171
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ TUẤN PHONG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT HÀ NỘI - 2017

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN …hcma.vn/Uploads/2017/12/12/LA_letuanphong.pdf2 phương hướng và nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện pháp luật,

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ TUẤN PHONG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU

CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2017

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ TUẤN PHONG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH

QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH

TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Mã số: 62 38 01 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN

HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi,

có sự hỗ trợ của các đồng nghiệp. Các số liệu nêu trong luận

án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Tuấn Phong

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN 7

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 7

1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 22

1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 28

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ 34

2.1. Khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực

hành quyền công tố 34

2.2. Đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân trong thực hành quyền công tố 41

2.3. Yêu cầu của cải cách tư pháp, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các

điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân trong thực hành quyền công tố 48

2.4. Pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố ở một số nước

trên thế giới và giá trị tham khảo đối với Việt Nam 58

Chương 3: QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở

VIỆT NAM 75

3.1. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền

công tố từ 1945 đến trước khi ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân năm 2002 75

3.2. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền

công tố từ khi ban hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002

đến 2015 và thực tiễn áp dụng 85

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH

QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP 115

4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố 115

4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố 123

KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

CQĐT : Cơ quan điều tra

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngay từ khi mới thành lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã chú

ý tới cán bộ làm nhiệm vụ công tố. Các vấn đề pháp lý của chức danh này được

điều chỉnh trong những văn bản pháp luật đầu tiên của chính quyền dân chủ

nhân dân. Nếu như những năm đầu tiên, chế định công tố và Công tố viên gắn

liền với tổ chức và hoạt động của Tòa án thì sự ra đời của Viện kiểm sát nhân

dân năm 1960 đánh dấu sự thay đổi lớn của chế định này. Vị trí, vai trò của

Kiểm sát viên trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy Nhà nước được

khẳng định trong Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

năm 1960 và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Cùng với quá trình phát triển

của hệ thống cơ quan tư pháp, pháp luật về Kiểm sát viên cũng từng bước hoàn

thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên

đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên cho thấy, các

quy định pháp luật hiện nay chưa bảo đảm cho Kiểm sát viên chủ động thực hiện

hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong quá trình thực hành quyền công tố

vẫn còn có trường hợp bỏ lọt tội phạm; việc phê chuẩn các quyết định áp dụng,

thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn có trường hợp còn chưa chính xác; còn

một số trường hợp đình chỉ điều tra bị can, đình chỉ vụ án do bị can không phạm

tội, trong khi đội ngũ Kiểm sát viên còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng

lực nghiệp vụ.

Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là cơ sở

pháp lý đối với chức danh Kiểm sát viên, trong đó có các bảo đảm pháp lý cho

việc thực hành quyền công tố của chức danh này chưa hoàn thiện, các quyền năng

pháp lý của Kiểm sát viên chưa được phát huy, chưa đáp ứng được yêu cầu của

cải cách tư pháp trong lĩnh vực hoạt động công tố. Nghị quyết số 48/NQ-TW,

ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã xác định các

2

phương hướng và nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện pháp luật, trong đó có nhiệm vụ

“Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng bảo

đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Tiếp đó, Nghị

quyết số 49/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra nhiệm vụ:

... Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền

hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng thẩm

quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán

để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu

trách nhiệm trước pháp luật... [10].

Trong bối cảnh thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, hoàn thiện các quy

định pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một nhiệm

vụ quan trọng vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài, cần phải được tiến

hành trên cơ sở chủ trương, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp và các

quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động của

kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, góp phần thực hiện mục tiêu của cải

cách tư pháp.

Với những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Hoàn thiện

pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công

tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ luật học,

chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố, đánh giá đúng thực trạng pháp luật,

Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

3

- Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến pháp

luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; từ đó, nêu các vấn

đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.

- Xây dựng cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố gắn với yêu cầu cải cách tư pháp; Xây dựng khái

niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Nghiên

cứu pháp luật về Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố ở một

số nước, rút ra các giá trị tham khảo có thể vận dụng ở Việt Nam.

- Khái quát sự hình thành và phát triển pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam; Đánh giá thực trạng pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, chỉ ra các điểm hạn chế bất

cập và nguyên nhân.

- Nêu quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố gắn với yêu cầu cải cách tư

pháp; tập trung vào đối tượng là các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố trong phạm vi toàn quốc. Thời gian nghiên

cứu từ khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đến năm 2015.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận của luận án

Luận án được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, lý luận về hoàn thiện pháp luật,

4

các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tổ chức

và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu Luận án là phép duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử. Trong đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa

các hiện tượng và quá trình xã hội được sử dụng để nghiên cứu, phân tích mối liên

hệ hữu cơ giữa các thiết chế tư pháp và thể chế pháp lý cho hoạt động của Viện

kiểm sát và Kiểm sát viên. Nguyên lý về sự phát triển được sử dụng để nghiên

cứu, phân tích những thay đổi về kinh tế -xã hội, quá trình hội nhập quốc tế và

toàn cầu hóa dẫn đến những thay đổi theo chiều hướng tích cực trong cách thức tổ

chức và hoạt động tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát. Một số quy luật của phép

biện chứng duy vật như quy luật lượng-chất, hay các cặp phạm trù như cái chung

và cái riêng, khả năng và hiện thực, được sử sử dụng để nghiên cứu, phân tích các

yếu tố tác động, các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận án là:

- Phương pháp hệ thống được áp dụng trong chương 1 để phân loại và

nghiên cứu nội dung các tài liệu nghiên cứu pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, hệ

thống hóa theo một cấu trúc logic khoa học qua đó giúp tác giả có được nhận thức

một cách biện chứng, tổng thể, khái quát nhất về hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam hiện nay và một số nước

trên thế giới.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng cả chương 2, chương 3 và

chương 4 của luận án. Phân tích khái niệm về Kiểm sát viên, pháp luật về Kiểm

sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; đặc điểm, nội dung điều chỉnh,

vai trò; các yêu cầu cải cách tư pháp, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của

pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; các điều kiện bảo đảm; phân

tích nguyên nhân của thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

5

hành quyền công tố; phân tích các quan điểm và giải pháp hoàn thiện của pháp

luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải

cách tư pháp ở Việt Nam.

- Phương pháp so sánh được áp dụng để nghiên cứu kinh nghiệm nước

ngoài, qua đó rút ra bài học và lựa chọn những hạt nhân hợp lý, phù hợp với điều

kiện, hoàn cảnh để áp dụng đối với Việt Nam.

- Trong chương 3, bên cạnh việc sử dụng phương pháp phân tích tác giả

còn sử dụng các phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp các số liệu để

chứng minh cho các luận giải đã nêu trong phần đánh giá thực trạng pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư

pháp ở Việt Nam.

5. Đóng góp mới của luận án

Luận án là công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện

các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

theo yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam. Những đóng góp của

Luận án thể hiện cụ thể như sau:

- Trên cơ sở nghiên cứu kế thừa các tài liệu đã có của Việt Nam và các

nước trên thế giới, xây dựng khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố; khái quát nội dung, đặc điểm, vai trò của pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Xây dựng các tiêu chí

đánh giá mức độ hoàn thiện và các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố pháp luật theo yêu cầu cải

cách tư pháp ở Việt Nam.

- Đánh giá khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến trước

năm 2002 và thực tiễn áp dụng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

hành quyền công tố từ 2002 - 2015.

- Nêu quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam

trong những năm tới.

6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện pháp

luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải

cách tư pháp. Với việc đề xuất các giải pháp, trong đó có việc đưa ra một số kiến

nghị góp phần vào sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), Bộ luật Hình sự,

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luận án đóng góp thêm vào sự phát triển

lý luận về pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở

Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng

trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và tố tụng

hình sự. Luận án cũng là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy

ở các cơ sở đào tạo luật, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành kiểm sát và

những ai quan tâm đến lĩnh vực này.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án bao

gồm 4 chương, 11 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

Trong những năm qua, với việc thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của

Đảng, vấn đề hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố đã được nghiên cứu nhiều hơn so với trước đây. Điều này được thể

hiện qua số lượng và nội dung của các công trình nghiên cứu dưới dạng các đề tài

nghiên cứu khoa học, các xuất bản phẩm, các luận văn, luận án, các bài viết đăng

trên tạp chí nghiên cứu pháp luật chuyên ngành. Để bảo đảm phục vụ việc nghiên

cứu của luận án tác giả phân chia thành các nhóm vấn đề cụ thể như sau:

1.1.1. Pháp luật về Kiểm sát viên

Pháp luật về Kiểm sát viên tiếp cận dưới giác độ lý luận lịch sử Nhà nước

và pháp luật đòi hỏi phải có cách nhìn toàn diện, khái quát xuất phát từ nguồn gốc,

bản chất, mối quan hệ của quyền công tố trong phương thức tổ chức bộ máy nhà

nước, mà trực tiếp là trong Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ

1945 đến nay.

* Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài nghiên cứu khoa học

Trước hết phải kể đến công trình nghiên cứu chuyên khảo “Cơ sở lý luận và

thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân” của Trần Hậu Thành [105]. Trong cuốn sách này, tác giả đã

khái quát quá trình hình thành và phát triển tư tưởng nhà nước pháp quyền trong

tiến trình lịch sử nhân loại, đồng thời hệ thống một số quan điểm và thực tiễn tổ

chức theo hướng nhà nước pháp quyền hiện nay trên thế giới. Cuối cùng tác giả đã

luận giải và đưa ra mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện đại, trong đó có

mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp như tòa án và viện kiểm sát

Cuối sách “Dân chủ và pháp luật dân chủ” của Ngô Huy Cương [25].

Trong cuốn sách này tác giả đã luận giải và xây dựng khái niệm về dân chủ, đồng

8

thời đưa ra sáu thành tố của dân chủ đó là: Nhà nước pháp quyền; Chủ nghĩa lập

hiến; Phân chia quyền lực; Xã hội công dân; Quyền con người, quyền công dân;

Tư pháp độc lập. Trên cơ sở thực tiễn pháp luật Việt Nam tác giả đã đưa ra các

tiêu chuẩn đánh giá tính dân chủ và hiện trạng dân chủ trong pháp luật Việt Nam

trên cơ sở tổ chức Nhà nước, bảo đảm quyền con người và hình thức dân chủ.

Luận giải và đưa ra một số giải pháp về dân chủ và pháp luật dân chủ trong các

lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tư pháp.

Cuốn sách “Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền” do PGS.TS.

Nguyễn Đăng Dung chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2004 [16]. Cuốn

sách lần đầu tiên nêu khái niệm thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, thể

chế tư pháp với việc thực hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền và các

loại hình thể chế tư pháp với một số mô hình tổ chức tư pháp đặc trưng trên thế

giới. Từ đó, tác giả nêu và phân tích quá trình hình thành và phát triển của hệ

thống Tòa án, cơ quan công tố, vai trò của thẩm phán và công tố viên và những

vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam.

Cuốn sách “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

trong giai đoạn điều tra” của Lê Hữu Thể [107], đã đề cập tương đối toàn diện,

đầy đủ các quan điểm và lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát

trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, trong đó đi sâu nghiên cứu các quan điểm

về quyền công tố, thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp và kiểm sát các

hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự; những quy định của pháp

luật về Kiểm sát viên và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm việc tuân theo pháp luật trong giai

đoạn điều tra; đồng thời, khái quát về cơ quan công tố của một số nước trên thế

giới nhằm rút ra kinh nghiệm ứng dụng vào Việt Nam.

Nguyễn Hải Phong và cộng sự trong cuốn “Một số vấn đề về trách nhiệm

công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu

cải cách tư pháp” [82] đã phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành,

tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoạt động công tố của các cấp kiểm sát, kiến nghị

9

các giải pháp thiết thực, có tính khả thi khi thực hiện trách nhiệm công tố trong

hoạt động điều tra của Viện kiểm sát.

Đề tài “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo

yêu cầu cải cách tư pháp” của Nguyễn Ngọc Khánh [66], đề tài đã tập trung

nghiên cứu về mối quan hệ giữa công tố với điều tra của một số quốc gia và quan

điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta về việc tăng cường trách nhiệm của công tố

trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, đã xác định vị trí, thẩm

quyền của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải

cách tư pháp.

* Luận án, luận văn

Vấn đề thực hành quyền công tố cũng là tâm điểm thu hút sự chú ý nghiên

cứu của các luận án Tiến sĩ như “Quyền công tố ở Việt Nam” của Lê Thị Tuyết

Hoa, từ góc độ lý luận nhà nước và pháp luật [54] đã khái quát những vấn đề cơ

bản nhất về quyền công tố như khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền

công tố và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự; thực trạng tổ chức thực

hành quyền công tố trong tố tụng hình sự ở Việt Nam trên cơ sở đó đề xuất một số

giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố ở Việt

Nam. Đồng thời nêu được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức

và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân.

Luận án của Nguyễn Duy Giảng “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật

Tố tụng hình sự Việt Nam” [44] đã nghiên cứu toàn diện việc thực hiện các quy

định pháp luật liên quan đến chủ thể tiến hành tố tụng, những kết quả, hạn chế,

vướng mắc bộ lộ trong thực tiễn, qua đó làm rõ những hạn chế trong quy định của

BLTTHS hiện hành cần được xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới. Trên

cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận tổng kết thực tiễn và làm rõ những yêu cầu

của cải cách tư pháp, tác giả đã đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong hệ

thống quy định pháp luật về viện kiểm sát và Kiểm sát viên, góp phần khắc phục

những bất cập, vướng mắc trong các quy định liên quan đến chức năng thực hành

quyền công tố của Kiểm sát viên. Theo tác giả, việc thực hiện các nhiệm vụ và

10

quyền hạn của Kiểm sát viên trong điều tra vụ án hình sự còn nhiều tồn tại, trong

đó có nguyên nhân là quy định của BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ và quyền hạn

của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra còn một số bất cập về thẩm quyền khởi

tố bị can, thẩm quyền điều tra, thẩm quyền quyết định việc chuyển vụ án, về mối

quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra (CQĐT) và các cơ quan được

giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; về vai trò, trách nhiệm của

Kiểm sát viên tại phiên tòa… Từ đó, tác giả kiến nghị hoàn thiện nhiều quy định

của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và BLTTHS năm 2003, trong

đó có các quy định về thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.

1.1.2. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực

hành quyền công tố

* Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài nghiên cứu khoa học

- Về quyền công tố trong nhà nước pháp quyền của Nguyễn Đăng Dung và

các cộng sự trong nghiên cứu “Viện kiểm sát trong Nhà nước pháp quyền” [32] đã

đề cập đến một số vấn đề như: phân tích vị trí và vai trò của Viện kiểm sát trong

mô hình hiện nay và xu thế của Viện kiểm sát trong thời gian tới; làm rõ những

yêu cầu có tính nguyên tắc của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền gắn với

thực hiện chức năng của Viện kiểm sát - Viện kiểm sát thực hành quyền công tố là

quyền hành pháp mà không phải là quyền tư pháp như quan niệm hiện nay; chủ

thể của công tố chỉ do Viện kiểm sát thực hiện và vì vậy Viện kiểm sát phải thống

nhất chỉ đạo điều tra toàn bộ vụ án; có chỉ đạo điều tra mới buộc tội được, có buộc

tội được mới góp phần bảo vệ công lý xã hội chủ nghĩa (XHCN)… Ngoài ra, các

tác giả còn giới thiệu một vài mô hình công tố trên thế giới điển hình và đặt ra

việc chuyển đổi vai trò, chức năng, tên gọi của Viện kiểm sát thành Viện công tố

là đòi hỏi tất yếu khách quan, nhưng cần tính đến lộ trình và bước đi phù hợp.

Đồng thời, cuốn sách cũng đã phân tích và làm sáng tỏ nhiều nội dung thực hiện

chức năng mà Viện kiểm sát đang thực hiện dưới một giác độ tiếp cận mới, tiếp

cận dựa trên quyền và nghĩa vụ như: Quyền công tố và phạm vi của công tố; Giới

hạn của việc xét xử theo cáo trạng; nội dung và bản chất của tranh tụng giữa bên

11

buộc tội và gỡ tội; có hay không cần thiết Viện kiểm sát phải thực hiện kiểm sát

hoạt động tư pháp các lĩnh vực phi hình sự…

Cuốn sách “Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác của

Viện kiểm sát nhân dân qua 55 năm tổ chức và hoạt động” của Viện kiểm sát

nhân dân tối cao [146] đã tập trung tổng hợp, khái quát những vấn đề cơ bản trong

công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nghành kiểm sát nhân dân từ 1960

đến 2015 trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Từ đó đưa ra 9 bài học kinh

nghiệm lớn làm cơ sở để nghành kiểm sát tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở lý

luận, cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng

mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

- Đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra thuộc Viện

kiểm sát và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhằm đáp ứng

yêu cầu cải cách tư pháp” của Phạm Mạnh Hùng [62], đã nghiên cứu thực trạng

và đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm

sát nhân dân và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra

các vụ án hình sự.

- Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Lê Hữu Thể [109] đã luận chứng, làm rõ

những vấn đề lý luận chung về thủ tục tố tụng, mô hình tố tụng hình sự; các quyền

và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng, trong đó có Kiểm sát viên VKSND. Trên cơ

sở đánh giá đúng đắn những tồn tại, hạn chế, vướng mắc, bất cập trong pháp luật

tố tụng hình sự hiện hành khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, đề tài

nêu những yêu cầu của cải cách tư pháp đối với tổ chức và hoạt động của Viện

kiểm sát, trong đó tính độc lập của Kiểm sát viên là một trong những vấn đề còn

vướng mắc trong thực tiễn, cần được khắc phục bằng một cơ chế pháp lý phù hợp.

Đề tài đã đề xuất các hướng hoàn thiện, đổi mới mô hình tố tụng hình sự và pháp

luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay theo hướng nâng cao năng lực của CQĐT,

Viện kiểm sát. Tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên

trong hoạt động điều tra, truy tố.* Luận án, Luận văn

12

- Nguyễn Thị Thủy “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp dụng

tố tụng tranh tụng” [113] nêu mô hình tố tụng mới kết hợp giữa xét hỏi và tranh

tụng trong điều kiện Việt Nam đang tiến hành cải cách tư pháp. Từ đổi mới mô

hình tố tụng dẫn đến đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của

Kiểm sát viên trong mối quan hệ giữa nguyên tắc tập trung thống nhất của ngành

kiểm sát với tính độc lập của từng Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố;

giữa mối quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng giữa Viện trưởng Viện kiểm sát

với Kiểm sát viên trong điều tra, kiểm sát điều tra và truy tố bị can ra trước tòa,

duy trì công tố tại phiên tòa hình sự.

- Bùi Mạnh Cường “Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng hình

sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - một số vấn đề lý luận và

thực tiễn” [26] đã tập trung tìm hiểu một số vấn đề chung về công tố và hoạt động

điều tra, phân tích thực trạng về mối quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra

tại Việt Nam (số liệu 5 năm: từ năm 2006 đến năm 2010), mối quan hệ giữa công

tố với hoạt động điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện

hành; những kết quả đạt được trong việc giải quyết mối quan hệ giữa công tố với

hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự và nguyên nhân của những

kết quả đạt được; một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết mối

quan hệ giữa công tố với hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự và

nguyên nhân của những hạn chế, khó khăn, vướng mắc. Tác giả cũng đưa ra một

số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện cơ chế công tố gắn với

hoạt động điều tra.

- Vũ Đức Ninh “Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố”

[80] đã khái quát về quyền công tố và việc tổ chức thực hành quyền công tố ở

nước ta theo BLTTHS, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn

truy tố cũng như hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong cùng thời điểm

này, xem xét thực tiễn thi hành những quy định của pháp luật về thẩm quyền của

Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố bằng cách nhìn vào những phân tích số liệu

về các quyết định mà cơ quan này ban hành trên một địa bàn cụ thể sau đó đưa ra

13

những nhận xét về thẩm quyền của Viện kiểm sát từ đó đề xuất một số kiến nghị

hoàn thiện pháp luật về vai trò cũng như vị trí của Viện kiểm sát trong giai đoạn

truy tố và một số kiến nghị khác nhằm phát huy cũng như kiện toàn vị trí cơ quan

Viện kiểm sát trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay.

* Các bài đăng trên tạp chí

Trong bài viết “Nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát

nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay” của Đào Trí Úc [118] đã nêu

khái quát các quan điểm, ý kiến đóng góp khác nhau trong dự thảo sửa đổi Hiến

pháp năm 1992 về tính chất, vị trí, chức năng của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát

nhân dân trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam, đặc biệt là

nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát nhân dân. Nguyên tắc này

chỉ phù hợp với việc thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật vì tính

thống nhất theo nghành dọc là bảo đảm cho sự giám sát, kiểm tra mang tính quyền

lực Nhà nước đối với các chủ thể áp dụng, thi hành pháp luật và đối với công dân.

Từ giác độ tiếp cận mang tính toàn diện, hệ thống, trên cơ sở nội dung pháp lý của

hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của

Viện kiểm sát nhân dân, từ yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tác giả đã luận chứng và đề xuất ghi

nhận trên bình diện Hiến pháp hai nguyên tắc quan trọng cho tổ chức và hoạt động

của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta như sau:

Một là, nguyên tắc tập trung thống nhất về tổ chức của Viện kiểm sát nhân

dân; Hai là, nguyên tắc khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm

sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân độc lập, tuân theo Hiến pháp và

pháp luật, nghiêm cấm mọi sự can thiệp trái pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá

nhân [118]. Phạm Mạnh Hùng với bài “Về nguyên tắc bảo đảm sự kiểm soát giữa

các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong

tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước của nước ta” [63], đã giới thiệu một

cách khái quát hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy

nhà nước ta, đồng thời nêu và phân tích cụ thể từng quy định về cơ chế kiểm soát

14

quyền lực Nhà nước trong từng phân nhánh hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước

nói riêng và trong hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung. Từ đó, tác giả đưa

ra nhận xét và kiến nghị cần tiếp tục xem xét hoàn thiện về Quyền tư pháp và cơ

quan thực hiện quyền tư pháp; khôi phục lại chức năng kiểm sát chung của Viện

kiểm sát nhân dân vì đây là yêu cầu xuất phát từ lý luận và thực tiễn thực hiện cơ

chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước hiện nay.

Vũ Mộc trong bài viết ‘‘Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố,

tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ

chế gắn công tố với hoạt động điều tra” [75], đã đưa ra nhận định mặc dù trong

BLTTHS 2003 không quy định cụ thể quyền chỉ đạo hoạt động điều tra của Viện

kiểm sát nhưng theo nội dung các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Viện

kiểm sát và của CQĐT thì Viện kiểm sát vẫn là cơ quan quyết định mọi hành vi tố

tụng ở giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động công tố vẫn xa rời

hoạt động điều tra, theo tác giả có hai nguyên nhân chính: Pháp luật về hình sự và

tố tụng thiếu chế tài bảo đảm cho hoạt động chỉ đạo theo pháp luật tố tụng hình sự

của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra; Chưa có sự thống nhất và phân biệt về

thẩm quyền chỉ đạo hoạt động điều tra theo nghiệp vụ điều tra và chỉ đạo điều tra

theo pháp luật tố tụng hình sự. Cuối bài viết tác giả đưa ra bốn giải pháp cụ thể

nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách nhiệm của

Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt

động điều tra.

1.1.3. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố

* Xuất bản phẩm dưới dạng sách và đề tài khoa học

- Sách chuyên khảo “Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của các cơ

quan Nhà nước” của Nguyễn Đăng Dung [31]. Trong cuốn sách này tác giả đã

nghiên cứu và làm rõ vai trò, vị trí, bản chất “vượt trội” của Hiến pháp, cũng như

tính đặc thù của Hiến pháp trong hệ thống các văn bản pháp luật của quốc gia. Từ

đó đi đến nhận định về tính nhân bản của Hiến pháp. Và cũng trên cơ sở tiếp cận

15

này, xuất phát từ lịch sử lập hiến Việt Nam, tác giả đã phân tính và khái quát về

các bản tính của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp và đưa ra từng kiến

nghị cụ thể cho từng cơ quan nhà nước.

- Sách chuyên khảo “Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Trần Ngọc Đường [41]. Trong cuốn

sách này, tác giả từ cách tiếp cận quyền con người, quyền công dân là giá trị cao

quý, là mục đích phấn đấu cao nhất, đồng thời là đường lối nhất quán của Đảng và

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tác giả đã tổng hợp, phân tích rồi

đưa ra các quan điểm về quyền con người, quyền công dân; quyền và nghĩa vụ cá

nhân công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xuất phát

từ lịch sử lập hiến (1945 đến 2001), tác giả đã chứng minh quá trình sửa đổi, ban

hành Hiến pháp ở Việt Nam luôn là quá trình tiếp nối và hoàn thiện cơ chế bảo

đảm quyền con người, quyền công dân thông qua việc cải cách tổ chức và hoạt

động của bộ máy nhà nước. Và từ cơ sở trên, tác giả đã nêu những bảo đảm pháp

lý trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân, cùng các phương hướng

tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật trong

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian tới.

- Đề tài “Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư

pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Toà án trong nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” của Uông Chu Lưu [73], xác

định bản chất của công tố là việc đại diện cho quyền lực công để truy tố tội phạm,

đưa người có hành vi phạm tội ra trước toà án để xét xử, do đó, công tố phải là

một chức năng không tách rời của hành pháp. Viện Công tố, do vậy, phải là một

cơ quan thuộc nhánh hành pháp và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và

trước nhân dân về việc truy tố tội phạm và buộc tội trước toà. Các tác giả trong

nhóm nghiên cứu cũng cho rằng phạm vi công tố chỉ nên giới hạn trong lĩnh vực

hình sự nghĩa là trong việc đại diện cho quyền lực công truy tố tội phạm và buộc

tội người có hành vi phạm tội trước toà. Về nguyên lý, Viện công tố phải đồng

thời là cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra. Cơ quan điều tra tiến hành

16

các hoạt động điều tra theo yêu cầu của Viện công tố; mọi kết luận điều tra đều

phải có phê chuẩn của Viện công tố mới có giá trị pháp lý. Tại phiên toà, Công tố

viên thực hiện chức năng buộc tội, tham gia tranh tụng và chịu trách nhiệm hoàn

toàn về những chứng cứ buộc tội thu thập được trong quá trình điều tra. Cơ chế

này bảo đảm tính hiệu quả, thống nhất và liên tục của quy trình tố tụng tư pháp,

nâng cao chất lượng truy tố và tranh tụng của Công tố viên tại phiên toà. Từ đó đề

xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế định Kiểm sát viên thực hành

quyền công tố trong các vụ án hình sự theo hướng tăng cường năng lực và trách

nhiệm độc lập của Kiểm sát viên trong việc thực hành quyền công tố theo tinh

thần cải cách tư pháp.

- Đề tài “Nâng cao hiệu quả của hệ thống tư pháp hình sự phục vụ Chiến

lược cải cách tư pháp” của Lê Văn Cảm [16] nghiên cứu về tổ chức, cơ cấu của

hệ thống tư pháp hình sự và vai trò của hệ thống đó trong cải cách tư pháp ở Việt

Nam theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị.

