Upload
docong
View
224
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
hoav
BP.NGHIÊN CỨU&PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (08) 38 469 516 (1813/1815) – [e] [email protected]
Điểm nhấn trong điều chỉnh chính sách tỷ giá
những ngày qua là Ngân hàng Nhà nước sử dụng
công cụ giao dịch kỳ hạn khẳng định tính linh hoạt
trong chính sách điều hành. Với việc cho phép sử
dụng sản phẩm mua kỳ hạn giúp ngân hàng thương
mại có thêm lựa chọn bán ngoại tệ cho Ngân hàng
Nhà nước trong tương lai với mức giá hiện tại, mà
không lo giá sẽ giảm trong tương lai. Động thái này,
theo đánh giá của chuyên gia, sẽ mang lợi kép cho
ngân hàng thương mại, giúp các ngân hàng vừa chủ
động cân đối nguồn ngoại tệ vừa có thêm nguồn vốn
cho hoạt động kinh doanh đang bước vào những
tháng cao điểm.
Tin nổi bật
Trong vòng 10 ngày, tín dụng tăng thêm 1,14%
Lãi suất huy động sẽ tăng dịp cuối năm
Điều hành tỷ giá ngày càng linh hoạt
Chưa nên đánh thuế tiền lãi tiết kiệm
Người Việt chưa giàu đã già lại gánh nợ công
quá lớn
IMF: Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục
dẫn dắt tăng trưởng kinh tế toàn cầu
Trung Quốc - Tăng trưởng GDP Q.III giảm vì
các biện pháp hạ nhiệt thị trường bất động sản
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 19/10)
VN - Index 828,93 0,15%
HNX - Index 109,08 0,31%
D.JONES CK Mỹ 23.163,04 0,02%
STOXX CK C.Âu 3.602,08 0,49%
CSI 300 CK TQ 3.931,25 0,33%
Vàng (SJC cập nhật 08h10 ngày 20/10)
SJC Ng.đ/L 36.550 0,08%
Quốc tế USD/Oz 1.286,90 0,55%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.459 0,01%
EUR/USD 1.1848 0,34%
Dầu
WTI USD/th 51,35 1,48%
6
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Trong vòng 10 ngày, tín dụng đã tăng
thêm 1,14%
Tại Hội thảo “Nâng cao hiệu quả Kết nối NH - DN 2017” tổ chức ngày 19/10,
lãnh đạo NHNN cho biết, 9th đầu năm, tín dụng toàn hệ thống 12,16% sv
cuối năm 2016, là mức tăng trưởng khá cao sv 1 số năm gần đây. Trong đó, tín
dụng nông nghiệp nông thôn 17,6%, tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp
17,75%, XD 19%, tín dụng lĩnh vực thương mại và DV 18,1% sv cuối năm
2016. Dư nợ cho vay đối với DNVVN đến cuối tháng 8 chiếm 21% dư nợ nền
KT, 7,5% sv 31/12/2016. TTTD đã hỗ trợ tích cực giúp GDP 9th đầu năm
6,41%, cao hơn nhiều sv mức 5,99% của 9th đầu năm 2016. Tính đến cuối
năm 2016 đã có gần 700 Hội nghị đối thoại giữa NH và các cấp chính quyền
với DN được tổ chức tại 63 tỉnh, thành phố của cả nước và đã tháo gỡ khó
khăn cho #75.000 DN với nhiều hình thức. Tổng số tiền các NH cam kết cho
vay mới đạt khoảng 1.200.000 tỷ đồng với LS cho vay mới phổ biến ở mức 6-
9%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn, 8-10%/năm đối với các khoản vay
trung, dài hạn. Các NH thực hiện gia hạn nợ, cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ, nâng hạn
mức tín dụng, điều chỉnh giảm LS cho các khoản vay cũ của khách hàng,… với
dư nợ khoảng 88.000 tỷ đồng. Riêng 9th đầu năm 2017, đã có trên 300 buổi
gặp gỡ, đối thoại giữa NH - DN được tổ chức. Qua đó, các NH cam kết cho vay
DN mới gần 570.000 tỷ đồng và đã giải ngân hơn 550.000 tỷ đồng cho KHDN;
số tiền được gia hạn, cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ là gần 30.000 tỷ đồng. Ngoài ra
các NH còn áp dụng các hình thức hỗ trợ khác như giảm LS cho vay đối với
các khoản vay cũ cho DN với tổng dư nợ được hỗ trợ gần 20.000 tỷ đồng.
