Upload
vuongtu
View
218
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH VỀ NỀN Y HỌC TRƯỜNG SINH VIỄN ĐÔNG
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNHVỀ NỀN Y HỌC TRƯỜNG SINH VIỄN ĐÔNG
Tác giả: GEORGE OHSAWA
Người dịch: HUỲNH VĂN BA
LỜI NÓI ĐẦU
Đây là bản dịch quyển "GUIDE PRATIQUE de la MEDECINE
MACROBIOTIQUE D'EXTREME- ORIENT" trong loại giáo trình dạy triết y học
của Tiên sinh OHSAWA. Có lẽ vì để lưu hành nội bộ nên nguyên tác không in
đẹp như sách mà bằng ronéo của thời 1965 và nếu gọi là tập tài liệu thì đúng
hơn. Hơn nữa, tập này không ghi rõ tên nơi in ấn, nhưng tôi nghĩ có lẽ từ
trung tâm IGNORAMUS, 8 đitàng Lamartine, PARIS IXe vì trong một tập
tương tự (Aide-Mémoire) có ghi địa chỉ này.
Điều cần nói ở đây là so với nguyên tác, tập in vi tính này là một bản
dịch mà chúng tôi xin mạn phép Tiên sinh biên tập lại cho gọn gàng và trật tự
về mặt kỹ thuật, (độc giả nếu có bản Pháp ngữ để so sánh ắt thấy có lý do và
nếu như không hài lòng về một điểm nào đó về mặt dịch thuật - chắc chắn
không thể nào tránh khỏi - thì kính xin quí vị chỉ cho, chúng tôi hết lòng cảm
tạ), chứ phần tư tưởng thì hoàn toàn không đả động đến.
Chúng tôi cũng xin giới thiệu thêm rằng, tuy sách nói nhiều về mặt thực
hành, đặc biệt là về bệnh Tim, nhưng toàn bộ ý chỉ đều nhắm về mặt triết lý
(không hắc búa chữ nghĩa như cái từ vốn dĩ của nó) mà rất dễ hiểu ngay đối
với những tâm hồn bình thường sơ học. Trái lại nó rất đắng và làm cho
những nguời đứng trên bình diện đối lập tỏ ra vô cùng khó chịu đến ngượng
ngùng rồi sinh ra cừu thị. Nhưng khó chịu để mà làm gì, muốn phê phán thì
phải trải nghiệm và y học chân chính đâu có phải mãi cột chân con bệnh vào
mình!
Trong thiền sử Trung Quốc, ngài Lâm Tế sau khi ngộ pháp nơi ngài Đại
Ngu, vụt miệng la lớn lên rằng Phật pháp của Hoàng Bá không có chi nhiều!
Khi đọc đến đấy, chúng tôi bỗng cảm thấy phương pháp của Tiên sinh
Ohsawa cũng vậy. (Độc giả có lẽ cũng sẽ có cảm giác ấy sau khi đọc xong
tập sách này). Nhưng chúng ta hãy tự nghĩ, nhiều, quá nhiều để làm gì khi
chúng đem con người vào chôn mê cung không lối thoát. Biết bao nhiêu loại
thuốc ở dược phòng, biết bao loại cỏ cây trong dược điển, học để giết thì giờ,
để thỏa mãn cái trí năng thì ích lợi đấy nhưng thực tế chúng ta cần cái gì ở
thuốc men, ở dược thảo, há chẳng phải là để chữa cho mình khỏi bệnh, một
mục đích tối hậu hay sao? Một bên thì tốn không biết bao nhiều là tiền của mà
kết quả không phải là không có đáp ứng nhất thời nhưng hoàn toàn hết hẳn là
điều cần phải nghĩ lại. Còn một bên là đơn giản (không có chi nhiều!) nhưng
cái đơn giản này của Tiên sinh Ohsawa, cái không có chi nhiều của ngài
Hoàng Bá không dễ gì ai cũng ngộ ra, nhưng chắc chắn trong một thời gian
ngắn rồi cũng vỡ vạc thôi. Mà một khi vỡ vạc thì nó có tính cách vĩnh cửu,
không một ai có thể bài xích ta được.
Huỳnh Văn Ba
TỰA
Nếu quả thực con người cao cả hơn hết mọi loài thì họ phải tự chữa
bệnh cho mình hơn chúng hoặc tốt hơn chúng (chim chóc, tôm cá, côn trùng,
sâu bọ rồi ngay cả loài vi trùng). Nếu, trong loài người có một kẻ không thể
khẳng định chính nơi mình có tự do vô hạn, hạnh phúc vĩnh viễn và công
bằng tuyệt đối thì một con người như thế sinh ra là để nuôi các loài sâu bọ và
vi trùng rồi cần gì vào địa ngục sau khi nhắm mắt lìa trần vì y đã ngụ ở đấy
suốt cả một cuộc đời.
Trong mọi tôn giáo thực tiễn, điều quan trọng nhất phải theo là chăm lo
sức khoẻ của mình. Nếu tôm cá và sâu bọ có thể giữ gìn sức khỏe mà không
lụy vào những hạ sách như thuốc men, y sĩ và nhà thương thì tại sao con
người không thể làm chuyện đó?
Tất cả mọi người đều hạnh phúc; nếu không được như vậy thì chính vì
cá nhân họ là một tên tội phạm đã bị Trật tự Vũ trụ trừng trị. Nếu phải chịu xử
lý thì điều ấy có nghĩa là khả năng phán đoán tối cao của bạn đã hay hiện bị
che lấp toàn bộ hay từng phần. Nếu quyết trở nên một con người hạnh phúc
(tự do, độc lập, mạnh khỏe, vui tươi rồi bất cứ lúc nào và đâu đâu cũng vậy
mình được mọi nguời yêu mến và thọ mạng dài lâu) thì trước hết bạn phải
thanh lọc và vén mở khả năng phán đoán tối cao bằng cách mỗi ngày dùng
món ăn thức uống hợp lý tuơng ứng với Trật tự Vũ trụ. Triết học Trung Hoa
và Ấn Độ (như trong NỘI KINH, DỊCH KINH, CHARAK SAMHITA và bộ
GITAS), cội nguồn của những nền văn minh cổ nhất và cao nhất, đã vạch tỏ
thực sâu sắc như vậy.
Con người sinh ra vốn tự do, khỏe mạnh, có lý trí và được mọi người
thương yêu, không cần nhờ bất cứ một công cụ nào, một vũ lực nào mà chỉ
có việc sống hài hòa với Trật tự Vũ trụ thôi.
Chúng ta phải và chúng ta có thể được tự do, mạnh khỏe, sung sướng,
công bằng và được mọi người thương yêu, nếu chúng ta quyết như thế. TẠI
SAO KHÔNG?
Tôi đến đây, nước Pháp, lần đầu tiên vào năm 1914. Từ đó tôi đã thăm
viếng nước này hơn chục lần để du nhập Vô song Nguyên lý của khoa học và
triết lý Viễn Đông, nơi sinh ra mọi nền văn minh và tất cả tôn giáo Đông
phương, để thiết lập một cuộc hòa điệu tốt đẹp và thâm sâu giữa Tây phương
và Đông phương.
Nhưng khốn thay, tôi không thể thuyết phục được ai. Và tôi buộc phải
kiếm sống bằng cách dạy và hành nghề môn Châm cứu hay bằng cách giới
thiệu thuật cắm hoa, Phật giáo, Cây cảnh (Bonsai), hòn Non bộ (Bonkei), học
thuyết Nhu đạo,v.v Tôi đã không thể tiếp tục mãi như thế. Vào cuối năm 1935
tôi đã bỏ xứ này lần sau rốt để trở lại càng sớm càng tốt với đồng tiền. Nhưng
tất cả đều trôi theo giòng. Rồi cuối cùng, chiến tranh, trong thời gian này tôi bị
bắt và bị cầm tù nhiều bận, bởi lẽ trước kia sao thì nay cũng vậy, tôi - một con
người yêu hòa bình và chống quân phiệt.
Đã hai mươi năm qua, đây là lần đầu tôi trở lại đất Pháp sau hai năm ở
Ấn và tám tháng ở Phi châu Xích đạo. Và lần này, cái con người từng hành
nghề và du nhập môn Châm cứu vào Âu châu đã kinh ngạc xiết bao khi thấy
bằng chính cặp mắt của mình hàng trăm nhà Châm cứu "made in France"!
Những sách vở viết về Phật giáo và kiến trúc Nhật Bản, những ông thầy dạy
thuật cắm hoa, hàng ngàn khóa học Nhu đạo, nhiều hòn Non bộ trong những
cửa hàng đồ sộ chuyên bán đồ mới rồi lại có cả những người hành nghề mát-
xa nữa chứ! Đó chính là lý do tại sao tôi vội vã nói với các bạn về Vô song
Nguyên lý, không có nó bạn sẽ lạc lối lầm đuờng trong mọi cuộc nghiên cứu
về khoa học và triết lý Viễn Đông.
GEORGE OHSAW A
Không một bệnh nào có thể chữa dứt mà không dùng đến đồ ăn thức
uống theo Trật tự Vũ trụ.
CHARAK SAMHITA
Thiết lập cảnh tự do vô hạn, hạnh phúc vĩnh viễn, công bằng tuyệt đối
mà không viện đến một khí cụ nào, một vũ lực nào, đó là triết học thực tiễn
của ta.
LÃO TỬ
Y học Viễn Đông chỉ là một giải thích về mặt sinh học, sinh lý và luận lý
của nền triết học tối cao của Viễn-Đông, mẹ đẻ của tất cả nền văn minh và
mọi đại tôn giáo Đông phương bao gồm Thiên chúa giáo, Ấn giáo, Bàlamôn
giáo, Hồi giáo và Phật giáo. Môn châm cứu và mát-xa cũng như y khoa dùng
dược phẩm của Trung Quốc và Ấn Độ đều thuộc vào giai đoạn đầu và
nguyên thủy của y học phương Đông, còn giai đoạn cao nhất của nó là thuộc
về tiết thực và trường sinh.
GEORGE OHSAWA
A. LỜI NÓI ĐẦU
Tôi rất sung sướng mà gởi đến các bạn tập yếu lược nhỏ bé này. Nó là
bản dịch rút gọn quyển sách của tôi: “Chữa trị bằng phép Tiết thực Mới” mà
đến nay đạt đến con số xuất bản 465 lần bằng Nhật. Ước mong san sẻ cho
các bạn riêng về cái kỹ thuật trị liệu bằng tiết thực mà tôi đã dạy gần bốn
mươi năm nay chứ không lý thuyết nữa vì phần này đã được đề cập trong
quyển “Triết lý Y học Viễn Đông” và trong các lớp giảng của tôi.
Vậy kể như đó là kết tinh hệ thống triết học của tôi, nó không gì khác
ngoài sự giải thích về sinh vật học, sinh lý học và luận lý của môn triết học,
những quan niệm về Vũ trụ của miền Viễn Đông. Ba mươi năm qua tôi đã viết
và xuất bản hơn hai trăm đầu sách và hàng ngàn bài báo trong những nguyệt
san định kỳ về các mặt thực hành lẫn lý thuyết đề cập đến vấn đề này.
Nhưng, giờ đây, muốn mang đến một thông tin lợi ích mà các bạn ai cũng
hiểu được, tôi đã bỏ qua phần nguyên tắc và lý thuyết trong tập sách nhỏ này.
Những ai quan tâm đến lý thuyết có thể tự mình tìm kiếm tài liệu bằng cách
đọc những quyển bằng Pháp ngữ và Nhật ngữ của tôi hay đọc các bài báo
trong những tạp chí mà những trung tâm khác nhau của tôi phát hành ở Đông
phương cũng như ở Tây phương. “Thực hành trước đã” là phương châm của
tập nhỏ này.
Hệ thống y học tiết thực của tôi, cái thuật sống thọ và trẻ lại thì quá đơn
giản và quá rẻ, mọi người đều có thể áp dụng vào bất cứ lúc nào và bất kỳ ở
đâu, nếu mỗi cá nhân nhất trí quyết tự mình chữa trị cho mình sau khi đã chịu
mỏi mòn những kinh nghiệm đắng cay, nặng nề và tốn kém bằng cách thử
nhưng vô ích biết bao cuộc chạy chữa và cách trị liệu theo y học, vật lý, tâm
linh hay tôn giáo.
Phương pháp chữa bệnh này chỉ tùy mình mà thôi. Bạn không cần tựa
chút xíu nào vào ai hay dùng bất cứ phương tiện chi. Nó chỉ dựa vào sự ăn
uống. Phương pháp của tôi tùy thuộc vào sự giáo dục, vào luận lý và đạo đức
hơn là trị liệu. Nó là nền tảng và không phải lối chữa theo đối chứng.
Những mục tiêu của hệ thống y học của tôi là trước hết cốt đưa ra
trước ánh sáng, nguyên nhân đầu tiên của mọi bệnh tật và tiếp đến là của mọi
hạnh phúc. Vậy nếu các bạn tuân thủ những nguyên tắc y khoa của tôi thì
không những các bạn khỏi mắc bệnh (hay ngay cả dính cảnh bất hạnh) mà
trong tương lai bạn sẽ không bao giờ nhiễm nạn bệnh hoạn hay khốn khổ
dưới mọi hình thức. Thật vậy, đó chính là một lối giải thích mới mẻ được đơn
giản hóa mang tính sinh vật học, sinh lý học và luận lý của nền triết lý Viễn-
Đông, nó sẽ dẫn các bạn hướng đến hạnh phúc vĩnh viễn, tự do vô hạn, công
bằng tuyệt đối và tình yêu đại đồng bằng đồ ăn thức uống Satwic (quân bình,
Bhagavad-Gita, XVII). Vả lại, các bạn sẽ không thể nào hiểu được triết lý (và
những kỹ thuật của nó kể cả y khoa) và tất cả những tôn giáo lớn (Thiên chúa
giáo, Phật giáo, Ấn giáo,v.v...) mà không có sự diễn giải này.
Hiện nay, mọi nhân vật nổi tiếng trên thế giới đều cố gắng thiết lập nền
hòa bình trong chính đất nước mình cũng như trên phạm vi quốc tế và tất cả
những nỗ lực của họ lần lượt đều tự đổ vỡ như công dã tràng. Lịch sử nhân
loại từ nguyên thủy không gì khác ngoài một chuỗi dài, rất dài những cậu
chuyện dựng lên rồi tàn lụi. Tất cả cái đó xảy ra là bởi loài người cố thiết lập
cảnh hòa bình, hạnh phúc và tự do bằng bạo lực (xã hội, chính trị, kinh tế,
đạo đức hay trí năng).
Vài kẻ trong số kể trên thì thử chế tạo những khí giới mới, dữ dội và
bạo tàn chưa từng thấy. (Họ đã quên, có lẽ thế, rằng “tất cả cái gì có thủy đều
có chung trong thế giới tương đối này” và “cái khởi đầu và cái chung cuộc đối
lập nhau!”). Chắc hẳn họ cũng quên đi thế giới phù du tương đối này chỉ là
một điểm hình học của vũ trụ tuyệt đối, vĩnh cửu và vô cùng do luật tắc vũ trụ
chi phối. Họ không thể và chả bao giờ có thể xây dựng một cuộc sống hạnh
phúc, lành mạnh và tự do, cho tha nhân và cho mình. Mà, họ buộc kẻ khác
cũng như chính họ lao vào những trận đấu đá sinh tử, bạo tàn.
Chỉ riêng Gandhi, ông phủ nhận mọi giá trị các giải pháp hòa bình như
thế, lần đầu tiên trong thời ông, ông nhấn mạnh về bất bạo động, giới sát và
tuyệt thực, tức những vũ khí về sinh vật học, sinh lý học và luận lý. Ông chính
là một môn đệ dũng cảm và chân thành của phương pháp tự nhiên và triết lý,
một phương pháp hòng phủ nhận sức mạnh của bạo lực, ngay cả trong y
khoa. Tiếc thay ông quá bận rộn bởi công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
nên hơi đâu mà thuyết giảng mới hơn nền triết học cổ của Đông phương.
Bác sĩ Schweitzer thì cũng là người thuộc phái bất bạo động trong y
học bởi lẽ ông theo một trong những tôn giáo quan trọng nhất của phương
Đông. Nhưng cũng như Gandhi, Schweitzer không có thì giờ nghiên cứu cho
thấu triệt cái nguyên lý của những nguyên lý, tức nguyên lý của sinh mệnh,
Védanta hay triết học Trung Hoa (huống hồ cái kỹ thuật của nó có tính sinh
vật học, sinh lý học và y khoa).
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Trước tiên bạn hãy xây dựng cuộc đời
cá nhân mình cho tự do và bình an; thứ hai là đời sống gia đạo; thứ ba là
cuộc sống xã hội hạnh phúc và khang an trong cảnh tự do; cuối cùng là sự
lãnh đạo thế giới đặt cơ sở trên ba điều trước”. (Tu, Tề, Trị, Bình, N.D.).
Không một ai có thể bỏ qua trật tự này. Xã hội chủ nghĩa tây phương, cộng
sản chủ nghĩa sô viết, những học thuyết vô chính phủ của một Elisée Reclus
hay những lý thuyết không tưởng của Robert Owen, Saint Simon và Fourrier
đã định thực hiện lý tưởng ấy, nhưng họ không biết xây dựng cái cơ ngơi đầu
tiên như thế nào, trong đời sống riêng tư họ làm được ít nhiều gì đó, nhưng
họ không thể đem điều ấy khuyên nhủ ai.
Quả là dốt nát hoàn toàn hay hầu như thế về “Vũ trụ quan”! Trái lại, mọi
người tự do của phương Đông (Thánh nhân và Hiền giả) đều hết lòng hết dạ
nhấn mạnh mãi về điểm này. Những giáo huấn của họ ngày nay bị rơi vào
chỗ bất phùng thời. Từ đó mà có cái ý nghĩa và lý do tôi trình bày sự giải thích
mới mẻ giáo thuyết đã có hàng ngàn năm của Védanta và triết học Trung
Quốc dưới một dạng cách tân về hình thức, ngôn ngữ, sinh vật học, sinh lý
học và luận lý.
Không lý thuyết gì nữa hết.
Các bạn hãy nghiên cứu và thử áp dụng những chỉ dẫn về tiết thực của
tôi, nó quả là rất đơn giản....
B. CHUẨN BỊ
1. Trước hết bạn phải sẵn sàng để leo lên con đường ngắn nhất mà ít
tốn kém nhất hướng về cảnh hạnh phúc vĩnh viễn, tự do vô hạn và công bằng
tuyệt đối. Để làm một chuyến du lịch lạ lẫm này, bạn chẳng cần gì tiền bạc
hay khí cụ nào như Kinh Thánh đã nói (Chúa Jesus đã bảo đệ tử khi du hành
lâu ngày vào một miền xa lạ: “Các ngươi đừng mang áo lót mình hai cái mà
chỉ một thôi; đừng xách túi đựng đồ”). Sự chuẩn bị duy nhất cốt cho tốt trong
đầu óc là phải theo những chỉ dẫn về tiết thực, và như vậy là bạn đã thực thi
đầy đủ lời của Épictète sau đây:
“Mọi người đều hạnh phúc; kẻ nào không được như thế, thì đó là lỗi
của họ”.
Điều ấy có nghĩa là bạn sinh ra vốn hạnh phúc, tự do, công bằng và
đầy ắp tình thương. Vậy nếu bạn không hạnh phúc, không tự do, bị bệnh
hoạn và buộc phải lệ thuộc kẻ khác, đó là bởi mình đã vi phạm những luật tắc
của thiên nhiên, Trật tự Vũ trụ, vốn đã biết từ khuya trước khi chào đời, chẳng
cần ai chỉ bảo bao giờ, thế rồi thiên hạ đã dạy cho các bạn vi phạm các luật
ấy khi dấn thân vào cuộc sống bởi cái gọi là “giáo dục”. Dầu các bạn biết
chuyện ấy hay không thì sự vi phạm này phải bị trừng trị, cũng giống như sẽ
chết thôi nếu các bạn ý thức cùng không mà uống phải một liều thuốc độc hại
nào đó.
Các bạn mới khổ hay lâu nay đã khổ dài dài, đó là tùy vào việc mình đã
hay đang phạm một hay nhiều tội ác. Nếu không phạm những luật lệ thế gian
thì các bạn cũng đã đụng đến Trật tự Vũ trụ. Các bạn có thể vi phạm những
luật lệ, tác phẩm của con người một cách có ý thức hay vô tình, vì những luật
lệ ấy theo thời mà biến cải và một đôi khi kẻ tạo ra chúng bị thiên hạ thắt cổ
cho chết đi, nhưng các bạn phải sợ việc vi phạm luật của Vũ trụ. Cái việc
không biết đến những luật do con người hay không con người tạo ra, không
phải là một hoàn cảnh được giảm khinh để né tránh hình phạt. Việc bạn bị
nhốt vào cái xà lim gọi là bệnh hoạn hay bất hạnh có nghĩa là các bạn đã bị
Trật tự Vũ trụ trừng trị. Nhờ tiền của, nhờ hối lộ, nhờ mưu mô gian trá, nhờ vũ
lực hay nhờ làm một cuộc lật đổ, các bạn có thể thoát khỏi luật người chứ
bạn không có một cách nào dầu khôn khéo hoàn hảo đến đâu để thoát cho
được trật tự của thiên nhiên, nếu như không có cuộc chuyển đổi tâm tánh hay
nhân sinh quan bằng cách để mình thích ứng vào Trật tự Vũ trụ này. Và nếu
không chịu Epictète là đúng thì đọc nữa mà làm chi, hãy quẳng tập sách này
đi, bạn sẽ mất một ít tiền đấy, nhưng lại được cái khỏi mất thì giờ.
2. Trừ con người, chẳng con vật nào tạo cõi này thành một chốn điên
loạn, khổ đau, bệnh hoạn, tàn sát, bịp bợm và tội ác. Bạn hãy nhìn loài chim,
loài chuột, muỗi mòng, bướm ong, sư tử hay cọp beo, chúng chơi nhởi, sung
sướng, vui vẻ, bình an suốt cả cuộc đời. Không bao giờ bạn thấy một con cọp
rên la vì đau đầu, đau răng hay đau bao tử, phong thấp, cũng không có một
con quạ nào tìm mua thuốc aspirin ở dược phòng, không con hươu già nào
mua kính đeo mắt, không con bò cái nào rên rỉ vì bệnh đậu mùa, con bê nào
chết vì bệnh sởi. Bạn chẳng bao giờ nhìn thấy một con sư tử mang tấm thân
béo phì cục mịch như con lợn nhà. Nếu quả thật bạn trình độ cao hơn hoặc
ngay cả hơn một chút xíu thôi đối với bất cứ con thú hay côn trùng nào, thì
bạn phải không khổ đau vì bệnh tật mới được. Hơn nữa, chẳng có một vương
quốc sư tử nào gieo rắc chiến tranh quá tàn khốc, quá phi nghĩa, quá hao tốn
bạc tiền để chống chọi một vương quốc sư tử khác như con người. Con
người hiện đang chống đối con người. Nếu bạn đau khổ thì đối với bất kỳ con
vật nào, ví dụ về côn trùng như con rệp chẳng hạn, trình độ các bạn kém hơn
nhiều. Các bạn phải hiểu kỹ điều ấy.
3. Trừ con người, không con vật nào sống lệ thuộc những con khác hay
lụy vào khí cụ liên quan đến bệnh hoạn hoặc dính líu đến đau khổ. Mọi thú vật
đều tự chữa trị cho mình và tương trợ lẫn nhau. Tại sao người ta không biết
làm chuyện ấy?
4. Khi được chữa lành nhờ phương pháp của tôi, các bạn hãy tham gia
chương trình bảo vệ sức khỏe quốc gia và quốc tế của chúng ta; các bạn hãy
đi thăm những kẻ bệnh nằm liệt giường liệt chiếu lâu ngày, hãy chỉ cho họ cái
phương pháp mà bạn đã thực hành, làm sao mà bạn được hết bệnh, bằng
cách phân phát (hay bán) càng nhiều càng tốt những quyển sách này. Bạn
phải chữa ít nhất một trăm người bằng phương pháp bạn dùng. Việc ấy
không phải đương nhiên là có lợi cho tha nhân mà cốt yếu chỉ vì mình tự
luyện tập nơi thuật trường sinh, một nghệ thuật độc đáo, chưa từng có trong
lịch sử loài người. Điều này mà làm thì các bạn sẽ đương đầu biết bao tân
khổ chưa quen. Hãy viết thư và hỏi han để biết cách xử lý ra sao và trung tâm
sẽ chỉ dẫn miễn phí cho các bạn; đồng thời, các bạn sẽ biết thấu đáo hơn nền
y học tiết thực của chúng tôi. Và về lâu về dài, các bạn sẽ trở thành bậc thầy
trong nghệ thuật kiến tạo sức khỏe bằng một chất tư dưỡng sinh động, quân
bình mà đâu đâu cũng có; bạn sẽ bắt đầu hiểu cái gọi là sức khỏe, cái gọi là
cuộc đời, chúng được dựng xây trên những nguyên lý tự do và hạnh phúc.
Như vậy là bạn sẽ trở nên một con người sung sướng trong xã hội.
Nếu bạn có thể chữa trung bình ba mươi người trong ba tháng, và nếu
bạn có thể làm mỗi người trong số đó chữa lành ba mươi người khác trong
ba tháng kế tiếp, và cứ như vậy mà làm tới, điều mà bạn thực hiện (nhờ
quyển sách này) chẳng bao lâu sẽ có hàng ngàn hàng vạn nam nữ theo phép
tiết thực trường sinh trong nước.