Các tác giả đã làm rõ hơn vai trò của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong điều kiện Việt Nam; đề

xuất mô hình mới về Viện kiểm sát và những thay đổi về pháp luật khi quy định

địa vị pháp lý của Kiểm sát viên theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo đảm hiệu quả

của hệ thống tư pháp hình sự.

* Luận án, luận văn

Trong số các Luận án tiến sĩ có thể kể đến như của Nguyễn Tiến Sơn “Mối

quan hệ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam”

[102]. Trong đó xác định mối quan hệ giữa CQĐT và Viện kiểm sát, giữa Kiểm

sát viên với Điều tra viên trong tố tụng hình sự, xuất phát từ vị trí, chức năng,

nhiệm vụ của hai cơ quan và hai chủ thể này trong hệ thống tư pháp hình sự. Mối

quan hệ này về cơ bản, chỉ có thể là mối quan hệ tố tụng hình sự. Từ đó thấy rõ

hơn sự chế ước và phối hợp, thực tế là kiểm sát tư pháp đối với CQĐT thông qua

Kiểm sát viên. Luận án đưa ra một kiến nghị hoàn thiện các quy định về pháp luật

điều chỉnh mối quan hệ này nhằm tăng cường trách nhiệm của công tố trong giai

đoạn điều tra.

17

Nguyễn Công Cường “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

vụ án hình sự” [29] nêu những đặc điểm mang tính phổ biến của hoạt động công

tố, phân tích rõ nội hàm khái niệm thực hành quyền công tố như đối tượng, phạm

vi, nội dung và đặc điểm và vận dụng được để trong lý giải về thực hành quyền

công tố trong giai đoạn điều tra. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện

pháp luật tố tụng hình sự nhằm tăng cường vai trò của Viện kiểm sát và Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra.

* Các bài đăng trên tạp chí

Bài viết “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân" thể hiện xuyên

suốt, nhất quán trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp sửa đổi, của Trần Ngọc

Đường [42]. Trong bài viết này tác giả khái quát và tổng hợp năm điểm mới

trong Hiến pháp 2013 thể hiện nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về vấn đề “Tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân". Qua đây tác giả cũng khẳng định đây là

sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta về việc đề cao chủ

quyền nhân dân, khẳng định ở "Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do

Nhân dân làm chủ".

Nguyễn Hòa Bình có bài "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành

kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới" [6]. Trong bài

viết này, tác giả đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân

dân trong bộ máy nhà nước ta; chỉ ra hai chức năng cơ bản là thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; khái quát hóa một số kết quả đổi mới

nổi bật của cơ quan này trong tiến trình cải cách tư pháp thời gian qua. Đồng thời,

tác giả cũng chỉ ra nhu cần đòi hỏi ngành kiểm sát nhân dân phải tiếp tục đổi mới

toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực công tác, nhằm tổ chức thực hiện tốt hơn

hai chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp để đáp

ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ

nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Từ đó, bài viết đã chỉ ra sáu nhiệm vụ

trọng tâm đặt ra đối với ngành kiểm sát nhân dân để thực hiện các mục tiêu cải

cách tư pháp theo các nghị quyết của Đảng trong thời gian tới như: đẩy mạnh thực

18

hiện, hoàn thành đúng tiến độ các nhiệm vụ cải cách tư pháp mà Đảng đã đề ra;

nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động; hoàn thiện thể chế; tập trung

đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ; tiếp tục tập trung nghiên cứu, xây

dựng, thực hiện các đề án về tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị,

phương tiện làm việc; tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.

Cũng nghiên cứu về tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhưng

tiếp cận ở góc độ hẹp hơn theo hướng chỉ đề cập đến mô hình tổng thể hoặc một

vài thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân nhất định. Có thể kể đến một số công

trình của các tác giả như: Lại Hợp Việt có các bài viết "Bàn về mô hình Viện kiểm

sát và chế định Kiểm sát viên trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa

đổi)" [148].

Trong bài “Hoàn thiện pháp luật hiện hành để “tăng cường trách nhiệm

công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” đáp ứng

yêu cầu cải cách tư pháp” của Nguyễn Hồng Vinh [151] đã tổng hợp các chủ

trương của Đảng và Nhà nước về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt

động điều tra”. Từ cơ sở đó, tác giả đã trích dẫn và phân tích các quy định về

quyền công tố, cơ chế vận hành cụ thể của quyền công tố trong giải quyết các vụ

án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân hiện hành, đưa ra những đánh giá cụ thể và kiến nghị hoàn thiện pháp

luật trong Tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện kiểm sát với các nội dung: cần có

quy định cụ thể các trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân ra Quyết định

khởi tố và chuyển giao cho cơ quan Điều tra thụ lý điều tra vụ án; bổ sung quy

định mới về chế định “miễn tố” độc lập, theo đó, khi thực hành quyền công tố

Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định miễn truy cứu trách nhiệm hình sự

các bị can trong một số trường hợp nhất định; bổ sung thêm các chế định nhằm

tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên để Kiểm sát viên chủ

động thực hiện và chịu trách nhiệm về các hành vi tố tụng, nhất là quyền tham gia

trực tiếp vào một số biện pháp điều tra khi thấy cần thiết. Đây cũng là một trong

những nghiên cứu có ý nghĩa tham khảo rất lớn cho đề tài nghiên cứu của luận án.

19

Bài viết “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách

nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố

với hoạt động điều tra” của Vũ Mộc [75], đã đưa ra nhận định mặc dù trong

BLTTHS 2003 không quy định cụ thể quyền chỉ đạo hoạt động điều tra của Viện

kiểm sát nhưng theo nội dung các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Viện

kiểm sát và của CQĐT thì Viện kiểm sát vẫn là cơ quan quyết định mọi hành vi tố

tụng ở giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, trên thực tiễn hoạt động công tố vẫn xa rời

hoạt động điều tra, theo tác giả có hai nguyên nhân chính (Pháp luật về hình sự và

tố tụng thiếu chế tài bảo đảm cho hoạt động chỉ đạo theo pháp luật tố tụng hình sự

của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra; Chưa có sự thống nhất và phân biệt về

thẩm quyền chỉ đạo hoạt động điều tra theo nghiệp vụ điều tra và chỉ đạo điều tra

theo pháp luật tố tụng hình sự và cuối cùng tác giả đưa ra bốn giải pháp cụ thể

nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng cường trách nhiệm của

Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt

động điều tra..

Bài viết “Những vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam về Viện kiểm sát, người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát

và một số kiến nghị hoàn thiện” của Nguyễn Duy Giảng [43] đã đề cập nhiều

vướng mắc trong thực tiễn khi Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên thực hành

quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra và giai đoạn xét xử. Nguyên nhân

là do quy định pháp luật tố tụng hình sự chưa được giải thích chính thức, các văn

bản dưới luật mang tính hướng dẫn thì hiệu lực thấp so với luật. Vì vậy, việc

hoàn thiện pháp luật về chế định Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, xét xử là

rất cần thiết.

Thời gian gần đây đề tài về chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên cũng được

nhiều tác giả nghiên cứu, nhưng nhìn chung các tác giả thường chỉ tập trung vào

một lĩnh vực hoặc trong phạm vi một địa phương nhỏ như các tác giả: Vũ Công

Thuận nghiên cứu về “Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên thực hành

quyền công tố ở ngành kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ nhằm đáp ứng yêu cầu cải

20

cách tư pháp” [112]; Đào Thịnh Cường nghiên cứu về “Năng lực áp dụng pháp

luật trong thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

thành phố Hà Nội” [28]; Lê Xuân Lộc “Năng lực thực hành quyền công tố của

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh phú thọ trong xét xử các

vụ án hình sự” [70]; Phạm Thị Phương “Năng lực thực hành quyền công tố trong

xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp

huyện, tỉnh Ninh Bình” [85],… Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu vừa nêu đều

không đi sâu tìm hiểu về hệ thống các quy phạm pháp luật quy định địa vị pháp lý

của Kiểm sát viên, đặc biệt là trong điều kiện cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước

pháp quyền.

Khi nghiên cứu về “Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát Nhân dân

đối với các vụ án hình sự” của Nguyễn Trọng Nghĩa [78] đã khái quát những vấn

đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong đó có Kiểm sát viên trong Viện

kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự; đánh giá thực trạng người tiến hành

tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự và đưa ra một số

giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng, đặc

biệt là của Kiểm sát viên trong VKSND đối với các vụ án hình sự.

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định pháp lý về thẩm quyền hành

chính và trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm

sát viên, các tác giả Lưu Trọng Nguyên, Trần Mai Lâm khi nghiên cứu về “Phân

định thẩm quyền hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng,

Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên và việc tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng cho

Kiểm sát viên” [79] đã đi sâu vào phân tích, đánh giá những điểm hợp lý cũng như

những hạn chế, bất cập trong đang tồn tại trong hoạt động của hệ thống cơ quan

Viện kiểm sát; thực trạng pháp lý của Kiểm sát viên trong quá trình thực hành

quyền công tố được giao quyền rất hạn chế và phải chịu sự quản lý cả về hành

chính, cả về hoạt động nghiệp vụ trước Viện trưởng, Phó Viện trưởng là chưa đáp

ứng được yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Các tác giả đã đưa ra đề xuất, kiến

nghị cần phải xây dựng quy định cụ thể trong BLTTHS về nhiệm vụ và quyền hạn

21

của người đứng đầu Viện kiểm sát và Kiểm sát viên theo hướng: Viện trưởng có

trách nhiệm tổ chức, điều hành chung công tác thực hành quyền công tố và kiểm

sát việc tuân theo pháp luật; chỉ tiến hành tố tụng trong một số vụ, việc nghiêm

trọng, phức tạp. Phó Viện trưởng là một chức danh tố tụng độc lập, tiến hành tố

tụng đối với hầu hết các vụ án, phải được giao tất cả các quyền hạn tố tụng thuộc

thẩm quyền của Viện kiểm sát trong lĩnh vực được phân công phụ trách; tăng

quyền hạn cho Kiểm sát viên theo từng cấp bậc, đối với Kiểm sát viên sơ cấp có

thẩm quyền như luật hiện hành. Kiểm sát viên trung cấp được phân công thụ lý

chính đối với vụ án có quyền gia hạn tạm giữ, trưng cầu giám định, cấp giấy

chứng nhận người bào chữa, trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Kiểm sát viên cao cấp

được phân công thụ lý chính đối với vụ án thuộc thẩm quyền cấp trung ương,

ngoài những quyền hạn của Kiểm sát viên trung cấp còn có quyền phê chuẩn lệnh

bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, gia hạn điều tra vụ án. Kiểm sát viên giữ chức Vụ

trưởng, Phó Vụ trưởng có quyền hạn tố tụng như Viện trưởng, Phó Viện trưởng

cấp tỉnh đối với những vụ án do cấp trung ương thụ lý. Viện kiểm sát cấp huyện,

cấp tỉnh có Kiểm sát viên trung cấp và sơ cấp. Viện kiểm sát cấp tỉnh và cấp cao

(tương ứng với Tòa án Thượng thẩm) và Viện kiểm sát nhân dân tối cao có cả ba

chức danh Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp.

Bên cạnh đó, còn có một số bài viết như: "Bàn về ngạch Kiểm sát viên và

điều kiện tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát các cấp trong Luật

Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân" của Lại Hợp Việt [149]; “Nhiệm vụ, quyền hạn

và trách nhiệm của kiểm sát viên trong tố tụng hình sự” của Hoàng Hải Yến

[152]; “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động tố

tụng đối với người chưa thành niên” của Trần Quỳnh Hoa [55]...

Như vậy, qua việc khái quát hệ thống các công trình nghiên cứu trong

nước, có thể thấy trong thời gian gần đây đã có một khối lượng lớn các công trình

khoa học nghiên cứu về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước,

vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong cải cách tư pháp; về

quyền công tố, thực hành quyền công tố, mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với các

22

cơ quan tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên với người tiến hành tố tụng khác trong

quá trình giải quyết các vụ án hình sự; về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố, vấn đề xây dựng đội ngũ Kiểm sát

viên trong chiến lược cải cách tư pháp. Tuy nhiên từ thực trạng trên cho phép

chúng ta đánh giá hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào tập trung đề cập trực

tiếp đến vấn đề hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI

1.2.1. Pháp luật về Kiểm sát viên

Thiết chế Viện kiểm sát hiện tồn tại ở các nước xã hội chủ nghĩa như Trung

quốc, Cu Ba, Việt Nam, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Cộng hoà dân chủ nhân

dân Triều tiên. Trong cải cách tư pháp ở Trung quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân

Lào, việc nghiên cứu về vai trò của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên đã được quan

tâm rất nhiều với các quan điểm khác nhau về cải cách Viện kiểm sát. Ở Cộng hòa

nhân dân Trung Hoa, vấn đề thực hành quyền công tố và cơ sở chính trị - pháp lý

tổ chức thực hiện quyền công tố được quan tâm trong các công trình nghiên cứu.

Trong Sách trắng “Xây dựng chính trị dân chủ của Trung Quốc” [122] đã nêu rõ

vai trò của cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát dựa vào luật pháp trừng trị

kẻ phạm tội, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân. Cuốn “Cải cách

thể chế chính trị ở Trung Quốc” do Đỗ Tiến Sâm chủ biên đã đề cập đến một nền

tư pháp XHCN công minh, độc lập, trong đó viện kiểm sát có vai trò quan trọng

nhân danh nhà nước truy tố tội phạm [101]. Tại Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng

sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc về xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN diễn ra tại Việt Nam (tháng 11-2014), Vương Hồng Tường (Trung Quốc)

trong tham luận “Đẩy nhanh xây dựng chế độ tư pháp xã hội chủ nghĩa công bằng,

hiệu quả, uy tín” đã nêu các biện pháp chính trị và pháp lý bảo đảm cho Tòa án,

Viện kiểm sát thực hiện chức trách, quyền lực độc lập, công bằng theo pháp luật

với phương châm Đảng lãnh đạo lập pháp, thúc đẩy hành pháp và bảo đảm tư

pháp. Trong hệ thống cơ quan tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân được xác định là

23

một thiết chế độc lập, quan trọng để thực hiện quyền công công tố nhà nước thông

qua hoạt động của Kiểm sát viên. Viện kiểm sát là phòng tuyến cuối cùng trong

việc bảo đảm công bằng, chính nghĩa. Cần cải cách và hoàn thiện quan hệ lãnh

đạo giữa Viện kiểm sát cấp trên và cấp dưới, vừa kịp thời giám sát, sửa đổi những

sai sót của cấp dưới, vừa vừa phòng tránh tình trạng bao biện làm thay hoặc đùn

đẩy trách nhiệm. Phân định rõ quyền hạn trong nội bộ cơ quan kiểm sát. Phân biệt

quyền kháng nghị tố tụng và quyền điều tra tội phạm liên quan đến lạm dụng chức

vụ do các đơn vị nghiệp vụ khác nhau thực hiện [59, tr.174-177].

Ở các quốc gia khác, các nghiên cứu về pháp luật đối với địa vị pháp lý

của Kiểm sát viên được thực hiện với mục đích thúc đẩy việc bảo đảm xây

dựng Nhà nước pháp quyền. Năm 2012, Nhà xuất bản Wadsworth Publishing

đã cho tái bản lần thứ 6 cuốn “Judicial Process: Law, Courts, and Politics in

the United States” (Thủ tục tư pháp: Pháp luật, các Tòa án, và Chính trị ở Hoa

Kỳ) của David W. Neubauer, Stephen S. Meinhold [30]. Cuốn sách nghiên cứu

sâu về thủ tục tư pháp trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ như tổ chức hệ thống

Tòa án, công tố, thủ tục tố tụng và vai trò công tố viên. Công trình đề cập sự ra

đời của quyền tư pháp, vai trò độc lập của quyền tư pháp trong hệ thống quyền

lực nhà nước, mối quan hệ giữa quyền tư pháp với các nhánh quyền lập pháp

và hành pháp trong cơ chế phân chia quyền lực, quyền tư pháp với việc bảo vệ

quyền con người…Trong các công trình này đều có đề cấp đến vai trò của công

tố viên nhưng với tư cách là đại diện của cơ quan hành pháp đứng ra truy tố bị

cáo trước tòa án, viện công tố (viện kiểm sát). Viện công tố (kiểm sát) không

được coi là cơ quan tư pháp.

Còn đối với các nước XHCN ở châu Âu trước năm 1991, sau khi Liên xô

sụp đổ, Liên bang Nga và một số quốc gia thành viên SNG như Ucraina,

Belorus, Azecbaijan, Kưrgưxtan, Kazacxtan... và một vài nước Đông Âu khác

vẫn tiếp tục duy trì thiết chế Viện kiểm sát trong cơ chế phân chia quyền lực nhà

nước thành các nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau, với những

thay đổi không nhiều về chức năng, nhiệm vụ. Do đó việc nghiên cứu về vai trò

24

của Kiểm sát viên trong quá trình chuyển đổi thể chế tư pháp ở các nước này vẫn

là đề tài thời sự. Đó là các công trình như Luận án TSKH. của V.V E-rơ-shôp

“Quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền”, đề cập đến quyền tư pháp như là

một nhánh quyền lực độc lập trong cơ chế phân chia quyền lực của thể chế chính

trị Liên bang Nga thời kỳ hậu Xô-viết. Nhánh quyền lực đó đặc trưng bởi

nguyên tắc Tòa án độc lập, xác định chính Tòa án mới là cơ quan bảo đảm tính

tối thượng của Hiến pháp và luật trong Nhà nước pháp quyền. Viện kiểm sát

thuộc hệ thống tư pháp nhưng không được coi là cơ quan thực hiện quyền tư

pháp, vì Hiến pháp quy định chỉ có tòa án mới là cơ quan thực hiện quyền lực tư

pháp. Từ đó, các quy định pháp luật về viện kiểm sát và kiểm sát viên đã có

những thay đổi so với thời kỳ xô-viết. Chức năng kiểm sát chung bị thu hẹp,

chức năng kiểm sát xét xử đã bị bãi bỏ. Cuốn sách của Giu-ba E.P. “Các xu

hướng đương đại phát triển nguyên tắc độc lập của Thẩm phán” [45] nêu rõ các

xu hướng khác nhau trong việc quy định hệ thống tố tụng tranh tụng, hệ thống tố

tụng xét hỏi và hệ thống tố tụng kết hợp giữa xét hỏi và tranh tụng. Trong đó vai

trò của kiểm sát viên (công tố viên)ở mỗi quốc gia rất khác nhau. Có nơi thì vị trí

công tố rất được đề cao (công tố mạnh), có nơi thì công tố thể hiện vai trò bình

thường (công tố “mờ”). Đồng thời nêu các khó khăn, trở ngại trong thực hiện

quyền công tố, nhất là ở các nước kém phát triển và đang phát triển. William E

Buttler trong “Báo cáo nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp

Liên bang Nga” [21] cho rằng Viện kiểm sát Liên bang Nga chủ yếu tự kiểm

soát và chịu sự giám sát của hệ thống Viện kiểm sát theo yêu cầu, mệnh lệnh nội

bộ. Như vậy, vấn đề đặt ra trong cải cách tư pháp ở Nga là cần phải điều chỉnh

pháp luật theo hướng tản quyền đối với Viện kiểm sát để tránh việc tập trung

nhiều quyền cho cơ quan này.Cần phải bỏ chức năng kiểm sát tuân theo pháp

luật của Viện kiểm sát, chỉ giữ lại chức năng công tố và Viện kiểm sát cần phải

được sáp nhập vào hệ thống tòa án hoặc hệ thống hành pháp. Vì vậy cần có

những cải cách căn bản đối với Viện kiểm sát. Trong cơ chế phân chia quyền lực

hiện nay ở Liên bang Nga đã có sự kiềm chế, đối trọng và cân bằng quyền lực

25

nên việc tồn tại một thứ quyền kiểm sát độc lập là không cần thiết. Nguyên tắc

phân quyền không có chỗ cho kiểm sát độc lập của Viện kiểm sát. Công việc mà

Viện kiểm sát cần phải làm là truy tố và buộc tội. Viện kiểm sát cần trở thành cơ

quan chuyên về thực hiện quyền công tố; Kiểm sát viên là người của hành pháp

thực hành quyền công tố.

1.2.2. Pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố

Trong số các công trình nghiên cứu ở Liên bang Nga, cần kể đến bài viết

“Kiểm sát viên trong tư pháp hình sự” của D.A. Be-vê-shen-cô [156] đề cập đến

vai trò của Kiểm sát viên trong hệ thống tư pháp hình sự. Tác giả cho rằng một số

quy định của pháp luật Liên bang Nga chưa cụ thể hóa hết tinh thần và nội dung

của Hiến pháp khi ghi nhận về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát với tư cách là cơ

quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, do đó không thể

đứng ngoài hoạt động điều tra dự thẩm như hiện nay. Việc hoàn thiện địa vị pháp

lý của Kiểm sát viên trong cải cách hệ thống kiểm sát là cần thiết để bảo đảm việc

điều tra xử lý tội phạm hiệu quả hơn.

Tác giả Kha-zi-nô-va V.M trong công trình “Kiểm sát viên trong tố tụng

hình sự” [67] đã tập trung phân tích vai trò của Kiểm sát viên trong giai đoạn tố

tụng tiền xét xử và đề xuất cần trả lại cho Kiểm sát viên vai trò điều tra vụ án. Vì

hiện tại chỉ các dự thẩm viên của Viện kiểm sát và Bộ Nội vụ thực hiện các hoạt

động điều tra. Việc tạo độc lập cho các dự thẩm viên dường như không phát huy

được tác dụng của Kiểm sát viên trong kiểm sát điều tra. Do vậy, các Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố, cần được giao nhiệm vụ điều tra.

Như vậy, cần sửa đổi các quy định pháp luật về viện kiểm sát và kiểm sát viên cho

phù hợp [155].

Công trình nghiên cứu về công tố Nhật Bản do Nhóm tác giả thực hiện gồm

Luke Nottage [14] (Đại học tổng hợp Sydney); Kent Anderson (Đại học quốc gia

Úc); Makoto Ibusuki (Đại học tổng hợp; Giáo sư David Johnson Đại học tổng hợp

Hawai đã có những đánh giá tích cực đối với hệ thống công tố Nhật Bản. Theo đó,

Ở Nhật Bản, có hai nguyên tắc cơ bản mà Bộ Tư pháp Nhật Bản (MOJ) áp dụng

26

đối với công tố viên: Nguyên tắc công tố thống nhất và nguyên tắc công tố viên

độc lập. Các nguyên tắc này tạo nên những mục tiêu có tính chất cạnh tranh với

nhau. Tuy nhiên, hệ thống ở Nhật Bản có thể điều hòa, cân đối tương đối tốt, hệ

quả là tại Nhật Bản tồn tại một hệ thống công tố có thể dự đoán trước được, phù

hợp với chế độ pháp quyền. Tất cả các vụ án do Cảnh sát điều tra tội phạm phải

được chuyển tới Viện công tố, trừ vụ án ít nghiêm trọng. Công tố viên chỉ huy

cảnh sát điều tra bổ sung, hoặc tự tiến hành các hoạt động điều tra bổ sung, thu

thập thêm chứng cứ, thẩm vấn bị can hoặc người tham gia tố tụng khác. Trong

quan hệ với Cơ quan điều tra, Công tố viên vừa đóng vai trò là người chỉ đạo,

giám sát điều tra, vừa phối hợp với Điều tra viên. Công tố viên không những được

quyền chỉ huy, chỉ đạo Điều tra viên mà còn có thẩm quyền yêu cầu xử lý kỷ luật

Điều tra viên nếu Điều tra viên không tuân theo chỉ đạo của Công tố viên. Đối với

các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khác (Thanh

tra viên Cục thuế nhà nước; cán bộ thuế của cơ quan hành chính tỉnh, thành phố;

nhân viên Hải quan; nhân viên Uỷ ban theo dõi giao dịch chứng khoán; Uỷ ban

giao dịch công chính…), Công tố viên phối hợp và có trách nhiệm chỉ đạo, trợ

giúp các cơ quan này tiến hành hoạt động điều tra, hoàn thiện hồ sơ chuyển Viện

công tố truy tố. Về nguyên tắc, Công tố viên Nhật Bản có thẩm quyền điều tra tất

cả các vụ án hình sự, nhưng trên thực tế, họ chỉ thực hiện các hoạt động điều tra

bổ sung sau khi cảnh sát chuyển hồ sơ vụ án đến Viện công tố đối với các vụ án

nghiêm trọng, vụ án liên quan đến tội phạm tham nhũng, tội phạm về kinh tế quy

mô lớn. Tuy nhiên, có sự trùng lặp giữa nhiệm vụ của cảnh sát với nghĩa vụ của

công tố, đặc biệt là liên quan đến điều tra cũng như việc “làm rõ và chứng minh sự

thật.” Hệ quả là, quan hệ giữa công tố với cảnh sát phức tạp hơn so với quan hệ

với các cơ quan tham gia tố tụng khác trong tư pháp hình sự. Các Công tố viên

điều hành tại Nhật Bản đã phải dành khá nhiều thời gian và công sức để xử lý mối

quan hệ nhạy cảm này.

Tác giả Byung-Sun Cho sau khi làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn

của Viện Công tố và Công tố viên đã đánh giá trong “Báo cáo nghiên cứu về tổ

chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Hàn Quốc” của mình là tại Hàn Quốc

27

[23], Công tố viên có vị trí rất quan trọng, có thể chỉ đạo hoạt động điều tra truy tố

trong mối quan hệ với cảnh sát tư pháp và các lực lượng khác. Mối quan hệ này

không chỉ là sự hợp tác mà còn là mối quan hệ mệnh lệnh, chấp hành. Mô hình tổ

chức của hệ thống công tố Hàn Quốc được xây dựng từ khái niệm Độc lập công tố

(Prosecutorial Independence) vốn tương đồng với khái niệm Độc lập tư pháp. Cải

cách tư pháp tại Hàn Quốc đã bắt đầu xem công tố viên như người chỉ huy việc

điều tra và như một bên đúng nghĩa trong phiên tòa chứ không phải là một bán

thẩm phán. Do đó, Công tố viên Hàn Quốc vẫn là một hệ thống duy nhất kết hợp

cả hệ thống thông luật và hệ thống luật dân sự. Do vậy, những thay đổi cần thiết

về pháp luật đối với ông tố viên như là một yêu cầu tự nhiên của nền tư pháp

mang tính chất kết hợp này.

1.2.3. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền

công tố

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công

tố ở Liên bang Nga luôn mang tính thời sự kể từ khi Chương trình cải cách tư

pháp được thực hiện từ 2007. Theo tài liệu nghiên cứu của bốn Giáo sư trong

nhóm cố vấn của Tổng thống Liên bang Nga về cải cách tư pháp “Luận cương về

cải cách tư pháp ở Liên bang Nga” [154] đã nêu rõ mục tiêu của cải cách tư pháp

ở Liên bang Nga là bảo đảm độc lập xét xử của Tòa án. Muốn thế, hoạt động xét

xử và hoạt động công tố tuy đều tuân thủ mục đích của tố tụng hình sự nhưng vẫn

cần độc lập với nhau. Các chức năng công tố và xét xử không được lẫn lộn. Trong

Viện kiểm sát, hoạt động của Kiểm sát viên về tố tụng là độc lập, vì nếu hành

chính lẫn với tư pháp sẽ dễ dẫn đến vi phạm pháp luật. Do đó cần khắc phục sớm

những bất cập hiện nay của pháp luật về tố tụng hình sự về quyền hạn, trách

nhiệm của Kiểm sát viên.