Lãi suất huy động sẽ tăng dịp cuối năm
Cuối năm thường là cao điểm để NH hút vốn nhằm cung ứng cho hoạt động tín
dụng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, 1 số NH đã “rục rịch” tăng LS huy động 0,1-
0,4% và tung ra các CTKM để hút khách hàng gửi tiền… Theo PTGĐ
Agribank, tăng LS huy động là tín hiệu từ thị trường, hoàn toàn do thị trường
điều tiết nhưng vẫn có sự giám sát của NHNN để đảm bảo thị trường ổn định,
hoạt động theo những chỉ tiêu đặt ra. Hơn nữa, thanh khoản của NH vẫn tương
đối tốt, thậm chí là thừa vốn nhưng NH vẫn phải tăng nhẹ LS huy động để
cạnh tranh, giữ khách hàng; đối với TCTD nhỏ, LS huy động tăng cuối năm còn
nhằm đảm bảo các chỉ tiêu theo tỷ lệ an toàn mà NHNN quy định… Theo
NHNN, đến 20/9, tín dụng 11,02% sv cuối năm 2016 - mức tăng cao sv các
năm gần đây (cùng kỳ 2016 10,46% và cùng kỳ 2015 10,78%). Như vậy, kết quả
này vẫn cách khá xa sv mục tiêu TTTD ở mức 21% do Chính phủ đề ra.
Khoảng cách này sẽ đặt ra thách thức cho tín dụng trong Q.IV phải đạt con số
ấn tượng để hiện thực hóa mục tiêu TTTD của cả năm 2017. Trên thực tế,
Tài chính – Ngân hàng
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
NHNN vẫn đang điều hành CSTT 1 cách hợp lý, giúp đảm bảo thanh khoản ổn
định. NHNN đã mua vào ròng 1 lượng đáng kể ngoại tệ trong Q.III (khoảng 3 tỷ
USD) nhằm tăng dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, áp lực vốn cuối năm sẽ gia tăng
áp lực lên thanh khoản của hệ thống NH, từ đó tác động đến mặt bằng LS.
Điều này được thể hiện khi LS LNH đang có xu hướng tăng nhẹ đối với loại kỳ
hạn qua đêm và 2 tuần, biên độ tăng ở mức 0,03-0,12%, phần nào cho thấy
thanh khoản đã bớt dư thừa… Với người tiêu dùng, NH tăng LS huy động là tín
hiệu tốt để gửi tiền vào NH nhưng với DN, LS cho vay có thể rơi vào “bế tắc”
khó giảm, trong khi chủ trương của Chính phủ là hệ thống NH phấn đầu giảm
LS cho vay, giúp DN phục vụ SXKD. Theo các chuyên gia của Viện Nghiên
cứu KT và Chính sách (VEPR), lượng cầu tiền mặt vào cuối năm có thể tạo ra
rào cản đối với việc thực hiện y/c tiếp tục giảm LS cho vay thêm 0,5% từ nay
đến cuối năm của Chính phủ đưa ra vào đầu tháng 10. Vì thế, các chuyên gia
khuyến nghị NHNN cần thận trọng theo dõi sát diễn biến thị trường để hỗ trợ
thanh khoản kịp thời. Có thể thấy, “bài toán” LS vào những dịp cuối năm luôn
làm đau đầu các nhà quản lý, nhất là trong bối cảnh hệ thống TCTD phải góp
phần đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng. Do đó, sự điều phối hợp lý từ cơ quan
quản lý và chiến lược tăng trưởng, hút vốn, đầu tư vốn đúng đắn của NHTM là
điều cần thiết, tránh những ảnh hưởng bất lợi lên thị trường tài chính - tiền tệ.
