1.2. Vấn đề sức khỏe cộng đồng

Một số loài SLTQC có ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng

nhƣ sán lá gan nhỏ. Sán lá gan nhỏ có thể tồn tại trong ống mật của ngƣời bệnh tới

26 năm [33]. Năm 2009, Hiệp hội nghiên cứu ung thƣ quốc tế đã xếp sán lá gan nhỏ

C. sinensis và O. viverrini vào nhóm tác nhân gây ung thƣ (nhóm 1) ở ngƣời [34].

Phân tích dựa trên hàng loạt các công trình nghiên cứu đƣợc xuất bản đăng

trên tạp chí quốc tế cho thấy nguy cơ (Incidence Risk Ratio - IR) dẫn đến ung thƣ của

các nhóm ngƣời; 1) nhiễm sán lá gan nhỏ, 2) nhiễm vi rút gây viêm gan B và 3)

nhiễm vi rút viêm gan C tƣơng ứng là là 4,8; 2,6 và 1,8. Nhƣ vậy, có thể thấy nhiễm

sán lá gan nhỏ có nguy cơ dẫn đến ung thƣ gan ở ngƣời cao hơn so với ngƣời nhiễm

7

vi rút viêm gan B và viêm gan C [35]. Tại Hàn Quốc, một nghiên cứu dịch tễ đã

chứng minh điều tƣơng tự; nghiên cứu tại 3 vùng có tỉ lệ ngƣời chết do ung thƣ

đƣờng ống mật là 0,3; 1,8 và 5,5 trên 100.000 ngƣời thì tỉ lệ ngƣời nhiễm C. sinenis

tƣơng ứng là 2,1%, 7,8%, và 3,3% [36]. Phân tích những bệnh nhân bị bệnh ung thƣ

gan cũng cho thấy mối tƣơng quan chặt chẽ của những ngƣời có tiền sử ăn gỏi cá

nƣớc ngọt với kết quả xét nghiệm máu dƣơng tính sán lá gan nhỏ C. sinensis và bệnh

ung thƣ gan [37]. Và có khoảng 10% số bệnh nhân bị ung thƣ đƣờng ống mật là do

nhiễm sán lá gan nhỏ C. sinensis [20].

Sán lá gan nhỏ O. viverrini có thể gây một số những bệnh lý về gan bao gồm

tiến triển xơ hóa mô gan và ung thƣ đƣờng ống mật. Gần 25% số ngƣời nhiễm sán

lá gan nhỏ này bị xơ hóa và 1% tiển triển thành ung thƣ đƣờng ống mật [38]. Theo

thống kê, có khoảng 10.000 đến 20.000 ca bệnh ung thƣ đƣờng ống mật mới đƣợc

chỉ định phẫu thuật mỗi năm [3]. Trong một nghiên cứu tại khu vực Đông Bắc Thái

Lan, 47.258 ngƣời đƣợc sàng lọc thì có 42,2% ngƣời nhiễm O. viverrini và 2.661

trƣờng hợp đƣợc xác định đã bị ung thƣ đƣờng ống mật [39].

Sán lá ruột nhỏ hầu hết không gây bệnh nghiêm trọng nhƣ sán lá gan nhỏ trừ

một số trƣờng hợp nhiễm nặng. Bệnh lý thông thƣờng gây ra bởi sán lá ruột nhỏ là

hiện tƣợng teo lông nhung ruột, tăng sinh tế bào niêm mạc với mức độ khác nhau

[40]. Nghiêm trọng hơn, một số loài nhƣ Stellantchasmus falcatus, Haplorchis spp.

và Procerovum spp. ký sinh lạc chỗ ở ngƣời, có thể dẫn đến tử vong; vị trí lạc chỗ

gây nguy hiểm là van tim, não bộ và tủy sống [41]. Trứng của sán lá ruột nhỏ

Heterophyes heterophyes đã đƣợc tìm thấy đóng kén trong não của bệnh nhân có

triệu chứng thần kinh là một bằng chứng cụ thể về hiện tƣợng lạc chỗ của SLTQC

[42].

Rất khó để thống kê đầy đủ về những tổn thất/thiệt hại do SLTQC gây ra cho

xã hội trên toàn cầu. Chỉ riêng Thái Lan, hàng năm nƣớc này mất khoảng 120 triệu

đô la Mỹ cho chi phí y tế (khám và chữa bệnh) và giảm công lao động do ngƣời

bệnh không thể tham gia vào hoạt động sản xuất [26].

8

1.2.2. Ấu trùng sán lá truyền qua cá ở động vật thủy sản

1.2.2.1. Những nghiên cứu về ấu trùng sán lá truyền qua cá ở động vật thủy sản

Các nhà ký sinh trùng học ngƣời Nhật bản là những ngƣời đã góp công lớn

trong việc làm sáng tỏ vòng đời của sán lá gan C. sinensis là đại diện cho những

loài SLTQC nói chung và những hiểu biết về dịch tễ học của bệnh. Harujiro

Kobayashi là ngƣời đầu tiên xác định cá thuộc họ cá chép là ký chủ trung gian thứ 2

của C. sinensis vào năm 1912 [43].

Trung Quốc là vùng dịch tễ của SLTQC, đặc biệt là sán lá gan nhỏ C.

sinensis. Nghiên cứu điều tra dịch tễ học trên cá nƣớc ngọt và tôm tại 32 điểm, 9

vùng thuộc Đồng bằng Sông Pearl. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ trung bình

trên cá là 37,09% (2,160/5,824) với cƣờng độ là 14.269 ấu trùng trên mỗi cá nhiễm

và 0,460 ấu trùng/g. Trong đó cá nuôi nhiễm 36,69% với 10,743 ấu trùng/cá nhiễm

và 0,312 ấu trùng/g; cá tự nhiên nhiễm tới 40,50% với 41,829 ấu trùng/cá nhiễm và

8,812 ấu trùng/g. Tôm nhiễm 3,07% với cƣờng độ 1,00 ấu trùng/tôm nhiễm. Cá

Pseudorasbora parva và Ctenopharyngodon idellus (Trắm cỏ) có tỷ lệ nhiễm cao

nhất [44].

Shen và cs. (2010) cũng đã có nghiên cứu dịch tễ học về hiện trạng sán lá gan

nhỏ trên cá tƣ nhiên tại các Sông thuộc các địa hạt Sanjiang, Rongan, Rongshui,

Liucheng, Liuzhou và Xiangzhou, Trung Quốc. Tổng số 16.204 cá thể thuộc 35 loài

thu đƣợc, đã tìm thấy C. sinensis trên 32 loài với tỷ lệ nhiễm chung là 10,5% và

cƣờng độ 4,6 metacercariae/g. Tỷ lệ nhiễm cao nhất 21,5% và cƣờng độ 9,9/g trên cá

P. parva, tiếp theo là Zacco platypus 17,8% và 8,9/g. Có sự dao động về tỷ lệ nhiễm

giữa các vùng; Xiangzhou 12,3% Sanjiang 9,1% và Liuzhou 9,7% và giữa các mùa

trong năm; cao ở mùa Hè và Thu, nhƣng thấp hơn ở mùa Xuân và Đông. Cá sống các

tầng đáy có tỷ lệ nhiễm cao hơn so với tầng mặt và tầng giữa. Các loài cá ăn tạp và ăn

thực vật nhiễm cao hơn so với các loài cá ăn động vật [44].

Năm 2007 - 2008, Hàn Quốc đã có một khảo sát toàn quốc về hiện trạng ấu

trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên cá nƣớc ngọt. Khảo sát thực hiện tại 34 vùng

9

trong cả nƣớc và thu đƣợc 677 mẫu cá thuộc 21 loài khác nhau. Trong đó 8 loài

thuộc 17 vùng khác nhau dƣơng tính. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm khác nhau giữa các

loài: cá P. parva nhiễm với tỉ lệ 48% (1- 1.142 ấu trùng/cá), Pungtungia herzi

nhiễm 60% (1-412 ấu trùng/cá); Pseudogobio esocinus nhiễm 15,7% (1-23 ấu

trùng/cá); Acheilognathus intermedia nhiễm 29% (1-7 ấu trùng/cá); Odontobutis

interrupta nhiễm 21% (1-4 ấu trùng/cá); Zacco temmincki nhiễm 33% (1- 6 ấu

trùng/cá), Z. platypus nhiễm 3,6% (1-4 ấu trùng/cá) và Hemibarbus labeo nhiễm với

tỉ lệ 26,3% và cƣờng độ trung bình là 1 ấu trùng/cá [45]. Một nghiên cứu khác trên

diện rộng về sán lá gan nhỏ ở 2 loài cá là P. herzi và Squalidus japonicus coreanus tại

3 vùng địa lý khác nhau Bắc, Trung và Nam, Hàn Quốc. Tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm

trên 2 loài cá này ở miền Bắc đƣợc ghi nhận là rất thấp; 0,7% và 2,6 ấu trùng/cá trong

khi đó miền Trung nhiễm 12,8% và 164 ấu trùng/cá và miền Nam tỷ lệ nhiễm rất cao

39,5% và 159 ấu trùng/cá [46]. Bên cạnh sán lá gan nhỏ, sán lá ruột nhỏ cũng đƣợc

xác nhận có sự phân bố khá phức tạp tại Hàn Quốc. Có 8 loài sán lá ruột nhỏ bao gồm

M. yokogawai, M. takahashii, M. miyatai, C. armatus, E. hortense, E. cinetorchis, E.

japonicus, hoặc P. muris phát hiện nhiễm trên cá nƣớc ngọt và 6 loài bao gồm H.

nocens, H. continua, P. summa, S. falcatus, S. fuscata, và S. lari nhiễm trên cá nƣớc

lợ [40].

Hồ Nhật Nguyệt, miền Trung của Đài Loan cũng đƣợc biết đến nhƣ là vùng

dịch tễ bệnh sán lá gan nhỏ Clonorchiasis. Một nghiên cứu điều tra về thành phần

loài và tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá trên cá Mƣơng xanh đã đƣợc thực hiện tại hồ này

vào tháng 10 năm 1995. Số lƣợng ấu trùng sán thu đƣợc dao động từ 2 đến 2,185 ấu

trùng/cá, trung bình là 254 ấu trùng/cá với tổng số 11,443 ấu trùng. Ấu trùng đƣợc

phân loại là 4,064 (96,23%) H. taichui; 90 (2,13%) H. pumilio, chỉ 2 (0,05%) là C.

sinensis và 67 (1,59%) ấu trùng chƣa định loại [47]. Wang và ctv (2002) đã ghi

nhận H. pumilio, H. taichui và C. sinensis nhiễm với tỷ lệ lần lƣợt là 16,2%, 3,3%

và 0,9% trên cá cá Trắm cỏ thu đƣợc từ các ao nuôi tại thị trấn Meinug, Đài Loan

[48].

Tại Thái Lan, 9 loài cá tự nhiên thuộc họ cá chép thu tại Hồ chứa nhân tạo và

10

tự nhiên tại huyện Ban Pao, tỉnh Chiang Mai, Thái Lan có nhiễm sán lá gan nhỏ O.

viverrini, ngoài ra còn phát hiện ấu trùng sán lá ruột nhỏ họ Heterophidae nhƣ H.

taichui, H. pumilio và Centrocestus spp. Đặc biệt sán lá ruột nhỏ H. taichui nhiễm

cao hơn 384 lần so với sán lá gan nhỏ O. viverrini. Trong số các loài cá, Puntius

leiacanthus nhiễm H. taichui với cƣờng độ cao nhất; 182 ấu trùng/cá trong khi đó P.

orphoides nhiễm O. viverrini nặng nhất; 1,4 ấu trùng/cá [49].

Hồ chứa lớn không những là môi trƣờng sống cho các loài động vật thủy sản

mà còn là môi trƣờng sinh thái phù hợp cho sự phát triển của sán lá truyền qua cá.

Thu mẫu và xét nghiệm tới 62 loài cá khác nhau tại 2 hồ chứa là Mae Ngad và Mae

Kuang Udomtara tại tỉnh Chiang Mai, Thái Lan. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện

ít nhất 2 loài sán lá ruột nhỏ là Haplorchis taichui và Haplorchoides sp., nhiễm với

tỷ lệ; 83,9 và 74,2% tƣơng ứng ở các hồ chứa nói trên [50].

1.2.2.2. Tính đặc trưng vật chủ của metacercariae

Một số loại ấu trùng SLTQC đƣợc xem là có vật chủ trung gian (loài cá) đặc

trƣng. Theo Rhee et al (1980) đó là a xít linoleic trong nhớt đƣợc tiết ra từ biểu mô

cá nó giúp vật chủ kháng lại ấu trùng cercariae [51]. Nghiên cứu trƣớc đây cho thấy

nhớt tiết ra từ biểu mô của cá vàng Cyprinus carpio và Aplocheilus latipes không

chỉ hoạt hóa với cercariae mà còn cả với metacercariae [52]. Khả năng hoạt hóa của

thành phần hóa học này khác nhau ở mỗi loài cá cũng nhƣ tác dụng đặc hiệu với

mỗi loại ấu trùng sán. Đây cũng chính là lý do cá P. parva là vật chủ đặc trƣng của

ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis. Bởi theo nghiên cứu, nhớt của P. parva cần đến

8,5 giờ để làm chết cercariae của C. sinensis trong khi đó nhớt của loài cá khác chỉ

mất đến 3-6 phút, mà thông thƣờng, cercariae chỉ cần cần 2-3 phút để xâm nhập qua

da cá [52].

Theo tổng hợp, có đến khoảng 102 loài cá thuộc 59 giống, 15 họ tại Trung

Quốc [53] và 80 loài thuộc 9 họ, trong đó 71 loài thuộc họ cá Chép tại Hàn Quốc

[54,55] đƣợc xác định là vật chủ trung gian thứ 2 của sán lá gan nhỏ C. sinensis.

Trong số đó phải kể đến các loài cá gồm Pseudorasbora parva, P. herzi và Abbottina

spp. đƣợc xem là vật chủ đặc trƣng của ấu trùng C. sinensis [44–46,53]. Tại Thái

11

Lan, nhiều loài cá thuộc họ cá Chép nhƣ Puntius orphoides, P. leiacanyhus,

Cyclochelicthys apogon, C. armartus, C. siaja và Hampala dispar đƣợc xác định

nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ O. viverrini [56].

1.2.2.3. Biến động mùa vụ ấu trùng sán lá truyền qua cá

Trong thí nghiệm gây nhiễm cercariae của C. sinensis với cá Trắm cỏ, ở

nhiệt độ dƣới 10oC, ấu trùng này không thể xâm nhập đƣợc vào cá, chỉ một số

lƣợng nhỏ ấu trùng xâm nhập đƣợc ở nhiệt độ 15oC. Nhiệt độ tối ƣu nhất cho ấu

trùng nhiễm vào cá là 25oC. Ở nhiệt độ này, có 84,5% ấu trùng phát triển một cách

hoàn thiện sau 20 ngày nhƣng ở nhiệt độ 15oC để 75,6% ấu trùng phát triển hoàn

thiện phải mất tới 50 ngày [57]. Nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy ấu trùng C.

sinensis bắt đầu xuất hiện và nhiễm trên cá vào giai đoạn tháng 4 khi nhiệt độ tăng

lên từ 16 đến 22,9oC và có xu hƣớng tăng cao vào tháng 6 và 7 khi nhiệt độ là 24-

27oC rồi sau đó giảm dần [53].

Tại Hàn Quốc, nghiên cứu trƣớc đây cho thấy, ấu trùng C. sinensis nhiễm

trên cá nhiều nhất là vào tháng 9 và thấp nhất vào tháng 12 và tháng 1 [58]. Tuy

nhiên, nghiên cứu gần đây lại cho thấy ấu trùng C. sinensis thƣờng thấy nhiễm

nhiều trên cá giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 7, đỉnh điểm là tháng 6 (giai đoạn mùa

Hè) do cercariae thƣờng ít thoát ra khỏi ốc giai đoạn từ tháng 11 đến tháng 3 (giai

đoạn mùa Đông) [55]. Huang và Khaw (1964) đã có khảo sát về mùa vụ nhiễm ấu

trùng trên cá Pseudorasbora parva tại Đài Loan cho thấy; tỉ lệ cá P. parva nhiễm ấu

trùng C. sinensis là 100% vào mùa Hè (tháng 6-8) với 418 ấu trùng/cá, 96,6% vào

mùa Thu - Đông (tháng 9-11) với 309 ấu trùng/cá; 80% vào Đông - Xuân (tháng 12-

2) với 96 ấu trùng/cá; rồi lại dần tăng lên vào giai đoạn Xuân - Hè (tháng 3-5) với

227 ấu trùng/cá. Đáng lƣu ý là cƣờng độ nhiễm tăng một cách đột biến vào tháng 5,

từ 152 ấu trùng/cá vào tháng 4 lên đến 313 ấu trùng/cá vào tháng 5 chỉ sau 1 tháng

[53].

Tại Thái Lan, lƣợng ấu trùng sán lá gan nhỏ O. viverrini trong cá cũng biến

động theo mùa vụ tại vùng Đông Bắc - vùng dịch tễ của sán lá gan nhỏ O. viverrini.

Nghiên cứu cho thấy, sự biến động khác nhau tùy theo vật chủ nhƣng lƣợng ấu trùng

12

tìm thấy trên cá có xu hƣớng cao hơn vào cuối mùa mƣa từ tháng 7 đến tháng 1 và

thấp hơn vào mùa Hè từ tháng 3 đến tháng 6 [59]. Tƣơng tự, điều tra nghiên cứu tại

Chiang Mai, Thái Lan, cho thấy ấu trùng sán lá ruột nhỏ họ heterophyid cũng biến

động theo mùa vụ. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng các loài sán lá ruột trên cá cao nhất 95%

trong thời kỳ mùa đông tháng 11 đến tháng 1 và thấp nhất 90% trong giai đoạn mùa

Hè; tháng 2 đến tháng 4 [60].

1.2.2.4. Điều kiện bất hoạt ấu trùng sán lá truyền qua cá

Nghiên cứu khả năng sống sót của ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trong cá

P. parva, ở nhiệt độ -12oC ấu trùng vẫn còn sống trong vòng 10-20 ngày, tuy nhiên ở

-20oC ấu trùng này chết sau 3-7 ngày [61]. Quy chế số 852/2004 của Nghị viện và

Hội đồng cộng đồng Châu Âu có quy định; ấu trùng sán trong sản phẩm thủy sản phải

đƣợc bất hoạt (không còn khả năng lây nhiễm) bằng phƣơng pháp đông lạnh ở -100C

trong 10 ngày, –200C trong 3 - 4 ngày, -28

0C trong vòng 28 giờ hoặc -35

0C trong

vòng 15 giờ. Theo khuyến cáo của Bộ Y tế, USSR - Cộng hòa liên bang Soviet

(1990), ấu trùng sán lá gan nhỏ O. felineus trong cá cần đƣợc bảo quản ở -280C trong

32 giờ hoặc -400C trong 7 giờ để bất hoạt chúng. Fattakhov (1989) cho biết đông lạnh

cá ở -28, -35 và -400C sẽ cần 20 giờ, 8 giờ và 2 giờ tƣơng ứng để bất hoạt ấu trùng

sán lá gan nhỏ O. felineus [62].

Muối cũng đƣợc sử dụng nhƣ một biện pháp làm bất hoạt ấu trùng sán.

Trong điều kiện nƣớc muối (3 mg muối/10 mg cá) ử ở 26oC, ấu trùng sống từ 5-15

ngày [61]. Ở nồng độ muối 13,6% ấu trùng Opisthorchis sp. trong cá đƣợc lên men

sẽ bị chết sau 24 giờ [63] nhƣng ở độ muối 20%, ấu trùng bị bất hoạt sau 5 giờ [64].

Tuy nhiên, ấu trùng C. sinensis ở cá nhiễm tự nhiên trong để bất hoạt dung dịch

nƣớc muối 30% cần phải mất 8 ngày [61].

1.3. Nghiên cứu sán lá truyền lây qua cá trong nƣớc

1.3.1. Sán lá truyền qua cá trên người

Trƣớc đây, Tổ chức Y tế thế giới, đã báo cáo có khoảng 1 triệu ngƣời nhiễm

sán lá gan nhỏ; C. sinensis ở miền Bắc và O. viverrini ở miền Trung Tây Nguyên,

13

Việt Nam [24]. Một số khảo sát cũng đã xác nhận về sự phân bố của sán lá gan nhỏ

trên ngƣời ở nhiều tỉnh thành trong cả nƣớc, đặc biệt là một số vùng dịch tễ quan

trọng nhƣ Nam Định, Ninh Bình và Phú Yên [4,65,66].

Trong giai đoạn 10 năm qua, đã có nhiều điều tra trên ngƣời tại các vùng

dịch tễ hoặc vùng có nguy cơ nhiễm SLTQC. Nhìn chung, có sự biến động rất khác

biệt giữa các vùng; tỉ lệ nhiễm sán lá trên ngƣời thƣờng rất thấp ở các tỉnh phía

Nam, cao dần ở khu vực miền Trung đến khu vực các tỉnh đồng bằng Bắc bộ. Tỉ lệ

nhiễm sán lá trên ngƣời đƣợc báo cáo chỉ 0,6% đối với các hộ nuôi trồng thủy sản

tại 5 huyện thuộc tỉnh Nghệ An [67]. Trong khi đó, tại Nam Định tỉ lệ nhiễm

SLTQC trên ngƣời là 64,9%. Nghiên cứu cũng xác định đƣợc 1 loài sán lá gan nhỏ

là C. sinensis và 4 loài sán lá ruột nhỏ bao gồm H. pumilio, H. taichui, H.

yokogawai và S. falcatus. Chọn lựa môt số trƣờng hợp dƣơng tính SLTQC để đãi

phân thu sán; có 51,5% thu đƣợc sán lá gan nhỏ C. sinensis trƣờng thành, hầu nhƣ

100% số ngƣời này đều thu đƣợc sán lá ruột nhỏ trƣởng thành từ 1 - 4 loài, đặc biệt

là H. pumilio chiếm đến 90,4% [68]. Ở một địa điểm khác tại Nam Định, sán lá gan

nhỏ C. sinensis cũng đƣợc xác định nhiễm tới 26%, trong đó nam giới nhiễm nhiều

hơn nữ giới 3,6 lần do thói quen ăn gỏi chủ yếu ở nam giới [69]. Giải thích cho sự

khác nhau này, nghiên cứu tập trung vào nhóm đối tƣợng ăn gỏi cá tại Hải Hậu,

Nam Định, xét nghiệm đối tƣợng có nguy cơ này cho thấy có 40,2% mẫu dƣơng

tính với SLTQC [70]. Tại Ninh Bình, nghiên cứu gần đây cho thấy có 16,5 - 20,5%

và 31,7% ngƣời nhiễm SLTQC lần lƣợt ở các huyện Gia Viễn và Kim Sơn [11,71].

Những điều tra khác trên ngƣời đƣợc triển khai bởi Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và

Côn trùng Trung ƣơng xác nhận vùng dịch tễ của sán lá gan nhỏ C. sinensis ở Hà

Nam, Thanh Hóa, Hòa Bình và Hà Nội và O. viverrini ở Phú Yên, Bình Định,

Quảng Trị và Đắc Lắc [72]. Một vùng dịch tễ của sán lá truyền lây qua cá mới gần

đầy vừa đƣợc phát hiện tại huyện Lục Yên, Yên Bái. Kết quả xét nghiệm phân

dƣơng tính với trứng sán lá lên tới 35% [73].

Hầu hết các khảo sát về SLTQC trên ngƣời (Bảng 1.1) trong thời gian qua

đều đƣợc trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện bởi Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn

trùng Trung ƣơng dựa trên phƣơng pháp xét nghiệm mẫu phân hay gọi là Kato-

14

Katz. Sự tƣơng đồng về hình thái trứng của các loài SLTQC trong tiêu bản Kato-

Katz là một trở ngại trong chẩn đoán đòi hỏi các kỹ thuật viên xét nghiệm cần có

kinh nghiệm. Tuy nhiên, hầu hết các khảo sát trên ngƣời chỉ dừng lại ở việc xác

định tỉ lệ nhiễm SLTQC nói chung. Để xác định rõ hơn về thành phần loài SLTQC

thì cần phải cho bệnh nhân uống thuốc và đãi phân để thu sán trƣờng thành - đây là

việc hết sức phức tạp.

Bảng 1.1: Sán lá truyền qua cá trên người tại một số vùng dịch tễ ở nước ta

SLTQC THỜI GIAN ĐỊA ĐIỂM NGUỒN

Sán lá 2005 Nghệ An [67]

Sán lá và sán lá gan nhỏ 2006 Nam Định [68]

Sán lá gan nhỏ 2006 Nam Định [69]

Sán lá và sán lá gan nhỏ 2012 Nam Định [70]

Sán lá và sán lá gan nhỏ 2013 Ninh Bình [11]

Sán lá và sán lá gan nhỏ 2015 Yên Bái [73]

Sán lá gan nhỏ - Hòa Bình, Hà Nội, Thanh

Hóa, Ninh Bình

[72]

Sán lá gan nhỏ 2016 Hà Nam [72]

Sán lá gan nhỏ * - Phú Yên, Bình Định,

Quảng Trị, Đắc Lắc

[72]

Sán lá gan nhỏ 2017 Ninh Bình [71]

SLTQC: Sán lá truyền qua cá *Opisthorchis viverrini

1.3.2. Sán lá truyền qua cá trên động vật

Những nghiên cứu đã xác định chó, mèo là vật chủ lƣu trữ quan trọng đối với

sán lá gan nhỏ C. sinensis tại khu vực miền Bắc nƣớc ta [5,74] và O. viverrini ở

miền Trung Tây Nguyên [5,65]. Những nghiên gần đây, ngoài sán lá gan nhỏ, hàng

loạt các loài sán lá ruột nhỏ cũng đã đƣợc phát hiện nhiễm trên nhiều vật chủ lƣu trữ

khác nhau nhƣ chó, mèo, lợn, gà, vịt và chuôt (Bảng 1.2).

Động vật nuôi nhƣ chó, mèo và lợn là nguồn lây truyền SLTQC chính trong

vùng dịch tễ. Tại cùng một địa điểm ở Nghệ An, mặc dù ngƣời chỉ xác định nhiễm

15

dƣới 1% [67], tuy nhiên tỉ lệ nhiễm ở mèo, chó và lợn tƣơng ứng là 48,6%; 35,0%

và 14,4% và có đến 7 loài sán lá ruột nhỏ đƣợc xác nhận tại nghiên cứu này [73].

Kết quả nghiên cứu này cùng phù hợp với một công bố gần đây về thành phần loài

ấu trùng tìm đƣợc trên cá [76].

Bảng 1.2: Sán lá truyền qua cá trên động vật tại một số vùng dịch tễ ở nước ta

SLTQC VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM NGUỒN

Sán lá Mèo, chó, lợn Nam Định [77]

Sán lá Mèo, chó, lợn Nghệ An [75]

Sán lá Vịt, gà Nam Định [78]

Sán lá Chuôt Nam Định [79]

Sán lá Mèo, chó, lợn Ninh Bình [11]

Sán lá gan nhỏ*

Vịt Bình Định [80,81]

Sán lá gan nhỏ* Mèo#

Thái Bình [82]

Sán lá gan nhỏ** Mèo# Thái Bình [82]

Sán lá gan nhỏ** Mèo# Đồng Tháp, Tây Ninh [83]

SLTQC: Sán lá truyền qua cá; *Clonorchis sinensis; **Opisthorchis viverrini; # mèo từ lò mổ

Tại Nam Định, kết quả điều tra về vật chủ lƣu trữ phản ảnh đúng tình hình

nhiễm sán trên ngƣời [68], tỉ lệ nhiễm đƣợc công bố là 70,2% ở mèo; 56,9% ở chó

và 7,7% ở lợn. Nghiên cứu xác định đƣợc 1 loài sán lá gan nhỏ C. sinensis và 11

loài sán lá ruột nhỏ thuộc các giống Haplorchis, Stellantchasmus, Stictodora và

Centrocestus [77]. Cũng tại vùng dịch tễ này; vịt, gà và chuột cũng đƣợc xem là vật

chủ chính của một số loài sán lá ruột nhỏ mặc dù tỉ lệ nhiễm thấp [78,79].

Tại Ninh Bình, chó, mèo và lợn cũng đƣợc xác nhận là vật chủ chính của

SLTQC bởi tỉ lệ nhiễm khá cao, tƣơng ứng là 32,7%; 9,0%, và 6,0% trong đó có sán

lá gan nhỏ C. sinensis [11]. Nghiên cứu gần đây của Dao et al. (2013, 2016) đã công

bố loài O. viverrini đƣợc phát hiện nhiễm trên vịt nuôi tại Bình Định thuộc khu vực

miền Trung với tỉ lệ nhiễm là 34,3% [80,81], đây vốn là vùng dịch tễ của O.

viverrini. Nhóm tác giả cũng cung cấp bằng chứng về phân tử giữa những mẫu

16

nghiên cứu so sánh với các trình tự của loài O. viverrini đã công bố trên GenBank.

Tuy nhiên Nawa et al. (2015) đã phân tích và cho rằng nhóm tác giả trên đã nhầm

lẫn về định loại giữa loài O. viverrini và O. paragenimus, cũng nhƣ khoảng cách di

truyền giữa những mẫu nghiên cứu so với loài O. viverrini là quá lớn, vƣợt qua

khoảng cách biến dị trong loài [84].

Mới đây, nghiên cứu tại các lò mổ mèo, chủ yếu tại Thái Bình đã phát hiện

42,9% mèo tìm thấy sán lá gan nhỏ C. sinensis trong gan, mật với cƣờng độ 2-

1.724 sán/mèo và 2,0% sán lá gan nhỏ O. viverrini 20-140 sán/mèo [82]. Việc có

mặt C. sinensis trên mèo thu tại lò mổ ở Thái Bình không lạ, nhƣng ngạc nhiên là

O. viverrini đƣợc phát hiện trên mèo tại đây mặc dù tỉ lệ thấp. Ở các tỉnh phía Nam,

mèo tại các lò mổ ở Đồng Tháp và Tây Ninh cũng đƣợc xác nhận nhiễm sán lá gan

nhỏ O. viverrini với tỉ lệ nhiễm lần lƣợt là 2,5% và 17,8% [83].

1.3.3. Ấu trùng sán lá truyền qua cá trên ốc

Ốc là vật chủ trung gian thứ 1 của sán lá truyền lây qua cá. Các dạng ấu

trùng khác nhau của sán lá truyền qua cá đƣợc mô tả khi phát hiện nhiễm trên một

số loài ốc; ấu trùng Parapleurolophocercous nhiễm trên ốc T. scabra, M.

tuberculata, B. fuchsiana và S. messageri trong khi đó pleurolophocercous nhiễm

trên B. fuchsiana và S. messageri [85]. Tuy nhiên, trong giới hạn nhất định, nghiên

cứu chƣa xác định chính xác loại ấu trùng nào thuộc loài sán cụ thể. Nhƣng ở một

nghiên cứu khác, dạng ấu trùng parapleurolophocercous đƣợc mô tả tƣơng tự nhƣ

trong nghiên cứu này đã đƣợc xác định là H. pumilio [86]. Trong môi trƣờng tự

nhiên, paraleurolophocercous chiếm khoảng 40% tất cả các dạng ấu trùng cercariae

nhiễm trên ốc, đặc biệt là loài M. tuberculata, vật chủ phổ biến nhất ở tất cả các môi

trƣờng (kênh mƣơng, ruộng và ao). Loại ấu trùng này còn đƣợc phát hiện trên các

loài ốc thuộc họ Thiariidae và S. mesageri tại Nam Định [87]. Ấu trùng

parapleurolophocercous phát hiện nhiễm trên ốc Bithynidae (B. fuchsiana và P.

striatus) và Thiaridae (M. tuberculata…) ở miền Bắc [88]. Ở Ninh Bình, M.

tuberculata và B. fuchsiana là loài phổ biến nhất, tuy nhiên parapleurolophocercous

cercariae chỉ phát hiện trên ốc M. tuberculata [11].

17

Mặc dù, tỉ lệ ốc nhiễm ấu trùng rất nhỏ nhƣng rủi ro lây truyền rất lớn bởi nó

có thể thải ra một lƣợng lớn ấu trùng. Nhóm ấu trùng parapleurolophocercous phát

triển thành các loài sán lá ruột nhỏ trong khi đó pleurolophorcercous phát triển

thành cả sán lá ruột và sán lá gan nhỏ. Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy ấu

trùng nhóm parapleurolophocercous chiếm ƣu thế [11,85,87,88]. Điều này giải thích

tại sao sán lá ruột nhỏ là những loài chủ yếu nhiễm trên vật chủ cuối cùng và cá tại

các tỉnh miền Bắc [15,68,75,77,89]. Hình thái ấu trùng cercariae của sán khá phức

tạp – khó xác định dựa vào hình thái, cả C. sinensis và O. viverrini đã phát trên cá

nƣớc ngọt, động vật (chó, mèo…) và ngƣời nhƣng vẫn chƣa rõ về ấu trùng của

chúng ở các vật chủ tiềm năng là ốc B. fuchsiana và P. manchouricus.

1.3.4. Ấu trùng sán lá trên cá

1.3.4.1. Một số kết quả nghiên cứu về ấu trùng sán lá trên cá

Có 2 loài sán lá gan nhỏ bao gồm C. sinensis và O. viverrini và ít nhất 14

loài sán lá ruột nhỏ đƣợc xác định nhiễm trên cá ở nƣớc ta [90]. Ấu trùng sán lá gan

nhỏ C. sinensis phát hiện ở các tỉnh thuộc khu vực ĐBSH và O. viverrini ở khu vực

miền Trung và ĐBSCL. Trong số các loài sán lá ruột nhỏ, H. pumilio là loài phổ

biến nhất và chỉ phát hiện ở cá nƣớc ngọt. Mức độ nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ

cao nhất ở khu vực ĐBSH, rồi đến khu vực miền Trung và thấp nhất là ở khu vực

ĐBSCL.

Ở khu vực ĐBSH: Báo cáo đầu tiên về hiện trạng nhiễm ấu trùng SLTQC ở

Việt Nam đƣợc thực hiện bởi Lê Văn Châu và cộng sự (1997) tại huyện Kim Sơn,

tỉnh Ninh Bình. Ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis đƣợc xác định trên cá Mè trắng

với tỷ lệ nhiễm 44,47%, cá Chép 25%, cá Trắm cỏ 13,33%, cá Trôi việt 13,85% và

cá Rô đồng là 32% [5]. Hà Duy Ngọ (2003) có công bố thứ 2 về ấu trùng sán lá gan

nhỏ C. sinensis trên cá tại 2 tỉnh Nam Định và Ninh Bình. Các loài cá đƣợc xác định

nhiễm loại ấu trùng này bao gồm cá Rô phi đen, cá Diếc, cá Thiểu và cá Quả [7].

Giai đoạn năm 2002-2003, Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng Trung Ƣơng đã

thực hiện một Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu mầm bệnh giun sán ký sinh trên thịt lợn,

trâu, bò và cá nƣớc ngọt tại Hà Nội”. Báo cáo cho thấy ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

18

sinensis nhiễm ở 7/10 loài cá bao gồm cá Diếc (21,7%), Trắm cỏ (13,3%), Trê đen

(6,7%), Chép 3,3%, cá Chuối (3,3%), Rô phi đen 1,7% và cá Trôi việt cùng nhiễm

tỷ lệ 1,7% [91]. Những nghiên cứu về ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên cá

phản ánh đúng hiện trạng sán lá gan nhỏ C. sinensisi công bố trên ngƣời [4,24].

Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu gần đây lại cho thấy ấu trùng sán lá gan nhỏ có

tỷ lệ nhiễm rất thấp trong khi đó ấu trùng nhiều loài sán lá ruột nhỏ có tỷ lệ nhiễm

cao [8–11,89] mà hầu hết các loài sán lá ruột này chƣa đƣợc công bố trong các

nghiên cứu trƣớc đây, cụ thể; nghiên cứu trên cả cá nuôi (829 mẫu) và cá tự nhiên

(714 mẫu), Phan et al., (2010a) phát hiện ấu trùng của 6 loài sán lá truyền qua cá (C.

sinensis, H. pumilio, H. taichui, H. yokogawai, P. varium và C. formosanus) trên 23

loài cá nƣớc ngọt tại Nam Định. Tuy nhiên, ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis chỉ

phát hiện nhiễm trên 1 cá thể duy nhất (0,1%) trong khi đó ấu trùng sán lá ruột nhỏ

H. pumilio nhiễm phổ biến với tỷ lệ nhiễm chung là hơn 59,8% [8]. Một nghiên cứu

khác, xét nghiệm 3820 cá thể thuộc 17 loài cá trong 61 ao nuôi thƣơng phẩm tại

huyện Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định, Phan et al., (2010b) đã xác định tỷ lệ nhiếm ấu

trùng SLTQC là 72%. Ngoài ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensiscòn có ấu trùng của

5 loài sán lá ruột nhỏ gồm H. pumilio, H. taichui, H. yokogawai, C. formosanus và

P. varium. Tuy nhiên, ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis chỉ phát hiện nhiễm trên

cá Mè trắng (1/1185 mẫu kiểm tra) trong khi đó ấu trùng sán lá ruột nhỏ nhƣ H.

pumilio nhiễm trên tất cả các loài cá kiểm tra. Cá Rohu nhiễm 58%, Mè trắng 86%,

Mrigal 74%, Trắm cỏ 87%, cá Diếc 65%, Chày mắt đỏ 71%, Chim trắng 73%, Rô

phi vằn 24%, Chép 82%, Trôi việt 38%, Trê vàng 78%, cá Chuối sộp 88%, Rô đồng

94%, Mè vinh 50%, Mƣơng xanh 33%, Mè hoa 100% và Thát lát 100% [89]. Ấu

trùng C. sinensis, H. pumilio, H. taichui và C. formosanus cũng đƣợc phát hiện

nhiễm trên cá giống tại Nam Định và Ninh Bình. Trong đó C. sinensis nhiễm với tỷ

lệ 1,5% trên cá Trắm cỏ, Rohu và cá Mè trắng nhƣng không phát hiện ở cá Mrigal

và Chim trắng. Trong khi đó, tỷ lệ nhiễm ấu trùng H. pumilio là 55,6% và C.

formosanus là 41,0% ngoại trừ ấu trùng H. taichui nhiễm thấp 0,3% trên cá Trắm cỏ

và Mè trắng [9]. Tƣơng tự, ấu trùng sán lá nhỏ chỉ phát hiện với tỷ lệ 0,05% trên cá

hƣơng và cá giống tại Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và Thanh Hóa trong khi đó

19

ấu trùng sán lá ruột nhỏ chiếm tới 94% [10].

Nƣớc thải sinh hoạt có thể chứa nhiều trứng giun sán là nguy cơ rủi ro cho sự

lan truyền của giun sán. Mặc dù vậy, nghiên cứu hiện trạng nhiễm ấu trùng sán trên

cá trong hệ thông nuôi cá sử dụng nƣớc thải tại Nam Định và Hà Nội lại cho thấy tỷ

lệ nhiễm khá thấp. Ấu trùng các loài sán là ruột H. pumilio, H. taichui và C.

formosanus đƣợc phát hiện nhiễm trên cá Chép, Trắm cỏ, Mè trắng và Rô phi vằn

nhƣng tỷ lệ nhiễm thấp từ 2,0 - 6,2% [92]. Ấu trùng của 6 loài sán lá ruột bao gồm

H. taichui, H. pumilio, C. formosanus, P. varium, S. falcatus và H. continua cũng

đƣợc ghi nhận nhiễm trên cá nuôi nƣớc thải tại Hà Nội và Nam Định trong một

nghiên cứu khác [93]. Cả 2 nghiên cứu trên đối tƣợng nuôi nƣớc thải đều không

phát hiện ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis điều đó cho thấy điều kiện môi trƣờng

sinh thái có vai trò quan trọng đối với ấu trùng sán lá gan nhỏ.

Tỷ lệ nhiễm ấu trùng C. sinensis trên cá nuôi trong ao tại xã Hợp Thịnh, Kỳ

Sơn, Hòa Bình là 20,8% (51/245 mẫu kiểm tra), cụ thể tỷ lệ nhiễm trên cá Trắm cỏ

là 55,2% (48/87 mẫu), Mè trắng 4,3% (2/46 mẫu) và Mè hoa 100% (1/1 mẫu) trong

khi đó cá tự nhiên có nguồn gốc từ đầm hồ, sông suối và đồng ruộng trong vùng đều

không nhiễm ấu trùng này [94]. Ngƣợc lại, ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis lại

không nhiễm trên các loài cá nuôi nhƣ Mè trắng, Trắm cỏ tại Gia Viễn, Ninh Bình

nhƣng lại phát hiện trên cá tự nhiên đó là cá Mƣơng 12,5% (1/8). Tỷ lệ nhiễm ấu

trùng sán (C. sinensis, Haplorchis spp., P. varium và C. formosanus) nói chung trên

cá tại đây là khá cao 56,1% [11]. Tƣơng tự, ấu trùng C. sinensislại đƣợc phát hiện

trên cá Mƣơng và cá Thiểu với tỷ lệ tƣơng ứng 21,95% (92/419) và 43,75% (7/16)

thu đƣợc tại Ninh Bình đều là các loài cá tự nhiên[95]. Nghiên cứu gần đây ghi

nhận có đến 7 loài cá bao gồm Mè trắng, Rohu, Trắm cỏ, Chép, Diếc, Rô đồng và

Rô phi vằn thu đƣợc tại các tỉnh Hải Dƣơng, Hà Nội và Nam Định nhiễm ấu trùng

sán lá gan nhỏ C. sinensis, trong đó cá Mè trắng nhiễm cao nhất 53,33%, cá Diếc

nhiễm 44% [14].

Cá nƣớc lợ và mặn cũng nhiễm ấu trùng sán lá truyền qua cá. Nguyễn Thị Hà

(2008) báo cáo cá Song chấm nâu, cá Bống bớp và cá Đối mục nuôi nƣớc lợ tại

20

Nam Định có nhiễm ấu trùng sán lá truyền qua cá với tỷ lệ cao. Ấu trùng S. falcatus

ở cá Bống bớp chiếm 87,22% (cƣờng độ nhiễm 30,57 ấu trùng/cá), cá Song chấm

nâu 17,92% (cƣờng độ nhiễm 6,95 ấu trúng cá), đặc biệt là cá Đối mục có tỷ lệ nhễm

87,80% và cƣờng độ trung bình 345,36 ấu trùng/cá. Metagonimus sp. cũng đƣợc xác

định nhiễm trên cá Bống bớp với tỷ lệ 21,11% (5,22 ấu trùng/cá). Ấu trùng sán H.

continua nhiễm trên cá Bống bớp (11,39%; 3,44 ấu trùng/cá) và cá Song chấm nâu

(16,35%; 6,95 ấu trùng/cá). Ấu trùng P. varium nhiễm trên cá Bống bớp với tỷ lệ

63,61% và cƣờng độ 5,99 ấu trùng/cá. Ấu trùng C. formosanus phân lập đƣợc từ cá

Bống bớp và cá Song với tỷ lệ tƣơng ứng là 3,09% (1,29 ấu trùng) và 5,03% (1,4 ấu

trùng), ấu trùng S. lari nhiễm nhiều trên cá Bống bớp (69,44%; 9,99 ấu trùng) và cá

Đối (32,95%; 16,81 ấu trùng) nhƣng cá Song chấm nâu chỉ nhiễm với tỷ lệ 4,4% và

cƣờng độ 1,93 ấu trùng/cá. Ấu trùng Echinostoma sp. cũng đƣợc phát hiện trên cá

Bống bớp 38,06% với 7,42 ấu trùng/cá [96]. Ấu trùng 2 loài sán lá ruột nhỏ H.

continua và P. varium cũng đƣợc ghi nhận có nhiễm trên cá song nuôi lồng tại Cát

bà, Hải Phòng. Ấu trùng P. varium nhiễm 10% ở cá Song chấm nâu (E. coioides) và

1,2% ở cá Song dẹt (E. bleekeri) trong khi đó ấu trùng H. continua chỉ nhiễm trên cá

Song dẹt với tỷ lệ 1,2% [97].

Khu vực miền Trung: Phát hiện đầu tiên về hiện trạng nhiễm ấu trùng sán lá

truyền qua cá là ấu trùng sán lá gan nhỏ O. viverrini năm 1992. Trong số 1721 cá

thể thuộc 10 loài cá nƣớc ngọt thu đƣợc tại xã An Mỹ, huyện Tuy An, Phú Yên đã

phát hiện cá Diếc nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ với tỷ lệ 28,65% [98]. Cũng tại Phú

Yên, nghiên cứu gần đây xác 4 loài cá nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ O. viverrini;

ngoài cá Diếc (28,1%; 28,2 ấu trùng/cá) là cá Mè đất Puntius brevis (62,5%; 2,2 ấu

trùng/cá), cá Lóc Channa spp. (8,3%; 1,0 ấu trùng/cá) và cá Lòng tong Rasbora sp.

(4,3%; 2,0 ấu trùng/cá). Trong nghiên cứu này, ấu trùng O. viverrini cũng đã đƣợc

xác nhận thông qua gây nhiễm động vật (chuột hamster) và sinh học phân tử [99].

Các loài H. continua, P. varium và Pygiopsis sp. cũng đƣợc xác định nhiễm trên cá

Song, cá Đối nuôi và tự nhiên tại Khánh Hóa [100]. Trƣơng Thị Hoa và Nguyễn

Ngọc Phƣớc (2009) báo cáo tình hình nhiễm ấu trùng sán lá song chủ trên cá Chép

và Trắm cỏ giai đoạn giống nuôi tại Thừa Thiên Huế. Tỷ lệ nhiễm ấu trùng trên cá

21

Chép và Trắm cỏ lần lƣợt là 65,4% và 55,8%. Ấu trùng C. formosanus nhiễm trên

mang cá với cƣờng độ tƣơng ứng là 5,7 và 4,4 ấu trùng/mang cá Chép và Trắm cỏ.

Ấu trùng H. pumilio nhiễm trên cá Chép là 32,9% và Trắm cỏ là 27,5%. Đặc biệt, là

sự hiện diện của ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên cá Chép 27,5% và Trắm cỏ

24,6% [101]. Tại Nghệ An, tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá truyền qua cá là 44,6%, dao

động từ 12,5% đến 61,0% trên cá nuôi thƣơng phẩm và 43,6% dao động từ 7,4%

đến 62,8% ở cá giống. Ấu trùng đƣợc phát hiện đều là của sán lá ruột nhỏ bao gồm

H. pumilio, H. taichui, H. yokogawai, C. formosanus, S. falcatus và Echinochasmus

sp. [76]. Cá Rohu giai đoạn cá giống ƣơng nuôi tại Thanh Hóa cũng phát hiện

nhiễm ấu trùng của một số loài sán lá ruột trong đó điển hình là H. pumilio [10].

Khu vực ĐBSCL: là khu vực nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, đặc biệt là

cá Tra, cá Lóc, Tai tƣợng...Những khảo sát đầu tiên về hiện trạng nhiễm ấu trùng

sán lá truyền qua cá đƣợc thực hiện năm 2006 tại An Giang, Tiền Giang và Cần

Thơ. Mặc dù có xuất hiện ấu trùng nhƣng hầu hết tỷ lệ nhiễm khác thấp. Cá Tra

(Pangasianodon hypophthalmus) nuôi ao chỉ nhiễm ấu trùng sán lá ruột, trong đó

cao nhất là nhiễm H. pumilio 0,6%. Ấu trùng sán lá gan nhỏ O. viverrini nhiễm trên

cá Lóc nhím (Channa striata) tự nhiên 1,9%. Ngoài ra, cá Rô đồng và cá Lóc tự

nhiên tại An Giang cũng nhiễm ấu trùng P. varium [102]. Ấu trùng các loài sán lá

ruột H. pumilio, H. taichui, S. falcatus và C. formosanusnhiễm trên nhiều loài cá

trong hệ thống ao nuôi tại Cần Thơ, Tiền Giang, Vĩnh Long và Đồng Tháp [103–

105]. Tại Tiền Giang và Cần Thơ, tỷ lệ nhiễm ấu trùng trong mô hình nuôi đơn cá

Tai tƣợng là 1,7% và nuôi mô hình Vƣờn - Ao - Chuồng (VAC) là 6,6%. Trong số

ấu trùng các loài sán, ấu trùng sán lá ruột H. pumilio chiếm ƣu thế tới hơn 58,0% số

lƣợng ấu trùng phân lập đƣợc. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, tỷ lệ nhiễm ấu

trùng sán lá nói chung vào mùa mƣa cao hơn so với mùa khô [103]. Trong hệ thống

sản xuất giống, mặc dù cá bột âm tính nhƣng giai đoạn cá giống ở các loài cá Nheo,

Trê lai, Tai tƣợng, Rô đồng, Chép, Sặc bƣớm, Mè vinh, Mè trắng, Rohu, Chim

trắng, Rô phi và Sặc rằn đều nhiễm ấu trùng với tỷ lệ dao động từ 1,2 – 29,7%

[104]. Ấu trùng H. taichui nhiễm trên cá Tra tại Cần Thơ là 43,47%; C. formosanus

nhiễm trên cá Tra tại Vĩnh Long là 2,1%. Đặc biệt, ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

22

sinensis đƣợc tác giả thông báo nhiễm trên cá Tra thu đƣợc tại Vĩnh Long là

14,89% [106]. Tuy nhiên, sự sai khác trình tự gen 28S của C. sinensis với mẫu

chuẩn trên Genbank là 8,3% [106] là quá lớn điều đó cho thấy ấu trùng sán lá phân

lập đƣợc từ cá Tra trong nghiên cứu nói trên không phải là C. sinensis [107]. Hơn

nữa, ký chủ đặc trƣng của ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis thƣờng là các loài

thuộc họ cá chép và vùng phân bố của chúng thƣờng ở khu vực miền Bắc.

1.3.4.2. Vật chủ của ấu trùng sán lá truyền qua cá

Những nghiên cứu về ấu trùng SLTQC hầu hết đƣợc thực hiện trong khoảng

10 năm trở lại đây từ khi có Dự án FIBOZOPA (Ký sinh trùng có nguồn gốc thủy

sản) do DANIDA tài trợ. Qua hàng loạt những nghiên cứu trong và sau thời gian

Dự án này tới nay có thể thấy rằng rất ít báo cáo về ấu trùng sán lá gan nhỏ trong

khi đó sán lá ruột nhỏ chiếm ƣu thế gần nhƣ tuyệt đối;

Nghiên cứu của Phan Thị Vân và cộng sự (2010) tại Nam Định đã xét

nghiệm 3.822 mẫu cá với 18 loài cá (chủ yếu là cá nuôi ao) thì chỉ phát hiện duy

nhất 1 mẫu cá Mè trắng nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis, trong khi đó

100% số loài cá này đều nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ với cƣờng độ nhiễm rất cao

[89]. Cũng tại đây, nghiên cứu xét nghiệm 2.524 mẫu cá hƣơng và giống thuộc 5

loài cá khác nhau, tác giả cũng chỉ phát hiện ấu trùng C. sinensis nhiễm trên cá

Rohu với tỷ lệ 1,9% và cá Mè trắng là 0,5%, trong khi đó ấu trùng sán lá ruột nhỏ

nhƣ H. pumilio và C. formosanus có tỷ lệ nhiễm tƣơng ứng là 55,6% và 41,0% [9].

Nguyễn Thị Hợp và cộng sự (2015) xét nghiệm 15 loài cá khác nhau nhƣng chỉ phát

hiện 3 loài nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ [94]. Và cũng chỉ 1/9 loài cá đƣợc xét

nghiệm phát hiện nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis là cá Mƣơng xanh tại

Ninh Bình trong khi đó tất cả các loài cá khác đều nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ

[11].

Ngoài ra, một số nghiên cứu khác cũng phát hiện ấu trùng sán lá gan nhỏ trên

một số ít loài cá [10,95,99] trong khi đó nhiều nghiên cứu không phát hiện ấu trùng

này [76,92,103,104,108]. Tổng hợp dựa trên những công bố gần đây hiện mới có 6

loài cá đƣợc xác định có nhiễm ấu trùng C. sinensis ở khu vực miền Bắc và 5 loài cá

23

nhiễm ấu trùng O. viverrini ở khu vực miền Trung và Nam nƣớc ta (Bảng 1.3),

trong khi đó, Trung Quốc ghi nhận 102 loài, Hàn Quốc và Nhật Bản là 80 loài đƣợc

xác định nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis [53–55]. Sự khác nhau này cho

thấy có thể chúng ta đã chƣa có nhiều khảo sát rộng hơn về ấu trùng sán lá gan nhỏ

trên cá tại các khu hệ cá khác nhau mà hầu nhƣ tập trung nhiều vào đối tƣợng cá

nuôi.

Thực ra, có một số công bố khác cho rằng vật chủ của C. sinensis bao gồm

cá Đối mục ở Khánh Hòa (miền Trung) và cá Tra ở Vĩnh Long, khu vực ĐBSCL

[106], cá Diếc, Rô đồng, Chép và Rô phi ở khu vực đồng bằng sông Hồng [14], tuy

nhiên, những kết quả này theo chúng tôi là chƣa xác đáng. Thứ nhất, miền Trung và

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng dịch tễ của O. viverrini, nên có chăng là O.

viverrini chứ không phải là C. sinensis. Thứ hai, vật chủ trung gian 2 của C. sinensis

chủ yếu là các loài thuộc họ cá Chép Cyprinidae nhƣng cá Tra và Đối mục không

thuộc họ cá Chép. Hơn nữa, cá Đối mục là cá nƣớc lợ trong khi đó ốc Bithynidae,

vật chủ trung gian 1 của C. sinensis hầu nhƣ không phân bố ở môi trƣờng nƣớc lợ.

Thứ ba, hầu hết những kết quả trên cho thấy tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ khá

cao nhƣng chƣa có bằng chứng xác nhận bằng gây nhiễm động vật. Do đó, nhiều

khả năng có sự nhầm lẫn ấu trùng sán lá ruột nhỏ với ấu trùng sán lá gan nhỏ. Thực

tế, hầu hết các nghiên cứu khác nhau trên cá đều cho thấy ƣu thế vƣợt trội của ấu

trùng sán lá ruột (đặc biệt là H. pumilio) so với sán lá gan nhỏ.

Bảng 1.3: Danh mục loài cá đã được xác định nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ

TT VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM NGUỒN

Clonorchis sinensis

1 Hypophthamychthys molitrix Nam Định, Ninh Bình [9,89]

2 Aristichthys nobilis Hòa Bình [94]

3 Ctenopharyngodon idellus Nam Định, Ninh Bình, Hòa

Bình

[9,94]

4 Labeo rohita Nam Định, Ninh Bình [9,10]

24

TT VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM NGUỒN

5 Hemiculter leucisculus Ninh Bình [11,95]

6 Cultrichthys erythropterus Ninh Bình [95]

Opisthorchis viverrini

1 Carrasius auratus Phú Yên [98,99]

2 Channa striatus An Giang [102]

3 Channa spp. Phú Yên [99]

4 Puntius brevis Phú Yên [99]

5 Rasbora spp. Phú Yên [99]

Phan Thị Vân và Bùi Ngọc Thanh (2013) tổng hợp từ các kết quả nghiên cứu

trong giai đoạn thực hiện Dự án FIBOZOPA, có ít nhất 14 loài sán lá ruột nhỏ (H.

pumilio, H. taichui, H. yokogawai, P. varium, S. falcatus, H. continua, P. summa, S.

lari, Echinostoma sp., Echinochamus sp., Metagonimus sp. và C. formosanus đƣợc

phát hiện ấu trùng nhiễm trên cá bao gồm cả cá nƣớc ngọt và nƣớc mặn, lợ trong

khi đó chỉ có 2 loài sán lá gan nhỏ là C. sinensis và O. viverrini [90].

Bảng 1.4: Danh mục loài cá đã được xác định nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ

TT VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM NGUỒN

1 Rô đồng (Anabas

testudineus)

Nam Định, Ninh Bình,

Khánh Hòa, Cần Thơ,

Tiền Giang, Vĩnh

Long, An Giang

[8,11,89,102–

104,106]

2 Mè hoa (Aristichthys nobilis) Nghệ An [76]

3 Chép (Cyprinus carpio) Hà Nội, Nam Định,

Ninh Bình, Nghệ An,

Thừa Thiên Huế, Tiền

Giang, Cần Thơ, Vĩnh

Long

[9,11,76,89,101,10

4,108]

4 Cá Lóc, Quả, Chuối (Channa Hà Nội, Nam Định, [8,11,89,102,108]

25

TT VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM NGUỒN

spp.) Ninh Bình, An Giang

5 Sặc rằn (Osphronemus

gourami)

Cần Thơ, Tiền Giang,

Vĩnh Long

[103,104]

6 Trắm cỏ (Ctentopharyngodon

idellus)

Hà Nội, Nam Định,

Ninh Bình, Nghệ An,

Tiền Giang, Cần Thơ,

Vĩnh Long

[8,9,76,92,104,108

]

7 Cá Trê (Clarius spp.) Nam Định, Cần Thơ,

Tiền Giang

[8,89,103]

8 Cá Diếc (Carrasius auratus) Nam Định, Ninh Bình [8,11,89]

9 Cá Hƣờng (Helostoma

temmincki)

Cần Thơ, Tiền Giang,

Vĩnh Long

[103,104]

10 Mrigal (Cirrhinus mrigala) Nam Định, Ninh Bình,

Nghệ An, Cần Thơ,

Tiền Giang, Vĩnh

Long

[8,9,76,89,104]

11 Trôi Việt (Cirrhinus

molitorella)

Nam Định, Ninh Bình [8,89]

12 Rohu (Labeo rohita) Hà Nội, Nam Định,

Ninh Bình, Thái Bình,

Thanh Hóa, Nghệ An

[8–11,76,89,108]

13 Chim trắng (Colossoma

macroponmum)

Cần Thơ, Tiền Giang,

Vĩnh Long

[104]

14 Thát lát (Notopterus

notopterus)

Nam Định [8,89]

15 Chim trắng (Piaractus

brachypomum)

Nam Định [8,89]

26

TT VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM NGUỒN

16 Rô phi vằn (Oreochromis

niloticus)

Nam Định, Ninh Bình,

Cần Thơ, Tiền Giang,

Vĩnh Long

[9,11,76,89,104]

17 Diêu hồng (Oreochromis sp.) Hà Nội, Nam Định,

Cần Thơ, Tiền Giang,

Vĩnh Long

[104,108]

18 Cá Tra (Pangasianodon

hypophthalmus)

Cần Thơ, Tiền Giang,

Vĩnh Long

[102,103,106]

19 Cá Rằm (Puntius gonionotus) Cần Thơ, Tiền Giang,

Vĩnh Long

[104]

20 Mè vinh (Barbonymus

gonionotus)

Nam Định [89]

21 Mè trắng

(Hypophthamychthys

molitrix)

Nam Định, Hà Nội,

Ninh Bình, Cần Thơ,

Tiền Giang, Vĩnh

Long

[8,9,89,92,104,108

]

22 Chày mắt đỏ (Squaliobarbus

curriculus)

Nam Định [8,89]

23 Sặc rằn (Trichogaster

pectoralis)

Cần Thơ, Tiền Giang,

Vĩnh Long

[104]

24 Sặc bƣớm (Trichogaster

trichopterus)

Cần Thơ, Tiền Giang,

Vĩnh Long

[104]

25 Nhệch (Anguilla marmorata) Nam Định [8]

26 Mai trắng (Rasborionus

hautus)

Nam Định, Ninh Bình [8,11]

27 Cá Mại (Rasborinus lineatus) Nam Định [8]

28 Cá Nhệch (Pisodonophis Hà Nội, Nam Định [108]

27

TT VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM NGUỒN

boro)

29 Bống đen (Eleotris

melanosoma)

Nam Định [8]

30 Cá Cờ (Istiophorus sp.) Nam Định [8]

31 Bống (Glossogobius aureus) Nam Định [8]

32 Bống cau (Prionobutis

koilomatodon)

Nam Định [8]

33 Đối mục (Mugil cephalus) Nam Định, Khánh

Hòa

[8,100,106]

34 Song chấm nâu (Epinephelus

coioides)

Khánh Hòa, Hải

Phòng, Nam Định

[96,97,100,108]

35 Song dẹt (Epinephelus

bleekeri)

Nam Định, Hải Phòng [96,97,100]

36 Bống bớp (Bostrychus

sinensis)

Nam Định [96]

Do hầu hết các nghiên cứu trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào các đối

tƣợng cá nuôi, vì vậy,mặc dù số lƣợng điều tra/khảo sát nhiều nhƣng số lƣợng loài

cá đƣợc xét nghiệm ít. Do đó, hiện mới chỉ có khoảng 36 loài cá (32 loài cá nƣớc

ngọt và 4 loài cá nƣớc lợ) đƣợc xác định là vật chủ trung gian thứ 2 của sán lá ruột

nhỏ (Bảng 1.4). Thực tế, một số ấu trùng sán lá ruột nhỏ nhƣ H. pumilio hầu nhƣ

đƣợc phát hiện trên 80% loài cá đƣợc xét nghiệm ở vùng dịch tễ nhƣ Nam Định và

Ninh Bình. Tuy nhiên, với chỉ 36 loài đƣợc xác định là vật chủ của ấu trùng sán lá

ruột nhỏ và 11 loài là vật chủ của sán lá gan nhỏ cho thấy vẫn còn nhiều khoảng

trống cần đƣợc lấp đầy trong nghiên cứu xác định vật chủ của SLTQC nói chung tại

Việt Nam.

28

1.3.4.3. Kiểm soát ấu trùng sán lá trong nuôi trồng thủy sản

Sán lá truyền qua cá có vòng đời phức tạp gồm 3 giai đoạn phát triển qua 3

nhóm ký chủ khác nhau, trong đó ký chủ trung gian thứ 1 là nhuyễn thể và các loài

ốc; ký chủ trung gian 2 là các loài cá và ký chủ cuối cùng là con ngƣời và động vật

ăn cá). Việc ngăn ngừa sự lây truyền sán lá cần dựa trên cơ chế của vòng đời của

chúng. Trong nuôi trồng thủy sản, để ngăn ngừa có hiệu quả, về nguyên tắc cần phải

áp dụng biện pháp can thiệp tổng hợp nhằm loại bỏ tối đa những rủi ro từ nguồn

giống đầu vào, môi trƣờng ao nuôi, vật chủ trung gian 1 và vật chủ cuối cùng.

Thử nghiệm dựa trên nguyên lý này đã đƣợc triển khai trong mô hình ƣơng

nuôi cá giống tại Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và Thanh Hóa. Nhìn chung, mô

hình áp dụng biện pháp can thiệp tổng hợp có hiệu quả so với mô hình đối chứng,

tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán ở mô hình can thiệp thấp hơn so với mô hình

đối chứng. Tuy nhiên, tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán trên cá trong cả 2 mô

hình (đối chứng và can thiệp) đều tăng lên theo thời gian nuôi [10]. Kết quả tƣơng

tự cũng đƣợc ghi nhận trong nghiên cứu thử nghiệm tại Đồng bằng sông Cửu

Long trên đối tƣợng là cá Tra và cá Tai tƣợng giai đoạn giống [16]. Nhƣ vậy, biện

pháp can thiệp tổng hợp thực sự chƣa có hiệu quả triệt để trong việc ngăn ngừa sự

lây nhiễm ấu trùng sán trong hệ thống ƣơng nuôi cá giống.

Với hệ thống nuôi thƣơng phẩm, thử nghiệm đƣợc triển khai tại Nam Định

với 2 nhóm can thiệp (nhóm 1: điều trị ngƣời và động vật; nhóm 2: quản lý và cải

tạo vệ sinh ao nuôi, loại bỏ ốc-ký chủ trung gian) và 1 nhóm đối chứng - không can

thiêp. Kết quả sau quá trình thử nghiệm cho thấy, tỷ lệ nhiễm ấu trùng ở cả 2 nhóm

can thiệp đều giảm so với trƣớc khi áp dụng biện pháp can thiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ

nhiễm ấu trùng ở các nhóm can thiệp vẫn rất cao (nhóm 1 là 60%, nhóm 2 là 40%).

Cƣờng độ nhiễm ấu trùng trên cá ở nhóm 1 sau can thiệp lại cao hơn so với trƣớc

khi can thiệp trong khi đó ở nhóm 2, cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán trên cá sau can

thiệp thấp hơn nhiều so với trƣớc can thiệp. Kết quả thử nghiệm này cho thấy việc

quản lý và cải tạo vệ sinh ao nuôi có hiệu quả hơn trong kiểm soát ấu trùng

SLTQC trên cá nuôi thƣơng phẩm [15]. Mặc dù vậy, nhìn chung những biện pháp

29

can thiệp trong nghiên cứu này chƣa thực sự tác dụng, hiệu quả chƣa triệt để trong

việc ngăn ngừa sự lây nhiễm của ấu trùng SLTQC trên cá nuôi thƣơng phẩm.

Trong một số điều tra về tập quán ăn gỏi gần đây ở khu vực các tỉnh miền

Bắc cho thấy tỷ lệ ngƣời ăn gỏi cá vẫn khá phổ biến ở một số vùng dịch tễ [12,14]

trong khi đó các biện pháp can thiệp sinh học trong nuôi trồng thủy sản [10,15,16]

chƣa tỏ ra có hiệu qủa thì cần phải có những giải pháp trong chế biến bảo quản để

vô hiệu hóa khả năng lây nhiễm ấu trùng SLTQC cho con ngƣời. Đông lạnh, gia

nhiệt, ƣớp muối....là những biện pháp thƣờng đƣợc sử dụng trong chế biến và bảo

quản nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên, hiệu quả của các

phƣơng pháp này đối với ấu trùng SLTQC tại nƣớc ta vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu

một cách nghiêm túc. Việc nghiên cứu xác định các điều kiện giới hạn cần thiết để

bất hoạt ấu trùng có ý nghĩa khoa học và thực tiễn góp phần cung cấp những bằng

chứng khoa học để xây dựng các hƣớng dẫn trong chế biến bảo quản thực phẩm (cá)

để phòng tránh lây nhiễm SLTQC cho con ngƣời.

1.4. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực miền núi phía Bắc

1.4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội

Khu vực miền núi phía Bắc có tổng diện tích 95.272 km2, gồm 15 tỉnh bao

gồm Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng

Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Sơn La và

Hòa Bình (Hình 1. 2). Phía Đông giáp với Vịnh Bắc Bộ, phía Tây giáp Thƣợng Lào,

phía Bắc giáp với Trung Quốc và phía Nam giáp nối liền với các tỉnh đồng bằng

sông Hồng [109].

Khu vực MNPB có hệ thống ngòi lớn nhƣ sông Hồng, sông Đà, sông Cầu,

sông Công, sông Chảy...vv đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển

của động vật thủy sản, là nguồn sinh kế của ngƣời dân [110]. Diện tích mặt nƣớc

có thể phát triển nuôi trồng thủy sản của các tỉnh miền núi phía Bắc chủ yếu là

các hồ chứa nhƣ hồ Thác Bà (Yên Bái) 19.000ha, hồ Núi Cốc (Thái Nguyên)

19.000ha, hồ Sông Đà (Hòa Bình và Sơn La) gần 15.000 ha, hồ Cấm Sơn (Bắc

30

Giang) 2.700 ha [111].

Hình 1.2: Các tinh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, Việt Nam

Với hơn 40 dân tộc, trong đó 63% là dân tộc thiểu số với 14,542 triệu ngƣời,

chiếm 13,5% dân số của cả nƣớc. Trong số 10 tỉnh có tỉ lệ hộ nghèo nhiều nhất

trong cả nƣớc thì có đến 9 tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, đứng đầu là Điện

Biên 48,14%, sau là Hà Giang 43,65%, Cao Bằng 42,53%, Lai Châu 40,40%, Sơn

La 34,44%, Lào Cai 34,30%, Yên Bái 32,21%, Bắc Cạn 29,40% và Tuyên Quang

27,81% [112].

1.4.2. Đặc điểm hồ Thác Bà, Yên Bái

Hồ Thác Bà có chiều dài 80 km qua địa phận của 2 huyện Yên Bình và Lục

Yên, tỉnh Yên Bái với có tổng diện tích mặt nƣớc 19.000 ha gồm nhiều đảo nhỏ có

ngƣời dân sinh sống (Hình 1.3).

Nguồn lợi thủy sản hồ Thác Bà trƣớc đây đa dạng và phong phú. Năm 1962-

1964, khảo sát thành phần loài cá ở đây, Nguyễn Văn Hảo đã mô tả 57 loài sinh

sống tại hồ, tổng kết toàn bộ kết quả nghiên cứu liên tục trong 5 năm (1971-1975),

nhóm tác giả này đã thống kê, mô tả 79 loài. Gần đây nhất, khảo sát lại hiện trạng

nguồn lợi thủy sản hồ Thác Bà, Ngô Sỹ Vân (1997) đã báo cáo cáo 76 loài, trong đó

31

50 loài thuộc họ cá Chép, chiếm 65,79%, họ cá Vƣợc 13 loài chiếm 17,1%, họ cá

Nheo chiếm 13,16% và còn lại là một số ít họ cá khác [113].

Hình 1.3: Khu vực vùng của hồ Thác Bà, Yên Bái

Nguồn lợi thủy sản hồ Thác Bà góp phần quan trọng đối với sinh kế của

ngƣời dân vùng ven hồ. Xã Mông Sơn có 923 hộ, trƣớc đây có đến 30% số hộ sống

bằng nghề đánh bắt, khai thác thủy sản đến nay còn 10-12% [114]. Nguyên nhân do

nguồn lợi cá tự nhiên bị suy giảm do đánh bắt khai thác bằng những ngƣ cụ tận diệt.

Tuy nhiên, gần đây, công tác bảo vệ nguồn lợi đƣợc tăng cƣờng; 400 vó bè của

ngƣời dân ở hồ Thác Bà đã đƣợc dỡ bỏ để bảo vệ nguồn lợi thủy sản [115]. Hiện

nay, nguồn lợi thủy sản hồ Thác Bà đã và đang dần đƣợc khôi phục; ƣớc tính một

ngƣời dân mỗi ngày có thể đánh bắt đƣợc trung bình từ 7-10 kg cá [116].

Để giảm áp lực khai thác tự nhiên, trong những năm gần đây tỉnh Yên Bái đã

có chủ trƣơng hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản và tái tạo nguồn lợi thủy sản ở

các hồ chứa trong đó đặc biệt là hồ Thác Bà. Hàng năm tỉnh Yên Bái cho thả hàng

chục tấn cá giống xuống hồ Thác Bà nhằm bổ sung khôi phục nguồn lợi. Chỉ riêng

huyện Yên Bình hiện có khoảng 500 lồng cá trên hồ Thác Bà, năm 2016 tỉnh đã hỗ

trợ 223 lồng, trong đó 193 lồng cho ngƣời dân và 30 lồng cho doanh nghiệp thủy

sản. Năm 2017 các xã ven hồ Thác Bà đăng ký xây dựng 400 lồng. Hiện nay, sản

32

lƣợng cá hàng năm đánh bắt trên hồ Thác Bà trên 5.800 tấn, trong đó khai thác tự

nhiên 1.500 tấn và cá lồng bè 4.300 tấn [117].

1.5. Những tồn tại trong nghiên cứu về sán lá truyền qua cá

Nghiên cứu về ấu trùng SLTQC, giai đoạn metacercariae nhiễm trên cá, giai

đoạn khoảng 10 năm gần đây đƣợc quan tâm rất nhiều bởi có liên quan đến an toàn

vệ sinh thực phẩm trong nuôi trồng thủy sản. Trong những năm qua, hầu hết các

nghiên cứu chỉ tập trung vào các vùng dịch tễ của SLTQC qua ghi nhận trên ngƣời

nhƣ Nam Định, Ninh Bình, Phú Yên hay các vùng có nuôi trồng thủy sản tập trung

nhƣ các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu long. Tất cả các nghiên cứu đều có

ghi nhận về ấu trùng SLTQC tuy nhiên mức độ nhiễm khác nhau. Từ những nghiên

cứu đã triển khai, có thể thấy rằng mức độ nhiễm ấu trùng SLTQC rất cao ở khu

vực đồng bằng sông Hồng [8–10,89] và có xu hƣớng giảm nhẹ ở khu vực miền

Trung [76,99,101] và xuống thấp ở khu vực đồng bằng sông Cửu long [102–104].

Riêng khu vực miền núi phía Bắc hầu nhƣ chƣa có nghiên cứu nào về ấu trùng

SLTQC, ngoại trừ có nghiên cứu của Hà Ký và Bùi Quang Tề (2007) có ghi nhận

về ấu trùng Centrocestus formosanus nhƣng là trên khía cạnh tác nhân gây bệnh của

cá [13] và nghiên cứu của Nguyễn Thị Hợp và cs (2015) báo cáo về ấu trùng sán lá

gan nhỏ trên cá nuôi tại huyện Kỳ Sơn, Hòa Bình [94], tuy nhiên đây là điểm giáp

gianh với Hà Nội - thuộc khu vực đồng bằng Sông hồng hơn là khu vực MNPB. Do

đó cần phải có nghiên cứu để đánh giá cụ thể hiện trạng SLTQC tại khu vực MNPB

để thấy đƣợc bức tranh tổng thể về SLTQC tại Việt Nam.

