Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ... ............................................................................................................................................ ... 1
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ THEO
NGÀNH, CHỨC NĂNG KẾT HỢP VỚI QUẢN LÝ THEO ĐỊA PHƯƠNG ... ....................... . 5
1. Khái niệm và hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. 5
1.1 Khái niệm nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước. .. ......................................... . 5
1.2. Hệ thống các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước. .. .................................. .. 7
2. Nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương ... ................ . 9
2.1. Quản lý ngành và quản lý theo chức năng... .................................................................... ... 9
2.2. Quản lý theo địa phương ... ................................................................................................. . 11
2.3. Sự cần thiết phải kết hợp quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo
địa phương. .. .............................................................................................................................. ... 13
3. Vai trò của nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương. .. ........................................................................................................................................... . 16
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC ... ................................................... ... 19
2.1. Sự “xé rào” trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của địa
phương trái với quy định của cơ quan quản lý ngành, chức năng. .. ................................... . 20
2.2. Sự phối hợp không chặt chẽ trong việc tổ chức, thực hiện các quy định của ngành
ở địa phương... .................................................................................................................................. . 25
2.3. Bất cập trong hoạt động kiểm tra giám sát thực hiện các quy định của ngành tại
địa phương. .. ..................................................................................................................................... . 35
CHƯƠNGIII. NÂNG CAO HIỆU QUẢ KẾT HỢP QUẢN LÝ THEO NGÀNH, CHỨC
NĂNG KẾT HỢP VỚI QUẢN LÝ THEO ĐỊA PHƯƠNG. .. ...................................................... . 40
1. Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật của Bộ, ngành và của địa phương. .. ................................. .. 40
2. Trong hoạt động phối hợp triển khai thực hiện các quy định của ngành ở địa
phương. .. ........................................................................................................................................... . 43
3. Trong hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của ngành tại địa
phương ... ........................................................................................................................................... . 45
KẾT LUẬN ... ...................................................................................................................................... ... 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... .................................................................................... ... 49
1
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được
những thành tựu đáng kể trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước.
Yêu cầu đổi mới về kinh tế đã đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước nói chung và
hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng phải có những thay đổi, cải
cách để phù hợp với quy luật phát triển. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta
đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện các hoạt động quản lý nhà nước để đáp
ứng yêu cầu đổi mới. Đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập tạo cho Nhà nước ta
nhiều yêu cầu mới, thách thức mới trong việc phát triển đất nước.
Nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang
kinh tế thị trường đã làm thay đổi nhiều trong hoạt động quản lý nhà nước .
Những trì trệ và tồn đọng trong công tác quản lý theo cơ chế cũ đã được khắc
phục và dần được thay thế bằng những cơ chế quản lý mới. Việc thực hiện các
nguyên tắc trong quản lý hành chính cũng đạt được những thành tựu đáng kể.
Vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố và nâng cao thông qua việc
thể hiện sự sáng suốt trong đường lối chỉ đạo và định hướng về tư tưởng cho
quần chúng nhân dân. Bộ máy nhà nước ngày càng được kiện toàn, việc thực
hiện nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước được tiến hành dựa trên
cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Nền hành chính Việt Nam được tổ chức và thực hiện trên cơ sở hệ thống
các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước, các nguyên tắc này là tư tưởng chỉ
đạo, là kim chỉ nam để hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thực hiện
có hiệu quả. Trong hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước,
nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương là
một nguyên tắc mang tính kỹ thuật của hoạt động quản lý nhưng thực sự đóng
vai trò quan trọng khi nhà nước ta chú trọng chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập
2
trung sang cơ chế phân cấp quản lý, phát huy được thế mạnh của địa phương. Việc
tạo điều kiện cho các địa phương quyền chủ động sáng tạo trong quản lý nhưng
phải bảo đảm được sự phát triển một cách đồng bộ, thống nhất trong cả nước đã
đòi hỏi phải có sự kết hợp trong quản lý giữa địa phương với trung ương, với cơ
quan quản lý ngành.
Sự kết hợp quản lý giữa ngành với địa phương đã được thực hiện đã đạt được
những thành tựu đáng kể song việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn vẫn
còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế của đời sống xã hội. Đó
là: sự không thống nhất trong quản lý giữa các bộ ngành và địa phương; sự phối
hợp kém hiệu quả trong hoạt động ban hành văn bản của các địa phương vẫn còn
nhiều văn bản trái với quy định của ngành; sự không đồng bộ trong công tác thực
hiện các quy định của ngành tại các địa phương ; tình trạng “mạnh ai nấy làm” hay
công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của ngành tại các địa phương
cũng chưa được quan tâm đúng mức... Những hạn chế này dẫn tới hiệu quả quản lý
nhà nước còn yếu kém.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt
Nam (Ngày 18 tháng 12 năm 1986) đã chỉ ra rằng: “ Nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước. Nêu cao vị trí và vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp,
tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn theo Hiến pháp quy định. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và
quản lý xã hội bằng pháp luật. Phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn trách
nhiệm của cơ quan nhà nước từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân
biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh,
kết hợp quản lý theo ngành, chức năng với quản quản lý theo địa phương và
vùng lãnh thổ…”.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguyên tắc kết hợp quản lý ngành chức
năng với quản lý theo địa phương trong việc xây dựng và phát triển đất nước thì
việc xem xét và nghiên cứu nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp
với quản lý theo địa phương thực sự là cần thiết, thông qua đó, để xác định các
3
phương hướng hoàn thiện nguyên tắc này nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát
triển đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc trình bày, phân tích quá trình hình thành và tổ chức thực hiện
của nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương,
khóa luận sẽ đánh giá những thành tựu và hạn chế, yếu kém của việc thực hiện
nguyên tắc này trong thực tiễn quản lý hành chính hiện nay. Qua đó, khóa luận sẽ
đề xuất các phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc này trong điều kiện hiện nay.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Để nghiên cứu một cách toàn diện đề tài “Nguyên tắc quản lý ngành,
chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương”, khóa luận sẽ dựa trên cơ sở lý
luận của nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương và thông qua tìm hiểu và phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc này
trong thực tế quản lý hành chính hiện nay, để từ đó đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc trong thực tiễn. Trong thực tế, nguyên tắc này
vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định, tuy nhiên trong phạm vi khóa luận này
khóa luận chỉ tập trung vào một số hoạt động cụ thể đang là những điểm nóng
trong quản lý hành chính và tồn tại nhiều bất cập, cụ thể là các hoạt động sau đây:
- Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật của chính quyền địa
phương.
- Trong hoạt động triển khai thực hiện các quy định của ngành ở địa
phương;
- Trong hoạt động kiểm tra giám sát thực hiện các quy định của ngành
tại địa phương.
4
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản về vị trí, vai
trò của nguyên tắc quản lý theo ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương trong quản lý nhà nước. Đặc biệt là các quan điểm cơ bản chỉ đạo công
cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Về phương pháp cụ thể luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ
biến như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, hệ thống, phương pháp lịch sử…
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luân văn chia làm
3 chương:
- Chương I. Những vấn đề chung của nguyên tắc quản lý theo ngành,
chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương
- Chương II. Thực trạng áp dụng nguyên tắc
- Chương III. Nâng cao hiệu quả việc kết hợp quản lý theo ngành, chức
năng kết hợp với quản lý theo địa phương
5
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ
THEO NGÀNH, CHỨC NĂNG KẾT HỢP VỚI QUẢN LÝ
THEO ĐỊA PHƯƠNG
1. Khái niệm và hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà
nước.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là một trong những mảng hoạt
động quan trọng của nhà nước, khi hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện
đại, trong sạch, và hiệu quả thì việc tiến hành hoạt động quản lý hành chính nhà
nước phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc quản lý sẽ là tư tưởng
chỉ đạo là nền tảng cho mọi hoạt động của quản lý nhà nước nói chung và hoạt
động quản lý nhà nước nói riêng. Nó sẽ chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi các
nguyên tắc này được xây dựng một cách khoa học và hợp lý trong thực tiễn.
1.1 Khái niệm nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước.
Khi tìm hiểu về các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước thì
việc nghiên cứu và làm rõ các khái niệm, đặc điểm và vai trò của các nguyên tắc
trong quản lý hành chính nhà nước là yêu cầu cơ bản. Thuật ngữ nguyên tắc,
theo nghĩa chung, được hiểu là những điều cơ bản nhất thiết phải tuân theo
trong một loạt các việc làm. Mỗi ngành khoa học, mỗi lĩnh vực hoạt động cụ thể
đề cập tới vấn đề nguyên tắc theo góc độ riêng, đặc thù cho ngành khoa học hay
lĩnh vực hoạt động đó. Trong khoa học pháp lý, các nguyên tắc trong quản lý
hành chính nhà nước được xác định là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ
sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định trong
pháp luật, làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Xem xét một cách cụ thể, ở góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong quản
lý hành chính nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội
6
dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý
hành chính nhà nước.
Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước được ghi nhận trong các
văn bản pháp luật của nhà nước, từ Hiến pháp, luật đến các văn bản dưới luật.
Điều này thể hiện tính pháp lý của các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước.
Nó tạo ra cơ sở để buộc các chủ thể phải tuân thủ một cách thống nhất và chính xác
các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước.
Theo Ănghen: “ Nguyên tắc không phải là được ứng dụng vào giới tự
nhiên và lịch sử loài người. Không phải giới tự nhiên và loài người thích ứng
với nguyên tắc mà trái lại nguyên tắc chỉ đúng nếu nó phù hợp với tự nhiên và
lịch sử” . Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước được xây dựng,
tổng kết và rút ra từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước. Vì thế, chúng không
phải là những nội dung chủ quan theo ý muốn của các chủ thể quản lý hành
chính nhà nước mà được xác định trên cơ sở của hoat động quản lý hành chính
nhà nước. Những nguyên tắc sai lầm, hoàn toàn dựa trên cơ sở nhận thức chủ
quan có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà
nước và sớm hay muộn chúng sẽ bị đào thải để phù hợp với quy luật phát triển
khách quan của xã hội. Như vậy, các nguyên tắc này mang tính khách quan và
khoa học.
Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước cũng chịu sự chi phối của
những điều kiện về chính trị, giai cấp và xã hội hay nói cách khác các nguyên
tắc trong quản lý hành chính nhà nước phản ánh bản chất giai cấp của hoạt động
quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên mức độ chi phối của những yếu tố này lên
các nguyên tắc khác nhau là không giống nhau: có nguyên tắc thể hiện bản chất giai
cấp một cách sâu sắc; ngược lại có những nguyên tắc ít chịu sự chi phối của các điều
kiện chính trị hay giai cấp.
Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có tính ổn định, bởi lẽ
bản thân các nguyên tắc này phản ánh các quy luật khách quan của quản lý hành
chính nhà nước cho nên tình ổn định của chúng trong từng thời kỳ, từng giai
7
đoạn phải được đảm bảo. Song tính ổn định này chỉ mang tính tương đối, nó
không loại bỏ việc không ngừng đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp
thực hiện các nguyên tắc. Việc xây dựng và áp dụng các nguyên tắc trong quản
lý hành chính nhà nước luôn gắn liền với quá trình phát triển của xã hội, quá
trình tích lũy kinh nghiệm, thành quả của khoa học trong các lĩnh vực.
Mỗi nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có nội dung riêng, phản
ánh những quy luật khách quan khác nhau trong quản lý hành chính nhà nước. Vì lẽ
đó, có nhiều nguyên tắc khác nhau được đặt ra trong quản lý hành chính nhà nước.
Tuy vậy, những nguyên tắc này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và tạo thành thể
thống nhất. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ là tiền đề cho việc thực hiện có hiệu
quả các nguyên tắc khác.
1.2. Hệ thống các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước.
Như đã trình bày ở phần trên, các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành
chính nhà nước đa dạng về nội dung nhưng lại có tính thông nhất và liên hệ chặt
chẽ với nhau. Việc phân loại chúng một cách khoa học nhằm xác định cụ thể vị
trí, vai trò của chúng trong quản lý hành chính nhà nước, trên cơ sở đó sẽ có thể
xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả trong thực tiễn quản lý hành chính
nhà nước.
Việc phân loại các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước
cần dựa trên những cơ sở khoa học về quản lý nhà nước. Mác cho rằng, hoạt
động quản lý nhà nước được biểu hiện cụ thể trong hoạt động tổ chức, nó bao
gồm hai mặt tổ chức chính trị và tổ chức kỹ thuật. Do vậy, các nguyên tắc trong
quản lý hành chính nhà nước thường được phân chia thành hai nhóm: Các
nguyên tắc chính trị - xã hội và các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật. Các nguyên tắc
chính trị - xã hội là các nguyên tắc chung, được quán triệt trong toàn bộ tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước trong đó có hoạt động quản lý hành
chính nhà nước. Đây là các nguyên tắc thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp của nhà
nước. Nhóm này bao gồm các nguyên tắc cơ bản sau đây:
8
- Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước;
- Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành
chính nhà nước;
- Nguyên tắc tập trung dân chủ;
- Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc;
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật là những nguyên tắc mang tính đặc thù
cho hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nội dung của những nguyên tắc
này chi phối các yếu tố kỹ thuật của hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Cho dù thực hiện trong điều kiện chính trị hoặc giai cấp thế nào, hoạt động quản
lý hành chính đều phải tuân theo các nguyên tắc đó. Bản thân nhóm nguyên tắc
này gồm nhiêu nguyên tắc khác nhau, nhưng nổi bật nhất vẫn là hai nguyên tắc
cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương;
- Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng và
phối hợp quản lý liên ngành.
