34
a VĂN PHÒNG CHÍNH PHCC KIM SOÁT THTC HÀNH CHÍNH ĐIỂM BÁO Ngày 10 tháng 02 năm 2017

ĐIỂM BÁO - thutuchanhchinh.vnthutuchanhchinh.vn/noidung/tintuc/Lists/DiemBao/Attachments/1137/DB10... · chuẩn của các nước và hơn 80 chương trình được đánh

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

a

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ

CỤC KIỂM SOÁT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

ĐIỂM BÁO Ngày 10 tháng 02 năm 2017

Bộ, ngành 1. Nội dung Tọa đàm 'Đẩy mạnh kiểm định chất lượng giáo dục đại học' 2. DN được tự dán nhãn năng lượng từ ngày 10/2 3. Từ 2018, đóng BHXH theo tổng thu nhập 4. Bộ Công an: Không thể 'chạy' số định danh cá nhân đẹp 5. Thêm 5 đối tượng được miễn giảm tiền thuê 6. Kinh doanh vận tải bằng xe ô tô: Xem xét bỏ yêu cầu “phải có phương án kinh doanh” 7. DN gặp khó trong đăng kiểm tàu du lịch bằng vật liệu PCC: Các cơ quan ban ngành đồng loạt vào cuộc Địa phương 8. Lập hồ sơ quản lý sức khỏe cho người dân cả nước 9. Đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ người dân, doanh nghiệp 10. Bí thư Thành ủy dùng Facebook để “đối thoại” với dân 11. Ngành du lịch đặt nhiều mục tiêu cải cách hành chính

1. Nội dung Tọa đàm 'Đẩy mạnh kiểm định chất lượng giáo dục đại học' (Chinhphu.vn) – Ngày 10/2, Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức tọa đàm trực tuyến với chủ đề "Đẩy mạnh kiểm định chất lượng giáo dục đại học" nhằm đánh giá về những mặt làm được và chưa được của công tác kiểm định chất lượng giáo dục thời gian qua, làm rõ hơn mục tiêu và giải pháp về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học theo Thông tư mới của Bộ GD&ĐT. Bộ GD&ĐT đang xây dựng dự thảo Thông tư ban hành quy định về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học để lấy ý kiến rộng rãi từ dư luận. Thông tư này nhằm đánh giá chất lượng, chu kỳ kiểm định các cơ sở giáo dục đại học của hệ thống giáo dục đại học ASEAN (AUN) với 111 tiêu chí. Qua tiêu chuẩn kiểm định này, chúng ta thấy được các trường đại học, cao đẳng của Việt Nam đang ở đâu so với quốc tế. Bộ tiêu chuẩn có 111 tiêu chí, cùng các giải pháp hết sức quan trọng là thay đổi nội dung chương trình giảng dạy theo hướng thực học, thực nghiệp; bám sát vào nhu cầu thị trường lao động trong nội khối, thị trường lao động quốc tế. Các tiêu chí này không chỉ đánh giá, kiểm định về vào đào tạo và nghiên cứu khoa học, mà còn tập trung vào mảng kết nối phục vụ cộng đồng, chú trọng cả về sở hữu trí tuệ. Đây cũng là cơ sở để nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học, là một trong các tiêu chí để Bộ GD&ĐT quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học và để nâng cao chất lượng kỳ thi THPT quốc gia trong thời gian tới. Nhằm đánh giá về những mặt làm được và chưa được của công tác kiểm định chất lượng giáo dục thời gian qua, làm rõ hơn mục tiêu và giải pháp về kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học theo Thông tư mới, Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức cuộc tọa đàm trực tuyến "Đẩy mạnh kiểm định chất lượng giáo dục đại học". Tham dự buổi tọa đàm có PGS.TS Mai Văn Trinh, Cục trưởng Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo; GS. TS. Nguyễn Quý Thanh - Giám đốc Trung tâm KĐCLGD ĐHQGHN; PGS. TS. Nguyễn Phương Nga - Giám đốc Trung tâm KĐCLGD, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam; PGS. TS Nguyễn Văn Long - Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH Giao thông vận tải HN Thay đổi là tất yếu Thưa Cục trưởng Mai Văn Trinh, ông có thể cho biết những kết quả nổi bật của công tác KĐCLGD đại học trong thời gian qua? Và đâu là những bất cập trong công tác KĐCLGD? PGS.TS Mai Văn Trinh: Thời gian vừa qua khi kiểm định chất lượng đại học được đưa vào vận hành trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã đi được bước khá dài, có được những kết quả đáng ghi nhận, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Trước hết chúng ta phải khẳng định rằng, đến nay trong nhận thức và hành động từ cán bộ quản lý đến đội ngũ cán bộ giảng viên, sinh viên trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực. Xem kiểm định chất lượng như một giải pháp quan trọng để duy trì và phát triển nhà trường bằng chính chất lượng đào tạo của trường. Thứ hai, đến nay hệ thống văn bản để đảm bảo cho kiểm định chất lượng giáo dục đại học trong mỗi nhà trường và hoạt động đánh giá ngoài về cơ bản đã đầy đủ. Thể hiện từ Nghị định của Chính phủ, Luật Giáo dục Đại học, thông qua các thông tư, các văn bản hướng dẫn. Thứ ba, cho đến nay hầu hết các trường đại học của Việt Nam đã hoàn thành báo cáo tự đánh giá và trong số đó, có 32 trường đã được đánh giá ngoài, 12 trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng.

Bên cạnh đánh giá của nhà trường, nhiều chương trình đào tạo cũng được đánh giá theo chuẩn trong nước và quốc tế. Cụ thể đã có 5 chương trình được đánh giá theo chuẩn của các nước và hơn 80 chương trình được đánh giá và đạt chuẩn quốc tế. Một điểm nổi bật nữa là cho đến nay đội ngũ đảm bảo cho hoạt động kiểm định chất lượng từ bên ngoài đã được chuẩn bị tương đối đầy đủ. Cụ thể có hơn 700 người đã hoàn thành các khóa đào tạo kiểm định viên, trong đó có 240 người đã được cấp thẻ kiểm định viên. Tuy nhiên chúng ta thẳng thắn nhìn thấy vẫn còn những bất cập trong công tác kiểm định chất lượng đại học. Thứ nhất, nhận thức, chuyển biến của cán bộ, giảng viên, sinh viên các trường đại học hiện nay chưa đồng đều, kéo theo chất lượng tự báo cáo đánh giá của các nhà trường mới ở mức độ chưa đạt được yêu cầu đặt ra. Thứ hai, cho đến nay mặc dù hệ thống văn bản đã khá hoàn chỉnh song các chế tài để khuyến khích các trường làm tốt, đặc biệt là xử lý những trường làm chưa tốt, chưa thực sự chú trọng đến công tác kiểm định chưa mạnh. Thứ ba, các bộ công cụ đánh giá hiện nay ở chừng mực nào đó chưa theo kịp được sự vận hành, phát triển rất nhanh của thực tế giáo dục đại học, đặc biệt là theo chuẩn quốc tế. Chính vì thế việc cần thiết phải xây dựng một bộ thông tư mới, bộ công cụ mới như một thang thước để đạt được chuẩn của khu vực để các trường lấy đó đánh giá để xem mạnh ở đâu, chỗ nào chưa được để từng bước tiếp tục duy trì điểm mạnh, khắc phục những hạn chế, từng bước theo chiến lược cụ thể để nâng cao chất lượng giáo dục theo hướng tiếp cận với khu vực. Bằng cách ấy trong một thời gian chúng ta sẽ có được bước chuyển biến rõ nét về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Thưa GS.TS Nguyễn Quý Thanh, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã có quy định về tiêu chuẩn với 61 tiêu chí, ông đánh giá như thế nào về 61 tiêu chí đó và đâu là lý do để Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng 25 tiêu chuẩn mới với 111 tiêu chí? GS.TS Nguyễn Quý Thanh: Hiện nay bộ tiêu chuẩn đánh giá các trường đại học Việt Nam bao gồm 10 tiêu chuẩn và 61 tiêu chí, trước khi có bộ tiêu chuẩn đánh giá này đã có một bộ tiêu chuẩn ít tiêu chuẩn và tiêu chí hơn năm 2004. Bộ tiêu chuẩn khi đó đã được 20 trường đại học áp dụng để đánh giá ngoài. Sau một thời gian thực hiện, năm 2007, Bộ GD&ĐT đã điều chỉnh thành bộ tiêu chuẩn hiện hành. Về nội dung bộ tiêu chuẩn đã bao trùm nội dung của các trường đại học, từ sứ mạng mục tiêu đến tổ chức quản lý, tổ chức đào tạo, đội ngũ cán bộ, người học, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, cơ sở vật chất và tài chính. Tuy nhiên giáo dục liên tục có sự vận động, các chức năng của trường đại học đã có sự thay đổi. Gần đây chúng ta nói nhiều đến các trường đại học 1.0, 2.0, 3.0, 4.0. Nhìn vào nội hàm của các trường đại học này sẽ thấy rất nhiều nội dung mới của giáo dục đại học, trong đó có chức năng được nhấn mạnh nhiều hơn trước đât trong mô hình đại học cũ chưa được đề cập đến. Với xu thế đó việc bổ sung những đánh giá mới về chất lượng giáo dục đại học là cần thiết. Bộ tiêu chuẩn hiện hành tiếp cận nhiều theo cách tiếp cận quản trị chất lượng theo quản trị quyết định, điều này cần thiết trong giai đoạn đầu phát triển của các nhà trường nhưng xu thế quản trị khi chất lượng được nâng lên, khi các trường đại học có được nhận thức tốt hơn về xây dựng văn hóa chất lượng, việc áp đặt sẽ không mang lại hiệu quả bằng quản trị nguyên lý và nguyên tắc. Việc chuyển từ bộ tiêu chuẩn 10 tiêu chuẩn, 61 tiêu chí sang 25 tiêu chuẩn, 111 tiêu chí là đi theo hướng như vậy. Tuy nhiên việc hình thành văn hóa chất lượng ở các trường