Qua khá nhiều khảo sát về ấu trùng SLTQC ở khu vực đồng bằng sông Hồng

nhƣng có thể thấy mức độ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis hầu hết rất thấp

Hơn nữa, hiện mới chỉ phát hiện 6 loài cá nƣớc ngọt nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ

này [90]. Trong khi đó, có đến hơn 100 loài cá đã đƣợc xác định nhiễm ấu trùng của

loài sán lá gan nhỏ này tại Trung Quốc và Hàn Quốc. Nhƣ vậy có thể nói rằng nghiên

cứu của chúng ta về SLTQC vẫn còn nhiều hạn chế, cần tiếp tục mở rộng phạm vi

vùng nghiên cứu, đối tƣợng nghiên cứu và thời gian nghiên cứu nhằm xác định đƣợc

thành phần loài vật chủ của ấu trùng sán lá gan nhỏ, vùng dịch tễ của chúng, những

33

biến động mùa vụ (nếu có) và cả những điều kiện có thể bất hoạt ấu trùng này nhằm

đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Để góp phần giải quyết một phần những hạn chế còn tồn tại nói trên chúng

tôi triển khai thực hiện Đề tài "Nghiên cứu hiện trạng ấu trùng sán lá có khả

năng lây truyền cho ngƣời nhiễm trên cá ở Khu vực miền núi phía Bắc Việt

Nam" với Mục tiêu cụ thể nhƣ sau;

1) Xác định đƣợc thành phần ấu trùng sán lá và sự phân bố của chúng trên cá

ở khu vực miền núi phía Bắc;

2) Xác định đƣợc sự biến động mùa vụ của ấu trùng sán lá phổ biến trên cá ở

khu vực miền núi phía Bắc;

3) Xác định đƣợc các điều kiện chế biến và bảo quản có khả năng bất hoạt ấu

trùng sán sán lá.

34

CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Cách tiếp cận

MNPB là khu vực mới và hầu nhƣ chƣa có nghiên cứu về SLTQC, đặc biệt

là ấu trùng SLTQC nhiễm trên cá. Để thực hiện các Nội dung đề tài, đạt đƣợc các

mục tiêu đề ra, nghiên cứu đƣợc tiếp cận theo 3 bƣớc (Hình 2.1).

Hình 2.1. Cách tiếp cận của nghiên cứu

Cụ thể; 1) khảo sát nhanh về ấu trùng SLTQC trên bình diện chung, tổng thể

các loại hình mặt nƣớc đại diện ở khu vực MNPB nhằm xác định sơ bộ thành phần

loài, bƣớc đầu xác định vùng dịch tễ của SLTQC - vùng phân bố chủ yếu của

SLTQC, các nhóm loài vật chủ trung gian (cá) nhiễm ấu trùng SLTQC; 2) nghiên

cứu sâu ấu trùng SLTQC trên cá tại vùng dịch tễ, nhằm xác định và xác nhận rõ hơn

về thành phần loài SLTQC, xác định loài vật chủ nhiễm ấu trùng SLTQC và biến

động của ấu trùng SLTQC trên một số loài vật chủ quan trọng; 3) nghiên cứu các

điều kiện bất hoạt ấu trùng SLTQC nhiễm trên cá ở khu vực MNPB, đối tƣợng thử

nghiệm là các SLTQC quan trọng ở MNPB đã đƣợc xác định, nghiên cứu giúp xác

35

định rõ các điều kiện trong mức giới hạn cụ thể về thời gian để bất hoạt và lƣu giữ

ấu trùng SLTQC (Hình 2.1).

2.2. Đối tƣợng nghiên cứu

Sán lá truyền lây qua cá có khả năng lây nhiễm cho ngƣời – giai đoạn ấu

trùng metacercariae nhiễm trên cá

2.3. Thời gian, địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu này đƣợc thực hiện từ tháng 1 năm 2014 đến tháng 12 năm 2016.

Địa điểm thu mẫu đƣợc lựa chọn dựa trên tham vấn thông tin qua các Chi cục

Thủy sản, Trung tâm Thủy sản, Trung tâm Y tế dự phòng và Trung tâm phòng chống

sốt rét của 5 tỉnh gồm Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái và Thái Nguyên để thực

hiện khảo sát nhanh về ấu trùng SLTQC nhằm xác định vùng dịch tễ của SLTQC.

Tiêu chí lựa chọn điểm thu mẫu là các vùng có nguy cơ cao về SLTQC qua thông tin

về tập quán ăn gỏi cá, hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản.

Cụ thể có 7 điểm thu cá ao nuôi, 6 điểm thu cá sông suối và 6 điểm thu cá hồ

chứa (Bảng 2.1). Trong nghiên cứu này, Ao đƣợc hiểu là các ao hồ nhỏ nằm trong

khu vực dân cƣ đƣợc sử dụng để thả nuôi cá, Sông suối là con sông tự nhiên nằm

trong hệ thống sông ngòi chính ở khu vực miền núi phía Bắc, Hồ chứa là các hồ nhân

tạo hoặc hồ tự nhiên lớn có tên tuổi ở khu vực miền núi phía Bắc.

Bảng 2.1: Địa điểm thu mẫu khảo sát ấu trùng sán lá truyền qua cá

TT AO SÔNG SUỐI HỒ CHỨA

1 Phú Bình, Thái Nguyên Sông Cầu (Thái

Nguyên)

Bảo Linh (Thái

Nguyên)

2 Trấn Yên, Yên Bái Sông Công (Thái

Nguyên)

Núi Cốc Thái Nguyên)

3 Yên Bình, Yên Bái Sông Hồng (Yên Bái) Thác Bà (Yên Bái)

4 Nghĩa Lộ, Yên Bái Sông Thia (Yên Bái) Cốc Ly (Lào Cai)

5 Bắc Hà, Lào Cai Nậm Rốn (Điện Biên) Pa Khoang (Điện

Biên)

36

6 Mƣờng Thanh, Điện Biên Sông Chảy (Lào Cai) Sông Đà (Sơn La)

7 Bản Cá, Sơn La - -

186 mẫu 450 mẫu 210 mẫu

Kết quả khảo sát nhanh đã bƣớc đầu xác định đƣợc vùng dịch tễ của SLTQC

là hồ Thác Bà, Yên Bái. Do đó, địa điểm nghiên cứu tiếp theo của đề tài là hồ Thác

Bà nhằm đánh giá đầy đủ hơn về thành phần SLTQC và đặc biệt là sự biến động

của ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên cá tại đây.

Địa điểm phân tích mẫu và triển khai thí nghiệm: Viện Nghiên cứu Nuôi

trồng Thủy sản I, tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh.

2.4. Phƣơng pháp thu mẫu, bảo quản và định danh cá

Đối với khảo sát nhanh về ấu trùng SLTQC: tập trung vào đối tƣợng cá bản

địa đƣợc nuôi và khai thác phổ biến ở khu vực MNPB. Tiến hành thu mẫu ngẫu

nhiên từ các hộ nuôi cá và ngƣời đánh bắt cá tự nhiên hoặc ngƣời bán cá tại các chợ

địa phƣơng có xác định đƣợc nguồn gốc rõ ràng. Tổng số 846 mẫu cá thuộc 31 loài,

thu từ 3 loại hình mặt nƣớc gồm ao, sông suối và hồ chứa từ tháng 5 năm 2014 đến

tháng 8 năm 2014 ở khu vực miền núi phía Bắc (Bảng 2.2), đã đƣợc định danh theo

tài liệu định loại cá nƣớc ngọt Việt Nam của kỹ sƣ Nguyễn Văn Hảo [118–120].

Bảng 2.2: Các loài cá thu được ở khu vực miền núi phía Bắc

TT TÊN LOÀI CÁ N

(con)

TL

Khoa học Tiếng Việt TB (g) SD

1 Acheilognathu macropterus Thè be 17 5,6 1,7

2 Anabas testudineus Rô đồng 21 15,4 6,7

3 Beaufortia leverettii Vây bằng vẩy 15 4,6 2,6

4 Carassius auratus Cá Diếc 8 39,2 47,7

5 Channa maculata Cá Quả 7 171,3 70,8

6 Cirrhinus cirrhosis Trôi Việt 13 135,9 87,1

7 Clarias fuscus Trê đen 17 25,4 14,8

8 Ctenopharyngodon idellus Trắm cỏ 55 85,8 84,9

37

TT TÊN LOÀI CÁ N

(con)

TL

Khoa học Tiếng Việt TB (g) SD

9 Cultrichthys erythropterus Cá Thiểu 59 40,2 82,9

10 Cyprinus carpio Cá Chép 27 153,1 169,9

11 Elopichthys bambus Cá Măng 2 251,3 17,7

12 Garra sp. Cá Bậu 4 23,3 12,9

13 Glyptothorax honghensis Chiên suối 15 1,4 0,3

14 Hemibarbus macracanthus Đục chấm 5 4,9 1,6

15 Hemibarbus medius Đục cờ 14 6,6 3,1

16 Hemiculter leucisculus Mƣơng xanh 193 25,1 20,5

17 Hypophthalmichthys molitrix Mè trắng 42 234,2 173,2

18 Mastacemblus armatus Chạch sông 3 68,7 11,7

19 Microphysogobio sp. Cá Bống 1 6,1 0

20 Opsariichthys bibdens Cháo thƣờng 20 10,8 7.,3

21 Oreochromis niloticus Rô phi 33 58,9 60,5

22 Osteochilus salisburyi Dầm đất 42 9,4 3,4

23 Rhinogobius sp. Bống hoa 30 14,0 11,2

24 Sarcocheilichthy nigripinis Nhọ chảo 14 8,0 1,8

25 Schistura spp. Chạch suối 38 3,8 2,0

26 Squaliobalbus curriculus Chày mắt đỏ 21 52,5 41,3

27 Toxabramis houdemeri Tép dầu 81 3,3 1,3

28 Traccatichthys pulcher Chạch cật 15 5,3 1,2

29 Onychostoma laticeps Sỉnh gai 11 41,9 24,5

30 Xenocypris argentea Nhàng bạc 6 10,4 4,9

31 Prochilodus lineatus Trôi Nam mỹ 17 51,7 40,5

Đối với nghiên cứu biến động ấu trùng SLTQC: đối tƣợng thu mẫu chủ yếu

là Tép dầu, Thiểu và Mƣơng xanh (không giới hạn đến các loài cá khác) có nguồn

gốc từ hồ Thác Bà, mẫu đƣợc thu định kỳ 1 lần/tháng, trong vòng 1 năm từ tháng 9

năm 2014 đến tháng 8 năm 2015.

38

Tổng số 1429 mẫu cá thuộc 22 loài (Bảng 2.3), thu đƣợc từ ngƣời đánh bắt

trực tiếp và ngƣời thu mua cá tại hồ Thác Bà, Yên Bái, đƣợc định danh theo tài liệu

định loại cá nƣớc ngọt Việt Nam của kỹ sƣ Nguyễn Văn Hảo [118–120].

Đối với thí nghiệm xác định điều kiện bất hoạt ấu trùng: thừa kế kết quả

nghiên cứu của đề tài này, cá Tép dầu hồ Thác Bà, đƣợc thu phục vụ thí nghiệm.

Mẫu ngay sau khi thu, đƣợc bảo quản trong thùng bảo ôn (cách nhiệt) có

chứa đá khô để duy trì nhiệt độ ở 4-5oC cho đến khi chuyển về phòng thí nghiệm.

Tại phòng thí nghiệm, mẫu cá đƣợc chuyển vào ngăn mát tủ lạnh ở nhiệt độ 4oC cho

đến khi xử lý mẫu.

Bảng 2.3: Các loài cá thu được ở hồ Thác Bà, Yên Bái

TT LOÀI CÁ N

(con)

TL

Tên khoa học Tên tiếng Việt TB (g) SD

1 Acheilognathu macropterus Thè be 6 4,3 1,3

2 Anabas testudineus Rô đồng 26 15,9 4,7

3 Carassioides cantonensis Cá Nhƣng 38 52,5 26,4

4 Carassius auratus Cá Diếc 19 31,1 20,8

5 Channa maculata Cá Quả 44 45,7 34,8

6 Clarias fuscus Trê đen 3 29,1 39,6

7 Culter recurvirostris Ngão gù 25 38,9 38,3

8 Cultrichthys erythropterus Cá Thiểu 253 41,7 41,7

9 Cyprinus carpio Cá Chép 44 74,6 66,8

10 Glossogobio sp. Bống trắng 14 0,7 0,3

11 Hemiculter leucisculus Mƣơng xanh 353 17,7 15,7

12 Mastacembelus armatus Chạch sông 6 29,8 11,9

13 Neosalanx tangkakeii Tiểu bạc 8 1,2 0,2

14 Opsariichthys bidens Cháo thƣờng 15 113,5 36,1

15 Oreochromis niloticus Rô phi 15 29,4 13,4

16 Osteochilus salisburyi Dầm đất 102 20,7 14,8

17 Rhinogobius sp. Bống hoa 10 27,5 9,6

39

TT LOÀI CÁ N

(con)

TL

Tên khoa học Tên tiếng Việt TB (g) SD

18 Pelteobagrus flavimanus Bò vàng 25 33,2 19,4

19 Prochilodus lineatus Trôi Nam mỹ 12 116,4 109,5

20 Squaliobarbus curriculus Chày mắt đỏ 24 75,2 40,8

21 Toxabrasmis houdemeri Tép dầu 373 4,8 4,6

22 Xenocypris argentea Nhàng bạc 13 29,7 6,8

2.5. Kỹ thuật phân lập và định loại sán lá truyền qua cá

Cá sau khi thu mẫu về đƣợc xét nghiệm riêng từng cá thể để xác định thành

phần ấu trùng SLTQC theo quy trình (Hình 2.2) với 3 bƣớc chính nhƣ sau; 1) phân

lập ấu trùng SLTQC; 2) định loại ấu trùng theo hình thái; 3) gây nhiễm động vật để

xác nhận loài SLTQC.

Hình 2.2: Quy trình chung để xác định thành phần ấu trùng sán nhiễm trên cá

Ấu trùng sau khi phân lập đƣợc quan sát trên kính hiển vi (Olympus CX31)

để phân loại dựa vào một số đặc điểm hình thái quan trọng, đối chiếu với khóa định

loại ấu trùng, có thể xác định đƣợc loài SLTQC. Mặc dù vậy, việc gây nhiễm động

40

vật để thu sán trƣởng thành vẫn cần thiết nhằm xác nhận loài SLTQC. Sán trƣởng

thành đƣợc nhuộm bằng carmine để thẫy rõ hơn các đặc điểm hình thái, đối chiếu

với khóa định loại sán trƣởng thành, xác định loài SLTQC.

2.5.1. Phân lập ấu trùng sán lá từ cá

Quy trình phân lập ấu trùng SLTQC (Hình 2.3) thực hiện trong nghiên cứu này

dựa theo phƣơng pháp của Phan Thị Vân và Bùi Ngọc Thanh (2013) đƣợc phát triển từ

Sổ tay hƣớng dẫn phân lập và định loại ấu trùng sán lá của Dự án FIBOZOPA.

Phƣơng pháp này đƣợc thực hiện dựa trên nguyên lý sử dụng dung dịch

pepsin (6 g pepsin + 8 ml HCl + 1000 ml nƣớc cất) để tiêu hóa toàn bộ cơ của vật

chủ (cá) qua đó bào nang chứa ấu trùng sán đƣợc tách ra khỏi cơ cá, khi lọc, rửa và

lắng cặn sẽ thu đƣợc bào nang ấu trùng này. Cụ thể quy trình đƣợc thực hiện theo 4

bƣớc chính nhƣ sau;

Hình 2.3: Quy trình phân lập ấu trùng sán lá truyền qua cá [90]

41

Bƣớc 1: Nghiền mẫu cá: Lấy toàn bộ cá thể có trọng lƣợng ≤ 100 g (một số

mẫu lớn >100 g, lấy mẫu đại diện các phần cơ khác nhau từ gốc vây đuôi đến phần

đầu sao cho trọng lƣợng đạt ≤100 g), cắt nhỏ mỗi mẫu (con) trong mỗi cốc đong

thủy tinh (500ml) riêng biệt, cho dung dịch pepsin vào mẫu tỷ lệ 1/1, sử dụng máy

xay sinh tố cầm tay (Phillip), nghiền nhỏ các mẫu cá trong mỗi cốc này. Trong quá

trình xay, có thể bổ sung thêm dung dịch Pepsin để mẫu cá đƣợc nghiền nhỏ và

nhuyễn hơn giúp quá trình tiêu cơ đạt hiệu suất cao.

Bƣớc 2: Ủ để tiêu cơ: Bổ sung thêm dung dịch pepsin vào các mẫu sau khi

nghiền sao cho thể tích dung dịch pepsin trong mỗi cốc đong chiếm từ 1-1,5 lần so với

thể tích mẫu cá. Tủ ấm (Memmert 5000 ml) đã đƣợc bật sẵn và điều chỉnh ở nhiệt độ

37oC. Đặt các cốc đong chứa mẫu sau khi nghiền nhỏ với pepsin vào tủ ấm. Cứ sau 30

phút, dùng đũa thủy tinh khuấy đều mẫu trong mỗi cốc đong để dung dịch tiêu cơ hoạt

động hiệu quả hơn. Sau 2-3 giờ, lấy mẫu ra khỏi tủ ấm để lọc, rửa và thu ấu trùng.

Bƣớc 3: Lọc, rửa và lắng cặn: Mỗi mẫu đƣợc lọc và rửa riêng biệt nhằm

tránh lẫn chéo giữa các mẫu. Đối với mỗi mẫu, sử dụng 1 cốc đong 500 ml sạch, đặt

bên dƣới lƣới lọc (inox, mắt lƣới 1 x 1 mm) vào bên trong chậu rửa, pha thêm dung

dịch nƣớc muối sinh lý vào mẫu cần lọc, khuấy đều, để làm loãng mẫu. Đổ từ từ

mẫu đã làm loãng này qua lƣới lọc, sử dụng thêm nƣớc muối sinh lý để rửa lại nhiều

lần phần cặn phía trên lƣới lọc.

Dịch lọc thu đƣợc ở cốc đong bên dƣới lƣới lọc đƣợc để lắng trong vòng 30

giây, sau đó từ từ đổ nhẹ phần dịch nổi ở phía trên cốc đong. Cho thêm nƣớc muối

sinh lý vào đầy cốc đong, tiếp tục để lắng mẫu trongng 30 giây, sau đó từ từ đổ

phần dịch nổi phía trên của cốc đong (1/2), giữ lại phần lắng cặn. Lặp lại chu trình

để lắng và đổ dịch nổi cho đến khi dung dịch mẫu trong cốc đong trở lên trong suốt

thì kết thúc bƣớc lọc, rửa và lắng cặn của mỗi mẫu.

Bƣớc 4: Kiểm tra và thu ấu trùng: Hút phần lắng cặn cho vào đĩa Petri lớn

(12 cm) sạch, đƣa lên kính giải phẫu (Olympus CZ 21- Nhật Bản) quan sát. Kiểm

tra toàn bộ phần lắng cặn, dùng ống hút thủy tinh để hút các bào nang ấu trùng

42

chuyển sang 1 đĩa Petri nhỏ (5 cm) có chứa sẵn nƣớc muối sinh lý. Hút toàn bộ ấu

trùng thu đƣợc từ mỗi mẫu vào 1 đĩa Petri riêng, giữ ở điều kiện 4oC trong lạnh

phục vụ định loại.

2.5.2. Định loại sán lá truyền qua cá

2.5.2.1. Định loại ấu trùng

Mỗi mẫu cá có thể nhiễm 1 đến nhiều loại ấu trùng khác nhau, nhƣng trong

đó thƣờng có 1 loại chiếm ƣu thế về số lƣợng. Việc định loại ấu trùng đƣợc chia

làm 2 giai đoạn; 1) phân loại thô dựa trên kích thƣớc hình thái ban đầu thông qua

kính giải phẫu ở độ phóng đại thấp; 2) định loại chi tiết ở độ phóng lớn ở kính hiển

vi quan sát các đặc điểm hình thái quan trọng của ấu trùng.

Trƣớc tiên toàn bộ ấu trùng thu đƣợc từ mỗi mẫu giữ trong đĩa Petri nhỏ (5

cm) đƣợc quan sát bằng kính giải phẫu (Olympus CX21), sử dụng kim nhỏ để tách

những ấu trùng có kích thƣớc, hình thái khác biệt với những ấu trùng còn lại. Sử

dụng ống hút để hút các ấu trùng này, đƣa lên lam kính, đậy lamen và quan sát bằng

kính hiển vi (Olympus CX41) ở các vật kính 10X, 40X và 100X. Sau đó, những ấu

trùng còn lại cũng đƣợc hút đƣa lên lam kính và quan sát dƣới kính hiển vi

(Olympus CX41) tƣơng tự ở các vật kính 10X, 40X và 100X.

Dƣới kính hiển vi, ở vật kính 10X, 40X, 100X, quan sát kỹ các đặc điểm

hình thái cơ bản bao gồm giác miệng, giác bụng, túi bài tiết, răng trên giác bụng

hoặc giác miệng…vv. Sử dụng trắc vi thị kính để đo kích, thƣớc ấu trùng chiều dọc

và ngang, kích thƣớc giác miệng, giác bụng (nếu có), đếm số lƣợng răng trên giác

miệng hoặc giác bụng (nếu có)…vv. Sử dụng khóa định loại ấu trùng đƣợc mô tả

[90] kết hợp với tài liệu mô tả hình thái [54] để xác định loài sán.

Môt số trƣờng hợp chƣa quan sát rõ đƣợc các đặc điểm định loại có thể tiến

hành phá nang bằng cách; dùng giấy thấm, rút nhẹ nƣớc ở dƣới lamen chứa bào

nang ấu trùng để ấu trùng bị ép mỏng hoặc bào nang có thể vỡ, ấu trùng thoát khỏi

bào nang có thể giúp quan sát rõ hơn một số đặc điểm định loại. Hoặc lật lamen

khỏi lam kính, vừa quan sát dƣới kính giải phẫu, vừa dùng 2 kim nhọn để làm vỡ

43

thành bào nang giúp ấu trùng thoát khỏi bào nang (Hình 2.4).

Hình 2.4: Ấu trùng sán thoát khỏi bào nang (A- sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis; B- sán lá ruột nhỏ Haplorchis pumilio)

2.5.2.2. Gây nhiễm cho động vật

Gây nhiễm động vật để xác nhận loài, củng cố cho định loại ấu trùng và

trong một số trƣờng hợp, gây nhiễm động vật để xác định loài mới (nếu có). Đối với

gây nhiễm xác nhận loài, sử dụng chuột hamster (Cricetus frumentarius) để gây

nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ [99] và chuột chuột bạch (Mus musculus) để gây

nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ [121]. Chuột bạch và hamster đƣợc mua từ Trung

tâm chăm sóc động vật thí nghiệm, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ƣơng, Hà Nội. Quy

trình gây nhiễm đƣợc thực hiện nhƣ sau;

Chuẩn bị trƣớc ấu trùng với số lƣợng xác định đƣợc để trong đĩa Petri (5cm)

có chứa nƣớc muối sinh lý 0,89% (BPS). Làm sạch kim gây nhiễm (kim cong, đầu

tròn) bằng nƣớc nóng 100oC bằng cách bơm và hút 3 - 5 lần. Gây mê cho chuột

bằng cách cho chuột vào trong một bình kín có chứa bông hoặc vải sợi, sau đó bơm

một lƣợng nhỏ Ether vào bình. Bắt chuột ra sau 5 - 10 giây, khi chuột bắt đầu có

dấu hiệu mê thuốc. Một tay giữ chuột; ngón cái và ngón trỏ cầm nhẹ vào da phần

A B

44

đỉnh đầu của chuột, ngón út giữ lấy phần đuôi, thân chuột nằm trong lòng bàn tay.

Một tay dùng kim gây nhiễm (kim cong, đầu tròn) hút hết số ấu trùng đã đƣợc

chuẩn bị sẵn trong đĩa Petri để trên kính giải phẫu. Nhẹ nhàng đƣa đầu kim vào miệng,

luồn qua hầu thực quản và đến dạ dày chuột để không làm tổn thƣơng đến đƣờng tiêu

hóa. Chuột sau gây nhiễm đƣợc nuôi tách riêng và chăm sóc trong thời gian 7 ngày đối

với chuột gây nhiễm sán lá ruột nhỏ và 30 - 40 ngày với sán lá gan nhỏ.

Sử dụng Ether để gây mê sâu cho chuột trƣớc khi mổ; chuột đƣợc cho vào

bình thủy tinh có lắp kín sau đó bơm Ether, trong thời gian 3 -5 phút sau khi bơm

Ether, chuột đã bất động tiến hành mổ chuột. Dùng kéo sắc mổ khoang bụng, thu

toàn bộ ruột non (đối với sán lá ruột) và toàn bộ gan mật (đối với sán lá gan nhỏ)

đặt trong đĩa Petri có chứa nƣớc muối sinh lý. Dùng dùi nhọn, kéo và panh nhỏ để

rạch, tách ruột (sán lá ruột nhỏ) và tách gan, mật (sán lá gan nhỏ) cho sán trƣởng

thành thoát ra ngoài.

Soi trên kính giải phẫu để tìm và thu sán trƣởng thành sau đó đƣợc cố định

bảo quản trong cồn 70% hoặc cồn 96% phục vụ cho nghiên cứu hình thái và sinh

học phân tử khi cần thiết.

2.5.2.3. Nhuộm tiêu bản

Sán lá trƣởng thành gây nhiễm từ động vật thí nghiệm trong nghiên cứu này

đều là các loài sán có kích cỡ nhỏ nên đƣợc tiến hành nhuộm theo 7 bƣớc cơ bản

nhƣ sau;

Bƣớc 1: Rửa sán: Dùng chổi lông vớt sán đang bảo quản trong cồn ra đĩa

Petri (12 cm) chứa 10 ml nƣớc cất.

Bƣớc 2. Nhuộm sán: Sử dụng pipet thủy tinh hút khoảng 10 ml dung dịch

carmine cho vào đĩa Petri sạch (12 cm) sau đó dùng chổi lông đảo nhẹ sán trong

nƣớc cất rồi vớt sang dung dịch nhuộm sao cho sán ngập trong dung dịch, ngâm

trong trong thời gian 20 phút;

Bƣớc 3. Tẩy màu: Vớt sán ra khỏi thuốc nhuộm chuyển vào đĩa petri có 20 ml

nƣớc cất sau đó vớt một sán cho vào đĩa Petri có 10 ml dung dịch tẩy màu, quan sát sán

45

dƣới kính lúp điện trong dung dịch tẩy màu đến khi quan sát rõ nội quan. Sau khi quan

sát rõ nội quan, vớt sán chuyển sang đĩa Petri có 20 ml nƣớc cất. Lặp lại quá trình trên

đối với mỗi mẫu sán khác đến khi tẩy màu xong tất cả các mẫu sán. Đảo nhẹ sán rồi đổ

hoặc hút bỏ nƣớc rồi thêm 20 ml nƣớc cất mới, lặp lại 3 lần để rửa sán.

Bƣớc 4. Hút nƣớc: Vớt sán chuyển vào đĩa Petri (12 cm) có 20 ml cồn 70%,

để ít nhất 1 giờ sau đó chuyển sán vào đĩa Petri (12 cm)có 20 ml cồn 80%, để ít nhất

1 giờ rồi chuyển sán vào đĩa Petri (12 cm) có 20 ml cồn 90% rồi tiếp tục ngâm trong

1 giờ hoặc qua đêm và sau đó chuyển sán vào cồn tuyệt đối lần 1 trong ít nhất 1 giờ

rồi chuyển vào cồn tuyệt đối lần 2 và để trong ít nhất 1 giờ.

Bƣớc 5. Loại cồn: Chuyển từng mẫu sán vào đĩa Petri có 20 ml cồn: xylen

với tỷ lệ 1:1, để khoảng 1-5 phút sau đó chuyển sán sang đĩa Petri 20 ml có chứa

xylen (lần 1), để khoảng 1-5 phút và rồi chuyển sán sang đĩa Petri 20 ml có chứa

xylen (lần 2) và ngâm trong khoảng 1-5 phút.

Bƣớc 6. Gắn tiêu bản: Thực hiện gắn tiêu bản sán dƣới kính lúp điện, dùng

đũa thủy tinh nhỏ 1 giọt Canada balsam lên lam kính, vớt sán lá đặt lên trên giọt

Canada balsam, dùng kim nhọn đầu chỉnh sán ngay ngắn trong giọt balsam.

Bƣớc 7. Để khô tiêu bản: Để tiêu bản vào nơi bằng ph ng, khô ráo ít nhất 3

tháng ở nhiệt độ phòng hoặc 3 tuần trong tủ ấm 45oC.

2.5.2.4. Định loại sán trưởng thành

Dựa theo các khóa định loại [122,123] để xác định loài sán trƣởng thành thu

đƣợc từ động vật thí nghiệm sau khi nhuộm và làm tiêu bản.

2.6. Xác định điều kiện bất hoạt và lƣu giữ ấu trùng sán lá truyền qua cá

Nghiên cứu sử dụng ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis và H. pumilio làm

đối tƣợng nghiên cứu. Ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis đƣợc phát hiện nhiễm với

tỷ lệ và cƣờng độ cao trên một số loài cá tự nhiên ở khu vực MNPB, đặc biệt là cá

Tép dầu ở hồ Thác Bà, Yên Bái. Sán lá gan nhỏ C. sinensis là một vấn đề của sức

khỏe cộng đồng vì có thể gây ung thƣ đƣờng ống mật ở ngƣời [34]. Trong 5 loài sán

lá ruột nhỏ, ấu trùng sán lá ruột nhỏ H. pumilio là loài nhiễm phổ biến nhất ở trên cá

46

tại khu vực MNPB. Theo những kết quả khảo sát gần đây về SLTQC tại Việt Nam,

H. pumilio cũng là loài phổ biến nhất ở trên cá nƣớc ngọt [8–10,76,89,103]. Do đó,

ấu trùng C. sinensis và H. pumilio đƣợc lựa chọn để thử nghiệm các điều bất hoạt

trong nghiên cứu này.

2.6.1. Bố trí các thí nghiệm xác định điều kiện bất hoạt

Nghiên cứu triển khai 11 thí nghiệm với ấu trùng SLTQC (H. pumilio và C.

sinensis) và cá Tép dầu nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis và 7 nhóm điều

kiện thí nghiệm khác nhau (Bảng 2.4).

Bảng 2.4: Thí nghiệm thực nhằm xác định điều kiện bất hoạt ấu trùng sán lá

ĐIỀU KIỆN ẤU TRÙNG

H. pumilio

ẤU TRÙNG

C. sinensis

CÁ NHIỄM

C. sinensis

Đông lạnh 0oC, -20

oC, -80

oC 0

oC, -20

oC, -80

oC 0

oC, -20

oC, -80

oC

Gia nhiệt 50oC, 70

oC, 100

oC 50

oC, 70

oC, 100

oC -

Ƣớp muối - 5%, 7%, 10% 5%, 7%, 10%

Kháng sinh - 0,001; 0,05; 0,1% -

Praziquantel - 75, 150, 300ppm -

Nƣớc chanh - 100% -

Rƣợu - 30%, 40%, 50% -

Các ngƣỡng điều kiện thử nghiệm đƣợc sử dụng dựa trên các cơ sở khoa học

và thực tiễn. Nhiệt độ 0oC là điều kiện thông dụng đƣợc sử dụng để bảo quản thực

phẩm hàng ngày của con ngƣời, nhiệt độ -20oC và -80

oC là điều kiện trong phòng

thí nghiệm. Ngƣỡng 100oC là mức gia nhiệt tối ƣu trong hầu hết các phƣơng thức

chế biến thông thƣờng. Đã có các nghiên cứu trƣớc thử nghiệm với độ muối 20-

30% và khảo sát sơ bộ chũng tôi cũng thấy ở độ mặn 15 – 30% ấu trùng sán bị bất

hoạt nhanh, do vậy chúng tôi muốn khảo sát ở các độ muối thấp hơn 5-7%. Nƣớc

chanh và rƣợu thƣờng đƣợc sử dụng trong khi ăn gỏi cá với suy nghĩ là sẽ diệt đƣợc

giun sán nói chung, để làm rõ điều này chúng tôi đã sử dụng nƣớc chanh 100%,

rƣợu ở các nồng độ 30, 40 và 50%. Nghiên cứu cũng thử nghiệm với kháng sinh với

mục đích đánh giá khả năng lƣu giữ ấu trùng trong khi đó praziquantel đƣợc thử

47

nghiệm với mục đích diệt ấu trùng sán lá truyền qua cá. Nồng độ 75 ppm đƣợc sử

dụng là căn cứ dựa trên liều điều trị ở ngƣời [70].

2.6.1.1. Ấu trùng sán lá trong điều kiện đông lạnh

Ấu trùng sán lá ruột nhỏ: lựa chọn các ấu trùng H. pumilio còn khỏe mạnh -

khả năng vận động tốt, hút từ 10-30 ấu trùng cho vào mỗi đĩa petri (đƣờng kích 5

cm) khô, sạch sau đó đƣa vào các tủ lạnh/âm sâu (0oC, -20

oC và -80

oC). Sau mỗi

khoảng thời gian đông lạnh, lấy một đĩa petri ở mỗi điều kiện ra (Bảng 2.5).Ngay

sau giã đông ở nhiệt độ phòng, ấu trùng đƣợc hút đƣa lên lam kính và soi trên kính

hiển vi Olympus CX 31 (Nhật Bản) để xác định số lƣợng ấu trùng bất hoạt theo tiêu

chí Bảng 2.15.

Bảng 2.5: Thí nghiệm đông lạnh nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá ruột nhỏ

THỜI GIAN SỐ LƢƠNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

Nhiệt độ 0⁰C Nhiệt độ -20⁰C Nhiệt độ -80⁰C

05 phút 15 14 30

10 phút 12 11 25

15 phút 15 13 15

30 phút 12 11 17

01 giờ 15 15 16

05 giờ 13 15 13

12 giờ 17 11 11

24 giờ 18 12 19

36 giờ 10 14 16

Ấu trùng sán lá gan nhỏ: Thí nghiệm đƣợc bố trí với 21 nghiệm thức; 3 mức

đông lạnh x 7 khoảng thời gian (Bảng 2.6). Ấu trùng C. sinensis ngay sau khi phân

lập từ cá Tép dầu đƣợc hút bằng micropipette 200 µl từ 20-69 ấu trùng (1 lần) sang

1 đĩa Petri (5 cm) khô và sạch sau đó đƣa vào đông lạnh ở mỗi mức nhiệt độ và thời

gian xác định. Sau thời gian đông lạnh, mẫu sẽ đƣợc giã đông ở nhiệt độ phòng từ

10-15 phút trƣớc khi kiểm tra bằng kính hiển vi. Ấu trùng bất hoạt đƣợc xác định

theo tiêu chí (Bảng 2.15)

48

Bảng 2.6: Thí nghiệm đông lạnh bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ

THỜI GIAN SỐ LƢỢNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

Đông lạnh 0oC Đông lạnh -20

oC Đông lạnh -80

oC

05 phút 30 30 46

10 phút 50

61 69

30 phút 30 31

30

01 giờ 35

30 30

06 giờ 30 30 40

12 giờ 38

30 38

24 giờ 30 20 30

Ấu trùng sán lá gan nhỏ trong cá: Thí nghiệm đƣợc bố trí với 15 nghiệm thức; 3

mứcđông lạnh với 5 khoảng thời gian (Bảng 2.7). Cá Tép dầu sau khi thu đƣợc từ hồ

Thác Bà, Yên Bái đƣợc xếp đều vào các khay kim loại, mỗi khay chứa từ 30-100 cá thể

sau đó đƣa đông lạnh ở các mức nhiệt độ xác định (0oC, -20

oC, -80

oC). Sau mỗi

khoảng thời gian đông lạnh xác định, mỗi khay mẫu ở mỗi mức đông lạnh đƣa ra giã

đông ở nhiệt độ phòng (25 - 28oC) trong thời gian 30 - 60 phút. Cá ở từng khay riêng

đƣợc đƣa vào các cốc đong thủy tinh 500ml, mỗi cốc từ 5-10 cá thể.

Bảng 2.7: Thí nghiệm đông lạnh bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ trong cá

THỜI GIAN

(ngày)

SỐ LƢỢNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

Nhiệt độ 0oC Nhiệt độ -20

oC Nhiệt độ -80

oC

1 51 50 50

3 50 50 50

5 30 30 30

7 100 90 90

10 90 70 70

Phân lập ấu trùng từ các mẫu cá sau khi đông lạnh bằng phƣơng pháp tiêu cơ để

thu ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis. Kiểm tra ấu trùng bằng kính hiển vi ở vật kính

40X để quan sát hình thái, ấu trùng bất hoạt đƣợc xác định dựa theo tiêu chí mô tả ở

Bảng 2.15.

