Upload
others
View
3
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
MỤC LỤCMỞ ĐẦU ......................................................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀILUẬN ÁN.........................................................................................................................................................................8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước........................................................................8
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài .....................................................................19
1.3. Nhận xét chung về tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếptục nghiên cứu...............................................................................................................25
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANHTRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN .................................................................28
2.1. Một số vấn đề lý luận chung về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân .................................................................................................28
2.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động củaThanh tra ngành Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam .................................................43
2.3. Tiêu chí và điều kiện bảo đảm việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanhtra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam...........50
2.4. Kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của Thanh tra một số bộ, ngành ở ViệtNam và của một số nước trên thế giới ..................................................................57
Chương 3: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠTĐỘNG CỦA THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM..68
3.1. Quá trình hình thành và phát triển của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân ởViệt Nam .....................................................................................................................68
3.2. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân ởViệt Nam...............................................................................................................75
3.3. Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhândân ở Việt Nam.....................................................................................................101
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠTĐỘNG CỦA THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO YÊU
CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM............................................................... 114
4.1. Phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sátnhân dân ở Việt Nam............................................................................................114
4.2. Một số giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểmsát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam....................................121
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................................................. 146
CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀTÀI LUẬN ÁN.................................................................................................................... 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 151
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong nhà nước ta, cơ cấu quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để kiểm soát quyền lực nhà
nước, có nhiều phương thức khác nhau như: giám sát, kiểm tra, thanh tra do
các cơ quan nhà nước thực hiện tuỳ theo vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng cơ quan nhà nước.
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân là một bộ phận trong bộ máy, có vị
trí quan trọng trong công tác quản lý, xây dựng ngành, có nhiệm vụ thực hiện
các hoạt động thanh tra trong nội bộ ngành, nhằm phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quy định của ngành trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ; phát hiện những sơ hở về cơ chế quản lý
trong ngành để đề xuất các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý trong ngành
Kiểm sát nhân dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và cá nhân.
Trong những năm qua, tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân đã từng bước được củng cố, kiện toàn và đạt được những kết quả
đáng khích lệ, góp phần quan trọng trong việc xây dựng ngành Kiểm sát nhân
dân trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, thực trạng về tổ chức và hoạt động
của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân như hiện nay đã và đang tồn tại hạn
chế, bất cập đó là: Mô hình tổ chức còn đơn giản, từ năm 2013 trở về trước
chỉ có tổ chức thanh tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (được thành lập
từ tháng 7/1987), đến năm 2014 mới đang thí điểm thành lập tổ chức thanh tra
(tương đương cấp phòng) tại 08 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố (Hà
Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Đắk Lắk, Đồng Nai,
thành phố Hồ Chí Minh), các tỉnh, thành phố khác bố trí từ một đến hai biên
2
chế trong Phòng Tổ chức - cán bộ để chuyên trách làm công tác thanh tra. Tổ
chức bộ máy và biên chế của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng
chưa được hoàn thiện, vừa thiếu về lãnh đạo, quản lý và số lượng biên chế,
vừa chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của đội ngũ công chức thanh
tra. Các thể chế quy định về hoạt động thanh tra, kiểm tra của ngành Kiểm sát
nhân dân chưa được đầy đủ, hoặc lạc hậu so với quy định hiện hành của pháp
luật thanh tra và yêu cầu của công tác quản lý, do đó hoạt động nghiệp vụ
thanh tra còn hạn chế, thực hiện chưa thống nhất, thiếu hiệu quả, chưa tương
xứng với vị trí, vai trò và nhiệm vụ được giao, chưa đáp ứng được yêu cầu cải
cách tư pháp và xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh.
Bởi vậy, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu đầy đủ về mặt lý luận và thực tiễn để
tìm ra các giải pháp thiết thực hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
cải cách tư pháp trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra
nhiệm vụ khách quan phải xây dựng mô hình tổng thể của Tòa án, Viện Kiểm
sát và các cơ quan bổ trợ tư pháp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan đó nhằm xây dựng một
nền tư pháp vững mạnh, trong sạch, hoạt động có hiệu quả. Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm cải cách tư pháp trong
thời gian tới, trong đó có nhiệm vụ: “Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ
chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư
pháp” [12]. Thực hiện Nghị quyết của Đảng, các cơ quan tư pháp nói chung,
ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng đã và đang tiến hành tổng kết lý luận và
thực tiễn hoạt động, triển khai các biện pháp đổi mới tổ chức và hoạt động để
đáp ứng yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp.
3
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu với những cấp độ khác
nhau (luận án, luận văn, bài báo khoa học, đề tài nghiên cứu cấp bộ, cấp nhà
nước, sách chuyên khảo, sách tham khảo) về tổ chức và hoạt động của Thanh
tra Nhà nước, Thanh tra hành chính, Thanh tra chuyên ngành. Tuy vậy, chưa
có công trình chuyên khảo nào ở cấp độ Luận án Tiến sĩ Luật học về hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu
cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp đối với
ngành Kiểm sát nhân dân nói chung, đối với tổ chức và hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài:
“Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” để nghiên cứu làm Luận án Tiến
sĩ Luật học, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục đích của Luận án
Luận án hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận và đánh giá một cách
khách quan về thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân; căn cứ vào những yêu cầu khách quan đòi hỏi để đề xuất những
phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của Luận án
Để thực hiện được mục đích trên, Luận án có nhiệm vụ:
Một là, đánh giá tổng quan được tình hình nghiên cứu ở trong nước và
ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra được những vấn đề các
công trình nghiên cứu đã đề cập có thể kế thừa, phát triển khi nghiên cứu
luận án. Đặc biệt, xác định rõ những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
để làm sáng tỏ.
4
Hai là, phân tích, làm sáng tỏ khái niệm về tổ chức và khái niệm về
hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân; vị trí, vai trò, đặc điểm,
nội dung và nguyên tắc hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Ba là, làm rõ những yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân; trên cơ sở
đó, nêu ra các tiêu chí hoàn thiện và điều kiện bảo đảm hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Bốn là, khái quát quá trình hình thành, phát triển của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân; phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân; chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân.
Năm là, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của Luận án
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu
cải cách tư pháp ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận án
Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án, Nghiên cứu sinh chỉ tập trung
khảo sát, nghiên cứu, giải quyết những vấn đề chung nhất ở mức độ khái quát
cơ bản cả về mặt lý luận và thực tiễn có liên quan đến quá trình hình thành,
phát triển về tổ chức và hoạt động của Thanh tra trong hệ thống cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân từ khi thành lập ngành Kiểm sát nhân dân ngày 26 thàng 7
năm 1960 đến nay. Luận án không nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra thuộc hệ thống cơ quan Viện kiểm sát quân sự.
5
Việc nghiên cứu đề tài luận án chủ yếu dựa trên cơ sở tổng hợp các
số liệu thống kê trong các báo cáo tổng kết và các chuyên đề nghiệp vụ của
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Ban Thanh tra trước đây) và kết
quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân từ năm
2006 đến năm 2014.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Luận án
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được nghiên cứu dựa trên phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng cơ
sở lý luận để nghiên cứu khách quan, toàn diện, lôgic các vấn đề đặt ra.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về nhà nước và pháp luật là kim chỉ
nam trong việc nghiên cứu các vấn đề trong luận án.
Việc nghiên cứu đề tài luận án dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật, về vai trò của tổ chức thanh tra đối với hoạt động của bộ
máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Đề tài luận án được nghiên cứu dựa trên các quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản về nhà nước và cách mạng Việt Nam, nhất là quan điểm về
đổi mới đất nước, phát huy dân chủ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về cải cách tư
pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và chiến lược cải
cách tư pháp trong thời gian tới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể dựa trên cơ sở lý luận về lịch sử nhà nước và pháp luật;
Luận án có chọn lọc, kế thừa và phát triển những kết quả nghiên cứu về kinh
nghiệm thực tiễn tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra trong các công
trình khoa học có liên quan.
Phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phương pháp
tổng hợp, phân tích được sử dụng trong việc nghiên cứu, làm rõ các vấn đề có
tính lý luận về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
6
Luận án đã kết hợp phương pháp tổng hợp, phân tích với phương pháp
so sánh, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn để nghiên cứu về quá trình hình
thành, phát triển và đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân.
Ngoài ra, tác giả đã sử dụng phương pháp tọa đàm trao đổi với các chuyên
gia trong và ngoài ngành về tổ chức và hoạt động thanh tra, được sử dụng trong
việc đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận ánVề phương diện khoa học: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu
một cách có hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về việc hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư
pháp ở Việt Nam.
Về phương diện lý luận: Trên cơ sở quan niệm về tổ chức, về hoạt
động thanh tra, Luận án nêu quan niệm về tổ chức, hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân; chỉ ra được vai trò, đặc điểm, nội dung và nguyên
tắc hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân. Luận giải và đưa ra
một số yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân; trên cơ sở đó, đưa ra các tiêu
chí hoàn thiện, điều kiện bảo đảm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Về phương diện thực tiễn: Luận án phân tích làm rõ quá trình hình
thành, phát triển và đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân; chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của những hạn chế làm cơ sở cho việc xác định phương hướng và đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp. Luận án xây dựng mô hình
tổ chức bộ máy và nội dung hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân trong tương lai.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Kết quả nghiên cứu Luận án sẽ góp phần làm phong phú thêm các quan
điểm về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Luận án có giá trị thiết thực cả về phương diện lý luận và thực tiễn, có
giá trị tham khảo cho việc sửa đổi, bổ sung pháp luật; hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Kết quả nghiên cứu luận án còn có giá trị tham khảo cho công tác
nghiên cứu, biên soạn giáo trình phục vụ công tác giảng dạy ở Trường Đại
học Kiểm sát, Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, Trường cán bộ
thanh tra và hệ thống trường chính trị, hành chính cũng như đối với những
nhà khoa học quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
Luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC
Cho đến nay, ở Việt Nam chưa có công trình khoa học nào xét trên
phương diện cấp đề tài luận án Tiến sĩ Luật học nghiên cứu chuyên sâu về
“Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam”. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học với những cấp độ khác nhau
(luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu cấp bộ, cấp nhà nước, sách chuyên khảo,
sách tham khảo) nghiên cứu về đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra
Nhà nước, Thanh tra hành chính, Thanh tra chuyên ngành và Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân, trong đó có thể nêu những công trình tiêu biểu sau đây:
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về đổi mới tổ chức và hoạt
động của cơ quan thanh tra trong bộ máy Nhà nước ta
- Công trình nghiên cứu ở cấp độ Luận án Tiến sĩ
Luận án Tiến sĩ Luật học“Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi
mới tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước Việt Nam” (1996) của tác
giả Phạm Tuấn Khải [24] đã nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra; quá trình hình thành, phát triển
và những đóng góp của các cơ quan thanh tra qua các thời kỳ. Những yêu cầu
khách quan cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước
Việt Nam; đặc biệt, tác giả đề cập đến cơ sở lý luận và các đòi hỏi của thực
tiễn, từ đó đề xuất hướng đổi mới và hoàn thiện thanh tra nhà nước Việt Nam.
Luận án tiến sĩ Luật học “Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước
trong giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam” (2012) của tác giả Nguyễn
Văn Kim [26] đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá một cách
9
khách quan về thực trạng vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong
giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam; căn cứ vào những yêu cầu khách
quan đòi hỏi, để đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm phát huy và
tăng cường hơn nữa vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong giải
quyết khiếu nại hành chính, để bảo vệ hữu hiệu quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, là công cụ tin cậy của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong
việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, góp
phần tăng cường trật tự, kỷ cương quản lý nhà nước. Luận án đã đưa ra các
phương hướng, giải pháp phát huy hơn nữa vai trò của các cơ quan thanh tra
trong giải quyết khiếu nại hành chính ở nước ta hiện nay, bao gồm các nhóm
giải pháp về pháp luật, nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện, nhóm giải pháp
về nâng cao năng lực cán bộ, công chức và hỗ trợ.
- Công trình nghiên cứu là đề tài khoa học
Trong thời gian qua, Thanh tra Chính phủ đã triển khai nghiên cứu
nhiều đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp bộ và cấp cơ sở về tổ chức và hoạt
động thanh tra, trong đó đáng chú ý là các đề tài:
Đề tài: “Đổi mới tổ chức và hoạt động hệ thống thanh tra nhà nước theo
hướng cải cách nền hành chính nhà nước” (1996), Chủ nhiệm đề tài: Trần Đức
Lượng, Nguyên Vụ trưởng Vụ thanh tra kinh tế II, Thanh tra Nhà nước (nay là
Phó Tổng Thanh tra Chính phủ); Đề tài “Thực trạng tổ chức và hoạt động
thanh tra bộ, ngành, chuyên ngành ở nước ta - những vấn đề đặt ra và giải
pháp’’ (1997), Chủ nhiệm đề tài: đồng chí Phạm Văn Khanh, Nguyên Phó Vụ
trưởng Vụ Tổ chức- Cán bộ, Thanh tra Nhà nước (nay là Thanh tra Chính phủ).
Hai công trình này đề cập tới những vấn đề có tính lý luận về tổ chức,
hoạt động thanh tra; những nội dung cơ bản của cải cách một bước nền hành
chính Nhà nước, những quan điểm, tư tưởng của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nước ta về công tác thanh tra. Bên cạnh đó, còn
nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động thanh tra bộ, ngành, chuyên
10
ngành, trong đó trước hết đề cập mối quan hệ giữa thanh tra với quản lý nhà
nước, khái niệm thanh tra nhà nước chuyên ngành, sự cần thiết khách quan
phải thiết lập thanh tra nhà nước chuyên ngành và các quan điểm của Đảng,
nhà nước ta về công tác thanh tra và phương hướng hoàn thiện mô hình tổ
chức thanh tra bộ, ngành, chuyên ngành, để thực hiện chức năng nhiệm vụ mà
trong đó có giải quyết khiếu nại hành chính [26].
Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước: “Hoàn thiện cơ chế thanh tra,
kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước” (2002), do
đồng chí Trần Đức Lượng, nguyên Vụ trưởng Vụ thanh tra kinh tế II, Thanh
tra Nhà nước làm chủ nhiệm [29] đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về
thanh tra, kiểm tra, giám sát, trong đó trình bày các khái niệm thanh tra, kiểm
tra giám sát và những đặc trưng cơ bản của từng thiết chế, đồng thời phân tích
những điểm giống nhau, khác nhau và sự phân định tương đối giữa thanh tra,
kiểm tra, giám sát; quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra,
kiểm tra, giám sát. Đề tài đi sâu phân tích thực trạng cơ chế thanh tra, kiểm
tra, giám sát ở nước ta. Trên cơ sở đó, nêu ra những quan điểm, nguyên tắc
hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát; phương hướng hoàn thiện cơ
chế thanh tra, kiểm tra, giám sát trong tổng thể cải cách bộ máy nhà nước: (1)
hoàn thiện phương thức và cơ chế giám sát của Quốc hội; (2) điều chỉnh chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân và mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa
hành chính; (3) đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước; (4) đổi mới
chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các loại hình thanh tra,
kiểm tra, giám sát khác.
Đề tài khoa học cấp bộ:“Tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa thanh
tra bộ và Thanh tra chuyên ngành - Thực trạng và giải pháp” (2004), do đồng
chí Nguyễn Khắc Hường, nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Thanh tra
Chính phủ làm chủ nhiệm [23] đã nghiên cứu các khái niệm: Thanh tra, thanh
tra bộ, thanh tra chuyên ngành; đồng thời, làm rõ các vấn đề: Tổ chức, hoạt
11
động và mối quan hệ của thanh tra bộ; tổ chức, hoạt động và mối quan hệ
của thanh tra chuyên ngành; quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ chức,
hoạt động và mối quan hệ giữa thanh tra bộ và thanh tra chuyên ngành;
kinh nghiệm về tổ chức hoạt động của các tổ chức thanh tra một số nước
trên thế giới. Đề tài khái quát về quá trình hình thành và phát triển các tổ
chức thanh tra từ 1945 đến nay và đi sâu phân tích thực trạng về tổ chức,
hoạt động và mối quan hệ của thanh tra chuyên ngành; qua đó, đánh giá tổ
chức, hoạt động và mối quan hệ của thanh tra bộ; tổ chức, hoạt động và
mối quan hệ của thanh tra chuyên ngành. Trên cơ sở đó, đề tài xây dựng
các giải pháp về hoàn thiện tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa thanh
tra bộ và thanh tra chuyên ngành, bao gồm: (1) xây dựng mô hình tổ chức
thanh tra bộ và thanh tra chuyên ngành phù hợp, hoàn thiện tổ chức thanh
tra bộ và thanh tra chuyên ngành; (2) tăng cường sự chỉ đạo và quan tâm
của lãnh đạo bộ, ngành với thanh tra bộ và thanh tra chuyên ngành; (3) đổi
mới hình thức và phương pháp thanh tra của thanh tra bộ và thanh tra
chuyên ngành; (4) nâng cao hiệu lực và xử lý sau thanh tra của thanh tra bộ
và thanh tra chuyên ngành.
Đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
thanh tra”(2006), do Quách Lê Thanh, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ làm
chủ nhiệm [49] đã nghiên cứu về nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh và nêu các
định hướng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra, tập trung
làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra, bao gồm quan
điểm của Hồ Chí Minh về thanh tra, kiểm tra, về giải quyết khiếu nại, tố cáo,
về chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu; phân tích các quan điểm của
Người về vị trí, vai trò của công tác thanh tra; mục đích hoạt động thanh tra;
nguyên tắc, phương pháp kiểm tra, thanh tra; sự kết hợp giữa thanh tra của
nhà nước và sự giám sát của nhân dân; trách nhiệm của lãnh đạo Đảng và
chính quyền các cấp đối với công tác thanh tra.
12
Đề tài khoa học cấp bộ: “Tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp
trong hệ thống các cơ quan Thanh tra nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả,
hiệu lực của công tác thanh tra” [56] được nêu trong tập san Thông tin khoa
học thanh tra và Chống tham nhũng của Thanh tra Chính phủ xuất bản Ấn
phẩm số 8/2006 đã giới thiệu những kết quả nghiên cứu đạt được của Kết quả
nghiên cứu đề tài đã xác định rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của mối quan hệ
chỉ đạo, phối hợp giữa cơ quan thanh tra cấp trên với cơ quan thanh tra cấp
dưới trong hệ thống các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính; xác định mối
quan hệ chỉ đạo, phối hợp giữa các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và
cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực, cũng như đưa ra những giải pháp
nhằm tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp này.
Đề tài khoa học cấp bộ: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra của
các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo”(2007) do đồng chí Bùi Nguyên Súy, Cục trưởng Cục I, Thanh tra Chính
phủ làm Chủ nhiệm [47] đã làm rõ khái niệm, đặc điểm của cơ quan hành
chính nhà nước; khái niệm thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết khiếu
nại, tố cáo; vai trò, vị trí của công tác thanh tra trách nhiệm về khiếu nại, tố
cáo. Đề tài phân tích các nội dung thanh tra trách nhiệm của cơ quan hành
chính nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đặc biệt, đề tài đi sâu nghiên
cứu thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của cơ quan hành
chính nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo: những kết quả đạt được,
những hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém; từ đó, đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của
cơ quan hành chính nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đề tài đề xuất
cần tăng cường và đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết
khiếu nại, tố cáo theo những hướng sau: Một là, xác định công tác thanh tra,
kiểm tra trách nhiệm là một nội dung trọng tâm của các tổ chức thanh tra nhà
nước. Hai là, đổi mới thanh tra, kiểm tra trách nhiệm theo hướng tăng cường
13
kiểm tra đôn đốc thường xuyên của cấp trên đối với cấp dưới thuộc thẩm quyền
quản lý của thủ trưởng cùng cấp. Ba là, tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp
vụ về thanh tra, kiểm tra trách nhiệm bảo đảm tính thống nhất của toàn ngành.
Bốn là, việc xây dựng các tiêu chí cụ thể kết hợp hệ thống thông tin báo cáo,
đánh giá có tính chất cập nhật giúp cho quản lý thống nhất từ trung ương đến
địa phương. Năm là, tăng cường năng lực của cơ quan tiếp dân tại Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh trong đôn đốc, kiểm tra trách nhiệm của các cấp các
ngành, tăng cường về cơ sở pháp lý; về đội ngũ; về hệ thống kỹ thuật…
Đề tài khoa học cấp bộ: “Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (2011), do đồng chí Nguyễn Thái Hồng,
Phó Vụ trưởng Vụ 3, Thanh tra Chính phủ làm chủ nhiệm [21] đã đi sâu
nghiên cứu về các nguyên tắc hoạt động thanh tra từ đó đề xuất những kiến
nghị để hoàn thiện các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra thông qua việc bổ
sung, phát triển các quy định trong hoạt động thanh tra nhằm đạt mục tiêu
thanh tra. Kết quả của đề tài đã làm rõ một số vấn đề lý luận về thanh tra và
các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra, bao gồm các vấn đề về khái niệm,
đặc điểm thanh tra; mục đích, vai trò của các nguyên tắc trong hoạt động thanh
tra, các yếu tố tác động đến hoạt động thanh tra, sự hình thành các nguyên tắc
trong hoạt động thanh tra. Phân tích thực trạng các quy định pháp luật và việc
thực hiện các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra trên thực tế. Trên cơ sở
phân tích các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra trong từng giai đoạn tiến
hành thanh tra, đề tài đã tiến hành đánh giá những quy định của pháp luật,
những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện trên thực tế làm cơ sở cho việc đề
xuất, kiến nghị có tính khả thi cao, làm cơ sở cho việc hoàn thiện chính sách,
pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra.
Đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm: “Kết quả hoạt động thanh tra -
những vấn đề lý luận và thực tiễn” (2012) do TS. Nguyễn Quốc Hiệp, Viện
trưởng Viện Khoa học Thanh tra làm chủ nhiệm [20] đã tập trung nghiên cứu
14
một số vấn đề lý luận về kết quả hoạt động thanh tra, nêu rõ vai trò và mục
đích của hoạt động thanh tra trong quản lý nhà nước, quan niệm về hoạt động
thanh tra và kết quả hoạt động thanh tra, những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng
hưởng đến kết quả hoạt động thanh tra. Đồng thời, đánh giá thực trạng kết quả
hoạt động thanh tra với năm nội dung đó là: Thực trạng quy định pháp luật về
hoạt động thanh tra; Kết quả xây dựng định hướng chương trình thanh tra, kế
hoạch thanh tra; Kết quả tiến hành cuộc thanh tra; Kết quả thực hiện kết luận,
kiến nghị sau thanh tra; Việc xem xét, đánh giá các hoạt động thanh tra hiện
nay. Trên cơ sở nghiên cứu, đề tài đưa ra định hướng và giải pháp nâng cao
kết quả hoạt động thanh tra trong thời gian tới.
Nghiên cứu nội dung các công trình, đề tài nêu trên cho thấy, các tác
giả đã tập trung đề cập đến vị trí, vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước,
thanh tra bộ, thanh tra ngành, thanh tra chuyên ngành trong hệ thống cơ quan
hành chính, trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát ở nước ta; những yêu
cầu khách quan đòi hỏi phải đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra; những
nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra.
Mặc dù, các đề tài trên chưa đề cập trực tiếp đến vấn đề hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải
cách tư pháp ở Việt Nam, nhưng kết quả nghiên cứu của của các đề tài là
nguồn tài liệu quan trọng để Nghiên cứu sinh kế thừa có chọn lọc trong
nghiên cứu đề tài luận án của mình.
1.1.2. Một số công trình nghiên cứu về đổi mới tổ chức và hoạt
động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
Trong những năm qua, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Ban
Thanh tra trước đây), đã có một số công trình nghiên cứu ở cấp độ đề tài, đề
án và chuyên đề nghiệp vụ về đổi mới tổ chức chức và hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân. Đáng chú ý là các công trình sau:
15
- Đề tài khoa học
Công trình khoa học đầu tiên của Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao nghiên cứu ở cấp độ Đề tài khoa học cấp cơ sở về "Thực trạng và giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân
dân"(năm 2003), Chủ nhiệm đề tài Dương Văn Tiu, nguyên Trưởng Ban Thanh
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao [57]. Đề tài đã nghiên cứu một số vấn đề lý
luận chung về công tác thanh tra, đặc điểm của công tác thanh tra trong
ngành kiểm sát nhân dân và tổng kết thực tiễn công tác thanh tra trong
ngành kiểm sát nhân dân từ khi thành lập đến năm 2003. Trên cơ sở đó, đề
tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân, đó là: Đổi mới nội dung nhiệm
vụ công tác thanh tra, triển khai nhiệm vụ thanh tra một số hoạt động
nghiệp vụ trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp có dấu hiệu vi phạm liên quan đến Kiểm sát viên, Điều tra
viên, công chức trong ngành Kiểm sát nhân dân; Hoàn thiện tổ chức bộ
máy và đổi mới công tác cán bộ thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân;
Đổi mới phương pháp hoạt động nghiệp vụ thanh tra.
- Đề án
Liên quan đến việc nghiên cứu đề tài, năm 2013 Nghiên cứu sinh đã
hoàn thành việc nghiên cứu, xây dựng Đề án: “Tăng cường tổ chức bộ máy,
biên chế cán bộ Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân” [52]. Đề án đã được
Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê duyệt tại Nghị quyết số
06-NQ/BCSĐ ngày 20/12/2013 với một số nội dung sau: “Đồng ý củng cố
thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao cả về số lượng và chất lượng; xây
dựng hệ thống Thanh tra ngành Kiểm sát tại các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trên toàn quốc theo lộ trình thích hợp; tiến
hành thành lập thí điểm tại một số đơn vị có đủ tiêu chí và điều kiện để thực
hiện, cụ thể:
16
- Thành lập thêm ở Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Phòng
Thanh tra hành chính để đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra hoạt động công
vụ trong Ngành và bổ sung đủ 25 biên chế, đảm bảo mỗi phòng thuộc Thanh
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có tối thiểu 05 biên chế, đồng thời nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra, tăng cường thanh tra hoạt động
nghiệp vụ trong Ngành.
- Thành lập Thanh tra cấp tỉnh ở 08 Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh,
gồm thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng, Nghệ
An, Thanh Hoá, Quảng Ninh, Đắk Lắk, Đồng Nai.
- Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố không thành lập Thanh
tra cấp tỉnh thì cho phép thành lập Tổ Thanh tra có 2 biên chế nằm trong
Phòng Tổ chức - Cán bộ; nghiệp vụ do Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao chỉ đạo”.
Nghị quyết của Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê
duyệt kết quả nghiên cứu Đề án nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng giúp
Nghiên cứu sinh hoàn thiện việc nghiên cứu đề tài luận án.
- Chuyên đề nghiệp vụ
Chuyên đề: “Công tác thanh tra góp phần xây dựng cán bộ ngành
Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh” (2007) do Nghiên cứu sinh thực
hiện, đã đưa ra một số giải pháp tăng cường công tác thanh tra góp phần xây
dựng đội ngũ cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác của ngành trong tình hình mới.
Chuyên đề: “Tăng cường thanh tra tài chính tại các đơn vị sử dụng
kinh phí ngân sách Nhà nước trong ngành Kiểm sát nhân dân” (2009), do
Nghiên cứu sinh thực hiện, đã nghiên cứu, đánh giá về thực trạng công tác
quản lý sử dụng tài chính trong Ngành, đưa ra một số giải pháp tăng cường
công tác thanh tra để kịp thời phát hiện, uốn nắn, khắc phục và xử lý các sai
17
phạm trong quản lý tài chính, đảm bảo việc sử dụng kinh phí ngân sách Nhà
nước cấp đúng chế độ tài chính, vừa tiết kiệm, vừa đạt hiệu quả cao nhất, góp
phần phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Chuyên đề: “Một số vấn đề về thanh tra giải quyết đơn khiếu nại, tố
cáo có liên quan đến cán bộ trong ngành Kiểm sát nhân dân" (2008), do
Nghiên cứu sinh thực hiện, đã tập trung nghiên cứu, đánh giá về kết quả công
tác thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ Kiểm sát; trên
cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác thanh tra nói chung, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến
cán bộ trong Ngành nói riêng, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị và
xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh.
Chuyên đề: “Nghiên cứu quy trình thanh tra hoạt động nghiệp vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” (2012), do tác giả
Phạm Vũ Thắng, Phó Trưởng phòng Thanh tra nghiệp vụ, Thanh tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện [54]. Thông qua việc nghiên cứu chuyên
đề nhằm đưa ra một quy trình thống nhất chung về thanh tra hoạt động nghiệp
vụ, giúp cho các cán bộ làm công tác thanh tra trong Ngành hiểu, nắm bắt
được những yêu cầu cơ bản và các bước tiến hành của một cuộc thanh tra về
hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp để vận dụng vào thực tiễn công tác, tổ chức tốt các cuộc thanh tra hoạt
động nghiệp vụ đảm bảo có chất lượng, hiệu quả cao.
Chuyên đề: “Thực trạng và giải pháp tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra việc quản lý, sử dụng cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng Ngành”
(2012) do Nghiên cứu sinh thực hiện, đã nghiên cứu một số vấn đề về lý luận
và đánh giá thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng cán
bộ trong ngành Kiểm sát nhân dân thời gian qua, đưa ra các giải pháp tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng cán bộ đáp ứng yêu
cầu xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh.
18
Chuyên đề: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng và
ban hành Kết luận thanh tra" (2012) do Nghiên cứu sinh thực hiện, đã đi sâu
nghiên cứu, đánh giá thực trạng về những ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm
trong việc xây dựng và ban hành Kết luận thanh tra, đề xuất giải pháp nâng
cao chất lượng, hiệu quả của Kết luận thanh tra nhằm đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Chuyên đề: “Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp
vụ thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực
hình sự - Một số giải pháp, kiến nghị” (2013), do Nghiên cứu sinh thực hiện.
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Chuyên đề đã đưa
ra một số giải pháp tăng cường công tác thanh tra nhằm góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và Kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực giải quyết án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân các cấp, đảm bảo không để lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội.
Các chuyên đề nghiệp vụ của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
nêu trên mới chỉ nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng
về những khía cạnh đơn lẻ trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân ở phạm vi một chuyên đề nghiệp vụ. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu các chuyên đề nghiệp vụ này là nguồn tài liệu quan trọng giúp tác
giả đi sâu nghiên cứu một các toàn diện và đầy đủ những vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến đề tài.
Các đề tài, đề án, chuyên đề nghiệp vụ của Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao (Ban Thanh tra trước đây) mới chỉ nghiên cứu từng khía
cạnh về tổ chức hoặc hoạt động nghiệp vụ thanh tra; chưa nghiên cứu một
cách tổng thể, toàn diện và đồng bộ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp ở nước
ta hiện nay; đặc biệt chưa làm rõ được khái niệm về tổ chức và hoạt động của
19
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân; chưa đề xuất được mô hình tổng thể cần
hoàn thiện về tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và phương thức hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Nghiên cứu các công trình ở trong nước cho thấy, các công trình đã nghiên
cứu riêng lẻ theo những hướng tiếp cận khác nhau, các công trình đã khái quát
được một số mô hình tổ chức và hoạt động của Thanh tra Nhà nước, Thanh tra
hành chính, Thanh tra chuyên ngành trong bộ máy nhà nước; một số công trình
nghiên cứu ở cấp độ đề tài, đề án, chuyên đề nghiệp vụ của Thanh tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã đề cập đến nội dung đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng
hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn
chưa có công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và
có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn ở cấp độ Luận án Tiến sĩ Luật học về
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo
yêu cầu của cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp
Việt Nam” là một vấn đề mới, có tính lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn đặt ra. Kết quả nghiên cứu rút ra từ một số công trình ở trong
nước những năm qua có ý nghĩa quan trọng khi nghiên cứu đề tài.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
Về tổ chức và hoạt động thanh tra của một số nước trên thế giới, đã có
một số sách, bài viết của các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu như:
1.2.1. Một số công trình của các tác giả là người nước ngoài nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động thanh tra của các nước trên thế giới
Trong Phần III “Những cái nhìn về hành chính”, Sách “Bàn về hành
chính Pháp” của tác giả Phrăngxoa Galúdiên Ghininús, do Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2003, đã đưa ra những cái nhìn từ Thẩm
phán tư pháp, từ cơ quan thanh tra, cái nhìn của khoa học và đặc biệt là
20
mười nghịch lý của hành chính Pháp được nêu trong bức thư của một người
bạn Mỹ (Vincent Wright), như nghịch lý giữa “tính hình mẫu” của nền
hành chính Pháp với “những tác động, ảnh hưởng và áp lực thay đổi từ bên
ngoài”, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa; nghịch lý giữa “tính thống
nhất” của nền hành chính Pháp với “sự chia cắt, có những lúc đối đầu” giữa
các cơ quan hành chính hoặc cao hơn nữa là giữa các phe phái chính trị...
Tác giả cũng nêu lên những tồn tại trong nền hành chính Pháp xét từ cách
nhìn của các cơ quan thanh tra: “Trên thực tế nhiệm vụ của các cơ quan
thanh tra tổng hợp có một tầm quan trọng chiến lược, tuy nhiên hiện nay
vẫn còn bị xem nhẹ trong khi Nhà nước coi cấp tản quyền là nơi ưu tiên áp
dụng các chính sách của Nhà nước”. Theo đó, hoạt động thanh tra càng
cần phải coi trọng và đẩy mạnh, đặc biệt là trong việc xem xét, kiểm tra,
đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật của chính quyền địa phương
hoặc cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Nhận định này xét ở mức độ
nhất định cũng tương đồng với thực trạng nền hành chính của nước ta hiện
nay khi cần tiếp tục đổi mới mô hình và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của các cơ quan thanh tra nhà nước cho phù hợp với yêu cầu cải cách
hành chính nhà nước [26].
Trong Bài nghiên cứu “Mô hình thanh tra cổ điển - Một công cụ rà
soát hiệu quả các quyết định hành chính của các cơ quan hành chính nhà
nước - Nhìn từ góc độ của Niu-Di-Lân” (“The Classical Ombudsman - An
Effective Reviewer of Administrative Decisions by Government Agencies -
A New Zealand Perspective”) năm 2001 của tác giả Brian Elwood, Chánh
thanh tra Niu-Di-Lân và Chủ tịch tổ chức thanh tra quốc tế, đã làm rõ khái
niệm, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của các cơ quan thanh tra theo
các mô hình cổ điển. Tác giả cho rằng các cơ quan thanh tra có thể giúp
giải quyết các vấn đề của nền hành chính mà tòa án, cơ quan lập pháp hoặc
hành pháp không thể giải quyết có hiệu quả hơn. Hoạt động thanh tra phải
21
giúp các bên phải chấp nhận những kết luận mà cơ quan thanh tra đưa ra.
Muốn vậy, hoạt động thanh tra không chỉ tìm ra những vấn đề tồn tại giữa
các bên mà còn phải giúp đưa ra kiến nghị, giải pháp để giải quyết những
vấn đề đó. Đồng thời, thước đo hiệu quả hoạt động thanh tra chính là sự hài
lòng của đối tượng về kết luận thanh tra. Cơ quan thanh tra không thể thay
thế hoặc đối đầu với các cơ quan ra quyết định hành chính mà giữ vai trò
hỗ trợ để tăng sự hiểu biết và khả năng phản hồi của bộ máy hành chính đối
với công chúng nói chung. Đồng thời, thông qua giải quyết khiếu nại của
công dân, cơ quan thanh tra phải giúp nhận diện được những bất công hoặc
hạn chế của các cơ quan hành chính để tránh lặp lại trong tương lai [26].