Việc phân chia các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước thành
hai nhóm nêu trên chỉ mang tính chất tương đối, bởi các yếu tố tổ chức - kỹ
thuật và chính trị trong quản lý hành chính nhà nước không tồn tại một các độc
lập mà có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau, việc thực hiện không tốt bất kỳ
một nguyên tắc nào trong quản lý hành chính Nhà nước cũng ảnh hưởng đến
hiệu quả quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính Nhà nước nói riêng.
Việc nghiên cứu về nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản
lý theo địa phương sẽ góp phần đảm bảo sự phát triển một cách toàn diện của ngành
ở địa phương trong điều kiện Nhà nước ta đang đẩy mạnh thực hiện việc phân cấp
quản lý.
9
2. Nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương
2.1. Quản lý ngành và quản lý theo chức năng
Cùng với sự phát triển của xã hội là chuyên môn hóa các hoạt động của
con người trong đời sống xã hội. Đây chính là cơ sở khách quan khái niệm
ngành. Ngành là khái niệm chỉ tổng thể những đơn vị, tổ chức sản xuất - kinh
doanh có cùng cơ cấu kinh tế - kỹ thuật hay các tổ chức, đơn vị hoạt động với
mục đích giống nhau ( như cùng sản xuất ra một loại sản phẩm, cùng thực hiện
một loại dịch vụ, hay cùng thực hiện một hoạt động sự nghiệp nào đó…). Sự
phân chia các mặt hoạt động xã hội thành ngành (dựa trên sản phẩm cuối cùng)
là kết quả sự phân công lao động xã hội xảy ra đồng thời với quá trình phát triển
sản xuất và chuyên môn hóa các loạt hoạt động khác nhau của con người. Tùy
vào các cách khác nhau của việc phân loại sản phẩm của các hoạt động hay mục
đích của các hoạt động mà người ta phân chia thành các ngành, phân ngành,
ngành chuyên sâu… khác nhau. Trên thực tế còn một cách hiểu khá phổ biến về
thuật ngữ “ngành”, theo đó ngành là một “hệ thống cơ quan nhà nước từ trung
ương tới địa phương”. Ví dụ: Khi nói đến ngành tài chính người ta hiểu đó là hệ
thống các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tài chính từ trung ương đến cơ sở.
Có sự phân chia các lĩnh vực hoạt động xã hội thành các ngành tất yếu sẽ dẫn
đến việc thực hiện hoạt động quản lý theo ngành. Quản lý theo ngành là hoạt
động quản lý các đơn vị, tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội có cùng cơ cấu kinh tế -
kĩ thuật hoặc hoạt động với mục đích giống nhau nhằm làm cho hoạt động của các
tổ chức, đơn vị này phát triển một cách đồng bộ, nhịp nhàng, đáp ứng được yêu cầu
của nhà nước và xã hội.
Khi thực hiện hoạt động quản lý ngành đòi hỏi các chủ thể quản lý phải
thực hiện rất nhiều việc chuyên môn khác nhau như: Lập quy hoạch và kế hoạch
phát triển ngành, quản lý thực hiện các quản thu, chi, giám sát, kiểm tra việc
thực hiện pháp luật… Trong điều kiện khối lượng các công việc quản lý ngày
càng nhiều và mang tính phức tạp thi sự đòi hỏi của việc chuyên môn hóa cao
10
các công việc nêu trên luôn đặt ra. Chính điều này đã làm nảy sinh ra nhu cầu quản
lý theo chức năng hay còn gọi là quản lý theo lĩnh vực.
Quản lý theo chức năng là quản lý theo từng lĩnh vực chuyên môn nhất
định của quản lý hành chính nhà nước như kế hoạch, tài chính, giá cả, khoa học,
công nghệ, lao động, nội vụ, quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế, tổ chức và
công vụ. Các lĩnh vực chuyên môn này liên quan đến hoạt động của các bộ, các
cấp quản lý nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Cơ quan quản lý theo
chức năng là cơ quan quản lý một lĩnh vực chuyên môn hay một nhóm các lĩnh
vực chuyên môn có liên quan với nhau (cơ quan chuyên môn tổng hợp). Hoạt
động quản lý theo ngành, theo chức năng được thực hiện với hình thức, quy mô
khác nhau, có thể trên phạm vi toàn quốc, trên từng địa phương hay vùng lãnh thổ.
Để quản lý theo ngành và theo chức năng, đòi hỏi phải có một tổ chức
đứng ra thực hiện công việc này. Các bộ, cơ quan ngang bộ được thành lập để
thực hiện việc thống nhất quản lý một ngành một lĩnh vực chuyên môn hoặc một
vài ngành, lĩnh vực chuyên môn có liên quan trong phạm vi toàn quốc và được
phân chia thành hai loại: Bộ quản lý ngành và bộ quản lý theo lĩnh vực (Bộ quản
lý theo chức năng hay Bộ chuyên môn tổng hợp). Bộ quản lý theo ngành là cơ
quan có trách nhiệm quản lý những ngành kinh tế - kĩ thuật, văn hóa, xã hội như
công nghiệp, giao thông vận tải, văn hóa, giáo dục, y tế… Các Bộ quản lý theo
chức năng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giúp Chính phủ nghiên cứu
và xây dựng các chiến lược kinh tế - xã hội nói chung, dự án kế hoạch tổng hợp
và cân đối liên ngành cũng như phục vụ và tạo điều kiện thuận lợi cho bộ quản
lý ngành hoàn thành nhiệm vụ. ở đây cần phân biệt hai khai niệm Bộ và ngành.
Bộ là phạm trù thuộc về tổ chức nhà nước để chỉ một loại cơ quan có thẩm
quyền quản lý ngành, lĩnh vực chuyên môn ở trung ương. Còn ngành là phạm
trù kinh tế - xã hội mà nội dung của nó đã được nêu ra ở phần trên. Bộ (cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ) có những quyền hạn khác nhau để thực
hiện hoạt động quản lý theo ngành như: Xây dựng và thực hiện các quy hoạch,
các dự án phát triển toàn ngành, kế hoạch hàng năm và dài hạn của ngành…
11
Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ được pháp luật quy định, Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có quyền ban hành các văn bản pháp luật để thực
hiện pháp luật một cách thống nhất trong từng ngành; quyết định các chính sách, chế
độ và các biện pháp tăng cường và cải tiến cơ cấu tổ chức, hoạt động quản lý ngành,
kiểm tra việc thực hiện kế hoạch cũng như nhiệm vụ được giao. Nội dung của quản
lý theo ngành mà chúng ta đề cập ở đây là quản lý về mặt nhà nước. Nó khác với
hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh do bản thân mỗi đơn vị kinh tê - xã hội trong
ngành đó thực hiện.
2.2. Quản lý theo địa phương
Quản lý theo địa phương là quản lý trên phạm vi lãnh thổ nhất định theo sự
phân vạch địa giới hành chính của Nhà nước. Theo quy định của pháp luật nước ta,
việc quản lý theo địa phương được thực hiện ở ba cấp:
- Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Xã, phường, thị trấn.
Để đảm bảo cho hoạt động quản lý theo địa phương được thực hiện có hiệu
quả, vấn đề quan trọng là phải phân chia địa giới các đơn vị hành chính theo quy
mô hợp lý có tính đến các yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội, thành phần dân
tộc… ở địa phương, ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền chung, giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của các
ngành phát sinh trên địa bàn địa phương. Để giúp cho ủy ban nhân dân các cấp thực
hiện tốt hoạt động quản lý hành chính nhà nước của mình, các sở, phòng, ban
chuyên môn được thành lập. Chúng thực hiện hoạt động quản lý chuyên ngành trên
lãnh thổ địa phương.
Pháp luật quy định một cách cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban nhân
dân các cấp, các sở, phòng ban chuyên môn ở địa phương trong hoạt động quản
lý hành chính nhà nước, nhằm làm cho hoạt động của cơ quan này được thực
hiện có hiệu quả. Nhìn chung hoạt động quản lý theo địa phương tập trung vào
12
những nội dung chủ yếu sau đây: Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội trên toàn lãnh thổ; tổ chức điều hòa phối hợp sự hợp tác, liên kết, liên
doanh các đơn vị kinh tế, văn hóa, xã hội trên lãnh thổ; bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa, trật tự kỉ cương của Nhà nước.
Hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương đạt được nhiều thành
tựu đáng kể trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Đời sống của nhân
dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo, đói giảm đáng kể. Việc thực hiện
các quy định của nhà nước tại địa phương cũng được thực hiện tương đối hiệu
quả. Các chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước được các địa phương cụ
thể hóa trong các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương. Không
những vậy, các địa phương không ngừng hoàn thiện và kiện toàn bộ máy hành
chính tại địa phương như xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính đủ
tiêu chuẩn về kiến thức, phẩm chất đạo đức và năng lực công tác; đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức đạt tiêu chuẩn theo quy định của nhà nước. Các địa
phương cũng đã ban hành nhiều nghị quyết mang tính chuyên đề: cải cách hành
chính, phát triển đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng, lãnh đạo công tác quân sự địa
phương, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội... trên địa bàn mình quản lý. Sự
phối hợp giữa các Sở, ban ngành tại các địa phương cũng được thực hiện khá
tốt, đây là các cơ quan giúp việc cho Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc hoạch
định kế hoạch và giám sát việc thực hiện kế hoạch cũng như giúp các địa
phương trong việc thực hiện các quy định của Bộ, ngành tương đối hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn những hạn chế
và yếu kém trong công tác quản lý hành chính nhà nước tại địa phương. Nhiều
chính sách và chủ trương phát triển kinh tế khi đưa ra thực hiện thì hiệu quả
không cao. Thủ tục hành chính còn phức tạp, không mềm dẻo và linh hoạt, cán
bộ nhà nước vẫn còn tình trạng sách nhiễu dân, sự kiểm tra, giám sát của cấp
trên với cấp dưới vẫn chưa được thực hiện sát sao, vẫn còn tình trạng cấp dưới
báo cáo sai không đúng những gì mà cấp mình đã làm được trong việc thực hiện
13
công việc của cấp trên giao cho…Năng lực đội ngũ cán bộ cấp cơ sở còn yếu
trong các công việc chuyên môn trong quản lý hành chính…
Nhìn chung hoạt động quản lý nhà nước tại địa phương vẫn còn nhiều điều
phải khắc phục và hoàn thiện để phù hợp với những yêu cầu trong quản lý hành
chính nói chung và trong nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý
theo địa phương nói riêng, từ đó nâng cao vai trò của các địa phương trong quản lý
hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Sự cần thiết phải kết hợp quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo
địa phương.
Quản lý ngành, chức năng không thể tồn tại và phát triển độc lập mà nó cần
phải có sự kết hợp với mỗi địa phương, sự kết hợp này chính là một yêu cầu tất yếu
và là nguyên tắc trong việc tiến hành hoạt động quản lý hành chính của mỗi quốc
gia. Sự kết hợp nói ở đây là tất yếu dù dưới chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội
và ở bất kỳ nước nào. Do đó, nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo và thúc đẩy sự phát triển đất nước một cách thống nhất, đồng bộ và toàn
diện.
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, quản lý theo ngành và
quản lý theo chức năng luôn được kết hợp chặt chẽ với quản lý theo địa phương.
Đó chính là sự phối hợp giữa quản lý theo chiều dọc của các bộ với quản lý theo
chiều ngang của chính quyền địa phương, theo sự phân công trách nhiệm và
phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp. Sự kết hợp này đã trở thành nguyên
tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. Sự kết hợp này là cần thiết bởi lẽ:
- Mỗi đơn vị, tổ chức của một ngành đều nằm trên lãnh thổ của một địa
phương nhất định. Góp phần tăng cường hiệu quả cho hoạt động của các tổ
chức, đơn vị này là những tiềm năng, thế mạnh của địa phương về tài nguyên
thiên nhiên, về nguồn nhân lực. Ví dụ: Ngành khai thác khoáng sản chỉ phát
triển được ở những tỉnh thành có tiềm năng về khoáng sản như Quảng Ninh, Sơn
La, Thái Nguyên, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng…vv, tất nhiên ở các tỉnh khác
14
vẫn có sự hiện diện của ngành nhưng sự phát triển thành thế mạnh thì thật sự
không thể khi mà ưu thế ngành không phát triển. Do vậy, chỉ có quản lý theo
ngành kết hợp với quản lý theo địa phương mới có thể khai thác một cách triệt để
những tiềm năng, thế mạnh của địa phương trong việc phát triển ngành đó ở địa bàn
lãnh thổ của địa phương.
- Ở mỗi một địa bàn lãnh thổ nhất định, do có sự khác nhau về các yếu tố
tự nhiên, văn hóa - xã hội cho nên yêu cầu đặt ra cho hoạt động của ngành, lĩnh
vực chuyên môn trên địa bàn lãnh thổ cũng mang nét đặc thù riêng biệt. Cho nên
chỉ có kết hợp quản lý ngành, quản lý theo chức năng với quản lý theo địa
phương mới có thể nắm bắt những đặc thù đó, trên cơ sở đó đảm bảo được sự
phát triển của các ngành ở địa phương. Ví dụ. Tỉnh Quảng Ninh được thiên
nhiên ưu đãi với vịnh Hạ Long cho nên ngành du lịch biển ở đây rất phát triển.
Chính vì những đặc thù riêng này mà Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và tỉnh
Quảng Ninh phải có những sự phối hợp để phát triển du lịch phát triển và mang
nét đặc thù riêng mà chỉ ở nơi đây mới có tạo thành điểm nhấn để thu hút khách
du lịch thăm quan.
