Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Mục lụcI. Một số vấn đề lí luận về xuất khẩu lao động trong nền kinh tế thị trường..............2
1.1 Khái niệm và nội dung đẩy mạnh xuất khẩu lao động...............................................2
1.1.1 Khái niệm.............................................................................................................2
1.1.2 Các hình thức xuất khẩu lao động.......................................................................2
1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động:..................................................3
1.2.1 Nhóm các nhân tố thuộc về quốc gia nhập khẩu lao động..................................3
1.2.2 Nhóm các nhân tố thuộc về quốc gia xuất khẩu lao động...................................4
II. Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Malaysia.................................5
2.1. Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam:...........................................................5
2.2. Đặc điểm thị trường lao động ở Malaysia.................................................................8
2.3. Thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang Malaysia:........................................9
2.3.1. Số lượng lao động...............................................................................................9
2.3.2. Cơ cấu ngành nghề...........................................................................................14
2.4. Đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động sang Malaysia..........................................15
2.4.1. Thành công đạt được........................................................................................15
2.4.2. Hạn chế.............................................................................................................17
2.4.3. Nguyên nhân:....................................................................................................18
III. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động sang Malaysia:.......................................19
3.1.Các biện pháp đã thực hiện:....................................................................................19
3.2.Giải pháp trong thời gian tới:..................................................................................22
3.2.1. Giải pháp của Nhà nước:..............................................................................22
3.2.2. Về phía Hiệp hội XKLĐ:...............................................................................25
3.2.3. Giải pháp về phía doanh nghiệp...................................................................25
3.2.4. Giải pháp về phía người lao động.................................................................26
1
I. Một số vấn đề lí luận về xuất khẩu lao động trong nền kinh tế thị trường
1.1 Khái niệm và nội dung đẩy mạnh xuất khẩu lao động
1.1.1 Khái niệmCó rất nhiều cách hiểu khác nhau về xuất khẩu lao động (XKLĐ) nhưng ngày nay với
cách sử dụng thống nhất thuật ngữ XKLĐ để nhấn mạnh hơn đến tính hiệu quả kinh tế
cuả hoạt động này, có thể hiểu như sau:
XKLĐ là hoạt động kinh tế của một quốc gia thực hiện việc cung ứng lao động cho
một quốc gia khác trên cơ sở những hiệp định hoặc hợp đồng có tính chất pháp quy được
thống nhất giữa các quốc gia đưa và nhận lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại, mang đặc thù
của xuất khẩu nói chung. Thực chất XKLĐ là một hình thức di cư quốc tế. Tuy nhiên,
đây chỉ là sự di cư tạm thời và hợp pháp.
1.1.2 Các hình thức xuất khẩu lao động * Phân loại theo hàng hóa sức lao động:
Xuất khẩu lao động có nghề: là loại lao động trước khi ra nước ngoài đã được đào
tạo thành thạo một nghề nào đó và khi sô lao động này ra nước ngoài làm việc sẽ không
phải bỏ thời gian và chi phí để đào tạo lại nữa.
Xuất khẩu lao động không có nghề: là loại lao động trước khi ra nước ngoài chưa
được đào tạo thành thạo một nghề nào đó. Loại lao động này thích hợp với công việc giản
đơn không yêu cầu chuyên môn hoặc công việc do doanh nghiệp nước ngoài đòi hỏi trực
tiếp đào tạo tại nước sử dụng lao động.
* Phân loại theo cách thực hiện:
Xuất khẩu lao động trực tiếp: là hình thức công ty cung ứng trực tiếp lao động cho
doanh nghiệp nước ngoài thông qua hơp đồng lao động. Hợp đồng này do người lao động
kí trực tiếp với chủ sử dụng lao động nước ngoài nhưng khi làm thủ tục vẫn phải thông
qua doanh nghiệp chuyên doanh về xuất khẩu lao động để thực hiện trách nhiệm và nghĩa
vụ với nhà nước.
2
Xuất khẩu lao động tại chỗ: là hình thức lao động vẫn làm việc trong nước nhưng
tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công
nghệ cao, các cơ quan ngoại giao của nước ngoài đóng tại nước của người lao động.
1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động:
1.2.1 Nhóm các nhân tố thuộc về quốc gia nhập khẩu lao động
Nhóm nhân tố thuộc về quốc gia nhập khẩu lao động là nhóm các nhân tố ảnh
hưởng đến nhu cầu tuyển lao động nước ngoài của một quốc gia, bao gồm:
Thứ nhất là tình hình chính trị của quốc gia. Một quốc gia có tình hình chính trị
không ổn định thì sẽ không hoặc ít có nhu cầu tuyển thêm lao động ngoài nước. Các nước
này đang trong thời điểm chính trị rối ren nên trước hết muốn giải quyết những khó khăn
trước mắt mà ít chú trọng tới phát triển sản xuất, tuyển thêm nhân công. Quốc gia xuất
khẩu lao động cũng không muốn lao động nước mình bị chuyển tới một quốc gia nhiều
rủi ro như vậy.
Thứ hai là sự phát triển của nền kinh tế quốc gia tiếp nhận. Nước có nền kinh tế
quốc dân phát triển ổn định hoặc đang phát triển mà bị thiếu nguồn nhân công trong một
vài lĩnh vực nào đó sẽ có nhu cầu tuyển lao động cao. Đây là những thị trường lao động
đầy tiềm năng, thu hút cả lao động phổ thông và lao động trình độ cao bởi họ chi trả mức
lương cao, nhiều ưu đãi, bảo đảm an toàn cao cho lao động xuất khẩu.
Thứ ba là mối quan hệ giữa nước xuất khẩu với nước nhập khẩu lao động. Quốc
gia nhập khẩu lao động không chỉ dựa vào chất lượng và chi phí cho lao động mà còn
dựa trên mối quan hệ hợp tác chính trị - văn hóa – kinh tế với quốc gia xuất khẩu lao
động để lựa chọn sử dụng lao động của quốc gia nào. Hai quốc gia càng có sự hợp tác
hữu nghị tốt càng di chuyển lao động dễ dàng.
Thứ tư là sự cạnh tranh của chính lao động trong quốc gia nhập khẩu. Nếu trong
nước thiếu lao động trình độ cao thì buộc nước này phải sử dụng lao động nước khác có
3
chuyên môn hơn. Hoặc ngược lại nếu quốc gia thiếu lao động giản đơn thì có thể nhập
khẩu lao động phổ thông ngoài nước để sử dụng.
1.2.2 Nhóm các nhân tố thuộc về quốc gia xuất khẩu lao động
- Các nhân tố thuộc về nhà nước:
Nhân tố đầu tiên kể đến là quan điểm, tư duy của nhà nước về vấn đề xuất khẩu
lao động. Các nhà quản lý coi trọng xuất khẩu lao động, coi nó là một trong các biện
pháp xóa đói giảm nghèo, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì thị trường lao động
xuất khẩu của quốc gia đó sẽ sôi động hơn và ngược lạị
Một quốc gia có các chính sách thúc đẩy xuất khẩu lao động như: thủ tục xuất
khẩu lao động đơn giản, dễ tiếp cận, chi phí cho một lao động đi nước ngoài thấp, đảm
bảo an toàn cho người xuất khẩu lao động, không đánh thuế hoặc đánh thuế thấp với kiều
hối gửi về nước… Quốc gia này chắc chắn sẽ có lượng lao động sẵn sàng ra nước ngoài
làm việc cao. Nếu hệ thống các quan điểm, chính sách và chủ trương của nhà nước về
hoạt đông xuất khẩu lao động. được coi trọng, xác định đúng vị trí của nó trong phát triển
kinh tế - xã hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu lao động và ngược lại.
Đồng thời với quá trình này thì công tác tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động.