Làm như thế là các bạn giúp cho y sĩ, y tá và bộ y tế, đồng thời chính
phủ và những quốc gia liên hiệp. Để thuyết phục ai đó bệnh đau lâu ngày
chày tháng mà chữa đâu cũng không hết, bạn hãy khuyên họ theo bằng mọi
giá phương pháp của chúng tôi “tối cổ” mà không tốn kém gì nhiều. Không
khó lắm đâu. Nếu hết lòng hết dạ đem những chỉ dẫn thực tiễn và kiệm ước
của chúng tôi mà dạy bảo cho người bằng kinh nghiệm của mình thì trong
một tiếng đồng hồ là xong. Chắc chắn bạn có thể hy sinh mỗi ngày một giờ
mà không thấy có gì nghiêm trọng khó khăn; hơn nữa, đây không phải là một
hy sinh đúng nghĩa mà là việc luyện tập của các bạn trong nghệ thuật chữa
bệnh để bảo đảm sức khỏe của chính mình. Nếu bạn không thể nào thực hiện
cái chí nguyện lao động này, một giờ mỗi ngày, thì chính bạn sẽ một lần nữa
rơi vào chỗ đại bất hạnh trong một tương lai gần cho mà xem. Dầu cho bệnh
của bạn đã một lần chữa khỏi: một trong đám những đứa con, người vợ yêu
thương, chồng hay cha mẹ hoặc ngay cả chính bạn sẽ mắc lại chứng này hay
một chứng khác (trong trường hợp mắc bệnh cũ, bạn sẽ không phục hồi
được sức khỏe, ngay cả nhờ phương pháp và nhờ tôi), bảo lãnh cho một tội
ác tương tự như vậy không thể nào chấp nhận được. Đối với tôi, không bao
giờ tôi chữa trị chính một bệnh nhân hai lần.
Nếu các bạn không thể chữa mọi chứng bệnh của gia đình mình một
lần là hết hẳn, dần dần lan ra đến xóm làng và xã hội thì bạn là một con người
cố chấp, chỉ biết có mình, cô đơn quạnh quẽ và tự kiêu tự đại. Hạnh phúc
nằm trong số lượng thân hữu mà mình có và khả năng kết bạn. Số lượng bạn
thân càng lớn thì hạnh phúc và tự do càng nhiều. Một người tự do là một kẻ
không bao giờ gặp một ai mà mình không thấy dễ mến thương, nơi nào họ
cũng thấy thoải mái và họ quan tâm đến mọi thứ trên đời.
5. Bảng sát hạch cá nhân buộc phải tuân theo tiêu chuẩn “Bảy điều kiện
về sức khỏe” vào cuối mỗi tuần lễ. Nếu, mỗi một lần, không có đôi chút tiến
bộ và không một cải thiện đáng kể sau chừng hai tháng thì chính những
phương tiện mà các ban dùng để tuân thủ những chỉ dẫn về tiết thực đều
không hay. Hãy chấm dứt lối trị ấy đi, chắc hẳn các bạn quá cẩu thả trong
việc chữa bệnh cho mình hoặc đúng ra là không nhất quyết sống một cuộc
đời hạnh phúc và tự do.
6. Bạn hãy luôn tiếp xúc với Trung tâm quốc tế hay quốc gia về tiết thực
của các y sĩ hay nhà tiết thực. Hãy gởi những câu hỏi, bản tường trình về sinh
lý cá nhân mình và cho chúng tôi biết những hoạt động của các bạn để trung
tâm có thể gởi báo chí, tin tức và thông cáo cần thiết đến vào các mùa trong
năm.
C. NHỮNG CHỈ DẪN CƠ BẢN
Đây là công thức của toa tiết thực tôi cho bệnh nhân.
Bạn thân mến, nếu thật sự bạn quyết định chữa lành hoàn toàn bệnh
của toàn thể loài người hay của chính mình; nếu bạn đã bị y khoa hiện đại kết
án “nan y”; nếu từ lâu quá đi rồi, bạn đau khổ và bạn mong đạt đến Cõi Trời
(Royaume des Cieux), cảnh tự do vô hạn, hạnh phúc vĩnh viễn và công bằng
tuyệt đối càng sớm càng tốt, thì trước hết chính bạn hãy tuân theo (hay dạy
cho bệnh nhân của mình) những chỉ dẫn tiết thực sau đây thật cẩn thận.
Đó là lời khuyên nhủ tốt lành nhất mà tôi có thể tặng các bạn sau bốn
mươi năm kinh nghiệm chữa trị hàng ngàn hàng vạn bệnh nhân nan y ở Nhật
Bản.
Hãy gởi cho tôi nhật ký kể 24 giờ tình trạng sinh lý của bạn:
1. Tính tình - vui hay buồn - thoải mái hay bực bội;
2. Lượng và phẩm của món bạn ăn và uống;
3. Ngày đi tiêu và tiểu mấy lần (đều đặn và không đều).
Không có bản nhật ký này, tôi không thể tìm cách thay đổi tình trạng
sinh lý của bạn được. (Tiên sinh đã mất từ ngày 24/4/1966 nên bản nhật ký
có thể gởi đến những bạn nào nhiều kinh nghiệm về phương pháp này để họ
hướng dẫn cho... N.D.).
I. CHẾ ĐỘ ĂN KIÊNG TRONG CÁC TUẦN ĐẦU
(Chỉ theo trong vòng hai tháng)
1. Uống ít nước
(Bao gồm sữa, bữa ăn, cà phê, trà, súp...) vừa vặn đủ để duy trì sức
khỏe mà thôi.
2. Ngưng dùng
a. Đường dưới hình thức nào cũng vậy (bánh ngọt, đồ ăn ngọt, đường
phèn, kem lạnh, yaourt ngọt);
b. Khoai tây, cà chua, các loại cà (cà pháo, cà dĩa, cà dái dê...N.D.),
dưa chuột, đậu haricot vert dưới mọi hình thức.
c. Trái cây, xà lách (trừ những thứ đặc biệt khuyên dùng).
d. Cà ri bột, tiêu, gia vị, lê-ghim có dáng đậu, đậu haricot vert, đậu hòa
lan, đậu tàm (feve), bất cứ loại đậu dùng làm rau trừ loại khuyên nên ăn sau
này.
e. Sản phẩm gốc từ giới động vật (thịt, mỡ, đạm, trứng, sữa, bơ, mọi
sản phẩm chế biến từ sữa trâu lỏng (bơ ghee Ấn).
3. Hãy dùng những thực phẩm sau
a. Gạo lứt, gạo lúa mì, gạo lúa mì đen (sarrazin), kiều mạch (flocons
d’avoine), đại mạch (orge), kê, bắp hột hay xay thành bột, tất cả còn nguyên
vỏ cám. (Không bỏ nước nấu). Chiên, nướng, nấu hấp hay không nấu chín.
b. Một ít lê-ghim (lá xanh tươi, rễ hay củ) trừ những thứ cấm dùng nói
trước đây. Bắp cải, sú lơ, hành, cà rốt, bí đỏ, củ cải, bồ công anh (pissenlit),
xà lách xon, rau đắng (endive), củ hạ (salsifis), rau cần tây (céleris); tất cả chỉ
hấp hay chiên và nêm muối. Tất cả những món a và b phải nằm trong vùng
lân cận (50km) và quen dùng nơi xứ mình.
c. Chỉ ăn dầu thực vật (cấm dùng sản phẩm động vật, mỡ, và sữa trâu
lỏng ghee). Dầu mè, dầu ô liu, dầu cải hay dầu hướng dương có thể dùng tùy
khả năng.
4. Tỉ lệ
Ngũ cốc: (70-90%) và lê-ghim (30-10%) là tỉ lệ tốt nhất. Càng dùng
nhiều ngũ cốc, càng mau lành bệnh. Có thể bỏ hẳn lê-ghim trong nhiều tuần
đầu.
5. Nhai kỹ
Hãy nhai mỗi búng hay muỗng cơm ít nhất 50 lần (càng nhiều càng tốt.
Càng nhai nhiều, càng mau lành bệnh).
6. Hãy nhớ
Khi theo chế độ ăn kiêng, bạn hãy cố tìm cho ra lượng ăn uống tối
thiểu, điều ấy có nghĩa không một ai biết sống vui nếu ăn ít cũng đủ sống mà
mình viện bất cứ lý do gì để ăn uống quá độ (về chất và lượng). Đó là sự
phung phí, xa xỉ, thuần là lạc thú cảm giác mà nếu chất chứa lâu ngày chày
tháng sẽ đưa tới tội ác đi kèm với hình phạt không sao tránh khỏi: bất hạnh,
buồn phiền, bệnh hoạn, đớn đau, nghèo khổ, đầu óc kém minh mẫn dẫn đến
khó khăn và lầm lỗi rồi cuối cùng là đoản thọ vì bệnh hoạn và tai ương hoặc
lúc nào cũng sống một cuộc đời quỵ lụy.
Nhờ chế độ ăn kiêng này mà lần đầu trong đời, bạn vỡ lẽ hằng ngày
mình đã phung phí đồ ăn thức uống không biết bao nhiêu; và nếu sống với
những thực phẩm rất đơn sơ và thật ít ỏi theo Vô song Nguyên lý thì chúng ta
có thể sở đắc và có khả năng mở ra biết bao cảnh tự do vô hạn, hạnh phúc
vĩnh viễn, niềm vui khôn cùng, trí phán đoán chính trực.
Đồ ăn thức uống là cái gì quí nhất để nuôi sống va làm cho ta hoạt
động, cái việc ăn quá mức, phung phí thực phẩm lợi người kết thành một tội
ác bi đát, một thứ bóc lột hoặc một cuộc sát hại gián tiếp đồng loại. Những
điều nói trên là bước khởi đầu phải làm để soi sáng hay khai mở đến mức
tuyệt vời cái trí nhớ và năng lực phán đoán (tức cái quan năng ai cũng có từ
hồi nào đến giờ hay cái minh triết mà các bạn đã ít nhiều mất đi vì cái lối giáo
dục hiện hành).
Mọi bất hạnh của con người (y như nhau và kể cả chiến tranh) là tổng
thể của khả năng phán đoán quá thấp, tỉ như những phán đoán thuộc cảm
giác, tình cảm, những quan niệm của cái gọi là khoa học; nói tóm lại, là lòng
tham hay thói vô ơn bạc nghĩa, hoặc cái khiếm khuyết hoàn toàn của trí phán
đoán tối cao làm mờ tối ánh hào quang chân lý, cứu cánh có thể nói là của tất
cả các đại tôn giáo Đông phương.
Phương pháp trị liệu của chúng tôi là đường lối thực tiễn đơn giản hóa,
cơ sở của những nguyên tắc tiết thực của Yoga và đạo Phật, bước khởi đầu
hướng về sự thành tựu tự ngã bản lai hay sự giải thoát khỏi những dục vọng
thế gian, tức lý tưởng của Gandhi hay của sư phụ ông là Rajchandra. Nhận ra
tự tánh là phát giác ra khả năng phán đoán siêu việt của mình, tức không gì
ngoài tự do vô hạn, hạnh phúc vĩnh viễn và công bằng tuyệt đối. Thành tựu
này của cá nhân và sự giải thoát khỏi những dục vọng trần thế hun đúc cho
con người phong thái của một bậc đại nhân như ai nấy đều biết nhưng rất ít
kẻ cố gắng đạt đến và luyện tập trong đời sống hằng ngày. Cuộc đời làm ta
phân vân giữa thiện và ác. Người ta không rõ từ nơi đâu và làm sao tìm cho
ra con đường để thành tựu Chân ngã và Giải thoát, rồi làm thế nào mà cư xử
và sống với nhau trong cuộc sống hằng ngày. Nếu làm được điều ấy, họ sẽ
ngộ ra, đây là phương tiện dễ nhất mà tốt đẹp nhất, một phương tiện độc đáo
để thể nhập trạng thái phúc lac vô thượng.
Các bạn đừng quên, dầu hoàn cảnh nào cũng vậy, tôi chẳng thể chữa
cho một người trong đời hai lần, bởi vì hệ thống triết lý của tôi chính là con
đường của sức khỏe, của bình an trong cảnh tự do vô cùng vô tận.
II. CHẾ ĐỘ ĂN KIÊNG ĐẶC BIỆT
(Chữa nhanh)
Dầu bệnh đến đâu chăng nữa, nếu thật sự muốn tự mình chữa cho
mình và càng nhanh càng tốt bằng mọi giá thì các bạn cố mà theo chế độ ăn
uống đặc biệt sau đây ít nhất là hai tháng.
1. Nhịn ăn hoàn toàn trong một hay hai ngày, hoặc một hay hai tuần
(không ăn gì, không uống gì), hoặc uống càng ít càng tốt trong khi làm việc
như thường.
2. Ngưng hoàn toàn
a. Đường, kẹo và các món ăn ngọt;
b. Ớt, gia vị, bột cà ri, tiêu, mọi thứ đậu haricot và bất cứ đậu nào, giấm;
c. Tất cả trái cây;
d. Mọi sản phẩm động vật, gồm cả sữa, bơ, sữa trâu lỏng ghee, phô
mai, thịt, trứng và cá. (có thể dùng chúng trừ đường, nếu hoàn toàn không thể
nào vượt nổi sau khi bệnh lành hẳn hay khi nào khả năng phán đoán của các
bạn được khai mở trọn vẹn).
3. Tỉ lệ “ngũ cốc” và “lê-ghim”: 95 - 5.
4. Ngưng mọi cuộc chạy chữa và dùng thuốc men.
5. Làm việc bằng tay chân càng nhiều càng tốt.
Ghi chú
Hãy ghi tất cả thức gì bạn ăn và uống, số lần tiểu tiện và mọi thay đổi
tâm lý hằng ngày trong "nhật ký sinh lý”.
Sau khi đã nghe nói về những thực phẩm cần tránh, thỉnh thoảng đôi kẻ
hỏi: “Vậy chúng tôi có thể ăn gì bây giờ?...”
Kẻ nào hỏi bạn như thế là một người tầm thường, chỉ nghĩ về mình và
quá thiết tha đến vấn đề ăn cho ngon, mặc cho đẹp. Đó là nguyên nhân đích
thực của bệnh hoạn và khôn khó của họ. Đó là lời vô tình tự thú tính ích kỷ,
tội tổ tông và hằng ngày họ phạm phải mà không biết, quả là chỉ tha thiết
những gì thuộc cảm giác! Trí phán đoán của họ chỉ thuộc giai đoạn một, hai
hay ba là cùng.
Họ không biết có hàng trăm thức ăn ở bất cứ nơi nào trên toàn thế giới,
trừ một vài nơi hoàn toàn ngoại lệ và một đầu bếp giỏi có thể chế một trăm
món khác nhau, hoàn toàn dị biệt với cùng một nguyên liệu.
Nhà hàng lớn nhất tại Tokyo là “Tokyo Kaikan” (Đông Kinh Hội quán)
rộng 10.000m2, có nhiều phòng lớn và một trăm phòng ăn đặc biệt. Người ta
có thể thưởng thức ở đó các món Pháp, Ý, Anh, Tàu hay Nhật và cả món
canh hải sản thập cẩm “Prunier”(bouillabaisse de “Prunier”). Bếp trưởng nhà
hàng này, M.T. TANAKA đã tuyên bố trong một buổi nói chuyện trước công
chúng, rằng ông ta đã phục cái chỗ ưu việt về mặt nấu nướng và về khía
cạnh sinh lý của cách làm các món ăn theo Vô song Nguyên lý. Ông nói tiếp
-“Chúng tôi có thể làm cho khách bất cứ món ăn nào ở “Tokyo Kaikan”,
nhưng, theo tôi, tôi thích các món do bà nhà tôi làm theo phương pháp của
Tiên sinh SAKURAZAWA hơn”.
Thuật nấu ăn là nghệ thuật của sinh mệnh. Sức khỏe rồi từ đó hạnh
phúc, tự do và cả năng lực phán đoán (công bằng) của chúng ta đều chịu ảnh
hưởng của nghệ thuật này. Đó là lý do tại sao, độc nhất, chỉ người đệ tử ưu tú
nhất mới có thể được phong làm điển tòa (bếp trưởng ở chùa, N.D.) trong các
trường cao đẳng hay tu viện Phật giáo cổ truyền nhất.
Phép nấu ăn thực sự là quá quan trọng, quá cơ bản để khai thị cho con
người thấy cái Ánh sáng Giác ngộ hay Tự tánh Bản lai hay cảnh Đại giải thoát
của mình, theo nền triết học của Viễn-Đông. Thật đáng tiếc biết bao, Giáo sư
Herrigel (tác giả quyển “Tir à l’Arc du Japon”, thuật bắn cung của Nhật Bản)
đã không học phép nấu ăn này, thuật cơ bản nhất của mọi nền văn hóa Nhật
và ông đã mất rất sớm! Tại sao? Bởi vì ông đã kiếm một kỹ thuật mà không
tìm cái triết lý của nó.
Tòa nhà vĩ đại nhất gọi là “Sức khỏe-Hạnh phúc” hay “Tự do-Hòa bình”
của nhân loại phải xây dựng trên nền tảng sinh học, sinh lý và luận lý. Khác
đi, thì hoàn toàn bất khả thi. Một dân tộc có thể chống chỏi biết bao gian nan
thống khổ trải nhiều thế kỷ và bất chấp mọi lầm lỗi của mình là nhờ vào nền
giáo dục cổ truyền, thuần túy về sinh học, sinh lý và luận lý như luật “Leve”
hay “Manu” đã nói.
Nếu không là một đầu bếp giỏi, thì bạn chỉ có việc phải học tập nghệ
thuật nấu ăn thôi. Phải là nhà sáng tạo, là bậc thầy, khác đi thì bạn chỉ có
nước nằm trong vòng đời nô lệ!
Nếu người bệnh không chịu món ăn bạn làm, nếu họ ăn không biết
ngon phần nào đó và nếu thỉnh thoảng họ không ăn thì bạn không cần phải lo
ngại. Mọi con bệnh, có ý thức cùng không, đều ham ăn, thì việc bớt cái ăn và
tuyệt thực đều cần và cũng nên khuyên. Chúa, Phật và nhiều bậc đại sư khác
đều thực hành điều ấy và căn dặn con người như vậy.
D. BÀO CHẾ CÁC MÓN TRƯỜNG SINH
I. DÙNG TRONG
Các món sau đây là những thức ăn uống có tính dược trong phép tiết
thực, nếu không có trong nhà hay ở thị trường thì các bạn có thể liên hệ với
Trung tâm Trường sinh nào đó, họ sẽ gởi đến.
1. Lá trà già 3 năm (bancha)
Kiếm 10g lá trà già 3 năm còn dính cọng trên cây. Nướng cho khô. Bỏ
vào bình trà, chế nước sôi để trong 5-10 phút và uống với một nhúm muối hay
muối mè (xem số 7 mục muối mè). Đó chính là phương thức pha trà có từ
hàng ngàn năm về trước. Nước trà này giúp thanh lọc máu huyết.
Tốt cho các chứng uể oải mệt mỏi, thần kinh suy nhược, bệnh tim, lậu,
giang mai, viêm thận, uống hằng ngày cũng tốt.
2. Cúc
Sắc 10g lá tươi với một ca nước; để sôi 15 phút cho cô lại còn 2/3. Sắc
lợt để uống hằng ngày. Cho trẻ uống mỗi tháng một lần rất tốt. Trị sán đường
ruột rất công hiệu. Cũng có thể lấy 10g đến 20g lá (tẩm bột) chiên dầu mè
theo như kiểu món lê ghim. Trị công hiệu mọi loại sán, đặc biệt sán đủa, sán
kim và khuẩn aneurinasse (sinh trong ruột và chuyên ăn sinh tố B1).
3. Ngải cứu
(“Mugwart” hay “ích mẫu”) - Cách làm, liều lượng và mục tiêu chữa
bệnh tương đương với số 4. Tống khứ mọi loại sán và dùng uống hằng ngày,
đồng thời làm vượng quả tim và dạ dày.
4. Trà “Syôban” (trà xanh + tương nước)
Nếu ai quá mệt mỏi và thấy yếu trong người, cho họ uống một tách trà
số 1 với một muỗng muối mè hay 3 muỗng cà phê đầy nước tương làm bằng
đậu nành (hay gạo lúa mì) của Nhật Bản “cổ truyền”. Uống giải nhiệt và làm
con người khỏe thấy rõ. Tốt cho bệnh tim, phong thấp, đau dạ dày, đặc biệt
hơn là bỏng hay ung sang dạ dày và ăn không tiêu.
5. Cháo gạo lứt rang
Rang gạo lứt cho nâu sẩm như hạt cà phê. Nấu 50g với 1 lít nước cho
vỡ hạt gạo ra. Bấy giờ thêm một chút muối và cô lại còn phân nửa. Đó là
phép trị tốt cơ bản cho mọi bệnh nhân.
6. Nước gạo lứt rang
Rang gạo lứt như hạt cà phê, bỏ vào ấm một nắm nhỏ (bằng đầy một
muỗng rót trà của Nhật) với nửa lít nước với một ít muối nấu sôi trong một
giờ. Đây là một nước uống tuyệt hảo mà ta có thể dùng thay trà đen hay
xanh. Tốt cho mọi bệnh nhân mà đồng thời cho mọi người nữa, nhất là vào
mùa hè.
7. Muối mè
Rang riêng 4 muỗng mè và 1 muỗng muối. Giã muối cho nhuyễn. Cho
mè vào và tiếp tục từ từ giã nhẹ cho dầu đừng tươm. Muối mè dùng tốt cho
mọi bệnh. Dùng hằng ngày tốt vô cùng để tăng sức đề kháng và phòng ngừa
đủ thứ bệnh bằng cách tạo nên một quân bình giữa potassisium nội bào và
sodium ngoại bào. Muối mè phải cất trong lọ đậy thật kín.
8. Cà phê Ohsawa
Lấy gạo lứt, đậu đỏ, gạo lúa mì lứt và đậu xanh (pois-chiche) còn
nguyên vỏ và mộng, lượng bằng nhau và 5% rau diếp quắn (chicorée) rồi
rang mỗi thứ cho đến nâu sậm. Xay tất cả ra bột. Nấu sôi một muỗng cà phê
bột này cho một tách. Bỏ vào một tí muối hay muối mè. Đặc biệt dùng cho
sinh viên và lao động trí óc. Tốt cho bệnh bón và những chứng đau đầu kinh
niên. Người có sức khỏe tốt có thể dùng, hay không, một chút đường đen.
Hai muỗng cà phê đầy/1 tách đủ cho một buổi điểm tâm nhẹ hay bữa ăn trưa.
Cà phê này góp phần khơi dậy những ý tưởng. Phải uống luôn xác.
9. “Misô” (Patê tương làm từ đậu nành, gạo mì lứt hay gạo lứt)
Với 10 - 30g misô, bạn có thể làm một món súp ăn thú vị, ngày một đến
hai lần hoặc có thể dùng để nêm thay muối. Nó góp phần làm các món ăn
thêm ngon. Misô là một trong những nguồn prôtêin hảo hạng. Misô làm theo
phương pháp cổ truyền và trường sinh chứa 22,9% Protides, 10,4% Glucides,
10,6% Muối. Như vậy nó là một món chay Dương nhất.
Nếu hộp đựng Misô đã mua bị phồng lên ít nhiều thì bạn hãy thêm vào
5 — 10% muối biển thông thường. Dốc hết ra và đổ vào cất trong một cái lọ
thủy tinh hay bằng sứ. Ở khí hậu Âu châu, có thể để lâu vô hạn định.
10. Misô chiên
100g misô chiên trong 30g dầu mè (hay hướng dương, dầu cải, dầu
phọng, ô liu). Dùng 1-2 muỗng cà phê đầy hỗn hợp này với cơm (hay kem lúa
mạch hoặc lúa mì đen) hoặc lê ghim sẽ rất tốt cho những người mắc bệnh
tim, tiểu đường, phong thấp, bại liệt, suyễn,v.v... Đặc biệt dùng trị những bệnh
lao.
11. “Tekka”
Cà rốt, củ hạ (salsifis), rễ bồ công anh, củ hành (mỗi thứ 100g với 20g
củ sen, có hay không cũng được, tất cả xắt nhỏ. Chiên với dầu (100 -150g) và
thêm 200-300g Misô. Luôn luôn đảo cho bốc hơi đến độ thật khô, mất đi 2 hay
300g trọng lượng. Mỗi bữa ăn dùng một muỗng để Dương hóa cơ thể rất
công hiệu.
“Tekka” số 1
Lấy 30g củ sen, 30-40g củ ngưu bàng (bardane), 30g cà rốt, 5g gừng,
90g dầu mè, 150g misô, xắt lê ghim và chiên củ ngưu bàng với 60g dầu. Cho
cà rốt vào và chiên. Cho tiếp gừng, misô và 30g dầu còn lại. Xào khô. Tốt cho
mọi bệnh Âm.
“Tekka” số 2
Dùng 60g củ sen, 15g củ ngưu bàng, 15g cà rốt, 5g rễ bồ công anh. Xắt
tất cả và làm như trên. Tốt cho các bệnh ho, suyễn, lao,v.v... (“Tekka” số 1 và
2 trích thêm trong quyển “Le Zen Macrobiotique”, N.D.).
12. Bột ngũ cốc (“Kokkoh”)
Rang riêng gạo lứt 78%, gạo lúa mì lứt 10%, mè vàng 10%, đậu nành
2%. Nghiền tất cả thành bột. Dùng như sữa bột thế sữa mẹ rất tốt. Thêm một
chút đường đen hay mạch nha thì có thể làm đồ uống, bánh qui, gatô, kem và
bánh pudding. Người kém ăn thì điểm tâm hay trong bữa ăn chính dùng một
tách chứa hai muỗng cà phê bột này. Rất bổ dưỡng và thế sữa mẹ không chi
bằng, huống hồ thế sữa động vật.
13. Bột sắn dây
Bột quậy trên bếp cho trong và sền sệt như kem, chữa rất công hiệu
mọi bệnh đường ruột cấp tính, đặc biệt bệnh tả, kiết lỵ, thổ tả và lao ruột. Có
thể dùng làm các món cà phê Ohsawa, bột ngũ cốc, súp, sốt v.v...