đại học Việt Nam chưa rõ ràng nên vẫn phải có quản trị theo nguyên tắc. Cho nên một số trường sẽ cảm thấy mình bị áp một số nguyên tắc vào quá trình đánh giá cũng sẽ dễ hiểu. Bộ tiêu chuẩn hiện hành không báo quát hết các chức năng vốn có của các trường đại học, ví dụ kết nối với cộng đồng thì trong bộ tiêu chuẩn mới được đề cập đầy đủ hơn. Các trường đại học hiện nay không chỉ thực hiện việc đào tạo, việc nghiên cứu mà còn phải đóng góp trở lại để kết nối cộng đồng tốt hơn, phù hợp với xu thế của Việt Nam hiện nay. Tôi muốn nhấn mạnh đến nghiên cứu đào tạo phục vụ ứng dụng, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Về chuyên môn, bản chất các tiêu chuẩn đánh giá chỉ phù hợp trong một giai đoạn nhất định nên sự thay đổi khá thường xuyên. Ví dụ ở Hoa Kỳ mỗi năm họ thay đổi nhỏ một lần, 5 năm họ thay đổi lớn một lần. Các trường đại học càng phát triển bao nhiêu thì đòi hỏi càng lớn lên bấy nhiêu chứ không phải bỏ bớt tiêu chí đánh giá đi. Thưa PGS.TS Nguyễn Phương Nga, là giám đốc trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục đại học (Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam) bà thấy bộ tiêu chuẩn với 111 tiêu chí có thực sự đánh giá được toàn diện chất lượng các cơ sở giáo dục đại học? PGS.TS Nguyễn Phương Nga: Tôi tiếp cận ở góc độ là ta cần có sự thay đổi bộ tiêu chuẩn hiện hành bởi lý do rất đơn giản là, qua 5 năm phát triển, tốc độ phát triển của công nghệ thông tin, kinh tế - xã hội của cả Việt Nam và thế giới thì rõ ràng yêu cầu đòi hỏi cách đây 5 năm sẽ không phù hợp với thời điểm hiện tại và bắt kịp với xu hướng của thế giới. Hơn nữa bộ tiêu chuẩn 111 tiêu chí được xây dựng trên bộ tiêu chuẩn của các trường đại học tiên tiến khu vực ASEAN, đó sẽ là cầu nối để các trường đại học của Việt Nam hòa vào chất lượng chung của khu vực. Bộ tiêu chuẩn của ASEAN cũng giao thoa khá lớn với bộ tiêu chuẩn của Châu Âu và của Bắc Mỹ nên bộ tiêu chuẩn đang dự thảo sẽ là một điểm để đưa giáo dục đại học Việt Nam hòa nhập cùng thế giới. Mặc dù nhiều tiêu chí hơn nhưng chi tiết hơn và đòi hỏi các trường đại học phải phấn đấu để đào tạo ra các sản phẩm tốt. Thưa PGS.TS Nguyễn Văn Long, Đại học Giao thông vận tải (ĐH GTVT) là một trong 2 trường đại học đầu tiên của cả nước đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục cấp trường, ông cho biết ý kiến của ông về việc Bộ GD-ĐT xây dựng quy định mới có ý nghĩa như thế nào đối với các trường đại học nói chung và Đại học GTVT nói riêng? PGS.TS Nguyễn Văn Long: Năm 2007, ĐH GTVT là một trong 20 trường thực hiện đánh giá ngoài theo bộ tiêu chuẩn vào thời điểm đó. Đến đầu năm 2016, ĐH GTVT lại là một trong hai trường được công nhận kiểm định chất lượng đại học. Trường chúng tôi quan điểm luôn luôn cầu thị, luôn luôn muốn biết mình ở đâu trong hệ thống các trường đại học của Việt Nam và khối các nước khu vực Châu Á để hướng đến cải tiến và nâng cao chất lượng. Vì vậy, kiểm định chất lượng giáo dục là một công cụ hữu hiệu để giúp nhà trường làm được việc đó. Dưới góc độ đã kiểm định hai lần, chúng tôi nhận thấy sự cần thiết và tất yếu thay đổi bộ tiêu chuẩn mới. Trong quá trình kiểm định liên quan đến tự đánh giá, chúng tôi thấy trong bộ tiêu chuẩn hiện hành có một số tiêu chí, một số nội dung tương đối lạc hậu, ví dụ như biên chế, một số hoạt động đoàn thể chiếm tương đối khâu đánh giá, nếu thêm vào sẽ bớt tiêu chí khác, hàm lượng đánh giá bớt đi. Có một số tiêu chí hiện nay rất nóng đối với nhà trường hiện nay lại chưa có. Trường chúng tôi có những phần rất mạnh nhưng trong kiểm định lại không đề cập đến việc này, không phản ánh được hết chất lượng.

Bộ đã đưa ra một thông tư dự thảo mới, chúng tôi đã đọc qua nhận thấy tương đối lấp được những khoảng trống trong bộ tiêu chuẩn hiện hành. Vì vậy, việc chọn bộ tiêu chuẩn AUN-QA để công bố trong thời điểm hiện nay là hoàn toàn phù hợp. Thưa PGS.TS Mai Văn Trinh, điểm mới của Dự thảo đó là bộ tiêu chuẩn được xây dựng trên cơ sở bộ tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục mới được AUN-QA công bố tháng 6/2016, thưa Cục trưởng, điều này có ý nghĩa như thế nào trong việc nâng cao chất lượng giáo dục của Việt Nam? PGS.TS Mai Văn Trinh: Sự chuyển đổi từ bộ công cụ hiện hành sang bộ công cụ mới là tất yếu và phù hợp với xu hướng phát triển của giáo dục đại học. Bộ công cụ hiện hành về cơ bản khá toàn diện, tuy nhiên với bộ công cụ mới đang dự thảo sẽ đề cập rất toàn diện đến các hoạt động của nhà trường. Ở đó, có sự nhấn mạnh vào các trọng tâm. Ví dụ, bộ công cụ hiện hành nhấn mạnh vào hoạt động nghiên cứu, bộ công cụ mới nhấn mạnh vào yếu tố phục vụ cộng đồng. Đó là sự hài lòng của các bên liên quan về cơ sở giáo dục đại học đó. Để có sự hài lòng của các bên liên quan, cũng thể hiện sự giám sát của xã hội với cơ sở giáo dục đại học, thì để khẳng định được mình bản thân các cơ sở giáo dục đại học phải có sự chuyển đổi, đầu tư phát triển các điều kiện đảm bảo chất lượng. Đặc biệt bộ công cụ mới nhấn mạnh tới tính hệ thống đảm bảo chất lượng, cụ thể hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của nhà trường hoạt động thế nào để các điều kiện đảm bảo chất lượng phát huy hiệu quả. Trong đó từng bước hình thành văn hóa chất lượng trong nhà trường. Khi văn hóa chất lượng có sự thay đổi những thành viên liên quan thì mọi thành viên liên quan sẽ phải hoạt động trong hệ thống ấy. Nếu tất cả các trường đại học ở Việt Nam vận hành, đánh giá theo bộ công cụ mới thì đòi hỏi phải có sự chuyển đổi từ nội tại của nhà trường một cách toàn diện có mục tiêu, có định hướng, hướng tới sự hài lòng của các bên liên quan, trước hết là sự hài lòng của sinh viên, gia đình và xã hội. Và đây là xu hướng đúng. Hệ thống này khi được đưa vào đánh giá sẽ tạo động lực cho các nhà trường, chất lượng nguồn nhân lực được tăng lên. So với quy định hiện hành, Dự thảo Thông tư đang lấy ý kiến có những điểm mới về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, cách đánh giá, quy trình đánh giá đối với các học viện, trường đại học, PGS.TS Nguyễn Quý Thanh đánh giá như thế nào về những thay đổi này? PGS.TS Nguyễn Quý Thanh: Trước hết điểm mới đầu tiên tiếp cận cơ bản khác nhau. Dựa trên cơ sở gốc như vậy, bộ tiêu chuẩn mới dựa trên một chu trình quản lý chất lượng rất tiên tiến, lập kế hoạch, thực hiện, kiểm tra giám sát, cải tiến sau quá trình kiểm tra giám sát. Với cách chi tiết hóa việc đánh giá dễ hơn, nhìn ra điểm tồn tại cũng dễ hơn. Tự đánh giá cũng dễ hơn và người bên ngoài đánh giá cũng dễ hơn. Từ đấy, tìm những giải pháp khắc phục sẽ dễ hơn. Chúng ta sẽ biết mắc ở khâu nào, lập kế hoạch, triển khai hay khâu kiểm tra giám sát, hay việc chúng ta có kết quả kiểm tra giám sát rồi nhưng không cải tiến chất lượng so với kết quả đánh giá. Yếu tố thứ 2 là cách đánh giá, cách đánh giá theo thông tư dự thảo rất hay ở 7 mức. Nếu đánh giá được theo 7 mức, chúng ta sẽ biết được chúng ta đang ở mức nào và chúng ta đang ở đâu, còn thông tư hiện hành chỉ có 2 mức đạt và chưa đạt. Rõ ràng đạt và chưa đạt để chúng ta sử dụng kết quả đó để biết được chúng ta khỏe hay rất khỏe chưa đạt yêu cầu. Yếu tố thứ 3 là yếu tố quy trình. Tôi thấy yếu tố quy trình giữa 2 thông tư: thông tư dự thảo và thông tư hiện hành có nét tương đồng. Chính vì điều đó cũng thuận lợi cho các cơ sở mới kiểm định theo thông tư mới nếu như thành hiện thực đạt thuận lợi. Công khai kết quả kiểm định