Như đã kể trên, mối quan hệ giữa hai nước xuất và nhập khẩu lao động cũng đóng
vai trò khá quan trọng trong việc xuất khẩu lao động. Quốc gia muốn xuất khẩu lao động
phải tăng cường ngoại giao với các quốc gia đang cần nhập khẩu lao động góp phần tạo
ra nhiều cơ hội việc làm ngoài nước cho lao động trong nước.
- Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp môi giới xuất khẩu lao động
Các doanh nghiệp XKLĐ thường bắt đầu với việc tăng cường ngoại giao, quan hệ
với các cấp chính quyền nước sở tại, các tập đoàn, các hiệp hội sử dụng lao động nước
ngoài, các công ty môi giới để mở rộng thị trường, tìm kiếm hợp đồng cung ứng lao
4
động. Các doanh nghiệp càng năng động và nhạy bén càng tìm kiếm được nhiều việc làm
và điều kiện thuân lợi ở nước ngoài cho lao động xuất khẩu.
Hoạt động tuyển chọn, đào tạo người đi XKLĐ của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng
không nhỏ tới hoạt động XKLĐ. Tuyển chọn kĩ lưỡng, đào tạo lao động có bài bản, có
năng lực nghề nghiệp đáp ứng tốt yêu cầu của phía sử dụng lao động sẽ nâng cao chất
lượng, uy tín của lao động xuất khẩu, tăng khả năng hợp tác lâu dài với các đối tác truyền
thống, mở ra các cơ hội hợp tác với đối tác mới.
Tổ chức quản lý trong thời gian người lao động làm việc ở nước ngoài: Các doanh
nghiệp phải có đại diện quản lý lao động ở nước ngoài, có các hoạt động để gắn kết
những người lao động với nhau, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của người lao
động, phải nhanh chóng xử lý và ngăn chặn được tình trạng lao động bỏ trốn, vi phạm
hợp đồng lao động, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích chính đáng của người lao động
Đặc biệt, mức phí đưa người lao động đi xuất khẩu phải hợp lý. Nếu mức phí quá
cao làm cản trở không cho người lao động nghèo có cơ hội được ra nước ngoài làm việc
- Các nhân tố thuộc về người lao động xuất khẩu:
Bản thân người lao động nếu có trình độ, kĩ năng lao động, ngoại ngữ và hiểu biết
nhất định về quốc gia định sang làm việc thì có nhiều khả năng được nhận hơn. Bên cạnh
chất lượng thì ý thức kỉ luật của người lao động cũng có tầm quan trọng to lớn trong việc
quyết định người lao động xuất khẩu sang nước nào, nhận mức lương và ưu đãi ra sao.
II. Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Malaysia
2.1. Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam:
Việt Nam là một đất nước có dân số trẻ với hơn 90 triệu dân. Theo Tổng cục thống
kê, năm 2013 số người trong độ tuổi lao động của cả nước là 53,25 triệu, trong đó tỷ lệ
thiếu việc làm là 2.75%, tức là có khoảng 1.45 triệu người trong độ tuổi lao động bị thiếu
5
việc làm. Con số này là không hề nhỏ. Để góp phần giải quyết tình trạng này, Việt Nam
đã tập trung đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động.
Bảng: Số lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2005 – Quý I/2015
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 Quý I/
2015
0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
7059480140
8462594988
73028
85546 81475 8032088155
106840
25766
Số lượng lao động xuất khẩu (người)
Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước
Có thể thấy, trong giai đoạn 2005 – 2015 số lượng lao động của Việt Nam đi xuất
khẩu lao động có xu hướng tăng (năm 2014 là 106840 lao động, gấp khoảng 1.5 lần so
với năm 2005) nhưng không tăng liên tục, cụ thể là năm 2009, 2011, 2012. Trong đó năm
2009 có 73028 lao động xuất khẩu, giảm so với năm 2008 là 21960 lao động, thậm chí
còn thấp hơn năm 2006 và 2007, do năm 2009 các quốc gia trên thế giới vẫn còn chịu dư
trấn mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, sản xuất đình đốn nên không
có nhu cầu tiếp nhận thêm lao động, mở rộng sản xuất.
Năm 2011 có 81475 lao động đi xuất khẩu giảm so với năm 2010 là 4071 người là
do trong năm này, một loạt các nước nhập khẩu lao động của Việt Nam gặp phải các sự
cố thiên tai, chính trị. Nhật Bản phải chịu trận động đất và sóng thần Tohoku, gây ra
những thiệt hại nghiêm trọng về cơ sở hạ tầng, vật chất, kéo theo thảm họa hạt nhân tồi tệ
6
nhất thế giới từ sau vụ Chernobyl năm 1986. Trước thảm họa ở Nhật 2 tháng thì ở Bắc
Phi và Trung Đông cũng xảy ra cơn “địa chấn” về chính trị- xã hội. Khởi đầu là biểu tình,
bạo động đòi lật đổ chính quyền ở Tuy-ni-di sau đó là Ai Cập phải giải tán Chính phủ và
chiến sự ở Libi đã làm đình trệ hoạt động XKLĐ của Việt Nam sang khu vủa Vực này.
Năm 2012, số lao động xuất khẩu vẫn tiếp tục giảm nhẹ do vẫn còn chịu những ảnh
hưởng xấu từ năm 2011.
Về đối tác XKLĐ của Việt Nam trong các năm qua chủ yếu là Đài Loan,
Malaysia, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong vòng 10 năm 2005 – 2014 , Việt Nam đã có nỗ
lực mở rộng các thị trường XKLĐ tiềm năng cững như tìm kiếm thêm các thị trường mới
ở Bắc Phi và Trung Đông như Lyrbi, Angola, Algeria, Slovakia…
Hình: Tỷ lệ lao động Việt Nam xuất khẩu sang các nước năm 2005 và 2014
Đài Loan32%
Malaysia35%
Nhật Bản4%
Hàn Quốc17%
Khác 12%
năm 2005
Đài Loan38%
Malaysi
a3%
Nhật Bản12%
Hàn Quốc4%
Khác
42%
Năm 2014
Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước
Năm 2005, Việt Nam xuất khẩu lao động chủ yếu sang 4 nước Malaysia (24605
lao động), Đài Loan (22784 lao động), Hàn Quốc(12102 lao động) và Nhật Bản (2954 lao
7
động) Riêng nhóm 4 nước này đã chiếm đến 88% số lao động đi XKLĐ, Trong đó
Malaysia là thị trường chính của nước ta giữ tỷ lệ gần 35%.
Sau 10 năm, các đối tác XKLĐ của nước ta đã có sự thay đổi đáng kể. Tổng tỷ lệ
của 4 nước này chỉ còn là 58%, Đài Loan vươn lên vị trí số 1 với khoảng 62000 lao động,
tăng 22.3 lần so với năm 2005, chiếm 38% số lao động XKLĐ. Tổng số lao động xuất
khẩu sang các quốc gia khác trừ 4 nước trên cũng tăng nhanh lên lên đến 68640 người,
tăng 8.42 lần so với năm 2005, chiếm 42%. Như vậy, Việt Nam đã mở rộng được các thị
trường tiềm năng và tìm đến một số thị trường mới.
Tuy nhiên, năm 2014 Việt Nam chỉ XKLĐ sang Hàn Quốc khoàng 7000 lao động
chỉ còn chiếm 5%. Đặc biệt là Malaysia giảm mạnh chỉ còn 5000 lao động, giảm 4.9 lần
so với năm 2006, chiếm 3%. Điều này thể hiện mặt yếu kém của Việt Nam khi không giữ
chân được các thị trường truyền thống.