“Báo cáo nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp nước

Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” của Vivienne Bath [20] nêu rõ: Sau khi chuyển

đổi nền kinh tế về cơ bản, Trung Quốc vẫn giữ mô hình Viện kiểm sát trước khi

chuyển đổi. Viện kiểm sát vẫn trực thuộc cơ quan đại diện, không nằm trong hệ

28

thống các cơ quan hành chính. Hệ thống Cơ quan điều tra ở Trung Quốc thuộc Bộ

Công an. Viện kiểm sát có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm

sát điều tra các vụ án hình sự; được trao thẩm quyền điều tra nên có vị trí, vai trò,

quyền hạn rất lớn và có thực lực so với các cơ quan công tố trên thế giới hiện nay.

Viện kiểm sát Trung Quốc, ngoài việc chịu sự giám sát theo hệ thống ngành dọc

còn chịu sự giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cùng cấp. Hệ thống Viện

kiểm sát ở Trung Quốc được tổ chức thành bốn cấp phù hợp với hệ thống tổ chức

Toà án.

Bài viết “Về mô hình tổ chức Viện kiểm sát trong bối cảnh cải cách tư pháp

ở Việt Nam” của Richard S. Shiner [100], chuyên gia của UNDP thực hiện giới

thiệu về chế độ công tố Hoa Kỳ và chế độ kiểm sát ở Liên bang Nga, trên cơ sở đó

khuyến nghị mô hình công tố cho Việt Nam. Trong công trình này, tác giả đã so

sánh hai loại thiết chế kiểm sát (ở Liên bang Nga) và công tố (ở Hoa Kỳ). Ở Hoa

Kỳ, với 31.000 công tố viên bang và ở các địa phương, hoạt động với thẩm quyền

độc lập, tiến hành truy tố các tội phạm xay ra trên địa bàn mà không chịu sức ép

và sự giám sát của Bộ Tư pháp và chính quyền cấp trên. Trong khi đó, ở Liên

bang Nga, Viện kiểm sát Liên bang là thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước.

Viện trưởng Viện kiểm sát Liên bang lại có quyền giám sát trực tiếp họat động

công tố của các Viện trưởng kiểm sát cấp vùng. Đây là những vấn đề cần nghiên

cứu khi vận dụng ở nước ta.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Qua việc nghiên cứu, khái quát các công trình tiêu biểu về các vấn đề liên

quan đến Viện kiểm sát/Viện công tố; Kiểm sát viên của các tác giả trong và ngoài

nước cho thấy, nhìn chung các công trình của các nhà khoa học ở những cấp độ và

khía cạnh khác nhau đều đã phân tích những vấn đề lý luận Pháp luật về Kiểm sát

viên; Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; Hoàn

thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố; các yêu

cầu, đặc điểm của dân chủ, các cơ chế thực hành quyền công tố; đề cập đến việc

thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải

29

cách nói riêng để thấy được sự cần thiết phải đảm bảo quyền thực hành quyền

công tố của Kiểm sát viên theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

Một số công trình đã nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống ý nghĩa,

vai trò, tầm quan trọng của Pháp luật về Kiểm sát viên ở Việt Nam hiện nay; tìm

ra những yếu tố tác động, những giải pháp nhằm bảo đảm hiệu quả việc thực hành

quyền công tố; nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng thiết chế thực hành quyền

công tố theo yêu cầu cải cách trên phạm vi cả nước. Các công trình này đã góp

phần làm rõ thêm cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt

Nam; đánh giá những mặt làm được, những hạn chế còn tồn tại trong pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư

pháp ở Việt Nam; đưa ra được các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện, bảo đảm

nâng cao chất lượng của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.

Các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố đã đề cập đến một số khía cạnh khác

nhau như: tập trung phân tích làm rõ khái niệm, bản chất, hình thức, vai trò quan

trọng của pháp luật về Kiểm sát viên và việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố; những thành công, hạn chế và

những vấn đề đặt ra trong hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố, mỗi tác giả có những cách tiếp cận cùng với mục đích

nghiên cứu riêng. Tuy nhiên, riêng đối với việc nghiên cứu hoàn thiện pháp luật

về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư

pháp ở Việt Nam, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách

toàn diện, cụ thể có hệ thống dưới góc độ chuyên ngành Lý luận và lịch sử về Nhà

nước và pháp luật.

Để đạt được mục tiêu của luận án, quá trình nghiên cứu đã kế thừa có chọn

lọc kết quả của những công trình khoa học nêu trên và tiếp tục làm rõ một số vấn

đề cụ thể:

30

* Về lý luận, luận án tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ

- Khái niệm pháp luật về quyền công tố, thực hành quyền công tố và xác

định đây là các khái niệm công cụ để nghiên cứu khái niệm pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Một khái niệm cho đến nay chưa có

nghiên cứu nào đưa ra quan điểm nhất quán và gắn với các tư duy lý luận pháp lý

mới, tư tưởng quan điểm mới của Hiến pháp 2013. Trên cơ sở này, những nội

dung cần điều chỉnh, bổ sung trong pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

hành quyền công tố mà các công trình khoa học nêu trên chưa đề cập đến cũng

được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.

- Khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền

công tố là vấn đề cơ bản để từ đó phân tích, làm rõ các nội dung lý luận của khái

niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố.

- Cơ sở lý luận để hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

hành quyền công tố, bao gồm: đặc điểm, nội dung vai trò, đối tượng và phương

pháp điều chỉnh của pháp luật về Kiểm sát viên; yêu cầu cải cách tư pháp và các

tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố; điều kiện bảo đảm hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt

Nam; Pháp luật về Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố của

một số nước trên thế giới và giá trị tham khảo ở Việt Nam.

* Về thực tiễn, luận án tập trung làm rõ

- Nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố gắn với quá trình hình thành, phát

triển và hoàn thiện pháp luật tổ chức và hoạt động của mô hình Nhà nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể: làm rõ pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố qua các giai đoạn từ 1945 đến năm 1959,

từ 1960 đến trước 2002 và từ 2002 đến nay.

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp

31

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân

của thực trạng nói trên. Rút ra bài học kinh nghiệm để xây dựng và hoàn thiện

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu

cải cách tư pháp.

Từ việc phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố, Luận án xây dựng luận cứ, đề xuất các

quan điểm và giải pháp bảo đảm cho việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp và xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tiểu kết chương 1 Kết quả nghiên cứu chương 1 cho thấy, đến nay đã có nhiều công trình

nghiên cứu được công bố trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án. Những

công trình này liên quan đến các nhóm vấn đề cơ bản sau:

Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về Kiểm sát viên.

Đa số các nghiên cứu này tập trung đi vào phân tích và làm rõ nội dung khái niệm

quyền công tố, thực hành quyền công tố, chức năng, nhiệm vụ, vai trò, của Viện

kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự, đặc biệt nhấn mạnh vai trò, chức năng,

nhiệm vụ thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra. Bên

cạnh đấy, các công trình nghiên cứu cũng đi sâu vào phân tích, làm rõ chức năng

vấn đề thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân thông qua việc đánh

giá hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về Kiểm sát viên trên cơ sở mối quan hệ pháp

lý của Viện kiểm sát với các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, dù rất đa dạng và bao trùm nhiều khía cạnh nhưng

các công trình khoa học nêu trên vẫn thiếu vắng các nghiên cứu sâu về bản chất,

nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tổ chức và hoạt động

thực hiện quyền công tố gắn với bối cảnh yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là gắn với các tư duy lý

luận pháp lý mới, tư tưởng mới của Hiến pháp 2013.

32

Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố. Các công trình ở nhóm này đề cập đến

một số vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố. Thông qua việc luận chứng, làm rõ những vấn đề lý luận

chung về thủ tục, mô hình tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tố tụng liên

quan đến Kiểm sát viên, kết hợp đánh giá một số hạn chế, vướng mắc, bất cập

trong pháp luật tố tụng hình sự khi Kiểm sát viên thực hành quyền công tố từ đó

đưa ra một số kiến nghị mang tính khái quát theo hướng tăng thẩm quyền và trách

nhiệm của Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra, truy tố, gắn với bảo vệ quyền

con người, quyền công dân theo tinh thần mới của Hiến pháp 2013

Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Ở nhóm này, các công

trình tập trung nghiên cứu việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố một cách gián tiếp thông qua phân tích, đánh giá

làm rõ chức năng công tố của Viện kiểm sát trong tổ chức, hoạt động của bộ máy

Nhà nước, trong tổ chức, cơ cấu của hệ thống tư pháp hình sự. Trên cơ sở xác định

cải cách tư pháp là yêu cầu khách quan, tất yếu của quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do, Nhân dân, vì Nhân dân

và để bảo đảm hiệu quả của mối quan hệ chế ước, phối hợp trong hệ thống tư pháp

hình sự thì cần có mô hình mới về Viện kiểm sát và những thay đổi pháp luật về

quy định địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên

trong thực hành quyền công tố.

Nhóm các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Các công trình ở nhóm

này đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố gắn với mô hình tố tụng và thực tiễn tổ

chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước của từng quốc gia cụ thể. Bên cạnh những

đặc điểm mang tính đặc thù quốc gia, thì đặc điểm chung nhất của pháp luật về

Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố của các nước đó là để Kiểm sát

33

viên/Công tố viên thực hành quyền công tố một cách hiệu quả thì cần phải có cơ

chế pháp lý bảo đảm tính độc lập, chủ động của Kiểm sát viên/Công tố viên trong

quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Đây là hạt nhân có giá trị tốt cho việc nghiên

cứu tìm ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.

Các công trình khoa học được đề cập trong chương 1 của luận án, ở mức độ

khác nhau đều liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án. Song cho đến nay,

chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, toàn diện, hệ thống dưới

góc độ Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật vấn đề hoàn thiện pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố theo yêu cầu cải cách tư

pháp. Vì vậy, việc tổng hợp, đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu trong

và ngoài nước đối với pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền

công tố sẽ góp phần khái quát lại những kết quả đã đạt được của các công trình đã

công bố đồng thời chỉ ra mảng vấn đề chưa được quan tâm thỏa đáng khi đề cập

đến pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam. Những nhận

xét, đánh giá sau khi nghiên cứu tổng quan (chương 1) sẽ giúp cho nghiên cứu

sinh có cái nhìn tổng quát về các giá trị có thể kết thừa và phát triển, cũng như vấn

đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu.

34

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

2.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN

DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

Để nghiên cứu và xây dựng được khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố trước hết cần phải làm rõ các khái niệm

công cụ: Quyền công tố; Thực hành công tố; Kiểm sát viên. Nội dung các khái

niệm công cụ này cũng sẽ là cơ sở lý luận để nghiên cứu đặc điểm, vai trò pháp

luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố.

2.1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố

Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà

nước, là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của quyền lực nhà nước trong

lĩnh vực tư pháp. Mặc dù, quyền công tố là một quyền năng quan trọng đã được

thực hiện ở nước ta từ năm 1945 đến nay, nhưng trong thực tiễn khoa học pháp lý

giữa các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà lập pháp và các cán bộ đang trực tiếp

hoạt động trong lĩnh vực tư pháp vẫn chưa đạt được nhận thức thống nhất. Trong

lĩnh vực lập pháp, thuật ngữ quyền công tố được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều

138 Hiến pháp năm 1980 trong cụm từ “Thực hành quyền công tố”. Tuy nhiên

cho đến nay, trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn vẫn có nhiều quan điểm

khác nhau về quyền công tố, thực hành quyền công tố.

Quan điểm thứ nhất đồng nhất quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc

tuân theo pháp luật của VKSND nên cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát việc

tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố [136, tr.85-87].

Quan điểm thứ hai cho rằng: “Quyền công tố là quyền của nhà nước giao

cho Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó

tại phiên tòa sơ thẩm” [83]. Theo quan điểm này thì chủ thể duy nhất thực hành

quyền công tố là Viện kiểm sát và quyền này chỉ được thực hiện trong lĩnh vực tố

tụng hình sự và phạm vi của nó cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất là giai đoạn

xét xử sơ thẩm.

35

Quan điểm thứ ba cho rằng quyền công tố là quyền của cơ quan hành pháp

truy tố bị cáo ra trước tòa án [13]. Công tố chỉ thực hiện chức năng đại diện cho

Nhà nước để bảo vệ lợi ích công khi nhà nước là một bên trong vụ án bởi vì, bản

chất của công tố là việc đại diện cho quyền lực công để truy tố tội phạm, đưa

người có hành vi phạm tội ra trước toà án để xét xử, do đó, công tố phải là một

chức năng không tách rời của hành pháp - cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực

thi pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng, chịu trách nhiệm trước nhân

dân về tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm. Viện Công tố phải là một cơ quan

thuộc nhánh hành pháp và chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và trước

nhân dân về việc truy tố tội phạm và buộc tội trước Toà.

Quan điểm thứ tư cho rằng: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao

cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp

dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội” [128, tr.10]. Do vậy, chủ thể

thực hành quyền công tố không chỉ có Viện kiểm sát mà còn có các cơ quan tiến

hành tố tụng khác như: Cơ quan điều tra, Cơ quan xét xử, Cơ quan thi hành án và

phạm vi quyền công tố có ở tất cả các giai đoạn tố tụng từ điều tra, truy tố, xét xử

đến thi hành án.

Quan điểm thứ năm cho rằng: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao

cho Viện kiểm sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền

này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện để phát

hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm

được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách

nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và

người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và

bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [107, tr.40]. Quyền công tố chỉ có trong lĩnh

vực tố tụng hình sự mà không có trong các lĩnh vực tố tụng khác như: dân sự,

hành chính, kinh tế, lao động.

Như vậy, có thể thấy có rất nhiều quan niệm khác nhau về quyền công tố.

Mỗi quan điểm đều có những hạt nhân hợp lý nhưng cũng đều bộc lộ những hạn

chế nhất định nhìn từ các khía cạnh: cơ sở lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn

36

hoạt động và còn không phù hợp với nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực trong

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tinh thần Hiến pháp 2013. Theo

quan điểm của Đảng ta hiện nay thì Nhà nước của dân, do dân, vì dân được nhận

thức thống nhất là Nhà nước của dân là nhà nước mà trong tổ chức và hoạt động

của mình phải khẳng định vai trò chủ thể, chủ sở hữu quyền lực nhà nước thuộc về

dân. Nhà nước do dân nói lên vai trò của dân, phương thức tổ chức, xây dựng Nhà

nước và hành động của dân, rõ nhất là sự ủy quyền và chế độ ủy quyền của nhân

dân vào Nhà nước. Nhà nước vì dân là mục đích, mục tiêu phục vụ dân của Nhà

nước đó. Nhìn từ lịch sử ta thấy ở Nga nhà nước Xô Viết được thành lập sau Cách

mạng Tháng Mười với chính thể Cộng hòa Xô Viết, chính phủ là hội đồng dân ủy,

các Bộ trưởng là ủy viên Hội đồng dân ủy. Và trước đó ta cũng thấy, trong Công

xã Pari thể nghiệm hình thức chính trị đầu tiên thực hiện quyền của nhân dân là sự

hình thành chính quyền Công xã. Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi đưa ra

khái niệm:

Quyền công tố là quyền của Nhân dân uỷ quyền cho Viện kiểm sát/Viện

công tố để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm

tội, đồng thời duy trì việc buộc tội đó trước phiên tòa nhằm bảo đảm quyền con

người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thực hiện theo quy

định của Hiến pháp và pháp luật.

Theo định nghĩa nêu trên thì đối tượng của quyền công tố là tội phạm và

người phạm tội. Tội phạm là hành vi nguy hiểm nhất cho xã hội được quy định

bởi Luật Hình sự. Để bảo vệ lợi ích chung và duy trì trật tự xã hội, Nhân dân

thông qua nhà nước giao quyền cho các cơ quan nhân danh công quyền để buộc

tội và áp dụng chế tài hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội. Quyền

công tố chỉ phát sinh khi có tội phạm xảy ra và chỉ áp dụng đối với người thực

hiện hành vi phạm tội. Phạm vi quyền công tố cũng có giới hạn ở lĩnh vực tố tụng

hình sự, và phát động từ khi phát hiện tội phạm đến hết giai đoạn xét xử (sơ thẩm,

phúc thẩm, giám đốc thẩm), không mở rộng sang lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao

động hay hành chính.

37

Khái niệm thực hành quyền công tố được nghiên cứu trên cơ sở khái niệm

quyền công tố. Do có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố nên cũng có

nhiều quan điểm khác nhau về thực hành quyền công tố. Khái quát chung thì hiện

nay, trong khoa học pháp lý và trong hoạt động thực tiễn tư pháp, có hai quan

điểm chủ yếu về thực hành quyền công tố. Quan điểm thứ nhất cho rằng: "Thực

hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của

pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa

người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó" [39]. Quan điểm

thứ hai cho rằng: “Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng

hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét

xử” [107, tr.57]. Mới đây nhất, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm

2014 đã có một quy phạm mang tính định nghĩa

Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với

người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử vụ án hình sự [98].

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, dưới góc độ lý luận lịch sử nhà

nước và pháp luật, khái niệm “Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử

dụng tổng hợp các biện pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với

người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội

đó nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng,

bảo vệ và thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”.

Theo quy định của Hiến pháp, theo cơ chế tổ chức và hoạt động của Nhà

nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì chủ thể thực hành quyền công tố chỉ có thể là

Viện kiểm sát nhân dân. Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu ngay từ khi cơ

quan tiến hành tố tụng nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

(vì đây là thời điểm xuất hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội) và

kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật tức là quyền truy cứu trách nhiệm hình

38

sự đã đạt được (trừ trường hợp vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật). Nội

dung thực hành quyền công tố là việc cơ quan tiến hành tố tụng - Viện kiểm sát sử

dụng tổng hợp tất cả các quyền năng pháp lý mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định

thông qua các hoạt động của chủ thể tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên) để phát

hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, đúng quy định pháp luật mọi hành vi tội phạm

và người phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan

người vô tội. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn

trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Đối với mô hình tố tụng hình sự xét hỏi (mô hình tố tụng thẩm vấn) kết hợp

với tranh tụng như Việt Nam, hoạt động thực hành quyền công tố bao gồm: 1)

Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp

luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra,

cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố

vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định;

2) Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế

quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của

Bộ luật tố tụng hình sự; 3) Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong

việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi

tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra.

Từ các quy định pháp luật nêu trên cho thấy nhiệm vụ thực hành quyền

công tố của Viện kiểm sát nhân dân khác với nhiệm vụ của cơ quan thanh tra, cơ

quan điều tra, Toà án nhân dân ở chỗ thông qua thực hành quyền công tố Viện

kiểm sát nhân dân vừa nhiệm vụ và trách nhiệm phát hiện tội phạm và truy tố

người phạm tội ra xét xử trước Toà án, vừa thực hiện quyền giám sát của Nhân

dân - chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp

pháp của công dân, của con người trước sự xâm hại của hành vi tội phạm và sự

lạm quyền, lộng quyền của cá nhân, tổ chức công quyền trong quá trình giải quyết

39

nguồn tin tội phạm, giải quyết vụ án hình sự trên cơ sở các quy định của pháp luật.

Phạm vi thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự được phát sinh ngay từ khi

tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, đến khi bản án có hiệu lực. Phạm vi

này, chỉ có trong hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.

Đây cũng là một đặc điểm mang tính đặc thù, tạo sự khác biệt với các hoạt động

điều tra, xét xử, thi hành án.

2.1.2. Khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố

Kiểm sát viên là một chủ thể pháp lý hiến định, là một trong những người

tiến hành tố tụng được quy định trong BLTTHS. Theo từ điển Luật học, Kiểm sát

viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp [12]. Theo điều 74, Luật tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo

quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp [98].

Trên phương diện thực tiễn, Kiểm sát viên là chủ thể pháp lý trực tiếp được

uỷ quyền để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư

pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ Kiểm

sát viên là nhân tố cơ bản và quan trọng nhất trong việc khẳng định vị trí, vai trò,

chức năng của nghành kiểm sát, cũng như trong việc thực hiện cơ chế kiểm soát

quyền lực nhà nước, khắc phục tình trạng lạm quyền, xâm phạm các quyền dân

chủ của công dân, của con người. Bảo đảm sự tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của

cá nhân và các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết nguồn tin tội

phạm hoặc vụ án hình sự. Mặt khác, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ

Kiểm sát viên còn một trong những là cơ sở quan trọng để Nhân dân và Nhà nước

đánh giá kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong

việc bảo vệ tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật nói riêng và trong bảo

đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo

đảm theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nói chung. Từ cơ sở nêu trên,

nghiên cứu sinh đưa ra khái niệm:

40

Kiểm sát viên là một chủ thể pháp lý hiến định trong Viện kiểm sát nhân

dân, được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo vệ tính nghiêm minh,

thống nhất của pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân được công

nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Tiếp cận định nghĩa pháp luật dưới góc độ lý luận Nhà nước và Pháp luật

thì “pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm

thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh

các quan hệ xã hội” [34, tr.66]. Từ cách tiếp cận này, pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố được xem là hệ thống các quy tắc xử sự

do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trong quá trình Kiểm sát viên thực

hành quyền công tố. Khi quyền công tố được phát động, thì chủ thể pháp lý Kiểm

sát viên sẽ được phép sử dụng tổng hợp các biện pháp do luật định để truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước

Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó. Từ đó có thể khái niệm như sau:

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố là hệ

thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, nhằm điều

chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội

nhằm bảo vệ tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật, bảo đảm quyền con

người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thực hiện theo quy

định của Hiến pháp và pháp luật.

Các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền

công tố được ghi nhận ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, từ những

quy định của Hiến pháp đến Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; từ Bộ luật tố

tụng hình sự đến các luật liên quan như Luật tổ chức điều tra hình sự đến các pháp

lệnh về Kiểm sát viên VKSND và các văn bản hướng dẫn thi hành khác. Như vậy,

về mặt kỹ thuật lập pháp, không có một văn bản quy phạm pháp luật duy nhất ghi

nhận các quy định về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Tuy

41

nhiên, do tính thống nhất nội tại của hệ thống pháp luật, của các chế định pháp

luật liên quan đến tổ chức và hoạt động tư pháp, các quy định nói trên đã tạo ra

một cơ sở pháp lý đồng bộ và thống nhất cho hoạt động thực hành quyền công tố

của Kiểm sát viên trong các vụ án hình sự. Nhận thức đầy đủ đặc điểm này sẽ giúp

cho việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên nói chung, hoạt động thực hành

quyền công tố của Kiểm sát viên nói riêng có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về

tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.

2.2. ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG, VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT

VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

2.2.1. Đặc điểm của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố có

những đặc điểm như sau:

Thứ nhất, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công

tố bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh

trong quá trình thực hành quyền công tố. Đây có thể coi là đặc trưng cơ bản nhất

để nhận biết, phân biệt pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền

công tố với các lĩnh vực pháp luật khác, bao gồm các nhóm quan hệ pháp luật tố

tụng hình sự sau:

- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên (người được uỷ quyền) với Nhân dân

(người uỷ quyền - chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước).

- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên với các cơ quan tiến hành tố tụng như

Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Toà án nhân dân...

- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên với người tiến hành tố tụng như: Thủ

trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân, Thẩm

phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; Giám thị trại giam...

- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng

hình sự thuộc đối tượng của thực hành quyền công tố (nhóm “yếu thế” trong tố

42

tụng hình sự) như người bị tạm giữ, người bị nghi thực hiện hành vi phạm tội, bị

can, bị cáo.

- Nhóm quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng khác

như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa

vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi

của đương sự, người giám định, người phiên dịch.

Thứ hai, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công

tố thể hiện trách nhiệm, thái độ của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội

phạm, bảo vệ trật tự xã hội, quyền con người, quyền công dân thông qua hoạt

động thực hành quyền công tố.

Phòng ngừa tội phạm, tiến đến loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội là

một trong những biểu hiện của bản chất nhân đạo chế độ xã hội mới, một nhiệm

vụ không thể thiếu trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Phòng ngừa tội

phạm không chỉ là nhiệm vụ, quan điểm, thái độ ứng xử của Nhà nước đối với tội

phạm và người phạm tội, mà đây còn sự thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong

việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo

vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

Một trong những yếu tố đảm bảo tính hiệu quả trong đấu tranh phòng

chống tội phạm là Nhà nước cần phải có hệ thống các quy định pháp lý hợp hiến,

đầy đủ, minh bạch, thống nhất bên cạnh một hệ thống cơ quan tư pháp mạnh bảo

đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh tất cả các hành vi tội phạm và người

phạm tội. Không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Ngoài ra, hệ thống

pháp lý này phải bảo đảm được tính hiệu quả của cơ chế kiểm soát quyền lực từ

bên trong, lẫn bên ngoài. Hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền từ phía các chủ thể

được Nhân dân uỷ quyền, giao quyền.

Trong Nhà nước pháp quyền XNCN Việt Nam, Hiến pháp và các đạo luật

giữ vai trò tối thượng, mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức, các cơ quan Nhà

nước... đều phải tuân theo các quy định của pháp luật và mục đích cuối cùng của

Nhà nước là tôn trọng và bảo đảm cao nhất quyền con người, quyền công dân,

43

nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ,

tăng cường kỷ cương. Viện kiểm sát nhân dân là một trong những cơ quan thực

hiện hoạt động tư pháp trực tiếp thực nhiệm vụ nêu trên. Điều tra, truy tố người

phạm tội ra trước Toà án, bảo vệ sự buộc tội đó tại Tòa là một quá trình bao gồm

nhiều hoạt động phức hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng, trong đó có Kiểm sát viên. Nhận thức và đánh giá đúng vai trò, chức năng

của Kiểm sát viên trong phòng chống tội phạm nói chung, trong giải quyết vụ án

hình sự nói riêng Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng quy

định cụ thể, chặt chẽ về địa vị pháp lý và trách nhiệm của Kiểm sát viên. Những

văn bản pháp luật đó đã trở thành phương tiện quan trọng, một bảo đảm pháp lý

mạnh mẽ để Kiểm sát viên thực hiện hiệu quả việc “buộc tội của Nhà nước đối với

người phạm tội”, phát hiện mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử kịp thời nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội. Và đây

cũng là cơ sở pháp lý để nhân dân kiểm soát quyền lực và giám sát hoạt động thực

hành quyền công tố của Kiểm sát viên.

Thứ ba, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

có mối quan hệ mật thiết với các quy định pháp luật khác trong hệ thống pháp luật

Việt Nam và các điều ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết. Xem xét

dưới góc độ pháp luật thực định, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

hành quyền công tố là nhóm các quy định pháp luật bao gồm hệ thống các văn bản

quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tổ chức và hoạt

động của Kiểm sát viên. Vì vậy, nó có mối quan hệ chặt chẽ với các quy định của

ngành luật khác, trước hết là các đạo luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan

tư pháp như Luật Hiến pháp, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Cơ

quan điều tra hình sự. Ngoài ra pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

hành quyền công tố còn có sự liên hệ và chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các

nghành luật như Luật Tố tụng hình sự, Luật hình sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm

44

giam; Luật giám định tư pháp, Luật luật sư... Sự tương tác thể hiện ở chỗ các quy

phạm của các ngành luật nêu trên có vai trò hỗ trợ, chế ước trong quá trình thực

hiện các quy định pháp luật về Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng hình sự nói

chung, thực hành quyền công tố nói riêng.

