Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 12/12)
VN - Index 961,28 0,70%
HNX - Index 107,68 1,02%
D.JONES CK Mỹ 24.527,27 0,64%
STOXX CK C.Âu 3.107,97 1,72%
CSI 300 CK TQ 3.170,61 0,34%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 13/12)
SJC Ng.đ/L 36.390 0,19%
Quốc tế USD/Oz 1244.40 0,20%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.773 0,00%
EUR/USD 1,1369 0,33%
Dầu
WTI USD/th 51,27 1,78%
6
Ngân hàng nhà nước liên tục điều chỉnh
tăng tỷ giá với từng bước giá nhỏ để thị
trường thích nghi. Theo giới chuyên gia,
động thái này một mặt để đón đầu việc Fed
có thể tăng tiếp lãi suất tại cuộc họp sắp
tới, song sâu xa hơn là để gỡ “thế kẹt” khi
mức độ mất giá nhẹ so với USD đang
khiến VND định giá cao so với nhiều đồng
tiền trong khu vực, đặc biệt là CNY. Nhìn
chung, tỷ giá có xu hướng tăng nhưng
Ngân hàng nhà nước hoàn toàn đủ nguồn
lực kiểm soát được thị trường.
Tin nổi bật
Ngân hàng Nhà nước nói gì về cuộc đua
tăng lãi suất huy động?
Linh hoạt tỷ giá, giảm tác động từ Fed tăng
lãi suất
NCIF: Tăng trưởng GDP giai đoạn 2019 -
2020 trên 6,9%
Triển vọng lạm phát 2019: Mức 4% có khả
thi?
IMF hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu
xuống còn 3,7% năm 2019
Thứ Năm, ngày 13/12/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Ngân hàng Nhà nước nói gì về
cuộc đua tăng lãi suất huy động?
Theo NHNN, dù tốc độ TTTD được kiểm soát và một số NH đã hết hạn
mức cho vay nhưng NH nào cũng cần huy động nguồn đầu vào để dự
phòng. Thực tế, dịp cuối năm, khách hàng cá nhân và DN có nhu cầu
chi tiêu, chi lương thưởng sẽ rút khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết
kiệm… nên NHTM phải huy động vốn để bù đắp, dự phòng. Do đó,
NHNN vẫn đang theo dõi chặt chẽ diễn biến LS huy động của các
NHTM gần đây. Và diễn biến này đang nằm trong tầm kiểm soát, nếu
các NH tăng cả LS cho vay bất hợp lý sẽ bị tuýt còi. Trong khoảng 2
tháng nay, nhiều NHTM đã liên tục điều chỉnh tăng LS tiền gửi ở các kỳ
hạn, trong đó kỳ hạn dài #9%/năm. Nếu vài tháng trước, LS tiền gửi kỳ
hạn dài chỉ trong #6,5%-8%/năm là phổ biến thì nay mức LS 8,5%-
8,7%/năm xuất hiện ngày càng nhiều. Mức LS tiền gửi cao nhất trên thị
trường ghi nhận đến thời điểm này là 8,9%/năm sau khi áp dụng các gói
sản phẩm, chương trình cộng thêm LS…Với mức LS tiền gửi <6 tháng,
dù NHNN áp trần LS 5,5%/năm nhưng một số NH đã "kẻ thẳng" đường
cong LS, khi người gửi tiền kỳ hạn 1-5 tháng đều có mức LS bằng nhau.