Điều hành tỷ giá ngày càng linh hoạt
Quan sát thị trường những ngày qua, TS.Nguyễn Thị Mùi đánh giá tích cực
những điều chỉnh trong điều hành chính sách tỷ giá của NHNN phù hợp với
thực trạng diễn biến cung - cầu ngoại tệ trên thị trường, đồng thời phối hợp
chặt chẽ trong việc điều hành CSTT 1 cách linh hoạt chủ động hơn. Khi thấy xu
hướng USD giảm giá vẫn tiếp diễn, NHNN chủ động mua vào một lượng lớn để
tăng dự trữ quốc gia. Song song với hoạt động này, NHNN đã tăng khối lượng
tín phiếu NHNN với kỳ hạn dài hơn để hút bớt tiền đồng đã đưa ra mua ngoại
tệ, không tạo áp lực cung tiền. Điểm nhấn trong điều chỉnh chính sách tỷ giá
những ngày qua là NHNN sử dụng công cụ giao dịch kỳ hạn khẳng định tính
linh hoạt trong chính sách điều hành của NHNN. Với việc cho phép sử dụng
sản phẩm mua kỳ hạn giúp NHTM có thêm lựa chọn bán ngoại tệ cho NHNN
trong tương lai với mức giá hiện tại, mà không lo giá sẽ giảm trong tương lai.
Động thái này, theo đánh giá của 1 chuyên gia, sẽ mang lợi kép cho NHTM,
giúp NH vừa chủ động cân đối nguồn ngoại tệ vừa có thêm nguồn vốn cho
hoạt động KD đang bước vào những tháng cao điểm… Diễn biến tỷ giá những
tháng qua được cho là khá bất ngờ đối với thị trường khi nhìn lại ¾ chặng
đường đã qua. Hồi đầu năm, tỷ giá được cơ quan điều hành, hoạch định chính
sách cũng như nhiều phân tích của các chuyên gia, tổ chức trong nước cũng
như quốc tế đánh giá là chịu khá nhiều áp lực. Tỷ giá có thể 2-3% từ việc
cán cân TTQT sẽ không thuận lợi như 2016, nhất là USD - đồng tiền chủ chốt
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
trong rổ tính tỷ giá của VN mạnh lên. Cùng với đó là sự phục hồi của nền KT
Mỹ và lộ trình tăng LS của FED với số lần tăng dự báo sẽ nhiều hơn năm
trước, nhiều đồng tiền lớn khác trong KV giảm giá mạnh, lạm phát có khả năng
tăng khi giá hàng hóa thế giới phục hồi… Đến thời điểm này theo tính toán
TS.Cấn Văn Lực, tỷ giá chỉ 1%, tổng mức tăng cả năm chỉ đến 1,5% cho
thấy tỷ giá của VN khá ổn định. Cơ sở để NHNN có thể giữ tỷ giá ổn định được
TS Nguyễn Thị Mùi nhận định chính là chính sách tỷ giá trung tâm đã bám sát
diễn biến thị trường, tạo điều kiện cho NHNN có dư địa để chủ động điều chỉnh
chính sách linh hoạt hơn. Dựa trên diễn biến trên thị trường trong nước và quốc
tế, từ nay đến cuối năm áp lực lên tỷ giá vẫn còn nhưng không đáng kể. TS.
Cấn Văn Lực lưu ý động thái FED có thể tăng LS vào tháng 12 tới cũng có tác
động nhất định, nhất là về tâm lý. Nên NHNN theo dõi sát hơn quan hệ cung
cầu về ngoại tệ để có can thiệp kịp thời. “Ở VN, yếu tố thị trường có khi ảnh
hưởng không lớn bằng yếu tố tâm lý. Vì vậy, công tác truyền thông cần phải
đẩy mạnh hơn nữa dù thời gian qua đã thực hiện khá tốt. Chung quan điểm tỷ
giá cả năm 2017 chỉ biến động ở mức 1-2% nhưng TS. Nguyễn Trí Hiếu khá
thận trọng khi cho rằng, từ nay đến cuối năm vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố
khó lường, như FED có thể tăng LS hay tình hình chính trị, quân sự diễn biến
rất phức tạp. Nếu có xung đột quân sự xảy ra chắc chắn sẽ là một áp lực lớn
lên điều hành tỷ giá trong nước khi USD tăng giá. TS. Nguyễn Thị Mùi cũng
nhấn mạnh việc cần phải theo dõi diễn biến thị trường ngoại hối cuối năm, khi
nhu cầu ngoại tệ lớn hơn, có nhiều khía cạnh tác động làm cho tỷ giá có xu
hướng biến động... NHNN cần lường trước để tránh những cú sốc từ các yếu tố
tác động bên ngoài, bên trong của nền KT. Quan trọng nhất là làm sao điều
hành giữ LS ổn định. Vì tỷ giá, LS có mối quan hệ rất mật thiết với nhau.