- Trên lãnh thổ một địa phương có hoạt động của các đơn vị, tổ chức của
các ngành khác nhau. Hoạt động của các đơn vị, tổ chức đó bị chi phối bởi yếu
tố địa phương. Đồng thời, các đơn vị, tổ chức thuộc các ngành lại có mối liên hệ
móc xích xuyên suốt trong phạm vi toàn quốc. Do đó, nếu tách rời việc quản lý
theo ngành với quản lý theo địa phương đương nhiên sẽ dẫn đến tình trạng cục
bộ khép kín trong một ngành hay tình trạng cục bộ, bản vị, địa phương làm cho
hoạt động của các ngành không phát triển được một cách toàn diện, không đáp
ứng được nhu cầu của Nhà nước và xã hội. Sự kết hợp quản lý theo ngành, chức
năng kết hợp với quản lý theo địa phương mang tính cần thiết khách quan còn
bởi mỗi đơn vị - đối tượng “bị quản lý” đều nằm trên một lãnh thổ nhất định, và
không thể không sử dụng những nguồn dự trữ, không tính đến tiềm năng và nhu
cầu của địa phương (nhà máy đường cần mía, nhà máy kẹo cần đường, dân cư
cần đường và kẹo). Ngày nay, trong giai đoạn phát triển mới, như trên đã nói,
15
vấn đề quản lý phát triển tổng thể địa phương ngày càng quan trọng. Trong kế
hoạch hóa cần tính đến sự phát triển tổng thể về kinh tế - xã hội của địa phương.
Vì vậy, trong quản lý hành chính nhà nước khi giải quyết vấn đề phát triển
ngành, lĩnh vực chuyên môn bao giờ cũng phải tính đến lợi ích của các địa
phương và ngược lại. Nghĩa là có sự phối hợp, sự phụ thuộc lẫn nhau của tất cả
các mắt xích của bộ máy quản lý ở trung ương cũng như ở địa phương trong
việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể và sự phối hợp đó được thể chế hóa bằng
pháp luật. Nhưng sự phối hợp và phụ thuộc ấy khác nhau về mức độ, tùy tính
chất từng vấn đề, nhằm đảm bảo kết hợp hợp lý nhu cầu quản lý tập trung với
quản lý phát triển tổng thể địa phương (do cơ quan quản lý thẩm quyền chung ở
địa phương thực hiện) và phát huy dân chủ quyền chủ động của địa phương.
Hơn nữa phải có sự phối hợp chặt chẽ trong tổ chức và hoạt động của cơ quan quản
lý ngành, lĩnh vực chuyên môn ở trung ương và chính quyền địa phương trong việc
thực hiện các nhiệm vụ của quản lý hành chính nhà nước. Sự phối hợp đó được
biểu hiện cụ thể như sau:
* Trong hoạt động quy hoạch và kế hoạch: Các bộ và chính quyền địa
phương có nhiệm vụ trao đổi, phối hợp chặt chẽ những vấn đề có liên quan để xây
dựng, thực hiện quy hoạch, kế hoạch ngành, lĩnh vực chuyên môn.
* Trong xây dựng và chỉ đạo bộ máy chuyên môn: Các bộ và chính quyền
địa phương điều hòa, phối hợp hoạt động của các cơ quan quản lý chuyên môn
địa phương nhằm phát huy mọi khả năng vật chất - kỹ thuật trong phạm vi lãnh
thổ để phát triển sản xuất, bảo đảm lợi ích cả nước và lợi ích của địa phương.
Điều 54 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân quy định: “ Các cơ
quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức,
biên chế và công tác của ủy ban nhân dân cấp mình, đồng thời chịu sự chỉ đạo
về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên. Thủ trưởng cơ quan chuyên
môn thuộc ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước ủy ban
nhân dân và cơ quan chuyên môn cấp trên và khi cần thiết thì báo cáo công tác
trước hội đồng nhân dân”.
16
- Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật: Bộ chỉ đạo xây dựng cơ sở vật chất
thống nhất trong toàn ngành, cung cấp cho địa phương các loại vật tư kỹ thuật và
thiết bị chuyên dùng trong phạm vi của bộ, chính quyền địa phương đảm bảo kết cấu
hạ tầng cho mọi hoạt động của sản xuất kinh doanh trong phạm vi địa phương như:
cung cấp điện, nước, xây dựng đường giao thông… cho các đơn vị, tổ chức của ngành
trung ương đóng tại địa phương.
- Ban hành và kiểm tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật:
Trên cơ sở pháp luật, trong phạm vi thẩm quyền các bộ ban hành các quyết định,
chỉ thị, thông tư có hiệu lực bắt buộc đối với chính quyền địa phương và có
quyền kiểm tra việc thi hành các văn bản đó. Điều 16 Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết
của Quốc hội, lệnh, quyết định của chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ và
Thủ tướng Chính phủ, bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ ra quyết
định, chỉ thị, thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các
ngành, các địa phương và các cơ sở”. Mặt khác, trên cơ sở thẩm quyền của
mình, chính quyền địa phương cũng có quyền ra các quyết định bắt buộc đối với
các ngành ở địa phương và kiểm tra việc thực hiện chúng.
Như vậy, khi nhà nước ta đẩy mạnh việc phân cấp quản lý thì các địa
phương có quyền chủ động sáng tạo hơn trong quản lý để phát huy thế mạnh của địa
phương. Bên cạnh đó các ngành cũng phải có sự độc lập tương đối trong việc tiến
hành các hoạt động của ngành, thì việc kết hợp quản lý giữa các ngành, chức năng và
địa phương sẽ đảm bảo các địa phương không phát triển một cách tùy tiện, thiếu
đồng bộ, và các ngành không đặt ra các quy định thiếu tính thực tiễn, không phù hợp
với đặc thù của địa phương.
3. Vai trò của nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo
địa phương.
Cũng như các nguyên tắc khác trong quản lý hành chính nhà nước,
nguyên tắc quản lý theo ngành, theo chức năng kết hợp với quản lý theo địa
17
phương được xây dựng, tổng kết và rút ra từ thực tiễn quản lý hành chính nhà nước.
Cũng như các nguyên tắc khác, nguyên tắc này được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật của Nhà nước, từ Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật. Điều này thể
hiện tính chất pháp lý của nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước. Nó tạo ra
cơ sở để buộc các chủ thể phải tuân thủ một cách thống nhất và chính xác nguyên tắc
trong quản lý hành chính nhà nước.
Nguyên tắc quản lý theo ngành, theo chức năng kết hợp với quản lý theo
địa phương được ghi nhận không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế
giới đều ghi nhận nguyên tắc này. Sự phát triển của nguyên tắc này song song
với sự phát triển của nhà nước Việt Nam, khi mới giành được chính quyền một
phần lo xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ vừa giành được nên chưa chú
trọng thực hiện nguyên tắc này, vì vậy, nguyên tắc này chưa được ghi nhận
trong các văn bản luật của nhà nước cũng như trong các nghị quyết của Đảng.
Bước vào giai đoạn miền Bắc xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam kháng
chiến chống Mỹ, nguyên tắc này cho dù trong thực tiễn vẫn được áp dụng và
thực hiện nhưng trong các văn bản luật như Hiến pháp vẫn chưa ghi nhận nó. Đó
chỉ là về mặt hợp thức hóa về mặt pháp luật còn trong thực tế thì nguyên tắc này
vẫn diễn ra trong thực tiễn quản lý hành chính nhà nước. Thể hiện ở sự chung
sức và đồng lòng giữa các bộ, ngành và địa phương trong công cuộc giải phóng
miền Nam thống nhất nước nhà và xây dựng kinh tế xã hội đất nước.
Nguyên tắc này được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 34 Hiến pháp 1980:
‘‘Nhà nước tổ chức nền sản xuất xã hội theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa; xây dựng và hoàn thiện không ngừng hệ thống quản lý kinh tế; vận dụng
đúng đắn các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội; áp dụng nguyên tắc tập
trung dân chủ và nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ… ’’. Không những vậy nguyên tắc này còn được ghi
nhận tại nghị quyết ban chấp hành trung ương Đảng khóa VI năm 1986, năm mà
nước ta thực hiện nền kinh tế mới không theo tập trung quan liêu bao cấp. Cùng
với các chính sách đường lối kinh tế thì nguyên tắc như kim chỉ nam trong việc
18
thực hiện tốt mục tiêu kinh tế đề ra. Từ năm 1986 tới nay thì nguyên tắc không
ngừng được củng cố và phát huy, nó được ghi nhận trong hầu hết các văn bản
liên quan đến hoạt động quản lý hành chính của các ngành và các địa phương,
không những vậy trong các văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước nguyên tắc
này luôn được đề cập tới nhằm hướng dẫn và chỉ đạo các bộ, ngành và các địa
phương thực hiện tốt chủ trương và đường lối của Đảng và nhà nước. Điều này
góp phần không nhỏ vào công cuộc kiến thiết đất nước trong thời đại mới.
Trong quản lý hành chính nhà nước nguyên tắc này đóng vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo sự phát triển của ngành tại địa phương một cách thống
nhất. Đảm bảo địa phương thực hiện nghiêm chỉnh quy định của ngành tại địa
phương và đồng thời địa phương có thể đưa ra các quy định phù hợp với những
quy định của ngành và có tính khả thi cao ở địa phương. Trong sự phát triển của
ngành không thể không có đóng góp của các địa phương và các địa phương cũng
nhờ có sự phát triển của các ngành tại địa phương mình để làm tiền đề cho
những phát triển trong kinh tế, văn hóa - xã hội của địa phương mình. Một khi
sự kết hợp giữa ngành và địa phương trong quản lý hành chính được phát huy
thì thành tựu đạt được sẽ vô cùng to lớn. Xuất phát từ những yêu cầu trên đòi
hỏi việc áp dụng và thực hiện nguyên tắc này trên thực tế giữa các Bộ, ngành và
địa phương phải kết hợp sao cho mang lại hiệu quả cao nhất, không chỉ vì lợi ích
của ngành hay địa phương mà vì lợi ích chung đó là sự phát triển của đất nước.
Sự kết hợp này đòi hỏi các địa phương cũng như các Bộ, ngành không ngừng
hoàn thiện những quy định của mình sao cho phù hợp với những tiêu chí mà
nguyên tắc đặt ra. Từ đó phát huy tối đa vai trò của nguyên tắc này trong quản lý
hành chính nhà nước.
19
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC
Nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương là một nguyên tắc mang tính chất kỹ thuật của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước. Sự kết hợp giữa các cơ quan quản lý ngành, chức năng với
chính quyền địa phương đã đảm bảo cho hoạt động giữa các ngành với các đia
phương đạt được sự thống nhất trong quản lý.
Trong những năm qua, chính quyền địa phương đã phối hợp với các bộ,
ngành thực hiện công tác kết hợp quản lý, và đã đạt được nhiều thành tựu rõ rệt
như sau:
Thứ nhất, sự phối hợp giữa ngành với địa phương đã tao ra cơ cấu ngành nghề
ở địa phương không ngừng tăng lên. Ngoài ra, thế mạnh của các địa phương
cũng được ngành khai thác triệt để, thúc đẩy sự phát triển của các địa phương trên
các lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa và xã hội.
Thứ hai, sự kết hợp giữa các bộ, ngành và địa phương đạt được những
thành quả trong việc cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Ví
dụ như công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng của Bộ Y tế tại các địa phương
ngày càng được nâng cao, nhiều dịch bệnh được phát hiện và xử lý kịp thời tránh
được, người dân được tiếp cận nhiều hình thức chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Hay sự
kết hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc phát triển giáo dục tại các địa
phương ngày càng thu được nhiều thành tựu như tỷ lệ trẻ đến trường ngày càng
tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ của các địa
phương được giảm đi rõ rệt, nhiều địa phương đã không còn tình trạng này, trình
độ dân trí ngày một được nâng cao….
Thứ ba, trong công tác phòng chống thiên tai, dịch bệnh. Đây là một trong
những thành tựu rất quan trọng của việc kết hợp giữa các Bộ, ngành và địa
phương trong việc hạn chế những thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra. Có thể
kể đến những kết quả đạt được của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
20
cùng các Bộ, ngành khác cùng với các địa phương trong việc phòng chống lụt bão,
khắc phục hậu quả do lụt bão gây ra tại Miền Trung năm 2006. Nhờ có sự kết hợp
chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và các địa phương nên thiệt hại về người và của được
hạn chế ở mức thấp nhất. Hay những thành tựu đạt được trong việc phát hiện và
sử lý dịch cúm gà H5N1 tại nhiều địa phương. Từ những thành tựu trên ta có thể
thấy rằng sự kết hợp giữa Bộ, ngành và địa phương đã được thực hiện khá tốt trong
quản lý hành chính nhà nước.
Sự kết hợp giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng với quản lý theo địa
phương đòi hỏi một cách toàn diện, phải được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, có
như vậy nó mới bảo đảm được hoạt động quản lý hành chính nhà nước đạt hiệu quả
cao và thống nhất trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, trong một số hoạt động quản lý
quan trọng, thì sự kết hợp vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định mà đã làm suy
giảm hiệu quả quản lý hành chính nhà nước dẫn đến chồng chéo, không thống nhất
giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện.
Việc kết hợp giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng với các cơ quan
quản lý theo địa phương trong một số lĩnh vực còn chưa được thực hiện một
cách toàn diện. Cả nước ta có 63 tỉnh, thành phố thì hoạt động phối hợp của 63
tỉnh, thành phố với các Bộ là không đồng đều, dẫn tới những hạn chế nhất định
như sau:
2.1. Sự “xé rào” trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của địa phương trái với quy định của cơ quan quản lý ngành, chức năng.