2.2. Đặc điểm thị trường lao động ở Malaysia
Malaysia có diện tích khoảng 330.400 km2, dân số gần 30 triệu người, GDP/người
khoảng 10.500 USD/năm (2013). Như vậy so với Việt Nam thì Malaysia có diện tích
tương đương, dân số chỉ bằng 1/3 dân số Việt Nam nhưng GDP/người thì gấp hơn 5 lần
GDP/người của Việt Nam.
Về cầu lao động, Malaysia là nước có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài lớn.
Ngay từ những năm đầu của thập kỷ 70, Malaysia đã sử dụng lao động nước ngoài.
Thành công kinh tế của Malaysia không thể thiếu sự đóng góp to lớn của lao động nhập
ngoại. Là một nước công nghiệp hóa mới và đang có mục tiêu trở thành quốc gia phát
triển vào năm 2020, hiện nay Malaysia đang thiếu khoảng 3 triệu nhân công và theo
thống kê của Công đoàn Malaysia, số lao động nhập cư hợp pháp hiện là khoảng 2 triệu.
Nếu tính cả số lượng lớn lao động bất hợp pháp và những người không có giấy tờ chính
thức thì từ 30%-50% lực lượng lao động ở Malaysia là người nước ngoài,chủ yếu trong
ngành gia công sản xuất, xây dựng và dịch vụ.
8
Về nguồn cung lao động, lao động nước ngoài ở Malaysia chủ yếu là từ Inđônêsia,
Thái Lan, Philippin, Bangladesh, Pakistan và Việt Nam. Trong đó, người Indonesia
chiếm tỉ lệ lớn nhất, hơn 50% lao động nước ngoài tại đây, chủ yếu làm nghề giúp việc
gia đình.
Ngoài ra, Malaysia còn có các văn bản quy định về lao động từ nước ngoài ví dụ
như: thời hạn của giấy phép làm việc là 2 năm, có thể được gia hạn tối đa là 7 năm,
nhưng người lao động đã làm việc ở Malaysia có thể được quay trở lại Malaysia làm việc
khi đã về nước ít nhất là 6 tháng; lao động nước ngoài phải có chủ thuê và chỉ làm cho
một chủ, nhà ở và phương tiện đi lại đều do chủ sử dụng bố trí và chịu chi phí,…
Theo Luật Lao động Malaysia, người lao động nước ngoài được hưởng sự đối xử
như với lao động nước sở tại về tiền lương và các lợi ích khác. Tuy nhiên, người lao động
nước ngoài không được gia nhập công đoàn. Trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa
người lao động và chủ sử dụng, thì họ có quyền khiếu nại lên Cục lao động để xem xét
giải quyết. Thực tế, sự thiếu hiểu biết về quyền và thủ tục khởi kiện, e ngiạ sự trả thù lẫn
nhau và thiếu thông tin đã cản trở người lao động thực hiện việc khiếu nại, khởi kiện.
Đây là nguyên nhân gây ra hầu hết các vụ việc phức tạp ảnh hưởng đến quyền lợi của
người lao động.
2.3. Thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang Malaysia:
Việt Nam đã đưa lao động đi làm việc ở trên hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ,
tuy nhiên thực tế, số thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam thường xuyên và đều đặn
không quá con số 10. Malaysia cùng với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản là 4 thị trường
đi xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam.
2.3.1. Số lượng lao độngChính thức xuất khẩu lao động sang Malaysia đầu năm 2002, tính đến nay nước ta
đã đưa một số lượng lớn lao động, hơn 200.000 lượt lao động nước ta được đưa sang làm
việc tại đây.
9
Tình hình xuất khẩu lao động sang thị trường này thời gian qua có nhiều biến
động: Sau con số ấn tượng 40000 lao động trong năm 2003 là sự sụt giảm bất ngờ vào
năm 2004 khi số lao động giảm xuống hơn một nửa chỉ còn là 15889 lao động. Đây là
năm Malaysia có nhiều sự thay đổi về chính sách đầu tư cũng như sự biến động về tình
hình kinh tế nên nước này đã ngừng tiếp nhận lao động trong một số ngành nghề đặc biệt
là ngành xây dựng. Sự thay đổi này có tác động không nhỏ đối với Việt Nam, vì vậy mà
số lao động xuất khẩu sang Malaysia trong năm này đã không đáp ứng được chỉ tiêu đề ra
là 25000 lao động.
Năm 2004 có thể coi là năm không thuận lợi đối với những lao động làm việc
trong ngành xây dựng tại Malaysia. Trong năm này, có khoảng 700 lao động nước ta bị
mất việc. Điều này xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Nguyên nhân khách quan là năm 2004, chính phủ Malaysia áp dụng chính sách kinh tế
mới cộng với giá thép và giá nguyên liệu tăng cao đã dẫn đến nhiều công trường xây
dựng lâm phải tình trạng phá sản và buộc phải đóng cửa. Chính phủ Malaysia đã chuyển
hướng xây dựng từ các công trình lớn mang tính chất chiến lược sang xây dựng các công
trình nhỏ. Sự chuyển hướng đã khiến cho một số công trình ở nông thôn buộc phải đóng
cửa. Ngoài những nguyên nhân khách quan kể trên thì còn một số nguyên nhân chủ quan
từ phía lao động và từ phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam. Lao động
Việt Nam đã không cố gắng và không kiên trì, còn tự phát đình công trái pháp luật dẫn
đến tự đẩy mình từ thế đúng sang thế sai.
Do ảnh hưởng lớn của năm 2004, tình hình vẫn chưa thể khắc phục trong năm
2005, năm này chỉ có 12361 lao động sang Malaysia làm việc.
Năm 2006, ngành xuất khẩu lao động của Việt Nam đã có những tín hiệu đáng
mừng, tổng cộng có 80140 lao động sang làm việc tại các thị trường khác nhau. Trong đó
số lượng xuất khẩu sang Malaysia chiếm tỉ lệ lớn với 37941 lao động tương ứng 47,3%.
10
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 20140
50001000015000200002500030000350004000045000
19965
40000
1588912361
37941
26704
7810
2792
117419195 9300
75005000
S l ng lao đ ng xu t kh u sang ố ượ ộ ấ ẩMalaysia
Ngu n: B lao đ ng th ng binh và xã h iồ ộ ộ ươ ộ
Sang năm 2007, tình hình xuất khẩu lao động có sự sụt giảm tương đối mạnh từ
37941 lao động xuống còn 26704 lao động.
Tuy nhiên, năm 2008 mới được xem là dấu mốc đánh dấu sự xuống dốc nghiêm
trọng của việc xuất khẩu lao động sang Malaysia. Số lượng lao động lúc này giảm xuống
chỉ còn 7810 người, giảm gần 4 lần so với năm 2007. Đến năm 2009 chỉ còn chưa đến
3000 lao động xuất khẩu sang thị trường này.
Nguyên nhân là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, các doanh nghiệp
Malaysia sa thải hàng loạt công nhân, đồng thời Chính phủ Malaysia ban hành lệnh cấm
tuyển lao động nước ngoài để ưu tiên việc làm cho người dân trong nước.
Tuy nhiên, nguyên nhân chính của tình trạng trên là do mức thu nhập khá thấp so
với mặt bằng chung, cùng với nhiều thông tin tiêu cực về cách quản lý lao động ở
Malaysia đã khiến người lao động chần chừ. Thu nhập bình quân của người lao động tại
thị trường này đạt 2 đến 3 triệu đồng/người/tháng, đối với một số ngành nghề có kỹ thuật
đạt trên dưới 10 triệu đồng/người/tháng. Mức lương này so với các thị trường khác tương
đối thấp, người lao động tại Đài Loan nhận được mức lương cơ bản cũng đã đạt đến 10
triệu đồng/người/tháng, hay tại Nhật Bản, lao động được trả lương khoảng 8-12 triệu
đồng/người/tháng theo công việc và 14-20 triệu đồng/người/tháng do làm thêm giờ. Hơn
11
Đơn vị: người
nữa với mức thu nhập hiện tại đối với người lao động tại Malaysia, so với một số ngành
nghề lao động phổ thông tại Việt Nam cũng không cao hơn bao nhiêu; một công nhân
cửu vạn hoặc một thợ xây công trình xây dựng dân sự bình thường trung bình cũng có thể
kiếm được 4-5 triệu đồng/ tháng trong khi họ còn không mất các chi phí học tiếng, môi
giới, xuất nhập cảnh,..