Chưa nên đánh thuế tiền lãi tiết kiệm
Dù đồng tình với lập luận của đề xuất về sự bình đẳng trong thu thuế nhưng
BVSC cho rằng hiện vẫn chưa phải là thời điểm thích hợp để đề xuất này được
áp dụng ngay vào thực tiễn. Lý do đây không phải là nguồn thu lớn cho ngân
sách, cái lợi thu được là rất nhỏ sv phản ứng của dư luận nói chung cũng như
tác động tiêu cực nói riêng có thể gây ra đối với tâm lý của người gửi tiền.
Trong khi đó, so sánh với các kênh đầu tư khác, mức thuế 5% là chưa đủ lớn
để khiến những người có khoản tiền lớn từ bỏ kênh tiết kiệm để chuyển sang
đầu tư góp vốn, mua cổ phần, trái phiếu, cho vay… Đa phần những người
chọn lựa kênh tiết kiệm hiện nay ưu tiên tính an toàn hơn là sinh lãi. Họ chấp
nhận mức lãi suất “vừa đủ” với kỳ vọng của họ thay vì rủi ro nên dù bị chịu thuế
chưa chắc họ đã dịch chuyển sang các kênh kém an toàn hơn như CK, BĐS...
Kể cả trong trường hợp muốn dịch chuyển, họ có thể cũng sẽ ưa thích kênh
vàng và ngoại tệ hơn như 1 địa chỉ thay thế vì vẫn đảm bảo được sự an toàn
cho đồng vốn. Khi đó, rủi ro sẽ lại đến với thị trường vàng và ngoại hối - 2 thị
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
trường mà NHNN đã phải tốn rất nhiều công sức để bình ổn những năm qua.
Thêm vào đó, trong bối cảnh hiện nay, sức khỏe hệ thống NH mới chỉ ở mức
ổn định chứ chưa đủ bền vững để có thể áp dụng ngay càng biện pháp tiềm ẩn
rủi ro đối với thanh khoản hệ thống. Nếu không được giải thích thấu đáo, đề
xuất áp thuế đối với tiền gửi NH có thể sẽ kích động tâm lý rút tiền hàng loạt
của người dân. Khi đó thanh khoản hệ thống có thể sẽ bị tác động mạnh.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Người Việt chưa giàu đã già lại gánh
nợ công quá lớn
TS.Vũ Sĩ Cường cho rằng, từ 2011, nợ công tăng rất nhanh, mức tăng trung
bình 5 năm qua là 18,4%, gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng KT. Đến 2016, nợ công
khoảng 64,3% GDP, sát ngưỡng cho phép của Quốc hội là 65% GDP. Nợ công
tập trung chính vào 3 chủ nợ, trong đó vay World Bank với 274.200 tỷ đồng
vào cuối năm 2015, 11 lần sv 2001; Vay ADB 2001 là 7.500 tỷ đồng, đến
2015 là 151.000 tỷ đồng; Vay Nhật tăng từ 35.900 tỷ đồng năm 2001 lên
243.900 tỷ đồng vào cuối 2015. So với quy mô nợ tính trên GDP của VN và
quốc tế, theo số liệu thống kê của IMF thì nợ công VN cao hơn hầu hết tất cả
các nước. .. Thực tế, nợ công của VN có rất nhiều rủi ro gồm nghĩa vụ trả nợ
chính phủ trên thu ngân sách là có xu hướng tăng cao. Chính vì vậy, VN phải
dùng kỹ thuật "đảo nợ", nghĩa là vay nợ mới để trả nợ cũ. Điều này có nghĩa
ngân sách đã không đủ nguồn để trả nợ gốc. "Thông thường các nước có nợ
công cao là các nước giàu nhưng chúng ta lại rơi vào nghịch lý là nước có thu
nhập trung bình. Dân số đang già quá nhanh, NSLĐ BQ thấp tạo ra nguy cơ
chưa giàu đã già mà vay nợ nhiều. Trong khi đó, các nước ở trình độ phát triển
như VN thì vay nợ rất thấp"… Theo TS.Lê Đăng Doanh, cần phải thực sự
chấm dứt được sự tùy tiện, lỏng lẻo và các sơ hở để gây nên "núi nợ công".