Trước sự thay đổi chính trị, kinh tế và xã hội, các cơ quan thanh tra
đang phải đối phó với rất nhiều thách thức đòi hỏi phải khẳng định lại về
thẩm quyền và thích ứng về hành động. Khuôn khổ pháp lý và chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan thanh tra theo mô hình truyền thống
cần có những điều chỉnh tương ứng. Tác giả Clare Lewis (Cơ quan thanh tra
của Bang Ontario, Ca-na-đa) đã viết Bài nghiên cứu“Đối phó với những thay
đổi trên mọi phương diện: Khẳng định lại thẩm quyền của cơ quan thanh tra
và thích ứng về hành động” (“Coping With Changes on all Fronts:
Reaffirming the Ombudsman’s Powers and Adapting its Actions”), năm 2003.
Theo đó, cần đảm bảo sự tiếp cận một cách dễ dàng và hiệu quả hơn của công
dân đối với các cơ quan thanh tra. Các cơ quan thanh tra phải có năng lực
hoạt động mang tính mềm dẻo, tiếp cận đa ngành và có năng lực dẫn dắt quá
trình phát triển. Các cơ quan thanh tra không thể giữ thái độ thụ động khi đối
mặt với những khiếu nại tương tự được lặp đi lặp lại của người dân mà phải
chủ động giải quyết nó, phải nhận diện được nguồn gốc của vấn đề và tìm
cách để ngăn ngừa nó. Các cơ quan thanh tra không chỉ giải quyết những
khiếu nại đơn lẻ của mỗi người dân mà qua đó phải có cách tiếp cận rộng hơn,
phải giúp phát hiện những hạn chế trong cơ chế, chính sách quản lý, phải
22
đánh giá được hiệu quả của những cơ chế, chính sách đó để tìm giải pháp
khắc phục. Hoạt động thanh tra cần gắn kết hơn và giúp nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước [26].
Khi nghiên cứu một số vấn đề trong quan hệ giữa cơ quan thanh tra với
tòa án và các cơ quan tư pháp khác trong việc bảo vệ quyền con người, tác giả
Clare Lewis (Cơ quan thanh tra của Bang Ontario, Ca-na-đa) viết Bài nghiên
cứu “Vai trò hợp tác của các cơ quan thanh tra với tòa án và các cơ quan tư
pháp trong bảo vệ các quyền con người” (“The Role of Collaboration of the
Ombudsman With the Courts and Judiciary in the Protection of Human
Rights: A Canadian Perspective”), năm 2003. Tác giả nhấn mạnh đến sự cần
thiết, vị trí và vai trò của của các cơ quan thanh tra nhằm giám sát hoạt động
của các cơ quan hành chính nhà nước từ bên trong. Hoạt động của cơ quan
thanh tra còn giúp cung cấp thông tin cần thiết cho chính các Tòa án, cơ quan
tư pháp để giải quyết vụ việc một cách có hiệu quả và nhanh chóng. Theo kết
luận của tác giả, cơ quan thanh tra đóng vai trò quan trọng nhằm đảm bảo
thực hiện nguyên tắc “kiểm soát và đối trọng” tổ chức quyền lực nhà nước và
hướng tới xây dựng một xã hội thực sự dân chủ [26].
Trong Bài nghiên cứu “Làm thế nào để là một cán bộ/ cơ quan thanh tra
tốt” (“How to be a Good Ombudsman”) của Tiến sĩ. Jacob Soderman, nguyên
công chức thanh tra của Uỷ ban châu Âu (do Nghị viện châu Âu bầu và đảm
nhiệm vị trí này trong giai đoạn 1995- 2003, tháng 1 năm 2004) đã tập trung
nghiên cứu, phân tích về mô hình cơ quan thanh tra, đặc biệt là cơ quan thanh tra
trong phạm vi Liên minh châu Âu; làm rõ vai trò của các cơ quan thanh tra nhằm
đảm bảo xây dựng một nền hành chính tốt; các yêu cầu đối với một tổ chức
thanh tra hoạt động có hiệu quả; phương thức hoạt động hiệu quả và cách thức
nhận biết một tổ chức thanh tra hoạt động tốt. Trong phần kết luận, tác giả đã
nhận diện những thách thức đối với các cơ quan, cán bộ thanh tra, như sự can
thiệp một cách không chính đáng vào hoạt động hoặc các vụ việc phức tạp liên
23
quan đến nhiều bên khác nhau... Đồng thời tác giả đã đưa ra một số giải pháp
vượt qua, như đảm bảo cơ chế báo cáo thông suốt với cơ quan có thẩm quyền
hoặc lựa chọn cách làm đúng thay cho cách làm sai...[26]
Nghiên cứu “Cơ quan Thanh tra Kerata” (Kerata Ombudsman”) của
tác giả Joshua J.M. Stark, nghiên cứu tình huống về trách nhiệm giải trình
thuộc sáng kiến trách nhiệm giải trình do Quỹ nghiên cứu về quản trị công
của Ấn Độ tổ chức thực hiện năm 2010. Tác giả đã phân tích về mặt lý luận
và nguồn gốc hình thành tổ chức thanh tra; kinh nghiệm quốc tế liên quan đến
việc thành lập, tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra; sự phát triển
của các mô hình tổ chức thanh tra và các đặc điểm cơ bản. Dựa trên những
phân tích về mặt lý luận và từ thực tiễn về tổ chức và hoạt động của tổ chức
thanh tra Bang Kerata của Ấn Độ, tác giả đã đưa ra những khuyến nghị quan
trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức thanh tra, đặc biệt là ở
các bang của Ấn Độ như: (1) Trao thẩm quyền “điều tra” hoặc thẩm quyền xác
minh, tìm hiểu vụ việc một cách độc lập dựa trên việc phân bổ nguồn lực thỏa
đáng cho các tổ chức thanh tra để tránh bị phụ thuộc vào các cơ quan, tổ chức
khác; (2) Đảm bảo quy trình bổ nhiệm thanh tra viên một cách công khai, minh
bạch nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ thanh tra có năng lực và đạo đức,
tránh nguy cơ lạm quyền trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; (3) Tăng cường
khả năng tiếp cận của công chúng đối với các tổ chức thanh tra nhằm giúp giải
quyết có hiệu quả các khiếu nại hành chính; (4) Nâng cao nhận thức về vị trí,
vai trò của các tổ chức thanh tra trong hoạt động quản lý [26].
Sách tham khảo “Hướng dẫn tăng cường năng lực và liêm chính tư
pháp” (“Resdurce guide on strengthening judicial integrity and capacity”), bản
gốc tiếng Anh do Văn phòng Liên Hợp Quốc xuất bản tháng 12/2011, được Cơ
quan phòng, chống ma tuý và tội phạm của Liên Hợp Quốc và Liên minh Châu
Âu hỗ trợ dịch và xuất bản bằng tiếng Việt tháng 12/2013 [15]. Nội dung cuốn
sách đã đưa ra các ý tưởng, đề xuất và chiến lược được phát triển bởi các
24
chuyên gia cải cách pháp luật và tư pháp. Các nhà nghiên cứu ứng dụng và
những nhà thực hành giàu kinh nghiệm đã đóng góp cho các tài liệu hướng đến
nỗ lực cải cách tư pháp ngày càng phong phú về số lượng và nội dung. Đặc
biệt, cuốn sách đã giới thiệu về cơ chế giám sát đối với công việc của các cơ
quan tư pháp ở một số nước trên thế giới, mô hình phổ biến là Ban Thanh tra
(hoạt động cho Bộ Tư pháp, cho Hội đồng tư pháp hay cho Toà án tối cao).
1.2.2. Một số công trình của các tác giả ở trong nước nghiên cứu về
tổ chức và hoạt động thanh tra của các nước trên thế giới
Sách chuyên khảo: “Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát
của một số nước trên thế giới”, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2002, Chủ biên
Nguyễn Văn Kim. Nội dung cuốn sách đã giới thiệu một số bài nghiên cứu
của các tác giả sau: (1) Sự hình thành và hoạt động của thanh tra Quốc hội
Đan Mạch của tác giả Văn Tiến Mai; (2) Thanh tra Quốc hội Canađa của tác
giả Đinh Quang Tuyến; (3) Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Quốc hội
Thụy Điển của tác giả Vũ Văn Chiến; (4) Tổ chức và hoạt động của cơ quan
Thanh tra, giám sát hành chính Cộng hoà nhân dân Trung hoa; (5) Tổ chức và
hoạt động thanh tra ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của tác giả
Nguyễn Văn Kim; (6) Ban Thanh tra và Kiểm toán Hàn Quốc của tác giả Vũ
Văn Chiến; (7) Các cơ quan Tổng thanh tra của cộng hoà Pháp- Phạm Thị
Thu Hiền; (8) Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Đài Loan của tác giả
Nguyễn Văn Kim, Phạm Thị Thu Hiền; (9) Cơ quan Thanh tra Philippin của
tác giả Đặng Khánh Toàn; (10) Thanh tra chuyên ngành ở một số nước châu
Âu của tác giả Nguyễn Hữu Lương. Các công trình nghiên cứu về tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và phương thức hoạt động của các cơ quan
thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới. Đặc biệt là việc đề
cập đến quan niệm về sự phân công quyền lực và về vị trí, vai trò của cơ quan
thanh tra, kiểm tra, giám sát cũng như mối quan hệ của cơ quan này với cơ
quan hành chính và các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước [25].
25
Tạp chí Kiểm sát số Tết năm 2012 đăng bài sưu tầm và tổng hợp của
Bảo Châu và Hải Dương về “Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động điều tra của
Viện kiểm sát/ Viện công tố của một số nước trên thế giới”. Các tác giả đã
sưu tầm và tổng hợp về kinh nghiệm tổ chức và hoạt động điều tra của Viện
kiểm sát/Viện công tố của một số quốc gia theo truyền thống pháp luật Châu
Âu lục địa như: Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài nêu trên chủ yếu mới chỉ đề
cập đến các nội dung có liên quan đến mô hình tổ chức và hoạt động của cơ
quan thanh tra của một số nước; tổ chức và hoạt động thanh tra của các cơ
quan tư pháp trên thế giới nói chung, thanh tra đối với hoạt động của cơ quan
Toà án nói riêng; nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động điều tra của
Viện kiểm sát/Viện công tố của một số nước. Chưa có bài báo, công trình
khoa học nào nghiên cứu, đề cập chuyên sâu về hoàn thiện tổ chức và hoạt
động thanh tra trong nội bộ cơ quan Viện kiểm sát/Viện công tố các nước.1.3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Một số nhận xét về tổng quan tình hình nghiên cứuỞ trong nước, mặc dù các công trình có sự nghiên cứu riêng lẻ theo
những hướng tiếp cận khác nhau, nhưng các công trình đã khái quát được một
số mô hình tổ chức và hoạt động của Thanh tra Nhà nước, Thanh tra hành
chính, Thanh tra chuyên ngành trong bộ máy nhà nước; đã nghiên cứu về đổi
mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát.
Những nghiên cứu trên là cơ sở khoa học quan trọng, hữu ích cho việc nghiên
cứu đề tài này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn ở cấp độ
Luận án Tiến sĩ Luật học về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Ở nước ngoài, các công trình do một số nhà nghiên cứu ở trong nước
và nước ngoài chủ yếu giới thiệu, phân tích, đánh giá đặc điểm, vai trò và mô
26
hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra của một số nước trên thế
giới. Chưa có công trình nào nghiên cứu về hoàn thiện tổ chức và hoạt động
thanh tra trong nội bộ Viện kiểm sát/Viện công tố các nước trên thế giới.
Những nghiên cứu tổng quan trên đây là cơ sở khoa học để xác định
nội dung nghiên cứu trọng tâm của đề tài bảo đảm kế thừa, phát huy, chọn lọc
những kết quả nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài, giúp cho việc hoàn
thiện đề tài bảo đảm tính nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và khoa học.
Theo chúng tôi, xung quanh vấn đề hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu của cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay là vấn đề thời sự. Việc chưa nghiên cứu thấu đáo về vấn
đề này cũng có nghĩa là dẫn đến những hạn chế các khám phá khác liên quan
cần được tổng kết khái quát hóa phục vụ cho công tác Thanh tra.
Mặc dù, đã có một số công trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến
công tác Thanh tra nói chung, tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân nói riêng, nhưng rõ ràng còn rất nhiều khía cạnh của vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu, khám phá, làm rõ để góp phần nâng cao hiệu quả công
tác Thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân. Thực tiễn đòi hỏi phải nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu của cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứuTừ những những đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài nêu
trên, luận án có nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực
tiễn của việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể như sau:
Một là, trên cơ sở kế thừa có chọn kọc kết quả nghiên cứu của một số
công trình của các tác giả, luận án tiếp tục nghiên cứu, phân tích, làm sáng tỏ
khái niệm về tổ chức và khái niệm về hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân; vị trí, vai trò, đặc điểm, nguyên tắc và nội dung hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
27
Hai là, làm rõ những yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc hoàn
thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Ba là, khái quát quá trình hình thành, phát triển của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân; phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân; chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân.
Bốn là, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài cho thấy
trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế đã có nhiều công trình khoa học có
nội dung nghiên cứu liên quan đến đề tài.
1. Các tác giả đã nghiên cứu khá công phu, nghiêm túc, với các góc độ,
hình thức khác nhau, tập trung nghiên cứu trên cơ sở những vấn đề chung về
lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; nghiên cứu về đổi mới tổ chức và
hoạt động thanh tra ở trong nước (như Thanh tra Nhà nước; Thanh tra hành
chính, Thanh tra chuyên ngành và của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân);
nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thanh tra của một số nước trên thế giới.
2. Những công trình nghiên cứu trên ít nhiều có sự liên quan và là cơ sở
khoa học để tham khảo, kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn
diện những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân.
3. Thực tiễn đòi hỏi phải nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu
của cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
28
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
2.1.1. Khái niệm về tổ chức và hoạt động thanh tra
2.1.1.1. Khái niệm về tổ chức thanh tra
Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “tổ chức” với nghĩa một động từ
dùng để chỉ hoạt động tổ chức, “là việc sắp xếp, bố trí thành các bộ phận để
cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng chung”; với nghĩa của
một danh từ, “tổ chức” được hiểu “là một tập hợp người được tổ chức theo cơ
cấu nhất định để hoạt động vì lợi ích chung” [63].
Trên bình diện chung, vấn đề đặc biệt quan trọng cho hoạt động của
mỗi cơ quan, đơn vị là việc thiết kế tổ chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
để phục vụ cho công tác quản lý. Có thể thấy rằng bất cứ hoạt động của cơ
quan nhà nước nào thì điều quan trọng đầu tiên là xây dựng được cấu trúc bộ
máy của nó. Nếu tổ chức bộ máy hoàn chỉnh và khoa học thì hoạt động của nó
sẽ có hiệu quả và ngược lại. Điều này được V.I. Lênin từng nói: “Hãy cho tôi
một tổ chức những người cách mạng, tôi sẽ làm đảo lộn nước Nga” [27].
Tổ chức là vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động của các cơ quan
nhà nước và việc xây dựng tổ chức là nhiệm vụ quan trọng để phục vụ cho
công tác quản lý. Có thể nói tổ chức là công việc cần thiết và quan trọng đầu
tiên để tạo điều kiện cho hoạt động của cơ quan, bộ phận và là vấn đề khó
nhất trong quá trình hoạt động của bất cứ một cơ quan nào. Nhiệm vụ của nhà
lãnh đạo hay của công tác tổ chức chính là thiết kế một cơ cấu tổ chức thích
hợp để liên kết các hoạt động của các cá nhân, bộ phận với nhau. Việc liên kết
các hoạt động của các các nhân và bộ phận muốn đạt yêu cầu mong muốn và
có hiệu quả thì phải theo những cách thức và mục tiêu nhất định. Đó là phải
29
liên kết được các mục tiêu của tổ chức, chỉ rõ được cách thức phân công
nhiệm vụ giữa các bộ phận và qua đó xác định được cấu trúc các bộ phận có
thể hoàn thành nhiệm vụ đó, xác định được mối quan hệ của các công việc và
hoạt động chủ yếu của tổ chức do các bộ phận thực hiện.
Xét từ góc độ hoạt động, công tác tổ chức là việc nhóm các hoạt động
cần thiết để thực hiện một mục tiêu của tổ chức và giao hoạt động đó cho một
bộ phận với một thẩm quyền được xác định thực hiện và tạo mối liên hệ giữa
các bộ phận đó. Do vậy, khi đề cập đến công tác tổ chức thì việc phân cấp
thẩm quyền là vô cùng quan trọng và phải xuất phát từ nhiệm vụ cụ thể của
các bộ phận được giao nhiệm vụ và phân công thẩm quyền để tránh hiện
tượng nhiệm vụ đơn giản nhưng được trao thẩm quyền lớn và ngược lại.
Cơ cấu của tổ chức chính là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu hiện qua
việc sắp xếp các bộ phận cấu thành theo một trật tự nhất định và xác lập mối
quan hệ qua lại giữa chúng với nhau. Việc xác định cơ cấu tổ chức của mỗi cơ
quan chính là việc thiết lập các bộ phận và liên kết chúng lại với nhau thành
một hệ thống. Đây là bước quan trọng của công tác tổ chức nhằm làm cho cơ
cấu của tổ chức tương ứng với chức năng nhiệm vụ mà nó đảm nhiệm. Chính
vì vậy, việc mô tả chi tiết các chức năng nhiệm vụ của tổ chức và cách thức
thực hiện các chức năng đó là điều quan trọng và có ý nghĩa quyết định. Một
cơ cấu được xác lập luôn gắn với mục đích chỉ rõ cá nhân hay đơn vị, bộ phận
nào sẽ làm gì và ai là người chịu trách nhiệm chính về kết quả của những hoạt
động đó. Xác định được điều đó là nhằm loại bỏ những cản trở không cần
thiết trong quá trình phân công nhiệm vụ và liên kết các hoạt động cũng như
để thực hiện việc thông tin chính xác và thuận tiện.
Tổ chức thanh tra được hiểu với nghĩa của một tổ chức, là một cấu trúc,
thiết chế, cơ cấu, bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ thanh tra. Tổ chức
thanh tra cũng bao gồm các chức năng thiết yếu nằm trong tổng thể bộ máy
nhà nước. Để hoạt động thanh tra được vận hành một cách khoa học, ổn định
30
và đạt hiệu quả cao, cần thiết kế tổ chức, bộ máy theo đúng các nguyên tắc về
tổ chức với các bộ phận, chức vụ được liên kết với nhau một cách chặt chẽ
theo một mục tiêu nhất định.
Như vậy, theo nghĩa này, tổ chức thanh tra là một cơ cấu, hay cấu phần
của bộ máy nhà nước, được thành lập để thực hiện những chức năng, nhiệm
vụ thanh tra do pháp luật quy định.
2.1.1.2. Khái niệm về hoạt động thanh tra
Thuật ngữ “thanh tra” được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau. Theo
từ điển Tiếng Việt, “Thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ của địa phương,
cơ quan, xí nghiệp” [63]. Với nghĩa này, hoạt động thanh tra là kiểm soát
nhằm phát hiện và ngăn chặn những gì trái với quy định. Theo Từ điển Luật
học, “Thanh tra là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện
thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định” [65]. Ở góc độ
khác, thanh tra được hiểu là một trong những chức năng thiết yếu của cơ quan
quản lý nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong
quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa thông qua hoạt
động xem xét và nhận định về việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ,
kế hoạch nhà nước của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức hữu quan và cá nhân có trách nhiệm nhằm phát huy nhân tố tích cực,
phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn
thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
Hoạt động thanh tra còn được hiểu là hoạt động chuyên trách do tổ chức
thanh tra đảm nhiệm nhằm kiểm tra, đánh giá, kết luận chính thức về việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong quản lý nhà nước với mục đích phòng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức
và cá nhân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
31
Theo tác giả Trần Đức Lượng: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu
của quản lý nhà nước, là hoạt động kiểm tra xem xét việc làm của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường được thực hiện bởi một cơ quan
chuyên trách, theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận
đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa,
xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân” [29]. Với khái niệm này đã làm rõ những
đặc điểm của hoạt động thanh tra là gắn với quản lý nhà nước, luôn mang tính
quyền lực nhà nước và có tính độc lập tương đối trong hoạt động.
Luật Thanh tra năm 2010 đưa ra các khái niệm về Thanh tra Nhà nước,
Thanh tra hành chính, Thanh tra chuyên ngành như sau:
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật,
quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó [43].
Từ những quan niệm nêu trên, cho thấy thanh tra là một chức năng thiết
yếu, là một loại hình đặc biệt của hoạt động quản lý của cơ quan quản lý nhà
nước. Thanh tra là phương thức bảo đảm trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà
nước, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chủ thể của hoạt động
thanh tra là các cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động thanh tra do Đoàn thanh
32
tra, Thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành thực hiện. Đối tượng thanh tra là những việc làm cụ thể được tiến hành
theo các quy định của pháp luật, thực hiện quyền, nghĩa vụ của các cơ quan
nhà nước, tổ chức và cá nhân.
Xét về vị trí, vai trò, đặc điểm và nội dung của hoạt động thanh tra
trong quản lý nhà nước có thể thấy thanh tra là một trong ba khâu của chu
trình quản lý nhà nước, là phương thức và nội dung quan trọng để nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước; là một trong những phương tiện phòng ngừa có
hiệu quả những vi phạm pháp luật và phòng, chống tội phạm. Hoạt động
thanh tra của các cơ quan thanh tra trong thực thi nhiệm vụ của mình theo quy
định của pháp luật góp phần đảm bảo việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động
quản lý nhà nước; phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân nhằm góp phần vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, cải cách hành chính nhà nước, nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Thanh tra và kiểm tra có mối quan hệ gần gũi, bổ sung cho nhau. Trong
quản lý nhà nước, giữa thanh tra và kiểm tra có một mảng giao thoa về chủ
thể, đó là Nhà nước. Kiểm tra cũng là chức năng của Nhà nước; kiểm tra nếu
theo nghĩa rộng thì bao hàm cả thanh tra, hay nói cách khác, thanh tra là một
loại hình đặc biệt của kiểm tra mà ở đó luôn có một loại chủ thể là Nhà nước
tiến hành và thực hiện quyền lực nhà nước. Các hoạt động, các thao tác
nghiệp vụ trong các cuộc thanh tra chính là thực hiện kiểm tra trong quy trình
thanh tra, ví dụ kiểm tra sổ sách, kiểm tra hồ sơ, tài liệu, so sánh đối chiếu các
số liệu thu thập được trong quá trình thanh tra v.v... Phân biệt thanh tra và
kiểm tra chủ yếu dựa vào mục đích và phương pháp. Trong mối quan hệ với
kiểm tra, ở đây có thể hiểu thanh tra chính là phương thức của kiểm tra và tổ
chức thanh tra là một trong những cơ quan thuộc hệ thống đánh giá của Nhà
nước, của xã hội. Hoạt động thanh tra là hoạt động từ bên ngoài tác động lên
33
đối tượng bị quản lý; kiểm tra là xem xét sự việc xảy ra trong nội bộ cơ quan
quản lý có đúng với các quy tắc đã xác lập và những mệnh lệnh quản lý hay
không. Thực tế ở nước ta, khái niệm thanh tra, kiểm tra và giám sát chưa được
phân định rõ ràng, cụ thể trong khoa học pháp lý, trong pháp luật và trong
khoa học quản lý. Hoạt động thanh tra thường xuyên diễn ra ngay trong quá
trình tổ chức, thực hiện các nhiệm vụ quản lý cũng như thực hiện đường lối,
chính sách pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, hoạt động của Thanh tra nhà
nước còn thực hiện ở lĩnh vực chấp hành, điều hành trong hoạt động quản lý,
đánh giá việc thực hiện đúng, sai của đối tượng thanh tra trong việc chấp hành
đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện kế hoạch
của đơn vị; phân tích và đánh giá đúng thực chất tổ chức bộ máy, công tác cán
bộ, cơ sở vật chất bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quản lý; giải quyết khiếu nại,
tố cáo theo thẩm quyền; tham mưu cho lãnh đạo cùng cấp giải quyết khiếu
nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở những nghiên cứu trên, có thể hiểu khái niệm về hoạt động
thanh tra như sau: “Hoạt động thanh tra là xem xét, đánh giá, xử lý của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của các cơ quan, tổ chức và cá nhân
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”.
2.1.2. Khái niệm về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế đặc thù trong tổ chức bộ máy
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện
kiểm sát nhân dân luôn là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà
nước, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh
đạo trong Ngành. Hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành trong nội bộ ngành
Kiểm sát nhân dân là một loại hình quản lý hành chính nhà nước nhằm sử
dụng các biện pháp pháp lý tác động tới đối tượng quản lý để đạt được mục
34
đích của công tác xây dựng Ngành. Văn bản pháp luật, các quyết định và chỉ
thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các quy chế nghiệp vụ
của Ngành v.v... là căn cứ để tiến hành quản lý các hoạt động trong ngành
Kiểm sát nhân dân. Công tác thanh tra là một trong những nhiệm vụ quan
trọng trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và xây dựng Ngành, nhằm
phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị các
biện pháp khắc phục, phòng ngừa; đồng thời, xử lý hành vi vi phạm pháp luật,
quy chế, quy định của Ngành; phát huy nhân tố tích cực, biểu dương, nhân
rộng những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến; góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành và thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của ngành Kiểm sát nhân dân.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Tổ chức Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân là một cơ cấu hay cấu phần trong bộ máy của Viện kiểm sát nhân
dân, được thành lập để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ thanh tra trong
ngành Kiểm sát nhân dân.
Với đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và công tác quản
lý trong nội bộ ngành Kiểm sát nhân dân, cho thấy tổ chức và hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân mang đặc trưng của loại hình Thanh tra
hành chính. Trên cơ sở khái niệm về Thanh tra hành chính theo quy định của
Luật Thanh tra năm 2010, có thể hiểu: Hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân là việc xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định của cơ quan thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân đối với
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị và
cá nhân thuộc Viện kiểm sát nhân dân các cấp”.
2.1.3. Đặc điểm của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động thanh
tra trong phạm vi nội bộ Ngành, do đó có một số đặc điểm giống với Thanh
tra của các bộ, cơ quan ngang bộ ở một số điểm cơ bản sau:
35
Thứ nhất, về tổ chức bộ máy, đều được tổ chức theo ngành dọc, ở hai
cấp (cấp Trung ương và cấp tỉnh): Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân được
tổ chức gồm Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Thanh tra Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; Thanh tra của các bộ, cơ quan ngang bộ cũng
được tổ chức ở hai cấp là Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ ở cấp Trung ương
và Thanh tra sở, ngành ở cấp tỉnh.
Thứ hai, về hoạt động thanh tra, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân và
Thanh tra của các bộ, cơ quan ngang bộ đều có điểm chung là loại hình Thanh
tra hành chính, thực hiện hoạt động thanh tra trong phạm vi quản lý hành
chính theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương.
Tuy nhiên, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân có một số đặc điểm
khác với Thanh tra của các bộ, cơ quan ngang bộ, đó là:
Một là, về chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra: Tổ chức và hoạt động
của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân gắn với tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm kiểm sát nhân dân. Chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra trong
ngành Kiểm sát nhân dân bao gồm:
- Các cơ quan thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân được thành lập
theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hiện nay
gồm có: Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Ban Thanh tra trước đây),
được thành lập từ năm 1987 và Thanh tra của 08 Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh được thành lập từ năm 2014 là: Thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Đồng Nai, Đắk Lắk và thành phố Hồ Chí Minh.
- Tổ thanh tra chuyên trách đặt trong Phòng Tổ chức - cán bộ của Viện
kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố còn lại, do Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh thành lập từ năm 2014.
Hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân do công chức thuộc
các cơ quan thanh tra, bộ phận thanh tra trong ngành thực hiện và chịu sự
quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
36
Công chức làm công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân không thực
hiện theo chế độ bổ nhiệm chức danh “Thanh tra viên” như Thanh tra của các
bộ, cơ quan ngang bộ, mà thực hiện theo chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm các chức
danh tư pháp trong ngành là “Kiểm sát viên” và “Kiểm tra viên” các cấp.
Hai là, về đối tượng thanh tra: Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân thực
hiện thanh tra đối với các cơ quan, đơn vị, công chức, viên chức và người lao
động trong nội bộ ngành. Thanh tra của các bộ, Cơ quan ngang bộ, ngoài loại
hình Thanh tra hành chính, còn có tổ chức Thanh tra chuyên ngành, thực hiện
hoạt động thanh tra đối với các đối tượng quản lý theo ngành, lĩnh vực, ngoài
phạm vi quản lý hành chính trực tiếp của các bộ, cơ quan ngang bộ như:
Thanh tra tài chính của Bộ Tài chính, Thanh tra giao thông của Bộ Giao thông
vận tải, Thanh tra xây dựng của Bộ Xây dựng, v.v...
Ba là, về thẩm quyền: Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân không có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính như Thanh tra của các bộ, cơ quan
ngang bộ theo quy định của Luật Thanh tra và pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính.
Bốn là, về mục đích hoạt động: Hoạt động thanh tra trong ngành
Kiểm sát nhân dân nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật hoặc vi phạm quy chế, quy định của Ngành trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ; phát hiện những sơ hở về cơ chế quản lý để đề
xuất với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao các biện pháp khắc
phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
hoạt động quản lý, góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Hoạt động thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân khác với hoạt động
kiểm tra của các đơn vị nghiệp vụ trong ngành. Hoạt động thanh tra là việc xem
xét, đánh giá của các cơ quan thanh tra trong ngành, mang tính chất tác động từ
bên ngoài đến việc chấp hành pháp luật và quy chế, quy định của Ngành đối
37
với các đối tượng quản lý của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp,
nhằm mục đích phòng ngừa và xử lý vi phạm. Hoạt động kiểm tra của các đơn
vị nghiệp vụ trong Ngành là việc là xem xét sự việc xảy ra trong nội bộ thuộc
trách nhiệm quản lý của đơn vị nghiệp vụ có đúng với các quy tắc đã xác lập
và những mệnh lệnh quản lý hay không. Hoạt động kiểm tra mang tính chất
chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ là chủ yếu.
2.1.4. Vai trò của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
Về mặt lý luận, V.I. Lênin đã khẳng định: “Quản lý đồng thời phải có
thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ không phải là hai” [27]. Đây là
nguyên tắc cơ bản đầu tiên để xác định vị trí, vai trò của công tác thanh tra,
điều đó cũng có nghĩa rằng khi đề cập đến công tác thanh tra thì không thể
không đề cập đến vấn đề quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng.
Hiệu quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước chỉ có ý
nghĩa khi có các thiết chế nhằm phát hiện và loại bỏ các lệch lạc có thể có của
đối tượng quản lý; chấn chỉnh lại các quyết định đã ban hành trước đây cho
phù hợp thực tế và yêu cầu từ phía nhà nước. Trong đó, thanh tra là thiết chế
không thể thiếu trong quản lý nhà nước. Trong mối quan hệ giữa quản lý nhà
nước và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động
thanh tra. Tuy nhiên, thanh tra lại có tác động tích cực đối với quản lý và góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước. Vai trò của thanh tra
không chỉ là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật, nhiệm vụ,
kế hoạch của Nhà nước, kịp thời phát hiện, kiến nghị xử lý nghiêm khắc đối
với những hành vi vi phạm và đề ra các biện pháp giúp các đối tượng thanh
tra phát huy ưu điểm, khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, mà còn là
phương tiện để chủ thể quản lý phát hiện những biểu hiện trì trệ, không phù
hợp với thực tế khách quan của cơ chế và phương pháp quản lý đã và đang
cản trở các hoạt động quản lý, từ đó đề xuất các biện pháp đổi mới, hoàn thiện
các hoạt động quản lý.
38
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân là bộ phận cấu thành quan trọng
trong cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân. Hoạt động có hiệu quả của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân là một trong những yếu tố cần thiết bảo
đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân,
của công chức ngành Kiểm sát nhân dân trong thực thi công vụ.
Với cách tiếp cận đó, vai trò của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Một là, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân có vai trò kiểm định, đánh
giá hiệu quả của công tác quản lý trong ngành. Hoạt động thanh tra nhằm kịp
thời phát hiện những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, đồng thời đề xuất
những kiến nghị nhằm khắc phục và nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng
các nguồn lực, phục vụ nhiệm vụ chính trị của ngành Kiểm sát nhân dân.
Thông qua hoạt động thanh tra, những sai sót, vi phạm trong việc thực hiện
các chủ trương, chính sách, pháp luật và quy chế, quy định của ngành được
phát hiện, xử lý và khắc phục kịp thời; những lỗ hổng, sự bất hợp lý trong các
chủ trương, chính sách, pháp luật và quy chế, quy định của ngành được điều
chỉnh hợp lý. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động thanh tra, lãnh đạo Viện kiểm
sát nhân dân các cấp là các chủ thể quản lý có được những thông tin góp phần
phát hiện những thay đổi và dự báo những vấn đề sẽ phát sinh để có những
biện pháp phòng ngừa.
Hai là, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân là phương thức bảo đảm kỷ
cương, kỷ luật trong ngành; hoạt động thanh tra là phương tiện phòng ngừa vi
phạm pháp luật và tội phạm nảy sinh trong nội bộ ngành.
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát
hoạt động của các đối tượng quản lý và xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo
đối với các quyết định hoặc hành vi hành chính của công chức, viên chức và
người lao động trong ngành về việc thực hiện chính sách, pháp luật, chức
trách, nhiệm vụ được giao. Thông quan hoạt động thanh tra, các thông tin và
39
kết luận thanh tra có tác dụng giáo dục và phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Việc phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi sai phạm của các đối
tượng quản lý góp phần bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong ngành. Tuy nhiên,
thanh tra không chỉ là việc phát hiện, tìm kiếm, xử lý sai phạm, sơ hở, yếu
kém trong quản lý mà còn phải phát hiện, khẳng định và tạo điều kiện cho
những nhân tố mới, cơ chế mới tích cực phát triển, nhân rộng các điển hình
tiên tiến. Lòng tin của đối tượng thanh tra vào các kết quả thanh tra là yếu tố
cơ bản quyết định vai trò phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm của hoạt
động thanh tra trong ngành. Tuy nhiên, tác dụng này chỉ có khi các kết luận,
kiến nghị thanh tra được đưa ra trên cơ sở tôn trọng sự thật khách quan, đúng
pháp luật, hợp lý và cán bộ thanh tra là người không chỉ giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ mà còn là tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức.
Ba là, hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm quyền dân chủ, quyền và
lợi ích hợp pháp của nhân dân, của công chức, viên chức và người lao động
trong ngành Kiểm sát nhân dân. Thông qua hoạt động thanh tra nói chung,
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân nói riêng, các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, của công
chức, viên chức và người lao động trong ngành Kiểm sát nhân dân được bảo
vệ, góp phần vào việc bảo đảm các quyền dân chủ cho người dân và thực hiện
tốt Quy chế dân chủ trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Bốn là, thông qua hoạt động thanh tra phát hiện ra những sơ hở, yếu
kém trong công tác quản lý trong ngành, phát hiện những nội dung trong chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cơ chế quản lý, quy chế, quy
định của ngành chưa phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan để từ đó kiến
nghị với các chủ thể quản lý có các biện pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các
phương tiện quản lý. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra giúp cho các chủ thể
quản lý trong ngành ra các quyết định quản lý chính xác, đúng đắn, khách
quan và phù hợp hơn.
40
2.1.5. Nội dung hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý; đối tượng và nội dung
hoạt động quản lý quyết định đối tượng và nội dung của hoạt động thanh tra.
Công tác quản lý trong ngành Kiểm sát nhân dân là toàn bộ hoạt động của
hệ thống cơ quan, đơn vị và cá nhân thuộc Viện kiểm sát nhân dân các cấp,
bao gồm: Quản lý hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp; Quản lý hoạt động xây dựng tổ chức bộ máy và công
tác cán bộ; Quản lý việc sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước, tài sản và
trang thiết bị, phương tiện làm việc phục vụ cho công tác kiểm sát.