2.2.2. Nội dung của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố

* Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành

quyền công tố điều chỉnh một số nhóm quan hệ xã hội

Trong khoa học pháp lý, địa vị pháp lý của một chủ thể quan hệ pháp luật

(cơ quan, tổ chức, cá nhân...) được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp luật về

quyền và nghĩa vụ của chủ thể đó. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, quá trình hoạt

động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND không thể triển khai

tác nghiệp tập thể mà phải thông qua chủ thể Kiểm sát viên được phân công thực

hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn tố tụng, từng công việc cụ thể thuộc trách

nhiệm của Viện kiểm sát. Vì vậy, khi nói về nội dung điều chỉnh của pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố cần đề cập đến các nhóm

quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh nội dung thực hành quyền công tố và liên

quan đến chủ thể Kiểm sát viên.

Nhóm thứ nhất gồm các quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung quyền

năng pháp lý mà Kiểm sát viên được trực tiếp nhân danh Kiểm sát viên khi thực

hành quyền công tố.

Xuất phát từ vị trí, chức năng Hiến định của Viện kiểm sát là “thực hành

quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Kiểm sát viên cũng là một chức

danh tư pháp Hiến định. Kế thừa và phát triển các quy định của các Hiến pháp

1946, 1960, 1980, 1992, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận Viện kiểm sát nhân dân

thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên là một

chức danh tư pháp “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,

Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân” [97]. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định chức năng,

45

nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

giải quyết nguồn tin về tội phạm và thực hiện các hoạt động tố tụng khác khi giải

quyết vụ án hình sự. Trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố và điều tra vụ án hình sự, Kiểm sát viên đề ra yêu cầu xác minh và

yêu cầu điều tra viên được phân công giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện;

Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường

hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trong hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm

mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục. Ngoài ra còn có một số

hoạt động tiến hành tố tụng khác theo luật định như tham gia khám nghiệm tử thi;

khám nghiệm hiện trường; khám nghiệm phương tiện; lấy lời khai đối tượng,

người làm chứng… theo quy định của pháp luật. Trong giai đoạn truy tố Kiểm sát

viên yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong

trường hợp cần thiết; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra,

bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Toà án yêu cầu điều

tra bổ sung mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho CQĐT. Trong giai đoạn xét

xử Kiểm sát viên tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát

liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội;

phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia

tố tụng tại phiên toà.

Nhóm thứ hai là các quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung quyền năng

pháp lý của Kiểm sát viên nhân danh Viện kiểm sát VKSND trong thực hành

quyền công tố khi thực hiện nhiệm vụ cụ thể do Viện trưởng, Phó Viện trưởng

hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền phân công trong từng vụ việc, vụ

án cụ thể. Như đã trình bày ở phần trên, quyền công tố được phát động ngay từ khi

tội phạm xảy ra, vì vậy khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm hoặc kiến nghị

khởi tố Viện kiểm sát có nhiệm vụ xác minh tính xác thực của nguồn tin về tội

phạm này trước khi chuyển, hoặc yêu cầu CQĐT có thẩm quyền thụ lý, giải quyết.

Thực hiện việc xác minh theo phân công của Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc

Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu cơ

46

quan, tổ chức, hoặc cá nhân cung cấp tài liệu, lấy lời khai đối tượng nhưng phải

trên cơ sở nhân danh Viện kiểm sát; Ngoài ra, theo quy định tại điều 37, BLTTHS

2003 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố thì Kiểm sát viên còn “thực hiện các nhiệm vụ, quyền

hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng

Viện kiểm sát”.

Nhóm thứ ba, là các quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung kiểm tra,

giám sát của Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước (chủ

thể uỷ quyền) đối với Kiểm sát viên (chủ thể pháp lý được uỷ quyền) trong quá

trình giải quyết nguồn tin tội phạm, hoặc vụ án hình sự.

2.2.3. Vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố

- Pháp luật về Kiểm sát viên là sự bảo đảm pháp lý, công cụ không thể

thiếu trong quá trình Kiểm sát viên thực hành quyền công tố.

Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực

hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có

nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất.

Trong hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân,

Kiểm sát viên là nhân tố cơ bản. Hoạt động nghề nghiệp của Kiểm sát viên mang

tính đặc thù cao. Nghề nghiệp đó có ảnh hưởng lớn tới tính công minh của pháp

luật, tới uy tín nền công lý của một quốc gia. Vì vậy, để thực hành quyền công tố

thì trước hết địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm Kiểm

sát viên cần phải được Nhà nước luật hoá và bảo đảm thực hiện.

Xuất phát từ đặc điểm nghề nghiệp mang tính đặc thù đó nên mọi hoạt

động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên phải được tiến hành trên cơ sở

quy định của pháp luật, từ khi Kiểm sát viên được phân công giải quyết tố giác,

47

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử và kết thúc khi bản án có hiệu lực. Nói một cách khác, pháp luật về

Kiểm sát viên là sự bảo đảm pháp lý, công cụ không thể thiếu trong quá trình

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố.

- Pháp luật về Kiểm sát viên là cơ sở xác định phạm vi, nội dung thực hành

quyền công tố của Kiểm sát viên trong quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về

tội phạm hoặc vụ án hình sự.

Để giải quyết một vụ án hình sự từ khi tiếp nhận nguồn tin tội phạm đến

khi bản án có hiệu lực, Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố

phải tiến hành hàng loạt các hoạt động tố tụng phức tạp liên quan đến cơ quan tiến

hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Hoạt động thực

hành quyền công tố của Kiểm sát viên được hiểu là quyền nhân danh Nhà nước

truy tố kẻ phạm tội ra trước tòa án và đại diện cho công lý buộc tội kẻ phạm tội

trước phiên tòa. Đây là một chức năng tố tụng nhằm chống lại một người cụ thể

và thực chất đó là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện

hành vi phạm. Vì vậy, nó sẽ tác động trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của

cá nhân, tổ chức. Để bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

tránh xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội thì pháp luật về Kiểm sát

viên phải là cơ sở để xác định phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố của

Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố là cơ

sở pháp lý để Nhân dân kiểm soát quyền lực và thực hiện việc kiểm tra, giám sát

đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.

Trong đời sống xã hội, pháp luật luôn giữ một vai trò rất quan trọng. Một

mặt, pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội, mặt

khác pháp luật cũng là phương tiện để nhân dân phát huy dân chủ và quyền làm

chủ của mình.

Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố

tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, từ

khi cơ quan chức năng tiếp nhận nguồn tin về tội phạm đến khi bản án có hiệu lực

48

thông qua chủ thể trực tiếp và cơ bản là Kiểm sát viên. Xét về bản chất của quyền

công tố nói riêng, quyền lực nhà nước nói chung là quyền lực của nhân dân.

Quyền lực của nhân dân là cơ sở nền tảng của quyền lực nhà nước. Trong quan hệ

với nhân dân, không có quyền mà chỉ là thực hiện sự uỷ quyền của nhân dân. Vì

vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố cũng phải

là cơ sở pháp lý để nhân dân kiểm soát quyền lực và thực hiện việc kiểm tra, giám

sát đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên. Việc kiểm tra,

giám sát của nhân dân đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát

viên trên cơ sở các quy định pháp luật. Một mặt, để bảo đảm cho nhân dân - chủ

thể tối cao của quyền lực nhà nước giao quyền nhưng không mất quyền. Mặt khác,

hạn chế tối thiểu các trường hợp lạm quyền, lộng quyền của Kiểm sát viên và để

hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên nói riêng, của Viện kiểm sát

nói chung đạt được hiệu quả cao nhất trong việc bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, trật tự xã hội.

2.3. YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH TƯ PHÁP, TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ

HOÀN THIỆN VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN

CÔNG TỐ

2.3.1. Yêu cầu cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện pháp luật về

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố

Ở Việt Nam, từ năm 1945 đến nay, chế định quyền công tố đã được thiết

lập, củng cố và thay đổi sau những lần cải cách của hệ thống tư pháp. Nhưng nội

hàm của khái niệm quyền công tố không thay đổi. Quyền công tố chính là quyền

của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát/Viện công tố để phát hiện tội phạm và truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; đồng thời duy trì việc buộc tội đó

trước phiên tòa.

Tuy nhiên, ở mỗi một giai đoạn lịch sử của đất nước, tuỳ thuộc vào các

điều kiện kinh tế - xã hội, thực tiễn pháp luật sẽ những yêu cầu cụ thể đòi hỏi pháp

luật về quyền công tố nói chung, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

hành quyền công tố nói riêng cần tiếp tục hoàn thiện để bảo đảm thực hiện một

49

cách có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của nghành kiểm sát. Từ cách tiếp cận này,

trước khi đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện và các điều kiện bảo đảm

của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nghiên

cứu sinh khái quát các yêu cầu của cải cách tư pháp đặt ra đối với pháp luật về

Kiểm sát viên.

Chủ trương cải cách bộ máy nhà nước, trong đó có các cơ quan tư pháp

được đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), khi công cuộc đổi mới

toàn diện đất nước bắt đầu. Nghị quyết đại hội xác định nhiệm vụ “thực hiện một

cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước”. Đến Đại hội toàn

quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta chỉ rõ cần tăng cường hiệu lực của các cơ quan

bảo vệ pháp luật. Bảo đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan

toà án, kiểm sát, tư pháp có đủ quyền lực và khả năng thực hiện tốt nhiệm vụ bảo

vệ pháp luật. Chủ trương nêu trên tiếp tục được xác định tại Nghị quyết Hội nghị

Trung ương 8 khoá VII (1995) và Trung ương 3 khoá VIII (1997) nhằm tăng

cường chất lượng, hiệu quả của công tác tư pháp. Trước yêu cầu cấp bách về kiện

toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, ngày 02-01-2002 Bộ Chính trị

đã ban hành Nghị quyết số 08/NQTW “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong thời gian tới”, đề ra các giải pháp cấp bách, những nhiệm vụ cần thực

hiện ngay nhằm thúc đẩy thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ cải cách tư pháp đã

được Đảng ta đề ra trong các kỳ Đại hội [7]. Việc tổ chức thực hiện Nghị quyết

08-NQ/TW đã thu được những kết quả bước đầu có ý nghĩa quan trọng, tạo

chuyển biến quan trọng trong nhận thức, trong chỉ đạo, lãnh đạo và thực hiện các

nhiệm vụ cải cách tư pháp. Bên cạnh những kết quả đã thu được, cũng phải thấy

rằng cải cách tư pháp tiến hành còn chậm hơn so với yêu cầu và đòi hỏi của Đảng,

Nhà nước và nhân dân. Thực tiễn đất nước đặt ra yêu cầu phải tiến hành cải cách

tư pháp mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn. Ngày 02 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính

trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 (dưới đây gọi tắt là Chiến lược cải cách tư pháp). Chiến lược cải cách tư

pháp đề ra mục tiêu, quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ và lộ trình thực hiện cụ

50

thể. Trong đó nhấn mạnh địa vị pháp lý của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Chiến

lược phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư

pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho

Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm

vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và

quyết định tố tụng của mình. Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 28-7-

2010 về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ

quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ cần:

Đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và

các chức danh tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng; nâng cao chất

lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, góp phần

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân [3].

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố là bộ

phận không thể tách rời của hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động

VKSND, từ vị trí, vai trò đến chức năng, nhiệm vụ. Vì vậy để bảo đảm được các

mục tiêu đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp đối với hệ thống cơ quan VKSND,

thì việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền

công tố phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản sau:

Một là, hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát

nhân dân theo hướng bảo đảm thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động

tư pháp theo tinh thần Nghị quyết Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và các

văn kiện khác của Đảng, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền tư pháp độc lập,

trong sạch, vững mạnh, gần dân, thuận lợi cho dân, hoạt động có hiệu quả, bảo vệ

trật tự, kỷ cương, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Hai là, hoàn thiện về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

phải gắn liền với hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong kiểm sát hoạt động

tư pháp. Bởi đây là hai chức năng của Viện kiểm sát đều được thực hiện bởi một

chủ thể là Kiểm sát viên.

51

Giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tuy có tính

độc lập nhưng trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử giữa hai chức năng này luôn có mối quan hệ tác

động qua lại mật thiết và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thực hiện quyền công

tố của Kiểm sát viên.

Ba là, hoàn thiện về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

phải xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm pháp lý của Kiểm sát viên bảo

đảm để Kiểm sát viên thực hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư

pháp, tăng cường trách nhiệm công tố của Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra,

nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử.

Hoạt động công tố của Kiểm sát viên phải được thực hiện ngay từ khi có tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo

đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý

kịp thời những trường hợp sai phạm của người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm

vụ. Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân.

Bốn là, hoàn thiện về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công

tố phải phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn

tư pháp giữa Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công

tố theo hướng tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Kiểm sát viên để Kiểm sát

viên chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm

trước về hành vi và quyết định tố tụng của mình.

Năm là, hoàn thiện về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công

tố phải bảo đảm tăng cường được cơ chế kiểm soát quyền lực và kiểm tra, giám

sát của Nhân dân đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.

2.3.2. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân trong thực hành quyền công tố

Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền

công tố được hiểu là việc rà soát, loại bỏ những quy định, những văn bản không

còn phù hợp, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật,

52

nhằm tạo ra hệ thống các quy định pháp luật toàn diện, đầy đủ và đồng bộ về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, phù hợp với hệ thống pháp

luật của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, trong điều kiện xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Để có cơ sở đánh giá, xác định mức độ hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố cần phải có những tiêu chí nhất định.

Nội dung của các tiêu chí này về mặt lý thuyết phải khái quát được những yếu tố

làm nên giá trị của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên

trong thực hành quyền công tố, về mặt thực tiễn phải tổng hợp được những điều

kiện, yêu cầu đặt ra với công tác xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố bảo đảm cao nhất tính hiệu quả, hiệu lực và vai trò

của hệ thống các quy định pháp luật này trong việc bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, trật tự xã hội.

Thứ nhất, tiêu chí về nội dung

- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải

có nội dung phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về cải cách

tư pháp. Đó là Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Đảng (được ban hành theo Nghị

quyết số 48-NQ/TW, ngày 25-6-2005 của Bộ Chính trị)

- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải

phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN,

thể hiện ở những tiêu chí: bảo đảm cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát

quyền lực nhà nước; sự giám sát của Nhân dân đối với hoạt động thực hành quyền

công tố của Kiểm sát viên; hạn chế sự lạm quyền, lộng quyền của Kiểm sát viên

trong quá trình tiến hành tố tụng; tôn trọng và bảo vệ quyền con người.

- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải

phù hợp với các điều ước quốc tế mà Nhà nước Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Thứ hai, tiêu chí về hình thức

- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải

bảo đảm được tính toàn diện, đồng bộ và thống nhất.

53

Tính toàn diện, của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố thể hiện ở việc các quy định pháp luật thực hành quyền công tố của

Kiểm sát viên phải bao quát được toàn bộ hoạt động của Kiểm sát viên, địa vị

pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự;

Tính đồng bộ, thể hiện ở việc pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố phải được xây dựng và hiện diện trên tất cả các cấp độ

văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến địa vị pháp

lý, đến chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên, cũng như cơ chế phân công, phối

hợp và kiểm soát quyền lực giữa Kiểm sát viên và các chủ thể khác trong quá trình

thực hành quyền công tố. Bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trong việc buộc tội của

Nhà nước đối với người phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,

không làm oan người vô tội. Bảo đảm cho Kiểm sát viên thực hiện tốt được nhiệm

vụ bảo vệ được công lý, quyền con người, quyền công dân được triệt để tôn trọng

và bảo vệ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Tính thống nhất, đòi hỏi hệ thống các quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố phải được xác định đúng, đủ về thẩm

quyền, địa vị pháp lý nguyên tắc, cũng như các trình tự, thủ tục tố tụng mà Kiểm

sát viên được phép sử dụng khi thực hành quyền công tố mà không được trùng

lắp, hoặc mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định pháp lý của các chủ thể pháp lý

có liên quan từ khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội

phạm đến bản án có hiệu lực. Mặt khác, các quy định pháp lý này được áp dụng

chung trên phạm vi cả nước và không có ngoại lệ nào cho từng địa phương.

- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải

bảo đảm được khả thi, công khai, minh bạch:

Đạt được giới hạn này thì pháp luật đó mới có khả năng đi vào cuộc sống

và được sử dụng như một trong những công cụ không thể thiếu trong quá trình

thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.

Tính khả thi của pháp luật trong lĩnh vực này đó là sự phù hợp giữa các quy

định của pháp luật với trình độ phát triển của nền kinh tế trong những giai đoạn

54

phát triển nhất định, phù hợp với phong tục tập quán của dân tộc và giải quyết

đúng đắn mối quan hệ cơ bản giữa pháp luật với yêu cầu đảm bảo an ninh chính

trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.trong lĩnh vực này còn phải được đảm bảo ở mức

độ hiện thực trong điều chỉnh của các quan hệ xã hội có liên quan đến chủ thể

Kiểm sát viên. Nếu có các quy phạm pháp luật quy định về thực hành quyền công

tố của Kiểm sát viên nhưng không bao giờ được sử dụng hoặc sử dụng không hiệu

quả thì pháp luật đó không đảm bảo tính hiện thực.

Tính công khai là việc làm cho ai cũng có thể biết được, tiếp cận được.

Tính công khai của văn bản pháp luật có thể hiểu đó là việc mọi người được biết

về văn bản pháp luật đó. Đảm bảo cho mọi người được tiếp cận các quy định tại

văn bản quy phạm pháp luật đó. Như vậy khi các văn bản pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố bảo đảm được yêu cầu công khai tức

là văn bản này phải đáp ứng được yêu cầu mà chức năng quản lý xã hội đặt ra. Mà

cụ thể ở đây là pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

không chỉ dừng lại ở việc “công khai” với các chủ thể tiến hành tố tụng, chủ thể

tham gia tố tụng mà còn phải “công khai”để nhân dân có thể giám sát..

Tính minh bạch là một đòi hỏi rất quan trọng đối với hệ thống pháp luật nói

chung, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói

riêng. Một số quan điểm cho rằng tính minh bạch của pháp luật thể hiện ở việc

pháp luật được công bố, được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại

chúng là chưa toàn diện và đầy đủ. Tính minh bạch của pháp luật còn thể hiện ở

sự minh xác, sự minh định, tính hệ thống và nhất quán. Một hệ thống pháp luật

cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và chứa đựng những mâu thuẫn

nội tại không thể được coi là minh bạch và không thể trở thành nền tảng cho nhà

nước pháp quyền.

- Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải

bảo đảm được tiêu chí về tính ổn định và tính dự báo

Pháp luật phải đảm bảo độ ổn định và có tính dự báo là một trong những

yêu cầu nhằm đảm bảo hiệu quả của pháp luật trong quá trình thực hiện. Đối với

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, tính ổn định

55

thể hiện ở chỗ pháp luật chỉ buộc phải thay đổi trong những trường hợp thật cần

thiết để không xáo trộn tổ chức bộ máy và thủ tục tố tụng hình sự cũng như địa vị

pháp lý của Kiểm sát viên. Tính dự báo của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật

không chỉ phản ánh nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội hiện tại mà còn phải có

khả năng đáp ứng với những quan hệ xã hội trong tương lai gắn liền với các dự

báo về sự phát triển kinh tế - xã hội, xu hướng diễn biến của tình hình tội phạm,

xu hướng phát triển của VKSND nói chung, lực lượng Kiểm sát viên nói riêng.

Dựa trên các cơ sở đó pháp luật mới có tính ổn định tương đối, hạn chế tới mức

thấp nhất việc pháp luật mới ban hành đã rơi vào tình trạng lạc hậu cần phải sửa

đổi bổ sung, hoặc quá xa rời cuộc sống trở thành "luật treo". Để đảm bảo tính dự

báo của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố thì

phải giải quyết được vấn đề VKSND và Kiểm sát viên VKSND sẽ phát triển,

được tổ chức và hoạt động như thế nào trong thời gian tới? Yêu cầu cơ bản của cải

cách tư pháp đối với lực lượng Kiểm sát viên VKSND là xác định rõ nhiệm vụ

của VKSND nói chung, Kiểm sát viên nói riêng trong mối quan hệ với các cơ

quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Pháp luật

phải dự tính được xu hướng phát triển của các cơ quan này, các chủ thể này mới

đảm bảo sự ổn định.

Thứ ba, tiêu chí về tổ chức và thực hiện

Để đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố thì bên cạnh các tiêu chí nêu trên, cần phải có tiêu chí

đánh giá về tổ chức và thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

hành quyền công tố. Tiêu chí này, bao gồm các nội dung cơ bản đó là: Tuyên

truyền, giáo dục pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố; Đào

tạo đội ngũ cán bộ Kiểm sát viên; Hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện và

xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về Kiểm sát viên nói chung và pháp luật về

Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố nói riêng.

Trước hết về nội dung tuyên truyền, giáo dục pháp luật về Kiểm sát viên

trong thực hành quyền công tố ta thấy, để pháp luật đi vào đời sống thì không chỉ

56

cần có một hệ thống các quy phạm pháp luật mang tính pháp điểm cao, mà ngoài

ra điều quan trọng hơn là phải làm cho các chủ thể thực hiện pháp pháp luật, áp

dụng pháp luật phải nắm được một cách đầy đủ quy trình xây dựng và hiểu được

nội dung của các văn bản pháp luật nói chung, văn bản pháp luật về Kiểm sát viên

trong thực hành quyền công tố nói riêng. Muốn vậy, thì công tác giáo dục, tuyên

truyền, giải thích pháp luật cần phải được chú trọng, đặc biệt là đối với nhân dân,

chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Vì vậy, tính hiệu quả trong công tác giáo

dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật cũng được xem là một trong những tiêu chí

đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền

công tố.

Quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện thông hoạt động

thực hiện và áp dụng pháp luật của chủ thể Kiểm sát viên trong quá trình tiếp

nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm hoặc vụ án hình sự. Vì vậy, kết quả thực

hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân phụ thuộc rất nhiều và trình độ,

năng lực, phẩm chất đạo đức của Kiểm sát viên. Vì vậy, để bảo đảm thực hiện tốt

chức năng thực hành quyền công tố của mình, Viện kiểm sát nhân dân cũng cần

phải luật hoá các tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, về tác phong, đạo đức, lối

sống của chủ thể pháp lý hiến định - Kiểm sát viên. Đây cũng là một trong các tiêu

chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền

công tố.

Pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố còn được đánh

giá là hoàn thiện thông qua hiệu quả việc kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện

pháp luật và việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về Kiểm sát viên nói chung

và pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố nói riêng.

2.3.3. Các điều kiện bảo đảm cho việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố

Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, việc hoàn thiện pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố cần có các điều kiện bảo

đảm sau đây:

57

Thứ nhất, có chính sách pháp luật phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và

đổi mới Viện kiểm sát. Trước hết là có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vai trò, vị

trí của Viện kiểm sát trong Nhà nước pháp quyền XHCN, những điểm khác biệt

so với Viện kiểm sát trong thời kỳ nhà nước theo cơ chế tập trung. Thực tiễn cho

thấy nếu có nhận thức đầy đủ, về yêu cầu, định hướng nội dung xây dựng pháp

luật và tổ chức thi hành pháp luật trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động tư pháp thì

việc đề xuất kế hoạch ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về địa

vị pháp lý của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát

hoạt động tư pháp sẽ tuân thủ Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật được

nêu tại Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị. Địa vị pháp lý của Kiểm sát

viên được phái sinh trên cơ sở vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân

dân. Do vậy, để hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố thì cần phải hiến định rõ vị trí Viện kiểm sát nhân dân trong tổ chức

bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiện nay, tuy Hiến

pháp 2013 kế thừa các bản Hiến pháp trước đây tiếp tục để Viện kiểm sát nhân

dân bên cạnh Toà án nhân dân trong chương VIII, nhưng vẫn chưa có sự minh

định Viện kiểm sát nhân dân thuộc nhánh tư pháp hay hành pháp.

Thứ hai, lựa chọn đúng một số vấn đề cần ưu tiên, chọn khâu thiết yếu nhất

trong số rất nhiều quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù hợp với tình

hình mới là vấn đề có ý nghĩa rất lớn. Quá trình thể chế hóa chủ trương đổi mới tổ

chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong lĩnh vực thực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp được thể hiện qua Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các luật

liên quan khác thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW cho thấy đã lựa chọn theo thứ

tự ưu tiên một số vấn đề chủ yếu nhất để hoàn thiện pháp luật; bảo đảm tính đồng

bộ và thống nhất của quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

hành quyền công tố với các quy định khác về Viện kiểm sát nhân dân; bảo đảm sự

kiểm tra, giám sát của chủ thể Nhân dân.

58

Thứ ba, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố phải có sự tập trung cao độ các chuyên gia trong

lĩnh vực tổ chức và hoạt động tư pháp, có nghiên cứu cơ bản về lý thuyết và tổng

kết thực tiễn về hoạt động của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công

tố. Điều đó mang lại mang lại cho các quy định pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố tính khả thi, sự phù hợp với thực tiễn và

vì thế dễ dàng phát huy hiệu lực và tác động tích cực đối với việc giải quyết các

vụ án hình sự, tránh được việc oan, sai, đồng thời tránh được bỏ lọt tội phạm.

Thứ tư, về công tác cán bộ, Viện kiểm sát ở tất cả các cấp phải bảo đảm có

đủ biên chế và đội ngũ Kiểm sát viên đáp ứng các yêu cầu về năng lực, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ thực hành quyền công tố theo các

quy định mới của pháp luật. Bên cạnh các tiêu chuẩn về độ tuổi, trình độ cử nhân

luật, thâm niên công tác, còn phải có trình độ, nghiệp vụ, kinh nghiệm trong điều

tra tội phạm. Cần xây dựng mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ để phù

hợp với đối tượng được đào tạo là Kiểm sát viên.

2.4. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN

CÔNG TỐ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO ĐỐI

VỚI VIỆT NAM

Trên thế giới, tùy theo cách thức tổ chức quyền lực tư pháp của mỗi quốc

gia mà chế định các mô hình tố tụng tư pháp khác nhau. Trong lĩnh vực tư pháp

hình sự, hiện nay có hai mô hình tố tụng hình sự chủ yếu, đó là mô hình tố tụng

xét hỏi (thẩm vấn) và mô hình tố tụng tranh tụng. Ngoài ra còn có mô hình phái

sinh là mô hình tố tụng kết hợp xét hỏi và tranh tụng. Mỗi mô hình có đặc điểm

riêng và chi phối cách thức tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát/viện công tố và

các Kiểm sát viên/Công tố viên. Luận án lựa chọn một số quốc gia để tìm hiểu về

các quy định pháp luật liên quan đến Kiểm sát viên/công tố viên trong thực hành

quyền công tố để rút ra những kinh nghiệm có thể tham khảo cho Việt Nam.

