35
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ HỌC Vào ngày 5-11-2008, trong lúc viếng thăm trường Kinh tế Luân ðôn (London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà kinh tế hiện diện: ''Tại sao không ai tiên ñoán ñược cuộc khủng hoảng tín dụng hiện nay?''. (Nghe ñâu hoàng gia ñã mất ít nhất 50 triệu bảng Anh vì cuộc khủng hoảng này). Câu hỏi của nữ hoàng - và có lẽ cũng của nhiều người khác - ñã làm các giáo sư hiện diện vô cùng bối rối. Thực vậy, trong các “bong bóng” bị vỡ vì cuộc khủng hoảng tài chính hai năm nay, thì cái bị vỡ một cách “ngoạn mục” nhất có lẽ là “uy tín” của các nhà kinh tế vĩ mô. (Nên nói cho rõ: những chỉ trích này thường nhắm vào kinh tế học vĩ mô (macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial economics), còn kinh tế học vi mô (microeconomics) thì ñược xem như “vô can”!). ðiều này không chỉ ñược nhận thấy từ người ngoài ngành, gay gắt nhất lại chính từ các nhà kinh tế. Paul Krugman (Nobel 2008) chẳng hạn, thẳng thắn cho rằng môn kinh tế học vĩ mô trong 30 năm qua “nhẹ lời nhất thì có thể nói là cực kỳ vô ích, còn thật nặng lời thì phải nói là thật sự có hại!”. Sự “thất vọng” này thường nhắm vào ba ñiểm. Thứ nhất, kinh tế học là một phần “nguyên nhân” của cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại. Thứ hai, ñại ña số các nhà kinh tế, dù có trách nhiệm gây ra khủng hoảng hay không, ñã không dự báo ñược nó. Và thứ ba, các nhà kinh tế ñã không có một kế sách hữu hiệu nào ñể “chữa trị” cuộc khủng hoảng này khi nó ñã xảy ra. Hư thực ra sao? Trước hết, hãy nói về nguyên nhân cuộc khủng hoảng. Tất nhiên, không ai phủ nhận vai trò then chốt của các ngân hàng khổng lồ, các công ty bảo hiểm, các quỹ ñầu tư, các ngân hàng trung ương (nhất là Hệ thống Dự trữ Liên bang (Fed) của Mỹ thời kỳ Alan Greenspan làm thống ñốc), các chính khách (nhất là Henry Paulson, Bộ trưởng Ngân khố Mỹ thời Bush)... Cũng nên thêm vào danh sách “can phạm” này ñông ñảo những người có thu nhập thấp nhưng không lượng sức mình, liều lĩnh mua nhà (một phần cũng vì bị các công ty ñịa ốc dụ dỗ) ñể rồi không có tiền trả, gây khủng hoảng cho thị trường bất ñộng sản, kéo theo phản ứng dây chuyền ñến những thị trường khác... Tất cả những ñiều trên ñều là ñúng, song nhiều người cho rằng thủ phạm sâu xa nhất không phải là vài cá nhân, một số công ty tài chính, thậm chí thể chế chính trị hay kinh tế, mà là một trường phái tư tưởng. Tư tưởng ấy là sự chấp nhận quá dễ dãi, thiếu phê phán, ý niệm “thị trường tự do” ảo huyền và không tưởng. Chính ý niệm ấy, và những hệ luận “logic” (và chỉ là logic!) của nó, là nền móng trí thức, là một lăng kính ñể nhìn thực tế, mà “ngành kinh tế” (cụ thể ở các nước tư bản) ñã chấp nhận gần suốt nửa thế kỷ qua, và ñược tôn sùng bởi những người làm chính sách như Alan Greenspan. Hệ tư tưởng ấy ñã khống chế kinh tế học, trở nên lý thuyết “kinh tế học dòng chính” (mainstream economics), ñôi khi gọi là “trường phái Chicago” (vì ðại học Chicago là nơi tập trung ñông ñảo những nhà kinh tế hàng ñầu có tư duy này, và mạnh mẽ rao giảng nó). ðối với những người cho rằng giới kinh tế ñã “ñóng góp” vào cuộc khủng hoảng này, thì thủ phạm thật là dễ thấy: ñó là tư duy theo “trường phái Chicago” nói trên, và cụ thể là “giả thuyết thị trường hữu hiệu” (efficient market hypothesis) mà cái nôi là ñại học này.

KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ HỌC

Vào ngày 5-11-2008, trong lúc viếng thăm trường Kinh tế Luân ðôn (London School of Economics) nổi tiếng, nữ hoàng Anh Elizabeth II hỏi các nhà kinh tế hiện diện: ''Tại sao không ai tiên ñoán ñược cuộc khủng hoảng tín dụng hiện nay?''. (Nghe ñâu hoàng gia ñã mất ít nhất 50 triệu bảng Anh vì cuộc khủng hoảng này).

Câu hỏi của nữ hoàng - và có lẽ cũng của nhiều người khác - ñã làm các giáo sư hiện diện vô cùng bối rối. Thực vậy, trong các “bong bóng” bị vỡ vì cuộc khủng hoảng tài chính hai năm nay, thì cái bị vỡ một cách “ngoạn mục” nhất có lẽ là “uy tín” của các nhà kinh tế vĩ mô. (Nên nói cho rõ: những chỉ trích này thường nhắm vào kinh tế học vĩ mô (macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial economics), còn kinh tế học vi mô (microeconomics) thì ñược xem như “vô can”!). ðiều này không chỉ ñược nhận thấy từ người ngoài ngành, gay gắt nhất lại chính từ các nhà kinh tế. Paul Krugman (Nobel 2008) chẳng hạn, thẳng thắn cho rằng môn kinh tế học vĩ mô trong 30 năm qua “nhẹ lời nhất thì có thể nói là cực kỳ vô ích, còn thật nặng lời thì phải nói là thật sự có hại!”.

Sự “thất vọng” này thường nhắm vào ba ñiểm. Thứ nhất, kinh tế học là một phần “nguyên nhân” của cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại. Thứ hai, ñại ña số các nhà kinh tế, dù có trách nhiệm gây ra khủng hoảng hay không, ñã không dự báo ñược nó. Và thứ ba, các nhà kinh tế ñã không có một kế sách hữu hiệu nào ñể “chữa trị” cuộc khủng hoảng này khi nó ñã xảy ra.

Hư thực ra sao?

Trước hết, hãy nói về nguyên nhân cuộc khủng hoảng. Tất nhiên, không ai phủ nhận vai trò then chốt của các ngân hàng khổng lồ, các công ty bảo hiểm, các quỹ ñầu tư, các ngân hàng trung ương (nhất là Hệ thống Dự trữ Liên bang (Fed) của Mỹ thời kỳ Alan Greenspan làm thống ñốc), các chính khách (nhất là Henry Paulson, Bộ trưởng Ngân khố Mỹ thời Bush)... Cũng nên thêm vào danh sách “can phạm” này ñông ñảo những người có thu nhập thấp nhưng không lượng sức mình, liều lĩnh mua nhà (một phần cũng vì bị các công ty ñịa ốc dụ dỗ) ñể rồi không có tiền trả, gây khủng hoảng cho thị trường bất ñộng sản, kéo theo phản ứng dây chuyền ñến những thị trường khác...

Tất cả những ñiều trên ñều là ñúng, song nhiều người cho rằng thủ phạm sâu xa nhất không phải là vài cá nhân, một số công ty tài chính, thậm chí thể chế chính trị hay kinh tế, mà là một trường phái tư tưởng. Tư tưởng ấy là sự chấp nhận quá dễ dãi, thiếu phê phán, ý niệm “thị trường tự do” ảo huyền và không tưởng. Chính ý niệm ấy, và những hệ luận “logic” (và chỉ là logic!) của nó, là nền móng trí thức, là một lăng kính ñể nhìn thực tế, mà “ngành kinh tế” (cụ thể ở các nước tư bản) ñã chấp nhận gần suốt nửa thế kỷ qua, và ñược tôn sùng bởi những người làm chính sách như Alan Greenspan. Hệ tư tưởng ấy ñã khống chế kinh tế học, trở nên lý thuyết “kinh tế học dòng chính” (mainstream economics), ñôi khi gọi là “trường phái Chicago” (vì ðại học Chicago là nơi tập trung ñông ñảo những nhà kinh tế hàng ñầu có tư duy này, và mạnh mẽ rao giảng nó).

ðối với những người cho rằng giới kinh tế ñã “ñóng góp” vào cuộc khủng hoảng này, thì thủ phạm thật là dễ thấy: ñó là tư duy theo “trường phái Chicago” nói trên, và cụ thể là “giả thuyết thị trường hữu hiệu” (efficient market hypothesis) mà cái nôi là ñại học này.

Page 2: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Trường phái Chicago và “giả thuyết thị trường hữu hiệu”

Một trong những người khai sanh “giả thuyết thị trường hiệu quả” là Michael Jensen (giáo sư ðại học Chicago). Giả thuyết này có ba “phiên bản”. Theo “phiên bản mạnh” (cực ñoan) của nó thì tất cả những gì mà người ñầu tư cần biết ñều ñược phản ảnh trong giá của chứng khoán. ðây là một hệ quả của thuyết “kỳ vọng hợp lý” (rational expectations) khống chế kinh tế học vĩ mô trong gần 30 năm nay. Một hệ luận của thuyết “kỳ vọng hợp lý” là, về lâu về dài, mọi can thiệp của nhà nước vào thị trường ñều vô hiệu, hoặc phản tác dụng, nếu không thật sự là có hại. Giá cả trên thị trường là phản ảnh “những giá trị căn bản”. Không thể nào xảy ra những cái gọi là “bong bóng tài sản”. (Song, nên ñể ý ngay chỗ tự mâu thuẫn của giả thuyết này: nếu mọi thông tin ñều “gói trọn” trong giá, thì ai dại gì tìm (mua) thêm thông tin?). Theo phiên bản “yếu” của giả thuyết này thì không thể dựa vào giá của chứng khoán trong quá khứ ñể tiên ñoán giá của chúng trong tương lai. Còn “phiên bản trung dung” của giả thuyết này thì cho rằng giá chứng khoán là phản ảnh những thông tin “công cộng” (public information) tức là những thông tin mà mọi người ñều có ñược mà không tốn kém gì cả. Phiên bản này của giả thuyết không loại trừ khả năng có những thông tin tư riêng, hoặc thông tin nội bộ, mà giá chứng khoán không phản ánh (và do ñó những người sở hữu những thông tin này (hoặc có khả năng ñặc biệt ñể phân tích và khai thác những thông tin ấy) sẽ có lợi thế trên thị trường chứng khoán).

Nói ngắn gọn: “giả thuyết thị trường hữu hiệu” cho rằng “thị trường” là trung thực và không bao giờ sai. Trong “thế giới” của những người tin giả thuyết này, những “bất ngờ” ngoài dự ñoán như các loại “bong bóng” (ñịa ốc hoặc tín dụng) không thể xảy ra! Nhìn từ quan ñiểm toán học thì “giả thuyết thị trường hữu hiệu” quả là “ñẹp” tuyệt vời: mọi sự kiện ñều logic, chính xác, ăn khớp với nhau, ñâu vào ñấy.

Quả thật, mô hình toán học của giả thuyết này là quá “ñẹp”: mỗi tác nhân kinh tế ñều luôn luôn cư xử hợp lý (thậm chí lạnh lùng!) ñể “tối ña hóa” quyền lợi của mình, luôn luôn tính toán sáng suốt, với ñầy ñủ thông tin. Chính vì cái “ñẹp toán học” của mô hình này mà “giả thuyết thị trường hữu hiệu” ñã quyến rũ biết bao nhiêu nhà kinh tế. Và ñó chính là ñiểm chính của những người quy trách nhiệm cho trường phái Chicago - nếu không là ña số các nhà kinh tế vĩ mô nói chung - cho khủng hoảng kinh tế hai năm nay. Nói rõ ra, những nhà kinh tế này ñã quá coi trọng “cái ñẹp” mà không chú ý ñến thực tế. Họ mê những mô hình toán cực kỳ logic, thật trang nhã, bất chấp sự “hỗn ñộn”, “bừa bãi” của thực tế. Họ lánh mắt, không nhìn ñến những trường hợp ứng xử nằm ngoài mô hình ñẹp ñẽ của họ, dù những trường hợp này ñầy rẫy trên thực tế.

Ngoài những lỗi lầm chung chung của giả thuyết thị trường hữu hiệu do sự thiếu thực tế của nó, có hai sự kiện khác, có liên hệ ñến giả thuyết này mà, nghĩ kỹ lại, có thể trực tiếp ñóng góp vào khủng hoảng. Một là, chính giả thuyết này ñã là cơ sở mà một số nhà kinh tế dựa vào ñể cố vấn các nhà ñầu tư, các ngân hàng phát hành những loại chứng khoán thứ cấp (derivatives). Dùng những công thức toán học và xác suất cực kỳ phức tạp, ñó là những “bó chứng khoán” ñược cho là “gói ghém” một cách tối hảo mức hiểm nguy và mức lợi nhuận. (Tương truyền, chính Ben Bernanke, khi mới nhậm chức thống ñốc Fed của Mỹ, cũng không hiểu rõ loại chứng khoán này, phải mời chuyên viên ñến giải thích cho ông ta). Hai là, những nhà kinh tế (cố vấn cho các ngân hàng, các quỹ ñầu tư) này chỉ

Page 3: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

phân tích các thị trường tài chính (khác với thị trường lao ñộng, chẳng hạn), và chỉ nghĩ ñến cách ñầu tư sao cho tối hảo cho thân chủ, chứ không quan tâm gì ñến tác dụng của hành vi này ñến toàn bộ nền kinh tế. ðây là một nhược ñiểm mà, nhìn lại, quả là một nguyên do gần gũi của cuộc khủng hoảng tài chính: Khi ước tính xác suất “mất mát”, các nhà kinh tế này gán xác suất bằng zêrô cho những sự cố cực kỳ ít khi xảy ra, tức là xem như những sự cố này không thể nào xảy ra. Song, rõ ràng là “rất ít khi xảy ra” khác với “không thể xảy ra”, và hậu quả của lỗi lầm này càng “khủng khiếp” hơn khi mà tầm cỡ những mất mát khi việc khó-thể-xảy-ra xảy ra là gấp trăm, gấp ngàn, những mất mát thông thường. ðó là ñiều ñã xảy ra trong cuộc khủng hoảng này!

Nói như tỉ phú Warren Buffett: Từ nhận xét là thị trường “thường” hữu hiệu, các nhà kinh tế kết luận rằng thị trường “luôn luôn” hữu hiệu! (Chính Buffett ñã tạo nên cơ nghiệp không phải nhờ ñầu tư ở những thị trường thường hiệu quả, nhưng vào những thị trường ñôi khi không hiệu quả!).

Hai phản ứng

Làn sóng chống lại “kinh tế dòng chính” ñến từ hai phía. Từ một phía, nhiều nhà kinh tế trở lại với lý thuyết vĩ mô của Keynes ñể tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng hiện nay. Từ một phía khác, một số nhà kinh tế khác, phác họa một trường phái kinh tế mới, thường ñược gọi là “kinh tế học ứng xử” (sẽ giải thích dưới ñây). Trường phái này có triển vọng ñem vào “kinh tế dòng chính” một hình ảnh xác thực, súc tích hơn về tác phong con người, không như hình ảnh “khô khan”, “lạnh lùng”, cực kỳ ñơn giản (dù rất “ñẹp” theo nghĩa toán học!) của “trường phái Chicago”.

Trở về với Keynes? Nhóm kinh tế gia thứ nhất thì cho rằng “giả thuyết thị trường hữu hiệu” là sai lầm vì nó ñã quên bài học của Keynes: không ai có tất cả thông tin cần có... Hơn nữa, không thể dùng xác suất ñể gán cho những sự cố chưa từng xảy ra! Nói cách khác: không một mô hình toán nào có thể tiên ñoán tương lai, dù chỉ bằng xác suất.

Những nhà kinh tế cổ xúy việc trở về với Keynes tất nhiên gồm những người ñã thiên về Keynes từ trước, nhưng ñáng kể hơn nữa là có cả những người (như Richard Posner, thuộc “trường phái Chicago”) mà trước ñây vẫn cho là Keynes ñã lỗi thời.

Hoặc một lý thuyết kinh tế mới? Trong khoảng hai mươi năm gần ñây, một nhóm kinh tế gia ñã ñưa ra một lý thuyết mới gọi là “kinh tế học ứng xử” (behavioral economics). Theo họ, sự ứng xử của những tác nhân kinh tế không hoàn toàn thuần lý, mà có những “thiên lệch” do nhận thức chủ quan, và những xu hướng như “thói bầy ñàn”. Thái ñộ này chúng ta thấy hàng ngày nhưng không thể giải thích trong mô hình “tự do chọn lựa” của kinh tế học tân cổ ñiển. Thí dụ một người nghiện thuốc lá, tuy chuộng tự do, có thể (ngược ñời!) ủng hộ chính phủ cấm hút thuốc (ñể giúp anh ta bỏ thuốc). Nói khác ñi, theo “kinh tế học ứng xử”, hành vi con người là rất phức tạp, không thể giản ñơn “mô hình hóa” nó như những tác nhân tối ña hóa lợi nhuận hoặc dụng ích như trong mô hình kinh tế tân cổ ñiển mà trường phái Chicago, và thuyết “thị trường hữu hiệu” áp dụng không chút ngại ngùng. “Thị trường”, theo kinh tế học ứng xử, bị ảnh hưởng không ít của “cảm tính” thay vì hoàn toàn là những tính toán thuần lý.

Thực ra, chủ ñích của môn kinh tế học ứng xử không phải là nhằm giải thích cuộc khủng hoảng tài chính (hay một sự cố vĩ mô nào) nhưng là một ñóng góp cho kinh tế vi mô. Chỉ

Page 4: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

tình cờ là, trong khi phản bác “kinh tế dòng chính” (như bị khống chế bởi “trường phái Chicago” như hiện nay), thuyết kinh tế ứng xử ñã như một trái mìn làm nổ tung nền móng của “giả thuyết thị trường hữu hiệu”.

Tuy phái “ứng xử” và phái Keynes có nhiều ñiểm tương ñồng, nhưng cũng có nhiều khác biệt. Những người theo Keynes cho rằng chỉ trích của trường phái ứng xử (ñối với “giả thuyết thị trường hữu hiệu”) là không cần thiết: chỉ cần vạch rõ sự phi lý của giả ñịnh con người có ñầy ñủ thông tin là ñủ “ñánh gục” trường phái Chicago rồi! Nhiều người phái Keynes cũng e ngại phái ứng xử ở chỗ phái này không nhìn nhận giả thuyết tối ña hóa dụng ích mà phái Keynes vẫn muốn giữ, không phải vì nó thực tế, nhưng là một phương pháp mô hình hóa hoạt ñộng kinh tế một cách hữu hiệu. Còn những người phái ứng xử thì cho rằng phái Keynes rất giỏi phân tích những hụt hẫng trong thị trường lao ñộng, nhưng không giải thích nỗi những “tì vết” trong thị trường tài chính, mà chính những tì vết này mới là lý do gần gũi của cuộc khủng hoảng hiện nay. Do ñó, theo phái ứng xử thì những người theo Keynes không có một biện pháp mới nào ñể chữa trị cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay ngoài những biện pháp “sao lục” lại những gì Keynes ñã ñề nghị cho cuộc ðại suy thoái năm 1929.

ðâu là giải pháp?

Rõ ràng là cuộc khủng hoảng hiện tại ñã làm trầm trọng thêm sự phân hóa giữa các nhà kinh tế. Dù mất nhiều uy tín, “trường phái Chicago” vẫn còn rất năng ñộng. Tuy ít còn ai biện hộ cho “giả thuyết thị trường hữu hiệu”, họ vẫn còn công kích các “biện pháp Keynes” (mà chính quyền Obama ñang sử dụng). Robert Lucas (một trong những “sư tổ” ở Chicago) cho rằng chính sách kích cầu của Obama là một thứ “kinh tế học dỏm”, John Cochrane (một nhà kinh tế Chicago trẻ hơn) thì cho ñó là “chuyện thần tiên”. Về phe Keynes thì có Bradford DeLong (ðại học California) cho rằng chúng ta ñang chứng kiến không gì khác hơn sự “sụp ñổ trí thức” của trường phái Chicago. Và nhiều người khác (như Paul Krugman, nói ở trên) thì còn nặng lời hơn nữa. Phe Keynes, tất nhiên, cho rằng kích cầu là giải pháp không thể tránh, thậm chí họ còn cho rằng Chính phủ Mỹ cần phải kích cầu nhiều hơn nữa!Phe “kinh tế học ứng xử” thì không có nhiều ý kiến về kinh tế vĩ mô (và những người có ý kiến thì ñều bênh phe Keynes). Những ñề nghị của họ có phần vi mô hơn (chẳng hạn như bảo hiểm y tế phải như thế nào, hay giảm thuế phải ra sao ñể phản ứng của dân chúng là “hữu hiệu” nhất). Một ví dụ: theo họ, ñể thực hiện miễn thuế cho mỗi người 120 ñô la Mỹ một năm (ñể kích cầu) chẳng hạn thì, thay vì gửi cho người ấy một cái séc 120 ñô la Mỹ cho trọn năm, nên gởi 10 ñô la Mỹ hàng tháng, vì kinh nghiệm cho thấy người nhận 120 ñô la Mỹ sẽ ñể dành một ít, không tiêu dùng hết 120 ñô la Mỹ. Trái lại, nếu nhận 10 ñô la Mỹ mỗi tháng thì anh ta có khuynh hướng tiêu hết 10 ñô la Mỹ mỗi tháng, như vậy hiệu ứng kích cầu cho nền kinh tế sẽ lớn hơn!

Không như cuộc ðại suy thoái 1929 ñã phát sinh học thuyết Keynes, ít có người cho rằng cuộc khủng hoảng hiện tại sẽ sinh ra một học thuyết mới. Thuyết kinh tế ứng xử chắc là sẽ phát triển hơn, nhưng nó ñã có từ trước cuộc khủng hoảng này và chủ ñích của nó không phải ñể giải thích những hiện tượng kinh tế vĩ mô.

Page 5: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

KINH TẾ HỌC, VÌ SAO NÊN NỖI - KGRUGMAN PAUL

PHẦN 1

Chủ quan khi bão manh nha hình thành. Hoảng loạn khi bão ập ñến. Chia rẽ về cách khắc phục hậu quả cơn bão. ðó là kết quả gần ba thập kỷ lạc lối của kinh tế học.

Chùm bài viết “How Did Economists Get It So Wrong?” của Giáo sư Paul Krugman (kinh tế gia ñoạt giải Nobel kinh tế năm 2008) ñăng trên báo The New York Times tháng 9/2009. Với góc nhìn của người trong cuộc, với trình ñộ của một trong những kinh tế gia hàng ñầu thế giới, G.S Paul Krugman ñã cung cấp cho chúng ta những thông tin có giá trị và thú vị về kinh tế học, những luận ñiểm quan trọng và phản biện sâu sắc từ bên trong giới học thuật kinh tế, ra ñến những thành công và thất bại của thực tiễn vận hành nền kinh tế.

--------------------------------------------- I - NHẦM LẦN GIỮA SỰ THẬT VÀ CÁI ðẸP

Hiện giờ khó mà tin ñược mới cách ñây không lâu giới kinh tế học còn ñang chúc tụng nhau về thành công của môn khoa học này. Những thành công trên cả lý thuyết lẫn thực tiễn ñó ñã mở ra một giai ñoạn vàng của những người trong giới. Về mặt lý thuyết, họ nghĩ ñã giải quyết ñược những tranh cãi nội bộ.

Do ñó, trong một bài báo năm 2008 với tựa ñề “Tình trạng vĩ mô” (tức là kinh tế vĩ mô, chuyên nghiên cứu các vấn ñề lớn như suy thoái), Olivier Blanchard tại Học viện Công nghệ Massachusett, nay là kinh tế trưởng tại Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, tuyên bố rằng “tình trạng vĩ mô vẫn ổn.” Cuộc chiến khi xưa ñã kết thúc và ñã có một “sự ñồng thuận lớn về cách nhìn.” Trong thực tiễn, các nhà kinh tế tin rằng mình ñã kiểm soát ñược mọi thứ: “vấn ñề cốt lõi là ngăn ngừa suy thoái ñã ñược giải quyết,” Robert Lucas từ ðH Chicago tuyên bố năm 2003 trong bài diễn văn nhậm chức Chủ tịch Hiệp hội Kinh tế Mỹ.

Năm 2004, Ben Bernanke, cựu GS ðH Princeton nay là Chủ tịch Hội ñồng Thống ñốc Cục dự trữ liên bang, tán dương “Thời kỳ ổn ñịnh lớn” về kinh tế trong hai thập niên vừa qua, mà ông cho rằng một phần là nhờ ñóng góp của việc hoạch ñịnh chính sách kinh tế tốt hơn.

Năm ngoái, tất cả sụp ñổ.

Rất ít nhà kinh tế thấy ñược cuộc khủng hoảng hiện nay ñang tới, nhưng dự ñoán sai lầm mới chỉ là vấn ñề ít nghiêm trọng nhất của môn khoa học này. Quan trọng hơn là việc kinh tế học không nhận ra ñược khả năng nền kinh tế thị trường sẽ gặp phải những thất bại khủng khiếp.

Thời vàng son, các nhà kinh tế học tài chính ñi ñến chỗ tin tưởng rằng thị trường vốn ñã ổn ñịnh – thực tế, cổ phiếu và các các loại tài sản khác luôn ñược ñịnh giá ñúng. Các mô hình kinh tế ñang thịnh hành không hề nhắc tới khả năng sẽ có một vụ sụp ñổ như năm ngoái. Trong khi ñó, các nhà kinh tế vĩ mô bị chia rẽ bởi nhiều quan ñiểm. Nhưng quan ñiểm chính là giữa những người khẳng ñịnh nền kinh tế thị trường tự do không bao giờ ñi chệch hướng và những người tin rằng nền kinh tế có thể tạm thời chệch hướng nhưng có thể và sẽ ñược FED, với tất cả quyền năng của mình, ñiều chỉnh lại.

Page 6: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Cả hai bên ñều không ñược chuẩn bị ñể ñối phó với trường hợp nền kinh tế vẫn trật bánh dù FED ñã nỗ lực hết sức.

Thời hậu khủng hoảng, sự chia rẽ này lại càng sâu sắc hơn bao giờ hết. Lucas nói kế hoạch kích thích kinh tế của chính quyền Obama là “thứ kinh tế học rác rưởi,” còn người ñồng nghiệp cũng tại Chicago John Cochrane nói chúng dựa trên “những câu chuyện cổ tích” chẳng có chút uy tín. ðáp lại, Brad DeLong từ ðH California, Berkeley, viết ñó là một sự “sụp ñổ về mặt tri thức” của trường phái Chicago, và chính người viết bài này ñã từng viết rằng những lời bình luận của các nhà kinh tế trường phái Chicago là sản phẩm từ thời Trung Cổ của môn kinh tế vĩ mô, khi mà những kiến thức gian khó lắm mới giành ñược bị lãng quên.

ðiều gì ñã xảy ra ñối với giới kinh tế học? Và hướng ñi sắp tới của họ như thế nào?

Giới kinh tế học lạc lối vì họ, với hàng tá phương trình toán học hấp dẫn trong tay, ñã nhầm lẫn giữa cái ñẹp và sự thật. Cho ñến trước cuộc ðại suy thoái, phần lớn các nhà kinh tế ñều có quan ñiểm rằng chủ nghĩa tư bản là một hệ thống hoàn thiện hoặc ñã gần hoàn thiện. Quan ñiểm ñó không tồn tại ñược lâu trước thực tế thất nghiệp tràn lan, nhưng khi những ký ức về cuộc suy thoái phai nhạt dần, các nhà kinh tế lại trở về với quan ñiểm lý tưởng hóa xưa cũ về một nền kinh tế nơi những cá nhân hợp lý tương tác lẫn nhau trong một thị trường hoàn hảo, lần này còn ñược bọc thêm lớp vỏ toán học hấp dẫn. Chắc chắn sự lãng mạn về một thị trường lý tưởng ấy một phần là vì luồng gió chính trị ñã thay ñổi, một phần vì ñộng lực tài chính.

Nhưng cho dù việc làm tại viện Hoover hay Phố Wall ñều là những thứ giá trị, nguyên nhân chính của những thất bại của môn khoa học kinh tế là khát khao có một cách tiếp cận bao quát mọi vấn ñề và toàn hảo về mặt tri thức ñem lại cơ hội cho các nhà kinh tế thể hiện khả năng toán học của mình.

ðáng buồn là quan ñiểm lãng mạn và ñơn giản hóa về nền kinh tế này khiến ña phần các nhà kinh tế lờ ñi mọi thứ có thể khiến mình sai lầm. Họ nhắm mắt làm ngơ trước những hạn chế khiến một con người hiệu quả có thể bơm căng cũng như chọc thủng bong bóng tài sản; trước những vấn ñề tại các tổ chức họat ñộng một cách mù quáng; trước những sự không hoàn hảo của thị trường, ñặc biệt là thị trường tài chính, có thể khiến “hệ tuần hoàn” của nền kinh tế phải trải qua những ñợt suy giảm ñột ngột không thể ñoán trước ñược; và trước những nguy cơ nảy sinh khi chính các cơ quan ñiều tiết không còn tin vào sự giám sát nữa.

Khó mà nói trước ñược con ñường phía trước của môn kinh tế học. ðiều chắc chắn duy nhất là các nhà kinh tế sẽ phải học cách sống chung với sự hỗn loạn. Tức là họ sẽ phải nhận thức ñược tầm quan trọng của những hành vi bất hợp lý và thường là không ñoán trước ñược, ñối diện với sự không hoàn hảo mang tính cố hữu của thị trường và chấp nhận rằng còn lâu mới có một môn lý thuyết kinh tế học có thể bao quát ñược mọi vấn ñề. Trong thực tiễn, ñiều ñó có nghĩa là họ nên ñưa ra những lời cố vấn chính sách cẩn trọng hơn và kiên quyết dỡ bỏ những tấm nệm kinh tế an toàn với niềm tin rằng thị trường sẽ giải quyết ñược mọi vấn ñề.

Page 7: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

II. TỪ SMITH TỚI KEYNES VÀ NGƯỢC LẠI

Sự ra ñời của kinh tế học với tư cách một môn khoa học thường ñược cho là nhờ công của Adam Smith với việc xuất bản cuốn “Sự giàu có của các quốc gia” năm 1776. Trong suốt 160 năm sau ñó lý thuyết kinh tế ñã phát triển mạnh, nhưng thông ñiệp trung tâm vẫn là: Tin ở thị trường.

ðúng, các nhà kinh tế thừa nhận có những trường hợp thị trường có thể thất bại, trong ñó quan trọng nhất là trường hợp của các “ảnh hưởng ngoại ứng”, những chi phí con người gây ra cho người khác mà không phải trả tiền, ví dụ như tắc nghẽn giao thông hay ô nhiễm. Tuy nhiên giả ñịnh cơ bản của các nhà kinh tế “tân cổ ñiển” (ñặt theo tên những nhà lý thuyết cuối thế kỷ 19 ñã phát triển thêm khái niệm của các nhà tiền bối “cổ ñiển”) là chúng ta nên ñặt niềm tin ở hệ thống thị trường.

Tuy vậy, cuộc ðại suy thoái làm niềm tin ñó tiêu tan. Thực tế, ngay cả khi mọi thứ ñang sụp ñổ một số nhà kinh tế vẫn khăng khăng rằng dù chuyện gì có xảy ra thì nền kinh tế thị trường vẫn ñúng: “ðại suy thoái không chỉ toàn ñiều xấu,” Joseph Schumpeter tuyên bố năm 1934. Chúng là “những gì cần phải diễn ra.” Nhưng nhiều nhà kinh tế, cuối cùng là toàn bộ giới kinh tế học tìm ñến những quan ñiểm của John Maynard Keynes ñể giải thích ñiều gì ñã xảy ra và tìm giải pháp cho những cuộc suy thoái trong tương lai.

Dù bạn ñã ñược nghe những gì, Keynes không hề muốn chính phủ vận hành nền kinh tế. Ông miêu tả phân tích của mình trong kiệt tác năm 1936, “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ,” là “tương ñối bảo thủ về mặt hàm ý.” Ông muốn chỉnh sửa chứ không phải thay thế chủ nghĩa tư bản.

Nhưng ông ñã thách thức quan niệm rằng những nền kinh tế thị trường tự do có thể họat ñộng không cần người giám sát, thể hiện sự coi thường ñặc biệt ñối với thị trường tài chính, thứ ông xem là ñang bị thống trị bởi thói ñầu cơ ngắn hạn mà chẳng quan tâm gì ñến các yếu tố cơ bản. Ông kêu gọi chính phủ nên chủ ñộng can thiệp, in thêm tiền và nếu cần thiết, chi tiêu mạnh tay cho các công trình công cộng ñể chống thất nghiệp khi suy thoái xảy ra.

Cũng cần hiểu rằng Keynes ñã làm nhiều hơn so với chỉ ñưa ra những lời khẳng ñịnh kiên quyết. “Lý thuyết chung” là một tác phẩm phân tích rất sâu sắc, có sức thuyết phục trước những nhà kinh tế trẻ tuổi tài năng nhất thời ñiểm ñó. Dù vậy, câu chuyện của kinh tế học trong suốt nửa thế kỷ qua lại là câu chuyện về sự thoái trào của tư tưởng Keynes và trở về với chủ nghĩa tân cổ ñiển.

Sự phục hưng của trào lưu tân cổ ñiển ban ñầu dưới sự lãnh ñạo của Milton Friedman từ ðH Chicago, người ngay từ năm 1953 ñã khẳng ñịnh rằng kinh tế học tân cổ ñiển có thể chỉ ra con ñường ñể hoạt ñộng của nền kinh tế thực sự “vừa ñem lại nhiều trái ngọt, vừa rất ñáng tin cậy.” Thế còn những cuộc suy thoái thì sao?

Cuộc phản công của Friedman chống lại Keynes bắt ñầu với một học thuyết có tên là chủ nghĩa trọng tiền. Những nhà trọng tiền, về cơ bản, không ñồng ý với quan ñiểm rằng nền kinh tế thị trường cần ñược chủ ñộng bình ổn. Các nhà trọng tiền khẳng ñịnh rằng chính phủ chỉ cần can thiệp một cách hết sức hạn chế, cụ thể là, ñể ngân hàng trung ương giữ cung tiền quốc gia tăng ñều ñặn (tổng tiền mặt trong lưu thông và tài khoản tiền gửi tại ngân hàng). Như vậy là ñủ ñể ngăn ngừa suy thoái.

Page 8: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Friedman cùng người ñồng nghiệp Anna Schwartz từng có một tuyên bố nổi tiếng rằng nếu Cục dự trữ liên bang hành ñộng hợp lý, cuộc ðại suy thoái ñã không xảy ra. Sau ñó, Friedman ñưa ra lập luận thuyết phục phản ñối mọi nỗ lực có chủ ñích nào của chính phủ nhằm ñẩy tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức “tự nhiên” (hiện nay ñược cho là vào khoảng 4,8% tại Mỹ): ông dự ñoán rằng chính sách nới lỏng tiền tệ quá ñáng sẽ chỉ dẫn ñến lạm phát và thất nghiệp cao, một dự ñoán ñã ñược xác thực bởi thời kỳ ñình lạm những năm 1970.

Uy tín của phong trào chống Keynes lại càng dâng cao mạnh mẽ.

Tuy vậy, cuối cùng phong trào chống Keynes cùng những người kế tục Friedman lại ñi xa hơn nhiều so với quan ñiểm tương ñối ôn hòa của ông. Trong giới kinh tế học tài chính, quan ñiểm coi thường thị trường tài chính, xem nó như “sòng bạc” của Keynes ñược thay thế bằng lý thuyết “thị trường hiệu quả” cho rằng với tất cả những thông tin sẵn có, thị trường tài chính luôn ñịnh giá ñúng.

Trong khi ñó, nhiều nhà kinh tế vĩ mô hoàn toàn phủ nhận cách giải thích của Keynes về suy thoái kinh tế. Một số còn trở lại với quan ñiểm của Schumpeter và những người biện hộ cho cuộc ðại suy thoái, xem suy thoái là ñiều tốt, là một phần trong quá trình ñiều chỉnh ñể thay ñổi của nền kinh tế. Và kể cả những người không cực ñoan ñến thế cũng lập luận rằng mọi nỗ lực chống suy giảm kinh tế ñều có hại hơn là có lợi.

Không phải nhà kinh tế vĩ mô nào cũng ñi theo con ñường ñó: nhiều người tự gọi mình là những người “Keynes-mới”, họ tiếp tục tin vào vai trò chủ ñộng của chính phủ. Dù vậy ngay cả họ cũng ñồng ý với quan ñiểm rằng nhà ñầu tư và người tiêu dùng hợp lý còn thị trường nói chung là luôn ñúng.

ðương nhiên, cũng cố một số người không ñi theo xu hướng chung: một số ít nhà kinh tế thách thức giả ñịnh về hành vi hợp lý, nghi ngờ niềm tin vào thị trường tài chính và chỉ ra hàng loạt những cuộc khủng hoảng tài chính trong lịch sử ñã ñể lại những hậu quả kinh tế thảm khốc. Nhưng họ như ñang bơi ngược dòng, không thể ñả phá nổi tính tự mãn ngu ngốc ñang lan tỏa trong toàn giới kinh tế khi ấy.

KINH TẾ HỌC, VÌ SAO NÊN NỖI - KGRUGMAN PAUL

PHẦN 2

Các nhà lý thuyết tài chính không chấp nhận giả thuyết thị trường hiệu quả chỉ vì nó ñẹp, tiện dụng và có lợi. Họ cũng tiến hành rất nhiều quan sát thống kê có vẻ cực kỳ thuyết phục...

III. NỀN TÀI CHÍNH PANGLOSS

(*) Pangloss: nhân vật trong tác phẩm Candice của Voltaire, thường ñược dùng ñể chỉ những người lạc quan một cách ngây thơ.

Trong thập kỷ 30, vì nhiều lý do hiển nhiên thị trường tài chính không dành ñược nhiều sự tôn trọng. Keynes từng so sánh nó với “một cuộc thi trong ñó những người tham gia phải lựa chọn sáu khuôn mặt ñẹp nhất từ hàng trăm tấm ảnh, giải thưởng sẽ ñược trao cho ai có lựa chọn gần giống nhất với tất cả những người còn lại; vì thế mỗi người tham dự

Page 9: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

không lựa chọn khuôn mặt nào mình thấy ñẹp nhất mà lại chọn khuôn mặt anh ta nghĩ nhiều khả năng sẽ lôi cuốn những người cùng chơi khác nhất.”

Và Keynes cho rằng sẽ chẳng phải là ý tưởng hay nếu ñể những thị trường nơi nhà ñầu cơ dành thời gian theo ñuôi kẻ khác làm chủ những quyết ñịnh kinh doanh quan trọng: “Khi thị trường vốn của một quốc gia trở thành thứ phụ phẩm của một sòng bạc, nó sẽ không thực hiện ñược chức năng của mình.”

Tuy vậy, cho ñến khoảng năm 1970, việc nghiên cứu về thị trường tài chính dường như ñã rơi vào tay những Tiến sỹ Pangloss trong tác phẩm của Voltaire, những người cho rằng chúng ta ñang sống trong thế giới tốt ñẹp nhất có thể có. Những tranh luận về sự bất hợp lý của nhà ñầu tư, về bong bóng, về những vụ ñầu cơ phá hoại gần như biến mất khỏi những buổi trao ñổi học thuật.

Kinh tế học bị thống trị bởi “giả thuyết thị trường hiệu quả,” do Eugene Fama từ ðH Chicago ñề xướng, theo ñó với những thông tin sẵn có, giá trị tài sản trên thị trường tài chính chính là giá trị thực chất của nó. (Ví dụ như giá cổ phiếu của một công ty luôn phản ánh chính xác giá trị của công ty ñó với những thông tin sẵn có như lợi nhuận doanh nghiệp, triển vọng kinh doanh,…).

Và cho ñến những năm 1980, nhiều nhà kinh tế học tài chính, ñáng chú ý có Michael Jensen từ Trường Kinh doanh Havard, lập luận rằng vì thị trường tài chính luôn ñịnh giá ñúng, ñiều tốt nhất lãnh ñạo doanh nghiệp nên làm là tối ña hóa giá trị cổ phiếu của mình, không chỉ vì lợi ích của bản thân họ mà còn của toàn nền kinh tế. Nói cách khác, các nhà kinh tế học tài chính tin rằng chúng ta nên ñặt thị trường vốn của quốc gia mình vào tay thứ Keynes ñã gọi là “sòng bạc.”

Sự chuyển biến trong giới kinh tế này không dựa trên bất kỳ sự kiện thực tế nào. Thực tế, những ký ức về năm 1929 ñang phai nhạt dần, thị trường hết tăng lại ñến giảm với những câu chuyện truyền kỳ về các vụ ñầu cơ quá mức. Ví dụ như trong hai năm 1973-1974, cổ phiếu mất 48% giá trị. Trong vụ sụp ñổ 1987, chỉ số Dow mất 23% trong chỉ một ngày mà chẳng rõ nguyên nhân. Ít nhất sau những vụ việc ấy người ta cũng nên có chút nghi ngờ về cái gọi là thị trường hợp lý.

Tuy vậy, những sự kiện Keynes ñáng lẽ ñã lấy làm bằng chứng về sự thiếu tin cậy của thị trường lại chẳng ngăn chặn nổi những ý tưởng ñẹp ñẽ. Các nhà kinh tế học tài chính ñã phát triển một mô hình lý thuyết ñẹp một cách hoàn mỹ dựa trên giả ñịnh mọi nhà ñầu tư ñều cân ñối một cách hợp lý giữa rủi ro và lợi nhuận, Mô hình ðịnh giá Tài sản Vốn (Capital Asset Pricing Model – CAPM).

CAPM không chỉ ñưa ra cách chọn lựa danh mục ñầu tư, mà quan trọng hơn nó còn cho biết ñịnh giá các chứng khoán phái sinh ra sao. Sự ñẹp ñẽ và có vẻ như rất hữu dụng của lý thuyết này mang lại hàng loạt giải Nobel cho các tác giả của nó, và những người tinh thông lý thuyết này cũng nhận ñược phần thưởng trần tục hơn một chút: với những mô hình mới trong tay và khả năng toán học siêu ñẳng, những giáo sư tầm thường tại các trường kinh doanh có thể vụt trở thành những khoa học gia hàng ñầu kiếm bộn tiền tại phố Wall.

Công bằng mà nói các nhà lý thuyết tài chính không chấp nhận giả thuyết thị trường hiệu quả chỉ vì nó ñẹp, tiện dụng và có lợi. Họ cũng tiến hành rất nhiều quan sát thống kê có vẻ

Page 10: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

như cực kỳ thuyết phục. Nhưng những thống kê này vô cùng hạn chế. Các nhà kinh tế học tài chính hiếm khi hỏi một câu hỏi dù rất rõ ràng những cũng rất khó trả lời rằng liệu giá tài sản có tương xứng với các yếu tố cơ bản ví dụ như lợi nhuận hay không. Larry Summers, nay là cố vấn kinh tế hàng ñầu cho chính quyền Obama, từng chế giễu các nhà kinh tế học tài chính là “các nhà kinh tế học cà chua” “ñã chỉ ra rằng một chai nước sốt cà chua 2 quart (ñơn vị ño chất lỏng của Anh ) phải ñược bán với giá gấp ñôi chai nước sốt cà chua 1 quart,” rồi ñi ñến kết luận rằng thị trường nước sốt cà chua hoàn toàn hiệu quả.

Nhưng lời chế nhạo ấy hay những phê phán lịch sự hơn từ các nhà kinh tế như Robert Shiller từ ðH Yale cũng chẳng có mấy tác dụng. Các nhà lý thuyết tài chính vẫn tin rằng mô hình của mình về cơ bản là ñúng, và nhiều người nắm quyền lực trong tay cũng vậy. ðặc biệt trong số ñó có Alan Greenspan, người sau này là Chủ tịch FED và là ñã từ lâu ủng hộ việc bãi bỏ luật lệ của ngành tài chính.

Ông không kêu gọi khống chế cho vay dưới chuẩn cũng như phủ nhận sự tồn tại của bong bóng nhà ñất với niềm tin rằng các nhà kinh tế học tài chính ñã kiểm soát ñược mọi thứ. Năm 2005, trong buổi lễ tôn vinh nhiệm kỳ của Greenspan tại FED, một người dũng cảm tên là Raghuram Rajan (bất ngờ là ông này ñến từ ðH Chicago) ñã công bố một nghiên cứu cảnh báo hệ thống tài chính ñang chấp nhận quá nhiều rủi ro tới mức ñáng báo ñộng. Ông bị cả hội trường chế nhạo, kể cả Larry Summers cũng gạt lời cảnh báo này ñi vì cho rằng nó “sai lầm.”

Tuy vậy, ñến tháng 10 năm ngoái, chính Greenspan phải thú nhận rằng mình ñang ở trong tình trạng “khủng hoảng niềm tin,” vì “tòa lâu ñài tri thức trong tôi” ñã “sụp ñổ.” Vì sự sụp ñổ của tòa lâu ñài tri thức ấy ñi kèm với sự sụp ñổ của thị trường trong thế giới thực, kết quả là một cuộc suy thoái nghiêm trọng, cuộc suy thoái tồi tệ nhất kể từ thời ðại suy thoái.

Những nhà hoạch ñịnh chính sách nên làm gì? ðáng buồn là kinh tế học vĩ mô ñáng lẽ phải ñưa ra những lời chỉ dẫn rõ ràng ñể nền kinh tế thoát khỏi bão tố thì chính nó lại ñang rơi vào cơn bĩ cực của chính mình.

IV. VẤN ðỀ VĨ MÔ

“Chúng ta ñang vướng phải một mớ bòng bong khủng khiếp, chẳng kiểm soát nổi một cỗ máy quá phức tạp mà ngay ñến họat ñộng của nó chúng ta còn chưa tỏ tường. Kết quả là mơ ước làm giàu có thể sẽ biến mất trong một thời gian, có lẽ ñó sẽ là một khoảng thời gian rất dài.” John Maynard Keynes ñã viết như vậy trong bài tiểu luận nhan ñề “Cuộc ñại suy thoái 1930,” trong ñó ông cố giải thích nguyên nhân của cơn ñại nạn ñang quét qua thế giới khi ấy. Và ñúng là ước mơ làm giàu ñã biến mất trong một thời gian quá dài và chỉ Chiến tranh thế giới II mới thực sự chấm dứt ñược ðại suy thoái.

Tại sao ban ñầu phân tích của Keynes về ðại suy thoái như một “mớ bòng bong khủng khiếp” lại giàu sức hấp dẫn ñến vậy? Và tại sao những nhà kinh tế vào khoảng năm 1975 lại chia rẽ khi ñánh giá quan ñiểm của Keynes?

Người viết bài này muốn giải thích bản chất của kinh tế học theo Keynes bằng một câu chuyện ngụ ngôn ngắn gọn, một phiên bản thu nhỏ của mớ bòng bong ñang tàn phá nền kinh tế.

Page 11: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Lấy ví dụ có một Hợp tác xã trông trẻ ðồi Capitol.

Hợp tác xã này là một tổ chức gồm 150 cặp vợ chồng trẻ ñồng ý giúp người khác trông con khi họ vắng nhà vào buổi tối. ðể ñảm bảo mọi cặp vợ chồng ñều trông trẻ như nhau, hợp tác xã ñưa ra một loại “tiền” là những phiếu làm bằng bìa cứng, mỗi phiếu chứng nhận người cầm nó ñã trông trẻ trong vòng nửa giờ. Khi gia nhập hợp tác xã mỗi thành viên nhận ñược 20 phiếu và sẽ phải trả lại ñúng số lượng ñó khi rời nhóm.

ðáng buồn là hóa ra các thành viên của hợp tác xã ñều muốn dự trữ hơn 20 phiếu, có lẽ là ñể phòng trường hợp muốn ñi vắng vài lần. Kết quả là tương ñối ít người muốn tiêu “tiền” và ñi chơi tối, trong khi nhiều người lại muốn trông trẻ ñể có thể tiết kiệm ñược nhiều hơn. Nhưng cơ hội trông trẻ chỉ ñến khi có ai ñó muốn ñi chơi tối, ñiều ñó có nghĩa là khó mà tìm ñược việc trông trẻ, khiến các thành viên của hợp tác xã này lại càng miễn cưỡng ñi chơi tối, việc trông trẻ ñã hiếm nay lại càng hiếm hơn.

Nói ngắn gọn là hợp tác xã rơi vào suy thoái.

ðừng coi câu chuyện này ngu ngốc hay vớ vẩn: kể từ thời Adam Smith ngộ ra gốc rễ của các quá trình kinh tế trong một nhà máy ñinh ghim, các nhà kinh tế ñã sử dụng các ví dụ quy mô nhỏ ñể ñưa ra lời giải ñáp cho những vấn ñề to lớn. Câu hỏi ñặt ra là liệu ví dụ cụ thể ấy có nói lên bản chất của những gì ñang diễn ra trong một cuộc suy thoái, theo ñó nguyên nhân của suy thoái là sức cầu không tương xứng hay không có ñủ công việc trông trẻ cho tất cả những ai có nhu cầu.

40 năm trước ña phần các nhà kinh tế ñều ñồng tình với cách giải thích này. Nhưng kể từ ñó các nhà kinh tế vĩ mô chia thành hai phe: các nhà kinh tế “nước mặn” (saltwater economist, chủ yếu tại các trường ðH ven biển của Mỹ) dù ít dù nhiều cũng chia sẻ quan ñiểm của Keynes về suy thoái; và các nhà kinh tế “nước ngọt” (freshwater economist, chủ yếu ñến từ các trường trong nội ñịa) phủ nhận quan ñiểm trên.

Các nhà kinh tế “nước ngọt” về cơ bản là những nhà lý thuyết thuần túy tân cổ ñiển. Họ tin rằng tất cả các phân tích kinh tế có giá trị phải xuất phát từ giả ñịnh cá nhân hiêu quả và thị trường luôn ñúng nhưng câu chuyện hợp tác xã trông trẻ lại vi phạm giả ñịnh ñó. Theo quan ñiểm của họ, nhìn chung là không thể có chuyện thiếu cầu, vì giá luôn thay ñổi ñể cung tương xứng với cầu. Nếu mọi người muốn nhiều phiếu trông trẻ hơn, giá trị của những phiếu này sẽ tăng lên, vì thế chúng sẽ có giá 40 phút trông trẻ thay vì nửa tiếng chẳng hạn, hay tương ứng với chi phí của một giờ trông trẻ giảm từ 2 xuống 1,5 phiếu.

Vấn ñề sẽ ñược giải quyết khi sức mua của phiếu trông trẻ trong lưu thông tăng lên nên mọi người thấy không cần phải tích trữ thêm nữa, do ñó, không có suy thoái. Nhưng suy thoái không giống một giai ñoạn không có ñủ nhu cầu thuê mướn thêm người sẵn sàng làm việc chăng? Vẻ bề ngoài không nói lên ñiều gì, các nhà lý thuyết “nước ngọt” nói.

Theo cách nhìn của họ, những nguyên lý kinh tế có giá trị cho thấy không thể có sự thiếu hụt chung về cầu. Kinh tế học theo Keynes ñã ñược “chứng minh là sai lầm” như Cochrane từ ðH Chicago nói.

Nhưng suy thoái vẫn cứ diễn ra. Tại sao vậy?

Page 12: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

KINH TẾ HỌC, VÌ SAO NÊN NỖI- KGRUGMAN PAUL

PHẦN 3

Kinh tế học, vì sao nên nỗi? (3) Phải ñến cuộc khủng hoảng này cả hai phái "nước ngọt" và "nước mặn" mới nhận ra họ khác nhau nhiều ñến ra sao và phái “Keynes mới” ñã lạc quan tếu ñến thế nào.

Thập niên 70, nhà kinh tế học “nước ngọt” hàng ñầu từng ñoạt giải Nobel Robert Lucas lập luận rằng nguyên nhân của suy thoái là sự hỗn loạn nhất thời: doanh nghiệp và người lao ñộng không phân biệt nổi sự thay ñổi mức giá chung vì lạm phát hoặt giảm phát và sự thay ñổi tại chính ngành mình. Lucas cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực nào chống lại chu kỳ kinh doanh sẽ phản tác dụng: các chính sách kinh tế chỉ làm tình hình thêm rối loạn.

Tuy vậy cho ñến những năm 80, các nhà kinh tế “nước ngọt” còn phủ ñịnh cả chuyện suy thoái là ñiều xấu. Thay vào ñó, những nhà lãnh ñạo mới của phong trào này, ñặc biệt là Edward Prescott khi ñó ñang công tác tại ðH Minnesota lập luận rằng biến ñộng của giá và thay ñổi sức cầu không hề có liên quan tới chu kỳ kinh doanh.

Thay vào ñó, chu kỳ kinh doanh phản ánh sự biến ñộng dựa trên tiến bộ công nghệ, nó ñươc khuếch ñại bởi phản ứng hợp lý từ người lao ñộng, họ tình nguyện làm việc nhiều hơn khi ñiều kiện thuận lợi và ít hơn khi ñiều kiện không thuận lợi. Thất nghiệp là quyết ñịnh có chủ ñích của người lao ñộng muốn dành thời gian nghỉ ngơi.

Nói trắng ra như vậy thì lý thuyết này nghe thật ngớ ngẩn, ðại suy thoái hóa ra lại là một kỳ nghỉ dài ngày à? Thực thà mà nói người viết bài này thấy nó thật sự ngô nghê. Nhưng giả ñịnh cơ bản trong “lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực” của Prescott lại ñược diễn giải thành những mô hình toán học khéo léo ñến tài tình, ñược sắp xếp thành những chuỗi dữ liệu thống kê tinh tế và rút cục lý thuyết này lại tiến tới chi phối việc giảng dạy môn kinh tế vĩ mô tại nhiều cơ sở ñại học.

Năm 2004, như một minh chứng cho sức ảnh hưởng của lý thuyết ñó, Prescott nhận chung giải Nobel với Finn Kydland từ ðH Carnegie Mellon.

Trong khi ñó, các nhà kinh tế học “nước mặn” do dự. Dù các nhà kinh tế như N. Gregory Mankiw tại Havard, Olivier Blanchard từ MIT và David Romer từ ðH California, Berkeley nhận thức ñược rằng khó mà dung hòa ñược cách nhìn nhận suy thoái từ phía cầu của Keynes với quan ñiểm của lý thuyết tân cổ ñiển, họ ñã tìm thấy bằng chứng cho thấy khó mà chối bỏ ñược cách nhìn nhận suy thoái từ phía cầu.

Vì thế họ sẵn sàng từ bỏ giả thuyết thị trường hoàn hảo hoặc sự hợp lý hoàn hảo, hoặc là cả hai, ñưa thêm những khuyết tật của thị trường vào ñể nhìn nhận suy thoái trên quan ñiểm của Keynes. Theo cách nhìn “nước mặn”, vẫn nên thực thi các chính sách chủ ñộng ngăn ngừa suy thoái.

Nhưng các nhà kinh tế tự coi mình thuộc phái “Keynes mới” này không cưỡng lại ñược sự hấp dẫn của những cá nhân hiệu quả và thị trường hoàn hảo. Họ cố giữ mình càng gần lý thuyết tân cổ ñiển chính thống càng tốt. ðiều ñó có nghĩa là không có chỗ trong các mô hình thông dụng cho những thứ như bong bóng hay hệ thống ngân hàng sụp ñổ. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính vĩ mô như ở Châu Á trong hai năm 1997-1998 và cuộc suy

Page 13: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

thoái tại Arghentina năm 2002, những sự kiện diễn ra trong thế giới thực ấy không ñược phản ánh trong dòng tư tưởng chủ ñạo của phái Keynes mới.

Kể cả như vậy, người ta vẫn có thể nghĩ rằng sự khác biệt quan ñiểm giữa hai trường phái kinh tế “nước ngọt” và “nước mặn” sẽ luôn ñặt họ ở thế ñối ñầu về các chính sách kinh tế.

Tuy vậy ñáng ngạc nhiên là từ năm 1985 cho ñến năm 2007, tranh luận giữa hai phái “nước ngọt” và “nước mặn’ chủ yếu về lý thuyết chứ không phải thực tiễn. Lý do là những người “Keynes mới”, không giống như những người theo Keynes nguyên bản, không nghĩ rằng cần phải sử dụng chính sách tài khóa (thay ñổi trong thuế khóa và chi tiêu chính phủ) ñể chống suy thoái.

Họ tin rằng chính sách tiền tệ do những nhà kỹ trị tại FED cầm trịch là ñủ ñề ñiều tiết nền kinh tế. Tại lễ sinh nhật 90 tuổi của Milton Friedman, Ben Bernanke, người dù ít dù nhiều cũng từng là một GS theo phái “Keynes mới” tại ðH Princeton và khi ấy là một thành viên trong Hội ñồng thống ñốc FED, phát biểu về cuộc ðại suy thoái: “Ông ñã ñúng. Chúng tôi ñã gây ra nó. Chúng tôi xin lỗi. Nhưng nhờ có ông, nó ñã không xảy ra thêm một lần nữa.” Thông ñiệp rõ ràng là tất cả những gì cần ñể tránh suy thoái là một Cục dự trữ liên bang khéo léo hơn.

Và kể từ khi chính sách kinh tế vĩ mô ñược giao vào tay nhạc trưởng Greenspan và không còn các chương trình kích thích kinh tế kiểu Keynes, các nhà kinh tế “nước ngọt” chẳng còn gì ñể phàn nàn. (Họ không tin chính sách tiền tệ có tác ñộng gì tốt ñẹp, nhưng họ tin rằng nó cũng chẳng có gì hại.)

Phải ñến cuộc khủng hoảng này cả hai phái mới nhận ra họ khác nhau nhiều ñến ra sao và phái “Keynes mới” ñã lạc quan tếu ñến thế nào.

V. AI MÀ BIẾT ðƯỢC …

Trong các cuộc tranh luận của giới kinh tế học gần ñây, câu mở ñầu ñược ưa chuộng nhất thường là “không ai có thể tiên ñoán ñược …” ðó là những gì người ta nói về một thảm họa hoàn toàn có thể dự ñoán, ñáng lẽ ra ñã ñược tiên ñoán và thực sự ñã ñược một số ít nhà kinh tế - những người bị chỉ trích vì nỗ lực cảnh báo của mình - nhìn thấy trước.

Có thể lấy ví dụ về sự leo thang rồi xuống dốc của giá nhà ñất. Một vài nhà kinh tế, trong ñó nổi bật là Robert Shiller, ñã nhận thấy tình trạng bong bóng của thị trường này và lên tiếng báo ñộng về những hậu quả nghiêm trọng nếu xảy ra ñổ vỡ. Tuy nhiên, những nhà hoạch ñịnh chính sách không tiếp thu ñược sự thật ñó. Năm 2004, Alan Greenspan ñã gạt bỏ những lời bình luận về bong bóng nhà ñất, ông tuyên bố: “Không thể có tình trạng giá cả bị bóp méo nghiêm trọng trên phạm vi toàn quốc”. ðến năm 2005, Ben Bernanke phát biểu: “Giá nhà tăng chủ yếu do nền tảng kinh tế vững chắc”.

Tại sao họ không thấy ñược bong bóng này? Khách quan mà nói, lãi suất ñược giữ ở mức thấp một cách bất bình thường chính là một trong những nguyên nhân làm cho giá nhà tăng. Có lẽ ngài Greenspan và ngài Bernanke muốn biểu dương thành công của Fed trong việc cứu nền kinh tế thoát khỏi suy thoái năm 2001, nhưng nó cũng ñồng nghĩa với việc thừa nhận những thành công ñó phần lớn là nhờ họ ñã tạo ra một quả bong bóng khổng lồ mà vụ nổ của nó có thể dập tắt niềm hân hoan mừng thắng lợi.

Page 14: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Tuy vậy, công chúng vẫn tin tưởng rằng chẳng có bong bóng nào cả. Thật ñáng ngạc nhiên là nếu ñọc lại những lời cam ñoan của Greenspan sẽ thấy chúng chẳng hề dựa trên một bằng chứng thực tế nào mà chỉ xuất phát từ một giả ñịnh ñơn giản - không thể có bong bóng nhà ñất. Những nhà lý thuyết tài chính còn tin tưởng mạnh mẽ hơn vào quan ñiểm này.

Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2007, Eugene Fama, cha ñẻ của lý thuyết thị trường hiệu quả, ñã tuyên bố: “ðối với tôi, từ “bong bóng” chẳng có ý nghĩa gì cả”, và ông giải thích lý do tại sao chúng ta có thể tin tưởng thị trường nhà ñất: “Thị trường nhà ñất tuy thanh khoản thấp, nhưng bù lại mọi người rất thận trọng khi quyết ñịnh mua nhà. ðó thường là khoản ñầu tư lớn nhất mà họ thực hiện, vì thế họ sẽ xem xét kỹ càng và so sánh giá cả. Chuyện mặc cả cũng rất chặt chẽ.”

ðúng như vậy, những người mua nhà thường so sánh rất cẩn thận giá ngôi nhà mà họ có thể sẽ sở hữu với những căn nhà khác. Nhưng ñiều này không có nghĩa rằng giá cả chung trên toàn bộ thị trường nhà ñất là hợp lý. Chúng ta lại bắt gặp kinh tế học kiểu “nước sốt cà chua”: bởi vì một chai nước sốt cà chua 2 quart (ñơn vị ño chất lỏng của Anh – ND) ñắt gấp ñôi chai 1 quart nên các nhà nghiên cứu lý thuyết tài chính cho rằng giá của nước sốt là hợp lý.

Tóm lại, niềm tin vào tính hiệu quả của các thị trường tài chính ñã che mắt rất nhiều nếu không muốn nói là gần như tất cả các nhà kinh tế học, khiến họ không nhận ra tình trạng báo ñộng về một trong những bong bóng tài chính lớn nhất trong lịch sử. Và lý thuyết thị trường hiệu quả phải chịu trách nhiệm vì ñã thổi phồng quả bong bóng ñó lên.

Giờ thì vụ nổ bong bóng ñã xảy ra, tính rủi ro thực sự của những tài sản ñược cho là an toàn ñã bộc lộ rõ nét và hệ thống tài chính ñã thể hiện rõ sự mong manh của nó. 13 nghìn tỷ USD ñã bốc hơi khỏi tổng tài sản của các hộ gia ñình Mỹ sau cuộc khủng hoảng. Thêm vào ñó là hơn sáu triệu việc làm bị cắt giảm, tỷ lệ thất nghiệp ñang hướng tới mốc kỷ lục kể từ năm 1940. Vậy kinh tế học hiện ñại ñưa ra giải pháp nào cho tình trạng hiện thời?

Và liệu chúng ta có nên tin tưởng vào giải pháp ñó hay không?

VI. NHỮNG TRANH CÃI XUNG QUANH GÓI KÍCH THÍCH

Sự yên bình giả tạo ñã phủ bóng lên kinh tế học vĩ mô suốt từ năm 1985 cho tới năm 2007. Thực tế không hề có một sự hội tụ nào giữa hai trường phái “nước mặn” và “nước ngọt” trong suốt quãng thời gian này. Thế nhưng ñó là những năm tháng của “Thời kỳ ổn ñịnh lớn” – giai ñoạn nền kinh tế tăng trưởng với lạm phát không ñáng kể và chỉ có một vài ñợt suy thoái nhẹ. Những nhà kinh tế theo trường phái “nước mặn” tin rằng Fed ñã kiểm soát mọi thứ rất tốt. Trong khi trường phái “nước ngọt” không cho rằng hành ñộng của Fed thực sự ñem lại lợi ích, nhưng họ chấp nhận im lặng trước sự giả dối ñó.

Thế rồi cuộc khủng hoảng xảy ra ñã kết thúc thời kỳ êm ñềm giả tạo ấy. Những chính sách kỹ trị hạn hẹp ñược cả hai trường phái ủng hộ ñột nhiên không còn ñáp ứng ñược hoàn cảnh nữa – và sự cần thiết phải có chính sách mạnh tay hơn ñã lại châm ngòi cho những cuộc tranh cãi muôn thuở, lần này trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

Vì sao những chính sách cũ trở nên không phù hợp nữa? Câu trả lời gói gọn chỉ trong một từ: “số 0”.

Page 15: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Trong một cuộc suy thoái thông thường, Fed sẽ phản ứng bằng cách mua vào Trái phiếu kho bạc – chứng khoán nợ ngắn hạn của chính phủ - từ các ngân hàng. ðiều này làm cho lãi suất trái phiếu giảm, các nhà ñầu tư muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn sẽ chuyển sang các tài sản khác và kéo lợi tức từ những tài sản ñó giảm theo; và thường thì lãi suất ñược hạ xuống thấp theo cách như vậy sẽ kích thích nền kinh tế ñi lên nhanh chóng.

Trong quá khứ, Fed cũng ñã ñối phó với cuộc suy thoái năm 1990 bằng cách hạ tỷ lệ lãi suất ngắn hạn từ 9% xuống còn 3%; và với cuộc suy thoái năm 2000, lãi suất ñược hạ từ 6,5% xuống 1%. Trong nỗ lực ñương ñầu với ñợt suy thoái hiện nay, Fed tiếp tục ñiều chỉnh lãi suất từ 5,25% xuống 0%.

Thế nhưng 0% vẫn là chưa ñủ ñể vực dậy nền kinh tế, và Fed cũng không thể ñẩy lãi suất xuống thấp hơn ñược nữa. Từ lúc lãi suất gần bằng 0%, nhiều nhà ñầu tư ñã chọn giải pháp tích trữ tiền mặt thay vì cho vay ra. Do ñó, vào cuối năm 2008, khi lãi suất cơ bản ñã ở mức mà các nhà kinh tế học vĩ mô gọi là “giới hạn số không” thì chính sách tiền tệ ñã mất hoàn toàn tác dụng, mặc cho suy thoái vẫn tiếp tục lún sâu hơn.

Vậy chúng ta phải làm gì trước tình trạng này? ðây là lần thứ hai nước Mỹ vấp phải sự cản trở từ “giới hạn số không”, lần ñầu tiên chính là trong cuộc ðại suy thoái. Nhưng cũng chính vì nhìn thấy ñược giới hạn lãi suất ấy, Keynes ñã chủ trương dùng biện pháp tăng chi tiêu chính phủ: khi chính sách tiền tệ không phát huy ñược hiệu quả và không thể khuyến khích khu vực tư nhân tăng chi tiêu, thì chính phủ phải thay thế vị trí ñó ñể chống ñỡ cho nền kinh tế. Kích thích tài khóa là câu trả lời của Keynes cho những lần suy thoái trầm trọng như cuộc khủng hoảng hiện nay.

Tư tưởng của Keynes chính là nền tảng cho những chính sách kinh tế dưới thời chính quyền Obama ñã ñược trường phái “nước ngọt” ủng hộ mạnh mẽ. Trong 25 năm qua, họ ñã không phản ñối cho những nỗ lực ñiều tiết nền kinh tế của Fed, nhưng sự hồi sinh của học thuyết Keynes ñã khiến mọi thứ hoàn toàn thay ñổi.

Trở lại những năm 1980, Lucas, giáo sư ñại học Chicago, ñã viết rằng kinh tế học của Keynes bị coi thường ñến nỗi “trong các hội thảo nghiên cứu, mọi người không còn coi trọng lý thuyết của Keynes nữa; những thính giả thường huýt sáo và cười ñùa với nhau” - việc thừa nhận cái nhìn ñúng ñắn của Keynes ñồng nghĩa với bị giễu cợt và chế nhạo.

G.S Cochrane từ ðH Chicago nổi giận với ý tưởng tăng cường chi tiêu công có thể giảm bớt suy thoái. Ông ta ñã nói: “Nó không còn nằm trong bài giảng của bất cứ giảng viên ñại học nào từ những năm 1960. Những tư tưởng của Keynes chỉ là chuyện hão huyền mà sai lầm của chúng ñã ñược chứng minh.

Khi bị stress, ta có thể giải tỏa bằng cách hồi tưởng lại những câu chuyện cổ tích ñược nghe từ thời thơ ấu, nhưng ñiều ñó không làm cho chúng bớt hoang ñường hơn.” (ðây chính là bằng chứng thể hiện mối bất ñồng sâu sắc giữa hai trường phái “nước ngọt” và “nước mặn”, ñến nỗi Cochrane tin rằng “không một ai” còn dạy kinh tế học theo Keynes nữa, nhưng thực tế thì nó vẫn ñang ñược giảng dạy ở những trường như Princeton, MIT hay Havard.

Giờ ñây, nhiều nhà kinh tế học trường phái “nước mặn” – những người ñã tự hài lòng với niềm tin rằng sự rạn nứt trong kinh tế học vĩ mô ñang thu hẹp lại – ñang thực sự bị sốc khi nhận ra trường phái “nước ngọt” lâu nay thậm chí còn chẳng buồn lắng nghe.

Page 16: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Các nhà kinh tế “nước ngọt” ñã lên tiếng chỉ trích kịch liệt gói kích thích của chính phủ không có vẻ là những người ñã nghiền ngẫm kỹ kinh tế học theo Keynes và thấy chúng vẫn còn thiếu sót mà họ giống như những kẻ không biết gì về lý thuyết này và ñang làm sống lại những tư tưởng sai lầm trước năm 1930 mà cứ nghĩ rằng những gì mình phát biểu là hoàn toàn mới mẻ và sâu sắc.

Và có vẻ như Keynes không phải người duy nhất mà những suy nghĩ của ông bị lãng quên. Nhà nghiên cứu Brad Delong từ ðH California, Berkeley ñã viết về về “sự sụp ñổ tri thức” của trường phái Chicago rằng: quan ñiểm của trường phái này hiện thời cũng hoàn toàn phủ nhận tư tưởng của Milton Friedman. Friedman tin rằng nên sử dụng các chính sách của Fed hơn là thay ñổi chi tiêu công ñể ổn ñịnh nền kinh tế, nhưng ông chưa bao giờ khẳng ñịnh rằng tăng cường chi tiêu chính phủ, dưới bất cứ hoàn cảnh nào, cũng không thể tạo thêm việc làm. Thực tế, nếu ñọc lại cuốn “Lý thuyết chung về phân tích tiền tệ”, tác phẩm tóm tắt những nghiên cứu của ông, bạn sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi thấy nó “Keynes” ñến nhường nào.

Và tất nhiên Friedman cũng không hề tin tưởng vào quan ñiểm tỷ lệ thất nghiệp cao phản ánh tinh thần lao ñộng sa sút cũng như ý kiến cho rằng các cuộc suy thoái thực ra có tác dụng tốt cho nền kinh tế. Những lập luận này ñã ñược chính thế hệ các nhà kinh tế học “nước ngọt” gần ñây ñưa ra.

Casey Mulligan, nhà kinh tế trường phái Chicago, lập luận rằng tỷ lệ thất nghiệp cao là do có nhiều người không muốn làm việc: “ðộng lực tài chính sẵn có khiến người lao ñộng không thiết tha ñi tìm việc... sự sụt giảm từ phía nguồn cung lao ñộng (mong muốn ñi làm của người dân) là nguyên nhân chính làm cho số lượng việc làm ít ñi chứ không phải là phía cầu lao ñộng (số công nhân mà nhà tuyển dụng cần thuê mướn).” Cụ thể, Mulligan cho rằng người công nhân lựa chọn phương án tiếp tục nghỉ làm bởi họ sẽ nhận ñược khoản tiền trợ cấp tài sản thế chấp nhiều hơn. Còn Cochrane thì tuyên bố tỷ lệ thất nghiệp cao thực ra là một ñiều tốt: “Chúng ta nên có một cuộc suy thoái. Những người thợ cả ñời chỉ biết ñóng ñinh ở Nevada cần một thứ gì ñó khác ñể làm.”

Cá nhân tôi cho rằng ñiều này thật sự ñiên rồ. Tại sao nên ñể thất nghiệp lan tràn khắp cả nước chỉ nhằm mục ñich kéo những người thợ mộc ñi khỏi Nevada? Và ai có thể nói một cách nghiêm túc rằng chúng ta ñã mất 6,7 triệu việc làm ñơn giản bởi người Mỹ không muốn ñi làm nữa? Nhưng sớm muộn gì thì những nhà kinh tế “nước ngọt” cũng sẽ mắc vào cái bẫy của chính họ và lâm vào ngõ cụt: nếu bạn bắt ñầu với giả ñịnh rằng cá nhân hoàn toàn hợp lý và thị trường hoàn toàn hiệu quả, thì bạn phải ñi ñến kết luận rằng thất nghiệp là tự nguyện và suy thoái là ñiều ñáng mong muốn!

Nếu như cuộc khủng hoảng ñã khiến cho những nhà kinh tế “nước ngọt” trở nên ngớ ngẩn, thì nó cũng làm nhiều nhà kinh tế “nước mặn” quay trở lại với nền tảng của mình. Không giống như trường phái Chicago, lý thuyết của họ ñồng ý với khả năng thất nghiệp là không tự nguyện và coi nó như một ñiều tồi tệ. Tuy nhiên mô hình của trường phái “Keynes mới” ñang thống trị cả trong giảng dạy và nghiên cứu lại cũng giả ñịnh rằng con người luôn hành ñộng theo lý trí và thị trường tài chính hoàn toàn hiệu quả.

ðể ñưa cuộc suy thoái hiện nay vào mô hình, “những người Keynes mới” buộc phải chắp vá thêm những yếu tố vụn vặt kém thuyết phục với vai trò là tác nhân kéo chi tiêu của khu

Page 17: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

vực tư nhân tạm thời giảm sút. (ðó chính xác là những gì người viết bài này ñã làm trong một vài nghiên cứu gần ñây) Và nếu dựa vào những yếu tố ñó ñể phân tích tình cảnh hiện tại thì làm sao chúng ta có thể tin tưởng ñược vào những dự ñoán của mô hình về tương lai nền kinh tế?

Tóm lại, với tình trạng vĩ mô không lấy gì làm tốt ñẹp hiện nay, những nhà nghiên cứu sẽ phải làm gì?

(còn tiếp)

Paul Krugman/The New York Times

Dịch: Minh Tuấn - Hoàng Sơn

Page 18: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Paul Krugman với "Sự trở lại của kinh tế học suy thoái"

Nhà dự báo khủng hoảng tài ba Paul Krugman ñã nhận ñược giải thưởng Nobel kinh tế năm 2008. Tuy ñến năm 2008 mới chính thức ñược Viện Khoa học Hoàng gia Thụy ðiển trao giải thưởng giá trị này nhưng trong vòng hơn 10 năm qua, những nghiên cứu của Krugman thực sự rất có giá trị trong lĩnh vực kinh tế học, ñặc biệt là những nghiên cứu của ông về khủng hoảng và suy thoái kinh tế trên thế giới. Những nghiên cứu, những phát biểu của Krugman trước năm 2008 có những lúc bị “người ta” “lơ ñãng” và “thờ ơ”. Nhưng rồi cuộc khủng hoảng tài chính, rồi khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra như một bằng chứng khách quan nhất khẳng ñịnh tính chính xác và ñúng ñắn về những tiên ñoán của Krugman về vấn ñề suy thoái kinh tế.

Là Giáo sư giảng dạy môn thương mại quốc tế và ñịa kinh tế tại Trường ðại học Princeton và chủ bút mục kinh tế cho tờ Times, trong những năm qua Paul Krugman ñã viết rất nhiều sách và các bài báo, bài nhận ñịnh, phân tích, phê bình… về những bất ổn của nền kinh tế thế giới với những nguy cơ khủng hoảng và suy thoái tiềm ẩn ngay trong giai ñoạn tăng trưởng ấn tượng của kinh tế toàn cầu. Với những sự xem xét, phân tích, ñánh giá và so sánh về một cách toàn diện giữa những biến ñộng kinh tế tại các nước và khu vực như Châu Mỹ Latinh, Nhật Bản, Mexico…trong vòng 20 năm qua với cuộc ñại suy thoái 1930, Paul Krugman như tiên liệu ñược về một sự lặp lại của lịch sử suy thoái kinh tế. Và “Sự trở lại của kinh tế học suy thoái’ của Paul Krugman thực sự cần ñược xem xét nghiêm túc ñể giúp thế giới vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay.

“Kinh tế học suy thoái” – một khái niệm mới trong kinh tế học?

Kinh tế học suy thoái là một khía cạnh của kinh tế học, là khoa học nghiên cứu về nguyên nhân gây ra thất bại của nền kinh tế và cách thức giải quyết chúng. Biểu hiện của sự thất bại của nền kinh tế ở ñây chính là những ñợt suy thoái triền miên của nền kinh tế, gây ra những ảnh hưởng mang tính hệ lụy lâu dài ñối với sự phát triển mang tính bền vững của một quốc gia, khu vực và cả thế giới.

Vì trước suy thoái kinh tế năm 2008 ñã có rất nhiều ñợt suy thoái kinh tế (ñiển hình là cuộc ðại suy thoái 1930) nên thực sự khái niệm “kinh tế học suy thoái” cũng không thực sự quá mới mẻ ñối với những ai quan tâm tới kiến thức và sự hiểu biết về suy thoái, về khủng hoảng (như Paul Krugman chẳng hạn). Nó chỉ mới với những ai “thờ ơ” với nguy cơ suy thoái hay khủng hoảng kinh tế hoặc ñối với những người ñã “ngủ quên” trên những sự tăng trưởng ấn tượng của nền kinh tế toàn cầu trong thời gian vừa qua (khoảng gần 1 thập kỷ trở lại ñây, trước cuộc suy thoái kinh tế năm 2008).

Kinh tế học suy thoái chỉ ra rằng sự thất bại về mặt cầu của nền kinh tế là nguyên nhân chính gây ra sự “tắc nghẽn” trong “chu trình vận hành” của một nền kinh tế. “Trở lực” chính là sự thiếu hụt tín dụng của người dân cho tiêu dùng. Việc không có ñủ chi tiêu cá nhân sẽ gây ra việc không thể tận dụng hết công suất sản xuất của một nền kinh tế. Năng lực sản xuất lớn, khối lượng sản phẩm ñược tạo ra nhiều nhưng không ñược sử dụng sẽ tạo nên cuộc khủng hoảng “thừa”. Như vậy, chính mặt cầu hạn chế ñã làm ảnh hưởng tới cung.

Việc phân tích nguyên nhân của suy thoái kinh tế cũng là một cách ñể phê phán trường phái kinh tế học trọng cung (supply-side economics). Và cuộc suy thoái kinh tế xảy ra lại

Page 19: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

cung cấp thêm những bằng chứng bác bỏ trường phái này. Từ ñó, tạo nên một sự dịch chuyển trong cán cân tranh luận lý thuyết kinh tế học trọng cung và trọng cầu.

Về nguyên tắc, trong dài hạn những sự sụt giảm của tổng cầu sẽ tự ñiều chỉnh khi có sự thay ñổi nhanh chóng của tiền lương và giá cả. Tuy nhiên trên thực tế thì giá cả không giảm nhanh ñược, ñặc biệt là trong thời kỳ suy thoái (nhìn nhận ngắn hạn hơn là dài hạn ñể giải quyết vấn ñề trong suy thoái).

Phương án giải quyết và những vấn ñề?

Sẽ có phương án tối ưu chăng?

Như phân tích trên, nguyên nhân dẫn ñến suy thoái là do việc thiếu hụt chi tiêu cho tiêu dùng. Do ñó ñể giải quyết vấn ñề suy thoái kinh tế nên bắt ñầu từ việc cung cấp tín dụng cho tiêu dùng với mục tiêu kích cầu ñể tận dụng tối ña công suất sản xuất của nền kinh tế. Việc “khơi thông” dòng tín dụng và ñẩy mạnh chi tiêu là rất quan trọng ñể thoát khỏi khủng hoảng.

Trong bối cảnh khủng hoảng, sự thắt chặt tín dụng sẽ “thật ñiên rồ”! Tuy nhiên phải công nhận rằng không dễ dàng ñể thực hiện nó cho dù ñã biết tính hữu dụng của giải pháp. Sở dĩ như vậy là bởi chúng ta còn phải ñối mặt với sự trở lại của làn sóng lạm phát mà trước ñó không lâu chúng ta phải “khốn ñốn” vì nó. Lại một lần nữa, chúng ta phải ñối diện với sự ñánh ñổi (trade-offs) khi ra quyết ñịnh! Và có chăng tâm lý và sự kỳ vọng vào chính sách cũng ảnh hưởng tới quyết ñịnh của những nhà hoạch ñịnh chính sách trong bối cảnh “nguy khốn”? Bên cạnh ñó, “niềm tin trong khủng hoảng” cũng là một yếu tố có thể gây ra việc thắt chặt tín dụng. Người dân và các tổ chức tín dụng không muốn giao dịch trong bối cảnh như vậy khi mà lòng tin của họ về sự an toàn và ñảm bảo cho tài sản của họ ñã bị suy giảm trầm trọng. Niềm tin hay lòng tin của tập hợp nhiều cá nhân trong xã hội có thể ñược gọi chung dưới thuật ngữ “vốn xã hội”. Hay nói cách khác suy thoái ñã làm cho “vốn xã hội” suy giảm; ñến lượt nó, sự suy giảm của “vốn xã hội” sẽ làm cho xác suất xảy ra giao dịch tín dụng giảm (chi phí giao dịch sẽ tăng khi “vốn xã hội” giảm ñi); giao dịch tín dụng khó ñược thực hiện thì nguy cơ về sự “tắc nghẽn” dòng tín dụng là rất lớn. Như vậy, suy thoái kinh tế và nguy cơ khủng hoảng ñã xóa ñi nguồn vốn tín dụng.

Vậy ai sẽ có vai trò quan trọng trong bối cảnh như thế này?

Sự phản ứng và hành ñộng “khôn ngoan” và kịp thời của chính phủ các nước sẽ là cần thiết. Chính phủ sẽ phải hành ñộng ñể thực hiện sứ mệnh của một nhà sửa chữa những thất bại của thị trường mà chính nó gây ra cuộc suy thoái hiện tại. Bổ sung thêm vốn và cung cấp tín dụng ñể ñảm bảo cho việc kích cầu sẽ là một “phản ứng chuẩn mực” trong bối cảnh này của chính phủ các nước. ðiều quan trọng mà chúng ta quan tâm ñó là năng lực ñể có thể ñưa ra ñược những gói kích cầu phù hợp của mỗi chính phủ. Liệu chính phủ có ñủ lượng vốn dự trữ không? Dung lượng của gói kích cầu bao nhiêu là vừa ñủ ñể có thể vừa kích cầu thành công mà không gây áp lực lạm phát trở lại? ðối tượng mục tiêu nào sẽ ñược ưu tiên kích cầu cho từng nền kinh tế gắn với những ñiều kiện và ñặc ñiểm kinh tế - xã hội cụ thể? Và nhiều vấn ñề khác nữa… Tất cả những ñiều ñó sẽ quyết ñịnh hiệu quả của chính sách kích cầu!

Ngoài ra, trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, khi mà mỗi một nền kinh tế là một mắt xích trong hệ thống toàn cầu và sự tác ñộng ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng là rất lớn

Page 20: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

thì việc các nền kinh tế liên kết với nhau trong việc ñưa ra các chính sách ñể ñối phó với suy thoái là cần thiết.

Song song với việc kích cầu thì chúng ta cũng không nên “lãng quên” phía cung của nền kinh tế ñể làm sao cho việc chi tiêu cho tiêu dùng cũng tương xứng với khả năng sản xuất ñể tạo nên những sản phẩm thực cho nền kinh tế. Do ñó, việc kiểm soát dòng tín dụng ñể nó không tạo nên “bong bóng thị trường” cũng rất là quan trọng ñối với chính phủ các nước. Có ý kiến cho rằng nên thực hiện chi tiêu ở khu vực công vì như vậy vì việc chi tiêu này một mặt sẽ giúp kích cầu các sản phẩm, hàng hóa liên quan; mặt khác sẽ giúp tạo ra những tài sản tương ứng (như cơ sở hạ tầng).

Hệ thống tài chính cần phải ñược ñổi mới ñể lành mạnh và vững chắc hơn?

Ngày nay, hệ thống tài chính có một vai trò tối quan trọng trong “sự vận hành thông suốt” của một nền kinh tế. Nó ñược ví như là “huyết mạch” của nền kinh tế. Hệ thống tài chính cùng với hệ thống ngân hàng như là một “sợi dây kiên kết” quan trọng giữa khu vực tài chính và khu vực phi tài chính trong một nền kinh tế. Bởi lẽ ñó, nếu như có một sự “trục trặc” nào ñó ở hệ thống này thì những ñiều “tồi tệ” không chỉ liên tiếp xảy ra trong khu vực tài chính (sự phá sản của các ngân hàng, các tổ chức và ñịnh chế tài chính) mà còn sẽ xảy ra ñối với cả nền kinh tế (sự sụp ñổ của nền kinh tế), khu vực kinh tế, thậm chí là ñối với nền kinh tế toàn cầu khi mà mức ñộ hội nhập và liên kết giữa các hệ thống tài chính các nước ngày càng tăng. Do ñó, việc làm cho hệ thống tài chính càng trở nên minh bạch, lành mạnh, hoạt ñộng an toàn và có hiệu quả là vô cùng quan trọng trong bối cảnh hiện nay.

ðể làm ñược ñiều này thì cách thức quản lý của chính phủ ñối với hoạt ñộng của các ngân hàng, các tổ chức tài chính và sự luân chuyển dòng vốn giữa chúng là rất quan trọng trong mỗi nền kinh tế. Sự quản lý này cần phải tương ứng với quy mô của hệ thống tài chính, với tốc ñộ tăng trưởng của hệ thống ngân hàng ñể có thể kiểm soát kịp thời những vụ “hoảng loạn” ngân hàng do ñộng cơ về mặt lợi ích, lợi nhuận gây ra. Những quy ñịnh mang tính bắt buộc ñược “luật hóa” mà chính phủ ñưa ra ñối với tất cả chủ thể tham gia trên thị trường tài chính – ngân hàng là rất cần thiết nhằm duy trì một trật tự an toàn cho hệ thống tài chính và cả nền kinh tế. Cần chú ý rằng, những quy ñịnh này như những “luật chơi” ñược thiết kế ñể tạo ra một thể chế phù hợp mà trên ñó hệ thống tài chính ñược vận hành an toàn, thông suốt và hiệu quả chứ không ngăn cản sự phát triển của hệ thống tài chính hay “bóp méo” thị trường.

Bên cạnh chính phủ các nền kinh tế ñưa ra những chính sách quản lý hệ thống tài chính phù hợp cho riêng mình thì việc quản lý toàn cầu hóa hệ thống tài chính cũng là rất quan trọng. Trong tương lai sẽ còn có những cuộc suy thoái kinh tế mới?

Hiện nay chính phủ các nước, các tổ chức kinh tế ở các khu vực và toàn cầu ñang cố gắng làm tất cả những gì có thể ñể kinh tế thế giới thoát khỏi khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng 2008 này có trầm trọng như thế nào ñi nữa rồi cũng sẽ qua ñi. Nhưng quan trọng là sau cuộc khủng hoảng này, người ta (chính phủ các nước, các tổ chức kinh tế, các chuyên gia kinh tế, các nhà kinh tế học…) sẽ rút ra ñược những bài học gì cho tương lai về sự hiểu biết và thái ñộ ñối với “kinh tế học suy thoái”.

Page 21: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Thật khó có thể nói trước ñược là sau sự suy thoái và khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 sẽ còn có những cuộc suy thoái kinh tế mới hay không? Sự cẩn trọng có cơ sở sẽ luôn cần thiết cho sự an toàn của các nền kinh tế. ðiều ñó rất có thể lại phụ thuộc vào tư tưởng ñương ñại về nó. Vì vậy, việc thay ñổi tư duy kinh tế, cách nhìn nhận vấn ñề kinh tế phù hợp cũng là một ñiều hữu ích giúp chúng ta phát triển nền kinh tế bền vững. Xin kết thúc bài viết này với một câu nói rất nổi tiếng của Keynes: “Sớm hay muộn, chính tư tưởng chứ không phải nhóm lợi ích cục bộ sẽ quyết ñịnh sự thành bại”.

Tài liệu tham khảo:

N. Gregore Mankiw (1994). Macroeconomics – Second edition. Dịch bởi Nguyễn Văn Ngọc và các tác giả (1996). Hà Nội: Nhà xuất bản Thống Kê.

Paul Krugman (2009). The return of Depression Economics and the crisis of 2008. Dịch bởi Nguyễn Dương Hiếu, Nguyễn Trường Phú, ðặng Nguyễn Hiếu Trung, Nguyễn Ngọc Toàn. TP.HCM: Nhà xuất bản Trẻ.

Page 22: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Lý thuyết Keynes, các tranh cãi và ngăn chặn suy thoái

Lý thuyết Keynes, các tranh cãi và ngăn chặn suy thoái kinh tế ở Việt Nam

Hồ Hoàng Anh, Nguyễn Hoàng Bảo, ðoàn Kim Thành

Suy thoái kinh tế toàn cầu ñã tác ñộng tràn vào (spillover effects) kinh tế Việt Nam ở mọi chiều kích khác nhau, rõ nhất kể từ tháng 10 năm 2008. Xuất khẩu, ñầu tư trực tiếp nước ngoài, ñầu tư gián tiếp, khách du lịch, cầu trong nước, mạng lưới kinh doanh xây dựng và phát triển kể từ khi thành lập doanh nghiệp và chuyển tiền, tất cả ñều giảm mạnh. Trong mấy thập niên qua, kinh tế thị trường với quy luật cung cầu và sự ñào thải, toàn cầu hóa với ưu và nhược ñiểm và vai trò rất hạn chế của nhà nước, theo trường phái của Adam Smith (1723 – 1790) ñược ñề cập hầu hết trên văn ñàn kinh tế trong và ngoài nước. Vai trò của nhà nước chỉ làm cản trở quá trình tiến hóa và chọn lọc tự nhiên của công nghệ, trình ñộ quản lý, quy mô sản xuất và phân phối của bàn tay vô hình. Nhưng kể từ khi suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2007 và các mất cân ñối kinh tế lớn trên thế giới, thất nghiệp leo thang, ñời sống người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng, sản xuất ñình ñốn, thu nhập và phân phối xấu ñi, thì vai trò can thiệp chủ ñộng và tích cực của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế, theo John Maynard Keynes (1883–1946), ñược nhấn mạnh hơn bao giờ hết. Chính phủ các nước không thể bị ñộng nhìn tình cảnh như vậy, mà phải hành ñộng tức thời (1). Các quốc gia suy thoái cầu, giàu hay nghèo cũng vậy, ñã ñưa ra ngân sách cho các nhóm giải pháp kích cầu. Các quốc gia nghèo thì khó khăn hơn, vì bên cạnh những khó khăn mang tính thường trực của nước nghèo, thì còn phải ñối mặt thêm với khó khăn do suy thoái. Chẳng hạn như với nguồn lực rất hạn chế về vốn tài chính, vốn vật thể, thiếu hụt cả về vốn con người với những tư duy phát triển, thiếu hụt và sự không tương thích của thể chế (thể chế chưa thông minh), mà còn dành một khoản ngân qũy hạn hẹp ñể kích cầu (2). Dường như các quốc gia này buộc phải lựa chọn giữa các mục tiêu vĩ mô: Ổn ñịnh hay phát triển, ngắn hạn hay dài hạn. Bài viết này trình bày lại lý thuyết Keynes, như một lời tri ân ñến một nhà kinh tế của mọi thời ñại, các tranh cãi xung quanh và với hy vọng tìm kiếm giải pháp ngăn chặn suy thoái kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

Lý thuyết Keynes

Keynes cho rằng sản lượng và mức nhân dụng (dưới mức tiềm năng) trong nền kinh tế do cầu quyết ñịnh. Các thành phần tổng cầu bao gồm:

AD = C + I + G + X – M (eq 1)

Trong ñó: C, I, G, X và M lần lượt là tiêu dùng, ñầu tư, chi tiêu chính phủ, xuất khẩu và nhập khẩu. Trong ñó nhập khẩu M = Cf + If + Gf; với Cf, If và Gf lần lượt là tiêu dùng, ñầu tư và chi tiêu của chính phủ mua hàng hóa, dịch vụ nước ngoài.

Luận ñiểm 1: Tiền lương chỉ ảnh hưởng ñến quyết ñịnh lựa chọn giữa lao ñộng và tư bản của doanh nghiệp (L/w = K/r) (3). Thất nghiệp không thể ñưa ñến việc giảm tiền lương bởi vì người lao ñộng sẽ từ chối làm việc nếu mức lương thấp.

Luận ñiểm 2: ðầu tư phụ thuộc vào: (a) sức cầu trong thực tế và (b) dự ñoán của các doanh nghiệp về khả năng sinh lợi của ñầu tư trong tương lai. Lãi suất chỉ ảnh hưởng ñến quyết ñịnh lựa chọn giữa tư bản và lao ñộng của doanh nghiệp (tương tự như trên: K/r = L/w). Vì thế việc cố tình cắt giảm lãi suất ñến một mức nào ñó sẽ không làm tăng ñầu tư,

Page 23: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

không làm tăng sản lượng và tình trạng này ñược gọi là bẫy thanh khoản (xem chú thích 1). Luận ñiểm 3: Tiêu dùng phụ thuộc vào thu nhập và khuynh hướng tiêu dùng biên. Khuynh hướng tiêu dùng biên giảm xuống khi thu nhập tăng lên. Tiêu dùng ñóng vai trò quan trọng trong việc ñưa nền kinh tế ñến trạng thái cân bằng tại sản lượng tiềm năng và mức nhân dụng tối ña và gia tăng tổng cầu thông qua hiệu ứng số nhân (k). Số nhân (k) trong một nền kinh tế mở chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng tiêu dùng biên (c), khuynh hướng xuất khẩu biên (e) và khuynh hướng nhập khẩu biên (m).

k = 1/[(1 – c)+(e – m)] (eq 2)

Ở luận ñiểm này, có thể thấy hai ý chính: (a) Tiết kiệm quá mức trong ñiều kiện suy thoái, làm nghiêm trọng thêm vấn ñề suy thoái và thậm chí làm ngưng trệ nền kinh tế (stageflation) (4). Vấn ñề này gọi là nghịch lý của tiết kiệm. Mọi cố gắng tiết kiệm (5) của các cá nhân, sẽ thu hẹp cầu và thu hẹp sản lượng quốc gia. Có thể khảo sát tiết kiệm hiện tại và tăng trưởng trong dài hạn và ngắn hạn (xem chú thích 2); (b) Lý thuyết Keynes theo ñuổi một xã hội hài hòa. Một xã hội có mức nhân dụng cao, nhưng không gây ra lạm phát và Keynes ñưa ra khái niệm tỷ lệ thất nghiệp không làm tăng tốc lạm phát (nonaccelerating inflation rate of unemployment). Keynes chú trọng các biện pháp làm thay ñổi phân phối thu nhập theo hướng có lợi cho khuynh hướng tiêu dùng biên, giảm một cách tương ñối thu nhập ở khu vực có khuynh hướng tiêu dùng biên thấp (khu vực người có thu nhập cao) và tăng một cách tương ñối thu nhập ở khu vực có khuynh hướng tiêu dùng biên cao (khu vực người có thu nhập thấp).

Tranh cãi xung quanh lý thuyết Keynes

Kinh tế học Cổ ñiển cho rằng cầu lao ñộng phụ thuộc vào tiền lương. Trên thị trường lao ñộng, khi cung lao ñộng lớn hơn cầu lao ñộng, việc giảm tiền lương sẽ kích thích thuê mướn, giảm thất nghiệp và có thể ñạt mức nhân dụng tối ña (6). Vì thế họ ủng hộ việc xóa bỏ các quy ñịnh về tiền lương tối thiểu và các nghiệp ñoàn lao ñộng. Keynes tranh cãi rằng tiền lương phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tiền lương danh nghĩa, không phải tiền lương thực, là ñối tượng ñược thỏa thuận trong các hợp ñồng lao ñộng giữa người chủ thuê mướn và nhân công, hợp ñồng này phụ thuộc vào luật ñịnh, sức mạnh mặc cả và nghiệp ñoàn lao ñộng. Việc giảm tiền lương danh nghĩa tức thời là rất khó bởi vì các ràng buộc của hợp ñồng lao ñộng thường có tính dài hạn. Thậm chí, nếu không có luật ñịnh và nghiệp ñoàn lao ñộng, người lao ñộng vẫn ñấu tranh chống lại việc giảm sút tiền lương. Họ chỉ chấp nhận khi có một sự giảm sút tương ứng của mức giá chung. Theo Keynes, giảm tiền lương sẽ làm giảm tiêu dùng, dẫn ñến giảm tổng cầu. ðiều này sẽ dẫn ñến sự sụt giảm trong doanh thu và lợi nhuận kỳ vọng và các doanh nghiệp sẽ giảm ñầu tư. Hơn nữa, giảm tiền lương, dẫn ñến sự giảm sút trong mức giá, người ta sẽ không chi tiêu vì kỳ vọng hàng hóa và dịch vụ sẽ còn giảm giá nữa. Do ñó, giảm tiền lương sẽ làm cho vấn ñề càng trở nên tồi tệ hơn.

Kinh tế học Cổ ñiển cho rằng khi tiết kiệm quá nhiều, tạo ra thặng dư cung của các khoản cho vay, lãi suất phải giảm xuống ñể ñưa thị trường cho vay về ñiểm cân bằng. Keynes tranh luận rằng ñầu tư và tiêu dùng trong ngắn hạn không thay ñổi nhiều khi lãi suất thay ñổi (ñường I và S có ñộ dốc rất cao). Khi ñầu tư giảm từ I xuống I’, ngụ ý lãi suất có thể âm tại ñiểm cân bằng mới là giao ñiểm của I’ và S, nền kinh tế rơi vào “bẫy thanh khoản”.

Page 24: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Keynes cho rằng tiết kiệm quá nhiều sẽ giảm tiêu dùng, giảm tổng cầu và dẫn ñến giảm sản lượng cân bằng và thu nhập.

Tiết kiệm, vì thế sẽ giảm tương ứng từ S xuống S’, thị trường cho vay lại ñạt ñến ñiểm cân bằng mà không cần phải ñiều chỉnh lãi suất, thay vào ñó là một sự suy thoái. Theo Keynes, trong ngắn hạn, không phải tiết kiệm và ñầu tư, mà là cung và cầu tiền sẽ quyết ñịnh lãi suất. Vòng lặp tiếp tục, khi thu nhập giảm xuống, chi tiêu cũng giảm xuống, dẫn ñến giảm doanh thu và lợi nhuận kỳ vọng, ñầu tư sẽ tiếp tục giảm. ðiều này sẽ làm cho ñường I’ tiếp tục dich chuyển sang trái, tái tạo lại tình trạng tiết kiệm dư thừa và làm cho suy thoái càng tồi tệ hơn.

Hình 1

Trường phái Áo phê phán những nền tảng lý thuyết của Keynes ñòi hỏi phải có sự quản lý tập trung, ñiều này sẽ dẫn ñến sự lạm dụng quyền. Trường phái Cổ ñiển và Tân Cổ ñiển cho rằng sự sử dụng chính sách kích cầu này có thể ñưa ñến nguy cơ của sự hình thành các nhóm lợi ích có dính líu hay liên quan ñến chính phủ. Trường phái kinh tế học Cổ ñiển mới, mà ñại diện là Robert Lucas, kỳ vọng hợp lý sẽ ñánh bật hết bất kỳ chính sách tiền tệ và tài chính. Nhưng những người ủng hộ Keynes thì cho rằng kỳ vọng hợp lý chỉ vận hành trong ñiều kiện nền kinh tế có một ñiểm cân bằng ở mức nhân dụng tối ña, mà mức giá cứng nhắc ñưa ñến nhiều ñiểm cân bằng trong ngắn hạn.

Ngăn chặn suy thoái ở Việt Nam

Tất cả quan ñiểm phân tích kích cầu bên dưới phải bám vào quan ñiểm “số tiền hạn hẹp phải ñược sử dụng thông minh”: (1) Kích cầu theo Keynes, vì một số người có quan ñiểm kích cầu chung chung hay kích lộn qua phía cung, (2) Sắp xếp theo thứ tự ưu tiên về tầm quan trọng (chủ quan của người viết) vì nguồn tài chính sử dụng có hạn, (3) Tiến hành trong ngắn hạn cho ñến khi nền kinh tế ñã ñi vào qũy ñạo ổn ñịnh, liên tục và sàng lọc tự nhiên của kinh tế thị trường, thì can thiệp phải chấm dứt, nếu tiếp tục thì sẽ là sự cản trở cho phát triển. Hỗ trợ lãi suất cho các dự án ñầu tư dài hạn, của gói kích cầu thứ hai, của chính phủ vào ñầu tháng 4 năm 2009 (ñược thực hiện hỗ trợ lãi suất từ 1/4/2009 ñến 31/12/2011) là vi phạm nguyên tắc kích cầu của Keynes. Kích cầu ñược sử dụng bằng tiền trái phiếu chính phủ dài hạn mà ñi tài trợ lãi suất cho dự án ñầu tư dài hạn? (4) Kích cầu là ñưa nền kinh tế về qũy ñạo bình quân có tính ñến những vấn ñề nâng cao năng lực

Page 25: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

cạnh tranh của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những vấn ñề phải ñối mặt trước và sau suy thoái cầu. Kích cầu mà không tính ñến năng lực cạnh tranh là kích cầu tĩnh (tạm gọi như vậy). Nhưng quá chú trọng năng lực cạnh tranh mà ñi xa qũy ñạo kích cầu của Keynes cũng không ñược, vì vấn ñề của kích cầu là vấn ñề ngắn hạn, còn vấn ñề năng lực cạnh tranh là vấn ñề thường trực và luôn tính ñến trong dài hạn. Quan ñiểm ñổi mới công nghệ trong thời ñiểm này ñể năng cao năng lực cạnh tranh là ñi sai với tinh thần kích cầu của Keynes, bởi vì máy móc công nghệ ñều nhập từ bên ngoài, cho nên thay ñổi công nghệ ngay lúc này là kích cầu cho bên ngoài, chứ không phải kích cầu trong nước (xem phương trình số nhân tổng cầu số 2).

Kích cầu xuất khẩu

Tuy lựa chọn phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu là ñúng ñắn (xem chú thích 3), nhưng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu sản phẩm thô, hàm lượng giá trị gia tăng trong sản phẩm không cao, nằm trong quỹ ñạo gia công, chế biến và lắp ráp và ñặc biệt là trong mặt hàng xuất khẩu thì hàm lượng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn (ñây là vấn ñề thương mại tạo thương mại) làm cho nhập khẩu ngày càng nhiều hơn và lệ thuộc vào hàng nhập. Do nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu (năm 2007 chiếm 77% GDP) nên suy thoái từ bên ngoài ảnh hưởng ngay ñến nền kinh qua kênh này, chưa kể hàng các nước không bán ñược tràn vào Việt Nam.

Như vậy câu hỏi ñặt ra, cho các nhà hoạch ñịnh chính sách: Kích cầu xuất khẩu bắt ñầu từ ñâu? Vì nguồn lực có hạn cho nên chúng ta chỉ có thể bắt ñầu quan trọng nhất ñến vấn ñề ít quan trọng hơn.

Thứ nhất, tập trung hỗ trợ trực tiếp ngành xuất khẩu mà có tỷ lệ nội ñịa hóa (7) cao nhất (nội lực), thường là những ngành xuất khẩu nông sản (thủy sản, trồng trọt và chăn nuôi). Trong công thức (2) có thể thấy khuynh hướng xuất khẩu biên (e) và khuynh hướng nhập khẩu biên (m) thể hiện trong số nhân của tổng cầu (k). Hơn nữa, chính sách này cũng giải quyết vấn ñề ñời sống cho những người thất nghiệp ở ñô thị và trở về quê hòa nhập vào cuộc sống.

Thứ hai, phải khảo sát ñộ nhạy giữa mức tăng cung xuất khẩu, mức giảm cầu nhập khẩu với sự phá giá ñồng Việt Nam, ñể có thể có ñược chính sách phá giá tiền ñồng trong phạm vi có hiệu quả. Chuyên gia kinh tế Vũ Quang Việt cho rằng xuất khẩu vào qúy hai năm 2009 sẽ giảm mạnh vì hợp ñồng xuất khẩu có thể không ñược ký tiếp và nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thế giới ñến Việt Nam sẽ rõ nét nhất.

Thứ ba, hỗ trợ các ngành hay doanh nghiệp thay thế hàng nhập hay có khuynh hướng thay thế hàng nhập, việc này làm giảm khuynh hướng nhập khẩu biên trong số nhân của tổng cầu.

Kích cầu bằng chính sách tài khóa

Chính sách tài khóa là chính sách còn lại ñầu tiên mà phải nghĩ tới trong ñiều kiện suy thoái hiện nay. Các tiêu chuẩn cần phải ñặt ra khi sử dụng chính sách này trong ñiều kiện suy thoái cầu của Keynes như sau:

(1) Sử dụng chính sách này phải ñưa vào mức lạm phát mục tiêu tối ña (maximum targeted inflation). Vì gia tăng chi tiêu và/hay giảm thuế ñều dẫn ñến lạm phát, do ñó phải

Page 26: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

khống chế lạm phát ở mức cho phép. Tăng chi tiêu/giảm thu ngân sách, trong ñiều kiện suy suy thoái, là phải nghĩ ngay ñến tác ñộng của lạm phát ñến an sinh xã hội, ñầu tư trong nước và nước ngoài. Chú ý ñây không phải sự ñánh ñổi giữa tăng trưởng kinh tế và ổn ñịnh kinh tế (kích cầu), mà là sự ñánh ñổi giữa sự ổn ñịnh kinh tế này (kích cầu) và một sự ổn ñịnh khác (mức lạm phát tối ña không ñược vượt qua). Phải ñiều chỉnh tỷ lệ thâm hụt ngân sách (hay cụ thể hơn là nguồn thu và chi) với tỷ lệ lạm phát tối ña cho phép, hơn là ñiều chỉnh tỷ lệ thâm hụt ngân sách (khống chế 8% GDP cho năm 2009, bình quân chỉ có 5%) với tăng trưởng kinh tế có hiệu chỉnh xuống còn 5% như một số nhà kinh tế bàn ñến. Tiêu chuẩn này phòng ngừa nguy cơ có thể ñưa ñến tình trạng ngưng trệ (stageflation) như ñã ñề cập bên trên. Mức lạm phát dự kiến 15% (chứ không phải mức lạm phát mục tiêu tối thiểu) là cao trong nền kinh tế suy thoái, ảnh hưởng mạnh ñến an sinh xã hội trên diện rộng và ñầu tư trong và ngoài nước;

(2) Về nguyên tắc tác ñộng của chi tiêu chính phủ ñến số nhân của tổng cầu phải lớn ñể có thể vực dậy hoạt ñộng kinh tế ñất nước. Nếu chính phủ tăng chi tiêu, người dân nhận thêm tiền và chi vào hàng hóa tiêu dùng thêm và ñể dành lại. Hàng hóa bán thêm ñược do người dân chi tiêu dùng thêm, cho phép doanh nghiệp thuê mướn thêm lao ñộng và trả lương cho họ và những người này, ñến lượt họ, họ sử dụng tiền lương ñể chi tiêu. Tiến trình này tiếp tục. Ở mỗi bước, tiến trình gia tăng chi tiêu nhỏ hơn so với bước trước. Tiến trình này tiếp tục cho ñến khi hội tụ về ñiểm cân bằng và ñược gọi là tiến trình số nhân của chi tiêu của chính phủ;

(3) Phải minh bạch thu chi chính phủ và kiểm soát các dự án công, ñặc biệt là ngân qũy sử dụng vào kích cầu, vì nguy cơ lạm quyền (như trường phái của Áo) hay nguy cơ hình thành các nhóm lợi có liên quan ñến chính phủ (như trường phái của Cổ ðiển và Tân Cổ ðiển) là tình huống có thể xảy ra và nếu là như thế thì chính sách kích cầu sẽ không còn hiệu lực. Tiền sử dụng kích cầu, từ trái phiếu chính phủ (64 ngàn tỷ ñồng thay vì 36 ngàn tỷ như dự kiến cuối năm 2008) phải ñược sử dụng có kiểm soát. Chúng ta ñã bán tương lai ñi mà mua hiện tại (8), mà nghĩ ñến hiện tại, thì phải là hiện tại ñược kiểm soát và phải vực dậy hoạt ñộng kinh tế.

Với những tiêu chuẩn như vậy, kích cầu bằng chính sách tài khóa bắt ñầu từ ñâu? Kích cầu bằng ñầu tư vào cơ sở hạ tầng, hỗ trợ tiêu dùng, hỗ trợ lãi suất và hoãn thuế thu nhập cá nhân.

Thứ nhất, ñầu tư vào cơ sở hạ tầng (ñặc biệt là cơ sở hạ tầng nông thôn, vùng ñệm ñể giải quyết việc làm từ ñô thị thất nghiệp trở về) ñầu tư vào giáo dục và y tế. ðầu tư này có ý nghĩa như sau: Gia tăng sản lượng qua số nhân tổng cầu của Keynes, tăng mức nhân dụng ñể giải quyết vấn ñề an sinh xã hội, giảm thiểu mất công bằng trong xã hội bởi vì, do tính không loại trừ của hàng hóa công, mọi người trong xã hội ñều có thể tiêu dùng, vì thế sẽ làm gia tăng phúc lợi xã hội, ñặc biệt là cho những người nghèo. Trong gia tăng số nhân của tổng cầu có hàm chứa là: ðầu tư chính phủ làm giảm chi phí của ñầu tư tư nhân (về các khía cạnh cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, thể chế, thông tin, ngành hỗ trợ và nguồn nhân lực) và do ñó kích thích ñầu tư tư nhân (crowd–in effects).

Thứ hai, hỗ trợ tiêu dùng thiết yếu trong nước. Hỗ trợ này giúp: Gia tăng sản lượng thông qua số nhân tiêu dùng của Keynes; nới lỏng thói quen tiêu dùng mà trước ñó ñã bị thắt chặt thông qua chính sách thắt chặt tiền tệ; chú trọng hơn thị trường nội ñịa, bỏ ñi quan

Page 27: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

ñiểm hàng tốt thì xuất khẩu, còn hàng không tốt thì tiêu dùng trong nước. Chính sách mở rộng thị trường nông thôn phải ñi sau chính sách tăng thu nhập (xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo việc làm, giảm thuế, mở rộng cơ hội kinh tế nông thôn), bởi vì nông dân là thành phần có thu nhập thấp, khuynh hướng tiêu dùng biên cao, nhưng tiêu dùng tuyệt ñối thấp và là hàng thiết yếu. Liệu mở rộng thị trường nông thôn có hiệu quả hay không khi thu nhập người nông dân không tăng lên? Ở ñây chúng ta có thể thấy yếu tố trước sau của chính sách rất quan trọng. Còn kích cầu tiêu dùng của người có thu nhập cao như thế nào? Theo lý thuyết của Keynes, những người có thu nhập cao thì khuynh hướng tiêu dùng biên thấp, mặc dù lượng tiêu dùng tuyệt ñối cao. Những người này tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ không thiết yếu mà ña phần là từ nhập khẩu (Cf trong phương trình số 1 là rất lớn). Như vậy hiệu số nhân không cao khi kích cầu tiêu dùng nhóm có thu nhập cao này.

Thứ ba, hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp không tập trung vào hoạt ñộng kinh doanh chính, chạy theo bong bóng chứng khoán và bất ñộng sản trong năm 2007, hậu quả là lợi nhuận âm và những khoản nợ trong năm 2008. Hỗ trợ lãi suất giúp cho các doanh nghiệp này vay nợ mới, trả nợ cũ và thoát khỏi phá sản. ðiều này là bất công, không hiệu quả và không có liên quan gì ñến chính sách kích cầu của Keynes. Trong ñiều kiện suy thoái và can thiệp của chính phủ, thì quy luật ñào thải vẫn phải chi phối. Hơn nữa, trên thị trường tồn tại hai mức lãi suất ưu ñãi 4% và lãi suất không ưu ñãi 10,5% song hành, thì sẽ tạo không gian sinh tồn cho lạm quyền và nhóm lợi ích. ðây là các câu hỏi không liên quan ñến kích cầu theo quan ñiểm Keynes: Liệu với mức lãi suất thấp doanh nghiệp giảm chi phí và tăng ñầu tư thêm bao nhiêu? Liệu doanh nghiệp có ñầu tư thêm hay không khi cầu không có? Liệu doanh nghiệp không ñầu tư thêm, thì doanh nghiệp dùng khoản dư ra này kích tích lũy bao nhiêu hay kích trả nợ bao nhiêu?

Thứ tư, kích cầu bằng chính sách hoãn thuế thu nhập cá nhân là không hiệu quả và gây lãng phí. Việc hoãn thu thuế thu nhập cá nhân chỉ nên áp dụng cho bộ phận có thu nhập dưới một ngưỡng nhất ñịnh.

Kết luận

Tác ñộng của khủng hoảng sẽ là một giao ñộng tắt dần, tùy thuộc vào: (1) sự phối hợp các nước trong việc khắc phục và (2) chính sách của chính phủ mỗi nước. Không phải suy thoái ñều mang lại kết quả xấu, ñây là các nhà hoạch ñịnh chính sách và quản lý vĩ mô có cơ hội học hỏi tư duy phát triển của Keynes, cải cách mạnh hơn nữa về thể chế chính sách, nâng cao năng lực ñiều hành vĩ mô, nhìn nhận lại những cái làm ñược và làm không ñược, bởi vì chính sách mỗi nước có khác nhau (do ngân sách, ñặc thù kinh tế mỗi nước, thể chế hiện hành, tác ñộng của khủng hoảng, năng lực ñiều hành, tư duy phát triển); Các doanh nghiệp có cơ hội tái cấu trúc lại sản xuất kinh doanh, nguồn nhân lực, mạng lưới kinh doanh, ñánh giá lại năng lực cạnh tranh, ñến khi nền kinh tế thăng bằng trở lại, thì sẵn sàng chịu chi phối bởi sự sàng lọc tự nhiên kinh tế thị trường với quy luật cung cầu và sự ñào thải khắc nghiệt hơn.

Chú thích

(1) Bẫy thanh khoản (Liquidity trap): là chính sách nới lỏng tiền tệ, về nguyên tắc, không phát huy tác dụng trong ñiều kiện suy thoái. Lãi suất danh nghĩa giảm xuống xấp xỉ không phần trăm (chi phí cơ hội của việc giữ tiền xấp xỉ bằng không), khiến cho mọi người

Page 28: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

muốn nắm giữ tiền mặt thay vì gửi vào ngân hàng do sự ưa chuộng tính thanh khoản (liquidity preference). Phần nằm ngang của ñường LM. Vì lãi suất danh nghĩa không thể âm, nên tăng cung tiền không làm cho ñường LM dịch chuyển xuống phía dưới thêm nữa và vì thế mà sản lượng không thay ñổi. ðây là trường hợp Nhật Bản năm 1997.

Hình 2

(2) Khảo sát giữa tác ñộng của tiết kiệm hiện tại ñối với tăng trưởng trong dài hạn và ngắn hạn (Chú ý: trong dài hạn thì sản lượng không ñổi, giá cả linh hoạt, vốn và lao ñộng ñược toàn dụng, còn trong ngắn hạn thì sản lượng thay ñổi, giá cả cứng nhắc, vốn và lao ñộng chưa ñược toàn dụng) có thể thấy: (a) Trong dài hạn, tỷ lệ tiết kiệm ảnh hưởng rất nhỏ ñến thu nhập và tăng trưởng. Do các nguyên nhân sau: Tiết kiệm chuyển thành vốn và có suất sinh lợi giảm dần (ñiều này minh họa bằng ñộ dốc giảm dần của f(k) trong mô hình Solow y = f(k), trong ñó y là sản lượng/người và k là vốn/người); tỷ lệ tiết kiệm tăng 10%, thì sản lượng bình quân ñầu người cân bằng tăng khoảng 3%; Tốc ñộ hội tụ về trạng thái cân bằng rất chậm. Chỉ có tiết kiệm và tiến bộ công nghệ mới tác ñộng mạnh ñến tăng trưởng dài hạn; (b) Trong ngắn hạn, tỷ lệ tiết kiệm làm giảm sản lượng. Tuy nhiên, tiết kiệm có thể làm tăng sản lượng, nếu nguồn vốn tiết kiệm ñược chuyển sang ñầu tư thông qua hệ thống tài chính (ñiểm cân bằng mới ở mức sản lượng cao hơn, khi ñầu tư tăng lên).

(3) ðóng góp của xuất khẩu ñối với nền kinh tế nhìn chung có thể thấy ở các khía cạnh như sau: (1) Có thể giải phóng ñược thặng dư cung hàng hóa và dịch vụ trong sản xuất ở một ngành cụ thể; (2) Mở rộng sản xuất trên quy mô lớn, cho nên tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô; (3) Xuất khẩu ñược thì chúng ta có ngoại tệ và tăng khả năng nhập khẩu, thúc ñẩy nhanh quá trình CNH và HðH; (4) Xuất khẩu mở ra công ăn việc làm và thu nhập (người dân, doanh nghiệp và chính phủ); (5) Xuất khẩu khai thác tối ña lợi thế so sánh của quốc gia và vì thế mà làm tăng phúc lợi xã hội; (6) Xuất khẩu ñưa hình ảnh, uy tín và thanh thế Việt Nam ra nước ngoài; (7) Xuất khẩu làm cho hàng hóa và dịch vụ Việt Nam theo chuẩn quốc tế và quá trình xuất khẩu là quá trình học hỏi qua cách làm; (8) Khuynh hướng tiết kiệm biên của khu vực xuất khẩu cao nhất nền kinh tế. Xuất khẩu còn làm tăng cả khuynh hướng tiết kiệm biên của các ngành có liên quan hay hỗ trợ cho xuất khẩu; (9) Xuất khẩu buộc hàng hóa và dịch vụ trong nước bán theo giá thế giới, mà giá thế giới là giá mờ (shadow price) là mức giá có tính ñủ chi phí tư nhân và chi phí ngoại

Page 29: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

tác ñể sản xuất, phân phối và tiêu dùng, từ ñó sẽ làm cho nguồn lực trong nước ngày càng sử dụng có hiệu quả hơn.

Tài liệu tham khảo:

Báo cáo của chính phủ Việt Nam (2008). “Giải pháp nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và ñảm bảo an sinh xã hội” , Báo cáo số 191/BC CP, Gửi Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội, Hà Nội.

Maurice Baslé và các tác giả (1988). Histoire des pensées esconomiques Les fondateurs. Dịch bởi Chu Tiến Ánh & Lê Diên (2000). Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa Học.

N. Gregore Mankiw (1994). Macroeconomics – Second edition. Dịch bởi Nguyễn Văn Ngọc và các tác giả (1996). Hà Nội: Nhà xuất bản Thống Kê.

Naoyuki Yoshino & Masaki Nakahigashi (2000). Economic effect on infrastructure-Japan’s experience after Wolrd War II. JBIC Review. Special Issue (No.3), pp.3-19.

Olivier Blanchar (1999). Macroeconomics. Second Edition. US: Prentice Hall Inc.

Paul Krugman (1999). Thinking about The Liquidity Trap. [online]

Truy cập tại: http://web.mit.edu/krugman/www/trioshrt.html [truy cập vào ngày 04/04/2009].

Wikipedia. The General Theory of Employment, Interest and Money. [online] (truy cập ngày 19/03/2009).

Truy cập tại: http://en.wikipedia.org/wiki/The_Genera ... _and_Money [truy cập vào ngày 24/03/2009].

Page 30: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

KINH TẾ HỌC TIẾN HÓA

PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ HỌC TIẾN HÓA

1 – Giới thiệu

Kinh tế học tiến hóa (tạm dịch từ Evolutionary economics, hay Evolutionary theory of economics) ñược phát triển thành một học thuyết kinh tế từ năm 1982 với quyển An Evolutionary Theory of Economic Change của Richard Nelson và Sidney Winter. Tuy nhiên, những nghiên cứu liên quan ñến lý thuyết này ñược xây dựng từ những công trình từ những năm 1940 và 1950.

Lý thuyết này bắt ñầu bằng việc phê phán kinh tế học chính thống mà chủ yếu là trường phái Tân cổ ñiển. Kinh tế học tân cổ ñiển giải thích các hiện tượng kinh tế dựa trên giả ñịnh rằng các chủ thể kinh tế là những chủ thể hợp lý với mục tiêu tối ña hóa lợi nhuận hay ñộ thỏa dụng. Lý thuyết tiến hóa cho rằng các chủ thể ra quyết ñịnh dựa vào thói quen hơn là sự hợp lý, và quá trình này là một quá trình lặp ñi lặp lại, trong ñó các quyết ñịnh sau dựa vào những khám phá và “rút kinh nghiệm” từ những quyết ñịnh (có thể là sai lầm) trước ñó và của những chủ thể khác.

Mặc dù lý thuyết này ñề cập ñến các chủ thể kinh tế (economic agent) nói chung, nhưng những nghiên cứu của nó cho ñến nay chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp. Các nghiên cứu có ñối tượng là cá nhân ít hơn, chủ yếu tập trung vào lý thuyết trò chơi. Một số nghiên cứu áp dụng phương pháp thực nghiệm (experiment) ñể thấy rằng các cá nhân không hoàn toàn hợp lý theo nghĩa tốt ña hóa lợi ích cá nhân.

Với giả ñịnh rằng các doanh nghiệp ra quyết ñịnh của mình dựa vào quá trình tự ñiều chỉnh, thị trường ñược cho là cơ chế chọn lọc. Những doanh nghiệp liên tục ra quyết ñịnh sai lầm sẽ có năng suất thấp và cuối cùng buộc phải rời bỏ ngành. Những doanh nghiệp ra quyết ñịnh tốt sẽ có năng suất cao và chiếm lĩnh thị trường. Những doanh nghiệp yếu hơn sẽ bắt chước các doanh nghiệp mạnh hơn. Và những quyết ñịnh “tốt” cũng sẽ ñược ñiều chỉnh cho “tốt hơn” thông qua quá trình cải tiến. Các doanh nghiệp sẽ ñầu tư vào hoạt ñộng nghiên cứu và phát triển ñể mở ra thị trường mới, chiếm giữ vị thế ñộc quyền tương ñối cho ñến khi các doanh nghiệp khác bắt chước. Về mặt này, lý thuyết kinh tế học tiến hóa tiếp thu công trình của Schumpeter trong quyển Chủ nghĩa tư bản, Chủ nghĩa xã hội và Dân chủ (Capitalism, Socialism and Democracy, 1942).

Lý thuyết kinh tế học tiến hóa có ý tưởng tương tự như thuyết tiến hóa của Darwin về sự chọn lọc tự nhiên, theo ñó những gen “tốt” (theo nghĩa tăng cường khả năng sống sót trong tự nhiên) sẽ ñược duy trì và phát triển, trong khi những gen “xấu” sẽ bị ñào thải). Kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên là chỉ những sinh vật “mạnh” mới có khả năng tồn tại trong tự nhiên. Có lẽ ñó là lý do lý thuyết này ñược gọi là Evolutionary theory of economics.

2 - Những nền tảng cơ bản

Theo Dosi & Nelson (1994), kinh tế học tiến hóa bao gồm những lý thuyết, mô hình hay lập luận với hai ñặc ñiểm sau. Một là, mục ñích của chúng là giải thích sự vận ñộng của các sự vật hiện tượng theo thời gian. Hai là cách giải thích này bao gồm i) những yếu tố ngẫu nhiên gây ra sự vận ñộng và ñiều chỉnh của biến số ñang quan tâm; và ii) một cơ chế sàng lọc ñối với những sự vật hiện tồn. Trên phương diện xã hội, các mô hình tiến hóa liên quan ñến quá trình tìm tòi và khám phá (dựa trên những sai lầm) và một cơ chế chọn lọc.

Lý thuyết này bao gồm bốn nền tảng cơ bản: ñơn vị lựa chọn cơ bản (tương tự như gen trong sinh học); một cơ chế liên kết ñơn vị lựa chọn này với các chủ thể (tương tự như kiểu gen trong sinh học); một quá trình tương tác mà kết quả là sự chọn lọc; và những cơ chế gây ra sự biến ñổi trong các ñơn vị lựa chọn cơ bản và các chủ thể.

2.1 ðơn vị lựa chọn cơ bản

Page 31: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

ðơn vị lựa chọn có thể là công nghệ, chính sách, hành vi, các ñặc trưng văn hóa. Những ñơn vị lựa chọn này có ảnh hưởng quyết ñịnh ñối với hoạt ñộng của các chủ thể (tổ chức, doanh nghiệp hay cá nhân) sở hữu nó. Những công nghệ, chính sách, hành vi, ñặc trưng văn hóa có thể thay ñổi và ñiều chỉnh theo thời gian.

Lưu ý rằng cơ chế chọn lọc sẽ chọn lọc các chủ thể chứ không chọn lọc ñơn vị cơ bản. Ví dụ, thị trường loại bỏ những doanh nghiệp sử dụng tồi một công nghệ nào ñó, chứ không loại bỏ công nghệ ñó. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, cơ chế chọn lọc cũng loại bỏ công nghệ, hay ñơn vị cơ bản.

2.2 Cơ chế và các tiêu chí chọn lọc

ðó là một cơ chế loại bỏ những chủ thể có ñơn vị cơ bản “không phù hợp”. Khái niệm “không phù hợp” có thể rất chủ quan, dẫn ñến những tiêu chí chọn lọc ñôi khi mâu thuẫn. Ví dụ, một doanh nghiệp có thể ñược ñánh giá tốt trên thị trường sản phẩm (vốn dựa vào các tiêu chí là chất lượng, giá cả, kênh phân phối, dịch vụ hậu mãi...), nhưng lại có thể bị ñánh giá thấp trên thị trường chứng khoán (vốn dựa vào các tiêu chí như tỷ suất lợi nhuận, kỳ vọng của nhà ñầu tư về lợi nhuận tương lai...).

2.3 Sự biến ñổi và ñiều chỉnh

Là quá trình mà các chủ thể mày mò học hỏi và ñiều chỉnh ñể tồn tại, ñồng thời sáng tạo. ðối với doanh nghiệp, sáng tạo có thể là kết quả của quá trình nghiên cứu và phát triển. ðiều này khác hẳn với kinh tế học Tân cổ ñiển. Kinh tế học tân cổ ñiển giả ñịnh doanh nghiệp tối ña hóa lợi nhuận, và ñể tối ña hóa lợi nhuận, nó phải phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, ñồng thời trên thị trường, chỉ những doanh nghiệp hiệu quả nhất mới tồn tại.

3 - Khắc phục những nhược ñiểm của Tân cổ ñiển

Theo Nelson và Winter (1974), kinh tế học tân cổ ñiển giải thích tốt trong nhiều vấn ñề, nhưng cũng có nhiều lĩnh vực mà nó không giải thích ñược. Ví dụ, kinh tế học tân cổ ñiền hầu như không giải thích ñược những hiện tượng liên quan ñến tiến bộ kỹ thuật. Hai ông cũng cho rằng các nghiên cứu về tăng trưởng dựa vào học thuyết Tân cổ ñiển gặp khó khăn khi giải thích ảnh hưởng của những tiến bộ kỹ thuật. Ban ñầu, ảnh hưởng này ñơn giản ñược cho là nằm trong phần dư (residual, trong mô hình kinh tế lượng). Sau ñó, nhiều tác giả Tân cổ ñiển giải thích rằng tác ñộng này là do chất lượng của ñầu vào thay ñổi. Nelson & Winter cho rằng các tác giả này ñã rất sáng tạo trong nghiên cứu thực tế, nhưng rõ ràng lý thuyết mà họ dựa vào ñã không ñủ ñể giúp họ giải thích sự tăng trưởng (1).

ðầu tư vào nghiên cứu và phát triển, thường là những khoản ñầu tư lớn trong khi kết quả không chắc chắn, lại càng không thể ñược giải thích bởi kinh tế học Tân cổ ñiển với giả ñịnh doanh nghiệp tối ña hóa lợi nhuận.

Một ví dụ khác là sự bắt chước. Theo Nelson và Winter (1974), nếu doanh nghiệp tối ña hóa lợi nhuận như kinh tế học Tân cổ ñiển, thì có lẽ tốt hơn là chờ các doanh nghiệp khác nghiên cứu, rồi sau ñó bắt chước. Nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp chờ ñợi và bắt chước này thường thất bại. Bởi lẽ ñiều rõ ràng là, như ñã ñược giải thích ở lý thuyết kinh tế học tiến hóa, một doanh nghiệp ñược bắt chước bởi vì nó ñang hoạt ñộng tốt hơn. Và một doanh nghiệp hoạt ñộng tốt hơn sẽ có nhiều cơ hội sống sót hơn.

4 - Vài nhận xét nhỏ về Kinh tế học tiến hóa

Có thể thấy kinh tế học tiến hóa có một cách giải thích hoàn toàn khác với kinh tế học Tân cổ ñiển về hành vi của các chủ thể kinh tế. Nó có một cách lý giải hoàn toàn khác về sự tăng trưởng của doanh nghiệp, ngành và nền kinh tế. Ở kinh tế học Tân cổ ñiển, sự tăng trưởng là kết quả của

Page 32: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

thị trường trong việc ñiều chỉnh về trạng thái cân bằng. Ở lý thuyết tiến hóa, sự tăng trưởng là kết quả của quá trình chọn lọc tự nhiên.

Tuy nhiên, không thể nói rằng lý thuyết tiến hóa có thể dự ñoán một hiện tượng chưa từng ñược biết ñến trước ñây. Nó cũng không thể nói rằng ñã giải thích ñầy ñủ nguyên nhân của sự tăng trưởng vốn là một quá trình cực kỳ phức tạp. (Bản thân cách giải thích của lý thuyết này cũng cho thấy quá trình “chọn lọc tự nhiên” là một quá trình phức tạp, và kết quả là rất khó dự ñoán). Ngoài ra, các nghiên cứu dựa vào thuyết tiến hóa cho ñến nay vẫn mang tính ñịnh tính và mô tả nhiều hơn là ñịnh lượng (2).

Sự tiến hóa của Kinh tế học tiến hóa tại Việt Nam.

PHẦN 2: SỰ TIẾN HÓA CỦA KINH TẾ HỌC TIẾN HÓA TẠI VIỆT NAM

Bài báo tự cho là giới thiệu hai vấn ñề chính:

1) giới thiệu những khó khăn và bế tắc của khoa học kinh tế hiện ñại trước những yêu cầu mới của cuộc sống; 2) chứng minh cách tiếp cận kinh tế tiến hóa là lối thoát tối ưu ñể nghiên cứu, dự báo về sự phát triển kinh tế - xã hội, trong ñó có cả vấn ñề khoa học công nghệ.

Tuy nhiên, những nội dung trong bài báo cho thấy tác giả Nguyễn Văn Minh ñã không chỉ hiểu sai về kinh tế học tiến hóa, mà còn thiếu những kiến thức kinh tế học cơ bản. Ứng với bài báo, bài bình luận này cũng ñược chia thành hai phần chính.

1 – Những câu hỏi bế tắc

Nguyễn Văn Minh mở ñầu với phát biểu “Công nghệ thông tin ñã làm thay ñổi tận gốc rễ phương thức sản xuất hiện ñại”, từ ñó cho rằng kinh tế học hiện ñại “mất phương hướng” và không trả lời ñược nhiều câu hỏi. Ông ñưa ra bốn câu hỏi.

Câu hỏi thứ nhất:

Bản chất của quá trình toàn cầu hóa hiện nay là gì? Nó ñang hình thành và phát triển theo cơ chế nào? Toàn cầu hóa rồi sẽ ñi về ñâu? Nó có giới hạn hay không?

Một sinh viên ngành kinh tế có học lực trung bình cũng có thể biết rằng kinh tế học là môn học về các nguồn lực khan hiếm. Nếu kinh tế học có nghiên cứu về toàn cầu hóa, thì ñó là nghiên cứu xem quá trình này ảnh hưởng như thế nào ñến các hoạt ñộng kinh tế, và do ñó nghiên cứu ảnh hưởng của nó ñến sự phân bổ các nguồn lực. Toàn cầu hóa tự thân nó không phải là ñối tượng nghiên cứu chính của khoa học kinh tế như hàm ý trong câu hỏi của Nguyễn Văn Minh.

Câu hỏi thứ hai:

...lấy cơ sở lý thuyết nào ñể ñánh giá chất lượng của môi trường thiên nhiên, ñâu là giới hạn hữu ích trong quá trình khai thác tài nguyên ñể phục vụ nhu cầu sản xuất của con người?

Nếu tác giả là một nhà nghiên cứu kinh tế thì chắc hẳn ñã biết rằng ñánh giá chất lượng môi trường không phải là một vấn ñề của kinh tế học. Khoa học môi trường có một loạt các chỉ số ñể ño lường chất lượng các loại môi trường nước, không khí, ñất...

Hay ý tác giả là ñánh giá tác ñộng về phúc lợi của chất lượng môi trường? Thật khó mà hiểu theo ý này từ lời trích dẫn ở trên, nhưng cứ cho là thế, thì kinh tế học về tài nguyên thiên nhiên có một loạt các công cụ ñể ñánh giá tác ñộng về phúc lợi, mà cụ thể là giá trị bằng tiền của sự thay ñổi trong chất lượng môi trường. Những công cụ này có những nhược ñiểm của chúng, nhưng ñây không phải là vấn ñề mà kinh tế học tiến hóa có thể khắc phục.

Về vấn ñề khai thác tài nguyên thì kinh tế học về tài nguyên thiên nhiên ñã giải quyết tốt mức khai thác tối ưu ñối với tài nguyên có thể tái sinh (renewable resources) và tài nguyên không thể

Page 33: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

tái sinh (nonrenewable resources). Bất kỳ ai có kiến thức sơ ñẳng về kinh tế học tài nguyên thiên nhiên ñều biết ñiều này. Có lẽ chỉ có tài nguyên không có thật là chưa ñược nghiên cứu mà thôi.

ðối với tài nguyên thiên niên, có lẽ khó khăn không phải ở chỗ xác ñịnh mức khai thác tối ưu như thế nào, mà ở chỗ ñảm bảo mức khai thác tối ưu ñó ñược thực thi. Nhưng ñây lại là vấn ñề quản lý, không phải vấn ñề của kinh tế học.

Ngoài ra cũng xin nói thêm rằng thế mạnh quan trọng của kinh tế học tiến hóa so với kinh tế học chính thống là ở vấn ñề tăng trưởng và tiến bộ kỹ thuật, chứ không phải là môi trường hay tài nguyên thiên nhiên.

Câu hỏi thứ ba:

... môi trường [thông tin] này có cấu trúc ra sao? Hoạt ñộng theo nguyên lý nào? Cơ chế hao mòn hay phát triển của thông tin? Làm sao ñể sử dụng hiệu quả nguồn vốn con người (vốn tri thức)? Hình thù của các dạng tăng trưởng kinh tế dựa trên thông tin ra sao?

Xin nhắc lại, kinh tế học nghiên cứu về sự phân bổ nguồn lực. Môi trường thông tin nếu ñược kinh tế học nghiên cứu, thì sẽ là những nghiên cứu theo hướng tìm hiểu tác ñộng của nó ñến sự phân bổ nguồn lực. Bản thân môi trường thông tin và các nguyên lý hoạt ñộng của nó (nếu có) không phải là ñối tượng nghiên cứu của kinh tế học.

Vấn ñề vốn con người dường như không liên quan gì ñến các vấn ñề khác trong câu hỏi này. Không rõ kinh tế học chính thống có giúp gì ñược không, nhưng chắc chắn ñây không phải là thế mạnh của kinh tế học tiến hóa.

Nhân tiện, nếu bạn tình cờ nhìn thấy “hình thù của các dạng tăng trưởng kinh tế” thì xin chụp hình và post ở ñây cho mọi người cùng chiêm ngưỡng.

Câu hỏi thứ tư:

Vai trò của phân tích kinh tế - kỹ thuật, của dự báo sẽ như thế nào trong nền kinh tế mới? Làm sao ñể ñảm bảo an ninh kinh tế trong môi trường thông tin toàn cầu phát triển ñến chóng mặt?

Về vấn ñề dự báo, hiện nay vẫn lưu truyền một câu chuyện châm biếm, rằng các nhà kinh tế học ñã dự báo ñược 10 trong số 2 cuộc khủng hoảng gần ñây, hàm ý chế nhạo sự không chính xác trong dự báo. Tuy nhiên, chưa có nhà kinh tế học nào theo thuyết tiến hóa lại dám nói rằng lý thuyết của họ có thể giúp dự báo tốt hơn. Kinh tế học tiến hóa ñược ñưa ra không nhằm mục ñích dự báo. Nó ñơn giản chỉ là một cách tiếp cận khác trong việc giải thích các hiện tượng kinh tế, mà chủ yếu là vấn ñề thay ñổi kỹ thuật của các doanh nghiệp ảnh hưởng ñến tăng trưởng. Hơn nữa, các nghiên cứu dựa vào lý thuyết này cho ñến nay vẫn mang tính ñịnh tính nhiều hơn ñịnh lượng và do ñó không cho phép dự báo chính xác. Ngay cả khi chấp nhận những dự báo ñịnh tính, thì kinh tế học tiến hóa vẫn tỏ ra bất lực. Nó không thể dự báo một vấn ñề chưa từng xảy ra trước ñó, mà ñiều này là một thuộc tính cố hữu của sự thay ñổi về kỹ thuật và công nghệ.

Môi trường thông tin phát triển chóng mặt có ñe dọa mất an ninh kinh tế không? Nếu trong môi trường chóng mặt ñó toàn những thông tin ñúng, thì không có vấn ñề gì phải băn khoăn cả. Thông tin ñúng có xu hướng giúp ra quyết ñịnh hợp lý hơn và khó mà nói rằng nó ñe dọa an ninh kinh tế. Có lẽ nói an ninh chính trị thì ñúng hơn. Thông tin (cố tình) sai rõ ràng là vấn ñề, nhưng một môi trường thông tin phát triển thực sự sẽ không có chỗ ñứng cho những thông tin như vậy.

Dù sao ñi nữa, kinh tế học chính thống, và cả kinh tế học tiến hóa ñược xây dựng không nhằm mục ñích tìm cách ñảm bảo an ninh kinh tế trong môi trường thông tin phát triển.

Từ những “câu hỏi” ñó tác giả kết luận:

Page 34: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

Nên không phải ngẫu nhiên giới nghiên cứu cho rằng, lúc này là thời ñiểm khủng hoảng của kinh tế học hiện ñại.

và:

Cộng ñồng khoa học quốc tế ñang nỗ lực ñể xây dựng một bảng hình thái mới (paradigm), làm cơ sở phương pháp luận cho kinh tế học tri thức hôm nay.

Không rõ khi nào thì kinh tế học chính thống bị khủng hoảng, nhưng chắc chắn rằng việc một bài báo như thế này ñược ñăng ở một tạp chí khoa học kinh tế là một dấu hiệu của sự khủng hoảng trong môn học này tại Việt Nam.

Cũng xin lưu ý rằng lý thuyết về kinh tế học tiến hóa cũng chỉ ñược một số nhà nghiên cứu áp dụng. Tạp chí Journal of Evolutionary Economics chuyên ñăng các bài nghiên cứu áp dụng cách tiếp cận của lý thuyết này. Tuy nhiên các tạp chí Kinh tế học hàng ñầu thế giới như American Economic Review, Journal of Political Economy, Journal of Economic Theory, Journal of Economic Literature ñều khó tìm thấy những công trình của kinh tế học tiến hóa. Course outline môn kinh tế học của các trường ñại học danh tiếng cũng hiếm thấy xuất hiện từ “evolutionary economics”. Do ñó, kinh tế học tiến hóa có thể ñang ñược một nhóm nhỏ các nhà kinh tế học xây dựng, áp dụng và phát triển, nhưng không thể nói là “cộng ñồng khoa học quốc tế...”

2 - Lối thoát quá hiểm

Phần thứ hai của bài viết giới thiệu cách tiếp cận tiến hóa như là “lối thoát hiểm cho kinh tế học hiện ñại”. Tuy nhiên, ñọc qua và ñối chiếu với phần giới thiệu của Nelson, Winter hay Dosi, vốn là những người sáng lập lý thuyết này, thì thấy tác giả Nguyễn Văn Minh ñã không hiểu ñầy ñủ về kinh tế học tiến hóa.

Nguyễn Văn Minh viết:

Bản chất của cách tiếp cận này là xem ñối tượng nghiên cứu như một cơ thể sống, phát triển qua từng giai ñoạn theo chu kỳ: hình thành, phát triển, chín muồi và suy thoái, tuân thủ những qui luật tiến hóa chung...”

Cách tiếp cận của kinh tế học tiến hóa là xem ñối tượng nghiên cứu gần giống như một cơ thể sống, nhưng không phải phát triển theo các chu kỳ như trên. Cách tiếp cận này xem các chủ thể kinh tế như là những “sinh vật” phải tự ñiều chỉnh ñể duy trì sự tồn tại của mình trong một môi trường “khắc nghiệt”, ñược gọi là cơ chế chọn lọc. Các chủ thể, dưới tác ñộng của cơ chế chọn lọc, sẽ phải loại bỏ những “gen xấu” và duy trì những “gen tốt”. Quá trình tự ñiều chỉnh của các chủ thể còn bao gồm các hoạt ñộng bắt chước, tìm tòi và sáng tạo. Và sự phát triển kỹ thuật và công nghệ chính là kết quả của quá trình ñiều chỉnh ñể tồn tại của các chủ thể.

Nguyễn Văn Minh cũng giới thiệu ba ñặc ñiểm của cách tiếp cận tiến hóa, nhưng khác hẳn với những nền tảng cơ bản của Dosi và Nelson. Chỉ có một ñiểm phù hợp, ñó là giải thích sự vận ñộng của các hiện tượng theo thời gian.

Chỉ bằng vài câu giới thiệu chưa ñúng về bản chất của kinh tế học tiến hóa và nêu ra ba ñặc ñiểm của lý thuyết này (mà cha ñẻ của nó cũng sẽ nhận không ra), tác giả ñã kết luận rằng:

Giờ ñây người ta có cơ sở ñể tin rằng, ñứng trước bất kỳ một sự thay ñổi nào của môi trường, của khoa học – công nghệ hay của kinh tế - xã hội, chỉ cần nắm bắt ñược quy luật tiến hóa thì ta có thể hoàn toàn dự báo ñược chính xác kịch bản phát triển của chúng trong tương lai.

Giống như kinh tế học tân cổ ñiển, kinh tế học tiến hóa cũng phải dựa vào quan sát thực tế ñể dự báo. Do ñó, những dự báo của nó cũng có thuộc tính cố hữu của dự báo nói chung: ñó là sự

Page 35: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ KHỦNG HOẢNG TRONG KINH TẾ …land.hcmunre.edu.vn/data/file/Tai lieu/Kinh te - Xa hoi...(macroeconomics) và kinh tế học tài chính (financial

không chính xác hoàn toàn. Cách tiếp cận mới của kinh tế học tiến hóa không giúp nó dự báo tốt hơn, mà còn ñưa vào hàng loạt các yếu tố làm cho việc dự báo trở nên khó khăn hơn.

Trên quan ñiểm kinh tế học tiến hóa, sự tồn tại và phát triển của một chủ thể kinh tế phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố ngẫu nhiên. Các chủ thể nằm trong một môi trường hay cơ chế chọn lọc (ví dụ, doanh nghiệp và thị trường) với những thay ñổi khó dự ñoán trước. Dĩ nhiên, sự thay ñổi của cơ chế chọn lọc sẽ ảnh hưởng lớn ñến sự phát triển của chủ thể.

Kế ñến, trong quá trình tự ñiều chỉnh ñể tồn tại, chủ thể ra hàng loạt các quyết ñịnh mà phần lớn là không thể dự ñoán. Chẳng hạn, nếu là hoạt ñộng “bắt chước” của doanh nghiệp, thì việc bắt chước những doanh nghiệp “mạnh” khác nhau sẽ dẫn ñến sự phát triển khác nhau của chủ thể. Mà việc bắt chước doanh nghiệp nào thì khó dự ñoán, phụ thuộc nhiều vào thông tin, sự tình cờ... ðôi khi nó cũng giống như việc bạn quyết ñịnh bước chân trái hay chân phải trước, khi ra khỏi nhà.

Lại nữa, nếu là hoạt ñộng nghiên cứu và phát triển, thì việc chủ thể lựa chọn ñầu tư vào những dự án nghiên cứu phát triển khác nhau sẽ dẫn ñến những sự phát triển khác nhau trong tương lai. Vì kết quả nghiên cứu là không chắc chắn, nên rất khó nói rằng quyết ñịnh nào là ñúng. Những phương án lựa chọn cũng phát sinh do nhiều yếu tố ngẫu nhiên.

ðó có lẽ là lý do những dự báo từ những nghiên cứu áp dụng kinh tế học tiến hóa thường có tính ñịnh tính chứ không ñịnh lượng.

Cuối cùng tác giả khẳng ñịnh:

Nên không có gì ngạc nhiên khi kinh tế học tiến hóa nghiễm nhiên trở thành lối thoát sáng giá nhất trên con ñường ñi tìm lời giải thích cho những bí ẩn của nền kinh tế tri thức.

ðiều ñáng ngạc nhiên nhất có lẽ chính là việc ai ñó có thể phát biểu một câu như vậy. Chính những nhà sáng lập lý thuyết kinh tế học tiến hóa cũng rất dè dặt nói rằng kinh tế học tân cổ ñiển giải thích tốt trong nhiều trường hợp, nhưng không giải thích ñược một số tình huống khác, ñặc biệt là những vấn ñề tăng trưởng liên quan ñến sự thay ñổi về kỹ thuật. Việc một tác giả giới thiệu sai về bản chất của một “lối thoát hiểm” trên một tạp chí uy tín có thể làm cho nó trở thành một lối thoát rất hiểm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Dosi, G. & Nelson, R. 1994. An Introduction to Evolutionary Theories in Economics. Journal of Evolutionary Economics 4: 153-172.

Nelson, R., Winter, S. 1974. Neoclassical vs. Evolutionary Theories of Economic Growth: Critique and Propectus. The Economic Journal 886-905.