Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG THANH LIÊM
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN NINH, TRẬT TỰ ĐÔ THỊ
TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG THANH LIÊM
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN NINH, TRẬT TỰ ĐÔ THỊ
TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 9.38.01.02
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu ghi trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Dương Thanh Liêm
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU............................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN
GIẢI QUYẾT.......................................................................................
8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu..................................................... 8
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu....................................... 21
1.3. Những vấn đề luận án cần giải quyết……………..……………... 24
1.4. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu.................................................... 25
Kết luận chương 1.................................................................................. 27
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
AN NINH, TRẬT TỰ ĐÔ THỊ........................................................
28
2.1. Khái niệm an ninh, trật tự đô thị..................................................... 28
2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, phương pháp của quản lý nhà nước
về an ninh, trật tự đô thị.........................................................................
39
2.3. Nội dung quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị...................... 51
2.4. Các bảo đảm tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị 63
Kết luận chương 2.................................................................................. 69
Chương 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN
NINH, TRẬT TỰ ĐÔ THỊ TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI.....................................................................................
71
3.1. Tình hình đặc điểm có liên quan đến quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự trên địa bàn thành phố Hà Nội...........................................
71
3.2. Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Hà Nội...........................................................................................................
77
3.3. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị Hà Nội...................................................................... 92
3.4. Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự đô thị Hà Nội.................................................................
105
3.5. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử
lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Hà Nội....................................................................................................
108
3.6. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự đô thị Hà Nội...............................................................................
115
Kết luận chương 3.................................................................................. 118
Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN NINH, TRẬT TỰ ĐÔ THỊ HÀ NỘI.............
120
4.1. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Hà Nội....................................................................................................
120
4.2. Các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Hà Nội...........................................................................................................
127
Kết luận chương 4.................................................................................. 147
KẾT LUẬN........................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
BẢNG QUY ƯỚC CÁCH VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN
ANQG An ninh quốc gia
ANTT An ninh, trật tự
CAND Công an nhân dân
CQĐP Chính quyền địa phương
HĐND Hội đồng nhân dân
QLNN Quản lý nhà nước
TTATXH Trật tự an toàn xã hội
TTATGT Trật tự an toàn giao thông
UBND Ủy ban nhân dân
VPPL Vi phạm pháp luật
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để góp phần ổn định kinh tế - xã hội và phát triển đất nước, một trong
những điều kiện tiên quyết là phải giữ vững an ninh, trật tự, ổn định đời sống
chính trị và tinh thần của nhân dân. Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng xác
định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước,
của cả hệ thống chính trị và toàn dân” [44, tr.148]. Đây là sự thể hiện quan
điểm xuyên suốt của Đảng ta trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng của
đất nước, nhất là trong tình hình mới, Đảng tiếp tục khẳng định nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên.
Bảo vệ an ninh, trật tự có vị trí đặc biệt quan trọng trong công cuộc bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, quyết định đến sự ổn định chính trị và phát triển toàn
diện của đất nước, là một chức năng cơ bản của Nhà nước. Quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự là một bộ phận của quản lý nhà nước có tác động sâu sắc đến các
mặt của đời sống xã hội. Mục tiêu của quản lý nhà nước về an ninh, trật tự là
nhằm bảo đảm sự ổn định và an toàn của đất nước, của cả hệ thống chính trị,
kinh tế - xã hội, văn hóa, tạo điều kiện cho đất nước phát triển bền vững.
Xuất phát từ vai trò của đô thị trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, sự phát triển hay suy thoái của đô thị cũng sẽ tác động
tích cực hay tiêu cực tới một vùng, thậm chí đối với cả nước trên nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh... Hơn nữa, do những đơn vị hành chính đô thị (thành phố, thị xã, thị trấn)
có các đặc điểm khác với những đơn vị hành chính không phải là đô thị - nông
thôn (tỉnh, huyện, xã) đã dẫn tới đặc điểm, yêu cầu, nội dung, phương thức
2
quản lý nhà nước khác nhau. Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự ở đô thị có ý
nghĩa rất quan trọng, tạo lập nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân và luôn được Đảng và Nhà nước ta coi trọng
vì đô thị là những địa bàn năng động, đi đầu trong phát huy nội lực, mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế, cũng như liên kết kinh tế với các địa phương trong
nước để phát triển. Nơi đây là những trung tâm, là nòng cốt để phát triển kinh
tế - xã hội của khu vực và cả nước. Nhìn từ góc độ phát triển tiềm lực quốc gia
thì đây là địa bàn số một trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước; từ góc độ quốc phòng, an ninh thì đây là địa bàn trọng điểm chiến lược,
là trung tâm quyết định các chính sách quốc gia và cũng là mục tiêu chống phá
ác liệt của các thế lực thù địch, tình hình tội phạm, các tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật diễn biến phức tạp.
Hà Nội là đô thị đặc biệt của Việt Nam, là một trong những trung tâm
chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa của cả nước và cũng là một địa bàn trọng
điểm, quan trọng về an ninh, trật tự. Năm 2012, Quốc hội đã ban hành Luật
Thủ đô, Chính phủ đã quyết định “Phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội thành phố Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”. Đây là cơ sở
pháp lý rất quan trọng để xây dựng đô thị Hà Nội ngày càng văn minh, hiện
đại, trong đó vấn đề bảo vệ an ninh, trật tự giữ một vai trò quan trọng, với mục
tiêu: “Thủ đô Hà Nội là khu vực phòng thủ vững mạnh, đủ sức đánh thắng kẻ
thù trong mọi tình huống. Bảo đảm vững chắc an ninh chính trị, an ninh kinh
tế, an ninh xã hội, an ninh tư tưởng, an ninh văn hóa, trật tự an toàn xã hội; bảo
đảm tuyệt đối an toàn cho hoạt động của các cơ quan lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ
chức quốc tế, các ngày lễ lớn, sự kiện trọng đại và toàn thể nhân dân” [112].
Trên cương vị là Thủ đô của Việt Nam, Hà Nội đã chủ động thiết lập,
mở rộng sự quan hệ gắn kết với gần 100 thủ đô, thành phố lớn khắp thế giới.
Mục tiêu hội nhập chính trị cũng được thể hiện rõ ràng trong việc Hà Nội chủ
3
động, tích cực tham gia vào các thể chế, diễn đàn đa phương như Hội nghị Thị
trưởng Thủ đô các nước ASEAN, Hội nghị Thị trưởng Thủ đô các nước Á -
Âu, đăng cai và hỗ trợ tổ chức thành công những sự kiện quốc tế lớn như SEA
Games, Hội nghị cấp cao APEC, Hội nghị Mạng lưới các thành phố lớn châu Á
thế kỷ XXI (ANMC21)... Những nỗ lực này đã giúp xây dựng hình ảnh một Hà
Nội, một Việt Nam ổn định, an toàn, hòa nhập vào đời sống quốc tế và khẳng
định đường lối đối ngoại Việt Nam là thành viên tích cực của cộng đồng các
quốc gia trên thế giới. Điều này có ý nghĩa lớn khi Đảng và Nhà nước đã xác
định rằng hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ
tối đa các yếu tố thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao
đời sống nhân dân, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ. Tuy nhiên, với mức độ đô thị hóa nhanh, cùng với sự phát triển kinh tế - xã
hội hiện nay đã dẫn đến đô thị Hà Nội đang gặp nhiều khó khăn, thách thức
như: Sự phát triển mất cân đối, thiếu bền vững; vấn đề quy hoạch, quản lý đất
đai, nhà ở, quản lý kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường, giao thông đã
vượt quá khả năng điều hành của chính quyền đô thị; tình hình an ninh, trật tự
diễn biến phức tạp, các loại hình dịch vụ kinh doanh nhạy cảm như karoke, vũ
trường, nhà nghỉ, cầm đồ, mátxa… thường xuyên không chấp hành quy định về
an ninh, trật tự, để xảy ra tệ nạn ma túy, mại dâm, chứa chấp tội phạm, nảy sinh
các hoạt động bảo kê, buôn bán ma túy; các thế lực thù địch, phản động và số
đối tượng chống đối trong nước thường xuyên tuyên truyền những thông tin sai
lệch với chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước… Tuy vậy, hiện nay vấn
đề quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội vẫn chưa được nghiên
cứu toàn diện, thấu đáo nên chưa có biện pháp quản lý nhà nước hữu hiệu đối
với lĩnh vực an ninh, trật tự đô thị.
Trên thực tế, khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật
tự đô thị, trách nhiệm của các bộ, ngành, chính quyền đô thị và người đứng
đầu các cơ quan hành chính nhà nước chưa được nâng cao. Các cơ quan
4
chuyên trách trong lĩnh vực quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị vẫn
còn bộc lộ những tồn tại, yếu kém như: Chưa kịp thời tham mưu, đề xuất với
cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân về việc huy động các ngành, các đoàn thể
quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự; vấn đề cải
cách hành chính, phục vụ các nhu cầu hàng ngày của nhân dân, tổ chức,
doanh nghiệp còn chậm, chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình... Nguyên
nhân của tình trạng trên thì có nhiều, nhưng có thể thấy, nguyên nhân chủ yếu
là do các quy định của pháp luật trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
còn thiếu và chưa đồng bộ; các lực lượng thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự đô thị chưa theo kịp với tình hình, lúng túng trước
những đòi hỏi mới do sự phát triển nhanh của nền kinh tế trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trước tình hình trên, việc nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị từ thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội” là đáp ứng yêu cầu
đặt ra cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khoa học và thực tiễn, luận án nhằm đạt được mục đích sau:
Luận án làm sáng tỏ những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự đô thị; đánh giá thực trạng, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của quản lý
nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất
các quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật
tự đô thị nói chung, thành phố Hà Nội nói riêng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về vấn đề có liên quan đến đề tài và
chỉ ra được những vấn đề luận án cần giải quyết thông qua hệ thống câu hỏi
nghiên cứu và giả thuyết khoa học.
- Đưa ra được khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương pháp quản lý nhà
5
nước về an ninh, trật tự đô thị, xác định được các yếu tố bảo đảm quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự đô thị.
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà
Nội. Chỉ ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong
quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội.
- Đề xuất những quan điểm, giải pháp có tính khả thi, xác thực nhằm
tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội, góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị ở nước ta.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Từ năm 2008 đến nay.
Về phạm vi không gian: Luận án nghiên cứu trong phạm vi cấp thành
phố Hà Nội.
Về nội dung: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị có nội dung
nghiên cứu rộng, bao trùm lên tất cả các phương diện của đời sống xã hội.
Trong phạm vi nghiên cứu phù hợp với ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành
chính, luận án tập trung nghiên cứu chủ yếu làm rõ những quy định pháp luật
và tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Hà Nội; đánh giá khái quát thực trạng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
trên phạm vi địa bàn đô thị Hà Nội, không đi sâu nghiên cứu từng lĩnh vực cụ
thể trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị.
Về chủ thể: Đây là một đề tài nghiên cứu rộng, phức tạp liên quan đến
nhiều chủ thể có trách nhiệm trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự. Trong
khuôn khổ đề tài này, chủ thể quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà
Nội được đề cập chủ yếu là Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và lực lượng
Công an nhân dân theo thẩm quyền, nhiệm vụ được pháp luật quy định.
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận, pháp luật, thực tiễn
quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội.
6
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Học thuyết Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đương lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực quản lý nhà nước về an ninh, trật tự.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp như:
Phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, lịch sử cụ thể… Các phương pháp
nghiên cứu được sử dụng nhằm làm rõ những nội dung của luận án; đảm bảo
tính khoa học giữa các vấn đề của luận án. Cụ thể như:
- Chương 1, tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị, xác định những vấn đề luận án cần giải quyết, luận án sử
dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử để đánh giá những kết
quả đã được nghiên cứu, mà luận án có thể kế thừa phát triển và xác định
những vấn đề luận án cần giải quyết mới.
- Chương 2, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng
như công cụ chủ đạo để đánh giá các quan điểm khoa học khác nhau và đưa ra
khái niệm quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị, chỉ ra những đặc điểm,
nội dung, phương pháp quản lý.
- Chương 3, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,
nghiên cứu tài liệu để đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
đô thị Hà Nội; chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của tình trạng đó.
- Chương 4, phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để đưa ra
các quan điểm, đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật
tự đô thị Hà Nội.
5. Ý nghĩa khoa học của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận, làm
7
cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị.
- Về mặt thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của luận án làm tài liệu
tham khảo cho cơ quan quản lý nhà nước về an ninh, trật tự ở địa bàn đô thị
Hà Nội trong hoạt động thực tiễn, đồng thời luận án có giá trị làm tài liệu
tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào
tạo các chuyên gia pháp luật ở nước ta hiện nay.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, từ các kết quả nghiên cứu, luận án góp phần làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị trên các nội
dung về khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương pháp và các yếu tố bảo đảm
tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị.
Thứ hai, luận án đánh giá một cách khách quan, có hệ thống thực trạng
quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội, chỉ ra những ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân của hạn chế trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô
thị Hà Nội.
Thứ ba, luận án đề xuất được các quan điểm, giải pháp có tính khả thi,
khoa học nhằm tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
trong thơi gian tới.
7. Kết câu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và
những vấn đề luận án cần giải quyết
Chương 2: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị từ
thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 4: Quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị Hà Nội.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN GIẢI QUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu, trao đổi về quản lý
nhà nước (QLNN) về an ninh, trật tự (ANTT), QLNN về ANTT đô thị, nghiên
cứu một số lĩnh vực cụ thể trong QLNN về ANTT đô thị Hà Nội. Để phục vụ
nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, nghiên cứu sinh chọn lọc một số công trình
được xem là liên quan trực tiếp tới các nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu của
luận án và có thể sắp xếp các công trình theo các nhóm vấn đề như sau:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị
Quản lý nhà nước về ANTT là hoạt động đặc biệt quan trọng mà mọi
nhà nước đều tiến hành để đảm bảo thể chế chính trị của mỗi quốc gia. ANTT
được đảm bảo sẽ tạo ra môi trường xã hội lành mạnh và điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước ta từ khi giành được
chính quyền về tay nhân dân bằng cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng 8 năm
1945, đã đặc biệt quan tâm đến hoạt động QLNN về ANTT và đã đạt được
những thành tựu to lớn. Những vấn đề lý luận cơ bản QLNN về ANTT đã
được các nhà khoa học quan tâm, đã xuất hiện những luận án, sách chuyên
khảo, luận văn, những công trình nghiên cứu cấp Bộ đi vào nghiên cứu như:
Sách chuyên khảo “Bước đầu tìm hiểu quản lý nhà nước về an ninh trật
tự”, của tác giả Nguyễn Duy Hùng và Hồ Trọng Ngũ, Nhà xuất bản Công an
nhân dân (CAND), Hà Nội, 1998, cuốn sách đã phân tích và đưa ra quan
niệm: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự là hoạt động hành chính, điều hành
và chấp hành được thực hiện bằng sự tác động đồng bộ có mục đích của Nhà
nước thông qua hoạt động của một hệ thống các cơ quan nhà nước và tổ chức
9
xã hội được chức năng hóa trong lĩnh vực này, vào tất cả các yếu tố cấu thành
nền an ninh, trật tự nhằm tạo nên sự ổn định, an toàn cho đất nước trên tất cả
các phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để thực hiện thắng lợi các
mục tiêu bảo vệ xây dựng và phát triển vững bền Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong các công trình nghiên cứu, các văn bản quy phạm pháp luật, cụm
từ an ninh, trật tự được hiểu là cách viết gọn của cụm từ an ninh quốc gia
(ANQG), trật tự an toàn xã hội (TTATXH).
Sách tham khảo “Một số vấn đề quản lý nhà nước về an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội”, của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nhà xuất bản Công an
nhân dân (CAND), Hà Nội 1998, tác giả đã quan niệm: Quản lý nhà nước về
an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là hoạt động chấp hành và điều hành
các cơ quan nhà nước được tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thi hành luật
nhằm thực hiện trong cuộc sống hàng ngày các chức năng của nhà nước trong
lĩnh vực an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Luận án tiến sĩ luật học “Quản lý nhà nước về an ninh trật tự đối với
các văn phòng đại diện tổ chức kinh tế, thương nhân nước ngoài ở Việt Nam -
thực trạng và giải pháp”, của tác giả Hà Việt Dũng, năm 2002, đã nghiên cứu
những vấn đề cơ bản về an ninh, trật tự, quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
nói chung; làm rõ những vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự đối với các văn
phòng đại diện tổ chức kinh tế, thương nhân nước ngoài.
Luận án tiến sĩ luật học “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ an
ninh quốc gia - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Thế Quân,
bảo vệ tại Học viện An ninh nhân dân, năm 2003, đã đưa ra quan niệm an ninh
quốc gia là sự ổn định và phát triển bền vững về mọi mặt của chế độ xã hội chủ
nghĩa và chính quyền nhân dân, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. An ninh
quốc gia bao gồm an ninh chính trị, an ninh quân sự, an ninh kinh tế, an ninh văn
hoá, tư tưởng, an ninh khoa học, kỹ thuật, công nghệ, an ninh xã hội.
10
Sách chuyên khảo: “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh
quốc gia”, do GS.TS Trần Đại Quang chủ biên, Nhà xuất bản CAND, năm
2008. Tác giả đã phân tích, luận bàn để xây dựng hệ thống các khái niệm về
an ninh quốc gia, bảo vệ ANQG, QLNN về ANQG; phân tích, làm rõ vị trí,
vai trò, đặc trưng, nội dung, phương thức QLNN về ANQG; nghiên cứu, đánh
giá toàn diện tình hình QLNN về ANQG trên các lĩnh vực: An ninh chính trị,
an ninh kinh tế, an ninh văn hóa - tư tưởng, quản lý xuất nhập cảnh, an ninh
trên lĩnh vực tôn giáo. Trên cơ sở đó, tác giả đã chỉ rõ yếu tố khách quan của
việc tăng cường QLNN về ANQG.
Các công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận để luận giải nội hàm của các
khái niệm liên quan đến QLNN về ANTT. Theo đó, chúng ta nhận thấy tính
phức tạp, đa dạng trong nhận thức lý luận về các vấn đề liên quan đến QLNN
về ANTT, còn nhiều cách tiếp cận và luận giải khác nhau.
Bài “Vai trò của khoa học an ninh trong việc xây dựng, hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm an ninh, trật tự” của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh, Kỷ yếu hội
thảo khoa học Khoa học an ninh những vấn đề lý luận và thực tiễn, năm 2013.
Tác giả đã chỉ rõ vai trò của khoa học an ninh trong việc cung cấp các luận cứ
khoa học, nền tảng tri thức cho việc xây dựng pháp luật về bảo đảm ANTT.
Bộ sách chuyên khảo “Khoa học Công an Việt Nam” do GS.TS Trần
Đại Quang, Bộ trưởng Bộ Công an và GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Giám đốc
Học viện Cảnh sát làm Tổng chủ biên, Nhà xuất bản CAND, năm 2015. Bộ
sách gồm 8 tập, trong đó có các tập sách liên quan trực tiếp đến đề tài luận án:
“Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội”, tập 2,
do GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, GS.TS Trần Phương Đạt, TS Bùi Tiến Sỹ, TS
Nguyễn Quốc Đoàn đồng chủ biên; cuốn sách đã đề cập toàn diện và phân tích
sâu sắc những vấn đề cơ bản về quan điểm của Đảng và Nhà nước về mục tiêu,
tính chất, đặc điểm và những nội dung chủ yếu của công tác QLNN về ANTT.
“Lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia”, tập 4, do GS.TS Nguyễn Văn
11
Ngọc, Giám đốc Học viện an ninh nhân dân chủ biên, đã tập hợp, hệ thống hóa
các tri thức lý luận về bảo vệ ANQG và quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của
Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ ANQG, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
“Lý luận về bảo đảm trật tự an toàn xã hội”, tập 5, do GS.TS Đỗ Đình
Hòa, PGS.TS Trần Minh Hưởng, TS Trần Quốc Tỏ đồng chủ biên. Cuốn sách
đã trình bày hệ thống các vấn đề lý luận bảo đảm TTATXH, phân tích các nội
dung và phương pháp bảo đảm TTATXH ở nước ta hiện nay. Bộ sách chuyên
khảo Khoa học Công an Việt Nam nói trên đã giúp cho nghiên cứu sinh có cơ
sở lý luận vững chắc để tiến hành nghiên cứu vấn đề QLNN về ANTT đô thị.
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Hệ thống lý luận về bảo vệ an ninh quốc
gia” của Tiểu ban lý luận về lĩnh vực bảo vệ ANQG (kỷ yếu lưu hành nội
bộ), Hà Nội, năm 2015. Các báo cáo tham luận trong kỷ yếu bao quát nội
dung lý luận của nhiều lĩnh vực công tác, nhiều mặt hoạt động bảo vệ ANQG,
được sắp xếp thành 4 nhóm vấn đề: Những vấn đề chung về lý luận bảo vệ
ANTT; lý luận đấu tranh với các hệ đối tượng hoạt động xâm phạm ANQG;
lý luận về QLNN, tổ chức công tác bảo vệ ANTT. Kỷ yếu có ý nghĩa quan
trọng giúp cho nghiên cứu sinh nhận thức đầy đủ về các lĩnh vực trong bảo vệ
ANQG. Trong đó có một số bài tham luận liên quan trực tiếp đến đề tài luận
án như: Nguyễn Quang Thiện (2013), “Hệ thống lý luận an ninh quốc gia -
khái quát quá trình hình thành, thực trạng và phương hướng hoàn thiện”; Phí
Đức Tuấn (2013) “Lý luận quản lý nhà nước về an ninh, trật tự - thực trạng
và vấn đề đặt ra đối với nghiên cứu, xây dựng, phát triển”; Ngô Trọng Thanh
(2013), “Lý luận quản lý nhà nước về an ninh quốc gia đối với lĩnh vực, địa
bàn trọng điểm - thực trạng và đề xuất nghiên cứu hoàn thiện”…
Kỷ yếu hội thảo cấp quốc gia “Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng về bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân trong giai đoạn hiện nay”, Bộ Công an, năm 2016. Kỷ yếu hội thảo
đã đề cập toàn diện các vấn đề, từ bối cảnh tình hình; thành tựu đổi mới, những
12
hạn chế, tồn tại và nguyên nhân; xác định mục tiêu, quan điểm, phương châm,
nguyên tắc chỉ đạo; phương hướng, nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh
trong giai đoạn mới. Trong đó, có những điểm mới nổi bật, quan trọng là:
Thứ nhất, lần đầu tiên Đảng đưa nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trở thành
một trong năm thành tố quan trọng của chủ đề Đại hội đại biểu lần thứ XII
của Đảng, để khẳng định tính trọng yếu, thường xuyên và cấp bách của nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung và tăng cường quốc phòng, an ninh nói riêng
trong tình hình hiện nay.
Thứ hai, về đánh giá tình hình, Đại hội XII khẳng định, chúng ta đã
kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm quốc phòng, ANQG và TTATXH.
Thứ ba, những nhiệm vụ trọng yếu về quốc phòng, an ninh được xác
định đậm nét hơn và có điểm mới quan trọng là bổ sung thành tố văn hóa - xã
hội, đó là: Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh
và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội; chủ động đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
Lataev Aleksei Aleksandrovich (2008), Cơ sở pháp luật - hành chính
cho hoạt động của cảnh sát khu vực trong điều kiện của một quận ngoại
thành với hàng triệu dân, Luận án Phó tiến sĩ luật học, Moskva, Liên bang
Nga. Tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu về tính pháp lý, hành chính
đối với các mối quan hệ của pháp luật và thực tiễn hoạt động của lực lượng
cảnh sát khu vực. Luận án đặc biệt nhấn mạnh sự điều chỉnh của hệ thống các
văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của cảnh sát khu vực với vai trò là
lực lượng chủ chốt trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, VPPL ở địa
bàn cơ sở; các thông tin đặc trưng cho tình trạng VPPL hành chính và tội
phạm trên địa bàn một quận.
Cuốn sách The Liverpool underworld: Crime in the city, 1750-1900
(dịch: Thế giới ngầm ở Liverpool: Tội phạm trong thành phố giai đoạn 1750 -
13
1900) của tác giả Macilwee, Mick. Nhà xuất bản Liverpool University Press,
năm 2011 [113]. Tác giả đã đi sâu phân tích những nguyên nhân, điều kiện,
hoàn cảnh xã hội, các sự kiện diễn ra trong xã hội tác động đến sự gia tăng
của tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến QLNN về ANTT.
Về vấn đề đô thị qua lăng kính của các ngành khoa học, trong các môi
trường và thang độ phân tích khác nhau; các công trình nghiên cứu đề cập
dưới góc nhìn phương pháp luận và đa ngành về các vấn đề liên quan đến
phát triển đô thị: Góc nhìn lịch sử, chính trị, địa lý, kinh tế, thực tiễn và cách
tiếp cận theo hệ thống phức hợp:
Sách tham khảo “Phát triển đô thị bền vững. Các cách tiếp cận phương
pháp luận, liên ngành và thực tiễn” do GS.TS Đỗ Hoài Nam và TS. Stéphane
LAGRÉE đồng chủ biên, Nhà xuất bản Tri thức, năm 2014. Đáng chú ý là các
bài viết sau:
“Đô thị xưa và dấu vết đương đại”, của tác giả Philippe Papin, đã giới
thiệu một số nét đặc điểm của đô thị cổ Việt Nam, quá trình phát triển các đô
thị Việt Nam từ trước thế kỷ XVII. Ban đầu, thành phố Hà Nội còn là đơn vị
hành chính phi chính thức, được ngầm công nhận và vẫn còn giữ mối liên hệ
phụ thuộc với làng gốc ở quê - đây là một đặc điểm đô thị ngược với những
đặc điểm của đô thị châu Âu thời kỳ đó; tác giả cũng đề cập đến sự phát triển
đô thị hiện nay trên các khía cạnh về phân bổ về địa lý, mạng lưới lãnh thổ và
những thách thức về ANTT đang phải đối mặt.
“Đô thị, một hệ thống phức hợp? Những thách thức mới trong mô hình
hóa đô thị”, của tác giả Arnaud Banos, đề cập tới các thách thức mới đối với
phương pháp mô hình hóa đô thị. Các đô thị thường được coi là một hệ thống
phức hợp, cấu thành nên từ rất nhiều thực thể không tương đồng, có tác động
tương tác, qua lại lẫn nhau một cách độc lập ở nhiều thang độ khác nhau. Sự
vận động của đô thị phụ thuộc phần lớn vào cơ chế tự tổ chức, trong khi đó,
cấu trúc đô thị được hình thành nên từ vô số các quan hệ tương tác ngầm ẩn.
14
Sự tương đồng rõ rệt đến mức ta có thể so sánh một thành phố với cơ thể sống
có cùng một số thuộc tính chung.
Đây là nguồn tài liệu giúp nghiên cứu sinh có nhận thức tổng quát về
đô thị, các vấn đề đặt ra đối với ANTT đô thị trên thế giới và đô thị Việt Nam.
Giáo trình “Quản lý đô thị” của Đại học Kinh tế quốc dân, do GS.TS
Nguyễn Đình Hương và ThS Nguyễn Hữu Đoàn đồng chủ biên, Nhà xuất bản
Thống kê, năm 2003. Giáo trình góp phần giải quyết các vấn đề lý luận quản lý
đô thị ở Việt Nam; tổng quan bộ máy chính quyền QLNN về đô thị; khái quát
các lĩnh vực QLNN ở đô thị, trong đó có lĩnh vực QLNN về ANTT đô thị được
đề cập tại mục III, Chương IX. Quản lý văn hóa - xã hội đô thị. Tuy nhiên, giáo
trình chưa chỉ rõ các lĩnh vực QLNN về ANTT đô thị, chưa phân định rõ trách
nhiệm của các cơ quan, tập thể trong việc giải quyết các vấn đề về ANTT đô
thị… Đây là tài liệu có giá trị, liên quan trực tiếp đến đề tài luận án.
Giáo trình “Quản lý nhà nước về đô thị” của Học viện Hành chính quốc
gia, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, năm 2009, đã đề cập đến
những vấn đề chủ yếu của QLNN về đô thị, trong đó có nêu nội dung QLNN
về ANTT đô thị. Tuy nhiên, giáo trình trên không chỉ ra cụ thể được các chủ
thể, nội dung QLNN về ANTT đô thị. Các văn bản pháp luật được đề cập
trong giáo trình cũng đã lỗi thời. Giáo trình là cơ sở quan trọng cho việc
nghiên cứu sinh xác định những lĩnh vực chủ yếu của QLNN về đô thị.
Giáo trình “Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội” của Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2010, đã đề cập toàn diện và phân
tích khá sâu sắc những vấn đề cơ bản, những quan điểm của Đảng và Nhà
nước, mục tiêu, tính chất, đặc điểm và những nội dung chủ yếu của hoạt động
quản lý nhà nước về ANQG, TTATXH.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng quản lý nước về
an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Đề tài “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự ở các đô
15
thị trong điều kiện Việt Nam là thành viên Tổ chức thương mại thế giới”, là
một nhánh trong chương trình khoa học trọng điểm cấp Bộ “Việt Nam gia nhập
WTO và công tác công an phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế”, của tác giả Trần
Minh Tơn, năm 2007. Đề tài đã đánh giá thực trạng hoạt động QLNN về
ANTT ở khu vực đô thị từ năm 2001 đến 2006, trong đó có đề cập thực trạng
hoạt động QLNN về ANTT ở đô thị Hà Nội. Trên cơ sở đánh giá, tác giả đã dự
báo các yếu tố tác động QLNN về ANTT ở các đô thị trong điều kiện thực hiện
các cam kết trong khuôn khổ WTO. Đề tài này đã giúp cho nghiên cứu sinh có
thêm cơ sở đánh giá thực trạng QLNN về ANTT đô thị Hà Nội hiện nay; tham
khảo các số liệu, vụ việc liên quan đến các lĩnh vực QLNN về ANTT.
Kỷ yếu hội thảo cấp quốc gia “Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng về bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân trong giai đoạn hiện nay”, Bộ Công an, năm 2016, đã thể hiện rõ quan
điểm của Đảng và Nhà nước và thực trạng trong việc giữ vững quốc phòng, an
ninh của Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, có một số bài viết liên quan đến
tình hình ANTT đô thị tại các thành phố lớn nói chung, đô thị Hà Nội nói riêng:
Trương Hòa Bình (2016), “Giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội
góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh trong tình hình mới”; Nguyễn Văn Nhật
(2016), “Lực lượng Cảnh sát nhân dân với việc thực hiện các nội dung cơ bản về
bảo đảm trật tự an toàn xã hội”; Nguyễn Huy Thuật (2016), “Vai trò của bảo
đảm trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới - Một số vấn đề lý luận”; Nguyễn
Ngọc Anh (2016), “Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia,
bảo đảm trật tự an toàn xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”.
Đỗ Cảnh Thìn (2016), “Vấn đề an ninh phi truyền thống và những thách thức
đặt ra hiện nay đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Bài “Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác bảo đảm an ninh, trật tự và
xây dựng lực lượng Công an thủ đô đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình
hình mới” của tác giả Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành
16
ủy Hà Nội, đăng trên tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2, tháng 8/2015. Bài viết
đã khái quát quá trình Đảng ta đã tổ chức xây dựng và trực tiếp lãnh đạo, rèn
luyện lực lượng CAND trong sự nghiệp bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân,
đảm bảo an ninh chính trị và TTATXH; đã xác định vị trí, vai trò của thủ đô
Hà Nội là một trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn
hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, đồng thời là mục tiêu,
địa bàn các thế lực thù địch, đối tượng phản động và các loại tội phạm tập
trung hoạt động, chống phá. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng ủy
Công an Trung ương, của Thành ủy Hà Nội, Công an thành phố Hà Nội đã
góp phần quan trọng, tích cực giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm TTATXH,
phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của thành phố Hà
Nội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Thành ủy Hà Nội cũng
nghiêm túc nhận thấy những hạn chế trong công tác chỉ đạo, xây dựng
phương án đảm bảo ANTT; từ đó để tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ
đạo, Thành ủy Hà Nội đã đưa ra những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nhằm
bảo đảm ANTT trên địa bàn đô thị Hà Nội. Bài viết đã giúp cho nghiên cứu
sinh khái quát được quá trình hơn 70 năm xây dựng và phát triển của lực
lượng Công an, nắm được chủ trương của Thành ủy Hà Nội trong lãnh đạo,
chỉ đạo công tác bảo đảm ANTT tại thành phố Hà Nội.
Sách tham khảo “Hoàn thiện mô hình tổ chức và quản lý đô thị Hà Nội,
luận cứ và giải pháp”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2010,
của các tác giả Nguyễn Quang Ngọc, Đoàn Minh Huấn, Bùi Xuân Dũng.
Cuốn sách là công trình nghiên cứu khá hoàn chỉnh về lý luận, thực trạng tổ
chức chính quyền đô thị ở Hà Nội; đã mô hình hóa được tổ chức chính quyền
đô thị Hà Nội trong mối quan hệ với chính quyền Trung ương, chính quyền
địa phương (CQĐP) và chính quyền đô thị ở những thành phố khác.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Mô hình tổ chức chính quyền đô thị ở Hà Nội”
của tác giả Nguyễn Thị Thu Thảo, năm 2013 đã phân tích một số vấn đề lý
17
luận về mô hình tổ chức chính quyền đô thị; làm rõ thực trạng tổ chức mô
hình chính quyền đô thị ở Hà Nội. Đề tài trên đã phân tích, làm rõ thực trạng
mô hình tổ chức của chính quyền đô thị ở Hà Nội; đã làm rõ một số đặc trưng,
phân loại đô thị có giá trị tham khảo quan trọng để nghiên cứu sinh kế thừa
khi thực hiện đề tài luận án.
Đề tài luận án tiến sĩ “Di dân tự do nông thôn - đô thị với trật tự xã hội
ở Hà Nội” của tác giả Đinh Quang Hà, năm 2014. Đề tài đã phân tích, đánh
giá thực trạng dân di cư tự do đến khu vực nội thành Hà Nội, đã tạo áp lực lớn
về các vấn đề kinh tế - xã hội, làm tăng đột biến về dân số cơ học, về cơ cấu
dân cư, tạo những áp lực về việc làm, chỗ ở, giao thông, an ninh xã hội, gây
khó khăn trong QLNN về ANTT ở Hà Nội. Đề tài giúp cho nghiên cứu sinh
đánh giá được các yếu tố tác động đến ANTT đô thị Hà Nội, từ đó làm cơ sở
cho việc đưa ra một số giải pháp khắc phục tác động tiêu cựu của di dân tự do
giữa nông thôn và thành thị với trật tự xã hội ở Hà Nội.
Ngoài ra, còn nhiều công trình khác nghiên cứu về đô thị Hà Nội ở các
khía cạnh khác nhau, có giá trị tham khảo đối với đề tài luận án về những yếu
tố tác động, ảnh hưởng đến QLNN về ANTT đô thị Hà Nội như: Thu Hà
(2008), “Chính quyền đô thị: Phân cấp không chia quyền”,
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn; Lê Quang Cảnh (2011), “Ảnh hưởng tiêu
cực của đô thị hóa và gợi ý chính sách cho quá trình đô thị hóa thành phố Hà
Nội”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế 393 - Tháng 2/2011; Quang Chung (2012),
“Chính quyền đô thị: vướng mắc từ Hiến pháp”,
http://www.thesaigontimes.vn; Lê Sơn (2012), “Ban chỉ đạo Đề án thí điểm
mô hình tổ chức chính quyền đô thị họp phiên thứ nhất”
http://baodientu.chinhphu.vn; Một số định hướng chiến lược trong việc phát
triển đô thị bền vững tại Hà Nội, Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ tư Việt Nam
trên con đường hội nhập và phát triển bền vững, Viện Việt Nam học và khoa
học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2015; Việt Hà (2015),
18
“Đảm bảo an ninh chính trị, trât tự an toàn xã hội trên địa bàn thủ đô”,
http://hanoi.gov.vn.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về các giải pháp tăng cường
quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Đề tài cấp Bộ “Một số giải pháp để thiết lập trật tự, kỷ cương trong quản
lý nhà nước đối với các đô thị trực thuộc Trung ương” của tác giả Phạm Kim
Giao, Học viện Hành chính, 2005. Đề tài nghiên cứu công tác QLNN đối với
các đô thị trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng
QLNN trên các lĩnh vực quản lý quy hoạch đô thị, quản lý nhà ở và đất đai ở
đô thị, hạ tầng kỹ thuật và vệ sinh môi trường đô thị Hà Nội và các thành phố
trực thuộc Trung ương, đề tài đã làm rõ những kết quả đã đạt được, những hạn
chế, yếu kém và làm sáng tỏ các yếu tố tác động đến thiết lập trật tự, kỷ cương
trong QLNN đối với các đô thị. Kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo giúp
cho nghiên cứu sinh hiểu sâu hơn về hệ thống kiểm soát đô thị.
Sách chuyên khảo “Những giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo an
ninh, trật tự ở các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế
mở”, năm 2006, được biên tập từ đề tài cấp Nhà nước, mã số KX 07 - 05, do
PGS.TS Lê Văn Cương chủ nhiệm, làm tài liệu phục vụ nghiên cứu, học tập
và vận dụng trong CAND. Cuốn sách đã tập trung nghiên cứu những nội
dung: Vị trí, vai trò các thành phố lớn, khu công nghiệp, khu kinh tế mở với
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đã chỉ ra những yếu tố tác
động đến ANTT ở các thành phố lớn, trong đó có thành phố Hà Nội - đô thị
loại đặc biệt của Việt Nam; đánh giá thực trạng tình hình ANTT ở các thành
phố lớn; đề xuất, kiến nghị các giải pháp đảm bảo ANTT tại các thành phố
lớn, khu công nghiệp trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Đề tài cấp Bộ “Quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội tại các địa
bàn công cộng đô thị - Thực tiễn tình hình và những kiến nghị đề xuất”, của
19
tác giả Vương Đức Phong, năm 2012. Đề tài nghiên cứu làm rõ nội dung cơ
bản QLNN về TTATXH tại các địa bàn công cộng đô thị, trong đó có đô thị
Hà Nội, từ đó đánh giá thực trạng tình hình trật tự và kiến nghị đề xuất các
giải pháp nhằm đảm bảo TTATXH tại các địa bàn công cộng đô thị.
Quản lý nhà nước về ANTT đô thị bao gồm quản lý trên nhiều lĩnh
vực, như: QLNN về an ninh chính trị, QLNN về an ninh kinh tế, quản lý về
bảo vệ an ninh văn hóa - tư tưởng, quản lý về bảo vệ an ninh thông tin, bảo vệ
bí mật nhà nước, quản lý xuất cảnh, nhập cảnh, quản lý người nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài cư trú tại Việt Nam, quản lý phòng
chống tội phạm, quản lý hành chính về trật tự xã hội, quản lý trật tự, an toàn
giao thông (TTATGT), trật tự công cộng, quản lý về phòng cháy, chữa
cháy… Thời gian qua, đã có không ít các công trình nghiên cứu QLNN về
ANTT đô thị Hà Nội trên các lĩnh vực cụ thể như:
Đề tài cấp cơ sở “Phòng ngừa, phát hiện và triệt phá các điểm tổ chức
sử dụng trái phép ma túy tổng hợp tại các cơ sở kinh doanh có điều kiện về an
ninh, trật tự của lực lượng cảnh sát Công an thành phố Hà Nội”, của tác giả
Ngô Gia Bắc, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2006. Đề tài đã đánh giá hiệu
quả hoạt động phòng ngừa, phát hiện và triệt phá các điểm tổ chức sử dụng
trái phép ma túy tổng hợp tại các cơ sở kinh doanh có điều kiện về ANTT của
lực lượng Cảnh sát Công an thành phố Hà Nội, nêu lên những hạn chế, bất
cập, khó khăn và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này của
lực lượng Cảnh sát Công an thành phố Hà Nội.
Đề tài cấp cơ sở “Quản lý nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự
phục vụ công tác phòng ngừa tội phạm của lực lượng Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội Công an quận Thanh Xuân, Hà Nội - Thực trạng và giải
pháp”, của tác giả Đặng Thị Ngọc Hà, năm 2007. Đề tài đánh giá công tác quản
lý nghề kinh doanh có điều kiện về ANTT phục vụ công tác phòng ngừa tội
phạm của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an quận
20
Thanh Xuân, Hà Nội; làm rõ những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân. Từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này đối
với lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an quận Thanh
Xuân, Hà Nội.
Đề tài cấp cơ sở “Nâng cao hiệu quả quản lý lưu trú trong các cơ sở
kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ theo chức năng của lực lượng Cảnh sát quản
lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố Hà Nội” của tác giả Đinh
Văn Tú, năm 2013. Đề tài đề cập đến việc lưu trú của những người ở các tỉnh,
thành phố khác, kể cả khách du lịch trong và ngoài nước ở các khách sạn, nhà
nghỉ, nhà trọ của đô thị Hà Nội. Ngoài những người đến lưu trú với mục đích
chính đáng thì tội phạm, phần tử xấu cũng trà trộn, lợi dụng các cơ sở kinh
doanh lưu trú để hoạt động. Đã có nhiều vụ phạm pháp hình sự như trộm cắp,
giết người, cướp của, hiếp dâm... xảy ra trong các cơ sở kinh doanh khách
sạn, nhà nghỉ mà thủ phạm không ai khác lại là khách đến lưu trú trong các cơ
sở này thực hiện. Bên cạnh đó, các tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, ma túy
cũng diễn ra hết sức phức tạp trong các cơ sở này. Nhiều đối tượng truy nã
cũng lợi dụng các cơ sở kinh doanh lưu trú làm nơi ẩn náu, lẩn trốn. Có thể
khẳng định, các cơ sở lưu trú tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp về ANTT ở đô thị
Hà Nội.