Vào những tháng cuối năm, thị trường này đã ấm trở lại. Rất nhiều nhà máy, xí
nghiệp, cơ sở sản xuất, dịch vụ có nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài nói chung và
lao động Việt Nam nói riêng đến làm việc, nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài đang
gia tăng ở hầu hết các ngành nghề tại Malaysia.
Thêm vào đó là kể từ khi triển khai thực hiện Quyết định số 71 của Thủ tướng
Chính phủ về hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2009 – 2020, công tác thông tin tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ
người lao động đi làm việc ở nước ngoài, đặc biệt là đối với những thị trường “dễ tính”
như Malaysia đã được triển khai mạnh, nên số đăng ký tham gia đã tăng lên rất nhiều.
Khoảng một nửa trong số trên 2.500 lao động các huyện nghèo đang làm việc tại
Malaysia đều có điều kiện làm việc bảo đảm, thu nhập khá, hàng tháng tiết kiệm được
khoảng 4 triệu đồng. Vì thế từ cuối năm 2009 số lượng lao động xuất khẩu sang Malaysia
gia tăng đáng kể.
Năm 2010, nền kinh tế Malaysia đang từng bước phục hồi, nhu cầu tiếp nhận lao
động cũng được tăng lên đáng kể. Chính phủ Malaysia đã thành lập một tổ công tác đặc
biệt khảo sát nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài trong 5 lĩnh vực (điện, điện tử, cơ
khí, dệt may và chế biến thủy sản) và các hiệp hội sản xuất đã yêu cầu Chính phủ xem xét
nhu cầu thực tế của các ngành này trong việc tiếp nhận lao động. Nhiều doanh nghiệp
xuất khẩu lao động của Việt Nam nhận được nhiều đơn đặt hàng của phía Malaysia. Tính
đến cuối năm 2010, theo số liệu thống kê của Bộ lao động thương binh và xã hội, Việt
Nam đưa được 85.546 lao động đi làm việc nước ngoài (vượt chỉ tiêu đề ra 85.000 trong
năm 2010). Trong đó, thị trường Malaysia là 11.741 lao động chiếm 13,72% tổng số lao
12
động đi xuất khẩu, tăng gấp 4 lần so với năm 2009. Lao động Việt Nam làm việc tại
Malaysia có mức lương cơ bản khoảng 21RM/ngày. Cộng với các khoản tiền làm thêm
giờ, thu nhập của người lao động cũng đạt khoảng từ 750RM/tháng trở lên. Đây là mức
thu nhập mà người lao động Việt Nam chấp nhận được ở thời điểm đó.
Năm 2011 Malaysia không còn là thị trường nóng cho sự lựa chọn của lao động
Việt Nam. Lý do của điều này là có nhiều thị trường khác hấp dẫn hơn với mức lương
cạnh tranh hơn dẫn đến số lượng lao động xuất khẩu sang thị trường này bị giảm đi còn
9195 người. Tuy nhiên đây vẫn là một thị trường quan trọng của xuất khẩu lao động Việt
Nam, bởi thị trường như Hàn Quốc, Nhật Bản thu nhập cao thì số lượng lại giới hạn trong
khi Malaysia thiếu tới 90.000 lao động trong năm 2011 nên lao động Việt Nam có rất
nhiều cơ hội. Hơn nữa chúng ta cũng gặp khá nhiều khó khăn tại thị trường khác như bất
ổn chính trị tại châu Phi đã khiến 10.000 lao động đang làm việc tại Libi phải về nước
trước thời hạn. Tiếp đến là hàng loạt thị trường XKLĐ khu vực châu Phi và Trung Đông
cũng bị thu hẹp dần. Ảnh hưởng của động đất, sóng thần tại Nhật Bản cũng khiến nhiều
lao động tại Nhật Bản lao đao.
Năm 2012, tiếp tục là năm có nhiều biến động về mặt kinh tế-xã hội, bất ổn chính
trị tại Trung Đông, Bắc Phi, khủng hoảng nợ công ở châu Âu, Hàn Quốc tạm ngưng tiếp
nhận lao động do tình trạng lao động bất hợp pháp cao... khiến việc khai thác thị trường
mới có nhiều khó khăn chính vì thế nước ta tiếp tục phải duy trì các thị trường truyền
thống như Malaysia, với gần 9300 được đưa sang thị trường này, tăng nhẹ so với năm
2011. Năm 2011-2012 Malaysia đã thực hiện Chương trình 6P cho phép lao động nước
ngoài bất hợp pháp đăng ký để hợp pháp hóa.
Năm 2013 đánh dấu 10 năm thực hiện Bản ghi nhớ hợp tác lao động giữa hai
chính phủ Việt Nam - Malaysia. Trong 10 năm,Việt Nam đã đưa khoảng trên 220.000
lượt người lao động sang làm việc tại Malaysia, bình quân mỗi năm 12.000 lao động.
Chính phủ Malaysia đã nâng mức lương cơ bản tối thiểu lên 900 ringgit/tháng (khoảng
hơn 6 triệu VND/tháng) từ 1/1/2013. Tuy nhiên, mặc dù mức lương cơ bản tăng với tỷ lệ
khá cao (gần 30%) nhưng giá cả sinh hoạt cũng tăng theo, đồng thời lao động phải khấu
13
trừ tiền thuế việc làm (levy), tiền nhà ở cho nên thu nhập thực tế của người lao động
không tăng nhiều như mong đợi, chưa thực sự hấp dẫn đối với lao động Việt Nam. Vì thế
số lượng lao động sang Malaysia trong năm 2013 là 7500 người, giảm 14% so với năm
2012.
Năm 2014, Malaysia có khoảng 3,1 triệu lao động nước ngoài đang làm việc (kể
cả hơn 1 triệu lao động không có giấy tờ cư trú và làm việc hợp pháp) đến từ 14 quốc gia,
chủ yếu là những nước Đông Nam Á và Nam Á như: Indonesia, Bangladesh, Ấn Độ,
Cambodia, Nepal, Myanmar, Lào, Việt Nam, Philippines, Pakistan, Sri Lanka, Thái
Lan, Turkmenistan, Uzbekistan, Kazakhstan. Trong đó, lao động chiếm tỷ lệ nhiều nhất
là Indonesia, Bangladesh, Nepal.... Việt Nam đứng thứ 7 trong số các quốc gia đang có
nhiều lao động tại Malaysia.
2.3.2. Cơ cấu ngành nghề Lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia tập trung chủ yếu trong lĩnh vực: sản
xuất chế tạo, xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ và giúp việc gia đình Trong đó chiếm số
lượng nhiều nhất với ngành sản xuất chế tạo (khoảng 53%); số lao động làm việc trong
các ngành nghề khác chỉ chiếm khoảng 47%.
Bảng: Cơ cấu ngành nghề lao động Việt Nam xuất khẩu sang Malaysia giai đoạn 2006-2008
NămNgànhnghề
2006 2007 2008
Công nghiệp 35237 26442 7337
Giúp việc gia đình - - 245Nông nghiệp và dịch vụ 2704 239 192
Lao động lành nghề 3915 4705 2467Nguồn: Cục quản lý lao động nước ngoài
Bảng trên cho thấy lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia chủ yếu tập trung vào
các ngành có trình độ tay nghề thấp (lao động phổ thông). Riêng lao động trong ngành
công nghiệp chiếm 84,2% số lao động Việt Nam làm việc tại Malaysia trong năm 2006,
14
năm 2007 tỷ lệ này tiếp tục duy trì ở mức 84,3% và có giảm trong năm 2008 xuống còn
71,6%. Tuy nhiên tỉ trọng lao động làm trong ngành công nghiệp vẫn lớn hơn nhiều so
với các ngành nghề khác. Tỷ lệ lao động có tay nghề cao, lao động lành nghề có tăng qua
các năm, cụ thể năm 2006 đạt 10%, con số này tăng lên thành 15% trong năm 2007 và
đạt 25% vào năm 2008, mặc dù vậy đây vẫn là một tỉ lệ khiêm tốn. Trong những năm gần
đây, nhu cầu lao động giúp việc gia đình có xu hướng tăng cao, đây là công việc chỉ yêu
cầu về thái độ, ý thức làm việc, rất phù hợp với đặc điểm của lao động Việt Nam chăm
chỉ, cần cù. Đồng thời, những ngành nghề khác có môi trường khá tương đồng với môi
trường làm việc trong nước. Có thể nói đây là những yếu tố giúp cho lao động Việt Nam
dễ dàng thích nghi tại thị trường Malaysia.
Bên cạnh yêu cầu trình độ tay nghề thấp thì phí xuất khẩu lao động sang Malaysia
khá thấp so với các thị trường khác cũng là một yếu tố thu hút lao động Việt Nam. Để
sang làm việc tại Malaysia thì mỗi người lao động phải đóng phí bình quân khoảng
1.200USD tương đương gần 30 triệu đồng. Trong khi đó, để sang làm việc tại thị trường
Nhật Bản hoặc Hàn Quốc thì mỗi người lao động phải đóng một mức phí khoảng
2.300USD, hơn 50 triệu đồng. Những đặc điểm này khá phù hợp với lao động Việt Nam
vì lao động Việt Nam chủ yếu là lao động phổ thông từ nông thôn và đa số là các hộ gia
đình nghèo. Đây là yếu tố thúc đẩy việc đưa lao động Việt Nam sang Malaysia
2. 4 . Đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động sang Malaysia
2.4.1. Thành công đạt được Xuất khẩu lao động Việt nam sang Malaysia thời gian qua đã có những thành công
nhất định, có tác động tích cực tới sự phát triển của kinh tế và xã hội.
Thứ nhất, trong khoảng hơn chục năm qua chúng ta đã đưa được một số lượng lớn
lao động sang thị trường Malaysia, giúp giải quyết công ăn việc làm cho hàng trăm nghìn
lao động Việt Nam, hạn chế tình trạng thất nghiệp đồng thời giải quyết được nhiều vấn đề
xã hội khác, như các tệ nạn xã hội: cờ bạc, mại dâm...
15
Thứ hai, Malaysia là nền kinh tế lớn thứ 3 ở Đông Nam Á, với trình độ khoa học
công nghệ khá phát triển, đang được đánh giá là một nền kinh tế tiềm năng, giúp cho lao
động nước ta làm việc tại đây nắm bắt, học tập những kinh nghiệm, kỹ thuật của nước
bạn, hình thành tác phong, thói quen làm việc khoa học, công nghiệp. Khi quay trở về
ngoài số vốn nhất định, những người lao động có khả năng xin làm việc tại công ty ở Việt
Nam nhờ kỹ năng, và kinh nghiệm đã tích lũy được. Ngày nay, Malaysia đang có hướng
đầu tư nhiều hơn vào Việt Nam trong thời gian tới, tính đến tháng 11/2014, các nhà đầu
tư Malaysia có 478 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 10,74 tỷ USD, đứng thứ 8 trong
tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư tại Việt Nam, người lao động sau
khi làm việc tại Malaysia về sẽ có ưu thế hơn khi xin làm việc tại dự án của Malaysia
sang Việt Nam.
Thứ ba, hoạt động XKLĐ sang Malaysia đã góp phần cải thiện đời sống nhân dân,
tăng thu nhập bình quân đầu người, đồng thời hoạt động này làm tăng nguồn thu ngoại tệ,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Nguồn lợi từ xuất khẩu lao động đem lại là rất
lớn, chỉ tính riêng thị trường Malaysia và Đài Loan trong năm 2011, tiền gửi tín dụng của
lao động xuất khẩu đã đạt con số gần 35 tỷ đồng; mỗi năm người dân xuất khẩu đem về
khoảng 70 - 80 tỷ đồng; khi có vốn người dân đầu tư chủ yếu vào việc xây nhà, ngoài ra
mở rộng kinh doanh, buôn bán dịch vụ. Báo cáo của Trung tâm Giới thiệu việc làm
Quảng Ngãi (TTGTVL), những LĐXK ở nước ngoài đã có việc làm và thu nhập ổn định,
lao động ở Malaysia có mức thu nhập mỗi người từ 5 đến 7 triệu đồng/tháng. Số lao động
ở Malaysia hằng năm đã gửi tiền về cho gia đình, bình quân 20-32 triệu đồng/lao động.
Những đồng tiền lao động chân chính đó đã giúp nhiều gia đình có điều kiện phát triển
kinh tế, sửa chữa nhà cửa và mua sắm các tiện nghi sinh hoạt trong gia đình.
Thứ tư, xuất khẩu lao động sang Malaysia còn góp phần mở rộng mối quan hệ
ngoại giao giữa hai nước, góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới và phân
công lao động quốc tế, thúc đẩy quan hệ giữa hai quốc gia ,tăng cường giao lưu văn hóa
và hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc.
16
2.4.2. Hạn chếHạn chế lớn nhất đó là, thu nhập của người lao động Việt Nam luôn thấp hơn lao
động xuất khẩu của các nước khác với mức lương 6-8 triệu/tháng. Hiện nay ở Malaysia
có rất nhiều công xưởng sản xuất điện tử rất lớn cung cấp cho thế giới, nhưng lao động
Việt Nam ít vào được khu vực đó, mà chủ yếu làm việc ở các ngành nghề chỉ yêu cầu lao
động phổ thông giản đơn.. Một khi lao động còn giản đơn và thiếu kinh nghiệm thì giá trị
gia tăng mà lao động tạo ra cho hàng hóa chưa lớn, vì vậy mà thu nhập họ nhận được
không cao, khó lòng trang trải cuộc sống và khoản tiền chuyển về nước cũng không
nhiều.
Thứ hai, một điều đáng lo ngại nữa là tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn còn diễn ra
nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Tỷ lệ vi phạm hợp đồng của lao động
nước ta vẫn cao (khoảng 10 – 15%) làm ảnh hưởng tới uy tín của lao động Việt Nam.
Hiện tượng các tổ chức, cá nhân lợi dụng để lừa đảo, thu tiền bất chính của người lao
động đi xuất khẩu lao động vẫn còn.
Thứ ba, thủ tục vay vốn, xin visa,… cản trở lớn đến hoạt động xuất khẩu lao động
Việt Nam sang Malaysia. Để xin được visa thì người lao động phải chờ đợi visa hơn 1
tháng; trong khi đó, thủ tục này ở các nước khác thông thường chỉ mất khoảng 3 ngày.
Lao động vẫn gặp không ít khó khăn khi làm thủ tục vay vốn tại các ngân hàng. Nhiều
doanh nghiệp đã phải áp dụng chính sách cho lao động đi làm việc trước, khấu trừ sau.
Tuy nhiên, khi áp dụng chính sách này, doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro bởi có những lao
động đã trốn ra ngoài làm việc sau khi sang Malaysia.