"Thực tế, về chính sách thu, khi tăng sắc thuế này, thuế kia, phía Bộ Tài chính
thường hay lý giải tăng theo thông lệ quốc tế. Nhưng thông lệ quốc tế về chi thì
ít ai nói đến. Các nước quy định về chi hết sức chặt chẽ, chặt chẽ đến mức tàn
nhẫn". Do đó, VN cần phải có tham khảo thông lệ quốc tế về chi ngân sách vì
thực tế trong nhiều năm bội chi tăng cao, dẫn đến phải đi vay nợ để chi cho
đầu tư phát triển. "Chi thường xuyên lên đến 71%, chi trả nợ bằng 24,5% tổng
chi ngân sách. Cộng 2 khoản này lại thì chi đầu tư còn rất ít ỏi. Và chi đầu tư
hoàn toàn dựa vào khoản vay, có lúc chi thường xuyên cũng phải đi vay. Đây
là điều hết sức lo ngại". Để nợ công tính theo thông lệ quốc tế, cần phải tính cả
nợ DNNN vào nợ công. Lý do là có nhiều khoản nợ của DNNN không trả được
nợ thì ngân sách đã phải đứng ra trả nợ thay... "Nếu tính đúng tính đủ thì nợ
công của Việt Nam đã vượt trần cho phép vì những khoản nợ như nợ XDCB thì
vẫn thuộc phạm vi ngân sách thanh toán", ông Cường cho biết.
Nguy cơ không được vay mới ODA
Nhật Bản
Tại cuộc họp báo sáng 18/10, Trưởng đại diện Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật
(JICA), đã bày tỏ lo ngại về tình trạng chậm thanh toán cho nhà thầu thi công
các dự án đang sử dụng vốn ODA Nhật. Nếu tình trạng này nếu kéo dài có thể
ảnh hưởng đến các quyết định cho vay mới từ phía Chính phủ Nhật. Việc chậm
thanh toán cho nhà thầu thực hiện dự án thời gian qua cũng được DN FDI coi
Kinh tế Việt Nam
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
là 1 rủi ro trong KD, có thể khiến họ ngại đầu tư vào VN. Để khắc phục tình
trạng này, tháng 8 Chính phủ đã ban hành chỉ thị về cải thiện cơ chế thực hiện
dự án ODA theo hướng đẩy nhanh việc thanh toán cho các dự án đang triển
khai, đình chỉ, hoãn việc triển khai đối với 1 số dự án có mức độ quan trọng
thấp, dự án không hiệu quả. Tuy nhiên, đến nay sự đốc thúc này vẫn chưa tiến
triển. Đến hết 9th năm 2017, tổng giá trị vốn vay ODA cam kết mới của Nhật
đạt 82,8 tỷ JPY, số vốn giải ngân đạt 119,2 tỷ JPY. Nhiều dự án hạ tầng lớn
đang sử dụng vốn vay ODA Nhật như tuyến Đường sắt đô thị số 1 Bến Thành -
Suối Tiên, tuyến đường sắt đô thị số 2 Hà Nội, đường cao tốc Bắc - Nam (Đà
Nẵng Quảng Ngãi)… Dù ghi nhận những nỗ lực của Chính phủ trong việc kiểm
soát nợ công và chi tiêu ngân sách sách những năm qua, JICA VN cũng thẳng
thắn cho rằng các quyết định trong phân bổ sử dụng ODA thời gian qua quá
cứng nhắc. Việc quy định quá cứng giới hạn trần giải ngân cho từng dự án dẫn
đến tình trạng một số dự án thiếu vốn không có tiền giải ngân nhưng 1 số dự
án thừa vốn vướng thủ tục cũng không thể giải ngân. Thực trạng này nảy sinh
do các bộ thực hiện phân bổ vốn vay đã dự báo, tính toán sai tiến độ giải ngân
của các dự án. Theo JICA, tình trạng chậm thanh toán tại các dự án ODA đã
tăng lên do ảnh hưởng từ các quy định của Luật Ngân sách 2015, cũng như