'Chính phủ là nhạc trưởng sửa
vướng mắc tài chính vi mô'
Ngày 12/12/2018, tại Hà Nội, NHNN và các đối tác tổ chức Toạ đàm
“Tài chính vi mô trong phát triển tài chính toàn diện”. Mục đích buổi toạ
đàm nhằm chỉ rõ và kiến nghị sửa đổi những vướng mắc, bất cập, cản
trở không gian hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô. Theo ban tổ
chức, gần 3 thập kỷ qua, loại hình tổ chức tài chính vi mô đã góp một
phần lớn trong thúc đẩy tài chính toàn diện. Những nỗ lực của cộng
đồng này đã ghi dấu đáng kể trong việc đưa tỷ lệ hộ nghèo từ mức
9,6% năm 2012 xuống 6,7% vào cuối 2017. Tuy nhiên, bà Lê Thị Lân,
GĐ Trung tâm Hỗ trợ phát triển nguồn lực tài chính cộng đồng (CFRC),
chỉ ra một vướng mắc lớn nhất hiện nay là khái niệm “tổ chức phi chính
phủ”. “Khái niệm tổ chức phi chính phủ không tồn tại trong thể chế nên
Bộ Nội vụ không dám xác nhận các tổ chức tài chính vi mô là tổ chức
phi chính như tại Quyết định số 20”. Ông Tô Hoài Nam, Tổng thư ký
Hiệp hội DNNVV VN cho biết, để giải quyết mắc mớ này, chỉ nên ghi là
các tổ chức hội đoàn. Cũng theo ông Nam, vì mắc mớ này mà nhiều tổ
Tài chính – Ngân hàng
3
chức hoạt động tài chính vi mô muốn được cấp phép đã bị chậm trễ. Có
thể thấy, hoạt động tài chính vi mô đang hoạt động khá sôi động và
không ít vấn đề vướng mắc phát sinh, từ việc cấp phép, xác nhận (như
nói ở phần đầu) cho đến huy động nguồn lực, quản trị rủi ro. Theo ông
Đào Minh Tú, Phó Thống đốc NHNN: “2019 sẽ là năm của ngành tài
chính vi mô”, với hàm ý, cơ quan quản lý sẽ tập trung tháo gỡ và/hoặc
kiến nghị tháo gỡ những vướng mắc. Đại diện vụ chức năng, ông
Nguyễn Trung Kiên, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách an toàn cho rằng,
hơn 10 năm trước, Chính phủ đã đóng khung một sứ mệnh cho tài
chính vi mô: đó là phi lợi nhuận và người nghèo. Và cùng đó là giải
quyết những vấn đề pháp lý cho hoạt động này, bao gồm từ lĩnh vực
nghiệp vụ cho đến sứ mệnh hướng về đối tượng thụ hưởng. Theo ông
Kiên, (i) khuôn khổ pháp lý hiện nay không chỉ bị chi phối bởi Quyết
định 20 nêu trên mà còn hàng loạt quy định khác và muốn sửa những
cái này thì Chính phủ phải đóng vai trò nhạc trưởng điều hành thì mới
đảm bảo hỗ trợ cho các bên liên quan. (ii) Với vấn đề huy động nguồn
vốn nước ngoài có được hay không thì thực tế cho thấy, mặc dù Quyết
định số 20 cho phép tiếp cận nguồn vốn này nhưng nhiều tổ chức lại
không vay được. Lý do là tổ chức tài chính vi mô không phải pháp nhân
mà chỉ là một đơn vị nhỏ thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội.
(iii) Về vấn đề sở hữu, đặc biệt là với yếu tố nước ngoài, cơ quan quản
lý cũng nhận thấy nhiều tổ chức phi chính phủ nước ngoài vào VN có
mong muốn khác hơn là làm tài chính vi mô. Khá nhiều tổ chức này vào
và coi tài chính vi mô chỉ là một cấu phần nhỏ trong hoạt động của họ;
Không ít tổ chức khác giao một phần vốn nhỏ cho các đối tác trong
nước làm. Và điều này đã không phù hợp với sứ mệnh của tài chính vi
mô là: hướng đến người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương.
