Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
Kinh tế vĩ mô năm 2018: Những điểm nổi bật
Những điểm nổi bật của kinh tế, giá cả, tài chính tiền tệ quốc tế
+ Kinh tế toàn cầu không còn duy trì được đà tăng trưởng tích cực; Thương mại toàn cầu đã
chậm lại, đáng chú ý trong hoạt động xuất nhập khẩu của nhóm các nền kinh tế đang phát triển và
mới nổi; Dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp đều có xu hướng sụt giảm so với năm ngoái;
+ Giá cả hàng hóa thế giới đã giảm 11,46% so với năm ngoái, ghi nhận xu hướng giảm mạnh
của giá dầu trong 2 tháng cuối năm;
+ Lạm phát toàn cầu đã tăng 0,7% so với năm ngoái;
+ Diễn biến của thị trường ngoại hối đã có thay đổi, phần lớn các đồng tiền chủ chốt đã có
diễn biến đảo chiều ngoại trừ đồng JPY, giá vàng đã suy giảm sau 2 năm tăng tốc, đồng USD đã có
một năm tăng vững chắc;
+ Thị trường chứng khoán toàn cầu biến động mạnh, giảm 11% so với năm ngoái;
+ Điều hành chính sách của các NHTW tiếp tục theo hướng thắt chặt, chỉ số theo dõi lãi suất
toàn cầu (GIRM) đang ở mức 6,42%, tăng 0,43% so với năm ngoái.
Những điểm nổi bật của kinh tế trong nước
+ Kinh tế đạt mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008, chất lượng tăng trưởng kinh tế được
cải thiện rõ rệt;
+ Lĩnh vực sản xuất có một năm diễn biến tích cực, chỉ số sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ
tăng tốt;
+ Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt mức tăng trưởng cao hơn so
với cùng kỳ năm ngoái;
+ Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tiếp tục gia tăng trong đó khu vực tư nhân giữ vững vai trò là
động lực dẫn dắt hoạt động đầu tư ;
+ Thu hút vốn FDI đã chậm lại, trong khi đó giải ngân vốn FDI và FII có diễn biến tích cực;
+ Xuất khẩu vượt mục tiêu và ghi nhận mức tăng cao của khu vực kinh tế trong nước, nhập
khẩu tăng chậm hơn so với năm ngoái, cán cân thương mại đạt mức xuất siêu 7,2 tỷ USD, cao nhất
trong nhiều năm qua;
+ CPI bình quân cả năm 2018 tăng 3,54% so với bình quân năm trước, thấp hơn mục tiêu đã
đề ra;
+ Mặt bằng lãi suất huy động trong nền kinh tế thay đổi phù hợp, lãi suất cho vay đã giảm so
với năm ngoái;
+ Tỷ giá diễn biến trong vùng mục tiêu, giá vàng trong nước tiếp tục giảm năm thứ 2 liên tiếp;
+ TTCK biến động mạnh hơn so với năm ngoái, các chỉ số chứng khoán trên cả hai sàn HOSE
và HNX đều tăng trưởng âm.
2
I. KINH TẾ THẾ GIỚI
1. Kinh tế thế giới
Kinh tế toàn cầu
không duy trì
được đà tăng
trưởng tích cực
Kinh tế toàn cầu năm 2018 đã không duy trì được diễn biến tích cực như
những dự đoán được đưa ra cuối năm trước. Đà tăng trưởng của kinh tế toàn
cầu chỉ duy trì được trong quý I và diễn biến chậm lại trong quý II và quý III.
Theo thống kê của Focus Economics, tăng trưởng kinh tế toàn cầu vẫn duy trì
được tốc độ tăng trưởng 3,5% trong quý I, cao hơn mức tăng trưởng 3,4% của
quý IV năm ngoái. Tuy nhiên, sự chững lại tại các nền kinh tế phát triển, bảo
hộ thương mại đang có chiều hướng gia tăng, những rủi ro địa chính trị đang
có những diễn biến theo chiều hướng phức tạp, kéo theo các biến động trên
các thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu đang là những nhân tố tạo áp lực làm
giảm đà tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong những quý tiếp theo. Theo đó, tăng
trưởng kinh tế toàn cầu đã liên tục đi xuống, lần lượt đạt mức 3,4% trong quý
II và 3,3% trong quý III.
Diễn biến kém tích cực trong tăng trưởng được ghi nhận tại nhiều nền kinh tế
chủ chốt như khu vực EU, Nhật Bản, Anh, Trung Quốc. Bên cạnh đó, nhiều
nền kinh tế mới nổi cũng phải đối mặt với những khó khăn bất ổn, điển hình là
tại các quốc gia như Venezuela, Thổ Nhĩ Kỳ, Achentina,… Theo dự báo của
IMF, tăng trưởng của nhóm nước phát triển ước đạt 2,4% và nhóm các nền
kinh tế đang phát triển và mới nổi ước đạt 4,7% (thấp hơn 0,2% so với mức dự
báo trước được đưa ra vào tháng 4/2018).
Diễn biến tăng trƣởng kinh tế toàn cầu phân theo nhóm nƣớc
Nguồn: WEO Report (10/2018)
Kinh tế Mỹ duy
trì đà tăng trưởng
tốt trong 3 quý
đầu năm nhưng
có diễn biến
chậm lại trong
quý IV
Kinh tế Mỹ đã giữ được đà tăng trưởng tốt trong 3 quý đầu năm 2018, khởi
đầu với mức tăng 2,2% so với cùng kỳ trong quý I, tăng mạnh lên mức 4,2%
trong quý II và đạt mức 3,4% trong quý III.
Trên cơ sở đó, các yếu tố nền tảng của tăng trưởng kinh tế cũng có được xu
hướng tương đồng. Cụ thể, doanh số bán lẻ hàng hóa cũng như chỉ số PMI của
khu vực sản xuất đều duy trì diễn biến tốt trong quý II và III. Tuy nhiên, trong
quý IV, cả 2 chỉ số này đều chững lại cho thấy tăng trưởng kinh tế có thể
không duy trì đà tăng tốt như 2 quý trước.
Tiếp đến, thị trường lao động vẫn là điểm sáng trong bức tranh toàn cảnh nền
kinh tế Mỹ. Tỷ lệ thất nghiệp giảm so với đầu năm và hiện đang ở mức 3,9%.
Số lượng việc làm tạo thêm trong lĩnh vực phi nông nghiệp đạt mức trung bình
220 nghìn việc làm trong năm 2018, tăng so với mức trung bình 182 nghìn
3
việc làm của năm 2017.
Mặc dù vậy, điểm trừ cho các diễn biến vĩ mô của nước Mỹ trong năm 2018 là
lạm phát và thâm hụt thương mại. Cụ thể, lạm phát đã có mức tăng cao so với
năm ngoái, đạt 2,9% trong nhiều tháng của quý II mặc dù đã giảm tốc trong
quý IV. Tiếp đến, thâm hụt cán cân thương mại tiếp tục tăng, tính đến hết
tháng 10 đạt mức 55,5 tỷ USD, là mức thâm hụt cao nhất được ghi nhận kể từ
tháng 10 năm 2008 trở lại đây.
Kết thúc năm, tăng trưởng kinh tế Mỹ được dự báo sẽ tiếp tục duy trì đà tăng
trưởng trong quý IV nhưng mức tăng có thể không đạt cao như 2 quý trước đó.
Dự báo cả năm 2018, tăng trưởng kinh tế ước đạt 2,8 – 2,9%, cao hơn mức
tăng trưởng 2,3% của năm ngoái.
Tăng trƣởng kinh tế so với cùng kỳ (%yoy)
Thâm hụt cán cân thƣơng mại (tỷ USD)
Tỷ lệ thất nghiệp (% yoy)
Diễn biến lạm phát
Doanh số bán lẻ hàng hóa (% yoy)
Chỉ số PMI tổng hợp của Mỹ
Nguồn: Trading economics
Kinh tế khu vực
EU diễn biến mờ
nhạt
Kinh tế khu vực châu Âu trong năm 2018 đã đi ngược lại với xu hướng phục
hồi mạnh mẽ của năm 2017. Tốc độ tăng trưởng kinh tế so với cùng kỳ có sự
sụt giảm liên tục qua các quý kể từ đầu năm đến nay, đạt mức 2,4% trong quý
I, 2,2% trong quý II và đặc biệt giảm mạnh xuống còn 1,6% trong quý III –
mức tăng trưởng thấp nhất mà khu vực này ghi nhận kể từ năm 2016 trở lại
đây.
Diễn biến kém tích cực trong tăng trưởng được ghi nhận trên nhiều mặt của
nền kinh tế. Khu vực sản xuất vốn được coi là động lực dẫn dắt tăng trưởng đã
chững lại khi chỉ số PMI tổng hợp đã giảm khá xa mức 58 điểm được thiết lập
cuối năm ngoái. Đáng chú ý trong tháng 12, chỉ số PMI tổng hợp đã chạm
4
ngưỡng 51,3 điểm – mức mở rộng yếu nhất của khu vực sản xuất kể từ tháng
11 năm 2014.
Bên cạnh đó, hoạt động tiêu dùng nội địa cũng không có nhiều diễn biến khả
quan. Tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa hầu như duy trì mức tăng dưới
2% so với cùng kỳ trong suốt cả năm 2018, thấp hơn đáng kể mức tăng trưởng
trung bình trên 3% đạt được trong năm ngoái. Bên cạnh đó, có thể nhận thấy
tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa cũng có những biến động không ổn định
kể từ khi bước vào quý III. Thực tế đó cũng được phản ánh qua sự sụt giảm
liên tục của chỉ số niềm tin người tiêu dùng từ quý II đến nay.
Tỷ lệ lạm phát toàn phần tại khu vực EU duy trì ở mức thấp xoay quanh
ngưỡng 1% trong 4 tháng đầu năm và bắt đầu có xu hướng gia tăng lên
ngưỡng 2% kể từ tháng 5 trở lại đây do chịu tác động nhiều từ các yếu tố chi
phí đẩy như giá năng lượng và lương thực thực phẩm tăng. Trong khi đó, tỷ lệ
lạm phát cơ bản vẫn chỉ giao động quanh ngưỡng 1%, chưa đạt được mức mục
tiêu 2% của ECB.
Tỷ lệ thất nghiệp tại khu vực EU tiếp tục xu hướng giảm đã diễn ra từ năm
ngoái khi đã giảm nhanh từ mức 8,7% cuối năm trước xuống hiện đạt 8,1% và
là mức thất nghiệp thấp nhất kể từ tháng 11/2008. Tuy nhiên, đây vẫn là mức
thất nghiệp cao nếu so với các nền kinh tế phát triển khác và giao động có
khoảng cách lớn giữa các nước trong khối (Đức 3,3%, Pháp là 9,1%, Ý là
10,6%, Tây Ban Nha là 14,5% và Hy Lạp là 18,6%).
Với những diễn biến thiếu tích cực, Ủy ban châu Âu (EC) dự báo tăng trưởng
của Eurozone năm nay sẽ đạt khoảng 1,9%, thấp hơn mức tăng 2,2% của năm
ngoái.
Tăng trƣởng kinh tế so với cùng kỳ (% yoy)
Tỷ lệ thất nghiệp (% yoy)
Chỉ số niềm tin ngƣời tiêu dùng
Tốc độ tăng CPI so với cùng kỳ (%)
Doanh số bán lẻ hàng hóa (%yoy)
Chỉ số PMI tổng hợp của Châu Âu
Nguồn: Trading economicsmics
5
Kinh tế Nhật Bản
tăng trưởng thiếu
ổn định
Kinh tế Nhật Bản trong năm 2018 thể hiện xu hướng tăng trưởng trồi sụt
không ổn định. Cụ thể tăng trưởng kinh tế so với quý trước lần lượt giảm 0,3%
trong quý I, lấy lại đà tăng 0,7% trong quý II nhưng lại nhanh chóng giảm
0,6% trong quý III. Số liệu tăng trưởng điều chỉnh các quý so với cùng kỳ
cũng cho thấy xu hướng biến động với mức tăng 2,4% so với cùng kỳ trong
quý I, nhưng nhanh chóng giảm xuống trong 2 quý tiếp theo với mức tăng lần
lượt đạt 1,2% trong quý II và 1,4% trong quý III.
Các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản cũng cho thấy những diễn biến thiếu ổn định.
Đà mở rộng của khu vực sản xuất có chiều hướng chậm lại rõ nét kể từ khi
bước vào quý II, trong đó tháng 11 đạt mức mở rộng thấp nhất trong 15 tháng
qua là 52,2 điểm. Bên cạnh đó, mức tăng trưởng của tiêu dùng cũng có nhiều
tháng thấp hơn 2%. Tương tự, chỉ số niềm tin người tiêu dùng cũng suy giảm
dần qua các tháng.
Điểm tích cực trong diễn biến kinh tế vĩ mô đó là lạm phát tiếp tục duy trì ở
mức dương nhưng mức độ biến động khá mạnh qua các tháng. Ngoài ra, tỷ lệ
thất nghiệp hiện ở mức 2,5%, thấp hơn mức thất nghiệp 2,7% cuối năm ngoái.
Với những diễn biến như vậy, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản cả năm 2018 ước
đạt 1,2%, thấp hơn mức tăng 1,4% của năm 2017.
Tăng trƣởng kinh tế so với cùng kỳ (% yoy)
Chỉ số PMI khu vực sản xuất
Chỉ số niềm tin ngƣời tiêu dùng
Doanh số bán lẻ hàng hóa so cùng kỳ (%)
Tốc độ tăng CPI so với cùng kỳ (%)
Tỷ lệ thất nghiệp (% yoy)
Nguồn: Trading Economics
Kinh tế Trung
Quốc suy giảm Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc suy giảm liên tục qua các quý. Cụ thể, tăng
trưởng chỉ đạt được mức tăng so với cùng kỳ 6,8% trong quý I, 6,7% trong quý II và
tiếp tục giảm xuống còn 6,5% trong quý III, mức tăng trưởng thấp nhất tại Trung Quốc
kể từ năm 2009 đến nay.
Sự chững lại của tăng trưởng kinh tế được ghi nhận trên nhiều mặt. Nhu cầu nội địa đã
suy yếu, cụ thể là tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng hóa trong năm 2018 đã giảm tốc
6
mạnh vào tháng 5 và những tháng cuối năm. Bên cạnh đó, diễn biến khu vực sản xuất
cũng thể hiện xu hướng suy giảm khi chỉ số PMI khu vực sản xuất duy trì quanh
ngưỡng 52 điểm, thấp hơn khá nhiều so với mức trung bình 54 điểm của năm ngoái,
trong đó riêng tháng 12 chỉ số này đã rơi xuống ngưỡng thu hẹp là 49,7 điểm.
Bên cạnh đó, lạm phát cũng có xu hướng gia tăng liên tục kể từ tháng 2, hiện ở mức
2,2% dù vẫn ở trong vùng kiểm soát mục tiêu của NHTW Trung Quốc nhưng cũng
cao hơn mức lạm phát 1,8% vào cuối năm 2017.
Tuy nhiên, bên cạnh đó kinh tế Trung Quốc cũng ghi nhận một số điểm sáng. Thứ nhất
đó là lĩnh vực xuất khẩu, mặc dù chịu tác động từ cuộc chiến thương mại Mỹ Trung
tuy nhiên tăng trưởng xuất khẩu vẫn duy trì được đà tăng khá ổn định trên 10% so với
cùng kỳ liên tục trong giai đoạn từ tháng 4 cho đến tháng 10.
Tiếp đến là diễn biến tích cực của thị trường lao động. Tỷ lệ thất nghiệp của Trung
Quốc đang có chiều hướng giảm mạnh. Cụ thể, các chỉ số thống kê cho thấy tỷ lệ thất
nghiệp tại Trung Quốc giảm liên tục trong các tháng của năm 2018, từ mức 4,05% vào
thời điểm đầu năm xuống hiện còn đạt 3,82% - mức thất nghiệp thấp nhất được ghi
nhận từ trước đến nay của Trung Quốc. Tính hết 3 quý năm 2018, số việc làm được
tạo thêm tại thị trường Trung Quốc đã đạt con số hơn 10 triệu việc làm, gần bằng mục
tiêu đặt ra cả năm của chính phủ Trung Quốc.
Dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2018 sẽ chỉ đạt 6,5 – 6,6%, mức tăng
trưởng thấp nhất trong vòng 1 thập kỷ qua.
Tăng trƣởng kinh tế (%)
Tăng trƣởng xuất khẩu qua các tháng
Doanh số bán lẻ hàng hóa (% yoy)
Chỉ số PMI chế biến chế tạo
Tốc độ tăng CPI (% yoy)
Tỷ lệ thất nghiệp (% yoy)
Nguồn: Trading Economics
7
Kinh tế Anh
vẫn gặp nhiều
khó khăn do
tác động của
Brexit
Nền kinh tế Anh vẫn đang tiếp tục chịu các tác động bất lợi từ Brexit. Tăng trưởng
kinh tế năm 2018 mặc dù có sự cải thiện nhẹ qua các quý nhưng mức tăng trưởng vẫn
thấp hơn khá nhiều so với mức tăng trưởng của 2 năm liền trước.
Trong đó, tiêu dùng trong nước tiếp tục thể hiện vai trò dẫn dắt tăng trưởng. Cụ thể,
doanh số bán lẻ hàng hóa đã duy trì được mức tăng tốt và ổn định kể từ khi bước vào
quý II, với mức tăng trưởng xoay quanh ngưỡng 3 – 4% so với cùng kỳ. Ngoài ra, khu
vực sản xuất cũng có xu hướng cải thiện mạnh mẽ với chỉ số PMI liên tục duy trì ở
mức cao trong quý II và quý III. Cuối cùng, áp lực lạm phát đã xuất hiện từ giữa năm
ngoái đã giảm dần, tỷ lệ lạm phát hiện duy trì khá ổn định quanh ngưỡng 2,3% - 2,4%,
nằm trong tầm kiểm soát của NHTW Anh.
Mặc dù vậy, tăng trưởng kinh tế tại Anh năm 2018 ước đạt 1,5%, thấp hơn mức tăng
trưởng 1,8% năm 2017.
Chỉ số PMI tổng hợp
Doanh số bán lẻ hàng hóa (% yoy)
Lạm phát (% yoy)
Tăng trƣởng kinh tế so với cùng kỳ (% yoy)
Nguồn: Trading economics
Thương mại
toàn cầu tăng
trưởng chậm
lại
Tăng trưởng chậm lại của kinh tế thế giới cũng được phản ánh qua những diễn biến
kém tích cực trong hoạt động thương mại.
Theo báo cáo của WTO về triển vọng thương mại toàn cầu 2018 và dự báo 2019 đưa
ra đầu tháng 9/2018 cho biết trong nửa đầu năm 2018, thương mại hàng hóa toàn cầu
ước đạt mức tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 4,2% của cùng
kỳ 2017. Tăng trưởng chậm của thương mại toàn cầu chủ yếu xuất phát từ sự chững lại
trong hoạt động xuất nhập khẩu của nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi.