Có nhiều bài báo trên các tạp chí chuyên ngành viết về các lĩnh vực,
các hoạt động riêng lẻ trong hoạt động QLNN về ANTT đô thị Hà Nội, có thể
điểm qua một số bài viết sau: Nguyễn Thị Thảo (2014), Thành phố Hà Nội:
quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ, Tạp chí Công an nhân dân (chuyên
đề an ninh và xã hội), số 5/2014; Nguyễn Xuân Văn - Nghiêm Đình Hưởng
(2014), Nâng cao hiệu quả công tác điều tra cơ bản đối với cơ sở kinh doanh
Massage của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trên địa
bàn thành phố Hà Nội, Tạp chí Cảnh sát, số 7/2014; Nguyễn Đức Chung
(2015), Kinh nghiệm đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và phòng, chống
21
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của Công
an thành phố Hà Nội, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 1, 7/2015; Lê Thanh
Hoài (2015), Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với hoạt động đầu tư,
kinh doanh bất động sản trên địa bàn thành phố Hà Nội, Tạp chí Công an
nhân dân, kỳ 1, 7/2015; Phạm Văn Hường (2015), Hoạt động vi phạm pháp
luật về an ninh, trật tự của giáo sĩ đạo Thiên Chúa trên địa bàn thành phố Hà
Nội và giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn của cơ quan an ninh, Tạp chí Công
an nhân dân, kỳ 2, 10/2015; Đặng Thị Ngọc Hà (2015), Bảo đảm an ninh, trật
tự ở khu vực ngoại thành, Tạp chí Cảnh sát phòng chống tội phạm, số 5
65)/2015; Nguyễn Duy Đài (2016), Nâng cao hiệu quả công tác quản lý
người ngoại tỉnh của Công an phường trên địa bàn thành phố Hà Nội, Tạp
chí Cảnh sát phòng, chống tội phạm, số 65 (212), 3/2016. Các bài viết trên đã
nghiên cứu một số đối tượng, lĩnh vực cụ thể có yếu tố tác động, ảnh hưởng
đến QLNN về ANTT trên địa bàn thành phố Hà Nội, điển hình là dịch vụ cầm
đồ, nhà nghỉ, dịch vụ massege hiện nay phát triển mạnh, đã có nhiều vụ việc
VPPL như trộm cắp, tiêu thụ tài sản phạm tội, giết người, hiếp dâm, cờ bạc,
mại dâm, ma túy diễn ra hết sức phức tạp trong các cơ sở này gây mất ổn định
về ANTT. Từ đó, mỗi bài viết đều đưa ra một số định hướng, giải pháp nhằm
giải quyết và hạn chế những vấn đề ảnh hưởng tới ANTT trên địa bàn đô thị
Hà Nội. Đây là nguồn tài liệu có tính thời sự, giúp cho nghiên cứu sinh trong
việc đánh giá và đề xuất giải pháp QLNN về ANTT đô thị Hà Nội.
Quản lý nhà nước về ANTT là lĩnh vực đặc thù và có tính bí mật nên
thường rất khó để phổ biến thông tin. Vì thế, việc tiếp cận nghiên cứu các
công trình khoa học của nước ngoài hoặc nghiên cứu ở nước ngoài về các
vấn đề liên quan đến đảm bảo ANTT nói chung, QLNN về ANTT đô thị là
rất khó khăn.
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu các đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, sách chuyên
22
khảo, các bài nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu, có thể đưa ra
một số đánh giá sau:
Một là, các công trình nghiên cứu về cơ bản đã làm sáng tỏ các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác QLNN về ANTT. ANQG và
TTATXH là hai nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo ổn định và phát triển của
đất nước. Có một số công trình chỉ đề cập đến các vấn đề liên quan đến
ANQG, nghiên cứu và đưa ra hệ thống các khái niệm, thuật ngữ cơ bản và nội
hàm của ANQG, QLNN về ANQG để thống nhất nhận thức, hành động trong
sự nghiệp đấu tranh, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, các công trình nghiên cứu
cũng đã xây dựng, phát triển được hệ thống tri thức lý luận về những vấn đề
có tính quy luật về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động xâm phạm
ANQG của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, của các thế lực thù địch; về các
nguy cơ, thách thức đối với ANQG trong các giai đoạn cách mạng. Hiện nay,
trước sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề ANQG cũng đặt ra cho
các nhà khoa học phải tiếp tục nghiên cứu đó là vấn đề an ninh truyền thống
và an ninh phi truyền thống. Các công trình nghiên cứu về TTATXH, các tác
giả cũng đã đánh giá thực tiễn đấu tranh đối với tội phạm, các hành vi VPPL
và làm rõ các cơ sở lý luận QLNN về TTATXH.
Nhóm công trình nghiên cứu về QLNN về ANTT đã cung cấp luận cứ
khoa học về việc vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước trong công tác giữ gìn ANQG, bảo đảm TTATXH, tuy
nhiên trước những diễn biến mới của tình hình thế giới và trong nước, đặc
biệt là quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, kịp thời
bổ sung, phát triển và hoàn thiện những vấn đề lý luận mới nảy sinh để phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác QLNN về ANTT ở mỗi địa bàn, mỗi lĩnh vực có những đặc thù
khác nhau, cho nên việc kế thừa các vấn đề lý luận của các công trình nghiên
cứu cũng phải xem xét vào từng địa bàn cụ thể để đề ra các giải pháp phù hợp.
23
Về đô thị, các công trình đã phân tích và đưa ra các khái niệm về đô thị,
đô thị hóa, phân loại đô thị; hoạt động của các cơ quan QLNN ở đô thị... Kết
quả nghiên cứu của các công trình này là tài liệu tham khảo có giá trị đối với đề
tài luận án trong việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về đô thị, nhận
thức các mô hình chính quyền đô thị của các nước trên thế giới, mô hình chính
quyền đô thị Hà Nội và công tác QLNN trên lĩnh vực ANTT đô thị Hà Nội.
Hai là, trong những năm qua, tình hình ANTT ở nước ta nói chung,
ANTT đô thị nói riêng cơ bản ổn định, góp phần tạo môi trường chính trị - xã
hội lành mạnh và bước vào giai đoạn mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trước âm mưu và hoạt động
phá hoại của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, trước tác động của mặt
trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình đô thị hóa, tình hình ANTT ở các
địa bàn trọng điểm, các đô thị lớn, đặc biệt là đô thị Hà Nội vẫn luôn tiềm ẩn
những nguy cơ, yếu tố phức tạp, đe dọa sự mất ổn định chính trị, chủ quyền
ANQG, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Các đô thị là địa bàn tập trung hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch, tập trung hoạt động của bọn tội
phạm và các VPPL. Tuy nhiên, cho tới nay các công trình nghiên cứu về
QLNN về ANTT đô thị không nhiều. Một số giáo trình có trình bày về các
lĩnh vực chủ yếu của QLNN ở đô thị, trong đó có đề cập tới nội dung QLNN
về ANTT nhưng chưa sâu, không đánh giá cụ thể các yếu tố tác động đến tình
hình ANTT đô thị, chưa làm rõ các chủ thể QLNN về ANTT đô thị và chưa
xác định được các cơ sở pháp lý để thực hiện công tác này. Một số công trình
nghiên cứu cũng đã làm rõ thực trạng các hoạt động QLNN về ANTT đô thị
nói chung, nhưng chưa đánh giá thực trạng QLNN về ANTT ở thành phố Hà
Nội - đô thị đặc biệt của Việt Nam một cách chuyên sâu để giải quyết các vấn
đề đang tồn tại, phát sinh liên quan đến ANTT.
Ba là, các công trình nghiên cứu đã hệ thống rất nhiều các nhóm giải
pháp, kiến nghị vừa có tính định hướng vừa có tính thực tiễn nhằm nâng cao
24
hiệu quả hoạt động QLNN về ANTT. Tuy vậy, các nhóm giải pháp phần
nhiều không cập nhật được tính thời sự hiện nay; giải pháp mang tính chất
đơn lẻ trong từng lĩnh vực cụ thể của QLNN về ANTT; chưa đánh giá khái
quát được mức độ hoàn thiện của pháp luật về ANTT. Hiến pháp, năm 2013,
Luật Tổ chức chính quyền địa phương, năm 2015, Luật Công an nhân dân,
năm 2018 đã được ban hành, đặc biệt là Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ
XII của Đảng đã có những định hướng mới… Do đó, các giải pháp mà các
nhà nghiên cứu đã nêu chắc chắn sẽ phải nghiên cứu, phân tích sâu hơn.
1.3. Những vấn đề luận án cần giải quyết
Thứ nhất, về quản lý nhà nước, “an ninh quốc gia”, “an ninh chính trị”,
“trật tự an toàn xã hội”... tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhưng còn
nhiều quan điểm khác nhau, chưa thống nhất, do đó cần được tiếp tục nghiên
cứu làm rõ những vấn đề lý luận QLNN về ANTT đô thị (khái niệm, đặc
điểm, nội dung, phương pháp QLNN về ANTT đô thị).
Thứ hai, nghiên cứu, đánh giá được thực trạng QLNN về ANTT đô thị
Hà Nội, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế,
đồng thời phân tích một cách cụ thể, toàn diện về những yếu tố bảo đảm tăng
cường QLNN về ANTT đô thị.
Thứ ba, Hiến pháp, năm 2013 đã có nhiều quy định mới về tổ chức bộ
máy Nhà nước, trong đó có tổ chức CQĐP ở đô thị. Cụ thể: Theo Khoản 2,
Điều 111, Hiến pháp, năm 2013 quy định “Cấp chính quyền địa phương gồm
có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm
nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định”.
Như vậy, vấn đề đặt ra là chính quyền đô thị Hà Nội sẽ phải tổ chức theo mô
hình như thế nào cho hợp lý? Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền đô thị Hà Nội có tác động không nhỏ tới hoạt động QLNN về ANTT đô
thị. Các quy định của pháp luật trong QLNN về ANTT đô thị cần được quyết
định trên cơ sở Hiến định phù hợp với thực tiễn. Việc nghiên cứu hoàn thiện
25
các quy định pháp luật về QLNN về ANTT đô thị nói chung, QLNN về ANTT
đô thị Hà Nội nói riêng là việc làm cần thiết và quan trọng đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ tư, nghiên cứu và xác định các quan điểm, giải pháp tổng thể mang
tính chiến lược để tăng cường QLNN về ANTT đô thị Hà Nội.
Như vậy, tính đến thời điểm hiện tại chưa có một công trình nào nghiên
cứu một cách chuyên biệt trong QLNN về ANTT đô thị Hà Nội, ở cấp độ tiến
sĩ luật học. Đề tài “Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị từ thực tiễn
địa bàn thành phố Hà Nội” sẽ là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu cụ
thể, trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những tri thức khoa học của những công
trình nghiên cứu trước.
1.4. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu
1.4.1. Giả thuyết nghiên cứu
Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị tuy đã có nhiều công trình
nghiên cứu, nhưng còn nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau về QLNN về
ANTT đô thị, chưa chỉ ra được những đặc điểm của QLNN về ANTT đô thị
và chưa xác định rõ các hoạt động, lĩnh vực cụ thể được quy định trong các
văn bản pháp luật QLNN về ANTT.
Quản lý nhà nước về ANTT đô thị Hà Nội tuy đã đạt được nhiều kết
quả, nhưng cũng còn những bất cập, chưa hợp lý. Trước yêu cầu, nhiệm vụ
mới của công tác bảo vệ ANTT trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, cần
bổ sung, điều chỉnh các giải pháp hữu ích, khả thi cả về mặt pháp luật; về
nâng cao năng lực, trình độ, phẩm chất của cán bộ, công chức… để tăng
cường QLNN về ANTT đô thị Hà Nội, có tác dụng phòng ngừa, đấu tranh,
kịp thời xử lý hiệu quả các vụ việc, đảm bảo các yêu cầu bảo vệ, giữ vững
ANTT trong tình hình mới.
1.4.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để tăng cường QLNN về ANTT đô thị Hà Nội, nhiệm vụ của luận án
26
cần tập trung giải đáp một số câu hỏi nghiên cứu sau:
- Cơ sở lý luận của QLNN về ANTT đô thị được luận giải như thế nào?
Để trả lời được câu hỏi lớn này, cần đặt ra các câu hỏi nhỏ cụ thể là: Quản lý
nhà nước về an ninh, trật tự đô thị là gì? Nội dung quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị? Các bảo đảm nhằm tăng cường quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị?
- Thực trạng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội như thế
nào? Đánh giá nó đáp ứng như thế nào với các yêu cầu của quản lý nhà nước
về an ninh, trật tự, các yêu cầu của việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa và các điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội hiện nay?
- Các giải pháp cần được áp dụng để tăng cường quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị Hà Nội? Cần triển khai ra sao?
27
Kết luận chương 1
Chương 1, luận án đã nghiên cứu một số công trình khoa học có liên
quan trực tiếp, sát thực với quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị nói
chung, quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội nói riêng. Các công
trình nghiên cứu được chia thành ba nhóm khác nhau là lý luận, thực trạng và
các công trình nghiên cứu các giải pháp, kiến nghị. Các nội dung này tương
quan với ba chương của luận án.
Tổng quan tình hình cho thấy, trong thơi gian qua, cùng với quá trình
cải cách hành chính đã có nhiều công trình nghiên cứu lĩnh vực quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự nói chung, quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô
thị nói riêng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đi theo hướng phân tích
thực trạng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, chủ yếu là thực trạng các
lĩnh vực quản lý cụ thể như: Quản lý nhà nước về cư trú; quản lý nhà nước
về đấu tranh phòng chống tội phạm; quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã
hội... để rút ra nguyên nhân và đề ra các giải pháp nhằm triệt tiêu các nguyên
nhân đó. Một số công trình khoa học nghiên cứu quản lý nhà nước về đô thị
theo hướng hoàn thiện các thể chế, tổ chức bộ máy chính quyền đô thị...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khá phong phú về thể loại, đa dạng
về hình thức. Mặc dù vậy, các nghiên cứu trong quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị nói chung, quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà
Nội nói riêng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là trong điều kiện cải cách
hành chính, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh, tình hình tội phạm, tệ nạn xã
hội, vi phạm pháp luật ở đô thị diễn biến ngày càng phức tạp. Những vấn đề
còn bỏ ngỏ về mặt lý luận và thực tiễn sẽ được tác giả tiếp tục hoàn thiện
trong luận án. Việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống, chuyên sâu
vấn đề quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội là hết sức cần thiết
trong giai đoạn hiện nay.
28
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ AN NINH, TRẬT TỰ ĐÔ THỊ
2.1. Khái niệm an ninh, trật tự đô thị
An ninh, trật tự được sử dụng một cách khá phổ biến và là một khái niệm
thuộc phạm trù chính trị - pháp lý. Tuy vậy, thực tế cho thấy, mặc dù cùng muốn
đề cập đến vấn đề an toàn, yên ổn của một quốc gia trên các phương diện chính
trị, kinh tế - xã hội... nhưng trong nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước và một số
công trình nghiên cứu, dưới nhiều ngữ cảnh khác nhau, khái niệm an ninh, trật tự
được sử dụng bằng các thuật ngữ cụ thể khác nhau. Có tác giả quan niệm an
ninh, trật tự là bao hàm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, nhưng cũng có
tác giả quan niệm dưới góc độ hẹp hơn, an ninh, trật tự chỉ bao hàm an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội... Những cách tiếp cận này thực chất chỉ là cách
lý giải cụ thể dưới các góc độ rộng, hẹp khác nhau của một vấn đề.
Đảng ta đã có quá trình phát triển tư duy lý luận từng bước làm rõ, bổ
sung, phát triển kịp thời qua các nhiệm kỳ đại hội và triển khai trong thực tiễn
mọi công việc để đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đại hội
IX của Đảng Công sản Việt Nam xác định: “Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc
gia, dân tộc” [42, tr.117]; Đại hội XI của Đảng phát triển lý luận bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa lên một tầm cao mới: “Thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ...” [43]. Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định: “Củng cố quốc phòng,
giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn
29
dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nồng cốt” [44, tr.148].
Những quan điểm, định hướng của Đảng về quốc phòng, an ninh trong
bảo vệ Tổ quốc nêu trên ngày càng sáng tỏ, từng bước làm rõ qua hoạt động
thực tiễn, trong đó thành tố an ninh được hiểu theo nghĩa là an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013.
Trong các công trình nghiên cứu, các văn bản pháp luật như: Nghị định
số 06/2014/NĐ-CP của Chính phủ về biện pháp vận động quần chúng bảo vệ
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; Thông tư số 10/2015/TT-BCA
quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực liên quan an
ninh, trật tự an toàn xã hội; Nghị định số 96/2016/NĐ-CP của Chính phủ quy
định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện... an ninh, trật tự đều được hiểu là cách viết gọn của cụm
từ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Xét về ngữ nghĩa, thuật ngữ an ninh, trật tự là từ ghép từ hai bộ phận an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Nếu cụm từ “an ninh” và “trật tự” đứng
riêng rẽ có thể có những cách hiểu khác nhau với những nội dung, cấp độ
rộng hẹp, hàm ý, ngữ nghĩa không giống nhau. Cụm từ an ninh, trật tự trong
luận án này bản chất là an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
An ninh quốc gia được sử dụng rộng rãi trong đời sống chính trị quốc
tế. Nội dung cơ bản của ANQG là lợi ích quốc gia. Tuy nhiên, lợi ích quốc
gia là yếu tố mở, phụ thuộc vào nhận thức của quốc gia về lợi ích cần bảo vệ
và vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế. Chính vì vậy, mặc dù có xuất
phát điểm chung, nhưng quan niệm về ANQG ở mỗi nước không hoàn toàn
giống nhau. Với những nước lớn như Nga, Mỹ, Trung Quốc... tiềm lực kinh
tế, quốc phòng, an ninh mạnh, có vị thế trên trường quốc tế thì quan niệm
ANQG được xác định không chỉ ở phạm vi bảo vệ lợi ích quốc gia bên trong
lãnh thổ mà còn vươn đến tầm khu vực và quốc tế.
30
Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa đã khiến nhiều quốc gia có sự thay đổi,
phát triển quan niệm về ANQG, hướng đến cách tiếp cận đa chiều, toàn diện
hơn. Theo đó, ANQG hiện nay không chỉ là an ninh truyền thống mà gồm cả
an ninh phi truyền thống, không chỉ trên bình diện quan hệ đối ngoại giữa các
nhà nước mà bao gồm cả những quan hệ trong nội bộ quốc gia, không chỉ
gồm an ninh chính trị, quân sự mà gồm cả các nhân tố phi chính trị, phi quân
sự. Các mối đe dọa ANQG hiện nay đến từ nhiều yếu tố mang bản chất khác
nhau, có thể là chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội hoặc môi trường...
ANQG được nhìn nhận như một tổng thể bao gồm các nội dung, lĩnh vực chủ
yếu như: An ninh chính trị; an ninh kinh tế; an ninh tư tưởng - văn hóa; an
ninh môi trường; an ninh con người... Mỗi quốc gia tùy vào bối cảnh tình
hình, điều kiện, trình độ phát triển và thực tiễn đất nước đặt trọng tâm vào các
nội dung của ANQG không giống nhau. Các nước đang phát triển thường đặt
trọng tâm các nội dung ANQG thiên về hướng đối nội, đặt lợi ích tồn tại của
chế độ chính trị ở vị trí trung tâm của ANQG bên cạnh an ninh quân sự.
Ở Việt Nam, theo Luật An ninh quốc gia, năm 2004: An ninh quốc gia
là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc [87, tr1].
Từ điển Bách khoa CAND, năm 2005 khái niệm: An ninh quốc gia là
sự ổn định và phát triển bền vững của một chế độ xã hội, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quan trọng khác của
một quốc gia” [122, tr.24].
Thuật ngữ “trật tự an toàn xã hội” được sử dụng vào những năm 1970,
thay cho thuật ngữ “trật tự trị an” trước đó. Thuật ngữ này được sử dụng ngay
trong Văn kiện Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1976:
“Giáo dục nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho quần chúng
nhân dân, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và trật tự
31
an toàn xã hội”; Điều 45, Hiến pháp, năm 1992: “Các lực lượng vũ trang nhân
dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước”;
Điều 46, Hiến pháp, năm 2013: “Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp
và pháp luật; tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và chấp
hành những quy tắc sinh hoạt công cộng”...
Quan niệm về trật tự an toàn xã hội qua từng thời kỳ cũng có sự thay
đổi. Kết quả của công trình nghiên cứu Từ điển Bách khoa nghiệp vụ Công
an, thuộc Viện Chiến lược và Khoa học Công an, Bộ Công an năm 2000 đã
đưa ra khái niệm: “Trật tự an toàn xã hội là tình trạng xã hội có tổ chức, có kỷ
luật, mọi người được sống yên vui lành mạnh trong xã hội theo quy định bằng
các luật lệ của nhà nước, quy phạm của đạo đức, quy phạm của cuộc sống
cộng đồng và thuần phong mỹ tục” [121]. Quan niệm này cũng có những hạn
chế khi xác định nội hàm, khách thể của TTATXH; theo Từ điển Bách khoa
CAND Việt Nam, năm 2005: Trật tự an toàn xã hội là trạng thái xã hội có trật
tự, kỷ cương, trong đó mọi người được sống yên ổn trên cơ sở các quy phạm
pháp luật và chuẩn mực đạo đức, pháp lý xác định [122].
Từ sự thống nhất các quan niệm nêu trên, bộ sách Khoa học Công an
Việt Nam đã đưa ra khái niệm: Trật tự an toàn xã hội là trạng thái ổn định, có
trật tự kỷ cương, được xác lập trên cơ sở các quy định của pháp luật, các giá
trị, chuẩn mực đạo đức xã hội được tôn trọng và thừa nhận, mà từ đó mọi
người dân có cuộc sống bình yên, quyền và lợi ích hợp pháp không bị xâm
hại, mọi hoạt động của nhà nước, tổ chức và cá nhân được thực hiện nghiêm
theo quy định của pháp luật” [56, tr.13].
Bảo vệ ANQG là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất
bại các hoạt động xâm phạm ANQG. Nhiệm vụ bảo vệ ANQG được quy định
32
tại Điều 14, Luật An ninh quốc gia, bao gồm: Bảo vệ chế độ chính trị và Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh về tư tưởng và văn hóa,
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân; bảo vệ an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, đối ngoại và
các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ bí mật nhà nước và các mục tiêu quan
trọng về ANQG; phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại và
loại trừ các hoạt động xâm phạm ANQG, nguy cơ đe doạ ANQG [87].
Theo Điều 3, Luật Công an nhân dân, năm 2014 quy định: “Bảo đảm
trật tự an toàn xã hội là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội
phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự an toàn xã hội” [92], theo
đó, có thể hiểu bảo đảm TTATXH gồm: Các hoạt động phòng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi VPPL.
Thông thường khái niệm an ninh quốc gia biểu hiện quan hệ chính trị,
nhưng mỗi quốc gia có quan niệm khác nhau về vấn đề này. Còn trật tự an toàn
xã hội phản ánh mối quan hệ xã hội, quan hệ cộng đồng trong phạm vi một
quốc gia [125, Tr.73]. An ninh quốc gia là vấn đề liên quan trực tiếp đến lĩnh
vực chính trị, là sự tồn vong của đất nước, sự độc lập của dân tộc, khẳng định
nguyên tắc chính trị trong quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia khác. Còn
TTATXH là hệ thống các quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi hệ
thống các quy phạm pháp luật của nhà nước, các chuẩn mực đạo đức xã hội
trong đời sống cộng đồng của mỗi dân tộc, một quốc gia, nhờ đó, công dân
sống và lao động có tổ chức, kỷ cương, mọi quyền và lợi ích được đảm bảo
không bị xâm hại. ANQG và TTATXH bao gồm hai nội dung, hai mối quan hệ
thể hiện chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Giữa ANQG và
TTATXH có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau, tác động và chuyển hóa
lẫn nhau, ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và phát triển của đất nước. ANQG được
bảo vệ vững chắc mới tạo điều kiện cơ bản thuận lợi để bảo vệ tốt TTATXH.
33
Ngược lại, không đảm bảo TTATXH để tội phạm, tệ nạn xã hội lộng hành, kỷ
cương pháp luật không nghiêm, tài sản của nhà nước bị xâm hại, công dân
không được bảo vệ, lòng dân bất an không tin vào chế độ, vào sự quản lý của
nhà nước, các vụ biểu tình, khiếu kiện diễn biến phức tạp, nghiêm trọng kéo
dài, không kiểm soát được sẽ gây ảnh hưởng rất xấu, thậm chí chuyển hóa
thành vấn đề chống đối chính trị, từ đó sẽ tạo điều kiện cho các thế lực thù địch
lợi dụng phá hoại ANQG. Việc phân biệt ANQG và TTATXH chỉ mang tính
chất học thuật. Trong thực tế, QLNN về ANTT với hai nội dung như trên đã
phân tích luôn gắn liền với nhau và tạo nên hai phương diện mà Nhà nước đặc
biệt quan tâm bảo vệ thông qua hoạt động quản lý của mình. An ninh, trật tự là
khái niệm chính trị - pháp lý, hàm chứa an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã
hội, dùng để chỉ trạng thái ổn định, an toàn của mọi lĩnh vực thuộc đời sống
chính trị - xã hội của một dân tộc, một quốc gia.
Thực tiễn phát triển, biến đổi xã hội của nhiều quốc gia cho thấy, để đất
nước có được đời sống kinh tế - xã hội bình thường thì các thiết chế chính trị,
xã hội phải được vận hành theo những nguyên lý, trật tự nhất định, nếu phá
vỡ trật tự đó thì xã hội sẽ rối loạn... Do đó, xã hội cần có sự bảo đảm an ninh,
an toàn và thiết lập một trật tự với sự tuân thủ những quy tắc của đời sống xã
hội. An ninh, trật tự chính là sự bảo đảm bằng sức mạnh trên cơ sở pháp luật
của quốc gia để giữ vững trật tự xã hội, tạo thuận lợi cho việc thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Đô thị là một khu vực lãnh thổ quốc gia, là một sản phẩm phát triển của
loài người, mặc dù ra đời muộn hơn các điểm dân cư nông thôn nhưng với điều
kiện sinh hoạt tốt, văn minh, hiện đại hơn, có tổ chức chặt chẽ, khoa học và
hiệu quả kinh tế cao hơn, có trình độ văn hóa cao, đô thị ngày càng thu hút
nhiều dân cư đến sinh sống. Đô thị không chỉ là nơi tiêu biểu cho sự phát triển,
thịnh vượng và văn minh mà còn là những trung tâm truyền bá văn minh, là
đầu tàu thúc đẩy các vùng xung quanh phát triển và trong tương lai sẽ là mô
34
hình cư trú chủ yếu của con người. Theo Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, đô
thị “là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh
tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội
của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành,
ngoại thành của thành phố, nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn”. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, tốc độ đô thị hóa nhanh, dân nhập
cư tăng cao, chính sách quản lý đô thị và công tác quản lý đô thị chưa bắt kịp
với sự phát triển xã hội đã làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội, tội phạm, ô nhiễm
môi trường… làm cho tình hình ANTT đô thị có nhiều diễn biến phức tạp.
Nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân
và của cả hệ thống chính trị. Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp ở đô thị (cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương) là cơ quan thẩm quyền chung trong
việc tổ chức thực hiện bảo vệ ANTT tại địa phương mình. Công an ở đô thị là
cơ quan chuyên trách có trách nhiệm tham mưu, báo cáo trước UBND về
công tác đảm bảo ANTT, đồng thời là lực lượng trực tiếp triển khai thực hiện
bảo vệ ANTT đô thị theo phân công, phân cấp của Công an cấp trên. Hiến
pháp, năm 2013 xác định: “Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu tranh
phòng, chống tội phạm” [90]. Điều này phù hợp với nguyên lý phổ biến: Bộ
sinh ra để quản lý ngành, lĩnh vực và mỗi việc chỉ nên do một bộ quản lý
tránh trùng dẫm trong quản lý nhà nước [80, tr.27]. Khắc phục triệt để sự
trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để một tổ chức có thể đảm nhiệm
nhiều việc, nhưng một việc chỉ do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm
chính [5]. Lực lượng Công an tham mưu cho các cấp ủy Đảng và phối hợp
với các cơ quan, ban, ngành thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT đô thị.
Theo quan điểm từ Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII) yêu cầu: Phân
35
định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp
rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ,
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ… Văn kiện Đại hội đại biểu lần
thứ XII của Đảng vẫn tiếp tục yêu cầu: Đổi mới tổ chức hoạt động của chính
quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong
việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách trong phạm vi được
phân cấp. Nghiên cứu tổ chức, thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô
thị, hải đảo. Theo đó, vấn đề ANTT nói chung và ANTT đô thị nói riêng có
những nét chung nhưng không phải là một. Có thể hiểu, an ninh, trật tự đô thị
là trạng thái an toàn, ổn định, có trật tự kỷ cương về mọi mặt của xã hội đô thị,
được xác lập trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân không bị xâm hại, mọi hoạt động của Nhà nước, tổ
chức, cá nhân được thực hiện nghiêm theo quy định của pháp luật, tạo môi
trường đô thị phát triển bền vững theo những nguyên tắc nhất định.
Trong một chỉnh thể thống nhất không thể tách rời của một quốc gia độc
lập có chủ quyền, ANTT đô thị thể hiện mối quan hệ chính trị pháp lý trên hai
mặt. Trước hết, đó là việc thiết lập và duy trì sự an toàn, ổn định và phát triển
bền vững của các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa trên địa bàn đô
thị. Đồng thời, phải đảm bảo hiệu lực QLNN từ Trung ương tới cơ sở, đảm bảo
tính thống nhất và toàn vẹn của một quốc gia độc lập, có chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ. Nền tảng của ANTT đô thị là vấn đề an dân, đảm bảo sự
đoàn kết nhất trí về chính trị và tinh thần trong nội bộ quần chúng, trong hệ
thống chính trị ở đô thị, dưới sự quản lý của Nhà nước. ANTT đô thị lấy xây
dựng, phát triển và lành mạnh hóa các quan hệ xã hội làm mục đích, lấy phát
triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm nền tảng, giữ vững sự
ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển về mọi mặt
của đô thị, góp phần đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
36
An ninh, trật tự đô thị có thể bị đe dọa từ nhiều hướng, nhiều phía cả
bên trong và bên ngoài. Đây là một thực tế, bởi ANTT đô thị không phải là
vấn đề tự thân mà do nhiều yếu tố tác động tạo nên, chẳng hạn như vấn đề
chính trị, kinh tế - xã hội, tổ chức thực hiện luật pháp, chất lượng đội ngũ
cán bộ và cả yếu tố tác động của các thế lực thù địch và các loại tội phạm.
Trong điều kiện hiện tại ANTT đô thị luôn phải đối mặt và chịu sức ép ngày
càng tăng của những nhân tố nội sinh, mà cụ thể đó là sự tác động của mặt
trái cơ chế thị trường, quá trình đô thị hóa, những thiếu sót, yếu kém trong
quá trình quản lý kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó nếu không có sự đổi
mới cơ chế quản lý xã hội, cải cách hành chính…một cách kịp thời và tương
xứng, nhằm bịt kín những sơ hở, thiếu sót thì nó có thể trở thành một nguy
cơ đe dọa sự sống còn của chế độ.
An ninh, trật tự đô thị bao gồm nhiều nội dung, lĩnh vực rộng lớn, có liên
quan đến nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa, tư tưởng,
lối sống trên địa bàn đô thị. Xem xét từ những vấn đề lý luận và thực tiễn cho
thấy, ANTT đô thị có một số nội dung cơ bản: Thứ nhất, là sự an toàn và hoạt
động bình thường của hệ thống chính trị ở đô thị. Hệ thống chính trị ở đô thị là
một mắt xích quan trọng của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Sự vững
mạnh của hệ thống chính trị ở đô thị có tác động đến sự ổn định bền vững và
phát triển về mọi mặt của đô thị. Sự hạn chế, yếu kém của các tổ chức cơ sở
Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị có thể là nguyên nhân và điều kiện
làm phát sinh những nhân tố gây mất ổn định ở đô thị. Hai là, ANTT đô thị
chính là sự an toàn, yên ổn trong cộng đồng dân cư, sự đoàn kết trong nội bộ
quần chúng trên địa bàn đô thị. Đảm bảo sự an toàn, yên ổn trong cộng đồng
dân cư, củng cố lòng tin giữa nhân dân với Đảng, chính quyền đô thị là nền
tảng đảm bảo ANTT đô thị. Từ thực tiễn sự nghiệp bảo vệ ANTT đô thị của
nước ta trong những năm gần đây cho thấy, mâu thuẫn, xung đột giữa các bộ
phận dân cư với chính quyền, giữa các bộ phận dân cư với nhau, tình hình
37
khiếu kiện đông người, phản ứng của quần chúng nhân dân với những hành vi
vi phạm pháp luật, chính sách của cán bộ, công chức ở một số đô thị ở nước ta
là một trong những nhân tố để gây mất ANTT. Những vấn đề phức tạp nảy
sinh này ở đô thị đã và đang trở thành nhân tố mà kẻ địch có thể lợi dụng để
thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,
xâm phạm ANQG ở nước ta. Do đó, một mặt phải đấu tranh với những âm
mưu và hoạt động của các thế lực thù địch, phản động nhằm chia rẽ khối đoàn
kết toàn dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân ta vào chế độ xã hội chủ
nghĩa. Mặt khác, phải đảm bảo an toàn về tính mạng và tài sản, các quyền, lợi
ích chính đáng của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ba là,
ANTT đô thị là bảo đảm sự an toàn các mục tiêu kinh tế; bảo đảm việc tổ chức
thực hiện đúng đắn và có hiệu quả các đường lối, chính sách phát triển kinh tế -
xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Kinh tế - xã hội phát triển bền vững là nền
tảng đảm bảo sự ổn định chính trị và ANTT đô thị. Đại hội XII của Đảng
khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh
và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [44, tr.149]. Đời sống kinh tế khó
khăn, cùng với sự yếu kém và sai lầm trong cơ chế quản lý kinh tế - xã hội là
một trong những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh những vấn đề phức
tạp về ANTT đô thị. Do vậy, việc bảo vệ các cơ sở kinh tế cũng như bản thân
quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối phát triển kinh tế - xã hội
của Nhà nước ở đô thị là một nội dung cơ bản trong công tác đảm bảo ANTT
đô thị. Thứ tư, ANTT đô thị chính là đảm bảo sự tồn tại và phát triển một cách
trong sáng nền tảng văn hóa, tư tưởng của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII
của Đảng đã nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát
triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển
38
bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” [44, tr.126]. Trong điều kiện hội nhập toàn cầu,
phát triển của đất nước, các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội, pháp luật
đang có sự chuyển động và chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như: Lối
sống cá nhân thực dụng, tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, hoạt động
tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch… Do đó, việc kế thừa những
giá trị đạo đức truyền thống, phát huy bản sắc văn hóa, xây dựng và củng cố hệ
tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong lòng xã hội là
những nội dung cơ bản bảo đảm cho sự phát triển ổn định, bền vững của đô thị.
Thứ năm, ANTT đô thị còn là sự ổn định và phát triển bền vững, hài hòa các
quan hệ xã hội ở đô thị. Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, các quan hệ
xã hội ở đô thị cũng có sự biến đổi hết sức mạnh mẽ theo những chuẩn mực
pháp luật, đạo đức, xã hội mới dần được hình thành. Đây là một quá trình tất
yếu nhằm tiến tới xây dựng đô thị văn minh, lành mạnh. Song nếu không có sự
quản lý tốt, các nhân tố tích cực không được phát hiện để bảo vệ thì sẽ rất dễ
phát sinh những tác động trái chiều gây hậu quả cho nền ANTT đô thị. Trên
thực tế hiện nay, sự bất tương xứng của hệ thống luật pháp, trình độ dân trí
thấp, sự yếu kém về ý thức chấp hành pháp luật của người dân trước sự biến
đổi của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa… chính là nguồn gốc sâu sa của những
hoạt động vi phạm pháp luật.
Để góp phần tiếp tục ổn định tình hình chính trị, kinh tế - xã hội và phát
triển đô thị, một trong những điều kiện tiên quyết là phải bảo vệ vững chắc
ANTT đô thị. Đặc biệt, cần quản lý tốt mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội
đô thị, nhằm bảo đảm xã hội ổn định, có trật tự kỷ cương, mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực hiện
nghiêm minh, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng... Điều
đó đòi hỏi Nhà nước, chính quyền đô thị, các cơ quan chức năng cần tăng
cường QLNN về ANTT đô thị.
39
2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, phương pháp của quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự đô thị
2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Trong khoa học quản lý, khoa học luật hành chính, QLNN được hiểu là
quá trình tổ chức, điều hành của hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước
đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người trên cơ sở các
quy định, quy phạm pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu, yêu cầu nhiệm
vụ Nhà nước đề ra. QLNN là hoạt động của các chủ thể, trong đó các cơ quan
nhà nước giữ vai trò chủ yếu, trên cơ sở hệ thống tổ chức của các cơ quan
QLNN và hệ thống pháp luật để tổ chức và điều hành quá trình hoạt động
chung của toàn xã hội, để giải quyết các nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội và các nhiệm vụ khác trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quản lý nhà nước về ANTT là một bộ phận của QLNN nói chung, tác
động vào tất cả các yếu tố liên quan đến ANTT nhằm bảo đảm sự ổn định và phát
triển về mọi mặt của đất nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn
hóa... Theo Từ điển Bách khoa CAND, năm 2005: “Quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự là hệ thống các biện pháp quản lý của Nhà nước do các cơ quan nhà nước
và các tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền tiến hành trên cơ sở pháp luật và
thi hành pháp luật, nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội” [122,
tr.978]. Trong sách chuyên khảo “Bước đầu tìm hiểu quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự”, của GS.TS Nguyễn Duy Hùng và GS.TS Hồ Trọng Ngũ đã đưa ra quan
niệm: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự là hoạt động hành chính, điều hành và
chấp hành được thực hiện bằng sự tác động đồng bộ có mục đích của Nhà nước
thông qua hoạt động của một hệ thống các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội
được chức năng hóa trong lĩnh vực này, vào tất cả các yếu tố cấu thành nền an
ninh, trật tự nhằm tạo nên sự ổn định, an toàn cho đất nước trên tất cả các phương
diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để thực hiện thắng lợi các mục tiêu bảo vệ
xây dựng và phát triển vững bền Tổ quốc xã hội chủ nghĩa [64, tr.27-28].
40
Quản lý nhà nước về ANTT là sự tác động có tổ chức và điều hành
bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động
của con người do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến
cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Từ điển
Bách khoa CAND năm 2005 cũng xác định: “Quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự là quản lý trên các lĩnh vực: An ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh
xã hội, an ninh tư tưởng - văn hóa, an ninh biên giới, bảo vệ lãnh tụ và cơ
quan đầu não của Đảng và Nhà nước, phòng chống tội phạm, phòng chống tệ
nạn xã hội, trật tự, an toàn giao thông và trật tự công cộng, phòng cháy chữa
cháy, giáo dục và cải tạo phạm nhân...” [122].
Từ quy định của Hiến pháp, Luật An ninh quốc gia, Luật Công an nhân
dân, QLNN về ANTT bao gồm các lĩnh vực cơ bản sau: Quản lý nhà nước về
an ninh chính trị; an ninh kinh tế; an ninh văn hóa, tư tưởng; về xuất, nhập
cảnh; phòng chống tội phạm; phòng chống ma túy và tệ nạn xã hội; quản lý
nhà nước về cư trú; quản lý căn cước công dân và các loại giấy tờ chứng nhận
khác; quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, con dấu; quản lý ngành nghề
kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự; quản lý các dịch vụ bảo vệ; quản
lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; quản lý nhà nước về
trật tự an toàn giao thông; quản lý nhà nước về giáo dục và cải tạo phạm nhân,
người có quyết định đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, quản lý tại
địa bàn cơ sở; quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường...
Quản lý nhà nước về đô thị là sự định hướng, tác động của nhà nước
vào các hoạt động đời sống của đô thị nhằm thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
của con người, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ xã
hội, bảo vệ môi trường theo mục tiêu phát triển đô thị bền vững. QLNN về đô
thị là quản lý tổng hợp trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành chuyên môn nhưng
chủ yếu là: Quản lý quy hoạch xây dựng đô thị, quản lý công trình xây dựng,
quản lý về đất đai đô thị, quản lý về kiến trúc đô thị, quản lý hạ tầng cơ sở đô
41
thị, quản lý vệ sinh môi trường, cảnh quan đô thị và quản lý về ANTT đô thị...
QLNN về ANTT đô thị là hoạt động mang tính chất quyền lực của cơ quan
hành chính nhà nước ở đô thị, mà trách nhiệm trước hết là người đứng đầu bộ
máy hành pháp ở đô thị, nhằm tạo ra các điều kiện để duy trì và ổn định các
quan hệ về ANTT ở đô thị theo quy định của pháp luật.
Từ những nhận thức chung về ANTT đô thị, về QLNN có thể đi đến
khái niệm: Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị là sự tác động tổ chức,
mang tính quyền lực nhà nước, trên cơ sở pháp luật của cơ quan hành chính
nhà nước và người có thẩm quyền trong các cơ quan đó tới các các mặt của
đời sống đô thị nhằm điều chỉnh các hoạt động của cá nhân, tổ chức ở đô thị
theo một trật tự nhất định, hướng tới thực hiện những mục tiêu đảm bảo an
ninh, trật tự trên địa bàn đô thị.
Mục tiêu của QLNN về ANTT đô thị là góp phần vào việc thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của công dân; đập tan mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực
thù địch; phòng chống những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến
các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội; bảo đảm trật tự bình thường cho
mọi hoạt động xã hội ở đô thị trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ pháp luật.