14. “Sarrazin”(lúa mì đen)
Tuyệt hảo và cần dùng để tạo cho cơ thể mạnh mẽ. Một thực phẩm
quân bình và hiệu nghiệm để trị mọi chứng ung thư và tất cả bệnh về thận và
phổi. Có thể dùng làm mọi loại bánh. Trị lao thận rất tốt.
15. Kê
Dùng như “sarrazin”.
16. Phổ tai
Một loại rong biển, nấu lâu với muối và nước tương trong một thời gian
từ 6 - 8 tiếng đồng hồ. Trị rất công hiệu các bệnh về động mạch, tĩnh mạch,
âm nang thủy (hydrocèle), bướu cổ, các bệnh trĩ và đặc biệt động mạch xơ
cứng.
17. Bánh cơm xắt khoanh
Nấu gạo lứt cho lâu bằng cách hông hay bằng nồi áp suất; nhồi cơm
cho đến khi thành một thứ bột dẽo như cao su. Để vài ngày rồi cắt thành từng
khoanh nhỏ và phơi thật khô. Có thể nướng hay chiên dầu mè. Đây là một
thức ăn rất tốt thế cho sữa khi chiên rồi nấu với một chút misô hay tamari
(tương nước) hoặc muối. Rất công hiệu cho các bệnh có sỏi, tiểu són và các
bà thiếu sữa cho con.
18. Cháo gạo lứt đặc biệt
Chiên dầu mè gạo lứt và nấu thành cháo. Trị rất hiệu nghiệm bệnh
phong thấp, viêm khớp và tim.
19. Súp đậu huyết
Nấu một nắm đậu huyết trong một lít nước, thêm nước nhiều lần cho
khỏi cạn và khi đậu thật mềm và sủi bọt thì thêm một ít muối. Thông thường
nấu mất 4 tiếng nhưng nếu cho vào vài phân vuông rong phổ tai thì súp chín
trong nửa giờ. Trị hiệu nghiệm chứng thận viêm và tiểu đường.
20. Kem bột sarrazin
Rang cho nâu một muỗng súp đầy bột sarrazin trong 2 muỗng cà phê
dầu mè. Thêm nước và cho sôi nhẹ. Bỏ vào một chút muối. Một thức ăn tuyệt
hảo làm cơ thể mạnh mẽ lên. Rất tốt cho người mắc bệnh ung thư.
21. Súp củ cải số 1
Lấy 3 muỗng súp của cải trắng mài, 1 muỗng cà phê gừng mài và 1
muỗng cà phê muối. Trộn chung trong 1 chén lớn và đổ vào nước trà đang
sôi làm ở số 1. Đây là một món tốt chữa nóng sốt và cảm lạnh. Không nên
dùng thường xuyên. Sau khi uống đắp chăn giữ cho người nóng để mồ hôi ra
nhiều và đi tiểu.
22. Súp củ cải số 2
Lấy 3 muỗng súp nước cốt củ cải trắng đã mài và 9 muỗng súp nước
rồi để nhỏ lửa nấu sôi lên. Nước vừa sôi thì tắt, thêm tí muối. Món này chữa
chứng thũng chân ngày một lần. Không nên dùng thường xuyên, tối đa 3
ngày.
23. Củ sen
Có thể dùng khô hay tươi. Mài lấy nước cốt củ sen, uống mỗi lần 1
muỗng súp, thêm một tí muối, ngày 3 lần. Có thể trị những chứng suyễn, ho
gà hay mọi chứng thuộc phổi. Củ sen có thể ăn sống như lê ghim, chiên dầu
mè hay luộc ít nước. Với củ khô thì sắc 10g/1 tách, ngày uống 1-3 tách.
Trường hợp em bé bị ho gà thì cho mẹ uống chứ không cho con.
24. Gạo lứt sống
Nhai một nắm gạo sống vào buổi sáng khi đói sẽ tống khứ mọi sán móc
khỏi thập nhị tràng (đoạn trên ruột non).
25. Kem gạo lứt
Nấu cháo gạo lứt số 5. Ép trong một túi vải tam giác. Nấu sôi lại cho
giảm 10 - 20%. Rất tốt cho mọi bệnh nhân suy nhược nặng hay những ai ăn
không thấy ngon.
II. DÙNG NGOÀI
1. Áp nước gừng
Cho 30g bột gừng vào 4 lít nước và nấu sôi một hay hai phút. Áp nước
gừng càng nóng càng tốt (15 - 30 phút). Thay khăn nhiều lần cho dù chỗ áp
có đau hay phồng. Đặc biệt dùng cho bệnh phong thấp, sung huyết, co giật,
đau bụng đi tả,v. v...Ngâm mông khi bị đi tả.
2. Thuốc dán cao khoai sọ
Cao khoai sọ 90% và gừng mài 10% nhồi chung, trải trên một tờ giấy.
Áp vào chỗ sưng phồng hoặc đau. Trị rất công hiệu các bệnh lao, đau ruột
thừa, sưng màng phổi, phong thấp, sưng khớp, mọi khối u và chàm, kể cả
bệnh phong và ung thư.
3. Cao đậu nành
Đậu nành ngâm trong nước 12 tiếng, giã thành cao, thêm 10% bột mì
rồi đặt trên trán hay nơi nào đau khi sốt. Sốt sẽ dứt liền. Sốt nặng do phổi gây
nên, chữa cũng hay. (Đây là một thứ thuốc giải nhiệt không có tính vật lý như
nước đá). Không bao giờ dùng món này để trị sởi hay đậu mùa.
4. Nước đá khô
Phơi khô khoai sọ (90%) và gừng (10%) rồi tán thành bột, trộn theo tỉ lệ
9/1 và để dành khi cần, dùng theo số 2.
5. Cao diệp lục
Lấy vài lá cải giã cho đến khi sệt lại thành cao. Áp vào trán để trị sốt
hay ở chỗ nào sưng.
6. Dầu mè
Dùng dầu mè để bảo vệ tóc. Ngừa tóc bạc, tóc đỏ, đầu sói. Đừng bao
giờ dùng pôm-mát có dầu vô cơ và xà phòng có mỡ động vật.
7. Dầu mè + gừng
Nước cốt gừng, dầu mè, mỗi thứ một muỗng cà phê, trộn và lắc đều.
Lấy chà xát vào đầu để làm ngưng mọi cơn đau đầu. Nhỏ một giọt hỗn hợp
này vào tai sẽ làm dịu mọi chứng viêm tai trong. Trị phong thấp và chàm rất
tốt sau khi áp gừng.
8. Nước lá cải
Cho vào 4 lít nước khoảng 500g lá tươi (150g khô) và một nắm muối,
nấu cho sôi lên. Rất công hiệu để trị bệnh chàm. Cũng có thể dùng cho phụ
nữ đau bụng trong thời hành kinh (ngâm mông). Dùng tốt cho mọi bệnh phụ
nữ, ngày một lần (20 phút trước khi đi ngủ).
9. Nước cốt trái pom
Dùng chà xát trên đầu để làm dịu chứng nhức đầu.
10. Nước cốt củ cải
Trị bệnh sốt nhức đầu.
11. Muối nóng
Muối rang lên có thể dùng để áp vào bụng để làm dịu những cơn đau
bụng và bệnh tiêu chảy.
12. “Dentie” (thuốc nhức răng)
Nuốm cà trộn 20% muối đè chặt trong keo, khạp vài năm rồi lấy phơi
khô và rang cháy. Dùng như bột đánh răng. Đây là một thứ thuốc trị bệnh nha
chu (chảy mủ chân răng) tuyệt hảo. Em bé đau răng sau khi áp tro này vào lợi
là hết đau trong 5 phút. Cách dùng đặc biệt: Đánh răng bằng bàn chải và súc
miệng. Áp một nhúm “Dentie” vào bên ngoài nướu răng. Ngậm miệng lại cho
tới khi nướu thu hút chất bột đen này. Đối với các chứng ho, viêm hạch vòm
họng thì dùng nó như một thứ thuốc súc miệng (5g/1 tách nước). Trong các
chứng trương nở hay bành trướng ác tính thì nuốt 1/2 muỗng với một chút
nước, hoặc uống nó trong viên nhện hoặc trộn trong các món ăn.
Nếu ngày nào cũng vậy sau khi đánh răng cũng áp Dentie một lần vào
nướu, các bạn sẽ tránh được mọi chứng bệnh về miệng và cổ họng suốt đời.
100g là hoàn toàn đủ dùng cho 100 ngày. Mọi thuốc đánh răng người ta bán
đều chứa nhiều hay ít hóa chất Âm của tư bản.
13. Nước cám gạo
4 nắm cám gạo đựng trong một túi vải cho vào 2 lít nước, nấu sôi. Rất
tốt để trị bệnh chàm.
Phụ chú
Nắm: Lượng chứa trong tay bệnh nhân.
Nước: Để uống hay nấu nướng nên dùng nước giếng sâu.
Muối: Dùng muối biển không tinh chế. Không dùng muối tinh luyện.
Mè: Để ý đừng mua mè đã bị bóc hết vỏ.
Màu độc: Đừng bao giờ dùng thực phẩm có màu nhân tạo, hóa chất.
E. KẾT LUẬN
Như các bạn thấy đấy, việc chạy chữa theo y học trường sinh và tiết
thực là giản tiện nhất. Nhưng mà, bệnh hoạn chính nó lại rất phức tạp. Quả
thật, bệnh không phải độc có một chứng, thì dễ gì chỉ một vị thuốc hay một
cuộc phẫu thuật mà chữa cho khỏi được. Trong các cuộc chữa bệnh ấy,
không có một cách nào được nghiên cứu dưới mọi tình huống và phạm vi,
điều ấy cho phép ta theo dõi sự tiến triển bệnh và giải thích cái quá trình ấy.
Có đôi kẻ tin rằng vi trùng hay vi rút là nguyên nhân duy nhất của vài chứng
bệnh. Nhưng cái tin tưởng này cùng với sự ngu dốt hay chủ thuyết thần bí
nào có khác chi đâu. Hơn nữa, việc hủy diệt toàn bộ vi trùng ví dụ của kiết lỵ,
lao, giang mai) không bao giờ chữa cho con người khỏi cái bệnh mà họ đã
gây ra. Điều đó không thể nào làm được cũng như để mình vui sống ban
ngày thì phá hoại ban đêm.
Một số kẻ cố níu vào tính di truyền. Thực ra, “di truyền” là một lời xin
tha thứ hoặc cái vô tình tự thú của những ông thầy thuốc bất tài bất lực hay
cái chỗ che đậy những đầu óc hoàn toàn tăm tối.
Hơn nữa, việc phá hoại là cái gì tàn bạo, ác độc, dữ dằn. Đó là lời tự
thú trong vô thức của một tâm tính nhị nguyên.
Tiêu diệt những sinh vật khác để mình sống bình an, về mặt luận lý là
một điều phi nghĩa. Sống yên ổn trên xác nạn nhân của mình và hy sinh đi kẻ
khác là một cuộc bóc lột mang tính chất duy kỷ.
Tạo hóa không bại hoại đến mức có quyền sinh loài người và vài sinh
vật khác như hổ báo để chúng giết nhau chơi.
Nếu con sư tử sát hại và ăn thịt con thỏ, đó chẳng phải là một chuyện
hằng ngày. Nếu mà hằng ngày thì loài thỏ đã bị tuyệt chủng từ khuya. Nhưng
trái lại, con sư tử là ông thầy tốt và chân chất, nó dạy cho con thỏ biết cách
bảo vệ tự do của mình và cách sống hạnh phúc trên đời.
Dầu theo dõi đến đây, bạn mới thấy cái đơn sơ của phép chữa bệnh
bằng tiết thực. Bạn có thể chống cự bệnh tật bằng cách này, nếu bạn nghiên
cứu nền y học tiết thực cổ nhất của thế gian không có lấy một công cụ nào
phá hoại, bạo tàn và ác độc. Thực vậy, phép tiết thực là điều kiện bắt buộc cơ
bản đế tạo dựng một cuộc đời hạnh phúc và khỏe mạnh về mặt sinh học và
sinh lý cho con người. Vậy thì bạn phải cẩn thận nghiên cứu nghiêm túc.
Nhờ quyển sách mẫu này, việc huấn luyện nữ điều dưỡng chuyên về
tiết thực để họ tập thực hành y khoa trường sinh, món thuốc vạn năng từ thời
cổ và nơi nào cũng có, hình như là những điều giản dị nhất về lý thuyết lẫn
thực hành. Đúng lý mà nói, không phải vậy. Rất khó mà hiểu cho thấu bởi đó
là một bản dịch chuyên khoa được giản lược hóa của giáo lý Védanta và triết
học nhất quán Trung Hoa, phần cổ xưa nhất và thực nghiệm nhất của mọi
triết lý, bà mẹ nguyên thủy của mọi đại tôn giáo có lịch sử hàng ngàn năm. Kỳ
cục làm sao, nó lại khó hiểu đối với những cái máy nói do nền giáo dục
chuyên nghiệp hiện đại chế ra.
Tôi không coi cái triệu chứng bệnh hoàn toàn biến mất với việc chữa
khỏi hẳn là y như nhau. Tôi tin là việc chữa lành hẳn một bệnh dầu đến độ
nào phải nằm trong sự hiểu biết hoàn toàn về Vô song Nguyên lý của đời
sống Védanta hay triết lý Trung Hoa, “la bàn vạn năng” của tuyệt đối tự do đối
với tất cả cái gì gọi là bệnh hoạn, đau khổ và khó khăn trên cõi đời này.
Bấy lâu nay bạn là người mất hết tự do và cứ để cho mọi bệnh hoạn,
bất hạnh và khó khăn “sắp đến” quàng vào cổ, thì bạn đâu được chữa lành
hoàn toàn. Trước hết bạn phải nhận ra có một nền y học tiết thực trường sinh
trong tầm tay mình. Nếu được chữa lành hẳn, thì chính cuộc đời của bạn phải
là một minh chứng cho sự tự do vô hạn, hạnh phúc vĩnh viễn và công bằng
tuyệt đối của đấng Krishna (Thượng đê trong Ấn giáo, N.D.), đặc biệt hơn
nữa là phù hợp với thực phẩm (quân bình).
Vậy chúng ta hãy nghiên cứu nền y học tiết thực trường sinh này tức
pháp môn Râja-Yoga (Râja: vua, N.D.) được giản lược hóa cho tất cả mọi
người trong khuôn khổ khả dĩ chữa bệnh tha nhân.
Sự nghiên cứu chỉ có thể hoàn tất nếu ta lãnh hội được về lý thuyết
(nhờ biết học hỏi triết học Védanta và Trung Hoa), đồng thời qua ngã thực
hành ta sẽ săn sóc và trị liệu hàng ngàn hàng vạn người bệnh, hết tốp này
đến tốp khác.
Khi nào bạn chữa lành hàng trăm bệnh nhân chỉ bằng phương pháp tiết
thực mà thôi, thì lần đầu tiên bạn có thể được phong là người tự do thoát khỏi
mọi bệnh hoạn và bất hạnh trên thế gian này. Vậy bạn phải là một con người
tự do thực sự có khả năng trị bệnh kẻ khác như chính mình nếu muốn là
người hạnh phúc trên đời.
Đó không phải là một phẩm chất có được đối với riêng ông thầy thuốc
mà chỉ là dấu hiệu của tất cả “con người”. Ngược lại thì bạn là một sinh vật
đứng dưới muôn loài thú và sẽ không bao giờ xứng đáng trở nên một gia chủ,
chồng hay vợ, cha của gia đình, bố mẹ của bầy con, như bất kỳ con vật nào.
Bạn phải là một con người tự do mà cuộc đời mình tự nó thôi đã minh
chứng có tự do vô hạn, hạnh phúc vĩnh viễn và công bằng tuyệt đối, đó là
điều kiện qui định làm người, con người ấy không bao giờ giáp mặt một kẻ
đồng loại mà không cảm thấy thương yêu vô cùng khi họ không biết tìm tự do
vô hạn và hạnh phúc vĩnh viễn bất cứ nơi đâu và bất kỳ lúc nào, bất chấp mọi
hoàn cảnh.
Thực ra thì bạn sinh ra vốn tự do rồi, vậy bạn phải là một con người tự
do. Nếu bạn là một con người tự do, lành mạnh và hạnh phúc thì ai ai cũng
phải hâm mộ bạn, thương yêu bạn và bắt chước những gì liên quan đến lối
ăn uống và hành vi của bạn. Một con người lành mạnh được xác định về mặt
sinh lý (bởi 3 điều kiện đầu) và tâm lý (bởi 4 điều kiện sau) trong 7 điều kiện
quan trọng về sức khỏe của tôi.
Nếu bạn muốn tôi chỉ cho cách trị bệnh theo phương pháp trường sinh
và biện chứng như thế nào, thì tôi phải viết ra hàng ngàn trang giấy, điều ấy
không thể làm vào lúc này, đã vô ích mà còn có hại. Vô ích là bởi nếu tôi giải
ra hết thì bạn không còn gì mà tìm tòi. Có hại là đọc những giải thích của tôi
các bạn sẽ thành những chiếc máy hát.
Bạn phải biết cho rằng thiên hạ nói “nhu cầu là mẹ phát minh”. Điều đó
rất đúng khi người ta có cái “la bàn”, khoa triết lý biện chứng, tức “kẻ sẽ nhận
nhiều thật là nhiều”. Nhưng khi không có cái “la bàn” này, đương nhiên là họ
trở nên kẻ trộm cướp hay tên sát nhân đối với bản thân và kẻ khác.
Nhưng các bạn đã tìm thấy cái “la bàn” ấy rồi mà, Vũ trụ quan, người
Đức gọi Weltanschauung. Bạn hãy thể nhập vào nó, làm chủ nó, cho đến khi
bạn có thể chữa dứt mọi bệnh hoạn và bất hạnh xảy ra cho chính mình và
cho biết bao kẻ khác. Ngoài ra tôi cho bạn (xem Phụ lục) vài mẫu về cách
nhận xét những hiện tượng bệnh lý theo triết học biện chứng thực hành, điều
này hoàn toàn không giúp được gì những kẻ giàu (kinh tế gia, tài phiệt, trí
thức) mà chỉ giúp những người nghèo, họ khao khát lẽ công bằng, tức Vũ trụ
quan, cái chìa khóa mở cửa vương quốc của lòng tri ân và niềm vui không bờ
không bến.
F. CHỮA THEO PHƯƠNG PHÁP TRƯỜNG SINH - TIẾT THỰC
Các bệnh được khảo sát theo thứ tự sau đây và chia ra từng nhóm:
I. Bệnh đầu và não
II. Mắt
III. Tai
IV. Mũi
V. Miệng và răng
VI. Mặt
VII. Họng
VIII. Vai
IX. Ngực
X. Bụng
XI. Tay chân
XII. Toàn thân (da)
XIII. Dục vọng và khuynh hướng xấu
XIV. Nhiễm trùng.
Tất cả bệnh khác không bàn trong tập nhỏ này sẽ được các y sĩ, những
thầy hay nữ điều dưỡng về tiết thực giải quyết. Họ là những người đã nghiên
cứu sâu hơn về lý thuyết và nguyên lý y học Viễn-Đông (Tàu-Nhật-Ấn) qua
sách vở của tôi hoặc qua thư tư.
Trong việc chế biến và nấu nướng những món ăn dành cho bệnh nhân,
cần phải thận trọng hết sức đặc biệt. Phải nguyên tính và thơm tho, đẹp mắt
và ngon lành. Việc nấu nướng là một nghệ thuật sống và là một nghệ thuật
sáng tạo. Bạn phải mang đến đó một hệ mới, một cách chế biến mới. Ta phải
là một bếp trưởng, người có thể tạo tự do và bình an trên bình diện sinh học,
sinh lý và xã hội.
Điểm đầu tiên, đồ ăn thức uống phải làm cho ngon. Không nên dùng
bất cứ một món gì dính líu đến chất hóa học hay vật độc hại (nói ngay cả đồ
dùng trong nhà bếp). Hơn 95% dầu ăn bị biến chất. Đồ lê-ghim trồng nhờ
phân hóa học và chất sát trùng cần phải tránh. Bạn phải dùng những nông
sản trồng ở vùng lân cận cách nơi mình ở độ 50 km hay 30 dặm, trừ những
món đặc biệt có tính dược. Không dùng bất cứ đồ ăn thức uống nào xử lý
bằng hóa chất hay nhập khẩu. Vào thời tư bản chủ nghĩa và mậu dịch tự do
của chủ nghĩa kinh tế trọng thương, phần lớn đất đai nông trường, ruộng rẫy,
đồn điền và những cuộc gieo trồng cũng như trong các nhà máy, người ta
đều dùng sản phẩm hóa học, chúng là những chất độc hại.
Chính bạn phải thành bậc thầy trong nghệ thuật nấu ăn. Bạn phải ham
thích trở nên một bếp trưởng. Để đạt đến chỗ cao trong nghệ thuật, có hai
đường: Lý thuyết và Thực hành. Trái với cái trước đòi hỏi nhiều năm, cái sau
không cần nghiên cứu lâu ngày chày tháng. Tôi khuyên các bạn bắt đầu bằng
thực hành, phần kia sẽ đến sau thôi. Hãy thử hết ngày này qua ngày nọ. Bệnh
nhân là giám khảo cuộc thi. Nếu họ thật hài lòng và nếu mỗi ngày bệnh giảm
thấy rõ nhờ những món chế biến bạn làm, thì đó cũng chứng tỏ rằng bạn tiến
bộ.
Ở Nhật, có nhiều trường người ta dạy môn nấu ăn theo cổ truyền; một
số bếp trưởng các trường này có thể chế hàng trăm món ăn từ một nguyên
liệu thông thường, ví dụ từ đậu nành hay từ bột lúa mì đen. Họ biết làm thế
nào chế biến món ăn tốt cho khách theo trật tự thời gian (mùa, cũng như tuổi
tác, cấu tạo thể chất) và trật tự không gian (vùng phụ cận và tính cách hoạt
động của họ) làm sao để khách hàng không bao giờ ngã bệnh. Mục đích cao
nhất của nghệ thuật nấu ăn là sức khỏe và thọ trường cùng khả năng phán
đoán tối cao. Trí phán đoán này là và phải là cái mục tiêu cao nhất của mọi
khoa học và triết lý.
Nghệ thuật nấu ăn trong đạo Phật đã phát triển đến đỉnh điểm ở Trung
Hoa và Nhật Bản hàng mấy trăm năm, dầu cho ngày nay nó hầu như bị quên
lãng, sau cuộc du nhập từ 80 năm qua những lý thuyết về dinh dưỡng của
Tây phương.
Chế món ăn của bệnh nhân và cho họ ăn cũng như cho bạn ăn theo
những chỉ dẫn về tiết thực của tôi, bạn sẽ thấy ra trước mắt những vấn đề
nan giải. Tại sao tôi khuyên các bạn ăn nhiều lê-ghim, như: hành, củ sen, tất
cả làm chín không dùng nước mà với muối và dầu ô-liu? Tại sao tôi cấm ăn
đường, cà chua, khoai tây, cà, sản phẩm động vật và đặc biệt trái cây trong
thời kỳ theo chế độ ăn kiêng của phần đông bệnh nhân? Điều đó để nói lên
rằng cơ thể của các bạn Âm và hoàn toàn lạ và ngay cả ngược với cơ thể của
tổ tiên bạn, Dương. Lê-ghim xanh rất tốt đối với họ, cũng như xà lách và trái
cây; đặc biệt đối với các bạn, chúng không tốt đâu, nhưng vài thứ rễ thảo mộc
rất tốt đối với họ đều thuận lợi không thể chối cãi cho việc phục hồi sức khỏe
của con người đương đại.
Cà chua, khoai tây, cà, v.v... được di thực và nhập khẩu gần đây đều lạ
với thể chất của chúng ta cũng như những sản phẩm hóa học và công nghệ
mà cơ thể của các bạn không chấp nhận. Các bạn sẽ hiểu những lý lẽ thuộc
sinh vật học, sinh lý học khi nào các bạn nghiên cứu sâu nguyên lý của sinh
mạng xuyên qua các tác phẩm khác của tôi hay trong học hiệu của tôi về tân
giải thích của giáo lý Védanta, của Thánh kinh và của tất cả nền triết học
Viễn-Đông. Dầu sao chăng nữa, đó là một thực hiện về mặt sinh vật học và
sinh lý học của chủ nghĩa Gandhi.
Các bạn hãy thử áp dụng những chỉ dẫn của tôi trong một tuần lễ và sẽ
thấy không hại gì đâu mà sợ. Qua thời gian đó các bạn có thể thấy phấn khởi
mà tiếp tục nữa cho mà xem.
I. BỆNH ĐẦU VÀ NÃO
1. Sói.
Bạn hãy tuân theo những chỉ dẫn cơ bản thì sẽ thấy tóc ngưng rụng.
Thông thường ta mất đi 10 sợi /ngày. Lông mày thì vài tháng; lông nheo, vài
tuần. Tất cả đều biến dịch và nếu như có thể nhận ra cái thế lực kích động
chiều hướng biến dịch về mặt sinh lý học trong thức ăn, các bạn có thể biến
cải bản thân mà mình hằng mong: Ví dụ như bạn chậm chạp, tiếng nói khó
nghe, mặt mày ủ ê u ám, cử chỉ vụng về, trạng thái bệnh hoạn. Nếu không
hiểu ra điều đó, sau khi đã tuân thủ toa tiết thực của tôi trong một hoặc hai
tuần, hãy dùng một thứ trái cây hay một quả cà chua, hoặc cà nào chẳng hạn,
bạn sẽ thấy liền ảnh hưởng của thực phẩm trái cây trên đầu sói: ngày hôm
sau, tóc rụng hơn 10 lần. Tiếp đến, bạn hãy dùng món đặc biệt tiết thực sau
đây: Dầu mè gừng để dùng ngoài. Trong 6 tháng, da đầu bạn sẽ phủ đầy tóc
mới. Trong trường hợp không được như vậy, đó chính là do bạn đã phạm
phải cái “tội ác” quá lâu rồi, cái tánh háu ăn những món thích khẩu, hoặc giả
các bạn không tuân theo chặt chẽ những chỉ dẫn sơ khởi. Nhưng các bạn
không nên nản nề tuyệt vọng bởi vì tạng quan trọng nhất trong thân thể đã
đồng thời bị thương tổn và cần phải trị theo phép tiết thực, đó là trái tim mình.