Sự chững lại của thương mại toàn cầu dự báo tiếp tục kéo dài sang nửa cuối năm 2018
khi chỉ số triển vọng thương mại toàn cầu (WTOI) đã liên tục giảm trong hai quý vừa
qua, từ mức 101,8 điểm trong quý II xuống còn mức 100,3 điểm trong quý III và 98,6
điểm trong quý IV (mức thấp nhất kể từ tháng 10/2016 trở lại đây). Với những diễn
biến kém tích cực như vậy, theo dự báo của các tổ chức quốc tế tăng trưởng thương
mại toàn cầu năm 2018 sẽ thấp hơn so với mức tăng trưởng năm 2017. Cụ thể, theo
ước tính của IMF, tổng giá trị thương mại toàn cầu năm 2018 sẽ chỉ đạt mức tăng
trưởng ước khoảng 4,2%, thấp hơn mức tăng trưởng 5,2% của năm ngoái. Còn theo
ước tính của WTO, sản lượng thương mại toàn cầu ước đạt mức tăng 3,9% năm 2018,
thấp hơn mức dự báo đưa ra hồi tháng 4 là 4,4% và cũng thấp hơn mức tăng trưởng
năm 2017 là 4,7%.
8
Dòng vốn đầu
tư trực tiếp và
gián tiếp đều
có xu hướng
sụt giảm
Những bất ổn về chính trị, xu hướng gia tăng bảo hộ thương mại, các cải cách thuế của
Mỹ và cuộc cạnh tranh về thuế, cũng có những ảnh hưởng tới xu hướng vận động của
các dòng vốn đầu tư toàn cầu.
Trong năm 2018, dòng vốn FDI được dự báo sẽ không có được những diễn biến thuận
lợi. Trên thực tế, theo thống kê của UNCTAD, vốn FDI toàn cầu trong nửa đầu năm
2018 chỉ đạt 432 tỷ USD, sụt giảm mạnh 44% so với nửa đầu năm 2017. Sự sụt giảm
được ghi nhận chủ yếu tại các nền kinh tế phát triển, đặc biệt tại khu vực Bắc Mỹ và
Tây Âu. Trong khi đó, vốn FDI luân chuyển qua các nền kinh tế đang phát triển và
mới nổi đạt 310 tỷ USD qua 6 tháng, chỉ có sự sụt giảm nhẹ 4% so với cùng kỳ năm
trước. Với những diễn biến kém tích cực như vậy, nhiều khả năng dòng vốn FDI toàn
cầu sẽ không thể đạt được mức tăng trưởng 5% như dự đoán của UNCTAD đưa ra hồi
đầu năm.
Bên cạnh đó, dòng vốn FII cũng có xu hướng tiếp tục rút ra khỏi các thị trường đang
phát triển và mới nổi. Theo thống kê của Global Fund Flow, tính đến thời điểm đầu
tháng 11 đã ghi nhận 6 tháng dòng vốn rút ra khỏi các thị trường mới nổi.
Diễn biến các dòng vốn vào các thị trƣờng mới nổi
giai đoạn 2011 – 2017 và dự báo 2018
Nguồn: WB, Global economic prospects, 6/2018
Diễn biến dòng vốn FDI toàn cầu
giai đoạn 2014 -nửa đầu 2018
Nguồn: UNCTAD
Giá cả hàng
hóa thế giới
biến động
giảm, ghi nhận
xu hướng
giảm mạnh
của giá dầu
trong 2 tháng
cuối năm
Trong năm 2018, chỉ số giá cả hàng hóa toàn cầu biến động khá mạnh. Trong 5 tháng
đầu, chỉ số giá cả hàng hóa chung duy trì xu hướng tăng giảm đan xen giữa các tháng.
Tuy nhiên, kể từ cuối tháng 5, xu hướng giảm giá bắt đầu hình thành và duy trì hầu
như liên tục qua các tháng. Kết thúc tháng 12, chỉ số giá cả hàng hóa chung chốt ở
mức 159,72 điểm, giảm 11,46% so với cuối năm ngoái, trong đó riêng tháng 12 chỉ số
giá hàng hóa chung đã giảm 6,89%. Sự suy giảm của giá cả hàng hóa toàn cầu trong
năm 2018 chủ yếu xuất phát từ sự sụt giảm của nhu cầu hàng hóa toàn cầu do tăng
trưởng kinh tế thế giới đi xuống và những biến động trên thị trường năng lượng, đặc
biệt là giá dầu.
Các nhóm hàng chính cũng có diễn biến tương tự như giá hàng hóa chung. Nhiều mặt
hàng ghi nhận sự sụt giảm mạnh và mức độ giảm cũng tập trung trong 2 quý cuối năm,
cụ thể là nhóm kim loại sản xuất như đồng giảm 21,66%, nhôm giảm 18,54%, kẽm
giảm 27,93%; nhóm các sản phẩm nông nghiệp thô như gạo giảm 11,2%, đậu nành
giảm 5,32%, cà phê giảm 19,88%, đường giảm 18,25%, cao su giảm 19,67% và cotton
giảm 6,16%.
Những biến động trên thị trường dầu mỏ ảnh hưởng mạnh đến xu hướng biến động
của giá cả hàng hóa toàn cầu năm 2018. Giá dầu ghi nhận xu hướng tăng giảm xen kẽ
trong 3 quý đầu năm, trong đó có những thời điểm vào tháng 6, tháng 9 và tháng 10,
giá dầu đã liên tục tăng mạnh, đạt mức kỷ lục gần chạm ngưỡng 80 USD/thùng. Tuy
nhiên, trong 2 tháng cuối năm, giá dầu đã có những biến động giảm mạnh, xuống thấp
hơn cả mức giá được ghi nhận hồi cuối năm ngoái. Sự biến động của giá dầu bên cạnh
9
việc tiếp tục chịu sự chi phối từ các yếu tố nguồn cung còn chịu ảnh hưởng từ căng
thẳng thương mại và xung đột chính trị gia tăng tại khu vực Trung Đông. Bên cạnh đó,
chênh lệch giữa giá dầu Brent và giá dầu WTI ngày càng giãn rộng, hiện ở mức
khoảng 6 USD/thùng do giá dầu khu vực biển Bắc còn chịu áp lực từ sản lượng khai
thác dầu đá phiến gia tăng tại Mỹ. Tính đến cuối tháng 12, giá dầu Brent hiện đang ở
mức 53,88 USD/thùng, giảm 16,73% so với cuối năm ngoái; giá dầu WTI ở mức
45,41 USD/thùng, giảm 22,79% so với cuối năm ngoái.
Diễn biến chỉ số giá hàng hóa chung
Diễn biến giá dầu
Nguồn: Bloomberg
Lạm phát đã
tăng so với năm
ngoái
Chỉ số lạm phát toàn cầu năm 2018 theo
thống kê của Focus Economics đã hình
thành xu hướng tăng và đà tăng mạnh diễn
ra trong quý II. Tính đến hết tháng 11, chỉ
số lạm phát toàn cầu đạt 3,2%, tăng 0,7%
so với cuối năm ngoái.
Xu hướng tăng của lạm phát được ghi nhận
tại nhiều nền kinh tế phát triển, diễn ra tập
trung trong quý II và quý III. Trong khi đó,
diễn biến lạm phát tại các nền kinh tế mới
nổi có sự biến động khác nhau. Một số
quốc gia trước áp lực mất giá đồng nội tệ và dòng vốn tháo chạy khỏi thị trường
như Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ đã phải đối mặt với áp lực lạm phát gia tăng mạnh
đạt mức 2 con số. Lạm phát tại Ấn Độ cũng có chiều hướng gia tăng nhanh so với
năm ngoái hiện đang đạt mức xấp xỉ 5%. Ngược lại, lạm phát vẫn được kiểm soát
khá ổn định dưới ngưỡng 4% tại các quốc gia như Trung Quốc, Nga, Brazil, khu
vực Đông Nam Á,...
Diễn biến lạm phát tại các nền kinh tế phát triển
Diễn biến lạm phát tại các nền kinh tế đang phát triển
Nguồn: OECD
Diễn biến lạm phát toàn cầu năm 2018 (%)
Nguồn: Focus Economics
10
2. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTW các quốc gia
Xu hướng điều
hành chính sách
tiền tệ tiếp tục
thắt chặt
Xu hướng điều hành CSTT của NHTW các nước lớn trong năm 2018 tiếp tục
theo định hướng thắt chặt. Cụ thể là 3 NHTW chủ chốt đã tiến hành tăng lãi
suất, bao gồm NHTW Canada (BOC), NHTW Mỹ (Fed) và NHTW Anh
(BOE), trong đó Fed đã tăng lãi suất 4 lần và BOC đã tăng 2 lần. Bên cạnh đó,
nhiều quốc gia thuộc nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi cũng tiến
hành điều chỉnh tăng lãi suất nhiều lần trong năm như Indonesia, Phillippines,
Hồng Kông, Argentina, Mexico... trước áp lực biến động dòng vốn và để bảo vệ
đồng nội tệ. Như vậy, trong năm 2018, có 43 NHTW đã tiến hành tăng lãi suất
và 32 NHTW tiến hành giảm lãi suất. Hiện tại, chỉ số theo dõi lãi suất toàn cầu
(GIRM) do tổ chức Central Bank News thống kê đang ở mức 6,42%, tăng
0,43% so với cuối năm ngoái. Bên cạnh đó, NHTW các nước lớn tiếp tục thực
hiện việc thu hẹp bảng cân đối tài sản theo lộ trình đã cam kết.
NHTW Mỹ (Fed) trong năm 2018 đã 4 lần điều chỉnh tăng lãi suất chính sách
vào các tháng 3, 6, 9 và 12. Như vậy, lãi suất hiện tại của Fed đang ở mức 2 –
2,5%, tăng 1 điểm % so với thời điểm cuối năm 2017.
NHTW Canada đã điều chỉnh tăng lãi suất chính sách 3 lần trong năm 2018
với tổng mức tăng là 0,75% để đảm bảo thực hiện mục tiêu lạm phát đề ra. Hiện
lãi suất chính sách tại Canada đang ở mức 1,75%.
NHTW Anh (BoE) cũng đã tăng lãi suất một lần vào ngày 2/8 với mức tăng là
0,25%, đưa lãi suất điều hành lên đạt mức 0,75%.
NHTW châu Âu (ECB) mặc dù chưa điều chỉnh lãi suất chính sách nhưng vẫn
tiến hành gói QE theo lộ trình. Theo đó, bắt đầu từ tháng 1/2018, ECB đã giảm
lượng mua trái phiếu Chính phủ và công ty từ mức 60 tỷ EUR xuống mức 30 tỷ
EUR, tiếp tục giảm xuống còn 15 tỷ EUR từ tháng 9/2018 và chấm dứt hoàn
toàn vào cuối năm 2018.
NHTW Trung Quốc (PBOC) tiếp tục điều hành CSTT theo hướng thận trọng
trung lập trong năm 2018. Để hỗ trợ cho thanh khoản thị trường và ổn định tỷ
giá, PBOC đã điều chỉnh lãi suất trên thị trường mở1, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
2 và
bơm tiền qua thị trường OMO3.
Nhóm các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi: Nhiều NHTW tại nhóm
các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi đã phải tăng lãi suất trước áp lực
dòng vốn rút ra, đồng nội tệ mất giá và lạm phát gia tăng, cụ thể là NHTW
Argentina (tăng lãi suất 5 lần và 4 lần tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc), NHTW Thổ
Nhĩ Kỳ (tăng lãi suất 5 lần), Indonesia (tăng lãi suất 6 lần), Hồng Kông (tăng lãi
suất 4 lần),… Một số nền kinh tế mới nổi khác mặc dù vẫn duy trì trạng thái
điều hành CSTT nới lỏng để hỗ trợ tăng trưởng nhưng mức độ nới lỏng cũng đã
chậm lại so với năm ngoái, trong đó phải kết đến các NHTW Brazil, Peru,
Colombia, Nga, Ấn Độ.
1 Năm 2018 PBOC thực hiện 2 lần điều chỉnh tăng lãi suất trên thị trường mở: Lần tăng đầu tiên (22/3) diễn ra sau khi Fed
tăng lãi suất với mức tăng 5 điểm cơ bản đối với các thỏa thuận mua lại đảo ngược (repo đảo ngược) kỳ hạn 7 ngày, từ mức
2,50% lên 2,55%; Lần tăng thứ 2 (16/4), PBOC tiếp tục điều chỉnh lãi suất repo đảo ngược kỳ hạn 14 ngày thêm 5 điểm cơ
bản lên mức 2,7%.
2 Năm 2018 PBOC thực hiện 4 lần điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc vào các ngày 25/1, 17/4, 24/6 và 7/10.
3 Thông qua thị trường OMO, PBOC đã thực hiện 4 đợt bơm tiền lớn, lần thứ 1 vào giữa tháng 1 với mức bơm tiền là 2000
tỷ Nhân dân tệ, lần thứ 2 vào ngày 17/4 với tổng mức tiền bơm vào thị trường là 400 tỷ Nhân dân tệ, tiếp đó vào ngày 24/6 là
700 tỷ Nhân dân tệ và cuối cùng vào ngày 7/10 là 750 tỷ Nhân dân tệ.
11
Lãi suất điều hành của một số NHTW giai đoạn 2014 - 2018
Mỹ EU Nhật
Canada Anh Hàn Quốc
Nguồn: Trading economics
Định hướng lãi suất điều hành của NHTW các nước cũng truyền dẫn tín hiệu tới lãi
suất trên thị trường tín dụng và thị trường tài sản. Lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng và lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng tại những nền kinh tế có động thái
thắt chặt chính sách như Mỹ, Canada, Anh, Indonesia, Hàn Quốc,… có xu hướng tăng
rõ rệt. Bên cạnh đó, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm tại hầu khắp các nền kinh tế chủ
chốt đều tăng cao hơn so với cuối năm ngoái, trong đó mức tăng mạnh được ghi nhận
tại Mỹ, Canada.
Diễn biến lãi suất cho vay tại một số nền kinh tế trong năm 2018
Mỹ EU Nhật
Canada Anh Hàn Quốc
Nguồn: Trading Economics
Diễn biến lãi suất trái phiếu dài hạn tại một số nền kinh tế chủ chốt
Nguồn: OECD Statistics
12
3. Diễn biến thị trƣờng ngoại hối, chứng khoán
Thị trường ngoại hối
Đồng USD đã có
một năm tăng
vững chắc
Diễn biến của đồng USD trong năm 2018 trái với kỳ vọng được đưa ra vào cuối
năm ngoái, chỉ số USD index đã tăng lần lượt là 4,4% và 4,26% đối với USD
giao ngay và USD kỳ hạn. Tuy nhiên xu hướng này không xuất hiện ngay từ
đầu năm mà chỉ rõ nét nhất từ quý II, kéo dài trong 02 tháng của quý IV.
Theo đó, mở đầu năm, trước những dư âm thiếu tích cực về căng thẳng chính trị
giữa các Đảng phái trong vệc giải quyết một số vấn đề liên quan đến ngân sách,
kế hoạch cắt giảm thuế,… của năm 2017 của nước Mỹ và những tín hiệu khả
quan về chính sách và kinh tế của các nước lớn trên toàn cầu, đồng bạc xanh đã
có mức giảm mạnh trên 3%. Mặc dù vậy, đồng bạc xanh đã nhanh chóng đảo
chiều tăng trong tháng kế tiếp và đã có được mức tăng mạnh trên 2% trong
tháng 4, 5 và tháng 10/2018 nhưng xu hướng tăng của đồng USD thường không
kéo dài quá 02 tháng. Trong chuỗi tăng này, đồng USD đã có nhiều phiên giao
dịch vượt ngưỡng 97 – mức cao nhất trong năm nay.
Diễn biến của đồng USD trong năm 2018 được hỗ trợ mạnh từ những yếu tố
trong nước nhưng cũng khá nhậy cảm với những vấn đề nổi lên trong quan hệ
thương mại, ngoại giao với bên ngoài cũng như là diễn biến kinh tế, chính trị
của các khu vực và nền kinh tế lớn. Nhưng phải khẳng định rằng, đà tăng
trưởng chắc chắn của kinh tế Mỹ, chính sách điều hành kiên định của Fed, các
lợi thế của nước Mỹ trong các vòng đàm phán thương mại với các đối tác và
nền kinh tế đã tạo nền tảng vững chắc cho xu hướng tăng của đồng bạc xanh so
với các đồng tiền mạnh khác trong bối cảnh các bất ổn đang gia tăng và tốc độ
tăng trưởng kinh tế yếu hơn ở các khu vực khác. Chính vì vậy, đồng bạc xanh
cũng đã trở thành một phương tiện đầu tư hấp dẫn trong năm 2018.
Kết thúc năm, mặc dù đồng USD cũng đã giảm lớn hơn 1% vào tháng 12/2018
trước những quan ngại về kinh tế thế giới trong năm tới cũng như những diễn
biến đáng báo động của thị trường chứng khoán và đường cong lợi tức trái
phiếu nhưng chỉ số USD index vẫn chốt giao dịch ở mức cao, lần lượt là 96.17
và 95.735 đối với chỉ số USD index giao ngay và chỉ số USD index kỳ hạn.
Diễn biến chỉ số USD
Nguồn: investing.com
Đồng EUR và
đồng GBP đã
đảo chiều giảm
so với năm ngoái
Khác với những gì đã diễn ra trong năm 2017, bước sang năm 2018, 02 đồng tiền
mạnh tại khu vực Châu Âu – đồng EUR và đồng GBP đều giảm tương đối, lần
lượt ở mức 4,4% và 5,59%. Diễn biến của 02 đồng tiền này trái ngược với diễn
biến của đồng USD, mặc dù đã có mức tăng mạnh vào tháng đầu tiên của năm
13
nhưng sau đó cũng đã có nhiều tháng giảm, đáng chú ý là mức giảm khá mạnh
trên 3% vào tháng 5 và trên 2% vào tháng 10. Trong chuỗi giảm này, đồng EUR
và đồng GBP đã rơi vào ngưỡng giá giao dịch thấp nhất kể từ đầu năm, dưới
ngưỡng 1.150 đối với đồng EUR và dưới ngưỡng 1.300 đối với đồng GBP.