Bộ Công Thương cảnh báo về
vay trực tuyến lãi suất "cắt cổ"
Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương) vừa lên
tiếng cảnh báo về hoạt động cho vay trực tuyến đang hết sức phức tạp
cả trong lẫn ngoài nước. Theo cơ quan này, trong Q.III/2018, sự sụp đổ
của hàng loạt các mô hình cho vay trực tuyến, kéo theo các vấn đề
khác ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống, tính mạng của người dân
tại TQ. Tại VN, bên cạnh các NH, các công ty tài chính, trong vài năm
gần đây đã có sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng, rộng rãi của các
mô hình cho vay trực tuyến (online). Các mô hình này thường được giới
thiệu là công ty thực hiện hỗ trợ, tư vấn và kết nối giữa người đi vay và
4
người cho vay (công ty tư vấn). Tùy vào mô hình hoạt động mà người cho
vay có thể được xác định cụ thể là một đối tác hợp tác với công ty tư
vấn hoặc không được xác định, được biết đến trên thế giới với tên gọi là
mô hình cho vay ngang hàng (Peer to Peer). Tuy nhiên, thực tế một số
đối tượng cho vay trực tuyến là chủ tiệm cầm đố kết nối với doanh
nghiệp chuyên về tư vấn tài chính (Fintech) liên tục mời chào người dân
vay tiền online. Trước tình hình này, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người
tiêu dùng lưu ý người tiêu dùng cần cẩn trọng khi cung cấp thông tin để
đăng ký khoản vay. Mặt khác, bên cho vay thường có mối quan hệ với
xã hội đen và có thể thuê đối tượng này đến tận nhà đòi nợ theo hướng
bạo lực khi người vay chưa trả hoặc mất khả năng trả nợ. Vì thế, theo
Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng, trước khi vay tiền, người
vay cần tìm hiểu bên cho vay là ai, thủ tục giải ngân như thế nào. LS
cho vay theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền
vay. Nhưng thực tế, các công ty này sẽ tính thêm các chi phí khác, như
phí tư vấn, phí quản lý khoản vay… dẫn đến LS và phí lên tới
700%/năm. Ngoài ra, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng
khuyến cáo người vay tìm hiểu và yêu cầu bên cho vay cung cấp tài liệu
xác nhận về thời hạn được hủy giải ngân, quy định về chi phí và cách
thức gia hạn khoản vay để có thể chủ động, kịp thời xử lý khi có nhu
cầu; chủ động tìm trên website hoặc đề nghị công ty tư vấn cung cấp
mẫu hợp đồng và toàn bộ các điều kiện giao dịch kèm theo để nghiên
cứu trước khi xác nhận giao dịch…Cuối cùng, cơ quan chức năng cũng
lưu ý người dân dù là vay các khoản có giá trị nhỏ nhưng người tiêu
dùng nên có tính toán cụ thể, chắc chắn để đảm bảo khả năng trả nợ
đúng hạn, tránh tình trạng phát sinh các chi phí cao và không cần thiết.
Linh hoạt tỷ giá, giảm tác động từ
Fed tăng lãi suất
Tuy đồng USD đang có xu hướng giảm trên thị trường TG, nhưng
NHNN vẫn đều đặn điều chỉnh tăng tỷ giá trung tâm. Theo giới chuyên
gia, động thái này một mặt để đón đầu việc Fed có thể tăng tiếp LS tại
cuộc họp sắp tới, song sâu xa hơn là để gỡ “thế kẹt” khi mức độ mất giá
nhẹ so với USD đang khiến VND định giá cao so với nhiều đồng tiền
trong KV, đặc biệt là CNY. Nhìn chung, tỷ giá trung tâm liên tục được
điều chỉnh tăng kể từ đầu tháng 12, song mức tăng của mỗi phiên là
không lớn. Trên thị trường TG, USD có xu hướng điều chỉnh nhẹ sau khi
Mỹ và TQ thỏa thuận tạm ngưng cuộc chiến thương mại trong thời hạn
90 ngày. Lý giải về động thái tăng dần tỷ giá của NHNN, TS. Nguyễn
5
Trí Hiếu - chuyên gia KT cho rằng, nhà quản lý đã phát tín hiệu ra thị
trường, đó là VND đang chịu áp lực nên NHNN điều chỉnh tỷ giá dần
dần để không gây ra sự xáo động mạnh. Một nguyên nhân khác khiến
NHNN tăng dần tỷ giá trung tâm được TS. Hiếu cho biết là nhằm hỗ trợ
doanh nghiệp XK, nhất là trong bối cảnh CNY đang rớt giá mạnh so với
USD. Điều này có thể khiến hàng TQ tràn vào VN khi cuộc chiến
thương mại Trung - Mỹ leo thang. Bổ sung thêm lý do, một chuyên gia
NH cho biết, NHNN liên tục điều chỉnh tăng tỷ giá trung tâm là để đón
đầu việc Fed có thể tăng tiếp LS tại cuộc họp chính sách tháng 12 này.
Trên thực tế, từ giữa năm đến nay, tỷ giá trong nước chịu nhiều sức ép.