Thưa PGS.TS Mai Văn Trinh, để chuẩn bị cho công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học, ông có thể cho biết hiện nay Bộ đã thành lập bao nhiêu trung tâm, và số lượng trung tâm đó có đáp ứng được yêu cầu kiểm định cho hàng trăm các trường ĐH như hiện nay không? PGS.TS Mai Văn Trinh: Hiện nay có 4 trung tâm kiểm định chất lượng được thành lập và đã đi vào hoạt động: Trung tâm KĐCL ĐH Quốc gia Hà Nội, Trung tâm KĐCL ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh, Trung tâm KĐCL ĐH Đà Nẵng, Trung tâm KĐCL Hiệp hội ĐH, CĐ Việt Nam. Có thể nói là Bộ GD&ĐT đánh giá cao sự nỗ lực của các trung tâm trong thời gian qua. Là một mô hình mới, ngay sau khi được cấp phép hoạt động, các đơn vị được sự hỗ trợ của các đơn vị chủ quản, đã rất nỗ lực cùng Bộ GD&ĐT, đến nay đã đánh giá ngoài 32 cơ sở GDĐH. Hiện nay với quy mô 270 trường ĐH, chu kỳ kiểm định là 5 năm, vậy 1 năm chúng ta phải đánh giá 50-60 trường. Với nguồn lực là 4 trung tâm như hiện nay, với sự cố gắng nỗ lực chúng ta cũng có thể hoàn thành được. Tuy nhiên để đẩy nhanh tiến độ này, tới đây Bộ GD&ĐT sẽ có một số giải pháp. Trước hết là sẽ có những giải pháp hỗ trợ cho các trung tâm này mạnh thêm lên, hoạt động hiệu quả hơn. Thứ hai là xem xét nếu đáp ứng các yêu cầu có thể thành lập thêm một số trung tâm mới phù hợp với nhu cầu đánh giá, nhu cầu của các hoạt động hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Và đặc biệt là phải đáp ứng được yêu cầu đối với bản thân trung tâm đó. Đồng thời song song với việc tiến hành kiểm định chất lượng theo các bộ tiêu chuẩn và do các trung tâm trong nước tiến hành, Bộ GD&ĐT cũng khuyến khích các trường, các chương trình đào tạo tiến hành đánh giá ngoài theo các tiêu chuẩn quốc tế. Bằng cách vận hành như vậy, tôi cho rằng với lộ trình và sự vào cuộc, đồng bộ từ Bộ GD&ĐT, các trung tâm, hệ thống các trường đại học, hoạt động của chúng ta sẽ có sự chuyển biến và đạt được tiến độ đề ra. GS.TS Nguyễn Quý Thanh: Tôi có bổ sung thêm ý kiến của PGS.TS Trinh một chút. Khi đặt vấn đề về số lượng trung tâm KĐCL và việc tiến độ, chúng ta nên đặt vấn đề theo hướng là số lượng những người đi đánh giá họ có đủ số lượng để đi đánh giá không. Bởi số lượng trung tâm không quan trọng bằng số lượng người có đủ năng lực để đi đánh giá. Số lượng kiểm định viên bao nhiêu người, vì thông thường ta yêu cầu số lượng đoàn chứ một trung tâm có thể thực hiện đánh giá của nhiều đoàn khác nhau. Thứ 2 là đối với một số lĩnh vực cạnh tranh, nếu không thận trọng sẽ dẫn đến hệ quả, tương tự như ở Hoa Kỳ, cơ quan kiểm định nhưng lại cấp ra chứng chỉ kiểm định không đảm bảo. Ở đây vẫn phải đảm bảo sự độc lập, ổn định trong hoạt động của hệ thống. Ví dụ ở những trường trong khu vực, Philippin chẳng hạn, họ có 2 cơ quan kiểm định cho khoảng 1000 trường đại học, các trường trong ASEAN chỉ có 1 cơ quan kiểm định, Hoa Kỳ thì có 6 cơ quan kiểm định cho 4000 - 5000 trường đại học. Quan trọng ở đây là số lượng người đi đánh giá chứ không phải số lượng trung tâm, số lượng trung tâm phát triển tới một mức độ nào đó thì sẽ dẫn đến một hệ quả là chất lượng hoạt động trung tâm sẽ giảm đi, bởi nó đưa đến hiện tượng cạnh tranh không đồng đều. Tuy nhiên, nếu chúng ta phát triển các cơ quan kiểm định đối với cấp trường không nên quá nhiều, ở một mức độ hợp lý nhưng đối với kiểm định cấp chương trình đào tạo có thể phát triển nhiều hơn vì số lượng rất nhiều. Nếu các hiệp hội nghề nghiệp có thể tham gia vào phát triển chương trình đào tạo, phát triển các tổ chức kiểm định để đánh giá mang tính chuyên biệt đối với chương trình đào tạo hơn là phát triển các tổ chức đối với cơ sở giáo dục. Hiện nay xu hướng này, những cái thuộc về cơ sở giáo dục thường là các cơ quan quản lý nhà nước sẽ điều tiết. Điểm nữa là muốn các ông hoạt động độc lập theo các hướng

khác nhau, kể cả 3 trung tâm đặt trong các trường đại học, họ lại không được đánh giá và kiểm định cho chính các cơ sở giáo dục và các chương trình đào tạo của chính cơ sở đó. Tức là họ được nhận một sự hỗ trợ nhất định nào đó nhưng lại không được tham gia đánh giá, họ được nhận sự bảo trợ, và nhờ sự hỗ trợ cho một số năm đầu tiên, ý nghĩa nó như vậy. Còn trung tâm của hiệp hội thì họ được đánh giá trên phạm vi toàn quốc, riêng các trung tâm của các trường đại học không được phép đánh giá và kiểm định các cơ sở đạo tạo và chương trình đào tạo thuộc chính các trường đó. Như GS vừa chia sẻ, GS đã nhấn mạnh nhân tố con người để có thể đi kiểm định chứ không phải số lượng các trung tâm. Thưa GS Nguyễn Quý Thanh, các trung tâm KĐCL đã chuẩn bị chuẩn bị và tiến hành công việc này như thế nào? GS.TS Nguyễn Quý Thanh: Nhiều người ví các trung tâm kiểm định như bệnh viện, nhưng tôi nghĩ bệnh viện mang tính chất y tế dự phòng hơn mang tính chất lâm sàng, khi phát bệnh mới đến. Cơ quan kiểm định phải giống như y tế dự phòng, làm sao phòng ngừa để không xảy ra bệnh tật. Đó là lý do tại sao trong kiểm định hay yêu cầu tính định kỳ, định kỳ đánh giá 5 năm/lần, định kỳ rà soát chương trình đào tạo 2 năm/lần… Chính vì vậy chuẩn bị đội ngũ cho những người có khả năng làm sao thực hiện cơ chế riêng phòng từ trước để các trường đại học có những cơ chế và giải pháp để họ cải tiến chất lượng tốt hơn. Đội ngũ con người, kiểm định viên và những người có khả năng đi đánh giá, họ là những người không chỉ thuần túy nắm vững tiêu chuẩn, tiêu chí, họ phải hiểu và nắm bắt được rất rõ nội hàm tiêu chuẩn, tiêu chí, quan trọng nhất là phải cực kỳ hiểu về giáo dục. Bên cạnh đó là sự giải thích đúng về các tiêu chuẩn tiêu chí.

Cần có khả năng thu thập và phân tích thông tin tốt. Đó là liên quan đến phát triển đội ngũ, các trung tâm kiểm định đầu tiên là để tập trung phát triển bồi dưỡng đội ngũ đó. Bất cứ ở quốc gia nào, khi các đoàn đi đánh giá, họ tổ chức tập huấn, hướng dẫn cụ thể cho các thành viên trong đoàn. Bởi những thành viên trong đoàn thường là thầy cô làm lãnh đạo như hiệu trưởng, hiệu phó… Cho dù họ được đào tạo, tập huấn trong một thời gian nhất định, nhưng vì công việc chính của họ là đào tạo, quản lý tại nhà trường cho nên rất cần việc cập nhật, bổ sung kiến thức cho họ trong việc nắm bắt thông tư, tiêu chuẩn, tiêu chí mới. Như đánh giá ở Việt Nam, chúng ta phải dựa vào rất nhiều quy định. Một đoàn đánh giá không thể nói rằng một trường không thực hiện tốt quy định mà mình lại thông qua. Bởi đầu tiên đoàn đánh giá phải rà soát việc thực hiện tốt quy định đã, về đánh giá tuân thủ rất quan trọng. Cho nên cái đầu tiên và quan trọng nhất là đào tạo huấn luyện thật tốt đội ngũ đó, trong đó có những thành phần khác nhau: trưởng đoàn, thư ký, thành viên trong đoàn đánh giá. Đào tạo sao với số lượng người càng đông thì việc tổ chức nhiều đoàn đánh giá càng thuận lợi và chất lượng hơn. Công khai là cách quảng cáo hiệu quả cho các nhà trường Trong quá trình đánh giá bên ngoài thì việc phối hợp giữa các bên liên quan được thực hiện như thế nào, quy định mới trong dự thảo Thông tư kiểm định chất lượng có phù hợp hay không? PGS.TS Nguyễn Phương Nga: Để được kiểm định một cách khách quan, công bằng và chính xác thì không chỉ có đánh giá ngoài mà còn yêu cầu nhiều đơn vị liên quan vào cuộc. Ở cấp vĩ mô, đầu tiên là Bộ GD&ĐT có những chỉ đạo về mặt văn bản để có quy định nhất quán tới các trung tâm kiểm định và các kiểm định viên thực thi. Đối với đội ngũ kiểm định viên, trước hết phải giỏi, không những giỏi về kĩ năng đánh giá mà giỏi về cả cách ứng xử. Bởi đánh giá không phải các trường đã đồng ý ngay, mà làm sao đưa ra được kết luận mà trường tâm phục khẩu phục. Kiểm định viên phải đưa

ra được những tư vấn để giải quyết những tồn tại của trường, hướng đi như thế nào, điểm mạnh nào cần bứt phá... Kiểm định viên phải hội chẩn, trước khi đánh giá ngoài phải tập huấn và hội chuẩn chung, sau mỗi ca làm việc lại hội chuẩn cả đoàn đánh giá ngoài. Muốn làm được những việc này thì phải có thông tin, từ lãnh đạo nhà trường cho tới sinh viên, cựu sinh viên, bảo vệ phải vào cuộc; thậm chí mời cả nhà tuyển dụng ở các lĩnh vực khác nhau mà có sử dụng sinh viên của trường được mời đến phỏng vấn. Trên tinh thần hỗ trợ, đánh giá chính xác, hỗ trợ trường để cải tiến đi lên. Do đó mới cần sự vào cuộc của các bên liên quan trong đánh giá. Khi triển khai, áp dụng đánh giá kiểm định thì có những khó khăn và thuận lợi gì đối với bộ tiêu chuẩn mới? PGS. TS Nguyễn Văn Long: Theo thông tư dự thảo, và thông tư hiện hành thì có 3 yếu tố cần quan tâm; cách đánh giá, bộ tiêu chuẩn và quy trình. Quy trình của hai thông tư tương đối tương đồng, riêng hai bộ tiêu chuẩn và cách đánh giá có những cái khó khăn và thuận lợi, vì bản thân trường từng đánh giá bằng bộ tiêu chuẩn hiện hành hai lần (2009 và 2016). Thứ nhất, khó khăn lớn là số tiêu chí của Thông tư dự thảo nhiều hơn rất nhiều thông tư hiện hành (111 so với 61), có phát sinh thêm 33 tiêu chí mà không có trong thông tư hiện hành. Từng đó cũng đã giải quyết rất nhiều nội dung bổ sung. Thông tư dự thảo có nhiều nội dung mới, những nội dung đó cần cho xã hội bây giờ, trong khi đối với các cơ sở giáo dục rất khó tìm những thông tin đó, vì lâu nay chúng ta làm theo thói quen. Để hòa nhập với các nước Asean và thế giới thì chúng ta phải đưa tất cả những tiêu chí đó vào, vì mục đích của đào tạo là đáp ứng yêu cầu của xã hội. Thứ hai, đối với thông tư dự thảo thì một nội dung có thể chia nhỏ nhiều điều hơn so với thông tư hiện hành. Do đó, việc tìm kiếm, mô tả cũng khó. Thông tư dự thảo có nhiều ưu việt và tương lai sẽ có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng của các trường, các trường tự vào đó để cải tiến, nâng cao chất lượng một cách bài bản và chi tiết cụ thể hơn so với thông tư hiện hành. Cách đánh giá của thông tư hiện hành chỉ có hai mức: đạt và chưa đạt. Còn cách đánh giá của thông tư dự thảo có nhiều mức: Tốt, khá, trung bình, yếu kém..., khi chia nhỏ sẽ khó khăn trong việc đánh giá. Nhưng ngược lại cũng có thuận lợi, vì chia nhỏ như vậy trong từng tiêu chí, từng nội dung khi đã đánh giá thì bản thân nhà trường biết được tiêu chí đó, nội dung đó mình đang ở mức độ nào. Căn cứ vào đó thì nhà trường sẽ có thuận lợi hơn trong việc cải tiến và nâng cao chất lượng sau này. Một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục đại học là phải đào tạo được người lao động có đủ kiến thức, kĩ năng để đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng. Vậy khi đưa ra những tiêu chuẩn đánh giá, Bộ có cụ thể và ưu tiên với các cơ sở giáo dục đại học trong việc liên kết với các doanh nghiệp cũng như các cơ quan đơn vị đào tạo sinh viên theo hướng thực nghiệm? PGS.TS Mai Văn Trinh: Không phải bây giờ Bộ GD&ĐT mới nói tới việc này, ngay từ khá lâu chúng ta đã có chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, nhất là trong khu vực đào tạo đại học – trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, và nhân lực chất lượng cao. Mối liên hệ giữa cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc. Mối liên hệ này xuất phát từ việc dự báo tình hình, thông qua đó xây dựng thiết kế chương trình đào tạo đến thực hiện quá trình đào tạo, đánh giá sinh viên. Trong thời gian quan, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam, trong đó có nhiều cơ sở giáo dục đại học đã gắn kết tốt với doanh nghiệp trong tất cả các khâu, kết quả là chất lượng đào tạo tốt và sinh viên ra trường có việc làm. Trong các bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng, kể cả bộ hiện hành đều có khá nhiều các tiêu chuẩn, tiêu chí đề cập đến mối liên

hệ giữa cơ sở giáo dục đại học với doanh nghiệp, trong đó thể hiện qua các chỉ số : quá trình đào tạo, quản lí đào tạo, đánh giá sinh viên, hỗ trợ sinh viên của các doanh nghiệp. Phía Bộ GD&ĐT cũng muốn và đã có nói, trên thế giới thì mối liên hệ ràng buộc giữa doanh nghiệp với cơ sở giáo dục đại học được ghi trong luật. Vì mối liên hệ này mang lại lợi ích cho cả hai bên: cơ sở giáo dục đại học cử sinh viên về doanh nghiệp kia thực hành. Bộ cũng muốn doanh nghiệp đã tham gia cần đẩy mạnh và cụ thể hơn nữa, cũng muốn đến một thời điểm cụ thể nào đó thì mối liên hệ này sẽ được ghi ở trong luật theo hướng “trách nhiệm của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo đại học”. Theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hiện hành có yêu cầu mời người sử dụng lao động tham gia vào quá trình đào tạo để chương trình phù hợp với yêu cầu của xã hội. Vậy quan điểm của ông về điều này như thế nào? GS. TS Nguyễn Quý Thanh: Trong các quy trình về xây dựng chương trình đào tạo cũng như trong tiêu chuẩn kiểm định chất lượng thì có hẳn yêu cầu khi xây dựng chương trình đào tạo mới, hoặc điều chỉnh chương trình đào tạo hiện có phải có sự tham gia của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động chính là người đặt ra những yêu cầu về sản phẩm đào tạo. Do đó, khi tham gia đánh giá ngoài tại các cơ sở giáo dục thì một trong những điều mà đoàn đánh giá bắt buộc phải có tham gia ý kiến là đại diện của các doanh nghiệp có sử dụng lao động cơ sở giáo dục đại học. Mục đích để xem hai bên tham gia vào những đâu. Các cơ sở lao động sử dụng lao động của nhà trường khi nhà trường có yêu cầu đóng góp để phát triển chương trình đào tạo thì bên sử dụng lao động tham gia tới đâu! Về quy mô, điều này quan trọng để xác định quy mô đào tạo, nhưng các trường đại học thường quên hoặc không đề cập rõ ràng. Về mặt thị trường, thị trường cần lao động có tính chất như thế nào, quy mô ra làm sao thì trường mới đưa ra bài toán quy mô tuyển sinh, đó là tính toán quy mô tuyển sinh theo đầu ra và theo thị trường lao động. Như vật tiếng nói của các nhà tuyển dụng là đặc biệt quan trọng và sự gắn kết này càng phải được tăng cường hơn nữa theo hướng thực chất, chứ không phải mang tính hình thức. PGS.TS Nguyễn Phương Nga: Đối với nhà tuyển dụng trong việc liên kết đào tạo không chỉ được lợi từ sản phẩm nhà trường, và nhà tuyển dụng tham gia vào quá trình đào tạo này tới đâu và phải có trách nhiệm, trách nhiệm này là quyền lợi của nhà tuyển dụng. Đặt những bài toán ngược lại như vậy sẽ có lợi hơn cho xã hội. Kết quả kiểm định chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học có được công bố công khai hay không? Nếu công khai thì một trường đại học nào đó không đạt chất lượng thì có ảnh hưởng tới chất lượng tuyển sinh của trường đó hay không? PGS.TS Mai Văn Trinh: Việc công khai trong kiểm định chất lượng là điều bắt buộc trong một quy trình đã được ghi trong luật, do đó sẽ được công khai. Đương nhiên kết quả đó sẽ tác động đến quá trình phát triển của nhà trường (cụ thể là tuyển sinh), việc tác động này sẽ theo hai phía; nếu như kết quả kiểm định là tốt thì kết quả là tích cực và ngược lại. Chúng ta đang ở trong xã hội cởi mở và các trường đại học phải dần dần tự chủ trên chính nội lực của mình, tự chủ đó phải gắn với trách nhiệm xã hội và trách nhiệm giải trình. Việc công khai này để cho học sinh, phụ huynh và xã hội giám sát, đặc biệt là các em học sinh chuẩn bị vào học biết được trường mạnh chỗ nào, yếu chỗ nào và cảm thấy có phù hợp với nguyện vọng của mình hay không. Chính vì vậy, việc công khai kiểm định chất lượng là có lợi cho trường chứ không phải là không có lợi. Kỳ thi THPT quốc gia có liên quan gì tới việc đánh giá, kiểm định chất lượng đại học hay không. Tại sao các trường phải công khai đăng ký trong Đề án tuyển sinh của mình, các điều kiện cần công khai là gì? Bộ sẽ giao cho đơn vị vào thẩm định độc lập để đảm bảo tính khách quan?

PGS.TS Mai Văn Trinh: Tuyển sinh là một khâu rất quan trọng đối với một cơ sở giáo dục đại học, và chất lượng đầu vào là một yếu tố quan trọng đến chất lượng đào tạo của nhà trường. Không phải năm 2017 mới đề cập tới chuyện này, từ lâu này Bộ đã từng bước một cách hợp lý yêu cầu các trường công khai thông tin vào mục đích khác nhau, trong đó có mục đích tuyển sinh. Yếu tố đảm bảo chất lượng trong nhà trường có nhiều yếu tốt, nhưng năm 2017 trong các đề án tuyển sinh Bộ sẽ yêu cầu công khai những yếu tố cốt lõi nhất, cơ bản nhất. Như công khai đội ngũ cán bộ của nhà trường như thế nào, cơ cấu đội ngũ giảng viên, trình độ chuyên ngành; điều kiện cơ sở vật chất liên quan tới quá trình đào tạo như diện tích phòng học, thư viện, cơ sở phòng thí nghiệm, thực hành... Việc công bố như trên sẽ có lợi cho các trường, Bộ cũng khuyến khích các trường ngoài các yếu tố cơ bản trên tiếp tục công bố những điều kiện đảm bảo chất lượng khác. Từ năm 2018 phải công bố đầy đủ, trong đó tập trung vào tỷ lệ sinh viên có việc làm khi ra trường. Việc công bố công khai là một bước quảng cáo hiệu quả mà lâu nay các trường không biết cách làm, đây là cơ hội cho các trường. Vậy làm việc đó như thế nào, trước hết các trường tự công bố, nhưng Bộ sẽ giao cho 4 trung tâm kiểm định thông qua các mục tiêu, phương thức, cách làm cụ thể để thẩm định và xác thực. Cách làm sẽ có quy mô, nguyên tắc, chuyên nghiệp, quy trình với những yêu cầu kĩ thuật cụ thể. Do đó, việc công khai của các trường cũng cần phải trách nhiệm và đáng tin cậy cho học sinh và xã hội. Nếu các trường làm không đúng thì thông qua đó Bộ sẽ xử lý và kết quả xử lý đó sẽ công khai với xã hội.

Minh Thắm-Thu Trang

Theo baochinhphu.vn

2. DN được tự dán nhãn năng lượng từ ngày 10/2 Sau khi nộp hồ sơ đăng ký dán nhãn năng lượng đến Bộ Công Thương, doanh nghiệp (DN) được tự thực hiện việc dán nhãn năng lượng phù hợp với thông tin trong giấy công bố dán nhãn năng lượng cho sản phẩm đã đăng ký. Đây là một trong những nội dung được quy định tại Thông tư 36/2016/TT-BCT thay thế Thông tư 07/2012/TT-BCT về dán nhãn năng lượng.

Nếu trước kia, theo Thông tư 07, để được dán nhãn năng lượng và chứng nhận tiêu thụ hiệu suất năng lượng tối thiểu, các nhà sản xuất hay các công ty nhập khẩu phải có mẫu hàng hóa được kiểm tra bởi đơn vị do Bộ Công Thương chỉ định. Việc kiểm tra có thể mất vài tuần, thậm chí vài tháng, phụ thuộc vào các sản phẩm và khối lượng công việc của những đơn vị kiểm tra. Việc này gây tốn kém thời gian, chi phí... cho DN.

Do đó, sự ra đời của Thông tư 36 được coi là sự “cởi trói” cho DN thực hiện dán nhãn năng lượng.

Thông tư này quy định, trước khi đưa phương tiện, thiết bị ra thị trường, DN sản xuất, nhập khẩu phương tiện, thiết bị đó phải lập 1 bộ hồ sơ đăng ký dán nhãn năng lượng và gửi về Bộ Công Thương.

Sau khi nộp hồ sơ đăng ký dán nhãn năng lượng đến Bộ Công Thương, DN được tự thực hiện việc dán nhãn năng lượng phù hợp với thông tin trong giấy công bố dán nhãn năng lượng cho sản phẩm đã đăng ký và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực đối với các thông tin đã công bố.

Thông tư 36 cũng cho phép DN sử dụng kết quả thử nghiệm hiệu suất năng lượng một lần đối với mỗi mẫu (model) sản phẩm, áp dụng cho các tất cả các sản phẩm hàng hóa sản xuất trong nước cũng như các lô hàng nhập khẩu có cùng model, cùng nhà sản xuất, xuất xứ và cùng đặc tính kỹ thuật (không giới hạn thời gian hiệu lực của phiếu thử nghiệm).

Trước đây, quy định về dán nhãn năng lượng được DN phản ánh là gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cụ thể, nhiều DN cho biết phải tiến hành thử nghiệm nhiều lần đối với cùng một model sản phẩm để đáp ứng yêu cầu về đăng ký chứng nhận nhãn năng lượng do quy định về chứng nhận dán nhãn năng lượng theo lô hàng hóa nhập khẩu, hiệu lực của phiếu thử nghiệm hiệu suất năng lượng chỉ kéo dài trong 6 tháng.

Theo baochinhphu.vn

3. Từ 2018, đóng BHXH theo tổng thu nhập Bà Trương Thị Như Kiều (TP.HCM) ký hợp đồng mức lương 12 triệu đồng, trong đó, lương cơ bản 6 triệu đồng, lương hiệu quả công việc 5 triệu đồng (không cố định), tiền xăng xe, đi lại 1 triệu đồng. Bà Kiều hỏi, năm 2018 bà có thể yêu cầu công ty đóng BHXH theo thu nhập 12 triệu đồng không?

Về vấn đề này, BHXH TP. Hồ Chí Minh trả lời như sau:

Căn cứ Luật BHXH năm 2014 và các văn bản hướng dẫn dưới Luật, từ ngày 1/1/2018 trở đi, tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.

Phụ cấp lương là các khoản phụ cấp để bù đắp yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp công việc, điều kiện sinh hoạt, mức độ thu hút lao động mà mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động chưa được tính đến hoặc tính chưa đầy đủ như phụ cấp chức vụ, chức danh; phụ cấp trách nhiệm; phụ cấp nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; phụ cấp thâm niên; phụ cấp khu vực; phụ cấp lưu động; phụ cấp thu hút và các phụ cấp có tính chất tương tự.

Các khoản bổ sung khác, ghi các khoản bổ sung mà hai bên đã thỏa thuận, cụ thể là:

Các khoản bổ sung xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động và trả thường xuyên trong mỗi kỳ trả lương.

Các khoản bổ sung không xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động, trả thường xuyên hoặc không thường xuyên trong mỗi kỳ trả lương gắn với quá trình làm việc, kết quả thực hiện công việc của người lao động.

Phan Trang

Theo chinhphu.vn

4. Bộ Công an: Không thể 'chạy' số định danh cá nhân đẹp Giải tỏa lo lắng của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát khẳng định: Số định danh cá nhân cấp ngẫu nhiên, không thể 'chạy' được.

Chiều 9/2, Ban chỉ đạo Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư (Đề án 896) họp đánh giá kết quả triển khai đề án và nhiệm vụ năm 2017.

Báo cáo của Bộ Công an cho hay, từ 1/1/2016 đến nay, Bộ đã cấp được 5,5 triệu căn cước công dân/số định danh cá nhân. Tuy nhiên, việc cấp số định danh cá nhân đang có những vướng mắc, chưa được triển khai đồng bộ trên toàn quốc.

Cụ thể, hệ thống cấp căn cước công dân của Bộ Công an mới được triển khai trên 16 tỉnh, thành phố. Hệ thống đăng ký khai sinh điện tử của Bộ Tư pháp mới thực hiện trên 12 tỉnh, thành phố.

Bộ Công an đề nghị Thủ tướng xem xét, phê duyệt chủ trương đầu tư dự án sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân theo quy định của luật Căn cước công dân để mở rộng phạm vi triển khai đồng bộ trên cả nước. Việc triển khai đề án hiện không thiếu vốn mà đang vướng về thủ tục hành chính.

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Hồng Nam nêu lo ngại, thực tế có việc mua biển số xe đẹp thì cũng có thể xuất hiện tình trạng chạy số định danh cá nhân đẹp cho bản thân.

Ông Nam cũng lo lắng về tương lai nếu có tỉnh tách nhập địa giới hành chính sẽ ảnh hưởng tới việc cấp mã số định danh cá nhân hay không.

Trung tướng Trần Văn Vệ, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát

Giải tỏa lo lắng này, Trung tướng Trần Văn Vệ, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát (Bộ Công an) khẳng định: “Số định danh cá nhân cấp ngẫu nhiên, không thể 'chạy' được, cũng không thể cấp trùng nhau được”.

Ông Vệ cũng khẳng định chắc chắn “không có chuyện chọn số đẹp”.

Về quy trình cấp số định danh cá nhân, Phó cục trưởng Cục Cảnh sát đăng ký, quản lý cư trú và dữ liệu quốc gia về dân cư (C72) Trần Hồng Phú cho biết, mã số định danh cá nhân gồm 12 số.

3 số đầu mặc định là mã của 63 tỉnh, thành trong nước hoặc mã của 295 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Công dân VN sinh ở tỉnh nào hoặc quốc gia nào sẽ có mã cố định.

Số thứ 4 xác định giới tính. Số thứ 5-6 là năm sinh, 6 số cuối là ngẫu nhiên.

Phó Thủ tướng thường thực Trương Hòa Bình

Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình lưu ý: “Mã cấp không giữ lại thì không có tình trạng 'chạy', còn nếu giữ lại thì chắc chắn sẽ có”.

Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chậm 2 năm

Theo Phó Thủ tướng thường trực, việc cấp số định danh cá nhân đã đạt được kết quả khả quan.

Phó Thủ tướng biểu dương sự cố gắng của các cơ quan, đặc biệt là Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính và Văn phòng Ban chỉ đạo.

Tuy nhiên, ông cũng lưu ý công việc chưa bảo đảm được tiến độ đề ra. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đến nay mới hoàn thành thủ tục để chuẩn bị xây dựng, chậm 2 năm so với dự kiến. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành chưa nhịp nhàng.

Ông nhất trí với kiến nghị chuyển cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo từ Bộ Tư pháp sang Bộ Công an.

Phó Thủ tướng thường trực yêu cầu, Bộ Công an và Bộ Tư pháp cần phối hợp chặt chẽ trong việc mở rộng số lượng địa phương được triển khai cấp số định danh cá nhân, bảo đảm các thông tin của công dân được thu thập chính xác, số định danh cá nhân được cấp theo quy trình khoa học và đúng quy định.

Ông cũng nhấn mạnh, Chính phủ kiến tạo, liêm chính, phục vụ thì phải công khai, minh bạch để các giao dịch của người dân được thuận lợi, người dân được thụ hưởng qua cơ sở dữ liệu.

Theo Thu Hằng

Theo vietnamnet.vn

5. Thêm 5 đối tượng được miễn giảm tiền thuê Từ 10/2, thêm 5 đối tượng nữa được miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của Thông tư 333/2016/TT-BTC vừa được Bộ Tài chính đã ban hành. Theo nội dung của Thông tư 333/2016/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 77/2014/TT-BTC hướng dẫn một số điều của Nghị định 46/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước, 5 đối tượng được miễn giảm tiền thuê đất gồm:

Đất được Nhà nước cho thuê để đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất được miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản

Một là, trường hợp được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm trước ngày 27/12/2015 thuộc đối tượng được ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định tại Nghị định số 108/2006/NĐ-CP nhưng nay không thuộc danh mục địa bàn, lĩnh vực ưu đãi đầu tư hoặc được hưởng mức ưu đãi thấp hơn theo quy định tại Nghị định số 118/2015/NĐ-CP thì tiếp tục được hưởng mức ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp luật trước ngày 27/12/2015 cho thời gian ưu đãi còn lại (nếu còn).

Hai là, trường hợp được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm trước ngày 27/12/2015 không thuộc đối tượng được ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định tại Nghị định 108/2006/NĐ-CP nhưng nay thuộc danh mục địa bàn, lĩnh vực ưu đãi đầu tư theo quy định tại Nghị định 118/2015/NĐ-CP thì được hưởng ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định tại Khoản 1, Khoản 3 Điều 19 và Điều 20 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP cho thời gian ưu đãi còn lại (nếu còn) tính từ thời điểm nộp đủ hồ sơ đề nghị được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định.

Ba là, dự án đầu tư có quy mô vốn đầu tư từ 6.000 tỷ đồng trở lên (trừ dự án kinh doanh nhà ở thương mại); dự án khai thác tài nguyên khoáng sản; dự án sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ sản xuất ô tô) và các dự án khác không thuộc đối tượng được ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất theo pháp luật đất đai nếu thực hiện giải ngân tối thiểu 6.000 tỷ đồng trong thời hạn 03 năm kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư hoặc quyết định chủ trương đầu tư thì được miễn tiền thuê đất.

Cụ thể: Mức miễn tiền thuê đất là 11 năm nếu không thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư; 15 năm nếu thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư; toàn bộ thời gian thuê đất nếu thuộc lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư. Danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư, lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Bốn là, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ được miễn tiền thuê đất trong cả thời hạn thuê đất đối với đất xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học nếu đáp ứng được các điều kiện liên quan đối với hoạt động khoa học công nghệ (nếu có) bao gồm: Đất xây dựng phòng thí nghiệm, đất xây dựng cơ sở ươm tạo công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đất xây dựng cơ sở thực nghiệm, đất xây dựng cơ sở sản xuất thử nghiệm.

Năm là, nhà đầu tư được Nhà nước cho thuê đất để đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất được miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản theo các mức quy định tại Khoản 10 Điều 19 Nghị định số 46/2014/NĐ-CP (được bổ sung tại Khoản 6 Điều 3 Nghị định số 135/2016/NĐ-CP).

Trường hợp khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất nằm trên phạm vi nhiều huyện mà có mức ưu đãi khác nhau thì nhà đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng được hưởng mức ưu đãi theo địa bàn ưu đãi đầu tư có tỷ lệ diện tích đất lớn nhất.

Thông tư 333/2016/TT-BTC có hiệu lực thi hành từ 10/2/2017.

Theo enternews.vn

6. Kinh doanh vận tải bằng xe ô tô: Xem xét bỏ yêu cầu “phải có phương án kinh doanh” Tiếp tục góp ý cho Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 86/2014/NĐ-CP quy định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, VCCI đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ yêu cầu phải có “Phương án kinh doanh vận tải bằng xe ô tô”. Theo VCCI, phương án kinh doanh phụ thuộc vào từng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nên việc xem xét, đánh giá gặp khó khăn cho cả cơ quan nhà nước lẫn doanh nghiệp. Do đó việc xem xét phương án kinh doanh vận tải tại thời điểm cấp phép không mang nhiều ý nghĩa

Yêu cầu “phải có phương án kinh doanh” là chưa hợp lý

Theo VCCI, về hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại Giấy phép kinh doanh (Khoản 27 Điều 1 Dự thảo sửa đổi Điều 21 Nghị định 86) quy định, trong Hồ sơ đề nghị cấp, cấp lại Giấy phép kinh doanh phải có “Phương án kinh doanh vận tải bằng xe ô tô theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải”. So với Nghị định 86 thì Dự thảo đã sửa đổi theo hướng là cơ quan cấp phép sẽ không xem xét để phê duyệt “phương án kinh doanh” nhưng vẫn yêu cầu phải có loại tài liệu này trong Hồ sơ đề nghị cấp phép.

Khi triển khai lấy ý kiến doanh nghiệp, hiệp hội, VCCI nhận được nhiều đề xuất về việc bỏ hình thức lựa chọn khai thác tuyến vận tải hành khách cố định.