2.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Hoạt động QLNN về ANTT đô thị trước hết là nhằm phục vụ công tác
quản lý xã hội của Nhà nước, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của của dân cư đô
thị. Ngoài những đặc điểm chung của QLNN về ANTT như: QLNN về ANTT
là một lĩnh vực QLNN đa ngành, đa lĩnh vực, tác động đến mọi mặt của đời
sống xã hội; mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh
đơn phương của Nhà nước; mang tính sáng tạo cao, được thực hiện trên cơ sở
các hoạt động QLNN khác; QLNN về ANTT vừa công khai, vừa bí mật...
QLNN về ANTT đô thị còn có một số đặc điểm riêng:
Thứ nhất, khách thể của công tác quản lý nói chung là trật tự quản lý
42
mà chủ thể quản lý muốn thiết lập để đạt được các mục tiêu quản lý. Theo đó,
khách thể của QLNN về ANTT đô thị là sự ổn định, an ninh, an toàn tuyệt đối
của hệ thống chính trị, thể chế nhà nước ở đô thị; là trạng thái xã hội bình yên
ở đô thị mà nhân dân được sinh sống, lao động, học tập yên ổn trên cơ sở các
quy định của Hiến pháp và pháp luật, các quy tắc và chuẩn mực đạo đức xác
định ở phạm vi đô thị. Nói cách khác, khách thể của QLNN về ANTT đô thị
chính là hệ thống các mối quan hệ xã hội và hành vi của con người cần phải
tiến hành tác động bằng quyền lực nhà nước góp phần đảm bảo ANTT. Khách
thể của QLNN về ANTT đô thị là loại khách thể đặc biệt quan trọng, quan hệ
trực tiếp đến sự tồn vong và phát triển bền vững của chế độ, là lợi ích quốc
gia, lợi ích của Nhà nước và Đảng cầm quyền; lợi ích của hệ thống chính trị,
lợi ích bảo vệ con người, quyền công dân và trật tự tiến bộ xã hội, ổn định và
phát triển. Sự ổn định về chính trị luôn là điều kiện tiên quyết để phát triển đất
nước. Không có sự ổn định về chính trị thì sự phát triển kinh tế - xã hội không
thể bền vững. Do đó, phải coi trọng giữ vững ANTT là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Quá trình tổ chức QLNN
về ANTT đô thị của cơ quan có thẩm quyền không chỉ tập trung xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật về ANTT mà quan trọng hơn là phải tạo ra những
nền tảng xã hội vững chắc, phòng ngừa, ngăn chặn không cho các hành vi vi
phạm pháp luật xảy ra. QLNN về ANTT đô thị vừa phải tuân thủ những
nguyên tắc chung của QLNN về ANTT, đồng thời phải quán triệt những
nguyên tắc đặc thù, phải có sự tính toán kỹ lưỡng trong việc sử dụng những
hình thức, biện pháp quản lý phù hợp.
Thứ hai, đối tượng quản lý ANTT đô thị là các cá nhân (người nước
ngoài, người không có quốc tịch, công dân nước sở tại, sinh sống, lao động,
học tập trên địa bàn đô thị), cơ quan, tổ chức đóng trên địa bàn đô thị, trực
tiếp hay gián tiếp chịu sự quản lý của chính quyền đô thị ở những mức độ
khác nhau, tùy thuộc vào địa vị pháp lý của cơ quan, tổ chức đó. Các cơ quan,
43
tổ chức, cá nhân này là đối tượng của QLNN về ANTT đô thị khi tham gia
vào các hoạt động có liên quan đến ANTT đô thị điển hình như: Hoạt động
kinh doanh ngành, nghề có điều kiện về ANTT; đảm bảo trật tự, an toàn giao
thông; quản lý vũ khí, công cụ hỗ trợ; tạm trú, tạm vắng… Để chủ động thực
hiện có hiệu quả bảo đảm ANTT đô thị, mọi hành vi của tổ chức, cá nhân có
liên quan đến ANTT đô thị đều phải được đặt dưới sự quản lý của Nhà nước
mà trực tiếp là cơ quan QLNN về ANTT đô thị. Do hành vi có liên quan đến
ANTT của tổ chức, cá nhân không phải là bất biến mà thay đổi thường xuyên
theo thực tiễn của xã hội trong từng giai đoạn, nên yêu cầu QLNN về ANTT
cũng phải thay đổi theo, điều quan trọng đặt ra ở đây là cơ quan QLNN về
ANTT đô thị phải xác định được trong các hành vi của tổ chức, cá nhân thì
những hành vi nào có liên quan đến việc đảm bảo ANTT và đặt nó dưới sự
quản lý của cơ quan QLNN về ANTT đô thị. Xác định đúng đắn vấn đề này là
đảm bảo tính chủ động và triệt để trong hoạt động quản lý, tránh được việc bỏ
lọt những hành vi có thể phương hại cho ANTT đô thị hoặc can thiệp quá sâu,
không cần thiết vào hoạt động bình thường của cá nhân, tổ chức.
Đô thị là nơi tập trung dân cư, mật độ dân số cao, gồm nhiều thành
phần sống đan xen có lối sống khác nhau, tham gia các hoạt động kinh tế - xã
hội đa dạng nên việc quản lý dân cư đô thị có nhiều phức tạp hơn so với nông
thôn. Đô thị hóa cũng tạo ra sự khác biệt về lối sống giữa các nhóm cư dân đô
thị, đặc biệt giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo, nhóm dân cư đô thị
cũ với nhóm dân cư đô thị mới, dễ nảy sinh các tệ nạn xã hội, tội phạm và các
hiện tượng làm mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo nên sự
phức tạp trong mạng lưới các quan hệ xã hội ở đô thị.
Đô thị thường là nơi có nhiều trụ sở cơ quan hành chính, nơi diễn ra các
sự kiện chính trị quan trọng như đại hội Đảng, bầu cử quốc hội, hội nghị cấp
cao các nước ASEAN… Tại đây, thường tập trung đội ngũ lãnh đạo, cán bộ
chủ chốt của Đảng, Nhà nước; tập trung các tổ chức quốc tế… Các thế lực thù
44
địch đã coi các đô thị là địa bàn trọng điểm để tiến hành mọi hoạt động chống
phá Nhà nước ta về nhiều mặt, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” tăng
cường thâm nhập vào nội bộ nhằm phá ta từ bên trong, tiến tới bạo loạn lật đổ
chế độ ta.
Thứ ba, theo lý luận của quản lý hành chính nhà nước có thể thấy chủ
thể QLNN về ANTT là các cơ quan hành chính nhà nước, lãnh đạo trong các
cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực ANTT. Xem xét theo
quan điểm hệ thống, chủ thể QLNN về ANTT đô thị bao gồm: Ủy ban nhân
dân các cấp ở đô thị là cơ quan thẩm quyền chung trong việc tổ chức thực hiện
chức năng QLNN về ANTT tại địa phương mình; các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND các cấp ở đô thị gồm các sở, phòng và các cơ quan tương đương
có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT trong phạm vi ngành và lĩnh
vực công tác khác nhau tại đô thị theo quy định của pháp luật, đồng thời trong
quá trình triển khai các mặt công tác theo chức năng, nhiệm vụ được giao phải
phối hợp với các cơ quan có liên quan để góp phần đảm bảo tình hình ANTT
tại địa phương; các cá nhân được Nhà nước trao quyền trong thực hiện nhiệm
vụ QLNN về ANTT đô thị đó là Chủ tịch UBND và lãnh đạo các cơ quan, tổ
chức, đơn vị; các bộ, ngành có các cơ quan trực thuộc đóng trên địa bàn của địa
phương chịu sự quản lý trực tiếp của bộ, ngành, nhưng đồng thời phục vụ các
nhiệm vụ chung của địa phương, trong những trường hợp nhất định chịu sự chỉ
đạo của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương về mặt hành chính.
Chủ thể QLNN về ANTT đô thị phải chủ động, linh hoạt. Các thế lực
thù địch có thể sử dụng lực lượng, tổ chức đặc biệt trá hình dưới những vỏ
bọc công khai, hợp pháp cũng như những thủ đoạn hoạt động tinh vi để hoạt
động xâm hại đến ANTT đô thị. Nhưng cũng có những trường hợp chúng tiến
hành chống phá ta một cách trắng trợn, manh động, do đó, trong QLNN về
ANTT đô thị, các chủ thể, đặc biệt là cơ quan công an phải nhạy bén, khôn
khéo, linh hoạt, lựa chọn và sử dụng những biện pháp phù hợp gồm cả những
45
biện pháp quản lý nhà nước công khai và cả những biện pháp đấu tranh bí
mật. Đây là nét đặc thù của QLNN về ANTT so với các loại hình QLNN khác
như quản lý nhà nước về kinh tế, về giáo dục...
Đô thị chịu tác động một cách thường xuyên, trực tiếp của tình hình
chính trị, kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, là nơi tiếp nhận thông tin đầu
tiên, trực tiếp và nhạy bén trước mọi diễn biến, tình hình trong nước và thế
giới. Tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội ở địa bàn đô thị thường xảy ra nhiều,
diễn biến khó lường hơn địa bàn nông thôn, nhiều loại tội phạm sử dụng công
nghệ cao, tội phạm môi trường có tính chất phức tạp. Điều này tạo nên đặc
điểm hoạt động QLNN về ANTT đô thị phải rất chủ động, linh hoạt; đòi hỏi
bộ máy quản lý đồng bộ, hạn chế tầng nấc, cấp trung gian, chủ thể quản lý
phải xây dựng được một cơ chế điều chỉnh hoạt động QLNN về ANTT đô thị
vừa ổn định, vừa linh hoạt, cùng đội ngũ cán bộ, công chức vận hành một
cách chuyên nghiệp nhằm mục đích chủ động, kịp thời ứng phó một cách có
hiệu quả đối với mọi diễn biến, mọi tình huống xảy ra ở đô thị trên các lĩnh
vực liên quan đến ANTT...
Thứ tư, quản lý nhà nước về ANTT đô thị vận dụng linh hoạt nguyên tắc
kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Ngành ở đây được hiểu là hệ thống
các đơn vị cơ sở cùng chung mục đích và có quan hệ gắn bó với nhau. Nếu xét
về chức năng QLNN về ANTT mà lực lượng Công an là chủ thể tiến hành thì
ngành được hiểu là tất cả các đơn vị của lực lượng CAND trong cả nước thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT. Còn lãnh thổ được hiểu là nơi hoạt động của lực
lượng CAND được đặt trong tổng thể các mặt hoạt động khác. Hiện nay, trong
quá trình đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, các Bộ thực hiện nhiệm vụ cơ
bản mang tính chiến lược ở tầm vĩ mô nhằm đảm bảo hoạt động QLNN được
tiến hành một cách tập trung, thống nhất trong cả nước đối với ngành theo sự
phân công hợp lý để thực hiện nhiệm vụ chung là quản lý nhà nước. Là cơ quan
QLNN trực thuộc Chính phủ, Bộ Công an có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
46
tổ chức thực hiện QLNN về ANTT. Do vị trí, tính chất đặc biệt của nhiệm vụ
bảo vệ ANTT nên ngoài những vấn đề chung của QLNN trên lĩnh vực này, hoạt
động QLNN do Bộ Công an thực hiện còn có những đặc điểm và phương pháp
mang tính đặc thù. Ở địa bàn cấp tỉnh, Công an tỉnh, thành phố không chỉ làm
nhiệm vụ QLNN về ANTT như các sở, ngành khác mà còn tổ chức lực lượng
trực tiếp làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ ANTT ở địa phương.
Trên lĩnh vực QLNN về ANTT đô thị, theo luật định, UBND (cơ quan
có thẩm quyền chung) mà trực tiếp là Chủ tịch UBND chịu trách nhiệm
trước Đảng, Nhà nước về ANTT ở địa phương mình quản lý, Công an là cơ
quan chuyên môn (cơ quan có thẩm quyền riêng) thuộc UBND, trực tiếp và
chủ yếu đảm nhiệm QLNN về ANTT. Cũng như các sở, ngành khác ở địa
phương, Công an được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “song trùng
trực thuộc” - trực thuộc ngang và trực thuộc dọc. Theo chiều ngang, Công an
tỉnh, thành phố thực hiện chức năng QLNN về ANTT ở địa phương và chịu
sự chỉ đạo, quản lý về mặt tổ chức và công tác của Tỉnh ủy, Thành ủy và
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở một phạm vi và mức độ
nhất định. Theo chiều dọc, Công an tỉnh, thành phố chịu sự chỉ đạo về
chuyên môn nghiệp vụ đồng thời chịu trách nhiệm và báo cáo trước Bộ
Công an về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT. Xét tính chất cũng như thực
tiễn hoạt động, các sở, ngành (cơ quan chuyên môn của UBND) chủ yếu trực
thuộc ngang. Riêng Công an tỉnh, thành phố được quy định bởi tính chất đặc
thù của chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ bảo vệ ANTT nên trực thuộc dọc
là chủ yếu. Chính vì vậy, hầu hết cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng CAND
đều được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ riêng của ngành Công an. Do tính
chất đặc biệt của chức năng QLNN về ANTT nên gần như toàn bộ công tác
tổ chức, cán bộ của toàn lực lượng CAND đều do Bộ Công an hướng dẫn,
chỉ đạo và trực tiếp quyết định như: Xác định mô hình bộ máy tổ chức, tiêu
chuẩn cán bộ; số lượng biên chế và bố trí cán bộ...
47
2.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Quản lý nhà nước về ANTT đô thị có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp chung bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước:
Thứ nhất, QLNN về ANTT đô thị là phương thức tổ chức thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đấu tranh
chống phản cách mạng, chống các thế lực thù địch, các loại tội phạm, VPPL
đã được thể chế hóa thành những quy định pháp luật của Nhà nước; thành
những biện pháp cụ thể để phòng ngừa, đấu tranh kịp thời với âm mưu và
hoạt động xâm phạm ANTT trên địa bàn đô thị; góp phần bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm và các hành vi VPPL khác.
Hai là, QLNN về ANTT đô thị góp phần hỗ trợ đắc lực cho công tác quản
lý xã hội, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. QLNN về ANTT đô thị
với tiêu chí đặc trưng là trạng thái xã hội ổn định có trật tự, kỷ cương, mọi người
dân được sống trong yên bình; mọi hoạt động của Nhà nước, của công dân, của
các thành phần kinh tế xã hội được tôn trọng và thực thi theo đúng pháp luật.
Mọi hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp đều bị phát hiện và xử lý
theo đúng quy định của pháp luật. Làm tốt công tác QLNN về ANTT đô thị sẽ
góp phần tạo ra môi trường ổn định, tạo tiền đề cho sự phát triển các ngành nghề,
các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa bàn đô thị; thúc đẩy các hoạt động
hợp tác, đầu tư, nâng cao đời sống của quần chúng nhân dân. Thông qua quá
trình QLNN về ANTT đô thị trên thực tiễn, các lực lượng chuyên môn tham
mưu, đề xuất giúp cho Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành hoạch định các đường
lối, chính sách cũng như chiến lược phát triển nền kinh tế - xã hội, như: Thông
qua QLNN về cư trú cung cấp các số liệu về dân cư, tài liệu về con người giúp
cho Nhà nước có cơ sở để xây dựng hoạch định, điều chỉnh các chính sách đào
tạo phát triển về con người, phân bố lao động hợp lý, đổi mới cơ cấu phát triển
kinh tế... phục vụ yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
48
Ba là, QLNN về ANTT đô thị còn có vai trò tổ chức, xây dựng đời
sống xã hội của dân cư đô thị, tuân thủ những chuẩn mực đạo đức, bảo tồn
những giá trị văn hóa truyền thống, bài trừ các hiện tượng xã hội tiêu cực có
hại cho sự phát triển của con người và xã hội.
2.2.4. Phương pháp quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Phương pháp QLNN về ANTT đô thị là cách thức, phương thức được
sử dụng để đảm bảo việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
chủ thể QLNN về ANTT đô thị. Để QLNN về ANTT đô thị, các chủ thể theo
sự phân công phối hợp khai thác, sử dụng các phương pháp của QLNN để
điều tiết các vấn đề liên quan đến lĩnh vực đảm bảo ANTT đô thị. QLNN về
ANTT đô thị gồm có các phương pháp chủ yếu sau:
Một là, phương pháp giáo dục, thuyết phục
Phương pháp giáo dục, thuyết phục là phương pháp mang tính chất đạo
đức, tư tưởng được thực hiện trên cơ sở pháp lý nhằm đưa pháp luật vào cuộc
sống, tạo ra sự chuyển biến sâu sắc cho đối tượng quản lý lẫn chủ thể quản lý.
Các chủ thể quản lý dựa vào các văn bản pháp luật, chính sách của nhà nước
tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, để mọi
người xác định được trách nhiệm của mình, từ đó nâng cao tính tự giác trong
việc chấp hành các chính sách, pháp luật trong QLNN về ANTT đô thị.
Để thực hiện phương pháp giáo dục, thuyết phục, cần phải tập trung
những nội dung cụ thể sau đây:
Giáo dục về pháp luật: Nha nươc phai cung cấp nhưng kiên thưc pháp
luật cân thiêt cho đôi tương quan ly, để họ nắm được các quy định của pháp
luật về ANTT và xử sự đúng đắn khi tham gia các quan hệ xã hội. Giáo dục
về pháp luật nhằm góp phần bảo đảm cho pháp luật về QLNN về ANTT
được mọi người tôn trọng, bảo vệ và sử dụng làm vũ khí đấu tranh phòng
ngừa và chống các hành vi VPPL, bảo vệ vững chắc ANTT đô thị. Nội dung
giáo dục pháp luật bao gồm: Giáo dục về vị trí, vai trò của pháp luật trong
49
QLNN, trong đấu tranh bảo vệ ANTT; những quan điểm, tư tưởng, nguyên
tắc pháp chế của Nhà nước…
Giáo dục về cuộc đấu tranh bảo vệ ANTT đô thị: Phải giáo dục trong
toàn dân nhận thức được âm mưu và hành động của các thế lực thù địch, đặc
biệt là chiến lược “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chống
Việt Nam. Giáo dục về cách thức, biện pháp đấu tranh ngăn chặn, xử lý
những vấn đề vi phạm nảy sinh trong đời sống xã hội, tất cả cũng nhằm nâng
cao ý thức trách nhiệm của mọi người, cuốn hút đông đảo mọi tầng lớp nhân
dân tham gia tích cực cuộc đấu tranh bảo vệ ANTT đô thị.
Giáo dục, thuyết phục nhằm truyền tải các nội dung trên đến đối tượng
quản lý và thông qua các hình thức hội họp, hội thảo, bằng trường lớp; tiến
hành thường xuyên thông qua các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của
người quản lý; lồng ghép những nội dung cần giáo dục vào các hoạt động xã
hội khác; thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (báo chí, phát
thanh, truyền hình, tranh ảnh, những hoạt động vui chơi giải trí nơi công
cộng) để chuyển tải các nội dung giáo dục. Giáo dục phục vụ QLNN về
ANTT đô thị vừa phải bao hàm tính định hướng xã hội, đây là chức năng rất
quan trọng, không thể thiếu được trong giáo dục, vừa phải trau dồi tri thức,
quan điểm thể hiện trong đường lối, chính sách, pháp luật, vừa phải phê phán,
đấu tranh lên án những việc làm sai trái, các hành vi vi phạm.
Bên cạnh viêc nâng cao trinh đô dân tri, Nha nươc cân quan tâm xây
dưng nhân cach ngươi quan ly, đông thơi đê cao ly tương, đao đưc, nguyên
vong, danh dư... cua môi con ngươi la đôi tương quan ly, tao lâp trong ho
niêm tin đôi vơi Nha nươc xã hội chủ nghĩa, tư đo tao ra nên tang tinh thân
vưng chăc đê xây dưng môt xa hôi co trât tư, ky cương và văn minh.
Hai là, phương pháp hành chính, cưỡng chế
Phương pháp quản lý hành chính, cưỡng chế dựa trên cơ sở của pháp
luật là loại phương pháp quản lý riêng có của nhà nước, tác động trực tiếp
50
bằng mệnh lệnh vào khách thể quản lý. Phương pháp này có vai trò to lớn
trong việc điều tiết các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ xã hội trong
lĩnh vực ANTT đô thị nói riêng.
Các cơ quan hành chính nhà nước ở đô thị phải sử dụng pháp luật để
điều tiết các quan hệ xã hội về ANTT đô thị, làm cho các quan hệ đó phát
triển lành mạnh, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở mọi nơi, mọi
lúc. Cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội về ANTT đô thị là
một quá trình thực hiện sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội. Cơ
chế này bao gồm hai nhân tố chủ yếu: Định ra các quy phạm pháp luật và sử
dụng các quy phạm pháp luật để điều tiết các quan hệ xã hội.
Trong công cuộc đổi mới, một trong những vấn đề hết sức quan trọng
là phải xây dựng chính quyền đô thị là chính quyền của dân, do dân, vì dân.
Xã hội càng phát triển thì vai trò của luật pháp trong quản lý càng nâng cao,
mỗi hành động, mỗi bước đi trong lĩnh vực QLNN về ANTT đô thị đều cần
phải có luận chứng về luật pháp.
Cương chê trong QLNN về ANTT la viêc Nha nươc dung sư thiêt hai
lam ap lưc đê buôc đôi tương quan ly tuân thu cac quy đinh cua Nha nươc
nhăm đat đươc muc tiêu quan ly. Nghĩa la, khi đôi tương thưc hiên nhưng
hanh vi trai quy đinh cua Nha nươc, nhưng hanh vi bi câm đa gây ra hoăc co
nguy cơ gây ra nhưng thiêt hai cho công đông, cho Nha nươc, vi vây Nha
nươc đưa ra chê tai xư ly khiên cho đôi tương quan ly vi sơ thiêt hai đên minh
ma tuân thu cac quy đinh cua Nha nươc. Thiêt hai cho đôi tương quan ly ma
Nha nươc đưa ra lam lưc cương chê bao gôm: Thiêt hai vê vât chât, như thiêt
hai do phai nôp phat, bi tich thu tai san, do bi đinh chi san xuât kinh doanh...;
thiêt hai vê danh dư, uy tin do bi phat canh cao, thiêt hai vê tư do bi phat tu...
Phương phap hành chính, cương chê giup Nha nươc giai quyêt nhanh
chong nhưng mâu thuân, xung đôt trong xa hôi, xac lâp đươc trât tư, ky
cương, môi trương phap ly hơp ly va ôn đinh cho sư phat triên xa hôi.
51
Ba là, phương pháp kinh tế
Phương pháp quản lý bằng kinh tế là tổng hợp các cách thức vận dụng các
chính sách kinh tế, các đòn bẩy kinh tế để kích thích các đối tượng quản lý thực
hiện có năng suất, chất lượng và hiệu quả các công việc xã hội theo định hướng đã
vạch ra. Là một phương pháp quản lý đang được đề cao, không riêng lĩnh vực
nào. Trên lĩnh vực ANTT, phương pháp QLNN bằng kinh tế là phương pháp quản
lý có ý nghĩa, vai trò ngày càng cao. Sử dụng phương pháp kinh tế trong QLNN
về ANTT đô thị là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm cơ bản của Đảng,
kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh; xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc; kích
thích để phát triển kinh tế cũng là tạo điều kiện để giữ vững ANTT đô thị.
Lơi ich ma Nha nươc sư dung đê kich thich bao gôm ca lơi ich vât chât
va lơi ich tinh thân. Lơi ich vât chât co thê đươc Nha nươc trưc tiêp trao cho
đôi tương quan ly như thưc hiên chê đô tiên lương, tiên thương, trơ câp... đê
tac đông đên điêu kiên hoat đông cua con ngươi, lam đông lưc thuc đây con
ngươi yên tâm hanh đông tich cưc hơn trong quản lý nhà nước về an ninh, trât
tư. Hoăc Nha nươc tac đông gian tiêp thông qua viêc sư dung cac công cu đon
bây kinh tê như chinh sach gia ca, lai suât tin dung, chinh sach thuê đê co thê
lam tăng doanh thu, ha gia thanh khiên cho lơi nhuân cua doanh nghiêp tăng
lên, la đông lưc kich thich cac doanh nhân đâu tư theo hương co lơi cho Nha
nươc, cho công đông trong linh vưc an ninh, trât tư.
2.3. Nội dung quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Quản lý nhà nước về ANTT đô thị là hoạt động mang tính chấp hành và
điều hành của các cơ quan QLNN, cá nhân có thẩm quyền được tiến hành trên
cơ sở pháp luật, nhằm bảo vệ ANTT đô thị. Dưới góc độ của khoa học luật thì
nội dung của QLNN về ANTT đô thị có thể khái quát lại bao gồm:
2.3.1. Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về QLNN về
52
ANTT đô thị là khâu quan trọng, đầu tiên của quá trình quản lý, là sự ghi
nhận nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ trong quá trình
quản lý nhà nước có liên quan đến ANTT đô thị. Việc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật nhằm tạo nên hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực chung để
các chủ thể khi tham gia mối quan hệ xã hội trong các lĩnh vực liên quan đến
ANTT đô thị phải tuân theo.
Pháp luật về quản lý nhà nước về ANTT đô thị được quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Hiến pháp, các Luật về tổ chức bộ
máy nhà nước, các Luật chuyên ngành và các văn bản dưới luật.
Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương và các văn bản dưới luật tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước đều có những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà
nước trong QLNN về ANTT đô thị.
Cụ thể hóa Hiến pháp, hoạt động QLNN về ANTT được quy định tập
trung trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Luật An ninh quốc gia, năm
2004 là một trong những Luật quan trọng quy định về chính sách an ninh
quốc gia nói chung; các nguyên tắc, nhiệm vụ, biện pháp bảo vệ an ninh quốc
gia; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
và công dân trong QLNN về ANQG...
Luật Công an nhân dân, năm 2014 đã xác định các nhiệm vụ, quyền
hạn của lực lượng CAND trong thực hiện nhiệm vụ đảm bảo ANTT. Có thể
nói đây là cơ sở pháp lý quan trọng để lực lượng Công an ở đô thị triển khai
các nhiệm vụ cần thiết phục vụ công tác QLNN về ANTT đô thị. Điển hình
như: Thực hiện QLNN về ANQG, bảo vệ bí mật nhà nước; chủ trì thực hiện
quản lý về nhập cảnh, xuất cảnh, quản lý về cư trú, quản lý nhà nước về đấu
tranh phòng chống tội phạm...
Ngoài ra, hoạt động QLNN về ANTT nói chung, QLNN về ANTT đô
thị nói riêng còn được quy định trong các văn bản pháp luật quy định các
53
mặt hoạt động cụ thể, như: Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nước, Pháp lệnh
Cảnh vệ, Luật Biên giới quốc gia, Luật Cư trú, Luật Tổ chức điều tra hình
sự, Luật Phòng, chống ma tuý, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Nhập
cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Luật
phòng cháy và chữa cháy...
Trên cơ sở các luật, pháp lệnh, rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật
dưới luật đã được ban hành để cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành, như: Nghị định
73/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh
và trật tự, an toàn xã hội; Nghị định 33/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nước; Nghị định 106/2014/NĐ-CP, ngày
17/11/2014 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Bộ Công an; Nghị định 06/2014/NĐ-CP về biện pháp vận
động quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; Nghị
định 96/2016/NĐ-CP quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số
ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện...
Trên cơ sở đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
chiến lược bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ANTT, chính quyền địa phương ở đô thị
còn xây dựng các chương trình, kế hoạch, ban hành văn bản pháp luật về bảo
vệ ANTT, cụ thể hóa thành nhiệm vụ bảo vệ ANTT trong từng giai đoạn.
Như vậy, pháp luật về quản lý nhà nước về ANTT đô thị là một lĩnh
vực pháp luật có tính tổng hợp, nhưng chủ yếu là các quy phạm pháp luật
thuộc ngành luật hành chính.
Nội dung pháp luật về QLNN về ANTT rất đa dạng, nhưng có thể tập
trung một số nhóm cơ bản sau đây:
- Pháp luật quy định thẩm quyền quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
và quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị của các cơ quan nhà nước
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Khoản 1, Điều 20, Luật Tổ chức Chính phủ
54
quy định: Chính phủ “thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội”. Chính phủ thực hiện QLNN về ANTT bằng việc xây dựng và
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật về bảo vệ ANTT và tổ
chức điều hành các hoạt động bảo vệ ANTT theo quy định của pháp luật.
Bộ Công an là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng QLNN về
ANTT. Điều 30, Luật An ninh quốc gia, năm 2004 quy định: “Bộ Công an
chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ
Ngoại giao, các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ
an ninh quốc gia” [87]. Điều 14, Luật Công an nhân dân, năm 2014 quy định:
“Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ
an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội
phạm; chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà
nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội...” [92]. Trong quá trình thực
hiện chức năng QLNN về ANTT đô thị, công an ở đô thị vừa phải chịu sự chỉ
đạo, quản lý của công an cấp trên theo hệ thống dọc, vừa phải thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ ANTT theo sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân, chịu sự giám
sát của Hội đồng nhân dân ở đô thị theo hệ thống ngang. Về lý luận, thì sự
quan hệ dọc - ngang, tức là sự kết hợp theo ngành và theo lãnh thổ không có
sự mâu thuẫn, do nó được điều tiết bằng hệ thống pháp luật và quy chế phối
hợp giữa ngành Công an và Ủy ban nhân dân các cấp. Bộ Công an chịu trách
nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao,
các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện QLNN về ANQG.
Bộ Quốc phòng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chịu
trách nhiệm trước Chính phủ phối hợp với Bộ Công an thực hiện QLNN về
ANQG; chỉ đạo các lực lượng thuộc quyền phối hợp chặt chẽ với lực lượng
Công an nhân dân và chính quyền địa phương để bảo vệ ANQG theo quy định
của pháp luật (Điều 31, Luật An ninh quốc gia). Bộ Ngoại giao trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ
55
ANQG theo quy định (Điều 32, Luật An ninh quốc gia).
Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ ANTT theo quy định và
phối hợp với các cơ quan hữu quan để bảo vệ ANTT. Chẳng hạn, Bộ Giao
thông vận tải chịu trách nhiệm trước Nhà nước trong quản lý, điều hành các
hoạt động về giao thông vận tải, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Công an để
bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
Chính quyền nhà nước là bộ máy điều hành, quản lý công việc của nhà
nước, được tổ chức theo thứ bậc gắn với đơn vị hành chính các cấp, gồm chính
quyền Trung ương và chính quyền địa phương. Ủy ban nhân dân các cấp ở đô thị
thể hiện vai trò quản lý nhà nước nói chung, QLNN về ANTT đô thị nói riêng,
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động quản lý hành chính
nhà nước ở các lĩnh vực đời sống xã hội, trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ
và kết hợp hài hòa giữa lợi ích địa phương với lợi ích chung của cả nước.
Điều 34, Luật An ninh quốc gia quy định: “Ủy ban nhân dân các cấp
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về
bảo vệ an ninh quốc gia ở địa phương”. Ủy ban nhân dân các cấp ở đô thị
thực hiện QLNN về ANTT đô thị bằng việc xây dựng chương trình, kế hoạch,
văn bản quy phạm pháp luật về ANTT; chịu sự kiểm tra, giám sát của Hội
đồng nhân dân cùng cấp; thường xuyên báo cáo, đề xuất Hội đồng nhân dân
chủ trương, chính sách tăng cường QLNN về ANTT đô thị; phối hợp với Bộ
Công an, công an trên một cấp chỉ đạo công an địa phương thực hiện nhiệm
vụ QLNN về ANTT đô thị.
Khoản 6, Điều 21, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, năm 2015
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố trực
thuộc trung ương): “Thực hiện các nhiệm vụ về tổ chức và bảo đảm việc thi
hành Hiến pháp và pháp luật, xây dựng chính quyền và địa giới hành chính,
giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao,
56
y tế, lao động, chính sách xã hội, dân tộc, tôn giáo, quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và các nhiệm vụ, quyền
hạn khác theo quy định của pháp luật” [95].
Điều 4, Luật Thủ đô quy định trách nhiệm xây dựng, phát triển và bảo vệ
Thủ đô: “Xây dựng, phát triển và bảo vệ Thủ đô là nhiệm vụ thường xuyên, trực
tiếp của các cấp chính quyền và nhân dân thành phố Hà Nội; là trách nhiệm của
các cơ quan, tổ chức, các lực lượng vũ trang và nhân dân cả nước” [89].
Ủy ban nhân dân các cấp ở đô thị vừa có quyền năng điều phối các cơ
quan, ban ngành của địa phương trong việc thực hiện nghĩa vụ tham gia
QLNN về ANTT đô thị trong phạm vi ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức,
ban ngành đó, vừa có quyền năng trực tiếp đối với hệ thống các cơ quan
chuyên ngành QLNN về ANTT đô thị.
Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp ở đô thị gồm
các sở, phòng và các cơ quan tương đương phòng có trách nhiệm thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ ANTT trong phạm vi ngành và lĩnh vực công tác khác nhau
tại đô thị theo quy định của pháp luật.
Các cá nhân được Nhà nước trao quyền trong thực hiện nhiệm vụ
QLNN về ANTT đô thị đó là Chủ tịch Ủy ban nhân dân và lãnh đạo các cơ
quan, tổ chức, đơn vị. Theo quy định tại Điều 29, Luật Tổ chức chính quyền
địa phương, năm 2015 thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm lãnh
đạo điều hành Ủy ban nhân dân thực hiện các nhiệm vụ QLNN về ANTT đô
thị. Lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp ở đô thị chịu trách nhiệm
tổ chức triển khai các biện pháp đảm bảo ANTT tại cơ quan, tổ chức, đơn vị
mình, phối hợp thực hiện công tác QLNN về ANTT đô thị theo sự hướng dẫn
của cơ quan chuyên trách bảo vệ ANTT ở địa phương.
- Pháp luật quy định nhiệm vụ quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Để góp phần ổn định và phát triển đất nước, một trong những điều kiện
tiên quyết là phải bảo vệ vững chắc ANTT. Điều 14, Luật An ninh quốc gia,
57
năm 2004 quy định 5 nhiệm vụ bảo vệ ANQG, bao gồm: Bảo vệ chế độ chính
trị và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh về tư tưởng
và văn hóa, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân; bảo vệ an ninh trong các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng,
đối ngoại và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ bí mật nhà nước và các
mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn,
đấu tranh làm thất bại và loại trừ các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia,
nguy cơ đe doạ an ninh quốc gia.
Công an nhân dân chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống
nhất QLNN về ANTT. Nhiệm vụ và quyền hạn của Công an nhân dân trong
QLNN về ANTT được quy định tại Điều 15, Luật Công an nhân dân, năm
2014 và Điều 2, Nghị định số 106/2014/NĐ-CP ngày 17/11/2014 quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an: Thực hiện
quản lý về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ bí mật nhà nước; chủ trì thực hiện
quản lý về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại
Việt Nam; thực hiện quản lý về công tác điều tra và phòng, chống tội phạm, tệ
nạn xã hội; thực hiện quản lý về thi hành án hình sự; thực hiện quản lý về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực ANTT; thực hiện quản lý về cư trú, cơ
sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân, con dấu; quản lý về trật tự,
an toàn giao thông, trật tự công cộng, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, phòng
cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật; chủ trì, phối hợp quản lý và thực
hiện công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ ANTT; hướng dẫn, kiểm tra,
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động bảo vệ ANTT...
- Pháp luật quy định các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự
Điều 15, Luật An ninh quốc gia, năm 2004 quy định các biện pháp cơ
bản bảo vệ an ninh quốc gia bao gồm: Vận động quần chúng, pháp luật, ngoại
giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang.
58
Biện pháp vận động quần chúng là phương pháp, cách thức huy động
và sử dụng sức mạnh của quần chúng nhân dân tham gia công tác bảo vệ
ANTT. Nghị định số 06/2014/NĐ-CP, ngày 21/01/2014 của Chính phủ quy
định cụ thể biện pháp vận động quần chúng bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH.
Biện pháp pháp luật là cách thức, phương pháp xây dựng pháp luật, ký
kết, gia nhập điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế và sử dụng pháp luật, điều ước
quốc tế, thỏa thuận quốc tế trong bảo vệ ANTT. Nghị định số 35/2011/NĐ-CP
quy định nội dung, nguyên tắc, thẩm quyền, trách nhiệm và bảo đảm điều kiện
cho việc áp dụng biện pháp pháp luật bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH.
Biện pháp ngoại giao là thông qua hoạt động đối ngoại để phát hiện,
phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh ngoại giao với các hoạt động xâm phạm
ANQG và các nguy cơ đe doạ ANQG.
Biện pháp kinh tế là cách thức, phương thức sử dụng các quy luật kinh
tế, quan hệ kinh tế, hoạt động kinh tế và lợi ích kinh tế theo quy định của
pháp luật để bảo vệ ANTT.
Biện pháp khoa học - kỹ thuật là sử dụng khoa học và công nghệ,
phương tiện kỹ thuật để phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống các hoạt động
xâm phạm ANQG, TTATXH.
Biện pháp nghiệp vụ là hệ thống các biện pháp công tác đặc biệt, riêng
có của cơ quan chuyên trách bảo vệ ANTT. Khoản 13, Điều 15, Luật Công an
nhân dân, năm 2014 quy định Công an được “áp dụng các biện pháp vận động
quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ
trang để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội theo quy định
của pháp luật” [92].
Biện pháp vũ trang là sử dụng phương thức vũ trang trong tuần tra, bảo
vệ mục tiêu và tiến công, truy quét, trấn áp tội phạm, các lực lượng hoạt động
xâm phạm ANTT.
Biện pháp xử lý hành chính (Khoản 3, Điều 2, Luật Xử lý vi phạm
59
hành chính, năm 2012) là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm
pháp luật về ANTT mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc...
2.3.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự đô thị
Khi các văn bản pháp luật về QLNN về ANTT đô thị có hiệu lực, yêu
cầu đặt ra đối với việc tổ chức thực hiện văn bản này là phải đạt được mục đích
khi ban hành văn bản. Đây là cơ sở để đánh giá việc thực hiện pháp luật, vì nếu
không đạt được những mục đích đặt ra thì các quy phạm pháp luật cũng không
có giá trị thực tế. Xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là đòi hỏi khách
quan của việc quản lý nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực
hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt
động thực tế của các chủ thể pháp luật. Khoa học pháp lý đã phân chia thực
hiện pháp luật thành những hình thức như: Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong phạm vi thẩm quyền, các
cơ quan QLNN về ANTT đô thị tổ chức triển khai các quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật bằng nhiều hình thức khác nhau. Với trình độ chuyên
môn của các cán bộ, công chức có thẩm quyền, tiến hành tổ chức cho các chủ
thể tham gia hoạt động liên quan đến ANTT đô thị thực hiện những quy định
của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
những quan hệ pháp luật cụ thể trong lĩnh vực QLNN về ANTT đô thị.
Tổ chức thực hiện pháp luật về QLNN về ANTT đô thị nhằm đưa các
quy phạm pháp luật vào điều chỉnh các quan hệ về các lĩnh vực QLNN về
ANTT đô thị như: Quản lý nhà nước về an ninh chính trị; an ninh kinh tế; an
ninh văn hóa, tư tưởng; phòng chống tội phạm; phòng chống ma túy và tệ nạn
xã hội; quản lý nhà nước về cư trú; quản lý căn cước công dân; quản lý vũ
60
khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, con dấu; quản lý ngành nghề kinh doanh có
điều kiện về an ninh, trật tự; quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy, cứu
nạn, cứu hộ; quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông... Tổ chức triển
khai các hoạt động quản lý là hình thức phổ biến và quan trọng nhất trong
QLNN về ANTT nói chung và QLNN về ANTT đô thị nói riêng. Hiệu lực,
hiệu quả QLNN có bảo đảm hay không phụ thuộc vào tính nghiêm minh và
hiệu quả của việc tổ chức xử lý, điều hành các hoạt động quản lý diễn ra
thường ngày trong đời sống xã hội. Với hình thức này, các cơ quan có thẩm
quyền riêng trong QLNN về ANTT phải thường xuyên thu nhận, phân tích,
xử lý thông tin, dự báo tình hình có liên quan đến ANTT để tham mưu, đề
xuất cấp trên và trực tiếp ra các quyết định điều hành, xử lý các tình huống
quản lý diễn ra liên quan đến ANTT.
2.3.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự đô thị
Đây là khâu quan trọng, là cầu nối giữa hoạt động xây dựng và thực thi
pháp luật. Hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là kết quả đạt
được trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật tác động vào các đối tượng
nhằm đạt được các mục đích đặt ra. Mục đích phổ biến, giáo dục pháp luật là
nâng cao nhận thức và hành động chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân.
Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật là những quy định pháp luật cần được
truyền đạt đến đối tượng cần phổ biến. Phổ biến, giáo dục pháp luật QLNN về
ANTT đô thị là việc các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành các hoạt động
nhằm đảm bảo quyền tiếp cận các thông tin pháp luật về QLNN về ANTT đô thị
một cách thuận lợi nhất. Phổ biến, giáo dục pháp luật QLNN về ANTT đô thị
chính là hoạt động truyền tải những thông tin, các nội dung, quy định pháp luật
đến với nhân dân, giúp cho người dân hiểu biết và nắm bắt pháp luật kịp thời.