Bên cạnh USD có xu hướng tăng mạnh trên thị trường TG, còn là CNY
sụt giảm mạnh. Trong khi đó, việc VND chỉ mất giá nhẹ so với USD vô
hình chung đã khiến tiền đồng tăng giá khá mạnh so với CNY. Điều này
có thể khiến tình trạng nhập siêu từ TQ trầm trọng thêm. TS.Hiếu cho
rằng, từ nay đến cuối năm, NHNN vẫn có thể ổn định được thị trường
ngoại hối bởi có lượng dự trữ ngoại hối lớn và sẵn sàng can thiệp nếu
cần thiết. Mặt khác, dù Fed gần như chắc chắn sẽ tăng LS tại cuộc họp
sắp tới, nhưng động thái này đã được dự báo từ sớm và đã phản ánh
vào diễn biến USD thời gian qua, trong khi cơ quan này vẫn do dự với lộ
trình tăng LS trong năm 2019. Bên cạnh đó, cuộc chiến thương mại Mỹ
- Trung đã dịu lại và TQ cũng đang thể hiện có đôi chút nhượng bộ
thông qua việc không có động thái phá giá CNY. Điều này giúp giảm áp
lực lên VND.
6
NCIF: Tăng trưởng GDP giai
đoạn 2019-2020 trên 6,9%
Trung tâm Thông tin và Dự báo KT-XH quốc gia (NCIF) đưa ra dự báo
tăng trưởng GDP năm 2018 đạt khoảng 7% trong báo cáo mới nhất tại
Tọa đàm KT VN 2016-2018 và dự báo tăng trưởng 2019-2020 vừa tổ
chức sáng 12/12. Khác với mức dự báo tăng trưởng KT sẽ giảm dần
trong các năm 2019 - 2020 về mức khoảng 6,5-6,6%. NCIF đưa ra mức
dự báo tăng trưởng trong khoảng 6,9-7,1% trong giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh những yếu tố không thuận từ bên ngoài, TS.Đặng Đức
Anh,Trưởng ban Phân tích và Dự báo NCIF chỉ ra nếu tiếp tục ổn định
KTVM, thu hút FDI, đẩy mạnh tái cơ cấu KT và thực hiện các FTA sẽ hỗ
trợ cho tăng trưởng KT. Đây cũng là những yếu tố để NCIF tin tưởng
tăng trưởng trong giai đoạn tới đạt trên 6,9%. Ba trụ cột lớn phát triển
KT tư nhân, cải cách thể chế và môi trường KD, khoa học công nghệ và
nâng cao NSLĐ không chỉ cho giai đoạn 2019-2020 mà có thể là động
lực tới năm 2025. Tuy vậy, giai đoạn 2019-2020, VN đứng trước những
rủi ro khi tăng trưởng KT ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào FDI. FDI
tại VN đang tập trung vào một số mặt hàng chủ yếu, vì vậy, khi có các
vụ kiện hoặc xung đột thương mại tăng trưởng KT sẽ ảnh hưởng rất lớn.
Triển vọng lạm phát 2019: Mức
4% có khả thi?
Với diễn biến lạm phát từ đầu năm cho đến nay, có thể thấy áp lực lạm
phát 2018 đang gia tăng một cách rõ rệt: lạm phát trung bình tăng liên
tục gần 1% trong 11th/2018. Tuy nhiên nếu so sánh với mức tăng trung
bình trong 5 năm trở lại đây thì mức tăng này vẫn thấp hơn so với năm
2016 (1,86%). Trong khi đó, lạm phát lõi trung bình tăng ổn định, tốc
độ chậm, chỉ #0,28%. Lạm phát không những chịu tác động chính từ
giá các mặt hàng Nhà nước quản lý mà còn phụ thuộc vào các yếu tố
khác như áp lực từ phía cầu cũng như CSTT. Lạm phát VN 2019 sẽ
chịu tác động từ môi trường quốc tế như giá xăng dầu, chiến tranh
thương mại cũng giá các mặt hàng nội địa. Với định hướng kiên định
của NHNN, lạm phát 2019 sẽ được kiểm soát ở mức mục tiêu 4%,
nhằm giữ ổn định kì vọng lạm phát. Việc nhất quán và kiên định điều
hành lạm phát mục tiêu của NHNN đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc bình ổn và định hướng thị trường trong thời gian tới. Lạm phát
Kinh tế Việt Nam
7
chịu tác động từ việc VND mất giá trong tương quan với các đồng tiền
có giao dịch thương mại. Do đó, nếu các đối tác thương mại của VN
tiếp tục mất giá mạnh trong năm 2019, sẽ gây áp lực đến lạm phát của
VN trong năm 2019. Từ năm 2013 cho đến nay, cùng với quỹ bình ổn
giá, cung tiền được Ngân hàng Nhà nước điều hành một cách linh hoạt,
ổn định, thận trọng phù hợp với diễn biến của lạm phát và với mục tiêu
tăng trưởng đề ra đầu năm. Trong khi đó, với mục tiêu giảm tỷ lệ nợ
xấu, tăng trưởng tín dụng đi đôi với chất lượng, nhằm ổn định hệ thống
ngân hàng, tăng trưởng tín dụng trong những năm qua có nhiều chuyển
biến tích cực, mang tính ổn định và chất lượng hơn. Tăng trưởng ổn
định của cung tiền và tín dụng từ năm 2016 đến nay góp phần hỗ trợ
lạm phát trong thời gian qua. Tăng trưởng KT VN đã có những bước
phục hồi rõ nét được thể hiện qua diễn biến của chênh lệch sản lượng
tiềm năng trong giai đoạn 2012-2017: mức chênh lệch âm lớn (năm
2013, 2014) được co hẹp một cách nhanh chóng vào năm 2016, và
chuyển thành dương vào năm 2017. Tuy nhiên, cùng với dự báo của
IMF, tăng trưởng GDP toàn cầu, cũng như KT VN, hay chênh lệch sản
lượng tiềm năng sẽ có xu hướng giảm dần trong vòng 2 năm tới, hỗ trợ
cho lạm phát của VN trong năm 2019.