2. Tóc hoa râm
Cùng cách chữa như trên.
3. Động kinh
Có thể chữa dễ dàng nhờ tuân theo những chỉ dẫn cơ bản; những món
đặc trị: mỗi bữa ăn dùng 2 muỗng cà phê muối mè và 3 muỗng trước khi lên
cơn; 2 muỗng “tekka” hay “Misô chiên” mỗi bữa ăn.
4. Viêm màng não
Chữa như trên: Một muỗng cà phê muối mè mỗi bữa ăn. Nếu có thể thì
dùng món đặc trị (Kem gạo lứt và dán cao khoai sọ). Áp vào hết cái đầu cạo
trọc (cách 4 tiếng đồng hồ) sau khi áp nước gừng trong nửa tiếng, 5 lần/
ngày.
5. Nhức đầu
Bệnh nhức đầu thông thường dầu mãn tính hoặc lập đi lập lại, đều là
một tín hiệu S.O.S báo cho biết có một cái gì đó lộn xộn sâu xa và trầm trọng,
huống hồ bệnh nhức đầu một bên tức thiên đầu thống. Hãy tuân theo thật
chặt chẽ những toa ăn uống tiết thực cơ bản, thì chẳng bao lâu bệnh sẽ lành
hẳn. Nhức đầu thông thường có thể chữa bằng cách áp dụng món đặc trị
(Dầu mè).
6. Ngốc nghếch - Ngu dại
Suy nhược thần kinh - Tuân thủ rất chặt chẽ những chỉ dẫn tiết thực cơ
bản thì có thể chữa lành những bệnh nhân này. Ở Nhật, một số trường công
lập và tư thục trọng yếu nhất đã áp dụng những chỉ dẫn của tôi 3 năm nay để
chữa các chứng ấy. Nếu không thể chữa hết chúng, thì không bao giờ các
bạn có thể tiêu diệt tội ác, nghèo đói và chiến tranh; chiến tranh là cái lỗi lầm
nghiêm trọng nhất gây ra bởi những người lớn ngốc nghếch, những kẻ ngu
dại, những người suy nhược thần kinh, ẩn mặt dấu hình. Chúng ta ăn uống,
vậy chúng ta suy nghĩ, chúng ta thấy, chúng ta hành động, đi đứng, thương
yêu, tranh cãi, giết hại, trộm cắp, gian lận trong khi tuân thủ hay vi phạm trật
tự của vũ trụ chúng ta.
7. Tinh thần thác loạn
Có 2 dạng thác loạn đối lập: mẫu người Dương và mẫu người Âm.
Nhóm đầu gồm những người nói năng ồn ào, hung dữ, độc ác, (Rajasik,
nguyên lý động). Loại sau thì lặng thinh, lười biếng, Tamasik, nguyên lý tĩnh).
Rajasik có thể chữa bằng chế độ ăn kiêng Âm tức là nhiều Potassium và sinh
tố C hơn Sodium. Loại “Satwik” (quân bình giữa Âm và Dương) là K/Na=5/1.
Còn Cà chua (230/3), Khoai tây (410/0.6), Cà (220/5), Nấm Siitake (57.2/7.6),
Nho (250/6), Măng tre (62.5/4.2), Hạnh nhân (450/2), Mơ (600/5), đều là
thuốc độc đối với mẫu người Âm, có thể chữa bằng chế độ ăn kiêng Dương,
tức là những thứ giàu Na (tỉ số K/Na<5), hay bằng cách thêm muối (C1Na),
như: Củ sen (47.6/14.3), Củ súng (60.4/23.7), Bí đỏ (20.9/20.9),v.v... Những
mẫu người Dương và Âm đều có thể chữa lành bằng cách áp dụng chế độ
“Satwik” thật quân bình sao cho tỉ số K/Na được duy trì luôn bằng 5: Chế độ
ăn kiêng cơ bản. Trẻ khó tính và những kẻ mộng du đều có thể chữa bằng
chế độ ăn kiêng Âm và những người suy nhược thần kinh và loạn trí đều có
thể chữa bằng chế độ ăn kiêng Dương hoặc thật quân bình.
8. Mất ngủ
Hãy tuân theo chặt chẽ những toa tiết thực cơ bản. Đó là bệnh do thừa
Âm.
Món đặc trị: Dùng 1 muỗng “Muối mè” trước khi đi ngủ.
9. Bệnh buồn ngủ
Tuân theo chặt chẽ những chỉ dẫn cơ bản, chỉ có cách chữa này thôi.
Người ta nói đó là do vài virut, nguyên nhân chưa rõ, hay là do phóng xạ hoặc
ngộ độc, còn theo y học của chúng tôi, đó là do Âm thịnh quá đi, nhất là trong
trường hợp đụng đâu ngủ đó. Vậy thì hãy dùng chế độ ăn Dương: 2 muỗng
“Muối mè” mỗi bữa ăn và 1 muỗng trước khi ngủ.
10. Ngáp
Đó là tiếng còi báo động cho bạn biết sắp có một bệnh nặng xảy ra,
nghĩa là bạn đang chạy về hướng bất hạnh trong khi dùng một thức ăn
“Tamasik”(món Âm bị cấm). Hãy đổi hướng ngay 180°, tức là tuân thủ rất chặt
chẽ những chỉ dẫn tiết thực cơ bản, bệnh sẽ biến mất hoàn toàn trong vòng
vài ngày. Ngáp không những là triệu chứng báo bệnh mà còn làm mình bất
lịch sự.
II. MẮT
11. Loạn thị
Có 2 loại: Âm và Dương. Loại đầu, không phân biệt những đường
ngang và loại sau, những đường thẳng. Cả hai đều có thể chữa bằng chế độ
“Satwik”.
12. Cận thị
Có 2 loại cận thị đối nghịch Âm và Dương. Loại đầu gây ra bởi những
thức ăn “Tamasik” hay Âm, nó làm nở, giãn, rộng nhãn cầu, điều đó diễn ra
bởi chiều dài ít dùng của thị trục. Loại sau thì có bản chất trái ngược, cách
chữa cũng vậy. Nó do dung tích thủy tinh thể tăng trưởng độ khúc xạ. Chế độ
ăn để chữa trị mỗi loại khác nhau, nhưng cách đơn giản nhất là chế độ ăn
“Satwik” (những chỉ dẫn cơ bản) hữu hiệu trong cả hai trường hợp.
13. Viễn thị
Do ăn uống thái quá thực phẩm Dương. Những chỉ dẫn tiết thực cơ bản
là hoàn toàn đủ, trừ (1) lượng nước không giới hạn hay giảm thiểu;(2) muối
chỉ nên dùng tối thiểu.
14. Cườm khô (Đục thủy tinh thể, Mắt vảy cá)
Có thể chữa lành bằng những chỉ dẫn tiết thực cơ bản. Cùng chế độ ăn
kiêng như bệnh Tiểu đường (G.II.).
Món đặc biệt: Muối mè 2-4 muỗng cà phê/ ngày và chế độ ăn kiêng
Dương.
15. Cườm nước, Tăng nhãn áp
Cùng cách chữa như Cườm khô. Đặc trị: “Muối mè”: (3-4 muỗng cà phê
đầy /ngày).
16. Đau mắt hột
Theo chế độ đặc biệt, ngưng những món ăn gốc động vật, kể cả cá, bơ
và sữa.
17. Bong võng mạc
Đó là một bệnh Âm, vậy chế độ ăn kiêng Dương chữa lành trong 2 hay
3 ngày. Hoặc thực đơn số 7 và hoàn toàn không uống nước trong vài ngày.
Bạn và bác sĩ của mình sẽ ngạc nhiên cho mà xem về cách chữa thiên nhiên
này.
18. Xuất huyết võng mạc
Đó là một bệnh Âm. Vậy thì chế độ ăn Dương chữa được, trong vài
ngày.
19. Mí mắt lộn ngược
Bệnh có thể chữa lành một cách đơn giản nhờ tuân theo những chỉ dẫn
cơ bản. Không có cách chữa hiệu nghiệm nào khác, giải phẫu cũng vậy. Sản
phẩm động vật phải bỏ và tỉ lệ ngũ cốc phải ráng lên tối đa (70 - 90%).
20. Mù
Mù là do thừa chất tư dưỡng Âm mà bà mẹ ăn uống trong thời kỳ có
mang hoặc cho con bú. Những chỉ dẫn cơ bản phải tuân theo kỹ nếu bà mẹ
không muốn đẻ một đứa con mù lòa. Mọi chứng mù trước khi sinh có thể
chữa lành nhờ thay đổi thể chất của mẹ và con qua chế độ ăn kiêng cơ bản
hay đặc biệt (cho đến 8 tuổi).
21. Mù màu
Có hai loại trái ngược: Dương (đỏ) và Âm (xanh, lục). Vậy cách chữa trị
cũng là hai chế độ ăn kiêng Dương hay Âm. Nhờ tuân theo những chỉ dẫn tiết
thực cơ bản, cả hai đều lành.
III. TAI
IV. MŨI
V. MIỆNG
22. Câm - Điếc
Một cách đơn giản là hãy tuân theo những chỉ dẫn tiết thực cơ bản.
Nếu bệnh xảy ra cho một trẻ mới sinh thì người mẹ hãy theo những chỉ dẫn
ấy một cách thật chặt chẽ, đứa con sẽ lành bệnh trong vòng vài tuần lễ. Nếu
đứa con đã lớn, thì mọi thành viên trong gia đình hãy cùng nhau tuân thủ
những chỉ dẫn tiết thực cơ bản. Việc chữa lành bảo đảm tuyệt đối chắc chắn
đối với những trẻ dưới 10 tuổi.
23. Đau màng nhĩ
Hãy tuân theo những chỉ dẫn tiết thực cơ bản. Món đặc biệt: “Muối mè”,
2 - 3 muỗng cà phê đầy/ ngày.
24. Viêm xoang
Không cần giải phẫu hay thuốc thang gì cho bệnh này, nếu người ta
thực hành những chỉ dẫn tiết thực cơ bản, việc chữa lành sẽ có kết quả sau
vài tuần, nếu không vài ngày.
Món đặc trị: “Muối mè” (2 muỗng cà phê đầy mỗi bữa ăn). Củ sen (50g
mỗi ngày, chiên trong dầu mè).
25. Sổ mũi và bướu thịt hố mũi
Cùng cách chữa như số 24
26. Nha chu
Không cần cách chữa nào hay thuốc men gì. Bệnh có thể chận đứng lại
hoàn toàn nhờ những chỉ dẫn tiết thực cơ bản.
Đặc trị (1): “Muối mè” (1-3 muỗng cà phê mỗi bữa ăn),
Đặc trị (2): “Dentie” (3 lần mỗi ngày). Có thể mua ở các trung tâm bán
thực phẩm trường sinh.
27. Nhức răng và rụng răng
Sẽ không bao giờ nhức răng, không rụng răng nếu các bạn tuân giữ
những toa ăn uống tiết thực cơ bản. Món đặc trị: Dùng Muối hay “Dentie” như
kem đánh răng hằng ngày, để phòng và trị bệnh. Hãy áp một chút bột “Dentie”
và nước vào nướu răng hư, nhức răng sẽ hết tức khắc.
VI. MẶT
28. Da mặt nám
Những người trải nhiều năm ăn uống những thực phẩm quá Âm, giàu
chất K và một số nguyên tố trung hòa chất Na, da mặt sẽ trở nên nám. Những
ai trong nhiều năm dùng nhiều đường và đồ ăn giàu chất K như tiêu, ớt đỏ,
dấm và các loại đậu (haricots), da sẽ trở nên trắng bạch, xanh lơ hay bị bạch
ban. Hãy ngưng những món ăn khoái khẩu ấy lại (Giải thoát hay thành tựu
Bản lai Diện mục). Đó là liều thuốc duy nhất, cơ bản.
29. Viêm khớp xương mặt, Đau dây thần kinh mặt
Những biến dạng khuôn mặt có thể chữa lành nhờ tuân theo kỹ cách trị
liệu cơ bản. Không có cách chữa nào khác.
Món đặc trị: “Muối mè”, Áp nước gừng 3 lần/ ngày (mỗi lần 15 - 30
phút).
30. Mụn
Đoạn tuyệt hẳn đường. Giảm uống nước và tránh dùng những gì chứa
nước. Không dùng một chút nào đạm động vật (kể cả sữa, phô mai, bơ).
Không cần thuốc gì khác, mụn sẽ biến mất trong vài tuần khi tuân theo chế độ
ăn kiêng gắt gao.
VII. HỌNG
VIII. VAI
31. Suyễn
Đối với Tây y bệnh này không thế nào trị cho lành, lại chữa khỏi rất dễ
nhờ tuân thủ duy nhất những chỉ dẫn tiết thực cơ bản. Đó là pháp môn Râja-
Yoga gốc, được làm cho đơn giản. Những ai mắc bệnh này từ hai chục năm
trở lên có thể chữa lành trong vài tuần lễ. Vậy là các bạn có thể tán dương sự
quan trọng và tính ưu việt của sự ăn uống quan hệ đến sinh tử của chúng tôi,
nền tảng của mọi sự tồn tại, tự do (sức khỏe), hạnh phúc (bình an) và công
bằng tuyệt đối của chúng ta. Món đặc trị: Củ sen. Mỗi ngày dùng ít nhất từ 20
- 50g “Muối mè”, 2-3 muỗng cà phê đầy mỗi bữa ăn. Áp nước gừng, dán cao
khoai sọ 4 lần/ngày trong trường hợp bệnh rất nặng.
32. Bướu dạng tuyến ở cổ (Vegetations adénoides)
Có thể chữa lành trong vài tuần, bằng cách tuân theo một cách đơn
giản những chỉ dẫn căn bản.
Đặc trị: Áp nước gừng 3 lần mỗi ngày. Bậc cha mẹ mà có con mắc phải
bệnh này phải cẩn thận để ý thức ăn của gia đình. Nếu không, họ sẽ gặp
những khó khăn lớn, những tai nạn khốn đốn và bi đát trong tương lai. Còn
con cái sẽ dính bệnh lao, viêm não, bại liệt hay sởi và chúng chắc chắn sẽ
chết sớm.
33. Ho và Ho gà, Ho lao
Cùng cách chữa như Suyễn. Nếu em bé ho gà thì bà mẹ sẽ tuân thủ
những chỉ dẫn cơ bản. (Dùng nước cốt củ sen 3 muỗng cà phê, 2 hay 3 lần/
ngày.) Ít nhất một giờ sau, đứa bé sẽ giảm ho. Em sẽ không dùng một thứ
nào khác. Thuốc men, đặc biệt những loại thuốc chích gây mê áp dụng cho
mẹ trong thời kỳ mang thai và cho con bú hoặc gây mê trực tiếp vào con ngay
cả những liều lượng tối thiểu cũng góp phần làm tổn thương nặng sự phát
triển những khả năng phán đoán của nó. Đứa con là cái máy vi âm của mẹ về
mặt sinh lý học cũng như về đạo đức.
34. Sung huyết
Nếu các bạn thấy khó khăn khi quay đầu tự do từ phải sang trái (180°)
hay nếu không thể nghiêng dễ dàng tai phải xuống vai phải hay tai trái xuống
vai trái, thì chính là do vai và họng của các bạn bị sung huyết. Đó có thể là
dấu hiệu báo trước bệnh trúng phong (apoplexie). Phải tuân thủ ngay những
chỉ dẫn cơ bản. Đặc trị: Áp nước gừng và dán cao khoai sọ 4 lần/ ngày.
IX. NGỰC
35. Hiệp tâm chứng
Tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn cơ bản. Đặc trị: 2-4 muỗng cà phê
“Muối mè” mỗi ngày, 1 muỗng súp đầy trước khi đi ngủ. Áp nước gừng và dán
cao khoai sọ, 4 lần/ ngày. Cháo gạo lứt đặc biệt (D, I, 18). Các bệnh về Tim
cũng chữa như vậy.
36. Huyết thuyên tắc
Cùng cách chữa như ở số 8 và 35.
Đặc trị: (D, I, 1&18&20) dùng như thực phẩm chính.
37. Ho sưng cuống phổi
Cùng cách chữa như Suyễn. Chữa ngoài cũng vậy. Cháo gạo lứt rang
thường hay đặc biệt (D, I, 5 &18) nên dùng rất tốt. “Muối mè” 1 muỗng mỗi
bữa ăn. Áp nước gừng và dán cao khoai sọ trong ca nặng.
38. Viêm màng phổi
Áp nước gừng và dán cao khoai sọ. Cháo gạo lứt đặc biệt (D, I, 18).
39. Ung thư thực quản
Áp nước gừng và dán cao khoai sọ. Cháo gạo lứt rang hay kem bột
sarrazin (D, I, 5&20) là những phương thuốc tuyệt hảo cùng với trà già 3 năm
và “Muối mè” 2-4 muỗng mỗi bữa ăn (D, I, 1&7). Theo Chế độ ăn kiêng đặc
biệt (C, II).
40. Ung thư phổi
Xem Ung thư dạ dày số 42 và Ung loét dạ dày số 43.
Đặc trị: Áp nước gừng và dán cao khoai sọ đồng thời 5 lần/ ngày. 2 - 4
muỗng “Muối mè” mỗi bữa ăn. Theo chế độ ăn kiêng đặc biệt.
41. Mục xương (Xương sườn, xương sống, xương hông,v.v...)
Tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn tiết thực cơ bản.
Đặc trị: Áp nước gừng và dán cao khoai sọ 4 lần mỗi ngày. 1-2 muỗng
“Muối mè” mỗi bữa ăn.
X. BỤNG
42. Ung thư dạ dày
Tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn cơ bản hay chế độ ăn kiêng đặc biệt.
Dùng 1/2 muỗng cà phê “Dentie” dưới dạng đựng trong bọc nhện, 2 lần/
ngày). Áp gừng và dán cao khoai sọ 5 lần/ ngày.
43. Ung loét dạ dày
Cùng cách chữa như số 64 (Sỏi thận...).
44. Dạ dày suy nhược
Đậu xanh (pois-chiche) nấu cho kỹ hay chiên cả vỏ và mộng. “Chapati”
hay bánh tráng, bánh ướt là món ăn chính (70 - 80% mỗi bữa ăn). Nhai kỹ.
Xát nước gừng (D, II, 1) 3 lần/ ngày.
45. Viêm dịch dạ dày
Cứ hai ngày nhịn ăn một ngày. Cháo gạo lứt rang trong 3 ngày (D, I, 5).
Áp nước gừng khi đau.
46. Khó tiêu
Nhịn ăn một hay hai ngày. Rồi dùng Cháo gạo lứt rang (D, I, 5) hay một
tách Bột sắn dây (D, I, 13). Chỉ tuân thủ phép tiết thực căn bản và nhai kỹ. 1-2
muỗng cà phê đầy “Muối mè” vào các bữa ăn. Siêng vận động (lau chùi, giặt
giũ hoặc làm các việc khác trong nhà bằng tay chân, ít nhất hai hay ba giờ
mỗi ngày).
47. Đầy hơi
Tuân theo chặt chẽ phép tiết thực cơ bản. “Chana” (pois-chiche) (50g
với vỏ và mộng, rang với cát) ăn mỗi ngày. “Muối mè” ăn bao nhiêu cũng
được.
48. Dạ dày dư axit
Những cảm giác nóng bỏng có thể dịu đi nhờ dùng 3 muỗng “Muối mè”.
Chế độ ăn kiêng cơ bản chữa bệnh này rất dễ dàng. Dùng chế độ ăn kiêng
dặc biệt.
49. Dạ dày co rút
Dùng “Muối mè” (một muỗng cà phê đầy) hay một tách trà “Syôban”
thật nóng (D, I, 4). Áp nước gừng (D, II, 1).
50. Dạ dày trương giãn
Theo kỹ những chỉ dẫn cơ bản.
Đặc trị: “Muối mè” (1-2 muỗng cà phê đầy mỗi bữa ăn). Không cần
chữa bên ngoài.
51. Xệ dạ dày
Cái bệnh quá tầm thường này có thể chữa lành nhờ tuân thủ chặt chẽ
những chỉ dẫn đơn sơ về tiết thực cơ bản.
Đặc trị: “Muối mè” 2 muỗng cà phê đầy vào các bữa ăn.
52. Nấc cụt
Uống 2 muỗng cà phê đầy “Muối mè”. Uống một hay hai chén trà
“Syôban” (IV, A, 4) thật nóng. Theo kỹ những chỉ dẫn tiết thực cơ bản.
53. Gan
Vàng da, ói ra mật. Tất cả những bệnh về gan có thể chữa lành bằng
cách giảm một ít lượng ăn uống; những thực phẩm giàu calo, (đặc biệt phải
tránh). Ăn một bữa trong vòng 1 tháng hay nhịn ăn trong 1 tuần lễ rất công
hiệu, nhất là trường hợp vàng da. Áp nước gừng và dán cao khoai sọ 4
lần/ngày. Nhịn ăn hoàn toàn rất cần.
54. Viêm dịch túi mật
Chữa như Gan. 2 muỗng “Muối mè”/bữa ăn. Áp nước gừng.
55. Lá lách
Tuân theo chặt chẽ phép tiết thực cơ bản.
56. Táo bón
Tuân thủ triệt để những chỉ dẫn cơ bản là cách duy nhất chữa lành
hoàn toàn.
Đặc trị: “Chana”(Pois-chiche) rang trong cát. Dùng 50g cùng mộng và
vỏ/ ngày và “Muối mè” (2 - 3 muỗng cà phê đầy/ ngày). Sarrazin nên dùng, rất
tốt.
57. Viêm dịch Bàng quang
Súp đậu huyết (D, I, 19) 3 lần/ ngày, cứ mỗi lần 1 chén. Dùng thức ăn
cơ bản. Áp nước gừng 3 lần/ ngày.
58. Viêm ruột thừa
Áp nước gừng và dán cao khoai sọ, 4 lần/ ngày. Cháo gạo lứt rang (D,
I, 5) với lê-ghim củ chỉ chiên trong dầu mè. Trong trường hợp khẩn cấp, uống
3 muỗng súp nước cốt củ cải.
59. Ung loét đầu ruột non
Chữa đơn giản theo những chỉ dẫn tiết thực cơ bản. Đặc trị: Mỗi ngày
dùng 2-3 muỗng cà phê “Muối mè” và luôn luôn cứ cách 1 tiếng đồng hồ nhai
một nhúm.
60. Trĩ
Nếu hậu môn phồng lớn thì áp nước gừng và dán cao khoai sọ. Phổ tai
(D, I, 16) 15g mỗi ngày. Chế độ ăn kiêng đặc biệt (C, II)phải tuân thủ thật
nghiêm túc.
61. Sa ruột
Tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn cơ bản. Trong trường hợp bệnh nặng:
Áp nước gừng và dán cao khoai sọ. “Muối mè” 1-2 muỗng cà phê đầy mỗi
bữa ăn. “Phổ tai” nên dùng 10 - 20g/ ngày rất tốt. Em bé bị sa ruột là do bà
mẹ dùng thức ăn Tamasique”(Âm).
62. Thủy nang
Chỉ một việc tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn tiết thực cơ bản là đủ để
chữa căn bệnh này. Trong trường hợp khó khăn, ta có thể chà xát nước gừng
và dán cao khoai sọ. Không cách trị liệu nào, không máy móc nào, không
phẫu thuật nào có thể chữa khỏi được bệnh này. Nếu lũ trẻ bị mắc, thì nội
tạng của cha mẹ chúng chắc chắn hoạt động không được bình thường, tức là
đau tim hay nhiễm mọi bệnh Âm khác, hậu quả của việc ăn uống quá nhiều
yếu tố Âm (Sinh tố C, đường, trái cây, lê-ghim sống).
63. Thận
Viêm thận - Lao thận - niệu độc huyết - Tuân thủ chặt chẽ phép tiết
thực cơ bản.
Đặc trị: 2 tách súp đậu huyết/ ngày, nêm hơi mặn. Áp nước gừng và
dán cao khoai sọ lên vùng thận. Trong trường hợp nước tiểu có độc tức niệu
độc tố thì dùng súp củ cải số 2 (D, I, 22) ngày 1 lần (3 ngày là tối đa). Phù
thủng chân và mặt cũng làm như vậy.
64. Sỏi thận, bàng quang, túi mật.
Bệnh này có thể chữa lành một cách kỳ diệu nhờ tuân thủ chặt chẽ
những toa ăn uống cơ bản. Tránh chính yếu những món: trái cây, dấm, đồ ăn
thức uống chua và ngọt.
Đặc trị: Áp nước gừng và dán cao khoai sọ vào các chỗ đau. “Muối
mè”(3 muỗng cà phê mỗi bữa ăn trong 3 hay 4 ngày, rồi về sau 1 muỗng cà
phê mỗi bữa).
65. Viêm dịch hoàn
Bệnh do lậu hay lao. Có thể chữa lành nhờ chỉ cần tuân theo phép tiết
thực cơ bản. Áp nước gừng và dán cao khoai sọ có thể dùng để chống lại sự
đau đớn. Không cuộc phẫu thuật nào có thể chữa lành dứt điểm.
66. Đau buồng trứng
Dùng phép tiết thực cơ bản. Đặc trị: Áp nước gừng và dán cao khoai sọ
4 lần/ ngày, trong trường hợp bệnh nặng. Ngồi ngâm mông nước lá cải (IV, B,
8) một lần (15 phút) mỗi ngày, trước khi ngủ.