Trước hết là Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đất nước có thể chế chính trị và hệ

thống pháp luật và tư pháp tương đồng với Việt Nam và điển hình của mô hình tố

tụng hình sự thẩm vấn (xét hỏi). Tiếp theo là Liên bang Nga - đất nước mà hệ

59

thống pháp luật Xô-viết trước đây có ảnh hưởng lớn đến pháp luật Việt Nam, cũng

là quốc gia có sự chuyển đổi pháp luật và tư pháp mạnh mẽ sau khi Liên xô tan rã.

Bên cạnh đó, Cộng hòa Liên bang Đức là một trong những mô hình tố tụng xét

hỏi đặc trưng ở châu Âu. Còn Hoa Kỳ và Vương quốc Anh là quốc gia có nền tư

pháp thuộc hệ thống tố tụng hình sự tranh tụng nên có thể tham khảo kinh nghiệm

của họ trong quá trình Việt Nam chuyển đổi sang mô hình tố tụng hình sự kết hợp

thẩm vấn với tranh tụng. Trong hệ thống tư pháp hình sự, chủ thể thực hành quyền

công tố tuỳ theo quy định của pháp luật cụ thể của từng quốc gia có thể gọi là

Kiểm sát viên hoặc Công tố viên nhưng đều có nhiệm vụ chung nhất đó là thực

hiện nhiệm vụ đại diện quyền lực Nhà nước để truy tố và buộc tội người phạm tội

tại Toà án.

2.4.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Điều 129 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định "Viện

kiểm sát nhân dân Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật của Nhà nước…".

Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định chức năng, nhiệm vụ của Viện

kiểm sát như sau:

1. Thực hiện quyền kiểm sát đối với các vụ án phản quốc, chia rẽ đất nước

và các vụ án phạm tội to lớn, phá hoại nghiêm trọng việc thực hiện thống nhất

chính sách, pháp luật, pháp lệnh, quy chế hành chính của Nhà nước.

2. Tiến hành điều tra đối với các vụ án hình sự được trực tiếp thụ lý.

3. Kiểm sát việc điều tra vụ án hình sự do cơ quan công an tiến hành; quyết

định việc bắt giữ; truy tố hoặc miễn tố đối với các vụ án do cơ quan công tác điều

tra; thực hiện việc giám sát xem hoạt động điều tra của cơ quan công an có hợp

pháp hay không.

4. Khởi tố và hỗ trợ truy tố đối với các vụ án hình sự, thực hiện giám sát

hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân xem có tuân thủ đúng pháp luật hay không.

5. Thực hiện giám sát đối với việc chấp hành phán quyết và quyết định của

các vụ án hình sự, hoạt động của trại giam, nơi tạm giam và cơ quan cải tạo lao

động có hợp pháp hay không.

60

Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật

trong việc bảo vệ quyền tố cáo của công dân đối với các nhân viên nhà nước vi

phạm pháp luật, truy cứu trách nhiệm pháp luật đối với những người xâm phạm

quyền thân thể, quyền dân chủ và các quyền khác của công dân [145].

Đối với Kiểm sát viên, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân Trung Hoa chỉ

quy định chung về cơ cấu tổ chức, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ của Viện kiểm

sát nhân dân. Những vấn đề cụ thể khác liên quan đến chức trách, nhiệm vụ,

ngạch, bậc, việc tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, điều động

luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật chức danh Kiểm sát viên của Viện kiểm sát

nhân dân do Luật Kiểm sát viên năm 1995, được sửa đổi năm 2001 quy định. Về

nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên, pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

quy định như sau:

Kiểm sát viên là cán bộ thực hiện quyền kiểm sát và công tố Nhà nước theo

quy định của pháp luật. Kiểm sát viên phải chấp hành trung thực Hiến pháp và

pháp luật, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Theo quy định của pháp luật, Kiểm

sát viên thực hiện các nhiệm vụ sau đây: Thực hiện công tác giám sát việc tuân

theo pháp luật; Thay mặt Nhà nước tiến hành công tố; Điều tra những vụ án do

Viện kiểm sát trực tiếp thụ lý; Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Theo đó, khi thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong từng lĩnh vực tố tụng

hình sự, tố tụng dân sự cụ thể, Kiểm sát viên thực hiện các quyền hạn, nhiệm vụ

theo quy định các văn bản pháp luật chuyên ngành đó.

Luật quy định cụ thể các nghĩa vụ của Kiểm sát gồm: 1).Nghiêm túc tuân

thủ Hiến pháp và pháp luật; 2).Khi thực thi nhiệm vụ của mình phải lấy sự thật

làm căn cứ, lấy pháp luật làm chuẩn mực, thực thi pháp luật một cách công bằng,

không lợi dụng pháp luật vì tư lợi; 3).Bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và các tổ chức khác;

4).Trong sạch, liêm chính, trung thành với công việc, tuân thủ kỷ luật, nghiêm túc

giữ gìn đạo đức nghề nghiệp; 5). Bảo vệ bí mật quốc gia và bí mật công tác kiểm

sát; 6).Chịu sự giám sát của pháp luật và quần chúng nhân dân.

61

2.4.2. Liên bang Nga

Viện kiểm sát Liên bang Nga là một hệ thống tập trung thống nhất, trong

đó các Kiểm sát viên cấp dưới phục tùng và chịu sự chỉ đạo của các Kiểm sát viên

cấp trên và của Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga [144]. Tổng kiểm sát trưởng

do Thượng viện (Hội đồng liên bang) bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của

Tổng thống Liên bang Nga [144].

Luật tổ chức Viện kiểm sát Liên bang Nga hiện hành quy định chức năng,

nhiệm vụ của Viện kiểm sát với nhiều nội dung, trong đó có thực hành quyền

công tố đối với các vụ án hình sự theo thẩm quyền được pháp luật tố tụng hình sự

Liên bang Nga quy định. Trong trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát Liên bang

Nga kiểm sát việc chấp hành các cơ quan đang tiến hành các hoạt động trinh sát -

nghiệp vụ, các cơ quan điều tra và thẩm cứu, cụ thể là: kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong việc tôn trọng quyền tự do và các quyền khác của công dân và con

người, việc tuân thủ trình tự luật định trong việc giải quyết đơn khiếu nại và tố

giác về các tội phạm đã xảy ra, đang chuẩn bị diễn ra; việc hoàn thành các biện

pháp nghiệp vụ - trinh sát, truy tìm và việc tiến hành điều tra cũng như tính pháp

chế trong các quyết định của các cơ quan thực hiện hoạt động nghiệp vụ - trinh

sát, truy tìm và điều tra [144]; phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác

trong công cuộc đấu tranh chống tội phạm; giám sát hoạt động điều tra và điều tra

các vụ án hình sự (dự thẩm viên của Viện kiểm sát có thẩm quyền điều tra đối với

khoảng hơn 80 loại tội); truy cứu trách nhiệm hình sự theo đúng thẩm quyền; thực

hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa, có quyền rút một phần hoặc toàn bộ

nội dung buộc tội; kháng nghị đối với các bản án, quyết định và phán quyết vi

phạm pháp luật của Tòa án. Kiểm sát việc chấp hành pháp luật của Ban giám đốc,

quản đốc các cơ quan, các trại thi hành hình phạt các biện pháp cưỡng chế khác do

Tòa án tuyên phạt, các nơi tạm giữ và tạm giam.

Thẩm quyền của Viện kiểm sát ở giai đoạn trước khi xét xử là tương đối

rộng, bao gồm các hoạt động chỉ đạo điều tra trong quá trình truy tố hình sự và các

hoạt động giám sát hoạt động điều tra. Còn trong giai đoạn xét xử, thẩm quyền của

62

Viện kiểm sát chỉ hạn chế ở việc thực hành quyền công tố tại tòa và kháng nghị.

Viện kiểm sát không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án.

Trong hoạt động, Kiểm sát viên Liên bang Nga phải đảm bảo nguyên tắc

không cho phép can thiệp vào việc thực hiện công tác kiểm sát [144].

Luật tổ chức Viện kiểm sát Liên bang Nga không quy định nhiệm vụ,

quyền hạn Kiểm sát viên thành một phần riêng mà theo từng lĩnh vực công tác

kiểm sát cụ thể, đồng thời có sự phân biệt rõ nhiệm vụ quyền hạn quản lý hành

chính tư pháp và thẩm quyền tố tụng của Kiểm sát viên, bao gồm Kiểm sát viên

giữ chức vụ Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga; Kiểm sát viên giữ chức vụ cấp

trưởng, cấp phó Viện kiểm sát các chủ thể Liên bang Nga, Viện kiểm sát cấp tỉnh

và cấp quận, huyện.

Tổng kiểm sát trưởng Liên bang Nga và các Kiểm sát viên dưới quyền tổ

chức điều phối các hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm; tham gia vào hoạt

động xây dựng pháp luật như gửi các kiến nghị của mình đến các cơ quan lập

pháp để yêu cầu sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc thông qua một số đạo luật, văn bản

pháp luật khác; xem xét và giải quyết các đơn khiếu nại, tố giác và một số đơn

khác trong cơ quan kiểm sát; tiến hành giám định chống tham nhũng đối với các

văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước liên bang, cơ quan chính

quyền của các chủ thể thuộc Liên bang Nga, cơ quan quyền lực khác, cơ quan tự

quản địa phương và những người có chức vụ của các cơ quan này ban hành. Trong

trường hợp phát hiện các yếu tố tham nhũng trong văn bản quy phạm pháp luật,

Kiểm sát viên gửi đến cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản quy

phạm pháp luật đó yêu cầu sửa đổi văn bản cùng với kiến nghị biện pháp khắc

phục các yếu tố tham nhũng, hoặc gửi đơn yêu cầu đến Tòa án giải quyết theo thủ

tục do pháp luật tố tụng Liên bang Nga quy định [144].

Trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra,

nghiệp vụ trinh sát, truy tìm nghiệp vụ của cơ quan điều tra ban đầu, điều tra dự

thẩm thực hiện theo quy định trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga

và các đạo luật liên bang khác. Các chỉ thị của Tổng kiểm sát trưởng Liên bang

63

Nga về các vấn đề điều tra sơ bộ mà không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp

luật, mang tính bắt buộc thi hành [144].

Trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của ban giám đốc các cơ

quan, các trại thi hành hình phạt và các biện pháp cưỡng chế khác theo quyết định

của Tòa án và những nơi tạm giữ, tạm giam, Kiểm sát viên có quyền: Thăm các

loại trại vào bất kỳ thời gian nào; Hỏi cung những người bị tạm giữ, tạm giam,

phạm nhân và những người đang bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế; xem hồ sơ

và nghiên cứu các tài liệu nghiệp vụ khác; yêu cầu Ban giám đốc phải đảm bảo

các điều kiện và quyền hợp pháp của những người bị tạm giữ, tạm giam, phạm

nhân và những người đang bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế; kiểm tra tính phù

hợp với pháp luật Liên bang Nga của các mệnh lệnh, các quyết định của Ban giám

đốc các trại; yêu cầu giải thích khi cần thiết, kháng nghị hoặc kiến nghị; khởi tố vụ

án hành chính. Văn bản của Ban giám đốc đang bị kháng nghị sẽ bị tạm thời đình

chỉ thực hiện; hủy bỏ các quyết định trái luật, ra quyết định trả tự do ngay cho

người bị giam, giữ, bị kỷ luật trái pháp luật. Kiểm tra trưởng hay Phó Kiểm sát

trưởng có quyền ra quyết định trả tự do ngay lập tức.

Kiểm sát viên tham gia quá trình xét xử có nhiệm vụ thực hành quyền công

tố tại Tòa án với tư cách công tố viên nhà nước, có quyền kiến nghị, kháng nghị

bản án, quyết định của Tòa án, Kiểm sát viên có quyền tham dự vào bất cứ giai

đoạn nào của quá trình xét xử, nếu việc đó cần thiết để bảo vệ các quyền cho công

dân và các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước.

Các Kiểm sát viên, theo quy định của pháp luật tố tụng Liên bang Nga,

tham gia các phiên tòa xét xử của Tòa án, có quyền kháng nghị các bản án, các

quyết định và các phán quyết khác của Tòa án có vi phạm luật [144].

2.4.3. Cộng hòa Liên bang Đức

Cộng hòa Liên bang Đức không có đạo luật riêng về cơ quan công tố và

Công tố viên. Các quy định về Công tố viên và cơ quan công tố được quy định

thành một chương riêng trong Luật tổ chức Tòa án. Về tổ chức, hệ thống Viện

Công tố được thành lập tương ứng với Tòa án [143]. Viện Công tố có chức năng

64

thực hành quyền công tố, không có chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa

án [143]. Tại mỗi cấp tòa án, chức năng công tố do Viện trưởng Viện Công tố và

các Công tố viên của Viện Công tố tương ứng với Tòa án đó thực hiện. Công tố

viên thực hiện chức năng công tố trong phạm vi thẩm quyền của Viện Công tố nơi

mình công tác. Công tố viên tập sự có thể thực hiện chức năng công tố trước Tòa

án trong việc giải quyết một vụ án cụ thể nhưng dưới sự giám sát của Công tố viên

[143]. Viện Công tố độc lập với Tòa án trong quá trình thực thi chức năng, nhiệm

vụ của mình [143].

Viện Công tố do Viện trưởng đứng đầu. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện

Công tố tập trung vào Viện trưởng Viện Công tố. Các Công tố viên khác thực hiện

nhiệm vụ theo sự ủy quyền của Viện trưởng [143]. Công tố viên cấp dưới phải

tuân thủ quyết định của Viện trưởng Viện Công tố nơi mình công tác và các quyết

định, hướng dẫn của các Công tố viên cấp trên [143].

Như đã nói ở trên, ở Đức không có đạo luật riêng về cơ quan công tố và

Công tố viên mà chỉ có Luật tổ chức cơ quan tư pháp Đức quy định chung Tòa án,

Viện Công tố. Vì vậy, một số quy định đối với Thẩm phán cũng được áp dụng cho

Công tố viên. Những người có đủ điều kiện làm việc trong cơ quan tư pháp thì có

thể được bổ nhiệm làm Công tố viên. Năng lực đối với chức vụ tư pháp: bất kỳ

người nào hoàn thành nghiên cứu pháp lý tại một trường đại học, tham dự kỳ thi

cấp Bang lần đầu, sau đó được đào tạo và tham dự kỳ thi cấp Bang lần 2 sẽ có đủ

điều kiện để giữ chức vụ tư pháp; kỳ thi cấp Bang lần đầu bao gồm kỳ thi đại học

gồm các lĩnh vực chuyên môn và kỳ thi cấp Bang bao hàm các môn học bắt buộc.

Đào tạo đại học 4 năm; có thể ngắn hơn nếu tri thức cần thiết đối với kỳ thi đại

học được chứng minh. Tuy nhiên thời gian học đại học không được dưới 2 năm tại

một trường đại học.

Bên cạnh việc tích luỹ kiến thức nêu trên, để bảo đảm điều kiện bổ nhiệm

Công tố viên bắt buộc phải thực hành tại các cơ quan sau đây:

1. Tại Tòa án có thẩm quyền xét xử thông thường đối với các vấn đề dân sự.

2. Tại Viện Công tố hoặc tại Tòa án có thẩm quyền xét xử hình sự.

3. Tại cơ quan hành chính.

65

4. Cùng với luật sư; Và tại một hoặc nhiều cơ quan không bắt buộc nhưng

việc đào tạo phải phù hợp.

Các điều kiện để bổ nhiệm, nhiệm kỳ tư pháp:

1. Là công dân Đức theo quy định của Điều 116 Hiến pháp.

2. Chứng minh là họ sẽ luôn luôn gìn giữ nguyên tắc tự do dân chủ cơ bản

theo quy định của Hiến pháp.

3. Có đủ năng lực để giữ chức vụ tư pháp.

4. Có các kỹ năng xã hội cần thiết.

Chế độ bổ nhiệm Công tố viên suốt đời

Bất kỳ người nào đã làm việc với tư cách là một Công tố viên có thời hạn ít

nhất là 3 năm sau khi có đủ điều kiện giữ chức vụ tư pháp có thể được bổ nhiệm

làm Công tố viên suốt đời, khi đã thực hiện các việc:

1. Như là một công chức trong cơ quan nhà nước cấp cao.

2. Trong cơ quan nhà nước Đức hoặc trong tổ chức quốc tế, tổ chức đa

quốc gia, với điều kiện là loại công việc và tầm quan trọng của công việc đã làm

tương tự như các công việc liên quan trong việc thi hành công vụ trong cơ quan

nhà nước cấp cao;

3. Là giáo viên luật tại một viện nghiên cứu khoa học cấp đại học, đang là

giáo viên đủ khả năng giảng dạy tại một trường đại học.

4. Là luật sư tư vấn, công chứng viên hoặc là luật sư có đủ trình độ để giữ

chức vụ tư pháp (hội thẩm) hỗ trợ cho luật sư tư vấn hoặc công chức viên;

5. Trong các nghề nghiệp khác, với điều kiện là loại công việc đã làm

tương tự như các công việc liên quan trong việc thi hành công vụ trong cơ quan

nhà nước cấp cao.

2.4.4. Vương quốc Anh

Cơ quan công tố hoàng gia Anh (CPS) là một cơ quan của Chính phủ có

chức năng thực hiện việc truy tố tội phạm, hoặc đưa ra biện pháp xử lý không qua

xét xử đối với bị cáo tại Vương quốc Anh và xứ Wales [146]. Ngoài ra, cơ quan

công tố còn có chức năng bảo đảm quyền con người theo Luật nhân quyền năm

1998 và Công ước châu Âu về quyền con người [146].

66

Khi thực hiện chức năng trên, Công tố viên phải đảm bảo việc áp dụng

pháp luật đúng đắn, các chứng cứ thích hợp đều được trình trước tòa [146].

Cũng như Cơ quan công tố, Công tố viên ở Vương quốc Anh không có

chức năng giám sát tư pháp và không tham gia vào việc giải quyết các vụ án dân

sự. Chỉ khi nào Chính phủ bị kiện, cơ quan công tố có thể được yêu cầu đứng ra

bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, nhưng với tư cách là luật sư nhà nước (luật sư

công) chứ không phải với tư cách là cơ quan công tố.

Ở Anh, đứng đầu hệ thống cơ quan công tố là Tổng Chưởng lý - người chịu

trách nhiệm trước Nghị viện về toàn bộ hoạt động công tố; đứng đầu cơ quan công

tố Hoàng gia là Công tố viên trưởng [146]. Công tố viên phải tuân thủ mọi hướng

dẫn của Tổng Chưởng lý và các chính sách hoạt động công tố do Công tố trưởng

ban hành [146]. Các Công tố viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan

công tố theo sự ủy quyền của Công tố viên trưởng [146].

Công tố viên phải tuân thủ các nguyên tắc độc lập, truy tố công bằng và

hiệu quả. Điều đó nghĩa là công tố viên trưởng thực hiện chức năng của mình một

cách độc lập, có nhiệm vụ ban hành Luật về Công tố viên Hoàng gia [146]. Mặc

dù trong hoạt động thực thi nhiệm vụ, Công tố viên có sự hợp tác chặt chẽ nhưng

hoàn toàn độc lập với cảnh sát và điều tra viên. Sự độc lập của Công tố viên mang

tính hiến định. Công tố viên đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội và nhanh

chóng xử lý người phạm tội. Việc giải quyết vụ án công bằng, khách quan và

chính trực giúp đem công lý cho người bị hại, người làm chứng, bị cáo và xã hội

[146]. Công tố viên phải đảm bảo rằng pháp luật được áp dụng một cách đúng

đắn; tất cả các chứng cứ thích hợp đều được đưa ra trước Tòa [146]. Từng vụ án

khác nhau phải được xem xét một cách khác nhau theo đúng những tình tiết và sự

thật khách quan của từng vụ việc cụ thể [146].

Ngoài ra, Công tố viên ở Anh phải tuân thủ cả nguyên tắc công bằng, độc

lập, khách quan Các Công tố viên không được để cho các quan điểm cá nhân về

sắc tộc, quốc tịch, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị, khuynh hướng tình dục

của người bị tình nghi, nạn nhân hay các nhân chứng ảnh hưởng đến các quyết

định của mình. Công tố viên không phải chịu ảnh hưởng bởi những áp lực không

67

đúng đắn hoặc không phù hợp từ bất kỳ nguồn nào. Công tố viên luôn hành động

vì lợi ích của công lý và không chỉ nhằm mục đích kết tội [146].

Đối với các quy định cụ thể về địa vị pháp lý của công tố viên, Luật về

Công tố viên Hoàng gia Anh chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, cách thức truy tố,

không truy tố của công tố, không quy định về các tiêu chuẩn, ngạch bậc và các

vấn đề khác của Công tố viên. Cụ thể thể là:

Về các nguyên tắc chung: Nghĩa vụ của Công tố viên là đảm bảo việc truy

tố đúng người, đúng tội và nhanh chóng xử lý người phạm tội; xem xét, tư vấn và

truy tố các vụ án hoặc đưa ra biện pháp xử lý không qua xét xử. Công tố viên phải

đảm bảo tất cả các chứng cứ đều được đưa ra trước tòa. Công tố viên phải độc lập

và khách quan, hành động vì lợi ích công lý, không chỉ vì mục đích kết tội; phải

áp dụng các nguyên tắc của Công ước châu Âu về quyền con người, Luật nhân

quyền trong từng vụ án…

Về xem xét việc quyết định truy tố:

Trong các vụ án nghiêm trọng và phức tạp, Công tố viên quyết định có

buộc tội hay không và nếu buộc tội thì tội gì. Công tố viên phải đưa ra quyết định

phù hợp và theo hướng dẫn truy tố của Công tố viên trưởng. Cảnh sát và Điều tra

viên chịu trách nhiệm điều tra các hành vi bị cho là đã phạm tội. Công tố viên phải

xem xét từng vụ án do Cảnh sát hoặc Điều tra viên chuyển đến. Công tố viên

hướng dẫn, tư vấn cho Cảnh sát và Điều tra viên hướng điều tra, yêu cầu về chứng

cứ và trợ giúp các thủ tục trước khi buộc tội thông qua điều tra và truy tố. Công tố

viên không thể trực tiếp chỉ đạo Cảnh sát và Điều tra viên. Công tố viên nhanh

chóng đình chỉ vụ án nếu không vượt qua được giai đoạn chứng cứ của phần Kiểm

tra luật đầy đủ và việc điều tra bổ sung cũng không khắc phục được hoặc về lợi

ích công không yêu cầu truy tố. Công tố viên và Điều tra viên phối hợp chặt chẽ

với nhau nhưng trách nhiệm cuối cùng quyết định tiếp tục giải quyết vụ án hay

không thuộc về cơ quan công tố.

Về việc kiểm tra luật đầy đủ:

Mặc dù cảnh sát có nhiệm vụ chính trong hoạt động điều tra nhưng do kết

quả hoạt động tố tụng phục thuộc vào việc giá trị của chứng cứ có được chấp nhận

68

tại Tòa hay không nên mọi hoạt động của cảnh sát phụ thuộc và gắn bó chặt chẽ

với cơ quan công tố và công tố viên - cơ quan đảm nhận việc buộc tội trước tòa.

Cơ quan công tố truy tố một tội phạm với hai điều kiện của việc kiểm tra luật đầy

đủ này là đảm bảo yêu cầu về chứng cứ và dựa trên lợi ích hay đòi hỏi của công

chúng. Chỉ duy nhất cơ quan công tố có quyền xem xét và thực hiện. Tòa án

không có thẩm quyền này khi vụ án đã được truy tố ra tòa để xét xử.

Về vai trò của Công tố viên trong việc kết án

Công tố viên có nhiệm vụ hỗ trợ cho Tòa án trong việc đưa ra quyết định

kết án phù hợp. Công tố viên cũng có thể hỗ trợ cho Tòa án bằng cách đệ trình,

phạm vi kết án của hành vi phạm tội này.

Trong tất cả các vụ án phức tạp khi có khả năng về sự hiểu lầm, Công tố

viên phải nêu bằng văn bản các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

mà Công tố viên sẽ phác thảo khi thông báo cho Tòa án tại phiên tòa tuyên án.

Trong các vụ án khác, phương pháp này cần được xem xét và áp dụng nếu giúp

cho Tòa án hoặc cho công chúng hiểu vụ án.

Công tố viên tranh luận về quan điểm do người bào chữa đưa ra về tình tiết

giảm nhẹ không chính xác, gây hiểu lầm hoặc xúc phạm. Nếu người bào chữa vẫn

giữ quan điểm và điều đó phù hợp với mức án, thì mời Tòa án đến để nghe chứng

cứ và xác định các sự kiện và mức án phù hợp.

Công tố viên phải tuân thủ hướng dẫn của Tổng Chưởng lý về việc chấp

nhận lời nhận tội và vai trò của Công tố viên trong việc thi hành hình phạt đã quy

định chi tiết về nhiệm vụ, vai trò của Công tố viên trong quá trình tuyên án.

Về việc xem xét tại quyết định truy tố

Thông thường, nếu Cơ quan công tố nói cho người bị tình nghi hoặc bị

can biết rằng sẽ không có việc truy tố hoặc việc truy tố sẽ được đình chỉ, vụ án

sẽ không bắt đầu lại. Nhưng thực tế khi có lý do đặc biệt khiến Cơ quan công

tố phải lật ngược một quyết định không truy tố hoặc biện pháp xử lý không qua

xét xử hoặc sẽ bắt đầu lại việc truy tố, đặc biệt đối với các vụ án nghiêm trọng

với lý do:

69

- Các vụ án hiếm có khi có quan điểm mới về quyết định ban đầu cho thấy

rằng có sai sót và để duy trì niềm tin trong hệ thống tư pháp hình sự, việc truy tố

nên được đưa ra mặc dù đã có quyết định trước đó;

- Các vụ án đã được đình chỉ mà chứng cứ bổ sung dường như đã rõ và có

thể được thu thập và xem xét trong tương lai gần. Trong những vụ án này, Công tố

viên sẽ nói cho bị cáo việc truy tố có thể bắt đầu lại.

- Các vụ án được đình chỉ vì thiếu chứng cứ nhưng sau đó các chứng cứ

quan trọng hơn đã được phát hiện; và

- Các vụ án liên quan đến chết người, khi xem xét lại sau kết quả điều tra

kết luận việc truy tố nên được tiến hành, dù quyết định trước đó đã không truy tố.

Công tố viên phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với việc thẩm tra chứng cứ

cũng như việc tiến hành tố tụng tại phiên hòa, tiến hành truy tố theo nhiệm vụ của

công tố viên. Tuy nhiên, họ lại không ảnh hưởng trực tiếp đến việc tuyên phạt của

Tòa án và không có nghĩa vụ pháp lý là đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo mà

đó là công việc của Tòa.

2.4.5. Hoa Kỳ

Cơ quan Công tố của Hoa Kỳ được phân chia theo cấp bang và liên bang. Ở

cấp bang, do pháp luật của mỗi bang khác nhau nên nhiệm vụ, quyền hạn của

Công tố viên cũng khác nhau nhưng cùng thực hiện nhiệm vụ của cơ quan Công

tố là truy tố tội phạm ra trước tòa án.