việc thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016 - 2020 được ban hành.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Toanf
Châu Á - IMF: Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương tiếp tục dẫn dắt tăng trưởng
kinh tế toàn cầu
Báo cáo cập nhật về tình hình KT các KV trên thế giới của IMF cho biết, dự
báo KT toàn cầu 3,6% trong 2017 và 3,7% trong 2018, 0,1% sv dự báo
đưa ra hồi tháng 4. Trong đó, KV châu Á - TBD tiếp tục dẫn dắt tăng trưởng KT
toàn cầu, với mức tăng trưởng 5,6% trong 2017 và 5,5% trong 2018, nhờ KT
TQ, Nhật, Hàn Quốc và ASEAN tăng cao hơn sv kỳ vọng, góp phần bù đắp tốc
độ tăng trưởng thấp tại Ấn Độ và Australia. Yếu tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng
KT bắt nguồn từ đầu tư và tiêu dùng, với dòng vốn vào tiếp tục mở rộng trong
6th đầu năm 2017, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và điều kiện tài chính
thuận lợi. Tuy nhiên, KV đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức khó
lường, nhất là rủi ro trong trung hạn, dù bức tranh KT ngắn hạn vẫn tiến triển
thuận lợi. Những rủi ro cơ bản có thể cản trở tăng trưởng KT gồm căng thẳng
địa chính trị leo thang, dòng vốn ra có thể bất ngờ tăng cao, xu hướng chuyển
sang chính sách hướng nội, bất định chính sách gia tăng và khả năng điều
chỉnh đột ngột tại TQ. Ngoài ra, KV cũng phải đối mặt với những thách thức dài
hạn như hiện tượng già hóa dân số và xu hướng năng suất tăng chậm dần.
Trong khi GDP có triển vọng tăng cao, lạm phát cơ bản có xu hướng giảm nhẹ,
do giá cả hàng hóa giảm thấp và sức mua của tiền tệ tăng. Lạm phát duy trì ở
mức thấp.. Trong 2017, lạm phát có thể chỉ 2,3%, thấp hơn sv dự báo trước
là 2,9%, trước khi tăng trở lại lên mức 2,8% vào 2018. Năm nay, tiền tệ tại
châu Á nhìn chung đều tăng giá sv USD, mặc dù diễn biến rất khác nhau.
Dòng vốn vào các nước châu Á - TBD bắt đầu tăng trở lại ngay từ đầu năm,
phản ánh nền tảng KT vững chắc của KV, nhất là nguồn dự trữ ngoại hối khá
dối dào. GDP TQ tăng tốc và đạt 6,9% trong 6th đầu năm, phản ánh xu hướng
phục hồi thương mại toàn cầu, đầu tư hạ tầng tăng cao, lĩnh vực BĐS tiếp tục
phát triển bền vững. Dự báo GDP TQ 6,8% trong 2017 và 6,3% trong
2018-2020. Lạm phát cơ bản có xu hướng giảm dần và có thể 1,8% trong
2017, sau đó sẽ 2,6% trong trung hạn. GDP của Nhật tăng cao hơn mức
tăng trưởng tiềm năng trong 6 quý liên tiếp, nhờ các biện pháp hỗ trợ tài khóa,
XK tăng và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất 25 năm qua. Trong
2017, KT Nhật dự báo tiếp tục duy trì động lực với mức tăng trưởng 1,7%, nhờ
các biện pháp hỗ trợ tài khóa ngắn hạn và XK gia tăng. Tuy nhiên, GDP 2018
có thể chỉ 0,7% do tác động mờ nhạt của biện pháp tài khóa tạm thời và nhu
cầu tư nhân suy yếu, trước khi tăng trở lại nhằm đón Olympics 2020. KT
ASEAN tăng trưởng nhờ đầu tư và XK. Tại nhiều quốc gia ASEAN, GDP 6th
đầu năm tăng cao hơn sv 2016. Đặc biệt, GDP tại nhóm ASEAN-5 tiếp tục tăng
nhờ đầu tư và XK, góp phần củng cố cán cân vãng lai….