67. Bệnh tử cung
Dùng phép tiết thực cơ bản. Ngâm mông nước lá cải 1 lần/ ngày. Nếu
có những cơn đau về sáng, hãy lấy 1 cái chén đất (Không phải đồ sành sứ)
đốt nóng đỏ lên, đập vỡ thành từng mảnh nhỏ “nghiền thành bột cho vào chén
và đổ vào chén nước trà đang nóng sôi (D, I, 1). Đậy nắp lại, sau khi nguội
uống phần trên nước lỏng này, ngày 1 lần (100cm3), “Muối mè”(2 muỗng cà
phê đầy/ bữa ăn). Đối với bệnh ung thư tử cung cũng chữa như món vừa nói.
XI - CHÂN
68. Bệnh sùi da voi
Tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn tiết thực cơ bản. Đặc biệt hơn là cấm
ăn rau đậu.
Đặc trị:
(1) “Muối mè”, 2 muỗng cà phê mỗi bữa ăn);
(2) Súp củ cải số 2 (cứ 2 ngày uống 1 lần);
(3) Áp nước gừng 2 lần/ ngày;
(4) Dán cao khoai sọ 2 lần / ngày;
(5) 5 muỗng cà phê dầu mè/ ngày khi xào rau;
(6) Kê, bột lúa mì, gạo lúa mì đen, gạo lúa mạch (flocons d’avoine), gạo
lứt hay đại mạch (orge) (150-300g mỗi ngày);
(7) 20g củ cải sống.
69. Bại liệt
Có thể giữ cho bệnh đừng lan hay chữa khỏi bằng cách tuân thủ những
chỉ dẫn tiết thực cơ bản. Bà mẹ phải thông thạo những chỉ dẫn về sinh vật
học, sinh lý học và luận lý phát xuất từ sự giải thích của giáo lý Védanta và ai
sống theo trật tự của vũ trụ - xem những nguyên lý tiết thực cơ bản - thì
không bao giờ rước cái bệnh bại liệt vào gia đình mình.
Đặc trị:
(1) Kê, sarrazin, đại mạch, ăn bao nhiêu cũng được;
(2) “Muối mè” 3 muỗng cà phê đầy mỗi ngày;
(3) Gạo lúa mì, bánh biscuit bột lúa mì lứt;
(4) Gạo lứt;
(5) Pois-chiches;
(6) Củ sen, cà rốt, bí đỏ,(hạt thì đặc biệt hơn), rễ chardon và bồ công
anh, rau bina (épinard), xà lách xon, (những rau cỏ hoang nhỏ như data,
grateron, amarante, karela, larsag,v.v... ở Ấn Độ; "bảy cỏ thiêng” ở Nhật với
vỏ và rễ, nhất là những rễ có lông tơ). Áp nước gừng và dán cao khoai sọ rất
quan trọng. Đặc biệt nên dùng “Nước đá khô” dạng bột (D, II, 4).
Bệnh bại liệt có thể chữa lành trong một hay hai tuần. Ngay cả bệnh lâu
cả mười năm, dưới tuổi 12 hay 13, cũng có thể chữa khỏi trong vài tháng theo
phương pháp của chúng tôi, trong khi ở USA, chỉ một phần ba được chữa
hết, còn hai phần kia vẫn bại liệt và tần suất tử vong rất cao. Cần theo chế độ
ăn kiêng đặc biệt (3 tháng).
70. Bại
Các chứng bại vì trúng phong (Apoplexie), vì Viêm khớp, vì Phong thấp
tiến triển đều có thể chữa lành bằng phép tiết thực giống như ở bệnh Bại liệt.
71. Phong thấp
Hãy tuân thủ chặt chẽ chế độ ăn kiêng cơ bản Râja-Yoga giản lược hóa
và dùng những món đặc trị sau đây:
(1) Cháo gạo lứt đặc biệt (D, I, 18);
(2) “Muối mè”;
(3) Trị bên ngoài
Áp nước gừng (3-4 lần/ ngày) và dán cao khoai sọ.
72. Bại co giật
Tuyệt thực trong vài ngày hay vài tuần. Phép tiết thực cơ bản hoàn toàn
đủ để chữa khỏi chứng bệnh này. Không cần món gì đặc trị.
73. Bàn chân bằng phẳng
Có thể chữa lành bằng thức ăn hợp lý của bà mẹ (như trong ca bại liệt).
Bệnh có bàn chân bằng đôi khi chuyển thành những chứng ngốc nghếch, ngu
dại, suy nhược thần kinh, viêm não, bại liệt, lao hoặc bị ít nhất là không cho đi
những quãng đường xa.
XII. TOÀN THÂN
74. Bệnh biến ứng
Mọi chứng biến ứng đều có thể chữa lành một lần là khỏi luôn chỉ nhờ
vào những chỉ dẫn tiết thực mặc dù điều đó hình như không thể nào mà tin
cho được đối với những ai không tự thân trải nghiệm.
75. Béo phì
Chỉ cần tuân thủ chặt chẽ phép tiết thực cơ oản. Đặc trị: Lấy 3 muỗng
súp đầy dầu mè chiên lê-ghim ăn mỗi ngày. Ăn 50g củ cải sống mỗi ngày.
76. Tê phù
Dùng gạo lứt, bột lúa mì hay sarrazin như là thực phẩm cơ bản (80%)
với một ít lê-ghim chiên (10%) trong dầu mè, nêm muối.
77. Chàm
Có nhiều loại bệnh chàm mà không cách chi trị ngoài một phương
thuốc duy nhất. Chỉ phép tiết thực cơ bản thôi mà có thể chữa chúng lành
hoàn toàn từ lúc chỉ mới phát cho đến khi lộ diện rất phức tạp, đặc biệt là đau
đớn, ở đó da dẻ trở nên dày cứng như vỏ cây thông, cây sồi và có những chỗ
nứt nẻ đầy máu mủ. Đặc trị: “Nước cám” (D, II, 13) rất công hiệu, chế độ ăn
kiêng đặc biệt nên theo nhất. Không dùng một chút nào thực phẩm động vật.
78. Mệt mỏi
Dùng một tách nước trà (D, I, 1) với 1 muỗng cà phê đầy “Muối mè” hay
1 chén trà “Syôban”(D. I, 4).
79. Bạch ban
Ngưng ăn đường, lê-ghim, đồ sống sít, gia vị cùng trái cây và hãy tuân
thủ những chỉ dẫn tiết thực cơ bản cùng với “Muối mè” như là món đặc trị.
“Chana”(pois-chiche) với vỏ và mộng cùng sarrazin coi như thực phẩm chính
đều tuyệt hảo.
XIII - DỤC VỌNG - KHUYNH HƯỚNG XẤU
80. Nghiện rượu – Thuốc phiện - Dược phẩm
Những bệnh này có thể chữa lành nhờ tuân theo những chỉ dẫn tiết
thực cơ bản. Món đặc trị thì tùy theo triệu chứng.
XIV. NHIỄM TRÙNG
81. Chứng sợ nước - Bệnh dại
Những ai theo môn Râja-Yoga của tôi, tức "hững chỉ dẫn tiết thực cơ
bản ngay cả không chặt chẽ cho lắm cũng đều vô nhiễm đối với bệnh này
cũng như đối với mọi cuộc tấn công mãnh liệt hay virus nào.
Đặc trị:
(1) Dùng súp củ cải số 2 (D, I, 22);
(2) Cháo gạo lứt và kem gạo lứt;
(3) “Muối mè” (2-3 muỗng cà phê đầy/ngày).
82. Bệnh Phong
Tất cả ai theo pháp môn Râja-Yoga được giản lược hóa, tức những chỉ
dẫn tiết thực cơ bản trong cuộc sống hằng ngày, ngay cả từ xa không trực
tiếp gặp thầy, cũng đều miễn nhiễm đối với bệnh Phong. Để chữa khỏi chứng
này không thuốc thang nào hiệu nghiệm hơn phương pháp trường sinh, tức
pháp môn Râja-Yoga được làm cho đơn giản trong đời sống. Đặc trị: Tuân
thủ thật là nghiêm ngặt phép tiết thực cơ bản. Chà xát nước gừng và dán cao
khoai sọ hằng ngày. “Muối mè”, 2 đến 4 muỗng mỗi bữa ăn.
83. Sốt não tủy
Cùng cách chỉ dẫn như Bại liệt.
84. Cúm truyền nhiễm, Cảm lạnh
Không con thú nào trên trái đất này bị cảm lạnh. Nếu mắc bệnh, điều đó
có nghĩa là về phương diện thể chất, về phương diện tinh thần và đạo đức,
các bạn thua chúng. Bạn không có cái tự do của mình nữa trong khi bọn thú
có. Chỉ một sinh vật trên cõi đời này dễ bị cảm lạnh, đó là con người. Những
con dê sinh trưởng dầm mình trong gió mãnh liệt và lạnh lẽo. Những con gấu
miền Cực choảng nhau vui vẻ trong băng giá.
Bị cảm lạnh dưới một khí hậu nóng như ở Ấn Độ, phải chăng là kỳ
quặc? Từ lúc đầu trong bảng trắc nghiệm sức khỏe bạn đã lập được ít nhất là
hơn 60 điểm/100 về trắc nghiệm hạnh phúc chưa? (Xem “7 Điều kiện về Sức
khỏe” ở phần kết quyển sách này). Nếu không đạt được như thế, cuộc đời
của bạn chẳng đáng sống. Chúng ta sinh ra là để vui hưởng trong đời cái tự
do vô hạn, hạnh phúc vĩnh cửu và trí phán đoán chính trực. Gió mưa, buốt
giá, nóng nực, khó khăn và những bất hạnh là những nhát búa giáng vào con
người tự do. Nếu bạn bị tan xác dưới búa rìu này thì bạn phải tái sinh, (để
biết) rằng mình phải làm lại cuộc đời từ đầu, bú lại bầu sữa Mẹ, Địa cầu, tức
phép ăn kiêng cơ bản của tôi. Bạn có thể sáng tạo một đời sống mới, bởi vì
chúng ta là con của Trời, như điều ấy đã nói trong bộ Phệ đà (Véda) và Chí
tôn ca (Bhagavad gita). Chỉ có một món thuốc đơn sơ cho bệnh Cảm lạnh:
phương pháp của tôi. Bạn hãy thử nó đi, rồi sau đó là sức khỏe sẽ được phục
hồi nhờ phép tiết thực cơ bản như được nói trong “7 Điều kiện về Sức khỏe”.
Đặc trị: Cháo gạo lứt đặc biệt (D,I, 18); súp củ cải số 1 (D, I, 21) chỉ
dùng một lần duy nhất. Nếu theo những chỉ dẫn của tôi, các bạn sẽ không
bao giờ bị cảm. Cảm lạnh là bước khởi đầu của mọi bất hạnh.
85. Cúm, Sốt rét
Dùng súp củ cải số (D, I, 21). Rồi sau đó tuân thủ những chỉ dẫn tiết
thực cơ bản. Những chỉ dẫn này có thể phòng ngừa và chữa lành bệnh sốt rét
một cách dễ dàng. Món đặc trị: Kem bột sắn dây (1 tách mỗi ngày); Rất khó
có được bột nguyên chất, không giả mạo trên thị trường, thành thử phải thận
trọng. (Một cách thử của người dich: Hòa cho tan một chút nước vào bột sắn
dây rồi chế ngay nước mới đun sôi vào. Nếu bột vẫn còn lỏng thì đúng là bột
thật. Bột sắn dây thường chỉ nở khi khuấy trên bếp lửa). “Muối mè” rất hiệu
nghiệm, phải dùng vào những bữa ăn từng chút từng chút một. Nhưng tuân
thủ bền bỉ chế độ tiết thực cơ bản là điều quan trọng nhất trong các món
thuốc. Nhờ tuân theo nền y học trường sinh này mà những ai cứ mỗi năm là
mắc chứng ấy (ở Ấn Độ con số bệnh nhân lên đến 100.000.000 người) sẽ
được hoàn toàn miễn nhiễm và trong con số 750.000 người chết vì bệnh này
hằng năm ở Ấn, phần lớn sẽ được chữa khỏi.
86. Dịch hạch
Nhữmg ai ăn kiêng theo những chỉ dẫn về phương pháp trường sinh
của tôi trong thực tiễn hằng ngày đều không bao giờ mắc chứng bệnh khủng
khiếp này. Nếu bệnh nhiễm vào, bạn hãy thử đề kháng bằng cách dùng cháo
gạo lứt đặc biệt (D, I, 18) với “Muối mè” càng nhiều càng tốt.
87. Ban đỏ, Sốt vàng da - Hoàng nhiệt - Xem mục số 85, 86.
88. Thổ tả
Cho ăn cháo gạo lứt đặc biệt (D, I, 18) và khuấy bột sắn dây cho sền
sệt (dùng 2-3 tách). Áp nước gừng ở bụng hay ngâm mông nước nóng pha
muối. Nếu làm các cách trên mà không thể ngưng được chứng đi tả thì hãy
súc ruột với nước muối thật nóng. Sau đó tuân theo những chỉ dẫn cơ bản.
Những ai tuân theo phép tiết thực trường sinh của tôi, (Nền y học giúp con
người sống lâu và trẻ trung lại, tức những toa thuốc của pháp môn Râja-Yoga
giản lược hóa) đều hoàn nàn miễn nhiễm đối với bệnh này cũng như mọi
chứng nhiễm trùng.
89. Kiết amib và lỵ khuẩn
Cùng cách chữa trị như Thổ tả. Những người mắc sẽ được miễn nhiễm
vi trùng hay amibe trong vài tháng nếu không vài tuần nhờ tuân theo chặt chẽ
những chỉ dẫn tiết thực cơ bản. Tuân theo kỹ thì sẽ chữa khỏi mọi chứng
bệnh kiết lỵ. Dùng “Muối mè” bao nhiêu cũng được. Áp nước gừng lên bụng
hay ngâm mông nước gừng rất công hiệu (D, II, 1).
90. Đi tả
Xem mục 88: thổ tả và mục 89: Kiết amib và lỵ khuẩn
91. Thương hàn
Chữa như mục 85: Cúm, Sốt rét, mục 88: Thổ tả, mục 89: Kiết amib và
lỵ khuẩn.
92. Viêm ruột, Viêm dạ dày
Cùng cách chữa như trên.
93. Sởi
Đắp chăn chẳng hạn cho ấm người và ăn kem gạo lứt (IV, A, 25) hay
bột sắn dây (IV, A, 13). Không được ăn súp củ cải (IV, A, 21&22) hay bất kỳ
đồ ăn nào Âm, cũng không nên dùng thuốc nào giảm sốt. Càng sớm mắc
bệnh sởi thì cơ thể càng giỏi chịu đựng. Người nào sau 10 tuổi mới mắc bệnh
sởi là đã thuộc loại “Tamasik”(Âm).
94. Đậu mùa
Ngưng uống nước và mọi đồ lỏng. Dùng “Muối mè” (1-3 muỗng cà phê
đầy) và ăn cháo gạo lứt đặc biệt hay kem gạo lứt (D, I, 18 hoặc 25) với “Muối
mè” và 30g rau cỏ hoang chiên dầu mè (như xà lách xon, bồ công anh). Xem
thêm bệnh Thận số 63.
95. Bị chuột cắn
Chỉ những cơ thể “Tamasik” mới là nạn nhân của chuột. Nếu bị nó cắn,
chỉ cần dùng kem gạo lứt và áp cao khoai sọ.
96. Tĩnh mạch trướng
Theo những chỉ dẫn cơ bản. Đặc trị: “Muối mè” 1-2 muỗng mỗi bữa ăn.
Áp nước gừng và dán cao khoai sọ có thể rất hiệu nghiệm (2 lần mỗi ngày).
G. PHỤ LỤC
I. NƯỚC TIỂU CÓ CHẤT LÒNG TRẮNG TRỨNG
Bệnh này nằm nơi chức năng của những quản cầu Malpighie. Những
quản cầu này khi người ta khỏe mạnh thì chỉ có lọc nước và muối. Nếu chất
lòng trắng trứng, kích thước phân tử quá lớn hơn nước và muối, qua tự do cái
lọc, thì hiển nhiên là cái lọc này giãn nở. Vậy đó là do thừa Âm tính: sinh bởi
một thực phẩm quá giàu sinh tố C, chất K (Potassium) và đường. Chữa trị
bằng một thực phẩm đối nghịch hoặc thật quân bình là bệnh dứt ngay tức
khắc.
II. BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
Y học đối chứng cho toa insuline và cấm bệnh nhân ăn những thực
phẩm giàu chất bột (hydrate de carbone). Đó không phải cách trị tận gốc mà
là một sự trì trệ trong cách chữa và là sự che đậy cái dốt của y học đau đâu
chữa đó. Sao người ta có thể bằng lòng với một cách chữa kéo dài và giấu
giếm như thế nhỉ? (Cuộc hội nghị quốc tê đầu tiên tổ chức sau chiến tranh bởi
những chuyên gia về bệnh Tiểu đường ở USA đã chứng nhận sự vô dụng và
tính độc hại của thuốc insuline do các đốc tơ Benting và Best phát minh. Đó là
ngày kỷ niệm phát minh thuốc này năm thứ 25. Cuộc điều tra hàng ngàn nạn
nhân đã cho biết như thế. Tội ác kinh người! Nhưng hai cái giải Nobel không
còn nữa trên cuộc đời này và không có cách gì để phạt họ cái tội đáng chết.
Mọi giải Nobel, trừ một vài nếu có, đều thuộc về loại tội này).
Theo nền y học tiết thực và trường sinh, việc chữa bệnh tiểu đường rất
đơn giản. Thông thường người ta có thể chữa nó lành trong vài ngày. Nếu
bệnh mắc mãn tính đến hơn hai chục năm và nếu người nấu ăn không thật
quan tâm, thì việc chữa khỏi mất hai hay ba tháng, nhưng điều ấy rất hiếm
xảy ra.
Theo Vô song Nguyên lý của chúng tôi, đường là Âm và việc thiếu
insuline (cô đường thành một dạng không đường) cũng là Âm (đông đặc hay
co thắt là Dương). Lá lách thể đặc là Dương (nói về phương diện vật lý,
không siêu hình). Sự bất túc chức năng của cơ quan Dương là Âm, trương
nở xảy ra khắp nơi, ở mọi mức độ nặng nhẹ. Cuối cùng là bệnh phải phát
sinh vì những yếu tố Âm quá dư.
Vì thế mà việc chữa trị phải là Dương, thực phẩm Dương, hay một thực
phẩm thật quân bình, không Âm không Dương, (Dương so với thực phẩm của
bệnh nhân từ trước đến nay). Những chỉ dẫn tiết thực cơ bản phải tuân thủ
chặt chẽ trong một hay hai tuần lễ. Trong trường hợp này, những món ăn đặc
trị Dương là đậu huyết, bí đỏ, cà rốt, sắn dây, sarrazin, “Muối mè”.
III - BỆNH TIM
Tại sao tim đập? Nguyên do sâu xa nào làm trái tim đập tự động?
Không ai trả lời, không một ai có thể trả lời. Ngay cả môn sinh lý học đương
đại, rất phát triển, rất thông thái cũng không dám trả lời. Tại sao?
Vô song Nguyên lý, nền triết học biện chứng này có từ nhiều ngàn năm
nay, duy nhất mới có thể trả lời nổi. Ai đã nghiên cứu phép biện chứng thực
tiễn phải trả lời câu hỏi ấy. Người nào đã học phép biện chứng này theo các
sách vở của tôi có thể trả lời. Còn nếu không thể trả lời câu hỏi đó, họ sẽ
không bao giờ có thể chữa được bệnh gì, ngay cả một cái mụt cóc cũng
không.
Kẻ nào nhờ áp dụng nền triết học này mà trẻ người ra hay được chữa
khỏi chứng bệnh mà mình đã khổ đau chịu đựng biết bao năm trời lại không
thể trả lời câu hỏi ấy thì là người cực đoan, ích kỷ, ngạo mạn hay vô ơn. Họ
sẽ rơi vào vực thẳm bệnh hoạn hay tai ương cho mà xem.
Ngay cả những ai đã không học hỏi phép biện chứng đó, tức “Cây đèn
thần Aladin”, mà cố gắng hết sức mình để cứu thiên hạ ra khỏi bệnh hoạn
bằng cách tiêu biết bao tiền tỉ mà đâu vẫn hoàn đấy, cũng thế thôi, bởi vì
hàng năm có đến 800.000 người chết vì bệnh ấy. Họ đã chế tạo thành công
một cỗ máy lớn thay giả bộ phổi và tim trong vài giờ, nhờ đó người ta có thể
mổ bên trong quả tim, và có biết bao con bệnh can đảm liều mình trong các
cuộc phẫu thuật như thế. Những bác sĩ Alfred blolock (bệnh viện Johns
Hopkins) đã giải phẫu 1.500 lần và 225 người tử vong. Nhưng mà người ta
nói, đó là một đại thành công: 85%!!! Bác sĩ Thomas Gus Baffes đã mổ trong
Bệnh viện Children’s Memorial ở Chicago, 38 ca chuyển vị động mạch phổi và
đại động mạch quản và 15 tử vong: một thành công lớn đạt 60%! Thành công
như thế đấy, tiến bộ như thế đấy!
Nhưng tại sao người ta cố phá những triệu chứng như vậy cho bằng
được thay vì loại đi cái nguyên nhân gốc? Người ta thích cái tính tàn bạo như
vậy và cái tổn hao như vậy bởi có biết bao tiền của và thời gian chăng? Tôi
không hiểu. Cái khuynh hướng vũ phu, phí phạm, tàn nhẫn này ngự trị khắp
nơi trong nền văn minh phương Tây. Kinh tế Tây phương mang tính thiết thực
và làm gì cũng cốt có lãi. Nó chĩa mũi sản xuất về lượng “sản xuất hàng loạt”
đầy chất tư bản và sự phân phối ròng tính máy móc, chặt chẽ, bất nhân.
Ngược lại, ở Đông phương, nền kinh tế quan tâm về sự tiêu pha ít ỏi hơn
(vivere parvo) để khỏi lợi dụng của kho vô tận, không lạm cả “ánh sáng của
chị Hằng”!Từ sản xuất về phẩm chất, thẩm mỹ, lòng biết ơn và cuối cùng
người ta từ bỏ hay giải thoát toàn bộ là để đạt sự độc lập, tự do vô tận và
bình an trên trần thế. Phương Đông là đối cực của phương Tây trong lãnh
vực kinh tế cũng như trong y khoa.
Sự tiêu thụ ít ỏi (sống nghèo) quá đáng thì đâm ra biển lận. Việc thoát
tục mù quáng, theo đuôi người ta hay máy móc, làm cho bạn “bị thuộc địa
hóa”. Nhưng sản xuất và tiêu thụ sung túc, chúng giết mất niềm vui và lòng tri
ân rồi sinh lười, đẻ ra mọi thứ bệnh Âm bởi vì tất cả lạc thú trần gian trong xã
hội như thế đều tất nhiên là Âm: bệnh tim, xuất huyết não, ung thư, những
bệnh thuộc thận và gan, bệnh tâm thần... (Có tới hàng ngàn bệnh nhân chờ
đợi cho tới phiên mình được nổ xẻ qua vài ca đại phẫu gọi là mổ bụng lấy con
(césarienne) như phẫu thuật vùng dây thần kinh não thuộc trán (Lobotomie
frontale), cắt dây thần kinh giao cảm, mổ tim, mổ thận, v.v... ở Hoa Kỳ: Địa
ngục của thế kỷ 20!).
CHÚNG TA ĐIỂM QUA NHỮNG BỆNH VỀ TIM:
1. Tim bất túc
* Chẩn đoản đối chứng (Theo Tây Y)
1. Ảnh hưởng lên gan, phổi, thận và những chứng phù thủng:
a. Gan lớn gây đau đớn;
b. Khó thở, sung huyết chân, tràn dịch màn phổi;
c. Tiểu ít;
d. Phù thủng.
2. Những dấu hiệu tim mạch (ít chính xác hay ít bền hơn những dấu
hiệu ngoại vi: tim đập nhanh, đau nhức vì huyết áp tăng giảm thất thường,
tiếng nghe chỏi tai, tiếng ngựa phi, xuất hiện hơi gió nhẹ vì chức năng của
van bất túc, của một mạch trồi sụt (rất nặng). Tim lớn (thấy trên orthogramme
hay trên téléradiographie). Tim đập không đều.
3. Đầu tiên nghĩ đến những bệnh van tim, viêm đại động mạch, hay
những bệnh tim bẩm sinh, nếu tình trạng của tim còn cho phép phát giác ở đó
những dấu hiệu nghe được (thường thường người ta phải đợi kết thúc cuộc
chữa trị cho bổ khỏe quả tim mới tuyên bố).
4. Nếu áp lực máu, nhất là số dưới quá cao, bệnh cao huyết áp (đôi khi
dính liền với một bệnh thận viêm-Mal de Bright) cho biết chắc chắn là suy tim.
5. Một nguyên nhân hiển nhiên khác, bệnh phổi ngạnh hóa, động tĩnh
mạch lựu, van hai lá nở phồng (grossesse chez une mitrale). v.v..., khám tổng
quát có thể phát giác.
6. Nếu tim bất túc bề ngoài không có gì lạ, thì nghĩ đến một bao tâm
tiếp hợp, bệnh viêm cơ tim vì phong thấp, bệnh tim Basedow, tim liệt, tim già,
cơ tâm ngạnh tắc, trước khi kết luận trái tim nguyên thủy có sự dị thường.
