Upload
others
View
7
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐẶNG THỊ KIM NGÂN
BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 9.38.01.02
LUẬN ÁN TIỄN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Bùi Thị Đào
2. TS. Đặng Thị Thu Huyền
HÀ NỘI – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực, có xuất xứ rõ ràng. Những kết luận khoa học
của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Nghiên cứu sinh
Đặng Thị Kim Ngân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI ......................................................................................................................... 7
1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến đề tài ................. 7
1.2 Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ......................... 25
1.3 Câu hỏi nghiên cứu, lý thuyết nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ................. 28
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO
CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT ............................................................. 31
2.1 Khái niệm của bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật .................. 31
2.2 Nội dung bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật........................... 46
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tố cáo của công dân ....................... 55
Chương 3: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................... 65
3.1 Quá trình hình thành và phát triển của bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo
pháp luật Việt Nam ................................................................................................ 65
3.2 Thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân được quy định trong hệ thống
pháp luật Việt Nam hiện nay .................................................................................. 74
3.3 Thực tiễn bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay ................ 94
3.4 Đánh giá chung về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................................... 112
Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN
TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................. 119
4.1 Quan điểm tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay . 119
4.2 Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân ............................ 123
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...................... 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 148
Phụ lục 1 ............................................................................................................. 159
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BĐQTC
CHXHCN
GQTC
LPCTN
LTC
MTTQ
QH
QTC
UBND
Bảo đảm quyền tố cáo
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Giải quyết tố cáo
Luật phòng, chống tham nhũng
Luật Tố cáo
Mặt trận Tổ quốc
Quốc hội
Quyền tố cáo
Uỷ ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 của nước ta quy định tại Điều 14: "Ở nước CHXHCN Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật" và
Điều 30: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Điều đó
thể hiện Nhà nước rất coi trọng tố cáo và việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, coi
tố cáo là một trong những kênh thông tin giúp Nhà nước phát hiện, phòng ngừa và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tập
thể và Nhà nước. Đồng thời qua việc GQTC, Nhà nước thể hiện sự thừa nhận và coi
trọng quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trong giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức.
Chính vì lý do trên mà QTC được coi là một trong những quyền cơ bản của công
dân, được ghi nhận lần đầu tiên tại Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp nước ta qua các giai
đoạn luôn ghi nhận QTC của công dân, mở rộng hơn so với trước và tạo điều kiện để
công dân thực hiện quyền này một cách tốt nhất. Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật để quy định việc bảo đảm thực hiện QTC của công dân như Pháp lệnh quy
định việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1981; Pháp lệnh khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1991; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998; các luật sửa đổi, bổ
sung Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005; Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo
năm 2018.... Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước còn thiết lập và kiện
toàn các cơ quan có chức năng GQTC, các cơ quan giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi
phạm trong lĩnh vực tố cáo; đồng thời chú trọng phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội trong việc BĐQTC của công dân.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn BĐQTC của
công dân còn nhiều hạn chế, các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực này vẫn
chưa đầy đủ, rõ ràng. Nhìn chung, hệ thống pháp luật về BĐQTC của công dân còn
chồng chéo, mâu thuẫn, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, thủ tục BĐQTC của công
dân còn rườm rà, kém hiệu quả.
Bên cạnh đó, những bất cập, hạn chế về giám sát, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi
phạm pháp luật trong BĐQTC của công dân vẫn chưa được khắc phục triệt để. Năng
2
lực, trách nhiệm, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức và ý thức pháp luật
của công dân, của cộng đồng hiện nay vẫn còn có những cản trở lớn đối với việc
BĐQTC của công dân. Thực trạng công tác tiếp nhận, xử lý thông tin, thẩm tra, xác
minh và kết luận nội dung tố cáo ở nhiều nơi chưa thực sự được người có thẩm quyền
và cơ quan nhà nước có trách nhiệm quan tâm đúng mức. Mặt khác, việc xử lý người
sai phạm chưa có chế tài cụ thể, chưa thực sự nghiêm túc, chưa đủ sức răn đe; thậm
chí, ở nhiều nơi, người tố cáo còn bị cộng đồng dân cư và đơn vị công tác kỳ thị, hoặc
bị đe dọa, trù dập làm ảnh hưởng đến danh dự, cuộc sống, công việc và tính mạng.
Những hạn chế trên đã ảnh hưởng lớn đến niềm tin của nhân dân vào sự nghiêm minh,
công bằng của luật pháp; ảnh hưởng đến ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức có
thẩm quyền và chất lượng, hiệu quả của quản lý nhà nước. Điều đó không chỉ phản
ánh sự thiếu hoàn thiện trong việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, không khắc
phục được tình trạng tố cáo đông người, vượt cấp, kéo dài, gây rối trật tự công cộng,
mất ổn định an ninh, trật tự, cản trở tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và tăng
cường dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ thực tế nêu trên, yêu cầu đặt ra là phải tăng cường BĐQTC của công dân để
công dân yên tâm thực hiện QTC của mình, góp phần tích cực vào việc đấu tranh đẩy
lùi các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là đấu tranh phòng chống tham nhũng. Vì vậy,
cần có các nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về BĐQTC của công dân ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện nay ở nước ta trong lĩnh vực này mới chỉ tập trung ở
một số khía cạnh của tố cáo, còn việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân chưa
được nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một
cách bài bản và khoa học về BĐQTC của công dân luôn là vấn đề được các nhà
khoa học và thực tiễn quan tâm.
Từ các lý do trên cho thấy, việc nghiên cứu về “Bảo đảm quyền tố cáo của
công dân theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là yêu cầu khách quan, cấp thiết cả về
lý luận và thực tiễn.
3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm
quyền tố cáo của công dân theo pháp luật; đánh giá thực trạng; từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án có nhiệm vụ:
Thứ nhất, nghiên cứu tình hình tổng quan để hệ thống hóa, phân tích, đánh
giá các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, trên cơ sở đó xác định những
kết quả nghiên cứu mà luận án sẽ kế thừa và chỉ ra những vấn đề mà các công trình
khoa học chưa giải quyết, luận án cần tiếp tục nghiên cứu.
Thứ hai, làm rõ khái niệm, chủ thể và giới hạn của quyền tố cáo; phân tích
khái niệm, vai trò, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tố cáo của
công dân theo pháp luật.
Thứ ba, nghiên cứu, đánh giá sự hình thành, phát triển, thực trạng bảo đảm
quyền tố cáo theo pháp luật và thực tiễn thực hiện bảo đảm quyền tố cáo của công
dân ở Việt Nam.
Thứ tư, nghiên cứu, đề xuất các quan điểm và giải pháp để tăng cường bảo
đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu BĐQTC của công dân theo pháp luật ở góc độ
lý luận, các quan điểm, quan niệm về BĐQTC của công dân; cơ sở pháp lý và thực
tiễn thực hiện pháp luật về BĐQTC của công dân ở nước ta hiện nay.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân
được quy định trong hệ thống pháp luật, cụ thể là:
Về nội dung: Bảo đảm quyền tố cáo của công dân có thể được nghiên cứu với
nhiều khía cạnh khác nhau như bảo đảm kinh tế, bảo đảm chính trị, bảo đảm xã hội, ....
Tuy nhiên, luận án tập trung nghiên cứu, phân tích các bảo đảm quyền tố cáo được
quy định trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là những bảo đảm được quy định trong
Luật Tố cáo năm 2011, các văn bản hướng dẫn thi hành luật này và Luật Tố cáo năm
4
2018. Các quy định về tố cáo được quy định trong Bộ Luật hình sự năm 2015 và các
văn bản có liên quan khác cũng sẽ được đề cập và phân tích nhưng không phải là
trọng tâm nghiên cứu. Do Luật Tố cáo năm 2018 có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 nên
Luận án không nghiên cứu thực trạng thực hiện các quy định của Luật này.
Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu BĐQTC của công dân theo pháp luật
chủ yếu ở giai đoạn từ sau khi Quốc hội thông qua Luật Tố cáo năm 2011 đến nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận và cách tiếp cận nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người, bảo đảm quyền con
người trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó,
tác giả còn sử dụng một số cách tiếp cận như:
Tiếp cận hệ thống: Trên cơ sở tập hợp, hệ thống ở mức tương đối đầy đủ các công
trình liên quan đến BĐQTC của công dân ở Việt Nam đã được công bố, luận án xem xét,
đánh giá và tiếp thu có chọn lọc để đưa ra những quan niệm về vấn đề nghiên cứu.
Tiếp cận đa ngành, liên ngành: Có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã
hội có liên quan như sử học, xã hội học, chính trị học, luật học.
Tiếp cận lịch sử: Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá trình nghiên
cứu và mối quan hệ này được xem xét qua các giai đoạn lịch sử phát triển khác nhau.
Đồng thời, việc phân tích, đánh giá từng mặt của mối quan hệ này được nhìn nhận dưới
góc độ logic phát triển đặt trong những bối cảnh và những điều kiện lịch sử cụ thể.
4.2 Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận án
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp
nghiên cứu truyền thống của khoa học xã hội và luật học như: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp
hệ thống, phương pháp lịch sử cụ thể.... Đối với mỗi chương, mục, các phương pháp
nghiên cứu chủ đạo được sử dụng như sau:
Chương 1: Chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và
tổng hợp. Từ việc hệ thống hóa, tổng hợp các công trình nghiên cứu khoa học trong
nước và nước ngoài về những vấn đề có liên quan đến nội dung luận án, tác giả đã
phân tích những nội dung cơ bản trong các công trình nghiên cứu đó và đưa ra đánh
5
giá cụ thể về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Mục 2.1, Mục 2.2, Mục 2.3 Chương 2: Sử dụng phương pháp hệ thống, phương
pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp để đưa ra
khái niệm, chủ thể và giới hạn của quyền tố cáo; khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo
đảm quyền tố cáo của công dân; nội dung của BĐQTC của công dân; các yếu tố ảnh
hưởng đến BĐQTC của công dân.
Mục 3.1 Chương 3: Chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh để làm rõ quá
trình hình thành và phát triển của BĐQTC của công dân theo pháp luật Việt Nam qua
các giai đoạn lịch sử.
Mục 3.2 và Mục 3.3 Chương 3: Sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh để làm rõ thực
trạng BĐQTC của công dân ở Việt Nam hiện nay.
Mục 3.4 Chương 3: Chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích, tổng hợp để đánh giá về thực trạng BĐQTC của công dân ở nước ta.
Mục 4.1 và 4.2 Chương 4: Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, phương pháp dự báo khoa học để làm rõ
quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện BĐQTC của công dân và đề xuất các
giải pháp tăng cường BĐQTC của công dân ở nước ta.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ luật học nghiên cứu
một cách toàn diện và có hệ thống về bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp
luật Việt Nam, với những điểm mới về khoa học như sau:
Thứ nhất, luận án làm sáng tỏ những vấn đề khoa học mà chưa hoặc đã được
đề cập nhưng còn thiếu thống nhất và thiếu toàn diện trong một số công trình
nghiên cứu khác, cụ thể như: chủ thể và giới hạn của quyền tố cáo; khái niệm, đặc
điểm và vai trò của BĐQTC của công dân; các yếu tố ảnh hưởng đến BĐQTC của
công dân. Đồng thời, luận án làm rõ các nội dung của BĐQTC của công dân được
quy định trong hệ thống pháp luật về: ghi nhận nội dung quyền; thẩm quyền, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân; thủ tục bảo đảm quyền; các nguồn lực bảo đảm
quyền; việc giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm quyền; việc bảo vệ và
khen thưởng người tố cáo.
6
Thứ hai, luận án phân tích, đánh giá toàn diện tình hình thực hiện các bảo
đảm quyền tố cáo của công dân được quy định trong hệ thống pháp luật. Từ đó, chỉ
ra những ưu điểm và hạn chế của việc BĐQTC của công dân cũng như những
nguyên nhân.
Thứ ba, luận án đưa ra các quan điểm cơ bản làm cơ sở cho việc đề xuất các
giải pháp cụ thể hướng tới việc tăng cường BĐQTC của công dân.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
6.1 Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần làm phong phú thêm những nghiên cứu hiện có về quyền
tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo của công dân nước ta.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc ban hành, sửa đổi bổ sung các quy phạm
pháp luật điều chỉnh về bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở nước ta hiện nay.
Luận án có thể là tư liệu tham khảo trong các hoạt động nghiên cứu khoa học
về bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm quyền công dân, quyền tố cáo
nói riêng.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc đào tạo cao
học, nghiên cứu sinh chuyên ngành luật ở các trường đại học, học viện.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án
được kết cấu thành bốn chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo
pháp luật
Chương 3: Thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật
Việt Nam hiện nay
Chương 4: Quan điểm, giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công
dân ở Việt Nam hiện nay.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến đề tài
1.1.1 Các nghiên cứu về lý luận bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Lý luận về quyền con người, quyền công dân đã được nhiều công trình
nghiên cứu đề cập đến ở các quy mô khác nhau, tuy nhiên lý luận về BĐQTC của
công dân theo pháp luật ít được các học giả phân tích sâu mà mới chỉ xem xét ở các
khía cạnh khác nhau của BĐQTC như vấn đề GQTC, bảo vệ người tố cáo, hoàn
thiện pháp luật tố cáo. Để minh chứng cho điều này, có thể kể đến một số công trình
liên quan đến luận án như sau:
Nhóm công trình trong nước nghiên cứu lý luận về bảo đảm quyền con người,
quyền công dân
Quyền con người nói chung, quyền tố cáo của công dân nói riêng là giá trị
của nhân loại, phản ánh bản chất mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, các
quyền này gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của chế độ dân chủ. Việc bảo
đảm các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tố cáo là nguyên tắc
hiến định trong đa số Hiến pháp của các quốc gia. Ở Việt Nam, việc bảo đảm thực
hiện các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tố cáo là chủ trương
lớn của Đảng và Nhà nước, được thể hiện trong nhiều văn bản của Đảng và hệ thống
pháp luật. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận bảo đảm quyền con người,
quyền công dân ở nước ta, đây là nguồn tham khảo rất có giá trị đối với tác giả luận án
trong việc nghiên cứu bảo đảm quyền tố cáo theo pháp luật Việt Nam. Các công trình
nghiên cứu có thể kể đến là:
Sách chuyên khảo “Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị” của các tác
giả Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh chủ biên, NXB. Chính trị quốc gia, năm
1997 [34]. Đây là tập hợp các chuyên đề nghiên cứu về những nội dung cơ bản trong
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Trong đó, các tác giả
tập trung nghiên cứu khá sâu về quyền dân sự và chính trị, cũng như việc thực hiện
quyền dân sự và chính trị ở Việt Nam. Nội dung cuốn sách phản ánh cái nhìn khá toàn
8
diện về các quyền dân sự và chính trị của công dân cũng như bước đầu đặt quyền tố
cáo trong mối quan hệ so sánh với các quyền chính trị của công dân.
Sách chuyên khảo “Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Đường, NXB. Chính trị
quốc gia, năm 2004 [30]. Tác giả đã đưa ra quan niệm về quyền con người, quyền
công dân cũng như nghĩa vụ của cá nhân công dân trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; phân tích quá trình hình thành, phát triển của quyền con người, quyền công
dân qua Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980; đồng thời chỉ ra những bảo đảm trong
việc thực hiện quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền, đặc biệt
là các cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện các quyền công dân. Tác giả cũng đề xuất các
giải pháp xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và kiện toàn bộ máy nhà nước để
bảo vệ quyền công dân. Cuốn sách là tài liệu tham khảo rất hữu ích về các cơ chế bảo
đảm pháp lý đối với việc bảo đảm thực hiện quyền công dân nói chung và QTC của
công dân nói riêng.
Các cuốn sách “Quyền con người: tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học
xã hội”, “Quyền con người”- Giáo trình giảng dạy sau đại học, “Quyền con người –
tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học”- (tập I và tập II), "Những vấn đề lý luận và
thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị", NXB. Khoa học xã hội, năm 2010,
2011 do GS. Võ Khánh Vinh chủ biên [110], [111], [113]. Đây là kết quả nghiên cứu
chuyên sâu cả lý luận và thực tiễn về quyền con người, cũng như cơ chế bảo đảm, bảo
vệ quyền con người theo các chuẩn mực quốc tế, quốc gia và thực tiễn ở Việt Nam.
Điểm mới trong các cuốn sách là cách tiếp cận khi nghiên cứu về quyền con người mà
trước đây chưa được đề cập đến như nghiên cứu quyền con người theo hướng tiếp cận
đa ngành, liên ngành; nghiên cứu quyền con người bằng phương pháp tiếp cận dựa
trên quyền; nghiên cứu quyền con người trong mối quan hệ với chính trị, kinh tế, xã
hội, đạo đức, tôn giáo; nghiên cứu về quyền con người trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa…
Cuốn sách “Chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở một số nước
trên thế giới” của Vũ Kiều Oanh, NXB. Khoa học xã hội, năm 2012 [56]. Từ lý luận
về chế định quyền và nghĩa vụ của công dân, tác giả đã trình bày chế định quyền và
9
nghĩa vụ cơ bản của công dân ở một số nước trên thế giới, đưa ra nhận xét tổng quan
và đề xuất việc hoàn thiện chế định này ở Việt Nam. Tác giả chọn một số quốc gia
điển hình có tính đến các yếu tố về chế độ chính trị, vị trí địa lý, mức độ phát triển, tôn
giáo, yếu tố đặc trưng…. để người đọc thấy được sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân ở nhiều nước trên thế giới. Cuốn sách đã giúp người đọc có cái
nhìn mang tính so sánh về quyền công dân nói chung và QTC nói riêng ở một số nước
trên thế giới, là tư liệu tham khảo hữu ích khi xây dựng giải pháp về BĐQTC của
công dân trong pháp luật Việt Nam.
Cuốn sách "Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người" do GS.TS Võ Khánh
Vinh chủ biên, NXB. Khoa học và xã hội xuất bản năm 2011 là công trình đầu tiên
nghiên cứu về cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người [112]. Cuốn sách là tập hợp
nhiều bài viết của các tác giả có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quyền con người.
Các tác giả đã nghiên cứu nhận thức chung về cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, từ cơ chế của Liên hợp quốc và cơ chế khu vực đến cơ chế của một số nước
trên thế giới, đặc biệt là trong một số lĩnh vực cụ thể và cho những nhóm người cụ thể.
Bên cạnh đó, còn có nhiều bài báo khoa học bàn về những vấn đề lý luận
bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được công bố trên các tạp chí khoa
học xã hội, như: Cải cách chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong
Hiến pháp theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 8, 2011 [22]; Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam, của Phan Nhật Thanh, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6, 2014
[66]; Nghĩa vụ quốc tế và trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, Lê Thanh Mai, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12, 2015 [45];
Quyền con người và việc bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người theo Hiến pháp
năm 2013, Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tâm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11,
2015 [31]; Hiến pháp - Cơ sở pháp lý cơ bản của việc bảo đảm quyền con người, Chu
Thị Ngọc, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 9, 2016 [55]; Cụ thể hóa các quy định
mới về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, Tường Duy
Kiên, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 13, 2016 [44]; Hoạt động xây dựng pháp luật
của Chính phủ với việc đảm bảo quyền con người của Lê Thị Minh Thư, Tạp chí
10
Nghiên cứu Lập pháp, số 17, 2016 [92], Nhận diện các mô hình giới hạn quyền con
người trong pháp luật Việt Nam của Bùi Tiến Đạt, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2,
2018 [29]; Hệ thống pháp luật về quyền con người trong Nhà nước pháp quyền ngày
càng hoàn thiện của Nguyễn Thị Hoa, Tạp chí Thanh tra số 4, 2018 [32] … Những
bài viết này đều có giá trị tham khảo cho nghiên cứu sinh khi xây dựng, luận giải
nội dung đảm bảo quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Có thể thấy, có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về bảo đảm
quyền con người, quyền công dân với những góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng đều có
sự thống nhất về khái niệm, đặc điểm và những phương thức bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Các kết quả nghiên cứu của những công trình trên đây có giá
trị tham khảo cho tác giả luận án trong việc xác định đúng định hướng nội dung
nghiên cứu của luận án khi mà các văn bản hiến định và pháp định ở nước ta đều
khẳng định QTC là quyền cơ bản của công dân.
Nhóm công trình trong nước nghiên cứu liên quan đến lý luận về bảo đảm
quyền tố cáo của công dân
Hiến pháp của các quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng, khi quy định
các quyền của công dân đều đi cùng với những bảo đảm của Nhà nước để công dân
thực hiện được các quyền đó. Quyền tố cáo được coi là một quyền bảo vệ quyền,
nghĩa là công dân thực hiện quyền này để bảo vệ các quyền khác của mình. Có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến việc BĐQTC của công dân theo pháp luật ở những
khía cạnh khác nhau, cụ thể như sau:
Cuốn sách “Pháp luật về khiếu nại và tố cáo” của tác giả Phạm Hồng Thái chủ
biên, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003 [63]. Đây là công trình nghiên cứu
chuyên sâu về lý luận tố cáo, quyền tố cáo và giải quyết tố cáo, đồng thời cuốn sách
cũng làm rõ sự khác biệt trong khái niệm về tố cáo và quyền tố cáo; tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về quyền tố cáo của công dân. Từ việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn về tố cáo, nhóm tác giả đã đánh giá thực trạng công
tác GQTC ở nước ta, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả về công tác GQTC.
Cuốn sách “Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành
11
chính ở Việt Nam hiện nay” của Viện Khoa học Thanh tra, do tác giả Lê Tiến Hào và
Nguyễn Quốc Hiệp đồng chủ biên, NXB. Chính trị - Hành chính, năm 2012 [33]
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tố cáo hành chính và GQTC hành chính như:
quan niệm về tố cáo hành chính, đặc điểm, vai trò của công tác GQTC hành chính.
Các tác giả cũng đề cập đến những quy định pháp luật về tố cáo hành chính và GQTC
hành chính ở nước ta ở giai đoạn từ năm 1998 đến 2011. Cuốn sách được viết bởi
những người trực tiếp tham gia công tác giải quyết tố cáo của Thanh tra Chính phủ
nên ngoài tính lý luận sâu sắc, còn có tính thực tiễn cao.
Cuốn sách “Cẩm nang về kỹ thuật giải quyết tố cáo trong Đảng” do tác giả
Nguyễn Ngọc Đán và Cao Văn Thống đồng chủ biên, NXB. Chính trị quốc gia, năm
2013 [26]. Bên cạnh việc phân tích các kỹ năng, quy trình GQTC đối với đảng viên và
tổ chức đảng, các tác giả tập trung phân tích sự khác biệt về tố cáo, QTC, thẩm quyền
GQTC giữa cơ quan Nhà nước và cơ quan của Đảng. Cuốn sách là tài liệu tham khảo
của tác giả trong việc nghiên cứu về thực tế các cơ chế BĐQTC khác nhau đang tồn
tại ở Việt Nam, cơ chế theo hệ thống pháp luật và cơ chế theo quy định của Đảng.
Luận văn thạc sĩ “Đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân ở tỉnh Quảng
Ninh” của Vũ Văn Đạm, năm 2012 [27] đã đề cập đến khái niệm, đặc điểm của đảm
bảo QTC của công dân, các phương thức cũng như trách nhiệm của các cơ quan hành
chính nhà nước trong việc đảm bảo QTC của công dân. Có thể nói, đây là công trình
nghiên cứu đầu tiên đề cập cụ thể đến các vấn đề lý luận về BĐQTC của công dân ở
nước ta nói chung, cũng như từ thực tiễn của tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Các bài viết liên quan trực tiếp đến lý luận về BĐQTC của công dân đăng trên
các tạp chí khoa học như: Bàn về khái niệm "Tố giác tội phạm, "Tin báo về tội phạm"
và "Kiến nghị khởi tố" trong Bộ luật Tố tụng Hình sự của Phạm Quốc Huy, Tạp chí
Kiểm sát số 17, 2009 [38], Xây dựng cơ chế bảo vệ người tố cáo của Hồ Thị Thu An,
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 197, 2011 [2]; Một số vấn đề hoàn thiện cơ chế bảo
vệ người tố cáo, Tạp chí Thanh tra, số 3, 2014 của Lê Tiến Đạt [28]; Bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tạ Thị Tài, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số chuyên đề Bảo đảm quyền con người và quyền công dân
bằng thiết chế tư pháp, năm 2014 [62]... Các tác giả đề cập đến lý luận về BĐQTC
12
của công dân theo pháp luật thể hiện ở việc bảo vệ người tố cáo và phân tích các nội
dung trong quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo như: thủ tục để người tố cáo tiếp
nhận các biện pháp bảo vệ; việc giữ bí mật thông tin về người tố cáo; xác định trách
nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo; việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo vệ
người tố cáo. Đồng thời, các bài viết cũng khẳng định: pháp luật về tố cáo đã thể hiện
những đảm bảo quyền con người, quyền công dân như tạo cơ sở pháp lý để mọi cá
nhân thực hiện QTC của mình; quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong tiếp nhận và GQTC; quy định trình thự, thủ tục để công dân thực hiện QTC của
mình; quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong GQTC; quy định chế tài bảo đảm
thực hiện QTC của công dân.
Nhóm công trình nghiên cứu của nước ngoài về lý luận bảo đảm quyền tố cáo
của công dân
Cuốn sách “Whistleblowing international standards and developments”- Tố
cáo, các chuẩn mực và diễn biến quốc tế của David Banisar, năm 2009, đăng trên
trang www.transparency.org [119]. Tác giả đưa ra quan niệm về tố cáo, chỉ rõ vai trò
và những thách thức, trở ngại trong việc người dân thực hiện quyền tố cáo và sự khác
biệt trong các quan niệm, quy định về tố cáo của các điều ước quốc tế, pháp luật các
quốc gia. Tác giả cho rằng, sự khác biệt này là do có sự khác nhau về văn hóa, kinh tế,
chính trị. Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị một số nguyên tắc trong xây dựng pháp luật
về tố cáo.
Tài liệu nghiên cứu “La dénonciation en milieu de travail: mécanismes et
enjeux” (Tiếng Pháp)- Tố cáo ở nơi làm việc: các cách thức và những được mất- của
Jean-Patrice Desjardins. Nghiên cứu này được thực hiện với sự tài trợ của Quỹ
nghiên cứu về xã hội và văn hóa Canada (FQRSC), thực hiện tháng 4/2007, xem tại:
http://archives.enap.ca/bibliotheques/2007/05/24967800.pdf [134]. Nghiên cứu này
hữu ích đối với những người muốn nghiên cứu cơ bản và nhanh chóng về các cơ chế,
cách thức tố cáo do các tổ chức công thực hiện. Tác giả nghiên cứu khá sâu sắc về
khái niệm tố cáo, trong đó giới thiệu nhiều khái niệm của những nhà lý thuyết và thực
tiễn, đồng thời tác giả cũng đưa khái niệm của mình về tố cáo. Tài liệu cũng trình bày
cách thức tố cáo gắn với định nghĩa đã đưa ra. Bên cạnh đó, tác giả đi sâu vào phân
13
tích vai trò của các cơ quan có liên quan đến giải quyết tố cáo và các tổ chức bảo vệ
người tố cáo. Tác giả cũng dự liệu những được mất cơ bản liên quan đến tố cáo.
Tài liệu nghiên cứu “Whistleblowing: an effective tool in the fight against
corruption” – Tố cáo: một công cụ hiệu quả chống tham nhũng do Tổ chức minh
bạch quốc tế tiến hành vào tháng 1 năm 2010, đăng trên www. http://
transparency.org [128]. Trên cơ sở phân tích khái niệm về tố cáo, vai trò của tố cáo
trong đấu tranh chống tham nhũng, người viết cho thấy sự cần thiết phải có pháp luật
phù hợp về tố cáo cũng như các cơ chế hành động hiệu quả sau tố cáo trong các tổ
chức công và tư. Tài liệu nghiên cứu đã thể hiện quan điểm của Tổ chức minh bạch
quốc tế về tố cáo và bảo vệ người tố cáo.
Tài liệu nghiên cứu “International Principles For Whistleblower Legislation:
Best Practices for Laws to Protect Whistleblowers and Support Whistleblowing in
The Public Interest” - Các nguyên tắc quốc tế đối với pháp luật về người tố cáo: thực
tiễn tốt về pháp luật nhằm bảo vệ người tố cáo và khuyến khích tố cáo vì lợi ích chung
- do Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) xuất bản năm 2013 [131]. Tài liệu được hoàn
thiện bởi các chuyên gia về tố cáo, quan chức chính phủ, giới học thuật, các tổ chức
phi chính phủ của nhiều quốc gia, nó có tác dụng lớn đối với việc nghiên cứu để soạn
thảo các dự luật mới và hoàn thiện các dự luật đang có về tố cáo ở các quốc gia. Tổ
chức Minh bạch Quốc tế đưa ra những nguyên tắc để bảo đảm cho những người tố
cáo được bảo vệ, các nguyên tắc được đưa ra trên cơ sở xem xét đến pháp luật hiện
hành, cách áp dụng chúng trong thực tế.
Tài liệu hội thảo “Dénonciations et dénonciateurs de la corruption Chevaliers
blancs, pamphlétaires et promoteurs de la transparence à l’époque contemporaine”-
Tố cáo và người tố cáo tham nhũng, hiệp sĩ, người đả kích và người khởi xướng minh
bạch thời kì hiện đại - Dự án do Cơ quan nghiên cứu quốc gia Pháp (ANR) tài trợ
được tổ chức ngày 17, 18/11/2016 tại Pháp [132]. Tài liệu nghiên cứu đề cập đến
người tố cáo là những người có đóng góp được trông đợi nhiều, bao gồm các nhà báo
và những người làm truyền thông, các hiệp sĩ, người đả kích, nhà văn tiểu luận, chính
trị gia, công chức, thẩm phán và cảnh sát…; cách thức thực hiện việc tố cáo; thời
điểm và nội dung tố cáo. Việc nghiên cứu nói đến khái niệm tham nhũng không gắn
14
với các hình thức mua bán mà với những đánh giá về các vấn đề rộng hơn, liên quan
đến đạo đức công dân và tính trung thực trong lĩnh vực công. Từ cuối thế kỉ XVIII
đến đầu thế kỉ XIX, những tố cáo này gắn với các hoạt động của nhiều nhân tố thực
hiện việc phê bình đối với các nhà lãnh đạo và những người “có quyền lực”. Họ tố cáo
từ thực tiễn sử dụng quyền lực được cho là vô đạo đức gắn với các chính trị gia hoặc
các thành viên của xã hội dân sự, giới doanh nghiệp. Xem tại trang:
http://www.lames.cnrs.fr/IMG/pdf/appel_a_communication_denonciations_et_deno
nciateurs_nov16.pdf.
Các công trình nghiên cứu của nước ngoài về lý luận bảo đảm quyền tố cáo của
công dân hầu hết đề cập đến quan niệm, vai trò của tố cáo, sự cần thiết phải bảo vệ
người tố cáo; quy định về tố cáo trong các điều ước quốc tế, pháp luật các quốc gia...
điều này có giá trị với tác giả khi nghiên cứu trong mối so sánh với những quan niệm,
quy định pháp luật của Việt Nam về việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
1.1.2 Các công trình nghiên cứu về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của
công dân
Nhóm công trình trong nước nghiên cứu về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo
của công dân
Các công trình về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân được các tác
giả trong nước nghiên cứu khá nhiều, đặc biệt là của các tác giả công tác trong các cơ
quan có thẩm quyền liên quan đến bảo đảm quyền tố cáo của công dân. Bên cạnh việc
thực thi công vụ, các tác giả chú trọng nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để phổ biến kinh
nghiệm, có thể kể đến các công trình sau:
Cuốn sách “Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
tình hình mới” của Thanh tra Chính phủ, năm 2006, NXB. Chính trị Quốc gia [73].
Cuốn sách là tập hợp các bài viết của các tác giả về một số vấn đề đặt ra đối với công
tác tiếp dân, xử lý đơn thư, GQTC trong tình hình mới và kinh nghiệm thực tiễn của
các ngành, các địa phương. Nội dung của các bài viết liên quan nhiều đến việc thực
hiện các phương thức BĐQTC của công dân ở những lĩnh vực nhạy cảm như: tố cáo
liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo; tố cáo của đồng bào thiểu số; tố cáo về đất đai ở
các ngành, địa phương và tình trạng tố cáo đông người.
15
Đề tài khoa học cấp cơ sở “Cơ chế bảo vệ người tố cáo” của Vụ Pháp chế -
Thanh tra Chính phủ, thực hiện năm 2010 [76]. Thông qua việc nghiên cứu cơ chế
bảo vệ người tố cáo, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ người tố cáo; thực
trạng quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo; thực tiễn công tác bảo vệ người tố
cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đề tài xác định những hạn chế, khó khăn
trong việc bảo vệ người tố cáo hiện nay và đề xuất các biện pháp tăng cường hiệu quả
công tác bảo vệ người tố cáo. Có thể thấy đây là đề tài nghiên cứu khá toàn diện về
bảo vệ người tố cáo và là đề tài nghiên cứu khoa học đầu tiên về vấn đề này. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của một đề tài cấp cơ sở nên nhiều vấn đề liên quan đến bảo
vệ người tố cáo chưa thực sự sâu sắc.
Đề tài khoa học cấp bộ “Xử lý các hành vi vi phạm luật khiếu nại, tố cáo -
những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Thanh tra Chính phủ, năm 2011 [77]. Từ thực
tế liên quan đến việc nhiều quyết định GQTC có hiệu lực pháp luật không được tổ
chức thực hiện nghiêm; việc xử lý người có hành vi vi phạm không kịp thời, thiếu
kiên quyết, còn có tình trạng bao che, dung túng; những hành vi vi phạm pháp luật về
tố cáo chưa được mô tả cụ thể; chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe..., đề tài tập trung
nghiên cứu, đánh giá đầy đủ về thực trạng vi phạm và việc xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật về tố cáo, trên cơ sở đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này. Đề tài là tài liệu tham khảo có giá trị
với tác giả luận án trong việc nghiên cứu thực trạng thực hiện các quy định pháp luật
về bảo đảm, bảo vệ QTC của công dân ở nước ta hiện nay.
Đề tài khoa học cấp bộ “Trách nhiệm pháp lý của chủ tịch UBND các cấp
trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng”
của Thanh tra Chính phủ, năm 2011 [79]. Thông qua việc làm rõ căn cứ xác định
trách nhiệm pháp lý, các thủ tục xác định trách nhiệm pháp lý của chủ tịch UBND các
cấp trong công tác thanh tra, GQTC, đề tài phân tích thực trạng pháp luật và thực hiện
pháp luật về trách nhiệm pháp lý của chủ tịch UBND các cấp trong công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, từ đó rút ra ưu điểm, hạn
chế, xác định những nguyên nhân. Trên cơ sở này, đề tài đề xuất việc hoàn thiện các
quy định pháp luật về xử lý hành vi vi phạm pháp luật của chủ tịch UBND các cấp
16
trong công tác GQTC.
Đề tài khoa học cấp bộ “Ngăn chặn, phòng ngừa sai phạm về tố cáo và GQTC
trong Đảng” năm 2014 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương [104]. Qua thực tiễn công
tác, các tác giả đã nhận diện được những biểu hiện sai phạm khi GQTC trong Đảng,
đó là: trả thù, trù dập người tố cáo; dìm bỏ đơn tố cáo; đùn đẩy, chuyển đơn tố cáo
lòng vòng; tiết lộ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo; tiết lộ nội dung tố cáo, nội
dung làm việc hoặc tài liệu, thông tin liên quan đến việc tố cáo và GQTC cho tổ chức,
cá nhân không có trách nhiệm biết; vi phạm trong thẩm tra, xác minh để GQTC; nhận
là chủ trương, nghị quyết của tập thể để gánh tội cho người bị tố cáo; chuyển kiểm tra
khi có dấu hiệu vi phạm đối với đơn tố cáo có tên; cho kết thúc đơn tố cáo sau khi sơ
bộ nắm tình hình; xuất hiện lợi ích nhóm trong GQTC…. Có thể nói đề tài là sự tổng
kết thực tiễn sinh động, phản ánh chân thực những sai phạm trong hoạt động GQTC.
Đồng thời, các tác giả cũng liệt kê những biện pháp đã áp dụng để xử lý những vi
phạm về GQTC và đề xuất những giải pháp mới, mang tính tổng thể nhằm ngăn chặn,
phòng ngừa sai phạm về tố cáo và GQTC trong Đảng. Các sai phạm về tố cáo và
GQTC trong Đảng được các tác giả liệt kê ở trên cũng tương đồng với các sai phạm
khi GQTC theo luật tố cáo, do đó đề tài là tài liệu tham khảo rất có giá trị để tác giả
luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng các vi phạm về BĐQTC, trên cơ sở đó đề xuất
giải pháp thúc đẩy, bảo vệ QTC của công dân.
Đề tài khoa học cấp bộ "Giám sát công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hành
chính ở nước ta hiện nay, thực trạng và giải pháp" của Thanh tra Chính phủ, 2017
[86]. Các tác giả cho rằng hoạt động giám sát GQTC hành chính đóng vai trò là
phương thức bảo đảm pháp chế đối với công tác GQTC, cũng như bảo đảm thực hiện
QTC; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan có chức năng giám sát trong công tác
GQTC hành chính là một yêu cầu khách quan, phù hợp với nguyên tắc, yêu cầu của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Qua việc phân tích, đánh giá
thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về giám sát
công tác GQTC, những kết quả, tồn tại và nguyên nhân, các tác giả đề xuất nhiều giải
pháp hoàn thiện cơ chế giám sát công tác GQTC trong tình hình hiện nay nhằm tăng
cường BĐQTC. Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích cho luận án khi tác giả nghiên
17
cứu về các cơ chế bảo vệ QTC trong pháp luật.
Luận án Tiến sĩ “Pháp luật bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam hiện nay” của Mai
Văn Duẩn, năm 2017 [19], Luận án Tiến sĩ "Bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng
ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Văn Sỹ, năm 2018, đây là hai công trình nghiên
cứu công phu về thực trạng pháp luật Việt Nam đối với việc bảo vệ người tố cáo. Tác
giả chỉ ra nhiều điểm bất cập trong các quy định của hệ thống pháp luật nước ta cũng
như việc tổ chức bảo vệ người tố cáo, điều đó cho thấy QTC của công dân chưa được
đảm bảo nên người dân chưa yên tâm khi tố cáo, đặc biệt là tố cáo về tham nhũng. Tác
giả cũng đề xuất nhiều giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật để BĐQTC của
công dân, đặc biệt ở khía cạnh bảo vệ người tố cáo.
Các bài viết đăng trên tạp chí khoa học: Xử lý hành vi vi phạm theo quy định
của Luật khiếu nại, tố cáo - khó khăn trong thực tiễn áp dụng của Nguyễn Thị Bích
Hường đăng trên Tạp chí Thanh tra số 8, 2010 [37]; Cả hệ thống chính trị cần vào
cuộc để tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài,
Bảo Anh - Quang Vững, Tạp chí Thanh tra số 5, 2012 [3]; Một số bất cập trong các
quy định của Luật Tố cáo năm 2011 và hướng hoàn thiện của Cao Vũ Minh, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 4, 2016 [48];Các quy định về bảo vệ người tố cáo tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Lê Thu, Tạp chí Thanh tra số 9, 2017
[69]; Kinh nghiệm bảo vệ người tố cáo trong pháp luật quốc tế và một số quốc gia,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 4/2017 của tác giả Mai Văn Duẩn [18]; Dự thảo
Luật Tố cáo sửa đổi và vấn đề tố cáo nặc danh, mạo danh của TS Cao Vũ Minh, Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp số 11, 2018 [49]; Quy định về bảo vệ người tố cáo ở một số
quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố cáo ở Việt
Nam của Nguyễn Thị Hồng Thúy, Tạp chí Thanh tra số 03/2018 [67; Bàn về tố cáo
nặc danh và xử lý tố cáo nặc danh của Đinh Văn Minh, Tạp chí Thanh tra số 3, 2018
[51]; ... Các bài viết tập trung nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực trạng tổ
chức thực hiện pháp luật về tố cáo để BĐQTC của người dân như: phạm vi điều
chỉnh, thẩm quyền GQTC, thủ tục GQTC, hình thức tố cáo, thời hạn GQTC, tố cáo
tiếp và bảo vệ, xử lý hành vi vi phạm trong tố cáo; khen thưởng người tố cáo... các
tác giả đã phác họa bức tranh khá rõ nét về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của
18
công dân ở Việt Nam.
Nhóm công trình nghiên cứu của nước ngoài về thực trạng bảo đảm quyền tố
cáo của công dân
Cuốn sách “Whistleblowing Around the World: Law, Culture And Practice” -
Tố cáo ở các nước trên thế giới: pháp luật, văn hóa và thực tiễn, của Phó Giáo sư
Richard Calland, Khoa luật công, Đại học Cape Town, Cộng hòa Nam Phi, xuất bản
năm 2004 [124]. Trên cơ sở những ví dụ điển hình trên toàn cầu về tố cáo, tác giả đưa
ra những lời khuyên thực tế liên quan đến tố cáo, những lý do khuyến khích cũng như
cản trở người tố cáo ở các nước trên thế giới; đồng thời tác giả cũng cho thấy dù người
tố cáo phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng ngày càng có nhiều người sẵn sàng lên
tiếng về nạn tham nhũng và quan liêu nơi công sở, kể cả khi họ bị sa thải và mất an
toàn. Bên cạnh đó, tác giả cũng làm rõ vai trò của tố cáo đối với những nhà làm luật và
hoạt động xã hội ở châu Mỹ, Úc, Nam Phi, Anh và Nhật Bản.
Cuốn sách “Whistleblowing in Philippines: Awareness, Attitudes and
Structures” - Tố cáo ở Phi-líp-pin: nhận thức, thái độ và cơ cấu do Viện quản lý châu
Á xuất bản tháng 6 năm 2006 [117] đề cập đến cơ sở và lý do của việc tố cáo tham
nhũng, đồng thời nhận định các nhân tố thúc đẩy và hạn chế sự phát triển của văn hóa
tố cáo ở Phi-líp-pin. Cuốn sách đề xuất các giải pháp nhằm thay đổi về chính sách và
hướng đi để giải quyết các trở ngại khi người dân tố cáo, cũng như các giải pháp về
cách thức áp dụng việc tố cáo tham nhũng hiệu quả.
Cuốn sách “Whistleblower protection framworks, compendium of best
practices and guiding principles for legislation”, do Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) xuất bản năm 2010 [123]. Cuốn sách là tập hợp những bài học kinh
nghiệm cho các quốc gia thành viên trong cam kết bảo vệ người tố cáo qua việc tập
trung nghiên cứu cơ chế bảo vệ người tố cáo của các nước G20 và phân tích, so sánh
cơ chế bảo vệ người tố cáo trong cả khu vực công và khu vực tư của các nước này.
Cuốn sách “Whistleblowing: A Practical Guide” - Cẩm nang thực tiễn về tố
cáo - của Brian Martin xuất bản năm 2013 bởi Irene Publishing Sparsna’s, Sweden
[118] nghiên cứu chuyên sâu về cuộc đấu tranh của một số cá nhân và cuộc sống của
họ từ khi bắt đầu thực hiện quyền tố cáo; hướng dẫn các cách thức để người tố cáo lựa
19
chọn, chuẩn bị hành động, triển khai các chiến dịch âm thầm, đàm phán với các kênh
chính quy, xây dựng lực lượng ủng hộ và các cách để vượt qua khó khăn trong quá
trình tố cáo.
Như vậy, từ việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu đã liệt kê ở trên cho thấy,
các tác giả đã phản ánh một cách sinh động, phong phú thực tiễn vi phạm và xử lý vi
phạm pháp luật để hướng tới việc BĐQTC của công dân, tạo ra một cơ chế bảo vệ
người tố cáo tốt nhất, phù hợp với đặc điểm, tình hình về chính trị, pháp lý và văn hóa,
xã hội ở Việt Nam cũng như các nước được nghiên cứu. Đây là những nguồn tư liệu
tham khảo có giá trị trong quá trình nghiên cứu đề tài luận án về BĐQTC của công
dân theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
1.1.3 Các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp tăng cường bảo
đảm quyền tố cáo của công dân
Trong hầu hết các công trình nghiên cứu về BĐQTC của công dân, các tác giả
đều đề xuất các giải pháp bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền tố cáo, tuy ở các mức độ
khác nhau nhưng các giải pháp đều khá toàn diện, tập trung vào các nhóm giải
pháp sau:
Nhóm các công trình trong nước nghiên cứu về giải pháp nâng cao ý thức
pháp luật về quyền tố cáo của công dân
Đề tài khoa học cấp bộ “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng của Thanh tra
Chính phủ” năm 2012 của Thanh tra Chính phủ [80] tập trung nghiên cứu nhiều giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tố cáo, với
mục đích không chỉ công dân mà những cá nhân có thẩm quyền đều cần nâng cao ý
thức pháp luật, thể hiện ở việc hiểu rõ được quyền và nghĩa vụ của người tố cáo,
người bị tố cáo, người GQTC.
Bài viết “Tâm lý người khiếu nại, tố cáo và việc ứng xử của cán bộ tiếp dân”
của Hồng Bàng, đăng trên Tạp chí Thanh tra số 7/2012 [4]. Theo tác giả, tâm lý của
người tố cáo rất phức tạp; người tố cáo có nhiều mục đích, yêu cầu, động cơ khác
nhau, cho nên cán bộ làm công tác tiếp công dân, GQTC cần nắm vững tâm lý người
tố cáo, nắm vững chính sách pháp luật, quy trình giải quyết, biết lắng nghe, tôn trọng
20
dân, bình tĩnh và linh hoạt xử lý từng vụ việc, đồng thời luôn làm chủ trong mọi tình
huống để góp phần nâng cao hiệu quả GQTC, bảo đảm quyền dân chủ của công dân.
Bài viết bao quát khá đầy đủ những kỹ năng cần có của cán bộ GQTC.
Bài viết “Vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về thanh tra, khiếu
nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng” của Uông Ngọc Thuẩn, đăng trên Tạp chí
Thanh tra số 2/2014 [91] nêu khá cụ thể về vai trò cũng như thực trạng của việc phổ
biến, giáo dục pháp luật về tố cáo. Tác giả cho rằng “Phổ biến, giáo dục pháp luật về
thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng cổ vũ cho việc hình thành,
củng cố và không ngừng phát triển ý thức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, bảo vệ tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật, tính trong sạch của bộ máy nhà
nước, tính công bằng xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa”. Bài viết đã phần nào đề
cập đến ý thức pháp luật của người dân về vấn đề tố cáo chưa cao.
Nhóm công trình trong nước nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp luật để
bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
Đây là nhóm có số lượng công trình nghiên cứu tương đối nhiều, bên cạnh một
số luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học, thì chủ yếu là các bài viết trên tạp chí khoa
học, các công trình có thể kể đến như sau:
Cuốn sách “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo” của tác giả Trần Văn Sơn, NXB. Tư pháp, năm 2007 [60]. Trên cơ
sở phân tích, tổng kết lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố cáo, đánh giá
tình hình tố cáo và thực trạng pháp chế trong hoạt động GQTC của các cơ quan hành
chính nhà nước, tác giả đề xuất những giải pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong hoạt động GQTC, trong đó đặc biệt chú trọng đến các giải pháp về xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo.