Ở cấp liên bang, việc truy tố tội phạm do Chưởng lý liên bang truy tố. Các

tội phạm liên bang thường là các tội nghiêm trọng như buôn bán ma túy, giết

người, quan chức chính quyền phạm tội hoặc tham nhũng, các tội phạm xâm phạm

an ninh quốc gia như phản quốc,... Các thông tin về chứng cứ đã được điều tra

viên thu thập sẽ được trình lên Bộ pháp hoặc Chưởng lý liên bang. Sau đó Công tố

viên liên bang sẽ quyết định có truy tố vụ việc ra tòa hay không.

Ở cấp bang, các công tố viên tiến hành truy tố các tội phạm xâm phạm pháp

luật của bang. Quyền hạn và trách nhiệm của các công tố viên địa phương được

phân chia theo cấp quận, mỗi bang đều có một Tổng Chưởng lý và viên chức này

70

có toàn quyền truy tố tất cả các tội phạm theo pháp luật bang quy định. Nhìn

chung Công tố viên không giám sát quá trình điều tra mà thượng vai trò là luật sư

chủ nhà đối với cảnh sát để chỉ dẫn việc tìm kiếm bằng chứng, hướng dẫn thủ tục

bắt giam và bảo đảm việc thu thập chứng cứ theo đúng thủ tục.

Nói chung, trong quá trình điều tra, dù ở cấp bang hay liên bang thì công tố

viên đều có quyền lực đáng kể. Họ có thể không chấp nhận hồ sơ buộc tội do cảnh

sát gửi đến cho đến khi những yêu cầu về chứng cứ của họ được cảnh sát đáp ứng,

họ cũng có thể từ chối phê chuẩn lệnh bắt giam của cảnh sát. Ngoài ra, công tố

viên còn có thể hủy bỏ hoặc đình chỉ vụ việc khi xét thấy việc điều tra của cảnh

sát không đúng thủ tục hoặc chứng cứ yếu, không đủ để buộc tội hoặc có khả năng

tòa án sẽ không chấp nhận các chứng cứ đó. Nếu công tố viên quyết định việc truy

tố vụ việc ra tòa thì họ có trách nhiệm buộc tội gì, bao nhiêu tội và mức độ nghiêm

trọng của tội phạm. Quyết định truy tố của Công tố viên có ảnh hưởng quan trọng

tới hình phạt mà kẻ phạm tội có thể bị tòa án tuyên phạt nếu bị kết tội. Công tố

viên Hoa Kỳ còn thực thi quyền hạn đáng kể về các vấn đề hình phạt thông qua

quyết định buộc tội.

Quyền tùy nghi truy tố là quyền đặc biệt của Công tố viên. Với tư cách là

một nhân viên được bầu hoặc bổ nhiệm, Công tố viên là người có quyền lực nhất

trong hệ thống tư pháp hình sự. Các công tố viên thực hiện quyền tự quyết không

bị ràng buộc, có quyền quyết định ai là người bị truy tố, đưa ra những lời buộc

tội nào, khi nào thì bỏ qua lời buộc tội, có thực hiện việc mặc cả thú tội hay

không và cần phải tổ chức thực hiện việc truy tố như thế nào. Các công tố viên

thực hiện quyền tự quyết khi ra quyết định trong ba lĩnh vực chủ yếu là: quyết

định đưa ra lời buộc tội, quyết định đình chỉ vụ án (bãi bỏ lời buộc tội) và mặc cả

thú tội.

Quyết định việc truy tố dựa trên ba yếu tố:

Thứ nhất, truy tố khi có đủ chứng cứ pháp lý (đủ các yếu tố tối thiểu để

phát động truy tố hình sự). Theo đó, một văn phòng công tố có thể tiếp nhận nhiều

vụ án để truy tố nhưng xử lý phần lớn các vụ án đó thông qua thủ tục mặc cả thú

tội. Những căn cứ để xem xét truy tố bao gồm:

71

- Có đủ chứng cứ liên quan đến việc người bị tình nghi đã phạm tội;

- Tính nghiêm trọng của tội phạm;

- Số lượng án tại tòa án;

- Sự cần thiết phải duy trì các nguồn lực công tố để giải quyết những vụ án

nghiêm trọng hơn;

- Tính sẵn sàng (thực tế) của những lựa chọn đối với hình thức truy tố;

- Sự có lỗi của bị cáo (đáng khiển trách về mặt đạo đức);

- Hồ sơ hình sự của bị cáo (tiền án tiền sự);

- Sự mong muốn của bị cáo trong việc hợp tác tại giai đoạn điều tra hoặc

truy tố những người khác.

Thứ hai, để đẩy nhanh tiến trình tố tụng đối với các vụ án, giảm sự ùn tắc

số lượng án tại các toà án, duy trì quyền công tố và giảm các phí tổn từ các nguồn

lực của tòa án, các công tố viên thường bỏ qua ngay những vụ án có chứng cứ yếu

ngay từ đầu vào và giảm mức độ nghiêm trọng xuống thành tội ít nghiêm trọng

nhằm giải quyết các vụ án thông qua mặc cả thú tội.

Thứ ba, các Công tố viên chỉ truy tố khi có đủ khả năng xét xử, bao gồm cơ

sở truy tố, điều tra của cảnh sát và đối chứng của luật sư. Các công tố viên chỉ đệ

trình bản buộc tội trong trường hợp có đủ bằng chứng để đảm bảo việc kết án và

chỉ sử dụng tối thiểu thủ tục mặc cả thú tội trong trường hợp này.

Trên cơ sở cân nhắc rất nhiều yếu tố bao gồm cả tính nghiêm trọng của tội

phạm và sự thuyết phục của chứng cứ, Công tố viên quyết định việc có truy tố

người có hành vi phạm tội ra trước tòa án hay không. Sau khi công tố viên đã đệ

trình bản buộc tội, công tố viên có thể giảm buộc tội để đổi lại việc bị cáo nhận tội

hoặc tiến hành thủ tục không truy tố. Thủ tục không truy tố là một hình thức công

tố viên ra bản tuyên bố nêu rõ rằng vụ án sẽ không được tiếp tục tiến hành tố tụng.

Những lý do cho việc thực hiện thủ tục này bao gồm không đủ chứng cứ, chứng

cứ không được thừa nhận, không buộc tội được và bản chất của một số tội phạm

không đáng kể.

72

2.4.6. Một số kinh nghiệm vận dụng đối với việc hoàn thiện pháp luật

về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố ở

Việt Nam

Qua nghiên cứu các quy định liên quan đến Kiểm sát viên/Công tố viên

trong thực hành quyền công tố ở một số mô hình công tố của các quốc gia tiêu

biểu trên thế giới, có thể rút ra một số nhận xét:

Một là, việc thực hiện quyền công tố của Kiểm sát viên/Công tố viên của

các cơ quan công tố trên thế giới theo truyền thống pháp luật nào, dù vị trí và tổ

chức hoạt động có khác nhau nhưng đều có chức năng chính là chức năng buộc tội

và giám sát thực hiện pháp luật. Các chức năng khác của Kiểm sát viên/Công tố

viên trong các cơ quan kiểm sát/công tố thì tùy thuộc vào đặc điểm thể chế và điều

kiện cụ thể của các quốc gia mà cơ quan công tố có thêm các chức năng, nhiệm vụ

và thẩm quyền khác nhau trên các lĩnh vực khác nhau như: dân sự, giam giữ, thi

hành án; Trong lĩnh vực hình sự, dù Kiểm sát viên/Công tố viên trong cơ quan

công tố ở quốc gia có truyền thống pháp luật khác nhau nhưng đều thực hiện chức

năng chính là truy tố tội phạm và chỉ có Viện kiểm sát hoặc Viện công tố là cơ

quan duy nhất thực hành quyền công tố.

Hai là, ở những quốc gia khác nhau và truyền thống pháp luật khác

nhau, Kiểm sát viên đều có quyền hạn rất lớn và độc lập. Do vậy, để hạn chế

những sai lầm trong quá trình thực thi nhiệm vụ và tránh lạm quyền, lộng

quyền thì mỗi quốc gia đều có những phương pháp khác nhau. Dù Kiểm sát

viên/Công tố viên của Viện kiểm sát/Viện Công tố được tổ chức trong cơ cấu

của Tòa án hay nằm song song với Tòa án hoặc thuộc nhánh hành pháp thì

Kiểm sát viên/Công tố viên luôn được hoạt động độc lập trong thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của mình. Ở các quốc gia theo truyền thống pháp luật Châu Âu

lục địa, đối với chức năng thực hành quyền công tố của Viện Công tố/Viện

kiểm sát, thì Kiểm sát viên/Công tố viên luôn giữ vai trò chỉ đạo điều tra hình

sự và có vai trò quan trọng trong thi hành án hình sự. Ở các quốc gia theo

truyền thống pháp luật án lệ, Kiểm sát viên/Công tố viên có chức năng chính là

73

truy tố tội phạm và không giữ vai trò quyết định trong hoạt động điều tra hình

sự, không chỉ đạo hoạt động điều tra.

Ba là, dù các quốc gia đều quy định cho Viện công tố/Viện kiểm sát nhiều

chức năng nhiệm vụ khác nhau nhưng chức năng thực hành quyền công tố luôn là

chức năng chủ đạo, có vị trí quan trọng nhất. Do vậy, vị trí, vai trò, nhiệm vụ,

quyền hạn của Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố cũng

luôn được đề cao và được điều chỉnh bởi những quy định pháp luật rất chặt chẽ.

Đặc biệt là đối với chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên/Công tố

viên có vai trò quyết định trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Việc quy định

Viện công tố/Viện kiểm sát chỉ đạo hoạt động điều tra, quyết định việc truy tố là

rất cần thiết. Bởi vậy, cần tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên/Công tố viên trong

thực hành quyền công tố ngay từ giai đoạn này để có một nền công tố mạnh trong

hệ thống tư pháp.

Tiểu kết chương 2

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố là

một bộ phận văn bản quy phạm pháp luật không thể tách rời hệ thống các quy

định pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

Bản chất Nhà nước và mô hình tổ chức hoạt động của Nhà nước có vai trò quyết

định mô hình tố tụng, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nói chung và

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói riêng. Vì

vậy, để hoàn thiện pháp luật, chúng ta cần phải đặt pháp luật trong mối quan hệ

hữu cơ với nhà nước. Cho dù là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn hay tố tụng

hình sự tranh tụng, hoặc mô hình tố tụng hình sự kết hợp cả hai yếu tố này; cho

dù là cơ quan công tố đặt ở hành pháp (Chính phủ) hay trực thuộc cơ quan quyền

lực nhà nước cao nhất (Quốc hội, nghị viện) thì vị trí, vai trò, chức năng vả địa

vị pháp lý của Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố nhà

nước là như nhau. Thực hành quyền công tố là lĩnh vực hoạt động liên quan trực

tiếp đến tài sản, tính mạng, danh dự, tự do của con người… nên hoạt động thực

74

hành quyền công tố của Kiểm sát viên/Công tố viên luôn phải dựa trên một cơ sở

pháp lý vững chắc, hoàn hảo, trước tiên là Hiến pháp, sau đó là các đạo luật về tổ

chức và hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố không phải là một tập hợp bất biến, nó được hoàn thiện

từng bước theo yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp, phù hợp với các điều kiện

kinh tế-xã hội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân. Mức độ hoàn thiện của các quy định pháp luật trong lĩnh vực

này được đánh giá bởi các tiêu chí như tính toàn diện, đồng bộ, khả thi, tính dự

báo... Dựa trên những tiêu chí này, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố sẽ đi đúng hướng, phù hợp với Chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo tinh thần Nghị

quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố,

xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm pháp chế trong hoạt động

tố tụng hình sự, đáp ứng ngày càng đầy đủ các yêu cầu công cuộc cải cải cách tư

pháp đề ra.

75

Chương 3

QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ Ở VIỆT NAM

Trên cơ sở pháp luật hiện hành để bảo đảm có được một nội dung đánh giá

khách quan, toàn diện về mức độ hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố theo các tiêu chí đã nêu ở chương 2, thì

việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật về Kiểm

sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố trong mối quan hệ với mô hình tổ

chức quyền lực Nhà nước nói chung, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

Viện kiểm sát nhân dân trong từng giai đoạn lịch sử nói riêng là một nội dung

không thể thiếu. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh việc hoàn thiện pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố luôn song hành với kiện

toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp và để đáp ứng nhiệm vụ chính trị -

pháp lý ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.

3.1. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TỪ 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI BAN HÀNH LUẬT

TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN NĂM 2002

3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra

đời, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử dân tộc. Đảng cộng sản Việt

Nam từ một đảng hoạt động bí mật, đã trở thành Đảng cầm quyền, thực hiện vai

trò lãnh đạo nhân dân kiến lập Nhà nước dân chủ cộng hoà của dân, do dân, vì

dân. Cùng với việc xóa bỏ bộ máy nhà nước phong kiến, chính quyền cách mạng

nhanh chóng được thiết lập trên phạm vi cả nước, có hệ thống từ trung ương đến

cơ sở.

Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc trong ngày 2.9.1945 tại

quảng trường Ba Đình đã chính thức khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ

76

cộng hoà là một quốc gia có chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Đây là văn bản pháp lý đầu tiên vô cùng quan trọng của nhà nước dân chủ nhân

dân, đặt cơ sở pháp lý để xây dựng và củng cố các thiết chế nhà nước và hệ thống

pháp luật của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.

Trên cơ sở những yêu cầu chính trị cấp bách và lâu dài đó là, cần sớm “ổn

định trật tự xã hội và để cho nhân dân ta được hưởng quyền tự do dân chủ, bảo vệ

vững chắc nhà nước cách mạng non trẻ” nên ngay khi nước ta giành được độc lập,

Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã đặc biệt chú trọng đến

hoạt động tư pháp. Vì vậy, chỉ trong một khoảng thời giá rất ngắn Nhà nước ta đã

ban hành nhiều văn bản định hướng và đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động tư pháp

nói chung, cho công tác công tố nói riêng.

Cùng với sự ra đời của hệ thống cơ quan tư pháp trong hệ thống chính trị

của Nhà nước nhân dân kiểu mới, Cơ quan công tố cũng được hình thành với

nhiệm vụ cùng với Cơ quan công an, Tòa án trấn áp bọn tội phạm phản cách

mạng, chống lại những hành vi đi ngược lại lợi ích của chính quyền nhân dân,

bảo vệ tài sản nhà nước, của tập thể người lao động, đảm bảo việc thực hiện các

chính sách trật tự trị an của xã hội... Để thực hiện nhiệm vụ đó, Cơ quan công tố

ngoài chức năng buộc tội còn thực hiện chức năng giám sát các họat động tố

tụng tư pháp (trình tự tố tụng tại Tòa án). Để bảo đảm quá trình tố tụng được

khách quan, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ

và tôn trọng, tránh sự lộng quyền, lạm quyền từ phía các cơ quan tư pháp, Chủ

tịch Chính phủ lâm thời ký, ban hành Sắc lệnh số 46-SL, ngày 10/10/1945 “về

chế độ luật sư”. Sắc lệnh này cũng quy định rõ thẩm quyền của Chưởng lý (nay

là Viện trưởng Viện kiểm sát) của toà thượng thẩm trong thủ tục công nhận luật

sư thực thụ.

Theo các Sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng 01 năm 1946; Sắc lệnh số 51/SL

ngày 17 tháng 04 năm 1946; Sắc lệnh số 131/SL ngày 20 tháng 07 năm 1946, thì

các viên chức công tố nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp: ở Tòa án đệ nhị cấp

(cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) có Thẩm phán xử án và Thẩm phán

77

buộc tội. Như vậy, ở Tòa án đệ nhị cấp mặc dù chưa có cơ quan công tố nhưng lại

có các cán bộ làm nhiệm vụ công tố, đó là: Biện lý, Tham lý. Ở Tòa thượng thẩm

(tổ chức ở ba miền Bắc, Trung, Nam) có các Công tố viên do Chưởng lý đứng đầu

và hoạt động của các cán bộ chuyên trách như Biện lý, phó Biện lý, Công tố

viên... chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo của Bộ trưởng Bộ tư pháp.

Qua nghiên cứu lịch sử giai đoạn này cho thấy, do chưa có điều kiện cải tổ

toàn diện bộ máy nhà nước, Sắc lệnh số 13-SL, ngày 24-01-1946 cũng như Hiến

pháp năm 1946 đều quy định mô hình công tố nằm trong Tòa án. Như vậy, chức

năng thực hành quyền công tố của các viên chức công tố trong giai đoạn này là

nằm trong chức năng của Tòa án. Trong Tòa án quân sự có một Ủy viên quân sự

hoặc Ủy viên Ban trinh sát giữ quyền công tố, thực hiện chức năng buộc tội, tại

các Tòa án đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm thuộc hệ thống Tòa án thường có chức

danh Thẩm phán buộc tội, hoạt động công tố tại Tòa án binh do một Ủy viên

Chính phủ đảm nhận. Tuy là một bộ phận nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án,

chịu sự quản lý hành chính của Bộ Tư pháp nhưng hoạt động của các “viên chức

công tố” hoàn toàn độc lập với hoạt động xét xử, các Ủy viên công tố chịu sự lãnh

đạo thống nhất của Chưởng lý. Với tính chất là hoạt động tư pháp, hoạt động công

tố được Hiến pháp bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Bên cạnh chức

năng công tố, buộc tội, các chức danh Biện lý và Chưởng lý (thuộc Tòa án

thường) còn có chức năng giám sát, chỉ đạo hoạt động điều tra của tư pháp công

an, các cơ quan được giao thẩm quyền điều tra (kiểm lâm, hỏa xa, thương chính),

quyết định việc truy tố, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án; Trực tiếp điều tra một số loại

án; Kháng nghị quyết định giam giữ bị can quá hạn; Thi hành án và giám sát thi

hành án; Đề nghị ân xá, phóng thích; Tham gia tất cả các phiên toà dân sự; Khởi

tố các vụ án dân sự có đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm

về thể chất, tâm thần và pháp nhân hành chính. Biện lý có quyền kháng cáo bản

án, quyết định hình sự, dân sự của Tòa án.

Trước yêu cầu tăng cường tính dân chủ của tư pháp, Sắc lệnh số 85/SL

ngày 22/5/1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về cải cách tư pháp và luật tố tụng.

78

Đây có thể coi là lần cải cách tư pháp đầu tiên dưới chế độ dân chủ cộng hòa

nhằm khẳng định tính chất nhân dân của Tòa án. Sắc lệnh đã đổi tên Toà án sơ cấp

thành Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án đệ nhị cấp thành Tòa án nhân dân cấp

tỉnh, Hội đồng phúc án thành Tòa phúc thẩm; Phụ thẩm nhân dân đổi thành Hội

thẩm nhân dân (khẳng định địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân cao hơn Phụ

thẩm). Khi xét xử hoặc bào chữa, Thẩm phán và Luật sư không mặc áo chùng đen.

Để xử việc hình và việc hộ, Toà án nhân dân huyện và Toà án nhân dân tỉnh gồm

một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; Toà phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và

ba Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết. Hội

thẩm nhân dân được hưởng đặc quyền tài phán như các Thẩm phán và lương bổng

như các Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính cấp tương đương. Trong điều

kiện lịch sử của thời kỳ 1945 - 1958, việc tiếp tục duy trì mô hình công tố trong

Tòa án là phù hợp với nền tảng hệ thống pháp luật cũ [19], không tạo ra xáo trộn

lớn trong hoạt động tư pháp, trấn áp kịp thời các hành vi phạm tội, giữ vững chính

quyền, ổn định đời sống nhân dân, bảo đảm tập trung mọi nguồn lực chuẩn bị cho

công cuộc trường kỳ kháng chiến.

Tuy nhiên, trong cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất tiến hành năm 1950,

Nhà nước đã tăng thẩm quyền chỉ đạo của Ủy ban hành chính đối với cơ quan

công tố, bao gồm cả việc ra mệnh lệnh về đường lối công tố cũng như điều khiển

các vụ việc cụ thể. Đặc biệt, Nhà nước đã mở rộng thẩm quyền cho Công tố viện

được kháng cáo các vụ án dân sự. Quy định này đã tạo thuận lợi cho Công tố viện

không chỉ với tư cách đại diện cho toàn xã hội trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn là điều kiện

quan trọng để Công tố viện thực hiện có hiệu quả hơn chức năng giám sát việc

tuân thủ pháp luật của các đối tượng trong xã hội.

Sau khi miền Bắc hoàn giải phóng, đến cuối những năm 1950 đã có sự

thay đổi lớn mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Thực hiện

Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa thứ 8 trong phiên

họp ngày 29 tháng 4 năm 1958, Chính phủ đã ban hành Nghị định 256-Ttg, ngày

79

01-7-1958 về thành lập Viện Công tố và hệ thống công tố tách khỏi Bộ Tư pháp,

đặt Viện Công tố trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm và

quyền hạn ngang một Bộ; Viện công tố có chức năng, nhiệm vụ giám sát việc tuân

thủ và chấp hành pháp luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự những kẻ

phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài

sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, bảo đảm công cuộc kiến thiết

và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuộc lợi. Trong Viện Công tố, chức danh Ủy

viên công tố được hình thành với chức năng thực hành quyền công tố trong lĩnh

vực hình sự được quy định một cách cụ thể hơn, rộng hơn so với trước đó là điều

tra, truy tố trước Tòa án những kẻ phạm pháp hình sự, giám sát việc chấp hành

pháp luật trong việc xét xử của Tòa án; đặc biệt là có trách nhiệm áp dụng các

biện pháp thích đáng theo pháp luật để xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, mọi

phần tử phạm pháp trong quá trình điều tra, truy tố. Tuy nhiên, do đây là một giai

đoạn chuyển tiếp để hình thành Viện kiểm sát nhân dân với tư cách pháp lý là một

hệ thống cơ quan tư pháp độc lập, trực thuộc cơ quan quyền lực cao nhất - Quốc

hội, nên chức năng, nhiệm vụ về thực hành quyền công tố của Uỷ viên công tố

vẫn chưa có những quy định luật hoá cụ thể.

Như vậy, vào thời kỳ đầu khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà theo

quy định tại các điều 1, 22, 43, 63, 64 của Hiến pháp 1946 với bản chất nhà nước

kiểu mới:

Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam...

Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam

dân chủ cộng hoà... Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là

Chính phủ Việt Nam..Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam...gồm có

Toà án tối cao; các toà án phúc thẩm; các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp...

Các viên thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm [93].

Cơ quan công tố được xác định là cơ quan tư pháp, được tổ chức nằm trong

Toà án, nhưng chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp là cơ quan hành pháp và

chưa được hình thành với tư cách là cơ quan tư pháp độc lập, chức danh Kiểm sát

80

viên chưa hình thành. Tuy vậy, hoạt động thực hành quyền công tố đã được thực

hiện thông qua việc các chỉ đạo hoạt động điều tra và buộc tội bị cáo trong các

phiên toà của các “viên chức công tố” và được xem là một nhiệm vụ của Toà án,

nhưng vẫn độc lập với chức năng xét xử. Nhiệm vụ này được thực hiện trên thực

tế bởi một số chủ thể khác nhau như Uỷ viên quân sự, Biện lý, hoặc Công tố viên.

Cho đến, Thông tư số 556-Ttg ngày 24 tháng 12 năm 1958 của Thủ tướng chính

phủ ban hành, quy định rõ mối quan hệ giữa Công an, Tòa án và Viện công tố

trong việc trấn áp bọn phản cách mạng. Viện công tố có quyền điều tra, truy tố

những vụ án hình sự, giám sát việc chấp hành pháp luật của CQĐT, hoạt động xét

xử của Tòa án và việc giam giữ, cải tạo của cơ quan, người được trao quyền. Cùng

với việc thực hành quyền công tố nhà nước, Viện công tố còn thực hiện chức năng

giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra, xét xử các vụ án hình

sự, thi hành án, giam giữ cải tạo và tham gia giải quyết các vụ án dân sự quan

trọng có liên quan tới lợi ích của nhà nước và xã hội. Có thể nói, Viện Công tố

thời kỳ này đã được nhà nước giao những nhiệm vụ, quyền hạn mới so với trước

đây. Đặc biệt là việc thực hiện chức năng giám sát các hoạt động tố tụng tư pháp.

Đây là tiền đề quan trọng để xây dựng hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân

sau này. Sau khi miền Bắc giải phóng, năm 1959 đã có sự thay đổi mô hình tổ

chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa thứ 8 trong phiên họp ngày 29 tháng 4

năm 1958, Chính phủ đã ban hành Nghị định 256-Ttg, ngày 01-7-1958 về thành

lập Viện Công tố và hệ thống công tố tách khỏi Bộ Tư pháp, đặt Viện Công tố

trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm và quyền hạn ngang

một Bộ. Sau đó Chính phủ ban hành Nghị định 381-Ttg, ngày 20-10-1959 thành

lập Tòa án nhân dân tối cao và hệ thống Tòa án nhân dân tách khỏi Bộ Tư pháp,

đặt Tòa án Nhân dân tối cao thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm và quyền

hạn ngang một Bộ. Chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố và công tố viên đã có

những thay đổi nhất định cho đến khi thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân dân

vào năm 1960.

81

3.1.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước năm 2002

Vào thời điểm 1960, cách mạng nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới -

giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở miền

Bắc làm hậu thuẫn cho đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Nhu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải

được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về

mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và nhà nước

cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau, nếu không đạt

được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra

Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ

vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp

hành nghiêm chỉnh và thống nhất [87].

Trong điều kiện cả nước tập trung mọi nguồn lực cho kháng chiến, sự phát

triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung ở Miền Bắc có ý nghĩa quyết định cho sự

thắng lợi của nhiệm vụ cách mạng ở cả hai miền. “Bất kỳ một vi phạm về pháp

luật, chế độ hoặc thể lệ nào của Nhà nước đều ít nhiều có hại đến việc kế hoạch

hóa nền kinh tế quốc dân của ta” [86]. Vì vậy, phải bảo đảm cho mọi pháp luật,

chế độ, thể lệ của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Yêu cầu

về một thiết chế có nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất là hết sức khách quan

trong điều kiện của đất nước vào thời điểm đó: nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là sản

xuất nhỏ, tâm lý dân tộc có những thiên kiến về pháp luật (đề cao đức trị thay cho

pháp trị, truyền thống coi lệ làng là luật, coi pháp luật của nhà nước là đối lập…).

Chế định Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến

pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960. Theo các văn bản pháp luật

này, VKSND có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan

thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan

Nhà nước và công dân. Còn hoạt động thực hành quyền công tố được coi là quyền

năng phát sinh khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát

điều tra, kiểm sát xét xử).

82

Theo quy định của Hiến pháp 1959, tại các điều 4, 43, 71, 97, 104, 105, 108:

Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về

nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội

và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm

trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan

Nhà nước khác đều thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ…; Quốc

hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất…; Hội đồng Chính phủ là

cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất…; Toà án

nhân dân tối cao …là những cơ quan xét xử… Toà án nhân dân tối cao

chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội…. Toà án nhân

dân địa phương cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Hội đồng nhân

dân địa phương; Viện kiểm sát nhân dân tối cao…kiểm sát việc tuân

theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ, cơ quan Nhà

nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân..Viện

kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước

Quốc hội…Uỷ ban thường vụ Quốc hội [94].