Trong những năm gần đây, các cơ quan quản lý ngành, chức năng và
chính quyền địa phương đã ban hành nhiều văn bản không đảm bảo được sự
đồng bộ, thống nhất bởi vì những lợi ích cục bộ của ngành, và của địa phương,
có quy định trái Hiến pháp, ví dụ như: Quyết định số 98/2003/QĐ-UB ngày
14/8/2003 và số 9294/QĐ-UB ngày 21/12/2004 của UBND Thành phố Hà Nội
về việc ngừng đăng ký xe máy tại 7 quận nội thành..Theo báo cáo của Chính
phủ về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các bộ, ngành và địa
21
phương năm 2005 thì đã tổ chức kiểm tra được 3632 văn bản, phát hiện trên 400
văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Đáng lưu ý là hiện tượng “xé rào” trong ưu
đãi doanh nghiệp, thu hút đầu tư. Đã phát hiện được 60 văn bản của 42 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương ban hành có dấu hiệu trái pháp luật nói chung
và trái với các quy định của bộ, ngành nói riêng, tập trung ở một số lĩnh vực như
ưu đãi thuế, các khoản thu từ đất, sử dụng ngân sách nhà nước để hỗ trợ cho các
nhà đầu tư. Bên cạnh những ưu đãi đầu tư mà chính quyền trung ương cho phép,
các tỉnh còn đưa ra ưu đãi trái quy định nữa, từ thưởng đầu tư và khấu hao
nhanh cho đến việc kéo dài thời gian miễn thuế và giảm chi phí sử dụng đất.
Trong số 48 tỉnh mà Bộ Tài chính điều tra, có tới 32 tỉnh ban hành những văn
bản trái quy định để đưa ra những ưu đãi cho các dự án đầu tư. Hầu hết các ưu
đãi này liên quan đến đất đai hay thuế. Về đất đai, những ưu đãi này bao gồm
gia hạn thời gian miễn thuê đất, trợ cấp cơ sở hạ tầng, giải phóng mặt bằng, ưu
đãi về thuế đất tương ứng với quy mô của dự án. Bình thường theo quy định của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì thời hạn miễn tiền thuê đất là từ 10-15 năm thế
nhưng các tỉnh lại cho thêm các nhà đầu tư thời gian được miễn tiền thuê đất lên
tận 20 năm thậm chí có tỉnh còn hơn. Về thuế, hầu hết các tỉnh xé rào đều mở
rộng danh sách các dự án được hưởng ưu đãi, cho miễn thuế thu nhập doanh
nghiệp và giảm thuế VAT. Các biện pháp khác như hỗ trợ hay bảo lãnh tín dụng,
trợ cấp đào tạo công nhận và chính sách “một cửa - một dấu” cũng được áp
dụng. Một vài địa phương (ví dụ như Quảng Ngãi) còn đi xa đến mức cùng một
lúc vi phạm ba hay bốn chính sách ưu đãi của trung ương; các địa phương khác
đã đưa ra ưu đãi rất mạnh như giao đất cho nhà đầu tư với mức tiền thuê gần
như cho không (ví dụ như Hà Tĩnh). Cụ thể Bộ Tài chính báo cáo rằng trong 32
địa phương xé rào, 18 địa phương đã vi phạm các quy định về ngân sách, 21 địa
phương đưa ra các ưu đãi về đất đai vượt ra ngoài khuôn khổ mà chính sách đất
đai quốc gia quy định, 11 địa phương vi phạm các quy định về thuế thu nhập
doanh nghiệp; và nhiều địa phương đã vi phạm hơn hai lĩnh vực khác nhau. Hầu
hết các tỉnh đều đưa ra những ưu đãi rất rộng rãi về phí sử dụng đất và mở rộng
22
thời gian miễn thuế từ 10 đến 20 năm. Ví dụ, một văn bản do UBND tỉnh Bến
Tre đã nói rằng “bên cạnh việc được hưởng những ưu đãi theo chính sách của
nhà nước, tất cả các dự án đầu tư BOT, BTO, BT ở Bến Tre sẽ được miễn thêm
4 năm và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 9 năm tiếp theo”. Quảng
Nam đã áp dụng một mức thuế suất thấp hơn mức bình thường từ 3-10% trong
vòng 3 năm. Hà Tĩnh đã miễn tiền thuê đất dài hơn 7-13 năm so với thời hạn
chính thức được phép, Hơn nữa, Hà Tĩnh còn cho phép các nhà đầu tư được
giảm tiền thuê đất trong 5 năm, thậm chí trong một số trường hợp đã cho họ
hưởng ưu đãi vĩnh viễn … Sự cạnh tranh với nhau giữa các địa phương trong
việc thu hút đầu tư ngày càng quyết liệt để làm cho các ưu đãi hấp dẫn hơn. Ví
dụ, ngay sau khi Vĩnh Phúc tuyên bố rằng “bên cạnh các ưu đãi theo quy định
của nhà nước, các nhà đầu tư còn được hưởng những ưu đãi thêm sau đây…”,
thì Phú Thọ cũng đưa ra điều kiện thu hút đầu tư là: “phí sử dụng đất của Phú
Thọ thấp hơn của các địa phương khác có điều kiện tương tự…”.
Một thực tế có thể thấy là các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã
ban hành nhiều văn bản sai luật và nó ảnh hưởng không nhỏ tới những bộ, ngành
có liên quan, mà cụ thể về việc xé rào đầu tư thì Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài
chính là hai bộ bị ảnh hưởng do hậu quả của việc ban hành văn bản trái với văn
bản của các địa phương gây ra. Một điều dễ nhận thấy là những tỉnh xé rào đều
gặp tình trạng thâm hụt ngân sách với các mức độ khác nhau, từ vài chục tỉ đến
hàng ngàn tỉ đồng. Hầu hết các tỉnh xé rào đều đã bị thâm hụt ngân sách trong
thời gian dài. Một số tỉnh, hầu hết ở khu vực duyên hải miền trung (ví dụ như
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam) đều nhận được cấp
phát ngân sách từ chính quyền trung ương chiếm tới 30-60% tổng chi hằng năm
của họ. Đây thực sự là gánh nặng đối với ngân sách nhà nước và các kế hoạch
của Bộ Tài chính, đặc biệt là ngành thuế đang rất gặp nhiều khó khăn bởi những
quyết định ưu đãi này thì chính sách thuế thống nhất sẽ không thực hiện được tại
các địa phương “xé rào”. Ngoài Bộ Tài chính thì Bộ Kế hoạch - Đầu tư cũng
phải gánh chịu những hậu quả của cuộc chạy đua tới giấc mơ thành địa phương
23
công nghiệp hóa của nhiều địa phương. Nhưng kết quả cho thấy là có nhiều khu
công ngiệp ở nhiều địa phương xây xong để cỏ mọc. Cụ thể, tỷ lệ lấp đầy các
KCN, khu chế xuất mới đạt 50%, điển hình như khu chế xuất Hải Phòng 96 có quy
mô 150 ha, thành lập từ năm 1997, đến nay mới cho thuê được 1 ha; KCN Đài Tư
và KCN Daewoo Hanel của Hà Nội với tổng diện tích trên 200 ha, thành lập năm
1996, đến nay mới cho thuê được 5 ha, KCN Nomura Hải Phòng 153 ha, thành lập
năm 1994 đến nay mới cho thuê được 39 ha, KCN Mỹ Xuân tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu quy mô 226 ha thành lập năm 1998 đến nay mới cho thuê được 20 ha… diện
tích còn lại chưa được khai thác đúng như kế hoạch. Một chính sách sai của các
địa phương trong thu hút đầu tư một cách ồ ạt mà không tính đến tính khả thi của dự
án trên địa phương mình.
Từ những thực tiễn vừa nêu ở trên ta có thể thấy một phần nguyên nhân của
việc xé rào của các địa phương một phần là do những quy định của ngành khi thực
hiện ở địa phương không mang lại hiệu quả. Ngoài ra, một phần các địa phương vì
lợi ích của chính địa phương mình mà không quan tâm tới lợi ích chung đã ban
hành văn bản “xé rào” so với quy định của ngành.
Nhưng nguyên nhân chủ yếu đó là các tỉnh, thành phố khi ban hành các
văn bản đã không có sự kết hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan mà tự mình
thực hiện và mang tính cục bộ địa phương, không những không làm cho địa
phương phát triển mà còn làm cho các bộ, ngành trên địa phương cũng phải
gánh chịu hậu quả chung với mình. Nhưng những sai phạm nêu trên của các địa
phương cũng không phải lỗi hoàn toàn do các địa phương vì trong những vi
phạm trên của các địa phương thì trách nhiệm của các Bộ, ngành cũng có nhiều
thiếu xót. Cụ thể, trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc xây dựng những tiêu
chuẩn chung của ngành không tính đến những nét đặc thù riêng của từng vùng,
miền và khu vực khác nhau nên việc ban hành những tiêu chuẩn chung này thực
hiện không có hiệu quả tại một số địa phương. Ngoài ra, các Bộ, ngành cũng
hướng dẫn những quy định của ngành tại các địa phương chưa được hiệu quả,
đặc biệt công tác giám sát, kiểm tra các địa phương trong việc thực hiện chính
24
sách của Chính phủ nói chung và của Bộ, ngành nói riêng vẫn còn nhiều yếu kém
điều này làm cho việc khắc phục những sai sót của địa phương trong việc thực hiện
quy định của ngành vẫn còn tồn tại như trên.
Bên cạnh hiện tượng “xé rào” ở các địa phương thì trong các lĩnh vực
khác việc ban hành văn bản giữa các tỉnh, thành phố phù hợp với quy định của
bộ, ngành vẫn tồn tại, đặc biệt ngay tại thành phố Hà Nội, thủ đô của cả nước
nhưng vẫn còn nhiều văn bản không phù hợp với quy định của Bộ, ngành. Điển
hình như việc UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 79/2007/QĐ-
UBND ngày 11/07/2007 về việc ban hành quy định Cấp giấy phép xây dựng các
công trình trên địa bàn thành phố Hà Nội. Nội dung của quyết định này hoàn
toàn trái với những quy định của Bộ Xây dựng và không phù hợp với Luật Xây
dựng. Theo quy định của Bộ Xây dựng thì người dân chỉ cần chứng minh có 1
trong 11 loại giấy tờ chứng minh về quyền sử dụng đất là được cấp phép xây
dựng. Thậm chí đất không có giấy tờ nhưng được cơ quan có thẩm quyền xác
nhận là không có tranh chấp, ăn ở ổn định cũng vẫn được xem xét cấp phép xây
dựng. Nhưng quy định của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội lại yêu cầu phải
có sổ đỏ mới được cấp phép xây dựng tại Hà Nội. Quy định này đã được thực
hiện trong một thời gian ngắn trước khi bị bãi bỏ. Những người bị thiệt nhất khi
quyết định này được thi hành vẫn là người dân chưa có sổ đỏ đang sinh sống tại
Hà Nội nếu muốn xây dựng. Nguyên nhân là do tiến độ cấp “sổ đỏ” của Hà Nội
rất chậm mới đạt khoảng 70% diện tích cần cấp. Ngoài ra, còn có gần 27000
trường hợp thuộc diện chưa thể cấp “sổ đỏ” và hơn 65000 “sổ đỏ” khác tồn kho
do người dân không đến nhận vì kinh phí quá cao(1). Việc này còn dẫn đến phá
hỏng những nỗ lực trong việc tháo gỡ về mặt trình tự, thủ tục cho đơn giản,
nhằm khuyến khích người dân thực hiện nghiêm về trật tự trong xây dựng.
Có thể nói UBND thành phố Hà Nội tự làm khó mình khi cho rằng khi
ban hành quyết định này thì sẽ giảm được tình trạng xây dựng không phép đang
diễn ra. Không những việc ban hành văn bản này không phù hợp với những quy
định của Bộ Xây dựng mà còn liên quan đến việc lấy căn cứ là Nghị định 84/CP
25
do Chính phủ ban hành khi cho rằng đây là căn cứ để cấp phép xây dựng, theo
nội dung của Nghị định 84/CP thì nghị định này không liên quan gì đến việc cấp
phép xây dựng, chỉ có duy nhất một điều có nhắc tới là thời điểm ngày 1/1/2008
là: “Các giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất, từ 1/1/2008 chỉ được thực hiện
trên cơ sở có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Như vậy, việc Ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội ra quyết định phải có sổ đỏ mới được cấp phép xây dựng
là không có căn cứ, và trái với những quy định của Bộ Xây dựng trong việc cấp
phép xây dựng.
Từ những thực tiễn ở một vài địa phương và ngay tại thành phố Hà Nội về
việc ban hành văn bản đó là không có sự kết hợp chặt chẽ với ngành trên địa bàn
mình quản lý, để xẩy ra những hậu quả rồi mới tính đến việc giải quyết những
hậu quả do những văn bản này gây ra. Đây là thực trạng đáng báo động trong
việc ban hành các văn bản của các địa phương khi mà sự kết hợp với Bộ, ngành
là chưa thật sự chặt chẽ, vẫn mang tính cục bộ địa phương và mạnh ai người nấy làm.
2.2. Sự phối hợp không chặt chẽ trong việc tổ chức, thực hiện các quy định của
ngành ở địa phương.
Trên bình diện chung của cả nước ta thì các quy định của ngành được các địa
phương thực hiện tương đối tốt, tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều vướng
mắc và hạn chế trong việc thực hiện các quy định của ngành tại mỗi địa phương. Cụ
thể sự phối hợp không chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và địa phương thể hiện ở một số
lĩnh vực sau:
Lập quy hoạch, kế hoạch của địa phương.
Do vị trí địa lý cũng như điều kiện của mỗi địa phương có sự khác nhau
nên việc thực hiện đồng bộ các quy định của ngành cũng còn gặp nhiều khó
khăn. Đa số các địa phương khi thực hiện các quy định của ngành vẫn còn mang
nặng tính thành tích và chưa đạt hiệu quả cao, chưa muốn nói tới một số địa
phương còn làm sai những quy định mà ngành đã đặt ra. Bên cạnh đó, các Bộ
cũng chưa chú ý tới việc xem xét tính thực tế của các quy định của mình có thể
26
áp dụng chung cho tất cả các địa phương hay phải có những điều chỉnh riêng cho
từng khu vực và địa phương cụ thể. Do việc thực hiện của các địa phương cũng
phải phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, và đặc biệt là điều kiện tự nhiên
của mỗi vùng, mỗi địa phương là khác nhau nên việc thực hiện quy định của
ngành cũng có những đặc thù riêng.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc hướng dẫn thực hiện các quy định ngành
tại địa phương vẫn chưa được đồng nhất, dẫn tới các địa phương khi thực hiện
các quy định này thường theo cách riêng của địa phương mình. Điều này được
thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực thu hút đầu tư, các địa phương đua nhau tạo ra
những điều kiện đầu tư tốt nhất nhằm thu hút thật nhiều nhà đầu tư vào đầu tư
tại địa phương mình mà không tình đến những hậu quả của việc thu hút này. Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đưa ra khung chung về thu hút đầu tư cho các tỉnh thực
hiện, tuy nhiên các địa phương thực hiện những quy định này một cách không
giống ai - mạnh địa phương nào địa phương đó thu hút đầu tư theo cách riêng
của mình. Điều này kéo theo một loạt các Bộ, ngành có liên quan gặp rất nhiều
khó khăn trong việc giải quyết những hậu quả mà các địa phương gây ra khi
không thực hiện đúng quy định mà ngành đã đề ra. Dẫu biết rằng các địa
phương hiện nay được trao quyền tự quyết rất cao xong không vì thế mà xem
nhẹ việc thực hiện các quy định của Bộ, ngành tại địa phương mình theo đúng
tinh thần hướng dẫn của các bộ, ngành trong thực hiện công việc các quy định này.
Không chỉ các địa phương có lỗi trong việc thực hiện các quy định của
ngành, mà ngay chính các chính sách của ngành cũng làm cho các địa phương
gặp nhiều khó khăn khi đem các quy định này áp dụng tại các địa phương.
Nhiều quy định của ngành ban hành khi không có sự nghiên cứu và xem xét va
lấy ý kiến từ các địa phương mà đã ban hành và áp dụng. Điều này dẫn khi áp
dụng tại nhiều địa phương đã không phát huy được hết thế mạnh của từng địa
phương mà còn làm cho các địa phương phải lúng túng trong việc áp dụng các
quy đinh này trong khi thế mạnh đó hầu như không tồn tại. Cụ thể nhiều địa
phương khi xây dựng quy hoạch phát triển ngành tại địa phương mình đã không
27
xem xét và khảo sát kỹ tính khả thi của các kế hoạch này trong thực tế khi triển
khai tại địa phương làm cho hàng nghìn tỷ đồng đầu tư của nhà nước và của các
Bộ, ngành và ngân sách của địa phương đầu tư không có hiệu quả. Những dự án
xi măng lò đứng, nhà máy mía đường, trương trình đánh bắt xa bờ, trương trình
bò sữa… ở nhiều địa phương khi mới bước đầu thực hiện đã không mang tính
khả thi và đi vào bế tắc và thua lỗ. Đây lỗi một phần là do các Bộ, ngành liên
quan không tính kỹ tính khả thi của các dự án tại địa phương mà mình định thực
hiện phát triển ngành của mình, ngoài ra, lỗ cũng do các địa phương nôn nóng
trong thực hiện chính sách, hoặc do thiên về lấy tiếng cho địa phương mình đối
với các địa phương khác.
Ngoài ra, việc kết hợp giữa các địa phương và các Bộ, ngành trong việc
xử lý những vi phạm những quy định của ngành tại địa phương vẫn còn nhiều
hạn chế và yếu kém. Việc các địa phương đua nhau thu hút đầu tư, xây dựng các
khu công nghiệp, khu chế suất, hay khu kinh tế mà không tính tới những hậu quả
mà những khu công nghiệp, khu chế suất, khu kinh tế này gây ra tới môi trường
các địa phương làm cho tình hình ô nhiễm môi trường tại các địa phương diễn ra
ngày một nghiêm trọng. Mặc dù Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có những quy
định rất rõ ràng về bảo vệ môi trường xong do các địa phương xem trọng các lợi
ích kinh tế mà bỏ qua những tiêu chuẩn về môi trường mà Bộ đã đưa ra. Gây ra
hậu quả rất nghiêm trọng về môi trường. Hầu như tại tất cả các địa phương đều
để xảy ra vi phạm về môi trường do các cụm công nghiệp hay khu chế suất gây
ra. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam hiện nay có 150 Khu công nghiệp,
khu chế suất trên toàn quốc. Các khu công nghiệp này tuy đã mang lại hiệu quả
kinh tế rõ ràng, khi 53,2% số khu công nghiệp này đạt tỷ lệ lấp đầy các dự án và
hơn 70% được vận hành. Tuy nhiên, điều đáng nói nhất là tốc độ phát triển kinh
tế “nóng” của các khu công nghiệp, khu chế suất này đã kéo theo nhiều tác động
tiêu cực đối với môi trường. Theo ước tính, mỗi khu công nghiệp thải khoảng từ
3.000 - 10.000 m3 nước thải/ngày đêm. Như vậy, tổng lượng nước thải công
nghiệp của các khu công nghiệp trên cả nước lên khoảng 500.000-700.000 m3
28
/ngày đêm. Tại các khu công nghiệp, công tác bảo vệ môi trường chưa thực hiện đồng
bộ, nhiều khu công nghiệp chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Đến
thời điểm hiện nay, mới chỉ có 28 khu công nghiệp có nhà máy xử lý nước thải tập
trung, khoảng 20 khu công nghiệp đang xây dựng hoặc chuẩn bị đầu tư. Tuy nhiên,
ngay cả ở những khu công nghiệp đã có trạm xử lý nước thải tập trung, thì chất
lượng thực tế của các công trình này vẫn còn hạn chế, chưa đạt được những tiêu
chuẩn quy định, gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ở một số khu công nghiệp tập
trung các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, thuộc da, ngành hóa chất… độc hại
rất cao.Số đông còn lại chưa xây dựng do nhiều nguyên nhân như năng lực tài
chính hạn chế, ý thức tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường chưa cao… nhưng phải
kể đến một nguyên nhân khá nổi bật đó là sự làm ngơ của các địa phương trước tình
trạng này.
Từ thực trạng ô nhiễm môi trường tại các địa phương kể trên chúng ta
thấy rằng có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô
nhiễm môi trường, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về
vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động
quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản
lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa
sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường gây nguy hiểm trực tiếp,
hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển
bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường còn thiếu
(chẳng hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác
quản lý và bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ nguồn nước nói riêng). Cơ
chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa
đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến
lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và
các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài
29
chính để quản lý và bảo vệ môi trường, gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu
không đủ chi cho bảo vệ môi trường.
Sử dụng ngân sách (gây lãng phí nghiêm trọng)
Thực tiễn việc phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương trong việc sử
dụng ngân sách của các địa phương vẫn còn hạn chế. Cụ thể: vai trò của các cơ
quan quản lý chức năng (Bộ, ngành) trong việc lập quy hoạch, kế hoạch đã
không có sự phối hợp với các địa phương dẫn đến những hậu quả gây lãng phí
nghiêm trọng . Điều này được thể hiện rõ trong ngành xây dựng, và Bộ, ngành
có liên quan ở đây chính là Bộ Xây dựng và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với
Bộ Tài chính trong việc lên kế hoạch và cấp kinh phí và giám sát việc thực hiện
kinh phí đó tại các địa phương. Theo Tổng Hội Xây dựng Việt Nam vừa công bố
bản danh sách các địa phương có công trình gây thất thoát lãng phí trong sử
dụng vốn đầu tư xây dựng năm 2005 và 6 tháng đầu năm 2006, qua đó có thể
thấy thất thoát, lãng phí xảy ra ở tất cả các lĩnh vực và ở nhiều tỉnh thành. Ví dụ:
Dự án Nhà máy chế biến cà chua, tổng số vốn đầu tư 51,7 tỷ đồng, công suất
200 tấn cà chua/ngày do Cty Xuất nhập khẩu Rau quả Hải Phòng làm chủ đầu
tư, hoàn thành từ năm 2001, nhưng do không xây dựng được vùng nguyên liệu,
mỗi năm nhà máy chỉ thu mua được 1000 tấn cà chua, đủ để khởi động máy
trong 5 - 6 ngày, còn lại là ngừng hoạt động do thiếu nguyên liệu. Dự án Khách
sạn du lịch và công viên của Hải phòng vốn đầu tư lớn như Khách sạn Hùng
Vương đầu tư 29 tỷ đồng, Công viên nước Vạn Sơn đầu tư 64 tỷ đồng trên diện
tích 30.000 m2 đất, công viên Rồng biển đầu tư 31 tỷ đồng, trên diện tích 17.000
m2, Khu vui chơi giải trí tổng hợp Đồ Sơn đầu tư 145 tỷ đồng, công viên nước
Cát Bà đầu tư 30 tỷ đồng… sau 3 năm triển khai, đến nay nhiều dự án bị bỏ dở
dang, một số dự án thành bãi đất hoang để cỏ mọc. Tại tỉnh Thái Bình có Nhà
máy chế biến gạo đầu tư 6 triệu USD, hoàn thành năm 2000, đến khi chạy thử,
thiết bị nhập không phù hợp với gạo Việt Nam, hiện Nhà máy này chỉ chạy được
10% công suất và phải chuyển từ điều khiển tự động sang điều khiển bằng tay.
30
Trong công cuộc “hiện đại hóa” có rất nhiều sai phạm của tỉnh Hà Giang, vừa
qua tỉnh đã đầu tư 42 tỷ đồng xây 4 chung cư cao tầng, sau khi xây xong, bà con
dân tộc vùng cao không mua nhà cao tầng để ở, nhà không bán được, tỉnh đang
nợ chưa có tiền trả cho nhà thầu. Hà Nội cũng có những công trình lãng phí khi
sử dụng các nguồn tài chính không hiệu quả, thành phố đã đầu tư hàng trăm tỷ
đồng để xây dựng các công viên, đến nay có công viên chưa xây xong đã bị đề
nghị phá bỏ vì một số công trình không phù hợp quy hoạch, công viên Yên Sở
đầu tư 188 tỷ đồng nhưng không có khách vào vì nước hồ bị ô nhiễm nặng. Các
dự án kênh tưới nước tại huyện Gia Lâm đầu tư 9,5 tỷ đồng, sau khi hoàn thành
dự án do thiết kế, thi công không bảo đảm chất lượng nên công trình không sử
dụng được. Tỉnh Vĩnh Phúc đầu tư 1.416 tỷ đồng cho 670 dự án, theo điều tra,
chỉ có 8-9% công trình đạt chất lượng tốt, 40% chất lượng trung bình và hơn
50% chất lượng kém. Tổng Cty Du lịch Sài Gòn (TP Hồ Chí Minh) đầu tư 913
tỷ đồng để sửa chữa, nâng cấp 104 khách sạn, đã thất thoát, lãng phí hàng chục
tỷ đồng….
Nguyên nhân dẫn đến thất thoát, lãng phí là do các chủ đầu tư không thực
hiện nghiêm túc các cơ chế, chính sách, luật pháp về xây dựng; các cơ quan
quản lý Nhà nước về đầu tư chưa làm đầy đủ trách nhiệm quản lý, giám sát,
kiểm tra quá trình đầu tư xây dựng cơ bản; lãnh đạo một số địa phương còn chủ
quan, duy ý chí muốn đẩy nhanh quá trình phát triển của địa phương, đã đầu tư
tràn lan chạy theo phong trào mà không nghiên cứu kỹ thị trường và đặc điểm
của địa phương.
Các ví dụ trên thể hiện các địa phương không có sự đánh giá điều kiện của địa
phương, hiểu rõ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương mình để thông
qua đó phối hợp với cơ quan quản lý ngành, chức năng tổ chức thực hiện các chính
sách, các hoạt động cho phù hợp với điều kiện của địa phương mình, dẫn đến hoạt
động này không hiệu quả.
Ngoài ra, việc thực hiện các quy định của ngành về sử dụng ngân sách và
các chính sách tại địa phương còn rất nhiều hạn chế, thông thường thì các địa
31
phương khi thực hiện các quy định của ngành thì bao giờ cũng có những sai xót,
khuyết điểm. Một phần của điều này là việc các địa phương không làm công
việc của ngành đến nơi đến chốn, hoặc có sự sai phạm của cấp dưới khi thực
hiện các quy định của cấp trên. Điều này làm cho việc thực hiện quy định của
ngành tại các địa phương rất mang tính cục bộ, và tùy tiện gây ra những hậu quả
to lớn. Làm ảnh hưởng tới uy tín của các Bộ, ngành trực tiếp chỉ đạo và quản lý
thực hiện những chính sách của nhà nước. Ví dụ, trong đợt tết nguyên đán năm
Kỷ Sửu 2009 Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính đã tham
mưu cho Chính Phủ trong việc chi tiền Tết cho người dân nghèo trên cả nước và
chính hai Bộ nói trên trực tiếp thực hiện việc chi tiền nay cho các địa phương.
Trong quá trình thực hiện chính sách này nhìn chung thì các địa phương thực
hiện khá tốt, mang lại cho những hộ nghèo một cái tết đầm ấm và no đủ hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số địa phương có những sai phạm
trong việc chi tiền của nhà nước cho các hộ nghèo.
Những địa phương tồn tại nhiều sai xót phải kể đến tỉnh Quảng Bình, Bắc
Giang, Trà Vinh, Quảng Nam… những sai pham này đều bắt nguồn từ cấp cơ
sở, chủ yếu là tại các xã trong tỉnh. Theo đó, ngoài việc cấp tiền không đúng đối
tượng, trưởng thôn tại hàng loạt tỉnh như Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bắc
Giang, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Trà Vinh, Sóc Trăng... đã cấp tiền không đủ
định mức với số người nghèo, tranh thủ truy thu các khoản người nghèo còn nợ,
thu thêm các khoản đóng góp để làm việc chung của thôn. Tiền trợ cấp của nhà
nước được các xã này dùng sai mục đích, hoặc chi cho sai đối tượng. Có những
hộ nghèo thì không được tiền trợ cấp trong khi những gia đình không thuộc diện
nghèo lại được tiền trợ cấp, đa số những gia đình này đều là người thân của của
các cán bộ trong xã. Không những vậy tiền trợ cấp cũng bị bòn rút, hoặc chuyển
thành hình thức mà thật sự không phù hợp với nguyện vọng của người dân.
Nguyên nhân của những sai phạm này là do các địa phương không giám sát,
kiểm tra việc thực hiện của các cấp cơ sở, và do chính các cấp cơ sở làm việc
còn mang nặng tính tự phát và đôi khi thiếu công minh (ưu tiên người thân của
32
các cán bộ mà không xem xét đến thực tế của các quy định về đối tượng được
hưởng những ưu đãi này). Đến khi có những phản ánh thì mới kiểm tra và xử lý,
chính điều này làm giảm đi uy tín của cấp lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước.
Từ những hạn chế ở trên ta thấy một điều đó là việc chỉ đạo và giám sát của
các địa phương trong việc thực hiện những chính sách của nhà nước chưa thật sự
đạt hiệu quả, khi hật quả đã xảy ra rồi thì mới sửa sai, người chịu thiệt thòi nhất
vẫn là những người dân. Để thực hiện tốt công việc trong công tác quản lý thì
không chỉ mình các địa phương có thể đảm đương nổi những công việc liên quan tới
hoạt động của ngành mà không có sự kết hợp từ các Bộ, ngành có liên quan. Ngoài
ra, nâng cao vai trò của các Sở, phòng ban trong việc thực hiện các quy định của
ngành tại địa phương.
Trong quản lý, sử dụng đất đai
Trong giai đoạn hiện nay việc phát triển đồng đều về kinh tế của các địa
phương hầu như vẫn chưa đem lại hiệu quả cao. Có một số địa phương vì muốn
cho tỉnh mình nhanh phát triển nên đầu tư phát triển công nghiệp một cách ồ ạt
mà không xem xét về tình hình phát triển chung của địa phương mình, kết quả là
phát triển một cách gượng ép. Không những vậy việc quản lý đất đai của các địa
phương vẫn còn nhiều điểm bất cập, tuy Luật đất đai năm 2005 đã đi vào thực
tiễn vài năm, cùng với sự hướng dẫn chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và Môi trường
thông qua các thông tư, chỉ thị, tuy nhiên hầu như điều đó không đủ để cho các
địa phương có thể quản lý đất đai một cách có hiệu quả. Những thống kê và
những con số “giật mình” trong quản lý đất đai. Đặc biệt phải kể đến các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long một trong những khu vực mà việc quản lý đất đai vẫn
đang còn nhiều vướng mắc và hạn chế. Điều này cho thấy rằng việc kết hợp giữa
Bộ Tài nguyên và Môi trường và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long trong việc
quản lý đất đai vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Ngoài ra Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng chưa thực sự phối hợp tốt trong
việc quy hoạch và phát triển kinh tế để phù hợp với sự phát triển chung của mỗi
địa phương. Cụ thể là việc phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị mới, khu
33
dân cư, đặc biệt là sự phát triển rất nhanh của hàng loạt các sân golf trong cả
nước, đang lấn dần các ruộng lúa phì nhiêu, nguy cơ sống ở vựa lúa mà thiếu gạo
ăn đang đến rất gần.
Tại các tỉnh như Vĩnh Long, An Giang, Đông Tháp chỉ riêng các khu
công nghiệp, khu đô thị đã và sẽ lấy đi hàng nghìn hécta đất nông nghiệp trước
đây vốn trồng lúa năm 2, 3 vụ với sản lượng rất cao thì nay đã bị các tỉnh nói
trên cho thành các khu công nghiệp, khu kinh tế mà không hề có chút suy nghĩ
gì hậu quả của những chính sách này. Đơn cử tại Vĩnh Long thì chỉ riêng các
khu công nghiệp đã và sẽ lấy đi trên 3.000 ha đất nông nghiệp. Trong đó, riêng
khu công nghiệp Bình Minh đã “xóa sổ” trên 130ha bưởi năm roi- đặc sản của
tỉnh. Hòa Phú (huyện Long Hồ) là khu công nghiệp đầu tiên của Vĩnh Long
được tư xây dựng khiếm 250ha đất trồng lúa bị xóa sổ. Tiếp sau đó là Vũng
Liêm là một trong những huyện trọng điểm lúa của Vĩnh Long cũng mọc lên
một cụm công nghiệp lấy đi hàng trăm hecta đất nông nghiệp của người dân.
Tuyến công nghiệp Cổ Chiên với diện tích 256ha và dự kiến sắp tới sẽ có thêm
356ha đất nông nghiệp được chuyển giao…
Những vi phạm về quản lý đất đai tại các địa phương không chỉ dừng lại ở
việc phát triển các khu công nghiệp hay khu đô thị, khu dân cư mà nó còn phát
sinh trong việc quy hoạch và phát triển dịch vụ, cụ thể là phát triển sân Golf của
các địa phương cũng đang là vấn đề mà yêu cầu đặt ra cho các Bộ, ngành và địa
phương trong việc sử dụng cân đối tài nguyên đất trong sự phát triển kinh tế của
địa phương.
GS.TSKH Trần Duy Quý - nguyên Phó giám đốc Viện Khoa học nông
nghiệp VN nhận định: “Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam, đất nông nghiệp
lại bị tấn công mãnh liệt, có tổ chức, quy mô rộng và đầy quyết tâm như hiện
nay. Cả nước hiện có 7,5 triệu ha đất trồng trọt, trong khi đất trồng lúa 2 vụ chỉ
còn có 4,3 triệu ha. Với dân số 85 triệu người và không lâu sau sẽ là 100 triệu
người, 4,3 triệu ha sẽ rất mong manh khi mỗi năm lại có vài chục ngàn ha bị mất
đi để phục vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, đất ở, rồi sân golf. Đất
34
không sinh thêm nhưng các khu công nghiệp ngày càng lớn để chứng minh cho
sự phát triển của địa phương. Cứ đà này, giả sử mỗi năm Việt Nam chỉ mất
50.000 ha đất nông nghiệp thôi thì 20 năm sau chúng ta có thể mất đi 1/3 diện tích
trồng lúa. Đây sẽ là thách thức lớn cho thế hệ con cháu mai sau. Tuy nhiên, đến nay
chúng ta vẫn chưa có công cụ hữu hiệu bảo vệ đất nông nghiệp. Trong những "sát
thủ" của cây lúa, của nghề nông ngày càng đông, nay là sân golf, mai có thể là bóng
chày hay nhiều môn thể thao quý tộc khác…”.
Từ những thực tế nêu trên đã cho thấy, dù sự phát triển về công nghiệp hay
sự phát triển của đô thị và dịch vụ tại các địa phương này có thể đem lại cho các tỉnh
những thành quả bước đầu, nhưng sự phát triển này không thể làm ngay trong một
thời gian ngắn là đạt được kết quả ngay, nó cần phải có thời gian và đặc biệt là sự
kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và địa phương ngay từ bước quy hoạch và xây
dựng để án phát triển . Làm tốt điều này thì việc phát triển không đều trong cơ
cấu kinh tế của mỗi địa phương sẽ được khắc phục nhanh chóng, và sẽ đem lại
hiệu quả cao trong công tác quản lý của các địa phương trong việc phát triển ngành
tại địa phương mình.
Trong kết hợp quản lý giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng ở địa
phương với cơ quan quản lý ngành, chức năng ở trung ương.
Qua những ví dụ nêu trên cho thấy một thực tế là việc kết hợp giữa các
Bộ, ngành và các địa phương thông qua cơ quan quản lý chuyên môn ở địa
phương vẫn còn rất nhiều hạn chế. Các Sở đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
việc kết hợp giữa các Bộ, ngành và các địa phương. Có thể nói các Sở như sợi
dây nối giữa địa phương và các Bộ, ngành. Tại địa phương thì các Sở là cơ quan
giúp việc cho Ủy ban nhân dân tỉnh tại địa phương trong các công việc liên quan
đến Sở, còn trong mối quan hệ với Bộ thì các sở lại là cơ quan chuyên môn trực
thuộc của Bộ tại các địa phương. Vừa chịu sự chỉ đạo theo chiều ngang của địa
phương và chiều dọc từ các Bộ nên vai trò của các Sở ở đây là rất quan trọng.
Một khi các sở không thực hiện tốt công việc là cầu nối giữa các Bộ, ngành và
địa phương thì việc phối hợp trong quản lý giữa các Bộ, ngành và địa phương
35
diễn ra còn hạn chế như trên là không sai. Các Sở vẫn chưa phát huy hết những khả
năng của mình trong việc giúp các địa phương thực hiện các quy định của Bộ,
ngành tại địa phương mình, cũng như thực hiện chính công việc của Bộ trực tiếp quản
lý mình giao phó.
Từ thực tế này, các địa phương và các Bộ, ngành cần phải chỉ đạo sát sao việc
thực hiện công tác quản lý của các Sở, và thông qua các Sở tăng cường hơn nữa sự
kết hợp giữa các Bộ và địa phương trong quản lý hành chính nhà nước nói chung và
trong việc thực hiện nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo
địa phương nói riêng đạt hiệu quả cao hơn.
2.3. Bất cập trong hoạt động kiểm tra giám sát thực hiện các quy định của
ngành tại địa phương.
Hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện các hoạt động của ngành tại các địa
phương được các Bộ, ngành và chính quyền các địa phương phối hợp thực hiện
tương đối tốt. Nhiều vi phạm được phát hiện và xử lý kịp thời. Quan trọng là việc
thực hiện các quy định của ngành tại các địa phương, cũng như việc kết hợp giữa
các địa phương đã có những thành công bước đầu, góp phần không nhỏ vào công
cuộc phát triển kinh tế tại các địa phương.
Bên cạnh những thành tựu kể trên thì vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu xót
trong hoạt động kiểm tra, giám sát của ngành tại các địa phương, đặc biệt trong
lĩnh vực môi trường, hiện đang là vấn đề mà còn rất nhiều sai phạm và công tác
giám sát kiểm tra của Bộ, ngành trong lĩnh vực này còn nhiều điều phải nói đến.
Hàng loạt sai phạm trong việc thực hiện quy định của Bộ, ngành về môi trường
của các địa phương không được phát hiện và xử lý kịp thời. Khi hậu quả xảy ra
rồi thì lúc đó Bộ, ngành và địa phương mới bắt tay vào thanh tra, kiểm tra, giám
sát. Đánh giá một cách tổng thể công tác kiểm tra, giám sát của Bộ, ngành đối
với việc thực hiện các quy định của ngành mình tại các địa phương là còn nửa
vời, và thiếu sự kết hợp chặt chẽ giữa các địa phương và các Bộ, ngành trong
việc phát hiện và xử lý sai phạm. Vai trò của các địa phương và các Bộ, ngành
36
trong công tác kiểm tra, giám sát vẫn chưa được phát huy. Các địa phương quản
lý công việc liên quan đến các quy định của ngành chưa được sát sao. Trực tiếp
là các Sở thực hiện công tác kiểm tra không tốt, với tư cách là công tác giúp việc
cho chính quyền địa phương nhưng hiệu quả công tác kiểm tra giám sát vẫn còn
yếu kém. Đôi khi các Sở tại các địa phương còn bao che, biện hộ cho các sai
phạm của địa phương mình trong việc thực hiện những quy định của ngành.