Nhìn chung diễn biến của đồng EUR và đồng GBP trong năm chịu ảnh hưởng
mạnh bởi xu hướng tăng của đồng bạc xanh trong điều kiện những bất ổn đang
gia tăng trong khu vực và tăng trưởng kinh tế vẫn còn mờ nhạt. Cụ thể, tại khu
vực Châu Âu bất ổn chính trị liên quan đến việc bầu cử tại Ý, Pháp và Tây Ban
Nha lên đến đỉnh điểm trong quý II; các vấn đề bất ổn chính trị của Thổ Nhĩ Kỳ
và tiến triển chính trị tại Ý, đặc biệt liên quan đến các thỏa thuận về ngân sách
cũng như vấn đề khủng hoảng tị nạn trong quý III; xu hướng suy giảm của một số
nền kinh tế chủ chốt trong khu vực đồng tiền chung cũng như định hướng điều
hành CSTT không như kỳ vọng của NHTW,… đã ảnh hưởng bất lợi đến diễn
biến của đồng EUR trên thị trường tiền tệ. Trong khi đó, đồng GBP tiếp tục chịu
áp lực từ những tín hiệu không ổn định qua các chặng đường đàm phán nước rút
hiệp định Brexit để đạt được thỏa thuận vào đầu tháng 3/2019. Áp lực này đã lấn
át cả những tín hiệu tốt lên của nền kinh tế và định hướng điều hành CSTT của
NHTW từ cuối quý III cho đến hết năm. Mặc dù vậy, đồng EUR và đồng GBP
cũng đã tăng 1,35% và 0,05% so với đồng USD vào tháng cuối cùng của năm khi
đồng bạc xanh hạ nhiệt, chốt giao dịch lần lượt ở mức 1.1470 EUR/USD và
1.2759 GBP/USD.
Bên cạnh đó, đồng AUD và đồng CAD thuộc vào nhóm những đồng tiền giảm
mạnh nhất trong năm, lần lượt ở mức 9,61% và 8,42% so với đồng USD. Cũng
giống như các đồng tiền mạnh khác, diễn biến của đồng AUD và đồng CAD cũng
bị ảnh hưởng bởi xu hướng tăng của đồng bạc xanh trong năm 2018. Chính vì thế
sau khi tăng mạnh vào tháng 01, hai đồng tiền này đã quay đầu giảm ngay sau đó,
ghi nhận các chuỗi giảm mạnh khá tương đồng vào tháng 02, 10 và tháng 12 với
mức giảm giao động 2% - 4,2%. Xu hướng giảm của đồng AUD và đồng CAD
trong nửa đầu năm bên cạnh xu hướng tăng của đồng USD, cũng chịu ảnh hưởng
từ những diễn biến kinh tế chưa khởi sắc nhưng đến nửa cuối năm lại trở nên rất
nhậy cảm với các tình hình kinh tế, chính trị trên toàn cầu, cụ thể là tình trạng
căng thẳng thương mại leo thang, biến động của giá cả hàng hóa thế giới, những
xáo trộn trên thị trường chứng khoán. Ngoài ra, đồng CAD còn chịu tác động bởi
xu hướng giảm của giá dầu và các vấn đề liên quan đến vòng đàm phán hiệp định
NAFTA đối với Mỹ, Mexico.
Kết thúc năm 2018, tỷ giá AUD/USD và USD/CAD chốt giao dịch lần lượt ở
mức 0.7052 và 1.3638.
Đồng JPY và
đồng CNY đã có
diễn biến trái
chiều
Trong năm 2018, diễn biến của 2 đồng tiền mạnh tại khu vực Châu Á – đồng JPY
và đồng CNY đã có diễn biến trái ngược nhau. Theo đó, đồng JPY đã tăng ở mức
2,76% so với đồng USD trong khi đồng CNY giảm khá mạnh 5,72% so với đồng
USD. Diễn biến của 02 đồng tiền chỉ cùng tăng điểm mạnh, trên 3% vào đầu năm
sau đó đã có diễn biến tăng, giảm lệch pha qua các tháng. Đồng JPY đã giảm
mạnh vào tháng 4, tháng 9 với mức giảm lớn hơn 2%. Xu hướng giảm của đồng
JPY chịu tác động từ sức mạnh của đồng bạc xanh và bị ảnh hưởng và triển vọng
còn xa vời trong việc bình thường hóa CSTT của BOJ cũng như những tín hiệu
không mấy tích cực của một số diễn biến kinh tế tại một số thời điểm. Trong khi
đó, diễn biến tăng tiếp tục được hỗ trợ bởi nhu cầu tài sản đầu tư an toàn gia tăng
trước các bất ổn chính trị và căng thẳng thương mại giữa các đầu tàu kinh tế lớn.
Thực tế này được thể hiện rõ ràng trong các phiên giao dịch nửa cuối tháng
12/2018 với mức tăng 3,43% vào thời điểm cuối tháng. Kết thúc năm, tỷ giá
14
Diễn biến tỷ giá của các đồng tiền mạnh
Nguồn: investing.com
1,051,1
1,151,2
1,251,3
1-J
an-1
8
31
-Jan
-18
2-M
ar-1
8
1-A
pr-
18
1-M
ay-1
8
31
-May
-18
30
-Ju
n-1
8
30
-Ju
l-1
8
29
-Au
g-1
8
28
-Sep
-18
28
-Oct
-18
27
-No
v-1
8
27
-Dec
-18
EUR/USD
1,21,25
1,31,35
1,41,45
1-J
an-1
8
31
-Jan
-18
2-M
ar-1
8
1-A
pr-
18
1-M
ay-1
8
31
-May
-18
30
-Ju
n-1
8
30
-Ju
l-1
8
29
-Au
g-1
8
28
-Sep
-18
28
-Oct
-18
27
-No
v-1
8
27
-Dec
-18
GBP/USD
0,66
0,7
0,74
0,78
0,82
1-J
an-1
8
31
-Jan
-18
2-M
ar-1
8
1-A
pr-
18
1-M
ay-1
8
31
-May
-18
30
-Ju
n-1
8
30
-Ju
l-1
8
29
-Au
g-1
8
28
-Sep
-18
28
-Oct
-18
27
-No
v-1
8
27
-Dec
-18
AUD/USD
1,2
1,25
1,3
1,35
1,4
1-J
an-1
8
31
-Jan
-18
2-M
ar-1
8
1-A
pr-
18
1-M
ay-1
8
31
-May
-18
30
-Ju
n-1
8
30
-Ju
l-1
8
29
-Au
g-1
8
28
-Sep
-18
28
-Oct
-18
27
-No
v-1
8
27
-Dec
-18
USD/CAD
102104106108110112114116
1-J
an-1
8
31
-Jan
-18
2-M
ar-1
8
1-A
pr-
18
1-M
ay-1
8
31
-May
-18
30
-Ju
n-1
8
30
-Ju
l-1
8
29
-Au
g-1
8
28
-Sep
-18
28
-Oct
-18
27
-No
v-1
8
27
-Dec
-18
USD/JPY
66,26,46,66,8
77,2
1-J
an-1
8
31
-Jan
-18
2-M
ar-1
8
1-A
pr-
18
1-M
ay-1
8
31
-May
-18
30
-Ju
n-1
8
30
-Ju
l-1
8
29
-Au
g-1
8
28
-Sep
-18
28
-Oct
-18
27
-No
v-1
8
27
-Dec
-18
USD/CNY
USD/JPY chốt giao dịch ở mức 109.58.
Bên cạnh đó, đồng CNY đã có chuỗi giảm liên tục từ tháng 4 – 10/2018 với tổng
mức giảm lớn hơn 11%. Trong đó, đồng CNY đã giảm mạnh nhất vào tháng 6
khi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung đã lên đến đỉnh điểm. Ngoài ra, xu hướng
này còn bị tác động bởi diễn biến kinh tế chậm lại của Trung Quốc và xu hướng
nới lỏng của CSTT trong năm. Trong chuỗi giảm này, đồng CNY đã vượt xa
ngưỡng giao dịch quan trọng được duy trì trong thời gian trước đó, thiết lập lên
mặt bằng giá mới, giao dịch xấp xỉ mức 7,0. Xu hướng kéo dài của đồng CNY
xảy ra trùng với thời điểm căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang đã nhận
được sự phê phán mạnh mẽ của nước Mỹ - quy kết là hành động phá giá tiền tệ -
cạnh tranh không lành mạnh. Mặc dù vậy, đà giảm này đã nhanh chóng chậm lại
rất nhiều và đảo chiều trong 02 tháng cuối năm khi PBOC có động thái can thiệp
đảm bảo sự ổn định của đồng CNY. Kết thúc năm, tỷ giá USD/CNY chốt giao
dịch ở mức 6.8785.
15
Diễn biến thị trường vàng
Diễn biến giá vàng thế giới
Nguồn: usagold.com
Thị trường chứng khoán toàn cầu
Giá vàng đã suy
giảm sau 2 năm
tăng tốc
Kết thúc năm 2018, giá vàng đã trải qua một năm giao dịch không thành công,
giảm 2,06% đối với vàng giao ngay và 1,91% đối với vàng kỳ hạn. Sau mức
tăng hơn 3% vào tháng đầu năm, giá vàng đã giảm dần qua các tháng sau đó với
chuỗi giảm kéo dài từ tháng 4 – 9/2018, giảm hơn 10%. Xu hướng giảm của giá
vàng chịu tác động mạnh bởi những kết quả ngày càng vững chãi của kinh tế
Mỹ trong khi nhu cầu đầu tư các tài sản an toàn đối với vàng trở nên mờ nhạt
khi lợi tức trái phiếu Chính phủ gia tăng. Bên cạnh đó, nhu cầu vàng vật chất
luôn ở mức thấp do kinh tế Trung Quốc suy giảm mạnh trong khi nhu cầu vàng
ở Ấn Độ cũng không khả quan hơn khi giảm trong 3 quý liên tiếp (giảm 10%
xuống 147,4 tấn quý 3). Trong chuỗi giảm này, ngưỡng giá giao dịch quan
trọng 1.300 USD/ounce của vàng đã chính thức bị phá vỡ vào tháng 6.
Tuy nhiên, đà giảm này đã đảo chiều trong quý IV – giá vàng đã tăng liên tục
trong 3 tháng với tổng mức tăng 7,41% trước những xáo trộn của thị trường
chứng khoán, những quan ngại về kinh tế toàn cầu trong năm 2019, những bất
ổn tại khu vực Châu Âu và đặc biệt là xu hướng suy giảm của đồng USD vào
cuối năm đã thúc đẩy nhu cầu về tài sản an toàn, lượng vàng nắm giữ của các
quỹ giao dịch được hỗ trợ bằng vàng trên toàn cầu đã tăng vọt. Kết thúc năm
giá vàng chốt giao dịch ở mức 1.282,29 USD/ounce đối với giá vàng giao ngay
và 1.281,3 USD/ounce đối với giá vàng kỳ hạn.
Chứng khoán
toàn cầu biến
động mạnh
Thị trường chứng khoán toàn cầu năm 2018 đã đi vào xu thế giảm tốc với
nhiều phiên biến động mạnh. Sau khi giảm trong quý I, thị trường diễn biến ổn
định và phục hồi tốt hơn 2 quý tiếp theo trước khi giảm mạnh trở lại trong quý
IV. Kết thúc năm 2018, chỉ số MSCI ACWI toàn cầu đo lường sự biến động
chỉ số chứng khoán của 23 nền kinh tế phát triển và 24 nền kinh tế chốt ở mức
455,66 điểm, giảm xấp xỉ 11% so với cuối năm ngoái, đánh dấu năm giảm
mạnh nhất của chỉ số này kể từ khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu
2008.
16
4 Chỉ số DAX của Đức giảm 19,23%; FTSE 100 của Anh giảm 12,62%, FTSE Italia giảm 16,52% và CAC 40 của Pháp giảm
10,65%.
Diễn biến chỉ số MSCI ACWI
Nguồn:msci.com
Thị trường chứng khoán Mỹ cũng đi theo xu thế diễn biến chung của chứng
khoán toàn cầu. Diễn biến của chứng khoán Mỹ trong năm 2018 chịu tác động
mạnh từ kỳ vọng của thị trường trong bối cảnh kinh tế, tài chính thế giới có
nhiều diễn biến không thuận lợi và tồn tại nhiều quan ngại cho kinh tế toàn cầu
trong năm tới. Chốt năm 2018, cả 3 chỉ số chính trên thị trường Mỹ đã giảm
điểm, trong đó chỉ số Dow Jones giảm 4,8%, S&P 500 giảm 5,3%, Nasdaq
giảm 2,4% - đánh dấu năm kém tích cực nhất của thị trường chứng khoán Mỹ
kể cuộc khủng hoảng 2008.
Diễn biến tăng giảm của 3 chỉ số chủ chốt trên TTCK Mỹ năm 2018
Nguồn: Bloomberg
Trong khi đó, chứng khoán châu Âu còn diễn biến kém tích cực hơn với sự
biến động liên tục qua các tháng. Bên cạnh những tác động từ bên ngoài, diễn
biến kinh tế mờ nhạt và những bất ổn chính trị của các nước thành viên đã có
ảnh hưởng không nhỏ đến diễn biến của thị trường chứng khoán. Kết thúc năm
2018, thị trường chứng khoán Đức đã ghi nhận mức giảm mạnh nhất, tiếp theo
là các thị trường Anh, Italia, Pháp4. Với diễn biến như vậy, chỉ số Euro Stoxx
toàn khu vực kết thúc năm 2018 đã giảm 14,61% so với cuối năm ngoái.
17
4. Triển vọng kinh tế vĩ mô toàn cầu năm 2019
Những thách thức đặt ra đối với kinh tế toàn cầu 2019
Năm 2018 đã khép lại với những diễn biến không được như kỳ vọng đã đặt ra
cuối năm 2017. Tăng trưởng kinh tế và hoạt động thương mại chậm lại, dòng
vốn có nhiều biến động và các thị trường tài chính, tiền tệ đối mặt với nhiều bất
ổn. Những diễn biến không thuận lợi đó sẽ tiếp tục tạo áp lực lên năm 2019 với
những vấn đề đáng chú ý sau:
1/ Căng thẳng thương mại tiếp tục là rủi ro hàng đầu đe dọa đến triển vọng tăng
trưởng ổn định của kinh tế thế giới. Căng thẳng thương mại năm 2019 được dự
báo sẽ tiếp tục leo thang, có những diễn biến khó đoán định và tạo ra những tác
Diễn biến tăng giảm của các chỉ số chủ chốt trên TTCK châu Âu năm 2018
Nguồn: Bloomberg
Tại Châu Á, các chỉ số chứng khoán cũng chịu tác động mạnh từ những thông
tin kém tích cực trên thị trường chứng khoán toàn cầu và diễn biến cùng với xu
hướng chung của chứng khoán thế giới. Tại thời điểm cuối tháng 12, chỉ số
MSCI khu vực châu Á Thái Bình Dương đã giảm 15,97% so với cuối năm
ngoái, với mức giảm mạnh tập trung vào quý IV. Hầu hết các chỉ số chứng
khoán chính trong khu vực cũng ghi nhận mức giảm điểm mạnh, cụ thể là chỉ
số Nikkei 225 của Nhật điều chỉnh giảm 11,2%; chỉ số Shanghai của Trung
Quốc giảm mạnh 26,85%; chỉ số HangSeng của Hồng Kông giảm 12,98%, chỉ
số Kopsi của Hàn Quốc giảm 17,45%,…
Diễn biến tăng giảm của các chỉ số chủ chốt trên TTCK châu Á năm 2018
Nguồn: Bloomberg
18
động cụ thể hơn đến kinh tế toàn cầu. Theo ước tính của Bloomberg
Economics, nếu Tổng thống Mỹ Donald Trump thực thi lời cảnh báo áp thuế bổ
sung đối với trị giá 200 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ thì
tốc độ tăng trưởng GDP năm 2019 của Trung Quốc sẽ giảm thêm 1,5 điểm phần
trăm, xuống còn mức thấp kỷ lục 5%. Điều đó sẽ tạo ra những tác động lan
truyền thiếu tích cực đến tăng trưởng của các nền kinh tế trong khu vực cũng
như trên thế giới. Còn theo ước tính của WB, cuộc chiến thương mại giữa hai
nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể tiếp tục làm giảm kim ngạch nhập khẩu toàn
cầu tới 3% (tương đương 674 tỷ USD) và làm giảm tổng thu nhập toàn cầu tới
1,7% (khoảng 1,4 nghìn tỷ USD).
2/ Các điều kiện tài chính đang ngày càng trở nên thắt chặt hơn trên toàn cầu.
Xu hướng thắt chặt này được thể hiện rõ nét trong định hướng điều hành CSTT
của NHTW các nước (tăng lãi suất, thu hẹp và chấm dứt các gói nới lỏng định
lượng). Định hướng này sẽ có ảnh hưởng bất lợi tới thanh khoản thị trường, gia
tăng tính bất ổn trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán, làm suy yếu
khả năng chống đỡ của các doanh nghiệp cũng như của các nền kinh tế phụ
thuộc vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài.
3/ Những biến động của giá dầu mỏ ngoài mức dự đoán trong năm 2018 có thể
tiếp tục kéo dài sang năm 2019 và có thể tạo ra áp lực đối với tăng trưởng kinh
tế toàn cầu. Trên thực tế, diễn biến giá dầu năm 2019 sẽ tiếp tục chịu sự chi
phối từ các yếu tố nguồn cung và nhu cầu giảm sút do kinh tế toàn cầu đang đi
xuống. Trong bối cảnh đó, xu hướng giảm của giá dầu có thể sẽ tiếp tục kéo dài
và điều đó có thể sẽ ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng tại nhiều quốc gia
đang phát triển và mới nổi có sự lệ thuộc vào nguồn xuất khẩu dầu.
4/ Rủi ro tiếp tục gia tăng tại khu vực châu Âu và có thể tạo ra những tác động
lan truyền mạnh hơn đến kinh tế toàn cầu. Tình hình kinh tế vĩ mô đang đi
xuống và những bất ổn vĩ mô nội khối như sự phát triển của chủ nghĩa dân túy,
vấn đề thâm hụt ngân sách tại nhiều quốc gia thành viên,… đang gia tăng sẽ
tiếp tục tạo ra những tác động bất lợi đến quá trình phát triển ổn định của kinh
tế trong khu vực. Trong bối cảnh đó, NHTW châu Âu sẽ rất khó để có thể tiếp
tục đi theo lộ trình bình thường hóa chính sách như các NHTW khác đang thực
hiện mà nhiều khả năng một làn sóng nới lỏng chính sách với các chương trình
QE mới sẽ được ECB thực hiện, từ đó tạo ra các tác động khó lường đến diễn
biến các thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu.
5/ Những rủi ro địa chính trị bắt nguồn từ những năm trước có thể tiếp tục bùng
nổ và gia tăng trong năm 2019. Trong đó, nổi lên là các vấn đề như Brexit, căng
thẳng khu vực Trung Đông, các cuộc bầu cử tại các nền kinh tế chủ chốt như
Canada, Australia hoặc các nền kinh tế mới nổi hàng đầu như Argentina, Ấn
Độ, Indonesia, Nigeria có khả năng tạo ra sự dịch chuyển chính sách, rủi ro địa
chính trị Đông Á,… Những biến động xoay quanh các sự kiện địa chính trị này
sẽ tiếp tục tạo ra các xáo trộn tức thời trên các thị trường đầu tư, từ đó ảnh
hưởng đến triển vọng tăng trưởng ổn định của kinh tế toàn cầu.