Cuốn sách "Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện nay" do
GS.TS. Phạm Hồng Thái, PGS.TS Phạm Công Giao, PGS.TS Đặng Minh Tuấn, TS.
Nguyễn Minh Tuấn (đồng chủ biên), NXB. Chính trị Quốc gia, 2017 [64]. Các tác giả
đã đi từ việc giới thiệu các quy định pháp luật về tố cáo, thực trạng hoạt động tố cáo và
áp dụng pháp luật về tố cáo, để đề xuất hoàn thiện pháp luật tố cáo ở nước ta hiện nay.
Đề tài khoa học cấp bộ "Đổi mới cơ chế giải quyết tố cáo hiện nay” của Thanh
21
tra Chính phủ, năm 2009 [75]. Trên cơ sở lý luận về cơ chế GQTC, đề tài đi sâu phân
tích về tình hình tố cáo, kết quả GQTC và thực trạng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp
luật về GQTC của các cơ quan hành chính nhà nước, trong đó làm rõ những tồn tại và
bất cập của cơ chế GQTC, đặc biệt đề tài đưa ra những giải pháp hiệu quả để đổi mới
cơ chế GQTC hiện nay, đặc biệt là nhiều giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật
về tố cáo.
Luận án tiến sĩ: "Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam" của Ngô Mạnh Toan, năm 2007 [93]. Trên cơ
sở những phân tích khá sâu sắc những vấn đề lý luận về tố cáo, GQTC và thực trạng
việc áp dụng pháp luật tố cáo ở Việt Nam, tác giả đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật tố cáo, nâng cao năng lực giải quyết tố cáo.
Luận án tiến sĩ “Tăng cường hiệu quả pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thế Thuần, năm 2001 [90]; Luận án
tiến sĩ “Giải quyết khiếu nại, tố cáo - phương thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong
quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của Vũ Duy Duẩn, năm 2014 [20].
Hai luận án là những nghiên cứu khá toàn diện về pháp luật tố cáo. Trên cơ sở phân
tích khá sâu sắc những vấn đề lý luận về tố cáo, GQTC và thực trạng việc áp dụng
pháp luật tố cáo ở Việt Nam, các tác giả đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật tố cáo.
Luận văn Thạc sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo
ở Việt Nam hiện nay” của Hồ Thị Thu An, năm 2009 [1]. Bằng việc nghiên cứu những
vấn đề lý luận và thực tiễn về tố cáo và GQTC hành chính, tác giả đã đề xuất những
giải pháp hoàn thiện pháp luật về tố cáo và GQTC hành chính ở nước ta. Luận văn
phần nào đề cập đến việc BĐQTC của công dân, qua việc khẳng định các cơ quan có
thẩm quyền cần thực hiện đúng pháp luật về GQTC để bảo đảm quyền và lợi ích cho
người tố cáo.
Kỷ yếu hội thảo khoa học "Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở nước ta
hiện nay" được Ban Dân nguyện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phối hợp với Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức vào tháng 7 năm 2016 [7]. Kỷ yếu là tập hợp
các bài viết khoa học của các chuyên gia, nhà nghiên cứu về tố cáo, QTC, trong đó có
nhiều bài viết tập trung nghiên cứu các phương thức BĐQTC, cơ chế thúc đẩy, bảo vệ
22
QTC và đề xuất nhiều kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam để BĐQTC
của công dân.
Các bài viết đăng trên tạp chí khoa học: Hoàn thiện pháp luật về tố cáo và
GQTC của Nguyễn Văn Tuấn, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 5, 2007
[94]; Hoàn thiện pháp luật của Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm bảo vệ người làm chứng
khi tham gia tố tụng của Nguyễn Hải Ninh, đăng trên Tạp chí Luật học số 12, 2011
[53]; Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo của Vũ Minh, Tạp chí Thanh tra số 3, 2012 [47]; Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân của Trần Văn Truyền đăng
trên Tạp chí Cộng sản, ngày 23/11/2016 [70].... Các bài viết này đưa ra các giải pháp
hoàn thiện pháp luật để bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
Nhóm công trình trong nước nghiên cứu về giải pháp nâng cao hiệu quả giám
sát và xử lý vi phạm quyền tố cáo của công dân
Giám sát và xử lý hành vi vi phạm QTC là việc làm tất yếu trong việc BĐQTC
của công dân. Thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu đề xuất giải pháp để
nâng cao hiệu quả của vấn đề này, cụ thể là:
Đề tài khoa học cấp Bộ “Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của cơ quan hành
chính nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng - thực trạng
và kiến nghị”, năm 2003; “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra trách nhiệm của
các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo” năm 2007;
"Giám sát công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở nước ta hiện nay - thực
trạng và giải pháp", năm 2017 của Thanh tra Chính phủ [71], [74], [86]. Từ việc phân
tích quá trình thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra của các cơ quan thanh tra nhà
nước đối với các cơ quan hành chính trong việc GQTC nhằm phát hiện ra vi phạm
trong quá trình GQTC, các đề tài tập trung đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định về
thanh tra, kiểm tra trách nhiệm trong việc GQTC.
Bài viết "Một số vấn đề về hoàn thiện cơ chế bảo vệ người tố cáo" của Lê Tiến
Đạt, Tạp chí Thanh tra, số 8 năm 2014 [28]. Trên cơ sở nghiên cứu về cơ chế bảo vệ
người tố cáo, các quy định của pháp luật bảo vệ người tố cáo, tác giả kiến nghị xây
dựng một chế định pháp lý hoàn chỉnh bảo vệ người tố cáo đảm bảo cơ sở pháp lý cho
23
thực hiện công tác này trên thực tế.
Bài viết “Bàn về các biện pháp bảo vệ người tố cáo” của Mai Văn Duẩn đăng
trên Tạp chí Thanh tra, số 01 năm 2016 [17]. Tác giả đưa ra những hạn chế, bất cập về
biện pháp bảo vệ người tố cáo được quy định trong pháp luật cũng như qua thực tiễn
công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư tố cáo, đề xuất một cách cụ thể các hình thức
bảo vệ người tố cáo. Theo tác giả, có thể ban hành thông tư hướng dẫn quy chế bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tố cáo; thông tư hướng dẫn quy chế bảo vệ tình
trạng việc làm của người tố cáo; thông tư hướng dẫn bảo vệ danh tính người tố cáo….
Có thể thấy, bài viết khá cụ thể, sâu sắc về biện pháp bảo vệ người tố cáo, đây được
coi là nguồn tư liệu bổ ích cho tác giả luận án khi bàn về vấn đề bảo vệ người tố cáo.
Bài viết "Nâng cao hiệu quả công tác giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo
hành chính ở nước ta" của Trần Văn Long đăng trên Tạp chí Thanh tra số 2, 2018
[41]. Tác giả khái quát lý luận, thực tiễn công tác giám sát GQTC hành chính ở nước
ta giai đoạn vừa qua và đặc biệt chú trọng phần giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
này. Tác giả đề xuất một số giải pháp như hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát,
về GQTC; nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát.
Nhóm công trình nước ngoài nghiên cứu liên quan đến giải pháp bảo đảm
quyền tố cáo của công dân
Cuốn sách “Alternative to slince wishtleblower protection in 10 european
countries” - Giải pháp thay thế sự im lặng bảo vệ người tố cáo ở 10 nước châu Âu,
năm 2009 của tác giả Osterhaus, Anja và Fagan, Craig, đăng trên
www.transparency.org [122]. Tác giả đã khảo sát, đánh giá các quy định của pháp
luật, chính sách và thông lệ tố cáo ở 10 quốc gia châu Âu, nội dung tập trung vào tố
cáo và bảo vệ người tố cáo. Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị, đề xuất một số giải pháp,
đặc biệt là việc xây dựng pháp luật về tố cáo, hướng tới việc bảo đảm các quyền cho
người tố cáo, đặc biệt là bảo vệ người tố cáo.
Cuốn sách “Whistleblower protection and the UN Convention against
corruption”, xuất bản năm 2013 của Tổ chức Minh bạch quốc tế [130] chỉ ra
người tố cáo là một trong những yếu tố chính để cuộc điều tra tham nhũng thành
công và để đảm bảo QTC qua việc bảo vệ người tố cáo thì đòi hỏi các quốc gia phải
24
đầu tư nguồn lực đủ mạnh để thực hiện. Cuốn sách tập hợp việc khảo sát kết quả
bảo vệ người tố cáo trong các đánh giá quốc gia và các báo cáo chuyên đề được đưa
ra trong ba năm đầu tiên của quá trình xem xét Công ước Liên hợp quốc về chống
tham nhũng.
Cuốn sách “The Whistleblower’s Survival Guide – Courage Without
Martyrdom” - Hướng dẫn an toàn cho người tố cáo, lòng can đảm không cần tử vì đạo
- của Tom Devine, Giám đốc pháp lý, Dự án Trách nhiệm giải trình của Chính phủ
Hoa Kỳ (GAP) [125]. Cuốn sách nhằm chia sẻ những bài học, kinh nghiệm cho người
tố cáo qua tổng hợp việc giúp đỡ hơn 5000 người tố cáo trong thời gian 33 năm của
GAP. Tác giả đã trình bày khá chi tiết những nguy hiểm mà người tố cáo có thể phải
đối mặt để họ cân nhắc có nên tố cáo hay không, đồng thời đưa ra các giải pháp để
người tố cáo có thể dành chiến thắng.
Cuốn sách “Whistleblowing in Europe legal protections for whistleblowers in
the EU” - Tố cáo ở châu Âu bảo vệ pháp lý cho người tố cáo ở châu Âu của Tổ chức
Minh bạch quốc tế, năm 2013, đăng trên www.transparency.org [126]. Cuốn sách
xem xét các yếu tố chính trị, xã hội, văn hóa thúc đẩy hay cản trở việc tố cáo và cho
phép hay ngăn cấm việc ban hành pháp luật về tố cáo ở các nước châu Âu. Tổ chức
Minh bạch quốc tế cũng đánh giá tổng thể về sự đầy đủ các luật về bảo vệ người tố
cáo của 27 quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu, qua đó xác định các giải pháp
để nâng cao hiệu quả của tố cáo, đồng thời tăng cường bảo vệ người tố cáo.
Cuốn sách “The Corporate Whistleblower’s Survival Guide - A Handbook for
Committing the Truth” - Hướng dẫn an toàn cho người tố cáo trong các doanh nghiệp
- Cẩm nang để cam kết vì sự thật, của Tom Devine and Tarek F. Massarani, NXB.
Berrett-Koehler năm 2011 [126]. Cuốn sách tổng kết cuộc đấu tranh của nhân viên
trong doanh nghiệp, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm để họ có thể sử dụng trong việc tố
cáo như: cách thức tìm kiếm chứng cứ, xác định đối tượng tố cáo, lựa chọn đồng minh
và pháp luật bảo vệ, nhận diện các hành vi trả thù và che đậy vi phạm của doanh
nghiệp....
Từ việc tìm hiểu các công trình khoa học trong nước và nước ngoài nghiên cứu
về giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân, có thể thấy các tác giả
25
đặc biệt chú trọng đến vấn đề này, tuy mức độ đề cập có khác nhau trong các công
trình nghiên cứu nhưng hầu hết các tác giả đều đưa ra các nhóm giải pháp về nâng cao
nhận thức của người dân và các cơ quan có thẩm quyền về vai trò, ý nghĩa của quyền
tố cáo; giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tố cáo, giải pháp nâng cao hiệu
quả giám sát và xử lý vi phạm quyền tố cáo. Đây là những nguồn tư liệu tham khảo rất
có giá trị trong quá trình tác giả luận án nghiên cứu đề xuất tăng cường bảo đảm
quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2.1 Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua việc khảo cứu các công trình trong nước và nước ngoài, có thể có một số
nhận xét như sau:
Thứ nhất, số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án khá
phong phú, đa dạng, được tiếp cận từ nhiều hướng khác nhau, ở các mức độ liên quan
khác nhau. Điều này mang lại thuận lợi khi tiếp cận, nghiên cứu, so sánh, sử dụng các
phương pháp nghiên cứu và giải quyết các vấn đề của đề tài luận án.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu liên quan đến BĐQTC của công dân theo
pháp luật Việt Nam tập trung chủ yếu về cơ chế giải quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo,
hoàn thiện pháp luật tố cáo… Những nghiên cứu về bảo đảm quyền tố cáo theo pháp
luật còn rất ít, mới ở mức độ khái quát. Hiện chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu tập trung, chuyên sâu, một cách có hệ thống về bảo đảm quyền tố cáo của công
dân theo pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu của nước ngoài về bảo đảm quyền tố cáo
theo pháp luật tập trung nhiều vào nghiên cứu thực tiễn về tố cáo tham nhũng và giải
pháp như: khuyến cáo các quốc gia xây dựng nguyên tắc pháp luật trong việc bảo vệ
người tố cáo; hướng dẫn các cách thức để người tố cáo thực hiện việc tố cáo hiệu quả,
an toàn; các giải pháp thay đổi chính sách, giải quyết trở ngại khi người dân tố cáo....
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đã được tác giả luận án tiếp cận là những tư
liệu quan trọng, giúp giải quyết các nhiệm vụ mà luận án đề ra.
26
1.2.2 Những vấn đề đã được nghiên cứu được luận án kế thừa, tiếp tục
phát triển
Luận án sẽ kế thừa có chọn lọc những ý tưởng khoa học đã được chứng minh
và công nhận rộng rãi, bên cạnh đó sẽ phát triển các ý tưởng này, đồng thời tìm ra
những luận cứ khoa học mới, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về các vấn đề sau:
Trên phương diện lý luận: Nhận thức chung về quyền tố cáo và bảo đảm
quyền tố cáo ở Việt Nam hiện nay đã được các công trình nghiên cứu đề cập. Các
vấn đề về lý luận như khái niệm tố cáo, khái niệm quyền tố cáo đã được các công
trình nghiên cứu thống nhất cao. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu cũng thể
hiện sự đồng thuận về việc BĐQTC của công dân chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố.
Trên phương diện thực tiễn: Các công trình nghiên cứu đã có sự thống nhất
về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bảo đảm quyền tố cáo của
công dân; thực tiễn bảo đảm quyền tố cáo đã được phác họa tương đối rõ nét.
Về các quan điểm, giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân:
Các nghiên cứu về bảo đảm quyền tố cáo nói chung và về bảo đảm quyền tố cáo
theo pháp luật Việt Nam nói riêng đều hướng tới việc tìm kiếm các giải pháp để
tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân, đặc biệt hướng đến giải pháp hoàn
thiện hệ thống pháp luật.
1.2.3 Những vấn đề liên quan đến đề tài luận án còn chưa được giải quyết
hoặc giải quyết chưa thấu đáo mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu
* Các vấn đề lý luận về BĐQTC của công dân theo pháp luật
Về chủ thể và giới hạn của quyền tố cáo: Vấn đề này chưa được nghiên cứu
thấu đáo. Việc nghiên cứu này rất quan trọng khi nó chỉ ra được một cách rõ ràng
chủ thể thực hiện quyền và chủ thể có trách nhiệm, nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm quyền, đây là tiền đề cho việc xác định chủ thể thực hiện quyền và được bảo
đảm quyền; chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm quyền. Đồng thời, việc xác định phạm vi
và giới hạn của QTC cũng là căn cứ để quyền tố cáo của công dân được bảo đảm.
Về khái niệm, nội dung của bảo đảm quyền tố cáo của công dân: Đây là vấn đề
hoàn toàn mới, chưa được đề cập trong bất cứ công trình khoa học nào. Việc nghiên
cứu này sẽ chỉ ra những vấn đề lý luận cơ bản để tác giả nghiên cứu các chương tiếp
27
theo của luận án trong việc xác định thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện
BĐQTC theo pháp luật nước ta, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường BĐQTC.
Về vai trò của bảo đảm quyền tố cáo của công dân: Nội dung này tương đối
mới, hầu như chưa có công trình khoa học nào đề cập đến, luận án sẽ xác định và
phân tích vai trò của BĐQTC đối với cá nhân và đối với nhà nước, xã hội.
Về các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tố cáo của công dân: Các công
trình nghiên cứu đã công bố tuy có đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến BĐQTC của
công dân nhưng ở mức độ hạn chế, trong khi đây là vấn đề rất quan trọng, làm tiền đề
cho việc nghiên cứu giải pháp tăng cường BĐQTC của công dân. Vì vậy, luận án sẽ
tập trung nghiên cứu cả yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện để BĐQTC của công dân.
* Về thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật BĐQTC ở
Việt Nam
Đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến các vấn đề này nhưng ở các
nội dung cụ thể, không có sự khái quát, toàn diện. Luận án sẽ kế thừa kết quả
nghiên cứu trước đó, tiến hành phân tích một cách có hệ thống thực trạng pháp luật
và thực tiễn thực thi pháp luật về BĐQTC, qua đó đưa ra những nhận định, đánh giá
một cách xác thực, đầy đủ hơn so với các công trình nghiên cứu đã công bố về ưu
điểm, tồn tại và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.
* Về quan điểm, giải pháp tăng cường BĐQTC ở Việt Nam
Một số quan điểm, giải pháp đã được đề cập ở một số công trình nghiên cứu
trước đó, tuy nhiên mới dừng ở mức độ khái quát, nên luận án sẽ tiếp thu có chọn
lọc và tiếp tục nghiên cứu đề xuất hệ thống giải pháp mang tính khả thi, cụ thể.
Tới thời điểm hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện,
có hệ thống về BĐQTC của công dân theo pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở các công
trình nghiên cứu trong và ngoài nước, nghiên cứu sinh kế thừa và phát triển các ý
tưởng khoa học để xây dựng quan điểm học thuật độc lập, với hy vọng góp phần tạo
dựng luận cứ vững chắc để tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý BĐQTC của công dân
ở nước ta.
Từ sự phân tích thực trạng tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
nêu trên, có thể thấy những khoảng trống của vấn đề nghiên cứu mà luận án cần làm
28
rõ như sau:
Thứ nhất, về khái niệm và nội dung bảo đảm quyền tố cáo của công dân. Kết
quả nghiên cứu phải đưa ra được khái niệm, có căn cứ lập luận khoa học và luận
chứng thuyết phục về cấu trúc nội dung, gắn với việc triển khai đánh giá thực trạng
BĐQTC của công dân ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, xác định và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tố cáo
của công dân.
Thứ ba, quá trình hình thành và phát triển của QTC và việc BĐQTC của công dân
trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.
Thứ tư, đánh giá toàn diện, tổng thể về thực trạng BĐQTC được quy định
trong hệ thống pháp luật Việt Nam và thực trạng tổ chức thực hiện BĐQTC theo pháp
luật Việt Nam hiện nay.
Thứ năm, xác định các quan điểm và giải pháp BĐQTC của công dân ở Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu phải bảo đảm lập luận thuyết phục hơn về các giải pháp có liên quan
đã được các công trình nghiên cứu khác đề cập và kiến nghị hệ thống giải pháp mang
tính tổng thể cho việc BĐQTC của công dân theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu, lý thuyết nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
1.3.1 Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về BĐQTC của công dân dưới
góc độ pháp lý, các giả thuyết khoa học cần đặt ra như sau:
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam là vấn đề được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy quyền tố
cáo của công dân đã được Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác ghi nhận. Tuy
vậy, những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tố cáo của công dân chưa được nghiên
cứu một cách sâu sắc, toàn diện nên việc thể chế hóa các nội dung này trong hệ
thống pháp luật nước ta chưa đầy đủ và còn nhiều hạn chế.
Hiện nay các quy định pháp luật về bảo đảm quyền tố cáo của công dân và
việc bảo đảm thực hiện trên thực tế hiệu quả chưa cao, còn nhiều bất cập, vướng
mắc, chưa tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền tố cáo trên thực tế
nhằm đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là tham nhũng, bảo vệ
29
lợi ích của cá nhân, tập thể và Nhà nước.
Việc tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân đang đặt ra cấp bách, là
một trong những yếu tố quyết định đến xây dựng nhà nước pháp quyền, của dân, do
dân, vì dân, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy an ninh chính trị- xã hội. Do vậy,
cần có hệ thống các giải pháp đồng bộ, đặc biệt là việc hoàn thiện pháp luật để tăng
cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở nước ta hiện nay.
1.3.2 Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, trên cơ sở tình hình nghiên cứu của đề
tài, luận án đặt ra 3 câu hỏi nghiên cứu trọng tâm như sau:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận nào về bảo đảm quyền tố cáo của công dân
theo pháp luật Việt Nam cần phải được phân tích và giải quyết để tạo lập nền tảng
nhận thức về bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam? Cơ sở lý
luận cho việc đánh giá thực trạng về bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp
luật Việt Nam hiện nay là gì?
Thứ hai, thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt
Nam hiện nay đang diễn ra như thế nào? Việc tổ chức thực thi bảo đảm quyền tố cáo
của công dân theo pháp luật có ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân nào?
Thứ ba, những quan điểm, giải pháp nào cần đề xuất để bảo đảm quyền tố cáo
của công dân theo pháp luật Việt Nam tốt hơn hiện nay? giải pháp cụ thể về hoàn
thiện pháp luật là gì?
Kết luận Chương 1
Tố cáo và GQTC là những vấn đề được Nhà nước quan tâm ngay từ khi mới
được thành lập, coi đó là một trong những kênh thông tin giúp Nhà nước phát hiện,
phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tập thể và Nhà nước. Đồng thời, thông qua việc GQTC, Nhà
nước thể hiện sự thừa nhận và coi trọng quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trong
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và của cán bộ, công chức.
Quyền tố cáo được coi là một trong những quyền cơ bản của công dân, được
ghi nhận lần đầu tiên tại Hiến pháp năm 1959. Các bản Hiến pháp 1980, 1992, 2013
30
tiếp tục kế thừa, ghi nhận QTC của công dân theo hướng ngày càng mở rộng và tăng
cường các bảo đảm của Nhà nước và xã hội để tạo điều kiện một cách tốt nhất cho
công dân thực hiện quyền này.
Các nhà khoa học trong và ngoài nước đã nghiên cứu các vấn đề về QTC từ
lâu, trong đó các nội dung được tập trung nhiều nhất là cơ chế GQTC, hoàn thiện
pháp luật tố cáo. Ngoài ra, một số ít nghiên cứu đề cập đến bảo vệ người tố cáo, các
loại bảo đảm đối với QTC. Tuy vậy các nghiên cứu chưa hệ thống, toàn diện về
BĐQTC của công dân, đặc biệt là các quy định pháp luật hiện hành về BĐQTC của
công dân.
Qua việc hệ thống hóa, phân tích và đánh giá về các công trình nghiên cứu
trong nước và nước ngoài liên quan đến đề tài luận án, chương 1 đã xác định mục
tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra nhằm giải quyết những vấn đề lý luận và thực
tiễn mà các công trình nghiên cứu khác chưa giải quyết. Bên cạnh đó, chương 1 xác
định rõ cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu nhằm đạt được
mục tiêu của luận án.
31
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN THEO PHÁP LUẬT
2.1 Khái niệm bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật
2.1.1 Khái niệm quyền tố cáo
* Tố cáo
Tố cáo là hiện tượng xảy ra khá thường xuyên trong xã hội, không chỉ ở Việt
Nam mà ở nhiều nước trên thế giới, vì vậy, hiện tượng này được nhiều học giả, tổ
chức trong nước và quốc tế nghiên cứu từ lâu.
Theo nghĩa thông thường, tố cáo có thể hướng tới bất kỳ hành vi vi phạm nào,
phát sinh trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội [63, tr 29]
Các từ điển giải thích từ "tố cáo" như sau: theo Đại từ điển Tiếng Việt tố cáo
là vạch rõ tội lỗi của kẻ khác trước pháp luật hoặc trước dư luận [116, tr.1663];
hoặc theo Từ điển luật học, tố cáo là báo cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm
quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân mà
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [107, tr 784].
Các nhà nghiên cứu về luật học cho rằng, tố cáo là việc công dân phát hiện và
báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm trái pháp luật của các cơ quan
nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân đã gây thiệt hại hoặc sẽ đe dọa gây thiệt hại cho lợi
ích của nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân [115, tr.200] hoặc
Tố cáo là việc công dân báo cho cơ quan hành chính nhà nước và những người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước biết về hành vi vi phạm pháp luật
(mà không phải là tội phạm) của cơ quan, tổ chức, cá nhân diễn ra trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích nhà
nước, quyền và lợi ích pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [60, tr.22].
Trong khi đó, Luật Tố cáo năm 2011 giải thích về "tố cáo" tại Khoản 1 Điều
2: là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức,
32
cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Cũng tại Khoản 1 Điều 2, Luật Tố cáo
năm 2018 nêu: là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ
quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Như vậy, có thể thấy, tố cáo được hiểu theo hai nghĩa là tố cáo có tính pháp
lý và tố cáo không có tính pháp lý. Tố cáo có tính pháp lý được hiểu là tố cáo những
hành vi, việc làm trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
tố cáo hoặc của người khác, tập thể, nhà nước, cộng đồng được pháp luật điều chỉnh
và bảo vệ. Tố cáo không có tính pháp lý được hiểu là tố cáo những hành vi, việc
làm trái với quy tắc đạo đức; vi phạm quy tắc, quy chế, quy định hay điều lệ của tập
thể, tổ chức (chính trị, chính trị-xã hội, xã hội nghề nghiệp). Trong đó, tố cáo có
tính pháp lý được chia thành các dạng sau:
Một là, tố cáo hành chính, liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật thuộc
phạm vi quản lý của các cơ quan nhà nước; hướng vào các hành vi vi phạm trong
hoạt động quản lý nhà nước, diễn ra ở phạm vi rộng, phản ánh tình trạng vi phạm
pháp luật trong xã hội. Việc tố cáo và GQTC thực hiện theo các quy phạm pháp luật
hành chính. Hành vi là đối tượng của tố cáo hành chính bao gồm các hành vi vi
phạm các quy định thuộc thẩm quyền quản lý theo cấp, theo ngành, lĩnh vực của các
cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, chỉ những hành vi vi
phạm nào được nhận định chưa đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, chưa đến mức phải
xử lý hình sự thì mới thuộc phạm vi của tố cáo hành chính.
Hai là, tố cáo tội phạm liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Tố cáo tội phạm là việc báo cho cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền về hành vi
đã hoặc sẽ xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Tố cáo hình
sự chỉ hướng vào các hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Việc xử lý, GQTC tội
phạm được quy định chặt chẽ và thực hiện theo trình tự thủ tục tố tụng hình sự.
Thực tế đời sống pháp lý hiện nay cho thấy, khi đề cập đến khái niệm tố cáo,
người ta thường nhắc đến khái niệm trong Luật Tố cáo năm 2011, tuy nhiên khái
33
niệm này đã đồng nhất giữa tố cáo nói chung với tố cáo hành chính, nội dung của
khái niệm chỉ điều chỉnh đối với những hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý
hành chính. Luật Tố cáo năm 2011 điều chỉnh đối với hai loại tố cáo là tố cáo hành
vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực. Việc tố cáo tội phạm và tin
báo về tội phạm được chỉ dẫn theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự. Như
vậy, mặc dù Luật Tố cáo được coi là luật gốc, điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhất
về tố cáo để BĐQTC cho người dân nhưng chưa đưa ra một định nghĩa toàn diện về
tố cáo, do đó cần thiết phải có điều khoản giải thích rõ một số thuật ngữ: “Tố cáo”,
“Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật”, “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật hành chính”
(tố cáo hành chính), “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật hình sự” hay còn gọi là "tố
giác tội phạm"… đồng thời có những chỉ dẫn về việc áp dụng các quy định pháp
luật hoặc làm cơ sở để xây dựng cơ chế GQTC cho phù hợp với từng loại tố cáo.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm tố cáo như sau: Tố cáo là
việc cá nhân báo cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền về bất kì hành vi của
cơ quan, tổ chức, cá nhân mà họ cho rằng hành vi ấy vi phạm pháp luật hoặc vi
phạm quy định của tổ chức, cộng đồng đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp, uy tín, danh dự của Nhà nước, tổ chức, cá nhân để
xử lý, ngăn ngừa hoặc khắc phục hậu quả do hành vi, việc làm đó gây ra.
Tố cáo hành chính là một dạng tố cáo có tính pháp lý, để phân biệt với tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tố giác tội phạm), có thể hiểu: Tố cáo hành
chính là việc cá nhân báo cho cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước về bất kì hành vi nào của cơ quan, tổ chức, cá
nhân mà họ cho rằng hành vi ấy vi phạm pháp luật hoặc vi phạm quy định của tổ
chức, cộng đồng đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp, uy tín, danh dự của Nhà nước, tổ chức, cá nhân để xử lý, ngăn ngừa hoặc
khắc phục hậu quả do hành vi, việc làm đó gây ra.
* Quyền tố cáo
Theo từ điển tiếng Việt thì "quyền" là điều mà pháp luật hoặc xã hội công
nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi; những điều do địa vị hay chức vụ
34
mà được làm [96, tr.1049]. Theo đó, có thể hiểu QTC là khả năng của một chủ thể
được thực hiện các hành vi qua nhiều hình thức khác nhau nhằm thông báo chính
thức cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về một hành vi vi phạm pháp luật
[63, tr.30]. Quyền tố cáo của công dân chỉ phát sinh khi công dân biết về một hành
vi sai trái, vi phạm pháp luật của một đối tượng nào đó sắp diễn ra, đang diễn ra
hoặc đã diễn ra và thông báo, tiết lộ với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền và được cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền thụ lý, xem xét, giải quyết.
Công dân thực hiện QTC là thực hiện quyền làm chủ của mình trong việc
xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước ngày càng phát
huy hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Hay nói cách khác, công dân
thực hiện QTC chính là tỏ rõ trách nhiệm của mình không chỉ trong việc giám sát
hoạt động quản lý của Nhà nước để xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong
sạch, vững mạnh mà còn đối với cả việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước, góp phần ngăn chặn, tiến tới loại trừ những hành vi hách dịch, cửa quyền, vi
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, QTC là quyền chính trị cơ
bản của công dân, là phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện và bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp khác của công dân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội. Đồng
thời, đó cũng là nguồn thông tin quan trọng về tình trạng pháp chế trong quản lý
hành chính nhà nước, góp phần củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và công dân,
khẳng định tính chất tham gia quản lý Nhà nước của công dân.
Như vậy, quyền tố cáo của công dân được hiểu là khả năng của công dân thực
hiện các hành vi dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm thông báo chính thức cho cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền về hành vi của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào vi phạm pháp
luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, uy tín và danh dự của nhà nước, tổ
chức, hoặc của cá nhân; với mục đích để cá nhân, cơ quan có thẩm quyền xử lý, ngăn
ngừa hoặc khắc phục hậu quả do hành vi, việc làm đó gây ra.
Trong pháp luật hành chính thì tố cáo là quyền cơ bản của công dân, công
dân có thể thực hiện quyền này hoặc không thực hiện, nhưng trong pháp luật hình
sự thì tố cáo còn là nghĩa vụ, trong một số trường hợp nếu công dân không tố cáo
thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự với tội
35
danh không tố giác tố phạm.
2.1.2 Chủ thể, giới hạn của quyền tố cáo
2.1.2.1 Chủ thể của quyền tố cáo
* Chủ thể có quyền tố cáo
Chủ thể của QTC có thể là bất kỳ ai biết được việc làm vi phạm pháp luật đều
có quyền báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp
luật. Với quan điểm mới trong Hiến pháp 2013, "mọi người có quyền khiếu nại, tố
cáo" (Khoản 1 Điều 30), theo đó chủ thể của QTC có thể hiểu là người Việt Nam,
người nước ngoài, người không quốc tịch, thậm chí cả tổ chức, đặc biệt là tổ chức
kinh tế vì các đối tượng này cũng chịu sự tác động của luật pháp Việt Nam và tác
động của các hành vi vi phạm pháp luật, trong khi đó Luật Tố cáo năm 2011 quy
định chỉ “công dân” mới có QTC và "pháp nhân" không có quyền này do nhiều quan
điểm cho rằng việc xác định chủ thể là cá nhân nhằm làm rõ trách nhiệm của người
tố cáo khi cung cấp các thông tin làm căn cứ để xử lý trách nhiệm khi tố cáo sai sự
thật. Nếu tổ chức có QTC có thể làm phát sinh những vấn đề phức tạp trong việc
quy định cách thức để các chủ thể này thực hiện QTC như việc xác minh thông tin
về người tố cáo, bảo vệ bí mật, xác định trách nhiệm người tố cáo trong trường hợp
tố cáo sai sự thật. Tổ chức có nhiều cơ chế để cung cấp các thông tin về hành vi vi
phạm cho các cơ quan có thẩm quyền như thông qua việc kiến nghị, phản ánh, tin
báo, tố giác hành vi vi phạm [13].
* Chủ thể có trách nhiệm, nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền tố cáo
Thực tiễn cho thấy quyền con người, quyền công dân nói chung và QTC nói
riêng sẽ không thể được thực hiện trong thực tế nếu không được tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm thực hiện. Các cơ quan bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở Việt Nam
hiện nay bao gồm: hệ thống các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội gồm Đảng, Nhà
nước, MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần
chúng…Trong đó, Nhà nước (với hệ thống bốn cơ quan: lập pháp, hành pháp, tư
pháp, công tố) là chủ thể quan trọng nhất trong việc bảo vệ, bảo đảm quyền tố cáo,
đóng vai trò quyết định trong việc ban hành hệ thống văn bản pháp luật; tổ chức thực
hiện các quy định đó, bảo vệ quyền con người, quyền tố cáo.
36
2.1.2.2 Giới hạn của quyền tố cáo
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 cho phép các
quốc gia thành viên áp đặt một số điều kiện trong việc hưởng thụ, thực hiện các
quyền dân sự, chính trị và quyền bị giới hạn để bảo vệ lợi ích cao hơn như an ninh
quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe cộng đồng, giá trị đạo đức, quyền và uy tín
của người khác. Công ước cũng nêu, các quốc gia thành viên sẽ quy định rõ các
trường hợp giới hạn phạm vi thực hiện các quyền này trong pháp luật quốc gia.
Quyền tố cáo thuộc nhóm quyền chính trị của công dân, do đó việc giới hạn phạm
vi thực hiện là cần thiết và phù hợp với các văn bản quốc tế. Các trường hợp mà
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 nêu ra để giới hạn phạm
vi thực hiện các quyền này của người dân đã được pháp luật nhiều quốc gia trên thế
giới ghi nhận.
Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định mang tính nguyên tắc trong việc
giới hạn quyền theo Công ước nêu trên tại Khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013,
theo đó thì việc hạn chế quyền con người, quyền công dân sẽ được áp dụng trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn, đạo đức
xã hội, sức khỏe cộng đồng và việc giới hạn quyền phải được quy định trong luật.
Đồng thời, tại Khoản 5, Điều 15 cũng quy định người dân thực hiện quyền con người,
quyền công dân nhưng không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác. Đối với quyền tố cáo của công dân, thực tiễn xây dựng
và hoàn thiện pháp luật tố cáo của nước ta qua nhiều giai đoạn đều quy định những
hành vi bị nghiêm cấm, trong đó bao gồm hành vi của người tố cáo, người bị tố cáo,
người GQTC và hành vi của các cá nhân khác. Thực chất việc quy định các hành vi
bị cấm của người tố cáo chính là hình thức giới hạn quyền tố cáo, điều đó để giới hạn
người dân khi thực hiện quyền tố cáo của mình thì không làm ảnh hưởng, không xâm
phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể và các cá nhân khác.
Pháp luật nhiều nước trên thế giới đã cụ thể hóa việc giới hạn quyền tố cáo
bằng các cách thức khác nhau, ở một số nước, người lao động có thể bị cấm tố cáo
theo các yêu cầu bảo mật thông tin, đặc biệt là những thông tin liên quan đến an
ninh quốc gia. Bộ luật Dịch vụ công cộng Australia yêu cầu công chức không tiết lộ
37
bất kỳ thông tin mật nào vì nó có thể làm giảm hiệu quả hoạt động của Chính phủ.
Nếu sai phạm, họ sẽ bị bãi nhiệm và chấm dứt việc làm tại tổ chức đó [141]. Luật
của Mỹ công nhận vị trí đặc biệt của các quan chức công trong các nhiệm vụ nhạy
cảm theo một điều khoản trong Đạo luật bảo vệ người tố cáo [142]. Điều khoản này
quy định nếu người tố cáo tiết lộ mà được yêu cầu giữ bí mật về lợi ích quốc phòng
hay hoạt động ngoại vụ thì việc tiết lộ sẽ không được bảo vệ trừ khi điều đó được
thực hiện đối với cơ quan Tổng thanh tra của họ [143].
Qua việc so sánh quy định pháp luật của Việt Nam với một số quốc gia trên
thế giới về việc giới hạn quyền tố cáo, có thể thấy hiện nay ở nước ta việc giới hạn
phạm vi các quyền con người nói chung mới được ghi nhận trong Hiến pháp, việc
giới hạn QTC chưa được quy định cụ thể trong Luật Tố cáo, chưa có chế tài rõ ràng
và nghiêm khắc trong việc xử lý những người vi phạm quyền tố cáo nhất là người
lợi dụng tố cáo để hạ thấp uy tín, danh dự, nhân phẩm của người khác, do đó đơn
thư tố cáo tràn lan diễn ra vào các dịp đại hội Đảng, bầu cử, bổ nhiệm, luân chuyển
cán bộ...
Rõ ràng, việc quy định giới hạn QTC là cần thiết nhưng chỉ nên phạm vi những
vấn đề nghiêm trọng và để bảo vệ những lợi ích thực sự chính đáng. Nhà nước bảo
đảm để người dân thực hiện QTC nhưng lên án và nghiêm cấm việc lợi dụng QTC.
Điều này cũng đặt ra yêu cầu đối với người tố cáo trong việc cần phải biết những
thông tin bị cấm, những thông tin được phép tiết lộ, nếu không rất dễ dẫn đến phải
gánh chịu trách nhiệm hình sự.
2.1.3 Khái niệm, vai trò, đặc điểm của bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo
pháp luật
2.1.3.1 Khái niệm của bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật
"Bảo đảm" trong tiếng Việt được hiểu là “làm cho chắc chắn thực hiện được,
giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [108, tr.38]. Bảo đảm quyền con
người là một quá trình, phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế, chính
trị, văn hóa, pháp luật... trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng
đầu. Điều này thể hiện trong mối quan hệ giữa pháp luật với các điều kiện nói trên ở
chỗ, chỉ thông qua pháp luật thì các điều kiện đó mới trở thành giá trị xã hội ổn định,
38
được hiện thực hóa trên quy mô toàn xã hội và các điều kiện kinh tế, chính trị, văn
hóa .... mới phát huy được. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của pháp luật
trong bảo vệ quyền con người thì phải thể chế hóa quyền con người thành các quy
định cụ thể trong hệ thống pháp luật, phải có các cơ chế bảo đảm cho các quy định
đó được thực hiện trong thực tế. Chỉ khi được quy định trong pháp luật thì các
quyền tự nhiên vốn có của con người mới trở thành quyền thực sự, quyền pháp định
và lúc đó mới được xã hội thừa nhận, phục tùng, được quyền lực Nhà nước tôn
trọng, bảo vệ và có giá trị bắt buộc đối với toàn xã hội, ngay cả với cơ quan cao
nhất của Nhà nước[112, tr 123,125,127].
Cũng như quyền con người, quyền tố cáo là giá trị xã hội đã được thừa nhận,
được thể chế hóa trong pháp luật của nhiều quốc gia và các văn bản quốc tế, được
các quốc gia cam kết bảo đảm để người dân thực hiện quyền này trên thực tế. Do
các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa khác nhau nên việc thực hiện quyền
tố cáo của công dân có sự khác biệt giữa các quốc gia. Thậm chí ngay trong một
quốc gia, giữa các vùng miền cũng có khoảng cách nhất định giữa việc bảo đảm
thực hiện trên thực tế so với quyền được ghi nhận trong pháp luật. Thực tiễn cho
thấy việc BĐQTC của công dân không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của công
dân mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, đặc biệt là yếu tố pháp luật có vị trí,
vai trò và tầm quan trọng hàng đầu. Để mọi người dân được hưởng thụ đầy đủ
quyền con người nói chung, quyền tố cáo nói riêng thì cần có hệ thống cơ chế bảo
đảm quyền tố cáo và chỉ có Nhà nước mới có thể xây dựng được hệ thống cơ chế
này. Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 tại Điều 13 đưa
ra trách nhiệm của mỗi quốc gia thành viên trong việc xây dựng các biện pháp thích
hợp bảo đảm cho người dân biết đến các cơ quan chống tham nhũng và phải cho
phép họ tiếp cận để có thể thông báo về các hành vi tham nhũng.
Quyền tố cáo được thể chế trong hệ thống pháp luật bao gồm các quyền và
nghĩa vụ cụ thể của công dân khi tham gia hoạt động tố cáo; những quy định về tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước liên quan đến trách nhiệm, thẩm quyền của
cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố cáo và
của cơ quan, tổ chức có liên quan; quy định về xây dựng hệ thống các thủ tục về
39
tiếp nhận, giải quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo, xử lý hành vi vi phạm quyền tố
cáo, kể cả thủ tục hình sự; quy định về kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền tố
cáo; các quy định về hình thức, biện pháp xử lý những hành vi vi phạm quyền tố
cáo; quy định về bảo vệ người tố cáo, khen thưởng người tố cáo; quy định nguồn tài
chính, cơ sở vật chất phục vụ cho công tác liên quan đến tố cáo; cụ thể hóa các công
ước quốc tế liên quan đến quyền tố cáo mà các quốc gia đã tham gia ký kết hay phê
chuẩn nhằm bảo đảm thực hiện, bảo vệ quyền.... Tuy nhiên, nếu quyền tố cáo chỉ
được quy định trong hệ thống pháp luật mà không có cơ chế bảo đảm thực hiện các
quy định đó thì người dân khó có thể thực hiện quyền trên thực tế. Do đó, Nhà nước
cần có các biện pháp, cách thức bảo đảm để người dân thực hiện quyền tố cáo, trước
hết đó là việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật; hướng dẫn thực
hiện pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, cán bộ, công chức,
hình thành văn hóa pháp lý trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó cần huy động sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, nhất là nâng
cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật của bộ máy nhà nước, phải bảo
đảm cho các quy định nhằm thực hiện bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong hệ thống pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh. Thực tế ở nước ta thời gian
qua cho thấy, quyền tố cáo là quyền nhạy cảm, việc thực hiện quyền tố cáo của công
dân có những diễn biến phức tạp nên bảo đảm thực hiện nó không chỉ dừng lại ở
việc ghi nhận quyền tố cáo mà còn phải thực thi nhiều biện pháp đồng bộ, được các
cấp và mọi công dân tham gia.
Như vậy, quyền tố cáo sẽ không được thực hiện trên thực tế nếu không được
quy định trong hệ thống pháp luật, pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã
hội của QTC, là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ QTC,
tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Đồng thời, pháp luật phải quy định cơ chế bảo đảm thực hiện quyền tố cáo
trong hệ thống pháp luật. Khi đó tất yếu đặt ra nghĩa vụ, trách nhiệm phải được mọi
chủ thể tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo thực hiện, có như vậy người dân mới có thể
được hưởng thụ quyền của mình trên thực tế.
Từ phân tích ở trên, có thể hiểu bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo
40
pháp luật là việc Nhà nước ghi nhận quyền tố cáo, các biện pháp, cách thức để
công dân thực hiện quyền tố cáo trong hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện trên
thực tế các biện pháp, cách thức đó để công dân thực hiện quyền tố cáo một cách
an toàn, thuận tiện và hiệu quả.
2.1.3.2 Vai trò của bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Tố cáo thể hiện quyền tự do ngôn luận và tính dân chủ của một nhà nước,
đồng thời phát huy ý thức trách nhiệm của công dân đối với nhà nước và xã hội
trước những hành vi vi phạm pháp luật. Chính vì vậy mà BĐQTC của công dân có
vai trò quan trọng đối với cả cá nhân và Nhà nước.
Thứ nhất, bảo đảm quyền tố cáo của công dân góp phần bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; giúp mọi cá nhân trong xã hội bảo vệ được quyền, lợi
ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
Đại hội Đảng lần thứ XII đã khẳng định: Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Bảo đảm dân chủ
là yêu cầu cấp thiết phải được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội nước ta. Cần có những biện pháp bảo đảm có hiệu quả để
nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan
đến lợi ích hợp pháp cũng như đời sống hằng ngày của người dân. Tăng cường công
tác thể chế hoá và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện của người dân. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm,
bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp
năm 2013. Thể chế hóa quan điểm Nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhiều văn
bản pháp luật đã quy định những quyền năng cụ thể của nhân dân, trong đó có QTC.
Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, thực hiện quyền
lực Nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau như kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan Nhà nước hoặc trực tiếp trình bày các yêu cầu, kiến nghị của mình đối
với các cơ quan Nhà nước.
Quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân có thể bị xâm phạm bởi nhiều chủ thể
khác nhau trong xã hội, có thể là cơ quan nhà nước, là cán bộ, công chức, viên chức
trong bộ máy nhà nước. Trước những hành động xâm phạm đó, cá nhân công dân có
41
thể dùng QTC để báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết và GQTC để bảo
vệ quyền lợi cho họ, đồng thời trừng phạt người bị tố cáo. Bên cạnh QTC, người
dân còn có quyền phản ánh, kiến nghị, tuy nhiên trong nhiều trường hợp, việc dùng
QTC có ý nghĩa hơn, mang tính bắt buộc các cơ quan nhà nước phải giải quyết để
bảo vệ quyền lợi người dân. Việc Nhà nước và các tổ chức khác trong xã hội
BĐQTC của người dân là giúp cho việc thực hiện QTC của người dân được thực
hiện trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ.
Thứ hai, bảo đảm quyền tố cáo của công dân nhằm tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã
hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cán bộ, công chức,
viên chức nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một
cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Cần tăng cường pháp chế XHCN, Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương và sự nghiêm minh
của pháp luật. Đồng thời cần coi trọng công tác bồi dưỡng, giáo dục nâng cao đạo
đức của cán bộ, công chức, viên chức. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 8
Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ”.
Hành vi tố cáo thể hiện đầy đủ, rõ ràng ý thức cũng như trách nhiệm của
công dân trước các hành vi vi phạm pháp luật diễn ra trong xã hội. Vì vậy, thông
qua việc thực hiện QTC và việc GQTC, lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân đã bị xâm hại sẽ được bảo vệ. Do đó, QTC
của công dân cần được bảo đảm, trong đó bảo đảm bằng pháp luật là quan trọng
hàng đầu. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải được quy định bởi
pháp luật và thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, tôn trọng pháp luật. Mọi cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi
thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của mình trong hoạt động công vụ. Thực hiện tốt
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là cơ sở bảo đảm cho sự hoạt động bình
thường của bộ máy Nhà nước, tạo ra sự thống nhất, đồng bộ, phát huy được hiệu lực
42
quản lý của Nhà nước, bảo đảm công bằng xã hội.
