Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 21/12)
VN - Index 912,26 0,65%
HNX - Index 104,45 0,08%
D.JONES CK Mỹ 22.445,37 1,81%
STOXX CK C.Âu 3.000,61 0,02%
CSI 300 CK TQ 3.029,40 1,24%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 24/12)
SJC Ng.đ/L 36.440 0,06%
Quốc tế USD/Oz 1.263,60 - 0,00%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.790 0,02%
EUR/USD 1,1380 0,64%
Dầu
WTI USD/th 45,47 2,26%
6
Các loại thẻ ngân hàng, ví điện tử... ngày
càng cạnh tranh khốc liệt trong đó ví điện
tử phát triển khá mạnh trong năm 2018. Dù
có nhiều tiện ích nhưng ví điện tử cũng bộc
lộ những hạn chế so với thẻ ngân hàng.
Đặc biệt, thị trường tồn tại quá nhiều loại
sản phẩm sẽ tạo ra nguy cơ khủng hoảng
thừa. Nếu không có chiến lược phát triển
tổng thể, “vết xe đổ” lãng phí của thị trường
thẻ có nguy cơ lặp lại.
Tin nổi bật
NHNN yêu cầu các ngân hàng không để
ATM hết tiền dịp Tết
Nhiều ngân hàng bỏ xa trần lãi suất
Cạnh tranh thanh toán không dùng tiền mặt
Ba kịch bản cho 2019 từ góc nhìn của Tổ tư
vấn Thủ tướng
Thương mại sẽ chiếm 9,61% tổng GDP cả
nước vào 2020
Nhìn lại biến động thế giới năm 2018 qua 10
biểu đồ
Thứ Hai, ngày 24/12/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
NHNN yêu cầu các ngân hàng
không để ATM hết tiền dịp Tết
NHNN yêu cầu các NH giám sát chặt hệ thống ATM, tránh tình trạng
máy hết tiền gây bức xúc cho người dân. Đây là một trong những nội
dung nằm trong văn bản vừa được NHNN gửi đến các đơn vị liên quan
nhằm đáp ứng tốt nhu cầu giao dịch rút tiền mặt trên ATM của khách
hàng dịp cuối năm 2018 và dịp lễ, Tết Kỷ Hợi. Theo đó, nhà quản lý cầu
các tổ chức cung ứng DV thanh toán thẻ phải chủ động xây dựng và
triển khai kế hoạch cụ thể về hoạt động ATM dịp cuối năm và Tết, đảm
bảo mạng lưới ATM hoạt động hiệu quả, an toàn và thông suốt. Song
song đó, các tổ chức phát hành thẻ phải rà soát, nắm bắt các thời điểm,
địa bàn thường xảy ra hiện tượng ATM quá tải (như khu công nghiệp, khu
chế xuất...), chủ động có các biện pháp phù hợp nhằm giảm tải cho ATM
như: tăng cường hoạt động ATM lưu động; chủ động làm việc với các
DN để điều chỉnh thời gian trả lương hợp lý; xây dựng phương án dự
phòng chi trả lương, thưởng dịp Tết bằng tiền mặt... nhằm giảm tải việc
rút tiền mặt tại các ATM... Đặc biệt, các NH cần rà soát, triển khai
phương án phòng, chống tội phạm lắp đặt thiết bị sao chép, trộm cắp
thông tin thẻ tại ATM một cách hiệu quả; phối hợp với tổ chức chuyển
mạch thẻ nhằm hạn chế các sự cố kỹ thuật, đường truyền, đảm bảo các
giao dịch LNH thông suốt, ổn định... Đối với Công ty cổ phần Thanh
toán Quốc gia VN, NHNN yêu cầu phải tập trung nguồn lực để thực
hiện kiểm tra, bảo trì, bảo dưỡng hệ thống hạ tầng, kỹ thuật (máy móc,
thiết bị, đường truyền...) và theo dõi, chặt chẽ để đảm bảo hoạt động
chuyển mạch thẻ an toàn, thông suốt... Phối hợp chặt chẽ với các NH
thành viên theo dõi, phát hiện, xử lý các sai sót, sự cố phát sinh, hạn
chế thấp nhất lỗi kỹ thuật, nghẽn mạng; phản hồi tra soát, khiếu nại đối
với các giao dịch ATM liên mạng một cách nhanh chóng, kịp thời. Riêng
với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố thì được yêu cầu tăng cường theo
dõi, kiểm tra và xử lý theo quy định các tổ chức vi phạm trong việc đảm
bảo chất lượng, an ninh, an toàn hoạt động ATM trên địa bàn; đồng thời
báo cáo NHNN (Vụ Thanh toán) các vụ việc phát sinh.