Điều 10, Hiến pháp, năm 2013 quy định về tuyên truyền, giáo dục
bảo vệ ANQG: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
61
phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo công tác
tuyên truyền, giáo dục bảo vệ an ninh quốc gia... Xác định giáo dục pháp
luật bảo vệ ANTT là một nội dung giáo dục quốc dân, trong nhiều năm
qua, Chính phủ đã ra nhiều văn bản chỉ đạo và tổ chức thực hiện như: Nghị
định số 116/2007/NĐ-CP, ngày 10/7/2007 về giáo dục quốc phòng an ninh;
đặc biệt để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm ANTT trong giai đoạn cách
mạng mới, ngày 19/6/2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Giáo
dục quốc phòng và an ninh. Luật này đã cụ thể hóa quan điểm, chủ trương
của Đảng, từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý và tạo chuyển biến nhận
thức của toàn Đảng, toàn dân và hệ thống chính trị trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2.3.4. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
V.I.Lênin cho rằng: “Quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và
thanh tra là một chứ không phải là hai” [70]. Như vậy, QLNN và kiểm tra,
thanh tra luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ở đâu có QLNN thì ở đó
đòi hỏi phải có hoạt động kiểm tra, thanh tra. Trong mối quan hệ này, quản lý
giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động kiểm tra, thanh tra. Phạm vi quản lý
đến đâu thì phạm vi kiểm tra, thanh tra phải mở rộng đến đó. Nội dung của
quản lý quyết định nội dung của kiểm tra, thanh tra. Cơ quan quản lý sử dụng
kết quả từ phía cơ quan thanh tra để từ đó làm cơ sở hoàn thiện cơ chế quản lý
của mình. Thanh tra, kiểm tra là khâu quan trọng, không thể thiếu của hoạt
động quản lý nói chung và hoạt động QLNN về ANTT đô thị nói riêng nhằm
phát hiện sai phạm, xử lý nghiêm đảm bảo hiệu quả cho hoạt động quản lý.
Thanh tra QLNN về ANTT đô thị là một chức năng được thực hiện bởi cơ
quan chuyên trách nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật, giữ vững kỷ cương trật tự
trong quản lý, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai lầm, xử lý vi phạm trong
hoạt động chấp hành các quy định pháp luật của nhà nước về ANTT đô thị.
62
Kiểm tra QLNN về ANTT đô thị là việc xem xét các hoạt động của chủ
thể có chấp hành đúng pháp luật của nhà nước trên các lĩnh vực liên quan đến
ANTT đô thị, từ đó xem xét các mức độ vi phạm để kịp thời xử lý theo quy định.
Quyền và lợi ích của chủ thể QLNN về ANTT đô thị và đối tượng chịu
sự QLNN không phải lúc nào cũng được dung hòa bởi những nguyên tắc điều
chỉnh. Do đó, khó có thể tránh khỏi những bất đồng, tranh chấp nảy sinh trong
QLNN về ANTT. Sự phản ứng của đối tượng chịu sự QLNN là dùng quyền
khiếu nại, tố cáo như một phương tiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
mình. Điều 41, Nghị định số 73/2010/NĐ-CP, ngày 12/07/2010 quy định: “Cá
nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại đối với quyết định
xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính của người có thẩm quyền” [25]. Việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cá
nhân được nhà nước trao quyền xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết
đối với các khiếu nại, tố cáo phát sinh trong quá trình QLNN về ANTT.
Vi phạm pháp luật QLNN về ANTT đô thị có thể phát sinh các loại
VPPL như: VPPL hành chính; vi phạm kỷ luật; vi phạm Luật Cư trú; VPPL
giao thông đường bộ... Xử lý VPPL về QLNN về ANTT đô thị được hiểu là
hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định của pháp
luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, xử lý kỷ
luật hay xử lý hình sự đối với các tổ chức, cá nhân VPPL trong các lĩnh vực
QLNN về ANTT đô thị.
Nghị định số 73/2010/NĐ-CP, ngày 12/07/2010 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự an toàn xã hội xác định: Vi
phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự là hành vi vi phạm các quy
định quản lý nhà nước về an ninh, trật tự do cá nhân, tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của Nghị
63
định này phải bị xử phạt vi phạm hành chính [29]. Xử phạt vi phạm hành
chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện
pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính [88].
2.4. Các bảo đảm tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
đô thị
2.4.1. Yếu tố chính trị
Chính trị là hoạt động liên quan đến các mối quan hệ giai cấp, quốc gia,
dân tộc xoay quanh việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. QLNN về
ANTT đô thị cần phải chú trọng tới yếu tố chính trị bởi chính trị có ảnh hưởng
hết sức quan trọng đến định hướng của quản lý, hiệu quả hoạt động QLNN.
Do tính chất đặc biệt, đặc thù của môi trường QLNN về ANTT nên
chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các văn bản của Trung ương Đảng, Bộ Chính
trị và tổ chức Đảng các cấp. Nhiều văn bản, nghị quyết của Đảng mặc dù
chưa được luật hóa nhưng vẫn có giá trị trong hoạt động của hệ thống QLNN
về ANTT. Sự điều chỉnh trực tiếp bằng văn bản của Đảng đối với QLNN về
ANTT xuất phát từ đòi hỏi khách quan của lịch sử về vai trò của một chính
Đảng lãnh đạo. Ở địa phương, văn bản của cấp ủy đảng địa phương vẫn là văn
bản điều chỉnh hoạt động của các cơ quan bảo vệ ANTT. Ngay từ Nghị quyết
31/BCT, tháng 12/1980 của Bộ Chính trị cũng ghi rõ: “Sự lãnh đạo tập trung,
thống nhất, toàn diện của cấp ủy Đảng là sự bảo đảm cơ bản nhất để làm thất
bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt, giành mọi thắng lợi trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Hệ thống tổ chức, bộ máy, cán bộ sắp xếp phải
bảo đảm quán triệt: “Hệ thống an ninh phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Bộ Chính trị và Ban thường vụ các cấp ủy Đảng” [10]. Đây là đặc thù rõ nét
xét trên phương diện QLNN về ANTT. Ở đô thị Hà Nội, Thành ủy Hà Nội
lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, chỉ đạo các mặt công tác QLNN về ANTT đô
thị; tổ chức kiểm tra các cơ quan chức năng, các ngành, các cấp có liên quan
64
thực hiện QLNN về ANTT. Tuy nhiên, cấp ủy Đảng không can thiệp sâu vào
chức năng chuyên môn của các ngành, không bao biện làm thay cho các
ngành chức năng. Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội: “Quyết định biện pháp bảo
đảm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật; giữ
vững an ninh chính trị, đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tội phạm, các
hành vi VPPL khác, bảo đảm TTATXH” [95].
Những quy định pháp luật QLNN về ANTT đô thị chính là sự thể chế
hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng ta. Tuy nhiên, khi đã có
pháp luật thì việc thực hiện chúng có hiệu quả hay không lại phụ thuộc vào
quan điểm chính trị và quyết tâm chính trị của cơ quan hành chính nhà nước
ở đô thị. Có thể nói, chính trị là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của
công tác QLNN về ANTT đô thị. Nếu các cấp ủy Đảng và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền đều có quyết tâm chính trị, sẵn sàng hỗ trợ
trong việc QLNN về ANTT đô thị thì sẽ được diễn ra một cách thuận lợi,
trôi chảy. Nhưng nếu thiếu sự quan tâm từ chính các chủ thể thì hoạt động
này sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình tổ chức triển khai trên
thực tế. Có thể nhận thấy chính trị có ảnh hưởng đến QLNN về ANTT đô thị
ở các khía cạnh sau đây:
Một là, nhận thức chính trị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền QLNN về ANTT đô thị. Các chủ thể liên quan có nhận thức được một
cách sâu sắc về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về công tác QLNN về ANTT đô thị để từ đó xác định được mục
tiêu chung trong công tác QLNN về ANTT đô thị và xác định được một cách
rõ ràng nhiệm vụ, trách nhiệm của mình, từ đó đề ra được các phương hướng,
biện pháp cụ thể trong quá trình thực hiện pháp luật QLNN về ANTT đô thị.
Mặt khác, môi trường chính trị của đất nước, địa phương có tác động trực tiếp
đến QLNN về ANTT đô thị.
65
Hai là, quyết tâm chính trị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền QLNN về ANTT đô thị. Đây là khía cạnh tư tưởng, ý chí nội tâm của
các chủ thể có liên quan. Nhận thức chính trị là vấn đề quan trọng, nhưng nếu
các chủ thể không có ý chí quyết tâm, không coi là trách nhiệm của mình thì
sẽ rất khó để biến nhận thức thành hành động cụ thể. Quyết tâm chính trị là
điều ẩn sâu bên trong, do đó, điều quan trọng là quyết tâm đó phải được biểu
hiện ra bên ngoài bằng hành động chính trị, bằng các hoạt động thực tế của
mỗi người. Vì vậy, yếu tố chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến QLNN về ANTT
đô thị là thông qua các hành động chính trị cụ thể của các cơ quan, tổ chức và
của mỗi cá nhân theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập, mở cửa đã, đang tác động trực
tiếp đến tư tưởng của cán bộ, công chức, từ đó nảy sinh những vấn đề phức
tạp mới trong nội bộ và an ninh chính trị, an ninh xã hội. Không ít cán bộ,
đảng viên bị lung lạc ý chí, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bị tác động chiến
tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch đã bộc lộ tâm trạng
băn khoăn, lo lắng về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin; phủ nhận
thắng lợi của cách mạng; mơ hồ, mất phương hướng, muốn Đảng ta phải “cải
cách”. Tình trạng tham nhũng diễn biến phức tạp gây thất thu ngân sách, ảnh
hưởng xấu đến đời sống nhân dân và tác động nhiều mặt đến an ninh chính
trị. QLNN về ANTT đô thị có nơi còn lỏng lẻo, cán bộ, đảng viên quan liêu,
hách dịch, xa rời quần chúng ảnh hưởng đến uy tín và hiệu lực quản lý, điều
hành của chính quyền. Đây là yếu tố gây mất niềm tin của quần chúng vào
Đảng, chính quyền, tạo ra các phản ứng xã hội, tạo điều kiện cho các thế lực
thù địch lợi dụng tuyên truyền lôi kéo chống Đảng, Nhà nước.
2.4.2. Yếu tố pháp luật
Nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát
huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Bộ máy
nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều bộ phận hợp thành. Để bộ
66
máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm
quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, phải xác lập mối quan hệ đúng đắn
giữa chúng và có những phương pháp tổ chức và hoạt động thích hợp để tạo
ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực quốc gia.
Tất những điều đó chỉ có thể thực hành được khi dựa trên cơ sở vững chắc
của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật. Vì vậy, pháp luật
càng đầy đủ, đồng bộ, thống nhất là cở sở để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện đúng và có hiệu quả.
Thể chế quản lý - pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành là cơ sở pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện quản lý,
bảo đảm thống nhất QLNN trên phạm vi quốc gia, địa phương. Hệ thống pháp
luật hoàn thiện sẽ là điều kiện quan trọng để chủ thể và khánh thể quan hệ
pháp luật về ANTT ở đô thị căn cứ thi hành. Trong thực tế hiện nay, các văn
bản quy phạm pháp luật QLNN về ANTT đô thị còn tản mạn ở các văn bản
pháp luật khác nhau, chưa được tổng hợp thành những bộ tổng luật, bao trùm
nội dung QLNN về ANTT. Vì vậy, các cơ quan phải sử dụng các cơ sở pháp
lý ở nhiều văn bản khác nhau.
2.4.3. Năng lực thực hiện pháp luật của bộ máy quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự đô thị
Đây là yếu tố quyết định bảo đảm QLNN bằng pháp luật về ANTT đô
thị với những lý do sau đây:
Pháp luật là cơ sở của quản lý, nhưng nếu không được thực hiện, thực
hiện không đúng, không kịp thời thì pháp luật không phát huy được giá trị. Do
đó, thực hiện pháp luật đầy đủ, kịp thời là yếu tố quyết định hiệu quả trong quản
lý. Suy cho cùng QLNN về ANTT đô thị phụ thuộc vào năng lực thực hiện pháp
luật của bộ máy quản lý. Yếu tố có tính quyết định tạo thành năng lực thực hiện
pháp luật của bộ máy quản lý chính là tính hợp lý của bộ máy chính quyền các
cấp. Một bộ máy phù hợp là bộ máy luôn thích ứng với mọi biến đổi xã hội, vì
67
vậy, phải luôn tìm tòi sáng kiến sao cho bộ máy quản lý thường xuyên được đổi
mới, cải cách, đáp ứng được tối đa nhu cầu của quản lý xã hội, quản lý ANTT đô
thị, nhất là trong điều kiện đô thị hóa và hội nhập quốc tế.
Năng lực QLNN về ANTT đô thị ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản
lý, thể hiện ở khả năng nhận thức các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và việc đưa ra các quyết sách phù hợp với thực
tiễn địa phương; có khả năng tuyên truyền, thuyết phục nhân dân tự chấp
hành các quy định pháp luật của nhà nước về ANTT đô thị. Mặt khác, có biện
pháp chủ động chấn chỉnh và xử lý kịp thời những sai phạm không để hậu quả
xảy ra, tạo được uy tín, niềm tin trong nhân dân đối với cơ quan quản lý, cán
bộ, công chức nhà nước.
2.4.4. Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị
Điều kiện vật chất bao gồm cơ sở vật chất - kỹ thuật và chính sách đãi
ngộ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật là trụ sở làm việc, kinh phí hoạt động, trang
thiết bị làm việc, phương tiện... để phục vụ cho hoạt động của cơ quan QLNN
về ANTT đô thị.
Chính sách đãi ngộ phù hợp sẽ tác động đến đời sống vật chất, tinh thần
của chủ thể thực hiện pháp luật, giúp cho cán bộ yên tâm công tác, phát huy
được hết khả năng của mình; kích thích được tính sáng tạo, tích cực và không
bị mua chuộc, khống chế, sa ngã trước sự cám dỗ của vật chất.
2.4.5. Sự tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự đô thị
Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vì
vậy mọi chủ trương, chính sách và các hoạt động QLNN về ANTT đô thị đều
đảm bảo lợi ích của nhân dân. Thực tế, số lượng cán bộ phụ trách công tác
QLNN về ANTT đô thị quá mỏng so với yêu cầu của nhiệm vụ... Do đó, để
hoàn thành nhiệm vụ, đảm bảo hiệu quả của công tác QLNN về ANTT đô thị
68
cần có sự tham gia tích cực của người dân. Cán bộ quản lý ANTT đô thị phải
biết phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia
trực tiếp hơn vào công tác bảo vệ ANTT. Nơi nào nhân dân tích cực, đồng
tình ủng hộ chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng
tình với cách làm việc của cán bộ thì ở nơi đó ANTT được đảm bảo.
Xây dựng văn minh đô thị để người dân tự giác chấp hành các quy định
về ANTT đô thị, tự giác giữ gìn cảnh quan đô thị. Tăng cường trách nhiệm tự
quản của người dân đối với công trình công cộng đô thị. Có chính sách
khuyến khích nhân dân tích cực phản ảnh những hành vi sai phạm của cá
nhân, tổ chức VPPL về ANTT đô thị nhờ đó mà cơ quan QLNN về ANTT đô
thị kịp thời phát hiện và xử lý hiệu quả.
69
Kết luận chương 2
Chương 2 đã nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự đô thị và rút ra những kết luận khoa học như sau:
Từ những quan điểm, định hướng của Đảng về quốc phòng, an ninh
trong bảo vệ Tổ quốc; quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, năm 2013, luận án đã làm rõ an ninh, trật tự bản chất là an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Trong một chỉnh thể thống nhất không
thể tách rời của một quốc gia độc lập có chủ quyền, an ninh, trật tự đô thị thể
hiện mối quan hệ chính trị pháp lý trên hai mặt. Thứ nhất, đó là việc thiết lập
và duy trì sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của các lĩnh vực chính
trị, kinh tế - xã hội, văn hóa trên địa bàn đô thị. Thứ hai, phải đảm bảo hiệu
lực quản lý nhà nước từ Trung ương tới cơ sở, đảm bảo tính thống nhất và
toàn vẹn của một quốc gia độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ.
Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị là sự tác động tổ chức, mang
tính quyền lực nhà nước, trên cơ sở pháp luật của cơ quan hành chính nhà
nước và người có thẩm quyền trong các cơ quan đó tới các các mặt của đời
sống đô thị nhằm điều chỉnh các hoạt động của cá nhân, tổ chức ở đô thị theo
một trật tự nhất định, hướng tới thực hiện những mục tiêu đảm bảo an ninh,
trật tự trên địa bàn đô thị.
Nội dung quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị, dưới góc độ của
khoa học luật có thể khái quát lại bao gồm: Xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị; tổ chức thực
hiện pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị; phổ biến, giáo
dục pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị; thanh tra, kiểm
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự đô thị.
Đã làm rõ đặc điểm, chủ thể và phương pháp QLNN về ANTT đô thị.
70
Làm rõ mục tiêu của QLNN về ANTT đô thị là nhằm góp phần bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ
Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn
định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động
ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Các bảo đảm tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị bao
gồm các yếu tố chính trị; pháp luật; năng lực thực hiện pháp luật của bộ máy
quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị; cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt
động quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị; sự tham gia của nhân dân
vào hoạt động quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị... Nếu không quan
tâm đến các yếu tố bảo đảm nêu trên thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực
quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị.
Chương 2 đã khái quát được những vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở,
nền tảng cho việc phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự đô thị từ thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội.
71
Chương 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN NINH, TRẬT TỰ
ĐÔ THỊ TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Tình hình đặc điểm có liên quan đến quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Vị trí địa lý, tổ chức hành chính
Hà Nội là đô thị đặc biệt của Việt Nam, là trung tâm văn hóa, chính trị,
kinh tế của cả nước. Hà Nội nằm chếch về phía Tây Bắc của trung tâm vùng
đồng bằng châu thổ sông Hồng, có vị trí tọa độ từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc
và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên,
Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên ở phía Đông; Hà
Nam, Hòa Bình ở phía Nam; Hòa Bình, Phú Thọ ở phía Tây. Địa hình Hà Nội
thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao
trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Sau khi được điều chỉnh về
địa giới và hành chính năm 2008, Hà Nội có diện tích 3.324,51 km2.
Từ kết quả thống kê về diện tích năm 2017 giữa hai khu vực nội thành
và ngoại thành (Bảng 3.2) cho thấy:
Bảng 3.1. Diện tích và dân số giữa khu vực nội thành và ngoại thành Hà Nội
TT Khu vực Diện tích (Km2) Dân số (nghìn người)
1 Các quận 303.92 3259.9
2 Các huyện và thị xã 3020.59 3982.3
Tổng 3.324.51 7.242.2
(Nguồn: http://hpa.hanoi.gov.vn/, năm 2017)
Về diện tích, khu vực ngoại thành gấp 10,9 lần khu vực nội thành. Về
dân số, khu vực ngoại thành gấp 1,2 lần khu vực nội thành.
Cùng với việc hình thành các đơn vị hành chính lãnh thổ là việc tổ chức
hệ thống hành chính của đô thị Hà Nội. UBND thành phố Hà Nội là cơ quan
72
chấp hành của HĐND thành phố Hà Nội, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương. Các cơ quan hành chính cấp huyện: Tổ chức UBND ở 30 quận,
huyện và thị xã, hiện toàn thành phố, trong đó: Địa bàn đô thị tổ chức UBND
12 quận, UBND thị xã (Sơn Tây); địa bàn nông thôn tổ chức UBND ở 17
huyện. Tổ chức các cơ quan hành chính cấp xã gồm: UBND xã, phường, thị
trấn; hiện toàn thành phố có 584 xã, phường, thị trấn, trong đó: 177 UBND
phường; 21 UBND thị trấn; 386 UBND xã.
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND Thành phố Hà Nội được tổ chức
gồm các cơ quan như sau: Văn phòng UBND; Sở Nội vụ; Sở Kế hoạch và Đầu
tư; Sở Tài chính; Sở Công Thương; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Sở Giao thông vận tải; Sở Xây dựng; Sở Tài nguyên và Môi trường; Sở Thông
tin và Truyền thông; Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; Sở Văn hóa, Thể
thao; Sở Khoa học và Công nghệ; Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở Y tế; Sở Tư
pháp; Thanh tra thành phố. Các cơ quan chuyên môn đặc thù riêng của Hà Nội:
Sở Ngoại vụ; Ban Dân tộc; Sở Quy hoạch - Kiến trúc; Sở Du lịch.
Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Hà Nội được tổ chức
giống như các tỉnh với 17 cơ quan; các cơ quan đặc thù được tổ chức như 5
thành phố trực thuộc Trung ương, trong khi, đô thị Hà Nội là đô thị đặc biệt,
cần được tổ chức các cơ quan chuyên môn theo tính đặc thù.
Các cơ quan chuyên môn được tổ chức thống nhất ở các quận, huyện,
thị xã, của thành phố Hà Nội hiện nay gồm 10 phòng: Văn phòng Hội đồng
nhân dân và UBND; Phòng Nội vụ; Phòng Tài chính - Kế hoạch; Phòng Tài
nguyên và Môi trường; Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội; Phòng Văn
hóa và Thông tin; Phòng Giáo dục và Đào tạo; Phòng Tư pháp; Phòng Y tế;
Thanh tra huyện. Ngoài 10 phòng chuyên môn được tổ chức thống nhất ở tất
cả các quận, các huyện, cấp quận tổ chức thêm một số phòng theo đơn vị
hành chính là: Phòng Kinh tế; Phòng Quản lý đô thị.
Mặc dù đô thị Hà Nội có tốc độ đô thị hóa nhanh, song bộ máy chính
73
quyền đô thị (quận, phường) được tổ chức như chính quyền nông thôn ở các
tỉnh. Quản lý nhiều tầng nấc, chia cắt, phân tán rời rạc dẫn đến tình trạng
cứng nhắc, thiếu linh hoạt, trong khi quản lý một đô thị lớn, văn minh, hiện
đại, đòi hỏi phải tập trung, thống nhất. Nhu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả
QLNN về ANTT đô thị Hà Nội, đòi hỏi hệ thống hành chính cần phải gọn,
giảm cồng kềnh, giảm tầng nấc trung gian; hạn chế phân nhỏ, cắt khúc.
- Kinh tế - xã hội
Hà Nội là thành phố trực thuộc Trung ương, với vai trò thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội, thu hút được vốn đầu tư trong và ngoài nước. Thành phố là
địa điểm của 1.600 văn phòng đại diện nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng
16.000 cơ sở sản xuất công nghiệp. Năm 2017, tốc độ tăng tổng sản phẩm trên
địa bàn là 8,5%; trong đó, dịch vụ 8,7%, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp,
xây dựng tăng 8,5%, nông nghiệp tăng 2,0 - 2,5%; GDP bình quân đầu người:
75 - 77 triệu đồng. Bên cạnh những công ty nhà nước, các doanh nghiệp tư
nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội với 77% giá trị sản
xuất công nghiệp của đô thị Hà Nội. Chính sức hút của đô thị Hà Nội là một
trong những nguyên nhân chính của sự gia tăng số lượng người nhập cư vào đô
thị Hà Nội. Đây là một áp lực không nhỏ cho cơ quan hành chính nhà nước nói
chung và cơ quan QLNN về ANTT đô thị Hà Nội nói riêng.
Hằng năm, Hà Nội đã xây dựng thêm hàng triệu mét vuông diện tích nhà
chung cư. Tuy nhiên, Hà Nội vẫn là một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế
giới và giá bất động sản không thua kém các quốc gia giàu có. Giá bán của các
căn hộ còn cao so với thu nhập của người dân. Điều này đã làm cho những cư
dân Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập thấp, phải sống trong điều kiện chật
chội, thiếu tiện nghi. Đa số các gia đình trẻ ở Hà Nội chưa có nhà ở, phải thuê
nhà ở tạm hoặc sống ghép chung, chỗ ở không ổn định. Điều này cũng gây khó
khăn trong việc xác định chỗ ở hợp pháp để đăng ký cư trú, khó khăn cho công
tác QLNN về cư trú, ảnh hưởng đến công tác QLNN về ANTT đô thị Hà Nội.
74
- Tình hình dân cư và cư trú trên địa bàn
Theo thống kê cho thấy, dân số Hà Nội tăng mạnh mẽ trong nửa thế kỷ
gần đây. Năm 1978, Quốc hội quyết định mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện
tích đất tự nhiên 2.136 km², dân số 2,5 triệu người. Tới năm 1991, địa giới Hà
Nội tiếp tục thay đổi, chỉ còn 924 km², nhưng dân số vẫn ở mức hơn 2 triệu
người. Dân số Hà Nội tăng đều đặn trong suốt thập niên 1990, cùng với quá
trình đô thị hóa, dân số Hà Nội đạt 2.672.122 người vào năm 1999. Sau đợt
mở rộng địa giới hành chính gần đây nhất vào năm 2008, thành phố Hà Nội
có 6.520.674 người. Theo kết quả cuộc điều tra dân số năm 2009, dân số Hà
Nội là 6.717.232 người. Tính đến năm 2017 dân số Hà Nội là 7.242.200
người, tăng 1,0% so với năm 2016 [Bảng 3.3 - Phần phụ lục].
Nghiên cứu về mật độ dân số Hà Nội hiện nay cho thấy sự phân bố dân
cư không đồng đều giữa các quận nội đô và khu vực ngoại thành. Trên toàn
thành phố, mật độ dân cư trung bình 2.279 người/km², trong đó cao nhất là
quận Đống Đa 42.171 người/km², thấp nhất là quận Long Biên 4.840
người/km². Thực tế về mật độ dân cư không đồng đều đã gây áp lực cho thực
hiện công tác QLNN về ANTT đối với những địa bàn nội thành có mật độ
dân số cao [3].
Về tình hình người dân ngoại tỉnh nhập cư vào Hà Nội: Cả hai tiêu chí
số lượng và tỉ lệ công dân ngoại tỉnh nhập cư vào Hà Nội có sự tăng lên đều
đặn và nhanh chóng qua các năm, gây nên tình trạng quá tải, ảnh hưởng đến
công tác quản lý. Sự gia tăng cơ học về dân số trên địa bàn thành phố Hà Nội
tạo ra những vấn đề tiêu cực như tình hình đi lại, lấn chiếm đất công, xây
dựng nhà ở bất hợp pháp, sự xuất hiện của các cơ sở kinh doanh cho thuê trọ,
lưu trú ngày càng nhiều, tình trạng tách chuyển hộ khẩu, nhập nhờ diễn ra
thường xuyên, nhiều người không thực hiện đúng quy định về thông báo lưu
trú, ở trong một thời gian tương đối dài nhưng không đăng ký tạm trú... làm
cho hệ thống thủ tục hành chính và việc giải quyết thủ tục hành chính trong
75
QLNN về thường trú đối với công dân đa dạng hơn. Đây là một trong những
đòi hỏi của hoạt động cải cách thủ tục hành chính trong QLNN về cư trú.
- Tình hình an ninh, trật tự
Đô thị Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa của cả nước,
là nơi thường xuyên tập trung thu hút dân cư ở các nơi về sinh sống, học tập và
làm việc. Hà Nội là nơi diễn ra nhiều hội nghị, sự kiện quan trọng có tính quốc
tế, Trong 6 tháng đầu năm 2018, Thành phố đã có kế hoạch bảo vệ tuyệt đối an
ninh, an toàn 968 lượt sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội. Tình hình ANTT, kinh
tế, xã hội trên địa bàn vẫn đang tiếp tục có diễn biến theo chiều hướng phức tạp.
Trong thời gian từ năm 2008 đến năm 2017, trên địa bàn thành phố Hà
Nội đã xảy ra 67.081 vụ phạm pháp hình sự, trung bình mỗi năm xảy ra gần
6.708 vụ. Năm 2015, trên địa bàn thành phố đã xảy ra 6.423 vụ phạm pháp
hình sự, trong đó, khám phá được gần 4.000 vụ với khoảng 5.700 đối tượng;
hầu hết các loại tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đều giảm.
Riêng năm 2017, đã phát hiện 7.234 vụ phạm pháp hình sự (tăng 51 vụ so với
năm 2016), điều tra, khám phá 4.509 vụ, 8.394 đối tượng phạm pháp hình sự
và tệ nạn xã hội; các vụ việc khác vẫn đang tiếp tục được điều tra, làm rõ
[Bảng 3.5 - Phần phụ lục].
Hoạt động mại dâm trá hình trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa
bàn đô thị Hà Nội vẫn diễn ra phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi. Đáng chú ý,
đã phát hiện một số đường dây, tổ chức hoạt động mại dâm lớn. Đặc biệt, các
đối tượng đã dùng mạng internet để quảng cáo các đường dây gái gọi, tuyên
truyền văn hóa phẩm đồi trụy, tổ chức đánh bạc với các trung tâm cá độ của
nước ngoài. Xu hướng sử dụng ma túy tổng hợp tăng mạnh, kéo theo tình hình
sử dụng trái phép ma túy tổng hợp trong các quán bar, nhà hàng, karaoke, vũ
trường, khách sạn, nhà nghỉ ngày càng nhiều, làm gia tăng tệ nạn xã hội ở đô
thị Hà Nội, gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự.
Từ năm 2008 đến hết năm 2017, toàn thành phố đã phát hiện 28.095
76
vụ, 48.313 trường hợp vi phạm liên quan đến công tác QLNN về cư trú.
Trong năm 2015 là năm có số vụ vi phạm cao nhất, lực lượng Cảnh sát đã
phát hiện 3.465 vụ với 4.795 trường hợp vi phạm. Năm 2012, có số vụ việc
xảy ra đứng vị trí số 2 với 3.305 vụ việc nhưng số đối tượng lại cao nhất so
với các năm với 6.353 cá nhân. [Bảng 3.4 - Phần phụ lục]. Trong các lỗi vi
phạm được phát hiện thì các hành vi vi phạm quy định về quản lý thường trú,
tạm trú, lưu trú, tạm vắng diễn ra phổ biến nhất.
Đặc điểm dân cư, kinh tế - xã hội của đô thị Hà Nội đã tác động đến
QLNN về ANTT đô thị Hà Nội cả mặt tích cựu và tiêu cực. Quá trình đô thị
hóa nhanh cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội đã mang lại những tác
động tích cực như: Nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng; phát triển các ngành
công nghiệp, thương mại và dịch vụ; tạo công ăn việc làm cho quần chúng
nhân dân… Tuy nhiên, mặt trái của quá trình đô thị hóa cũng đã gây ra những
tác động tiêu cực làm ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển bền vững của Hà
Nội, đã có những tác động tiêu cực đến ANTT của thành phố Hà Nội như: Đô
thị hóa tạo ra làn sóng di cư từ nông thôn vào thành thị kiếm sống làm cho các
vấn đề xã hội ở đô thị Hà Nội ngày càng phức tạp hơn. Khoảng 20% số người
nhập cư vào đô thị Hà Nội được xếp vào diện nghèo, không có hộ khẩu thành
thị, họ phải làm đủ mọi việc để kiếm sống. Không ít người đã vì kiếm sống
mà bán rẻ thân xác, dễ bị các thế lực thù địch mua chuộc, tội phạm và tệ nạn
xã hội lôi kéo; những cư dân sống trong các khu đô thị hóa chưa quen với
cuộc sống đô thị, chưa quen với tác phong công nghiệp, họ bị mất việc làm do
là nông dân quen với công việc ruộng đồng, mất nguồn thu nhập, trong khi
trong tay cầm một số tiền đền bù nhưng không biết làm sinh lời. Tình trạnh
thực hiện chính sách đền bù giải phóng mặt bằng có biểu hiện tham nhũng,
tiêu cực hoặc do các thế lực thù địch kích động đã đẩy nông dân kéo về thành
thị khiếu kiện gây phức tạp cho ANTT đô thị Hà Nội.
Hệ thống hạ tầng cơ sở đô thị Hà Nội đã được Chính phủ, UBND thành
77
phố Hà Nội ưu tiên đầu tư nâng cấp cải tạo nhưng không phải sẽ khắc phục được
ngay những tồn tại, yếu kém, đặc biệt là hệ thống giao thông đô thị. Hệ thống hạ
tầng giao thông lạc hậu, xuống cấp, chậm phát triển so với sự gia tăng dân số đô
thị Hà Nội và sự gia tăng các phương tiện giao thông. Đây là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến tình trạng ùn tắc, tai nạn giao thông, vi phạm giao thông đô thị.
Do ảnh hưởng của những tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn đô thị Hà Nội, cũng như ảnh hưởng từ các khu vực lân
cận. Tình hình tệ nạn xã hội như cờ bạc, mại dâm, ma túy trên địa bàn đô thị
Hà Nội luôn là những vấn đề nóng trong công tác QLNN về ANTT. Tệ nạn
mại dâm vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển với thủ đoạn tinh vi hơn nhằm lách
luật, tránh sự chú ý, phát hiện từ phía chính quyền đô thị. Hành vi đánh bạc ăn
tiền như ghi số đề, cá độ vẫn sẽ tiếp tục diễn ra theo xu hướng tinh vi hơn. Tội
phạm trên địa bàn Hà Nội có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, tính chất
phức tạp, đa dạng về phương thức, thủ đoạn nhằm trốn tránh sự phát hiện, gây
khó khăn trong công tác đấu tranh, xử lý. Do đó, đứng trước những khó khăn,
thách thức, QLNN về ANTT đô thị Hà Nội đòi hỏi phải có giải pháp tăng
cường mới đáp ứng được tình hình mới.
3.2. Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
đô thị Hà Nội
3.2.1. Kết quả xây dựng pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự đô thị Hà Nội
Pháp luật về QLNN về ANTT là bộ phận của hệ thống pháp luật của
Nhà nước ta, bao gồm các quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác
nhau điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ ANTT.
Các quy phạm pháp luật về QLNN về ANTT là cơ sở pháp lý để Nhà nước
thông qua các cơ quan chức năng, áp dụng để bảo đảm ANTT.
Trên cơ sở các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về
ANTT, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương
78
(khoá IX) năm 2003 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị
quyết số 40-NQ/TW của Bộ Chính trị về nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác công an trong tình hình mới; Chi thị số 05-CT, ngày 14/10/2006 của Bộ
Chính trị (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo
đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày
25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới... Hệ thống các văn bản pháp luật về
ANTT ngày càng hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý vững chắc, đồng bộ để
triển khai thực hiện nhiệm vụ QLNN về ANTT.
Hiến pháp là cơ sở pháp lý cao nhất cho hoạt động QLNN về ANTT.
Theo Điều 96, Hiến pháp, năm 2013 quy định Chính phủ “thống nhất quản lý
về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường,
thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội”. Lực lượng vũ trang nhân dân có nhiệm vụ “bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự,
an toàn xã hội...” [90]. Cụ thể hóa Hiến pháp, QLNN về ANTT được quy
định tập trung trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, như Luật An ninh
quốc gia, Luật Công an nhân dân...
Thực hiện Nghị quyết số 19/1998/QH10, ngày 02/12/1998 của Quốc
hội (khóa X) kỳ họp thứ tư về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh nhiệm
kỳ Quốc hội khóa X, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
76/1999/NQ-UBTVQH10 phân công Bộ Công an chủ trì phối hợp với các cơ
quan có liên quan soạn thảo Dự án Luật An ninh quốc gia để trình Quốc hội
xem xét, thông qua. Ngày 3/12/2004, Luật An ninh quốc gia được Quốc hội
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua.
Luật An ninh quốc gia được hình thành trên nền tảng của Hiến pháp về nhiệm
vụ bảo đảm an ninh quốc gia Việt Nam. Luật này quy định nội dung quản lý
nhà nước về an ninh quốc gia (Điều 29); chủ thể có thẩm quyền quản lý nhà
79
nước về an ninh quốc gia (từ Điều 30 đến Điều 34). Theo quy định của Luật
An ninh quốc gia: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh
quốc gia. Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với
Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý
nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia [87].
Ngày 03/12/2004, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XI đã thông qua
Luật Công an nhân dân. Luật Công an nhân dân được ban hành đã tạo bước
ngoặt trong quá trình hoàn thiện cơ sở pháp lý, bảo đảm hoạt động của các
mặt công tác công an trong thời kỳ mới. Chức năng của Công an nhân dân là
những mặt hoạt động chủ yếu, cơ bản trên lĩnh vực bảo vệ ANQG, bảo đảm
TTATXH, được quy định tại Điều 14, Luật Công an nhân dân, năm 2014 và
cụ thể hóa tại Khoản 2, Điều 1, Nghị định số 106/2014/NĐ-CP, ngày
17/11/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Công an, cụ thể là: Tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo vệ ANQG và
bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống tội phạm; chủ trì và thực hiện
thống nhất quản lý nhà nước về bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH, đấu
tranh phòng, chống tội phạm trên phạm vi cả nước; trực tiếp đấu tranh phòng,
chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi
phạm pháp luật về ANTT. Ngày 06/8/2018, Văn phòng Chính phủ đã công bố
Nghị định số 01/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Công an. Theo đó, không bố trí cấp Tổng cục, giảm số lượng
đầu mối các đơn vị cấp cục, tập trung hướng về đơn vị cơ sở; về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Công an cơ bản không thay đổi.
Thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020”, trong nhiệm kỳ quốc hội khóa XIII (2011-
2016), Bộ Công an chủ trì phối hợp với các bộ, ngành có liên quan soạn thảo
trình cấp có thẩm quyền ban hành 06 luật, 04 pháp lệnh liên quan đến ANTT
80
(Pháp lệnh Quản lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ năm 2011(sửa đổi, bổ
sung năm 2013); Pháp lệnh Cảnh sát cơ động năm 2013, Pháp lệnh Cảnh sát môi
trường năm 2014; Pháp lệnh Cảnh vệ Luật Phòng, chống khủng bố năm 2013;
Luật Căn cước công dân năm 2014; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Cư trú năm 2013; Luật Công an nhân dân năm 2014; Luật Tổ chức Cơ quan điều
tra hình sự năm 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015...). Đây là các
dự án luật, bộ luật rất quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường hiệu quả
hoạt động QLNN về ANTT, cụ thể hóa và đảm bảo các quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp, năm 2013. Để triển khai thực
hiện các luật, pháp lệnh đã được ban hành về ANTT, Bộ Công an đã chủ trì,
phối hợp với các bộ, ban, ngành xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành
một số lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm; xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực ANTT, bảo vệ
bí mật nhà nước, quản lý cư trú, quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, thi
hành án hình sự, cụ thể: 46 nghị định, 08 quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
ban hành 372 thông tư và 42 thông tư liên tịch [1]. Các văn bản quy phạm pháp
luật đã điều chỉnh kịp thời, hiệu quả các quan hệ xã hội trong lĩnh vực ANTT;
tạo hành lang pháp lý để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ ANQG, đảm bảo
TTATXH; đồng thời góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất,
ngày càng hoàn thiện, phục vụ vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, ổn định chính trị của đất nước.
Ngày 21/11/2012, Luật Thủ đô đã được Quốc hội ban hành và có hiệu lực
trên địa bàn thành phố Hà Nội từ ngày 1/7/2013, đây là một văn bản luật đặc biệt
không phổ biến chung trên cả nước. Tại Điều 20, Luật Thủ đô quy định về bảo
đảm ANTT trên địa bàn Thủ đô Hà Nội: “Xây dựng các khu vực phòng thủ bảo
vệ Thủ đô, các phương án bảo đảm an toàn cho Thủ đô trong mọi tình huống;
bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô
bằng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả; mọi vi phạm
81
pháp luật phải được phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh” [89].
Để triển khai thực hiện các luật, pháp lệnh, các văn bản dưới luật đã được
ban hành về ANTT, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật theo thẩm quyền liên quan đến hoạt động QLNN về ANTT, như ban hành
các văn bản pháp luật về QLNN về ninh chính trị, QLNN về đấu tranh phòng
chống tội phạm; QLNN về phòng chống tệ nạn xã hội, QLNN về cư trú, QLNN
về TTATGT... Các văn bản pháp luật đã có tác động rõ rệt, điều chỉnh kịp thời,
hiệu quả các quan hệ xã hội trong lĩnh vực ANTT, tạo hành lang pháp lý để các
cơ quan có thẩm quyền QLNN về ANTT đô thị Hà Nội tổ chức quản lý.
Để tổ chức thi hành Luật An ninh quốc gia theo Chỉ thị số 16/2005/CT-
TTg, ngày 11/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thi hành
Luật ANQG, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Chỉ thị số 22/2005/CT-
UB, ngày 30/9/2005, về triển khai thi hành Luật An ninh quốc gia trên địa bàn
thành phố Hà Nội (Chỉ thị của UBND trước ngày 1/7/2016 được quy định là
loại văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật). Công an thành phố
Hà Nội tham mưu, giúp UBND chỉ đạo triển khai thi hành Luật An ninh quốc
gia đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu bảo vệ ANQG trong tình hình mới.
Để giữ vững ANTT trên địa bàn thành phố Hà Nội, ngày 24/3/2008, Uỷ
ban nhân dân thành phố Hà Nội ban hành Chỉ thị số 08/2008/CT-UBND về việc
bảo đảm an ninh chính trị, TTATXH năm 2008 trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chỉ thị yêu cầu Công an thành phố Hà Nội, các sở, ban, ngành, UBND các quận,
huyện tập trung triển khai QLNN về ANTT trên các nội dung: Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và vận động quần chúng tham gia phong
trào toàn dân bảo vệ Tổ quốc; thực hiện bảo đảm an ninh chính trị. Năm 2010,
Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Chỉ thị số 29/CT-UBND về
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội
năm 2011, yêu cầu Công an Thành phố, Bộ Tư lệnh Thủ đô, các Sở, Ban,
Ngành, Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã triển khai thực hiện các nội
82
dung: Tham mưu, báo cáo Thành ủy xây dựng và triển khai Chương trình “Bảo
đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở Thủ đô giai đoạn 2011-2015” theo
Nghị quyết Đại hội Đảng Thành phố lần thứ XV, gắn với thực hiện Kết luận số
86-KL/TW, ngày 05/11/2010 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
05-CT/TW, ngày 14/10/2006 của Bộ Chính trị về “Tăng cường lãnh đạo công
tác đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình mới”; Chỉ thị 15-CT/TW, ngày
07/7/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ
Đảng; Chỉ thị 34-CT/TW, ngày 17/4/2009 của Ban Bí thư về tăng cường cuộc
đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng,
văn hóa. Thực hiện tốt Quy chế bảo vệ chính trị nội bộ, Quy chế quản lý cán bộ,
đảng viên, nhất là trong quan hệ với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 13/2008/CT-TTg, ngày 11/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường công tác bảo vệ bí mật Nhà nước trong tình hình mới...