World Bank: Việt Nam là một
trong số các quốc gia trung lưu
đang trỗi dậy mạnh mẽ
Trong báo cáo "Đông Á phục hưng" World Bank đã nêu ra 10 đánh giá
về đất nước VN dưới nhiều góc độ khác nhau. (1) Quốc gia trung lưu
đang trỗi dậy mạnh mẽ: VN, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và
Philipines được đánh giá là đang có những bước tiến lớn cả về KT lẫn
các lĩnh vực khác. "Năm nền KT lớn này của ASEAN đã nổi lên như là
nhà XK lớn, đằng sau các nền KT thu nhập cao và TQ". (2) Tiếp cận
công nghệ số không đồng đều: Ở VN, 75% hộ gia đình thuộc tầng lớp
trung lưu (thu nhập từ 15 USD/ngày, #340.000 VND trở lên) thường xuyên
sử dụng Internet. Tầng lớp nghèo và rất nghèo hầu như không tiếp cận
được với Internet. So với Indonesia, tỷ lệ tiếp cận Internet của VN ở tầng
lớp giàu bằng #80% quốc gia có nền KT kỹ thuật số phát triển nhất
Đông Nam Á. Tuy nhiên ở Indonesia, ngay cả những người nghèo nhất
trong XH, 25% vẫn được sử dụng mạng. (3) Giảm nghèo đáng kể: Năm
2002, tỷ lệ dân số rất nghèo chiếm >35%. Hơn 80% dân số là người
nghèo và cận nghèo, thì đến 2016, con số này giảm xuống <30%.
#60% dân số đáp ứng được mức sống cơ bản, và tầng lớp trung lưu trở
lên chiếm 10%. (4) Số lượng và mật độ robot công nghiệp được sử
8
dụng trong SX thấp: Lượng người máy được sử dụng trong SX của VN
thuộc nhóm thấp trong khối ASEAN-6. Lượng và mật độ ở VN,
Indonesia và Philipines thấp hơn rất nhiều so với Thái Lan và Malaysia,
và cực thấp nếu so với Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc. (5) Tích cực
đổi mới công nghệ và các đầu vào SX: Tỷ lệ đầu tư của các DN VN cho
sáng tạo phát triển R&D và đào tạo lao động ở mức khá cao, nhưng
đầu tư cho bản quyền công nghệ thì lại thấp. So sánh trong khu vực,
đầu tư đổi mới của DN VN thấp hơn Philipines nhưng cao hơn Malaysia,
Thái Lan, Lào và Campuchia. (6) Chênh lệch giàu nghèo cao ở thành
thị và nông thôn, giữa các dân tộc: Tỷ lệ nghèo cả nước #10%, nhưng
chỉ có chưa tới 3% dân thành thị là người nghèo. Trong khi đó ở nông
thôn, tỷ lệ nghèo lên tới 15%. Tương tự, có chưa tới 5% người Kinh và
người Hoa là người nghèo, thì gần 45% cư dân ở vùng dân tộc thiểu số
vẫn đang chống chọi với nghèo đói. (7) Xu hướng XK lao động gián tiếp
cao: Giai đoạn 1990, có #5 triệu lao động VN XK trực tiếp (sang nước
ngoài làm việc), trong khi lượng lao động gián tiếp (làm việc cho DN FDI)
chỉ #1/5. Năm 2007, khi VN gia nhập WTO, mở cửa cho các DN nước
ngoài vào đầu tư nhiều hơn, thì lượng XK lao động gián tiếp tăng vọt.