49

2.6.1.2. Ấu trùng sán lá trong điều kiện gia nhiệt

Ấu trùng sán lá ruột nhỏ:ấu trùng H. pumilio sau khi đƣợc phân lập từ cá

đƣợc đƣa vào các ống eppendoft 0,5 ml (Bảng 2.8), điều chỉnh máy nâng nhiệt

VLM (Đức) ở mức nhiệt xác định 50⁰C, 70⁰C hoặc 100⁰C, sau khi nhiệt độ ổn định,

tiến hành đƣa ống eppendoft có chứa ấu trùng vào khay nâng nhiệt và lần lƣợt lấy

mỗi ống eppendoft chứa ấu trùng ra sau 30 giây, 1, 5, 10, 15 và 20 phút. Đƣa ấu

trùng lên lam kính, đậy lam men và kiểm tra ở vật kính 40X kính hiển vi (Olympus

CX 31). Ấu trùng bất hoạt đƣợc xác định dựa vào tiêu chí mô tả ở Bảng 2.15.

Bảng 2.8: Thí nghiệm gia nhiệt nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá ruột nhỏ

THỜI GIAN SỐ LƢỢNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

Nhiệt độ 50⁰C Nhiệt độ 70⁰C Nhiệt độ 100⁰C

30 giây 21 20 18

01 phút 22 20 20

05 phút 20 20 19

10 phút 20 19 17

15 phút 20 18 15

20 phút 20 15 10

Ấu trùng sán lá gan nhỏ: thí nghiệm đƣợc bố trí với 21 nghiệm thức; 3 mức

gia nhiệt trong 7 khoảng thời gian xác định (Bảng 2.9). Ấu trùng C. sinensis sau khi

phân lập đƣợc từ cá Tép dầu thu từ hồ Thác Bà, Yên Bái đƣợc hút bằng micropipette,

50 - 82 ấu trùng trong 100 µl/lần sang 1 ống eppendoft 0,5 ml khô, sạch. Sử dụng

máy ủ nhiệt VMLs đã đƣợc cài đặt ở mức nhiệt độ xác định (50oC, 70

oC và 100

oC),

cho các ống eppendoft chứa ấu trùng vào các giếng ủ và lấy khỏi giếng sau mỗi

khoảng thời gian xác định (15 giây, 30 giây, 1 phút, 5 phút, 10 phút, 15 và 20 phút.

Mẫu lấy ra khỏi giếng ủ nhiệt để cân bằng ở nhiệt độ phòng trong thời gian 5 - 10

phút sau đó dùng micropipette hút hết ấu trùng đƣa lên lam kính để kiểm tra. Ấu

trùng sán lá gan nhỏ bất hoạt đƣợc xác định dựa theo tiêu chí Bảng 2.15.

50

Bảng 2.9: Thí nghiệm gia nhiệt nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ

THỜI GIAN SỐ LƢỢNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

Nhiệt độ 50oC Nhiệt độ 70

oC Nhiệt độ 100

oC

15 giây 75 76 82

30 giây 70

76 75

01 phút 50

50

51

05 phút 50

50

50

10 phút 50

50 -

15 phút 50

- -

20 phút 50

- -

2.6.1.3. Ấu trùng sán lá trong điều kiện muối

Ấu trùng sán lá gan nhỏ: thí nghiệm đƣợc bố trí ƣớp muối ở 3 nồng độ muối

tƣơng ứng với 5 khoảng thời gian (Bảng 2.10). Ấu trùng C. sinensis sau khi phân lập

đƣợc từ cá đƣợc đƣợc chuyển sang các đĩa Petri (5cm) có chứa hàm lƣợng muối (NaCl)

khác nhau 5%, 7% và 10%. Tiến hành hút cùng lúc ấu trùng ở cả 3 nồng độ muối (5%,

7%, 10%) sau khoảng thời gian xác định (1 giờ, 6 giờ, 12 giờ, 24 giờ, 48 giờ) để kiểm ấu

trùng bất hoạt. Ấu trùng bất hoạt đƣợc kiểm tra theo tiêu chí Bảng 2.15.

Bảng 2.10: Thí nghiệm ngâm muối nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ

THỜI GIAN

(giờ)

SỐ LƢỢNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

5% NaCl 7% NaCl 10% NaCl

01 50 52 51

06 50

55 55

12 50

50

50

24 50

50

55

48 50

- -

Ấu trùng sán lá gan nhỏ trong cá: thí nghiệm đƣợc bố trí với 12 nghiệm thức

tƣơng ứng với 3 nồng độ ƣớp muối và 4 khoảng thời gian (Bảng 2.11). Mỗi nghiệm

thức đƣợc bố trí với 45-50 mẫu cá Tép dầu, cân trọng lƣợng cá tổng của mỗi

nghiệm thức sau đó trộn đều với muối tinh NaCl theo tỉ lệ tƣơng ứng 5, 7, 10%

51

trọng lƣợng cá. Sau mỗi khoảng thời gian ƣớp muối xác định (1 ngày, 5 ngày, 10

ngày và 15 ngày), mẫu cá ƣớp muối đƣợc đƣa vào tiêu cơ để phân lập ấu trùng.

Bảng 2.11: Thí nghiệm ướp muối cá nhằm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ

THỜI GIAN

(ngày)

SỐ LƢỢNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

5% NaCl 7% NaCl 10% NaCl

01 50 51 50

05 50 50 50

10 50 50 50

15 45 50 50

2.6.1.4. Ấu trùng sán lá trong điều kiện kháng sinh

Ấu trùng sán lá gan nhỏ: ấu trùng C. sinensis phân lập từ cá Tép dầu thu tại

hồ Thác Bà đƣợc bố trí lƣu giữ trong dung dịch BPS có chứa kháng sinh florfenicol

(C12H14Cl2FNO4S) ở 3 nồng độ khác nhau 0,01%; 0,05% và 0,1% (đối chứng

không chứa kháng sinh). Mỗi nồng độ kháng sinh đƣợc bố trí 3 lần lặp lại, 30 ấu

trùng/lần trong mỗi ống eppendoft 2,0 ml và đƣợc lƣu giữ trong ngăn mát tủ lạnh ở

nhiệt độ 4oC. Kiểm tra và thay thế dung dịch bảo quản định kỳ 2 tháng/lần. Ấu

trùng ở mỗi nồng độ kháng sinh đƣợc hút ra đĩa Petri 5ml chứa nƣớc muối sinh lý

vô trùng và quan sát bằng kính giải phẫu. Ấu trùng bất hoạt đƣợc loại bỏ, ấu trùng

sống sót đƣợc giữ lại và chuyển sang ống eppendoft mới có chứa nƣớc muối sinh lý

với hàm lƣợng kháng sinh tƣơng tự. Thí nghiệm đƣợc theo dõi trong thời gian 12

tháng với 6 lần kiểm tra và thay dung dịch lƣu giữ.

2.6.1.5. Ấu trùng sán lá trong điều kiện xử lý bằng praziquantel

Ấu trùng sán lá gan nhỏ: thuốc Praziquantel dạng viên nén 600 mg đƣợc

cung cấp bởi TS. Đỗ Trung Dũng, Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng Trung

ƣơng, Hà Nội. Dùng cối chày sứ nghiền nhỏ thuốc bằng sau đó pha loãng với dung

dịch nƣớc muối sinh lý để tạo thành các dung dịch có hàm lƣợng 75ppm, 150ppm,

300ppm. Thí nghiệm đƣợc bố trí 3 nghiệm thức; mỗi nghiệm thức tƣơng ứng với 1

nồng độ praziquantel và 1 đối chứng chứa dung dịch BPS (Bảng 2.12).

52

Sử dụng ống hút lấy 10 ml praziquantel cho vào đĩa Petrri (5cm); mỗi nồng

độ 3 đĩa và 10ml nƣớc muối sinh lý cho vào 1 đĩa tƣơng tự. Hiệu chỉnh micropipette

ở mức 100µl sau đó hút 26 - 39 metacercariae chuyển vào mỗi đĩa Petri nói trên.

Thí nghiệm đƣợc bố trí trong điều kiện nhiệt độ phòng (25- 30oC) . Sau 3, 6 và 24

giờ ủ trong dung dịch praziquantel, hút lại ấu trùng ở 1 đĩa lồng trong mỗi nghiệm

thức, chuyển sang 1 đĩa lồng mới và có chứa BPS.

Dùng kính giải phẫu (Olympus CZ21) để quan sát xác định và đếm số lƣợng

ấu trùng bất hoạt. Trong một số trƣờng hợp nghi nghờ ấu trùng còn sống, ấu trùng

đƣợc tách riêng, hút đƣa lên lam kính, đậy bằng lamen và soi trên kính hiển vi

(Olympus CX31), quan sát ở độ phòng đại 400 lần để chắc chắn rằng ấu trùng đã

bất hoạt theo tiêu chí (Bảng 2.15).

Bảng 2.12: Thí nghiệm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ bằng praziquantel

THỜI GIAN

(giờ)

SỐ LƢỢNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

75ppm 150ppm 300ppm BPS

03 36

31

37

29

06 31

27

26

30

24 35

39

31

33

2.6.1.6. Ấu trùng sán lá trong điều kiện ngâm bằng nước chanh

Ấu trùng sán lá gan nhỏ: đƣợc bố trí với 5 nghiệm thức tƣơng ứng với 5 mức

thời gian (30 phút, 1 giờ, 3 giờ, 6 giờ và 12 giờ) ngâm ấu trùng trong nƣớc vắt từ

quả chanh tƣơi (Citrus limonia) - 100% và 1 đối chứng là nƣớc muối sinh lý (Bảng

2.13). Dùng micropipette, hiệu chỉnh 100µl, hút 26-39 ấu trùng cho ngẫu nhiên vào

6 đĩa lồng (5cm) sạch. Nƣớc chanh đƣợc vắt trực tiếp từ quả chanh tƣơi vào lần lƣợt

5 đĩa (5 nghiệm thức) đã chứa ấu trùng sán sao cho nƣớc chanh dàn đều hết đáy đĩa.

Thay vì nƣớc chanh, nƣớc muối sinh lý đƣợc cho vào đĩa lồng còn lại có chứa ấu

trùng sán làm đối chứng. Thí nghiệm đƣợc theo dõi trong phòng điều hòa, nhiệt độ

hiệu chỉnh 250C. Sau mỗi mức thời gian (30 phút, 1 giờ, 3 giờ, 6 giờ và 12 giờ),

dùng nƣớc muối sinh lý pha loãng nƣớc chanh ở 1 đĩa lồng và tiến hành soi trên

kính giải phẫu để xác định và đếm số lƣợng ấu trùng bất hoạt.

53

Bảng 2.13: Thí nghiệm dùng nước chanh để bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ

THỜI GIAN (giờ) SỐ LƢỢNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

Nƣớc chanh BPS

1/2 112

30

1 98

30

3 106

30

6 120

30

12 100

30

2.6.1.7. Ấu trùng sán lá trong điều kiện ngâm với rượu

Ấu trùng sán lá gan nhỏ: bố trí với 3 nghiệm thức tƣơng ứng với 3 nồng độ

rƣợu 30%, 40% và 50% (rƣợu gạo đƣợc mua tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) và

đối chứng là nƣớc muối sinh lý. Mỗi nghiệm thức bố trí 3 đĩa lồng (5cm) chứa 5ml

rƣợu với nồng độ tƣơng ứng và đối chứng là 1 đĩa lồng chứa 5ml nƣớc muối sinh lý.

Sử dụng micropipette, hiệu chỉnh 100µl, hút 22 - 66 ấu trùng cho vào mỗi đĩa lồng

ở các nghiệm thức và đối chứng (Bảng 2.14).

Bảng 2.14: Thí nghiệm bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ bằng rượu gạo

THỜI GIAN

(phút)

SỐ LƢỢNG ẤU TRÙNG THỬ NGHIỆM

Rƣợu 30% Rƣợu 40% Rƣợu 50% BPS

30 26

30

22

27

60 30

32

41 27

90 66

52

66

27

Thí nghiệm đƣợc đặt trong điều kiện phòng thí nghiệm có điều hòa nhiệt độ

đƣợc hiệu chỉnh ở mức 25oC trong suốt thời gian theo dõi. Sau 30, 60 và 90 phút, sử

dụng nƣớc muối sinh lý pha loãng rƣợu ở 1 đĩa mỗi nghiệm sau đó hút ấu trùng

sang đĩa lồng khác đã có sẵn nƣớc muối sinh lý. Đƣa đĩa lồng này lên kính giải phẫu

quan sát để xác định và đếm số lƣợng ấu trùng bất hoạt. Trong một số trƣờng hợp,

ấu trùng đƣợc kiểm tra lại bằng kính hiển vi với độ phóng đại 400 lần để xác nhận

ấu trùng bất hoạt theo tiêu chí trình bày tại Bảng 2.15.

54

2.6.2. Xác định ấu trùng bất hoạt

Ấu trùng SLTQC đƣợc xem là bất hoạt có thể có những biến đổi về hình thái

quan sát thấy rõ qua kính hiển vi hoặc có thể không, mức độ biến đổi hình thái ấu

trùng phụ thuộc vào cả điều kiện và thời gian bất hoạt. Tuy nhiên, ấu trùng SLTQC

bất hoạt đƣợc xác dịnh dựa vào những tiêu chí về hình thái và khả năng vận động

của chúng (Bảng 2.15).

Bảng 2.15: Tiêu chí căn cứ xác định ấu trùng sán lá bất hoạt

STT TIÊU CHÍ

1 Ấu trùng bị teo nhỏ không bình thƣờng tạo thành khoảng trống lớn trong

bào nang, không rõ cấu trúc ấu trùng

2 Tổng thể bào nang ấu trùng chuyển màu đen hay màu nhạt

3 Túi bài tiết trống do chất bài tiết bị vỡ và giải phóng,

4 Ấu trùng trƣơng lớn lấp đầy khoang bào nang, không còn gianh giới giữa

các cấu trúc

5 Không vận động

2.7. Phân tích và xử lý số liệu

Số liệu đƣợc nhập vào cơ sở dữ liệu trên excel sheet (Microsoft Office

version 2010) và chuyển sang Stata sheet Stata IC12.1 (StataCorp LP) để phân tích

và xử lý số liệu, cụ thể nhƣ sau;

Tỉ lệ nhiễm = 100 x số mẫu nhiễm ấu trùng/số mẫu kiểm tra (%)

Cƣờng độ nhiễm = tổng số ấu trùng/số mẫu nhiễm ấu trùng (ấu trùng/mẫu)

Mật độ ấu trùng = tổng số ấu trùng/khối lƣợng mẫu nhiễm (ấu trùng/g)

Sử dụng hàm thống kê mô tả (trong Stata IC12.1) để tính giá trị trung bình

trọng lƣợng mẫu cá, chiều dài trung bình, độ lệch chuẩn, tính tỷ lệ và cƣờng độ

nhiễm ấu trùng sán trên cá theo loại hình mặt nƣớc (ao, sông suối, hồ chứa), theo

loài, mùa vụ (mùa Khô và mùa Mƣa), theo kích cỡ cá (ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

sinensis trên cá Tép dầu, mật độ ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis phân bố trên

Tép dầu (Cƣờng độ nhiễm đƣợc tính bằng tổng số ấu trùng SLTQC/số mẫu cá có

55

nhiễm ấu trùng SLTQC đó).

So sánh tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán giữa các loại hình mặt nƣớc, loài vật chủ,

mùa vụ (sán lá gan nhỏ C. sinensis), kích cỡ cá (ấu trùng sán lá gan nhỏ) bằng hàm

“logistic regression”. So sánh cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán giữa các loại hình mặt

nƣớc, loài vật chủ, mùa vụ (sán lá gan nhỏ C. sinensis), kích cỡ cá (ấu trùng sán lá

gan nhỏ) bằng hàm “generalized negative binomial regression.

So sánh tỷ lệ sống của ấu trùng giữa các nghiệm thức trong cùng một thí

nghiệm tại các thời điểm tƣơng đồng bằng hàm Anova, sai khác có ý nghĩa khi giá

trị P nhỏ hơn 0,05.

56

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. Thành phần ấu trùng sán lá nhiễm trên cá ở khu vực miền núi phía Bắc

Khảo sát nhanh về SLTQC ở khu vực MNPB và nghiên cứu về SLTQC tại hồ

Thác Bà, Yên Bái, đã phân loại đƣợc ấu trùng của 6 loài thuộc 2 họ và 4 giống

SLTQC, trong đó đặc biệt quan trọng là sự hiện diện ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

sinensis trên cá tại đây (Bảng 3.1).

Bảng 3.1: Ấu trùng các loài sán lá truyền qua cá ở khu vực miền núi phía Bắc

HỌ GIỐNG LOÀI

Opisthorchiidae Clonorchis Clonorchis sinensis (Looss, 1907)

Heterophyidae Haplorchis Haplorchis pumilio (Looss, 1896)

Haplorchis taichui (Nishigori, 1924)

Haplorchis yokogawai (Katsuta, 1932)

Procerovum Procerovum varium (Onji & Nishio, 1916)

Centrocestus Centrocestus formosalus (Nishigori, 1924)

3.1.1. Ấu trùng sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis

Bào nang ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis phân lập từ cá trong nghiên cứu

này có dạng hình tròn hoặc elip (173,3 x 151,3 μm), giác bụng (48,1 x 43,2 μm) và

giác miệng (51,3 x 47,4 μm) nổi rõ và tƣơng đƣơng nhau (Hình 3.1).

Phân biệt ấu trùng sán lá gan nhỏ với sán lá ruột nhỏ bƣớc đầu có thể dựa

vào sự khác biệt về kích cỡ quan sát qua kính giải phẫu; có thể nhận thấy qua Hình

3.2. Tuy nhiên, kích thƣớc bào nang của C. sinensis nhiễm trên cá ở khu vực MNPB

(Hồ Thác Bà, Yên Bái) tƣơng đồng với ấu trùng C. sinensis đƣợc phân lập từ cá tại

Hàn Quốc [124].

57

Hình 3.1: Ấu trùng sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis (OS: giác miệng; VS: giác bụng; EX: túi bài tiết; Đầu mũi tên: thành bào nang)

Hình 3.2: Sự khác biệt về kích cỡ ấu trùng sán lá gan nhỏ và sán lá ruột nhỏ (CS: Clonorchis sinensis; HP: Haplorchis pumilio)

EX

OS

VS

OS

VS

HP

CS

58

Hình thái ấu trùng sán lá gan nhỏ khá khác biệt với ấu trùng sán lá ruột nhỏ;

kích thƣớc bào nang thƣờng nhỏ hơn - có thể phân biệt đƣợc ở độ phòng đại của

kính giải phẫu, đặc điểm định loại cũng nhận dạng khá đơn giản. Tuy nhiên, giữa 2

loài sán lá gan nhỏ C. sinensis và O. viverrini lại không thể phân biệt nếu chỉ dựa

vào hình thái giai đoạn ấu trùng metacercariae. Ấu trùng sán C. sinensis trong

nghiên cứu này đã đƣợc xác nhận thông qua gây nhiễm trên chuột hamster. Sán

trƣởng thành sau khi nhuộm carmine đã quan sát thấy rõ tinh hoàn hình rễ cây, đây

là đặc điểm định loại của C. sinensis để phân biệt với O. viverrini, có tinh hoàn

dạng thùy.

Bảng 3.2: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis

TT TÊN VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM

Tên khoa học Tiếng Việt

1 Toxabramis houdemeri Tép dầu Hồ Thác Bà (Yên Bái)

2 Hemiculter leucisculus Mƣơng xanh Sông Cầu (Thái Nguyên)

Hồ Thác Bà, Sông Hồng,

Sông Chảy (Yên Bái)

3 Culterichthys erythropterus Cá Thiểu Thác Bà, Sông Hồng (Yên

Bái)

4 Culter recurvirostris Ngão gù Hồ Thác Bà (Yên Bái)

5 Carassius cantonensis Cá Nhƣng Hồ Thác Bà (Yên Bái)

6 Opsariichthys bidens Cháo thƣờng Hồ Thác Bà (Yên Bái)

7 Osteochilus salsburyi Dầm đất Hồ Thác Bà (Yên Bái)

8 Rhinogobius sp. Bống hoa Hồ Thác Bà (Yên Bái)

Nghiên cứu đã ghi nhận 8/35 loài thuộc 2 họ, 8 giống cá nhiễm ấu trùng sán

lá gan nhỏ C. sinenis, trong đó 4 loài cá có mức độ nhiễm cao đều thuộc họ cá Chép

Cyprinidae bao gồm: Tép dầu, Mƣơng xanh, Thiểu và Ngão gù. Các loài cá nhiễm

ấu trùng sán lá gan nhỏ đều là cá tự nhiên, có nguồn gốc từ sông suối và hồ chứa ở

khu vực miền núi phía Bắc, đặc biệt là hồ Thác Bà, Yên Bái (Bảng 3.2).

Có thể nói rằng đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam ghi nhận một số lớn

59

các loài cá (8 loài) nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis. Trong một nghiên cứu

gần đây tại Nam Định, Phan et al (2010b) xét nghiệm hơn 3800 mẫu cá của 18 loài

khác nhau nhƣng chi phát hiện 1 loài duy nhất 1 cá thể Mè trắng nhiễm ấu trùng này

[89]. Ở một nghiên cứu khác, nhóm tác giả này cũng chỉ phát hiện 3 loài nhiễm ấu

trùng sán lá gan là Mè trắng, Rohu và Trắm cỏ [9]. Tại Ninh Bình, một trong những

vùng dịch tễ của sán lá gan nhỏ nhƣng các nghiên cứu trên cá cũng chỉ phát hiện 2

trong số nhiều loài cá xét nghiệm nhiễm ấu trùng này là Mƣơng xanh và Thiểu

[11,95]. Và cũng chỉ cá Mè trắng, Mè hoa và Trắm cỏ đƣợc ghi nhận là vật chủ

trung gian của C. sinensis tại Hòa Bình [94]. Nhƣ vậy có thể nói rằng, nghiên cứu

đã ghi nhận thêm 6 loài cá là vật chủ mới của sán lá gan nhỏ C. sinensis tại Việt

Nam bao gồm Tép dầu, Ngão, cá Nhƣng, Cháo thƣờng, Dầm đất và Bống hoa. Ở

khu vực Châu Á, trong số 6 loài vật chủ mới ghi nhận tại Việt Nam, có Tép dầu và

Cháo thƣờng đã đƣợc xác định nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ này tại Đài Loan

[125]. Xác định đƣợc 8 loài vật chủ trong nghiên cứu này là một con số lớn đối với

sán lá gan nhỏ C. sinensis. Điều đó cho thấy, tính đặc trƣng vật chủ của sán lá gan

nhỏ rất cao.

3.1.2. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis pumilio

Bào nang hình tròn hoặc ovan (238,6 x 219,4µm), quang thân có nhiều gai

nhỏ xếp rải rác từ đầu đến gần hết túi bài tiết. Giác miệng lớn (53,4 x 32,9µm), giác

bụng không phát triển nhƣng có 2 hàng gai với số lƣợng từ 36 đến 42 răng. Đây

cũng là đặc điểm định loại, phân biệt giữa H. pumilio với H. taichui và H.

yokogawai (Hình 3.3).

Sán lá ruột nhỏ H. pumilio là SLTQC phổ biến nhất tại khu vực MNPB, ấu

trùng của chúng đƣợc phát hiện trên 34 loài (Bảng 3.3).

Kết quả nghiên cứu này xác nhận sự phổ biến của sán lá ruột nhỏ H. pumilio

trên cá, ngƣời và động vật ở khu vực miền Bắc nƣớc ta đã đƣợc ghi nhận trong các

nghiên cứu thời gian gần đây [10,11,68,77,89,92].

60

Hình 3. 3: Bào nang ấu trùng Haplorchis pumilio (OS: giác miệng; EX: túi bài tiết; Mũi tên đỏ: 2 hàng gai nhỏ trên giác bụng; Mũi tên đen:

thành bào nang ấu trùng)

Bảng 3.3: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis pumilio

TT TÊN LOÀI VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM

Tên khoa học Tiếng Việt

1 Anabas testudineus Rô đồng Yên Bái, Điện Biên

2 A. macropterus Thè be Thái Nguyên, Yên Bái

3 C. cantonensis Nhƣng Yên Bái

4 Carassius auratus Cá Diếc Thái Nguyên, Yên Bái

5 Channa maculata Cá Quả Yên Bái

6 Cirrhnus cirrhosis Trôi trắng Thái Nguyên

7 Clarias fuscus Trê đen Yên Bái

8 C. idellus Trắm cỏ Lào Cai

9 Culter recurvirostris Ngão gù Yên Bái

EX

A

OS

EX

61

TT TÊN LOÀI VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM

Tên khoa học Tiếng Việt

10 C. erythropterus Thiểu Yên Bái, Thái Nguyên

11 Cyprinus carpio Cá Chép Thái Nguyên, Yên Bái, Lào

Cai

12 Garra sp. Cá Bậu Yên Bái

13 Glossogobius sp. Bống trắng Yên Bái

14 Glyptothorax honghensis Chiên suối Yên Bái

15 H. molitrix Mè trắng Thái Nguyên, Yên Bái, Lào

Cai, Điện Biên

16 H. macracanthus Đục chấm Thái Nguyên

17 Hemibarbus medius Đục cờ Thái Nguyên

18 Hemiculter leucisculus Mƣơng xanh Thái Nguyên, Yên Bái, Lào

Cai

19 M. armatus Chạch sông Yên bái

20 Microphysogobio sp. Cá Bống Thái Nguyên

21 Neosalanx tangkakeii Tiểu bạc Yên Bái

22 Onychostoma laticeps Sỉnh gai Yên Bái

23 Opsariichthys bidens Cháo thƣờng Yên Bái

24 Oreochromis niloticus Rô phi vằn Yên Bái, Lào Cai

25 Osteochilus salisburyi Dầm đất Thái Nguyên, Yên Bái

26 Pelteobagrus flavimanus Bò vàng Yên Bái

27 Prochilodus lineatus Trôi Nam mỹ Lào Cai

28 Rhinogobius sp. Bống hoa Thái Nguyên, Yên Bái

29 S. nigripinnis Nhọ chảo Thái Nguyên

30 Schistura spp. Chạch suối Thái Nguyên, Yên Bái

31 Squaliobarbus curriculus Chày mắt đỏ Yên Bái

32 Toxabramis houdemeri Tép dầu Thái Nguyên, Yên Bái

33 Traccatichthys pulcher Chạch cật Thái Nguyên

62

TT TÊN LOÀI VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM

Tên khoa học Tiếng Việt

34 Xenocypris argentea Nhàng bạc Yên Bái

3.3.3. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis taichui

Bào nang có dạng hình tròn (244,8 x 214,4 µm) xung quanh thân ấu trùng có

nhiều gai nhỏ xếp từ đầu xuống gần cuối túi bài tiết, giác miệng nổi rõ có kích

thƣớc lớn, giác bụng không phát triển với 1 hàng gai lớn (15-18 gai) xếp hình nải

chuối (Hình 3.4). Phân biệt giữa các loài trong nhóm Haplorchis đó là số lƣợng và

hình dạng của gai trên giác bụng này. Nghiên cứu phát hiện 22 loài, thuộc 8 họ 22

giống nhiễm ấu trùng này tại Lào Cai, Điện Biên, Yên Bái và Thái Nguyên (Bảng

3.4).

Hình 3. 4: Bào nang ấu trùng Haplorchis taichui (OS: Giác miệng; EX: túi bài tiết; Mũi tên đỏ: 1 hàng gai lớn trên giác bụng; Mũi tên đen:

thành bào nang)

OS

EX

63

Bảng 3.4: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis taichui

TT TÊN LOÀI VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM

Tên khoa học Tiếng Việt

1 Anabas testudineus Rô đồng Yên Bái

2 Beaufortia leverettii Vây bằng vẩy Yên Bái

3 Cyprinus carpio Cá Chép Lào Cai

4 C. erythropterus Cá Thiểu Yên Bái, Lào Cai

5 C. idellus Trắm cỏ Lào Cai

6 C. cantonensis Cá Nhƣng Yên Bái

7 Carassius auratus Cá Diếc Thái Nguyên, Yên Bái

8 Channa maculata Cá Quả Yên Bái

9 Clarius fuscus Trê đen Yên Bái

10 Culter recurviostris Ngão gù Yên Bái

11 Garra sp. Cá Bậu Yên Bái

12 G. honghensis Chiên suối Yên Bái

13 H. molitrix Mè trắng Lào Cai

14 Hemibarbus medius Đục cờ Thái Nguyên

15 Hemiculter leucisculus Mƣơng Thái Nguyên, Yên Bái, Lào Cai

16 Onychostoma laticeps Sỉnh gai Yên Bái

17 Opsariichthys bidens Cháo thƣờng Yên Bái

19 Osteochilus salisbury Dầm đất Yên Bái

20 Prochilodus lineatus Trôi Nam mỹ Lào Cai

21 S. curriculus Chày mắt đỏ Yên Bái

22 T. houdemeri Tép dầu Thái Nguyên, Yên Bái, Điện Biên

64

3.3.4. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis yokogawai

Bào nang ấu trùng có dạng hình tròn, kích thƣớc (250,1 x 230,4µm), xung

quanh thân ấu trùng có nhiều gai nhỏ, giác miệng nổi rõ có kích thƣớc lớn, giác

bụng tiêu biến – không phát triển với nhiều răng nhỏ li ti (50-76 gai), túi bài tiết

lớn (EX) (Hình 3.5). Trong số các loài thuộc giống Haplorchis, loài H. yokogawai

ít gặp nhất, chỉ 3 loài thuộc 3 giống, 3 họ khác nhau nhiễm ấu trùng loài sán lá ruột

này (Bảng 3.5), trong đó vật chủ đặc hiệu nhất là cá Trê đen

Hình 3. 5: Bào nang ấu trùng Haplorchis yokogawai (OS: giác miệng; VS: giác bụng; EX: túi bài tiết; Mũi tên đen: thành bào nang ấu trùng)

Bảng 3.5: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ Haplorchis yokogawai

TT TÊN LOÀI VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM

Tên khoa học Tiếng Việt

1 Anabas testidineus Rô đồng Yên Bái

2 Clarias fuscus Trê đen Yên bái

3 Pelteobagrus flavimanus Bò vàng Yên Bái

OS

VS

EX

65

3.3.5. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Procerovum varium

Bào nang có dạng hình tròn hoặc elip, kích thƣớc bào nang 281,1x219,3µm,

giác miệng lớn nhƣng không nổi rõ, giác bụng không phát triển, túi bài tiết phân thùy

(Hình 3.6) và có 1 gai giao phối expulser - khó quan sát ở gia đoạn ấu trùng.

Hình 3. 6: Bào nang ấu trùng Procerovum varium (OS: giác miệng; VS: giác bụng; EX: túi bài tiết phân thùy)

Ấu trùng P. varium chỉ phát hiện nhiễm ở 5 loài cá ở khu vực MNPB nhƣ trình

bày tại Bảng 3.6, trong đó Rô đồng (A. testudineus) là vật chủ đặc trƣng do nhiễm với tỉ

lệ và cƣờng độ cao nhất.

OS

EX

VS

66

Bảng 3.6: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruột nhỏ Procerovum varium

TT TÊN LOÀI VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM

Loài Tiếng Việt

1 Anabas testudineus Rô đồng Yên Bái, Điện Biên

2 Culter recurvirostris Thiểu Yên Bái

3 Sarcocheilichthys nigripinis Nhọ Chảo Thái Nguyên

4 Rhinogonius sp. Bống hoa Điện Biên

5 Schistura spp. Chạch suối Điện Biên

3.1.6. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ Centrocestus formosanus

Bào nang ấu trùng có dạng hình elip, kích thƣớc nhỏ (215,3 x 130,5µm), giác

bụng và giác miệng lớn nổi rõ, có 2 hàng gai (32 gai) xếp so le xung quanh giác

miệng, túi bài tiết có dạng hình chữ X (Hình 3.7).

Hình 3. 7: Bào nang ấu trùng Centrocestus formosanus (OS: giác miệng, VS: giác bụng; EX: túi bài tiết hình chữ X; Mũi tên đỏ: gai quang giác

miệng)

VS

OS

EX

67

Ấu trùng sán lá ruột nhỏ C. formosanus khá phổ biến ở khu vực miền núi

phía Bắc với 19/35 loài cá nhiễm loại ấu trùng này (Bảng 3.7).

Bảng 3.7: Loài cá nhiễm ấu trùng sán lá ruôt nhỏ Centrocestus formosanus

TT TÊN LOÀI VẬT CHỦ ĐỊA ĐIỂM

Tên khoa học Tiếng Việt

1 Anabas testidineus Rô đồng Yên Bái, Điện Biên

2 Acheilognathus macropterus Thè be Thái Nguyên

3 Channa maculata Cá Quả Yên Bái

4 Clarias fuscus Trê đen Yên Bái

5 Ctenopharyngodon idellus Trắm cỏ Lào Cai

6 Cultrichthys erythropterus Thiểu Thái Nguyên, Yên Bái

7 Cyprinus carpio Chép Yên Bái, Lào Cai

8 Glyptothorax honghensis Chiên suối Yên Bái

9 Hemibarbus macracanthus Đục chấm Thái Nguyên

10 Hemibarbus medius Đục cờ Thái Nguyên

11 Hemiculter leucisculus Mƣơng xanh Thái Nguyên, Yên Bái

12 Hypophthalmichthys molitrix Mè trắng Lào Cai

13 Microphysogobio sp. Cá Bống Thái Nguyên

14 Osteochilus salsburyi Dầm đất Yên Bái

15 Rhinogobius sp. Bống hoa Yên Bái

16 Sarcocheilichthysnigripinis Nhỏ chảo Thái Nguyên

17 Schistura sp. Chạch suối Thái Nguyên

18 Traccatichthys pulcher Chạch cật Thái Nguyên

19 Xenocypris argentea Nhàng bạc Thái Nguyên

68

3.2. Kết quả khảo sát nhanh ấu trùng sán ở khu vực miền núi phía Bắc

3.2.1. Tình hình nhiễm ấu trùng sán lá trên cá

Khảo sát nhanh về ấu trùng SLTQC thu đƣợc từ các thủy vực; ao, hồ chứa và

sông suối tại khu vực MNPB cho thấy ấu trùng sán lá có tỉ lệ và cƣờng độ khá cao

47,4% và 25,16 ấu trùng/mẫu. Có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ nhiễm ấu trùng trên

cá thu đƣợc từ ao, hồ chứa và sông suối trong đó cá ao nhiễm với tỉ lệ cao nhất và

thấp nhất là cá sông suối. Cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán lá cao nhất là 38,6 ấu

trùng/mẫu cá ao, 22,1 ấu trùng/mẫu cá ở sông suối và thấp nhất là 18,8 ấu

trùng/mẫu cá thu từ hồ chứa (Bảng 3.8).

Bảng 3.8: Tỉ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng sán lá trên cá

MẶT NƢỚC SỐ LƢỢNG

(cá)

TLN

(%)*

CĐN

(ấu trùng/mẫu)*

KHOẢNG

(min – max)

Ao (7 địa điểm) 186 46,7a

38,6a(±67,8) 1 - 432

Hồ chứa (6 hồ chứa) 210 28,1b

18,8b(±30,3) 1 - 485

Sông suối (6 sông) 450 56,8c 22,1

b(±54,7) 1 - 335

Trung bình 846 47,4 25,16 (± 55,43) 1 - 485

(*) biểu thị sự khác biệt thống kê (p≤0,05) giá trị trong cùng 1 cột là khác nhau nếu dấu biểu thị khác nhau; TLN: tỉ lệ

nhiễm; CĐN: cường độ nhiễm

Nghiên cứu bƣớc đầu đã xác định SLTQC có xuất hiện trên cá ở cả 3 loại

hình mặt nƣớc tiêu biểu (ao, sông suối, hồ chứa) ở khu vực MNPB. Đây cũng là

nghiên cứu đầu tiên khặng định có sự phân bố của SLTQC trên cá tại đây. Mức độ

nhiễm SLTQC ở khu vực MNPB ít nhiều giống với hiện trạng nhiễm ấu trùng

SLTQC ở khu vực ĐBSH [8,9,11,89] và khu vực miền Trung [76,101] nhƣng cao

hơn nhiều so với khu vực ĐBSCL [102,103]. Kết quả nghiên cứu này xác nhận rằng

SLTQC phân bố phổ biến ở Việt Nam, đây là một mối nguy đối với sức khỏe cộng

đồng cần đƣợc quan tâm khi tập quán ăn gỏi cá hiện đang còn khá phổ biến, đặc

biệt là các tỉnh miền Bắc nƣớc ta [12,14].

3.2.2. Thành phần ấu trùng sán lá nhiễm trên cá ở các loại hình mặt nước

Khảo sát nhanh đã xác định đƣợc ấu trùng của 6 loài SLTQC ở khu vực

69

MNPB, trong đó 1 loài sán lá gan nhỏ C. sinensis và 5 loài sán lá ruột nhỏ gồm H.

pumilio, H. taichui, H. yokogawai, P. varium và C. formosanus (Bảng 3.9).

Bảng 3.9: Thành phần và mức độ nhiễm ấu trùng sán lá theo thủy vực

SLTQC

TLN (%)*

CĐN (ấu trùng)*

Ao Hồ chứa Sông suối Ao Hồ

chứa Sông suối

Clonorchis sinensis 0 10,9a

2,7a

0 29,7a

2,1b

Haplorchis pumilio 44,1a

25,2a

44,7a

22,6a

7,2a

16,3a

Haplorchis taichui 11,3a

1,4b

14,2a

6,1a

1,0a

6,2a

H. yokogawai 0,5a

0 1,3a

1,0a

0 5,5a

C. formosanus 4,3a

1,9a

14,2b

1,6a

1,0a

10,7b

Procerovum varium 5,4a

0 4,9a

135,7a

0 55,7a

*biểu thị sự khác biệt thống kê (p≤0,05) - giá trị trong cùng 1 hàng là khác nhau nếu chữ/dấu biểu thị khác nhau; TLN: tỉ

lệ nhiễm, CĐN: cường độ nhiễm;

Ấu trùng C. sinensis chỉ đƣợc phát hiện trên cá ở 2 loại hình mặt nƣớc là

sông suối và hồ chứa. Mặc dù, không có khác biệt về tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan

nhỏ giữa cá ở sông suối và hồ chứa, tuy nhiên cá hồ chứa có cƣờng độ nhiễm cao

hơn so với cá ở sông suối. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ H. pumilio có tỉ lệ nhiễm cao

nhất ở cả 3 loại hình mặt nƣớc ao, hồ chứa và sông suối, mặc dù vậy không có sự

khác biệt giữa các loại hình mặt nƣớc này. Đặc biệt ấu trùng P. varium có cƣờng độ

nhiễm rất cao trên cá ở ao và sông suối những không phát hiện ấu trùng này trên cá

thu từ hồ chứa. Các loài sán lá ruột khác H. taichui, H. yokogawai và C. formosanus

có tỉ lệ và cƣờng độ nhiễm trên cá ở cả 3 thủy vực thấp hơn so với H. pumilio.

3.2.2.1. Ấu trùng sán lá nhiễm trên cá thu được từ ao

Phân tích 186 mẫu, 8 loài cá, phát hiện ấu trùng của 5 loài sán lá ruột nhỏ

bao gồm H. pumilio, H. taichui, H. yokogawai, C. formosanus và P. varium (Bảng

3.10) - không phát hiện ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên ở loại hình mặt

nƣớc này.

70

Ấu trùng sán lá ruột nhỏ H. pumilio nhiễm trên 7 loài thu đƣợc từ ao, H. taichui nhiễm ở 6 loài, C. formosanus nhiễm 4 loài nhƣng

H. yokogawai và P. varium chỉ phát hiện nhiễm trên 1 loài duy nhất là Rô đồng. Trong số 5 loài, H. pumilio có tỉ lệ và cƣờng độ nhiễm cao

ở Trắm cỏ, Chép, Mè trắng và Rô đồng. Trong khi đó H. taichui nhiễm với cƣờng độ cao ở cá Quả (79 ấu trùng/mẫu) trong khi đó P.

varium lại nhiễm rất cao ở Rô đồng (135 ấu trùng/mẫu).

Bảng 3.10: Thành phần và mức độ nhiễm ấu trùng sán lá trên cá ao

TT TÊN VẬT CHỦ N

(cá)

TỈ LỆ NHIỄM (CƢỜNG ĐỘ NHIỄM)

Tên khoa học Tiếng Viêt H. pumilio H. taichui H. yokogawai C. formosanus P. varium

1 Anabas testudineus Rô đồng 10 70,0 (6,0)

40,0 (13)

10,0 (1,0) 20,0 (2,5)

100 (135,7)

2 Channa maculata Cá Qủa 1 0 100(79,0)

0 0 0

3 Cirrhinus cirrhosis Trôi việt 13 7,7 (2,0)

0 0 0 0

4 Ctenopharyngodon idellus Trắm cỏ 55 43,6 (47,7)

16,4 (2,6)

0 7,3 (1,5)

0

5 Cyprinus carpio Cá Chép 16 50,0 (33,6)

18,7 (5,7)

0 6,3 (1,0)

0

6 H. molitrix Mè trắng 41 60,9 (9,2)

4,8 (1,0)

0 2,4 (1,0)

0

7 Oreochromis niloticus Rô phi vằn 33 6,1 (1,0)

0 0 0 0

8 Prochilodus lineatus Trôi Nam mỹ 17 88,2 (11,2)

11,7 (1,5)

0 0 0

N: số lượng mẫu phân tích

71

3.1.2.2. Ấu trùng sán lá nhiễm trên cá thu được từ sông suối

Nghiên cứu đã thu và phân tích 450 cá thể thuộc 26 loài cá ở sông suối khu vực MNPB đã phát hiện ấu trùng 1 loài sán lá gan nhỏ

C. sinensis và 5 loài sán lá ruột nhỏ bao gồm H. pumilio, H. taichui, H. yokogawai, P. varium và C. formosanus. Ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

sinensis nhiễm trên cá Mƣơng xanh với tỉ lệ và cƣờng độ nhiễm tƣơng ứng 10,5% và 2,2 ấu trùng/cá. Cá Cháo thƣờng cũng phát hiện

nhiễm với tỉ lệ thấp hơn. Trong số ấu trùng các loài sán lá ruột, H. pumilio phổ biến nhất, tỉ lệ nhiễm ở một số loài lên tới 100% (Bảng 3.4).

Bảng 3.11: Thành phần ấu trùng sán lá nhiễm trên cá sông suối

TT TÊN VẬT CHỦ

N

(cá)

TỈ LỆ NHIỄM (CƢỜNG ĐỘ NHIỄM)

Tên khoa học Tiếng Viêt C.

sinensis H. pumilio H. taichui

H.

yokogwai

C.

formosanus P. varium

1 A. macropterus Thè be 17 0 70,6 (30,0) 0 0 17,6 (28,0) 0

2 Anabas testudineus Rô đồng 11

0 90,9 (9,1) 0 0 90,9 (8,7) 100(101,2)

3 Beaufortia leverettii Vây bằng 15 0 0 6,7 (1,0) 0 0 0

4 Carassius auratus Cá Diếc 8 0 25,0 (1,5) 12,5 (1,0) 0 0 0

5 Channa maculata Cá Quả 1 0 100 (21,0) 0 0 0 0

6 Clarias fuscus Trê đen 16 0 100(119,1) 12,5 (4,0) 37,5(5,5) 62,5 (8,3) 0

7 C. erythropterus Cá Thiểu 19 0 47,4 (3,0) 10,5 (4,0) 0 5,3 (1,0) 0

8 Cyprinus carpio Cá Chép 2 0 100 (1,5) 0 0 0 0

9 Garra sp. Cá Bậu 4 0 25,0 (1,0) 50,0 (4,5) 0 0 0

10 Gly. honghensis Chiên suối 15 0 66,7 (2,8) 6,7 (14,0) 0 6,7 (1,0) 0

72

TT TÊN VẬT CHỦ

N

(cá)

TỈ LỆ NHIỄM (CƢỜNG ĐỘ NHIỄM)

Tên khoa học Tiếng Viêt C.

sinensis H. pumilio H. taichui

H.

yokogwai

C.

formosanus P. varium

11 Hemibarbabus medius Đục cờ 14 0 50,0 (2,4) 14,3 (1,5) 0 7,1 (1,0) 0

12 H. macracanthus Đục chấm 5 0 20,0 (1,0) 0 0 40,0 (6,0) 0

13 Hemiculter leucisculus Cá Mƣơng 105 10,5(2,2) 38,1 (7,2) 21,9(11,5) 0 6,7 (16,7) 0

14 Glossogobius sp. Bống trắng 1 0 100 (1,0) 0 0 100 (3,0) 0

15 Opsariichthys bidens Cháo thƣờng 20 0 30,0 (2,0) 50,0 (2,1) 0 0 0

16 Osteochilus salisbury Dầm đất 42 2,4(1,0) 66,7 (8,7) 19,0 (4,5) 0 7,1 (1,3) 0

17 Rhinogobius sp. Bống hoa 30 0 16,7 (1,8) 0 0 0 3,3 (10,0)

18 Sar. nigripinnis Nhọ chảo 14 0 78,6 (2,7) 0 0 21,4 (1,3) 14,3 (1,0)

19 Schistura spp. Chạch suối 38 0 52,6 (3,9) 0 0 23,7(10,2) 21,1 (11,0)

20 Squaliobarbus curriculus Chày mắt đỏ 21 0 38,1 (14,4) 42,8 (2,5,) 0 0 0

21 Toxabramis houdemeri Tép dầu 15 0 13,3 (3,0) 13,3 (4,0) 0 0 0

22 Traccatichthys pulcher Chạch cật 15 0 33,3 (6,8) 0 0 80,0 (16,4) 0

23 Onychostoma laticeps Sỉnh gai 11 0 18,2 (1,0) 9,1 (1,0) 0 0 0

24 Xenocypris argentea Nhàng bạc 6 0 33,3(1,5) 0 0 16,7 (2,0) 0

N: số lượng mẫu phân tích

73

3.2.2.3. Ấu trùng sán lá nhiễm trên cá thu được từ hồ chứa

Tổng số 210 mẫu cá thuộc 7 loài thu đƣợc từ các hồ chứa khác nhau tại khu vực MNPB đã phát hiện ấu trùng của 1 loài sán lá gan

nhỏ C. sinensis và 4 loài sán lá ruột nhỏ gồm H. pumilio, H. taichui, H. yokogwai và C. formosanus. Trong đó, ấu trùng C. sinensis phát

hiện nhiễm ở 3 loài cá thu đƣợc từ hồ chứa, đặc biệt là ở Tép dầu. Ấu trùng H. pumilio nhiễm 6 loài nhƣng H. taichui, H. yokogawai và

C. formosanus chỉ nhiễm trên 1 loài. Cá Quả hồ chứa không phát hiện nhiễm trùng SLTQC (Bảng 3.12).

Bảng 3.12: Thành phần ấu trùng sán lá trên cá hồ chứa

TT TÊN VẬT CHỦ N (cá)

TỈ LỆ NHIỄM (CƢỜNG ĐỘ NHIỄM)

Tên khoa học Tiếng Viêt C. sinensis H. pumilio H. taichui H. yokogwai C. formosanus

1 Channa maculata Cá Quả 5 0 0 0 0 0

2 Clarius fuscus Trê đen

1

0 100(11,0)

0 0 0

3 C. erythropterus Cá Thiểu 40 2,5 (2,0)

17,5 (4,1)

0 0 5 (1,0)

4 Cyprinus carpio Cá Chép 9 0 66,7 (13,0)

0 0 0

5 H. leucisculus Mƣơng xanh 88 6,7 (1,0)

13,6 (2,2)

0 0 0

6 H. molitrix Mè trắng 1 0 100(12,0)

0 0 0

7 T. houdemeri Tép dầu 66 31,8 (32,4)

39,4(8,7)

4,5 (1,0) 3,0 (1,0) 0

N: số lượng mẫu phân tích

74

Kết quả khảo sát nhanh đã xác định đƣợc ấu trùng của 6 loài SLTQC bao

gồm C. sinensis, H. pumilio, H. taichui, H. yokogawai, P. varium và C.

formosanus nhiễm trên cá ở khu vực MNPB. Trong đó, H. pumilio là loài chiếm

ƣu thế cả về loài vật chủ cũng nhƣ mức độ nhiễm. Kết quả này cũng hoàn toàn

phù hợp với các nghiên cứu vật chủ chính và vật chủ trung gian nhƣ cá tại Việt

Nam trong thời gian gần đây. Sau kết quả xét nghiệm Kato-Katz, một số trƣờng

hợp dƣơng tính với SLTQC đƣợc chọn để đãi phân, thu sán trƣởng thành, kết quả

cho thấy tỉ lệ thu đƣợc sán H. pumilio trƣờng thành là 100% với 13.734 sán, H.

taichui là 69,7% với 1.323 sán, C. sinensis là 51,5% và 72 sán [68]. Hay khảo sát

nhằm xác định ấu trùng SLTQC tại vùng dịch tễ Nam Định, Phan et al (2010)

cũng đã phát hiện ấu trùng của 6 loài SLTQC nhƣ trong nghiên cứu này và kết quả

cũng cho thấy 17/17 loài cá đều nhiễm ấu trùng H. pumilio trong khi đó C.

sinensis chỉ nhiễm ở 1 loài, H. taichui là 6 loài, H. yokogawai là 7 loài, cả P.

varium và C. formosanus nhiễm ở 10 loài [89]. Những nghiên cứu trên cá khác

cũng đều cho thấy H. pumilio là loài chiếm ƣu thế [8–11,76,92].

Khảo sát nhanh bƣớc đầy đã xác định đƣợc ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

sinensis nhiễm trên 4 loài cá ở sông suối và hồ chứa, đây là kết quả hết sức quan

trọng về vùng dịch tễ của sán lá gan nhỏ. Trong suốt nhiều năm qua, đã có rất nhiều

nghiên cứu về SLTQC với mục đích xác định ấu trùng sán lá gan nhỏ nhƣng trong

số đó rất ít có ghi nhận về ấu trùng này trên cá. Chính điều này đã đặt ra câu hỏi

rằng, sán lá gan nhỏ phân bố ở đâu, có sự biến động nhƣ thế nào mà ít có ghi nhận

trên cá trong khi đó nó vẫn đƣợc khặng định nhiễm trên ngƣời và động vật ở các

vùng dịch tễ.Trong nghiên cứu này chúng tôi lƣu ý đến vai trò của hồ chứa đối với

sán lá gan nhỏ vì có thành phần loài, tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm cao hơn so với cá ở

sông suối. Trong đó, đặc biệt là cá Tép dầu có tỉ lệ nhiễm lên tới 31,8% và cƣờng độ

nhiễm là 32,4 ấu trùng/cá.Phân tích số liệu chúng tôi thấy rằng chỉ có cá Tép dầu ở hồ

Thác Bà nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ, trong khi đó cũng cá Tép dầu nhƣng thu tại

hồ Pa Khoang (Điện Biên) và Núi Cốc (Thái Nguyên) lại không nhiễm. Điều này cho

thấy ngoài yếu tố vật chủ đặc hiệu, sán lá gan nhỏ còn liên quan đến vùng dịch tễ.

75

3.3. Kết quả nghiên cứu về sán lá nhiễm trên cá tại hồ Thác Bà

3.3.1. Ấu trùng sán lá ruột nhỏ

3.3.1.1. Tình hình nhiễm ấu trùng sán lá ruột

Nghiên cứu phát hiện 21/22 loài cá có nhiễm ấu trùng sán lá ruột (ngoại trừ 1

loài duy nhất không phát hiện nhiễm là cá rô phi) có khả năng lây nhiễm cho ngƣời

với tỷ lệ nhiễm chung là 66,1% và cƣờng độ nhiễm chung là 10,8 ấu trùng/mẫu cá

phân tích (Bảng 3.13). Phân tích thống kê cho thấy tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm ấu

trùng sán lá ruột có khác biệt ý nghĩa giữa các loài cá.

Bảng 3.13: Ấu trùng sán lá ruột nhỏ nhiễm trên cá hồ Thác Bà

TT TÊN VẬT CHỦ N (cá) TLN

(%)

CĐN (±SD)

(ấu trùng) Tên khoa học Tiếng Việt

1 A. macropterus Thè be 6 100 32,0 (±57,9)

2 Anabas testudineus Rô đồng 26 100 39,8 (±48,8)

3 Carassioides cantonensis Cá Nhƣng 38 55,3 7,5 (±9,9)

4 Carassius auratus Cá Diếc 19 47,4 9,6 (±22,0)

5 Channa maculata Cá quả 44 68,2 50,9 (±89,6)

6 Clarias fuscus Trê đen 3 100 165,7 (±276,6)

7 Culter recurvirostris Ngão gù 25 60,0 4,1 (±4,1)

8 Cultrichthys erythropterus Cá Thiểu 253 63,2 17,1 (±48,8)

9 Cyprinus carpio Cá Chép 44 65,9 8,7 (±9,9)

10 Glossogobio sp. Bống trắng 14 100 54,6 (±56,1)

11 Hemiculter leucisculus Mƣơng xanh 353 59,2 10,5 (±38,5)

12 Mastacembelus armatus Chạch sông 6 66,7 13,7 (±8,4)

13 Neosalanx tangkakeii Tiểu bạc 8 37,5 1,7 (±0,6)

14 Opsariichthys bidens Cháo thƣờng 15 33.3 9,0 (±11,4)

15 Oreochromis niloticus Rô phi 15 44,1 3,9 (±3,6)

16 Osteochilus salisburyi Dầm đất 102 68,0 28,5 (±36,6)

17 Pelteobagrus flavimanus Bò vàng 25 8,3 1,0 (-)

76

18 Prochilodus lineatus Trôi nam mỹ 12 37,5 5,9 (±5,1)

19 Rhinogobius sp. Bống hoa 10 90,0 11,0 (±9,6)

20 Squaliobarbus curriculus Chày mắt đỏ 24 87,1 15,3 (±23,3)

21 Toxabrasmis houdemeri Tép dầu 373 30,8 8,3 (±9,7)

22 Xenocypris argentea Nhàng bạc 13 - -

2.3.1.2. Thành phần loài và mức độ nhiễm ấu trùng sán lá khác nhau

Nghiên cứu phát hiện ấu trùng của 5 loài sán lá ruột nhiễm trên cá bao gồm

H. pumilio, H. taichui, H. yokogawai, C. formosanus và Procerovum varium. Có

21/22 loài cá nhiễm ấu trùng H. pumilio, 14 loài nhiễm ấu trùng H. taichui, 2 loài

nhiễm H. yokogawai, 11 loài nhiễm C. formosanus và 2 loài nhiễm ấu trùng của P.

varium (Bảng 3.14). Tỉ lệ nhiễm ấu trùng H. pumiliochung là 61,7%; có sự khác

biệt ý nghĩa về tỉ lệ này giữa các loài cá; dao động từ 26,7% ở cá Dầm đất, đến

100% ở cá Bống trắng và Thè be. Ấu trùng H. taichui và H. yokogawai có tỷ lệ

nhiễm tƣơng ứng là 12,8% và 1,3% và cũng có sự khác biệt ý nghĩa giữa các loài cá

nhiễm . Ấu trùng C. formosanus có tỷ lệ nhiễm là 5,8% và tỷ lệ nhiễm giữa các loài

có khác biệt ý nghĩa thống kê. Ấu trùng P. varium nhiễm trên cá rô đồng 92,3% cao

hơn so với cá thiểu 0,4%. Cƣờng độ nhiễm ấu trùng H. pumilio chung trên các loài

cá là 12,1 ấu trùng/mẫu, dao động từ 1-242 ấu trùng/mẫu, H. taichui là 16,5 ấu

trùng/mẫu, dao động từ 1 - 69,9 ấu trùng/mẫu, H. yokogawai là 20,7 ấu trùng, dao

động 2,0 - 21,8 ấu trùng, C. formosanus là 7,2 ấu trùng, dao động 1,0 - 27,1 ấu

trùng và P. varium là 33,0 ấu trùng dao động từ 1,0 - 34,3 ấu trùng. Mặc dù, có

21/22 loài cá nhiễm nhƣng cƣờng độ nhiễm H. pumilio giữa các loài cá là không

khác biệt, 14/22 loài cá nhiễm H. taichui và có cƣờng độ nhiễm khác nhau giữa các

loài cá, cá Bò vàng có cƣờng độ nhiễm H. yokogawai cao hơn so với cá cá trê

nhƣng khác biệt này là không có ý nghĩa. Cƣờng độ nhiễm ấu trùng C. formosanus

và P. varium có sự khác biệt giữa các loài cá. Phân tích kỹ hơn đƣợc trình bày trong

công trình đƣợc đăng trên tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn số 7 năm

2016.

77

Bảng 3.14: Thành phần, tỉ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng sán lá

TT TÊN VẬT CHỦ TỈ LỆ NHIỄM/CƢỜNG ĐỘ NHIỄM (±SD)

Tên khoa học Tiếng Việt H. pumilio H. taichui H. yokogawai C. formosanus P. varium

1 A. macropterus Thè be 100 32,0 (±57,9) - - - - 2,3 (±1,9) - -

2 A. testudineus Rô đồng 73,1 9,8 (±20,4) 11,5 2,7 (±2,9) - - 26,9 - 92,3 34,3

(±36,7)

3 C. cantonensis Cá Nhƣng 47,4 2,9 (±3,2) 42,1 6,6 (±8,6) - - - - - -

4 C. auratus Cá Diếc 36,8 11,7 (±24,9) 15,8 1,3 (±0,6) - - - 4,3 (±4,3) - -

5 C. maculata Cá quả 47,7 7,5 (±10,4) 43,2 69,9

(±101,6)

- - 20,5 10,0 - -

6 C. fuscus Trê đen 66,7 242,0

(±326,7)

33,3 1,0 33,3 2,0 33,3 - - -

7 C. recurvirostris Cá Ngão gù 56,0 4,2 (±4,2) 12,0 1,3 (±0,6) - - - 1,6 (±1,1) - -

8 C. erythropterus Cá Thiểu 62,8 16,5 (±47,9) 6,7 5,9 (±6,3) - - 2,8 1,0 0,4 1,0

9 C. carpio Cá Chép 61,0 7,8 (±8,8) 11,4 7,6 (±6,2) - - 4,5 27,1

(±23,9)

- -

10 Glossogobio sp. Bống trắng 100 27,5 (34,3) - - - - 100 1,5 (±0,6) - -

11 H. leucisculus Mƣơng xanh 54,3 5,7 (±11,8) 14,5 21,5

(±70,4)

- - 1,1 - - -

12 M. armatus Chạch sông 66,7 13,7 (±8,4) - - - - - - - -

78

TT TÊN VẬT CHỦ TỈ LỆ NHIỄM/CƢỜNG ĐỘ NHIỄM (±SD)

Tên khoa học Tiếng Việt H. pumilio H. taichui H. yokogawai C. formosanus P. varium

13 N. tangkakeii Cá Tiểu bạc 37,5 1,7 (±0,6) - - - - - - - -

14 O. bidens Cháo thƣờng 26,7 11,0 (±12,1) 6,7 1,0 - - - 1,0 - -

15 O. niloticus Rô phi 42,2 3,9 (±3,5) 5,9 1,0 - - 0,9 6,8 (±7,8) - -

16 O. salisburyi Dầm đất 32,0 5,0 (±3,9) 12,0 4,3 (±4,9) 68,0 21,8

(±31,3)

36,0 - - -

17 P. flavimanus Bò vàng 8,3 1,0 - - - - - - - -

18 P. lineatus Trôi nam mỹ 37,5 5,8 (±5,2) 4,2 1,0 - - - 1,5 (±0,7) - -

19 Rhinogobius sp. Bống hoa 80,0 7,6 (±6,4) - - - - 60,0 6,3 (±6,7) - -

20 S. curriculus Chày mắt đỏ 85,3 14,6 (±22,8) 14,5 5,7

(±11,7)

- - 6,2 - -

21 T. houdemeri Tép dầu 30,8 8,3 (±9,7) - - - - -

(-): âm tính; (SD) độ lệch chuẩn

79

3.3.2. Ấu trùng sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis

3.2.2.1. Vật chủ của sán lá gan nhỏ

Trong thời gian 1 năm, phân tích 1219 cá thể thuộc 22 loài cá thuộc hồ Thác

Bà, chúng tôi đã xác định đƣợc có 7 loài cá nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis

(Bảng 3.15). Trong đó, 4 loài cá có tỉ lệ và cƣờng độ nhiễm cao là Tép dầu, Mƣơng

xanh, Thiểu và Ngão gù; riêng Tép dầu có tỉ lệ và cƣờng độ nhiễm cao nhất (76,72%

và 65,76 ấu trùng/cá) trong số 4 loài cá nói trên. Còn lại, 3 loài cá khác có tỷ lệ và

cƣờng độ nhiễm thấp; cá Nhƣng (7,89%; 4,0 ấu trùng/cá), Cháo thƣờng (13,3%; 5,5 ấu

trùng/cá) và Bống hoa (20,0%; 4,0 ấu trùng/cá).

Bảng 3.15: Tỉ lệ và cường độ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ

TT VẬT CHỦ NHIỄM N+

(cá)

TLN

(%)*

CĐN (ấu

trùng)*

Tên khoa học Tiếng Viêt

1 Toxabramis houdemeri Tép dầu 244 76,7a

65,8 (±121,3)a

2 Cultrichthys erythropterus Cá Thiểu 117 58,8b

38,1 (±185,2)b

3 Hemiculter leucisculus Mƣơng xanh 79 31,1c

11,7 (±40,4)c

4 Culter recurvirostris Ngão gù 17 68,0a,b

3,9 (±4,1)d

5 Opsariichthys bidens Cháo thƣờng 2 13,3

5,5 (±3,5)

6 Carassioides cantonensis Cá Nhƣng 3 7,9

4,0 (±4,4)

7 Rhinogobius sp. Bống hoa 2 20,0

4,0 (±1,4)

*biểu thị sự khác biệt thống kê (p≤0,05) - giá trị trong cùng 1 cột là khác nhau nếu chữ biểu thị khác nhau; N+: số mẫu

nhiễm; TLN: tỉ lệ % cá nhiễm; CĐN: cường độ nhiễm

Có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về tỷ lệ nhiễm giữa các loài cá nhiễm ấu

trùng sán lá gan nhỏ; Tép dầu có tỉ lệ nhiễm cao hơn so với các loài khác ngoại trừ

cá Ngão. Nguy cơ nhiễm ấu trùng này ở Tép dầu, Ngão gù, Thiểu và Mƣơng xanh

lần lƣợt là 26,4; 17,0; 11,4 và 3,6 lần so với các nhóm các loài cá khác có nhiễm C.

sinensis bao gồm cá Nhƣng, Cháo thƣờng và Bống hoa. Tỉ lệ nhiễm ấu trùng ở cá

Ngão gù và Thiểu không có khác biệt nhƣng đều cao hơn so với Mƣơng xanh.

Cƣờng độ nhiễm ấu trùng này cũng có sự khác nhau giữa các loài cá nói trên.

Cƣờng độ nhiễm ở Tép dầu (Hình 3.8) là cao nhất, sau đó là ở cá Thiểu, tiếp đến là

Mƣơng xanh và Ngão gù. Đặc biệt độ lệch chuẩn của cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán

80

ở cá Tép dầu, Thiểu và Mƣơng xanh là rất cao, tƣơng ứng là 121,3; 185,2 và 40,4 ấu

trùng/cá nhiễm. Cƣờng độ nhiễm ấu trùng này ở cá Tép dầu dao động từ 1 đến 900

ấu trùng/cá và cá Thiểu dao động từ 1 đến 1950 ấu trùng/cá nhiễm. Và Mƣơng xanh

có cƣờng độ dao động từ 1 đến 234 ấu trùng/cá thể nhiễm.

Hình 3.8: Tép dầu, vật chủ ấu trùng sán lá gan nhỏ ở hồ Thác Bà, Yên Bái

Có thể nói rằng hồ Thác Bà là vùng dịch tễ mới của sán lá gan nhỏ C.

sinensis ở khu vực miền Bắc nƣớc ta. Trong giới hạn nghiên cứu này, chúng tôi đã

phát hiện tới 33,3% (7/22) số loài cá đƣợc xét nghiệm có nguồn gốc từ hồ này

nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ. Điều đó chứng tỏ rằng, hồ Thác Bà là vùng dịch tễ

mới và hết sức quan trọng của sán lá gan nhỏ C. sinensis. Sở dĩ bởi hầu hết các

nghiên cứu trƣớc đây ở khu vực đồng bằng sông Hồng đều không hoặc ít có ghi

nhận tƣơng tự về ấu trùng sán lá gan nhỏ trên cá nhƣ tại hồ Thác Bà trong nghiên

cứu này [9,11,89,92,95]. Sự hiện diện của ấu trùng sán lá gan nhỏ trên cá hồ Thác

Bà với tỷ lệ cao là một vấn đề rất đáng quan tâm. Ngay sau phát hiện ấu trùng sán lá

gan nhỏ trên cá tại đây, một khảo sát trên ngƣời tại xã Phan Thanh, huyện Lục Yên

(thuộc vùng hồ Thác Bà) đã đƣợc triển khai bởi Trung tâm Y tế Dự phòng tình Yên

Bái. Kết quả đã xác nhận sán lá gan nhỏ cùng với một số loài SLTQC khác có tỉ lệ

nhiễm cao, 34% [73]. Hồ Thác Bà, có chiều dài hơn 80 km với diện tích vùng hồ

lên tới 23.400 ha với 1.300 hòn đảo nằm trên 2 huyện Lục Yên và Yên Bái. Sự hiện

diện của sán lá gan nhỏ là một mối nguy lớn đối sức khỏe cộng đồng dân cƣ vùng

hồ Thác Bà.

81

3.3.2.2. Biến động của sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis

Nghiên cứu biến động ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên 3 đối tƣợng

gồm Tép dầu, Mƣơng xanh và Thiểu theo mùa; mùa mƣa, tháng 5 - 10 và mùa khô

tháng 11-4, kết quả đƣợc trình bày ở Bảng 3.16.

Bảng 3.16: Biến động mùa vụ ấu trùng sán lá gan nhỏ trên cá tại hồ Thác Bà

VẬT CHỦ N

(cá)

TLN (%)* CĐN (ấu trùng)*

Mùa khô Mùa mƣa Mùa khô Mùa mƣa

Toxabramis houdemeri

(Tép dầu)

318 79,4a

76,0a

82,6a

(±45,6)

60,9a

(±113,5)

Hemiculter leucisculus

(Mƣơng xanh)

254 33,3a

29,7a

7,4a

(±14,5)

14,8b

(±51,6)

Cultrichthys erythropterus

(Cá Thiểu)

199 62,9a

56,9a

21,9a

(±25,7)

33,3a

(±120,5)

Trung bình 61,3a

54,7a

49,7a

(±111,2)

48,0a

(±146,4)

*biểu thị sự khác biệt thống kê (p≤0,05) - giá trị trong cùng 1 hàng là khác nhau nếu chữ biểu thị khác nhau;TLN: tỉ lệ

nhiễm, CĐN: cường độ nhiễm; N: mẫu phân tích

Phân tích trên 3 loài vật chủ cho thấy, tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ vào

mùa khô có cao hơn so với mùa mƣa, tuy nhiên không có sự khác biệt ý nghĩa thống

kê. Cƣờng độ nhiễm ấu trùng khá tƣơng đồng giữa mùa mƣa và mùa khô, và cũng

không có sự khác biệt ý nghĩa, mặc dù độ lệch cƣờng độ nhiễm ấu trùng trên mỗi cá

thể vào mùa mƣa (± 146,4) cao hơn so với mùa khô (± 111,2). Xét riêng từng loài

vật chủ, Tép dầu, tỉ lệ và cƣờng độ nhiễm ấu trùng vào mùa khô cao hơn so với mùa

mƣa nhƣng không có sự khác biệt về mặt thống kê. Ở cá Mƣơng xanh (Hình 3.9), tỉ

lệ nhiễm vào mùa khô cũng cao hơn so với mùa mƣa nhƣng không có sự khác biệt.

Mặc dù vậy, cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán trên cá Mƣơng xanh vào mùa mƣa cao

hơn so với mùa khô, khác biệt có ý nghĩa thống kê. Xu hƣớng biến động ấu trùng

sán lá gan nhỏ ở cá Thiểu tƣơng tự nhƣ Mƣơng xanh; tỉ lệ nhiễm vào mùa khô cao

hơn nhƣng cƣờng độ nhiễm vào mùa khô lại thấp hơn, tuy nhiên khác biệt nói

chung là không có ý nghĩa về mặt thống kê (Bảng 3.16).

82

Hình 3.9: Mương xanh, vật chủ của sán lá gan nhỏ tại hồ Thác Bà

Hình 3.10 biểu diễn sự biến động về mức độ nhiễm ấu trùng sán lá nhỏ C.

sinensis ở các tháng khác nhau từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 8 năm 2015. Tỉ lệ

nhiễm dao động từ 21,9% đến 96,7%; thấp nhất vào tháng 2 và 9 và cao nhất vào

tháng 3, 7, 10 và 12. Cƣờng độ nhiễm biến động khá lớn giữa các tháng; từ 4,56 ±

3,8 ấu trùng/cá vào tháng 2 đến 153,7 ± 179,8 ấu trùng/cá vào tháng 7/2015. Tỉ lệ

và cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán lá gan cao nhất vào tháng 7, thời điểm giữa mùa

mƣa và thấp nhất vào tháng 2 là khoảng giữa mùa khô.

Trong khoảng 10 năm trở lại đây, mặc dù có nhiều nghiên cứu nhằm phát

hiện ấu trùng sán lá gan nhỏ trên cá, tuy nhiên không có nhiều công bố hoặc có

nhƣng mức độ nhiễm nhìn chung thấp. Điều này đã đặt ra câu hỏi rằng liệu thực sự

sán lá gan nhỏ có phải là vấn đề lớn ở nƣớc ta hay không?! Có một số lý do có thể

các nghiên cứu trƣớc đây chƣa quan tâm đến đó là yếu tố vật chủ và vùng sinh thái.

Hầu hết các nghiên cứu nói trên tập trung vào khảo sát trên đối tƣợng cá nuôi trong

điều kiện nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, một số nghiên cứu chỉ tiến hành trong một

thời gian nhất định nên có thể bỏ sót sự hiện diện của loại ấu trùng này nếu nhƣ có

sự biến động mùa vụ. Chính vì những lý do này mà chúng tôi chọn vùng nghiên cứu

là khu vực MNPB trên nhiều vùng sinh thái khác nhau. Khi đã phát hiện ấu trùng

sán lá gan nhỏ C. sinensis trên cá hồ chứa, chúng tôi đã tiến hành tập trung nghiên

83

cứu với thời gian dài - 1 năm nhằm kiểm chứng nếu có sự biến động lớn về lƣợng

ấu trùng nhiễm trên cá trong năm.

Hình 3.10: Biến động ấu trùng sán lá gan nhỏ theo tháng trên cá tại hồ Thác Bà

Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù có sự biến động khác nhau về mức độ

nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ giữa các tháng, nhƣng có thể thấy rằng ấu trùng sán

lá gan nhỏ C. sinensis luôn đƣợc phát hiện trên cá ở mọi thời điểm (tháng). Điều

này chỉ ra rằng rủi ro với sức khỏe con ngƣời là thƣờng trực nếu tập quán ăn gỏi cá

vẫn tồn tại. Cũng theo kết quả nghiên cứu này, một số thời điểm trong năm nhƣ

tháng 7 hoặc tháng 3 và 12 mức độ rủi ro bị lây nhiễm sán lá gan nhỏ là rất cao bởi

tỉ lệ và cƣờng độ nhiễm ấu trùng trung bình cao. Thông tin về sự biến động ấu trùng

sán lá gan nhỏ C. sinensis không những có ý nghĩa thực tiễn mà còn có ý nghĩa về

mặt khoa học. Nắm đƣợc quy luật biến động của SLTQC sẽ giúp các nhà khoa học

trong thiết kế nghiên cứu, xác định thời điểm thu mẫu nhằm đánh giá chính xác hơn

về hiện trạng ấu trùng SLTQC nói chung và sán lá gan nhỏ C. sinensis nói riêng.

Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam bƣớc đầu đã có đánh giá về sự biến động

ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên cá do trƣớc đây chƣa phát hiện đƣợc vật chủ

đặc trƣng nhƣ Tép dầu và vùng dịch tễ tự nhiên nhƣ hồ Thác Bà. Tuy nhiên, do giới

hạn về thời gian nên việc thu và phân tích mẫu chỉ dừng lại trong chu kỳ 1 năm vì

vậy nghiên cứu bƣớc đầu mới chỉ ra sự biến động của ấu trùng sán lá gan nhỏ trên

84

cá mà chƣa có nghiên cứu lặp lại để xác nhận điều này. Do đó cần có nghiên cứu

tiếp nhằm làm sáng tỏ hơn sự biến động của ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên

cá hồ Thác Bà.