Ngày 06/11/2013, UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số
48/2013/QĐ-UBND về quy chế quản lý và thực hiện hoạt động đối ngoại của
thành phố Hà Nội. Quy chế này quy định nguyên tắc, nội dung, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục liên quan tới hoạt động đối ngoại của thành phố Hà Nội nhằm
đảm bảo chấp hành đúng chủ trương, đường lối, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước, trên cơ sở tuân thủ các quy định của Hiến pháp, tôn trọng
luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm giữ vững ổn định chính trị, góp phần phát
triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Công an thành phố Hà Nội đã tham mưu với Thành ủy triển khai 12 Đề
án, Kế hoạch của Chương trình số 05 về “Tăng cường quốc phòng - an ninh,
bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới”; tham mưu với UBND
thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch số 184, thực hiện Chỉ thị 28/CT-TTg,
ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường đảm bảo an ninh,
trật tự trong tình hình mới”.
83
Trên các lĩnh vực hoạt động cụ thể QLNN về ANTT, Nhà nước và chính
quyền đô thị Hà Nội đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều
chỉnh, như: QLNN về cư trú là một hoạt động cơ bản trong QLNN về ANTT
đô thị Hà Nội. QLNN về cư trú góp phần tạo điều kiện tối đa để công dân thực
hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật, phục vụ cho công tác phòng ngừa,
chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi VPPL. Luật Cư trú sau khi được
sửa đổi, bổ sung năm 2013 và những văn bản pháp lý về lĩnh vực cư trú đã
được điều chỉnh góp phần giải quyết những vướng mắc phát sinh liên quan đến
việc quản lý nhân khẩu, chỗ ở của công dân, của cơ quan Nhà nước, ngăn ngừa
việc lạm dụng quy định về hộ khẩu làm hạn chế lợi ích hợp pháp của công
dân... Nghị định số 31/2014/NĐ-CP, ngày 18/4/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú đã cụ thể hóa phạm vi
điều chỉnh của Luật Cư trú; Thông tư số 35/2014/TT-BCA, ngày 09/9/2014
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cư trú. Thông tư 35/2014/TT-
BCA cũng quy định trách nhiệm của Công an quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh Công an phường, xã, thị trấn về QLNN về cư trú. UBND thành phố
Hà Nội ban hành Quyết định số 43/2014/QĐ-UBND, ngày 20/08/2014 về việc
thu lệ phí đăng ký cư trú trên địa bàn thành phố Hà Nội; Ngày 10/9/2015,
UBND thành phố Hà Nội ban hành Quy chế thực hiện liên thông các thủ tục
hành chính về đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho
trẻ em dưới 06 tuổi trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thực hiện Luật Cư trú, Luật
Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2015/NĐ-CP, ngày 06/8/2015, quy
định quy chế phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trong công tác quản lý nhập cảnh, xuất cảnh,
quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, UBND thành phố Hà Nội
đã ban hành Quyết định số 18/2017/QĐ-UBND, ngày 11/5/2017 về việc ban
hành Quy chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành thành phố Hà Nội, UBND các
84
quận, huyện, thị xã trong công tác quản lý người nước ngoài cư trú, hoạt động
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Mục tiêu của quy chế là tạo điều kiện cho người
nước ngoài thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, xây
dựng môi trường đầu tư, kinh doanh an toàn, ổn định, thuận lợi đối với người
nước ngoài, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao là người nước ngoài; nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác QLNN đối với người nước ngoài cư trú,
hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội; chủ động, phòng ngừa, phát hiện,
ngăn chặn và xử lý kịp thời những VPPL có yếu tố nước ngoài.
Năm 2008, thành phố Hà Nội mở rộng địa giới hành chính, song song
với nhiệm vụ củng cố, kiện toàn bộ máy hành chính và thực hiện các chỉ tiêu
kinh tế - xã hội, nhiệm vụ ANTT tiếp tục có sự chuyển biến và đạt được kết
quả khá toàn diện trên các mặt; hiệu lực QLNN về ANTT được tăng cường.
Mặc dù vậy, việc thực hiện công tác QLNN về đấu tranh phòng chống tội
phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn một số hạn chế. Do đó, nhằm tăng
cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, sức mạnh khu vực phòng thủ của thành
phố, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Chỉ thị số 03/2008/CT-UBND,
ngày 29/01/2008 về việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, công tác quân sự địa
phương năm 2008 trên địa bàn thành phố Hà Nội, yêu cầu Bộ Chi huy quân sự,
các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, xã, phường, thị trấn: Tiếp tục quán
triệt thực hiện nhiệm vụ “tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn Quốc lần thứ X; Chỉ thị số 12- CT/TW, ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc phòng, an
ninh trong tình hình mới. Để giữ vững ANTT trên địa bàn Thủ đô, ngày
24/3/2008, UBND thành phố Hà Nội ban hành Chỉ thị số 08/2008/CT-UBND
về việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội năm 2008 trên địa bàn
thành phố Hà Nội. UBND thành phố yêu cầu Công an thành phố Hà Nội, các
sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện triển khai thực hiện tốt các nội dung
85
QLNN về ANTT: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và vận
động quần chúng tham gia phong trào toàn dân bảo vệ tổ quốc; tiếp tục thực
hiện chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm; bảo đảm TTATGT....
Ngày 30/12/2008, UBND thành phố Hà Nội ban hành Chỉ thị số
10/CT-UBND về việc thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương
năm 2009, đã yêu cầu UBND các quận, huyện, các sở, ban, ngành của thành
phố Hà Nội tập trung thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.
Năm 2010, trong bối cảnh kinh tế thế giới đang phục hồi nhưng chưa
vững chắc, kinh tế trong nước phục hồi nhanh và lấy lại đà tăng trưởng sau ảnh
hưởng của khủng hoảng. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động “diễn
biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta; tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội
còn diễn ra phức tạp, có nhiều khả năng phát sinh một số loại tội phạm mới.
Thành phố Hà Nội tiếp tục đứng trước những khó khăn và thách thức mới, đòi
hỏi nỗ lực rất cao trong công tác tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phát triển
kinh tế - xã hội trong đó có công tác giữ gìn ANTT. Để đảm bảo giữ vững ổn
định ANTT, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn thành phố Hà Nội, tạo tiền đề cho các năm tiếp theo, UBND thành
phố Hà Nội ban hành Chỉ thị số 29/CT-UBND, ngày 30/12/2010 về việc đảm
bảo an ninh chính trị, TTATXH trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2011.
Năm 2011, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có diễn biến phức tạp;
trong nước các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá.
Đây là năm diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; Bầu cử
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; tình hình khí hậu, thời tiết, dịch bệnh
diễn biến phức tạp, khó lường. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ quốc phòng địa
phương năm 2011, UBND thành phố Hà Nội ban hành Chỉ thị số 04/CT-
UBND, ngày 11/01/2011 về thực hiện nhiệm vụ quốc phòng địa phương năm
2011 yêu cầu các sở, ban, ngành, đoàn thể của thành phố Hà Nội, UBND các
86
quận, huyện, thị xã tập trung chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ tăng cường quốc
phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
Ngày 05/6/2013, Ban chỉ đạo 127/TP (Ban Chỉ đạo Thành phố về
chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại trên địa bàn thành phố Hà
Nội ) ban hành Kế hoạch số 22/KH-BCĐ 127/TP về thực hiện Nghị quyết số
09/NQ-CP của Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống
tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2013 nhằm nâng cao hiệu quả,
trách nhiệm của các cấp trong lãnh đạo, sự tham gia của các đơn vị, cán bộ,
công chức, viên chức trong các ngành thành viên Ban chỉ đạo 127/TP và Ban
chỉ đạo 127 các quận, huyện, thị xã.
Thực hiện Nghị quyết số 05/NQ-HĐND, ngày 03/8/2016 của Hội đồng
nhân dân về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 của thành
phố Hà Nội. UBND thành phố Hà Nội đã tiếp tục giữ vững ổn định chính trị,
bảo đảm tốt ANTT trên địa bàn đô thị Hà Nội, đã tổ chức bảo vệ tuyệt đối an
toàn các mục tiêu, sự kiện quan trọng diễn ra trên địa bàn, tạo môi trường hoà
bình, ổn định, an ninh và an toàn để xây dựng, phát triển thành phố Hà Nội,
phát triển đất nước; đã chủ động tập trung chỉ đạo quyết liệt triển khai thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội
phạm, kịp thời ban hành sửa đổi nhiều văn bản pháp luật để tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc trong công tác QLNN về ANTT.
Công tác phòng chống tệ nạn xã hội trên địa bàn đô thị Hà Nội có
nhiều đổi mới, các cơ quan có thẩm quyền đã tham mưu, ban hành, sửa đổi,
bổ sung hệ thống văn bản chính sách pháp luật phù hợp với thực tế. Chính
phủ và các bộ, ngành, địa phương quyết liệt trong công tác chỉ đạo, điều
hành, chuyển đổi và quy hoạch lại mạng lưới cơ sở cai nghiện trong toàn
quốc. Tổ chức thí điểm triển khai mô hình phòng, chống mại dâm, cai
nghiện và hỗ trợ nạn nhân ở các địa phương, nhất là các địa bàn trọng điểm,
87
phức tạp... Thực hiện Chỉ thị số 22/CT-TTg, ngày 15/10/2013 của Thủ
tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phòng,
chống mại dâm trong tình hình hiện nay, UBND thành phố Hà Nội ban hành
Chỉ thị số 23/CT-UBND, ngày 07/11/2013, về việc tăng cường thực hiện các
nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống mại dâm trên địa bàn thành phố Hà
Nội. Thành phố yêu cầu các sở, ban, ngành, đoàn thể thành phố Hà Nội,
UBND các quận, huyện, thị xã triển khai nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu
quả và trách nhiệm QLNN về công tác phòng, chống mại dâm trên địa bàn,
xác định rõ vai trò, trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cấp ủy đảng,
chính quyền, thủ trưởng các cơ quan liên quan khi để phát sinh tệ nạn mại
dâm trên địa bàn quản lý; tăng cường công tác giáo dục, phòng ngừa, ngăn
chặn và xử lý kiên quyết những cán bộ, đảng viên có hành vi thiếu trách
nhiệm bao che, dung túng, tham gia tệ nạn mại dâm...
Để kịp thời đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả tệ nạn cờ bạc số đề, cá cược
bóng đá bất hợp pháp đang diễn ra, UBND thành phố Hà Nội ban hành chỉ thị số
22/CT-UBND, ngày 28/10/2013 về việc tăng cường các biện pháp đấu tranh
phòng chống tệ nạn cờ bạc số đề, cá cược bóng đá trên địa bàn thành phố Hà Nội
nhằm tăng cường tuyên truyền giáo dục sâu rộng trong cán bộ, nhân dân hiểu rõ
tác hại của tệ nạn cờ bạc số đề, cá cược bóng đá bất hợp pháp và những quy định
của Nhà nước về việc xử lý nghiêm khắc đối với những hoạt động cờ bạc số đề
và cá cược bóng đá nhằm giúp người dân nâng cao nhận thức và tích cực phòng
chống tác hại do tệ nạn số đề, cá cược bóng đá bất hợp pháp gây ra.
Ngày 23/01/2018, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số
25/KH-UBND về tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống
mại dâm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội năm
2018. Với mục tiêu phát huy vai trò của các ngành trong việc phối hợp kiểm
tra, thanh tra các cơ sở kinh doanh dịch vụ có hành vi VPPL về phòng, chống
mại dâm. Kịp thời phát hiện hành vi vi phạm, lập biên bản vi phạm hành
88
chính, kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
Hướng dẫn các đơn vị tổ chức, cá nhân thực hiện đúng các quy định của pháp
luật về phòng, chống tệ nạn mại dâm.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng về bảo đảm TTATGT phục vụ
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế, ngày 25/01/2013, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành
Quyết định số 06/2013/QĐ-UBND quy định về hoạt động của các phương tiện
giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 15/2013/QĐ-UBND,
ngày 19/05/2013 của UBND thành phố Hà Nội về việc ban hành Quy định về
quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng hệ thống đường đô thị trên địa bàn thành
phố Hà Nội; Quyết định số 17/2015/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về quản lý, vận hành, khai
thác, sử dụng hệ thống đường đô thị trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định
số 5963/QĐ-UBND, ngày 23/12/2011 của UBND thành phố Hà Nội về việc
phê duyệt danh mục các tuyến đường giao Sở Giao thông vận tải quản lý đồng
bộ vỉa hè, lòng đường phục vụ công tác tổ chức giao thông và chống ùn tắc
giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 14/2014/QĐ-UBND,
ngày 14/03/2014 của UBND thành phố Hà Nội ban hành Quy chế phối hợp
trong công tác phòng ngừa, xử lý VPPL về đê điều trên địa bàn thành phố Hà
Nội... Các quyết định đã quy định phạm vi, thời gian hoạt động của các phương
tiện giao thông đường bộ và loại phương tiện giao thông hạn chế hoạt động tại
một số khu vực, tuyến đường trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm đảm bảo
TTATGT, vệ sinh môi trường. Quy định hệ thống đường đô thị là bộ phận của
hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị thuộc sở hữu của Nhà nước phải được
quản lý chặt chẽ theo đúng quy hoạch, chỉ giới, mốc giới. Mọi hoạt động liên
quan đến việc quản lý, vận hành, khai thác, sử dụng hệ thống đường đô thị phải
bảo đảm thông suốt, trật tự, an toàn, hiệu quả; góp phần phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường.
89
Thực hiện Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, ngày 14/5/2016 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, năm 2015, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định
7165/QĐ-UBND, ngày 28/12/2015; Quyết định số 7173/QĐ-UBND, ngày
28/12/2015 về Kế hoạch kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm
pháp luật trên địa bàn Thành phố năm 2016; Quyết định số 6098/QĐ-UBND,
ngày 04/11/2016 của UBND thành phố Hà Nội ban hành kèm theo Kế hoạch rà
soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của Thành phố giai đoạn 2016 -
2020. Theo đó, các sở, ban, ngành có trách nhiệm phối hợp với Sở Tư pháp
trong việc tự kiểm tra văn bản của Thành phố. Việc kiểm tra xử lý văn bản quy
phạm pháp luật trên địa bàn Thành phố đã được triển khai đồng bộ, tích cực,
kịp thời thống nhất về cơ chế, chính sách, góp phần củng cố hoàn thiện hệ
thống hóa pháp luật, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước, đảm bảo
ANTT, tạo môi trường và hành lang pháp lý đảm bảo cho việc phát triển kinh
tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho người dân.
3.2.2. Một số hạn chế xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật;
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật
trong đời sống xã hội. Pháp luật về QLNN về ANTT đã trở thành một bộ phận
quan trọng góp phần tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện hợp tác quốc tế và
đấu tranh ngoại giao để bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích quốc gia của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về QLNN về
ANTT nói chung, pháp luật về QLNN về ANTT đô thị Hà Nội vẫn chưa thống
nhất, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Mặc dù, Nhà nước đã xây dựng nhiều đạo luật, như: Luật Tiếp cận thông
tin, năm 2016, Luật An ninh mạng, năm 2018... thể chế hóa Hiến pháp, năm
90
2013 về quyền con người, quyền công dân và đảm bảo an ninh, trật tự trên lĩnh
vực báo chí, internet, mạng xã hội. Tuy nhiên, còn một số lĩnh vực bức xúc của
đời sống xã hội, liên quan đến quyền con người, quyền công dân nhưng chưa
có pháp luật điều chỉnh hoặc chưa được điều chỉnh bằng luật theo quy định của
Hiến pháp, năm 2013: “Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật” [90]. Quy định này thể hiện sự phát triển quan trọng
về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân
trong Hiến pháp và là mục tiêu xuyên suốt trong cương lĩnh, đường lối của
Đảng ta. Hiện nay, tình trạng vi phạm của công dân và những hành vi lợi dụng
quyền con người để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội đang là
một vấn đề cần giải quyết, như xuất hiện hành vi tụ tập đông người, kích động
gây rối, biểu tình... trái với nguyên tắc quyền con người. Nếu có luật (như Luật
Biểu tình, Luật về Hội) có thể điều chỉnh được những người quá khích, người
dân được bày tỏ ở đúng nơi, đúng chỗ, đúng mức độ.
Việc nội luật hóa một số điều ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội
phạm mà Nhà nước ta là thành viên còn chậm. Việc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật liên tịch hướng dẫn thực hiện gặp nhiều khó khăn do chưa có
sự thống nhất giữa các cơ quan có thẩm quyền ban hành, vì vậy, nhiều quy
định pháp luật chậm đi vào cuộc sống, các cơ quan thi hành pháp luật rất khó
khăn khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Pháp luật trên một số lĩnh vực như:
Quản lý TTATGT, QLNN về cư trú, về phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội...
còn thiếu ổn định, tính dự báo chưa cao. Việc ban hành văn bản quy định chi
tiết và biện pháp thi hành luật, pháp lệnh về ANTT còn chậm.
Công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm TTATGT vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn; phạm vi điều chỉnh của
pháp luật về TTATGT quá rộng, bao gồm cả các quy định về quy tắc giao
thông đường bộ, đường thủy, đường sắt; kết cấu, xây dựng hạ tầng giao
91
thông, vận tải và doanh nghiệp giao thông vận tải. Việc coi trọng quy định về
quản lý giao thông mà không coi trọng quy định về quy tắc an toàn giao thông
dẫn đến khó khăn trong việc vận dụng, thực hiện các quy tắc tham gia giao
thông. Cơ chế phối hợp trong công tác xây dựng pháp luật về bảo đảm
TTATGT chưa nhịp nhàng, thông suốt do tình trạng chỉ quan tâm đến lợi ích
bộ, ngành mình khi xây dựng pháp luật, vì vậy, đã ảnh hưởng đến tiến độ và
chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật và TTATGT.
Một số văn bản pháp luật, đề án quan trọng phục vụ cho công tác
QLNN về phòng, chống tội phạm chậm được ban hành, việc rà soát, đánh giá,
sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những sơ hở, bất cập của pháp luật vẫn còn
chậm làm cho tình hình ANTT ở địa bàn đô thị Hà Nội vẫn tiếp tục diễn biến
phức tạp, gây lo lắng, bất bình trong nhân dân.
Luật Cư trú sau khi được sửa đổi, bổ sung năm 2013 và quy định mới
của những văn bản pháp lý về lĩnh vực cư trú được điều chỉnh, đã góp phần
giải quyết những vướng mắc phát sinh liên quan đến chỗ ở của công dân và
việc quản lý nhân khẩu của cơ quan Nhà nước, ngăn ngừa việc lạm dụng quy
định về hộ khẩu làm hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân... Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tiễn cho thấy một số nội
dung cụ thể của Luật Cư trú, Luật Thủ đô vẫn còn một số vướng mắc, bất cập
cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn dẫn đến việc tổ chức thực hiện chức năng
QLNN về cư trú tại đô thị Hà Nội thiếu thống nhất, hiệu quả đạt được còn
nhiều hạn chế: Thứ nhất, chưa thống nhất trong cách hiểu về nội dung của
công tác đăng ký, quản lý cư trú. Thứ hai, khi đăng ký thường trú vào các
quận nội thành chưa có sự phân biệt về điều kiện đăng ký thường trú áp dụng
đối với công dân ngoại tỉnh với công dân ở ngoại thành. Thứ ba, bất cập trong
phân cấp thẩm quyền đăng ký thường trú tại các địa bàn trung tâm...
Văn bản pháp luật về phòng, chống mại dâm hiện nay, một số quy định
liên quan đến quyền công dân chưa phù hợp với Hiến pháp, năm 2013. Măc du
92
xac đinh phong ngưa la biên phap trong tâm nhưng các quy định về biện pháp
phòng ngừa, trách nhiệm tổ chức các hoạt động phòng ngừa vẫn mang tính
nguyên tắc, chưa cụ thể, chưa quy định các biện pháp, điều kiện, nguồn lực
(thẩm quyền tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề của chủ tịch
UBND cấp tỉnh, câp huyên; thâm quyên xư phat cua Chi cuc Phòng, chống tệ
nạn xã hội; tiêu chuân, điêu kiên cac cơ sơ kinh doanh dich vu dê lơi dung hoat
đông mai dâm...) dẫn đến việc triển khai ở các cấp còn gặp nhiều khó khăn.
Vấn đề xử lý hành chính đối với các hành vi liên quan đến mại dâm quy định
còn chưa phù hợp với các văn bản pháp luật mới (Hiến pháp, Luật Xử lý vi
phạm hành chính). Về việc quy định trách nhiệm QLNN, có quy định cơ quan
giúp Chính phủ thực hiện thống nhất QLNN về phòng, chống mại dâm nhưng
chưa rõ về cơ chế phối hợp, quyền và trách nhiệm của các Bộ, ngành, tổ chức,
đoàn thể có chức năng, nhiệm vụ về phòng, chống mại dâm do vậy việc phối
hợp thực hiện nhiệm vụ này ở các cấp còn nhiều khó khăn.
3.3. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị Hà Nội
3.3.1. Kết quả trong tổ chức thực hiện pháp luật quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Bảo vệ ANTT là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân. Đô thị Hà Nội đã coi trọng việc bố trí, sử dụng các lực lượng,
biện pháp, phương tiện để hình thành thế trận an ninh nhân dân trong đấu tranh
phòng, chống với hoạt động của các thế lực thù địch, bọn tội phạm và VPPL.
Hà Nội là thành phố trực thuộc Trung ương, theo Điều 37, Luật Tổ chức
CQĐP, năm 2015: “Chính quyền địa phương ở thành phố trực thuộc trung
ương là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân thành phố trực
thuộc trung ương và Ủy ban nhân dân thành phố trực thuộc trung ương” [95].
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố Hà Nội, chịu trách
93
nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ và các nghị
quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội. Ngày 20/11/2018, Quốc hội đã
biểu quyết thông qua Luật Công an nhân dân (sửa đổi), gồm 7 Chương, 46 Điều
và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2019. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 14,
Luật này, UBND thành phố Hà Nội có trách nhiệm: Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật thuộc thẩm quyền để tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật
tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật, nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cùng cấp và các nhiệm vụ về an ninh, trật tự, an toàn xã hội do cấp có thẩm
quyền giao; thực hiện quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa
phương theo quy định của pháp luật. UBND thành phố Hà Nội là cơ quan thẩm
quyền chung trong QLNN về ANTT, tổ chức thực hiện nhiệm vụ giữ gìn ANTT,
tổ chức phong trào quần chúng tham gia xây dựng lực lượng vũ trang và quốc
phòng toàn dân; chỉ đạo việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, xây dựng lực
lượng CAND vững mạnh, bảo vệ bí mật nhà nước; thực hiện các biện pháp
phòng ngừa, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi VPPL khác ở địa
phương; chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý
hộ khẩu, quản lý việc cư trú, đi lại của người nước ngoài ở địa phương; tuyên
truyền, giáo dục, vận động nhân dân tham gia phong trào bảo vệ ANTT...
UBND thành phố Hà Nội điều phối các cơ quan chuyên môn thực hiện
nghĩa vụ, trách nhiệm tham gia QLNN về ANTT trong phạm vi chưc năng,
nhiêm vu cua cac cơ quan đo.
Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội là người đứng đầu UBND thành phố
Hà Nội và có các nhiệm vụ, quyền hạn về ANTT: Lãnh đạo, chỉ đạo việc thực
hiện các nhiệm vụ thi hành Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên, của Hội đồng nhân dân và UBND thành phố; thực hiện các
nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng chống
tội phạm và các hành vi VPPL khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng; tổ
chức thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính
94
mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác
của công dân; thực hiện các biện pháp quản lý dân cư trên địa bàn thành phố
Hà Nội theo quy định của pháp luật; chỉ đạo thực hiện các biện pháp bảo vệ
môi trường, phòng, chống cháy, nổ; chỉ đạo và áp dụng các biện pháp để giải
quyết các công việc đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, dịch
bệnh, ANTT an toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội theo quy định của
pháp luật; tổ chức việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý
VPPL, tiếp công dân theo quy định của pháp luật...
Công an thành phố Hà Nội là cơ quan chuyên môn QLNN về ANTT, chịu
sự lanh đao trực tiếp về mọi mặt của Thành uỷ, UBND thành phố Hà Nội và
chịu sự chỉ đạo của Bộ Công an. Theo Khoản 2, Điều 18, Luật Công an nhân
dân, năm 2014: “Chỉ huy công an địa phương chịu trách nhiệm trước chỉ huy
công an cấp trên và trước cấp ủy Đảng, chính quyền cùng cấp” [92]. Giám đốc
Công an thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm trước Thành uỷ và UBND thành
phố Hà Nội về công tác bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH, có trách nhiệm tham
mưu, đề xuất triển khai thực hiện và trực tiếp thực hiện các nghị quyết, quyết
định, chỉ thị, kế hoạch của Thành uỷ và UBND thành phố Hà Nội về công tác
bảo vệ ANTT và thực hiện chế độ thông tin, báo cáo theo quy định. Trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ QLNN về ANTT, Công an thành phố Hà Nội phải
thường xuyên báo cáo, chịu sự chỉ đạo của Thành uỷ và UBND thành phố Hà
Nội, nhất là những vấn đề lớn như: Nhận định, đánh giá tình hình ANTT ở địa
phương, phương hướng giải quyết, vấn đề huy động nhân lực, tài chính, phương
tiện... ở địa phương. Về quy trình, các biện pháp nghiệp vụ, các nguyên tắc chỉ
đạo hoạt động... thì cơ quan QLNN về ANTT cấp dưới phải tuân thủ nghiêm sự
chỉ đạo của cơ quan QLNN về ANTT cấp trên. Do hoạt động của các thế lực thù
địch, các loại tội phạm hết sức tinh vi, phức tạp nên trong QLNN về ANTT đô
thị, UBND thành phố Hà Nội giao cơ quan Công an trực tiếp đảm nhiệm việc
QLNN về ANTT trên địa bàn mình phụ trách. Đồng thời, Công an thành phố Hà
95
Nội chịu sự chỉ đạo của cơ quan công an cấp trên, được giao quyền sử dụng các
biện pháp, lực lượng, phương tiện nghiệp vụ để tiến hành phòng ngừa, phát hiện,
đấu tranh ngăn chặn tội phạm, VPPL, thực hiện chức năng QLNN về ANTT ở
địa bàn đô thị Hà Nội. Với tính chất đặc biệt của nhiệm vụ bảo vệ ANTT nên
QLNN về ANTT còn có những nội dung, hình thức, tổ chức lực lượng có tính
đặc thù. Công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan công an các cấp ở Hà Nội đều do
Bộ Công an chỉ đạo và quyết định như: Xác định mô hình tổ chức, ấn định biên
chế, bố trí cán bộ, thực hiện chính sách...
Trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, an ninh thế giới và khu vực
có diễn biến phức tạp, tình hình ANTT ở đô thị Hà Nội vẫn được giữ vững,
ổn định, góp phần tạo môi trường chính trị - xã hội lành mạnh phục vụ đắc lực
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, trước
âm mưu và hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch trong và ngoài nước,
những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, của quá trình đô thị
hóa, công tác QLNN về ANTT đô thị Hà Nội vẫn tiềm ẩn những nguy cơ, yếu
tố phức tạp. Do đó, công tác bảo vệ an ninh chính trị luôn được chính quyền
đô thị Hà Nội xác định là nhiệm vụ hàng đầu. Căn cứ Luật An ninh quốc gia,
UBND thành phố Hà Nội đã ban hành các văn bản pháp luật thực hiện chức
năng, nhiệm vụ QLNN về ANTT, giải quyết các vụ việc có liên quan đến bảo
vệ chính trị nội bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể; tham gia tư vấn công tác
kiện toàn tổ chức, công tác cán bộ của các cơ quan, đơn vị, giải quyết mâu
thuẫn nội bộ, triển khai thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, phòng,
chống các phần tử cơ hội chính trị chui vào tổ chức Đảng, chính quyền... góp
phần làm trong sạch nội bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội.
Các cơ quan chuyên môn của thành phố Hà Nội cũng đã đấu tranh vô hiệu
hóa âm mưu, ý đồ hoạt động chống phá của một số đối tượng phản động, cơ
hội chính trị. Đặc biệt, thành phố Hà Nội đã chủ động triển khai các phương
án phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả, làm thất bại âm mưu, ý đồ của một số đối
96
tượng phản động lợi dụng việc Quốc hội đưa ra thảo luận dự thảo Luật Đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc; thông qua
Luật An ninh mạng để tổ chức tụ tập đông người tuần hành trái pháp luật với
phương thức, thủ đoạn mới... UBND thành phố Hà Nội thực hiện Chương
trình số 05 về “tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã
hội trong tình hình mới”, tổ chức triệt phá, đập tan nhiều âm mưu và hoạt
động bạo động, lật đổ chế độ của bọn phản động được các thế lực thù địch
nước ngoài hỗ trợ. Các thế lực thù địch, phản động người Việt lưu vong tuy
đã bị thu hẹp, nhưng vẫn chưa từ bỏ ý định, lợi dụng chính sách thông thoáng
mở cửa, hội nhập để tổ chức đưa người về nước thực hiện âm mưu chống phá
lâu dài; lợi dụng các sự kiện chính trị nhạy cảm về biển đảo, chủ quyền biên
giới để kích động những hành động quá khích, số đối tượng cơ hội chính trị
câu kết với các cá nhân, tổ chức phản động trong nước và lưu vong, tập hợp
lực lượng để hoạt động chống phá. Các hoạt động lợi dụng tôn giáo có nhiều
diễn biến phức tạp, nổi lên là hoạt động tôn giáo đòi thoát khỏi sự quản lý của
nhà nước, tổ chức hoạt động cầu nguyện, sinh hoạt trái phép không đúng nơi
thờ tự. Đáng chú ý là hoạt động lợi dụng đòi lại đất đai đã được giao cho nhà
nước quản lý, gây mất ANTT tạo cho các thế lực phản động lợi dụng xuyên
tạc, chống phá nhà nước về dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo.
UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 57/KH-UBND,
ngày 08/03/2017 về thực hiện công tác bảo vệ bí mật nhà nước của thành phố
Hà Nội năm 2017 nhằm tiếp tục chỉ đạo, tăng cường công tác bảo vệ an ninh
chính trị nội bộ tại các cơ quan, đơn vị. Lựa chọn cán bộ có đủ tiêu chuẩn làm
việc tại các bộ phận trọng yếu, cơ mật...
Công an thành phố Hà Nội tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội triển khai nhiều biện pháp bảo vệ an ninh văn hoá - tư tưởng chống hoạt
động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch, phòng chống các lệch lạc trong
các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, y tế, giáo dục - đào tạo và an ninh sinh viên,
97
báo chí, xuất bản... Công an thành phố Hà Nội đã phối hợp với các đơn vị của
Cục An ninh đấu tranh vô hiệu hoá hoạt động của các đối tượng cơ hội chống
đối, đấu tranh chống quan điểm sai trái, phản động...; đã tham mưu cho Thành
uỷ, UBND thành phố Hà Nội tăng cường kiểm soát chặt chẽ hoạt động của báo
chí, xuất bản, in ấn đảm bảo đi đúng định hướng chính trị, tuân thủ pháp luật.
Trong thời gian qua hoạt động của báo chí có những diễn biến không bình
thường. Lợi dụng tự do báo chí, nhiều tờ báo, tạp chí, nhà xuất bản đã cố tình
VPPL, khai thác và tung ra dư luận nhiều thông tin, bài viết thiếu xây dựng, nhất
là về các vấn đề nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tiêu cực, tham
nhũng, chính trị nội bộ, mâu thuẫn khiếu kiện và các vấn đề xã hội bức xúc tạo
ra dư luận xã hội không lành mạnh, để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
Trong các cơ quan nhà nước ở đô thị Hà Nội đã xuất hiện những dấu hiệu “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ,
công chức; tình hình mất đoàn kết nội bộ xảy ra ở nhiều ban, ngành. Một số cán
bộ, công chức, đảng viên công khai phê phán sự lãnh đạo của Đảng, sự điều
hành của Chính phủ, của chính quyền địa phương; tình trạng tham nhũng, tiêu
cực nghiêm trọng. Một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất đã bộc lộ quan
điểm tư tưởng sai trái, thậm chí chống lại Đảng, truyền bá quan điểm chính trị
phản động. Họ viết bài phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thành quả cách mạng,
đòi đa nguyên, đa đảng. Tình trạng trên đang tác động đến lòng tin của quần
chúng nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã chỉ đạo tiến hành thường xuyên công
tác giáo dục, nâng cao cảnh giác cho cán bộ, công chức, công nhân viên trong các
cơ quan, đơn vị, làm cho mọi người hiểu đúng tình hình ANTT hiện nay. Một mặt,
nâng cao nhận thức, luôn luôn ủng hộ đổi mới, ủng hộ việc mở rộng hợp tác kinh
tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài làm cho sản xuất phát triển. Nhưng mặt khác,
phải luôn đề cao tinh thần cảnh giác, phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh kịp thời
đối với hoạt động của địch và các phần tử chống đối khác lợi dụng mở rộng dân
98
chủ hóa, hợp tác kinh tế đối ngoại để phá hoại từ chính trị.
Hiện nay, vấn đề bảo vệ an ninh mạng đặt ra ngày càng cấp bách. Các cơ
quan đặc biệt nước ngoài và tin tặc thường xuyên lợi dụng các điểm yếu của hệ
thống cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của các cơ quan Đảng, Nhà
nước để xâm nhập, thu thập thông tin bí mật nhà nước, cài cắm mã độc, phần
mềm gián điệp. Hoạt động sử dụng internet xâm phạm an ninh quốc gia của các
thế lực thù địch trong và ngoài nước diễn ra với cường độ mạnh hơn, tinh vi,
nguy hiểm hơn và tập trung chủ yếu vào tuyên truyền phá hoại tư tưởng, phá
hoại nội bộ, công kích các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước.
Gia tăng hoạt động sử dụng interrnet kích động biểu tình, phá rối ANTT.
Tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về cư trú, UBND
thành phố Hà Nội đã giao cho Sở Văn hóa thông tin, Đài phát thanh và truyền
hình Hà Nội viết nhiều tin, bài tuyên truyền sâu rộng kiến thức pháp luật về
cư trú, về các quy định mới và các thủ tục hành chính trong QLNN về thường
trú, tạm trú đối với công dân, tuyên truyền về nội dung đổi mới của Luật Cư
trú. Để người dân thuận tiện, chủ động nắm được các thủ tục hành chính trong
QLNN về cư trú, UBND thành phố Hà Nội đã xây dựng trang Web, như
http://www.hanoi.gov.vn... thông báo tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục hồ sơ
hướng dẫn biểu mẫu đăng ký cư trú và địa chỉ các địa điểm tiếp dân lên mạng
qua cổng điện tử của UBND Thành phố.
Là cơ quan trực tiếp QLNN về cư trú, Công an thành phố Hà Nội cũng
đã hướng dẫn, giải thích, tuyên truyền về các tiêu chuẩn, thủ tục đăng ký cư trú,
đồng thời được thông báo công khai tại các trụ sở tiếp dân tại các trụ sở Công
an xã, phường, thị trấn. Công an thành phố Hà Nội thường xuyên phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan truyền thông, báo chí của Trung ương và Hà Nội, thông
qua các buổi họp chi bộ, họp tổ dân phố, cụm dân cư để tăng cường tuyên
truyền, đưa tin bài về thực hiện Luật Cư trú, phổ biến các tiêu chuẩn, điều kiện,
thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú, lưu trú, tạm vắng... để cán bộ, quần chúng
99
nhân dân biết tổ chức thực hiện. Công an thành phố Hà Nội thực hiện cải các
hành chính trong đăng ký thường trú theo hướng rút ngắn thời gian giải quyết
và giảm số lần đi lại cho người dân, đối với những trường hợp di chuyển cư trú
trong thành phố sẽ giảm cho người dân phải đi lại từ 04 lần, nay chỉ phải đi lại
02 lần, đã được nhân dân và dư luận đồng tình ủng hộ.
Để nắm chắc tình hình nhân, hộ khẩu thực tế cư trú trên địa bàn để phục
vụ kịp thời cho yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp
luật, Công an thành phố Hà Nội đã thường xuyên tiến hành kiểm tra, phân loại
các hộ, nhân khẩu trên địa bàn; tổ chức vận động phong trào toàn dân tham gia
công tác QLNN về cư trú. Nhìn chung, các cơ quan đăng ký cư trú đã thực hiện
nghiêm những quy định của Luật cư trú, Luật Thủ đô và các văn bản hướng
dẫn thi hành. Tuy nhiên, việc tổ chức, thực hiện công tác này chưa có trọng
tâm, trọng điểm, nội dung còn nặng về thủ tục hành chính, thiên về các biện
pháp xử lý. Một số quy định của Luật Cư trú chưa thực sự phù hợp, như cho
nhiều người nhập hộ khẩu nhờ vào cùng một nhà nhưng không thực tế cư trú,
chuyển nơi cư trú nhưng không làm thủ tục thay đổi theo quy định... Việc kiểm
tra, xử lý vi phạm về cư trú chưa được thường xuyên và kịp thời.
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã tổ chức triển khai có hiệu quả
Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm (Chương trình 138), Chương
trình hành động phòng chống ma tuý, Chương trình quốc gia phòng chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em (Chương trình 130) và các kế hoạch chống tội phạm
kinh tế, chức vụ... đã phát hiện một số băng, ổ, nhóm tội phạm hình sự, ma
tuý hoạt động liên tuyến, liên tỉnh và xuyên quốc gia. Trong thời gian từ năm
2008 đến năm 2017, trên địa bàn thành phố Hà Nội đã xảy ra 67.081 vụ phạm
pháp hình sự, trung bình mỗi năm xảy ra gần 6.708 vụ [Bảng 3.5 - Phần phụ
lục]. Nhiều vụ án hình sự nghiêm trọng xảy ra như giết người, cướp tài sản,
hiếp dâm cũng gia tăng. Đặc biệt, nhiều vụ tội phạm mới xuất hiện với những
thủ đoạn rất manh động như cướp tiệm vàng, cướp xe taxi, tống tiền... Công
100
an thành phố Hà Nội đã duy trì và mở rộng các mô hình, chuyên đề phòng
chống tội phạm và đã phát huy hiệu quả như mô hình 141; 142 và các tổ công
tác trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ANTT tại địa bàn. Đã tổ chức tuyên
truyền các nội dung thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống
tội phạm, phòng chống ma tuý; xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh;
phong trào “Toàn dân tham gia tố giác tội phạm”, đẩy mạnh phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Tuyên truyền phổ biển, giáo dục
pháp luật nhằm phòng ngừa, hạn chế, tiến tới làm giảm phát sinh tội phạm.
Tuyên truyền, động viên, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
nghề nghiệp phát huy vai trò trong thực hiện công tác phòng chống tội phạm;
tuyên truyền tới toàn thể người dân trên địa bàn những phương thức, thủ đoạn
hoạt động của các loại tội phạm để qua đó, người dân nhận biết, đề cao cảnh
giác, tự bảo quản, bảo vệ tài sản của mình. UBND thành phố Hà Nội đã quyết
định thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc, phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; phòng, chống HIV/AIDS thành
phố Hà Nội (Ban Chỉ đạo 138/TP thành phố Hà Nội). Thành viên Ban Chỉ
đạo 138 Thành phố thực hiện theo chế độ kiêm nhiệm, chịu trách nhiệm chỉ
đạo, triển khai thực hiện công tác phòng chống tội phạm, xây dựng phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc theo chức năng, nhiệm vụ của đơn vị và sự
phân công của Trưởng Ban Chỉ đạo. Đảm bảo yêu cầu phối hợp chặt chẽ,
thống nhất trong chỉ đạo, điều hành và trao đổi thông tin giải quyết công việc
theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định.
Tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về đấu tranh phòng
chống tệ nạn xã hội. UBND thành phố Hà Nội đã chỉ đạo, triển khai có hiệu
quả các chương trình, kế hoạch về phòng chống ma túy, mại dâm, phòng
chống HIV/AIDS, thực hiện tốt công tác cai nghiện và quản lý sau cai nghiện;
chỉ đạo, phối hợp với các sở, ban ngành, tổ chức đoàn thể thành phố Hà Nội,
các ban chỉ đạo quận, huyện xây dựng, triển khai kế hoạch thực hiện với trọng
101
tâm là tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đẩy
mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc về cả chiều rộng lẫn chiều
sâu. Ban chỉ đạo 138 TP, Ban chỉ đạo Phòng chống AIDS và phòng chống ma
túy, mại dâm xác định tiếp tục thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính
phủ, của thành phố Hà Nội, trọng tâm là thực hiện Chiến lược quốc gia
phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến 2030,
Chương trình phòng chống ma túy, phòng chống mua bán người, phòng
chống mại dâm, phòng chống HIV/AIDS giai đoạn 2016-2020. Chủ động
nắm chắc tình hình, thực hiện đồng bộ các biện pháp, giải pháp phòng ngừa,
phát hiện, ngăn chặn tội phạm và tệ nạn xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm và tệ nạn xã hội với phương châm “phòng ngừa là chính”, phòng
ngừa xã hội đi đôi với phòng ngừa nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả công tác phát
động các phong trào quần chúng nhân dân bảo vệ an ninh Tổ quốc....
Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội Hà Nội đã tham mưu cho Giám đốc
Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội, Ban chỉ đạo phòng
chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma tuý, mại dâm của thành phố Hà Nội
về các hoạt động phòng chống tệ nạn mại dâm; quản lý sau cai cho người
nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Công an thành phố Hà Nội đã chủ động phối hợp với các cấp, các
ngành chính quyền đô thị Hà Nội, các phương tiện thông tin đại chúng thực
hiện công tác tuyên truyền, giáo dục phòng, chống ma túy nhằm nâng cao
nhận thức cho người dân về tác hại của tệ nạn ma túy để người dân tự phòng
ngừa. Đồng thời, phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,
phòng, chống tệ nạn xã hội góp phần ngăn chặn, kiềm chế, tiến tới làm giảm
tội phạm ma túy và giảm người nghiện ma túy. Nhờ đó, trên các địa bàn trọng
điểm, phức tạp về tệ nạn ma túy, hoạt động mua bán, tàng trữ trái phép chất
ma túy cơ bản đã được kiềm chế.