Tài chính – Ngân hàng
3
Nhiều ngân hàng bỏ xa trần lãi
suất
Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng cho biết, TTTD năm 2018 dưới mức
16%, nợ xấu tính đến hết tháng 11 đã giảm mạnh và được kiểm soát ở
mức 2,16%, lạm phát tăng BQ 3,59% trong 11th/2018. Tín dụng tăng
thấp, lạm phát được kiểm soát như mục tiêu đề ra, song NH vẫn tăng
LS huy động tiền gửi đầu vào. Không chỉ tăng mạnh LS kỳ hạn dài để
cơ cấu lại nguồn vốn theo quy định của Thông tư 19/2017/TT-NHNN
giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, các NH cũng tăng
mạnh LS ở các kỳ hạn ngắn. Không chỉ tăng LS, các NH còn gia tăng
khuyến mãi, ưu đãi. Không ít NH còn cộng thêm biên độ LS từ 0,3-
0,5%/năm. Mặt bằng LS tiền gửi tiết kiệm tăng dần khi cận kề thời điểm
Tết Nguyên đán và dường như trần LS không còn nhiều tác dụng. Mức
độ điều chỉnh LS giữa các NH tương đối khác nhau dẫn tới chênh lệch
LS huy động trên thị trường giữa các NH khá lớn. Trước diễn biến thị
trường thời gian qua và xu hướng LS tăng nửa cuối năm 2018, không ít
ý kiến cho rằng, nên bỏ trần LS, vì trần LS không còn tác dụng trong
thực tế và LS cũng cần cạnh tranh theo cung - cầu vốn, có đường
cong… Tuy nhiên, theo Thống đốc Lê Minh Hưng, việc áp dụng trần LS
huy động là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Khi hệ thống tín dụng
hoạt động tốt hơn, an toàn, lành mạnh hơn, NHNN sẽ tiếp tục xem xét
dỡ bỏ những biện pháp không cần thiết. Nhận định về mặt bằng LS
năm tới, các chuyên gia tài chính đều cho rằng, LS khó có thể đứng
yên. Đáng chú ý là, khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sớm điều chỉnh
LS lần thứ 4 trong năm nay và lộ trình 3 lần trong năm tới, tỷ giá
VND/USD ít nhiều ảnh hưởng, LS huy động tiết kiệm sẽ còn tăng.
Sẽ cho người nước ngoài đặt
cọc, ký quỹ mua cổ phần bằng
ngoại tệ?
NHNN vừa đưa ra dự thảo sửa đổi, bổ sung Thông tư 32/2013 hướng
dẫn thực hiện quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ VN.
Theo đó, người không cư trú là NĐTNN được đặt cọc, ký quỹ bằng
ngoại tệ khi tham gia đấu giá mua cổ phần trong các trường hợp DNNN
khi cổ phần hóa và DNNN khi thoái vốn đầu tư tại DN khác. Trường hợp
đấu giá không thành công thì NĐTNN được chuyển ra nước ngoài số
tiền đặt cọc, ký quỹ bằng ngoại tệ sau khi đã trừ đi các chi phí phát sinh
liên quan (nếu có); trường hợp trúng đấu giá, NĐTNN thực hiện thủ tục
đầu tư theo quy định tại Pháp lệnh Ngoại hối, Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và các văn bản hướng dẫn
của NHNN để thanh toán giá trị mua cổ phần. Hiện nay chưa có quy
định về việc NĐTNN là người không cư trú được đặt cọc, ký quỹ bằng
4
ngoại tệ trên lãnh thổ VN để tham gia đấu giá mua cổ phần các DNNN
khi cổ phần hóa và khi thoái vốn; NĐTNN muốn thực hiện phải được
Thống đốc NHNN xem xét, chấp thuận. Theo cơ quan soạn thảo, với
việc sửa đổi bổ sung quy định Thông tư 32/2013/TT-NHNN sẽ tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc cho NĐTNN khi tham gia đấu giá các DNNN cổ
phần hóa, thoái vốn, góp phần thực hiện kế hoạch sắp xếp cổ phần hóa
DNNN theo đúng chỉ đạo của Chính phủ.
Cạnh tranh thanh toán không
dùng tiền mặt
Các loại thẻ NH, ví điện tử... ngày càng cạnh tranh khốc liệt trong đó ví
điện tử phát triển khá mạnh trong năm 2018. Nếu không có chiến lược
phát triển tổng thể, “vết xe đổ” lãng phí của thị trường thẻ có nguy cơ
lặp lại. Ưu điểm của ví điện tử là có thể thanh toán những món đồ chỉ
vài chục ngàn đồng như mua ly cà phê, mua sách; thanh toán trực
tuyến các loại hóa đơn như điện thoại, nước, điện, cước internet, truyền
hình cáp, mua vé máy bay, thanh toán vay tiêu dùng..., kể cả chuyển
tiền giữa các cá nhân với nhau (lì xì tết qua ví điện tử). Chính vì tiện ích
của các ví mà số lượng người dùng đang tăng theo nhanh. Số lượng
người dùng ví MoMo hiện nay lên 10 triệu người, ví Việt 2,3 triệu
người… Trên thị trường hiện nay có khoảng 20 ví điện tử và phổ biến
như MoMo, Moca, ZaloPay, Bankplus, Ví Việt, VTC Pay, WePay,
Mobivi, Vimo... và các đơn vị vẫn đang chạy đua để thu hút khách hàng
mở ví. Đặc biệt vào thời điểm cuối năm, các ví điện tử liên tục tung ra thị
trường những chương trình giảm giá, tiện ích nên thu hút khá đông
người dùng sử dụng. Để sử dụng các ví điện tử, người dùng mở tài
khoản NH và kích hoạt tính năng NH điện tử (Internet Banking) hoặc thẻ
tín dụng. Sau đó, khách hàng chuyển tiền từ tài khoản NH vào ví điện
tử với số tiền nhỏ dùng để chi tiêu, thanh toán hàng hóa, dịch vụ. Theo
thống kê của WB vào tháng 7, VN có lượng giao dịch phi tiền mặt thấp
nhất trong khu vực chỉ đạt 4,9%, trong khi tỷ lệ này ở TQ là 26,1%, còn
Thái Lan là 59,7%. Dù vậy, thanh toán tiền mặt đã có những bước giảm
đáng kể. Đại diện Công ty cổ phần thanh toán quốc gia VN (NAPAS) cho
biết mức tăng trưởng không dùng tiền mặt qua NAPAS và các NH trong
năm qua tăng mạnh. Hệ thống NAPAS đã xử lý hơn 1,3 triệu giao
dịch/ngày, 1,75 lần so với năm ngoái, tổng giá trị giao dịch thực hiện
qua hệ thống trong năm 2018 đạt 3.500 tỷ đồng, 166% so với cùng
kỳ. Điều này cho thấy thói quen của người tiêu dùng trong thanh toán
đang dần thay đổi theo hướng tích cực.
5
Theo nghiên cứu của Công ty tư vấn Solidiance, thị trường công nghệ
tài chính của VN năm 2017 đã đạt 4,4 tỷ USD và dự kiến đến năm 2020
sẽ đạt được 7,8 tỷ USD. Nghiên cứu của Solidiance đã đề cập đến
nhiều yếu tố khiến thị trường phát triển như tỷ lệ sử dụng internet của
người dân, tỷ lệ sử dụng smartphone tại các thành phố lớn, sự phổ biến
của ví điện tử, thu nhập của người dân đang tăng và mức tăng trưởng
của thương mại điện tử. Sự bùng nổ của các loại ví điện tử đang khiến
nhiều NH chật vật hơn trong việc phát triển các loại thẻ. Chuyên gia
Nguyễn Trí Hiếu nhận xét ví điện tử đang là đối thủ cạnh tranh với thẻ
NH và sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới bởi sự tiện ích mà nó mang
lại cho người dùng. Ngoài các chương trình khuyến mãi, người dùng ví
điện tử sẽ cảm thấy an toàn hơn vì số tiền bỏ vào ví thường thấp, nên
trong trường hợp bị mất tiền thì phần thiệt hại cũng ít hơn. Tuy nhiên
ông Hiếu cho rằng ví không thể thay thế thẻ NH. Thẻ NH tồn tại từ lâu
và trở nên quen thuộc với khách hàng, liên kết trực tiếp với tài khoản NH
nên có những thuận lợi cho khách hàng trong quá trình sử dụng, đặc
biệt khi khách hàng đi nước ngoài, giao dịch số tiền lớn. Trong khi đó,
nhiều ví điện tử không thể sử dụng ở nước ngoài, không liên kết trực
tiếp với tài khoản NH, khách hàng muốn dùng phải chuyển tiền từ tài
khoản thẻ hay tài khoản NH vào ví mới có thể sử dụng. Điều này khá
bất lợi cho người dùng. Điểm hạn chế của ví điện tử hiện nay là các đơn
vị chưa thể liên kết với nhau nên người dùng phải tải các app khác nhau
về điện thoại để sử dụng.
6
Ba kịch bản cho 2019 từ góc
nhìn của Tổ tư vấn Thủ tướng
Tổ tư vấn KT của Thủ tướng nhận định tiềm năng của nền KT còn rất
lớn và xuất hiện thêm không ít cơ hội mới. Nếu có giải pháp thực thi tốt,
tận dụng được cơ hội mới, khai thác tốt hơn tiềm năng của nền KT,
trong 2 năm tới vẫn có thể tiếp tục đà tăng trưởng. Dự báo KT năm
2019, Tổ tư vấn đưa ra 3 kịch bản. Theo đó, kịch bản 1 (dựa trên giả
thuyết điều kiện bình thường của nền KT), GDP tăng trưởng trung bình
6,86%/năm cho giai đoạn 2018 – 2020. Kịch bản 2, con số này là
6,91% và kịch bản 3 là 7,06%. Tổ tư vấn cho rằng, năm 2019, có thể
phấn đấu đạt mức 6,9 - 7% và lạm phát <4%. Để đạt được mục tiêu
nói trên, công nghiệp chế biến, chế tạo và DV phải đạt được tốc độ tăng
trưởng cao hơn 2018 và phải coi đây là 2 động lực chính; KV tư nhân
phải có biện pháp mạnh hơn nữa (so với 2018). Tổ tư vấn kiến nghị ưu
tiên tập trung chỉ đạo thực hiện các chính sách, giải pháp tháo gỡ 4 nút
thắt căn bản (vướng mắc triển khai dự án lớn; trở ngại trong bứt phá KV tư
nhân; khó khăn của DN đầu tư vào nông nghiệp; nút thắt trong khai thông
nguồn lực XH), coi đây là những trọng tâm, trọng điểm trong chỉ đạo điều
hành. Về giải pháp dài hạn, Thủ tướng đề nghị Tổ tư vấn dành thêm
thời gian, tâm trí đối với một số công việc như đóng góp vào dự thảo
Chiến lược phát triển KT XH giai đoạn 2021 - 2030 và tầm nhìn xa hơn
cũng như Kế hoạch phát triển KT XH giai đoạn 2021 – 2025.