Với đối tượng và nội dung hoạt động quản lý trong ngành Kiểm sát
nhân dân như trên, nên nội dung hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân bao gồm:
- Hoạt động thanh tra nghiệp vụ: Thanh tra việc chấp hành pháp luật,
các chỉ thị, quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quy
chế nghiệp vụ của ngành về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
- Hoạt động thanh tra hành chính: Thanh tra việc chấp hành pháp luật,
các chỉ thị, quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quy
chế, quy định của ngành về công tác tổ chức - cán bộ; việc quản lý, sử dụng
kinh phí ngân sách nhà nước, tài sản và trang thiết bị, phương tiện làm việc
phục vụ cho công tác kiểm sát.
- Hoạt động thanh tra xét khiếu tố: Giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo liên
quan đến công chức, viên chức và người lao động trong ngành Kiểm sát nhân
dân theo quy định của Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo.
2.1.6. Nguyên tắc hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
Một là, hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật về thanh tra. Đây
là nguyên tắc chủ đạo, được coi là một căn cứ pháp lý quan trọng trong quá
trình tiến hành thanh tra. Có thể hiểu nguyên tắc hoạt động thanh tra phải tuân
41
theo pháp luật về thanh tra bao gồm từ việc ra quyết định thanh tra, tiến hành
thanh tra, kết luận thanh tra đến việc xử lý kết luận thanh tra đều phải được
thực hiện theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do pháp luật quy định,
không được tuỳ tiện, không được xuất phát từ ý kiến chủ quan của cơ quan
quản lý và chức danh quản lý. Trong quá trình thanh tra, không ai được can
thiệp, làm lung lạc ý chí của cán bộ thanh tra đang làm nhiệm vụ.
Để đảm bảo cho công tác thanh tra đúng mục đích, có hiệu quả, hoạt
động thanh tra phải tuân thủ trình tự, thủ tục, thời hạn các cuộc thanh tra, về
hồ sơ thanh tra. Các đối tượng thanh tra có quyền đòi hỏi trước hết cơ quan
thanh tra phải chấp hành nghiêm túc quy định của pháp luật trước và trong khi
xác minh làm rõ và kết luận các vi phạm pháp luật của các đối tượng thanh
tra. Mỗi sai phạm dù là nhỏ nhất của cơ quan thanh tra trong việc chấp hành
các quy định của pháp luật về thanh tra sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ
quan thanh tra nói chung và làm giảm hiệu lực của các cuộc thanh tra nói
riêng, làm giảm sút mức độ tin cậy của đối tượng thanh tra. Điều đó có thể
dẫn đến những tranh chấp pháp lý không đáng có giữa cơ quan thanh tra và
đối tượng thanh tra. Vì vậy, trong khi ra quyết định thanh tra hoặc tham mưu,
đề xuất với cấp trên về việc tiến hành một cuộc thanh tra cũng như trong khi
tổ chức thực hiện các cuộc thanh tra cụ thể, mỗi cán bộ thanh tra phải ý thức
sâu sắc những tổn hại nói trên đối với hoạt động thanh tra.
Hai là, hoạt động thanh tra phải bảo đảm tính chính xác, khách quan,
trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời. Tôn trọng sự thật là yêu cầu bắt
buộc của hoạt động thanh tra. Có tôn trọng sự thật mới có đánh giá đúng,
xử lý đúng. Nếu thiếu sự thật sẽ dẫn đến hậu quả là nhìn nhận, đánh giá sai,
từ đó có biện pháp xử lý sai. Muốn đạt được yêu cầu trên thì công tác thanh
tra phải thực hiện đầy đủ nguyên tắc chính xác, khách quan. Tính chính
xác, khách quan được thể hiện trên tất cả các nội dung của trình tự thanh
tra (quyết định thanh tra, xem xét xác minh, kết luận, kiến nghị và biện
42
pháp xử lý). Quyết định thanh tra phải kịp thời; xác minh phải đầy đủ,
chính xác; kết luận, kiến nghị phải có căn cứ; biện pháp xử lý phải nghiêm
minh. Đó là những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc khách quan trong hoạt
động thanh tra. Để đảm bảo tính khách quan, phải sâu sát thực tế, tôn trọng
sự thật, phản ánh đúng sự thật. Điều quan trọng là phải có bản lĩnh vững
vàng, ý thức trách nhiệm cao và có năng lực xem xét, phân tích khoa học.
Xuất phát từ mục đích xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, kết quả
hoạt động thanh tra phải được thừa nhận trong đại đa số quần chúng nhân dân.
Vì vậy hoạt động thanh tra phải tuân thủ nguyên tắc dân chủ, công khai. Tính
dân chủ trong hoạt động thanh tra được thể hiện ở việc coi trọng ý kiến đóng
góp của quần chúng nhân dân, của cơ quan và cá nhân có liên quan trong quá
trình thanh tra. Kể cả việc tạo điều kiện để đối tượng thanh tra được trình bày
ý kiến của họ. Tránh sự chủ quan, áp đặt, bất chấp ý kiến của người khác. Kết
luận thanh tra phải là kết quả xem xét của tập thể (đoàn thanh tra hoặc tổ
thanh tra), không phải là bất kỳ một ý kiến cá nhân nào. Tính công khai trong
hoạt động thanh tra thể hiện ở nhiều vấn đề cụ thể, như việc công khai quyết
định thanh tra đối với đối tượng thanh tra; tiếp xúc công khai với đối tượng
thanh tra và những người có liên quan; công bố công khai kết luận thanh tra;
xử lý công khai những vi phạm đã được kết luận, v.v... Tuy nhiên, cũng tuỳ
từng trường hợp cụ thể để công khai sao cho thích hợp.
Trong hoạt động thanh tra đòi hỏi phải đảm bảo tính kịp thời. Bởi vì do
yêu cầu của công tác quản lý và những vấn đề thực tiễn đặt ra là phải được
thanh tra và trả lời đầy đủ, kịp thời mới có đối sách ứng xử cho sát hợp. Trên
thực tế, nếu hoạt động thanh tra tiến hành chậm hoặc không gắn với chu trình
quản lý sẽ kém hiệu quả, làm ảnh hưởng đến tiến trình quản lý.
Ba là, hoạt động thanh tra không làm cản trở hoạt động bình thường
của đơn vị, cá nhân là đối tượng thanh tra. Đây là nguyên tắc thể hiện mối
quan tâm về bảo đảm tính pháp chế và hiệu quả của công tác thanh tra.
43
Mục đích cuối cùng của hoạt động thanh tra là kiểm định, đánh giá hiệu
quả của quản lý trong ngành góp phần bảo đảm sự phát triển ổn định và
lành mạnh của các đối tượng quản lý. Chính vì lẽ đó mà việc thanh tra
không được làm cản trở hoạt động bình thường, hợp pháp của đơn vị và cá
nhân đang là đối tượng thanh tra. Hoạt động bình thường của đối tượng
thanh tra là hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, theo pháp luật, thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao. Những hành vi hay biểu hiện vi phạm
pháp luật, những hiện tượng “không bình thường” mà thanh tra phát hiện
sẽ phải được ngăn chặn và xử lý kịp thời.2.2. YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂNỞ VIỆT NAM
Cải cách tư pháp là quá trình thay đổi tổ chức và phương thức hoạt
động của các cơ quan: Tòa án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp và Viện
kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án, các cơ quan, tổ chức bổ trợ
tư pháp như công chứng, giám định tư pháp, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư
pháp, luật sư, tư vấn pháp luật - tham gia thực hiện quyền tư pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức đó, cải tiến tổ chức, chế độ
và phương thức hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực tư pháp.
Công cuộc cải cách tư pháp trong những năm gần đây được Đảng, Nhà
nước ta hết sức quan tâm và được đặt trong mối quan hệ với việc đẩy mạnh
cải cách hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước, hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Các chủ trương, định hướng, yêu cầu, nhiệm vụ về cải cách tư pháp được
thể hiện rõ nét trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là hai nghị quyết quan trọng
của Bộ Chính trị, đó là: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002
về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” (gọi tắt là
44
Nghị quyết số 08) và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” (gọi tắt là Nghị quyết số 49).
Nội dung Nghị quyết số 08 đã chỉ rõ về một số khuyết điểm của công
tác tư pháp như: Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với
yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm
oan người vô tội, vi phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp v.v... .
Đồng thời, Nghị quyết đã chỉ ra một trong những nguyên nhân mang tính chủ
quan của những tồn tại, khuyết điểm nêu trên, đó là: Công tác cán bộ của các
cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ
cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ,
một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất
đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật,
giảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ,
cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn nhiều bất hợp lý nhưng chậm
được đổi mới, kiện toàn v.v.... Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị đã đề ra một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó có
nhiệm vụ: “Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ các cơ quan tư
pháp; hàng năm nhận xét, đánh giá về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, năng
lực trình độ của cán bộ có chức danh tư pháp để xem xét việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, phân công nhiệm vụ hoặc miễn nhiệm, xử lý kịp thời, nghiêm
minh những cán bộ yếu kém, vi phạm pháp luật” [10].
Nghị quyết số 49 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” xác
định rõ mục tiêu là: “Xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Một
trong những nội dung có liên quan trực tiếp đến đổi mới tổ chức và hoạt động
45
của Viện kiểm sát nhân dân nói chung, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng được Nghị quyết số 49 chỉ rõ là:
“Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính sách hình sự, chế định pháp
luật dân sự và pháp luật tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi,
bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ
quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu;
trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm
chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp.
Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử... Tăng
cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với
hoạt động của các chức danh tư pháp” [12].
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã
khẳng định: “Tiếp tục tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân;
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Xây dựng hệ
thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ
công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt
động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều
tra. Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân
dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu việc
chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công
tố trong hoạt động điều tra” [13].
Ngày 28 tháng 7 năm 2010, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 79-
KL/TW về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và
Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49; Kết luận đã chỉ rõ: “Mục tiêu chung
46
của việc đổi mới là xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của hệ
thống Toà án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra thực sự khoa học, đảm bảo
tính đồng bộ, phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư
pháp; đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và
các chức danh tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng; nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, góp phần xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Đồng thời, Kết luận của Bộ Chính trị tiếp tục đề ra phương hướng đổi mới tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát như sau: “Viện kiểm sát nhân dân có
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện
nay. Tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân thành 4 cấp, phù hợp với hệ
thống tổ chức của Toà án nhân dân. Giữ cụm từ “nhân dân” trong tên gọi của
các Viện kiểm sát. Cụ thể là: Viện kiểm sát nhân dân khu vực (số lượng và
địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Toà án nhân
dân sơ thẩm khu vực); Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (số lượng và địa hạt tư pháp
tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Toà án nhân dân cấp cao);
Viện kiểm sát nhân dân tối cao” [3].
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
đã đánh giá về một số kết quả đạt được của công tác tư pháp: “Tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới. Việc tăng thẩm quyền
cho Toà án cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, đề cao
vai trò của Luật sư trong tố tụng được thực hiện bước đầu có kết quả. Việc
thực hiện các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng truy
tố, xét xử oan, sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất lượng hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án được nâng lên”. Bên cạnh đó, Báo cáo chính trị cũng
đã chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của công tác tư pháp trong thời gian
qua, đó là: cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ; công tác điều tra, giam
47
giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án
bị huỷ, bị cải sửa còn nhiều. Trên cơ sở đó, Báo cáo chính trị đã đề ra chủ
trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục
đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước, trong đó có việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, cụ thể là: “Đẩy mạnh việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư
pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục
tố tụng tư pháp... Bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp... Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề
nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp. Tăng cường sự tham
gia, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp” [14].
Ngày 12 tháng 3 năm 2014 Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 92-
KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49, trong đó đã chỉ rõ: “Việc
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong 8 năm qua đã đạt được nhiều kết
quả quan trọng. Nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò của hoạt động tư
pháp, sự cần thiết phải đẩy mạnh cải cách tư pháp được nâng lên rõ rệt. Việc
xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động
tư pháp có nhiều tiến bộ; đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định của pháp luật về
hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp... Tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp từng
bước được kiện toàn và xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ... ; công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, luật sư và bổ trợ tư pháp có chuyển biến rõ nét;
số lượng, chất lượng cán bộ tư pháp được nâng lên; đã chuẩn hoá trình độ đội
ngũ cán bộ; quy định rõ hơn cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư
pháp; chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tư pháp từng bước được cải thiện.
Việc đầu tư xây dựng trụ sở, phương tiện, trang thiết bị làm việc cho các cơ
quan tư pháp được quan tâm hơn... Tuy nhiên, việc chỉ đạo thực hiện một số
48
nhiệm vụ cải cách tư pháp vẫn còn chậm, chưa theo đúng lộ trình của Chiến
lược cải cách tư pháp. Một số nhiệm vụ khi triển khai thực hiện có ý kiến
khác nhau nhưng chưa được nghiên cứu, kết luận kịp thời. Việc nghiên cứu,
xác định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cơ chế phân bổ ngân sách và
việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật,
chính sách đãi ngộ đối với cán bộ của cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp còn
chậm. Vẫn còn một số cán bộ tư pháp phẩm chất chính trị, ý thức trách nhiệm,
đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình
trạng bộ phận cán bộ tư pháp nhũng nhiễu, tiêu cực chưa giảm, ảnh hưởng
đến niềm tin của nhân dân vào chất lượng hoạt động tư pháp”. Về tiếp tục
triển khai thực hiện Chiến lược cải các tư pháp trong thời gian tới, Bộ Chính
trị đã xác định Nghị quyết số 49 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 về cơ bản là đúng đắn. Về tổ chức Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân trong thời gian tới được Bộ Chính trị chỉ rõ: “Tiếp tục thực hiện chủ
trương tổ chức Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo cấp xét xử,
không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Toà án nhân dân được tổ chức 4 cấp
như Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2020 của Bộ Chính trị. Đối với Toà án
nhân dân cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát nhân dân tương ứng cần tiếp tục
nghiên cứu xây dựng 2 phương án (Phương án 1, tổ chức theo khu vực như
Kết luận số 79-KL/TW; phương án 2, tổ chức Toà án nhân dân sơ thẩm đặt tại
các đơn vị hành chính cấp huyện), báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị trước khi
trình Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Toà án nhân dân (sửa đổi), Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi)” [6].
Nghiên cứu các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về cải cách tư
pháp cho thấy yêu cầu của cải cách tư pháp đòi hỏi phải hoàn thiện cả về hệ
thống tổ chức, cả về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền hoạt động của các cơ
quan tư pháp theo hướng xác định đúng, đủ quyền năng pháp lý nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Quá trình đổi
49
mới hệ thống các cơ quan tư pháp được tiến hành trong mối liên hệ với việc
phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với việc đề cao trách nhiệm và
bảo đảm tính độc lập của các chức danh tư pháp trong quá trình tác nghiệp.
Đồng thời, việc đổi mới và hoàn thiện các cơ quan tư pháp được đặt trong mối
quan hệ chặt chẽ với quá trình cải cách hành chính và cải cách bộ máy nhà
nước nói chung. Một trong những phương hướng quan trọng mà chất lượng cải
cách tư pháp đặt ra là: xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp nhất là
cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp
lý... Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ
bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp nhằm xây dựng hệ
thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh.
Thanh tra luôn là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, vì vậy,
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sất nhân dân
phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ quản lý của ngành trong từng giai đoạn
cụ thể. Với những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói chung, hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân (một bộ phận cấu
thành quan trọng trong tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân) thực sự
là một yêu cầu tất yếu khách quan, mang tính lịch sử và phù hợp với sự phát
triển chung của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi:
Thứ nhất, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân phải được tiến hành đồng bộ trên các phương diện: hoàn thiện về
tổ chức bộ máy xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan
Thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân; xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ công chức làm công tác thanh tra; đổi mới phương thức, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra góp phần xây dựng ngành Kiểm sát
nhân dân trong sạch, vững mạnh.
50
Thứ hai, bảo đảm các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của Thanh
tra các cấp trong ngành Kiểm sát nhân dân phải được tiến hành đồng bộ với
các thiết chế khác. Bởi vì trong hệ thống thanh tra, kiểm tra, giám sát gồm
nhiều thiết chế khác nhau, có mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu chỉ điều
chỉnh riêng lẻ từng thiết chế sẽ không thể khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp
với các thiết chế khác, từ đó có thể sẽ dẫn tới việc bỏ sót đối tượng chịu sự
kiểm tra, thanh tra.
Thứ ba, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân phải đóng vai trò quan trọng
trong việc giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoàn thiện hệ
thống thể chế, quy định về tổ chức và hoạt động của Viện kiếm sát nhân dân.
Với chức năng cơ bản của thanh tra là xem xét, đánh giá việc chấp hành chính
sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm trong
ngành, Thanh tra có điều kiện để phát hiện những sơ hở, khiếm khuyết trong
cơ chế, chính sách làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả của quản lý, làm phát sinh
tham nhũng, lãng phí, thất thoát và các tiêu cực khác. Thông qua đó, kiến
nghị với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoàn thiện hệ thống thể
chế, quy định trong ngành để khắc phục những sơ hở, khiếm khuyết trong cơ
chế, chính sách, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý.2.3. TIÊU CHÍ VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM VIỆC HOÀN THIỆN TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO
YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
2.3.1. Tiêu chí hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
Việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân ở Việt Nam được thực hiện theo các tiêu chí sau:
Một là, về tổ chức bộ máy: Hệ thống tổ chức thanh tra trong ngành
Kiểm sát nhân dân phải được tổ chức tinh giản, gọn nhẹ; xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ của từng cấp trong hệ thống thanh tra ngành; khắc phục sự
51
chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động giữa tổ chức thanh tra các cấp trong hệ
thống thanh tra ngành và giữa hoạt động của Thanh tra ngành với hoạt động
kiểm tra của các đơn vị chức năng khác trong ngành. Hệ thống tổ chức thanh
tra trong ngành từ Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đến Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh được tổ chức đồng bộ, thông suốt, có tính
liên kết chặt chẽ và mang tính tập trung cao, đáp ứng sự điều hành thông suốt từ
trên xuống dưới. Theo đó, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách
nhiệm chung về công tác thanh tra trong toàn ngành; chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra, đôn đốc việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra
của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; giải quyết việc chồng chéo,
trùng lắp trong chương trình, kế hoạch và trong hoạt động của Thanh tra Viện
kiểm sát nhân dân cấp dưới; làm đầu mối trong việc theo dõi, kiểm tra, đôn
đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị xử lý về thanh tra.
Hai là, về công tác cán bộ: Xây dựng đội ngũ công chức Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân phải đảm bảo đủ về số lượng, đáp ứng được yêu cầu
về chất lượng, có chính sách đãi ngộ thích đáng và được trang bị đầy đủ
phương tiện làm việc cần thiết. Xây dựng và nâng cao văn hoá thanh tra, hoàn
thiện đạo đức của công chức thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân có ý thức tự
giác, tự rèn luyện, nhận thức đầy đủ, sâu sắc mục đích, vị trí, vai trò của công
tác thanh tra; chống các biểu hiện kiêu ngạo, cửa quyền, hách dịch, sách
nhiễu... trong quá trình thực thi nhiệm vụ thanh tra.
Ba là, về phương thức hoạt động: Hoạt động thanh tra phải được tiến
hành kịp thời, có trọng tâm, trọng điểm, công khai, dân chủ, khách quan, đáp
ứng được yêu cầu của công tác quản lý và không làm ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân được thanh tra. Việc đổi mới
hoạt động thanh tra cần đặc biệt tập trung vào thanh tra công vụ; đề cao vai
trò, trách nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra.
Trong quá trình thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra và các thành viên
trong đoàn cần phải thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
52
coi trọng nguyên tắc công khai, dân chủ, khách quan, công bằng, tránh hiện
tượng quy kết, đánh giá chủ quan, áp đặt. Mỗi cuộc thanh tra, Trưởng đoàn
thanh tra phải xác định rõ nội dung trọng tâm và những vấn đề chủ yếu để tập
trung chỉ đạo, đảm bảo kết thúc nhanh gọn, kết luận chính xác. Kết luận và
kiến nghị về thanh tra phải cụ thể, rõ ràng, làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân
có sai phạm; đồng thời, phải đề xuất được kiến nghị có tính khả thi để khắc
phục, sửa chữa các khuyết điểm, yếu kém, sơ hở trong hoạt động quản lý và
xử lý nghiêm minh người có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quy chế, quy
định của ngành về kỷ luật nghiệp vụ, kỷ luật công vụ và trật tự nội vụ.
Đổi mới hoạt động thanh tra theo xu hướng giảm tiền kiểm, tăng cường
hậu kiểm trong quản lý. Hiện nay, hoạt động của ngành thanh tra nói chung,
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng đang tồn tại, hạn chế là mới tập
trung chủ yếu vào hoạt động tiền kiểm mà chưa quan tâm đúng mức đến hoạt
động hậu kiểm nên dẫn đến tình trạng thanh tra "vạch ra để đấy", tức là người
ra quyết định thanh tra sau khi ban hành kết luận thanh tra chưa quan tâm
giám sát xem đối tượng thanh tra đã thực hiện kết luận thanh tra như thế nào.
Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ ngang- dọc giữa chỉ đạo theo chiều dọc
từ trên xuống dưới (chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao với Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh) và chỉ
đạo theo chiều ngang (chỉ đạo của tổ chức đảng và Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp). Giải quyết tốt mối quan hệ này có nghĩa rất quan trọng, đảm
bảo cho hoạt động của thanh tra hiệu quả, thống nhất, hạn chế được tình trạng sai
sót trong quá trình tác nghiệp của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh do
chưa nắm vững nghiệp vụ thanh tra. Mặt khác, khi đảm bảo được sự chỉ đạo sâu
sát của cấp ủy, của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp - người ra
quyết định thanh tra sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thanh tra cùng cấp hoạt động
vừa đảm bảo được nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác thanh tra, vừa đảm bảo
được nguyên tắc thanh tra hoạt động tuân thủ pháp luật và cơ chế thủ trưởng vì
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân vẫn là thanh tra nội bộ trực thuộc thủ trưởng.
53
2.3.2. Điều kiện bảo đảm hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanhtra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam
2.3.2.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh traĐảng lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước và xã hội là nguyên tắc
cơ bản được quy định trong Hiến pháp. Quan điểm của Đảng, Nhà nước
về công tác thanh tra cơ bản là nhất quán về nhận thức vị trí, vai trò của
công tác thanh tra, mối quan hệ giữa thanh tra với yêu cầu quản lý nhà
nước. Như đã đề cập, trong mỗi thời kỳ nhất định, Đảng và Nhà nước đã
đề ra chủ trương, đường lối thích hợp, điều chỉnh kịp thời chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan Thanh tra phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước và
sự phát triển kinh tế, xã hội. Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân là
phương thức đảm bảo việc chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
giữ gìn trật tự, kỷ cương, kỷ luật trong ngành, phát hiện và xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quy chế, quy định của ngành trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ; kịp thời phát hiện những sơ hở về cơ
chế quản lý để đề xuất với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý, góp phần bảo vệ lợi ích nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Cho
nên, tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân phải
được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng cần được xác định rằng, Đảng không bao
biện, làm thay, không can thiệp trực tiếp vào công việc chuyên môn mà là
lãnh đạo thông qua đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, thông qua
công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động chuyên
môn… Mặt khác, sự lãnh đạo của Đảng không làm mất đi tính độc lập, chủ
động mà làm cho quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ đúng với chủ
trương, đường lối của Đảng.
54
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân nói
chung, tổ chức và hoạt động của Thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân nói
riêng, vai trò lãnh đạo của Đảng được thể hiện một cách toàn diện qua việc:
Đảng lãnh đạo về chiến lược, sách lược cho quá trình tổ chức và hoạt động
của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân về lâu dài cũng như trong từng
giai đoạn cụ thể; trong việc lãnh đạo xây dựng về cơ cấu, tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân; trong việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp
xếp đội ngũ cán bộ; trong việc kiểm tra, giám sát đối với lĩnh vực hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân; trong việc kiểm tra chất lượng của đảng viên
trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân …
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò lãnh đạo của Đảng trong
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được thể hiện một cách toàn diện và
sâu sắc qua việc Bộ Chính trị ra Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020;
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020; Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 về Đề án đổi mới tổ chức
và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị
quyết số 49; Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 49… Đây chính là kim chỉ nam cho công tác cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay, nhằm mục tiêu đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân nói chung, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng.
2.3.2.2. Bảo đảm việc hoàn thiện cơ chế pháp lý về tổ chức và hoạt
động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
Tổ chức bộ máy của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân là một bộ phận
hợp thành quan trọng trong cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân. Do đó, cần phải đổi mới nhận thức về công tác thanh tra, hướng tới
nhận thức khoa học và thống nhất về vị trí, vai trò mục đích và yêu cầu của
55
công tác thanh tra trong nội bộ ngành. Đồng thời, đổi mới tư duy trong chỉ
đạo, điều hành của cơ quan thanh tra theo hướng đề cao tính hiệu quả, tính
chịu trách nhiệm và tính chuyên nghiệp trong hoạt động, coi đây là yếu tố
then chốt, quyết định trong hoạt động của tổ chức thanh tra cũng như trong
thực hiện nhiệm vụ của cán bộ thanh tra.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ công tác thanh tra trong thời kỳ mới, để công
tác thanh tra hoạt động được thống nhất, có hiệu quả, góp phần xây dựng ngành
Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh, cần phải hoàn thiện cơ chế pháp lý
về tổ chức và hoạt động thanh tra như: cần có quy định về tổ chức và hoạt
động thanh tra trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Xây dựng Thông
tư hướng dẫn về “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân” nhằm bảo đảm các quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của Thanh tra ngành phải được tiến hành đồng bộ với các thiết chế khác. Sửa
đổi, bổ sung Quy chế công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân
dân. Xây dựng “Quy chế Đoàn thanh tra” và quy trình nghiệp vụ, hệ thống
biểu mẫu văn bản về hoạt động thanh tra; tổ chức tập huấn để nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác thanh tra trong ngành. Xây dựng Quy định phối
hợp giữa Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Vụ Tổ chức Cán bộ,
Vụ Khiếu tố và Cục Điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xử
lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo và kiến nghị phản ánh về vi phạm liên
quan đến cán bộ, công chức, viên chức trong ngành Kiểm sát nhân dân để
phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm xử lý và nâng cao hiệu quả phối hợp
giữa các đơn vị trong Ngành.
2.3.2.3. Bảo đảm về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc và chính sách đối
với cán bộ Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
Cơ sở vật chất kỹ thuật là một điều kiện bảo đảm quan trọng, nó chi
phối sự tồn tại và phát triển của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân nói
chung và Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng. Chỉ khi nào cơ sở vật
56
chất kỹ thuật được đáp ứng thì hoạt động thanh tra mới đảm bảo được hiệu
lực và hiệu quả. Cho nên, đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật cho cơ quan
thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân là đồng nghĩa với việc góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả của hoạt động quản lý, xây dựng ngành. Trang bị đầy đủ,
kịp thời máy móc, thiết bị, các phương tiện và điều kiện làm việc cần thiết
cho cán bộ thanh tra; không ngừng ứng dụng khoa học công nghệ trong nâng
cao hiệu quả làm việc cho cán bộ thanh tra hoàn thành nhiệm vụ.
Hoạt động thanh tra được coi là hoạt động nhạy cảm vì đụng chạm đến
những vấn đề về con người và lợi ích. Bên cạnh đó, cán bộ làm công tác thanh
tra cũng là đối tượng dễ bị mua chuộc nếu không có bản lĩnh vững vàng sẽ khó
tránh khỏi cám dỗ đời thường hoặc không yên tâm công tác. Vì vậy, cần phải
quan tâm cải cách chế độ tiền luơng, công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ; có chế độ
khen thưởng, đãi ngộ thoả đảng cho những người có thành tích, cống hiến cho
hoạt động thanh tra của ngành để cán bộ thanh tra yên tâm công tác.
2.3.2.4. Bảo đảm về cơ chế phối hợp trong hoạt động thanh tra
Hoạt động thanh tra cũng như hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân có nhiều mối
quan hệ với các đơn vị trong và ngoài Ngành. Cán bộ thanh tra và người đứng
đầu cơ quan thanh tra cần nhận thức đúng về vai trò, mục đích, ý nghĩa của việc
phối hợp công tác thanh tra. Phối hợp phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan thanh tra và các cơ quan hữu quan. Cần phải có cơ chế, biện pháp phối
hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa cơ quan thanh tra ngành với các cơ quan, đơn vị hữu
quan khi tiến hành hoạt động thanh tra, nhất là thanh tra hoạt động nghiệp vụ
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, thanh tra việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ và kỷ luật nội vụ của cán bộ, công chức trong ngành. Quá
trình phối hợp phải căn cứ vào nội dung, cơ sở pháp lý để xác định cơ quan nào
chủ trì, cơ quan phối hợp. Trong đó, cần chú trọng việc phối hợp giữa cơ quan
thanh tra với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xử lý các kết
57
luận, kiến nghị thanh tra, đảm bảo xử lý các sai phạm kịp thời, có như vậy thì
hoạt động thanh tra mới thực sự có hiệu lực, hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động quản lý nhà nước và phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật.2.4. KINH NGHIỆM VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
MỘT SỐ BỘ, NGÀNH Ở VIỆT NAM VÀ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.4.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của Thanh tra một số bộ, ngành
ở Việt NamTheo quy định tại Điều 17 Luật Thanh tra năm 2010, Thanh tra bộ là cơ
quan của bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra hành
chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của bộ; tiến
hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi
quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
Thanh tra bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra
viên. Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau
khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ. Phó Chánh Thanh tra bộ giúp
Chánh Thanh tra bộ thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh
tra bộ. Thanh tra bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng và chịu sự chỉ
đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra bộ được quy định tại Điều 18 Luật
Thanh tra năm 2010 [43], cụ thể là:
1. Trong quản lý nhà nước về thanh tra thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của bộ, Thanh tra bộ có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
a) Xây dựng kế hoạch thanh tra trình Bộ trưởng phê duyệt; tổ chức thực
hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Thanh tra bộ; hướng dẫn, theo
dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm
của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ;
58
b) Hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Thanh tra sở;
hướng dẫn, kiểm tra cơ quan, đơn vị thuộc bộ thực hiện quy định của pháp
luật về thanh tra;
c) Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành thuộc bộ báo cáo về công tác thanh tra; tổng hợp, báo cáo
kết quả về công tác thanh tra thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ;
d) Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết
định xử lý về thanh tra của Bộ trưởng, Thanh tra bộ.
2. Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra bộ có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
a) Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ; thanh
tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng quyết định thành lập;
b) Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về
chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức,
cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực do bộ phụ trách;
c) Thanh tra vụ việc khác do Bộ trưởng giao;
d) Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết
định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối
với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ khi cần thiết.
3. Giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo.
4. Giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham
nhũng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp
luật về phòng, chống tham nhũng.
59
Qua khảo sát, nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra của
một số bộ, ngành ở Việt Nam (gồm Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Công an và Tòa án nhân dân tối cao), cho thấy:
Thanh tra các bộ, ngành nói trên được thành lập và hoạt động trên cơ sở
quy định của pháp luật về thanh tra và quy định về chức năng nhiệm vụ của bộ,
ngành đó; có tài khoản và con dấu riêng.
Về tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ: Thanh tra của các bộ, ngành đều
được lập ở cấp Trung ương (Thanh tra cấp bộ, ngành) và ở cấp tỉnh (Thanh tra
cấp sở). Vị trí Thanh tra cấp bộ, ngành tương đương cấp Cục, Vụ, Viện trực
thuộc bộ, ngành đó (Thanh tra Bộ Công an tương đương với cấp Tổng cục trực
thuộc Bộ trưởng; trong các Tổng cục, Cục, Vụ ... đều có cơ quan có Thanh tra
của cấp tương ứng); Thanh tra ở cấp tỉnh tương đương cấp phòng thuộc sở,
ngành. Tổ chức bộ máy của Thanh tra cấp bộ, ngành đều có cấp phòng. Thanh
tra Bộ Tư pháp có 04 phòng, 27 biên chế, Thanh tra Bộ Kế hoạch và đầu tư có
5 phòng, 31 biên chế, Thanh tra Bộ Công an có có 8 phòng, 130 biên chế,
Thanh tra Toà án nhân dân tối cao có 04 phòng, 24 biên chế.
Thanh tra của các bộ, ngành có Chánh Thanh tra và các Phó Chánh Thanh
tra, số lượng Phó Chánh thanh tra ít nhất 03 người (Thanh tra Toà án nhân dân tối
cao, Thanh tra Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ kế hoạch và Đầu tư), nhiều nhất có 05
người (Thanh tra Bộ Công an); có các chức danh công chức theo đặc thù của từng
ngành. Cơ chế hoạt động thanh tra thực hiện theo Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại,
Luật tố cáo và các văn bản đặc thù do bộ trưởng, thủ trưởng ngành quy định.
Thanh tra của các bộ, ngành có Quy chế quy định về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ,
quyền hạn của Thanh tra bộ, ngành; đồng thời, có Quy chế quy định về nội dung,
trình tự, thủ tục... hoạt động thanh tra. Công tác thanh tra được phân cấp rõ ràng
cho từng cấp (trong đó, Thanh tra ngành Công an ở một số đơn vị cấp huyện có
Đội Thanh tra hoặc cán bộ thanh tra chuyên trách).
Thanh tra bộ thực hiện hoạt động thanh tra các đối tượng thuộc quyền
trực tiếp quản lý của Bộ trưởng (trừ chức danh do Ban Bí thư quản lý); có
60
nhiệm vụ quản lý, đôn đốc, hướng dẫn nghiệp vụ đối với thanh tra cấp dưới ...
Thanh tra Bộ Công an, Thanh tra Toà án nhân dân tối cao đặc biệt coi trọng và
thường xuyên thanh tra việc chấp hành pháp luật và quy định của ngành trong
hoạt động nghiệp vụ.
Nếu đối tượng thanh tra không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thì Trưởng
đoàn thanh tra có thể là lãnh đạo cấp phòng của cơ quan Thanh tra. Thời gian
tiến hành một cuộc thanh tra (Quỹ thời gian một cuộc thanh tra) của các đoàn
thanh tra tại các đơn vị được thanh tra ít nhất 7 ngày (nếu nội dung thanh tra
đơn giản), nhiều nhất đến 45 ngày. Một năm Thanh tra bộ, ngành tiến hành
thanh tra theo kế hoạch ít nhất khoảng 10 cuộc và nhiều nhất 20 cuộc (như
Thanh tra Bộ Công an), chưa kể một số cuộc thanh tra đột xuất khác. Thanh tra
các bộ, ngành đều thường xuyên thực hiện công tác kiểm tra sau thanh tra
(kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra của đối tượng đã được thanh tra).
Kết quả nghiên cứu kinh nghiệm về mô hình tổ chức và hoạt động của
thanh tra các bộ, ngành trên có ý nghĩa thiết thực trong việc nghiên cứu, xây
dựng các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân như:
2.4.2. Mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra ở một số nước trên
thế giới
Trên thế giới có nhiều mô hình về cơ quan thanh tra, sự đa dạng đó phụ
thuộc vào thiết chế chính trị, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và truyền thống
pháp lý của mỗi quốc gia; có một số loại hình thanh tra phổ biến sau:
Thứ nhất, Thanh tra Quốc hội: Thụy Điển là nơi thành lập Thanh tra
Quốc hội sớm nhất trên thế giới, khoảng đầu thế kỷ 20, sau đó là Đan Mạch,
Canada và một số nước phát triển ở Bắc Âu và Nam Mỹ. Thanh tra Quốc hội
thuộc cơ quan quyền lực, được thành lập bởi một đạo luật, cơ quan này có cơ
cấu tổ chức gọn nhẹ. Về nguyên tắc, Thanh tra Quốc hội có quyền được tiếp
nhận tất cả các quyền được tiếp nhận tất cả các đơn thư khiếu nại đối với hoạt
61
động của cơ quan nhà nước, kể cả khiếu nại của những người đang bị tước
quyền tự do, hoặc hạn chế quyền tự do như bị bắt, bị tạm giam hoặc đang
chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, Thanh tra Quốc hội chủ yếu tiếp nhận và
xem xét khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Khi
xem xét có quyền tổ chức việc điều tra để làm rõ nội dung vụ việc, yêu cầu các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến
khiếu nại. Nếu kết luận khiếu nại của người dân là đúng thì yêu cầu cơ quan
hành chính phải sửa chữa, khắc phục. Trong trường hợp yêu cầu đó không được
thực hiện, thì Thanh tra Quốc hội áp dụng các biện pháp bằng áp lực của Quốc
hội buộc cơ quan hành chính phải thi hành hoặc gửi kết luận của mình đăng trên
các báo, hoặc thông báo trên những phương tiện thông tin đại chúng. Trong quá
trình xem xét, nếu có dấu hiệu của tội phạm thì tiến hành điều tra sơ bộ và
chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan công tố giải quyết.