102
Các cơ quan chức năng thường xuyên tổ chức kiểm tra các cơ sở kinh
doanh dịch vụ có điều kiện về ANTT dễ phát sinh tệ nạn mại dâm, cụ thể năm
2016: Đội Kiểm tra liên ngành 178 quận, huyện, thị xã đã tổ chức kiểm tra
được 139 buổi với 349 cơ sở kinh doanh dịch vụ, nhắc nhở, cảnh cáo 38 cơ
sở, đình chỉ kinh doanh 13 cơ sở, xử lý hành chính 36 cơ sở [2]. Nhìn chung,
hoạt động mại dâm cơ bản đã được kiềm chế, kiểm soát song vẫn còn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ, diễn biến phức tạp.
Mặc dù đã tổ chức thực hiện nhiều biện pháp trong QLNN về phòng chống
tên nạn xã hội, nhưng tình hình tệ nạn xã hội ở đô thị Hà Nội vẫn diễn biến phức
tạp, hoạt động mại dâm trá hình trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm ở
đô thị Hà Nội có chiều hướng ra tăng. Tệ nạn mại dâm đã và đang lợi dụng các
loại hình dịch vụ như khách sạn, nhà hàng, phòng trọ, quán cà phê... để hoạt động
và ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Đáng chú ý, đã phát hiện một số đường dây,
tổ chức hoạt động mại dâm lớn. Tệ nạn cờ bạc nhất là lô đề, cá độ vẫn nhức nhối
trên diện rộng, đánh bạc và tổ chức đánh bạc trá hình dưới hình thức cá độ bóng
đá vẫn hoạt động mạnh. Đặc biệt, các đối tượng đã dùng mạng internet để quảng
cáo các đường dây gái gọi, tuyên truyền văn hóa phẩm đồi trụy. Số đối tượng
nghiện ma tuý vẫn tiếp tục gia tăng; tệ nạn mê tín dị đoan có nguy cơ bùng phát
lan rộng. Đây là nguồn gốc phát sinh, phát triển, bổ sung tội phạm.
Tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao
thông, UBND thành phố Hà Nội phê duyệt đề án “Tăng cường quản lý
phương tiện giao thông đường bộ nhằm giảm ùn tắc giao thông và ô nhiễm
môi trường trên địa bàn thành phố Hà Nội, giai đoạn 2017-2020 tầm nhìn
2030” nhằm thực hiện các giải pháp vừa lâu dài vừa cấp bách, cụ thể để tăng
cường quản lý phương tiện giao thông đường bộ nhằm giảm ùn tắc giao thông
và ô nhiễm môi trường, đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu đi lại và nâng cao chất
lượng môi trường sống của nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội. Công an
thành phố Hà Nội đã tổ chức lực lượng hướng dẫn, chỉ huy, điều khiển giao
103
thông tránh ùn tắc giao thông tại các tuyến đường, nút giao có lưu lượng
phương tiện giao thông lớn, không để xảy ra ùn tắc giao thông kéo dài, nhất là
tại các tuyến cửa ngõ ra vào thành phố Hà Nội. Phối hợp với Sở Giao thông
vận tải, UBND các quận, huyện, thị xã và các đơn vị thực hiện các giải pháp
bảo đảm an toàn giao thông trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Triển khai thực hiện Nghị định số 96/2016/NĐ-CP về quản lý ngành
nghề kinh doanh có điều kiện về ANTT, đến tháng 9/2018, toàn thành phố Hà
Nội đã giảm 403 cơ sở cầm đồ, kinh doanh tài chính, hiện còn 1.988 cơ sở
(gồm: 1.380 cơ sở cầm đồ; 608 cơ sở kinh doanh tài chính). Đã cấp Giấy
chứng nhận đủ điều kiện về ANTT cho 1.037 cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm
đồ. Kiểm tra, phát hiện xử lý hành chính 41 trường hợp vi phạm, xử phạt hành
chính 106.000.000 đồng, đình chỉ hoạt động 57 cơ sở, thu hồi Giấy chứng
nhận về ANTT đối với 03 trường hợp [2].
Tổ chức thực hiện pháp luật về QLNN về ANTT đô thị Hà Nội đã phục
vụ tích cực trong việc quản lý xã hội, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của các cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Công tác QLNN về ANTT đô thị Hà Nội đã có tác dụng phục vụ
cho các yêu cầu chính trị, kinh tế, xã hội của đô thị Hà Nội. Quá trình thực hiện
các lĩnh vực công tác QLNN về ANTT đô thị đã thường xuyên căn cứ vào các
quy định của pháp luật, kế hoạch, phương hướng, nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
Công tác quản lý nhà nước về phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ, tình hình tội phạm cơ bản được kiềm chế. Hoạt
động phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội đã huy động được các ngành, các
cấp, các đoàn thể tổ chức xã hội, công dân tham gia. Lực lượng Công an ở đô thị
đã thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn chức năng tham mưu cho chính quyền đô thị
những vấn đề cơ bản, chiến lược trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại...
Chủ động nắm, phân tích, dự báo sát tình hình, kịp thời tham mưu các chủ
trương, giải pháp bảo đảm ANTT, phát triển kinh tế - xã hội.
104
3.3.2. Hạn chế trong tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Mặc dù việc tổ chức thực hiện pháp luật về QLNN về ANTT đô thị Hà
Nội đã đạt những kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều hạn
chế. Đô thị Hà Nội vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và
các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật. Điều này cho thấy ý thức pháp luật
vẫn còn chưa nghiêm túc, ảnh hưởng xấu tới ANTT đô thị. Công tác nắm, dự
báo tình hình, giải quyết một số vụ việc về ANTT hiệu quả chưa cao, còn biểu
hiện lúng túng do thiếu những quy định pháp luật phù hợp, cũng như khả
năng áp dụng pháp luật chưa linh hoạt trên một số lĩnh vực QLNN về ANTT;
hoạt động vi phạm pháp luật về TTATXH còn diễn biến phức tạp ở một số
nơi chưa được xử lý kịp thời. Tình hình tham nhũng vẫn tiềm ẩn, VPPL về
môi trường, an toàn, vệ sinh thực phẩm cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh
hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người dân.
QLNN về TTATGT còn nhiều yếu kém, thể hiện: Công tác quy hoạch
giao thông thiếu căn cứ khoa học về tầm nhìn mang tính chiến lược; kết cấu
hạ tầng giao thông đô thị còn bất cập; công tác tổ chức giao thông lúng túng;
các chính sách phát triển giao thông vận tải, phát triển phương tiện giao thông
cơ giới chưa theo kịp nhu cầu vận động của nền kinh tế thị trường; vẫn còn
tình trạng buông lỏng công tác đảm bảo TTATGT ở một số địa phương; tiêu
cực của một số bộ phận cán bộ làm công tác QLNN về TTATGT chưa được
ngăn chặn và xử lý triệt để.
Công tác phối hợp trao đổi thông tin về nhân, hộ khẩu tại đô thị Hà Nội
chưa được chặt chẽ, đồng bộ, có đơn vị đã giải quyết đăng ký thường trú nhưng
không thông báo về nơi cấp giấy chuyển khẩu để xóa đăng ký thường trú gốc.
Công tác nắm bắt tình hình biến động nhân, hộ khẩu và việc bổ sung, củng cố,
bảo quản, khai thác, sử dụng hồ sơ, tài liệu hộ khẩu ở một số đơn vị chưa thường
xuyên, kịp thời, đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác thu nhận thông tin dân
105
cư. Việc ứng dụng phần mềm quản lý dân cư đạt hiểu quả chưa cao do trình độ
khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin của cán bộ còn hạn chế. Kinh phí phục
vụ cho công tác đăng ký, quản lý cư trú chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
QLNN về phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật còn nhiều thiếu sót,
sơ hở. Trước những tác động của tình hình thế giới và trong nước, tình hình tệ
nạn xã hội, VPPL ở đô thị Hà Nội tuy được kiềm chế nhưng vẫn diễn biến
phức tạp; một số loại tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy, môi trường, công
nghệ cao gia tăng với nhiều phương thức hoạt động mới, thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt, tính chất nguy hiểm hơn. Tội phạm hình sự có tổ chức có nhiều diễn
biến mới về đối tượng, phương thức, thủ đoạn, phạm vi, quy mô hoạt động, liên
quan đến nhiều tuyến, địa bàn, lĩnh vực; hàng năm ở đô thị Hà Nội phát sinh
nhiều băng nhóm tội phạm hình sự hoạt động bảo kê, cho vay nặng lãi, “đâm
thuê, chém mướn”, cưỡng đoạt tài sản, tổ chức cờ bạc, mại dâm... Hoạt động
của các loại tội phạm cướp, trộm cắp, lừa đảo nổi lên ở nhiều địa bàn, tuyến
trọng điểm, nhiều thủ đoạn mới, tính chất manh động, nguy hiểm hơn.
3.4. Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà nước
về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
3.4.1. Kết quả trong phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Xác định công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về ANTT là cầu nối
giữa công tác xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật, UBND thành phố Hà
Nội căn cứ vào Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, chương trình công tác của
Chính phủ để ban hành các kế hoạch cụ thể hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan,
ban, ngành về công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày
27/05/2013, UBND thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch số 84/KH-UBND
về việc phổ biến Luật Thủ đô và các văn bản quy định chi tiết thi hành trên
địa bàn thành phố Hà Nội, tiến hành tổ chức các hội nghị, các buổi tọa đàm,
phóng sự quán triệt những nội dung của Luật Thủ đô theo từng lĩnh vực, trong
106
đó có lĩnh vực ANTT được quy định tại Điều 20: “Bảo vệ vững chắc an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô bằng các biện pháp phòng
ngừa, ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả; mọi vi phạm pháp luật phải được
phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh” [ 89].
Với vai trò nòng cốt trong QLNN về ANTT, lực lượng Công an thành
phố Hà Nội triển khai thực hiện phổ biến Luật Thủ đô và văn bản hướng dẫn
thi hành Luật Thủ đô liên quan đến ANTT và xử phạt vi phạm hành chính cho
cán bộ, chiến sĩ trong ngành Công an và nhân dân; đã chủ động phối hợp với
các ban, ngành, đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về ANTT đến các tầng
lớp nhân dân, phát động phong trào quần chúng phòng ngừa, phát hiện, tố
giác tội phạm, giáo dục người vi phạm pháp luật tại khu dân cư, góp phần xây
dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Nhằm đa dạng hóa các hình thức phổ biến pháp luật về ANTT, UBND
thành phố Hà Nội đã tổ chức có hiệu quả các hoạt động tập huấn, phổ biến
pháp luật về ANTT trong các cơ quan, tổ chức trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Nhờ triển khai đồng bộ chương trình, đa dạng hóa các hình thức giáo dục,
tuyên truyền nên công tác thi hành pháp luật được các cơ quan, tổ chức quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thường xuyên, hiệu quả. Đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ANTT được tuyên
truyền, phổ biến, quán triệt tương đối đồng bộ, thống nhất và đã tạo sự chuyển
biến rõ nét từ nhận thức đến hành động chấp hành pháp luật của cán bộ và
nhân dân. Các cơ quan, tổ chức và người dân đã tham gia thực hiện tốt phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tham gia đấu tranh phòng, chống tội
phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác, góp phần tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TU, ngày 19/11/2014 của Thành ủy Hà Nội
107
về tăng cường lãnh đạo công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trên
địa bàn Thành phố trong tình hình mới, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành
Kế hoạch số 84/KH-UBND, ngày 07/4/2017 về tuyên truyền, phổ biến pháp luật
và kiến thức phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2017-
2021. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng cháy, chữa cháy được
thực hiện dưới nhiều hình thức: Trên các phương tiện truyền thông đại chúng, hệ
thống internet; đăng tải trên Công báo Thành phố, cổng giao tiếp điện tử Thành
phố và các trang thông tin điện tử sở, ban, ngành, đoàn thể Thành phố; Website
của Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy Thành phố; niêm yết tại trụ sở, bảng tin
của cơ quan, tổ chức và khu dân cư; trên Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội,
Báo Hà Nội mới, Báo Kinh tế đô thị, Báo Lao động Thủ đô, Báo An ninh Thủ
đô. Các hình thức tuyên truyền đa dạng và hiệu quả cao.
UBND thành phố Hà Nội chỉ đạo các ngành, đoàn thể đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật, tham gia giữ gìn TTATGT, phát động mạnh mẽ phong trào “Toàn
dân tham gia bảo đảm TTATGT”, gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, xây dựng “Văn hóa giao thông”;
xây dựng và triển khai trên địa bàn toàn quốc nhiều mô hình quần chúng tự
quản về TTATGT tiêu biểu, như: “Tổ tự quản về an toàn giao thông khu vực
dân cư”; lực lượng Công an tích cực phối hợp với các nhà trường mở các lớp
giáo dục pháp luật về TTATGT cho học sinh, sinh viên; phối hợp với các
phương tiện thông tin đại chúng mở các chuyên mục an toàn giao thông phản
ánh kịp thời tình hình TTATGT, tuyên truyền phổ biến pháp luật, cảnh báo tai
nạn, ùn tắc giao thông cho người dân...
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về ANTT góp phần tạo chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, trách nhiệm
tham gia bảo vệ ANTT của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân, góp phần
xây dựng xã hội an toàn, ổn định, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
108
3.4.2. Hạn chế của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật về ANTT đô thị vẫn còn có nhiều hạn chế về nội
dung và phương pháp dẫn đến nhận thức và hiểu biết pháp luật của nhân dân
chưa cao. Công tác tuyên truyền pháp luật về ANTT chủ yếu triển khai đến các
cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp, mà chưa được chú
trọng phổ biến đến các tổ chức quần chúng nhân dân dẫn đến việc nhân dân
chưa hiểu hoặc chưa ý thức hết được những nguyên nhân, hậu quả của các vi
phạm pháp luật để có biện pháp chủ động phòng ngừa. Nội dung tuyên truyền
còn nặng về các vi phạm, chưa tích cực củng cố xây dựng và nhân rộng các
gương điển hình tiên tiến trong phong trào đấu tranh bảo vệ ANTT. Sự phối
hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể chưa chặt chẽ, chưa tạo được cơ chế phối
hợp. Nhận thức về vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật về ANTT đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm
pháp luật còn yếu, còn dàn trải, chưa có trọng tâm, trọng điểm; hình thức chưa
phong phú, nội dung và cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật chưa phù hợp
với từng đối tượng. Việc phổ biến hiện nay thường tập trung vào các bộ luật,
luật, pháp lệnh, chưa chú trọng tuyên truyền các văn bản dưới luật.
3.5. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Hà Nội
3.5.1. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý
vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
- Thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Thực hiện Nghị định số 59/2012/NĐ-CP, ngày 23/7/2012 của Chính phủ
về theo dõi tình hình thi hành pháp luật, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành
109
kế hoạch và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức các đoàn kiểm tra và chỉ
đạo Công an thành phố Hà Nội tiến hành nhiều cuộc kiểm tra, khảo sát việc thi
hành pháp luật về ANTT; tổ chức rà soát, xử lý kết quả rà soát văn bản quy
phạm pháp luật bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp. Các văn bản quy
phạm pháp luật chưa sát thực tiễn, khó áp dụng đã được phát hiện, sửa đổi kịp
thời đã góp phần nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật về ANTT.
Thực hiện Luật Thanh tra năm 2010; Thông tư số 01/2014/TT-TTCP,
ngày 23/4/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định việc xây dựng, phê duyệt
định hướng chương trình thanh tra, kế hoạch thanh tra. UBND thành phố Hà Nội
ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về công tác thanh tra, như: Kế hoạch số
167/KH-UBND, ngày 15/9/2014; Kế hoạch số 23/KH-UBND, ngày 06/2/2017;
Kế hoạch số 238/KH-UBND, ngày 01/12/2017… triển khai thực hiện có hiệu
quả các quy định của pháp luật về thanh tra, nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nhà nước, góp phần ổn định ANTT, phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô.
Đối với QLNN về cư trú thì vấn đề kiểm tra, hướng dẫn có ý nghĩa và
tầm quan trọng đặc biệt, nó có tính chất quyết định đến chất lượng và hiệu
quả của cả quá trình công tác. Vì vậy, đi đôi với việc nghiên cứu nắm chắc
tình hình về hộ khẩu, nhân khẩu vẫn cần phải đề cập và tiến hành việc kiểm
tra, phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm Luật Cư trú, vi phạm các quy
định trong quá trình QLNN về cư trú. Việc kiểm tra thường trú thời gian qua,
Công an thành phố Hà Nội chủ yếu tiến hành hình thức kiểm tra định kỳ 6
tháng một lần ở các địa phương. Đối với các hộ gia đình thì Cảnh sát khu vực
căn cứ vào sổ hộ khẩu và các loại giấy tờ cần thiết khác đến từng hộ để đối
chiếu so sánh, phát hiện bổ sung những thay đổi của từng hộ, từng người
phục vụ cho công tác quản lý nắm chắc từng hộ, từng người. Hình thức kiểm
tra tập trung nhiều vào các thời điểm phức tạp về ANTT ở địa phương, nhất
là trong thời gian các ngày Tết cổ truyền của dân tộc, kỷ niệm Quốc khánh 2-
9; các chiến dịch tấn công, truy quét bọn tội phạm hình sự... Kết quả công tác
110
kiểm tra, xử lý các vi phạm trong QLNN về cư trú của công dân đã đạt được
nhiều kết quả, phục vụ tốt cho công tác quản lý xã hội của đô thị Hà Nội và
công tác nghiệp vụ của ngành Công an.
Công an thành phố Hà Nội phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội,
đoàn thể, tổ dân phố trong công tác quản lý cư trú để chủ động phòng ngừa tội
phạm; tăng cường kiểm tra các khu vực kinh doanh lưu trú và việc chấp hành
các quy định về ANTT, tiếp nhận thông báo lưu trú, tạm trú, tạm vắng; hướng
dẫn các thủ tục đăng ký tạm trú, tạm vắng và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
công dân đến thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình về cư trú. Lực lượng
Cảnh sát khu vực thường xuyên phối hợp với tổ dân phố vận động, nhắc nhở
các hộ gia đình có nhà trọ cho thuê, các cơ sở kinh doanh lưu trú khi có người
đến ở phải có trách nhiệm thông báo việc cư trú với công an phường.
Thực hiện Chỉ thị số 22/CT-TTg, ngày 15/10/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống
mại dâm trong tình hình hiện nay; Nghị định số 178/2004/NĐ-CP, ngày
15/10/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp
lệnh Phòng, chống mại dâm, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội ban hành Kế
hoạch số 25/KH-UBND, ngày 23/01/2018 kiểm tra việc thực hiện pháp luật
về phòng, chống tệ nạn mại dâm tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn
thành phố Hà Nội, kiểm tra việc chấp hành đăng ký kinh doanh, giấy phép
hoạt động theo quy định pháp luật, các điều kiện đảm bảo về ANTT, phòng
cháy, chữa cháy... Đội kiểm tra liên ngành 178 Thành phố kiểm tra việc chấp
hành quy định của pháp luật liên quan hoạt động phòng chống tệ nạn mại dâm
tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng hoạt động mại dâm theo quy
định tại Pháp lệnh Phòng chống mại dâm.
Công an thành phố Hà Nội trong phạm vi thẩm quyền được phân công
đã định kỳ, thường xuyên tiến hành việc thanh tra, kiểm tra công tác chấp hành
các quy định liên quan đến công tác bảo đảm ANTT, trực tiếp hoặc phối hợp
111
tiến hành việc kiểm tra hồ sơ, thông tin, sổ thường trú, kiểm tra việc chấp hành
các quy định về tạm trú, lưu trú trong các khách sạn, nhà nghỉ, các cơ sở tôn
giáo, tại các hộ gia đình. Quản lý về việc chấp hành các quy định liên quan đến
quản lý tạm vắng trên địa bàn. Tiếp nhận các thông tin phản hồi từ phía người
dân liên quan đến các hành vi vi phạm, các khiếu nại, tố cáo, đồng thời giải
quyết hoặc đề xuất cấp trên có biện pháp giải quyết phù hợp. Thông qua việc
phát hiện các hành vi vi phạm, Công an thành phố Hà Nội trong phạm vi thẩm
quyền, mức phạt, các hình thức xử lý vi phạm được phép sẽ tiến hành việc lập
biên bản, ra quyết định xử phạt hoặc hoàn thiện hồ sơ đề nghị lãnh đạo, chỉ huy
Công an, Chủ tịch UBND cấp có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phù hợp.
Về thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về trật
tự an toàn giao thông, Chính phủ đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung các quy định
về chế tài xử lý các hành vi VPPL về giao thông đường bộ; Bộ Công an đã chỉ
đạo tăng cường lực lượng tuần tra, kiểm soát, phân công cho từng lực lượng,
phân cấp trách nhiệm quản lý theo địa bàn, tuyến đường; nhiều trang thiết bị
phục vụ công tác tuần tra, kiểm soát được đầu tư như máy đo tốc độ, đo nồng
độ cồn trong hơi thở… Lực lượng Thanh tra giao thông cũng được củng cố,
tăng cường để thực hiện nhiệm vụ. Hoạt động của lực lượng Thanh tra giao
thông được thực hiện theo một chương trình, kế hoạch được cấp có thẩm
quyền phê duyệt hoặc thanh tra đột xuất khi cần, tổ chức tuần tra, kiểm soát
điều hành và quan sát hàng ngày theo kết hoạch được thông qua để có thông
tin kịp thời. Thanh tra giao thông đã thường xuyên mở các đợt cao điểm tăng
cường công tác thanh tra, phát hiện và xử lý vi phạm về các lĩnh vực
TTATGT, trong đó trọng tâm là tăng cường thanh tra việc chấp hành tiêu
chuẩn, quy trình, quy phạm đối với kết cấu hạ tầng, phương tiện, hoạt động
vận tải; hoạt động đăng kiểm, đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe. Mục đích
của hoạt động thanh tra là phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời các hành vi
112
VPPL, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến công tác bảo đảm TTATGT.
Sở Giao thông vận tải, Thanh tra Sở Giao thông vận tải Hà Nội và
Công an thành phố Hà Nội đã phối hợp liên ngành mở đợt kiểm tra, xử lý vi
phạm về trật tự an toàn giao thông ở Hà Nội. Tiến hành kiểm tra, kiên quyết
xử lý các vi phạm trên địa bàn toàn Thành phố; đặc biệt, tập trung trên các
tuyến đường, phố ở một số quận nội thành như Hoàn Kiếm, Ba Đình, Hai Bà
Trưng, Đống Đa, Hoàng Mai… Lực lượng chức năng tập trung kiểm tra, xử
lý, giải tỏa các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trật tự công cộng,
TTATGT như: Lấn chiếm lòng đường, hè phố để kinh doanh buôn bán, trông
giữ phương tiện, các trường hợp dừng, đỗ xe sai quy định; xây, đặt bục bệ,
cầu dẫn xe; làm mái che hoặc thực hiện các hoạt động khác gây cản trở hoặc
làm mất an toàn giao thông... trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Nghiêm túc thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Bộ Công
an, lực lượng Cảnh sát giao thông đã tăng cường lực lượng, phương tiện tiến
hành công tác tuần tra, kiểm soát đảm bảo trật tự, an toan giao thông địa bàn
Hà Nội, nhằm khắc phục tình trạng ùn tắc và hạn chế đến mức thấp nhất tai
nạn giao thông, góp phần tích cực vào sự nghiệp giữ gìn ANTT. Tuy nhiên,
do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình trạng mất an toàn giao thông, nhất là
ùn tắc và tai nạn giao thông vẫn xảy ra nghiêm trọng, trong đó thiệt hại về
người và tài sản luôn ở mức báo động.
Nhằm nâng cao hiệu quả thanh tra, khi kết thúc các cuộc thanh tra, các
lực lượng chức năng đã tổng hợp kết quả, tổng kết thanh tra báo cáo xin ý kiến
lãnh đạo thành phố Hà Nội có biện pháp cụ thể khắc phục tồn tại, hạn chế.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô
thị Hà Nội
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
ANTT là tố cáo cơ quan, đơn vị, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về
QLNN trong lĩnh vực bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH. Thực hiện các quy
113
định của Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, các văn bản
hướng dẫn thi hành và chỉ đạo của Trung ương về công tác tiếp công dân, xử
lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo. UBND thành phố Hà Nội tập trung thực
hiện tốt công tác tiếp công dân, tiếp tục rà soát và giải quyết dứt điểm các vụ
việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, bức xúc, kéo dài. Công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng được thực hiện đồng bộ tại tất cả
các cấp, các ngành của Thành phố. Triển khai thực hiện Chỉ thị số 14/CT-
TTg, ngày 18/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh và nâng cao
hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Kế hoạch số 123-
KH/TU, ngày 25/6/2014 của Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội; Chỉ thị số
15-CT/TU, ngày 16/12/2016 của Thành ủy Hà Nội... UBND thành phố Hà
Nội ban hành các văn bản chỉ đạo nhằm tăng cường sự lãnh đạo của các cấp
ủy đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo trên
địa bàn thành phố Hà Nội; khắc phục những tồn tại, hạn chế, đổi mới, nâng
cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thành phố.
Thực hiện tốt công tác tiếp công dân thường xuyên, định kỳ; tiếp nhận và xử
lý các đơn khiếu nại, tố cáo đúng quy định; tập trung giải quyết vụ khiếu nại,
tố cáo ngay từ khi phát sinh tại cơ sở, nhất là các vụ đông người, phức tạp,
tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến ANTT.
Thực hiện Nghị định 91/2013/NĐ-CP, ngày 12/08/2013 quy định về tố
cáo và giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân; Thông tư số 10/2014/TT-
BCA, ngày 04/3/2014 quy định việc xử lý, giải quyết tố cáo và quản lý công
tác giải quyết tố cáo trong Công an nhân dân. Công an thành phố Hà Nội đã
tập trung tham mưu cho UBND nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết đơn
khiếu nại, tố cáo của công dân, không để phát sinh các điểm nóng, phức tạp,
góp phần ổn định tình hình ANTT, phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
- Xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Thực hiện Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/2013 của Chính
114
phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an
toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng,
chống bạo lực gia đình; Thông tư số 10/2015/TT-BCA, ngày 11/2/2015 của
Bộ Công an, quy định chi tiết về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
liên quan an ninh, trật tự, an toàn xã hội. UBND thành phố Hà Nội đã chỉ đạo
lực lượng Công an chủ động nắm tình hình, xây dựng và ban hành nhiều
phương án, kế hoạch đảm bảo ANTT trên các lĩnh vực QLNN về an ninh
chính trị; QLNN về phòng chống tội phạm; QLNN về trật tự, an toàn giao
thông; QLNN về cư trú... Kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm
hành chính về ANTT theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, mức độ
tuân thủ pháp luật và thi hành quyết định xử phạt tương đối cao.
Từ năm 2014 đến 2018, căn cứ vào Luật Cư trú, Nghị định số
167/2013/NĐ-CP và các văn bản hướng của Bộ Công an, Công an thành phố
Hà Nội đã kiểm tra công tác tiếp nhận tin báo lưu trú, khai báo tạm vắng trên
địa bàn thành phố Hà Nội, phát hiện và xử lý vi phạm hành chính 14.452
trường hợp với số tiền 2.701.662.000 đồng. Trong QLNN về ngành nghề kinh
doanh có điều kiện về ANTT phát hiện và xử lý 5.622 trường hợp vi phạm về
quản lý con dấu, thu 5.499.800.000 đồng; xử lý vi phạm 8.512 cơ sở kinh
doanh có điều kiện nhạy cảm về ANTT, thu 32.149.440.000 đồng, thu hồi 561
giấy chứng nhận đủ điều kiện về ANTT, đình chỉ 490 cơ sở, kiến nghị thu hồi
rút đăng ký kinh doanh 30 cơ sở [19].
3.5.2. Hạn chế của thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Hà Nội
Hoạt động thanh tra, kiểm tra trong thực hiện pháp luật về QLNN về
ANTT đô thị Hà Nội vẫn còn nặng về thanh tra vụ việc mà chưa chú trọng
đúng mức đến việc phát hiện và kiến nghị những vấn đề nhằm hoàn thiện cơ
chế chính sách, pháp luật quản lý, những kiến nghị xử lý nhằm nâng cao trách
115
nhiệm của các cơ quan quản lý và người đứng đầu cơ quan quản lý. Kết quả
thanh tra mới chỉ ra được những hạn chế, sai sót cơ bản trong giải quyết các
lĩnh vực, vụ việc cụ thể và trong trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của
các cơ quan là đối tượng thanh tra mà chưa kịp thơi chỉ đạo việc thực hiện các
kết luận thanh tra của Thanh tra thành phố Hà Nội, thanh tra Bộ Công an...
Công tác tiếp nhận đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo tiến hành còn
chậm, chất lượng chưa cao, vẫn còn nhiều vụ việc khiếu kiện phức tạp, kép dài.
Tình hình vi phạm pháp luật QLNN về ANTT đô thị diễn ra ngày càng
phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn trên các lĩnh vực đời sống xã hội,
trong đó, xảy ra chủ yếu ở các lĩnh vực như: QLNN về trật tự, an toàn giao
thông; QLNN về phòng chống tệ nạn xã hội; quản lý về cư trú...
3.6. Nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về ANTT nước ta vẫn chưa đồng bộ,
thiếu thống nhất, chậm đi vào cuộc sống, luôn biến động đã tác động đến
QLNN về ANTT đô thị. Nhiều luật được ban hành nhưng chậm có thông tư
hướng dẫn thực hiện và áp dụng điều luật. Vì vậy, việc hiểu và vận dụng
điều luật mỗi cấp, mỗi ngành có khác nhau, nhất là các cơ quan bảo vệ pháp
luật dẫn đến thiếu sự thống nhất trong xử lý nên trật tự kỷ cương pháp luật
có lúc còn chưa nghiêm.
Thứ hai, năng lực, trình độ nghiệp vụ và quản lý của đội ngũ cán bộ,
công chức trong quá trình thực hiện QLNN về ANTT đô thị Hà Nội vẫn còn
nhiều hạn chế, còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu QLNN về ANTT đô
thị trong tình hình mới, nhất là trình độ lý luận chính trị, kiến thức về khoa
học quản lý, tin học và ngoại ngữ. Bên cạnh đó, một bộ phận tha hóa, biến
chất, hạch sách, nhũng nhiễu, nhận hối lộ, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của nhân dân.
Thứ ba, trách nhiệm QLNN về ANTT đô thị của các bộ, ngành, chính
116
quyền đô thị Hà Nội và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước chưa
được nâng cao. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành, lực lượng tại
thành phố Hà Nội chưa được tiến hành thường xuyên, nội dung và hình thức
phối hợp chưa phong phú; việc quy định, phân công, phân cấp giữa các lực
lượng, cơ quan, ban ngành trong QLNN về ANTT đôi khi còn chồng chéo.
Vẫn còn tình trạng một số cán bộ đứng đầu các cơ quan chưa nhận thức rõ và
vẫn coi nhiệm vụ QLNN về ANTT là nhiệm vụ của riêng lực lượng Công an,
còn trông chờ, ỷ lại vào cơ quan công an, đặc biệt trong nhiệm vụ bảo vệ an
ninh chính trị, an ninh kinh tế, bảo vệ bí mật nhà nước... Do đó, chưa tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị, cơ quan mình tham gia nhiệt tình thực hiện các
chương trình, kế hoạch đảm bảo ANTT trên địa bàn đô thị Hà Nội. Cơ quan
công an với vai trò nòng cốt trong QLNN về ANTT đô thị Hà Nội còn nhiều
yếu kém, đặc biệt là trong công tác tham mưu với UBND thành phố Hà Nội
về việc huy động các ban, ngành, đoàn thể nhân dân thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ ANTT.
Thứ tư, nhận thức chung của xã hội về công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về ANTT còn chưa tương xứng với vị trí, vai trò, tầm quan trọng
của công tác này. Có một số hình thức chưa phù hợp với đối tượng tuyên
truyền, giáo dục, phổ biến và chưa phù hợp với tình hình thực tiễn. Phương
thức tuyên truyền chưa bài bản và hiệu quả.
Thứ năm, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền
thành phố Hà Nội đối với công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về
QLNN về ANTT chưa thực sự quan tâm thường xuyên, mới chỉ sử dụng
thanh tra, kiểm tra như một công cụ để xử lý các vụ việc cụ thể phát sinh
trong quá trình quản lý mà chưa coi thanh tra, kiểm tra là một chức năng của
công tác quản lý. Quyền hạn và hiệu lực thanh tra còn hạn chế, mới chủ yếu
dừng lại ở quyền kiến nghị cho nên tính hiệu quả chưa cao. Điều này phần
nào ảnh hưởng đến tính chủ động và độc lập trong hoạt động của các chủ thể
117
thực hiện thanh tra, kiểm tra. Hoạt động đánh giá và tổng kết, rút kinh
nghiệm đối với những cuộc thanh tra, kiểm tra còn chậm; kết luận thanh tra,
kiểm tra và chỉ đạo của cấp có thẩm quyền xử lý kết quả thanh tra, kiểm tra
không được thông báo và tổ chức rút kinh nghiệm kịp thời để khắc phục
khuyết điểm, tồn tại, hạn chế và đề ra biện pháp giải quyết.
Thứ sáu, nguyên nhân của tình hình vi phạm pháp luật trong QLNN về
ANTT đô thị chủ yếu là do ý thức tuân thủ, hiểu biết về pháp luật của một bộ
phận cán bộ, người dân còn hạn chế; do sự xuống cấp về đạo đức của một số
bộ phận thanh thiếu niên, cùng với sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị
trường hay một số đối tượng vi phạm vì mục đích lợi nhuận...
118
Kết luận chương 3
Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà
Nội rút ra kết luận Chương 3 như sau:
Trên cơ sở các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về an
ninh, trật tự, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương
(khoá IX) năm 2003 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Chi
thị số 05-CT, ngày 14/10/2006 của Bộ Chính trị (khóa X) về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình
mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới... Hệ
thống các văn bản pháp luật về an ninh, trật tự ngày càng hoàn thiện, tạo hành
lang pháp lý vững chắc để triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nươc về
an ninh, trật tự. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về ANTT nước ta vẫn chưa
đồng bộ, chậm đi vào cuộc sống, luôn biến động, nhiều Luật được ban hành
nhưng chậm có thông tư hướng dẫn thực hiện và áp dụng điều luật. Một số
lĩnh vực bức xúc của đời sống xã hội, liên quan đến quyền con người, quyền
công dân nhưng chưa có pháp luật về ANTT điều chỉnh hoặc chưa được điều
chỉnh bằng luật theo quy định của Hiến pháp, năm 2013.
Tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô
thị Hà Nội đã phục vụ tích cực trong việc quản lý xã hội, phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Quá trình thực hiện các lĩnh vực công tác
quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội đã thường xuyên căn cứ vào
các quy định của pháp luật, kế hoạch, phương hướng, nhiệm vụ trong từng giai
đoạn. Các chủ thể quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội đã thực
hiện hiệu quả hơn chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, chủ động
nắm, phân tích, dự báo sát tình hình, kịp thời tham mưu cho Đảng và Nhà nước
các chủ trương, giải pháp bảo đảm ANTT, phát triển kinh tế - xã hội.
119
Từ việc phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật, Chương 3 đã
nghiên cứu thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị Hà Nội và việc thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết
khiếu nại tố cáo, xử lý vi phạm trong việc thực hiện pháp luật về quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội.
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về an ninh, trật
tự đô thị Hà Nội, luận án đã đánh giá các mặt ưu điểm, hạn chế, tồn tại trong
công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội nhằm tìm ra giải
pháp khắc phục các tồn tại, hạn chế và tăng cường quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị Hà Nội.
120
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ AN NINH, TRẬT TỰ ĐÔ THỊ HÀ NỘI
4.1. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô
thị Hà Nội
4.1.1. Đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng
trong nhiệm vụ quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Đại hội lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Để thực hiện thắng
lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập
trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân
và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc” [44, tr.150]. Trong nhận thức lý luận và tổ chức
thực tiễn, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của cách
mạng để tổ chức, lãnh đạo và chỉ đạo sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, trước âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ
trang hòng làm cho quân đội và công an mất phương hướng chính trị, xa rời
mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, thì vấn đề tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội, công an
và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc càng trở nên quan trọng, cấp bách.
Sự lãnh đạo tập trung, toàn diện của các cấp uỷ đảng là sự đảm bảo cơ
bản nhất để làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động thực hiện chiến lược “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ ANTT, chống tiêu cực, phòng
chống tội phạm, tệ nạn xã hội... Hiến pháp nước ta khẳng định Đảng Cộng sản
Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xã hội, Luật CAND quy định “Công an nhân
dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản
Việt Nam...” [92].
121
Đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong QLNN về ANTT là đảm
bảo sự độc quyền lãnh đạo của Đảng đối với các hoạt động quản lý về ANTT
của các chủ thể quản lý. Đảng Cộng sản Việt Nam không chia sẻ quyền lãnh đạo
QLNN về ANTT cho bất cứ thế lực chính trị nào. Nhiệm vụ QLNN về ANTT là
nhằm bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo
vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng, bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ nền văn hoá dân tộc, bảo đảm sự an toàn cho các hoạt động bình
thường của cả hệ thống chính trị, giữ gìn trật tự, kỷ cương luật pháp xã hội chủ
nghĩa. Các tổ chức trong hệ thống chính trị nước ta đều là công cụ của Đảng do
Đảng tổ chức ra và là hạt nhân lãnh đạo nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, trước mắt là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, để
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Mọi hoạt động QLNN về ANTT đều đặt dưới sự quản lý thống nhất
của Nhà nước nhưng mọi hoạt động của Nhà nước cũng chỉ là sự thể chế hóa
đường lối, chính sách của Đảng thành hệ thống pháp luật, chiến lược, chương
trình, kế hoạch về bảo vệ ANTT. Ở đô thị Hà Nội, các chủ thể QLNN về
ANTT đô thị, trực tiếp là cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở đô thị Hà
Nội, công an đô thị với vai trò chuyên trách phải làm tốt công tác tham mưu
cho các cấp uỷ Đảng (Thành uỷ, Quận uỷ, Đảng uỷ Công an Trung ương, cấp
uỷ các cơ quan có liên quan), thường xuyên phản ánh tình hình, đề xuất các
giải pháp QLNN về ANTT ở địa phương. Các cấp uỷ đảng phải thường xuyên
coi trọng lãnh đạo công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên,
nâng cao ý thức cảnh giác trước những âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa
bình” trong tình hình mới. Các cấp uỷ đảng phải tăng cường chỉ đạo công tác
tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, giữ vững Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ của Đảng và nguyên tắc tập trung dân chủ, chống âm mưu, hoạt
động phá hoại tổ chức Đảng, móc nối, cài cắm cơ sở của kẻ địch, kiên quyết
122
loại ra khỏi hàng ngũ của Đảng, cơ quan Nhà nước những phần tử cơ hội,
thoái hóa, biến chất, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị, TTATXH.
4.1.2. Quán triệt quan điểm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa
Nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước có hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh, đồng bộ, minh bạch và có chất lượng; toàn hệ thống bộ máy nhà nước,
cán bộ, công chức nhà nước và mọi công dân sống, làm việc theo pháp luật.
Muốn đạt được điều đó thì vấn đề quan trọng là cần phải xử lý nghiêm, đúng đắn
các vi phạm pháp luật nhằm duy trì và ổn định ANTT. Tăng cường QLNN về
ANTT là một trong những nội dung của cải cách hành chính, cải cách bộ máy
nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; yêu cầu quản lý xã
hội theo pháp luật, tôn trọng pháp luật, tôn trọng và bảo vệ quyền con ngươi,
quyền công dân là một yêu cầu quan trọng và thiết yếu. Nhà nước pháp quyền
XHCN có vai trò góp phần tạo dựng một không gian chính trị - pháp lý nhằm
đảm bảo và phát huy các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con ngươi, trong đó có
quyền được sống trong một xã hội ANTT được đảm bảo. Điều 32, Hiến pháp,
năm 2013 quy định: “Pháp luật bảo hộ mọi người có quyền sở hữu về thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn
góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế” [90].
Quản lý nhà nước về ANTT phải thường xuyên quán triệt và bám sát
chủ trương, đương lối của Đảng, phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị
đối với từng giai đoạn của cách mạng. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX đã khẳng định: “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công
chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [42].
Nhà nước ta đang tập trung chỉ đạo đẩy mạnh cải cách nền hành chính
123
nhà nước nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập
quốc tế. Trước những đòi hỏi của tình hình mới, QLNN về ANTT đô thị nói
chung, QLNN về ANTT đô thị Hà Nội nói riêng phải tiếp tục đổi mới toàn
diện. Các chủ thể QLNN về ANTT đô thị Hà Nội phải đẩy nhanh tiến độ cải
cách hành chính, trước hết là xây dựng thể chế quản lý bằng việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về ANTT, đẩy nhanh hoàn thiện thủ tục hành
chính theo mô hình “một cửa” đáp ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân và hiện
đại hóa nền hành chính.
Các cơ quan chuyên môn, đặc biệt, công an đô thị Hà Nội với vai trò
chuyên trách trong QLNN về ANTT đô thị phải làm tốt chức năng tham mưu
cho UBND thành phố Hà Nội trong việc rà soát, ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ ANTT đô thị; tham mưu, đề
xuất các biện pháp củng cố tổ chức, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan thực hiện nhiệm vụ QLNN về ANTT theo từng cấp; kịp
thời đề xuất cấp uỷ, chính quyền đô thị các biện pháp đề cao trách nhiệm bảo
vệ an ninh chính trị, TTATXH. Đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính, nhất
là các khâu, các lĩnh vực có liên quan đến bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức như QLNN về cư trú, quản lý các loại giấy tờ đi lại; quản lý
nhân, hộ khẩu, thủ tục xử phạt các vi phạm hành chính về ANTT... Cải tiến
phương thức quản lý trong kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ giữa
ngành Công an với chính quyền các đô thị. Công an thành phố Hà Nội một mặt
phải làm tốt nhiệm vụ của một đơn vị trực thuộc công an cấp trên, chịu sự chỉ
đạo, điều hành của công an cấp trên, đồng thời phải thực hiện chức năng
QLNN về ANTT với tư cách là cơ quan của UBND thành phố Hà Nội.