Như vậy, từ góc độ tổ chức và hoạt động của nhà nước trong giai đoạn này,

ta thấy:

Về vị trí, VKSND là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước,

các VKSND địa phương được tổ chức theo đơn vị hành chính nhưng không phụ

thuộc vào chính quyền hành chính. Về tổ chức, VKSND tối cao, các VKSND địa

phương và Viện kiểm sát Quân sự tạo thành một hệ thống thống nhất, theo đó

VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của VKSND cấp trên, các VKSND địa

phương và Viện kiểm sát Quân sự chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng

VKSND tối cao. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND địa

phương và Viện kiểm sát Quân sự các quân khu và khu vực do Viện trưởng

VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Viện trưởng VKSND tối cao

do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời

gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban

83

Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSND tối

cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội.

Đối với chức năng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên thì chỉ dừng

ở mức độ quy định của Viện kiểm sát có trách nhiệm điều tra những việc phạm

pháp về hình sự, tham gia việc điều tra hoặc khi cần thiết thì tự mình điều tra, truy

tố hoặc miễn truy tố can phạm; truy tố trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội

ra trước Toà án nhân dân cùng cấp. Bên cạnh đó, thực hành quyền công tố còn

được thể hiện ở chức năng buộc tội thông qua các hoạt động khởi tố bị can, truy tố

bị can, thực hành quyền công tố tại phiên toà.

Trong giai đoạn này, cùng tồn tại song song với quyền công tố trong các

hoạt động tố tụng hình sự và cùng hướng tới mục đích của cuối cùng của pháp luật

trong nhà nước nhân dân đó là, bảo vệ quyền con người, quyền công dân thì ở

miền Bắc, Hiến pháp 1959 được ban hành, tiếp tục khẳng định quan điểm của

Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền bào chữa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của công dân. Điều 101, Hiến pháp 1959 quy định: “Quyền bào chữa của người bị

cáo được bảo đảm”. Năm 1963, văn phòng luật sư thí điểm đầu tiên được thành

lập, đặt tên là Văn phòng luật sư Hà Nội (Văn phòng luật sư). Ban đầu Luật sư chỉ

nhận bào chữa những vụ án do tòa án chỉ định, về sau các bị cáo, đương sự có nhu

cầu mời luật sư thì trực tiếp đến Văn phòng luật sư. Năm 1972, Ủy ban pháp chế

của Chính phủ được thành lập, năm 1974 Tòa án nhân dân tối cao chuyển giao

Văn phòng luật sư sang Ủy ban pháp chế của Chính phủ để quản lý theo chức

năng quy định tại Nghị định 190/CP ngày 9/10/1972.

Sau khi miền Nam được giải phóng, ngày 15-5-1976 Chính phủ cách mạng

lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 01/SL-76 quy định

về Tổ chức Tòa án nhân dân và Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Sau đó 2 tuần,

ban hành quyết định số 29-QĐ-76 ngày 27-5-1976 thành lập Toà án nhân dân đặc

biệt để xét xử các tên tư bản mại bản phạm tội lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, phá rối

thị trường. Tiếp theo đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 181-

NQ/QHK 6 ngày 23-01-1978 giao cho Toà án nhân dân đặc biệt xét xử những tội

84

phạm đặc biệt nghiêm trọng về trật tự xã hội xảy ra tại thành phố Hồ Chí Minh

như: Giết người, cướp của tống tiền, bắt cóc, đốt nhà, tổ chức lưu manh trộm cắp,

hiếp dâm. (Toà án nhân dân đặc biệt giải thể năm 1986). Vai trò của Kiểm sát viên

trong kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án này rất lớn.

Năm 1980, Hiến pháp của thời kỳ quá độ cả nước đi lên CNXH được

Quốc hội Khóa VI thông qua. Viện kiểm sát nhân dân được coi là một thiết chế tư

pháp bên cạnh Tòa án. Theo Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức VKSND năm

1981, VKSND tối cao có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực

hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và

thống nhất. Các VKSND địa phương, các Viện kiểm sát Quân sự kiểm sát việc

tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình.

Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố cũng được

hoàn thiện nhằm bảo đảm cho Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn việc buộc tội của

Nhà nước đối với người phạm tội.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu bước chuyển hướng chiến

lược về nhận thức xây dựng CNXH ở Việt Nam, đánh dấu bước chuyển hướng

chiến lược của toàn Đảng, toàn dân về xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền

XHCN và mô hình kinh tế chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa, bao cấp sang cơ chế thị

trường, hội nhập quốc tế. Hiến pháp năm 1992 xác định VKSND các cấp “kiểm

sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được

chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Luật Tổ chức VKSND năm 1992 tiếp tục

quy định VKSND có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành

quyền công tố.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 và và Luật tổ chức VKSND năm 1992, Ủy

ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 1993.

Với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố nhà

nước, VKSND và Kiểm sát viên VKSND các cấp tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bảo

vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ và quyền làm chủ của nhân dân, bảo

vệ tài sản của nhà nước, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm công dân,

85

bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi

ích hợp pháp của người dân đều phải được xử lý theo pháp luật, bảo đảm cho pháp

luật được thực thi nghiêm minh, công bằng. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành

TW khoá IX nêu “…cần sửa đổi, bổ sung chức năng nhiệm vụ của VKSND theo

hướng VKSND chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp…”

[35]; Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ghi “… Viện kiểm sát các cấp thực

hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư

pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong

suốt quá trình tố tụng…” [7].

Thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của

VKSND, Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) đã điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ

của VKSND. Theo đó, VKSND thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; Đồng thời nhận

mạnh việc tăng cường chức năng thực hành quyền công tố và ghi nhận chức năng

kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là một cơ sở quan trọng để luật hoá nhiệm

vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Tiếp đó,

BLTTHS năm 1988 cũng được sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992, 2000

cho phù hợp. Nhưng các nội dung bổ sung, sửa đổi của BLTTHS chủ yếu tập

trung vào nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND và Viện trưởng VKSND. Còn chức

năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố không

thay nhiều lớn so với BLTTHS ban hành năm 1988.

3.2. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TỪ KHI BAN HÀNH LUẬT TỔ CHỨC VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN NĂM 2002 ĐẾN 2015 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

3.2.1. Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực

hành quyền công tố từ năm 2002 đến 2015

Từ năm 2002 đến 2015, nhìn từ tiêu chí đánh giá về nội dung của hệ thống

các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

ta thấy, các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền

86

công tố đã được thể chế một cách mạnh mẽ và toàn diện, đồng bộ để phù hợp với

quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng. Mà cụ thể là về chủ trương cải cách

tư pháp thể hiện trong các Nghị quyết chuyên đề về tư pháp của Bộ Chính trị như

Nghị quyết 08-NQ/TW (02/01/2002); Nghị quyết số 48-NQ/TW (24/5/2005);

Nghị quyết số 49-NQ/TW (02/06/2005). Hệ thống pháp luật về tư pháp nói chung,

pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân và pháp luật về Kiểm sát viên trong thực

hành quyền công tố nói riêng đã được từng bước sửa đổi, bổ sung ở nhiều cấp độ

văn bản pháp lý và cụ thể hoá thành những quy định pháp luật cụ thể. Một mặt, là

để phù hợp với các quan điểm, chủ trương của Đảng đặt ra về cải cách tư pháp và

các nguyên tắc, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

Nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân. Mặt khác là để đáp ứng các tiêu chí về tính

công khai, minh bạch, dân chủ, tính toàn diện, đồng bộ thống nhất của một chế

định pháp luật nằm trong hệ thống pháp luật.

Điều này trước hết được thể hiện ở các nội dung Hiến pháp 1992 (sửa đổi,

bổ sung); Hiến pháp 2013; Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (sửa đổi, bổ sung); Luật

tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 cùng nhiều các luật và văn bản pháp luật

khác có liên quan được nhà nước ban hành trong khoảng thời gian này. Vị trí,

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong quá

trình tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi bản án có hiệu lực

được quy định một cách cụ thể đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mà cải cách tư pháp

đặt ra đó là “ Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm,

quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng thẩm quyền

cho Kiểm sát viên… để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc

lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của

mình”. Để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân được pháp luật tôn

trọng và bảo vệ. Hạn chế đến mức thấp nhất sự lạm quyền, lộng quyền của các

chủ thể tiến hành tố tụng, trong đó có Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ

án hình sự các quy định pháp luật hiện hành đã xây dựng và hoàn thiện các quy

định pháp lý cụ thể về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia

87

tố tụng đặc biệt là nhóm chủ thể “yếu thế”: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị

hại, người chưa thành niên…Đặc biệt là sự tham gia của người bào chữa nói

chung, của luật sư (chỉ định hoặc không chỉ định) nói riêng ngay từ giai đoạn

điều tra. Sự tham gia của Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong quá trình giải

quyết vụ án là những biểu hiện rõ nét của việc “tích cực, chủ động” thể chế hoá

các nội dung điều ước quốc tế về quyền con người mà Nhà nước Việt nam đã ký

kết hoặc tham gia. Việc quy định cụ thể nội dung và trình tự, thủ tục các hoạt

động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong các quy định pháp luật

mà tập trung nhất là trong bộ luật tố tụng hình sự cũng là một biểu hiện rõ nét

của tính công khai, minh bạch, dân chủ theo các nguyên tắc và yêu cầu xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì nhân dân

mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.

Bên cạnh đó, ta cũng nhận thấy các quy định pháp luật trong lĩnh vực

này đã bao quát được hầu hết các hoạt động của Kiểm sát viên, địa vị pháp lý

của Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự nói chung, trong

thực hành quyền công tố nói riêng từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội

phạm đến khi bản án có hiệu lực. Đó là các quy định pháp luật mà Kiểm sát

viên sẽ thực hiện một cách trực tiếp (nhân danh Kiểm sát viên) hoặc một cách

gián tiếp (nhân danh Viện kiểm sát) liên quan đến: Quyết định phát động quyền

công tố để mở cuộc điều tra hình sự đối với sự kiện phạm tội (khởi tố hoặc

không khởi tố vụ án hình sự); Quyết định việc khởi tố bị can (phê chuẩn hoặc

không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, trực tiếp ra quyết định khởi tố bị

can); Quyết định việc có hạn chế hay không quyền tư do dân chủ của cá nhân

người phạm tội (xét phê chuẩn việc bắt, gia hạn tạm giữ, tạm giam); Quyết định

việc thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng (đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ

án); Quyết định truy tố bị can và các hoạt động thực hành quyền công tố tại

phiên toà. Ngoài ra trong pháp luật hiện hành còn có những quy định cụ thể về

địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng, người tham

gia tố tụng và một số các chủ thể pháp lý khác có liên quan trực tiếp đến quá

88

trình thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên hình thành nên các cơ chế

kiểm soát, để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền của Kiểm sát viên trong quá

trình tiến hành tố tụng.

Từ thực trạng hệ thống các quy định pháp luật trong lĩnh vực này ta thấy,

để chủ thể pháp lý hiến định - Kiểm sát viên thực hiện tốt chức năng công tố bảo

đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo tinh thần của Hiến pháp thì

các quy định pháp luật đã được xây dựng và hình thành tương đối đồng bộ và

thống nhất. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong quá trình thực hành quyền

công tố đã được cụ thể hoá thành những quy định pháp luật trong Bộ luật hình sự,

Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, pháp lệnh Kiểm sát

viên và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong quá trình thực hành quyền

công tố Kiểm sát viên bắt buộc phải tuân thủ các quy định pháp luật này một cách

nghiêm minh và thống nhất trên phạm vi toàn quốc.

Sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung (2001) với việc

ghi nhận:

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả

quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…; Quyền lực nhà nước là thống

nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong

việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [96].

Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm

2002 đã cụ thể hoá nội dung của Điều 137, Hiến pháp 1992 (sửa đổi) “…Viện

kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư

pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống

nhất…” [89]. Chức năng thực hành quyền công tố của VKSND trong giai đoạn

điều tra, truy tố, xét xử được nêu trong các Điều 13, 15, 16 của Luật tổ chức

VKSND với các nội dung cụ thể:

89

…Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra

theo quy định của pháp luật; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ

các biện pháp ngăn chặn; huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ

quan điều tra; Quyết định truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm

đình chỉ điều tra; Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong việc xét xử của Toà án, thực hành quyền công tố nhằm bảo

đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời; Thực hành

quyền công tố trước Toà án nhân dân cùng cấp… [89].

Lần đầu tiên, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố được luật hoá một cách cụ thể:

…Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật

để làm nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền

công tố; Trong phạm vi công tác kiểm sát được giao, Kiểm sát viên có

trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát

cấp mình theo quy định của pháp luật, trừ những việc thuộc thẩm quyền

của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng… [88].

Về tổ chức cán bộ, Kiểm sát viên VKSND tối cao do Chủ tịch nước bổ

nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối

cao (khác với giai đoạn trước là thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhà nước hay Ủy

ban thường vụ Quốc hội); Kiểm sát viên VKSND địa phương do Viện trưởng

VKSND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Về nhiệm kỳ công tác, lần đầu

tiên Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND đã quy định: “nhiệm kỳ của Kiểm sát viên

là năm năm”, bảo đảm tinh thần trách nhiệm cao hơn của Kiểm sát viên và tạo cơ

sở cho việc miễn nhiệm, cách chức đối với Kiểm sát viên không hoàn thành nhiệm

vụ được giao.

Ở VKSND các cấp trước đây, Kiểm sát viên là người thực hiện các nhiệm

vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Do vậy, về nguyên

tắc, VKSND cấp nào thì có Kiểm sát viên cấp đó. Luật tổ chức VKSND năm

2002 đã khắc phục việc xác định chức danh Kiểm sát viên gắn với cấp hành

90

chính (Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên VKSND tỉnh và Kiểm sát

viên VKSND huyện) thành ba ngạch Kiểm sát viên: Kiểm sát viên VKSND tối

cao, Kiểm sát viên trung cấp và Kiểm sát viên sơ cấp (Điều 3 Luật tổ chức

VKSND năm 2002) [91].

Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ra đời, đã có những quy định rõ hơn về

nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố.

Một số nội dung trước đây chưa có sự phân định rõ giữa kiểm sát việc tuân theo

pháp luật và thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự; quyền năng pháp lý cụ thể của chủ thể tiến hành tố tụng -

Kiểm sát viên nay đã được luật hoá trong BLTTHS 2003. Điều 37, BLTTHS quy

định về:

… Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự

có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm

sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra;

Đề ra yêu cầu điều tra; Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời

khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân

sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Kiểm sát việc bắt,

tạm giữ, tạm giam; Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của

Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ

và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án,

tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà; Kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những

người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án;

Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Toà án; Thực hiện các

nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự

phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát; Kiểm sát viên phải chịu

trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát về

những hành vi và quyết định của mình... [92].

91

Như vậy, đánh giá chung về các nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của

Kiểm sát viên trong BLTTHS 2003 đã mở rộng quyền hạn của Kiểm sát viên

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra đã

được trực tiếp đề ra yêu cầu điều tra; Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy

lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án… đây là những bảo đảm pháp

luật để Kiểm sát viên chủ động hơn trong thực hành quyền công tố, là một trong

những yếu tố cơ bản để không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan

người vô tội. Bên cạnh đấy, quyền hạn của Kiểm sát viên còn được mở rộng bằng

việc quy định “Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của

Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát”. Quy định này

cũng kèm theo quy định chế tài, nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên đó là

“Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện

kiểm sát về những hành vi và quyết định của mình...” [92].

Ngoài các quy định pháp luật liên quan đến vị trí, chức năng, nhiệm vụ và

vai trò của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố đã nêu trên, thì để bảo

đảm cho Kiểm sát viên thực hiện một cách có hiệu quả hoạt động thực hành

quyền công tố, một mặt bảo đảm được tính nghiêm minh, thống nhất của pháp

luật, mặt khác là nhằm không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và

người phạm tội. Bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của công

dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ thì trong pháp luật hình sự, tố tụng hình

sự, luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật khác có liên

quan đến hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên như (Luật tổ

chức Toà án nhân dân, pháp lệnh tổ chức toà án quân sự, pháp lệnh thẩm phán-

hội thẩm nhân dân toà án nhân dân năm 2002; Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự

2004, sửa đổi 2009; Luật luật sư 2006, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà

nước 2009; Luật tố cáo 2011...) đã có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa

vụ pháp lý của các chủ thể tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Điều tra viên;

Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng, Phó Viện trưởng; Toà án, Thẩm phán, Thư

92

ký, Hội thẩm....). Cũng như các chủ thể tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, tạm

giam..; bị can, bị cáo, luật sư, người giám định...). Đây là những chế định pháp

lý vừa có tính chất phối hợp, vừa có tính chế ước, kiểm soát đối với chủ thể pháp

lý Kiểm sát viên trong quá trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

và xét xử vụ án hình sự.

Ngoài ra, có thể thấy rõ tính chế ước này trong những quy định mới của

pháp luật tố tụng hình sự (BLTTHS 2003). Các quy định tố tụng hình sự về vị trí

của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố tại phiên toà; sự bình đẳng giữa

Kiểm sát viên (bên buộc tội) và bên gỡ tội (bị cáo, người bào chữa..). Kiểm sát

viên có nghĩa vụ (trước đây là có quyền) xét hỏi và tranh luận khi tham gia phiên

toà để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Với các quy định này, Kiểm sát viên

đã chủ động hơn, không còn là người chỉ “chứng kiến Hội đồng xét xử bảo vệ cáo

trạng cho Viện kiểm sát” [92].

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm; chất lượng công

tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn

nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do,

dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước

và các cơ quan tư pháp và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền

của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng và Nhà nước đã có chủ trương cải

cách tư pháp. Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết chuyên đề về công tác tư

pháp, sau Nghị quyết 08-NQ/TW là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005

“về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010 định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 “về

Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Theo tinh thần này chức năng

VKSND nói chung, Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói

riêng tiếp tục được điều chỉnh cho phù hợp hơn với thực tiễn và bảo đảm hiệu quả

hoạt động của bộ máy nhà nước. Đây là những cơ sở lý luận nền tảng, quan trọng

để hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

trong những năm tiếp theo.

93

Hiến pháp năm 2013 ra đời đã tiếp tục khẳng định chức năng của VKSND

là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên khi thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, chỉ tuân theo pháp luật và chịu

sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Đây là quy định khẳng định

vị trí độc lập của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung,

thực hành quyền công tố nói riêng. Tuy nhiên, cũng như Hiến pháp 1992 (sửa đổi,

bổ sung), Hiến pháp 2013 vẫn chưa xác định rõ vị trí của Viện kiểm sát nhân dân

thuộc nhánh quyền lực trong bộ máy Nhà nước mà chỉ “tạm xác định vị trí: Viện

kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Việc

quy định này là chưa phù hợp với quy định tại điều 2 của Hiến pháp: “Quyền lực

nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan

nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về Hoàn thiện pháp

luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng bảo đảm thực

hiện tốt chức năng công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp…; bảo đảm quyền con

người, quyền tự do, dân chủ của công dân; Tăng cường trách nhiệm công tố trong

hoạt động điều tra; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử; phân

định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong

hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho… Kiểm sát

viên… để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu

trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.... Luật

tổ chức VKSND năm 2014 ban hành, hợp nhất Luật tổ chức VKSND năm 2002

và Pháp lệnh về Kiểm sát viên năm 2002 với nhiều quy định mới khẳng định chức

năng thực hành quyền công tố Kiểm sát các hoạt động tư pháp và mở rộng nhiệm

vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự.

Thực hành quyền công tố được xác định là hoạt động của Viện kiểm sát

nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với

người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

94

vụ án hình sự. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 không quy định cụ thể

nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

mà chỉ có quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cụ thể khi thực hiện chức

năng này gồm:

…Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án

trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can

của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những

trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; Quyết định, phê chuẩn

việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người,

quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ

luật tố tụng hình sự; Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác

trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và

trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Khi cần thiết đề ra yêu

cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ

tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện; Yêu cầu cơ quan, tổ

chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người

phạm tội; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết

định việc buộc tội đối với người phạm tội; Điều tra các tội phạm xâm

phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra

trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật; Quyết định việc áp

dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố; Quyết định việc

truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa; Kháng nghị bản án, quyết định của

Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ

lọt tội phạm, người phạm tội; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác

trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự... [98].

95

Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định: điều 74, thì

“Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện

chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”; Tại Điều 83

quy định:

Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát

viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân; Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách

nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực

hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư

pháp; Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định của Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân; Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp

luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp

thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng; trường hợp Viện trưởng

vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải

chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi

hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp

trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm

trước pháp luật về quyết định của mình…; Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể

của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư

pháp do luật định... [92].

Cụ thể hoá các quy định của BLTTHS năm 2003 và Luật tổ chức VKSND

năm 2014, nội dung nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố được quy định trong Quy chế “công tác

kiểm sát việc tiếp nhanh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi

tố - ban hành kèm theo Quyết định 422-QĐ-VKSNDTC, ngày 17/10/2014; Quy

chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

việc điều tra các vụ án hình sự - Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-

VKSTC, ngày 2/1/2008; Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC, ngày 17/9/2007,

quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự”.

96

Trên cơ sở của Hiến pháp 2013, Luật tổ chức VKSND cũng các quy định

mới về mặt tổ chức đó là: quy định 4 ngạch Kiểm sát viên ở 4 cấp kiểm sát là:

Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp và

Kiểm sát viên sơ cấp. Với quy định này, trong mỗi cấp kiểm sát đều có Kiểm sát

viên thuộc các ngạch khác nhau, như: VKSND tối cao có thể được 4 ngạch kiểm

sát; Ở Viện kiểm sát Quân sự Trung ương có Viện trưởng là Kiểm sát viên

VKSND tối cao và có thể bố trí các ngạch kiểm sát (Kiểm sát viên cao cấp, trung

cấp, sơ cấp; các VKSND cấp cao có thể bố trí đủ 4 ngạch Kiểm sát viên; VKSND

khác có thể được bố trí các ngạch Kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp. Việc

xác định ngạch và bố trí Kiểm sát viên các ngạch khác nhau ở từng cấp kiểm sát

còn bảo đảm sự tương thích với việc bố trí Điều tra viên ở từng cấp trong CQĐT

hiện nay (CQĐT cấp huyện hiện nay bố trí cả Điều tra viên cao cấp) và phù hợp

với tính chất nhiệm vụ của từng cấp VKSND. Theo đó, Kiểm sát viên ở Viện

kiểm sát cấp trên có trình độ, kinh nghiệm cao hơn đội ngũ Kiểm sát viên ở Viện

kiểm sát cấp dưới, để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát cấp mình và

có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ cho Viện kiểm sát cấp dưới.

Và cũng xuất phát bản chất và nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối

hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát

của nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm

sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân, của chủ thể pháp lý hiến định -

Kiểm sát viên, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001), tại Điều 140 đã bổ sung

nội dung “Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm

báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả lời chất vấn của đại biểu Hội

đồng nhân dân” [96]. Đây là quy định pháp lý thể hiện cơ chế kiểm soát quyền lực

của nhân dân đối với các Viện kiểm sát nhân dân địa phương nói chung, Kiểm sát

viên nói riêng.

97

Để bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả

thi của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành

quyền công tố nói riêng, theo tinh thần của Hiến pháp 1992 (sửa đổi đổi sung),

Hiến pháp 2013 và cùng hướng tới mục đích cuối cùng và trên hết, là bảo vệ, tôn

trọng quyền con người, quyền công dân trong quá trình tiến hành tố tụng, nhiều

văn bản pháp luật có liên quan trực tiếp đến hoạt động thực hành quyền công tố

của Kiểm sát viên cũng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Mà tiêu biểu đó là:

Luật Tổ chức Toà án nhân dân 2014; Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015;

Luật giám định tư pháp 2012; Luật luật sư (sửa đổi 2012)…

Để hoàn thiện cơ chế phối hợp, chế ước trong quá trình giải quyết vụ án

hình sự giữa Cơ quan điều tra, Điều tra viên với Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm

sát viên thì Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015 đã có quy định bổ sung

về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan được giao tiến hành một

số hoạt động điều tra (Điều 9) như: Các cơ quan của Bộ đội biên phòng; các cơ

quan của Hải quan; các cơ quan của Kiểm lâm, các cơ quan của lực lượng Cảnh

sát biển; các cơ quan của Công an nhân dân; các cơ quan khác trong Quân đội

nhân dân; các cơ quan của Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra gồm Cục Kiểm ngư, Chi cục Kiểm ngư vùng. Đặc biệt là quy

định tại điều 11 của luật này: “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt

động điều tra”, theo đó Viện kiểm sát phải phát hiện kịp thời và yêu cầu, kiến

nghị Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra. Cơ quan điều

tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện

yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật tố tụng hình

sự; xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát theo quy định của

pháp luật. Tuy nhiên, để bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất với quy định của

Hiến pháp 2013 nói chung và của pháp luật về Kiểm sát VKSND trong thực

hành quyền công tố nói riêng thì Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự cần

phải ghi nhận chức năng hiến định “thực hành quyền công tố”, đồng thời phải

98

có quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của Cơ quan điều tra và Điều tra viên

trong việc thực hiện các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân và của

Kiểm sát viên.

Trong mối quan hệ giữa Toà án nhân dân, Thẩm phán với Viện kiểm sát

nhân dân, Kiểm sát viên nói riêng và các chủ thể tiến hành tố tụng khác nói

riêng trong giai đoạn xét xử cũng được pháp điển hoá và bổ sung một số nội

dung nhưng cơ tập trung nhất ở việc khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình

sự “Tòa án có thể tự kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ” mà cụ thể

đó là: a) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng

của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét

xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ,

tạm đình chỉ vụ án; b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài

liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập;

do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp; c)

Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu

cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh,

thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; d) Yêu

cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề

có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có

việc bỏ lọt tội phạm. Đây là những quy định pháp luật. Những quy định mới

này đã tạo nên được sự dân chủ trong phiên toà giữa Kiểm sát viên (chủ thể

pháp lý đại diện cho nhà nước thực hành quyền công tố) và các chủ thể tham

gia tố tụng khác mà đặc biệt là đối với bị cáo và người bào chữa của bị cáo.

Tuy nhiên, đặt dưới tiêu chí đồng bộ, thống nhất và toàn diện của hệ thống các

quy định pháp luật về Kiểm sát VKSND trong thực hành quyền công tố thì ta

cũng thấy rằng Luật tổ chức toà án nhân dân cần có những quy định cụ thể hơn

về cơ chế, trách nhiệm và chế tài áp dụng đối với Thẩm phán về quyết định trả

hồ sơ điều tra bổ sung không có căn cứ pháp luật, thiếu tính khách quan và

trách nhiệm.

99

3.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân trong thực hành quyền công tố từ năm 2002 đến 2015

Quá trình thực hiện các quy định pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố cũng là quá trình kiểm chứng mức độ

hoàn thiện của các quy định này.

Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là hai chức năng

hiến định của Viện kiểm sát nhân dân, mỗi chức năng đều có những quy phạm

pháp luật cụ thể điều chỉnh, tuy nhiên giữa hai chức năng này luôn luôn tồn tại

mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ và kiểm soát nhau trong quá trình giải quyết

nguồn tin về tội phạm, giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, trong quá trình đánh giá

thực tiễn áp dụng pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố không

thể tách rời kết quả thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp cũng như kết

quả thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của chủ thể pháp lý - Viện kiểm

sát nhân dân.