Kinh tế Quốc tế
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Trung Quốc - Tăng trưởng GDP Q.III
giảm vì các biện pháp hạ nhiệt thị trường
bất động sản
KT TQ tăng trưởng ở mức 6,8% trong Q.III sv cùng kỳ 2016, trùng với dự báo
trước đó của Reuters và giảm sv mức tăng trưởng 6,9% trong Q.II. GDP Q.III
tăng trưởng ở mức 1,7% theo quý, thấp hơn tốc độ tăng trưởng 1,8% trong 6th
đầu năm với số liệu đã được điều chỉnh tăng từ báo cáo ban đầu là 1,7%.
Trước đó, các chuyên gia dự báo tăng trưởng GDP Q.III là 1,7% theo quý.
Theo các chuyên gia, tăng trưởng GDP chậm lại là do đầu tư BĐS và XD thu
hẹp, vì có nhiều thành phố đang cố gắng hạ nhiệt giá nhà, trong khi chính
quyền tiến hành chiến dịch giảm rủi ro nợ thông qua việc tăng chi phí đi vay.
Công trình mới được xác định theo diện tích nền 6,8% trong 9th, giảm từ mức
7,6% sv 8th đầu năm. Trong khi nỗ lực ngăn chặn đầu cơ trên thị trường BĐS
và giảm nợ của các nhà hoạch định chính sách được dự báo sẽ ảnh hưởng tiêu
cực tới tăng trưởng tại 1 số KV của nền KT này, hoạt động trên thị trường được
ủng hộ với việc giao dịch và cho vay NH nhiều hơn dự kiến. Chính quyền đã đề
ra mục tiêu tăng trưởng hợp lý hơn ở mức 6,5% trong 2017, về lý thuyết, sẽ
đưa ra nhiều cơ hội cho việc cải cách hơn sau khi nền KT tăng trưởng ở mức
6,7% trong 2017, mức thấp nhất trong 26 năm. SX nhà máy 6,6% trong
tháng 9 sv cùng kỳ 2016, vượt qua dự báo đưa ra trước đó. Trong khi đầu tư tài
sản cố định đạt 7,5% trong 9th, thấp hơn sv dự báo. Doanh số bán lẻ 10,3%
trong tháng 9 sv năm ngoái, vượt qua dự báo đưa ra là 10,2%.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Nông sản - Giá cà phê bật tăng 100 -
300 đồng/kg, giá hồ tiêu có nơi tăng
2.000 đồng/kg
Trên thị trường nông sản ngày 19/10: Cà phê - Giá cà phê tại Tây Nguyên
100-300 đồng/kg. Mặc dù vậy, giá cà phê vẫn duy trì < 43.000 đồng/kg. Hiện
giá cà phê giao dịch trong khoảng 41.400-42.900 đồng/kg. Trên thị trường thế
giới, giá cà phê robusta và giá cà phê arabica đồng loạt tăng trong phiên giao
dịch ngày 18/10. Cụ thể, tại thời điểm chốt phiên giao dịch, giá cà phê arabica
giao tháng 12 0,15 USD cent lên 124,3 USD cent/pound, nhờ lo ngại về tình
hình thời tiết tại Brazil ảnh hưởng tới mùa vụ cà phê. Tuy nhiên, Commerzbank
nhận định giới đầu tư không tin vào báo cáo nguồn cung cà phê trên thế giới.
Nguyên nhân là vì mùa mạng tại Brazil và Colombia đã tăng đáng kể trong vài
năm trở lại đây, nên mùa vụ năm nay không hiệu quả cũng không gây ra thiệt
hại nặng nền đối với nguồn cung. Giá cà phê robusta giao tháng 11 phục hồi,
19 USD lên 2.000 USD/tấn; Hồ tiêu - Giá tiêu tại miền Nam tăng trở lại 1.000
đồng/kg, tại Gia Lai còn ghi nhận giá tiêu 2.000 đồng/kg lên 77.000 đồng.
Tuy nhiên, giá tiêu ở Đồng Nai báo không đổi so với ngày hôm trước. Giá hồ
tiêu giao dịch chủ yếu ở mức 77.000 đồng/kg, riêng tại Bà Rịa - Vũng Tàu, giá
tiêu quay trở lại ngưỡng 78.000 đồng/kg; Cao su - Trên thị trường cao su sáng
nay, giá cao su TOCOM giao kỳ hạn ghi nhận ngày tăng thứ 2 liên tiếp nhờ tỷ
giá USD tăng sv JPY và giá dầu phục hồi trở lại. Cụ thể, giá cao su TOCOM
giao tháng 3 3,4 JPY lên 199,4 JPY/kg vào lúc 10h10 (giờ VN).