Phải thực hiện tốt cơ chế phối hợp giữa công an với các cấp chính
quyền ở địa phương, với các ban, ngành, đoàn thể, trên các lĩnh vực QLNN về
ANTT. Mỗi cán bộ, công chức tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ
pháp luật, thực hiện tốt việc triển khai thực hiện cải cách hành chính, đẩy
124
mạnh tuyên truyền, giáo dục, phổ biến và tổ chức thực hiện pháp luật liên
quan đến QLNN về ANTT, kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
4.1.3. Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị phải hướng đến
phục vụ và đáp ứng nhu cầu của người dân, phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân
Trong chế độ ta, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, vì vậy, nhân dân
là một trong những chủ thể QLNN đối với xã hội, Trong những năm qua, thực
hiện đường lối mở rộng dân chủ, cải cách thể chế, xây dựng nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân, các tầng lớp nhân dân cả nước đã được tham
gia tích cực, rộng rãi hơn vào các vấn đề của đất nước. Nhiệm vụ bảo vệ ANTT
là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, nó liên
quan tới lợi ích trực tiếp của mọi thành viên trong xã hội. Do đó, cần phải tăng
cường lực lượng hướng về cơ sở. Cán bộ, công chức phải hiểu biết pháp luật,
gần dân, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia QLNN về
ANTT bằng việc xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Trong quản lý nhà nước về ANTT đô thị Hà Nội, các tầng lớp nhân dân
ngày càng tham gia đông đảo hơn vào các hoạt động bảo vệ ANTT thông qua
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và phong trào toàn dân tố giác
tội phạm... Dưới sự chi đạo của cấp uỷ đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể,
nhân dân đã chủ động phối hợp với chính quyền đô thị triển khai thực hiện
các nghị quyết liên tịch giữa ngành Công an với các đoàn thể nhân dân, tổ
chức ký kết giao ước thực hiện, vận động nhân dân tham gia QLNN về ANTT
đô thị thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Vai trò của quần chúng trong
lĩnh vực bảo vệ ANTT đô thị ngày càng được khẳng định.
Trong giai đoạn mới, vai trò của quần chúng trong tham gia QLNN về
ANTT ở đô thị cần tiếp tục được phát huy, làm nền tảng xây dựng thế trận an
ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Chính quyền đô thị phải tăng cường chỉ đạo,
tạo điều kiện để quần chúng tham gia ngày càng sâu, rộng vào hoạt động bảo
125
vệ ANTT nhằm huy động mọi nguồn lực của xã hội, chung vai gánh vác trách
nhiệm với Nhà nước; thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa
quy định của Hiến pháp, năm 2013 về tôn trọng và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong QLNN về ANTT đô thị
cần phải: Cải tiến mọi mặt công tác tránh gây phiền hà cho nhân dân, quan tâm
giải quyết các lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Phải chăm lo xây
dựng và củng cố phong trào quần chúng bảo vệ ANTT đô thị, qua đó phát huy
tính tích cực, tự giác của quần chúng nhân dân trong công tác bảo vệ ANTT.
4.1.4. Bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và chính sách đối
ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước
An ninh, trật tự đô thị ảnh hưởng trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã
hội, đến hoạt động bình thường của cá nhân và tổ chức không chỉ trong phạm vi
hẹp một thành phố, quận, phường, thị trấn mà ảnh hưởng trên phạm vi quốc gia.
Có thể nói, QLNN về ANTT đô thị giữ vai trò quan trọng quyết định sự tồn
vong của chế độ XHCN ở nước ta. Trước hết các đô thị, nhất là các thành phố
trực thuộc Trung ương và các đô thị trung tâm liên vùng là các trung tâm chính
trị, hành chính, kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ giữ vị trí vai trò chủ đạo
quyết định sự ổn định an ninh chính trị, phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
QLNN về ANTT có mối liên hệ gần gũi, gắn bó với các lĩnh vực QLNN khác
nhất là QLNN về quốc phòng, QLNN về kinh tế, văn hoá và đối ngoại, một bộ
phận quan trọng trong kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Mục đích của QLNN về ANTT là đảm bảo sự ổn định chính trị
- xã hội, bảo vệ chủ quyền, ANQG, giữ gìn TTATXH. Xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn hiện nay. Đảng ta chủ
trương phát triển kinh tế đi đôi với bảọ đảm quốc phòng, an ninh, kết hợp kinh tế
với quốc phòng, an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân kết hợp với thế trận
126
an ninh nhân dân, xây dụng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại. Thực tế trong lịch sử đấu tranh cách
mạng, Công an nhân dân và Quân đội nhân dân luôn là những công cụ vũ trang
cách mạng sắc bén của Đảng và Nhà nước. ANTT được đảm bảo sẽ tạo điều
kiện cho chính trị, kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng được củng cố, hình ảnh
và vị thế quốc gia trên trường quốc tế được tăng cường.
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu vào đời sống
quốc tế, trước những nguy cơ, thách thức do toàn cầu hóa và âm mưu, hoạt
động của các thế lực thù địch lợi dụng hợp tác quốc tế chống phá nước ta, thì
QLNN về ANTT trong lúc này quan trọng hơn bao giờ hết. QLNN về ANTT
đô thị nói chung, QLNN về ANTT đô thị Hà Nội nói riêng phải đảm bảo kỷ
cương luật pháp của Nhà nước đáp ứng mọi yêu cầu phát triển của các thành
viên trong cộng đồng, đồng thời góp phần phát hiện, làm thất bại mọi âm
mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đặc
biệt là thủ đoạn thực hiện chiến lược xâm nhập, chi phối, chiếm lĩnh và thôn
tính thị trường, dùng kinh tế chuyển hóa chính trị, can thiệp thô bạo vào công
việc nội bộ của nước ta, kích động gây rối ANTT, phá hoại sự thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và bôi nhọ, hạ thấp
uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Đảng và Nhà nước đang thực hiện
chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các quốc gia
trên thế giới và khu vực, không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, hợp tác cùng có lợi.
Trong giai đoạn tới, khi đất nước ta tiếp tục có những đổi mới, cải cách
các chính sách đối ngoại rộng mở, hợp tác trên nhiều lĩnh vực như: Kinh tế,
thương mại, quốc phòng, an ninh, văn hóa, du lịch, thể dục, thể thao, bảo vệ
môi trường... thì công tác bảo vệ ANTT sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Tuy vậy,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhiệm vụ bảo vệ ANTT cũng không được gây
127
khó khăn, cản trở chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Do đó, cần
nâng cao hiệu quả QLNN về ANTT đô thị, bất kể trong tình huống nào cũng
phải dựa trên quan điểm bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đường lối đối ngoại
mở rộng của Đảng và Nhà nước trên phạm vi cả nước.
4.2. Các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
đô thị Hà Nội
Trong hoàn cảnh mới, khi ANTT của cả nước và các đô thị đang đứng
trước những thời cơ và thách thức mới do hệ quả của quá trình đô thị hóa và
quá trình hội nhập quốc tế đem lại, cộng với mối đe dọa từ âm mưu, hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước, đòi hỏi phải có một hệ
thống các giải pháp tăng cường QLNN về ANTT đô thị Hà Nội mới đáp ứng
được yêu cầu. Đề tài luận án đề xuất một số các giải pháp chủ yếu sau:
4.2.1. Tăng cường ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Trong bối cảnh hiện nay, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia là nhiệm vụ vô cùng quan trọng để đất nước ổn định và
phát triển. Điều này đã được xác định trong Nghi quyêt Đại hội đại biểu lần
thứ XII của Đảng: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị -
xã hội và môi trường hoa bình để xây dựng, bảo vệ đất nước; không để bị
động, bất ngờ trong mọi tình huống” [44, tr.148].
Trước tình hình trên, để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm ANTT
trong thời kỳ mới, thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ
Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, các
cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về QLNN về ANTT với
128
mục tiêu: Xây dựng đầy đủ các luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh
vực ANTT ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích cơ bản của tổ
chức, cá nhân theo quy định của Hiến pháp, năm 2013; kịp thời ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và biện pháp thi hành các bộ luật,
luật, pháp lệnh liên quan đến ANTT khi các bộ luật, luật, pháp lệnh này có hiệu
lực thi hành; hoàn thiện pháp luật quy định về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của chính quyền đô thị, của CAND; cải tiến lề lối, phương pháp
làm việc của bộ máy và cán bộ, công chức để phục vụ tốt các yêu cầu chính trị,
đối ngoại, nghiệp vụ trong bối cảnh hội nhập quốc tế...
Pháp luật về ANTT nói chung, QLNN về ANTT đô thị nói riêng hiện
nay bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập,
nhiều văn bản quy phạm pháp luật tính ổn định, tính dự báo và tính khả thi
chưa cao, chưa thống nhất nội dung giữa các văn bản quy phạm pháp luật về
QLNN về ANTT. Để khắc phục những hạn chế, bất cập, việc nghiên cứu bổ
sung hoàn thiện pháp luật về QLNN về ANTT nói chung, QLNN về ANTT
đô thị Hà Nội nói riêng cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Thứ nhất, cần thống nhất quan điểm, tư tưởng, chỉ đạo của Đảng trong
bổ sung hoàn thiện pháp luật về QLNN về ANTT. Phải thể chế hóa đường lối,
chủ trương của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, tuân thủ đúng quy định của Hiến pháp, phù hợp với các nguyên tắc và
thực tiễn tổ chức bộ máy Nhà nước ta. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII của Đảng khẳng định: Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của công tác
bảo vệ chính trị nội bộ trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ
Đảng; bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật; bảo vệ cán bộ, đảng viên về mặt chính trị. Bảo vệ chính trị nội bộ là
bảo vệ nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối chính trị, bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; ngăn chặn kịp thời âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch xuyên tạc, phá hoại nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị,
129
phá hoại tổ chức đảng từ trong nội bộ, mua chuộc, dụ dỗ, khống chế cán bộ,
đảng viên của Đảng.
Việc hoàn thiện pháp luật về QLNN về ANTT đô thị phải thực hiện
đúng trình tự, thủ tục được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ hai, phát huy tổng hợp trí tuệ của xã hội trong xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về QLNN về ANTT đô thị. Đảm bảo ANTT là trách nhiệm
chung của các ngành, các cấp, các cơ quan, tổ chức và mọi công dân, do đó,
quá trình nghiên cứu sửa đổi hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới
phải có sự tham gia ý kiến góp ý xây dựng của các ngành, các cấp, các cơ
quan, tổ chức xã hội và của công dân để pháp luật về QLNN về ANTT đô thị
có tính khả thi và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Bên cạnh đó, cần nâng cao tinh thần
cảnh giác, phát hiện kịp thời các trường hợp lợi dụng chiêu bài cải cách, dân
chủ, nhân quyền... để thực hiện ‘diễn biến hòa bình”, “chuyển hóa chính trị”
trong quá trình xây dựng và ban hành pháp luật về QLNN về ANTT đô thị.
Quản lý chặt chẽ hoạt động hợp tác quốc tế, dự án tài trợ của các tổ chức phi
chính phủ về xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Thứ ba, cần tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật
và tổ chức thực thi pháp luật về ANTT của các nước trên thế giới phù hợp
với thực tiễn chính trị, văn hóa, kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nội luật hóa
kịp thời và đầy đủ các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký
kết, tạo sự hài hòa, phù hợp giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế,
phục vụ tốt cho yêu cầu hội nhập phát triển quốc tế và mở rộng quan hệ
quốc tế của Nhà nước ta.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về
ANTT; kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng việc xây dựng, hoàn
thiện pháp luật để xâm hại an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, lợi ích của
130
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; kiên quyết đấu
tranh phòng, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xây
dựng pháp luật; tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây
dựng, hoàn thiện pháp luật về ANTT được bồi dưỡng kiến thức về kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh để nắm bắt được nhu cầu của thực tiễn cuộc sống
đối với công tác xây dựng pháp luật.
Thứ năm, một số văn bản pháp luật cần bổ sung, sửa đổi, ban hành mới
nhằm đáp ứng yêu cầu QLNN về ANTT đô thị.
Hiện nay, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, năm 2015 đã thể chế
hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, năm 2013 về việc phân
biệt CQĐP ở đô thị với CQĐP ở nông thôn. Tuy nhiên, việc tách riêng quy
định CQĐP ở đô thị với CQĐP ở nông thôn so với Luật Tổ chức HĐND và
UBND, năm 2003 mới chỉ mang tính cơ học là chủ yếu, chưa có sự thay đổi
về bản chất, việc phân biệt chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn chỉ
mang tính hình thức, mọi quy định cũng gần giống nhau, có chăng chỉ thêm
một số quy định mà chỉ riêng chính quyền đô thị mới có. Đây là vấn đề đặt ra
cần nghiên cứu đối với chính quyền đô thị của nước ta nói chung, đô thị Hà
Nội nói riêng. Luật Tổ chức chính quyền địa phương, năm 2015 cũng chưa
xây dựng được một lý thuyết phù hợp với đặc thù, tính chất, vai trò và mô
hình chính quyền đô thị cho nên còn lúng túng, chưa xác định được phương
hướng cải cách phù hợp. Điều này đã làm ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo,
điều hành của chính quyền đô thị đối với hoạt động QLNN về ANTT đô thị.
Do đó, cần phải xây dựng Luật Tổ chức chính quyền đô thị riêng biệt, đảm
bảo phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền đô thị với chính quyền
nông thôn, trên cơ sở mô hình chính quyền đô thị phải gọn nhẹ, linh hoạt,
phản ứng kịp thời với sự thay đổi của đời sống đô thị.
Xây dựng các dự án luật (như Luật Biểu tình, Luật về Hội...) để điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực an ninh, trật tự có tác động đến quyền
131
con người, quyền công dân phù hợp với nội dung, tinh thần của Hiến pháp,
năm 2013, bảo đảm tính khả thi trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế phối hợp giữa
lực lượng Công an với các cơ quan, ban, ngành về công tác bảo vệ an ninh chính
trị. Tiếp tục quán triệt Chỉ thị số 01/CT-BCA-A11, ngày 31/3/2009 của Bộ Công
an về “tăng cường công tác bảo vệ an ninh nội bộ phục vụ hội nhập kinh tế quốc
tế” vào trong công tác QLNN về ANQG. Nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan
trọng của công tác bảo vệ an ninh chính trị. Trọng tâm là các quy định về quản lý
cán bộ, đảng viên trong quan hệ tiếp xúc với người nước ngoài, ra nước ngoài
công tác; thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc chấp hành thực hiện các quy
định pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước...
Hoạt động QLNN về phòng, chống tội phạm là một bộ phận quan trọng
trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mặc dù các cơ quan chức
năng rất quan tâm đến công tác xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp
luật, nhưng trong quá trình tiến hành vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Trong
thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình quốc gia phòng
chống tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật; thực hiện tốt
các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản được quy định tại các thông tư số 18, 19,
20, 21, 22, ngày 01/4/2013 của Bộ Công an để nắm chắc tình hình tội phạm,
vi phạm pháp luật và các tình hình khác liên quan đến ANTT; tiếp tục nghiên
cứu để có chính sách hợp lý trong quản lý, xử lý một số tệ nạn xã hội, như
theo hướng cho phép tổ chức đăng ký kinh doanh đánh bạc vừa để quản lý
giám sát chặt chẽ người đánh bạc, dòng tiền được sử dụng trong đánh bạc,
vừa đảm bảo thu được một nguồn thuế cho ngân sách Nhà nước...
Theo quy định của Luật Cư trú, cơ quan công an có thẩm quyền đăng
ký cư trú. Đăng ký cư trú là khâu đầu tiên, là cơ sở thông tin và cũng là căn
cứ pháp lý để tiến hành các biện pháp QLNN về cư trú. Trong công tác
QLNN về cư trú, nếu gắn kết được giữa khâu đăng ký và quản lý về cùng một
132
cấp cơ quan sẽ phát huy được tối đa tác dụng nghiệp vụ của công tác này. Do
vậy, trong thời gian tới, Luật Cư trú cần tiếp tục phân cấp thẩm quyền đăng
ký thường trú tại các thành phố, thị xã xuống cho Công an các phường, thị
trấn. Như vậy, sẽ tạo thuận tiện cho công dân khi làm thủ tục đăng ký thường
trú, vừa đảm bảo tác dụng nghiệp vụ của hoạt động hành chính trong đăng ký
thường trú với việc tiến hành các biện pháp quản lý nhân, hộ khẩu thường trú
của lực lượng lượng Công an ở đô thị.
Quản lý nhà nước về cư trú theo Luật Cư trú hiện hành và các quy định
về điều kiện và thủ tục đăng ký thường trú ở nội thành Hà Nội theo Luật Thủ
đô có nhiều điểm khác biệt theo hướng thu hẹp hơn điều kiện đăng ký thường
trú vào khu vực nội thành so với khu vực ngoại thành Hà Nội. Để các quy
định mới về đăng ký thường trú ở nội thành Hà Nội được áp dụng một cách
có hiệu quả và thống nhất thì các cơ quan chức năng nhà nước cần tiếp tục
nghiên cứu, thống nhất một số vấn đề sau:
Một là, đối với phạm vi điều chỉnh nơi đăng ký thường trú vào khu vực
nội thành cũng cần có cách hiểu thống nhất. Luật Thủ đô đã quy định riêng
trong đăng ký thường trú vào khu vực nội thành, nhưng chưa chỉ rõ quy định
này chỉ áp dụng đối với những trường hợp chuyển từ tỉnh ngoài vào khu vực
nội thành hay áp dụng cả đối với những trường hợp thay đổi nơi thường trú từ
ngoại thành và nội thành Hà Nội. Trong khi đó, theo Điều 20, Luật Cư trú chỉ
áp dụng đối với những người đang thường trú ở tỉnh ngoài chuyển về địa bàn
các thành phố trực thuộc Trung ương, không áp dụng đối với những trường
hợp chuyển nơi thường trú trong phạm vi thành phố trực thuộc Trung ương.
Hai là, hiện nay mật độ dân số phân bố không đồng đều tại đô thị Hà
Nội, tình trạng di dân từ nông thôn về thành thị với tốc độ nhanh. Tuy nhiên,
khi áp dụng các biện pháp hành chính nhằm giảm nhập cư mới chỉ hạn chế số
người được đăng ký hộ khẩu thường trú, chứ không hạn chế được số người
chuyển về nội thành sinh sống. Như vậy, các biện pháp này chưa có tác dụng
133
hạn chế nhập cư mà còn gây khó khăn cho công tác quản lý cư trú của cơ
quan chức năng khi số người có hộ khẩu thường trú một nơi nhưng thường
xuyên sinh sống ở một nơi khác ngày càng gia tăng. Điều này làm giảm tính
chủ động trong phòng ngừa tội phạm, các hành vi VPPL.
Trên cơ sở Luật Giao thông đường bộ, năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Giao thông đường thủy nội địa năm 2014 và các văn bản
quy phạm pháp luật khác, Bộ Công an cần phối hợp với các bộ, ngành hữu quan
rà soát lại toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm TTATGT. Qua
đó, cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về hành lang an toàn giao
thông, giao thông tĩnh, về đường ngang đường sắt, quản lý tăng cường giao
thông công cộng, tổ chức giao thông và trách nhiệm của chính quyền đô thị,
cũng như kinh phí bảo đảm TTATGT lâu dài; trong định hướng sửa đổi, bổ sung
pháp luật về TTATGT nên chú trọng đến vấn đề hợp tác quốc tế như chuyển
giao công nghệ trong sản xuất, lắp ráp phương tiện, xây dựng hạ tầng phục vụ
giao thông; đào tạo đội ngũ nhân viên hướng dẫn, cưỡng chế giao thông.
Để đảm bảo TTATXH trong tình hình mới, các cơ quan bảo vệ pháp
luật cần tiếp tục nghiên cứu và đề nghị Nhà nước ban hành Luật Bảo đảm trật
tự an toàn xã hội. Việc ban hành Luật này sẽ đảm bảo thống nhất trong công
tác bảo đảm TTATXH, tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ cho các cơ quan thực
thi pháp luật và khắc phục được những tồn tại, hạn chế, bất cập của công tác
này trong thời gian qua.
4.2.2. Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị
Hà Nội
Pháp luật cần phân định cụ thể chức năng của Chính phủ, Bộ Công an,
UBND nhân dân, các ngành trong bảo vệ ANTT. Trong điều kiện mới, đổi
mới cơ chế QLNN về ANTT đô thị cần tiến hành theo hướng sau:
Thứ nhất, phân cấp hợp lý hoạt động QLNN về ANTT đô thị giữa
Trung ương và chính quyền đô thị.
134
Phương hướng cải cách bộ máy Nhà nước ta là tăng cường và bảo đảm
tính thống nhất của Nhà nước, quyền QLNN về ANTT đô thị tập trung ở Trung
ương, nhưng mặt khác mở rộng tính chủ động, quyền tự chủ cho chính quyền
đô thị trong lĩnh vực này. Do đó, phải giải quyết đúng đắn vấn đề phân cấp
trong quản lý, nghĩa là phân định nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền QLNN của
từng cấp chính quyền. Vấn đề này vừa đảm bảo sự quản lý tập trung ở cấp trên,
vừa mở rộng tính tự chủ cho cấp dưới, theo nguyên tắc tập trung dân chủ và kết
hợp quản lý theo lãnh thổ. Việc phân cấp phải phù hợp với điều kiện chính trị,
kinh tế - xã hội, đặc điểm của từng loại đô thị, trong từng giai đoạn phát triển.
Bên cạnh đó, cần có biện pháp chống xu hướng cục bộ của địa phương, chỉ lo
lợi ích của địa phương mà không lo lợi ích chung của Nhà nước, không thấy
trách nhiệm quản lý lãnh thổ về ANTT, không chăm lo bảo vệ ANTT của nhân
dân sống trên lãnh thổ, không làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước.
Pháp luật về QLNN về ANTT đô thị phải được đổi mới phù hợp với
tình hình chính trị, kinh tế - xã hội, phải được xây dựng trên cơ sở chủ trương,
đường lối của Đảng. Tuy nhiên, vẫn phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật
còn hiệu lực. UBND thành phố Hà Nội căn cứ vào pháp luật của Nhà nước,
căn cứ vào đặc điểm tình hình của địa phương mà ra những quyết định có tính
chất bắt buộc thực hiện đối với tất cả cá nhân, cơ quan, tổ chức trên địa bàn
thành phố Hà Nội, không phân biệt thuộc chính quyền Trung ương hay chính
quyền thành phố Hà Nội quản lý. UBND thành phố Hà Nội không được tự ý
sửa đổi hay ra văn bản pháp luật vượt quá thẩm quyền của mình trong lĩnh
vực QLNN về ANTT đô thị.
Thứ hai, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của UBND, cơ quan công
an, các ngành, các cấp trong QLNN về ANTT đô thị.
Quản lý nhà nước về ANTT đô thị là nhiệm vụ của chính quyền đô thị,
đứng đầu là UBND. Cơ quan công an được giao nhiệm vụ chuyên trách trong
bảo vệ ANTT. Cần nhận thức rõ nhiệm vụ QLNN về ANTT đô thị của lực
135
lượng công an đô thị là nhằm phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn tội
phạm, VPPL chứ không làm thay chức năng QLNN của các ngành khác. Hiện
nay, do chưa hiểu rõ tính chất, nhiệm cụ của lực lượng Công an nên mọi vấn
đề phức tạp về kinh tế - xã hội xảy ra đều giao cho công an giải quyết, dẫn
đến tình trạng lực lượng Công an đang phải làm nhiều việc không đúng chức
năng, trong khi việc chính khó làm tròn, nhất là ở cấp phường, thị trấn.
Thời gian tới, để cơ quan chức năng thực hiện tốt QLNN về ANTT đô
thị, cần phải xây dựng cơ chế thẩm định nhà nước về ANTT trên địa bàn đô
thị. UBND quy định tất cả các chương trình kinh tế - xã hội, dự án lớn ở đô
thị đều phải tham khảo ý kiến của công an đô thị về vấn đề liên quan đến
ANTT, duyệt phương án bảo vệ trước khi triển khai chương trình. UBND cần
báo cáo Chính phủ thể chế hóa về mặt pháp luật, quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ của lực lượng Công an cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội
hiện nay, theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, nhưng mỗi việc phải
do một Bộ, một ngành làm là chủ yếu.
Thứ ba, xây dựng các cơ quan QLNN về ANTT đô thị Hà Nội thật sự
trong sạch, vững mạng để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ ANTT.
Trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ ANTT, các cơ quan bảo vệ pháp luật,
đặc biệt trong đó lực lượng vũ trang là lực lượng xung kích, nòng cốt, vừa là một
đội quân chính trị, một cơ quan thừa hành và bảo vệ pháp luật, vừa phải thường
xuyên, trực tiếp giải quyết những vấn đề về ANTT. Vì vậy, các lực lượng này
phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng cao năng lực
chiến đấu, tích cực đấu tranh với các hành vi tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh
chính trị, kiên quyết loại trừ các phần tử thoái hóa, biến chất, tham ô, tham
nhũng; không ngừng học tập nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, pháp luật.
Chính quyền đô thị Hà Nội cần lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường sức mạng
của cơ quan bảo vệ pháp luật, phát huy vai trò quan trọng trong công tác
QLNN về ANTT đô thị. Hướng giải pháp có tính đột phá là có chính sách
136
quan tâm đến đội ngũ nòng cốt, vững vàng trước mọi cám dỗ của vật chất. Cụ
thể là: Bên cạnh tiền lương và hỗ trợ của Chính phủ, UBND thành phố Hà
Nội cần có chính sách hỗ trợ đời sống cho người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ ANTT ở địa phương, giúp họ đề kháng được với những cám dỗ vật
chất, mua chuộc và những hành vi tiêu cực khác đang hàng ngày chờ cơ hội
tấn công từ mọi phía; chủ động phòng chống các hoạt động “diễn biến hòa
bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo để xâm phạm ANQG.
Thứ tư, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm
công tác QLNN về ANTT đô thị.
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cần tổ chức các lớp bồi dưỡng QLNN
về ANTT đô thị cho những cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các đoàn thể xã
hội. Trong chương trình bồi dưỡng cần tập trung vào phương pháp, cách thức
ứng xử, thái độ, quan hệ giao tiếp của người thực thi nhiệm vụ. Các cấp chỉ huy
trong lực lượng Công an ở đô thị Hà Nội có kế hoạch rà soát lại đội ngũ cán bộ,
phối hợp với các cơ sở đào tạo ngoài ngành Công an thực hiện đa dạng hóa loại
hình, nội dung đào tạo, trọng tâm là kiến thức pháp luật, kiến thức quản lý kinh
tế - xã hội, tin học, ngoại ngữ... nhằm có đội ngũ cân đối về trình độ, thích ứng
với công tác bảo vệ ANTT trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2.3. Đẩy mạnh biện pháp vận động quần chúng, phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự đô thị
Biện pháp vận động quần chúng bảo vệ ANTT là việc huy động và sử
dụng sức mạnh của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia công tác bảo vệ an
ninh, trật tự. Nghị định 06/2014/NĐ-CP của Chính phủ về biện pháp vận
động quần chúng bảo vệ an ninh, trật tự quy định nội dung, hình thức, thẩm
quyền, trách nhiệm và bảo đảm điều kiện áp dụng biện pháp vận động quần
chúng bảo vệ an ninh, trật tự; chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá
137
nhân tham gia công tác bảo vệ an ninh, trật tự... Điều 3, Nghị định này quy
định: “Cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh, trật tự là cơ quan chỉ đạo, chỉ
huy và đơn vị nghiệp vụ thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ chuyên trách làm tham mưu, tổ chức, trực tiếp thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ an ninh, trật tự” [32]. Vận động quần chúng bảo vệ ANTT là một
trong những biện pháp công tác cơ bản của lực lượng Công an và cũng là thực
hiện phương pháp giáo dục, thuyết phục trong QLNN về ANTT. Quần chúng
giữ vai trò quan trọng trong quản lý xã hội nói chung và tham gia bảo vệ
ANTT đô thị nói riêng. Đảng, Nhà nước và ngành Công an luôn tôn trọng và
đánh giá cao vai trò của quần chúng trong sự nghiệp bảo vệ ANTT. Vì vậy,
trong thời kỳ hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Công an đô thị Hà Nội phải phát huy hơn nữa vai trò của quần chúng, tạo mọi
điều kiện để quần chúng tham gia vào công việc QLNN về ANTT đô thị. Tiếp
tục đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ ANTT, đảm bảo cho sự ổn định
chính trị và xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Tích cực tham mưu cho
Thành ủy, chính quyền đô thị Hà Nội chỉ đạo các ngành, đoàn thể gắn phong
trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở với việc thực hiện các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân, xây dựng thế trận an ninh nhân dân với thế trận quốc phòng toàn dân,
nhất là ở các khu dân cư tập trung nhiều lao động phổ thông, các khu đô thị
mới và vùng giáp ranh giữa thành thị và nông thôn. Tham mưu cho các cấp uỷ
đảng chỉ đạo các đoàn thể nhân dân chủ động phối hợp thực hiện các nghị
quyết, chương trình, kế hoạch giữa các đoàn thể với công an đô thị về thực
hiện phong trào quần chúng bảo vệ ANTT.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng nâng
cao cảnh giác trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, nâng cao
kiến thức, ý thức chấp hành pháp luật và chú trọng các đợt phát động quần
chúng tham gia tấn công trấn áp tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội. Chú trọng
138
xây dựng và nhân rộng các mô hình tự quản về ANTT, củng cố thế trận toàn
dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc trong cơ quan, doanh nghiệp và ở địa
bàn dân cư. Căn cứ đặc điểm tình hình của địa phương, tích cực tham mưu
cho Thành ủy, chính quyền đô thị Hà Nội thành lập và hỗ trợ tạo điều kiện
cho các tổ chức quần chúng tham gia giữ gìn ANTT như: Lực lượng bảo vệ
dân phố, dân phòng, chốt gác nhân dân, câu lạc bộ phòng chống tội phạm và
tệ nạn xã hội, tổ hòa giải nhân dân... Phối hợp với các đoàn thể nhân dân
tham mưu cho chính quyền đô thị triển khai thực hiện các giải pháp quản lý,
giáo dục, giúp đỡ người lẫm lỗi tại địa bàn đô thị, hạn chế tình trạng tái
phạm, giúp họ tái hoà nhập cộng đồng.
Để thực hiện được các yêu cầu trên, công tác vận động quần chúng, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong QLNN về ANTT đô thị, thực
hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc cần thực hiện đổi mới theo các nội dung sau:
Một là, phải đổi mới nhận thức tuyên truyền, vận động quần chúng, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong QLNN về ANTT đô thị.
Phải nhận thức rằng “Nhà nước ta là Nhà nươc của dân, do dân, vì dân”, cho
nên phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng, hợp pháp của nhân dân. Bảo đảm ANTT là nhiệm vụ rất quan trọng trong
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, nên phải biết dựa vào dân, tranh thủ sự giúp đỡ của
nhân dân, thực hiện tốt phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Hai là, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp tuyên truyền, vận
động quần chúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong
QLNN về ANTT đô thị.
Thực tiễn bảo đảm ANTT qua các giai đoạn các mạng khác nhau đều
có nhiệm vụ khác nhau, do đó, đòi hỏi công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng tham gia QLNN về ANTT đô thị cũng khác nhau. Hiện nay, trước xu
thế hội nhập quốc tế và tình hình kinh tế - xã hội nước ta có nhiều biến đổi,
các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta, tình
139
hình tội phạm và vi phạm pháp luật vẫn diễn biến phức tạp. Vì vậy, công tác
tuyên truyền, vận động quần chúng phải hướng tới việc nâng cao tinh thần
cảnh giác cách mạng, phát huy truyền thống yêu nước của nhân dân để giữ
vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ sự nghiệp xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; hướng dẫn nhân dân tích cực tham gia
các tổ chức tự quản, tăng cường xây dựng củng cố thế trận an ninh nhân dân
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ QLNN về ANTT trong tình hình mới; phải kết hợp
các hình thức tuyên truyền, vận động tập trung để giải quyết các vấn đề phức
tạp về ANTT đang nổi lên với hình thức mở các cuộc tuyên truyền, vận động
quần chúng thường xuyên, đồng thời kết hợp với các cuộc vận động cách
mạng khác của Đảng và Nhà nước để lồng ghép nội dung bảo vệ ANTT.
4.2.4. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về an ninh,
trật tự đô thị Hà Nội
Trong QLNN về ANTT nói chung, QLNN về ANTT đô thị Hà Nội nói
riêng, thanh tra, kiểm tra là một chức năng hết sức quan trọng và cần thiết.
Việc tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát sẽ giúp các cơ quan
có thẩm quyền kịp thơi phát hiện các hành vi, các quyết định có vi phạm pháp
luật của các đối tượng thanh tra, kiểm tra trong quá trình thực hiện pháp luật
về QLNN về ANTT. Thông qua đó, các chủ thể thanh tra, kiểm tra kiến nghị,
yêu cầu những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật phải thực hiện khắc
phục thiệt hại nếu có và điều chỉnh lại hành vi của mình cho phù hợp với các
quy định của pháp luật, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh
đó, quá trình thanh tra, kiểm tra, cũng kịp thời phát hiện những nguyên nhân
dẫn đến vi phạm pháp luật về QLNN về ANTT, từ đó yêu cầu các đối tượng
thanh tra, kiểm tra rút kinh nghiệm, kiến nghị những vấn đề nhằm hoàn thiện
cơ chế chính sách, pháp luật…
Thực tiễn thực hiện pháp luật về ANTT cho thấy, tình trạng vi phạm
140
pháp luật về QLNN về ANTT diễn ra khá phổ biến. Trong khi đó công tác
thanh tra, kiểm tra của các cơ quan, ban ngành có liên quan có lúc, có nơi còn
buông lỏng, có khi lại chồng chéo... làm hạn chế hiệu quả quản lý nhà nước
trên lĩnh vực này. Do đó, bên cạnh việc xây dựng và ban hành một hệ thống
pháp luật đầy đủ để QLNN về ANTT, cần phải hết sức coi trọng công tác
thanh tra, kiểm tra trong thực hiện pháp luật về QLNN về ANTT.
Để công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về QLNN về ANTT
đô thị đạt hiệu quả cần tiếp tục thực hiện Nghị định số 33/2015/NĐ-CP, ngày
27/3/2015 của Chính phủ quy định việc thực hiện kết luận thanh tra, Kế hoạch
số 117/KH-UBND, ngày 01/6/2017 của UBND Thành phố về khắc phục
những tồn tại, hạn chế, yếu kém, nâng cao kết quả thực hiện các kết luận, kiến
nghị xử lý sau thanh tra, kiểm tra trên địa bàn Thành phố. Thanh tra thanh phô
Hà Nội tăng cường thực hiện công tác QLNN, thường xuyên đôn đốc việc
thực hiện các kết luận của cơ quan Thanh tra thành phố Hà Nội, đồng thời, rà
soát việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xư ly sau thanh tra của
các sở, ngành, quận, huyện, thị xã. Với chức năng quản lý ngành, Bộ Công an
cần tăng cường các hoạt động hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra cho thanh tra
Công an các đơn vị, địa phương và đẩy mạnh công tác chỉ đạo, điều hành tổ
chức thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra, kiểm tra.
Trong giải quyết khiếu nại, tố cáo phải chủ động nắm tình hình khiếu
nại, tố cáo, phát hiện những vấn đề có thể dẫn đến để phát sinh khiếu nại, tố
cáo đông người, phức tạp, vượt cấp, gây mất ANTT. Đồng thời, tổ chức tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tổ cáo và pháp luật về các
lĩnh vực QLNN về ANTT phát sinh nhiều khiếu nại cho nhân dân bằng các
hình thức khác nhau để người dân hiểu và thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo
của mình; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng, triển khai phần
mềm và hệ thống cơ sở dữ liệu về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo của thành phố Hà Nội; triển khai thanh tra công vụ đối với các đơn vị
141
không nghiêm túc chấp hành chỉ đạo của UBND thành phố Hà Nội trong việc
tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tổ chức thực hiện các
quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật, các kết luận, thông báo
giải quyết tố cáo để phát sinh khiếu nại, tố cáo phức tạp, gây mất ANTT.
4.2.5. Tăng cường biện pháp hành chính trong quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Nhà nước sử dụng biện pháp quản lý hành chính bằng việc định ra các
văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ ANTT và sử dụng các văn bản quy
phạm pháp luật đó điều tiết các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ ANTT. Trong
những năm qua, Quốc hội, Chính phủ, UBND thành phố Hà Nội, các bộ,
ngành và ngành Công an đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về
bảo vệ ANTT trên phạm vi cả nước nói chung, đô thị Hà Nội nói riêng và đã
sử dụng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật này làm công cụ thực hiện
QLNN về ANTT, góp phần bảo vệ ANQG, đảm bảo TTATXH, đảm bảo môi
trường thuận lợi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, công tác xây
dựng, ban hành và sử dụng các quy định pháp luật về bảo vệ ANTT còn nhiều
bất cập, thiếu sót: Tình trạng luật pháp nước ta vừa thừa lại vừa thiếu, chưa
đồng bộ; tình trạng làm luật đã chậm, các văn bản dưới luật lại còn chậm hơn,
khi đưa vào sử dụng chưa được bao lâu đã thấy lạc hậu, thiếu sót hoặc không
phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Đặc biệt ở các khâu, các lĩnh vực
về thể chế quản lý, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
quản lý đô thị còn rất nhiều sơ hở, chồng chéo, trùng dẫm. Việc thi hành pháp
luật, chấp hành pháp luật chưa nghiêm, trật tự pháp luật bị xâm phạm. Nhiều
người đứng đầu cơ quan Nhà nước, CQĐP lợi dụng sơ hở tìm cách lách luật,
tham nhũng tài sản Nhà nước, sách nhiễu nhân dân, các thế lực thù địch trong
nước và nước ngoài lợi dụng xuyên tạc, can thiệp, chống phá trên nhiều lĩnh
vực. Thực tế trên đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật và tăng cường biện pháp hành chính để quản lý xã hội nói chung, quản lý
142
về ANTT đô thị nói riêng mới đáp ứng được các yêu cầu đặt ra.
Trước hết, các cơ quan có thẩm quyền QLNN về ANTT đô thị Hà Nội
phải nhanh chóng hoàn thiện thể chế quản lý, đẩy mạnh cải cách hành chính,
tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ ANTT và QLNN về
ANTT đô thị. Công an thành phố Hà Nội phải chủ động phối hợp với các
ngành có liên quan làm tốt chức năng tham mưu cho Nhà nước, chính quyền
đô thị Hà Nội trong việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật về
bảo vệ ANTT đô thị. Chính quyền đô thị Hà Nội chỉ đạo cơ quan công an các
cấp phối hợp với các ngành có liên quan rà soát các văn bản quy phạm pháp
luật có liên quan đến chức năng QLNN về ANTT khắc phục tình trạng trùng
dẫm, thiếu sót hiện nay.
Hội đồng nhân dân và đại biểu HĐND thành phố Hà Nội tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động QLNN về ANTT và thi hành pháp
luật về bảo vệ ANQG, bảo đảm TTATXH của các cơ quan Nhà nước, tổ chức
và công dân ở các đô thị, thường xuyên nghe UBND báo cáo về tình hình
ANTT và công tác bảo vệ ANTT đô thị Hà Nội; tập trung xử lý, giải quyết
các tình huống phức tạp, nghiên cứu các đề xuất, kiến nghị hợp lý của UBND,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, thông qua các quyết định điều
chỉnh, bổ sung chính sách, pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN
về ANTT đô thị.
Công an thành phố Hà Nội là lực lượng chuyên trách trong QLNN về
ANTT đô thị, phải sử dụng tổng hợp các phương pháp trong QLNN về ANTT
đô thị:
Tích cực tham mưu cho Thành uỷ, chính quyền đô thị Hà Nội triển khai
thực hiện có hiệu quả các hoạt động chống chiến tranh tâm lý, phá hoại tư
tưởng chính trị, bảo vệ an ninh chính trị. Thông qua các biện pháp nghiệp vụ
kịp thời phát hiện âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch báo cáo Thành
uỷ, chính quyền đô thị Hà Nội biết để chỉ đạo và thông báo cho các cơ quan,
143
doanh nghiệp biết để giáo dục cán bộ, đảng viên, công nhân nâng cao cảnh
giác. Bằng các hoạt động pháp luật phát hiện những sơ hở thiếu sót trong
quản lý kinh tế, các vi phạm trong thực hiện các kế hoạch, hợp đồng kinh tế;
kiến nghị và đề xuất các biện pháp khắc phục tránh để xảy ra các hành vi cấu
kết tham ô, tham nhũng tài sản Nhà nước, cố ý vi phạm các qui định về quản
lý kinh tế gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản Nhà nước. Đặc biệt là nêu cao
cảnh giác trước các thủ đoạn của đối tác các nước làm suy thoái đạo đức, lối
sống cán bộ, công chức, khống chế, mua chuộc, xây dựng cơ sở nội gián từng
bước thực hiện chiến lược xâm nhập, chiếm lĩnh và thôn tính thị trường. Cần
tập trung vào các lĩnh vực kinh tế trọng điểm như tài chính, ngân hàng, xây
dựng cơ bản, giao thông vận tải, quy hoạch phát triển đô thị và các khu công
nghiệp... Tăng cường các biện pháp nắm tình hình, phối hợp với các cơ quan
thanh tra, kiểm tra đảng, tổ chức cán bộ các cơ quan đơn vị kịp thời phát hiện
những sơ hở, thiếu sót trong công tác tuyển dụng, đề bạt, quản lý cán bộ.