* Cách chữa trị (Theo Tây Y)
1. Nghỉ ngơi;
2. Chế độ ăn kiêng déchloruré hay hypochloruré (chính xác hơn, không
muối), nếu có phù thủng;
3. Phá đi những “chướng ngại ngoại vi” (barrages périphériques) mà
dịch vàng ứ cấu thành, đặc biệt là chích lấy nước màng phổi nếu có xảy ra;
4. Chích lấy máu nếu da xanh và bệnh cao huyết áp liên đới hay đặt
bầu giác nếu có máu tắc nghẽn ở chân;
5. Sau việc chuẩn bị này của bệnh nhân, người ta có thể kết hợp một
liều thuốc xổ bằng rượu mạnh của Đức và si-rô Nerprun (15g...) cùng
Théobromine (nếu có phù thủng), cũng như những thuốc an thần (morphine),
người ta bắt đầu chữa tim cho khỏe bằng thuốc Digitaline hay Ouabaine:
a. Digitaline là loại thuốc trị bệnh suy tim kèm với phù thủng và chứng
tim đập nhanh không đều, như chứng suy van hai lá. Tuy nhiên người ta sẽ
tránh dùng nó trong những chứng suy tim với giãn nở quá cỡ của những
xoang tim hay khi người ta e sợ sự xuất hiện một chứng tim đập nhanh ở tâm
thất cuối có cơ nguy đột tử, cũng như trong những chứng suy tim cấp tính.
b. Ouabaine dùng qua đường tĩnh mạch là loại thuốc trị bệnh tâm thất
bên trái bất túc cũng như bệnh của những chứng cao huyết áp. Nhưng nó
cũng được chỉ định trong tất cả những loại suy tim khác; nhất là trong mọi ca
mà thuốc digitaline bị chống chỉ định hay không công hiệu. Nó cũng có thể
làm cho tim nhạy cảm lại với digitaline. Đó là một thứ thuốc cấp cứu trên tất
cả, bởi vì hạn hoạt động của nó ngắn.
6. Thuốc bổ tim phụ: Adonis, Muguet, Strophantus, Spartéine, hay thêm
Digitaline đô nhẹ hoặc Ouabaine dùng để uống. Sinh tố B dùng chích;
7. Thuốc Théophylline dùng khi có một rối loạn tuần hoàn mạch vành,
phát giác ra bởi triệu chứng sưng họng nặng hay điện tâm đồ;
8. Trong những chứng suy tim không thể thuyên giảm, chắc chắn rằng
không có việc nhầm của bệnh nhân hay không đủ đô Digitaline. Người ta có
thể thử những thuốc lợi tiểu hàm chất thủy ngân (Novurit, Nephtal,v.v.) nếu
như mô xốp của thận có vẻ chịu dung nạp chúng (chất urée trong máu bình
thường, những thử nghiệm về chức năng ít hoặc không thay đổi). Những chất
chống đông huyết cũng có thể giữ một vai trò ích lợi trong vài ca để tránh
những chứng tĩnh mạch thuyên tắc).
* Chẩn đoán (theo quan điểm trường sinh):
1. a. Gan lớn gây đau đớn: Âm nguy cấp;
b. Khó thở, sung huyết chân, tràn dịch màn phổi, tất cả đều Âm;
c. và d. cũng vậy. Tất cả những triệu chứng này đến từ sự thặng Âm
trong việc ăn uống.
2. Những bệnh van tim, những bệnh viêm đại động mạch,v.v... đều cố
nhiên là do thừa Âm.
3. Bệnh cao huyết áp như thế, phát sinh do một trương nở vậy là Âm.
4. Sự ngạnh kết, sự cứng da thịt lại, tiếp đến là sự phì đại
(hypertrophie) của mô liên kết phát sinh một cách tự nhiên bởi sự thặng Âm.
5. Bao tim tiếp hợp (Symphyse péricardique) là Âm gấp đôi: tiếp hợp
phát sinh bởi sự trương nở của tim, vậy là Âm; bệnh đau màng ngoài tim
(péricardique) tự thân nó là Âm, (tất cả cái gì ở bên ngoài là Âm, tất cả cái gì
ở trong là Dương). Hệ thống thần kinh có gốc gác ở màng ngoài phôi (origine
ectodermale), thì mọi bệnh thần kinh cũng như tất cả bệnh về da đều Âm.
Viêm cơ tim vì phong thấp là do thặng Âm, nhất là chất lỏng. Bệnh Basedow
do thặng K và sinh tố C, vậy cũng là Âm. Chứng ngạnh tắc huyết quản sưng
phình vậy cũng là Âm. Tất cả những chẩn đoán này báo cho biết nguyên
nhân cuối cùng Âm.
* Phê phán cách chữa trị Tây Y (theo quan điểm trường sinh)
1. Nghỉ ngơi là Âm. Bắt nghỉ ngơi, đó là bắt chết bởi nền y học chỉ biết
đến trí phán đoán tình cảm. Vận động, dịch chuyển, đó là sự sống. Cái Âm
của đồ ăn mà mình không hay biết đã sinh ra chứng Âm, cái bệnh then chốt
của mọi tạng phủ. Vậy thì phải thủ tiêu mọi yếu tô Âm trong cơ thể của chúng
ta đi. Nhưng cái hoàn toàn bất động ngăn cản việc loại trừ này và càng ngày
càng làm quả tim suy yếu. Mọi cơ quan cũng như mọi mô sống chỉ phát triển
nhờ tập luyện lặp đi lặp lại.
2. Chế độ ăn kiêng không muối nghĩa là dùng một thực phẩm cực kỳ
Âm. Điều này Âm hóa người bệnh càng ngày càng nhiều.
Đó là tên sát nhân. Tôi không hiểu tại sao người ta sợ muối như thế, tại
sao người ta gắn bó quá đáng vào một trí phán đoán cảm giác. Tôi đã gặp
nhiều bệnh nhân bị trầm trọng thêm khi tuân thủ chế độ ăn như thế ở Âu
châu, mọi nơi. Vài người trong số họ đã theo vậy trong hơn một năm để rồi đi
đến một tình trạng hoàn toàn kiệt sức. Tại sao có việc áp đặt khăng khăng
không cho dùng muối? Ai là kẻ thủ ác? Cái sợ chính là cảm giác bất tuyệt của
kẻ vi phạm Vũ trụ quan, đứa con từ khước cha mẹ của mình.
3. Phá đi những chỗ teo hẹp ngoại biên ư? Tâm trạng trẻ con làm sao!
Phương pháp tạm bợ làm sao! Tại sao người ta không tấn công hay sửa
chữa cái lỗi lầm mà mình phạm phải?
4. Rút máu hay đặt những bầu giác? Vũ phu làm sao! Tàn bạo làm sao!
Tâm trạng cổ lỗ quá chừng quá đỗi! Người ta không biết rằng chính đồ ăn
chuyển thành máu và máu sinh ra mọi cơ quan, mọi tế bào cùng những hoạt
động của chúng và rằng người ta có thể tái tạo và làm biến chuyển bất cứ tế
bào nào, bất cứ cơ quan nào bằng cách kiểm soát sự ăn uống sao? Không
thể nào tin được!
5. Rượu mạnh Đức, Nerprun, tất cả đều cực Âm! Theobromine,
Morphine, Ouabaine đều rất Âm. Chỉ Digitaline là Dương. Tại sao có việc
dùng những thứ thuốc cực kỳ Âm? Âm mạnh hơn, mãnh liệt hơn bưng bít cái
Âm ít mạnh. Như vậy đó là thay thế một cái tệ ít quan trọng bằng một cái hại
khác trầm trọng hơn!
Thuốc Digitaline là Dương khi so với những thuốc Âm mãnh liệt trên.
Nhưng mà nó Dương rất yếu.
Điều kỳ quặc là, người ta biết rằng Digitaline không được dùng trong
những chứng suy tim đi đôi với những sự trương giãn (Âm) quá độ của
những xoang tim hay khi người ta có chỗ sợ sự xuất hiện của chứng tim đập
nhanh (Âm) ở tâm thất cuối như trong những chứng suy tim (Âm) cấp tính.
Người ta hiểu điều đó theo kinh nghiệm chăng? Làm kỹ thuật mà không rành
lý thuyết là giết người. Y học phương Tây hoàn toàn không khoa học chút
nào. Nó không phải là một khoa học! Ở Đông phương, “khoa học” có nghĩa
khác, được đặt vững chãi trên lý thuyết, trên công lý, trên Vũ trụ quan, vĩnh
cửu, vô tận và tuyệt đối! Nhưng nói cho đúng, thì khoa học Tây phương, ngay
cả khoa học tự nhiên, chỉ đặt cơ sở trên những nguyên lý của thế giới vật
chất, hữu hạn, tương đối và bất ổn định!
6. Đó là “chuyện không đâu vào đâu”. Cái chủ thuyết vô chính phủ của
y học thực nghiệm, đối chứng trị liệu ấy mà. Adonis, Muguet đều rất Dương
trong khi Strophantus và Spartéine (nhất là thứ sau dưới dạng sulfate,
Campho-carbonate, Campho-sulfonate,v.v.) đều cực kỳ Âm. Đó là cái bất
hạnh của nền y khoa thực nghiệm không Vô song Nguyên lý.
7 và 8 cũng thế. Những chất chống đông huyết đều đương nhiên là Âm
hết! (Đông đặc là Dương!)
* Chữa trị (theo phương pháp trường sinh biện chứng)
Cực kỳ đơn giản và thực tiễn. Trái tim là một trong những cơ quan
Dương nhất, mọi bệnh hoạn của nó đều do lạm dụng Âm. Loại trừ đi những
yếu tố Âm thừa thãi, đó là bí quyết của việc chữa trị “kỳ diệu”.
2. Hiệp tâm chứng (Tử vong 90% trong vòng 20 năm. Lian)
* Chẩn đoản (theo Tây y)
1. Những điều kiện xuất hiện: cố sức hoặc ban đêm đau khi nằm thẳng
cẳng.
2. Đặc tính đau khi co.
Chết đột ngột. Cơ tâm ngạnh tắc. Tâm thất trái bất túc.
* Chữa trị (theo đối chứng của Tây y) - Giữa lúc lên cơn:
Dùng Nitride d’amyle hay tốt hơn, Trinitrine. Ngoài lúc lên cơn: Khám
phá xem có một bệnh viêm đại động mạch nào đó nhiễm vi trùng giang mai,
một tâm thất trái bất túc,v.v. Cho toa thuốc vệ sinh - tiết thực: tránh làm việc
quá sức, những bữa ăn quá thịnh soạn, đi dạo sau những bữa ăn, cái
lạnh...Những sóng ngắn, Novocaine, Chữa bằng cách tắm suối nước nóng.
Giải phẫu: cắt dây thần kinh giao cảm.
* Chữa trị (theo phép trường sinh biện chứng).
Hơn trăm bệnh nhân mắc cái chứng khủng khiếp này được cứu vớt
nhờ phương pháp trường sinh của chúng tôi. Một người trong số họ là bác sĩ
(52 tuổi, trưởng Bệnh viện Chữ thập Đỏ của thành phố “I”, Nhật Bản), ông ta
đã sợ hết hồn vì chích thuốc vào tĩnh mạch, đã tuân thủ chế độ ăn kiêng (theo
sách vở của tôi) sau nhiều năm dài đau khổ. Trong vài tuần, ông đã bắt đầu
làm vườn từ 4 giờ sáng dưới ánh muôn vì sao. Ông làm trợ tá của tôi trong
nhiều năm sau đó.
Chứng Angine de Poitrine phát sinh do thặng chất Âm cho vào người
trong một thời gian rất ngắn.
Một bác sĩ khác (bấy giờ đã 81 tuổi) có cấp bằng mang con số 4 của
nước Nhật. Ngoài ra, ông đã có một dưỡng đường cực kỳ hiện đại nơi trung
tâm Osaka, (thành phố kỹ nghệ lớn nhất Nhật Bản); mặc dầu có sự trợ giúp
của tất cả bạn đồng nghiệp thân thiết và những giáo sư của nền y học hàng
đầu, vị bác sĩ này đã rời bỏ nền y học phương Tây, bởi vì nó không thể cứu
nổi người con trai độc nhất của ông. Ông trở thành đồng giám đốc một bệnh
viện nổi tiếng vì cách chữa rất nguyên thủy và cách mạng của Kyoto để học,
ở tuổi 75, một phương pháp mới mẻ “không chạy theo thời” có liên quan đến
cái bệnh đã giết chết đứa con một của mình: Hiệp tâm chứng! Chính trong
bệnh viện này mà lần đầu tiên trong đời ông đã đọc cuốn sách của tôi, một
trong những quyển “best-seller” vào thời kỳ ấy. Đó là do những bệnh nhân
nhập viện đã nhiều năm mà không đạt một đại cải thiện nào dầu cho mọi cố
gắng của vị bác sĩ giám đốc rất nổi tiếng và rất giàu, nhưng họ được bớt
nhiều nhờ đọc những quyển sách của tôi và đã rời bệnh viện. Ông ta lần đầu
tiên đến dưỡng đường của tôi ở Tokyo, với người vợ cũng già, cả hai ông bà
trong lễ phục truyền thống (Ông đích thực là một “samourai”, rất lễ độ, cởi mở
và nhún nhường) dâng cho tôi một “bảo vật” của gia đình truyền thống của
ông để xin phép học phương pháp của tôi, nội trú trong dưỡng đường của tôi.
Ông được chấp nhận như y sĩ. Bà vợ ông cũng bắt đầu làm việc trong
nhà bếp. Ông bà học hỏi trong ba năm. Sau khi đã nắm kỹ Vô song Nguyên
lý, phép biện chứng của chúng tôi xưa nhiều ngàn năm và những áp dụng
của nó về mặt sinh học, sinh lý và y học trường sinh, hai ông bà được phép
rời chúng tôi để về làm việc một cách yên ổn nơi quê mình:
“Chúng tôi cám ơn hai ông bà vô cùng về những dạy bảo thật quý báu
và rất sâu xa. Chúng tôi rất sung sướng. Chúng tôi lần đầu đã học môn “Y
khoa”. Giờ đây, tôi có thể chữa bất cứ bệnh lao nào, bất cứ bệnh hiệp tâm
chứng nào. Bất hạnh thay, quá muộn một chút để cứu con trai tôi. Nhưng bây
giờ tôi có quyền xin nó tha cho cái tội đầy dốt nát của tôi đã giết nó bởi vì (nếu
nó sống) tôi có thể dạy nó làm thế nào cứu những bệnh nhân tương tự nghèo
khổ, dạy cho nó nền y học chân chính, trường sinh, hiện hữu khắp nơi...”
Những giọt lệ long lanh trên khóe mắt. Cũng ngày cuối cùng này, hai ông bà
mặc bộ lễ phục cổ truyền. Họ đã rời chúng tôi đã 17 năm rồi. Nhưng mà thỉnh
thoảng tôi thấy họ trong những kỷ niệm, luôn luôn không chê vào đâu trong tư
thái truyền thống và trong bộ đại lễ phục. Đó là vị chân chính “samourai”, lễ
độ, nhún nhường, thẳng thắn và trung thực...
3. Tim đập không đều
Chẩn đoán triệu chứng, luôn luôn giống nhau như đúc, phiến diện, tẩn
mẩn, dọ dẫm, trị liệu cũng thế thôi: Luôn luôn là tạm bợ, phá hoại, vũ phu, tàn
bạo và độc ác, nhất là dốt. Người ta nói: “Thuốc Quinidine cho 50% kết quả”.
Vậy thì 50% đều tử vong!
Phương pháp trường sinh chữa chúng một cách đơn giản và mau
chóng nhờ những chỉ dẫn “cơ bản”.
4. Tim đập mau kịch phát hay bệnh Bouveret
Theo nền y học đối chứng, số người chết là 5%. Nhưng trong thực tế,
số còn lại bị kết là “nan y”cho đến khi chết. Quả là cái án chung thân!
* Chữa trị (theo đối chứng của Tây y)
Để ngắt cơn tim đập nhanh, người ta có thể (ngoài những bài tập thở
hay nuốt đồ ăn mà người bệnh thường chính họ phát giác ra):
1. Thử ấn vào hoặc từ một động mạch cổ ngược với xương sống, hoặc
từ những bloge mắt trong vài giây;
2. Gây nôn mữa;
3. Tiêm tĩnh mạch thuôc Quinidine;
4. Trong những ca kháng thuốc, cho Novocáine thẩm thấu...
* Chẩn đoán (theo phương pháp trường sinh)
Chẩn đoán bệnh này dễ. Người ta tìm thấy rất dễ dàng nguyên nhân tối
hậu của bệnh này: Âm, trái cây, xà lách, v.v...
* Chữa trị (theo phương pháp trường sinh biện chứng)
Những chỉ dẫn cơ bản! Một hay hai muỗng “Muối mè” mỗi bữa ăn! Thật
vô cùng tiết kiệm! Các bạn không thể nào tin được điều đó!
5. Mạch chậm thường xuyên
Theo nền y học trị triệu chứng thì cái chết bất đắc kỳ tử lúc nào cũng có
thể xảy ra! Còn theo nền y học trường sinh thì ngược lại, có hai loại (Âm và
Dương) nên phân biệt. Loại Dương thì không có gì phải sợ.
Loại Âm, trái lại, rất nặng. Phải tuân thủ những chỉ dẫn cơ bản của
phép tiết thực trường sinh rất đàng hoàng, hay tốt hơn hết là khởi đầu dùng
kem gạo lứt trong một hoặc hai tuần với 10g mận muối (uméboshi) mỗi ngày.
Có một ông Cha mắc bệnh tim đập nhanh nhiều năm. Ông được
Yanagiya, bạn tôi, thầy dạy Châm cứu, trị cho có đến ba năm. Chỉ một suất trị
liệu, chứng tim đập nhanh lặn biến, ông ta trở thành “người mắc bệnh tim đập
chậm. Nhưng ông quá “gắn bó”với văn minh nên không thể theo nền triết học
biện chứng. Thật đáng tiếc biết bao!
6. Tim phong thấp
Trong y học đối chứng, người ta nói rằng bệnh phong thấp là nguyên
nhân coi như của 95% của những bệnh về van tim, còn những biểu hiện về
khớp có thể là các chứng nhẹ nhất.
Bệnh tim phong thấp tiến triển: Tử vong 66%! Không có gì để nói! Đây
không còn là ngành y nữa! Cũng không phải là “thợ sửa giày” (cordonnier)
nữa!
* Chữa theo đối chứng
Nằm nghỉ. Dùng Salicylate hay Gentisate de soude, Sulfamides, Soufre,
Iode,v.v... Đó là một cái chợ dành cho rận rệp bò chét!
* Chữa theo phương pháp trường sinh
Bảo đảm cho các bạn lành nhanh (trong vài ngày, hai hay ba ngày là
các bạn được cải thiện rất nhiều. Lành hoàn toàn trong vài tuần! Các bạn
không thể nào tin tôi trước khi mình thể nghiệm việc ấy!
7. Tim Basedow
* Chẩn đoán theo đối chứng
Cũng làm chuyện vớ vẫn như luôn luôn thế...
* Chữa theo đối chứng
Cắt bỏ tuyến giáp gần như hoàn toàn (và đôi khi cắt tiệt luôn). Thường
thường nó là cách chữa duy nhất có hiệu quả. “Nó có thể đem đến sự tái sinh
thật sự”. Nhưng tôi không biết bao nhiêu ca ngược lại.
* Chữa theo phương pháp trường sinh và biện chứng
Dứt khoát không bị đổ máu. Nó chuyển hóa con người hoàn toàn.
Đương sự bắt đầu sống lại một cuộc đời hoàn toàn mới mẻ và đầy niềm vui
và lòng tri ân, trong hai hay ba tháng.
8. Tim liệt
Trong thiên nhiên không có trái tim nào liệt. Đó là sự tưởng tượng.
Thực ra, trái tim liệt thuộc về người nào đã vi phạm nặng nề Vũ trụ quan vì
dùng quá nhiều thức ăn Âm và đồ uống Âm. Đó là sự tình nguyện tự sát của
một kẻ ngu đần, ngạo mạn và vô ơn.
9. Tim già
Trái tim không có già theo như chứng minh của A.Carrel. Tế bào không
già một chút nào như cá ngoài biển. Tế bào có thể coi như những con cá
sống trong biển tế bào. Nếu nó già cỗi, đó luôn luôn là bị một thứ đồ ăn xấu
sát hại thường do bác sĩ gây ra! Nào chuyên ăn trái cây, ăn chay, ăn thịt hay
những sản phẩm động vật và bơ sữa.
Chữa trị theo phương pháp trường sinh thì công hiệu thực sự để làm
tươi tắn lại trái tim.
10. Cơ tâm ngạnh tắc
(Tử vong 30 đến 60% trong vài tuần)
“ Đột tử. Phổi phù thủng cấp tính. Suy tim tức khắc hay muộn. Máu
đông trong huyết quản. Tái phát sau khi có cuộc ổn định bề ngoài”.
* Chữa trị theo đối chứng tai hại
Morphine, Atropine, Papaverine, Camphre, Adrenaline, Éphédrine,
Théophyline, v.v...
Thật là loạn xà ngầu! Tất cả đều Âm trừ Adrenaline!
Hơn nữa, dùng dưỡng khí để chữa! Người ta không biết rằng Oxy là
Âm và chứng ngạnh tắc huyết quản cũng vậy! Không có cách gì nữa sao?!
Nằm nghỉ hoàn toàn!
Vậy là người ta chờ đương sự chết trong vài tuần chứ gì?
* Chữa theo phương pháp trường sinh
Đơn giản như lúc nào cũng thế: Những chỉ dẫn cơ bản hay hoàn toàn
đơn giản là kem gạo lứt hay gạo lúa mì đen.
11. Đau màng trong tim ác tính ngấm ngầm tức bệnh Osler
“Tử vong 100% trước khi có pénicilline, 30% kể từ đó”.
Phân suất này chẳng bao lâu sẽ hạ xuống. Thường thường do ở gốc
phong thấp, triệu chứng nhiễm trùng, thường biến dạng (protéiforme), sốt,
thiếu máu, ban đỏ (purpura), lá lách lớn, đau khớp, đôi khi những ngón tay bị
hippocratique, ngón tay có nhiều mấu,v.v...! Tất cả đều là triệu chứng Âm!
* Chữa theo đối chứng
Pénicilline, mọi thuốc kháng sinh. Tấn công ồ ạt, loạn xạ!
* Chữa theo phương pháp trường sinh
Kem gạo lứt hay gạo lúa mì đen! Chống sốt, tham khảo chương D.
12. Đau màng trong tim ác tính cấp tính (Tử vong 100%!)
Do các vi khuẩn Streptocoque hémolitique, Pneumocoque,
Staphylocoque, Gonocoque...
* Chữa trị theo đối chứng
Hiện không có gì ngoài thuốc kháng sinh! Người ta không biết rằng mọi
con vi khuẩn cũng như virus đều đề kháng rất kém sự khan nước cũng như
nhiệt sao? Không nên làm cho sốt biến mất đi!
* Chữa theo phương pháp trường sinh
Kem gạo lứt, sarrazin hay kiều mạch.
13. Đau màng ngoài tim
Theo nghĩa từng chữ cũng biết là Âm.
* Chữa theo đối chứng
Không có hay không thuốc nào công hiệu.
* Chữa theo phương pháp trường sinh
Áp nước gừng và dán cao khoai sọ bên ngoài và dùng kem gạo lứt với
muối mè.
14. Bao tâm tiếp hợp
(Symphyse péricardique) (Tử vong 100%)
Không có cách gì chữa, theo y khoa đối chứng; y học biện chứng thì
chữa lại dễ dàng.
Kẻ nào thực hành môn y khoa trường sinh và biện chứng thì không
dính đến mọi chứng bệnh “nan y” cùng với giấy chứng thư tiên liệu luôn luôn
là “tử vong 100%”!
15. Đau van tim
Đó là một chứng bệnh tận số đối với y khoa triệu chứng mà lại không
đối với y học trường sinh. Vậy mà y khoa đối chứng cũng nhấn mạnh về việc
sống vệ sinh, không làm việc quá sức mình, không ăn uống quá độ, chữa
bằng cách thoa dầu nóng (cures salicylées).
Nhờ y học biện chứng, việc chữa trị lại đơn giản và hiệu quả như hồi
nào tới giờ. Những chỉ dẫn căn bản hoàn toàn đủ.
16. Bất túc van hai lá, đau van hai lá, hẹp động mạch (Xem Đau van tim mục số 15)
17. Hẹp van hai lá
Thiên hạ nói “Những cách chữa bằng phẫu thuật hiện nay đều tiến bộ”.
Nhưng người ta không thể trông mong kỳ vọng. Các bạn hãy tuân thủ chặt
chẽ những chỉ dẫn cơ bản của tôi đi. Các bạn sẽ thấy một phép lạ!
18. Viêm động mạch
Trị duy nhất công hiệu là những chỉ dẫn cơ bản trường sinh.
19. Động mạch lựu (Tử vong 100%!)
Y học thú nhận: “Không có cách chữa nào công hiệu”. Chỉ khuyên nghỉ
ngơi, trị triệu chứng, bằng cyanure de mercure, bằng iodure de potassium.
Như chữ “Lựu-Bướu máu” chỉ cho thấy, đó là một sự trương nở, vậy là Âm!
Thế là đủ!
20. Xơ vữa động mạch
Đó là một bệnh “nan y” đối với y học đối chứng. Tuy vậy, nó khuyên
dùng iode, iodure de potassium,v.v... (Mặc dù tính công hiệu thực tế rất nghi
ngờ) và một chế độ ăn kiêng ít chất lipide và cholesterol.
Y học Viễn Đông khuyên các bạn ngược lại, hãy dùng những món ăn
cơ bản trường sinh chứa nhiều lipide và cholesterol. Bạn chỉ cần kiểm chứng.
21. Huyết áp cao bền
Chúng ta hãy để cái chuyện đối chứng trị liệu đâu đâu qua một bên.
Phương pháp trường sinh chữa bệnh “nan y” và “thường trực” này trong vài
tuần.
Y học đối chứng khuyên các bạn nghỉ ngơi về tinh thần và thể xác và
cho những toa thuốc vệ sinh-tiết thực cổ truyền. Nhưng nó tuyên bố một cách
minh bạch và can đảm, thật tình và ngượng ngùng: “Thực sự không có một
thứ thuốc nào công hiệu cả”!