Thứ ba, bảo đảm quyền tố cáo của công dân là công cụ hữu hiệu trong cuộc
chiến chống tham nhũng và các vi phạm pháp luật khác.
Ở nhiều nước trên thế giới, tố cáo ngày càng được thừa nhận như một trong
những công cụ hữu hiệu nhất trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng
nói riêng và đấu tranh chống lại các biểu hiện sai trái, vi phạm pháp luật nói chung.
So với các công cụ khác như giám sát, thanh tra, kiểm tra thì tố cáo là công cụ hiệu
quả và ít tốn kém trong việc phát hiện, xử lý các tiêu cực xảy ra trong hoạt động
quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Để củng cố và phát huy hiệu quả của công cụ này,
Nhà nước phải đặc biệt quan tâm BĐQTC của công dân, để công dân dễ dàng,
thuận tiện và an toàn khi cung cấp thông tin cho Nhà nước, đặc biệt là các thông tin
liên quan đến hành vi tham nhũng. Khi đó, Nhà nước mới có thể thu thập được
những thông tin phản ánh độ chính xác cao của các biểu hiện sai trái để từ đó sàng
lọc, nắm bắt điều tra vụ việc.
Thứ tư, bảo đảm quyền tố cáo của công dân góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng tăng cường tính
công khai, minh bạch, xử lý nghiêm minh, có hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật.
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân về mặt pháp lý giúp hình thành hệ thống
các nhiệm vụ, quyền hạn của các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc tiếp nhận, GQTC, bảo vệ người tố cáo, xử lý hành vi vi phạm pháp luật tố cáo...
qua đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức; làm tăng
tính trách nhiệm của họ trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Đồng thời, khi QTC được pháp luật bảo đảm thực hiện sẽ phát huy quyền và nghĩa
vụ của công dân; người dân nhận thức và thực hiện quyền làm chủ của mình trong
việc giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, qua đó
góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước;
xây dựng và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước; góp
phần ngăn chặn, tiến tới loại trừ những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật hoặc
quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu quần chúng của một bộ phận cán bộ,
công chức trong hoạt động thực thi công vụ.
43
2.1.3.3 Đặc điểm của bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật
Thứ nhất, bảo đảm quyền tố cáo của công dân vừa là trách nhiệm của Nhà
nước, vừa là trách nhiệm của xã hội
Nhà nước tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ quyền tự do của công dân được thể
hiện qua quy định của luật pháp chứ không chỉ mang tính chính trị hay thể hiện đạo
lý. QTC biểu hiện mối quan hệ pháp lý giữa công dân và Nhà nước nên được bảo
đảm trước hết bằng việc thực hiện nghĩa vụ của các cơ quan và cán bộ, công chức
nhà nước. Nhà nước có ưu thế và vai trò quyết định, chi phối, định hướng cho hoạt
động của mọi chủ thể trong xã hội, vì vậy BĐQTC là trách nhiệm của Nhà nước.
Như vậy, BĐQTC của công dân được thể hiện qua các quy định pháp luật do Nhà
nước ban hành và Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước, cụ thể:
Trong xây dựng pháp luật, Nhà nước ban hành pháp luật cụ thể hóa QTC để
tạo ra hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và công bằng; phổ biến, tuyên truyền,
giáo dục, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật,
văn hóa pháp lý của các chủ thể trong xã hội.
Trong tổ chức thực hiện pháp luật, Nhà nước BĐQTC thông qua việc tổ chức
giúp đỡ, hỗ trợ công dân thực hiện quyền.
Trong bảo vệ quyền, Nhà nước ngăn chặn những hành vi xâm hại QTC của
công dân và xử lý nghiêm minh những chủ thể vi phạm; tạo ra phương thức, công
cụ để công dân bảo vệ các quyền của mình khi quyền bị xâm hại. Bảo vệ QTC trước
là bảo vệ người tố cáo và xử lý vi phạm QTC từ phía Nhà nước sao cho mọi hành vi
cản trở hay hạn chế quyền đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Trên bình diện quốc tế, trong xu thế hội nhập, trách nhiệm bảo đảm quyền
con người nói chung và quyền chính trị - dân sự nói riêng, trong đó có QTC còn là
trách nhiệm của mỗi quốc gia cụ thể trong hợp tác, tham gia ký kết và thừa nhận các
thủ tục pháp lý quốc tế bảo đảm quyền tự do của cá nhân công dân. Tuy bảo đảm
thực hiện quyền công dân là vấn đề quốc gia, không thể áp đặt từ bên ngoài song
mỗi Nhà nước phải cam kết, thừa nhận các chuẩn mực và nguyên tắc quốc tế trong
lĩnh vực này phù hợp với điều kiện thực tế về truyền thống lịch sử, trình độ kinh tế,
chế độ chính trị, xã hội, văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán… của
44
quốc gia và khu vực.
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung và QTC nói riêng đòi
hỏi nhận thức của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội về nghĩa vụ tôn trọng
quyền, không vi phạm quyền của công dân, hỗ trợ công dân thực hiện quyền. Theo
nghĩa này, BĐQTC là trách nhiệm của cả xã hội. Quyền tố cáo được bảo đảm khi
hoàn thiện mối quan hệ giữa cá nhân với Nhà nước, song bảo đảm quyền không chỉ
đòi hỏi sự phối hợp giữa cá nhân và Nhà nước mà còn đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ từ
phía cộng đồng xã hội như từ các cá nhân khác, các tổ chức, đoàn thể hay truyền
thông. Nếu như BĐQTC từ định chế nhà nước là thể hiện trách nhiệm của các thiết
chế chính trị, thì BĐQTC của công dân từ cộng đồng, từ các định chế xã hội là thể
hiện trách nhiệm của xã hội. Cộng đồng xã hội có vai trò, tác động quan trọng đến
bảo đảm quyền con người, quyền công dân, QTC ở cả khía cạnh tích cực và tiêu
cực, do đó cần thống nhất giữa tự do cá nhân với tự do cộng đồng và vấn đề cung
ứng dịch vụ công.
Thứ hai, bảo đảm quyền tố cáo của công dân được thực hiện trên cơ sở coi
trọng sự đề nghị của người tố cáo
Với bất kỳ quyền con người nào, việc nhận thức về quyền và nội dung của
quyền chính là yếu tố đầu tiên bảo đảm khả năng thụ hưởng quyền của người dân,
chỉ khi các cá nhân nhận thức được sự tồn tại của quyền thì họ mới có thể biết được
rằng mình có hay không có nhu cầu sử dụng đến quyền này. Ngoài ra, trong quá
trình thụ hưởng quyền, khi gặp phải những trở ngại, xâm phạm từ các chủ thể khác,
người dân cũng cần phải có ý thức bảo vệ quyền, đó chính là hiểu biết của người
dân trong việc nhận biết và thực hiện các cách thức bảo vệ quyền của mình khi bị
xâm phạm.
Với tất cả các quyền cơ bản của con người, cá nhân thực hiện hành vi theo ý
chí, lựa chọn và nhận thức của mình. Hành vi của cá nhân con người tự do luôn
luôn gắn với nhu cầu và lợi ích của họ, phụ thuộc vào năng lực chủ thể và ý thức
pháp luật của mỗi công dân. Cho dù quyền tự do của công dân được Nhà nước ghi
nhận và có cơ chế bảo đảm tốt, song nếu mỗi công dân không nhận thức về quyền
của mình thì quyền của công dân cũng không được thực hiện trên thực tế. Quyền tố
45
cáo là quyền cơ bản của công dân, công dân có thể thực hiện hoặc không thực hiện
quyền này nếu họ không muốn hoặc không cần. Để bảo đảm quyền tố cáo của công
dân, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải quy định cụ thể những quyền mà người tố cáo có
được, trước hết là quyền được tố cáo, quyền được bảo vệ khi tố cáo, quyền được biết
kết luận giải quyết những tố cáo của họ, thậm chí còn là quyền nhận sự khen thưởng
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những đóng góp trong tố cáo của họ ....
Việc coi trọng sự đề nghị của người tố cáo trước hết là để khuyến khích họ tố
cáo những vi phạm của cá nhân, tổ chức để cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cá nhân, qua đó góp phần nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước; tiếp đó là để bảo vệ người tố cáo trước những đe dọa, trả thù của
người bị tố cáo và các đối tượng có liên quan.
Thứ ba, mục đích của bảo đảm quyền tố cáo của công dân không chỉ vì sự
an toàn cho người tố cáo và thân nhân của họ mà còn vì lợi ích của nhà nước, của
xã hội
Tố cáo được thực hiện ngay cả khi hành vi bị tố cáo không xâm hại đến
quyền lợi trực tiếp của người tố cáo, mà xâm hại lợi ích Nhà nước, xã hội. Đặc biệt
với những hành vi tham nhũng, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, ảnh
hưởng đến uy tín của bộ máy nhà nước. Trong thời gian qua, nhiều vụ án tham
nhũng lớn, nhiều hành vi vi phạm pháp luật được phát hiện thông qua tố cáo của
nhân dân, đã được xử lý nghiêm minh, thu hồi nhiều tài sản cho Nhà nước. Đồng
thời, qua đó Nhà nước cũng thấy được những tồn tại, hạn chế trong cơ chế, chính
sách và pháp luật để kịp thời chấn chỉnh.
Người bị tố cáo, nhất là người bị tố cáo tham nhũng thường là những cán bộ
có chức vụ, quyền hạn, do đó khi bị tố cáo thường trả thù người tố cáo và người
thân thích của người tố cáo, với các hình thức, tính chất khác nhau và ngày càng
tinh vi như xâm hại sức khỏe, danh dự, tài sản, vị trí việc làm, có thể tiến hành trực
tiếp hoặc gián tiếp. Do đó, BĐQTC của công dân không chỉ vì sự an toàn cho người
tố cáo và thân nhân của họ mà còn vì lợi ích của nhà nước, của xã hội.
46
2.2 Nội dung bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật
2.2.1 Ghi nhận quyền tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo của công dân trong
Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác
Quyền tố cáo của công dân chỉ có thể trở thành hiện thực khi được ghi nhận
và bảo đảm thực hiện bằng Hiến pháp và các văn bản pháp luật.
* Ghi nhận quyền tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo của công dân trong Hiến pháp
Trước hết, quyền tố cáo cần được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy thực
hiện bằng cơ chế hiến pháp, đó là việc ghi nhận, khẳng định trong Hiến pháp về
quyền tố cáo của công dân, cũng như xác lập các thiết chế, các điều kiện để bảo đảm,
bảo vệ quyền này trong Hiến pháp. Việc ghi nhận QTC của công dân trong Hiến pháp
sẽ tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản của mình, là phương tiện để
bảo đảm cho việc thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công
dân, lợi ích của Nhà nước và lợi ích xã hội. Cùng với việc ghi nhận QTC, Hiến pháp
còn phải coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện các cơ chế bảo vệ và bảo đảm thực
hiện QTC thông qua việc quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, cơ chế vận hành,
trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước.
Thường thì Hiến pháp của các nước đều đề cập đến các nội dung liên quan
đến quyền tố cáo như sau: (1) người dân có quyền tố cáo; (2) Nhà nước bảo vệ
người dân khi thực hiện quyền này, các hành vi trả thù người tố cáo sẽ bị trừng trị;
(3) Người bị thiệt hại từ hành vi vi phạm pháp luật của công chức nhà nước sẽ được
bồi thường.
Các quy định về QTC của công dân được ghi nhận trong các bản hiến pháp là
sự bảo đảm pháp lý cao nhất về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực
chính trị, gắn liền với lịch sử lập hiến và pháp luật của quốc gia [21]. Quyền tố cáo
được Hiến pháp ghi nhận là một trong những chế định cơ bản về quyền con người,
là sự thể hiện trên thực tế địa vị pháp lý của công dân trong một nhà nước dân chủ.
Với ý nghĩa chính trị, pháp lý quan trọng, QTC được Hiến pháp ghi nhận là phương
thức tạo ra quyền năng pháp lý dự phòng để bảo vệ, chống lại bất kỳ một vi phạm
nào xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
47
* Ghi nhận quyền tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo trong các văn bản pháp
luật khác
Các quy định về BĐQTC của công dân được quy định trong nhiều luật và
các văn bản cụ thể hóa các luật đó, nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, quy định về quyền của người tố cáo như: Gửi đơn hoặc trực tiếp tố
cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; được
giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác; được yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý GQTC, thông báo
chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thông báo kết quả
GQTC; được tố cáo tiếp; được rút tố cáo; được yêu cầu bảo vệ; được khen thưởng.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong việc tiếp nhận, GQTC, quản lý công tác GQTC, giám sát thi hành pháp
luật về tố cáo và GQTC; trình tự, thủ tục GQTC; bảo vệ người tố cáo; khen thưởng
và xử lý vi phạm về QTC.
Hiện nay trên thế giới, tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo của người dân đã
được đa số các quốc gia quy định trong hệ thống pháp luật nhưng không xây
dựng thành một đạo luật riêng mà thường phân tán ở các văn bản pháp luật
chuyên ngành như tố cáo về đạo đức công vụ được quy định tại pháp luật về công
chức, công vụ; tố cáo về tham nhũng được quy định trong pháp luật về phòng,
chống tham nhũng. Chẳng hạn, Luật Bảo vệ người tố cáo vì lợi ích công của Hàn
Quốc [138]; Luật bảo vệ người tố cáo của Nhật Bản [139], Luật Bảo vệ người tố
cáo của Rumani [140], Bộ luật Dịch vụ công Australia [141], Luật chống tham
nhũng của Pháp, Đạo luật Bảo vệ người tố cáo của Mỹ [142], Luật Bảo vệ công
chức tố cáo của Canada [146], ....
Như vậy, việc BĐQTC của công dân thông qua việc ghi nhận quyền, quy
định về quyền và các biện pháp bảo đảm, bảo vệ khi người dân thực hiện QTC được
dựa trên nguyên tắc khuyến khích và tạo điều kiện để công dân thực hiện một cách đầy
đủ và đúng đắn góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể và của cá nhân.
48
2.2.2 Thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân về bảo đảm quyền tố
cáo của công dân
Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của
các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nước. Thẩm quyền được pháp luật ghi nhận
thành các quy định về quyền và nghĩa vụ chung và những quyền hạn, nghĩa vụ cụ
thể của các cơ quan, tổ chức. Thẩm quyền là cơ sở pháp lý để các chủ thể quản lý
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trách nhiệm là phần việc được giao cho
hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải
gánh chịu phần hậu quả [114, tr.56]. Trách nhiệm trong quản lý nhà nước luôn gắn
với sự điều chỉnh của pháp luật. Nhà nước ban hành pháp luật quy định các chủ thể
có các quyền và nghĩa vụ nhất định, nếu các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện
không nghiêm túc các quy định pháp luật khi tham gia vào quan hệ xã hội cụ thể sẽ
phải chịu hậu quả pháp lý. Do vậy, quy định về thẩm quyền và trách nhiệm là mang
tính khách quan của quản lý nhà nước.
Trong bảo đảm quyền tố cáo của công dân, việc quy định thẩm quyền, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân phải rõ ràng, bao gồm:
Xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong GQTC và trách nhiệm
của các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý công tác GQTC. Việc quy định thẩm
quyền, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong GQTC không chỉ giúp
phân định quyền năng cho các cơ quan này trong việc GQTC, tránh chồng chéo; mà
còn giúp người dân biết được cơ quan GQTC của mình để gửi đơn, theo dõi quá
trình giải quyết. Theo đó, các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền GQTC phải
tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục GQTC, đồng thời người tố cáo giám sát quá
trình giải quyết đơn thư của mình. Bên cạnh đó, việc quy định có tính nguyên tắc
trong xác định thẩm quyền GQTC là rất cần thiết do pháp luật tố cáo liên quan đến
nhiều lĩnh vực quản lý, được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Việc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện tốt công tác GQTC cũng
là một trong các yếu tố góp phần BĐQTC của công dân.
Quy định về thẩm quyền giám sát việc thi hành pháp luật về BĐQTC của
công dân giúp cho các quy định này được thực hiện nghiêm túc. Để việc giám sát
49
được khách quan, pháp luật quy định nhiều chủ thể có thẩm quyền giám sát, bao
gồm các cơ quan hành chính nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội; các cơ quan,
đại biểu dân cử; ngoài ra còn có giám sát của các cơ quan thuộc đảng cầm quyền.
Quy định về thẩm quyền và trách nhiệm trong việc bảo vệ người tố, các văn
bản pháp luật quy định cụ thể thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
trong việc bảo vệ người tố cáo. Việc quy định này giúp cho các cơ quan có thẩm
quyền biết được nhiệm vụ của mình để có phương án, biện pháp, nhân sự trong việc
bảo vệ người tố cáo; đồng thời người tố cáo biết được ai là người bảo vệ mình để
khi cần có thể liên hệ.
Quyền tố cáo của công dân phản ánh bản chất dân chủ trong việc thực hiện
quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền tố cáo của công dân thể hiện trách nhiệm của
Nhà nước trong mối quan hệ với công dân ở hai khía cạnh là bảo đảm thực hiện và
bảo đảm bảo vệ. Bảo đảm thực hiện có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, đó là Nhà
nước tạo ra các điều kiện, phương tiện cần thiết để công dân thực hiện QTC trên thực
tế. Bảo đảm bảo vệ là việc Nhà nước GQTC, xử lý các hành vi vi phạm trong quá
trình bảo đảm thực hiện QTC của công dân. Bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo vệ có
mối quan hệ, tác động qua lại rất chặt chẽ với nhau. Trên thực tế, khó có thể phân biệt
được bảo đảm bảo vệ và bảo đảm thực hiện bởi lẽ ngay trong việc tạo điều kiện để
công dân thực hiện QTC thì đã bao hàm cả mục đích bảo vệ quyền này [42, tr 43].
2.2.3 Thủ tục bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân đòi hỏi Nhà nước phải thiết lập các thủ
tục pháp lý để bảo đảm thực hiện quyền này. Các thủ tục trong BĐQTC phải công
khai, minh bạch, đơn giản để thuận lợi cho thực hiện và giám sát thi hành, bao gồm
những thủ tục GQTC và thủ tục bảo vệ người tố cáo.
Thứ nhất, thủ tục giải quyết tố cáo: Giải quyết tố cáo là một trong những yếu
tố quan trọng góp phần BĐQTC của công dân, là việc kiểm tra, xác minh, kết luận về
tính hợp pháp của hành vi bị tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành
chính nhà nước để có biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và đặc điểm của hành vi bị tố cáo và đối
tượng bị tố cáo mà pháp luật quy định thẩm quyền GQTC. Thủ tục pháp lý trong
50
GQTC xác định nội dung công việc và trình tự thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền
giải quyết vụ việc. Đây cũng là cơ sở cho công dân thực hiện quyền chủ thể của
mình đồng thời kiểm soát hoạt động của các cơ quan trong quá trình giải quyết. Quy
định về thủ tục GQTC là thủ tục hành chính được thực hiện trong các cơ quan hành
chính Nhà nước. Tuy nhiên, đây là một loại thủ tục hành chính đặc biệt, bởi vì, khi
tiến hành giải quyết một vụ, việc, thì kết quả cuối cùng là cơ quan có thẩm quyền
phải kết luận về tính chất đúng hay sai của tố cáo trong quan hệ với việc làm của
các cơ quan có vụ, việc hoặc là quá trình giải quyết trước đó. Do vậy, đây cũng là
quá trình xem xét một cách gián tiếp hoặc trực tiếp về thực hiện các thủ tục hành
chính liên quan đến các quyết định, các hành vi là đối tượng của tố cáo.
Các quy định về thủ tục GQTC bao gồm: (1) quy định về việc tiếp nhận, xử
lý đơn thư tố cáo, trong đó có quy định về tổ chức tiếp công dân và xử lý đơn thư;
quy định điều kiện để đơn thư được thụ lý giải quyết, quy định này cũng đặt ra
những yêu cầu từ phía công dân khi thực hiện QTC trước cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và (2) quy định về thứ tự các bước giải quyết và nội dung công việc của từng
bước trong quá trình GQTC. Giải quyết tố cáo theo thủ tục hành chính có thể được
thực hiện bởi nhiều cơ quan, tổ chức, tuy nhiên, trong quá trình giải quyết đều phải
thực hiện những công việc có tính thứ tự, tương ứng với từng bước giải quyết.
Thứ hai, thủ tục bảo vệ người tố cáo. Thủ tục bảo vệ người tố cáo được quy
định trong các văn bản pháp luật bao gồm trình tự, các bước tiến hành để bảo vệ
người tố cáo, người thân thích của người tố cáo về bí mật thông tin, tính mạng, sức
khỏe, tài sản, uy tín, danh dự và các quyền nhân thân khác. Đồng thời, để đảm bảo
QTC của công dân, cũng đòi hỏi phải có quy định pháp luật về bảo vệ vị trí công
tác, việc làm của người tố cáo, người thân thích của người tố cáo là cán bộ, công
chức, viên chức.
2.2.4 Quy định và thực hiện các quy định về các nguồn lực bảo đảm quyền
tố cáo của công dân
Các nguồn lực BĐQTC của công dân bao gồm đội ngũ cán bộ công chức và
cơ sở vật chất mà Nhà nước xây dựng để tạo điều kiện cho công dân thực hiện có
hiệu quả QTC của mình.
51
Đội ngũ cán bộ, công chức có liên quan đến bảo đảm quyền tố cáo của công
dân khá phong phú, bao gồm những cán bộ, công chức có thẩm quyền trong việc
tiếp nhận đơn thư tố cáo, giải quyết tố cáo, bảo vệ, khen thưởng người tố cáo... Để
việc GQTC được khách quan, công tâm, đúng pháp luật, đòi hỏi cán bộ, công chức
làm công tác này phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về năng lực, trình độ chuyên
môn, trách nhiệm để thực hiện nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn đó phải được
pháp luật quy định để chính thức hóa và mang tính bắt buộc thực hiện.
Các yếu tố liên quan đến cơ sở vật chất, trang thiết bị và các điều kiện cần
thiết khác để phục vụ việc GQTC, bảo vệ, khen thưởng người tố cáo được quy định
cụ thể trong các văn bản pháp luật. Nếu như các điều kiện về cơ sở vật chất như: trụ
sở tiếp công dân, hệ thống máy tính kết nối mạng, phần mềm theo dõi xử lý đơn thư,
nguồn ngân sách cho bảo vệ, khen thưởng người tố cáo.... được đáp ứng đầy đủ thì
sẽ tạo thuận lợi cho công tác giải quyết tố cáo, đồng thời khuyến khích người dân
thực hiện quyền tố cáo
2.2.5 Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân
và xử lý vi phạm quyền tố cáo
Quyền tố cáo được bảo đảm thực hiện khi có cơ chế để bảo đảm thực thi.
Quy định pháp luật về cơ chế bảo đảm thực thi QTC bao gồm các cách thức để
QTC được bảo đảm thực hiện trên thực tế như giám sát, thanh tra, kiểm tra việc
BĐQTC và xử lý hành vi vi phạm quyền tố cáo.
2.2.5.1 Giám sát bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Các quy định về giám sát giúp cho các quy định của pháp luật tố cáo được
thực hiện nghiêm chỉnh. Hoạt động GQTC của cơ quan hành chính là hoạt động
thực hiện quyền lực nhà nước, do có tầm quan trọng đặc biệt trong BĐQTC của
công dân nên nó phải được giám sát chặt chẽ bởi những thiết chế chính trị - xã hội
khác nhau. Giám sát là điều kiện, tiền đề cần thiết cho việc củng cố kỷ luật, kỷ
cương, pháp chế và trật tự xã hội. Khác với hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát
không có mục đích phát hiện và xử lý các vi phạm mà là đưa ra các khuyến cáo,
cảnh báo, góp phần cải thiện trạng thái và hoạt động của cơ quan nhà nước. Hoạt
động giám sát trong BĐQTC của công dân cũng nhằm mục đích khuyến cáo, cảnh
52
báo đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để QTC của công dân được thực
thi trên thực tế. Hiện nay ở một số nước trên thế giới áp dụng nhiều phương thức
giám sát việc thực hiện pháp luật về tố cáo nhưng chủ yếu gồm ba phương thức là:
giám sát chính trị, giám sát nhà nước và giám sát của xã hội. Trong đó giám sát
chính trị là hoạt động kiểm tra, giám sát của đảng cầm quyền. Giám sát nhà nước là
hoạt động giám sát được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, mang tính chất thực
thi quyền lực nhà nước. Do đó, quyền giám sát là một dạng quyền lực nhà nước đặc
biệt. Một mặt nó nhằm đảm bảo quyền lực nhà nước được thực hiện theo pháp luật,
mặt khác nó tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện quyền lực. Chính vì vậy, hoạt
động giám sát nhà nước luôn được pháp luật quy định rất chặt chẽ và thông thường
được ghi nhận trong Hiến pháp, quy định rõ những nguyên tắc trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Chủ thể có chức năng giám sát nhà nước rất đa dạng, có
thể là cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó đặc biệt quan trọng là giám
sát của cơ quan quyền lực nhà nước và giám sát của các cơ quan hành chính cấp
trên thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra trách nhiệm công vụ của cơ quan hành
chính cấp dưới. Giám sát của xã hội đối với việc thực hiện pháp luật về tố cáo là
hoạt động giám sát không mang tính chất thực thi quyền lực nhà nước. Về bản chất,
giám sát của xã hội là một phần trong cơ chế xã hội bảo đảm thực hiện quyền con
người, quyền công dân. Cơ chế này rất đa dạng, phong phú, phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống của mỗi nước… được thực hiện
thông qua nhiều hình thức khác nhau để tham gia vào hoạt động bảo đảm, bảo vệ
quyền con người [109, tr.13].
2.2.5.2 Kiểm tra, thanh tra việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Trong công tác quản lý hay quản lý nhà nước thì không thể thiếu được hoạt
động thanh tra, kiểm tra. Nếu không có thanh tra, kiểm tra thì người quản lý không
nắm được kết quả triển khai thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật do các cơ
quan cấp trên ban hành với cơ quan cấp dưới và với đối tượng quản lý; cũng như
không xác định được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chính
sách. Cũng như vậy, việc kiểm tra, thanh tra trách nhiệm trong việc thực hiện pháp
luật tố cáo sẽ trả lời cho các câu hỏi: các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền GQTC đã
53
tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh hay chưa, còn những tồn tại, thiếu sót gì,
nguyên nhân ở đâu, trách nhiệm thuộc về cơ quan, tổ chức, cá nhân nào, nguyên
nhân do khách quan hay chủ quan, do cơ chế chính sách pháp luật hay do chỉ đạo
điều hành.... trên cơ sở đó đề xuất những biện pháp hợp lý nhằm xử lý các hành vi
sai phạm, khắc phục tồn tại, yếu kém; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế những
văn bản, các quy định không còn phù hợp.
Kiểm tra, thanh tra trách nhiệm trong BĐQTC là việc xem xét, đánh giá, kết
luận việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước trong việc tiếp nhận
đơn thư tố cáo; GQTC; bảo vệ người tố cáo, từ đó có các kiến nghị xử lý, khắc
phục, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động BĐQTC.
2.2.5.3 Xử lý vi phạm quyền tố cáo của công dân
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật của chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý, xâm hại đến những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ, là cơ sở để
xác định trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể đó. Tương ứng với các hành vi vi phạm
pháp luật, Nhà nước đặt ra trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với chủ thể khi vi phạm
các quan hệ xã hội đó. Hiện nay, pháp luật quy định các loại trách nhiệm pháp lý mà
người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật phải gánh chịu: trách nhiệm kỷ luật, trách
nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm bồi thường Nhà nước, trách
nhiệm hình sự. Để bảo đảm thực hiện QTC của công dân thì cần phải phải quy định
chặt chẽ, tổ chức thực hiện nghiêm túc và xử lý nghiêm minh các hành vi tiêu cực, vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực tố cáo. Chế tài xử lý vi phạm pháp luật gắn liền với
cưỡng chế bởi quyền lực nhà nước, đó là hậu quả pháp lý mà các chủ thể trong quan
hệ pháp luật khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của
mình thì phải chịu những hậu quả bất lợi về tài sản, về nhân thân, về tự do.
Việc xử lý người có hành vi vi phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng
cường trật tự kỷ cương pháp luật, là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho các quy định
pháp luật về tố cáo được thực hiện trong thực tiễn, tăng cường pháp chế trong việc
thực thi quy định pháp luật về bảo đảm quyền cơ bản của công dân thể hiện bằng
việc: (1) Giáo dục, răn đe đối với người vi phạm, kể cả từ phía người dân cũng như
cán bộ, công chức. Việc xử lý khách quan, đúng pháp luật có tác dụng tích cực đối
54
với việc phòng ngừa, đấu tranh chống các hành vi vi phạm, đồng thời khuyến khích,
động viên ý thức đấu tranh của nhân dân chống lại các vi phạm pháp luật trong xã
hội; (2) Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
trong việc đảm bảo QTC của công dân như tiếp nhận đơn thư tố cáo, GQTC, thi
hành quyết định xử lý tố cáo; (3) Xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm,
không phân biệt là công dân bình thường hay cán bộ, công chức, đã tạo ra sự bình
đẳng trước pháp luật, góp phần tăng cường trật tự kỷ cương, nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước [77, tr. 21-22].
Pháp luật về xử lý vi phạm QTC quy định việc xử lý với các hành vi như gây
khó khăn, phiền hà đối cho người tố cáo; thiếu trách nhiệm, phân biệt đối xử trong
việc GQTC; làm lộ danh tính của người tố cáo; làm mất, làm sai lệch hồ sơ vụ việc
trong quá trình GQTC; cản trở việc thực hiện QTC; đe dọa, trả thù, trù dập, xúc
phạm người tố cáo; bao che người bị tố cáo; lợi dụng QTC để tuyên truyền chống
Nhà nước, xuyên tạc vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
khác.... chế tài xử lý có thể tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật.
2.2.6 Bảo vệ, khen thưởng người tố cáo
Bảo vệ và khen thưởng người tố cáo sẽ tạo động lực khuyến khích công dân
thực hiện QTC, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của công dân. Việc bảo vệ
người tố cáo được các công ước quốc tế và pháp luật các quốc gia đặc biệt quan tâm.
* Bảo vệ người tố cáo
Bảo vệ người tố cáo được hiểu là tổng thể các biện pháp pháp lý và các hành
động thực tế của Nhà nước nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, bảo vệ công dân với tư cách là
người tố cáo khi có sự xâm hại hay cản trở đối với các quyền cơ bản của họ. Khi
thực hiện QTC, người tố cáo phải đương đầu với những rủi ro do người bị tố cáo
mang lại. Để bảo đảm an toàn cho người tố cáo, nhà nước và xã hội phải có những
thiết chế bảo vệ. Chỉ có Nhà nước mới có đủ điều kiện về nhân lực, vật lực cho việc
bảo vệ người tố cáo và chỉ có Nhà nước mới có quyền ban hành các văn bản pháp
luật quy định vấn đề này.
55
Việc bảo vệ người tố cáo, trước hết, là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
vì đó chính là bảo vệ Hiến pháp, bảo vệ các quyền hiến định, bảo vệ dân chủ; bảo vệ
quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, sức khoẻ, tính mạng, tài sản của
công dân theo hiến định; bảo vệ những người tự nguyện, có công lao đóng góp với
Nhà nước trong phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật; là sự khuyến khích,
huy động người dân trong việc cộng tác với nhà nước phát hiện, xử lý hành vi vi
phạm pháp luật.
Nhà nước bảo vệ người tố cáo qua hai phương thức là sự tác động của dư
luận xã hội, đạo đức, tập quán và pháp luật, trong đó phương thức bảo vệ thông qua
sự tác động pháp luật mang tính chủ đạo và chính thống, là nguyên tắc bắt buộc
chung đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị.
* Khen thưởng người tố cáo
Theo Luật Thi đua khen thưởng năm 2003 thì khen thưởng là việc ghi nhận,
biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá
nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 3). Khen thưởng
là động lực của sự phát triển tích cực, là công cụ quản lý quan trọng, tham gia thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ, khen thưởng để nêu gương, giáo dục đạo đức xã hội.
Nhà nước có những biện pháp nhằm khuyến khích công dân báo cho cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật,
có cơ chế động viên thiết thực cả về vật chất và tinh thần đối với người có thành tích
trong việc tố cáo. Không phải tất cả mọi người tố cáo đều được khen thưởng mà chỉ
những người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức,
cá nhân thì được khen thưởng vật chất và tinh thần.
Việc bảo vệ, khen thưởng người tố cáo được thực hiện bởi nhiều chủ thể có
tính chất, phạm vi ảnh hưởng khác nhau nhưng cùng chung một mục đích là nhằm
bảo đảm quyền tố cáo cũng như nâng cao năng lực quản lý, điều hành, bảo đảm việc
thực hiện các chức trách, nhiệm vụ bảo vệ người tố cáo được đúng đắn, phát hiện
được những hạn chế để có những điều chỉnh kịp thời.
2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Mặc dù QTC là quyền công dân, quyền con người nhưng không phải ở quốc
56
gia nào quyền này cũng được công nhận trong hệ thống pháp luật hoặc được nhà
nước bảo đảm thực hiện, điều này phụ thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội của mỗi quốc gia. Ở nước ta, như đã đề cập ở trên, QTC được coi là
quyền cơ bản của công dân, được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, được Nhà
nước bảo đảm thực hiện. Việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân chịu ảnh hưởng
bởi các yếu tố gắn với việc bảo đảm quyền, đó là:
2.3.1 Yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả bảo đảm quyền tố cáo của
công dân; đó là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chính trị của xã hội, bao gồm môi
trường chính trị, hệ thống các chuẩn mực chính trị, chủ trương, đường lối, chính sách
của đảng cầm quyền và quá trình tổ chức thực hiện chúng; các quan hệ chính trị và ý
thức chính trị; hoạt động của hệ thống chính trị; nền dân chủ xã hội và bầu không khí
chính trị - xã hội. Yếu tố chính trị ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tố cáo của công
dân được thể hiện qua việc Nhà nước thừa nhận quyền tố cáo của công dân; đề cao
vai trò của tố cáo trong tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước; xây dựng pháp luật
và tổ chức thực hiện các quy định đó trên thực tế, đó là việc mở rộng hay thu hẹp
quyền tiếp cận thông tin đối với người dân; quy định về quy trình, thủ tục giải quyết
tố cáo; việc bảo vệ, khen thưởng người tố cáo.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản giữ vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị bằng chủ
trương, chính sách thể hiện qua các cương lĩnh, chiến lược, các định hướng; bằng
công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng
hành động gương mẫu của mỗi đảng viên; cũng như thông qua công tác cán bộ. Yếu
tố chính trị ảnh hưởng đến bảo đảm quyền tố cáo của công dân thể hiện qua sự lãnh
đạo toàn diện của Đảng đối với đất nước, điều này luôn là yếu tố quan trọng trong
việc xây dựng các cơ chế cần thiết cho sự vận hành hiệu quả của các quy phạm
pháp luật về QTC. Đảng sử dụng các nguồn lực sẵn có nhằm mục tiêu bảo đảm
quyền con người nói chung và QTC nói riêng thông qua các chủ trương, quyết sách
ở từng lĩnh vực và mọi mặt của đời sống xã hội theo các giai đoạn khác nhau. Đảng
chủ trương phát huy những nỗ lực mang tính tổng thể của toàn xã hội nhằm bảo
đảm thực hiện có hiệu quả quyền con người, QTC. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm
57
tính hiệu quả của QTC trên thực tế. Quyết tâm chính trị của đảng cầm quyền, giai
cấp lãnh đạo sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng hệ thống pháp luật bảo đảm
cho việc thực hiện quyền tố cáo của công dân. Bên cạnh đó, Nhà nước là hạt nhân
của hệ thống chính trị, giữ vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện thể chế
hóa chủ trương, đường lối của Đảng, đưa đường lối, chủ trương đó được hiện thực
hóa trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành
viên là bộ phận cấu thành hệ thống chính trị; tập hợp, vận động quần chúng tham
gia quản lý nhà nước và xã hội. Hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị
nếu được thực hiện có hiệu quả sẽ là một trong những tiền đề làm hạn chế các điều
kiện phát sinh tố cáo, vừa là điều kiện để công dân thực hiện quyền tố cáo của mình
trên thực tế. Nếu hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động thiếu khoa học,
không hợp lý, không bảo đảm mục tiêu dân chủ, bộ máy Nhà nước tổ chức và hoạt
động kém hiệu quả sẽ phát sinh khiếu nại, tố cáo và ảnh hưởng tiêu cực đến việc
bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
Trong thời gian qua, Đảng đã có nhiều văn bản quan trọng chỉ đạo việc bảo
đảm quyền tố cáo của công dân, tiêu biểu là Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày
21/8/2006 về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí; Kết luận số 21- KL/TW tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Chỉ thị 50-CT/TW ngày
15/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Quy định số 102-QĐ/TW ngày
15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm, Chỉ thị số
27-CT/TW ngày 10/01/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường chỉ đạo của Đảng đối
với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực...., Đảng chỉ đạo Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và tổ chức
thực hiện có hiệu quả nhằm bảo đảm để công dân thực hiện có hiệu quả quyền tố
cáo của mình. Từ đó mà nhiều luật được xây dựng, hoàn thiện mang tính phù hợp,
khả thi hơn để người dân dễ dàng thực hiện các thủ tục tố cáo, giám sát việc giải
quyết tố cáo, yêu cầu được bảo vệ, ... như Luật Tố cáo năm 2011; Luật PCTN sửa
58
đổi bổ sung 2007, 2012; Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,
Luật Tố cáo năm 2018...
Thực tiễn cho thấy việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân góp phần quan
trọng vào việc phòng chống vi phạm pháp luật, đặc biệt là tham nhũng, do đó cần có
nền chính trị ổn định với ý chí chính trị cao, không thể nửa vời, chung chung mang
tính phong trào, hô hào quần chúng. Các nhà lãnh đạo với quyết tâm chính trị cao,
thực hiện một cách quyết liệt bằng cơ chế thực thi cụ thể thông qua việc quy định rõ
ràng trong hệ thống pháp luật về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền,
quy trình, thủ tục, tài chính, nếu không pháp luật sẽ trở nên phản tác dụng.
2.3.2 Yếu tố pháp lý
Pháp luật là yếu tố tiên quyết, cơ bản cho bảo đảm quyền con người, quyền
công dân nói chung, quyền tố cáo nói riêng bởi vì các lý do sau: (1) Pháp luật quy
định, điều chỉnh hành vi của cá nhân, cho phép cá nhân hoạt động trong phạm vi
nhất định một cách tự giác trên cơ sở nhận biết về sự tồn tại của quyền tố cáo, từ đó
thực hiện quyền tố cáo theo nhu cầu và lợi ích cá nhân của mình; (2) Thông qua
pháp luật, nội dung của quyền tố cáo, phương thức thực hiện quyền tố cáo và phạm
vi cụ thể của quyền tố cáo mới được xác định rõ ràng, cụ thể; đồng thời nghĩa vụ
tôn trọng và bảo đảm quyền tố cáo của các chủ thể khác như Nhà nước, các tổ chức
trong xã hội mới được xác định; (3) Pháp luật quy định những giới hạn trong việc
thực hiện quyền tố cáo, tạo cơ sở để xác định rõ trách nhiệm pháp lý của công dân
trong trường hợp họ lợi dụng, lạm dụng quyền. Đồng thời cũng xác định các nghĩa
vụ công dân phải thực hiện như là tiền đề cần thiết để họ thực hiện quyền tố cáo của
mình; (5) Chỉ thông qua pháp luật, hành vi xâm hại quyền tố cáo của công dân bị xử
lý, các quyền, lợi ích khác công dân mới được khôi phục lại, hay nói cách khác
pháp luật là cơ sở để công dân yêu cầu bồi thường thiệt hại do lỗi của các chủ thể
khác [112, tr 123-124].
Các quy định pháp luật về bảo đảm quyền tố cáo của công dân có tính chất
thúc đẩy hoặc kìm hãm việc thực hiện quyền tố cáo. Nếu các quy định này quy định
chặt chẽ, cụ thể về các nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo; trách nhiệm
giải quyết tố cáo của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền; quy định về bảo vệ người tố
59
cáo; trách nhiệm của người tố cáo; quyền của người bị tố cáo.... sẽ tạo điều kiện để
người dân và các cơ quan, có thẩm quyền dễ dàng trong việc thực thi. Những quy
định có tính chất ràng buộc này nhằm tạo ra một trật tự bảo đảm cho công dân thực
hiện quyền tố cáo. Việc quy định cụ thể điều cấm, các hình thức xử lý vi phạm là
những bảo đảm pháp lý vững chắc và có hiệu quả cho việc thực hiện quyền tố cáo
của công dân, cơ quan, tổ chức, góp phần nâng cao tính tích cực của công dân trong
đấu tranh, phòng chống các vi phạm pháp luật, từ đó tăng cường, củng cố pháp chế
xã hội chủ nghĩa và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Mọi hành vi vi phạm bị phát
hiện kịp thời xử lý nghiêm minh sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để các cơ quan, tổ
chức và người dân có thể yên tâm phát huy quyền làm chủ của mình tham gia quản
lý nhà nước, xã hội xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh. Ngược lại,
pháp luật về bảo đảm quyền tố cáo của công dân thiếu rõ ràng, chặt chẽ thì dẫn đến
việc thực hiện kém hiệu quả, hiệu lực. Các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền bảo
đảm quyền tố cáo của công dân có thể thờ ơ, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong
việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo, xử lý các vi phạm về quyền tố
cáo. Dẫn đến việc người dân, các tổ chức xã hội mất niềm tin vào nhà nước, không
cung cấp các thông tin liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật.
2.3.3 Ý thức trách nhiệm của cơ quan nhà nước
Nhà nước tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ quyền tự do của công dân được thể
hiện qua quy định của luật pháp chứ không chỉ mang tính chính trị hay thể hiện đạo
lý. Quyền tố cáo biểu hiện mối quan hệ pháp lý giữa công dân và nhà nước nên
quyền tố cáo được bảo đảm trước hết bằng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan và cán bộ, công chức nhà nước. Nhà nước có ưu thế và
vai trò quyết định, chi phối, định hướng cho hoạt động của mọi chủ thể trong xã hội
nên bảo đảm quyền tố cáo là trách nhiệm của nhà nước. Ý thức trách nhiệm của cơ
quan nhà nước trong bảo đảm quyền tố cáo của công dân được phản ánh thông qua
hoạt động ban hành pháp luật của nhà nước, tổ chức thực hiện pháp luật và ban
hành các chính sách hỗ trợ đối với công dân để họ thực hiện quyền tố cáo.
Một trong những bảo đảm đầu tiên trong ý thức trách nhiệm từ phía cơ quan
nhà nước là quan điểm của nhà nước về pháp luật, thể hiện trong hoạt động xây
60
dựng và thực thi chính sách pháp luật trong đời sống xã hội. Một nhà nước nhận
thức được tính tất yếu cũng như vai trò và ý nghĩa của quyền tố cáo đối với dân chủ
và tiến bộ xã hội sẽ luôn có những động thái tích cực trong việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật BĐQTC của công dân, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc tạo điều kiện
để công dân tiếp cận thông tin, thực hiện quyền dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của chính mình, của cá nhân, tập thể và nhà nước, tham gia quản lý nhà
nước và xã hội; có quy trình, thủ tục giải quyết tố cáo rõ ràng để công dân dễ dàng
thực hiện quyền tố cáo. Nhà nước ban hành pháp luật cụ thể hóa quyền tố cáo để tạo
ra hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và công bằng; phổ biến, tuyên truyền, giáo
dục, giải thích, hướng dẫn thực hiện pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật, văn
hóa pháp lý của các chủ thể trong xã hội, đồng thời pháp luật để bảo đảm quyền tố
cáo của công dân phải xây dựng cơ chế hữu hiệu trong việc bảo vệ người tố cáo, xử
lý nghiêm khắc với các hành vi vi phạm quyền tố cáo...
Ý thức trách nhiệm từ phía cơ quan nhà nước trong quá trình tổ chức thực
hiện QTC trên thực tế quyết định quyền này có thực sự trở thành hiện thực hay
không, đặc biệt là việc các cơ quan có thẩm quyền chủ động thực hiện các biện
pháp bảo vệ người tố cáo cũng như lựa chọn các biện pháp bảo vệ người tố cáo hiệu
quả. Các cơ quan nhà nước cần có sự phối hợp với nhau trong bảo đảm quyền tố
cáo, tổ chức giúp đỡ, hỗ trợ công dân thực hiện quyền. Trong bảo vệ quyền, Nhà
nước ngăn chặn những hành vi xâm hại quyền tố cáo của công dân và xử lý nghiêm
minh những chủ thể vi phạm; tạo ra phương thức, công cụ để công dân bảo vệ các
quyền của mình khi quyền bị xâm hại. Bảo vệ quyền tố cáo bao gồm cả hình thức
xử lý vi phạm quyền tố cáo từ phía nhà nước sao cho mọi hành vi cản trở hay hạn
chế quyền đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Bên cạnh việc tạo ra pháp luật và cơ chế thực hiện, ý thức trách nhiệm từ
phía cơ quan nhà nước về BĐQTC của công dân còn thể hiện trong việc nhà nước
đưa ra các chính sách hỗ trợ công dân cho việc thực hiện quyền tố cáo, đó là các
chính sách hỗ trợ hợp lý về môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội... sẽ là điều kiện
thúc đẩy QTC được thực hiện trong thực tiễn.
61
2.3.4 Ý thức pháp luật của người dân
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan
niệm thể hiện mối quan hệ giữa con người với pháp luật, thể hiện sự đánh giá về
tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, cũng như
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội [24,
tr.421]. Trong bảo đảm thực hiện QTC, ý thức pháp luật giữ vai trò quan trọng, bảo
đảm thúc đẩy và thực hiện QTC trong thực tế, tức là bảo đảm tính thực thi của các
quy phạm pháp luật về QTC. Việc đạt được mục đích này phụ thuộc vào hai chủ thể
chính là nhà nước với vai trò chủ thể ban hành pháp luật và chủ thể thứ hai là người
dân với tư cách là chủ thể thực hiện, chủ thể thụ hưởng quyền. Từ đây cho thấy, ý
thức pháp luật về BĐQTC sẽ bao gồm ý thức pháp luật của người dân và nhận thức
trách nhiệm từ phía cơ quan nhà nước về vấn đề này. Ý thức pháp luật của hai chủ
thể nêu trên sẽ có những cách tác động khác nhau đến hiệu quả thực thi QTC trên
thực tế.
Ý thức pháp luật của người dân trong BĐQTC được hiểu là quan điểm, tình
cảm của người dân đối với pháp luật về QTC, bao gồm ý thức trong việc nhận biết
quyền, thụ hưởng quyền và bảo vệ quyền. Sự nhận thức rõ về quyền cũng như nội
dung của quyền là yếu tố đầu tiên và quan trọng bảo đảm khả năng thụ hưởng
quyền của người dân. Người dân có thể biết được rằng mình có hay không có nhu
cầu sử dụng đến quyền này chỉ khi họ nhận thức được sự tồn tại của quyền. Ngoài
ra, trong quá trình thụ hưởng quyền, khi gặp phải những trở ngại, xâm phạm từ các
chủ thể khác, người dân cũng cần phải có ý thức bảo vệ quyền. Ý thức pháp luật của
người dân trong BĐQTC liên quan đến sự hiểu biết pháp luật của người dân, yếu tố
tâm lý và văn hóa cộng đồng.
Mặt khác, chính sự thiếu hiểu biết, hạn chế về học vấn và văn hóa là rào cản
đối với các cá nhân trong việc thực hiện các quyền của mình. Có tri thức về pháp
luật, công dân tích cực tham gia nhiều hơn vào quản lý nhà nước và xã hội, đồng
thời hiểu rõ mối quan hệ cá nhân và nhà nước, tạo cơ sở cho thực hiện các quyền và
tự do hiến định của mình. Tâm lý ngại va chạm và thiếu tin tưởng vào cơ quan thực
thi pháp luật của người dân đã ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện QTC của họ.
62
Người tố cáo dù là tố cáo đúng hay tố cáo sai đều phải có sự hợp tác với cơ quan
công quyền. Mặc dù quyền lợi bị xâm phạm nhưng do tâm lý ngại tiếp xúc với cơ
quan nhà nước, nhiều người đã phải cố chịu đựng, bỏ qua mà không dám thực hiện
QTC của mình. Trong nhiều trường hợp, người tố cáo còn bị chính những người
tiếp nhận, GQTC dọa nạt khiến họ phải rút đơn không tố cáo nữa. Khi người bị tố
cáo không bị kết luận, xử lý một cách khách quan, đúng đắn sẽ có tác hại lớn cho
người tố cáo. Người tố cáo có thể bị quy kết là vu khống, chống phá, gây mất đoàn
kết. Trong một số trường hợp người bị tố cáo không những không bị xử lý mà còn
được thăng chức, còn người tố cáo bị trù dập, kỷ luật, thậm chí là bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Văn hóa của người Việt theo hướng "đóng cửa bảo nhau", không thích "vạch
áo cho người xem lưng" nên nhiều người Việt Nam không thích tố cáo, người tố cáo.
Chính vì vậy, người tố cáo thường bị coi là người gây mất đoàn kết nội bộ. Nhiều
người dân, cán bộ, công chức không vượt qua được sự xa lánh, cô lập, kỳ thị nên
không dám đứng ra tố cáo những người xung quanh trong cộng đồng dân cư, đồng
nghiệp hay lãnh đạo cơ quan.
Như vậy, trình độ văn hóa, ý thức pháp luật của người tố cáo, việc nhìn nhận
và đánh giá tiêu cực của cộng đồng xã hội, của tổ chức về người tố cáo là rào cản
đối với việc thực hiện QTC của người dân. Đồng thời, điều này cũng gây khó khăn
cho việc bảo vệ người tố cáo.
2.3.5 Yếu tố nguồn nhân lực và cơ sở vật chất
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân có được thực hiện tốt hay không phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện về nguồn nhân lực và cơ sở vật chất.
Nguồn nhân lực chính là số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác liên quan đến BĐQTC. Đội ngũ này có ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thực hiện quyền tố có của công dân. Đó là những cán bộ, công chức làm công
tác xây dựng pháp luật tố cáo; tuyên truyền, phổ biến pháp luật tố cáo; tiếp nhận
đơn thư tố cáo; giải quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo... Yêu cầu đối với nguồn nhân
lực làm công tác này là am hiểu pháp luật nói chung và pháp luật tố cáo nói riêng; ý
thức được giá trị của QTC, khách quan, công tâm, có tinh thần trách nhiệm.
63
Bên cạnh yếu tố nguồn nhân lực, yếu tố cơ sở vật chất cũng đóng vai trò
quan trọng đến đảm bảo QTC của công dân, bao gồm: cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ cho công tác tiếp dân tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đến tố cáo, để
người GQTC xử lý thông tin, xác minh nội dung tố cáo kịp thời, chính xác, đúng
pháp luật; trang thiết bị và nguồn tài chính bảo đảm cho việc bảo vệ, khen thưởng
người tố cáo. Ngoài ra, cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ đặc thù để thu hút cán bộ
giỏi, động viên cán bộ yên tâm khi làm công tác liên quan đến BĐQTC để họ nâng
cao trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ .
Thực tiễn đã chứng minh tầm quan trọng của yếu tố con người và cơ sở vật
chất trong vấn đề thực thi công vụ, khi có đầy đủ các yếu tố quyết tâm chính trị và
pháp luật đầy đủ nhưng đội ngũ cán bộ năng lực yếu, thiếu trách nhiệm, không đủ
các điều kiện về cơ sở vật chất cho cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ, không đủ
tài chính để bảo vệ người tố cáo thì người tố cáo sẽ không mặn mà với việc phát
hiện, cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước về các vi phạm pháp luật, đặc biệt là
hành vi tham nhũng.
Kết luận Chương 2
Tố cáo thể hiện quyền tự do ngôn luận và tính dân chủ của một nhà nước,
đồng thời phát huy ý thức trách nhiệm của công dân đối với nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên để quyền tố cáo được thực hiện trên thực tế thì pháp luật phải ghi nhận
quyền, quy định các biện pháp, cách thức để người dân thực hiện quyền tố cáo trong
hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện trên thực tế các biện pháp, cách thức đó;
pháp luật phải là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ QTC
của công dân, tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Khi đó mọi chủ thể phải có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm thực hiện quyền tố cáo, có như vậy người dân mới có thể được hưởng thụ
quyền của mình trên thực tế.
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân có vai trò quan trọng đối với cả cá nhân
và Nhà nước, thể hiện: BĐQTC của công dân góp phần bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, giúp mọi cá nhân trong xã hội bảo vệ được quyền, lợi ích
hợp pháp của mình; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; là công cụ hữu hiệu
64
trong cuộc chiến chống tham nhũng và các vi phạm pháp luật khác; góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng
tăng cường tính công khai, minh bạch, xử lý nghiêm minh, có hiệu quả các hành vi
vi phạm pháp luật.
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân chịu tác động của nhiều yếu tố, như yếu
tố chính trị, yếu tố pháp lý, ý thức trách nhiệm của cơ quan nhà nước, ý thức pháp
luật của người dân, yếu tố nguồn nhân lực và cơ sở vật chất... các yếu tố này tác
động mang tính tích cực hoặc tiêu cực, do đó để việc BĐQTC của công dân được
thuận lợi thì cần quan tâm đến các yếu tố này để phát huy tính tích cực, giảm tính
tiêu cực trong từng yếu tố.
65
Chương 3
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Quá trình hình thành và phát triển của bảo đảm quyền tố cáo của
công dân theo pháp luật Việt Nam
3.1.1 Giai đoạn trước khi có Luật Tố cáo năm 2011
Quyền tố cáo là quyền hiến định, pháp luật tố cáo là một bộ phận của hệ thống
pháp luật quốc gia nên có thể xem xét sự hình thành và phát triển của pháp luật tố
cáo theo các giai đoạn tương ứng với thời gian có hiệu lực của các bản Hiến pháp
và văn bản chủ đạo về tố cáo để thấy được sự hình thành và phát triển của pháp luật
về BĐQTC của công dân ở nước ta. Như vậy, có thể chia pháp luật về tố cáo thành
hai giai đoạn: (1) Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1980 (Hiến pháp năm 1946,
Hiến pháp năm 1959); (2) Giai đoạn từ năm 1980 đến 2011 (Hiến pháp năm 1980
và Pháp lệnh quy định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1981;
Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991; Hiến pháp năm 1992 và Luật
khiếu nại, tố cáo năm 1998 qua các lần sửa đổi, bổ sung).
3.1.1.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1980
Từ những ngày đầu xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chú ý đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân, thể hiện
qua việc ký Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt,
hai tháng sau khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sắc lệnh xác định:
“Chính phủ sẽ thành lập ngay một ban Thanh tra đặc biệt có uỷ nhiệm là nhận đơn
khiếu nại của nhân dân, điều tra hội chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của uỷ ban
nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho việc giám sát”. Và hơn
một năm sau ngày Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa đã được QH thông qua. Ngay tại Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946
đã xác định ba nguyên tắc xây dựng Hiến pháp, trong đó khẳng định "Hiến pháp
phải đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân dân". Trên cơ sở đó, ngày
25/5/1946, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 203 NV/VP nêu rõ những nguyên tắc
66
và cách thức gửi đơn khiếu tố đến cơ quan nhà nước.
Như vậy, mặc dù Hiến pháp năm 1946 chưa có điều khoản cụ thể quy định
QTC, BĐQTC của công dân nhưng đã tạo dựng nền tảng cơ bản hình thành QTC và
trách nhiệm của Nhà nước trong việc BĐQTC của công dân được thực hiện trên
thực tế, thông qua việc ghi nhận các quyền cơ bản của công dân, cùng với một thiết
chế Nhà nước bảo đảm các quyền cơ bản đó. Điều này đã gián tiếp khẳng định
quyền năng chủ thể tố cáo của công dân cũng như trách nhiệm bảo đảm thực hiện
của các cơ quan nhà nước.
Ngày 13/09/1958, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 436/TTg quy
định trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chính quyền trong việc giải
quyết các loại thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Thông tư quy định: “Nghiên cứu
và giải quyết các việc khiếu nại và tố giác của nhân dân là một trách nhiệm quan
trọng của tất cả các cơ quan nhà nước các cấp trước nhân dân. Giải quyết tốt, kịp
thời thư khiếu tố của nhân dân là biểu thị tinh thần phụ trách của các cơ quan nhà
nước trước nhân dân, là thiết thực bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân,
thỏa mãn những yêu cầu thiết thân của nhân dân; nhờ đó, mối liên hệ giữa Nhà
nước và nhân dân sẽ được tăng cường”.
Ngay sau đó, Hiến pháp năm 1959 đã chính thức ghi nhận QTC và trách
nhiệm GQTC của cơ quan nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền trong việc bồi thường cho người bị thiệt hại từ hành vi vi phạm pháp luật của
nhân viên cơ quan nhà nước tại Điều 29: "Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà có quyền khiếu nại, tố cáo bất cứ cơ quan nhà nước nào về những hành vi vi
phạm pháp luật của nhân viên cơ quan nhà nước. Những khiếu nại, tố cáo phải
được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi vi phạm pháp
luật của nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường”.
Có thể nói, Hiến pháp năm 1959 đã có những quy định cụ thể về việc bảo
đảm quyền tố cáo của công dân qua việc công nhận và quy định QTC của công dân.
Để cụ thể hóa và thi hành Hiến pháp năm 1959, Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản nhằm bảo đảm cho công dân thực hiện QTC, cũng như quy định cụ thể trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết đơn tố cáo của công dân. Đó
67
là: (1) Thông tư số 436/TTg ngày 13/9/1958 của Thủ tướng Chính phủ về trách
nhiệm, quyền hạn và tổ chức của các cơ quan chính quyền trong giải quyết các loại
đơn thư khiếu nại, tố giác (gọi tắt là khiếu tố) trong đó quy định rõ quyền hạn,
nhiệm vụ của nhân dân trong việc khiếu tố; một số nguyên tắc phân định trách
nhiệm của các cơ quan trong việc giải quyết đơn thư khiếu tố, thái độ đối với những
trường hợp khiếu tố sai, vu khống và thư nặc danh; (2) Nghị quyết số 164/CP ngày
31/8/1970 của Hội đồng Chính phủ về tăng cường công tác thanh tra, chấn chỉnh hệ
thống cơ quan thanh tra Nhà nước xác định nhiệm vụ của Thanh tra là: xét, giải
quyết và đôn đốc việc xét, giải quyết đúng đắn, kịp thời các vụ khiếu nại, tố cáo của
nhân dân. Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng yêu cầu: đối với cán bộ, công nhân viên
chức nhà nước, xã viên hợp tác xã và nhân dân nói chung cần bảo đảm quyền khiếu
nại, tố cáo của công dân, không được làm bất kỳ việc gì gây trở ngại cho việc thực
hiện quyền ấy; thủ trưởng các cơ quan nhà nước phải hết sức coi trọng xét và giải
quyết nhanh chóng, hợp tình, hợp lý đơn từ của nhân dân...
Ở giai đoạn này, quyền tố cáo lần đầu tiên được Hiến pháp ghi nhận là một
trong những quyền cơ bản của công dân, đây là cơ sở để công dân thực hiện quyền
hiến định của mình, đồng thời thể hiện sự ghi nhận của Nhà nước về vai trò của tố
cáo trong quản lý nhà nước và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm QTC
của công dân.
3.1.1.2 Giai đoạn từ năm 1980 đến trước khi có Luật Tố cáo năm 2011
Sau khi đất nước được thống nhất, Hiến pháp năm 1980 ra đời, Điều 54 Hiến
pháp nêu trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện các quyền công dân:
"....Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của
mình đối với Nhà nước và xã hội".
Hiến pháp cũng quy định về QTC của công dân tại Điều 73 cụ thể, chi tiết hơn
so với các bản Hiến pháp trước đây. So với Hiến pháp 1959, việc BĐQTC của công
dân quy định tại Hiến pháp 1980 có nhiều tiến bộ, thể hiện ở việc mở rộng đối
tượng bị tố cáo và quy định về bồi thường, bảo vệ người tố cáo. Việc BĐQTC cho
người dân ở Hiến pháp 1980 còn thể hiện ở các điều 94, 119, 123, quy định về
nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và UBND trong việc
68
xem xét và giúp giải quyết những tố cáo của nhân dân.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1980 và tình hình thực tế vấn đề tố
cáo của công dân, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh quy định việc xét và
giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân ngày 27/11/1981. Ngay sau đó, Hội
đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 58/HĐBT ngày 29/3/1982 và Ủy ban
Thanh tra của Chính phủ đã ban hành Thông tư số 02/TT ngày 4/5/1982 để cụ thể
hóa và hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh xét và giải quyết các khiếu nại tố cáo của
công dân năm 1981. Pháp lệnh này ra đời đã đánh dấu một bước quan trọng. Lần
đầu tiên, việc BĐQTC của công dân được quy định riêng trong một văn bản pháp
luật, theo đó, công dân có QTC với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc
làm trái chính sách, pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, văn hoá, xã
hội và đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan và
tổ chức đó làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính
đáng của công dân; cơ quan nhà nước có nghĩa vụ, trách nhiệm xem xét, GQTC của
công dân. Điều này bảo đảm sự bình đẳng của công dân trước pháp luật cũng như
tạo điều kiện để các bên có cơ sở thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình trong
quá trình giải quyết vụ việc.
Từ những đòi hỏi của tình hình mới, ngày 07/5/1991, Hội đồng Nhà nước
ban hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân, thay thế Pháp lệnh quy định
việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1981. Pháp lệnh mới
này đã cụ thể hóa phạm vi và đối tượng tố cáo, quy định các cơ quan thanh tra là
một cấp GQTC, đồng thời tiếp tục ghi nhận bảo đảm cho công dân thực hiện QTC
như việc giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và xử lý các hành vi
trù dập, trả thù người tố cáo... Sau đó, ngày 28/2/1992 Hội đồng Bộ trưởng ban
hành Nghị định số 38/HĐBT về việc thi hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công
dân; Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 18/TTg ngày 25/1/1993 về việc tăng
cường công tác tiếp dân và Chỉ thị số 85/TTg ngày 25/1/1995 về tăng cường công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ...
Năm 1992, Nhà nước ban hành Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp năm 1980.
Tại Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định về việc công dân có quyền tố cáo; các
69
cơ quan nhà nước có trách nhiệm xem xét, giải quyết tố cáo; người bị hại có quyền
được bồi thường; và nghiêm cấm việc trả thù người tố cáo hoặc lợi dụng quyền tố
cáo để làm hại người khác. Đồng thời, Điều 50, 51 đã quy định trách nhiệm tôn
trọng, bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền công dân của Nhà nước.
Một lần nữa, việc BĐQTC của công dân tiếp tục được khẳng định và hoàn
thiện hơn so với các bản Hiến pháp trước đó theo hướng: (1) Công dân có QTC với
"cơ quan nhà nước có thẩm quyền" chứ không phải là với "bất cứ cơ quan nhà
nước nào" như các bản Hiến pháp năm 1959, 1980. Quy định này đã thể hiện sự
phân định rõ thẩm quyền trong thụ lý và GQTC của công dân, tạo điều kiện để công
dân gửi đơn thư đến đúng địa chỉ giải quyết, góp phần bảo đảm bí mật thông tin
người tố cáo; (2) Thời hạn GQTC của cơ quan nhà nước được định lượng "trong
thời hạn pháp luật quy định" chứ không còn chung chung như trước đây; (3) Quy
định quyền đi đôi với nghĩa vụ khi nghiêm cấm công dân lợi dụng QTC để vu
khống, vu cáo làm hại người khác. Quy định này thực sự là một bước tiến mới bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền tự do dân chủ của nhân dân nói
chung và QTC nói riêng; (4) Quy định cấm trả thù người tố cáo, đây là lần đầu tiên
việc nghiêm cấm trả thù người tố cáo được đề cập trong Hiến pháp.
Để tăng cường BĐQTC của công dân, góp phần phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, ngày 02/12/1998, Luật Khiếu nại, tố cáo được
ban hành, thay thế Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo năm 1991. Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998 đã tạo ra cơ chế bảo đảm thực hiện QTC của công dân một cách hữu hiệu
hơn, đáp ứng được đòi hỏi bức thiết về công tác GQTC trong giai đoạn thực hiện
mục tiêu chiến lược phát triển của đất nước trong 10 năm (2001- 2010) mà Đại hội
Đảng lần thứ IX đã đề ra.
Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 được cụ thể hóa bằng Nghị định số 67/1999
NĐ-CP ngày 7/8/1999 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
khiếu nại, tố cáo; Nghị định số 62/2002/NĐ-CP ngày 14/6/2002 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 67/1999/NĐ-CP.
Cùng với Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
70
đổi, bổ sung năm 2009), Luật phòng chống ma túy năm 2000 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2008), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995 (sửa đổi, bổ sung năm
2008), Luật an ninh Quốc gia năm 2004, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm
2004, Luật phòng chống tham nhũng 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2007 và năm
2012).... và nhiều văn bản pháp quy khác, đều đưa ra những quy định liên quan đến
tố cáo và giải quyết tố cáo, điều này đã dần tạo nên hệ thống pháp luật khá toàn diện
để BĐQTC của công dân.
Ngoài việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, Việt Nam còn gia nhập
Công ước về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc vào năm 1982; phê
chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng năm 2009. Những
công ước quốc tế này đã tạo cơ sở thúc đẩy cho việc hoàn thiện các quy định pháp
luật trong nước về bảo đảm trên thực tế các quyền con người, quyền công dân nói
chung và các quyền dân sự - chính trị, trong đó có QTC nói riêng.
Như vậy, có thể khẳng định trong giai đoạn này, quy định về BĐQTC của
công dân đã có bước phát triển hơn so với giai đoạn trước, vấn đề tố cáo và BĐQTC
của công dân đã được thể hiện trong một đạo luật riêng. Quyền tố cáo của công dân
đi liền với nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tiếp nhận,
giải quyết đơn thư tố cáo, bảo vệ, khen thưởng người tố cáo, kiểm tra, giám sát pháp
luật tố cáo, xử lý các vi phạm QTC.
3.1.2 Giai đoạn từ khi có Luật Tố cáo năm 2011 đến nay
Nhằm thể chế hóa QTC của công dân, tăng cường việc bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân và khắc phục những hạn chế của Luật Khiếu nại, tố cáo
năm 1998, năm 2011 Luật Tố cáo và Luật Khiếu nại được tách ra thành hai luật độc
lập. Luật Tố cáo năm 2011 đã quy định cụ thể và đầy đủ hơn việc bảo đảm quyền tố
cáo của công dân qua những quy định về QTC, quyền và nghĩa vụ của người tố cáo,
người bị tố cáo, người GQTC, hình thức tố cáo, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tiếp nhận, GQTC; về bảo vệ
người tố cáo và xử lý vi phạm trong công tác GQTC... Để thuận lợi cho người dân
thực hiện QTC và giám sát việc GQTC của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm
quyền, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản như: Nghị định
71
số 76/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo; Thông tư
số 06/2013/TT-TTCP quy định quy trình GQTC; Thông tư số 07/2014/TT-TTCP
quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh; các bộ
ngành khác cũng có quy định cụ thể hóa việc GQTC của ngành mình như: Nghị
định số 91/2013/NĐ-CP quy định về tố cáo và GQTC trong Công an nhân dân;
Nghị định số 220/2013/NĐ-CP quy định về tố cáo và GQTC trong Quân đội nhân
dân; Thông tư số 40/2013/TT-BGDĐT quy định về tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, GQTC của Bộ Giáo dục và Đào tạo; Thông tư số 03/2016/TT-BTTTT quy định
về tiếp công dân, xử lý và giải quyết đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản
ánh của Bộ Thông tin và Truyền thông ... Có thể thấy hệ thống văn bản pháp quy về
GQTC rất đa dạng, điều này góp phần vào việc BĐQTC của công dân.
Sự ra đời của Luật Tố cáo năm 2011 cũng như việc hoàn thiện các văn bản
pháp luật khác có liên quan đã tạo hành lang pháp lý để công dân thực hiện QTC,
giúp các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kịp thời phát hiện và xử lý đối với hành vi
vi phạm pháp luật nói chung, hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ và các hành vi vi phạm phạm luật của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Đặc biệt, quy định
cơ chế bảo vệ người tố cáo và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý
công tác GQTC đã thể hiện sâu sắc nhất việc BĐQTC của công dân trong Luật Tố cáo
năm 2011 [83].
Ngoài Luật Tố cáo năm 2011, việc BĐQTC của công dân còn được quy định
trong một số các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật hình sự năm 2015,
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 sửa đổi,
bổ sung năm các 2007, 2012 .... và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này.
Ở giai đoạn này, vấn đề BĐQTC của công dân tiếp tục được Nhà nước quan
tâm, thể hiện không chỉ trong Luật Tố cáo mà còn trong nhiều đạo luật chuyên
ngành khác, thành hệ thống quy phạm, đặc biệt là việc bảo vệ người tố cáo đã được
quy định chi tiết và chặt chẽ hơn, khuyến khích và tạo điều kiện để người dân thực
hiện quyền tố cáo trên thực tế,
Tuy nhiên, qua hơn bốn năm triển khai thực hiện cho thấy Luật Tố cáo năm
72
2011 có một số hạn chế, bất cập và để thể chế hóa những điểm mới trong Hiến pháp
2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân, cũng như để phù hợp với các
luật khác mới được sửa đổi, bổ sung, tại kỳ họp thứ V, Quốc hội khóa XII đã thông
qua Luật Tố cáo năm 2018, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019. Luật Tố cáo năm 2018
đã khắc phục được nhiều bất cập của Luật Tố cáo năm 2011, tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho người dân thực hiện QTC, thể hiện ở việc xác định rõ hơn trách nhiệm của
các tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong việc GQTC, bảo vệ người tố cáo; quy
định chặt chẽ, cụ thể hơn về trình tự, thủ tục GQTC; việc bảo vệ người tố cáo được
quy định rõ ràng hơn, có tính khả thi hơn....
Nhận xét chung về quá trình hình thành và phát triển của bảo đảm quyền tố
cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam
Trên cơ sở phân tích các quy định của Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980,
1992 và các văn bản pháp luật chủ đạo về tố cáo, có thể thấy quá trình hình thành và
phát triển của bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam như sau:
Thứ nhất, bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam ngày
càng hoàn thiện và gắn liền với quá trình hoàn thiện các thể chế cơ bản về quyền
con người, quyền cơ bản của công dân trên cơ sở các quy định của Hiến pháp các
năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân từ chỗ chỉ được đề cập đến trong Lời nói
đầu của Hiến pháp năm 1946, đến khi được quy định trong các văn bản pháp luật
như Thông tư, Nghị quyết, Pháp lệnh, Luật, đặc biệt quy định trong một luật độc lập
là Luật Tố cáo và trong một điều khoản cụ thể của Hiến pháp đã thể hiện sự quan
tâm, coi trọng của Đảng và Nhà nước ta đối với việc bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân nói chung và quyền tố cáo nói riêng, thể hiện sự hoàn thiện của
pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Các quy định về quyền con người, quyền công dân nói chung cũng như quy
định về QTC nói riêng được bổ sung, hoàn chỉnh cùng với quá trình hoàn thiện
Hiến pháp và hệ thống pháp luật, bảo đảm ngày càng sâu, rộng vai trò của pháp luật
đối với đời sống xã hội, phù hợp với tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đồng thời, việc quy
73
định trách nhiệm của Nhà nước, vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội trong việc
bảo đảm thực hiện QTC của công dân cũng được phát triển, hoàn thiện qua các thời
kỳ lịch sử theo hướng tăng dần trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội với việc GQTC, giám sát thực hiện pháp luật tố
cáo, xử lý các hành vi vi phạm QTC, bảo vệ khen thưởng người tố cáo...
Thứ hai, bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam hình
thành và phát triển gắn liền với quá trình phát triển và mở rộng dân chủ trong đời
sống xã hội.
Công dân sử dụng QTC với tính chất là quyền cơ bản, thực hiện quyền dân
chủ trực tiếp, phản hồi với các hoạt động hàng ngày của bộ máy quản lý nhà nước.
Thực hiện QTC là công dân đã tham gia vào quá trình kiểm tra, giám sát xã hội,
giám sát Nhà nước. Do đó, quy định về tố cáo gắn liền với tiến trình dân chủ hóa
của đời sống chính trị xã hội. Có thể thấy QTC của công dân được quy định và bảo
đảm thực hiện trong thực tế là bậc thang đánh giá về nhà nước dân chủ.
Quyền tố cáo là biểu hiện rất đặc thù của hình thức dân chủ trực tiếp. Sự kiểm
tra, giám sát của công dân đối với Nhà nước thông qua con đường tố cáo mang tính
chủ động từ phía công dân, do công dân khởi sự. Thực hiện QTC, công dân vừa tự
bảo vệ mình, vừa đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật thông qua việc chủ
động phát hiện và thông báo với các cơ quan nhà nước về những hành vi này.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, dân chủ được mở rộng, nhiều quy định
mới về công khai hóa thông tin là điều kiện bảo đảm cho các quy định của pháp luật
tố cáo được thực hiện. Thực tế công tác BĐQTC của công dân cho thấy đây là một
vấn đề hết sức nhạy cảm, phản ánh trực diện, hai chiều về mối quan hệ giữa nhà
nước và công dân. Thực hành dân chủ và QTC đã tạo nên một hệ thống kiểm soát
rộng rãi, một hệ thống báo động dự phòng thường trực trong xã hội.
Thứ ba, bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam phát
triển gắn liền với việc ý thức pháp luật của công dân được nâng cao.
Ý thức pháp luật của công dân tuy không được quy định trong hệ thống pháp
luật nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện pháp luật về tố cáo. Nhà nước có
trách nhiệm bảo đảm thực hiện QTC của công dân nhưng trách nhiệm đó thường
74
được thực hiện khi có yêu cầu của công dân. Về phía mình, công dân cũng chỉ có thể
yêu cầu Nhà nước bảo đảm thực hiện QTC của mình trên cơ sở pháp luật. Người
dân phải nhận thức được sự tồn tại của quyền nói chung và quyền tố cáo nói riêng
thì họ mới có thể biết được mình có hay không có nhu cầu sử dụng đến quyền này.
Cùng với sự phát triển về kinh tế, văn hóa, ý thức pháp luật của người dân
được nâng cao rõ rệt qua các giai đoạn lịch sử. Người dân từ chỗ chưa biết hoặc biết
ít về QTC, đến chỗ yêu cầu được Nhà nước, thông qua các cơ quan có thẩm quyền
bảo đảm cho mình thực hiện QTC. Ngày nay, bên cạnh việc tố cáo, người dân còn
tham gia giám sát GQTC, yêu cầu được bảo vệ khi thực hiện quyền tố cáo, thậm chí
tham gia xây dựng pháp luật về tố cáo.
3.2 Thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân được quy định trong
hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
3.2.1 Ghi nhận quyền tố cáo của công dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Hiến pháp năm 2013 là văn bản pháp lý cao nhất hiện nay của nước ta ghi nhận
về QTC của công dân và thiết lập cơ chế bảo đảm của Nhà nước đối với việc thực
hiện quyền này, thể hiện tại Điều 30. Việc ghi nhận QTC của công dân trong Hiến
pháp năm 2013 đã tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản của mình,
là phương tiện để bảo đảm cho việc thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của công dân, lợi ích của Nhà nước và lợi ích xã hội. Việc BĐQTC của công dân
trong Hiến pháp năm 2013 được thể hiện ở những nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, Nhà nước ghi nhận QTC là một quyền cơ bản, quyền dân chủ của
công dân. Người dân thực hiện QTC là thực hiện quyền dân chủ, thực hiện quyền
giám sát của nhân dân đối với bộ máy nhà nước.
Thứ hai, Nhà nước BĐQTC của công dân được thực thi trên thực tế bằng
việc quy định thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tiếp
nhận tố cáo, GQTC, giám sát việc GQTC, bảo vệ, khen thưởng người tố cáo, xử lý
vi phạm QTC... và quyền, nghĩa vụ của người tố cáo, của các cá nhân có liên quan.
Thứ ba, Nhà nước bảo vệ người dân khi thực hiện QTC trước các hành động
trả thù, trù dập của người bị tố cáo hoặc những người có liên quan. Đồng thời, Nhà
nước cũng nghiêm cấm việc lợi dụng QTC để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
75
(Xem Phụ lục 1).
Việc quy định những nội dung trên của Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam
cũng tương đồng với quy định về quyền tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo trong Hiến
pháp một số nước, như Hiến pháp Ai Cập năm 1971, Điều 68 quy định "Quyền kiện
tụng được bảo đảm và không thể xâm phạm đối với bất cứ ai", Điều 57: "bất cứ ai
xâm lấn tự do cá nhân hoặc quyền bất khả xâm phạm cuộc sống riêng tư của công
dân và bất kỳ quyền và tự do công cộng khác được đảm bảo bởi Hiến pháp và pháp
luật đều bị coi là tội phạm" [135]. Hay trong Hiến pháp Trung Quốc năm 1982, tại
Điều 41 quy định: "cơ quan nhà nước có liên quan có trách nhiệm giải quyết các
khiếu nại, tố cáo hoặc khiếu kiện của công dân sau khi thẩm định sự thật. Các công
dân bị thiệt hại do các quyền dân sự bị xâm phạm bởi bất kỳ cơ quan hoặc công
chức nhà nước nào đều có quyền được bồi thường theo quy định của pháp luật"
[135]. Hiến pháp Venezuela năm 1999 quy định các cơ quan có thẩm quyền cần có
những phản ứng kịp thời và đầy đủ với việc khiếu kiện, người vi phạm quyền này sẽ
bị trừng phạt (Điều 51) [137].
Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện QTC của công dân sẽ là cơ sở và nền
tảng quan trọng, căn bản cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác của công
dân. Đồng thời, khi các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền giải quyết các tố
cáo của công dân đúng pháp luật, khôi phục kịp thời quyền lợi của người dân, xử lý
nghiêm minh những vi phạm sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm cho mối quan
hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày càng gắn bó bền chặt hơn. Do đó,
ngoài việc ghi nhận QTC, Nhà nước cũng quy định các biện pháp bảo đảm, bảo vệ,
thúc đẩy việc thực hiện quyền này trên thực tế của người dân.
Bên cạnh Hiến pháp năm 2013, hiện nay quyền của người tố cáo còn được
quy định trong Luật Tố cáo năm 2011, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung
năm 2017, Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật
MTTQ Việt Nam năm 2015, Luật Hoạt động giám sát của QH và Hội đồng nhân
dân năm 2015, Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi bổ sung các năm
2007, 2012 ... và các văn bản hướng dẫn thi hành và gần đây nhất, Quốc hội thông
76
qua hai luật là Luật Tố cáo năm 2018, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018,
trong đó các quy định trong Luật Tố cáo năm 2011 và các văn bản hướng dẫn của
Luật này; các quy định trong Luật Tố cáo năm 2018 có hiệu lực từ ngày 01/01/2019
là hệ thống và đầy đủ nhất về BĐQTC của công dân, là cơ sở pháp lý để BĐQTC
của công dân được thực hiện trên thực tế (Xem Phụ lục 2).
Như vậy, pháp luật hiện hành của nước ta đã ghi nhận QTC của công dân và
việc bảo đảm thực hiện quyền này trong Hiến pháp và pháp luật, thể hiện qua việc
quy định về quyền và cách thức bảo đảm, bảo vệ khi người dân thực hiện QTC,
đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện để công dân thực hiện một cách đầy đủ,
đúng đắn các quyền này, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân.
3.2.2 Thực trạng về trách nhiệm, thẩm quyền của tổ chức, cá nhân bảo đảm
quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam
Trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện QTC của công dân
được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Đó là cơ sở quan
trọng để xây dựng và ban hành các quy trình, thủ tục pháp lý cần thiết nhằm bảo
đảm thực hiện quyền tố cáo có hiệu quả; kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp
luật trong việc thực hiện QTC; tạo các nguồn lực cần thiết để các chủ thể tham gia,
hỗ trợ trong việc thực hiện QTC của công dân.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định tại Điều 3: "Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân; ....". Như vậy, Hiến pháp đã chỉ rõ trách nhiệm BĐQTC của
công dân thuộc về Nhà nước.
Bên cạnh đó, pháp luật về tố cáo cũng khẳng định về trách nhiệm BĐQTC
của công dân qua việc quy định:
(1) Trách nhiệm trong việc quản lý công tác GQTC thuộc về Chính phủ,
Thanh tra Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp; Thanh tra Bộ, Thanh
tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện ....
(2) Trách nhiệm phối hợp trong công tác giải quyết tố cáo:
Thủ tướng Chính phủ làm việc với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chủ tịch UBND cấp tỉnh, huyện làm việc
77
với Chánh án tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để
phối hợp trong công tác giải quyết tố cáo.
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao định kỳ
báo cáo QH, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và thông báo đến Ủy ban
trung ương MTTQ Việt Nam về công tác GQTC.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh báo
cáo Chính phủ về công tác GQTC trong phạm vi quản lý của cơ quan mình theo
định kỳ hoặc theo yêu cầu của Chính phủ.
Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân định kỳ báo cáo
Hội đồng nhân dân cùng cấp, cơ quan cấp trên và thông báo đến Ủy ban MTTQ
Việt Nam cùng cấp về công tác GQTC trong phạm vi địa phương và lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý của mình.
(3) Trách nhiệm bảo vệ người tố cáo: Việc bảo vệ người tố cáo là trách nhiệm
của nhiều tổ chức và cá nhân, cụ thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khi
tiếp nhận tố cáo, GQTC; cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế và các cơ quan, tổ chức khác mà người tố cáo
làm việc; người có thẩm quyền quản lý, sử dụng người tố cáo; tổ chức công đoàn cơ
quan, cơ quan quản lý lao động địa phương; UBND các cấp; cơ quan công an.
(4) Trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật về tố cáo và GQTC: thuộc
về Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân,
MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên.
(5) Trách nhiệm xử lý các vi phạm pháp luật về BĐQTC của công dân: tùy
theo mức độ, tính chất các vi phạm mà việc xử lý thuộc về cơ quan quản lý cán bộ,
công chức; công an, ...
Mặc dù pháp luật hiện hành quy định khá chi tiết về trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân trong việc bảo đảm để công dân thực hiện QTC của mình nhưng vẫn
còn một số bất cập dẫn đến giảm tính hiệu quả của hoạt động BĐQTC của công dân,
cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong việc quản lý công tác GQTC được thể hiện trong Luật Tố cáo và
78
các văn bản hướng dẫn thi hành mới chỉ quy định trách nhiệm phối hợp của các cơ
quan ở Trung ương, còn mối quan hệ giữa cơ quan trung ương và cơ quan địa
phương, giữa các cơ quan ở địa phương với nhau ... chỉ là phối hợp trong báo cáo.
Việc phối hợp của các cơ quan tư pháp với cơ quan hành chính trong GQTC không
có hướng dẫn cụ thể.
Thứ hai, chưa có quy định cụ thể về phạm vi, mức độ, trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức trong công tác bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
Thứ ba, Luật Tố cáo năm 2011 chưa xác định rõ cơ quan nào chịu trách
nhiệm chính trong việc bảo vệ người tố cáo, dễ dẫn đến tình trạng né tránh, đùn đẩy
trách nhiệm, ảnh hưởng đến công tác bảo vệ người tố cáo. Mặc dù Luật Tố cáo năm
2018 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2019) quy định khá rõ nhiệm vụ cụ thể của từng cơ
quan trong việc bảo vệ người tố cáo nhưng đến thời điểm hiện tại chưa ghi nhận
thực tiễn áp dụng luật này nên chưa có nhận xét cụ thể.
Pháp luật một số nước trên thế giới cũng có quy định cụ thể về trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân, chẳng hạn Luật
về dịch vụ công của Australia [141] quy định ba bộ phận có thẩm quyền tiếp nhận
tố cáo hành vi vi phạm bộ nguyên tắc công vụ bao gồm: Ủy viên Hội đồng dịch vụ
công; Ủy viên Hội đồng khen thưởng; người đứng đầu cơ quan hoặc người được ủy
quyền thực hiện nhiệm vụ của người đứng đầu ba cơ quan này. Luật về bảo vệ
người tố cáo năm 2011 của Hàn Quốc [142] quy định trách nhiệm, thẩm quyền
GQTC như sau: Điều 6 quy định về Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận tố cáo hành
vi xâm hại lợi ích công cộng bao gồm người đại diện hoặc lãnh đạo của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có hành vi xâm hại lợi ích công; Cơ quan hành chính hoặc bộ phận
giám sát có thẩm quyền chỉ đạo, giám sát, điều chỉnh hoặc điều tra các vi phạm lợi
ích công; Cơ quan điều tra; Ủy ban phòng chống tham nhũng và các quyền dân sự;
Những người mà theo quy định của Chính phủ được tiếp nhận tố cáo nhằm ngăn
chặn hành vi xâm phạm hoặc giảm bớt thiệt hại xảy ra. Điều 9 và 10 của Luật này
quy định về trình tự GQTC: Ngay khi tiếp nhận tố cáo, Ủy ban phòng chống tham
nhũng và các quyền dân sự phải tiến hành xác nhận các thông tin cơ bản như:
Thông tin về người tố cáo, nội dung và mục đích của tố cáo. Ở giai đoạn này, Ủy
79
ban có thể yêu cầu người tố cáo cung cấp thêm thông tin nếu cần. Sau khi hoàn
thành bước xác nhận thông tin, Ủy ban trên ngay lập tức gửi tố cáo tới cơ quan điều
tra hoặc kiểm tra có liên quan, đồng thời báo cho người tố cáo được biết. Kết quả
điều tra sẽ được gửi cho Ủy ban, đồng thời, Ủy ban sẽ thông báo tóm tắt nội dung
điều tra cho người tố cáo. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra có thể quyết
định dừng điều tra hoặc có thể chuyển điều tra cho cơ quan có thẩm quyền. Một số
nước thiết lập cơ quan độc lập có quyền nhận và điều tra các khiếu nại về hành
động trả đũa, phân biệt đối xử hoặc kỷ luật đối với người tố cáo như ở Mỹ, Đạo luật
Bảo vệ Người tố cáo 1989 đã lập ra Văn phòng Tư vấn đặc biệt (OSC). Ở Canada,
Luật Bảo vệ công chức tố cáo (PSDPA) năm 2005 đã thành lập ra Liêm ủy khu vực
[146] hoặc ở Hàn Quốc, một Ủy ban độc lập Chống tham nhũng và Nhân quyền được
trao quyền theo luật để điều tra khiếu nại việc trả thù người tố cáo, người đã tố cáo
hành vi phạm tội tham nhũng [145].
Qua việc so sánh quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong BĐQTC của công dân trong pháp luật Việt Nam với quy định này trong
pháp luật một số nước trên thế giới, có thể thấy, ở mỗi nước có một mô hình tổ chức
cơ quan có trách nhiệm BĐQTC của công dân khác nhau và thẩm quyền, trách
nhiệm cũng khác nhau nhưng đều khá cụ thể. Sự khác biệt ở đây là ngoài việc quy
định trong hệ thống các luật thì ở Việt Nam, vấn đề này còn được quy định trong
nhiều văn bản dưới luật khác.
3.2.3 Thực trạng thủ tục bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo pháp
luật Việt Nam
Quy định pháp luật về thủ tục bảo đảm quyền tố cáo bao gồm quy định về trình
tự, thủ tục giải quyết tố cáo và quy định về thủ tục bảo vệ người tố cáo.
Về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo được quy định chung tại Luật Tố cáo năm
2011 và được cụ thể hóa tại Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của
Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo năm 2011, Thông
tư số 06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình
GQTC, Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 của Thanh tra Chính phủ
quy định quy trình xử lý đơn thư khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh. Theo
80
đó, việc GQTC được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây: Tiếp nhận, xử lý thông
tin tố cáo; Xác minh nội dung tố cáo; Kết luận nội dung tố cáo; Xử lý tố cáo của người
GQTC; Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố
cáo. Tuy nhiên đến Luật Tố cáo năm 2018 thì trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo được
rút gọn lại còn 4 bước, thay vì 5 bước như quy định trước đây, bao gồm: Thụ lý tố cáo;
xác minh nội dung tố cáo; Kết luận nội dung tố cáo; xử lý kết luận nội dung tố cáo của
người giải quyết tố cáo. Như vậy so với Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm
2018 đã bỏ bước công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm
bị tố cáo. Bên cạnh đó, thời gian giải quyết tố cáo theo Luật Tố cáo năm 2018 cũng
được rút ngắn, là không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý tố cáo; trường hợp vụ việc
phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo một lần nhưng không quá 30 ngày; đặc
biệt phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày
(Điều 30), thay vì thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, vụ việc phức tạp là 90 ngày,
kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo như trong Luật Tố cáo năm 2011.
Việc quy định về trình tự, thủ tục GQTC trong pháp luật hiện hành đã có
nhiều tiến bộ, thể hiện ở việc quy định cụ thể, rõ ràng quyền, trách nhiệm, thẩm
quyền của các tổ chức và cá nhân có liên quan, đồng thời quy định các bước cần
tuân theo của việc giải quyết đơn. Điều đó đã tạo thuận lợi cho người dân thực hiện
QTC cũng như giám sát cán bộ, công chức giải quyết đơn thư của mình, đồng thời
các cơ quan nhà nước, người được giao nhiệm vụ thấy được trách nhiệm của mình
trong việc GQTC. Tuy nhiên, các quy định về trình tự, thủ tục GQTC để BĐQTC
của công dân vẫn còn một số bất cập, hạn chế như sau:
Thứ nhất, việc tiếp nhận, xử lý ban đầu thông tin tố cáo trong pháp luật hiện
hành chưa chặt chẽ, đặc biệt đối với những đơn tố cáo nặc danh nhưng có thông tin cụ
thể, rõ ràng, dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện, mỗi địa phương, đơn vị làm một
kiểu, nhiều trường hợp bỏ sót thông tin.
Thứ hai, về các hình thức tố cáo. Pháp luật hiện hành hiện có sự khác nhau
trong quy định về hình thức tố cáo. Nếu như Luật Phòng chống tham nhũng năm
2005, sửa đổi bổ sung các năm 2007, 2012 quy định về nhiều hình thức tố cáo của
công dân như: gửi đơn tố cáo, tố cáo trực tiếp, tố cáo qua điện thoại, tố cáo qua
81
mạng thông tin điện tử (Khoản 1 Điều 65) thì Luật Tố cáo năm 2011 và Luật Tố cáo
năm 2018 cùng quy định tại Điều 22 là có hai hình thức tố cáo, bằng đơn và tố cáo
trực tiếp. Mặt khác, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 tại Điều 13 quy định thông
điệp dữ liệu có giá trị như bản gốc. Như vậy, Luật Tố cáo được coi là đạo luật gốc,
quy định những vấn đề chung về tố cáo mà chỉ quy định hai hình thức tố cáo là hạn
chế quyền hiến định của công dân. Hiện nay, nhiều cơ quan, tổ chức đã thiết lập
đường dây nóng, hộp thư điện tử ... để tiếp nhận các thông tin, đơn thư phản ánh, tố
cáo, qua đó đã thanh tra kịp thời phát hiện, xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 (có hiệu lực từ ngày
01/7/2019) lại không đề cập đến các hình thức tố cáo mà dẫn chiếu đến pháp luật về
tố cáo tại Khoản 3, Điều 65 "Việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo về hành vi tham
nhũng được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo" và tại Khoản 4 Điều
65 "Việc tiếp nhận, xử lý phản ánh về hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy
định của pháp luật về tiếp công dân".
Thứ ba, về việc tổ chức thi hành kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý về
tố cáo, luật hiện hành chưa quy định rõ vấn đề này, do đó, nhiều kết luận, quyết
định xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo đã ban hành có hiệu lực
pháp luật, nhất là việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức, xử lý sai phạm về
kinh tế tài chính nhưng không được cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện đầy
đủ, kịp thời, nghiêm minh.
Ở nhiều quốc gia, vấn đề trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo được quan tâm
theo hướng quy định rất chặt chẽ nhằm bảo đảm một quy trình GQTC hiệu quả,
đồng thời có khả năng bảo mật thông tin, hạn chế việc tiết lộ thông tin, danh tính của
người tố cáo, như Luật về dịch vụ công của Australia năm 1999, sửa đổi, bổ sung và
có hiệu lực ngày 01/6/2013[141] quy định về GQTC đối với hành vi vi phạm của
cán bộ, công chức. Luật không quy định cụ thể quá trình giải quyết mà trao quyền
quy định chi tiết và bảo đảm thực hiện cho cơ quan có thẩm quyền trực tiếp giải
quyết. Nhưng để việc GQTC được thực hiện một cách thống nhất, công bằng thì
Luật đề ra nguyên tắc và tiêu chuẩn cho việc xây dựng quy định về GQTC cho các
cơ quan được trao quyền.
82
Về trình tự, thủ tục bảo vệ người tố cáo: được quy định cụ thể tại Nghị định số
76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Tố cáo năm 2011, từ Điều 12 đến Điều 18. Theo đó, với mỗi nội dung
cần bảo vệ người tố cáo như bảo vệ bí mật thông tin, bảo vệ sức khỏe, tính mạng,
tài sản, danh dự, bảo vệ vị trí việc làm.... đều nêu rõ điều kiện, căn cứ yêu cầu bảo
vệ; thời gian giải quyết, trách nhiệm của cơ quan tiếp nhận yêu cầu bảo vệ; các biện
pháp bảo vệ... Đến Luật Tố cáo năm 2018, trình tự, thủ tục bảo vệ người tố cáo
được quy định từ Điều 50 đến Điều 55.
Tuy vậy, quy định pháp luật về trình tự, thủ tục bảo vệ người tố cáo có một
số bất cập, gây khó khăn trong thực hiện như: (1) Căn cứ để yêu cầu bảo vệ đối với
người tố cáo: Khoản 1, Điều 50 Luật Tố cáo năm 2018, cũng như Luật Tố cáo năm
2011 và quy định tại Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ
về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo năm 2011: khi có “căn cứ”
cho rằng việc tố cáo có thể gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe, xâm hại đến tài
sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm; hoặc bị trù dập, phân biệt đối xử tại nơi làm việc…
của bản thân người tố cáo và người thân thích của người tố cáo thì họ có quyền yêu
cầu người GQTC, cơ quan công an, cơ quan, tổ chức có liên quan áp dụng biện
pháp bảo vệ. Tuy nhiên, pháp luật hiện chưa quy định thống nhất về khái niệm “có
căn cứ”, chưa quy định cụ thể những biểu hiện hình thức và định lượng về mức độ
đe dọa; (2) Về nơi bảo vệ người tố cáo: Điểm 3, Điều 14 Nghị định số
76/2012/NĐ-CP đã quy định: Khi xác định hành vi xâm hại người được bảo vệ đang
diễn ra hoặc có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc, tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm
của hành vi xâm hại, người có thẩm quyền GQTC phải chỉ đạo hoặc phối hợp với
cơ quan công an áp dụng ngay các biện pháp bảo vệ như bố trí lực lượng, phương
tiện, công cụ để bảo vệ an toàn cho người được bảo vệ tại nơi cần thiết; tạm thời di
chuyển người được bảo vệ đến nơi an toàn… Tuy nhiên, địa điểm bảo vệ người tố
cáo được xác định là “nơi cần thiết”, “nơi an toàn” một cách chung chung, khó áp
dụng, thiếu hướng dẫn cụ thể.
83
3.2.4 Thực trạng về các nguồn lực bảo đảm quyền tố cáo của công dân theo
pháp luật Việt Nam
* Thực trạng quy định pháp luật về cán bộ, công chức làm công tác bảo đảm
quyền tố cáo
Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định tại Khoản 1, Điều 34 về tiêu chuẩn
đối với người tiếp công dân như: có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn,
nắm vững chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, am hiểu thực tế, có khả
năng vận động, thuyết phục quần chúng, nhiệt tình, bảo đảm yêu cầu về sức khỏe và
có trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao. Như vậy có thể thấy, quy định pháp luật
về tiêu chuẩn đối với người làm công tác tiếp công dân chưa có sự định lượng rõ
ràng, các tiêu chí đưa ra khá chung chung và khó xác định, đặc biệt trong bối cảnh
hiện nay, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung
ương đã chỉ ra: "Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất,
chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang,
dễ dãi hoặc định kiến"
Đối với tiêu chuẩn về năng lực, đạo đức của người có thẩm quyền trong
GQTC, hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào đề cập đến. Thực tiễn công tác
GQTC nói riêng và BĐQTC của công dân nói chung cho thấy trình độ, năng lực,
tinh thần trách nhiệm, thái độ của cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ này giữ vai
trò rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến hiệu quả công việc và niềm tin của người dân
vào bộ máy cơ quan nhà nước. Thông qua tiếp xúc, làm việc với đội ngũ cán bộ,
công chức này, tùy thuộc vào thái độ, tinh thần trách nhiệm của họ, nhiều người dân
sẽ suy nghĩ về việc có tiếp tục thực hiện quyền tố cáo của mình nữa hay không.
*Thực trạng pháp luật về cơ sở vật chất
Luật Tiếp công dân năm 2013 và Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày
26/6/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân quy định
cụ thể về việc thành lập cơ quan có trách nhiệm tiếp công dân, theo đó ở tất cả các
cấp phải có Ban Tiếp công dân. Ở Trung ương có bộ phận tiếp dân, trụ sở tiếp tại Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, là nơi công dân đến khiếu nại, tố cáo, phản ánh với
các cơ quan trung ương của Đảng, Chủ tịch nước, các cơ quan của QH và Chính
84
phủ về những hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước hoặc
người dân. Các bộ, các tỉnh, các huyện phải thành lập cơ quan tiếp công dân. Điều
này đã tạo thuận lợi để người dân đến tố cáo trực tiếp hoặc gửi đơn tố cáo. Đồng
thời, theo Điều 19 Luật Tiếp công dân năm 2013 thì các cơ quan tiếp công dân phải
được bố trí tại vị trí thuận tiện, bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết để công dân
đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh được dễ dàng, thuận lợi.
Về chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức trực tiếp làm nhiệm vụ tiếp
công dân xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại trụ sở tiếp công dân,
hiện nay Thông tư liên tịch số 46/2012/TTLT-BTC-TTCP do Bộ Tài chính và Thanh
tra Chính phủ ban hành quy định mức chi bồi dưỡng cụ thể từ 50.000 đến 100.000
đồng/ngày/người; còn người GQTC hiện chưa có chế độ gì riêng biệt.
3.2.5 Thực trạng về giám sát, kiểm tra, thanh tra bảo đảm quyền tố cáo của
công dân và xử lý vi phạm quyền tố cáo của công dân theo pháp luật Việt Nam
3.2.5.1 Thực trạng quy định về giám sát bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Về giám sát của Đảng: Quy định số 86-QĐ/TW của Bộ Chính trị ngày
01/6/2017 về giám sát trong Đảng, trong đó nội dung giám sát GQTC được quy
định tại Điều 9: Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy các
cấp, ban thường vụ cấp ủy từ cấp cơ sở trở lên giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo và
giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Về giám sát của cơ quan dân cử: việc giải quyết tố cáo để BĐQTC của công
dân được quy định trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân năm 2015, với những quy định cụ thể về chức năng của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội tại Điều 22; của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của QH tại Điều 37,
Điều 44; của đại biểu Quốc hội tại Điều 54.... Luật này quy định khá chi tiết thẩm
quyền, trách nhiệm của chủ thể giám sát; quyền của cơ quan, tổ chức chịu sự giám
sát, phương thức thực hiện giám sát nói chung về tố cáo và giám sát tối cao của
Quốc hội nói riêng về công tác GQTC nhằm BĐQTC của công dân.
Hoạt động giám sát của xã hội đối với việc thực hiện pháp luật tố cáo được
quy định trong nhiều văn bản như Luật Thanh tra năm 2010, Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, Luật MTTQ Việt Nam năm 2015 và các
85
văn bản hướng dẫn thi hành. Luật Tố cáo năm 2011 quy định chức năng giám sát
của Ủy ban MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận tại Điều 44.
Qua việc nghiên cứu các quy định pháp luật về giám sát việc thực hiện pháp
luật tố cáo, có thể thấy vẫn còn một số bất cập như sau:
Thứ nhất, về chủ thể giám sát: Pháp luật hiện hành quy định nhiều chủ thể có
quyền giám sát nhưng lại chưa phân định chức năng, nhiệm vụ giám sát giữa các
chủ thể này một cách rõ ràng; đồng thời, không thể phân biệt được rõ ràng phạm vi
giám sát của từng chủ thể, dẫn đến sự trùng lặp, chồng chéo trong hoạt động giám
sát, một vụ việc nhiều chủ thể cùng giám sát, mỗi chủ thể lại có thể có những kết
luận khác nhau về vụ việc đó, khiến thông tin về vụ việc không còn chính xác, độ
tin cậy không cao.
Thứ hai, về nội dung giám sát: Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể nội
dung giám sát về tố cáo, chưa quy định khi thực hiện hoạt động giám sát thì các chủ
thể giám sát phải làm rõ những nội dung nào, chủ thể giám sát đối với từng đối
tượng giám sát nào thì được giám sát những nội dung gì.
Thứ ba, về phương thức giám sát: Nhiều phương thức giám sát được quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng lại chưa cụ thể, chưa nêu rõ đặc
thù của từng phương thức áp dụng cho từng đối tượng cụ thể, chưa nêu rõ điều kiện
để tiến hành từng phương thức. Điều này dẫn đến tình trạng hàng loạt chủ thể đều
có quyền giám sát nhưng sự giám sát không hiệu quả, không đạt được mục đích
giám sát. Các quy định hiện nay cũng cho thấy sự chồng chéo trong quy định về
phương thức giám sát. Chẳng hạn, có đến ba chủ thể có thẩm quyền thực hiện
phương thức “tổ chức đoàn giám sát” về giám sát tại địa phương là Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của QH, Đoàn đại biểu QH tại địa
phương, nhưng pháp luật không phân định phạm vi, đối tượng, nội dung, thẩm
quyền giám sát …trong việc “tổ chức đoàn giám sát” của ba chủ thể trên. Quy định
của pháp luật bất cập như vậy dẫn đến một thực tế là cùng một vụ việc cần giám sát,
đôi khi có nhiều chủ thể thực hiện quyền giám sát làm ảnh hưởng đến công việc
thường ngày của cơ quan bị giám sát.
Thứ tư, về trình tự, thủ tục giám sát: Chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ
86
tục giám sát đối với hoạt động BĐQTC của công dân. Pháp luật về tố cáo còn thiếu
nhiều quy định có tính chất thủ tục để thực thi quyền giám sát như chưa có quy định
về giám sát đột xuất và điều kiện để giám sát đột xuất, chưa có quy định về việc sau
mỗi đợt giám sát phải có báo cáo tổng kết rút kinh nghiệm…
3.2.5.2 Thực trạng quy định về kiểm tra, thanh tra việc bảo đảm quyền tố cáo
của công dân
Hiện nay, việc kiểm tra, thanh tra trong thực hiện các quy định của pháp luật
về tố cáo mới chỉ dừng lại ở kiểm tra, thanh tra trách nhiệm của người đứng đầu
trong thực hiện pháp luật về tố cáo, vấn đề này được quy định có tính nguyên tắc
trong Luật Tố cáo, Luật Thanh tra và trong một số Nghị định của Chính phủ, cụ thể
như sau:
Luật Thanh tra năm 2010 tại các Điều 15, 18, 21, 25 và 28 quy định các cơ
quan thanh tra nhà nước có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của cơ
quan hành chính nhà nước cùng cấp. Khoản 6 Điều 15 quy định: "Thanh tra Chính
phủ có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về thanh
tra, về khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng". Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo
năm 2018, cùng tại Điều 32 quy định Chánh thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ,
Chánh thanh tra cấp tỉnh, Chánh thanh tra sở, Chánh thanh tra cấp huyện có trách
nhiệm xem xét việc GQTC mà người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp dưới trực tiếp
của cơ quan hành chính cùng cấp đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp
luật; trường hợp có căn cứ cho rằng việc GQTC có vi phạm pháp luật thì kiến nghị
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, xem xét, giải quyết lại;
Tổng Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm xem xét việc GQTC mà Bộ trưởng,
người đứng đầu cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp
tỉnh đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có căn cứ cho
rằng việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem
xét giải quyết lại.
Ngoài ra, việc thanh tra, kiểm tra về tố cáo còn được quy định trong Nghị
định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết Luật
87
Thanh tra và Thông tư số 05/2013/TT-TTCP ngày 29/7/2013 quy định thẩm quyền,
nội dung thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về tố cáo.
Như vậy, có thể thấy các quy định của pháp luật hiện hành là cơ sở pháp lý
quan trọng để tiến hành kiểm tra, thanh tra trách nhiệm của người đứng đầu cấp
dưới trong việc thực hiện pháp luật tố cáo. Các văn bản nêu trên quy định khá cụ thể
về thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước, thủ trưởng cơ quan
hành chính nhà nước, của thanh tra các cấp, các ngành, cũng như nội dung thanh tra,
trách nhiệm thực hiện pháp luật về tố cáo.
3.2.5.3 Thực trạng quy định về xử lý vi phạm quyền tố cáo của công dân
Pháp luật về tố cáo hiện hành đã quy định khá rõ quyền và trách nhiệm của
các chủ thể tham gia quan hệ tố cáo và GQTC trong Luật Tố cáo năm 2011 tại các
Điều 46, 47, 48; Luật Tố cáo năm 2018 quy định tại các Điều 63, 64, 65, theo đó
những người bị xử lý bao gồm người tố cáo, người GQTC; người có trách nhiệm
chấp hành quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo và những người khác có liên
quan. Tuy nhiên, không phải chủ thể nào vi phạm quy định của pháp luật tố cáo đều
đương nhiên phát sinh trách nhiệm pháp lý, mà còn phụ thuộc vào điều kiện, hoàn
cảnh thực tế và đặc biệt là quy định pháp luật làm cơ sở cho việc xác định trách
nhiệm pháp lý của chủ thể.
Các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tố cáo còn được quy
định tại một số văn bản khác như:
Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định một số tội
danh liên quan trực tiếp đến tố cáo, bao gồm quy định mô tả hành vi và chế tài xử lý:
Tội vu khống tại Điều 156, Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo tại Điều 166. Ngoài
ra, còn một số điều luật có thể áp dụng trong việc xử lý đối với hành vi vi phạm pháp
luật về tố cáo như: Điều 162 về tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải
người lao động trái pháp luật; Điều 167 về tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân; Điều 318 về tội gây rối trật
tự; Điều 330 về tội chống người thi hành nhiệm vụ; Điều 331 về tội lợi dụng quyền tự
do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân; Điều 356 về tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.
88
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và một số văn bản hướng dẫn thi
hành đã quy định những vấn đề cơ bản trong việc xử lý đối với hành vi vi phạm hành
chính, thẩm quyền xử phạt của cơ quan, người có thẩm quyền. Đây là cơ sở cho các
văn bản hướng dẫn quy định cụ thể về hành vi vi phạm và hình thức xử lý đối với
hành vi vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực, trong đó có hành vi vi phạm liên
quan đến tố cáo.
Nghị định số 38/NĐ-CP ngày 18-3-2005 của Chính phủ quy định một số biện
pháp bảo đảm trật tự công cộng. Nghị định này không quy định cụ thể về xử lý đối với
việc tụ tập đông người gây mất trật tự nơi công cộng để khiếu nại, tố cáo nhưng những
quy định đó là cơ sở để xử lý tình trạng lợi dụng QTC tập trung đông người, tố cáo
xâm phạm trật tự an toàn xã hội.
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội;
phòng cháy chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình, trong đó có một số nội dung
liên quan đến vấn đề xử lý vi phạm pháp luật tố cáo.
Mặc dù các quy định về xử lý vi phạm QTC khá đa dạng, với nhiều loại chủ thể,
hành vi vi phạm, trách nhiệm pháp lý và trong nhiều văn bản khác nhau nhưng lại
chưa quy định rõ ràng về hành vi, thiếu các chế tài cụ thể xử lý trách nhiệm đối với
những người có trách nhiệm cũng như công dân khi có những hành vi vi phạm pháp
luật khác như cố tình không GQTC, vi phạm thời hạn GQTC, cố ý làm sai lệch hồ
sơ vụ việc giải quyết, cố tình tố cáo sai sự thật, mạo danh người khác để tố cáo...
Những thiếu sót như vậy đã gây khó khăn cho việc thực hiện các quy định về vấn đề này.
Pháp luật nước ngoài quy định khá cụ thể chế tài xử lý đối với việc trả thù
người tố cáo, một số nước áp đặt các biện pháp trừng phạt hình sự cho người sử
dụng lao động trả đũa người tố cáo, như tại Hoa Kỳ, Đạo luật SOX áp đặt hình phạt
tù lên đến mười năm hoặc phạt tiền đối với những người trả đũa một người tố giác
bất kỳ hành vi phạm tội nào đến cơ quan thực thi pháp luật. Hay ở Hungary, Điều
257 của Bộ luật Hình sự đã chỉ ra rằng những người thực hiện các biện pháp bất lợi
chống lại người tố cáo sẽ bị phạt một năm lao động công ích, hoặc bị phạt tiền [119].
Tại Hàn Quốc, người chống lại người tố cáo có thể bị phạt 10 triệu won [127].
89
Như vậy, có thể thấy chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm quyền tố cáo
của công dân trong pháp luật của một số nước đã nêu ở trên có tính nghiêm khắc
hơn so với ở Việt Nam.
3.2.6 Thực trạng bảo vệ, khen thưởng người tố cáo theo pháp luật Việt Nam
3.2.6.1 Thực trạng quy định về bảo vệ người tố cáo
Luật Tố cáo năm 2011 quy định 14 nhóm hành vi bị nghiêm cấm đối với các
chủ thể khác nhau tham gia quan hệ pháp luật về tố cáo. Những hành vi bị cấm này
đóng vai trò quan trọng trong việc BĐQTC của công dân, trong đó có những hành vi
trực tiếp bảo vệ người tố cáo, bao gồm: Tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố
cáo và những thông tin khác có thể làm lộ danh tính của người tố cáo; không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm bảo vệ người tố cáo; cản trở việc thực
hiện QTC; đe doạ, trả thù, trù dập, xúc phạm người tố cáo; mua chuộc, hối lộ người
GQTC; đe doạ, trả thù, xúc phạm người GQTC. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định về
nghĩa vụ bảo vệ người tố cáo của người GQTC tại Điều 11. Trong khi đó Luật Tố cáo
năm 2018 quy định có 13 nhóm hành vi bị cấm trong tố cáo và giải quyết tố cáo và
những quy định trong luật này về bảo vệ người tố cáo thể hiện rõ ràng, cụ thể hơn so
với Luật Tố cáo năm 2011. Điều 47 Luật Tố cáo năm 2018 định nghĩa rất rõ về đối
tượng, phạm vi bảo vệ người tố cáo.
Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 3/10/2012 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Luật Tố cáo năm 2011 dành một chương để quy định các biện
pháp bảo vệ người tố cáo và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền trong việc bảo vệ người tố cáo.
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ sung các năm 2007,
2012 đã có những quy định quan trọng bảo vệ công dân tố cáo hành vi tham nhũng,
chẳng hạn như: quy định các cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có chức vụ, quyền
hạn có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý kịp thời báo cáo, tố giác, tố cáo và thông tin
khác về hành vi tham nhũng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phát hiện,
báo cáo, tố giác, tố cáo hành vi tham nhũng (Điều 5). Luật cũng liệt kê các hành vi
bị nghiêm cấm, trong đó có hành vi đe doạ, trả thù, trù dập người phát hiện, báo cáo,
tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng (Điều 10); quy định về
90
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khi nhận được tố
cáo tham nhũng (Điều 65), theo đó, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền khi nhận được tố cáo phải xem xét và xử lý theo thẩm quyền; giữ bí mật họ,
tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin khác theo yêu cầu của người tố cáo; áp dụng
kịp thời các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo khi có biểu hiện đe dọa, trả
thù, trù dập người tố cáo hoặc khi người tố cáo yêu cầu; thông báo kết quả GQTC
cho người tố cáo khi có yêu cầu. Tuy nhiên đến Luật Phòng, chống tham nhũng năm
2018 không quy định cụ thể nội dung này, mà tại Điều 67 về việc bảo vệ người
phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng được thực hiện theo quy định của
pháp luật về tố cáo.
Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 của Chính phủ Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật PCTN năm 2005 đã dành ba điều
để cụ thể hóa những quy định về bảo vệ người tố cáo.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có những quy định khẳng định việc phát
hiện, tố giác, báo tin về tội phạm, tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm là
quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức; cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan nhà
nước khác có trách nhiệm tạo điều kiện và bảo đảm cho công dân thực hiện các
quyền và nghĩa vụ này. Điều 56 quy định về quyền của người tố giác, báo tin về tội
phạm, bao gồm: được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, báo
tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ
khi bị đe dọa; Được thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố; Được khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố.
Mặc dù pháp luật hiện hành về bảo vệ người tố cáo đã có nhiều tiến bộ so với
trước đây, nhưng vẫn còn một số vấn đề đặt ra. Trước hết là những bất cập của các
quy định bảo vệ người tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2011 và các văn bản hướng
dẫn thi hành như:
Thứ nhất, không quy định rõ về mặt nguyên tắc cơ quan có trách nhiệm bảo
91
vệ người tố cáo, không xác định cơ quan nào có trách nhiệm chủ trì việc bảo vệ
người tố cáo mà nhiệm vụ bảo vệ người tố cáo được giao đồng thời cho nhiều cơ
quan, cá nhân dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc” như: Cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền khi tiếp nhận tố cáo, GQTC, khai thác, sử dụng thông tin, tài
liệu do người tố cáo cung cấp; người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người
có thẩm quyền quản lý, sử dụng người tố cáo; cơ quan Công an; UBND các cấp,
Chủ tịch UBND các cấp; cơ quan thanh tra nhà nước; cơ quan khác có thẩm
quyền…
Thứ hai, không quy định các bảo đảm về tài chính, kỹ thuật cho công tác bảo
vệ người tố cáo.
Thứ ba, không quy định cụ thể các biện pháp bảo vệ người tố cáo. Luật Tố
cáo năm 2011 đã giao cho Chính phủ quy định chi tiết về các biện pháp bảo vệ
người tố cáo, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong
việc bảo vệ người tố cáo nhưng đến nay Chính phủ vẫn chưa ban hành văn bản này.
Do đó, người tố cáo trên thực tế chưa được áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết
theo quy định của Luật.
Tuy nhiên, Luật Tố cáo năm 2018 đã phần nào khắc phục được tình trạng
chung chung của Luật Tố cáo năm 2011 khi tại Điều 49 đã quy định cụ thể cơ quan
có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ, tùy vào chức năng, nhiệm vụ, mỗi cơ
quan sẽ chịu trách nhiệm những nội dung bảo vệ người tố cáo khác nhau.
Các quy định về bảo vệ người tố cáo của các nước có sự khác nhau khá lớn,
trong khi một số nước chủ yếu chỉ hướng tới bảo vệ người tố cáo trong khu vực
công, thì ở một số nước khác ban hành luật riêng về bảo vệ người tố cáo toàn diện
cho cả khu vực công và khu vực tư như ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Nam Phi, Anh. Luật
Bảo vệ người tố cáo vì lợi ích công (PPIW) của Hàn Quốc áp dụng cho “bất kỳ
người nào” báo cáo hành vi vi phạm lợi ích công cộng, còn ở Mỹ thì Luật bảo vệ
người tố cáo được ban hành năm 1989 sau đó được bổ sung bởi các quy định bảo vệ
người tố cáo trong Luật Sarbanes-Oxley (Luật SOX) và Luật Bảo vệ Người tiêu
dùng và Cải cách phố Wall Dodd-Frank (Luật Dodd-Frank) lại chủ yếu hướng tới
khu vực tư nhân. Một điều khá khác biệt với Việt Nam là nhiều nước kể trên đã ban
92
hành một đạo luật riêng về bảo vệ người tố cáo, với các quy định rất cụ thể, chặt chẽ.
Chẳng hạn quy định về điều kiện để người tố cáo được bảo vệ, luật pháp các nước
hầu như đều quy định người tố cáo được bảo vệ khi họ tố cáo trung thực, có căn cứ
hợp lý, thiện ý. Về cơ bản, pháp luật các nước khuyến khích và bảo vệ việc tiết lộ
các hành vi vi phạm pháp luật hình sự, tham nhũng, hành vi trái đạo đức hay các
mối nguy hiểm có thể đem đến các mối nguy hại cho sức khỏe và an toàn cộng
đồng, sử dụng công quỹ trái phép, hay lạm dụng quyền lực, bỏ bê trách nhiệm công
việc. Hay quy định về nội dung bảo vệ người tố cáo, Luật tiết lộ vì lợi ích công của
Australia quy định về các nội dung, biện pháp bảo vệ người tố cáo bao gồm: người
tố cáo được miễn trừ trách nhiệm pháp lý; người tố cáo được bảo vệ khỏi các hành
vi trả thù; người tố cáo được bảo mật danh tính. Pháp luật Mỹ nghiêm cấm việc tiết
lộ danh tính người tố cáo mà không có sự đồng ý, trừ trường hợp "xác định rằng
việc tiết lộ danh tính của cá nhân là cần thiết vì một mối nguy hiểm sẽ xảy ra đối
với sức khỏe hoặc an toàn công cộng hoặc sẽ vi phạm luật hình sự".
3.2.6.2 Thực trạng quy định về khen thưởng người tố cáo
Luật Tố cáo năm 2011 quy định về khen thưởng người tố cáo tại Điều 45, các
đối tượng được khen thưởng bao gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong
việc GQTC và người tố cáo; việc khen thưởng được thực hiện khi họ có công trong
việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân; lợi ích mà người được
khen thưởng nhận được là vật chất và tinh thần. Nghị định 76 dành một chương để
cụ thể hóa vấn đề này với các nội dung như: nguyên tắc, hình thức, tiêu chuẩn, trình
tự, thủ tục khen thưởng; mức thưởng và nguồn kinh phí dành cho khen thưởng.
Nghị định cũng quy định những cá nhân có thành tích trong việc tố cáo hành vi
tham nhũng thì được xét khen thưởng theo quy định của pháp luật về phòng, chống
tham nhũng. Luật Tố cáo năm 2018 tại Điều 62 chỉ quy định đối tượng được khen
thưởng là người tố cáo, khi họ trung thực và tích cực cộng tác với cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm
pháp luật thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi bổ sung các năm 2007,
2012 lần đầu tiên đã chính thức tuyên bố về việc khen thưởng người tố cáo tại Điều
93
67: “Người tố cáo trung thực, tích cực cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi tham nhũng thì được
khen thưởng về vật chất, tinh thần theo quy định của pháp luật”.
Nghị định số 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10/2006 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng quy định việc khen
thưởng người tố cáo hành vi tham nhũng tại Điều 48.
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 không quy định cụ thể vấn đề này,
mà tại Điều 68 "Người có thành tích trong việc phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi
tham nhũng thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật"
Thông tư liên tịch số 01/2015/TTLT-TTCP-BNV ngày 16/3/2015 của Thanh
tra Chính phủ, Bộ Nội vụ về khen thưởng cá nhân có thành tích xuất sắc trong tố
cáo, phát hiện hành vi tham nhũng. Thông tư này đã tiệm cận các nguyên tắc mới
trong việc khuyến khích, động viên xứng đáng với người tố cáo hành vi tham nhũng
như: phù hợp với chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, chú
trọng phát huy vai trò, trách nhiệm của xã hội và công dân trong PCTN; người được
khen thưởng phải có thành tích xuất sắc, nổi trội, có tác dụng động viên, giáo dục,
nêu gương sáng trong phạm vi rộng; việc khen thưởng phải kết hợp giữa biểu
dương, động viên tích cực về tinh thần với khuyến khích, động viên xứng đáng
bằng vật chất; thủ tục khen thưởng phải phù hợp, vừa bảo đảm việc lựa chọn khen
thưởng chặt chẽ, đúng người, đúng thành tích, vừa tạo thuận lợi cho các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong việc thực hiện thủ tục khen thưởng, đồng thời phải bảo vệ chặt
chẽ người tố cáo hành vi tham nhũng.
Điểm mới của Thông tư liên tịch số 01/2015/TTLT-TTCP-BNV là bổ sung
quy định đối với trường hợp thành tích của người được khen thưởng giúp thu hồi
được cho nhà nước số tiền, tài sản có giá trị trên 600 lần mức lương cơ sở thì
được xét thưởng từ Quỹ Khen thưởng PCTN vượt mức nêu trên, nhưng tối đa
không quá 10% số tiền, giá trị tài sản đã thu hồi được và không vượt quá 3.000
lần mức lương cơ sở.
Một số địa phương đã ban hành quy chế bảo vệ và khen thưởng người phát
hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, như: Ngày 22/6/2010, UBND Thành phố Hồ Chí
94
Minh đã ban hành Quyết định số 39/2010/QĐ-UBND ban hành quy chế bảo vệ và
khen thưởng người phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng. Cùng với quy định hình
thức, quy trình bảo vệ người phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, TP. Hồ Chí Minh
còn giao nhiệm vụ cho Hội đồng Thi đua - Khen thưởng thành phố, quận - huyện và
sở, ban, ngành thành phố thực hiện việc cấp bằng khen, giấy khen và tiền thưởng
theo đúng chế độ quy định của Chính phủ. Ngoài hình thức khen thưởng trên, tùy
theo thành tích, người phát hiện còn được khen thưởng đột xuất đối với cá nhân, tập
thể từ 1.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng hoặc có thể cao hơn do Chủ tịch UBND
thành phố, trưởng ban chỉ đạo Thành phố về phòng, chống tham nhũng quyết định.
3.3 Thực trạng thực hiện bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt Nam
hiện nay
Thực hiện các quy định pháp luật về BĐQTC của công dân là yếu tố tiên quyết
để QTC của công dân được thực hiện trên thực tế. Những năm gần đây, cùng với
việc nhận thức của người dân được nâng cao, người dân chủ động yêu cầu được
BĐQTC thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có nhiều cải tiến đáng ghi
nhận để hiện thực hóa các quy định pháp luật về quyền tố cáo.
3.3.1 Thực tiễn thực hiện thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân
bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về thẩm quyền, trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân về BĐQTC được thể hiện khá rõ, cụ thể là:
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn quan tâm, chỉ đạo thường xuyên việc
theo dõi, đánh giá, rà soát, bổ sung, sửa đổi để hệ thống văn bản pháp luật, đặc biệt
về tiếp công dân, giải quyết tố cáo. Chính phủ giao Thanh tra Chính phủ phối hợp
với các bộ, ngành, địa phương triển khai tổng kết 4 năm thực hiện Luật Tố cáo năm
2011; tổng kết 03 năm thực hiện Luật Tiếp công dân năm 2013; tổng kết 10 năm
thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005; đồng thời xây dựng dự thảo
sửa đổi, bổ sung Luật Tố cáo năm 2011 [14]. Bên cạnh đó, trong các phiên họp
thường kỳ, Chính phủ nghe Tổng Thanh tra chính phủ báo cáo kết quả công tác tiếp
công dân, xử lý đơn thư, GQTC để có các giải pháp chỉ đạo, chấn chỉnh những hạn
chế, tồn tại trong quản lý nhà nước về tố cáo. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cấp,
95
các ngành, đặc biệt là các địa phương tổ chức thực hiện nghiêm túc, triệt để các
quyết định kết luận GQTC đã có hiệu lực pháp luật, những vụ việc Thủ tướng
Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đã có ý kiến chỉ đạo. Trong nhiều năm trở
lại đây, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì hội nghị toàn quốc GQTC, cũng như ban
hành nhiều văn bản chỉ đạo, chấn chỉnh, tăng cường công tác tiếp công dân, GQTC.
Thanh tra Chính phủ bên cạnh việc GQTC, thanh tra trách nhiệm GQTC...
theo thẩm quyền, đã theo dõi, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện các
công tác liên quan đến BĐQTC của công dân [14]. Hằng năm, Thanh tra Chính phủ
tổng kết, xây dựng báo cáo về việc giải quyết tố cáo trong phạm vi toàn quốc để rút
kinh nghiệm, khắc phục tồn tại và hạn chế, nhân rộng ưu điểm của các ngành, các
địa phương, hướng tới góp phần bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
Đối với các cơ quan hành chính nhà nước, Thủ trưởng cơ quan chủ trì nhiều
cuộc họp với thanh tra, các cơ quan quản lý nhà nước để chỉ đạo GQTC đông người,
phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm, vụ việc mà các cơ quan, địa phương có ý kiến
khác nhau, đồng thời coi trọng công tác vận động nhân dân, công tác hỗ trợ tư vấn
pháp lý cho người dân với sự tham gia của Đoàn Luật sư, Hội Luật gia, cơ quan dân
vận, MTTQ và các đoàn thể chính trị. Các cơ quan thanh tra tăng cường thanh tra
trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện pháp luật
về tiếp công dân, GQTC; đẩy mạnh việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
quyết định xử lý tố cáo có hiệu lực pháp luật [14].
Như vậy, việc thực hiện quy định pháp luật về thẩm quyền, trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân BĐQTC được các cá nhân, cơ quan thực hiện thường xuyên và có
hiệu quả.
3.3.2 Thực tiễn thực hiện trình tự, thủ tục bảo đảm quyền tố cáo của
công dân
Việc GQTC những năm gần đây khá nề nếp, tuân thủ theo trình tự, thủ tục
của pháp luật tố cáo; chất lượng giải quyết được nâng lên, nhiều vụ việc tố cáo gay
gắt kéo dài đã được giải quyết dứt điểm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân [9]. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vụ việc tố
cáo chưa được giải quyết đúng pháp luật, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
96
chức, của công dân. Tình trạng GQTC không đúng thời hạn quy định của pháp luật
còn phổ biến, gây tâm lý bức xúc cho người tố cáo, dẫn đến tình trạng tố cáo tiếp
hoặc tố cáo vượt cấp làm cho vụ việc tố cáo tiếp tục bị kéo dài và cơ quan giải
quyết gặp nhiều khó khăn. Ở nhiều nơi, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết có
biểu hiện né tránh nhất là trong trường hợp người bị tố cáo là người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước các cấp [11] (Xem Phụ lục 3).
Theo thống kê của Chính phủ, từ khi Luật Tố cáo năm 2011 có hiệu lực đến
năm 2017, việc GQTC của các cơ quan hành chính nhà nước qua các năm đều đạt
tỷ lệ cao, cơ bản đạt trên 80%, trong đó các bộ ngành và địa phương đều đạt tỷ lệ
khá đều nhau và đều so với các năm, cụ thể: Năm 2012 giải quyết 7.340 vụ việc trên
tổng số 8.471 vụ việc đủ điều kiện giải quyết đạt 86,65%; năm 2013 giải quyết
7.266 trên tổng số 8.692 vụ việc, đạt 83,6%; năm 2014 giải quyết 6.978 trên tổng số
7.974 vụ việc, đạt 87,5%; năm 2015 giải quyết 5.638 trên tổng số 7.542 vụ việc, đạt
74,8% ; năm 2016 giải quyết 6.267 trên tổng số 7.716 vụ việc, đạt 81,2%; năm 2017
giải quyết 5.402 trên tổng số 6.602 vụ việc, đạt 81,8% [11].
Việc GQTC của các cơ quan hành chính nhà nước đạt tỷ lệ cao đã mang lại
hiệu quả thiết thực trong việc bảo vệ quyền lợi cho cá nhân, tập thể và Nhà nước.
Qua GQTC đã thu hồi một số lượng lớn đất và tiền cho Nhà nước, trả lại cho cá
nhân, tập thể. Đồng thời, số vụ việc phải xử lý hành chính khá cao và nhiều vụ việc
phải chuyển cơ quan điều tra, cụ thể: năm 2013, cơ quan thanh tra đã kiến nghị thu
hồi cho Nhà nước, trả cho tập thể, cá nhân số tiền là 31 tỷ và 7,3 ha đất; bảo vệ
quyền lợi cho tập thể, cá nhân là 534 người; kiến nghị xử lý hành chính 315 người;
chuyển cơ quan điều tra 42 vụ; năm 2014, cơ quan thanh tra đã kiến nghị thu hồi
cho Nhà nước, trả cho tập thể, cá nhân số tiền là 19,2 tỷ và 66,2 ha đất; bảo vệ
quyền lợi cho tập thể, cá nhân là 397 người; kiến nghị xử lý hành chính 498 người;
chuyển cơ quan điều tra 78 vụ; năm 2015, cơ quan thanh tra đã kiến nghị thu hồi
cho Nhà nước, trả cho tập thể, cá nhân số tiền là 29,8 tỷ và 29,6 ha đất; bảo vệ
quyền lợi cho tập thể, cá nhân là 876 người; kiến nghị xử lý hành chính 327 người;
chuyển cơ quan điều tra 04 vụ; năm 2016, cơ quan thanh tra đã kiến nghị thu hồi
cho Nhà nước, trả cho tập thể, cá nhân số tiền là 46,9 tỷ và 10 ha đất; bảo vệ quyền
97
lợi cho tập thể, cá nhân là 589 người; kiến nghị xử lý hành chính 344 người; chuyển
cơ quan điều tra 02 vụ; năm 2017, cơ quan thanh tra đã kiến nghị thu hồi cho Nhà
nước, trả cho tập thể, cá nhân số tiền là 15,4 tỷ và 17,1 ha đất; bảo vệ quyền lợi cho
tập thể, cá nhân là 565 người; kiến nghị xử lý hành chính 359 người và không có vụ
việc nào chuyển cơ quan điều tra [11] (Xem Phụ lục 4). Tuy nhiên, nhìn vào các số
liệu trên có thể thấy mặc dù từ năm 2013 đến năm 2017 có tăng có giảm nhưng về
cơ bản các thông số đều giảm, điều đó có thể nhận định theo các hướng sau: (1) các
hành vi vi phạm pháp luật ngày càng ít, mức độ vi phạm không nặng; (2) người dân
không mặn mà với tố cáo, không tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật do thiếu tin
tưởng vào các cơ quan thực thi công vụ, không dám tố cáo do sợ bị trả thù, trù dập;
(3) cơ quan có thẩm quyền GQTC do nể nang, tiêu cực, không làm hết trách nhiệm
nên cho hợp thức hóa các sai phạm, xử lý các hành vi vi phạm ở mức độ nhẹ nhất.
3.3.3 Thực trạng nguồn lực bảo đảm quyền tố cáo của công dân
3.3.3.1 Thực trạng nguồn nhân lực bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Cho đến nay chưa có con số thống kê cụ thể về số lượng, trình độ, chất lượng
của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác BĐQTC của công dân nhưng nhìn
chung đã được nâng cao về chất lượng, trình độ, trách nhiệm, đáp ứng cơ bản nhu
cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, vẫn còn không ít thủ trưởng cơ quan hành chính nhà
nước, cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân vẫn chưa mang tính chuyên
nghiệp, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, một bộ phận còn yếu kém về năng lực
và trình độ chuyên môn, thiếu tinh thần trách nhiệm, thậm chí có nơi cán bộ không
làm được việc thì bố trí làm công tác tiếp công dân; một số cán bộ tiếp dân còn có
biểu hiện quan liêu, hách dịch, thiếu tinh thần trách nhiệm; chưa có quy định về tiêu
chuẩn đạo đức, chuyên môn đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác giải
quyết tố cáo nên chất lượng không đồng đều trong thực tế; còn nhiều cán bộ, công
chức chưa am hiểu sâu về pháp luật nói chung và pháp luật tố cáo nói riêng nên
nhiều vụ việc giải quyết không khách quan, còn vi phạm quy trình, thủ tục, thiếu
trách nhiệm [85]. Và cũng không ít cán bộ làm công tác GQTC thiếu trách nhiệm,
né tránh, khi gặp vụ việc phức tạp còn đùn đẩy, thấy sai không sửa, thậm chí còn có
tiêu cực trong GQTC…. đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả
98
GQTC và bảo vệ người tố cáo không cao, gây bức xúc trong nhân dân [83]. Những
hạn chế của đội ngũ cán bộ công chức làm công tác BĐQTC của công dân đã nêu ở
trên xuất phát từ các nguyên nhân sau:
Một là, do các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện đối với đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác BĐQTC chưa cụ thể nên thực tế việc thực hiện các quy định này
còn nhiều bất cập.
Hai là, chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức này còn
hạn chế, do đó chưa tạo động lực làm việc, khuyến khích họ đề cao trách nhiệm,
phấn đấu rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực công tác chuyên môn,
nghiệp vụ để hoàn thành tốt công việc hết sức phức tạp này [9].
3.3.3.2 Thực trạng sử dụng cơ sở vật chất bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Đối với hoạt động tiếp nhận tố cáo: Sau khi Luật Tiếp công dân năm 2013 có
hiệu lực, Thanh tra Chính phủ đã phối hợp với các cơ quan hữu quan quy hoạch,
sửa chữa các trụ sở tiếp công dân của các cơ quan Trung ương tại Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh để bảo đảm điều kiện làm việc cho cán bộ, công chức, người lao
động thực hiện nhiệm vụ và thuận lợi cho nhân dân đến tố cáo, phản ánh. Các bộ,
ngành, các tỉnh cũng xây dựng phòng tiếp dân khang trang, lịch sự, trang bị khá đầy
đủ tiện nghi như bàn ghế, nước uống, quạt, camera, máy tính, máy phô tô, hệ thống
điện thoại nội bộ... Chế độ chính sách đối với công chức làm nhiệm vụ tiếp công
dân được thực hiện theo đúng quy định. Ở cấp huyện, về cơ bản đáp ứng được yêu
cầu, được trang bị khá đầy đủ máy móc, văn phòng phẩm phục vụ công tác này. Tuy
nhiên ở các địa phương, việc trang bị cơ sở vật chất phục vụ công tác tiếp công dân
còn nhiều khó khăn, nhiều xã phải mượn phòng làm việc của lãnh đạo hoặc các
phòng ban khác; cán bộ làm công tác tiếp dân chưa được hưởng chế độ, chính sách
theo quy định [85].
Nguồn tài chính bảo đảm cho hoạt động khen thưởng cá nhân có thành tích
xuất sắc trong tố cáo chưa tương xứng với công sức, trách nhiệm thu thập thông tin,
tài liệu để phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt mức khen thưởng
đối với tố cáo hành vi tham nhũng còn thấp, việc vinh danh chưa kịp thời nên chưa
thật sự động viên, khuyến khích người dân. Mặt khác, việc áp dụng các biện pháp
99
bảo vệ người tố cáo đòi hỏi sự tốn kém về tài chính, trang thiết bị, vũ khí, công cụ
hỗ trợ, phương tiện kỹ thuật nhưng đầu tư còn hạn chế.
3.3.4 Thực tiễn giám sát, kiểm tra, thanh tra bảo đảm quyền tố cáo của công
dân và xử lý vi phạm quyền tố cáo của công dân
3.3.4.1 Thực tiễn giám sát bảo đảm quyền tố cáo của công dân
* Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân
Thứ nhất, hoạt động giám sát của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội (giám sát của
QH) về pháp luật tố cáo thời gian qua đã hướng đến mục đích nhận xét, đánh giá
hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về GQTC của công dân; từ đó, đưa
ra kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tố cáo;
đưa ra giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình tổ chức,
thực hiện nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác GQTC. Hoạt động giám sát tập
trung vào những nội dung cơ bản sau đây:
Về trách nhiệm tổ chức công tác GQTC thuộc phạm vi quản lý của các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền: Giám sát thông qua xem xét các báo cáo; Giám sát
chuyên đề; Giám sát thông qua hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Khi chưa có Luật Hoạt động giám sát của QH thì Ủy ban thường vụ Quốc
hội đã nhiều lần họp, thảo luận riêng tại hội trường về những vấn đề có liên quan
đến việc thực hiện pháp luật tố cáo thông qua các báo cáo của Chính phủ và chất
vấn thành viên Chính phủ về công tác GQTC. Quốc hội luôn dành sự quan tâm đặc
biệt đối với vấn đề này, từ năm 2012 đến năm 2017 đã mười lần xem xét báo cáo
của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội, trong đó có phần GQTC và ba lần họp,
nghe báo cáo chuyên đề về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo [11]. Tại các phiên
họp cuối năm, QH đều nghe và thảo luận báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh
tế - xã hội, trong đó có nội dung về công tác GQTC. Hằng năm, Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo chuyên đề của Chính phủ về công tác GQTC.
Về trách nhiệm GQTC thuộc thẩm quyền của các chủ thể có liên quan: Giám
sát việc GQTC đối với đơn thư do các cơ quan của QH, Đoàn đại biểu Quốc hội và
đại biểu QH tiếp nhận; Giám sát đối với các bộ, ngành, địa phương về việc GQTC
100
đã được thực hiện khá nghiêm túc.
Năm 2003, Ban Dân nguyện được Quốc hội thành lập với nhiệm vụ giúp Ủy
ban thường vụ QH giám sát việc thi hành pháp luật về tố cáo và tổng hợp báo cáo
công tác dân nguyện. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (2011-2016), Ban Dân
nguyện đã tiếp và phối hợp với các cơ quan tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân
Trung ương ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh tiếp 50.339 lượt người đến khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị về 14.593 vụ việc, có 1.061 lượt đoàn đông người [6].
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (2011 - 2016), Ủy ban thường vụ Quốc
hội đã chỉ đạo việc tiếp nhận, xử lý đơn, thư, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ảnh
của công dân gửi đến QH, các cơ quan của QH liên quan đến 108.871 đơn thư; chỉ
đạo việc nghiên cứu, chuyển đơn, thư của công dân đến cơ quan có thẩm quyền giải
quyết, theo dõi, đôn đốc 6.543 đơn, thư của công dân và nhận được 4.575 văn bản
trả lời; tổ chức giám sát 172 vụ việc khiếu nại, tố cáo cụ thể [100].
Năm 2016, thực hiện Nghị quyết số 231/NQ-UBTVQH14 ngày 22/8/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân đã làm việc tại 06 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 04 cơ
quan của Chính phủ. Năm 2017, thực hiện Nghị quyết 336/NQ-UBTVQH14, ngày
16 tháng 1 về giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến QH
năm 2017, Đoàn giám sát đã làm việc với một số bộ, ngành và 08 địa phương về
việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo do QH chuyển đến [101].
Trên cơ sở kết quả của các cuộc giám sát chuyên đề, QH đã ban hành những
nghị quyết liên quan về các vấn đề đã giám sát, buộc Chính phủ phải có những điều
chỉnh chính sách hợp lý trong chỉ đạo, điều hành, khắc phục những hạn chế, bất cập,
tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác GQTC.
Tuy nhiên, hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước vẫn còn
những hạn chế nhất định như:
Hoạt động giám sát còn thiếu chuyên nghiệp, đôi khi còn mang tính hình
thức, chưa hiệu quả. Nội dung giám sát hoạt động GQTC hiện nay của QH do Ủy
ban thường vụ QH, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của QH cùng thực hiện. Hội
đồng dân tộc và các Ủy ban của QH khi nhận được đơn không thuộc thẩm quyền sẽ
101
chuyển cho Ban dân nguyện xử lý, do đó, nhiều khi đơn thư chuyển lòng vòng ngay
chính trong các cơ quan của QH [5], bởi vì Ban Dân nguyện chỉ là cơ quan tham
mưu, giúp Ủy ban thường vụ QH về công tác dân nguyện, không có vai trò giám sát
độc lập. Do đó, việc giám sát hoạt động GQTC còn thiếu tập trung, giá trị của các
kiến nghị thu được từ hoạt động giám sát có chất lượng chưa cao. Các Ủy ban khác
của QH cũng chưa giám sát được nhiều việc giải quyết của các cơ quan có thẩm
quyền, nhiều trường hợp mới chỉ dừng lại ở việc chuyển đơn mà chưa có biện pháp
theo dõi, kiểm tra và đôn đốc việc giải quyết báo cáo kết quả giám sát về GQTC
trong thời gian qua đã đưa ra nhiều kiến nghị với các cơ quan nhà nước khác nhau,
nhưng việc xem xét tiếp thu, giải quyết kiến nghị và trả lời cơ quan tiến hành giám
sát chưa nghiêm túc [5]. Mặc dù vậy, vẫn không có biện pháp nào để yêu cầu người
được kiến nghị phải giải trình việc không thực hiện các kiến nghị của cơ quan giám
sát dẫn đến việc giám sát công tác GQTC được tiến hành nhiều nhưng trên thực tế,
sau khi có kết quả giám sát, ít có cơ quan, tổ chức nào bị xử lý.
Các quy định về phạm vi, trình tự, thủ tục giám sát việc thực hiện pháp luật
về tố cáo trong các vụ việc cụ thể còn chưa thực sự rõ ràng. Trên thực tế, Luật Hoạt
động giám sát của QH và HĐND đều không quy định phạm vi, trình tự, thủ tục
giám sát đối với các vụ việc cụ thể. Luật Tố cáo năm 2011 cũng không quy định nội
dung giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với công tác GQTC; các văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành đều không quy định rõ trình tự, thủ tục tiến hành
giám sát và chế độ thông tin, báo cáo, xử lý kết quả giám sát trong từng cuộc giám
sát. Những hạn chế nêu trên đã làm giảm vai trò, tác dụng của hoạt động giám sát
đối với việc thực hiện pháp luật về tố cáo.
Thứ hai, giám sát của Hội đồng nhân dân
Trên cơ sở các quy định về giám sát, Hội đồng nhân dân một số tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương những năm qua đã thực hiện giám sát theo thẩm quyền,
với những nội dung và phương thức đa dạng. Các kết luận, kiến nghị giám sát đã
góp phần quan trọng vào việc chấn chỉnh, nâng cao hiệu quả, chất lượng công tác
quản lý nhà nước về tố cáo và GQTC theo thẩm quyền. Hàng năm, Hội đồng nhân
dân các địa phương đều xây dựng Nghị quyết về chương trình giám sát với các hoạt
102
động giám sát như: giám sát tại các kỳ họp (xem xét báo cáo và chất vấn); giám sát
chuyên đề; giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, của các
Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố, của Đại biểu Hội đồng nhân dân và Tổ
đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật, trong đó có nội dung giám
sát về công tác GQTC.
Về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri, HĐND cấp tỉnh
coi việc xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về GQTC là một trong những nội
dung giám sát quan trọng mà HĐND các tỉnh, thành phố quan tâm thực hiện.
Phương thức giám sát này là một bước đánh giá, rà soát lại tổng thể các vấn đề về
chính sách, pháp luật cũng như kết quả thực hiện việc GQTC của các cơ quan chức
năng, trên cơ sở đó Ban Pháp chế HĐND (thông qua công tác thẩm định báo cáo)
và các đại biểu HĐND có những đánh giá, đưa ra những giải pháp, kiến nghị về
những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực hiện công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các kỳ báo cáo.
* Giám sát của MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, của tổ
chức thanh tra nhân dân
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đã thực hiện chức năng giám sát
và thể hiện chính kiến khi kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền giải quyết những tố
cáo liên quan đến lĩnh vực hoạt động của từng tổ chức. Trong quá trình thực hiện
chức năng giám sát của mình, MTTQ và các tổ chức thành viên đã phát hiện được
nhiều nội dung còn thiếu, chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong một số văn bản
dự thảo về công tác tố cáo, GQTC, bảo vệ người tố cáo mà các cơ quan Đảng, Nhà
nước gửi lấy ý kiến, từ đó có các đề xuất, kiến nghị sửa đổi hợp lý cho phù hợp với
thực tiễn đời sống xã hội. Bên cạnh đó, kết quả thực hiện chức năng giám sát pháp
luật tố cáo của Mặt trận còn được thể hiện theo các phương thức giám sát sau đây:
(1) Việc giám sát tại các cơ quan dân cử (QH, Hội đồng nhân dân các cấp):
tại các kỳ họp QH, HĐND, MTTQ các cấp đều có báo cáo tổng hợp ý kiến và kiến
nghị liên quan đến những bức xúc của cử tri và nhân dân, kiến nghị những vấn đề
thuộc trách nhiệm của QH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân để các
cơ quan này xem xét, giải quyết; kiến nghị sớm có giải pháp đẩy mạnh việc giải
103
quyết, đôn đốc và giám sát việc giải quyết để đáp ứng tốt hơn những nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Bên cạnh đó, MTTQ còn phối hợp các cơ quan trong đó
có Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Thanh tra Chính phủ để
giải quyết nhiều vụ việc tố cáo phức tạp từ Trung ương đến địa phương, định kỳ tổ
chức các đợt tập huấn, trao đổi kinh nghiệm về việc cử luật sư tham gia trợ giúp
pháp lý miễn phí cho công dân tại Trụ sở tiếp công dân Trung ương; tổ chức hội
nghị tập huấn triển khai việc luật sư, luật gia tham gia tư vấn pháp lý cho công dân
đến khiếu nại, tố cáo tại trụ sở tiếp công dân Trung ương; tính đến hết tháng 11 năm
2016 đã có 425 luật sư tham gia trợ giúp pháp lý cho 1573 lượt công dân [7].
Tại các địa phương, Ủy ban MTTQ Việt Nam các tỉnh, thành phố chủ trì,
phối hợp với các bên liên quan lựa chọn một số vụ việc tố cáo phức tạp trên địa bàn
để tổ chức giám sát, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến vi phạm pháp luật về đất
đai, môi trường, khai thác tài nguyên... Ngoài ra, các Uỷ ban MTTQ còn thưc hiện
hoạt động tập hợp ý kiến, kiến nghị, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân;
tiếp dân, xử lý đơn thư tố cáo của công dân.
(2) Đối với giám sát hoạt động GQTC trong hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước, Ủy ban MTTQ các cấp cử đại diện tham gia các đoàn giám sát do Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của QH, Hội đồng nhân dân, các ban của Hội
đồng nhân dân tiến hành hoạt động giám sát đối với bộ máy nhà nước nói chung,
các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Thông qua việc tham gia các đoàn giám
sát, đại diện Ủy ban MTTQ xem xét, phát hiện và kiến nghị cơ quan tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét, xử lý những vi phạm pháp luật trong hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước, những tồn đọng trong việc GQTC của công dân tại các
cơ quan này.
(3) Đối với giám sát việc GQTC trong quá trình thực thi chính sách, pháp
luật trên địa bàn dân cư, ngoài sự phát hiện, kiến nghị của Ủy ban MTTQ, các tổ
chức thành viên, các ủy viên Ủy ban, còn có một hình thức khác đóng vai trò gần
như chủ yếu là hoạt động giám sát của Ban Thanh tra nhân dân ở cấp xã và ban
giám sát đầu tư của cộng đồng. Thanh tra nhân dân đóng vai trò nòng cốt trong
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, giải quyết tố cáo.
104
(4) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trực tiếp thực hiện hoạt động giám sát bằng
phương thức tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị; tiếp nhận đơn và
chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết. Năm 2015, có 376 lượt công dân được
tiếp; tiếp nhận 6.021 đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân
(có 5.469 đơn thư đã xử lý, tồn 552 đơn thư chưa xử lý), tăng 2.062 đơn so với cùng
kỳ năm 2014. Năm 2016, với 369 lượt công dân được tiếp, trong đó, có 12 đoàn
đông người; tiếp nhận và xử lý tổng số 4.086 đơn thư (trong đó có 3.996 đơn bưu
điện, 90 đơn nhận trực tiếp qua tiếp công dân). Sau khi xử lý đã trả lại cho công dân
118 đơn kèm văn bản hướng dẫn công dân thực hiện quyền khiếu nại, chuyển 124
đơn đến cá nhân, tổ chức có thẩm quyền GQTC, kiến nghị, đang tiếp tục xử lý đơn
thư được gửi qua đường bưu điện [52].
Mặc dù có nhiều phương thức giám sát nhưng hiện nay sự giám sát của xã
hội đối với công tác GQTC cũng như pháp luật về tố cáo còn rất hạn chế. Hoạt động
giám sát GQTC của MTTQ đã có từ lâu nhưng các văn bản pháp luật trong đó có
Luật MTTQ năm 2015 quy định tương đối hạn hẹp như: quyền giám sát của Mặt
trận đối với GQTC thường kỳ của các cơ quan nhà nước còn gò bó; các phát hiện,
kiến nghị gửi đến cơ quan nhà nước các cấp được ví như "nước đổ lá khoai", chưa
được coi trọng và chưa có chế tài bắt buộc; việc xử lý đơn thư tố cáo gửi đến Mặt
trận chỉ dừng ở mức nhận đơn và chuyển đơn, sau đó, các cơ quan có thẩm quyền
có thực sự tổ chức giải quyết kịp thời, nghiêm chỉnh, thấu đáo đúng pháp luật không
thì MTTQ không có quyền đưa ra ý kiến. Việc tham gia của Mặt trận về cơ bản
hình thức, ít hiệu quả.
Trên thực tế còn nhiều vụ việc tố cáo vượt cấp, đông người, kéo dài nhưng
hầu như không có sự giám sát của Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận, điều đó phần nào cho thấy vai trò của giám sát xã hội chưa thực
sự phát huy tác dụng. Một trong những nguyên nhân căn bản của tình trạng trên là
do quy định của pháp luật về giám sát của xã hội đối với việc thực hiện pháp luật về
tố cáo còn hạn chế, thiếu tính chưa cụ thể. Bên cạnh đó, pháp luật chỉ quy định cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền GQTC thông báo kết quả giải quyết và trả lời Ủy ban
105
MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận đã chuyển đơn tố cáo nhưng
không có quy định giải trình về việc giải quyết tố cáo.
3.3.4.2 Thực tiễn kiểm tra, thanh tra việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Trong thời gian qua, Thanh tra Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã
tiến hành nhiều cuộc thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về tố cáo tại nhiều
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cụ thể như sau : Năm 2016, Thanh tra Chính phủ và các
bộ, ngành, địa phương đã tiến hành 1.536 cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực
hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo tại 3.091 cơ quan, tổ chức, đơn vị, qua thanh tra
phát hiện 601 đơn vị có vi phạm, kiến nghị kiểm điểm rút kinh nghiệm 562 tổ chức,
470 cá nhân; xử lý hành chính 11 cá nhân. Năm 2017, tiến hành 1.645 cuộc thanh
tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo tại 2.779 cơ quan,
tổ chức, đơn vị, qua thanh tra phát hiện 544 đơn vị có vi phạm, kiến nghị kiểm điểm rút
kinh nghiệm 455 tổ chức, 568 cá nhân; xử lý hành chính 14 tổ chức, 17 cá nhân [11]
(Xem Phụ lục 5).
Ngoài thanh tra trách nhiệm, Thanh tra Chính phủ còn tiến hành kiểm tra
việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra trách nhiệm. Kết
quả của việc này như sau: Năm 2016, các cơ quan thanh tra đã tiến hành kiểm tra
việc thực hiện 454 kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra trách nhiệm,
kết quả cho thấy các cơ quan có thẩm quyền đã kiểm điểm trách nhiệm của 387 tổ
chức, 289 cá nhân; đã xử lý hành chính đối với 10 cá nhân. Năm 2017, các cơ quan
thanh tra tiến hành kiểm tra việc thực hiện 368 kết luận thanh tra, quyết định xử lý
sau thanh tra trách nhiệm; qua kiểm tra các cơ quan có thẩm quyền đã kiểm điểm
trách nhiệm của 288 tổ chức, 324 cá nhân, xử lý hành chính đối với 18 tổ chức, 33
cá nhân [11] (Xem Phụ lục 6).
Mặc dù việc thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật về tố cáo thời gian qua đã
làm được khối lượng công việc khá lớn, góp phần quan trọng vào việc BĐQTC của
công dân nhưng vẫn còn một số hạn chế, bất cập như sau:
Thứ nhất, nhiều đoàn thanh tra trách nhiệm chưa làm tốt các nội dung, yêu
cầu cần thanh tra, kiểm tra. Không ít đoàn chỉ mới nghe đối tượng báo cáo tình hình
trên địa bàn, cơ quan, đơn vị và kết quả GQTC; chưa thanh tra đầy đủ, cụ thể sổ
106
sách tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư tố cáo, hồ sơ vụ việc GQTC. Nhiều trường
hợp có kiểm tra hồ sơ nhưng không xem xét kỹ hoặc xem xét qua loa, đại khái, hoặc
do năng lực hạn chế nên không phát hiện được những sơ hở, sai sót, khiếm khuyết
trong quá trình giải quyết, nhất là những vụ việc phức tạp. Kết thúc thanh tra, nhiều
Đoàn thanh tra chưa kết luận rõ các sai phạm xảy ra, không đề xuất được những
kiến nghị xác đáng có tính khả thi với đối tượng thanh tra, chưa giải tỏa được những
khó khăn, vướng mắc cho cơ sở. Chính vì vậy mà dẫn đến tình trạng ở một số nơi,
năm nào cũng có đoàn thanh tra trách nhiệm song tình trạng tố cáo kéo dài, đông
người vẫn còn nhiều, tình trạng vi phạm pháp luật trong GQTC vẫn diễn ra.
Thứ hai, một số đoàn thanh tra ôm đồm, sa đà vào những vụ việc cụ thể, làm
thay địa phương, tự tổ chức tiếp dân, tiếp nhận đơn thư nhưng do thời gian có hạn
lại thiếu tính thực tiễn nên giải quyết vụ việc không đến nơi đến chốn, làm phức tạp
thêm tình hình, không những không gỡ rối mà còn gây rắc rối cho cơ sở.
Thứ ba, nhiều văn bản kết luận thanh tra trách nhiệm còn sơ sài, chưa phản
ánh đầy đủ thực trạng tình hình tố cáo; nhận xét, đánh giá còn chung chung, chưa
phân tích chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng tố cáo diễn ra trong cơ quan,
tổ chức, đơn vị, địa phương, đặc biệt tố cáo đông người, vượt cấp, kéo dài; chưa
đánh giá đầy đủ kết quả GQTC, chưa chỉ ra được nguyên nhân, tồn tại, thiếu sót,
trách nhiệm của tập thể, cá nhân; chưa đề xuất được các giải pháp để khắc phục tồn
tại, yếu kém về công tác này. Không ít đoàn thanh tra còn cả nể, né tránh khi kết
luận và kiến nghị xử lý trách nhiệm của đối tượng thanh tra có sai phạm.
3.3.4.3 Thực tiễn xử lý vi phạm quyền tố cáo của công dân
Qua thanh tra, kiểm tra, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện nhiều
thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm trong việc thực hiện pháp luật tố cáo, trong đó chủ
yếu là công tác tiếp nhận, xử lý đơn thư, GQTC; lợi dụng QTC..., cụ thể như sau:
Về việc xử lý vi phạm của người có thẩm quyền tiếp nhận và GQTC: ở một
số nơi lãnh đạo không thực hiện tiếp công dân theo định kỳ hoặc thực hiện còn
mang tính hình thức; việc theo dõi, cập nhật tình hình tố cáo không kịp thời; xử lý
đơn thư còn thiếu thống nhất, vòng vèo, quá trình giải quyết còn sai sót về trình tự,
thủ tục; việc kiểm tra, đôn đốc cấp dưới trong công tác GQTC còn hạn chế; việc
107
xem xét, xử lý vi phạm chưa đủ nghiêm....
Thực tế tại một số địa phương cho thấy, người có thẩm quyền tiếp nhận và
GQTC chấp hành thời hạn giải quyết chưa nghiêm, nhiều vụ việc giải quyết còn kéo
dài, có biểu hiện né tránh, nhất là trong trường hợp người bị tố cáo là người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Theo báo cáo của 12/26 bộ, ngành và
45/63 tỉnh, thành phố, qua phân tích 25.804 vụ tố cáo đã được xem xét, giải quyết
có 23.302 vụ việc giải quyết đúng thời hạn theo quy định của pháp luật, còn lại
2.502 vụ giải quyết quá hạn (chiếm 9,7%). Tuy nhiên, cho đến nay chưa có trường
hợp nào người GQTC bị xử lý vì vi phạm thời hạn GQTC [11]. Việc xử lý người bị
tố cáo có hành vi vi phạm pháp luật nhìn chung chưa thực sự nghiêm minh. Trong
tổng số 52.464 vụ việc tố cáo đã được giải quyết, kết luận đúng hoàn toàn và đúng
một phần 25.372 vụ việc (chiếm 48.36% số vụ đã được giải quyết) nhưng chỉ xử lý
được 4.269 người, trong đó chủ yếu là kiến nghị xử lý hành chính, chỉ chuyển cơ
quan điều tra 342 vụ. Việc nhắc nhở, rút kinh nghiệm nội bộ mà không kiên quyết
xử lý theo pháp luật với lý do để "giữ đoàn kết nội bộ, uy tín, thành tích của cơ quan,
địa phương, ngành" vẫn còn xảy ra nhiều [11].
Về xử lý vi phạm đối với người tố cáo: Không phải tất cả người tố cáo đều vì
mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước; nhiều người
đã lợi dụng QTC để bôi nhọ danh dự của người khác; cũng có nhiều người tố cáo
không hiểu hoặc cố tình không hiểu chính sách, pháp luật nên tố cáo thiếu căn cứ,
đưa ra những yêu cầu ngoài quy định của pháp luật, gay gắt, cố chấp; nhiều trường
hợp người tố cáo có hành vi lăng mạ, xúc phạm chính quyền, cán bộ tiếp công dân,
GQTC như viết khẩu hiệu, băng rôn nói xấu, chửi bới, lăng mạ, gọi điện thoại, nhắn
tin khủng bố..... Tuy nhiên, việc xử lý đối với các hành vi này ở nhiều nơi còn chưa
kiên quyết, các cơ quan chức năng thường chỉ áp dụng biện pháp giải thích, thuyết
phục để đưa người dân trở về địa phương, do đó, chưa thể hiện được tính nghiêm
minh của pháp luật, chưa tạo được sự răn đe đối với các đối tượng cố tình lợi dụng
quyền tố cáo. Việc tố cáo đông người gây mất trật tự công cộng, pháp luật cũng
không cho phép nhưng hiện tượng này đang gia tăng, tình trạng nhiều đoàn khiếu
nại, tố cáo đông người vượt cấp lên Trung ương khá phổ biến, gây sức ép đối với
108
các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, việc xử lý còn nhiều bất cập, chưa có cơ chế giải
quyết hữu hiệu.
Mặc dù thực tế có nhiều phản ánh về việc người tố cáo bị trả thù, trù dập
nhưng cho đến nay mới chỉ có một người bị xử lý bằng biện pháp hành chính do trả
thù, đe dọa trả thù; có bốn người bị xử lý do làm lộ lọt thông tin về người phản ánh,
tố giác, tố cáo và không có ai bị xử lý do thiếu trách nhiệm khiến người phản ánh, tố
giác, tố cáo bị trả thù trù dập [82].
3.3.5 Thực tiễn bảo vệ, khen thưởng người tố cáo
Nhìn chung, vấn đề bảo vệ và khen thưởng người tố cáo hiện được quy định
trong nhiều văn bản khác nhau, nhưng một số quy định còn chung chung, không
khả thi nên việc thực hiện chưa thực sự hiệu quả, chưa tạo thành động lực để
khuyến khích, động viên người tố cáo yên tâm thực hiện quyền cơ bản của mình.
3.3.5.1 Thực tiễn bảo vệ người tố cáo
Việc bảo vệ người tố cáo của nước ta cho đến nay chưa có số liệu thống kê
thường xuyên nên việc đánh giá gặp nhiều khó khăn. Năm 2015 Thanh tra Chính
phủ có báo cáo tổng hợp tình hình bảo vệ người tố cáo của 26 bộ ngành, cơ quan
thuộc Chính phủ và 49 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương kể từ khi có Luật Tố
cáo năm 2011 có hiệu lực và Nghị định số 76/2012/NĐ-CP của Chính phủ hướng
dẫn thi hành Luật Tố cáo, kết quả đạt được tính đến 31/3/2015 thì thực tiễn thực
hiện quy định về bảo vệ người tố cáo như sau:
Về tiếp nhận yêu cầu bảo vệ người tố cáo: số người yêu cầu bảo vệ bí mật
thông tin là 524; số người yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khỏe là 63; số người yêu
cầu bảo vệ tài sản là 27; số người yêu cầu bảo vệ uy tín, danh dự, nhân phẩm và các
quyền nhân thân khác là 55; số người yêu cầu bảo vệ vị trí, công tác, việc làm là 30.
Về kết quả thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo: số người tố cáo đã
được bảo vệ bằng các biện pháp bảo vệ theo quy định là 652; số người tố cáo được
bảo vệ bí mật thông tin là 788 (lớn hơn so với yêu cầu); số người tố cáo được bảo vệ
tài sản là 95 (ít hơn so yêu cầu); số người tố cáo được bảo vệ uy tín, danh dự, nhân
phẩm và các quyền nhân thân khác 266 (nhiều hơn so với yêu cầu); số người tố cáo
được bảo vệ vị trí việc làm là 99 (nhiều hơn so với yêu cầu) [82] (Xem Phụ lục 7).
109
Theo thống kê của Ban Nội chính Trung ương, từ năm 2012 đến hết 6 tháng
đầu năm 2017, tình hình bảo vệ người dân phản ánh, kiến nghị, tố cáo trên cả nước
như sau:
Việc tiếp nhận yêu cầu bảo vệ người dân phản ánh, tố giác, tố cáo: số người
đề nghị bảo vệ bí mật thông tin là 4995; số người đề nghị bảo vệ nơi cư trú là 228;
số người đề nghị bảo vệ vị trí công tác, việc làm là 74; số người đề nghị bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác là 110.
Về tình hình và kết quả bảo vệ: số người được bảo vệ bí mật thông tin là
8429 (nhiều hơn so với yêu cầu); số người bị lộ lọt thông tin là 5; số người bị đe
dọa, trả thù là 03; số người được bảo vệ tính mạng, sức khỏe là 1871 (nhiều hơn so
với yêu cầu); số người được bảo vệ tài sản là 1850 (nhiều hơn so với yêu cầu); số
người được bảo vệ vị trí công tác, việc làm là 1849 (nhiều hơn so với yêu cầu); số
người được bảo vệ danh dự, uy tín và các quyền nhân thân khác là 2052 (nhiều hơn
so với yêu cầu).
Việc thống kê của hai cơ quan nói trên ở các thời điểm khác nhau, với các
đối tượng khác nhau và loại đơn thư cũng khác nhau nên không thể so sánh, tuy
nhiên, qua các con số có thể thấy số người bị lộ lọt thông tin, số người bị đe dọa, trả
thù ... còn quá ít so với phản ánh của báo chí và số người yêu cầu được bảo vệ, số
người được bảo vệ cũng còn ít so với số đơn thư tố cáo. Thực tiễn này cho thấy ý
thức về quyền được bảo vệ và hiểu biết pháp luật của người tố cáo chưa cao nên
chưa biết cách yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ khi có nguy cơ bị trả thù; mặt
khác trong nhiều trường hợp người tố cáo còn tố cáo cả người giải quyết tố cáo và
có những yêu sách, kỳ vọng quá mức vào kết quả giải quyết tố cáo nên bị mất thiện
cảm với cán bộ, công chức và cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố cáo.
Từ một số vụ việc tố cáo, có thể thấy thực tế về ý thức của người tố cáo và
trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ người tố cáo:
* Việc ông Nguyễn Ngọc Thành giảng viên Trường Đại học Bách Khoa Hà
Nội tố cáo về những sai phạm của một số cán bộ, giảng viên của Trường Đại học
Bách Khoa Hà Nội, Bộ Giáo dục và Đào tạo: từ năm 2012 đến nay, ông Nguyễn
Ngọc Thành đã gửi đơn tố cáo đến nhiều cơ quan, nhiều cá nhân ở các cơ quan
110
Đảng ở Trung ương, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chính phủ, thậm chí
trong các hội nghị của Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, ông Thành còn công
khai việc mình tố cáo ai, nội dung tố cáo gì; trên các báo viết, báo mạng ông cũng
đồng ý công khai tên và ảnh của mình. Những tố cáo của ông Thành đã được nhiều
cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhưng ông Thành không đồng ý, tiếp tục gửi đơn
tố cáo lên cấp cao hơn và tố cáo cả người đã giải quyết tố cáo của mình. Tháng 3
năm 2015, ông Thành gửi đơn đến Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo phản ánh việc
ông nhận được tin nhắn có nội dung đe dọa tính mạng trước đó vài ngày. Sau đó
Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo có Công văn số 190/TTr-NV4 ngày 09/4/2015
gửi Công an phường Bách Khoa, quận Hai Bà Trưng (nơi đặt trụ sở Trường Đại học
Bách Khoa) và Công an phường Trung Tự, quận Đống Đa (nơi cư trú của ông
Thành) về việc chuyển đơn phản ánh của ông Thành dựa trên căn cứ tại Luật Tố cáo
năm 2011. Nhưng hai cơ quan đó không có phản hồi, ông Thành cũng không có
phản ánh gì thêm. Theo Khoản 1 Điều 39, Luật Tố cáo năm 2011 thì "Khi người
giải quyết tố cáo nhận được thông tin người tố cáo bị đe dọa, trả thù, trù dập thì có
trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với cơ quan công an hoặc cơ quan khác có thẩm
quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn, bảo vệ người tố cáo...", trong trường hợp
này việc Công an phường Bách Khoa và Công an phường Trung Tự không có phản
hồi đối với Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phối hợp bảo vệ người tố cáo
là chưa thể hiện đúng trách nhiệm trong việc bảo vệ người tố cáo.
* Vụ việc ông Võ Văn Đ, một công dân ở Đồng Tháp gửi đơn đến UBND
tỉnh Đồng Tháp tố cáo ông Đặng Văn Nang- Phó Chủ tịch UBND Thành phố Cao
Lãnh, tỉnh Đồng Tháp với nội dung lợi dụng chức vụ, quyền hạn của chủ tịch hội
đồng bồi thường và tái định cư phê duyệt phương án bồi thường trái quy định để gia
đình trục lợi tiền ngân hàng chính sách. Ngày 27/3/2017 Chủ tịch UBND Tỉnh
Đồng Tháp ban hành Quyết định số 37/QĐ-UBND-TL về việc thụ lý giải quyết vụ
việc và giao nhiệm vụ các cơ quan chức năng xác minh nội dung tố cáo nhưng trong
Quyết định ghi rõ tên tuổi, địa chỉ của người tố cáo. Biết sự việc, người tố cáo đã
gửi đơn đến các cơ quan Trung ương tố cáo ông Nguyễn Văn Dương, Chủ tịch
UBND tỉnh Đồng Tháp về việc để lộ danh tính người tố cáo. Sau đó UBND tỉnh đã
111
thu hồi và huỷ Quyết định số 37. Ngày 9/6/2017 tại trụ sở Tiếp công dân tỉnh Đồng
Tháp, Phó Chủ tịch UBND tỉnh đã tổ chức buổi xin lỗi ông Võ Văn Đ, đồng thời
cho biết đã cử lực lượng công an bảo đảm an toàn cho ông Đ và gia đình ông, đồng
thời chỉ đạo khẩn trương tiến hành xác minh và sớm có kết quả giải quyết tố cáo.
Ông Chủ tịch tỉnh thời điểm đó đang đi công tác nước ngoài cũng gọi điện cho ông
Đ để xin lỗi và ông Đ đã chấp nhận việc xin lỗi.
Việc để lộ họ tên, địa chỉ người tố cáo trong quyết định thụ lý đơn tố cáo của
Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp là vi phạm nghiêm trọng pháp Luật Tố cáo, gây
nguy cơ nguy hiểm cho người tố cáo, điều này thể hiện ý thức trách nhiệm cũng như
trình độ, năng lực của các cán bộ, công chức có liên quan. Theo quy định tại Điều
46 Luật Tố cáo năm 2011 thì người làm lộ danh tính người tố cáo tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định.
Từ thực tiễn bảo vệ người tố cáo của nước ta hiện nay, có thể thấy việc bảo
vệ người tố cáo đang có những bất cập sau:
Thứ nhất, vấn đề bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo: Trong quá trình
GQTC, nội dung tố cáo được tiếp nhận, xử lý bởi nhiều cơ quan, đơn vị với sự tham
gia của nhiều cán bộ, công chức, do đó, việc bảo mật nội dung tố cáo và thông tin
về người tố cáo là rất khó khăn. Mặt khác, người tố cáo thường gửi đơn đến nhiều
cơ quan khác nhau, càng làm cho việc bảo mật thông tin thêm khó khăn, khi danh
tính về người tố cáo bị lộ cũng khó xác minh người làm lộ... Tuy nhiên Luật Tố cáo
năm 2011 đã quy định cấm tiết lộ danh tính người tố cáo nên việc bảo vệ danh tính
người tố cáo là đương nhiên, không cần có yêu cầu của người tố cáo thì các cá nhân,
cơ quan có thẩm quyền có liên quan đến việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết tố cáo phải
bảo đảm điều này.
Thứ hai, việc phối hợp bảo vệ người tố cáo chưa tốt: Do chưa có quy định cụ
thể hóa quy trình, thời gian phối hợp, xác minh yêu cầu được bảo vệ của người tố cáo
nên có sự đùn đẩy trách nhiệm, làm chậm trễ thời gian xác minh, ảnh hưởng đến sức
khỏe, tính mạng của người tố cáo và người thân của họ. Do đó, việc thiếu hướng dẫn
cụ thể về quy trình, thủ tục tiếp nhận, xử lý giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan
112
đến việc bảo vệ người tố cáo là vấn đề phức tạp, khó khăn trong thực tiễn.
3.3.5.2 Thực tiễn khen thưởng người tố cáo
Thực tiễn cho thấy, để đấu tranh chống tiêu cực, vi phạm pháp luật nói chung
và chống tham nhũng nói riêng có hiệu quả thì việc người dân phát hiện và tố cáo là
rất quan trọng, là tiền đề cho công tác xử lý các vụ việc. Tuy vậy, cho đến nay việc
khen thưởng, biểu dương người tố cáo còn rất hạn chế, mới có một cuộc biểu dương
khen thưởng người tố cáo được tổ chức ở quy mô toàn quốc, đó là Hội nghị vinh
danh các cá nhân tiêu biểu trong công tác phòng, chống tham nhũng ngày
7/9/2010. Trong tổng số 88 cá nhân được tuyên dương, có 46 người dũng cảm trực
tiếp tố cáo, đấu tranh với hành vi tham nhũng, còn lại chưa ghi nhận thêm các
trường hợp khen thưởng với người tố cáo.
Từ thực tiễn khen thưởng người tố cáo cho thấy công tác này còn một số bất
cập như: việc khen thưởng người tố cáo chưa kịp thời, chưa tương xứng với công
lao, thành tích; hình thức biểu dương khen thưởng chưa phù hợp, thậm chí còn làm
lộ, lọt thông tin, gây hậu quả xấu đối với người tố cáo [8].
3.4 Đánh giá chung về thực trạng bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở
Việt Nam hiện nay
3.4.1 Đánh giá về bảo đảm quyền tố cáo của công dân được quy định trong
hệ thống pháp luật Việt Nam
3.4.1.1 Những ưu điểm
Qua phân tích việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân được quy định trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, có thể thấy một số ưu điểm như sau:
Thứ nhất, BĐQTC của công dân được hình thành và phát triển liên tục, có tính
kế thừa qua nhiều giai đoạn, gắn liền với sự phát triển xã hội. Các quan điểm của
Đảng và pháp luật của Nhà nước về BĐQTC của công dân là nhất quán. Từ năm
1945 đến nay, trong mỗi giai đoạn phát triển, BĐQTC của công dân ngày càng được
hoàn thiện, cụ thể và chặt chẽ hơn, tạo điều kiện để người dân tố cáo các hành vi vi
phạm pháp luật, bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tập thể và Nhà nước. Đồng thời, các
BĐQTC của công dân dần tiếp cận được với những chuẩn mực quốc tế trong việc
bảo đảm thực hiện quyền con người nói chung, QTC nói riêng. Hệ thống pháp luật
113
nước ta thể hiện khá rõ tính dân chủ, minh bạch và trách nhiệm của Nhà nước trong
bảo đảm thực hiện QTC của công dân.
Thứ hai, trên cơ sở nguyên tắc hiến định, BĐQTC của công dân được quy
định trong các văn bản có giá trị pháp lý cao như luật, nghị định, thông tư; được ban
hành đúng thẩm quyền, với kỹ thuật lập pháp, lập quy chuẩn tắc. Đây là điều kiện
thuận lợi cho việc áp dụng các văn bản này trong thực tế.
Thứ ba, về cơ bản các BĐQTC của công dân toàn diện, bao quát được những
lĩnh vực cần có sự điều chỉnh của pháp luật phục vụ cho việc công dân có thể sử
dụng QTC của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể và
Nhà nước.
3.4.1.2 Những hạn chế, tồn tại
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân tuy ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn,
nhưng thực tế vẫn chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong quá
trình thực hiện QTC, thậm chí một số quy định còn gây khó khăn cho người dân khi
thực hiện quyền này, cụ thể:
Thứ nhất, một số BĐQTC của công dân thiếu thống nhất như:
Về chủ thể thực hiện quyền tố cáo: Có sự khác nhau trong cách hiểu về chủ
thể thực hiện QTC giữa Hiến pháp năm 2013 và Luật Tố cáo năm 2011. Như đã đề
cập ở các phần trên, nếu như Hiến pháp cho rằng "mọi người" có QTC thì Luật Tố
cáo năm 2011 vẫn dùng thuật ngữ "công dân". Hai thuật ngữ này có sự khác biệt lớn,
công dân là cá nhân có quốc tịch của một quốc gia, ở đây chỉ người có quốc tịch
Việt Nam, còn mọi người có thể được hiểu là tất cả mọi cá nhân hiện diện hợp pháp
trên lãnh thổ quốc gia, bao gồm người nước ngoài, người không quốc tịch. Đến
Luật Tố cáo năm 2018 đã sử dụng thuật ngữ "cá nhân" Tuy nhiên, theo định nghĩa
về tố cáo của Luật Tố cáo năm 2011 và Luật Tố cáo năm 2018 thì "tổ chức" không
phải là chủ thể của QTC nhưng xét cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn và để BĐQTC
của công dân một cách đầy đủ và toàn diện, pháp luật tố cáo hiện hành cần quy định
chủ thể của QTC ngoài cá nhân, còn có cả tổ chức vì tổ chức cũng bị xâm phạm
quyền lợi và tổ chức cũng góp phần bảo vệ lợi ích cá nhân, tập thể, Nhà nước.
Về quy định tố cáo nặc danh: Pháp luật hiện hành không quy định rõ có thừa
114
nhận hay không thừa nhận việc tố cáo không rõ tên, địa chỉ của người tố cáo. Khoản
2 Điều 9 Luật Tố cáo năm 2011 và Khoản 1 Điều 64 LPCTN sửa đổi, bổ sung năm
2012 quy định là người tố cáo phải nêu rõ tên, tuổi, địa chỉ của mình. Nghị định số
59/2013/NĐ-CP ngày 17/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của LPCTN năm 2012 tại Khoản 4 Điều 55 quy định: “Đối với
những tố cáo không rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo nhưng nội dung tố cáo rõ ràng,
bằng chứng cụ thể, có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo thông tin được cung cấp để phục vụ
công tác phòng chống tham nhũng". Việc quy định này dẫn đến áp dụng thiếu thống
nhất ở các địa phương, đơn vị, mặt khác, người tiếp nhận tố cáo có thể lợi dụng để
dìm bỏ những tố cáo không rõ họ tên, địa chỉ liên quan đến người thân, người quen.
Do đó, để khuyến khích người dân cung cấp thông tin về những hành vi vi phạm
pháp luật, góp phần quan trọng vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, tham
nhũng, đồng thời góp phần vào việc bảo vệ người tố cáo hiệu quả, pháp luật, nên có
quy định rõ ràng thừa nhận tố cáo nặc danh.
Luật Tố cáo năm 2018 có quy định rõ hơn Luật Tố cáo năm 2011 về vấn đề
tố cáo nặc danh, tại Điều 25: đối với đơn thư không có họ tên, địa chỉ của người tố
cáo nhưng có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu,
chứng cứ cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật và có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì
cơ quan, tổ chức, cá nhân tiếp nhận tiến hành việc thanh tra, kiểm tra theo thẩm
quyền hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để tiến hành việc
thanh tra, kiểm tra phục vụ cho công tác quản lý. Tuy nhiên, cần có quy định cụ thể
hơn nữa về quy trình giải quyết, quản lý việc giải quyết để phát huy hiệu quả.
Về hình thức tố cáo: có sự khác biệt về quy định hình thức tố cáo trong các
văn bản pháp luật, nếu như Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 xác định
có hai hình thức tố cáo thì Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi, bổ
sung năm 2007, 2012 lại quy định có bốn hình thức tố cáo tham nhũng.
Thứ hai, một số quy định chưa rõ ràng, cụ thể
Về giám sát việc thực hiện pháp luật về tố cáo: Như đã phân tích ở trên, pháp
luật quy định nhiều chủ thể có thẩm quyền giám sát nhưng không phân biệt được
115
rạch ròi ranh giới giám sát của từng chủ thể, mặt khác không có quy định về nội
dung, phương thức, trình tự, thủ tục giám sát dẫn đến sự trùng lặp, chồng chéo và
không hiệu quả.
Về bảo vệ người tố cáo: hầu hết quy định về bảo vệ người tố cáo chỉ mang
tính nguyên tắc, thiếu cụ thể, thiếu rõ ràng; thiếu các hướng dẫn kỹ thuật để thi hành
như quy định về căn cứ để yêu cầu bảo vệ đối với người tố cáo, biện pháp bảo vệ,
cơ quan chịu trách nhiệm bảo vệ, quan hệ phối hợp trong bảo vệ người tố cáo, các
biện pháp đảm bảo về tài chính, kỹ thuật cho việc thực thi nhiệm vụ bảo vệ người tố
cáo .... nên tình trạng người tố cáo bị trả thù, trù dập vẫn còn khá phổ biến.
3.4.2 Đánh giá về thực tiễn bảo đảm quyền tố cáo của công dân
3.4.2.1 Ưu điểm
Nhìn chung, việc tổ chức thực hiện BĐQTC của công dân được các cơ quan
có thẩm quyền tiến hành một cách có trách nhiệm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các quy định về BĐQTC
của công dân được các cơ quan có thẩm quyền coi trọng để người dân nhận biết
được sự thay đổi về quyền và nghĩa vụ của mình khi thực hiện QTC, đồng thời quan
tâm đến tổ chức bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ cho cán bộ, công chức trực tiếp
tiếp công dân, giải quyết tố cáo...
Thứ hai, công tác tổng kết, đánh giá thực hiện các luật về BĐQTC của công
dân như Luật Tố cáo, Luật Tiếp công dân, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật
Thanh tra... được tiến hành thường xuyên nhằm phát hiện ra thiếu sót để chấn chỉnh
trong thực hiện và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định cho phù hợp với thực
tiễn và đồng bộ, nhất quán với các văn bản pháp luật khác.
Thứ ba, công tác tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính liên quan đến hoạt động
BĐQTC của công dân được quan tâm, bổ sung, thay đổi để tạo điều kiện thuận lợi
trong quá trình thực thi công vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3.4.2.2 Hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm như đã phân tích ở trên, thực tiễn BĐQTC của công
dân vẫn còn nhiều hạn chế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, một số hoạt động BĐQTC của công dân còn chưa hiệu quả như
116
hoạt động giám sát BĐQTC của công dân, bảo vệ người tố cáo. Nhiều cuộc giám
sát chỉ đưa ra được những kiến nghị, không có các chế tài đủ mạnh để mang tính răn
đe, nhất là các chế tài chính trị để bảo đảm sự tôn trọng và thực thi nghiêm các kiến
nghị của cơ quan giám sát. Vẫn còn tình trạng người tố cáo bị trù dập, trả thù và
ngày càng diễn biến ở mức độ tinh vi, khó phát hiện.
Thứ hai, vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy giữa các cơ quan nhà
nước trong việc xử lý vi phạm quyền tố cáo như việc xử lý người tố cáo lợi dụng
quyền tố cáo để vu khống, hạ thấp danh dự người khác hoặc việc xử lý cán bộ, công
chức sai phạm trong GQTC...
Thứ ba, một số hoạt động BĐQTC của công dân còn lúng túng, chưa được
thực hiện nghiêm túc như việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ
người tố cáo; trách nhiệm, thẩm quyền của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong
giải quyết tố cáo.
Thứ tư, có hoạt động BĐQTC của công dân ít được thực hiện trên thực tế,
như việc khen thưởng người tố cáo nên chưa tạo được động lực để người dân thực
hiện quyền tố cáo, đặc biệt là tố cáo hành vi tham nhũng.
3.4.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế
Thực tiễn BĐQTC của công dân trong thời gian qua còn một số hạn chế, bất
cập do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, là vấn đề nhận thức. Nhận thức của cả xã hội nói chung và nhận
thức của người dân, đội ngũ cán bộ công chức nói riêng về QTC và BĐQTC của
công dân còn hạn chế. Cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền chưa nhận thức
hết vai trò, ý nghĩa của tố cáo cũng như việc BĐQTC của công dân nên nhiều cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chưa thực sự quan tâm, chú trọng đến công
tác này trên thực tế, chưa có những hành động thiết thực, tích cực trong việc tiếp
nhận tố cáo, xử lý đơn thư và GQTC.
Về phía công dân, do tâm lý, văn hóa pháp luật của người dân còn hạn chế
nên chưa mạnh dạn thực hiện QTC của mình, chưa dám tố cáo những vi phạm pháp
luật của cán bộ, công chức trong cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân cư vì sợ sự kỳ thị
của đồng nghiệp, xóm làng, sợ sự không thiện chí của các cơ quan có thẩm quyền
117
trong việc tiếp nhận, GQTC. Mặt khác, do ý thức pháp luật của người dân còn hạn
chế nên nhiều trường hợp công dân tố cáo yêu cầu, đòi hỏi quá đáng; nhiều trường
hợp người tố cáo lợi dụng QTC để tố cáo sai sự thật, xuyên tạc, gây rối trật tự. Một số
người dân còn nhận tiền của các phần tử phản động để tham gia tố cáo [83].
Thứ hai, thể chế về BĐQTC của công dân chưa hoàn thiện, chưa phù hợp với
thực tiễn. Các quy định pháp luật về BĐQTC của công dân còn thiếu, nhiều quy
định chưa cụ thể, thậm chí còn mâu thuẫn gây khó khăn cho cơ quan nhà nước trong
thực thi công vụ; các quy định về thủ tục BĐQTC còn rườm rà, quy định về bảo vệ
người tố cáo có tính khả thi thấp, quy định về xử lý vi phạm quyền tố cáo chưa rõ
ràng.... nên không khuyến khích, tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền tố cáo
của mình. Mặt khác, bộ máy nhà nước làm công tác BĐQTC của công dân chưa
được quy định rõ ràng, còn chồng chéo dẫn đến tình trạng đùn đẩy, né tránh; cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc BĐQTC của
công dân chưa được quy định cụ thể, chặt chẽ.
Thứ ba, việc tổ chức BĐQTC của công dân chưa được quan tâm đúng mức,
chưa có sự khen thưởng xứng đáng với những người tố cáo và chưa xử lý nghiêm
những người vi phạm pháp luật BĐQTC, người bị tố cáo cũng là nguyên nhân dẫn
đến việc BĐQTC của công dân còn hạn chế.
Thứ tư, do chưa có đủ nguồn lực tài chính, điều kiện vật chất kỹ thuật, đội
ngũ cán bộ, công chức... cho công tác BĐQTC của công dân. Như đã phân tích ở
trên, hiện nay nguồn lực đầu tư cho việc BĐQTC của công dân chưa tương xứng
với việc thực hiện nhiệm vụ do đó chưa bảo đảm chất lượng, yêu cầu của công tác
tiếp công dân, GQTC, bảo vệ người tố cáo...
118
Kết luận Chương 3
Tố cáo và BĐQTC của công dân được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ
những ngày lập nước qua việc ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và khuyến khích,
tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện QTC.
Qua các thời kỳ lịch sử, các quy định pháp luật về BĐQTC không ngừng
được hoàn thiện theo hướng cụ thể, chặt chẽ, tăng dần trách nhiệm của các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức chính trị và bao quát được những lĩnh vực
cần có sự điều chỉnh của pháp luật phục vụ cho việc công dân có thể sử dụng QTC
của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể và Nhà nước.
Đồng thời, nhận thức của người dân về QTC ngày càng nâng lên. Tuy vậy, hệ thống
pháp luật về BĐQTC còn nhiều bất cập, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân trong quá trình thực hiện QTC, thậm chí một số quy định còn gây khó
khăn cho người dân khi thực hiện quyền này.
Bên cạnh đó, việc thực hiện các quy định pháp luật về BĐQTC tuy đã có
những tiến bộ đáng kể nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, điều đó làm cho các quy định
không phát huy được hiệu quả như: Việc thực hiện các quy định pháp luật về
BĐQTC đặc biệt là hoạt động giám sát và bảo vệ người tố cáo chưa hiệu quả; còn
chưa nghiêm túc, nể nang khi xử lý các vi phạm QTC; còn tình trạng đùn đẩy, né
tránh trách nhiệm, việc khen thưởng người tố cáo chưa thực hiện thường xuyên….
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do nhận thức xã hội nói chung
và công dân, đội ngũ cán bộ công chức có thẩm quyền, người dân về BĐQTC của
công dân còn hạn chế; thể chế về BĐQTC của công dân chưa đầy đủ; việc tổ chức
thực hiện BĐQTC của công dân chưa được quan tâm đúng mức, chưa có sự khen
thưởng xứng đáng với những người tố cáo và chưa xử lý nghiêm những người vi
phạm pháp luật BĐQTC; chưa có đủ nguồn lực tài chính, điều kiện vật chất kỹ thuật,
đội ngũ cán bộ, công chức... cho công tác BĐQTC của công dân.
Những vấn đề còn bất cập của các quy định pháp luật và việc thực thi cần
được nhìn nhận khách quan, phân tích kỹ lưỡng để làm cơ sở tiếp tục hoàn thiện
sao cho các quy định pháp luật về BĐQTC phát huy hiệu quả, đáp ứng tốt yêu
cầu thực tiễn.
119
Chương 4
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
QUYỀN TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1 Quan điểm tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân ở Việt
Nam hiện nay
4.1.1 Bảo đảm quyền tố cáo của công dân phải phù hợp với các yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền phải là Nhà nước mà trong đó các quyền con người,
quyền công dân được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm. Theo nghĩa đó, xây
dựng nhà nước pháp quyền cũng có nghĩa là thiết lập, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm các quyền con người. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta đòi hỏi Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện và nâng cao năng
lực thực thi pháp luật của bộ máy nhà nước; Nhà nước phải thượng tôn pháp luật
nhằm giới hạn quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước trở thành công cụ
bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Các quyền này không riêng rẽ mà luôn có
sự gắn kết, vì vậy, bảo đảm QTC của công dân không chỉ có ý nghĩa là bảo đảm một
quyền cơ bản mà qua đó công dân được bảo đảm các quyền và lợi ích khác. Tư
tưởng này xuyên suốt trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
Kết quả thực hiện QTC chính là thước đo phản ánh thái độ, niềm tin của
công dân đối với các cơ quan công quyền trong việc xem xét, xử lý các vi phạm của
chính các cơ quan nhà nước, thể hiện bản chất dân chủ của nhà nước pháp quyền
XHCN. Do đó, pháp luật tố cáo cần phải được xây dựng, hoàn thiện sao cho công
dân có thể sử dụng QTC của mình thuận lợi nhất, hiệu quả nhất. Việc BĐQTC của
công dân thể hiện tính dân chủ của Nhà nước pháp quyền, nhằm tạo điều kiện và
khuyến khích cho nhân dân tham gia vào việc phản ánh mọi hành vi sai phạm của
mọi chủ thể trong xã hội; nêu cao kỷ cương, kỷ luật, hạn chế mọi biểu hiện tiêu cực,
phạm pháp, tăng cường pháp chế. Quyền tố cáo là quyền tự vệ, dự phòng nhằm kiểm
soát xã hội, kiểm soát hoạt động của cơ quan nhà nước qua việc phản kháng về những
120
hành vi vi phạm pháp luật. Nhà nước đã tạo lập công cụ pháp lý để công dân có thể tự
bảo vệ mình, đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm pháp luật mà trước hết hướng
vào sự vi phạm từ phía cơ quan nhà nước, người thừa hành công vụ.
Việc BĐQTC của công dân thể hiện tính dân chủ của nhà nước pháp quyền,
nhằm tạo điều kiện và khuyến khích cho nhân dân tham gia vào việc vạch trần
những hành vi sai phạm của mọi chủ thể trong xã hội; nêu cao kỷ cương, kỷ luật,
hạn chế mọi biểu hiện tiêu cực, phạm pháp, tham nhũng; tăng cường pháp chế. Nghị
quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, X, XI và XII đều khẳng định
chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng XHCN của dân, do dân và
vì dân và đề cập nhiều hơn, trực tiếp hơn đến các vấn đề liên quan đến bảo đảm
thực hiện quyền con người, quyền công dân, qua việc khẳng định: Nhà nước ta là
công cụ để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân và vì dân…. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và khẳng
định mạnh mẽ hơn nguyên tắc tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền
công dân tại Khoản 1, Điều 2 và tiếp tục được khẳng định tại Điều 3: "Nhà nước
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người, quyền công dân.."; và Điều 30: “Mọi người có quyền
khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo”. Đây là bước phát triển thể hiện
nhận thức sâu sắc và đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc định hướng, thiết
lập các bảo đảm nhằm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đó là xu hướng,
là yêu cầu đặt ra đối với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung
và QTC nói riêng.
Để xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả thì
các cơ quan nhà nước phải hoạt động theo nguyên tắc công khai, minh bạch. Công
cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta đòi hỏi Nhà nước phải không
ngừng hoàn thiện và nâng cao năng lực thực thi pháp luật của bộ máy nhà nước; nhà
nước phải thượng tôn pháp luật nhằm giới hạn quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền
121
lực nhà nước trở thành công cụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, trong đó
QTC là một trong những quyền cơ bản của con người.
4.1.2 Bảo đảm quyền tố cáo của công dân cần huy động sự tham gia của
nhiều chủ thể, đặc biệt là của các doanh nghiệp, tổ chức và người dân
Như đã phân tích ở trên, để QTC của công dân được thực hiện trên thực tế thì
cần các loại bảo đảm khác nhau như bảo đảm chính trị, bảo đảm kinh tế, bảo đảm
văn hóa - xã hội, bảo đảm pháp lý. Nhà nước có các nguồn lực như con người, cơ sở
vật chất, bộ máy và biện pháp thực hiện nên trách nhiệm BĐQTC trước hết thuộc về
Nhà nước. Tuy nhiên, còn nhiều chủ thể khác cũng có vai trò quan trọng trong việc
giám sát GQTC, bảo vệ người tố cáo, thậm chí thực hiện QTC để vạch trần những
tiêu cực, tham nhũng trong xã hội như các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp, báo chí, người dân..... Thực tế hiện nay
rất cần sự tham gia của nhiều chủ thể, phát huy sức mạnh của toàn xã hội trong việc
BĐQTC. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 cũng khẳng định sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về quyền trực
tiếp giám sát, kiểm tra của công dân đối với các hoạt động của cơ quan, cán bộ,
công chức, cũng như cần mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân
tham gia vào công việc của Nhà nước.
Việc tham gia của các chủ thể khác ngoài Nhà nước sẽ giúp việc BĐQTC
khách quan và toàn diện hơn. Điều này cũng phù hợp với các công ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên, Điều 13 của Công ước quốc tế về phòng chống tham nhũng
nêu: "Trong khả năng có thể và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
nước mình, mỗi quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện pháp thích hợp nhằm
thúc đẩy sự tham gia chủ động của các cá nhân và tổ chức ngoài khu vực công như
xã hội dân sự, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức cộng đồng vào công tác
phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng". Việt Nam đã nội luật hóa điều này
trong các văn bản pháp luật, thể hiện trong Chương VI của Luật Phòng, chống tham
nhũng năm 2005 khi đưa ra các quy định về "vai trò và trách nhiệm của xã hội trong
phòng, chống tham nhũng" và đặc biệt là Nghị định số 47/2007/NĐ-CP ngày
122
17/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò và trách nhiệm của xã hội trong phòng,
chống tham nhũng. Theo đó, có bốn nhóm chủ thể tham gia phòng chống tham
nhũng là: MTTQ Việt Nam và các thành viên; báo chí, doanh nghiệp, hiệp hội
ngành nghề; công dân và Ban Thanh tra nhân dân.
4.1.3 Bảo đảm quyền tố cáo của công dân phải phù hợp với các công ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia
Cho đến nay Việt Nam đã tham gia và ký kết nhiều điều ước quốc tế, trong
đó có Công ước của Liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng năm 2003, Công
ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000,
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. Những Công ước này đặt ra trách
nhiệm đối với các quốc gia thành viên tham gia trong việc xây dựng và tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật, chương trình và các biện pháp tôn trọng, thúc đẩy, phát
triển và bảo đảm thực hiện quyền con người. Điều 65 Công ước của Liên hợp quốc
về phòng, chống tham nhũng nêu: “Các quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện
pháp cần thiết, kể cả các biện pháp lập pháp và hành chính phù hợp với các nguyên
tắc cơ bản của pháp luật quốc gia của mình để thi hành các nghĩa vụ của mình theo
công ước”.
Là quốc gia thành viên của các công ước quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải tôn
trọng và cam kết tuân thủ quy định của các công ước này. Vì vậy, hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật về tố cáo nói riêng của nước ta phải tương thích với quy
tắc chung của các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Về cơ bản, pháp luật
về tố cáo ở nước ta hiện nay đã có những quy định phù hợp với yêu cầu của các
điều ước quốc tế song thực tiễn cho thấy vấn đề BĐQTC của công dân là vấn đề
khó khăn, phức tạp. Vì vậy, cần từng bước xây dựng hoàn thiện pháp luật trên cơ sở
cụ thể hóa các đòi hỏi của các công ước quốc tế và tiếp thu những kinh nghiệm,
khuyến nghị tốt của các tổ chức quốc tế, thực tiễn pháp luật phù hợp của các nước
trên thế giới.
123
4.2 Giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tố cáo của công dân
4.2.1. Đổi mới nhận thức về vai trò, ý nghĩa của quyền tố cáo và bảo đảm
quyền tố cáo của công dân
Lịch sử lập hiến nước ta cho thấy QTC đã chính thức được ghi nhận là quyền
hiến định từ bản Hiến pháp năm 1959, theo đó, Nhà nước bảo đảm để công dân thực
hiện quyền này. Trong suốt quá trình phát triển hệ thống pháp luật, QTC và BĐQTC
của công dân luôn được đề cao và hoàn thiện, thể hiện Đảng và Nhà nước ta luôn
nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của tố cáo và BĐQTC của công dân.
Quyền tố cáo là quyền dân chủ trực tiếp, người dân sử dụng để bảo vệ quyền
lợi của mình, của tập thể và Nhà nước. Đồng thời, đây được coi là một kênh phản
hồi, cung cấp thông tin quan trọng đối với việc lãnh đạo, quản lý và điều hành các
hoạt động của Nhà nước. Như vậy, BĐQTC của công dân phản ánh mối quan hệ
giữa Nhà nước và công dân, tạo ra một hệ thống kiểm soát rộng lớn, một hệ thống
báo động dự phòng thường trực trong xã hội. Tuy vậy, việc thực hiện QTC của công
dân cũng như việc BĐQTC từ phía Nhà nước còn nhiều hạn chế, do đó, cần đổi mới
mạnh mẽ nhận thức về vai trò, ý nghĩa của QTC và BĐQTC để việc thực hiện
quyền này một cách hiệu quả.
Về phía các cơ quan nhà nước, thực tế đã chứng minh rằng việc bảo đảm
thực hiện QTC đã tạo cơ sở quan trọng, cần thiết cho việc giám sát hoạt động của
cơ quan nhà nước, qua đó, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước cũng
như trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Đồng thời,
BĐQTC góp phần vào việc Nhà nước bảo đảm thực hiện các quyền chính trị - dân
sự khác của công dân đã được quy định trong Hiến pháp, cũng như các cam kết
quốc tế. Tuy vậy, trên thực tế, một số cơ quan nhà nước không thiện chí với tố cáo
và người tố cáo, coi nhẹ việc BĐQTC do cho rằng tố cáo là biểu hiện mất đoàn kết,
đấu đá nội bộ, GQTC gây lãng phí thời gian.
Đối với cá nhân cán bộ, công chức, việc Nhà nước BĐQTC của công dân,
nâng cao ý thức đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm công vụ sẽ góp phần làm tăng
tính trách nhiệm và hiệu quả công việc của cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động, cũng như hạn chế lạm quyền, lộng quyền, tham nhũng, tiêu cực. Thực tế cho
124
thấy khi người dân được tham gia giám sát hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước và có QTC, được Nhà nước bảo đảm thực hiện quyền này, sẽ làm giảm đi tính
chuyên quyền, độc đoán, tùy tiện trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan này.
Tuy nhiên, một thực tế phổ biến hiện nay là cán bộ, công chức rất "dị ứng", "ác
cảm" với tố cáo; những người bị tố cáo cảm thấy rất nặng nề, khó chịu, thậm chí
hằn học với người tố cáo; dư luận dù chưa biết việc tố cáo đúng hay sai nhưng đã
đánh giá, quy kết người bị tố cáo. Đối với người GQTC, do tỉ lệ tố cáo sai nhiều nên
khi tiếp nhận đơn thư, GQTC vẫn có tâm lý ngại việc. Chính những yếu tố này đã
làm giảm hiệu quả bảo đảm của QTC [19].
Đối với công dân, QTC vừa để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bản
thân không bị xâm phạm vừa góp phần tạo nên một xã hội trong sạch và môi trường
sống tốt đẹp. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn không ít người dân chưa hiểu hết về
vai trò, giá trị, sự cần thiết của QTC, chưa biết được sự bảo đảm của Nhà nước về
QTC, thậm chí nhiều người e ngại trước áp lực dư luận nên đã không hoặc hạn chế
thực hiện QTC.
Từ vai trò và ý nghĩa của việc thực hiện QTC và BĐQTC của công dân và thực
trạng của vấn đề này, cho thấy cần có sự đổi mới trong nhận thức của cơ quan Nhà
nước, cán bộ, công chức và công dân, cũng như cần nhận thức đúng đắn giá trị của
BĐQTC để việc triển khai thực hiện trên thực tế đảm bảo hiệu lực, hiệu quả. Để làm
được điều này, quan trọng nhất vẫn là công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tố cáo
cho cán bộ, công chức và người dân để họ thấy được vai trò, giá trị của QTC, BĐQTC.
Đối với các bộ, công chức, cần tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề về vị trí,
vai trò của việc đảm bảo QTC của công dân, của hoạt động tiếp công dân, GQTC và
nghiệp vụ của các hoạt động này cho đội ngũ cán bộ, công chức có thẩm quyền và
trách nhiệm trong hoạt động tiếp nhận tố cáo, GQTC, bảo vệ người tố cáo….. Đồng
thời, lồng ghép việc tuyên truyền về QTC và trách nhiệm BĐQTC cho công dân
bằng việc đưa các văn bản pháp luật quy định về BĐQTC vào các chương trình bồi
dưỡng kiến thức quản lý nhà nước theo ngạch, lý luận chính trị, lớp đào tạo cán bộ
nguồn quy hoạch lãnh đạo...
Bên cạnh đó, cần xây dựng chế độ trách nhiệm cho từng đơn vị, tổ chức và
125
từng cá nhân trong việc GQTC. Đối với Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước,
cần đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm
đối với công tác GQTC. Ngoài ra, cần xem xét việc lấy tiêu chí BĐQTC của công
dân, kết quả công tác tiếp công dân, mức độ hài lòng của người dân khi làm việc với
cơ quan hành chính, kết quả GQTC, bảo vệ người tố cáo, xử lý người vi phạm... là
một trong những yếu tố để đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ hằng năm của cơ
quan nhà nước và người đứng đầu cơ quan.
Đối với người dân, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần kết hợp nhiều
cách thức nhằm tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ trong việc
tố cáo, đề cao tinh thần chống tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật trong các cơ
quan nhà nước. Công tác tuyên truyền được thực hiện một cách đa dạng như qua
các phương tiện thông tin đại chúng, báo, đài truyền thanh, truyền hình, tổ chức các
cuộc họp, hội nghị, hội thi tìm hiểu.... với những cách thức đơn giản, dễ hiểu, dễ
nhớ. Một trong những biện pháp rất quan trọng là tạo điều kiện cho người dân dễ
dàng tiếp cận với thông tin, hình thành tâm lý chủ động, có nhu cầu mong muốn tìm
hiểu, học hỏi, nắm bắt các quy định pháp luật về tố cáo. Bên cạnh đó, phải tuyên
truyền để người dân hiểu được là việc thực hiện QTC, đấu tranh với những hành vi vi
phạm mang tính xây dựng, không được lợi dụng để gây rối mà là cộng tác, phối hợp
với các cơ quan trong GQTC; đồng thời, lên án, đấu tranh với các đối tượng lợi dụng
QTC để thực hiện hành vi trái pháp luật, vu cáo, vu khống, chống phá chính quyền.
Ý thức pháp luật và năng lực phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước có vai trò quan trọng trong bảo đảm tính hiệu quả của pháp luật và hoạt động
áp dụng pháp luật để cá nhân có thể thực hiện được quyền của mình một cách thuận
lợi. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, cán bộ, công chức và người dân chưa nhận
thức được vai trò, giá trị của QTC và BĐQTC của công dân. Vì vậy, thay đổi nhận
thức là việc làm cần thiết, nhưng không đơn giản, bởi nâng cao nhận thức pháp luật
và văn hóa pháp lý của con người luôn là một quá trình lâu dài, không phải ngày
một ngày hai là có được. Các BĐQTC dù đã được xây dựng, hoàn thiện trong hệ
thống pháp luật nhưng chỉ có ý nghĩa và thực hiện hiệu quả khi cán bộ, công chức
có nhận thức và đạo đức trong thực thi công vụ, không hẹp hòi, trục lợi, cửa quyền,
126
tham nhũng hay thiếu tôn trọng các quyền của công dân và người dân có nhu cầu,
mong muốn sử dụng quyền.
4.2.2 Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Như đã phân tích ở Chương 3, quyền tố cáo của công dân được bảo đảm thực
hiện hiệu quả nhất qua pháp luật, chỉ khi được quy định trong hệ thống pháp luật thì
những BĐQTC của công dân mới bắt buộc được các chủ thể phải tuân thủ, do đó,
việc hoàn thiện pháp luật về BĐQTC của công dân là rất quan trọng.
4.2.2.1 Hoàn thiện Luật Tố cáo
Luật Tố cáo là luật gốc, quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc trong
việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân nên cần đặc biệt quan tâm hoàn thiện. Mặc
dù Luật Tố cáo năm 2018 vừa được QH thông qua tháng 6 năm 2018 và sẽ có hiệu
lực vào ngày 01/01/2019 nhưng đã cho thấy nhiều bất cập, nhiều quy định chưa tạo
thuận lợi cho người dân thực hiện QTC, hay nói cách khác là chưa BĐQTC cho
người dân, do đó việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật BĐQTC là cần thiết. Vì vậy, việc
hoàn thiện pháp luật để BĐQTC có thể được tiếp tục nghiên cứu theo hai hướng:
Hướng thứ nhất là cần xây dựng một luật tố cáo hoàn thiện hơn nữa, bảo đảm
thực hiện QTC nói chung, không phân biệt là QTC hành chính hay QTC hình sự.
Hiện nay, các nội dung về tố cáo, BĐQTC được quy định trong rất nhiều luật, ví dụ
như việc tiếp nhận tố cáo, GQTC quy định cả trong Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống
tham nhũng và nhiều luật chuyên ngành khác; việc giám sát giải quyết tố cáo quy
định trong Luật MTTQ và Luật Hoạt động giám sát của QH và Hội đồng nhân dân;
việc xử lý vi phạm QTC được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính và Bộ
luật hình sự; việc quy định khen thưởng người tố cáo có cả ở Luật Tố cáo, Luật
Phòng, chống tham nhũng và Luật Thi đua khen thưởng; việc bảo vệ người tố cáo
có trong Luật Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ luật hình sự….. nên có
nhiều vấn đề còn bỏ sót hoặc chồng chéo là không tránh khỏi, do đó cần có sự tập
hợp, quy định tập trung trong một luật. Luật Tố cáo năm 2018 có tên là Luật Tố cáo
nhưng lại chỉ giới hạn trong lĩnh vực tố cáo hành chính, còn tố cáo hình sự (tố giác,
tin báo tội phạm) quy định trong Bộ Luật hình sự và Bộ luật này cũng không quy
định đầy đủ các vấn đề liên quan đến tố cáo hình sự. Do đó, cần hệ thống hóa các
127
quy định pháp luật về tố cáo và BĐQTC để pháp điển thành một đạo luật. Tuy nhiên,
thực hiện được việc này cần có một quá trình nghiên cứu các kinh nghiệm quốc tế,
xây dựng kế hoạch tổng kết, đánh giá về vai trò của tố cáo, BĐQTC trong đấu tranh
phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật. Trong tương lai gần chưa thể đi theo
hướng thứ nhất được.
Hướng thứ hai là giữ nguyên như hiện nay, nghĩa là chấp nhận thực tại có
nhiều văn bản pháp luật cùng điều chỉnh về việc BĐQTC của công dân nhưng để
người dân yên tâm thực hiện có hiệu quả QTC thì cần có sự hoàn thiện các quy định
pháp luật. Trước hết, hệ thống văn bản pháp luật này phải đồng bộ, thống nhất trong
điều chỉnh các quan hệ xã hội với những quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của các
chủ thể tạo nên môi trường, điều kiện thuận lợi để công dân sử dụng QTC. Mặt
khác, QTC là quyền dành cho mọi công dân với trình độ nhận thức, điều kiện kinh
tế khác nhau nên cần dễ hiểu, dễ thực hiện để ai cũng có thể sử dụng được quyền
của mình một cách nhanh chóng, thuận lợi nhất. Theo đó, cần bổ sung Luật Tố cáo
năm 2018 về các vấn đề:
Sửa đổi quy định về chủ thể có QTC cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013 vì
Luật Tố cáo năm 2018 mới chỉ thay chủ thể có quyền tố cáo từ “công dân” sang “cá
nhân” mà không phải là “mọi người” như quy định của Hiến pháp năm 2013. Đồng
thời, trong quy định về chủ thể của QTC, cần nhấn mạnh QTC của cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động vì đây là những người biết rõ hành vi vi phạm pháp
luật xảy ra trong cơ quan, tổ chức mình, đặc biệt là hành vi tiêu cực, tham nhũng, họ
có đủ thông tin, chứng cứ để vạch trần các sai phạm, gian lận trong quản lý, điều
hành. Để khuyến khích cán bộ, công chức và người lao động tham gia đấu tranh
chống tham nhũng và vi phạm pháp luật thì QTC của họ cần phải được quy định rõ
trong luật tố cáo và các luật khác có liên quan như Luật cán bộ, công chức; Luật
viên chức; Luật Phòng, chống tham nhũng; Bộ luật lao động…
Mặt khác, cần ghi nhận QTC của pháp nhân. Như đã phân tích ở Chương I
của luận án, việc ghi nhận QTC của pháp nhân là rất cần thiết, phù hợp với Hiến
pháp năm 2013, thực tiễn công tác BĐQTC, trong đó đặc biệt là vấn đề bảo vệ
người tố cáo. Hiện nay, pháp luật hình sự đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp
128
nhân, do đó, nếu pháp nhân sử dụng QTC để vu khống, hạ thấp danh dự người khác
hoặc ảnh hưởng đến an ninh quốc gia thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Đồng
thời, với thực tế ở nước ta hiện nay là việc bảo vệ người tố cáo chưa hiệu quả thì
một tổ chức đứng ra tố cáo sẽ hạn chế được vấn đề trả thù, trù dập hơn so với cá
nhân thực hiện việc tố cáo.
Sửa đổi, bổ sung quy định về các hình thức tố cáo theo hướng mở rộng các
hình thức tố cáo để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi thực hiện quyền của
mình, không chỉ có hai hình thức là tố cáo trực tiếp và tố cáo bằng đơn mà phải có
các hình thức tố cáo qua điện thoại, qua fax, qua thư điện tử…. với việc thiết lập,
công bố công khai hộp thư điện tử, đường dây nóng, số fax để người dân thuận lợi
trong việc cung cấp thông tin, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật. Hiện nay, nhiều
nước đã chấp nhận tố cáo nặc danh và coi đây là nguồn thông tin quý giá trong
phòng, chống tham nhũng.
Quy định cụ thể về giải quyết tố cáo nặc danh nhưng có thông tin rõ ràng.
Việc xem xét, tiếp nhận thông tin tố cáo là quan trọng để tránh bỏ lọt vi phạm pháp
luật. Hiện nay, không phải tất cả đơn tố cáo có thông tin chính xác, rõ ràng của
người tố cáo đều được giải quyết theo quy trình tố cáo, chỉ những tố cáo đáp ứng
các điều kiện theo Luật Tố cáo mới được giải quyết. Do đó, cần quy định những
đơn thư tố cáo nặc danh đáp ứng những điều kiện nhất định mới được xem xét, giải
quyết. Quy định về tin báo tố giác tội phạm không yêu cầu người báo tin bắt buộc
để lại danh tính, do đó, việc quy định cụ thể, chặt chẽ về giải quyết đơn tố cáo nặc
danh là cần thiết, để cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận được nguồn tin phong phú về
vi phạm pháp luật, tránh việc bao che cho người bị tố cáo, đồng thời để bảo vệ
người tố cáo thì pháp luật tố cáo cũng cần xây dựng một một nghị định về vấn đề
này. Văn bản này quy định điều kiện, quy trình, thủ tục giải quyết những loại đơn tố
cáo nặc danh, trách nhiệm của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi dìm bỏ, cố tình
không xem xét để bao che cho người bị tố cáo hoặc vì các mục đích khác.
Quy định về bảo vệ người tố cáo cần cụ thể và rõ ràng hơn nữa. Vấn đề này
đã được nhắc tới rất nhiều, kể cả từ phía các chuyên gia pháp luật, người dân hay
các tổ chức quốc tế. Luật Tố cáo năm 2018 đã quy định tại Điều 49 về Cơ quan có
129
thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ, theo đó quy định trách nhiệm riêng biệt cho
từng chủ thể như: (1) Người GQTC có trách nhiệm bảo vệ bí mật thông tin, vị trí
công tác, việc làm của người được bảo vệ thuộc quyền quản lý và những nội dung
bảo vệ khác nếu thuộc thẩm quyền của mình; trường hợp không thuộc thẩm quyền
thì yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp bảo vệ; (2) Cơ quan tiếp nhận, xác minh nội dung tố cáo có trách nhiệm bảo
vệ bí mật thông tin của người tố cáo; (3) Cơ quan Công an chủ trì, phối hợp với cơ
quan, tổ chức có liên quan thực hiện việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh
dự, nhân phẩm của người được bảo vệ; (4) Cơ quan quản lý nhà nước về cán bộ,
công chức, viên chức, lao động, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chủ
trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện việc bảo vệ vị trí công tác,
việc làm của người được bảo vệ; (5) UBND các cấp, Công đoàn các cấp, cơ quan,
tổ chức khác, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối
hợp với cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ thực hiện việc bảo vệ bí
mật thông tin, vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân
phẩm của người được bảo vệ.
Mặc dù quy định về bảo vệ người tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018 đã có
nhiều tiến bộ đáng kể so với Luật Tố cáo năm 2011 nhưng với những quy định này
thì hoạt động bảo vệ người tố cáo sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn, hiệu quả thực thi
thấp do việc hiểu và thực thi không thống nhất dễ dẫn đến thoái thác, đùn đẩy trách
nhiệm. Chẳng hạn: việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo được quy định cho
người GQTC và cơ quan tiếp nhận, xác minh nội dung tố cáo trong khi thực tế hiện
nay có quá nhiều đầu mối tiếp nhận đơn thư tố cáo, việc xác minh nội dung đơn tố
cáo, phối hợp giải quyết tố cáo.... dẫn đến có nhiều người tiếp cận được thông tin về
người tố cáo, do đó khó có thể bảo đảm được danh tính người tố cáo; hoặc việc bảo
vệ vị trí công tác, việc làm của người tố cáo được giao cho cả người GQTC và cơ
quan quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong khi
chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong việc bảo vệ vị trí việc làm cho người
tố cáo vẫn chưa có sự minh định; hoặc việc phối hợp giữa UBND các cấp, Công
đoàn các cấp, cơ quan, tổ chức khác trong việc áp dụng biện pháp bảo vệ người tố
130
cáo như thế nào...
Chính vì vậy mà việc bảo vệ người tố cáo cần được cụ thể hóa thẩm quyền
áp dụng biện pháp bảo vệ và thực thi việc bảo vệ theo các giai đoạn của quá trình
bảo vệ; trách nhiệm bồi thường trong trường hợp để xảy ra thiệt hại cho người tố cáo.
4.2.2.2 Bổ sung các quy định trong các luật chuyên ngành
Một là, bổ sung quy định QTC của cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động trong Luật cán bộ, công chức; Luật Viên chức; Luật Phòng, chống tham nhũng;
Bộ luật Lao động.
Theo quy định hiện hành, cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ phải báo
cáo hành vi vi phạm pháp luật nói chung và hành vi tham nhũng nói riêng với người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phát hiện có dấu hiệu tham nhũng trong cơ
quan, đơn vị mình; nếu phát hiện người đứng đầu cơ quan, đơn vị có những hành vi
đó thì báo cáo với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp. Việc
quy định báo cáo hành vi tham nhũng và việc xử lý hành vi tham nhũng mang tính
nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị sẽ góp phần giải quyết bước đầu mang tính nội bộ
những vụ việc tiêu cực, tránh cho cơ quan, đơn vị, tổ chức những ảnh hưởng không
tốt đến danh tiếng, đảm bảo sự ổn định trong tổ chức, hoạt động. Tuy vậy, để bảo
đảm QTC của công dân, trong đó có QTC của cán bộ, công chức, viên chức, người
lao động; đồng thời để tránh những tiêu cực trong việc tiếp nhận, xử lý hành vi
tham nhũng; tránh cho người báo cáo hành vi tham nhũng những rủi ro, lo sợ bị trả
thù, trù dập, cần bổ sung điều luật quy định về quyền tố cáo tham nhũng trong nội
bộ cơ quan, cũng như các hành vi tham nhũng của các chủ thể khác của cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động vào Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức;
Luật Phòng, chống tham nhũng và Bộ luật Lao động theo hướng quy định rõ QTC
của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, không chỉ là việc "báo cáo" với
cấp có thẩm quyền. Việc báo cáo nội bộ chỉ mang tính khuyến khích, không bắt
buộc; cán bộ, công chức, viên chức được tự lựa chọn tố cáo nội bộ hay tố cáo ra bên
ngoài tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp có căn cứ
cho rằng việc tố cáo của mình không được giải quyết, hoặc giải quyết không đúng
quy định, có dấu hiệu bao che thì có QTC tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
131
khác, thậm chí tố cáo tới các cơ quan truyền thông, báo chí. Việc quy định rõ ràng
QTC như vậy sẽ tránh những rủi ro mà người tố cáo có thể phải đối mặt như trách
nhiệm kỷ luật trong cơ quan, trù dập cá nhân, sự nhìn nhận tiêu cực từ phía lãnh đạo,
đồng nghiệp, bởi thực tiễn cho thấy đa số những vụ trả thù, trù dập người tố cáo hay
diễn ra tại nơi làm việc, người trả thù, trù dập thường lạm dụng “nội quy cơ quan”
hay “mất đoàn kết nội bộ” để gây khó khăn cho cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động đã dũng cảm đấu tranh chống tiêu cực.
Hai là, cần bổ sung quyền được bảo vệ của cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động trong Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức khi họ thực hiện
quyền tố cáo những vi phạm pháp luật trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đồng
thời, phải quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức để xảy
ra hành vi trả thù người tố cáo dưới bất kỳ hình thức nào. Đây là biện pháp quan
trọng nhằm tránh được những hành vi trù dập, gây khó khăn cho người tố cáo.
Ba là, cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về thanh tra trách nhiệm
trong Luật Thanh tra theo hướng hoàn thiện quy trình nghiệp vụ thanh tra trách
nhiệm thực hiện pháp luật về tố cáo và đảm bảo QTC của công dân với việc quy
định cụ thể về chủ thể tiến hành thanh tra, đối tượng thanh tra, các nội dung cần
thanh tra, trình tự, thủ tục, phương pháp thanh tra, nội dung cần có trong kết luận
thanh tra, trách nhiệm của cán bộ thanh tra khi không hoàn thành nhiệm vụ.
Bốn là, hoàn thiện quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực tố cáo trong
Luật Cán bộ, công chức, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật hình sự.
Về xử lý kỷ luật: các hình thức xử lý kỷ luật phải tương ứng với từng mức độ,
tính chất vi phạm để có cơ sở xử lý cán bộ, công chức có hành vi vi phạm trong lĩnh
vực tố cáo, đặc biệt cần xử lý nghiêm các hành vi bao che, làm sai lệch hồ sơ tài
liệu... vì mục đích tư lợi hoặc trả thù; các hành vi vô trách nhiệm làm lộ bí mật
thông tin người tố cáo, đặc biệt với những tố cáo tham nhũng cũng cần được xử lý
nghiêm khắc.
Về xử lý vi phạm hành chính: cần cụ thể hóa các quy định về những hành vi
vi phạm đã được quy định trong Luật Tố cáo năm 2018 và các chế tài xử lý hành
chính, nhất là các hành vi vi phạm của chủ thể có trách nhiệm trong tiếp nhận tố cáo,
132
xử lý đơn thư, GQTC, thi hành quyết định xử lý tố cáo, bảo vệ người tố cáo... vào
Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Về xử lý hình sự: quy định cụ thể hơn, đầy đủ hơn về các hành vi và các đối
tượng bị truy cứu trách nhiệm hình sự phù hợp với những quy định của các luật
khác có liên quan, nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp luật. Theo đó, cần bổ
sung các hình phạt đối với hành vi trả thù người tố cáo vào Bộ Luật hình sự sửa đổi
năm 2015 để phù hợp với Luật Tố cáo và Luật Phòng, chống tham nhũng, tránh bỏ
lọt tội phạm. Đồng thời, cần tăng nặng các khung hình phạt đối với người có hành
vi trả thù người tố cáo để có tác dụng phòng ngừa, giáo dục, răn đe đối với người vi
phạm, không có vùng cấm, bất kể người đó là ai, cán bộ, công chức hay người dân.
4.2.2.3 Ban hành mới các văn bản quy phạm hướng dẫn
Từ phân tích trên đây, có thể thấy, hệ thống các văn bản quy phạm hướng dẫn
thực hiện các văn bản luật về BĐQTC chưa đầy đủ, do đó cần ban hành mới, cụ thể
như sau:
Ban hành Thông tư quy định quy trình tiếp nhận, xử lý và giải quyết đối với
đơn thư tố cáo nặc danh có nội dung cụ thể, thông tin rõ ràng. Thông tư cần quy
định về phạm vi, đối tượng áp dụng; điều kiện để đơn thư nặc danh được giải quyết;
quy trình, thủ tục tiếp nhận, xử lý đơn thư nặc danh; cơ quan có thẩm quyền giải
quyết đơn thư nặc danh; cách thức giải quyết đơn thư nặc danh đủ điều kiện; cơ chế
giám sát, kiểm tra, đôn đốc của các cơ quan chuyển đơn; chế tài đối với hành vi dìm
bỏ, không giải quyết đơn thư nặc danh...
Ban hành Nghị định về bảo vệ người tố cáo. Nội dung nghị định quy định cụ
thể, chi tiết về phạm vi, đối tượng được bảo vệ; quyền và nghĩa vụ của người được
bảo vệ; cơ quan, người có thẩm quyền tiếp nhận và quyết định áp dụng các biện
pháp bảo vệ; cơ quan có trách nhiệm bảo vệ; trách nhiệm của cơ quan phối hợp và
thực hiện việc bảo vệ; trình tự, thủ tục, thời hạn tiếp nhận, giải quyết đơn đề nghị,
yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ người tố cáo; nội dung quyết định áp dụng
biện pháp bảo vệ, quyết định không áp dụng biện pháp bảo vệ; trình tự, thủ tục, biện
pháp bảo vệ; hồ sơ theo dõi việc bảo vệ; tổng kết, báo cáo kết quả bảo vệ; kinh phí
cho việc áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo; cơ chế giải quyết khiếu kiện hành
133
vi trả thù, trù dập người tố cáo, hành vi không áp dụng biện pháp bảo vệ người tố
cáo; việc xử lý, đền bù đối với các hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ người tố
cáo... Đặc biệt đối với việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ người
tố cáo, cần quy định cụ thể qua việc bắt buộc phải xây dựng quy chế phối hợp giữa
các bên, trong đó hướng dẫn về nội dung, phương thức, quy trình phối hợp, cơ quan
có trách nhiệm chính...
4.2.3 Nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật bảo đảm quyền tố cáo
của công dân
Bảo đảm quyền tố cáo của công dân được quy định trong hệ thống pháp luật
ngày càng được hoàn thiện, tuy nhiên để những quy định này phát huy hiệu quả góp
phần để công dân thực hiện quyền tố cáo trên thực tế thì cần nâng cao hiệu quả tổ chức
thực hiện pháp luật bảo đảm quyền tố cáo của công dân, cụ thể qua các giải pháp sau:
4.2.3.1 Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật
bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân,
thể hiện qua việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về vấn đề này, tuy
nhiên việc tổ chức thực hiện chưa phát huy hiệu quả. Do đó, trong thời gian tới, cần
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với việc tổ chức thực hiện pháp luật BĐQTC của
công dân để góp phần nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về BĐQTC.
Trước hết cần có sự chỉ đạo để sơ kết, tổng kết các nghị quyết, chỉ thị về vấn
đề bảo đảm quyền tố cáo của công dân như Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày
21/8/2006 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Nghị quyết số
21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính phủ ban hành chiến lược quốc gia phòng,
chống tham nhũng đến năm 2020; Chỉ thị 27-CT/TW ngày 10/01/2019 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát
hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và các luật có
liên quan.... Trên cơ sở sơ kết, tổng kết để đánh giá việc thực hiện, tìm ra nguyên
nhân của hạn chế, khuyết điểm và đề xuất những giải pháp khắc phục mang tính khả
thi, thiết thực.
134
Đối với thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước: Pháp luật về tố cáo quy
định cụ thể trách nhiệm tiếp công dân và GQTC của thủ trưởng cơ quan nhà nước
nhưng vì nhiều lý do khác nhau, công việc này được ủy quyền cho cấp phó hoặc cơ
quan thanh tra, cơ quan tham mưu thực hiện. Vì vậy, để QTC của công dân được
bảo đảm thực hiện, thủ trưởng cơ quan nhà nước các cấp cần tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo công tác tiếp công dân; GQTC; bảo vệ khen thưởng người tố cáo; giám sát,
thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm QTC… Chất lượng và hiệu quả BĐQTC
cần được coi là tiêu chí đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của thủ trưởng
cơ quan hành chính.
4.2.3.2 Nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức trong bảo đảm quyền
tố cáo của công dân
Luật Tiếp công dân năm 2013 tại Điều 8 quy định về trách nhiệm của cán bộ,
công chức khi tiếp công dân phải tuân thủ các quy định về trang phục: chỉnh tề, đeo
thẻ hoặc phù hiệu ghi rõ họ tên, chức vụ, đơn vị công tác; quy định về thái độ: tôn
trọng công dân; quy định về cách thức tiếp công dân: lắng nghe, ghi chép đầy đủ,
chính xác, giải thích, hướng dẫn cho người dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, kết luận, quyết
định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; hướng dẫn
người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm
quyền giải quyết….. Điều này có thể hiểu là quy tắc ứng xử và đạo đức mà cán bộ,
công chức phải tuân thủ trong quá trình tiếp công dân. Tuy nhiên, việc quy định
tương tự đối với cán bộ, công chức trong GQTC, tiếp nhận thông tin, yêu cầu đối
với việc bảo vệ người tố cáo hiện nay chưa có. Trong thực tế, không ít cán bộ làm
công tác GQTC, tiếp nhận thông tin yêu cầu bảo vệ người tố cáo có thái độ hách
dịch, bao che cho người tố cáo; không ít cán bộ không nắm vững quy định hoặc cố
ý để lộ danh tính người tố cáo; thậm chí mặc dù đã có quy định cụ thể về thái độ
ứng xử khi tiếp công dân nhưng nhiều cán bộ tiếp dân vẫn gây khó dễ với người
dân…. điều này ảnh hưởng trực tiếp tới người tố cáo và ảnh hưởng đến lòng tin của
nhân dân vào bộ máy chính quyền. Do vậy, cần nâng cao đạo đức công vụ cho cán
bộ, công chức làm công tác tiếp nhận thông tin tố cáo, GQTC, bảo vệ tố cáo bằng
135
cách quy định cụ thể về đạo đức công vụ đối với cán bộ làm công tác bảo đảm
quyền tố cáo, đó là những chuẩn mực đạo đức của cán bộ, công chức khi làm công
tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo, bảo vệ người tố cáo... phải tuyệt đối chấp hành,
nếu không chấp hành sẽ phải gánh chịu những hậu quả từ phía cơ quan quản lý cán
bộ, công chức. Đồng thời, thủ trưởng các cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường
giám sát và kiểm tra việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, công chức
bằng việc đặt các hòm thư góp ý, đường dây nóng tiếp nhận phản ánh của nhân dân,
đồng nghiệp về thái độ, cách ứng xử của cán bộ, công chức khi thực thi nhiệm vụ
liên quan đến bảo đảm quyền tố cáo của công dân.
4.2.3.3 Tạo điều kiện và huy động sự tham gia của xã hội vào việc thực hiện
các quy định pháp luật về bảo đảm quyền tố cáo của công dân
Nếu chỉ có Nhà nước thực hiện việc bảo đảm quyền tố cáo của công dân thì
chưa hiệu quả, cần phải huy động sự tham gia của cả xã hội, lực lượng đông đảo từ
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và quần chúng nhân dân. Những năm gần đây,
sự tham gia của xã hội vào việc BĐQTC cho người dân rất mạnh mẽ, thể hiện qua
việc báo chí điều tra theo đơn thư bạn đọc đã cung cấp nhiều thông tin, tạo áp lực
dư luận để cơ quan nhà nước giải quyết nhiều vụ việc tố cáo, tuyên truyền những
tấm gương người dân dũng cảm đứng lên vạch trần các vi phạm pháp luật, bảo vệ
người tố cáo; luật sư tham gia tư vấn, hỗ trợ người dân gửi đơn đến đúng cơ quan có
thẩm quyền… Do đó, việc tạo điều kiện và huy động sự tham gia của xã hội vào
BĐQTC là cần thiết, điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "quần
chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng...." [46, tr 495].
Để làm tốt công tác này, Nhà nước cần tạo điều kiện để người dân, báo chí,
các tổ chức xã hội tiếp cận thông tin rộng rãi; nắm được các chính sách, pháp luật
về vấn đề này qua việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải công khai trình tự,
thủ tục tiếp công dân, giải quyết đơn tố cáo; công khai kết quả giải quyết các vụ
việc tố cáo trên phương tiện thông tin đại chúng; huy động sự tham gia của luật sư
trong việc tư vấn pháp luật cho người tố cáo về thực hiện QTC có hiệu quả, chống
lại các hành động trả thù. Nhà nước cần đa dạng hóa các hình thức diễn đàn, hội
thảo, tọa đàm, tiếp xúc cử tri, hộp thư góp ý, đường dây nóng ... đồng thời lắng
136
nghe, tiếp nhận những kiến nghị, phản ánh góp ý của nhân dân.
4.2.3.4 Nâng cao hiệu quả việc giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi
phạm trong thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền tố cáo
Giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ của các cơ quan nhà nước và
cán bộ, công chức nhằm tăng cường trách nhiệm của họ đối với việc bảo đảm quyền
tố cáo của công dân, đồng thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý các hành vi vi phạm
quyền tố cáo.
* Về công tác giám sát
Hoạt động BĐQTC của công dân cũng là hoạt động thể hiện quyền lực nhà
nước, do đó cần được giám sát bởi các thiết chế chính trị - xã hội khác nhau. Bên
cạnh các quy định của Đảng về giám sát nói chung, trong đó có giám sát công tác tố
cáo thì hệ thống pháp luật Việt Nam đã quy định hoạt động giám sát công tác này
của QH, Hội đồng nhân dân các cấp, MTTQ và các tổ chức thành viên, Ban Thanh
tra nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, khi việc BĐQTC của công dân còn nhiều
bất cập, thì cần phối hợp nhiều giải pháp, trong đó có việc nâng cao hiệu quả giám
sát của các cơ quan, tổ chức nêu trên, cụ thể là:
Đối với hoạt động giám sát của Đảng: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
được ghi nhận mang tính pháp lý tại Điều 4 Hiến pháp 2013. Vai trò giám sát của
Đảng đã được ghi nhận tại Điều lệ Đảng khóa XII và khẳng định giám sát là một
trong những phương thức để Đảng lãnh đạo Nhà nước và đoàn thể trong hệ thống
chính trị.
Công tác giám sát của Đảng tuy chỉ tập trung vào đối tượng là tổ chức đảng
và đảng viên, không trực tiếp giám sát hoạt động thực thi quyền lực nhà nước
nhưng ở mỗi cơ quan, người đứng đầu thường là đảng viên và cấp ủy đảng ở đơn vị
thực hiện vai trò lãnh đạo toàn diện nên hoạt động giám sát của Đảng có ảnh hưởng
to lớn đến việc BĐQTC của công dân. Vì vậy, trong thời gian tới, cần tăng cường
vai trò giám sát của Đảng đối với công tác BĐQTC của công dân, trong đó đặc biệt
là vai trò của ủy ban kiểm tra các cấp. Ở Trung ương, cần tổ chức các đoàn giám sát
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư kiểm tra tại các cấp ủy về việc lãnh đạo, chỉ đạo công
tác tiếp công dân, giải quyết tố cáo, bảo vệ tố cáo. Ở các địa phương, đơn vị, các
137
cấp ủy đảng cần thường xuyên, sâu sát nắm bắt diễn biến tình hình tố cáo và giải
quyết tố cáo để lãnh đạo các cấp chính quyền giải quyết kịp thời, nghiêm minh theo
đúng quy định của pháp luật. Đối với những địa phương phát sinh tố cáo phức tạp,
thậm chí có những điểm nóng, có những vụ việc nghiêm trọng, kéo dài thì các cấp
ủy đảng phải xác định vấn đề GQTC là một nội dung thường xuyên được đưa ra
trong sinh hoạt cấp ủy. Lãnh đạo các cơ quan, tổ chức nhà nước mà có hành vi vi phạm
pháp luật về tiếp công dân, xử lý đơn thư tố cáo cần phải được đưa ra kiểm điểm, xem
xét trách nhiệm trước cấp ủy.
Đối với hoạt động giám sát của Quốc hội
Thứ nhất, hiện nay Ban Dân nguyện của QH là cơ quan chuyên trách chịu
trách nhiệm giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc giám sát GQTC của công
dân nhưng do vị trí pháp lý của mình nên hoạt động của Ban Dân nguyện mới chỉ
dừng lại ở các công việc mang tính hành chính - phục vụ mà không có thẩm quyền
tiến hành các hoạt động giám sát nên hiệu quả hoạt động còn hạn chế [5]. Tham
khảo kinh nghiệm ở một số nước cho thấy, QH ở nhiều nước đều có quy định về
việc thành lập cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, trực
thuộc QH và chịu trách nhiệm trước QH về hoạt động của mình. Cơ quan này có
trách nhiệm nhận và xem xét tất cả các đơn thư của công dân. Do đó, cần thiết phải
tổ chức một cơ quan chuyên trách của QH đảm nhiệm việc tiếp nhận đơn thư của
công dân, trong đó có đơn tố cáo để xem xét, nghiên cứu và chuyển đến cơ quan có
thẩm quyền giải quyết, sau đó theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết và hướng
dẫn, kiểm tra hoạt động của các đại biểu QH, Đoàn đại biểu Quốc hội về công tác
này. Từ đó, Quốc hội có thể thực hiện quyền giám sát thường xuyên, liên tục và có
hiệu quả đối với việc GQTC của công dân.
Thứ hai, cần nghiên cứu tăng số đại biểu QH chuyên trách để thúc đẩy hoạt
động của QH và các cơ quan của QH, Đoàn đại biểu Quốc hội về cả số lượng cũng
như chất lượng. Thời gian qua, số lượng đại biểu chuyên trách mặc dù có tăng lên
đáng kể so với các khóa trước nhưng so với tổng số đại biểu QH thì vẫn còn ít, khó
có thể đáp ứng được các yêu cầu, nhiều vụ ngày càng lớn mà thực tiễn đặt ra.
Thứ ba, đổi mới phương thức giám sát của QH. Đối với việc xem xét các báo
138
cáo của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao về công tác GQTC, cần có sự đổi mới theo hướng xem xét cụ thể
việc chấp hành các quy định của pháp luật về tố cáo, thực trạng công tác GQTC;
việc xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy để bảo đảm hiệu quả công tác GQTC; việc
ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền về tố cáo, GQTC... của
các cơ quan báo cáo để qua đó điều chỉnh hoạt động GQTC của cá nhân, tổ chức có
thẩm quyền. Đồng thời, yêu cầu các đại biểu QH, các Ủy ban, đoàn đại biểu QH
qua hoạt động giám sát của mình phải cung cấp đầy đủ, toàn diện các thông tin về
tình hình tố cáo, thực trạng GQTC, các công việc khác liên quan đến đảm bảo QTC
của công dân trong các báo cáo của mình để QH có những đánh giá thiết thực. Mặt
khác, khi xem xét các báo cáo này, Ủy ban pháp luật, Ủy ban Tư pháp, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội cần đánh giá, xem xét cụ thể trách nhiệm của Chính phủ,
Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
công tác GQTC, BĐQTC của công dân.
Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về GQTC của công dân, cần đề cao
trách nhiệm trong chất vấn hơn nữa, đi vào vấn đề thuộc thẩm quyền của cá nhân,
của ngành liên quan tới những vụ tố cáo, GQTC cần giải trình. Muốn vậy, đại biểu
QH cần nghiên cứu kỹ, đánh giá đúng bản chất, đúng đối tượng và đúng trách
nhiệm của đối tượng chất vấn. Đối với người trả lời chất vấn, cần trả lời chính xác,
súc tích vấn đề, sau khi trả lời chất vấn cần có các biện pháp thiết thực, đôn đốc các
cơ quan đơn vị chức năng trong ngành giải quyết những nội dung chất vấn đã nêu
để tiếp tục đẩy mạnh việc GQTC. Mặt khác, sau khi nghe chất vấn và trả lời chất
vấn, QH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần có kết luận giao nhiệm vụ cụ thể cho
Chính phủ, thành viên Chính phủ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để làm cơ sở pháp lý tiếp tục kiểm tra, đánh giá,
giám sát tại các kỳ họp tiếp theo của Quốc hội.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tham gia BĐQTC của công
139
dân hiệu quả, cần có cơ chế đầy đủ hơn về giám sát của MTTQ và các tổ chức thành
viên đối với việc GQTC của công dân, quy định và thực hiện nghiêm túc việc thông
báo định kỳ về GQTC cho Mặt trận biết. Các kiến nghị của Mặt trận cần được xem
xét nghiêm túc và thông báo lại đúng thời hạn quy định. Không nên chỉ quy định
Mặt trận nhận đơn và chuyển đơn như hiện nay mà phải quy định rõ quyền và trách
nhiệm của MTTQ cùng với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, xem
xét và xác minh vụ việc. Trước khi cơ quan, tổ chức cá nhân có thẩm quyền quyết
định giải quyết, cần có ý kiến thống nhất của MTTQ.
Đối với những vụ việc mà Mặt trận có văn bản kiến nghị gửi đến mà người
có thẩm quyền không giải quyết, chậm giải quyết hoặc để kéo dài hoặc không giải
quyết đúng pháp luật thì cần có quy định rõ hình thức chế tài xử lý nghiêm minh.
Nếu cần, Mặt trận có thể giám sát việc giải quyết bằng các đoàn giám sát.
* Về công tác thanh tra, kiểm tra
Để công tác tiếp công dân đi vào nề nếp, tố cáo của công dân được giải quyết
kịp thời thì cần có sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp
dưới trong việc chấp hành pháp luật về tố cáo. Song vấn đề đặt ra là làm thế nào để
các hoạt động thanh tra được thực hiện nghiêm túc, trách nhiệm, hiệu quả, và vì sao
thanh tra trách nhiệm nhiều mà công tác GQTC chậm chuyển biến, tình hình tố cáo
vẫn diễn biến phức tạp.
Câu trả lời là cần tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của thủ trưởng
cơ quan hành chính nhà nước và những người có thẩm quyền trong GQTC nhằm
xem xét, đánh giá hiệu quả công tác giải quyết, xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh
vực này. Thông qua thanh tra, kiểm tra trách nhiệm còn định hướng, chấn chỉnh việc
thi hành pháp luật, từ đó có biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật tố cáo, do đó,
cần tiến hành các biện pháp sau:
Các cấp, các ngành, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
cần nhận thức đúng về chế độ trách nhiệm của cơ quan hành chính nước về GQTC;
vai trò, ý nghĩa của công tác thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về tố cáo; xác
định đây là nhiệm vụ thường xuyên, chủ yếu, có tính quyết định để phát hiện kịp thời
những vi phạm trong GQTC để kiến nghị xử lý hoặc xử lý nghiêm minh vi phạm.
140
Thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp trên phải xây dựng chương
trình, kế hoạch hoặc quyết định thanh tra, kiểm tra đối với cơ quan quản lý cấp dưới
bằng các biện pháp rõ ràng, quyết liệt, cụ thể.
Bố trí cán bộ có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm thực tiễn
về thanh tra đối với tố cáo để tiến hành thanh tra, kiểm tra; kết luận đảm bảo trung
thực, khách quan, kiến nghị xác đáng để xử lý, khắc phục sai phạm, khiếm khuyết;
cần lưu ý trưởng đoàn thanh tra phải là người có vị trí trong tổ chức thanh tra, có uy
tín, có chuyên môn và kinh nghiệm …
* Về xử lý vi phạm quyền tố cáo
Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về đảm bảo QTC của công dân cần được
xem xét, đánh giá một cách nghiêm túc và chính xác nhằm phát huy hiệu quả của
các quy định pháp luật, từ đó thấy được ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp
trong xử lý hành vi vi phạm. Việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về đảm bảo QTC
của công dân có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục, răn đe đối với người vi
phạm, kể cả người dân hay cán bộ để xử lý nghiêm minh, qua đó tăng cường trách
nhiệm của công dân, tổ chức khi thực hiện QTC; hạn chế các trường hợp lợi dụng
QTC để gây rối trật tự công cộng.
Để việc xử lý vi phạm hiệu quả, trước hết cần phát hiện kịp thời những hành
vi vi phạm. Các cách thức thu thập các nguồn thông tin về hành vi vi phạm phải đa
dạng: thông qua công tác tiếp công dân; GQTC; hoạt động giám sát của các tổ chức,
cá nhân, phương tiện thông tin đại chúng... Các cơ quan nhà nước và người có thẩm
quyền phải thực sự cầu thị thì mới có được nguồn thông tin quan trọng về những sai
phạm của người dân và cán bộ, công chức.
Việc phát hiện ra các hành vi vi phạm một cách kịp thời có ý nghĩa quan
trọng nhưng nếu xử lý không nghiêm minh các hành vi đó sẽ dẫn đến tình trạng coi
thường pháp luật, coi thường kỷ cương. Do đó, bên cạnh việc người có thẩm quyền
của cơ quan nhà nước phải thực sự công minh, sát sao với hoạt động GQTC, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm thì cần có chế tài cụ thể. Điều này đòi hỏi cần hoàn
thiện các quy định về xử lý hành vi vi phạm, cụ thể là: nghiên cứu, bổ sung trong
Luật Cán bộ, công chức; đồng thời, cần xây dựng văn bản quy định quy tắc ứng xử
141
của cán bộ, công chức trong GQTC, từ đó xác định trách nhiệm công vụ của cán bộ,
công chức về hoạt động này. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các quy
định về pháp luật BĐQTC để hỗ trợ cho việc xử lý đối với hành vi vi phạm.
4.2.3.5 Tăng cường các nguồn lực bảo đảm quyền tố cáo của công dân
* Đổi mới công tác tổ chức và nhân sự thực hiện công tác bảo đảm quyền tố
cáo của công dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc,
công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Trong công tác
BĐQTC, cán bộ cũng đóng vai trò then chốt. Công việc này đòi hỏi cán bộ không
chỉ có ý thức và am hiểu chuyên sâu về chính sách, pháp luật và giỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ mà còn phải thực sự có bản lĩnh vững vàng, chí công vô tư, không thiên
vị và không chịu sự chỉ đạo, chi phối của bất kỳ cơ quan hoặc cá nhân nào trong quá
trình thực thi công vụ. Vì đa số những người bị tố cáo là những người có chức vụ,
quyền hạn trong các tổ chức, đơn vị, nên họ có thể gây ảnh hưởng, chỉ đạo cấp dưới
bất hợp tác trong việc cung cấp hồ sơ, tài liệu, thậm chí là chống đối trong phối hợp,
thực thi trách nhiệm GQTC; đe dọa, trả thù, trù dập người tố cáo.... Chính vì thế,
người làm công tác BĐQTC phải được trao quyền đủ mạnh và thực hiện nhiệm vụ
chuyên trách, độc lập, điều này có ý nghĩa quan trọng mang lại hiệu quả trong thực
thi pháp luật.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn
hiện nay, cần thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất, pháp luật quy định tiếp công dân, GQTC, giám sát pháp luật về tố
cáo, bảo vệ người tố cáo trước hết là trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước
mà đứng đầu là thủ trưởng cơ quan, vì vậy, trong công tác nhân sự liên quan đến thủ
trưởng cơ quan hành chính nhà nước, cần lựa chọn những người vừa có đức, vừa có
tài, hội đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Đảng và Nhà nước để bổ nhiệm vào các
chức danh quản lý, lãnh đạo. Đó là những tiêu chuẩn về chính trị tư tưởng, về đạo
đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị, về
năng lực và uy tín, và những tiêu chí đặc thù của ngành. Cần thường xuyên tiến
hành đánh giá, nhận xét để có cách thức xử lý phù hợp; kiên quyết thay thế những
142
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước hạn chế về năng lực, trình độ, có biểu
hiện suy thoái về đạo đức.
Thứ hai, về đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tham mưu GQTC, giám
sát pháp luật về tố cáo, bảo vệ, khen thưởng người tố cáo, cần xây dựng quy hoạch,
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu quản
lý nhà nước và thẩm quyền, trách nhiệm BĐQTC của thủ trưởng cơ quan hành
chính nhà nước ở các ngành các cấp. Đồng thời, quy định và thực hiện chặt chẽ quy
định về tiêu chuẩn chức danh, yêu cầu chuyên môn của từng ngạch, cũng như chế
độ tuyển dụng, đánh giá, khen thưởng và kỷ luật phù hợp.
Cán bộ, công chức làm công tác tham mưu GQTC cần có trình độ pháp luật,
hiểu sâu về chuyên môn, nghiệp vụ, có kỹ năng liên quan đến công tác BĐQTC.
Điều này đòi hỏi phải chọn lựa những người có năng lực, trình độ chuyên môn (từ
đại học trở lên). Trong quá trình công tác, những người này cần được bồi dưỡng các
lớp nghiệp vụ tiếp công dân, GQTC, giám sát, bảo vệ người tố cáo cũng như những
kiến thức bổ trợ khác về nhiều lĩnh vực khác nhau; đồng thời, được thường xuyên
giáo dục chính trị, tư tưởng bằng những hình thức phù hợp để nâng cao phẩm chất
chính trị, phát huy tinh thần trách nhiệm với công việc và trách nhiệm với dân.
Bên cạnh đó, phải bảo đảm điều kiện làm việc, có sự đầu tư đầy đủ về cơ sở vật
chất, trang thiết bị tạo ra một môi trường làm việc hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi
để phát huy khả năng của họ trong thực tiễn công tác; có chế độ tiền lương, phụ cấp
mang tính đặc thù để thu hút cán bộ, đồng thời tạo điều kiện để cán bộ, công chức
yên tâm làm việc.
* Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ công tác thực hiện pháp luật bảo đảm
quyền tố của công dân
Một trong những giải pháp quan trọng để QTC của công dân được bảo đảm
trên thực tế là tăng cường cơ sở vật chất phục vụ công tác thực hiện pháp luật về
GQTC, nó tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện QTC của mình, đồng thời
tăng cường tính hiệu quả trong việc cán bộ, công chức thực hiện công tác tiếp công
dân, GQTC. Do đó, cần tiến hành một số biện pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, đối với công tác tiếp công dân để tiếp nhận thông tin tố cáo. Trụ sở
143
tiếp dân phải đặt tại vị trí thuận lợi cho việc tiếp nhận, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
của công dân. Phòng tiếp dân cần được đầu tư khang trang, có phòng chờ và phòng
tiếp riêng biệt, có đầy đủ trang thiết bị như máy tính, camera và các cơ sở vật chất
khác như màn hình hiển thị, đồng hồ, máy điều hòa... Trang bị hệ thống camera tại
phòng tiếp dân sẽ giúp lãnh đạo theo dõi được số lượng công dân đến, thái độ của
các cán bộ tiếp dân cũng như kiểm soát được tình hình an ninh, trật tự tại các điểm
tiếp dân. Màn hình cho phép hiển thị các thông tin mà người dân quan tâm nhất như
thời gian tiếp, cán bộ tiếp, số lượng lượt tiếp trong ngày, kết quả cụ thể.
Thứ hai, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác tiếp công dân là rất
cần thiết để một số công việc của công chức tiếp công dân không cần thao tác bằng
tay như việc tìm kiếm thông tin dữ liệu, tổng hợp tình hình, thống kê số liệu, lưu trữ
thông tin, quản lý hồ sơ, đồng bộ dữ liệu... Điều này giúp cho việc tuyên truyền, trả
kết quả cho người dân, hỏi đáp pháp luật được nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
Bên cạnh đó, cần xây dựng, cài đặt phần mềm tiếp công dân cho mọi trụ sở tiếp
công dân từ cấp xã, huyện, sở... theo hướng đơn giản, thuận tiện. Phần mềm sẽ dần
thay thế các sổ quản lý đăng ký tiếp dân, sổ nhận đơn, sổ xử lý, sổ trả kết quả, hỗ
trợ tối đa biểu mẫu, tổng hợp tình hình, tra cứu tìm kiếm, đặt lọc và in ấn. Với việc
xây dựng phần mềm này và đưa vào sử dụng tại cấp huyện, cấp sở, cấp xã sẽ làm
cho việc quản lý tiếp công dân khoa học, chính xác, có khả năng tổng hợp cao từ cơ
sở. Để việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác tiếp công dân mang tính
khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn ở cấp cơ sở, đặc biệt những vùng núi, vùng
sâu, vùng xa thì cần có sự phù hợp; nếu chưa có điều kiện lắp camera, cài đặt phần
mềm thì cần tổ chức nơi tiếp dân đảm bảo trang nghiêm, công khai, sạch đẹp; ghi sổ
rõ ràng, dễ tra cứu tổng hợp.
Các giải pháp để tăng cường BĐQTC của công dân cần được tiến hành đồng
bộ, coi trọng mọi giải pháp, từ xây dựng pháp luật đến tổ chức thực hiện; trong thực
hiện thì cần chú trọng cấp cơ sở, nhất là các vùng khó khăn để tạo điều kiện cho
mọi người dân thuận lợi trong thực hiện QTC của mình.
144
Kết luận Chương 4
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công dân tích cực tham gia vào việc phát hiện
các dấu hiệu, hành vi sai trái, phạm pháp, tham nhũng, bảo vệ quyền lợi của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân thì cần phải có cơ chế BĐQTC hiệu quả. Trong thời gian qua,
việc ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật về BĐQTC có nhiều thay đổi nhưng
về cơ bản chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Do đó, việc tăng cường BĐQTC là rất cần
thiết, hoạt động này cần quán triệt các quan điểm nhất định, như: bảo đảm quyền tố
cáo của công dân phải phù hợp với các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền;
bảo đảm quyền tố cáo của công dân cần huy động sự tham gia của nhiều chủ thể,
đặc biệt là các doanh nghiệp, tổ chức và người dân; bảo đảm quyền tố cáo của công
dân phải phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Bên cạnh đó, nhiều giải pháp được đề xuất nhằm tăng cường BĐQTC của
công dân, đặc biệt tập trung vào các nhóm giải pháp như: đổi mới nhận thức về vai
trò, ý nghĩa của QTC và BĐQTC của công dân; nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện
pháp luật BĐQTC. Các nhóm giải pháp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho
nhau, gắn liền với việc đổi mới tư duy, nhận thức về hoàn thiện hệ thống pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tố cáo.
145
KẾT LUẬN
Tố cáo và GQTC là những vấn đề phức tạp nhưng rất quan trọng. Loại trừ yếu
tố tiêu cực có thể phát sinh từ việc lợi dụng và lạm dụng thì tố cáo, GQTC phản ánh
trình độ nhận thức chung của xã hội, trách nhiệm của công dân, của đội ngũ cán bộ,
công chức, mức độ phát triển của bộ máy nhà nước, đồng thời cũng là thước đo của
nền dân chủ ở mỗi quốc gia. Vì vậy, BĐQTC của công dân là rất cần thiết, đặc biệt là
thông qua việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tố cáo xuất phát từ yếu tố tích cực của
tố cáo, đó là thông qua việc tố cáo, các cơ quan nhà nước kịp thời phát hiện, ngăn
chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu quả
hoạt động của bộ máy nhà nước, tăng cường ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức và lành mạnh hóa nền công vụ quốc gia.
Bảo đảm QTC của công dân là vấn đề gắn bó mật thiết với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm và tăng cường dân chủ các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Nhiều quốc gia trên thế giới đã quan tâm đến việc tôn
trọng và tăng cường các bảo đảm để công dân thực hiện quyền này. Tùy vào điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia mà việc quy định trong hệ thống
pháp luật là khác nhau.
BĐQTC của công dân ở Việt Nam được hình thành và phát triển qua nhiều
giai đoạn lịch sử theo hướng ngày càng hoàn thiện, được ghi nhận trong Hiến pháp
và hệ thống pháp luật với các nội dung về phương thức và cơ chế bảo đảm và thực
thi quyền, bảo vệ và khen thưởng người tố cáo. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng chú
trọng tổ chức thực hiện pháp luật BĐQTC. Tuy nhiên, pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật về BĐQTC còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa khuyến khích được
người dân cũng như cán bộ, công chức, viên chức tham gia vạch trần hành vi tham
nhũng, phạm pháp. Điều này đã ảnh hưởng xấu đến niềm tin của nhân dân, đến sự
công minh của pháp luật, sự công bằng và gương mẫu của cơ quan nhà nước. Do
vậy, với những yêu cầu, đòi hỏi của tình hình, bối cảnh mới được đặt ra thì việc tăng
cường BĐQTC của công dân ở Việt Nam trở nên vô cùng cần thiết.
146
Việc tăng cường BĐQTC của công dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là
một nhiệm vụ hết sức phức tạp, vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, đồng thời huy
động sự tham gia của nhiều chủ thể, đặc biệt là của các doanh nghiệp, tổ chức và
người dân, vừa phải kế thừa những kết quả đã đạt được trước đây và tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài, đặc biệt là những nước phát triển để từ đó
đưa ra những giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội ở Việt Nam.
Luận án xây dựng ba nhóm giải pháp góp phần tăng cường BĐQTC của công dân.
Các nhóm giải pháp đưa ra trên cơ sở tiếp cận đa dạng từ đổi mới tư duy, tâm lý,
nhận thức đến việc hoàn thiện các quy định pháp luật và hoàn thiện cơ chế tổ chức
thực thi pháp luật, trong đó đặc biệt chú trọng nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật
về BĐQTC. Giải pháp này là công việc khó khăn, cần sự thống nhất và có mối quan
hệ chặt chẽ với pháp luật tố cáo nói chung và các đạo luật chuyên ngành có liên
quan nói riêng. Để hiện thực hóa giải pháp này, cần phải có sự rà soát lại các quy
định pháp luật hiện hành và pháp điển để lựa chọn giữa các phương án mà luận án
đề xuất, hoặc là xây dựng một đạo luật toàn diện về BĐQTC, hoặc sửa đổi, bổ sung
các quy định về BĐQTC trong một số đạo luật chuyên ngành với mục đích chỉ dẫn
hoặc cụ thể hóa các quy định về BĐQTC. Các nhóm giải pháp được đề xuất ở
Chương 4 có quan hệ mật thiết với nhau và chỉ phát huy được tác dụng khi được
thực hiện đồng bộ, như vậy mới bảo đảm để QTC của công dân trở thành hiện thực./
147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Về cơ chế khuyến khích người dân thực hiện quyền tố cáo ở nước ta hiện
nay, Tạp chí Cộng sản, số 135 (3-2018)
2. Tăng cường hoạt động giám sát giải quyết tố cáo của Quốc hội góp phần
bảo đảm quyền tố cáo của công dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13/2018
3. Giải quyết đơn tố cáo nặc danh- biện pháp bảo đảm quyền tố cáo của công
dân, góp phần hoàn thiện pháp luật tố cáo - Tạp chí Cộng sản, số tháng 140 (8-2018)
148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Hồ Thị Thu An (2009), Hoàn thiện pháp luật về tố cáo và GQTC ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Hồ Thị Thu An (2011), Xây dựng cơ chế bảo vệ người tố cáo, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 197, tháng 6.
3. Bảo Anh và Quang Vững (2012), Cả hệ thống chính trị cần vào cuộc để tập
trung giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn động, kéo dài, Tạp
chí Thanh tra, Số 5.
4. Hồng Bàng (2012), Tâm lý người khiếu nại, tố cáo và việc ứng xử của cán bộ
tiếp dân, Tạp chí Thanh tra số 7.
5. Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Báo cáo 30/BC-BDN ngày
5/2/2016 Tổng kết công tác của Ban Dân nguyện nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII
(2011- 2016).
6. Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Báo cáo công tác dân nguyện
các năm, từ 2011 đến 2017.
7. Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu
hội thảo.
8. Ban Nội chính Trung ương (2018), Đề án Cơ chế bảo vệ người dân phản ánh,
tố giác và tích cực đấu tranh chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong cán bộ, đảng viên. Đề án trình Bộ Chính trị.
9. Chính phủ, Báo cáo số 3537/BC-TTCP ngày 30/12/2016 của Thanh tra Chính
phủ về tổng kết 4 năm thi hành Luật khiếu nại, Luật Tố cáo.
10. Chính phủ, Báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng các năm 2011, 2012,
2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
11. Chính phủ, Báo cáo công tác tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo, các năm 2011,
2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
12. Chính phủ (2017), Báo cáo số 338/BC-CP ngày 11/8/2017 tiếp thu, giải trình ý
kiến của đại biểu Quốc hội về dự án Luật tố cáo 2011 (sửa đổi).
149
13. Chính phủ (2017), Báo cáo số 424/BC-CP về tiếp thu, giải trình ý kiến của Đại
biểu Quốc hội về dự án Luật Tố cáo (sửa đổi), ngày 12-10-2017.
14. Chính phủ, (2017), Báo cáo số 471/BC-CP, về công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo năm 2017, ngày 19/10/2017.
15. Mai Văn Duẩn (2015) Quan niệm về tố cáo và GQTC của một số tổ chức quốc
tế và quốc gia trên thế giới, Tạp chí Thanh tra số 7.
16. Mai Văn Duẩn và Vũ Công Giao (2015), Bảo vệ người tố cáo trong pháp luật
quốc tế và một số quốc gia, Tạp chí Nội chính số 28, tháng 11.
17. Mai Văn Duẩn, (2016), Bàn về các biện pháp bảo vệ người tố cáo, Tạp chí
Thanh tra, số 01.
18. Mai Văn Duẩn, (2017), Kinh nghiệm bảo vệ người tố cáo trong pháp luật quốc
tế và một số quốc gia, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 4.
19. Mai Văn Duẩn (2017), Pháp luật bảo vệ người tố cáo ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Vũ Duy Duẩn (2014), Giải quyết khiếu nại, tố cáo – phương thức bảo đảm
pháp chế và kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia.
21. Nguyễn Đăng Dung (2001), Một số vấn đề về hiến pháp và bộ máy nhà nước,
NXB. Giao thông vận tải, Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Dung (2011), Cải cách chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân trong Hiến pháp theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 8.
23. Nguyễn Đăng Dung (2015), Quyền con người và việc bảo vệ, bảo đảm thực
hiện quyền con người theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp, Số Chuyên đề “Quyền con người, Quyền công dân theo hiến pháp năm
2013”, Số 11 (291).
24. Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
NXB. Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Điều lệ Đảng Cộng sản khóa XII.
26. Nguyễn Ngọc Đán, Cao Văn Thống (2013), Cẩm nang về kỹ thuật GQTC trong
Đảng, NXB. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
150
27. Vũ Văn Đạm (2012), Đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của công dân ở tỉnh
Quảng Ninh, Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính
Quốc gia, Hà Nội.
28. Lê Tiến Đạt (2014), Một số vấn đề hoàn thiện cơ chế bảo vệ người tố cáo, Tạp
chí Thanh tra số tháng 8.
29. Bùi Tiến Đạt (2018), Nhận diện các mô hình giới hạn quyền con người trong
pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 2.
30. Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. Vũ Công Giao và Nguyễn Minh Tâm (2015), Quyền công dân và cơ chế bảo vệ
quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số
11 (291).
32. Nguyễn Thị Hoa, (2018), Hệ thống pháp luật về quyền con người trong Nhà
nước pháp quyền ngày càng hoàn thiện, Tạp chí Thanh tra số 4.
33. Lê Tiến Hào, Nguyễn Quốc Hiệp chủ biên (2012), Khiếu nại, tố cáo hành chính
và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay, NXB. Chính
trị - Hành chính.
34. Hoàng Văn Hảo và Chu Hồng Thanh (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự và
chính trị, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Hoàng Minh Hội (2014), Thực trạng pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với cơ quan hành chính Nhà nước ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị,
Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 30, số 2.
36. Trần Thanh Hương (2006), Những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quyền
cơ bản của của công dân trong lĩnh vực tự do cá nhân, Luận án tiến sĩ Luật
học – Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
37. Nguyễn Thị Bích Hường (2010), Xử lý hành vi vi phạm theo quy định của Luật
khiếu nại, tố cáo - khó khăn trong thực tiễn áp dụng, Tạp chí Thanh tra số 8.
38. Phạm Quốc Huy (2009), Bàn về các khái niệm "Tố giác tội phạm", "Tin báo về
tội phạm" và "Kiến nghị khởi tố" trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Tạp chí Kiểm
sát, số 17.
39. Học viện Hành chính Quốc gia (2001), Các phương thức đảm bảo quyền tự do
của công dân. Đề tài khoa học cấp bộ.
151
40. Hội đồng dân tộc (2016), Báo cáo số 1071/BC-HĐDT13, Tổng kết hoạt động
của Hội đồng dân tộc nhiệm kỳ khóa XIII (2011- 2016).
41. Trần Văn Long, (2018), Nâng cao hiệu quả công tác giám sát giải quyết khiếu
nại, tố cáo hành chính ở nước ta", Tạp chí Thanh tra số 2.
42. Nguyễn Tuấn Khanh (2014), Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền khiếu nại hành chính
của công dân ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội.
43. Lê Quang Kiệm (2015), Rèn luyện kỹ năng giao tiếp của cán bộ làm công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Thanh
tra, số 5.
44. Tường Duy Kiên (2016), Cụ thể hóa các quy định mới về quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp năm 2013, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 13.
45. Lê Thanh Mai, (2015), Nghĩa vụ quốc tế và trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12.
46. Hồ Chí Minh (2006), tập 6, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
47. Vũ Minh, (2012), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân và giải
quyết khiếu nại, tố cáo, Tạp chí Thanh tra số 3.
48. Cao Vũ Minh (2016), Một số bất cập trong các quy định của Luật Tố cáo năm
2011 và hướng hoàn thiện, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 4.
49. Cao Vũ Minh, (2018), Dự thảo Luật Tố cáo sửa đổi và vấn đề tố cáo nặc danh,
mạo danh, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11.
50. Đinh Văn Minh (2010), Những bất cập trong các quy định về tố cáo và GQTC,
Tạp chí Thanh tra, số tháng 8.
51. Đinh Văn Minh (2018), Bàn về tố cáo nặc danh và xử lý tố cáo nặc danh, Tạp
chí Thanh tra số 3.
52. Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, (2015, 2016, 2017) Báo cáo về kết quả công tác
tiếp công dân và xử lý đơn thư các năm 2015, 2016, 2017.
53. Nguyễn Hải Ninh (2011), Hoàn thiện pháp luật của Bộ luật Tố tụng Hình sự
nhằm bảo vệ người làm chứng khi tham gia tố tụng, Tạp chí Luật học số 12.
54. Lê Thị Hồng Nhung, Bảo đảm pháp lý quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện
nay, 2015, Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội.
55. Chu Thị Ngọc, Hiến pháp - Cơ sở pháp lý cơ bản của việc bảo đảm quyền con
người, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 9, 2016.
152
56. Vũ Kiều Oanh (2012), Chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở một
số nước trên thế giới, NXB. Viện Thông tin khoa học xã hội.
57. Nguyễn Thị Bích Hường (2010), Xử lý hành vi vi phạm theo quy định của Luật
Khiếu nại Tố cáo – Khó khăn trong thực tiễn áp dụng, Tạp chí Thanh tra, số 8.
58. Hoàng Thị Kim Quế và cộng sự (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước
và pháp luật, NXB. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
59. Lê Ra (2012), Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm, Tạp chí Kiểm sát,
số 20.
60. Trần Văn Sơn (2006), Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam
hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
61. Nguyễn Văn Sỹ, GQTC và bảo vệ người tố cáo – Nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 5.
62. Tạ Thị Tài (2014), Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề Bảo đảm quyền
con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp.
63. Phạm Hồng Thái và cộng sự (2003), Pháp luật về khiếu nại, tố cáo, NXB. TP.
Hồ Chí Minh.
64. Phạm Hồng Thái, Vũ Công Giao, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn đồng
chủ biên (2017), Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở nước ta hiện nay,
NXB. Chính trị Quốc gia.
65. Lê Mai Thanh (2015), Nghĩa vụ quốc tế và trách nhiệm của Nhà nước bảo đảm
quyền con người, quyền công dân, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12.
66. Phan Nhật Thanh (2014), Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người
ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 06.
67. Nguyễn Thị Hồng Thúy, (2018), Quy định về bảo vệ người tố cáo ở một số
quốc gia trên thế giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ người tố
cáo ở Việt Nam, Tạp chí Thanh tra số 03.
68. Lê Minh Thông (2000), Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người ở
nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8.
153
69. Nguyễn Thị Lê Thu (2017), Các quy định về bảo vệ người tố cáo tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay, Tạp chí Thanh tra số 9.
70. Trần Văn Truyền (2016), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Tạp chí Cộng sản số tháng 11.
71. Thanh tra Chính phủ (2003), Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của cơ quan hành
chính nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng, Đề tài
nghiên cứu khoa học.
72. Thanh tra Chính phủ (2005), Lịch sử Thanh tra Việt Nam 1945-2005, NXB.
Chính trị Quốc gia Hà Nội.
73. Thanh tra Chính phủ, (2006), Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong tình hình mới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Thanh tra Chính phủ, (2007), Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra trách
nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo, Đề tài khoa học cấp Bộ.
75. Thanh tra Chính phủ (2009), Đổi mới cơ chế GQTC hiện nay, Đề tài khoa học
cấp Bộ.
76. Thanh tra Chính phủ (2010), Cơ chế bảo vệ người tố cáo, Đề tài khoa học cấp cơ sở.
77. Thanh tra Chính phủ (2011), Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại, tố
cáo - Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Đề tài khoa học cấp bộ.
78. Thanh tra Chính phủ (2011), Khiếu nại, tố cáo hành chính và giải quyết khiếu
nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam, Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước.
79. Thanh tra Chính phủ (2011), Trách nhiệm pháp lý của chủ tịch UBND các cấp
trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng, Đề tài khoa học cấp bộ.
80. Thanh tra Chính phủ (2012), Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng của
Thanh tra Chính phủ, Đề tài khoa học cấp Bộ.
81. Thanh tra Chính phủ (2015), Tổng kết chuyên đề thi hành LPCTN, báo cáo
chuyên đề “Cơ chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng tại Việt Nam".
82. Thanh tra Chính phủ, (2015), Báo cáo số 180/BC-TH ngày 28/5/2015 của
Thanh tra Chính phủ về tổng hợp tình hình bảo vệ người tố cáo.
154
83. Thanh tra Chính phủ (2016), Báo cáo số 3537-BC/TTCP về tổng kết 4 năm thi
hành Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo (2012- 2016).
84. Thanh tra Chính phủ (2016), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện LPCTN (2006 -
2016).
85. Thanh tra Chính phủ (2017), Báo cáo tổng kết 03 năm thi hành Luật tiếp công dân.
86. Thanh tra Chính phủ (2017), Giám sát công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hành
chính ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp, đề tài khoa học cấp bộ.
87. Thái Vĩnh Thắng (1997), Lịch sử Lập hiến Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
88. Thủ tướng Chính phủ (2010), Đề án đổi mới tiếp công dân, (ban hành kèm theo
Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày 14/6/2010).
89. Thủ tướng Chính phủ (2014), Đề án tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2013 - 2016,
(ban hành kèm theo Quyết định số 1133/QĐ-TTg ngày 15/7/2013).
90. Nguyễn Thế Thuấn (2001), Tăng cường hiệu quả pháp luật về giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
91. Uông Ngọc Thuần (2014), Vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về
thanh tra, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, Tạp chí Thanh tra, số 2.
92. Lê Thị Minh Thư (2016), Hoạt động xây dựng pháp luật của Chính phủ với việc
bảo đảm quyền con người, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 17.
93. Ngô Mạnh Toan (2008), Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
94. Nguyễn Văn Tuấn (2007), Hoàn thiện pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo của
Nguyễn Văn Tuấn, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 5.
95. Tổ chức hướng tới minh bạch - Viện Chính sách Công và Pháp luật (2016), Cơ
chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng theo các quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam, Hội thảo bước đầu tiếp cận kết quả 10 năm thực hiện LPCTN,
Hà Nội.
96. Trung tâm từ điển học (2009), Từ điển Tiếng Việt, NXB. Đà Nẵng.
155
97. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2014), Báo cáo số 757/BC/ĐGS ngày 23/10/2014,
kết quả giám sát sát việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân
gửi đến Quốc hội.
98. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2014), Báo cáo số 623/BC-ĐGS ngày
03/4/2014, kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri và việc giải
quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
99. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2014), Báo cáo số 624/BC-ĐGS ngày
04/4/2014, kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri và việc giải
quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
100. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), Báo cáo số 1065/BC-UBTVQH13 ngày
20/3/2016 Tổng kết hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ
Quốc hội khóa XIII (2011-2016).
101. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Báo cáo kết quả tiếp công dân, xử lý đơn thư và
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Quốc hội các
năm, từ 2011 đến 2017.
102. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, (2018), Báo cáo số 289/BC-UBTVQH 14 về việc
giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi), ngày 08/6/2018.
103. Ủy ban Kiểm tra Trung ương (2011), Tố cáo và GQTC tổ chức đảng và đảng
viên, Đề tài khoa học cấp bộ.
104. Ủy ban Kiểm tra Trung ương, (2014), Ngăn chặn, phòng ngừa sai phạm về tố
cáo và GQTC trong Đảng, Đề tài khoa học cấp bộ.
105. Ủy ban Pháp luật Quốc hội (2016), Báo cáo số 3630/BC-UBPL13 ngày
28/1/2016 Tổng kết công tác của Ủy ban Pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa
XIII (2011- 2016).
106. Ủy ban Pháp luật của Quốc hội (2017), Báo cáo số 985/BC-UBPL14 Kết quả
thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết
khiếu nại, tố cáo năm 2017.
107. Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa-
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
108. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
156
109. Viện Nhà nước và Pháp luật (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực
hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, NXB. Công an nhân dân.
110. Võ Khánh Vinh chủ biên, (2009), Quyền con người - tiếp cận đa ngành và liên
ngành khoa học xã hội, NXB. Khoa học xã hội.
111. Võ Khánh Vinh chủ biên, (2009), Quyền con người, giáo trình giảng dạy sau
đại học, NXB. Khoa học xã hội.
112. Võ Khánh Vinh chủ biên, (2011), Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người,
NXB. Khoa học xã hội.
113. Võ Khánh Vinh (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền
dân sự và chính trị, NXB. Khoa học xã hội.
114. Nguyễn Cửu Việt, Đinh Thiện Sơn (1992), Luật Hành chính Việt Nam, Hà
Nội.
115. Nguyễn Cửu Việt, chủ biên (2013), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam,
NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
116. Nguyễn Như Ý chủ biên, (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB. Văn hóa –
Thông tin.
Tài liệu tiếng nước ngoài
Tài liệu tiếng Anh
117. Asian Institute of Management (2006), Whistleblowing in Philippines:
Awareness, Attitudes and Structures, http://www.rvrcvstarr.aim.edu.
118. Brian Martin (2013), Whistleblowing: A Practical Guide, Irene Publishing
Sparsna’s, Sweden.
119. David Banisar (2009), Whistleblowing International standards and
developments, http:// www.transparency.org.
120. Inter-American (1996), Inter-American Convention against Corruption
http://www.iadb.org .
121. Martin P (2010), The status of whistleblower in South Africa,
http://openjournalismworkshop.files.wordpress.com
122. Osterhaus, Anja, Fagan, Craig (2009), Alternative to slince wishtleblower
protection in 10 european countries, http://www.transparency.org.
157
123. OECD (2010), Whistleblower protection framworks, compendium of best
practices and guiding principles for legislation
124. Richard Calland (2004), Whistleblowing Around the World: Law, Culture
And Practiceland.
125. Tom Devine (2013) The Whistleblower’s Survival Guide – Courage Without
Martyrdom
126. Tom Devine and Tarek F (2011), The Corporate Whistleblower’s Survival
Guide – A Handbook for Committing the Truth, Berrett-Koehler Publishers.
127. The ACRC implements the "Act on the Protection of the Public Interest
Whistleblowers (2011).
128. Transparency international (2010), Whistleblowing: an effective tool in the
fight against corruption, www. http:// transparency.org.
129. Transparency international (2013), Whistleblowing in Europe legal protections
for whistleblowers in the EU, www.transparency.org.
130. Transparency international (2013), Whistleblower protection and the UN
Convention against corruption, www.transparency.org.
131. Transparency international (2013), International Principles For Whistleblower
Legislation: Best Practices for Laws to Protect Whistleblowers and Support
Whistleblowing in The Public Interest, www.transparency.org.
Tài liệu tiếng Pháp
132. Aix Marseille Université (2016), Dénonciations et dénonciateurs de la
corruption Chevaliers blancs, pamphlétaires et promoteurs de la transparence
à l’époque contemporaine
133. http://www.lames.cnrs.fr/IMG/pdf/appel_a_communication_denonciations_et
_denonciateurs_nov16.pdf.
134. Jean-Patrice Desjardins (2007), La dénonciation en milieu de travail:
mécanismes et enjeux,
http://archives.enap.ca/bibliotheques/2007/05/24967800.pdf.
Các website
135. http://www.wipo.int/wipolex/en/details.jsp?id=7140
136. http://www.wipo.int/wipolex/en/text.jsp?file_id=184044
137. https://www.constituteproject.org/constitution/Venezuela_2009.pdf?lang=en
158
138. https://www.unodc.org/cld/document/kor/2011/act_on_the_protection_of_pub
lic_interest_whistleblowers.html
139. http://www.cas.go.jp/jp/seisaku/hourei/data/WPA.pdf
140. http://www.whistleblowing.it/Romanian%20Law%20571-2004%20-%20whist
leblowingEN.pdf
141. https://www.legislation.gov.au/Details/C2013C00310
142. https://www.unodc.org/res/cld/document/usa/whistleblower-protection-act-of-
1989_html/USA_Whistleblower_Protection_Act_of_1989.pdf
143. https://www.congress.gov/bill/110th-congress/house-bill/985/text
144. https://www.legislation.gov.au/Details/C2013C00310
145. https://www.unodc.org/cld/document/kor/2011/act_on_the_protection_of_pub
lic_interest_whistleblowers.html?
146. http://laws-lois.justice.gc.ca/PDF/P-31.9.pdf
147. https://www.unodc.org/cld/document/kor/2011/act_on_the_protection_of_pub
lic_interest_whistleblowers.html?
148. https://www.legislation.gov.au/Details/C2013C00310
159
Phụ lục 1
Quyền tố cáo và bảo đảm quyền tố cáo của công dân
qua các bản Hiến pháp Việt Nam
T
TT
Hiến pháp năm 2013 Hiến pháp
1992
Hiến pháp
1980
Hiến pháp
1959
Hiến pháp
1946
Điều
số
Điều số Điều số Điều số Điều số
1
1
Quyền tố cáo 30 74 73 29 /////////////
2
2
Bảo đảm
quyền con
người, QTC
14 50, 51 54 ///////////// Lời nói đầu
160
Phụ lục 2
Các văn bản pháp luật ở Việt Nam liên quan đến quyền tố cáo,
đảm bảo quyền tố cáo
STT Văn bản Điều luật liên quan
1 Luật phòng, chống tham nhũng năm
2005, sửa đổi bổ sung năm 2007,
2012
Điều 5, 6, 10, 13, 27, 64, 65, 67, 68,
84, 85
2 Luật phòng, chống tham nhũng năm
2018
Điều 4, 5, 8, 31, 41, 47, 65, 67, 68,
74, 82, 85
3 Luật Tiếp công dân năm 2013 Điều 1, 2, 3, 6, 7, 8, 11, 12, 13, 17,
20, 21, 25, 27, 29, 30, 32, 33
4 Luật Thanh tra năm 2010 Điều 5, 14, 15, 17, 18, 20, 21, 23,
24, 26, 27, 37, 38, 48, 55, 57, 66, 70,
74
5 Luật Xử phạt vi phạm hành chính
năm 2012
Điều 14, 15, 17, 18
6 Luật Giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân năm 2015
Điều 4, 5, 13, 22, 30, 37, 44, 47, 48,
54, 59, 66, 73, 76, 80, 82, 83, 87
7 Luật MTTQ Việt Nam năm 2015 Điều 18, 23
8 Bộ luật hình sự năm 2015 Điều 156, Điều 166
9 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Điều 32, 33, 36, 41, 314, 478, 479,
480, 481, 482, 483
10 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 Điều 10
11 Luật Đất đai năm 2013 Điều 22, 95, 99, 100, 121, 166, 169,
199, 205,
12 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 Điều 24
13 Luật Kế toán năm 2015 Điều 71
161
14 Luật Báo chí năm 2016 Điều 11, 12, 15, 39
15 Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí năm 2014
Điều 6, 10, 76
16 Luật Kiểm toán năm 2015 Điều 13, 53, 70,
17 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 Điều 139, 143, 162
18 Luật Nhà ở năm 2014 Điều 10, 11, 167, 175, 178
9 Luật Quản lý thuế năm 2006 Điều 3, 6, 8, 10, 11, 79, 80, 81, 84,
86, 116, 117, 118
20 Luật Đặc xá năm 2007 Điều 12, 34
21 Luật Doanh nghiệp năm 2014 Điều 7
162
Phụ lục 3
Kết quả giải quyết tố cáo của các cơ quan Hành chính nhà nước
(từ năm 2012 đến 2017)
Năm Tổng số Bộ ngành Địa phương
Số vụ việc Tỷ lệ Số vụ việc Tỷ lệ Số vụ việc Tỷ lệ
2012 7.340/8.471 86,65% 2.980/3.333 89,41% 4.360/5.138 84,86%
2013 7.266/8.692 83,6% 3.155/4.339 72,7% 4.109/4.351 94,4%
2014 6.978/7.974 87,5% 3.220/3.754 85,8% 3.756/4.217 84,1%
2015 5.638/7.542 74,8% 2.098/3.289 63,8% 3.539/4.252 83,2%.
2016 6.267/7.716 81,2% 2.653/3.085 86,0% 3.613/4.630 78,0%
2017 5.402/6.602 81.8% 2.250/2.710 83% 3.152/3.892 81%
(Nguồn: Báo cáo tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo các năm
từ 2012 đến 2017 của Chính phủ)
Phụ lục 4
Kết quả bảo vệ quyền lợi cho Nhà nước, tập thể, cá nhân
(từ năm 2011 đến 2017)
Năm Thu hồi cho Nhà nước,
trả cho tập thể, cá nhân
Bảo vệ quyền
lợi tập thể, cá
nhân
Kiến nghị
xử lý hành
chính
(người)
Chuyển cơ
quan điều
tra (vụ) Tiền (tỷ) Đất (ha)
2013 31,0 7,3 534 315 42
2014 19,2 66,2 397 498 78
2015 29,8 29,6 876 327 04
2016 46,9 10 589 344 02
2017 15,4 tỷ 17,1 565 359 0
(Nguồn: Báo cáo tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo các năm từ
2012 đến 2017 của Chính phủ)
163
Phụ lục 5
Kết quả thanh tra, kiểm tra trách nhiệm thực hiện pháp luật
về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
(từ năm 2011 đến 2017)
Năm Số
cuộc
TTra
Đơn vị Đơn vị
có vi
phạm
Kiểm điểm, rút
kinh nghiệm
Xử lý hành chính
Tổ chức Cá nhân Tổ chức Cá nhân
2012 2.683 -- -- -- -- -- --
2013 2.789 5.805 996 748 308 48 36
2014 1.787 4.081 492 435 462 23 06
2015 1.626 3.224 564 440 303 16 41
2016 1.536 3.091 601 562 470 0 11
2017 1.645 2.779 544 455 568 14 17
(Nguồn: Báo cáo công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo các
năm từ 2011 đến 2017 của Thanh tra Chính phủ)
164
Phụ lục 6
Kết quả thanh tra tiến hành kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh
tra, quyết định xử lý sau thanh tra trách nhiệm
(từ năm 2011 đến 2017)
Năm Số
cuộc
TTra
Kiểm điểm, rút kinh nghiệm Xử lý hành chính
Tổ chức Cá nhân Tổ chức Cá nhân
2013 1.166 435 233 14 29
2014 547 199 171 0 42
2015 647 325 271 15 19
2016 454 387 289 0 10
2017 368 288 324 18 33
(Nguồn: Báo cáo công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo các
năm từ 2011 đến 2017 của Thanh tra Chính phủ)
165
Phụ lục 7
Kết quả bảo vệ người tố cáo
MS NỘI DUNG TỔNG
TRONG ĐÓ
Tố cáo
tham
nhũng
Tố cáo
khác
1 Kết quả phát hiện, xử lý hành vi trả thù, trù dập, đe dọa người tố cáo
1.1 Số vụ việc có người tố cáo bị trả thù hoặc đe
dọa trả thù 2 2
1.2 Số người tố cáo đã bị trả thù 1 1
1.3 Số người tố cáo bị đe dọa trả thù 2 2
1.4 Số người tố cáo có dấu hiệu bị trả thù, trù dập
đang được xem xét để kết luận 3 3
1.5 Số người bị xử lý bằng các biện pháp hành
chính do trả thù, đe dọa trả thù người tố cáo 1 1
1.6 Số người bị xử lý hình sự do trả thù, đe dọa trả
thù người tố cáo
2 Kết quả tiếp nhận bảo vệ người tố cáo
2.1 Số người tố cáo yêu cầu bảo vệ bí mật thông
tin 524 89 435
2.2 Số người tố cáo yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức
khỏe 63 4 59
2.3 Số người tố cáo yêu cầu bảo vệ tài sản 27 2 25
2.4 Số người tố cáo yêu cầu bảo vệ uy tín, danh
dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác 55 1 54
2.5 Số người tố cáo yêu cầu bảo vệ vị trí công tác,
việc làm 30 3 27
166
(Nguồn: Báo cáo số 180/BC-TH ngày 28/9/2015 của
Cục Chống tham nhũng, Thanh tra Chính phủ)
3 Kết quả xử lý yêu cầu bảo vệ người tố cáo
3.1 Số yêu cầu được cơ quan tiếp nhận tiến hành
bảo vệ theo thẩm quyền 201 19 182
3.2 Số yêu cầu đã chuyển cơ quan có thẩm quyền
bảo vệ 20 3 17
3.3 Số yêu cầu đã thực hiện xử lý khác
4 Kết quả thực hiện các biện pháp bảo vệ người tố cáo
4.1 Tổng số người tố cáo đã được bảo vệ bằng các
biện pháp bảo vệ theo quy định 652 75 577
4.2 Số người tố cáo đã được bảo vệ bí mật thông
tin 788 106 682
4.3 Số người tố cáo đã được bảo vệ tài sản 95 1 94
4.4 Số người tố cáo đã được bảo vệ uy tín, danh
dự, nhân phẩm và các quyền nhân thân khác 266 20 246
4.5 Số người tố cáo đã được bảo vệ vị trí công tác,
việc làm 99 1 98