Thứ tư, ngày càng có nhiều công ty, doanh nghiệp lừa đảo và thủ đoạn môi giới
lừa đảo, tuyển dụng ngày càng tinh vi, phức tạp, khiến cho hình ảnh các công ty xuất
khẩu lao động đang ngày càng xấu đi trong mắt người lao động. Trong thời gian qua đã
xuất hiện một số doanh nghiệp không có chức năng xuất khẩu lao động nhưng cũng làm
công tác tư vấn và thu tiền bất hợp pháp của người lao động dưới danh nghĩa đưa đi học
và làm việc tại nước ngoài. Một số tổ chức, cá nhân đã nhập nhằng lập nên những cái gọi
là “trung tâm” hoặc “công ty cung ứng lao động”, mượn danh pháp nhân hoặc mạo danh
17
các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động có chức năng xuất khẩu lao động với
mục đích lừa đảo người lao động. Tình trạng lừa đảo xảy ra đặc biệt nhiều ở các thị
trường tiềm năng, có thu nhập cao đang thực hiện thí điểm đặc biệt là ở những thị trường
hấp dẫn như Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, Canada, Mỹ…
Thứ năm, các chính sách, văn bản về xuất khẩu lao động chưa bám sát thực tế và
thường đi sau thực tế. Thủ tục xuất cảnh và các thủ tục khác có liên quan thường rườm rà,
phức tạp gây mất nhiều thời gian và tiền của của người lao động. Công tác triển khai thực
hiện, kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao động được tiến hành chưa thực sự
nghiêm túc và có hiệu quả
2.4.3. Nguyên nhân:Trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam thấp, chưa có tác
phong công nghiệp. Lao động nước ta được biết đến với những bất lợi thể hiện ở “ba
không”: Không nghề, không ngoại ngữ và không tác phong công nghiệp. Vì quá chú
trọng vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo mà Việt Nam đã xuất khẩu lao động sang
Malaysia một cách ồ ạt, không qua đào tạo cơ bản. Chúng ta chủ yếu xuất khẩu những lao
động phổ thông chưa qua đào tạo nghề, không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trình độ
ngoại ngữ của lao động được đánh giá là rất kém. Những mâu thuẫn trong lao động đều
xuất phát từ bất đồng ngôn ngữ giữa giới chủ và lao động Việt Nam. Nhiều lao động bị
trả về nước trước thời hạn do không đạt yêu cầu về trình độ ngoại ngữ. Người lao động
Việt Nam hầu hết là lao động nông thôn nên chưa có tác phong công nghiệp, tư duy manh
mún, đứng núi này trông núi nọ, muốn làm giàu nhanh.
Người lao động có ít cơ hội để tiếp cận với các nguồn thông tin chính thức. Họ chỉ
thường tìm hiểu thông tin thông qua những người quen biết, những người đã đi làm ở
nước ngoài trở về và không ít những trường hợp phải nhờ “cò” mồi với các thông tin
không chính xác. Sự thiếu thông tin khiến cho người lao động dễ bị lừa đảo và không cân
nhắc được hết các lợi ích và rủi ro cho mình.
18
Doanh nghiệp xuất khẩu lao động thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, kinh
nghiệm về quản lý lao động, chưa chấp hành tốt những quy định về chế độ tuyển chọn,
đào tạo, định hướng nhằm bảo vệ người lao động làm việc tại nước ngoài.
Các cơ quan quản lý còn tỏ ra thiếu hiệu quả. Các địa phương, nơi có các doanh
nghiệp dịch vụ xuất khẩu lao động đã không nắm bắt được tình hình thực tế nên không
biết được các hoạt động của các doanh nghiệp, các trung tâm xuất khẩu lao động này. Khi
sai phạm xảy ra rồi, các cơ quan quản lý mới biết. Nhưng thiệt hại đã xảy ra, những
người của các doanh nghiệp dịch vụ đó đã được chuyển đi nơi khác. Cuối cùng người lao
động vẫn là người phải chịu thiệt thòi.
Việc thành lập các trung tâm, các tổ chức có chức năng xuất khẩu lao động trong
thời gian qua tăng nhanh, khiến cho công tác quản lý của các cơ quan có chức năng gặp
nhiều khó khăn. Hiện nay, cả nước có 150 doanh nghiệp xuất khẩu lao động, các doanh
nghiệp này mở các trung tâm và cơ sở một cách tràn lan và không có sự giám sát, kiểm
tra chặt chẽ từ các doanh nghiệp, khiến cho tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra ngày càng
phổ biến. Thêm vào đó, tình trạng doanh nghiệp bán giấy phép xuất khẩu lao động khiến
cho việc giám sát trở nên khó khăn.
Hệ thống pháp luật điều chỉnh nội dung xuất khẩu lao động còn hạn chế, đặc biệt
là trong vấn đề xử lý các sai phạm. Các chế tài tỏ ra thiếu mạnh mẽ và cứng rắn khiến
cho việc tôn trọng pháp luật còn yếu.
III. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động sang Malaysia:3.1. Các biện pháp đã thực hiện:
* Về luật pháp:
Ngay từ khi mới bắt đầu thực hiện chủ trương đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài, Chính phủ Việt Nam đã quan tâm và thực hiện nhiều biện pháp để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
7 Ban Quản lý lao động ở các nước trong đó có Malaysia đã được thành lập để bảo vệ
19
quyền, lợi ích hợp pháp cho người lao động cũng như nhanh chóng phát hiện và xử lý
những vụ việc phát sinh làm ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động.
Bộ Luật Lao động sửa đổi năm 2012 cũng đã có hiệu lực, một loạt quy định mới
về XKLĐ cũng đã được ban hành. Theo đó, quy định về xử phạt hành chính, mẫu hợp
đồng lao động, mức ký quỹ... đều đã được quy định cụ thể trong luật. Hành lang pháp lý
mới này sẽ là cơ sở nâng cao chất lượng XKLĐ.
Theo các quy định mới, những doanh nghiệp tuyển dụng ở Việt Nam sẽ không còn
có thể áp đặt các điều kiện trong hợp đồng mà phải tuân thủ những điều kiện tiêu chuẩn.
Hợp đồng mẫu yêu cầu phải đề cập tới một công việc cụ thể, tên tuổi và địa chỉ của công
ty tiếp nhận, thiết lập rõ ràng trách nhiệm của tất cả các bên và thủ tục giải quyết tranh
chấp nhằm bảo vệ lao động di cư trong trường hợp chấm dứt hợp đồng. Với các quy định
mới, doanh nghiệp tuyển dụng không thể đưa vào các điều khoản chỉ có lợi cho mình và
lờ đi những điều khoản có lợi cho NLĐ, hạn chế tình trạng lao động hết hạn hợp đồng
không về nước.
Bên cạnh đó, với việc ban hành Nghị định 95 về vấn đề xử phạt các hành vi: Trốn
ngay sau khi xuống sân bay, phá hợp đồng trong quá trình làm việc và hết hạn hợp đồng
nhưng không chịu về nước (đã tăng mức xử phạt 3 - 5 triệu đồng lên 80 - 100 triệu đồng),
tạo ra hành lang pháp lý chặt chẽ. Đây là một trong những biện pháp nhằm nâng cao trách
nhiệm của NLĐ trong việc thực hiện hợp đồng...
Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam (VAMAS) đã triển khai thử nghiệm áp
dụng Bộ quy tắc ứng xử (CoC-VN), năm đầu tiên (4/2012 - 5/2013) và năm thứ hai
(5/2013-5/2014), giám sát, đánh giá và xếp hạng hơn 60 DN. Trong đó, theo kết quả năm
2014, 23% DN được xếp hạng cao nhất (A1) về tuân thủ pháp luật trong nước và tiêu
chuẩn quốc tế về đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Ngoài ra, tháng 4-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 71/QĐ-TTG
phê duyệt “Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động, góp phần giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020” nhằm nâng cao chất lượng lao động và tăng số lao
động ở các huyện nghèo đi xuất khẩu lao động, qua đó tăng thu nhập và giảm nghèo bền
20
vững. Theo đề án, người tham gia xuất khẩu lao động sẽ được bảo lãnh vay Ngân hàng
Chính sách Xã hội địa phương 23-25 triệu đồng, nộp cho công ty môi giới xuất khẩu lao
động. Số tiền này để chi mua vé máy bay, phí môi giới, phí quản lý lao động…
Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực hiện Đề án 71, hai mục tiêu quan trọng là giải
quyết việc làm để xóa đói giảm nghèo và hoàn vốn cho Nhà nước đều không đạt được.
Chỉ sau một thời gian ngắn xuất ngoại, nhiểu người đã phải bỏ về với hai bàn tay trắng đa
phần do không đáp ứng được yêu cầu về ngoại ngữ, kỹ thuật, sức khỏe…
* Về ngoại giao:
Ngày 1/12/2003, Việt Nam và Malaysia đã ký Bản ghi nhớ (MOU) về tuyển dụng
lao động Việt Nam sang làm việc tại Malaysia. Nhờ Bản ghi nhớ giữa hai chính phủ làm
cơ sở pháp lý cho công tác quản lý và sau hơn 10 năm kinh nghiệm, việc xuất khẩu lao
động sang thị trường Malaysia nay đã đi vào thế ổn định.
Bên cạnh đó, để tăng cường hoạt động bảo hộ lao động ở nước ngoài, trên phương
diện quốc tế, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Di cư quốc tế
(IOM) từ tháng 11 năm 2007, đã tham gia tích cực các hoạt động của Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO), các diễn đàn khu vực và quốc tế về lĩnh vực này.
Ngày 16/3/2014, Công đoàn Việt Nam và Malaysia tiếp tục ký Biên bản ghi nhớ,
hợp tác bảo vệ lao động Việt Nam tại Malaysia. Biên bản ghi nhớ bao hàm nhiều lĩnh vực
quan trọng như chính thức thiết lập quan hệ hợp tác song phương; nâng cao nhận thức về
lao động di cư; cung cấp và chia sẻ thông tin giữa các bên để giải quyết các vấn đề liên
quan khi quyền và lợi ích của người lao động di cư bị xâm phạm theo đúng quy định của
pháp luật mỗi nước; giải quyết các vấn đề liên quan đến an toàn vệ sinh lao động, đặc biệt
là trong các ngành nghề nặng nhọc, độc hại. Biên bản ghi nhớ được hy vọng mở ra một
chương mới đối với sự hợp tác giữa công đoàn hai nước trong lĩnh vực di cư lao động –
một lĩnh vực sẽ ngày càng trở nên quan trọng do các thay đổi về cơ cấu dân số, chênh
lệch thu nhập.
21
3.2. Giải pháp trong thời gian tới:
3.2.1. Giải pháp của Nhà nước:
Về dài hạn:
Để nâng cao được chất lượng lao động xuất khẩu, giải quyết gốc rễ được các vấn
đề phát sinh từ hoạt động XKLĐ. Nhà nước đặc biệt là bộ Lao đông, Thương binh và Xã
hội phải xây dựng được trình tự XKLĐ đạt chuẩn: từ tư vấn định hướng XKLĐ, đào tạo
nghề, ngoại ngữ, quản lý và trợ giúp xã hội đến tạo cơ hội việc làm sau khi về nước cho
lao động xuất khẩu. Trình tự này Việt Nam có thể học tập từ Trung Quốc. Nhờ có quy
trình này mà người Trung Quốc trước khi XKLĐ được đào tạo bài bản, phải cam kết và
có người trong nước hoặc tổ chức bảo lãnh để tránh tình trạng vi phạm hợp đồng. Do đó
số lượng và chất lượng lao động Trung Quốc đi xuất khẩu rất cao
Tăng cường, củng cố mối quan hệ hợp tác song phương với Malaysia, đồng thời
các bộ, cơ quan liên quan cần tích cực phối hợp với cơ quan, công đoàn lao động
Malaysia để tìm hiểu pháp luật, nắm bắt thông tin về phía đối tác nhằm hỗ trợ cho doanh
nghiệp và người lao động.
Cần nắm vững và vận dụng các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) để tạo
thuận lợi cho việc di chuyển, xuất khẩu lao động đặc biệt trong bối cảnh hội nhập ngày
càng sâu rộng như hiện nay, tiêu biểu như sự thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN cuối
năm 2015. Hiện nay MRAs đã được ký kết ở một số lĩnh vực như: người hành nghề y,
nha khoa, y tá; dịch vụ kế toán, dịch vụ tư vấn… Theo đó, MRAs sẽ công nhận kỹ năng,
bằng cấp được đào tạo giữa các quốc gia để các lao động được dễ dàng di chuyển cùng
với những nới lỏng về visa, thời gian lưu trú… từ đó tạo điều kiện cho các DN xuất khẩu
lao động trong quá trình đưa lao động xuất khẩu đến các nước trong khu vực.
Về ngắn hạn:
Nhà nước cần ban hành cơ chế, chính sách hiệu quả tác động doanh nghiệp đưa
lao động sang Malaysia.
22
Một là, nhà nước cần cập nhật số liệu, tài liệu hướng dẫn, đưa ra nhiều hơn nữa
chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm đối tác cũng như cung cấp
thông tin về tình hình kinh doanh của đối tác Malaysia cho doanh nghiệp Việt Nam trước
khi kí kết hợp đồng cung ứng lao động
Hai là, Khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có uy tín. Hình thức
khuyến khích có thể là cho vay vốn ưu đãi để các doanh nghiệp nghiên cứu thị trường,
tìm kiếm đối tác hoặc có thể giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp
đưa được nhiều lao động sang Malaysia làm việc.
Ba là, Tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, tiến
hành xếp hạng doanh nghiệp, tuyên dương doanh nghiệp làm tốt, công khai thông tin
doanh nghiệp đó đến người dân đặc biệt ở người ở vùng sâu, vùng xa.
Bốn là, Cần phải tiến hành thanh tra kiểm tra định kỳ, xử phạt nghiêm minh đối
với các doanh nghiệp thiếu trách nhiệm trong việc tuyển chọn lao động cũng như quản lý
lao động tại Malaysia. Đối với những trường hợp lao động được đưa sang mà không có
việc làm thì các doanh nghiệp XKLĐ phải chịu hoàn toàn mọi phí tổn đi lại cũng như chi
phí ăn ở của người lao động tại Malaysia. Trong một thời gian mà vẫn không tìm được
việc làm như đã thoả thuận cho người lao động thì các doanh nghiệp phải chịu trách
nhiệm đưa lao động về nước và phải hoàn trả lại phí cho người lao động. Đối với những
doanh nghiệp thiếu trách nhiệm bỏ mặc người lao động tại Malaysia thì phải có biện pháp
cưỡng chế mạnh như: thu hồi giấy phép kinh doanh tạm thời hoặc có thể thu hồi giấy
phép kinh doanh vĩnh viễn và bắt các doanh nghiệp này phải bồi thường thiệt hại cho
người lao động. Đồng thời quản lý lao động xuất khẩu sang Malaysia bằng cách quản lý
theo hệ thống thông tin dữ liệu cập nhật đầy đủ tại đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia-
nơi có đại diện các cơ quan liên quan sẵn sàng giúp đỡ người lao động trong tất cảcác
lĩnh vực: chăm sóc sức khoẻ , tư vấn miễn phí, giải quyết các vấn đề về thủc tục hành
chính, thủ tục chuyển tiền về nước. Việt nam có thể học tập Indonesia về việc thành lập
23
Văn phòng Hải ngoại hay còn gọi là Trung tâm một điểm dừng của Philippin đặt tại các
quốc gia mà nước này XKLĐ.