Đến năm 2010, XK lao động gián tiếp của VN chính thực vượt XK lao
động trực tiếp. (8) Hệ thống giáo dục tốt và trình độ học sinh cao: Theo
nghiên cứu thực hiện tại một số tỉnh TQ và VN, học sinh ở VN đang
phát triển các loại kỹ năng nền tảng: đọc, toán và khoa học và tham gia
thay đổi thành công môi trường KT. Các kết quả của VN cao hơn so với
kỳ vọng nếu xét về mức thu nhập BQ/người. (9) Bất bình đẳng giảm
chủ yếu nhờ trợ cấp bằng hiện vật: Hệ số GINI của VN được cải thiện
chủ yếu nhờ hình thức trợ cấp bằng hiện vật. Phần nhỏ phụ thuộc vào
thuế trực tiếp và ủng hộ trực tiếp của người giàu cho người nghèo. Các
loại thuế gián tiếp có tác động âm đến hệ số GINI. (10) Cơ cấu hình
thức sở hữu DN tương đối đồng đều: Giai đoạn trước 2000, tỷ lệ DNNN
rất cao so với tư nhân và nước ngoài. Nhưng tỷ lệ này bắt đầu có xu
hướng cải thiện từ năm 2005, đến những năm 2007-2008 thì gần như
đồng đều, sau đó duy trì tương đối ổn định.
9
IMF hạ dự báo tăng trưởng kinh
tế toàn cầu xuống còn 3,7% năm
2019
Những rủi ro KT cũng như căng thẳng thương mại giữa các nền KT
hàng đầu thế giới khiến Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) kém lạc quan về triển
vọng KT toàn cầu năm 2018 và năm tiếp theo. Theo dự báo mới nhất
của IMF, đà tăng trưởng toàn cầu sẽ chững lại trong năm 2019 do tác
động của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Cụ thể, IMF hạ dự báo
tăng trưởng năm 2018 và 2019 xuống còn 3,7%. IMF cảnh báo sự leo
thang căng thẳng thương mại Mỹ-Trung có thể khiến tăng trưởng của
toàn cầu giảm tốc, bởi thương mại là động lực chính của tăng trưởng.
Dự báo, tăng trưởng KT Mỹ trong năm 2019 sẽ giảm từ 2,9% xuống
2,5%, trong khi tăng trưởng KT của TQ cũng giảm từ mức 6,6% năm
nay xuống còn 6,2% trong năm 2019. Về dài hạn, IMF cho rằng, KT
toàn cầu sẽ tăng trưởng ở mức 3,6% trong giai đoạn 2022 - 2023.
Sự chậm lại của nền kinh tế
Trung Quốc rõ ràng hơn trong
tháng 11 khi nhập khẩu nhiều
mặt hàng chính giảm
NK các hàng hóa quan trọng từ đồng tới quặng sắt và đậu nành của TQ
đồng loạt giảm trong tháng 11, dấu hiệu mới nhất cho thấy sự chậm lại
của nền KT lớn thứ hai thế giới khi chịu tác động từ cuộc chiến thương
mại với Mỹ. Theo đó, NK đậu nành của TQ đã giảm xuống thấp nhất
trong 2 năm, từ mức 38% một năm trước, sau khi TQ đánh thuế quan
lên NK của Mỹ vào tháng 6. Đậu nành đã trở thành mặt trận chính trong
các cuộc thảo luận thương mại giữa Mỹ và TQ. Loại hạt chứa dầu này
là nông sản xuất khẩu lớn nhất sang TQ cho tới khi Bắc Kinh nâng thuế
thêm 25 điểm phần trăm nhằm trả đũa thuế quan Tổng thống Mỹ
Donald Trump áp lên hàng hóa từ TQ. Trong tháng này, Nhà Trắng cho
biết TQ đã đồng ý bắt đầu thu mua nông sản Mỹ ngay lập tức, theo sau
cuộc đàm phán giữa ông Trump và Chủ tịch TQ Tập Cận Bình tại
Buenos Aires, Argentina. Còn NK đồng giảm chỉ ra một xu hướng lo
ngại nhiều hơn và phản ánh sự chậm lại của các ngành tiêu thụ chính
tại TQ như máy điều hòa, nhà đất và ô tô, theo các chuyên gia phân
tích tại Citi. NK đồng tháng 11 của TQ đã 3% so với năm ngoái, dữ
liệu công bố hôm 10/12 cho biết. Giá đồng đã giảm 15% trong năm nay
xuống còn 6.122 USD/tấn. "Tăng trưởng của nhu cầu sử dụng cuối
cùng đối với đồng tại TQ trong năm 2019 phụ thuộc lớn vào gói kích
Kinh tế Quốc tế
10
thích tài chính của Bắc Kinh nhằm hỗ trợ tăng trưởng cơ sở hạ tầng và
giảm thuế thu nhập để thúc đẩy tiêu thụ", theo Citi. Ngoài ra, NK quặng
sắt của nền KT lớn thứ hai thế giới cũng giảm 8,8% trong tháng 11 so
với năm 2017. Giá thanh cốt thép TQ đã giảm 12% trong tháng trước,
theo sau sự gia tăng về sản lượng thép trong năm nay.