Tuy nhiên VCCI cho rằng: “Việc yêu cầu phải có phương án kinh doanh trong Hồ sơ đề nghị cấp phép dường như là chưa hợp lý, do mục tiêu

quản lý xuất phát từ quy định này là không rõ: Cơ quan nhà nước xem xét phương án kinh doanh của doanh nghiệp để làm gì (Cơ quan nhà nước xem xét phương án kinh doanh này của doanh nghiệp liệu có giúp gì cho công tác quản lý của Nhà nước cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp)? Dựa vào những tiêu chí nào để xem xét phương án kinh doanh này? Nếu không đồng ý với phương án kinh doanh thì Cơ quan nhà nước có thể đưa ra giải pháp nào tốt hơn chăng và Cơ quan nhà nước có chịu trách nhiệm nếu phương án được thông qua không hiệu quả không?”.

Hơn nữa, phương án kinh doanh phụ thuộc vào từng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, và cũng theo phản ánh trong Tờ trình, đây là yếu tố thay đổi liên tục nên việc xem xét, đánh giá gặp khó khăn cho cả cơ quan nhà nước lẫn doanh nghiệp. Vì yếu tố này nên việc xem xét phương án kinh doanh vận tải tại thời điểm cấp phép không mang nhiều ý nghĩa (vì có thể thay đổi ngay sau đó và cơ quan nhà nước cũng không thể không cho doanh nghiệp thay đổi phương án kinh doanh – vì đó là quyền đã được ghi nhận tại Luật Doanh nghiệp).

Do đó, VCCI đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ yêu cầu phải có “Phương án kinh doanh vận tải bằng xe ô tô theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải” trong Hồ sơ đề nghị cấp phép, tức là bỏ điểm d khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 21 (được sửa đổi).

Đăng ký khai thác tuyến vận tải: Triệt tiêu tính cạnh tranh

VCCI cũng cho rằng, Dự thảo đã nâng các quy định về đăng ký khai thác tuyến vận tải hành khách cố định quy định tại các Thông tư 91 và giữ các quy định theo hướng: đối với mỗi giờ xe chạy sẽ chỉ có 01 doanh nghiệp, hợp tác xã khai thác tuyến và các doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ được lựa chọn theo quy trình tương tự như đấu thầu. Quy định ở cả văn bản cũ và Dự thảo đều không làm rõ “mỗi giờ” này là thế nào (mỗi tiếng/nửa tiếng/15’/10’, 5’…?).

VCCI cho biết thêm, tại thời điểm xây dựng Thông tư 91, VCCI đã có Công văn số 3246/PTM-PC ngày 16/12/2015 nêu quan ngại về việc quy định trên có thể làm triệt tiêu cạnh tranh trên thị trường vận tải hành khách theo tuyến cố định liên quan (đặc biệt nếu khoảng cách giữa mỗi nốt “giờ” lớn, ví dụ 15’ hoặc nửa tiếng, một tiếng).

“Theo quy định tại Dự thảo, thì mỗi giờ xe chạy sẽ chỉ có 1 doanh nghiệp được phép khai thác tuyến. Điều này có nghĩa, với mỗi giờ cụ thể, người tiêu dùng sẽ không có quyền lựa chọn (lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ,

lựa chọn về giá, lựa chọn về chất lượng …) nhà cung cấp dịch vụ” – Bản góp ý nêu rõ.

Phân tích cho vấn đề này, VCCI cho rằng, từ góc độ quản lý Nhà nước, việc quản lý thông qua thủ tục đăng ký khai thác trên tuyến chỉ phục vụ việc xác nhận đối tượng khai thác theo từng tuyến và đảm bảo rằng các chủ thể này đáp ứng đủ các điều kiện về năng lực, chất lượng chứ hoàn toàn không nhằm mục tiêu hạn chế cạnh tranh.

“Vì vậy, việc xem xét hồ sơ, đánh giá và lựa chọn doanh nghiệp tốt nhất, mặc dù đảm bảo được chất lượng của dịch vụ được cung cấp, nhưng là sự cản trở các doanh nghiệp khác muốn tham gia vào thị trường kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô theo tuyến cố định và cản trở đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp” – Bản góp ý của VCCI khẳng định.

VCCI cũng cho biết thêm, khi triển khai lấy ý kiến doanh nghiệp, hiệp hội, VCCI nhận được nhiều đề xuất về việc bỏ hình thức lựa chọn khai thác tuyến vận tải hành khách cố định này.

Từ những phân tích trên, VCCI đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định về việc lựa chọn khai thác tuyến vận tải hành khách cố định (tức là bỏ Điều 23b) và có thể quy định theo hướng nhiều doanh nghiệp sẽ được đăng ký cho 1 giờ xe chạy. Trường hợp vẫn giữ quy định này thì cần có giải trình một cách thuyết phục hơn, và ít nhất cần có quy định về khoảng cách giữa các nốt giờ theo hướng thu hẹp khoảng cách này (ví dụ 5’-10’)…

Theo enternews.vn

7. DN gặp khó trong đăng kiểm tàu du lịch bằng vật liệu PCC: Các cơ quan ban ngành đồng loạt vào cuộc Việc xác định tàu chở bao nhiêu khách cần phải dựa trên kết quả tính toán thiết kế để quyết định. Nếu kết quả tính toán thiết kế chứng minh được tàu bảo đảm an toàn khi vận hành thì cần phải tạo điều kiện cho DN phát triển.

Việc chuyển đổi tàu cá vật liệu truyền thống sang vật liệu PPC sẽ bảo vệ môi trường, giúp ngư dân khai thác thủy sản có hiệu quả

Tuy nhiên, đến nay DN vẫn mòn mỏi chờ quyết định đăng kiểm của Cục đăng kiểm VN, Bộ GTVT đối với tàu du lịch trở trên 12 người .

Trước những khó khăn của Cty CP Công nghệ Việt Séc mới đây, Ủy ban khoa học và môi trường của Quốc hội đã có văn bản số 177/UBKHCNMT14 do ông Lê Hồng Tịnh ký với nội dung nêu rõ: Ủy ban Khoa học Công nghệ môi trường nhận thấy, kiến nghị của DN là có cơ sở thực tế, vì vậy để xây dựng một Chính phủ kiến tạo, hỗ trợ phát triển DN khoa học công nghệ và thúc đẩy ứng dụng vật liệu mới, Ủy ban Khoa học Công nghệ môi trường đề nghị Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, chỉ đạo xử lý, trả lời DN trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận kiến nghị.

Ngày 10/1/2017, Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu cũng đã có văn bản số 1884/CV/TU gửi Bộ Giao thông vận tải đề nghị xem xét giải quyết kiến nghị của DN. Nội dung công văn nêu rõ, nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho DN trên địa bàn tỉnh phát triển, đồng thời khuyến khích ứng dụng vật liệu mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu đề nghị Bộ GTVT sớm xem xét giải quyết những kiến nghị vướng mắc của DN.

Như DĐDN đã từng thông tin, việc Cục Đăng kiểm Việt Nam, Bộ GTVT giới hạn kích thước cũng như số hành khách du lịch đối với tàu thuyền

đóng bằng vật liệu PPC là cản trở việc phát triển của DN. Điều đáng nói, Cty CP Công nghệ Việt Séc là Cty có năng lực đóng tàu công suất lớn. Cụ thể, năm 2014, Cty đã đóng xong và bàn giao cho Cảnh sát biển đưa vào hoạt động con tàu có chiều dài 14m, rộng 3,5 m, trang bị hai động cơ trong với tổng công suất 600 mã lực. Con tàu này đã được Cơ quan đăng kiểm của Bộ Quốc phòng đăng kiểm. Tuy nhiên, đây chỉ là trường hợp ngoại lệ vì đến thời điểm hiện nay, Cục đăng kiểm VN (Bộ GTVT) chỉ cho phép Cty đăng kiểm tàu thuyền chở dưới 12 khách trở xuống.

Theo lập luận của nhiều chuyên gia trong ngành, việc xác định tàu chở bao nhiêu khách cần phải dựa trên kết quả tính toán thiết kế để quyết định. Nếu kết quả tính toán thiết kế chứng minh được tàu bảo đảm an toàn khi vận hành thì cần phải tạo điều kiện cho DN phát triển.

Theo enternews.vn

8. Lập hồ sơ quản lý sức khỏe cho người dân cả nước “Hà Nội có quyết tâm đến Quốc khánh 2/9 hay kỷ niệm Ngày giải phóng Thủ đô 10/10 toàn bộ người dân Thủ đô sẽ được lập hồ sơ quản lý, chăm sóc sức khỏe?”, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đặt câu hỏi này trong buổi làm việc với lãnh đạo TP. Hà Nội, sáng 9/2.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trao đổi với cán bộ Trạm Y tế phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm. Ảnh: VGP/Đình Nam

Trước đó, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã đến thăm Trạm Y tế phường Tây Mỗ, quận Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội, hiện đảm nhận nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho hơn 24.000 người dân trên địa bàn.

Làm sao để không còn cảnh có bệnh mới đi khám?

Trả lời câu hỏi của Phó Thủ tướng về số lượng người dân đến khám, Trạm trưởng Trạm Y tế phường Tây Mỗ Trần Thị Hoa cho biết hiện chỉ có khoảng 10% số trường hợp người dân chủ động đến khám sức khỏe tại Trạm khi chưa có bệnh. Từ tháng 6/2016, Trạm đã kết hợp khám chữa bệnh và khám sàng lọc, lập hồ sơ sức khỏe cho khoảng 6.000 người dân.

Theo Giám đốc Trung tâm Y tế quận Nam Từ Liêm Nguyễn Thị Thu Trang, đến nay đã có 3 phường trên địa bàn quận triển khai thí điểm việc khám sàng lọc, lập hồ sơ sức khỏe cho người dân và nhận được những đánh giá hết sức tích cực, có đến 98% người khám lần đầu hứa sẽ tái khám.

“Nếu có nguồn kinh phí trích từ nguồn thu BHYT trên địa bàn thì các đồng chí có làm được tốt hơn không?”, Phó Thủ tướng đặt câu hỏi. Bác sĩ Trần Thị Hoa cho biết: “Ngoài nhân lực hiện tại, trạm còn có mạng lưới cộng tác viên đến từng tổ dân phố và cùng với sự hỗ trợ hỗ trợ trực tiếp từ Trung tâm Y tế quận nên việc lập sổ quản lý sức khỏe cho từng người dân hoàn toàn có thể thực hiện được”.

Phó Thủ tướng gợi ý: Các đồng chí tính thử với 24.000 người dân thì nguồn thu BHYT ở một phường như Tây Mỗ là hơn 15 tỷ đồng. Nếu chỉ dành 10% nguồn kinh phí BHYT cho trạm y tế thì người dân hoàn toàn có thể được khám định kỳ, có hồ sơ quản lý sức khỏe, được tư vấn sức khỏe, định hướng chuyển tuyến khi có bệnh… không còn cảnh có bệnh mới đi khám.

Từ đó khắc phục tình trạng nhiều trạm y tế xã/phường được đầu tư rất khang trang nhưng cán bộ y tế có ít việc để làm, thu nhập thấp mà trình độ chuyên môn cũng ít nhiều đi xuống.

“Hiện nay trong 10 người có thẻ BHYT nhưng chỉ có khoảng 4 người sử dụng thẻ để đi khám ở y tế cơ sở. Rất nhiều người dân đi khám bệnh khi

bệnh nặng rồi chứ không bao giờ chưa có bệnh mà đi kiểm tra sức khỏe.

Vì vậy, lập được sổ quản lý sức khỏe, khám định kỳ cho người dân không chỉ đúng về mặt khoa học y tế, mà có thể nói đây là mơ ước của tất cả mọi người dân, của tuyệt đại đa số cán bộ ngành y tế, ngành bảo hiểm và thể hiện rất rõ định hướng xã hội chủ nghĩa đó là làm sao chúng ta quản lý, chăm sóc được sức khỏe ban đầu cho tất cả người dân Việt Nam”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

Quyết tâm của Hà Nội

Làm việc với lãnh đạo TP. Hà Nội, Phó Thủ tướng cho biết đã trực tiếp khảo sát việc triển khai thí điểm việc lập hồ sơ quản lý sức khỏe cho từng người dân tại một tỉnh đồng bằng là Bắc Ninh, một tỉnh trung du miền núi là Phú Thọ cũng đang triển khai thí điểm. Và hôm nay Phó Thủ tướng khảo sát tại địa bàn một thành phố lớn như Hà Nội với những đặc thù rất cụ thể.

“Ý kiến các đồng chí hôm nay rất quan trọng nên chúng ta phải thảo luận chi tiết”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Đức Chung cho biết, thời gian qua Hà Nội đã triển khai thí điểm việc khám sàng lọc, theo dõi, quản lý sức khỏe một số bệnh mạn tính tại trạm y tế; bước đầu nối mạng toàn bộ các trạm, cơ sở y tế, lập cơ sở dữ liệu dân cư trên địa bàn…

“Trong 5 năm vừa qua, bình quân 1 trạm y tế ở Hà Nội được đầu tư 11,2 tỷ đồng nên cơ sở vật chất, trang thiết bị được bảo đảm. Chúng tôi đã thí điểm ở Sóc Sơn về theo dõi sức khỏe cho người bị bệnh mạn tính rất tốt. Với 42 cơ sở y tế công lập, trên 5.000 bác sĩ, Hà Nội hoàn toàn có thể lập các tổ khám, bổ sung thiết bị máy móc để làm theo hình thức cuốn chiếu tại tất cả các quận, huyện”, ông Chung khẳng định.

Lãnh đạo TP. Hà Nội cũng đề xuất cùng với việc giao thêm nhiệm vụ lập hồ sơ quản lý sức khỏe cá nhân, khám định kỳ cho người dân, cần tiến tới xem xét cho các trạm y tế được tự chủ. Ngoài việc thực hiện các chương trình y tế từ nguồn ngân sách, các trạm này được phép thực hiện các dịch vụ khám chữa bệnh, mời bác sĩ giỏi, bác sĩ tư nhân đến khám ngay tại trạm y tế.

Giám đốc Sở Y tế Hà Nội Nguyễn Khắc Hiền thông tin thêm, Thành phố sẽ triển khai việc lập hồ sơ, khám bệnh lần đầu cho tất cả người dân ở

các quận, huyện tại các trạm y tế xã, phường. Các bác sĩ ở các bệnh viện tuyến trên sẽ được huy động hỗ trợ. Trung bình, một ngày ở một trạm sẽ khám được từ 300-500 người. Hà Nội cam kết sẽ hoàn thành việc lập hồ sơ quản lý sức khoẻ cho tất cả người dân trong tháng 9 tới đây.

Phó Thủ tướng lưu ý việc lập hồ sơ quản lý sức khỏe cá nhân là của ngành y tế và bảo hiểm còn đối với người dân quan trọng nhất là được khám, tư vấn sức khỏe, phát hiện bệnh sớm, được giới thiệu chuyển tuyến, bác sĩ phù hợp… Làm được như vậy, trạm y tế xã/phường đã thực hiện đầy đủ chức năng của y học gia đình.

Khám ban đầu để lập hồ sơ sức khỏe cho người dân tại xã Chi Lăng, huyện Quế Võ, Bắc Ninh. Ảnh: VGP/Đình Nam

Hoàn toàn bảo đảm được tài chính

Trả lời những câu hỏi liên quan đến nguồn kinh phí dành cho kế hoạch lập hồ sơ quản lý sức khỏe cá nhân và khám ban đầu cho người dân, Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Phạm Lương Sơn cho hay, ngày 8/2, cơ quan này đã gửi lấy ý kiến góp ý Bộ Tài chính, Bộ Y tế dự toán kinh phí khoảng 5.000 tỷ đồng từ nguồn dự phòng quỹ BHYT.

Về lâu dài, cơ chế tài chính dành cho việc này sẽ được tạo nguồn từ kinh phí tiết kiệm trong tin học hóa việc thanh toán BHYT, đấu thầu

thuốc tập trung, giảm các chi phí thanh toán BHYT từ việc công nhận kết quả các xét nghiệm cận lâm sàng.

“Chúng tôi dự kiến, nếu cập nhật toàn bộ thông tin thanh toán BHYT lên mạng thì chúng ta sẽ tiết kiệm tối thiểu 10% tổng chi phí BHYT. Cộng với đó kinh phí tiết kiệm từ việc công nhận kết quả xét nghiệm sẽ giảm tình trạng một bệnh nhân làm một xét nghiệm nhiều lần khi chuyển tuyến”, ông Sơn nói.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng yêu cầu lãnh đạo TP. Hà Nội kiên quyết chỉ đạo các cơ sở y tế trên địa bàn phải nghiêm túc thực hiện việc cập nhật thông tin lên hệ thống thanh toán BHYT.

“Với 23.000 loại thuốc, trên 16.000 loại dịch vụ kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh, 150 triệu lượt khám có thanh toán BHYT trên toàn quốc, nếu không tin học hóa thì rất dễ nhầm lẫn chứ chưa nói đến có tiêu cực hay không. Thực tế vừa qua kiểm tra một số nơi, bước đầu tin học hóa tiết kiệm tối thiểu 10%. Bây giờ nối mạng tất cả phải cập nhật, chúng ta cho một thời hạn dù khó khăn kỹ thuật mấy cũng phải thực hiện cập nhật. Ai không thực hiện là có biểu hiện tiêu cực”.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đề nghị TP. Hà Nội quyết tâm hoàn thành việc lập hồ sơ sức khỏe từng người dân trong thời gian sớm nhất.

Ảnh: VGP/Đình Nam

Cần làm đúng theo nguyên lý y học

Phó Thủ tướng khẳng định việc lập hồ sơ quản lý sức khỏe, tư vấn, khám định kỳ, phát hiện bệnh sớm là đúng theo nguyên lý của y học. Đó là lấy dự phòng là quan trọng, phòng bệnh hơn chữa bệnh, đi từ cơ sở là giải pháp lâu dài để giảm tải bệnh viện, giảm chi phí y tế.

“Chúng ta làm việc này kết hợp mở rộng bao phủ BHYT toàn dân để người dân thấy rằng tham gia BHYT là mang lại lợi ích thiết thực chứ không chỉ đến khi có bệnh mới đi khám”, Phó Thủ tướng trao đổi.

Về lâu dài, Phó Thủ tướng cho rằng việc cập nhật hồ sơ quản lý sức khỏe cá nhân tích hợp với thẻ an sinh xã hội sẽ tạo thuận lợi cho người dân khi đi khám chữa bệnh ở bất kỳ cơ sở y tế nào và bác sĩ có thể biết được tình trạng sức khỏe, tiền sử bệnh tật, không phải làm lại các xét nghiệm không cần thiết nhất là trong những trường hợp cấp cứu. Đồng thời, những thông tin này còn phục vụ cho công tác quản lý y tế như đánh giá, phân tích mô hình bệnh tật theo độ tuổi, vùng miền, chất lượng dịch vụ y tế…

Nói về những việc cụ thể trước mắt, Phó Thủ tướng cho rằng, từ kinh nghiệm của Phú Thọ, Bắc Ninh thì lực lượng y tế tuyến quận/huyện, xã/phường hoàn toàn có thể bảo đảm, tại các tỉnh miền núi sẽ có sự hỗ trợ của lực lượng thầy thuốc trẻ tình nguyện.

Khó nhất là lập hồ sơ sức khỏe ban đầu cho toàn bộ dân số, dù đã có đầy đủ dữ liệu mang tính hành chính của công dân nhưng các địa phương sẽ phải khám sức khỏe lần đầu cho tất cả mọi người dân, đồng thời tiến hành cập nhật liên tục thông tin về sức khỏe của những người đã đi khám bệnh ở những nơi khác.

Phó Thủ tướng bày tỏ đồng tình với cách làm trong đợt đầu của Hà Nội là không tính tiền công đối với cán bộ y tế mà chỉ tính tiêu hao vật tư y tế nhưng cũng lưu ý “khi khám định kỳ thì phải có chế độ thường xuyên để anh em có việc làm và tăng thêm thu nhập”.

Cùng với đó, phải tăng cường hoạt động tư vấn sức khỏe, thực hiện khám và điều trị một số bệnh; có các đợt khám chuyên khoa sâu về nhãn khoa, tim mạch, hô hấp, xương khớp…; tập huấn, nâng cao hiệu quả trong định hướng, giới thiệu chuyển tuyến, đẩy mạnh tự chủ cho các trạm y tế.

Phó Thủ tướng cũng đề nghị Bộ Y tế cùng với Bảo hiểm xã hội Việt Nam tháo gỡ ngay những vướng mắc về quyền kê đơn, quyền bán thuốc, quyền thanh toán thuốc theo BHYT, không để tình trạng bác sĩ ngồi khám, kê đơn ở chỗ này thì được thanh toán BHYT, “ngồi” chỗ kia thì không được thanh toán.

“Đây là việc rất cụ thể nhưng chắc chắn đây không phải là việc nhỏ. Đúng dịp Quốc khánh 2/9 hay Ngày Giải phóng thủ đô 10/10 mà Hà Nội nói rằng toàn bộ công dân Thủ đô có hồ sơ quản lý và chăm sóc sức khỏe toàn diện, liên tục và nếu một ngày nào đó chúng ta nói toàn bộ hơn 90 triệu người dân đều được như vậy thì đây là việc rất lớn, rất có ý nghĩa. Năm nay chúng ta triển khai được trên cả nước thì tôi tin rằng 5 năm sau diện mạo của ngành y tế sẽ thay đổi”, Phó Thủ tướng kỳ vọng.

Theo baochinhphu.vn

9. Đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ người dân, doanh nghiệp Phó Giám đốc Sở Nội vụ, Giám đốc Trung tâm Hành chính công tỉnh Bắc Giang Nguyễn Văn Nghĩa cho biết: Năm 2017, tỉnh tập trung đẩy mạnh công tác cải cách hành chính nhằm phục vụ tốt hơn người dân, doanh nghiệp trên địa bàn.

Theo đó, tỉnh Bắc Giang nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp để phục vụ người dân, tổ chức theo hướng nền hành chính phục vụ nhanh chóng, hiệu quả, hiện đại; phấn đấu duy trì chỉ số cải cách hành chính, chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở tốp đầu cả nước. Tỉnh nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông các cấp; đơn giản hóa hồ sơ, quy trình và rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính từ 25 - 30% đối với các thủ tục hành chính có thời hạn từ 15 ngày trở lên. Bên cạnh việc nâng tỷ lệ số thủ tục hành chính giải quyết trực tuyến qua mạng mức độ 3 đạt từ 20% trở lên, mức độ 4 đạt từ 10% trở lên, tỉnh Bắc Giang đẩy mạnh việc gửi hồ sơ và nhận kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích; nhân rộng và ứng dụng phần mềm quản lý thông tin cán bộ, công chức, viên chức cấp tỉnh, huyện, xã. Nhằm đạt được các mục tiêu cải cách hành chính nhà nước, năm 2017 tỉnh Bắc Giang tập trung thực hiện tốt việc cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; cải cách tài chính công; hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm Hành chính công tỉnh, Sở Nội vụ phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông cùng các đơn vị thực hiện các biện pháp kỹ thuật đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trong hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin của các cơ quan nhà nước; rà soát, khảo sát và xây dựng phần mềm kết nối phần mềm chuyên ngành của các đơn vị với trang thông tin hành chính công của tỉnh. Bắc Giang duy trì ổn định, hiệu quả hệ thống công nghệ thông tin tại Trung tâm hành chính công; rà soát, kiểm tra lỗi phần mềm phát sinh trong quá trình sử dụng để kịp thời khắc phục. Thời gian tới, Trung tâm Hành chính công tỉnh thực hiện tốt việc công bố kết quả giải quyết thủ tục hành chính của các sở, ngành và các cơ quan ngành dọc Trung ương có thủ tục hành chính được tiếp nhận và trả kết quả giải quyết tại thủ tục hành chính trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh và Cổng thông tin điện tử Chính phủ. Trung tâm hành chính công tỉnh nghiên cứu triển khai liên thông phần mềm một cửa điện tử giữa UBND các huyện, thành phố với các sở, ban, ngành liên quan; phối hợp với Trung tâm kinh doanh viễn thông Bắc Giang triển khai tổng đài trả lời kết quả giải quyết thủ tục hành chính; thường xuyên đôn đốc, kiểm soát việc giải quyết thủ tục hành chính của các sở, ngành và công chức làm nhiệm vụ tiếp nhận và trả kết quả làm việc tại Trung tâm hành chính công...

Đến nay, tỉnh Bắc Giang đã có 19 sở, ngành, 10 huyện, thành phố và 189/230 xã, phường, thị trấn đã triển khai phần mềm một cửa điện tử; kết nối liên thông qua bộ phận một cửa 138 thủ tục hành chính của các sở, ngành đến Văn phòng UBND tỉnh. Tỉnh duy trì tốt việc sử dụng phần mềm quản lý văn bản và điều hành công việc của 100% các sở, cơ quan thuộc UBND tỉnh; triển khai phần mềm đến 26 đơn vị trực thuộc các sở, ngành. 9/10 huyện đã triển khai phần mềm liên thông đến cấp xã.

Theo thanhtra.com.vn

10. Bí thư Thành ủy dùng Facebook để “đối thoại” với dân Bí thư Thành ủy Tây Ninh đã mở trang Facebook cá nhân để "đối thoại" với dân, không ngại ý kiến cho rằng làm như vậy để đánh bóng bản thân…

Mở trang Facebook cá nhân để trực tiếp tiếp nhận, giải quyết những phản ánh, bức xúc của người dân; chỉ đạo quyết liệt việc triển khai công nghệ thông tin để hiện đại hoá nền hành chính Nhà nước… Đó là những điều mà ông Trần Hữu Hậu, Bí thư Thành uỷ Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đã và đang làm.

PV: Việc mở trang Facebook để trả lời của người dân, trong khi người dân hỏi những vấn đề thượng vàng hạ cám. Ông thu xếp thời gian như thế nào để trả lời các ý kiến của dân?

Ông Trần Hữu Hậu: Tôi cũng khá bất ngờ khi mình sử dụng Facebook lại được bà con hưởng ứng nhiều như thế.

Ảnh trên facebook của Bí thư Thành uỷ Tây Ninh

Tôi chỉ việc ngồi một chỗ nhưng từ phản ánh của bà con lại nắm được rất nhiều tình hình. Từ hang cùng ngõ hẻm, bà con có phát hiện chuyện gì thì cũng gửi cho tôi và sự việc có phức tạp, bức xúc, khó khăn thì bà con mới yêu cầu giải quyết.

Điều mà tôi được đầu tiên là tiếp nhận thông tin và thực sự chúng ta xây dựng một hệ thống chính quyền thực sự vì dân thì phải giải quyết cho được những bức xúc nhỏ nhất của người dân. Cho nên nắm được những bức xúc của người dân để giải quyết kịp thời đó là điều quan trọng để lấy được lòng tin đối với dân, xây dựng một xã hội tốt đẹp.

Thú thực việc giải quyết không phải là tôi mà khi có thông tin tôi chỉ việc chuyển qua cho các đơn vị liên quan xem giải quyết. Khi trả lời, các đơn vị liên quan gửi lại trả lời cho tôi và tôi trở thành người chuyển ý kiến đó cho người dân. Thực ra công sức tôi bỏ ra không nhiều.

PV: Người ta vẫn cho rằng mạng xã hội là mạng ảo và cũng là con dao hai lưỡi. Ông có lo ngại mặt trái của mạng xã hội hay không?

Ông Trần Hữu Hậu: Riêng tôi khi sử dụng mạng xã hội thấy mặt trái rất ít. Hầu hết các phản ảnh, bức xúc của người dân là đúng, có thật. Như vậy thì ta phải giải quyết.

Thú thật cũng có một số người gửi một số comment, lời lẽ không hay. Những lời đó tôi vẫn để nguyên để mọi người cùng xem và comment trở lại và tự nhiên mọi việc sáng tỏ.

Tôi nghĩ khi mở mạng xã hội ra như vậy thì những ý kiến trái chiều, ý kiến không chuẩn thì sẽ có những người có ý kiến đúng đứng ra phản bác, bảo vệ lẽ phải.

PV: Có một số cơ quan đơn vị còn cấm cán bộ, nhân viên lên mang xã hội trong giờ làm việc. Vậy ông có “sợ” mọi người cho rằng ông “nghiện” Facebook hay không?

Ông Trần Hữu Hậu: Tôi đang hô hào cán bộ, các cơ quan trong tỉnh tham gia Facebook. Đặc biệt các tổ chức đoàn thể xã hội, của Mặt trận liên quan đến phản biện xã hội, tiếp thu ý kiến người dân của, tôi đang đề nghị họ mở Facebook để truyền tải, tiếp nhận ý kiến người dân. Đây cũng là để thể hiện chính vai trò của các cơ quan đoàn thể này. Tôi thấy điều này hoàn toàn cần thiết.

Tôi thấy Facebook chính là một kênh thông tin tốt và chính quyền nên có. Qua đây có thể chuyển tải được những vấn đề chính quyền muốn nói với dân và tiếp thu những vấn đề dân phản ánh với chính quyền.

PV: Ông có cho rằng khi sử dụng như vậy sẽ có ý kiến cho rằng ông sa đà vào những chuyện nhỏ lẻ mà ảnh hưởng đến việc chỉ đạo vấn đề cần thiết hơn ở tầm vĩ mô?

Ông Trần Hữu Hậu: Thành phố cũng đã có những chủ trương định hướng lớn trong phát triển kinh tế-xã hội. Nhưng vấn đề quan trọng số một phải là giải quyết bức xúc của người dân, nên nhiệm vụ đầu tiên của cấp cơ sở phải nắm cho được hơi thở của cuộc sống, bức xúc của người dân. Không giải quyết được việc nhỏ thì đừng mong giải quyết được những việc lớn.

PV: Ông có ngại sẽ có ý kiến cho rằng việc ông đang làm là đánh bóng bản thân?

Ông Trần Hữu Hậu: Điều quan trọng số một là việc mình làm thực sự thế nào. Tôi nghĩ mình thực sự muốn nghe người dân và muốn giải quyết cho người dân.

Trước kia tôi có 18 năm làm Giám đốc doanh nghiệp và tôi đi khắp đất nước và sản phẩm của tôi có mặt trên 500 quận, huyện. Tôi có dịp được tiếp cận với các cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương. Tôi hiểu sự yếu kém, quan liêu, xa dân trong bộ máy hành chính.

Vì thế tôi chuyển qua làm chính trong bộ máy ấy thì tôi nghĩ rằng mình cần phải làm khác đi. Tôi biết doanh nghiệp và người dân cần gì ở bộ máy hành chính. Vì thế những việc tôi làm, trong đó có cả việc trên Facebook là để giải quyết những vấn đề người dân đang bức xúc thực sự.

Còn việc đánh giá tôi không ngại. Tôi cho rằng khi mình làm thật lòng, thật tâm thì mọi người sẽ hiểu.

PV: Xin cảm ơn ông./.

Theo vov.vn

11. Ngành du lịch đặt nhiều mục tiêu cải cách hành chính (Chinhphu.vn) - Ngành du lịch sẽ phấn đấu cung cấp từ 30%-40% dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 vào năm 2017. Đây được xem là một trong những mục tiêu quan trọng của ngành. Bên cạnh đó, để triển khai công tác cải cách hành chính nhà nước, ngành du lịch sẽ hoàn thành việc công khai, minh bạch quy chế làm việc, quy trình giải quyết công việc trong nội bộ cơ quan cũng như quy trình giải quyết công việc với nhân dân, tổ chức và doanh nghiệp. Phấn đấu đến hết năm 2017 có 90% đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng và Sở có hệ thống mạng thông tin nội bộ, các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các phòng chuyên môn được giao dịch dưới dạng điện tử. Để đạt được mục tiêu, theo Giám đốc Sở Du lịch Đỗ Đình Hồng, Sở sẽ tổ chức triển khai kịp thời kế hoạch cải cách hành chính của Thành phố và của Sở. Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu trong công tác cải cách hành chính, tăng cường sự giám sát của nhân dân trong việc thúc đẩy cải cách hành chính và nâng cao trách nhiệm giải trình, đạo đức

công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. Đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền về cải cách hành chính bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, thông tin rộng rãi về cải cách hành chính, triển khai dịch vụ công mức độ 3 đến từng đối tượng. Thực hiện cải cách thể chế, thủ tục hành chính, bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; hiện đại hóa hành chính. Văn phòng Sở Du lịch sẽ là bộ phận thường trực, có trách nhiệm giúp Ban Giám đốc Sở đôn đốc, theo dõi, kiểm tra các phòng chuyên môn thực hiện kế hoạch cải cách hành chính nhà nước của Sở Du lịch. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi, đánh giá và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ.

Tú Mai Theo thanglong.chinhphu.vn