Thương mại sẽ chiếm 9,61%
tổng GDP cả nước vào 2020
Trong giai đoạn 2006-2018, mặc dù đầu tư từ nguồn ngân sách còn
hạn chế nhưng đóng góp BQ của thương mại trong nước cho GDP đều
đạt mức hơn 10%/năm, tạo công ăn việc làm cho #12-13% tổng lao
động XH. Thống kê cũng cho thấy, tổng mức bán lẻ hàng hóa cho
doanh thu DV tiêu dùng của nước ta có mức tăng trưởng nhanh. Nếu
tính chung từ 2006 đến nay, tốc độ tăng trưởng BQ của tổng mức bán
lẻ hàng hóa luôn cao gấp 1,5-2 lần so với tốc độ tăng trưởng BQ của
GDP trong cùng thời kỳ. Theo ông Trần Duy Đông, Vụ trưởng Vụ Thị
trường trong nước, Bộ Công Thương, vẫn còn những tồn tại hạn chế
của thương mại trong nước. Với sự xuất hiện của các hình thức thương
mại mới, sự phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0, việc tham gia
Kinh tế Việt Nam
7
các hiệp định thương mại tự do sẽ là những tác động trực tiếp và gián
tiếp tới thương mại trong nước. Do đó, VN rất cần có chiến lược mới
trong phát triển thương mại trong nước. Trong bối cảnh VN đang hội
nhập vào nền KT toàn cầu, việc ban hành Chiến lược phát triển thương
mại trong nước sẽ giúp cải thiện môi trường KD, môi trường pháp lý,
giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN VN, nhất là các
DNNVV. Dự thảo chiến lược phát triển thương mại trong nước đã đặt
mục tiêu cụ thể, giai đoạn từ nay tới năm 2020, GDP lĩnh vực thương
mại chiếm 9,61% tổng GDP của cả nước. Đến năm 2035, đóng góp
thương mại trong nước vào GDP của nền KT sẽ chiếm 16,5-17%.
Xuất khẩu của Việt Nam đang trở
nên tinh hơn
WB cho rằng: VN đạt kết quả tốt về XK trên cơ sở đa dạng hóa giỏ các
mặt hàng XK một cách ngoạn mục trong 8 năm qua. Trong đó, các mặt
hàng chế tạo, chế biến XK đến nay đóng góp #85% tổng kim ngạch XK,
tăng so với 65% năm 2010 nhờ tăng trưởng năng động ở KV DN nước
ngoài theo định hướng XK. WB cũng đánh giá VN vẫn là quốc gia có
chuỗi cung ứng chưa phát triển, còn phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu
thô NK, thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ. "Đó là các vấn đề cần
giải quyết nhằm nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng và duy trì bền
vững năng lực cạnh tranh XK khi mức lương chắc chắn sẽ tăng lên"-
WB khuyến nghị. WB cũng ghi nhận VN thành công trong việc duy trì
được thị trường XK đa dạng. Trong số các đối tác thương mại, Mỹ vẫn
là thị trường lớn nhất, đóng góp đến 19,5% tổng kim ngạch XK của VN.
Tiếp theo là Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN), TQ, Nhật Bản và Hàn Quốc. Theo WB, nhờ có thị trường XK
đa dạng đã giúp VN duy trì được những thành tích về XK đồng thời
giảm thiểu được rủi ro KT do những biến động KT bên ngoài. VN cũng
đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 2 hiệp
định thương mại lớn dự kiến sẽ có hiệu lực trong thời gian tới là Hiệp
định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và
Hiệp định thương mại tự do VN – EU (EVFTA). "Những hiệp định mới
nêu trên sẽ tạo cơ hội để VN nâng cao khả năng tiếp cận các thị trường
XK và có thêm các nguồn đầu tư nước ngoài mới"- WB dự báo.