Không nên gởi quá nhiều niềm tin vào các phép trị liệu bằng thuốc men
gọi là “làm giảm áp huyết”: “nitrite de soude, acétylcholine,
méthylacétylcholine, yohimbine, vagotonine, octanol, cholalate de soude,
những chất kiềm của một loại nấm trên bông lúa mạch (alcaloides de l’ergot
de seigle), những xác thực vật khác trong những lớp học thực nghiệm:
pentaméthonium và hexaméthonium, hydrazino- phtalazine, serpasil, v.v...”.
xấu hổ biết bao! Y học này còn nói:” Thường ưa chuộng những chất giảm đau
của chúng hơn: benzoate de benzyle, papavérine, gardénal, chloral,v.v...”!
“Iode và iodure de potassium, tinh noãn (extraits ovariens)...”
“Chế độ ăn kiêng đặc biệt: chế độ ăn gạo”!
“Chữa bằng cách tắm suối nước nóng”.
“CHẾ ĐỘ ĂN GẠO (KEMPNER) = 200 đến 350g gạo khô (!),100 đến
500g đường, mọi loại trái cây và nước trái cây, 1000 cc nước!
Cấm dùng các món: “muối, hạnh đào (noix), hơn một quả chuôi mỗi
ngày, nước cà chua hay lê ghim, chà là”.
“Một chế độ ăn kiêng như thế mang đến 2000 calo, 1000cm3 nước,
20g chất đạm, 5g chất béo, 0,2g chlore và 0,15g natri. Gần nửa sô calo phải
được cung cấp bởi gạo. Số còn lại được cung cấp bởi đường, trái cây và các
thứ nước cốt trái cây. Ra toa hằng ngày những sinh tố khác nhau dưới dạng
tổng hợp: Cơm ngào đường, cơm có vị chanh,v.v...Về lý thuyết, chế độ ăn
kiêng phải theo từ 2 đến 5 tháng... Chế độ ít chặt chẽ chấp nhận dùng đồ thảo
mộc (không ăn lê ghim), khoai tây, thịt nạc, cá, gà vịt.”(!)
22. Cứng huyết quản ác tính (Tử vong 100%!) đồng nghĩa Cao huyết áp ác tính.
Y học đối chứng thú nhận: “Không một cách chữa nào có hiệu quả”(!)
Một trong các đệ tử của tôi hay nói đúng hơn đứa con biện chứng pháp, đứa
trẻ trung nhất trong đám anh chị em biện chứng của nó hiện ở hầu như khắp
nơi trên toàn thế giới, Jiro Nakamura tự Abe, những ngày gần đây đã chữa
khỏi ở Heidelberg, một người Đức 31 tuổi, nằm liệt giường từ 3 năm nay vì
chứng lác từng mảng (sclérose en plaque), trong một tuần. Dễ như thế đấy!
Đó là tính ưu việt của nền y học biện chứng và trường sinh! Đó là nền y học
của Jesus, nền y học cho toàn thể loài người!
Chú thích: Tất cả những hàng giữa “...” đều trích ở la Petite
Encyclopédie Médicale của Jean Hamburger.
IV. SINH CON DỊ DẠNG
(Tạo những đứa con không bình thường vể hình thể học và tâm lý học)
Nếu các bạn có một đứa con trai hay một đứa con gái bất bình thường
(môi sứt, đầu nước, vô não, không nhãn cầu, giả lưỡng tính, trể vòm họng -
fonte du palais, đứa bé da xanh -“bébé- bleu”, v.v.) thì trọn đời, mình buồn và
khổ biết bao nhiêu. Huống hồ các bệnh bất thường về tinh thần hay chức
năng của các cơ quan: bệnh của kẻ ngơ ngáo có khuôn mặt giống người
Mông Cổ (Mongolisme hay Down), ngốc nghếch, ngu dại, câm - điếc v.v...
Nhưng việc sinh những đứa con bất thường về hình thể, về chức năng
và về tinh thần theo thời gian cứ càng ngày càng tăng. Ở Hoa Kỳ, người ta
phỏng đoán mỗi năm có đến 30.000 đến 80.000 “đứa bé da xanh” chào đời.
Nói tổng quát có thể sẽ có hơn một triệu em dị hình dị dạng: phần số chúng
nó là sống một cuộc đời buồn tẻ, hẩm hiu, nhưng các bạn cũng vậy có khác
gì đâu, các bạn có thể sống một cuộc đời vận mạng dành sẵn như những kẻ
dị dạng này mà “không biết” đấy thôi: tất cả bệnh “nan y” và mọi bất hạnh có
thể được coi như là những dấu hiệu của “chứng dị dạng” tinh thần, tạm thời
hay vĩnh viễn. Chứng dị dạng có từ lúc mới ra đời lại ít bất hạnh hơn những
chứng bệnh kinh niên và không cách nào tránh được, rất nhiều. Ở Bruxelles,
tôi đã thấy một phụ nữ tuổi đời 66, khổ vì chứng tiêu tiểu không kềm được từ
13 năm nay. Bà mổ cách đây 14 năm. Hơn 20 năm về trước, bà đà nhiễm
bệnh. Bà đã khổ hơn là bị dị hình.
Theo nền y học trường sinh của chúng tôi, tất cả tính ái nam ái nữ (theo
ngữ nguyên là “Thủy tinh - Vệ nữ”) và tất cả giả lưỡng tính, sự cộng tồn như
vậy của hai giống nơi cùng một cá nhân, chứng lệch giống của các cơ quan
sinh dục biểu thị đặc tính ở sự hiện diện nơi cùng một cá nhân của một số
người những đặc điểm bên ngoài có hai giống, giả - nam, giả - nam cái, giả -
nữ đực, có thể coi còn hơn một” quái trạng” rất trầm kha. Đó là nỗi bất hạnh
của đương sự và của xã hội. Con số người bệnh như vậy thấy rất nhiều ở
Tây phương, cũng như con số người mắc chứng loạn sắc ở Đông phương.
Đàn ông lại cái và đàn bà ngỗng đực đều cực kỳ nhiều ở Tây phương.
Hay nói đúng hơn đó là cái khuynh hướng đâu đâu cũng thấy nhan nhãn.
Nghĩa là có thể nói không có hay hầu như không có nữa loại người đàn ông
thể hiện sức mạnh, gan dạ, mạo hiểm với một ý chí sắt đá đại biểu cho sức
mạnh sáng tạo co rút của vũ trụ; và loại người đàn bà nhu hòa, mảnh mai,
trung hậu, không bao giờ giận dỗi, không bao giờ cãi cọ, không bao giờ phản
kháng, đại diện cho sức mạnh sáng tạo bành trướng. Âm, cái đức của người
nữ, không còn nữa ở Tây phương, bởi vì luôn luôn có những dị biệt và những
cuộc tranh cãi ở mọi cấp độ. Dương, cái đức của người nam, cũng không còn
hiện hữu nữa. Vì thế cho nên, chính cái bại hoại, cái giả mạo và sự tàn khốc
mới bước lên ngôi.
Đàn bà có lớp da đàn ông và thô ráp, đàn bà da không láng lẩy mịn
màng, đàn bà có lông tay lông chân, đàn bà không kinh nguyệt hay kinh
nguyệt không đầy đủ hoặc quá nhiều hoặc trồi sụt...Tất cả đều thuộc hàng giả
- lưỡng tính. Đàn ông có da láng, dễ cảm cúm, đàn ông không thích phiêu lưu
mạo hiểm hay không ưa biện bác, đàn ông có tính công thức... Đàn ông thích
đường và sữa... Tất cả đều thuộc giả-lưỡng tính.
Cái nào là nguyên nhân tối hậu của bệnh dị trạng và của bệnh giả và
thật ái nam ái nữ? Việc ấy rõ ràng là: sự ăn uống vô nguyên tắc, chi phối bởi
cái khoái lạc cảm giác và phép chữa trị bằng thuốc, cái tội đáng xử tử. Thế
thì, nếu các bạn sống bằng đồ ăn thức uống mà Vũ trụ quan hay Trật tự vũ trụ
cho biết thì sẽ không bao giờ mắc những chứng quái đản trên. Con người
hiện đại bị cái khoái lạc chỉ đạo, ích kỷ, xu thời, vô ơn (ham chữa bệnh bằng
thuốc men trị liệu mầu nhiệm) và ham thích tiện nghi, đã hoàn toàn không
thấy Vũ trụ quan nhập từ phương Đông khoảng 2000 năm nay mà đi tìm cách
cứu chữa nhất thời và mầu nhiệm: y học đối chứng.
Đó là một nguyên nhân cuối cùng mới mẻ của chứng dị dạng và bệnh
giả với thật ái am ái nữ. Đó là lý do tại sao bệnh hoạn và bất hạnh, kể cả mọi
tội ác, mọi lừa đảo, mọi cuộc chiến càng ngày càng tăng song song với việc
phát minh và sản xuất những thứ thuốc gọi là “kỳ diệu”.
Thực ra, y học đối chứng trị liệu tự thân nó đã phải thừa nhận cái đại
bất hạnh sinh ra bởi những thứ thuốc “thần kỳ”: kháng sinh, cortisone, kích
thích tố, tê bào sống, quang tuyến X, radium, thuốc chủng... chúng muốn hay
có ý thủ tiêu các triệu chứng bệnh mà không loại trừ cái nguyên nhân cơ bản.
“Theo thực nghiệm, cái vai trò độc hại của tia X đã bị phát giác từ lâu.
Von Hippel (1905) và Pagenstrecher đã quan sát thấy chứng đục thủy tinh thể
nơi mắt thỏ con sau khi thỏ mẹ bị chiếu xạ. Murphy và de Renyi (1930) đã
thành công trong việc gây tật chân cẳng (chân cong queo và không ngón),
Job, Leibold và Fitzmaurice (1935) cũng như Kaven (1938) đã nhận thấy
được những giai đoạn sinh tật nguyền rất rõ rệt biến chuyển theo những giai
đoạn mà họ giải phẫu”.
“Nơi người, tác động gây ra dị dạng này giờ đây được nhận thấy rõ.
Quan sát đầu tiên là do Aschenhein (1920), ông đã báo cáo có một em bé ra
đời, sọ nhỏ, tinh thần bất túc, mắt ti hí và có nhiều biến dạng về mắt khác
nữa, tất cả theo sau một cuộc xạ trị u xơ tử cung (myome utérin) của bà mẹ
mang thai trong 4 tháng đầu tiên”.
“Chính đó là sự chứng minh đầu tiên vai trò sinh quái thai của một yếu
tố ngoại lai nơi con người như Zapper (1926) đã bảo chú ý điều ấy, chính ông
đã thành công 20 ca về nghiên cứu này. Goldstein và Murphy (1927) đã
nghiên cứu một loạt trẻ sau cuộc chữa trị của bà mẹ bằng quang tuyến X hay
radium và đã ghi chép rằng 37,3% trong số bọn trẻ này cho thấy có những dị
dạng hay những khiếm khuyết về tinh thần”.
“Hale (1935) đã chứng minh mẫu thứ nhất một cách chắc chắn khỏi
bàn cãi gì nữa cái vai trò sinh quái trạng vì bà mẹ thiếu hụt sinh tố". Ông đề
cập đến việc chăn nuôi nhiều con heo mà sự truyền giống có khiếm khuyết và
ở đó hội tụ những con heo con bị những dị dạng về mắt (ti hí mắt lươn -
microphtalmie chăng?), trể vòm họng (fentes du palais), sứt môi, thận hình
móng ngựa. Trước những ca này, Hale biết chứng minh rằng không có vấn
đề tai biến di truyền mà chắc mẫm vì thiếu Sinh tố A của bà mẹ trong những
giai đoạn đầu tiên mang thai”.
“...Warkany và Schrafenberger (1944) đã tìm lại một mẫu thứ hai vì
thiếu sinh tố của mẹ trong các cuộc thí nghiệm của mình. Những con chuột
cái của họ đã sinh ra đến 30% những chuột con dị dạng: các chân ngắn nhỏ
và ngón chân dính liền, trể vòm họng... thiếu Sinh tố B2...”
(Sự giải thích của Warkany và Schrafenberger có thể bị sửa sai bởi vài
tác giả hiểu biết Âm Dương của những sinh tố, của heo và chuột).
“Trong vài điều kiện, nhiều kích thích tố được phát giác ra là có liên hệ
đến việc sinh dị dạng. Đó là trường hợp của cortisone như Fraser (1953) đã
chứng minh nơi chuột và thỏ, nó gây cho chúng những đường nứt trong khẩu
cái (fentes palatines). Cũng gây ra như thế đối với chất 17
hydroxycorticostérone và thuốc A.C.T.H.”
“Thuốc insuline có tính chất gây biến thể nơi loài chim và cũng có thể
nơi loài có vú. Điều đó rõ ràng... Còn nơi người thì bệnh tiểu đường và ngay
cả bệnh tiền tiểu đường làm dễ xuất hiện những dị dạng một cách đáng ngại
không ít”.
“Thừa Sinh tố A - Hơn nữa người ta còn biết những nạn ngộ độc mà nó
có thể gây ra nơi trẻ con và người lớn (bệnh vô não, xương sống tách đôi,
không nhãn cầu, những dị dạng về mặt, tai và tứ chi), tất cả quái trạng mà sự
xuất hiện kể từ ngày tháng chữa trị”.
“Những cuộc nghiên cứu thực nghiệm đều chứng tỏ rõ vô số nguyên
nhân có thể sinh ra những dị dạng bẩm sinh: các nguyên nhân về vật lý, về
hóa học, thuộc bào chế, thuộc y khoa, tiêm chích, thiếu sinh tố,v.v... Một số
đã được nhận ra là có hiệu nghiệm đối với người”.
“Tất cả những quan sát này báo cho ta biết rằng chính trong những giai
đoạn cơ bản tạo hình mà những yếu tố sinh dị dạng có tác dụng. Trong 15
ngày đầu tiên thụ thai, trong khi nguyên tố tạo chất hữu cơ (organogénèse)
chưa bắt đầu có phản ứng thì phôi thai có thể bị tiêu diệt; rồi ngay sau đó và
trong một tháng rưỡi, tính mẫn cảm của phôi sẽ phản ứng ngược lại đáng kể
nhưng những dị dạng có thể phát sinh. Tuy nhiên chúng sẽ không biến mất
toàn bộ, ít nhất là đối với hệ thần kinh.”
“...Những nguyên nhân gây dị dạng đều là những nguyên nhân nhẹ ít
quan trọng trong tự thân chúng...”
“Ca bệnh Mongolisme, nơi đó vai trò của những yếu tố di truyền hình
như là chắc chắn. Kết luận của Turpin (1934), Shroder (1939) là quá rõ ràng:
Sự thường xảy ra tăng lên quá đáng theo tuổi tác của bà mẹ.” (Không phải
tuổi tác của bà mẹ là quan trọng. Chính nơi chốn mà bà mẹ cư trú: khi bà lớn
tuổi, thông thường bà sống trong sự sung túc cao hơn lúc đầu đời ở gia đình.
Thường thường bà dùng nhiều món ăn ngon (Âm) và bánh kẹo (Âm), trái cây,
các sản phẩm ngoại nhập và những thức uống Âm (trà, sô cô la, nước cốt trái
cây, cà phê,v.v.) hơn trước. Vì thế cho nên và càng ngày bà càng làm hư
hỏng con bà với cái gì mình thích (Âm), sau khi sinh ra nó. Huống hồ tần số
bệnh Mongolisme tăng trưởng quá đáng với rất nhiều điều kiện khác nữa như
sự hiện hữu của một bà nội và một ông nội, các ông bà thông thường thích
nhiều món Âm vì sự mất nước tự nhiên của cơ thế theo đà tuổi tác; của cải;
thuyết ăn trái cây và thuyết ăn chay (Âm) hợp hơn, đó là một cách phản ứng
lại mẹ cha, những người rất năng động và ham làm việc ở tuổi thanh niên
(Dương) sống bằng một thức ăn có thịt (Dương) v.v... Từ hàng ngàn năm
nay, ở Nhật người ta nói: “Đứa con chỉ có mẹ nuôi nấng hỏng tính nết 30%;
đứa con được bà nuôi sẽ trở nên điên khùng hay bất lương bởi tính nết hư
hỏng đến 70%?” (còn chỉ được mẹ và bà nuôi thì tư cách con người có thể
mất đến 30 X 70% = 2100%). Tôi rất sung sướng đã được biết rằng những
nhà bác học hiện đại trong thời gian gần đây bắt đầu biết đến cái then máy
sinh ra bệnh Mongolism, những chứng dị hình, mặc dù có chậm đến cả ngàn
năm).
(Tất cả những câu ở giữa “...” đều của Giáo sư A.Giroud).
ĐỨA BÉ DA XANH (BLUE BABY)
Luôn luôn (hay hầu hết) nó có cái đầu to, đôi mắt lòi con ngươi ra
ngoài, tròng trắng hơi xanh lơ, chót mũi phồng lên, môi dưới lớn hơn môi trên,
bàn chân bằng, lòng bàn tay phẳng. Tất cả chỉ cho thấy hay tiết lộ cho biết đồ
ăn cực kỳ Âm của bà mẹ, nguồn xuất phát những dấu hiệu đáng thương này.
Những vết tích như thế cũng thấy nơi bà ấy. Hơn nữa, bà rất ích kỷ, cực
đoan, kiêu ngạo, một đứa con hư thuở ấu thơ hoặc vô ơn bạc nghĩa: một con
rắn độc thật sự.
Giấy chứng nhận: Tử vong 100%!
Cứu một đứa con như thế, một bà mẹ như thế bằng một cuộc phẫu
thuật đẫm máu và mất tự nhiên, đó là vi phạm đại luật tuyển trạch của thiên
nhiên. Tà tâm ấy sẽ bị tai ương giáng xuống! Quả là suy thoái của toàn thể
loài người.
Tôi chưa gặp một em bé như vậy. Nhưng tôi tin rằng có những khả
năng chữa nó được bằng phương pháp trường sinh. Tại sao không chứ? Tất
cả chúng ta đều biết rằng” cái gì có thủy tất có chung” và rằng “nếu lòng công
chính của ngươi không vượt qua nổi đám pháp sư và bọn thầy tu đạo đức giả
Do Thái, thì ngươi không thể vào được Cõi Thiên Đàng!
Kết luận
Tôi ở Tây phương và đã thấy mà vô cùng sửng sốt và đau buồn rằng
con số giả - thật ái nam ái nữ cũng như những quái trạng về hình thể bề ngoài
và “những dị dạng về tâm lý” lớn lao đến mức không thể tưởng tượng và
không thể nào tin được ở đây. Bệnh tâm thần cũng vậy. Thật không thể nào
tin và không thể nào tưởng tượng cho nổi. Tôi bắt đầu tìm cái nguyên nhân
đích thực tối hậu của sự bất tri (rất thông thường) ở Tây phương về Vũ trụ
quan, về Vô song Nguyên lý của hòa bình và tự do, nó bảo đảm cho chúng ta
cái hạnh phúc vĩnh cửu và lẽ công bằng tuyệt đối từ buổi khởi thủy vô thủy và
luôn luôn như thế mãi; về chỗ đạo Thiên chúa hoàn toàn không còn, gây ra
bởi chính những ông thầy tu trải qua nhiều thế kỷ. Những nhà nghiên cứu về
phôi sinh học này cũng như mọi y sĩ không biết ngay cả tự chữa bệnh cho
mình, đều là những con quái vật về tâm lý học hay những kẻ ngơ ngơ ngáo
ngáo có khuôn mặt giống người Mông cổ. Chúng chỉ tìm những cái “hạn hẹp”
phù du thay vì Vũ trụ quan hay địa lý của Vũ trụ.
Ở Tây phương, có nhiều tên “những ông thánh”, nhiều nhà thờ. Mọi
chủ nhật, khóa lễ được truyền trên ti vi. Đó là một nghi lễ. Có nhiều người họ
tin hay còn tưởng tượng nữa, vào thời đại hạch tâm này, rằng có một ông
Thượng đế được nhân cách hóa, vật thể hóa. Mọi người dịch đảo ngược chữ
“Imago Dei”: Người ta tin tưởng rằng Thượng đế có hình ảnh của con người
đủ trò bê bối! Thay vì biết rằng, con người được tạo ra theo hình ảnh của
Thượng đế, tức cái vô hạn, nguồn vĩnh cửu, sự tự do hoàn toàn, lẽ công bằng
tuyệt đối, bộc lộ nhiều hay ít trong trí phán đoán của chúng ta, trong then máy
của sự suy xét, của trí nhớ, của tưởng tượng, của hiểu biết, của lòng ham
muốn vô tận được tự do... của cơ chế tạo ra máu huyết, tạo nhịp đập của trái
tim...
Thượng đế được biến thành người ở Tây phương. Trí phán đoán tối
cao đã được hiểu như một con người kỳ vĩ, một vị Cha Già của chúng sinh,
xuất thế là để dạy Vũ trụ quan vĩ đại cho một dân tộc kém thông minh, man di
mọi rợ hay cổ lỗ hàng mấy ngàn năm nay là thích đáng. Nhưng người ta đã
bảo Thượng đế biểu tượng hóa như là một thực thể, mê tín quá đi thôi! Vậy
thì đó là một lầm lỗi lớn: Cơ Đốc hóa hay là sự thiết lập Thánh tính. Thực ra
thì Cơ Đốc hóa là phi Cơ Đốc hóa.
Những người thực hiện nghi lễ tôn giáo trang nghiêm mà không biết sự
quan trọng và ý nghĩa của cây thánh giá, biểu tượng không gì khác ngoài Vô
song Nguyên lý của Vũ trụ quan, chiếc la bàn biện chứng thực tiễn trong cuộc
sống hằng ngày của chúng ta, làm tôi buồn khôn xiết.
Tất cả mọi người đều đòi hỏi và tìm kiếm sự tiện nghi, khoái lạc và tốc
độ. Việc gì phải như thế chứ? Chúng chỉ làm cho mau tới cái chỗ chung cuộc
bi đát, buồn bã. Để tránh chết sớm, thiên hạ đòi hỏi những vị thuốc gọi là “kỳ
diệu”. Họ không biết hay không muốn loại bỏ cái nguyên nhân cuối cùng bất
hạnh của mình. Tại sao? Cái nguyên nhân tối hậu của mọi khốn khổ là thiếu
cái la bàn phổ biến, thiếu trí phán đoán tối cao.
Trước hết người ta đã nói: “Ngươi hãy đòi (đầu tiên là Cõi ân đức vô
biên) rồi người ta sẽ cho ngươi tất cả; ngươi hãy tìm (chiếc chìa khóa mở cửa
Vương quốc, sự công bằng tuyệt đối) rồi ngươi sẽ thấy nó (tức khắc vì những
thứ đó được sắm sửa cho ngươi từ buổi khởi thủy vô thủy)”. Con người đã
quên đi những từ trong những dấu ngoặc này và thế vào đó bằng những chữ
hoàn toàn trái ngược, như “quyền lực, “tài sản”, “tiền tài”, “tiện nghi”, “khoa
học”,v.v... tất cả cái gì thuộc về thế gian tương đối, phù du và hữu hạn.
Những nhà nghiên cứu đã tìm vô số nguyên nhân có thể sinh ra những
dị dạng bẩm sinh cũng như của mọi chứng bệnh: Những nguyên nhân thuộc
vật lý, hóa học, bào chế, y khoa, nhiễm trùng, nhiễm virus, thiếu sinh tố trong
đồ ăn,v.v... nhưng họ muốn trung hòa chúng với những sản phẩm “thần kỳ”
mặc dù họ đã biết rằng những thứ thuốc thần kỳ này rất thường là những
nguyên nhân kinh khủng nhất của những chứng sinh quái thai. Ôi, sự hiểu
biết đáng buồn và tệ hại làm sao! Họ chỉ không biết một điều là: Mọi hiện
tượng sinh lý học và sinh vật học (huống hồ là tâm lý học) đều tùy vào thức
ăn du nhập hay đồng hóa của môi trường theo nghĩa rộng nhất. Cơ sở đời
sống sinh lý đầu tiên của chúng ta nằm trong thực phẩm của mình. Và thực
phẩm hứa khả cho chúng ta mọi sự tự do và mọi hạnh phúc, chúng phải hòa
hợp đầy đủ với Vũ trụ quan.
Sửa chữa cái hiểu biết tồi tệ này hay khai mở trí phán đoán tối cao thì
khó khăn gấp bội:
1. Vì chính cái trí phán đoán tệ hại của đương sự;
2. Bởi sự hiểu biết về Vũ trụ quan (triết học biện chứng nhất nguyên)
chí nằm ở chỗ phiến diện và trí thức mà không trong thực tiễn.
Nhưng việc chữa trị cũng dễ dàng và thú vị gấp bội bởi vì trí phán đoán
bị che lắp, tồi tệ, chắc chắn đi đến chỗ thảm họa không trừ một ai và đương
sự cố gắng hết sức mình để ra khỏi nó bằng bất cứ giá nào; và với cái la bàn
gọi là Âm Dương trong tay, người ta có thể sử dụng và củng cố tự do vô hạn
của mình bằng cách săn sóc những người khốn khổ.
Nhưng tại sao cái sự hiểu biết tệ hại này (quái thai tinh thần), hoặc
trong khoa học hoặc trong đạo Thiên chúa ở Tây phương quá phổ thông đến
thế? Đó là chỗ quan trọng của thức ăn quân bình tự nhiên và truyền thống.
Đồ ăn phương Tây phát lộ cho biết cái lỗi quá đáng của khoái lạc cảm giác có
từ năm mươi năm trở lại đây. Đó là nỗi buồn của một dân tộc không có “kim
chỉ nam”...
V. MỤN CÓC
Người ta không để ý gì đến mụn cóc. Họ coi nó như một thứ gì vô
nghĩa và vô ích. Mà vô ích là có hại. Nói thực ra là vô cùng khó có hay hầu
như không thể nào có một phụ nữ và nhất là một cô gái trẻ mang nhiều mụn
cóc mà trở nên một người sung sướng cho được, ngay cả họ đẹp, họ quyến
rũ, giàu có và thông minh.
