183
1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường, như Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ: Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế” [35, tr.182-183]. Vì thế, Việt Nam đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội mới, nhưng đồng thời cũng có nhiều thách thức đan xen. Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản cách mạng đang ra sức chống phá công cuộc đổi mới của Việt Nam bằng mọi âm mưu, thủ đoạn rất tinh vi và xảo quyệt, trên mọi lĩnh vực : Kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Trước tình hình đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh nhằm tạo sức mạnh tổng hợp răn đe và sẵn sàng chiến thắng khi có tình huống xảy ra. Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Một số tỉnh biên giới phía Bắc có vị trí chiến lược rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là địa bàn có tiềm năng kinh tế lớn, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền

MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

  • Upload
    others

  • View
    10

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong giai đoạn hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang

thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường, như Nghị quyết Đại hội XI chỉ rõ:

“Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có

những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng

thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính

trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an

ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính -

tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng. Cục

diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc

tế tiếp tục phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế”

[35, tr.182-183]. Vì thế, Việt Nam đang đứng trước nhiều thời cơ và vận hội

mới, nhưng đồng thời cũng có nhiều thách thức đan xen. Đặc biệt, các thế lực

thù địch, phản cách mạng đang ra sức chống phá công cuộc đổi mới của Việt

Nam bằng mọi âm mưu, thủ đoạn rất tinh vi và xảo quyệt, trên mọi lĩnh vực:

Kinh tế, chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Trước tình hình

đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện phát

triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh nhằm tạo sức

mạnh tổng hợp răn đe và sẵn sàng chiến thắng khi có tình huống xảy ra.

Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn

dân, toàn quân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Một số tỉnh

biên giới phía Bắc có vị trí chiến lược rất quan trọng trong sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, là địa bàn có tiềm năng kinh tế lớn, có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền

Page 2: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

2

quốc gia. Trong thời kỳ mới, tình hình biên giới đất liền cũng như biên giới

phía Bắc trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được giải quyết theo

hướng hoà bình, hữu nghị. Tuy nhiên, vấn đề biển Đông vẫn còn tiềm ẩn

nhiều nguy cơ bất ổn trong khu vực nói chung và giữa Việt Nam với Trung

Quốc nói riêng. Do đó, vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ xung đột cả biên giới trên bộ

và trên biển. Cùng với đó, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chiến

lược “diễn biến hoà bình”… Chính vì vậy, biên giới phía Bắc vẫn là khu vực

chiến lược quan trọng mà các lực lượng thù địch luôn tìm cách lợi dụng,

chống phá cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra hết sức

quan trọng là bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia nói chung, biên giới phía

Bắc nói riêng. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đó, vấn đề có ý nghĩa quan trọng

hàng đầu là phải phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện. Có như vậy

mới tạo ra cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội vững chắc nhằm đảm bảo quốc phòng -

an ninh trong thời kỳ mới.

Gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn

nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước bằng việc đề ra nhiều chủ

trương, chính sách nhằm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội; quốc phòng, an

ninh… đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, trên thực tế, các tỉnh biên giới phía

Bắc có điều kiện địa lý khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu và không đồng bộ, điểm

xuất phát thấp, đặc biệt là phát triển kinh tế… thực trạng đó đã tác động tới mất ổn

định về kinh tế - xã hội; quốc phòng và an ninh không được đảm bảo. Vì vậy, phát

triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới

phía Bắc vừa là yêu cầu cơ bản, lâu dài của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

nói chung, vừa là đòi hỏi cấp thiết cho nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo

vệ Tổ quốc nói riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển kinh tế - xã

hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc” làm

luận án tiến sỹ.

Page 3: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

3

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục tiêu:

Trên cơ sở làm rõ lý luận về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo

quốc phòng, an ninh và phân tích, đánh giá thực trạng ở một số tỉnh biên giới

phía Bắc Việt Nam, luận án đề xuất những quan điểm cơ bản và những giải

pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh

ở một số địa phương.

- Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ sau:

+ Tổng quan tình hình nghiên cứu về phát triển kinh tế - xã hội gắn với

đảm bảo quốc phòng, an ninh; chỉ ra những nội dung đã được đề cập nghiên

cứu, cũng như những vấn đề chưa được đề cập, nghiên cứu.

+ Hệ thống hoá và làm rõ khuôn khổ lý thuyết của việc phát triển kinh tế - xã

hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam.

+ Phân tích và đánh giá đúng việc thực hiện phát triển kinh tế - xã hội

gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, chỉ rõ

những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của chúng và những vấn đề đặt ra

trong thời kỳ mới.

+ Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh

tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía

Bắc trong thời kỳ mới.

3. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án được xác định là phát triển kinh tế -

xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Cụ thể là: mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc

phòng, an ninh và các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố ảnh

hưởng như: điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, chính trị…

Trong mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo

quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định đến quốc phòng, an

Page 4: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

4

ninh. Ngược lại, quốc phòng, an ninh có tác động tích cực trở lại kinh tế - xã

hội, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Ngày nay,

mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh

càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. Phát triển kinh tế - xã hội ổn định nhanh, bền

vững giữ vai trò quyết định cho đảm bảo quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an

ninh không chỉ bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn đảm bảo an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường hoà bình, ổn định, là tiền đề,

điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội

nhanh, bền vững. Bởi vậy, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát

triển kinh tế - xã hội với đảm bảo quốc phòng, an ninh phù hợp với từng điều

kiện, giai đoạn lịch sử cụ thể trên từng địa phương.

4. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: luận án nghiên cứu lý luận, thực tiễn phát triển kinh tế -

xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Trong đó, tập trung làm rõ mối

quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh;

nội dung phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và

các đối tượng có liên quan thuộc nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển

kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa hẹp là đảm bảo nhu cầu vật chất -

kỹ thuật, tài chính và nhân lực (xét ở mặt kỹ thuật, thuộc phạm vi chuyên ngành

Kinh tế quân sự - Hậu cần quân sự); theo nghĩa rộng, đảm bảo quốc phòng, an ninh

là chủ quyền quốc gia không bị xâm phạm, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

được đảm bảo (môi trường hoà bình, ổn định được đảm bảo), theo đó luận án

nghiên cứu đảm bảo quốc phòng, an ninh theo nghĩa rộng.

- Về không gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội gắn với

đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, trong đó tập

trung vào 3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng.

Page 5: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

5

- Về thời gian: luận án nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội gắn với

đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tập trung vào

3 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn và Cao Bằng từ năm 2001 đến 2013.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận, thực tiễn

Luận án được nghiên cứu dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kinh tế quân sự, học thuyết bảo vệ

Tổ quốc và các văn kiện của Đảng, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh;

những chủ trương, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo

quốc phòng, an ninh vùng biên giới phía Bắc; các chỉ thị, nghị quyết của Bộ

Quốc phòng; các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của các cơ quan, sở, ban,

ngành ở một số tỉnh biên giới phía Bắc; các công trình liên quan đến đề tài đã

được công bố; kết quả điều tra khảo sát nghiên cứu thực tế có liên quan đến

đề tài là cơ sở lý luận, thực tiễn của luận án.

- Phương pháp nghiên cứu

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của kinh tế chính

trị Mác - Lênin; sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp các

phương pháp lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê so sánh và

phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ nội dung luận án. Phương pháp đó

được vận dụng vào các chương cụ thể như sau:

Chương 1, Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.

Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ yếu sử dụng phương pháp thống

kê, kết hợp với phương pháp phân tích. Cuối chương sử dụng phương pháp trừu

tượng hoá khoa học, gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá

trình và những hiện tượng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc

phòng, an ninh đã được nghiên cứu, từ đó tách ra những cái điển hình, bền vững,

Page 6: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

6

ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất

của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản chất ở trình độ sâu hơn,

hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh những bản chất, để thấy

được bản chất của vấn đề mà các công trình khoa học, các đề tài, luận án trước

đó đã nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tiếp tục nghiên cứu, kế thừa và phát triển để

làm cơ sở cho nghiên cứu các chương sau của luận án.

Chương 2, Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế - xã hội gắn với

đảm bảo quốc phòng, an ninh. Phương pháp nghiên cứu trong chương này chủ

yếu sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để hình thành các khái niệm,

phạm trù khoa học đặc trưng cho các mặt khác nhau của các hiện tượng quá trình

phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc, tiến tới hình thành các qui luật, xác lập sự phụ thuộc và tác

động lẫn nhau một cách nhân quả, ổn định của các hiện tượng và quá trình phát

triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh mà đề tài luận án đưa

ra. Cùng với phương pháp trừu tượng hoá khoa học là phương pháp phân tích để

thấy được những nội dung, những nhân tố ảnh hưởng và kinh nghiệm trong phát

triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.

Chương 3, Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc

phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc. Phương pháp nghiên cứu

trong chương này kết hợp sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp,

thống kê so sánh, chuyên gia; sau đó sử dụng phương pháp phân tích và

phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Trên cơ sở đó hoàn thành chương 4:

quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc

phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.

Trong suốt quá trình viết luận án, nhất là sự chuyển tiếp, kế thừa nội

dung các chương và nội dung toàn luận án cần phải chú ý vận dụng tốt

phương pháp logic và lịch sử.

Page 7: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

7

6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án

- Hệ thống hoá và làm rõ hơn một bước cơ sở khoa học về phát triển

kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh.

- Phân tích, đánh giá thực trạng và nhận diện những vấn đề đang đặt ra

đối với phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một

số tỉnh biên giới phía Bắc, đặc biệt là trong tình hình phức tạp hiện nay.

- Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với

đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc thời gian tới.

7. Kết cấu của luận án

Luận án gồm: phần mở đầu; 4 chương, 12 tiết; kết luận; danh mục các

công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án;

danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Page 8: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

8

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN không phải là vấn đề riêng của

thời đại ngày nay, không chỉ là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam, mà

là vấn đề có tính quy luật chung cho mọi XH còn giai cấp và đấu tranh giai cấp, còn

mưu đồ thôn tính của dân tộc này đối với dân tộc khác. Đối với Việt Nam, phát triển

KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là một quy luật khách quan, là sự thiết lập mối

quan hệ hữu cơ giữa hai nội dung, hai lực lượng, cái này tạo tiền đề cho phát triển

cái kia và ngược lại. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức thực hiện nội dung gắn

kết đó đều được bổ sung, phát triển. Chính vì vậy, việc khái quát lịch sử vấn đề

nghiên cứu và nghiên cứu, tiếp cận nhiều kênh thông tin, đặc biệt là những công

trình khoa học đã được công bố liên quan đến đề tài là vấn đề có ý nghĩa to lớn giúp

cho luận án có cơ sở khoa học trong kế thừa, phát triển.

1.1. Khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội gắn

với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam

1.1.1. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong

thời kỳ Phong kiến

Việt Nam là quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng trong khu vực và

trên thế giới, nền KT chậm phát triển, nên trải qua hàng nghìn năm lịch sử, kể từ khi

các Vua Hùng dựng nước đến nay, Việt Nam luôn bị nhiều kẻ thù nhòm ngó, tiến

công xâm lược. Tình hình đó đã đặt ra cho dân tộc ta phải nhận thức rõ KT và QP là

những nhân tố có vai trò rất quan trọng, phải chú trọng phát triển KT và thường

xuyên chăm lo đến QP, tạo sức mạnh bền vững bảo vệ vững chắc đất nước. Vì vậy,

ngay từ thời kỳ phong kiến, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đã trở

thành kế sách dựng nước và giữ nước của dân tộc. Kế sách “Dựng nước đi đôi với

giữ nước” đã trở thành nét văn hoá QS, QP độc đáo và là truyền thống quý báu của

dân tộc. Kế sách đó đòi hỏi sự chuẩn bị đất nước đánh giặc ngay từ thời bình; đồng

Page 9: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

9

thời, khi chiến tranh xảy ra thực hiện vừa đánh giặc, vừa lao động sản xuất; thắng

giặc rồi thì lo xây dựng đất nước, lúc nào cũng phải sẵn sàng đối phó với mọi kẻ

thù, nhiệm vụ đánh giặc giữ nước gắn với nhiệm vụ xây dựng đất nước. Thực chất,

đây là sự nhận thức về tính tất yếu của việc kết hợp KT với QP trên cơ sở nhận thức

mối quan hệ chặt chẽ giữa KT với chiến tranh, KT với QP: “Thực túc, bình cường”,

“Phú quốc, binh cường”; đất nước giàu mạnh là cơ sở vật chất tạo ra sức mạnh QP

đủ sức ngăn ngừa, đẩy lùi, làm thất bại các âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù;

QP mạnh tạo ra môi trường hoà bình cho xây dựng, phát triển đất nước. Kế sách

“Dựng nước đi đôi với giữ nước” của ông cha ta trong thời kỳ phong kiến được

biểu hiện tập trung ở những nội dung sau:

Một là, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã đề ra nhiều kế sách giữ

nước sáng tạo, linh hoạt; thể hiện sự gắn kết chặt chẽ KT với QP, tiêu biểu là

kế sách “Ngụ binh ư nông” dưới các triều đại phong kiến Lý, Trần và Lê Sơ;

“Lấy dân làm gốc”, dân giàu nước mạnh, quốc phú binh cường... “Ngụ binh ư

nông” là gửi một bộ phận quân vào nông dân, nông thôn, kết hợp quân với

dân cùng xây dựng quân đội, chỉ duy trì một số lượng quân thường trực hợp

lý. Kế sách “Ngụ binh ư nông” là sản phẩm của nhận thức coi trọng việc binh

với vai trò quan trọng của nông nghiệp nhằm bảo đảm sự cân đối, hợp lý giữa

phát triển KT và củng cố QP, giữa xây dựng LLVT thường trực với LLVT dự

bị. Khi Bàn về kế sách “Ngụ binh ư nông”, nhà sử học Ngô Thì Sĩ đánh giá:

“Chế độ binh lính của nhà Lý… mỗi tháng lên cơ ngũ một lần, gọi là đi canh,

hết canh lại về quê làm ruộng, quân không phải cấp lương… không có phí tổn

nuôi lính, mà có công hiệu dùng sức lính, cũng là chế độ hay” [63, tr.27]. Nhà

sử học Phan Huy Chú cũng đưa ra lời bình: “Đời xưa binh lấy nghề nông là

có ý phục việc nguy hiểm vào nơi thuận tiện… Trong thành vua có quân Túc

vệ, đội ngũ đông nghiêm. Còn quân ở ngoài thì vẫn theo ý nghĩa đời xưa, lúc

vô sự thì về làm ruộng, khi có động thì chiếu sổ gọi ra hết. Cho nên binh vẫn

đủ mà không phải tiêu phí nhiều, càng thêm hăng hái chống thù. Cái chiến

Page 10: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

10

công dẹp quân Chiêm, phá quân Tống, cái oai hùng ba lần đánh bại quân

Nguyên cũng đủ cho biết binh lực hai đời cường thịnh là thế nào” [18, tr.8];

“Đời Lý… ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên

canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý…

binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn lương… Phép nuôi

binh đời Lê sơ đại để theo phép ngụ binh ư nông của các đời Lý, Trần, không

phải cấp lương bổng. Thời Hồng Đức trở về sau, cứ theo phép đấy không đổi”

[18, tr.20]. Như vậy, có thể nói, kế sách “Ngụ binh ư nông” là một cơ chế

hoàn hảo về mặt động viên và sử dụng nguồn nhân lực trong việc xây dựng

LLVT phòng giữ đất nước, xây dựng tiềm lực QP mạnh trên cơ sở phát triển

KT với củng cố lực lượng QS. Nhờ cơ chế này đã tạo ra binh mạnh, lương

nhiều trong thời bình và khi thời chiến xảy ra, sẽ tao ra một lực lượng hùng

hậu toàn dân là lính, cả nước đánh giặc.

Hai là, các triều đại phong kiến luôn quan tâm đến việc xây dựng lực lượng,

khuyến khích việc di dân lên các vùng biên giới, hải đảo, thực hiện chính sách giãn

dân, khai hoang lập ấp ở các vùng biên ải để khai phá đất hoang, phân bố lại lực

lượng, tăng cường lực lượng tại chỗ, vừa làm giàu cho đất nước, vừa phục vụ cho

nhiệm vụ giữ nước, tạo ra thế trận đánh giặc từ xa và thực hiện gửi lực lượng, tích

trữ lương thực trong dân để chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh bảo vệ biên cương

đất nước, như thực tiễn ông cha ta đã thực hiện đưa quân lính lên khai hoang lập ấp

ở vùng biên giới Quảng Yên, Lạng Sơn.

Ba là, nhiều triều đại phong kiến như: Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ… rất

coi trọng mở mang hệ thống giao thông thuỷ, bộ như: kênh nhà Lê ở Thanh

Hoá và Nghệ An; kênh Vĩnh Tế ở Tây Nam Bộ… với mục đích vừa phục vụ

nhu cầu giao lưu phát triển KT, vừa đảm bảo QP, QS như: cơ động lực lượng,

phương tiện QS, vận tải tiếp tế, thông tin liên lạc khi chiến tranh xảy ra.

Bốn là, để chuẩn bị cho công cuộc giữ nước từ thời bình, các triều đại

phong kiến thường xuyên quan tâm đến phát triển nhiều ngành KT có tính

Page 11: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

11

lưỡng dụng, tiêu biểu là các ngành thủ công nghiệp trong nước, nhất là các

ngành nghề có liên quan đến QP để vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa đảm

bảo nhu cầu QP của đất nước.

Trên thực tế, từ thế kỷ XI, ở nước ta (Đại Việt) đã hình thành và phát triển

các xưởng thủ công của triều đình vừa sản xuất các sản phẩm mang tính chất KT

như sản xuất các sản phẩm dân sinh dùng trong hoàng gia, cung đình, vừa sản

xuất sản phẩm trực tiếp đảm bảo cho các nhu cầu QS như: đảm bảo nhu cầu xây

dựng LLVT, quân đội, thuyền chiến, vũ khí… Thời Lý đã sản xuất được thuyền

lớn đảm bảo cho thuỷ quân tác chiến trên sông lớn và biển gần; vũ khí hạng nặng

như máy bắn đá… Thời Trần đã sản xuất được “Thần cơ song pháo” là một loại

hoả pháo có uy lực mạnh. Thời Lê đã sản xuất ra các loại thuyền chiến, vũ khí rất

phong phú và có tác dụng chiến đấu rất cao… Các lò thủ công gia đình cũng được

quan tâm phát triển, thời bình tập trung sản xuất các sản phẩm dân sinh đáp ứng

nhu cầu sinh hoạt của nhân dân địa phương; thời chiến sẵn sàng chuyển sang sản

xuất các sản phẩm đảm bảo nhu cầu QS như: khai mỏ, đúc đồng, rèn sắt, đóng

thuyền, sản xuất vũ khí… Đây là các cơ sở sản xuất cung cấp chủ yếu các loại vũ

khí cho các lực lượng dân binh, thổ binh và còn đảm bảo cung ứng, sửa chữa vũ

khí cho cả quân triều đình khi chiến tranh xảy ra. Những nội dung trên cho thấy,

các triều đại phong kiến nước ta đã quan tâm phát triển nhiều ngành KT có tính

lưỡng dụng, vừa đáp ứng nhu cầu dân sinh, vừa đáp ứng nhu cầu tăng cường khả

năng đảm bảo QP, AN của đất nước.

1.1.2. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an

ninh từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

1.1.2.1. Trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống

thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược

Ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình lãnh đạo cách cách mạng

Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -

Page 12: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

12

Lênin về mối quan hệ KT với chiến tranh, KT với QP, kế thừa truyền thống, kinh

nghiệm kết hợp KT với QP trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, sự

nhận thức về phát triển KT với đảm bảo QP ở Việt Nam luôn có những phát triển

mới. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, “Chỉ thị của Ban Chấp

hành Trung ương về kháng chiến kiến quốc” (25/11/1945), xác định nhiệm vụ

cần kíp của cách mạng lúc này là “Phải củng cố chính quyền, chống thực dân

Pháp xâm lược, bại trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân” [26, tr.26-27].

Qua Chỉ thị cho thấy Đảng đã nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kháng chiến

và kiến quốc. Thực chất, đó là sự nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo phát

triển KT với đảm bảo QP của Đảng, Nhà nước trong điều kiện kháng chiến. Vấn

đề đảm bảo QP với phát triển KT thông qua hoạt động của quân đội trong thời gian

chuẩn bị cho kháng chiến cũng được Đảng nhận thức sâu sắc. Nghị quyết Hội nghị

QS toàn quốc của Đảng (19/10/1946), đã xác định nhiệm vụ lao động sản xuất của

quân đội: “Những nơi bộ đội đóng, lấy đại đội hay trung đội độc lập làm đơn vị, bắt

buộc phải tham gia sản xuất, trồng rau, chăn nuôi” [26, tr.128-129]. Khi cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ ra phạm vi cả nước, Đảng

ra Chỉ thị “Toàn quốc kháng chiến” (22/12/1946). Chỉ thị xác định: Toàn dân

kháng chiến, kháng chiến khắp nơi; mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một

pháo đài; mỗi viên đạn diệt một quân thù; cướp súng giặc để bắn giặc… tăng gia

sản xuất để kháng chiến; giữ gạo muối nuôi quân; vừa kháng chiến, vừa kiến

quốc… “Chỉ thị toàn quốc kháng chiến” là sự phát triển nhận thức của Đảng về

phát triển KT với đảm bảo QP.

Để tiếp tục thực hiện chủ trương trên, Nghị quyết Hội nghị cán bộ

Trung ương của Đảng (từ ngày 3 đến 6/4/1947) đã xác định: “Tổ chức căn cứ

địa không những ở vùng rừng núi mà ở cả đồng bằng”; “Áp dụng chiến thuật

tiêu thổ kháng chiến một cách rộng rãi”; “Phá KT địch bằng cách tẩy chay và

QS phá hoại”; “Tích cực xây dựng kinh tế của ta, vừa kháng chiến, vừa kiến

Page 13: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

13

quốc, và lập nền kinh tế tự túc”; “Thực hành việc bộ đội tăng gia sản xuất”

[26, tr.180-181, 185]. Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ III (15/6/1947), tiếp

tục khẳng định vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ tăng gia sản xuất của quân

đội: “Các chính trị viên cần làm cho bộ đội hiểu rằng tăng gia sản xuất là một

nhiệm vụ quan trọng” [25, tr.172]; mặc dù trong thời kỳ này, thực hiện chức

năng, nhiệm vụ chiến đấu là chủ yếu, nhưng quân đội đã quán triệt và nhận

thức sâu sắc nhiệm vụ sản xuất. Tiếp tục chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến

quốc, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (tháng 3 năm

1951) xác định: Muốn kháng chiến trường kỳ, phải luôn luôn bồi dưỡng lực lượng

KT, tài chính, phải coi nhiệm vụ KT, tài chính là một nhiệm vụ rất quan trọng. Đây

chính là những phát triển mới trong nhận thức phù hợp với thực tiễn của Đảng ta về

mối quan hệ giữa KT với chiến tranh và QP; đồng thời, thể hiện sự nhất quán trong

thực hiện chủ trương kết hợp KT với QP ở nước ta trong giai đoạn này.

Kể từ khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi,

nhân dân ta thực hiện công cuộc khôi phục KT đất nước sau gần 2 năm, Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khoá II đã họp Hội nghị lần thứ 12 (mở rộng),

ra Nghị quyết về kế hoạch nhà nước năm 1957. Nghị quyết xác định: “Trong

khi thực hiện nhiệm vụ kinh tế, các ngành công tác còn phải kết hợp chặt chẽ

với nhiệm vụ củng cố các khu vực tự trị, nhiệm vụ củng cố quốc phòng,

nhiệm vụ đấu tranh chính trị để thực hiện thống nhất nước nhà” [27, tr.262].

Qua đó cho thấy, Đảng, Nhà nước có nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ khôi

phục, phát triển KT gắn với đảm bảo QP trong thời kỳ mới.

Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, có thể thấy rằng,

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960), thể hiện sự nhận thức

hoàn chỉnh của Đảng về đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP xuyên suốt thời

kỳ này. Nghị quyết Đại hội xác định, cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại

có hai nhiệm vụ chiến lược: “Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở Miền Bắc.

Page 14: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

14

Hai là, giải phóng Miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực

hiện thống nhất nước nhà, hoàn toàn độc lập và dân chủ trong cả nước” [28,

tr.916]. Như vậy, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về kết hợp xây dựng

KT với củng cố QP trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược là thắng lợi của

việc Đảng đã tiếp tục phát triển đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” trong

kháng chiến chống thực dân Pháp thành đường lối kết hợp chặt chẽ giữa xây

dựng, phát triển KT với tăng cường, củng cố QP, tạo nên một hậu phương vững

chắc, rộng lớn khắp cả nước để tiến hành chiến tranh giải phóng thắng lợi.

1.1.2.2. Thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội đến khi tiến

hành công cuộc đổi mới

Sau đại thắng mùa xuân 1975, nước nhà được độc lập, thống nhất, cả

nước đi lên xây dựng CNXH, với kinh nghiệm thực tiễn 30 năm chiến tranh

giải phóng, Đại hội lần thứ IV của Đảng khẳng định, vấn đề kết hợp KT với

QP là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của đường lối xây dựng

nền KT XHCN trên phạm vi cả nước. Đại hội chỉ rõ: “Phải kết hợp đúng đắn

kinh tế với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước

đó là yêu cầu sống còn của dân tộc ta” [29, tr.58]. Đường lối đó chỉ ra, xây

dựng nền KT đất nước trong thời bình, phải đồng thời đáp ứng cùng một lúc

các nhu cầu: cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân

dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN; mở rộng quan hệ KT với

các nước, đảm bảo QP, AN thường xuyên vững chắc. Theo đó, vấn đề kết hợp

QP với KT trong hoạt động của quân đội tiếp tục có sự phát triển trong nhận

thức của Đảng, Nhà nước. Ngày 17 tháng 3 năm 1976, Bộ Chính trị khoá IV

đã ra Nghị quyết số 250-NQ/TW “Về vấn đề quân đội làm nhiệm vụ xây dựng

kinh tế”. Nghị quyết đã xác định mục đích, nhiệm vụ KT và phương hướng

nhiệm vụ căn bản trong xây dựng KT của quân đội. Đây là mốc đánh dấu sự

chuyển biến kịp thời trong nhận thức của Đảng về kết hợp QP với KT trong điều

kiện mới, đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH.

Page 15: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

15

Tuy nhiên, khi mọi việc mới bắt đầu được vạch ra với mục tiêu phục vụ

nền KT đất nước sau chiến tranh, thì chúng ta phải đương đầu với những khó

khăn, phức tạp mới; trong đó nổi lên là hai cuộc chiến tranh xâm lược biên

giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của các thế lực thù địch. Trước tình hình

đó, Đại hội V của Đảng tiếp tục có nhận thức sâu sắc về kết hợp KT với QP:

“Kết hợp chặt chẽ KT với QP, QP với KT, từng bước phát triển kinh tế quốc

phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực KT của đất nước”.

Những năm đầu của thập kỷ 80, thế kỷ XX, đất nước vừa có hoà bình,

vừa xảy ra chiến tranh, nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo đảm đời

sống của nhân dân trở nên cấp bách. Để phát huy vai trò của quân đội, Bộ

Chính trị đã ra Nghị quyết bổ sung về nhiệm vụ quân đội làm KT trong 5 năm

(1981 - 1985). Theo đó, quân đội tập trung vào thực hiện một số nhiệm vụ cụ

thể trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây

dựng cơ bản, hàng không dân dụng, hợp tác KT với Lào, Campuchia... đảm

bảo kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ QS với nhiệm vụ xây dựng KT; ưu tiên lựa

chọn các công việc có tính cấp bách, các công trình có giá trị KT lớn và có

quan hệ chặt chẽ giữa KT với QP, tính toán kỹ và quản lý chặt chẽ, từng bước

nâng cao hiệu quả KT, chống tham ô, lãng phí. Mặc dù từ đầu thập kỷ 80 đến

cuối năm 1986, tình hình KT - XH Việt Nam gặp nhiều khó khăn, tình trạng

lạm phát gia tăng, Đảng, Nhà nước vẫn kiên trì đường lối xây dựng KT kết

hợp với củng cố QP, phát huy tốt nhất những kết quả xây dựng KT đảm bảo

cho QP. Theo đó, việc kết hợp KT với QP trong các hoạt động của quân đội

tiếp tục được duy trì, có những bước phát triển mới.

1.1.2.3. Thời kỳ đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

và hội nhập quốc tế

Kế thừa và phát triển chủ trương chiến lược kết hợp KT với QP trong thời kỳ

mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra phương hướng cơ

Page 16: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

16

bản và những nội dung lớn, nhằm nâng cao hiệu quả của việc kết hợp KT với QP,

QP với KT theo phương hướng cơ bản, lâu dài; đồng thời, có dự kiến để kịp thời

điều chỉnh cho phù hợp khi xảy ra biến động đảm bảo chiến thắng. Trên cơ sở đó,

Đại hội chỉ ra những nội dung cụ thể của việc kết hợp: “Kết hợp trong công tác quy

hoạch phân vùng kinh tế, phân bố lại lao động, phân bố lực lượng sản xuất; xây

dựng các ngành kinh tế kỹ thuật, phát triển kinh tế địa phương phải nhằm tạo ra thế

bố trí chiến lược thống nhất để làm chủ cả về kinh tế và quốc phòng trong cả nước

và trong từng địa phương” [30, tr.67].

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, việc phát triển

KT gắn với xây dựng nền QP càng được chú trọng hơn trong tình hình mới.

Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với

kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên

từng địa phương” [31, tr.85].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, diễn ra trong bối

cảnh chúng ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước,

Đại hội xác định, kết hợp KT với QP gắn liền với phát huy sức mạnh tổng hợp

của toàn dân, từng bước tăng cường tiềm lực QP và AN của đất nước. Đại hội

chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP trong việc quy hoạch và phát triển các

vùng kinh tế, các ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu bảo

đảm QP - AN làm cơ sở cho những chủ trương cụ thể” [32, tr.184].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục phát triển

đường lối, chủ trương kết hợp KT với QP của Đại hội VIII và cụ thể hoá trong

những năm đầu của thế kỷ XXI, Đại hội xác định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế

với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến

lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [33, tr.40]. Theo đó,

Nghị quyết số 71/ĐUQSTW ngày 25/4/2002 của Đảng uỷ QS Trung ương về:

“Nhiệm vụ sản xuất xây dựng KT của quân đội trong thời kỳ mới, tiếp tục sắp

Page 17: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

17

xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp quân đội”. Nghị

quyết số 21, 37, 39, 53 của Bộ Chính trị (Khoá IX) về phát triển KT - XH và

đảm bảo QP, AN của 4 vùng (đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ và

vùng KT trọng điểm phía Nam, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, trung

du và miền núi phía Bắc) và Nghị quyết 54 - NQ/TW ngày 14/9/2005 về phát

triển KT - XH và đảm bảo QP, AN vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010

và định hướng đến năm 2020. Những định hướng cơ bản đó đảm bảo về chính

trị và cơ sở khoa học cho giải quyết quan hệ phát triển KT gắn với QP - AN

trong từng khu vực.

Thực tiễn nêu trên đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng

tiếp tục chỉ rõ: “Tiếp tục phát triển các khu KT - QP, xây dựng các khu QP - KT

với mục tiêu tăng cường QP, AN là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn chiến lược

và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo” [43, tr.110]. Đại

hội cũng chỉ ra: “Xây dựng CNQP trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự

chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ, đầu tư có chọn lọc theo

hướng hiện đại, vừa phục vụ QP vừa phục vụ dân sinh” [34, tr.110].

Kết hợp KT với QP, AN vừa là chủ trương, đường lối, quan điểm, vừa là

giải pháp để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua mỗi thời kỳ, nhận thức và tổ chức

thực hiện nội dung kết hợp đó đều được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu

mới. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ ra những

vấn đề cơ bản cần nắm vững về kết hợp KT với QP, AN trong thời kỳ hội nhập

quốc tế. Đây là chủ trương chiến lược hết sức quan trọng, được thể hiện nhất quán

và xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:

“Kết hợp chặt chẽ KT với QP - AN, QP - AN với KT trong từng chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển KT - XH và trên từng địa bàn” [35, tr.82].

Tiếp đó, chiến lược phát triển KT - XH 10 năm (2011 - 2020) chỉ rõ: “Gắn kết QP

Page 18: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

18

với AN. Kết hợp chặt chẽ QP, AN với phát triển KT - XH trên từng địa bàn lãnh

thổ, trong công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án” [35, tr.138].

Trong báo cáo chính trị Đảng tiếp tục xác định: “Kết hợp chặt chẽ KT với QP,

AN; QP, AN với KT trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển KT -

XH; chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” [35, tr.234]. Qua đó, thể hiện

tính nhất quán, xuyên suốt thực hiện chủ trương kết hợp phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng và trong xây dựng,

bảo vệ Tổ quốc XHCN thời kỳ mới, Đảng, Nhà nước ta luôn coi đó vừa là đường

lối, quan điểm, vừa là giải pháp chiến lược; mỗi bước đổi mới, phát triển KT - XH

luôn gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần đảm bảo thực hiện thắng lợi hai nhiệm

vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

1.2. Những công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến phát

triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh

1.2.1. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát

triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số quốc

gia trên thế giới

Jayawardena , trong công trình nghiên cứu “Một kết cấu khái niệm

nghiên cứu quốc phòng và phát triển kinh tế quốc gia”, [84] đã làm rõ: thứ

nhất, quan niệm hiện nay và cấu trúc lý luận của QP; thứ hai, xác định các

đặc điểm bối cảnh QP của Sri Lanka và thứ ba, phát triển cấu trúc khái niệm

để nghiên cứu quan hệ giữa QP và phát triển KT. Theo Dr MM Jayawardena,

phần lớn các nghiên cứu đã tập trung vào mối quan hệ giữa QP và tăng trưởng

KT hoặc các yếu tố liên quan của nó chứ không phải là phát triển KT; theo

Ông, Sandler và Hartely đã khảo sát và trình bày kết luận của nhiều nghiên

cứu về khía cạnh KT vĩ mô của QP với chủ để “Tăng trưởng KT, phát triển và

chi tiêu quân sự” nhưng hầu như chưa có bất kỳ một phân tích toàn diện nào

về QP và phát triển KT. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, một nghiên cứu tổng

Page 19: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

19

quan về QP và phát triển KT mà tăng trưởng KT được đưa ra xem xét là yêu

cầu cần thiết. Nghiên cứu này về cơ bản sẽ mở ra những nghiên cứu nghiêm

túc cả về lý thuyết và thực nghiệm; trong bối cảnh này, kết luận rằng những lý

do chính cho những sai sót về tri thức chủ yếu là do thiếu những nghiên cứu

tổng quan toàn diện về QP và nền KT, hoặc phát triển KT sẽ cung cấp cơ sở

cho những nghiên cứu chuyên sâu mà có thể lấp khoảng trống trong kiến thức

về QP và phát triển KT.

Wolfgang-Peter Zingel với tác phẩm: “An ninh quốc gia và phát triển kinh

tế: phát triển an ninh - an ninh đang phát triển” [89] đã đi từ quan niệm phát

triển KT, các chỉ báo, chiến lược, sự hỗ trợ, tái cấu trúc và thay đổi; quan niệm

AN, những mối đe doạ, sự thống nhất và toàn vẹn quốc gia, sự can thiệp, AN và

lý thuyết KT, những rủi ro và sự thất bại của nhà nước trên các lĩnh vực như:

hàng hoá, dịch vụ, hạ tầng cơ sở, nhà ở, tài chính, tiền tệ, lao động, giáo dục, y tế

và các dịch vụ XH. Công trình nghiên cứu đã đưa ra các trường hợp can thiệp

của một số nước Nam và Đông Nam Á, chỉ ra những ảnh hưởng KT và XH của

sự can thiệp. Những ảnh hưởng KT của một sự can thiệp phụ thuộc vào: thứ

nhất, hoàn cảnh tại thời điểm can thiệp; thứ hai, loại can thiệp; thứ ba, bối cảnh

đi cùng với sự can thiệp và thứ tư, có thể được coi là quan trọng nhất, sự chấp

nhận can thiệp của nhân dân sở tại.

Trong công trình nghiên cứu của Adam Posen và Daniel K. Tarullo: “Báo

cáo của nhóm nghiên cứu về kinh tế và an ninh quốc gia” [80], các tác giả đã đi

vào làm sáng tỏ đâu là những đúng đắn và sai lầm trong tư duy hiện nay về KT

và AN quốc gia. Trong trường hợp nước Mỹ, toàn cầu hoá KT đã làm tăng cả

năng lực lẫn nguy cơ bị tổn thương của nước Mỹ. Khả năng của Mỹ hạn chế sự

dịch chuyển công nghệ và thương mại sang các nước khác bị suy giảm so với

vác thập kỷ trước; trong dài hạn sự hợp nhất và phát triển KT quốc tế sẽ nâng

cao AN quốc gia Mỹ. Một vài quan điểm sai lầm cho rằng AN KT và quốc gia

Page 20: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

20

Mỹ bị đe doạ bởi sự tăng trưởng KT tương đối nhanh hơn ở các nơi khác trên thế

giới; hay toàn cầu hoá KT có nghĩa rằng các biện pháp trừng phạt KT và các áp

lực tương tự được Mỹ áp dụng sẽ có hiệu quả hơn. Trên cơ sở phân tích đó, công

trình nghiên cứu cũng chỉ ra những thách thức chủ yếu hiện nay đối với nước

Mỹ từ góc độ phát triển KT và AN quốc gia và các nguyên tắc chủ yếu để ứng

phó là sự tích hợp chính sách KT và AN quốc gia, trong đó chính sách KT trong

nước phải được thay đổi.

Cuốn sách “Kinh tế quốc phòng” của Sandler Todd and Hartley Keith

[87] đã đề cập tới các nội dung: Dưới cách tiếp cận KT, QP được coi là một

loại hàng hoá công, hàng hoá công gắn với sự thất bại của thị trường, do

không có khả năng loại trừ việc sử dụng hàng hoá này nên nó không khuyến

khích thị trường sản xuất và cung cấp, trong khi cũng do không có tính cạnh

tranh nên nó cũng không có lý do hạn chế người sử dụng (nói cách khác, chi

phí cận biên cho người sử dụng là bằng không); nói một cách đơn giản, hàng

hoá công không thể đóng gói và bán trên thị trường. Sự thất bại của thị

trường sẽ dẫn đến các ngoại ứng và cần có sự can thiệp của nhà nước. Công

trình nghiên cứu còn nhấn mạnh rằng: Khi xây dựng một lý thuyết để hiển

thị mối quan hệ giữa QP trong phát triển, nhà nghiên cứu cần phải tính toán

những tác động về mặt cung (chẳng hạn lợi ích phát sinh thêm về mặt công

nghệ, ngoại ứng tích cực) và các yếu tố về mặt cầu (ví dụ tác động chèn ép

đầu tư hoặc xuất khẩu). Một mô hình đầy đủ có thể được đặc trưng bởi mối

quan hệ phức tạp giữa lĩnh vực QP và phần còn lại của nền KT. Trên cơ sở

đó, cuốn sách đã đi vào phân tích nhu cầu QP, việc chạy đua vũ trang, chính

sách liên minh, công nghiệp, thương mại QP… KTQP không chỉ hướng tới

chi tiêu quân sự và các cuộc đối đầu có vũ trang mà chúng còn là lợi ích

được hiểu là động lực của chi tiêu vũ trang, xung đột và các khía cạnh KT

liên quan của lĩnh vực quân sự. Sự hiểu biết đúng đắn về những động lực này

Page 21: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

21

chắc chắn sẽ thúc đẩy các biện pháp kiểm soát việc sản sinh các loại vũ khí và sự

bất ổn của xung đột, từ đó đóng góp cho phúc lợi và tương lại của nhân loại.

Trong cuốn “Sách tra cứu về kinh tế quốc phòng” của Sandler Todd và

Hartley Keith [88], các ông đã đi sâu vào ba vấn đề lớn: thứ nhất, chi tiêu

quân sự trên thế giới nhằm giải quyết các vấn đề xung đột, khủng bố, liên

minh quân sự và chạy đua vũ trang, thứ hai, phân tích chi tiêu QP và tăng

trưởng KT; khảo sát chi tiêu quân sự ở các nước đang phát triển, đi sâu phân

tích các mặt cụ thể của KTQP như: các mô hình khuyến khích quá trình cung

ứng QP, các vấn đề KT của nguồn nhân lực quân sự, cơ sở công nghiệp QP,

KTQP dưới giác độ nghiên cứu và phát triển, chính sách công nghiệp trong

lĩnh vực QP, tác động đến khu vực của chi tiêu QP; thứ ba, nhìn nhận QP và

KTQP trong bối cảnh toàn cầu hoá, từ đó đi vào các nội dung cụ thể như tổng

quan vấn đề KT của xung đột, vấn đề KT chính trị của gìn giữ hoà bình, chủ

nghĩa khủng bố tiếp cận từ lý thuyết trò chơi và phân tích thực chứng; KT

chính trị của các biện pháp trừng phạt KT; các vấn đề KT của chạy đua vũ

trang; thương mại, công nghiệp QP và một khảo sát về nền KT hoà bình.

Intriligator trong bài viết, “Về bản chất và phạm vi của kinh tế quốc

phòng” [83] cho rằng: KTQP được xem xét như là một bộ phận của nền KT

gắn liền với những vấn đề liên quan đến QP, bao gồm mức độ chi tiêu QP, cả

trong tổng thể và trong bộ phần của toàn bộ nền KT; tác động của chi tiêu QP

tới sản phẩm và lao động ở cả trong nước và tác động tới các nước khác trên

trường quốc tế; các lý do cho sự tồn tại và quy mô của lĩnh vực QP; quan hệ

của chi tiêu QP tới sự thay đổi công nghệ, các hạng mục chi tiêu QP và quan

hệ giữa lĩnh vực QP với sự ổn định hoặc bất ổn định quốc tế.

Reppy Judith trong bài viết: “Về bản chất và phạm vi của kinh tế quốc

phòng: một bình luận” [85] đã xác định bản chất và phạm vi của KTQP trên cơ sở

hợp nhất quan niệm của Intriligator nhưng tập trung vào các đặc điểm về mặt thể

Page 22: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

22

chế duy nhất của hệ thống QP và Ông cho rằng, KTQP có thể mở rộng hơn tới

mức bao gồm cả các yếu tố phi quân sự trong định nghĩa về AN quốc gia. (ví dụ

bảo vệ môi trường). Nhiều ý kiến đồng ý với Reppy rằng, các đặc điểm về mặt thể

chế duy nhất là thích hợp để hiểu KTQP. Chẳng hạn, các hợp đồng cộng thêm phí

sẽ tạo nên ý nghĩa hơn khi ai đó nhận ra rằng người mua (ví dụ BQP) có thể sẽ cân

nhắc lại lựa chọn thay đổi thông số của một hệ thống vũ khí được đề xuất vào thời

điểm cuối cùng. Một hợp đồng cộng thêm phí sẽ chuyển rủi ro của việc thay đổi

tiêu chuẩn kỹ thuật từ người cung cấp sang người mua.

1.2.2. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát

triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở Việt Nam

1.2.2.1. Những công trình khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn

phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số khu

vực, tỉnh, thành phố trên cả nước

Cho tới nay đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu lý luận và

thực tiễn về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Có thể nói, đây là

những công trình nghiên cứu góp phần làm rõ cơ sở khoa học cho chủ trương

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của Đảng, Nhà nước ta:

Trần Xuân Trường và Nguyễn Anh Bắc, trong cuốn Vấn đề kết hợp

kinh tế với quốc phòng ở nước ta [77] đã khẳng định, vấn đề kết hợp KT với

QP là một nội dung của đường lối xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc ở nước

ta, một quy luật phổ biến với mọi nước XHCN. Từ khẳng định đó, các tác giả

đã phân tích, luận chứng làm rõ mối quan hệ, vai trò ngày càng tăng của nhân

tố KT với chiến tranh và QP; đồng thời, làm rõ tính quy luật; yêu cầu, phương

thức, đặc điểm, mức độ, trình độ, nội dung kết hợp KT với QP ở nước ta. Tác

giả còn chỉ ra, để KT và QP gắn bó khăng khít với nhau đến mức như là một,

phải có sự am hiểu, thống nhất hành động của cán bộ, đảng viên và toàn thể

nhân dân; có một hệ thống tổ chức lãnh đạo, quản lý thống nhất dựa trên một

hệ thống pháp luật đầy đủ; có cơ quan tham mưu và cán bộ tham mưu giỏi.

Page 23: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

23

Trần Thái Bình trong bài “Quan hệ giữa kinh tế và QP - AN trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc” [8] đã xác định: Quan hệ giữa KT và QP,

AN là mối quan hệ cơ bản, được hình thành từ trong quá trình dựng nước và

giữ nước của dân tộc. Ngày nay, mối quan hệ này có vị trí đặc biệt quan trọng,

nhất là trong bối cảnh nước ta đang xây dựng, phát triển nền KT thị trường

định hướng XHCN và mở cửa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Vì vậy,

giải quyết tốt mối quan hệ giữa KT và QP, AN là đòi hỏi tất yếu khách quan

trong suốt quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, nhân dân ta hết sức coi trọng

việc thực hiện tốt mối quan hệ này và đã thu được những kết quả quan trọng,

tương đối toàn diện, cả về nhận thức, tổ chức thực hiện. Bên cạnh kết quả đã

đạt được, nhận thức và thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa KT với QP, AN

còn hạn chế ở một số vấn đề. Để nâng cao chất lượng mối quan hệ giữa KT

với QP, AN đáp ứng yêu cầu hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc cần tập trung vào những vấn đề chủ yếu đó là: nâng cao nhận thức cho

cán bộ các cấp, các ngành về mối quan hệ giữa KT với QP, AN; nâng cao hiệu

quả vận hành cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng, quản lý của Nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa KT với QP,

AN; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách có liên quan đến

mối quan hệ giữa KT với QP, AN; coi trọng kết hợp phát triển KT với củng cố

QP, AN trong hoạt động KT đối ngoại. Tuy nhiên, bài viết chưa có điều kiện

đi vào nghiên cứu mối quan hệ giữa KT với QP, AN; các lĩnh vực đặc thù hay

ở từng khu vực cụ thể.

Tác giả Trần Trung Tín, luận án tiến sĩ kinh tế “kết hợp kinh tế với quốc

phòng ở nước ta hiện nay” [66] đã góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận kết hợp

KT với QP trong thời kỳ mới ở Việt Nam; làm rõ mối quan hệ giữa phát triển

KT với củng cố QP, từ đó xác định quan điểm mang ý nghĩa chỉ đạo và đề ra

Page 24: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

24

những biện pháp kết hợp KT với QP một cách hiệu quả. Trên cơ sở đó đề xuất

một số giải pháp mang tính định hướng ở tầm vĩ mô. Tuy nhiên, luận án chưa

đi sâu nghiên cứu về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên từng

địa bàn cụ thể.

Giáo trình giáo dục QP dùng cho bồi dưỡng kiến thức QP, AN đối

tượng 1, Kết hợp phát triển KT - XH gắn với tăng cường QP, AN trong quá

trình CNH, HĐH đất nước [16] đã chỉ rõ, sự phát triển KT - XH gắn với QP,

AN đã trải qua một quá trình nhận thức lâu dài. Nhưng do điều kiện, hoàn

cảnh lịch sử, chúng ta chỉ hiểu nó trong mối quan hệ kết hợp giữa hai lĩnh vực

KT với QP và QP với KT. Hiện nay, mối quan hệ kết hợp không chỉ dừng lại

ở hai lĩnh vực trên mà còn được đan xen, mở rộng giữa KT với XH và QP với

AN. Bản chất của sự kết hợp phát triển KT - XH gắn với QP, AN ở nước ta

trong thời kỳ mới được hiểu là sự gắn kết chặt chẽ hoạt động của các lĩnh vực

KT - XH với QP, AN thành một thể thống nhất trên phạm vi cả nước và từng

địa phương, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.

Tác giả Phạm Đức Nhuấn, luận án tiến sĩ kinh tế, “Xây dựng tiềm lực kinh tế

quân sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”[62] đã đề cập tới việc xây dựng tiềm

lực KT quân sự Việt Nam luôn gắn với tiềm lực KT, tiềm lực khoa học kỹ thuật của

XH; tiền lực KT quân sự là cơ sở nền tảng cho KT - XH. Sự phát triển về KT quân

sự có ý nghĩa trực tiếp cho sự phát triển QP, AN và xét trên một phương diện khác,

nó là động lực cho sự phát triển trên các mặt của đời sống XH. Theo góc độ nghiên

cứu khác, tác giả đã tiếp cận hàm lượng chất xám, hàm lượng khoa học trong sự

phát triển các thành tố KT và QP, AN. Sự phát triển các yếu tố KT đều nằm trong

một bức tranh tổng thể, hữu cơ của sự tương tác các mặt, các thành tố QP, AN; ở đó,

đã xuất hiện những dấu hiệu bản chất của quan hệ KT với QP, AN.

Kết hợp chặt chẽ KT với QP đã có nhiều bài viết như: “Xây dựng tiềm

lực QP, AN trong chiến lược phát triển KT - XH” của Bùi Phan Kỳ [50]; “Đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ XI với vấn đề mối quan hệ KT với QP, AN trong

Page 25: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

25

xây dựng và BVTQ” của Trương Thành Trung [76]; “Nghiên cứu chiến lược

quốc phòng phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” của Nguyễn Đình Chiến

[17]; “Mấy quan điểm về QP, AN trong chiến lược phát triển KT - XH 2011 -

2020” của Hoàng Xuân Lâm [51]… Các bài viết đã tập trung phản ánh về tư

duy mới của Đảng trong sự kết hợp KT với QP, QP với KT, trong đó tập trung

ở một số vấn đề cơ bản: Một là, kết hợp chặt chẽ KT với QP, QP với KT là

quan điểm nhất quán của Đảng. Đó là sự tiếp nối truyền thống của dân tộc

"dựng nước đi đôi với giữ nước", "nước mạnh, quân hùng”, cùng với các

chính sách "ngụ binh ư nông", "động vi binh, tĩnh vi dân", "thực túc binh

cường"... Hai là, trong từng thời kỳ, Đảng ta đã có sự phát triển hoàn thiện

quan điểm nhận thức về nội dung QP, AN trong chiến lược KT - XH. Ba là,

trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, KT - XH phát triển,

tăng trưởng KT không chỉ tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực KT cho tăng

cường tiềm lực QP, mà còn tạo cơ sở CT - XH thuận lợi cho việc nâng cao ý

thức trách nhiệm của toàn dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng coi sự ổn định, phát triển bền vững của đất

nước là nền tảng của QP, AN và củng cố QP, AN là điều kiện quan trọng để

bảo đảm cho KT phát triển bền vững. Chiến lược phát triển KT - XH năm

2011 - 2020 đã nhấn mạnh: “Phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định CT -

XH, tăng cường QP, AN, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và

toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”,

“Tăng cường tiềm lực QP, bảo đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất

và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia cả ở đất liền, vùng trời, vùng biển và hải đảo.

Giữ vững hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước…”. Bốn là, bố

trí thế trận QP, AN phù hợp với tình hình mới; gắn kết QP với AN; kết hợp

chặt chẽ QP, AN với phát triển KT - XH trên từng địa bàn lãnh thổ, trong

công tác quy hoạch, kế hoạch và các chương trình, dự án. Bảo đảm AN chính

trị và trật tự, an toàn XH, quan tâm đặc biệt đến các vùng, địa bàn trọng điểm.

Page 26: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

26

Mở rộng phương thức huy động nguồn lực xây dựng CNQP và nâng cao khả

năng bảo đảm của CNQP. Lồng ghép các chương trình để xây dựng các khu

KT - QP ở vùng biên giới, hải đảo. Hơn nữa, để thực hiện sự kết hợp chặt chẽ

giữa KT với QP, AN và QP, AN với KT, Đảng đã đề cập tới sự phát triển sâu

sắc từng mặt, trong đó có vấn đề rất quan trọng đó là phát triển tiềm lực KT

hoặc QP, AN.

Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể, các tác giả mới chỉ dừng lại ở

việc quán triệt nghị quyết của Đảng. Chưa đề cập một cách thấu đáo vấn đề

quan trọng là làm thế nào để quan điểm này đi vào cuộc sống.

Tác giả Minh Đức viết về “Phương châm kết hợp kinh tế với quốc phòng

của một số nước ASEAN” [44]. Bài viết đã đề cập đến bối cảnh, tình hình thế

giới, khu vực và trong nước còn diễn biến phức tạp với những mức độ khác

nhau. Các nước ASEAN hiện nay, bên cạnh những mặt thuận lợi là một khu vực

có vị trí địa chiến lược quan trọng, giàu tiềm năng, đang phát triển năng động

vào hàng bậc nhất của thế giới, nhiều nền KT liên tục đạt được mức tăng trưởng

cao... Tuy nhiên, cũng đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức như đang

chịu tác động nặng nề của hậu khủng hoảng KT - tài chính thế giới; sự cạnh

tranh quyết liệt giành quyền ảnh hưởng ở khu vực của các cường quốc trên thế

giới; một số "điểm nóng" chưa được giải quyết; tình trạng tranh chấp trên biển

Đông, các hoạt động khủng bố, ly khai cùng nhiều mối đe doạ phi truyền thống

khác... có chiều hướng gia tăng, là những nguy cơ đe doạ đến AN, ổn định của

các nước và khu vực. Trong bối cảnh đó, cùng với việc tập trung phát triển KT -

XH, các nước ASEAN còn chú trọng đảm bảo QP, AN quốc gia; coi đây là hai

mặt có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ với nhau, không thể xem nhẹ bất cứ mặt nào.

Từ thực tế đó, cần chú trọng kết hợp KT với QP; Tuỳ vào điều kiện cụ thể của

mỗi nước để có hướng kết hợp phù hợp. Song, nhìn chung có thể thực hiện một

số hướng chính sau: Một là, nâng cao vai trò quản lý, điều hành của nhà nước.

Thứ hai, thực hiện việc điều, chuyển giao công nghệ giữa các ngành dân sự và

Page 27: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

27

QS. Thứ 3, nâng cao năng lực của các ngành CNQP trong sản xuất, trong chế tạo

vũ khí, trang bị QS, tham gia phát triển KT - XH và xuất khẩu.

Đề tài KX.04.11 “Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính sách đối

với dân tộc thiểu số trong sự phát triển KT - XH ở miền núi” [41] là đề tài

nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, do Bế Viết Đẳng làm chủ nhiệm. Đề tài

thuộc chương trình khoa học công nghệ Nhà nước KX.04 “Những luận cứ khoa

học cho việc đổi mới chính sách xã hội và cơ chế quản lý việc thực hiện chính

sách xã hội”. Nội dung nghiên cứu: trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới do Đại hội VI và VII của Đảng. Đề tài trình bầy

vấn đề dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc trên thế giới và ở Việt Nam, đồng

thời trình bầy quá trình thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới ở Việt

Nam hiện nay; đánh giá thực trạng phát triển KT - XH ở vùng đồng bào các dân

tộc thiểu số và miền núi nước ta hiện nay; xây dựng những luận cứ khoa học, đề

xuất kiến nghị và một số giải pháp cụ thể, cơ bản và cấp bách cho việc xây dựng

và thực hiện chính sách dân tộc, phát triển KT - XH ở các dân tộc thiểu số và

miền núi hiện nay. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề cập đến việc xây dựng các chính

sách đối với dân tộc thiểu số trong sự phát triển KT - XH ở miền núi trên bình

diện chung của cả nước, chưa đề cập và chưa gắn với việc đảm bảo QP, AN, nhất

là ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Đề tài KX. 04.14 “Luận cứ khoa học đổi mới chính sách xã hội nhằm đảm

bảo an ninh xã hội và khắc phục các tệ nạn xã hội” [40] là đề tài nghiên cứu

khoa học cấp Nhà nước, do Lê Thế Tiệm làm chủ nhiệm. Đề tài thuộc chương

trình khoa học công nghệ Nhà nước KX.04 “Những luận cứ khoa học cho việc

đổi mới chính sách xã hội và cơ chế quản lý việc thực hiện chính sách xã hội”.

Đề tài đã tập trung đánh giá thực trạng tình hình AN XH ở nước ta hiện nay (tình

hình tội phạm, tệ nạn XH, trật tự XH) làm rõ những nguyên nhân, tính quy luật

phát triển của tình hình trên: xây dựng hệ quan điểm và nhận thức mới về đảm

Page 28: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

28

bảo AN XH và khắc phục tệ nạn XH. Dự báo xu thế phát triển của tình hình AN

XH ở nước ta thời gian tới trước những thay đổi của bối cảnh trong nước và

quốc tế; đề xuất những khuyến nghị về đổi mới các chính sách XH nhằm đảm

bảo AN XH và khắc phục các tệ nạn XH. Tuy nhiên, đề tài mới chỉ đề cập đến

việc đổi mới chính sách XH nhằm đảm bảo AN XH và khắc phục các tệ nạn XH,

chưa gắn với việc phát triển KT và đảm bảo QP.

Tập thể tác giả Quốc Toản, Mạnh Hùng, Mạnh Dũng có bài “Kết hợp phát

triển kinh tế biển với tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo

trong tình hình mới” [68]. Các tác giả khẳng định: KT biển, QP, AN trên biển vừa là

vấn đề cơ bản lâu dài, vừa là vấn đề sống còn đối với nước ta; đồng thời, đây là vấn

đề nóng bỏng hiện nay. Bài viết đã đề cập tới thực trạng KT biển, QP, AN biển và

những vấn đề đặt ra. Trên cơ sở đó, bài viết đã đề xuất hệ thống các biện pháp: Một

là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của

biển, đảo và nhiệm vụ kết hợp phát triển KT biển với tăng cường QP, AN trên biển.

Hai là, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về biển, các vấn đề liên

quan tới biển, đảo, quản lý việc kết hợp phát triển KT biển với tăng cường QP, AN

bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Ba là, tăng cường xây dựng, bảo vệ biển, đảo trong

mọi tình huống. Bốn là, xây dựng thế trận QP, AN hoàn chỉnh, bảo vệ vững chắc

chủ quyền biển, đảo. Năm là, mở rộng hợp tác quốc tế, nhất là đối với các quốc gia

ở khu vực Biển Đông, góp phần gìn giữ hoà bình, thúc đẩy KT đất nước.

Tác giả Cấn Văn Lực, luận án tiến sĩ kinh tế “Nghiên cứu về phát triển

vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và tác động của nó đối với xây dựng tiềm

lực quốc phòng trên địa bàn QK7” [57] đã chỉ ra cơ sở lý luận, thực tiễn,

những giải pháp phát triển khu vực KT trọng điểm và sự tác động tích cực của

nó tới QP, AN. Đồng thời, xác định vùng KT trọng điểm là một vùng KT lớn,

tiềm ẩn nhiều nguồn lực có khả năng tạo ra sức bật mạnh, có sức hút lớn đối

với các lãnh thổ xung quanh, các nguồn lực từ bên ngoài, có lợi thế so với các

Page 29: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

29

vùng khác trong nước, bảo đảm đem lại các lợi ích to lớn cho toàn bộ nền KT

của đất nước nếu được đầu tư thích đáng và tổ chức hợp lý nền sản xuất trong

vùng. Tác giả luận án đã lập luận trên cơ sở khoa học về phát triển vùng KT

trọng điểm sẽ tác động mạnh tới tiềm lực QP, AN ở khu vực. Tuy nhiên, luận

án tập trung nhiều hơn về tiềm lực QP, tiền lực QP của Việt Nam được xây

dựng trên nền tảng của tiềm lực KT, tiềm lực KH - CN, tiềm lực chính trị, tinh

thần, tiềm lực QS. Trong đó, tiềm lực QS là tiêu biểu và là kết quả tổng hợp

của các tiềm lực, được xây dựng, tổ chức, quản lý vì lợi ích phòng thủ quốc

gia; mức độ huy động tiềm lực QP phụ thuộc vào mục đích, tính chất của sự

nghiệp phòng thủ đất nước, bản chất của chế độ CT - XH và trình độ phát

triển của LLSX. Các yếu tố tạo nên tiềm lực QS xét ở mức độ nền tảng phải

nói tới KT. Hệ thống lý luận chung này đều gắn với các mặt KT, XH trên địa

bàn QK7 với những nét đặc thù. Tác giả đã đi vào một lát cắt rất cơ bản trong

mối quan hệ KT với QP, AN, song chưa có điều kiện tập trung khai thác sự

kết hợp của 2 mặt KT - XH và AN, QP.

Tác giả Đinh Văn Huệ có bài viết: “Mấy suy nghĩ về kết hợp KT với

QP, AN trong vùng KT trọng điểm phía Nam” [48]. Trên cơ sở phân tích tình

hình của sự kết hợp KT với QP, AN, tác giả đã đề xuất phương hướng, mục

tiêu, yêu cầu thực hiện sự kết hợp KT với QP, AN ở vùng KT trọng điểm phía

Nam. Thực hiện kết hợp KT với QP, AN, QP, AN với KT ở vùng KT trọng

điểm phía Nam phải tạo điều kiện phát triển nhanh, ổn định, đồng bộ, tác

động tích cực tới toàn vùng, đảm bảo vững chắc cho QP, AN; sự kết hợp phải

hướng tới phát huy tối đa nội lực, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng, ưu tiên đầu tư

phát triển các tổ hợp công nghiệp có quy mô lớn, các ngành nghề lưỡng dụng về

QS, dân sự; phối hợp chặt chẽ các lực lượng từ Trung ương tới địa phương; thực

hiện có kế hoạch, với những bước đi thích hợp; sự kết hợp trong mối quan hệ thân

thiện, hữu cơ với môi trường; khắc phục sự tách rời hai mặt hoặc chung chung, trừu

Page 30: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

30

tượng, thiếu sự cụ thể cho từng mặt KT hoặc QP, AN. Tuy nhiên, hệ thống giải pháp

chưa thật sự mang tính đồng bộ.

1.2.2.2. Những công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến phát triển

kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới

phía Bắc

Liên quan đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc đã có nhiều công trình khoa học và đề tài đề cập với các hướng

tiếp cận khác nhau.

Các tác giả Tô Đức Hạnh và Phạm Văn Linh trong cuốn “Phát triển

kinh tế hàng hoá trong nông thôn các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam thực

trạng và giải pháp” [45] đã trình bầy một cách có hệ thống cơ sở lý luận,

thực tiễn về phát triển KT hàng hoá trong nông thôn; chỉ ra một số kinh

nghiệm của Đài Loan và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) trong phát triển KT

hàng hoá ở nông thôn vùng núi. Điểm chú ý là tập thể tác giả đã đưa ra một

hệ thống giải pháp phát triển KT hàng hoá nông thôn, đó là: thực hiện đa

dạng hoá các hình thức sở hữu ở nông thôn, tăng cường vai trò KT của Nhà

nước; mở rộng phân công lao động gắn với xây dựng cơ cấu KT hợp lý;

phát triển thị trường; xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn; phát

triển giáo dục, nâng cao dân trí gắn với đào tạo nguồn nhân lực; huy động

và sử dụng hợp lý các nguồn vốn cho phát triển KT hàng hoá; phát triển

khoa học công nghệ. Tuy nhiên, bài viết chưa đề cập đến việc phát triển KT

hàng hoá gắn với đảm bảo QP, AN ở các tỉnh miền núi phía Bắc.

Tác giả Trần Công Cửu trong đề tài “Định hướng và giải pháp kết hợp

phát triển KT - XH với QP - AN thời kỳ CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Hải

Dương” [23] đã đánh giá ưu điểm và hạn chế của sự kết hợp phát triển KT - XH

với QP, AN thời kỳ CNH, HĐH trên địa bàn. Ưu điểm: trong quy hoạch phát

triển KT - XH đã quan tâm đến việc kết hợp QP, AN; ngoài sản xuất phát triển

Page 31: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

31

KT - XH còn có khả năng cung cấp một số mặt hàng đảm bảo QP, AN; phong

trào đô thị hoá nông thôn, kiên cố hoá kênh mương, phát triển giao thông nông

thôn đã gắn với kế hoạch tác chiến phòng thủ địa phương; nền QP, AN, thế trận

QPTD gắn với thế trận ANND ngày càng vững chắc; triển khai chương trình QP,

AN theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIII bước đầu đạt kết quả tốt;

khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của Quân đội và Công an

được nâng lên… Bên cạnh đó, đề tài còn chỉ ra một số điểm hạn chế như: nhận

thức về kết hợp phát triển KT - XH với QP, AN ở một số ít cán bộ, nhân dân còn

hạn chế; trong Tỉnh còn có điểm phức tạp, tiềm ẩn nhân tố gây mất ổn định về

tình hình AN chính trị, trật tự an toàn XH. Từ cơ sở lý luận, thực tiễn, đề tài đã

xác định nội dung kết hợp KT - XH với QP, AN trong quy hoạch: kết hợp phát

triển KT - XH với QP, AN trên các vùng, địa bàn, lãnh thổ, trong các lĩnh vực,

ngành trọng điểm; xây dựng lực lượng, thế trận QP địa phương gắn với xây dựng

về lực lượng, thế trận ANND. Đề xuất các biện pháp cơ bản kết hợp phát triển

KT - XH gắn với QP, AN trong thời kỳ đổi mới (giai đoạn 2003 - 2020) đó là:

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của

chính quyền; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục QP nói chung,

kiến thức kết hợp KT - XH với QP, AN nói riêng; xây dựng quy hoạch tổng thể

và kế hoạch phát triển KT - XH kết hợp với QP, AN; xây dựng Tỉnh thành

KVPT vững chắc là điều kiện bảo đảm môi trường ổn định thúc đẩy phát triển

KT - XH; xây dựng cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm phát triển KT - XH kết

hợp với củng cố QP, AN của địa phương ngày càng vững mạnh. Tuy nhiên, đây

là đề tài đề cập ở phạm vi hẹp, việc xác định nội dung và giải pháp còn ở mức

độ, thiếu tính đồng bộ.

Tác giả Vũ Văn Tài, luận án tiến sĩ quân sự “Nghiên cứu xây dựng

các khu kinh tế quốc phòng trên biên giới phía Bắc” [65] đã đề cập tới hệ

thống các nội dung có ý nghĩa là lý luận cơ bản; chỉ ra thực tiễn xây dựng

các khu KT - QP trên biên giới phía Bắc đã thu được kết quả bước đầu, có

Page 32: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

32

ý nghĩa chiến lược quan trọng trong việc điều chỉnh lại dân cư, xây dựng

thế trận QP, AN, đẩy mạnh phát triển KT - XH. Tuy nhiên, vẫn còn những

hạn chế cả về nhận thức, mô hình, cơ cấu đầu tư; hạn chế về thực tiễn tổ

chức, quản lý và chất lượng, hiệu quả xây dựng các khu KT - QP. Trên cơ

sở đó, đề xuất một số giải pháp sát thực, khả thi cho việc xây dựng các khu

KT - QP trên biên giới phía Bắc như: giáo dục nâng cao nhận thức, năng

lực tổ chức và xây dựng; khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn vốn, vật tư kỹ

thuật, vận dụng sáng tạo cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy, hiệp đồng các

cấp và bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách, các văn bản, pháp luật cho

xây dựng các khu KT - QP các tỉnh biên giới phía Bắc. Từ đó, đề xuất các

kiến nghị cho các công trình khoa học tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên, luận

án mới dừng lại ở việc xây dựng các khu KT - QP trên địa bàn.

Tác giả Phạm Bằng Luân trong, luận án tiến sĩ kinh tế “Phát triển KT

trang trại và vai trò của nó đối với xây dựng tiềm lực QP ở các tỉnh Trung du

miền núi phía Bắc ” [56] đã trình bầy khá hệ thống những vấn đề lý luận, thực

tiễn về phát triển KT trang trại và phân tích làm rõ vai trò của KT trang trại

đối với xây dựng tiềm lực QP gắn với một địa bàn cụ thể là vùng Trung du

miền núi phía Bắc. Một trong những đóng góp mới của luận án là đã phân tích

làm rõ vai trò của phát triển KT trang trại đối với xây dựng tiềm lực QP ở các

tỉnh Trung du miền núi phía Bắc, đó là góp phần tăng cường các nguồn lực

trong khu vực nông nghiệp nông thôn; là bước tiến mới về QHSX trong nông

nghiệp, cơ sở quan trọng nâng cao tiềm lực chính trị - tinh thần cho nền

QPTD; thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật và công nghệ của

đất nước; góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, yếu tố quan trọng

cho duy trì, hoàn thiện năng lực và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các LLVT.

Tuy nhiên, luận án mới chỉ đề cập đến một vấn đề nhỏ trong lĩnh vực nông

nghiệp, chưa phán ánh đầy đủ bản chất vấn đề phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN.

Page 33: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

33

1.3. Những vấn đề rút ra từ tổng quan tình hình nghiên cứu

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án như

trên, có thể rút ra một số vấn đề mà luận án phải tập trung nghiên cứu đó là:

- Luận án cần tập trung nghiên cứu làm rõ hơn khuôn khổ lý thuyết về

phát triển KT - XH hội gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc;

làm rõ những khái niệm công cụ, xây dựng khái niệm trung tâm, trên cơ sở đó đi

vào nghiên cứu giải quyết những nhiệm vụ mà luận án đề ra.

- Nhìn chung các công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến

đề tài luận án mới chỉ đề cập đến việc phát triển KT gắn với QP. Trong

bối cảnh tình hình hiện nay cho thấy, KT luôn gắn bó chặt chẽ với XH,

QP luôn gắn bó chặt chẽ với AN. Chính vì vậy, vấn đề rút ra mà luận án

phải tập trung nghiên cứu ở đây là nghiên cứu một cách toàn diện trong

mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa KT với XH và QP với AN trong phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.

- Qua tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài cho

thấy, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu có liên quan trực tiếp

đến một địa bàn, thời kỳ, lĩnh vực, ngành nghề cụ thể ở một số tỉnh biên

giới phía Bắc, nhưng mới chỉ đề cập ở mức độ còn hạn chế, chưa có tính

hệ thống và toàn diện. Do đó, vấn đề rút ra mà luận án phải tập trung

nghiên cứu đó là nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện cả lý luận, thực

tiễn, tập trung phân tích, đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân và những

vấn đề đặt ra cần giải quyết trong quá trình phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề trên, luận án đề xuất quan điểm và

giải pháp phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới

phía Bắc một cách hệ thống, đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần xây dựng thành công và bảo vệ vững Tổ quốc

Việt Nam XHCN.

Page 34: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

34

Kết luận chƣơng 1

Các tỉnh biên giới phía Bắc là một địa bàn chiến lược quan trọng trong

sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN, sự phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển KT -

XH và QP, AN của cả nước. Việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP,

AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới vừa là vấn đề cơ bản

lâu dài, vừa là là vấn đề có tính cấp thiết.

Để kế thừa một cách có chọn lọc và phát triển từ các công trình khoa học

đã được công bố, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề

tài trên những nội dung cơ bản: kết hợp phát triển KT với việc bảo vệ nền độc

lập, giải quyết quan hệ dựng nước đi đối với giữ nước ở Việt Nam trong thời kỳ

Phong kiến; trình bày một cách lôgic quan điểm của Đảng, những vấn đề chung

của các nhà khoa học, các vấn đề cụ thể liên quan tới phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.

Nghiên cứu tổng quan các công trình khoa học trong nước và nước

ngoài có liên quan đế đề tài như trên, làm cơ sở cho hướng nghiên cứu tiếp

theo của luận án. Đó là những vấn đề có thể kế thừa, phát triển, tránh sự trùng

lặp. Những vấn đề rút ra mà luận án phải tập trung nghiên cứu là sự gợi mở cho

việc nghiên cứu để làm sáng rõ việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP,

AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới mới.

Page 35: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

35

Chƣơng 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

GẮN VỚI ĐẢM BẢO QUỐC PHÕNG, AN NINH

2.1. Khái niệm và nội dung phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm

bảo quốc phòng, an ninh

2.1.1. Khái niệm

Kinh tế - xã hội

Kinh tế là phạm trù xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử XH loài người. Có

nhiều cách quan niệm khác nhau về KT: KT là cơ sở của đời sống XH, là nhân tố

xét đến cùng quyết định sự tồn tại, phát triển của chế độ XH. KT là hệ thống tổ

chức nhằm sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Hoạt động KT là hoạt động

cơ bản, thường xuyên của XH loài người, bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất,

tái sản xuất ra của cải vật chất, nhằm thoả mãn nhu cầu của XH.

Kinh tế bao giờ cũng gắn liền với vấn đề XH. Sự gắn bó giữa KT với

vấn đề XH ngày càng chặt chẽ cùng với sự phát triển của KT. Bởi lẽ, khi con

người tham gia vào các hoạt động KT như: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu

dùng thì bao giờ con người cũng phải quan hệ với nhau, tạo thành mặt XH

trong các hoạt động ấy. Mặt khác, nếu xét ở tầm vĩ mô, XH vừa là mục tiêu

vừa là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển KT. Sự hài hoà trong phát triển KT và

phát triển XH quyết định sự phát triển của một quốc gia. Chính vì vậy, ở tất cả

các quốc gia, trong các nghiên cứu, trong chiến lược, chính sách phát triển,

phạm trù KT và phạm trù XH luôn gắn với nhau.

Đối với chế độ XH XHCN nói chung, ở Việt Nam nói riêng, muốn xây

dựng thành công CNXH trong thời kỳ mới, nhất thiết phải xây dựng, bảo vệ,

phát triển được nền KT đất nước. Phát triển KT là sự tăng trưởng KT đi kèm

với sự hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế KT và chất lượng cuộc sống. Ngày nay,

phát triển KT còn được bổ sung thêm tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm cao,

Page 36: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

36

phù hợp với sự biến đổi của nhu cầu XH, nhu cầu con người, bảo vệ môi trường,

bảo đảm công bằng XH. Sự phát triển không ngừng của sản xuất, của KT là cơ

sở của mọi sự phát triển trong đời sống XH. Theo đó, phát triển KT - XH là quá

trình gia tăng đồng thời cả KT, cả XH trong trạng thái đan xen vào nhau, hỗ

trợ, tạo điều kiện cho nhau theo chiều hướng tiến bộ, tích cực.

Qua đó cho thấy, phát triển không phải chỉ là sự gia tăng một mặt nào đó,

có khi sự gia tăng đó chưa hẳn đã là phát triển, thậm chí còn là sự thụt lùi. Chẳng

hạn, trong quá trình phát triển chỉ chú trọng tới sự tăng trưởng KT thuần tuý, bỏ

qua các vấn đề XH hay bỏ qua QP, AN… tất yếu sẽ dẫn đến làm KT với bất cứ

giá nào; hậu quả là phân hoá giầu nghèo, môi trường sinh thái bị phá huỷ, các

vấn đề XH nổi lên gay gắt, QP, AN không được đảm bảo… Đó không phải là sự

phát triển. Thế nhưng, sự đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, trước mắt chưa có sự

gia tăng lĩnh vực đó, nhưng nó tạo ra tiền đề thuận lợi cho sự gia tăng toàn diện,

hài hoà và bền vững của mọi mặt thì đó mới là sự phát triển.

Quốc phòng, an ninh

Quốc phòng là hoạt động xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước,

nhằm tạo ra sức mạnh để bảo vệ đất nước, bao gồm tổng thể các hoạt động:

chính trị, QS, văn hoá, XH, đối nội, đối ngoại của một quốc gia, nhằm mục đích

bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận

lợi để xây dựng đất nước. QP là hoạt động xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà

nước, do đó QP là một hiện tượng lịch sử, gắn liền với hiện tượng chiến tranh,

chỉ diễn ra khi XH còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp.

Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam: “Quốc phòng, công cuộc

giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối ngoại về

quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học… của nhà nước và nhân dân để

phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh

quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững hoà bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt

Page 37: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

37

động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới

mọi hình thức, quy mô. Quốc phòng trở thành hoạt động của cả nước, trong

đó LLVT làm nòng cốt. Quốc phòng phải kết hợp chặt chẽ với an ninh để bảo

vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Quốc phòng, an ninh phải kết hợp chặt chẽ với

kinh tế để bảo vệ và xây dựng đất nước. tổ chức quốc phòng của mỗi nước

phụ thuộc trực tiếp vào chế độ chính trị - xã hội, truyền thống dân tộc và

hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Nhiều nước quan niệm quốc phòng là một bộ

phận của an ninh quốc gia” [14, tr.848].

Qua đó cho thấy, QP là hoạt động xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà

nước nhằm tạo ra sức mạnh để bảo vệ đất nước. Hoạt động QP bao gồm tổng

thể các hoạt động: chính trị, quân sự, văn hoá, XH, đối nội, đối ngoại của một

quốc gia, nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh

thổ, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.

Quốc phòng là hoạt động của cả nước, trong đó LLVT là lực lượng nòng

cốt và phụ thuộc trực tiếp vào chế độ CT - XH của đất nước. Theo đó, QP Việt

Nam là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc Việt Nam;

trong đó, sức mạnh QS là đặc trưng, LLVT nhân dân làm nòng cốt. QS là lĩnh

vực hoạt động đặc biệt liên quan đến đấu tranh vũ trang, chiến tranh và quân đội,

là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. QP Việt

Nam được hình thành, phát triển trong lịch sử dựng nước, giữ nước trước đây và

đang được kế thừa, phát triển trong công cuộc xây dựng, BVTQ hiện nay và mai

sau. Tất cả các hoạt động QP luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam, sự điều hành quản lý của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam; đồng

thời, kế thừa biện chứng những giá trị truyền thống trong suốt chiều dài hơn

4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Trong thời kỳ mới, QP phải luôn kết hợp chặt chẽ với các lĩnh vực: AN,

đối ngoại để bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt

Nam chủ trương xây dựng lực lượng và thế trận QPTD gắn với xây dựng lực

Page 38: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

38

lượng và thế trận ANND. QP, AN phải kết hợp chặt chẽ với KT - XH để bảo

vệ và xây dựng đất nước.

“An ninh là trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm đe

doạ sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh

vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội. Có an ninh quốc gia, an ninh chính trị,

an ninh quân sự, an ninh kinh tế… Duy trì an ninh toàn diện là điều kiện để phát

triển xã hội” [14, tr.25]. Ở đây, tập trung vào AN quốc gia: “An ninh quốc gia là

trạng thái ổn định vững chắc của chế độ chính trị - xã hội, chủ quyền quốc gia

được toàn vẹn. ANQG bao gồm: an ninh kinh tế, an ninh chính trị, an ninh quân

sự, an ninh văn hoá - tư tưởng và trật tự an toàn xã hội, trong đó an ninh chính trị

làm nòng cốt, xuyên suốt trong sự kết hợp chặt chẽ với quốc phòng và công tác

đối ngoại; có nước quan niệm ANQG bao gồm cả quốc phòng. ANQG được quyết

định bởi nhiều yếu tố: sự đúng đắn của đường lối chính trị (cả đối nội và đối

ngoại); năng lực lãnh đạo của chính đảng cần quyền; vai trò quản lý xã hội của

nhà nước; sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế, văn hoá, xã hội; sức

mạnh quốc phòng mà nòng cốt là sức mạnh QS, an ninh; ý thức chính trị của toàn

dân… trong đó vai trò lãnh đạo của chính đảng cầm quyền giữ vai trò quyết định.

Bảo vệ ANQG được xác định là một nhiệm vụ trọng yếu của mọi quốc gia. Ở VN,

bảo vệ ANQG thuộc trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó

CAND và QĐND là lực lượng nòng cốt” [14, tr.26].

Qua khái niệm QP và AN cho thấy, QP và AN tuy là những phạm trù

khác nhau, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó, đan xen, hỗ trợ nhau trong

quá trình gìn giữ hoà bình, đẩy lùi nguy cơ, BVTQ và chế độ. Vì vậy, trong

nghiên cứu, trong chiến lược, chính sách của đất nước, phạm trù QP và phạm

trù AN thường gắn với nhau.

Bảo đảm quốc phòng, an ninh

Đảm bảo QP, AN hiểu một cách khái quát nhất đó là tổng thể các quá

trình, biện pháp của Nhà nước và nhân dân được tiến hành trong điều kiện

Page 39: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

39

phát triển nền KT thị trường định hướng XHCN, nhằm thoả mãn các nhu cầu

tổng thể cho các hoạt động QP, AN, bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, quá trình đảm bảo QP, AN không phải là công việc riêng của

Nhà nước, mà cần phải coi đó là trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của Nhà

nước và nhân dân, của các thành phần KT, các tầng lớp dân cư. Mọi người

dân, mọi thành phần KT và tổ chức KT - XH trên đất nước ta nói chung, ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng đều có nghĩa vụ và quyền lợi cùng

với Nhà nước chăm lo đảm bảo QP, AN, bảo vệ Tổ quốc. Đó là một trong

những biểu hiện quan trọng của đường lối QPTD, ANND, chiến tranh nhân

dân bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta. Đường lối đó đã, đang và sẽ

được thực hiện có hiệu quả trên đất nước ta nói chung, ở một số tỉnh biên giới

phía Bắc nói riêng trong thời kỳ mới.

Với cách hiểu đảm bảo QP, AN như trên, đã thể hiện một cách khá toàn

diện. Đó là sự đảm bảo một cách tổng thể các nhu cầu của hoạt động QP, AN bảo

vệ Tổ quốc đều do Nhà nước và nhân dân ta tiến hành. Trong thời kỳ mới, nhiệm

vụ QP, AN của ta đang có nhiều đòi hỏi mới, hoạt động QP, AN không chỉ nhằm

đánh thắng kẻ thù xâm lược bằng vũ trang, mà còn phải đánh thắng kẻ thù phá

hoại đất nước ta bằng chiến lược ”DBHB”, BLLĐ, các hoạt động phá hoại phi

vũ trang..., hoạt động QP, AN không chỉ nhằm giữ vững lãnh thổ, bao gồm: trên

bộ, trên không, trên biển, mà còn phải nhằm giữ vững chế độ XH mà Đảng, nhân

dân ta đã và đang xây dựng. Đảm bảo QP, AN ở nước ta nói chung, ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc nói riêng phải đáp ứng được yêu cầu mới đó giành thắng lợi.

Với cách hiểu khái quát về đảm bảo QP, AN như trên, còn cho thấy, đặc

điểm của đảm bảo QP, AN trong giai đoạn hiện nay, trong điều kiện phát triển

KT thị trường định hướng XHCN, đặc điểm này đã và đang chi phối mạnh mẽ

đến phương thức hay cách thức đảm bảo. KT thị trường với đặc trưng cơ bản

là trao đổi ngang giá, mọi chi phí trong hoạt động KT đều phải tính toán và

Page 40: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

40

hoạch toán đầy đủ. Trong lĩnh vực QP, AN lại diễn ra theo những quy luật

riêng của nó. Vì nhiệm vụ QP, AN có khi phải thực hiện đảm bảo bằng mọi

giá. Tuy vậy, trong điều kiện phát triển KT thị trường, việc đảm bảo QP, AN

cần phải cân nhắc tính toán cụ thể, vừa đảm bảo lợi ích QP, AN, vừa phải đạt

tính hiệu quả cao xét về mặt KT - XH. Hơn thế nữa, bên cạnh mặt tích cực

của nền KT thị trường, bản thân nó cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Việc đảm

bảo QP, AN cần phải biết khai thác mặt tích cực và tìm cách khắc phục những

mặt hạn chế đó

Khi bàn về tính khách quan hay vai trò của phát triển KT - XH với đảm

bảo QP, AN, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã cho rằng, đây là

một mặt công tác gắn liền với sự ra đời của giai cấp và đấu tranh giai cấp. Ở

đâu có giai cấp và đấu tranh giai cấp, ở đó còn phải duy trì và củng cố LLVT.

Theo đó, tất yếu có hoạt động đảm bảo các nhu cầu tổng thể, đảm bảo cho các

hoạt động của LLVT, bảo vệ Tổ quốc. Ph.Ăngghen viết: “Toàn bộ tổ chức và

phương thức chiến đấu của quân đội, và do đó thắng lợi và thất bại, đều tỏ ra

là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất

liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào số lượng và chất lượng của dân

cư và của kỹ thuật” [2, tr.241]. V.I Lênin cũng có những luận điểm nổi tiếng

nói về tính khách quan hay vai trò của công tác đảm bảo cho các LLVT, Ông

viết: ”Một quân đội giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp

cách mạng cũng sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang tiếp

tế lương thực và huấn luyện một cách đầy đủ” [53, tr.497].

Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta có thể khẳng định rằng,

cái trục xuyên suốt của lý luận phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN chính

là từ mối quan hệ giữa KT với chiến tranh và QP. Đảm bảo QP, AN là nhân tố hết

sức quan trọng tạo nên sức mạnh quân sự, sức mạnh QP, AN của mỗi quốc gia,

cũng như của mỗi KVPT. Khả năng và mức độ đảm bảo QP, AN phụ thuộc chặt

Page 41: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

41

chẽ vào tình hình KT của đất nước. V.I Lênin viết: “Mối liện hệ giữa tổ chức quân

sự của một đất nước với toàn bộ chế độ kinh tế và văn hoá của nước ấy chưa bao

giờ lại hết sức chặt chẽ như ngày nay” [54, tr.192].

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

Kinh tế - XH và QP, AN là những phạm trù khác nhau, nếu xét ở mục tiêu

tổng quát, chúng đều nhằm thực hiện mục tiêu chung của giai cấp thống trị, của

nhà nước, nếu xét ở mặt kỹ thuật và những hoạt động cụ thể, giữa chúng cũng có

những mặt tương hợp. Tuy nhiên, xem xét về mặt lịch sử và đặc điểm thuần tuý

của mỗi lĩnh vực, giữa chúng có sự khác nhau. Nếu như KT - XH tồn tại cùng với

sự tồn tại và phát triển của con người và XH loài người, thì QP chỉ là một hiện

tượng lịch sử, là một mặt hoạt động của XH gắn liền với sự phân chia XH thành

các giai cấp đối kháng, với sự tồn tại các nguy cơ xảy ra chiến tranh xâm lược.

Nếu như KT - XH hoạt động theo hệ thống quy luật KT và quy luật vận động của

XH, thì QP, AN lại hoạt động theo hệ thống quy luật đấu tranh vũ trang. Do đó,

KT là hoạt động tạo ra của cải vật chất, ngược lại QP, AN lại là hoạt động cần thiết

phải tiêu dùng, thậm chí là tiêu dùng lớn của cải vật chất do KT tạo ra.

Với mục tiêu chung và sự khác biệt như trên, do đó trong lịch sử các

nhà nước tìm cách kết hợp hai lĩnh vực này trong chiến lược, chính sách,

nhiệm vụ xây dựng và phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Đồng

thời, sự gắn kết ấy ngày càng sâu rộng và có hiệu quả cùng với sự tiến bộ của

kỹ thuật công nghệ cũng như tính ưu việt của chế độ KT - XH, nhằm làm cho

hai lĩnh vực này vừa bổ sung cho nhau, thúc đẩy nhau phát triển để tạo ra các

tiềm lực và sức mạnh quốc gia, thực hiện thắng lợi mục tiêu của nhà nước và

dân tộc, vừa giảm thiểu được mâu thuẫn về mặt KT thuần tuý.

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là một tất yếu lịch sử, một

hoạt động của Nhà nước và XH ở Việt Nam, dựa trên cơ sở nhận thức được

quy luật khách quan. Sự Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đã trải

Page 42: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

42

qua một quá trình nhận thức lâu dài. Trước đây, chúng ta chỉ hiểu nó trong

mối quan hệ kết hợp giữa hai lĩnh vực KT với QP và ngược lại QP với KT,

trong đó đặc trưng của sự kết hợp là nhằm đem lại tính “lưỡng dụng” phục vụ

cho việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ. Quá trình

nhận thức ngày càng phát triển, mối quan hệ kết hợp không chỉ dừng lại ở hai

lĩnh vực đó, mà còn được đan xen mở rộng: KT gắn với XH và QP gắn với

AN; do vậy, phạm trù KT với QP đã được thay thế bằng thuật ngữ “KT - XH

với QP, AN” lần đầu tiên được Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng trong các

văn kiện từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đến nay. Đó là sự khái quát

phản ánh tư duy mới về nội hàm của sự gắn kết đầy đủ, rộng lớn phù hợp với

sự phát triển của thời kỳ mới.

Trong thời kỳ mới, với đường lối xây dựng nền QPTD và chiến tranh

nhân dân cho thấy, nhiệm vụ QP, AN nói riêng và phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN nói chung không phải chỉ riêng Nhà nước mà là của toàn dân.

Hiện nay, chúng ta thực hiện nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

QP, AN trong một cơ chế hoàn toàn khác trước, do vậy mặc dù nội dung đảm

bảo QP, AN không đổi, song phương thức tiến hành phải khác. Trong thời kỳ

mới, đối tượng QP, AN của Việt Nam cũng có sự phát triển mới. CNĐQ và các

thế lực thù địch đã, đang chuyển từ chiến lược dùng bạo lực vũ trang là chính sang

sử dụng các biện pháp phi vũ trang, thực hiện chiến lược “DBHB”, BLLĐ đối với

các nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam... Do vậy, việc phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN phải đề cập đến cả việc đảm bảo QP, AN sẵn sàng đáp

ứng tốt với cả các thủ đoạn phi vũ trang của địch.

Với cách hiểu trên: Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là những

hoạt động chủ động, tự giác của Đảng, Nhà nước, nhân dân, LLVT và các thành

phần KT, để thực hiện sự thống nhất hữu cơ giữa các hoạt động phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN; mỗi bước phát triển KT - XH phải gắn với việc đảm

Page 43: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

43

bảo QP, AN, xuất phát từ lợi ích quốc gia để tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo

vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Khái niệm trên cho thấy, đã bao hàm nội dung của phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN là sự gắn kết một cách tổng thể, mỗi bước phát

triển KT - XH phải luôn gắn kết với việc đảm bảo QP, AN, xuất phát từ lợi ích

quốc gia để tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc, không thể có KT

thuần tuý, không thể có KT tách khỏi bảo vệ Tổ quốc.

Mục tiêu tổng quát của phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là

tăng tính hiệu quả tổng hợp của cả phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN

trong từng lĩnh vực hoạt động.

Chủ thể của phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là toàn Đảng,

toàn dân, LLVT và các thành phần KT. Dựa trên cơ sở luật pháp và nhận thức,

vận dụng đúng quy luật của từng lĩnh vực, đặc điểm, yêu cầu của từng giai

đoạn, để Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành cơ sở pháp lý, chủ trương,

chính sách phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN phù hợp.

Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, tất cả các

hoạt động của các lĩnh vực, các ngành, của mọi tầng lớp nhân dân, từng địa

phương phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, vì lợi ích quốc gia; lấy lợi ích quốc

gia làm mục tiêu hàng đầu.

Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một

số tỉnh biên giới phía Bắc

Từ những vấn đề trên, có thể khái quát thực chất phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc là những hoạt

động chủ động, tự giác của Đảng bộ, chính quyền địa phương các cấp,

các tỉnh, của từng cơ sở và toàn dân, toàn quân dựa trên cơ sở pháp

luật, tinh thần yêu nước, đặc điểm, yêu cầu của từng tỉnh để thực hiện sự

thống nhất hữu cơ giữa các hoạt động phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN, hướng tới sự phát triển ổn định bền vững KT - XH gắn với

Page 44: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

44

đảm bảo QP, AN trên cơ sở đảm bảo lợi ích của từng địa phương và lợi

ích quốc gia để tạo thành sức mạnh tổng hợp, góp phần thực hiện thắng

lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trên địa

bàn mỗi tỉnh.

Như vậy, thực chất phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một

số tỉnh biên giới phía Bắc là việc chủ động thực hiện sự gắn kết các hoạt động

phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN thành một thể thống nhất hữu cơ,

làm cho mục tiêu, lợi ích phát triển KT - XH gắn kết chặt chẽ với mục tiêu,

lợi ích đảm bảo QP, AN ngay trong từng nhiệm vụ, từng bước phát triển; mỗi

bước phát triển KT - XH là yếu tố quyết định đến QP, AN được đảm bảo vững

chắc; QP, AN được đảm bảo vững chắc sẽ tạo ra môi trường hoà bình, ổn định

cho phát triển KT - XH, hướng tới sự phát triển ổn định bền vững KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN, tạo thành sức mạnh tổng hợp của từng địa phương,

của quốc gia góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây

dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trên địa bàn mỗi tỉnh.

Mục tiêu tổng quát của phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc là tăng tính hiệu quả tổng hợp của cả phát triển

KT - XH và đảm bảo QP, AN trong từng lĩnh vực hoạt động trên địa bàn một

số tỉnh biên giới phía Bắc.

Chủ thể của phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số

tỉnh biên giới phía Bắc là Đảng, Nhà nước, các bộ, ban, ngành, LLVT và

toàn dân mà trực tiếp là Đảng bộ, chính quyền địa phương, các ngành, lĩnh

vực, các thành phần KT, các cơ sở, đơn vị, toàn dân và LLVT trên địa bàn

một số tỉnh biên giới phía Bắc. Dựa trên cơ sở luật pháp và nhận thức, vận

dụng đúng quy luật của từng lĩnh vực, đặc điểm, yêu cầu của của từng giai

đoạn trên địa bàn từng tỉnh, để Đảng bộ, chính quyền từng tỉnh xây dựng

và ban hành cơ sở pháp lý, chủ trương, chính sách phát triển KT - XH gắn

Page 45: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

45

với đảm bảo QP, AN phù hợp. Vai trò các chủ thể trong phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc được thể hiện cụ

thể trong từng giai đoạn: giai đoạn đầu chủ thể giữ vai trò quan trọng là

Đảng, Nhà nước, các bộ, ban ngành và toàn dân; về lâu dài, chủ thể giữ vai

trò quyết định trực tiếp là Đảng bộ, chính quyền địa phương, các ngành,

lĩnh vực, các thành phần KT, các cơ sở, đơn vị, toàn dân và LLVT trên địa

bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Quá trình phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN phải luôn gắn kết với

nhau thành một thể thống nhất, mỗi bước phát triển KT - XH phải luôn gắn

kết với việc đảm bảo QP, AN bảo vệ Tổ quốc, không thể có KT thuần tuý,

không thể có KT tách khỏi bảo vệ Tổ quốc. Trong quá trình thực hiện phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc phải

xuất phát từ lợi ích quốc gia, vì lợi ích quốc gia; lấy lợi ích quốc gia làm mục

tiêu hàng đầu.

2.1.2. Nội dung

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN được thể hiện trên nhiều

nội dung, luận án tập trung làm rõ những nội dung cơ bản sau:

2.1.2.1. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an

ninh trong quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực hiện

Công tác quy hoạch, kế hoạch có vai trò rất quan trọng trong phát

triển KT - XH và QP, AN. Sự phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

phụ thuộc rất lớn vào công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức

thực hiện. Chính vì vậy, việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực

hiện phải đảm bảo khoa học và tính khả thi cao, có như vậy mới phát huy tốt

nhất các nguồn lực: con người, tài chính, vật tư cho phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN. Đó cũng là một trong những nhân tố đảm bảo cho

quá trình nâng cao hiệu quả, khắc phục những tiêu cực, lãng phí, thiếu

Page 46: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

46

trách nhiệm trong quá trình thực hiện của các tổ chức và cá nhân... nhằm

thúc đẩy nhanh quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN một

cách hài hoà, đạt hiệu quả cao, vững chắc trong từng lĩnh vực, từng gia i

đoạn phát triển phù hợp với tình hình thực tiễn.

Để nội dung phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong quy

hoạch, kế hoạch và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao, vấn đề quan trọng đặt ra

đó là, trong công tác quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển KT - XH, quy

hoạch phát triển ngành, lĩnh vực có thể trong thời gian 05 năm, 10 năm và phải

có tầm nhìn chiến lược 10 năm, 20 năm, thậm chí là dài hơn nữa. Công tác quy

hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH phải gắn kết chặt chẽ với công tác quy

hoạch, kế hoạch đảm bảo QP, AN, cụ thể là trong xây dựng thế trận QPTD, thế

trận ANND, gắn thế trận QPTD với thế trận ANND và xây dựng KVPT tỉnh,

thành phố cũng như xây dựng thế trận QS trong KVPT tỉnh, thành phố.

Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với BCA và các địa phương lập quy

hoạch tổng thể các cơ sở thuộc lĩnh vực QP như: hệ thống CNQP, hệ

thống cảng, kho bãi, xây dựng đồn biên phòng, đường tuần tra biên giới...

Chỉ đạo Bộ chỉ huy QS các tỉnh, thành phố xây dựng, rà soát, điều chỉnh,

bổ sung, hoàn thiện kế hoạch phòng thủ, trình cấp có thẩm quyền phê

duyệt. Quy hoạch hệ thống các đồn, trạm biên phòng ở toàn tuyến biên

giới và hải đảo, xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ nhu cầu đảm bảo QP,

AN và phát triển KT - XH vùng biên giới đất liền đến năm 2020 và định

hướng đến năm 2030, trình Chính phủ phê duyệt.

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với BQP, các ngành có liên quan, các địa

phương xây dựng các đề án: Đảm bảo AN, trật tự an toàn XH phục vụ cho

phát triển KT - XH. Cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả phòng, chống tội

phạm và các tệ nạn XH, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, cờ bạc, buôn bán phụ

nữ và trẻ em qua biên giới...

Page 47: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

47

Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố căn cứ vào Nghị quyết của Bộ

Chính trị, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan rà soát lại quy hoạch tổng thể,

phát triển KT - XH, quy hoạch các khu KT tổng hợp, khu KT cửa khẩu, khu

công nghiệp, khu vui chơi giải trí, hệ thống các đô thị và khu dân cư trên địa

bàn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Xây dựng kế hoạch đầu tư

cụ thể của từng địa phương; trong đó, xác định rõ các lĩnh vực được ưu tiên,

giải pháp về huy động và sử dụng vốn cho từng chương trình, dự án. Phối hợp

với BQP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai các dự án đầu tư xây dựng kết cấu

hạ tầng các vùng biên giới, ven biển, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; đồng

thời, phối hợp với BCA thực hiện dự án tăng cường trang thiết bị, phương tiện

và lực lượng cho công an cơ sở trên các địa bàn đó.

2.1.2.2. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an

ninh trong xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý

Cơ cấu KT có sự gắn kết chặt chẽ KT với QP phải được thể hiện ở sự

phù hợp trong quy hoạch, bố trí và xây dựng hệ thống chiến lược về KT và

QP. Đó chính là việc quy hoạch bố trí sản xuất, phân vùng KT, phân bố lại

dân cư, thực hiện sự gắn kết lao động với đất đai và tài nguyên, lực lượng

chiến đấu, phương tiện vật chất với điều kiện địa hình một cách khoa học, hợp

lý trong những vùng KT, những ngành KT và thành phần KT, đảm bảo ở đâu

cũng có lực lượng xây dựng KT và lực lượng sẵn sàng chiến đấu, BVTQ. Ở

đây, sự phát triển đòi hỏi mỗi ngành KT đều có điều kiện phục vụ tốt nhất KT

cho cả phát triển KT, đời sống và cho cả đảm bảo QP, AN; mỗi vùng chiến

lược về KT là vùng hậu phương đã được chuẩn bị; cơ cấu thành phần KT phải

được duy trì một cách hợp lý.

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong xây dựng cơ cấu

KT hợp lý đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa lợi ích phát triển KT - XH với

yêu cầu đảm bảo QP, AN trong cơ cấu lao động XH. Đó chính là việc phân

Page 48: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

48

bố và phân công lại lao động XH; đào tạo, sử dụng lực lượng lao động theo

hướng CNH, HĐH mà vẫn đáp ứng được mọi nhu cầu nhân lực cho công

cuộc xây dựng quân đội, củng cố QP, AN; cơ cấu KT đó thể hiện ở sự thống

nhất giữa cơ sở vật chất - kỹ thuật nói chung với cơ sở vật chất - kỹ thuật

của QP, AN nói riêng.

Thực chất, đó chính là sự gắn kết yêu cầu phát triển LLSX, khoa học, kỹ

thuật, đổi mới trang bị kỹ thuật cho các ngành KT với việc hiện đại hoá lực

lượng QP, xây dựng và phát triển một hệ thống CNQP, một nền khoa học QS

hiện đại nằm trong nền công nghiệp quốc gia.

Trong điều kiện của nền KT thị trường định hướng XHCN hiện nay, nội

dung phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong xây dựng cơ cấu KT

hợp lý còn bao hàm cả việc duy trì một cơ cấu thành phần KT hợp lý nhằm đảm

bảo định hướng XHCN, đồng thời khuyến khích tất cả các thành phần KT tham

gia thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH, góp phần xây dựng phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN trong thời kỳ mới.

2.1.2.3. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an

ninh trong các ngành, các lĩnh vực chủ yếu

Trước hết, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong ngành

công nghiệp. Đây là nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, được quy định

bởi vai trò của nền công nghiệp, bao gồm cả công nghiệp dân dụng và CNQP

đối với sự phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN của mỗi tỉnh. Trong công

nghiệp cần quy hoạch, bố trí các doanh nghiệp, công ty của ngành công

nghiệp một cách hợp lý, quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng KT kém phát

triển, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, làng nghề ở nông thôn. Đồng thời, cần

chú trọng khai thác khả năng của công nghiệp phục vụ nhu cầu QP, AN, tiến

tới đẩy mạnh phát triển các ngành, các lĩnh vực và cơ sở công nghiệp mang

tính lưỡng dụng cao. Đẩy mạnh phát triển CNQP theo hướng vừa phục vụ nhu

Page 49: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

49

cầu QP, AN, vừa phục vụ nhu cầu phát triển KT - XH. Tích cực khai thác

năng lực của các cơ sở CNQP hiện có phục vụ nhu cầu dân sinh và nhu cầu

QP, AN. Từng bước đổi mới mô hình tổ chức, cơ chế quản lý và công nghệ

nhằm thực hiện tốt nhất việc lưỡng dụng hoá nền công nghiệp. Tập trung xây

dựng một số cơ sở CNQP then chốt do quân đội trực tiếp quản lý.

Trong thời kỳ mới, cùng với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển

KT tri thức, đặt ra yêu cầu cấp thiết, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN một cách hiệu quả, theo hướng tăng tính

“lưỡng dụng” trong quá trình xây dựng, phát triển các cơ sở công nghiệp, nhất là

các cơ sở cơ khí chế tạo, hoá nổ, các ngành công nghiệp phụ trợ, viễn thông, vật

liệu mới... Tập trung vốn Nhà nước, vốn của các tỉnh và có cơ chế thích hợp thu

hút đầu tư nước ngoài để xây dựng một số cơ sở mạnh về chế tạo động cơ tàu

thuỷ, ô tô và tiến tới các loại động cơ phục vụ ngành hàng không, sản xuất vật liệu

mới, vật liệu nổ… phục vụ nhu cầu phát triển KT - XH và nhu cầu đảm bảo QP,

AN. Khai thác tốt khả năng của công nghiệp dân dụng đảm bảo nhu cầu QP, AN

và khả năng của CNQP đáp ứng nhu cầu dân sinh theo cơ chế thị trường, cạnh

tranh, có sự quản lý của Nhà nước. Phối hợp với các bộ, ngành của Nhà nước và

các tỉnh từng bước đưa CNQP thành một bộ phận công nghiệp quốc gia. Trong

bố trí phải tính toán đến khả năng cơ động của các cơ sở CNQP, công nghiệp lư-

ỡng dụng quan trọng một cách hợp lý, bí mật. Đối với các cơ sở công nghiệp

thuộc khu vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cần phải có những

chế tài đủ mạnh để những quy định của pháp luật liên quan đến QP, AN, trật tự

và an toàn XH được thực hiện một cách nghiêm túc.

Thứ hai, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong nông, lâm,

ngư nghiệp. Đây là một nội dung có ý nghĩa quan trọng, góp phần đảm bảo cho

sự nghiệp xây dựng và BVTQ giành thắng lợi. Với nội dung phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN trong nông, lâm, ngư nghiệp, trước hết cần phải có quy

Page 50: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

50

hoạch phát triển các vùng lúa, vùng rau, màu, vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm;

quy hoạch diện tích rừng và phát triển ngư nghiệp, vùng ven biển một cách vững

chắc. Đồng thời, cần có chính sách đầu tư KH - CN tiên tiến, cung cấp các loại

giống và các điều kiện thâm canh tăng năng suất, bảo đảm cho các loại sản phẩm

được tạo ra có giá trị KT cao. Gắn bó giữa phát triển sản xuất nông, lâm, ngư

nghiệp với xây dựng nông thôn mới, làm cho bộ mặt các vùng nông thôn thay

đổi một cách cơ bản. Làm cho đồng bào các dân tộc và nhân dân các vùng nông

thôn trên địa bàn mỗi tỉnh ngày càng thêm gắn bó với đảng bộ và chính quyền

địa phương, nâng cao tinh thần đoàn kết gắn bó giữa quân với dân, nâng cao

tiềm lực, sức mạnh QP, AN trên địa bàn đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng

và bảo vệ biên giới, BVTQ trên chính quyền hương mình.

Để phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong nông, lâm, ngư nghiệp

đạt hiệu quả, cần phải quy hoạch và có chính sách thúc đẩy phát triển KT - XH vùng

nông thôn gắn với đảm bảo tiềm lực và sức mạnh QP, AN trên từng mũi, từng

hướng của KVPT tỉnh, thành phố. Phát triển KT - XH vùng và tiểu vùng trên địa

bàn các tỉnh, thành phố là một nội dung quan trọng hàng đầu trong công tác xây

dựng KVPT tỉnh, thành phố. KT - XH từng vùng, tiểu vùng phát triển, bảo đảm

cho KT - XH mỗi tỉnh phát triển, là điều kiện tiên quyết để xây dựng KVPT tỉnh

vững mạnh về mọi mặt. Đồng thời, KVPT tỉnh vững mạnh về mọi mặt, AN được

giữ vững là điều kiện quan trọng hàng đầu để đẩy mạnh đổi mới, thu hút đầu tư,

phát triển KT - XH từng vùng và của các tỉnh. Vì thế, phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN, làm cho KT - XH và QP, AN cùng mạnh lên, KVPT tỉnh

mạnh lên là yêu cầu khách quan mang tính nội sinh và cấp bách của mỗi vùng

cũng như của mỗi tỉnh trên địa bàn cả nước.

Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong

nông, lâm, ngư nghiệp cần lấy hiệu quả phát triển KT - XH gắn với yêu cầu

đảm bảo QP, AN làm cơ sở cho những chủ trương phát triển cụ thể của từng

Page 51: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

51

vùng. Phải tạo được sự bố trí về ngành nghề, cơ sở KT, lao động, dân cư, hạ

tầng, tài nguyên trên từng vùng phù hợp với yêu cầu phát triển KT - XH và

đảm bảo QP, AN trên từng hướng, từng địa bàn, nhất là những hướng, địa bàn

quan trọng, chiến lược vùng biên giới, hải đảo. Chuẩn bị tốt cả về KT - XH và

QP, AN cho chiến tranh bảo vệ trên địa bàn từng vùng và toàn địa bàn biên

giới ngay trong thời bình, làm cho mỗi vùng trở thành một trung tâm KT - XH

và là một phòng tuyến về QP, AN, đủ sức để thực hiện làng giữ làng, huyện

giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh, cả tuyến biên giới trở thành một pháo đài vững chắc,

kiên cường nếu chiến tranh xâm lược sảy ra.

Thứ ba, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong giao thông,

bưu chính viễn thông, xây dựng cơ bản cần được tính toán, xem xét cụ thể cả

mục tiêu phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN ngay từ khi lập quy hoạch, kế

hoạch xây dựng, sửa chữa nâng cấp các tuyến giao thông, đường bộ, đường sắt,

đường không, đường biển, hệ thống kho bãi… trên từng tỉnh, từng hướng chiến

lược, tạo nên mạng lưới giao thông liên hoàn ở tất cả các cấp từ xã đến huyện,

tỉnh… Trong thời bình, mạng giao thông vận tải chủ yếu phục vụ công cuộc phát

triển KT - XH các tỉnh, khi chiến tranh xảy ra phục vụ tốt nhất cho vận chuyển

vật chất, cơ động lực lượng, phương tiện phục vụ chiến tranh. Trong quá trình

đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KT tri thức, đẩy mạnh hội nhập quốc tế

cả bề rộng lẫn chiều sâu, đây là lĩnh vực sẽ tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, thu

hút nhiều vốn, nhân lực, tác động mạnh mẽ đến KT - XH và QP, AN. Những công

trình được xây dựng phải thúc đẩy phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN;

gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu KT - XH với mục tiêu QP, AN ngay từ đầu; từ

trong thiết kế, quy hoạch dự án đầu tư đến quá trình thi công xây dựng. Khi xây

dựng công trình, nhất là các công trình trọng điểm trên tuyến biên giới và trên

địa bàn từng tỉnh, cần tính đến khả năng tự bảo vệ và được bảo vệ, tính đến khả

năng chuyển hoá phục vụ cho các nhiệm vụ đảm bảo QP, AN khi có nhu cầu,

Page 52: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

52

đặc biệt là khi có chiến tranh xảy ra; phải tính toán đến nhu cầu và nhiệm vụ

phòng thủ dân sự, phòng thủ của các tỉnh và các LLVT đóng quân trên địa bàn;

trong quá trình xây dựng các khu KT cửa khẩu, các đô thị mới cần gắn với các

KVPT, coi trọng xây dựng các công trình ngầm trong điều kiện có thể.

Thứ tư, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong lĩnh vực khoa

học - công nghệ, giáo dục - đào tạo. Khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo có

tác động trực tiếp và toàn diện đến mọi lĩnh vực của đời sống XH, bao gồm cả

KT - XH và QP, AN. Cùng với khoa học - công nghệ, giáo dục - đào là động lực

thúc đẩy phát triển KT - XH và QP, AN. Động lực đó sẽ được tăng lên khi

khoa học - công nghệ, giáo dục - đào của lĩnh vực dân dụng được gắn kết chặt

chẽ lĩnh vực QP, AN. Do đó, việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP,

AN trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, giáo dục - đào là yêu cầu khách

quan, cấp thiết trong xây dựng và BVTQ. Quá trình đẩy mạnh phát triển

khoa học - công nghệ, giáo dục - đào cần phải chú trọng tới tính “lưỡng

dụng”, trong công tác đào tạo nguồn nhân lực vừa phục vụ nhu cầu phát

triển KT - XH, vừa có thể đáp ứng nhu cầu đảm bảo nguồn nhân lực cho

QP, AN. Cần có cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác về

KH - CN và GD - ĐT giữa hai lĩnh vực dân dụng và QP, AN. Tận dụng tối

đa cơ sở vật chất kỹ thuật, phòng thí nghiệm, các kết cấu hạ tầng khác và

các nhà khoa học của cả hai lĩnh vực phục vụ cho công tác nghiên cứu KH - CN

và GD - ĐT đáp ứng nhu cầu cho cả hai lĩnh vực phát triển KT - XH và đảm bảo

QP, AN. Đồng thời, triển khai ứng dụng nhanh các thành tựu mới về KH - CN và

GD - ĐT nhằm thúc đẩy phát triển cả hai lĩnh vực KT - XH và QP, AN.

Trong giai đoạn hiện nay, một trong những nội dung tất yếu đặt ra là phải

đẩy mạnh phát triển KH - CN và GD - ĐT ngang tầm. Muốn vậy, phải chú ý ngay

từ đầu việc gắn kết phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN. Trong chiến lược, kế

hoạch phát triển KH - CN và GD - ĐT của cả hai lĩnh vực KT - XH và QP, AN

Page 53: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

53

cần phải thể hiện rõ sự gắn kết chặt chẽ. Đồng thời, cần tạo ra môi trường pháp lý và

cơ chế phù hợp để thúc đẩy hợp tác, chuyển giao, hội nhập về KH - CN và GD - ĐT

giữa phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN. Bảo đảm cho mỗi bước phát triển

KH - CN và GD - ĐT đều bao hàm cả phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN.

Trước hết, cần phải gắn chương trình phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào

tạo với yêu cầu phát triển KT - XH và bảo vệ biên giới; xây dựng quy hoạch, kế

hoạch huy động tiềm lực khoa học - công nghệ, giáo dục - đào dân dụng, QS

phục vụ cho phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN; chú trọng ưu tiên thích đáng

cho việc ứng dụng KH - CN vào lĩnh vực then chốt mũi nhọn của QP, AN. Hoạt

động KH - CN cần đẩy mạnh liên kết ba lực lượng: các doanh nghiệp, cơ quan

nghiên cứu, cơ quan quản lý để vừa phục vụ phát triển KT - XH, vừa phục vụ QP, AN;

cần đẩy mạnh phát triển thị trường KH - CN, tư vấn khoa học và chuyển giao

công nghệ giữa hai lĩnh vực.

Trong thời gian tới, để phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong

lĩnh vực này cần hướng vào các vấn đề cụ thể: Kết hợp trong nghiên cứu, ứng

dụng công nghệ thông tin, viễn thông hiện đại, nâng cao khả năng phát hiện

đối tượng, kiểm soát tình hình AN, QP chống bạo loạn, chống khủng bố góp

phần thực hiện chiến lược bảo vệ biên giới, bảo vệ đất nước từ xa. Nghiên

cứu góp phần hiện đại hoá vũ khí, trang bị kỹ thuật của các lực lượng QP, AN,

tăng cường khả năng bảo đảm AN trên các lĩnh vực chính trị, KT, giao thông

vận tải và trật tự an toàn XH. Nghiên cứu mở rộng, nâng cao chất lượng các

sản phẩm, công trình, dịch vụ "lưỡng dụng" phục vụ có hiệu quả phát triển

KT - XH và đảm bảo QP, AN. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy hoạch phát

triển các khu KT cửa khẩu, các khu đô thị mới, xây dựng các công trình nhà

cao tầng gắn với xây dựng kho, bãi đỗ xe và các công trình ngầm khác gắn

với các thiết bị chiến trường và nơi ẩn nấp... Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ

mới cho bảo vệ AN môi trường, phát hiện sớm và chống ô nhiễm môi trường

Page 54: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

54

có hiệu quả phục vụ cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN theo

hướng văn minh, hiện đại.

Thứ năm, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong y tế. Sự gắn kết

đó đã trở thành truyền thống, được duy trì thường xuyên cả trong thời bình và thời

chiến, không chỉ thiết thực đối với vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, những nơi

khó khăn, dân trí thấp mà còn phát huy hiệu quả cả ở địa bàn đô thị. Việc gắn kết

thể hiện trước hết ở xây dựng chiến lược phát triển y tế toàn diện, đồng bộ. Bên

cạnh việc chú trọng phát triển có chiều sâu các trung tâm y tế chất lượng cao tại các

độ thị, phải coi trọng phát triển mạng lưới y tế cộng đồng, chú trọng đầu tư phát

triển mạng lưới y tế nông thôn, ưu tiên các vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng

xa. Trong thời bình, các cơ sở y tế có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân

dân, sản xuất thuốc chữa bệnh, kết hợp phát triển y học hiện đại với y học cổ truyền

tạo tính đa dạng, phong phú trong hoạt động bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Khi

chiến thanh xảy ra, các cơ sở y tế có nhiệm vụ chi viện cứu chữa thương, bệnh binh,

bảo đảm cho các LLVT cơ động chiến đấu giành thắng lợi.

Thứ sáu, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong công tác

QP, đảm bảo AN và trong đối ngoại, kinh tế đối ngoại

- Hoạt động QP, AN là một dạng hoạt động đặc biệt, tuy nhiên mỗi hoạt

động đều gắn với những điều kiện KT - XH nhất định. Nội dung phát triển

KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong công tác QP, đảm bảo AN là: trong

mỗi hoạt động QP, đảm bảo AN không chỉ chú ý đến hiệu quả QP, AN thuần

tuý, mà còn phải chú ý cả hiệu quả KT - XH; đảm bảo vững chắc mục tiêu

QP, AN, nhưng cũng quan tâm đầy đủ đến việc thực hiện các mục tiêu KT - XH,

tích cực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu KT - XH trong điều kiện có thể.

Để đạt được các yêu cầu trên, cần chú ý một số nội dung cơ bản: một là, đối

với công tác QP, đảm bảo AN, phải thực hiện đẩy mạnh tiết kiệm cả lao động

sống và lao động vật hoá trong các hoạt động huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,

Page 55: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

55

chiến đấu, công tác của LLVT, nhất là những hoạt động của Quân đội và Công

an. Trên cơ sở nguồn nhân lực được biên chế, nguồn ngân sách được cung cấp,

Quân đội, Công an và các LLVT khác cần phải phấn đấu để hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ QP, AN được giao, bảo vệ vững chắc từng địa bàn, giữ vững AN, trật

tự, an toàn XH trên địa bàn biên giới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ

XHCN. Tổ chức, bố trí LLVT phù hợp với điều kiện KT - XH và nhu cầu phòng

thủ, đảm bảo AN trong tình hình mới; đó cũng chính là cách để tiết kiệm chi phí

cho công tác QP, AN, nâng cao hiệu quả hoạt động của các LLVT nhân dân, thực

hiện phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Hai là, khai thác có hiệu quả

tiềm năng của các cơ sở CNQP và khu KTQP để tham gia phát triển KT - XH

với chất lượng, hiệu quả tổng hợp cao nhất. Trong điều kiện có thể, tổ chức

cho các đơn vị Quân đội, Công an tham gia xây dựng các công trình KT

trọng điểm của các tỉnh; đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nhân dân,

đồng bào các dân tộc nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước và của từng tỉnh; giúp

đồng bào các dân tộc vùng biên giới, hải đảo, vùng xa sôi hẻo lánh xoá đói

giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; Quân đội, nhất là bộ đội Biên phòng

cùng với các lực lượng AN tham gia chống buôn lậu, tệ nạn XH, bạo loạn,

tham nhũng cũng chính là là những nội dung cụ thể trong phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN trong công tác QP, đảm bảo AN.

- Đối ngoại và KT đối ngoại ngày càng có vai trò quan trọng trong phát

triển KT - XH, đảm bảo QP, AN của đất nước. Đó là nguồn ngoại lực, thu hút

nguồn vốn lớn với công nghệ cao, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở rộng thị

trường, đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN. Do đó, phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN cần được thể hiện ngay trong quá trình

đẩy mạnh quan hệ đối ngoại và mở rộng KT đối ngoại. Trong quan hệ đối ngoại

rộng mở, song phương và đa phương, việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

Page 56: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

56

QP, AN được biểu hiện tập trung ở sử dụng quan hệ đối ngoại và KT đối ngoại

phục vụ cho cả nhu cầu phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN. Thông qua quan

hệ đối ngoại, KT đối ngoại mà xác lập, mở rộng quan hệ đối ngoại, KT đối ngoại

phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, kịp thời phát hiện, đẩy lùi

thách thức “DBHB”, BLLĐ, nguy cơ chiến tranh, giữ vững ổn định chính trị, chế

độ XH và nền hoà bình, tạo điều kiện để phát triển đất nước. Muốn vậy, trong đối

ngoại và KT đối ngoại, ngay từ mục tiêu, nhiệm vụ của nó đã thể hiện và đòi hỏi

khách quan, cấp thiết phải gắn kết chặt chẽ với KT - XH với đảm bảo QP, AN.

Đối ngoại phải gắn kết chặt chẽ với KT, văn hoá, QP, AN để không ngừng tăng

cường hợp tác và đấu tranh, mở rộng quan hệ đối tác, hạn chế mặt đối tượng; mở

rộng quan hệ hoà bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển với các dân tộc, các tổ chức,

khu vực và quốc tế, trước hết là đối với các nước láng giềng như: Trung Quốc,

Lào. Camphuchia. Trên cơ sở đó để thu hút vốn, kỹ thuật - công nghệ, tri thức,

kinh nghiệm tiên tiến; đồng thời, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn ngừa các

nguy cơ từ xa, góp phần giữ vững môi trường hoà bình và lợi ích quốc gia.

2.2. Sự cần thiết của phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo

quốc phòng, an ninh

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP - AN là vấn đề có tính quy luật

của các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, là sự cần thiết, cấp bách ở

Việt Nam trong thời kỳ mới được xuất phát từ nhiều vấn đề, trước hết là

những vấn đề cơ bản sau:

2.2.1. Xuất phát từ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo

quốc phòng, an ninh

Trước hết, chúng ta cần khẳng định, KT - XH và QP, AN là những mặt

hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền. Mỗi lĩnh

vực có mục đích, cách thức hoạt động và quy luật riêng, song giữa chúng có

mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, KT - XH là

Page 57: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

57

yếu tố quyết định đến QP, AN: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt

đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh”

[35, tr.82]. Ngược lại, QP, AN có tác động tích cực trở lại KT - XH, bảo vệ và

tạo điều kiện thúc đẩy KT - XH phát triển: “phát triển kinh tế - xã hội là nền

tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh vững

mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội” [34, tr.227-228].

Kinh tế - XH quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của QP, AN. Lợi

ích KT suy đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung đột XH,

để giải quyết các mâu thuẫn đó, phải có hoạt động QP, AN. KT - XH quyết định

đến việc cung cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực cho hoạt động QP, AN,

Ăngghen đã khẳng định: Thất bại hay thắng lợi của chiến tranh đều phụ thuộc vào

điều kiện KT, vì vậy để xây dựng QP, AN vững mạnh phải xây dựng, phát triển

KT. KT - XH quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực

cho QP, AN, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của LLVT; quyết định đến

đường lối chiến lược QP, AN. Đến lượt mình, QP, AN không chỉ phụ thuộc vào

KT - XH mà còn tác động trở lại với KT - XH trên cả góc độ tích cực và tiêu cực.

QP, AN vững mạnh sẽ tạo môi trường hoà bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện

thuận lợi cho phát KT - XH. Hoạt động QP, AN tiêu tốn đáng kể một phần nguồn

nhân lực, vật lực, tài chính của XH, những tiêu dùng này theo Lênin là những tiêu

dùng “mất đi”, không quay vào tái sản xuất XH; do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu

dùng của XH, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền KT. Hoạt động QP, AN còn có

thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho nền KT,

nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn chế những tác động tiêu cực này, phải gắn

phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN vào một chỉnh thể thống nhất.

Ngày nay, mối quan hệ giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN

càng chặt chẽ hơn bao giờ hết. QP, AN không chỉ gồm việc bảo vệ chủ quyền

về lãnh thổ, mà còn đảm bảo AN chính trị, KT, XH, văn hoá tư tưởng. Phát

Page 58: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

58

triển KT - XH ổn định nhanh, bền vững giữ vai trò quyết định cho sự nghiệp

chung của đất nước. KT phát triển tạo cơ sở để đảm bảo tăng cường sức mạnh

QP, AN; QP, AN được đảm bảo vững chắc tạo môi trường thuận lợi cho hoà

bình, ổn định lâu dài, là tiền đề, điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho phát

triển KT - XH nhanh, bền vững. Trong phát triển KT - XH có lợi ích của QP, AN,

trong đảm bảo QP, AN có lợi ích của KT - XH. Sở dĩ như vậy là vì, xuất phát

từ mối quan hệ biện chứng giữa KT với chính trị, chiến tranh và QP. Theo

quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sản xuất vật chất - phát triển KT là

nhân tố xét đến cùng quyết định một cách toàn diện đối với lĩnh vực QP cả

về nguồn gốc, bản chất, quy mô và trình độ. QP do KT quyết định, song

đến lượt nó, QP tác động to lớn trở lại đến sự phát triển KT theo những

chiều hướng khác nhau. Theo đó, phát triển KT - XH có quan hệ tác động

nhiều mặt đến QP, AN; đó là quan hệ giữa phát triển KT - XH vì mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của một đất nước chịu

sự chi phối của các quy luật KT thị trường định hướng XHCN với hoạt

động QP, AN có mục đích phục vụ lợi ích chung của cả quốc gia, dân tộc

và vận động theo những quy luật đặc thù, chịu sự chi phối chủ yếu của chủ

thể quản lý XH. Về thực chất, đây chính là một trong những biểu hiện cụ

thể của mối quan hệ giữa KT với chính trị. Mặc dù có sự khác nhau cơ bản

về mục đích, đối tượng, chủ thể và phương thức tiến hành, song phát triển

KT - XH và đảm bảo QP, AN đều là hoạt động XH của con người trong

điều kiện có sự khác biệt về lợi ích giữa các giai tầng, các nhóm XH khác

nhau. Chính vì vậy, phải xuất phát từ mục đích và quan hệ lợi ích giữa các

chủ thể của hai hoạt động này để xem xét quan hệ qua lại giữa chúng trong

sự vận động vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.

Trong mối quan hệ đó, tính thống nhất thể hiện ở chỗ, cả hai hoạt động

này đều hướng đến thực hiện mục tiêu chung là vì lợi ích quốc, xuất phát từ lợi

ích quốc gia để tạo thành sức mạnh quốc gia tổng hợp thực hiện thắng lợi hai

Page 59: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

59

nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ, đều chịu sự chi phối, định hướng của

các thành tố kiến trúc thượng tầng XHCN. Mặt khác, muốn phát triển KT - XH

cần phải có môi trường hoà bình, ổn định để phát triển. Điều đó chỉ có được khi

QP, AN của đất nước được đảm bảo một cách vững chắc, thế và lực của đất nước

ngày càng được củng cố và tăng cường. Đồng thời, cơ sở của sức mạnh QP, AN

hiện nay có cội nguồn và chủ yếu dựa vào hiệu quả phát triển KT - XH trong

môi trường hoà bình, hợp tác và hữu nghị. Trên bình diện này, giữa phát triển KT - XH

với đảm bảo QP, AN là điều kiện tiền đề thúc đẩy nhau cùng phát triển. Tuy

nhiên, bên cạnh tính thống nhất, còn thể hiện mâu thuẫn đó là, trong phát triển

KT - XH có nhiều chủ thể khác nhau: các thành phần KT, các doanh nghiệp, KT

hộ... ít nhiều có sự đối lập nhau về sở hữu và do đó, lợi ích cơ bản của mỗi chủ

thể là khác nhau, thậm chí là xung đột, đối lập với lợi ích chung. Nhìn một cách

tổng thể trong nền KT hiện nay, chúng ta đang phát triển nền KT nhiều thành

phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; vì thế, trên thực tế có rất nhiều

chủ thể đến từ nước ngoài, trước hết là để tìm kiếm lợi ích thông qua quá trình

hợp tác làm ăn với các chủ thể trong nước, trong đó không loại trừ có những đối

tượng tội phạm, lợi dụng chống phá chế độ, xâm hại AN quốc gia và lợi ích nhân

dân... Trong khi đó, các chủ thế KT trong nước phần nhiều tiềm lực và khả năng

còn hạn chế, nội lực và lợi ích có thể bị tổn thất trong quá trình phát triển KT;

việc đóng góp nghĩa vụ cho QP, AN hiện nay dưới cái nhìn của không ít chủ thể

KT sẽ cho rằng, mâu thuẫn với yêu cầu cắt giảm chi phí, tập trung nguồn lực cho

đầu tư phát triển KT... từ đó làm cho sự đồng thuận trong XH bị giảm sút, việc

thực hiện mục tiêu của CNXH trong đó có nhiệm vụ QP, AN sẽ trở nên khó

khăn, phức tạp hơn nhiều.

Qua đó cho thấy, mối quan hệ qua lại giữa phát triển KT - XH với đảm

bảo QP, AN vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Chính vì vậy, chúng ta

cần phải chú ý xử lý đúng đắn mối quan hệ này, nhằm hạn chế những mâu

Page 60: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

60

thuẫn có thể nảy sinh giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN. Việc phát

triển KT - XH có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo QP, AN. Đồng

thời, QP, AN được đảm bảo sẽ có tác động tích cực to lớn trở lại thúc đẩy phát

triển KT - XH. Chính mối quan hệ này đặt ra yêu cầu cần phải chủ động

thường xuyên gắn kết chặt chẽ giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN

trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ Việt

Nam XHCN.

2.2.2. Xuất phát từ yêu cầu của quy luật xây dựng Tổ quốc gắn liền

với bảo vệ Tổ quốc

Xây dựng Tổ quốc gắn liền với BVTQ là một quy luật của cách mạng

Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, quy luật đó càng có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng. Quy luật đó đòi hỏi chúng ta trong khi tập trung sức xây dựng đất nước

về mọi mặt, không một phút lơi lỏng nhiệm vụ đảm bảo QP, AN, đủ sức giữ

vững môi trường hoà bình AN để đổi mới, xây dựng đất nước, bảo đảm cho

mọi cơ sở, mọi thành quả của sự nghiệp xây dựng Tổ quốc luôn trong trạng

thái được đảm bảo an toàn.

Mặt khác, quy luật đó còn đòi hỏi mỗi cơ sở KT - XH, trong quá trình

xây dựng phải tạo được khả năng đề kháng cao nhất để tự bảo vệ mình. Đảm

bảo cho mỗi cơ sở, mỗi địa bàn trên phạm vi cả nước vừa được bảo vệ, vừa tự

bảo vệ ở mức cao nhất. Để đạt được yêu cầu này, đòi hỏi Nhà nước, các bộ,

ngành và địa phương phải chủ động gắn kết hai nhiệm vụ xây dựng, phát triển

KT - XH với đảm bảo QP - AN trong một chiến lược chung thống nhất và

phải được cụ thể hoá trong mỗi lĩnh vực của đời sống XH cả ở tầm vĩ mô và

vi mô, nhằm đạt được đồng thời cả lợi ích KT - XH và lợi ích QP, AN trong

cùng một quá trình.

Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, tất cả các

hoạt động của các lĩnh vực, các ngành, của mọi tầng lớp nhân dân, từng địa

phương phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, vì lợi ích quốc gia; lấy lợi ích quốc gia

Page 61: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

61

làm mục tiêu hàng đầu để tạo thành sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề

này đã được thực tế chứng minh một cách sống động: sức mạnh quốc gia không

chỉ là phát triển KT mà là tổng hợp của nhiều yếu tố khác; sẽ không thể là một

cường quốc mạnh, có vị thế nếu chỉ là cường quốc về KT. Ví dụ: Nhật Bản,

Trung Quốc… Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động thường xuyên gắn kết chặt

chẽ giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN bảo vệ Tổ quốc.

2.2.3. Xuất phát từ thực tiễn thế giới và truyền thống của dân

tộc Việt Nam

- Thực tiễn thế giới: Trong XH chiếm hữu nô lệ và phong kiến, LLSX,

phân công lao động còn thấp, KT quân sự chưa phát triển, chưa trở thành một

ngành riêng biệt phục vụ cho nhu cầu chiến tranh và QP. Đặc điểm đó quy

định trình độ và quy mô kết hợp KT - XH với QP, AN của các nhà nước trong

thời kỳ này còn rất thấp. Tuy vậy, sự kết hợp KT - XH với QP, AN luôn được

các nhà nước coi trọng trong việc chuẩn bị và cung cấp binh lương, vũ khí

cho LLVT thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền đất nước hay tiến hành chiến

tranh xâm lược, mở rộng bờ cõi.

Trong CNTB, nhất là thời kỳ hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của

LLSX, KH - CN, đồng thời với bản chất hiếu chiến của các nhà nước tư sản,

đặc biệt là ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa đã đẩy khu vực KT quân sự lên quy

mô, trình độ cao chưa từng thấy trong lịch sử, làm cho mối quan hệ giữa KT - XH

và QP, AN trở nên khăng khít hơn. Kết hợp KT - XH với QP, AN không chỉ

trở thành tất yếu mà còn là vấn đề liên quan mật thiết đến hiệu quả KT, KT

quân sự và tăng cường sức mạnh QP, QS của nhà nước. Qui mô, trình độ, nội

dung, hình thức kết hợp KT - XH với QP, AN khá rộng lớn, sâu sắc và phong

phú: Kết hợp chiến lược phát triển KT với chiến lược QS; kết hợp trong tổ

chức bộ máy và đội ngũ chuyên gia quản lý; kết hợp trong phát triển các

ngành KT, KH - CN dân sự và QS…

Page 62: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

62

Với các nước XHCN, kể cả Liên Bang Cộng hoà XHCN Xô viết, các

nước XHCN Đông Âu trước đây và các nước đang đổi mới mô hình phát triển

hiện nay đều coi kết hợp KT - XH với QP, AN là nội dung chiến lược của công

cuộc xây dựng và BVTQ, được nhà nước chủ động tiến hành một cách rộng rãi,

thường xuyên, liên tục trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống XH, nhằm

vừa đẩy mạnh phát triển KT - XH, vừa đảm bảo củng cố sức mạnh QP, AN.

- Thực tiễn truyền thống dân tộc Việt Nam: Ngược dòng lịch sử cho

thấy, ông cha ta đã sớm có tư tưởng kết hợp KT với QP, QS, với phương châm

chiến lược "dựng nước đi đôi với giữ nước". Thực tiễn kết hợp KT với QP, QS

ở nước ta thời kỳ phong kiến có nhiều nét độc đáo, là bài học quí cho chúng ta

hiện nay. Vào thời Tiền Lê, Lê Hoàn đã tổ chức cho gia đình binh lính lên

khai hoang lập ấp, mở mang KT ở vùng biên giới Lạng Sơn, Quảng Yên, vừa

làm nhiệm vụ đồn trú bảo vệ biên giới, vừa phát triển KT xây dựng hậu

phương tại chỗ. Đến thời Lý - Trần - Lê (sơ), ông cha ta có tư tưởng "Ngụ

binh, ư nông", "động vi binh, tĩnh vi dân", thực hiện "khoan thư sức dân", mở

rộng khai hoang lập ấp nơi biên ải xung yếu để "phục binh sẵn, phá thế giặc

dữ". Tổ tiên ta còn chú trọng phát triển các ngành nghề thủ công ở các làng xã

để sẵn sàng sản xuất vũ khí cho quân đội khi có yêu cầu, mở mang đường xá,

đóng thuyền, xây dựng đê điều, làm thuỷ lợi để vừa phát triển KT vừa tăng

khả năng cơ động cho quân đội khi có chiến tranh, tạo ra thế "thiên la địa

võng" của chiến tranh nhân dân, đủ sức đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Kế tục truyền thống kết hợp phát triển KT với đảm bảo QP, QS của

ông cha, thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong cuộc

kháng chiến chống Pháp, Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chủ Tịch đã sớm

chỉ đạo toàn dân thực hiện kết hợp KT với QP, QS theo phương châm: "vừa

kháng chiến, vừa kiến quốc", "vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản xuất và tiết

kiệm". Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng đưa cuộc kháng

Page 63: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

63

chiến chống thực dân Pháp đến thành công. Sau khi miền Bắc được giải

phóng, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 14 khoá II (1958), Đảng ta đã nêu

lên chủ trương kết hợp tăng cường củng cố QP với xây dựng hậu phương

vững chắc. Kết hợp KT với QP đã được nêu lên thành một nội dung trong

đường lối KT và đường lối QS của Đảng ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ III của Đảng (1960). Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan

trọng đưa đến thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Bước vào thời kỳ đất nước thống nhất, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược

xây dựng và BVTQ, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đến nay, kết

hợp phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN luôn được Đảng Cộng sản Việt

Nam xác định rõ trong văn kiện, các chiến lược và kế hoạch phát triển KT - XH,

xây dựng quân đội, đảm bảo QP, AN.

2.3. Những nhân tố ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế - xã hội gắn

với đảm bảo quốc phòng, an ninh

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong tình hình mới chịu

sự chi phối ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Trước hết, cần quan tâm đến một số

nhân tố ảnh hưởng cơ bản sau:

2.3.1. Bối cảnh tình hình mới của thế giới, khu vực và trong nước

- Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất

nhanh, phức tạp, khó lường, như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

đã phân tích và dự báo. Thực tiễn tại nhiều khu vực và trên thế giới cho thấy,

những mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, sắc tộc có điều kiện bùng phát, các thế lực thù

địch triệt để lợi dụng tình hình để can thiệp. Vì vậy, nguy cơ mất ổn định ở nhiều

nước trong khu vực và trên thế giới diễn biến khó lường, không chỉ do nguyên

nhân bên trong mà còn do sự can thiệp từ bên ngoài. Sự phát triển của KH - CN

mà ưu thế thuộc về các nước tư bản phát triển, đã làm xuất hiện một số loại hình

chiến tranh mới: chiến tranh thông tin, chiến tranh công nghệ cao… để chống các

Page 64: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

64

nước có chủ quyền. Tình hình đó, buộc nhiều nước trên thế giới triển khai nghiên

cứu các giải pháp nhằm bảo vệ đất nước trước những biến hoá khó lường theo

hướng quan tâm đến cả phát triển KT - XH và tăng cường củng cố QP, AN, trong

đó phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là một giải pháp quan trọng.

- Tình hình khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực

Đông Nam Á có những diễn biến phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh: “Khu vực Châu Á - Thái Bình

Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng

động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển

đảo ngày càng gay gắt” [35, tr. 184]. Các nước Đông Nam Á đang phải đối mặt

với những thử thách và khả năng cạnh tranh quốc tế. Giữa các nước Đông Nam

Á cách nhìn nhận chưa đồng nhất trong quan hệ với các nước lớn. Đặc biệt, hiện

nay ở khu vực Biển Đông, còn tồn tại sự tranh chấp về chủ quyền giữa một số

nước Đông Nam Á và Trung Quốc, trong đó có Việt Nam. Vấn đề tranh chấp

này, hiện nay các nước trong khu vực thống nhất giải quyết bằng đối thoại, bằng

ngoại giao, hoà bình. Tuy nhiên, đằng sau đó chứa đựng những tính toán khác

nhau, tìm mọi cách để hợp thức hoá và khẳng định chủ quyền hoặc gây trở ngại

cho việc khai thác tài nguyên khoáng sản, đánh bắt hải sản như “Sự kiện tàu hải

giám và tàu cá Trung Quốc cố tình cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam

vào ngày 26/5/2011 và 09/6/2011, trong khi tàu đang tiến hành thăm dò, khảo sát

địa chấn trong thềm lục địa và vùng đặc quyền KT 200 hải lý của Việt Nam…”,

làm cho tình hình Biển Đông tiếp tục căng thẳng.

- Bối cảnh tình hình trong nước, như Báo cáo chính trị tại Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XI đã nhấn mạnh: “Ở trong nước: Những thành tựu,

kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo cho đất nước thế và

lực, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước... Tuy nhiên, nước ta vẫn

đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn

biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào” [35, tr.184-185].

Page 65: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

65

Qua 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển KT - XH 2001 - 2010, chúng

ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là

những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - KT khu vực và

toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi

tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung

bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược phát triển KT - XH 2001 - 2010 đã

được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về LLSX, QHSX. KT tăng trưởng

nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước

bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu KT chuyển dịch theo hướng tích

cực. Thể chế KT thị trường định hướng XHCN tiếp tục được xây dựng và hoàn

thiện. Các lĩnh vực văn hoá, XH đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là

xoá đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ

rệt, dân chủ trong XH tiếp tục được mở rộng. Chính trị - XH ổn định; QP, AN

được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và

hiệu quả, góp phần tạo môi trường hoà bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho

phát triển đất nước. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi, thế và lực của

nước ta ngày càng vững mạnh; vị thế Việt Nam trên trường quốc tế được nâng

lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh CNH, HĐH, nâng cao chất

lượng cuộc sống của nhân dân.

Bên cạnh những thành tựu đạt được như trên, chúng ta cũng còn nhiều

mặt hạn chế cần khắc phục đó là, những thành tựu đã đạt được là chưa tương

xứng với tiềm năng của đất nước, nền KT phát triển chưa bền vững. Chất lượng

tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền KT còn thấp, các cân

đối KT vĩ mô chưa vững chắc, cung ứng điện chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác

quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém

hiệu quả, đầu tư còn dàn trải, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung

còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp

Page 66: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

66

nhà nước còn bất cập. Tăng trưởng KT vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển

theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn

hoá, XH có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào

tạo và y tế; đạo đức lối sống một bộ phận XH xuống cấp. Môi trường ở nhiều

nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất chưa được quản lý tốt, khai thác và sử

dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế KT thị

trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản

trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng

hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất

ổn định chính trị - XH và đe doạ chủ quyền quốc gia. Các thế lực thù địch vẫn

tiếp tục thực hiện âm mưu “DBHB” gây BLLĐ, sử dụng các chiêu bài “dân

chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.

Trước bối cảnh tình hình mới của thế giới, khu vực, trong nước như

trên, vừa tạo ra những thời cơ, thuận lợi mới, vừa tạo ra những nguy cơ và

thách thức mới cho công cuộc xây dựng và BVTQ, đòi hỏi Việt Nam phải tiếp

tục đổi mới tư duy về xây dựng, củng cố nền QPTD, ANND, xây dựng LLVT

nhân dân, QĐND và CAND, nhất là phải thực hiện tốt phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN, BVTQ phù hợp với tình hình mới. Đó cũng chính là

một trong những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.

2.3.2. Âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta của các thế

lực thù địch

Một vấn đề quan trọng khác đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ chi phối

quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên cả nước nói chung,

ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng, cả hiện tại và trong tương lai, đó là

việc các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh chiến lược “DBHB” kết hợp

BLLĐ và sẵn sàng can thiệp vũ trang khi có điều kiện. Trong tình hình đó,

Page 67: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

67

việc thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN sẽ gặp những khó

khăn phức tạp mới, phải có sự điều chỉnh cần thiết cho phù hợp.

Trong thời kỳ mới, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược

“DBHB” chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng đã và đang điều chỉnh một

số vấn đề về chủ trương, giải pháp sử dụng các thủ đoạn “mềm, ngầm, sâu,

điểm”, kích động bạo loạn, ly khai, tạo dựng “ngọn cờ” trên một số vùng

trọng điểm, nhất là vùng có đồng bào theo tôn giáo, vùng dân tộc thiểu số,

vùng biên giới. Chúng mở rộng địa bàn hoạt động, đi vào các địa bàn trọng

yếu, tích cực móc nối, liên kết các nhóm, tổ chức phản động và tìm mọi cách

xâm nhập vào nội bộ nước ta (nhất là các cơ quan lãnh đạo, chính quyền,

đoàn thể) nhằm tạo dựng “ngọn cờ” chuẩn bị thời cơ gây bạo loạn, ly khai ở

một số vùng hoặc nhiều vùng có tính chất độc lập để chia cắt đất nước ta, hy

vọng tạo dựng nhà nước “tự do”, “độc lập” chịu sự chi phối của bên ngoài…

Trên lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, kẻ thù tận dụng những vấn đề do lịch sử

để lại, đẩy mạnh tuyên truyền lôi kéo; mặt khác, chúng lợi dụng trình độ dân trí

thấp, sự yếu kém của đời sống nhân dân các dân tộc thiểu số vùng biên giới,

những thiếu sót trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo… để kích động các

phần tử quá khích tuyên truyền tư tưởng tự trị li khai, đòi thành lập cái gọi là

“Quốc gia Mông độc lập”, do Vàng Chứ cầm đầu. Đồng thời, kẻ thù còn đẩy

mạnh việc truyền đạo trái phép để tập hợp lực lượng, tăng cường các hoạt động

chống đối, có sự hậu thuẫn, tiếp tay hỗ trợ từ bên ngoài. Tổ chức “Hội người

Mông thế giới” ra “Cương lĩnh thành lập nhà nước Mông độc lập”, trong đó

vùng Tây Bắc được xác định là một trọng điểm. Từ ý đồ đó, chúng sử dụng mối

quan hệ thân tộc từ nước ngoài gửi thư, tiền, băng hình về để tuyên truyền, lôi

kéo họ tộc người Mông thành lập “Quốc gia Mông độc lập”... Về lãnh thổ, trên

biên giới đất liền, kẻ thù tiến hành chỉ đạo các hoạt động xâm canh, xâm cư đất

canh tác của nhân dân đồng bào các dân tộc ta ở vùng biên giới; trên biển Đông,

Page 68: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

68

với âm mưu từng bước hiện thực hoá đường lưỡi bò của Trung Quốc, ngày

01/5/2014 vừa qua Trung Quốc đã đơn phương hạ đặt giàn khoan Hải Dương

(Halyang Shlyou) 981 trái phép trong vùng đặc quyền KT của Việt Nam và đâm

chìm thuyền cá của ngư dân Việt Nam... Đây cũng chính là một trong những

nhân tố gây ảnh hưởng đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở nước

ta nói chung, cũng như ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

2.3.3. Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ quốc

phòng, an ninh trong thời kỳ mới

- Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, trong thời kỳ mới, chúng ta đang thực

hiện đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng, phát triển nền KT thị

trường định hướng XHCN, BVTQ có vai trò đặc biệt quan trọng. Văn kiện

các Đại hội của Đảng luôn khẳng định luận điểm quan trọng: kết hợp chặt

chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và BVTQ XHCN. Trong tình

hình mới, xây dựng và BVTQ đang giao thoa lẫn nhau, gắn bó khăng khít

đến mức xây dựng là gốc của bảo vệ và bảo vệ là bộ phận hợp thành của

xây dựng. Đây là điểm rất mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa xây

dựng và BVTQ ở Việt Nam hiện nay. Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ

hữu cơ, là điều kiện và cơ sở của nhau. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ đó

sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, đảm bảo cho Tổ quốc, chế độ XHCN ngày

càng phát triển nhanh, bền vững.

Bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ hết sức quan trọng, ngay từ khi thành lập nước

Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định giữ vững chính

quyền, BVTQ là chức năng sống còn của Nhà nước XHCN. Tầm quan trọng của

việc BVTQ đã được khẳng định và ghi nhận trong các chủ trương, chính sách,

cũng như các văn bản pháp luật. Nghiên cứu các văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI của Đảng cho thấy, hiện nay, tư duy mới về BVTQ thể hiện

trước hết ở quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ Việt Nam XHCN, trong

Page 69: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

69

khi tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và

chế độ XHCN, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa hai mặt tự nhiên - lịch sử và

chính trị - XH trong BVTQ, chúng ta đặc biệt quan tâm đến việc “giữ vững

hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm AN quốc gia, trật tự, an toàn XH; chủ

động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế

lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta” [35, tr.81-82]. Báo

cáo Chính trị còn nhấn mạnh đến việc “giữ vững chủ quyền biển đảo, biên

giới, vùng trời... sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ AN phi truyền thống

mang tính toàn cầu” [35, tr.233].

Trong bối cảnh tình hình tranh chấp chủ quyền biển, đảo đang diễn ra

hết sức gay gắt, phức tạp thì vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo đối

với nước ta càng đặt ra yêu cầu cao hơn trong mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ. Vấn

đề mới đặt ra là vừa giữ vững chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng

của Tổ quốc, vừa giữ được môi trường hoà bình, ổn định để phát triển, không

để xảy ra xung đột vũ trang và chiến tranh là một đòi hỏi cao trong nhiệm vụ

BVTQ trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, chúng ta

cần phải thực hiện tốt những biện pháp cụ thể đó là: “Tăng cường QP, giữ

vững AN quốc gia, trật tự, an toàn XH là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên

của Đảng, Nhà nước và nhân dân, trong đó QĐND và CAND là lực lượng

nòng cốt. Xây dựng thế trận QPTD, kết hợp chặt chẽ với thế trận ANND vững

chắc” [35, tr.82].

- Về nhiệm vụ QP, AN, trong mỗi thời kỳ phát triển quan trọng của đất

nước, Đảng ta đều vạch ra những định hướng quan trọng về QP, AN, BVTQ.

Trong thời kỳ mới, bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. Hoà

bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn. Nhưng đấu

tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, tôn giáo, khủng bố, tranh

Page 70: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

70

chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích KT tiếp

tục diễn ra phức tạp; các mối đe doạ AN phi truyền thống mang tính toàn cầu

diễn ra ở nhiều nơi. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay là các nước với

chế độ XH, rình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu

tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của các

nước vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH dù gặp nhiều khó

khăn, thách thức nhưng sẽ có những bước tiến mới.

Từ nghiên cứu thực tiễn, tổng kết lý luận, căn cứ vào yêu cầu nhiệm

vụ xây dựng và BVTQ trong thời kỳ mới, nhiệm vụ của QP, AN đã được

Đảng ta xác định trong Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) là:

“Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân”, “giữ vững hoà bình”, “bảo đảm an

ninh quốc gia”. Đây là những phát triển mới hết sức quan trọng, không

chỉ xác định rõ thêm các thành tố trong phương diện XH của đất nước, mà

còn khẳng định lại các nội dung bảo vệ của QP, AN đã tiến hành từ trước

đến nay. Đồng thời, đó còn là sự khắc phục những nhận thức chưa đầy đủ

về QPTD và ANND của một số cán bộ, đảng viên ở cấp, các ngành. Đây

cũng là cơ sở lý luận thống nhất tư tưởng và hành động để chúng ta đấu

tranh chống các quan điểm thù địch, phản động, sai trái về mục tiêu,

nhiệm vụ QP, AN. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ của QP, AN

tiếp tục được kế thừa, phát triển: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Đây không chỉ là sự phát

triển về tư duy BVTQ mà còn là sự nhận thức đúng đắn những vấn đề

mới, nhạy cảm của thời cuộc - khi mà các thế lực thù địch, phản động

quốc tế và trong nước đang ra sức chia tách cả về phương diện tự nhiên

lẫn phương diện XH của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt

Nam... Sự phát triển đó làm cho nhiệm vụ BVTQ của QP, AN ngày càng

toàn diện, chính xác và phù hợp hơn với tình hình mới.

Page 71: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

71

Như vậy, trong sự nghiệp BVTQ Việt Nam XHCN, vấn đề xây dựng

nền QPTD kết hợp với thế trận ANND đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nền

QPTD và thế trận ANND được xây dựng từ đơn vị cơ sở, có liên hệ phối hợp

chặt chẽ với nhau trên từng địa bàn, từng khu vực và trên phạm vi cả nước.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh, đất

nước ta trong giai đoạn cách mạng mới đang đứng trước những thời cơ và

nguy cơ. Bên cạnh những thời cơ bên trong và bên ngoài, trong đó có thành

công của sự nghiệp đổi mới, sự phát triển về KT, chính trị, văn hoá, đối ngoại,

QP, AN, chúng ta đang đứng trước những nguy cơ lớn, khi tiến hành công

cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Chúng ta cần phải nắm bắt các thời cơ, đồng

thời vượt qua các nguy cơ.

Về nguy cơ, để củng cố QP, bảo vệ, giữ vững AN ở nước ta hiện nay

cần phải xem xét đến hai nhóm nguy cơ, đó là nhóm nguy cơ bên ngoài và

bên trong. Nhìn từ góc độ QP, AN truyền thống, đó là sự xâm phạm độc lập,

chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, là các hoạt động

“DBHB”, “tự diễn biến”, là các nguy cơ bạo loạn chính trị, các hoạt động

chống phá của kẻ thù... Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng đã nhấn mạnh: “giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời”

trong sự nghiệp BVTQ XHCN. Đây là nội dung quan trọng trong nội hàm

BVTQ XHCN trong tình hình mới với nhiều nội dung như: hoàn chỉnh các

quy định pháp lý bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; giáo dục

nhân dân hiểu rõ vị trí, vai trò của chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời

trong sự nghiệp BVTQ; quy hoạch phân vùng phát triển KT, văn hoá - XH

gắn với QP, AN trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng

trời; xây dựng thế trận QPTD và thế trận ANND ở ven biển, trên đảo và khu

vực biên giới làm căn cứ vững chắc, nơi xuất phát vươn ra biển; xây dựng các

công trình phòng thủ QS để bảo toàn lực lượng khi có chiến tranh và phòng,

Page 72: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

72

chống thiên tai, tai nạn, tổ chức cứu hộ khắc phục hậu quả; tổ chức hệ thống

phòng thủ dân sự, xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ AN Tổ quốc.

Bên cạnh đó còn có các mối đe doạ AN phi truyền thống. Hiện nay,

những vấn đề AN phi truyền thống đã vượt qua khỏi phạm vi lợi ích AN quốc

gia của một nước, trở thành những thách thức mạng tính toàn cầu, bởi hoạt

động của tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố quốc tế, nhất là khủng bố bằng

vũ khí sinh học, hoá học, bệnh dịch là “không biên giới”. Chính vì vậy, cuộc

đấu tranh với những vấn đề này đòi hỏi phải có sự nổ lực chung của cộng

đồng quốc tế, những giải pháp, bước đi hài hoà kết hợp giữa KT, chính trị,

ngoại giao, pháp luật, khoa học - kỹ thuật và các mặt khác.

Trong giai đoạn hiện nay, cần ưu tiên đấu tranh với các loại tội phạm phi

truyền thống như: hoạt động khủng bố, buôn bán ma tuý, buôn người, cướp biển,

buôn bán vũ khí, rửa tiền, tội phạm KT quốc tế và tội phạm công nghệ cao. Tính

phi truyền thống của các loại tội phạm này thể hiện ở hai khía cạnh: Đối với các

loại tội phạm truyền thống, do điều kiện mới đã xuất hiện nhiều phương thức, thủ

đoạn mới và bọn tội phạm thường sử dụng các tiến bộ KH - CN để gây án. Điển

hình là tội phạm lừa đảo, nếu trước đây các đối tượng trực tiếp lừa đảo, thì hiện

nay rất phổ biến tình trạng lừa đảo qua mạng Internet, cả đối tượng lừa đảo và

người bị lừa đảo không hề biết mặt nhau. Còn đối với các tội phạm mới, tính phi

truyền thống thể hiện vừa là tội phạm mới, thậm trí có hành vi tội phạm hiện còn

chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự, vừa thể hiện ở phương thức, thủ đoạn

mới chưa từng xảy ra trước đây ở nước ta. Do vậy, trong thời kỳ mới, BVTQ cũng

là giải quyết các thách thức AN phi truyền thống như: AN biển, AN sinh thái, AN

môi trường, AN dân số, AN năng lượng... đã và đang xuất hiện với tư cách là các

vấn đề toàn cầu.

Tóm lại, trong thời kỳ mới, bối cảnh tình hình mới của thế giới, khu

vực và trong nước; âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta của

Page 73: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

73

các thế lực thù địch; và tư duy mới về nhiệm vụ BVTQ, nhiệm vụ QP, AN

là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN. Chính vì vậy, chúng ta phải nắm chắc các nhân tố cơ bản đó

để có phương hướng, giải pháp khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, và

phát huy những ảnh hưởng tích cực để thúc đẩy quá trình phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN, BVTQ.

2.4. Kinh nghiệm của khu vực Tây Nguyên về phát triển kinh tế -

xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh

Trong thời kỳ mới, để phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng,

ngoài việc phát huy tốt những thành tựu đã đạt được, một số tỉnh biên giới

phía Bắc cần phải hết sức coi trọng việc nghiên cứu, học tập và vận dụng sáng

tạo, linh hoạt những bài học kinh nghiệm trong phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN trên địa bàn cả nước cũng như của khu vực Tây Nguyên.

Tây Nguyên một thời gọi là Cao nguyên Trung phần, là một vùng

lãnh thổ tự nhiên, bao gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông

và Lâm Đồng (xếp theo thứ tự vị trí địa lý từ Bắc xuống Nam), là khu vực

có vị trí quan trọng về KT, chính trị, QP, AN. Khu vực Tây Nguyên có

diện tích tự nhiên 54. 447 km2, chiếm 16,3% diện tích cả nước, giới hạn

trong toạ độ địa lý từ 11 độ 45 phút đến 15 độ 27 phút độ vĩ Bắc và từ 107

độ 12 phút đến 108 độ 55 phút độ kinh Đông. Tây Nguyên, phía Bắc giáp

tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp các tỉnh: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú

Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai; phía Nam giáp tỉnh

Bình Phước; phía Tây giáp nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào và

Vương quốc Campuchia. Với những hành lang tự nhiên thông với Nam

Lào, Đông Bắc Campuchia, có hệ thống đường giao thông liên hoàn nối

với các tỉnh duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ, các cửa khẩu quốc

Page 74: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

74

tế trên tuyến hành lang Đông - Tây. Chính vì vậy, Tây Nguyên vừa có

điều kiện phát triển thành vùng KT trọng điểm, vừa có vị trí chiến lược về

QP của đất nước.

Tây Nguyên là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng trong chiến

lược phát triển KT - XH và chiến lược QP, AN, BVTQ. Trong thời gian

qua, Đảng Bộ, chính quyền, dân, quân các tỉnh Tây Nguyên đã quán

triệt, thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Với hiệu quả ngày

càng được khẳng định, đảm bảo sự ổn định cho khu vực Tây Nguyên, tạo

điều kiện thuận lợi thúc đẩy Tây Nguyên phát triển bền vững. Trong

những năm qua, Tây Nguyên không những phát triển về KT - XH, từng

bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, chăm lo xây

dựng khối đại đoàn kết các dân tộc mà còn đảm bảo QP, AN, kịp thời

phát hiện, ngăn chặn, đập tam mọi âm mưu, hoạt động chống phát của

các thế lực thù địch. Hiệu quả phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP,

AN của khu vực Tây Nguyên cho thấy, phát triển KT - XH đã tạo ra cơ

sở vững chắc để đảm bảo QP, AN, giữ vững ổn định chính trị - xã hội

trên địa bàn Tây Nguyên. Mặc dù trong những năm qua, khu vực Tây

Nguyên còn xảy ra một số vụ việc như: biểu tình, gây rối (2/2001,

4/2004, 4/2008) nhưng tình hình AN chính trị trên địa bàn vẫn giữ vững

ổn định, QP luôn được đảm bảo vững chắc, tạo môi trường thuận lợi cho

KT - XH phát triển, góp phần củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, kịp

thời đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc, kích động

của các thế lực thù địch, phản động. Các LLVT đóng quân trên địa bàn

Tây Nguyên, nhất là Binh đoàn 15 - Tổng Công ty 15 (BQP) đã trở thành

mô hình đạt hiệu quả cao về thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên... Từ hiệu quả trong

thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn chiến

Page 75: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

75

lược Tây Nguyên trong những năm qua đã để lại một số kinh nghiệm quý

giá sau:

2.4.1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình

thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh

Để thực hiện tốt việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, các

tỉnh Tây Nguyên luôn coi trọng giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

Các đảng bộ Tây nguyên luôn coi trọng phát triển KT - XH là nhiệm vụ trung

tâm, đảm bảo QP, AN là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Các cấp uỷ đảng

đề ra nhiều giải pháp tập trung và kết hợp giải quyết đồng bộ cả về chính trị,

tư tưởng, KT - XH, QP, AN; luôn đầu tư phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

QP, AN. Luôn có sự đổi mới về chất trong nhận thức về phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN. Đảm bảo yêu cầu, ở đâu có hoạt động phát triển KT - XH

thì ở đó phải gắn với đảm bảo QP, AN. Mặt khác, đã nhận thức rõ việc đảm

bảo QP, AN là để duy trì, tạo môi trường hoà bình, thuận lợi cho việc phát

triển KT - XH. Kiên quyết khắc phục những nhận thức chưa đúng của một bộ

phận cán bộ, đảng viên và nhân dân cho rằng, QP, AN chỉ là nhiệm vụ riêng

của Quân đội và Công an; QP chỉ nhằm chuẩn bị lực lượng, phương tiện để

đánh thắng chiến tranh xâm lược từ bên ngoài. Do đó, cần phải nâng cao trách

nhiệm của các cấp, các ngành trong tham gia xây dựng nền QPTD, gắn với

ANND cả về lực lượng và thế trận; nhất là thực hiện tốt phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN trong xây dựng và tổ chức diễn tập KVPT tỉnh,

thành phố trên địa bàn Tây Nguyên.

Các đảng bộ Tây Nguyên thường xuyên quán triệt nâng cao nhận thức

và tạo sự chuyển biến về ý thức trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ

chốt các cấp trong việc phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, xây

dựng thế trận QPTD, gắn với thế trận ANND, “thế trận lòng dân” vững mạnh

trên địa bàn. Tuyên truyền sâu rộng về công tác giáo dục QP, AN nhằm nâng

Page 76: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

76

cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ các cấp và nhân dân nắm vững các quan

điểm cơ bản về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP AN, về BVTQ

XHCN. Kịp thời cung cấp thông tin cho nhân dân thấy rõ bản chất, âm mưu,

thủ đoạn của các thế lực thù địch.

Như vậy, trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

khu vực Tây Nguyên luôn đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, trực tiếp

của các cấp uỷ đảng. Đây là bài học kinh nghiệm quý báu về nguyên tắc cơ

bản cần phải được nhận thức và quán triệt sâu sắc trong điều kiện khu vực

Tây Nguyên vẫn còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định bỡi âm mưu, thủ

đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

2.4.2. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, các đơn vị kinh tế

của lực lượng vũ trang trong quá trình thực hiện phát triển kinh tế - xã hội

gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh

Xuất phát từ đặc điểm, tình hình khu vực Tây Nguyên, Đảng bộ các tỉnh

đã ban hành nghị quyết về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, làm cho

mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước thấm sâu vào nhận thức của

đồng bào các dân tộc vùng biên giới, không ngừng nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần của đồng bào, thông qua đó xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”

vững chắc trên địa bàn. Đồng thời, các tỉnh đã chỉ đạo các nông trường, lâm

trường trên địa bàn phối hợp chặt chẽ với các đơn vị KT của Quân đội triển khai

các dự án phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN dọc theo tuyến biên giới.

Một trong những chính sách mang lại hiệu quả KT - XH và QP, AN là ưu tiên,

tạo điều kiện thuận lợi đưa đồng bào các dân tộc vào trồng cao su, cà phê trong

các nông trường, lâm trường nhà nước, các đơn vị KT của Quân đội đóng quân

trên địa bàn Tây Nguyên. Chính việc tuyển dụng đồng bào các dân tộc vào các

nông, lâm trường, các đơn vị KT của Quân đội là phương thức hiệu quả nhằm

xoá đói, giảm nghèo, chuyển giao kỹ thuật sản xuất, tạo việc làm ổn định, nâng

cao đời sống, từ đó củng cố niềm tin cho đồng bào các dân tộc vào đường lối,

Page 77: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

77

chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN,

BVTQ trong tình hình mới.

2.4.3. Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an

ninh trong quá trình thực hiện phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo

quốc phòng, an ninh

Các cấp uỷ đảng ở khu vực Tây Nguyên nhận thức sâu sắc vấn đề phát

triển KT, xoá đói giảm nghèo, xây dựng khu dân cư, tạo ra vành đai biên giới

vững chắc phải gắn với giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo QP, AN. Việc

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN vừa là nhiệm vụ chính trị quan

trọng, vừa là yêu cầu cấp thiết và có tính chiến lược lâu dài. Vấn đề giữ vững

chính trị - xã hội ở Tây Nguyên là một trong những điều kiện tiên quyết để phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Sự ổn định, phát triển vùng đồng bào

dân tộc thiểu số là nhân tố quan trọng, góp phần đảm bảo sự ổn định, phát triển

chung của toàn khu vực Tây Nguyên. Do đó, trong quá trình lãnh đạo phát triển

KT - XH cần đề ra các chủ trương, chính sách, giải pháp phù hợp để thúc đẩy

sản xuất, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng

bào các dân tộc, tạo sự ổn định về chính trị, đấu tranh làm thất bại mọi âm

mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Các sự kiện xảy ra vào

thánh 2/2001, tháng 4/2004 đã để lại nhiều bài học và kinh nghiệm quan trọng

về công tác đảm bảo QP, AN, giữ vững chính trị - xã hội, nâng cao tinh thần

cảnh giác cách mạng, đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù. Những thành

tựu đạt được trong quá trình phát triển khu vực Tây Nguyên luôn gắn liền với

sự ổn định chính trị - xã hội, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN và

củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc vững mạnh.

2.4.4. Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trên địa bàn

Nền QPTD vững chắc là nền QP được xây dựng dựa trên sức mạnh của

toàn dân, của lòng dân được quy tụ thành một khối thống nhất dưới sự lãnh

đạo của Đảng; chính vì vậy, xây dựng “thế trận lòng dân” là một trong những

Page 78: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

78

nội dung cơ bản của việc xây dựng thế trận QPTD. Nhân dân tin tưởng vào sự

lãnh đạo của Đảng, gắn bó mật thiết với chế độ XHCN, đoàn kết, chung sức

chung lòng xây dựng và bảo vệ đất nước chính là “bức trường thành” vững

chãi nhất không một thế lực nào có thể phá bỏ. Đối với khu vực Tây Nguyên,

việc xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh gắn với thế trận QPTD vững

mạnh có ý nghĩa chiến lược quan trọng. “Thế trận lòng dân” ở Tây Nguyên

phải được xây dựng trên nền tảng kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước,

đoàn kết của đồng bào các dân tộc thiểu số, lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự

lãnh đạo của Đảng, tính hiệu quả của thực hiện chủ trương, chính sách dân

tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước.

Thực tế đã chứng minh một cách sống động, trong chiến tranh giải phóng

dân tộc, Tây Nguyên là căn cứ địa cách mạng, đồng bào các dân tộc Tây Nguyên

giàu truyền thống yên nước, đoàn kết một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ. Thế nhưng

trong các sự kiện xảy ra năm 2001 và 2004, hàng ngàn đồng bào bị các thế lực thù

địch tuyên truyền, lợi dụng, lôi kéo, kích động tham gia biểu tình, bạo loạn. Thực tế

này đặt ra yêu cầu cần nhận thức rõ ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc, đại đoàn

kết toàn dân tộc, thực hiện chính sách đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng, giúp đỡ lẫn

nhau cùng phát triển giữa các dân tộc Tây Nguyên. Cần nhận thức khu vực Tây

Nguyên với tất cả chiều sâu của truyền thống lịch sử, tiềm năng, lợi thế phát triển

KT, sức mạnh, bản chất văn hoá độc đáo của đồng bào các dân tộc trên địa bàn.

Chính vì vậy, quá trình xây dựng “thế trận lòng dân” ở Tây Nguyên cũng là quá

trình đấu tranh gay go, quyết liệt chống lại những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của

bọn phản động tại các buôn, làng Tây Nguyên. Các buôn, làng tây Nguyên là nơi

trực tiếp triển khai và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,

trong đó có chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN tại cơ sở và

còn là nơi kiểm nghiệm tính hiệu quả của các chủ trương, chính sách đó.

Như vậy, sự ổn định, phát triển bền vững của khu vực Tây Nguyên

trước hết là phải được bắt đầu từ sự ổn định, phát triển từ chính các buôn,

Page 79: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

79

làng Tây Nguyên. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, công tác xây dựng

buôn, làng có phần bị buông lỏng, nhiều buôn, làng vùng đồng bào dân tộc

thiểu số luôn trong tình trạng “trắng đảng viên”, “trắng đoàn thể”. Do đó, cấp

uỷ, chính quyền địa phương các cấp đã hướng mạnh về cơ sở, thực hiện

phương châm: cấp tỉnh nắm chắc đến từng xã, cấp huyện nắm chắc đến từng

thôn, buôn, cấp xã nắm chắc đến từng hộ gia đình. Tập trung xây dựng hệ

thống chính trị cơ sở vững mạnh toàn diện, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội

ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng,

đồng bộ về cơ cấu. Coi trọng, phát huy vai trò tích cực của già làng, trưởng

buôn, những người có uy tín. Tập trung xây dựng các mô hình “Buôn, làng

không có người theo kẻ xấu hoạt động tôn giáo trái phép”, “Buôn làng không

có người vượt biên trái phép”, “Làng thanh niên văn hoá”. Tiếp tục xây dựng

làng thanh niên lập nghiệp nơi biên giới ở xã Mo Ray, huyện Sa Thầy, Kon

Tum; làng thanh niên lập nghiệp Ia Mơ, xã biên giới Ia Mơ, huyện Chư

Prông, gia Lia...

Chính những việc làm trên đã tích cực xây dựng cấp uỷ đảng, chính quyền,

Mặt trận và các đoàn thể cơ sở vững mạnh, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”

ở khu vực Tây Nguyên vững chắc, nhằm làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của

các thế lực thù địch mà trực tiếp là bọn phản động Fulro. Đó chính là bài học kinh

nghiệm quan trọng để xây dựng thế trận QPTD gắn với “thế trận lòng dân” trên

địa bàn Tây Nguyên, góp phần thực hiện tốt chủ trương chiến lược phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn trong tình hình mới.

2.4.5. Kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền

xuyên tạc và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động

Để đấu tranh chống những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc và hoạt động

chống phá của các thế lực thù địch, phản động, vấn đề có ý nghĩa chiến lược là

cần coi trọng việc tổ chức, giáo dục ý thức phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

Page 80: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

80

QP, AN cho toàn dân, xây dựng nền QPTD vững mạnh để tạo ra sức đề kháng

ngay từ cơ sở, biến quá trình bảo vệ thành quá trình tự bảo vệ trước những âm

mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Cần tăng cường đấu tranh trên

các lĩnh vực: KT, chính trị, tư tưởng, văn hoá, đối ngoại... xây dựng ý thức phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN và đối ngoại cho cán bộ, đảng viên và các

tầng lớp nhân dân. Chú trọng tăng cường công tác đấu tranh chống các luận điệu

xuyên tạc của các thế lực thù địch; làm cho các nước, các tổ chức quốc tế hiểu

đúng thực chất tình hình Tây Nguyên. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại

về Tây Nguyên, tập trung vào thành tựu phát triển KT, XH, chính sách của Đảng,

Nhà nước về vấn đề dân tộc, tôn giáo.

Sau các sự kiện xảy ra năm 2001, 2004, cấp uỷ, chính quyền các tỉnh khu

vực Tây Nguyên đã triển khai nhiều phương án để “an dân”, ổn định tình hình

chính trị, đẩy mạnh phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; từng bước chủ

động đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Các ban,

ngành đã chú trọng tăng cường công tác thông tin đối ngoại, tạo điều kiện thuận

lợi cho các đoàn ngoại giao, báo chí, tổ chức nước ngoài đến tìm hiểu tình hình

Tây Nguyên, bác bỏ kịp thời mọi ý đồ xuyên tạc của các thế lực thù địch. Những

thành quả về phát triển KT - XH, xoá đói giảm nghèo, xây dựng khối đại đoàn

kết toàn dân, hình thành “thế trận lòng dân” trên địa bàn Tây Nguyên là vũ khí

hiệu quả nhất chống lại những luận điệu xuyên tạc và hoạt động chống phá của

các thế lực thù địch, bọn phản động Fulro nhằm chia rẽ Đảng, Nhà nước với

nhân dân và quân đội nói chung, khu vực Tây Nguyên nói riêng.

Từ kinh nghiệm của khu vực Tây Nguyên về phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN cho thấy, một số tỉnh biên giới phía Bắc cần giữ vững và tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN;

phát huy vai trò chủ đạo của KT nhà nước, các đơn vị KT của quân đội trong phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở khu vực biên giới; giữ vững sự ổn định

Page 81: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

81

chính trị; xây dựng “thế trận lòng dân”; kiên quyết và chủ động đấu tranh chống

các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, thủ

đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đó chính là những bài học kinh nghiệm

quý giá mà một số tỉnh biên giới phía Bắc cần kế thừa, học tập và vận dụng linh

hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện, tình hình từng địa phương; có như vậy mới

đen lại hiệu quả cao trong thực hiện chủ trương chiến lược phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN.

Kết luận chƣơng 2

Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu có liên

quan đến đề tài luận án như đã trình bày ở chương một, chương hai luận án đi

vào hệ thống hoá và làm rõ thêm cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN trên những nội dung cơ bản: phân tích làm rõ một số

khái niệm về KT - XH; QP, AN; đảm bảo QP, AN; phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN và phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới

phía Bắc. Phân tích làm rõ những nội dung cơ bản; sự cần thiết phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN; những nhân tố có tác động ảnh hưởng đến phát triển

KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN và trình bầy kinh nghiệm của khu vực Tây

Nguyên về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Trên cơ sở đó, một số

tỉnh biên giới phía Bắc có thể tham khảo làm bài học kinh nghiệm để nghiên cứu

và vận dụng sáng tạo, chủ động, linh hoạt phù hợp để đem lại hiệu quả cao trong

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.

Page 82: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

82

Chƣơng 3

THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN

KINH TẾ - XÃ HỘI GẮN VỚI ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG, AN NINH

Ở MỘT SỐ TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC

3.1. Các yếu tố môi trƣờng ảnh hƣởng đến phát triển kinh tế - xã

hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh

Biên giới phía Bắc Việt Nam bao gồm 7 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Lào

Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh [phụ lục 1], tổng diện tích

tự nhiên khoảng 5,2 triệu ha. Phía Bắc vùng này giáp với Đông Nam Trung

Quốc có đường biên giới dài 1.495km (120 km là biên giới đường sông), chạy

dài qua 31 huyện thị, 159 xã, 2.838 làng, bản của 7 tỉnh biên giới, tiếp giáp

với 15 huyện của hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây - Trung Quốc. Phía Tây giáp

Lào, có đường biên giới dài 632 km; phía Đông giáp Biển Đông; phía Nam

giáp với đồng bằng, trung du Bắc Bộ. Là vùng có vị trí chiến lược hết sức

quan trọng cả về KT, QP, AN, đối ngoại. Là cầu nối liền trực tiếp Việt Nam

với các nước láng giềng: Trung Quốc, Lào, xa hơn là các nước trong khu vực

Châu Á. Vùng này nếu được khai thác tốt sẽ mang lại nguồn lợi không nhỏ

trong phát triển KT - XH, cho phép các tỉnh này vừa có khả năng mở rộng

khai thác những điều kiện tự nhiên, KT - XH; vừa mở rộng tiếp nhận vốn đầu

tư, tri thức, KH - CN của các nước trong khu vực và trên thế giới.

3.1.1. Điều kiện địa lý

- Về địa hình tự nhiên: Các tỉnh biên giới phía Bắc có địa hình rất phức

tạp, đồi núi có độ phân cách, phân địa cao. Cơ bản các tỉnh đều có độ cao trên

dưới 1.000m so với mực nước biển. Nhiều tỉnh có núi rừng hiểm trở như các

tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, độ cao trung bình gần 1.000m;

một số dãy núi cao từ 2.000m đến 3.000m như: Tây Côn Lĩnh, Phan Xi Phăng.

Địa hình thấp dần theo chiều từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Các tỉnh

Page 83: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

83

này có tỷ lệ rừng che phủ thấp, xen lẫn có một số thung lũng bằng thuận lợi cho

phát triển nông nghiệp; nhiều khu vực có thế mạnh về đất đai cho phát triển

nông, lâm như: Quảng Ninh, Lạng Sơn,… Song, nhìn chung địa hình ở đây rất

phức tạp, bị chia cắt, gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, giao thông và trao đổi

hàng hoá… Một số tỉnh có nhiều sông lớn chảy qua như: sông Hồng, sông Đà,

sông Kỳ Cùng, sông Bắc Luân, sông Ka Long và nhiều sông, suối nhỏ. Mùa

khô, phần lớn các sông, suối đều cạn nước, nguồn nước cung cấp cho phát

triển KT - XH thường bị hạn chế. Mùa mưa các dòng chảy lớn, thường xảy ra

lũ lụt, sạt lỡ làm biến đổi địa hình, cản trở giao thông. Phần lớn các công trình

thuỷ lợi ở các tỉnh này có quy mô nhỏ nên khả năng điều tiết nước hạn chế,

ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất phát triển KT - XH.

- Về khí hậu, thời tiết: vùng này có khí hậu nhiệt đới, 4 mùa: xuân, hạ,

thu, đông. Mỗi mùa thường có nhiệt độ, độ ẩm, tỷ lệ ngày nắng, lượng mưa

khác nhau. Đặc trưng của từng mùa cũng khác nhau: mùa xuân thời tiết, độ

ẩm cao; mùa hạ trời nắng nóng, hay có những cơm mưa rào lớn; mùa thu mát

mẽ; mùa đông lạnh, hanh khô. Một số tỉnh biên giới phía Tây Bắc nằm trong

vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, do có độ cao hơn nên tính chất khí hậu

nhiệt đới đã bị phá vỡ, ở các vùng có độ cao trên 800m xuất hiện khí hậu á

nhiệt đới, vùng núi cao có khí hậu ôn đới. Một số tỉnh biên giới phía Đông

bắc có khí hậu hai mùa rõ rệt: mùa đông thường khô hanh, ít mưa, lạnh, nhiệt

độ trung bình 10 độ C. Trong những năm gần đây, khí hậu ngày càng cực

đoan hơn, có năm có hiện tượng sương muối, băng giá. Mùa hè có mưa nhiều,

lượng mưa trung bình từ 1.500mm trở lên. Cùng với đó là độ che phủ của

rừng thấp nên hàng năm thường có nhiều lũ lụt, nhất là lũ ống, lũ quét, sạt lỡ

đất… gây thiệt hại nhiều về người, tài sản của nhân dân địa phương.

- Về tài nguyên,khoáng sản: Địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là

nơi tập trung nhiều khoáng sản, mỏ, điểm quặng rất đa dạng, phong phú về

Page 84: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

84

loại hình, có trữ lượng lớn, chất lượng tương đối cao như: đất hiếm ở Lai

Châu; đồng, vàng, Apatít ở Lào Cai; thiếc, bôxít ở Cao Bằng… Đây chính là

điều kiện thuận lợi giúp các địa phương phát triển công nghiệp khai khoáng,

chế biến khoáng sản, tạo khả năng cho ngành công nghiệp phát triển với tư

cách là vành đai lương thực, thực phẩm cho các vùng công nghiệp, giao lưu

văn hoá, khoa học kỹ thuật. Về tài nguyên rừng, nhìn chung rừng ở đây thuộc

loại nghèo và trung bình, diện tích đang bị thu hẹp nhanh chóng bởi tình trạng

đốt phá rừng làm nương rẫy, nạn cháy rừng còn để xảy ra phổ biến, rừng giàu

chiếm tỷ lệ nhỏ, phần lớn tập trung ở khu vực giáp biên giới, nơi địa hình

hiểm trở, khó khai thác.

3.1.2. Kinh tế - xã hội, chính trị

Các tỉnh biên giới phía Bắc có dân số khoảng 4,3 triệu người, mật độ thưa

(120 người/km2), phân bố không đều, tỷ lệ tăng dần từ vùng cao xuống vùng thấp,

từ những khu vực đi lại khó khăn đến nơi có đường giao thông thuận lợi; chủ yếu

tập trung ở các thành phố, thị xã, thị trấn, khu vực cửa khẩu, các thung lũng dọc

theo sông suối. Các tỉnh này có 43 dân tộc sinh sống, chủ yếu là dân tộc thiểu số,

chiếm gần 50% số dân của các dân tộc thiểu số cả nước. Đồng bào sống ở vùng

biên giới chủ yếu là các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, HMông, Thái, Dáy, Hà Nhì, Lô

Lô, La Hủ… Những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về

xây dựng khu KT mới, khu KT - QP, khu KT cửa khẩu, do đó dân số ở vùng biên

giới tỷ lệ, thành phần dân tộc được nâng lên. Song, so với các vùng khác, tỷ lệ này

vẫn còn rất thấp [phụ lục 2]. Một số tỉnh biên giới phía Bắc có các tôn giáo như:

Đạo Phật, Đạo Thiên Chúa, Đạo Tin lành… Đồng bào theo các tôn giáo sống hoà

thuận, thương yêu giúp đỡ nhau trong sản xuất, ổn định đời sống. Tuy nhiên, với

bản chất không bao giờ thay đổi của kẻ thù, trước âm mưu, thủ đoạn chống phá

cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, bằng chiến lược “DBHB”, chúng

dùng mọi thủ đoạn để kích động, lôi kéo phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ

Page 85: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

85

các tôn giáo. Nhất là trong thời gian gần đây, kẻ thù ráo riết đẩy mạnh các hoạt động

truyền đạo trái phép, nhất là đạo Tin lành…

Về kinh tế: nền KT ở các tỉnh biên giới phía Bắc sản xuất nông, lâm

nghiệp là chính. Do trình độ dân trí còn thấp, tập quán canh tác lạc hậu, vì vậy

nền KT sản xuất nhỏ, mang tính tự cấp, tự túc là chính. Bước chuyển dịch cơ

cấu đầu tư theo chương trình 135, nhiều ngành nghề ở địa phương phát triển

theo hướng sản xuất kết hợp nông, lâm nghiệp với trồng cây công nghiệp, cây

ăn quả, cây dược liệu, chăn nuôi trâu, bò, dê, cá… Một số địa phương đã hình

thành những vùng sản xuất tập trung theo hướng chuyên canh đạt được hiệu

quả KT cao, nâng cao đời sống nhân dân, tạo ra cơ sở vật chất ngày càng

vững chắc cho phát triển KT, văn hoá, XH, góp phần không nhỏ cho nhiệm vụ

đảm bảo QP, AN trên địa bàn nói riêng, cả nước nói chung.

Dọc chiều dài toàn tuyến biên giới hiện nay có 21 cửa khẩu, trong đó có

4 cửa khẩu quốc tế. Đây chính là “cửa ngõ” giao thương phát triển thương mại

giữa Việt Nam với Trung Quốc; ngoài ra có hàng trăm đường tiểu ngạch, hàng

ngàn đường mòn dân sinh, nhân dân thường qua lại buôn bán tự do rất khó

quản lý. Từ sự tác động của cơ chế thị trường, lợi nhuận buôn bán lậu các loại

hàng hoá, làm cho đời sống nhân dân vùng này chênh lệch khá lớn, sự phân

hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân trên các địa bàn ngày càng gia tăng,

đời sống nhân dân các đồng bào sinh sống ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng

bào dân tộc đã khó khăn ngày càng khó khăn hơn. Vì vậy, phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nhằm tận dụng các

thế mạnh về tài nguyên, các nguồn lực, đẩy mạnh đầu tư, phát triển ngành

nghề… để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát triển KT - XH cải thiện, không

ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời, là cơ sở vật chất đảm bảo cho

nhiệm vụ xây dựng lực lượng, thế trận, tiềm lực QP, AN trên địa bàn, góp phần

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Page 86: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

86

Về giao thông: trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc có các quốc

lộ: 1, 2, 3, 6, 18 chạy theo trục Bắc - Nam; quốc lộ 4a, 4b, đường 279, 379,

đường tuần tra biên giới chạy theo trục Đông - Tây và đường sắt. Ngoài ra,

còn có hệ thống các đường liên tỉnh, liên huyện, đường lâm sinh, dân sinh

đang được mở rộng cùng với nhu cầu phát triển KT - XH từng tỉnh. Tuy

nhiên, nhìn chung các tuyến đường bộ chính phần lớn còn hẹp, thường bị

xuống cấp do mưa lũ nhiều; các tuyến đường sắt năng lực vận chuyển còn hạn

chế. Hệ thống đường giao thông liên huyện, liên xã chưa thật sự phát triển,

nhiều xã vùng cao chưa có đường ô tô đến xã. Giao thông của đa số các huyện

trong vùng thường gặp giản đoạn trong mùa mưa lũ. Đây chính là trở ngại lớn

cho phát triển KT - XH, đảm bảo QP, AN trên địa bàn.

Về thuỷ lợi: trong những năm qua, Nhà nước đã tập trung đầu tư, nhưng

do nguồn vốn còn hạn chế nên hệ thống thuỷ lợi ở một số tỉnh biên giới phía

Bắc còn kém phát triển. Do đó, việc cung cấp nước cho sản xuất, sinh hoạt

còn nhiều hạn chế. Phần lớn các công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu cơ bản

là hệ thống tự chảy, tính lưỡng dụng của các công trình phụ thuộc vào nguồn

nước tự nhiên. Nguồn nước chủ yếu lại do chế độ mưa chi phối, dẫn đến gặp

nhiều khó khăn trong sản xuất, sinh hoạt của đồng bào.

Hệ thống điện: do đặc điểm tự nhiên, vị trí địa hình chi phối, nên mạng

lưới điện quốc gia chỉ mới đến được khắp các tỉnh biên giới phía Bắc trong

những năm gần đây. Tuy nhiên, ở nhiều tỉnh, điện lưới quốc gia mới chỉ đến

tỉnh lỵ, huyện lỵ, trung tâm xã. Nhiều nơi phát triển hệ thống thuỷ điện nhỏ,

nhiều hộ đồng bào sử dụng điện do các nhà máy thuỷ lực tự xây lắp cung cấp,

cá biệt có nơi chưa có điện.

Về giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội: cơ sở vật chất ở một số tỉnh biên giới phía

Bắc đạt mức độ bình quân chung của cả nước (tính trên tổng số dân), nhưng chất

lượng đa số các cơ sở vật chất phục vụ XH còn nghèo nàn, nhiều cơ sở vật chất đã

Page 87: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

87

xuống cấp, trang thiết bị vừa thiếu, vừa bị hư hỏng. Nhiều địa phương trong các tỉnh,

trường, lớp chủ yếu là nhà tranh tre dột nát, học sinh đi học xa, đời sống đội ngũ giáo

viên còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ y tế cơ sở vừa yếu, vừa thiếu. Đời sống

của nhân dân đồng bào các dân tộc nhìn chung còn nghèo, thu nhập thấp, tỷ lệ đói

nghèo nhiều địa phương còn cao, khu vực biên giới Đông Bắc là 23,2%, biên giới

Tây Bắc là 46,1%. Trình độ dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại,

tệ nạn XH có chiều hướng gia tăng. Trên thực tế, nhân dân vùng ven biên giới giữa

hai nước còn duy trì nhiều mối quan hệ mật thiết về hôn nhân, huyết thống, về dân

tộc, tôn giáo… Nhận thức của nhiều người dân về biên giới quốc gia chưa rõ ràng,

gây ảnh hưởng không nhỏ đến QP, AN. Đây chính là những vấn đề đặt ra trong quá

trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong thời kỳ mới.

Về chính trị, hệ thống chính trị cơ sở ở một số tỉnh biên giới phía Bắc

đang từng bước được xây dựng, năng lực quản lý, trình độ tổ chức, vận động

nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước còn hạn chế.

Nhân dân các dân tộc luôn đoàn kết phát huy truyền thống yêu nước, kiên

cường bất khuất trong đấu tranh, cần cù sáng tạo trong lao động. Có nhiều địa

phương được phong tặng danh hiệu anh hùng LLVT.

3.1.3. Về quốc phòng - an ninh

Các tỉnh biên giới phía Bắc có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi cửa ải

biên cương Tổ quốc. Chính vì vậy, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc luôn bị kẻ

thù nhìn ngó. Mặc dù trong thời kỳ mới, trước xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác

để phát triển, đất nước ta đang trong hoà bình, QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía

Bắc ổn định. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều bất ổn không thể xem

thường: kẻ thù không từ bỏ âm mưu chống phá cách mạng. Hơn thế, chúng còn

chống phá một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, KT; nhất là

thương mại, dịch vụ, văn hoá, đặc biệt là QP, AN. Trong đó, vấn đề dân tộc, tôn

giáo, lãnh thổ được kẻ thù xác định là trọng điểm.

Page 88: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

88

Về vấn đề dân tộc, tôn giáo, kẻ thù thường xuyên lợi dụng các vấn đề

do lịch sử để lại, trình độ dân trí thấp để truyền đạo trái phép, sự thấp kém của

đời sống nhân dân các dân tộc thiểu số vùng biên giới, những thiếu xót trong

thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để đẩy mạnh tuyên truyền lôi kéo, kích

động nhân dân đồng bào các dân tộc thiểu số nghe theo những luận điệu

xuyên tạc, chống phá của kẻ thù.

Về lãnh thổ, biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong một thời gian dài là

biên giới hoà bình, hữu nghị, nhưng phía Trung Quốc đã từng bước lợi dụng sơ

hở, mất cảnh giác của một số ban, ngành, địa phương tại một số tỉnh biên giới phía

Bắc Việt Nam để thực hiện “gặm nhấm” lãnh thổ nước ta bằng nhiều thủ đoạn

tinh vi, tiến hành chỉ đạo các hoạt động xâm canh, xâm cư đất canh tác của nhân

dân ta ở vùng biên giới như: mượn đường đi lại; xây kè chắn trên sông suối để

thay đổi dòng chảy; nguỵ tạo dấu hiệu để lấn chiếm lãnh thổ (mồ mả, nhà cửa, cột

mốc...). Hiện nay, mặc dù ở cấp Trung ương giữa hai nước đã đạt được những

thoả thuận nhất định về biên giới. Nhưng trên thực tế, ở các địa phương phía

Trung Quốc có đường biên giới giáp với các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam,

vẫn tồn tại nhiều hoạt động xâm lấn biên giới, vi phạm chủ quyền lãnh thổ theo

kiểu “phép vua thua lệ làng”. Phía Trung Quốc tận dụng các mối quan hệ dòng

tộc, thân tộc để tiến hành các hoạt động thăm thân, đầu tư sản xuất, hợp đồng mua

quyền sử dụng đất trong thời gian dài, rồi đưa người sang sản xuất theo hướng

định cư lâu dài, nhằm từng bước thực hiện xoá nhoà biên giới quốc gia theo quan

điểm “biên giới mềm”, ở đâu có người Hoa sinh sống, đó là lãnh thổ của Trung

Quốc; hàng hoá của họ đến đâu, AN quốc gia của họ được coi trọng đến đó… Khi

chiến tranh xảy ra, các tỉnh biên giới phía Bắc là nơi đột phá mở đầu cho cuộc tiến

công xâm lược của kẻ thù. Hướng chủ yếu đánh vào Việt Nam nhằm thực hiện

mục tiêu chiến lược theo ý định của chúng. Chính vì vậy, phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN là đẩy mạnh phát triển KT - XH, ổn định, nâng cao đời sống

Page 89: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

89

nhân dân. Qua đó, phát triển lực lượng, củng cố thế trận, tăng cường tiềm lực, nhất

là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo sức mạnh tổng hợp đủ sức đánh

bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, quyết không để kẻ thù xâm hại

đến lợi ích quốc gia, tạo cớ gây chiến tranh xâm lược.

Trong thời kỳ mới, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng

được mở rộng, củng cố; sau chiến tranh, năm 1991 hai nước đã nối lại bình

thường hoá quan hệ ngoại giao. Qua các chuyến thăm của các đoàn lãnh đạo cấp

cao hai nước đã từng bước nâng lên tầm quan hệ chiến lược theo tinh thần 16 chữ

vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương

lai”; tinh thần 4 tốt: “Láng giềng tốt, đồng chí tốt, bạn bè tốt và đối tác tốt”, “Đối

tác chiến lược”. Hai nước đã ký kết “Hiệp ước về Biên giới trên bộ”, ngày

31/12/2008 hai bên đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc trên đất liền có chiều

dài 1.406km, với tổng 1.971 cột mốc. Trong đó, có 1.549 cột mốc chính, 422 cột

mốc phụ. Ngày 18/11/2009, Chính phủ hai nước đã ký “Hiệp định Quy chế biên

giới” thay thế “Hiệp định tạm thời”. Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng, tạo môi

trường thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN,

nhất là trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới. Tuy nhiên,

trước bối cảnh tình hình mới hiện nay, đặc biệt việc Trung Quốc hạ đặt trái phép

giàn khoan Hải Dương (Halyang Shlyou) 981 (5/2014) vừa qua… chúng ta phải

hết sức cảnh giác, tỉnh táo trong việc nhận định, đánh giá, dự báo tình hình, phân

biệt rõ đối tượng, đối tác.

Từ sự phân tích đặc điểm tự nhiên, KT - XH, QP, AN ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc như trên cho thấy những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng

đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN như sau:

- Thuận lợi

Các tỉnh biên giới phía Bắc có vị trí địa lý khá thuận lợi, có thể cho phép

tận dụng được lợi thế so sánh của mình trong quan hệ hợp tác KT - thương mại

với các vùng trong cả nước và quốc tế.

Page 90: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

90

Phía Bắc các tỉnh này giáp với Trung Quốc là nước có diện tích rộng,

dân số đông, có KT tăng trưởng nhanh, ổn định trong nhiều năm gần đây. Tiếp

giáp liền kề với các tỉnh biên giới nước ta là hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây,

tuy là những tỉnh còn nghèo của Trung Quốc, nhưng vẫn vượt trội về KT so với

các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Đó là thị trường có nhiều thuận lợi đối với

các tỉnh biên giới phía Bắc như: vị trí liền kề, thị trường dễ tính, nhu cầu tiêu

thụ sản phẩm lớn, trong giao dịch, thanh toán, buôn bán còn mang tính truyền

thống, chưa cần nhiều đến ngoại tệ mạnh… Dọc biên giới có hệ thống cửa

khẩu, chợ mậu biên, các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ như: thành phố cửa

khẩu Móng Cái, thành phố Lạng Sơn, thành phố Cao Bằng, thành phố Hà

Giang, thành phố Lào Cai, thành phố Lai Châu, thành phố Điện Biên… thông

qua việc giao lưu KT, văn hoá, dân cư ở các tỉnh biên giới có điều kiện tiếp

nhận thông tin mới về thị trường, tiến bộ KH - CN… tạo thuận lợi cho phát

triển KT - XH. Đây chính là những thuận lợi cơ bản giúp cho một số tỉnh biên

giới phía Bắc nước ta vừa phát huy được thế mạnh của mình để đẩy mạnh quan

hệ KT, thương mại với nước bạn, hình thành các vùng chuyên môn hóa, tạo ra

hệc vùng KT xuất khẩu những mặt hàng mũi nhọn và nhập khẩu máy móc thiết

bị công nghiệp phục vụ cho nhu cầu phát triển KT - XH.

Phía Nam, các tỉnh biên giới phía Bắc tiếp giáp với các tỉnh miền núi, trung

du, đồng bằng Bắc Bộ, tiếp sau là vùng đồng bằng sông Hồng có thủ đô Hà Nội,

sân bay quốc tế Nội Bài, cảng Hải Phòng, là những trung tâm KT, chính trị, XH,

KH - CN của Bắc Bộ và cả nước, trên vùng giáp ranh đã hình thành những thành

phố, thị xã, thị trấn như: thành phố Hạ Long, thị xã Quảng Yên, thành phố Hải

Phòng, thành phố Bắc Giang, thành phố Phú Thọ, thành phố Bắc Ninh… là tụ

điểm giao lưu KT, văn hoá, XH giữa miền xuôi với miền núi biên giới; đồng thời,

là thị trường tiêu thụ hàng nông, lâm sản từ biên giới về vùng xuôi, cung cấp hàng

hoá từ các vùng đồng bằng, đô thị lên vùng biên giới. Cùng với các yếu tố thuận

Page 91: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

91

lợi đó, các tỉnh biên giới phía Bắc còn là địa bàn có hệ thống giao thông đường bộ,

đường sắt, đường sông tương đối phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao

lưu phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN.

Về tài nguyên đất đai, khí hậu của các tỉnh biên giới phía Bắc thích hợp

với phát triển cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc,

trồng rừng lấy gỗ và nguyên liệu giấy, cây dược liệu, cây đặc sản… Đó chính

là cơ sở tự nhiên thuận lợi cho sự phân công lao động XH, phát triển sản xuất,

điều chỉnh dân cư giữa các khu vực trên biên giới, vừa có giá trị lớn về phát

triển KT - XH, vừa có giá trị lớn về QP - AN.

- Khó khăn

Địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, nhất là các tỉnh Cao Bằng,

Lạng Sơn, Quảng Ninh có địa hình bị chia cắt, núi non hiểm trở, độ dốc cao

gây khó khăn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các quan hệ giao lưu

KT - XH, đặc biệt còn gây ra tình trạng thiếu nước trong mùa khô, lũ ống, lũ

quét, sạt lở đất đá trong mùa mưa… ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sản

xuất, sinh hoạt của nhân dân đồng bào các dân tộc; gây cản trở đến phát triển

KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.

Môi trường tự nhiên thời gian qua đã được tái tạo, cải thiện đáng kể. Tuy

nhiên, đất trống, đồi núi trọc nhiều, việc tái tạo môi sinh, trồng lại rừng, nâng cao

độ che phủ là việc làm đòi hỏi nhiều công sức, thời gian. Kết cấu hạ tầng còn

nhiều hạn chế, hệ thống đường sá đi lại khó khăn lại bị xuống cấp, nhất là ở

các địa bàn vùng cao biên giới gây nhiều khó khăn cho việc giao thương hàng

hoá, nắm bắt thông tin, thị trường, chuyển giao công nghệ…

Mật độ dân số thưa, khoảng 120 người/ km2, cá biệt có tỉnh mật độ dân

cư chỉ có 30 người/km2 như tỉnh Lai Châu. Trình độ học vấn thấp, thiếu kiến

thức KH - CN... Trình độ phát triển KT - XH thấp, nền KT còn mang nặng

tính tự cấp, tự túc, quan hệ thị trường phát triển chưa đồng đều. Cơ cấu GDP

Page 92: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

92

của các tỉnh này, nông, lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ lệ đói nghèo

còn cao... những vấn đề đó gây khó khăn không nhỏ cho phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn trong thời kỳ mới.

3.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc

phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc

Thực trạng quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc được thể hiện trên các mặt sau:

3.2.1. Sự gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo

quốc phòng, an ninh trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch và tổ chức

thực hiện phát triển các ngành, các lĩnh vực

Trong những năm qua, quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiên các nghị

quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trên cơ sở quy

hoạch phát triển KT - XH của cả nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt, cho ý kiến chỉ đạo, một số tỉnh biên giới phía Bắc đã thường xuyên coi

trọng công tác quy hoạch, khuyến khích các tổ chức, thu hút các chuyên gia,

các nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia xây dựng quy hoạch, kế hoạch

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn. Tiêu biểu như tỉnh

Quảng Ninh, để thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo AN, QP từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, tập đoàn

McKinsey của Mỹ, một trong những tập đoàn tư vấn uy tín của thế giới đã

trúng thầu làm đơn vị tư vấn thực hiện quy hoạch; đề án này đã được Tập thể

Bộ Chính trị đánh giá cao; trên cơ sở đó Quảng Ninh đã tổ chức nhiều cuộc

hội thảo khoa học để tranh thủ ý kiến của nhiều tổ chức và các nhà khoa học

đầu ngành trên cả nước…

Đến nay, cơ bản các tỉnh biên giới phía Bắc đã có quy hoạch, kế hoạch tổng

thể và quy hoạch, kế hoạch cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, từ việc lập quy

hoạch, kế hoạch phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng KT - XH dọc tuyến biên giới;

Page 93: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

93

lập, thẩm định, phê duyệt các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, quy hoạch

phát triển ngành gắn với phát triển XH và đảm bảo QP, AN cho các tỉnh, thành phố,

các huyện, thị xã; các dự án phát triển khu công nghiệp; trong quy hoạch phát triển

điện lực, thương mại, du lịch, dịch vụ; quy hoạch phát triển làng nghề, trung tâm

thương mại, siêu thị và hệ thống chợ, hệ thống xăng dầu...; trong quy hoạch, kế

hoạch phát triển nông nghiệp; hệ thống y tế; GD - ĐT, KH - CN và trong công tác

quy hoạch, kế hoạch, các chương trình, dự án giải quyết việc làm, xoá đói giảm

nghèo, ổn định đời sống, KT, XH.

Cùng với công tác quy hoạch, kế hoạch các lĩnh vực như trên, một số

tỉnh biên giới phía Bắc đã thường xuyên chú ý đổi mới, nâng cao chất lượng,

hiệu quả trong công tác xây dựng và quản lý quy hoạch.

3.2.2. Sự gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo

quốc phòng, an ninh trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế

Cơ cấu KT ở một số tỉnh biên giới phía Bắc chuyển dịch theo hướng

tích cực từ nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ,

nông nghiệp.

Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch theo hướng tiến bộ, công nghiệp nhà

nước đã tập trung vào những ngành có vốn đầu tư lớn, chủ đạo như: khai thác,

chế biến khoáng sản, thuỷ điện… Một số sản phẩm công nghiệp do Trung

ương quản lý có khối lượng lớn là khai khoáng, xi măng. Giá trị sản xuất

công nghiệp có xu hướng tăng nhanh. Công nghiệp chế biến nông - lâm sản

gắn với các vùng nguyên liệu đã ngày càng phát huy tác dụng. Nhiều ngành

nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống của các dân tộc, các làng nghề truyền

thống được khuyến khích, phát triển mạnh.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã có sự chuyển

dịch mạnh mẽ sang chăn nuôi và trồng cây công nghiệp; số đơn vị nông, lâm

nghiệp và thuỷ sản ngày càng tăng. Đối với lĩnh vực ngư nghiệp - kinh tế biển

Page 94: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

94

(Quảng Ninh); trong 7 tỉnh biên giới phía Bắc, ngoài đường biên giới trên đất liền,

Quảng Ninh là tỉnh duy nhất có biển, đường biên giới trên biển với Trung Quốc; có

đường phân định Vịnh Bắc Bộ trên biển hơn 191 km; bờ biển dài 250 km; với ngư

trường rộng trên 6,1 nghìn km2, 40.000 ha bãi triều, trên 20.000 ha eo vịnh; có 2

huyện đảo (Cô Tô, Vân Đồn) với 2.077 hòn đảo. Xuất phát từ điều kiện tự nhiên về

biển, đảo như vậy, dẫn đến KT biển, ven biển có bước phát triển mạnh mẽ và được

gắn kết chặt chẽ với QP - AN.

3.2.3. Sự gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo

quốc phòng, an ninh trong xây dựng kết cấu hạ tầng

Trên địa bàn cả nước cũng như một số tỉnh biên giới phía Bắc, quá

trình phát triển KT nói chung, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

nói riêng đều cần có sự đóng góp của nhiều yếu tố như: cơ chế, chính sách;

các nguồn lực; trình độ văn hoá, KH - CN; kết cấu hạ tầng đảm bảo… Trong

đó, việc xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo là một trong những điều kiện quan

trọng, quyết định hiệu quả phát triển KT - XH, tạo điều kiện thuận lợi đảm

bảo QP, AN như: đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho các LLVT, đảm

bảo thông tin liên lạc, tổ chức triển khai, cơ động lực lượng... Thực tế cho

thấy, một số tỉnh biên giới phía Bắc là nơi có kết cấu hạ tầng KT - XH kém và

chậm phát triển: từ hệ thống đường giao thông, mạng lưới thông tin liên lạc,

công trình thủ lợi, cơ sở y tế, trường học đến các công trình phúc lợi công

cộng… Do đó, trong những năm qua, Nhà nước cũng như chính quyền các

tỉnh biên giới phía Bắc đã quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng một cách

đồng bộ, nhằm vừa phục vụ phát triển KT - XH, vừa đảm bảo QP, AN.

Đối với lực lượng quân đội đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên

giới phía Bắc. Phát huy truyền thống QĐND Việt Nam, lao động, sản xuất, xây

dựng KT là một trong ba chức năng cơ bản. Chức năng lao động, sản xuất, xây

dựng KT của Quân đội là vấn đề có tính bản chất của một quân đội của nhân

Page 95: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

95

dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong thời kỳ mới, QĐND Việt Nam thực hiện

tốt nhiệm vụ lao động, sản xuất, xây dựng KT không chỉ góp phần tăng cường

bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, tăng cường sức mạnh

chiến đấu của quân đội, mà còn trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi chủ

trương chiến lược của Đảng, Nhà nước về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

QP, AN. Lực lượng Quân đội đóng quân trên địa bàn một số tỉnh Biên giới

phía Bắc bao gồm: lực lượng Quân khu 1 trên địa bàn các tỉnh: Lạng Sơn,

Cao Bằng; lực lượng Quân khu 2 trên địa bàn các tỉnh: Điện Biên, Lai Châu,

Lào Cai, Hà Giang; lực lượng Quân khu 3 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới

phía Bắc đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đặc biệt là những thành

tựu trong phát triển các khu KT - QP.

3.2.4. Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong phát triển

kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên

giới phía Bắc thời gian qua

3.2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân

Những thành tựu

Một là, công tác lập quy hoạch, kế hoạch, tổ chức thực hiện phát triển

các ngành, các lĩnh vực đã đạt được nhiều tiến bộ tích cực trong việc gắn kết

chặt chẽ phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN

- Dọc tuyến biên giới trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc đã

được các cơ quan QS, dân sự phối hợp lập quy hoạch, kế hoạch phát triển hạ

tầng kỹ thuật, hạ tầng KT - XH, nhất là phát triển đường vành đai, đường tuần

tra biên giới, các cụm, khu dân cư, các khu KT cửa khẩu như: thành phố cửa

khẩu Móng Cái (Quảng Ninh); cửa khẩu Hữu Nghị, Tân Thanh… (Lạng Sơn);

cửa khẩu Tà Lùng, Trà Lĩnh, Sóc Giang, Lý Vạn (Cao Bằng); cửa khẩu Lào

Page 96: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

96

Cai (Lào Cai)… Hệ thống chính trị được tăng cường củng cố; cơ sở KT, văn

hoá, XH, LLVT của các địa phương, cũng như lực lượng của Quân khu 1,

Quân khu 2, Quân khu 3, lực lượng bộ đội Biên phòng đóng quân trên địa bàn

luôn đoàn kết gắn bó với nhau, với đồng bào các dân tộc trong quá trình phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn.

- Các tỉnh, thành phố, các huyện, thị xã đã khẩn trương lập, thẩm định,

phê duyệt các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết, quy hoạch phát triển

ngành gắn với phát triển XH và đảm bảo QP, AN. Các huyện, thị xã đã và

đang triển khai xây dựng các quy hoạch chi tiết của địa phương phù hợp với

quy hoạch của tỉnh và tổ chức thực hiện, quản lý quy hoạch theo đúng các quy

định hiện hành, thúc đẩy phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong

KVPT, theo phương châm "làng giữ làng, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh".

- Các dự án phát triển khu công nghiệp, trung tâm dịch vụ thương mại,

du lịch, khu chuyên canh; các dự án phát triển huyện, thị xã, khu đô thị, khu

dân cư... đều được gắn kết chặt chẽ giữa khả năng, nhu cầu đổi mới, phát triển

của địa phương và nhu cầu đảm bảo QP, AN. Các dự án phát triển kết cấu hạ

tầng đều thể hiện được sự gắn kết hài hoà, đồng bộ trong tổng thể chung giữa

đô thị trung tâm với các đô thị vệ tinh, giữa tỉnh này với tỉnh khác trên địa

bàn, với các tỉnh, thành phố khác trong vùng KT trọng điểm phía Bắc, miền

Bắc và cả nước, cũng như với các nước bạn Trung Quốc, Lào và các nước

khác trong khu vực ASEAN. Trên cơ sở đó, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ, liên

hoàn, hiệu quả cả trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số

tỉnh biên giới phía Bắc và gắn kết với các tỉnh, các địa bàn chiến lược khác,

cả trong phát triển KT - XH, trong đảm bảo QP, AN, cả trong thời bình, cũng

như khi có tình huống chiến tranh xảy ra. Trên cơ sở quy hoạch của Chính

phủ và các tỉnh biên giới phía Bắc về phát triển công nghiệp, các cụm công

nghiệp tập trung, đến nay ở các thành phố trung tâm, các khu KT cửa khẩu,

Page 97: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

97

đồng thời với sự bố trí tài nguyên, khoáng sản, các tiềm năng phát triển du

lịch trên một số địa phương cơ bản nằm ở các vị trí có ý nghĩa chiến lược

không chỉ về KT - XH, mà còn có ý nghĩa đặc biệt về QP, AN.

Trong công nghiệp, nhất là công nghiệp khai thác, trên cơ sở quy hoạch, các

tỉnh đã huy động mọi chủ thể ở các thành phần KT tham gia khai thác những lợi thế

so sánh của từng tỉnh, nhằm đẩy mạnh tăng trưởng, phát triển KT trên địa bàn là tất

yếu khách quan, phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước; những

vùng khai thác tài nguyên như: than đá ở Quảng Ninh; thiếc ở Tĩnh Túc - Cao

Bằng; apatít Lào Cai... Trong quy hoạch các khu KT cửa khẩu: cửa khẩu quốc tế

Móng Cái (Quảng Ninh); cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn); cửa khẩu quốc tế

Tà Lùng (Cao Bằng); cửa khẩu quốc tế Lào Cai... là những điểm du lịch, dịch vụ

đang tiến hành khai thác đều gần các vị trí chiến lược quan trọng, vừa là cửa ngõ

“phên dậu” trên tuyến biên giới phía Bắc, vừa là căn cứ vững chắc của cách mạng

nước ta. Với vị trí chiến lược đó đã góp phần làm thay đổi diện mạo KT - XH đối

với các vùng đô thị của một số tỉnh biên giới phía Bắc.

- Trong quy hoạch phát triển điện lực, thương mại, du lịch, dịch vụ; quy

hoạch phát triển làng nghề, trung tâm thương mại, siêu thị và hệ thống chợ, hệ

thống xăng dầu... ở một số tỉnh biên giới phía Bắc đều được quan tâm gắn kết cả

về KT, XH, lao động, dân cư, đảm bảo QP, AN và trật tự an toàn XH trên địa bàn.

- Trong quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp, một số tỉnh biên

giới phía Bắc đã và đang tập trung chỉ đạo, đầu tư kinh phí cho công tác lập,

điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh các quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển

nông nghiệp, KT biển, đảo (Quảng Ninh), thuỷ lợi, chăn nuôi, thuỷ sản, bảo

vệ, phát triển rừng... Các quy hoạch này vừa có tầm nhìn rộng, vừa có cơ sở

khoa học và thực tiễn cao, thống nhất, đồng bộ, phù hợp với quy hoạch tổng

thể phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Trong số đó, nhiều quy

hoạch đã được hoàn thành.

Page 98: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

98

- Trong quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế của một số tỉnh biên giới

phía Bắc đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đã được hoàn thành, đã và đang được tổ

chức thực hiện. Theo đó, một số tỉnh đã và đang nỗ lực hiện đại hoá các bệnh viện

cấp tỉnh, đồng thời đầu tư nâng cấp các bệnh viện tuyến huyện, tuyến khu vực, xây

dựng mạng lưới y tế vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; phát triển một số cụm,

trung tâm y tế chuyên sâu. Hệ thống y tế của LLVT trên địa bàn cũng được quy

hoạch, đầu tư nâng cấp. Cùng với phát triển hệ thống bệnh viện các tỉnh, các LLVT

trên địa bàn rất quan tâm đến loại hình quân dân y kết hợp; đặc biệt đã quan tâm

đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển ngành y tế, vừa đáp ứng nhu cầu dân

sinh, phát triển KT - XH, vừa gắn với đảm bảo QP, AN trong mọi tình huống cả

thời bình và thời chiến nếu xảy ra.

- Trong công tác quy hoạch, kế hoạch, các chương trình, dự án giải quyết

việc làm, xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống, KT, XH cũng được Đảng Bộ,

Chính quyền ở một số tỉnh biên giới phía Bắc đặc biệt quan tâm; tập trung đẩy

mạnh công tác đào tạo nghề, phát triển làng nghề truyền thống, hỗ trợ vốn,

kiến thức, kỹ thuật công nghệ, tìm kiếm thị trường... Nhờ đó, sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ trên địa bàn được phát triển, nâng cao thu nhập cho người lao

động, góp phần tích cực thực hiện xoá đói giảm nghèo trên từng địa phương,

đời sống đồng bào các dân tộc ngày càng được cải thiện, nâng cao. Qua đó,

nhân dân đồng bào các dân tộc trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc

luôn tin tưởng, đồng tình với đường lối lãnh đạo của Đảng.

- Trong công tác quy hoạch phát triển GD - ĐT, KH - CN, một số tỉnh biên

giới phía Bắc đã phấn đấu hoàn thành quy hoạch phát triển hệ thống trường học đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, bao gồm cả đại học, cao đẳng, trung học

chuyên nghiệp, trung học dạy nghề và các bậc học phổ thông. Trong quy hoạch đã

có tầm chiến lược phát triển GD - ĐT nhằm đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao

cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn. Công tác quy hoạch,

Page 99: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

99

quản lý quy hoạch phát triển KH - CN đã và đang được triển khai khá đồng bộ, theo

hướng gắn mục tiêu, nhiệm vụ KH - CN với phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

QP, AN. Đẩy mạnh ứng dụng KH - CN gắn với phát triển KT tri thức; xây dựng

môi trường pháp lý, đổi mới công tác tổ chức, quản lý KH - CN; hoàn thiện cơ chế,

chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư của mọi thành phần KT cho nghiên cứu,

ứng dụng, chuyển giao KH - CN; đẩy nhanh việc ứng dụng KH - CN vào sản xuất,

kinh doanh, thúc đẩy đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng và

khả năng cạnh tranh của nền KT; cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân

dân đồng bào các dân tộc, đảm bảo tốt hơn cho các nhiệm vụ giữ gìn trật tự an toàn

XH, AN, QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Đối với công tác xây dựng và quản lý quy hoạch, kế hoạch, một số tỉnh

biên giới phía Bắc đã thường xuyên chú ý đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu

quả trong công tác xây dựng và quản lý. Các tỉnh đã ban hành quy chế quản lý

quy hoạch, cơ chế giám sát thực hiện quy hoạch; đẩy mạnh phân cấp lập, thẩm

định, phê duyệt, quản lý và thực hiện quy hoạch cho cấp huyện, thị xã. Thực

hiện công khai hoá các quy hoạch, kế hoạch; tổ chức thực hiện và giám sát việc

thực hiện quy hoạch, kế hoạch một cách chặt chẽ. Các cơ quan chức năng của

các tỉnh trên địa bàn thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm,

đúng quy định của pháp luật đối với các công trình, dự án thực hiện không đúng

quy hoạch để đảm bảo tính thống nhất của quy hoạch và sự phát triển bền vững

của các tỉnh. Đồng thời, đảng bộ, chính quyền các tỉnh đã thường xuyên bám sát

thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về tài chính, khai thác, sử

dụng các nguồn lực, giải quyết tốt các mối quan hệ, các vấn đề nảy sinh... theo

đó đã tháo gỡ kịp thời nhiều vướng mắc, bảo đảm cho quá trình tổ chức thực

hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số

tỉnh biên giới phía Bắc đạt hiệu quả cao, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm

vụ chiến lược xây dựng và BVTQ trên quê hương mình.

Page 100: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

100

Hai là, chuyển dịch cơ cấu KT theo hướng tích cực, đã gắn kết chặt chẽ

phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN. Nổi bật hơn là các tỉnh: Quảng Ninh,

công nghiệp 53%, dịch vụ 41,9%, nông nghiệp 5,1% (năm 2011) [67, tr.6]; Lạng

Sơn, nông, lâm nghiệp chiếm 39,57%, công nghiệp - xây dựng 20,81%, dịch

vụ 39,62% [9, tr.428]; Cao Bằng, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng 21,15%,

dịch vụ 45,65%, nông - lâm nghiệp 33,2% [9, tr.270].

- Đối với lĩnh vực công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu theo hướng tiến bộ,

công nghiệp nhà nước đã tập trung vào những ngành có vốn đầu tư lớn, chủ

đạo như: khai thác, chế biến khoáng sản, thuỷ điện… Một số sản phẩm công

nghiệp do Trung ương quản lý có khối lượng lớn là khai khoáng, xi măng. Giá

trị sản xuất công nghiệp có xu hướng tăng nhanh.

Bảng 3.1: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá hiện hành, theo địa phƣơng

Đơn vị tính: Tỷ đồng

ĐỊA PHƢƠNG 2005 2009 2010 2011 Sơ bộ 2012

Quảng Ninh 20989,0 64853,8 80347,6 99122.1 127870,3

Lạng Sơn 696,0 1836,8 2186,4 2475,0 2983,3

Cao Bằng 572,0 1301,6 2317,0 2547,3 3236,3

Hà Giang 260,3 693,7 946,9 1495,6 1967,1

Lào Cai 812,3 4055,2 6259,9 9138,4 12995,5

Lai Châu 117,1 347,0 639.0 587,0 774,3

Điện Biên 422,3 1049,4 1330,8 1673,2 2124,3

Nguồn: Tác giả tổng hợp theo Niên giám Thống kê [70].

Công nghiệp chế biến nông - lâm sản gắn với các vùng nguyên liệu

ngày càng phát huy tác dụng. Nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp

truyền thống của các dân tộc, các làng nghề truyền thống được khuyến

khích phát triển mạnh, góp phần giải quyết công ăn, việc làm, tăng thu

nhập cho người lao động.

Page 101: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

101

Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu KT, kết quả hoạt động sản xuất,

kinh doanh của ngành công nghiệp ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nêu trên cho

thấy, phát triển KT có vai trò hết sức qua trong đối với việc đảm bảo QP - AN.

Phần lớn các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công

nghiệp đều được xây dựng ở các khu trung tâm thành phố, thị xã, thị trấn, cửa

khẩu, đầu mối giao thông… Đó là những địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng

về QP, AN. Hơn nữa, các doanh nghiệp, đơn vị KT công nghiệp này được thiết

kế khai thác theo hướng “lưỡng dụng” vừa phục vụ dân sinh, vừa sản xuất một

số mặt hàng đảm bảo cho QP, AN và QS khi cần thiết. Đồng thời, là nơi tập

trung một lực lượng lao động đông đảo, có trình độ kỹ thuật, sức khoẻ…; đây

chính là yếu tố đảm bảo nguồn nhân lực - lực lượng tại chỗ cho QP, AN khi cần

thiết có thể huy động, động viên lực lượng, nhất là khi có tình huống chiến tranh

xảy ra. Bên cạch đó, trong từng doanh nghiệp đều được xây dựng lực lượng tự

vệ thường xuyên có sự phối hợp, kết hợp với các đơn vị quân đội, công an đóng

quân trên địa bàn tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ doanh nghiệp cũng như

góp phần đảm bảo QP, AN trong khu vực.

- Đối với lĩnh vực nông, lâm nghiệp, cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã có

sự chuyển dịch mạnh mẽ sang chăn nuôi và trồng cây công nghiệp; số đơn vị

nông, lâm nghiệp và thuỷ sản ở các tỉnh biên giới phía Bắc ngày càng tăng

[phụ lục 13]. Từ đó đã có nhiều thay đổi nhằm nâng cao hiệu quả trên mỗi

đơn vị sản xuất, hình thành nhiều vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi.

Nhiều địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo đã chuyển nhanh từ

sản xuất mang tính tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá, nhiều mặt hàng

nông sản của vùng đã chiếm được vị thế quan trọng trên thị trường trong nước

và thị trường quốc tế.

Một số tỉnh biên giới phía Bắc đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách,

cơ chế phát triển KT - XH như: chính sách đất đai, chính sách thuế, thị trường,

Page 102: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

102

vốn, chính sách hỗ trợ cho phát triển kết cấu hạ tầng, chính sách về cán bộ, lao

động trong các hợp tác xã, các doanh nghiệp không thuộc thành phần KT nhà

nước; nhất là đã quan tâm đến chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn và

xây dựng nông thôn mới. Qua đó, đã đem lại kết quả sản xuất nông nghiệp tương

đối cao. Tiêu biểu như tỉnh Quảng Ninh, trong nông nghiệp giá trị sản xuất bình

quân 6,7%/năm. Đã đảm bảo AN lương thực vùng nông thôn; chú trọng phát triển

chăn nuôi gia súc, gia cầm theo quy mô trang trại, mang tính hàng hoá; đẩy mạnh

khai thác, nuôi trồng thủ sản theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá X) về

chiến lược Biển Việt Nam. Lâm nghiệp phát triển mạnh, khai thác có hiệu quả

tiềm năng đất đại, lao động và các nguồn vốn tham gia trồng, bảo vệ rừng, góp

phần để nhân dân miền núi làm giàu từ rừng, nâng tỷ lệ che phủ rừng lên trên

50%. Quan tâm hỗ trợ nông dân kinh phí, kỹ thuật phòng chống, khắc phục thiên

tai, bệnh dịch; tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản

xuất nông nghiệp, nhất là ở vùng núi, hải đảo; làm tốt công tác chuyển dịch cơ cấu

mùa vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu nhập trên một diện

tích canh tác [39, tr.21]. Tỉnh Cao Bằng, giá trị sản xuất nông nghiệp/ha canh tác:

20/20 triệu; tổng sản lượng lương thực: 237 nghìn tấn năm 2008, kế hoạch 2010:

230 nghìn tấn (mục tiêu 215 nghìn tấn); tổng đàn bò: 135,66/177 nghìn con, bằng

76,6% mục tiêu Nghị quyết Đại hội, bình quân tăng 1,75/7%/năm [9, tr.270].

Từ kết quả đạt được nêu trên, đã thúc đẩy phát triển nông nghiệp, lâm

nghiệp lên một bước cao hơn, qua đó đã góp phần đảm bảo lương thực, thực

phẩm cho QP, AN trong mọi tình huống.

- Đối với lĩnh vực ngư nghiệp - KT biển (Quảng Ninh). Nhận thức

đúng vai trò KT biển, những năm qua, ngoài việc tổ chức thực hiện chủ

trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Quảng Ninh đã tập trung triển khai

thực hiện các nghị quyết, kết luận liên quan trực tiếp đến phát triển KT biển,

đảo như: Nghị quyết số 09-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khoá X),

Page 103: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

103

về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; Nghị quyết Trung ương 4: “Xây

dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh” thành trung tâm kinh tế mạnh, nòng

cốt là cảng biển, công nghiệp và du lịch biển làm đầu tàu lôi kéo cả vùng phát

triển”… Theo đó, trong những năm qua, Đảng bộ, chính quyền các cấp tỉnh

Quảng Ninh, nhất là Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các huyện ven biển, hai

huyện đảo Cô Tô, Vân Đồn đã quan tâm đến quá trình phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP - AN biển, đảo và vùng ven biển. Đặc biệt, là địa bàn có cả

đường biên giới trên biển, trên bộ, với vùng biển rộng, gồm nhiều đảo có giá

trị về KT - XH, QP, AN, trong quá trình xây dựng tiềm lực KT - QP, Quảng

Ninh luôn triển khai cả trên đất liền và trên biển đảo, coi trọng các khu vực

trọng điểm nhằm đảm bảo tính liên kết vững chắc trên toàn địa bàn. Những

năm gần đây, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN được các cấp, các

ngành triển khai đạt hiệu quả cao thể hiện rõ trong lập quy hoạch tổng thể

cũng như trong quá trình thực hiện các kế hoạch phát triển KT - XH. Cơ quan

quân sự, công an các cấp không chỉ làm tốt chức năng tham mưu giúp cấp uỷ,

chính quyền quản lý nhà nước về QP, AN mà còn thực hiện nghiêm túc việc

khảo sát, thẩm định, giám sát việc triển khai các dự án KT - XH, QP, AN theo

nguyên tắc có lợi cho QP, AN hoặc chí ít cũng không làm ảnh hưởng đến thế

trận KVPT. Tỉnh cũng đã chỉ đạo khảo sát, quy hoạch, quản lý chặt chẽ các cơ

sở công nghiệp lưỡng dụng, các phương tiện kỹ thuật của nền KT, sẵn sàng

động viên phục vụ nhiệm vụ QP, AN khi có tình huống.

Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên các địa

phương vùng biển, đảo, công tác khuyến ngư, khuyến khích phát triển các

làng nghề thủ công phục vụ du lịch, nâng cao kiến thức làm KT du lịch; hỗ trợ

đầu tư, khuyến khích nuôi trồng, xuất khẩu thuỷ hải sản... được coi trọng. Do

đó, các ngành ngư nghiệp và vùng KT ven biển, đảo Quảng Ninh trong những

năm qua đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. KT vùng ven biển có bước phát triển

Page 104: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

104

khá rõ rệt, nhất là các địa danh có khả năng thu hút khách du lịch như: Vịnh

Hạ Long, Vân Đồn, Cô Tô… Đã chú ý nhiều hơn đến việc kết hợp phát triển

KT du lịch với nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản: Sản lượng nuôi trồng thuỷ

sản của Quảng Ninh năm 2005 là 19165 tấn, năm 2009 là 27508 tấn, năm

2010 là 28725 tấn, năm 2011 là 29651 tấn và sơ bộ năm 2012 là 28944 tấn;

tương ứng với các năm, sản lượng khai thác cá biển là: 22,4 nghìn tấn, 29,5

nghìn tấn, 30,4 nghìn tấn, 29,4 nghìn tấn và 36,0 nghìn tấn [70, tr.214, 212].

Nhiều địa phương biết nuôi trồng, khai thác, xuất khẩu các loại thuỷ hải sản

quý, giá trị KT cao. Trong số đó, nổi lên là vùng ven biển Hạ Long, Móng

Cái, Vân Đồn, Cô Tô. Cùng với phát triển KT, nâng cao đồi sống vật chất,

Đảng bộ, chính quyền các cấp ở các huyện ven biển, đảo đã quan tâm nâng cao

đời sống tinh thần cho nhân dân vùng ven biển, đảo. Công tác tuyên truyền, giáo

dục cho nhân dân quán triệt, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật; xử trí kịp thời,

đúng đắn những vấn đề nảy sinh trên biển và vùng ven biển; nâng cao trình độ

dân trí, các hoạt động văn hoá nghệ thuật, các tiêu chí xây dựng nông thôn mới

được tăng cường. Nhờ đó, bộ mặt nông thôn vùng ven biển và các huyện đảo

không ngừng được đổi mới. Theo đó, nền QPTD, ANND biển và vùng ven biển

được nâng lên từng bước. Nhận thức và hành động của ngư dân về việc khai thác

KT biển gắn với sự có mặt thường xuyên trên biển, khẳng định chủ quyền biển

đảo của đất nước không ngừng tăng lên, trở thành trách nhiệm và tình cảm của

mỗi ngư dân đối với Tổ quốc. Các tổ chức dân quân tự vệ, dự bị động viên đều

giữ vững sự lãnh đạo, quản lý, luyện tập đúng quy định, với chất lượng không

ngừng nâng cao. Ngư dân, dân quân tự vệ làm KT biển gắn với khẳng định chủ

quyền biển, cùng với các lực lượng bảo vệ biển chuyên trách, tạo thành thế trận

QPTD trên vùng biển thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ninh ngày càng vững chắc. Đây

là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN trên vùng biển, đảo tỉnh Quảng Ninh.

Page 105: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

105

- Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong các ngành

KT của một số tỉnh biên giới phía Bắc đã có sự phát triển tương đối rõ rệt.

Mặc dù trong những năm qua, tình hình KT thế giới có nhiều diễn biến phức

tạp, nhất là cuộc khủng hoảng KT thế giới lan rộng vào cuối năm 2008, đầu

năm 2009 đã tác động ít nhiều đến sự phát triển KT - XH. Tuy nhiên, cùng

với sự nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, các doanh nghiệp trong các ngành

KT của một số tỉnh biên giới phía Bắc đã có sự phát triển tương đối rõ rệt,

doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tăng nhanh.

Bảng 3.2: Doanh thu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

Đơn vị tính: Tỷ đồng

ĐỊA PHƢƠNG 2005 2008 2009 2010 2011

Quảng Ninh 50423 88957 94315 139332 186992

Lạng Sơn 2409 6558 8323 11265 12595

Cao Bằng 1849 3733 4105 5828 7695

Hà Giang 1080 2628 3625 4543 6060

Lào Cai 3294 10395 12231 16630 28539

Lai Châu 477 1305 1883 3040 3541

Điện Biên 1130 2466 3902 6206 7177

Nguồn: Tác giả tổng hợp theo Niên giám Thống kê [70].

Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu

nhiệm vụ phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN

- Trong phát triển hệ thống đường giao thông, một số tỉnh biên giới phía

Bắc đã quán triệt tốt quan điểm của Đảng về phát triển kết cấu hạ tầng, nhận

thức vai trò quan trọng của hệ thống đường giao thông là yếu tố rút ngắn khoảng

cách về không gian, thời gian cho nhân dân đồng bào các dân tộc vùng biên giới,

tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất, nâng cao đời sống, tạo ra thế

phòng thủ chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia. Từ đó, với sự tập trung đầu tư

Page 106: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

106

của Chính phủ, sự cố gắng nổ lực của cấp uỷ, chính quyền một số tỉnh Biên giới

phía Bắc, Bộ Giao thông vận tải đã cùng với các tỉnh tập trung triển khai thực

hiện nhiều dự án, hạng mục công trình giao thông đường bộ, đường sông, nhất là

những vùng khó khăn; do đó nhiều tuyến đường đã được cải tạo, nâng cấp, xây

dựng mới, trong đó một số công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, tạo điều

kiện thuận lợi cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Chính vì vậy, hệ

thống đường bộ ở đây khá phát triển.

Trên địa bàn một số tỉnh biên giới Đông Bắc như: Quảng Ninh, Lạng Sơn,

mật độ đường giao thông gần đạt mức trung bình của cả nước (0,29 km2 so với

0,32 km/km2); có một số đường quan trọng như quốc lộ 1A, quốc lộ 1B đã đưa

vào sử dụng khai thác hiệu quả, quốc lộ 12, 3, 6, 18, 36… và tuyến đường sắt.

Một số tỉnh biên giới Tây Bắc như: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang,

nhìn chung mật độ đường giao thông thấp hơn. Tuy nhiên, có nhiều tuyến đường

quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trong địa bàn như: tuyến

đường sắt Hà Nội - Lào Cai; quốc lộ 2 Hà Nội - Hà Giang; quốc lộ 6 Hà Nội -

Điện Biên, Lai Châu (chạy qua hai tỉnh: Hoà Bình, Sơn La); quốc lộ 279…;

đường sông chưa phát triển, nhưng đã có đường hàng không đi Điện Biên.

Đến nay, hệ thống các tuyến đường chiến lược quan trọng nối các trung

tâm KT trong vùng với nhau và với bên ngoài như các trục đường: 1A, làm

mới quốc lộ 1B; quốc lộ 2, 3, 6, 12, 279 cơ bản đã được nâng cấp; hệ thống

đường giao thông cấp 3, cấp 4 được mở rộng. Nhất là những tuyến đường lên

các cửa khẩu quốc gia và quốc tế, các KVPT biên giới đã góp phần quan

trọng trong phát triển KT - XH, trao đổi hang hoá giữa các tỉnh biên giới phía

Bắc với Trung Quốc, Lào và tăng cường củng cố khả năng phòng thủ biên

giới, đảm bảo QP, AN, BVTQ.

Hệ thống đường vành đai biên giới gồm các tuyến: 4A, 4B, 4C, 4D, đường

12 chạy song song với các tuyến biên giới phía Bắc, Đông Bắc (Việt - Trung) và

Page 107: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

107

phía Tây Bắc (Việt Lào), với tổng chiều dài 1049 km. Đây là tuyến đường

có vị trí quan trọng trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

một số tỉnh biên giới phái Bắc. Chính vì vậy, trong những năm qua đã được

ngành Giao thông vận tải tập trung đầu tư nâng cấp; cơ bản hệ thống cầu,

cống trên các tuyến đường đều được đầu tư xây dựng cơ bản. Cho đến nay,

hệ thống đường giao thông đã thông suốt từ Quảng Ninh đi Lai Châu, Điện

Biên. Nhất là tuyến đường tuần tra biên giới kết hợp với dân sinh cơ bản

hoàn thành và đưa vào sử dụng đạt hiệu quả tốt; các tỉnh có đường biên

giới đi qua các sông, suối còn được đầu tư xây dựng hệ thống kè. Ngoài ra,

còn huy động quần chúng nhân dân kết hợp với bộ đội Biên phòng tích cực

đấu tranh chống xâm lấn, phá bỏ các công trình bên phía Trung Quốc xây

dựng trái phép vi phạm quyền lãnh thổ nước ta… Những hoạt động này

không những góp phần tạo điều kiện thuận lợi phát triển KT - XH như:

phục vụ đời sống dân sinh, sản xuất, vận chuyển, trao đổi hàng hoá qua

biên giới, mà còn góp phần đảm bảo QP, AN, bảo vệ biên giới như: tạo

điều kiện thuận lợi cho bộ đội Biên phòng cơ động lực lượng tuần tra bảo

vệ đường biên, mốc giới, các hoạt động ngăn chặn kịp thời việc lấn chiếm

biên giới, giải quyết dứt điểm các vụ xâm canh, xâm cư, xây kè nắn dòng

chảy… giữ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là đảm bảo QP, AN

vững mạnh về mọi mặt, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược trong

tương lai nếu kẻ thù liều lĩnh gây chiến.

Hệ thống đường giao thông nông thôn phát triển mạnh, bằng vốn đầu tư

của Nhà nước và vốn tự cân đối, với phương châm Nhà nước và nhân dân

cùng xây dựng; các địa phương đã nâng cấp, làm mới hàng nghìn km đường,

mở thêm nhiều tuyến đường mới. Đường đến trung tâm xã cơ bản được đảm

bảo [phụ lục 6]. Số xã có đường trục xã, liên xã xã đã được kiên cố hoá bằng

nhựa hoặc bê tông ngày một tăng [phụ lục 7]; cơ bản các xã đều có đường ô

Page 108: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

108

tô đến thôn, bản. Chính vì vậy, hạ tầng giao thông nông thôn được cải thiện

đáng kể. Trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là nơi đóng quân của các

đồn, trạm biên phòng, các LLVT địa phương, do đó, sự phát triển của hệ

thống đường giao thông nơi đây vừa phục vụ nhân dân đồng bào các dân tộc,

vừa tạo điều kiện cho các đồn, trạm biên phòng, các LLVT làm nhiệm vụ bảo

vệ biên giới quốc gia.

- Trong công tác thuỷ lợi: những năm qua, Nhà nước cùng với một số

tỉnh biên giới phía Bắc đã tập trung vốn ưu tiên đầu tư xây dựng nhiều công

trình thuỷ lợi lớn, quan trọng, các công trình thuỷ lợi nhỏ cơ bản đã được

nâng cấp, cải tạo, xây dựng mới, thực hiện kiên cố hoá hàng nghìn hồ, đập

nước, hệ thống kênh mương đảm bảo cung cấp nước cho nhu cầu sản xuất,

tăng nhanh diện tích đất ruộng cấy lúa nước và phục vụ sinh hoạt cho nhân

dân đồng bào các dân tộc cũng như các LLVT trên địa bàn.

Công tác phát triển mạng lưới cấp nước sạch, đến nay, các tỉnh biên

giới phía Bắc đã đầu tư xây dựng được khoảng trên 20.000 công trình cung

cấp nước sinh hoạt với công xuất đạt trên 30 triệu m3/ngày đêm. Các nhà máy

nước ở tất cả các thành phố, thị xã, các tỉnh lỵ cơ bản được đầu tư xây dựng

mới hoặc cải tạo nâng công suất. Các thị trấn, huyện lỵ phần lớn đã được đầu

tư xây dựng hệ thống cấp nước sạch một cách đồng bộ; tình trạng thiếu nước

sinh hoạt ở nhiều vùng núi cao, nhất là ở các khu vực núi như các tỉnh: Lai

Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn đã cơ bản được cải thiện. Đến nay, tỷ

lệ hộ nông thôn được cấp nước sinh hoạt đạt trên 75%; 100% các đơn vị quân

đội, các đồn biên phòng đóng quân trên địa bàn đều đã được đầu tư xây dựng

hệ thống bể chứa nước, hệ thống đường ống dẫn nước, đảm bảo đủ nước sạch.

Hệ thống điện sản xuất, sinh hoạt cơ bản đã phủ khắp các địa bàn nông

thôn [phụ lục 5]… góp phần duy trì tốt điều kiện sản xuất, sinh hoạt của đồng

bào các dân tộc và đảm bảo mọi mặt hoạt động của bộ đội đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.

Page 109: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

109

- Về GD - ĐT, KH - CN. Sự nghiệp GD - ĐT ở một số tỉnh biên giới

phía Bắc trong những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đến

nay, đã có 100% số xã có trường mầm non, mẫu giáo cơ bản được xây dựng

kiên cố và bán kiên cố [phụ lục 8]. Các bản ở xã trọng tâm đều có lớp cắm

bản; hơn 90% trẻ em trong độ tuổi đến trường. Số trường tiểu học, trung học

cơ sở được xây dựng kiên cố, bán kiên cố được nâng lên [phụ lục 9, 10]; hầu

hết các trường được tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo điều kiện thuận

lợi cho việc bảo đảm chất lượng dạy và học. 100% các huyện đều có trường

trung học phổ thông, ở các huyện vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới

có trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú dân nuôi tại các cụm xã. Nhìn

chung 7 tỉnh biên giới phía Bắc đều đã hoàn thành giáo dục phổ cập tiểu học,

có tỉnh đã phổ cập cơ sở. Trong đó, Quảng Ninh là một trong số các tỉnh có

chất lượng GD - ĐT phát triển, giữ vững kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, hoàn

thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; “Chất lượng giáo dục có chuyển biến,

Quảng Ninh là một trong 10 tỉnh đứng đầu cả nước về kết quả thi tốt nghiệp lớp

12, học sinh giỏi quốc gia, học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. Cơ

bản hoàn thành các mục tiêu về kiên cố hoá trường - lớp, xoá phòng học tạm,

phòng học 3 ca, nhà công vụ giáo viên (về trước kế hoạch 2 năm)” [9, tr.515-516].

Tỉnh Lạng Sơn, công tác GD - ĐT có bước chuyển biến mới về quy mô, nâng

cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện các mục tiêu quốc gia. Tỷ lệ trẻ huy

động đến trường, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp học, trúng tuyển đại học, trung

học chuyên nghiệp năm sau cao hơn năm trước, số học sinh giỏi các cấp tăng rõ

rệt; đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong năm 2006, đạt chuẩn phổ cập

tiểu học đúng độ tuổi năm 2008. Ba cuộc vận động lớn trong ngành giáo dục

được triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo được sự đồng tình cao trong XH, chất

lượng giáo dục từng bước được nâng lên, đánh giá đúng thực chất hơn; đội ngũ

cán bộ, giáo viên đã từng bước được chuẩn hoá, cơ bản đáp ứng theo yêu cầu về

Page 110: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

110

số lượng và chất lượng. Cơ sở vật chất trường, lớp học được tăng cường, đã cơ

bản xoá xong phòng học tre nứa lá, có khoảng 3986/6774 phòng học được đầu

tư kiên cố và 1895/6774 phòng học bán kiên cố. Công nhận thêm 51 trường học

đạt chuẩn quốc gia, nâng số trường đạt chuẩn đến hết năm 2010 là 84 trường

(vượt mục tiêu 02 trường) [9, tr.428-429]. Tỉnh Cao Bằng đã hoàn thành phổ cập

giáo dục trung học cơ sở vào năm 2008; phổ cập giáo dục tiểu học đã xong và

vẫn đang duy trì.

Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú từ Trung ương đến các địa

phương đều được kiện toàn, đáp ứng nhu cầu học tập cho con em đồng bào

các dân tộc. Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, trong đó đề cập đến

việc xoá mù chữ được một số tỉnh biên giới phía Bắc đặc biệt quan tâm. Phổ

cập giáo dục đúng độ tuổi và đang thực hiện tiêu chí phổ cập trung học cơ sở.

Phần lớn, người dân tộc thiểu số ở một số tỉnh biên giới phía Bắc đã đọc

thông, việt thạo tập trung ở độ tuổi 10 đến 15 là 70,2%; từ 16 đến 18 là 84,3%

và nhóm tuổi từ 19 đến 24 là 48,6%.

Đội ngũ giáo viên được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn

nghiệp vụ, thường xuyên và chu kỳ ở cả ba cấp học. Cơ sở vật chất GD, ĐT

được tăng cường, đặc biệt đối với học sinh dân tộc thiểu số như chính sách cử

tuyển, miễn học phí, cấp phát giấy vở học sinh và dạy tiếng dân tộc... Ngoài

ra, còn có một số chính sách đặc biệt đối với các nhà giáo, cán bộ quản lý

giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, vùng KT - XH đặc biệt khó khăn...

Hoạt động nghiên cứu KH, phát triển CN được đẩy mạnh, nhìn chung

một số tỉnh biên giới phía Bắc đã tập trung nghiên cứu, áp dụng tiến bộ kỹ

thuật vào những lĩnh vực trọng yếu, bức thiết, lâu dài, như: công nghệ khai

thác khoáng sản, cơ khí chế tạo, quản lý địa chính, cải cách hành chính, dịch

vụ công, bảo vệ môi trường... Việc ứng dụng KH - CN thông tin trong công

tác quản lý, điều hành của nhà nước được triển khai tích cực, đạt kết quả cao.

Page 111: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

111

Việc ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ trong sản xuất, kinh doanh

luôn được chú trọng; đã tổ chức chuyển giao ứng dụng sản xuất ngô, lúa lai,

sản xuất giống khoai tây bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào; công nghệ

nhân giống cây ăn quả bằng phương pháp ghép… KH - CN đã thâm nhập vào

hầu hết các hoạt động KT - XH, cả khu vực hành chính, dịch vụ công đến các

tổ chức chính trị XH và doanh nghiệp. Nhìn chung, khả năng tiếp cận, trình

độ công nghệ của nền KT và của XH được nâng lên, góp phần phục vụ tốt yêu

cầu phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn. Những thành

tựu đó đã góp phần tạo ra nguồn nhân lực có trình độ văn hoá và khả năng

lĩnh hội kiến thức nói chung, cũng như kiến thức về phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN.

- Về y tế. Ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong những năm qua, công

tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được đảm bảo ngày càng tốt hơn; số bác

sĩ, y sỹ, y tá, nữ hộ sinh ngày càng tăng; thực hiện tốt chính sách đưa bác sỹ

về xã, số lượng bác sỹ đang làm việc tại các trạm y tế xã tăng nhanh. Đến nay,

100% số xã có trạm y tế xã, phần lớn được xây dựng kiên cố và bán kiên cố

[phụ lục 12]. Phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế ở trung tâm cụm xã đã

được đầu tư trang thiết bị, thuốc men; hệ thống y tế ngoài công lập được hình

thành đã góp phần phụ vụ công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân đồng bào

các dân tộc; đẩy mạnh công tác y tế dự phòng, không để xảy ra dịch bệnh lớn

trên địa bàn; thường xuyên củng cố, nâng cao chất lượng công tác khám, chữa

bệnh; tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị, bác sỹ cho các cơ sở khám

chữa bệnh, y tế xã. Công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình được củng cố, tỷ lệ

tăng dân số tự nhiên ngày càng giảm. Công tác kiểm soát vệ sinh an toàn thực

phẩm thường xuyên được tăng cường. Tuổi thọ bình quân của người dân ngày

càng tăng cao; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm mạnh; cơ bản trẻ

em dưới 1 tuổi được tiêm phòng đủ 7 loại vắc xin; trên 90% dân số được tiếp

Page 112: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

112

cận dịch vụ y tế; gần 90% xã, phường cơ bản hoàn thành các mục tiêu chuẩn

quốc gia về y tế. XH hoá hoạt động y tế đạt nhiều kết quả, đặc biệt một số

tỉnh đã huy động các nguồn lực cho đầu tư các bệnh viện chuyên khoa, trạm y

tế xã, nhất là các xã vùng biên giới, hải đảo. Tiêu biểu trong lĩnh vực phát

triển y tế là các tỉnh: Quảng Ninh đã hoàn thành nâng cấp, mở rộng quy mô

các bệnh viện tuyến tỉnh, khu vực huyện; 100% trạm y tế xã cơ bản đã hoàn

thành các mục tiêu chuẩn quốc gia (về trước kế hoạch 5 năm) [9, tr.515].

Lạng Sơn, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều cố gắng,

từng bước nâng cao về chất lượng, không để dịch bệnh nguy hiểm hoặc lớn

xảy ra. Cơ sở vật chất phục vụ khám chữa bệnh được bổ sung; trình độ năng

lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý, thầy thuốc từng bước được nâng

lên, hiện có 04 bệnh viện tuyến tỉnh, 10 bệnh viện đa khoa cấp huyện, 24

phòng khám đa khoa khu vực, 226 trạm y tế xã, phường, thị trấn; hết năm

2010 có 87,2% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã (mục tiêu 80%); 80% trạm

y tế xã phường, thị trấn có bác sỹ (mục tiêu 80%); 100% nhân viên y tế thôn,

bản có trình độ sơ cấp trở lên, đạt tỷ lệ 8 bác sỹ/vạn dân (mục tiêu 10); công

tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm thường xuyên, tỷ lệ trẻ em dưới 5

tuổi suy dinh dưỡng giảm từ 29% năm 2005 xuống còn 21,7% năm 2010, đạt

mục tiêu đề ra; công tác kế hoạch hoá gia đình được quan tâm, mức giảm sinh

trung bình hàng năm đạt 0,38% (mục tiêu 0,35-0,4%) [9, tr.429]. Cao Bằng có

74,3/100% thôn bản có cán bộ y tế trình độ sơ cấp trở lên; 60/70% số trạm y

tế có bác sỹ; 7/8 bác sỹ/vạn dân; giảm tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng

bình quân 1,34%/năm (mục tiêu 1,5%/năm) [9, tr.271].

Cùng với sự phát triển hệ thống y tế dân sinh, hệ thống y tế của các

LLVT ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cũng phát triển, đạt nhiều thành tựu

đáng khích lệ, nhất là đội ngũ cán bộ y tế của các đơn vị cơ sở bộ đội biên

phòng đã phát huy tác dụng rất lớn không chỉ đảm bảo quân số khoẻ cho đơn

Page 113: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

113

vị, mà còn làm tốt công tác phối hợp, kết hợp với các cơ sở y tế của các địa

phương cùng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân đồng bào các dân tộc như: tích

cực tham gia chương trình quân dân y kết hợp khám, chữa bệnh cho đồng bào

các xã, thị trấn biên giới; tham gia tuyên truyền cho đồng bào các xã biên giới

về phòng chống bệnh sốt rét, bướu cổ, lao và phòng các loại dịch bệnh khác.

Tổ chức tập huấn cho y tá thôn, bản; chữa bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho

đồng bào… kết quả đó đã góp phần đáng kể vào việc đảm bảo nguồn nhân lực

cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn.

- Về văn hoá - thông tin. Trên tuyến biên giới phí Bắc trong thời gian

qua đã phát huy khá tốt các trung tâm bưu điện cụm xã và các điểm bưu điện

văn hoá xã, gần 90% xã đã có điểm phục vụ Bưu chính viễn thông [phụ lục 11];

từ đó đã góp phần tích cực đưa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

đến với đồng bào các dân tộc. Ngành văn hoá - thông tin đã phối hợp với các

đơn vị trên địa bàn tăng cường các hoạt động tuyên truyền cố định, cũng như

lưu động, thông qua nhiều hình thức như triển lãm nhỏ, chiếu phim phục vụ

nhân dân, nhất là các khu vực đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, giáp

biên giới; đồng thời, còn tổ chức các lễ hội truyền thống, ngày hội thể thao

văn hoá các dân tộc, hội thi thông tin tuyên truyền… 100% các tỉnh có các

đoàn nghệ thuật và rạp chiếu phim. Đến nay, 100% địa phương có điện

thoại, hầu hết các vùng, nhất là những khu vực trung tâm KT như: cửa khẩu,

thị xã, thị trấn… đã được phủ sóng thông tin di động. Đặc biệt, đa số các

đồn, trạm biên phòng, các đơn vị chức năng khác như: Hải quan, Thuế vụ,

Kiểm dịch… đã được trang bị đầy đủ máy điện thoại, đảm bảo liên lạc thông

suốt, phục vụ tốt cho quá trình phối hợp công tác cũng như trong sinh hoạt.

Đối với tỉnh Quảng Ninh, hoạt động văn hoá - thông tin phát triển rộng

khắp, góp phần tích cực hiệu quả trong việc đưa thông tin về chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nà nước, KH - CN, văn hoá

Page 114: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

114

trong nước và quốc tế, các phong trào thi đua, các tấm gương điển hình

trong lao động, sản xuất đến đông đảo nhân dân. Tỷ lệ phủ sóng phát thanh -

truyền hình đạt trên 95%; 100% thôn, bản có điện thoại. Triển khai sâu rộng

phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Nhiều di tích

lịch sử, văn hoá được bảo tồn, tôn tạo, nhiều lễ hội được phục dựng, phát

triển theo hướng kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc xây dựng các thiết

chế văn hoá được qua tâm. Hoạt động văn học nghệ thuật có bước phát triển

mới. Công tác quản lý, khai thác di tích, danh thắng được quy hoạch, sắp

xếp, đầu tư quy mô, kết hợp hiệu quả văn hoá với du lịch; công tác quản lý,

bảo tồn, phát huy giá trị Di sản Thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long được

quan tâm [39, tr.28-29]. Tỉnh Lạng Sơn, công tác văn hoá - thông tin được

đẩy mạnh; phong trào thi đua toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá

phát triển sâu rộng; các thiết chế văn hoá được quan tâm đầu tư xây dựng,

đến nay toàn tỉnh có 62% số hộ được công nhận gia đình văn hoá (mục tiêu

80%); có 35% thôn bản, khối phố đạt chuẩn văn hoá (mục tiêu 60%); có

60% số thôn, bản, khối phố có nhà văn hoá (đạt mục tiêu 60%); 67% số xã

có bưu điện văn hoá xã. Đầu tư tôn tạo, nâng cấp một số di tích lịch sử cách

mạng, văn hoá; các loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian, các giá trị văn hoá

truyền thống được bảo tồn, khôi phục và phát huy [9, tr.429]. Tỉnh Cao

Bằng, số đơn vị cơ sở (làng, bản) có nhà văn hoá: 950/30 đơn vị; tỷ lệ làng,

xóm, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hoá: 50/50%; 73/70-80% gia đình đạt tiêu

chuẩn văn hoá; 82/90% cơ quan, đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hoá. Số điện

thoại/100 dân: 85 máy (mục tiêu 10 máy); tỷ lệ có máy thu hình: 85/85% [9,

tr.271]. Những thành tựu này đã góp phần rất lớn trong phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

- Hoạt động đối ngoại phát triển, công tác QP, AN, quản lý biên giới,

trật tự an toàn XH ở một số tỉnh biên giới phía Bắc được bảo đảm vững chắc

Page 115: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

115

Trong thời gian qua, nhìn chung các hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp

tác trong và ngoài nước được đẩy mạnh. Tăng cường quan hệ, hợp tác với các

tỉnh biên giới của Trung Quốc như: Quảng Tây, Vân Nam, cũng như với nước

bạn Lào, giải quyết tốt các vấn đề liên quan nên đã góp phần xây dựng tuyến

biên giới ổn định, phát triển, góp phần củng cố quan hệ giữa Việt Nam -

Trung Quốc, Việt Nam - Lào. Công tác đối ngoại nhân dân được chú trọng,

cùng với hoạt động đối ngoại nhà nước đã góp phần quảng bá hình ảnh một số

tỉnh biên giới phía Bắc, cũng như hình ảnh Việt Nam, tăng cường quan hệ hợp

tác với các nước, đặc biệt là nước láng giềng: Trung Quốc, Lào. Quan hệ hợp

tác phát triển giữa một số tỉnh biên giới phía Bắc với các tỉnh còn lại của khu

vực Trung du miền núi phía Bắc, với các thành phố lớn: Hà Nội, Hải phòng

và các địa phương trong vùng KT trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng Sông

Hồng, vùng Duyên Hải, cũng như với các tỉnh, các vùng trên địa bàn cả nước

được tăng cường. Trong đối ngoại KT, nhìn chung đã có nhiều tiến bộ trong

công tác mời gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là các tỉnh: Quảng Ninh,

Lạng Sơn… [phụ lục 14].

Công tác QP, AN, quản lý biên giới, trật tự an toàn XH ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc luôn được đảm bảo vững chắc, luôn coi trọng xây dựng,

củng cố vững chắc KVPT, thế trận QPTD, ANND trên địa bàn từng tỉnh, phối

hợp giữa các lực lượng ngày càng chặt chẽ; tập trung đầu tư xây dựng kết cấu

hạ tầng, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, góp phần thực hiện tốt

hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ. Các LLVT địa phương được

chăm lo xây dựng; phong trào toàn dân bảo vệ AN Tổ quốc được củng cố,

phát triển sâu rộng. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP, AN, xây dựng

thế trận biên phòng toàn dân được quan tâm, đổi mới cả nội dung, hình thức.

Chủ quyền quốc gia trên bộ, trên biển được giữ vững. Hoàn thành công

tác phân giới, cắm mốc biên giới đất liền. AN chính trị, trật tự an toàn XH được

Page 116: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

116

đảm bảo. Tội phạm nghiêm trọng, tội phạm xuyên biên giới đều được điều tra,

khám phá, không để hình thành các tụ điểm phức tạp. Triển khai kiên quyết,

đồng bộ các biện pháp ngăn chặn, xử lý tình trạng khai thác, tiêu thụ khoáng sản

trái phép, nhất là than đá trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Các biện pháp quản lý

nhà nước về trật tự XH, nhất là công tác quản lý lao động là người nước ngoài,

bảo đảm trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, phòng chống tệ nạn

ma tuý đã có chuyển biến tích cực… Với những thành tựu đạt được như trên,

đã tạo môi trường hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi giúp cho một số

tỉnh biên giới phía Bắc phát triển nhanh KT - XH trên địa bàn.

Bốn là, lực lượng quân đội đóng quân trên địa bàn đạt nhiều thành tựu quan

trọng trong thực hiện nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

Toàn lực lượng Quân đội đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới

phía Bắc, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã quán triệt sâu

sắc đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Quân đội về phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN. Toàn lực lượng đã có những chuyển biến tích cực

về nhận thức trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện tốt chủ trương chiến

lược phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Hiện nay, tất cả các đơn vị

đang tổ chức hoạt động sản xuất, làm KT dưới hình thức khai thác, tận dụng

công suất, năng lực sản xuất, phục vụ QP chưa sử dụng đến, theo tinh thần Quyết

định 30/2003/QĐ-BQP ngày 03/9/2008 của BQP về việc sửa đổi, bổ sung một số

điều của Quy chế số 30/2003/QĐ - BQP. Theo tinh thần đó, một số đơn vị đã và

đang đầu tư phát triển mạnh việc tăng gia sản xuất làm KT trên toàn địa bàn

đóng quân, nhìn chung các đơn vị đều thực hiện có hiệu quả việc tăng gia sản

xuất làm KT với các loại hình: khu tăng gia tập trung; các đơn vị tự tổ chức tăng

gia sản xuất quanh doanh trại; thực hiện mô hình vườn, ao chuồng... đã tận dụng

được mặt bằng, thời gian để tăng gia, sản xuất, làm KT mang lại hiệu quả cao,

góp phần vừa tạo nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ, cải thiện, nâng cao đời

Page 117: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

117

sống bộ đội, vừa tự bổ sung kinh phí, đóng góp tích cực vào xây dựng, hoàn

thành thắng lợi các nhiệm vụ QP, QS của các đơn vị đóng quân trên địa bàn. Đối

với các đoàn KT - QP, thực hiện ý định của BQP, các Quân khu giáp biên giới

phía Bắc đã kết hợp chặt chẽ với các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương tổ

chức triển khai 9 khu KT - QP [phụ lục 3]. Quân khu 1 có: khu KT - QP mẫu

Sơn, Bảo Lạc - Bảo Lâm; hiện nay BQP, Quân khu và địa phương có chủ

trương chuẩn bị tổ chức triển khai mới khu KT - QP ở Cao Bằng và một số

khu vực khác. Quân khu 2 có: khu KT - QP Mường Trà, Vị Xuyên, Xí Mần,

Bát Xát, Phong Thổ - Lai Châu và dự kiến triển khai ở một số khu vực trọng

yếu khác. Quân khu 3 có: khu KT - QP Bắc Hải Sơn, Bình Liêu - Quảng Hà -

Móng Cái. Trong những năm qua, các đoàn KT - QP này đã thu được thành

tựu quan trọng trên tất cả các mặt:

- Về phát triển KT, nhìn chung các khu KT - QP đã giúp dân khai

hoang, cải tạo đồng ruộng, xây dựng ruộng lúa nước, trồng đồng cỏ phục vụ

chăn nuôi gia súc. Trong những năm qua, các khu KT - QP đã chỉ đạo, hướng

dẫn giúp đỡ nhân dân khai hoang phục hoá được 1.100 ha; 352 ha trồng lúa

nước; 237,4 ha nuôi trồng thuỷ hải sản; 7.952 ha trồng cây ngắn ngày; chăn

nuôi 4.592 con trâu, bò; 3.148 con lợn; trồng mới được 17.707 ha rừng; bảo

vệ và chăm sóc 35.388 ha rừng. Đặc biệt, đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ

thuật về sản xuất, chăn nuôi được 87 lớp cho 21.299 lượt người. Điển hình là

mô hình trồng thuỷ sản tại khu vực Lục Lầm của Lâm trường 27 thuộc khu

KT - QP Bình Liêu - Quảng Hà - Móng Cái đã đem lại hiệu quả; bằng sự hỗ trợ

kỹ thuật, giống, vốn của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ KH - CN

và môi trường, kết hợp với các hộ dân hùn vốn, đến nay đã đưa vào sử dụng

hơn 200 ha đầm nuôi tôm, cá..., một số đầm có năng suất hàng năm đạt 7 đến 8

tấn tôm/1 ha, tạo ra mô hình phát triển KT điển hình của khu KT - QP [phụ lục 4].

Khu KT - QP Mẫu Sơn đã phối hợp chặt chẽ với các huyện Cao Lộc, Lộc

Page 118: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

118

Bình, Đình Lập tổ chức tập huấn kỹ thuật khuyến nông, khuyến lâm cho 480

hộ dân, hỗ trợ giống, phân bón cho 399 hộ dân trồng 50 ha lúa lai, 25 ha ngô

lai (năng suất lúa đạt 240 - 260 kg/1 sào, năng suất ngô đạt 280 - 300kg/1

sào); trồng được 34 ha cây ăn quả, 15 ha cây xoài ghép, 5 ha tre măng Bát bộ,

hỗ trợ gần 100 hộ dân chăn nuôi bò cái sinh sản... Kết hợp với các dự án, các

chương trình khác của chính phủ, các đoàn KT - QP kết hợp với các địa

phương thực hiện chương trình 135, khuyến nông, khuyến lâm, xoá đói giảm

nghèo, bước đầu đã thay đổi tập quán canh tác, sinh hoạt của nhân dân:

chuyển từ nuôi lợn thả rông sang nuôi lợn cao sản, nhốt chuồng; đưa trâu, bò

ra khỏi gầm nhà sàn; trồng các giống cây ăn quả, cây cao sản; biết cày cấy,

làm lúa nước; bước đầu hình thành hoạt động dịch vụ hai đầu nhằm cung cấp

vật tư, bao tiêu sản phẩm...

- Về XH, các đoàn KT - QP đã phối hợp với các địa phương tuyên

truyền, vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia phát triển văn

hoá - XH với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn

hoá ở khu dân cư”. Các hoạt động văn - thể, các phong trào xây dựng nếp

sống văn minh, gia đình hạnh phúc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá

dân tộc, xoá mù chữ, bài trừ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, ăn ở vệ sinh

khoa học... được nhân dân trên địa bàn tích cực thực hiện, tạo được

chuyển biến mới, góp phần từng bước XH hoá các lĩnh vực văn hoá, giáo

dục, thể thao, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Đến nay, tại các khu KT - QP có

nhiều bản, làng, gia đình được công nhận “Làng văn hoá”, “Gia đình văn

hoá”; đã xây dựng được 19 nhà văn hoá, hàng chục trạm thu phát truyền

hình, đưa hệ thống phát thanh truyền hình về thôn, bản; triển khai chương

trình quân dân y kết hợp, tổ chức khám chữa bệnh cho 71.164 lượt người

dân... góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần cho đồng bào các

dân tộc trên địa bàn.

Page 119: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

119

- Về xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, trong những năm qua, các khu KT - QP

trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc đã xây dựng hoàn thành 548 km

đường giao thông các loại; 18 cầu bê tông và cầu treo; 16 bệnh xá quân dân y

kết hợp với 5.729 m2; 10 trường học, nhà trẻ, mẫu giáo với 2.940 m2; 40

công trình thuỷ lợi, công trình cấp nước sạch; 10 trạm biến thế điện, hàng

trăm km đường điện; xây dựng 750 m2 nhà văn hoá, xây mới 7 trụ sở uỷ ban

xã, 6 trạm bưu điện mới; gần 1.000 m2 nhà chợ; 700 m2 nhà chăn nuôi, đào

mới 30 ha nuôi trồng thuỷ hải sản, khai hoang phục hoá được 270 ha trồng

lúa, khai phá mới 3.434 ha trồng rừng... Ngoài ra, còn nhiều công trình đang

triển khai thực hiện. Xây dựng được 50.031 m2 hệ thống nhà doanh trại, nhà

làm việc nhằm giảm bớt khó khăn, ổn định nơi ăn ở cho cán bộ, công nhân

viên, chiến sỹ trên địa bàn Quân khu 1: 7.955 m2, Quân khu 2: 34.316 m2,

Quân khu 3: 7.760 m2.

- Về ổn định dân cư tại các địa bàn chiến lược, thực hiện nhiệm vụ

Chính phủ tại quyết định 135, những năm qua, tại các khu KT - QP ở một

số tỉnh biên giới phía Bắc đã thực hiện di dân, sắp xếp ổn định, bố trí lại

dân cư, tạo nên thế và lực mới đảm bảo QP, AN, bảo vệ biên giới. Các khu

KT - QP đã tổ chức đón nhận được 3.613 hộ dân; di dãn dân và tách trên

5.000 hộ; đồng thời, tạo việc làm cho gần 10.000 nhân khẩu; kiện toàn mới

được 14 tổ chức đảng, tổ chức chính quyền tại các địa bàn xây dựng, điển

hình như: Khu KT - QP Mường Chà, từ tình trạng dân sống tản mạn không

tập trung, hiện nay đã xây dựng được 13 cụm điểm bản tại các xã: Chà

Nưa, Chà Cang, Na Hỳ huyện Mường Lay và các xã Mường Toong, Mường

Nhé, Xín Thầu, Chung Chải, Tà Tổng huyện Mường Nhé; sắp xếp ổn định

cho 1.850 hộ với 11.096 nhân khẩu, trong đó có 620 hộ với 3.557 khẩu tại

chỗ, định canh định cư cho 1.230 hộ với 7.539 khẩu là dân di cư tự do. Khu

KT - QP Bình Liêu - Quảng Hà - Móng Cái, sau chiến tranh biên giới có

Page 120: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

120

một số xã “trắng dân” không thể thành lập được đơn vị hành chính, Đoàn

KT - QP 327 đã phối hợp với các cấp chính quyền địa phương di dân, tách

hộ được 2.841 hộ, trong đó đoàn KT - QP đã sắp xếp, đón nhận được 885

hộ lên biên giới với nhiều hình thức phong phú; nhờ đó đã khôi phục được

2 xã Bắc Sơn và Hải Sơn. Khu vực Lục Lầm đã từng bị xoá tên sau cuộc

chiến tranh biên giới, đến nay đã đưa được 150 hộ dân ra làm ăn sinh sống,

nuôi trồng thuỷ hải sản, phát triển các hoạt động sản xuất, góp phần tạo ra

vành đai bảo vệ biên giới và đề nghị các cơ quan chức năng thành lập lại đơn vị

hành chính xã. Trên địa bàn khu KT - QP Mẫu Sơn và Bảo Lạc - Bảo Lâm đã tổ

chức di dân được 357 hộ, trong đó khu KT - QP Mẫu Sơn (Lạng Sơn) gồm

12 xã biên giới thuộc 3 huyện với 28 bản giáp biên, sau chiến tranh biên

giới cơ bản nơi đây là những thôn, bản trống, kết cấu hạ tầng gần như mất

trắng, đất đai còn nhiều bom mìn, đến nay đã triển khai xây dựng khôi

phục xong 6 bản và đang tiếp tục triển khai thực hiện ở một số bản khác.

Khu KT - QP Bảo Lạc - Bảo Lâm mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng đã

tổ chức xây dựng được 3 bản dân cư mới.

- Về QP, AN, trên cơ sở quy hoạch và đầu tư xây dựng các cụm, điểm dân

cư sát tuyến biên giới, các khu KT - QP đã hỗ trợ vốn làm nhà và cây con giống,

giúp đỡ về kỹ thuật lao động sản xuất, chống di dân và đón nhận dân ở tuyến sau

đến định cư, giúp dân ổn định cuộc sống lâu dài... Đó là nền tảng vững chắc để

các khu KT - QP tổ chức xây dựng thế trận QP, AN, góp phần bảo vệ vững chắc

chủ quyền biên giới quốc gia trong những năm qua. Các khu KT - QP đã phối

hợp chặt chẽ với các lực lượng: ban chỉ huy QS các huyện, bộ đội biên phòng,

dân quân tự vệ, cấp uỷ đảng và chính quyền trên địa bàn làm tốt công tác QP, AN, giữ

vững trật tự và an toàn XH. Mở hàng chục lớp bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho

2.991 lượt người, tổ chức 46 lớp bồi dưỡng và tập huấn dân quân tự vệ cho

8.963 lượt người... đây là nhân tố nòng cốt góp phần quan trọng trong việc tuyên

Page 121: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

121

truyền, giáo dục, giữ vững ổn định tình hình trên địa bàn, tạo được niềm tin

tưởng cho nhân dân đồng bào các dân tộc và cấp uỷ chính quyền cơ sở. Lực

lượng của khu KT - QP thực hiện đồng thời 3 chức năng: chiến đấu, công tác,

sản xuất. Với nhiệm vụ QP, AN, các khu KT - QP đã tổ chức xây dựng lực

lượng, biên chế, trang bị theo quyết định của Bộ trưởng BQP; tổ chức huấn

luyện sẵn sàng chiến đấu đúng kế hoạch đạt chất lượng tốt. Thường xuyên bám

nắm địa bàn, xây dựng, luyện tập theo các phương án chiến đấu, sẵn sàng cơ

động đánh địch khi có tình huống xảy ra; kết hợp với ban chỉ huy QS huyện, xã

từng bước làm tốt công tác đăng ký, quản lý, huấn luyện lực lượng dự bị động

viên. Đến nay, trên các địa bàn có khu KT - QP cơ bản đã không còn xảy ra các

điểm nóng về tình trạng di dịch dân tự do, tổ chức truyền đạo trái phép; các tệ

nạn trong vùng đã giảm đáng kể như: buôn bán, tàng trữ, sử dụng ma tuý, mại

dâm, vượt biên trái phép... Những thành tựu trên đã góp phần tạo ra môi trường

thuận lợi để xây dựng, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, bảo vệ

vững chắc Tổ quốc XHCN.

Nguyên nhân

Một là, trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu

sát của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ban, ngành. Đây là nguyên nhân

quan trọng hàng đầu. Xuất phát từ vị trí chiến lược, vai trò quan trọng đối với

sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Do đó, một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn

nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của Đảng,

Nhà nước, Chính phủ, các bộ, ban, ngành, giúp cho một số tỉnh biên giới phía

Bắc đổi mới và phát triển đúng hướng, nhằm thúc đẩy nhanh quá trình phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đạt kết quả cao.

Hai là, Đảng bộ, chính quyền, cùng với toàn dân, toàn quân trên địa

bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc luôn có sự nhạy bén trong đổi mới tư duy,

Page 122: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

122

vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và phát

huy tinh thần đoàn kết, vượt mọi khó khăn trong thực hiện phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN. Đây là nguyên nhân chủ quan có ý nghĩa trực tiếp làm

nên những thành tựu trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, tạo

nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc biên giới phía Bắc của Tổ quốc, góp

phần quan trọng vào thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và BVTQ trong

thời kỳ mới.

Ba là, Bộ Tư lệnh các quân khu: Quân khu 1, Quân khu 2, Quân khu 3

và Bộ Chỉ huy QS, Bộ Chỉ huy biên phòng một số tỉnh biên giới phía Bắc

thường xuyên quán triệt sâu sắc, chỉ đạo thực hiện sâu sát, quyết liệt đường

lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ về phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN trên địa bàn toàn tuyến biên giới phía Bắc.

Bốn là, Đảng bộ, chính quyền các tỉnh và Quân đội, Công an trên địa

bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc thường xuyên có sự phối hợp chặt chẽ, sự

phấn đấu nỗ lực trong qua trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.

Năm là, trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc thường xuyên nhận được sự quan tâm hợp tác

giúp đỡ có hiệu quả của nhân dân cả nước và các nước láng giềng Trung Quốc,

Lào (tuy nhiên, trong tình hình mới hiện nay, nhất là việc Trung Quốc hạ đặt trái

phép giàn khoan Hải Dương (Halyang Shlyou) 981 (5/2014) vừa qua, một lần

nữa nhắc chúng ta cần phải cảnh giác, tỉnh táo trong ứng xử, phân biệt rõ đối tác,

đối tượng...). Các địa phương trong cả nước thường xuyên quan tâm, hợp tác

chặt chẽ về chính trị, KT - XH, văn hoá, QP, AN với quân và dân các dân tộc ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc đẩy nhanh tốc độ phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN. Các nước láng giềng Trung Quốc, Lào có quan hệ ngày càng rộng

mở; nâng cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm tạo điều kiện thuận

lợi cho các tỉnh vùng biên giới phía Bắc đẩy nhanh tốc độ phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN.

Page 123: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

123

3.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Những hạn chế

Một là, hạn chế trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực

hiện phát triển các ngành, các lĩnh vực

Công tác lập quy hoạch, kế hoạch và tổ chức thực hiện phát triển các

ngành, các lĩnh vực ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời gian qua vẫn

còn bộc lộ không ít tồn tại, yếu kém. Sự thiếu đồng bộ giữa phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN còn xảy ra ở nhiều vùng, nhiều khu vực trên địa bàn

biên giới, cụ thể là:

- Công tác quy hoạch, kế hoạch còn thiếu đồng bộ và phù hợp với tiềm

năng, khả năng thực tế của các tỉnh. Các huyện, thị xã, xã, phường tuy đã

khẩn trương lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch

phân khu, quy hoạch chi tiết... song chưa đồng bộ, chưa sát với khả năng, nhu

cầu phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong từng thời kỳ, từng địa

phương và từng ngành. Vì vậy, xuất hiện khá nhiều quy hoạch treo, thậm chí

là treo quá lâu; tình trạng điều chỉnh quy hoạch tổng thể cũng như từng vùng,

từng địa phương và điều chỉnh dự án quá nhiều lần; tình trạng phát triển đô thị

chưa đồng bộ với hạ tầng giao thông, phát triển dân chưa đồng bộ với phát

triển dịch vụ y tế, trường học, mạng lưới bán lẻ, chợ; tình trạng hạ tầng lưới

điện, thông tin, truyền thông quá phức tạp gây nhiều lãng phí, bất lợi cho cả

hoạt động KT, dân sinh, cả AN, QP.

- Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp, khu công nghiệp, cụm công

nghiệp tập trung, ít nhiều vẫn thấy tình trạng chạy theo số lượng, chiều sâu

của sự phát triển chưa thật sự đạt mong muốn. Tình trạng công nghệ lạc hậu,

dự án vốn thấp, chủ yếu là gia công lắp ráp, tiêu thụ hàng cho nước ngoài,

công nghiệp phụ trợ phát triển không đồng bộ... Điều này không chỉ ảnh

hưởng đến sự tăng trưởng, phát triển KT - XH bền vững trên địa bàn, mà còn

Page 124: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

124

ảnh hưởng đến phát triển tiềm lực CNQP, huy động tiềm lực đó phục vụ đảm

bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc và cả nước. Quy

hoạch phát triển công nghiệp, công nghệ lưỡng dụng còn hạn chế.

- Quy hoạch tổng thể phát triển thuỷ lợi, thuỷ sản, phát triển rừng...

chưa thật sự gắn kết với việc tạo hạ tầng, thiết bị chiến trường, các cụm phòng

ngự liên hoàn, bảo đảm cho tỉnh giữ tỉnh; huyện, thị giữ huyện, thị; làng, bản

giữ làng, bản và phối hợp tác chiến của KVPT tỉnh.

- Công tác quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án giải quyết việc

làm, giảm nghèo, ổn định tình hình KT, đời sống, XH nhiều địa phương ở một

số tỉnh biên giới phía Bắc chưa thật sự đồng bộ, bền vững. Thị trường lao

động của các tỉnh tuy đã dần đi vào chiều sâu nhưng chưa thật sự vững chắc.

Công tác đào tạo nghề, phát triển làng nghề truyền thống, hỗ trợ vốn, kiến

thức, kỹ thuật công nghệ, tìm kiếm thị trường... nhằm tạo công ăn việc làm,

tăng thu nhập ổn định cho nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới ở

một số tỉnh, ven biển, đảo (Quảng Ninh) vẫn còn tình trạng chưa sát thực tế,

lãng phí và thiếu tính bền vững.

- Quá trình triển khai thực hiện quy hoạch phát triển hệ thống trường đại học,

cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung học dạy nghề ở một số tỉnh còn chậm.

- Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch xây dựng nông thôn mới ở các

tỉnh chưa quan tâm thoả đáng đến việc gắn kết chặt chẽ phát triển KT - XH với

đảm bảo QP, AN. Hệ thống hạ tầng KT - XH khu vực nông thôn, nhất là vùng

sâu, vùng xa, biên giới đầu tư chưa đồng bộ, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát

triển KT và đời sống của nhân dân đồng bào các dân tộc. Hạ tầng giao thông,

thuỷ lợi, điện, nước... phục vụ sản xuất ở một số địa phương trên địa bàn các

tỉnh còn gặp nhiều khó khăn. Môi trường khu vực nông thôn và thành thị ở

nhiều địa phương còn bị ô nhiễm, có nơi khá nghiêm trọng, nhất là ở các khu

vực làng nghề chế biến nông sản, một số khu công nghiệp tập trung, các hộ

Page 125: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

125

chăn nuôi quy mô lớn, cũng như chăn nuôi phân tán trong khu vực dân cư.

Quản lý đất đai ở nhiều nơi thuộc các tỉnh trên địa bàn còn bị buông lỏng, dẫn

tới lấn chiếm, sử dụng sai mục đích…

Hai là, hạn chế trong phát triển KT, cơ cấu KT chuyển dịch còn chậm, hiệu

quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các ngành KT còn thấp; đời

sống của nhân dân đồng bào các dân tộc còn chậm được cải thiện và nâng cao.

Nhìn chung trong những năm qua, chuyển dịch cơ cấu KT, tỷ trọng

công nghiệp dịch vụ còn thấp so với yêu cầu. Nền KT chưa phát huy hết nội

lực, kết hợp với việc thu hút, sử dụng tốt các nguồn lực khác để phát triển;

quy mô nền KT ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nhìn chung còn nhỏ lẻ, chất

lượng hiệu quả thấp, nhiều chỉ tiêu cơ bản chưa tạo được sự chuyển biến căn

bản về chất, còn thấp so với mục tiêu, yêu cầu đề ra, còn cách xa so với mức

trung bình của cả nước. Mắc dù một số tỉnh biên giới phía Bắc là địa bàn có

nhiều tiềm năng phát triển, song GDP bình quân trên đầu người thấp so với

bình quân cả nước. Nền KT chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, tự cấp,

tự túc. Các tiềm năng lợi thế lớn trên địa bàn chậm được khai thác, đổi mới.

Cơ chế, chính sách khai thác tiềm năng đất đai, đồi rừng, khoáng sản, dịch

vụ, KT cửa khẩu, việc thu hút các thành phần KT đầu tư, phát triển trên từng

tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại, kết quả đạt thấp. Chỉ số năng lực cạnh

tranh của hầu hết các tỉnh trên địa bàn còn thấp.

Ngành công nghiệp nhìn chung quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất phần

lớn lạc hậu, công nghiệp chế biến khoáng sản chưa được đẩy mạnh. Sự phát

triển ngành công nghiệp chủ yếu dựa trên tăng trưởng về số lượng, tập trung ở

ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, chế biến nông - lâm sản.

Ngành ngoại thương của một số tỉnh biên giới phía Bắc phát triển chủ

yếu là với Trung Quốc, xuất khẩu trong những năm qua tuy có tăng đáng kể

nhưng kim ngạch xuất nhập khẩu nhỏ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là

Page 126: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

126

khoáng sản, chè… nhưng có khối lượng nhỏ, không ổn định. Ngành thương

mại chưa thiết lập được mối liên kết lâu dài giữa các cơ sở sản xuất với các

công ty thương mại để hình thành các kênh lưu thông hàng hoá hoàn chỉnh,

mở rộng mạng lưới thương mại liên vùng, cả nước và với quốc tế.

Trong ngành nông - lâm - thuỷ sản, một số giống cây trồng, vật nuôi

chưa chủ động được, vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc. Hệ số sử dụng

đất cho trồng trọt còn thấp, chưa hình thành vùng chuyên canh trồng một

số nông sản có giá trị cao, chưa áp dụng được các công nghệ tiên tiến vào

sản xuất, thu hoạch và sau thu hoạch. Khâu chế biến nông sản chưa đáp

ứng nhu cầu, chỉ có gạo, ngô, chè, thuốc lá được chế biến và sơ chế. Các

sản phẩm khác như: thảo quả, đỗ, lạc, vừng, rau, hoa quả chưa có các nhà

máy chế biến. KT lâm nghiệp phát triển chậm, chưa tương xứng với tiềm

năng. Là vùng biên giới có thế mạnh về rừng nhưng nghề rừng chưa tạo

được nhiều việc làm và thu nhập cao cho người lao động. Chưa có chính

sách phát triển rừng một cách hợp lý, tỷ lệ rừng sản xuất còn ít nên mức

đóng góp của ngành lâm nghiệp trong nền KT còn thấp.

Ba là, hạn chế trong phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng

Trong thời gian qua, mắc dù ở địa bàn một số tỉnh biên giới phía

Bắc đã được Nhà nước ưu tiên vốn đầu tư tương đối lớn để phát triển kết

cấu hạ tầng, song do điều kiện địa hình phức tạp, chia cắt, hiểm trở, đồng

bào các dân tộc sinh sống không tập trung… Do vậy, nhìn chung hiệu quả

đầu tư còn thấp, so với yêu cầu thực tế thì mới chỉ đáp ứng được phần

nào, đặc biệt là chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN trên địa bàn.

- Kết cấu hạ tầng chưa tạo sự chuyển biến căn bản, còn nhiều khó khăn yếu

kém; nhiều công trình, dự án quan trọng chưa được triển khai hoặc triển khai

chưa đồng bộ. Đặc biệt, các tuyến đường quốc lộ liên quan đến nhiều địa

Page 127: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

127

phương như: tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai; quốc lộ 1 Hà Nội - Lạng Sơn;

đường 18 Bắc Ninh - Quảng Ninh; đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai; quốc lộ 3

Hà Nội - Thái Nguyên - Cao Bằng… còn gây ách tắc, chưa tạo điều kiện thu hút

các nguồn lực đầu tư. Mạng đường giao thông nông thôn phát triển chậm, chất

lượng chưa cao, nhất là vùng sâu, vung xa, vùng biên giới. Nhiều công trình thuỷ

lợi thi công chậm, hiệu quả quản lý sau đầu tư thấp, tình trạng thiếu nước phục

vụ cho sản xuất và đời sống nhân dân diễn ra rất nhiều nơi, nhất là về mùa khô ở

các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Nhu cầu nước tưới cây công

nghiệp lớn nhưng chưa đủ sức đầu tư, các công trình kè sông biên giới triển khai

còn chậm so với yêu cầu. Kết cấu hạ tầng XH vùng nông thôn ở một số tỉnh biên

giới phía Bắc, nhất là hệ thống trường học, trạm y tế, thiết bị văn hoá còn thiếu

và chất lượng thấp. Việc hình thành các trung tâm KT của các tỉnh chậm được

quy hoạch và đầu tư; kết cấu hạ tầng một số khu vực cửa khẩu, khu KT cửa khẩu

còn thiếu đồng bộ, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của một số tỉnh biên

giới phía Bắc. Việc ban hành chủ trương, chính sách thu hút đầu tư xây dựng kết

cấu hạ tầng về giao thông nông thôn còn chậm.

- Nhiều dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực, sản

phẩm có lợi thế chưa được tập trung đầu tư đúng mức, vì vậy chưa “tạo ra các

mũi đột phá làm điểm tựa để phát triển những địa phương có ít lợi thế”. Thu hút

đầu tư để khai thác tiềm năng, lợi thế công nghiệp, nông, lâm nghiệp… chưa

mạnh mẽ, phát triển thuỷ điện vừa và nhỏ còn nhiều khó khăn vướng mắc. Khai

thác khoáng sản còn lộn xộn, chủ yếu vẫn là tiêu thụ than đá, các loại quặng thô,

đem lại hiệu quả thấp. Nhiều dự án chế biến nông sản chưa gắn với vùng nguyên

liệu và thị trường tiêu thụ, dẫn đến tình trạng thua lỗ kéo dài. KT cửa khẩu được

các địa phương xác định là trọng điểm, mũi nhọn, nhưng do tình trạng thiếu vốn

nên triển khai chậm, nhiều nơi hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ. Cơ chế, chính

sách đối với KT cửa khẩu còn nhiều bất cập; chưa hình thành động lực thu hút

Page 128: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

128

đầu tư, kinh doanh, chưa khuyến khích các địa phương đầu tư phát triển, chất

lượng chưa cao, khả năng cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thấp;

tình trạng bồi lắng sông, suối, hồ đập ở mức cao làm ảnh hưởng đến nguồn thuỷ

năng của nhiều công trình thuỷ điện.

- Đời sống XH còn nhiều khó khăn, bức xúc. Đời sống vật chất, tinh thần của

đồng bào vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, mức hưởng thụ các dịch vụ

công cộng thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật sự

bền vững, nguy cơ tái nghèo cao. Công tác ổn định dân cư, đưa dân cư trở lại biên

giới thực hiện chậm, kết quả chưa bền vững, tình trạng di dịch cư tự do vẫn diễn

biến phức tạp. Công tác GD - ĐT, KH - CN chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn

nhân lực tại chỗ cho phát triển KT - XH, QP, AN của các tỉnh. Chất lượng, hiệu

quả GD - ĐT còn thấp. Nhiều dự án y tế, GD - ĐT, KH - CN triển khai chậm, các

bệnh viện tuyến tỉnh, huyện mới chỉ được bề ngoài, thiết bị bên trong còn thiếu,

công nghệ lạc hậu. Các tệ nạn XH còn chậm được đẩy lùi: tệ nạn ma tuý, tình

trạng buôn lậu còn diễn biến phức tạp; một số phong tục, tập quán, hủ tục lạc hậu

vẫn còn tồn tại. Tình trạng AN chính trị, trật tự an toàn XH vẫn tiềm ẩn nhiều

nhân tố phức tạp trên địa bàn, nhất là địa bàn các xã, huyện biên giới.

Bốn là, những hạn chế của lực lượng Quân đội đóng quân trên địa bàn

thực hiện nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

Trong những năm qua, những đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn

một số tỉnh biên giới phía Bắc (loại hình các đơn vị dự toán có thu) công tác

đầu tư cho nhiệm vụ tăng gia sản xuất làm KT còn hạn chế, hiệu quả thấp.

Đối với các đoàn KT - QP, quá trình xây dựng có nhiều khó khăn, công tác

quy hoạch, kế hoạch xây dựng có khu KT - QP thiếu cụ thể; chưa huy động được

sức mạnh tổng hợp; hiệu quả xây dựng thấp, chất lượng hạn chế, chưa thực hiện

được tự cân đối theo quy định của Nhà nước. Nhìn chung các khu KT - QP xây

dựng trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là những địa bàn có địa hình phức

Page 129: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

129

tạp, khí hậu khắc nghiệt, hệ thống kết cấu hạ tầng chưa phát triển, chất đất khô cằn,

độ dốc lớn, đất canh tác ít, rất khó khăn cho phát triển sản xuất và chăn nuôi. Trong

thực tiễn, các khu KT - QP bước đầu đã gắn kết phát triển KT - XH với đảm bảo

QP, AN; tuy nhiên trước mắt vẫn phải lấy mục tiêu đảm bảo QP, AN là chủ yếu, tập

trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên tuyến

biên giới. Do vậy, trong lĩnh vực phát triển KT khả năng cạnh tranh khó khăn nên

rất khó có lãi, vẫn phải hoạt động theo cơ chế bao cấp là chính.

Các đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc đều chưa tổ

chức được sản xuất tập trung, nhìn chung chưa định hình rõ ràng mô hình xây

dựng, phát triển KT. Điều 21, Quy chế hoạt động của đoàn KT - QP nêu rõ:

“Đoàn KT - QP phải phối hợp với địa phương khảo sát thống kê các hộ đói nghèo

trong vùng dự án theo tiêu chí xác định của Nhà nước; lập mô hình và các biện

pháp xoá đói, giảm nghèo cho các nhóm hộ, thậm chí đến từng hộ; sơ kết, tổng kết

đánh giá kết quả thực hiện xoá đói, giảm nghèo, phải đối chiếu với tiêu chuẩn do

Nhà nước qui định, phải cụ thể và thực chất”. Thế nhưng quá trình thực hiện quy

chế, việc thống kê, phân loại, đánh giá các hộ nghèo chỉ mới một vài đoàn thực hiện

tốt, song chưa xây dựng được nề nếp phối hợp với chính quyền địa phương để đánh

giá. Trong quá trình giúp đồng bào xoá đói, giảm nghèo, một việc rất quan trọng là

tổ chức làm dịch vụ hai đầu (cung ứng vật tư, giống, hướng dẫn kỹ thuật, tạo điều

kiện để nhân dân tiêu thụ, trao đổi sản phẩm làm ra) thì các đoàn KT - QP nói

chung vẫn đang trong quá trình tìm tòi, nên đã hạn chế đến chính sách xoá đói giảm

nghèo theo tinh thần Quyết định 135/CP của Thủ tướng Chính phủ.

Một số dự án trong khu KT - QP có quy hoạch chồng lấn với các dự án

của địa phương; ngược lại, một số địa phương lại coi các khu KT - QP là cơ

hội nhanh chóng để phát triển KT - XH địa phương mình nên ỷ lại Quân đội

lo các điều kiện về KT, văn hoá, XH cho dân, thậm chí Quân đội phải lo toàn

bộ cho dân cả việc ăn, ở, học hành, khám chữa bệnh, AN, trật tự... như một

Page 130: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

130

chính quyền “quân quản”. Một số địa phương chưa làm hết trách nhiệm trong

chăm lo bố trí đất ở, đất canh tác, giải quyết các vấn đề hành chính, có địa

phương không muốn đón nhận nhân dân từ các tỉnh khác đến, tổ chức di, giãn

dân nội tỉnh, nội huyện còn chậm.

Sự phối hợp giữa các đoàn KT - QP với Bộ Chỉ huy QS tỉnh ở một số

tỉnh còn lỏng lẻo, dẫn đến chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của sự gắn

bó giữa các lực lượng quân đội cùng đóng quân trên địa bàn, do đó đã hạn chế

đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ QS và công tác tổ chức xây dựng khu KT - QP.

Một số khu KT - QP chưa quan tâm đúng mức đến việc sử dụng tiếng đồng

bào các dân tộc và sử dụng cán bộ là người dân tộc tại chỗ, làm ảnh hưởng

đến công tác dân vận, nắm tình hình địa bàn, tổ chức xây dựng và giải quyết

các tình huống xảy ra trong khu KT - QP...

Nguyên nhân

Trước hết, cần phải khẳng định những hạn chế, yếu kém trong quá trình

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc

thời gian qua là do nguyên nhân sâu xa thuộc về nhận thức.

Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ đứng đầu đơn vị, địa

phương nhận thức về sự cần thiết phải xây dựng nền QPTD, gắn kết giữa hai

nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ biên giới, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

QP, AN ngay từ trong thời bình còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, trong tư duy

cũng như hành động còn có biểu hiện nghiêng nhiều, thậm chí tuyệt đối hoá

lĩnh vực phát triển KT - XH, xem nhẹ nhiệm vụ đảm bảo QP, AN và ngược

lại. Dẫn đến việc quán triệt, tuyên truyền và nhận thức về vị trí, vai trò tầm

quan trọng của nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN chưa

thật sự sâu rộng, do đó công tác tổ chức thực hiện ở một số địa phương có mặt

công tác chưa đáp ứng yêu cầu. Một số cấp uỷ, chính quyền thiếu chủ động, chưa

đề cao tinh thần trách nhiệm, chưa thật sự sáng tạo trong phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN trên địa bàn.

Page 131: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

131

Hai là, điểm xuất phát của một số tỉnh biên giới phía Bắc thấp, điều kiện

tự nhiên khó khăn, hầu hết các tỉnh thuộc diện miền núi, biên giới, thành phần

dân cư cơ bản là đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống… do đó sức hấp dẫn

thu hút đầu tư nguồn ngoại lực kém; khả năng huy động các nguồn lực tại chỗ

hạn chế. Đó chính là lực cản không nhỏ cho phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN trên địa bàn.

Ba là, trình độ dân trí, chất lượng nhân lực, trình độ năng lực của đội ngũ

cán bộ trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc nói chung, đội ngũ cán bộ cơ

sở nói riêng còn nhiều hạn chế, bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là trình

độ nhận thức về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN còn hạn chế, còn

tư tưởng trông chờ, ỷ lại, coi đó là công việc chưa cấp bách, thiếu thiết thực và là

công việc do cấp trên, do quân đội và công an đảm nhiệm…

Bốn là, hệ thống chính sách phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

của Nhà nước, của các tỉnh, địa phương, đơn vị trên địa bàn biên giới phía

Bắc chưa đồng bộ, thiếu cơ chế, giải pháp rõ ràng nên nhiều khi, nhiều trường

hợp cấp dưới, cấp cơ sở thực hiện chính sách do cấp trên quy định còn mang

tính đối phó, hình thức; chưa thật sự tự giác, vận dụng thiếu sáng tạo. Nhiều

chính sách, nhất là chính sách bảo đảm lợi ích của chủ thể gắn kết giữa phát

triển KT - XH với đảm bảo QP, AN chưa thật sự phù hợp, nên chưa khuyến

khích, tạo ra động lực chính trị - tinh thần, gắn trách nhiệm, nghĩa vụ với kích

thích bằng lợi ích vật chất đối với chủ thể để thực hiện gắn kết phát triển KT - XH

với đảm bảo QP, AN trên địa bàn. Dẫn đến tình trạng hạn chế, yếu kém trong

thực hiện chủ trương chiến lược phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là không tránh khỏi.

Năm là, công tác đảm bảo AN, trật tự an toàn XH và môi trường sinh thái,

tạo điều kiện cho phát triển KT - XH chưa vươn lên ngang tầm với tình hình mới,

điều kiện mới của một số tỉnh biên giới phía phía Bắc. Trong thời kỳ đổi mới, một

số tỉnh biên giới phía Bắc tuy có nhiều thuận lợi, nhưng cũng đứng trước nhiều

Page 132: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

132

thách thức mới nảy sinh ngay trong điều kiện phát triển nền KT thị trường định

hướng XHCN, hội nhập quốc tế, sự giao lưu thương mại, dịch vụ ngày càng tăng

giữa các tỉnh biên giới phía Bắc với hai tỉnh: Vân Nam, Quảng Tây - Trung Quốc

và với Lào, cũng như với các địa phương trong cả nước. Sự gia tăng dân số; việc

di, dịch cư tự nhiên và cơ học; nguồn nhân lực ngoại tỉnh đến các khu KT cửa

khẩu làm ăn ở một số tỉnh biên giới phía Bắc... cũng đã và đang làm xuất hiện

nhiều thách thức mới về AN, trật tự an toàn XH... Đó chính là những nguyên nhân

cơ bản dẫn đến sự hạn chế, yếu kém trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời gian qua.

3.3. Những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế - xã hội gắn với

đảm bảo quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc

3.3.1. Yêu cầu ngày càng cao trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội

gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh với việc nhận thức còn hạn chế của

một bộ phận không nhỏ nhân dân và cán bộ ở một số tỉnh biên giới phía Bắc

Tư duy mới về nhiệm vụ BVTQ và nhiệm vụ QP, AN trong thời kỳ mới

đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN. Để phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đáp ứng tốt yêu

cầu nhiệm vụ cách mạng, một vấn đề quan trọng đặt ra cần phải giải quyết đó

là mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao của phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN với sự nhận thức còn hạn chế của một bộ phận nhân dân và cán

bộ ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được xác

định bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ

Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững

hoà bình, ổn định chính trị, đảm bảo AN quốc gia, trật tự, an toàn XH; chủ động

ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù

địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đồng thời, nhấn mạnh đến

việc giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời... sẵn sàng ứng phó với các

Page 133: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

133

mối đe doạ AN phi truyền thống mang tính toàn cầu. Đặc biệt, trong bối cảnh tình

hình tranh chấp chủ quyền biển, đảo đang diễn ra hết sức gay gắt, phức tạp; nhất là

việc Trung Quốc đơn phương đặt giàn khoan Hải Dương (Halyang Shlyou) 981

trái phép trong vùng đặc quyền KT của Việt Nam và đâm chìm thuyền cá của ngư

dân Việt Nam thì vấn đề bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo đối với nước ta

càng đặt ra yêu cầu cao hơn trong mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ.

Nhiệm vụ QP, AN đã được Đảng ta xác định là: “Bảo vệ Đảng, Nhà

nước, nhân dân”, “giữ vững hoà bình”, “bảo đảm an ninh quốc gia”. Trong

giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ QP, AN tiếp tục được kế thừa, phát

triển: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ

của Tổ quốc”. Sự phát triển đó làm cho nhiệm vụ BVTQ của QP, AN ngày

càng toàn diện, chính xác và phù hợp hơn với tình hình mới.

Để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ trong thời

kỳ mới, cần phải thực hiện phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Vấn đề đó

chỉ đạt được hiệu quả cao khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận thức một cách

sâu sắc và được thực hiện từ đơn vị cơ sở, có liên hệ phối hợp chặt chẽ với nhau trên

từng địa bàn, từng khu vực và trên phạm vi cả nước. Thế nhưng, trên thực tế vẫn còn

một bộ phận không nhỏ nhân dân và cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ cao cấp

của Đảng, Nhà nước và địa phương ở một số tỉnh biên giới phía Bắc có những nhận

thức phiến diện về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN: còn có quan niệm

cho rằng trong bối cảnh hiện nay, cần tận dụng cơ hội để hợp tác và phát triển

KT, tập trung nỗ lực cho CNH, HĐH, coi nhẹ nhiệm vụ QP, AN, coi nhẹ việc

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Từ đó, họ đưa ra yêu cầu không nên

duy trì Quân đội với quân số đông, không cần đầu tư ngân sách cho QP, AN nhiều;

hơn thế nữa còn có những ý kiến kiến nghị với Đảng, Nhà nước thu hẹp tổ chức, biên

chế của QĐND và CAND, chuyển các công ty, các khu KT - QP từ Quân đội quản lý

sang Nhà nước quản lý… Đồng thời, còn có cả nhận thức cho rằng, BVTQ là trách

nhiệm riêng của LLVT, của QĐND và CAND. Vì lẽ đó, không cần thiết phải xây

dựng nền QPTD, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân gắn với thế trận ANND; vì

Page 134: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

134

theo họ, làm như thế là rất tốn kém, lãng phí các nguồn lực không cần thiết. Nhiều

người còn cho rằng, hiện nay chúng ta đang trong thời bình, chiến tranh đã đi vào dĩ

vãng, kẻ thù cũng không còn hiện hữu trên đất nước ta, do đó, hiện nay chúng ta

không cần phải khuếch đại, nhấn mạnh kẻ thù; quá nhấn mạnh chiến lược “DBHB”,

BLLĐ, sự chống phá của các thế lực thù địch. Họ cho rằng, quá nhấn mạnh như vậy

chỉ là quan điểm của lãnh đạo, chỉ huy LLVT khi muốn giành sự quan tâm của Đảng,

Nhà nước và của toàn XH cho LLVT… Đó chính là những biểu hiện nhận thức còn

hạn chế, lệch lạc cần phải giải quyết trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

3.3.2. Yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với

quá trình phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế trên địa bàn một số tỉnh

biên giới phía Bắc

Qua phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cho thấy, vấn đề đặt ra cần phải giải

quyết đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ QP, AN với

quá trình phát triển KT - XH còn hạn chế.

Giữa phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN luôn có mối quan hệ

khăng khiết với nhau. Trong mối quan hệ đó, KT - XH là yếu tố quyết định

đến QP, AN. Ngược lại, QP, AN có tác động tích cực trở lại KT - XH, bảo vệ

và tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy KT - XH phát triển. Tuy nhiên, trên thực

tế hiện nay cho thấy, nhiệm vụ QP, AN luôn có sự phát triển và yêu cầu cao

phù hợp với tình hình cách mạng trong giai đoạn mới đó là bảo vệ Đảng,

Nhà nước, nhân dân, giữ vững hoà bình, đảm bảo AN quốc gia; bảo vệ vững

chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Để thực

hiện được nhiệm vụ này phải trên cơ sở có một nền KT phát triển. Thế

nhưng trên thực tế quá trình phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên giới phía

Bắc còn nhiều hạn chế như đã phân tích đánh giá ở phần thực trạng. Đây

chính là vấn đề đặt ra cần phải giải quyết trong phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời gian tới.

Page 135: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

135

3.3.3. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo

quốc phòng, an ninh với chính quá trình quy hoạch phát triển kinh tế - xã

hội ở một số tỉnh biên giới phía Bắc

Từ sự phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cho thấy, một số vấn đề đặt ra từ

chính quá trình phát triển KT, đó chính là mâu thuẫn giữa lợi ích KT - XH và lợi

ích QP, AN. Mâu thuẫn đó được biểu hiện trên những vấn để sau:

- Vấn đề đặt ra trong quy hoạch sử dụng đất đai, việc thu hồi đất nông

nghiệp để tạo kết cấu hạ tầng cho phát triển các khu công nghiệp, các khu KT

cửa khẩu... trên thực tế cho thấy đó không chỉ là vấn đề KT thuần tuý, thu hồi

đất, trả tiền đền bù là xong, mà còn là vấn đề XH hết sức phức tạp, người

nông dân sẽ làm gì với số tiền đền bù trong tay để tiếp tục quá trình KT trong

điều kiện không còn đất canh tác. Đây không chỉ là vấn đề KT, mà còn là vấn

đề XH, thậm chí là vấn đề chính trị, vì nó liên quan chặt chẽ đến việc huy

động các nguồn lực từ nông thôn cho cho các nhiệm vụ QP, QS ở mỗi địa

phương mà trực tiếp và trước hết là nguồn nhân lực. Thực tế đó đặt ra vấn đề

khách quan phải nghiên cứu thấu đáo từ khâu quy hoạch, kế hoạch phát triển

các ngành KT chủ yếu, cũng như trong phát triển KT tại các vùng, các khu và

các địa dàn chiến lược ở mỗi tỉnh trên địa bàn biên giới phía Bắc.

- Vấn đề đặt ra trong quy hoạch và bố trí các khu dân cư, cùng với xu

thế phát triển chung của cả nước, một số tỉnh biên giới phía Bắc đang thực

hiện quá trình công nghiệp hoá, đi liền với đô thị hoá làm thay đổi cơ cấu dân

cư, cũng đặt ra những vấn đề về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

như, điều chỉnh tổ chức, bố trí lại lực lượng, xây dựng các công trình QP,

phương án tác chiến của các KVPT...

- Vấn đề đặt ra trong quy hoạch kết cấu hạ tầng, việc lựa chọn vị trí xây

dựng hệ thống kết cấu hạ tầng: các nhà máy cung cấp năng lượng, hệ thống

chuyển tải năng lượng, hệ thống giao thông đường bộ, sân bay, cảng, kho, chạm,

hệ thống bưu chính viễn thông, hệ thống ngân hàng... có liên quan chặt chẽ đến

Page 136: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

136

việc phát huy ưu thế tiềm năng lợi thế so sánh về KT của một số tỉnh biên giới

phía Bắc khi nó được xây dựng và đi vào hoạt động. Song quá trình triển khai lại

phải tính toán đến khả năng bảo vệ và đảm bảo sức sống của các công trình đó

trong điều kiện có chiến tranh. Do đó, trước khi xây dựng, vấn đề đặt ở vị trí nào

để đạt được cả hai mục đích KT và QP, như vậy cần phải tính đến một khía cạnh

khác là các công trình đó được thiết kế như thế nào để phát huy khả năng sinh lời

về KT, đồng thời sử dụng được cả cho QP khi có tình huống xảy ra. Đó chính là

vấn đề đang đặt ra cần phải được giải quyết trong quá trình phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Những vấn đề đặt ra trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc như trên, đó chính là mâu thuẫn giữa lợi ích KT - XH

và lợi ích QP, AN. Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết khi thực hiện gắn kết chặt chẽ

phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN bằng quan điểm và giải pháp khoa học.

Kết luận chƣơng 3

Từ cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc như trên, chương 3 luận án tập trung phân tích đánh

giá thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên

giới phía Bắc trong thời gian qua trên các nội dung: Khái quát đặc điểm tự

nhiên, KT - XH, QP, AN, qua đó chỉ rõ những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng

đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Phân tích, đánh giá làm rõ thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN;

chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế còn

tồn tại trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP ở một số tỉnh biên

giới phía Bắc. Từ thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số

tỉnh biên giới phía Bắc thời gian qua, đã và đang đặt một số vấn đề cần tiếp tục

nghiên cứu để tìm ra giải pháp khắc phục trong thời gian tới. Đó chính là một trong

những cơ sở khoa học để xây dựng, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.

Page 137: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

137

Chƣơng 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

GẮN VỚI ĐẢM BẢO QUỐC PHÕNG, AN NINH Ở MỘT SỐ

TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC TRONG THỜI KỲ MỚI

4.1. Quan điểm cơ bản phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo

quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới

Xuất phát từ cơ sở lý luận, thực tiễn về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc như trên cho thấy, để tiếp tục nâng cao

hiệu quả phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm

vụ cách mạng trong thời kỳ mới, đòi hỏi khách quan là phải phát huy tốt nhất những

thành tựu đã đạt được, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những yếu kém còn tồn

tại. Để thực hiện được điều đó, các tỉnh biên giới phía Bắc cần quán triệt sâu sắc,

vận dụng sáng tạo, linh hoạt những quan điểm sau:

4.1.1. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển

kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới

Đi lên CNXH là con đường duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt

Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Con đường đó phù hợp với quy luật tiến hoá

của lịch sử và xu thế phát triển khách quan của thời đại, thể hiện đúng ý chí,

nguyện vọng của quần chúng nhân dân và của cả dân tộc Việt Nam.

Kinh tế bao giờ cũng là yếu tố suy đến cùng quyết định tiến trình lịch sử, sự

phát triển KT quyết định và gắn kết với sự phát triển XH. XH XHCN mà nhân

dân ta xây dựng là một XH: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản

xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện

phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,

tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Page 138: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

138

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ

hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” [35, tr. 70]. Xây dựng nền KT

mang đặc trưng XHCN như vậy là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn,

bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, luôn tiềm ẩn những lực cản, những nguy cơ,

thách thức tính định hướng XHCN của nền KT. Do đó, giữ vững định hướng

XHCN được đặt ra như một tất yếu khách quan, một yêu cầu bức thiết của công

cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung, trong quá trình phát triển KT - XH ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng.

Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta

nói chung, ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng có ý nghĩa to lớn cả về lý luận

và thực tiễn. Đây không chỉ thuần tuý là vấn đề KT - XH mà còn là vấn đề

chính trị - KT, liên quan đến sự phát triển của nền KT, đến sự tồn vong của chế độ

XHCN cũng như sự lãnh đạo của Đảng ta. Cùng với quan điểm giữ vững định

hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH ở nước ta nói chung, quan điểm

giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên

giới phía Bắc là quan điểm chỉ đạo, là đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.

Quan điểm này chi phối toàn bộ quá trình phát triển của một số tỉnh biên giới phía

Bắc cũng như trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã xác định, chỉ có CNXH mới thực sự giải quyết được tận gốc rễ

mọi áp bức bóc lột, mới bảo đảm quyền bình đẳng thực sự giữa các dân tộc

trong một quốc gia. Nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ngày

nay, chế độ ta là chế độ dân chủ, Đảng và Chính phủ chỉ lo phục vụ lợi ích

cho nhân dân. Đồng bào tất cả các dân tộc không phân biệt lớn nhỏ phải

thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà,

cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng CNXH làm sao tất cả các dân

tộc được hạnh phúc ấm no” [59, tr.53].

Page 139: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

139

Trong thời kỳ mới, nước ta bước vào thời kỳ chiến lược trong bối cảnh thế

giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường; như Văn kiện Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhận định: “Hoà bình hợp tác và phát triển vẫn

là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật

đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe doạ an ninh phi truyền thống, tội

phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng…” [35, tr.27-28]. Lợi dụng tình hình đó,

CNĐQ và các thế lực thù địch tiếp tục chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều

âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhất là thông qua chiến lược

“DBHB” chúng tìm mọi cách để kích động, lôi kéo, chia rẽ khối đại đoàn kết giữa

các dân tộc, chống phá chế độ, phủ nhận CNXH... Điển hình như: sự kiện tháng 2

năm 2001 ở Tây Nguyên…; mường Nhé - Điện Biên năm 2011… Trong bối cảnh,

tình hình đó, Đảng ta luôn khẳng định tính nhất quán của con đường XHCN mà

Đảng, Bác Hồ, nhân dân ta đã lựa chọn là duy nhất đúng đắn, khoa học. Chỉ có

kiên định con đường XHCN, „„Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền

kinh tế…” [35, tr.204] mới thật sự xây dựng, củng cố, tăng cường khối đại đoàn

kết toàn dân tộc. Các vùng, miền trong cả nước gắn kết chặt chẽ với nhau, bổ sung

cho nhau, bảo vệ lẫn nhau đi theo con đường mà mình đã lựa chọn, đẩy mạnh

được sự phát triển KT - XH.

Để giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc, hơn bao giờ hết chúng ta phải luôn luôn chủ

động duy trì, xây dựng, phát triển sáng tạo những giá trị ưu việt của CNXH

trên tất cả các mặt của đời sống XH; trong đó, đặc biệt chú trọng đẩy nhanh

tiến trình phát triển KT - XH để từng bước giải quyết thoả đáng đời sống vật

chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc nơi đây. Đồng thời, không ngừng

nâng cao nhận thức về CNXH, về con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ

và nhân dân ta đã lựa chọn. Đó chính là cơ sở khoa học để giữ vững định

hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH, phát huy cao độ tinh thần

Page 140: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

140

cách mạng của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc

trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, BVTQ XHCN trên

địa bàn trong thời kỳ mới.

4.1.2. Đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ và toàn diện trong quá trình

phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh

Một số tỉnh biên giới phía Bắc là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng

về QP, AN; do đó, CNĐQ và các thế lực thù địch luôn tìm mọi âm mưu, thủ

đoạn, lợi dụng tình hình địa bàn miền núi, biên giới, nơi có đồng bào dân tộc

thiểu số để kích động, lôi kéo, chống phá sự nghiệp đổi mới của chúng ta từ

chính nơi đây. Trong bối cảnh tình hình như vậy, việc phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN, nhất là nhiệm vụ đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên

giới phía Bắc càng đặt ra quan trọng và cấp thiết hơn.

QP, AN muốn được đảm bảo, trước hết công cuộc phát triển KT - XH

phải phát triển một cách hệ thống, đồng bộ và toàn diện cả về KT, văn hoá,

XH, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân

tộc trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, gắn với nhiệm vụ xây dựng

nông thôn mới, xây dựng từng địa phương vững mạnh toàn diện. Sở dĩ như

vậy là vì, việc đảm bảo QP, AN phụ thuộc vào nhiều yếu tố, không chỉ đơn

thuần là dựa vào yểu tố KT hay XH, mà phải dựa vào sức mạnh tổng hợp của

cả KT và XH, có như vậy mới tạo thành sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn

đảm bảo QP, AN. Do đó, để đảm bảo QP, AN phải phát triển một cách hệ

thống, đồng bộ và toàn diện trong quá trình phát triển KT - XH, không được

tuyệt đối hoá yếu tố phát triển KT mà dẫn đến xem nhẹ các yếu tố khác như:

yếu tố XH, yếu tố chính trị - tinh thần; dân tộc, tôn giáo… Ngược lại, không

nên tuyệt đối hoá yếu tố chính trị - tinh thần… dẫn đến xem thường yếu tố vật

chất, xem thường lợi ích cá nhân, chỉ quan tâm đến giáo dục tư tưởng - chính

trị một cách chung chung, những tư tưởng đó đều sai lầm, nhất là trong điều

kiện phát triển KT thị trường như hiện nay.

Page 141: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

141

Vấn đề trên đã được thực tiễn cách mạng chứng minh, trong thời kỳ chiến

tranh giải phóng cũng như chiến tranh BVTQ trước đây, đồng bào các dân tộc cả

nước nói chung, một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng đã cùng với các LLVT

chiến đấu ngoan cường, xả thân vì quê hương, đất nước. Giải phóng được tỉnh

nào, vùng nào đã nhanh chóng xây dựng tỉnh đó, vùng đó thành căn cứ cách

mạng, căn cứ hậu phương vững chắc để đảm bảo cung cấp sức người, sức của cho

tuyền tuyến giành thắng lợi… cho dù lúc đó, nước ta còn là nước nghèo, nền KT

kém phát triển, toàn dân và LLVT phải chiến đấu trong bối cảnh ăn không đủ no,

mặc không đủ ấm, nhưng với một tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”,

chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, một lòng chiến đấu đến cùng cho độc

lập tự do của Tổ quốc. Qua đó cho thấy, sức mạnh chiến đấu trên chiến trường

không phải chỉ phụ thuộc vào sức mạnh vật chất thuần tuý, mà còn dựa vào sức

mạnh có ý nghĩa quyết định đó là nhân tố chính trị - tinh thần, như Lênin đã khẳng

định: Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần

của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Chính vì vậy, trong thời kỳ mới

để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ

XHCN, trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ và toàn diện.

4.1.3. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an

ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân

và toàn quân; trước hết là nhiệm vụ trực tiếp của toàn Đảng, toàn dân và

toàn quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía

Bắc là một bộ phận hữu cơ trong chiến lược phát triển KT - XH và chiến lược

QP, AN của cả nước. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, để thực hiện phát triển

một cách cân đối, hài hoà giữa các địa phương, các vùng trong cả nước, nhất là

đưa miền núi, biên giới, hải đảo phát triển theo kịp các vùng đồng bằng, đô thị

Page 142: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

142

trong cả nước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải có chủ trương vừa phát huy tinh

thần trách nhiệm chung của cả nước tạo thành sức mạnh tổng hợp, nhưng trước

hết phải phát huy sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc của Đảng bộ, chính quyền, cùng

toàn dân, toàn quân ở một số tỉnh biên giới phía Bắc. Cần phải chú ý phát huy

vai trò năng động, sáng tạo của từng địa phương, cơ sở và đồng bào các dân tộc;

khắc phục tư tưởng cục bộ địa phương, cục bộ dân tộc; tư tưởng trông chờ ỷ lại;

tư tưởng an phận thủ thường, cam chịu; tư tưởng xem nhẹ vai trò của đồng bào

các dân tộc thiểu số; kiên quyết chống lại tư tưởng chỉ tập trung khai thác tài

nguyên thiên nhiên, rừng, biển; không chú ý đến việc phục hồi, tái tạo, bồi đắp

và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.

Nhìn một cách tổng thể, do điều kiện lịch sử, tự nhiên, KT, XH ở một số

tỉnh biên giới phía Bắc có tính đặc thù và còn nhiều khó khăn, dẫn đến sẽ gặp

không ít khó khăn trong quá trình phát triển hoà nhập cùng với các địa phương,

các vùng khác trong cả nước, nếu thiếu sự tác động tích cực từ bên ngoài, trong

đó vai trò của Nhà nước, cùng với các cơ quan, ban, ngành Trung ương có vị trí,

ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Vị trí, ý nghĩa đó phải được thể hiện như Bác Hồ đã

căn dặn: “các cơ quan Trung ương phải có nghĩa vụ “hết lòng phục vụ”, phải có

kế hoạch đẩy mạnh phong trào miền núi đi lên” [60, tr.146].

Với phương châm, “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, Nhà nước giúp

nhân dân ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, tạo ra những điều kiện thuận lợi ở

tầm vĩ mô để thúc đẩy sự tự thân vận động của các địa phương này, tuyệt đối

không làm thay. Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ bằng cách hỗ trợ giống, vốn, kỹ

thuật, đào tạo cán bộ, đào tạo nghề, đầu tư cơ sở hạ tầng… Đồng thời, kêu gọi

các địa phương, các lực lượng trong cả nước tạo điều kiện giúp đỡ một số tỉnh

biên giới phía Bắc vươn lên. Bên cạnh đó, tích cực động viên để các tỉnh này

phát huy mạnh mẽ tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân đồng bào các dân tộc

quyết tâm vươn lên bằng chính bàn tay, khối óc của mình để xây dựng quê

Page 143: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

143

hương, chung tay xây dựng đất nước bằng việc làm thiết thực thúc đẩy phát triển

KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ngay trên chính quê hương mình.

Các LLVT nói chung, Quân đội, bộ đội biên phòng nói riêng là lực lượng

ra đời, chiến đấu và trưởng thành luôn gắn bó với địa bàn biên giới, với đồng bào

các dân tộc. Với chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm, tính chất công tác của mình;

LLVT, nhất là quân đội, bộ đội biên phòng đóng quân và hoạt động ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc phải thường xuyên phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm

tham gia tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở chính trị, góp phần phát

triển KT - XH, trọng tâm là phát huy tốt mọi nguồn lực, trước hết là nội lực để

tham gia xoá đói giảm nghèo, thực hiện phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên

giới phía Bắc. Đây là một trong những nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt, có

ý nghĩa chiến lược lâu dài của quân đội, bộ đội biên phòng trong thời kỳ mới,

thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

4.1.4. Phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc phải phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế

Trong thời kỳ mới, tham gia hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ có bước

phát triển mới, trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng cho thấy, chúng ta không chỉ đề cập đến việc hội nhập KT quốc tế mà

còn đề cập đến vấn đề chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, không chỉ về

KT mà còn các vấn đề về giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và cả việc:

“Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an

ninh” [35, tr.233]. Như vậy, với việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế ngày

càng sâu rộng hơn, tác động mạnh mẽ hơn, đan xen giữa các yếu tố thuận

chiều và không thuận chiều đối với nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN. Các lĩnh vực KT - XH, QP, AN của nước ta sẽ có bước phát triển

mới về quy mô, trình độ. Các lĩnh vực văn hoá, XH, y tế, GD - ĐT, KH - CN

của đất nước sẽ có bước phát triển vượt trội. Tình hình đó quy định, tác động

Page 144: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

144

mạnh mẽ đến quá trình thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN ở nước ta nói chung, một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng.

Theo đó, trong thời gian tới, việc “mở cửa” biên giới giữa Việt Nam và

các nước láng giềng có chung đường biên giới sẽ được phát triển cả bề rộng

lẫn chiều sâu. Đặc biệt là một số tỉnh biên giới phía Bắc sẽ thực hiện xây

dựng các khu KT cửa khẩu, thành phố cửa khẩu để quan hệ giao lưu KT với

bên ngoài mà trực tiếp là với Trung Quốc, Lào và các nước khác trong khu

vực đang đặt ra như một nhu cầu cấp thiết. Vấn đề đặt ra là trong quá trình

“mở cửa” biên giới phải đảm bảo giữ vững nguyên tắc phát triển bình đẳng,

cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Mở cửa phải vừa

mạng lại lợi ích KT - XH cho đất nước, vừa phải đảm bảo QP, AN quốc gia.

Đây là quan điểm cơ bản, là nguyên tắc trong quan hệ quốc tế hiện nay, nhất

là trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc thì quan điểm đó càng có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng; đòi hỏi hai quốc gia phải tuân thủ nghiêm ngặt để đảm

bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa KT đối ngoại và chính trị đối ngoại, QP, AN, giữ

vững bản sắc văn hoá dân tộc.

Trong giai đoạn hiện nay, để góp phần thúc đẩy phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, nơi đây đang rất cần

mời gọi đầu tư của nhiều chương trình, dự án, kể cả các dự án đầu tư của nước

ngoài. Nhưng một thực tế hiển nhiên là để mời gọi được các chương trình, dự án

đầu tư vào một số tỉnh này là không dễ. Bởi lẽ, địa bàn một số tỉnh biên giới phía

Bắc có điều kiện địa lý tự nhiên, KT, XH không thuận lợi, do đó không mấy hấp

dẫn các nhà đầu tư. Chính vì vậy, để hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước,

đòi hỏi phải có một cơ chế thông thoáng, có chính sách ưu đãi để tăng sự hấp dẫn,

khuyến khích các nhà đầu tư vào làm ăn. Cũng cần phải thấy rằng, một khi đã có cơ

chế, chính sách ưu đãi, mời gọi được nhiều dự án đầu tư, nhất là những dự án có

vốn đầu tư của nước ngoài, các tổ chức quốc tế sẽ dẫn đến một hiệu ứng hai chiều,

Page 145: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

145

cả tích cực và tiêu cực. Đặc biệt, trong thời kỳ mới, “Các thế lực thù địch vẫn tiếp

tục thực hiện âm mưu “DBHB”, gây BLLĐ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”,

“nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta” [35, tr.185]. Trong đó,

một số tỉnh biên giới phía Bắc là một trong những địa bàn trọng điểm mà các thế

lực thù địch xác định để chống phá. Do đó, không phải tất cả mọi dự án đầu tư của

nước ngoài, các tổ chức quốc tế đều tốt... Chính vì vậy, trong quá trình mời gọi đầu

tư, chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác cao độ, xây dựng các phương án

sẵn sàng đối phó kịp thời. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, không phải tất cả các dự

án, chương trình đầu tư của nước ngoài đều gây tổn hại đến QP, AN của ta. Có dự

án của nước ngoài, trong quan hệ được ta xác định nước đó vừa là đối tượng, vừa là

đối tác, nhưng nếu xem xét dự án đầu tư không thấy có vấn đề xâm hại đến đảm

bảo QP, AN quốc gia, mà có lợi cho phát triển KT - XH cho quê hương, đất nước

thì chúng ta nên hợp tác làm ăn với họ.

Trong quá trình thực hiện cần tránh một số khuynh hướng: Một là, quá

chú trọng đến phát triển KT - XH, coi nhẹ yếu tố QP, AN sẽ dễ rơi vào cái bẫy

của kẻ thù dùng “thòng lọng” KT để khống chế ta về chính trị. Hai là, quá

chú trọng đến đảm bảo QP, AN, dẫn đến trong quan hệ KT, thương mại với

các nước, các tổ chức quốc tế đều thấy có nguy hại đến đảm bảo QP, AN, như

vậy sẽ không dám ký kết làm ăn với các nước, các tổ chức quốc tế, còn nếu

làm thì rụt rè, tạo nên những khó khăn, thủ tục phiền hà không đáng có. Ba là,

cần ra sức đấu tranh với tư tưởng mở rộng đầu tư nước ngoài bằng mọi giá,

đấu tranh với những biểu hiện xem thường lợi ích QP, AN trong xét duyệt đầu

tư, quản lý các dự án nước ngoài của nhiều cán bộ các cấp, các ngành…

Chính đây là một trong những yếu tố tạo nên sự không phù hợp trong điều kiện

hội nhập quốc tế. Có như vậy, mới đảm bảo cho quá trình phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc phù hợp với điều

kiện hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới.

Page 146: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

146

4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo

quốc phòng, an ninh ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới

Từ lý luận, thực tiễn, quan điểm chỉ đạo như trên cho thấy, trong thời

kỳ mới, để tiếp tục thúc đẩy nhanh quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ

cách mạng, đòi hỏi khách quan là phải phát huy tốt nhất những thành tựu đã

đạt được, hạn chế tới mức thấp nhất những yếu kém, khuyết điểm còn tồn tại.

Để thực hiện được điều đó, thiết nghĩ một số tỉnh biên giới phía Bắc cần thực

hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp, trước hết cần tập trung thực hiện tốt một

số giải pháp chủ yếu sau:

4.2.1. Nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm

bảo quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc

Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận

thức về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh

biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới cho cán bộ, đảng viên và nhân dân là

giải pháp quan trong hàng đầu. Bởi lẽ, chỉ khi nào đội ngũ cán bộ, đảng viên,

nhân dân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc có nhận thức đúng đắn,

sâu sắc về tầm quan trọng, tính tất yếu khách quan của việc phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn biên giới, thì mới cụ thể hoá một cách

đồng bộ, thường xuyên, có hiệu quả các nội dung phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN, tạo ra sự thống nhất về nhận thức khi bàn định trong tiếp tục

nâng cao hiệu quả phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN.

Công tác giáo dục, tuyên truyền phải được tiến hành thường xuyên,

toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung làm cho mọi cán bộ, đảng viên

và nhân dân nhận thức thật sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước

và của từng tỉnh về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn

Page 147: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

147

biên giới phía Bắc. Làm cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân, đặc biệt

là những người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong lãnh đạo, quản lý nhận thức

rõ tình hình quốc tế, khu vực, trong nước, bối cảnh tình hình ở từng tỉnh về

những vấn đề có liên quan đến phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới. Cán bộ lãnh

đạo, quản lý các cấp phải nhận thức đầy đủ, toàn diện các quan điểm, nội

dung, giải pháp phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN để trong quyết

định, giải quyết những vấn đề cụ thể có đủ năng lực thực hiện, nhất là nhận

định và chú ý đến các khu vực biên giới nhạy cảm, vùng xung yếu, vùng có

đồng bào dân tộc, tôn giáo.

Các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là các địa phương vùng biên

giới, hải đảo trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc cần phải tiếp tục quán

triệt sâu sắc và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX về Chiến

lược BVTQ trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các tỉnh... Đặc

biệt, cần quán triệt, vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng về kết hợp KT - XH

với QP, AN; QP, AN với KT - XH. Trên cơ sở đó, cụ thể hoá bằng các chương

trình, kế hoạch, giải pháp phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của từng

tỉnh trên địa bàn biên giới Phía Bắc trong thời kỳ mới. Để thực hiện tốt những

nội dung trên, trong thời gian tới một số tỉnh biên giới phía Bắc cần thực hiện

tốt một số nội dung giải pháp cụ thể sau:

Trước hết, các cấp uỷ đảng, chính quyền một số tỉnh biên giới phía Bắc

phải thường xuyên quán triệt thật sâu sắc về chủ trương, giải pháp chiến lược

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của Đảng, Nhà nước. Trong khi

coi phát triển KT - XH là nhiệm vụ trung tâm, các tỉnh cần phải coi đảm bảo

QP, AN là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên không một phút lơi lỏng. Luôn

phải lấy việc gắn kết phát triển KT - XH với đảm bảo QP, AN làm giải pháp

Page 148: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

148

chiến lược, cơ bản lâu dài trong phát triển tiềm lực, sức mạnh, vị thế của mỗi

tỉnh trên địa bàn biên giới phía Bắc. Các nghị quyết lãnh đạo, các chương

trình hành động của các cấp uỷ đảng, chính quyền các tỉnh đều phải đặc biệt

coi trọng chủ trương, giải pháp chiến lược phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN trên địa bàn biên giới.

Hai là, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền trong

nhân dân đồng bào các dân tộc về chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.

Chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc phụ thuộc

nhiều yếu tố, trước hết là nhận thức của chủ thể. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả

công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm tạo sự thống nhất nhận thức, đồng

thuận, tích cực tham gia của nhân dân đồng bào các dân tộc đối với vấn đề

này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây cũng là sự phát huy sức mạnh toàn

dân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thực hiện chủ trương

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Nội dung tuyên truyền cần phải

toàn diện, song với từng đối tượng, thời kỳ, lĩnh vực cần có cách cập nhật

riêng phù hợp, sát với đặc điểm hoạt động thực tiễn, sinh hoạt của nhân dân

đồng bào các dân tộc một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Ba là, không ngừng nâng cao hiệu quả giáo dục QP, AN cho các đối

tượng và toàn dân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ

mới. Nghị định 116/2007/NĐ - CP của Chính phủ về giáo dục QP, AN, quy

định 5 đối tượng giáo dục kiến thức QP, AN và các đối tượng khác không

thuộc 5 đối tượng này. Nâng cao hiệu quả giáo dục QP, AN cho các đối tượng

là vấn đề có ý nghĩa to lớn, cần thiết, cấp bách trong sự nghiệp xây dựng nền

QPTD, ANND BVTQ. Đó cũng là vấn đề cần thiết, cấp bách trong quá trình

thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở nước ta

Page 149: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

149

nói chung, ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng. Để nâng cao hiệu quả

giáo dục QP, AN cho các đối tượng ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, trước hết

cần phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, cập nhật thông tin cho

người làm công tác giáo dục, tuyên truyền, đổi mới nội dung, chương trình,

phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Công tác giáo dục, tuyên truyền

phải được coi trọng, thực hiện thường xuyên trong quá trình công tác, hoạt

động thực tiễn, trong đời sống hàng này của mọi cán bộ, đảng viên, công dân,

trong mọi tổ chức chính trị, KT, văn hoá, XH và trong mỗi gia đình. Vì vậy,

để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, tuyên truyền cần phải chú ý một cách

toàn diện, đồng bộ trong các lĩnh vực hoạt động của cả hệ thống chính trị, của

tất cả các tổ chức KT, XH, văn hoá ở một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Bốn là, đầu tư nguồn lực thoả đáng, thực hiện XH hoá đối với công tác

giáo dục nâng cao nhận thức về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

ở một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới. Để nâng cao nhận thức của

cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng bào các dân tộc về phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cần phải có sự đầu tư

thoả đáng. Trước hết là đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ nòng cốt làm công tác

giáo dục, tuyên truyền. Với những cán bộ này, phải được đào tạo, bồi dưỡng

kiến thức một cách toàn diện cả về KT - XH, QP, AN, cũng như về kiến thức,

phương pháp giáo dục, tuyên truyền. Cần đầu tư kinh phí thoả đáng cho công

tác biên soạn tài liệu, các loại sách vở, băng hình, hội hoạ, ba nô áp phích...

nhằm tác động trực tiếp vào người dân trong mọi sinh hoạt, hoạt động của đời

sống XH, trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Tận dụng tốt các phương tiện truyền

thông, lồng ghép kiến thức QP, AN nói chung, phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN nói riêng vào các loại hình văn hoá, nghệ thuật, sinh hoạt

cộng đồng, làm cho mọi người dân, mọi cán bộ và tổ chức tiếp nhận kiến thức

đó một cách dễ dàng, nhanh, hiệu quả.

Page 150: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

150

Năm là, trong quá trình thực hiện, cần phải chống tư tưởng nóng vội,

chủ quan, duy ý chí và các khuynh hướng tuyết đối hoá phát triển KT - XH

dẫn đến coi nhẹ việc đảm bảo QP, AN hoặc ngược lại, tuyệt đối hoá đảm bảo

QP, AN, coi nhẹ phát triển KT - XH…

4.2.2. Thực hiện quy hoạch ổn định trong dài hạn, phát triển kinh tế - xã

hội bền vững gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới

Trong thời kỳ mới, để phát triển KT - XH một cách bền vững gắn với

đảm bảo QP, AN, trên địa bàn cả nước nói chung, một số tỉnh biên giới phía

Bắc nói riêng, vấn đề quan trọng đặt ra đó là, cần phải thực hiện tốt việc quy

hoạch ổn định trong dài hạn, phát triển KT - XH một cách bền vững gắn với

đảm bảo QP, AN. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, xây dựng

và năng lực quản lý đô thị, nông thôn. Đối với các quy hoạch quan trọng có

ảnh hưởng lớn đến các mục tiêu phát triển lâu dài, cần lựa chọn các đơn vị tư

vấn có uy tín trong và ngoài nước để đảm bảo chất lượng quy hoạch có tầm

nhìn phù hợp với thời đại. Tập trung sớm hoàn thành các quy hoạch như quy

hoạch tổng thể phát triển KT - XH của các tỉnh giai đoạn 2011 - 2020, định

hướng đến 2030; quy hoạch phát triển nguồn nhân lực; quy hoạch, kế hoạch

sử dụng đất; quy hoạch ngành, lĩnh vực…

Trước hết, cần phải thực hiện việc quy hoạch sử dụng đất đai

Trong đời sống XH, vấn đề đất đai luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Với quan điểm lao động là “cha”, đất là “mẹ” của của cải vật chất, thì đất đai

có ý nghĩa sống còn liên quan trực tiếp đến mọi người dân trong nhiều thế hệ.

Đối với quốc gia, đất đai là tài nguyên, là nguồn sản sinh ra các sản phẩm

phong phú, đa dạng đáp ứng nhu cầu cho tiêu dùng, duy trì sự sống của XH.

Tuy nhiên, đất đai luôn có giới hạn, là yếu tố không dễ khôi phục, cải tạo.

Chính vì vậy, trong quản lý, sử dụng phải hợp lý để vừa giữ vững sự cân đối

quỹ đất cho nhu cầu phát triển chung, vừa đảm bảo AN lương thực quốc gia,

Page 151: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

151

đáp ứng được yêu cầu của quá trình CNH, HĐH, đảm bảo được quyền lợi, lợi

ích hợp pháp của người dân là một vấn đề cấp thiết hiện nay.

Trong giai đoạn hiện nay, để thúc đẩy phát triển KT - XH trên địa bàn

một số tỉnh biên giới phía Bắc, vấn đề quan trọng là việc chuyển dịch cơ cấu

KT nông nghiệp nông thôn. Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu KT nông nghiệp

nông thôn, thúc đẩy phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên giới Phía Bắc, cần

phải thực hiện tốt việc quy hoạch sử dụng đất đai ổn định trong dài hạn, nhằm

sử dụng đất đúng mục đích, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đối với một số tỉnh

biên giới phía Bắc, vấn đề quy hoạch sử dụng đất đai càng quan trọng hơn

bao giờ hết. Vì đây là các tỉnh có điều kiện địa hình phức tạp, giao thông khó

khăn, đất đai đang bị khai thác bừa bãi, tài nguyên rừng cạn kiệt, tình trạng du

canh du cư của đồng bào các dân tộc còn nhiều; bên cạnh đó còn bị ảnh

hưởng bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan dẫn đến các hiện tượng sạt lở, sói

mòn…, đất nông nghiệp vẫn là phổ biến, công tác giao đất, giao rừng triển

khai còn chậm, đất trống, đồi trọc còn nhiều…

Thực hiện tốt việc quy hoạch sử dụng đất đai là quá tình giải quyết hậu

quả của việc khai thác sử dụng đất đai bừa bãi, của việc sản xuất nương rẫy tự

do và chiếm dụng đất của đồng bào nơi đây. Hiện nay, để thực hiện đẩy mạnh

CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, các tỉnh biên giới phía Bắc phải tiến

hành quy hoạch sử dụng đất đai cho phù hợp. Trong quy hoạch cần phải coi

trọng quy hoạch đất cho trồng trọt, chăn nuôi theo sở trường của đồng bào các

dân tộc để đảm bảo cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày. Do vậy, phải tận dụng

tối đa đất có điều kiện thuận lợi để tăng năng suất lương thực, nhưng phải trên

cơ sở thâm canh, tăng năng suất, chỉ nên khai hoang những diện tích đất đai

có điều kiện thuận lợi về nguồn nước để sản xuất lúa nước, hạn chế, tiến tới

không để đồng bào các dân tộc đốt nương làm dẫy trồng lúa nương. Sản xuất

lương thực là đòi hỏi thường xuyên và cấp bách không chỉ đảm bảo duy trì

Page 152: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

152

cuộc sống cho đồng bào các dân tộc vùng biên giới, mà còn góp phần đảm

bảo nguồn lương thực tại chỗ cho QP, AN. Tuy nhiên, sản xuất lương thực,

nhất là sản xuất lúa không phải là thế mạnh của một số tỉnh biên giới phía Bắc,

do đó để KT - XH ở các tỉnh này phát triển phải biết phát huy triệt để thế mạnh ở

đây; phải thực hiện tốt công tác quy hoạch đất đai, khoanh vùng hình thành, phát

triển các vùng sản xuất thâm canh các loại cây trồng mũi nhọn phù hợp với từng

giống cây, chất đất, tạo ra nhiều vùng với nhiều sản phẩm hàng hoá với khối

lượng lớn như: cam, quyết, mận, hồi, quế, chè, na… thực hiện phát triển lâm

nghiệp theo hướng kết hợp bảo vệ, khai thác, tái sinh rừng. Tăng nhanh diện tích

rừng phòng hộ ở những địa phương đảm bảo kế hoạch có điều kiện, đảm bảo kế

hoạch trồng rừng tập trung. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách phát

triển nghề rừng, từng bước đi vào kinh doanh lâm nghiệp theo mô hình KT đồi

rừng, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, khuyến khích hộ đồng bào các

dân tộc tích cực trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Có như vậy, việc

quy hoạch sử dụng đất đai ổn định lâu dài mới phát huy tốt tác dụng, huy động

tốt các nguồn lao động tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu cuộc sống cho

đồng bào các dân tộc và tăng khả năng dự trữ nguồn lương thực, thực phẩm cũng

như các mặt hàng khác góp phần đảm bảo QP, AN tại chỗ đáp ứng tốt yêu cầu

nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất đai ổn định trong dài hạn, việc thực

hiện tốt chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng trên phải gắn với việc giao đất,

giao rừng, tổ chức lại sản xuất. Việc giao đất, giao rừng cần phải được thực hiện

một cách hợp lý: đối với đất trồng, rừng tự nhiên gần làng, bản thuộc rừng sản

xuất thì nên giao cho các hộ gia đình sản xuất, quản lý, bảo vệ; đối với đất, rừng

ở những vị trí quan trọng, xung yếu phải do các doanh nghiệp nhà nước quản lý

sản xuất, bảo vệ. Trong quá trình thực hiện, nếu xảy ra tranh chấp đất đai, việc

giải quyết phải thông qua chính sách ruộng đất, phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch

Page 153: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

153

sử của từng địa phương, theo luật định hiện hành để giải quyết một cách triệt để.

Những diện tích đất trước đây quy hoạch cho các doanh nghiệp nhà nước, đến

nay sử dụng kém hiệu quả thì nên trả lại cho chính quyền địa phương để trả cho

chủ cũ, hoặc giao cho đồng bào sản xuất. Đối với những diện tích đất QP, AN

phải đặc biệt ưu tiên như: đất xây dựng kết cấu hạ tầng gắn với QP, AN, đất xây

dựng hệ thống hầm hào, công sự, các công trình phòng thủ, các trận địa phòng

thủ dọc tuyến biên giới, các trạm cửa khẩu, các đồn biên phòng, các trạm kiểm

soát liên ngành, đường giao thông huyết mạch, đường tuần tra biên giới, các diện

tích rừng do quân đội quản lý. Việc thực hiện quy hoạch, giao đất, giao rừng phải

có biểu sử dụng kèm theo, với diện tích đất ở một số tỉnh biên giới hiện nay, nếu

giải quyết được vấn đề thuỷ lợi, rà phá hết bom mìn có thể quy hoạch, bố trí giải

quyết đất canh tác, tạo công ăn, việc làm cho số lượng lớn lao động, đồng thời

tạo ra các điểm dân cư nông thôn biên giới, gắn với bố trí, sắp xếp, ổn định dân

cư các xã biên giới, tạo thành lực lượng tại chỗ bảo vệ biên giới với ý nghĩa là

“phên dậu” BVTQ. Chính vì vậy, BQP, chính quyền địa phương các tỉnh biên

giới phía Bắc cần tiếp tục đẩy nhanh nhiệm vụ rà phá hết bom mìn, xây dựng

phương án, tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đồng bào các dân tộc trở lại làm

ăn, sinh sống, góp phần đảm bảo QP, AN vững chắc trên địa bàn biên giới.

Như vậy, trong thời gian tới để thực hiện quy hoạch sử dụng đất đai ổn

định trong dài hạn đạt kết quả tốt, các tỉnh biên giới phía Bắc cần phải tiếp tục

thực hiện tốt các nguyên tắc cơ bản của công tác quy hoạch sử dụng đất, giao

đất, giao rừng cho đồng bào các dân tộc, kết hợp tốt chính sách ưu tiên của

Nhà nước với nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc nơi

đây, để vừa đảm bảo dân chủ, công bằng, vừa thực hiện tốt chính sách ưu tiên

đối với đồng bào các dân tộc thiểu số vùng biên giới, nhằm khai thác tốt nhất

mọi tiềm năng, thế mạnh thúc đẩy phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.

Page 154: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

154

Hai là, thực hiện quy hoạch phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ

Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, việc thực hiện tốt quy hoạch phát

triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ là vấn đề quan trọng, là tiêu chuẩn để

đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu KT, trình độ phát triển KT - XH của

mỗi vùng, mỗi địa phương.

Trong quy hoạch phát triển công nghiệp, Nhà nước cần tập trung quy

hoạch phát triển thuỷ điện lớn, khai thác mỏ lớn và vừa như các mỏ than đá ở

Quảng Ninh, apatit ở Lào Cai… để giải quyết vấn đề năng lượng, nguyên liệu

đang đòi hỏi cấp bách và phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu. Đồng thời, thực

hiện công tác quy hoạch để khai thác các nguồn thuỷ năng phục vụ cho quá

trình đẩy mạnh CNH, HĐH, nhất là cần phải chú trọng công nghiệp chế biến,

ưu tiên cho những ngành nguồn vốn còn hạn chế, công nghệ đơn giản tạo

được nhiều công ăn việc làm. Tiếp theo mới phát triển các ngành nhiều vốn,

công nghệ cao, ưu tiên công nghiệp chế biến nông, lâm sản theo chiều sâu đi

từ sơ chế đến tinh chế, thực hiện giảm xuất khẩu sản phẩm thô.

Trong quy hoạch phát triển thương nghiệp, xuất phát từ đặc thù của một

số tỉnh biên giới phía Bắc, do đó phải thực hiện quy hoạch, tổ chức lại hệ

thống thị trường, các trung tâm thương mại, chợ nông thôn. Thương mại nhà

nước phải được củng cố, mở cửa hàng, các điểm phân phối hàng hoá đến các

xã, trung tâm cụm xã, thực hiện ổn định một số mặt hàng chủ lực, nhất là các

mặt hàng thiết yếu: thuốc chữa bệnh, dầu hoả, muối, phân bón, thuốc trừ

sâu… Phát triển mạng lưới chợ nông thôn để tạo điều kiện cho đồng bào các

dân tộc vùng biên giới giao lưu hàng hoá. Các chợ phải được xây dựng kiên

cố, nhất là hệ thống chợ huyện, chợ trung tâm cụm xã, chợ phiên. Qua đó có

thể thực hiện sự ưu tiên thiết thực nhất các doanh nghiệp hoạt động ở các tỉnh

biên giới phía Bắc - địa bàn còn nhiều khó khăn như: cung cấp đủ vốn, tạo

điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng, miễn giảm thuế…

Page 155: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

155

Trong quy hoạch phát triển các khu KT cửa khẩu, sau hơn 10 năm thực

hiện xây dựng các khu KT cửa khẩu trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc đã

đạt thành tựu đáng khích lệ, chính kết quả đó đã khơi dậy được tiềm năng, thế

mạnh mọi mặt nơi đây, nhất là tiềm năng du lịch, thương mại… Hiện nay, biên

giới phía Bắc có 21 cửa khẩu, cơ bản các cửa khẩu chưa thật sự được khai thác có

hiệu quả phục vụ cho phát triển thương mại, sản xuất trong vùng và cả nước. Hơn

thế nữa, các cửa khẩu biên giới phía Bắc nước ta còn kém khá xa về trình độ phát

triển so với các cửa khẩu của Trung Quốc. Chính sự chênh lệch về trình độ phát

triển này đã làm cho lợi ích từ kinh doanh dịch vụ của ta thua kém nhiều so với

Trung Quốc, rất dễ dẫn đến tình trạng bị Trung Quốc chi phối mọi hoạt động KT.

Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, đòi hỏi chúng ta

phải lựa chọn trong số các khu KT cửa khẩu có điều kiện thuận lợi, có triển vọng

cao để tập trung phát triển. Những khu chưa quy hoạch chỉ nên duy trì việc phát

triển hoạt động quan hệ buôn bán dịch vụ thông thường, dần dần tạo sự tích luỹ,

tiếp tục làm tốt công tác chuẩn bị mọi điều kiện yếu tố cần và đủ để hình thành

khu KT với mô hình hoàn chỉnh trong thời gian tới. Bên cạnh đó, phải tích cực

nghiên cứu kỹ lưỡng chính sách đối với cửa khẩu Trung Quốc để có đối sách phù

hợp, xử lý linh hoạt các tình huống, tránh bị bên Trung Quốc nâng giá, ép giá, gây

khó khăn trong hoạt động và quan hệ KT, cũng như chi phối các vấn đề khác.

Đồng thời, phải có chủ trương nhất quán từ trên xuống, gắn chính sách thương

mại với giải quyết các vấn đề về lao động việc làm, có giải pháp đồng bộ, cụ thể

giải quyết các tệ nạn XH, tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy phát triển thương mại

dịch vụ, du lịch trên địa bàn các tỉnh biên giới phía Bắc.

Trong thời gian tới, để phát huy thành tựu đã đạt được, ngăn chặn có

hiệu quả tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, đòi hỏi hơn bao giờ hết,

các tỉnh biên giới phía Bắc cần phải thực hiện tốt quy hoạch phát triển các

khu KT cửa khẩu. Cùng với cả nước thực hiện đến năm 2020 tổng kim ngạch

Page 156: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

156

xuất, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ qua biên giới Việt Nam với các nước láng

giềng đạt 42 - 43 tỷ USD. Cần phải tập trung ưu tiên xây dựng phát triển khu

KT cửa khẩu Móng Cái của tỉnh Quảng Ninh, Tân Thanh của tỉnh Lạng Sơn,

cửa khẩu Lào Cai, vì đây được xác định là “đầu mối hành lang KT liên vùng,

quốc tế”. Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, ngoài Móng Cái, các khu KT cửa

khẩu Bắc Phong Sinh, Hoành Mô - Đồng Văn (Quảng Ninh) cũng được xác

định tiếp tục đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng. Đối với các khu KT cửa khẩu

biên giới giáp Trung Quốc, sẽ được xây dựng, phát triển trở thành trung tâm thương

mại, dịch vụ, du lịch của cả vùng trung du, miền núi phía Bắc, đầu mối của hành

lang KT Hà Nội - Móng Cái - Phong Thành; Hà Nội - Lạng Sơn - Nam Ninh và

Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác phát triển trong

quy hoạch phát triển quốc tế “hai hành lang, một vành đai”. Phát triển các khu

KT cửa khẩu gắn với việc hình thành hệ thống đô thị, điểm dân cư nông thôn

biên giới, gắn với bố trí, sắp xếp, ổn định dân cư các xã biên giới Việt - Trung.

Phát triển KT ở các khu KT cửa khẩu phải gắn liền với đảm bảo QP, AN,

nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia, AN biên giới trên cơ sở giải quyết các vấn

đề XH bức xúc, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của đồng bào các dân tộc

một số tỉnh biên giới phái Bắc.

Ba là, thực hiện quy hoạch kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển

KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

Để quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn

một số tỉnh biên giới phía Bắc được thuận lợi, vấn đề quan trọng hàng đầu là

phải xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó đặc biệt coi trọng hệ thống

đường giao thông, điện, thuỷ lợi, thông tin truyền thông, hạ tầng đô thị và hạ

tầng khu KT cửa khẩu… thuận lợi, vừa tạo điều kiện thúc đẩy phát triển KT - XH,

vừa đảm bảo QP, AN, BVTQ. Thế nhưng, trên thực tế, kết cấu hạ tầng các khu

KT cửa khẩu của chúng ta còn hạn chế. Trong khi đó, nếu nhìn thực tế từ phía

Page 157: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

157

Trung Quốc ta thấy, trong thời gian qua họ đã tập trung xây dựng, phát triển

mạnh hệ thống kết cấu hạ tầng ở vùng biên giới như: phát triển hệ thống giao

thông vận tải, kho tàng, bến bãi, thông tin liên lạc, điện nước, kể cả các loại dịch

vụ, du lịch, các ngân hàng tài chính, tín dụng… Đó chính là một trong những

nguyên nhân cơ bản làm cho KT - XH các tỉnh này kém phát triển. Do đó, để

thúc đẩy KT - XH trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc phát triển gắn với

đảm bảo QP, AN, BVTQ, đòi hỏi chúng ta phải tích cực, chủ động trong thực

hiện quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng.

Trong thời kỳ mới, chúng ta đang phấn đấu đẩy mạnh sự nghiệp CNH,

HĐH, phấn đấu từ nay đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp

theo hướng hiện đại. Theo đó, các tuyến đường giao thông chính từ thủ đô Hà Nội

lên các tỉnh biên giới phía Bắc cần phải được ưu tiên phát triển mạnh nhằm thúc

đẩy phát triển KT - XH như: đường 18 (Bắc Ninh - Quảng Ninh), quốc lộ 1B

(Hà Nội - Lạng Sơn), đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai, đường Hồ Chí Minh đoạn

Cao Bằng - Bắc Cạn và đường sắt từ Hà Nội đi các tỉnh biên giới phía Bắc… Các

tuyến đường giao thông trên địa bàn các tỉnh, từ tỉnh tới huyện phải được nâng cấp,

xây dựng mới bảo đảm thông suốt cả 4 mùa, có đường ô tô đến trung tâm xã, cụm

xã; đặc biệt ưu tiên cho các trục đường ra biên giới, đường dọc biên giới, đường

tuần tra biên giới; nâng cấp hệ thống giao thông tới các trung tâm thương mại cửa

khẩu. Để thực hiện được vấn đề đó, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương phải

có sự phối hợp chặt chẽ, có sự phân công, phân cấp, có những biện pháp khả thi

trong thực hiện quản lý, xây dựng hệ thống đường giao thông. Đồng thời, phát huy

tốt phòng trào xây dựng giao thông nông thôn, giao thông miền núi, biên giới, hải

đảo, qua đó huy động toàn dân tham gia, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước, trong

đó ưu tiên cho những huyện, xã biên giới.

Cùng với hệ thống đường giao thông, các tỉnh phải có kế hoạch đảm bảo

năng lượng, đẩy nhanh hoàn thành việc kéo điện lưới quốc gia đến các địa bàn

Page 158: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

158

còn lại. Mục tiêu này thực hiện dựa trên cơ sở tập trung đầu tư kéo điện lưới về

các địa phương kết hợp với sự hỗ trợ một phần kinh phí tại các chương trình, dự

án cho đồng bào dân tộc thiểu số ở những nơi xa xôi, hẻo lãnh, các địa bàn biên

giới. Chú trọng phát triển mạnh thuỷ điện nhỏ, cực nhỏ và các nguồn năng lượng

khác để giúp đồng bào các dân tộc ở các tỉnh biên giới có đủ điện dùng cho đời

sống sinh hoạt và sản xuất. Đối với vấn đề thuỷ lợi, cần phải tiếp tục xây dựng

mới, thực hiện quản lý khai thác tốt các công trình đã xây dựng đảm bảo đủ nước

tưới tiêu cho các vùng cây công nghiệp, các vùng sản xuất cây lương thực, kết

hợp giải quyết tốt nước cho sản xuất với nước sạch đảm bảo cho sinh hoạt của

nhân dân, ưu tiên nước sạch phục vụ đời sống cho đồng bào các dân tộc và các

trạm, đồn biên phòng, cũng như các đơn vị LLVT đóng quân trên địa bàn.

Trong thời gian tới, để thực hiện tốt quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng

phục vụ tốt nhất cho phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, đòi hỏi các tỉnh

biên giới phía Bắc phải nghiên cứu nắm vững tiềm năng, lợi thế triển khai xây dựng

hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông vận tải bao gồm: giao thông

vận tải đường bộ liên tỉnh, liên huyện, liên xã, đường tuần tra biên giới; hệ thống

đường sắt, đường không; cùng với các công trình kho tàng, bến bãi, nhà ga; các

công trình văn hoá - XH; các cơ sở y tế trên từng tỉnh. Trên cơ sở đó, xem xét, tính

toán, cân đối giữa các nhu cầu phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; nhất là

việc cân đối giữa các nhu cầu vận tải chi viện cho tuyền tuyến với năng lực vận tải

QS, khả năng vận tải của các thành phần KT để xây dựng kế hoạch sẵn sàng huy

động lực lượng, phương tiện đảm bảo QP, AN trong mọi tình huống, nhất là đảm

bảo tốt cho chiến tranh nếu xảy ra. Các tuyến đường vận tải chiến lược, nhất là các

trục đường huyết mạch ra biên giới, đường tuần tra biên giới phải được xây dựng

đồng bộ, bảo đảm chất lượng tốt, tốc độ cơ động cao, năng lực vận chuyển, chịu

được trọng tải lớn đủ sức chi viện kịp thời, liên tục cho các hướng chiến lược, kể cả

trong trường hợp các chiến trường bị chia cắt, góp phần giành thắng lợi trong mọi

tình huống, bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

Page 159: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

159

Trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc, các trung tâm cụm xã có vị trí, vai trò rất quan trọng, là trung

tâm KT, văn hoá, XH tiểu vùng, tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc thiểu số

vùng biên giới tham gia vào đời sống KT - XH, tăng cường năng lực để thoát

nghèo; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần xây dựng nông thôn

mới… Đó chính là cơ sở tiền đề vật chất để sắp xếp ổn định dân cư, phát huy tối đa

tiềm lực KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Do đó, việc thực hiện quy hoạch xây

dựng các trung tâm cụm xã trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc là yêu cầu

cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược góp phần đắc lực cho phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN, BVTQ trong thời kỳ mới. Trong quá trình thực hiện xây dựng các

trung tâm cụm xã, cần phải chú ý lựa chọn địa điểm vừa thuận lợi cho việc giao lưu

KT - văn hoá trong khu vực, vừa liên kết được hệ thống các trục đường giao thông,

hệ thống điện lưới của tỉnh, huyện một cách liên hoàn. Quy hoạch xây dựng phải

phân định được từng khu chức năng, gắn trung tâm với quy hoạch vành đai, vườn

đồi, vùng cây trồng, vật nuôi; tận dụng, huy động được tối đa các nguồn lực để xây

dựng các công trình trong trung tâm cụm xã. Trong xây dựng trung tâm cụm xã ở

các tỉnh, huyện biên giới cần phải gắn với cụm KT cửa khẩu, đồng thời đáp ứng với

yêu cầu quy hoạch xây dựng KVPT vùng biên giới. Quy hoạch xây dựng các trung

tâm cụm xã nhất thiết phải là trung tâm KT, văn hoá, XH gắn với QP, AN của địa

phương. Quá trình xây dựng, phát triển các trung tâm cụm xã không chỉ vì mục

đích KT đơn thuần mà phải xét đến yêu cầu đảm bảo QP, AN.

Tóm lại, việc quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng ở một số tỉnh biên

giới phía Bắc vừa tạo ra cơ sở vật chất quyết định sự phát triển KT - XH, vừa

tạo ra cơ sở vật chất bảo đảm QP, AN. Bởi vì, kết cấu hạ tầng là yếu tố quan

trọng cấu thành cơ sở vật chất kỹ thuật của nền QPTD. Vì vậy, khi xây dựng

kết cấu hạ tầng, phải tính đến việc đảm bảo QP, AN, nhất là mạng lưới đường

giao thông phải đáp ứng kịp thời cho việc cơ động LLVT, các phương tiện

Page 160: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

160

chiến đấu, hệ thống thông tin liên lạc phải đảm bảo thông suốt đáp ứng tốt

yêu cầu chỉ huy chiến đấu… Đồng thời, kết cấu hạ tầng phát triển không chỉ

phát huy khả năng đảm bảo tại chỗ cho QP, AN, mà còn là điều kiện tiên

quyết đảm bảo huy động sức mạnh tổng hợp của các vùng, miền trên cả nước

chi viện đảm bảo QP, AN cho các tỉnh biên giới phía Bắc khi cần thiết.

Bốn là, thực hiện quy hoạch, bố trí dân cư

Thực hiện tốt quy hoạch, bố trí dân cư là vấn đề có ý nghĩa chiến lược

trên địa bàn cả nước nói chung, một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng trong

quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Thực trạng hiện nay

cho thấy, trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, đồng bào các dân tộc

thiểu số sinh sống phân tán, rải rác, thiếu quy hoạch; thậm chí nhiều vùng

biên giới chưa có dân cư sinh sống. Chính vì vậy, để phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN nơi đây, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu là

phải thực hiện tốt quy hoạch, bố trí dân cư đảm bảo các yêu cầu sau:

- Phải căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc. Hiện nay, một số tỉnh biên giới phía Bắc đều đã có quy

hoạch tổng thể phát triển KT - XH đến năm 2015. Riêng đối với các tỉnh biên

giới trên địa bàn cả nước đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định

về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các Khu KT cửa khẩu của Việt

Nam đến năm 2020”, với mục tiêu tổng quát của đề án là xây dựng các khu

KT cửa khẩu trên các khu vực biên giới trở thành các vùng KT động lực của

từng tỉnh biên giới giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Trên cơ sở đó, tỉnh

Quảng Ninh đã quy hoạch riêng cho phát triển khu KT cửa khẩu Móng Cái.

Chính vì vậy, việc quy hoạch bố trí dân cư phải căn cứ vào quy hoạch tổng

thể phát triển KT - XH của từng tỉnh mới phù hợp với đặc điểm tự nhiên, điều

kiện KT, XH từng vùng, phong tục tập quán của từng dân tộc. Việc quy hoạch

bố trí dân cư phải thực hiện theo phương châm không gây biến động lớn trong

Page 161: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

161

đời sống của đồng bào các dân tộc; điều chỉnh bố trí dần từng bước để đạt

mục đích, yêu cầu đề ra từ thấp đến cao, từ bộ phận đến tổng thể; quy hoạch

bố trí dân cư phải theo đúng đề án đã được phê duyệt để đồng bào các dân tộc

tự nguyện, chủ động trong xây dựng ổn định cuộc sống mới.

- Phải căn cứ vào quy hoạch phát triển hệ thống giao thông. Kết cấu hạ

tầng nói chung, đường giao thông nói riêng là khâu đột phá mở đường cho sự

phát triển. Hiện nay, Nhà nước rất chú trọng đầu tư phát triển hệ thống đường

giao thông nói chung, hệ thống đường giao thông các tỉnh biên giới nói riêng.

Đây chính là cơ sở hình thành các cụm dân cư, các thị trấn, thị tứ, các trung

tâm cụm xã, các vùng KT hàng hoá… Vì vậy, ở nơi nào đã hình thành cụm

dân cư, đã có đường giao thông, trường, trạm thì tiếp tục hỗ trợ để đồng bào

các dân tộc ổn định cuộc sống lâu dài. Ở những nơi đồng bào còn sống rải rác,

phân tán thì Đảng, chính quyền các địa phương nơi đó phải làm tốt công tác

tuyên truyền, giáo dục, vận động để đồng bào tự nguyện di chuyển đến những

địa bàn quy hoạch.

- Phải gắn với quy hoạch các vùng nguyên liệu, các cơ sở chế biến để tạo

ra sản phẩm hàng hoá. Để thực hiện được vấn đề này, việc quy hoạch bố trí dân

cư phải gắn liền với việc thực hiện tốt định canh, định cư theo các dự án. Trên

thực tế đã chứng minh, công tác định canh, định cư không những khai thác được

tiềm năng đất đai, phân bổ lại dân cư, góp phần tạo việc làm, xoá đói giảm

nghèo, mà còn tạo nên môi trường XH ổn định, chống phá rừng tràn lan, đảm

bảo QP, AN tốt. Chính vì vậy, bố trí dân cư phải gắn với phát triển các trung tâm

cụm xã, thị trấn, thị tứ, khu công nghiệp, vùng nguyên liệu, các nông, lâm

trường, các mô hình vườn đồi, trang trại… hình thành các vùng sản xuất hàng

hoá ven các trục đường quốc lộ thuận tiện cho việc giao thương hàng hoá. Thực

hiện định canh rồi mới định cư. Thực hiện tốt việc giao đất, giao rừng, giải quyết

tốt vấn đề tranh chấp đất đai, bảo đảm những điều kiện thuận lợi nhất cho đồng

bào các dân tộc ổn định cuộc sống sản xuất, xây dựng quê hương, làng bản.

Page 162: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

162

- Bố trí dân cư phải đặc biệt chú trọng gắn với nhiệm vụ đảm bảo QP,

AN. Một số tỉnh biên giới phái Bắc có 159 xã biên giới tiếp giáp với Trung

Quốc, có tổng diện tích tự nhiên hơn 908.000 ha. Hiện nay, nhiều nơi chưa có

dân sinh sống. Đây chính là vấn đề gây khó khăn cản trở rất lớn đến việc xây

dựng thế bố trí chiến lược QP, AN trên tuyến biên giới. Việc quy hoạch bố trí

dân cư không chỉ lấy hiệu quả KT thuần tuý mà phải đặc biệt quan tâm đến

vấn đề XH, đảm bảo QP, AN. Do đó, việc quy hoạch bố trí dân cư nơi đây

phải được ưu tiên hàng đầu; phải tổ chức hoạch định, điều chỉnh bố trí dân cư

trên toàn tuyến biên giới. Trước hết, phải thực hiện tốt khâu khảo sát một cách

toàn diện. Trên cơ sở đó, bố trí dân cư phải gắn với việc đảm bảo phát triển

kết cấu hạ tầng để vừa đảm bảo hộ gia đình nào cũng có đất canh tác, vừa bảo

đảm việc học hành, khám chữa bệnh, điện nước… phục vụ tốt cuộc sống sinh

hoạt và sản xuất. Nhà nước và chính quyền địa phương các tỉnh biên giới phía

Bắc có chính sách ưu tiên hỗ trợ đồng bào các dân tộc nơi đây về giống, vốn,

kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, đảm bảo công tác bao tiêu sản phẩm của đồng

bào làm ra. Đồng thời, tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng KVPT, củng

cố lực lượng, thế trận QPTD gắn với lực lượng và thế trận ANND.

Trong quá trình thực hiện quy hoạch bố trí dân cư, không nên dàn trải, cần

tập trung vào những tuyến, những hướng, những khu vực trọng điểm, phù hợp

với điều kiện địa hình, đặc điểm tự nhiên, đất đai, thuỷ lợi thuận lợi, trình độ quản

lý điều hành của cán bộ cơ sở, khả năng chi viện, đầu tư của các địa phương và

nhà nước. Phải kết hợp chặt chẽ việc giao đất, giao rừng với việc giáo dục tinh

thần yêu nước, ý thức bảo vệ đường biên, mốc giới; xây dựng và nhân rộng mô

hình đồng bào các dân tộc tự quản biên giới. Đảng, Nhà nước cần có chính sách

ưu tiên đặc biệt đối với tuyến biên giới, vận động nhân dân cả nước có nhiều

phong trào hành động thiết thực hướng về biên giới… Trên cơ sở đó, tạo ra động

lực để đồng bào các dân tộc thật sự gắn bó với bản làng, biên giới. Có như vậy,

Page 163: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

163

việc quy hoạch bố trí dân cư mới thật sự góp phần thúc đẩy phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.

4.2.3. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trên địa

bàn gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới

Để tiếp tục thúc đẩy nhanh quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, đáp ứng tốt với yêu cầu nhiệm

vụ cách mạng trong thời kỳ mới, một trong những giải pháp quan trọng hàng

đầu là phải quán triệt và thực hiện tốt định hướng phát triển KT - XH, đổi mới

mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền KT trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía

Bắc gắn với đảm bảo QP, AN. Trong quá trình thực hiện phải căn cứ vào thế

mạnh của từng tỉnh để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền

KT như: Quảng Ninh là tỉnh có lợi thế về tài nguyên khoáng sản, nhất là than

đá, KT biển, du lịch; Lạng Sơn, Cao Bằng có lợi thế về khoáng sản, trồng cây

công nghiệp ngắn ngày…

Thực hiện phát triển mạnh mẽ LLSX, xây dựng QHSX tiến bộ phù hợp,

hình thành đồng bộ thể chế KT thị trường định hướng XHCN. Chuyển đổi mô

hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý

giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao

chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Tăng trưởng giảm bớt phụ thuộc vào tài

nguyên hữu hạn như: đất, than, các loại khoáng sản, nhân công giá rẻ, các loại

hình dịch vụ thô sơ… chuyển sang mô hình tăng trưởng bền vững; phấn đấu

là những tỉnh phát triển KT ổn định, bền vững, dựa vào trị thức. KH - CN,

tăng tiêu dùng, xuất khẩu, đầu tư…

Thực hiện cơ cấu lại nền KT, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản

xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp, điều

chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng, sức

cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền KT với bảo vệ môi

Page 164: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

164

trường, phát triển KT ổn định, bền vững. Cơ cấu lại nền KT, trong tâm là cơ

cấu lại các ngành sản xuất và dịch vụ theo hướng phát triển các loại hình dịch

vụ cao cấp; tập trung phát triển mạnh ngành công nghiệp, nhất là đối với tỉnh

Quảng Ninh có thế mạnh cho việc phát triển mạnh ngành du lịch; đưa công

nghiệp vào phát triển bền vững, giảm xuất khẩu thô, nâng cao hàm lượng giá

trị gia tăng trong các sản phẩm công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp; đưa công

nghiệp vào phát triển bền vững.

Tập trung phát triển bền vững, đưa yếu tố con người, tự nhiên và XH

vào phát triển bền vững trong điều kiện thực tiễn ở một số tỉnh biên giới phía

Bắc. Khuyến khích các ngành KT sử dụng hiệu quả tài nguyên, khai thác tài

nguyên với sản lượng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên, sử dụng công nghệ hiện

đại, bảo đảm môi trường. Ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại nhằm sử

dụng hiệu quả tài nguyên, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Tiếp tục nâng cao đời sống nhân dân, nhất là nhân dân đồng bào các dân tộc

thiểu số trên địa bàn các xã biên giới ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, thực

hiện cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua việc tạo thêm công ăn việc làm

từ các ngành công nghiệp; tiếp tục đẩy mạnh đưa công nghiệp, dịch vụ về

nông thôn và xây dựng lối sống thân thiện với môi trường.

4.2.4. Củng cố, nâng cao sức mạnh đảm bảo quốc phòng, an ninh tạo

môi trường hoà bình, ổn định nhằm phát triển kinh tế - xã hội

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là hai nhiệm vụ chiến

lược tuy có tính đặc thù, quy luật vận động riêng, song giữa chúng có quan

hệ chặt chẽ với nhau. Phát triển KT - XH tạo tiền đề vật chất, tinh thần để

đảm bảo QP, AN của đất nước nói chung, một số tỉnh biên giới phía Bắc

nói riêng. Ngược lại, đảm bảo QP, AN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN,

tạo môi trường hoà bình cho phát triển KT - XH. Chỉ trên cơ sở một nền

hoà bình, AN được giữ vững mới tập trung được mọi nguồn lực của đất

Page 165: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

165

nước và từng địa phương, mới mở rộng được hợp tác quốc tế, thu hút vốn

đầu tư, KH - CN, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để phát triển KT - XH, đảm

bảo QP, AN, từng bước thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh.

Hiện nay và trong những năm tới, phát triển KT - XH gắn với đảm bảo

QP, AN ở nước ta nói chung, ở một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng trong

tình hình bối cảnh vừa có thuận lợi, vừa có khó khăn; khó khăn lớn nhất là

CNĐQ và các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “DBHB”, gây

BLLĐ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế

độ chính trị ở nước ta.

Để góp phần đấu tranh làm thất bại chiến lược “DBHB”, BLLĐ và

các tình huống khác có thể xảy ra, giữ vững hoà bình, tạo điều kiện thuận

lợi cho phát triển KT - XH của đất nước nói chung, nhất là ở địa bàn một

số tỉnh biên giới phía Bắc, cần phải đảm bảo QP, AN, bảo vệ vững chắc Tổ

quốc XHCN. Muốn vậy, cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu: Tăng

cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách

nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia, kiến thức QP, AN.

Trước hết, tiếp tục giáo dục nâng cao nhận thức về nhiệm vụ đảm bảo QP, AN

cho toàn dân, cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức đoàn thể, đồng

bào các dân tộc một số tỉnh biên giới phía Bắc. Trong quá trình thực hiện

công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay,

nhiệm vụ phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN đang đặt ra nhiều

vấn đề mới trong công tác quản lý, do đó tiếp tục giáo dục nâng cao trình

độ nhận thức cho các đối tượng trên địa bàn có ý nghĩa to lớn. Nhất là để

đảm bảo QP, AN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, tạo môi trường hoà

bình cho phát triển KT - XH ở một số tỉnh biên giới phía Bắc, hơn bao giờ

hết phải không ngừng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng,

Page 166: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

166

giáo dục QP, AN cho các đối tượng với nhiều nội dung, hình thức phong

phú, phù hợp, làm cho đồng bào các dân tộc, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng

viên nhận rõ được âm mưu, thủ đoạn chiến lược “DBHB”, BLLĐ của các

thế lực thù địch; nhận thức sâu sắc tư duy mới về BVTQ XHCN thể hiện

trước hết ở quan niệm về mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ Việt Nam XHCN,

trong khi tiếp tục khẳng định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập,

chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân

dân và chế độ XHCN, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa hai mặt tự nhiên -

lịch sử và chính trị - XH trong BVTQ, chúng ta phải đặc biệt quan tâm đến

việc “giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm AN quốc gia và trật tự,

an toàn XH; chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu và hành động

chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân

dân ta” [35, tr.81-82]. “Giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng

trời… sẵn sàng ứng phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống mang

tính toàn cầu” [35, tr.233].

Trên cơ sở đó, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đồng bào các dân tộc ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc nhận rõ phương hướng đảm bảo QP, AN cả tiềm

lực, thế trận, xây dựng LLVT trong tình hình mới, nắm được nội dung xây dựng

nền QPTD, tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố thành KVPT vững chắc; xây

dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện chiến lược BVTQ… Đồng

thời, làm rõ cơ chế lãnh đạo, điều hành tổ chức thực hiện, phương thức, nội dung

quản lý QP, AN ở từng địa phương gắn với chức trách, quyền hạn của mỗi cấp,

mỗi ngành theo pháp luật. Từ đó, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức quan

điểm, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và toàn thể đồng bào các dân tộc với

nhiệm vụ đảm bảo QP, AN trên địa phương mình… Có như vậy, mới thật sự

đảm bảo QP, AN tạo môi trường hoà bình, ổn định nhằn phát triển KT - XH ở

một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.

Page 167: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

167

4.2.5. Nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh, phát triển kinh tế

theo phương châm phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng,

an ninh của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trên địa bàn

Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là chủ trương chiến lược

của Đảng, là công việc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Lực lượng

QĐND và CAND do tính đặc thù của mỗi lực lượng là khác nhau, dẫn đến

hoạt động sản xuất, làm KT của QĐND và CAND không giống nhau. Tuy

nhiên, xét tính chất hoạt động, về cơ bản cũng có những loại hình sản xuất,

làm KT tương đối thống nhất. Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, làm

KT theo phương châm phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của các

đơn vị QĐND và CAND đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía

Bắc trong thời gian tới cần phải thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Trước hết, tiếp tục nâng cao hiệu quả sản xuất, dịch vụ của các đơn vị

làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và công tác.

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả sản xuất, dịch vụ của các đơn vị làm

nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và công tác. Các đơn vị QĐND,

CAND đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc cần quán triệt,

thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng, Nhà nước, Chính

phủ, nghị quyết, quyết định, chỉ thị của bộ, ngành mình. Riêng với lực lượng

QĐND, để thực hiện nhiệm vụ sản xuất, làm KT gắn kết với đảm bảo QP trên

địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, cần phải quán triệt, thực hiện tốt Nghị

quyết số 520-NQ/QUTW, ngày 25 tháng 9 năm 2012 về "Lãnh đạo nhiệm vụ

sản xuất, xây dựng KT kết hợp với QP của Quân đội đến năm 2020”.

Trên cơ sở hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trung tâm, các đơn vị cần tận

dụng tốt thời gian, công sức, điều kiện để tăng gia sản xuất, làm dịch vụ, nhằm

cải thiện đời sống cán bộ, chiến sĩ, góp phần xây dựng đơn vị theo đúng quy

định. Tích cực phát triển chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp với quy mô

thích hợp, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; tận dụng đất đai trồng các loại

Page 168: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

168

rau, củ, quả theo hướng thâm canh, chuyên canh, phù hợp với đặc điểm thổ

nhưỡng. Các đơn vị có điều kiện tự thân hoặc được địa phương giúp đỡ về đất

đai, cần phát triển cây công nghiệp có giá trị KT cao và ổn định.

Mặc dù đây là loại hình sản xuất, làm dịch vụ trên cơ sở tận dụng thời

gian, công sức, điều kiện của đơn vị, song cần phải hết sức tránh hiện tượng

"nước sông công lính", mà vẫn phải dựa trên những tính toán, hạch toán để

đạt hiệu quả cao, đóng góp ngày càng nhiều vào quá trình thực hiện nhiệm vụ

chính trị trung tâm, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị trên địa bàn

một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Đối với các nhà trường quân đội thuộc các Quân khu 1, Quân khu 2, Quân

khu 3, các nhà trường của BCA, các trường QS thuộc bộ chỉ huy QS một số tỉnh

biên giới phía Bắc cần phải căn cứ vào tính chất, chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm

của mình để xác định nhiệm vụ lao động sản xuất, làm dịch vụ một cách phù

hợp. Cần tận dụng tốt thời gian, kinh nghiệm, những thế mạnh khác của cán bộ,

chiến sĩ, tận dụng đất đai, đầu tư mua sắm tư liệu để đẩy mạnh hoạt động tăng

gia sản xuất cải thiện đời sống, đóng góp vào xây dựng đơn vị. Đồng thời, căn

cứ vào các quy định của Quân đội, Công an, tín hiệu của thị trường, đặc điểm,

thế mạnh của mình để tham gia vào một số lĩnh vực dịch vụ đào tạo phù hợp với

chuyên môn nghiệp vụ, vừa làm tăng thu nhập để cải thiện đời sống, góp phần

xây dựng đơn vị, vừa tái tạo tốt hơn về khả năng chuyên môn nghiệp vụ, trang bị

của nhà trường.

Đối với các bệnh viện, nhà khách, nhà nghỉ, đoàn an dưỡng, bên cạnh việc

đáp ứng nhu cầu QP, AN, cần tận dụng năng lực còn lại để làm dịch vụ theo đúng

quy định của BQP và BCA. Các bệnh viện cần phát triển theo hướng quân dân y kết

hợp, vừa đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ khám chữa bệnh cho cán bộ, chiến sĩ

quân đội, công an, vừa tham gia vào chăm sóc sức khoẻ nhân dân theo nhu cầu,

đúng quy định của Bộ. Các nhà khách, nhà nghỉ, đoàn an dưỡng cũng trên cơ sở

Page 169: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

169

hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trung tâm, cần tận dụng năng lực còn lại để làm

dịch vụ theo đúng quy định của BQP và BCA.

Tuy nhiên, làm dịch vụ ở các bệnh viện, nhà khách, nhà nghỉ, đoàn an

dưỡng của QĐND và CAND trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc phải

đặc biệt chú ý chấp hành đúng mọi quy định, không làm biến chất, hoặc chệch

hướng chức năng, nhiệm vụ của mình; không để xảy ra tình trạng sao nhãng

hoặc hạ thấp trong đảm bảo các dịch vụ này đối với cán bộ, chiến sĩ. Đồng

thời, các đơn vị làm dịch vụ phải chấp hành nghiêm túc các quy định về tài

chính, sử dụng vật tư, trang bị QP, AN; cần tránh tình trạng "lấy QP nuôi KT".

Hai là, nâng cao hiệu quả làm KT của các doanh nghiệp do Bộ Tư lệnh

các quân khu đóng quân trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, các doanh

nghiệp do bộ chỉ huy QS và Sở Công an ở một số tỉnh biên giới phía Bắc quản lý

Các doanh nghiệp này đều là loại hình doanh nghiệp KTQP, vừa phục

vụ mục tiêu phát triển KT, vừa phục vụ mục tiêu QP, AN. Vừa chịu sự quản lý

của Quân đội, Công an, vừa chịu sự quản lý của các bộ chuyên ngành. Để

nâng cao hiệu quả tổng hợp KT - XH, QP, AN, cần phải chú ý một số vấn đề

cơ bản: Nắm vững, gương mẫu thực hiện chủ trương phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN của Đảng, Nhà nước, của một số tỉnh biên giới phía Bắc,

của BQP, BCA. Hiệu quả làm KT cần phải xem xét một cách tổng hợp cả kết

quả đạt được về tài chính, cũng như kết quả đạt được về XH, QP, AN, tránh

phiến diện. Các doanh nghiệp cần phải ra sức cùng với cả nước đổi mới mô

hình phát triển, tăng cường trang bị công nghệ hiện đại, phát triển theo chiều

sâu, chuyên môn cao. Cần thực hiện tốt chủ trương tái cấu trúc các doanh

nghiệp nhà nước, lựa chọn, tập trung vào những ngành nghề mũi nhọn, tránh

đầu tư dàn trải. Chấp hành nghiêm kỷ luật tài chính, các quy định của Quân

đội, Công an, đẩy lùi lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, tác phong sinh hoạt

không phù hợp, xứng đáng là "Bộ đội cụ Hồ", CAND trên mặt trận làm KT.

Page 170: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

170

Ba là, nâng cao hiệu quả tổng hợp trong hoạt động của các đoàn KT -

QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc

Đoàn KT - QP là mô hình thể hiện rõ sự phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN, đảm bảo QP, AN với phát triển KT - XH. Tuy ra đời chưa

lâu, nhưng mô hình đoàn KT - QP đã chứng minh được tính ưu việt trên thực

tiễn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng xung yếu, vùng biên giới, hải đảo trên

địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Để tiếp tục đảm bảo cho các đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh

biên giới phía Bắc phát triển đúng hướng, ngày càng đạt hiệu quả cao hơn,

trong thời gian tới cần tiếp tục cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của mỗi đoàn,

vừa đúng với chức năng, nhiệm vụ chung do BQP quy định, vừa sát với đặc

điểm của từng quân khu, cũng như với từng tỉnh, địa bàn đóng quân của từng

đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc.

Các đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc được

triển khai xây dựng chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa giáp biên giới với Trung

Quốc. Đây là những địa bàn rất nhạy cảm cả về KT, chính trị, QP, AN; mặt

khác, hoạt động lại trong điều kiện có nhiều khó khăn gian khổ, nhiệm vụ

được giao rất nặng nề, đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều thiếu thốn... tất

cả những yếu tố đó thường xuyên chi phối, tác động đến tư tưởng, tình cảm,

lòng nhiệt tình của mỗi cán bộ, chiến sỹ. Vì vậy, cần phải không ngừng giáo

dục nâng cao nhận thức, năng lực tổ chức, xây dựng khu KT - QP. Khai thác,

sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, vật tư, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xây dựng

các đoàn KT - QP. Vận dụng sáng tạo cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ huy,

hiệp đồng của các cấp. Bổ sung hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp

luật của nhà nước. Các đoàn KT - QP trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía

Bắc cần chủ động phối hợp, kết hợp chặt chẽ với các cấp uỷ đảng, chính

quyền, nhân dân địa phương, tăng cường dân vận, gắn bó quân - dân, tạo sự

đồng thuận cao trong tổ chức thực hiện chủ trương, nhiệm vụ phát triển KT - XH

Page 171: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

171

gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn; thường xuyên nâng cao nhận thức của

cán bộ, chiến sĩ, nhất là kiến thức KT, kỹ thuật nông nghiệp, hiểu biết tập

quán của nhân dân đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn một số tỉnh biên

giới phía Bắc; nâng cao năng lực tổ chức thực hiện; khai thác, sử dụng có hiệu

quả các nguồn vốn, vật tư, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của

các đoàn KT - QP, xây dựng các địa bàn vững về chính trị, ổn định, phát triển

từng bước về KT - XH, đảm bảo vững chắc về QP - AN. Có như vậy mới góp

phần thiết thực vào phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trên địa bàn

một số tỉnh biên giới phía Bắc đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ

biên giới của Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.

Kết luận chƣơng 4

Trên cơ sở lý luận, thực tiễn, bài học kinh nghiệm, những nhân tố tác

động và những vấn đề đặt ra trong phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN

ở một số tỉnh biên giới phía Bắc như trên, để tiếp tục nâng cao hiệu quả phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN trong thời kỳ mới cần quán triệt, thực

hiện tốt một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu:

Quan điểm cơ bản phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số

tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới cần tập trung vào: giữ vững định

hướng XHCN trong quá trình phát triển KT - XH; đảm bảo tính hệ thống, đồng

bộ, toàn diện trong quá trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc là

nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trước hết là nhiệm vụ trực tiếp của

toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên địa bàn; và phát triển KT - XH gắn với đảm

bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc phải phù hợp với điều kiện hội

nhập quốc tế trong thời kỳ mới.

Giải pháp chủ yếu phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một

số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới: thường xuyên làm tốt công tác

giáo dục, tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức thật sâu sắc

Page 172: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

172

đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, địa phương về phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN; thực hiện tốt việc quy hoạch ổn định trong dài hạn,

phát triển KT - XH bền vững trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc gắn

với đảm bảo QP, AN; Quán triệt, thực hiện tốt định hướng phát triển KT - XH,

đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền KT trên địa bàn một số tỉnh biên

giới phía Bắc gắn với đảm bảo QP, AN; tăng cường củng cố, nâng cao sức

mạnh QP, AN tạo môi trường hoà bình, ổn định nhằn phát triển KT - XH; và

không ngừng nâng cao hiệu quả lao động sản xuất, làm KT theo phương châm

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của QĐND và CAND trên địa

bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.

Đó là quá trình nỗ lực đồng bộ của toàn đảng, toàn dân, toàn quân trên

địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, bảo đảm cho mỗi bước phát triển về

KT - XH đều tạo ra mỗi bước đảm bảo QP - AN, làm cho một số tỉnh biên

giới phía Bắc trở thành một địa bàn giàu về KT, vững về CT - XH, mạnh về

QP, AN, vững bước trong quá trình tiếp tục đổi mới và phát triển bền vững.

Page 173: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

173

KẾT LUẬN

1. Phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN không phải là vấn đề riêng

của thời đại ngày nay, không chỉ là vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt

Nam, mà là vấn đề có tính quy luật chung cho mọi XH còn giai cấp và đấu tranh

giai cấp, còn mưu đồ thôn tính của dân tộc này đối với dân tộc khác. Thực chất phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN là sự gắn kết một cách tổng thể, mỗi bước

phát triển KT - XH phải luôn gắn kết với việc đảm bảo QP, AN BVTQ, không thể

có KT thuần tuý, không thể có KT tách khỏi BVTQ.

2. Thực chất phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc là thực hiện sự thống nhất hữu cơ giữa các hoạt động phát

triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, hướng tới sự phát triển ổn định bền

vững KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN. Phát triển KT - XH và đảm bảo QP, AN

là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền;

mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động và quy luật riêng, song giữa chúng

có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau; phát triển KT - XH là yếu tố quyết định

đến đảm bảo QP, AN; ngược lại, đảm bảo QP, AN có tác động tích cực trở lại phát

triển KT - XH, bảo vệ, tạo điều kiện thúc đẩy KT - XH phát triển.

3. Trong thời kỳ mới, bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước

và một số tỉnh biên giới phía Bắc nói riêng có nhiều đặc điểm mới cả về

KT, CT, QP, AN, đối ngoại..., quy định nội dung phát triển KT - XH gắn

với đảm bảo QP, AN một cách toàn diện, trước hết là trong quy hoạch, kế

hoạch phát triển KT, XH, QP, AN; trong xây dựng cơ cấu KT hợp lý và

trong phát triển các ngành, các lĩnh vực chủ yếu.

4. Từ thực trạng phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc trong thời gian qua cho thấy đã thu được nhiều thành tựu

đáng khích lệ. Tuy nhiên, còn bộc lộ một số hạn chế cần khắc phục trong thời

gian tới. Những thành tựu và hạn chế đó do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên

nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

5. Trong thời kỳ mới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả phát triển KT - XH

gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh biên giới phía Bắc cần phải phát huy

Page 174: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

174

cao độ những thành tựu đã đạt được, khắc phục tới mức thấp nhất những hạn

chế còn tồn tại. Muốn vậy, cần phải quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt quan

điểm và giải pháp phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.

Quan điểm cần tập trung vào: giữ vững định hướng XHCN trong quá

trình phát triển KT - XH; đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, toàn diện trong quá

trình phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; phát triển KT - XH gắn với

đảm bảo QP, AN là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trước hết là

nhiệm vụ trực tiếp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên địa bàn một số tỉnh

biên giới phía Bắc; và phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN ở một số tỉnh

biên giới phía Bắc phải phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế. Giải pháp chủ

yếu bao gồm: thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền cho cán bộ,

đảng viên, nhân dân nhận thức thật sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà

nước, địa phương về phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN; thực hiện tốt

việc quy hoạch ổn định trong dài hạn, phát triển KT - XH bền vững trên địa bàn

một số tỉnh biên giới phía Bắc gắn với đảm bảo QP, AN; quán triệt, thực hiện tốt

định hướng phát triển KT - XH, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền KT

trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc gắn với đảm bảo QP, AN; tăng cường

củng cố, nâng cao sức mạnh QP, AN tạo môi trường hoà bình, ổn định nhằn phát

triển KT - XH; và không ngừng nâng cao hiệu quả lao động sản xuất, làm KT

theo phương châm phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN của QĐND và

CAND trên địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc trong thời kỳ mới.

Để thực hiện tốt quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu trên, đòi hỏi phải

phát huy tốt tinh thần nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên

địa bàn một số tỉnh biên giới phía Bắc, có như vậy mới thúc đẩy nhanh quá trình

phát triển KT - XH gắn với đảm bảo QP, AN, bảo vệ vững chắc tuyến biên giới

địa đầu của Tổ quốc; góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây

dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới.

Page 175: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

175

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƢỢC

CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Lê Văn Nam (2010), “Tham gia toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế

quốc tế - thời cơ và thách thức đối với quốc phòng nước ta hiện nay”, Tạp

chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, Số 4, Tr. 43 - 46.

2. Lê Văn Nam (2012), “Phát triển kinh tế gắn với quốc phòng - an ninh

trong tình hình mới”, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, Số 4, Tr. 50 - 53.

3. Lê Văn Nam (2013), “Kết hợp phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh

trên địa bàn biên giới tỉnh Quảng Ninh - kết quả và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và

Quản lý, Số 6, Tr. 54 - 57.

4. Lê Văn Nam (2013), “Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện tốt

nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh trong

thời kỳ mới”, Tạp chí Nghệ thuật quân sự Việt Nam, Số 4, Tr. 26 - 29.

Page 176: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

176

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Tài liệu trong nƣớc

1. Ph.Ăngghen (1982), Tuyển tập luận văn quân sự, tập 1, Nxb Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

2. Ph.Ăngghen (1987), Chống Đuy Rinh, Các Mác - Ph.Ăngghen, toàn

tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Sự thật, H. 1995.

3. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết

cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

4. Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1996), Tổng kết

cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2003), Nghị quyết Hội nghị lần

thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Hà Nội.

6. Báo Quân đội nhân dân (2011), “Chủ động xây dựng các chiến lược,

dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh”, Báo Quân đội

nhân dân, thứ 2, ngày 12/12/2011,

7. Nguyễn Hải Bằng (1999), Đề tài khoa học xã hội, Kết hợp kinh tế với

quốc phòng - an ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

Học viện Quốc phòng, Hà Nội.

8. Trần Thái Bình (2010), “Quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, an

ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn

dân, số 6, tr. 29-31.

9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), Kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm

2020, Chiến lược - Kế hoạch - Dự báo, Nxb Thống kê, Hà Nội.

10. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Quốc Phòng (2005),

Chương trình hợp tác xây dựng mô hình quản lý, bảo vệ rừng có hiệu quả ở

các khu vực kinh tế quốc phòng, Hà Nội.

11. Bộ Quốc Phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1994), Kế sách

giữ nước thời Lý - Trần, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội.

Page 177: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

177

12. Bộ Quốc Phòng (2003), Qui chế về quản lý hoạt động sản xuất, xây

dựng kinh tế của Quân đội, Hà Nội.

13. Bộ Quốc phòng (2004), Qui chế hoạt động của đoàn kinh tế - quốc

phòng, Hà Nội.

14. Bộ Quốc phòng, Trung tâm từ điển bách khoa quân sự, Từ điển Bách

khoa Quân sự Việt Nam (2004), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

15. Bộ Quốc Phòng - Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí

Minh (2004), Chương trình phối hợp Quân đội và Đoàn thanh niên cộng sản

Hồ Chí Minh tham gia phát triển kinh tế - xã hội củng cố quốc phòng, an ninh

ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo (2005-2010), Hà Nội.

16. Bộ Quốc Phòng (2007), Giáo trình giáo dục quốc phòng, dùng cho

bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh đối tượng 1, tập 1, cuốn 1, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

17. Nguyễn Đình Chiến (2011), “Nghiên cứu chiến lược quốc phòng phục vụ

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Báo Quân đội nhân dân, thứ bảy, ngày 10/12/2011.

18. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 4, Nxb Sử học.

19. Cục Kinh tế - Bộ Quốc Phòng (2002), Mô hình tổ chức và phương

thức hoạt động của các lực lượng Quân đội sản xuất, xây dựng kinh tế, Đề tài

khoa học cấp Bộ Quốc phòng Hà Nội.

20. Cục Kinh tế - Bộ Quốc Phòng (2004), Báo cáo sơ kết 5 năm Quân

đội xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, Hà Nội.

21. Cục Kinh tế - Bộ Quốc Phòng (2006), Xây dựng khu kinh tế - quốc

phòng giai đoạn 1998-2006, Hà Nội.

22. Cục Kinh tế - Bộ Quốc Phòng (2006), Tổng kết báo cáo của các

đoàn kinh tế - quốc phòng về công tác xoá đói giảm nghèo, Hà Nội.

23. Trần Công Cửu (2003), Định hướng và giải pháp kết hợp phát triển

kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá

trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Đề tài khoa học cấp tỉnh.

Page 178: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

178

24. Nguyễn Tiến Dũng (2002), Luận án tiến sĩ kinh tế: Phát triển kinh

tế nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình hình thành nền kinh

tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, Đại học kinh tế quốc dân.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1969), Văn kiện quân sự của Đảng, tập

II, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo

tổng kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua

20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Page 179: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

179

37. Đảng uỷ Quân sự Trung ương (1998), nghị quyết số 150/ĐUQSTW về

việc Quân đội tham gia lao động sản xuất, làm kinh tế, phát huy vai trò nòng cốt

tham gia xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên

các địa bàn chiến lược, Hà Nội.

38. Đảng uỷ Quân sự Trung ương (2002), Nghị quyết số 71/ĐUQSTW về

việc nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời kỳ mới - tiếp tục

sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (11/2010),

Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Hạ Long.

40. Đề tài KX.04.14 (1994), Luận cứ khoa học đổi mới chính sách xã

hội nhằm đảm bảo an ninh xã hội và khắc phục các tệ nạn xã hội.

41. Đề tài KX.04.11 (1995), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính

sách đối với dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi.

42. Lê Anh Điền (2003), Luận án tiến sĩ quân sự: Bộ đội Biên phòng

tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện ở vùng dân tộc Mông trên khu

vực biên giới Tây Bắc, Học viện Quốc phòng, Hà Nội.

43. Đoàn kinh tế - quốc phòng 327 (2008), Báo cáo kết quả thực hiện

nhiệm vụ xây dựng khu kinh tế - quốc phòng giai đoạn 1998 - 2008, Quảng Ninh.

44. Minh Đức (2011), “Phương châm kết hợp kinh tế với quốc phòng

của một số nước ASEAN”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6, tr. 25-27.

45. Tô Đức Hạnh, Phạm Văn Linh (2000), Phát triển kinh tế hàng hoá

trong nông thôn các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam thực trạng và giải pháp,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Đỗ Huy Hằng (2009), Xây dựng tiền lực hậu cần trong khu kinh

tế - quốc phòng trên địa bàn các quân khu phía Bắc, Luận án tiến sĩ quân

sự, Học viện Quốc phòng, Hà Nội.

47. Đặng Vũ Hiến (2007), “Kết hợp kinh tế với quốc phòng bảo đảm

hậu cần cho tác chiến chiến lược trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí

Quốc phòng toàn dân, Số 5, Tr. 30-32.

Page 180: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

180

48. Đinh Văn Huệ (1999), “Mấy suy nghĩ về kết hợp kinh tế với quốc

phòng, an ninh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam”, Thông tin Khoa học

công nghệ môi trường, số 24.

49. Phạm Mạnh Hùng (2009), Đầu tư phát triển các khu kinh tế - quốc phòng

ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.

50. Bùi Phan Kỳ (2010), “Xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh trong

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6, tr. 21-23.

51. Hoàng Xuân Lâm (2010), “Mấy quan điểm về quốc phòng, an ninh

trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1011-2020”, Tạp chí Quốc phòng

toàn dân, số 6, tr. 29-32.

52. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời

Lê Sơ, Hà Nội.

53. V.I Lênin (1918) “Phải đứng trên thực tế”, V.Lênin Toàn tập, Tập

35, Nxb Tiến Bộ, M 1976.

54. V.I Lênin (1950), Hải cảng lữ thuận thất thủ, V.I Lênin Toàn tập,

Tập 9, Nxb Tiến Bộ, M 1976.

55. V.I.Lênin, “Dự thảo Chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về

thống nhất quân sự”, Toàn tập, tập 38.

56. Phạm Bằng Luân (2007), Phát triển kinh tế trang trại và vai trò của

nó đối với xây dựng tiềm lực quốc phòng các tỉnh Trung du miền núi phía

Bắc, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.

57. Cấn Văn Lực (2006), Phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

và tác động của nó đối với việc xây dựng tiềm lực quốc phòng trên địa bàn

Quân khu 7. Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - quân sự.

58. Hồ Chí Minh (1989), Toàn tập, Tập 8, Nxb Sự thật, Hà Nội.

59. Hồ Chí Minh (1989), “Bài nói chuyện với đồng bào các dân tộc tỉnh

Tuyên Quang”, Toàn tập, Tập 9, Nxb Sự thật, Hà Nội.

60. Hồ Chí Minh (1995), Những bài nói và viết về quân sự, Tập 1, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

Page 181: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

181

61. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội.

62. Phạm Đức Nhuấn (2002), Xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự Việt

Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị -

quân sự, Hà Nội.

63. Ngô Gia Văn Phái (1960), Việt sử tiêu án, Nxb Văn hoá Á Châu,

Sài Gòn.

64. Nguyễn Văn Rinh (2003), “Quân đội đẩy mạnh xây dựng khu kinh tế -

quốc phòng, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên

địa bàn chiến lược, biên giới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân. Số 11, tr. 15-18.

65. Vũ Văn Tài (2010), Nghiên cứu xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng

trên biên giới phía Bắc, luận án tiến sĩ quân sự, Học viện Quốc phòng, 2010.

66. Trần Trung Tín (1998), Kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta hiện

nay, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

67. Tỉnh uỷ Quảng Ninh (2012), Đề án Phát triển kinh tế - xã hội

nhanh, bền vững; đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh và thí điểm xây

dựng hai đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Móng Cái, Dự thảo

ngày 30/7/2012 - Bản tóm tắt, Hạ Long, tháng 7/2012, tr. 6.

68. Quốc Toản, Mạnh Hùng, Mạnh Dũng (2008), “Kết hợp phát triển

kinh tế biển với tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo

trong tình hình mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 10.

69. Tổng Cục thống kê (2012), Kết quả điều tra nông nghiệp, nông

thôn và thuỷ sản năm 2011, Nxb Thống kê.

70. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê (2012), Nxb Thống kê.

71. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê (tóm tắt) (2012), Nxb

Thống kê.

72. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg Phê

duyệt chương trình thực hiện xoá đói giảm nghèo của Bộ Quốc phòng, Hà Nội.

73. Thủ tướng Chính phủ (2000), Quyết định số 227/2000/QĐ-TTg Phê

duyệt đề án tổng thể Quân đội tham gia xây dựng khu kinh tế - quốc phòng, Hà Nội.

Page 182: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

182

74. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg Phê

duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng

đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội.

75. Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Từ điển tiếng Việt (1992), Nxb Trung

tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.

76. Trương Thành Trung (2011), “Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI với vấn

đề mối quan hệ kinh tế với quốc phòng, an ninh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”

Tạp chí Giáo dục Lý luận chính trị, Học viện Chính trị, Số 4, tr. 18-21.

77. Trần Xuân Trường - Nguyễn Anh Bắc (1980), Vấn đề kết hợp kinh

tế với quốc phòng ở nước ta, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

78. Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên Dự án giảm nghèo tỉnh Điện Biên

giai đoạn 2010 - 2015, kèm theo quyết định số 562/QĐ - UBND ngày

12/5/2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên.

79. Http://www.chinhphu.vn

- Tài liệu nƣớc ngoài

80. Adam Posen, Daniel K. Tarullo, Report of the Working Group on

Economics and National Security, the Princeton Project on National Security,

https://www.princeton.edu/-ppns/confrences/reports/fall/ENS.pdf

81. Arther J Mann, (1985) “The Impact of Defence spending on

Economic Performance:A Survey of Evidence and Problems”, Defence

spending and Economy, Summer 85, Vol.29 Issue 2, p 403-434.

82. Dunne,Paul and Smith,Ron P,(1990), “Military Expenditure and

Unemployment in the OECD”, Defence Economics, 4(2), p 113-22.

83. Intriligator, “On the Nature and scope of Defence Economics”, Defence

economics, number 1 (1) 1990. p 4-7.

84. Jayawardena, (2013), “A conceptual frame work to study national

defence and economic development”, International Journal of Education and

Research, Vol.1 No.3 March 2013. www.ijern.com/images/March-2013/07.dpf

Page 183: MỞ ĐẦU - hcma.vnhcma.vn/Uploads/2014/8/4/le_van_nam_la.pdf · đó, để góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ

183

85. Reppy Judith, “On the Nature and scope of Defence Economics: A

comment”, Defence Economics, number 1 2 (3) 1991. p 269-274.

86. Smith Ron, (1980) “Military Expenditure and Investment in OECD

Countries 1954-73”, Journal of Comparative Economics, 4 (1), p 19-32

87. Sandler Todd and Hartley Keith, (1995), Economics of Defense,

Cambridge University Press.

88. Sandler Todd and Hartley Keith (2007), Handbook of Defense

Economics, Volume 2 defense in a Globalized World, North – Holland.

89. Wolfgang-Peter Zingel: National security and Economic

Development: Security development - developing security,

http://www.bundesheer.at/pdf_pool/publikationen/eco_impact

s_02_national_security_zingel.pdf .