Đề xuất các cấp có thẩm quyền các biện pháp bảo vệ an ninh chính trị.
Phối hợp với thủ trưởng các cơ quan, đơn vị rà soát, kiểm tra việc thực hiện
công tác bảo vệ bí mật nhà nước, kiến nghị các giải pháp khắc phục tồn tại,
chấn chỉnh công tác bảo vệ bí mật nhà nước; phát hiện và xử lý nghiêm các vi
phạm, phòng ngừa ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng công nghệ thông
tin phát tán tài liệu phản động, độc hại qua các phương tiện thông tin đại
chúng... Tham mưu cho chính quyền đô thị Hà Nội và tổ chức thực hiện có
hiệu quả công tác quản lý cư trú, đi lại của người nước ngoài trên địa bàn,
phòng, chống các hoạt động xâm hại ANQG và TTATXH.
Lực lượng Công an nhân dân tăng cường công tác nắm tình hình, đẩy
mạnh các hoạt động nghiệp vụ kịp thời phát hiện âm mưu, hoạt động tình báo,
gián điệp, phá hoại tư tưởng, khủng bố, gây rối an ninh, bạo loạn lật đổ, nhen
nhóm hình thành tổ chức phản động để lập án đấu tranh trấn áp. Trước hết
phải tiến hành thường xuyên công tác điều tra cơ bản, xác định đối tượng bảo
144
vệ, tập trung vào trụ sở Đảng, chính quyền Trung ương và địa phương, các
công trình trọng điểm, các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài, văn phòng
đại diện các tổ chức NGO, các hiệp hội giao lưu văn hóa, du lịch, giáo dục,
thương nhân nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài.
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các phương án phòng, chống khủng bố,
biểu tình gây rối an ninh, bạo loạn lật đổ, thực hiện đảm bảo ANTT trong tình
trạng khẩn cấp. Phối hợp với quân đội tham mưu cho Thành uỷ, chính quyền
đô thị Hà Nội bổ sung hoàn thiện các phương án phòng thủ, tổ chức diễn tập
các giả định tình huống bảo vệ ANQG. Đối với vấn đề phòng chống biểu tình
gây rối ANTT, công an thành phố Hà Nội phải làm tốt công tác tham mưu
cho Thành uỷ, chính quyền đô thị Hà Nội, phối hợp với các cơ quan có trách
nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở theo quy
định của pháp luật, hạn chế thấp nhất các vụ khiếu kiện vượt cấp.
Phối hợp chặt chẽ với ngành giáo dục, lãnh đạo các cơ sở giáo dục, các
tổ chức Đoàn thanh niên, Hội thanh niên - sinh viên nắm chắc tình hình sinh
viên, giải quyết thỏa đáng những đòi hỏi bức xúc của sinh viên về tinh thần và
vật chất như tư tưởng chính trị, ngăn chặn âm mưu và hoạt động kích động
sinh viên tham gia thành lập các tổ chức bất hợp pháp, biểu tình gây rối an
ninh của các cơ quan đặc biệt nước ngoài.
Chủ động đề xuất và xây dựng các phương án phòng ngừa tình trạng
đình công, bãi công tự phát trên diện rộng, phức tạp kéo dài có thể bị các thế
lực thù địch lợi dụng kích động gây rối an ninh, nhất là đối với các khu công
nghiệp, khu vực kinh tế có yếu tố nước ngoài. Nghiên cứu tìm hiểu nguyên
nhân để xảy ra đình công, kiến nghị với chính quyền, ngành lao động và tổ
chức công đoàn các biện pháp khắc phục. Xử lý vấn đề đình công phải trên
tinh thần bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, lợi ích hợp pháp của người
lao động và người sử dụng lao động. Cần phải khẳng định rằng, quần chúng
nhân dân là lực lượng cách mạng hùng hậu của Đảng và là đối tượng bảo vệ
145
của chính quyền đô thị Hà Nội, của công an. Vì vậy, trong bất kể hoàn cảnh
nào, cũng phải ngăn chặn và đập tan mọi âm mưu, hoạt động lôi kéo, mua
chuộc, khống chế của các thế lực thù địch đối với các tầng lớp nhân dân.
Tích cực tham mưu cho Thành uỷ, chính quyền đô thị Hà Nội huy động
các cấp, các ngành đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chương trình Quốc gia
phòng, chống tội phạm, Chương trình Hành động phòng, chống ma tuý và tệ
nạn xã hội, Chương trình Quốc gia phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em
trên địa bàn đô thị. Lực lượng Công an đẩy mạnh các biện pháp nghiệp vụ cơ
bản xác định địa bàn, đối tượng đấu tranh. Tập trung lực lượng, tăng cường
các biện pháp điều tra, trinh sát, tuần tra vũ trang... mở các đợt tấn công trấn
áp tội phạm, bóc gỡ, triệt phá các đường dây, tổ chức tham nhũng, buôn lậu, ổ
nhóm tội phạm hình sự đặc biệt nguy hiểm hoạt động theo kiểu “xã hội đen”,
tội phạm hình sự có tổ chức xuyên quốc gia; các đường dây tội phạm sản
xuất, mua bán, vận chuyển, tổ chức sử dụng trái phép các chất ma tuý; các tổ
chức đánh bạc, chứa chấp mại dâm lớn núp dưới nhiều hình thức.
Đổi mới, đẩy mạnh cải cách hành chính, áp dụng khoa học công nghệ vào
các hoạt động cấp phát và quản lý căn cước công dân, quản lý cư trú, tạo mọi
thuận lợi cho nhân dân, cơ quan, tổ chức. Trong quản lý nhân, hộ khẩu công an
đô thị cần hết sức quan tâm đến số dân di cư tự do đến địa bàn và các nhân khẩu
thuộc diện KT3, KT4, thường xuyên nắm bắt biến động về nơi ở, nhân khấu,
việc làm, thu nhập của số cư dân này, đề xuất chính quyền đô thị các biện pháp
giải quyết, tháo gỡ các khó khăn cho nhân dân. Trong quản lý các ngành nghề
kinh doanh có điều kiện về ANTT, lực lượng Cảnh sát cần quan tâm đến các loại
hình kinh doanh, dịch vụ internet, vũ trường, karaoke, cho thuê lưu trú và cầm
đồ là các lĩnh vực gắn liền với hoạt động xâm phạm ANTT.
Làm tốt chức năng tham mưu cho Ban Chỉ đạo an toàn giao thông đô
thị tổ chức triển khai các biện pháp đảm bảo TTATGT, kéo giảm tai nạn giao
thông. Thông qua các hoạt động tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật,
146
kiến nghị UBND, Ban ATGT và ngành giao thông công chính các giải pháp
tăng cường năng lực giao thông nội thị như giải phóng tầm nhìn, phân luồng,
cắm biển, đèn tín hiệu và cảnh báo các nguy cơ gây tai nạn lớn, nguy cơ ùn
tắc giao thông dài ngày...
Phối hợp với các ngành chức năng, các cơ quan báo chí đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành tham gia giao thông cho nhân
dân, tuyên truyền phổ biến pháp luật về trật tự giao thông kết hợp với giải
quyết, xử lý vi phạm, chủ yếu thông qua biện pháp thuyết phục, kết hợp xử lý
vi phạm với xây dựng tuyến phố văn minh đô thị, nâng cao ý thức tự giác của
nhân dân.
4.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm cho quản lý nhà nước về
an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
Trong QLNN về ANTT đô thị, Nhà nước cần ưu tiên đầu tư kinh phí,
trang bị phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật chất hiện đại cho các cơ quan chuyên
trách bảo vệ ANTT và chính sách đãi ngộ với cán bộ, công chức trực tiếp
QLNN về ANTT hoặc tham gia bảo vệ ANTT. UBND thành phố Hà Nội
hằng năm cần dành một phần ngân sách đáng kể của Thành phố để đáp ứng
các yêu cầu đảm bảo ANTT, đặc biệt hỗ trợ cho các hoạt động nghiêp vụ của
cơ quan công an. Thực hiện tốt Nghị định 127/2006/NĐ-CP về việc bảo đảm
điều kiện cho hoạt động bảo vệ ANTT: “Bảo đảm điều kiện về ngân sách và
cơ sở vật chất cho hoạt động bảo vệ an ninh, trật tự bao gồm: Đầu tư tài
chính, trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật
nghiệp vụ, đất đai, trụ sở, công trình, cơ sở công nghiệp và các điều kiện vật
chất, kỹ thuật khác cho hoạt động bảo vệ an ninh, trật tự” [25]; bảo đảm cơ sở
vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học của cơ quan
chuyên trách QLNN về ANTT đô thị; bảo đảm tiềm lực thông tin, cơ sở dữ
liệu, tư liệu khoa học và công nghệ phục vụ hoạt động bảo vệ ANTT đô thị.
147
Kết luận chương 4
Quản lý nhà nước về ANTT đô thị Hà Nội thời gian qua đã đạt được
những thành tựu cơ bản góp phần giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đẩy mạng
phát triển kinh tế, tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi. Công tác bảo vệ
ANTT đô thị Hà Nội tiếp tục được giữ vững, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, ngoại giao trên địa
bàn Thủ đô. Tuy nhiên, công tác QLNN về ANTT đô thị Hà Nội còn không
ít yếu kém đã tác động tiêu cực, trực tiếp đe dọa ANTT của đất nước. Nhiều
cán bộ, công chức chưa nhận thức hết âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, chủ quan, mất cảnh giác; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi; nội bộ lãnh
đạo các cơ quan, đơn vị một số nơi còn mất đoàn kết, bè phái cục bộ, những
biểu hiện cơ hội, tham nhũng còn rất nghiêm trọng làm ảnh hưởng tới lòng
tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. QLNN về ANTT đô thị Hà Nội trên
nhiều lĩnh vực còn bộc lộ sự yếu kém, hiệu quả thấp. Nhiều vấn đề xã hội
bức xúc chưa được ngăn chặn.
Trong xu thế hội nhập quốc tế và đô thị hóa diễn ra nhanh, Đảng, Nhà
nước, chính quyền đô thị Hà Nội cần tiếp tục chủ trương xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường QLNN về ANTT đô thị.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận của Chương 2, thực trạng của Chương
3, Chương 4 đã đưa ra quan điểm, giải pháp tăng cường QLNN về ANTT
đô thị Hà Nội là: Tăng cường xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội, tạo hành
lang pháp lý đầy đủ làm cơ sở cho các hoạt động quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự đô thị Hà Nội; tăng cường biện pháp hành chính trong quản lý
nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội; tăng cường đổi mới cơ chế quản
lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội; đẩy mạnh biện pháp vận động
148
quần chúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong quản
lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị, thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
thời kỳ hội nhập quốc tế; tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước
về an ninh, trật tự đô thị; tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm cho quản lý
nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội.
149
KẾT LUẬN
Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị là một nhiệm vụ khó khăn
và phức tạp, là một trong những điều kiện cơ bản để ổn định chính trị, kinh tế
- xã hội, đảm bảo dân chủ và công bằng xã hội của đất nước cũng như ở đô
thị. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị là: Ban
hành và tổ chức thi hành pháp luật quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị.
Tổ chức hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước và huy động các tổ chức xã
hội tham gia bảo vệ an ninh, trật tự đô thị. Kiểm tra, giám sát và xử lý các vấn
đề có liên quan đến bảo vệ an ninh, trật tự đô thị.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý thống nhất
của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, các chủ thể QLNN về
ANTT đô thị Hà Nội đã thực hiện quản lý trên nhiều lĩnh vực với các biện
pháp phù hợp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần ngăn chặn âm
mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch xâm phạm an ninh quốc
gia, chủ động, tích cực phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội, vi phạm pháp
luật về an ninh, trật tự; đóng góp quan trọng tạo ra môi trường chính trị - xã
hội ổn định, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Chính quyền đô thị
từng bước hoàn thiện thể chế an ninh, trật tự đô thị. Công an ở đô thị với vai
trò chuyên trách trong bảo vệ an ninh, trật tự đã làm tốt công tác nắm tình
hình, tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền đô thị tăng cường chỉ đạo,
điều hành các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự an toàn xã
hội, triển khai nhiều biện pháp công tác quan trọng nhằm đấu tranh, triệt phá
nhiều tổ chức phản động, cơ quan tình báo, gián điệp nước ngoài, triệt phá
nhiều tổ chức tội phạm, băng, ổ nhóm tội phạm hình sự, đảm bảo kỷ cương
luật pháp.
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội
vẫn còn bộ lộ nhiều hạn chế, yếu kém, trình độ quản lý đô thị cùng với quá
150
trình đô thị hóa là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả quản
lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị. Trước những tác động của mặt trái kinh
tế thị trường, của quá trình đô thị hóa, trước đòi hỏi của công cuộc đổi mới,
hoạt động quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị Hà Nội cần được tiếp tục
đổi mới, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đặt ra. Cần phải hoàn
thiện thể chế quản lý, khắc phục những thiếu xót trong các quy định của pháp
luật về bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, phát huy trách nhiệm
của các cấp ủy đảng, người đứng đầu trong công tác QLNN về ANTT đô thị;
đẩy mạnh cải cách hành chính và xây dựng lực lượng Công an đô thị trong
sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao. Công an thành phố Hà Nội cần đổi mới, nâng cao các
mặt công tác nghiệp vụ, nâng cao vai trò tham mưu cho Thành ủy, Ủy ban
nhân dân thành phố Hà Nội trong bảo vệ ANTT, chủ động phối hợp với các
cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong đấu tranh làm thất bại âm mưu phá hoại
của các thế lực thù địch, phòng, chống tội phạm, giữ gìn TTATXH.
Luận án đã khải sát, đánh giá thực trạng công tác QLNN về ANTT đô
thị Hà Nội trong thời kỳ hội nhập quốc tế và quá trình đô thị hóa nhanh. Đánh
giá được những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế trong QLNN về
ANTT đô thị Hà Nội. Chỉ rõ những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến QLNN về
ANTT đô thị, quan điểm về QLNN về ANTT đô thị trong tình hình mới. Từ
đó đưa ra các giải pháp tăng cường QLNN về ANTT đô thị Hà Nội.
Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đô thị là một vấn đề phức tạp, có
phạm vi rộng, là một lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới, trong khi trình độ
của nghiên cứu sinh còn hạn chế. Do đó, luận án không tránh khỏi những
khiếm khuyết. Nghiên cứu sinh rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
các nhà khoa học để luận án được hoàn thiện hơn. Nghiên cứu sinh xin trân
trọng cảm ơn.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. “Sửa đổi, bổ sung Điều 192 Bộ luật Hình sự hiện hành về Tội trồng cây
thuốc phiện hoặc các loại khác có chứa chất ma túy”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 1(321), năm 2015
2. “Tác động của quá trình đô thị hóa đối với vấn đề an ninh, trật tự trên
địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay”, Tạp chí Cảnh sát, số 85 (232)
11/2017.
3. “Công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự ở đô thị Hà Nội: vấn đề
đặt ra và giải pháp”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 271, tháng 8/2018.
4. “Quy định về di dân tự do và công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự
trên địa bàn thủ đô Hà Nội”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, Số 4, tháng
8/2018
5. “Tác động của di dân tự do đến quản lý nhà nước về an ninh, trật tự ở đô
thị Hà Nội”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số Đặc biệt kỳ 2 - tháng 9/2018
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Nguyễn Ngọc Anh (2016), Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo vệ an
ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng” Kỷ yếu hội thảo cấp quốc gia “Quán triệt,
thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về bảo đảm quốc phòng,
an ninh và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn hiện
nay, Bộ Công an, Hà Nội.
2. Châu Anh (2018), Thực hiện quản lý nhà nước về ANTT theo pháp
luật, https://baomoi.com.
3. Minh Anh (2017), Dân số của Hà Nội năm 2017 tăng lên 1,8% so với
năm trước, http://thanglong.chinhphu.vn.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 28-NQ/TW về
“Chiến lược Bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới”.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị
quyết số 18/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả
6. Bộ Công an (2014), Thông tư số 35/2014/TT-BCA ngày 09/9/2014 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cư trú.
7. Bộ Công an (2015), Thông tư số 10/2015/TT-BCA, Quy định chi tiết về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực liên quan an ninh, trật tự,
an toàn xã hội.
8. Bộ Công an (2017), Quyết định số 311/QĐ-BCA-V19, Ban hành kế hoạch
theo dõi, kiểm tra việc thi hành pháp luật năm 2017 trong Công an nhân dân.
9. Bộ Công an (2017), Thông tư số 42/2017/TT-BCA, Quy định chi tiết một
số điều của nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy định điều
kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện.
10. Bộ Chính trị, Nghị quyết 31/NQ-BCT, ngày 2/12/1980 về nhiệm vụ bảo
vệ an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới
11. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
12. Bộ Nội vụ, Viện Nghiên cứu khoa học tổ chức nhà nước (2007), Báo
cáo tổng hợp kết quả điều tra thực trạng tổ chức và hoạt động của
chính quyền đô thị ở nước ta hiện nay, Hà Nội.
13. Ngô Gia Bắc (2006), Phòng ngừa, phát hiện và triệt phá các điểm tổ
chức sử dụng trái phép ma túy tổng hợp tại các cơ sở kinh doanh có
điều kiện về an ninh, trật tự của lực lượng cảnh sát Công an thành phố
Hà Nội, Đề tài cấp cơ sở, Hà Nội.
14. Trương Hòa Bình (2016), Giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế
- xã hội góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh trong tình hình mới”,
Kỷ yếu hội thảo cấp quốc gia “Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng về bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân trong giai đoạn hiện nay, Bộ Công an, Hà Nội.
15. Bộ Nội vụ, Viện Nghiên cứu khoa học tổ chức nhà nước (2007), Báo
cáo tổng hợp kết quả điều tra thực trạng tổ chức và hoạt động của
chính quyền đô thị ở nước ta hiện nay, Hà Nội.
16. C.Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984
17. C.Mác - Ph. Ăng ghen, toàn tập, tập 23, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1993.
18. Lê Quang Cảnh (2011), Ảnh hưởng tiêu cực của đô thị hóa và gợi ý
chính sách cho quá trình đô thị hóa thành phố Hà Nội, Nghiên cứu
Kinh tế 393 - Tháng 2/2011.
19. Công an thành phố Hà Nội, Báo cáo tổng kết công tác năm 2014,
2015, 2016, 2017, 2018
20. Đỗ Viết Chiến (2003), Kiểm soát quá trình cải tạo và xây dựng tại khu
vực hạn chế phát triển của thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội.
21. Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 63/SL, ngày 22/11 của Chủ tịch Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành về tổ chức
chính quyền nhân dân địa phương, Hà Nội.
22. Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 77/SL, ngày 21/12 của Chủ tịch Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành về tổ chức
chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố, Hà Nội.
23. Chính phủ (2001), Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10 về việc
phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị, Hà Nội.
24. Chính phủ (2005), Nghị định số 38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của
Chính phủ quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng.
25. Chính phủ (2006), Nghị định 127/2006/NĐ-CP về việc bảo đảm điều
kiện cho hoạt động bảo vệ an ninh, trật tự
26. Chính phủ (2007), Nghị định 107/2007/NĐ-CP ngày 25/06/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Cư trú.
27. Chính phủ (2009), Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày 26/10/2009 quy
định chi tiết thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật phòng
chống ma tuý số 16 /2008/QH12 ngày 03/6/2008.
28. Chính phủ (2009), Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07/5 về việc
phân loại đô thị, Hà Nội.
29. Chính phủ (2010), Nghị định số 73/2010/NĐ-CP, ngày 12/07/2010 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an
toàn xã hội.
30. Chính phủ (2013), Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/07/2013 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật xử lý vi phạm hành
chính
31. Chính phủ (2014), Nghị định 31/2014/NĐ-CP ngày 18/04/2014 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật cư trú.
32. Chính phủ (2014), Nghị định 06/2014/NĐ-CP về biện pháp vận động
quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
33. Quang Chung (2012), Chính quyền đô thị: Vướng mắc từ Hiến pháp,
http://www.thesaigontimes.vn, ngày 18/02.
34. Nguyễn Đức Chung (2015), Kinh nghiệm đấu tranh chống “diễn biến
hòa bình” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh
vực tư tưởng - văn hóa của Công an thành phố Hà Nội, Tạp chí Công
an nhân dân, kỳ 1, 7/2015, tr 40 - 43.
35. Lê Văn Cương (chủ nhiệm) (2006), Những giải pháp nâng cao hiệu
quả đảm bảo an ninh, trật tự ở các thành phố lớn, khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu kinh tế mở, Hà Nội.
36. Võ Kim Cương (2004), Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi, Nxb Xây
dựng, Hà Nội.
37. Phạm Cường (2006), Muốn xây chính quyền đô thị phải có con người
đô thị?, http://www.vietnamnet.vn, ngày 11/01.
38. Hồ Sơn Diệp (2006), Cư dân, đô thị và thử phác thảo mô hình chính
quyền đô thị hiện đại cho Thành phố Hồ Chí Minh, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học “Xây dựng chính quyền đô thị Thành phố Hồ Chí Minh - Một
yêu cầu cấp thiết của cuộc sống”, Viện Nghiên cứu xã hội - Viện Kinh
tế, Sở Nội vụ - Ban Tư tưởng văn hóa Thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh, Hồ Chí Minh.
39. Nguyễn Huy Du(2014), Năng lực quản lý nhà nước về phát triển đô thị
ở cấp huyện, nhìn từ Ủy ban nhân dân huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà
Nội, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội.
40. Nguyễn Ánh Dương (2007), Đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền thị
xã, thành phố thuộc tỉnh ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
41. Nguyễn Duy Đài (2016), Nâng cao hiệu quả công tác quản lý người
ngoại tỉnh của Công an phường trên địa bàn thành phố Hà Nội, Tạp
chí Cảnh sát phòng, chống tội phạm, số 65 (212), 3/2016.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
45. Đại học Kinh tế quốc dân (2003), Giáo trình Quản lý đô thị, Nhà xuất
bản Thống kê, Hà Nội.
46. Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Lý luận về Nhà nước và pháp
luật, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
47. Phạm Tiến Đạt (2012), Đổi mới tổ chức chính quyền đô thị ở nước ta
hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội.
48. Bùi Xuân Đức (Chủ nhiệm đề tài) (2002), Đổi mới tổ chức chính
quyền địa phương ở đô thị, Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên
cứu Nhà nước và pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn quốc gia, Hà Nội.
49. Phạm Kim Giao (2005), Một số giải pháp để thiết lập trật tự, kỷ cương
trong quản lý nhà nước đối với các đô thị trực thuộc Trung ương, Đề
tài cấp Bộ, Hà Nội.
50. Thu Hà (2008), Chính quyền đô thị: Phân cấp không chia quyền,
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn, ngày 22/4.
51. Đinh Quang Hà (2014), Di dân tự do nông thôn - đô thị với trật tự xã
hội ở Hà Nội, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
52. Hannah von Bloh, Chính quyền thành phố ở Đức, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học “Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản lý nhà nước
đặc thù của các đô thị trực thuộc Trung ương nước ta hiện nay”, Viện
Việt Nam học và khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
53. Lê Hải, Sơ kết công tác đảm bảo trật tự, an toàn giao thông 7 tháng
đầu năm 2017, https://hanoi.gov.vn, ngày 08/8/2017.
54. Lê Thanh Hải (2009), Câu chuyện phát triển đô thị nhìn từ một khu
phố London, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nghiên cứu xây dựng mô
hình tổ chức và quản lý nhà nước đặc thù của các đô thị trực thuộc
Trung ương nước ta hiện nay”, Viện Việt Nam học và khoa học phát
triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
55. Thu Hằng (2016), Đô thị Việt Nam: bất ổn quy hoạch, http:// bnews.vn
56. Đỗ Đình Hòa, Trần Minh Hưởng, Trần Quốc Tỏ (2015), Lý luận về
bảo đảm trật tự an toàn xã hội, tập 5, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
57. Học viện Cảnh sát nhân dân (2012), Giáo trình nghiệp vụ: Những vấn
đề cơ bản quản lý hành chính về an ninh, trật tự, Hà Nội.
58. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình Quản lý nhà nước về đô thị,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
59. Lê Thanh Hoài (2015), Quản lý nhà nước về an ninh, trật tự đối với
hoạt động đầu tư, kinh doanh bất động sản trên địa bàn thành phố Hà
Nội, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 1, 7/2015, tr 70 - 73.
60. Hội đồng nhà nước (1987), Pháp lệnh lực lượng An ninh nhân dân Việt
Nam
61. Hội đồng nhà nước (1989), Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt
Nam
62. Duy Hoàng, Hà Nội: Phấn đấu giai đoạn 2016- 2020 tăng trưởng
GRDP bình quân đạt 8,5- 9%, http://baocongthuong.com.vn.
63. Đoàn Minh Huấn (2009), Một số kinh nghiệm về xây dựng mô hình tổ
chức chính quyền đô thị trực thuộc Trung ương từ 1986 đến 2008, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học “Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản
lý nhà nước đặc thù của các đô thị trực thuộc Trung ương nước ta hiện
nay”, Viện Việt Nam học và khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
64. Nguyễn Duy Hùng và Hồ Trọng Ngũ (1998), Bước đầu tìm hiểu quản
lý nhà nước về an ninh trật tự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
65. Nguyễn Mạnh Hùng (2015), Thực tiễn điều tra các vụ án kinh tế có
yếu tố nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội và một số kiến nghị,
đề xuất, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 2, 10/2015, tr 53 - 56.
66. Trần Lan Hương (2012), Đô thị hóa - Thực trạng và giải pháp,
http://cus.vnu.edu.vn.
67. Phạm Văn Hường (2015), Hoạt động vi phạm pháp luật về an ninh,
trật tự của giáo sĩ đạo Thiên Chúa trên địa bàn thành phố Hà Nội và
giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn của cơ quan an ninh, Tạp chí Công
an nhân dân, kỳ 2, 10/2015, tr 45 - 48.
68. Nguyễn Văn Kim (2009), Mô hình tổ chức chính quyền và quản lý đô
thị trực thuộc Trung ương ở Nhật Bản, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản lý nhà nước đặc thù
của các đô thị trực thuộc Trung ương nước ta hiện nay”, Viện Việt
Nam học và khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
69. Nguyễn Lân (2003), Từ điển Từ và ngữ Hán - Việt, , Nxb Văn học, Hà
Nội.
70. Lênin: Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 1978 (tiếng Việt).
71. Mác, Ănghen: Tuyển tập, tập VI, NXB Sự thật, Hà Nội, 1994.
72. Một số quy định pháp luật về phát triển Thủ đô Hà Nội (2004), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
73. Nguyễn Ngọc Năm (2004), Cải các chính quyền phường (thực tiễn từ
địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ, Hà Nội.
74. Nguyễn Văn Nhật (2016), Lực lượng Cảnh sát nhân dân với việc thực
hiện các nội dung cơ bản về bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, Kỷ yếu hội
thảo cấp quốc gia “Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của
Đảng về bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân trong giai đoạn hiện nay”, Bộ Công an, Hà Nội.
75. Phạm Quang Nghị (2015), Thành ủy Hà Nội lãnh đạo công tác bảo
đảm an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an thủ đô đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ
2, tháng 8/2015.
76. Nguyễn Bá Nghiêm (2014), Kinh nghiệm đấu tranh với tội phạm hoạt
động có tổ chức của lực lượng Cảnh sát hình sự, Công an thành phố
Hà Nội, Tạp chí Phòng chống ma túy, số 11/2014.
77. Tạ Quang Ngọc (2013), Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến
sĩ, Hà Nội.
78. Nguyễn Quang Ngọc, Đoàn Minh Huấn, Bùi Xuân Dũng (Đồng chủ
biên) (2010), Hoàn thiện mô hình tổ chức và quản lý đô thị Hà Nội -
Luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
79. Nguyễn Văn Ngọc (2015), Lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia, tập 4, Bộ
sách chuyên khảo “Khoa học Công an Việt Nam”, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
80. GS.TS Hồ Trọng Ngũ (2012), Pháp luật quốc phòng - an ninh, mấy
vấn đề về tính hệ thống, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
81. Vương Đức Phong (2012), Quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội
tại các địa bàn công cộng đô thị - Thực tiễn tình hình và những kiến
nghị đề xuất, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
82. Trần Đại Quang (1996), Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh
quốc gia ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ, Hà Nội.
83. Trần Đại Quang (chủ nhiệm) (2004), Giải pháp đảm bảo an ninh, trật
tự ở các vùng chiến lược Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc góp phần
phát triển kinh tế xã hội, Hà Nội.
84. Trần Đại Quang (2008), Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an
ninh quốc gia, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
85. Trần Thế Quân (2003), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ an
ninh quốc gia - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật
học, Hà Nội.
86. Quốc hội (2003), Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân, Hà Nội.
87. Quốc hội (2004), Luật An ninh quốc gia, Hà Nội.
88. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
89. Quốc hội (2012), Luật Thủ đô, Hà Nội.
90. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội
91. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Quốc hội, Hà Nội
92. Quốc hội (2014), Luật Công an nhân dân, Hà Nội
93. Quốc hội (2015), Luật tổ chức Chính phủ, Hà Nội
94. Quốc hội (2015), Luật Hình sự, Hà Nội
95. Quốc hội (2015), Luật tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội
96. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội (2017), Báo cáo về tình hình kinh tế -
xã hội năm 2017.
97. Trần Minh Tơn (2007), Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an
ninh, trật tự ở các đô thị trong điều kiện Việt Nam là thành viên Tổ
chức thương mại thế giới, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
98. Đinh Văn Tú (2013), Nâng cao hiệu quả quản lý lưu trú trong các cơ
sở kinh doanh khách sạn, nhà nghỉ theo chức năng của lực lượng Cảnh
sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố Hà Nội, Đề
tài cấp cơ sở, Hà Nội
99. Phí Đức Tuấn (2013), Lý luận quản lý nhà nước về an ninh, trật tự -
thực trạng và vấn đề đặt ra đối với nghiên cứu, xây dựng, phát triển,
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Hệ thống lý luận về bảo vệ an ninh quốc
gia”, Tiểu ban lý luận về lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia, Hà Nội.
100. Bùi Văn Tuấn, Đỗ Văn Kiên (2009), Thực trạng về quản lý đô thị Hà Nội
hiện nay qua nghiên cứu định lượng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Viện
Việt Nam học và khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
101. Đan Thanh (2007), Chính quyền đô thị làm gì?, http://www.
anninhthudo.vn, ngày 22/12.
102. Ngô Trọng Thanh (2013), Lý luận quản lý nhà nước về an ninh quốc
gia đối với lĩnh vực, địa bàn trọng điểm - thực trạng và đề xuất nghiên
cứu hoàn thiện, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Hệ thống lý luận về bảo vệ
an ninh quốc gia”, Tiểu ban lý luận về lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc
gia, Hà Nội.
103. Nguyễn Ngọc Thao (2009), Xây dựng mô hình tổ chức và quản lý nhà
nước đặc thù của thành phố Hải Phòng với vai trò đô thị trực thuộc
Trung ương, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nghiên cứu xây dựng mô
hình tổ chức và quản lý nhà nước đặc thù của các đô thị trực thuộc
Trung ương nước ta hiện nay”, Viện Việt Nam học và khoa học phát
triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
104. Thaveeporn Vasavakul (2009), Một số đặc điểm của đặc khu hành chính
Thủ đô Bangkok - mô hình quản lý đô thị tiêu biểu, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học “Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản lý nhà nước
đặc thù của các đô thị trực thuộc Trung ương nước ta hiện nay”, Viện
Việt Nam học và khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
105. Phạm Hồng Thái (2002), Thiết lập mô hình tổ chức chính quyền đô thị
ở nước ta hiện nay, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
106. Thành ủy Hà Nội (2016), Chương trình 05 về “Tăng cường quốc
phòng - an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới,
giai đoạn 2016 - 2020.
107. Nguyễn Thị Thảo (2014), Thành phố Hà Nội: quản lý cơ sở kinh
doanh dịch vụ cầm đồ, Tạp chí Công an nhân dân (chuyên đề an ninh
và xã hội), số 5/2014, tr 24 – 25.
108. Nguyễn Thị Thu Thảo (2013), Mô hình tổ chức chính quyền đô thị ở
Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội.
109. Nguyễn Quang Thiện (2013), Hệ thống lý luận an ninh quốc gia - khái
quát quá trình hình thành, thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Kỷ
yếu hội thảo khoa học “Hệ thống lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia”,
Tiểu ban lý luận về lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia, Hà Nội.
110. Đỗ Cảnh Thìn (2016), Vấn đề an ninh phi truyền thống và những thách
thức đặt ra hiện nay đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Kỷ
yếu hội thảo cấp quốc gia “Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng về bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân trong giai đoạn hiện nay”, Bộ Công an, Hà Nội.
111. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 222/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, Phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Thành phố Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
112. Nguyễn Huy Thuật (2016), Vai trò của bảo đảm trật tự, an toàn xã hội
trong tình hình mới - Một số vấn đề lý luận, Kỷ yếu hội thảo cấp quốc
gia “Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về bảo
đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
trong giai đoạn hiện nay”, Bộ Công an, Hà Nội.
113. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2008), Chỉ thị số 08/2008/CT-
UBND, ngày 24/3/2008 về việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội năm 2008 trên địa bàn thành phố Hà Nội.
114. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2010), Chỉ thị số 29/CT-UBND
ngày 30/12/2010 về đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn thành phố Hà Nội năm 2011.
115. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Quyết định số 48/2013/QĐ-
UBND, ngày 06/11/2013 về quy chế quản lý và thực hiện hoạt động đối
ngoại của thành phố Hà Nội.
116. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Chỉ thị số 23/CT-UBND,
ngày 07/11/2013, về việc tăng cường thực hiện các nhiệm vụ và giải
pháp phòng, chống mại dâm trên địa bàn thành phố Hà Nội trong tình
hình hiện nay.
117. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2014), Chỉ thị số 14/CT-UBND,
ngày 27/08/2014, về việc tăng cường công tác đảm bảo an ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Thành phố.
118. Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội (2018), Quyết định 2049/QĐ-UBND
về việc ban hành Quy chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước
đối với việc quản lý các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về
an ninh, trật tự trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
119. Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý,
mại dâm, Hà Nội (2017), Tổng kết công tác phòng, chống AIDS, tệ nạn
ma tuý, mại dâm. https://hanoi.gov.vn.
120. Nguyễn Xuân Văn - Nghiêm Đình Hưởng (2014), Nâng cao hiệu quả
công tác điều tra cơ bản đối với sơ sở kinh doanh Massage của lực
lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trạt tự xã hội trên địa bàn thành
phố Hà Nội, Tạp chí Cảnh sát trật tự an toàn xã hội, số 7/2014.
121. Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2000), Từ điển Bách khoa
nghiệp vụ Công an, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
122. Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2005), Từ điển Bách khoa
Công an nhân dân, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
123. Viện Ngôn ngữ học (1988), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
124. Nguyễn Xuân Yêm (1998), Một số vấn đề quản lý nhà nước về an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
125. Nguyễn Xuân Yêm, Trần Phương Đạt, Bùi Tiến Sỹ, Nguyễn Quốc Đoàn
(2015), Quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, tập
2, Bộ sách chuyên khảo “Khoa học Công an Việt Nam”, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
126. Nguyễn Xuân Yêm (2015), Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình
hình mới, Đề tài trọng điểm cấp Nhà nước KX.04/11-15, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
127. Edward C.Page (2011), Localism and Centralism in Europe: The
Political and Legal Bases of Local Self-Government, Nxb Oxford.
128. S.Chiavo - Campo và P.S.A Sundaram (2003), Service and
maintenance: improving public administration in a competitive world.
129. Jan Erik Lane (2009), State Management, Routledge.
130. Jay M.Shafritz và Albert C.Hyde, Traditional management.
131. Joachim Jens Hesse (1991), Local Government and Urban Affairs in
International Perspective, Nxb Nomos Verlagsgesellschaft Baden-
Baden.
132. Koju Kuroda (năm 2001), The Trends of the local Government in
Japan for the early years of XIX century, Nxb Đại học Tokyo.
133. Macilwee, Mick (2011), The Liverpool underworld: Crime in the city,
1750- 1900, Nxb Liverpool University Press.
134. Mikovskij G.M, (1977), Theoretical basis of crime prevention (dịch:
Cơ sở lý luận của việc phòng ngừa tội phạm) Maxxcova, Jurid,
Literature (Bản dịch của Viện Thông tin Khoa học xã hội, năm 1982).
135. Trevor Gibson, Helen James & Lindsay Falvey (2016), Insecurity and
Citizenship in Myanmar, Nxb Thaksin University Press.
PHỤ LỤC
Bảng 3.1. QUY MÔ DÂN SỐ VÀ DIỆN TÍCH
30 QUẬN, HUYỆN CỦA HÀ NỘI
STT Quận/Huyện/Thị xã Diện tích (km2) Dân số (nghìn
người) 1 Ba Đình 9,25 242,8
2 Hoàn Kiếm 5,29 155,9
3 Tây Hồ 24,01 152,8 4 Long Biên 59,93 270,3
5 Cầu Giấy 12,03 251,8 6 Đống Đa 9,96 401,7
7 Hai Bà Trưng 10,09 315,9 8 Hoàng Mai 40,32 364,9
9 Thanh Xuân 9,08 266,0
10 Sóc Sơn 306,51 316,6
11 Đông Anh 182,14 374,9
12 Gia Lâm 114,73 253,8
13 Bắc Từ Liêm 43,35 320,4
14 Nam Từ Liêm 32,27 232,9
15 Thanh Trì 62,93 221,8 16 Mê Linh 142,51 210,6
17 Hà Đông 48,34 284,5 18 Sơn Tây 113,53 136,6
19 Ba Vì 424,03 267,3 20 Phúc Thọ 117,19 172,5 21 Đan Phượng 77,35 154,3 22 Hoài Đức 82,47 212,1
23 Quốc Oai 147,91 174,2
24 Thạch Thất 184,59 194,1
25 Chương Mỹ 232,41 309,6
26 Thanh Oai 123,85 185,4
27 Thường Tín 127,39 236,3
28 Phú Xuyên 171,10 187,0
29 Ứng Hòa 183,75 191,7
30 Mỹ Đức 226,20 183,5 ( Nguồn: http://hpa.hanoi.gov.vn/, năm 2017)
Bảng 3.2. DIỆN TÍCH VÀ DÂN SỐ GIỮA KHU VỰC
NỘI THÀNH VÀ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
TT Khu vực Diện tích (Km2) Dân số (nghìn người)
1 Các quận 303.92 3259.9
2 Các huyện và thị xã 3020.59 3982.3
Tổng 3,324.51 7242.2
( Nguồn: http://hpa.hanoi.gov.vn/, năm 2017)
Bảng 3.3. TÌNH HÌNH CƯ TRÚ CỦA CÔNG DÂN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2017
Năm Tổng số hộ Tổng số nhân khẩu
2008 1.547.573 6.520.674
2009 1.654.881 6.717.232
2010 1.702.569 6.913.161
2011 1.772.643 7.113.217
2012 1.835.092 7.316.270
2013 1.885.124 7.270.623
2014 1.822.845 7.160.499
2015 1.798.858 6.899.574
2016 1.807.726 7.103.182
2017 1.818.432 7.242.200
(Nguồn: Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH - Công an thành phố Hà Nội)
Bảng 3.4. TÌNH HÌNH VI PHẠM, XỬ LÝ VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ CƯ TRÚ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2017
Năm
Tổng số Lỗi vi phạm (vụ việc) Xử lý vi phạm
Hình sự Hành chính
Vụ việc
vi phạm
Đối
tượng
Đăng ký
thường
trú
Đăng
ký tạm
trú
Lưu trú,
tạm vắng Lỗi khác Vụ
Đối
tượng Vụ Đối tượng
2008 1.743 4.396 124 266 1.249 104 14 27 1.729 4.369
2009 2.037 4.859 147 309 1.437 144 17 26 2.020 4.833
2010 2.425 5.026 237 286 1.716 186 9 13 2.416 5.013
2011 2.792 5.603 263 298 1.984 247 16 29 2.776 5.574
2012 3.305 6.353 285 426 2.271 323 21 32 3.284 6.321
2013 2.945 5.492 330 436 1.955 224 19 27 2.926 5.465
2014 3.258 4.562 316 485 2.199 258 17 21 3.241 4.541
2015 3.465 4.795 424 366 2.194 481 7 14 3.458 4.781
2016 3.105 3.256 368 416 1.971 350 13 19 3.092 3.237
2017 3.020 3.971 398 378 1941 303 12 26 3.008 3.945
Tổng 28.095 48.313 2892 3666 18.917 2620 145 234 27.95 48.079
(Nguồn: Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về TTXH - Công an thành phố Hà Nội)
Bảng 3.5. TÌNH HÌNH TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỒ HÀ NỘI
Năm
Phạm pháp hình sự Vi phạm hành chính về TTATXH
Tổng số Hình sự Kinh tế Ma túy TTGT-
TTCC TNXH Khác
2008 5.948 2.368 215 2.265 2.345 974 2.356
2009 6.236 3.124 236 2.376 2.765 867 2.654
2010 6.585 3.157 245 2.483 3.120 892 2.784
2011 7.114 3.218 276 2.620 3.230 786 2.983
2012 7.267 3.273 286 2.808 3.453 987 3.238
2013 7.122 3.176 290 2.856 3.789 967 3.590
2014 5.255 2.354 245 2.129 3.672 879 3.368
2015 6.423 3.123 287 2.435 3.241 914 3.214
2016 7.183 2.936 301 2.301 3.678 932 3.657
2017 7.234 2.897 321 2.342 3.764 967 3.653
Tổng 67.081 29.685 2.702 24.615 33.057 9.166 31.497
(Nguồn: PV11, PC64, PC45 - Công an thành phố Hà Nội)