Không những vậy, khi báo cáo lên cấp trên ở đây là các Bộ đôi khi các Sở còn
báo cáo sai sựu thật dẫn đến công tác chỉ đạo kiểm tra, giám sát của các Bộ thực
hiện không đem lại hiệu quả cao. Chúng ta có thể thấy một ví dụ điển hình trong
việc thiếu sự giám sát và kiểm tra các hoạt động của ngành tại các địa phương
dẫn đến hậu quả vô cùng to lớn đó là việc VeDan xả thải làm ô nhiễm sông Thị
Vải. Thực tế này diễn ra trong một thời gian khá dài song việc kiểm tra giám sát
của tỉnh Đồng Nai nói chung và của Bộ Tài nguyên và Môi trường nói chung đã
không quan tâm một cách đúng mức để đến khi người dân sống trên lưu vực
dòng sông kêu cứu thì mới có sự kiểm tra, giám sát. Theo đoàn kiểm tra Bộ Tài
nguyên và Môi trường việc lắp đặt, vận hành hệ thống máy bơm và đường ống
kỹ thuật xả nước thải của Công ty Vedan diễn ra từ năm 1994. Như vậy, trong
thời gian gần 14 năm qua, Vedan đã xả thẳng nước thải chưa qua xử lý xuống
sông Thị Vải, mà không bị phát hiện xử lý. Đoàn kiểm tra Bộ Tài nguyên và
Môi trường đã kiểm tra và đưa ra kết luận về hệ thống xả nước thải mà Công ty
Vedan đang vận hành là trái với quy trình kỹ thuật xử lý chất thải, không đúng
với nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt và đã vi
phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Vậy mà hàng năm báo
cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai vẫn báo cáo lên Bộ Tài
nguyên và Môi trường về các tiêu chuẩn cho phép xả thải của công ty VeDan là
đúng quy định. Từ thực tế trên cho thấy, công tác phối hợp thực hiện công việc
của Bộ Tài nguyên và Môi trường và tỉnh Đồng nai trong việc kiểm tra, giám sát
việc thực hiện các quy định của Bộ về các tiêu chuẩn môi trường cho phép là
chưa đạt hiệu quả cao.
37
Các Bộ, ngành giám sát các địa phương trong việc thực hiện các quy định
của ngành thông qua các cơ quan chuyên môn của mình tại địa phương là các
Sở. Tuy nhiên, việc thực hiện và kiểm tra của các Sở tại các địa phương vẫn còn
nhiều hạn chế, đội ngũ cán bộ vẫn còn thiếu chưa đáp ứng đủ nhu cầu của thực
tế phát sinh. Hơn nữa, việc chính quyền các địa phương và các Sở thực hiện
công việc của mình chưa đạt hiệu quả. Đóng vai trò là cơ quan giúp việc cho các
chính quyền địa phương, song các Sở cũng là cơ chuyên môn trực thuộc Bộ
quản lý. Vì vậy, để tăng cường sự phối hợp giữa giữa các Sở và chính quyền địa
phương và các Bộ, ngành trong việc kiểm tra, giám sát thực hiện quy định của
ngành tại địa phương thì trước hết các Bộ, ngành tăng cường thêm các đợt thanh
tra chuyên ngành đối với các địa phương, tăng cường vai trò của các Sở trong
việc thực hiện công tác kiểm tra giám sát tại địa phương.
Không chỉ trong việc giám sát các hoạt động của các địa phương trong
việc thực hiện các quy định về môi trường còn yếu kém, mà ngay trong việc
giám sát các khoản kinh phí sử dụng cho sự nghiệp bảo vệ môi trường tại các địa
phương cũng vẫn còn nhiều sai phạm. Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Tài
chính đã có thông tư liên tịch về sử dụng kinh phí cho sự nghiệp bảo vệ môi
trường là 1% ngân sách Nhà nước. Nhưng trong mấy năm qua, việc chi chưa
đúng và chưa hiệu quả còn diễn ra ở nhiều địa phương. Theo báo cáo của Bộ Tài
nguyên và Môi trường, nhiều tỉnh chỉ giữ lại 10 - 15% cho hoạt động bảo vệ môi
trường ở tỉnh, phần còn lại chia cho các huyện và cũng thiếu cơ chế kiểm tra
việc thực hiện các khoản chi này.Ví dụ: Thông tư liên tịch số 114/2006/TTLT-
BTC-BTNMT có nêu chi hỗ trợ cho thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải, nhưng
hầu hết các địa phương, toàn bộ chi cho thu gom, vận chuyển chất thải sinh hoạt
trước đây (khi chưa hình thành ngân sách sự nghiệp môi trường được chi từ
nguồn vốn sự nghiệp đô thị, thị chính) thì nay chuyển chi từ nguồn vốn sự
nghiệp môi trường (nội dung này chiếm tỉ trọng rất lớn của chi sự nghiệp môi
trường, nhiều địa phương chiếm tới 70-90%). Đơn cử như tỉnh Yên Bái, khoản
chi này là 12,81 tỷ trên tổng số 13,11 tỷ; Thành phố Hồ Chí Minh: 697,5 tỷ trên
38
tổng là 744,6 tỷ; tỉnh Vĩnh Long: 10,2 tỷ trên tổng 16,2 tỷ… Một số hạng mục chi
ở nhiều địa phương lẫn với nguồn vốn chi khác: chi cho xây dựng bãi rác, cung cấp
nước sạch, quản lý hoạt động khai thác khoáng sản, sửa chữa, cải tạo kênh mương,
trạm bơm thủy lợi.
Công tác kiểm tra, giám sát các địa phương của các Bộ, ngành khi đã có
kết quả rồi thì một thực tế là việc ai có thẩm quyền xử lý những sai phạm đó là
một trong những vấn đề mà giữa các Bộ, ngành và địa phương thường đùn đẩy
trách nhiệm cho nhau. Một ví dụ diển hình đó là việc xử lý vụ VeDan giữa Bộ
Tài Nguyên và Môi Trường và tỉnh Đồng Nai trong việc tạm đình chỉ hoạt động
của VeDan. Bộ Tài Nguyên và Môi trường thì cho rằng việc này thuộc thẩm
quyền của UBND tỉnh Đồng Nai, trong khi tỉnh Đồng Nai lại cho rằng việc này
thuộc thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Theo Nghị định
81/2006/NĐ-CP thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh và Chánh thanh tra Bộ Tài nguyên
và Môi trường, cả hai đều có thẩm quyền xử phạt đối tượng gây ô nhiễm môi
trường nhưng không có chuyện cả hai xử phạt cùng một lúc hoặc người trước,
người sau vì một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần, mà là
người nào thụ lý vụ việc trước thì xử phạt.
Điều 42 Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính quy định: “Trong trường
hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, việc xử
phạt do người thụ lý đầu tiên thực hiện”. Điều này cho thấy rằng Bộ Tài nguyên
và Môi trường đã ra quyết định xử phạt Vedan thì chỉ bộ này mới có quyền phạt
bổ sung mà ở đây là “tạm thời đình chỉ hoạt động” cho đến khi doanh nghiệp
này thực hiện xong các biện pháp bảo vệ môi trường cần thiết. Còn trong trường
hợp phải đình chỉ vĩnh viễn hoạt động, tức rút giấy phép đầu tư của Vedan thì cả
Chủ tịch tỉnh Đồng Nai lẫn Chánh thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đều
không có quyền vì không còn trong phạm trù xử phạt hành chính nữa và quyền
này thuộc Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ trưởng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư) là người đã cấp giấy phép đầu tư cho Vedan vào năm 1991.
39
Trên đây chỉ là ví dụ trong lĩnh vực môi trường, xong qua đó chúng ta có
thể thấy rằng việc thanh tra, kiểm tra giữa các Bộ và các địa phương vẫn còn
nhiều bất cập, chồng chéo và thiếu sự phối hợp, văn bản pháp luật của các Bộ,
ngành và các địa phương cũng chưa mang tính hiệu quả cao trong thực tiễn.
Không những vậy việc xử lý các sai phạm này cũng cho thấy những yếu kém
trong việc kết hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương trong việc xử lý những sai
phạm và bất cập trong quản lý những nội dung của ngành tại địa phương. Tuy
không phải tất cả các lĩnh vực đều xảy ra sai phạm như trên, nhưng đây cũng là
tiếng chuông cảnh tỉnh cho việc kết hợp trong quản lý nhà nước giữa các Bộ,
ngành và địa phương.
40
CHƯƠNGIII
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KẾT HỢP QUẢN LÝ THEO NGÀNH,
CHỨC NĂNG KẾT HỢP VỚI QUẢN LÝ THEO ĐỊA PHƯƠNG.
Nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương là một trong các nguyên tắc quan trọng trong quản lý hành chính nhà
nước, khi tiến hành hoạt động quản lý các chủ thể quản lý phải đảm bảo thực hiện
tốt nguyên tắc này, nếu không sẽ dẫn đến những hạn chế tiêu cực. Để góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước, thì việc kết hợp quản lý
giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng với cơ quan quản lý theo địa phương cần
được hoàn thiện, đặc biệt trong các lĩnh vực sau:
1. Trong hoạt động ban hành văn bản pháp luật của Bộ, ngành và của địa phương.
Như đã phân tích ở chương II, hoạt động phối hợp ban hành văn bản quy
phạm pháp luật giữa cơ quan quản lý ngành (Bộ) với chính quyền địa phương
còn bộc lộ nhiều hạn chế nhất định. Hoạt động ban hành văn bản pháp luật nó là
một trong những hoạt động quản lý hết sức quan trọng, do vậy đòi hỏi phải có sự
phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý ngành với chính quyền địa phương khi
tiến hành hoạt động này. Các cơ quan Bộ khi tiến hành ban hành những quy
định của ngành để áp dụng ở địa phương hay khi địa phương ban hành những
văn bản để hướng dẫn thực hiện các quy định của ngành tại địa phương thì cần
phối hợp ngay từ giai đoạn đầu tiên của hoạt động ban hành văn bản quy phạm.
Trong các bước tiến hành ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thì bước
đầu tiên là đưa ra sáng kiến ban hành. Bước này đóng vai trò vô cùng quan trọng
bởi vì hoạt động quản lý chỉ đạt hiệu quả thực sự khi những sánh kiến quản lý
mang tính khả thi.Để sáng kiến của cơ quan quản lý ngành có thể áp dụng tại địa
phương một cách hợp lý và khả thi thì sáng kiến đó phải phù hợp với điều kiện
thực tiễn của địa phương. Như vậy, cơ quan Bộ cần phải lấy ý kiến tham khảo
của chính quyền địa phương cho mỗi chính sách quan trọng của ngành.
41
Nói cách khác, khi các Bộ, ngành ban hành các văn bản cần phải tính đến
tính khả thi của văn bản đó có phù hợp với tất cả các địa phương trong cả nước,
hay phải phân vùng để ban hành văn bản dễ thực hiện vì mỗi vùng lại có một vị
trí địa lý khác nhau kéo theo có những ưu thế và hạn chế khác nhau vì vậy đôi
khi Bộ, ngành cần phải quan tâm đúng mức hơn về những văn bản mang tính
chất như thế này. Để giải quyết tình trạng này thì các Bộ, ngành cần xem xét kỹ
lưỡng những đặc điểm mang tính đặc thù của mỗi vùng địa lý ứng với nó là
những lợi thế và hạn chế của từng địa phương để từ đó ban hành những quy định
chung của ngành tại các địa phương sao cho đáp ứng được nhu cầu chung của cả
nước. Muốn làm được như vậy thì chúng ta cần thực hiện tốt công việc sau:
- Phải phù hợp với điều kiện chung của các địa phương, nếu không thì
cần có những văn bản áp dụng đối với mỗi khu vực; tổ chức lấy ý kiến đóng
góp của địa phương để đảm bảo văn bản đó phù hợp với đặc thù của địa
phương. Do điều kiện tự nhiên của các địa phương khác nhau nên mỗi địa
phương có những thế mạnh phát triển riêng đặc trưng cho địa phương mình, và
những nét đặc trưng này còn hình thành theo từng khu vực và được phân bố
khắp cả nước. Vì vậy, để thực hiện tốt yêu cầu này thì trước tiên các Bộ, ngành
nên đưa ra những tiêu chí chung của ngành và xem những tiêu chí đó có thể áp
dụng trên toàn quốc hay cần phải có những ngoại lệ đối với một số khu vực . Từ
đó,khi ban hành văn bản các Bô, ngành nên xem xét tới tính thực tế của của văn
bản khi ban hành có thể áp dụng cho tất cả các địa phương một cách thống nhất
hay phải phân chia theo khu vực với những đặc trưng riêng trong việc phát triển
ngành.
Đối với địa phương khi ban hành văn bản, phải có sự phối hợp với cơ quan
quản lý ngành để đảm bảo các quy định của địa phương không trái với quy định
ngành. Để thực hiện được điều này cũng cần phải có hoạt động phối hợp lấy ý kiến
đóng góp từ phía các Bộ, ngành trong việc ban hành văn bản của các Bộ, ngành và
các địa phương sao cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
42
- Tăng cường vai trò của các Sở, ban ngành tại địa phương trong việc tham
mưu cho Bộ, ngành và các địa phương trong việc ban hành văn bản mang tính
thống nhất và đồng bộ trong việc quản lý hành chính nhà nước giữa Bộ, ngành và
địa phương. Đây là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc kết hợp giữa
các Bộ, ngành và các địa phương trong quản lý hành chính nhà nước. Nếu các Sở,
ban ngành làm tốt nhiệm vụ cầu nối giữa Bộ, ngành và địa phương thì hiệu quả
trong việc kết hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương sẽ rất cao. Nó không chỉ giúp
cho việc khắc phục những hạn chế trong khâu ban hành văn bản mà còn trong tất cả
các mối quan hệ giữa Bộ, ngành và địa phương trong quản lý hành chính và
trong việc thực hiện nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo
địa phương.
- Tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn của các Bộ, ngành trong việc
hướng dẫn các địa phương trong việc ban hành văn bản sao cho phù hợp với quy
định của ngành mình, thông qua các hình thức như: ban hành các quyết định,
thông tư, chỉ thị hay mở các lớp tập huấn cán bộ chuyên trách cho các địa
phương trong việc ban hành văn bản của mình phù hợp với quy định của
ngành... ví dụ, đối với việc ban hành văn bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường
trong lĩnh vực quản lý môi trường tại các địa phương thì trong thời gian tới, các
quy định về tiêu chuẩn môi trường cần được hoàn thiện theo các định hướng
nhanh chóng ban hành tiêu chuẩn môi trường đối với một số ngành, lĩnh vực đặc
thù. Tiếp tục ban hành các tiêu chuẩn môi trường mới, phù hợp với các yêu cầu
của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, đồng thời, rà soát lại hệ thống tiêu chuẩn
môi trường đã ban hành để có những sửa đổi, bổ sung phù hợp…
- Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra giám sát việc ban hành các văn bản của địa
phương. Thực hiện tốt công việc này thì sẽ tránh được những sai phạm của địa
phương trong việc ban hành văn bản vi phạm quy định của ngành, cũng như những
sai phạm trong hình thức ban hành văn bản của các địa phương.