Nhà nước cần đưa ra chính sách đối với người đi xuất khẩu lao động
Một là, để có thể khắc phục tình trạng thu thập thấp của lao động làm việc ở
Malaysia, các địa phương cần nâng cấp cơ sở dạy nghề, sử dụng các trang thiết bị tiên
tiến. Phải coi việc đào tạo lao động đi nước ngoài như là đào tạo công nhân lành nghề
trong nước. Các cơ sở dạy tiếng cần phải biên soạn riêng giáo trình đào tạo cho từng loại
thị trường. Đối với thị trường Malaysia thì người lao động không chỉ phải học tiếng Anh
mà còn phải học cả tiếng Bahasa Malaysia nữa. Tổ chức buổi tập huấn nâng cao kỹ năng
và thay đổi tư duy người lao động.
Hai là, chính phủ cần có chính sách hỗ trợ cho người lao động đi làm việc tại
Malaysia được vay vốn với lãi suất ưu đãi, đối với các đối tượng là gia đình chính sách,
các hộ quá nghèo có thể không tính lãi, đồng thời đi kèm với đó là chiến lược bồi dưỡng
tay nghề, trình độ ngoại ngữ cho người lao động đáp ứng với yêu cầu chủ lao động, tránh
lặp lại tình trạng như Đề án 71.
Ba là, sửa đổi bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động khi sang làm
việc tại Malaysia cũng như khi hết thời hạn hợp đồng về nước. Tạo điều kiện cho người
lao động Việt Nam khi làm việc tại Malaysia được tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Việc
tham gia đóng bảo hiểm xã hội sẽ giúp cho người lao động được bồi thường một cách
thích hợp khi rủi ro mất việc làm, tại nạn lao động, ốm đau... xảy ra.
Bốn là, Đưa ra chính sách ưu đãi cho người lao động sau khi kết thúc hợp đồng trở
về nước và tận dụng nguồn lao động này để trở thành ngồn lao động có tay nghề phục vụ
cho đất nước. Ví dụ như Indonesia đã cấp chứng nhận “Batik Manggagawa” cho lao động
đi xuất khẩu để đảm bảo việc làm trước khi về nước, ngoài ra lao động về nước còn được
hưởng chính sách tín dụng tái hòa nhập, chính sách ưu đãi thuế và tài chính, ưu đãi đất
đai cho lđ về nước có dự định tự sản xuất inh doanh, chính sách chỗ ở, chính sách giáo
dục đào tạo cho gia đình và bản thân lao động….
24
3.2.2. Về phía Hiệp hội XKLĐ :
Để hỗ trợ doanh nghiệp, Hiệp hội cần tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tư
vấn và cung cấp thông tin cho doanh nghiệp về thị trường, luật pháp của nước tiếp nhận
lao động, về những kinh nghiệm và mô hình tốt, hoặc những rủi ro cần phòng ngừa. Tiếp
tục duy trì và phát huy hiệu quả hoạt động của tổ chức chuyên ngành trong công tác thị
trường. Rà soát, cập nhật những nội dung mới trong chính sách, luật pháp của các nước
và vùng lãnh thổ nhận lao động Việt Nam để bổ sung vào bộ bài giảng cho giảng viên
cùa doanh nghiệp đối với các thị trường đã xây dựng như: Đài Loan, UAE, Lybia, Nhật
Bản, Malaysia, Ả rập Xê út,..
Hiệp hội cần tập huấn cho cán bộ doanh nghiệp về Bộ quy tắc ứng xử và các quỵ
định liên quan của pháp luật quốc tế; thúc đẩy triển khai CoC-VN ở các doanh nghiệp;
xúc tiến công tác chuẩn bị và triển khai mở rộng giám sát, đánh giá việc thực hiện CoC-
VN ra 70 doanh nghiệp.
3.2.3. Giải pháp về phía doanh nghiệp
Cần tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động và thương hiệu. Cụ thể là:
Tập huấn cho cán bộ, nhân viên về Bộ quy tắc ứng xử COC-VN. Trên cơ sở đó rà
soát hoàn thiện, tiến tới chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ của doanh nghiệp ở
từng khâu, bảo đảm cho công việc được thực hiện trôi chảy, hợp lý, phát huy được
trách nhiệm và sức sáng tạo của mỗi cán bộ nhân viên
Thực hiện tuyển chọn và đào tạo kỹ lưỡng cho lực lượng lao động cả về kỹ năng,
thái độ nghề, ngoại ngữ và ý thức kỷ luật trong lao động và sinh hoạt tập thể.
Kiểm soát chặt kiên quyết không đưa những người không đạt yêu cáu hoặc ý thức
kém đi nước ngoài đế tránh hậu quả cho chính doanh nghiệp và gây bất lợi cho
phát triển thị trường. Doanh nghiệp cần đầu tư dài hơi hơn cho khâu đào tạo, kể cả
cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên. Hiện nay có 15 nước cung ứng lao động vào
thị trường Malaysia, nên tính cạnh tranh cao, các đối tác Malaysia có nhiều sự lựa
25
chọn, vì vậy chất lượng lao động phải là quan tâm hàng đầu đối với các doanh
nghiệp Việt Nam.
Đẩy mạnh XKLĐ ở các ngành nghề phức tạp, đòi hỏi tay nghề cao hơn như công
nghiệp điện tử, sản xuất chế tạo phụ tùng ôtô, công nghiệp nhựa, công nghiệp da
giày, may mặc,... Đây là những ngành mà hiện nay đang có nhu cầu rất lớn ở
Malaysia, đồng thời còn tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn, góp phần tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp.
Giữ mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên với đối tác nước ngoài; tăng cường trách
nhiệm và năng lực của cán bộ đại diện doanh nghiệp ở nước lao động đến; cử các
đoàn công tác nắm tình hình việc làm, thu nhập, điều kiện làm việc và những khó
khăn vướng mắc cùa người lao động để xử lý kịp thời nhằm ngăn ngừa bỏ trốn.
3.2.4. Giải pháp về phía người lao động.
Người lao động phải có ý thức chấp hành tốt luật pháp của Việt Nam cũng như
luật pháp Malaysia, chấp hành tốt kỉ luật lao động và hợp đồng lao động, không tự
ý hủy hợp đồng hay trốn ra ngoài lao động bất hợp pháp. Khi xảy ra những sai
phạm trong hợp đồng, người lao động cần giữ bình tĩnh tránh tự ý bỏ trốn, thông
báo về công ty đăng ký tại Việt Nam để có hướng giải quyết, đảm bảo quyền lợi
lâu dài cho người lao động.
Tìm hiểu kĩ các doanh nghiệp xuất khẩu lao động sang Malaysia. Hiện nay các
doanh nghiệp lừa đảo xuất hiện ngày càng nhiều, nhiều lao động đã bị bỏ rơi ngay
khi vừa đặt chân xuống sân bay hay thậm chí mất tiền mà vẫn không thể xuất
ngoại. Chính vì thế, bản thân người lao động phải hiểu biết để có thể đảm bảo lợi
ích của mình. Người lao động có thể tra cứu các công ty có giấy phép XKLĐ tại
website của Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam, hoặc có thể nhờ bạn bè, người
thân ở Malaysia xác thực thông tin tuyển dụng.
Người lao động cần phải rèn luyện ý thức và tác phong lao động đồng thời cố gắng
nâng cao tay nghề để thực hiện tốt công việc. Chỉ có như vậy, người lao động mới
có thể nâng cao giá trị sức lao động của mình, có được lòng tin của chủ lao động,
gia tăng thu nhập cho chính bản thân mình.
26