Hình 3.11: Biến ấu trùng sán lá gan nhỏ trên Tép dầu hồ Thác Bà

Theo kết quả nghiên cứu có thể thấy Tép dầu là vật chủ đặc hiệu của ấu trùng

sán lá gan nhỏ bởi chúng nhiễm với tỉ lệ và cƣờng độ cao nhất (Bảng 3. 16). Phân

tích dựa trên 244 mẫu cá Tép dầu đƣợc xác định nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ thu

đƣợc từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 8 năm 2015 nhằm xem xét nếu có sự biến

động về mức độ nhiễm ấu trùng này theo cỡ cá hay không? Nhìn chung tỉ lệ và

cƣờng độ nhiễm ấu trùng C. sinensis khá đồng đều giữa các nhóm kích cỡ cá Tép

dầu. Tỉ lệ nhiễm dao động từ 44,4 - 93,1% theo các nhóm cỡ cá; nhóm cá cỡ nhỏ

(<2 gram) có tỉ lệ nhiễm ấu trùng thấp hơn so với cá có kích cỡ lớn hơn (> 2 gram)

và có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê. Các nhóm mẫu Tép dầu có kích cỡ ≥ 2

gram, tỉ lệ nhiễm có dao động nhƣng không khác nhau. Về cƣờng độ nhiễm, mặc dù

có sự động từ 54,4 đến 97,5 ấu trùng/cá, nhƣng sự khác biệt là không có ý nghĩa

thống kê giữa các nhóm cỡ cá (Hình 3.11)

Có thể nói rằng, ngoại trừ nhóm cá Tép dầu kích cỡ nhỏ (<2 g) có tỉ lệ nhiễm

thấp hơn, còn lại không có sự khác nhau cả về mức độ nhiễm ấu trùng sán lá gan

nhỏ giữa các nhóm cỡ cá ở hồ Thác Bà. Thực ra, các mẫu cá Tép dầu thu đƣợc từ hồ

85

Thác Bà có kích cỡ trung bình nhỏ (4,8 gram) và khác biệt là không lớn giữa câc

nhóm cỡ khác nhau. Do đó các nhóm cỡ này có sự tƣơng đồng về mặt sinh học đối

với sự cảm nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis. Có thể đây là giải thích cho

sự biến động ấu trùng sán lá gan nhỏ trên cá Tép dầu ờ hồ Thác Bà, Yên Bái.

3.4. Điều kiện bất hoạt ấu trùng sán lá truyền qua cá

3.4.1. Điều kiện đông lạnh

Nhƣ kết quả nói trên, trong số ấu trùng các loài sán lá ruột nhỏ, H. pumilio là

ấu trùng phổ biến nhất trên cá ở khu vực MNPB. Ấu trùng H. pumilio sau khi phân

lập từ cá đƣợc đông lạnh ở 0oC, -20

oC và -80

oC trong khoảng thời gian khác nhau.

Kết quả cho thấy tỉ lệ sống sót của ấu trùng ở có xu hƣớng giảm theo thời gian và

nhiệt độ đông lạnh (Hình 3.12). Nhiệt độ 0⁰C, tỉ lệ sống của ấu trùng là 100% trong

thời gian 15 phút và để bất hoạt đƣợc hoàn toàn ấu trùng ở nhiệt độ này thì cần đến

ít nhất 12 giờ bảo quản. Ở nhiệt độ đông lạnh -20⁰C, để bất hoạt 100% ấu trùng thời

gian cũng cần ít nhất 12 giờ. Trong khi đó, thời gian này chỉ 15 phút khi bảo quản ở

nhiệt độ đông lạnh -80⁰C. Tuy nhiên, cần lƣu ý đây là điều kiện bất hoạt với ấu

trùng sau khi đã đƣợc phân lập từ cá. Do đó để bất hoạt ấu trùng trong cá đông lạnh

thì thời gian cần thiết sẽ dài hơn.

Hình 3.12: Tỷ lệ sống sót của ấu trùng H. pumilio trong điều kiện đông lạnh

86

Ấu trùng bất hoạt có xu hƣớng chuyển màu tối nhạt, túi bài tiết thƣờng bị vỡ,

ban đầu ấu trùng trƣơng to, lấp đầy khoảng trống bào nang nhƣng dần teo nhỏ lại

theo thời gian đông lạnh, các đặc điểm hình thái cũng dần biến đổi và trở nên khó

xác định nhƣng đặc điểm hình thái quan trọng nhƣ giác miệng và gai trên giác bụng

(Hình 3.13)

Sán lá gan nhỏ C. sinensis có ảnh hƣởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng

đồng, là tác nhân gây ung thƣ đƣờng ống mật ở ngƣời [34,35]. Nghiên cứu của

chúng tôi đã xác định ấu trùng này nhiễm với tỉ lệ và cƣờng độ cao trên một số đối

tƣợng cá ở khu vực MNPB, đặc biệt là Tép dầu ở hồ Thác Bà, Yên Bái. Do đó ấu

trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis đƣợc chọn làm đối tƣợng thử nghiệm để xác định

điều kiện bất hoạt. Đối với điều kiện đông lạnh, ấu trùng sán lá gan nhỏ đƣợc thực

hiện với 2 nhóm; 1) thí nghiệm đông lạnh ấu trùng sán lá gan nhỏ sau khi phân lập

đƣợc từ cá (Hình 3.14); 2) thí nghiệm đông lạnh cá nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ

(Hình 3.15).

87

Hình 3.13: Ấu trùng sán lá ruôt nhỏ H. pumilio trong điều kiện đông lạnh (A: đối chứng, ấu trùng sống với giác miệng nổi rõ, gai trên giác bụng và túi bài tiết chứa đầy chất bài tiết màu đen; B: ấu trùng bất hoạt ở -80

oC sau

10 phút, tế bào biểu mô bất hoạt trương lớn, giác miệng không rõ, gai trên giác bụng còn quan sát thấy nhưng túi bài tiết đã bị vỡ nên trống rỗng) A B C D

A B

88

Ở điều kiện 0oC, ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis có thể sống sót với tỉ lệ

100% trong thời 30 phút, tỉ lệ sống giảm xuống 85,7% sau 1 giờ, 40% sau 6 giờ và

10% sau 12 giờ. Ấu trùng bị bất hoạt hoàn toàn sau 24 giờ ở điều kiện 0oC. Trong

điều kiện -20oC, ấu trùng có thể sống sót với tỉ lệ 100% trong 15 phút, nhƣng tỉ lệ

giảm mạnh trong 30 phút đến 1 giờ và bị bất hoạt hoàn toàn trong 6 giờ. Ở điều kiện

-80oC, ngày sau 5 phút đông lạnh, ấu trùng đã bị bất hoạt, tỉ lệ sống chỉ còn 65,2%

và đến 10 phút tỉ lệ sống giảm còn 31,9% và ấu trùng bị bất hoạt hoàn toàn trong 30

phút ở điều kiện đông lạnh này.

Hình 3.14: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong điều kiện đông lạnh

Đối với ấu trùng trong cá đông lạnh, tại cùng một thời điểm 24 giờ, tỉ lệ sống

của ấu trùng khác nhau theo các điều kiện nhiệt độ đông lạnh, cao nhất là 93,3% ở

0oC; đến 54,3% ở -20

oC và thấp nhất là 7,3% ở -80

oC và có sự khác biệt ý nghĩa về

mặt thống kê. Sau 72 giờ (3 ngày), tỉ lệ sống tiếp tục giảm xuống 13,4% ở 0oC, cao

hơn so với 4,5% và 3,1% ở -20oC và -80

oC. Đến 120 giờ (5 ngày) hầu nhƣ ấu trùng

sán lá gan nhỏ trong cá đông lạnh bị bất hoạt; tỉ lệ sống chỉ còn 1,3% ở 0oC, 1,9% ở

-20oC và 0% ở -80

oC và không có sự khác biệt giữa các điều kiện đông lạnh. Nhƣ

vậy, để bất hoạt 100% ấu trùng trong cá Tép dầu ở điều kiện đông lạnh ở -80oC cần

thời gian là 120 giờ (5 ngày), ở -20oC là 168 giờ (7 ngày) và 0

oC là 240 giờ (10

ngày).

89

Hình 3.15: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong cá đông lạnh

Có thể thấy rằng, thời gian để bất hoạt ấu trùng bên ngoài cá (sau khi phân

lập) nhanh hơn so với ấu trùng bên trong cá ở các điều kiện đông lạnh. Hình thái

của ấu trùng có những biến đổi nhất định trong điều kiện đông lạnh. Các ấu trùng

còn sống sót mặc dù còn quan sát rõ các đặc điểm định loại nhƣng sự vận động của

ấu trùng bên trong bào nang chậm - yếu (Hình 3.16A). Ấu trùng đã bất hoạt không

phân biệt rõ giác bụng và giác miệng, túi bài tiết thƣờng bị vỡ và trống, biểu mô của

ấu trùng có xu hƣơng trƣơng lớn lấp đầy khoảng trống bào nang (Hình 3.16B).

90

Hình 3.16: Ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trong cá đông lạnh (A: ấu trùng trong cá còn sống sau 5 ngày đông lạnh ở -20

oC ; B: ấu trùng trong cá đã bất hoạt sau 3 ngày ở 0

oC)

-20oC, 5 ngày 0

oC, 3 ngày A B

91

3.4.2. Điều kiện gia nhiệt

Ấu trùng sán lá ruột nhỏ H. pumilio: trong thời gian thí nghiệm 20 phút, tỉ lệ

sống của ấu trùng có xu hƣớng giảm dần theo thời gian ở nhiệt độ 70⁰C và 100⁰C

nhƣng tỉ lệ này không khác biệt ở 0⁰C (p> 0,05). Trong điều kiện nhiệt độ 70⁰C,

80% ấu trùng vẫn còn sống ở 30 giây nhƣng chỉ 50% ấu trùng sống sót ở điều kiện

nhiệt độ 100⁰C. Thời gian cần thiết để bất hoạt 100% ấu trùng trong điều kiện nhiệt

độ 70⁰C là 10 phút và 100⁰C chỉ cần 1 phút (Hình 3.17). Ấu trùng bất hoạt trong

điều kiện gia nhiệt có những biến đổi về mặt hình thái; túi bài tiết vỡ, chất bài tiết

thoát ra ngoài làm cho ấu trùng có màu đen, cơ thể ấu trùng có xu hƣớng bị teo nhỏ

tạo thành khoảng trống lớn giữa ấu trùng và bào nang (Hình 3.18).

Hình 3.17: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng H. pumilio trong điều kiện gia nhiệt

Ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis: ấu trùng sau khi phân lập từ cá Tép dầu,

gia nhiệt trong điều kiện nhiệt độ khác nhau. Tỉ lệ sống ấu trùng giảm mạnh ngay sau

15 giây đầu tiên khi gia nhiệt ở 100oC nhƣng ở 50

oC và 70

oC, ấu trùng vẫn sống sót

với tỉ lệ 100%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ sống giữa nghiệm thức

100oC so với các nghiệm thức khác (50

oC & 70

oC). Thời gian cần thiết để bất hoạt

100% ấu trùng là 1 phút ở nhiệt độ 100oC và 5 phút ở 70

oC. Nhiệt độ 50

oC không làm

bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trong thời gian 20 phút (Hình 3.20). Ấu

trùng bất hoạt có những biến đổi hình thái tƣơng tự nhƣ sán lá ruột nhỏ H. pumilio.

92

Hình 3.18: Ấu trùng sán lá ruột nhỏ H. pumilio trong điều kiện gia nhiệt (A: ấu trùng sống; B: ấu trùng bất hoạt)

B A

93

Hình 3.19: Tỉ lệ ấu trùng C. sinensis sống sót trong điều kiện gia nhiệt

Đây mới là kết quả thử nghiệm trên ấu trùng sau khi phân lập từ cá mà chƣa

có thử nghiệm với cá nhiễm ấu trùng, đây cũng là một hạn chế chƣa đƣợc giải quyết

trong nghiên cứu này. Gia nhiệt là phƣơng pháp chế biến thực phẩm nói chung phổ

biến nhất trong xã hội hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ấu trùng sán lá gan

nhỏ C. sinensis khá nhạy cảm với nhiệt độ cao (Hình 3.17 & Hình 3.19). Trong khi

đó phƣơng pháp chế biến bằng gia nhiệt thông thƣờng đều đảm bảo ở nhiệt độ cao

(100oC) và trong thời gian ít nhất là tính bằng phút, nhƣ vậy là hoàn toàn đảm bảo

an toàn với ấu trùng SLTQC. Tuy nhiên, trong một số phƣơng pháp chế biến nhiệt

độ có thể ở mức dƣới 100oC nhƣ nƣớng, thì thời gian thƣờng dài có thể lên tới giờ

đồng hồ và điều này cũng hoàn toàn đảm bảo an toàn đối với SLTQC.

Đây là nghiên cứu đầu tiên về khả năng bất hoạt của điều kiện nhiệt độ đối

với ấu trùng SLTQC ở Việt Nam. Ở khu vực Châu Á - nơi phân bố chủ yếu của

SLTQC, đặc biệt là sán lá gan nhỏ. Các kết quả nghiên cứu cho thấy cá nƣớng ở

80oC trong 5 - 12 phút là đủ để làm chết ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis [126]

O. viverrini [127]. Theo khuyến cáo của Hiếp hội an toàn thực phẩm Châu Âu, để

đảm bảo an toàn thì nhiệt độ gia nhiệt cần đạt là 65oC ở trong cá ít nhất 5 phút. Có

sự khác nhau giữa kết quả nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên cứu kế trên là do

phƣơng pháp thí nghiệm. Thí nghiệm của chúng tôi tiến hành thử nghiệm trên ấu

trùng đƣợc phân lập từ cá trong khi đó các nghiên cứu kể trên là thử nghiệm với cá

94

nhiễm ấu trùng, tuy nhiên các kết quả đều có tính logic và bổ sung cho nhau.

3.4.3. Điều kiện ướp muối

Ƣớp muối là phƣơng thức chế biến và lƣu giữ thực phẩm dân giã nhất mà đã

đƣợc áp dụng từ lâu đời. Những nghiên cứu trƣớc đây đã từng sử dụng nồng độ

muối lên tới 30% để bất hoạt ấu trùng sán. Thừa kế kết quả của các nghiên cứu

trƣớc, một thí nghiệm sàng lọc nhỏ đã đƣợc triển khai với các nồng độ muối 10%,

15% và 30% làm căn cứ cho thử nghiệm này. Kết quả cho thấy, các nồng độ 15%

và 30% đã nhanh chóng làm bất hoạt ấu trùng sán (< 1 giờ), thực tế thời gian ƣớp

muối thƣờng tính theo ngày , tuần và thậm chí tháng. Do đó chúng tôi lựa chọn các

nồng độ thấp hơn đó là 10%, 7% và 5% để xác định thời gian cần thiết để bất hoạt

ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis. Thí nghiệm đƣợc bố trí với 2 nhóm; 1) ấu trùng

sau khi phân lập từ cá và 2) ấu trùng trong cá.

Hình 3.20: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong điều kiện muối

Với ấu trùng phân lập từ cá: Ở nồng độ muối 5%, ấu trùng có tỉ lệ sống lên

tới 100% sau 1 giờ, nhƣng ở nồng độ 7% và 10%, lệ sống giảm xuống lần lƣợt là

82,7% và 78,4%. Trong thời gian 1 giờ, nồng độ muối 7% và 10% có khả năng bất

hoạt ấu trùng sán cao hơn so với nồng độ muối 5% (P≤0,05). Tỉ lệ sống của ấu

trùng ngâm ở các nồng độ muối đều giảm sau 6, 12 và 24 tƣơng ứng là 90,0%,

76,4% và 45,5%. Có sự biệt ý nghĩa thống kê về khả năng bất hoạt ấu trùng ở các

95

nồng độ muối. Sau 12 giờ, tỉ lệ bất hoạt ở ấu trùng đạt tối thiểu 80% và không có sự

khác biệt giữa các nồng độ muối. Và thời gian cần thiết để bất hoạt 100% ấu trùng

ở nồng độ 10% và 7% là 24 giờ nhƣng ở nồng độ muối 5% là 48 giờ (Hình 3.20).

Với ấu trùng trong cá ƣớp muối: thời gian để bất hoạt ấu trùng trong cá ƣớp

muối dài hơn so với ấu trùng đã đƣợc phân lập đƣa vào ƣớp muối. Sau 1 giờ, tỉ lệ

sống của ấu trùng lần lƣợt là 98,6%; 98,8% và 97,2% tƣơng ứng ở nồng độ muối

5%, 7% và 10%; không có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các nồng độ muối tại

thời điểm này. Tuy nhiên, sau 120 giờ (5 ngày), tỉ lệ ấu trùng sống sót ở các nồng

độ muối là khác nhau; tỉ lệ sống sót cao nhât là 98,8% ở nồng độ 5%, cao hơn so

với nồng độ 7% và 10% tƣơng ứng với 82,9% và 77,1%. Thời gian cần để bất hoạt

100% ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis ở nồng độ muối 10% là 240 giờ (10 ngày),

ở 5% và 7% là 360 giờ (15 ngày) (Hình 3.21). Hình thái của ấu trùng bất hoạt do

muối thƣờng có xu hƣớng teo nhỏ, các tề bào biểu mô bị hoại tử, túi bài tiết bị vỡ,

giác bụng và giác miệng khó xác định (Hình 3.22).

Hình 3.21: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong cá ướp muối

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy với ấu trùng sán lá gan nhỏ trong cá ƣớp

muối, ở nồng độ 10%, thời gian cần thiết là 10 ngày. Thời gian tƣơng đƣơng (8-11

ngày) cũng đƣợc xác định để bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis nhƣng ở

nồng độ muối lên tới 30% [61]. Sự khác biệt về này có thể liên quan đến loài vật

chủ hoặc kích cỡ cá khác nhau bởi hàm lƣợng mỡ và độ dày của cá có thể ảnh

96

hƣởng đến khả năng bất hoạt [128]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, vật chủ là cá

Tép dầu có kích cỡ nhỏ, trung bình 4,8 gram do đó khả năng thẩm thấu của muối

vào trong mô cá nhanh hơn.

Hình 3.22: Ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trong điều kiện muối (sao màu đỏ: ấu trùng sống sót; sao màu đen: ấu trùng đã bị bất hoạt)

Ấu trùng còn sống

12 giờ, 5% muối

10 ngày, 7% muối

97

3.4.4. Điều kiện kháng sinh và praziquantel

Nghiên cứu này cho thấy, ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis có thể sống sót

đến 12 tháng trong điều kiện bảo quản có bổ sung kháng sinh flofernicol. Mặc dù

vậy, tỉ lệ ấu trùng sống sót có xu hƣớng giảm dần từ tháng thứ 2 đến tháng thứ 12.

Trong khi đó ấu trùng C. sinensis trong nƣớc muối sinh lý phát hiện bất hoạt hoàn

toàn ngay sau 2 tháng bảo quản (Hình 3.23). Tỉ lệ sống sót của C. sinensis ở 3 nồng

độ kháng sinh tại cùng một thời điểm kiểm tra là không khác biệt có ý nghĩa thống

kê. Việc bổ sung kháng sinh giúp tăng tỉ lệ ấu trùng sán lá gan nhỏ sống sót đến

tháng thứ 6 so với đối chứng với khác biệt có ý nghĩa thống kê. Mặc dù, ấu trùng

vẫn còn sống sót đến tháng 12 nhƣng tỉ lệ khác biệt là không có ý nghĩa thông kê so

với nghiệm thức đối chứng (PBS).

Hình 3.23: Tỉ lệ sống của ấu trùng C. sinensis lưu giữ trong kháng sinh

Ở mức độ phòng thí nghiệm việc bảo lƣu tác nhân gây bệnh để phục vụ

nghiên cứu cơ bản chuyên sâu là hết sức cần thiết. Kết quả nghiên cứu này cho thấy,

ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis có thể đƣợc bảo lƣu trong trong thời gian dài đáp

ứng đƣợc các yêu cầu phục vụ nghiên cứu. Việc sử dụng kháng sinh bổ sung vào

môi trƣờng bảo lƣu ấu trùng sán đã đƣợc Li et al (2006) báo cáo. Ở nghiên cứu này,

ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis có tỉ lệ sống đạt 18,7 - 63,7% sau 6 tháng bảo

quản với kháng sinh [129]. Kết quả này cũng ít nhiều giống với kết quả nghiên cứu

của chúng tôi khi sử dụng flofernicol để bảo quản ấu trùng. Nghiên cứu của chúng

98

tôi cho thấy rằng nồng độ 0,05% flofernicol nên đƣợc bổ sung để bảo quản ấu trùng

này (Hình 3.23).

Nghiên cứu cho thấy praziquantel có khả năng bất hoạt ấu trùng sán lá gan

nhỏ C. sinensis (Hình 3.24). Tỉ lệ ấu trùng bất hoạt khác nhau theo thời gian mà

không phụ thuộc vào nồng độ praziquantel. Sở dĩ xảy ra điều này có thể do nồng độ

praziquantel sử dụng trong nghiên cứu này là bão hòa hay nói cách khác là cao hơn

mức cần thiết. Mà cơ sở việc lựa chọn nồng độ 75 ppm là căn cứ trên liều dùng

đƣợc khuyến cáo điều trị bệnh nhân đƣợc xác định nhiễm sán lá gan nhỏ [70]. Tại

thời điểm kiểm tra thứ nhất, sau 3 giờ, praziquantel hầu nhƣ không có tác dụng với

ấu trùng sán lá gan nhỏ ở cả 3 nồng độ. Chỉ có 2/37 ấu trùng ở nghiệm thức

praziquantel 300ppm bị chết, tỉ lệ chết này không khác biệt với đối chứng và 2 nồng

độ praziquantel thấp hơn. Sau 6 giờ, praziquantel mới phát huy tác dụng; số lƣợng

ấu trùng bị chết ở cả 3 nồng độ đều tăng đột biến; tỉ lệ ấu trùng bất hoạt (33,3 -

57,7%) cao hơn so với thời điểm sau 3 giờ (P<0,05). Tỉ lệ ấu trùng bị bất hoạt tiếp

tục tăng lên ở cả 3 nghiệm thức sau 24 giờ; dao động 48,6 - 60,3%, mặc dù vậy tỉ lệ

này không khác biệt so với thời điểm 6 giờ. Ấu trùng sống sót đều ở dạng còn

nguyên bào nang, trong khi đó, ấu trùng bị chết lại hầu hết ở dạng đã thoát nang, chỉ

một số ít ấu trùng dạng thoát nang vẫn còn sống.

Hình 3.24: Tỉ lệ ấu trùng C. sinensis bất hoạt trong praziquantel

99

Praziquantel là dẫn xuất pyrazino-isoquinolein, có chế tác dụng của thuốc là

làm tăng tính thẩm thấu của màng tế bào của ấu trùng và sán trƣởng thành dẫn đến

làm mất canxi nội bào, làm co cứng và tê liệt sán một cách nhanh chóng. Chính vì lý

do này mà hiện praziquantel đƣợc dùng phổ biến để điều trị sán giai đoạn trƣởng

thành trên ngƣời và động vật trong đó có SLTQC nhƣ sán lá gan nhỏ C. sinensis

[130]. Praziquantel cũng đã đƣợc thử nghiệm điều trị ấu trùng SLTQC là C.

formosanus tác nhân gây bệnh kênh mang có hiệu quả [131]. Kết quả nghiên cứu của

chúng tôi cũng phần nào khặng định praziquantel có khả năng bất hoạt ấu trùng

SLTQC nhƣ sán lá gan nhỏ C. sinensis. Tuy nhiên, tỉ lệ ấu trùng C. sinensis chỉ bất

hoạt đƣợc 48,6% đến 60,3% là do thời gian thử nghiệm của chúng tôi chỉ tiến hành

trong vòng 24 giờ. Trong khi đó, Van et al (2012) thử nghiệm bằng phƣơng pháp cho

ăn trong 5-7 ngày liên tục [131].

Sán lá gan nhỏ là một vấn đề lớn đối với sức khỏe cộng đồng, việc ngăn

ngừa sự lây nhiễm sán bằng biện pháp phổ biến tuyên truyền đã tỏ ra không có hiệu

quả. Trong khi đó, giải pháp can thiệp trong nuôi trồng thủy sản đối với ấu trùng

SLTQC chƣa có hiệu quả thực sự [10,15,16]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi gợi

mở khả năng can thiệp bằng praziquantel đối với sản phẩm nuôi trồng thủy sản ngay

trƣớc thời điểm thu hoạch có thể đảm bảo an toàn với SLTQC. Tuy nhiên, cần tiếp

tục có những thử nghiệm và xem xét một cách thấu đáo mọi vấn đề trong việc sử

dụng thuốc đối với sản phẩm thủy sản nói chung làm thực phẩm.

3.4.5. Điều kiện nước chanh và rượu

Nƣớc chanh và rƣợu là những nguyên liệu thƣờng đƣợc sử dụng trong chế

biến và ăn gỏi cá. Trong tập quán ăn gỏi cá, cá sống đƣợc thái lát mỏng sau đó

ngâm với nƣớc chanh ngay trƣớc khi ăn và uống rƣợu gạo trong quá trình thƣởng

thức món gỏi [132]. Nhiều ngƣời dân ở các vùng dịch tễ về SLTQC cho rằng đây là

một biện pháp giúp ngăn ngừa sự lây nhiễm bệnh từ gỏi cá.

Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

sinensis có khả năng sống sót trong điều kiện ngâm với nƣớc chanh. Hình 3.25 là tỉ

lệ sống của ấu trùng khi đƣợc ngâm với nƣớc chanh trong khoảng thời gian khác

100

nhau. Tỉ lệ sống là 100% trong thời gian 1 giờ, sau 3 giờ tỉ lệ sống có giảm nhẹ

(95,3%), chỉ giảm mạnh sau 6 giờ (70,8%) và tỉ lệ này giƣờng nhƣ không tăng lên

sau 12 giờ (70,0%). Với ấu trùng các loài sán khác nhau, sự mẫn cảm với nƣớc

chanh cũng khác nhau.Trong nghiên cứu khác khi sử dụng nƣớc chanh ở các nồng

độ 25%, 50%, 75% và 100% để thử bất hoạt ấu trùng sán lá ruột nhỏ S. falcatus

phân lập từ cá. Kết quả cho thấy, nƣớc chanh ở cả 3 nồng độ đều không có hiệu quă

trong việc bất hoạt ấu trùng này [133]. Thực tế, khi ăn gỏi cá, thông thƣờng ngƣời ta

chỉ ngâm lát cá sống trong nƣớc chanh với thời gian rất ngắn, tối đa chỉ đến một vài

phút trƣớc khi ăn. Trong thí nghiệm này, chúng tôi đã theo dõi đến 12 giờ nhƣng ấu

trùng vẫn sống sót với tỉ lệ cao. Điều đó cho thấy nƣớc chanh không phải là giải

pháp hiệu quả trong việc phòng ngừa sự lây truyền của ấu trùng sán lá gan nhỏ cho

ngƣời.

Hình 3.25: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong nước chanh

Kết quả thử nghiệm với rƣợu gạo có nồng cồn khác nhau 30%, 40% và 50%

cũng cho thấy rƣợu không phải là giải pháp ngăn ngừa sự lây nhiễm ấu trùng sán lá

gan nhỏ cho ngƣời (Hình 3.26). Ấu trùng có khả năng sống sót trong môi trƣờng

rƣợu ở cả 3 nồng độ cồn khác nhau, tỉ lệ sống dao động từ 85,4 - 98,5%, không

khác biệt với đối chứng nƣớc muối sinh lý. Tuy nhiên, sau 90 phút tỉ lệ sống của ấu

trùng ở nồng độ cồn 30% và 40% cao hơn so với nồng độ 50% và đối chứng

(P<0,05). Đặc biệt, nghiệm thức rƣợu 50% cồn, tỉ lệ sống ấu trùng ở cả 3 thời điểm

101

đều tƣơng đƣơng nhau – khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). So sánh tỉ lệ

sống của ấu trùng ở các nghiệm thức sau 90 phút chúng tôi nhận thấy ấu trùng có

khả năng chịu đựng tốt nhất với rƣợu 50% cồn; tỉ lệ sống ở rƣợu 50% cồn cao hơn

so với rƣợu 30% (p=0,004) và rƣợu 40% (p=0,011). Khác biệt về khả năng sống sót

của ấu trùng ở rƣợu 30% và rƣợu 40% là không có ý nghĩa (p=0,765).

Kết quả này cũng tƣơng tự nhƣ báo cáo của Sriraj et al., (2013) khi thí

nghiệm với ấu trùng sán lá gan nhỏ O. viverrini. Ấu trùng bị bất hoạt mà rƣợu đã

đẩy nhanh quá trình phá nang của ấu trùng này trong rƣợu. Và nhóm tác giả đã

khuyến cáo việc ăn gỏi cá khi uống rƣợu càng làm tăng khả năng nhiễm sán lá gan

nhỏ O. viverrini [134].

Hình 3.26: Tỉ lệ sống sót của ấu trùng C. sinensis trong rượu

Nghiên cứu này đã chỉ rõ; nƣớc chanh và rƣợu không phải là những liệu

pháp hữu hiệu để ngăn chặn sự lây truyền của ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis vào

ngƣời. Để đảm bảo an toàn với SLTQC, đặc biệt là sán lá gan nhỏ, cá và các sản

phẩm thủy sản cần đƣợc bảo quản trong đông lạnh hoặc đƣợc chế biến theo phƣơng

thức gia nhiệt với thời gian đảm bảo bất hoạt ấu trùng sán. Các cơ quan an toàn thực

phẩm cần xây dựng những hƣớng dẫn trong bảo quản và chế biến sản phẩm thủy sản

dựa trên cơ sở khoa học để đảm bảo an toàn với SLTQC. Bên cạnh đó, các cơ quan

nghiên cứu cần tiếp tục nghiên cứu các giải pháp nuôi trồng thủy sản nhằm kiểm soát

chẽ mối nguy liên quan đến SLTQC trong sản phẩm sau thu hoạch.

102

3.5. Thảo luận chung

3.5.1. Hiện trạng ấu trùng sán lá nhiễm trên cá ở khu vực miền núi phía Bắc

Nghiên cứu này ghi nhận ấu trùng của 6 loài SLTQC bao gồm C. sinensis, H.

pumilio, H. taichui, H. yokogawai, P. varium và C. formosanus nhiễm trên nhiều

loài cá tại khu vực MNPB và là bằng chứng khặng định SLTQC phân bố rộng khắp

các vùng, miền tại Việt Nam. Điều tra trên ngƣời sau đó của Trung tâm Y tế Dự

phòng tỉnh Yên Bái, tại huyện Lục Yên, kết quả cũng hoàn toàn phù hợp với nghiên

cứu của chúng tôi khi ghi nhận tới 34% ngƣời có nhiễm SLTQC [73]. Ở các tỉnh

thuộc đồng bằng sông Hồng nơi đƣợc xem là vùng dịch tễ chính của SLTQC, đặc

biệt là sán lá gan nhỏ, các điều tra trên ngƣời, động vật và cá đều ghi nhận kết quả ít

nhiều giống với nghiên cứu của chúng tôi ở khu vực MNPB. Nghiên cứu tiêu biểu

nhất đƣợc triển khai tại 2 xã Nghĩa Phú và Nghĩa Lạc, huyện Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam

Định năm 2005 đã ghi nhận chính xác 6 loài SLTQC [68] giống nhƣ kết quả của

chúng tôi tại khu vực MNPB. Cũng tại đây, một số các khảo sát trên ngƣời đều

khặng định SLTQC nhiễm với tỉ lệ khá cao 40,2% tại Hải Hậu [70], 26% tại Nghĩa

Hƣng [69], có sự khác biệt mức độ nhiễm SLTQC giữa nam (29,3%) và nữ giới

(16,0%) tại Hải Hậu trong đó C. sinensis (14,58%), H. taichui (32,29%), H. pumilio

(52,08%) và C. formosanus (1.04%) [135]. Trên động vật; chó, mèo và lợn, số loài

SLTQC đƣợc xác định lên tới 11 loài và tỉ lệ nhiễm SLTQC nói chung ở mèo là

70,2%; chó là 56,9% và lợn là 7,7% tại Nam Định [77]. Và gần đây khảo sát trên

ngƣời và động vật tại Ninh Bình, một trong những vùng dịch tễ quan trọng của sán

lá gan nhỏ, STLQC cũng đƣợc xác định nhiễm với tỉ lệ: 20,5% ở ngƣời và 32,7% ở

chó, 49,0% ở mèo và 13,0% ở lợn [11].

Các khảo sát trên cá ở các tỉnh thuộc khu vực miền Bắc cũng đều ghi nhận ấu

trùng của 5 - 6 loài STQC nhƣ trong nghiên cứu của chúng tôi nhƣng không có ấu

trùng sán lá gan nhỏ [8,76,92,108] hoặc tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ thấp [9–

11,89]. Ngoại trừ có nghiên cứu xác định ấu trùng sán lá gan nhỏ nhiễm với tỉ lệ cao

trên một số loài cá tự nhiên[95] giống với nghiên cứu của chúng tôi và cá nuôi [94]

mà đối tƣợng này ở khu vực MNPB chƣa phát hiện nhiễm. Có duy nhất một nghiên

103

cứu cho kết quả khác biệt với hầu hết các nghiên cứu nói trên, là phát hiện ấu trùng

sán lá gan nhỏ C. sinensis nhiễm trên tất cả các loài cá xét nghiệm trong khi đó

không có bất kỳ thông tin nào về ấu trùng sán lá ruột nhỏ [14]. Theo chúng tôi,

nhiều khả năng có sự nhầm lẫn do nhóm tác giả không quan tâm nhiều đến hình thái

ấu trùng các loài SLTQC khác nhau. Cũng tƣơng tự, ở các tỉnh thuộc khu vực đồng

bằng sông Cửu long cũng đều ghi nhận có sự hiện diện của ấu trùng SLTQC nhƣ

trong nghiên cứu của chúng tôi nhƣng mức độ nhiễm thấp hơn rất nhiều và không

có ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis [102–104] nhƣng có ấu trùng sán lá gan nhỏ

O. viverrini [102]. Tuy nhiên, cũng có nghiên cứu cho thấy ấu trùng sán lá gan nhỏ

C. sinensis nhiễm trên cá Tra ở Vĩnh Long [106], mặc dù vậy, căn cứ vào khoảng

cách trong phân tích phả hệ cho thấy đây không phải là sán lá gan nhỏ C. sinensis

[107]. Hơn nữa, sán lá gan nhỏ C. sinensis thƣờng phân bố ở khu vực miền Bắc, cho

nên ghi nhận chúng trên cá Tra ở đồng bằng sông Cửu long là bất thƣờng. Ở khu

vực miền Trung, Vo et al. (2014) có xác nhận về ấu trùng sán lá gan nhỏ O.

viverrini trên một số loài cá, trong đó đặc biệt là cá Diếc [99], ấu trùng một số loài

SLTQC bao gồm sán lá gan nhỏ cũng đƣợc phát hiện nhiễm trên một số loài cá nuôi

nhƣ Trắm cỏ tại Thừa Thiên Huế [101] nhƣng nghiên cứu của chúng tôi chƣa phát

hiện các đối tƣợng này nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ ở khu vực MNPB.

Sự giống và khác nhau về kết quả giữa các nghiên cứu do nhiều yếu tố, tuy

nhiên tất cả các nghiên cứu đều cho thấy SLTQC phổ biến trên ngƣời, động vật và

các loài cá khác nhau ở Việt Nam. Sự phân bố của SLTQC ở Việt Nam là không

mới nhƣng mức độ nhiễm ấu trùng của chúng trên cá tại khu vực MNPB là ghi nhận

mới có ý nghĩa cả về khoa học và thực tiễn. Nghiên cứu đã bổ sung thông tin về

vùng dịch tễ mới của SLTQC tại Việt Nam, là thông tin tham khảo cho các nhà

khoa học trong và ngoài nƣớc thông qua các công bố trên tạp chí quốc tế cũng nhƣ

trong nƣớc. Sự phổ biến ấu trùng của SLTQC cho thấy nguy cơ lây nhiễm cao bởi

tình trạng ăn gỏi cá hiện vẫn khá phổ biến tại nhiều nơi nƣớc ta [12,14]. Thế giới có

khoảng 500 triệu ngƣời có nguy cơ lây nhiễm SLTQC [136,137]. Một số SLTQC có

thể gây bệnh nguy hiểm cho con ngƣời, nhƣ bệnh ung thƣ đƣờng ống mật và các

bệnh liên quan đến gan mật do sán lá gan nhỏ C. sinensis và O. viverrini gây ra

104

[1,3,35,36]. Sự xuất hiện của ấu trùng SLTQC, đặc biệt là sán lá gan nhỏ C. sinensis

với tỉ lệ và cƣờng độ nhiễm cao trên cá ở khu vực MNPB là một cảnh báo nguy

hiểm đối với sức khỏe ngƣời dân nơi đây. Chính vì vậy các cơ quan y tế địa phƣơng

cần khẩn trƣơng tiến hành những khảo sát nhằm xác định các vùng dịch tễ trên

ngƣời để tiến hành điều trị loại bỏ kết hợp với biện pháp giáo dục, tuyên truyền về

nguyên nhân nhiễm và hậu quả của bệnh nhằm góp phần bảo vệ sức khỏe cộng

đồng, giữ vững sự ổn định đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc các tỉnh khu vực

MNPB nƣớc ta.