43
2. Trong hoạt động phối hợp triển khai thực hiện các quy định của ngành ở địa
phương.
Cùng với việc ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn các
địa phương trong việc thực hiện các quy định của ngành tại địa phương thì việc
triển khai thực hiện các quy định này là vấn đề rất quan trọng. Đây là một trong
những khâu đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp giữa các Bộ, ngành và
các địa phương. Nếu các địa phương triển khai thực hiện các quy định của ngành
tại địa phương mình không tốt, hay không đúng theo hướng dẫn của ngành thì
hậu quả xảy ra như phần trên đã trình bày thì thật không chỉ làm cho địa phương
lúng túng trong việc giải quyết mà còn làm cho các Bộ, ngành có liên quan cũng
gặp nhiều khó khăn trong công tác kiểm tra và khắc phục hậu quả. Việc phối
hợp thực hiện giữa các địa phương và các Bộ, ngành cần được chú trọng trong
một số nội dung sau:
- Trong xây dựng và chỉ đạo bộ máy chuyên môn: Các Bộ, ngành và các
địa phương cần điều hòa, phối hợp hoạt động của các cơ quan quản lý chuyên
môn tại địa phương nhằm phát huy mọi khả năng vật chất - kỹ thuật trong phạm
vi lãnh thổ để phát triển sản xuất, đảm bảo lợi ích của Bộ, ngành và lợi ích của
địa phương. Điều này thể hiện ở việc chỉ đạo thực hiện các quy định của Bộ,
ngành của cấp chính quyền địa phương sao cho sự phát triển đồng đều giữa các
ngành tại địa phương.
- Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật: Bộ, ngành chỉ đạo xây dựng cơ sở
vật chất trong toàn ngành, cung cấp cho địa phương các loại vật tư kỹ thuật và
thiết bị chuyên dùng trong phạm vi của Bộ, chính quyền địa phương đảm bảo
kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong phạm vi địa
phương như: cung cấp điện, nước, xây dựng đường giao thông… cho các đơn vị
của Bộ, ngành đóng tại địa phương mình. Đây là một trong những yêu cầu cơ
bản trong việc thực hiện các quy định của ngành tại địa phương. Một khi cơ sở
hạ tầng được xây dựng ổn định thì việc thực hiện các quy định của Bộ, ngành và
44
địa phương sẽ thuận lợi hơn rất nhiều, không chỉ địa phương được lợi mà ngành cũng
được phát triển một cách đồng bộ trong cả nước,
Ngoài ra. để thực hiện quy định của ngành thì các địa phương cần phải thực
hiện những yêu cầu sau:
- Tăng cường đào tạo cán bộ có chuyên môn để có thể tiếp thu và thực
hiện các quy định của Bộ, ngành tại địa phương theo đúng những quy định
của ngành. Thực hiện tốt yêu cầu này thì sẽ giúp cho việc triển khai những công
việc của Bộ, ngành và của địa phương diễn ra nhanh hơn, hiệu quả mang lại
cũng sẽ cao hơn.
- Triển khai thực hiện các quy định của Bộ, ngành theo đúng quy định
của Bộ, ngành nói riêng và của pháp luật nói chung. Tránh tình trạng cục bộ
địa phương, mạnh ai nấy làm. Để thực hiện được yêu cầu này thì ngay bản thân
các địa phương phải tìm hiểu thật kỹ các vấn đề của Bộ, ngành tại địa phương
mình trước khi thực hiện những quy định này. Từ đó có thể góp ý với các Bộ,
ngành nếu thấy các quy định này có thiếu sót hay khả năng thực hiện tại địa
phương mình không khả thi để từ đó các Bộ, ngành điều chỉnh các quy định cho
hợp lý.
- Tăng cường học tập và trao đổi giữa các địa phương với nhau về việc thực
hiện các quy định của Bộ, ngành từ đó rút ra những kinh nghiệm và bài học quý
báu trong việc thực hiện này.
- Phát huy cao độ những thế mạnh của địa phương để phát triển
ngành, nghề mà địa phương chiếm ưu thế, tuy nhiên cũng phải phát triển cân
đối và đồng đều tránh tình trạng khủng hoảng thừa, hoặc khủng hoảng thiếu.
- Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành trên địa bàn tỉnh mình quản lý
trong việc thực hiện các quy định của ngành, ngoài ra, tránh tình trạng “gà ganh
nhau tiếng gáy” giữa các địa phương trong việc phát triển ngành.
45
3. Trong hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của ngành tại địa
phương
Để việc thực hiện các quy định của ngành được thực hiện tốt thì công tác
kiểm tra, giám sát đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để công tác kiểm tra, giám
sát được thực hiện tốt thì trước tiên phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ,
ngành và các địa phương trong công tác thực hiện các quy định của ngành.
Ngoài ra, các Bộ, ngành cần phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
- Tăng cường thanh tra việc thực hiện các quy định theo ngành và lĩnh vực
của các địa phương. Xây dựng cơ chế tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ cơ quan, tổ
chức nhà nước; đề cao trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới,
của các cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn và lãnh thổ. Thực
hiện tốt công tác thanh tra không chỉ giúp cho các Bộ, ngành quản lý tốt việc thực
hiện các quy định của mình tại các địa phương mà còn giúp các Bộ, ngành nhìn
nhận ra những thiếu sót và có phương hướng bổ sung và hoàn thiện các quy định
của mình.
- Tăng cường đào tạo cán bộ thanh tra có trình độ chuyên môn cả về số
lượng và chất lượng. Hiện tại số lượng cán bộ thanh tra ngành vẫn đang thiếu
rất nhiều không đủ đáp ứng nhu cầu công việc của các Bộ, ngành. Điều này hạn
chế rất nhiều công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của ngành tại
các địa phương.
- Rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật để từ đó khắc phục
những thiếu sót và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra, kiểm
tra các quy định của ngành nói chung và thanh tra nói chung. Làm tốt công
việc này sẽ giúp cho các Bộ, ngành và chính quyền các địa phương phối hợp tốt
hơn trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của ngành tại địa
phương.
- Phối hợp chặt chẽ trong việc thanh tra giữa các địa phương và Bộ,
ngành liên quan khi cần phải kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định
của ngành tại các địa phương. Các địa phương phải tạo điều kiện thuận lợi cho
46
các đoàn kiểm tra, thanh tra của Bộ, ngành khi Bộ, ngành kiểm tra thanh tra việc thực
hiện các quy định của mình tại các địa phương. Tránh tình trạng “mẹ hát con khen
hay” của các địa phương việc kiểm tra, giám sát của các Bộ, ngành, nhằm bao che
cho những vi phạm tại các địa phương trong việc thực hiện các quy định của ngành.
- Cần tăng cường sự giám sát của các Bộ, ngành trong việc ban hành các
quyết định, thông tư, chỉ thị hướng dẫn cho các địa phương trong việc kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các quy định của ngành ngay tại địa phương mình. Nêu
cao tinh thần tự quản của các địa phương trong thực hiện công việc của ngành tại
địa phương mình.
- Xử lý tốt những sai phạm xảy ra tại các địa phương trong việc thực hiện
các quy định của ngành. Để xử lý tốt việc này thì các Bộ, ngành và các địa
phương phải kết hợp một cách chặt chẽ trong việc phát hiện sai phạm và xử phạt sai
phạm theo quy định của ngành và theo quy định của pháp luật. Làm tốt công tác này
sẽ tạo điều kiện cho việc xử lý đúng đối tượng và xử lý đúng tội và hình phạt tương
xứng với hành vi sai phạm tại các địa phương.
47
KẾT LUẬN
Quản lý ngành, chức năng là hoạt động quản lý trong một ngành, một lĩnh
vực nhất định, hoạt động quản lý này không diễn ra trên một phạm vi vùng lãnh
thổ nhất định mà nó được thực hiện ở tất cả các địa phương. Tuy nhiên mỗi địa
phương lại có sự phát triển khác nhau về điều kiện văn hóa, chính trị xã hội và
có những đặc thù riêng, do đó sự phát triển của ngành ở mỗi địa phương là khác
nhau. Trong giai đoạn hiện nay, khi Nhà nước ta không ngừng cải cách nền hành
chính, hướng tới xây dựng một bộ máy hành chính ở các địa phương thực sự
vững mạnh bằng việc đẩy mạnh phân cấp quản lý. Việc phân cấp quản lý đã tạo
ra được những thành quả đáng kể trong việc phát huy thế mạnh của đia phương
nhưng mà nó lại dẫn đến tình trạng có sự phát triển không đồng đều ở các địa
phương. Như vậy, để đảm bảo có sự phát triển một cách thống nhất thì việc kết
hợp giữa quản lý ngành với quản lý theo địa phương thực sự là cần thiết.
Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu thì sự kết hợp này còn
bộc lộ những hạn chế nhất định, dẫn đến địa phương có những quy định không
phù hợp với quy định của Bộ, ngành, …các văn bản của địa phương còn mang
tính cục bộ địa phương, các văn bản của ngành thì thiếu tính khả thi. Như vậy,
cần phải đẩy mạnh sự kết hợp để khắc phục những hạn chế nêu trên. Hơn nữa,
sự kết hợp giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng với quản lý theo địa phương
đòi hỏi một cách toàn diện, phải được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, có như
vậy nó mới bảo đảm được hoạt động quản lý hành chính nhà nước đạt hiệu quả
cao và thống nhất trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, trong một số hoạt động
quản lý quan trọng, thì sự kết hợp vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định mà
đã làm suy giảm hiệu quả quản lý hành chính nhà nước dẫn đến chồng chéo,
không thống nhất giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện dẫn tới những
hạn chế nhất định. Để khắc phục tình trạng này thì các Bộ, ngành và các địa
phương cần có sự thống nhất trong việc triển khai và thực hiện các quy định của
ngành tại địa phương sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của các địa
48
phương, từ đó mới phát huy hết khả năng của các địa phương trong việc thực hiện
các quy định của ngành. Đặc biệt địa phương và các Bộ, ngành cần phải chỉ đạo sát
sao việc thực hiện công tác quản lý của các Sở, và thông qua các Sở tăng cường hơn
nữa sự kết hợp giữa các Bộ và địa phương trong việc thực hiện các quy định của
ngành đạt hiệu quả cao hơn.
Nguyên tắc quản lý ngành, chức năng kết hợp với quản lý theo địa
phương là một trong các nguyên tắc quan trọng trong quản lý hành chính nhà
nước, khi tiến hành hoạt động quản lý các chủ thể quản lý phải đảm bảo thực
hiện tốt nguyên tắc này. Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý hành
chính nhà nước, thì việc kết hợp quản lý giữa cơ quan quản lý ngành, chức năng
với cơ quan quản lý theo địa phương cần được thực hiện một cách thống nhất.
Các Bộ, ngành và các địa phương cần thường xuyên trao đổi và đóng góp ý kiến
cho nhau trong việc thực hiện các quy định của ngành tại địa phương, cũng như
trong việc ban hành văn bản hay quy định của ngành tại các địa phương. Tăng
cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của
ngành tại các địa phương. Thực hiện tốt công tác này sẽ nâng cao hoạt động
quản lý nhà nước nói chung và hoạt động quản lý ngành và địa phương nói riêng
trong giai đoạn hiện nay./.
49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam 2008 - Trường đại học Luật Hà Nội
- NXB Công an nhân dân;
2. Giáo trình Luật Hành chính, khoa Luật trường đại học Quốc Gia Hà Nội;
3. Từ điển giải thích từ ngữ Luật học - Trường đại học Luật Hà Nôi - NXB
Công an nhân dân;
4. Từ điển tiếng Việt, NXB Giáo dục, H.1994
5. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980;
6. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi
bổ sung năm 2001);
7. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt
Nam (Ngày 18 tháng 12 năm 1986);
8. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003;
9. Quyết định số 79/2007/QĐ-UBND ngày 11/07/2007 về việc ban hành quy
định Cấp giấy phép xây dựng các công trình trên địa bàn thành phố Hà Nội;
10. Nghị định 84/2007/NĐ-CP ban hành ngày 25/5/2007 Quy định bổ sung về
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, và giải quyết khiếu nại về đất đai;
11. Thông tư liên tịch số 114/2006/TTLT-BTC-BTNMT về việc hướng dẫn
việc quản lý kinh phí sự nghiệp môi trường do Bộ Tài chính - Bộ Tài
nguyên và Môi trường ban hành
12. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung 2008);
50
13. Xé rào ưu đãi đầu tư của các tỉnh trong bối cảnh mở rộng phân cấp ở Việt
Nam” “Sáng kiến” hay “lợi bất cập hại”? - UNDP Việt Nam (Vũ Thành
Tự Anh, Lê Viết Thái, Võ Tất Thắng);
14. http://vietbao.vn/tp/Xe-rao-uu-dai-dau-tu/103241/
15. http://www.sggp.org.vn/moitruongdothi/2008/9/165548/
16. http://www.vietnamnet.vn/xahoi/event/11041/
17. http://www.hanoimoi.com.vn/vn/35/98576/
18. http://www.diaoconline.vn/web/banin/tintuc/7997/