Triển vọng kinh tế thế giới năm 2019
Với những diễn biến kém tích cực trong năm 2018 và những rủi ro kinh tế chính
trị vẫn còn tiếp tục gia tăng, các tổ chức quốc tế lớn cùng chung nhận định kinh
tế toàn cầu sẽ tăng trưởng chậm lại trong năm 2019. Theo đó, tăng trưởng kinh
tế toàn cầu năm 2019 sẽ giao động trong khoảng từ 3% – 3,7%, thấp hơn so với
mức tăng trưởng năm 2018 khoảng 0,2 – 0,3%. Tăng trưởng sụt giảm được ghi
nhận tại nhiều nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản. Sự
19
chững lại trong tăng trưởng của Trung Quốc cũng sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng
của các nền kinh tế mới nổi trong khu vực châu Á, trong khi đó áp lực mất giá
đồng nội tệ, lạm phát gia tăng và biến động giá dầu sẽ tiếp tục tạo áp lực lên
tăng trưởng tại khu vực Mỹ La tinh, Đông Âu và Trung Đông.
Dự báo tăng trƣởng kinh tế toàn cầu và một số nền kinh tế chủ chốt trong năm 2019 của
một số tổ chức quốc tế (%)
Toàn cầu Mỹ Trung Quốc EU Nhật Bản
2018 2019 2018 2019 2018 2019 2018 2019 2018 2019
IMF 3,7 3,7 2,9 2,5 6,6 6,2 - - - -
OECD 3,7 3,5 2,9 2,7 6,6 6,3 1,9 1,8 1,2 1
WB 3,1 3 2,7 2,5 6,5 6,3 2,1 1,7 1,3 1,1
Focus
Economics
3,3 3,1 2,8 2,5 - - 2,1 1,7 1 1,1
Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo của các tổ chức quốc tế
Thương mại toàn cầu năm 2019 tiếp tục suy giảm. Theo dự báo của IMF, tăng
trưởng thương mại toàn cầu năm 2019 ước đạt mức tăng 4%, thấp hơn mức tăng
trưởng 4,2% của năm 2018 và cũng thấp hơn 0,5% so với dự báo được IMF đưa
ra hồi đầu năm nay. Tương tự như vậy, WTO cũng dự đoán tăng trưởng thương
mại toàn cầu tiếp tục chậm lại trong năm 2019 với mức tăng 3,7%, thấp hơn
mức tăng 3,9% dự kiến đạt được trong năm 2018.
Bên cạnh đó, nhiều dự báo cho thấy dòng vốn đầu tư sẽ có những dịch chuyển
rõ nét hơn trong năm 2018. Dòng vốn FDI có thể dịch chuyển từ Trung Quốc
sang các nước đang phát triển và mới nổi hoặc có thể dịch chuyển về các thị
trường phát triển. Dòng vốn đầu tư gián tiếp có thể chịu các đợt điều chỉnh
mạnh khi các điều kiện tài chính toàn cầu đang có chiều hướng thắt chặt lại.
Thị trường giá cả hàng hóa toàn cầu sẽ tiếp tục có những biến động ngoài dự
đoán tuy nhiên xu hướng đi xuống có thể tiếp tục xác lập. Với sự sụt giảm của
giá cả hàng hóa toàn cầu, lạm phát sẽ tăng chậm hơn trong năm 2019. Theo dự
báo của Focus Economics, lạm phát toàn cầu sẽ giảm từ mức 3,1% năm 2018
xuống còn 2,9% năm 2019.
KINH TẾ TRONG NƢỚC
1. Tăng trƣởng kinh tế
Kinh tế tăng trưởng
cao nhất kể từ năm
2008
Tăng trưởng kinh tế năm 2018 ước đạt 7,08% - tiếp tục là năm thứ hai liên tiếp đạt
cao hơn mục tiêu mà Quốc hội đã đặt ra, đồng thời là năm có mức tăng trưởng cao
nhất kể từ năm 2008 trở lại đây.
Diễn biến tăng trƣởng GDP (2008 – 2018)
Nguồn: TCTK
5
5,5
6
6,5
7
7,5
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
%
20
Kinh tế cả nước đã có diễn biến tốt qua các quý, trong đó đặc biệt phải kể đến diễn
biến tăng tốc mạnh vào quý I và quý IV, lần lượt đạt 7,38% và 7,31%, ghi nhận xu
hướng tích cực trên tất cả các khu vực và cấu phần quan trọng của nền kinh tế.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nƣớc các năm 2016-2018
Tốc độ tăng so với năm trước (%)
Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Tổng số 6,21 6,81 7,08
Nông, lâm nghiệp và thủy sản 1,36 2,90 3,76
Công nghiệp và xây dựng 7,57 8,00 8,85
Dịch vụ 6,98 7,44 7,03
Nguồn: TCTK
Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; khu vực dịch vụ tăng 7,03%, đóng góp
42,7%, với những diễn biến đáng chú ý như sau:
+ Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành nông nghiệp tiếp tục khẳng
định xu hướng phục hồi rõ nét khi đạt mức tăng 2,89%, đóng góp 0,36 điểm phần
trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế và ngành lâm nghiệp,
thủy sản vẫn đạt được mức tăng tốt, lần lượt là 6,01% và 6,46%, đóng góp 0,05 và
0,22 điểm phần trăm.
Tốc độ tăng trƣởng của các nhóm ngành trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
Nguồn: TCTK
+ Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp có mức tăng chủ
lực, đạt 8,79% đóng góp 2,85 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm
của nền kinh tế. Điểm sáng trong lĩnh vực này vẫn là ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo với tốc độ tăng trưởng là 12,98%, đóng góp 2,55 điểm phần trăm; ngành xây
dựng năm 2018 duy trì được mức tăng trưởng khá với tốc độ 9,16%, đóng góp 0,65
điểm phần trăm. Trong khi đó, Ngành khai khoáng tiếp tục giảm 3,11%, làm giảm
0,23 điểm phần trăm, mặc dù vậy mức giảm đã thu hẹp hơn một nửa so với mức
giảm của năm 2017.
Tốc độ tăng trƣởng của các nhóm ngành trong khu vực công nghiệp và xây dựng
Nguồn: TCTK
0
2
4
6
8
2017 2018
ngành nông nghiệp
ngành lâm nghiệp
ngành thủy sản
-10
0
10
20
2017 2018
Ngành công nghiệp
Ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Ngành công nghiệp khai
khoáng
21
+ Trong khu vực dịch vụ, phần lớn các nhóm ngành chính đều có được tốc độ tăng
tốt, trong đó nhóm ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và kinh doanh bất động
sản vẫn có được mức cao hơn so với năm 2017, lần lượt đạt 8,21%, đóng góp 0,53
điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế và 4,33%,
đóng góp 0,24 điểm phần trăm.
Tốc độ tăng trƣởng của các nhóm ngành trong khu vực dịch vụ
Nguồn: TCTK
Kết thúc năm 2018, quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành đạt 5.535,3 nghìn tỷ
đồng; GDP bình quân đầu người ước tính đạt 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587
USD, tăng 198 USD so với năm 2017. Cơ cấu nền kinh tế tiếp tục ghi nhận sự dịch
chuyển tích cực trên góc độ đóng góp của các khu vực và trên góc độ sử dụng.
Đóng góp vào GDP của các khu vực
Tốc độ tăng trƣởng của các cấu phần đóng góp vào GDP
trên góc độ sử dụng
Nguồn: TCTK
Năm 2018 gây thiệt hại 20.000 tỷ đồng ngân sách vì thiên tai
Năm 2018 thiên tai xảy ra liên tiếp trên các vùng miền cả nước với 13 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, 212 trận dông, lốc sét;
14 trận lũ quét, sạt lở đất, 9 đợt gió mạnh trên biển.
Năm nay cũng xuất hiện 4 đợt rét đậm, rét hại; 11 đợt nắng nóng, 23 đợt không khí lạnh; 30 đợt mưa lớn trên diện rộng.
Cùng đó, lũ lớn tại thượng nguồn sông Cửu Long sau 7 năm kể từ 2011, triều cường vượt mốc lịch sử tại các tỉnh Nam bộ,
sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển nghiêm trọng tại miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long…
Đến nay, thiên tai đã gây thiệt hại về kinh tế ước tính 20.000 tỷ đồng, làm 218 người chết và mất tích. Đây là một con số
thiệt hại đã giảm thiểu rất nhiều so với năm ngoái, khi năm 2017 thiên tai làm 386 người chết, mất tích, gây thiệt hại kinh tế
tới 60.000 tỷ đồng.
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
2017 2018
hoạt động tài chính, ngân
hàng và bảo hiểm
hoạt động kinh doanh bất
động sản
bán buôn và bán lẻ
dịch vụ lưu trú và ăn uống
000%
020%
040%
060%
080%
100%
2017 2018
thuế sản phẩm trừ
trợ cấp sản phẩm
khu vực dịch vụ
khu vực công
nghiệp và xây
dựng
khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản 0
2
4
6
8
10
12
2017 2018
tiêu dùng cuối
cùng
tích lũy tài sản
22
Chất lượng tăng
trưởng kinh tế được
cải thiện rõ rệt
Năm 2018, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng
GDP đạt 43,50%. Theo đó, bình quân 3 năm 2016 - 2018 đóng góp của năng
suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP đạt 43,29%, cao hơn
nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2011 - 2015.
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước tính
đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD/lao động), tăng 346 USD
so với năm 2017. Tính theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2018 tăng
5,93% so với năm 2017. Tính trung bình giai đoạn 2008 - 2017, Việt Nam là
quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực Đông Nam Á.
Hiệu quả đầu tư được cải thiện với nhiều năng lực sản xuất mới bổ sung cho nền
kinh tế. Chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đã giảm đều qua các năm, hiện ở
mức 5,97.
Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn
2008 – 2017 tại một số nƣớc ASEAN (theo PPP 2011)
Tỷ lệ ICOR tại Việt Nam theo giá so sánh 2010 giai đoạn
2011 – 2018
Nguồn: TCTK
Chỉ số sản xuất công
nghiệp tiếp tục tăng
tốt
Tính chung cả năm 2018, Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp – IIP ước
tăng khoảng 10,2% so với năm trước, ghi nhận mức tăng mạnh nhất vào quý I
và quý III, lần lượt là 12,7% và 10,7%. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt, thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn
ngành với mức tăng là 12,3%, đóng góp 9,5 điểm phần trăm vào mức tăng
chung và có diễn biến khá tương đồng với chỉ số IIP chung; ngành sản xuất và
phân phối điện tăng 10%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước
và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,3%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng
ngành khai khoáng giảm 2% (chủ yếu do khai thác dầu thô giảm 11,3%), làm
giảm 0,3 điểm phần trăm mức tăng chung.
Diễn biến IIP so với tháng trƣớc (%)
Diễn biến IIP so với cùng kỳ (%)
Nguồn: TCTK
23
Diễn biến chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
Diễn biến chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo
Nguồn: TCTK
Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so với năm trƣớc
Nguồn: TCTK
Một số ngành công nghiệp cấp II có chỉ số sản xuất tăng cao so với năm trƣớc
Nguồn: TCTK
Tính chung năm 2018, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng
12,4% so với năm trước – cao hơn mức 10,2% của năm 2017 và chỉ số tồn kho toàn
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/12/2018 tăng 14,1%
so với cùng thời điểm năm trước, cao hơn nhiều so với mức tăng 9,5% cùng thời
điểm năm 2017.
Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2018 của hầu hết các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đều tăng so với năm trước, trong đó Hà Tĩnh là địa phương
có tốc độ tăng trưởng cao nhất với mức tăng 89% do đóng góp của Tập đoàn
0
10
20
30
40
50
60
Xăng, dầu sắt, thép thô khí hóa lỏng (LPG)
ti vi Alumin vải dệt từ sợi tổng hợp
hoặc sợi nhân tạo
thức ăn cho
thủy sản vải dệt từ
sợi tự nhiên
0
10
20
30
40
50
60
70
Sản xuất than cốc, sản phẩm
dầu mỏ tinh chế
sản xuất kim loại
sản xuất
thuốc, hóa
dược và dược liệu
sản xuất xe
có động cơ sản xuất
giấy và sản phẩm từ
giấy
sản xuất
giường, tủ,
bàn, ghế
dệt sản xuất
sản phẩm
từ kim loại đúc sẵn (trừ
máy móc,
thiết bị)
sản xuất
sản phẩm
điện tử, máy vi tính
và sản
phẩm quang học
24
Formosa, tiếp theo là Thanh Hóa tăng 34,9% chủ yếu do Công ty TNHH Lọc
hóa dầu Nghi Sơn mới đi vào sản xuất từ giữa năm 2018. Riêng Bà Rịa - Vũng
Tàu có chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2018 giảm 0,5% so với năm 2017 do
khai thác dầu thô tiếp tục giảm.
Diễn biến chỉ số sản xuất công nghiệp ở các tỉnh, thành phố lớn
Nguồn: TCTK
Lĩnh vực sản
xuất kéo dài xu
hướng cải thiện
Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) toàn phần lĩnh vực sản xuất Việt Nam đã
đạt giá trị trung bình cao nhất kể từ năm 2011, ở gần mức 53,8 điểm. Diễn
biến của chỉ số PMI tốt nhất vào quý I và quý II, đáng chú ý mức tăng mạnh
trong tháng 6 và tháng 11, lần lượt là 55,7 và 56,5 điểm, con số này cũng đã
đưa Việt Nam trở thành nước có chỉ số PMI dẫn đầu khu vực ASEAN. Kết
thúc năm 2018, chỉ số PMI mặc dù giảm xuống 53,8 điểm so với mức tăng kỷ
lục trong tháng 11, xong vẫn là mức tăng dẫn đầu trong khu vực, đồng thời
cũng đã kéo dài xu hướng cải thiện của lĩnh vực sản xuất trong hơn 3 năm.
Thực tế này đã củng cố mức độ lạc quan về điều kiện kinh doanh trong năm
tới.
Cũng như năm trước, diễn biến tích cực của sản lượng và số lượng đơn đặt
hàng mới tiếp tục là động lực chính dẫn dắt đà tăng của PMI trong năm 2018.
Trong đó, đơn đặt hàng mới tiếp tục là yếu tố có ảnh hưởng lan tỏa đến các
diễn biến khác của khu vực sản xuất (việc làm, tình trạng tồn kho, thời gian
giao hàng,…). Bên cạnh đó, một tín hiệu thuận lợi cũng đã xuất hiện vào cuối
năm do hiệu ứng của chi phí đầu vào tăng chậm lại. Trên cơ sở đó, các nhà sản
xuất đã giảm giá cả đầu ra tương ứng, với mức giảm mới nhất là lớn nhất
trong gần ba năm.
Với những diễn biến tích cực của chỉ số PMI, năm 2018 được đánh giá là năm
tốt nhất của lĩnh vực sản xuất kể từ khi cuộc khảo sát chỉ số PMI bắt đầu vào
năm 2011. Diễn biến này sẽ tạo đà cho một năm 2019 tích cực, mặc dù đâu đó
trong nền kinh tế toàn cầu vẫn có khó khăn.
Diễn biến chỉ số PMI
Nguồn: Nikkei
25
Tổng mức bán lẻ
hàng hóa và
doanh thu dịch
vụ tiêu dùng đạt
mức tăng cao
hơn so với cùng
kỳ năm ngoái
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2018 ước tính
đạt 4395,7 nghìn tỷ đồng, tăng 11,7% so với năm 2017, nếu loại trừ yếu tố giá
tăng 9,4%, cao hơn mức tăng của cùng kỳ năm trước5. Diễn biến của tổng
mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng về cơ bản giống như năm
ngoái khi có xu hướng giảm vào thời điểm đầu năm do tác động của yếu tố
mùa vụ, diễn biến ổn định trong những tháng sau đó và tăng vào cuối năm.
Tăng trƣởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu DV TD so với tháng trƣớc và cùng kỳ (%)
Tăng trƣởng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu
dịch vụ tiêu dùng đã loại trừ yếu tố giá (% yoy)
Nguồn: TCTK
Cơ cấu đóng góp của các nhóm ngành vào tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng không có nhiều thay đổi so với các năm trước
trong đó bán lẻ hàng hóa vẫn giữ vị trí dẫn đầu, tiếp theo là dịch vụ lưu trú ăn
uống, dịch vụ lữ hành và dịch vụ khác. Trong năm 2018, cả 4 nhóm ngành
đều đạt được mức tăng trưởng tốt so với cùng kỳ trong đó dịch vụ lữ hành đạt
mức tăng cao nhất.
Cơ cấu đóng góp các nhóm ngành vào tổng mức bán
lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (%)
Tăng trƣởng của từng nhóm ngành so với cùng kỳ
(%)
Nguồn: TCTK
Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội tiếp
tục tăng
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2018 theo giá hiện hành ước tính
đạt 1.856,6 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước và bằng 33,5% GDP,
thấp hơn một chút so với mức tăng trưởng 12,1% của năm 2017. Trong diễn
biến chung của vốn đầu tư toàn xã hội, có thể nhận thấy rõ sự tăng tốc của
vốn đầu tư từ khu vực tư nhân với tốc độ tăng trưởng trong năm 2018 đạt
18,5%, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng 16,8% của năm ngoái. Trong khi
đó, tăng trưởng vốn đầu tư từ khu vực Nước ngoài và Nhà nước chậm lại
đáng kể với mức tăng lần lượt đạt 9,6% và 3,9%, thấp hơn mức tăng 12,8%
và 6,7% của năm 2017.
5 Năm 2017, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt mức tăng 11% so với cùng kỳ, nếu loại trừ yếu tố
giá tang 9,3%.
26
Tốc độ tăng vốn đầu tƣ phát triển toàn xã hội các năm 2016-2018 so với năm trƣớc
(Theo giá hiện hành) Đơn vị tính: %
Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Tổng số 108,9 112,1 111,2
Khu vực Nhà nước 107,3 106,7 103,9
Khu vực ngoài Nhà nước 109,5 116,8 118,5
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 110,4 112,8 109,6
Nguồn: TCTK
Khu vực tư nhân
giữ vững vai trò
dẫn dắt trong
hoạt động đầu tư
Giải ngân vốn
đầu tư từ NSNN
vẫn dồn tập
trung trong nửa
cuối năm
Với diễn biến tăng trưởng tích cực, khu vực tư nhân tiếp tục đóng vai trò dẫn
dắt trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Theo đó, trong cơ cấu đóng góp vào
tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khu vực tư nhân tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất,
đạt 43,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tiếp đến là khu vực Nhà nước chiếm
33,3% và khu vực nước ngoài chiếm 23,4%. Đây đã là năm thứ 4 liên tiếp
khu vực tư nhân có đóng góp cao nhất vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội và
mức đóng góp này có sự gia tăng liên tục qua các năm.
Đóng góp của từng khu vực vào tổng vốn đầu tƣ toàn xã hội
Nguồn: TCTK
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước năm 2018 ước tính đạt
324,9 nghìn tỷ đồng, bằng 92,3% kế hoạch năm và tăng 12,5% so với năm
trước (năm 2017 bằng 93,9% kế hoạch và tăng 6,6%). Diễn biến vốn đầu tư
từ NSNN vẫn theo đúng quy luật hàng năm khi thường chậm vào đầu năm và
tăng tốc mạnh hơn trong những tháng cuối năm.
Phân theo khu vực thì giải ngân vốn đầu tư từ trung ương đạt 59,3 nghìn tỷ
đồng, bằng 89,9% kế hoạch năm và giảm 6,1% so với năm trước; giải ngân
vốn đầu tư từ địa phương đạt đạt 265,6 nghìn tỷ đồng, bằng 92,8% kế hoạch
năm và tăng 17,7% so với năm trước.
27
Diễn biến vốn đầu tƣ từ NSNN giai đoạn Q1/2017 – Q4/2018
Nguồn: TCTK
Thu hút vốn FDI
đã chậm lại
nhưng giải ngân
vốn FDI và dòng
vốn FII vẫn diễn
biến tích cực
Trong năm 2018, Việt Nam thu hút thêm số vốn đăng ký đạt xấp xỉ 18 tỷ
USD, giảm 15.5% so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó, số dự án đã cấp
phép từ các năm trước đăng ký tăng thêm vốn đạt 7,6 tỷ USD, giảm 9,7% so
với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng
thêm trong năm 2018 đạt 25,6 tỷ USD, giảm 13,9% so với năm 2017. Diễn
biến này kém tích cực hơn nhiều so với năm 20176.
Trong năm 2018, diễn biến thu hút vốn FDI cũng có nhiều điểm tương đồng
với năm ngoái. Lượng vốn FDI thu hút vào Việt Nam đạt mức cao nhất trong
quý II nhờ sự phê duyệt hoặc điều chỉnh vốn tăng thêm trong một số dự án
lớn7. Tuy nhiên, so với năm 2017 Việt Nam cũng thu hút được ít số dự án có
lượng vốn FDI lớn trên 1 tỷ USD8.
Vốn FDI vào Việt Nam qua các quý năm 2017 và
năm 2018 (triệu USD)
Diễn biến các cấu phần vốn FDI qua các quý trong
năm 2018 (triệu USD)
Nguồn: TCTK
6 Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2017 thu hút số vốn đăng ký 21,3 tỷ USD, tăng 42,3% so với cùng kỳ năm 2017. Bên
cạnh đó, số lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký tăng vốn thêm đạt 8,4 tỷ USD USD, tăng 49,2% so với cùng kỳ
năm ngoái. 7 Dự án Thành phố thông minh tại Đông Anh Hà Nội có tổng vốn đầu tư 4,138 tỷ USD do Nhật Bản đầu tư; Dự án Nhà máy
sản xuất polypropylene (PP) và kho ngầm chứa khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) tại Việt Nam, với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,201
tỷ USD do HYOSUNG CORPORATION (Hàn Quốc) đầu tư tại Bà Rịa – Vũng Tàu; Dự án Công ty TNHH Laguna do nhà
đầu tư Singapore đầu tư tại Thừa Thiên Huế đã điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 1,12 tỷ USD. 8 Năm 2018 Việt nam thu hút được 3 dự án với tổng giá trị 6,5 tỷ USD, trong năm 2017 Việt Nam thu hút được 6 dự án với
tổng giá trị trên 12 tỷ USD.
28
Cơ cấu vốn FDI thu hút theo ngành đã có sự thay đổi so với năm ngoái. Trong
đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt xấp xỉ 9,1 tỷ
USD, chiếm 50,5% tổng vốn đăng ký cấp mới. Ngành hoạt động kinh doanh
bất động sản với việc thu hút 2 dự án đầu tư lớn đã vươn lên chiếm vị trí thứ
2, đạt 5,2 tỷ USD, chiếm 29%; các ngành còn lại đạt 3,7 tỷ USD, chiếm
20,5%.
Cơ cấu vốn FDI theo đối tác kinh tế năm 2018 ghi nhận sự điều chỉnh giảm
trong tỷ trọng vốn đầu tư từ Singapore so với năm ngoái. Trong khi đó, đầu tư
đến từ các quốc gia khác không có nhiều sự điều chỉnh với vị trí dẫn đầu thuộc
về Nhật Bản, tiếp theo là Hàn Quốc.
Tỷ trọng đầu tƣ phân theo ngành
năm 2018 và năm 2017
Tỷ trọng đầu tƣ phân theo đối tác đầu tƣ
năm 2018 và năm 2017
Nguồn: TCTK
Trái với xu hướng thiếu tích cực dòng vốn FDI thu hút mới và tăng thêm,
lượng FDI giải ngân vẫn diễn biến tích cực. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
thực hiện năm 2018 ước tính đạt 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm ngoái với
lượng giải ngân diễn biến tăng dần qua các quý.
Diễn biến vốn FDI thực hiện qua các quý năm 2017 và 2018 (triệu USD)
Nguồn: TCTK
Trong năm 2018, lượng vốn vào qua kênh góp vốn mua cổ phần có sự gia tăng
mạnh với tổng giá trị góp vốn là 9,89 tỷ USD, tăng 59,8% so với cùng kỳ năm
2017, cao hơn mức tăng 45,1% của năm ngoái. Lượng vốn góp đạt giá trị cao
nhất trong quý IV và tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa
chữa ô tô xe máy và chế biến chế tạo.
29
Diễn biến vốn vào qua kênh góp vốn mua cổ phần qua các quý năm 2017 và 2018 (triệu USD)
Nguồn: TCTK
Xuất khẩu vượt
mục tiêu và ghi
nhận mức tăng
cao của khu vực
kinh tế trong
nước
Tổng kim ngạch hàng hóa xuất năm 2018 ước tính đạt 244,72 tỷ USD, tăng
13,8% so với năm 2017. Xuất khẩu thường xuyên duy trì kim ngạch cao, trong
đó có có 8 tháng đạt trên 20 tỷ USD. Sự gia tăng diễn ra trong cả 2 khu vực
kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức tăng trưởng
lần lượt đạt 15,9% và 12,9%.
Trong năm 2018 có 29 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD,
chiếm tới 91,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trong đó 9 mặt hàng
đạt trên 5 tỷ USD và 5 mặt hàng đạt trên 10 tỷ USD. Trong nhóm này, đóng
góp chủ yếu vẫn là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực thuộc nhóm chế biến chế
tạo với mức tăng trưởng đều trên 10%9. Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng thuộc
nhóm nông sản cũng giữ tốc độ tăng trưởng cao, tiêu biểu như thủy sản, rau
quả, cà phê, gạo10
. Riêng nhóm dầu thô cả lượng và kim ngạch xuất khẩu đều
giảm mạnh so với năm trước11
.
Diễn biến kim ngạch XK qua các tháng năm 2018
Đơn vị: triệu USD, %
Diễn biến tăng trƣởng kim ngạch XK một số nhóm
hàng chính năm 2018
Nguồn: TCTK
9 Trong năm 2018, các mặt hàng thuộc nhóm chế biến chế tạo có tốc độ tăng trưởng cao là Điện thoại và linh kiện đạt 50 tỷ
USD, tăng 10,5%; hàng dệt may đạt 30,4 tỷ USD, tăng 16,6%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 29,4 tỷ USD, tăng 13,4%;
máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 16,5 tỷ USD, tăng 28%; giày dép đạt 16,3 tỷ USD, tăng 11%. 10
Thủy sản đạt 8,8 tỷ USD, tăng 6,3%; rau quả đạt 3,8 tỷ USD, tăng 9,2%; cà phê đạt 3,5 tỷ USD, tăng 1,2% (lượng tăng
20,1%); gạo đạt 3,1 tỷ USD, tăng 16% (lượng tăng 4,6%). 11 Kim ngạch xuất khẩu dầu thô đạt 2,3 tỷ USD, giảm 21,2% (lượng giảm 39,5%).
30
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường lớn
đều vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao và cơ cấu xuất khẩu sang các thị trường
không có nhiều thay đổi với Mỹ và EU vẫn là 2 thị trường xuất khẩu lớn nhất
của Việt Nam, tiếp đó là thị trường các nước trong khu vực như Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc Asean12
. Năm 2018 tiếp tục ghi nhận xu hướng xuất
khẩu đang ngày càng hướng mạnh hơn sang thị trường các nước trong khu
vực như Trung Quốc, Asean.
Nhập khẩu tăng
chậm hơn so với
năm ngoái
Tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu năm 2018 ước tính đạt 237,51 tỷ USD,
tăng 11,5% so với năm trước, thấp hơn so với mức tăng 20,8% của năm 2017.
Nhập khẩu gia tăng đều trong cả 2 khu vực của nền kinh tế, trong đó khu vực
kinh tế trong nước đạt 94,8 tỷ USD, tăng 11,3%; khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đạt 142,71 tỷ USD, tăng 11,6%.
Trong năm 2018 có 36 mặt hàng ước tính kim ngạch nhập khẩu đạt trên 1 tỷ
USD, chiếm 90,4% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó có 4 mặt hàng trên 10
tỷ USD, chiếm 44,3%. Nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất, gia công, lắp ráp
trong nước có kim ngạch tăng so với năm trước13
. Bên cạnh đó, tiêu dùng
trong nước vẫn diễn biến tích cực cũng khiến nhu cầu nhập khẩu hàng tiêu
dùng giữ đà gia tăng so với năm ngoái, ước đạt 20,5 tỷ USD và tăng 6,8% so
với năm 2017.
Diễn biến kim ngạch NK qua các tháng năm 2018
Đơn vị: triệu USD, %
Diễn biến tăng trƣởng NK một số nhóm hàng chính
năm 2018
Nguồn: TCTK
Nhập khẩu từ các thị trường lớn đạt tốc độ tăng trưởng cao14
, trong đó Trung
Quốc vẫn là thị trường nhập siêu hàng đầu của Việt Nam, tiếp theo là Hàn
Quốc, Nhật Bản, Asean. Đáng chú ý là thị phần nhập khẩu từ thị trường Mỹ
đã có sự gia tăng so với năm ngoái15
.
12 Về thị trường hàng hóa xuất khẩu năm 2018, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt
47,5 tỷ USD, tăng 14,2%; tiếp đến là EU đạt 42,5 tỷ USD, tăng 11%;Trung Quốc đạt 41,9 tỷ USD, tăng 18,5%; Thị trường
ASEAN đạt 24,7 tỷ USD, tăng 13,7%; Nhật Bản đạt 19 tỷ USD, tăng 12,9%; Hàn Quốc đạt 18,3 tỷ USD, tăng 23,2%.
13 Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 42,5 tỷ USD, tăng 12,5%; vải đạt 12,9 tỷ USD, tăng 13,5%; sắt thép đạt 9,9 tỷ USD,
tăng 9%; chất dẻo đạt 9,1 tỷ USD, tăng 20%; xăng dầu đạt 7,6 tỷ USD, tăng 7,8%; kim loại thường đạt 7,3 tỷ USD, tăng
24,9%; sản phẩm chất dẻo đạt 5,9 tỷ USD, tăng 8,1%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 5,7 tỷ USD, tăng 5,7%; hóa chất
đạt 5,2 tỷ USD, tăng 25,2%...
14 Về thị trường hàng hóa nhập khẩu năm 2018, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim
ngạch đạt 65,8 tỷ USD, tăng 12,3% so với năm 2017; thị trường Hàn Quốc đạt 47,9 tỷ USD, tăng 2%; ASEAN đạt 32 tỷ
USD, tăng 13%; Nhật Bản đạt 19,3 tỷ USD, tăng 13,4%; EU đạt 13,8 tỷ USD, tăng 13,1%; Hoa Kỳ đạt 12,8 tỷ USD, tăng
36,7%.
15 Thị phần nhập khẩu từ thị trường Mỹ đã tăng từ mức 4,31% năm 2017 lên mức 5,39% năm 2018.
31
Cán cân thương
mại đạt xuất siêu
cao nhất trong
vòng nhiều năm
qua
Tính chung cả năm 2018, cán cân thương mại xuất siêu 7,2 tỷ USD, trong đó
khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 25,6 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 32,8 tỷ USD. Mức xuất siêu Việt Nam
đạt được năm 2018 là mức xuất siêu cao nhất trong vòng nhiều năm trở lại
đây.
Diễn biến cán cân thƣơng mại từ năm 2011 đến nay
Nguồn: TCTK
Một số chính sách quan trọng trong công tác quản lý, điều tiết kinh tế trong tháng 12
Quyết định số 2617/QĐ-NHNN ngày 28/12/2018 Ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng
thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTG của Thủ tƣớng Chính phủ về tăng cƣờng năng lực tiếp cận cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tƣ đến năm 2020 và năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ
đến năm 2020 và định hƣớng đến năm 2025
Thông tƣ số 04/2018/TT-BKHĐT ngày 6/12/2018 Hƣớng dẫn thực hiện Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày
17/4/2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tƣ vào nông nghiệp, nông
thôn
Danh mục dự án khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn thuộc thẩm quyền của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh phê duyệt được xây dựng trên nguyên tắc:
- Ưu tiên dự án chế biến nông sản sử dụng nguyên liệu địa hoặc sử dụng trên 100 lao động;
- Ưu tiên dự án sản xuất sản phẩm cơ khí, thiết bị, linh kiện thiết bị, sản phẩm phụ trợ cho ngành nông nghiệp;
- Ưu tiên dự án có quy trình sản xuất thân thiện môi trường, tiêu tốn ít năng lượng, ít phát thải;…
Việc nghiệm thu và hỗ trợ trang thông tin điện tử “Chợ nông sản quốc gia” được Hội đồng nghiệm thu căn cứ
văn bản đồng ý xây dựng trang thông tin điện tử của Bộ Công Thương; số lượng doanh nghiệp đăng sản phẩm
lên trang; Bản sao công chứng các tài liệu chứng minh tài sản đảm bảo của doanh nghiệp…
2. Diễn biến chỉ số CPI
CPI bình quân
năm 2018 tăng
3,54%
Kết thúc năm 2018, CPI tổng thể bình quân và CPI cơ bản bình quân tăng lần
lượt là 3,54% và 1,48% so với bình quân cùng kỳ năm trước, thấp hơn mục tiêu
đặt ra.
32
Nguồn: TCTK
0
1
2
3
4
5
6
Jan
-17
Feb
-17
Mar
-17
Ap
r-1
7
May
-17
Jun
-17
Jul-
17
Au
g-1
7
Sep
-17
Oct
-17
No
v-1
7
Dec
-17
%
CPI TỔNG THỂ VÀ CPI CƠ BẢN
BÌNH QUÂN NĂM 2017
CPI tổng thể bình quân CPI cơ bản bình quân
0
1
2
3
4
Jan
-18
Feb
-18
Mar
-18
Ap
r-1
8
May
-18
Jun
-18
Jul-
18
Au
g-1
8
Sep
-18
Oct
-18
No
v-1
8
Dec
-18
%
CPI TỔNG THỂ VÀ CPI CƠ BẢN
BÌNH QUÂN NĂM 2018
CPI tổng thể bình quân
CPI cơ bản bình quân
Lạm phát năm nay có diễn biến trái chiều so với năm trước. Nếu như CPI bình
quân năm 2017 có chiều hướng giảm dần về cuối năm thì trong năm 2018, CPI
bình quân qua các tháng kể từ Quý II/2018 lại theo xu hướng tăng dần. Trong rổ
hàng hóa tính CPI chung, có 10/11 nhóm hàng hóa dịch vụ có CPI tăng so với
năm trước. Trong đó, một số nhóm hàng hóa, dịch vụ có tác động mạnh đến xu
hướng tăng CPI năm nay đó là: Lương thực, thực phẩm; Nhà ở Vật liệu xây
dựng và nhóm các hàng hóa dịch vụ do Nhà nước quản lý giá (Giao thông, Y tế,
Giáo dục).
+) Lƣơng thực, thực phẩm: Sự gia tăng trở lại của CPI bình quân nhóm Lương
thực, thực phẩm có ảnh hưởng mạnh đến lạm phát bởi đây là nhóm chiếm tỷ
trọng cao nhất trong rổ hàng hóa, dịch vụ tính CPI. Năm 2018, CPI bình quân
của Lương thực, thực phẩm đã tăng 3,23% so với bình quân năm trước (cùng kỳ
2017 giảm 1,08%) khi cả ba nhóm ngành nhỏ cấu thành đều tăng. Theo đó, CPI
bình quân Lương thực tăng 3,71% tác động làm CPI chung tăng 0,17%. CPI
bình quân Thực phẩm tăng 3,47% chủ yếu do giá thịt lợn phục hồi mạnh trong 6
tháng cuối năm, tác động làm CPI chung tăng 0,44%. Cuối cùng là CPI bình
quân nhóm Ăn uống ngoài gia đình với mức tăng 2,4% so với bình quân cùng
kỳ năm trước.
+) Thuốc và dịch vụ Y tế: Là nhóm có tốc độ tăng CPI bình quân cao nhất năm
nay ở mức 10,82% so với bình quân năm trước, chủ yếu do các địa phương trên
cả nước tiếp tục điều chỉnh giá dịch vụ y tế, dịch vụ khám chữa bệnh (theo
Thông tư số 02/2017/TT-BYT và Thông tư số 39/2018/TT-BYT) làm CPI bình
quân Dịch vụ y tế tăng 13,86% so với bình quân năm trước, tác động làm CPI
chung tăng 0,54%. So với mức tăng tới 42,29% của năm 2017 thì tốc độ tăng
CPI bình quân năm nay của nhóm Thuốc và dịch vụ y tế đã giảm đi đáng kể.
+) Giao thông: CPI bình quân tăng 6,38% so với bình quân cùng kỳ năm trước,
tác động làm CPI chung tăng 0,63%, chủ yếu do giá xăng dầu trong nước tăng
liên tục trong bối cảnh giá xăng dầu thế giới tăng. Tuy nhiên, khi giá dầu thế
giới giảm mạnh trong những tháng cuối năm, giá xăng dầu trong nước đã được
điều chỉnh giảm liên tục.
+) Giáo dục: CPI bình quân tăng 6,31% so với bình quân cùng kỳ năm trước,
trong đó CPI Dịch vụ giáo dục tăng 7,12% chủ yếu do lộ trình tăng học phí theo
Nghị định số 86/2015/NĐ-CP, từ đó tác động làm CPI chung tăng 0,37%.
33
Nguồn: TCTK
Một số chính sách quan trọng về điều tiết giá cả đƣợc ban hành trong tháng 12
Công văn số 9946/BCT-TTTN ngày 06/12/2018 của Bộ Công Thƣơng về việc điều hành kinh doanh xăng
dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng E5 RON 92: giảm 1446 đồng/lít; Xăng RON 95-III: giảm 1513 đồng/lít; Dầu
diesel 0.05S: giảm 1379 đồng/lít; Dầu hỏa: giảm 990 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: giảm 784 đồng/kg.
Công văn số 10411/BCT-TTTN ngày 21/12/2018 của Bộ Công Thƣơng về việc điều hành kinh doanh xăng
dầu
Điều chỉnh giá xăng dầu: Xăng E5 RON 92: giảm 394 đồng/lít; Xăng RON 95-III: giảm 318 đồng/lít; Dầu diesel
0.05S: giảm 257 đồng/lít; Dầu hỏa: giảm 257 đồng/lít; Dầu mazut 180CST 3.5S: giảm 394 đồng/kg.
16 Từ ngày 1/1/2018, tăng lương tối thiểu vùng áp dụng cho người lao động ở các doanh nghiệp và từ ngày 1/7/2018 tăng
mức lương cơ sở áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
-4
-2
0
2
4
6
8
Jan
-18
Feb
-18
Mar
-18
Ap
r-1
8
May
-18
Jun
-18
Jul-
18
Au
g-1
8
Sep
-18
Oct
-18
No
v-1
8
Dec
-18
%
CPI LƢƠNG THỰC, THỰC PHẨM
NĂM 2018
(so với cùng kỳ năm trƣớc)
Lương thực
Thực phẩm
Ăn uống ngoài gia đình
0
5
10
15
20
25
30
35Ja
n-1
8
Feb
-18
Mar
-18
Ap
r-1
8
May
-18
Jun
-18
Jul-
18
Au
g-1
8
Sep
-18
Oct
-18
No
v-1
8
Dec
-18
%
CPI MỘT SỐ NHÓM HÀNG PHI LTTP
NĂM 2018
(so với cùng kỳ năm trƣớc)
Thuốc và dịch vụ Y tế Giáo dục Giao thôngNhà ở và VLXD
+) Nhà ở và vật liệu xây dựng: CPI bình quân tăng 3,32% so với bình quân
năm trước, khi giá cả một số mặt hàng chủ chốt trong nhóm này tiếp tục tăng so
với năm trước như: giá gas tăng 6,93%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng
6,59%,… và giá cả một số mặt hàng thiết yếu tăng trở lại như giá sắt, thép xây
dựng.
Các nhóm hàng hóa, dịch vụ còn lại có CPI bình quân tăng bao gồm: Đồ uống
và thuốc lá (+1,42%); May mặc mũ món và giày dép (+1,50%); Thiết bị và đồ
dùng gia đình (1,24%); Văn hóa giải trí và dịch vụ du lịch (+1,21%); Hàng hóa
dịch vụ khác (+2,44%). Duy nhất nhóm Bưu chính viễn thông có CPI bình quân
giảm 0,66% so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh những nguyên nhân tác động làm tăng CPI bình quân trong năm 2018
như việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế, giá dịch vụ giáo dục và các yếu tố thị
trường – xu hướng tăng của CPI trong năm nay còn chịu ảnh hưởng của việc
tăng lương tối thiểu vùng áp dụng cho người lao động ở các doanh nghiệp và
mức lương cơ sở áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang trên cả nước16
.
34
3. Thu chi ngân sách Nhà nƣớc
17 Đầu năm 2018, Kho bạc Nhà nước công bố kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ với tổng giá trị 200.000 tỉ đồng. Tuy
nhiên tại công văn số 4769/KBNN-QLNQ ngày 1/10/2018, kế hoạch trên đã được điều chỉnh với tổng giá trị phát hành dự
kiến là 175.000 tỉ đồng, giảm 12,5% so với kế hoạch ban đầu.
Thu NSNN đạt cao
hơn so với năm ngoái
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2018 ước
tính đạt 1272,5 nghìn tỷ đồng, bằng 96,5% dự toán, trong đó thu nội địa
đạt 1.012,3 nghìn tỷ đồng, bằng 92,1%; thu từ dầu thô đạt 59,4 nghìn tỷ
đồng, bằng 165,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập
khẩu đạt 195,9 nghìn tỷ đồng, bằng 109,4%. Diễn biến này tích cực hơn
so với năm 2017
Diễn biến của các cấu phần thu NSNN so với dự
toán năm 2018 và 2017
Kết cấu thu NSNN giai đoạn 2015 – 2018
(%)
Nguồn: TCTK
Chi đầu tư phát triển
vẫn ở mức thấp so với
dự toán
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2018 ước
tính đạt 1.272,1 nghìn tỷ đồng, bằng 83,5% dự toán năm, trong đó chi
thường xuyên đạt 874,5 nghìn tỷ đồng, bằng 93%; chi đầu tư phát
triển 260,2 nghìn tỷ đồng, bằng 65,1%; chi trả nợ lãi 102,2 nghìn tỷ đồng,
bằng 90,8%.
Trong năm 2018, cơ cấu nguồn chi có sự điều chỉnh. Chi thường xuyên đã
giảm từ mức chiếm 70% tổng chi năm trước xuống còn chiếm 68,7% tổng
chi, chi trả nợ lãi chiếm khoảng 8% tổng chi trong khi chi đầu tư phát
triển giảm nhẹ so với năm trước hiện chiếm khoảng 20% tổng chi.
Diễn biến của các cấu phần chi NSNN so với dự toán
năm 2018 và 2017
Kết cấu chi NSNN năm 2018 so với năm 2017
%
Nguồn: TCTK
Trong năm 2018, tính đến hết tháng 12, Kho bạc Nhà nước đã huy động thành
công 167.197 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ qua đấu thầu, hoàn thành 95,54%
kế hoạch phát hành đã điều chỉnh của năm 201817
.
35
Một số chính sách quan trọng về thu chi ngân sách đƣợc ban hành trong tháng 12
Quyết định số 1871/QĐ-TTg ngày 30/12/2018 giao kế hoạch đầu tƣ vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018
(đợt 4)
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư căn cứ danh mục dự án và tổng số kế hoạch đầu tư
vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018 (đợt 4) được giao, quyết định giao cho Bộ Giao thông vận tải danh mục và
chi tiết mức vốn của các dự án; thực hiện các quy định tại khoản 1 Điều 4 Quyết định số 2131/QĐ-TTg ngày
29/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018; chịu
trách nhiệm toàn diện trước Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan thanh tra, kiểm toán về tính chính xác của các
thông tin, số liệu và mức vốn phân bổ cho các dự án.
Giao Bộ Tài chính thực hiện quy định tại điểm b khoản 2 Điều 4 Quyết định số 2131/QĐ-TTg ngày 29/12/2017
của Thủ tướng Chính phủ về việc giao kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018.
Căn cứ kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018 (đợt 4) được giao, Bộ Giao thông vận tải giao danh
mục và mức vốn cụ thể của từng dự án theo quy định cho các đơn vị trực thuộc để thực hiện; báo cáo kết quả
giao, thông báo kế hoạch đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ năm 2018 (đợt 4) gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính trước ngày 15/1/2019.
Bên cạnh đó, định kỳ hằng tháng, quý và cả năm báo cáo tình hình thực hiện và giải ngân kế hoạch đầu tư vốn
trái phiếu Chính phủ năm 2018 theo quy định; chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông tin về các dự án
đầu tư nguồn vốn trái phiếu Chính phủ do Bộ quản lý. Trường hợp phát hiện các thông tin không chính xác, phải
kịp thời gửi báo cáo cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ.
Quyết định số 2298/QĐ-BTC ngày 06/12/2018 về việc điều chỉnh, bổ sung dự toán thu, chi ngân sách nhà
nƣớc năm 2018
Quyết định số 2339/QĐ-BTC ngày 13/12/2018 về việc công bố công khai dự toán ngân sách năm 2018 của
Bộ Tài chính
Nghị định số 163/2018/QĐ-TTg ngày 4/12/2018 Quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp
18 Kỳ hạn 20 năm giảm 1,9 điểm phần trăm; kỳ hạn 30 năm giảm 2,55 điểm phần trăm.
Giá trị gọi thầu và trúng thầu TPCP năm 2018
Giá trị gọi thầu và trúng thầu TPCP năm 2017
Nguồn: hnx
Diễn biến của trái phiếu Chính phủ trúng thầu theo các kỳ hạn trong năm 2018
đã có sự thay đổi so với năm trước. Cụ thể, các kỳ hạn 10 năm, 15 năm chiếm
tỷ trọng cao trên tổng khối lượng phát hành trái phiếu Chính phủ lần lượt là
44,33% và 31,41%; trong khi đó, các kỳ hạn còn lại chiếm tỷ lệ nhỏ dưới 10%.
Bên cạnh đó, mặt bằng lãi suất trúng thầu của trái phiếu Chính phủ giảm ở tất
cả các kỳ hạn, giảm mạnh nhất ở kỳ hạn (20 năm, 30 năm)18
, tiếp đến là kỳ hạn
(7 năm, 15 năm) và cuối cùng là kỳ hạn (5 năm, 10 năm). Kết thúc năm 2018,
lãi suất trúng thầu của trái phiếu kỳ hạn 5 năm nằm trong khoảng 2,93 -
5,1%/năm, 7 năm trong khoảng 3,4 – 4,35%/năm, 10 năm trong khoảng 4,05 –
5,85%/năm, 15 năm trong khoảng 4,4 – 6,1%/năm, 20 năm trong khoảng 5,1 –
5,8%/năm và 30 năm nằm trong khoảng 5,39 – 5,42%/năm.
36
Nghị định này quy định, trái phiếu doanh nghiệp phát hành tại thị trường trong nước có mệnh giá là 100.000
đồng hoặc là bội số của 100.000 đồng. Nếu phát hành ra thị trường quốc tế, mệnh giá được thực hiện theo quy
định của thị trường phát hành.
Trái phiếu được phát hành dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử; Doanh nghiệp phát
hành quyết định cụ thể hình thức trái phiếu đối với mỗi đợt phát hành theo quy định tại thị trường phát hành.
Đáng chú ý, Nghị định này quy định trái phiếu doanh nghiệp bị hạn chế giao dịch trong phạm vi dưới 100 nhà
đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp trong vòng 01 năm, kể từ ngày hoàn thành đợt phát
hành, trừ trường hợp quyết định của Tòa án hoặc thừa kế theo quy định.
4. Tình hình doanh nghiệp
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
,0
20000,0
40000,0
60000,0
80000,0
100000,0
120000,0
140000,0
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
SỐ DOANH NGHIỆP THÀNH LẬP MỚI
GIAI ĐOẠN 2012 - 2018
,0
500000,0
1000000,0
1500000,0
2000000,0
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
tỷ đồng
VỐN ĐĂNG KÝ KINH DOANH MỚI
GIAI ĐOẠN 2012 - 2018
,0
10000,0
20000,0
30000,0
40000,0
2014 2015 2016 2017 2018
SỐ DN QUAY TRỞ LẠI HOẠT ĐỘNG
GIAI ĐOẠN 2014 - 2018
,0
500000,0
1000000,0
1500000,0
2000000,0
2500000,0
3000000,0
2014 2015 2016 2017 2018
tỷ đồng
VỐN KINH DOANH BỔ SUNG
GIAI ĐOẠN 2014-2018
Khu vực doanh
nghiệp tiếp tục
khởi sắc
Năm 2018, khu vực doanh nghiệp tiếp tục ghi nhận sự khởi sắc khi cả nước có
thêm 131.275 doanh nghiệp thành lập mới với tổng vốn đăng ký kinh doanh là
1.478.101 tỷ đồng - tăng 3,5% về số doanh nghiệp và tăng 14,1% về vốn đăng
ký so với năm trước. Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp
trong năm 2018 đạt 11,3 tỷ đồng - tăng 10,2% so với năm 2017. Kể từ năm
2015, đây là năm thứ tư liên tiếp số lượng doanh nghiệp thành lập mới và vốn
đăng ký kinh doanh mới gia tăng qua các năm. Bên cạnh vốn đăng ký mới, tổng
vốn đăng ký kinh doanh bổ sung của các doanh nghiệp trong năm nay đạt
2.408.791 tỷ đồng – tăng 28,9% so với năm trước . Số lượng doanh nghiệp quay
trở lại hoạt động trong năm 2018 là 34.010 doanh nghiệp - tăng 28,6% so với
năm 2017.
So với năm trước, số doanh nghiệp thành lập mới theo lĩnh vực không có nhiều
thay đổi và tập trung chủ yếu ở một số ngành nghề: Bán buôn, bán lẻ và sửa
chữa ô tô xe máy (46.380 doanh nghiệp - tăng 2,1%); Xây dựng (16.735 doanh
nghiệp - tăng 4,4%); Công nghiệp chế biến chế tạo (16.202 doanh nghiệp - tăng
0,07%);…. Trong khi đó, vốn đăng ký kinh doanh nhiều nhất là Kinh doanh bất
động sản với 430.193 tỷ đồng, đây cũng là ngành có tỷ lệ doanh nghiệp thành
lập mới tăng cao nhất khi đạt 40%. Ở chiều ngược lại, một số ngành có số
lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm so với năm trước như: Vận tải kho bãi
37
5. Tình hình lao động việc làm
(giảm 34%); Nghệ thuật, vui chơi giải trí (giảm 9,1%); Nông, lâm nghiệp và
thủy sản (giảm 5,5%); Thông tin và truyền thông (giảm 3,8%);…
Nguồn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh
Tình hình doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động và tạm ngừng đăng ký
kinh doanh đã tăng cao trở lại trong năm nay. Cụ thể, số doanh nghiệp hoàn tất
thủ tục giải thể trong năm 2018 là 16.314 doanh nghiệp - tăng 34,7% so với
năm trước, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có quy mô vốn
dưới 10 tỷ đồng (14.880 doanh nghiệp - chiếm 91,2%). Số doanh nghiệp phải
tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể là 63.525 doanh nghiệp -
tăng 63,4%. Số doanh nghiệp tạm ngừng đăng ký kinh doanh có thời hạn là
27.126 doanh nghiệp – tăng 25,1% so với năm 2017.
Lực lượng lao
động tiếp tục gia
tăng
Năm 2018, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong cả nước là 55,4 triệu
người – tăng 556,2 nghìn người so với năm 2017. Trong đó, số lao động từ 15
tuổi trở lên đang làm việc là 54,3 triệu người, bao gồm 20,7 triệu người đang
làm việc trong khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản (chiếm 38,1% - giảm 2,1
điểm % so với năm trước); 14,4 triệu người đang làm việc trong khu vực Công
nghiệp và xây dựng (chiếm 26,6% - tăng 0,8% điểm % so với năm trước); 19,2
triệu người đang làm việc trong khu vực Dịch vụ (chiếm 35,3% - tăng 1,3 điểm
% so với năm trước). Bên cạnh đó, lực lượng lao động trong độ tuổi là 48,7
triệu người - tăng 549,8 nghìn người so với năm trước.
Trong năm 2018, tỷ lệ thất nghiệp chung cả nước ước tính là 2,0% - trong đó tỷ
lệ thất nghiệp khu vực thành thị và nông thôn lần lượt là 2,95% và 1,55%. Tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,19% - trong đó khu vực thành thị và
nông thôn lần lượt là 3,10% và 1,74%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên ước tính
là 7,06% - trong đó khu vực thành thị là 10,56% và nông thôn là 5,73%. Ngoài
ra, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2018 ước tính là 1,46% -
trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị và nông thôn lần lượt là 0,69%
và 1,85%.
,0
20000,0
40000,0
60000,0
80000,0
2014 2015 2016 2017 2018
SỐ DOANH NGHIỆP GIẢI THỂ, TẠM NGỪNG HOẠT ĐỘNG,
NGỪNG KINH DOANH CÓ THỜI HẠN
GIAI ĐOẠN 5 NĂM GẦN ĐÂY
Số doanh nghiệp hoàn tất giải thể
Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký
Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn
38
Nguồn: Tổng cục thống kê
III. DIỄN BIẾN THỊ TRƢỜNG TIỀN TỆ, CHỨNG KHOÁN
Một số chính sách quan trọng trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng trong tháng 12
Thông tƣ số 30/2018/TT-NHNN ngày 12/12/2018 Hƣớng dẫn xác định vốn nhà nƣớc của các doanh nghiệp
cổ phần hóa là các tổ chức tín dụng
Theo đó, các doanh nghiệp cổ phần hóa là tổ chức tín dụng gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
(TNHH MTV) do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; Công ty TNHH MTV do doanh nghiệp Nhà nước đầu tư
100% vốn điều lệ.
Vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa là tổ chức tín dụng được xác định gồm các số dư tài khoản sau:
Vốn điều lệ; Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định; Vốn khác; Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ;
Quỹ đầu tư phát triển; Quỹ dự phòng tài chính với số hiệu tài khoản lần lượt là 601, 602, 609, 611, 612, 613.
Lưu ý: Số dư tài khoản Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại doanh nghiệp cổ phần hóa là tổ chức tín dụng (nếu
có) được xác định là vốn Nhà nước.
Thông tƣ số 32/2018/TT-NHNN ngày 18/12/2018 Hƣớng dẫn quy trình chuyển đổi ngoại tệ của Ngân hàng
Nhà nƣớc cho các dự án đƣợc Chính phủ cam kết bảo lãnh và hỗ trợ chuyển đổi ngoại tệ
Theo đó, Quy trình chuyển đổi ngoại tệ được Chính phủ cam kết bảo lãnh chuyển đổi gồm 4 bước:
- Bước 1: Doanh nghiệp dự án, nhà đầu tư không thực hiện chuyển đổi được ngoại tệ trên thị trường trong phạm
vi thời gian quy định tại GGU xác định số lượng đồng Việt Nam cần bảo lãnh chuyển đổi còn lại gửi Ngân hàng
chuyển đổi kèm hóa đơn.
- Bước 2: Ngân hàng chuyển đổi gửi công văn kèm hóa đơn đề nghị NHNN bán số lương ngoại tệ tương ứng với
số lượng đồng Việt Nam cần chuyển đổi.
51
52
53
54
55
56
2014 2015 2016 2017 2018
triệu người
LAO ĐỘNG TỪ 15 TUỔI TRỞ LÊN
GIAI ĐOẠN 2014 - 2018
Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc
Tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên
24 23 22 22 20,7
11 12 13 14 14,4
17 18 18 18 19,2
0
15
30
45
60
2014 2015 2016 2017 2018
triệu người
LAO ĐỘNG TỪ 15 TUỔI TRỞ LÊN
ĐANG LÀM VIỆC THEO NGÀNH
Dịch vụ
Công nghiệp và xây dựng
Nông lâm nghiệp và thủy sản
2,4
1,89
1,64 1,63 1,46
0
1
2
3
2014 2015 2016 2017 2018
%
TỶ LỆ THẤT NGHIỆP VÀ THIẾU VIỆC
LÀM TRONG ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động
Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động
6,3 6,85 7,34 7,51 7,06
0
2
4
6
8
10
12
14
2014 2015 2016 2017 2018
%
TỶ LỆ THẤT NGHIỆP ĐỘ TUỔI
THANH NIÊN (15 -24 tuổi)
Tỷ lệ thất nghiệp độ tuổi thanh niên
Tỷ lệ thất nghiệp độ tuổi thanh niên khu vực nông thôn
Tỷ lệ thất nghiệp độ tuổi thanh niên khu vực thành thị
39
- Bước 3: NHNN kiểm tra hóa đơn, chứng từ liên quan và bán ngoại tệ từ Quỹ Bình ổn giá và quản lý thị trường
vàng cho ngân hàng chuyển đổi.
- Bước 4: Ngân hàng chuyển đổi thực hiện bán ngoại tệ và chuyển vào tài khoản số 2 hoặc tài khoản ở nước
ngoài của doanh nghiệp dự án, nhà đầu tư.
Ngoài ra, Thông tư còn quy định về Quy trình chuyển đổi ngoại tệ được Chính phủ cam kết hỗ trợ chuyển đổi.
Quyết định số 2570/QĐ-NHNN ngày 25/12/2018 Về mức lãi suất của các ngân hàng thƣơng mại áp dụng
trong năm 2019 đối với dƣ nợ của các khoản cho vay hỗ trợ nhà ở quy định tại Thông tƣ số 11/2013/TT-
NHNN ngày 15 tháng 5 năm 2013, Thông tƣ số 32/2014/TT-NHNN ngày 18 tháng 11 năm 2014 và Thông
tƣ số 25/2016/TT-NHNN ngày 29 tháng 7 năm 2016
Theo đó, mức lãi suất của các NHTM áp dụng trong năm 2019 đối với dư nợ của các khoản cho vay hỗ trợ nhà ở
theo quy định tại Thông tư số 11/2013/TT-NHNN ngày 15/5/2013, Thông tư số 32/2014/TT-NHNN ngày
18/11/2014 và Thông tư số 25/2016/TT-NHNN ngày 29/7/2016 là 5,0%/năm.
Thông tƣ số 36/2018/TT-NHNN ngày 25/12/2018 Quy định về hoạt động cho vay để đầu tƣ ra nƣớc ngoài
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài đối với khách hàng
Thông tư này quy định cụ thể về điều kiện vay vốn để đầu tư ra nước ngoài, gồm:
- Khách hàng là pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự; nếu khách hàng là cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Có 02 năm liên tiếp không phát sinh nợ xấu tính đến thời điểm đề nghị vay vốn;
- Đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài và hoạt động đầu tư đã được cơ quan có thẩm
quyền của nước tiếp nhận đầu tư chấp thuận hoặc cấp phép;
- Có dự án, phương án đầu tư ra nước ngoài được tổ chức tín dụng đánh giá là khả thi và khách hàng có khả năng
trả nợ tổ chức tín dụng.
Mức cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận; nhưng không quá 70% vốn đầu tư ra nước ngoài của
khách hàng.
Thông tƣ số 33/2018/TT-NHNN ngày 21/12/2018 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số
26/2013/TT-NHNN ngày 05 tháng 12 năm 2013 của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam ban hành biểu phí
dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
Một trong những phí dịch vụ được điều chỉnh tại Thông tư này là Phí giao dịch thanh toán từng lần qua tài khoản
tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể:
- Phí thanh toán bằng VNĐ là 0,02% số tiền thanh toán (tối thiểu là 10.000 đồng/món; tối đa là 100.000
đồng/món);
- Phí thanh toán bằng Đô la Mỹ là 0,02% số tiền thanh toán (tối thiểu là 0,2 USD/món; tối đa là 5 USD/món);
- Phí thanh toán bằng đồng tiền chung châu Âu là 0,02% số tiền thanh toán (tối thiểu 0,2 eur/món, tối đa là 5
eur/món).
Thông tƣ số 37/2018/TT-NHNN ngày 25/12/2018 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số
39/2013/TT-NHNN ngày 31/12/2013 của Thống đốc Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam quy định về xác định,
trích lập, quản lý và sử dụng khoản dự phòng rủi ro của Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam
Theo đó, các loại tài sản có rủi ro được phân loại như sau:
- Tiền, vàng gửi tại ngân hàng nước ngoài, cho vay và thanh toán với ngân hàng nước ngoài;
- Chứng khoán đầu tư trên thị trường tài chính quốc tế;
- Các khoản tái cấp vốn (được phân loại theo mức độ rủi ro tăng dần);
- Thanh toán với Nhà nước và Ngân sách Nhà nước;
- Các khoản phải thu khác.
Khoản dự phòng rủi ro được sử dụng chung để bù đắp những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình
hoạt động sau khi đã trừ đi giá trị thu hồi của tài sản và các khoản bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ chức,
cá nhân gây ra và tiền bảo hiểm (nếu có).
Thông tƣ số 35/2018/TT-NHNN ngày 24/12/2018 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số
35/2016/TT-NHNN ngày 29/12/2016 quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng
trên Internet
40
Thông tư được ban hành nhằm cập nhật các quy định mới tại Thông tư số 18/2018/TT-NHNN và Nghị định
117/2018/NĐ-CP, đồng thời cũng phản ánh đầy đủ, sát thực hơn các yêu cầu về an ninh bảo mật phù hợp với
thực tế phát triển nhanh chóng, đa dạnh về CNTT và tình hình an toàn thông tin mạng trong Ngành ngân hàng.
Thông tư cũng sửa đổi, bổ sung các quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức và khách hàng trong việc
cung cấp và sử dụng dịch vụ như: yêu cầu về kiểm soát phiên giao dịch; yêu cầu về số lần xác thực sai; yêu cầu
về mở tài khoản truy nhập của khách hàng; quy định về việc chống đăng nhập tự động khi truy cập hệ thống
bằng trình duyệt; quy định phần mềm ứng dụng không có tính năng ghi nhớ mã hóa truy cập nhằm giảm thiểu rủi
ro an ninh mạng.
Thông tƣ số 40/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số
13/2018/TT-NHNN ngày 18 tháng 5 năm 2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc quy định về hệ thống
kiểm soát nội bộ của Ngân hàng thƣơng mại, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài
Theo đó, bổ sung thêm quy định giải thích 10 từ ngữ, cụ thể:
- Rủi ro tín dụng bao gồm: Rủi ro tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ,
rủi ro đối tác do đối tác không thực hiện hoặc không thể thực hiện nghĩa vụ.
- Rủi ro thị trường bao gồm: Rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro giá cổ phiếu, rủi ro giá hàng hóa…
Thông tƣ số 41/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số
19/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 6 năm 2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam quy định về
hoạt động thẻ ngân hàng
Theo đó, bổ sung quy định về lộ trình chuyển đổi thẻ, cụ thể:
- Đối với tổ chức thanh toán thẻ:
+ Đến ngày 31/12/2019, ít nhất 35% thẻ ATM, 50% thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán hàng đang hoạt động tại
Việt Nam của tổ chức thanh toán thẻ tuân thủ Tiêu chuẩn về thẻ chip nội địa.
+ Đến hết năm 2020, 100% ATM và thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán hàng đang hoạt động tại Việt Nam của
tổ chức thanh toán thẻ tuân thủ Tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa.
- Đối với tổ chức phát hành thẻ:
+ Đến hết năm 2019, ít nhất 30% số thẻ có BIN (Mã tổ chức phát hành thẻ) do Ngân hàng Nhà nước cấp đang
lưu hành của tổ chức phát hành thẻ tuân thủ Tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa.
+ Đến hết năm 2020, ít nhất 60% số thẻ có BIN do Ngân hàng Nhà nước cấp đang lưu hành của tổ chức phát
hành thẻ tuân thủ Tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa...
Thông tƣ số 42/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tƣ số
24/2015/TT-NHNN ngày 08 tháng 12 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam quy định
cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài đối với khách hàng vay là
ngƣời cƣ trú
Thông tƣ số 45/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 Hƣớng dẫn các tổ chức tín dụng trong cho vay có bảo
lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08 tháng 3 năm 2018
của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo đó, trước khi thực hiện cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng, bên cho vay và Quỹ bảo lãnh tín
dụng phải thực hiện ký thỏa thuận khung hoặc thỏa thuận từng lần về việc phối hợp cho vay có bảo lãnh của Quỹ
bảo lãnh tín dụng, thống nhất các nội dung trong quá trình thực hiện bảo lãnh, cho vay. Đây được coi là cơ sở để
các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ. Các bên có thể sửa đổi thỏa thuận này thông qua một văn bản mới.
Ngoài ra, Thông tư còn quy định về lãi suất cho vay trong cho vay có bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Thông tƣ số 46/2018/TT-NHNN ngày 28/12/2018 Quy định thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với
trƣờng hợp cổ đông lớn của một tổ chức tín dụng và ngƣời có liên quan của cổ đông đó sở hữu cổ phần từ
5% trở lên vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng khác
Tổ chức tín dụng đầu mối phối hợp với tổ chức tín dụng khác, nhóm cổ đông lớn có liên quan lập Kế hoạch khắc
phục việc sở hữu cổ phần vượt giới hạn, triển khai thực hiện Kế hoạch khắc phục bảo đảm chậm nhất ngày
31/12/2020 tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhóm cổ đông lLuật các tổ chức tín dụng (đã sửa đổi, bổ sung). Kế hoạch
khắc phục tối thiểu phải có các nội dung:ớn có liên quan tuân thủ quy định tại
- Danh sách nhóm cổ đông lớn có liên quan;
- Biện pháp và lộ trình khắc phục.
41
Diễn biến lãi suất huy động bình quân của Khối
NHTM Nhà nƣớc (%)
Diễn biến lãi suất huy động bình quân Khối
NHTM Cổ phần (%)
Nguồn: Tổng hợp
Lãi suất huy
động tiếp tục
tăng
Trong năm 2018, mặt bằng lãi suất huy động bình quân trong nền kinh tế tiếp
tục tăng so với cuối năm 2017, tăng khoảng 0,07 – 0,14 điểm phần trăm đối với
kỳ hạn ngắn và 0,03 – 0,1 điểm phần trăm đối với kỳ hạn dài trong khối NHTM
có vốn sở hữu của nhà nước; và tăng khoảng 0,01 – 0,23 điểm phần trăm đối
với kỳ hạn ngắn và 0,15 – 0,21 điểm phần trăm đối với kỳ hạn dài trong khối
NHTMCP. Xu hướng tăng xuất hiện ngay từ quý I do yếu tố thời vụ song đã
giảm nhẹ vào quý II, diễn ra chủ yếu đối với lãi suất huy động ngắn hạn. Xu
hướng tăng đã xuất hiện trở lại trong quý III, tăng nhanh hơn trong quý IV –
thực tế này diễn ra sớm hơn so với các năm trước, chịu tác động nhất định từ
những biến động của đồng USD trên thị trường quốc tế đã tạo áp lực lên tỷ giá
trong nước; xu hướng tăng của lạm phát trong quý II và chính sách giảm tỷ lệ
vốn ngắn hạn được phép sử dụng để cho vay dài hạn, đảm bảo an toàn trong
hoạt động của các TCTD.
Bên cạnh đó, xu hướng tăng từ quý III chỉ diễn ra rải rác qua các tháng và phần
lớn tập trung ở kỳ hạn huy động dài. Xu hướng tăng của lãi suất huy động kỳ
hạn từ 12 tháng trở lên bắt đầu rõ nét vào tháng 8/2018. Diễn biến này được
xem là một xu hướng chuẩn bị nguồn lực đáp ứng nhu cầu vốn gia tăng vào
cuối năm, đặc biệt là các nguồn vốn dài hạn. Ngoài ra, xu hướng tăng còn là
động thái điều chỉnh của một số ngân hàng cho phù hợp với mặt bằng lãi suất
chung trong nền kinh tế.
Kết thúc năm, mặt bằng lãi suất huy động bình quân kỳ hạn 3 - 6 tháng trong
khoảng từ 5,21 – 6,08%/năm đối với khối NHTM có vốn sở hữu của nhà nước
và trong khoảng từ 5,39 – 6,73%/năm đối với khối NHTM CP; Lãi suất huy
động bình quân kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên trong khoảng từ 7,07 -
7,13%/năm đối với khối NHTM có vốn sở hữu của nhà nước và trong khoảng
từ 7,42 – 7,59%/năm đối với khối NHTM CP.
Lãi suất cho vay
nền kinh tế đã
giảm
Kết thúc năm 2018, mặt bằng lãi suất cho vay nền kinh tế đã giảm so với cuối
năm 2017. Cụ thể, lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông
thường kỳ hạn ngắn giảm 0,8 điểm phần trăm và giảm 0,3 điểm phần trăm đối
với kỳ hạn trung và dài hạn. Hiện mặt bằng lãi suất cho vay VND phổ biến ở
mức 6,0-9,0%/năm đối với ngắn hạn; 9,0-11%/năm đối với trung và dài hạn.
Bên cạnh đó, lãi suất cho vay USD so với cuối năm ngoái giảm 0,1 điểm phần
trăm đối với kỳ hạn trung, dài hạn; trong đó lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến
ở mức 2,8-4,7%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn ở mức 4,5-6,0%/năm.
42
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng trong năm 2018
(%)
Doanh số giao dịch liên ngân hàng trong năm 2018
(tỷ đồng)
Nguồn: NHNN
Lãi suất liên
ngân hàng đã
tăng mạnh so với
cuối năm ngoái
Kết thúc năm 2018, lãi suất liên ngân hàng đã thiết lập mặt bằng mới, cao hơn
nhiều so với cuối năm 2017, xu hướng tăng diễn ra trên tất cả các kỳ hạn, trong
đó đặc biệt là mức tăng hơn 2 lần của các lãi suất kỳ hạn ngắn (qua đêm – 2
tuần). Mặc dù vậy, xu hướng tăng này chỉ thể hiện rõ nét vào tháng 7 sau khi có
những diễn biến khá thuận lợi trong nửa đầu của năm. Lãi suất liên ngân hàng
tăng mạnh trong tháng 8 và có tín hiệu giảm tốc vào nửa cuối tháng 9, nhưng
sau đó đã bật tăng trở lại vào tháng 10, 11/2018. Trong chuỗi tăng này, lãi suất
ngắn hạn đã có 02 lần đồng loạt vượt 4%/năm và diễn biến kéo dài, thậm chí
trong một số ngày giao dịch lãi suất kỳ hạn ngắn hạn (qua đêm - 2 tuần) đã có
lúc ngang bằng lãi suất kỳ hạn 1 tháng, 3 tháng, mặt bằng lãi suất liên ngân
hàng kỳ hạn ngắn gần như giống nhau và sát với lãi suất 4,75% trên thị trường
OMO.
Kết thúc năm, so với tháng 12/2017, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn ngắn đã tăng
khoảng 2,18 – 2,83 điểm phần trăm, chốt giao dịch lần lượt ở mức 3,91%/năm;
4,16%/năm và 4,77%/năm; kỳ hạn từ 1 tháng – 6 tháng tăng 0,8 – 1,71 điểm
phần trăm, chốt giao dịch lần lượt ở mức 4,85%/năm; 5,6%/năm và 6,2%/năm
và kỳ hạn 12 tháng tăng 0,7 điểm phần trăm, giao dịch ở mức 5,2%/năm.
Tỷ giá chịu
nhiều áp lực
nhưng về cơ bản
diễn biến vẫn ổn
định, biến động
trong vùng mục
tiêu
Trong năm 2018, trước áp lực tăng của đồng USD trên thị trường quốc tế và các
diễn biến khó đoán định của kinh tế thế giới, tỷ giá USD/VND đã biến động
mạnh hơn so với năm trước. Theo đó, tỷ giá trung tâm đã được điều chỉnh tăng
1,77% so với cuối năm ngoái, tăng 400 đồng. Tỷ giá trung tâm được điều chỉnh
tăng nhẹ trong quý I và tăng mạnh nhất trong quý II và quý IV, ghi nhận mức
điều chỉnh lớn vào tháng 4 và tháng 12, lần lượt là 0,36% và 0,33%. Diễn biến
của tỷ giá trung tâm cho thấy NHNN luôn chủ động, các bước điều chỉnh được
tiến hành phù hợp về mặt thời điểm và cân đối với các diễn biến vĩ mô khác.
Kết thúc năm, tỷ giá trung tâm chốt ở mức 22.825 USD/VND, với biên độ +/-
3%, tỷ giá sàn và tỷ giá trần áp dụng trong ngày giao dịch cuối cùng của năm
lần lượt là 22.140 USD/VND và 23.510 USD/VND.
Bên cạnh đó, tỷ giá giao dịch chính thức và phi chính thức đã có diễn biến đảo
chiều so với năm ngoái, tăng mạnh lần lượt ở mức 2,12 – 2,22% đối với tỷ giá
mua – bán chính thức và 2,5 – 2,41% đối với tỷ giá mua – bán tự do. Trong đó,
diễn biến “căng” của tỷ giá trên thị trường chính thức kéo dài từ tháng 5 cho
đến tháng 10 còn trên thị trường tự do thì xu hướng trên bắt đầu và kết thúc sớm
hơn 2 tháng. Đỉnh điểm của chuỗi biến động mạnh này diễn ra trong quý III với
mức thay đổi lớn nhất xuất hiện trong tháng 7 trên cả hai thị trường, cụ thể tăng
43
1,41 – 1,45% đối với tỷ giá mua – bán chính thức và tăng 1,55 – 1,59% đối với
tỷ giá mua – bán tự do. Trong khoảng thời gian này, diễn biến của tỷ giá trên thị
trường rất nhạy bén với các thông tin liên quan đến sức mạnh của đồng bạc
xanh trên thị trường quốc tế và chịu tác động từ yếu tố tâm lý là không nhỏ. Tỷ
giá đã ghi nhận mức giá giao dịch cao nhất kể từ đầu năm, trong khoảng 23.610
– 23.680 USD/VND trong tháng 8, chênh lệch giữa giá mua và giá bán đã có
lúc lên đến 100 đồng và tỷ giá trong nước tiếp tục tăng trong khi đà tăng của chỉ
số USD trên thị trường quốc tế đã chậm lại. Tuy nhiên đà tăng này đã đảo chiều
trong quý IV trước những diễn biến bất lợi của chỉ số USD index và diễn biến
tích cực của kinh tế, tiền tệ trong nước. Đà giảm trong quý cuối cùng của năm
cũng đã góp phần giảm thấp tổng mức thay đổi của tỷ giá chính thức và tỷ giá
giao dịch tự do trong vùng kiểm soát của NHNN. Với những biến động của tỷ
giá trong năm 2018, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và chính thức đã có
trạng thái dương kể từ tháng 3, kéo dài cho đến hết năm. Mức chênh lệch này đã
có lúc lớn hơn 300 đồng, giảm dần từ nửa cuối tháng 9, kết thúc năm ở mức 45
đồng.
Ngoài ra, để hỗ trợ cho công tác điều hành tỷ giá trong năm 2018, đặc biệt trong
việc định hướng thị trường, không tạo ra những bất ổn kéo dài do yếu tố tâm lý,
bên cạnh việc công bố tỷ giá trung tâm, NHNN đồng thời công bố tỷ giá mua –
bán trên Sở giao dịch của NHNN làm tỷ giá tham khảo. Theo đó tỷ giá mua
thường được duy trì ổn định, tỷ giá bán điều chỉnh phù hợp, sát với tỷ giá trung
tâm – đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường.
Kết thúc năm 2018, tỷ giá giao dịch của NHTM giao dịch ở mức 23.155 –
23.245 USD/VND. Tỷ giá trên thị trường tự do giao dịch ở mức 23.270 -
23.290 USD/VND, khoảng cách chênh lệch giữa 2 thị trường hiện tại chênh
khoảng 45 đồng.
Diễn biến cặp tỷ giá VND/USD
Nguồn: NHNN
Giá vàng trong
nước tiếp tục
giảm năm thứ
hai liên tiếp
Năm 2018, tiếp tục là năm giá vàng trong nước suy giảm với mức độ giảm
mạnh hơn năm 2017. Giá vàng SJC trong nước lần lượt giảm 0,1 – 0,22% ở
chiều mua vào và bán ra. Trong đó, giá vàng đã tăng trong quý I, II và IV và
giảm trong quý III.
Nhìn chung giá vàng trong nước vẫn biến động lệch pha và có khoảng cách
44
Diễn biến giá vàng trong nƣớc
Nguồn: sjc.com.vn
19 VN-Index vượt đỉnh lịch sử và xác lập mức kỷ lục 1.211 điểm vào ngày 10/4/2018.
tương đối so với giá vàng quốc tế, xu hướng tương đồng của giá vàng chỉ xuất
hiện duy nhất vào tháng 9 ở chiều bán với mức giảm 0,74%. Chính vì vậy, cùng
với xu hướng tăng của tỷ giá qua các tháng, chênh lệch giá vàng trong nước và
quốc tế đã tăng từ mức vài trăm nghìn đồng/tháng trong quý I, quý II lên mức
trên 1 triệu đồng/lượng và hơn 2 triệu đồng/lượng, thậm chí đã vượt 3 triệu
đồng/lượng và kéo dài trong nhiều phiên giao dịch trong tháng 8 và một số
phiên trong tháng 9.
Trong năm, ngưỡng giá cao hơn 37 triệu đồng/lượng đã xuất hiện rải rác qua
các tháng cho đến hết quý III, nhưng chỉ kéo dài nhiều nhất là 5 ngày giao dịch.
Mức giá giao dịch phổ biến cũng có thay đổi, phổ biến ở 03 ngưỡng giá, cụ thể
giá vàng bán SJC giao động từ 36,7 – 36,9 triệu đồng/lượng từ tháng 1 –
8/2018; từ 36,49 – 36,79 triệu đồng/lượng từ tháng 9 – 11/2018 và kết thúc năm
ở vùng giá thấp, phổ biến trong khoảng 36,41 – 36,54 triệu đồng/lượng.
Trong năm 2018, thị trường vàng trong nước khá yên ắng, mức độ biến động
của giá vàng trong nước so với quốc tế ở mức thấp nên vàng không còn là kênh
đầu tư hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư trong nước. Kết thúc năm, giá vàng
SJC giao dịch ở mức 36,32 – 36,52 triệu đồng/lượng, giá bán vàng SJC trong
nước lớn hơn giá vàng thế giới 553 nghìn đồng/lượng.
TTCK biến động
mạnh hơn so với
năm ngoái, các
chỉ số chứng
khoán trên cả
hai sàn HOSE và
HNX đều tăng
trưởng âm
Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2018 kết thúc với kết quả tiêu cực khi
các chỉ số chứng khoán trên cả hai sàn HOSE và HNX đều tăng trưởng âm. Sau
khi đạt mức đỉnh lịch sử vào tháng 419
, thị trường chứng khoán đã liên tục suy
giảm cho đến tháng 8 và tiếp tục sụt giảm mạnh trong Quý 4. Kết thúc phiên
giao dịch cuối năm ngày 28/12, chỉ số VN-Index dừng ở mức 892,54 điểm –
giảm 91,7 điểm tương đương 9,3% so với cuối năm 2017 và giảm 26% so với
mức đỉnh trong năm. Tương tự, chỉ số HNX-Index kết thúc phiên cuối năm
2018 với 104,23 điểm – giảm 12,63 điểm tương đương 10,81% so với phiên
đóng cửa cuối năm trước. Với diễn biến như vậy, Việt Nam là một trong số
nhiều thị trường chứng khoán giảm điểm ở khu vực trong năm vừa qua.
45
Nguồn: UBCKNN, Bloomberg
Nguồn: UBCKNN
,0
10000,0
20000,0
30000,0
40000,0
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
01
/…
02
/…
03
/…
04
/…
05
/…
06
/…
07
/…
08
/…
09
/…
10
/…
11
/…
12
/…
Tỷ đồng Điểm
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HOSE NĂM 2018 Giá trị giao dịch Chỉ số HOSE
,0
500,0
1000,0
1500,0
2000,0
2500,0
0
50
100
150
01
/…
02
/…
03
/…
04
/…
05
/…
06
/…
07
/…
08
/…
09
/…
10
/…
11
/…
12
/…
Tỷ đồng Điểm DIỄN BIẾN CHỈ SỐ HNX NĂM 2018
Giá trị giao dịch Chỉ số HNX
0
200
400
600
800
1000
1200
Điểm VN-INDEX GIAI ĐOẠN 2008 - 2018
-24,59112
-19,32623
-17,76788
-12,08073
-9,3000
-7,94792
-5,82922
-2,53554
-,43367
5,93094
-30 -20 -10 0 10
ShanghaiKospi 200
HangSengNikkei 225VN-Index
SET50 ThailandFTSE Malaysia
JCI IndonesiaMSE Mongolia
BSE India
%
TTCK CHÂU Á NĂM 2018
,0
2000,0
4000,0
6000,0
8000,0
01
/20
18
02
/20
18
03
/20
18
04
/20
18
05
/20
18
06
/20
18
07
/20
18
08
/20
18
09
/20
18
10
/20
18
11
/20
18
12
/20
18
triệu cp KHỐI LƢỢNG GIAO DỊCH NĂM 2018
HOSE HNX
,0
50,0
100,0
150,0
200,0
01
/20
18
02
/20
18
03
/20
18
04
/20
18
05
/20
18
06
/20
18
07
/20
18
08
/20
18
09
/20
18
10
/20
18
11
/20
18
12
/20
18
nghìn tỷ đồng GIÁ TRỊ GIAO DỊCH NĂM 2018
HOSE HNX
Sự suy giảm của các chỉ số chứng khoán cũng ảnh hưởng tới thanh khoản thị
trường qua các tháng. Tuy nhiên, nhờ có sự bùng nổ trong giai đoạn đầu năm,
tình hình thanh khoản của thị trường cũng có những thay đổi tích cực so với
năm trước. Cụ thể, tổng khối lượng giao dịch trên cả hai sàn HOSE và HNX đạt
hơn 63.000 triệu cổ phiếu tương ứng với tổng giá trị giao dịch đạt gần 1.600
nghìn tỷ đồng – tăng 1,8% về lượng cổ phiếu và tăng 29% về giá trị giao dịch
so với năm 2017. Trong năm vừa qua, thị trường tiếp tục đón nhận hàng loạt cổ
phiếu lớn được niêm yết và giao dịch. Có thể kể đến các mã như: VHM của
CTCP Vinhomes thuộc Tập đoàn Vingroup, VGI của Viettel Global và một loạt
cổ phiếu ngành Ngân hàng như: TCB của Techcombank, HDB của Ngân hàng
TMCP Phát triển TP.HCM, TPB của Ngân hàng TMCP Tiên Phong,… Nhờ đó,
vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục tăng trưởng trong năm 2018,
tổng vốn hóa thị trường đạt hơn 3,96 triệu tỷ đồng - tăng 12,7% so với thời
điểm cuối năm 2017.
46
Nguồn: UBCK
20 Năm 2017, khối ngoại trên HOSE mua ròng với giá trị 23.900 tỷ đồng. 21 Ngày 27/9/2018, FTSE Russell đã chính thức thêm Việt Nam và Argentina vào danh sách theo dõi nâng hạng từ thị trường
cận biên lên thị trường mới nổi loại 2 (Secondary Emerging);
-5000,0
,0
5000,0
10000,0
15000,0
20000,0
25000,0
Jan
-18
Feb
-18
Mar
-18
Ap
r-1
8
May
-18
Jun
-18
Jul-
18
Au
g-1
8
Sep
-18
Oct
-18
No
v-1
8
Dec
-18
tỷ đồng
KHỐI NGOẠI MUA-BÁN RÒNG
TRÊN HOSE NĂM 2018
-1000,0
-800,0
-600,0
-400,0
-200,0
,0
200,0
400,0
Jan
-18
Feb
-18
Mar
-18
Ap
r-1
8
May
-18
Jun
-18
Jul-
18
Au
g-1
8
Sep
-18
Oct
-18
No
v-1
8
Dec
-18
tỷ đồng
KHỐI NGOẠI MUA-BÁN RÒNG
TRÊN HNX NĂM 2018
-20000,0
-10000,0
,0
10000,0
20000,0
30000,0
40000,0
50000,0
2016 2017 2018
tỷ đồng KHỐI NGOẠI MUA - BÁN RÒNG GIAI ĐOẠN 2016 - 2018
Khối ngoại mua - bán ròng trên HOSE Khối ngoại mua - bán ròng trên HNX Khối ngoại mua - bán ròng toàn thị trường
Hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2018 tiếp tục sôi động. So với
năm trước, xu hướng của khối ngoại không có nhiều thay đổi khi vẫn tập trung
mua ròng rất mạnh trên sàn HOSE trong khi đó bán ròng trên sàn HNX. Cụ thể,
trên sàn HOSE khối ngoại đã mua ròng trong 9 tháng và chỉ có 3 tháng bán
ròng, tổng giá trị mua ròng khoảng 43.000 tỷ đồng – gần gấp đôi lượng mua
ròng của năm trước20
. Trên sàn HNX, hoạt động khối ngoại diễn biến ngược
chiều với HOSE khi có 9 tháng bán ròng và chỉ có 3 tháng mua ròng với tổng
giá trị bán ròng trên HNX là hơn 2.000 tỷ đồng.
Trong năm nay, hoạt động mua ròng của khối ngoại tiếp tục diễn ra chủ yếu
dưới hình thức giao dịch thỏa thuận với các thương vụ có giá trị lớn như: VNM
(28.500 tỷ đồng), MSN (14.600 tỷ đồng), VRE (4.700 tỷ đồng),… Ở chiều
ngược lại, khối ngoại bán ròng trên 16.000 tỷ đồng qua hình thức khớp lệnh, tập
trung nhiều ở các cổ phiếu: VIC (10.400 tỷ đồng), VJC (3.000 tỷ đồng), VHM
(2.500 tỷ đồng),…
Mặc dù có những kết quả thiếu tích cực nhưng trong năm 2018, thị trường
chứng khoán Việt Nam đã chính thức có tên trong danh sách theo dõi nâng hạng
từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi sơ cấp loại 2 của FTSE21
.
47
IV. TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2019 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
22 Năng suất lao động Việt Nam bằng 7,2% mức năng suất lao động của Singapore, 18,4% Malaysia, 36,2% của Thái Lan,
43% của Indonesia,…
Những thành tựu kinh tế của năm 2018 được kỳ vọng sẽ là những điều kiện
thuận lợi, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế của năm 2019 - là năm được đẩy nhanh
tiến độ thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội để chuẩn bị
các điều kiện cần tốt nhất cho việc hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm 2016-2020. Mặc dù vậy, nền kinh tế vẫn phải tiếp tục đối mặt và thận
trọng với các áp lực đáng chú ý như sau:
1/ Xu hướng tăng trưởng chậm lại của kinh tế thế giới trong bối cảnh chủ nghĩa
bảo hộ thương mại gia tăng và các điều kiện tài chính thắt chặt hơn. Xu hướng
này có thể tác động bất lợi, dẫn đến sự gián đoạn trong hoạt động thương mại
cũng như sản xuất tại các nền kinh tế có độ mở lớn và ngày càng tham gia mạnh
vào chuỗi cung ứng toàn cầu như Việt nam;
2/ Thách thức gia tăng nếu căng thẳng thương mại Mỹ - Trung tiếp tục leo
thang: Hàng hóa trong nước đối mặt với áp lực cạnh tranh gay gắt trước hàng
hóa giá rẻ của Trung quốc, thực tế đó có có khả năng làm cho thâm hụt cán cân
thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng tệ hơn. Bên cạnh đó, hàng
hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ đối mặt với nhiều khó khăn để tránh vấn đề gian
lận nguồn gốc xuất xứ hàng hóa.
Ngoài ra, cũng cần chú ý về cơ hội của Việt Nam trong việc gia tăng kim ngạch
xuất khẩu sang thị trường Mỹ, nếu không có các chính sách khai thác hợp lý sẽ
trở thành áp lực. Bởi vì thực tế đó sẽ làm giãn rộng hơn thâm hụt thương mại
của Mỹ đối với Việt Nam – một diễn biến không phù hợp với chủ trương của
chính quyền tổng thống Donald Trump trong việc giải quyết tình trạng thâm hụt
thương mại kéo dài hàng thập kỷ của nước Mỹ.
3/ Các yếu tố nền tảng để thúc đẩy tăng trưởng bứt phá chưa thật sự vững chắc.
Mô hình tăng trưởng chuyển đổi còn chậm; các nguồn lực chưa được giải phóng
tối đa; việc cơ cấu lại nhiều ngành, lĩnh vực chưa có nhiều thay đổi lớn; chất
lượng lao động còn thấp, năng lực khoa học công nghệ còn hạn chế mặc dù
năng suất lao động toàn xã hội đã được cải thiện trong vài năm trở lại đây, tốc
độ tăng bình quân hiện ở mức khá cao (khoảng 4%/năm) nhưng mức năng suất
lao động theo sức mua tương đương còn cách xa so với các nước trong khu
vực22
. Bên cạnh đó, công nghiệp hỗ trợ phát triển chưa tương xứng, hoạt động
sản xuất trong nước vẫn còn phụ thuộc vào nguyên liệu thô nhập khẩu; chưa
tham gia nhiều vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu;
4/ Thu hút vốn đầu tư nước ngoài sẽ trở nên gay gắt hơn trong bối cảnh cách
mạng công nghiệp 4.0 và các Hiệp định thương mại tự do có hiệu lực. Đặc biệt
khi nguồn tài nguyên đất đai, lợi thế lao động giá rẻ không còn nhiều do mở cửa
thị trường theo các cam kết FTA.
5/ Xuất khẩu năm 2018 mặc dù đã đạt những kết quả tích cực vẫn tiếp tục tồn
tại một số vấn đề. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2018, khối doanh
nghiệp FDI vẫn chiếm vai trò chủ đạo với thị phần trên 70% tổng kim ngạch
xuất khẩu, trong khi đó khối doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm chưa đến 30%.
Tỷ trọng này đã duy trì liên tục kể từ năm 2015 đến nay và không có dấu hiệu
48
23 Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực mà khối FDI chiếm tỷ trọng chủ yếu trong năm 2018 bao gồm: dệt may, khu
vực FDI chiếm tỷ trọng 59,9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác 89,1%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện 95,6%; điện thoại và linh kiện 99,7%.
cải thiện. Cùng với sự gia tăng về thị phần xuất khẩu của khối FDI, tỷ trọng
xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài23
.
6/ Áp lực trong việc phải khai thác hiệu quả những cơ hội từ hội nhập khi đã
tham gia cộng đồng ASEAN và các hiệp định thương mại tự do (cạnh tranh,
hàng rào kỹ thuật, sở hữu, xuất xứ nội khối, phát triển hạ tầng và thể chế; bảo
vệ môi trường và an sinh xã hội...), đặc biệt là trong thời gian tới khi Việt Nam
tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) và hiệp định thương mại EVFTA. Trong bối cảnh đó, các doanh
nghiệp sẽ đối diện với sự gia tăng áp lực cạnh tranh và mức độ mở cửa các lĩnh
vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính, cùng với rủi ro chi phí cao hơn về
năng lực tài chính, cơ chế quản trị nội bộ và việc tuân thủ các quy tắc xuất xứ
và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chặt chẽ trong điều kiện sản xuất trong nước còn
phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nước ngoài.
7/ Áp lực lạm phát gia tăng khi một số mặt hàng thuộc diện quản lý của nhà
nước (các nhóm hàng y tế, giáo dục, điện, nước) tiếp tục được điều chỉnh tăng
trong năm 2019 và trong bối cảnh mặt bằng giá cả hàng hóa thế giới có thể có
nhiều biến động khó lường.
8/ Áp lực trong công tác điều hành các chính sách quản lý vĩ mô đảm bảo sự ổn
định của thị trường tài chính, tiền tệ, kiểm soát được mục tiêu lạm phát. Trong
đó, đặc biệt là công tác ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định mặt bằng
lãi suất trong nền kinh tế để tiếp tục hỗ trợ tích cực cho khu vực sản xuất trong
bối cảnh các điều kiện của tài chính toàn cầu ngày càng thắt chặt hơn.
Các con số dự báo về tăng trƣởng kinh tế Việt Nam năm 2019
- Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF) đưa ra 2 kịch bản tăng
trưởng cho năm 2019 và 2020. Theo đó, nền kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng 6,84% đối
với kịch bản cơ sở và 7,02% đối với kịch bản cao trong năm 2019.
- Báo cáo Kinh tế vĩ mô Việt Nam (trường đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh)
năm 2019 dự báo tăng trưởng từ 6,8-6,9% trong năm 2019.
- Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ ở mức 6,6% trong
năm 2019 tại báo cáo mới được công bố gần đây.
- Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ ở mức
6,8% trong năm 2019 – cao hơn mặt bằng chung của khu vực.