3.5.2. Sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis

Nghiên cứu xác định 8/35 loài cá ở khu vực MNPB, đặc biệt là cá ở hồ Thác

Bà, Yên Bái nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis với tỉ lệ và cƣờng độ cao

chƣa từng ghi nhận ở Việt Nam. Tép dầu, một loài cá tự nhiên có kích cỡ nhỏ (trung

bình 4,8 gram/ca) đƣợc xác định có tỉ lệ nhiễm trung bình 76,7% và 65,7 (±121) ấu

trùng/cá. Trong khi đó, các nghiên cứu khác, mặc dù ở vùng dịch tễ nhƣng có mức

độ nhiễm thấp hơn rất nhiều. Phan et al. (2010) xét nghiệm 18 loài cá nuôi cao tại

Nam Định chỉ phát hiện duy nhất 1 mẫu cá Mè trắng nhiễm 1 ấu trùng sán lá gan

này [8]. Ở nghiên cứu khác tại đây, nhóm tác giả này cũng chỉ phát hiện Trắm cỏ

nhiễm 1,9%, Rohu 0,5% và Mè trắng 2,4% [9]. So sánh với ấu trùng sán lá ruột, sán

lá gan nhỏ trên cá Rohu chỉ chiếm 0,05% so với 94% của sán lá ruột nhỏ nhiễm trên

cá Rohu tại Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và Thanh Hóa [10]. Thậm chí một số

nghiên cứu còn không hề phát hiện thấy ấu trùng sán lá gan nhỏ trong khi vẫn thấy

ấu trùng sán lá ruột nhỏ nhƣ H. pumilio [8,76,92,108]. Sự khác biệt về mức độ

nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis giữa nghiên cứu của chúng tôi có thể do

yếu tố vật chủ và vùng dịch tễ. Ở nghiên cứu nói trên hầu hết đều tập trung vào các

đối tƣợng cá nuôi ao trong khi đó nghiên cứu của chúng tôi tập trung nhiều vào đối

tƣợng cá tự nhiên. Điều này có thể thấy rõ ở một số nghiên cứu sau này khi hƣớng

đến các đối tƣợng cá tự nhiên. Tại Ninh Bình, xét nghiệm một số loài cá tự nhiên đã

bắt gặp cá Mƣơng xanh và cá Thiểu nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ với tỉ lệ tƣơng

ứng là 21,7% và 43,9% [95] và cũng tại đây cá Mƣơng xanh một lần nữa đƣợc xác

105

định nhiễm ấu trùng này với tỉ lệ 12,5% [11]. Mặc dù mức độ nhiễm ấu trùng sán lá

gan nhỏ trên cá tự nhiên tại Ninh Bình không cao nhƣ nghiên cứu của chúng tôi ở

khu vực MNPB nhƣng cao hơn so với mức độ nhiễm trên cá nuôi tại Nam Đinh.

Vậy có chăng ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis có liên quan nhiều đến môi trƣờng

tự nhiên hơn là môi trƣờng ao nuôi?.

Rủi ro lây nhiễm ấu trùng này từ cá tự nhiên lớn hơn so với cá nuôi trong

nghiên cứu này cũng tƣơng tự nhƣ những báo cáo tại Trung Quốc nơi báo cáo là ấu

trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis nhiễm trên cá tự nhiên cao hơn so với cá nuôi

[124,125,138,139] ở Hàn Quốc cá tự nhiên cũng là vật chủ trung gian quan trọng của

sán lá gan nhỏ C. sinensis [140–142]. Nguyên nhân dẫn đến sự lây nhiễm ấu trùng

sán nói chung trên cá là do ốc. Sán lá gan nhỏ C. sinensis, O. viverrini và O.

felineus sử dụng các loài ốc thuộc giống Alocinma, Bithynia, Thiara và

Parafossarulus làm vật chủ trung gian thứ 1. Ở khu vực Đông Nam Á, giống

Bithynia bao gồm một vài loài [143,144] môi trƣờng sống của chúng là vùng nƣớc

cạn, nƣớc trong và chảy nhẹ (ví dụ nhƣ; kênh, mƣơng, suối nhỏ, đầm, ruộng lúa và

hồ) hơn là vùng nƣớc tĩnh nhƣ ao [11,85,143,145–148]. Đặc điểm sinh thái ở những

loại hình mặt nƣớc tự nhiên có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của ốc Bithynia hơn là

những điều kiện trong ao nơi môi trƣờng nƣớc bị tù đọng và ô nhiễm cao. Nghiên

cứu gần đây về chất lƣợng nƣớc tối ứu minh chứng Bithynia chịu ảnh hƣởng của

mực nƣớc, nhiệt độ, mức oxy hòa tan, độ muối và đặc biệt là độ pH của nƣớc

[145,149,150].

Hơn nữa, đặc tính vật chủ đặc trƣng của sán lá gan nhỏ cũng có vai trò quyết

định đến việc một số loài nhiễm ấu trùng này nhiều hơn so với các loài khác. Điều

này càng thể hiện ngay trong nghiên cứu này khi sán lá ruột nhỏ phát hiện đƣợc trên

hầu hết các loài cá thì ấu trùng sán lá gan nhỏ chỉ là 8 loài. Còn nữa, trong 8 loài

nhiễm, xác định 4 loài nhiễm mức độ cao hơn nhƣ Tép dầu, Thiểu, Mƣơng xanh và

Ngão. Giải thích cho sự khác nhau giữa các loài vật chủ là khả năng miễn dịch tự

nhiên ở các nhóm loài cá. Theo Rhee et al (1980) đó là a xít linoleic trong nhớt đƣợc

tiết ra từ biểu mô cá nó giúp vật chủ kháng lại ấu trùng cercariae [51]. Nhớt tiết ra từ

106

biểu mô của cá Chép vàng Cyprinus carpio và Aplocheilus latipes không chỉ hoạt hóa

với cercariae mà còn cả với metacercariae [52]. Khả năng hoạt hóa của thành phần

hóa học này khác nhau ở mỗi loài cá cũng nhƣ tác dụng đặc hiệu với mỗi loại ấu

trùng sán. Cá P. parvađƣợc coi là vật chủ đặc trƣng nhất của ấu trùng sán lá gan nhỏ

C. sinensistại Hàn Quốc cũng nhƣ Trung Quốc [17,45]. Nhớt của cá P. parva mất đến

8,5 giờ để làm chết cercariae của C. sinensis trong khi đó nhớt của loài cá khác chỉ

mất đến 3-6 phút,mà thông thƣờng, cercariae chỉ cần 2-3 phút để xâm nhập qua da cá

[52].

Bảng 3.17: Vật chủ của sán lá gan nhỏ ở khu vực miền núi phía Bắc

TT VẬT CHỦ THẾ GIỚI VIỆT NAM

1 Cultrichthys erythropterus (cá Thiểu) [54]

[95]

2 Hemiculter leucisculus (Mƣơng xanh) [54]

[11,95]

3 Toxabramis houdemeri (Tép dầu) [125] -

4 Opasariichthys bidens (Cháo thƣờng) [125] -

5 Culter recurvirostris (Ngão gù) - -

6 Osteochilus salisburyi (Dầm đất) - -

7 Rhinogobius sp. (Bống hoa) - -

8 Casioides cantonensis (cá Nhƣng) - -

Theo tổng hợp, có đến khoảng 102 loài cá thuộc 59 giống, 15 họ tại Trung

Quốc [53] và 80 loài thuộc 9 họ, trong đó 71 loài thuộc họ cá Chép tại Hàn Quốc

[54,55] đƣợc xác định là vật chủ trung gian thứ 2 của sán lá gan nhỏ C. sinensis.

Tuy nhiên, cho đến trƣớc thời điểm nghiên cứu của chúng tôi ở khu vực MNPB,

mới chỉ có 6 loài cá nƣớc ngọt đƣợc khặng định là vật chủ của loài sán này

[8,10,11,89,94,95]. Trong số 8 loài cá đƣợc xác định là vật chủ của sán lá gan nhỏ

C. sinensis ở khu vực MNPB có 4 loài chƣa từng đƣợc xác nhận trƣớc đó trên thế

giới và 6 loài chƣa ghi nhận tại Việt Nam (Bảng 3.17).

Nhƣ vậy cho đến nay, theo tổng hợp của chúng tôi mới chỉ có khoảng 12 loài

107

cá nƣớc ngọt đƣợc ghi nhận là vật chủ của sán lá gan nhỏ C. sinensis ở miền Bắc,

Việt Nam. Con số này ít hơn rất nhiều so với những gì đã ghi nhận từ lâu tại Trung

Quốc, 102 loài [53] và Hàn Quốc, 80 loài [55]. Việc mới chỉ phát hiện 12 loài cá là

vật chủ của C. sinensis cho thấy vai trò sán lá gan nhỏ C. sinensis và SLTQC nói

chung ở Việt Nam chƣa đƣợc đánh giá một cách đầy đủ. Tuy nhiên, số lƣợng loài

vật chủ lớn thì mức độ rủi ro lây nhiễm ở ngƣời cao. Trung Quốc có khoảng 13 triệu

ngƣời nhiễm sán lá gan nhỏ C. sinensis [17], Hàn Quốc có 1,4 triệu ngƣời nhiễm

[22] và Việt Nam có khoảng 1 triệu ngƣời nhiễm sán lá gan nhỏ trong đó gồm cả C.

sinensis và O. viverrini [24], nhƣng thực tế số liệu về ngƣời nhiễm có thế thấp hơn

rất nhiều nguyên nhân là do phƣơng pháp xét nghiệm Kato-Katz không hoàn toàn

phân định rõ giữa trứng sán lá gan nhỏ và sán lá ruột nhỏ. Minh chứng cụ thể nhất

là cuộc khảo sát năm 2005 tại Nam Định, tỉ lệ xét nghiệm dƣơng tính với SLTQC

nói chung là 64,5% nhƣng tỉ lệ thu đƣợc sán lá gan nhỏ trƣởng thành là 54% trong

khi đó tỉ lệ này ở sán lá ruột nhỏ, đặc biệt là H. pumilio là 100% [68].

Trong số 8 loài vật chủ của sán lá gan nhỏ C. sinensis trên cá ở khu vực

MNPB, 4 loài vật chủ gồm Tép dầu, Thiểu và Mƣơng xanh có thể xem là loài vật

chủ đặc trƣng vì nhiễm với mức độ cao. Mật độ ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis

trung bình ở Tép dầu là 13,9 ấu trùng/g, Mƣơng xanh là 1,3 ấu trùng/g và Thiểu là

1,5 ấu trùng/g. Ở Trung Quốc và Hàn Quốc, các loài cá P. parva, P. herzi và

Abbottina spp. đã đƣợc xem là vật chủ đặc trƣng của ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

sinensis [44–46,53]. Nghiên cứu về sự biến động của ấu trùng sán lá gan nhỏ C.

sinensis trên 3 đối tƣợng (Tép dầu, Mƣơng xanh, Thiểu) tại hồ Thác Bà cho thấy có

sự biến động mùa vụ nhƣng không khác biệt ý nghĩa giữa mùa mƣa và mùa khô,

ngoại trừ ở Mƣơng xanh, cƣờng độ nhiễm vào mùa mƣa cao hơn so với mùa khô.

Tuy nhiên, khi phân tích biến động theo tháng chúng tôi thấy mức độ nhiễm ấu

trùng này cao nhất vào tháng 7 và thấp nhất vào tháng 2. Sự biến động mức độ

nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ phụ thuộc vào biến động quần thể ốc (Bithynia) và sự

phát triển của trùng đuôi (cercariae). Sự phát triển của cả 2 yếu tố này đều phụ

thuộc vào điều kiện nhiệt độ. Nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy ấu trùng C.

sinensis bắt đầu xuất hiện và nhiễm trên cá vào giai đoạn tháng 4 khi nhiệt độ tăng

108

lên từ 16 đến 22,9oC và có xu hƣớng tăng cao vào tháng 6 và 7 khi nhiệt độ là 24-

27oC rồi sau đó giảm dần [53]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với

Huang và Khaw (1964) khi khảo sát về mùa vụ ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis

trên cá P. parva tại Đài Loan. Tỉ lệ cá P. parva nhiễm ấu trùng là 100% vào mùa Hè

(tháng 6-8) với 418 ấu trùng/cá, 96,6% vào mùa Thu - Đông (tháng 9-11) với 309

ấu trùng/cá; 80% vào Đông-Xuân (tháng 12-2) với 96 ấu trùng/cá; rồi lại dần tăng

lên vào giai đoạn Xuân-Hè (tháng 3-5) với 227 ấu trùng/cá. Đáng lƣu ý là cƣờng độ

nhiễm tăng một cách đột biến vào tháng 5, từ 152 ấu trùng/cá vào tháng 4 lên đến

313 ấu trùng/cá vào tháng 5 chỉ sau 1 tháng [53]. Tuy nhiên, nghiên cứu tại Thái

Lan, cho thấy sự biến động ấu trùng O. viverrini trên cá có xu hƣớng cao hơn vào

cuối mùa mƣa từ tháng 7 đến tháng 1 và thấp hơn vào mùa Hè từ tháng 3 đến tháng

6 [59]. Ngoài yếu tố nhiệt độ, sự biến động mức độ nhiễm ấu trùng SLTQC nói

chung có thể khác nhau tùy theo đặc điểm sinh học của loài SLTQC và đặc trƣng

vùng sinh thái. Nghiên cứu tại hồ Thác Bà, Yên Bái xu hƣớng nhiễm ấu trùng sán lá

gan nhỏ cao hơn vào tháng giữa mùa mƣa, nhiệt độ cao (tháng 7) và thấp nhất vào

tháng cuối mùa khô, nhiệt độ thấp nhất (tháng 2). Hồ Thác Bà có chiều dài hơn 80

km chạy dọc qua 2 huyện Yên Bình và Lục Yên với nhiều cộng đồng dân cƣ sinh

sống quan khu vực hồ. Khu vực miền núi nói chung tỉ lệ hộ gia đình có nhà vệ sinh

tự hoại thấp. Tỉ lệ ngƣời nhiễm SLTQC gần đây đƣợc xác định là 34% tại xã Phan

Thanh, Lục Yên [73]. Mùa mƣa, các chất thải cùng mùn bã hữu cơ đƣợc dồn theo

nƣớc mƣa xuống hồ tại khu vực ven bờ, đây cũng là môi trƣờng sống của ốc

Bithynia, vật chủ trung gian của sán lá gan nhỏ và cũng là vùng nƣớc (nƣớc nông)

thích hợp cho các loài cá tự nhiên kích cỡ nhỏ nhƣ Tép dầu, Mƣơng xanh, Thiểu ...vv

tìm kiếm thức ăn là mùn bã hữu cơ. Sự hội tụ các điều kiện tự nhiên và đặc điểm sinh

thái học này khiến cho mức độ rủi ro nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ cao hơn vào giai

đoạn mùa mƣa so với mùa khô.

Mặc dù, có sự biến động về giữa các tháng nhƣng có thể thấy rằng ấu trùng

sán lá gan nhỏ C. sinensis luôn hiện diên trên cá hồ Thác Bà, đây là mối nguy

thƣờng trực đối với sức khỏe cộng đồng dân cƣ sống xung quanh hồ này. Sán lá gan

nhỏ C. sinensis gần đây đƣợc xác định là tác nhân ung thƣ đƣờng ống mật ở ngƣời

109

[35] vì vậy cần phải có những nghiên cứu tổng thể nhằm xác định đầy đủ và đánh

giá chính xác những yếu tố rủi liên quan đến sự lây truyền sán lá gan nhỏ tại vùng

dịch tễ hồ Thác Bà. Ví dụ nhƣ, cần xác định rõ những loài cá tự nhiên nào nhiễm ấu

trùng sán lá gan nhỏ? các đối cá nuôi lồng ở hồ Thác Bà có nhiễm ấu trùng này

không? Những loài động vật (nuôi, hoang dã) nào đóng vai trò là nguồn lƣu trữ sán

lá gan nhỏ? tình trạng nhiễm sán lá gan nhỏ trên ngƣời ra sao? có liên quan gì đến

vấn đề văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số? những loài ốc nào mang cercariae

của loài sán này?

Sự xuất hiện của SLTQC tại khu vực miền núi phía Bắc, dù là ấu trùng sán lá

gan nhỏ hay ấu trùng sán lá ruột nhỏ thì đây vẫn là vấn đề an toàn thực phẩm cần

đƣợc quan tâm trong lĩnh vực thủy sản. Nghiên cứu của chúng tôi đã xác định đƣợc

các điều kiện bất hoạt ấu trùng SLTQC nhƣ điều kiện đông lạnh, gia nhiệt và ƣớp

muối. Đây là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về điều kiện bất hoạt ấu trùng

SLTQC, là cơ sở khoa học để xây dựng các hƣớng dẫn nhằm đảm bảo an toàn thực

phẩm và có ý nghĩa thực tiễn trong đời sống hàng ngày góp phần bảo vệ sức khỏe

cộng đồng. Có những điểm tƣơng đồng cũng nhƣ khác biệt giữa kết quả nghiên cứu

của chúng tôi với các nghiên cứu trƣớc đây [61,62,126,127,151]. Sự khác biệt có

thể do nhiều nguyên nhân nhƣ đối tƣợng cá sử dụng làm thí nghiệm bởi kích cỡ các

loài cá có thể khác nhau, hàm lƣợng mỡ khác nhau dẫn đến hiệu quả đông lạnh hay

gia nhiệt có khác nhau. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi là bổ sung cần

thiết cho những nghiên cứu và những hƣớng dẫn về an toàn vệ thực phẩm. Ví dụ,

Cơ quan an toàn thực phẩm Châu Âu (EFSA) có khuyến cáo thời gian đông lạnh ở -

20oC trong 24 giờ là đảm bảo an toàn với tác nhân ký sinh trùng nói chung [151].

Tuy nhiên, theo nghiên cứu của chúng tôi, trong 24 giờ ở nhiệt độ -20oC, ấu trùng

sán lá gan nhỏ C. sinensis trong cá Tép dầu có tỉ lệ sống lên tới 54,5%. Điều đó cho

thấy hƣớng dẫn của Cơ quan an toàn thực phẩm Châu Âu đã chƣa bao quát đến vấn

đề SLTQC và lý do có lẽ là do SLTQC không phổ biến ở khu vực Châu Âu. Và

phải mất 8-11 ngày, ấu trùng C. sinensistrong cá P. parva ƣớp muối ở 30% mới bất

hoạt hoàn toàn [61] nhƣng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy cá Tép dầu chỉ cần

ƣớp với 10% muối trong 10 ngày là có thể bất hoạt hoàn toàn ấu trùng này. Ngoài

110

ra, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng xác nhận và củng cố cho những nghiên

cứu trƣớc đó về điều kiện gia nhiệt ấu trùng sán lá gan nhỏ [126,127] và hƣớng dẫn

của Cơ quan an toàn thực phẩm Châu Âu trong điều kiện này [151].

Hình 3.27: Ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trong điều kiện đông lạnh (A: ấu trùng bất hoạt; B: ấu trùng sống sót, vận động yếu)

Hơn nữa, nghiên cứu này nƣớc chanh và rƣợu không phải là liệu pháp hữu

hiệu để ngăn chặn sự lây nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis cho ngƣời. Ở

nghiên cứu khác còn cho thấy, thậm chí rƣợu còn làm tăng khả năng nhiễm của ấu

trùng sán bởi nó đẩy nhanh quá trình thoát nang của sán lá gan nhỏ O. viverrini

[134]. Ăn gỏi cá hoặc cá nấu chƣa chín có mang ấu trùng sán là nguyên nhân dẫn

đến sự lây nhiễm SLTQC ở ngƣời. Do đó mà hầu hết các điều tra trên ngƣời ở nƣớc

ta đều cho thấy tỉ lệ nhiễm sán ở nam giới cao hơn nữ giới [68,69,73,135] bởi trong

gia đình những ngƣời nam giới thƣờng ăn gỏi nhiều hơn nữ giới [132]. Tuy nhiên,

có thể rƣợu đã làm tăng mức độ nhiễm SLTQC cho nhóm nam giới uống rƣợu trong

khi ăn gỏi cá.

Nghiên cứu này cho thấy rằng việc xác định ấu trùng bất hoạt bằng phƣơng

pháp kính hiển vi - quan sát sự vận động, biến đổi hình thái là chính xác và phù

hợp: những ấu trùng này hoàn toàn không còn khả năng gây nhiễm (Hình 3.27A) .

Ngƣợc lại, những ấu trùng đƣợc xác định là còn sống sót có khả năng lây nhiễm hay

không là điều cần bàn. Trong quá trình thí nghiệm, chúng tôi nhận thấy nhiều ấu

A B 0oC, 3 ngày 0

oC, 6 giờ

111

trùng mặc dù còn sống nhƣng khả năng vận động yếu (Hình 3.27B) và những ấu

trùng này có còn là mối nguy với an toàn thực phẩm hay không?. Ví dụ, ở điều kiện

đông lạnh -80oC, sau 24 giờ vẫn còn 7,5% ấu trùng đƣợc xác định còn sống sót, tuy

nhiên, có bao nhiều ấu trùng còn khả năng lây nhiễm cho vật chủ chính (ngƣời và

động vật). Trong một giới hạn nhất định, nghiên cứu chƣa thể giải quyết một cách

triệt để vấn đề này mà cần có những nghiên cứu tiếp sau thừa kế và phát triển

112

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

4.1. Kết luận

1). Nghiên cứu này khặng định có sự phân bố của ấu trùng sán lá trên cá có khả

năng lây nhiễm cho ngƣời ở Khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam:

Ấu trùng của 6 loài sán lá truyền qua cá trong đó1 loài sán lá gan nhỏ là C.

sinensis và 5 loài sán lá ruột nhỏ gồm H. pumilio, H. taichui, H. yokogawai,

P. varium và C. formosanus;

Có 8 loài cá là vật chủ trung gian thứ 2 của sán lá gan nhỏ C. sinensis ở khu

vực miền núi phía Bắc trong đó Tép dầu, Thiểu, Mƣơng xanh và Ngão gù là

những vật chủ quan trọng;

Vùng dịch tễ quan trọng của sán lá gan nhỏ C. sinensis ở Khu vực miền núi

phía Bắc là hồ Thác Bà, Yên Bái;

2) Có sự biến động của ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis nhiễm trên một số loài

cá ở vùng dịch tễ - hồ Thác Bà, Yên Bái:

Tỉ lệ và cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis chung trên các

loài cá Tép dầu, Mƣơng xanh và Thiểu cao nhất vào tháng 7 và thấp nhất vào

tháng 2;

Cƣờng độ nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis trên cá Mƣơng xanh vào

mùa mƣa cao hơn so với mùa khô;

3) Nghiên cứu đã xác định đƣợc một số điều kiện có thể bất hoạt hoàn toàn ấu trùng

sán lá truyền qua cá, đặc biệt là ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis nhƣ sau:

Đông lạnh -80oC trong 30 phút, -20

oC trong 6 giờ và 0

oC trong 24 giờ đối

với ấu trùng đã phân lập;

Đông lạnh -80oC trong 5 ngày, -20

oC trong 7 ngày và 10 ngày đối với ấu

trùng trong cá;

Gia nhiệt 100oC trong 1 phút và 70

oC trong 5 phút đối với ấu trùng đã phân

lập từ cá;

Muối 10% và 7% trong 24 giờ và 5% trong 48 giờ đối với ấu trùng đã phân

113

lập từ cá;

Muối 10% trong 10 ngày, 7% và 5% trong 15 ngày đối với ấu trùng trong cá;

4.2. Kiến nghị

Sự hiện diện của ấu trùng sán lá truyền qua cá, đặc biệt là ấu trùng sán lá gan

nhỏ C. sinensis ở khu vực miền núi phía Bắc, cụ thể là ở hồ Thác Bà, Yên Bái với tỉ

lệ và cƣờng độ nhiễm cao cho thấy đây là nguy cơ rủi ro đến sức khỏe cộng đồng.

Nhằm tiếp tục làm rõ những vấn đề liên quan đến vùng dịch tễ của sán lá gan nhỏ

tại hồ Thác Bà, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng chúng tôi có một số kiến nghị

nhƣ sau:

(1) Khảo sát hiện trạng nhiễm sán lá gan nhỏ C. sinensis trên ngƣời tại các khu vực

dân cƣ vùng hồ Thác Bà, Yên Bái;

(2) Nghiên cứu xác định danh mục loài cá nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ C. sinensis

ở hồ Thác Bà, đặc biệt là các loài cá đang đƣợc nuôi tại đây;

(3) Nghiên cứu xác định các loài vật chủ ốc của sán lá gan nhỏ C. sinensis tại vùng

hồ Thác Bà, Yên Bái;

(4) Nghiên cứu xác định vai trò của các loài động vật nuôi và hoang dã đến sự lây

truyền sán lá gan nhỏ C. sinensis tại vùng hồ Thác Bà, Yên Bái;

114

NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN

.1. Bui, T. N., T. T. Pham, N. T. Nguyen, H. Van Nguyen, D. Murrell, and V. T.

Phan, 2016: The importance of wild fish in the epidemiology of Clonorchis

sinensis in Vietnam. Parasitol. Res., 115, 3401–3408, doi:10.1007/s00436-016-

5100-8.

2. Phan, T. Van, N. T. Bui, V. H. Nguyen, and D. Murrell, 2016: Comparative Risk

of Liver and Intestinal Fluke Infection from Either Wild-Caught or Cultured

Fish in Vietnam. VECTOR-BORNE ZOONOTIC Dis., 16, 790–796,

doi:10.1089/vbz.2016.1997.

3. Bùi Ngọc Thanh, Phạm Thị Thanh, Nguyễn Thị Nguyện, Nguyễn Văn Hà,

Nguyễn Văn Đề, và Phan Thị Vân, 2016: Ấu trùng sán lá ruột (Metacercariae)

trên cá tự nhiên tại hồ Thác Bà, Yên Bái có khả năng lây nhiễm cho ngƣời. Tạp

chí NN&PTNT, 7, 94–101.

4. Phan Thị Vân, Bùi Ngọc Thanh và Nguyễn Văn Hà, 2016: Hiệu quả của

praziquantel, nƣớc chanh và rƣợu trong việc bất hoạt ấu trùng sán lá gan nhỏ

Clonorchis sinensis. Tạp chí NN&PTNT, 8, 101–105.

5. Bùi Ngọc Thanh và Phan Thị Vân, 2015: Khả năng sống sót của ấu trùng sán lá

ruột nhỏ Haplorchis pumilio (Looss, 1896) trong điều kiện gia nhiệt và đông

lạnh. Tuyển tập Hội nghị Ký sinh trùng toàn quốc lần thứ 42, Cửu Lò, Nghệ

An, NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ, 58–63

6. Bùi Ngọc Thanh, 2016: Fishborne Zoonotic Trematodes in the Northern

Mountain Region, Vietnam. The 16th national workshop of Regional Network

on Asian Schistosomasis and Other Helminth Zoonoses, Yangon, Myanmar, 8.

7. Thanh, B. N., D. Murrell, P. T. Van, and K. D. Murrell, 2017: Inactivation of

Clonorchis sinensis in fish by freezing, heating and pickling treatments relevant

to homes and restaurants. Asian Neglected Tropical Disease Conference NTDs

without Borders: From Bench to Community, Khon Khean, Thailand, 45.

115

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Qian, M.-B.; Chen, Y.-D.; Liang, S.; Yang, G.-J.; Zhou, X.-N. The global

epidemiology of clonorchiasis and its relation with cholangiocarcinoma.

Infect. Dis. poverty 2012, 1, 4, doi:10.1186/2049-9957-1-4.

2. Sithithaworn, P.; Yongvanit, P.; Duenngai, K.; Kiatsopit, N.; Pairojkul, C.

Roles of liver fluke infection as risk factor for cholangiocarcinoma. J.

Hepatobiliary. Pancreat. Sci. 2014, 21, doi:10.1002/jhbp.62.

3. Sripa, B.; Bethony, J. M.; Sithithaworn, P.; Kaewkes, S.; Mairiang, E.;

Loukas, A.; Mulvenna, J.; Laha, T.; Hotez, P. J.; Brindley, P. J.

Opisthorchiasis and Opisthorchis-associated cholangiocarcinoma in Thailand

and Laos. Acta Trop. 2011, 120.

4. Kieu, T. L.; Bronshein, A. M.; Fan, T. I. [Clinico-parasitological research in a

mixed focus of clonorchiasis and intestinal nematodiasis in Hanamnin

Province (the Socialist Republic of Vietnam)]. [Russian]. Med. Parazitol.

(Mosk). 1990, 24–26.

5. Lê Văn Châu; Kiều Tùng Lâm; Nguyễn Văn Đề. Ứng dụng phƣơng pháp tiêu

cơ để nghiên cứu vật chủ trung gian của Clonorchis sinensis (Cobbold. 1875).

Phòng chống bệnh ký sinh trùng sốt rét 1992, 4, 44–48.

6. De, N. Van; Murrell, K. D.; Cong, L. D.; Cam, P. D.; Chau, L. Van; Toan, N.

D.; Dalsgaard, A. The food-borne trematode zoonoses of Vietnam. Southeast

Asian J. Trop. Med. Public Health 2003, 34 Suppl 1, 12–34.

7. Hà Duy Ngọ. Sán lá gan nhỏ ở hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình. Báo cáo

khoa học của Viện khoa học công nghệ Việt Nam; 2003;

8. Phan, V. T.; Ersbøll, A. K.; Bui, T. Q.; Nguyen, H. T.; Murrell, D.;

Dalsgaard, A. Fish-Borne Zoonotic Trematodes in Cultured and Wild-Caught

Freshwater Fish from the Red River Delta, Vietnam. Vector-Borne Zoonotic

116

Dis. 2010, 10, 861–866, doi:10.1089/vbz.2009.0134.

9. Phan, V. T.; Ersbøll, A. K.; Nguyen, T. T.; Nguyen, K. V.; Nguyen, H. T.;

Murrell, D.; Dalsgaard, A. Freshwater aquaculture nurseries and infection of

fish with zoonotic trematodes, Vietnam. Emerg. Infect. Dis. 2010, 16, 1905–

9, doi:10.3201/eid1612.100422.

10. Clausen, J. H.; Madsen, H.; Murrell, K. D.; Van, P. T.; Thu, H. N. T.; Do, D.

T.; Thi, L. A. N.; Manh, H. N.; Dalsgaard, A. Prevention and control of fish-

borne zoonotic trematodes in fish nurseries, Vietnam. Emerg. Infect. Dis.

2012, 18, 1438–1445, doi:10.3201/eid1809.111076.

11. Hung, N.; Dung, D.; Lan Anh, N.; Van, P.; Thanh, B.; Van Ha, N.; Van Hien,

H.; Canh, L. Current status of fish-borne zoonotic trematode infections in Gia

Vien district, Ninh Binh province, Vietnam. Parasit. Vectors 2015, 8, 21,

doi:10.1186/s13071-015-0643-6.

12. Nguyễn Viết Khuê; Bùi Ngọc Thanh; Nguyễn Văn Đề; Đào Xuân Trƣờng;

Phạm Thế Việt; Phan Thị Vân. Tập quán ăn gỏi cá và nhận thức về nguy cơ

lây nhiễm sán lá truyền qua cá ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam. In

Tuyển tập toàn văn Hội nghị ký sinh trùng toàn quốc lần thứ 43; Quang, L.

B., Luc, P. Van, Eds.; NXB Khoa học tự nhiên và công nghệ: Buôn Ma

Thuột, Đắc Lắc, 2016; pp. 127–131.

13. Hà Ký; Bùi Quang Tề. Ký sinh trùng cá nước ngọt Việt Nam; Nhà xuất bản

khoa học kỹ thuật, 2007;

14. Trần Văn Quyên; Nguyễn Văn Thọ; Nguyễn Thị Hoàng Yến; Nguyễn Thị

Hồng Chiên; Nguyễn Văn Phƣợng. Một số đặc điểm dịch tễ sán lá gan nhỏ do

Clonorchis sinensis. Tạp chí Khoa học và phát triển - ĐH Nông Nghiệp Hà

Nội 2012, 10, 142–147.

15. Clausen, J. H.; Madsen, H.; Murrell, K. D.; Bui, T. N.; Nguyen, N. T.; Do, D.

T.; Thi, L. A. N.; Manh, H. N.; Dalsgaard, A. The effectiveness of different

intervention strategies for the prevention of zoonotic metacercariae infection

117

in cultured fish. Aquaculture 2013, 416–417, 135–140,

doi:10.1016/j.aquaculture.2013.09.006.

16. Madsen, H.; Thien, P. C.; Nga, H. T. N.; Clausen, J. H.; Dalsgaard, A.;

Murrell, K. D. Two-year intervention trial to control of fish-borne zoonotic

trematodes in giant gourami (Osphronemus goramy) and striped catfish

(Pangasianodon hypophthalmus) in nursery ponds in the Mekong Delta,

Vietnam. Acta Trop. 2015, 152, 201–207,

doi:10.1016/j.actatropica.2015.09.012.

17. Tang, Z.-L. L.; Huang, Y.; Yu, X.-B. B. Current status and perspectives of

Clonorchis sinensis and clonorchiasis: epidemiology, pathogenesis, omics,

prevention and control. Infect. Dis. Poverty 2016, 5, 71, doi:10.1186/s40249-

016-0166-1.

18. Hung, N. M.; Madsen, H.; Fried, B. Global status of fish-borne zoonotic

trematodiasis in humans. Acta Parasitol. 2013, 58, 231–58,

doi:10.2478/s11686-013-0155-5.

19. Lun, Z.-R.; Gasser, R. B.; Lai, D.-H.; Li, A.-X.; Zhu, X.-Q.; Yu, X.-B.; Fang,

Y.-Y. Clonorchiasis: a key foodborne zoonosis in China. Lancet Infect. Dis.

2005, 5, 31–41, doi:10.1016/S1473-3099(04)01252-6.

20. Shin, H. R.; Oh, J. K.; Lim, M. K.; Shin, A.; Kong, H. J.; Jung, K. W.; Won,

Y. J.; Park, S.; Park, S. J.; Hong, S. T. Descriptive epidemiology of

cholangiocarcinoma and clonorchiasis in Korea. J. Korean Med. Sci. 2010,

25, 1011–1016, doi:10.3346/jkms.2010.25.7.1011.

21. Tatonova, Y. V.; Chelomina, G. N.; Besprozvannykh, V. V. Genetic diversity

of Clonorchis sinensis (Trematoda: Opisthorchiidae) in the Russian southern

Far East based on mtDNA cox1 sequence variation. Folia Parasitol. (Praha).

2013, 60, 155–162, doi:10.1016/j.parint.2012.07.005.

22. Shin, E.-H.; Guk, S.-M.; Kim, H.-J.; Lee, S.-H.; Chai, J.-Y. Review Trends in

parasitic diseases in the Republic of Korea. Trends Parasitol 2008, 24, 143–

118

150, doi:DOI: http://dx.doi.org/10.1016/j.pt.2007.12.003.

23. Qian, M.-B.; Chen, Y.-D.; Yan, F. Time to tackle clonorchiasis in China.

Infect. Dis. Poverty 2013, 2, 4, doi:10.1186/2049-9957-2-4.

24. WHO Control of foodborne trematode infections : report of a WHO study

group. WHO Technical Report Series 849; Geneva, 1995; ISBN

924120849X.

25. Jongsuksuntigul, P.; Imsomboon, T. Opisthorchiasis control in Thailand. In

Acta Tropica; 2003; Vol. 88, pp. 229–232.

26. Kaewpitoon, N.; Kootanavanichpong, N.; Kompor, P.; Chavenkun, W.;

Kujapun, J.; Norkaew, J.; Ponphimai, S.; Matrakool, L.; Tongtawee, T.;

Panpimanmas, S.; Rujirakul, R.; Padchasuwan, N.; Pholsripradit, P.; Eksanti,

T.; Phatisena, T.; Loyd, R. A.; Kaewpitoon, S. J. Review and current status of

Opisthorchis viverrini infection at the community level in thailand. Asian

Pacific J. Cancer Prev. 2015, 16, 6825–6830.

27. Rim, H. J.; Chai, J. Y.; Min, D. Y.; Cho, S. Y.; Eom, K. S.; Hong, S. J.; Sohn,

W. M.; Yong, T. S.; Deodato, G.; Standgaard, H.; Phommasack, B.; Yun, C.

H.; Hoang, E. H. Prevalence of intestinal parasite infections on a national

scale among primary schoolchildren in Laos. Parasitol. Res. 2003, 91, 267–

272, doi:10.1007/s00436-003-0963-x.

28. Sayasone, S.; Odermatt, P.; Phoumindr, N.; Vongsaravane, X.; Sensombath,

V.; Phetsouvanh, R.; Choulamany, X.; Strobel, M. Epidemiology of

Opisthorchis viverrini in a rural district of southern Lao PDR. Trans. R. Soc.

Trop. Med. Hyg. 2007, 101, 40–47, doi:10.1016/j.trstmh.2006.02.018.

29. Miyamoto, K.; Kirinoki, M.; Matsuda, H.; Hayashi, N.; Chigusa, Y.; Sinuon,

M.; Chuor, C. M.; Kitikoon, V. Field survey focused on Opisthorchis

viverrini infection in five provinces of Cambodia. Parasitol. Int. 2014, 63,

366–373, doi:10.1016/j.parint.2013.12.003.

30. Lee, K. J.; Bae, Y. T.; Kim, D. H.; Deung, Y. K.; Ryang, Y. S.; Kim, H. J.;

119

Im, K. Il; Yong, T. S. Status of intestinal parasites infection among primary

school children in Kampongcham, Cambodia. Korean J. Parasitol. 2002, 40,

153–155, doi:10.3347/kjp.2002.40.3.153.

31. Kovshirina, Y. V.; Fedorova, O. S.; Kovshirina, A. E.; Katanakhova, L. L.;

Brazhnikova, N. A.; Vtorushin, S. V.; Onishchenko, S. V.; Taslitsky, S. S.;

Chizhikov, A. V.; I.A.Tataurov; Ogorodova, L. M.; Odermatt, P. Opisthorchis

felineus infection in Western Siberia: real clinical practice review. In Asian

Neglected Tropical Disease Conference NTDs without Borders: From Bench

to Community; 2017; p. 72.

32. Fedorova, O. S.; Kovshirina, Y. V.; Fedotova, M. M.; Sokolova, T. S.;

Golovach, E. A.; Kovshirina, A. E.; Saltykova, I. V.; Gutor, S. S.;

Ogorodova, L. M.; Odermatt, P. P. Opisthorchis felineus in Shegarsky

district, Western Siberia: Preliminary results of a cross-sectional study. In

Asian Neglected Tropical Disease Conference NTDs without Borders: From

Bench to Community; 2017; p. 7.

33. Attwood, H. D.; Chou, S. T. The longevity of Clonorchis sinensis. Pathology

1978, 10, 153–156.

34. IARC A review of human Carcinogens: Opisthorchis viverrini and

Clonorchis sinensis. IARC Monographs on the Evaluation of carcinogenic

risks to human. 100B 2012, 341–370.

35. Shin, H. R.; Oh, J. K.; Masuyer, E.; Curado, M. P.; Bouvard, V.; Fang, Y. Y.;

Wiangnon, S.; Sripa, B.; Hong, S. T. Epidemiology of cholangiocarcinoma:

An update focusing on risk factors. Cancer Sci. 2010, 101, 579–585,

doi:10.1111/j.1349-7006.2009.01458.x.

36. Min, K. L.; Ju, Y. H.; Franceschi, S.; Oh, J. K.; Kong, H. J.; Hwang, S. S.;

Park, S. K.; Cho, S. Il; Sohn, W. M.; Kim, D. Il; Yoo, K. Y.; Hong, S. T.;

Shin, H. R. Clonorchis sinensis infection and increasing risk of

cholangiocarcinoma in the republic of korea. Am. J. Trop. Med. Hyg. 2006,

120

75, 93–96, doi:75/1/93 [pii].

37. Choi, D.; Lim, J. H.; Lee, K. T.; Lee, J. K.; Choi, S. H.; Heo, J. S.; Jang, K.

T.; Lee, N. Y.; Kim, S.; Hong, S. T. Cholangiocarcinoma and Clonorchis

sinensis infection: A case-control study in Korea. J. Hepatol. 2006, 44, 1066–

1073, doi:10.1016/j.jhep.2005.11.040.

38. Salao, K.; Mảiiang, E.; Suttipriprapa, S.; Tangkawattana, S.; Edwards, S. W.;

Sripa, B. Advanced periductal fibrosis in chronic Opisthorchis viverrini

infection is associated with macrophages with high phagocytic and

proteolytic activities. In Asian Neglected Tropical Disease Conference NTDs

without Borders: From Bench to Community; 2017; p. 19.

39. Khuntikeo, N.; Chamadol, N.; Yongvanit, P.; Loilome, W.; Namwat, N.;

Sithithaworn, P.; Andrews, R. H.; Petney, T. N.; Promthet, S.; Thinkhamrop,

K.; Tawarungruang, C.; Thinkhamrop, B. Cohort profile: cholangiocarcinoma

screening and care program (CASCAP). BMC Cancer 2015, 15, 1–8,

doi:10.1186/s12885-015-1475-7.

40. Chai, J. Y.; Lee, S. H. Food-borne intestinal trematode infections in the

Republic of Korea. Parasitol. Int. 2002, 51, 129–154.

41. Chai, J.-Y. Intestinal Flukes. In World Class Parasites Volume 11. Food-

borne parasitic zoonoses. Fish and plant-borne parasites.; Murrell, K. D.,

Fried, B., Eds.; Springer, 2007; pp. 53–116.

42. Murrell, K. D.; Fried, B. World Class Parasites: Volume 11. Food-Borne

Parasitic Zoonoses. Fish and Plant - Borne Parasites; Springer, 2007;

43. Yoshida, Y. Clonorchiasis--a historical review of contributions of Japanese

parasitologists. Parasitol. Int. 2012, 61, 5–9,

doi:10.1016/j.parint.2011.06.003.

44. Chen, D.; Chen, J.; Huang, J.; Chen, X.; Feng, D.; Liang, B.; Che, Y.; Liu,

X.; Zhu, C.; Li, X.; Shen, H. Epidemiological investigation of Clonorchis

sinensis infection in freshwater fishes in the Pearl River Delta. Parasitol. Res.

121

2010, 107, 835–9, doi:10.1007/s00436-010-1936-5.

45. Kim, E.-M.; Kim, J.-L.; Choi, S. Y.; Kim, J.-W.; Kim, S.; Choi, M.-H.; Bae,

Y. M.; Lee, S.-H.; Hong, S.-T. Infection status of freshwater fish with

metacercariae of Clonorchis sinensis in Korea. Korean J. Parasitol. 2008, 46,

247–51, doi:10.3347/kjp.2008.46.4.247.

46. Cho, S.; Sohn, W.; Na, B. Prevalence of Clonorchis sinensis Metacercariae in

Freshwater Fish from Three Latitudinal Regions of the Korean Peninsula.

Korean J. Parasitol. 2011, 49, 385–398, doi:10.3347/kjp.2011.49.4.385.

47. Ooi, H. K.; Chen, C. I.; Lin, S. C.; Tung, K. C.; Wang, S.; Kamiya, M.

Metacercariae in fishes of sun moon lake which is an endemic area for

Clonorchis sinensis in Taiwan. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health

1997, 28, 222–223.

48. Wang, J. J.; Chung, L. Y.; Lee, J. D.; Chang, E. E.; EngRin, C.; Chao, D.;

ChuanMin, Y. Haplorchis infections in intermediate hosts from a

clonorchiasis endemic area in Meinung, Taiwan, Republic of China. J.

Helminthol. 2002, 76, 185–188.

49. Sukontason, K.; Piangjai, S.; Muangyimpong, Y.; Sukontason, K.;

Methanitikorn, R.; Chaithong, U. Prevalence of trematode metacercariae in

cyprinoid fish of Ban Pao district, Chiang Mai Province, northern Thailand.

Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health 1999, 30, 365–370.

50. Nithikathkul, C.; Wongsawad, C. Prevalence of Haplorchis taichui and

Haplorchoides sp. metacercariae in freshwater fish from water reservoirs,

Chiang Mai, Thailand. Korean J. Parasitol. 2008, 46, 109–112,

doi:10.3347/kjp.2008.46.2.109.

51. Rhee, J. K.; Bae, B. K.; Ahn, B. Z.; Park, Y. J. The wormicidal substance of

freshwater fishes on Clonorchis sinensis: II. Preliminary Research on the

wormicidal substances from mucous substances of various freshwater fishes.

Kisaengchunghak Chapi 1980, 18, 98–104.

122

52. Chun, S. K. Studies on the experimental mode of infections of Clonorchis

sinensis: III. Studies in the wormicidal effect of external mucous substance of

some freshwater fish on the larva of Clonorchis sinensis. Kisaengchunghak

Chapi 1964, 2, 148–158.

53. Qi, X. L.; Hai, Y. Sen; CHen Ying Dan Clonorchis sinensis in China. In Food

-Borne Helminthiasis in Asia, Asian Parasitology; 2005; pp. 1–26.

54. Sohn, W. M. Fish-borne zoonotic trematode metacercariae in the Republic of

Korea. Korean J. Parasitol. 2009, 47, 103–114,

doi:10.3347/kjp.2009.47.S.S103.

55. Hong, S. T.; Hong, S. J. Clonorchis sinensis ad clonorchiasis in Korea. In

Food-Borne Helminthiasis in Asia, Asian Parasitology; 2005; pp. 35–56.

56. Tesana, S. Opisthorchis in Thailand. In Asia Parasitology. Vol. 1 Food-Borne

Helminthiasis In Asia; 2005; pp. 113–124.

57. Xu, B. Clonorchis sinensis. In Proceedings of Presentation at the training

course, Institute of Parasitic Disease, Guang Xi; 1979.

58. Shin, D. S. An epidemiological studies of Clonorchis sinensis along the

Hyunsan River district. Chonghap 1964, 8, 79–95.

59. Sithithaworn, P.; Pipitgool, V.; Srisawangwong, T.; Elkins, D. B.; Haswell-

Elkins, M. R. Seasonal variation of Opisthorchis viverrini infection in

cyprinoid fish in north-east Thailand: Implications for parasite control and

food safety. Bull. World Health Organ. 1997, 75, 125–131.

60. Saenphet, S.; Wongsawad, C.; Saenphet, K.; Rojanapaibul, A.;

Vanittanakorm, P.; Chai, J. Y. The occurence of heterophyid metacrcariae in

cyprinoid fish in Chiang Mai province. Southeast Asian J. Trop. Med. Public

Health 2008, 39, 56–61.

61. Fan, P. C. Viability of metacercariae of Clonorchis sinensis in frozen or

salted freshwater fish. Int. J. Parasitol. 1998, 28, 603–605,

123

doi:10.1016/S0020-7519(97)00215-4.

62. Fattakhov, R. G. Low- temperature regimes for decontamination of fish of the

larvae Opisthorchis (in Russian). Med. Parazitol. 1989, 5, 63–64.

63. Kruatrachue, M.; Chitramvong, Y. P.; Upatham, E. S.; Vichari, S.; Viyanant,

V. Effects of physico-chemical factors on the infection of hamsters by

metacercariae of Opisthorchis viverrini. Southeast Asian J. Trop. Med. Public

Health 1982, 13, 614–617.

64. Tesana, S.; Kaewkes, S.; Phinlaor, S. Infectivity and survivorship of

Opishorchis viverrini metacercariae in fermenated fish. J. Parasitol. Trop.

Med. Assoc. Thail. 1986, 9, 21–30.

65. Nguyễn Văn Chƣơng; Bùi Văn Tuấn; Lê Văn Châu. Một số đặc điểm dịch tễ

của sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini. Phòng chống bệnh ký sinh trùng

sốt rét 1997, 2, 91–94.

66. De, N. V. Fish-borne trematodes in Vietnam. Southeast Asian J. Trop. Med.

Public Health 2004, 33, 299–301.

67. Olsen, A.; Thuan, L. K.; Murrell, K. D.; Dalsgaard, A.; Johansen, M. V.; De,

N. Van Cross-sectional parasitological survey for helminth infections among

fish farmers in Nghe An province, Vietnam. Acta Trop. 2006, 100, 199–204,

doi:10.1016/j.actatropica.2006.10.010.

68. Dung, D. T.; De, N. Van; Waikagul, J.; Dalsgaard, A.; Chai, J.-Y.; Sohn, W.-

M.; Murrell, K. D. Fishborne zoonotic intestinal trematodes, Vietnam. Emerg.

Infect. Dis. 2007, 13, 1828–33, doi:10.3201/eid1312.070554.

69. Dang, T. C. T.; Yajima, A.; Nguyen, V. K.; Montresor, A. Prevalence,

intensity and risk factors for clonorchiasis and possible use of questionnaires

to detect individuals at risk in northern Vietnam. Trans. R. Soc. Trop. Med.

Hyg. 2008, 102, 1263–8, doi:10.1016/j.trstmh.2008.06.002.

70. Lier, T.; Do, D. T.; Van Johansen, M.; Nguyen, T. H.; Dalsgaard, A.; Asfeldt,

124

A. M. High Reinfection Rate after Preventive Chemotherapy for Fishborne

Zoonotic Trematodes in Vietnam. PLoS Negl. Trop. Dis. 2014, 8,

doi:10.1371/journal.pntd.0002958.

71. Vinh, H. Q.; Phimpraphai, W.; Tangkawattana, S.; Smith, J. F.; Kaewkes, S.;

Dung, D. T.; Duong, T. T.; Sripa, B. Risk factors for Clonorchis sinensis

infection transmission in humans in northern Vietnam: A descriptive and

social network analysis study. Parasitol. Int. 2017, 66, 74–82,

doi:10.1016/j.parint.2016.11.018.

72. Do, D. T. Updates on country burden of Foodborne Zoonotic Trematodes,

taeniasis and cysticercosis (Vietnam). In Expert Consultation to Accelerate

Control of Foodborne Trematode Infections, Taeniasis and Cysticercosis17-

19 May 2017; Seoul, Republic of Korea; WHO: Seoul, 2017; p. 15.

73. Nguyễn Trọng Phú. Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm bệnh sán lá gan nhỏ và một số

yếu tố nguy cơ của người dân xã Phan Thanh, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái -

năm 2014 - 2015; Yen Bai, 2015;

74. Phạm Văn Khuê; Nguyễn Huy Thùy. Nghiên cứu bệnh sán lá gan nhỏ

Clonorchiasis và con đƣờng lây truyền giữa động vật và ngƣời. Tạp chí Y học

thực hành 1996, 3, 27.

75. Anh, N. T. L.; Phuong, N. T.; Murrell, K. D.; Johansen, M. V.; Dalsgaard, A.;

Thu, L. T.; Chi, T. T. K.; Thamsborg, S. M. Animal reservoir hosts and fish-

borne zoonotic trematode infections on fish farms, Vietnam. Emerg. Infect.

Dis. 2009, 15, 540–546, doi:10.3201/eid1504.081147.

76. Chi, T. T. K.; Dalsgaard, A.; Turnbull, J. F.; Tuan, P. a; Murrell, K. D.

Prevalence of zoonotic trematodes in fish from a Vietnamese fish-farming

community. J. Parasitol. 2008, 94, 423–428, doi:10.1645/GE-1389.1.

77. Lan Anh, N. T.; Phuong, N. T.; Johansen, M. V.; Murrell, K. D.; Van, P. T.;

Dalsgaard, A.; Thu, L. T.; Thamsborg, S. M. Prevalence and risks for

fishborne zoonotic trematode infections in domestic animals in a highly

125

endemic area of North Vietnam. Acta Trop. 2009, 112, 198–203,

doi:10.1016/j.actatropica.2009.07.027.

78. Anh, N. T. L.; Madsen, H.; Dalsgaard, A.; Phuong, N. T.; Thanh, D. T. H.;

Murrell, K. D. Poultry as reservoir hosts for fishborne zoonotic trematodes in

Vietnamese fish farms. Vet. Parasitol. 2010, 169, 391–4,

doi:10.1016/j.vetpar.2010.01.010.

79. Anh Thi, N. L.; Madsen, H.; Thanh Ha, D.; Hoberg, E.; Dalsgaard, A.;

Murrell, K. D. Evaluation of the role of rats as reservoir hosts for fishborne

zoonotic trematodes in two endemic northern Vietnam fish farms. Parasitol.

Res. 2012, 111, 1045–1048, doi:10.1007/s00436-012-2929-3.

80. Dao, T. T. H.; Bui, T. Van; Abatih, E. N.; Gabriël, S.; Nguyen, T. T. G.;

Huynh, Q. H.; Nguyen, C. Van; Dorny, P. Opisthorchis viverrini infections

and associated risk factors in a lowland area of Binh Dinh Province, Central

Vietnam. Acta Trop. 2016, 157, 151–157,

doi:10.1016/j.actatropica.2016.01.029.

81. Dao, T. H.; Nguyen, T. G.; Victor, B.; Gabriël, S.; Dorny, P. Opisthorchis

viverrini-like liver fluke in birds from Vietnam: morphological variability and

rDNA/mtDNA sequence confirmation. J. Helminthol. 2013, 1–6,

doi:10.1017/S0022149X13000400.

82. Nguyen, H. M.; Bui, T. N.; Loan, H. T.; Madsen, H. Infection status of

hepatic trematodes infecting cats from slaughter houses in Vietnam; Hanoi,

Vietnam, 2017;

83. Lê Hữu Khƣơng. Phát hiện mới về sán lá gan trên mèo tại một số tỉnh phía

Nam Available online: http://hoithuyvietnam.org.vn/vn/171n/phat-hien-moi-

ve-san-la-gan-tren-meo-tai-mot-so-tinh-phia-nam.html.

84. Nawa, Y.; Doanh, P. N.; Thaenkham, U. Is Opisthorchis viverrini an avian

liver fluke? J. Helminthol. 2015, 89, 255–256,

doi:10.1017/S0022149X13000709.

126

85. Dung, B. T.; Madsen, H.; The, D. T. Distribution of freshwater snails in

family-based VAC ponds and associated waterbodies with special reference

to intermediate hosts of fish-borne zoonotic trematodes in Nam Dinh

Province, Vietnam. Acta Trop. 2010, 116, 15–23,

doi:10.1016/j.actatropica.2010.04.016.

86. Skov, J.; Kania, P. W.; Dalsgaard, A.; Jørgensen, T. R.; Buchmann, K. Life

cycle stages of heterophyid trematodes in Vietnamese freshwater fishes traced

by molecular and morphometric methods. Vet. Parasitol. 2009, 160, 66–75,

doi:10.1016/j.vetpar.2008.10.088.

87. Madsen, H.; Dung, B. T.; The, D. T.; Viet, N. K.; Dalsgaard, A.; Van, P. T.

The role of rice fields, fish ponds and water canals for transmission of fish-

borne zoonotic trematodes in aquaculture ponds in Nam Dinh Province,

Vietnam. Parasit. Vectors 2015, 8, 11, doi:DOI 10.1186/s13071-015-1237-z.

88. Clausen, J. H.; Madsen, H.; Murrell, K. D.; Phan Thi, V.; Nguyen Manh, H.;

Viet, K. N.; Dalsgaard, A. Relationship between snail population density and

infection status of snails and fish with zoonotic trematodes in Vietnamese

carp nurseries. PLoS Negl. Trop. Dis. 2012, 6, e1945,

doi:10.1371/journal.pntd.0001945.

89. Phan, V. T.; Ersboll, A. K.; Nguyen, K. V.; Madsen, H.; Dalsgaard, A. Farm-

level risk factors for fish-borne zoonotic trematode infection in integrated

small-scale fish farms in northern Vietnam. PLoS Negl. Trop. Dis. 2010, 4,

e742, doi:10.1371/journal.pntd.0000742.

90. Phan Thị Vân; Bùi Ngọc Thanh. Sán lá lây truyền qua cá tại Việt Nam

(Fishborne Zoonotic Trematodes in Vietnam); Nhà xuất bản nông nghiệp: Hà

Nội, 2013;

91. Nguyễn Văn Đề. Nghiên cứu mầm bệnh giun sán ký sinh trên thịt lợn, trâu,

bò và cá nước ngọt tại Hà Nội; 2005;

92. Nguyen, T. H.; Nguyen, V. De; Murrell, D.; Dalsgaard, A. Occurrence and

127

species distribution of fishborne zoonotic trematodes in wastewater-fed

aquaculture in northern Vietnam. Trop. Med. Int. Health 2007, 12 Suppl 2,

66–72, doi:10.1111/j.1365-3156.2007.01943.x.

93. Chai, J. Y.; Van De, N.; Sohn, W. M. Foodborne trematode metacercariae in

fish from northern Vietnam and their adults recovered from experimental

hamsters. Korean J. Parasitol. 2012, doi:10.3347/kjp.2012.50.4.317.

94. Nguyễn Thị Hợp; Đỗ Trung Dũng; Trần Thanh Dƣơng; Nguyễn Hƣơng Bình;

Nguyễn Thị Hồng Ngọc; Bùi Ngọc Thanh. Nghiên cứu xác định ấu trùng sán

lá gan nhỏ Clonorchis sinensis trên một số loài cá tại xã Hợp Thịnh, huyện

Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình. In Hội nghị Ký sinh trùng toàn quốc lần thứ 42; NXB

Khoa học tự nhiên và công nghệ: Cửa Lò, Nghệ An, 2015; pp. 256–264.

95. Bùi Ngọc Thanh; Nguyễn Thị Thu Bình; Phan Thị Vân. Ấu trùng sán lá gan

nhỏ (Clonorchis sinensis) trên cá mƣơng (Hemiculter sp.) và cá Thiểu

(Cultrichthys erythropterus) tại Gia Viễn, Ninh Bình. Tạp chí NN&PTNT

2014, 16, 80–86.

96. Nguyễn Thị Hà; Bùi Quang Tề; Darwin Murrell. Ký sinh trùng có nguồn gốc

từ cá (FZP) nhiễm trên cá Bống bớp (Bostrychus sinensis) và cá Song

(Epinephelus coioides) tại Nghĩa Hƣng, Nam Định. Tạp chí NN&PTNT 2009,

64–71.

97. Thanh, B. N.; Dalsgaard, A.; Evensen, O.; Murrell, K. D. Survey for

fishborne zoonotic metacercariae in farmed grouper in Vietnam. Foodborne

Pathog. Dis. 2009, 6, 1037–9, doi:10.1089/fpd.2008.0230.

98. Nguyễn Văn Chƣơng. Báo cáo tình hình nhiễm giun sán ký sinh khu vực miền

Trung Tây Nguyên. Viện sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng Quy Nhơn; Quy

Nhơn, Bình Định, 2005;

99. Vo, D. T.; Thanh, B. N.; Vo, D. T.; Nguyen, D. N.; K.D Endemicity of

Opisthorchis viverrini Liver Fluke, Vietnam, 2011–2012. Emerg. Infect. Dis.

2014, 20, 152–154.

128

100. Vo, D. T.; Murrell, D.; Dalsgaard, A.; Bristow, G.; Nguyen, D. H.; Bui, T. N.;

Vo, D. T. Prevalence of zoonotic metacercariae in two species of grouper,

Epinephelus coioides and Epinephelus bleekeri, and flathead mullet, Mugil

cephalus,in Vietnam. Korean J. Parasitol. 2008, 46, 77–82,

doi:10.3347/kjp.2008.46.2.77.

101. Trƣơng Thị Hoa; Nguyễn Ngọc Phƣớc. Nghiên cứu mức độ nhiễm ấu trùng

sán lá song chủ (metacercariae) trên cá Chép và Trắm cỏ giai đoạn giống nuôi

tại Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học - ĐH Huế 2009.

102. Thu, N. D.; Dalsgaard, A.; Loan, L. T.; Murrell, K. D. Survey for zoonotic

liver and intestinal trematode metacercariae in cultured and wild fish in An

Giang Province, Vietnam. Korean J. Parasitol. 2007, 45, 45–54,

doi:10.3347/kjp.2007.45.1.45.

103. Thien, P. C.; Dalsgaard, A.; Thanh, B. N.; Olsen, A.; Murrell, K. D.

Prevalence of fishborne zoonotic parasites in important cultured fish species

in the Mekong Delta, Vietnam. Parasitol. Res. 2007, 101, 1277–1284,

doi:10.1007/s00436-007-0633-5.

104. Thien, C. P.; Dalsgaard, A.; Thanh Nhan, N.; Olsen, A.; Murrell, K. D.

Prevalence of zoonotic trematode parasites in fish fry and juveniles in fish

farms of the Mekong Delta, Vietnam. Aquaculture 2009, 295, 1–5,

doi:10.1016/j.aquaculture.2009.06.033.

105. Thien, P. C.; Madsen, H.; Nga, H. T. N.; Dalsgaard, A.; Murrell, K. D. Effect

of pond water depth on snail populations and fish-borne zoonotic trematode

transmission in juvenile giant gourami (Osphronemus goramy) aquaculture

nurseries. Parasitol. Int. 2015, 64, 522–6, doi:10.1016/j.parint.2015.07.005.

106. Đặng Thúy Bình; Vũ Đặng Hạ Quyên; Lê Thị Thu Hà; Trần Quang Sáng;

Nguyễn Đắc Kiên. Xác định ấu trùng sán lá song chủ (metacercariae) ký sinh

trên một số loài cá dựa vào đặc điểm hình thái và di truyền. Tạp chí Khoa

học-ĐH Cần Thơ 2014, 2, 15–23.

129

107. Doanh, P. N.; Nawa, Y. Clonorchis sinensis and Opisthorchis spp. in

Vietnam: current status and prospects. Trans R Soc Trop Med Hyg 2016, 13–

20.

108. Tran, T. K. C.; Murrell, K. D.; Madsen, H.; Nguyen, V. K.; Dalsgaard, A.

Fishborne zoonotic trematodes in raw fish dishes served in restaurants in Nam

Dinh Province and Hanoi, Vietnam. J. Food Prot. 2009, 72, 2394–9.

109. Khuyết Danh. Miền núi phía Bắc Available online:

http://ipcn.mpi.gov.vn/Home/NewsDetail.aspx?CatId=36&id=549.

110. Mạnh Tráng. Thông tin về dân cƣ, văn hóa vùng Trung du và miền núi phía

Bắc Available online:

http://ptit.edu.vn/wps/portal/nongthonvn/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy

8xBz9CP0os3hLizBHd1cfIwN_MyM3A08vc2cXVx83Y49AY_2CbEdFAO8

ydjg!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/nongthonvn/nongth

onvn/vungnongthon/trungdumiennuiphiabac/f7add400404c96cea7cfff9171cb

77.

111. TTXVN Miền núi phía Bắc phát triển nuôi thủy sản nƣớc ngọt Available

online: https://tepbac.com/tin-tuc/full/Mien-nui-phia-Bac-phat-trien-nuoi-

thuy-san-nuoc-ng ot-3232.html (accessed on May 8, 2017).

112. Nguyễn Tuân. 10 địa phƣơng nghèo nhất cả nƣớc, có 9 là các tỉnh miền núi

phía Bắc Available online: http://www.baomoi.com/10-dia-phuong-ngheo-

nhat-ca-nuoc-co-9-la-cac-tinh-mien-nui-phia-bac/c/20561198.epi.

113. Ngô Sỹ Vân. Hiện trạng khu hệ cá hồ chứa Thác Bà, tỉnh Yên Bái, Đại học

Thủy sản Nha Trang, 1999.

114. Nguyễn Văn Tôn. Bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên hồ Thác Bà Available

online: http://baotintuc.vn/dan-toc/bao-ve-nguon-loi-thuy-san-tren-ho-thac-

ba-20110324092900191.htm.

115. TTXVN Tháo dỡ vó bè để bảo vệ nguồn lợi thủy sản hồ Thác Bà Available

online: http://www.thiennhien.net/2012/06/21/thao-vo-de-bao-ve-nguon-loi-

130

thuy-san-ho-thac-ba/ (accessed on May 8, 2017).

116. Khuyết Danh BẢN TIN SẢN XUẤT THỊ TRƢỜNG/TIN THUỶ SẢN

TRONG NƢỚC Yên Bái: Khôi phục và phát triển nguồn lợi thuỷ sản ở hồ

Thác Bà Available online: http://xttm.mard.gov.vn/Site/vi-

vn/76/tapchi/67/78/7398/Default.aspx.

117. Thái Sinh. Hồ Thác Bà - Vựa cá khổng lồ Tây Bắc Available online:

http://nongnghiep.vn/ho-thac-ba-vua-ca-khong-lo-tay-bac-post190278.html.

118. Nguyễn Văn Hảo; Ngô Sỹ Vân. Cá nước ngọt Việt Nam; Tập I, Họ cá chép

Cyprinidae; Nhà xuất bản nông nghiệp: Hà Nội, 2001;

119. Nguyễn Văn Hảo. Cá nước ngọt Việt Nam; Tập III, Ba liên bộ của lớp cá

xương (liên bộ cá dạng mang ếch, liên bộ cá dạng suốt và liên bộ cá dạng

vược); Nhà xuất bản nông nghiệp: Hà Nội, 2005;

120. Nguyễn Văn Hảo. Cá nước ngọt Việt Nam; Tập II, Lớp cá sụn và bốn liên bộ

của nhóm cá xương (Liên bộ cá Thát lát, liên bộ cá dạng trích, tổng bộ cá

dạng cháo và liên bộ cá dạng chép); Nhà xuất bản nông nghiệp, 2005;

121. Kay, H.; Murrell, K. D.; Hansen, A. K.; Madsen, H.; Trang, N. T. T.; Hung,

N. M.; Dalsgaard, A. Optimization of an experimental model for the recovery

of adult Haplorchis pumilio (Heterophyidae: Digenea). J. Parasitol. 2009, 95,

629–33, doi:10.1645/GE-1785.1.

122. Pearson, J.; Ow-Yang, C. ew species of haplorchis from Southeast Asia,

together with keys to the Haplorchis -group of heterophyid trematodes of the

region. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health 1982, 35–60.

123. Yamaguti, S. Synopsis of Digenetic Trematodes of Vetrtebrates; Keigaku

Publishin Company: Tokyo, 1971;

124. Sohn, W.-M. M.; Eom, K. S.; Min, D.-Y. Y.; Rim, H.-J. J.; Hoang, E.-H. H.;

Yang, Y.; Li, X. Fishborne trematode metacercariae in freshwater fish from

Guangxi Zhuang Autonomous Region, China. Korean J. Parasitol. 2009, 47,

131

249–257, doi:10.3347/kjp.2009.47.3.249.

125. Lin, R.; Li, X.; Lan, C.; Yu, S.; Kawanaka, M. Investigation on the

epidemiological factors of Clonorchis sinensis infection in an area of south

China. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health 2005, 36, 1114–1117.

126. Cho, Y. J.; Chu, J. P.; Rim, H. J.; Hwang, S. K. Viability of Clonorchis

sinensis Metacercaria according to the Food-processing Methods. Korean J.

Parasitol. 2002, 34, 242–247.

127. Prasongwatana, J.; Laummaunwai, P.; Boonmars, T.; Pinlaor, S. Viable

metacercariae of Opisthorchis viverrini in northeastern Thai cyprinid fish

dishes - As part of a rational program for control of O. viverrini-associated

cholangiocarcinoma. Parasitol. Res. 2013, 112, 1323–1327,

doi:10.1007/s00436-012-3154-9.

128. FDA Chapter 5: Parasites. In Fish and Fishery Products Hazards and

Controls Guidance; Washington, DC., 2001; pp. 91–98.

129. Li, S.; Kang, H. W.; Choi, M.-H. H.; Hong, S.-T. T. Long-term storage of

Clonorchis sinensis metacercariae in vitro. Parasitol. Res. 2006, 100, 25–29,

doi:10.1007/s00436-006-0242-8.

130. Keiser, J.; Duthaler, U.; Utzinger, J. Update on the diagnosis and treatment of

food-borne trematode infections. Curr. Opin. Infect. Dis. 2010, 23, 513–20,

doi:10.1097/QCO.0b013e32833de06a.

131. Van, K. Van; Hoai, T. D.; Buchmann, K.; Dalsgaard, A.; Tho, N. Van

Efficacy of praziquantel agaist Centrocestus formosanus metacercariae

infection in common carp (Cyprinus carpio Linnaeus). J. South. Agric. 2012,

43, 520–523.

132. Phan, V. T.; Ersbøll, A. K.; Do, D. T.; Dalsgaard, A. Raw-fish-eating

behavior and fishborne zoonotic trematode infection in people of northern

Vietnam. Foodborne Pathog. Dis. 2011, 8, 255–60.

132

133. Wongsawad, C.; Kawin, S.; Wongsawad, P.; Paratasilpin, T. Some factors

affecting Stellantchasmus falcatus metacercaria in laboratory. Southeast Asian

J. Trop. Med. public Heal. 2005, 36 Suppl 4, 117–119.

134. Sriraj, P.; Aukkanimart, R.; Boonmars, T.; Wonkchalee, N.; Juasook, A.;

Sudsarn, P.; Pairojkul, C.; Waraasawapati, S.; Pinlaor, S. Alcohol and

alkalosis enhance excystation of Opisthorchis viverrini metacercariae.

Parasitol. Res. 2013, 112, 2397–2402, doi:10.1007/s00436-013-3346-y.

135. De, N. Van; Le, T. H. Human infections of fish-borne trematodes in Vietnam:

prevalence and molecular specific identification at an endemic commune in

Nam Dinh province. Exp. Parasitol. 2011, 129, 355–61,

doi:10.1016/j.exppara.2011.09.005.

136. Lima dos Santos, C. A. M.; Howgate, P. Fishborne zoonotic parasites and

aquaculture: A review. Aquaculture 2011, 318, 253–261,

doi:10.1016/j.aquaculture.2011.05.046.

137. WHO The World Health Organization Report 2004 changing history. World

Health 2004, 95, 96p, doi:10.2105/AJPH.2004.042002.

138. Yu, S.-H.; Kawanaka, M.; Li, X.-M.; Xu, L.-Q.; Lan, C.-G.; Rui, L.

Epidemiological investigation on Clonorchis sinensis in human population in

an area of South China. Jpn. J. Infect. Dis. 2003, 56, 168–71.

139. Liu, W.-Q.; Liu, J.; Zhang, J.-H.; Long, X.-C.; Lei, J.-H.; Li, Y.-L.

Comparison of ancient and modern Clonorchis sinensis based on ITS1 and

ITS2 sequences. Acta Trop. 2007, 101, 91–4,

doi:10.1016/j.actatropica.2006.08.010.

140. Chai, J. Y.; Murrell, K. D.; Lymbery, A. J. Fish-borne parasitic zoonoses:

Status and issues. Int. J. Parasitol. 2005, 35, 1233–1254,

doi:10.1016/j.ijpara.2005.07.013.

141. Kim, Y. J.; Choi, M.-H.; Hong, S.-T.; Bae, Y. M. Proliferative effects of

excretory/secretory products from Clonorchis sinensis on the human

133

epithelial cell line HEK293 via regulation of the transcription factor E2F1.

Parasitol. Res. 2008, 102, 411–7, doi:10.1007/s00436-007-0778-2.

142. Cho, S. H.; Cho, P. Y.; Lee, D. M.; Kim, T. S.; Kim, I. S.; Hwang, E. J.; Na,

B. K.; Sohn, W. M. Epidemiological survey on the infection of intestinal

flukes in residents of Muan-gun, Jeollanam-do, the Republic of Korea.

Korean J. Parasitol. 2010, 48, 133–138, doi:10.3347/kjp.2010.48.2.133.

143. Petney, T. N.; Andrews, R. H.; Saijuntha, W.; Wenz-M??cke, A.;

Sithithaworn, P.; Wenz-Mücke, A.; Sithithaworn, P. The zoonotic, fish-borne

liver flukes Clonorchis sinensis, Opisthorchis felineus and Opisthorchis

viverrini. Int. J. Parasitol. 2013, 43, 1013–1046,

doi:10.1016/j.ijpara.2013.07.007.

144. Hung, N. M.; Duc, N. V; Stauffer, J. R.; Madsen, H. Use of black carp

(Mylopharyngodon piceus) in biological control of intermediate host snails of

fish-borne zoonotic trematodes in nursery ponds in the Red River Delta,

Vietnam. Parasit. Vectors 2013, 6, 142, doi:10.1186/1756-3305-6-142.

145. Brockelman, W. Y.; Upatham, E. S.; Viyanant, V.; Ardsungnoen, S.;

Chantanawat, R. Field studies on the transmission of the human liver fluke,

Opisthorchis viverrini, in northeast Thailand: population changes of the snail

intermediate host. Int. J. Parasitol. 1986, 16, 545–552, doi:10.1016/0020-

7519(86)90091-3.

146. Petney, T.; Sithithaworn, P.; Andrews, R.; Kiatsopit, N.; Tesana, S.; Grundy-

Warr, C.; Ziegler, A. The ecology of the Bithynia first intermediate hosts of

Opisthorchis viverrini. Parasitol. Int. 2012, 61, 38–45,

doi:10.1016/j.parint.2011.07.019.

147. Madsen, H.; Hung, N. M. An overview of freshwater snails in Asia with main

focus on Vietnam. Acta Trop. 2014, 140, 105–117,

doi:10.1016/j.actatropica.2014.08.005.

148. Wang, Y. C.; Ho, R. C. Y.; Feng, C. C.; Namsanor, J.; Sithithaworn, P. An

134

ecological study of Bithynia snails, the first intermediate host of Opisthorchis

viverrini in northeast Thailand. Acta Trop. 2014, 141, 244–252,

doi:10.1016/j.actatropica.2014.02.009.

149. Lohachit, C. Ecological studies of Bithynia siamensis goniomphalos, a snail

intermediate host of Opisthorchis viverrini, in Khon Kaen Province,

Northeast Thailand. Malacol Rev 2004, 37, 1–26.

150. Ngern-Klun, R.; Sukontason, K. L.; Tesana, S.; Sripakdee, D.; Irvine, K. N.;

Sukontason, K. Field investigation of Bithynia funiculata, intermediate host

of Opisthorchis viverrini in northern Thailand. Southeast Asian J. Trop. Med.

Public Health 2006, 37, 662–672.

151. EFSA Scientific Opinion on risk assessment of parasites in fishery products.

EFSA J. 2010, 8, 91, doi:10.2903/j.efsa.2010.1543.