Mụn cóc sinh ra là do thừa đạm động vật. Vậy đàn bà hay con gái có
mụn cóc thì ích kỷ, độc đoán, hà tiện bởi vì họ tiêu thụ nhiều chất đạm hơn tỉ
lệ cho phép bởi thiên nhiên. Họ được dành cho các bệnh da thịt chai cứng,
sưng khớp, phong thấp, liệt cơ mặt, đẻ non hay vô sinh, một hay nhiều đứa
con bất hiếu, chồng bỏ,v.v... và mọi bất hạnh.
Y học đối chứng không chữa được mụn cóc mà tiêu diệt nó một cách
bạo tàn. Nhưng việc làm đó vô ích bởi vì chúng mọc lên mụn này đến mụn
khác. Y học tàn phá mụn cóc bằng bạo lực, nó há không phải chính là sự dốt
nát và bạo lực này há không phải là cái đại diện cho sự dốt nát đó sao?
Có một lần tôi đã chữa trị một cô gái trẻ bị mụn cóc. Cô có đến hai trăm
mụn. Mụn to nhất lớn bằng một hạt dẻ bự; những mụn nhỏ thì như đậu xanh,
đậu nành, lúa mì. Người cô toát ra một thứ mùi ghê tởm. Cô rất khó tính. Cô
vốn là một đứa bé, con nuôi của một bà đỡ cực Dương.
Trong những tuần đầu, những mụn cóc bắt đầu xẹp. Trong ba tháng
mọi mụn đều rụng mà không có một cuộc đụng chạm nào đến. Cô trở nên
đẹp đẽ và mùi hôi đã biến.
Có điều lạ, ba tháng sau cuộc chữa lành hoàn toàn, vài mụn cóc nhỏ lại
xuất hiện. Tôi đã tìm thấy ngay kẻ tội phạm, nguyên nhân chính. Cô đã tự ý
lén ăn các con tôm chiên mà bà mẹ nuôi rất hảo và luôn làm. Ngày nào cũng
vậy bà đều đi vắng từ sáng sớm cho đến tối mịt mới về, cô con gái tưởng
rằng tội của mình không một ai có thể phát giác. Nhưng thực phẩm, một khi đi
vào ống tiêu hóa, liền chuyển thành máu nuôi chúng ta về mặt sinh lý học và
tạo “Karma”(Nghiệp, N.D.) của chúng ta, cái tội tổ tông luôn luôn đợi đấy. Tâm
lý học nằm trong sinh lý học. Cử chỉ thái độ của chúng ta là một phát biểu
thực phẩm ta ăn về mặt thai sinh học và sinh lý học.
Trong y học đối chứng, người ta quan tâm đến mụn cóc một cách
nghiêm túc dưới tiêu đề: “CHẨN ĐOÁN LÒNG BÀN TAY VÀ GAN BÀN CHÂN
CÓ DA SỪNG, CHẨN ĐOÁN U Ở DA, v.v...”
1. Nếu không bị da dày do công việc lao động của đương sự là nghĩ
đến một thứ bệnh Chàm da dày. Ngoài ra, tìm kiếm chứng giang mai và lậu.
Để ý những vảy biểu bì còn sót lại, nếu không có các dấu hiệu bệnh ghẻ chốc
hay chứng lở sùi da phẳng, thì phải biết rằng có một bệnh chai da mang tính
gia đình hay bệnh Méléda,v.v...
2. Mụn cóc thông thường...
Người ta tìm thấy ở đó vô vàn chi tiết lặt vặt, nhưng không bao giờ bắt
được cái nguyên ủy cần phải loại trừ. Ngược lại, người ta kiếm theo thường
lệ nhiều cái tên của các bệnh khác coi như là nguyên nhân giang mai, lậu,
ung thư, v.v... những bệnh này chỉ là những tên của những bệnh chưa biết
khác.
Coi như chữa trị, dùng: vaseline salicylée, ionisation iodée, quang tuyến
X, điện phân (electrolyse), cắt bỏ, v.v...
Ngu dốt biết bao và tàn bạo biết chừng nào!
Nếu người ta tàn phá cái báo hiệu của lòng ích kỷ, tính tủn mủn, lặt vặt
thì thế gian và loài người sẽ trở thành cái gì đây?
VI. “GOUROU” (THẦY) THÌ KHÔNG THỂ BỊ BỆNH
Ở Viễn - Đông, có hai hạng Thầy (Maitre). Không nên lẫn lộn. Thứ nhất,
chữ “sensei - Tiên sinh” (thầy, trong cái nghĩa rộng nhất) dịch theo từng chữ
là “cái gì sinh ra trước”(ce qui est né avant). Vậy tất cả người nào sinh trước
các bạn, đều là “thầy” các bạn trên nguyên tắc. Đó là cấu trúc cơ bản của xã
hội hòa bình Đông phương. Nó mang tính cách vật lý, sinh vật học và sinh lý
học trước tất cả. Nó tự nhiên và nhu nhuyến.
Hạng thầy thứ hai gọi là “Gourou”, “Si”, “Sri” hay cũng “Sensei”. Thật
nghĩa của những chữ này là “người dẫn đường”, “người tự do”, giải thoát khỏi
mọi khó khăn và bất hạnh. Người thầy không thể và không được bệnh dầu ở
trong hoàn cảnh nào. Người thầy phải trường sinh (macrobiotique). Ông phải
hướng dẫn về nẻo tự do vô hạn, hạnh phúc vĩnh cửu và công bình tuyệt đối
cho tất cả những ai mà mình gặp trên đường đời. Kẻ nào sống lâu dài nhưng
không dạy ai con đường hướng về Cõi ân đức và hỉ lạc vô cùng vô tận thì
hoàn toàn không phải là “thầy”.
Đó là tiêu chí về sinh vật học, sinh lý học, về xã hội và luận lý của “thầy”
hay của “gourou”. Người thầy phải không những chỉ sống thọ và hạnh phúc,
mà còn đem hết cuộc đời và trí tuệ của mình chỉ mãi mãi cho mọi người thấy
một cách thực tiễn con đường tốt nhất đi đến hạnh phúc vĩnh viễn (hòa bình
xã hội) và tự do vô hạn (tự do cá nhân). Tóm lại, cuộc đời ông thầy phải là
một gương mẫu của con người tự do, mạnh khỏe, ở đâu cũng được thiên hạ
yêu thương.
Ông “thầy” Đông phương không được phép ốm đau cũng không được
lệ thuộc vào thuốc men hay các ngành khoa học khác hoặc ngay cả một khí
cụ nào. Ông chính là con người nhu hòa nhẫn nhục, về mặt sinh lý học và
tâm lý học: Thiền giả. Vậy tất nhiên là ông ốm, không mập béo như một thầy
tu! Ông không phải cứu độ những kẻ khốn khổ và các bệnh nhân bằng đôi
bàn tay của mình. Ông có nghĩa vụ chỉ những cách hữu hiệu nhất để khôi
phục tự do vô hạn mà không cần dùng đến một khí cụ “Wu Wei”(hữu vi,N.D.)
nào. Vậy nên chủ nghĩa vị tha được xem như cái tạo ra đám ăn mày, bọn lệ
thuộc và dân nô lệ.
Những ông thầy đạo Thiên chúa ở Tây phương, những người thuyết
giảng con đường Đông phương có phải là những “thầy” Đông phương
chăng? Ở Tây phương có nhiều nhà thương và nhiều y sĩ Cơ Đốc giáo hay
Tin Lành. Điều đó có nghĩa là đạo Thiên Chúa không có Jesus. Jesus đã
chữa tất cả. Ngài không bao giờ nhấn mạnh việc cần phải có bệnh viện và y
sĩ. Ngài đã chữa tất cả bằng sự cầu nguyện và nhịn ăn. Ngài không dạy y
khoa đối chứng trị liệu ngay cả cho tông đồ mà mình phái ra nước ngoài, trái
với những giáo sĩ ngày nay.
Đạo Thiên Chúa bị tước mất y học của Jesus không còn là đạo Thiên
Chúa nữa. Đó là cái lỗi lầm cố cựu mà người Tây phương phạm phải.
Mong sao đạo Thiên Chúa trở lại đạo Thiên Chúa!
VII. KHÔNG Gì DỄ BẰNG VIỆC CHỮA LÀNH BỆNH
Không gì dễ bằng việc chữa lành bệnh hay làm cho hết khổ đau. Bởi vì
chữa khỏi bệnh là ngưng phản bội Trời hay ngừng vi phạm Vũ trụ quan bằng
bạo lực hiện đại hóa ít nhiều đẫm máu và hoàn toàn vô ích trong đời sống
hằng ngày và trong sự ăn uống.
Không gì dễ hơn việc kiếm lấy chiếc chìa khóa mở cửa Cõi Thiên Đàng
bởi vì tất cả mọi người đều biết làm thế nào để tạo cái chìa ấy: Thập tự giá
của đạo Thiên Chúa, của đạo Do Thái, chữ Vạn của đạo Phật,v.v... Trong
nước Nhật truyền thống, bộ áo quần đầu tiên của em bé mới sinh mang chữ
thập Do Thái nơi lưng.
Không gì dễ đạt hơn sự tự do vô hạn, mối hạnh phúc vĩnh cửu và lẽ
công bằng tuyệt đối, bởi vì chỉ có sự tự do vô hạn, lẽ công bằng tuyệt đối và
lòng tri ân bất tận trong vũ trụ tâm linh của chúng ta. Ở đó tất cả đều được
tặng biếu và tất cả đều được sắp sẵn từ khởi thủy vô thủy để cho chỉ chúng ta
mà thôi.
Không gì dễ hơn việc khắc phục cảnh bất hạnh trong thế gian tương
đối này, bởi vì không có một ông vua-độc tài-chuyên chế nào bắt chúng ta
làm nô lệ, không có luật lệ nào hạn chế cử chỉ của chúng ta trong vũ trụ tuyệt
đối khi mà thế giới tương đối so với nó chỉ là một điểm kỹ hà, ngoài ra còn
mang chất tưởng tượng nữa. Nếu như có những ông vua hay những luật lệ
đọa đày chúng ta, thì chúng luôn luôn là hữu hạn và chóng tàn.
Không gì dễ hơn và thú vị hơn việc vượt qua những khó khăn trong thế
gian tương đối này, bởi vì tất cả đều do Âm và Dương sinh ra mà chúng ta thì
biết làm thế nào để kiểm soát nhờ cái la bàn Âm - Dương của mình.
Đời sống đẹp khi chúng ta biết nhắm hướng theo cây kim chỉ nam, nền
triết học nghịch thường.
Tội nghiệp thay cho đám pháp sư và thầy tu đạo đức giả, bọn đeo đuổi
vật chất hoặc duy tâm, chúng quá giàu trên bình diện kinh tế hay trí thức.
VIII. Bảy điều kiện về sức khỏe
A. Điều kiện sinh lý
1. Không thấy mệt (5 điểm)
Mình phải không bao giờ cảm thấy mệt mỏi. Không bao giờ dùng
những lời như: “Khó quá” hay “Không thể nào làm được”.
2. Ăn thấy ngon (5 điểm)
Phải cảm thấy biết ơn khi dùng bất kỳ món ăn thiên nhiên nào. Ăn thấy
ngon cũng quan hệ đến việc cảm thấy thích thú trong tính dục.
3. Ngủ ngon (5 điểm)
Bình thường giấc ngủ từ 4 đến 6 tiếng đồng hồ phải làm mình hoàn
toàn thỏa mãn. Không nằm mơ; thức, ngủ đúng giờ đã định trước.
B. Điều kiện tâm tý
4. Ký ức tốt (10 điểm)
Phải có một trí nhớ tốt trong các lãnh vực đổi thay nhiều nhất.
5. Tính tình tốt (10 điểm)
Không còn các thói cáu quạu, nổi giận; có nhiều bạn; không bao giờ sợ
mất mát bạc tiền hay của cải khi làm việc nghĩa.
6. Phán đoán và xử lý nhanh (10 điểm)
Phải nhanh như chớp và chính xác. Lập lại trật tự ở mọi bình diện. Phải
mau mắn, hòa nhã và minh bạch.
7. Công bằng (55 điểm)
Không bao giờ nói dôi để tự vệ;
Đúng, chính xác;
Yêu mọi người;
Luôn luôn kiếm những khó khăn, thấy được chúng, khắc phục chúng,
giải quyết chúng và dùng hết sức mình mà chiến thắng;
Càng ngày càng sung sướng, phân phát ánh sáng và hạnh phúc trong
toàn cõi thế gian;
Không bao giờ ngờ vực, chuyển họa thành phúc.
Điều kiện sau cùng quan trọng nhất. Để hiểu thêm chi tiết, tham khảo
quyển “LE ZEN MACROBIOTIQUE” (Thực phẩm trường sinh và đạo Thiền)
và tạp chí YIN-YANG” từ tháng 7/1963 nơi tựa đề: “QU’EST-CE QUE LA
JUSTICE?” (Công bình là gì), cũng như những số tiếp theo.
LỜI BẠT CỦA DỊCH GIẢ
Vốn là một con người đau khổ bệnh hoạn về thể chất lẫn tinh thần,
không có phương pháp này thì tôi đã chết từ khuya, có lẽ khoảng 40 năm về
trước vì bất mãn cuộc sống. Ngày hôm nay tôi được khỏe mạnh, bình
thường, không dùng đến thuốc men đến mấy chục năm thì đối với một người
vốn không có sức khỏe việc đó quả là một hãn hữu. Với tự thân thì thấy tốt
đẹp nhưng nhìn đến tha nhân bệnh hoạn dẫy đầy mà họ sao không nghĩ đến
một giải pháp trọn vẹn, đôi lúc tôi thấy khó hiểu! Nhưng- nghĩ kỹ, tôi nhận ra
các sự kiện sau đây cản trở con đường tiến bước đến chỗ có thể nói là an lạc
của kiếp người:
1. Cá nhân người bệnh không có niềm tin
Quả thật phương pháp Ohsawa khó mà tin nếu người bệnh không có
một lần trải nghiệm nghiêm túc. Bởi vì sao? Thiên hạ thường viện câu nói của
người xưa và vội cho là đúng: "Đói ăn rau, đau uống thuốc", nên ai nghe qua
ăn cơm gạo lứt để chữa và phòng bệnh rất tuyệt vời thì phần đông đều mỉm
cười trong cái vẻ thương hại: sao có người lại cả tin như thế trong thời buổi
khoa học hạch tâm!
2. Tập thể quanh cá nhân con bệnh, không có niềm tin
Dầu cá nhân người bệnh nhờ đọc sách vở mà vỡ vạc cái đạo lý giản dị
nhưng những người chung quanh, vợ chồng con cái, bà con thân thích nhất
là những người có học thức, sống cao sang, không tin thì sự việc cũng không
ngã ngũ. Họ gây áp lực buộc con bệnh phải theo thiên kiến cố hữu của họ,
nhất nhất phải đi bệnh viện dầu vào đó thì gặp biết bao phiền toái về thời gian
và tiền của, còn việc hết hay không thì hãy đợi đấy! Và bệnh nhân thì sức yếu
thế cô không thể nào mà tự do theo nếp suy nghĩ mới mẻ cách mạng của
mình được
3. Phép ăn uống cổ xưa mà mới lạ này đối với vị giác của con người ngày nay coi bộ không hạp khẩu cho lắm.
Sao ngon bằng một bữa nhậu có hải sản, có thịt thú rừng ở các nhà
hàng sang trọng. Sao ngon bằng cơm trắng cá tươi chưa nhai đã chạy tuốt
vào bụng. Nhai cơm gạo lứt hoài tối thiểu là 50 lần/một miếng nhai, dẫu muốn
không nhai nuốt ngay cho khỏe cũng không được, mỏi cả cái hàm sai!
4. Món ngon vật lạ xung quanh ta, kề cận ngay tầm tay, chất đầy trong tủ lạnh, không dễ gì ai cũng từ khước.
Ăn được hạt cơm gạo lứt mà không cữ những gì sách vở căn dặn thi
coi như vô ích. Cách ăn uống đơn giản cách mạng đòi hỏi người bệnh phải xa
rời những gì gọi là bổ khỏe, cam nho lê táo, trong giai đoạn đầu, đâu phải dễ
dàng gì! Đơn giản mà khó là thế đó nhưng vô cùng bõ công đấy quý vị!
Ngoài bốn điều cơ bản trên, quá trình trải nghiệm cũng còn nhiều điều
nữa có thể là rất quan trọng cần học hỏi ở tự thân cũng như quanh những
người đi trước chứ đâu có việc cứng nhắc trong một nghệ thuật thần thánh
nếu ai đó còn thấy đôi điều bất ổn đối với mình.
Nói tóm lại, phương pháp Ohsawa mặc dầu là đơn giản mà cũng có cái
chỗ khó của nó, nhưng khó chi thì khó chứ cái chân tướng phổ thông giản dị
của nó, cái lý tưởng hạnh phúc khả dĩ thành tựu trong một kiếp người, quả là
xưa nay chưa từng có như Tiên sinh thường bộc bạch trong các tác phẩm
của mình để chúng ta tỉnh giác. Thành thử, hưởng được một pháp môn mang
đến cho mình những kết quả thực tiễn mà tôn giáo nào cũng nhắm đến, ai nỡ
điềm nhiên tọa thị để khổ đau cứ mãi mãi nhởn nhơ trên trần thế! Vậy có dịp
là những quyển sách của Tiên sinh Ohsavva dầu dịch, dầu nguyên tác, dầu
sáng tác sẵn sàng cất bước và đó cũng là những sợi dây đẹp kết chặt tình
huynh đệ trong sáng để có cơ hội là chúng ta cùng nhau làm đẹp làm tươi
cuộc đời hơn nữa.
MỤC LỤCA. LỜI NÓI ĐẦU
B. CHUẨN BỊ
C. NHỮNG CHỈ DẪN CƠ BẢN
I. CHẾ ĐỘ ĂN KIÊNG TRONG CÁC TUẦN ĐẦU
1. Uống ít nước
2. Ngưng dùng đường
3. Hãy dùng những thực phẩm sau
4. Tỉ lệ
5. Nhai kỹ
6. Hãy nhớ
II. CHẾ ĐỘ ĂN KIÊNG ĐẶC BIỆT
1. Nhịn ăn hoàn toàn trong một hay hai ngày, hoặc một hay hai tuần
2. Ngưng hoàn toàn
3. Tỉ lệ “ngũ cốc” và “lê ghim”
4. Ngưng mọi cuộc chạy chữa và dùng thuốc men.
5. Làm việc bằng tay chân càng nhiều càng tốt.
D. BÀO CHẾ CÁC MÓN TRƯỜNG SINH
I. DÙNG TRONG
1. Lá trà già 3 năm (bancha)
2. Cúc
3. Ngải cứu
4. Trà “Syôban” (trà xanh + tương nước)
5. Cháo gạo lứt rang
6. Nước gạo lứt rang
7. Muối mè
8. Cà phê Ohsawa
9. “Misô”
10. Misô chiên
11. “Tekka”
12. Bột ngũ cốc (“Kokkoh”)
13. Bột sắn dây
15. Kê
16. Phổ tai
17. Bánh cơm xắt khoanh
18. Cháo gạo lứt đặc biệt
19. Súp đậu huyết
20. Kem bột sarrazin
21. Súp củ cải số 1
22. Súp củ cải số 2
23. Củ sen
24. Gạo lứt sống
25. Kem gạo lứt
II. DÙNG NGOÀI
1. Áp nước gừng
2. Thuốc dán cao khoai sọ
3. Cao đậu nành
4. Nước đá khô
5. Cao diệp lục
6. Dầu mè
7. Dầu mè + gừng
8. Nước lá cải
9. Nước cốt trái pom
10. Nước cốt củ cải
11. Muối nóng
12. “Dentie” (thuốc nhức răng)
13. Nước cám gạo
E. KẾT LUẬN
F. CHỮA THEO PHƯƠNG PHÁP TRƯỜNG SINH - TIẾT THỰC
I. BỆNH ĐẦU VÀ NÃO
1. Sói.
2. Tóc hoa râm
3. Động kinh
4. Viêm màng não
5. Nhức đầu
6. Ngốc nghếch - Ngu dại
7. Tinh thần thác loạn
8. Mất ngủ
9. Bệnh buồn ngủ
10. Ngáp
II. MẮT
11. Loạn thị
12. Cận thị
13. Viễn thị
14. Cườm khô (Đục thủy tinh thể, Mắt vảy cá)
15. Cườm nước, tăng nhãn áp
16. Đau mắt hột
17. Bong võng mạc
18. Xuất huyết võng mạc
19. Mí mắt lộn ngược
20. Mù
21. Mù màu
III. TAI
IV. MŨI
V. MIỆNG
22. Câm - Điếc
23. Đau màng nhĩ
24. Viêm xoang
25. Sổ mũi và bướu thịt hố mũi
26. Nha chu
27. Nhức răng và rụng răng
VI. MẶT
28. Da mặt nám
29. Viêm khớp xương mặt, Đau dây thần kinh mặt
30. Mụn
VII. HỌNG
VIII. VAI
31. Suyễn
32. Bướu dạng tuyến ở cổ (Vegetations adénoides)
33. Ho và ho gà, ho lao
34. Sung huyết
IX. NGựC
35. Hiệp tâm chứng
36. Huyết thuyên tắc
37. Ho sưng cuống phổi
38. Viêm màng phổi
39. Ung thư thực quản
40. Ung thư phổi
41. Mục xương (Xương sườn, xương sống, xương hông,...)
X. BỤNG
42. Ung thư dạ dày
43. Ung loét dạ dày
44. Dạ dày suy nhược
45. Viêm dịch dạ dày
46. Khó tiêu
47. Đầy hơi
48. Dạ dày dư axit
49. Dạ dày co rút
50. Dạ dày trương giãn
51. Xệ dạ dày
52. Nấc cụt
53. Gan
54. Viêm dịch túi mật
55. Lá lách
56. Táo bón
57. Viêm dịch Bàng quang
58. Viêm ruột thừa
59. Ung loét đầu ruột non
60. Trĩ
61. Sa ruột
62. Thủy nang
63. Thận
64. Sỏi thận, bàng quang, túi mật...
65. Viêm dịch hoàn
66. Đau buồng trứng
67. Bệnh tử cung
XI. CHÂN
68. Bệnh sùi da voi
69. Bại liệt
70. Bại
71. Phong thấp
72. Bại co giật
73. Bàn chân bằng phẳng
XII. TOÀN THÂN
74. Bệnh biến ứng
75. Béo phì
76. Tê phù
77. Chàm
78. Mệt mỏi
79. Bạch ban
XIII. DỤC VỌNG - KHUYNH HƯỚNG XÂU
80. Nghiện rượu - Thuốc phiện - Dược phẩm
XIV. NHIỄM TRÙNG
81. Chứng sợ nước - Bệnh dại
82. Bệnh Phong
83. Sốt não tủy
84. Cúm truyền nhiễm, Cảm lạnh
85. Cúm, Sốt rét
86. Dịch hạch
87. Ban đỏ, sốt vàng da - Hoàng nhiệt - Xem mục số 85, 86.
88. Thổ tả
89. Kiết amib và lỵ khuẩn
90. Đi tả
91. Thương hàn
92. Viêm ruột, Viêm dạ dày
93. Sởi
94. Dậu mùa
95. Bị chuột cắn
96. Tĩnh mạch trướng
G. PHỤ LỰC
I. NƯỚC TIỂU CÓ CHẤT LÒNG TRẮNG TRỨNG
II. BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
III. BỆNH TIM
1. Tim bất túc
2. Hiệp tâm chứng (Tử vong 90% trong vòng 20 năm. Lian)
3. Tim đập không đều
4. Tim đập mau kịch phát hay bệnh Bouveret
5. Mạch chậm thường xuyên
6. Tim phong thấp
7. Tim Basedow
8. Tim liệt
9. Tim già
10. Cơ tâm ngạnh tắc
11. Đau màng trong tim ác tính ngấm ngầm tức bệnh osler
12. Đau màng trong tim ác tính cấp tính (Tử vong 100%!)
13. Đau màng ngoài tim
14. Bao tâm tiếp hợp (symphyse péricardique) (Tử vong 100%)
15. Đau van tim
16. Bất túc van hai lá đau van hai lá hẹp động mạch (Xem Đau van tim
mục số 15)
17. Hẹp van hai lá
18. Viêm động mạch
19. Động mạch lựu (Tử vong 100%!)
20. Cứng động mạch
21. Huyết áp cao bền
22. Cứng huyết quản ác tính
IV. SINH CON DỊ DẠNG
V. MỤN CÓC
VI. “GOUROU” (THẦY) THÌ KHÔNG THỂ BỊ BỆNH
VII. KHÔNG GÌ DỄ BẰNG VIỆC CHỮA LÀNH BỆNH
VIII. BẢY ĐIỀU KIỆN VỀ SỨC KHỎE
---//---
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
VỀ NỀN Y HỌC TRƯỜNG SINH VIỄN ĐÔNG
Tác giả: GEORGE OHSAWA
Người dịch: HUỲNH VĂN BA
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN
43 Lò Đúc - Hà Nội - ĐT: 04.9 719 512
CN: Số 7 Nguyễn Thị Minh Khai - TP.HCM
ĐT/Fax: 08. 8222 521
Chịu trách nhiệm xuất bản: BÙI VIỆT BẮC
Chịu trách nhiệm bản thảo: LÊ TIẾN DŨNG
Biên tập: MẠNH HÙNG
Sửa bản in: NGỌC ANH
Trình bày: THANH TRANH
Bìa: ĐÌNH KHẢI
Thực hiện liên doanh:
CÔNG TY TNHH TM & DỊCH VỤ VĂN HÓA HƯỚNG TRANG
416 Nguyễn Thị Minh Khai - Phường 5 - Q.3 - TP.HCM
ĐT: (84.8) 38322386 - 38340990 - Fax: (84.8) 38249739
Email: [email protected] - Web: www.huongtrang.net
In 1.000 cuốn, khổ 13 x 19cm, tại Công Ty In Liên Tường. GPXB số: 243-
2008/CXB/110-36/VHTT và QĐXB số: 245/QĐ-VHTT, ngày 20-03-2008. In
xong và nộp lưu chiểu Quý II - 2008.