Thứ hai, Thanh tra giám sát hành chính: Cơ quan này được thành lập ở
các nước Châu Á, Châu Phi như Trung Quốc, Lào, Hàn Quốc, Ai Cập; tuy
nhiên, mô hình cụ thể ở mỗi nước có khác nhau. Thanh tra giám sát hành
chính được xác định là cơ quan trực thuộc cơ quan hành pháp cao nhất, độc
lập với các cơ quan hành chính cấp dưới; có chức năng giám sát hoạt động
của các cơ quan hành chính, công chức hành chính, bảo đảm sự chấp hành và
tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh; xem xét giải quyết một số khiếu
nại hành chính, các tố cáo về hành vi tham nhũng của công chức.
Thứ ba, Thanh tra chuyên ngành: Là loại hình thanh tra được thành lập
hầu hết ở các nước trên thế giới, song song tồn tại với một số loại hình thanh
tra khác (như Thanh tra Quốc hội, Thanh tra giám sát hành chính). Cơ quan
này được thành lập ở các bộ, ngành. Tùy theo quan điểm mà mỗi nước có thể
thành lập ít hay nhiều cơ quan thanh tra chuyên ngành và tổ chức ở các cấp độ
khác nhau. Vì vậy, quy mô tổ chức, số lượng nhân viên mỗi loại hình Thanh
tra chuyên ngành rất khác nhau. Cộng hòa Pháp là nước có mô hình Thanh tra
62
chuyên ngành khá đồ sộ, có đến gần 20 cơ quan với chức năng nhiệm vụ chủ
yếu: thanh tra, kiểm tra hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi do bộ, ngành quản lý;
kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm [26].
Thứ tư, Thanh tra tư pháp: Ở một số nước trên thế giới, cơ chế giám sát
đối với công việc của cơ quan tư pháp thường bao gồm việc thanh tra, kiểm
soát hạch toán hay tài chính và kiểm toán. Các cơ chế này được xây dựng để
đảm bảo có một sự kiểm tra từ bên ngoài đối với tính hợp pháp trong từng
lĩnh vực hoạt động cụ thể của cơ quan tư pháp. Ngoài ra, đó là những công cụ
được sử dụng để đảm bảo tính minh bạch cũng như trách nhiệm giải trình đối
với hoạt động của cơ quan tư pháp. Các hình thức bố trí cụ thể về mặt tổ chức
của các cơ quan phụ trách chức năng giám sát này ở mỗi quốc gia có sự khác
nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung khá phổ biến là có Ban Thanh tra (hoạt
động cho Bộ Tư pháp, cho Hội đồng tư pháp hay cho Toà án tối cao). Việc
thanh tra được tiến hành để kiểm tra mức độ thường xuyên, kịp thời của các
hoạt động và để phát hiện khả năng các hành vi sai phạm của nhân viên các
cơ quan tư pháp. Việc thanh tra có thể được tiến hành theo định kỳ (hàng
năm) như là một hình thức kiểm soát việc tiêu chuẩn đối với thực hiện các
chức năng của cơ quan tư pháp. Trong các trường hợp khác, việc thanh tra
được tiến hành vì các lý do từ bên ngoài như các hoạt động điều tra hình sự
hay báo cáo của cơ quan truyền thông mà có thể tạo áp lực buộc các cơ quan
quản lý phải tiến hành một cuộc thanh tra. Việc thanh tra cũng được sử dụng
để cung cấp cho các cơ quan quản lý những dữ liệu và thông tin cần thiết để
đánh giá việc thực hiện chức năng của ngành tư pháp. Theo truyền thống, các
Ban Thanh tra có nhiệm vụ thu thập thông tin, đánh giá việc thực hiện các
chức năng của cơ quan tư pháp ở góc độ pháp lý và báo cáo cho các cơ quan
quản lý hoặc thông tin cho công chúng. Mục tiêu chính là phát hiện và chỉnh
đốn những sai phạm quy tắc chính thức. Điển hình như:
63
Ban giám đốc Thanh tra của Bộ tư pháp Jordan: Từ năm 1994, Bộ Tư
pháp Jordan bắt đầu tiến hành hoạt động thanh tra tư pháp thông qua Ban Giám
đốc Thanh tra. Để bảo vệ tính độc lập tư pháp, các thanh tra viên được lựa chọn từ
một nhóm các Thẩm phán cao cấp làm việc trong các toà án, khu vực tài phán, vụ,
ban khác nhau. Để đảm bảo hơp nữa tính độc lập tư pháp, các báo cáo về Thẩm
phán không chỉ được trình lên Bộ trưởng mà còn lên Chánh án Toà Phá án. Theo
quy định hiện hành, Thanh tra đánh giá hoạt động của tất cả các Thẩm phán Toà
Sơ thẩm, Thẩm phán Thi hành án, Thẩm phán Toà Phúc thẩm, Tổng Chưởng lý
và các Thẩm phán Công tố. Việc thanh tra sẽ xem xét các chỉ số về hoạt động
pháp lý (việc áp dụng luật và các thủ tục phù hợp trong các vụ án, tôn trọng các
quyền khiếu kiện và bằng chứng, cơ sở của phán quyết, tính hợp lý của quyết
định, lý do hoãn) cũng như hoạt động (khoản thời gian cần thiết để ra các phán
quyết và tỷ lệ phần trăm vụ án được giải quyết trong năm). Trong việc đánh giá
một Thẩm phán, một Thanh tra viên chọn ngẫu nhiên 40 vụ án đã được giải quyết
xong, xem xét từng hồ sơ, đánh giá một loạt nhân tố và sau đó lấy điểm trung bình
của các vụ án để làm điểm cuối cùng. Mỗi Thẩm phán sẽ được đánh giá bởi hai
Thanh tra viên khác nhau, sau đó hai người này gặp nhau để thống nhất về những
phát hiện. Sau đó một bản báo cáo thuyết minh sẽ được chuẩn bị trong đó nhấn
mạnh các phát hiện chính về mỗi mục và tuyên bố về điểm cuối cùng của Thẩm
phán. Mỗi Thẩm phán được đánh giá theo thang điểm 100 xếp hạng từ xuất sắc
(91-100) đến yếu (dưới 50). Sau đó, Thanh tra sẽ trình báo cáo này cho Bộ trưởng
Bộ Tư pháp và Chánh án Toà Phá án.
Về mặt lý thuyết, việc đánh giá này cần phải được thực hiện ít nhất mỗi
năm một lần. Tuy nhiên, kế hoạch đánh giá khắt khe này không thể thực hiện
được vì lý do nguồn lực sẵn có rất hạn chế và vì các nhiệm vụ khác của Ban
Giám đốc Thanh tra. Trên thực tế, Thanh tra cũng tiến hành điều tra các khiếu
nại đối với các Thẩm phán. Nếu khiếu nại này có liên quan đến việc hoãn một
vụ án, Thanh tra “có thể nghiên cứu hồ sơ từ quan điểm này và viết một bản
báo cáo”; nếu sự việc này có liên quan đến hành vi cá nhân, Thanh tra có thể
64
viết một bản báo cáo gửi cho cả Bộ trưởng Tư pháp và Chánh án. Thanh tra có
quyền ban hành lệnh hầu toà, xem lại tất cả các tài liệu liên quan đến việc kết
tội và sử dụng tất cả các phương pháp điều tra để tiến hành điều tra. Ngoài ra,
Ban Giám đốc Thanh tra còn có vai trò trong việc đề bạt các Thẩm phán lên
ngạch, bậc cao hơn. Việc đề bạt này dựa trên sự đánh giá về dịch vụ được tiến
hành bởi Hội đồng tư pháp, căn cứ vào báo cáo của các thanh tra viên có mô tả
chức năng của các Thẩm phán trong đó cân nhắc đến các hình thức kỷ luật.
Cuối cùng Ban Giám đốc sẽ đánh giá hoạt động của các cán bộ làm việc ở các
vụ, phòng khác nhau của Toà án. Gần đây, một kinh nghiệm thực tiễn mới đã
được phát triển, bao gồm các hoạt động thanh tra nội bộ do các Chánh án tiến
hành. Để thực hiện nhiệm vụ này, các Chánh án sử dụng một bộ tiêu chí
chuyên ngành và một hình thức đặc biệt để đánh giá hoạt động của các nhân
viên cấp dưới của mình hàng tháng.
Một xu hướng gần đây cho thấy sự mở rộng nhiệm vụ của các Ban
Thanh tra Toà án bao gồm cả việc đánh giá kết quả đầu ra, hoạt động cũng như
hành xử của người dùng dịch vụ Toà án. Điều này được minh hoạ bởi trường
hợp của Thanh tra Hoàng Gia về quản trị Toà án (HMICA) ở Anh.
HMICA là một cơ quan độc lập được thành lập theo Đạo luật Toà án
năm 2003 để “thanh tra và báo cáo cho Tổng Trưởng lý về hệ thống hỗ trợ việc
thực hiện nhiệm vụ của Toà án (Toà án Hoàng gia, các toà án hạt, và các Toà
tiểu hình và những dịch vụ được cung cấp bởi những Toà án này)”. Trong quá
trình thực thi nhiệm vụ này, HMICA không được trao quyền để thanh tra
những người ra quyết định tư pháp hay thực thi bất cứ quyền tuỳ nghi tư pháp
nào. Đáng lưu ý là trong một số trường hợp HMICA phối hợp với các ban
thanh tra khác như Thanh tra của cơ quan Công tố Hoàng gia (HMCPSI) hay
Thanh tra Hoàng gia về hoạt động quản chế (HMIP) tiến hành các hoạt động
thanh tra chung. Cũng giống như cơ quan thanh tra tư pháp khác, HMICA có
mục tiêu đảm bảo việc cung cấp dịch vụ an toàn và hợp lý của các Toà án với
các cơ quan quản lý và công chúng, để nâng cao chất lượng các dịch vụ này và
65
để thông tin cho công chúng. Một đặc điểm riêng biệt là việc đánh giá này
không chỉ tập trung vào các vi phạm quy tắc về hành chính và hạch toán như ở
trên mà còn tập trung vào một bộ tiêu chí rộng hơn nhiều.
Phương pháp thanh tra của HMICA: mỗi đợt thanh tra đều bao gồm các
hoạt động tại hiện trường (phỏng vấn, quan sát, thu thập tài liệu) và sử dụng
việc tự đánh giá trên cơ sở các bảng hỏi. Các chứng cứ thu thập được HMICA
sử dụng khi “ra các phán quyết”. Sau đó, Ban Thanh tra dự thảo các khuyến
nghị để xác định những vấn đề cần cải thiện và cũng nhấn mạnh những kinh
nghiệm tốt hiện có. Theo quy định, khi thanh tra kết thúc, Cơ quan Quản lý
Toà án dự thảo một kế hoạch hành động để thực hiện các khuyến nghị này.
Trong chừng mực nào đó, HMICA dường như đóng vai một nhà tư vấn đưa ra
các khuyến nghị để nâng cao chất lượng hoạt động của toà án hơn là một cơ
quan thanh tra truyền thống chịu trách nhiệm kiểm tra việc áp dụng phù hợp
các quy định [9].
Các cơ quan thanh tra trên thế giới với nhiều cách thức tổ chức khác
nhau song có vai trò quan trọng trong việc giám sát, kiểm tra hoạt động của các
cơ quan hành chính, công chức hành chính. Qua đó kịp thời phát hiện những sơ
hở, yếu kém trong hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan hành chính,
kiến nghị những biện pháp khắc phục, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý. Kết
quả nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra ở một số nước trên thế
giới nêu trên là kinh nghiệm rất có giá trị để tham khảo có chọn lọc trong quá
trình nghiên cứu đề tài.
2.4.3. Một số vấn đề rút ra qua nghiên cứu các mô hình
Từ kết quả nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của Thanh tra một
số bộ, ngành ở Việt Nam và ở một số nước, có thể rút ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu về tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ của
Thanh tra một số bộ, ngành ở Việt Nam, Luận án sẽ đề xuất phương án về cơ
cấu tổ chức bộ máy, số lượng lãnh đạo, quản lý và biên chế công chức của
Thanh tra các cấp trong ngành Kiểm sát nhân dân.
66
Thứ hai, kết quả nghiên cứu về thẩm quyền, nội dung, phương thức
hoạt động của Thanh tra một số bộ, ngành ở Việt Nam, đặc biệt là của Thanh
tra Bộ Công an, Thanh tra Toà án có ý nghĩa thiết thực đối với việc đề xuất
đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân; trong đó, về nội dung thanh tra cần coi trọng thanh tra việc chấp
hành pháp luật và quy định của ngành trong hoạt động nghiệp vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; đổi mới quy trình tiến hành,
cách thức thực hiện một cuộc thanh tra, đặc biệt là việc tăng cường thực hiện
kiểm tra sau thanh tra.
Thứ ba, hệ thống cơ quan Thanh tra các bộ, ngành ở Việt Nam đều
được thành lập và tổ chức ở cả hai cấp (Thanh tra bộ, ngành ở cấp Trung
ương và Thanh tra sở, ngành ở cấp tỉnh), điều đó là hợp lý, Luận án đã và
đang đề xuất lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao phương án thành lập hệ
thống cơ quan Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân ở hai cấp là: Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
Thứ tư, sự đa dạng về mô hình cơ quan thanh tra phụ thuộc vào thiết chế
chính trị, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và truyền thống pháp lý của mỗi
quốc gia như: Thanh tra Quốc hội (ở Thụy Điển, Đan Mạch, Canada và một số
nước phát triển ở Bắc Âu, Nam Mỹ); Thanh tra giám sát hành chính (ở các
nước Châu Á, Châu Phi trong đó có Trung Quốc, Lào, Hàn Quốc, Ai Cập);
Thanh tra chuyên ngành (được thành lập ở các bộ, ngành); Thanh tra tư pháp
(sự kiểm tra từ bên ngoài đối với tính hợp pháp trong từng lĩnh vực hoạt động
cụ thể của cơ quan tư pháp). Mỗi loại hình đều có những nhân tố hợp lý về tổ
chức và phương thức hoạt động, phụ thuộc vào chế độ chính trị, chế độ kinh
tế và truyền thống pháp luật của quốc gia. Đặc biệt, kết quả nghiên cứu về mô
hình tổ chức, thẩm quyền, nội dung và phương thức hoạt động của Thanh tra tư
pháp nói chung, Thanh tra toà án nói riêng của một số nước trên thế giới rất có
ý nghĩa cho việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam.
67
Thứ năm, kết quả nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc những nhân tố
hợp lý kinh nghiệm về mô hình tổ chức và hoạt động của Thanh tra một số bộ,
ngành ở Việt Nam là rất có giá trị để tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề
tài, đồng thời có ý nghĩa thiết thực trong việc nghiên cứu, xây dựng các giải
pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
1. Nội dung chương 2 đã nghiên cứu làm rõ những vấn đề về cơ sở lý
luận cơ bản chung nhất cho việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân.
2. Phần lớn nội dung Chương 2 đã tập trung nghiên cứu, làm rõ khái
niệm về tổ chức thanh tra, khái niệm về hoạt động thanh tra nói chung và khái
niệm về tổ chức, hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng;
vị trí, vai trò, đặc điểm, nội dung và nguyên tắc hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân.
3. Nghiên cứu, làm rõ yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc hoàn
thiện về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân. Trên
cơ sở đó, nghiên cứu, phân tích làm rõ những tiêu chí và điều kiện bảo đảm
việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
theo yêu cầu cải cách tư pháp.
4. Để bổ sung, làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận, trong chương 2
còn nghiên cứu kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động thanh tra của một số bộ,
ngành ở Việt Nam; nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra của
một số nước trên thế giới.
Với những kết quả nghiên cứu các nội dung ở chương 2, góp phần hoàn
thiện cơ sở lý luận, để nghiên cứu đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động
của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân đối với công tác quản lý, xây dựng
ngành, đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta trong tình hình mới.
68
Chương 3
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, THỰC TRẠNG
VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
3.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THANH TRA
NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
Trong thời kỳ đầu mới thành lập, từ tháng 7 năm 1960 cho đến tháng 6
năm 1987, trong tổ chức bộ máy của ngành Kiểm sát nhân dân chưa hình
thành tổ chức thanh tra chuyên trách, chủ yếu thực hiện hình thức kiểm tra nội
bộ của cấp trên đối với cấp dưới. Công tác kiểm tra được thực hiện dựa trên
các quy định tại các quy chế nghiệp vụ kiểm sát và quy chế về tổ chức, cán bộ
của ngành. Trong đó, kiểm tra việc triển khai kế hoạch, chỉ thị công tác và
thực hiện các chỉ tiêu công tác hàng năm được giao cho Văn phòng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao thực hiện; kiểm tra việc thực hiện công tác nghiệp vụ
kiểm sát do đồng chí Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Vụ
trưởng các Vụ nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách
nhiệm thực hiện; kiểm tra về công tác tổ chức - cán bộ, giải quyết đơn khiếu
nại, tố cáo có liên quan đến cán bộ trong ngành do Vụ trưởng Vụ Tổ chức -
cán bộ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm thực hiện
công tác kiểm tra trên các lĩnh vực hoạt động trong phạm vi thẩm quyền được
giao theo phân cấp quản lý và báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao.
Do chưa có tổ chức thanh tra chuyên trách, nên việc phát hiện và xử lý
vi phạm trong nội bộ ngành không được kịp thời; chưa phát hiện được những
sơ hở về cơ chế quản lý, những vi phạm, thiếu sót trong công tác nghiệp vụ để
kịp thời kiến nghị, đề xuất các biện pháp khắc phục, phòng ngừa.
69
Tổ chức bộ máy của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân chính thức
được hình thành từ khi Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Quyết định số 15/QĐ-TC ngày 13/7/1987 về việc thành lập Ban Thanh tra, là
đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trên cơ sở Văn bản số
106/CV-HĐNN ngày 11/6/1987 của Hội đồng Nhà nước (nay là Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội) phê chuẩn bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao. Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi mới thành lập do
một đồng chí Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm Trưởng
ban và hai đồng chí nguyên là Vụ trưởng làm Phó Trưởng ban.
Để công tác thanh tra trong nội bộ ngành hoạt động được thuận lợi, có
hiệu quả, đáp ứng với yêu cầu quản lý, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, ngày 17/9/1992 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành
Quy chế số 08, quy định về về tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra. Theo
quy chế, Ban Thanh tra là đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trực tiếp chỉ đạo, có nhiệm vụ:
Giải quyết đơn, thư tố cáo cán bộ Kiểm sát vi phạm kỷ luật và vi phạm pháp
luật xảy ra ở các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân các cấp; xem xét, kết
luận những đơn khiếu nại về kỷ luật do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao giao cho.
Cùng với sự phát triển của ngành, tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân cũng từng bước được củng cố, kiện toàn
và phát triển.
Khi mới thành lập, Ban Thanh tra chỉ có 04 biên chế, đến năm 1995 đã
được tăng cường lên 09 biên chế. Để kiện toàn tổ chức bộ máy của Ban
Thanh tra đáp ứng yêu cầu phát triển chung của ngành, ngày 03/4/1995 Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký ban hành Quy chế số 16 về tổ
chức và hoạt động của Ban Thanh tra (thay thế Quy chế số 08); trong đó, có
quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy làm việc của Ban Thanh tra gồm có 02 tổ
70
công tác: Tổ Tổng hợp - văn thư và Tổ Chuyên trách thanh tra; đồng thời, quy
định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng tổ. Chức danh của các
thành viên trong Ban Thanh tra được quy định đầy đủ cả về nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm.
Trong quá trình đẩy mạnh cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân tiếp tục được củng cố, kiện toàn và tăng cường hơn. Ngày 27/01/2010
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký ban hành Quy chế số 68 về
tổ chức và hoạt động của Ban Thanh tra (sửa đổi, bổ sung Quy chế số 08).
Nội dung Quy chế 68 đã sửa đổi, bổ sung các quy định về vị trí, chức trách,
nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Ban Thanh tra, cụ thể như sau:
Về vị trí, chức trách: Ban Thanh tra là đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, có chức năng kiểm tra, xác minh, kết luận đơn tố cáo liên
quan đến cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân; thanh tra một số hoạt
động nghiệp vụ trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp; thực hiện những việc khác khi được Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao giao.
Về nhiệm vụ và phạm vi hoạt động: Quy chế số 68 đã sửa đổi nội dung
các nhiệm vụ về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến công
chức trong ngành, nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện Quy chế dân chủ trong
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp cho cụ thể, rõ ràng hơn. Đặc
biệt, về nhiệm vụ thanh tra hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp lần đầu tiên đã được xác định rõ là nhiệm vụ
thường xuyên của công tác thanh tra: “Thanh tra việc chấp hành pháp luật và
quy chế hoạt động trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp”. Đồng thời, Quy chế số 68 còn bổ sung thêm một số
nhiệm vụ mới để phù hợp với quy định của pháp luật và các nhiệm vụ mới
71
được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao cho Ban Thanh tra, đó
là: Theo dõi, tổng hợp kết quả giải quyết đơn thư tố cáo về tham nhũng trong
ngành Kiểm sát nhân dân theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng.
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của Ban
Thanh tra và những vụ việc Ban Thanh tra chuyển đến các đơn vị, địa phương
trong Ngành. Tham gia và đôn đốc việc kiểm điểm đối với các đơn vị, cá
nhân trong Ngành có sai phạm thuộc thẩm quyền xử lý của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
Về tổ chức bộ máy: Quy chế số 68 đã có sự sửa đổi mang tính căn
bản về tổ chức bộ máy của Ban Thanh tra, lần đầu tiên tổ chức bộ máy của
Ban Thanh tra được cơ cấu gồm 03 phòng (Phòng Thanh tra nghiệp vụ;
Phòng Thanh tra xét khiếu tố; Phòng Tổng hợp, quản lý thông tin), mỗi
phòng được quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Triển khai thực hiện quy
định về tổ chức bộ máy của Ban Thanh tra theo Quy chế số 68, ngày
16/3/2010 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký Quyết định số
số 08/QĐ/VKSTC-V9 thành lập bộ máy cấp Phòng thuộc Ban Thanh tra.
Về cơ cấu công chức: ngoài các chức danh đã được quy định tại các
quy chế trước đây (như Trưởng ban, Phó Trưởng ban, các Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao), Quy chế số 68 đã quy định bổ sung thêm các chức
danh khác cho phù hợp với thực trạng tổ chức bộ máy và cán bộ của Ban
Thanh tra như: các Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, các Kiểm tra viên và
công chức khác.
Cùng với việc kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế của Ban Thanh tra
cũng được bổ sung, tăng cường hơn. Ngày 30/3/2011, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã ký Quyết định số 20/QĐ-VKSTC-V9 giao cho Ban
Thanh tra được 11 chỉ tiêu biên chế. Tiếp đến ngày 26/3/2012, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ký Quyết định số 97/QĐ-VKSTC-V9 giao
bổ sung cho Ban Thanh tra được tăng lên 15 chỉ tiêu biên chế.
72
Trước yêu cầu đổi mới và tăng cường công tác thanh tra trong nội bộ
ngành, với tên gọi là Ban Thanh tra không còn phù hợp với vị trí, chức trách,
nhiệm vụ của công tác thanh tra và không phù hợp với tên gọi chung của cơ
quan thanh tra thuộc các bộ, ngành được quy định trong Luật Thanh tra năm
2010; trong ngành thường có sự nhầm lẫn giữa “Ban Thanh tra” của ngành
với “Ban Thanh tra nhân dân” của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao do
Hội nghị cán bộ, công chức cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao bầu ra.
Do đó, theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ngày
16/8/2012, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (khoá 13) đã có Nghị quyết số
522d/NQ-UBTVQH13 phê chuẩn việc điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ và đổi
tên một số đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
trong đó có việc đổi tên gọi “Ban Thanh tra” thành “Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao”. Theo đó, chức vụ Trưởng Ban Thanh tra và Phó trưởng
Ban Thanh tra được đổi là Chánh Thanh tra và Phó Chánh Thanh tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 522d/NQ-UBTVQH13 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội khoá 13, ngày 01/3/2013 Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã ký ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Thanh
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Quy chế số 72). Quy chế đã sửa đổi, bổ
sung Quy chế số 68 về một số nội dung như: tên gọi, vị trí, chức trách, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy, cán bộ của Thanh tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao trên cơ sở quy định của Luật Thanh tra năm 2010, Nghị quyết số
522d của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Quy chế số 808 về công tác thanh
tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân, nhằm đáp ứng yêu cầu tăng
cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân
dân các cấp trong giai đoạn hiện nay, cụ thể là:
Về vị trí, chức trách: Thanh tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là
đơn vị trực thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, thực hiện thanh tra về
73
hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, công tác tổ chức - cán bộ, quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản được
Nhà nước cấp, kiểm tra việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và thực
hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp;
giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến công chức, viên chức và người
lao động trong ngành Kiểm sát nhân dân. Tham mưu giúp Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quản lý về công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và theo dõi, tổng hợp kết quả giải quyết tố cáo về
tham nhũng có liên quan đến công chức, viên chức và người lao động trong
ngành Kiểm sát nhân dân.
Về cơ cấu tổ chức bộ máy: Quy chế đã quy định cơ cấu tổ chức bộ
máy của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có 04 phòng, gồm:
Phòng Tham mưu tổng hợp; Phòng Thanh tra nghiệp vụ; Phòng Thanh tra
hành chính và Phòng Thanh tra xét khiếu tố. Mỗi phòng có chức năng,
nhiệm vụ cụ thể.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/BCSĐ ngày 20/12/2013
của Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc phê duyệt Đề
án “Tăng cường tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân”, trong năm 2014 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã
quyết định thành lập tổ chức Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
(tương đương cấp phòng) tại 08 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố
gồm: thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng,
Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Đồng Nai, Đắk Lắk; Viện kiểm sát
nhân dân các tỉnh, thành phố còn lại đã quyết định thành lập bộ phận (Tổ
thanh tra) chuyên trách hoặc bố trí cán bộ thanh tra chuyên trách nằm trong
Phòng Tổ chức - Cán bộ.
Quá trình phát triển về tổ chức bộ máy của Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân được khái quát theo sơ đồ sau:
74
SƠ ĐỒ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VỀ TỔ CHỨC
CỦA THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
Giai đoạn từ tháng 7/1960 đến tháng 6/1987Ngành Kiểm sát nhân dân chưa hình thành tổ chức thanh tra chuyên trách
Giai đoạn từ tháng 7/1987 đến tháng 4/1994- Thành lập Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo Quyết định số 15, ngày13/7/1987 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tổ chức bộ máy của Ban Thanhtra Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn đơn giản, chưa hình thành các tổ, phòng- Hoạt động: Giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ trong ngành.
Giai đoạn từ tháng 5/1994 đến tháng 2/2010- Tổ chức bộ máy của Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao được cơ cấu gồm 02 tổcông tác: Tổ Tổng hợp - văn thư và Tổ Chuyên trách thanh tra.- Hoạt động: Giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ trong ngành. Từ năm1998, được giao thêm nhiệm vụ Kiểm tra việc thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt độngcủa Viện kiểm sát nhân dân các cấp.Đến năm 2008, được giao thêm nhiệm vụ Kiểm tra việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phívà Thanh tra nghiệp vụ về án đình chỉ, án tạm đình chỉ.
Giai đoạn từ tháng 3/2010 đến tháng 3/2014- Tổ chức bộ máy của Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao được cơ cấu gồm 03phòng: Phòng Tổng hợp, quản lý thông tin; Phòng Thanh tra nghiệp vụ; Phòng Thanh traxét khiếu tố; bổ nhiệm các Trưởng phòng và Phó Trưởng phòng. Tháng 8/2012 được đổi tênlà Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.- Hoạt động: Giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ trong ngành; Kiểm traviệc thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; Kiểmtra việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Thanh tra một số hoạt động nghiệp vụ vềcông tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Giai đoạn từ tháng 4/2014 đến nay- Tổ chức bộ máy của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao được cơ cấu gồm 04 phòng:Phòng Tham mưu tổng hợp; Phòng Thanh tra nghiệp vụ; Phòng Thanh tra hành chính;Phòng Thanh tra xét khiếu tố; bổ nhiệm các Trưởng phòng và Phó Trưởng phòng.Từ tháng 4/2014 thành lập Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tại 08 tỉnh, thành phố(Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Đồng nai, Đắk Lắk, tp Hồ ChíMinh) và bộ phận Thanh tra chuyên trách thuộc Phòng tổ chức cán bộ của VKSND các tỉnh,thành phố còn lại.- Hoạt động: Giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ trong ngành; Thanh travề công tác nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; Thanh trahành chính (Thanh tra công vụ và kỷ luật nội vụ).
75
3.2. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRANGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
3.2.1. Thực trạng về tổ chức của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân ở Việt NamCùng với sự phát triển chung của ngành, tổ chức bộ máy và biên chế cán
bộ của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân từng bước được củng cố, kiện toàn,
phát triển. Từ năm 2014, được sự quan tâm chỉ đạo của Ban cán sự Đảng, lãnh
đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hệ thống Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân đã được hình thành ở hai cấp kiểm sát là Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Cụ thể là:
- Đối với Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
Tổ chức bộ máy: Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao hiện có 04
phòng, trong đó có 03 phòng được thành lập từ tháng 3/2010 là: Phòng Tham
mưu tổng hợp, Phòng Thanh tra nghiệp vụ, Phòng Thanh tra xét khiếu tố; đến
tháng 7/2014 thành lập thêm Phòng Thanh tra hành chính.
Lãnh đạo quản lý: Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được kiện
toàn có 04 lãnh đạo đơn vị, gồm 01 Chánh Thanh tra và 03 Phó Chánh Thanh tra
(trong đó, mới được bổ sung thêm 01 Phó Chánh Thanh tra từ 01/12/2014).
Ngoài ra còn có 07 lãnh đạo cấp phòng, gồm 02 Trưởng phòng (Phòng Tham
mưu tổng hợp và Phòng Thanh tra xét khiếu tố) và 05 Phó Trưởng phòng.
Biên chế cán bộ: Thực hiện Nghị quyết số 06 ngày 20/12/2013 của Ban
cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê duyệt Đề án “Tăng cường tổ
chức bộ máy, biên chế cán bộ Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân”, ngày
20/02/2014 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quyết
định số 53/QĐ-VKSTC-V9 về việc giao bổ sung 10 chỉ tiêu biên chế cho
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; tổng biên chế của Thanh tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao được giao từ ngày 15/02/2014 là 25 biên chế. Tuy
nhiên, hiện tại Thanh tra Viện Kiểm sát nhân dân tối cao mới có 20 biên chế,
gồm 13 nam, 07 nữ.
76
Về cơ cấu công chức: hiện có 02 Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; 01 Điều tra viên cao cấp; 02 Kiểm sát viên trung cấp; 07 Kiểm sát
viên sơ cấp; 01 Kiểm tra viên chính; 05 Kiểm tra viên; 02 chuyên viên.
Về độ tuổi: Dưới 30 tuổi có 04 đồng chí; từ 30 đến dưới 40 tuổi có 05
đồng chí; từ 40 đến dưới 50 tuổi có 08 đồng chí; từ 50 đến 55 tuổi có 02 đồng
chí; trên 55 tuổi có 01 đồng chí.
Về trình độ chuyên môn: 04 Thạc sỹ Luật (trong đó, có 02 đồng chí
đang làm Nghiên cứu sinh Luật); 01 Thạc sỹ Hành chính công; 14 Cử nhân
Luật; 01 Cao đẳng Văn thư lưu trữ.
Trình độ Lý luận chính trị: 14 Cao cấp, Cử nhân chính trị.
Trình độ quản lý Nhà nước: 10 cao cấp, 04 trung cấp.
- Đối với Thanh tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh:
Từ tháng 4/2014, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã quyết
định thành lập tổ chức Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (tương
đương cấp phòng) tại 08 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố gồm: thành
phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng, Quảng Ninh,
Thanh Hoá, Nghệ An, Đồng Nai, Đắk Lắk; Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh,
thành phố còn lại đã quyết định thành lập bộ phận (Tổ thanh tra) chuyên trách
hoặc bố trí cán bộ thanh tra chuyên trách nằm trong Phòng Tổ chức - Cán bộ.
Qua số liệu tổng hợp báo cáo của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, đến hết ngày 30/11/2014 đã có 08/08 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành
phố thành lập tổ chức Thanh tra (tương đương cấp phòng) với tổng số 29 biên
chế; 08/08 đơn vị đều đã bổ nhiệm Chánh Thanh tra và có 03/08 đơn vị bổ
nhiệm Phó Chánh thanh tra (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Thanh Hóa);
44/55 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố còn lại đã lập Tổ thanh tra nằm
trong Phòng Tổ chức - cán bộ với 90 biên chế; có 06/55 Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh (Hòa Bình, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình và Đắk Nông)
bố trí 02 cán bộ kiêm nhiệm làm công tác thanh tra; 05/55 Viện kiểm sát nhân
77
dân tỉnh (Cao Bằng, Lào Cai, Ninh Thuận, Tây Ninh và Đồng Tháp) bố trí 01
cán bộ kiểm nhiệm làm công tác thanh tra [58].
3.2.2. Thực trang về hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân ở Việt NamNội dung hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân bao gồm:
Hoạt động thanh tra nghiệp vụ (thanh tra việc chấp hành pháp luật và quy chế
của ngành trong hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp; Hoạt động Thanh tra hành chính (bao gồm: Thanh tra việc
chấp hành pháp luật và quy chế của ngành về công tác tổ chức - cán bộ;
Thanh tra việc chấp hành pháp luật và quy chế của ngành về công tác quản lý
và sử dụng kinh phí ngân sách và tài sản được cấp; Thanh tra trách nhiệm đối
với công chức, viên chức và người lao động trong ngành về việc chấp hành kỷ
luật công vụ và trật tự nội vụ); Hoạt động thanh tra xét khiếu tố (tiếp nhận,
giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo và các vụ việc do báo chí phản ánh có liên
quan đến công chức, viên chức và người lao động trong Ngành).
Kết quả hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân thời gian
qua thể hiện cụ thể như sau:
3.2.2.1. Kết quả hoạt động thanh tra nghiệp vụ thực hành quyềncông tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
Trong thời kỳ đầu mới thành lập, Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chủ yếu thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan
đến công chức, viên chức, người lao động trong Ngành. Thực hiện sự chỉ đạo
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân, sau khi Quy chế về tổ chức
và hoạt động của Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Quy chế số
58) được ban hành năm 2005, ngoài nhiệm vụ giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo,
Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã bước đầu triển khai thực
hiện các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch về việc chấp hành pháp
luật và quy chế của ngành trong hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố
78
và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đặc biệt, Quy chế về tổ chức và hoạt động
của Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Quy chế số 68) ban hành
năm 2010 và Quy chế về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao (Quy chế số 72) ban hành năm 2013 đã xác định rõ nhiệm
vụ thường xuyên, trọng tâm của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
là: “Thanh tra việc chấp hành pháp luật và quy chế hoạt động trong công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” [83].
Kết quả hoạt động thanh tra nghiệp vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp từ năm 2006 đến năm 2014 thể hiện như sau:
Trong thời gian từ năm 2006 đến năm 2012, Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã phối hợp với một số vụ nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tham mưu để lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban
hành Kế hoạch và Quyết định thành lập các Đoàn kiểm tra do Thanh tra chủ
trì, tiến hành 40 cuộc kiểm tra về hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra; 08 cuộc kiểm tra về hoạt động nghiệp vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự; 09 cuộc kiểm tra về hoạt động
nghiệp vụ kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; 09
cuộc kiểm tra việc thực hiện chức năng kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự,
hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và công tác giải quyết đơn khiếu
nại, tố cáo về hoạt động tư pháp tại các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
Năm 2013, thực hiện chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao không thanh tra, kiểm tra về
hoạt động nghiệp vụ, tập trung thanh tra về hoạt động công vụ.
Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 02/01/2014 Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2014:
“Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ; siết chặt kỷ luật kỷ cương,
kịp thời xử lý nghiêm minh các cá nhân vi phạm tiêu cực, nhất là những trường
hợp để xẩy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm hoặc cán bộ tham nhũng, thoái hóa, biến
79
chất...”, trong năm 2014, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành
Quyết định thanh tra và tiến hành 05 cuộc thanh tra nghiệp vụ theo kế hoạch tại
05 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố, trong đó:
+ 02 cuộc thanh tra toàn diện các mặt, các lĩnh vực công tác nghiệp vụ
tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên và thành phố Đà Nẵng;
+ 02 cuộc thanh tra chuyên đề về án đình chỉ theo Điều 25 Bộ luật hình
sự và việc giải quyết các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, án tham
nhũng, chức vụ tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa và Long An;
+ Thanh tra về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử án hình sự tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Thực hiện chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
trong năm 2014 Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành 04 cuộc
thanh tra đột xuất, gồm:
- 01 cuộc thanh tra việc chấp hành pháp luật và Quy chế của Ngành
trong việc giải quyết các vụ, việc tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị;
- 02 cuộc thanh tra trách nhiệm trong việc để xảy ra án đình chỉ do bị can
không phạm tội, Toà án tuyên bị cáo không phạm tội tại Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Sóc Trăng và Cà Mau;
- 01 cuộc thanh tra toàn diện về các mặt, các lĩnh vực công tác nghiệp
vụ tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước.
Ngoài ra, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã yêu cầu 05 Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh báo cáo và chuyển 27 hồ sơ vụ án hình sự có dấu hiệu
vi phạm để nghiên cứu, trong đó Bắc Giang 23 hồ sơ; Bến tre 01 hồ sơ, Quảng
Trị 01 hồ sơ; Đắk Lắk 01 hồ sơ; Khánh Hòa 01 hồ sơ.
Trong năm 2014, Thanh tra của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương đã tiến hành 243 cuộc thanh tra về hoạt động
nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án
hình sự [53].
80
Qua thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và quy chế nghiệp vụ
của ngành cho thấy: Nhìn chung, lãnh đạo các Viện kiểm sát địa phương đã
quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị công tác năm của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, kịp thời xây dựng chương trình, kế
hoạch công tác của đơn vị, bám sát nhiệm vụ công tác của ngành và yêu cầu
nhiệm vụ chính trị của địa phương; xác định các nhiệm vụ trọng tâm và đề ra
các chỉ tiêu để phấn đấu thực hiện. Xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu
quả các quy chế phục vụ công tác quản lý, hoạt động nghiệp vụ và quy chế
phối hợp liên ngành tại địa phương. Chú trọng công tác tập huấn, kiểm tra và
hướng dẫn nghiệp vụ cho cấp dưới. Phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra,
Toà án và Cơ quan Thi hành án cùng cấp, kịp thời điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án, phấn đấu đạt các chỉ tiêu công tác nghiệp vụ do Viện kiểm sát nhân
dân tối cao xác định, góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Kiểm sát viên được phân công hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm
sát xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình
sự, thi hành án dân sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, các vụ án
hành chính, kinh doanh thương mại, lao động... ; giải quyết đơn và kiểm sát
việc giải quyết đơn về tư pháp, cơ bản đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật và Quy chế nghiệp vụ của Ngành.
Tuy nhiên, qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện một số thiếu sót, vi
phạm trong hoạt động nghiệp vụ của các Viện kiểm sát địa phương như:
Một là, những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động nghiệp vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự:
- Vi phạm trong kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố: Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không ra quyết định phân
công giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Công tác
kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố chưa
đảm bảo kịp thời, chính xác; có trường hợp Viện kiểm sát chỉ thực hiện việc thụ
81
lý kiểm sát tố giác, tin báo về tội phạm từ khi Cơ quan điều tra ra Quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự chuyển cho Viện kiểm sát; có nhiều
trường hợp Cơ quan điều tra vi phạm về thời hạn ra quyết định khởi tố hoặc
quyết định không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố
tụng hình sự nhưng Viện kiểm sát không kịp thời phát hiện để kiến nghị khắc
phục. Có trường hợp ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự không có căn
cứ, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Kiểm sát viên không làm tốt công tác kiểm sát
việc phân loại xử lý từ giai đoạn thụ lý tố giác, tin báo tội phạm; công tác kiểm
sát việc khởi tố chưa chặt chẽ, dẫn đến việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can chưa
chính xác, sau đó phải đình chỉ.
Sổ thụ lý kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm chưa thể hiện
đầy đủ các nội dung theo đúng cột mục quy định như: không thể hiện nội dung
tin báo, tố giác ai, về việc gì, không có địa chỉ của người cung cấp tin; không thể
hiện hoạt động kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra (quyết định khởi tố
hay không khởi tố vụ án hình sự). Không lập đầy đủ hồ sơ kiểm sát việc tiếp
nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm.
- Kiểm sát viên không thực hiện đúng các quy trình, thao tác nghiệp vụ
kiểm sát theo Quy chế nghiệp vụ của Ngành:
+ Hồ sơ kiểm sát không sắp xếp, đánh bút lục, lập thống kê tài liệu. Hồ sơ
kiểm sát không có một hoặc một số văn bản, tài liệu quan trọng, như:
Trong giai đoạn điều tra: Một số hồ sơ kiểm sát không có quyết định
phân công Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên, phân công Kiểm
sát viên; không có Quyết định khởi tố vụ án, bị can, đề nghị phê chuẩn lệnh bắt
khẩn, Lệnh tạm giam, Quyết định thay thế biện pháp ngăn chặn, lý lịch, trích lục
tiền án, tiền sự của bị can, Quyết định trưng cầu giám định, Kết luận giám định,
đơn yêu cầu khởi tố và đơn xin rút yêu cầu khởi tố của người bị hại; không có
báo cáo đề xuất của Kiểm sát viên về việc phê chuẩn Lệnh bắt khẩn cấp, gia hạn
tạm giữ, gia hạn tạm giam; không có Bản kết luận điều tra vụ án, Biên bản giao
82
nhận hồ sơ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát; không có Phiếu kiểm sát
Quyết định đình chỉ của Cơ quan điều tra.
Trong giai đoạn truy tố, xét xử: không trích cứu hồ sơ, chủ yếu là phô tô
hồ sơ chính; không có báo cáo đề xuất của Kiểm sát viên về việc truy tố, áp dụng
biện phát ngăn chặn, gia hạn thời hạn truy tố, gia hạn thời hạn tạm giam để truy
tố, đình chỉ. Một số hồ sơ kiểm sát không có quyết định phân công Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án; Kiểm sát viên không dự thảo đề
cương thẩm vấn, dự kiến những vấn đề cần tranh luận tại phiên toà; không ghi
diễn biến phiên toà, hoặc ghi chép quá sơ sài, không đầy đủ diễn biến phiên toà
và phần tuyên án của Hội đồng xét xử. Báo cáo duyệt án khi xét xử không có ý
kiến phê duyệt và chữ ký của lãnh đạo Viện phụ trách hoặc người chủ trì phiên
họp Uỷ ban kiểm sát; không có Phiếu kiểm sát bản án sơ thẩm, biên bản kiểm tra
biên bản phiên toà sơ thẩm.
+ Viện kiểm sát vi phạm thời hạn phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can,
Lệnh tạm giam, Lệnh bắt bị can để tạm giam; vi phạm thẩm quyền đình chỉ; ra
quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án đối với bị can nhưng lại không ghi
khoản của điều luật áp dụng để đình chỉ; ra quyết định đình chỉ vụ án, nhưng
không ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can; vi phạm thời hạn hạn truy tố.
+ Việc dự thảo luận tội có nhiều trường hợp quá sơ sài, cẩu thả, không thể
hiện đầy đủ, chính xác việc đánh giá chứng cứ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và
quan điểm xử lý của Viện kiểm sát về vụ án; tại phiên toà Kiểm sát viên không
đề cập gì đến việc giải quyết bồi thường dân sự và việc xử lý tang vật đã bị thu
giữ trong quá trình điều tra. Có bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của án
treo nhưng Kiểm sát viên lại không đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng theo
điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự (tái phạm) và cũng không đề nghị áp
dụng Điều 51 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.
- Chưa thực hiện tốt việc tăng cường công tố trong hoạt động điều tra:
83
+ Kiểm sát viên không kịp thời hoặc không đề ra yêu cầu điều tra; nhiều
trường hợp KSV còn thụ động trong việc phối hợp với Điều tra viên để thúc đẩy
tiến độ điều tra; nội dung yêu cầu điều tra có trường hợp còn chung chung, thiếu
cụ thể; hoặc sau khi đề ra yêu cầu điều tra, nhưng không tiến hành kiểm sát việc
thực hiện của Điều tra viên để kịp thời bổ sung các yêu cầu cần phải tiếp tục
chứng minh v.v... nên khi kết thúc điều tra, truy tố mới phát hiện thiếu sót lại
phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có trường hợp phải trả hồ sơ điều tra bổ sung
nhiều lần, kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Một số vụ án, mặc dù tài liệu điều
tra ban đầu đã thể hiện được đối tượng có liên quan đến vụ án, nhưng chưa kịp
thời đề ra các yêu cầu điều tra để đấu tranh làm rõ hành vi phạm tội của đối
tượng để có đủ căn cứ khởi tố bị can dẫn đến phải tạm đình chỉ điều tra vụ án.
+ Kiểm sát viên chưa kịp thời phát hiện các vi phạm, thiếu sót của Cơ
quan điều tra để kiến nghị khắc phục, như: Hầu hết các Quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can, Cơ quan điều tra không ghi khoản của điều luật áp dụng; một
số vụ không ghi thời gian xảy ra vụ án; Quyết định khởi tố vụ án không đảm bảo
thời hạn theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự .
Cơ quan điều tra lấy lời khai, hỏi cung bị can chưa thành niên nhưng
không có người giám hộ, không yêu cầu cử người bào chữa cho các bị can.
Cơ quan điều tra ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can nhưng không ghi
khoản của điều luật áp dụng; áp dụng điều luật làm căn cứ đình chỉ không đúng;
không ra quyết định xử lý hành chính về hành vi vi phạm pháp luật của các bị
can được đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự hoặc đình chỉ theo yêu cầu của
người bị hại.
Có trường hợp quyết định tạm đình chỉ điều tra không đảm bảo căn cứ.
Một số vụ án có liên quan đến việc định lượng giá trị tài sản thiệt hại nhưng
trước khi quyết định tạm đình chỉ điều tra (có trường hợp đã trả lại tài sản cho
người bị hại), không tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu để có căn cứ khởi
tố bị can v.v... Có trường hợp, bị can phạm tội rất nghiêm trọng, nhưng Cơ quan
84
điều tra vẫn áp dụng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh nên sau đó bị can bỏ trốn
dẫn đến phải tạm đình chỉ điều tra. Cơ quan điều tra vi phạm quy định tại Điều
162 Bộ luật Tố tụng hình sự trong việc ra quyết định đình chỉ điều tra nhưng
không ra Bản kết luận điều tra hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra trước ngày ra
Bản kết luận điều tra.
+ Một số vụ án tạm đình chỉ điều tra không được Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát kịp thời rà soát để đình chỉ theo Nghị quyết 33 của Quốc hội.
- Một số trường hợp, việc đánh giá chứng cứ, tính chất, mức độ, hậu quả
do hành vi phạm tội của bị can chưa toàn diện; việc xác định tội danh không
chính xác, áp dụng khung hình phạt trong điều luật không đúng dẫn tới việc áp
dụng khoản 1, khoản 2 Điều 25 Bộ luật hình sự hoặc Khoản 2 Điều 105 Bộ luật
tố tụng hình sự để đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can không đúng
pháp luật, để lọt tội phạm (riêng năm 2014, Thái Nguyên 01 vụ/02 bị can, Thanh
Hoá 06 vụ/13 bị can, Bình Phước 03 vụ/05 bị can, Bắc Giang 08 vụ/18 bị can,
Lâm Đồng 01 vụ/01 bị can). Có trường hợp lẽ ra phải đình chỉ do hành vi không
cấu thành tội phạm theo khoản 2 Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng để né
tránh trách nhiệm nên áp dụng khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự đình chỉ miễn
trách nhiệm hình sự (riêng năm 2014, Thanh Hoá 03 vụ/03 bị can, Bình Phước
03 vụ/03 bị can, Bắc Giang 03 vụ/03 bị can).
- Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
chưa chính xác; mức hình phạt do VKS đề nghị và Toà án xét xử không
nghiêm, không tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của các
bị cáo, như:
+ Đã áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức án dưới khởi
điểm của khung hình phạt liền kề, nhưng lại cho bị cáo hưởng án treo, không
đúng quy định tại điểm b, khoản 3 Điều 2, Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP
ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng Điều 60 Bộ luật hình sự về án treo.
85
+ Có trường hợp, cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 47 BLHS để xử phạt bị
cáo mức án dưới mức khởi điểm của khung hình phạt, nhưng cấp phúc thẩm lại
tiếp tục giảm mức án cho bị cáo xuống dưới xa mức khởi điểm của khung hình
phạt hoặc xử phạt bị cáo ở khung hình phạt không phải liền kề của khung hình
phạt bị cáo bị truy tố.
+ Có địa phương xảy ra nhiều vụ án về vận chuyển trái phép chất ma
tuý thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại điểm b khoản 4
Điều 194 Bộ luật hình sự, nhưng đường lối xét xử, quyết định mức hình phạt
(của cả Viện kiểm sát và Toà án) chưa nghiêm khắc, không đúng hướng dẫn
tại Nghị quyết số 01 ngày 15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao (từ 600g trở lên có thể phải xử mức án tử hình. Có trường hợp Toà
án tuyên phạt mức án không phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội
của bị cáo gây ra, khác với đề nghị của Viện kiểm sát, nhưng Viện kiểm sát
không kiên quyết kháng nghị hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị
để bảo vệ quan điểm về đường lối xử lý vụ án.
- Một số địa phương (cả Viện kiểm sát và Toà án) đã hiểu nhầm nên áp
dụng không đúng hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 6.4 mục 6 Nghị quyết số
01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao và Công văn số 99 ngày 01/7/2009 của Toà án nhân dân tối cao về cách
tính thời gian thử thách đối với các trường hợp cho hưởng án treo đã bị tạm giữ,
tạm giam. Theo quy định, thời hạn tạm giữ, tạm giam được tính trừ khi tính thời
gian thử thách của án treo, không tính trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời
hạn chấp hành hình phạt tù khi tuyên án.
- Một số địa phương để xảy ra nhiều vụ án, bị can phải đình chỉ điều tra
do hành vi không cấu thành tội phạm hoặc hết thời hạn điều tra không chứng
minh được bị can phạm tội, Toà án tuyên bị cáo không phạm tội, do lỗi của Viện
kiểm sát trong quá trình, trong đó có những vụ đặc biệt nghiêm trọng (Sóc
Trăng, Bắng Giang).
86
- Kiểm sát viên chưa kịp thời phát hiện một số sai sót về thủ tục tố tụng
của Toà án để yêu cầu khắc phục, rút kinh nghiệm như: Quyết định đưa vụ án ra
xét xử không có tên của Hội thẩm nhân dân; Bản án thể hiện áp dụng điểm,
khoản của điều luật không chính xác; nhận định mức án đề nghị của Viện kiểm
sát không đúng như Kiểm sát viên đề nghị tại phiên toà v.v…
Hai là, những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động nghiệp vụ kiểm sát
việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự và thi hành án dân sự
- Việc phê chuẩn Lệnh bắt khẩn cấp có trường hợp chưa đảm bảo căn
cứ, nên sau đó phải trả tự do, xử lý hành chính. Có trường hợp Cơ quan điều
tra ra Lệnh bắt khẩn cấp không ghi rõ căn cứ bắt khẩn cấp; việc tính thời hạn
tạm giữ chưa đúng quy định. Việc phê chuẩn Lệnh bắt tạm giam, Lệnh tạm
giam đối với những bị can có nhiều trường hợp chưa đảm bảo căn cứ nên sau
đó phải hủy bỏ biện pháp tạm giam, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác. Một
số địa phương để xảy ra nhiều trường hợp quá hạn tạm giam, trong đó có cả
những trường hợp quá hạn tạm giam thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát.
- Một số Viện kiểm sát cấp huyện chưa kiểm sát thường xuyên nhà tạm
giữ của Công an huyện theo quy định. Một số trường hợp giam, giữ chung
người cùng vụ án trong cùng buồng giam; đưa người bị tạm giam ra khỏi
buồng giam để làm vệ sinh v.v…nhưng Viện kiểm sát không kịp thời phát
hiện vi phạm để kiến nghị khắc phục.
Một số trường hợp Toà án ra quyết định cho hoãn chấp hành án phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù chưa đủ điều kiện theo quy định, nhưng Viện
kiểm sát không kịp thời phát hiện vi phạm để kháng nghị hủy bỏ quyết định vi
phạm của Tòa án. Viện kiểm sát chưa kịp thời yêu cầu Cơ quan Công an tổ chức
áp giải, tổ chức truy bắt các trường hợp trốn thi hành án. Một số Viện kiểm sát cấp
huyện chưa chú trọng việc kiểm sát trực tiếp tại Uỷ ban nhân dân cấp xã về công
tác quản lý, giáo dục người thi hành án phạt tù nhưng được hưởng án treo, cải tạo
không giam giữ. Việc ban hành văn bản kháng nghị, kiến nghị, kết luận kiểm sát
87
trực tiếp có nhiều trường hợp chưa đảm bảo quy định cả về nội dung và hình thức
văn bản. Việc lập hồ sơ kiểm sát thi hành án hình sự chưa đảm bảo đúng quy định,
còn thiếu các tài liệu cần thiết như: Phiếu đề xuất giải quyết của Kiểm sát viên
được phân công kiểm sát thi hành án hình sự, ý kiến phê duyệt của lãnh đạo Viện,
các tài liệu là căn cứ để xét hoãn, tạm đình chỉ thi hành án; chưa sắp xếp, đánh số
bút lục, lập danh mục thống kê tài liệu có trong hồ sơ v.v...
- Một số Viện kiểm sát (chủ yếu là cấp huyện) chưa kiểm sát chặt chẽ
việc cấp, gửi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án và việc ra
các quyết định thi hành án của Cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp; chưa kịp
thời phát hiện thiếu sót, vi phạm để kiến nghị, kháng nghị yêu cầu khắc phục,
sửa chữa vi phạm như: việc phân loại xử lý các trường hợp đủ điều kiện miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước còn
chậm. Một số trường hợp Tòa án vi phạm về thời hạn mở phiên họp xét miễn,
giảm theo quy định tại khoản 2 Điều 63 Luật Thi hành án dân sự; các quyết
định miễn, giảm thi hành án của Tòa án không thể hiện đầy đủ số, ngày tháng
của Quyết định thi hành án, số tiền phải thi hành án, số tiền đã thi hành, số tiền
còn lại chưa thi hành để làm căn cứ xét miễn, giảm. Toà án ra quyết định miễn,
giảm thi hành án cho các đối tượng phải thi hành án trên 500.000 đồng với lý
do: “người phải thi hành án đi khỏi địa phương, không biết ở đâu v.v…”. Có
trường hợp, Tòa án ban hành “Quyết định giảm thi hành án”, nhưng phần nội
dung và quyết định lại là “miễn thi hành án”. Công tác phát hiện vi phạm thông
qua trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại các Cơ quan thi hành án dân
sự còn hạn chế; nội dung các bản kết luận, kiến nghị, kháng nghị còn chung
chung (cá biệt có trường hợp còn viện dẫn sai điều luật), hiệu quả chưa cao.
Việc lập hồ sơ kiểm sát thi hành án dân sự chưa đúng Quy chế về công tác
kiểm sát thi hành án dân sự, thiếu các tài liệu cần thiết như: Phiếu đề xuất giải
quyết của Kiểm sát viên, ý kiến phê duyệt của lãnh đạo Viện; đơn yêu cầu thi
hành án của người được thi hành án; quyết định thi hành án, quyết định ủy thác
88
thi hành án; không lập hồ sơ riêng của từng vụ việc; chưa sắp xếp, đánh số bút
lục, lập danh mục thống kê tài liệu có trong hồ sơ v.v...
Ba là, những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động nghiệp vụ kiểm sát giải
quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và
công tác giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp:
- Công tác kiểm sát bản án, quyết định của Toà án cấp huyện chưa
được thực hiện thường xuyên, chất lượng chưa cao, chưa phát hiện được các
vi phạm nghiêm trọng để kháng nghị theo thẩm quyền; chất lượng kháng nghị
trong một số trường hợp chưa cao nên Viện kiểm sát cấp phúc thẩm phải rút
kháng nghị hoặc Toà phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị; việc thông báo
rút kinh nghiệm, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra với cấp huyện thực hiện chưa
được nhiều hoặc chưa thực hiện v.v....
- Việc hướng dẫn về nghiệp vụ công tác khiếu tố, nhất là nghiệp vụ phân
loại, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo về tư pháp, đơn trong lĩnh vự hành chính, tố giác,
tin báo về tội phạm cho Viện kiểm sát cấp huyện chưa cụ thể; việc chuyển đơn tố
cáo, tố giác, tin báo về tội phạm và đơn đề nghị khởi tố chưa đảm bảo đúng quy
định; thủ tục giải quyết khiếu nại chưa đầy đủ, vi phạm về thời hạn giải quyết; một
số trường hợp thụ lý giải quyết khiếu nại không đúng thẩm quyền. Có Viện kiểm
sát cấp huyện tiến hành trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với
Cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp là không đúng quy định; trực tiếp kiểm sát
đối với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện trong việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo về tư pháp và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, có phát hiện vi phạm,
nhưng không kiến nghị yêu cầu sửa chữa, khắc phục vi phạm v.v...
Qua thanh tra việc chấp hành pháp luật và quy chế của ngành trong
hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
(nêu trên), Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã báo cáo lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương tăng cường công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp, nêu cao vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo, Kiểm sát
89
viên trong thực thi nhiệm vụ; chấp hành nghiêm túc quy định của pháp luật và
các quy chế nghiệp vụ của Ngành nhằm bảo đảm không để lọt tội phạm và
không làm oan người vô tội. Đồng thời, đã yêu cầu các đơn vị được thanh tra
rút kinh nghiệm nghiêm túc về những thiếu sót, vi phạm và tổ chức kiểm
điểm, làm rõ trách nhiệm để xem xét việc xử lý kỷ luật nghiêm túc đối với các
cá nhân có liên quan để xảy ra thiếu sót, vi phạm; yêu cầu thực hiện kịp thời
trách nhiệm về xin lỗi, bồi thường thiệt hại cho công dân trong các trường hợp
bị oan theo đúng quy định của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước và các
quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường (Sóc Trăng, Cà Mau). Có
một số trường hợp đã yêu cầu xem xét lại việc quyết định đình chỉ không
đúng, để lọt tội phạm hoặc yêu cầu báo cáo đề nghị xem xét theo thủ tục giám
đốc thẩm đối với các vụ án xét xử không đúng tội danh, mức hình phạt không
tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.
Riêng năm 2014, thông qua hoạt động thanh tra nghiệp vụ, Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã yêu cầu huỷ bỏ 04 Quyết định không khởi
tố vụ án hình sự (Đà Nẵng 03 vụ, Long An 01 vụ) và huỷ bỏ Quyết định đình
chỉ không có căn cứ của 11vụ/24 bị can (Thái Nguyên 01 vụ/02 bị can, Đà
nẵng 03 vụ/05 bị can, Thanh Hoá 01 vụ/02 bị can, Bình Phước 03 vụ/05 bị
can, Bắc Giang 02 vụ/09 bị can, Lâm Đồng 01 vụ/01 bị can) để xem xét phục
hồi xử lý theo quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm. Yêu cầu xem
xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 03 vụ/05 bị cáo (Thái Nguyên 01
vụ/01 bị cáo, Thanh Hoá 01 vụ/03 bị cáo, Bình Phước 01 vụ/01 bị cáo).
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh đã yêu cầu xem xét huỷ bỏ
quyết định đình chỉ 02 vụ/03 bị can (Nghệ An 01vụ/01bị can; Bình Thuận 0
vụ/1 bị can; Tây Ninh 01 vụ/01bị can). [53]
3.2.2.2. Kết quả hoạt động thanh tra hành chính
Trong năm 2007, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về
việc thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các cơ quan báo chí và sự chỉ đạo
90
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã xây dựng Kế hoạch thanh tra và phối hợp cùng Vụ Kế
hoạch - tài chính tổ chức 02 cuộc thanh tra tài chính (do Ban Thanh tra chủ
trì) đối với Báo Bảo vệ pháp luật và Tạp chí Kiểm sát về các nội dung: việc
quản lý, sử dụng và thanh quyết toán các nguồn tài chính; việc hạch toán
doanh thu, chi phí, kết quả sản xuất kinh doanh; việc thực hiện nghĩa vụ với
ngân sách nhà nước; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chấp hành kỷ
luật tài chính theo quy định của pháp luật. Kết quả thanh tra cho thấy: Báo
Bảo vệ pháp luật và Tạp chí kiểm sát đã quản lý và sử dụng nguồn kinh phí
ngân sách Nhà nước do Viện kiểm sát nhân dân tối cao phân bổ phục vụ kịp
thời nhiệm vụ chính trị được giao. Đồng thời, thực hiện tốt việc khai thác
nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, chủ yếu là việc khai thác từ hoạt động
quảng cáo để tự đảm bảo một phần kinh phí cho hoạt động báo chí và tăng
thêm thu nhập cho cán bộ, công chức trong đơn vị. Lãnh đạo Báo Bảo vệ
pháp luật và Tạp chí Kiểm sát đã kịp thời ban hành một số văn bản quy định
về tổ chức và hoạt động, quản lý tài chính như: Quy chế chi tiêu nội bộ; Quy
định về chế độ tiền lương, phụ cấp đối với phóng viên; Quy định về quảng
cáo; Quy định về quản lý tài sản, sử dụng điện thoại, định mức xăng xe ô tô
v.v... đảm bảo việc quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí, tài sản có hiệu quả,
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Các đơn vị đã thực hiện việc báo cáo tài
chính theo đúng các biểu mẫu quy định; đã mở đủ hệ thống sổ kế toán và các
tài khoản kế toán cơ bản theo quy định của chế độ kế toán hiện hành; việc ghi
chép trên các sổ kế toán, sử dụng các mẫu biểu chứng từ kế toán đảm bảo
đúng quy định. Tuy nhiên, thông qua công tác thanh tra tài chính tại Báo Bảo
vệ pháp luật và Tạp chí Kiểm sát đã phát hiện một số thiếu sót, vi phạm như:
việc hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh đối với một số khoản chi về
phúc lợi xã hội (như: tiền ăn trưa, sinh nhật, thăm ốm, hiếu, hỷ, ngày Lễ, ngày
Tết, khen thưởng, thu nhập tăng thêm), chi khoán công tác phí, chi phụ cấp
91
nghiệp vụ báo chí, thù lao tổ chức sản xuất, biên tập v.v...) chưa phù hợp chế
độ tài chính hiện hành. Trong Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị chưa quy
định cụ thể về định mức chi hội nghị, đối tượng và định mức chi tiếp khách
v.v.... Một số chứng từ chi còn thiếu sót về thủ tục như: thiếu chữ ký nhận của
người mua hàng, người nhận tiền v.v...
Từ năm 2012 trở về trước, thực hiện các văn bản chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí; hàng năm, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đã chỉ đạo Ban Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng kế
hoạch kiểm tra việc thực hiện Quy chế dân chủ và việc thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; đồng thời, phối hợp cùng
Vụ Tổ chức - cán bộ và Vụ Kế hoạch - Tài chính thành lập ba Đoàn kiểm tra
(do Ban Thanh tra chủ trì) tiến hành kiểm tra tại 09 đơn vị gồm Viện kiểm sát
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các đơn vị trực thuộc
Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc thực hiện Quy chế dân chủ, việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, chi tiêu mua sắm tài sản, đầu tư
ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động của ngành.[53]
Từ năm 2013 đến nay, thực hiện chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Quy chế công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân
dân, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng Kế hoạch thanh tra,
ban hành Quyết định thanh tra và tiến hành 08 cuộc thanh tra việc chấp hành
pháp luật và quy chế của ngành về công tác cán bộ và quản lý, sử dụng ngân
sách tại các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. [53]
Kết quả thanh tra đã kịp thời chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, vi phạm
của Viện kiểm sát nhân dân các cấp như:
- Một số đơn vị không thực hiện thông báo công khai việc tuyển dụng
công chức trên phương tiện thông tin đại chúng; có trường hợp xét tuyển công
chức chưa đúng tiêu chuẩn, không đúng vùng được xét tuyển, chưa phù hợp
92
với Hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Công chức mới xét tuyển
chưa đủ thời gian công tác theo quy định đã điều động đến công tác tại đơn vị
khác thuộc vùng thi tuyển.
Việc bố trí biên chế, Kiểm sát viên tại một số Viện kiểm sát cấp huyện
và Phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh chưa hợp lý, chưa tương
ứng với biên chế và khối lượng công việc.
- Có đơn vị chưa kịp thời rà soát, bổ sung quy hoạch lãnh đạo cấp
phòng và Viện kiểm sát cấp huyện; chậm thực hiện phân bổ chỉ tiêu biên chế
được giao cho Viện kiểm sát cấp huyện. Chậm có kế hoạch luân chuyển, đào
tạo, bồi dưỡng đối với công chức thuộc diện quy hoạch; việc thực hiện chủ
trương chuyển đổi vị trí công tác tiến hành còn chậm, số lượng còn ít.
- Một số Quy chế ban hành đã lâu, có nội dung không còn phù hợp
nhưng chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung, cập nhật những quy định mới.
- Một số đơn vị chưa thật sự quan tâm đến công tác thi đua, khen
thưởng; công chức không giữ chức vụ lãnh đạo đạt Chiến sỹ thi đua cơ sở
chiếm tỷ lệ thấp.
- Một số Kiểm sát viên chưa chấp hành nghiêm túc Quy chế nghiệp vụ
như: để quá thời hạn truy tố một số vụ án hình sự; việc lập hồ sơ kiểm sát
không đúng quy định, hồ sơ không thể hiện đầy đủ các thao tác hoạt động
nghiệp vụ kiểm sát, nhất là các hồ sơ kiểm sát thi hành án hình sự, thi hành án
dân sự, hồ sơ kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, các vụ án hành chính, kinh doanh, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật.
- Việc kiểm tra, xác minh kết luận đơn tố cáo đối với công chức vi
phạm pháp luật và việc xử lý kỷ luật có trường hợp còn để kéo dài, hạn chế
tác dụng giáo dục; một số địa phương, đơn vị có công chức vi phạm nhưng
không kịp thời tổ chức kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm để xử lý kỷ luật.
93
- Quyết định việc sửa chữa, bảo trì, phê duyệt quyết toán, thẩm định kế
hoạch, báo cáo kinh tế kỹ thuật... chưa đúng thẩm quyền theo quy định. Điều
chỉnh kinh phí chống xuống cấp trụ sở cấp huyện nhưng không báo cáo Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; sửa chữa, bảo trì trụ sở thiếu Báo cáo và phê duyệt
Báo cáo kinh tế kỹ thuật; Quy chế quản lý và sử dụng tài sản công chưa được
sửa đổi, bổ sung chế độ theo quy định mới, một số đơn vị cấp huyện chưa có
Quy chế, mà chỉ lồng ghép một số nội dung quản lý, sử dụng tài sản trong
Quy chế chi tiêu nội bộ.
- Chậm thực hiện thủ tục giao nhận tài sản mua sắm cho cấp huyện;
chưa đầy đủ hồ sơ tài sản theo quy định, dẫn đến việc theo dõi tài sản của cấp
huyện chưa kịp thời, đầy đủ; việc kiểm tra về quản lý, sử dụng tài sản của các
đơn vị trực thuộc chưa được tiến hành thường xuyên; việc mua sắm tài sản
theo đề án không đăng tải thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng
theo quy định.
- Một số ít đơn vị (chủ yếu là Viện kiểm sát cấp tỉnh và huyện), chưa
thực hiện hiện tốt Quy chế dân chủ trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
các cấp như: việc quán triệt các nội dung của Quy chế dân chủ chưa thường
xuyên, còn mang tính hình thức, nên một số cán bộ, công chức nhất là số mới
vào ngành nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng và nội dung trong
việc thực hiện Quy chế dân chủ; việc đấu tranh phê bình và tự phê bình có đơn
vị, địa phương thực hiện chưa tốt, cá biệt có việc chưa thực sự dân chủ gây mất
đoàn kết nội bộ phát sinh nhiều đơn tố cáo nặc danh. Trong hoạt động nghiệp
vụ còn có vi phạm làm ảnh hưởng đến quyền dân chủ của công dân như: còn để
xảy ra nhiều trường hợp Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp, phê chuẩn
lệnh gia hạn tạm giữ, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, phê chuẩn lệnh tạm
giam, lệnh bắt tạm giam bị can sau phải trả tự do, đình chỉ vì không phạm tội;
còn có một số trường hợp Toà án tuyên không phạm tội v.v.... Việc xử lý bồi
thường cho các trường hợp bị oan ở một số địa phương còn để kéo dài, làm ảnh
94
hưởng đến quyền lợi của người bị oan. Một số địa phương tuy có tổ chức Hội
nghị cán bộ, công chức hàng năm nhưng còn hình thức, nội dung sơ sài, các tổ
chức đoàn thể chưa phát huy được vai trò trong việc phối hợp với chính quyền,
cấp uỷ trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ. Công tác kiểm tra, tự kiểm
tra của một số đơn vị chưa thường xuyên v.v...
Thực hiện chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về
tăng cường kỷ cương, kỷ luật nội vụ trong ngành, Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã ban hành Kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các
Phòng trong đơn vị thường xuyên theo dõi, nhắc nhở, thanh tra đột xuất việc
chấp hành kỷ luật nội vụ tại các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và một số Viện kiểm sát địa phương. Trên cơ sở kết quả thanh tra đột xuất
việc chấp hành kỷ luật nội vụ, đã yêu cầu các đơn vị tổ chức kiểm điểm, rút
kinh nghiệm nghiêm túc đối với số công chức, viên chức và người lao động
có vi phạm; đồng thời, hàng tháng đã ban hành Thông báo rút kinh nghiệm
chung trong toàn ngành. Qua đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành, ý thức trách nhiệm, góp phần phòng ngừa, hạn chế
được nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật và kỷ luật nghiệp vụ
của cán bộ, Kiểm sát viên trong thực thi nhiệm vụ.[53]
3.2.2.3. Kết quả hoạt động thanh tra xét khiếu tố
Hoạt động thanh tra xét khiếu tố (tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và thông tin phản ánh có liên quan đến công chức, viên chức và người lao
động trong ngành) là nhiệm vụ thường xuyên, chủ yếu của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân từ khi được thành lập đến nay. Các đơn khiếu nại, tố cáo
và thông tin phản ánh thuộc trách nhiệm giải quyết được xem xét, xác minh,
kiểm tra, kết luận kịp thời và có kiến nghị xử lý vi phạm (nếu có) bảo đảm
khách quan, nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật. Quá trình tiến hành
thanh tra xét khiếu tố luôn coi trọng công tác chính trị tư tưởng, phát động
được tính tích cực của công chức, viên chức, người lao động và sự thành
95
khẩn, cầu thị của đối tượng thanh tra, sự phối hợp, tạo điều kiện của các đơn
vị có liên quan; đảm bảo được nguyên tắc tuân thủ quy định của pháp luật,
tính trung thực khách quan, hợp lý và hợp pháp. Hoạt động thanh tra xét
khiếu tố đã góp phần tích cực trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữ vững trật tự, kỷ cương trong
ngành; xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch vững mạnh.
Theo số liệu báo cáo tổng kết hàng năm của Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, trong thời gian từ năm 2009 đến nay, Thanh tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã tiếp nhận, phân loại, xử lý tổng số 1.019 đơn (khiếu
nại 375, tố cáo 644) = 743 việc; trong đó, thuộc trách nhiệm giải quyết của
đơn vị 215 đơn (khiếu nại 36, tố cáo 179) = 85 việc. Tỷ lệ giải quyết đơn hàng
năm đạt trên 97% [53].
Các đơn khiếu nại, tố cáo và thông tin phản ánh về các vụ việc thuộc
trách nhiệm giải quyết của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ yếu
có nội dung phản ánh về hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tiêu cực
trong việc giải quyết án hình sự, thi hành án dân sự, quản lý tài chính, xây
dựng cơ bản, công tác tổ chức cán bộ, vi phạm về phẩm chất đạo đức... liên
quan đến lãnh đạo, Kiểm sát viên ở một số Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh;
lãnh đạo, nguyên là lãnh đạo, Kiểm sát viên của một số Viện kiểm sát nhân
dân cấp huyện; lãnh đạo cấp Vụ, nguyên là Kiểm sát viên, công chức, viên
chức, người lao động thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thực hiện quy định của Đảng, Nhà nước và của ngành Kiểm sát
nhân dân thì không xem xét, giải quyết những đơn thư tố cáo giấu tên, mạo
tên, không rõ địa chỉ, không có chữ ký trực tiếp mà sao chụp chữ ký (gọi
chung là tố cáo nặc danh), nhưng trong thực tế, qua công tác phân loại, xử
lý đơn cho thấy, có nhiều đơn, thư tố cáo nặc danh nội dung phản ánh về
người, vụ việc cụ thể, có cơ sở kiểm tra, xác minh nên Thanh tra Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm
96
sát nhân dân tối cao, tổ chức xác minh, kiểm tra theo dấu hiệu vi phạm để
kết luận làm rõ nội dung tố cáo. Đối với các vụ, việc do báo chí phản ánh
có nội dung liên quan đến công chức, viên chức, người lao động trong
ngành đều được lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức xác minh, kiểm tra theo dấu hiệu vi
phạm để kết luận làm rõ nội dung báo chí phản ánh, kịp thời trả lời các cơ
quan báo chí.
Kết quả kiểm tra, xác minh, giải quyết đơn cho thấy: Nhìn chung,
các đơn nêu nhiều nội dung, hiện tượng, vụ việc tuy có thật, nhưng qua
kiểm tra, minh xác thấy nội dung đơn phản ánh không đúng với bản chất
của các vụ việc, không có cơ sở kết luận người bị tố cáo có hành vi vi
phạm, tiêu cực, nhũng nhiễu như nội dung đơn nêu. Một số đơn tuy không
có cơ sở kết luận người bị khiếu nại, tố cáo có vi phạm, tiêu cực như nội
dung đơn nêu nhưng thông qua công tác kiểm tra, xác minh, giải quyết đơn
đã kịp thời phát hiện một số thiếu sót, vi phạm trong hoạt động nghiệp vụ
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, công tác tổ chức
cán bộ, công tác chỉ đạo điều hành, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của một số đơn vị. Thanh tra đã yêu cầu tổ chức kiểm điểm, làm rõ trách
nhiệm của tập thể và cá nhân để rút kinh nghiệm, có trường hợp đã yêu cầu
xử lý kỷ luật nghiêm túc, như:
Thông qua việc xác minh thông tin phản ánh liên quan đến cán bộ Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng, Thanh tra đã yêu cầu Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm và xem
xét xử lý trách nhiệm của các cá nhân trong quá trình chỉ đạo, giải quyết các
vụ án phải đình chỉ một số bị can do hành vi không cấu thành tội phạm xảy ra
tại Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt và kiểm điểm rút kinh nghiệm
đối với Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm về công tác quản lý cán bộ để
xảy ra vi phạm.
97
Thông qua việc xác minh, kết luận đơn tố cáo Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, đã yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Hà Tĩnh tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm và xem xét xử lý trách
nhiệm của các cá nhân thuộc Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh trong quá trình chỉ đạo, giải quyết 02 vụ án để tồn đọng kéo dài.
Kiểm tra, xác minh nội dung đơn khiếu nại liên quan đến lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, Thanh tra đã báo cáo, đề xuất với lãnh
đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi rút kinh nghiệm trong việc chỉ đạo xử lý một số việc cụ thể,
tránh để xảy ra mất đoàn kết nội bộ.
Kết quả xác minh, giải quyết đơn tố cáo Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Thuận, khi còn là Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Bình Thuận thông đồng cùng cán bộ của Cục Thi hành án dân sự tỉnh giả mạo
hồ sơ bị tai nạn giao thông trong khi đi công tác để chiếm đoạt tiền bảo hiểm
(55.690.240đ) là không có căn cứ. Tuy nhiên, thông qua việc giải quyết đơn,
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Bình Thuận kiểm điểm, rút kinh nghiệm nghiêm túc về quy
trình ban hành văn bản gửi Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Thuận xác nhận việc tai
nạn trong khi thi hành công vụ để cán bộ dưới quyền lợi dụng chiếm đoạt
được tiền của Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Thuận.
Thông qua việc xác minh, giải quyết đơn tố cáo Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh có hành vi “tiêu
cực, tham nhũng cửa quyền, mua bán pháp luật công khai tại địa phương
(chung chi tiền) trong giải quyết vụ án Đánh bạc” và Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh có hành vi bao che cho những việc làm sai trái của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè trong việc giải quyết khiếu nại, Thanh
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh chỉ đạo, tổ chức kiểm điểm làm rõ trách nhiệm
98
để xem xét xử lý kỷ luật nghiêm túc đối với lãnh đạo, Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè về những thiếu sót, vi phạm trong quá trình
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án Đánh bạc
(vi phạm về thủ tục tố tụng, cẩu thả trong việc giải quyết vụ án); việc giải
quyết đơn khiếu nại của đương sự chưa tuân thủ pháp luật và quy định của
ngành về giải quyết tố cáo, khiếu nại.
Kết quả xác minh, giải quyết đơn tố cáo Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hải Phòng và Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ
án Giết người, đã cố ý làm sai pháp luật trong việc ra quyết định bắt buộc
chữa bệnh đối với bị can là không có căn cứ. Tuy nhiên, thông qua việc giải
quyết đơn, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã yêu cầu Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hải Phòng rút kinh nghiệm về công tác phối hợp với các
cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự.
Kết quả xác minh, giải quyết đơn tố cáo Phó Trưởng phòng Đại diện
Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, đã yêu cầu lãnh đạo Văn phòng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao tổ chức kiểm điểm và xử lý đối với cán bộ có sai phạm, khuyết
điểm trong việc vay mượn và nhận tiền của đương sự dẫn đến việc khiếu kiện
gây ảnh hưởng đến uy tín cá nhân và cơ quan, đơn vị.
Trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh, kết luận giải quyết đơn khiếu nại,
tố cáo và thực hiện ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
trong thời điểm từ năm 2009 đến nay, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đã yêu cầu các đơn vị có trách nhiệm tổ chức kiểm điểm, đề nghị xử lý kỷ luật
đối với 08 cá nhân (gồm: 01 Trưởng phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh; 02 Viện trưởng và 01 Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện,
02 Kiểm sát viên sơ cấp thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, 01 Phó
trưởng phòng thuộc Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, 01 lái xe); yêu
99
cầu kiểm điểm rút kinh nghiệm nghiêm túc đối với 03 tập thể (02 Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh và 01 Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện) và 07 cá nhân (là
lãnh đạo, Kiểm sát viên của 01 Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và 01 đơn vị
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Đồng thời, yêu cầu một số đơn vị khắc
phục những vi phạm, thiếu sót trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, góp
phần xây dựng ngành trong sạch vững mạnh. Kết quả kiểm tra, xác minh của
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn minh oan cho một số cán bộ
trong các trường hợp do đơn tố cáo, thông tin phản ánh không đúng sự thật;
qua đó đã bảo vệ được uy tín, danh dự của cán bộ, giải toả được tâm lý hoài
nghi, góp phần củng cố, xây dựng mối đoàn kết trong đơn vị [53].
Thông qua việc tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo và thực hiện chỉ
đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, trong thời gian từ năm 2009
đến nay, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành thanh tra theo
dấu hiệu vi phạm tại các Viện kiểm sát địa phương như:
Thanh tra đột xuất tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước về công
tác nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án
hình sự. Qua thanh tra, đã yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước tổ
chức kiểm điểm rút kinh nghiệm nghiêm túc về những thiếu sót, vi phạm trong
việc giải quyết án hình sự; đồng thời, kiểm điểm làm rõ trách nhiệm để xử lý
đối với các tập thể và cá nhân có liên quan đến các trường hợp đình chỉ do bị
can không phạm tội, đình chỉ không đúng pháp luật dẫn đến để lọt tội phạm và
các trường hợp Toà án tuyên không phạm tội. Đã báo cáo Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao giao cho một số đơn vị có liên quan chỉ đạo, đôn đốc,
hướng dẫn và tổ chức thực hiện các yêu cầu nêu trên.
Tiến hành xác minh nội dung thông tin phản ánh trên một số báo về vụ việc
có liên quan đến Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
Cần Giuộc, tỉnh Long An. Trên cơ sở kết quả xác minh, đã tham mưu, đề xuất
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát
100
nhân dân tỉnh Long An tổ chức kiểm điểm và xem xét xử lý kỷ luật nghiêm túc về
mặt hành chính và bố trí công việc khác đối với Viện trưởng và Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giuộc theo hướng không để tiếp tục công tác
tại địa bàn huyện Cần Giuộc và không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý của Ngành.
Kiểm tra, xác minh thông tin do Báo Thanh tra phản ánh về việc xe ô tô
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang chở lâm sản trái phép. Trên cơ sở
kết quả kiểm tra, xác minh và ý kiến chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, đã yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà
Giang tiến hành xử lý kỷ luật đối với lái xe đã có hành vi vi phạm trong việc
quản lý và sử dụng xe ô tô công; đồng thời, kiểm điểm rút kinh nghiệm, chấn
chỉnh công tác lãnh đạo, quản lý tài sản công theo đúng quy định của pháp
luật và của ngành.
Thực hiện chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Thanh tra đã cử cán bộ tham gia Đoàn công tác của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ
Quảng Ngãi, kiểm tra đối với tập thể và một số thành viên Ban cán sự đảng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi; đồng thời, Thanh tra đã chủ trì Đoàn
kiểm tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thẩm tra một số nội dung theo đề
nghị của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ Quảng Ngãi. Trên cơ sở kết quả thẩm tra,
đã yêu cầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức kiểm
điểm nghiêm túc, làm rõ trách nhiệm của từng cá nhân có vi phạm trong công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự.
Thực hiện chỉ đạo của Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Thanh tra đã tiến hành xác minh về dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực liên quan
đến lãnh đạo, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên trong
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình
sự. Trên cơ sở kết quả xác minh, Thanh tra đã báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát
nhân dân tối cao xử lý vi phạm của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Thái Nguyên trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, giải quyết án hình sự.[53]
101
3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH
TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
3.3.1. Những kết quả đạt được
Nghiên cứu thực trạng về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân cho thấy Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân có vị trí, vai
trò quan trọng trong công tác quản lý, xây dựng ngành. Thông qua hoạt động
thanh tra để Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp quản lý được tình
hình chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước; quyết định, chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; việc thực hiện dân chủ, kỷ luật của công chức, viên chức và người lao
động trong ngành Kiểm sát nhân dân. Tăng cường công tác thanh tra trong
ngành Kiểm sát nhân dân sẽ góp phần tích cực trong việc hoàn thiện cơ
chế quản lý, xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch vững mạnh, đảm
bảo cho ngành Kiểm sát nhân dân hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ
được Đảng và Nhà nước giao cho.
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của công tác thanh tra trong
nội bộ ngành, trong những năm qua Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, từng bước củng cố, kiện toàn,
tăng cường tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân. Từ chỗ chỉ có tổ chức thanh tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
đến năm 2014 đã và đang được thành lập và tổ chức ở hai cấp là Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
Tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao cũng được tăng cường hơn. Từ năm 2010 đến nay, tổ chức bộ máy của
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được cơ cấu gồm 04 phòng
nghiệp vụ, được quy định chức năng nhiệm vụ cụ thể; đội ngũ lãnh đạo đơn
vị, quản lý cấp phòng và biên chế công chức của đơn vị cũng từng bước được
kiện toàn và tăng cường hơn.
102
Trong thời gian qua, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân đã và đang từng
bước đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động thanh tra và đạt được những kết quả tích cực, góp phần xây dựng
ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh. Từ chỗ chỉ tập trung vào
nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan đến công chức, viên chức và
người lao động trong ngành và phối hợp với các đơn vị thuộc Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tiến hành kiểm tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và việc
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở của các Viện kiểm sát địa phương; đến nay,
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân đã triển khai thanh tra theo kế hoạch và
thanh tra đột xuất việc chấp hành pháp luật và quy định của ngành trên tất cả các
mặt, các lĩnh vực công tác của ngành; thanh tra việc chấp hành kỷ luật công vụ
và trật tự nội vụ của công chức, viên chức và người lao động trong ngành. Trong
tổ chức Đoàn thanh tra đã lựa chọn cán bộ thanh tra có năng lực phù hợp với
nội dung thanh tra; kế hoạch tiến hành các cuộc thanh tra cụ thể, sát hợp với
nội dung, thời gian thanh tra. Quá trình tiến hành thanh tra đã đảm bảo được
nguyên tắc coi trọng công tác chính trị tư tưởng, phát động được tính tích cực
của công chức trong ngành, sự thành khẩn, cầu thị của đối tượng thanh tra, sự
nghiêm minh của các đơn vị có liên quan; đảm bảo được nguyên tắc tuân thủ
pháp luật và quy định của ngành; đảm bảo tính trung thực khách quan, hợp lý và
hợp pháp. Kết quả nhiều cuộc thanh tra đã xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá
nhân có sai phạm, đồng thời đề xuất được giải pháp có tính khả thi để kiến nghị
sửa chữa, khắc phục các yếu kém, khuyết điểm, sơ hở trong hoạt động quản lý
và xử lý nghiêm minh đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật và
quy định của Ngành.
Hoạt động thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân đã góp phần phát huy dân
chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân; đồng thời, góp phần tích
cực vào việc quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
103
dân tối cao, giữ vững trật tự, kỷ cương trong ngành, xây dựng ngành kiểm sát
nhân dân trong sạch vững mạnh.
Đạt được những kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có
một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
* Nguyên nhân chủ quan:
- Trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến cải cách tư
pháp, đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt thực hiện công cuộc cải cách tư pháp;
Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có sự quan tâm
kiện toàn, tăng cường về tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trực tiếp phụ trách, chỉ đạo
hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân; đặc biệt chú trọng đến việc
hoàn thiện thể chế, quy định có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân như: ban hành Chỉ thị về “Tăng cường công tác
thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân”; Quy chế công tác thanh tra, kiểm tra
trong ngành Kiểm sát nhân dân; kịp thời sửa đổi, bổ sung Quy chế về tổ chức
và hoạt động của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đồng thời, tăng
cường cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi để Thanh tra ngành thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ được giao.
- Căn cứ các quy định của pháp luật thanh tra và quy định của ngành,
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân đã đổi chủ động, tích cực trong việc đổi
mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra.
* Nguyên nhân khách quan:
- Hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật thanh tra ngày càng
được hoàn thiện.
- Thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế, có nhiều
điều kiện thuận lợi để nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm, ưu điểm của một số
mô hình tổ chức và hoạt động thanh tra của các nước trên thế giới.
104
- Những yêu cầu cải cách tư pháp, cùng với trình độ hiểu biết pháp luật
trong nhân dân được nâng lên đã tác động và góp phần tích cực nâng cao chất
lượng, hoạt động Viện kiểm sát nhân dân nói chung, của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân nói riêng.
3.3.2. Những hạn chế, bất cập
Những kết quả đã đạt được trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân đã góp phần phòng ngừa và nâng cao hiệu quả công
tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ và ý thức, trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật,
xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, trước
yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, tổ chức và hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân còn có một số hạn chế, bất cập như:
Một là, về tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân, tuy đã từng bước được củng cố, kiện toàn và tăng cường, nhưng
hiện vẫn còn có những hạn chế, bất cập trước yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Hệ
thống thanh tra của ngành chưa được hoàn chỉnh; từ năm 2013 trở về trước mới
chỉ có một tổ chức thanh tra duy nhất thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, có
phạm vi thanh tra với "đối tượng chính" được hiểu là những dấu hiệu vi phạm
có liên quan đến lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, lãnh đạo cấp vụ,
cán bộ, công chức của các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ngoài ra, những dấu hiệu vi phạm có liên quan đến các đối tượng khác (chiếm
số đông công chức trong ngành) do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh quản lý, nhưng chưa có tổ chức thanh tra chuyên trách ở Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh.
Về tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức của Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao cũng chưa được hoàn thiện. Theo Quy chế về tổ chức và
hoạt động của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Quy chế số 72 ngày
01/3/2013), tổ chức bộ máy của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
được cơ cấu gồm 04 phòng, có 03 phòng được thành lập từ năm 2010, còn
105
Phòng Thanh tra hành chính đến tháng 7 năm 2014 mới được thành lập. Lãnh
đạo đơn vị và lãnh đạo quản lý cấp phòng luôn có sự biến động lớn. Từ năm
2011 đến nay đã 03 lần thay đối Chánh Thanh tra (02 đồng chí nghỉ chế độ
hưu, 01 đồng chí điều động, luân chuyển công tác khác từ 01/12/2014); đầu
năm 2014, có 01 đồng chí Phó Chánh Thanh tra điều động nhận công tác
khác, đến 01/12/2014 mới bổ sung 01 Phó Chánh Thanh tra; còn 02 phòng
đến nay chưa có Trưởng phòng (Phòng Thanh tra nghiệp vụ và Phòng Thanh
tra hành chính). Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao 25 biên
chế từ ngày 15/02/2014, nhưng hiện tại mới có 20 biên chế, phần lớn là Kiểm
sát viên sơ cấp, mới được điều động đến công tác tại đơn vị trong năm 2014.
Đội ngũ công chức của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao cơ bản đã
được đào tạo Cử nhân Luật và nghiệp vụ công tác kiểm sát, nhưng đều chưa
được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về công tác thanh tra. Quá trình thực
hiện nhiệm vụ công tác thanh tra chủ yếu bằng kinh nghiệm thực tiễn công tác
kiểm sát nên không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc về quy trình,
nghiệp vụ hoạt động thanh tra.
Do từ năm 2013 trở về trước không có tổ chức thanh tra chuyên trách ở
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ của Thanh
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn nhiều hạn chế, bất cập nên công tác
hướng dẫn, kiểm tra đánh giá và chấn chỉnh vi phạm mang tính hệ thống toàn
ngành về hoạt động thanh tra thời gian qua còn hạn chế, chưa tham mưu được
nhiều cho lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác quản lý, chỉ
đạo, điều hành.
Từ đầu năm 2014, Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới
cho phép thí điểm thành lập Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (tương
đươc cấp phòng) tại 08 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố gồm: thành
phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng, Nghệ An, Thanh
Hoá, Quảng Ninh, Đắk Lắk, Đồng Nai. Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh,
106
thành phố còn lại lập bộ phận có 02 cán bộ thanh tra chuyên trách nằm trong
Phòng Tổ chức - cán bộ. Theo quy định, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh,
thành phố phải hoàn thành việc thành lập tổ chức Thanh tra và bố trí cán bộ
thanh tra chuyên trách trước ngày 31/3/2014 để triển khai hoạt động từ ngày
01/4/2014. Tuy nhiên, việc bố trí biên chế cán bộ làm công tác thanh tra của
Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố chỉ được điều chỉnh từ chỉ tiêu
biên chế và cơ cấu Kiểm sát viên đã được giao, không bổ sung thêm. Do đó,
Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố hiện đang gặp rất nhiều khó khăn
trong việc lựa chọn, bố trí cán bộ, Kiểm sát viên có năng lực, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra. Hiện còn có 11/55 Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh chưa lập Tổ Thanh tra, trong đó 06 tỉnh (Hòa Bình,
Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình và Đắk Nông) bố trí 02 cán bộ
kiêm nhiệm làm công tác thanh tra và 05 tỉnh (Cao Bằng, Lào Cai, Ninh
Thuận, Tây Ninh và Đồng Tháp) bố trí 01 cán bộ kiểm nhiệm làm công tác
thanh tra. Một số Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố bố trí cán bộ làm
công tác thanh tra chưa bảo đảm về cơ cấu, chất lượng cán bộ (kế toán viên,
chuyên viên tập sự, cán sự)
Hai là, ngành Kiểm sát nhân dân còn thiếu những thể chế, quy định có
tính pháp lý về công tác thanh tra, kiểm tra. Tổ chức và hoạt động thanh tra của
ngành Kiểm sát nhân dân là loại hình thanh tra có tính đặc thù, khác với hoạt
động thanh tra của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước và các cơ
quan tư pháp khác. Quá trình tổ chức và hoạt động thanh tra của ngành Kiểm sát
nhân dân mới chỉ căn cứ vào Quy chế về tổ chức và hoạt động của, của Thanh
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Ban Thanh tra trước đây) và Quy chế về
công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân; nhưng nội dung của
Quy chế về công tác thanh tra, kiểm tra chưa quy định rõ về vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung hoạt động nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra trong
ngành Kiểm sát nhân dân.
107
Hiện vẫn còn thiếu các quy định khác làm căn cứ pháp lý trong hoạt
động thanh tra và để quản lý, hướng dẫn hoạt động thanh tra trong toàn ngành
như: chưa có “Quy chế Đoàn thanh tra” và quy trình nghiệp vụ, hệ thống
biểu mẫu văn bản về hoạt động thanh tra; “Quy định về xử lý kỷ luật đối với
cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát nhân dân”; Quy chế phối hợp
giữa Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Vụ Khiếu tố, Vụ Tổ chức
Cán bộ và Cục Điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc tiếp nhận,
phân loại xử lý đơn khiếu nại, tố cáo và kiến nghị phản ánh về vi phạm liên
quan đến cán bộ, công chức, viên chức trong ngành Kiểm sát nhân dân để
phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm xử lý và nâng cao hiệu quả phối hợp
giữa các đơn vị trong ngành.
Ba là, những hạn chế, bất cập trong hoạt động nghiệp vụ thanh tra.
Theo quy định của Luật Thanh tra thì hoạt động thanh tra được thực hiện
bằng các hình thức là thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên hoặc
thanh tra đột xuất. Nhưng trên thực tế, hoạt động thanh tra trong ngành Kiểm
sát nhân dân từ trước đến nay mới chỉ chú trọng đến việc thực hiện hình thức
thanh tra thường xuyên là giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo và thông tin phản
ánh liên quan đến công chức, viên chức, người lao động trong ngành và tổ
chức thực hiện một số cuộc thanh tra đột xuất, khi phát hiện đơn vị, cá nhân
trong ngành có dấu hiệu vi phạm pháp luật, theo yêu cầu của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hình thức Thanh tra theo kế hoạch trong
những năm gần đây tuy đã có triển khai thực hiện nhưng hầu hết các cuộc
thanh tra đều không theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định về hình
thức thanh tra theo kế hoạch mà thực hiện theo phương thức kiểm tra do
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì và có sự phối hợp của các
Vụ nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (từ việc xây dựng Kế
hoạch kiểm tra, ra Quyết định thành lập Đoàn kiểm tra và ban hành Kết luận
kiểm tra). Từ năm 2013 đến nay, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
108
mới triển khai thực hiện việc xây dựng Kế hoạch thanh tra và ra Quyết định
thanh tra về công tác cán bộ và việc quản lý, sử dụng ngân sách; thanh tra về hoạt
động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại các
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tuy nhiên, các
Đoàn thanh tra vẫn chưa thực hiện đầy đủ các thao tác, nghiệp vụ của một
cuộc thanh tra như việc công bố quyết định thanh tra, báo cáo kết quả thanh
tra đối với người ra Quyết định thanh tra, ban hành kết luận thanh tra...
Về nội dung thanh tra, theo lý luận chung về công tác thanh tra, phạm
vi hoạt động của công tác quản lý đến đâu, thì phạm vi hoạt động của thanh
tra đến đó. Nói cách khác là ở đâu có quản lý, ở đó có hoạt động thanh tra.
Công tác quản lý trong ngành kiểm sát nhân dân có ba đối tượng cơ bản là:
quản lý hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp; quản lý việc xây dựng tổ chức bộ máy và công tác cán bộ; quản
lý về cơ sở vật chất và kinh phí được cấp. Trong đó quản lý hoạt động nghiệp
vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp có ý nghĩa
quyết định đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành đã được
Đảng và Nhà nước giao cho. Chỉ thị công tác kiểm sát hàng năm của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo cần tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra về hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp. Thực tế những năm qua, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao mới chỉ phối hợp với các Vụ nghiệp vụ tiến hành kiểm tra về việc quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án hình sự và đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án đối
với bị can do Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện; việc thực hiện chức
năng kiểm sát điều tra đối với các quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra vụ
án và đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra bị can do Cơ quan điều tra các cấp thực
hiện. Năm 2012, thực hiện chủ trương của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao làm đầu mối theo dõi
về công tác thanh tra, kiểm tra trong toàn ngành và phối hợp với các đơn vị
109
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức kiểm tra về tất cả các khâu nghiệp
vụ công tác kiểm sát (Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử án hình sự; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình
sự; Kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh
thương mai, lao động v.v...) và công tác xây dựng ngành. Trong năm 2013,
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao không tiến hành thanh tra, kiểm tra
theo kế hoạch về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp mà chỉ thực hiện thanh tra theo kế hoạch về công tác cán bộ tại 08 Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và tổ chức một số cuộc thanh tra đột xuất theo dấu
hiệu vi phạm theo chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đến
năm 2014, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Thanh tra các Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mới bắt đầu triển khai
các cuộc thanh tra theo kế hoạch và và thanh tra đột xuất về hoạt động nghiệp
vụ, tuy nhiên chất lượng, hiệu quả còn hạn chế.
Việc phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ trong ngành tiến hành các cuộc
kiểm tra vẫn còn có những hạn chế, bất cập như: kiểm tra chưa toàn diện,
chưa triệt để, chưa giải quyết tận gốc của vi phạm, chủ yếu là nêu ra những
thiếu sót về việc áp dụng pháp luật và trình tự, thủ tục tố tụng chưa đúng quy
định; chưa làm rõ trách nhiệm của lãnh đạo, kiểm sát viên trong việc để xảy
ra vi phạm để kiến nghị xử lý nghiêm túc. Từ đó, các Viện kiểm sát nhân dân
địa phương chưa thực sự coi trọng công tác kiểm tra nghiệp vụ, chủ yếu vẫn
mang nặng tính chất bao che khuyết điểm, đổ lỗi cho nhận thức và trình độ
chuyên môn hạn chế nên chưa có hình thức xử lý kỷ luật nghiêm túc đối với cá
nhân có vi phạm. Do vậy, tính giáo dục chưa cao, nên các sai phạm vẫn tái diễn. Đó
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung
còn cao; tỷ lệ án đình chỉ chưa giảm, còn lạm dụng việc áp dụng Điều 25 Bộ luật
hình sự để đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự, dẫn đến để lọt tội phạm, hoặc né
tránh trách nhiệm do bị oan sai; còn có các trường hợp phải đình chỉ do bị can
110
không phạm tội, Tòa án tuyên không phạm tội; có những địa phương “bỏ quên”
nhiều vụ án trong thời gian dài không được phát hiện kịp thời; nhiều bản án do Toà
án nhân dân cấp trên quyết định huỷ án giao cho cấp dưới điều tra, xét xử lại nhưng
bị “bỏ quên” hoặc xử lý không đúng pháp luật v.v...
Bên cạnh đó, việc ban hành văn bản Kết luận thanh tra trong thời gian
qua chưa đảm bảo đúng thể thức theo quy định của Luật Thanh tra và Quy
chế của ngành về Kết luận thanh tra. Mỗi Đoàn thanh tra xây dựng Kết luận
thanh tra theo hình thức khác nhau, không có sự thống nhất chung về tên gọi
(tên loại và trích yếu), bố cục, nội dung, kết luận, kiến nghị xử lý v.v….
Công tác kiểm tra việc thực hiện kiến nghị, yêu cầu của Kết luận thanh
tra chưa được coi trọng nên có nhiều việc xử lý sau thanh tra chưa được kịp
thời, nghiêm túc.
Những hạn chế, bất cập trong hoạt động thanh tra như nêu trên đã làm
hạn chế hiệu quả, tác dụng của công tác thanh tra trong việc tham mưu giúp
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tăng cường công tác quản lý, chỉ
đạo điều hành và phòng ngừa vi phạm trong ngành.
Bốn là, sự chỉ đạo, phân định thẩm quyền, phạm vi hoạt động giữa
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao với hoạt động thanh tra ở các Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, giữa hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra
chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị chức năng thuộc Viện kiểm sát nhân dân
các cấp chưa rõ ràng, có những trường hợp bị chồng chéo hoặc đùn đẩy trách
nhiệm lẫn nhau dẫn đến để lọt vi phạm.
Những hạn chế, bất cập nêu trên do một số nguyên nhân cơ bản
sau đây:
* Nguyên nhân chủ quan:Lãnh đạo một số đơn vị trong ngành Kiểm sát nhân dân nhận thức chưa
đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra ngành; chủ yếu mới
quan tâm đến hoạt động kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của đơn vị cấp trên với
111
cấp dưới, kiểm tra việc thực hiện chỉ thị công tác hàng năm của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, kiểm tra về công tác xây dựng ngành theo các
chuyên đề về thực hiện Quy chế dân chủ, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Các khiếu nại, tố cáo liên quan đến tập thể, cá nhân trong ngành, có nhiều vi
phạm trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, trong thi hành công vụ, hoạt động
nghiệp vụ và kỷ luật nội vụ, nhưng việc thanh tra, xác minh làm rõ vi phạm,
trách nhiệm còn chưa chủ động, kịp thời; một số việc xử lý chưa nghiêm túc.
Số lượng, chất lượng đội ngũ công chức của Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; hầu hết công chức làm công tác
thanh tra đều chưa được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra nên trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra nhiều khi còn lúng túng; việc sắp xếp,
phân công cán bộ tham gia các Đoàn thanh tra gặp nhiều khó khăn; chưa chủ
động, kịp thời trong hoạt động thanh tra; việc nắm bắt thông tin, vi phạm còn
hạn chế, chưa tham mưu được nhiều cho Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.
Bên cạnh đó, sự đầu tư về cơ sở vật chất, chế độ chính sách đãi ngộ
cũng như điều kiện cần thiết khác đối với công tác thanh tra và công chức
thanh tra của ngành còn nhiều hạn chế, chưa tạo điều kiện để công chức thanh
tra yên tâm công tác, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc tìm nguồn cán
bộ có năng lực, trình độ để điều động về công tác tại Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao cũng như Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Do đó,
trong thời gian dài, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn không đủ
chỉ tiêu biên chế được giao; hiện tại, một số Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
vẫn chưa bố trí được đủ cán bộ làm công tác thanh tra chuyên trách.
* Nguyên nhân khách quan:
Chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ về Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Luật Thanh tra năm 2010 chỉ quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan thanh tra nhà nước (bao gồm: Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ,
Thanh tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện), các cơ quan được giao thực
112
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và Thanh tra nhân dân. Tại Khoản 1,
Điều 76 Luật Thanh tra năm 2010 có quy định: “Căn cứ vào quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan, trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan khác của Nhà nước tổ chức và chỉ đạo hoạt
động thanh tra trong ngành, cơ quan mình”. Hiện nay, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao cũng đã ban hành Quy chế về công tác thanh tra, kiểm tra
trong ngành Kiểm sát nhân dân (Quy chế số 808, ngày 11/12/2012) và Quy chế
về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nhưng
nội dung của các quy chế chưa quy định rõ về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức bộ máy, nội dung hoạt động thanh tra và chưa phân định rõ hoạt
động thanh tra với hoạt động kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Do tổ chức Thanh tra ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong thời gian
qua chưa được hoàn thiện nên việc triển khai các nhiệm vụ thanh tra gặp khó
khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo
Viện kiểm sát nhân dân các cấp; công tác hướng dẫn, kiểm tra đánh giá và chấn
chỉnh về kỷ cương, kỷ luật mang tính hệ thống toàn ngành còn hạn chế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 31. Trong những năm qua, nhất là từ năm 2009 đến nay, với chức năng
nhiệm vụ được giao, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân là công cụ hữu hiệu
của Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác
quản lý, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật, phát huy những ưu điểm, nhân tố tích
cực, góp phần phòng ngừa vi phạm, nâng cao hiệu quả công tác và ý thức,
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong
ngành Kiểm sát nhân dân.
2. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân còn một số hạn chế, bất cập như: Còn
thiếu những thể chế, quy định có tính pháp lý về tổ chức và hoạt động thanh tra;
113
còn hạn chế trong hoạt động nghiệp vụ thanh tra; chưa có sự chỉ đạo, phân
định rõ ràng phạm vi hoạt động giữa Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao
với hoạt động thanh tra ở các Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, giữa hoạt động
thanh tra với hoạt động kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị chức năng
thuộc Viện kiểm sát nhân dân các cấp; chưa có sự quan tâm đúng mức đến tạo
điều kiện, chế độ đãi ngộ cho cán bộ làm công tác thanh tra trong ngành Kiểm
sát... dẫn đến đội ngũ vừa thiếu vừa yếu, trong khi công việc rất nặng nề dẫn
đến hạn chế hiệu quả hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
3. Hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách
quan là văn bản pháp luật quy định hoặc hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân chưa được hoàn thiện; công tác hướng
dẫn, kiểm tra đánh giá và chấn chỉnh về kỷ cương, kỷ luật mang tính hệ thống
toàn ngành còn hạn chế; nguyên nhân chủ quan là nhận thức của lãnh đạo
ngành chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra
ngành; thiếu hụt đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ; chưa có chế độ đãi
ngộ thỏa đáng...
4. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân
tối cao: Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về nghiệp
vụ, nội vụ, bố trí cán bộ để chủ động việc tự kiểm tra ở từng cấp kiểm sát,
từng đơn vị nghiệp vụ trong ngành nhằm tăng cường trách nhiệm, kỷ cương,
kỷ luật; xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp cán bộ vi phạm hoặc để
xảy ra oan, sai; trong thời gian tới, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân cần
phải sớm được hoàn thiện về tổ chức bộ máy, kiện toàn công tác cán bộ, nâng
cao hiệu quả công tác thanh tra về hoạt động nghiệp vụ, công vụ và kỷ luật
nội vụ; kịp thời phát hiện những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp
luật và sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý để kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm của công chức, viên chức và người lao động trong ngành.
114
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
Quán triệt các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo việc cải cách tư pháp đã thể
hiện trong các văn kiện của Đảng, nhất là Nghị quyết 08, 49 và Kết luận 79,
Kết luận số 92 của Bộ Chính trị, hàng năm Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đã ban hành Kế hoạch, Chương trình trọng tâm công tác tư
pháp của ngành Kiểm sát nhân dân, trong đó đặc biệt chú trọng đến nội dung:
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm
minh những cán bộ, Kiểm sát viên vi phạm kỷ luật và pháp luật, nhất là vi
phạm pháp luật trong việc giải quyết các vụ án, gây thiệt hại đến lợi ích Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của
ngành Kiểm sát nhân dân hàng năm đều chỉ rõ: Đẩy mạnh công tác thanh tra,
kiểm tra phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh những cán bộ, công chức vi
phạm kỷ luật và pháp luật. Tổ chức thực hiện tốt Luật Phòng, chống tham
nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật cán bộ, công chức, Luật
Viên chức, Quy chế dân chủ ở cơ sở trong ngành.
Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 14/8/2013 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao về “Tăng cường công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát
nhân dân” đã chỉ rõ: Thời gian qua, công tác thanh tra có nhiều cố gắng, đã tập
trung thanh tra chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật, phát huy những ưu điểm, nhân tố
tích cực, góp phần phòng ngừa vi phạm, nâng cao hiệu quả công tác thực hiện
chức năng, nhiệm vụ và ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức trong ngành Kiểm sát nhân dân. Bên cạnh những kết quả đạt được,
115
công tác thanh tra ngành còn bộc lộ những hạn chế, như: Hệ thống thanh tra chưa
được hoàn chỉnh; số lượng, chất lượng cán bộ làm công tác thanh tra chưa đáp
ứng yêu cầu. Lãnh đạo một số đơn vị nhận thức chưa đầy đủ vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của công tác thanh tra Ngành; chưa thực sự quan tâm đến hoạt
động thanh tra, có nhiều vi phạm trong quản lý, điều hành, trong thi hành công vụ,
hoạt động nghiệp vụ và nội vụ cơ quan, các khiếu nại, tố cáo liên quan đến tập thể,
cá nhân trong đơn vị, nhưng việc thanh tra, xác minh làm rõ vi phạm, trách nhiệm
còn chưa chủ động, kịp thời; một số việc xử lý chưa nghiêm túc.
Đồng thời để khắc phục những hạn chế nêu trên và tăng cường công tác
thanh tra nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân các cấp trong thời gian tới, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao chỉ thị cụ thể giao trách nhiệm đối với Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng các đơn vị
trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao về đổi mới tổ chức, phương thức, cách thức hoạt động để nâng cao chất
lượng, hiệu quả, hiệu lực của hoạt động thanh tra và nêu các biện pháp cụ thể
để tổ chức thực hiện [84].
Để củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân, đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng ngành, ngày 20/12/2013
Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 06-
NQ/BCSĐ phê duyệt Đề án “Tăng cường tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân”. Nội dung Nghị quyết thể hiện rõ: “Đồng ý
củng cố thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao cả về số lượng và chất lượng;
xây dựng hệ thống Thanh tra ngành Kiểm sát tại các Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên toàn quốc theo lộ trình thích hợp; tiến
hành thành lập thí điểm tại một số đơn vị có đủ tiêu chí và điều kiện để thực
hiện, cụ thể: Thành lập thêm ở Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao Phòng
Thanh tra hành chính để đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra hoạt động công vụ
116
trong Ngành và bổ sung đủ 25 biên chế, đảm bảo mỗi phòng thuộc Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có tối thiểu 5 biên chế, đồng thời nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ thanh tra, tăng cường thanh tra hoạt động nghiệp vụ trong
Ngành. Thành lập tổ chức Thanh tra (tương đương cấp phòng) ở 08 Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh, gồm Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Thanh Hoá, Quảng
ninh, Đắk Lắk, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh. Các Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh, thành phố không thành lập Thanh tra cấp tỉnh thì lập bộ phận Thanh tra có
02 biên chế chuyên trách làm công tác thanh tra nằm trong Phòng tổ chức cán
bộ; nghiệp vụ do Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo” [53].
Như vậy, việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân phải đặt trong bối cảnh đổi mới tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp. Thanh tra luôn là
chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước; vì vậy, Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân phải gắn liền với quản lý và phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
quản lý của ngành trong từng giai đoạn cụ thể. Việc hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân phải được tiến hành đồng
bộ trên các phương diện: tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và phương thức
hoạt động thanh tra.
Về tổ chức bộ máy của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân phải được
hoàn thiện, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra các cấp trong hệ
thống Thanh tra ngành, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động
giữa Thanh tra cấp trên với Thanh tra cấp dưới (Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh) và giữa hoạt
động của Thanh tra ngành với hoạt động kiểm tra chuyên môn của các đơn
vị nghiệp vụ khác trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ công chức Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân phải đảm bảo đủ về số lượng, đáp ứng được yêu cầu về
chất lượng, có chính sách đãi ngộ thích đáng và được trang bị đầy đủ
phương tiện làm việc cần thiết.
117
Về phương thức hoạt động, hoạt động thanh tra phải được tiến hành
kịp thời, nhanh gọn, có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng được yêu cầu của
công tác quản lý và không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của
các đơn vị, cá nhân được thanh tra. Đổi mới nội dung hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân cần phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp
và đặc biệt tập trung vào thanh tra công vụ, thanh tra việc chấp hành pháp
luật và quy chế của ngành trong hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Trước những yêu cầu của tình hình mới như đã khái quát trên đây, tổ
chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân cần được hoàn
thiện theo những phương hướng cơ bản sau:
4.1.1. Phương hướng hoàn thiện về tổ chức của Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân ở Việt Nam
Về hoàn thiện tổ chức của Thanh tra ngành kiểm sát nhân dân, theo
chúng tôi cần quán triệt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về vị trí, vai trò quan
trọng của công tác thanh tra.
Một trong những điểm mấu chốt về mặt nhận thức, đó là, phải thấy
rằng mục đích của thanh tra không chỉ là phát hiện, xử lý khuyết điểm, vi
phạm mà còn là phát huy các nhân tố tích cực, giúp các đơn vị, cá nhân là đối
tượng thanh tra thực hiện đúng các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, quy chế nghiệp vụ và quy định của ngành. Đồng thời tích
cực góp phần vào việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật. Tinh thần
này đã được thể hiện khá rõ trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Thanh tra là nhiệm vụ vẻ vang và quan trọng, nó theo dõi, xem xét chấp
hành đúng đắn đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Chính
phủ”, “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”. Đồng thời,
Người cũng yêu cầu: “Thanh tra không phải chỉ đi xem địa phương thực hiện
118
nghị quyết, chỉ thị thế nào. Nếu họ làm sai hay gặp khó khăn còn phải giúp đỡ
họ làm cho đúng với nghị quyết, chỉ thị của trên đưa xuống. Thanh tra cũng
không phải chỉ điều tra, nghiên cứu việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị đã
được đến đâu mà còn phải theo dõi cho đến khi công việc đó được làm xong,
làm tốt”[26]. Các tổ chức thanh tra, mỗi công chức thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân cần phải quán triệt sâu sắc di huấn đó của Hồ Chủ tịch, biến thành
hành động thực tế nhằm phát huy tốt vai trò của thanh tra, nâng cao vị thế của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Thứ hai, tăng cường thẩm quyền cho Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân, cụ thể là tăng thẩm quyền trong các lĩnh vực: xây dựng chiến lược và kế
hoạch công tác; kiến nghị và đình chỉ những hành vi trái pháp luật và những
hành vi gây thất thoát tài sản của nhà nước; kiến nghị xử lý trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, đơn vị khi để xảy ra sai phạm; có thẩm quyền trong
việc nhận xét, đánh giá, đề nghị bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý (Viện
trưởng, Viện phó Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; Trưởng, Phó
Trưởng phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao) và các chức danh pháp lý trong ngành (Kiểm sát viên, Kiểm tra viên).
Thứ ba, hoàn thiện cấu trúc hệ thống bộ máy của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng đội ngũ
công chức Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân ngày càng trong sạch vững
mạnh. Đây là yêu cầu cấp bách và lâu dài của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách tư pháp.
Để làm được điều đó, trước hết phải xây dựng hệ thống tổ chức của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân trong một chỉnh thể thống nhất từ Thanh
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đến Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh. Bên cạnh đó, cần chú trọng làm tốt công tác giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho công chức Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân. Phải thấm
119
nhuần sâu sắc lời dạy của Bác Hồ: “cán bộ thanh tra như cái gương cho người
ta soi mặt, gương mờ thì không soi được”, “cán bộ thanh tra phải cố gắng học
tập, học cái hay, tránh cái dở, trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ
lý luận, trình độ nghiệp vụ và chuyên môn để làm việc cho tốt” [26]. Song
một mặt khác quan trọng hơn, là phải tạo ra đột phá về tư duy trong công tác
cán bộ. Phải tích cực thực hiện một cách hợp lý việc đánh giá, sử dụng, quy
hoạch cán bộ để thu hút, lựa chọn được người đủ đức, đủ tài, góp phần xây
dựng được một đội ngũ công chức Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân vừa có
tâm, có tầm và có tài, đủ sức đáp ứng mọi nhiệm vụ mà ngành giao phó.
4.1.2. Phương hướng hoàn thiện về hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân ở Việt Nam
Về phương hướng hoàn thiện hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân, theo tác giả Luận án cần chú ý:
Thứ nhất, đổi mới tư duy trong chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ
của Thanh tra ngành theo hướng đề cao tính hiệu quả, tính chịu trách nhiệm
trong hoạt động, coi đây là yếu tố then chốt, quyết định trong hoạt động của
mỗi tổ chức thanh tra cũng như trong thực hiện nhiệm vụ của công chức thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Thứ hai, đổi mới hoạt động thanh tra theo xu hướng giảm tiền kiểm,
tăng cường hậu kiểm trong quản lý nhà nước.
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân cần đổi mới phương thức thanh tra
cho phù hợp với tình hình mới, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Phải làm
sao để không có “khoảng trống” trong công tác quản lý của ngành, không có
lĩnh vực hoạt động nào, cơ quan, đơn vị nào trong ngành lại không chịu sự
thanh tra, kiểm tra. Để làm được điều này, bên cạnh hình thức thanh tra trực
tiếp, có tổ chức, theo Đoàn thanh tra, cần kết hợp thanh tra theo địa danh, địa
chỉ cụ thể, theo xác suất, với việc tăng cường hơn công tác giám sát từ xa, với
địa bàn phụ trách rõ ràng của mỗi công chức thanh tra. Đây là cách làm mà
120
thanh tra tư pháp của một số nước trên thế giới đã áp dụng hiệu quả, thành
công. Nó cũng sẽ khắc phục được sự hạn chế về số lượng của đội ngũ công
chức thanh tra, trong khi lại tăng cường được khả năng quản lý, giám sát của
tổ chức Thanh tra ngành đối với đối tượng thanh tra.
Thứ ba, đổi mới hoạt động thanh tra bảo đảm nguyên tắc hoạt động
thanh tra phải công khai, dân chủ, khách quan, kịp thời và đề cao vai trò, trách
nhiệm của Trưởng đoàn thanh tra.
Trong quá trình thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra và các thành viên cần
phải thực hiện tốt chức trách, quyền hạn được giao, song cũng phải coi trọng
nguyên tắc công khai, dân chủ, khách quan, công bằng, tránh hiện tượng quy
kết, đánh giá chủ quan áp đặt. Để làm được điều này, trong tổ chức Đoàn
thanh tra phải lựa chọn thành viên có năng lực phù hợp, coi đây là yếu tố
quyết định thành công của mỗi cuộc thanh tra. Trong chỉ đạo, điều hành,
Đoàn thanh tra phải luôn nắm bắt kịp thời thông tin, diễn biến của cuộc thanh
tra; thường xuyên kiểm tra, giám sát để hoạt động thanh tra đúng pháp luật;
xác định rõ trách nhiệm của Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, các
đơn vị, bộ phận có liên quan cũng như trách nhiệm của lãnh đạo Thanh tra đối
với từng cuộc thanh tra. Mỗi cuộc thanh tra phải xác định rõ nội dung trọng
tâm và những vấn đề chủ yếu để tập trung chỉ đạo, đảm bảo kết thúc gọn, kết
luận chính xác. Kiến nghị về thanh tra phải cụ thể, rõ ràng; làm rõ trách nhiệm
tập thể, cá nhân có sai phạm, đồng thời phải đề xuất được giải pháp có tính
khả thi để sửa chữa các yếu kém, sơ hở trong hoạt động quản lý và xử lý
nghiêm minh người có hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ tư, xây dựng và nâng cao văn hoá thanh tra, hoàn thiện đạo đức
của cán bộ thanh tra trên cơ sở nhận thức đầy đủ, sâu sắc mục đích, vị trí, vai
trò của công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Xây dựng văn hoá thanh tra phải hướng đến việc xây dựng cho mỗi
công chức Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân có ý thức tự giác, tự rèn luyện,
121
chống các biểu hiện kiêu ngạo, cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu... trong quá
trình thực thi nhiệm vụ. Phải làm cho tinh thần trách nhiệm, các yếu tố cơ bản
của văn hoá thấm sâu và biểu hiện cụ thể trong mỗi việc làm của tổ chức
thanh tra, trong từng hành vi, thái độ ứng xử của mỗi công chức thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân.4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ
PHÁP Ở VIỆT NAM
4.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân
Với quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc cải các tư pháp, để hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân trước hết cần phải hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc
tổ chức và hoạt động của cơ quan này theo hướng:
Thứ nhất, ban hành Thông tư quy định về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Tại Điều 76 Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Căn cứ vào quy định
của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân tối cao, VKSND tối cao,
Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan khác của Nhà nước tổ chức và chỉ đạo hoạt
động thanh tra trong ngành, cơ quan mình”.
Nghị quyết số 522d/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về phê chuẩn việc điều chỉnh, bổ sung nhiêm vụ và đổi
tên một số đơn vị thuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trong đó đổi tên Ban thanh tra thành Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; tại Điều 2 Nghị quyết quy định: “Biên chế, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ
cụ thể của các đơn vị quy định tại Điều 1 của Nghị quyết này do Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định”.
122
Để thể chế hóa các quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phù hợp với đặc thù tổ chức và hoạt
động của ngành Kiểm sát nhân dân, cần thiết phải xây dựng Thông tư “Quy
định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân”. Nội
dung Thông tư quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động thanh tra; nhiệm
vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan thanh tra trong ngành Kiểm sát
nhân dân; nội dung hoạt động thanh tra; thanh tra lại; trách nhiệm trong việc
bảo đảm thực hiện kết luận thanh tra; quyết định xử lý về thanh tra; giải quyết
khiếu nại, tố cáo và chế độ thông tin, báo cáo trong hoạt động thanh tra.
Thứ hai, ban hành Thông tư quy định về xử lý vi phạm trong ngành
Kiểm sát nhân dân.
Nghị định số 34/2011/NĐ-CP, ngày 17/05/2011 của Chính phủ quy
định về xử lý kỷ luật đối với công chức và Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày
06/4/2012 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm
bồi thường, hoàn trả của viên chức, nhưng những vi phạm có tính chất đặc thù
trong các lĩnh vực công tác của ngành Kiểm sát nhân dân hiện vẫn chưa được
quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật và quy định của ngành nên không
có căn cứ pháp lý để xử lý. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi trong công tác
quản lý của ngành Kiểm sát nhân dân, quy định này đã được bổ sung vào
Khoản 2 Điều 99 Dự án Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội
khoá 13 thông qua ngày 24/11/2014 như sau:
“2. Cán bộ, công chức, viên chức và nhân viên của Viện kiểm sát nhân
dân vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm
mà xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật và quy định của Viện kiểm sát nhân dân...”
Nhằm thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh cải
cách chế độ công vụ, công chức; đồng thời, thể chế hóa các quy định của
Đảng về xử lý vi phạm đối với đảng viên và quy định của pháp luật về xử lý
123
kỷ luật đối với công chức, viên chức; tăng cường kỷ cương, kỷ luật nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức tốt,
ý thức kỷ luật cao và hoạt động có tính chuyên nghiệp; xây dựng một cơ chế
phòng ngừa vi phạm, tham nhũng, tiêu cực trong ngành có hiệu quả. Trên cơ
sở quy định chung trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi), cần
nghiên cứu, xây dựng Thông tư “Quy định về xử lý vi phạm trong ngành
Kiểm sát nhân dân”. Nội dung Thông tư xác định rõ những hành vi vi phạm
phải được xem xét kiểm điểm, xử lý, mức độ, hình thức xử lý và trách nhiệm
của thủ trưởng các đơn vị trong việc tổ chức kiểm điểm, xử lý vi phạm thuộc
thẩm quyền nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chuyên môn và kỷ
cương, kỷ luật trong ngành.
Thứ ba,, hoàn thiện các quy định về hoạt động nghiệp vụ thanh tra.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ công tác thanh tra trong thời kỳ mới, để công
tác thanh tra hoạt động được thống nhất, có hiệu quả, góp phần xây dựng ngành
Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh, trong thời gian qua ngành Kiểm sát
nhân dân đã xây dựng được một số văn bản quy định về công tác thanh tra,
kiểm tra như: Quy chế công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát
nhân dân (Quy chế số 808); Quy chế về tổ chức và hoạt động của Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Quy chế số 72); Chỉ thị số 04/CT-VKSTC
ngày 14/8/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng
cường công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân; Chỉ thị số 05/CT-
VKSTC-TTr ngày 31/3/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
về tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ và trật tự nội vụ trong ngành Kiểm
sát nhân dân; Quy định phối hợp công tác giữa Thanh tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao với Vụ Tổ chức Cán bộ và Quy định phối hợp công tác giữa
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Cục Điều tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong việc kiểm tra, xác minh, giải quyết đơn khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị phản ánh về vi phạm liên quan đến cán bộ, công chức, viên
chức trong ngành Kiểm sát nhân dân.
124
Tuy nhiên, các quy định về hoạt động thanh tra, kiểm tra trong Ngành
còn chưa đầy đủ hoặc lạc hậu so với quy định hiện hành và yêu cầu của công
tác quản lý do đó thực hiện chưa thống nhất, thiếu hiệu quả. Vì vậy, cần phải
nghiên cứu hoàn thiện các thể chế làm căn cứ pháp lý cho hoạt động thanh tra,
cụ thể như sau:
Một là, xây dựng “Quy chế Đoàn thanh tra” và các quy trình về nghiệp
vụ thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân như: Quy trình thanh tra hoạt
động nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án
hình sự; Quy trình thanh tra nghiệp vụ kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam và
thi hành án hình sự; Quy trình thanh tra nghiệp vụ kiểm sát việc giải quyết các
vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động và các việc
khác theo quy định của pháp luật; Quy trình thanh tra xét khiếu tố; Quy trình
thanh tra hành chính.
Hai là, nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống biểu mẫu văn bản về hoạt
động nghiệp vụ thanh tra như: Kế hoạch thanh tra, Quyết định thanh tra, Báo
cáo kết quả thanh tra, Kết luận thanh tra v.v...; xây dựng các biểu mẫu báo
cáo về công tác thanh tra; hướng dẫn việc gửi báo cáo kết quả thanh tra và
các văn bản về công tác thanh tra cho Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; tổ chức tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra trong
ngành Kiểm sát nhân dân.
Ba là, xây dựng Quy định phối hợp giữa Thanh tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao với Vụ Khiếu tố, Vụ Tổ chức- Cán bộ và Cơ quan Điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong việc tiếp nhận, phân loại xử lý đơn khiếu
nại, tố cáo và kiến nghị phản ánh về vi phạm liên quan đến công chức, viên
chức và người lao động trong ngành để phân định rõ thẩm quyền, trách
nhiệm xử lý và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các đơn vị trong ngành.
125
4.2.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và củng cố, kiện toàn đội ngũ công
chức Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
Thanh tra là bộ phận cấu thành của hoạt động quản lý, là một trong
những nhiệm vụ quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý,
chỉ đạo, điều hành. Theo lý luận chung về công tác thanh tra, phạm vi hoạt
động của công tác quản lý đến đâu, thì phạm vi hoạt động của thanh tra đến
đó. Nói cách khác, ở đâu có quản lý, ở đó có hoạt động thanh tra. Theo quy
định của Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày
22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thanh tra năm 2010, Thanh tra của các bộ, ngành được cơ cấu tổ chức
theo hai cấp là Thanh tra bộ ở cấp Trung ương và Thanh tra sở ở cấp tỉnh.
Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về mô hình tổ chức và hoạt động của
Thanh tra một số bộ, ngành ở Việt Nam (gồm: Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và
đầu tư, Bộ Công an và Tòa án nhân dân tối cao) cho thấy, tổ chức bộ máy của
Thanh tra các bộ, ngành đều được lập ở cấp Trung ương (cấp bộ, ngành) và ở
cấp tỉnh. Vị trí Thanh tra cấp bộ, ngành tương đương cấp cục, vụ, viện thuộc
bộ, ngành; Thanh tra ở cấp tỉnh tương đương cấp phòng thuộc sở, ngành.
Thanh tra của các bộ, ngành đều có tài khoản và con dấu riêng.
Trong những năm qua, Ban cán sự đảng và lãnh đạo Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đã quan tâm củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy và công tác cán bộ
của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân. Từ năm 2014, Thanh tra ngành Kiểm
sát nhân dân đã được thành lập ở 2 cấp kiểm sát là Thanh tra Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) được Quốc hội Khoá 13
thông qua ngày 24/11/2014, đã xác định tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân
dân có 04 cấp kiểm sát là: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thành phố, thị xã thuộc tỉnh.
126
Tuy nhiên, về tổ chức bộ máy của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân
dân trong thời gian tới chỉ nên tổ chức ở 2 cấp kiểm sát là Thanh tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
như hiện nay là phù hợp. Trong đó, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao có thẩm quyền, phạm vi thanh tra đối với các đơn vị thuộc Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh; những dấu hiệu vi phạm liên quan đến lãnh đạo cấp vụ, công
chức, viên chức và người lao động của các đơn vị trực thuộc cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; lãnh
đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và các trường hợp khác khi thấy cần
thiết. Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền, phạm vi
thanh tra đối với các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, các
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện; những dấu hiệu vi phạm liên quan đến
lãnh đạo cấp phòng và công chức, người lao động thuộc Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh; lãnh đạo và công chức, người lao động thuộc Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện.
Trước yêu cầu công tác quản lý, xây dựng ngành, tổ chức bộ máy và
đội ngũ công chức của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian tới
cần phải tiếp tục được hoàn thiện và tăng cường hơn.
Đối với Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Căn cứ Quy chế về
tổ chức và hoạt động của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
kèm theo Quyết định số 72/QĐ-VKSTC-TTr ngày 01/3/2013 của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
chức năng, nhiệm vụ: Thanh tra về hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; thanh tra hành chính (công tác cán bộ, kỷ
luật nội vụ; việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản được Nhà nước cấp, việc
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và thực hiện Quy chế dân chủ); thanh tra
việc khiếu nại, tố cáo liên quan đến công chức, viên chức và người lao động
127
trong ngành Kiểm sát nhân dân; giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao thực hiện quản lý về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và theo
dõi, tổng hợp kết quả giải quyết tố cáo về tham nhũng có liên quan đến công
chức, viên chức và người lao động trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, tổ chức bộ máy của Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao được cơ cấu có 04 Phòng, gồm: Phòng Tham
mưu, tổng hợp; Phòng Thanh tra nghiệp vụ; Phòng Thanh tra hành chính (mới
được thành lập từ tháng 7/2014); Phòng Thanh tra xét khiếu tố. Trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ và định mức công việc của từng phòng, biên chế cán bộ
đòi hỏi phải đảm bảo như sau:
Phòng Tham mưu, tổng hợp: Với khối lượng công việc và tính chất đặc
thù của các nhiệm vụ về công tác tham mưu, tổng hợp, đòi hỏi phòng phải có
từ 05-06 biên chế mới có thể đảm đương các nhiệm vụ được giao. Cơ cấu
gồm có: 01 Trưởng phòng và ít nhất 01 Phó Trưởng phòng; 01 Chuyên viên
chuyên trách làm công tác văn thư, lưu trữ; số còn lại là Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên hoặc chuyên viên các cấp.
Phòng Thanh tra nghiệp vụ: Với chức năng, nhiệm vụ của phòng là tổ
chức thanh tra về hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp, mỗi năm thành lập ít nhất 03 Đoàn thanh tra theo kế hoạch
tại 06 Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (đại diện cho 03 miền: Bắc, Trung,
Nam) và khoảng 10 cuộc thanh tra đột xuất về hoạt động nghiệp vụ. Mỗi
Đoàn thanh tra theo kế hoạch thường có từ 04-05 thành viên, trong đó Trưởng
đoàn phải là Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; mỗi cuộc thanh tra
đột xuất phải có từ 02-03 người tham gia, trong đó phải có 01 Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Do đó, đòi hỏi Phòng Thanh tra nghiệp vụ
phải có từ 06-07 biên chế, với cơ cấu gồm có: 01 Trưởng phòng là Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ít nhất 01 Phó Trưởng phòng và các
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên các cấp.
128
Phòng Thanh tra hành chính: Với chức năng, nhiệm vụ của phòng là tổ
chức thanh tra về hoạt động công vụ (công tác cán bộ, kỷ luật nội vụ); thanh
tra việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản được Nhà nước cấp, việc thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí và thực hiện Quy chế dân chủ. Mỗi năm thành
lập ít nhất 03 Đoàn thanh tra theo kế hoạch tại 06 Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh (đại diện cho 03 miền: Bắc, Trung, Nam) và thực hiện từ 15-20 cuộc
thanh tra đột xuất khác về việc chấp hành kỷ luật nội vụ của công chức, viên
chức và người lao động tại các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
các Viện kiểm sát địa phương. Mỗi Đoàn thanh tra theo kế hoạch thường có
từ 4-5 người, trong đó Trưởng đoàn phải là Lãnh đạo đơn vị; mỗi cuộc thanh
tra đột xuất phải có từ 2-3 người tham gia, trong đó phải có 01 lãnh đạo cấp
phòng. Do đó, đòi hỏi Phòng Thanh tra hành chính phải có từ 06-07 biên chế,
với cơ cấu gồm có: 01 Trưởng phòng, ít nhất 01 Phó Trưởng phòng và các
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên hoặc chuyên viên các cấp.
Phòng Thanh tra xét khiếu tố: Trong thời gian qua và dự kiến trong
những năm tới, số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo và các vụ việc do báo
chí phản ánh có liên quan đến công chức, viên chức và người lao động
trong ngành thuộc trách nhiệm giải quyết của Thanh tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao tăng nhiều hơn (khoảng 150%); tính chất các vụ việc khiếu kiện
có chiều hướng phức tạp hơn, liên quan đến trách nhiệm của nhiều người, ở
nhiều địa phương khác nhau nên việc kiểm tra, xác minh sẽ phải đầu tư
nhiều hơn cả về con người và thời gian thực hiện. Mỗi vụ việc tiến hành
kiểm tra, xác minh giải quyết phải có từ 02-03 người tham gia, trong đó
phải có 01 Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc lãnh đạo đơn
vị trực tiếp phụ trách. Do đó, để thực hiện việc kiểm tra, xác minh , giải
quyết đơn được kịp thời, có hiệu quả đòi hỏi Phòng Thanh tra xét khiếu tố
phải có từ 05-06 biên chế, với cơ cấu gồm có: 01 Trưởng phòng là Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ít nhất 01 Phó Trưởng phòng và
các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên các cấp.
129
Với cơ cấu tổ chức bộ máy, biên chế của các phòng nêu trên, đòi hỏi
trong thời gian tới Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần có từ 25-30
biên chế; trong đó, có 05 lãnh đạo đơn vị, gồm: 01 Chánh Thanh tra phụ trách
chung và 04 Phó Chánh Thanh tra, trực tiếp phụ trách các phòng nghiệp vụ.
Tuy nhiên, hiện tại Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ có
20/25 biên chế được giao; trong đó, có 04 lãnh đạo đơn vị (01 Chánh Thanh
tra và 03 Phó Chánh thanh tra, có 01 đồng chí chuẩn bị nghỉ chế độ hưu trong
năm 2016), mỗi phòng chỉ có từ 03 đến 05 biên chế). Phòng Thanh tra hành
chính và Phòng Thanh tra nghiệp vụ chưa có Trưởng phòng. Chất lượng đội
ngũ công chức của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế,
phần lớn mới được tiếp nhận trong năm 2014, chủ yếu là Kiểm sát viên sơ
cấp, công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nên chưa có nhiều kinh
nghiệm chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát và hoạt động thanh tra, kiểm tra,
chưa đáp ứng ngay được yêu cầu nhiệm vụ công tác thanh tra trong giai đoạn
hiện nay. Do đó, cần phải tiếp tục củng cố, kiện toàn đội ngũ công chức của
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo hướng:
Một là, kiện toàn lãnh đạo, quản lý của đơn vị có 05 người (gồm 01
Chánh Thanh tra và 04 Phó Chánh Thanh tra); kiện toàn lãnh đạo cấp phòng,
đảm bảo mỗi phòng có 01 Trưởng phòng và ít nhất có 01 Phó Trưởng phòng.
Hai là, tăng cường cả về số lượng và chất lượng công chức của Thanh
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời gian tới cần bổ sung cho Thanh
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao lên 30 biên chế, đảm bảo ngoài 05 lãnh đạo
đơn vị, mỗi phòng tối thiểu có 06 biên chế. Cần có cơ chế thích hợp để
khuyến khích tuyển chọn được những người có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ và năng lực, kinh nghiệm thực tiễn về nghiệp vụ thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp, kinh nghiệm về công tác thanh tra, kiểm tra để
đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác thanh tra của ngành. Có kế hoạch
130
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức của Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đảm bảo có phẩm chất chính trị tốt, bản lĩnh
vững vàng, có kinh nghiệm và kỹ năng nghiệp vụ thanh tra và công tác quản
lý, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra trong ngành.
Đối với Thanh tra ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh: Kết quả khảo
sát tại 63 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
nghiên cứu kinh nghiệm về mô hình tổ chức bộ máy của thanh tra các bộ,
ngành cho thấy việc thành lập Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là
cần thiết. Tuy nhiên, việc thành lập mới đơn vị Thanh tra tương đương cấp
phòng tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gắn liền với biên chế, cơ cấu đội
ngũ công chức, Kiểm sát viên các cấp và chế độ chính sách đãi ngộ; trong
khi đó, theo các quy định hiện hành thì khả năng đáp ứng có hạn như: Biên
chế, cơ cấu Kiểm sát viên trong thời gian tới của Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh không tăng, chỉ được điều chỉnh từ chỉ tiêu đã được giao, thực hiện chủ
trương tiết kiệm chi ngân sách Nhà nước v.v... Với thực trạng tổ chức bộ
máy, chỉ tiêu biên chế hiện có và khối lượng công việc của Viện kiểm sát
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như hiện nay, Ban cán
sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới cho phép thí điểm thành lập
Thanh tra cấp tỉnh tại 08 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố (Hà Nội,
Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, Đắk Lắk, Đồng Nai, thành
phố Hồ Chí Minh), các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố còn lại lập
bộ phận có 02 biên chế nằm trong Phòng Tổ chức - Cán bộ để chuyên trách
làm công tác thanh tra. Nhưng cho đến nay, vẫn còn nhiều Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh, thành phố triển khai thực hiện chưa đúng theo Nghị quyết của
Ban cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; việc bố trí biên chế làm
công tác thanh tra ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh chưa được chú trọng cả
về số lượng và chất lượng cán bộ.
131
MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY
THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN HIỆN NAY
Theo lý luận chung, đã có quản lý thì phải có thanh tra, kiểm tra; không
phải Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố có ít biên chế, khối lượng
công việc không nhiều thì không phải thực hiện nhiệm vụ thanh tra hoặc
không cần coi trọng hoạt động thanh tra. Việc lập bộ phận thanh tra có 02 cán
bộ thanh tra chuyên trách nằm trong Phòng Tổ chức - cán bộ của 55 Viện
Viện trưởngViện kiểm sát nhân dân tối cao
Thanh traViện kiểm sát nhân dân tối cao
Cơ cấu gồm 04 phòng:- Phòng Tham mưu, tổng hợp;- Phòng Thanh tra nghiệp vụ;- Phòng Thanh tra hành chính;- Phòng Thanh tra xét khiếu tố
Viện trưởngViện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Thanh traCủa 08 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố
(tương đương cấp phòng)
- Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội;- Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng;- Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh;- Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá;- Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An;- Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk;- Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai;- Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Bộ phận (Tổ)Thanh tra
Nằm trongPhòng Tổ chức-
cán bộcủa 55 Viện
kiểm sát nhândân tỉnh, thành
phố còn lại
132
kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố như hiện nay sẽ gặp rất nhiều khó khăn cho
việc triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra theo quy định của
pháp luật về thanh tra. Do đó, để đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra trong
ngành, trong thời gian tới, ngành Kiểm sát nhân dân cần phải thành lập tổ
chức thanh tra (tương đương cấp phòng) ở tất cả các Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thực hiện theo mô hình sau:
MÔ HÌNH TỔ CHỨC BỘ MÁY
THANH TRA NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TƯƠNG LAI
4.2.3. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ
công chức Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân có tính chuyên nghiệp,nhạy bén, bản lĩnh chính trị vững vàng
Công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân là một công việc khó
khăn và phức tạp; công chức thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân phải có đủ
các tiêu chuẩn được quy định trong Luật cán bộ, công chức, Pháp lệnh Kiểm
Viện trưởngViện kiểm sát nhân dân tối cao
Thanh traViện kiểm sát nhân dân tối cao
Cơ cấu gồm 04 phòng:- Phòng Tham mưu, tổng hợp;- Phòng Thanh tra nghiệp vụ;- Phòng Thanh tra hành chính;- Phòng Thanh tra xét khiếu tố
Viện trưởng63 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Thanh tra63 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(Tương đương cấp phòng)
133
sát viên; ngoài ra, cần phải có các phẩm chất như: có ý thức tổ chức kỷ luật và
tinh thần trách nhiệm cao trong công tác; tâm huyết và gắn bó với nghề
nghiệp; có lối sống lành mạnh, lương tâm trong sáng, dũng cảm đấu tranh
chống tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực khác; có nhiều kinh nghiệm,
tinh thông nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
và nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra; am hiểu nghiệp vụ về quản lý kinh tế, tài
chính, hành chính công; có ý thức học tập và khả năng tiếp thu kiến thức khoa
học kỹ thuật có liên quan đến công tác thanh tra.
Để đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hoá cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cải
cách tư pháp, cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ
công chức Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân có tính chuyên nghiệp, nhạy
bén, bản lĩnh chính trị vững vàng. Yêu cầu đó đòi hỏi:
Thứ nhất, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần quan tâm đến
việc tuyển chọn, bố trí những công chức, Kiểm sát viên có đủ các tiêu chuẩn
(như trên) để làm công tác thanh tra trong ngành. Đồng thời, phải xây dựng
chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với công chức
Thanh tra ngành sát với chủ trương, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của
Đảng và Nhà nước. Có nhiều phương thức đào tạo, bồi dưỡng linh hoạt, như
đào tạo ngắn hạn, dài hạn, kết hợp giữa việc đào tạo chính quy với các hình
thức đào tạo khác; khuyến khích việc tự học tập, nghiên cứu để công chức
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân được bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp
luật và trình độ nghiệp vụ kiểm sát; tạo điều kiện cho công chức Thanh tra ngành
được tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ thanh tra tại Trường Cán
bộ Thanh tra; được tham gia các Hội nghị tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ của
ngành; tham gia các đoàn kiểm tra do lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao
thành lập. Thông qua đó sẽ giúp cho công chức thanh tra có điều kiện thường
xuyên tiếp cận các văn bản pháp luật mới có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ
134
của ngành và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức, kinh
nghiệm thực tiễn đề hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thứ hai, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải thường xuyên
tổng kết thực tiễn hoạt động nghiệp vụ thanh tra của toàn ngành, rút ra những
bài học kinh nghiệm để xây dựng chương trình tập huấn, bồi dưỡng, hướng
dẫn kỹ năng nghiệp vụ cho công chức mới tiếp nhận đến đơn vị và Thanh tra
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thanh
tra trong Ngành.
Thứ ba, mỗi công chức thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân phải thường
xuyên đổi mới phương pháp, cách thức làm việc, tích cực nghiên cứu các quy
định pháp luật, nhất là những văn bản pháp luật mới, có liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ của ngành và hoạt động thanh tra, kiểm tra; chủ động trong
việc theo dõi thông tin về vi phạm trong ngành để kịp thời tham mưu cho lãnh
đạo đơn vị trong việc ra quyết định thanh tra; trau dồi phương pháp tư duy
phân tích, rút ngắn thời gian tiến hành thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra và
đề xuất kiến nghị xử lý vi phạm đảm bảo kịp thời, chính xác, có chất lượng,
hiệu quả. Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức đối với cán bộ thanh tra
thông qua việc tăng cường giáo dục về tinh thần trách nhiệm, ý thức tận tâm,
tận tụy với công việc, chống quan liêu, tham nhũng.