8
Nhìn lại biến động thế giới năm
2018 qua 10 biểu đồ
Kinh tế Mỹ phập phù Nỗi lo về nguy cơ KT suy thoái đang bao trùm nước Mỹ theo sau "màn
trình diễn" thảm họa của TTCK và Chính phủ buộc phải đóng cửa một
phần bởi bất đồng về ngân sách cho bức tường biên giới. Chỉ số trung
bình công nghiệp Dow Jones ngày 21/12 7%, qua đó khép lại tuần lễ
Mùa hè đang trở nên nóng hơn
Thị trường xe điện
TQ phát triển
Lượng khí thải carbon tăng vọt
Gia tăng phá rừng
Kinh tế Quốc tế
Độ nguy hiểm của cháy rừng ngày càng tăng
Bitcoin mất giá Brexit làm rung chuyển thị trường tài chính
Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đạt
mức thấp nhất trong 49 năm
Thế giới ít bình yên hơn
9
tồi tệ nhất trong 10 năm. Chỉ số Nasdaq Composite rơi vào thị trường
gấu (ít nhất 20% so với mức cao nhất) lần đầu tiên kể từ năm 2008 và
chỉ số S&P 500 suýt lâm vào tình cảnh tương tự. Theo AP, một loạt yếu
tố đã đè nặng lên tâm lý NĐT thời gian qua, từ lợi nhuận DN thấp hơn
kỳ vọng, nợ DN tăng, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và sự tăng
trưởng chậm lại của KT toàn cầu. Ngày 19/12, các NĐT thêm lo lắng
sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) nâng LS lần thứ 4 trong 2018
và dự kiến tiếp tục tăng trong 2019. Bloomberg ngày 22/12 dẫn 4 nguồn
thạo tin cho hay Tổng thống Mỹ Donald Trump đã thảo luận việc cách
chức Chủ tịch FED Jerome Powell do ngày càng thất vọng với chuyện
FED nâng LS trong bối cảnh TTCK lao dốc…
Có thể dự báo suy thoái thông
qua thị trường chứng khoán
Việc giá trị thị trường suy giảm và tỷ suất lợi nhuận thấp đã dấy lên hồi
chuông cảnh báo cho một thời kỳ suy thoái. Ngay cả khi TTCK “chỉ
phản ánh đúng 5 giai đoạn suy thoái trong tổng số 9 lần dự đoán trước
đây”, kết quả đó vẫn tốt hơn rất nhiều so với dự đoán của nhiều người,
theo nhà KT học Paul Samuelson. Các chuyên gia cho rằng việc bán
tháo không có quá nhiều tác động. Nhìn vào sự đi xuống của chỉ số
S&P 500 trong vòng 12 tháng qua, David Kostin, chiến lược gia CK Mỹ
tại Goldman Sach, cho rằng thị trường đang được định giá trong bối
cảnh nền KT “dậm chân tại chỗ”. Tình hình khá bi quan khi công ty này
dự doán tình hình còn tệ hơn, thị trường sẽ 2,5% vào 2019. Robert
Buckland, chiến lược gia TTCK toàn cầu của Citi’s Group, cũng đồng
quan điểm khi nhìn vào tỷ suất lợi nhuận của các công ty. Chỉ số MSCI
World All-Country đang được định giá với viễn cảnh lợi nhuận trong
2019 sẽ 1%, thấp hơn mức 5% mà ông và đồng nghiệp đự đoán.
10
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH https://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/nhieu-ngan-hang-bo-xa-tran-lai-suat-252600.html
https://vietstock.vn/2018/12/ngan-hang-nha-nuoc-yeu-cau-cac-nha-bang-khong-de-atm-het-tien-
dip-tet-757-644618.htm
https://bizlive.vn/tai-chinh/canh-tranh-thanh-toan-khong-dung-tien-mat-3485746.html
http://cafef.vn/se-cho-nguoi-nuoc-ngoai-dat-coc-ky-quy-mua-co-phan-bang-ngoai-te-
20181222091334166.chn
Tin KT vĩ mô https://vietstock.vn/2018/12/ba-kich-ban-cho-2019-tu-goc-nhin-cua-to-tu-van-thu-tuong-761-
644767.htm
https://vietnambiz.vn/thuong-mai-se-chiem-961-tong-gdp-ca-nuoc-vao-nam-2020-114737.html
https://vietnambiz.vn/xuat-khau-cua-viet-nam-dang-tro-nen-tinh-hon-114665.html
Tin KT Quốc tế https://www.stockbiz.vn/News/2018/12/21/860297/nhin-lai-bien-dong-the-gioi-nam-2018-qua-10-
bieu-do.aspx
https://www.stockbiz.vn/News/2018/12/22/860307/co-the-du-bao-suy-thoai-thong-qua-thi-truong-
chung-khoan.aspx
11
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
DN nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
DN tư nhân DNTN Ngân sách nhà nước NSNN
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng DN KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
NĐT nước ngoài/ NĐT NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập DN TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu DN TPDN
Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ XK/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)