Thâm hụt ngân sách Pháp có thể
tăng vọt vì 'áo vàng'
Pháp có nguy cơ vượt quá trần thâm hụt ngân sách của Liên minh Châu
Âu vào năm tới nếu không có các biện pháp cắt giảm chi tiêu mới. Đây
được xem là hệ quả của việc Tổng thống Emmanuel Macron đáp ứng
một loạt yêu cầu của những người biểu tình "áo vàng". Hôm thứ Hai,
ông Macron công bố một loạt biện pháp để "xoa dịu" phong trào biểu
tình, bao gồm tăng lương cho tầng lớp lao động nghèo nhất và giảm
thuế cho người hưu trí. Các biện pháp này đặt ngân sách Chính phủ
Pháp trươc khả năng vượt quá giới hạn thâm hụt 3% GDP mà EU đề ra
cho các quốc gia thành viên. Tuần tới, Thủ tướng Pháp Edouard
Philippe sẽ phải trình bày trước Quốc hội nước này một kế hoạch chi
tiết về ngân sách cho các biện pháp mà ông Macron đưa ra. Chỉ vài
tuần trước khi được thực thi, kế hoạch ngân sách 2019 của Chính phủ
Pháp sẽ được điều chỉnh theo các biện pháp này. "Trong mọi trường
hợp, thâm hụt ngân sách Chính phủ Pháp sẽ ở trên ngưỡng 3% GDP",
chuyên gia KT Michel Martinez của Societe Generale nhận định.
11
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH https://vietstock.vn/2018/12/bo-cong-thuong-canh-bao-ve-vay-truc-tuyen-lai-suat-cat-co-757-
643252.htm
https://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/linh-hoat-ty-gia-giam-tac-dong-tu-fed-tang-lai-suat-
251503.html
https://vietnamfinance.vn/chinh-phu-la-nhac-truong-sua-vuong-mac-tai-chinh-vi-mo-
20180504224217242.htm
http://cafef.vn/ngan-hang-nha-nuoc-noi-gi-ve-cuoc-dua-tang-lai-suat-huy-dong-
20181212181330385.chn
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/ncif-tang-truong-gdp-giai-doan-2019-2020-tren-69-20181212155530885.chn
https://vietstock.vn/2018/12/trien-vong-lam-phat-2019-muc-4-co-kha-thi-761-643280.htm
http://cafef.vn/world-bank-viet-nam-la-mot-trong-so-cac-quoc-gia-trung-luu-dang-troi-day-manh-
me-20181212134855057.chn
Tin KT Quốc tế https://www.stockbiz.vn/News/2018/12/12/858873/imf-ha-du-bao-tang-truong-kinh-te-toan-cau-
xuong-con-3-7-nam-2019.aspx
https://vietnambiz.vn/su-cham-lai-cua-nen-kinh-te-trung-quoc-ro-rang-hon-trong-thang-11-khi-
nhap-khau-nhieu-mat-hang-chinh-giam-113378.html
http://ndh.vn/tham-hut-ngan-sach-phap-co-the-tang-vot-vi-ao-vang--
20181212085449983p145c151.news
12
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân sách nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ XK/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)