4.2.4. Đổi mới phương thức và nội dung hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân
Chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra có ý nghĩa quyết định đến
mức độ hoàn thành nhiệm vụ thanh tra. Thực tế cho thấy, nếu các dấu hiệu vi
phạm, nội dung thanh tra không được xem xét, xác minh đầy đủ, khách quan
thì kết luận thanh tra không đảm bảo tính chính xác, dẫn đến hậu quả bỏ lọt vi
phạm hoặc kiến nghị xử lý vi phạm không có cơ sở, không đạt được mục đích
của thanh tra. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra, Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân cần phát huy những thành tích, kết quả đã đạt được,
135
khắc phục những hạn chế, tồn tại; đồng thời, phải đổi mới phương thức và nội
dung hoạt động thanh tra như sau:
Một là, đổi mới tư duy trong chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ của
các tổ chức thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo hướng đề cao tính hiệu
quả, tính chịu trách nhiệm trong hoạt động, coi đây là yếu tố then chốt, quyết
định trong hoạt động thanh tra. Trước hết, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân
cần chủ động trong việc đề xuất và xây dựng chương trình, kế hoạch thanh
tra. Mặt khác, trong hoạt động quản lý, khi nảy sinh những vấn đề mới, việc
chủ động trong xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra sẽ đảm bảo tính kịp
thời, khách quan cho hoạt động thanh tra. Ngoài ra, để hoạt động thanh tra có
định hướng thì Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền chủ động
định hướng và kiểm tra kế hoạch thanh tra của Thanh tra Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh. Việc xây dựng và triển khai kế hoạch thanh tra phải gắn liền với
nhiệm vụ chính trị của ngành, ở từng địa phương và có trọng tâm, trọng điểm.
Kế hoạch tiến hành các cuộc thanh tra phải cụ thể, sát hợp với nội dung, thời
gian thanh tra. Tổ chức các đoàn thanh tra phải khoa học, có thành phần, số
lượng hợp lý. Bên cạnh đó cũng cần đổi mới phương pháp nắm tình hình, thu
thập thông tin liên quan đến nội dung thanh tra, phương pháp xử lý các tình
huống phát sinh trong quá trình thanh tra.
Đổi mới phương thức hoạt động thanh tra, nhưng không lẫn lộn giữa
hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra trong ngành. Các cuộc thanh tra
phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Luật Thanh tra
năm 2010 và Quy chế số 808 của ngành từ việc xây dựng Kế hoạch thanh tra,
ra Quyết định thanh tra, tiến hành thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra và ban
hành Kết luận thanh tra.
Hai là, đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
thanh tra. Nội dung hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân bao
gồm: Hoạt động thanh tra nghiệp vụ (thanh tra việc chấp hành pháp luật và
136
quy chế của ngành trong hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp; Hoạt động Thanh tra hành chính (thanh tra việc
chấp hành pháp luật và quy chế của ngành về công tác cán bộ, quản lý và sử
dụng tài sản, kinh phí ngân sách được cấp và thanh tra trách nhiệm đối với
công chức, viên chức và người lao động trong ngành về việc chấp hành kỷ
luật công vụ và trật tự nội vụ); Hoạt động thanh tra xét khiếu tố (tiếp nhận,
giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến công chức trong ngành.
Trong thời gian tới, Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân cần tăng cường
hoạt động thanh tra nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát các cấp. Thông qua hoạt động thanh tra nghiệp vụ
để kịp thời đánh giá về những ưu điểm và hạn chế, vi phạm trong việc chấp
hành pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, ... và các
quy chế nghiệp vụ của ngành; những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện hoạt động nghiệp vụ; kịp thời xử lý vi phạm và có những đề xuất,
kiến nghị biện pháp phòng ngừa nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân các cấp.
Tuy nhiên, hiện nay biên chế của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao còn thiếu và chưa đủ mạnh; Thanh tra của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh mới được thành lập, chưa được hoàn thiện về tổ chức bộ máy và
biên chế cán bộ. Do đó, cần tập trung thanh tra có trọng tâm, trọng điểm,
đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động thanh tra. Trước mắt, Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân cần tiến hành thanh tra theo chuyên đề về
nghiệp vụ, tập trung vào những lĩnh vực, loại việc dễ phát sinh vi phạm,
những vụ, việc có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực, vi phạm nghiêm trọng
các quy định của pháp luật hoặc có đơn, thư của nhân dân phản ánh về vi
phạm có liên quan đến công chức trong ngành như: Thanh tra việc chấp
hành pháp luật và quy chế của ngành trong hoạt động nghiệp vụ thực hành
137
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự, tập trung thanh
tra theo chuyên đề về án đình chỉ, án tạm đình chỉ, nhất là các trường hợp
áp dụng Điều 25 Bộ luật hình sự để đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự, các
trường hợp đình chỉ do bị can không phạm tội; thanh tra việc chấp hành
pháp luật và các quy chế nghiệp vụ trong công tác kiểm sát việc bắt, tạm
giữ, tạm giam, thi hành án hình sự, nhất là các trường hợp bắt, tạm giữ sau
xử lý hành chính, huỷ bỏ biện pháp tạm giam sau đó bị can bỏ trốn phải
tạm đình chỉ điều tra, các trường hợp cho tạm hoãn, tạm đình chỉ thi hành
án phạt tù. Cũng có thể thanh tra theo chuyên đề về việc giải quyết các vụ
án hình sự theo tội danh hay nhóm tội danh như các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế, án tham nhũng, chức vụ; nhóm tội phạm về ma túy; nhóm
tội phạm xâm phạm sở hữu; nhóm tội phạm vi phạm các quy định về an
toàn giao thông đường bộ v.v...
Thực hiện có hiệu quả hoạt động thanh tra hành chính, chủ động tiến
hành thanh tra công vụ về công tác cán bộ, thanh tra việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ của công chức, viên chức trong ngành khi thi hành công vụ,
nhất là thanh tra trách nhiệm đối với lãnh đạo, Kiểm sát viên trong hoạt động
nghiệp vụ để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm; thanh tra việc quản lý, sử dụng
kinh phí, tài sản nhà nước; về trách nhiệm xử lý đối với cán bộ, công chức,
viên chức vi phạm. Tăng cường thanh tra đột xuất việc chấp hành kỷ luật nội
vụ của, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức kỷ luật và trách nhiệm thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn của đội ngũ công chức, viên chức và người lao
động trong ngành, góp phần tích cực vào việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm
vụ của ngành.
Nâng cao chất lượng công tác thanh tra xét khiếu tố, giải quyết kịp
thời đơn khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức trong
Ngành. Xử lý nghiêm các trường hợp tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về
phẩm chất đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và các quy chế, quy định của Ngành.
138
Ba là, cần nhận thức hoạt động thanh tra không chỉ dừng lại ở phát
hiện, xử lý sai phạm mà hoạt động thanh tra cần có những kiến nghị cụ thể
điều chỉnh kịp thời các khiếm khuyết, sơ hở trong hoạt động quản lý, làm rõ
những mặt tốt để các cấp, các ngành phát huy, những mặt thiếu sót, hạn chế
để chấn chỉnh. Vì vậy, việc xây dựng Kế hoạch tiến hành các cuộc thanh tra
phải cụ thể, sát hợp với nội dung, thời gian thanh tra. Trong tổ chức Đoàn
thanh tra phải khoa học, có thành phần, số lượng hợp lý, lựa chọn người có
năng lực phù hợp với nội dung thanh tra, coi đây là yếu tố quyết định thành
công của mỗi cuộc thanh tra. Trong chỉ đạo, điều hành Đoàn thanh tra phải
luôn nắm bắt kịp thời thông tin, diễn biến của cuộc thanh tra; thường xuyên
kiểm tra, giám sát để hoạt động thanh tra đúng pháp luật; xác định rõ trách
nhiệm của Đoàn thanh tra, các thành viên Đoàn thanh tra, các đơn vị, bộ phận
có liên quan cũng như trách nhiệm của lãnh đạo cơ quan thanh tra đối với
từng cuộc thanh tra. Mỗi cuộc thanh tra phải xác định rõ nội dung trọng tâm
và những vấn đề chủ yếu để tập trung chỉ đạo, đảm bảo kết thúc gọn, kết luận
chính xác. Trong quá trình tiến hành các hoạt động thanh tra, xác minh, thu
thập chứng cứ phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Chứng cứ là những tư
liệu, thông tin được rút ra từ những tài liệu, báo cáo, chứng từ, biên bản hội
nghị, biên bản giám định, kiểm kê, lời khai báo, bản giải trình, phim, ảnh, ghi
âm, ghi hình v.v ... làm tài liệu bổ sung, tham khảo để chứng minh cho kết
luận thanh tra. Khi thu thập, xác minh, thẩm tra và đối chiếu các chứng cứ,
cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật, và quy chế nghiệp vụ của ngành
nhằm đảm bảo chứng cứ phục vụ làm rõ sự thật, làm rõ tính chất mức độ,
nguyên nhân sai phạm, trách nhiệm tập thể và trách nhiệm cá nhân đối với vi
phạm pháp luật. Để đảm bảo nguyên tắc tuân thủ quy định của pháp luật, khi
tiến hành thanh tra phải thực hiện các yêu cầu cơ bản là: Chứng cứ được thu
thập phải dựa trên những biện pháp, cách thức mà pháp luật cho phép, bảo
đảm các yêu cầu có thật, có liên quan của chứng cứ khi thu thập; chứng cứ khi
139
thu thập được phải làm căn cứ để đối chiếu với các quy định của pháp luật để
phân định đúng, sai của các hoạt động cụ thể.
Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn bản Kết luận thanh tra.
Kết luận thanh tra là văn bản mang tính pháp lý, được xây dựng dựa trên cơ
sở báo cáo kết quả thanh tra, ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra và ý
kiến của các cơ quan, đơn vị liên quan (nếu có). Thông qua kết quả các cuộc
thanh tra, được thể hiện cụ thể trong các Kết luận thanh tra, thủ trưởng cơ
quan quản lý có cơ sở đánh giá được việc thực hiện chủ trương, chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của các đối tượng quản lý. Mặt khác, Kết luận thanh tra
thể hiện tính quyền lực nhà nước, do người có thẩm quyền ban hành theo quy
trình nhất định và được thể hiện theo hình thức quy định. Việc ban hành Kết
luận thanh tra là trách nhiệm và quyền hạn của các chủ thể được trao quyền
tức là những người có thẩm quyền ra quyết định thanh tra.
Trong thời gian qua, việc xây dựng và ban hành Kết luận thanh tra
trong ngành Kiểm sát nhân dân đã được các Đoàn thanh tra rất chú trọng cả
về hình thức và nội dung. Kết luận thanh tra bảo đảm khách quan, trung thực,
chính xác và đúng pháp luật; đồng thời, nêu rõ những vi phạm, thiếu sót, trách
nhiệm đối với từng cá nhân làm cơ sở để xem xét xử lý được thuận lợi. Với ý
thức xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm, đồng thời kết hợp
giáo dục và xây dựng, do đó các Kết luận thanh tra đã kiến nghị xử lý đảm
bảo có lý, có tình, nên đã được các cá nhân, đơn vị tiếp thu, khắc phục sửa
chữa nghiêm túc, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, xây dựng
ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh. Thủ trưởng các đơn vị trực
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ đạo,
đôn đốc, kiểm tra, thực hiện nghiêm túc, kịp thời kết luận, kiến nghị thanh tra;
áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với tập thể, cá nhân có
hành vi vi phạm; khắc phục kịp thời sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý.
140
Tuy nhiên, việc xây dựng và ban hành Kết luận thanh tra cũng còn một
số hạn chế, tồn tại như: sự thiếu thống nhất về hình thức của văn bản Kết luận
thanh tra, mỗi Đoàn thanh tra thể hiện hình thức văn bản Kết luận thanh tra
khác nhau về bố cục, nội dung, kết luận, kiến nghị xử lý. Nội dung một số Kết
luận thanh tra còn chung chung, không rõ ràng, nhất là việc xác định trách
nhiệm của các cá nhân có liên quan, các kiến nghị xử lý về con người. Do
vậy, việc quy kết không có lập luận, thiếu cơ sở, bằng chứng thuyết phục,
thậm chí có trường hợp không có kết luận cụ thể ….
Để nâng cao chất lượng các văn bản Kết luận thanh tra, giúp các kiến
nghị trong Kết luận thanh tra được thực hiện một cách nghiêm túc, đạt hiệu
quả cao, việc xây dựng và ban hành văn bản Kết luận thanh tra cần phải thực
hiện đầy đủ trình tự, thủ tục theo các bước sau: Dự thảo văn bản kết luận;
tranh thủ ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến nội dung dự thảo
kết luận thanh tra; thông báo nội dung dự thảo kết luận cho đối tượng thanh
tra; hoàn thiện và ban hành văn bản Kết luận thanh tra. Kết cấu và nội dung
cơ bản của văn bản Kết luận thanh tra gồm ba phần riêng biệt, nhưng nó là
một chỉnh thể thống nhất. Phần mở đầu thể hiện cơ sở pháp lý, xác định
nhiệm vụ, đối tượng thanh tra làm cơ sở cho việc xác minh, kết luận; kết
quả xác minh là căn cứ để kết luận, kiến nghị; kết luận và kiến nghị phải
được căn cứ từ kết quả thanh tra. Thông thường thì tách phần kết quả thanh
tra riêng biệt với phần kết luận. Tuy nhiên, nếu nội dung sự việc phức tạp
hoặc trong một cuộc thanh tra có nhiều nội dung sự việc riêng biệt không
liên quan với nhau thì trình bày theo cách tổng hợp kết quả xác minh về nội
dung nào thì nhận xét và kết luận luôn nội dung ấy, phần kết luận cuối
cùng chỉ là kết luận chung.
Năm là, để mục đích hoạt động thanh tra được thực hiện có hiệu quả thì
Kết luận thanh tra của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân đã ban hành phải
được tổ chức thực hiện nghiêm túc.
141
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thanh tra năm 2010, mục đích của hoạt
động thanh tra là “nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,
pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc
phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân
tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước;
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân”. Như vậy, thông qua hoạt động thanh tra, người quản lý không chỉ
đánh giá được hiệu quả, tính đúng đắn của những chủ trương, quyết định đã
ban hành mà còn phát hiện được những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn.
Nhất là các quan hệ mới hình thành do sự thay đổi, phát triển của xã hội, từ đó
kịp thời điều tiết trong các chủ trương, quyết định quản lý của mình. Bên cạnh
đó, thông qua hoạt động thanh tra nói chung hay từ những Kết luận thanh tra
nói riêng còn là cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý căn cứ vào đó xây dựng và
hoàn thiện chính sách, pháp luật.
Tại Điều 40 của Luật Thanh tra năm 2010 quy định về việc xử lý và
chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra: “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
kết luận thanh tra hoặc nhận được kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp hoặc Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo việc thực
hiện kết luận thanh tra…”. Kết luận thanh tra không được thực hiện nghiêm
túc, không có sự giám sát chặt chẽ để xử lý nghiêm minh đối với những tổ
chức, cá nhân vi phạm theo kiến nghị của Thanh tra sẽ ảnh hưởng lớn đến
hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra.
Để Kết luận thanh tra được thực hiện nghiêm túc, Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân cần tăng cường việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát
chặt chẽ việc thực hiện Kết luận thanh tra và có những biện pháp xử lý
nghiêm khắc những trường hợp chậm thực hiện hoặc không chấp hành việc
thực hiện Kết luận thanh tra.
142
Sáu là, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện tốt công tác
quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra trong ngành; đôn đốc việc
xây dựng và thực hiện chương trình kế hoạch thanh tra, giải quyết việc chồng
chéo, trùng lắp trong chương trình, kế hoạch và trong hoạt động thanh tra của
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; làm đầu mối trong việc theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về
thanh tra trong toàn Ngành.
4.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm
việc và chế độ, chính sách đãi ngộ đối với công chức thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, cần
trang bị đầy đủ, kịp thời máy móc, trang thiết bị và từng bước hiện đại hoá
phương tiện, công cụ và điều kiện làm việc cho các tổ chức thanh tra và công
chức Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
Hiện nay, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được cấp và sử
dụng con dấu riêng, nhưng chưa có tài khoản riêng và chưa được giao quyền
tự chủ trong việc quản lý, sử dụng nguồn kinh phí ngân sách cấp phục vụ cho
hoạt động thanh tra. Trong khi đó, hoạt động thanh tra trong ngành có tính
đặc thù, cần phải có sự chủ động trong việc xây dựng chương trình kế hoạch
thanh tra, quyết định việc thanh tra và tổ chức thực hiện việc thẩm tra, xác
minh, kết luận theo nội dung thanh tra, đồng thời tăng cường công tác thanh
tra đột xuất tại các Viện kiểm sát địa phương trong ngành. Vì vậy, trong thời
gian tới cần được cấp có thẩm quyền cho phép Thanh tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao được mở tài khoản riêng, được giao quyền tự chủ trong việc quản
lý, sử dụng kinh phí ngân sách được cấp để phục vụ cho hoạt động thanh tra
như Thanh tra của các bộ, ngành khác.
143
Để khuyến khích, động viên và tạo điều kiện thu hút nguồn nhân lực
tăng cường cho Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Thanh tra Viện
kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố, cần có chính sách ưu tiên, chế độ đãi
ngộ đặc thù cho những người có thâm niên làm công tác thanh tra trong
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân, nhất là chính sách ưu tiên khi đề bạt, bổ
nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý, các chức danh pháp lý; có chế độ khen
thưởng kịp thời đối với những người có thành tích, cống hiến cho hoạt động
thanh tra của ngành. Đồng thời, tăng cường kỷ cương, kỷ luật, đề cao tính tích
cực, bản lĩnh chính trị, tính tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của công chức
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân; kỷ luật thích đáng, nghiêm đối với những
cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng quyền thanh tra để có hành vi
tham nhũng, tiêu cực hoặc có hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây khó
khăn, phiền hà cho tập thể, cá nhân là đối tượng thanh tra.
4.2.6. Tăng cường sự phối hợp trong hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dânHoạt động thanh tra cũng như hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân có nhiều
mối quan hệ với các đơn vị trong và ngoài Ngành. Vì vậy, khi tiến hành hoạt
động thanh tra, nhất là thanh tra hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp, thanh tra về công tác quản lý, sử dụng ngân
sách, tài sản được cấp phải có biện pháp phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các
cơ quan, đơn vị hữu quan.
Tuỳ từng vụ việc, nội dung thanh tra cụ thể để xác định mối quan hệ
phối hợp cho phù hợp như:
Phối hợp trong việc cử thành viên tham gia hoặc giúp việc cho các
đoàn thanh tra; cung cấp hồ sơ tài liệu, chứng cứ, thông tin v.v... có liên quan
đến nội dung thanh tra; hoặc trong việc nhận xét, đánh giá về vi phạm thuộc
nội dung thanh tra trước khi kết luận thanh tra; đồng thời, có biện pháp khắc
phục, xử lý đối với các vi phạm.
144
Phối trong việc xử lý đối với công chức, viên chức vi phạm, bảo đảm
việc xử lý được khách quan, nghiêm minh, đúng trình tự, thủ tục quy định;
đồng thời, giải quyết khiếu nại về kỷ luật công chức, viên chức (nếu có) được
kịp thời, đúng quy định.
Phối hợp với Thanh tra của các ngành như: Công an, Toà án, Bộ Tư
pháp v.v ... và Uỷ ban kiểm tra Đảng các cấp, để thẩm tra, xác minh, cung cấp
hồ sơ tài liệu có liên quan đến nội dung cần thanh tra; phối hợp tiến hành
thanh tra đối với những hành vi vi phạm liên quan đến cán bộ của nhiều
ngành hoặc khắc phục xử lý các vụ việc có vi phạm được kịp thời, đúng pháp
luật; đồng thời, thu thập thông tin, dư luận phản ánh về dấu hiệu vi phạm có
liên quan đến cán bộ trong ngành Kiểm sát nhân dân để xây dựng kế hoạch
thanh tra hàng năm. Ngoài ra, còn phối hợp cùng các ngành (nêu trên) tổ chức
thực hiện các cuộc thanh tra theo kế hoạch của Trung ương hoặc cấp uỷ địa
phương khi có yêu cầu.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
1. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện
nay đòi hỏi phải có chiến lược đồng bộ, toàn diện, khả thi và lựa chọn vấn đề
mang tính quan trọng, quyết định.
Chính vì vậy, Chương 4 đã tập trung nghiên cứu các quan điểm, định
hướng cơ bản làm cơ sở lý luận, thực tiễn để xây dựng giải pháp hoàn thiện tổ
chức bộ máy, xây dựng đội ngũ công chức và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
2. Nội dung Chương 4 chủ yếu đề cập đến các nhóm giải pháp nhằm
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân theo
yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, đó là:
- Hoàn thiện các quy định pháp lý về tổ chức và hoạt động của Thanh
tra ngành Kiểm sát nhân dân.
145
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân ở
hai cấp là Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Thanh tra Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh. Củng cố, kiện toàn, phát triển đội ngũ công chức Thanh
tra ngành kiểm sát nhân dân đảm bảo đủ về số lượng và đáp ứng yêu cầu về
chất lượng.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, trình
độ, phẩm chất đạo đức cho công chức Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
- Đổi mới phương thức và nội dung hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân.
- Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc và chế
độ, chính sách đãi ngộ đối với công chức thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
- Tăng cường sự phối hợp với các đơn vị trong toàn ngành và các cơ
quan hữu quan trong hoạt động thanh tra.
146
KẾT LUẬN CHUNG
1. Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển về tổ chức và hoạt
động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân cho thấy vị trí, vai trò của công
tác thanh tra trong nội bộ ngành có ý nghĩa hết sức quan trọng và không thể
thiếu trong quá trình quản lý, xây dựng ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch,
vững mạnh.
2. Trong quá trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp ở nước ta đã có
nhiều công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài đề cập đến mô hình tổ
chức và hoạt động của cơ quan thanh tra; mô hình tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để tiếp thu, chọn lọc, hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp.
3. Tuy nhiên, trước những yêu cầu cải cách tư pháp nói chung, đổi
mới tổ chức và hoạt động của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân nói riêng,
tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân còn những
hạn chế, bất cập cần phải được nghiên cứu để có biện pháp khắc phục và
hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu mới.
4. Lần đầu tiên tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân được nghiên cứu dưới góc độ lý luận một cách toàn diện và chuyên
sâu. Luận án làm rõ khái niệm về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung,
của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng; đặc điểm, vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc và hình thức hoạt động của
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân. Đồng thời, phân tích những điểm giống
và khác nhau giữa hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra; sự khác biệt
giữa Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân với Thanh tra của các bộ, ngành
khác trong bộ máy Nhà nước ta.
5. Luận án đã khái quát sự hình thành, phân tích làm rõ thực trạng về
tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân. Thông qua
147
đó, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân.
Trên cơ sở nghiên cứu những yêu cầu cải cách tư pháp, luận án đã xác định
những quan điểm cơ bản, quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân.
6. Từ những luận cứ lý luận và thực tiễn thu được trong quá trình
nghiên cứu, luận đề xuất các giải pháp cụ thể hoàn thiện tổ chức bộ máy,
công tác cán bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Luận án xây
dựng mô hình tổ chức bộ máy và nội dung hoạt động của Thanh tra ngành
Kiểm sát nhân dân trong tương lai.
148
CÁC CÔNG TRÌNH, BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Kim Sáu (2002), "Những vướng mắc khi giải quyết trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", Kiểm sát, (3), tr35.
2. Ban Thanh tra- Nguyễn Kim Sáu (2006), Nâng cao chất lượng công tác
thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và thông tin phản ánh có liên quan
đến cán bộ trong ngành Kiểm sát nhân dân, Chuyên đề nghiệp vụ, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
3. Ban Thanh tra-Nguyễn Kim Sáu (2007), Công tác thanh tra góp phần xây
dựng cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh, Chuyên
đề nghiệp vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
4. Ban Thanh tra- Nguyễn Kim Sáu (2008), Một số vấn đề về đơn, thư tố cáo
nặc danh có liên quan đến cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân, Chuyên đề
nghiệp vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
5. Ban Thanh tra- Nguyễn Kim Sáu (2008), Tăng cường công tác thanh tra
hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp trong lĩnh vực giải quyết án hình sự, Chuyên đề nghiệp vụ, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
6. Ban Thanh tra- Nguyễn Kim Sáu (2009), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc sửa đổi, bổ sung Quy chế về tổ chức và hoạt động của Ban
Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân, Chuyên đề nghiệp vụ, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
7. Ban Thanh tra- Nguyễn Kim Sáu (2009), Tăng cường công tác thanh tra
tài chính trong ngành Kiểm sát nhân dân, Chuyên đề nghiệp vụ, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
8. Nguyễn Kim Sáu (2009), “Trao đổi bài viết: Hành vi phạm tội của Nguyễn
Văn T như thế nào?”, Kiểm sát, (14), tr44.
149
9. Nguyễn Kim Sáu (2010), “Một số ý kiến về việc giải quyết đơn, thư tố cáo
nặc danh liên quan đến cán bộ trong ngành Kiểm sát nhân dân”, Kiểm
sát, (06), tr12.
10. Ban Thanh tra- Nguyễn Kim Sáu (2010), “Một số vấn đề về thanh tra giải
quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến cán bộ trong ngành Kiểm sát nhân
dân”, Chuyên đề nghiệp vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
11. Nguyễn Kim Sáu (2011), “Tăng cường thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, Kiểm sát, (số Tết), tr34.
12. Ban Thanh tra - Nguyễn Kim Sáu (2011), “Công tác kiểm tra việc thực
hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các
cấp- Thực trạng và giải pháp”, Chuyên đề nghiệp vụ, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
13. Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Nguyễn Kim Sáu (2012),
“Thực trạng và giải pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc
quản lý, sử dụng cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng Ngành”, Chuyên đề
nghiệp vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
14. Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Nguyễn Kim Sáu (2012),
“Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành Kết
luận thanh tra”, Chuyên đề nghiệp vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
15. Nguyễn Kim Sáu (2012), “Trọng tâm công tác thanh tra, kiểm tra năm
2012 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao”, Kiểm sát (06) tr31.
16. Nguyễn Kim Sáu (2013), “Những giải pháp khắc phục thiếu sót, vi phạm
về nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực hình sự”, Kiểm sát (12) tr22.
17. Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Nguyễn Kim Sáu (2013), “Thực
trạng công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự - Một số giải
pháp, kiến nghị”, Chuyên đề nghiệp vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
150
18. Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Nguyễn Kim Sáu (2013),
“Tăng cường tổ chức bộ máy, biên chế cán bộ thanh tra ngành Kiểm sát
nhân dân”, Đề án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
19. Nguyễn Kim Sáu (2014), “Công tác điều tra, xử lý các hành vi tham
nhũng, lạm quyền trong hoạt động điều tra hình sự ở Việt nam”, Tham
luận tại Hội thảo quốc tế tại Đà Nẵng về Tăng cường liêm chính, trách
nhiệm giải trình và tính minh bạch trong ngành Công an.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2004),Báo cáo sơ kết hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm trongcông tác tư pháp trong thời gian tới", Hà Nội.
2. Ban Cán sự đảng - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Báo cáo kếtquả thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trịtrong ngành Kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
3. Ban Cán sự đảng - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Kế hoạch thựchiện Kết luận số 79-KL/TW ngày 28-7-2010 của Bộ Chính trị về “Đề ánđổi mới tổ chức và hoạt động của toà án, viện kiểm sát và cơ quan điềutra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cáchtư pháp đến năm 2020 ”, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Kết luận của Hội nghị lần thứ chínBan Chấp hành Trung ương khoá X về “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiệnChiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương (2010), Kết luận của Bộ Chính trị về “Đề ánđổi mới tổ chức và hoạt động của toà án, viện kiểm sát và cơ quan điềutra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cáchtư pháp đến năm 2020 ”, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Trung ương (2014), Kết luận của Bộ Chính trị về việc tiếptục thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trịkhoá IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 , Hà Nội.
7. Nguyễn Mạnh Bình (2010), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý giám sát xã hộiđối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Luậnán tiến sĩ luật học, Hà Nội.
8. Lê Cảm (2005), "Bàn về tổ chức quyền tư pháp - nội dung cơ bản củachiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Kiểm sát, (23).
152
9. Cơ quan phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên Hợp Quốc và Liên
minh Châu Âu (2013), Hướng dẫn tăng cường năng lực và liêm chính
tư pháp”, Hà Nội.10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trongthời gian tới, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội.12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội15. Đỗ Văn Đương (2005), Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong những năm 1976 - 1986”, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện kiểm sátnhân dân tối cao.
16. Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cáchtư pháp ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu lập pháp, (7).
17. Phạm Hồng Hải (2006), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệthống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đápứng yêu cầu cải cách tư pháp", Nhà nước và pháp luật, (3).
18. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.19. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (Viện Nhà nước và pháp luật)
(2004), Tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Nhà nước và pháp luật,(Tập 1, tập 2), Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
20. Nguyễn Quốc Hiệp (2012), Kết quả hoạt động thanh tra - những vấn đềlý luận và thực tiễn (Đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm).
153
21. Nguyễn Thái Hồng (2011), Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra - Mộtsố vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp bộ, Thanh tra Chính phủ.
22. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quanđiều tra thuộc Viện kiểm sát và việc thực hiện thẩm quyền điều tra củaViện kiểm sát nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa họccấp bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
23. Nguyễn Khắc Hường (2004), Tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữathanh tra bộ và Thanh tra chuyên ngành - Thực trạng và giải pháp, Đềtài khoa học cấp bộ, Thanh tra Nhà nước
24. Phạm Tuấn Khải (1996), Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới tổchức và hoạt động của thanh tra nhà nước Việt Nam, Luận án Phó tiếnsĩ khoa học Luật học, Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Kim (2002), Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giámsát của một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Kim (2011), Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nướctrong giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luậthọc, Hà Nội.
27. V. I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.28. Trương Đắc Linh (2008) “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức Viện kiểm sát
trong Chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta”, Kiểm sát (14-16).
29. Trần Đức Lượng (2002), Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sátnhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, Đề tài độc lập cấp Nhà
nước, Thanh tra Nhà nước.30. C. Mác- Ph.Ăngghen (1970), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
31. Hồ Chí Minh (1995), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
32. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Hồ Chí Minh (2005), Bàn về nhà nước và pháp luật, (in lần thứ hai), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
154
35. Nguyễn Huy Miện (chủ biên) (2012), Viện kiểm sát nhân dân trong tiếntrình cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
36. Khuất Văn Nga (2005), "Viện kiểm sát nhân dân đã và đang vững bướctrên con đường cải cách tư pháp", Kiểm sát, (13).
37. Quốc hội (2002), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Namtừ năm 1946 đến năm 2001, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
38. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội.
39. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.40. Quốc hội (2005), Luật Phòng, chống tham nhũng, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.41. Quốc hội (2006), Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.42. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.43. Quốc hội (2010), Luật thanh tra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.44. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.45. Quốc hội (2011), Luật tố cáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.46. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội47. Bùi Nguyên Súy (2007), Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra của các
cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,Đề tài khoa học cấp bộ, Thanh tra Chính phủ
48. Quách Lê Thanh (chủ biên) (2004), Luật Thanh tra năm 2004 với việc đổimới tổ chức, hoạt động thanh tra trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiệnđại hoá, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
49.Quách Lê Thanh (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra(2006), Đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm, Thanh tra Nhà nước.
50. Thanh tra Chính phủ (2005), Lịch sử thanh tra Việt Nam, Nxb Chính trịquốc gia, Hà Nội.
51. Thanh tra Nhà nước (1992), Kỷ yếu Bác Hồ với thanh tra, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
155
52. Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Tăng cường tổ chức bộmáy, biên chế cán bộ Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân, Đề án, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
53. Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (2006, 2007, 2008, 2009, 2010,
2011, 2012, 2013), Báo cáo tổng kết công tác thanh tra năm 2006,
2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014.
54. Phạm Vũ Thắng (2012), Nghiên cứu quy trình thanh tra hoạt động nghiệp vụthực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Chuyên đề
nghiệp vụ, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
55. Lê Hữu Thể (2008), “Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp”, Kiểm sát (14-16).
56. Thông tin khoa học thanh tra và chống tham nhũng (2006), Tăng cườngmối quan hệ chỉ đạo, phối hợp trong hệ thống các cơ quan Thanh tra
nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra, (8),
Thanh tra Chính phủ.
57. Dương Văn Tiu (năm 2003), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân, Đề tài khoa
học cấp cơ sở , Viện kiểm sát nhân dân tối cao
58. Đào Trí Úc (2013) “Đề xuất đổi mới Viện kiểm sát ở Việt Nam từ kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới”, Tạp chí Kiểm sát (12).
59. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết số 356/2003/NQ-
UBTVQH11 ngày 25-12-2003 về việc phê chuẩn bộ máy làm việc củaViện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
60. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2012), Nghị quyết số 522d/NQ-UBTVQH13
phê chuẩn việc điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ và đổi tên một số đơn vịthuộc bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
61. Nguyễn Thanh Văn (2005), Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cáchtư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
156
62. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2002), Từ điển bách khoa Việt Nam,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
63. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1994), Từ điển Tiếng Vịêt, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.64. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1993), Từ điển Anh - Việt, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.65. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1994), Từ điển pháp luật Anh - Việt,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.66. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1992), Quy chế về tổ chức và hoạt động
của Ban Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân (số 08 ngày 17-9).
67. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), Quy chế về tổ chức và hoạt độngcủa Ban Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân (số 16 ngày 03-4).
68. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Quy chế về tổ chức và hoạt độngcủa Ban Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân (số 19 ngày 31-3).
69. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Những qui định về Viện kiểm sátnhân dân và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
70. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Quy chế tiếp công dân, giải quyếtkhiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân (số 57ngày 09-5).
71. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Quy chế về tổ chức và hoạt độngcủa Ban Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân (số 58 ngày 06-4).
72. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Chương trình, Kế hoạch thực hiệnNghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiếnlược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong ngành Kiểm sát nhân dân.
73. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Chuyên đề một số văn bản về cảicách tư pháp", Thông tin khoa học kiểm sát, (3).
74. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Kế hoạch số thực hiện Nghị quyếtsố 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm2020 trong ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2006 -2010, Hà Nội.
157
75. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Quy chế thực hành quyền công tốvà kiểm sát điều tra án hình sự.
76. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Quy chế về thực hành quyền côngtố và kiểm sát xét xử án hình sự.
77. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), “Viện kiểm sát/công tố một sốnước trên thế giới” Số chuyên đề Thông tin Khoa học kiểm sát (1, 2).
78. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiệnQuy chế dân chủ trong ngành Kiểm sát nhân dân.
79. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2009), Báo cáo tổng kết việc thực hiệncác Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác tổ chứccán bộ trong ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 2002- 2009.
80. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam1960- 2010 (Kỷ yếu), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Quy chế về tổ chức và hoạt độngcủa Ban Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân (số 68 ngày 27-01).
82. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Quy chế công tác thanh tra, kiểmtra trong ngành Kiểm sát nhân dân (số 808 ngày 11-12).
83. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Quy chế về tổ chức và hoạt độngcủa Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (số 72 ngày 01-3).
84. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Tăng cường công tácthanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân (Chỉ thị số 04/CT-VKSTC
ngày 14/8).
85. Lại Hợp Việt (chủ biên) (2005), Các qui định về hoạt động nghiệp vụ và
quản lý của Viện kiểm sát nhân dân,Viện kiểm sát nhân dân tối cao .86. Trần Quốc Vượng (2010), Diễn văn kỷ niệm 50 năm thành lập ngành
Kiểm sát nhân dân 26/7/1960 -26/7/2010, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.87. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin,
Hà Nội.