Thép - Sản lượng thép Trung Quốc
tháng 9 giảm
Sản lượng thép của TQ trong tháng 9 giảm 3,7% sv tháng 8 do các nhà máy tại
nước này cắt sản lượng nhằm tuân thủ chính sách bảo vệ môi trường và làm
sạch không khí. Tuy nhiên, sv cùng kỳ 2016, sản lượng thép quốc gia này vẫn
ở mức cao. Sản lượng thép thô tháng trước đạt 71,83 triệu tấn, 5,3%, đưa
tổng sản lượng 3 quý 2017 lên 638,73 triệu tấn, 6,3% sv cùng kỳ 2016. Sản
lượng thép trong tháng 9 ở mức thấp nhất kể từ tháng 2. Sản lượng thép trung
bình hàng ngày trong tháng trước đạt 2,39 triệu tấn, 0,5% từ mức 2,41 triệu
tấn hồi tháng 8. Giá thép thanh giao sau tại TQ 40% trong năm nay do chính
phủ đóng cửa các nhà máy thép hoạt động kém hiệu quả, gây ô nhiễm môi
trường. Hàng năm, chính phủ thắt chặt sản lượng thép vào mùa đông khi tình
hình ô nhiễm không khí trở nên nghiêm trọng. Giai đoạn cắt giảm sản lượng
thường kéo dài từ tháng 12 năm nay đến tháng 2 năm sau.
Hàng hóa - nguyên liệu
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/dieu-hanh-ty-gia-ngay-cang-linh-hoat-20171019110502905.chn
http://cafef.vn/bvsc-chua-nen-danh-thue-tien-lai-tiet-kiem-20171019075413936.chn
http://nhipcaudautu.vn/tai-chinh/lai-suat-huy-dong-se-tang-dip-cuoi-nam-3320709/
http://cafef.vn/trong-vong-10-ngay-tin-dung-da-tang-them-114-20171019200752471.chn
Tin KT vĩ mô http://vietnambiz.vn/nguy-co-khong-duoc-vay-moi-oda-nhat-ban-35017.html
http://vietstock.vn/2017/10/nguoi-viet-chua-giau-da-gia-lai-ganh-no-cong-qua-lon-761-563379.htm
Quốc tế http://vietnambiz.vn/imf-kinh-te-chau-a-thai-binh-duong-tiep-tuc-dan-dat-tang-truong-kinh-te-toan-cau-
35033.html
http://vietnambiz.vn/tang-truong-gdp-quy-iii-cua-trung-quoc-giam-vi-cac-bien-phap-ha-nhiet-thi-truong-bat-
dong-san-35018.html
https://tradingeconomics.com/china/gdp-growth
Hàng hóa http://vietnambiz.vn/gia-ca-phe-hom-nay-1910-bat-tang-100-300-dongkg-gia-ho-tieu-co-noi-tang-2000-
dongkg-35011.html
http://cafef.vn/san-luong-thep-trung-quoc-thang-9-giam-20171019154337877.chn
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bất động sản BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng Nhà nước NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
Doanh nghiệp Nhà nước DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách Nhà nước NSNN
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Ngân sách trung ương NSTW
Dự án DA Nhập khẩu NK
Dự trữ bắt buộc DTBB Sản xuất kinh doanh SXKD
Đăng ký Kinh doanh ĐKKD Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổ chức tín dụng TCTD
Giấy chứng nhận GCN Tổng tài sản TTS
Giá trị gia tăng GTGT Tổng SP quốc nội GDP
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trung Quốc TQ
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng cá nhân KHCN Trái phiếu Doanh nghiệp TPDN
Kinh tế vĩ mô KTVM Thị trường chứng khoán TTCK
Kho bạc Nhà nước KBNN Việt Nam VN
Khu vực KV Vốn điều lệ VĐL
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Vốn tự có VTC
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Xã hội XH
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Xuất khẩu XK
Ngân hàng thế giới World Bank Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Hiệp hội Thép VN VSA
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
Liên minh châu Âu EU Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO