Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Lời mở đầu
Thư viện tỉnh Quảng Nam trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc tập thư
mục tháng 9 năm 2017, gồm có các bài viết được sưu tầm, trích từ các báo, tạp
chí của Trung ương và địa phương, về các lĩnh vực:
- Kinh tế;
- Xã hội;
- Văn hóa;
- Lịch sử;
- Giáo dục.
Trong quá trình sưu tầm, tập hợp và sắp xếp các bài viết trong thư mục
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp xây dựng
của bạn đọc. Xin trân trọng cảm ơn./.
THƯ VIỆN TỈNH QUẢNG NAM
Vị ân sư của Huỳnh Thúc Kháng
Huỳnh Thúc Kháng là nhà cách mạng lớn của đất Quảng cũng như cả
nước. Ngoài tài năng và chí tự học, ông còn nhận được sự tài bồi của một vị
“ân sư” - người đã hết lòng dạy dỗ và giúp đỡ để ông thành danh!
Thầy Trần Đình Phong và trò Huỳnh Thúc Kháng.
Vị ân sư của Huỳnh Thúc Kháng
Huỳnh Thúc Kháng chăm học và học giỏi là điều ai cũng biết. Ông là
một trong hai “song nguyên” (đỗ đầu cả hai kỳ thi Hƣơng và thi Hội) của đất
học Quảng Nam (ngƣời kia là Phạm Phú Thứ). Trong đời Huỳnh Thúc Kháng
đã học với gần 10 ngƣời thầy từ những cụ đồ nho nhƣ cụ Nguyễn Tiến (ngƣời
Nghệ An), Nguyễn Hoành (con trai Nguyễn Đình Tựu); tú tài nhƣ cụ Nguyễn
Chí, Trần Dĩnh; hay các vị đại khoa nhƣ Nguyễn Đình Tựu, Lê Bá Hoan…
Nhƣng có lẽ vị thầy để lại nhiều ấn tƣợng nhất trong đời Huỳnh Thúc Kháng là
cụ Đốc học Mã Sơn Trần Đình Phong. Huỳnh Thúc Kháng đƣợc thầy Trần Đình
Phong không những trao truyền nhiều kiến thức quan trọng để thành danh trên
đƣờng khoa cử mà còn đƣợc thầy chia sẻ những khó khăn về vật chất và tinh
thần để tiếp tục việc học.
Trong sách Huỳnh Thúc Kháng niên phổ (Nxb Văn hóa Thông tin, 2000)
Huỳnh Thúc Kháng cho biết: “Tôi sinh ở vùng quê mùa thảo dã, trừ lúc bé theo
cậu Tế tửu học Kinh Thi, còn từ 12 đến 20 tuổi, tuy thƣờng năm cắp sách đi
học, nhƣng nhà nghèo khổ, không có sách, thêm nỗi thầy thay đổi, không đƣợc
sở đắc gì. Từ ngày vào trƣờng tỉnh cùng minh sƣ ích hữu (Trần Đình Phong -
NV) ngày ngày giảng tập, đƣợc ích hữu rất nhiều. Kể trong 50 năm, trừ ngày
thơ ấu trôi nổi vinh nhục nếm đủ mùi đời, cái thú vui về văn tự, minh hữu chỉ có
4 năm học ở trƣờng tỉnh…” (trang 31).
Trong bài Phải chăng là cái số “Trƣớc phúc đầu họa” đăng trên báo Tiếng
Dân vào năm 1938, Huỳnh Thúc Kháng còn cho biết, ông học ở trƣờng tỉnh
(Thanh Chiêm, Điện Bàn) cùng với 40 ngƣời khác gồm cả học sanh (học sinh
bình thƣờng), ấm sanh (con của các quan nên đƣợc hƣởng tập ấm) và cử nhân
(những ngƣời đã đỗ trong kỳ thi Hƣơng, chuẩn bị thi Hội) trong đó có Phạm
Liệu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Đình Hiến... do Đốc học Trần Đình Phong làm
Đốc giáo (Hiệu trƣởng). Trong các kỳ sát hạch, bài của Huỳnh Thúc Kháng
luôn đƣợc đứng đầu. Ông rất ngạc nhiên vì cho rằng sức học của ông không hơn
gì mấy vị kia vì thế nghi là đƣợc thầy ƣu ái. Quả đúng nhƣ vậy, một lần: “Cụ
Đốc học Mã Sơn bảo: học sanh lƣơng ít - ít hơn ấm sanh và cử nhân, lƣơng ƣu
mỗi tháng chỉ có 16 quan tiền thôi - anh nhà xa trƣờng, lại nghèo, nên phê cho
hạng ƣu đặng có thêm tiền ăn học”.
Sau này các con của thầy Trần Đình Phong nhƣ Trần Đình Diệm, Trần
Đình Phiên và Trần Đình Nam… cũng luôn sát cánh cùng Huỳnh Thúc Kháng
trong sự nghiệp cách mạng. Trần Đình Diệm (con thứ ba) là Đại biểu của Viện
Dân biểu Trung kỳ mà Huỳnh Thúc Kháng là Viện trƣởng đã từ chức để ủng hộ
việc Huỳnh Thúc Kháng từ chức Viện trƣởng nhằm phản đối thái độ trịch
thƣợng, thực dân của Khâm sứ D’Elloy. Trần Đình Phiên (con thứ 5) là ngƣời
đã nối thông tin giữa hai tù nhân Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng ở Côn
Đảo với quê nhà Tiên Phƣớc và cũng là ngƣời quản lý báo Tiếng Dân mà
Huỳnh Thúc Kháng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút suốt 16 năm. Trần Đình Nam
(con thứ 9) là cộng tác viên thƣờng xuyên cho tờ Tiếng Dân, nhất là ở mục phổ
biến kiến thức y học hiện đại.
Đốc học Trần Đình Phong
Trần Đình Phong hiệu là Mã Sơn, sinh năm 1843 tại thôn Yên Mã, xã
Thanh Khê, tổng Thái Trạch, huyện Yên Thành, phủ Diễn Châu, nay là xã Mã
Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Năm 1868 ông thi đỗ tú tài nhƣng mãi đến năm 1876 mới đỗ cử nhân và
1879 đỗ tiến sĩ. Ông từng trải qua các chức vụ Hàn Lâm Sơ Phụ (phụ trách biên
tu lịch lý các quan - năm 1879), tri phủ Kiến An, kiêm lý huyện Bình Giang,
Hải Dƣơng (1881 – 1885), Đốc học Quảng Nam (1893 – 1905), Tế tửu Quốc tử
giám (1905 – 1908), Biên tu Quốc sử quán (1909 - 1919). Ông mất khi đang tại
chức ở Huế vào năm 1920, thọ 73 tuổi.
Bên cạnh việc dạy học, Trần Đình Phong còn chú tâm biên soạn sách với
mong muốn để lại tài liệu cho các nhà nghiên cứu sử sau này và giáo dục truyền
thống cho đời sau. Ông là tác giả của Quốc triều chánh biên toát yếu, Trần tộc
thế phả (gia phả của tộc Trần), Quỳ Trạch Đăng khoa lục. Đây là cuốn sách ghi
chép những ngƣời thi đỗ từ bậc hiếu sinh trở lên, phần viết kỹ nhất là những
ngƣời đỗ thi hƣơng, thi hội và thi đình (tức trung khoa và đại khoa). Đó là một
công trình khảo cứu biên soạn công phu.
Cuốn “Thanh Khê xã chí” là cuốn địa chí viết về quê hƣơng ông, từ địa
lý, đặc điểm núi sông, đến lịch sử, đồng điền, con ngƣời, phong tục, tập quán
của ngƣời dân.
Đối với đất Quảng, nơi ông làm Đốc học suốt 12 năm từ 1893 đến 1905,
ông đã rất thành công không những trên cƣơng vị một ngƣời quản lý giáo dục,
một nhà sƣ phạm mẫu mực tài năng đã đào tạo nhiều học trò thành danh trên
đƣờng khoa cử và cả trên sứ mạng lịch sử của một nho sĩ. Thời ông làm Đốc
học, Quảng Nam có 5/15 tiến sĩ (33%), 7/24 phó bảng (29,2%) và 42/254 cử
nhân (16,5%) với nhiều thành tích nổi tiếng nhƣ khoa thi Ngũ phụng tề phi
(khoa thi năm 1898 với 3 tiến sĩ và 2 phó bảng), khoa thi Hƣơng năm Canh Tý,
1900 (Quảng Nam có 14/42 ngƣời đỗ và chiếm 4 vị trí đầu bảng), khoa thi Hội
năm 1901 với danh hiệu tứ tuyệt (có 4 phó bảng), khoa thi Hội năm 1904 với
hai ngƣời đỗ đầu (Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp). Không những thế, nhiều
học trò của ông đã dấn thân vì nƣớc trở thành những nhà cách mạng nổi tiếng
nhƣ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Lê Bá Trinh, Phan
Thúc Duyện… Phan Châu Trinh với chủ trƣơng “Khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh”, đƣợc xem là ngƣời có tƣ tƣởng dân chủ sớm nhất trong số các
nhà nho yêu nƣớc tiến bộ đầu thế kỷ, là “khuôn mặt đáng chú ý nhất trong lịch
sử văn hóa và chính trị Việt Nam ở thế kỷ 20” (Sử gia Pháp, Daniel Hémely).
Huỳnh Thúc Kháng là nhà cách mạng, sáng lập tờ báo Tiếng Dân và làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút của tờ báo này để đấu tranh công khai với thực dân Pháp.
Trần Quý Cáp đi vào lịch sử dân tộc với bản án “Mạc tu hữu” để đời, Phan
Thúc Duyện nhà Duy tân thực hành số một…
Bài Quảng Nam tỉnh phú của ông viết về địa lý tỉnh Quảng Nam, gồm số
phủ, huyện, núi sông, nhân vật, thổ sản... với 199 câu và 1.904 chữ, là một bài
phú hay về mặt văn chƣơng và là tƣ liệu quý để tìm hiểu về một vùng đất đặc
biệt. Trong Quảng Nam tỉnh phú, ông đã hết lời ngợi khen xứ Quảng: “Trải xem
non cao thủy thanh, thấy rõ hàng châu danh thắng. Mới biết địa linh nhân kiệt
nảy sinh anh tuấn khác thƣờng. Nam cung ứng tuyển, nhạn tháp đề danh”.
Không chỉ các học trò mà ngƣời Quảng luôn biết ơn tài năng và nhất là
tấm lòng của một ông đồ xứ Nghệ đã dành cho quê hƣơng họ!
LÊ THÍ
LÊ THÍ.Vị ân sƣ của Huỳnh Thúc Kháng/Lê Thí//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 5-6 tháng 5.-Tr.2.
Dã Hàng Trần Quý Cáp
Năm 1908 khi đang còn bị giam cầm ở nhà tù Côn Đảo, Phan Châu Trinh
nghe tin người bạn cùng chí hướng bị thực dân Pháp và Nam triều sát hại
đã làm bài thơ khóc bạn: “Anh biết cho chăng hỡi Dã Hàng? Thình lình
sóng dậy cửa Nha Trang. Lời nguyền trời đất còn ghi tạc. Giọt máu non
sông đã chảy tràn. Tinh Vệ nghìn năm hồn khó dứt? Đỗ Quyên muôn kiếp
oán chưa tan”. Người bạn đó là chí sĩ Trần Quý Cáp, Dã Hàng là tên tự.
Đền thờ Trần Quý Cáp tại Nha Trang – nơi ông tuẫn nạn. Ảnh: T.L
Huỳnh Thúc Kháng trong “Thai Xuyên Trần Quý Cáp tiên sinh tiểu
truyện” cho biết: “Tiên sinh tính Trần, sơ danh Nghị kế danh Quý Cáp, tự Dã
Hàng, hựu tự Thích Phu. Quảng Nam, Điện Bàn nhân, Bất Nhị xã, Thai La kỳ
thôn dã, nhân hiệu Thai Xuyên”.
Về tên tự Dã Hàng
Trần Huỳnh Sách trong “Tiểu sử tiên sinh Trần Quý Cáp” nói rõ hơn:
“Tiên sinh lúc thiếu thời tên là Trần Nghị, năm niên hiệu Thành Thái Ất mùi
(1895) cụ Đốc học Trần Đình Phong bổ tiên sinh vào Tỉnh học sanh mới đổi tên
Trần Quý Cáp, tự Dã Hàng hiệu Thai Xuyên, biệt hiệu Thích Phu”.
Tên thiếu thời của ông cho ta liên tƣởng đến tên Giả Nghị (200 TCN - 168
TCN) đời Hán, ngƣời Lạc Dƣơng, do giữ chức Thái phó cho Trƣờng Sa Vƣơng
nên còn gọi là Giả Thái phó, nổi danh là tƣ tƣởng gia, văn học gia đời Hán, tác
giả bài “Quá Tần luận” danh tiếng. Sau này Trần Quý Cáp cũng có bài “Sĩ phu
tự trị luận” lừng lẫy đƣơng thời.
Thân phụ Trần Quý Cáp tên là Nhƣợng. Ông Nhƣợng ban đầu cƣới vợ ở
xã Đông Bàn, sinh hai trai. Về sau cƣới bà họ Phan ở Phong Thử, sinh ra ông và
một ngƣời con gái. Vì là con trai thứ ba nên ông có chữ lót là Quý, theo thông
lệ, con đầu lót chữ Mạnh, con giữa lót chữ Trọng, con út lót chữ Quý.
Chữ Cáp có nơi ghi là 合, chữ này còn đọc là hợp hay hiệp là hội hợp lại,
(ăn) khớp nhau. Nhƣng Song nguyên Huỳnh Thúc Kháng ghi là 恰 thì phải
chính xác hơn. Chữ Cáp 恰 còn đọc là kháp nghĩa là vừa vặn, đúng mực, thỏa
đáng. Chính vì chữ Cáp này mà ông mới lấy tự là Dã Hàng 野航, lấy điển từ
câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Nam lân (Láng giềng). Tên và tự của ông nằm
trong câu thơ thứ sáu của bài Nam lân: “Dã hàng cáp thụ lƣỡng tam nhân”. Nam
lân nói về một ngƣời láng giềng ở xóm bên nam, trên bờ Cẩm Giang không xa
nhà tác giả, ngƣời đó vấn khăn ô giác cân tiêu biểu cho một ẩn sĩ, cuộc sống
thanh bạch nhƣng phong phú về tinh thần, hòa hợp với thiên nhiên, giao du
rộng. Bài thơ phù hợp với lối sống của Trần Quý Cáp khiến ông ƣa thích nên từ
đó đặt tự cho mình. Dã hàng là chiếc thuyền con ở nông thôn, thuận tiện cho
việc đi lại trên sông nhƣng hẹp chỉ vừa đủ chở hai ba ngƣời.
Chữ dã hàng đã gây nhiều tranh cãi, dẫn đầu là Hoàng Đình Kiên. Hoàng
Đình Kiên (1045 - 1105), tự Lỗ Trực, biệt hiệu Sơn Cốc đạo nhân, Phù ông,
ngƣời Phân Ninh, Hồng Châu (thuộc Giang Tây ngày nay). Ông là nhà thơ trứ
danh đời Bắc Tống, học trò của Tô Thức, ngƣời đời thƣờng gọi chung là Tô -
Hoàng. Hoàng Đình Kiên cũng là một trong những ngƣời viết chữ đẹp thời Bắc
Tống. Theo Hoàng Đình Kiên, hàng là tàu lớn, đĩnh mới là thuyền con nên
không thể nói dã hàng mà phải nói dã đĩnh, nghi là chép sai thơ của Đỗ Phủ.
Nhƣng đĩnh âm trắc nên đứng trong câu thứ sáu sẽ không đúng luật, nhiều
ngƣời đã bác bỏ ý của Hoàng Đình Kiên vẫn cho là Đỗ Phủ đã viết là dã hàng
và dã hàng phải là thuyền con nên chỉ đủ chỗ cho hai ba ngƣời ngồi; trong số
này có Trần Quý Cáp tuy không tham gia vào cuộc tranh cãi nhƣng mặc nhiên
đã bác ý kiến của Hoàng Đình Kiên vì đã lấy tự là Dã Hàng.
Trần Quý Cáp còn có một tự nữa là Thích Phu 適夫, chữ thích lại càng
làm rõ hơn nghĩa chữ Cáp, và một lần nữa nhấn mạnh chữ Cáp phải viết là 恰
mới đúng, vì Cáp và Thích đều có nghĩa nhƣ nhau. Thích: Vừa, vừa vặn, đúng
lúc. Tô Thức: Thích hữu cô hạc, hoành giang đông lai (Vừa lúc có một con hạc
lẻ bay ngang sông từ hƣớng đông lại - Hậu Xích Bích phú). Cáp/kháp: Vừa vặn,
vừa đúng. Nguyễn Trãi: Nhất biệt gia sơn cáp thập niên (Từ giã quê hƣơng vừa
đúng mƣời năm - Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác, theo Hán Việt tự điển trích
dẫn).
Và định mệnh cuộc đời
Tên và tự của Trần Quý Cáp tuy mới đổi sau nhƣng dƣờng nhƣ đã thể
hiện định mệnh của ông, mọi việc diễn ra trong cuộc đời ông đều vừa vặn, đúng
lúc, trùng khớp với yêu cầu của bản thân và lịch sử dân tộc. Điều đó đã thể hiện
rất rõ: Thuở nhỏ Trần Quý Cáp nhà nghèo không có sách để học thì lại gặp nhà
cụ Phụ đạo Nguyễn Thành Ý có nhiều sách ở gần và sẵn lòng cho ông mƣợn,
nhờ thế mà ông học giỏi. Khi ông đến học với cụ cử Lê Cung ở Nông Sơn lại
khớp với lúc Trần Đình Phong, một ông đồ Nghệ giàu lòng yêu nƣớc, có tài
năng và đạo đức làm Đốc học Quảng Nam. Trần Đình Phong đã lặn lội đến các
vùng lân cận tuyển chọn những học sinh xuất sắc đem về đào tạo nhờ thế mà
Trần Quý Cáp mới trở thành một trong 6 Nho sinh ƣu tú. Tại trƣờng Đốc Thanh
Chiêm ông lại gặp Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng để rồi sau này tham
gia phong trào Duy tân do Phan Châu Trinh khởi xƣớng và trở thành một trong
ba nhà lãnh đạo lỗi lạc của phong trào.
Năm 1906 ông đƣợc bổ Giáo thọ Thăng Bình đúng vào lúc phong trào
Duy tân đang hoạt động mạnh mẽ. Ở cƣơng vị Giáo thọ, Trần Quý Cáp đã có cơ
hội làm một cuộc cách mạng giáo dục, hợp pháp hóa chủ trƣơng dạy chữ quốc
ngữ, truyền bá tân học để khai dân trí. Ông đã biến ngôi trƣờng của chính quyền
theo lối học khoa cử cũ thành ngôi trƣờng lớn của Duy tân theo lối học mới, tiến
bộ. Ông còn tổ chức những buổi diễn thuyết cổ động cho tân học gây xúc động
mạnh mẽ trong hàng ngũ thân hào nhân sĩ khiến họ tự nguyện góp công, góp
của dựng lên những ngôi trƣờng Duy tân trong các xóm làng, mời thầy về dạy
chữ quốc ngữ, chữ tây.
Những việc làm của ông Giáo thọ Thăng Bình đƣợc quần chúng nhiệt liệt
hƣởng ứng, gây tiếng vang lớn khiến giới cựu học gai mắt, nhà cầm quyền xem
nhƣ kẻ thù, do đó năm 1907 mới đổi ông vào làm Giáo thọ Ninh Hòa (Khánh
Hòa) với mục đích tách ông ra khỏi phong trào cách mạng đang sôi sục ở Quảng
Nam.
Trong lúc thực dân Pháp đang tìm cách ám sát Trần Quý Cáp vì lo sợ ảnh
hƣởng của ông đối với quần chúng, thì phong trào kháng thuế nổ ra khiến chúng
có cớ bắt giam ông rồi tử hình dù không có bằng chứng.
Bấy giờ ông nhƣ một chiếc thuyền nhỏ lao vào phong ba bão táp mong
chống chọi với thế lực hùng hậu của thực dân phong kiến. Chiếc thuyền nhỏ đã
bị sóng gió bạo quyền nhấn chìm nhƣng tên tuổi của ông đã đi vào lịch sử, tấm
gƣơng yêu nƣớc của ông càng tỏa sáng và tinh thần sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc
của Dã Hàng Trần Quý Cáp vẫn sống mãi trong lòng của dân tộc: “Thà chết!
chết trong hơn sống đục. Ai mà sợ chết! chết nhƣ chơi” - Trần Quý Cáp.
NGUYỄN THIẾU DŨNG
NGUYỄN THIẾU DŨNG.Dã Hàng Trần Quý Cáp/Nguyễn Thiếu
Dũng//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 12-13 tháng 5.-Tr.2.
50 năm Chiến thắng Khâm Đức – Ngok Tavak
Ngày 12-5-2018 đánh dấu mốc son kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Khâm Đức
– Ngok Tavak (12-5-1968 – 12-5-2018). Đây là trận chiến thắng làm nức
lòng CBCS và người dân địa phương, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh
quân dân tỉnh Quảng Nam và Quân khu V quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược, góp phần vào đại thắng mùa Xuân 1975.
Đại tá Trần Như Tiếp – nguyên Trưởng Ban tác chiến Sư đoàn 2, Quân
khu V kể lại trận đánh.
Chiến thắng lịch sử Trò chuyện với chúng tôi về thời điểm hào hùng năm xƣa, Đại tá Trần
Nhƣ Tiếp – nguyên Trƣởng Ban tác chiến Sƣ đoàn 2, Quân khu V bồi hồi nhớ
lại: Xác định Khâm Đức là địa bàn trọng yếu về quân sự nên Ngô Đình Diệm đã
cho thành lập quận Phƣớc Sơn. Năm 1960, chúng cho mở đƣờng 14, 16 để phục
vụ chiến tranh. Năm 1961, xây dựng sân bay quân sự Khâm Đức để ứng cứu
các cứ điểm trong vùng, Tây Nguyên và Hạ Lào. Năm 1963, Mỹ tiếp tục thành
lập Trại Lực lƣợng đặc biệt Khâm Đức (Trung tâm huấn luyện biệt kích toàn
miền Nam). Năm 1965, Mỹ áp dụng chiến lƣợc chiến tranh cục bộ, đẩy mạnh kế
hoạch tìm và diệt, tiếp tục thành lập Chi khu quân sự Khâm Đức, biến nơi đây
thành Cụm cứ điểm quân sự liên hoàn vững chắc, có sân bay, trung tâm huấn
luyện biệt kích và chi khu quận lỵ. Từ đây, địch thƣờng xuyên đánh phá vùng
giải phóng, sát hại đồng bào và cung cấp thông tin tình báo để máy bay, pháo
binh địch ném bom, bắn phá hành lang chiến lƣợc, cắt đứt sự chi viện của ta ra
chiến trƣờng miền Bắc.
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Khu ủy Khu
V và BTL Quân khu 5 tiếp tục triển khai kế hoạch X1 của Bộ Chính trị. Đầu
tháng 3-1968, BTL Quân khu 5 giao cho sƣ đoàn Bộ binh 2 phối hợp với các
lực lƣợng H. Phƣớc Sơn tiêu diệt căn cứ quân sự Khâm Đức, giải phóng H.
Phƣớc Sơn nhằm khai thông hành lang chiến lƣợc và mở rộng vùng hậu cứ cách
mạng. Để thực hiện chiến dịch, Tƣ lệnh Quân khu đồng ý cho Sƣ đoàn 2 tổ
chức khu chiến tại Núi Ngang (H. Tiên Phƣớc) nhằm tiêu hao sinh lực và
phƣơng tiện chiến tranh của địch; căng kéo, giam chân Sƣ đoàn Americal không
cho chúng tiếp viện lên chiến trƣờng Khâm Đức. Nhằm thu hút Sƣ đoàn
Americal theo “kịch bản” của ta, ngày 5-5, tiếng súng Núi Ngang của Trung
đoàn 31 khai hỏa, đồng thời đêm 9 rạng sáng ngày 10-5, các hƣớng, các mũi của
Trung đoàn 1 đã tấn công cứ điểm Ngok Tavak. Qua hơn một ngày đêm chiến
đấu ngoan cƣờng, đến 15 giờ ngày 10-5, quân ta làm chủ hoàn toàn Ngok
Tavak, đánh tan rã hai đại đội biệt kích Lôi Hổ và 1 trung đội pháo binh Mỹ,
tiêu diệt và làm bị thƣơng gần 200 tên, bắn rơi 2 máy bay, thu 2 đại bác 105 ly
và nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.
Sáng 10-5, quân Mỹ vẫn tăng viện Tiểu đoàn 2 - Lữ đoàn 196 lên Khâm
Đức, nhƣng quân địch không dám đánh chiếm lại Ngok Tavak, chứng tỏ đang
dao động mạnh và lực lƣợng phòng ngự suy yếu hoàn toàn, thế chủ động trên
chiến trƣờng thuộc về ta. Tƣ lệnh Sƣ đoàn chỉ thị thừa thắng xông lên, đẩy
nhanh tốc độ tiến công tiêu diệt địch trên toàn chiến trƣờng. Sáng 11-5, quân ta
cơ động tiến công tiêu diệt các điểm ngoại vi và uy hiếp khu trung tâm; lực
lƣợng vũ trang huyện và du kích các xã tiếp tục bám sát chiến trƣờng phục vụ
chiến đấu, triển khai chốt chặn đánh tàn quân tháo chạy, bắt và áp giải tù binh,
chuyển thƣơng binh, tử sĩ về tuyến sau. Đêm 11 rạng sáng 12-5, Tiểu đoàn Đặc
công, Trung đoàn 1, Trung đoàn 21 Sƣ đoàn 2 cùng bộ đội huyện tiến công tiêu
diệt các cứ điểm ngoại vi D, E, H, I, K. nã pháo dữ dội vào sân bay Khâm Đức.
6 giờ ngày 12-5-1968, cả bầu trời và thung lũng Khâm Đức bị quân ta khóa
chặt, quân địch không còn lối thoát. Tƣớng Westmoreland lệnh cho Bộ Chỉ huy
tác chiến Sƣ đoàn Americal rút lui toàn bộ lực lƣợng Mỹ-ngụy ra khỏi Khâm
Đức, nhƣng tất cả đã muộn, buộc Mỹ phải cho máy bay oanh tạc sát khu trung
tâm và mở đƣờng máu thoát thân. Đến trƣa 12-5-1968, quân và dân ta đã làm
chủ hoàn toàn chiến trƣờng Khâm Đức – Ngok Tavak, đánh tan rã một tiểu
đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ, 7 đại đội biệt kích Lôi Hổ, tiêu diệt hơn 700 tên
địch, làm bị thƣơng hàng trăm tên, bắt sống 104 tên (trong đó có 1 cố vấn Mỹ)
làm tù binh; bắn rơi 2 máy bay CH47, 2 máy bay C-130, 9 máy bay trực thăng
và thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.
“Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak đƣợc đánh giá là chiến thắng lớn
nhất trên chiến trƣờng miền núi Quảng Nam lúc bấy giờ, giáng một đòn mạnh
mẽ vào ý chí xâm lƣợc của Mỹ, giải phóng Khâm Đức - Phƣớc Sơn mở rộng
vùng hậu cứ, làm cho Mỹ, ngụy mất bàn đạp tấn công Tây Nguyên và hạ Lào.
Chiến thắng Khâm Đức còn khai thông hành lang chiến lƣợc huyết mạch -
đƣờng mòn Hồ Chí Minh đảm bảo cho việc ta vận tải vũ khí, hàng hóa và lực
lƣợng từ hậu phƣơng miền Bắc vào chiến trƣờng miền Nam, mở rộng tuyến vận
tải đƣờng ngang nối Khâm Đức - Làng Hồi, xuống Hiệp Đức và vùng đồng
bằng tỉnh Quảng Nam - Quảng Đà”- Đại tá Tiếp nhận định.
Một góc TT Khâm Đức ngày nay.
Quê hương đổi mới Là ngƣời gắn bó với Phƣớc Sơn ngay sau ngày giải phóng, ông Hồ Văn
Điều - nguyên Bí thƣ huyện ủy Phƣớc Sơn, nguyên Trƣởng ban Dân tộc - miền
núi Quảng Nam- Đà Nẵng nhớ lại: Sau ngày thống nhất đất nƣớc, đời sống của
nhân dân H. Phƣớc Sơn hết sức khó khăn, cuộc sống du canh – du cƣ, ốm đau,
bệnh tật luôn đe dọa; hàng trăm tấn bom mìn nằm rải rác khắp núi rừng, hàng
ngàn héc-ta nƣơng rẫy bị nhiễm chất độc hóa học; cơ sở vật chất kỹ thuật hầu
nhƣ không có gì. Trƣớc tình hình khó khăn này, Đảng bộ huyện đã tập trung
lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, triển khai chiến dịch rà phá bom mìn,
khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích canh tác, tăng gia sản xuất; đẩy mạnh
cuộc vận động định canh – định cƣ, đƣa đồng bào xuống định cƣ ở vùng thấp
hơn nhƣ Nƣớc Non, Nƣớc Xa, Khâm Đức, Làng Hồi,... để ổn định đời sống.
Đánh giá về những thành tựu đã đạt đƣợc, ông Phạm Thế Quyền - Bí thƣ H.
Phƣớc Sơn cho biết: Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhƣng với tinh
thần quyết tâm đổi mới, trƣớc hết là đổi mới tƣ duy, Đảng bộ H. Phƣớc Sơn đã
vận dụng sáng tạo đƣờng lối của Đảng vào hoàn cảnh cụ thể của huyện; vừa
phát huy nội lực của địa phƣơng, vừa tranh thủ sự đầu tƣ của T.Ƣ, của tỉnh, sự
chung sức, đồng lòng của các tầng lớp nhân dân; sau 32 năm thực hiện công
cuộc đổi mới đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Từ
một huyện nghèo, thuần nông, kinh tế tự cung, tự cấp, thu ngân sách trên địa
bàn thấp, hoàn toàn lệ thuộc vào trợ cấp kinh phí từ cấp trên, đến nay, kinh tế
huyện đã có bƣớc phát triển vƣợt bậc, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hƣớng
tích cực, tỷ trọng các ngành công nghiệp, thƣơng mại – dịch vụ tăng.
Năm 2017, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 70,6%, thƣơng mại –
dịch vụ chiếm 23,5%, nông – lâm nghiệp chiếm 5,9% trong tổng sản phẩm; thu
ngân sách do kinh tế phát sinh trên địa bàn huyện đạt hơn 450 tỷ đồng. Các
chính sách an sinh xã hội, nhất là công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo các gia
đình chính sách, các đối tƣợng bảo trợ xã hội đƣợc các cấp, ngành, xã hội quan
tâm thực hiện tốt; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đƣợc cải thiện và
nâng lên rõ rệt. Công tác giảm nghèo đƣợc triển khai quyết liệt và đạt đƣợc
những kết quả tích cực; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân trên 5%/năm, đến nay
còn 38,26%. Công tác QP-AN luôn đƣợc tăng cƣờng, an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội đƣợc giữ vững...
Với những thành tựu to lớn trong 43 năm xây dựng và phát triển, H.
Phƣớc Sơn và một số ngành, xã đã đƣợc Chủ tịch nƣớc tặng thƣởng 15 Huân
chƣơng Lao động cùng nhiều Bằng khen của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ,
các bộ, ngành T.Ƣ và tỉnh Quảng Nam...
Trần Tân - Trọng Ý
TRẦN TÂN-TRỌNG Ý.50 năm Chiến thắng Khâm Đức – Ngok Tavak/Trần
Tân-Trọng Ý//Công An Đà Nẵng.-2018.-Ngaỳ 11 tháng 5.-Tr.13.
Từ Khâm Đức - Ngok Tavak… đến đô thị miền Tây
xứ Quảng Những ngày tháng 5 này, trên khắp các cung đường ở huyện Phước Sơn,
tỉnh Quảng Nam cờ hoa rực rỡ. 50 năm trước, chiến thắng Khâm Đức -
Ngok Tavak (12.5.1968 - 12.5.2018) đã mở ra bước ngoặt lịch sử trên chiến
trường Quảng - Đà, tạo thế và lực mới đưa cách mạng Khu V và cả nước đi
đến thắng lợi mùa xuân 1975. Bước ra từ đổ nát chiến tranh, với tinh thần
quyết tâm cao độ, sự hiệp lực, đoàn kết của Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân các dân tộc trong huyện, Phước Sơn hôm nay đã thay đổi đến ngỡ
ngàng. Dáng dấp của một đô thị mới đang hình thành nơi vùng cao xứ
Quảng.
Mốc son Khâm Đức - Ngok Tavak Đã 50 năm kể từ mốc son chói lọi chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak
nhƣng trong câu chuyện của Thiếu tƣớng Trần Ngọc Yến, nguyên Phó Tƣ lệnh
Quân khu V, chúng tôi vẫn cảm nhận rõ không khí những ngày khói lửa, sục
sôi, đầy hào hùng của quân và dân Phƣớc Sơn, nơi đƣợc coi là địa bàn trọng yếu
về quân sự của vùng Quảng - Đà. Ông cho biết, sau cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Tết Mậu Thân năm 1968, Sƣ đoàn Bộ binh 2 của ông đƣợc Bộ Tƣ lệnh
Quân khu V giao nhiệm vụ hành quân “ngƣợc” về phía Tây huyện Phƣớc Sơn
và H40 để học tập, huấn luyện, đồng thời nhận bổ sung quân số, vũ khí, trang bị
cho những trận chiến đấu mới.
Thời điểm này, địch nhận rõ xu thế phát triển tiến công của ta nên ra sức
ngăn chặn hòng cắt đứt tuyến vận tải huyết mạch - Đƣờng mòn Hồ Chí Minh
qua địa bàn huyện. Giữa tháng 2.1968, địch điều 2 đại đội biệt kích thuộc Lực
lƣợng đặc biệt Việt Nam cộng hòa và 1 trung đội pháo binh Thủy quân lục
chiến Mỹ trang bị nhiều vũ khí hiện đại đổ xuống Ngok Tavak để hình thành
chốt điểm tiền tiêu, ngăn chặn quân ta từ hƣớng Tây Nam vào Căn cứ Khâm
Đức. Đồng thời, điều chỉnh các Lữ đoàn 196 và 198 thuộc Sƣ đoàn American về
đóng ở khu vực Núi Ngang, Tiên Phƣớc để sẵn sàng đối phó khi ta tấn công.
Lãnh đạo tỉnh Quảng Nam, huyện Phước Sơn và các đại biểu dự
Lễ Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak và 70
năm ngày thành lập huyện
Ảnh: Mạnh Tuân
Nhận diện rõ âm mƣu của địch, đầu tháng 3.1968, Bộ Tƣ lệnh Quân khu
V giao cho Sƣ đoàn Bộ binh 2 phối hợp với các lực lƣợng huyện Phƣớc Sơn
tiêu diệt căn cứ quân sự Khâm Đức, giải phóng Phƣớc Sơn. Đồng thời, tổ chức
khu chiến tại Núi Ngang (Tiên Phƣớc) nhằm tiêu hao sinh lực và phƣơng tiện
chiến tranh của địch; không để Sƣ đoàn American tiếp viện chiến trƣờng Khâm
Đức. Ngày 5.5, Trung đoàn 31 khai hỏa tại Núi Ngang. Đêm ngày 9 rạng sáng
ngày 10.5, Trung đoàn 1 đã tấn công cứ điểm Ngok Tavak từ nhiều hƣớng. Qua
một ngày đêm chiến đấu ngoan cƣờng, đến 15 giờ ngày 10.5, quân ta làm chủ
hoàn toàn Ngok Tavak, đánh tan rã hai đại đội biệt kích Lôi Hổ và 1 trung đội
pháo binh Mỹ, tiêu diệt và làm bị thƣơng gần 200 tên địch, bắn rơi 2 máy bay,
thu 2 đại bác 105 ly và nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.
Không chấp nhận cục diện, Mỹ điều Tiểu đoàn 2 - Lữ đoàn 196 lên Khâm Đức
nhƣng chƣa dám chiếm lại Ngok Tavak. Đến đêm ngày 11 rạng sáng ngày 12.5,
các lực lƣợng của ta lần lƣợt tiêu diệt các cứ điểm ngoại vi Căn cứ Khâm Đức.
Đồng thời, tiếp tục siết chặt vòng vây đánh áp đảo vào khu trung tâm. Trƣa
ngày 12.5, quân và dân ta làm chủ hoàn toàn Khâm Đức.
Kể đến đây, giọng của Thiếu tƣớng Trần Ngọc Yến rƣng rƣng: “Chiến
thắng Khâm Đức - Ngok Tavak - chiến thắng lớn nhất trên chiến trƣờng miền
núi Quảng Nam lúc bấy giờ, đã giáng một đòn mạnh mẽ vào ý chí xâm lƣợc của
Mỹ; làm cho Mỹ, ngụy mất bàn đạp tấn công Tây Nguyên và Hạ Lào. Qua đó,
giúp ta khai thông hành lang chiến lƣợc - Đƣờng mòn Hồ Chí Minh; mở rộng
tuyến vận tải đƣờng ngang nối Khâm Đức - Làng Hồi, xuống Hiệp Đức và vùng
đồng bằng của tỉnh. Sau chiến thắng trên, quân và dân Phƣớc Sơn tiếp tục đóng
góp sức ngƣời, sức của cho kháng chiến, góp phần cùng toàn tỉnh và cả nƣớc
làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nƣớc.
Tầm nhìn tương lai Trở lại Phƣớc Sơn đúng vào dịp Đảng bộ, chính quyền, quân và dân
huyện Phƣớc Sơn long trọng kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng, 70 năm thành
lập huyên (12.10.1948 - 12.10.2018), Thiếu tƣớng Trần Ngọc Yến cùng nhiều
Cựu Chiến binh Sƣ đoàn Bộ binh 2 (Quân khu V) không giấu đƣợc sự vui mừng
trƣớc những thành tựu vƣợt bậc về KT - XH của vùng đất đã từng bị cày nát bởi
bom, đạn của quân thù.
Nhƣ chia sẻ của Bí thƣ Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Phƣớc Sơn
Phạm Thế Quyền thì có đƣợc diện mạo đổi mới ngày hôm nay, là nhờ sự nỗ lực
không mệt mỏi của toàn Đảng bộ huyện và các thế hệ cán bộ, đảng viên đã và
đang công tác qua các thời kỳ; sự kết tinh từ truyền thống anh hùng cách mạng,
tinh thần đoàn kết của nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện; sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời của Tỉnh ủy, UBND tỉnh.
Bƣớc ra từ cuộc chiến, Phƣớc Sơn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn:
Ngƣời dân sống du canh - du cƣ, ốm đau, bệnh tật luôn đe dọa; trên địa bàn
huyện hàng trăm tấn bom mìn nằm rải rác, hàng nghìn hecta nƣơng rẫy bị nhiễm
chất độc hóa học; cơ sở vật chất, kỹ thuật hầu nhƣ không có gì. Trƣớc tình hình
trên, Đảng bộ huyện đã tập trung lãnh đạo khắc phục hậu quả chiến tranh, mở
rộng diện tích canh tác; đẩy mạnh cuộc vận động định canh - định cƣ, đƣa đồng
bào xuống định cƣ ở vùng thấp để ổn định đời sống. Song song đó, từng bƣớc
tập trung đầu tƣ hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH và
sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh của ngƣời dân. Đến nay, cơ cấu kinh tế của
huyện đã chuyển dịch theo hƣớng tích cực, tỷ trọng các ngành công nghiệp,
thƣơng mại - dịch vụ tăng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đƣợc cải
thiện; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân trên 5%/năm, đến nay còn 38,26%. Công
tác QP - AN luôn đƣợc tăng cƣờng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đƣợc
giữ vững...
Với tầm nhìn xa, từ năm 1999, thị trấn Khâm Đức đã đƣợc đƣa vào diện
quy hoạch phát triển thành một thị xã vùng Tây của tỉnh Quảng Nam. Dù còn
nhiều khó khăn nhƣng Phƣớc Sơn vẫn đang kiên định với mục tiêu đã đề ra.
UBND tỉnh Quảng Nam cũng đã xây dựng chủ trƣơng từng bƣớc đƣa Khâm
Đức trở thành thị xã. Trong đó, giai đoạn 2016 - 2020 chủ trƣơng phát triển
Khâm Đức đạt mục tiêu đô thị loại 4. Theo Chủ tịch UBND huyện Phƣớc Sơn
Nguyễn Mạnh Hà, huyện cũng đã có đề án phát triển cụ thể từng giai đoạn,
phấn đấu đến năm 2020, đƣa Khâm Đức tiếp cận đƣợc với đô thị loại 4. “Khâm
Đức trở thành thị xã sẽ thu hút đƣợc các doanh nghiệp, nhà đầu tƣ, từ đó mở ra
nhiều hƣớng đi mới cho ngƣời dân. Phƣớc Sơn xác định phát triển cây nguyên
liệu, cây dƣợc liệu và rừng là hƣớng đi chính. Đây là thế mạnh mà ngƣời dân có
thể tận dụng để phát triển kinh tế. Hiện nay, huyện đang nghiên cứu để giao
200ha tại các xã Phƣớc Trà, Phƣớc Đức để doanh nghiệp trồng thử nghiệm cánh
rừng gỗ lớn, qua đó tạo cho ngƣời dân có công việc ổn định và tăng thu nhập”,
Chủ tịch UBND huyện Nguyễn Mạnh Hà chia sẻ.
MẠNH TUÂN
MẠNH TUÂN.Từ Khâm Đức - Ngok Tavak… đến đô thị miền Tây xứ
Quảng/Mạnh Tuân//Đại Biểu Nhân Dân.-2018.-Ngày 14 tháng 5.-Tr.4.
Thắm tình hữu nghị - Bài 1: Tấm lòng vùng biên
Quảng Nam - Sê Kông (Lào), và các huyện trực thuộc Nam Giang - Đắc
Chưng và Tây Giang - Kà Lừm, nhiều năm qua đã có những hoạt động
thiết thực trong quan hệ hợp tác hữu nghị, đoàn kết đặc biệt, cùng giúp
nhau phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh khu vực
biên giới. Tình cảm thiêng liêng giữa hai địa phương, hai dân tộc luôn được
tăng cường, vun đắp.
Đại diện thôn, bản hai bên biên giới trao bản ký kết thỏa thuận hợp tác.
Ảnh: ALĂNG NGƢỚC
BÀI 1: TẤM LÒNG VÙNG BIÊN
Những năm qua, nhiều công trình ý nghĩa đã được chính quyền và nhân
dân các huyện miền núi Nam Giang, Tây Giang triển khai nhằm chia sẻ với
những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào giáp biên tại các cụm bản của
các huyện Đắc Chưng, Kà Lừm tỉnh Sê Kông (Lào).
“Món quà” từ Nam Giang
Một chiều tháng 4, mặc cho tiết trời mƣa phùn và gió rét, hàng chục cán
bộ, ngƣời dân và học sinh Trƣờng Cấp 2 - 3 huyện Đắc Chƣng vẫn háo hức có
mặt tại khuôn viên của trƣờng để chứng kiến lễ khởi công xây dựng công trình
nhà ở nội trú học sinh địa phƣơng. Công trình do huyện Nam Giang hỗ trợ, nhƣ
một “món quà” đặc biệt, nhằm giúp học sinh các bộ tộc Lào ở Đắc Chƣng có
thêm điều kiện sinh hoạt, phục vụ công việc học tập.
Đại diện lãnh đạo huyện Nam Giang và Đắc Chƣng động thổ công trình
nhà ở nội trú Trƣờng Cấp 2 - 3 Đắc Chƣng. Ảnh: ALĂNG NGƢỚC
Ông Alăng Mai - Chủ tịch UBND huyện Nam Giang cho hay, xuất phát
từ nhu cầu thực tiễn về khó khăn trong sinh hoạt, ăn ở và học tập của học sinh ở
huyện Đắc Chƣng, cũng nhƣ đề xuất từ phía bạn trong các dịp hội nghị thƣờng
niên giữa hai chính quyền, huyện Nam Giang đã xin chủ trƣơng của tỉnh, đồng
thời huy động nguồn lực để thực hiện công trình hỗ trợ cho phát triển giáo dục ở
Đắc Chƣng. Công trình đƣợc thực hiện theo quy mô 5 phòng ở, cùng hệ thống
nhà vệ sinh khép kín, đảm bảo việc sinh hoạt nội trú cho hơn 70 học sinh địa
phƣơng, với tổng kinh phí hơn 3 tỷ đồng. Toàn bộ kinh phí thực hiện công trình,
ngoài trích từ ngân sách của địa phƣơng còn có một phần đóng góp hỗ trợ ngày
lƣơng trong thời gian qua của cán bộ, công chức, viên chức huyện Nam Giang.
“Đây là một trong những hoạt động ý nghĩa cụ thể hóa nội dung Biên bản thỏa
thuận hợp tác phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh giữa hai
địa phƣơng tại hội nghị thƣờng niên lần thứ IV năm 2017. Công trình cũng là
dấu mốc quan trọng trong mối tình đoàn kết, hữu nghị đặc biệt giữa hai địa
phƣơng, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc tế lâu dài và bền vững” - ông
Mai nói.
Đợt sang Đắc Chƣng lần này của đoàn Nam Giang cũng đúng vào dịp
nƣớc bạn Lào chuẩn bị đón Tết cổ truyền Bunpimay - Phật lịch 2561. Vì thế,
bên cạnh tổ chức khởi công xây dựng công trình nhà ở nội trú học sinh, đoàn
còn đi thăm và chúc tết chính quyền, nhân dân huyện Đắc Chƣng. Chúng tôi
gặp lại những “gƣơng mặt thân quen” khi vừa đặt chân đến Đắc Chƣng. Lần
trƣớc, là những đợt gặp khi bà con ở các cụm bản đến nhận quà hỗ trợ từ chính
quyền huyện Nam Giang nhân dịp đón năm mới tại khu vực Cửa khẩu Nam
Giang - Đắc Tà Oọc. Còn nhớ lúc đó chị Phết Ni Kẹo (ở bản Con Giông) vừa
địu đứa con trƣớc ngực, vừa gùi bánh kẹo và dắt con bò giống đƣợc chính
quyền huyện Nam Giang hỗ trợ đã nở nụ cƣời thật tƣơi khi ra về. Và lần này, tôi
gặp lại chị ngay tại không gian chợ huyện Đắc Chƣng sầm uất. Chị dắt đứa con
nhỏ cùng chồng mang bán các mặt hàng nông sản trồng đƣợc cho thƣơng lái.
Vẫn nụ cƣời năm xƣa, chị khoe bò giống đã đẻ bê con, khi nghe tôi nhắc lại
chuyện cũ.
Là đồng bào mình
Trong lời chia sẻ nhân buổi chúc Tết
Bunpimay chính quyền và nhân dân
huyện Đắc Chƣng, Bí thƣ Huyện ủy
Nam Giang - Chơ Rum Nhiên khẳng
định Nam Giang và Đắc Chƣng là hai địa
phƣơng láng giềng hữu nghị có nhiều
điểm tƣơng đồng và gần gũi về văn hóa,
ngôn ngữ, cũng nhƣ đời sống của ngƣời
dân vùng giáp biên. Họ thậm chí có mối
quan hệ ruột thịt, cùng chung huyết
thống từ lâu đời. Vì thế, việc thăm thân
qua lại cũng đƣợc diễn ra khá thƣờng
xuyên, nhất là trong các dịp lễ tết hàng
năm, cũng nhƣ hỗ trợ nhau cùng phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội và cùng
chung sức giữ gìn đƣờng biên cột mốc,
đảm bảo an ninh khu vực biên giới, chủ
quyền quốc gia giữa hai địa phƣơng.
Điều đó càng đƣợc minh chứng từ sau lễ
kết nghĩa bắt đầu đƣợc thực hiện giữa
các cặp thôn, bản hai bên biên giới vào
tháng 9.2013. Mối quan hệ hữu nghị đặc
biệt giữa chính quyền và nhân dân hai
huyện Nam Giang - Đắc Chƣng đã tiếp
tục đƣợc tăng cƣờng, củng cố ngày càng
bền chặt, với nhiều hoạt động hợp tác hỗ
trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Hàng năm, bên cạnh duy trì hỗ trợ
số tiền 200 triệu đồng giúp nhân dân
huyện Đắc Chƣng có thêm điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội, góp phần xóa đói
giảm nghèo, chính quyền huyện Nam
Giang còn trực tiếp hỗ trợ bạn trong việc
đổi mới phƣơng thức sản xuất theo mô
hình kinh tế chủ lực “3 cây, 3 con” với
số tiền hàng trăm triệu đồng và tạo điều
kiện giúp bà con tại các cụm bản Đắc
Chƣng có cơ hội đƣợc khám chữa bệnh,
đảm bảo sức khỏe. “Ở Đắc Chƣng, phần
lớn bà con cũng là đồng bào Cơ Tu, Tà
Riềng, có mối quan hệ mật thiết với đồng
bào Nam Giang. Vì thế, giúp bạn chính
là giúp mình, bởi ở đâu cũng là đồng bào
mình cả” - ông Nhiên bộc bạch, rồi tiếp
tục cuộc vui theo điệu lăm vông truyền thống trong ngày tết cổ truyền của Lào.
“Chúng tôi luôn ghi nhớ tấm lòng
của các bạn!..” Tại buổi lễ khởi công xây dựng nhà
ở nội trú học sinh cấp 2 - 3 Đắc
Chƣng do huyện Nam Giang hỗ trợ
mới đây, Bí thƣ kiêm Huyện trƣởng
Đắc Chƣng - ông Lay Soan Mít Su
Văn và Phó Bí thƣ Thƣờng trực Đắc
Chƣng - Nu Phết Chăn Thạ Mạt
khẳng định, công trình sẽ đƣợc đƣa
vào Sổ ghi chƣơng lịch sử đối ngoại
của địa phƣơng. Đây là công trình
dân sinh có ý nghĩa hết sức đặc biệt,
tiếp tục ghi dấu mối tình đoàn kết,
hữu nghị son sắt, bền chặt giữa
chính quyền và nhân dân hai địa
phƣơng.
Theo ông Lay Soan Mít Su Văn,
những năm qua, công tác tăng
cƣờng đối ngoại, hợp tác bảo vệ tốt
đƣờng biên giới hai bên quốc gia,…
huyện Nam Giang còn có nhiều
hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ địa
phƣơng trong các lĩnh vực phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng. Những nghĩa cử đó càng làm
tăng thêm tình đoàn kết, hữu nghị
đặc biệt vốn đã đƣợc vun đắp từ rất
lâu đời. “Lịch sử đối ngoại của
huyện Đắc Chƣng, bắt đầu từ giây
phút này sẽ ghi thêm công trình đặc
biệt ý nghĩa nhà ở nội trú học sinh
do Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân huyện Nam Giang trao tặng.
Chúng tôi luôn ghi nhớ tấm lòng
của các bạn! Đồng thời mong muốn
tình đoàn kết, mối quan hệ truyền
thống đặc biệt giữa hai địa phƣơng
chúng ta luôn ngày càng thắt chặt
và mãi mãi xanh tƣơi, đời đời bền
vững” - ông Lay Soan Mít Su Văn
nói.
Họ nói với nhau bằng tiếng Tà Riềng đầy hào sảng. Những sợi chỉ tay đƣợc
buộc, những lời chúc cứ thế dài thêm.
Tƣơng tự, những năm qua, những hoạt động hỗ trợ hƣớng về đồng bào ở
các cụm bản Đắc Chƣng, Kà Lừm cũng luôn đƣợc chính quyền và nhân dân
huyện Tây Giang thực hiện, đem lại hiệu quả thiết thực. Ông Arất Blúi - Phó
Chủ tịch UBND huyện Tây Giang cho hay, ngoài việc tạo điều kiện để nhân dân
ở các thôn, bản biên giới có dịp thăm thân, kết nghĩa với nhau, địa phƣơng còn
phối hợp triển khai các hoạt động hỗ trợ và ký kết hợp tác theo từng đơn vị
trong các vấn đề về di cƣ tự do, dạy và học chữ viết, tiếng nói đôi bên, cũng nhƣ
cam kết bảo vệ vững chắc chủ quyền, đảm bảo an ninh - quốc phòng khu vực
biên giới.
ALĂNG NGƯỚC
ALĂNG NGƢỚC.Tấm lòng vùng biên/A lăng Ngƣớc//Quảng Nam.-2018.-
Ngày 9 tháng 5.-Tr.9.
Thắm tình hữu nghị - Bài 2: Vun đắp và giữ gìn
Sinh sống ở vùng giáp ranh, đồng bào dân tộc Cơ Tu, Ve, Tà Riềng ở các
xã biên giới của huyện Nam Giang, Tây Giang vẫn giữ mối quan hệ mật
thiết với bà con ở các cụm bản Đắc Chưng, Kà Lừm của tỉnh Sê Kông
(Lào). Họ thăm thân, kết nghĩa và chia sẻ với nhau từng gùi sắn, gùi lúa
trong những mùa giáp hạt, càng khiến tình anh em ở hai bên biên giới
thêm đậm sâu, thắt chặt.
Chị Bríu Chrƣn ở thôn Côn Zốt xã Chơ Chun (Nam Giang) cùng các em
nhỏ bản Tăng Noong huyện Đắc Chƣng (Sê Kông, Lào) trong chuyến
thăm thân nhân dịp tết Bunpimay 2018. Ảnh: ALĂNG NGƢỚC
Những cuộc trở về Trong chuyến công tác tại xã vùng cao Chà Vàl (huyện Nam Giang) mới
đây, tình cờ chúng tôi bắt gặp những ngƣời đàn ông lấm lem bùn đất cõng ba lô
bƣớc vội vã trên đƣờng. Họ nói mình là ngƣời Tà Riềng sống ở tận bản Đắc Tà
Oọc Nhày (huyện Đắc Chƣng) vƣợt núi về đây tìm ngƣời thân. Sau một hồi kết
nối thông tin, cuối cùng họ cũng tìm đƣợc ngƣời thân ở một thôn của xã Đắc
Tôi lân cận, trong niềm vui khó tả. Sool - một thành viên trong đoàn nói với
chúng tôi, đây là lần thứ hai anh trở lại Việt Nam sau hàng chục năm di cƣ sang
phía vùng đất Lào. Nhƣng lần trƣớc anh đến cùng đoàn của bản Đắc Tà Oọc
Nhày sang thăm và chúc tết nhân dịp năm mới sau thời gian kết nghĩa biên giới.
Anh Sool nói, chính từ lần đi đó anh mới biết đƣợc thông tin vẫn còn bà con của
mình ở phía bên này. Thế là sau nhiều lần dự định, cuối cùng anh cùng ngƣời
thân đã lặn lội sang lần nữa để tìm những ngƣời bà con, họ hàng.
Không chỉ Sool, rất nhiều bà con là ngƣời dân tộc Cơ Tu, Tà Riềng ở
những cụm bản của Lào giáp ranh với các địa phƣơng Nam Giang, Tây Giang
cũng thƣờng xuyên qua lại thăm thân, nhất là sau đợt tổ chức kết nghĩa giữa
thôn bản ở hai bên biên giới. Nhƣ dịp phía bạn đón tết cổ truyền Bunpimay vừa
rồi, cùng với các cơ quan, đơn vị trong tỉnh, nhiều bà con ở các thôn giáp ranh
biên giới Nam Giang - Đắc Chƣng; Tây Giang - Kà Lừm cũng đã tổ chức các
đoàn đến thăm và giao lƣu lẫn nhau. Chị Bríu Chrƣn - ngƣời dân ở thôn Côn
Zốt xã Chơ Chun (Nam Giang) cho hay, trƣớc đây chỉ thỉnh thoảng mới tổ chức
thăm thân qua lại giữa bà con hai bên biên giới, do điều kiện đi lại khó khăn.
Nhƣng vài năm trở lại đây, khi tuyến giao thông hai bên đã thuận lợi, cộng với
khu vực kiểm soát cửa khẩu cũng đƣợc hoàn thiện, đƣa vào sử dụng, khai thác,
khiến việc thăm thân dễ dàng hơn. Nhƣ dịp Tết Nguyên đán vừa rồi, không khí
xuân càng trở nên rộn ràng khi đồng bào vùng cao các xã biên giới Chơ Chun,
La Êê đón những ngƣời bạn, ngƣời thân ở các cụm bản của Lào cùng đến chung
vui, ăn tết cổ truyền. Một lễ hội chung đƣợc tổ chức, mừng vui trong thời khắc
năm mới đầy ấm áp.
Bríu Chrƣn chia sẻ, gia đình chị vốn có gốc gác ở cụm bản bên Lào. Hơn 100
năm trƣớc, từ bản Tăng Noong (Đắc Chƣng), cha ông của chị di cƣ sang Việt
Nam rồi định cƣ tại vùng đất Côn Zốt cho đến bây giờ. Và may mắn đƣợc cùng
đoàn xã Chơ Chun đến thăm, tặng quà dịp tết Bunpimay cho ngƣời dân cụm bản
Tăng Noong mới đây, Chrƣn nói mình đã có chuyến đi đầy ý nghĩa nhƣ một dịp
để chị trở về nguồn cội cha ông ngày trƣớc. Vì thế, những ngày ở bản Tăng
Noong, Chrƣn cùng bà con ở cụm bản quây quần bên nhau dƣới ánh lửa hồng,
cùng vui say các chƣơng trình lễ hội ngày tết, bên vũ điệu lăm vông say đắm
lòng ngƣời. “Bà con ở hai bên biên giới từ lâu có mối quan hệ thân thiết và luôn
giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong cuộc sống, cũng nhƣ chung tay gìn giữ, bảo vệ đƣờng
biên giới ở hai bên quốc gia” - chị Chrƣn cho biết thêm.
Giúp nhau vượt qua hoạn nạn Phó Chủ tịch UBND xã Ch’Ơm
(huyện Tây Giang) - ông Bríu Hồ nói rằng,
trƣớc đây, ngƣời dân ở các thôn bản hai bên
biên giới Tây Giang - Kà Lừm vẫn giữ thói
quen tổ chức thăm thân bằng con đƣờng tiểu
ngạch xuyên núi. Những tháng năm kháng
chiến, chính những con đƣờng mòn này đã
giúp bộ đội và ngƣời dân vùng cao tản cƣ,
trƣớc các đợt càn quét của địch. Vì thế, đồng
bào các xã biên giới Ga Ry, Ch’Ơm gọi đây
là “con đƣờng kháng chiến” và hàng năm
thƣờng xuyên tổ chức các đợt phát dọn, làm
sạch và sửa chữa tuyến đƣờng huyết mạch này để tạo thuận lợi cho việc thăm
thân và hỗ trợ nhau trong cuộc sống. “Bây giờ, mỗi khi có công việc quan trọng
bà con ở bản Abƣl, Tăng Ta Lăng của huyện Kà Lừm vẫn thƣờng men theo các
con đƣờng này sang đây” - ông Bríu Hồ nói.
Già làng Riah Đơơr, ở thôn Réh (xã Ch’Ơm) cũng cho hay, hàng năm
mỗi khi đến mùa giáp hạt hay những dịp cuối năm, nhiều bà con ở bản Abƣl
cũng men theo “con đƣờng kháng chiến” tìm đến các thôn lân cận ở các xã
Ch’Ơm, Ga Ry để nhận hỗ trợ sắn, thóc, bắp và cả muối, mì chính,… Nhƣ gia
đình già Đơơr, năm nào cũng dành chút ít gạo, mì chính, muối… dự phòng, để
Có một điều khá đặc biệt, rất
nhiều hộ dân cụm bản giáp ranh
biên giới ở các huyện Đắc Chƣng,
Kà Lừm (Lào) từ lâu đã thờ di
ảnh Bác Hồ và thuộc nhiều bài
hát về Bác. Họ ăn Tết Nguyên
đán theo ngƣời Cơ Tu, Tà Riềng
ở Quảng Nam và dành niềm
thành kính nhất đối với Bác Hồ,
cùng các anh hùng, những thủ
lĩnh một thời của đồng bào Cơ
Tu.
kịp hỗ trợ bà con phía bên kia biên giới khi cần. Chung sống với nhau từ những
thời đói cơm lạt muối, già Đơơr bảo, đồng bào vùng biên giúp nhau vƣợt qua
hoạn nạn cũng là cùng đoàn kết bảo vệ vững chắc đƣờng biên giới, để bám đất
giữ làng. Theo lời già Đơr, bà con phía các cụm bản Abƣl, Tà Vàng, Bha lêê
(huyện Kà Lừm) cũng đều là đồng bào Cơ Tu, có họ hàng thân tộc với bà con ở
các xã biên giới Tây Giang. Những năm chiến tranh loạn lạc, cũng nhờ bà con
bên đó đã cƣu mang, giúp đồng bào bên này từ chỗ ở đến gùi lƣơng thực để có
cái ăn suốt thời gian khá dài. “Truyền thống lâu đời giữa bà con hai bên biên
giới luôn đƣợc vun đắp và gìn giữ. Dù không chung làng, chung nguồn nƣớc,
nhƣng bà con đều chung dòng máu Cơ Tu. Vì thế, giúp bạn cũng nhƣ giúp
mình, điều đó cũng thể hiện tình nghĩa anh em vùng cao luôn thắm thiết, bền
chặt nhƣ dòng suối trên nguồn, nhƣ nhánh cây trong rừng” - già Đơơr bộc bạch.
Còn nhớ hồi giữa tháng 4.2018, tôi đến Trung tâm Y tế huyện Tây Giang
tìm hiểu việc đơn vị này cấp cứu kịp thời một bệnh nhân Lào ở cụm bản Tà
Vàng (huyện Kà Lừm) bị sét đánh lúc đang ở chòi rẫy. Bác sĩ Nguyễn Huy
Thông - Giám đốc Trung tâm Y tế huyện đƣa tôi đến thăm ngƣời bệnh và cho
hay bệnh nhân là bà Alăng Thị Rinh (50 tuổi, ngƣời Cơ Tu ở Lào), sức khỏe
đang dần hồi phục. Bác sĩ Thông chia sẻ, trung bình mỗi năm, đơn vị tiếp nhận
hàng chục bệnh nhân Lào đƣợc chuyển đến cấp cứu và điều trị. Nhiều bệnh
nhân thƣờng chỉ đi một mình, bệnh lý khá nặng và không có tiền bạc trong
ngƣời. Vì thế, toàn bộ chi phí sinh hoạt, ăn ở, thuốc men đều đƣợc hỗ trợ miễn
phí. “Rất nhiều trƣờng hợp, chúng tôi tiếp nhận bệnh nhân Lào trong tình trạng
khẩn cấp. Với tinh thần tƣơng thân giúp nhau vƣợt qua hoạn nạn, chúng tôi tận
tâm điều trị và hỗ trợ họ toàn bộ. Bà con Lào vùng giáp biên rất quý tình cảm
này!” - bác sĩ Thông chia sẻ.
ALANG NGƢỚC
A LĂNG NGƢỚC.Thắm tình hữu nghị - Bài 2: Vun đắp và giữ gìn/A Lăng
Ngƣớc//Quảng Nam.-2018.-Ngày 9 tháng 5.-Tr.9.
Thắm tình hữu nghị - Vang khúc sa-ma-khi
Ngày tết Bunpimay, rộn ràng theo khúc hát sa-ma-khi (đoàn kết) là
những điệu múa lăm vông truyền thống của đất nước Lào được đồng bào ở
hai bên biên giới thể hiện đầy quyến rũ, nhịp nhàng trong niềm vui kết
đoàn. Tình anh em cứ thế vang mãi…
Đại diện BĐBP tỉnh Quảng Nam bàn giao nhà hữu nghị cho gia đình
ông Bun Thọt Chăn Thạ Phon ở bản Đắc Tà Oọc Nọi, huyện Đắc
Chƣng (tỉnh Sê Kông). Ảnh: ALĂNG NGƢỚC
“Biết ơn Việt Nam lắm!”
Dƣới ánh nắng của Trƣờng Sơn, bản Đắc Tà Oọc Nọi (huyện Đắc Chƣng,
tỉnh Sê Kông) trở nên vui nhộn đón những ngƣời anh em Việt Nam sang bàn
giao căn nhà hữu nghị cho gia đình ông Bun Thọt Chăn Thạ Phon. Bên căn nhà
mới vừa đƣợc xây dựng, vợ chồng ông Phon không giấu đƣợc niềm vui, quây
quần bên những ngƣời hàng xóm và các chiến sĩ Bộ đội Biên phòng (BĐBP)
Quảng Nam. Bởi với vợ chồng ông, ngôi nhà mới này hệt nhƣ một giấc mơ, sau
hàng chục năm sinh sống ở căn nhà ẩm thấp, chật hẹp đƣợc dân bản giúp dựng
lên từ khi mới lập gia đình. “Từ nay vợ chồng tôi không còn lo những ngày mƣa
gió nữa. Xin cảm ơn tấm lòng sẻ chia của các bạn dành cho những ngƣời khó
khăn nhƣ chúng tôi!” - ông Phon bộc bạch, rồi bịn rịn nắm thật chặt từng bàn
tay của các chiến sĩ biên phòng.
Căn nhà của ông Phon là một trong số nhiều căn nhà hữu nghị khác đƣợc
BĐBP Quảng Nam hỗ trợ xây dựng theo chƣơng trình phát động của Bộ Tƣ
lệnh BĐPB giúp những hộ dân ở các cụm bản Lào có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn về nhà ở, đƣợc triển khai từ năm 2015. Mỗi căn nhà có trị giá hơn 160
triệu đồng, đƣợc trích một phần từ ngân sách của Bộ Tƣ lệnh BĐBP, BĐBP tỉnh
và nguồn kêu gọi hỗ trợ của Đồn Biên phòng Cửa khẩu Nam Giang từ các đơn
vị, doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn tỉnh. Song song với hoạt động này,
BĐBP tỉnh triển khai nhiều chƣơng trình ý nghĩa đối với đồng bào đang sinh
sống dọc tuyến biên giới, thông qua các đợt tổ chức hỗ trợ gạo, nhận nuôi đỡ
đầu học sinh theo mô hình “Nâng bƣớc em đến trƣờng”, cùng hàng chục đợt
tình nguyện thăm khám sức khỏe, trao quà tết,… đến nhân dân các cụm bản
Lào. Từ đó, góp phần tăng cƣờng tình đoàn kết, hợp tác hữu nghị và chung sức
bảo vệ đƣờng biên, giữ vững quốc phòng - an ninh hai bên tuyến biên giới.
Năm 2017, chia sẻ trƣớc những khó khăn của bà con các bộ tộc Lào trong
mùa giáp hạt, lực lƣợng BĐBP tỉnh đã kịp thời xin chủ trƣơng, hỗ trợ khẩn cấp
hàng chục hộ dân ở bản Abƣl (huyện Kà Lừm) - giáp ranh với huyện Tây Giang
14 tấn gạo. Ông Alăng Bhƣi - Phó Trƣởng bản Abƣl tâm sự, đây không phải là
lần đầu tiên ngƣời dân ở bản nhận gạo hỗ trợ của BĐBP và chính quyền huyện
Tây Giang trong mùa giáp hạt. Nhiều năm qua, do ảnh hƣởng của thời tiết khiến
nhiều cánh rẫy của bà con luôn bị mất mùa, từ đó dẫn đến tình trạng thiếu ăn.
Hàng năm, bên cạnh số gạo hỗ trợ, ngƣời làng Abƣl cũng nhiều lần tìm đến bà
con ở các xã biên giới của Tây Giang nhận sắn, gạo, muối ăn do ngƣời dân chia
sẻ. “Chúng tôi biết ơn các bạn Việt Nam nhiều lắm!” - ông Bhƣi nói. Lời bài hát
“Tấm lòng Lào - Việt” vang theo bƣớc chân của họ, khuất dần sau những ngọn
núi Trƣờng Sơn xanh thẳm: “Lào - Việt Nam đoàn kết, cùng chiến đấu chung
một chiến hào/ Đuổi đánh xâm lăng, dựng xây đời mới/ Khổ đau sẻ chia bao
tháng ngày ta luôn có nhau…/ Tình nghĩa sắt son mãi thắm tình đoàn kết vững
bền/ Ôi sao đẹp thế, nhƣ sắc màu hoa chăm pa/ Việt - Lào anh em tình nghĩa sâu
nhƣ Cửu Long/ Lào - Việt Nam tình sắt son nhƣ dãy Trƣờng Sơn...”.
Ấm áp nghĩa tình
Thiếu tá Đỗ Xuân Trinh - Đồn trƣởng Đồn
Biên phòng Cửa khẩu Nam Giang chia sẻ,
cứ sau mỗi chuyến đi tình nguyện, đến
thăm và trao quà cho bà con các bộ tộc
Lào, ấn tƣợng đọng lại trong mỗi thành
viên của đoàn chính là tình cảm và sự yêu
mến của bà con dành cho đoàn tình
nguyện. Là đơn vị đứng chân nơi biên giới
Việt - Lào, nhiều năm qua Đồn Biên
phòng Cửa khẩu Nam Giang đã phối hợp
tổ chức rất nhiều đợt tình nguyện sang
huyện bạn Đắc Chƣng, thông qua các hoạt
động thăm khám sức khỏe, trao quà tết và
hỗ trợ sinh kế cho bà con các bộ tộc khó
khăn ở cụm bản,… “Những năm trƣớc đây, hoạt động tình nguyện chỉ đƣợc
thực hiện tập trung tại trung tâm hành chính huyện nên việc ngƣời dân tiếp cận
rất hạn chế, do điều kiện đi lại khó khăn. Rút kinh nghiệm, mới đây chúng tôi
đã thực hiện hoạt động thiện nguyện về tận từng bản, cụm bản của đồng bào Cơ
Tu, Tà Riềng ở Đắc Chƣng. Nhờ vậy, hầu hết ngƣời dân địa phƣơng đã đƣợc tƣ
vấn, thăm khám sức khỏe và tham gia các hoạt động xã hội. Bà con vui lắm!” -
Thiếu tá Đỗ Xuân Trinh chia sẻ.
Trên những ngôi nhà nhỏ dọc khu
vực biên giới, ánh điện đã bắt đầu
rực sáng khi chiều buông. Ngƣời
Cơ Tu, Ve, Tà Riềng ở Lào hƣớng
về đồng bào mình phía bên kia dãy
Trƣờng Sơn hùng vĩ. Và trong
từng mái gƣơl ở bản, câu chuyện
về những ân tình giữa đồng bào
hai bên biên giới đƣợc các trƣởng
bản kể cho con cháu nghe. Khúc
sa-ma-khi truyền thống lại vang
giữa rừng.
Là địa phƣơng có chung đƣờng biên giới
với huyện Kà Lừm, Phó Chủ tịch UBND
huyện Tây Giang - ông Arất Blúi cho hay,
bên cạnh phối hợp hỗ trợ đầu tƣ mặt bằng
dân cƣ, nƣớc sinh hoạt cho bà con Cơ Tu
ở cụm bản Tà Vàng, những năm gần đây
địa phƣơng còn trực tiếp vận động quỹ
“Nghĩa tình biên giới” để tạo nguồn lực
chia sẻ khó khăn với nhân dân huyện Kà
Lừm. Đến nay, quỹ đã tiếp nhận hơn 5 tỷ
đồng từ các cá nhân, đơn vị, doanh
nghiệp, nhân dân trong và ngoài huyện.
Hàng năm, từ số tiền này, địa phƣơng
trích hỗ trợ nhân dân Kà Lừm hàng chục
tấn gạo, hàng nghìn cây trồng, con vật
nuôi; thƣờng xuyên tổ chức đoàn đến
thăm khám, điều trị cấp phát thuốc miễn
phí và tặng quà tết bà con các bản giáp
ranh. Ngoài ra, Tây Giang còn giúp đỡ
huyện Kà Lừm san ủi mặt bằng, xây dựng
công trình nƣớc sinh hoạt, mở đƣờng giao
thông, góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng
bản Tà Vàng - nơi có đông ngƣời Cơ Tu
sinh sống. “Tùy theo điều kiện của địa
phƣơng, cũng nhƣ nhu cầu và nguyện
vọng từ phía bạn Lào, sắp tới đây Tây
Giang sẽ có thêm những hoạt động nghĩa
tình biên giới phù hợp với các nội dung
trong chƣơng trình hợp tác hữu nghị đã
đƣợc ký kết giữa hai địa phƣơng” - ông
Blúi cho hay.
Biên giới mùa này nóng hầm hập theo
từng cơn gió Lào. Trên những ngôi nhà
nhỏ dọc khu vực biên giới, ánh điện đã
bắt đầu rực sáng khi chiều buông. Ngƣời
Cơ Tu, Ve, Tà Riềng ở Lào hƣớng về
đồng bào mình phía bên kia dãy Trƣờng
Sơn hùng vĩ. Và trong từng mái gƣơl ở
bản, câu chuyện về những ân tình giữa
đồng bào hai bên biên giới đƣợc các
trƣởng bản kể cho con cháu nghe. Khúc
sa-ma-khi truyền thống lại vang giữa rừng.
ALĂNG NGƯỚC
ALĂNG NGƢỚC.Thắm tình hữu nghị - Bài cuối: Vang khúc sa-ma-khi/A
lăng Ngƣớc// Quảng Nam.-2018.-Ngày 10 tháng 5.-Tr.9.
Nghĩa tình như sông, như núi
Trường Sơn Ngày Tết cổ truyền Bunpimay -
Phật lịch 2561, tôi ngồi với ông
Khăm May Đuông Căn Nha - Chủ
tịch Ủy ban Mặt trận Lào xây dựng
đất nƣớc tỉnh Sê Kông. Ông nói
tiếng Việt khá sõi và cho biết đã
nhiều lần sang thăm Quảng Nam
thông qua các chƣơng trình hợp
tác, hữu nghị giữa hai địa phƣơng.
Ông Khăm May Đuông Căn Nha
đánh giá rất cao những tình cảm, sự
hỗ trợ ý nghĩa của Quảng Nam đối
với sự nghiệp xây dựng và phát
triển chung của tỉnh Sê Kông trong
thời gian qua. Đồng thời cho biết,
chính nhờ các chƣơng trình hỗ trợ
đặc biệt của chính quyền Quảng
Nam, các đơn vị và địa phƣơng
giáp ranh biên giới nhƣ Tây Giang,
Nam Giang đã tạo điều kiện giúp
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo quốc phòng - an ninh khu
vực biên giới, cũng nhƣ góp phần
nâng cao chất lƣợng cuộc sống của
ngƣời dân ở các cụm bản của tỉnh
Sê Kông. “Truyền thống đoàn kết
hữu nghị và quá trình hợp tác toàn
diện giữa Việt Nam - Lào nói
chung và Quảng Nam - Sê Kông
nói riêng đã đƣợc xây dựng và vun
đắp từ rất lâu đời. Mối quan hệ đặc
biệt đó khẳng định tình cảm quý
báu, thiêng liêng giữa hai quốc gia,
hai dân tộc sẽ mãi mãi xanh tƣơi,
đời đời bền vững nhƣ sông, nhƣ
núi Trƣờng Sơn” - ông Khăm May
Đuông Căn Nha nói.
Về một người Quảng Nam đi trước thời đại
Với chủ đề Phan Châu Trinh-người đi trước thời đại, Salon Văn hóa cà-
phê thứ bảy vừa khai trương ngày 6-5 tại Đà N ng đã thu hút đông đảo
người tham dự. Không gian văn hóa uy tín này hy vọng sẽ đem lại làn gió
mới cho đời sống văn hóa, học thuật còn khá vắng lặng tại Đà N ng. Buổi
trao đổi đầu tiên với Giáo sư (GS) Chu Hảo và người chủ trì là nhạc sĩ
Dương Thụ thành công hơn mong đợi.
Nhạc sĩ Dương Thụ chủ trì buổi giao lưu tại Đà N ng nói đã
"thành công ngoài mong đợi". Chủ đề "Phan Châu Trinh - ngƣời đi trƣớc thời đại" từng đƣợc GS Chu
Hảo trình bày tại các Salon Văn hóa cà- phê thứ bảy ở TP Hồ Chí Minh và Hà
Nội, nhƣng tại vùng đất Quảng Nam-quê hƣơng cụ Phan Châu Trinh, buổi trao
đổi càng mang ý nghĩa lớn hơn. GS Chu Hảo chia sẻ: nếu trƣớc đây từng có ý
kiến cho rằng đƣờng lối của cụ Phan Châu Trinh là "cải lƣơng", thì sau cuộc hội
thảo khoa học năm 1992 tại Quảng Nam, quan điểm chính thống về tƣ tƣởng
của cụ Phan Châu Trinh đã có cởi mở hơn, nhƣng vẫn còn e dè. Trong khi đó,
nhà nghiên cứu ngƣời Pháp Daniel Hemery vào năm 1990 đã cho rằng: "Khuôn
mặt vĩ đại của Phan Châu Trinh, theo tôi là gƣơng mặt quan trọng nhất trong
lịch sử văn hóa và chính trị của Việt Nam ở thế kỷ XX. Bởi chính ông đã xác
định một cách rành mạch và sáng rõ nhất những nan đề đặt ra lâu dài cho các
thế hệ ngƣời Việt Nam phải và còn mãi mãi phải đảm nhận". Trong khi các
nhân vật yêu nƣớc cùng thời, chỉ thấy việc đánh đuổi Pháp, giành độc lập, hệt
nhƣ lịch sử dân tộc suốt ngàn năm trƣớc đã đánh ngoại xâm Trung Hoa thì cụ
Phan Châu Trinh đã nhận ra một vấn đề phức tạp hơn, cơ bản hơn rằng: vào lúc
ấy chúng ta đã thua kém các nƣớc tiên tiến một thời đại văn minh. Vấn nạn
không chỉ ở chỗ bị xâm lăng lãnh thổ, mà hơn thế nữa, đất nƣớc đã rơi vào tình
trạng nguy hiểm: nhân dân thì lầm than u tối, sĩ phu thì dốt nát ƣơn hèn, quan lại
thì tham lam hủ bại. Ông chủ trƣơng "Bất bạo động, bạo động tắc tử. Bất cầu
ngoại, cầu ngoại dã ngu" và thực hiện chƣơng trình Canh tân với khẩu hiệu
"Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh". Phong trào Canh tân đã thất bại,
nhƣng triết lý phát triển của Phan Châu Trinh còn sống mãi và giữ nguyên giá
trị thời sự cho đến ngày nay. Năm 2016, trong diễn văn phát biểu tại Hà Nội,
Tổng thống Mỹ Barack Obama đã nhắc đến 3 nhà văn hóa, khoa học lớn mang
tầm quốc tế của Việt Nam, đó là các tác phẩm thi ca của Nguyễn Du, tƣ tƣởng
triết học của Phan Châu Trinh và toán học của Ngô Bảo Châu...
Tại buổi trao đổi, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định thêm: cụ Phan Châu
Trinh là ngƣời đầu tiên đã chỉ ra chúng ta mất nƣớc vì thua kém về nền tảng văn
hóa và giáo dục lạc hậu và cụ mong muốn chuyển lòng yêu nƣớc thô ráp thành
lòng yêu nƣớc tinh tế và thông minh. Nhà nghiên cứu, tiến sĩ Ngô Văn Minh
đến tham gia buổi trao đổi với các tài liệu nghiên cứu về tƣ tƣởng cụ Phan Châu
Trinh, đã cung cấp thêm các thông tin liên quan đến tinh thần "Khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh" và nhấn mạnh suy nghĩ "chi bằng học" mà cụ Phan
luôn đề cao. Các câu hỏi tại buổi trao đổi đặt ra vấn đề tiếp thu tƣ tƣởng của cụ
Phan Châu Trinh trong thời đại hiện nay, nhất là khi vấn đề thực học càng trở
nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Thậm chí, nói nhƣ nhận định của GS Chu Hảo:
nền giáo dục hiện nay của chúng ta không thể nói là lạc hậu, mà đang đi lạc
đƣờng.
Đáng chú ý tại buổi trao đổi là sự có mặt các bạn trẻ với những chia sẻ
tâm huyết. Một số bạn cho biết lỗ hổng về văn hóa lịch sử của ngƣời trẻ hiện
nay quá lớn, khi các kiến thức học ở trƣờng chỉ mang tính đối phó. Và những tƣ
tƣởng mang tầm thời đại nhƣ cụ Phan Châu Trinh, khi tới đây, các bạn mới
đƣợc biết và hiểu rõ. Bạn Nguyễn Thành Long, từng du học tại Australia, hiện
làm việc tại Đà Nẵng cho biết rất quan tâm đến tƣ tƣởng của cụ Phan Châu
Trinh và tìm thấy ở đó nhiều bài học hữu ích cho giáo dục nƣớc ta hiện nay.
Tuy nhiên, khi chia sẻ thông tin này lên mạng xã hội và đƣợc sự chú ý của bạn
bè thì nhiều bạn nhận ra rất khó khăn trong việc tìm kiếm tài liệu về cụ Phan.
Sách viết về tƣ tƣởng của cụ, có cuốn dày quá không thực sự thích hợp với việc
đọc của ngƣời trẻ, có cuốn dung lƣợng vừa phải nhƣ "Phong trào Duy Tân" của
Nguyễn Văn Xuân thì xuất bản đã lâu, rất khó tìm lại. Và những tƣ liệu này hầu
nhƣ chƣa đƣợc số hóa để ngƣời trẻ dễ dàng tìm thấy và tra cứu trên mạng
Internet.
Buổi trao đổi kéo dài hơn thời gian dự định và các câu hỏi, những ý kiến
liên tục đƣợc đặt ra. Ngƣời chủ trì là nhạc sĩ Dƣơng Thụ cho biết, cuộc trao đổi
này cũng là một trong những buổi gặp gỡ thành công nhất của Salon Văn hóa
cà- phê thứ bảy bởi sự tiếp nhận, phản hồi tích cực từ phía ngƣời tham dự. Salon
Văn hóa cà-phê thứ bảy tại Đà Nẵng sẽ còn đƣợc tiếp nối với hoạt động chiếu
phim, giao lƣu với đạo diễn, nhà làm phim độc lập Nguyễn Trinh Thi diễn ra
vào cuối tháng 5 này. Các buổi gặp gỡ sau đó dự kiến sẽ mời GS Trần Văn Thọ,
hiện đang giảng dạy tại trƣờng Đại học Waseda (Tokyo, Nhật Bản); nhà văn
Nguyên Ngọc với chủ đề về Tây Nguyên và các nhân vật uy tín khác trong các
lĩnh vực khoa học, văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam.
HẢI QU NH
HẢI QU NH.Về một ngƣ i Quảng Nam đi trƣớc th i đại/Hải Quỳnh//Công
an Đà Nẵng.-2018.-Ngày 8 tháng 5.-Tr.6.
Vùng đất "tứ phụng"
Người Quảng vẫn luôn tự hào về truyền thống hiếu học và học giỏi của
mình. Các nhà nghiên cứu xếp Quảng Nam là vùng “đất học”. Suốt 100
năm khoa cử của triều Nguyễn, khoa bảng Quảng Nam xếp thứ 6 trong số
21 địa phương của cả nước. Để làm nên vùng “đất học” đó, phải kể đến sự
đóng góp to lớn của vùng “đất học Điện Bàn” mà người đời sau vẫn gọi là
vùng đất “Tứ phụng”.
Mộ cụ Phạm Phú Thứ, vị tiến sĩ trẻ tuổi nhất của Quảng Nam nói chung,
vùng đất “tứ phụng” nói riêng
Đất “tứ phụng”
Điện Bàn là vùng đất học hàng đầu của xứ Quảng. Trong số 293 vị đỗ
trung, đại khoa (cử nhân: trung khoa; phó bảng, tiến sĩ: đại khoa), Điện Bàn có
123 ngƣời, chiếm 42% số khoa bảng cả tỉnh.
Khi nói đến khoa cử Nho học, ngƣời Quảng Nam thƣờng tự hào về “Ngũ
phụng Tề phi”. Đó là khoa thi Hội năm Mậu Tuất 1898, Quảng Nam có 5 ngƣời
thi đỗ gồm 3 tiến sĩ và 2 phó bảng. Nhƣng sau này nhiều ngƣời không mặn mà
lắm với danh xƣng này không những vì các vị ấy không để lại sự nghiệp lớn về
văn chƣơng, chính trị mà còn vì đây không phải là sự kiện “hiếm”.
Trong suốt lịch sử khoa cử của triều Nguyễn có đến 8 khoa có “Ngũ phụng Tề
phi”, ngoài ra còn có 1 khoa “lục phụng” (Thừa Thiên) và một khoa “thất
phụng” (Hà Nội). Không chỉ Quảng Nam mới có ngũ phụng mà còn 3 địa
phƣơng khác (Hà Nội, Thừa Thiên, Nghệ An) với “chiến tích” còn vƣợt trội
hơn.
Ở tỉnh là chuyện thƣờng, thế nhƣng, “tứ phụng tề phi” ở một huyện lại là
chuyện rất hiếm. Trong lịch sử khoa cử của triều Nguyễn, trên cả nƣớc chỉ thấy
có hai huyện có đƣợc “chiến tích” này mà thôi, đó là Nam Đàn (Nghệ An) với
khoa thi năm Canh Tuất (1910) và Điện Bàn (Quảng Nam) với khoa thi năm
Mậu Tuất (1898).
Khoa “ngũ phụng” năm 1898 của Quảng Nam, trong số 5 con chim
phụng cả tỉnh thì Điện Bàn đã chiếm hết 4. Đó là: Phạm Liệu (Trừng Giang -
Điện Trung), Phạm Tuấn (Xuân Đài - Điện Quang), Ngô Chuân (Cẩm Sa - Điện
Nam), Dƣơng Hiển Tiến (Cẩm Lậu - Điện Phong).
Vì thế có lẽ ngƣời Quảng nên dành nhiều “tình cảm” cho sự kiện “tứ phụng”
của Điện Bàn hơn là chuyện “ngũ phụng”!
Và những điều lạ lẫm, lý thú
Không chỉ là vùng đất “tứ phụng” hiếm hoi của cả nƣớc, Điện Bàn còn
rất nhiều điều lạ lẫm, lý thú về học hành, thi cử.
Điện Bàn là nơi có ngƣời đỗ cao nhất. Ngoài Phạm Phú Thứ (1821-1882)
là một trong hai song nguyên (đỗ thủ khoa cả hai khoa thi Hƣơng và Hội) của cả
tỉnh (ngƣời thứ hai là Huỳnh Thúc Kháng ở Tiên Phƣớc), Điện Bàn còn là quê
hƣơng của vị Hoàng giáp duy nhất của cả tỉnh.
Trong số 15 tiến sĩ của cả tỉnh chỉ có Phạm Nhƣ Xƣơng (1844-1917) là
đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ còn 14 vị kia đều đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Phạm Nhƣ Xƣơng vì thế đƣợc tôn vinh là “Đệ nhất khoa bảng Quảng Nam”(1).
Không những đỗ cao, Phạm Nhƣ Xƣơng còn sẵn sàng chấp nhận “bị đục tên
trên bia đá ở Văn miếu” để đem sở học của mình phục vụ cho dân tộc với việc
viết Hịch Văn thân và tham gia trực tiếp phong trào Nghĩa hội (1885-1888).
Điện Bàn đóng góp nhân sự cho các danh xƣng cao quý khác của đất học
Quảng Nam nhƣ Tứ hùng, Tứ hổ, Ngũ phụng Tề phi, Lục phụng bất tề phi…
Về danh xƣng Tứ hùng, theo cụ cử nhân Hồ Ngận trong Quảng Nam xƣa và
nay, đó là 4 ngƣời đƣợc nhân dân vinh danh gồm Phan Châu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng, Trần Quý Cáp và Tiểu La Nguyễn Thành. Điện Bàn đóng góp một
ngƣời là Trần Quý Cáp.
Về danh xƣng Tứ hổ, theo GS. Phạm Ngọc Khánh thì đó là “Bốn ngƣời
học hành uyên bác, trí tuệ tài hoa, có sức mạnh phi thƣờng trong trƣờng văn trận
bút của Quảng Nam, gồm Phạm Liệu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng và
Trần Quý Cáp”. Điện Bàn đóng góp 2 ngƣời là Phạm Liệu và Trần Quý Cáp.
Với danh xƣng Ngũ phụng Tề phi, Điện Bàn lại đóng góp đến 80% “nhân sự”
với 2 tiến sĩ (Phạm Liệu, Phạm Tuấn) và 2 phó bảng (Ngô Chuân và Dƣơng
Hiển Tiến).
Với danh xƣng Lục phụng bất tề phi (do học giả Nguyễn Văn Xuân đề
nghị, là 6 ngƣời tuy không đỗ cùng một khoa nhƣng đã làm lẫy lừng cho đất
Quảng) gồm: Phạm Phú Thứ (tiến sĩ), Phan Châu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu (phó
bảng), Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng (tiến sĩ), Phạm Nhƣ Xƣơng (Hoàng
Giáp)... Với danh xƣng này Điện Bàn góp 4 ngƣời (67%).
Điện Bàn có tiến sĩ trẻ tuổi nhất và tiến sĩ lớn tuổi nhất. Phạm Phú Thứ,
ngƣời làng Đông Bàn (nay là Điện Trung, Điện Bàn), đỗ tiến sĩ khi mới 21 tuổi
(ông sinh năm 1821, đỗ năm 1842); Phạm Tuấn ngƣời làng Xuân Đài (nay là xã
Điện Quang, Điện Bàn) là tiến sĩ lớn tuổi nhất, đỗ khi đã 47 tuổi (ông sinh năm
1852, đỗ năm 1898).
Trƣờng hợp khoa cử của chí sĩ Trần Quý Cáp cũng là điều rất đặc biệt.
Ông là ngƣời học giỏi nhƣng lại lận đận trong thi Hƣơng. Thi mãi không đỗ cử
nhân dù học trò của ông nhiều ngƣời “vƣợt vũ môn” một cách dễ dàng.
Đến khi đƣợc đặc cách để thi Hội, ông lại thể hiện tài năng vƣợt trội của
mình khi để lại cho đời một câu đối bất hủ của Tiến sĩ Đào Nguyên Phổ: “Tố
tiến sĩ khƣớc dị, tố cử nhân khƣớc nam. Ức ức dƣơng dƣơng vô phi tạo ý/ Áp
Đình nguyên tại Hội, áp Hội nguyên tại Đình. Vinh vinh quý quý hà tất khôi
khoa”.
Tạm dịch: Đỗ tiến sĩ thì dễ, đỗ cử nhân lại khó. Thăng trầm không phải là
không do ý trời/ Đỗ trên ngƣời đỗ đầu thi Hội trong thi Đình, đỗ trên ngƣời đỗ
đầu thi Đình tại thi Hội. Thế là vinh hiển lắm rồi cần gì phải đỗ thủ khoa.(2)
Điện Bàn cũng là vùng đất duy nhất của Quảng Nam và rất hiếm hoi của cả
nƣớc có Ngũ tử đăng khoa, đó là gia đình tộc Nguyễn ở làng Túy La (nay thuộc
xã Điện Hồng) với 5 anh em cùng thi đỗ, trong đó 2 ngƣời đỗ cử nhân là
Nguyễn Thành Ý và Nguyễn Tĩnh Cung và 3 ngƣời đỗ tú tài là Nguyễn Khắc
Trân, Nguyễn Chánh Tâm và Nguyễn Tu Kỹ. Sau này Nguyễn Thành Ý trở
thành nhà ngoại giao chuyên nghiệp của nƣớc ta.
Còn nhiều nữa, nếu chịu khó nghiên cứu chúng ta cũng sẽ khám phá thêm
nhiều điều lý thú về chuyện học hành, khoa cử của vùng đất “tứ phụng” này!
LÊ THÍ
LÊ THÍ.Vùng đất "tứ phụng"/Lê Thí//Đà Nẵng cuối tuần.-2018.-Ngày 20 tháng 5.-
Tr.6.
Người con gái anh hùng
Trong tập sách “Quảng Nam trong ký họa thời kháng chiến giai đoạn
1960 - 1975” do Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam ấn hành vào dịp kỷ niệm
40 năm giải phóng Quảng Nam, có các hình ảnh chụp lại bức ký họa ba cô gái
đƣợc ghi là “Các chiến sĩ biệt động đặc khu Quảng Đà” và ký họa “Đồng chí
Đoàn Thị T. (17 tuổi) - Chiến sĩ biệt động, lực lƣợng vũ trang Đặc khu Quảng
Đà”. Bức vẽ đề ngày 8.12.1972.
Các chiến sĩ biệt động Đặc khu Quảng Đà - Cô gái bên phải, đứng là
anh hùng Trần Thị Chiến. Ký họa của Giang Nguyên Thái.
1. Tập sách “Quảng Nam trong ký họa thời kháng chiến giai đoạn 1960 -
1975” ra đời đƣợc nhiều độc giả rất trân quý. Bởi đây là tƣ liệu về chiến tranh,
những bức tranh đã tái hiện cuộc sống, sinh hoạt, chiến đấu của nhân dân, bộ
đội, du kích, các trận đánh, các địa danh, những thời khắc hiếm hoi, những chi
tiết ấn tƣợng. Đó là những khoảnh khắc có một không hai trong lịch sử đã đƣợc
ghi lại trong những “ghi chép” thiêng liêng, khiến những ký họa thời chiến trở
thành di sản vô giá, một bộ lịch sử chiến tranh cách mạng bằng hình ảnh rất
chân thực, gây xúc động lòng ngƣời.
Và các họa sĩ đã ký họa về những con ngƣời anh hùng đó, đến nay đều có
mong ƣớc đƣợc biết rằng, những “ngƣời mẫu” đó còn hay mất? Bởi chiến tranh
trong giai đoạn 1960 đến 1975 là vô cùng ác liệt ở miền Nam nói chung và
Quảng Nam nói riêng.
Để đáp ứng với yêu cầu của cuộc chiến, lúc đó đội biệt động Lê Độ đã ra
đời, phát triển mạnh mẽ, đều khắp và mở nhiều trận đánh xuất sắc ở cảng sông
Hàn; Quân vụ thị trấn; khối phố Thanh Khê, Xƣơng Bình; kho xăng Nại Hiên;
kho bom đạn Phƣớc Lý; sân bay Đà Nẵng; chi cảnh sát quận Đông Giang; chốt
điểm Cống Tiềm; bót gác ngã ba Huế; Tòa thị chính; khách sạn đƣờng Lê Đình
Dƣơng; các cƣ xá sĩ quan Mỹ - ngụy, Nam Triều Tiên, Philippines ở đƣờng
Pasteur, Yên Bái, Phan Châu Trinh… Nhiều ngƣời trong đội biệt động Lê Độ đã
anh dũng hy sinh nhƣ Nguyễn Hữu Đức, Hà Văn Trí, Đặng Đình Vân, Lê Độ,
Trần Thị Chiến, Nguyễn Văn Nhàn, Hồ Thị Lý, Nguyễn Thị Tám, Võ Văn Cả,
Phan Thị Mùa…
Anh Học ở Bình Định - nguyên là đội viên của Đội biệt động Lê Độ,
trong một lần đọc bài báo có viết rằng họa sĩ Giang Nguyên Thái khẩn cầu có ai
biết đội biệt động Lê Độ giờ đây ai còn ai mất và chị Đoàn Thị Tứ (tức Đoàn
Thị T., do giữ bí mật nên không tiết lộ tên) bây giờ đang ở đâu, hãy lên tiếng!
Thế là, các thành viên đội biệt động Lê Độ tìm, liên lạc với nhau và vừa qua, họ
đã có một buổi gặp mặt đầy thân tình, nhân dịp anh chị em cán bộ Ban Tuyên
huấn từng tham gia kháng chiến tại chiến trƣờng khu V trao tặng bức tƣợng
chân dung Chủ tịch Hội đồng Nhà nƣớc Võ Chí Công cho Quảng Nam. Họa sĩ
Giang Nguyên Thái và các thành viên trong đội vô cùng xúc động, nhƣ đƣợc
sống lại những ngày tháng lịch sử cách đây 45 năm. Cuộc gặp đó có các anh chị
Thái Hùng, Minh, Lan, Chiến, Mƣời, Bông, Thúy… Và nhân vật chính Đoàn
Thị Tứ cũng góp mặt, cho dù sức khỏe của chị rất yếu. Gần 45 năm, nhƣng so
với bức ký họa cô đội viên biệt động ngày ấy và hình ảnh thật ngoài đời, vẫn
không khác xa nhau là mấy.
2. Họa sĩ Giang Nguyên Thái nhớ lại, năm 1972, họa sĩ Đức Hạnh đƣa
anh vào gặp đại đội biệt động Lê Độ, đang đóng quân ở Khe Ròn gần dốc Gió
trên đƣờng đi Thành Mỹ (Nam Giang). Đƣợc biết đây là một đơn vị đặc công
đánh ngay trong lòng địch, các em vẫn đang trong lứa tuổi học trò mà đã có rất
nhiều chiến công và đánh giặc vô cùng dũng cảm, nên anh đã ký họa chân dung
những cô gái đó.
Và một điều vô cùng bất ngờ là từ bức vẽ ba cô gái trong lực lƣợng vũ
trang Quảng Đà, các anh chị đã nhận ra ngƣời con gái mặc áo đỏ, cầm súng
đứng bên xe máy là Anh hùng LLVTND Trần Thị Chiến. Chị Trần Thị Chiến
sinh năm 1951, quê ở Điện Thọ, Điện Bàn; năm 1970, lúc chị 19 tuổi, chị tham
gia cách mạng. Nhiệt huyết của tuổi trẻ, lập nhiều chiến công, chị vinh dự đứng
vào hàng ngũ của Đảng, là đội trƣởng Đội biệt động K20, quận Nhất, Đà Nẵng.
Ông Bùi Hồng Khanh, nguyên Khu đội trƣởng khu phố Hải Châu, Cánh trƣởng
biệt động Cánh trung quận Nhất, Đà Nẵng; Phó tham mƣu trƣởng Bộ chỉ huy
quân sự Quảng Nam - Đà Nẵng, hiện nay là Trƣởng ban liên lạc Biệt động
thành Đà Nẵng, là ngƣời trực tiếp đi gặp các nhân chứng để làm hồ sơ và đề
nghị công nhận anh hùng cho chị Trần Thị Chiến. Ông kể lại câu chuyện anh
dũng và đầy cảm động về ngƣời nữ anh hùng liệt sĩ này: ngày 7.11.1972, chị bị
địch bắt. Bọn địch biết đƣợc chị là nhân vật quan trọng của đội biệt động, nên
chúng dùng đủ mọi đòn tra tấn, đánh đập tra khảo hết sức dã man, nhƣng chị
vẫn không hé răng khai báo đồng đội, để lộ đƣờng dây cách mạng.
Không khai thác đƣợc gì, chúng trói chị, rồi cho lên xe chạy rong khắp
phố Đà Nẵng. Chị giả vờ bảo rằng, đƣa chị về đồng Giáng La, Điện Thọ để chị
khai và chỉ điểm một số cán bộ nằm vùng đang ở trong hầm bí mật. Nhƣng thực
chất, chị muốn về đó, để các đồng đội giải vây cho chị và nếu không đƣợc, thì
cũng đƣợc chết trên quê hƣơng.
Tin lời chị, chúng đƣa chị về đồng Giáng La, lúc đó anh Trƣơng Quốc
Việt và hai ngƣời khác là đồng đội của chị đang núp ở dƣới luống khoai, thấy
chị bị trói đƣa ra cánh đồng. Biết ý định của chị, nhƣng lực lƣợng bên ta quá
mỏng không thể giải vây cho chị, lại sợ chúng trả thù tàn độc bắn phá dân lành.
Nhằm lung lạc ý chí của chị, sau đó chúng đƣa ba chị đến, để cha con gặp nhau,
bảo ba chị phải thuyết phục chị phản bội cách mạng. Ba chị nén đau thƣơng vào
lòng, nhìn con gái lần cuối và chỉ thẳng vào mặt quân thù và nói: “Nó lớn rồi, tự
nó suy nghĩ việc gì đúng, việc chi sai, tôi không can thiệp”.
Cuối cùng, biết không thể làm lung lay đƣợc ý chí ngƣời cộng sản kiên
trung bất khuất, chúng hèn hạ tra tấn chị bằng các thủ đoạn vô nhân tính, rồi
giết chị. Nhân dân chờ đêm đến tìm cách chôn cất xác chị.
Bây giờ chị đang nằm cùng đồng đội ở nghĩa trang liệt sĩ quê nhà - xã
Điện Thọ, huyện Điện Bàn. Anh Trần Minh Vũ – ngƣời cháu của chị đang thờ
phụng ngƣời nữ anh hùng này ở thôn Tây, xã Điện Thọ. Nhân dân và đồng đội
luôn nhớ về chị, ngƣời con gái tuổi 20 mà can trƣờng chi lạ. Cánh đồng Giáng
La quê chị đã biết bao nhiêu mùa lúa chín, sóng lúa vẫn rì rào kể mãi chuyện về
ngƣời con gái anh hùng…
HÀ AN
HÀ AN.Ngƣ i con gái anh hùng/Hà An//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày
19-20 tháng 5.-Tr.2.
Kể chuyện Bác dưới cờ Tổ quốc
Ở huyện miền núi Tây Giang, kể chuyện về Bác Hồ tại buổi sinh hoạt dưới
cờ đã và đang là cách làm hay, hiệu quả trong học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
1. Vào sáng thứ Hai đầu mỗi tháng, tại Quảng trƣờng huyện Tây Giang,
hàng trăm cán bộ, chiến sĩ, đảng viên đến từ 16 chi bộ, đảng bộ trực thuộc Đảng
bộ huyện tham gia lễ chào cờ, cùng hát Quốc ca và đƣợc nghe kể những câu
chuyện hay, giàu ý nghĩa về Bác Hồ, về cuộc sống giản dị mà thanh cao của
Ngƣời. Tiêu biểu nhƣ câu chuyện “Nƣớc nóng nƣớc nguội”, “Tình yêu Bác
dành cho những khúc dân ca”, “Từ đôi dép đến chiếc ô tô”, hay câu chuyện
“Bác Hồ với chiến sĩ ngƣời dân tộc”, “Bát chè xẻ đôi”, “Thời gian quý báu
lắm”, “Chú ngã có đau không”... Trƣởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Tây Giang -
Phạm Văn Xứng nói, đây là một trong những đợt sinh hoạt chính trị quan trọng
hàng tháng mà Đảng bộ huyện phát động từ năm 2012 nhằm củng cố, bồi dƣỡng
lý luận chính trị, lý tƣởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên...
Cô giáo Huỳnh Thị Mỹ Trang đến từ Chi bộ Phòng GD-ĐT huyện Tây
Giang chia sẻ, vừa rồi khi đƣợc chọn tham gia kể chuyện về Bác Hồ trong giờ
sinh hoạt dƣới cờ của huyện, cô cảm nhận đƣợc niềm vinh dự rất lớn. Để kể
đƣợc câu chuyện hay, có sức lan tỏa và truyền cảm không phải dễ. Sau nhiều
lựa chọn, cuối cùng cô Trang quyết định kể câu chuyện “Tình thƣơng của Bác”.
Trƣớc khi kể dƣới cờ, cô Trang phải đọc đi đọc lại nhiều lần để thuộc cho thật
nhuần nhuyễn và tự diễn tại nhà. Câu chuyện kể về 33 học sinh của một lớp học
ở Hà Tĩnh bị sát hại trong vụ thả bom B52 của giặc Mỹ năm 1966. Trong câu
chuyện thể hiện ngời sáng tình thƣơng của Bác Hồ dành cho các cháu thiếu
niên, nhi đồng và vun đắp ngọn lửa quyết tâm dạy tốt - học tốt trong mỗi thầy
cô giáo. Chuyện xảy ra đã gần 52 năm, vậy mà giờ nhắc lại qua lời kể của cô
Trang khiến ngƣời nghe ai cũng cay xè nơi khóe mắt. “Tôi chọn câu chuyện này
vì thấy mình còn quá nhỏ bé so với sự gian khổ hy sinh của các thầy cô giáo
thời chiến tranh. Những lời động viên thăm hỏi của Bác Hồ đến bây giờ vẫn còn
nguyên giá trị nhân văn thôi thúc chúng tôi quyết tâm dạy tốt để xứng đáng với
công ơn của Ngƣời” - cô Trang nói. Hay nhƣ câu chuyện “Nƣớc nóng nƣớc
nguội” do đảng viên của Chi bộ Phòng NN&PTNT huyện kể cho ta thấy một
cách giáo dục rất đơn giản mà thấu tình đạt lý của Bác. Câu chuyện là bài học
quý về cách đối xử giữa con ngƣời với con ngƣời, giữa cấp trên với cấp dƣới,
giữa anh em đồng nghiệp với nhau… Qua mỗi câu chuyện đƣợc nghe dƣới cờ
hằng tháng, mỗi cán bộ, đảng viên của huyện Tây Giang tự soi lại mình, tự nhận
ra khuyết điểm để mà tự sửa chữa.
2.Thực hiện tinh thần chỉ đạo của Huyện ủy Tây Giang, những năm qua,
các đơn vị trƣờng học trên địa bàn huyện tổ chức cho học sinh kể chuyện về
Bác trong các buổi chào cờ đầu tuần, tổ chức hội thi “Chúng em kể chuyện Bác
Hồ”. Thầy giáo Nguyễn Thanh Triều - Hiệu trƣởng Trƣờng Phổ thông Dân tộc
nội trú THCS Tây Giang cho biết, để buổi chào cờ tăng thêm tính uy nghiêm,
trang trọng, năm 2017 nhà trƣờng đã vận động đƣợc 50 triệu đồng từ nguồn
kinh phí đóng góp của phụ huynh, cán bộ, giáo viên để xây cột cờ mang dáng
hình cột mốc chủ quyền Trƣờng Sa ngay trong khuôn viên của trƣờng. Vào sáng
thứ Hai hằng tuần, học sinh nhà trƣờng trong sắc phục Cơ Tu truyền thống tham
gia làm lễ chào cờ Tổ quốc ngay trƣớc cột mốc chủ quyền Trƣờng Sa.
Đúng 7 giờ sáng, trong không khí nghiêm trang, toàn thể giáo viên, học
sinh nhà trƣờng hƣớng về lá cờ Tổ quốc cất lên bài Quốc ca hùng tráng. Tham
gia lễ chào cờ, mỗi cán bộ, giáo viên và học sinh tự nhắc nhở mình về lòng tự
hào dân tộc, tinh thần yêu Tổ quốc, bản thân tự phấn đấu, thi đua dạy tốt, học
tốt. Và trong mỗi buổi chào cờ không thể thiếu những câu chuyện kể về Bác,
nhất là chuyện về Bác với thiếu niên, nhi đồng. Những câu chuyện nhỏ về cuộc
đời và sự nghiệp, về đạo đức, lối sống giản dị, về tình yêu quê hƣơng đất nƣớc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc các em học sinh kể bằng chất giọng mộc mạc,
chân tình, trong sáng và giàu cảm xúc. Hốih Nghiệp (học sinh lớp 8/2) - Liên
đội trƣởng của trƣờng chia sẻ: “Qua những câu chuyện về Bác Hồ, chúng em
càng kính yêu Bác hơn. Tình thƣơng của Bác dành cho thiếu niên, nhi đồng là
vô bờ bến. Chúng em nguyện thi đua học tập, xứng đáng với tình thƣơng và
những điều Bác đã dạy”.
Trƣởng phòng GD-ĐT huyện Tây Giang - Nguyễn Anh Tuấn cho hay,
năm học 2017 - 2018, phòng tổ chức hội thi “Chúng em kể chuyện Bác Hồ”
dành cho lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng và hội thi “Tìm hiểu thân thế, cuộc đời,
sự nghiệp của Chủ tịch Hồ chí Minh” dành cho giáo viên. Các hội thi đƣợc tổ
chức là cơ hội để thầy cô và học sinh của huyện thắt chặt thêm tình đoàn kết,
cùng thi đua làm nghìn việc tốt dâng lên Bác Hồ. Ông Phạm Văn Xứng nói,
việc chào cờ và kể chuyện về Bác Hồ của cán bộ, đảng viên, học sinh trên địa
bàn huyện là một trong những mô hình hoạt động hƣởng ứng phong trào học tập
và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động
này nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong công
tác xây dựng Đảng, cải cách hành chính, thi đua vì sự phát triển của địa phƣơng,
đơn vị…
ĐÌNH HIỆP
ĐÌNH HIỆP.Kể chuyện Bác dƣới c Tổ quốc/Đình Hiệp//Quảng Nam.-2018.-
Ngày 18 tháng 5.-Tr.7.
Giữ thương hiệu "Cao Sơn ngọc Quế"
Từ rất lâu, cây quế Trà My (Quảng Nam) đã nổi tiếng không chỉ có mặt ở
thị trường trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới. Tiềm
năng phát triển kinh tế mà cây quế mang lại rất cao, được đánh giá là sản
phẩm thoát nghèo hiệu quả của đồng bào các dân tộc thiểu số. Tuy vậy, trước
rất nhiều khó khăn, thử thách, để giữ vững thương hiệu "Cao Sơn ngọc Quế" là
một bài toán khó, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ, cái "bắt tay" bền chặt hơn từ
nhiều phía.
Xác định tiềm năng kinh tế lớn từ cây quế, nhiều chính sách hỗ trợ người
dân hướng đến phát triển cây quế đã được triển khai, xây dựng trong
nhiều năm qua.
Tiềm năng lớn Theo ông Hồ Quang Bửu, Chủ tịch UBND H. Nam Trà My, thƣơng hiệu
"quế Trà My" đã đƣợc ngƣời dân và chính quyền địa phƣơng gây dựng từ rất
lâu. Thực tế, với điều kiện tự nhiên phù hợp cây quế đƣợc lựa chọn nhƣ là sản
phẩm gắn mác đặc sản của vùng núi Trà My. Quế Trà My là cây trồng truyền
thống và là nguồn thu nhập chính của đồng bào dân tộc thiểu số Ca Dong, Xơ
Đăng, Bhnoong. "Cây quế vốn là sản phẩm đƣợc nhiều nơi ƣa chuộng, không
chỉ trong nƣớc mà còn đƣợc xuất khẩu sang nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Quế gắn liền với đời sống ngƣời dân cũng nhƣ những phong tục tập quán lâu
đời, đời sống tâm linh, kinh tế, văn hóa của đồng bào. Ngƣời dân Trà My luôn
tự hào vì mỗi ngƣời dân, mỗi hộ gia đình đều nắm trong tay tài sản có giá trị tự
cây quế", ông Bửu cho hay.
Với những điều kiện thuận lợi về tự nhiên, cây quế đƣợc ngƣời dân đầu
tƣ phát triển với số lƣợng lớn. Từ những năm 80-90 của thế kỷ XX, cây quế Trà
My đƣợc biết đến với thƣơng hiệu "Cao Sơn ngọc Quế". "Tận dụng tối đa các
diện tích đất trong vƣờn nhà, trên rẫy, trồng xen lẫn cây mít hoặc cây chè,
những diện tích đất ở bờ ao, ven chân đồi ngƣời dân đã trồng thành rừng. Cùng
lợi thế về đặc điểm thích nghi tốt, ít tốn công chăm sóc và không tốn kinh phí
bỏ ra để mua phân bón, ngƣời dân chỉ cần đầu tƣ công sức trong thời gian ban
đầu khi mới trồng nhƣ đào hố, ƣơm cây giống, làm cỏ... nên quế đƣợc ngƣời
dân trồng rất nhiều. Nhiều hộ dân vƣơn lên thoát nghèo, phát triển kinh tế gia
đình và có của ăn, của để. Việc ngƣời dân mở rộng diện tích đã bƣớc đầu mang
lại những tín hiệu tích cực điển hình nhƣ các hộ dân ở xã Trà Leng, Trà Tập và
Trà Dơn...", ông Trần Văn Mẫn, Phó Chủ tịch UBND H. Nam Trà My chia sẻ.
Tuy vậy, cũng theo ông Mẫn, hơn 5 năm trƣớc, có thời điểm ngƣời dân
trồng quế lại lao đao do không bán đƣợc sản phẩm từ cây quế, có bán thì giá
quá thấp không bù vào chi phí trồng, chăm sóc nên nhiều ngƣời dân đã chuyển
đổi cây trồng sang một số loại cây trồng khác. Thời gian gần đây, việc thu mua
sản phẩm quế ngày càng đƣợc cải thiện, hầu hết các sản phẩm quế thu hoạch
đều đƣợc các cơ sở chế biến, tƣ thƣơng nhỏ thu mua với giá cả hợp lý, nhờ vậy
mà ngƣời trồng quế có thể sống đƣợc từ cây quế. Hạn chế lớn nhất hiện nay đó
là việc liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm quế trên địa bàn H. Nam Trà
My chƣa đƣợc thực hiện tốt. Hầu nhƣ chƣa có đơn vị thu mua, chế biến nào
tham gia ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho ngƣời dân, ngƣời
nông dân chỉ biết bán các sản phẩm thô, với giá cả bấp bênh do những ngƣời
kinh doanh nhỏ lẻ quyết định.
Những cây quế cổ thụ hàng chục năm tuổi, có giá trị kinh tế lớn là niềm tự
hào của người dân Trà My.
"Bắt tay" giữ thương hiệu
Theo thống kê, hiện tại, trên địa bàn H. Nam Trà My có 10/10 xã trồng
quế, tổng diện tích 2.864ha, sản lƣợng năm 2017 đạt khoảng 350 tấn, tăng 200
tấn so với năm 2011; sản lƣợng, diện tích quế không ngừng tăng lên qua các
năm. Thực tế, với định hƣớng phát triển cây quế, nhiều năm qua, thông qua các
chƣơng trình nhƣ: 30a, 135II, quyết định 102 của Thủ tƣớng Chính phủ, Nam
Trà My hỗ trợ vật tƣ, hơn 20 triệu cây giống cho đồng bào thụ hƣởng. Riêng đối
với H. Bắc Trà My đã tự bỏ tiền ngân sách mua giống quế cấp miễn phí cho
ngƣời dân trồng. Theo ông Đinh Mƣớk, Chủ tịch Hiệp hội quế Trà My, nhiều
chính sách hƣớng đến việc thúc đẩy cây quế nhƣng hiệu quả chƣa thật sự cao,
vẫn còn nhiều bất cập nên việc phát triển cây quế chƣa có sự bùng nổ, chƣa thật
sự có một "cú hích" lớn để quế Trà My có cơ hội "càn quét" thị trƣờng trong và
ngoài nƣớc hơn nữa. "Một số cơ sở thu mua, chế biến quế đã đƣợc đầu tƣ xây
dựng nhƣng vẫn còn nhỏ lẻ, chƣa thật sự đúng tầm với tiềm năng của loại cây
này. Hơn thế, ngƣời dân chƣa thật sự ý thức, có đủ quyết tâm để đƣa cây quế
phát triển mạnh mẽ", ông Mƣớk nhìn nhận.
Lợi thế cạnh tranh của quế Trà My là đƣợc đăng ký chỉ dẫn địa lý, đƣợc
đánh giá có chất lƣợng cao hơn hẳn so với các loại cây quế trồng ở các vùng
khác nhờ yếu tố hàm lƣợng tinh dầu cao, có mùi vị đặc trƣng, vỏ dày và thơm.
Chính quyền địa phƣơng cũng đã tổ chức tuyên truyền, định hƣớng ngƣời trồng
quế về những kỹ thuật chăm sóc, phân loại quế giai đoạn đầu nên tỉa lá bán ký,
khi tận dụng giá trị của lá quế, cuối cùng mới khai thác vỏ. Nhiều cánh rừng quế
cổ thụ có tuổi đời hàng chục năm với giá trị kinh tế cao cũng xây nên thƣơng
hiệu vững chắc cho quế Trà My. Về định hƣớng phát triển bền vững trong
tƣơng lai, Hiệp hội quế Trà My nhấn mạnh đến vấn đề phối hợp chặt chẽ, mối
liên kết giữa các cơ quan, tổ chức cũng nhƣ doanh nghiệp thu mua, chế biến
quế.
Không những thế, cái "bắt tay" giữa 6 "nhà" gồm: Nhà nƣớc, nhà khoa
học, nhà quản lý, nhà doanh nghiệp, nhà băng (ngân hàng) và nhà trồng quế
(ngƣời dân) cũng là cơ sở quan trọng để hƣớng đến phát triển cây quế. Bên cạnh
đó, việc hỗ trợ, tạo điều kiện để ngƣời dân vay vốn, có cơ hội, điều kiện để
ngƣời dân tiếp cận với việc phát triển cây quế quy mô lớn cũng phải đƣợc quan
tâm đúng mức. Nhiều ý kiến cũng cho rằng, đầu tƣ, phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông nhằm hƣớng đến việc thu mua, vận chuyển sản phẩm quế dễ dàng cũng là
bài toán đáng lƣu tâm. "Việc phát triển cây quế là nhiệm vụ quan trọng, làm thế
nào để vừa bảo tồn đƣợc nguồn gen quý của quế Trà My, không bị pha tạp hay
lai giống từ các địa phƣơng khác, vừa phát triển mạnh diện tích quế là điều quan
trọng nhất. Ngoài ra, để đảm bảo cho cây quế Trà My phát triển bền vững, chính
quyền địa phƣơng cần lƣu ý phát triển cây quế đúng quy hoạch, không nên vội
vàng trồng ào ạt dẫn đến sản phẩm kém chất lƣợng, ảnh hƣởng đến thƣơng hiệu
cây quế đang từng bƣớc đƣợc khôi phục lại", ông Lê Minh Hƣng, Phó Giám đốc
Sở NN&PTNT tỉnh Quảng Nam, nhấn mạnh.
Phi Nông
PHI NÔNG.Giữ thƣơng hiệu "Cao Sơn ngọc Quế"/Phi Nông//Công An Đà
Nẵng.-2018.-Ngày 4 tháng 5.-Tr.12.
Hội An đang hướng đến "THÀNH PHỐ XE ĐẠP"
UBND TP Hội An (Quảng Nam) vừa cho biết, dự án “Lập kế hoạch tổng
thể cho xe đạp và chương trình chia sẻ xe đạp miễn phí/chi phí thấp tại TP
Hội An” (từ đây gọi là Dự án) đã được Bộ Hợp tác kinh tế và Phát triển
Cộng hòa Liên bang Đức (BMZ) bình chọn để trao giải thưởng “Giao
thông đô thị toàn cầu”. Lễ trao giải dự kiến sẽ diễn ra tại TP Leipzig
(CHLB Đức) từ ngày 22.5 đến 25.5. Dự án do Phòng VHTT TP Hội An phối hợp với Tổ chức Nhịp cầu Sức khỏe
Việt Nam (HealthBridge Việt Nam-HBV) tiến hành nghiên cứu thực địa lập và
đề xuất.
Đi xe đạp miễn phí? Mục tiêu của Dự án nhằm giải quyết hai vấn đề chính là An toàn đƣờng
bộ và Y tế công cộng (sức khỏe cộng đồng) bằng cách phát triển một kế hoạch
tổng thể cho giao thông xanh, bền vững, tập trung quan tâm vào ngƣời đi xe
đạp. Theo đó, sẽ phát triển một chƣơng trình xe đạp chia sẻ miễn phí hoặc chi
phí thấp bằng cách kết nối các chƣơng trình xe đạp hiện có của các khách sạn
trên địa bàn thành phố. Từ đó tạo ra một hệ thống hợp tác công tƣ đầu tiên tại
Hội An, đồng thời tạo ra những lợi ích lớn hơn từ cơ sở hạ tầng hiện có và
chuyển đổi phƣơng thức đi lại trong thành phố. Mô hình này có thể thích hợp và
là gợi ý để các thành phố quy mô vừa và nhỏ tại Việt Nam nhƣ Huế, Đà Lạt
cũng nhƣ các thành phố khác trên thế giới có thể mở rộng các hệ thống tƣơng
tự.
Thời gian qua Hội An triển khai nhiều hành động thiết thực cổ vũ
ngƣời dân và du khách sử dụng phƣơng tiện xe đạp, góp phần cải
thiện môi trƣờng
Sau khi đƣợc trao thƣởng, dự án này sẽ đƣợc BMZ đề xuất để Tổ chức
Hợp tác Phát triển CHLB Đức (GIZ) tiếp tục xem xét tài trợ để Hội An có điều
kiện triển khai.
Từ năm 2009, UBND TP Hội An đã phê duyệt chƣơng trình Thành phố
Sinh thái, hƣớng đến mục đích phát triển Hội An thành một “thành phố sinh
thái”, thân thiện với môi trƣờng, bảo tồn các giá trị lịch sử văn hóa, phát triển
du lịch sinh thái cũng nhƣ nâng cao chất lƣợng sống cho ngƣời dân. Trong đó
đặt mục tiêu “phần lớn dân số sẽ sống và làm việc trong khoảng cách đi bộ và
đạp xe nhằm giảm nhu cầu đi lại bằng các phƣơng tiện giao thông cơ giới”.
Thời gian qua, Hội An cũng triển khai nhiều hoạt động nhằm nỗ lực xây dựng
thành phố sinh thái. Khuyến khích mọi ngƣời đi bộ, đi xe đạp, sử dụng phƣơng
tiện giao thông công cộng, phát triển giao thông phi cơ giới.
Tuy nhiên, trên thực tế ngƣời dân Hội An vẫn chƣa sử dụng xe đạp nhiều
và hầu nhƣ chỉ phổ biến ở bộ phận du khách đến tham quan, lƣu trú tại phố cổ.
Một yếu tố quan trọng đƣợc xem là nguyên nhân chính để dẫn đến vấn đề này là
do Hội An chƣa có một chiến lƣợc cụ thể về chính sách phát triển và hạ tầng
cho xe đạp. Chẳng hạn nhƣ chƣa quan tâm tới việc đầu tƣ hạ tầng giao thông
nhằm hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho xe đạp nhƣ các làn đƣờng dành riêng cho xe
đạp, các nút giao cắt an toàn cho xe đạp.
Tạo dựng một hành lang pháp lý Theo Phòng VHTT Hội An, điểm đặc biệt mà dự án này hƣớng đến chính
là những kế hoạch quan tâm đến ngƣời đi xe đạp, qua đó sẽ đạt đƣợc các lợi ích
nhƣ cải thiện môi trƣờng, kinh tế, bình đẳng. Đây là những điều vốn ít đƣợc chú
trọng trong các kế hoạch về giao thông. Đồng thời cũng hài hòa với định hƣớng
xây dựng TP Sinh thái trong một kế hoạch tổng thể phát triển giao thông phi cơ
giới. Từ đó thiết lập một kế hoạch tổng thể phát triển và chia sẻ xe đạp gồm một
mạng lƣới hạ tầng an toàn cho xe đạp, một hệ thống chia sẻ xe đạp, kết nối các
xe đạp miễn phí/chi phí thấp của các khách sạn đang hoạt động và mở rộng
thêm ra các khu vực mới, giúp ngƣời dân và du khách dễ dàng lựa chọn xe đạp
hơn.
Bên cạnh đó, kế hoạch tổng thể cũng sẽ cung cấp một hành lang pháp lý và định
hƣớng chính sách nhằm giúp thành phố tập trung nguồn lực để xây dựng một
môi trƣờng vật lý an toàn khuyến khích đạp xe. Là cơ chế khuyến khích khu
vực kinh tế tƣ nhân, đặc biệt là các khách sạn, cơ sở dịch vụ, đầu tƣ vào giao
thông bền vững của Hội An, tạo thuận lợi cả về mặt tài chính và tiết kiệm thời
gian.
Đƣợc biết, hiện TP đã thành lập một tổ công tác đa ngành. Ban dự án của
HBV sẽ cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và cùng Tổ công tác này lập kế hoạch tổng thể
cho phát triển giao thông phi cơ giới và mạng lƣới xe đạp trong 5 năm tại Hội
An. Theo đó, sẽ thực hiện các khảo sát hiện trạng nhƣ : Kiểm kê, đánh giá an
toàn đƣờng bộ; Ngƣời tham gia giao thông để cung cấp các số liệu đầu vào cho
việc lập kế hoạch. Từ cơ sở này, kế hoạch này sẽ là chƣơng trình trung hạn, tập
trung vào việc phát triển mạng lƣới làn đƣờng cho xe đạp, các nút giao an toàn
cũng nhƣ huy động các nguồn lực cho việc thực hiện và đƣợc trình UBND TP
Hội An phê duyệt, thực hiện trong 5 năm.
Ông Nguyễn Văn Dũng, Chủ tịch UBND TP Hội An cho biết, thời gian
qua thành phố đã thành công trong việc tổ chức phố không động cơ, tạo không
gian giao thông thân thiện, an toàn cho du khách và ngƣời dân địa phƣơng. Ƣu
tiên không gian cho ngƣời đi bộ, đi xe đạp và các phƣơng tiện giao thông thân
thiện với môi trƣờng.
Dịch vụ “chia sẻ xe đạp” (bike-sharing) đang trở
thành một phong trào hoạt động khá hiệu quả tại
nhiều thành phố ở châu Âu nhƣ: Dusseldorf (Đức);
Barcelona, Pamplona (Tây Ban Nha); Lyon, Rennes
(Pháp); Rome (Italia),... Chỉ với một khoản đầu tƣ
nhỏ đã có thể tậu đƣợc một số lƣợng lớn xe đạp,
triển khai các trạm xe tại nhiều địa điểm và hỗ trợ
điều khiển bằng máy tính, dễ dàng nhận-trả xe.
Ngƣời sử dụng chỉ cần bỏ ra một số tiền nhỏ, hoặc
đƣợc miễn phí nên đều có thể sử dụng xe đạp, góp
phần cải thiện môi trƣờng, giải quyết phần nào tình
trạng tắc nghẽn giao thông,…
Theo Khánh Chi/ Báo Văn hóa
KHÁNH CHI.Hội An đang hƣớng đến "THÀNH PHỐ XE ĐẠP"/Khánh
Chi//Văn Hóa.-2018.-Ngày 21 tháng 5.-Tr.4.
THÁI BÁ DŨNG – KIM EM. 1.Hội An: Sức ép giữa bảo tồn và phát triển.
2.Hội An cần “cây gậy” đủ lực để bảo tồn. 3. “Công cụ pháp lý chỉ là điều
kiện cần, quan trọng là con người”. 4. Hội An – Về đâu hồn phố?/ Thái Bá
Dũng, Kim Em// Tuổi trẻ cuối tuần.- 2018.- Ngày 6 tháng 5.- Tr.8 – 11.
M S N N L C GI CHÂN DU KHÁCH
Thánh địa Mỹ Sơn nằm trên địa bàn xã Duy Phú, H. Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam, từng là một trong 10 điểm đến hấp dẫn của Việt Nam. Tuy
nhiên hiện nay, Mỹ Sơn vẫn mới chỉ thu hút du khách đến tham quan chứ
chưa thể giữ chân họ, vì nhiều lẽ...
Du khách xem một tiết mục văn nghệ Chăm tại Mỹ Sơn.
Khách du lịch chỉ cưỡi ngựa xem hoa
Chị Jen Kerford, một du khách Australia cho biết, đây là lần đầu tiên chị
đến Mỹ Sơn và là điểm phải dừng chân của chị trong khoảng thời gian du lịch
tại Việt Nam. Không gian ở Mỹ Sơn rất đẹp, thời tiết khá giống với các vùng
phía Bắc Australia. Bƣớc chân vào đây, một không gian cổ kính nhƣ hiện lên
trong tâm tƣ của chị, cả một nền văn minh rực rỡ đang dần hiện ra trên từng
bƣớc chân của chị. “Tôi rất thích không gian, những chiếc tháp ở đây. Thật
tuyệt vời!”. Tuy nhiên, chị Jen Kerford chỉ dừng lại đây tìm hiểu, ghi hình
nhƣng không lƣu trú. Tƣơng tự, anh Trần Thanh, một du khách Hà Nội tham
quan Mỹ Sơn cho biết, mặc dù rất tôn trọng di tích Mỹ Sơn nhƣng anh cảm thấy
hụt hẫng vì sản phẩm du lịch nơi đây còn quá ít ỏi. Ngoài hệ thống đền tháp
đang phải sửa chữa, hạn chế chỗ tham quan, chỉ một vài bản nhạc Chăm thì
chẳng có một địa điểm nào để tham quan thêm hoặc lƣu trú tốt.
Theo thống kê, tổng lƣợt khách đến Mỹ Sơn năm 2017 đạt 360.000 lƣợt,
trong đó có 308.700 lƣợt khách quốc tế và 51.300 lƣợt khách nội địa. Tuy
nhiên, theo ông Phan Hộ- Giám đốc BQL Di sản văn hóa Mỹ Sơn, lƣợng khách
du lịch ấy chủ yếu đến đây để ngắm nhìn di sản thế giới nhƣ thế nào, hệ thống
đền tháp ra sao và nghiên cứu quá trình hình thành, kiến trúc, nghệ thuật, quang
cảnh của một vƣơng triều... chứ không chọn nơi đây làm nơi lƣu trú. Ông Hộ, lý
giải, du khách đến nhƣng rất hiếm lƣu trú tại Mỹ Sơn bởi nơi đây không có lợi
thế vƣợt trội so với Hội An và Đà Nẵng. Để giải quyết vấn đề này, BQL đang
tiếp tục hỗ trợ và phát triển vùng du lịch quanh Mỹ Sơn để tạo ra những sản
phẩm đa dạng thu hút khách đến và lƣu trú.
Trƣớc đây, dịch vụ lƣu trú ở Mỹ Sơn đã đƣợc Chính phủ Luxembourg tài
trợ thông qua Làng du lịch cộng đồng thuộc Dự án Tăng cƣờng hoạt động du
lịch do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và tỉnh Quảng Nam phối hợp thực
hiện. Dự án ban đầu đặt mục tiêu là Làng du lịch cộng đồng Mỹ Sơn sẽ cung
cấp dịch vụ homestay - lƣu trú tại nhà dân, dịch vụ ẩm thực, hƣớng dẫn du lịch
địa phƣơng và các hoạt động du lịch bền vững, ít tác động tiêu cực tới môi
trƣờng nhƣ leo núi, chèo thuyền xung quanh khu vực hồ Thạch Bàn, rất gần với
di sản văn hóa Mỹ Sơn. Năm hộ dân tại xã Duy Phú (H. Duy Xuyên) đƣợc dự
án chọn đầu tƣ mỗi hộ 3.000 USD xây các hạng mục nhƣ: phòng ngủ, nhà vệ
sinh, phòng tắm... theo tiêu chuẩn phòng du lịch để phục vụ du khách với giá
cho thuê 150.000-200.000 đồng/phòng/ngày đêm. Các hộ này cũng đã đƣợc tập
huấn kỹ năng về kinh doanh, dịch vụ du lịch và giao tiếp. Nhƣng sau 5 năm
thực hiện, làng du lịch không thu hút đƣợc khách lƣu trú lại và dần trở nên mai
một, mất hẳn.
Công tác bảo tồn luôn đặt lên hàng đầu tại thánh địa Mỹ Sơn.
Bảo tồn di tích để đảm bảo nguồn khách
Song song với phát triển sản phẩm, dịch vụ, BQL Di sản văn hóa thế giới
Mỹ Sơn đang nỗ lực bảo tồn di tích, từ đó tiếp tục thu hút du khách trong nƣớc
và quốc tế. Từ tháng 1-2018 đến nay, tại Mỹ Sơn, các chuyên gia Ấn Độ đã tiếp
tục triển khai trùng tu với Dự án Hợp tác Việt Nam – Ấn Độ về bảo tồn và tôn
tạo Khu Di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn ở các nhóm tháp H, K và A. Đây là dự
án đƣợc Chính phủ hai nƣớc Ấn Độ và Việt Nam ký kết từ năm 2015, kéo dài 5
năm (2016-2021) với kinh phí hơn 60 tỷ đồng, trong đó Chính phủ Ấn Độ tài
trợ hơn 50 tỷ đồng.
Ông Phan Văn Cẩm - Giám đốc Trung tâm Quản lý Di tích và Danh
thắng Quảng Nam, đồng thời là Trƣởng Ban điều hành Dự án khẳng định, đến
thời điểm này các chuyên gia Ấn Độ chỉ mới tiến hành trùng tu ở một vài khối
kiến trúc đơn giản, diện tích nhỏ. Phần lõi của di tích vẫn chƣa đụng vào. Công
tác trùng tu vẫn đảm bảo nguyên vẹn tính chân xác của di tích. Về phía địa
phƣơng vẫn tin tƣởng vào kỹ năng, phƣơng pháp và kỳ vọng vào chuyên gia Ấn
Độ trong công tác trùng tu các nhóm tháp Chăm ở Mỹ Sơn. Ông Cẩm cũng cho
biết, đây là dự án mà Bộ VH-TT và DL đã tham mƣu, đề xuất và Chính phủ Ấn
Độ đã tài trợ để thực hiện. Nhóm chuyên gia kỹ thuật đến từ Viện Nghiên cứu
Khảo sát Khảo cổ học Ấn Độ (ASI) hiểu rõ và có kinh nghiệm trong trùng tu
các tháp Chămpa, đã từng thực hiện các dự án bảo tồn trùng tu tại Angkor
(Campuchia); tại Myanmar.
Còn theo ông Phan Hộ, Mỹ Sơn đã và đang thực hiện công tác trùng tu
trên cơ sở phục dựng nguyên bản càng giống càng tốt. Việc đảm bảo cho di sản
không bị xuống cấp hƣ hỏng cũng chính là đảm bảo lƣợng khách du lịch đến
Mỹ Sơn tham quan, nhất là khách quốc tế. Cùng với đó, BQL di sản này đang
nỗ lực trong việc nâng cấp các sản phẩm du lịch tại khu di sản, trong đó chú
trọng các sản phẩm có tính hỗ trợ, liên kết với địa phƣơng có thế mạnh nhƣ du
lịch sinh thái, làng quê, làng nghề, di tích lịch sử. Từ đó, từng bƣớc đƣa ra sản
phẩm mang tính chiến lƣợc nhƣ xây dựng bến du thuyền trên hồ Thạch Bàn, các
tour xe đạp thăm làng quê, giao lƣu văn nghệ cộng đồng.
Nói về chiến lƣợc phát triển của Mỹ Sơn, ông Hộ cho biết, trong thời gian
tới du lịch Mỹ Sơn sẽ tập trung hƣớng đến cộng đồng để lan tỏa lợi ích, chia sẻ
trách nhiệm. Hiện nay, BQL đang tập trung đẩy mạnh hạ tầng du lịch phía bên
ngoài. Các vị trí đắc địa kinh doanh bên ngoài di sản sẽ ƣu tiên cho tƣ nhân, chủ
yếu là việc phục dụng lại các làng nghề và phát triển các mặt hàng thủ công.
Những giá trị Mỹ Sơn sẽ bền chặt khi công cuộc bảo tồn đƣợc gắn với cộng
đồng di sản xung quanh, đây vừa là nền tảng vững bền vừa là động lực phát
triển. Các mô hình trên đều áp dụng thử nghiệm hợp tác công - tƣ, với sự liên
kết giữa chính quyền, cộng đồng và một công ty du lịch lữ hành địa phƣơng...
để đáp ứng mục đích xây dựng một phƣơng thức tiếp cận bền vững có khả năng
nhân rộng cao.
LÊ ANH TUẤN
LÊ ANH TUẤN. Mỹ Sơn nỗ lực giữ chân du khách/ Lê Anh Tuấn// Công
an Đà N ng.- 2018.- Ngày 29 tháng 5.- Tr.8.
Nghệ nhân ưu tú Lê Quốc Tuấn: Kẻ lãng mạn làm gốm
Đó là một ngƣời kể chuyện của gốm, chuyện từ thuở gốm Thanh Hà còn theo
những gánh hàng dọc sông Thu, chuyện gốm sống đời với phố thị du lịch… Đã
nhiều năm, Lê Quốc Tuấn chọn cho mình con đƣờng riêng, để đuổi theo hay
cũng có thể là giữ lại một giấc mơ hƣng thịnh của làng mình…
1. Những buổi chiều tàn, nắng vẫn chƣa tắt trên bến sông nhộn nhịp tàu
về làng. Và những đoàn khách đủ thứ giọng điệu vẫn chƣa chịu rời điểm du lịch
đƣợc đánh dấu trên tấm vé. Đám trẻ con vừa kịp tan buổi học, lẫn lộn trong
dòng ngƣời lao xao tìm cách lọt vào những con hẻm nhỏ. Khó để tìm thấy một
góc thinh lặng nhìn gốm của làng đang “xoay xở” với nhiều hình thù. Con
đƣờng lát gạch từ những lò nung thuở nào đã hằn vết bởi hàng triệu bƣớc chân.
Những mấu nối giữa các căn nhà cũng đã nhuốm màu rêu. Và đi xa ra một chút,
ở cái đƣờng biên của làng, để biết có một vùng đất làm gốm ven sông, rồi chợ
búa nhộn nhịp – cái chợ đầu mối thủy sản cho cả vùng đô thị du lịch, rồi thanh
niên ngƣời già, họ đâu có làm gốm để diễn…
Nhƣng ngay trong cái vòng tròn trung tâm đó, vẫn có ngƣời chọn cách
đứng một mình giữa đám đông. Anh loay hoay để bắt kịp nhịp điệu của nắng…
khi rớt xuống làng. Là bởi, gốm của Lê Quốc Tuấn hắt lên những tia vàng nhƣ
nắng, trong cái xôn xao làm nhƣ diễn mà diễn nhƣ làm… Những sản phẩm gốm
từ đôi tay của Lê Quốc Tuấn mang dấu ấn riêng, nghệ thuật, văn hóa, tinh tế và
da diết. Hình nhƣ, sự sáng tạo không có bất cứ một quy chuẩn nào, không
trƣờng lớp, không lý luận, chỉ ra đời bằng sự say đắm của ngƣời yêu tha thiết
làng mình, đã là cái đẹp đặc biệt. Chỉ bằng những cuộc truyền dạy của ông, rồi
cha, cả 4 – 5 đời làm gốm miệt mài, Lê Quốc Tuấn lặng lẽ “dọn” cho mình một
con đƣờng. Vƣợt ra khỏi cái giới hạn của làng nghề thủ công với những sản
phẩm gốm truyền thống, Lê Quốc Tuấn tách ra, ngƣợc dòng, và cô độc đi tìm
chỗ đứng cho gốm, bằng cách làm gốm để trƣng bày, gốm nghệ thuật, gốm
dành cho những không gian mộng mơ.
Một chiếc đèn thả trần kết nối từ những “hòn binh” đất, vừa rón rén đời
sống dân gian, vừa ngỡ ngàng về một cái đẹp của sự sang trọng. Những chiếc
hòn binh rỗng, không đáy, vẫn hình bầu dục tụ về “cái núm”, bên trong đựng
những bóng đèn, vừa bật lên, cái cảm giác nhƣ đang ngồi nghe ánh sáng thủ thỉ
ấm cúng trong căn nhà của mình. Đó là ánh sáng huyễn hoặc, hắt lên từ thứ lồng
đèn đƣợc làm nên hình hài bởi đất, nƣớc, lửa và gió. Đèn gốm, cũng chỉ là một
trong hàng trăm sản phẩm gốm mỹ nghệ mà Lê Quốc Tuấn là ngƣời đầu tiên ở
làng gốm Thanh Hà liều lĩnh mang ra thị trƣờng. Năm 2004, lần đầu tiên một
ngƣời thợ làng gốm đi ký hợp đồng cung ứng sản phẩm trang trí đất nung cho
một khách sạn tại TP.Đà Nẵng, với giá trị 35 triệu đồng. Anh nói, cái cảm giác
run rẩy đó vẫn còn ám ảnh anh, để sau này, những cuộc liên kết với các khu du
lịch, resort, từ hàng trăm triệu đến cả tỷ đồng… thì anh vẫn luôn mang ơn gốm.
Cái gì mình làm thực chất, thành tâm, nghiêm cẩn thì sẽ đƣợc nhìn nhận đúng
giá trị và đặt đúng chỗ của nó. Những sản phẩm gốm nhƣ đèn vƣờn, đèn trang
trí, lu đựng nƣớc… mộc mạc, nhƣng tinh tế và đậm bản sắc của miền quê Việt,
từ đôi bàn tay nghệ nhân Lê Quốc Tuấn, đã đến với rất nhiều vùng đất.
2. Đôi bàn tay con ngƣời sinh ra từ làng gốm, đã thơm thảo mùi khói, mùi
đất sét từ những ngày thơ. Dẫu có lúc phải “ruồng rẫy” để kiếm cơm, nhƣng thứ
gì đã là máu thịt, dẫu có cố chối bỏ, vẫn đâu đó làm mình nhói từng cơn, mỗi
ngày. Năm 30 tuổi, Lê Quốc Tuấn bỏ làng đi làm thợ. Chuyện về gốm cứ nghĩ
sẽ phai lạt theo những dồn đuổi của áo cơm, thị trƣờng. Nhƣng những khi giữa
phố, bất chợt gặp những thúng tò he bày biện ở góc đƣờng, một ngƣời đàn bà
đơn độc giữa hàng trăm “thú đất”, thì cái hƣơng gốm lại dậy lên trong huyết
quản. Lê Quốc Tuấn nói, giá nhƣ lúc đó anh vẫn đang làm gốm. Sẽ khác. Và vì
những lần “sẽ khác” nhƣ vậy, mà con ngƣời mê đắm “vọc đất” này trở về. Về
bằng cái quyết chí chọn gốm để làm kế sinh nhai, để làm cái nghiệp của chính
cuộc đời mình.
Mà ngó nghĩ lại, anh có đi đâu xa, vẫn lang thang đâu đó trong những con
hẻm ngõ phố của Hội An, nhƣng suốt nhiều năm, Lê Quốc Tuấn dẹp lò nung,
không muốn nhìn những sản phẩm gốm của làng bị nâng lên hạ xuống, rồi
chỏng chơ vỡ vụn khắp nơi trên những đƣờng làng. Một thời đoạn mà gốm gần
nhƣ vật vã trong những cơn biến xoay của du nhập hàng hóa, của những tiện
nghi mau lẹ. Trăm năm hƣng thịnh của làng, chỉ còn lại trong những hơi thở dài
tiếc nhớ của ngƣời già. Lê Quốc Tuấn nói, may mắn cho gốm Thanh Hà, nhƣng
cũng là thách thức của ngƣời ở làng, rằng trong cuộc chơi của ngành du lịch
đang nhƣ vũ bão đổ vào khắp nơi, thì làm gì để gốm vẫn giữ mình là làng gốm
Việt, nhƣng vẫn không bị lạc nhịp với dòng chảy đó. Và cũng là may mắn, khi
có một chính quyền biết giữ làng với những giá trị riêng có của nó. Ngƣời làng
nghề sống đƣợc nhờ du lịch, quay về làm gốm. Những con tò he đặc trƣng của
Thanh Hà, ngày một tinh xảo hơn và đi xa hơn.
Lê Quốc Tuấn về ở giữa làng mình, dựng một ngôi nhà bằng sức sáng tạo
từ tình yêu của gốm. Bàn xoay bàn chuốt đƣợc bày biện trở lại, những câu
chuyện của gốm đƣợc kể nhiều hơn. Những vách tƣờng dựng nên từ sản phẩm
của gốm, chuộng cái ánh sáng tự nhiên để làm gốm nổi bật. Với Lê Quốc Tuấn,
riêng dòng gốm trang trí với cái tinh thần phải kể đƣợc chuyện dân gian. Bởi
gốm, vốn dĩ là sản phẩm tinh hoa của đất, của lửa, của lấm lem nhọc nhằn
những ngƣời dân quê. Chuyện mục đồng đƣợc vẽ vào những chum vại của gốm
không nung. Hàng ghe neo lại ở bến sông đƣợc đƣa vào sinh động trong những
chiếc đèn gốm dựng ở các khu resort. Còn hơn thế, Lê Quốc Tuấn gầy lại lò
gốm của gia đình mình bằng việc tập trung vào sản phẩm ngói.
Những viên ngói âm dƣơng, ngói mấu, ngói ống để phục vụ cho việc
trùng tu, tôn tạo di tích cổ, và ngói trang trí cung cấp cho các khu du lịch, Tuấn
mày mò cải thiện từng ngày. Bây giờ tuổi sắp vào ngƣỡng 50, chuyện áo cơm
không còn vây ráp nặng nề, anh lại bắt lòng mình sống với những si mê ngày
trẻ. Là câu chuyện vẽ vời trên gốm, đƣa gốm vào dòng sản phẩm nghệ thuật.
Mặt nạ từ đất sét, khởi đi từ lò gốm của Lê Quốc Tuấn. Những đƣờng nét vung
vẩy phóng khoáng tạo hình trên đất sét, đƣa vào lò nung, trở ra, lại viết nên câu
chuyện mới. Chuyện của những mặt nạ đƣợc đắp vẽ theo cá tính của ngƣời sở
hữu nó. Lê Quốc Tuấn chỉ tạo nên một cái khuôn, với đƣờng nét cơ bản nhƣng
lại không chi li tỷ lệ hay cân đo tính toán, nó là sự ngẫu nhiên theo cảm xúc của
ngƣời tạo tác. Và phần còn lại, hoàn thiện nên sản phẩm, là việc của kẻ chạm
vào mặt nạ gốm, đôi mắt hay khuôn miệng sẽ ra sao, là do anh. Lê Quốc Tuấn
khiến ngƣời ta thấy mình cũng là một kẻ biết nghệ thuật, khi một chiếc mặt nạ
trở thành thế nào đều phụ thuộc vào những nét phối màu của kẻ sở hữu sau
cùng.
Rồi cả những con tò he. Tƣởng bé mọn, nhƣng là tinh túy của ngƣời làm
gốm. Lê Quốc Tuấn trằn trọc với những chiếc khuôn đúc, để làm sao đó, đáp
ứng đƣợc số lƣợng tò he mà du khách tìm đến Hội An cần nhiều hơn mỗi ngày.
Kẻ lãng mạn của làng chƣa bao giờ thôi nghĩ, thôi mơ, dầu ở cái thời đoạn này,
mơ tƣởng thôi cũng cần đến rất nhiều năng lƣợng…
LÊ QUÂN
LÊ QUÂN.Nghệ nhân ƣu tú Lê Quốc Tuấn: Kẻ lãng mạn làm gốm/Lê
Quân//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 19-20 tháng 5.-Tr.12.
Nghệ nhân điêu khắc gỗ Cơ Tu
Bhriu Pố là một trí thức dân tộc Cơ Tu, là người đầu tiên ở vùng núi
Quảng Nam có bằng đại học sư phạm về sinh vật học, Trường Việt Bắc
năm 1973 - 1977. Ông am hiểu văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào
Cơ Tu, tâm huyết với di sản văn hóa dân tộc, luôn đi đầu trong việc bảo
tồn, phát huy, truyền dạy về nghệ thuật điêu khắc gỗ và nhiều tri thức dân
gian cho bà con cùng thế hệ trẻ.
Bhriu Pố chạm khắc tác phẩm Gà trống.Ảnh: TẤN VỊNH
1. Sau thời gian cống hiến cho ngành giáo dục huyện Hiên cũ, Bhriu Pố xin
nghỉ hƣu sớm và về sinh sống tại quê nhà - xã Lăng, huyện Tây Giang. Khi về
với dân làng, ông là ngƣời gắn bó với nƣơng rẫy, từng đƣợc mệnh danh là “vua
ba kích” vì trồng nhiều cây dƣợc liệu quý này để tạo nguồn thu nhập và trở
thành “nông dân sản xuất giỏi”.
Bhriu Pố gắn bó từ lâu với những tác phẩm điêu khắc gỗ - một loại nghệ thuật
tạo hình gắn liền với đời sống văn hóa, tâm linh của ngƣời Cơ Tu. Những gƣơl
ở xã Lăng hay huyện Tây Giang đều có bóng dáng, ý tƣởng của ông. Ông tự tay
chạm khắc hoặc thiết kế, vẽ mẫu rồi hƣớng dẫn cho các nghệ nhân trẻ, trai tráng
trong làng thực hiện. Điều đặc biệt là tác phẩm điêu khắc của ông đã đến nhiều
nơi trong nƣớc, giới thiệu cho nhiều ngƣời biết về nghệ thuật đặc sắc của dân
tộc mình. Bhriu Pố đƣợc tỉnh và huyện cử tham gia nhiều cuộc thi, trại điêu
khắc gỗ dân gian tại các tỉnh, thành phố trong nƣớc.
Năm 2007, nghệ nhân Bhriu Pố tham gia trại sáng tác điêu khắc tại huyện
Buôn Đôn (Đăk Lăk), ông đã sáng tác 2 bức tƣợng độc đáo là: “Rắn thần” và
“Già làng”. Tác phẩm của ông đƣợc trƣng bày tại Vƣờn tƣợng Buôn Đôn cùng
tác phẩm điêu khắc của các nghệ nhân Tây Nguyên. Ngƣời viết bài này đƣợc
thƣởng lãm những tác phẩm này của ông và đƣợc nghe ông giải thích về ý nghĩa
của nó. Theo ông, rắn thần (bhi’dƣa) là một quái vật có cái đầu và bộ chân tuyệt
đẹp của con gà trống, cái mình mềm mại của con rắn và cái đuôi thƣớt tha uốn
lƣợn của con cá. Truyền thuyết kể rằng con vật này có trách nhiệm gìn giữ cái
hũ của thần nƣớc. Chính vì vậy, rắn thần chỉ sống ở vùng đầm lầy, ao hồ, sông
suối... Trong làng, nếu ngƣời nào có ý nghĩ, lời nói hoặc việc làm xấu xa thì qua
những vùng có nƣớc sẽ bị rắn thần trừng phạt. Ngƣời Cơ Tu rất tin ở sự hiển
linh của rắn thần - hình tƣợng có ý nghĩa răn đe, giáo dục những ngƣời sống
trong buôn làng, cộng đồng phải ăn ở hòa thuận, suy nghĩ trong sáng, không nói
xằng bậy, không làm điều xấu, điều ác để cuộc sống tốt đẹp hơn. Tƣợng có phần
dƣới đế là chiếc ché, vẽ hình kỳ đà, tắc kè, thân rắn quấn trên các trụ, vƣơn lên
đỉnh trụ là đầu gà trống. Tƣợng rắn thần đƣợc bố trí ở nơi tiếp giáp của cây xà
ngang, vừa tạo nét thẩm mỹ vừa có chức năng liên kết, chịu lực giữ vững chắc
cho ngôi nhà. Tác phẩm này cũng ông tạo tác để trang trí tại gƣơl thôn Pơ Ning
và gƣơl xã Lăng quê ông.
2. Năm 2016, Bhriu Pố và một số nghệ nhân Cơ Tu đƣợc mời dự tham
gia giao lƣu văn hóa tại Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam tại Đồng Mô (Sơn
Tây, Hà Nội). Tại đây ông đã tạc nhiều bức tƣợng độc đáo nhƣ rắn, chó, chim
nhồng, chim gầm ghì và một số bức tƣợng khác. Năm 2017 là năm bận rộn nhất
của nghệ nhân Bhriu Pố. Ông và những nghệ nhân khác trong làng tham gia 2
kỳ festival. Tại Festival Cà phê Buôn Ma Thuột vào tháng 3.2017, các nghệ
nhân điêu khắc gỗ Cơ Tu ở xã Lăng gồm Bhriu Pố, Bhriu Tích, Zơrâm Dƣ,
Pơloong Tƣ, Bhling Bheo đã tham gia cuộc thi tạc tƣợng gỗ với 5 tác phẩm,
trong đó có 3 tác phẩm về đề tài chim muông: chim tích, chim jắt, chim nhòng,
1 tác phẩm về đề tài gà trống và 1 tác phẩm về đề tài con chó. Tác phẩm điêu
khắc của nghệ nhân Bhriu Pố đã đƣợc trao giải khuyến khích, đƣợc lƣu giữ,
phục vụ cho công tác trƣng bày tại Bảo tàng Đăk Lăk và tại Vƣờn tƣợng khu du
lịch sinh thái buôn Kô Tam, Buôn Ma Thuột.
Ở lễ hội phục dựng cây nêu trong khuôn khổ Festival Di sản Quảng Nam
lần thứ VI năm 2017, nghệ nhân Bhriu Pố đã góp công rất lớn trong việc phục
dựng cây nêu của ngƣời Cơ Tu. Cây nêu của nghệ nhân Bhriu Pố chế tác đƣợc
dựng ở Làng văn hóa truyền thống Cơ Tu Tây Giang, và là cây nêu có kích
thƣớc lớn nhất từ trƣớc đến nay. Tôi từng chụp bộ sƣu tập ảnh cây nêu, cột lễ
của đồng bào Cơ Tu nhƣng chƣa thấy tác phẩm điêu khắc nào khắc họa đầy đủ,
mang ý nghĩa biểu trƣng độc đáo nhƣ cây nêu này. Cây nêu của ông đƣợc tạo
tác rất kỳ công với 9 mô típ trang trí khác nhau, thứ tự từ dƣới lên trên, đó là:
dây thừng (bhrƣớt pơr lanh), dây thắt lƣng phụ nữ (cơtêêng pa pát), hoa cây chi
rong - mô típ này lặp lại 3 lần trên thân cột, chuỗi cƣờm crôl, a pac, crơ lăng, pa
pa và gƣơng. Trong đó, dây thừng tƣợng trƣng cho dây buộc gia súc với ý mong
muốn cho đàn gia súc đông đúc; dây thắt lƣng là hình ảnh tái hiện loại dây đƣợc
dệt bằng vải bông rất dài để buộc thắt lƣng và buộc tóc khi tham gia điệu múa
tâng tung da dá, tƣợng trƣng cho vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Cơ Tu; 3 mô típ hoa
chi rong trên cột lễ biểu tƣợng cho nhiều vật dụng thiết thân đến cuộc sống hàng
ngày của đồng bào nhƣ chày cối, xoong nồi, bát đĩa và cả hình ảnh mang tính
công thức để ngƣời ta nhìn vào đó mà trang trí hoa văn trên các đồ đan lát, thêu
dệt. Cây chi rong là loại cây phát triển nhanh, rất tƣơi tốt, đầy sức sống, nên
ngƣời Cơ Tu thƣờng lấy vài nhánh lá cây này buộc vào cây chọc lỗ để tỉa lúa,
cầu mong cho cây lúa lên nhanh nhƣ cây chi rong. Chuỗi cƣờm tròn trên cây cột
lễ miêu tả hạt cƣờm crôl, là một loại cƣờm to, đẹp, nhiều màu sắc và đắt giá
nhất (một con trâu to trở lên), là loại trang sức mà ngƣời đàn ông Cơ Tu thích
nhất, đƣợc đeo trong tất cả lễ hội truyền thống của dân tộc mình. A pác có thiết
diện hình hộp chữ nhật, mặt lớn nằm phía chính diện của cột lễ, nơi tập trung
nhiều hoa văn, hình vẽ nhƣ mặt trăng, mặt trời, con rồng a dóc, lá cây a tút, cây
a dƣơng (cây mây), cây tà đin - loại cây để lấy nƣớc làm rƣợu... Kết thúc lễ hội,
cây nêu của dân tộc Cơ Tu huyện Tây Giang đã đƣợc Ban tổ chức trao giải A.
3. Khi mới tách huyện Tây Giang, lãnh đạo huyện đã huy động và kêu gọi các
nghệ nhân giỏi tham gia phục dựng Làng văn hóa truyền thống Cơ Tu. Bhriu Pố
là nghệ nhân hăng say nhất trong việc tập hợp các già làng, cùng nhau xây
dựng, kiến thiết nên ngôi làng truyền thống độc nhất vô nhị ở miền tây xứ
Quảng. Tại đây có nhiều ngôi nhà mang đậm dấu ấn văn hóa tộc ngƣời nhƣ nhà
dài, nhà moong, gƣơl, nhà mồ. Huyện Tây Giang đã giao cho ông chủ trì, phục
dựng ngôi nhà mồ độc đáo, mang phong cách nghệ thuật của đồng bào Cơ Tu
vùng cao. Trong nhà mồ có chiếc quan tài 2 lớp chạm khắc đầu trâu, màu sắc
đỏ, đen, trắng rất đặc trƣng. Hình chim tring, gà trống, kỳ đà, rồng, rắn... trang
trí trên cột, nóc, kèo nhà mồ. Nhiều ngƣời am hiểu văn hóa Cơ Tu cho rằng đây
là loại hình quan tài cổ nhất, đẹp nhất. Với trào lƣu làm nhà mồ bằng bê tông thì
việc tái hiện một ngôi nhà mồ bằng gỗ mang lối kiến trúc và điêu khắc cổ xƣa
nhƣ thế cũng là cách làm bảo tàng sống động.
Nghệ nhân Bhriu Pố đã cống hiến tận tâm tận lực cho văn hóa truyền
thống của dân tộc mình. Những tác phẩm điêu khắc của ông không đơn thuần
chỉ làm đẹp, trang trí mà còn mang ý nghĩa nhân sinh quan, triết lý, đạo lý và
thấm đẫm tình yêu quê hƣơng, bản làng và núi rừng. Ngƣời viết bài này, với sự
trân trọng tài năng của ông, may mắn đƣợc chiêm ngƣỡng và sƣu tầm, lƣu giữ
nhiều tác phẩm điêu khắc của nghệ nhân Bhriu Pố và đã đƣa vào tập sách ảnh:
“Điêu khắc gỗ Cơ Tu” (Nhà xuất bản Thông tấn, năm 2017). Năm nay đã 78
tuổi nhƣng nghệ nhân Bhriu Pố vẫn ấp ủ và sáng tác những đề tài mới để tiếp
tục trình làng, góp phần làm giàu có tinh hoa di sản văn hóa Cơ Tu.
TẤN VỊNH
TẤN VỊNH.Nghệ nhân điêu khắc gỗ Cơ Tu/Tấn Vịnh//Quảng Nam cuối
tuần.-2018.-Ngày 12-13 tháng 5.-Tr.12.
Làng gốm Thanh Hà - nét xưa lưu giữ Ký ức tuổi thơ
Hồi nhỏ còn học tiểu học ở Hội An, một lần vào dịp nghỉ hè, chúng tôi
đƣợc nhà trƣờng tổ chức đi tham quan làng gốm Thanh Hà cách trung tâm phố
Hội không xa. Băng qua những con đƣờng đất khúc khuỷu, cạnh dòng sông Thu
Bồn, chúng tôi vào nhà của các gia đình lâu đời sản xuất đồ gốm. Điều thú vị
nhất, đó là lần đầu tiên, chúng tôi đƣợc nhìn thấy tận mắt cách thức chế tác từ
bàn tay của những ngƣời thợ để làm nên những vật dụng quen thuộc với đời
sống hàng ngày nhƣ: lu, hủ, nồi, niêu, chén bát, bùng binh (heo đất)... và các
loại đồ chơi nho nhỏ dành cho trẻ con. Ngoài những lò gạch lớn rải rác cách xa
nhau thì hầu nhƣ mỗi gia đình nơi đây đều có những lò gốm nhỏ nằm trong sân
vƣờn. Các sản phẩm thƣờng nằm chất đống ngổn ngang chờ phân loại cho
khách hàng đến mua, phân phối cho các chợ Hội An, Điện Bàn, Đà Nẵng và các
địa phƣơng khác... Một điều thú vị khác, là bọn học trò nhỏ chúng tôi đƣợc
thoải mái nghịch vọc, mày mò làm nên những sản phẩm theo ý mình dƣới sự
hƣớng dẫn của những ngƣời thợ quê.
Đó có lẽ cũng là kỷ niệm duy nhất khó quên về bài học lao động, tình yêu
thiên nhiên của tôi từ làng quê thanh bình này trong thuở ấu thơ.
Một nghệ nhân cao tuổi làng gốm Thanh Hà.
Làng gốm bây giờ
Thế rồi, suốt một thời gian dài sau ngày đất nƣớc hòa bình, hoạt động
làng gốm Thanh Hà gần nhƣ bị quên lãng vì sản xuất ít ỏi, hàng gốm không
cạnh tranh kịp với các hàng dân dụng công nghiệp. Mãi đến khi Hội An đƣợc
công nhận là Di sản văn hóa thế giới (1999), chính quyền thị xã mới bắt đầu
triển khai chú trọng đầu tƣ, khôi phục làng nghề và đƣa làng gốm Thanh Hà vào
danh mục tour du lịch. Ngoài ra, hằng năm, cứ đến ngày mồng 10 tháng 7 âm
lịch, ngƣời dân làng gốm lại trang trọng tổ chức lễ Giỗ Tổ nghề tại khu miếu
Nam Diêu tri ân công đức tổ tiên đã gầy dựng, truyền nghề cho con cháu, với
nhiều nghi thức độc đáo đƣợc bảo tồn hàng trăm năm qua, thu hút đông đảo
ngƣời dân và du khách trong và ngoài nƣớc tham gia. Mới đây, trong dịp theo
đoàn công tác báo chí TP Hồ Chí Minh về thăm làng gốm Thanh Hà, thực tế
sinh động nơi đây cho thấy còn bất ngờ hơn những gì tôi từng biết qua thông tin
báo chí.
Theo sự hƣớng dẫn của ngƣời địa phƣơng, chúng tôi đổ xe ở chợ Cá
Thanh Hà. Lúc này, trời đã xế chiều, nhƣng vẫn còn đông đúc các đoàn khách
du lịch đứng chờ xe trung chuyển để vào làng gốm cách đó chừng 1 km. Việc
đƣa xe trung chuyển này mới áp dụng từ tháng 3-2018. Giá vé tham quan cũng
vừa điều chỉnh là 35.000 đồng/khách từ ngày 1-5-2018. Cùng với việc thay đổi
giá, làng Gốm Thanh Hà chú trọng nâng cao chất lƣợng các dịch vụ hiện có, cải
thiện cảnh quan du lịch và tiếp tục bổ sung các loại hình mới để phục vụ nhu
cầu tham quan của du khách. Cụ thể, khi mua vé tham quan Làng Gốm Thanh
Hà, du khách sẽ đƣợc đảm bảo các quyền lợi sau: Xem các nghệ nhân trình
nghề chuốt gốm; Tham gia trải nghiệm "Thử tài là nghệ nhân chuốt gốm"; Nhận
quà lƣu niệm là 1 con thổi bằng đất nung; Đƣợc trung chuyển bằng xe điện
miễn phí từ bãi đỗ xe vào trong làng (2 chiều)...
Dù ngày nay, làng gốm Thanh Hà đã khang trang hơn rất nhiều so với ký
ức trong tôi thời thơ ấu, nhƣng những ngƣời thợ gốm vẫn là ngƣời dân quê có
nụ cƣời hồn hậu, chân chất ngày xƣa. Vẫn với đôi bàn tay khéo léo cùng chiếc
bàn xoay đơn giản, các sản phẩm chủ yếu của làng vẫn là đồ dùng thân thuộc
hàng ngày. Khác hơn là kiểu dáng giờ đây khá đa dạng và phong phú về màu
sắc. Nhất là để đáp ứng cho nhu cầu của khách du lịch, làng cũng đã cho ra đời
hàng loạt các sản phẩm lƣu niệm bằng gốm rất đẹp mắt nhƣ mặt nạ gốm, phù
điêu, gạt tàn, tò he...
Bên cạnh việc tham quan, thƣởng thức tài hoa trong nghệ thuật chế tác, điều du
khách càng thích thú hơn là đƣợc các nghệ nhân hƣớng dẫn để tự tay làm nên
các sản phẩm gốm chỉ với đất sét. Đến nay, theo đánh giá của các chuyên gia,
làng gốm Thanh Hà vẫn sản xuất thủ công với phƣơng tiện và kỹ thuật truyền
thống, trở thành một bảo tàng sống, một nguồn tƣ liệu quý giá về nghề gốm cổ
truyền của Hội An nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Công viên đất nung Đặc biệt từ năm 2015, với sự ra đời Công viên Đất nung Thanh Hà (còn
gọi là Công viên gốm Thanh Hà hay Bảo tàng gốm Thanh Hà), làng gốm Thanh
Hà ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn với du khách. Đƣợc khởi công xây
dựng từ năm 2011, sau hơn 4 năm xây dựng, Công viên Đất nung chính thức đi
vào hoạt động với diện tích hơn 6.000m2, cấu thành bởi gạch và đất nung, đƣợc
đánh giá là lớn nhất và "độc" nhất cả nƣớc hiện nay. Đây là nơi gìn giữ những
nét đẹp của làng nghề, là giấc mơ chung của những ngƣời con Thanh Hà, đồng
thời, là ngôi nhà chung của các nghệ sĩ từ khắp nơi hội tụ về thỏa ƣớc mơ với
đất và lửa để sáng tạo. Công viên gốm Thanh Hà đƣợc kiến trúc sƣ Nguyễn Văn
Nguyên thiết kế, không gian cấu trúc gồm 9 khu riêng biệt: khu lò gốm, khu
Bảo tàng làng nghề, khu sản phẩm làng, khu chợ đất nung, khu thế giới thu nhỏ,
khu vƣờn sắp đặt, khu trại sản xuất, khu gốm Sa Huỳnh - Chăm, khu các làng
nghề truyền thống, và khu triển lãm. Hai tòa nhà chính trong Công viên Đất
nung Thanh Hà biểu trƣng cho hai loại lò nung gốm của Thanh Hà. Nhà bên trái
biểu trƣng cho "lò úp" dùng để trƣng bày lịch sử, các hiện vật cổ của làng gốm
Thanh Hà với ý nghĩa bảo tồn và giữ gìn truyền thống. Nhà bên phải biểu trƣng
cho "lò ngửa" - nơi trƣng bày và triển lãm các sản phẩm gốm Thanh Hà và của
một số làng nghề khác nhƣ Bát Tràng, Phù Lãng, Vĩnh Long... Giữa công viên
là một hồ nƣớc bao quanh khoảnh sân tròn - biểu trƣng cho chiếc bàn chuốt.
Một cây cầu gỗ bắc ngang thể hiện cho việc ngƣời xƣa đã lợi dụng sức nƣớc,
kết củi thành mảng và chuyển về làng nung gốm. Điểm nhấn của Công viên Đất
nung Thanh Hà là khu thế giới thu nhỏ và Bảo tàng làng nghề gốm. Nhiều công
trình nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của nhân loại đƣợc tái hiện một cách rõ
nét và sinh động nơi đây nhƣ: tháp nghiêng Pisa (Italia), đền Taj Mahal (Ấn
Độ), nhà hát Sydney (Australia)... Không chỉ là công viên đất nung nơi đây còn
là Bảo tàng nghề gốm của Việt Nam với hàng nghìn sản phẩm gốm, hiện vật
gốm, tranh ảnh,... liên quan đến lịch sử, văn hóa và nghệ thuật kiến trúc điêu
khắc gốm của ngƣời Việt. Công viên Đất nung Thanh Hà đƣợc đề cử trong top
10 công trình kiến trúc ấn tƣợng nhất của Việt Nam năm 2016.
TRẦN TRUNG SÁNG
TRẦN TRUNG SÁNG.Làng gốm Thanh Hà - nét xƣa lƣu giữ/Trần Trung
Sáng//Công an Đà Nẵng.-2018.-Ngày 15 tháng 5.-Tr.6.
Độc đáo lễ hội cúng thần rừng của người Cơ Tu Đồng bào Cơ Tu sinh sống chủ yếu ở các huyện Tây Giang, Đông Giang,
Nam Giang (Quảng Nam). Ngƣời Cơ tu từ lâu đời đã kiến tạo, đúc kết rất nhiều
những giá trị văn hóa quý giá cho dân tộc mình. Ngoài những giá trị văn hóa
nhƣ: Không gian kiến trúc nhà ở truyền thống, các làn điệu dân ca, dân vũ điệu
múa Tân tung, Da dá nói lí-hát lý, nghề dệt thổ cẩm, đồng bào Cơ tu quần cƣ
lâu đời ở H. Tây Giang còn có một kho tàng về văn hóa kiêng cữ, giữ rừng, và
các câu hát khấn bái cúng thần rừng độc đáo, mang nhiều ý nghĩa, truyền dạy
con cháu dân làng biết yêu núi rừng, sông suối, và có trách nhiệm giữ gìn, bảo
vệ các khu rừng thiêng, rừng đầu nguồn có nhiều cây gỗ to, nhiều cây thuốc
quý.
Rộn ràng lễ hội tạ ơn rừng nơi Vương quốc Pơ mu Tây Giang. Ảnh: Pơ
loong Plênh
Vào dịp Lễ hội khai năm tạ ơn rừng đƣợc tổ chức đầu tháng 3-2018, tại
Làng sinh thái Pơ mu, nơi quần tụ của hơn 2.011 cây Pơ mu cổ thụ (trong đó có
75 cây đƣợc công nhận là cây Di sản Việt Nam), chúng tôi may mắn đƣợc tận
mắt chứng kiến nghi lễ cúng thần rừng do các già làng thực hiện ngay bên cây
Pơ mu ngũ hổ nằm cạnh làng Pơ mu thanh bình.
Theo Già làng Cơ lâu Bhlao, một ngƣời đƣợc dân làng xem là báu vật
sống về văn hóa, về các luật tục cúng rừng của ngƣời Cơ Tu ở xã Tr' hy H. Tây
Giang cho biết: "Từ xa xƣa lễ hội khai năm tạ ơn rừng này đã có rồi, Cơ Tu gọi
là Bhrợ bhiệc Loong C'moo bhuối hơng K'coong da diing, xƣa làng nghèo thì
cúng một con gà, một con heo, làng có điều kiện, nuôi đƣợc trâu bò thì làm lễ
hội cúng rừng lớn hơn nhƣ tổ chức cho cả làng ăn trâu, bò, múa dân vũ hát giao
duyên giữa làng kết nghĩa nhằm để tạ ơn thần rừng trong một năm qua đã cho
dân làng mƣa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân làng an lành".
Các vật cúng thần rừng không thể thiếu là 2 hòn đá, 2 quả trứng gà, gạo,
muối, lá cây chôm chôm, gà trống, heo đực, dê đực, ché rƣợu cần, và các biểu
tƣợng chạm khắc bằng gỗ, một bên đại diện cho ma quỷ, một bên đại diện cho
con ngƣời đƣợc dựng lên ngay lều cúng trong tán rừng già, rừng thiêng. Từ khi
có Đảng, Bác Hồ cách mạng, đồng bào Cơ Tu khi làm lễ cúng rừng trang trí
thêm ảnh Bác, và lá cờ Tổ quốc, mang ý nghĩa là ngƣời Cơ Tu giữ trọn lòng tin
với Đảng, Bác Hồ, gìn giữ tốt hơn những cánh rừng nguyên sinh thêm tƣơi tốt
bằng những luật tục bất thành văn của cộng đồng mình và thực hiện tốt các chủ
trƣơng, chính sách, pháp luật về chăm sóc và bảo vệ rừng.
Hướng dẫn viên A ting Pai giới thiệu cho du khách nước ngoài về ý nghĩa
của nhà cúng thần rừng giữa rừng Vương quốc Pơ mu. Ảnh: Pơ loong
Plênh
Dƣới tán rừng nguyên sinh đầy tiếng chim hót, suối mát hiền hòa, hòa
quyện với điệu múa Tân tung, Da dá dịu dàng, hùng dũng thể hiện lòng kiên
định của trai, gái, trẻ, già Cơ Tu quyết tâm bám đất giữ làng, giữ màu xanh
thanh bình của núi rừng luôn mãi xanh tƣơi, đơm hoa kết trái ngọt lành để cho
mùa lễ hội cúng rừng năm tới lại đƣợc ấm no, giàu đẹp rộn ràng, đông vui hơn
nữa trong điệu trống, tiếng chiêng, câu khấn của già làng vang xa khắp non
ngàn. Gọi bạn bè khắp nơi về chơi với hội làng Cơ Tu, với những luật tục giữ
rừng rất đậm tính nhân văn, hài hòa với thiên nhiên môi trƣờng sống, họ xem
rừng là nhà, cỏ cây là bầu bạn. Minh chứng cho những luật tục cúng rừng, kiêng
cử giữ rừng đó ở Tây Giang đó là hơn 70% diện tích tự nhiên trên toàn huyện có
độ che phủ của tán rừng nguyên sinh. Trong đó có hơn 500 cây lim xanh có độ
tuổi hơn 1.000 năm ở dọc sông Lăng, xã Lăng, 2.011 cây Pơ mu, Hơn 500 ha
cây hoa Đỗ quyên cổ và nhiều loại động thực vật quý hiếm khác.
Trên các bản làng của đồng bào Cơ Tu Tây Giang vẫn hằng đêm nghe
câu hát lý truyền cho nhau nghe các luật tục, hƣơng ƣớc giữ rừng, giữ môi
trƣờng sống trong lành, nhất là những cánh rừng có nhiều gỗ quý. Bởi một điều
rất hay trong luật tục giữ rừng của đồng bào Cơ Tu nơi đây, hễ ai chặt cây làm
nhà thì phải cúng rừng, xin Yàng, xin hội đồng già làng, khi làng chấp thuận thì
mới đƣợc làm. Ai vi phạm luật tục, hƣơng ƣớc của làng về rừng thì làng sẽ phạt
rất nặng, do vậy mà ít có ngƣời dân nào dám vi phạm, họ còn có trách nhiệm
trong việc giữ rừng chung của cộng đồng dân tộc mình. Thiết nghĩ, Đảng và
Nhà nƣớc cần quan tâm hơn nữa đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số sống ở nơi
biên giới, hải đảo, nơi có điều kiện kinh tế còn vô vàn khó khăn bằng những
chính sách thiết thực, hiệu quả đến sát gần với ngƣời dân, trong đó có đồng bào
Cơ Tu ở Tây Giang, nhất là về tạo sinh kế bền vững bằng mô hình nuôi, trồng
cây dƣợc liệu, làm du lịch sinh thái, văn hóa cộng đồng dƣới tán rừng, ngôi làng
văn hóa, từ đó góp phần giúp ngƣời dân chủ thể của rừng, của văn hóa đó vừa
giữ rừng, giữ văn hóa vừa có nguồn thu nhập ổn định, hạn chế thấp nhất nạn
phá rừng già để làm nƣơng rẫy, từ đó xây dựng vùng biên ngày càng lớn mạnh,
giàu đẹp hơn!
Pơ loong Plênh
PƠ LOONG P LÊNH.Độc đáo lễ hội cúng thần rừng của ngƣ i Cơ Tu/Pơ
Loong P lênh//Công An Đà Nẵng.-2018.-Ngày 18 tháng 5.-Tr.6.
Giữ bản sắc làng Việc giữ lại cảnh quan và bản sắc văn hóa những làng quê được coi như
tiền đề để phát triển du lịch sinh thái gắn với nông nghiệp, nông thôn,
trong lúc nguồn tài nguyên du lịch đã hao mòn rất lớn trong nhiều năm
qua.
Các hoạt động du lịch thiên về nông nghiệp nông thôn vẫn còn khá manh
mún.
1. Trung tuần tháng 5 này, Quảng Nam sẽ tổ chức một cuộc hội thảo để
cùng nhìn nhận và vạch ra hƣớng đi mới trong câu chuyện đƣa du lịch sinh thái
phát triển bền vững gắn với hoạt động nông nghiệp, nông thôn. Đƣa câu chuyện
phát triển nông thôn Quảng Nam hay rộng hơn, là một nền nông nghiệp vùng
đất vào “cuộc chơi” của ngành du lịch, hẳn đã hàm ý trong đó yếu tố về du lịch
trách nhiệm. Ông Hồ Tấn Cƣờng - Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL cho biết,
cách tiếp cận của du lịch trách nhiệm và phát triển du lịch bền vững đều hƣớng
đến việc tạo ra những trải nghiệm tích cực cho du khách và chủ nhà. Ở đó, nhận
thức về môi trƣờng và văn hóa sẽ là tiêu chí ƣu tiên, cùng với việc giảm đến
mức thấp nhất những tác động xấu của du lịch tới vùng đất đó. Đồng thời chú
trọng tới ngƣời nghèo bằng cách trao quyền cho ngƣời dân địa phƣơng, tăng đến
mức tối đa thu nhập và việc làm của họ từ du lịch. Từ nhiều năm nay, các sản
phẩm du lịch gắn với nông nghiệp, nông thôn của Quảng Nam đã ra đời, tuy
nhiên, theo ông Cƣờng, vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ và tập trung chủ yếu ở Hội
An.
Đánh giá về tiềm năng của Quảng Nam trong việc phát triển du lịch gắn
với nông nghiệp, nông thôn, khá nhiều ngƣời cho rằng đây là vùng đất có hệ
sinh thái đa dạng, nông thôn còn nhiều yếu tố truyền thống nhƣ không gian cảnh
quan hay nhiều làng nghề truyền thống. Chƣa kể các dự án nông nghiệp công
nghệ cao sẽ là một sản phẩm du lịch thu hút trên tiêu chí nông nghiệp gắn với
du lịch sinh thái, du lịch dựa vào cộng đồng. Thực tế đã có nhiều địa phƣơng
biết tận dụng lợi thế của mình để thu hút các nhà đầu tƣ về du lịch, nhƣng đây
chỉ con số rất nhỏ so với tiềm năng mà nông thôn Quảng Nam sở hữu. Kiến trúc
sƣ Bùi Kiến Quốc – ngƣời đƣa du lịch về làng Triêm Tây, từng chia sẻ, dự án
khu du lịch sinh thái nhà vƣờn Triêm Tây do ông làm chủ đầu tƣ là một thí điểm
về việc liên kết giữa bảo vệ vùng quê và phát triển du lịch. “Dự án có ý nghĩa cả
về kinh tế và văn hóa khi đạt đƣợc cùng lúc nhiều mục đích nhƣ bảo vệ đƣợc
bản sắc văn hóa lâu đời của ngƣời dân và nguồn thu nhập từ một mô hình du
lịch nông thôn. Và tôi cho rằng việc đƣa du lịch về nông thôn, ngoài yếu tố lợi
nhuận, phải xác định việc bảo vệ không gian và bản sắc của làng” – KTS.Bùi
Kiến Quốc cho biết.
Du khách thích thú với trải nghiệm du lịch vùng quê sông nƣớc Cẩm Thanh.
Ảnh: LÊ QUÂN
2. Câu chuyện đƣa du lịch về làng chỉ mạnh mẽ ở những khu vực vùng
ven Hội An, bắt đầu từ việc chia sẻ áp lực đón khách cho khu vực vùng lõi phố
cổ. Bên cạnh các tour trải nghiệm vùng quê và các hoạt động nông nghiệp nhƣ
trồng rau, cấy lúa… đã hình thành từ nhiều năm nay ở làng Trà Quế, các khu
vực sản xuất nông nghiệp hữu cơ của Hội An cũng bắt đầu câu chuyện làm du
lịch. Ông Phạm Mèo - Tổ trƣởng Tổ sản xuất của làng rau hữu cơ Thanh Đông
(Cẩm Thanh) cho biết, hiện Thanh Đông có hơn 10 nghìn mét vuông đất sản
xuất theo phƣơng pháp nông nghiệp hữu cơ. Cùng với lƣợng khách đổ về Hội
An, từ 2 năm trở lại đây, mỗi năm làng rau này đón 450 - 700 lƣợt khách đến
tham quan, trải nghiệm. “Sau khi đƣợc vận động tham gia chuỗi sản xuất nông
nghiệp hữu cơ từ các dự án, ngƣời dân Thanh Đông mở cửa nhà đón khách.
Phần lớn khách du lịch đến đây là ngƣời nƣớc ngoài đi theo tour, không chỉ
tham quan các vƣờn rau quả mà họ còn cùng với chúng tôi làm đất, gieo trồng,
bón phân, thu hoạch nông sản. Hàng năm, chúng tôi thu đƣợc 17 - 28 triệu đồng
từ tiền bán vé, góp thêm vào việc đầu tƣ xây dựng nhà sơ chế rau, tu sửa hệ
thống thủy lợi và giàn lƣới…” - ông Phạm Mèo nói.
Tại cuộc hội thảo hồi tháng 3 năm nay do Tổng cục Du lịch tổ chức, ông
Philip Kotler - ngƣời đƣợc coi là cha đẻ của marketing hiện đại nhận định, du
lịch nông nghiệp tại Việt Nam có một lợi thế là ẩm thực, song bên cạnh đó còn
nhiều vấn đề phải quan tâm. Theo ông, ngƣời nông dân cần có ý thức bảo vệ
cảnh quan, môi trƣờng sống của mình hơn nữa khi vào guồng phát triển du lịch.
Du lịch kết hợp nông nghiệp, nông thôn lâu nay là một “mảng miếng” khó đối
với cả nhà quản lý lẫn các doanh nghiệp. Khó bởi cơ chế chính sách cho nông
nghiệp, nông thôn vẫn chƣa thông thoáng để ƣu tiên cho du lịch, cán cân giữa
việc lựa chọn phát triển công nghiệp hay du lịch dịch vụ vẫn chƣa tƣơng xứng
dẫn đến đầu tƣ nhỏ giọt.
Một góc độ khác, ông Phan Xuân Thanh - Tổng Giám đốc Công ty EMIC
Hospitality chia sẻ, ở “mắt nhìn” của một doanh nghiệp du lịch, phải hiểu thế
mạnh của mỗi vùng nông thôn để xây dựng sản phẩm du lịch hợp lý. Không
phải cứ tận dụng cảnh quan hay các giá trị văn hóa truyền thống là làm đƣợc du
lịch. Một điểm đến ấn tƣợng cần sự tích hợp của rất nhiều yếu tố, trong đó,
ngoài những giá trị làng quê sở hữu, cần phải có sự xây dựng tận tâm của ngƣời
kiến tạo nên tour tuyến đó.
Đã có nhiều làng quê xứ Quảng “rục rịch” phát triển du lịch. Tuy nhiên,
để vận hành nhƣ một sinh kế chính vẫn cần thêm rất nhiều yếu tố tác động, quan
tâm và đầu tƣ đúng hƣớng…
LÊ QUÂN
LÊ QUÂN.Giữ bản sắc làng/Lê Quân//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày
12-13 tháng 5.-Tr.11.
Khu di tích lịch sử Phước Trà
Thời gian qua, ngành du lịch tỉnh chú trọng đầu tư những “địa chỉ đỏ”, đó
là những sản phẩm du lịch văn hóa - lịch sử cần được bảo tồn và phát huy
những giá trị lịch sử hào hùng một thời…
Nhà bia trong khuôn viên Khu di tích lịch sử Phƣớc Trà.
Đầu tư đúng mức
Khu di tích lịch sử Phƣớc Trà tại xã Sông Trà (Hiệp Đức) là một trong
những điểm đến tiềm năng trong bản đồ du lịch của tỉnh. Đây là căn cứ cuối
cùng của Khu ủy và Bộ Tƣ lệnh Quân khu 5 trong những năm 1973 - 1975.
Trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, Khu ủy 5 đã
chuyển từ căn cứ ở Nƣớc Oa (Trà My) về đóng tại Phƣớc Trà. Đây là một quyết
định táo bạo của tƣ tƣởng tiến công hƣớng về giải phóng đồng bằng và thành
thị. Năm 1993, Khu di tích Phƣớc Trà đã đƣợc Bộ VH -TT công nhận là di tích
lịch sử cấp quốc gia. Quần thể di tích này bao gồm nhiều hạng mục nhƣ nhà
trƣng bày, nơi làm việc của đồng chí Võ Chí Công - nguyên Bí thƣ Khu ủy Khu
5, Hội trƣờng Đại hội III, Bia Ban tuyên huấn, Bia Thông tấn xã, ao cá, ao rau
muống, giếng nƣớc... hiện vẫn đƣợc bố trí nguyên trạng, phản ánh một giai đoạn
lịch sử hào hùng của quân và dân Khu 5 trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nƣớc.
Nhà làm việc của đồng chí Võ Chí Công. Ảnh: T.NGUYÊN
Thời gian qua, Sở VH-TT&DL và huyện Hiệp Đức đã chỉ đạo các cơ
quan chức năng phối hợp với các cấp chính quyền tích cực tuyên truyền nhân
dân về việc bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử văn hóa, đồng thời xúc tiến các hoạt
động liên kết, quảng bá về Khu di tích Phƣớc Trà. Tháng 2.2012, UBND huyện
Hiệp Đức đã ra quyết định thành lập Ban quản lý Khu di tích Phƣớc Trà, nhằm
tập trung và đầu tƣ hơn nữa công tác tu bổ tôn tạo các di tích, sắp xếp trƣng bày
các hiện vật tranh ảnh, phát huy công tác hƣớng dẫn, giới thiệu quảng bá, bảo
dƣỡng rừng nguyên sinh quanh khu vực di tích. Từ đó đến nay, Ban quản lý
Khu di tích này đón tiếp và phục vụ các đoàn khách đến tham quan. Huyện
cũng đã triển khai thực hiện đề án “Quản lý và khai thác du lịch tại di tích
Phƣớc Trà”, đồng thời sƣu tầm hiện vật lịch sử có liên quan. Huyện Hiệp Đức
đã cử các đoàn công tác đi tham quan, học tập kinh nghiệm một số tỉnh, thành
phố trong nƣớc và sƣu tầm, tiếp nhận 195 hiện vật đấu tranh cách mạng từ các
cựu chiến binh đã gắn bó, hoạt động ở di tích Phƣớc Trà. Năm 2014, Nhà trƣng
bày của khu di tich Phƣớc Trà đã đƣợc xây dựng hoàn thành và đƣa vào sử dụng
cho việc tham quan, tìm hiểu về giá trị lịch sử hoàn thành thì đây là nguồn tƣ
liệu “sống” góp phần cho việc trƣng bày hiện vật thêm đầy đủ về tầm vóc, dấu
tích một thời hào hùng. Mỗi năm, Khu di tích Phƣớc Trà đón hơn 100 đoàn
khách trong và ngoài nƣớc, chủ yếu là những cựu chiến binh, học sinh, sinh
viên đến tham quan, học tập, tìm hiểu những giá trị lịch sử.
Phát huy giá trị khu di tích
Ông Trần Văn Ngọc - Giám đốc Ban quản lý Khu di tích Phƣớc Trà, chia
sẻ: “Huyện Hiệp Đức đã và đang tập trung xây dựng điểm đến Phƣớc Trà với hệ
thống cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan của du
khách, tôn tạo một số hạng mục nhƣ nhà làm việc và hầm trú ẩn của đồng chí
Võ Chí Công, nhà trƣng bày, các đƣờng giao thông quanh khu di tích, ao cá.
Bên cạnh đó, theo chủ trƣơng của huyện, nơi đây sẽ hình thành mô hình
homestay - lƣu trú nhà dân nếu du khách có nhu cầu. Xa hơn nữa, huyện tính
đến chiến lƣợc quảng bá, liên kết với các điểm du lịch khác…”. Ông Ngọc chia
sẻ thêm, trong thời gian tới, Ban quản lý sẽ xây dựng nhiều sản phẩm đặc thù để
thu hút khách nhƣ “Hành trình về nguồn”, “Một ngày làm chiến sĩ Khu 5”, du
lịch văn hóa dựa vào cộng đồng theo hƣớng phát triển du lịch gắn với các giá trị
lịch sử, văn hóa vùng cao; lấy di tích làm nền tảng để phát triển du lịch.
Đƣợc biết, những năm gần đây có nhiều doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành đến khảo sát, xây dựng tour tuyến và kết nối Khu di tích Phƣớc Trà với
các danh thắng nhƣ Khe Cái, Hòn Kẽm Đá Dừng, hồ Việt An… để tạo nên
tuyến tham quan trên địa bàn huyện Hiệp Đức rất ấn tƣợng với du khách. Hiện
nay, dọc theo những con đƣờng trong Khu di tích Phƣớc Trà - Khu ủy Khu 5
cây xanh đã khép tán xanh um, mát rƣợi, du khách đi tham quan vừa ngắm nhìn
khung cảnh yên bình, vừa tìm hiểu nhiều điều mới lạ và hấp dẫn về lịch sử hào
hùng một thời trên mảnh đất Phƣớc Trà. Đây không những là “địa chỉ đỏ” để
lƣu giữ, giáo dục truyền thống cách mạng mà còn là một trong những điểm du
lịch lịch sử - sinh thái hấp dẫn không thể bỏ qua trong chuyến hành hƣơng “về
nguồn” đầy ý nghĩa.
THẢO NGUYÊN
THẢO NGUYÊN.Khu di tích lịch sử Phƣớc Trà/Thảo Nguyên//Quảng Nam.-
2018.-Ngày 2 tháng 5.-Tr.5.
ĐẠI NAM TH C LỤC
VÀ NH NG GHI CHÉP VỀ HỘI AN
Đại Nam thực lục là bộ chính sử lớn, quan trọng của nhà Nguyễn do Quốc
sử quán triều Nguyễn biên soạn trong 88 năm, từ năm Minh Mạng thứ 2
(1821) đến khi hoàn thành và khắc in xong vào năm Duy Tân thứ 3 (1909).
Xin giới thiệu một số thông tin, sự kiện liên quan đến lịch sử Hội An mà bộ
sách này đề cập.
Đô thị cổ Hội An. Ảnh: PHƯ NG THẢO
Vào năm Kỷ Hợi - 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu đi thăm dinh Quảng
Nam, duyệt binh mã, rồi đến phố Hội An, nhân thấy phía tây phố có cầu, là nơi
thuyền buôn tụ họp, nên đặt là cầu Lai Viễn, viết chữ biển vàng ban cho.
Năm Đinh Mão - Gia Long năm thứ 6 (1807), vào tháng 2, do dinh lỵ Quảng
Nam cũ (ở xã Hội An) chật hẹp, vua sai đình thần tìm nơi địa thế cao ráo sáng
sủa, vẽ đồ dâng lên. Đình thần tâu xin đặt ở xã Thanh Chiêm (thuộc huyện Diên
Phúc). Vua bèn hạ lệnh dời dựng ở đấy.
Năm Ất Dậu – Minh Mạng năm thứ 6 (1825), vào tháng 5, vua xa giá đến
phố Hội An. Tha 5 phần 10 bạc thuế cho dân Minh Hƣơng. Qua đền Quan công
cho 300 lạng bạc.
Vào tháng 11, thành thần Gia Định tâu rằng: “Sổ đinh biệt nạp của thành
hạt chỉ có bốn hạng là tráng hạng, dân đinh, lão hạng và tàn tật thôi mà dân
Minh Hƣơng lại có cùng hạng đƣợc miễn thuế. Phàm 10 ngƣời cho 1 ngƣời
cùng hạng là lệ của dân thực nạp. Nay dân Minh Hƣơng cũng là dân biệt nạp
nhƣ dân biệt nạp khác, há nên có riêng nặng riêng nhẹ khác nhau. Xin phàm
cùng hạng ở đều đem hết làm tráng hạng mà đánh thuế nhƣ lệ. Vua theo lời xin.
Ngƣời Minh Hƣơng ở Hội An, Quảng Nam cũng sai theo lệ ấy mà thi hành”.
Năm Kỷ Sửu - Minh Mạng năm thứ 10 (1829), ngƣời Thanh là Đặng
Phúc Hƣng buôn ở Quảng Nam, lấy ngƣời con gái ở phố Hội An làm vợ, ngày
về chở trộm ngƣời vợ về nƣớc. Việc phát giác, giao xuống bộ Hình bàn, xin
chiếu lệ đem ngƣời và quân khí ra ngoài địa giới và ra biển, giảm một bậc mà
xử tội. Phúc Hƣng thì phát đi sung quân ở nơi biên viễn, ngƣời vợ thì phát làm
nô ở chỗ nhất định. Nhân xin lập rõ điều cấm: “Phàm ngƣời Thanh đến ngụ ở
nƣớc ta, ở phố làm dân, đã đăng vào sổ hàng bang, thì mới đƣợc cùng dân lấy
vợ lấy chồng, bất kỳ đến buôn bán thì đều cấm không cho nhƣ thế. Làm trái thì
đàn ông đàn bà đều tội mãn trƣợng, và phải ly dị; ngƣời chủ hôn đồng tội, ngƣời
mối lái, ngƣời bang trƣởng và ngƣời láng giềng đều tội giảm một bậc. Quan địa
phƣơng biết mà cố ý dung túng thì giáng 1 cấp, đổi nơi khác. Nếu nhân thế mà
chở đem về nƣớc Thanh thì ngƣời đàn ông phát sung quân nơi biên viễn, ngƣời
đàn bà phát làm nô ở chỗ nhất định, chủ hôn giảm một bậc, ngƣời mối, bang
trƣởng, láng giềng đều tội mãn trƣợng. Quan địa phƣơng cố ý dung túng, tấn thủ
không xét hỏi ra thì quan giáng 4 cấp đổi đi, lính trƣợng 90, có hối lộ mà dung
túng thì kể tang mà trị theo luật nặng...”.
Năm Kỷ Sửu – Tự Đức năm thứ 8 (1855), Nguyễn Văn Hiển là con
Nguyễn Văn Điển, nguyên Tổng đốc Định - An, đã quá cố, ngƣời xã Thanh Hà,
tỉnh Quảng Nam trình ở Pháp ty xin cho ấm thụ. Vua cho Hiển đƣợc ấm thụ
hàm Chánh thất phẩm và theo học tập ở bộ. Vua dụ rằng: “Từ nay về sau con
các quan viên, lệ đáng cho ấm thụ, nếu tuổi đã trƣởng thành, có thể làm việc
đƣợc thì: văn do bộ Lại, võ do bộ Binh, đều tƣ hỏi, xét thực làm bản tâu lên đợi
chỉ; hoặc những ngƣời ấy phải tới bộ trình bẩm rõ ràng, để bộ đề tâu, chứ không
đƣợc vƣợt bậc kêu xin, để răn những kẻ cầu cạnh tiến thân”.
Năm Đinh Tỵ - Tự Đức năm thứ 10 (1857), chiếc thuyền buôn của ngƣời
Tây dƣơng bị bão giạt vào phần cửa biển Đại Áp, tỉnh Quảng Nam. Trong
thuyền có 8 ngƣời nƣớc Thanh xin ở lại phố Hội An, đợi thuyền của ngƣời
Thanh đến thì đáp nhờ... Vua sai cấp cho tiền lộ phí hàng ngày, miễn thuế lệ cho
thuyền buôn đậu ở cửa biển Đại Chiêm, các tỉnh luân chuyển nhau đƣa đi và
cấp cho áo quần.
Năm Kỷ Hợi - Thành Thái năm thứ 11 (1899), định ra những việc cần
làm để chỉnh lý các thị xã: “...Các thị xã ở kinh thành và Thanh Hóa, Nghệ An
cùng các hạt Hội An ở Quảng Nam, Quy Nhơn ở Bình Định... Ranh giới thị xã
ở các phủ tỉnh ấy sẽ do Trú kinh Khâm sứ đại thần bàn bạc với bề tôi Cơ mật
viện phân định để có thống thuộc. Mỗi thị xã phải có ngân sách thu chi riêng,
vẫn do quan phủ tỉnh giúp đỡ quý Trú sứ bàn nghĩ lập thành sổ sách đệ lên
trƣớc ngày 1 tháng 12 tây lịch hàng năm để Khâm sứ đại thần cùng Cơ mật viện
duyệt định sẽ phát hồi tuân biện. Ngân sách ấy đã đƣợc duyệt, nếu trong đó có
khoản nào phải thay đổi thì trình lại quý Khâm sứ đại thần với bề tôi Cơ mật
viện nghĩ đổi định. Lại ngoài hai khoản thuế đinh điền thu riêng nhập vào tổng
sách thì các hạng thuế ở thị xã nhƣ thuế dọn rác, tiền phạt bắt nhốt súc vật chạy
rông, thuế lò mổ, thuế hiệu cầm đò, các khoản thuế chợ, thuế xe tay và các hạng
xe chở thuê nhất thời đều giao cho quý Khâm sứ đại thần bàn với bề tôi Cơ mật
viện nghĩ định. Thuế trƣng thu bất thƣờng đều do các thị xã ấy thu biện, tới nhƣ
các hạng thuế cửa hiệu buôn bán và nghề khác sẽ bàn nghĩ riêng. Còn các khoản
mà thị xã ở các phủ tỉnh cần chi tiêu nhƣ đèn đƣờng, tuần phòng thị xã, sửa sang
đƣờng sá, dọn rác, thiết lập trƣờng học và Sở Tế bần, giữ gìn đất mộ cùng tất cả
những việc có ích cho thị xã, xây dựng tu bổ và chọn ngƣời giữ gìn các nha sở
đền miếu trong thị xã đều do ngân sách thu chi của thị xã chi biện, nếu không
đủ sẽ do quý Khâm sứ đại thần nghĩ cách giúp đỡ...”.
Đến năm Tân Sửu - Thành Thái năm thứ 12 (1900) đặt lệ mua bán đất
trong thị xã: “... Địa phận các thị xã ở kinh thành, Nghệ An, Thanh Hóa, Hội
An, Quy Nhơn và Phan Thiết nơi nào không có nhà ngƣời bản quốc cƣ trú hoặc
xây dựng ở tạm đều cho thuộc về đất công trong địa phận các tỉnh ấy. Những
đất ấy tại các phủ tỉnh, ở kinh thì có Công sứ Thừa Thiên, Thƣợng thƣ bộ Hộ và
quan phủ Thừa Thiên, ở tỉnh thì có Công sứ và quan tỉnh hội đồng bàn nghĩ thỏa
thuận. Tới nhƣ đất đai mà ngƣời bản quốc cƣ trú nếu nhiều đời truyền lại đã lâu,
hoặc dựng nhà ở lâu năm thì chủ đất sẽ có chứng nhận của quan, trừ nơi nào
phải đặc biệt lƣu lại để tiện xây dựng nha thự quan viên, đình chùa đền miếu và
phủ đệ của hoàng thân, vƣơng công, công chúa và đƣờng cái, bến sông, trại
lính, những đất mà thị xã tỉnh ấy đã đƣa vào bản đồ thì không đƣợc xâm
phạm...”.
Có thể nói, những thông tin liên quan đến Hội An đƣợc ghi trong bộ sách Đại
Nam thực lục cung cấp nhiều tƣ liệu có giá trị để nghiên cứu lịch sử - văn hóa
Hội An thời chúa Nguyễn, nhà Nguyễn.
PHẠM PHƯỚC TỊNH
PHẠM PHƢỚC TỊNH. Đại Nam thực lục và những ghi chép về Hội An/
Phạm Phƣớc Tịnh// Quảng Nam cuối tuần.- 2018.- Ngày 26, 27 tháng 5.-
Tr.2
Nhà thờ Tiền hiền làng Hiền Lương: Nơi ngưỡng
vọng công đức tiền nhân
Được xây dựng hàng trăm năm trước, nhà thờ Tiền hiền làng Hiền Lương
tọa lạc tại xóm Chùa, thôn Hiền Lương, xã Bình Giang, Thăng Bình không
chỉ mang giá trị tâm linh, tri ân công đức tiền nhân mà còn là nơi cố kết
cộng đồng làng xã qua bao thăng trầm thời cuộc.
Việc công nhận xếp hạng di tích nhà thờ Tiền hiền làng Hiền Lƣơng sẽ tạo
điều kiện cho việc huy động nguồn lực để trùng tu di tích này. Ảnh: V.L
Dấu xưa mở đất
Xƣa, làng có tên gọi Đăng Lƣơng, thuộc tổng An Thạnh Hạ, huyện Lễ
Dƣơng, qua vài lần thay đổi, đến thời vua Thành Thái, làng mang tên là Hiền
Lƣơng, tên gọi đó tồn tại đến bây giờ. Buổi đầu thành lập, làng gồm 5 tộc tiền
hiền là Nguyễn Đình, Phan Văn, Hồ, Lê và Nguyễn Chiếm. Tài liệu lƣu trữ tại
tộc Nguyễn Đình cho biết: “Tiền hiền tộc Nguyễn Đình là Nguyễn Đại Lang,
con trai cả của ngài Nguyễn Ngọc Thơ quê gốc Thanh Hóa theo vua Lê Thánh
Tông đi đánh Chiêm Thành, sau đó ông ở lại lập nghiệp tại vùng đất An Thạnh,
Thăng Hoa, Duy Xuyên. Nơi vùng đất mới, ngài cùng các tiền hiền tộc họ Phan,
Hồ, Lê, Nguyễn Chiếm khai cơ lập nghiệp, sau đó về quê chiêu mộ ngƣời thân,
bà con hàng xóm vào cùng khai phá vùng đất mới”.
Dần dà, dân cƣ đông đúc, các tộc họ cùng xây dựng đình làng, lăng miếu
thờ thành hoàng, thổ địa, nhƣ lăng Mục Đồng, lăng Tam Dị, miếu Bà Vàng,
lăng Bà; huy động dân đinh đắp đập ngăn sông Ly Ly dẫn nƣớc về tƣới tiêu
đồng ruộng Hiền Lƣơng, đồng Tràm, Trà Đình, Bông Lãnh, An Lạc… Năm Tự
Đức thứ 7 (1854), cả 5 vị Tiền hiền đƣợc vua ban sắc phong là Dực Bảo Trung
Hƣng Linh/Binh Phò/ Phù Chi thần. Hàng năm, mỗi tộc họ Tiền hiền đƣợc 7
sào ruộng dành cho việc tế tự. Còn lại 5 mẫu 5 sào ở các xứ đất Ông Các, Cồn
Sa đƣợc trí lại cho nhà thờ Tiền hiền lấy hoa lợi phục vụ công việc cúng kính
những ngày xuân kỳ thu tế và tu bổ nhà thờ. Trải qua chiến tranh loạn lạc, đình,
chùa, miếu của làng hầu hết đã mất chỉ còn lại nhà thờ Tiền hiền nhƣ chứng
nhân về một thời khai canh lập xứ.
Ngày nay, nhà thờ Tiền hiền làng Hiền Lƣơng tọa lạc trên khuôn viên
rộng 5.500m2. Dù qua nhiều lần trùng tu, kiến trúc không còn nguyên vẹn
nhƣng vẫn thể hiện vẻ trang nghiêm, cân xứng. Từ nhà tiền đƣờng băng qua một
khoảng sân rộng đƣợc khép kín bởi hai bức tƣờng hai phía sẽ đến không gian
thờ tự chính là ngôi nhà gỗ 3 gian 2 chái đƣợc xây dựng theo lối kiến trúc nhà
rƣờng truyền thống xứ Quảng... Mùng 7 tháng Giêng hàng năm ngƣời dân làng
Hiền Lƣơng sinh sống làm việc khắp nơi lại tập trung về nhà thờ thành kính
dâng hƣơng, lễ vật nhằm tri ân công đức tiền nhân đã có công lập làng khai xứ.
Gắn kết cộng đồng làng xã
Theo ông Nguyễn Đình Em (77 tuổi), trƣớc
năm 1945, khu vực nhà thờ còn có đình
làng, lƣu giữ nhiều hiện vật quý giá của 5
dòng họ tiền hiền. Tuy nhiên do thiên tai,
chiến tranh, đình làng cũng nhƣ các giấy tờ
liên quan hầu nhƣ bị phá hủy, thất lạc hoàn
toàn. Qua các lần trùng tu kiến trúc nhà thờ
dần đƣợc khôi phục. Gần nhất, năm 2009,
ngƣời dân đã tổ chức tu sửa lại 3 gian thờ
chính, nâng cao nền gạch, chân cột gỗ nhằm
tránh ẩm mốc, mối mọt. Riêng 3 gian nhà
tiền đƣờng vẫn giữ nguyên từ đợt trùng tu
năm 1941 với hệ thống cột gỗ, dù vậy hệ
thống mái ngói âm dƣơng phần lớn đã bị hƣ
hại nặng. “Năm 1938 - 1940 Chi bộ Đảng
Cộng sản Đông Dƣơng xã Thăng Triều (tên
xã Bình Giang trƣớc đây) lấy nhà thờ làm
điểm tổ chức hội họp. Sau Cách mạng
Tháng Tám nơi đây đƣợc chọn làm trƣờng
học xóa nạn mù chữ. Năm 1965 - 1968, nhà
thờ trở thành nơi gặp gỡ, sinh hoạt của cán
bộ, du kích xã và bộ đội Tiểu đoàn 72, Tiểu
đoàn công binh của tỉnh; thỉnh thoảng cán
bộ đặc khu cũng về họp hành. Đây cũng là
địa điểm tập kết lƣơng thực cung cấp cho
cán bộ, bộ đội chuyển về căn cứ trên núi” -
ông Em cho biết. Còn trong ký ức của ông
Nguyễn Chiếm Lân (61 tuổi), khu vực nhà
thờ ngày xƣa có 5 cây cổ thụ (gồm 3 cây thị, 1 cây nhớt, 1 cây xoài) nay chỉ còn
lại 2 cây và một giếng nƣớc. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ,
giặc thả bom xuống đây rất nhiều, ảnh hƣởng phần nào di tích” - ông Lân kể.
Ngày 20.4.2018, UBND tỉnh đã
ban hành Quyết định số
1341/QĐ -UBND về việc xếp
hạng di tích lịch sử cấp tỉnh cho
Nhà thờ Tiền hiền làng Hiền
Lƣơng, cùng với 8 di tích khác
gồm: địa điểm chiến thắng T’râm
(xã A Xan, Tây Giang); Văn
thánh Thăng Bình (thị trấn Hà
Lam, Thăng Bình); địa điểm vụ
thảm sát Bình Ninh (xã Điện
Nam Bắc, Điện Bàn); nhà thờ
Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn
Trỗi (xã Điện Thắng Trung, Điện
Bàn); địa điểm miếu Thành
Hoàng (xã Điện Trung, Điện
Bàn); đình làng Gia Cát (xã Quế
Phong, Quế Sơn); đình làng Phúc
Khƣơng (xã Đại Cƣờng, Đại
Lộc); căn cứ Huyện ủy Bắc Tam
Kỳ trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nƣớc (xã Tam Lãnh và xã
Tam Lộc, Phú Ninh). Lễ đón
nhận Bằng Di tích lịch sử cấp
tỉnh sẽ đƣợc UBND xã Bình
Giang tổ chức vào sáng 19.5.
Làng Hiền Lƣơng nay đã phát triển thành 32 tộc họ và nhà thờ trở thành
chốn tâm linh lễ bái chung của cả làng. Các dòng họ đã lập ra Ban quản lý cùng
trông coi, duy trì việc cúng tế hàng năm và tổ chức sƣu tầm những hiện vật, sắc
phong triều đình ban tặng; đồng thời thực hiện quyên góp, huy động kinh phí tu
sửa lại nhà thờ, nhất là 3 gian tiền đƣờng đang xuống cấp. Ông Nguyễn Đình
Tùng - Chủ tịch UBND xã Bình Giang khẳng định: “Việc công nhận, xếp hạng
di tích cho nhà thờ tiền hiền không chỉ giúp tôn vinh những giá trị lịch sử, văn
hóa, tín ngƣỡng của cộng đồng cƣ dân làng, mà còn gắn kết nhân dân 2 thôn
Hiền Lƣơng và thôn Bình Hòa (trƣớc đây chung một làng) thêm khắng khít.
Đồng thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi để địa phƣơng huy động các nguồn lực để
tu bổ, phục dựng lại kiến trúc nhà thờ cũng nhƣ các di tích xung quanh trong
quần thể trƣớc đây”.
VĨNH LỘC
VĨNH LỘC.Nhà th Tiền hiền làng Hiền Lƣơng: Nơi ngƣỡng vọng công đức
tiền nhân/Vĩnh Lộc//Quảng Nam.-2018.-Ngày 18 tháng 5.-Tr.9.
Tứ Bàn từ "man" đến "chợ" Các tư liệu chữ nho hiện còn ở vùng ven sông Tam Kỳ đã cho biết nhiều chi
tiết rõ ràng về lai lịch của “chợ Vạn - Tam Kỳ” từ lúc mới thành lập vào
thời Tây Sơn đến niên hiệu Duy Tân thời Nguyễn.
Cổng vào đình làng Tứ Bàn. Ảnh: PHƢƠNG THẢO
Từ “man Suối Đá” đến “thôn Tứ Bàn”
Nhiều văn bản chữ nho có chữ ký của lý hào xã Tam Kỳ, tổng Chiên
Đàn, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam xƣa hiện còn lƣu ở một gia tộc ở khối
phố Hƣơng Trà Tây, phƣờng Hòa Hƣơng, TP.Tam Kỳ đã cho biết “Suối Đá” là
tên xƣa nhất của nơi hiện nay là khu vực chợ Tam Kỳ và phụ cận (thuộc hai
phƣờng Hòa Hƣơng và Phƣớc Hòa). Trƣớc tên chữ nôm này có ghi địa hiệu là
“man”. Hiện còn thấy rõ tên “man Suối Đá” trên tấm bia mộ ông Nguyễn Phƣớc
Doãn ở nghĩa trang Gò Trầu, xã Tam Xuân I, huyện Núi Thành. Ông Doãn là
một trong 7 vị tiền hiền có công quy dân, mua đất, lập địa bộ… ở vùng đất nói
trên.
Tra cứu trong các sách địa chí xƣa, đặc biệt là sách Phủ biên tạp lục của
Lê Quý Đôn (1776) có thể biết “man” là đơn vị hành chính chỉ một đơn vị dân
cƣ có chợ ven thủy lộ. Chợ này là nơi tập trung số đông dân sống trên các ghe
thuyền (gọi là vạn) sau mua hoặc thuê đất trên bờ lập các quầy hàng buôn bán.
Các cƣ dân sông nƣớc này thƣờng là dân ngụ cƣ, tập hợp từ nhiều nơi khác
nhau mà ngƣời dân chính cƣ (dân gốc) thƣờng gọi là dân “tứ chiếng”. Cách gọi
này bắt đầu từ chữ nho “tứ chánh” có hàm nghĩa là tụ họp lại từ bốn hƣớng, bốn
phƣơng; nói chung là từ nhiều nơi khác đến. Vì thế, trong các văn bản xƣa,
thƣờng gặp cách gọi “tứ chánh” + địa danh để chỉ vùng tập trung nhiều dân cƣ
buôn bán có nguyên quán từ nhiều nơi. Ở vùng Tam Kỳ xƣa, thấy có tên “Tứ
chánh An Hà” (nay là vùng ven Sông Đầm thuộc phƣờng An Phú và vùng Khu
công nghiệp Tam Thăng - cả hai đều thuộc TP.Tam Kỳ) và tên “Tứ chánh Bàn
Thạch” (nay là khu vực chợ Tam Kỳ và phụ cận).
Mộ ông Nguyễn Phƣớc Doãn - tiền hiền thôn Tứ
Bàn. Ngƣời đứng bên mộ là hậu duệ. Ảnh: PHÚ
BÌNH
Địa phƣơng có tên nôm Suối Đá nói trên đã từng đƣợc học giả Lê Quý
Đôn ghi nhận khi kể về đƣờng hành quân từ dinh Quảng Nam đến phủ Quảng
Ngãi nhƣ sau: “…từ chợ Chiên Đàn qua quán Suối Đá (suối có cầu ván), sông
Tam Kỳ, quán Phú Khang đến sông Bầu Bầu hết một ngày”. (Phủ biên tạp lục,
bản dịch của Viện Sử học, Hà Nội, 1964, tr.121). Về sau tên nôm này đã chuyển
thành tên chữ nho là “Tuyền Thạch” (泉石). Đến sau năm 1841 (Thiệu Trị thứ
3), do kỵ húy, đã đổi thành Bàn Thạch (盤石).
Theo tƣ liệu hiện còn, “chợ man Suối Đá” đƣợc lập vào năm Thái Đức
thứ 8 (1785) của vƣơng triều Tây Sơn. Tên “chợ Man” ở vùng Tam Kỳ đƣợc
dùng thông dụng mãi đến khi bộ “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán
triều Nguyễn đƣợc khắc in vào khoảng nửa cuối thế kỷ 19. Trong bản sách này,
ở mục “Chợ và Quán” của tỉnh Quảng Nam, tên “chợ Man” đƣợc ghi nhận nhƣ
sau: “Chợ Tam Kỳ ở huyện Hà Đông, tục gọi là chợ Man” (Bản dịch, NXB
Khoa học, Hà Nội 1970, tập 2, trang 332).
Chuyện tranh chấp
Suốt thế kỷ 18, địa bàn có chợ Bàn Thạch Tam Kỳ (bao gồm vạn Bàn Thạch -
trên sông) đều thuộc về sổ bộ hành chính của xã Tam Kỳ, tổng Chiên Đàn,
huyện Hà Đông và cƣ dân (bao gồm dân chính gốc và dân ngụ cƣ - còn gọi là
“chính hộ” và “khách hộ”) đều phải đóng thuế đất, thuế chợ… cho xã Tam Kỳ.
Đến sau khi phủ Tam Kỳ đƣợc thành lập (1906), nhân có việc tách nhập địa bàn
dân cƣ của hai huyện Hà Đông và Tiên Phƣớc, dân man Bàn Thạch - Tam Kỳ
đã làm đơn xin Tri phủ Tam Kỳ (chính quyền Nam triều) và các ngƣời đứng
đầu ở Đồn Đại lý Tam Kỳ cùng Tòa Công sứ Hội An (chính quyền Pháp) đƣợc
tách ra thành một “thôn” riêng (biệt lập thôn hiệu). Lý do xin tách, đƣợc khai là
“để thuận tiện cho việc đóng thuế”; bởi, chợ Vạn Tam Kỳ khi ấy đã có hoạt
động thƣơng mãi khá phát triển nên xã Tam Kỳ (vốn đa số là cƣ dân nông
nghiệp) buộc khu vực này phải gánh mức thuế cao hơn các khu vực dân nông
còn lại của xã. Từ việc xin tách thành thôn hiệu riêng này đã thành vụ tranh
chấp quyền sở hữu ngôi chợ Vạn Tam Kỳ kéo dài suốt thời vua Thành Thái,
Duy Tân (1906 - 1916) đến năm thứ tƣ thời vua Khải Định (1919) mới ổn.
Tấm bia ở mộ ông Nguyễn Phƣớc Doãn có ghi
chữ “Suối Đá man” ở đầu dòng chính giữa. Ảnh:
PHÚ BÌNH
Đến khi có đƣợc sổ bộ đinh, điền riêng (theo sổ bộ ký ngày 21.11.1916 -
Khải Định nguyên niên) man Bàn Thạch chính thức đổi tên thành “Tứ chánh
Bàn Thạch thôn” gọi tắt là “Tứ Bàn” và đóng thuế riêng; biệt lập với bộ thuế
của xã Tam Kỳ. Tên Tứ Bàn từ đó chính thức đƣợc ghi trên bản đồ tỉnh Quảng
Nam do thực dân Pháp vẽ và công bố khoảng sau năm 1916.
Mấy ký ức về chợ Vạn
Một số vị cao niên ở thị xã (sau là thành phố) Tam Kỳ nhớ lại quang cảnh
vùng chợ Vạn - Tứ Bàn trƣớc năm 1945 (NV tổng hợp lại) nhƣ sau:
Làng Tứ Bàn gồm bộ phận dân cƣ nhiều nơi đến ngụ cƣ rồi mua đất định cƣ ở
ven sông Bàn Thạch - một nhánh của sông Tam Kỳ - nơi lƣu truyền câu ca:
“Hồ, Huỳnh, Trần, Nguyễn, Đỗ, Đinh, Lê/ Đồng hƣớng Nam du hội nhất tề…”.
Tại khu vực này, có một miếu thờ 7 họ tộc đã đƣợc nhắc đến trong câu ca trên:
đó là “Miếu thất phái” sau trở thành trụ sở đình làng Tứ Bàn còn đƣợc gọi là
“đình thất phái”. Chếch về phía nam “đình thất phái” khoảng 300 mét là Quỳnh
Phủ hội quán do các kiều dân ngƣời Hoa gốc Hải Nam thành lập. Trong khu
vực hội quán này có chùa Chiêu Ứng đƣợc xây dựng mang tên trùng với Chiêu
Ứng tự tại Hội An.
Dãy phố nằm giữa hai cơ sở văn hóa trên đƣợc dân địa phƣơng thời Pháp
thuộc quen gọi là “dãy dọc” (nay nằm trên trục đƣờng Duy Tân). Trên dãy phố
này, có nhiều cửa hàng của ngƣời Việt nhƣ An Lợi bán rƣợu, ông Hai Dao bán
cao lầu, bà Bảy Sửu cho thuê truyện, ông Thuyết buôn lâm thổ sản, ông Sum
buôn mắm, bà Khải, bà Đức Thọ, bà Năm Nho… Gia đình ông Nguyễn Quý
Hƣơng, thƣ ký tòa soạn báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, từng một
thời sống ở dãy phố này.
Bến chợ Vạn thuộc làng Tứ Bàn trên sông Bàn Thạch nằm ở điểm giao
hội các con đƣờng từ Trà My, Tiên Phƣớc xuống vùng hạ bạc và con đƣờng dẫn
lên khu chợ Vạn (nay là đƣờng Xóm Củi sát mé sông, thuộc phƣờng Phƣớc
Hòa).
Chợ Vạn là nơi tập trung buôn bán khá sầm uất, gần đấy có một dãy phố
“Hoa kiều” gọi là “dãy ngang” (nay thuộc đƣờng Phan Đình Phùng, gần trụ sở
phƣờng Phƣớc Hòa). Nơi đây, đến giữa thế kỷ 20, vẫn còn san sát các hiệu buôn
ngƣời Hoa nhƣ các ông Năm Ngô, ông Phong, ông Bang Căn, ông Lý Tuế (ông
Cào), ông Cao Vinh Sanh (Đạt An), ông Cả Chiếu (Ngô Quân Tụ), Quảng Nam
Lợi, Phúc Xuân Lợi, Quảng Nam Thạnh, Phƣớc Dũ Thạnh… Các hiệu buôn này
chủ yếu làm đại lý trung chuyển nguồn lâm thổ sản từ các miền nguồn nam
Quảng Nam đƣa về Hội An để xuất khẩu; một số hành nghề thuốc bắc. Có thể
kể thêm một đại lý cho hãng rƣợu Sica của Pháp tại khu vực này là ông Nhì
Xùng (Di Sùng?). Về sau, đến thập niên 1930, khi chợ Mới (sau gọi là chợ Mai)
đƣợc thành lập ở cách đó 500 mét về phía tây bắc thì chợ Vạn đƣợc ngƣời địa
phƣơng đổi tên thành “chợ Cũ”.
PHÚ BÌNH
PHÚ BÌNH.Tứ Bàn từ "man" đến "chợ"/Phú Bình//Quảng Nam cuối tuần.-
2018.-Ngày 19-20 tháng 5.-Tr.7.
Tôn vinh di sản bài chòi Tối nay 7.5, lễ đón bằng của UNESCO vinh danh Nghệ thuật Bài chòi
Trung Bộ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại do Bộ VH-
TT&DL phối hợp với UBND tỉnh và TP.Hội An tổ chức sẽ diễn ra tại Công
viên Đồng Hiệp, Hội An.
Âm vang của điệu hô bài chòi sẽ vọng mãi, trong khắp các làng quê xứ
Quảng…Ảnh: LÊ QUÂN
Chƣơng trình sẽ tôn vinh nghệ thuật bài chòi xứ Quảng với đầy đủ các nét
đặc trƣng của bộ môn nghệ thuật dân gian, đồng thời tổ chức lễ rƣớc bằng công
nhận đi qua các cung đƣờng của đô thị cổ. Cùng với đó, Hội An trong đêm tôn
vinh sẽ là nơi hội tụ hơn 100 nghệ nhân, diễn viên bài chòi của xứ Quảng với
các tiết mục ca cảnh và hội chơi bài chòi…
Nghệ thuật dân gian đặc sắc
Ông Michael Croft - Trƣởng đại diện Văn phòng UNESCO tại Việt Nam
cho biết, sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế với nghệ thuật bài chòi bởi đây là
bộ môn nghệ thuật nhắc chúng ta về những yếu tố quan trọng, vĩnh cửu của
cuộc sống, là gia đình bạn bè, ca từ tiếng hát và tiếng cƣời. “Đây chính là lý do
để bài chòi ở trong trái tim của mỗi ngƣời dân miền Trung Việt Nam. Sự ghi
nhận từ UNESCO hy vọng sẽ thêm phần khích lệ để cộng đồng tiếp tục ủng hộ
các hoạt động văn hóa tại địa phƣơng, để những hoạt động văn hóa này sẽ đƣợc
các thế hệ mai sau kế thừa và phát huy” - ông Michael Croft chia sẻ. Nhạc sĩ
Đặng Hoành Loan, ngƣời hoàn thiện bộ hồ sơ về nghệ thuật bài chòi đệ trình
UNESCO công nhận, từng chia sẻ, bài chòi giữ cho mình sự bình dân, gắn liền
với đời sống, tập quán sinh hoạt của ngƣời dân lao động. Chính điệu nhạc, các
câu hô thai, cũng nhƣ lối diễn xƣớng độc đáo của bộ môn này đã đƣa từ một trò
chơi dân gian trở thành bộ môn nghệ thuật và nâng tầm lên di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại.
Với bài chòi Quảng Nam, các nhà nghiên cứu cũng nhƣ nhiều nhạc sĩ đều
đồng tình rằng so với địa phƣơng khác, bài chòi ở Quảng Nam còn mang đậm
tính dân gian hơn. Bất cứ đề tài gì, ngƣời dân cũng có thể đƣa vào điệu hát bài
chòi. Việc sử dụng phƣơng ngữ rất thuần thục trong các điệu xàng xê, xuân nữ,
cổ bản, hò Quảng…, cũng nhƣ việc anh hiệu, chị hiệu cùng giao tiếp với nhau,
đã tạo nên một chiếu bài rất sinh động để ngƣời dân tham gia. Cũng vậy, so với
30 quân bài của bài chòi Trung Bộ, quân bài của Quảng Nam có tên gọi và hình
vẽ mô tả ít nhiều khác biệt so với Bình Định, Quảng Bình… Vừa có tính thanh,
vừa ít nhiều mang tính tục của đời sống dân gian, việc dùng các điệu hát để ứng
tác hô tên con bài mang lại nhiều hứng thú cho ngƣời chơi. Nghệ nhân Phùng
Thị Ngọc Huệ - ngƣời đóng vai chị hiệu cho các gian bài chòi ở Hội An, ví dụ
về việc hô quân bài Tam Quăng: “Phải em là gái chƣa chồng, chứ phải em là gái
chƣa chồng/ Cho anh kề cận má hồng có đƣợc không/ Một hai em nói rằng
không, bởi em là gái có chồng mà một con/ Thuốc ăn nửa điếu rằng ngon, bởi
em là gái một con trông mòn/ Tội em cái phận má hồng, anh đừng trêu ghẹo mà
chồng em ghen/ Chồng ghen thì mặc kệ cho nó ghen, anh đây mà đã thích thì
khêu trăng gọi đèn/ Ngƣời ơi đừng giỡn gió đùa trăng, chớ ngƣời ơi giỡn gió
đùa trăng/ Em đâu phải hạng tam quăng, tam quăng đứng đàn/ Ớ bạn mình ơi, ớ
bạn mình ơi, Tam Quăng ra rồi”.
Bài chòi không chỉ là di sản của riêng Việt Nam mà đã thành tài sản
chung của nhân loại.
Bảo tồn và phát huy
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Thanh cho
biết, trong những năm qua Quảng Nam đã có
những chủ trƣơng khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu,
bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể.
Đồng thời có chính sách và biện pháp cụ thể
nhằm huy động sự tham gia của các tổ chức
xã hội, tổ chức kinh tế và đông đảo nhân dân
vào sự nghiệp này. Riêng với bài chòi, để bảo
tồn và phát huy giá trị đặc sắc của loại hình
nghệ thuật này, trong tƣơng lai tỉnh sẽ xây
dựng cơ chế để phát triển lực lƣợng nghệ
nhân, mở rộng các không gian diễn xƣớng và
đặc biệt, việc bảo tồn sẽ đƣợc thực hiện trong
đời sống của ngƣời dân. Bởi đây chính là nghệ
thuật của dân gian, từ dân gian nên phải đƣợc
sống trong đời sống dân gian.
Nhiều năm qua, nghệ thuật bài chòi đã “sống”
rất mạnh mẽ ở nhiều địa phƣơng. Ông Võ
Phùng - Giám đốc Trung tâm Văn hóa TP.Hội
An cho biết, việc xây dựng các phong trào hô
hát bài chòi của thành phố cũng nhƣ việc đào
tạo lực lƣợng hô hát này đã đƣợc Hội An chú
trọng từ những năm 2000. “Từ năm1996, sự
ra đời của Nhà hát Nghệ thuật cổ truyền Hội
An đã có đội ngũ hô hát bài chòi xuất sắc để
phục vụ công chúng địa phƣơng cũng nhƣ du
khách trong và ngoài nƣớc với tần suất hoạt
động rất cao. Tháng 9.1998, thành phố đã thử
đƣa trò chơi bài chòi vào lễ hội “Tái hiện đêm
phố cổ Hội An đầu thế kỷ 20” và đến nay có
thể nói nghệ thuật bài chòi - trò chơi bài chòi
đã thật sự là một phần quan trọng trong đời
sống văn hóa - tinh thần, là sản phẩm du lịch sôi nổi của Hội An” - ông Phùng
chia sẻ. Cũng theo ông Võ Phùng, hiện tại ở Hội An có hơn 10 đội, nhóm hô hát
bài chòi từ thành phố đến cơ sở, thƣờng xuyên đƣợc tham gia hơn 30 chƣơng
trình lễ hội hàng năm, tạo nên tính khác biệt của lễ hội ở Hội An.
Ở các địa phƣơng vùng ven biển, trò chơi dân gian bài chòi là “món ăn”
đặc sắc trong các kỳ lễ, tết và là phần hội thu hút rất đông ngƣời dân tham gia.
Ông Lê Thành Trung - một “anh hiệu” ở xã Tam Thanh (TP. Tam Kỳ) cho biết,
nhiều năm trở lại đây, cứ vào mùa tết là xã Tam Thanh lại tổ chức liên hoan hô
hát bài chòi ở địa phƣơng, với sự tham gia của nhiều nhóm hô hát bài chòi ở các
thôn xóm và trở thành điểm nhấn ấn tƣợng của vùng ven biển. Hay nhƣ tại xã
Tam Phƣớc (Phú Ninh), từ năm 2015, vào đêm 16 âm lịch hằng tháng đều tổ
chức hội bài chòi tại thôn Kỳ Phú để ngƣời dân tham gia. Sân chơi này mỗi
Bảo vệ và phát huy bền vững Tối 5.5, tại TP.Quy Nhơn, UBND tỉnh
Bình Định phối hợp với Bộ VH-TT&DL
cùng với UBND 8 tỉnh Trung Bộ long
trọng tổ chức lễ đón nhận bằng UNESCO
vinh danh Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ
Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại
diện của nhân loại. Dự lễ đón nhận, Thủ
tƣớng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đề
nghị chính quyền các tỉnh, thành phố khu
vực Trung Bộ cùng thực hành di sản Nghệ
thuật Bài chòi với cộng đồng, nghệ nhân.
Thủ tƣớng nhấn mạnh, với 12 di sản văn
hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công
nhận, Việt Nam đứng thứ 8/177 quốc gia
thành viên của Công ƣớc Bảo tồn Di sản
văn hóa phi vật thể. Điều này có ý nghĩa rất
lớn góp phần vun đắp tinh thần dân tộc, gìn
giữ hồn cốt xƣa, trao truyền tri thức và bồi
đắp tƣơng lai. Đi cùng với niềm tự hào là
trách nhiệm của chúng ta đối với bảo tồn,
phát huy bài chòi trƣớc quốc tế, vì từ nay di
sản này không chỉ của riêng Việt Nam mà
đã thành tài sản chung của nhân loại.
“Tôi đề nghị chính quyền, nhân dân 9 tỉnh,
thành phố: Bình Định, Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa
cùng các nghệ nhân, nghệ sĩ, cộng đồng
thực hành di sản Nghệ thuật Bài chòi Trung
Bộ, Bộ VH-TT&DL, với tình cảm và trách
nhiệm đối với di sản cha ông để lại, cần
hợp tác chặt chẽ, triển khai thật nghiêm túc
và hiệu quả Chƣơng trình hành động quốc
gia bảo vệ và phát huy giá trị của di sản
văn hóa phi vật thể Nghệ thuật Bài chòi
Trung Bộ Việt Nam, để nghệ thuật bài chòi
phải đƣợc bảo vệ và phát huy bền vững.
Cần thúc đẩy sự quan tâm bảo vệ di sản và
sự kết nối, trao đổi văn hóa giữa các nhóm
cộng đồng khác ở Việt Nam cũng nhƣ giữa
các quốc gia, dân tộc có di sản tƣơng đồng
với nghệ thuật bài chòi” - Thủ tƣớng
Nguyễn Xuân Phúc nói.
ngày càng đông ngƣời tới tham dự, chứng tỏ sức sống loại hình nghệ thuật bài
chòi đang mạnh mẽ ở khắp nơi.
LÊ QUÂN
LÊ QUÂN.Tôn vinh di sản bài chòi/Lê Quân//Quảng Nam.-2018.-Ngày 7
tháng 5.-Tr.7.
Nghệ thuật bài chòi: Gian nan tìm người kế cận Ngày 7.5, UBND tỉnh tổ chức lễ đón bằng UNESCO công nhận nghệ thuật
bài chòi Trung Bộ Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại. Quảng Nam hiện có khoảng 90 câu lạc bộ (CLB), đội, nhóm hô
hát bài chòi ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, khó khăn chung của các CLB
là việc tìm kiếm đội ngũ kế thừa bộ môn này.
Bộ môn nghệ thuật bài chòi thu hút ngƣời dân và du khách.
Khó tuyển người
Ông Võ Phùng - Giám đốc Trung tâm Văn hóa TP.Hội An chia sẻ câu
chuyện về việc tuyển lớp diễn viên mới cho Đội tuyên truyền lƣu động của
trung tâm hồi đầu năm 2018, rằng sau mấy kỳ đăng tuyển trên các phƣơng tiện
thông tin đại chúng cả trong lẫn ngoài tỉnh, đều không có ai đăng ký tham gia.
“Chúng tôi sẵn sàng tiếp nhận anh chị em nhạc công đàn dân tộc, diễn viên giỏi
ngoài địa bàn Hội An có nhu cầu đầu quân cho thành phố, cũng nhƣ luôn đầu tƣ
bằng cách tìm kiếm các em có năng khiếu trong phong trào để đƣa đi đào tạo và
trở lại công tác. Trung tâm đảm bảo đời sống cho diễn viên, nghệ nhân ổn định
để anh chị em yên tâm và hết lòng với nghề” - ông Phùng nói thêm.
Đã có nhiều lớp diễn viên đƣợc phát hiện thông qua các phong trào văn
nghệ của Hội An và đƣợc đƣa đi đào tạo để phát triển thêm. Tuy nhiên, qua thời
gian, lớp diễn viên này đã có tuổi đời lớn trong nghệ thuật, cần tìm một lớp diễn
viên trẻ, có thanh sắc mới để đào tạo và thay thế. Nhƣng xem ra câu chuyện tìm
kiếm lớp diễn viên bài chòi trẻ tại Hội An vẫn khá nan giải.
Tƣơng tự, việc hình thành các CLB đàn hát dân ca ở cấp xã hay với đơn
vị chuyên nghiệp nhƣ Đoàn Ca kịch tỉnh cũng gặp khó khăn về đội ngũ kế cận.
NSND Từ Minh Hiệp - Phó Trƣởng đoàn Ca kịch Quảng Nam nói, để tìm kiếm
các tài năng trẻ cho lĩnh vực nghệ thuật truyền thống phải vất vả đi về các địa
phƣơng và thuyết phục họ học, theo nghề, rồi sau đó nếu có sẽ gửi gắm họ tại
các cơ sở đào tạo. “Có khi đã phát hiện, thuyết phục đƣợc các em về với đoàn,
nhƣng sau 1 - 2 buổi tập luyện, các em lại bỏ” - NSND Từ Minh Hiệp nói. Đoàn
Ca kịch Quảng Nam là đoàn dân ca, ca kịch bài chòi chuyên nghiệp duy nhất
của khu vực miền Trung, nhƣng vẫn khó khăn trong việc tìm kiếm đội ngũ diễn
viên trẻ.
Không chỉ có đội ngũ diễn viên mà nhạc công cho bộ môn nghệ thuật bài
chòi cũng là vấn đề nan giải với các địa phƣơng. Ông Nguyễn Ngọc Duy (cán
bộ Phòng VH-TT TP.Tam Kỳ) cho biết, việc tìm kiếm nhạc công cho một đội
bài chòi chuyên nghiệp rất khó. Mỗi lần tổ chức liên hoan hô hát bài chòi ở
TP.Tam Kỳ là địa phƣơng phải tìm kiếm nhạc công đàn cò, đàn guitar phím
lõm… ở những đội nhạc phục vụ đám tang để tập họp họ lại, trở thành đội nhạc
cho liên hoan.
Khuyến khích thế hệ trẻ
Nhạc sĩ Trần Hồng (Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam) chia sẻ: “Là di sản
văn hóa phi vật thể, nhƣng chúng ta chƣa có biện pháp dài hơi, hiệu quả trong
việc kế thừa, phát huy loại hình nghệ thuật truyền thống này, đặc biệt là đào tạo
lực lƣợng kế cận, thì sớm muộn nó cũng sẽ bị mai một”. Bài chòi là một hình
thức sinh hoạt văn hóa và giải trí trong cộng đồng làng xã, trong đó ngƣời trình
diễn lâu nay thƣờng đƣợc truyền nghề bằng hình thức cha truyền con nối. Thế
hệ trƣớc đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lối trình diễn, các câu hô
thai, kỹ năng ca hát, kỹ thuật trình diễn và phƣơng pháp làm thẻ bài cho các thế
hệ trẻ. Nghệ nhân Nguyễn Lƣơng Đáng (CLB Bài chòi Hội An) nói, hầu hết
nghệ nhân đều đƣợc học kỹ năng, kỹ thuật hô, hát bài chòi trong gia đình, chủ
yếu thông qua phƣơng pháp truyền miệng. Trong vài năm gần đây, một số nghệ
nhân bài chòi tham gia truyền dạy kiến thức và kỹ năng trong các hội, CLB và
trƣờng học.
Đƣợc xem là một CLB bài chòi “hạt nhân” của cánh phía nam Quảng
Nam, CLB Bài chòi xã Tam Thanh (TP.Tam Kỳ) đƣợc thành phố quan tâm đầu
tƣ khá nhiều. Tam Thanh là địa phƣơng thƣờng xuyên tổ chức các hoạt động
liên quan đến bài chòi, một phần vì truyền thống của vùng đất, một phần vì đòi
hỏi phát triển du lịch, cần những sản phẩm văn hóa thu hút du khách. Ông
Nguyễn Ngọc Duy cho biết, TP.Tam Kỳ đã từng mang liên hoan hô hát bài chòi
đến không gian của Trung tâm VH-TT tỉnh, ngay trung tâm đô thị, nhƣng lƣợng
khán giả rất ít. Trong khi cũng 13 CLB đàn hát dân ca đó, về Tam Thanh thì
năm nào tổ chức liên hoan cũng thu hút nhiều ngƣời đến tham gia. Ông Trƣơng
Thành Nhân - Chủ nhiệm CLB Bài chòi Tam Thanh cho biết, hiện CLB có 22
thành viên, nhƣng trẻ nhất trong đó cũng ở độ tuổi trên 30.
TP.Tam Kỳ đang xây dựng cơ chế để khuyến khích thế hệ trẻ có năng
khiếu ở địa phƣơng tham gia các đội bài chòi. Riêng tại Tam Thanh, ông Duy
cho biết, trong tƣơng lai, khi địa phƣơng phát triển du lịch mạnh mẽ hơn thì
CLB bài chòi sẽ là một đơn vị sự nghiệp của địa phƣơng, lúc đó sẽ khuyến
khích nghệ nhân, thành viên của CLB bằng cách hỗ trợ thu nhập hằng tháng.
Trong năm học 2016 - 2017, TP.Tam Kỳ đã đƣa bộ môn nghệ thuật bài chòi vào
truyền dạy ở các trƣờng tiểu học và THCS trên địa bàn xã Tam Thanh nhằm
đƣa bài chòi đến gần hơn với thế hệ trẻ. Tại Hội An, từ năm 2004, thành phố đã
đƣa dân ca - bài chòi vào trƣờng học với giáo viên là các diễn viên của Trung
tâm Văn hóa thành phố. Và từ năm 2011, Hội An đã mở thêm lớp học hát dân
ca - bài chòi hàng đêm trong chƣơng trình “Đêm phố cổ”. Hoạt động này ngoài
mục đích bảo tồn và phát huy nghệ thuật bài chòi còn tạo sản phẩm du lịch văn
hóa hấp dẫn. Ông Phùng cho biết, đến nay hai hoạt động trên đã có gần 1 nghìn
lƣợt học sinh đƣợc học hát để tiếp cận và dần yêu thích bộ môn bài chòi.
LÊ QUÂN
LÊ QUÂN.Nghệ thuật bài chòi: Gian nan tìm ngƣ i kế cận/Lê Quân//Quảng
Nam.-2018.-Ngày 4 tháng 5.-Tr.3.
Phước Tuấn - thợ trẻ giỏi toàn quốc Vượt qua nhiều khó khăn để vươn lên trong cuộc sống với nghề điêu khắc
gỗ, anh Phan Phước Tuấn (SN 1984), ở thôn Cẩm Phú 1, xã Điện Phong,
thị xã Điện Bàn vinh dự là thanh niên duy nhất của Quảng Nam được trao
Giải thưởng “Người thợ trẻ giỏi” toàn quốc năm 2018 của Trung ương
Đoàn.
Anh Phan Phƣớc Tuấn bên những sản phẩm do cơ sở Gỗ mỹ nghệ Gò
Nổi chế tác. Ảnh: VĂN MẾN
Tự tin, dám nghĩ dám làm là những ấn tƣợng đầu tiên mà chúng tôi cảm
nhận đƣợc ở ngƣời thợ trẻ Phan Phƣớc Tuấn - chủ cơ sở Mộc mỹ nghệ Gò Nổi
ở thị xã Điện Bàn. Để có đƣợc ngày hôm nay, mấy ai biết đƣợc anh Tuấn đã
phải trải qua những tháng ngày cơ cực tƣởng chừng nhƣ gục ngã. “Tôi bị khuyết
tật ở chân, đi lại khó khăn, nhiều lúc không muốn nghĩ đến tƣơng lai. Nhƣng khi
nghĩ đến bố mẹ khiến mình phải càng cố gắng” - anh Tuấn chia sẻ.
Theo lời kể của bố mẹ anh Tuấn, lúc mới sinh ra anh cũng bình thƣờng
nhƣ bao đứa trẻ khác, nhƣng đến năm lên 3 tuổi, một trận ốm thập tử nhất sinh
đã làm đôi chân anh bị teo cơ. Học đến lớp 9, do gia đình quá khó khăn, anh
Tuấn đành phải nghỉ học. Nhiều đêm trằn trọc, Tuấn suy nghĩ mình phải làm
đƣợc điều gì đó, phải chọn đƣợc cái nghề phù hợp với sức khỏe, để bản thân
mình còn có ích, để có thể đỡ đần phần nào kinh tế cho gia đình.
Anh Tuấn chia sẻ, anh bị khiếm khuyết đôi
chân nhƣng vẫn còn may mắn hơn rất nhiều
ngƣời khuyết tật khác, khi đầu óc và đôi tay
còn khỏe mạnh. Mới đầu anh lân la tìm học
đủ nghề để nuôi sống bản thân, nhƣng cuối
cùng duyên cũng đến. Anh quyết định chọn
học nghề điêu khắc gỗ ở Công ty Gỗ nghệ
thuật Âu Lạc (cũng ở Gò Nổi) vào năm
2007. Qua nhiều năm học nghề, với số vốn
và kinh nghiệm tích lũy đƣợc, anh Tuấn mở
riêng cơ sở mộc do anh làm chủ. Những
ngày mới bắt đầu ra riêng, cơ sở của Tuấn
gặp khó khăn về vốn và tiêu thụ sản phẩm,
nhƣng với sự nỗ lực không ngừng của anh
cộng với sự ủng hộ hết mình từ gia đình, đặc
biệt là ngƣời vợ trẻ, nên bây giờ cơ sở Mộc mỹ nghệ Gò Nổi của Tuấn đã có
chỗ đứng trên thị trƣờng. Những bức tƣợng gỗ, tranh trang trí… do anh làm ra
đƣợc thị trƣờng ngày càng ƣa chuộng. Sản phẩm không chỉ tiêu thụ trong tỉnh
mà còn vƣơn ra các tỉnh khác nhƣ Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hòa… Cơ sở
mộc của anh Tuấn còn đƣợc ngƣời ở nhiều nơi tìm đến đặt hàng và tham quan
tìm hiểu, học tập kinh nghiệm.
Những nỗ lực cố gắng vƣợt qua khó khăn, tinh thần vì cộng đồng và trình
độ tay nghề của anh Tuấn đã đƣợc ghi nhận khi anh đƣợc Trung ƣơng Ðoàn trao
Giải thƣởng “Ngƣời thợ trẻ giỏi” toàn quốc năm 2018. “Tôi thấy rất vinh dự khi
bản thân là một trong 85 thanh niên trên toàn quốc nhận đƣợc giải thƣởng cao
quý này. Tôi mong muốn ngày càng có nhiều chủ nhân giải thƣởng “Ngƣời thợ
trẻ giỏi” hơn nữa trong thanh niên, đặc biệt là các bạn thanh niên Điện Bàn, để
khích lệ phong trào hoạt động đoàn và phát triển kinh tế” - anh Tuấn tâm sự.
Điều chúng tôi khâm phục và quý trọng anh nhất là cái tâm hƣớng thiện của ông
chủ trẻ. Theo lời anh kể, ngày trƣớc, sau khi giải quyết đƣợc vấn đề đầu ra cho
sản phẩm, anh nghĩ ngay đến việc truyền nghề cho ngƣời cùng cảnh ngộ và
thanh niên không có việc làm trong làng. Ai có đam mê với nghề gỗ mỹ nghệ
muốn xin học việc đều đƣợc anh nhận và nhiệt tình chỉ dẫn. Ngƣời nào sau khi
học thạo nghề nếu có nguyện vọng có thể ở lại cơ sở làm việc, với mức lƣơng
ban đầu 4 - 4,5 triệu đồng/tháng.
Bây giờ có thể nói, cơ sở Gỗ mỹ nghệ Gò Nổi đã trở thành chỗ dựa cho
những ngƣời kém may mắn và thanh niên thất nghiệp ở địa phƣơng, giúp họ cải
thiện cuộc sống với thu nhập đáng kể. Cứ vài tháng, cơ sở của anh lại đón nhận
thêm những thanh niên không có việc làm đến học nghề. Để có việc thƣờng
xuyên cho mọi ngƣời, anh Tuấn không ngại khó ngại khổ đi nhiều nơi giới thiệu
sản phẩm, nghiên cứu ra nhiều mẫu mã mới để đáp ứng nhu cầu thị trƣờng.
“Ngƣời thợ trẻ giỏi” toàn quốc
là giải thƣởng cao quý nhất của
Trung ƣơng Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh dành cho thanh niên công
nhân, nhằm động viên, tôn vinh,
khen thƣởng những ngƣời thợ
trẻ giỏi, tay nghề cao, có thành
tích lao động xuất sắc, có các đề
tài, ý tƣởng, sáng kiến, sáng tạo
đƣợc áp dụng trong lao động,
sản xuất, học tập; qua đó khuyến
khích thanh niên tích cực học
tập, nâng cao trình độ tay nghề.
Điều anh Tuấn mong mỏi hiện nay là đủ khả năng mở rộng quy mô sản
xuất, đầu tƣ thêm một số máy móc cần thiết để bảo đảm sản phẩm làm ra đƣợc
thị trƣờng đón nhận, tạo thêm việc làm ổn định cho nhiều ngƣời.
VĂN MẾN
VĂN MẾN.Phƣớc Tuấn - thợ trẻ giỏi toàn quốc/Văn Mến//Quảng Nam.-
2018.-Ngày 21 tháng 5.-Tr.6.
Người vẽ mặt nạ ở phố cổ Hội An Phố cổ Hội An có sức quyến rũ lạ kỳ, điều đó ai cũng biết. Thế nhưng, đã
bao giờ bạn thử nhìn phố cổ Hội An qua một chiếc mặt nạ, lắng nghe cuộc
sống của con người phố Hội qua triết lý của người đàn ông làm ra chiếc
mặt nạ ấy chưa? Hãy thử cùng tôi chu du một lần cho biết...
Ông Bùi Quý Phong luôn mong ƣớc biến nghề làm mặt nạ thành tinh hoa.
Hội An một buổi sáng vẫn còn co mình sau cơn mƣa lạnh cuối đêm. Phố sạch
tinh và vắng lặng đến lạ thƣờng. Bƣớc chân phiêu du phố cổ đã vô tình dẫn tôi
đến một nếp nhà cổ nhìn ra sông Hoài êm đềm. Bƣớc chân qua ngƣỡng cửa gỗ,
những chiếc mặt nạ trong Không gian trƣng bày “Mặt nạ thời gian” nhìn tôi
đăm đắm.
Đất Hội An – mảnh đất miền Trung, mảnh đất của loại hình nghệ thuật
hát bội (hay còn gọi là tuồng). Ngày bé, tôi rất sợ xem tuồng vì sợ chiếc mặt nạ
tuồng đƣợc vẽ trên khuôn mặt của những ngƣời nghệ sĩ. Khi lớn lên, tôi mới
biết rằng, rất nhiều ngƣời cũng có nỗi sợ nhƣ tôi và suy nghĩ mặc định rằng, mặt
nạ tuồng thật là hung dữ và có chứa đựng điều gì rất ác.
Thế nhƣng, đón tôi ở ngƣỡng cửa Không gian trƣng bày “Mặt nạ thời
gian” là một chiếc mặt nạ tuồng chứa đựng biết bao nỗi niềm và cả những lời...
chúc phúc. Đăm đắm nhìn vị khách là tôi, dƣờng nhƣ chiếc mặt nạ muốn gửi tới
lời nhắn gửi rằng “cuộc sống ngoài kia có quá nhiều điều ác đang diễn ra,
nhƣng khi ngắm nhìn tôi, cảm nhận tôi, bạn sẽ không còn gặp điều ác nữa...”.
Ai cũng biết sự nổi tiếng của thƣơng cảng Hội An theo dòng lịch sử, ai cũng
hay cửa biển Cửa Đại là nơi thuyền bè tấp nập cá tôm. Nhƣng đi kèm với sự
phát triển, tấp nập đó là những mảnh đời “lấy chồng đi biển hồn treo cột buồm”
của những ngƣời phụ nữ làng chài mà không phải ai cũng hay. Nỗi lòng ấy đã
đƣợc trải trên một chiếc mặt nạ. Ở đó là cánh buồm giong khơi, là sóng gió thét
gào đe dọa ngƣời đàn ông đi biển. Ở đó cũng là đôi mắt khắc khoải thâm quầng
vì lo lắng chờ đợi của ngƣời phụ nữ trên bờ. Và giữa họ là tiếng chuông xuất
phát từ trái tim, từ tấm lòng của ngƣời phụ nữ: “Anh ơi hãy bình an trở về, có
em luôn chờ đợi nơi đây!”...
Mặt nạ “đi” giữa lòng nhân Bƣớc ra từ giữa những chiếc mặt nạ để tiếp chuyện cùng tôi là gƣơng mặt
của một ngƣời đàn ông không hề xa lạ gì với ngƣời dân phố Hội trong nghề vẽ
đầu lân và đạo diễn sân khấu tuồng – ông Bùi Quý Phong.
Khi đƣợc hỏi về những chiếc mặt nạ, ông lại thủng thẳng kể cho tôi nghe câu
chuyện cuộc đời mình. Rằng những năm đầu giải phóng, lúc ông chừng 22 tuổi,
vừa lấy vợ, sinh con, cuộc sống khó khăn. Ông luôn trăn trở nghĩ chuyện làm gì
để kiếm thu nhập nuôi sống gia đình. Lúc ấy, trong xóm có một chú bé đang
chơi một chiếc đầu lân nhỏ. Ông quan sát và nhận ra là làm ra một chiếc đầu lân
cũng không khó lắm. Nghĩ là làm. Ông đi kiếm đất sét về nặn khuôn đầu lân.
Và thế là nghề vẽ đầu lân đến với ông từ đó. Xƣởng làm đầu lân trong nhà với
hàng chục ngƣời làm là những em bé tật nguyền đƣợc ông tuyển chọn để dạy
nghề làm đầu lân. Khách hàng nƣờm nƣợp xếp hàng đến đặt mua đầu lân.
Nhƣng rồi nghề nào cũng có những bƣớc thăng trầm của nó. Ông lại bƣớc
vào một công việc mới. Đó là nghề làm đạo diễn sân khấu tuồng. Sự trái ngƣợc
giữa hai lĩnh vực. Một bên đạo diễn đi nhiều và một bên vẽ thƣờng ngồi một
chỗ khiến ông khó khăn khi thực hiện. Hơn nữa thu nhập từ một chƣơng trình
sân khấu mà ông làm đạo diễn thực hiện trong nhiều tháng, đi nhiều nơi, có
đƣợc khoảng vài chục triệu nhƣng khi về đến nhà thì không còn đƣợc bao nhiêu.
Vì vậy, ông Phong từ bỏ nghề đạo diễn để đến với công việc mới: vẽ mặt nạ.
Một công việc kết hợp đƣợc giữa hai niềm đam mê đã từng của ông là vẽ đầu
lân và sân khấu tuồng.
“Tôi thấy cô đứng rất lâu trƣớc chiếc mặt nạ tuồng của tôi. Để tôi nói
thêm cho cô hiểu nhé” - ông nói với tôi bằng chất giọng Quảng chân chất, nằng
nặng. “Tuy mang phong thái mặt nạ tuồng thật nhƣng tôi gọi nó là “Mặt nạ thời
gian”. Bởi nhìn vào đó ta có thể thấy thời gian. Thời gian có thể hôm qua, hôm
nay, ngày mai với những ƣớc vọng nhƣng cũng có thể là vô cùng, vô tận, xa
ngái nhƣ khi những câu hát tuồng, hát bội ngân lên ở mảnh đất này. Mặt nạ
tuồng của tôi hoàn toàn không có điều ác trong này.
Những ngƣời nghệ sĩ vẽ tuồng thƣờng bị rơi vào trƣờng hợp vẽ mặt cho
dữ lên, cho ác lên, cho nó ra tuồng. Nhƣng tôi không nghĩ vậy, với tôi, bất cứ
một tiết mục sân khấu nào nếu nhƣ không có lòng nhân trong đó, không có một
kết cục tốt đẹp nhƣ các vở tuồng thì nó không xứng đáng là mặt nạ tuồng. Cho
nên tất cả ẩn giấu trong mặt nạ của tôi là lời chúc phúc, chúc lành, chúc tình
yêu, chúc sức khỏe, chúc giàu có... Cái ác ngoài kia đã quá nhiều, bƣớc vào
không gian mặt nạ của tôi sẽ không còn gặp điều ác nữa”.
Lắng nghe về ƣớc mơ lòng nhân của ông, tôi chợt nhớ đến việc ông đã
làm. Thời ông còn làm đầu lân bỏ mối cho khách hàng từ Quảng Nam đổ vào
đến tận Sài Gòn, Cần Thơ, ông nuôi trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khoảng ba
bốn chục đứa trẻ. Ông hƣớng dẫn các em làm đầu lân, khi vào vụ, ông không trả
lƣơng chỉ nuôi ăn và trả tiền tiêu vặt. Khi mùa Trung thu qua đi, từ khoản tiền
tích lũy đƣợc, ông mới phát lƣơng cho tụi trẻ sống đƣợc trong vòng 4, 5 tháng
đợi đến mùa làm đầu lân sang năm, thƣờng bắt đầu từ sau Tết Nguyên đán.
Ông bảo, “tôi làm thế vì không muốn các em có tiền mà bị hƣ hỏng, có tiền làm
việc bậy”. Khi lứa trẻ ông nuôi đã trƣởng thành, có gia đình riêng, thì ông cho
mỗi đứa một bộ đồ nghề, mối làm ăn và lời giao hẹn sẽ tiếp tục thực hiện bổn
phận nuôi các em nhỏ cơ nhỡ nhƣ mình đã đƣợc nuôi trƣớc kia.
Khao khát biến nghề thành tinh hoa Trò chuyện với ông, tôi biết cả làm nghề đầu lân và nghề mặt nạ ông đều
tự học, các nét vẽ rất đẹp dù ông chƣa ngày nào học họa sĩ. Đơn giản chỉ vì yêu
nghệ thuật hội họa, vì “đó là nghề nghiệp chọn mình” theo cách lý giải của ông.
“Khi làm mặt nạ tôi không cho phép mình tâm đắc với bất kỳ sản phẩm nào vì
nhƣ thế là đồng nghĩa với ngừng sáng tạo. Này nhé, cái này tôi đặt tên là “Mặt
nạ chúc phúc”, nhƣng trên đó không nhìn thấy chữ phúc nào cả. Mà thay vào đó
là nửa mặt đàn ông và nửa mặt đàn bà kết hợp. Đàn ông và đàn bà, khi họ yêu
thƣơng nhau, kết hợp đƣợc với nhau thì gia đình đó sẽ giàu có: giàu tình
thƣơng, giàu nhân ái, giàu sức khỏe, giàu con và có khi là giàu cả vật chất nữa...
Màu đỏ trên chiếc mặt nạ tƣợng trƣng ngọn lửa trong lòng, khi tình yêu thƣơng
của anh đủ đầy thì không cần ai tôn vinh, tự những đƣờng nét, huyệt đạo trên
khuôn mặt anh cũng nói lên điều đó, sáng lòa và đẹp đẽ...”.
Nghe ông nói tôi chợt nhớ đến một bài báo đã đọc nói về một nghiên cứu
của các nhà khoa học ngƣời Mỹ rằng khi con ngƣời ta sống nhân ái, biết yêu
thƣơng, không ích kỷ, độc ác thì đến ngƣỡng tuổi 40 tự trên khuôn mặt họ sẽ có
một vẻ đẹp khác thƣờng mà những ngƣời sống ác độc, vị kỷ, hẹp hòi sẽ không
có đƣợc. Phải chăng, tƣ duy về lòng nhân luôn gặp nhau dù có khác xa về địa lý
hay dân tộc.
Cũng cần phải nói thêm rằng, Không gian trƣng bày “Mặt nạ thời gian”
của ông Bùi Quý Phong tọa lạc ở một vị trí rất đẹp trong phố cổ Hội An. Có
đƣợc không gian này là sự tin tƣởng của những ngƣời làm công tác văn hóa.
Trung tâm Văn hóa Hội An đã cho ông Phong mƣợn miễn phí căn nhà cổ để
ngƣời nghệ sĩ có thể tung tẩy sáng tác, có thể đem lòng nhân của tuồng cổ đến
cho cuộc đời.
Theo lời ông Phong, cơ sở làm mặt nạ tuy ông mới mở ra năm ngoái
nhƣng theo sự tin tƣởng của ông thì chất lƣợng về mặt nghệ thuật và kết cấu sản
phẩm ở Việt Nam ít ngƣời bì kịp vì đây là tâm huyết, tích lũy của ông sau bao
nhiêu năm làm nghề đầu lân mà có đƣợc.
“Khi tôi bắt đầu làm mặt nạ, tôi vẫn chƣa đủ tự tin, dù biết rằng tay nghề
mình không thua kém ai, tôi muốn đi một vòng đất nƣớc xem những ngƣời đang
làm mặt nạ đang làm tới đâu và họ làm cái gì. Tôi đã tìm tới ngƣời làm mặt nạ ở
phố Hàng Than, Hà Nội và nói thật tôi hơi thất vọng vì ngƣời làm mặt nạ đã
sớm vì những lý do khách quan, chủ quan đƣa lại mà bỏ nghề, hay nói cách
khác họ không xem việc làm mặt nạ nhƣ một cái nghề, không tìm tòi để nâng
cao nghề của mình lên, biến nghề của mình thành nghề tinh hoa...”.
Nghe ông nói, tôi chợt nghĩ đến nghề làm mặt nạ ở Hàn Quốc, rằng cũng
có những bƣớc thăng trầm, nhƣng giờ đây nghề làm mặt nạ là một trong những
niềm tự hào của nghệ thuật cổ xứ Kim chi. Theo Tổng cục Du lịch Hàn Quốc,
cùng với lễ hội múa mặt nạ quốc tế Andong nghề thủ công làm mặt nạ ở Hàn
Quốc cũng rất phát triển. Tham gia lễ hội, ít du khách nào có thể không mua
một chiếc mặt nạ Hàn Quốc về làm kỷ niệm.
Mỗi chiếc mặt nạ ông Bùi Quý Phong làm từ cốt giấy bồi, đắp thạch cao
lên và chà bóng rồi bồi lớp giấy nữa sau đó mới quang dầu và vẽ. Ông cho biết
cách làm của ngƣời Hàn Quốc là xay vừa bột vừa giấy trộn với keo để đúc ra
mặt nạ. Ông làm cũng theo cách đó nhƣng là làm thủ công và rất tiếc không đủ
công nghệ để làm đƣợc tinh nhƣ họ. Ông đã từng đƣợc ngƣời Hàn Quốc mời
sang để giao lƣu trao đổi về mặt nạ, nhƣng tự thấy mình chƣa đủ chín trong
nghiệp làm mặt nạ để đi, ông tự hẹn mình sẽ cố gắng nâng cao tay nghề hơn nữa
để có hành trang mang chuông sang xứ ngƣời...
Xuân Hoa
XUÂN HOA.Ngƣ i vẽ mặt nạ ở phố cổ Hội An/Xuân Hoa//Pháp Luật Việt
Nam.-2018.-Ngày 28 tháng 4.-Tr.13.
Tuyên truyền qua đêm hội bài chòi Thông qua các đêm hội hô hát bài chòi, lồng ghép tuyên truyền xây dựng
cuộc sống mới, giữ gìn an ninh trật tự... là cách làm của xã Bình Lâm (Hiệp
Đức) đã đem lại hiệu quả thiết thực, được người dân đánh giá cao.
Một buổi hô hát bài chòi ở xã Bình Lâm. Ảnh: V.H
Lồng ghép nội dung tuyên truyền
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là phƣơng châm thể hiện vai
trò của ngƣời dân trong các hoạt động của đời sống xã hội. Với nhận thức đó, từ
đầu tháng 4, xã Bình Lâm (Hiệp Đức) đã tổ chức các đêm hội bài chòi ở khu
dân cƣ trên địa bàn. Trƣớc đây, bài chòi đƣợc tổ chức thƣờng xuyên ở nhiều nơi
trên địa bàn huyện Hiệp Đức, song vài năm trở lại đây, loại hình nghệ thuật này
chỉ thỉnh thoảng mới diễn ra vào dịp lễ tết. Xã Bình Lâm khôi phục lại hoạt
động nghệ thuật này là điều cần đƣợc phát huy và nhân rộng. Cái mới trong các
đêm hội bài chòi của xã Bình Lâm là vừa tạo đƣợc điều kiện để nhân dân vui
chơi, giải trí, vừa lồng ghép các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách
pháp luật Nhà nƣớc để tuyên truyền, vận động. Đồng thời qua đó góp phần giữ
gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của địa phƣơng, khơi dậy tinh
thần yêu quê hƣơng, đất nƣớc, tình cảm gắn bó gia đình, xóm làng và tình đoàn
kết trong cộng đồng dân cƣ.
Thông qua các đêm hội bài chòi, nhiều thông tin bổ ích đƣợc chuyển tải
đến ngƣời dân nhƣ việc thực hiện Chỉ thị 05/CT/TW của Bộ Chính trị “về đẩy
mạnh học tập và làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, cuộc
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới”, “Ngƣời Việt Nam ƣu
tiên dùng hàng Việt Nam”, “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”, “Thực hiện
nghiêm chỉnh luật an toàn giao thông”, “Những vấn đề về biển đảo hiện nay”,
“Xây dựng nông thôn mới”… Tất cả đƣợc chuyển tải thành những lời ca dịu
dàng, đằm thắm nhƣng lại mang hơi thở của cuộc sống hiện đại, thiết thực và
gần gũi nên thu hút đông đảo nhân dân tại địa phƣơng và các xã lân cận cùng
đến xem. Anh Ngô Ngọc Khánh - Phó Trƣởng công an xã Bình Lâm nói: “Việc
tuyên truyền các chủ trƣơng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc dƣới
hình thức văn hóa, văn nghệ đã cho thấy hiệu quả thiết thực. Không đơn thuần
là hoạt động giải trí, hội bài chòi đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng và
bồi đắp kiến thức cho ngƣời dân về thực hiện các phong trào thi đua yêu nƣớc,
giữ gìn an ninh trật tự tại địa bàn khu dân cƣ”.
Hấp dẫn, thiết thực, hiệu quả
Ông Trịnh Ký Đức - ngƣời tham gia nhóm biên tập các nội dung hội bài
chòi, cho rằng, cải biên lời ca sao cho phù hợp với nội dung tuyên truyền, ngắn
gọn, dễ nhớ dễ hát, đặc biệt là phải vui nhộn, gần gũi, mới đi vào lòng ngƣời
nghe. Chẳng hạn, tuyên truyền về ý thức giao thông, có câu: “Nghe đồn vua mở
khoa thi/ Vội vàng tìm đến kinh kỳ xa xôi/ Ra đi vợ có dặn rồi/ Không mũ bảo
hiểm chớ ngồi lên xe”. Hay tuyên truyền về phong trào của Hội LHPN: “Thực
hiện nếp sống văn minh/ Chị em phụ nữ chúng mình thi đua/ Sạch bếp, sạch
ngõ, sạch nhà/ Chỉ tiêu ba sạch chúng ta nhớ giùm”. Về an ninh trật tự: “Rƣợu
say mất hết tính ngƣời/ Cờ bạc, hút hít vƣớng rồi khó ra/ Sạch túi, rồi lại sạch
nhà/ Bí đƣờng tắc lối hóa ra làm liều”... Sự mộc mạc, vui nhộn của những câu
hát chính là một phần quan trọng thu hút ngƣời dân đến tham gia hội bài chòi.
Bà Nguyễn Thị Năm - ngƣời dân xã Bình Lâm cho biết: “Đến với hội bài chòi,
chúng tôi đƣợc vui chơi, giải trí lại đƣợc nghe rất nhiều thông tin bổ ích nên vô
cùng hào hứng. Nhiều câu hát rất giản đơn, chỉ nghe qua một lần là chúng tôi có
thể nhớ đƣợc nội dung. Cách làm này thực sự thú vị và hiệu quả so với những
buổi tuyên truyền trong các cuộc họp dân”.
Chị Đỗ Thị Hƣơng - một trong những “diễn viên” trực tiếp tham gia
tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng dân ca, hò vè tâm sự: “Trƣớc đây, những
bài hát tuyên truyền này chúng tôi đã tham dự ở nhiều hội thi văn nghệ do các
cấp tổ chức. Tuy nhiên, hôm nay để góp phần vào công tác tuyên truyền tại địa
phƣơng và đƣợc trực tiếp hát cho bà con nghe, đƣợc bà con cổ vũ nhiệt tình
khiến chúng tôi vô cùng phấn khởi. Chúng tôi sẽ cố gắng hết mình để đem đến
cho bà con những đêm hội bài chòi thật vui và ý nghĩa”. Theo ông Trần Văn
Sâm - Phó Chủ tịch UBND xã Bình Lâm, việc tổ chức hội bài chòi để tuyên
truyền ở địa phƣơng có nhiều thuận lợi. Lực lƣợng tham gia đều nhiệt huyết,
các anh hiệu hát trong hội bài chòi là thành viên của đội văn nghệ, ngƣời phục
vụ là cán bộ phụ trách công tác hội, đoàn thể ở xã. Từ đầu tháng 4 đến nay, xã
đã tổ chức ở 3 thôn (mỗi thôn 2 đêm). Thời gian tới sẽ tổ chức ở các thôn còn
lại và cố gắng duy trì đều đặn vào ngày cuối tuần để phục vụ nhân dân. Ông
Trần Văn Sâm cũng cho biết thêm, sắp đến, xã thành lập câu lạc bộ bài chòi,
phối hợp với ngành giáo dục đƣa bài chòi vào trƣờng học. Đây là định hƣớng đã
đƣợc Đảng ủy xã chỉ đạo để thực hiện Nghị quyết số 40/NQ-HĐND của HĐND
huyện Hiệp Đức “về việc khôi phục, bảo tồn và phát huy một số giá trị văn hóa
truyền thống trên địa bàn Hiệp Đức giai đoạn 2018 - 2021” nhằm góp phần thực
hiện tốt Nghị quyết Trung ƣơng 5 (khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
VÂN HƯ NG
VÂN HƢƠNG.Tuyên truyền qua đêm hội bài chòi/Vân Hƣơng//Quảng Nam.-
2018.-Ngày 10 tháng 5.-Tr.10.
Thương nhân Hội An xưa và nay Trong một lần nói chuyện về Hội An, thấy bãi biển Cửa Đại chƣa xây
dựng nhiều, nhƣng chúng tôi biết các doanh nhân đến ngắm đất không ít. Ngƣời
muốn tiếp tục xây khu nghỉ mát. Ngƣời ƣng làm khu vui chơi giải trí, ẩm thực
ban đêm.
Ông Nguyễn Sự, Bí thƣ Thành ủy Hội An lúc đó nói, quan điểm của ông muốn
giữ bờ biển vàng này cho ngƣời Hội An “làm”. Khi ấy chúng tôi nghĩ ngợi, ông
suy nghĩ cục bộ địa phƣơng, ngƣời Hội An gốc vốn liếng đƣợc bao nhiêu, làm
mấy cái quán xá vớ vẩn bán hải sản nhếch nhác. Sau này ngày càng hiểu ông
Nguyễn Sự thì mới hiểu ý sâu sắc “dành lại vài chỗ để cho ngƣời Hội An làm”
là ông có cái lý lẽ riêng!
Khách du lịch tham quan phố
Mới đây anh Trần Thái Do, một doanh nhân lĩnh vực may đo thời trang -
ngành khá nổi tiếng của Hội An, giới thiệu dự án khu nghỉ mát 4 sao vừa đƣa
vào khai thác du lịch. Dự án nhìn ra con sông nhỏ, đôi nhánh dừa nƣớc la đà,
gần một
xóm nhỏ chuyên nghề chài lƣới, nhà cửa bình dị.
Tôi biết anh mất vài năm cho quá trình triển khai dự án. Bây giờ khu nghỉ
mát đã hình thành, anh kể rất nhiều về gạch xây tƣờng. Viên gạch không nung,
không sử dụng quá nhiều tài nguyên đất, nƣớc và các nguyên liệu hóa chất
khác.
Loại gạch giúp cách nhiệt tối đa, một lần nữa tạo ra giá trị tiết kiệm năng lƣợng
điện trong sử dụng máy lạnh. Hoặc về hệ thống cấp nƣớc, điều hòa nhiệt độ của
khu nghỉ mát đều đƣợc đầu tƣ thiết bị cao cấp để trong quá trình sử dụng, một
lần nữa giảm thiểu hết những chất thải độc hại ra môi trƣờng, tiết kiệm nƣớc.
Đó là những giá trị văn minh mà nhà đầu tƣ muốn chia sẻ với những khách
hàng, giá trị mà anh muốn đặt nền tảng vào mảnh đất mình đến làm ăn. Hiện tại
anh nói không thuê tổng giám đốc điều hành, để tự làm một thời gian, xây dựng
nên một giá trị chuyên nghiệp nhƣng mang tính gia đình đối với các quản lý và
nhân viên, một cách làm mà Hội An nên có và giữ, không chạy theo tính chuyên
nghiệp nhƣ các khu nghỉ mát khác.
Anh sẽ cố gắng truyền tải hết ý nghĩa nhân văn trong quá trình xây dựng
đó cho đội ngũ nhân viên, để họ tự hào và gắn bó bền vững với dự án bằng
những sáng kiến tiếp theo. Ông chủ dự án tâm đắc với quan điểm đầu tƣ đó,
sống thuận thảo với môi trƣờng, coi nhƣ là giá trị lớn nhất của khu nghỉ mát
này, chứ không phải giá trị ở vị trí đẹp, ở không gian kiến trúc xanh hay nội
thất tinh xảo, sang trọng.
Giữa câu chuyện thỉnh thoảng lại có vài ông chài lƣới đi ngang qua, chào
hỏi vui vẻ nhƣ hàng xóm láng giềng thân thiết. Ngƣời dân địa phƣơng rất tốt,
ông chủ dự án nói vậy. Chúng tôi ngắm xóm nhỏ ấy. Họ sẽ đƣợc gì khi một
phần dân cƣ đã giải tỏa khỏi khu đất xƣa, nhƣờng chỗ cho những nhà đầu tƣ
mới. Chúng tôi gần nhƣ trầm lặng hẳn khi suy nghĩ về đề tài này.
Chúng tôi nói về ngôi làng đó. Và mỗi ngƣời theo đuổi mơ ƣớc của mình.
Tôi nghĩ về những giá trị tiềm ẩn trong một dự án đầu tƣ lâu nay chúng ta chỉ
nói đến những lời quảng cáo chung chung nhƣ cho khách hàng một phong cách
sống đỉnh cao.
Mặc dù đỉnh cao đó chỉ là những căn hộ hào nhoáng, những an ninh cách
biệt với tất cả khu dân cƣ xung quanh, những tiện ích gồm nhà hàng, trƣờng học
cao cấp… Rất ít dự án nhìn về phía những ngƣời dân đang sống cận kề.
Tôi mong ông chủ đầu tƣ này đi nốt chặng đƣờng ngắn nữa, làm một điều gì cụ
thể cho cái xóm nhỏ chài lƣới kia để họ sống tốt hơn, tiếp cận những giá trị văn
hóa mà anh đang theo đuổi đối với dự án của riêng mình. Tôi rất tin!
Ngƣời Hội An buôn bán khác. Doanh nhân Hội An càng khác, luôn làm
các dự án của mình với tâm thế gửi gắm sự biết ơn, bảo vệ di sản, dù vẫn phải
tính suất đầu tƣ bao nhiêu, lợi nhuận phải tính hai cách, thu hồi vốn, lợi nhuận
và chăm sóc nhân viên thế nào.
Khi dự án của Trần Thái Do bắt đầu tuyển nhân viên, rất nhiều ngƣời đã
có việc làm nhƣng đăng ký, tôi nghĩ không chỉ vì họ nghe về mức lƣơng thỏa
đáng, ngƣời Hội An đã biết về doanh nghiệp Á Đông Silk, nơi nhân viên đã đến
làm là ở lại, hầu nhƣ không có ai bỏ việc đi nơi khác nữa. Văn hóa doanh
nghiệp tạo ra lợi nhuận cho nhà đầu tƣ, và đảm bảo cuộc sống tinh thần, vật chất
cho nhân viên.
Không trách gì những nhà đầu tƣ nơi khác. Họ thấy một mảnh đất vàng
trong lòng một di sản văn hóa, nơi khách đang đổ đến nƣờm nƣợp. Và họ nhìn
ra suất đầu tƣ, nhìn ra những gì bỏ vào đây, sau bao nhiêu lợi nhuận, có thể họ
giữ lại kinh doanh, có thể họ bán cho nhà đầu tƣ khác. Chỉ là chuyện kinh
doanh. Có ăn đời ở kiếp gì với Hội An, có tình cảm sâu nặng gì.
Thế nên không thể trách họ văn hóa nông cạn, hời hợt, chỉ biết đến lợi
nhuận. Tôi từng nghe chủ dự án cố thuyết phục cơ quan quản lý Nhà nƣớc cho
phép xây khách sạn 7 tầng ngay khu cận bảo tồn di sản thì có thể hiểu ngƣời
nơi khác đến đầu tƣ là vậy.
Họ cố làm càng cao, càng nhiều càng tốt, bất chấp những dự án của họ sẽ
làm ra một thứ Hội An mới, nham nhở và đè bẹp di sản cổ kính khiêm nhƣờng.
Rất may là những tham vọng tầm cao đó đã bị chặn lại. Nếu không Hội An sẽ
thảm bại về kiến trúc nhƣ với Sapa, hay giống các đô thị khác, lô nhô, nham
nhở. Ngƣời đau là ngƣời Hội An chứ không phải những ngƣời mới đến. Đúng
vậy không nhỉ?
Ở trƣớc chợ Hội An có chùa Ông thờ Quan Công và hai ngƣời con trai,
đƣợc xây dựng vào thế kỷ XVII. Có lẽ bởi tính cách Quan Công là trung nghĩa,
tiết tháo, ngƣời Hoa ở Hội An không chỉ đến chùa Ông cầu tài lộc, mà dùng nơi
này để các đối tác cùng cam kết làm tin các thƣơng vụ, xác tín trƣớc thánh thần
việc vay và trả nợ.
Mọi việc làm ăn thƣơng mại có thần linh bảo trợ, cũng nhƣ trừng phạt kẻ
gian lận. Thƣơng nhân Hội An xƣa làm ăn chỉ cần chữ tín nhƣ vậy để buôn bán
khắp Đông Nam Á. Bây giờ tính cách của thƣơng nhân Nhật và Hoa ngày ấy
nhƣ thấm đậm trong tính cách những doanh nhân Hội An bây giờ.
Những doanh nhân làm nên thƣơng hiệu may đo thời trang cho Hội An nhƣ Á
Đông Silk, Yaly, Thu Thủy, Kim My, Phƣớc An đều phải đi bằng nhiều ngành
kinh doanh. Nhƣng riêng mảng may đo thời trang họ thật sự giống những thủy
thủ có bản lĩnh vững vàng giữa bão tố.
Họ đều gầy dựng thƣơng hiệu từ mồ hôi, từ chiếc áo sơ-mi có giá năm đô
la ngày đầu để đến hôm nay tạo nên thƣơng hiệu cho thành phố. Trên thƣơng
trƣờng, những vụ việc nhƣ món lụa giả hàng Việt mà thƣơng hiệu Khaisilk vừa
vấp phải, nó vừa phản ánh căn bệnh phổ biến hôm nay của nhiều ngƣời Việt,
thích thƣơng mại, thích mua một bán mƣời, có lời trong chớp nhoáng. Cách làm
này sẽ hại cho Hội An.
Trong một lần nói chuyện trà dƣ tửu hậu, có nhắc chuyện làm ăn, một
doanh nhân nói: “Quan điểm của tôi là không bao giờ đầu tƣ cho sản xuất. Làm
sản xuất hàng hóa, bất cứ cái gì cũng không có ăn, hoặc không thể nhanh chóng
thu hồi vốn và phát triển đƣợc. Đầu tƣ cho thƣơng mại là tốt nhất trong tình
hình ở Việt Nam”.
Nhƣng doanh nghiệp Việt cứ lao theo con đƣờng đánh hàng giá rẻ Trung
Quốc về Việt Nam bán bằng gian lận thƣơng mại, thì hết một thế kỷ chúng ta
cũng không làm nên một thƣơng hiệu nào có giá trị. Bởi lẽ thời đại không gian
kinh tế mạng này, đã hết cách ngồi trong nhà trông mong vào sự ngây ngô của
thị trƣờng và ngƣời tiêu dùng.
Một thƣơng hiệu có thể sụp đổ trong vòng một giờ đồng hồ nhƣ chúng ta
thấy với Khaisilk. Chúng ta đi bán hàng lụa mà không biết những nhà sản xuất
đã áp dụng công nghệ thông minh cho các sản phẩm đến đâu. Có lần một ông
chủ làm hàng tơ tằm ngƣời Brazil nhờ đối tác Việt tìm cho một ít tơ Việt Nam.
Hàng mẫu từ vùng dâu tằm lớn của Việt Nam đƣợc gửi đi. Sau đó rất nhanh, đối
tác Brazil trả lời với thái độ khá miệt thị:
“Tôi cần tơ Việt, tại sao các bạn lại gửi mẫu tơ Trung Quốc? Chúng tôi
đã đƣa mẫu vào thí nghiệm và có thông số đó là tơ Trung Quốc. Nếu cần tơ
Trung Quốc, chúng tôi có rất nhiều đối tác, không phải đi vòng qua Việt Nam”.
Chỉ vì muốn ăn thật nhanh, thiếu kiên nhẫn, nhà cung cấp đã mất một đối tác,
mất một nguồn lợi lâu dài nếu nhƣ đối tác Brazil có kế hoạch cần cung cấp tơ
Việt. Không phải vì tơ Việt tốt hơn, nhƣng có thể phù hợp hơn với sản phẩm
của họ.
Kể nhƣ vậy để thấy rằng đã hết thời cho những ngƣời làm kinh doanh mà
chỉ dựa vào sự dối trá mua rẻ bán đắt, gian lận xuất xứ, đổ tiếng xấu cho các đối
tác của mình chắc chắn không thể trƣờng tồn.
Nghiệm ra có một làn sóng các nhà đầu tƣ mới đến Hội An chừng mƣời
năm qua đã góp thêm cho thành phố nhỏ xíu này những công trình mới mẻ, đã
nâng tầm chất lƣợng dịch vụ không kém cạnh những khu vực nổi tiếng nhƣ
Phuket miền nam Thái Lan, hay Bali ở Indonesia.
Đôi khi không muốn nghĩ đến số phận của di sản văn hóa thế giới này
trong tƣơng lai khi mà nó phải đón đến 2,5 triệu du khách một năm thì những
ngƣời vận hành bộ máy kinh doanh, dịch vụ cũng phải lao theo cơn sốt này
chăng?
Đôi nghĩ nghĩ ngợi, có những ngƣời mà đích đến của kinh doanh là đồng
tiền lợi nhuận. Những ngƣời mới đến này sẽ đem lại giá trị gì cho Hội An nhỉ?
Phải hỏi câu này, bởi Hội An là một thực thể văn hóa sống rất đặc biệt, ngƣời
kinh doanh phải hiểu kiếm tiền dựa vào tài nguyên văn hóa chứ không phải dựa
vào đầu tƣ mạo hiểm, khoe tài khoe vốn, thì mới đi đƣợc đƣờng dài.
Bích Hồng
BÍCH HỒNG.Thƣơng nhân Hội An xƣa và nay/Bích Hồng//Đà nẵng cuối
tuần.-2018.-Ngày 6 tháng 5.-Tr.6.
Ngó lên ngọn Xuân Mãi... Ngay chỗ đầu đƣờng Hoàng Diệu dẫn về chợ Khâm Đức, lúc tôi chuẩn bị rẽ,
những chói sáng xanh đỏ tím vàng vừa thu đƣợc vào mắt ở cái chợ miền núi lớn
nhất Quảng Nam thoắt nhƣờng chỗ cho sững sờ khi nhìn thấy một “ngƣời bạn
cũ”: chiếc xe Mink quấn xích vô bánh. Bất kỳ ai từng qua vùng vàng, đều phải
nhờ “ngƣời bạn” này. Tôi đứng lặng hồi lâu và ngắm. Xe tróc sạch sơn. Gỉ sắt.
Nó đƣợc xếp trƣớc hiên, phủ bụi.
Thị trấn Khâm Đức hôm nay. Ảnh: T.V
Những chớp sáng ký ức trồi lên rồi lặng lẽ qua. Thời oanh liệt của vàng
Phƣớc Sơn với bao nhiêu bến, bãi, tai tiếng, bao thân phận nổi trôi, bao vụ án
đau lòng và kinh sợ, những tên tuổi giang hồ số má lấy rừng sâu nƣớc độc làm
chốn dung thân… Tất cả xa vắng rồi, và chiếc xe cũng xong chức phận của nó.
1. “Không có vàng, Phƣớc Sơn sống bằng gì? Tôi nhớ khi Công ty vàng
Phƣớc Sơn có vốn nƣớc ngoài ngƣng hoạt động, lãnh đạo huyện nói là ngân
sách tụt nghiêm trọng, phải cầu cứu tỉnh. Không lẽ huyện này chỉ sống bằng…
vàng, còn không có là chết?”. Trả lời tôi, ông Nguyễn Mạnh Hà - Chủ tịch
UBND huyện, lắc đầu: “Không phải nhƣ ngƣời ta nghĩ đâu. Nhiều chƣơng trình
đầu tƣ của Nhà nƣớc là bệ đỡ cho huyện để phát triển kinh tế - xã hội, chứ vàng
cũng chỉ góp một phần ngân sách”. “Các bãi vàng, công ty vàng tại các xã, có
giúp gì đƣợc cho dân không?”. “Làm chi có, dân khá lên hay không là từ nỗ lực
của địa phƣơng. Căn cứ vô nhiều nguồn từ trên phân bổ, bố trí kinh phí từ nhu
cầu của dân. Con số đói nghèo của huyện có giảm, từ 45% năm 2016 xuống còn
38% năm 2017. Sắp tới, có quá nhiều việc để chúng tôi lo, đó là quy hoạch
vùng nguyên liệu nhắm vào cây dƣợc liệu rồi nhân rộng ra; hỗ trợ và bảo tồn
cây quế, trƣớc đây vốn là cây bản địa; trồng rừng gỗ lớn thay cho cây keo giá cả
bấp bênh, Nhà nƣớc sẽ bảo lãnh thay cho cây vật liệu hàng năm. Đây là hƣớng
chính để Phƣớc Sơn phát triển kinh tế bền vững” - ông Hà nói.
Tôi vừa đi một huyện miền núi của tỉnh về, bài ca về cán bộ ì ạch, dân ỷ lại bao
năm qua cứ hát miết, cơ hồ gợi nỗi bi quan không có hồi kết về sự chuyển động
của miền núi, bởi Nhà nƣớc có cấp bao nhiêu tiền, chính sách tốt cỡ mấy, mà
không thay máu đƣợc tƣ duy ở dƣới về sự vận động tự thân, thì mãi mãi đứng
yên. Ông Hà cũng không giấu đƣợc ƣu tƣ, nhƣng vẻ thẳng thắn: “Khi Nhà nƣớc
không hỗ trợ nữa mới thoát ra đƣợc thói ỷ lại. Trong chiến tranh, Nhà nƣớc nào
có bao cấp, cái ăn cái mặc khó kinh khủng, nhƣng có ai chết đói đâu, bây giờ
sao cứ ỷ lại? Ví nhƣ chuyện anh vừa nói về cứu trợ, ở huyện này tôi yêu cầu là
không cho tiền, vì sẽ tạo tiền lệ xấu; ôm tiền ăn nhậu là hết, quán triệt các xã là
nghiêm cấm quán xá không đƣợc mua gạo cứu trợ của bà con. Còn cán bộ cơ
sở, hầu hết anh em trẻ, có năng lực, họ cũng lo lắng nhiều cho sự phát triển của
địa phƣơng”.
2. “Vậy văn hóa thì sao?”. “Văn hóa ở
đây bị... lơ trong thời gian dài”. “Tôi biết,
rất lo. Tháng 5 này, chúng tôi sẽ làm nhà
làng truyền thống, làm kiên cố bê tông,
không cho phá rừng; tháng 11, huyện sẽ tổ
chức tết mùa để sau đó tạo thành nếp sinh
hoạt nhằm thu hút du lịch; chuẩn bị xây
dƣng khu bảo tồn Bơ Noong. Từ trƣớc đến
nay, lễ hội chỉ khoanh vùng ở mức tự phát thôn, làng, nay chúng tôi sẽ đẩy lên
thành cấp huyện, đây là cách vực dậy, khơi nguồn và bảo tồn văn hóa truyền
thống”.
Tôi nhớ, Viện Ngôn ngữ và anh Thanh - nguyên Phó Chủ tịch huyện này, từng
làm sách và dạy chữ, tiếng Mơ Nông. Câu chuyện này xem ra dài lắm. Một
đồng nghiệp nói với tôi rằng, nhƣ chuyện chữ và tiếng, hãy dừng lại ở tiếng,
phải dạy cán bộ, nhất là cơ sở, biết tiếng đồng bào, anh giỏi, trẻ cỡ nào mà
xuống với dân, tiếng của họ không biết thì coi nhƣ bó tay rồi, văn hóa không
phải nhƣ xe ủi đất, cứ ào ào xông tới…
Quyết tâm lần này của huyện về nguồn mạch đã tạo nên gƣơng mặt
Phƣớc Sơn từ thuở xa xƣa, hy vọng sẽ khơi gợi bao điều cần thiết, thậm chí
sống còn cho sự tồn tại của văn hóa một tộc ngƣời mà bấy lâu xem nhẹ, thậm
chí lãng quên. Ông Hà chƣa hết chuyện: “Còn nữa, tôi muốn làm chợ phiên.
Ngay tại chợ Khâm Đức, huyện sẽ cho làm một khu riêng cho bà con dân tộc,
nông sản thực phẩm của họ sẽ bán riêng, ai muốn mua vào đó. À, còn cái ni,
nghĩ thiệt khó, là tôi muốn dựng chợ trung tâm cụm xã ở Phƣớc Chánh. Bà con
các xã khác sẽ vô đây bán. Mỗi tuần một lần. Nhƣng câu hỏi: vận động họ
xuống, bán không đƣợc, họ bắt đền, mình lấy chi trả? Định làm 3 lần/tháng, mỗi
hộ đi bán, huyện hỗ trợ 200 ngàn/lần, sau 3 lần là không hỗ trợ nữa. Cốt yếu là
tạo cho họ thói quen buôn bán. Anh nghĩ mà coi, đang tồn tại tƣ duy tội nghiệp,
là thƣơng lái đến tận nhà mua, ví dụ 5 ngàn/bó rau, bà con nghĩ là quá sƣớng,
mình khỏi đi đâu cho mệt, làm ra có ngƣời đến tận nhà, nhƣng họ đâu biết rằng,
họ đã bị ăn chặn khá nhiều, thất thoát lớn, bởi bó rau ra đến huyện hoặc vùng xa
hơn, sẽ lên gấp 2 - 3 lần. Ừ, đúng là họ không biết, chƣa biết coi sản phẩm là
hàng hóa, bán buôn là biểu hiện của hàng hóa. Tôi muốn họ tập trung về Phƣớc
Chánh, nhƣng nếu huyện bỏ ngân sách ra hỗ trợ ban đầu, là sai luật, bởi ai cho
Phƣớc Sơn, đâu chỉ nặng ơn bà
con ngƣời Mơ Nông đã sống tận
tình với quê hƣơng, mà nợ cả
những ngƣời xa xứ, vì mối
lƣơng duyên với đất này mà đến
đây, sống, làm việc và nằm lại.
phép? Mà không làm vậy, thì làm sao giúp bà con? Chẳng có doanh nghiệp nào
hỗ trợ kiểu này, thiệt là khó”.
3. Chuyện về khu chợ Phƣớc Chánh, hay nói rộng ra, phá bỏ lề thói cũ
trong làm ăn kinh tế miền núi, không riêng gì Phƣớc Sơn, nhƣ đụng vô bức
tƣờng, nếu không phá đƣợc thì giơ tay đầu hàng. Nhƣng, bài toán nào cũng có
lời giải? Trách nhiệm thuộc về những ngƣời nhƣ ông Hà. Tôi nói điều này, bởi
nếu ai nhớ lại sau giải phóng, bao ngƣời từ khắp nơi về đây, coi Phƣớc Sơn là
quê hƣơng, nằm gai nếm mật, vực dậy mảnh đất đói nghèo.
Ở thị trấn này, có một làng Nghệ An, nói nhƣ bà Nguyễn Thị Văn, dân
Nam Đàn, nhà ở đƣờng Quang Trung, khối phố 2, có hơn 300 hộ có tên ở Hội
đồng hƣơng Nghệ An tại Khâm Đức, đó là còn nhiều ngƣời chƣa vô hội. Bà là
vợ ông Nguyễn Văn Tiến - nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Phƣớc Sơn. Là
bộ đội chiến trƣờng này, giải phóng ra, ông ở lại. Thế là bà phải theo ông. “Hồi
đó có 5 nhà chứ mấy, trƣớc mặt có con suối, năm 2003 quy hoạch mới lấp”.
Mắt ngƣời già nhƣ chƣa mất những neo đậu những gian khó, thuở mới nghe
Khâm Đức, không hình dung đƣợc đó là đâu, ra sao. Tôi nhớ anh Kỷ, con bà
Văn, bảo con suối cá nhiều lắm, ông già làm lãnh đạo huyện nhƣng cũng phải
đánh cá mà ăn. “Ừ, cực lắm - bà Văn trầm ngâm - vô đây làm rẫy, lúc đó quanh
đây dấu chân cọp, heo, nai rồi rắn quá trời”. Những ngƣời ngồi quanh cƣời. Cái
cƣời của ký ức khốn khó mà mỗi khi nhớ lại, họ nói, đúng là nghĩ không biết
làm sao mà vƣợt qua đƣợc.
Tôi ngó lên núi Xuân Mãi và nghe kể chuyện giáo viên ngƣời Nghệ An –
nhƣ cô Đƣờng, vô đây đầu thập kỷ tám mƣơi thế kỷ trƣớc, thanh xuân, lạ lẫm,
đi học xuống Đà Nẵng là đi bộ. Họ đƣợc đƣa về các xã, dạy học nhƣ đi… rẫy,
mỗi ngày dạy 5 tiếng, chia làm 3 ca cho hai cấp 1-2. Trƣờng thì làm bằng tre,
lấy rơm và đất nện thành tƣờng, lấy tôn lợp mái. Thầy cô cũng phải đi nhổ sắn,
tuốt lúa, giã gạo với bà con, sống nhờ dân nuôi, chứ lƣơng đƣợc mấy đồng. Đã
4 thế hệ ngƣời Nghệ An sinh ra và lớn lên ở đất này. Ngƣời Thanh Hóa, Hà
Tĩnh cũng có. Bao thế hệ ngƣời Khâm Đức biết chữ, cũng nhờ những ngƣời nhƣ
cô Đƣờng! Họ nhƣ ngọn núi ấy, góp cho những mùa xuân ở lại.
Đó, Khâm Đức, Phƣớc Sơn, đâu chỉ nặng ơn bà con ngƣời Mơ Nông đã
sống tận tình với quê hƣơng, mà nợ cả những ngƣời xa xứ, vì mối lƣơng duyên
với đất này mà đến đây, sống, làm việc và nằm lại. Những ngƣời cầm cân nảy
mực, đứng mũi chịu sào bây giờ, nếu không trả đƣợc cái ơn cái nghĩa cái tình
đó, lòng ngƣời có tâm đâu dễ nhẹ nhàng.
Tôi nhớ Mạnh Tử từng nói rằng, hằng sản mới hằng tâm đƣợc, cứ nghĩ
nôm na là không có của thì khó có thể giúp thiên hạ. Của cải Phƣớc Sơn đâu có
hết, lâu nay không có vàng thì đâu có chết, chuyện còn lại là vàng từ tƣ duy
vƣợt trội và quyết tâm thật lòng, tử tế, chân thành để Phƣớc Sơn trong mắt thiên
hạ, là không cần có vàng…
Ghi chép của TRUNG VIỆT
TRUNG VIỆT.Ngó lên ngọn Xuân Mãi.../Trung Việt//Quảng Nam.-2018.-
Ngày 11 tháng 5.-Tr.11.
Theo bức họa đồ, tìm phố Từ chuyện tìm bản đồ quy hoạch bị “thất lạc” cho khu phố lớn ở phía
Nam, sực nhớ giới chuyên môn từng lần theo một họa đồ cũ để truy tìm
dấu vết một khu phố. Đó là phố Nhật ở Hội An.
Phía tây Chùa Cầu là khu vực dự đoán có khu phố Nhật. Ảnh: H.X.H
Giờ đây, khi cấu trúc không gian của phố cổ Hội An đã đƣợc xác lập,
nhiều ngƣời dễ dàng hình dung lịch sử và bƣớc chuyển của các khối phố ở đô
thị cổ Hội An tính từ thế kỷ 17 đến nay. Nhƣng trong giai đoạn đầu nghiên cứu
(đầu thế kỷ 20), các chuyên gia phải lần dò từng bƣớc một, thậm chí dự đoán
địa điểm của khu phố Nhật sai lệch hàng chục cây số, ra tận ngoài… Đà Nẵng.
1. Lƣợc sử nghiên cứu về khu phố Nhật đƣợc GS. Kikuchi Seiichi trình
bày mạch lạc trong công trình “Nghiên cứu đô thị cổ Hội An từ quan điểm khảo
cổ học lịch sử” (NXB Thế giới, 2010). Trong đó, có đề cập thông tin thú vị về
nhà nghiên cứu khởi sự đi tìm lại phố cũ từ một bức họa đồ. Đó chính là bức
“Chaya tâm lục Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ” lƣu giữ tại chùa Jomyo
(TP.Nagoya, Nhật Bản) mà lâu nay đƣợc nhắc dƣới tên gọi ngắn gọn hơn: Giao
Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ. Bức họa của thƣơng gia Chaya Shinroku, miêu tả
hải trình vƣợt biển của một thƣơng thuyền Nhật Bản đi từ Nagasaki cập bến Hội
An đến dinh Chiêm (Thanh Chiêm) dâng lễ vật yết kiến chúa Nguyễn. Cảnh
khu phố Nhật vào quãng thế kỷ 17 là một trong 4 cảnh quan của bức họa đặc
biệt này.
Theo GS. Kikuchi Seiichi, một số nhà nghiên cứu đã lần tìm vị trí khu
phố từ bức vẽ này. Nhƣ trƣờng hợp ông Tsuji Yoshinosuke, khi nghiên cứu về
phố Nhật Bản ở vùng Nam Dƣơng, đã so sánh hình ảnh khu phố Nhật Bản vẽ
trong bức họa này với địa hình Đà Nẵng và cho rằng đó là khu phố Nhật Bản ở
Tourane (hiện là Đà Nẵng). Ngay ông Kojima Masanori, ngƣời đƣợc cho là nhà
nghiên cứu Nhật Bản đầu tiên tiến hành điều tra hiện trƣờng khu phố Nhật tại
Hội An, cũng từng đặt vấn đề liệu có tồn tại hay không một khu phố Nhật Bản
tƣơng tự tại Đà Nẵng. Ông Kojima Masanori thăm Hội An và điều tra về cầu,
mộ ngƣời Nhật khi du lịch tới Việt Nam từ năm 1909.
Nhà nghiên cứu ngƣời Pháp Noel Péri, thành viên của Viện Viễn Đông
bác cổ (EFEO), cũng đề cập khu phố Nhật Bản tại Hội An và Đà Nẵng trong
công trình nghiên cứu về phố Nhật Bản từ năm 1916. Các nhà nghiên cứu
Kuroita Katsumi, Iwao Seichi khi điều tra về các tƣ liệu lịch sử có liên quan tới
Nhật Bản còn sót lại tại Đông Nam Á từ năm 1927 cũng xem vị trí khu phố
Nhật Bản tại Hội An là chủ đề lớn. Nhƣ vậy, ít nhất có thêm 2 ngƣời (Iwao
Seiichi, Noel Péri) cũng đồng ý kiến với ông Tsuji Yoshinosuke về “nghi vấn”
phố Nhật nằm ở Đà Nẵng, sau khi so sánh hình ảnh trên bức họa.
2. Cuối cùng, với các hội nghị chuyên đề và điều tra khai quật tại khu phố
cổ Hội An kể từ sau năm 1980, các nhà nghiên cứu đã đi đến thống nhất khu
phố Nhật nằm ở Hội An. Đến nay, thông qua những dấu vết kiến trúc, hiện vật
gốm sứ, tiền cổ…, các nhà nghiên cứu xác định phạm vi khu vực “có dân cƣ
sinh sống hồi thế kỷ 17”: từ phố Nguyễn Thị Minh Khai tới xung quanh Chùa
Cầu (phía tây), phía bắc phố Trần Phú, phía nam phố Phan Châu Trinh, khu vực
lân cận hội quán Triều Châu (phía đông).
Một phần của bức “Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ”.
Điều thú vị là phạm vi “khoanh vùng” này đƣợc bảo chứng bởi những
trang ghi chép của một giáo sĩ ngƣời Ý từ đầu thế kỷ 17. Trong chƣơng 8 “Về
thƣơng mại và các hải cảng ở xứ Đàng Trong”, giáo sĩ Cristophoro Borri viết:
“Chúa Đàng Trong xƣa kia cho ngƣời Nhật, ngƣời Tàu chọn một địa điểm và
nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán”. “Phố ngƣời Tàu”,
“phố ngƣời Nhật” đƣợc nhắc đến một cách chi tiết, có khu vực và quan cai trị
riêng, sống theo tập tục riêng.
Trong nghiên cứu của mình, GS. Kikuchi Seiichi sau khi dẫn ghi chép
của giáo sĩ C.Borri đã bình luận thêm: Đây là một vùng đất mới và là nơi sinh
sống của ngƣời nƣớc ngoài; do vậy, có thể thấy rằng phố Nhật Bản phải nằm
trong phạm vi khu vực xác định ở trên. Không phải ngẫu nhiên mà dịp khai
trƣơng Không gian văn hóa Việt Nam – Nhật Bản hồi tháng 11.2017 với sự hiện
diện của Thủ tƣớng 2 nƣớc Việt Nam và Nhật Bản, địa điểm tổ chức đƣợc chọn
ở khu vực đƣờng Nguyễn Thị Minh Khai gần Chùa Cầu. Các nhà quản lý ở
TP.Hội An và chuyên gia Nhật Bản đã thống nhất chọn, bởi họ tin rằng khu vực
này từng hiện diện khu phố Nhật trong quá khứ.
3. Nhƣng “truy tìm” chính xác địa điểm khu phố Nhật (hay Tàu) để làm
gì, sau nhiều thế kỷ biến động và thay đổi?
Ông Nguyễn Chí Trung, Giám đốc Trung tâm Quản lý bảo tồn di sản văn
hóa Hội An, nhìn nhận đúng là vết tích phố xƣa không còn, nhất là kiến trúc
(nhà cửa), chỉ hình dung qua các hiện vật khai quật. Theo ông Trung, ngay di
tích Chùa Cầu mà cũng phải đào sâu 1,4 mét mới có thể “bắt gặp” vết tích kiến
trúc của cầu Nhật Bản. Theo sát diễn tiến mở rộng, phát triển phố cổ Hội An,
chúng ta nhận ra có sự “dịch chuyển” mạnh về phía nam. Trục không gian phố
hồi thế kỷ 17 nằm ở phía bắc tuyến đƣờng Nguyễn Thị Minh Khai, kéo xuống
đƣờng Trần Phú bây giờ. Sang thế kỷ 18, phố tiếp tục mở rộng sang đƣờng
Nguyễn Thái Học. Thế kỷ 19 - 20, phố trên đƣờng Bạch Đằng hình thành và về
cơ bản các công trình kiến trúc của phố cổ hiện hữu đƣợc xây dựng trong quãng
thời gian này.
Việc truy tìm dấu vết, địa điểm cả một khu phố lớn dựa trên phác họa của
một bức vẽ nổi tiếng, là chi tiết hấp dẫn đối với nhà nghiên cứu. Giờ đây, không
phải do các nhà nghiên cứu đã khoanh vùng đƣợc phạm vi, mà bởi nhu cầu tiếp
biến còn quan trọng hơn nhiều ở mảnh đất “hội thủy, hội nhân, hội văn” nhƣ
Hội An. Sau mấy trăm năm, các phố “có khu vực riêng, sống theo tập tục riêng”
nhƣ nhận định của giáo sĩ C.Borri dƣờng nhƣ không thể kiểm chứng trên thực
tế. Tất cả đã hòa làm một, hóa thân vào nhân tình thuần hậu và góp phần làm
nên phố Hội.
HỨA XUYÊN HUỲNH
HỨA XUYÊN HU NH.Theo bức họa đồ, tìm phố/Hứa Xuyên Huỳnh//Quảng
Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 12-13 tháng 5.-Tr.7.
Một đời nâng niu văn học dân gian đất Quảng Ngƣời Quảng thời nay ham mê nghiên cứu và có đóng góp cho sự nghiệp
bảo tồn di sản văn học dân gian đất Quảng không ít, chẳng hạn nhƣ Lâm Quang
Thự, Hoàng Hƣơng Việt, Trƣơng Đình Quang, Trần Văn An, Đinh Thị Hựu, Võ
Văn Hòe, Vu Gia… nhƣng tiêu biểu nhất có lẽ phải kể đến Nguyễn Văn Bổn.
Một đời nâng niu gìn giữ văn học dân gian đất Quảng, Nguyễn Văn Bổn có
nhiều ƣu thế hơn thiên hạ. Trƣớc hết đến với truyện kể hay thơ ca là những sáng
tác nghệ thuật ngôn từ của ông cha xƣa, rất cần năng lực cảm thụ và thẩm định
văn chƣơng tinh tế. Bản thân là một nhà thơ nổi tiếng từ thập niên sáu mƣơi của
thế kỷ trƣớc với bút danh Tần Hoài Dạ Vũ, Nguyễn Văn Bổn hoàn toàn có thể
đáp ứng đƣợc yêu cầu ấy.
Bộ sách “Văn học dân gian Quảng Nam-Đà Nẵng” của Nguyễn
Văn Bổn do NXB Hội Nhà văn ấn hành tháng 1-2018.
Thứ hai là công việc sƣu tầm văn học dân gian đòi hỏi phải có nhiều thời
gian thâm nhập thực tế, đi điền dã về nông thôn, lên miền núi… mới có thể
gom góp chắt chiu “đãi cát tìm vàng”. Với tƣ cách một công chức của Ty Văn
hóa Thông tin tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng từ năm 1978, Nguyễn Văn Bổn có
điều kiện thuận lợi trong việc đi điền dã khắp đất Quảng hàng chục năm trời
ròng rã - sƣu tầm văn học dân gian ở đây cũng chính là thực hiện “nhiệm vụ
chính trị”, là thực thi công vụ. Đƣơng nhiên may mắn lớn nhất của Nguyễn Văn
Bổn là đã thực thi cái công vụ văn hóa ấy rất kịp thời, khi mà lớp ngƣời lớn tuổi
ở các làng Quảng bảo lƣu đƣợc di sản văn học dân gian vẫn đang còn sống và
đang còn nhớ, đang còn kể và đang còn hát…
Sản phẩm của những năm Nguyễn Văn Bổn rong ruổi sƣu tầm văn học
dân gian là hai tập sách Văn nghệ Dân gian Quảng Nam-Đà Nẵng do Sở Văn
hóa-Thông tin tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng xuất bản - tập một vào năm 1983 và
tập hai vào năm 1984; là hai tập sách Văn học Dân gian Quảng Nam do Sở Văn
hóa-Thông tin tỉnh Quảng Nam xuất bản - tập ba/miền biển vào năm 2001 và
tập bốn/miền núi vào năm 2004; đặc biệt là bộ sách bốn tập Văn học Dân gian
Quảng Nam-Đà Nẵng do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành đầu năm 2018 -
đƣợc Nguyễn Văn Bổn bỏ ra không ít thời gian công sức để “nâng cấp”, thậm
chí để “làm mới” từ các tập sách vừa nêu và gọi đây là “bộ sách của một đời
ngƣời”.
Qua “bộ sách của một đời ngƣời” đáng ngƣỡng mộ này, Nguyễn Văn
Bổn không chỉ làm công việc của ngƣời thƣ ký tận tụy, ghi chép đầy đủ và
chính xác những điều mắt thấy tai nghe trên hành trình nhọc nhằn đi tìm di sản
văn học dân gian đất Quảng - mặc dầu chỉ nhƣ vậy thôi đã là đóng góp lớn rồi.
Nguyễn Văn Bổn cũng không chỉ làm nhiệm vụ hệ thống hóa di sản văn học
dân gian đất Quảng theo ba khu vực miền xuôi/đồng bằng, miền biển và miền
núi, hoặc theo các thể loại văn chƣơng dân gian khác nhau. Xin nói thêm rằng
với bộ sách này, Nguyễn Văn Bổn đã cố ý tự thu hẹp phạm vi sƣu tầm nghiên
cứu của mình từ văn nghệ - bao gồm cả nghệ thuật diễn xƣớng, nghệ thuật tạo
hình, sang văn học - tức chỉ có nghệ thuật ngôn từ.
Trong bốn tập Văn học Dân gian Quảng Nam-Đà Nẵng, Nguyễn Văn
Bổn chủ yếu đóng vai trò ngƣời dẫn dắt, đƣa độc giả bộ sách thâm nhập và
khám phá thế giới nghệ thuật của văn chƣơng dân gian đất Quảng. Đi theo anh,
không ít ngƣời cảm thấy ngỡ ngàng trƣớc những điều chƣa biết hoặc biết chƣa
hết về vùng đất chƣa mƣa đà thấm, về con ngƣời chân chất ăn cục nói hòn, về
cách nghĩ cách nhìn của những lƣu dân khi mới đặt chân lên xứ sở lạ lùng, con
chim kêu phải sợ con cá vùng phải kiêng… Cùng Quảng Nam hay cãi với nhau,
thi thoảng có ngƣời toan dừng lại để tranh luận với anh, nhƣng không ít lần anh
đã thuyết phục đƣợc họ bằng giọng văn vừa khúc chiết vừa đầy chất thơ và bằng
sự hiểu biết thấm đẫm thực tiễn.
Chẳng hạn Nguyễn Văn Bổn có lý khi cho rằng ở đất Quảng, “các yếu tố
thần thoại không còn để lại nhiều dấu vết trong các truyện cổ (…) các yếu tố
đạo lý làm ngƣời đã chiếm ƣu thế, làm mờ nhạt đi những yếu tố thần kỳ” (trang
36, tập 1 Vùng đồng bằng). Ở đây Nguyễn Văn Bổn rất có ý thức về mức độ,
bởi không còn để lại nhiều dấu vết hay bị làm cho mờ nhạt đi không có nghĩa là
không có/ không còn yếu tố thần kỳ trong truyện cổ đất Quảng. Chi tiết tấm da
ngựa si tình bất thần quấn chặt lấy cô tiểu thƣ xinh đẹp bay bổng lên ngọn cây
cao trong Sự tích con tằm (trang 89, tập 2 Truyện cổ dân gian ngƣời Việt miền
xuôi) dễ khiến ngƣời đọc thời nay liên tƣởng đến hình ảnh nàng Remedios xinh
đẹp đƣợc gió thổi bay về trời trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn lừng danh của
đại văn hào Gabriel García Márquez.
Đọc bộ sách bốn tập Văn học Dân gian Quảng Nam-Đà Nẵng, có thể thấy
Nguyễn Văn Bổn luôn có ý thức mở rộng kiến giải sang địa hạt văn hóa dân
gian. Chẳng hạn Nguyễn Văn Bổn đã dành gần năm chục trang sách trong tập 3
Miền biển để viết về các lễ hội và sinh hoạt văn hóa ở miền biển Quảng Nam-
Đà Nẵng; cũng nhƣ đã dành khoảng ba chục trang trong tập 4 Miền núi để viết
về các lễ hội của đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi Quảng Nam-Đà
Nẵng. Và mặc dầu đã tự thu hẹp phạm vi sƣu tầm nghiên cứu của mình chỉ
trong lĩnh vực văn học nhƣng đọc tập 4 Miền núi vẫn thấy Nguyễn Văn Bổn
“lấn sân” sang lĩnh vực nghệ thuật khi dành cả chƣơng ba để giới thiệu về nghệ
thuật ca múa/âm nhạc và nghệ thuật trang trí/tạo hình.
Ngoài ra, đọc bộ sách bốn tập Văn học Dân gian Quảng Nam-Đà Nẵng,
độc giả còn cảm thấy thú vị khi dõi theo các phần phụ lục Viết trên đƣờng điền
dã. Thực chất đây là những tiểu luận về văn hóa văn nghệ dân gian đất Quảng
dƣới góc nhìn đƣơng đại và quan trọng hơn là hồi ức về quá trình lao động
nghiêm túc của Nguyễn Văn Bổn suốt hàng chục năm trời ròng rã đi điền dã
khắp đất Quảng quê hƣơng. Qua những tiểu-luận-hồi-ức này, ngƣời đọc có thể
cảm nhận đƣợc công phu của Nguyễn Văn Bổn trong việc gom góp chắt chiu
“đãi cát tìm vàng” đối với “của hƣơng hỏa” văn học dân gian ông cha xƣa để
lại; đồng thời có thể lý giải vì sao bộ sách này lại đƣợc chính Nguyễn Văn Bổn
mệnh danh là “bộ sách của một đời ngƣời”. Vậy thì còn chần chừ gì nữa mà
chƣa chịu đồng hành với Nguyễn Văn Bổn dọc theo hai ngàn trang sách Văn
học Dân gian Quảng Nam Đà Nẵng!
Trần Nguyên Hậu
TRẦN NGUYÊN HẬU.Một đ i nâng niu văn học dân gian đất Quảng/Trần Nguyên
Hậu//Đà Nẵng cuối tuần.-2018.-Ngày 13 tháng 5.-Tr.8 &15.
Khoai chà Tân Đông Tây Nghề làm khoai chà ở thôn Tân Đông Tây, xã Phú Thọ, (Quế Sơn) có từ lâu
và được duy trì cho đến nay. Người dân nơi đây gìn giữ nghề này để có
thêm thu nhập, cải thiện đời sống và đưa hương vị quê nhà bay xa…
Hàng chục hộ dân ở thôn Tân Đông Tây (xã Phú Thọ) vẫn giữ nghề làm khoai
chà. Ảnh: D.T
2 giờ sáng, vợ chồng ông Trần Đình Phú (61 tuổi) ở thôn Tân Đông Tây thức
dậy để chuẩn bị các công đoạn làm khoai chà. Đã hơn 40 năm nay, cứ đến tháng
3, tháng 4 âm lịch, vợ chồng ông lại tất bật với công việc này. Ông Phú cho biết,
mỗi đêm, ông dậy sớm nấu từ hai đến ba nồi khoai lang để làm khoai chà theo
cách thủ công truyền thống, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Để chế biến
đƣợc khoai chà ngon, sạch và thơm, khoai tƣơi khi thu hoạch về, sẽ cắt hai đầu,
vạt những chỗ sâu, hà rồi rửa thật sạch, quan trọng nhất là khi nấu khoai phải đổ
vừa nƣớc và giữ đều lửa để khoai không bị cháy hoặc nhão. Canh khoai vừa
chín tới, nƣớc vừa cạn thì nhắc xuống bếp. “Làm khoai chà rất dễ nhƣng lệ
thuộc vào thời tiết. Nếu làm ra gặp trời mƣa thì khoai bị hƣ, hoặc kém chất
lƣợng không bán đƣợc. Mỗi mùa, tôi làm đƣợc khoảng 700kg khoai chà khô,
bán giá là 30 nghìn đồng/kg, thu nhập khoảng 20 triệu đồng” - ông Phú nói.
Theo ông Nguyễn Đức Học - Trƣởng thôn Tân Đông Tây, ngƣời dân nơi
đây chỉ làm giống khoai Trùi Sa duy nhất vì nó rất thích hợp để làm khoai chà.
Giống khoai này dễ trồng, chi phí đầu tƣ thấp, năng suất cao, làm khoai chà có
chất lƣợng tốt, đem lại thu nhập đáng kể. Vì thế, ngƣời dân trong thôn ngày
càng mở rộng diện tích khoai Trùi Sa. Theo ƣớc tính, mỗi sào khoai sau khi chế
biến thành khoai chà cho thu nhập khoảng 7 triệu đồng. “Thôn Tân Đông Tây
có diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 250ha, trong đó diện tích đất trồng
khoai lang chiếm 50ha. Hiện cả thôn có 70 hộ dân làm nghề khoai chà. Trong
những năm gần đây, khoai chà đƣợc bán với giá cao, nhờ đó, đời sống bà con
ổn định hơn” - ông Học cho biết thêm.
Khoai lang ở đây đƣợc trồng một vụ chính và thu hoạch vào tháng 4
dƣơng dịch. Tiết trời mùa này rất phù hợp cho việc phơi khoai, nếu trời nắng
đẹp, khoai chà phơi khoảng 2 ngày là khô. Khoai chà khi khô đƣợc sàng, phân
làm 2 loại, loại hạt lớn và hạt nhỏ. Hạt nhỏ còn gọi là hạt dƣới sàng ngƣời dân
dùng để bán, còn hạt lớn là hạt trên sàng họ để lại làm thức ăn cho gia cầm, gia
súc chứ không bán vì loại này lẫn nhiều vỏ khoai nên ít thơm, ngọt... Khoai chà
đƣợc nhiều ngƣời ƣa chuộng vì tốt cho sức khỏe, không có chất bảo quản nên
sản phẩm bán rất chạy, đƣợc thƣơng lái tìm đến tận nơi để mua. Chị Trần Thị
Loan, tiểu thƣơng tại chợ Đàng (Quế Sơn) cho hay: “Mỗi năm tôi mua hơn 1 tấn
khoai chà ở thôn Tân Đông Tây để bán lẻ và bỏ lại cho các mối lái khác. Sản
phẩm khoai chà đƣợc tiêu thụ rộng rãi tại các chợ ở Thăng Bình, Quế Sơn, Hiệp
Đức, Nông Sơn... trong đó, món khoai chà ngào đƣờng luôn đƣợc ngƣời dân ƣa
thích nên bán rất chạy”.
Bà Đinh Thị Phúc - Chủ tịch Hội Nông dân xã Phú Thọ (Quế Sơn) cho
biết: “Để nâng cao hiệu quả kinh tế của làng nghề khoai chà, Hội Nông dân xã
đã xây dựng mô hình điểm về trồng khoai lang Trùi Sa và hỗ trợ giống, phân
bón để nông dân phát triển sản xuất, nhân rộng mô hình. Đồng thời đề xuất Hội
Nông dân huyện thành lập Chi hội nghề nghiệp với 48 hội viên nông dân trong
thôn tham gia. Thời gian tới, hội sẽ phối hợp làm các thủ tục, hồ sơ để đăng ký
thƣơng hiệu sản phẩm khoai chà cho bà con nông dân thôn Tân Đông Tây”. Bây
giờ đời sống ngƣời dân không còn khó khăn nhƣ xƣa và khoai chà trở thành đặc
sản, là món ăn chơi đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích. Ngƣời dân thôn Tân Đông Tây
hiểu rõ điều đó và họ giữ nghề để góp chút hƣơng quê lan tỏa khắp nơi...
DUY THÁI
DUY THÁI.Khoai chà Tân Đông Tây/Duy Thái//Quảng Nam.-2018.-Ngày 18
tháng 5.-Tr.7.
Cá niêng, rau dớn đậm tình núi non Cá niêng sống dọc các khe suối vùng cao từ Thừa Thiên Huế đến Bình
Định. Ở Quảng Nam, cá niêng sinh trưởng tự nhiên trên các sông suối ở
những huyện miền núi, nhưng nhiều và ngon nhất là cá niêng sông Tranh.
Cá niêng.
Cá niêng là loại cá nƣớc ngọt, thƣờng sống theo bầy đàn, phát triển nhiều
trên sông Tranh, một đoạn của sông Thu Bồn, vì nơi đây có những điều kiện
thích hợp để cá sinh sống. Sông Tranh có lắm ghềnh thác, nƣớc chảy xiết, cá
niêng thích sống ở những vực xoáy dƣới thác, ghềnh đá, nhất là dƣới những
chân thác bọt nƣớc tung trắng xóa. Cá niêng có nhiều vảy và xƣơng hom, hình
dáng thoạt nhìn giống nhƣ cá chép, nhƣng mình dài, và thon thả hơn. Ngƣời Co
bản địa nhìn nó hao hao nhƣ con cá diếc nên gọi là Jia-liếc. Còn đối với ngƣời
Hrê cá niêng là hiện thân cho cái đẹp toàn diện. Họ thƣờng dùng cụm từ lem tia
cai-lin (em đẹp nhƣ cá niêng), để khen ngợi những ngƣời con gái mới lớn xinh
đẹp từ vóc dáng, tâm hồn đến tính cách.
Cá niêng con lớn dài đến 30cm, bề ngang gần 10cm, thân cá màu trắng
bạc, lƣng màu xanh nhƣng không xanh bằng cá trích, phần vây pha chút màu
vàng nhạt, óng ánh dƣới ánh mặt trời, đầu nhọn giống lƣỡi mác nên có ngƣời
còn gọi là cá mác. Cá niêng ăn rêu và con hà bám trên đá, vào tháng Giêng,
tháng Hai còn ăn thêm trùn nƣớc. Khoảng cuối mùa đông - đầu mùa xuân, cá
mẹ vƣợt thác đẻ trứng vào những hòn đá nhám, trứng dính vào đấy nở ra cá con,
chúng theo dòng nƣớc trôi xuống thác rồi sống tại đó. Cá niêng thƣờng sống
theo bầy nhƣng ở trong các hốc đá dƣới chân thác, dòng nƣớc chảy xiết nên rất
khó bắt. Ngƣời ta bắt cá niêng bằng cách giăng ngang lƣới dƣới thác rồi chèo
thuyền ngƣợc lên dùng gậy đập vào mạn thuyền hay đập xuống nƣớc khiến cho
cá hoảng sợ chạy tán loạn mà mắc vào lƣới. Ngƣời câu cá niêng thì phải ngâm
mình dƣới nƣớc, cần câu phải nằm dọc theo mặt nƣớc và liên tục co duỗi tay
theo chiều nƣớc chảy, ngƣời dân địa phƣơng gọi là câu thụt.
Rau dớn.
Cá niêng có thể chế biến nhiều món ngon nhƣ kho, nấu rau răm, luộc,
nƣớng hoặc chiên, nhƣng khoái khẩu nhất là món cá niêng luộc. Cho cá vào nồi,
đổ nƣớc xâm xấp mình cá, khi sôi để lửa nhỏ khoảng 10 phút, cho thêm cọng
hành vào và nêm gia vị. Ăn món cá niêng luộc, sẽ cảm nhận đƣợc chất ngọt, béo
của cá tƣơi hợp với mùi cay, thơm của các thứ rau rừng nhƣ cải tàu bay, rau
dớn, ớt xanh, tạo nên một hƣơng vị đặc biệt. Cá niêng nƣớng cũng rất ngon, cá
đƣợc xếp trên một gắp bằng tre đặt cạnh đống lửa lớn, hơi nóng nung chín cá từ
từ khiến cho cá vẫn giữ nguyên vị ngọt, thịt dai và thơm chứ không cháy sém.
Cá niêng nƣớng chấm muối ớt ăn với rau dớn rất ngon hoặc cá niêng nƣớng xé
nhỏ trộn với bắp chuối xắt mỏng, lá cốc, rau thơm, đậu phụng rang và gia vị sẽ
thành món gỏi cá hấp dẫn vô cùng. Ngƣời ta còn lựa những con cá nhỏ, chiều
ngang bằng hai ngón tay, đem chiên cho đến khi vảy xù lên, ngả vàng là cá đã
giòn rụm. Cá chiên vàng mà chấm nƣớc mắm ngon giã ớt tỏi thì thật tuyệt!
Nhƣng nếu chỉ kể chừng đó thì chƣa thấy đƣợc món đặc sắc của cá niêng
mà ngƣời sành ăn không thể bỏ qua đó là mật cá và ruột cá. Mật cá niêng lớn
nhất là bằng hạt đậu nành, màu vàng óng, ngƣời địa phƣơng bảo rằng ăn mật cá
niêng rất sáng mắt, còn ngƣời nghiện rƣợu lại thích ăn ruột cá niêng vì nó có tác
dụng giải đƣợc rƣợu và có lợi cho tiêu hóa. Ruột cá niêng sau khi mổ ra, rửa
sạch, băm nhỏ ruột cá, mật cá trộn với trứng gà cho vào chén, rắc tiêu trên mặt
đem hấp chín rồi ăn nóng rất ngon. Ngƣời chƣa quen mới ăn vào rất đắng nhƣng
nuốt xong lại thấy ngọt ở cổ. Vì tính tò mò muốn thƣởng thức món ăn lạ cho
biết, tôi cũng thử một muỗng nhƣng mới đƣa vào miệng đã đắng thấu trời xanh
nên đành phải đầu hàng còn ông xã tôi thì cố ăn đến nửa chén để mong đƣợc
sáng mắt.
Trong những thứ rau rừng, lạ nhất là rau dớn. Rau dớn là loại rau thƣờng
mọc nhiều ở bờ suối, bờ khe, những nơi ẩm ƣớt và tránh ánh mặt trời. Rau dớn
chỉ thích hợp với môi trƣờng hoang dã, mọc tự nhiên ở đầu suối, không tƣới bón
bằng các hóa chất nhƣ rau trồng nên rất sạch. Một số nơi vào khoảng tháng
chín, tháng mƣời dọc theo các khe suối rau dớn mọc xanh tƣơi, một số nơi khác
thì khoảng tháng tƣ, ven các dòng suối, bên bờ khe hay giữa các phiến đá rau
dớn phủ đầy. Loại rau rừng này vốn là thức ăn quen thuộc của ngƣời miền núi.
Ngƣời Cơ Tu thƣờng hái rau dớn để ăn trong dịp tết, nhiều dân tộc coi rau dớn
là món đặc sản dùng để đãi khách trong các các lễ hội.
Khi thu hái làm rau, chỉ ngắt những ngọn non cong cong nhƣ cái vòi voi,
dài chừng một gang tay. Rau dớn hơi nhơn nhớt, bởi vậy trƣớc khi chế biến
món ăn phải trụng sơ qua với nƣớc sôi. Rau dớn có thể chế biến thành nhiều
món nhƣ luộc, xào, làm nộm, nấu canh hay ăn lẩu với cá niêng đều rất ngon, nó
vừa ngọt, vừa giòn và xanh mƣớt. Riêng món cá niêng mà thiếu rau dớn thì mất
đi hƣơng vị đặc biệt của núi rừng.
Trƣớc đây cá niêng, rau dớn là món ăn dân dã của đồng bào dân tộc vùng
cao, nhƣng ngày nay đã xuôi về phố thị trở thành món ăn sang trọng trong các
nhà hàng, là món quý hiếm để đãi khách phƣơng xa. Ngƣời Quảng Nam đi xa
dù ở nơi nào cũng đau đáu nhớ quê, nhớ món cá niêng, rau dớn đã thấm vào
máu thịt họ từ thuở ấu thơ: “Đi xa anh nhớ quê mình/ Cá niêng, rau dớn đậm
tình núi non”.
CHÂU YẾN LOAN
CHÂU YẾN LOAN.Cá niêng, rau dớn đậm tình núi non/Châu Yến
Loan//Quảng Nam cuối tuần.-2018.-Ngày 19-20 tháng 5.-Tr.6.
CHỢT GẶP TAM KỲ - Cuối xuân đầu hạ, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam hiện lên với những
con phố và hàng cây sưa khẳng khiu đâm chồi nảy lộc sau mùa rụng lá.
Những ngọn chổi gió từ biển quét sạch cát bụi, lá cây khô về cuối con
đƣờng. Những bụi hoa cúc vàng bỗng rực lên nhƣ nắng trên mỗi hiên nhà. Nàng
xuân cũng đã bay đi. Ngƣời ta nói hãy đi về phía biển Tam Kỳ sẽ hiểu hơn về
thành phố trẻ này. Ở đó sóng ào ạt trên bãi cát trắng nhƣ lụa…
Tượng đài “Mẹ Việt Nam Anh hùng”.
Chân dung người mẹ anh hùng
Ngƣời ta hình dung thành phố Tam Kỳ hiện lên với ba ngọn núi mỗi khi
dong thuyền đánh cá trở về. Thành phố có bãi biển Tam Thanh dịu dàng nhƣ
một cô gái mới lớn, lúc nào cũng đƣợc tắm rửa, chải chuốt qua làn sóng biển
trong xanh. Thời còn nhập vào thành phố Đà Nẵng, dƣờng nhƣ thị xã nhỏ bé
này vẫn chỉ là cô bé ở tuổi trăng rằm vậy. Đẹp nhƣng côi cút bên biển vắng
không mấy ai tìm đến. Thị xã chỉ vàng nõn mỗi khi mùa hoa sƣa rộ nở, sau đó
rụng đầy đƣờng ngả màu vàng sậm đầy bí ẩn. Nhƣng giờ đã khác, Tam Kỳ trở
thành “thủ phủ” của tỉnh Quảng Nam và đang lớn dần sau những giấc mơ về
một thành phố văn minh. Một trong ba ngọn núi của Tam Kỳ bất ngờ hiện lên
một công trình kiến trúc lịch sử kỳ lạ nhất mà không nơi nào sánh đƣợc. Đó là
Khu công viên Tƣợng đài “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”. Nhiều ngƣời khó ngờ
những nhà hoạch định khi tạo nên bƣớc ngoặt cho thị xã mới đƣợc nâng cấp lên
thành phố loại hai này (năm 2016). Họ đi trƣớc một bƣớc khi gây dấu ấn cho
thành phố là khu tƣởng niệm này chứ không phải là những ngôi nhà cao tầng
chót vót nhƣ thành phố Đà Nẵng.
Đây là khu kiến trúc tƣợng đài lớn nhất khu vực Đông Nam Á với diện
tích rộng 15ha trên đỉnh núi Cấm (cách trung tâm thành phố 5km). Khu tƣợng
đài “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” gây ngạc nhiên cho bất cứ ai đến đây với quy
mô đồ sộ của nó. Hình tƣợng bà mẹ anh hùng đƣợc làm bằng đá sa thạch có
chiều cao 18,5m, rộng 84,7m và dài 117m. Đây là tác phẩm điêu khắc, tạo hình
từ nguyên mẫu Bà mẹ anh hùng Nguyễn Thị Thứ, quê ở xã Điện Thắng, Điện
Bàn, Quảng Nam. Bà có tới 11 ngƣời con, cháu đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc và
là “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” tiêu biểu nhất trong cả nƣớc. Công trình đƣợc
khởi công từ năm 2009. Nhƣng sau nhiều khó khăn về kinh tế và tiến độ thi
công, cho tới tháng 3/2015, công trình mới đƣợc coi là hoàn thành cơ bản các
hạng mục. Từ đó, chân dung khổng lồ “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” trở thành
điểm nhấn của thành phố Tam Kỳ và khu đài tƣởng niệm đƣợc công nhận là
“Công trình Văn hóa cấp Quốc gia”. Đáng chú ý, bên trong Nhà tƣởng niệm có
hàng trăm bia ghi danh gần 50.000 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trên khắp cả
nƣớc. Đặc biệt, phía trƣớc khối tƣợng đài khổng lồ là quảng trƣờng có 30 ô
thảm cỏ xanh tƣợng trƣng cho 30 năm trƣờng kỳ kháng chiến, 30 năm các mẹ
chờ đợi những ngƣời con chiến thắng trở về. Đây là bố cục thể hiện tƣ tƣởng và
linh hồn của khu đài tƣởng niệm mà nhà điêu khắc, họa sĩ Đinh Gia Thắng đã
trao gửi vào tác phẩm: “Mẹ sinh ra mảnh đất anh hùng, rồi sinh ra những ngƣời
con anh hùng và sẽ lại hóa thân vào đất, vào non nƣớc Việt Nam. Mẹ sẽ sống
mãi ngàn đời, vẫn tiếp thêm nguồn sức mạnh cho các thế hệ trẻ trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Khu tƣợng đài “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” không còn sự khô cứng khi
hòa nhập vào khu công viên rộng lớn với những hàng cây và cột đá, cùng những
vƣờn hoa đƣợc trang trí nhiều họa tiết tƣợng trƣng cho 54 dân tộc sống trên
khắp đất nƣớc. Ngay trƣớc mặt khối tƣợng đài là một hồ nƣớc rộng hơn
1.000m2. Riêng những cột trụ huyền thoại cao 9m đƣợc sắp đặt phía trƣớc
tƣợng đài, tạo ấn tƣợng uy nghiêm nhƣng hài hòa làm nên cảnh quan hấp dẫn về
những khối đá tạo hình kỳ thú. Đây là những cột đá lớn khắc ghi công lao to lớn
của các bà mẹ anh hùng cùng những chân dung phác họa hồn hậu, ấm áp tình
ngƣời. Song song với những khắc họa tạo hình bên ngoài, không gian phía trong
khối tƣợng còn dành diện tích 1.800m2 trƣng bày hàng vạn tƣ liệu, hình ảnh và
hiện vật về các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng tiêu biểu trong cả nƣớc. Toàn bộ
công trình điêu khắc này đã trở thành quảng trƣờng chính cho thành phố tổ chức
các lễ hội và sự kiện lớn hàng năm. Khu tƣợng đài trên núi Cấm đã trở thành
một công viên và một quảng trƣờng văn hóa đậm dấu ấn lịch sử đầu tiên và lớn
nhất trong cả nƣớc mà thành phố Tam Kỳ lấy làm tự hào. Và đó cũng chính là
điểm nhấn cho một thành phố lớn đang hình thành trong tƣơng lai.
Những bức họa trong làng.
Sắc màu làng biển
Trƣớc đây, nói đến thành phố Tam Kỳ là ai cũng nhớ đến bãi biển Tam
Thanh, cách núi Cấm chừng 3 cây số. Cho dù dọc bờ biển kéo dài từ Đà Nẵng
đến Tam Kỳ có nhiều bãi biển nổi tiếng nhƣng Tam Thanh lại nổi trội hơn cả ở
độ cát mịn nhỏ đi giữa nắng không bỏng chân và sóng vỗ hiền hòa. Làng biển
Tam Thanh bị kẹp giữa con sông và biển nên đƣợc coi là cồn đảo xinh xắn với
bãi cát trắng kéo dài gần 10 cây số. Cho dù nơi đây đã có khu nghỉ dƣỡng cao
cấp mới mở kế bên nhƣng bãi biển Tam Thanh vẫn còn “xƣa cũ” ẩn giấu tiềm
năng du lịch trong tƣơng lai. Đặc biệt mới đây, làng chài Tam Thanh lại nổi bật
với những sắc màu nhƣ đƣợc khoác tấm áo mới. Hàng loạt tác phẩm hội họa
trên tƣờng làm cho bãi biển có thêm sức thu hút với du khách mỗi khi đến thành
phố trẻ Tam Kỳ. Con đƣờng đi ra bãi biển Tam Thanh giờ đƣợc hòa sắc với
những bức tranh sơn dầu chạy dọc khắp làng. Chúng tôi đến Tam Thanh đúng
dịp thành phố tổ chức cuộc thi ảnh về làng chài này. Những tấm ảnh về ngƣời
lao động nơi đây đƣợc bày dọc trên đƣờng đi. Chúng đƣợc bày bên những bức
tranh màu vẽ trên tƣờng nhà, bên hàng rào hay trên những chiếc thuyền thúng
trên bãi cát. Nhiều bức tranh sinh động về chính những ngƣời dân và học sinh
của làng. Những chân dung thật, giống nhƣ ngoài đời, cùng với con thuyền hay
quầy bánh của họ vẫn bày bán hàng ngày. Đó là những nụ cƣời chào đón chúng
tôi khi mới bƣớc chân đến làng. Một không khí khác lạ, bởi mới chỉ cách đây
hơn 1 năm thôi, con đƣờng nhỏ của làng vắng hoe với những đôi mắt trẻ con
buồn ngơ ngác…
Giờ ngƣời ta gọi Tam Thanh là làng bích họa duy nhất trong cả nƣớc với
hơn 100 tác phẩm đƣợc các họa sĩ Hàn Quốc và Việt Nam vẽ lên các tƣờng nhà
dân hoặc trên các xóm ngõ bãi thuyền bỏ hoang. Tuy không có độ lớn khổng lồ
về cấu trúc nhƣ khu tƣợng đài “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” nhƣng làng bích
họa lại có diện tích rộng không kém. Những bức họa khổ lớn chạy khắp đƣờng
làng ngõ xóm tạo nên khu văn hóa mỹ thuật làng độc đáo của thành phố Tam
Kỳ. Đây là dự án đƣợc triển khai từ cuối tháng 6/2016, sau 1 năm khánh thành
khu tƣợng đài mẹ anh hùng và trở thành cuộc giao lƣu quốc tế mỹ thuật tại Tam
Thanh. Đặc biệt, những chiếc thuyền thúng cũ hay rách nát đƣợc huy động xếp
thành con đƣờng dẫn ra bãi biển. Các họa sĩ đã vẽ lên đó những hình họa thân
quen. Đó là những cây xanh hay những tấm lƣới và đàn cá nhảy dƣới ánh nắng
xôn xao. Đây là con đƣờng thuyền thúng lạ mắt hấp dẫn du khách bên cạnh
những chân dung hiền lành chất phác của làng chài nghèo. Một công trình nghệ
thuật “Làng bích họa” đƣợc hình thành nhanh chóng trong thời gian vài tháng
nhƣng lại đƣợc đánh giá là sản phẩm du lịch có một không hai ở nƣớc ta. Cách
đây không lâu, ngôi nhà của ông Nguyễn Hồng Thanh bị hỏng và phải xây dựng
lại, nhƣng ông đã giữ lại bức tƣờng đã có tranh vẽ để làm kỷ niệm, ngôi nhà
mới đƣợc xây lui vào phía trong. Đó chính là bức tranh trẻ em trong xóm chơi
bóng và một bức tranh con chó của gia đình chủ nhân cũng đƣợc gìn giữ nhƣ
một kỷ vật khá độc đáo trong ngôi làng này. Những tác phẩm hội họa và nhiếp
ảnh đã hòa vào bản nhạc quê hƣơng nơi đây với dòng sông yên bình êm ả và
sóng biển rì rào suốt ngày đêm. Đó chính là những bản tình ca nơi xứ biển Tam
Kỳ.
Rộn ràng khúc hát bài chòi
Từ xa xƣa, Quảng Nam nổi tiếng với trò chơi ca nhạc bài chòi. Đất biển
Tam Thanh, thành phố Tam Kỳ cũng là nơi chơi ca bài chòi thứ thiệt. Chúng tôi
đang đi dọc đƣờng làng thì tại ngôi nhà văn hóa xã, những ngƣời dẫn trò đang
tập luyện để tối ra đình làng tổ chức cuộc chơi. Thực tế đây là trò hát về con
ngƣời và những sinh hoạt văn hóa, lao động cộng đồng khắp miền Trung Nam
Bộ. Bên cạnh đó, dùng lời hát về con bài để dụ ngƣời chơi nhập cuộc, học lại
những điều nhân nghĩa, lẽ sống đã đƣợc ông cha truyền lại trong dân gian bao
đời nay. Ngƣời chơi tập trung nghe hát mà tìm ra vận may với lá bài của mình,
thông qua lời ca để lĩnh thƣởng đầu năm. Màu sắc văn hóa ca nhạc, mang ý
nghĩa nhân văn trong trò chơi ca bài chòi đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể
nhân loại đƣợc thế giới công nhận.
Chúng tôi nghe tiếng đàn sáo rộn ràng, hòa lẫn làn sóng biển xôn xao với
cảm giác bâng khuâng một buổi chiều xuân. Con đƣờng nghệ thuật của làng
nhƣ đƣợc tấu lên những điệu hò, điệu lý ân cần về lẽ sống tình yêu và hạnh phúc
lứa đôi. Câu hát về con bài “Bảy Liễu” cứ văng vẳng đâu đây nhƣ một lời nhắn
nhủ sự đời: “Em nghe anh tỏ lời này. Em đòi để bỏ chuyện rày sao nên. Tào
khang nghĩa ở cho bền. Liễu mai hòa hợp đôi bên thuận hòa”. Đó chính là lời
ngƣời dân Tam Kỳ gửi lại cho mỗi du khách đến đây với những sắc màu và giai
điệu biển thơ mộng, êm đềm.
Bài và ảnh: Vương Tâm
VƢƠNG TÂM.CHỢT GẶP TAM K /Vƣơng Tâm//Sức khỏe &đ i sống.-
2018.-Ngày 6 tháng 5.-Tr.5.
Chút ngọt ngào sau cuối Lửa lò đường còn đỏ, nhưng người thì đã già. Những cánh đồng mía bạt
ngàn của một thời huy hoàng chỉ còn quá vãng. Lò đường cuối cùng ở xã
Phú Thọ (huyện Quế Sơn) dậy mùi thơm nức của đường non, phảng phất
dư hương của một nghề truyền thống trên thủ phủ trồng mía một thời…
Giữ nghề
Khói nghi ngút bốc lên từ chảo nấu đƣờng sôi sùng sục. Mặc mồ hôi đổ
xuống ròng ròng, ông Cao Tấn Hà (60 tuổi, thôn Tân Đông Tây, xã Phú Thọ)
đều tay múc từng gàu nƣớc mía tới những chảo đầu lò, đảo đều. Lửa đỏ rực.
Không gian dậy lên mùi vị ngọt ngào, trong từng làn khói bốc lên từ chảo nấu.
Chảo cuối cùng ở đầu lò, đƣờng chín tới, nhỏ từng giọt đặc quánh từ gàu, màu
vàng cánh gián. Bên ngoài, có hơn chục ngƣời đứng sẵn, trên tay là chồng bánh
tráng, vài chiếc lon đựng đậu phộng rang sẵn, hoặc… một bẹ chuối tƣơi bẻ lên ở
hai đầu - hóa ra cái cách đựng đƣờng non từ xƣa xửa vẫn còn đƣợc dùng cho
đến tận giờ. Họ đến nhúng bánh tráng đƣờng, món “đặc sản” của vùng quê Phú
Thọ, mua đƣờng non về ăn, tranh thủ khi lò đỏ lửa. Ông Hà nhận chồng bánh
tráng, nhúng vào chảo đƣờng rồi đảo đều, vớt ra cho từng ngƣời. Hàng ngƣời
chờ đợi còn dài, nhƣng ông khoát tay: “Hết rồi, chờ mẻ sau”. Số đƣờng còn lại
trong chảo đƣợc ông già múc đổ vào chiếc thùng gỗ “gia bảo” đã sờn mòn theo
năm tháng. Ba ngƣời, bao gồm ông Hà và hai ngƣời làm công khác, ngồi cầm
đoạn gỗ đƣợc gọi là “bạn đƣờng” bắt đầu đều tay đánh đƣờng non trong thùng.
Đƣờng quánh đặc nhƣ hồ. Phía bên dƣới, một hàng dài những chiếc bát bằng
nhôm đã quét dầu phụng xếp ngay ngắn. Ông Hà bƣng nghiêng thùng, rót
đƣờng vào từng bát, đều, đầy tăm tắp... Đƣờng rót đến đâu đặc lại đến đó. Một
ngƣời khác cầm chiếc búa nhỏ bằng gỗ gõ trên mặt bát đƣờng, tạo thành một
chỗ lõm. Hết một lƣợt rót, lại vòng lại, rót vào những lỗ búa đã gõ. Cứ thế, bát
đƣờng đầy lên, bung xòe nhƣ một đóa hoa kỳ lạ.
Chủ lò đƣờng, ông Trần Đình Hai (65 tuổi) đã có hơn nửa đời mình gắn
với cây mía, với bộ che làm đƣờng bát. Ông Hai bẻ một mảnh đƣờng nhỏ ở
thành bát, nếm thử. Mấy chục năm với mía, với đƣờng, ông chỉ cần nhìn chảo
đƣờng sôi, cũng biết đƣợc đƣờng đã “tới”, nhìn màu đƣờng là biết độ đậm nhạt
của giống mía nấu đƣờng. Từ thuở còn dùng bộ che ép mía bằng gỗ, bắt bò kéo
ép mía, đến hiện tại, lò đƣờng của ông Hai tồn tại đã ngót nghét hơn 40 năm.
Những thùng gỗ, chảo nấu, bạn đƣờng, bát đúc có từ ngày đó vẫn còn dùng tốt
đến tận hôm nay. Những ngƣời làm công ở lò ông Hai cũng là ngƣời trong
vùng, một thời chung nghề nấu đƣờng bát, có ngƣời sắm sửa đủ bộ che, có lò
riêng, nhƣng dƣờng nhƣ không chống nổi sự lụi tàn của nghề và ngành công
nghiệp đƣờng, nên giờ chỉ duy nhất lò Hai Phƣớc - tên gọi ở làng của ông Hai
còn hoạt động. “Cả năm, chỉ nấu đƣợc vài bận từ tháng ba đến tháng năm. Mùa
“mật trèo lên ngọn”, cây mía đủ độ đƣờng, mới đem về nấu. Nhƣng cũng phải
gom vài bữa mới đủ vài tạ mía, nấu chừng ba đợt, là dừng chờ đủ mía mới nấu
tiếp đợt khác” - ông Hai nói.
Lò đƣờng của ông Hai là lò đƣờng thủ công duy nhất sót lại ở cả vùng trung
du.Ảnh: THÀNH CÔNG
Mƣời lăm phút, đƣờng bát chín, còn ấm nóng trên tay. Ba thùng gỗ đầy
nƣớc đƣờng, đổ đƣợc mƣời tám cặp đƣờng, vừa kịp tới một đợt rót mới. Ông Hà
vớt bỏ bọt bẩn trên chảo đƣờng, đảo đều chảo đƣờng đang sôi. Ngƣời dân đứng
chật quanh lò, chờ nhúng bánh tráng. Quá đông, lƣợng đƣờng trong chảo chỉ đủ
nhúng bánh. Số đƣờng bát vừa gỡ, đƣợc mua sạch khi còn chƣa kịp nguội.
Ngƣời mua cũng chẳng xa lạ, là ngƣời dân trong vùng. “Năm chục ngàn một
cặp đƣờng bát, đắt hơn nhiều so với đƣờng từ nơi khác bán. Nhƣng dân ở đây
biết đƣờng bát ở lò ngon, không phụ gia mà nấu hoàn toàn từ đƣờng mía, nên
tìm tới mua. Đƣờng không kịp làm để bán. Ai muốn mua phải đặt trƣớc, chứ
đến lò cũng không có để mua” - ông Hà kể.
Đắng… vị đường
Đang mùa thu hoạch mía, nhƣng lò đƣờng ông Hai Phƣớc cũng chỉ đủ
mỗi tuần nấu một mẻ đƣờng. Ngƣời trồng nhiều nhất cũng chỉ chừng một, hai
sào mía. Ông Hai nhận gia công cho ngƣời khác, với giá khoảng 10.000 đồng
cho một cặp đƣờng thành phẩm. Đứng trƣa, một xe chở mía chất lút ngọn lùi
sâu vào khoảng sân lò đƣờng. Ông Trƣơng Thanh Linh (50 tuổi, ở xã Bình Quý,
Thăng Bình) chở mía vào nhờ ông Hai nấu. Cũng nhƣ hàng trăm hộ dân ở vùng
bán sơn địa này, ông Linh từng gầy dựng mọi thứ nhờ cây mía. Nhƣng rồi nhà
máy đƣờng giải thể, đƣờng nhập khẩu ồ ạt đổ về, giá rẻ, ngƣời trồng mía điêu
đứng. Độ mƣời năm trƣớc, cánh đồng mía lặng lẽ mất dần. Từ vài mẫu, nay gia
đình ông Linh chỉ còn duy trì 2 sào trồng mía. “Làm mía giờ tính ra vẫn lãi,
nhƣng nặng công nên họ bỏ dần. Trƣớc kia, tôi cũng có lò nấu đƣờng nhƣ ông
Hai, nhƣng rồi cũng phải bỏ. Số mía còn lại thì phụ thuộc vào lò đƣờng của ông
Hai, khi nào lò hoạt động mình mới đến nhờ gia công đƣợc” - ông Linh nói.
Mỗi cặp đƣờng bát có giá khoảng 50.000 đồng.
Những ngƣời già ở lò đƣờng giành nhau kể về một thời huy hoàng của
cây mía ở đất này. Thời mà đi đâu cũng bạt ngàn mía, chỉ riêng thôn Tân Đông
Tây, có đến 6 - 7 lò đƣờng. Lò đỏ lửa suốt ngày lẫn đêm mùa thu hoạch, chỉ tính
riêng “dậm mía” (thu hoạch, chở về lò - PV) cũng đã mất mấy ngày. Một ngày
đỏ lửa, mỗi lò nấu gần chục tấn mía. Con buôn đến tận từng lò, mua hàng sọt
đƣờng bát chất đầy cùng với rơm, chở đi bán khắp vùng trong vùng ngoài, mấy
bán cũng hết. Đƣờng bát ngày ấy, là ký ức tuổi thơ của không biết bao nhiêu
ngƣời xứ Quảng. Đến chợ, về nhà, đƣờng bát trở thành món quà vặt mà bao đứa
trẻ con mong chờ mẹ đem về sau buổi chợ. Nấu chè, kẹo đậu phụng, cũng nhờ
đƣờng bát. Rồi những lon mạch nha (đƣờng non) dẻo quẹo ngọt đến tận bây giờ
trong ký ức bao ngƣời, nhƣ tôi. Nhƣng rồi, giá đƣờng trƣợt dài xuống đáy.
Ngƣời trồng mía lao đao. Đó, là khi đƣờng từ nơi khác đổ về với giá rẻ bèo,
ngƣời trồng mía nấu đƣờng không cạnh tranh nổi. Nhà máy mía đƣờng đóng
cửa, bao nhiêu cánh đồng mía bỏ không, trở thành nơi trồng keo, trồng đậu, đủ
thứ cây, trừ mía…
“Giá thấp, đƣờng bán không đƣợc, họ nghỉ hết. Lò đƣờng đóng cửa. Bộ
che hồi đó là cả gia tài, mà cũng phải bỏ. Lò đƣờng này còn giữ, là vì chú chỉ có
nghề này, sống với nó chứ bỏ thì không đặng. Thăng Bình, Quế Sơn, Duy
Xuyên…, bao nhiêu vùng từng một thời trồng mía, nấu đƣờng, giờ chẳng còn
mấy lò. Ngay cả nhà chú, có lò đƣờng mà cũng chỉ còn mỗi một sào trồng mía,
còn lại toàn gia công cho họ”- ông Hai Phƣớc trầm ngâm. Khoảng lặng của ông
già, có lẽ đang nhƣờng chỗ cho những ký ức từng một thời thật ngọt ngào, với
cây mía đất này. Ông chỉ vào những ngƣời làm công cho mình. Chỉ có mỗi con
rể ông, anh Cao Tấn Tại, 39 tuổi nhƣng còn đƣợc xem là… trẻ, ở lò đƣờng. Đến
lúc này, khi nghề nấu đƣờng tồn tại đƣợc với thu nhập không còn rẻ mạt nhƣ
dạo nọ, thì lớp trẻ đã lẳng lặng bỏ quê, bỏ làng, bon chen với cuộc mƣu sinh đủ
nghề nơi khác. Không mấy ngƣời quay lại với lò đƣờng…
Đƣờng bát ngọt dịu. Nhƣng với ngƣời làm đƣờng, là vị đắng của chuỗi
dài những ngày nghề đƣờng trầm lắng. Bao cánh đồng mía bạt ngàn phía trung
du Quế Sơn, Thăng Bình, Duy Xuyên… đã chết, khi nhà máy đƣờng đóng cửa.
Trƣớc nữa, là những lò đƣờng thủ công truyền thống khắp làng trong xóm
ngoài, cung cấp nguồn đƣờng bát cho cả Quảng Nam, Đà Nẵng và nhiều vùng
khác đã tắt lửa, đổ sập trong hoang tàn. Thoi thóp một nghề đã từng là quá khứ
huy hoàng của vùng trung du, của bao phận ngƣời. Bộ che ở lò đƣờng ông Hai
đã cũ lắm rồi. Ông già giờ cũng chẳng còn rắn rỏi nhƣ dạo nọ. Và những ngƣời
trẻ đã xa làng, họ có chịu trở về với khói, với cái nóng hầm hập ở lò, với những
giọt đƣờng đặc quánh chảy từng giọt xuống bộ bát đƣờng xám cũ màu thời
gian? Chỉ còn sót chút hƣơng quê nơi từng chiếc bánh tráng đƣờng “đặc sản”,
nơi lò đƣờng thủ công của ông Hai Phƣớc. Váng vất vị đƣờng nơi chúng tôi
đứng đây, là chút ngọt ngào còn sót lại nơi lò đƣờng cuối cùng ở cả một dải
trung du này, với tuyền những ngƣời già gắn bó phần lớn cuộc đời với cây mía,
bộ che, với lửa lò. Có lẽ cũng nhƣ phận lò đƣờng, họ là những ngƣời sau cuối…
Phóng sự của THÀNH CÔNG
THÀNH CÔNG.Chút ngọt ngào sau cuối/Thành Công//Quảng Nam cuối
tuần.-2018.-Ngày 12-13 tháng 5.-Tr.3.
Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao Trong những năm qua, ngành giáo dục TP.Tam Kỳ (Quảng Nam) đã thực
hiện mạnh mẽ, đồng bộ các giải pháp nhằm tạo sự chuyển biến căn bản,
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học
cho đến chất lượng đội ngũ, chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi
nhọn.
Giáo dục ngày càng chuẩn hóa Ông Trần Ngọc Sơn - Trƣởng phòng GDĐT TP.Tam Kỳ cho biết, đƣợc
sự quan tâm của lãnh đạo và các cơ quan, ban ngành trong tỉnh, nhất là Sở
GDĐT tỉnh Quảng Nam, sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ
thành phố đến các xã, phƣờng, sự đồng tình ủng hộ của đông đảo quần chúng
nhân dân, thời gian qua công tác xã hội hóa đƣợc đẩy mạnh, góp phần phát triển
sự nghiệp giáo dục.
“Thời gian qua, đƣợc sự quan tâm chú trọng mà chất lƣợng giáo dục đƣợc
nâng lên rõ rệt, cơ sở vật chất đảm bảo phục vụ tốt cho việc dạy và học, kể cả
trang thiết bị bên trong, để đạt đƣợc những kết quả nhƣ vậy là nhờ huy động
nhiều nguồn đầu tƣ từ ngân sách Nhà nƣớc, từ chƣơng trình xây dựng nông thôn
mới, và xã hội hóa giáo dục...” - ông Sơn chia sẻ.
Theo ông Sơn, năm học 2016 – 2017, bậc học mầm non với tổng số trẻ 5
tuổi ra lớp đạt 1.994/1.994 trẻ và trẻ học 2 buổi/ngày đạt tỷ lệ 100%; 22/22
trƣờng mầm non có tổ chức bán trú, trong đó tổng số trẻ bán trú 3.528/3.550 trẻ,
đạt tỷ lệ 99,3%. Đối với bậc học tiểu học, các trƣờng xây dựng kế hoạch tổ chức
dạy học 9 - 10 buổi/tuần, với 311 lớp và 14/14 trƣờng tổ chức bán trú.
Đối với cấp THCS, học sinh đƣợc công nhận tốt nghiệp THCS
1.665/1.668 em, tỷ lệ 99,8%; học sinh tốt nghiệp THCS vào học lớp 10 công lập
1.527/1.665 em, tỷ lệ 91,7%. Học sinh đỗ vào trƣờng chuyên 143/280 học sinh
lớp 10 của toàn trƣờng, chiếm tỷ lệ 51,1%. “Tính đến năm học 2016-2017, tổng
số trƣờng đã tầng hóa, kiên cố hóa là 35/38 trƣờng, chiếm 92,1%, trong đó mầm
non 11/14 trƣờng (78,6%), tiểu học 14/14 trƣờng và THCS 10/10 trƣờng, đều
đạt 100%...”- ông Sơn nói.
Hầu hết các trường học ở vùng nông thôn của TP.Tam Kỳ đã được đầu tư đồng
bộ và chất lượng giáo dục được nâng lên. ảnh: Hồng Phong
Qua 7 năm triển khai xây dựng nông thôn mới (NTM), việc phổ cập và
nâng cao chất lƣợng giáo dục tại 4 xã NTM cơ bản đã cán đích. Trong đó tiêu
biểu có 1 số trƣờng dẫn đầu về chất lƣợng đào tạo nhƣ: THCS Lý Thƣờng Kiệt
(Tam Phú), Tiểu học Ngô Gia Tự (Tam Thanh), Trƣờng Mẫu giáo Măng Non
(Tam Ngọc)…
Ông Nguyễn Thành Phát – Hiệu trƣởng Trƣờng THCS Lý Thƣờng Kiệt
(Tam Phú) cho biết: “Đƣợc sự hỗ trợ, quan tâm đầu tƣ của các cấp, các ngành
mà chất lƣợng giáo dục ở Trƣờng THCS Lý Thƣờng Kiệt đã có những bƣớc
chuyển biến tích cực. Nhất là trang thiết bị dạy học, cơ sở vật chất trƣờng lớp
đƣợc đầu tƣ khang trang, đồng bộ hơn, đội ngũ giáo viên đƣợc đào tạo bài bản,
có chuyên môn cao. Nhờ đó mà trƣờng luôn đạt thành tích cao trong dạy và học,
điển hình nhƣ năm học 2017 trƣờng có 13 em đỗ vào Trƣờng THPT chuyên
Nguyễn Bỉnh Khiểm, đạt 10%, tăng hơn 6% so với năm trƣớc. Đoạt giải Ba cấp
tỉnh môn Anh văn có em Phạm Trung Anh, đoạt giải Ba tỉnh môn ngữ văn có
em Trần Thị Phƣơng Thủy…
Chất lượng dạy và học được nâng cao Ông Trần Ngọc Sơn cho biết, Phòng GDĐT đặc
biệt quan tâm đến xã Tam Phú vì hiện tại chỉ còn
xã này chƣa đạt chuẩn. Trong năm 2017, phòng đã
quan tâm đầu tƣ xây dựng đƣợc 5 phòng hiệu bộ, 5
phòng chức năng, 1 hội trƣờng, 1 phòng truyền
thống với tổng kinh phí gần 9 tỉ đồng, 1 phòng dạy
học ngoại ngữ với kinh phí 270 triệu đồng cho
Trƣờng THCS Lý Thƣờng Kiệt. Ngoài ra, đầu tƣ
thêm 8 phòng học và phòng chức năng, tƣờng rào
cổng ngõ, bàn ghế, trang thiết bị dạy học, bàn ghế,
máy vi tính cho Trƣờng tiểu học Nguyễn Viết
Xuân (Tam Phú)…
Ông Sơn cho biết thêm, ngay từ đầu năm
học, phòng đã xây dựng kế hoạch chỉ đạo thống
nhất các cuộc thi trong năm học, tăng cƣờng bồi
dƣỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên. Bên cạnh việc dạy phụ đạo cho học
sinh yếu, thành phố còn hỗ trợ quần áo, sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh
con hộ nghèo, con mồ côi để các em yên tâm đến trƣờng. Các em học sinh
thuộc diện gia đình nghèo, cận nghèo, gia đình có công cách mạng, con thƣơng
binh-liệt sĩ đều đƣợc hỗ trợ học phí…
Song song với các hoạt động chuyên môn, công tác giáo dục thể chất,
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao... trong các đơn vị trƣờng cũng
đƣợc quan tâm đúng mức. Các trƣờng tiếp tục thực hiện tốt công tác y tế trƣờng
học, đặc biệt là bảo vệ sức khỏe; phối hợp tốt với trạm y tế các xã tổ chức khám
sức khỏe định kỳ cho học sinh ở các trƣờng học. Chế độ chính sách của Nhà
nƣớc đối với học sinh cũng đƣợc Phòng GDĐT chỉ đạo thực hiện kịp thời,
nghiêm túc, đúng đối tƣợng, qua đó góp phần tích cực huy động tối đa học sinh
đến lớp, đi học chuyên cần, từng bƣớc nâng cao chất lƣợng giáo dục.
TP.Tam Kỳ hiện có 14/14
trƣờng dạy học tiếng Anh
tăng cƣờng cho học sinh
lớp 1,2. Năm học 2016 –
2017, học sinh đƣợc xét
hoàn thành chƣơng trình
tiểu học 1.836/1.840 đạt tỷ
lệ 99,8%. Đặc biệt, học
sinh tham gia hội thi IOE
cấp tỉnh đoạt 136 giải,
trong đó có 9 giải Nhất;
hội thi IOE cấp quốc gia
đạt 14 giải, trong đó có 1
giải Vàng...
Chính những giải pháp căn cơ và thiết thực nhƣ vậy đã góp phần giúp học
sinh yếu vƣơn lên học tốt, các em con gia đình có hoàn cảnh khó khăn tiếp tục
đƣợc đến trƣờng. Đến nay, chất lƣợng giáo dục ở TP.Tam Kỳ dần nâng cao, tỷ
lệ học sinh giỏi tăng lên hằng năm, mặt bằng chất lƣợng cũng từng bƣớc đƣợc
thu hẹp giữa các trƣờng và các địa phƣơng trong địa bàn.
Trần Hậu - Hồng Phong
TRẦN HẬU-HỒNG PHONG.Chất lƣợng giáo dục ngày càng đƣợc nâng
cao/Trần Hậu-Hồng Phong//Nông thôn ngày nay.-2018.-Ngày 2 tháng 5.-
Tr.12.