3.2.2.1. Những kết quả chủ yếu

Từ năm 2002 đến 2015, trong hoạt động thực hành quyền công tố của Viện

kiểm sát nhân dân các cấp nói chung, Kiểm sát viên nói riêng đã có nhiều chuyển

biến tích cực. Bằng việc đề cao trách nhiệm thực hành quyền công tố, tăng cường

các biện pháp nghiệp vụ nhằm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống

làm oan người vô tội ngay từ khâu tiếp nhận, phân loại và xử lý tố giác, tin báo tội

phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo

đảm mục tiêu cao nhất và cuối cùng là bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Theo quy định của pháp luật, Kiểm sát viên đã chủ động đề ra yêu cầu xác

minh, yêu cầu điều tra, bám sát tiến độ và thúc đẩy có hiệu quả chất lượng công

tác điều tra. Tỷ lệ phát hiện tội phạm được nâng lên, số vụ khởi tố, điều tra năm

sau cao hơn năm trước.

Năm 2013 - 2014, VKSND các cấp tiếp tục thực hiện việc “tăng cường,

nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong việc giải quyết tố giác tin báo về tội

phạm”, qua đó đã yêu cầu khởi tố 405 vụ (giảm 8,3% so với năm 2012), trực tiếp

100

khởi tố và yêu cầu điều tra 20 vụ (giảm 71% so với năm 2012), hủy 92 quyết định

không khởi tố, quyết định khởi tố và yêu cầu điều tra [139]. Điều này cho thấy, vai

trò quan trọng của Kiểm sát viên trong việc đề xuất với Viện trưởng quyết định

khởi tố hoặc không khởi tố; phê chuẩn, hoặc không phê chuẩn các lệnh, các quyết

định tố tụng của CQĐT.

Ngày 05/12/2013, Viện trưởng VKSND tối cao đã có Chỉ thị số 06/CT-

VKSTC về “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố

với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm” và qua

triển khai thực hiện cho thấy, Kiểm sát viên VKSND các cấp đã phối hợp chặt chẽ

với CQĐT nói chung, Điều tra viên nói riêng để bám sát quá trình điều tra, kịp

thời đề ra yêu cầu điều tra sát với vụ án, đẩy nhanh tiến độ điều tra vụ án, hạn chế

tình trạng điều tra kéo dài; khắc phục cơ bản việc lạm dụng bắt khẩn cấp, việc

hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự, tạm giam, tạm giữ, bảo đảm quyền và lợi

ích hợp pháp của con người, của công dân; hạn chế đáng kể việc bắt oan, sai; hạn

chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa Viện kiểm sát và CQQDT; đẩy

nhanh tiến độ giải quyết án; giảm đáng kể các trường hợp đình chỉ điều tra, đình

chỉ vụ án do bị can không phạm tội. Số vụ án Viện kiểm sát truy tố đạt tỷ lệ cao so

với tổng số vụ án đã kết thúc điều tra. Năm 2002, Viện kiểm sát các cấp truy tố đạt

96% so với số vụ đã kết thúc điều tra; giai đoạn 2006 -2007 đạt 99,1%, năm 2008

đạt 99%, năm 2009 đạt 98,68%, năm 2010 là 96,57%, năm 2011 là 96,91%, 6

tháng đầu năm 2012 là 92,17%; năm 2013 là 99,34% (vượt 9,34% so với chỉ tiêu

của Nghị quyết số 37/QH); trong đó, bảo đảm truy tố bị can đúng tội đạt 99,72%

(vượt 4,72% so với chỉ tiêu của Nghị quyết số số 37/QH) [141].

Để có sự thống nhất, nâng cao hiệu quả, chất lượng ở giai đoạn điều tra

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo quyết liệt triển khai đồng bộ các giải

pháp, kịp thời ban hành Chỉ thị triển khai hướng dẫn Nghị quyết số 33/2009/QH12

ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều

của Bộ luật hình sự để thực hiện thống nhất trong toàn ngành. Thực hiện chỉ đạo

của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát các địa phương chủ động kiểm

101

sát trực tiếp và vận dụng các biện pháp kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm của CQĐT, góp phần nâng cao tỷ lệ phát hiện tội phạm, hạn chế bỏ lọt

tội phạm, nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra có

chuyển biến mạnh mẽ, đã giảm đáng kể các vụ án oan, sai và việc trả hồ sơ điều

tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.

Viện kiểm sát các cấp đã tập trung chỉ đạo, xử lý đối với các vụ án trọng

điểm về an ninh quốc gia, án ma túy, án tham nhũng và các vụ án nghiêm trọng,

phức tạp khác; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tố tụng tìm biện pháp khắc

phục những vướng mắc về chứng cứ để giải quyết dứt điểm các vụ án trọng điểm

đã được khởi tố điều tra, như vụ “Tham ô tài sản”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu

quả nghiêm trọng” xảy ra tại Ban quản lý dự án xây dựng Tượng đài chiến thắng

Điện Biên Phủ; vụ “Tham ô tài sản”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi

hành công vụ”, “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây

hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Ban điều hành Đề án Tin học hóa quản lý hành

chính Nhà nước giai đoạn 2001-2005 (Đề án 112); vụ “Tham ô tài sản”, “cố ý làm

trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy

ra tại Dự án Đại lộ Đông Tây và Môi trường nước, thành phố Hồ Chí Minh.

Thực hiện chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động

điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”, các Viện kiểm sát chủ động phối hợp

với CQĐT, kiểm sát 100% các vụ án ngay từ khi khởi tố; nâng cao trách nhiệm

trong việc phê chuẩn và ban hành các lệnh, quyết định thuộc thẩm quyền, đảm bảo

có căn cứ, đúng pháp luật; nắm chắc tiến độ điều tra, bảo đảm việc thu thập chứng

cứ đầy đủ, khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật; chú trọng ban

hành và nâng cao chất lượng các yêu cầu điều tra.

Thực hiện BLTTHS năm 2003, ngày 29/04/2004, Ủy ban thường vụ Quốc

hội đã thông qua Nghị quyết số 523/2004/NQ-UBTVQH 11 về việc giao thẩm

quyền xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003 cho Tòa án

nhân dân cấp huyện. Theo đó, năm 2004 có 107 Viện kiểm sát cấp huyện được

tăng thẩm quyền xét xử (90 Tòa án nhân dân quận, huyện thị xã thuộc tỉnh và 17

102

Toà án quân sự khu vực), tương ứng là 107 CQĐT. Viện kiểm sát nhân dân tối

cao đã chỉ đạo các đơn vị trong ngành kiện toàn bộ máy, tăng cường các Kiểm sát

viên có năng lực, mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho Kiểm sát viên cấp huyện, bổ

sung kinh phí, trang thiết bị làm việc, tăng cường kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ

cho các Viện kiểm sát cấp huyện được tăng thẩm quyền nhằm tháo gỡ những khó

khăn, vướng mắc trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm

sát xét xử các vụ án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành kiểm tra

việc thực hiện tăng thẩm quyền của các Viện kiểm sát cấp huyện tương ứng với

việc tăng thẩm quyền của các Tòa án cấp huyện. Kết quả kiểm tra cho thấy năm

2005: Án thụ lý kiểm sát điều tra của các đơn vị cấp huyện được tăng thẩm quyền

tăng 27,3% về số vụ, tăng 32,8% về số bị can so với cùng kỳ năm 2004. Mặc dù

vậy, chất lượng giải quyết án ở các đơn vị được tăng thẩm quyền về cơ bản vẫn

đảm bảo các quy định của pháp luật [138].

Thực hiện Nghị quyết 388-NQ/QH 11, ngày 17-3-2003 của Uỷ ban thường

vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền

trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Viện kiểm sát nhân dân các địa phương đã

tiến hành rà soát các trường hợp bị oan thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát, chủ

động xem xét giải quyết việc bồi thường cho người bị oan khi có đơn yêu cầu.

Viện kiểm sát các cấp đã tiếp nhận 95 đơn yêu cầu bồi thường của người bị oan

(các trường hợp có đơn yêu cầu bồi thường này đều xảy ra trước ngày 1/10/2004).

trình giải quyết đã công khai xin lỗi đối với 26 người; thương lượng bồi thường

xong cho 45 người với tổng số tiền 1.104.559.199 đ. Có 07 người, Viện kiểm sát

đã thương lượng bồi thường vật chất nhiều lần nhưng không thành. Những người

này đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn lại đang tiếp tục thương lượng

giải quyết cho 32 người [138].

Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo việc kiểm điểm, xác định rõ trách

nhiệm của các cá nhân có liên quan đến việc làm oan. Đến nay, toàn ngành đã

kiểm điểm, xem xét trách nhiệm đối với 50 cán bộ, trong đó có 01 Phó Viện

trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh, 19 Viện trưởng, Phó Viện trưởng cấp huyện, 30

103

Kiểm sát viên các cấp. Đã xử lý kỷ luật cảnh cáo 01 người, 02 người bị khiển

trách, 47 người kiểm điểm rút kinh nghiệm [138].

Trong xét xử các vụ án hình sự, chất lượng thực hành quyền công tố của

Kiểm sát viên từng bước được nâng cao, góp phần để Tòa án ra bản án đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Quán triệt chủ trương cải

cách tư pháp, Viện kiểm sát các cấp đã chủ động, tích cực phối hợp với Tòa án tổ

chức nhiều phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp, qua đó nâng cao chất lượng

tranh tụng tại phiên tòa; kỹ năng xét hỏi, đối đáp và chất lượng tranh tụng của

Kiểm sát viên được nâng lên.

Việc thực hiện thông khâu kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm đã

giúp cho Kiểm sát viên nắm chắc hồ sơ từ khi khởi tố vụ án đến khi xét xử. Kiểm

sát viên đã chủ động tham gia xét hỏi, kiểm tra tài liệu, chứng cứ; tích cực, chủ

động tham gia tranh luận, đối đáp với luật sư và các chủ thể khác tham gia tranh

tụng tại phiên tòa, tạo chuyển biến tích cực trong xét xử của tòa án các cấp, phiên

tòa được diễn ra dân chủ và bình đẳng hơn.

Việc rút kinh nghiệm tổ chức các phiên tòa trong nhiều năm đã được Viện

kiểm sát các cấp tăng cường nhằm mục tiêu 100% Kiểm sát viên thực hành tốt

quyền công tố tại các phiên tòa hình sự (đã tổ chức 4.072 phiên tòa rút kinh

nghiệm trong năm 2013, tăng 37,8% so với năm 2012) [139], góp phần nâng cao

chất lượng, hiệu quả tranh tụng của Kiểm sát viên, bảo đảm hiệu lực, vai trò của

quyền công tố trong việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội trong các phiên

tòa xét xử vụ án hình sự. Viện kiểm sát các cấp đã thực hiện nhiều biện pháp tăng

cường trách nhiệm của Kiểm sát viên, tích cực phát hiện những sai sót, vi phạm

thông qua việc kiểm sát các bản án, quyết định và hoạt động xét xử của Tòa án;

qua đó, kịp thời ban hành kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục, sửa chữa.

Những năm gần đây, thực hiện chủ trương đẩy mạnh thực hiện cải cách tư

pháp, hoạt động của Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã có những chuyển biến

tích cực (năm 2010, khởi tố 21 vụ, tăng gấp hơn 2 lần (21/10 vụ) so với năm 2009;

năm 2011, khởi tố 52 vụ) [138]. Các vụ án do Cơ quan điều tra VKSND tối cao

khởi tố, điều tra đều được tiến hành kiểm sát chặt chẽ theo đúng các quy định của

104

pháp luật. Qua điều tra, giải quyết các vụ án, Cơ quan điều tra VKSND tối cao

tiếp tục rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng khởi tố, điều tra; ban hành kiến nghị

yêu cầu các cơ quan tư pháp, cơ quan quản lý thực hiện các biện pháp phòng ngừa

tội phạm, vi phạm pháp luật. Tuy số lượng án được CQĐT của Viện kiểm sát khởi

tố, điều tra không nhiều, nhưng qua việc thực hiện thẩm quyền điều tra, VKSND

đã góp phần chấn chỉnh hoạt động tư pháp.

Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự được chú trọng nhằm

bảo đảm việc giam giữ đúng pháp luật, chế độ giam giữ được chấp hành nghiêm

chỉnh, tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của người bị giam, giữ và

các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Mỗi năm, Viện

kiểm sát các cấp đã quyết định trả tự do cho hàng chục người bị giam giữ không

có căn cứ và trái pháp luật (năm 2006: 43 người, năm 2007: 32 người, năm 2008:

52 người), từ 1998 - 2008, có 447 người bị tạm giữ, 569 người bị tạm giam được

trả tự do [138]; Các kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của Viện kiểm sát được Toà

án, Cơ quan Công an, Cơ quan Thi hành án khắc phục kịp thời.

3.2.2.2. Những bất cập, hạn chế và nguyên nhân

* Bất cập về thể chế pháp lý

Thứ nhất, về phạm vi thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, theo

khoản 1 Điều 23 BLTTHS hiện hành quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền

công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa”,

theo đó, Viện kiểm sát chỉ thực hành quyền công tố, quyết định truy tố người phạm

tội ra trước Tòa án, còn từ giai đoạn Tòa án xét xử trở về sau Viện kiểm sát không

thực hành quyền công tố. Khoản 2 Điều này về thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo

pháp luật tiếp tục quy định phạm vi kiểm sát tương tự như khoản 1.

Tuy nhiên, khoản 3 Điều 23 BLTTHS lại quy định phạm vi thực hành

quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật rộng hơn sang cả lĩnh vực thi

hành án. Theo đó, VKSND không chỉ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự đối với cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được quy định tại khoản 1, 2

105

Điều 23 mà còn có quyền và trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát

việc tuân theo pháp luật đối với các cơ quan thi hành án (hình sự, dân sự) (như

Điều 257 BLTTHS). Điều này thể hiện sự chưa rõ ràng giữa việc thực hành

quyền công tố trong tố tụng hình sự và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp

khác (như thi hành án).

Khắc phục hạn chế này, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ

ràng phạm vi nội hàm hai loại quyền công tố và quyền kiểm sát hoạt động tư

pháp, theo đó, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố được giới hạn như khoản

1, 2 Điều 23 BLTTHS và quyền kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ bao hàm cả lĩnh

vực tố tụng hình sự và các hoạt động tư pháp khác. Tuy nhiên, ngay cả trong

điều 20 BLTTHS 2015 (chưa có hiệu lực) cũng không có được sự phân biệt rõ

trách nhiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp của

VKSND trong hoạt động thi hành án. Do vậy, trong thời gian tới, việc sửa đổi,

bổ sung BLTTHS cần điều chỉnh, thống nhất với Luật tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân năm 2014.

Thứ hai, BLTTHS năm 2003 quy định giới hạn VKSND chỉ có thẩm quyền

ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKSND hủy bỏ quyết định

không khởi tố của CQĐT (Điều 104 BLTTHS); chỉ khởi tố bị can sau khi nhận hồ

sơ và bản kết luận điều tra mà phát hiện có người khác thực hiện hành vi phạm tội

chưa được khởi tố (Điều 126 BLTTHS) là không phù hợp với vai trò, trách nhiệm

của cơ quan thực hành quyền công tố. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực

hiện chức năng công tố, quyết định việc khởi tố vụ án nhưng không có quyền xác

minh, chỉ kiểm sát kết quả giải quyết của CQĐT đối với tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố. Quy định VKSND phải chuyển ngay các tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho CQĐT nhưng chưa quy định trách nhiệm của

CQĐT thông báo trở lại cho VKSND các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố đã tiếp nhận được; chưa quy định cụ thể trách nhiệm thực hành quyền

công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát đối với hoạt động khởi

tố, điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra (Điều 103 BLTTHS).

106

Thứ ba, Bộ luật Hình sự chưa có chế tài xử lý áp dụng đối với chủ thể là

thủ trưởng cơ quan, nhà nước cố tình không thông báo hành vi phạm tội xảy ra

trong cơ quan và trong lĩnh vực mình quản lý cho CQĐT, Viện kiểm sát. Mặc dù

tại điều 26, BLTTHS hiện hành; điều 5, Luật Tố tụng hình sự (TTHS) 2015 (chưa

Bộ có hiệu lực) đã có quy định về trách nhiệm của người thủ trưởng cơ quan nhà

nước trong việc không thông báo hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về hành vi

phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực mình quản lý cho CQĐT, Viện

kiểm sát.

Trong thực tiễn thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân thì

việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm có một vị trí quan trọng trong việc

thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ “bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử

lý kịp thời… không để lọt tội phạm và người phạm tội..”. Để bảo đảm cho Viện

kiểm sát nhân dân nói riêng, cơ quan tiến hành tố tụng nói chung thực hiện có hiệu

quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm thì trong BLTTHS (hiện hành) tại

điều 25, 26 có quy định về trách nhiệm, sự phối hợp của các tổ chức và công dân,

giữa các cơ quan nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng. Quy định này trong

một thời gian dài đã góp phần tạo cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng hoàn

thành nhiệm vụ đầu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện

nay, thực tiễn tình hình tội phạm cho thấy có nhiều vụ án hình sự gây hậu quả đặc

biệt nghiêm trọng xảy ra trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức mặc dù người

thủ trưởng biết nhưng vẫn không thông báo kịp thời đến CQĐT, Viện kiểm sát

theo quy định của BLTTHS. Đặc biệt là trong các cơ quan mang tính đặc thù như

đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan hành chính nhà nước, doanh nghiệp nhà

nước… Vì vậy, Bộ luật hình sự cần quy định một tội danh có chế tài đủ mạnh để

loại trừ hành vi vi phạm pháp luật này.

* Bất cập về cơ chế bảo đảm địa vị pháp lý hiến định của Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố

Thứ nhất, Viện kiểm sát nhân dân nói chung, cá nhân Kiểm sát viên có

thẩm quyền nói riêng phải chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc khởi tố,

107

bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của Viện trưởng,

hoặc những nội dung, kết quả xử lý vụ án mà Kiểm sát viên được Viện trưởng

phân công giải quyết. Tuy nhiên, BLTTHS lại thiếu các biện pháp áp dụng, thiếu

các chế tài pháp lý đối với những trường hợp Cơ quan điều tra, Điều tra viên

không thực hiện đầy đủ các yêu cầu thực hành quyền công tố của VKSND, hoặc

các yêu cầu của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm;

giải quyết vụ án hình sự (Điều 114 BLTTHS). Đặc biệt là trong các hoạt động

khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám nghiệm phương tiện… đây

là những hoạt động tố tụng không chỉ đòi hỏi phải đúng theo quy định của pháp

luật mà còn phải bảo đảm được tính kịp thời. Kết quả của các hoạt động tố tụng

nói trên trong một số trường hợp sẽ chỉ mang tính khách quan, khi được các chủ

thể tiến hành tố tụng thực hiện ngay sau khi phát hiện tội phạm xảy ra. Thực tiễn

các án oan sai mà Viện kiểm sát đang giải quyết đền bù trong 05 năm gần đây, rất

nhiều trường hợp có nguyên nhân từ việc không thể tiến hành lại các hoạt động

khám nghiệm, thực nghiệm hoặc trưng cầu giám định. Vì vậy, cần phải có quy

định bảo đảm để Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong các hoạt động

khám nghiệm tử thi, hiện trường, phương tiện, chứ không chỉ dừng lại ở việc kiểm

sát các hoạt động tư pháp trong các hoạt động tố tụng này. Và cần phải có chế tài

xử lý cụ thể, đủ sức răn đe khi các yêu cầu của Kiểm sát viên đối với người tiến

hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình thực hành quyền công tố

không được thực hiện một cách triệt để và kịp thời.

Thứ hai, một trong những nguyên tắc phân công quản lý nhà nước, đặc biệt

là trong quản lý hành chính nhà nước, đó là chế độ Thủ trưởng. Thủ trưởng các cơ

quan sử dụng nguyên tắc này để chỉ đạo, điều hành đối với hoạt động của cơ quan.

Trong ngành Kiểm sát, xuất phát từ nguyên tắc “Tập trung thống nhất lãnh đạo

trong ngành”, khi tiến hành tố tụng, khác với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

trong xét xử vụ án hình sự triệt để tuân theo nguyên tắc “độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật”, thì hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên lại mang tính

độc lập đặc thù. Đó là, Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố vừa phải tuân

108

theo pháp luật, vừa phải thực hiện sự chỉ đạo của Viện trưởng, Phó Viện trưởng

hoặc người được sự ủy quyền của Viện trưởng. Vì vậy, để bảo đảm được tính hiệu

quả của nguyên tắc “tập trung thống nhất lãnh đạo trong nghành” đáp ứng được

yêu cầu, chủ trương của Đảng về phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với

trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng theo hướng tăng quyền và

trách nhiệm cho Kiểm sát viên thì pháp luật về Kiểm sát viên còn thiếu các quy

định cụ thể phân chia rõ thẩm quyền của Viện trưởng đối với Kiểm sát viên sau

khi đã ra quyết định phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát

các hoạt động tư pháp trong giải quyết nguồn tin về tội phạm hoặc giải quyết vụ

án hình sự.

Thứ ba, BLTTHS còn có những bất cập trong thực hiện các quy định pháp

luật về thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên.

Theo quy định của Hiến pháp và được cụ thể hoá trong điều 37 BLTTHS

(hiện hành) thì Kiểm sát viên là một chức danh pháp lý có nhiệm vụ, quyền hạn và

trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự. Kiểm sát viên có quyền đề ra yêu cầu

điều tra. Yêu cầu điều tra là văn bản pháp lý thể hiện toàn bộ nội dung công việc

mà Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên phải tiến hành để phục vụ cho việc Viện

kiểm sát quyết định truy tố hoặc không truy tố bị can ra xét xử trước Toà án. Tuy

nhiên, BLTTHS (hiện hành) là không có quy định cụ thể hậu quả pháp lý sẽ áp

dụng đối với Điều tra viên các trường hợp Điều tra viên không thực hiện, không

thực hiện đầy đủ, kịp thời các nội dung yêu cầu điều tra, yêu cầu xác minh của

Kiểm sát viên. Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền Thủ trưởng CQĐT yêu cầu

thay đổi Điều tra viên nhưng lại không có quy định định thời gian thực hiện cụ

thể. Mặc dù thời gian điều tra của vụ án thì được quy định và giới hạn cụ thể.

Trong BLTTHS 2015 (chưa có hiệu lực), tại Điều 42 có quy định Kiểm sát viên

có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng nhưng vẫn không có quy định

cụ thể trường hợp và thời gian hay đổi người tiến hành tố tụng. Nếu BLTTHS

không có các quy định chặt chẽ về vấn đề này, thì sẽ làm hạn chế chức năng,

109

quyền hạn cũng như sự chủ động của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các hợp thời

gian điều tra bị kéo dài quá hạn; Viện kiểm sát phải trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Tại điều 3, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy định VKSND

thực hành quyền công tố “ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.

Đây là một quy định mới so với các quy định của BLTTHS (hiện hành) và đã cụ thể

hoá được chủ trương của Đảng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND

trong thực hành quyền công tố ở các giai đoạn tố tụng. Thời gian trước đây trong

thực tiễn, hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, được

xem như là một hoạt động tiền khởi tố. Nhiệm vụ này thường do CQĐT chủ động

thực hiện. Từ khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 có hiệu lực, Kiểm sát

viên được Viện trưởng phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị

khởi tố sẽ có yêu cầu xác minh gửi cho Điều tra viên, trong đó ghi rõ các nội dung

Điều tra viên cần thu thập để có cơ sở để ra Quyết định khởi tố hoặc không khởi tố

vụ án. Tuy nhiên, ngay cả trong BLTTHS 2015, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân 2014 cũng không có quy định ghi nhận “Yêu cầu xác minh” là một văn bản tố

tụng thuộc thẩm quyền của Kiểm sát viên. Bên cạnh đó, tại khoản 1, điều 3, Luật tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 chỉ ghi nhận: “Thực hành quyền công tố là hoạt

động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội

của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố

giác… xét xử vụ án hình sự”, là chưa chính xác về phạm vi phát động quyền công

tố. Vì thực tiễn cho thấy ngay từ khi Viện kiểm sát “tiếp nhận” nguồn tin tội phạm,

quyền công tố của Kiểm sát viên đã được phát động thể hiện qua quy định vào sổ

đăng ký, yêu cầu cơ quan điều tra xác minh ban đầu.

* Những bất cập về cơ cấu tổ chức và các yếu tố bảo đảm cho Viện kiểm

sát nhân dân và Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố

Theo Báo cáo tổng kết Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các Pháp

lệnh năm 2002 cho thấy, công tác đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Viện

110

kiểm sát các cấp có lúc còn nóng vội. Có thời gian (từ 2004 - 2006), tổ chức bộ

máy các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra ở VKSND tối cao và

VKSND cấp tỉnh chưa được cân nhắc kỹ lưỡng, nên đã thực hiện việc sáp nhập

các đơn vị, sau đó qua hoạt động thực tiễn, thấy rằng không phù hợp, nhất là trong

mối tương quan với tổ chức của CQĐT của Bộ Công an, nên lại phải tách ra cho

phù hợp. Ngược lại, có lúc lại chưa đổi mới kịp thời, ví dụ như: chậm đổi mới

kiện toàn các đơn vị làm công tác kiểm sát giải quyết vụ, việc dân sự, vụ án hành

chính, kiểm sát thi hành án…

Cơ cấu tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát địa phương được tổ chức theo 5

mô hình, có nơi tổ chức 14 phòng trực thuộc, nhưng có nơi chỉ có 08 phòng, điều

này phụ thuộc vào điều kiện thực tế của từng địa phương, tuy nhiên, lại tạo nên

sự thiếu đồng bộ, thống nhất, khó khăn cho công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành

và công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Những biến động về cơ cấu tổ chức

này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm

sát viên.

Một số nơi, hoạt động của Viện kiểm sát còn bị chi phối bởi sự tác động

của các cấp chính quyền, chưa tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc độc lập, không phụ

thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương.

Pháp luật quy định mỗi cấp Viện kiểm sát có nhiều ngạch Kiểm sát viên,

nhưng lại chưa quy định về cơ cấu, tỷ lệ mỗi loại Kiểm sát viên ở mỗi cấp Viện

kiểm sát; chưa phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các loại Kiểm sát viên. Cho

đến nay, VKSND các cấp vẫn chưa thực hiện được quy định này do vướng về cơ

chế tuyển chọn Kiểm sát viên; đồng thời bị giới hạn bởi số lượng Kiểm sát viên

các cấp do Ủy ban Thường vụ của Quốc hội quyết định.

Về bảo đảm điều kiện hoạt động của Viện kiểm sát: Kinh phí bảo đảm

hoạt động của ngành Kiểm sát còn thấp so với yêu cầu thực tế; đầu tư cơ sở vật

chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc của Viện kiểm sát các cấp tuy đã được

quan tâm hơn, nhưng vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là ở cấp huyện;

trụ sở làm việc của nhiều Viện kiểm sát địa phương đã lạc hậu, xuống cấp

111

nghiêm trọng, không có nhà để xe, nhà công vụ; vẫn còn có Viện kiểm sát phải

đi thuê trụ sở làm việc.

Quy định Kiểm sát viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 05 năm là không

phù hợp, bởi vì, Kiểm sát viên là chức danh tố tụng, gắn với hoạt động nghề

nghiệp (không phải là chức vụ quản lý); do đó, người đã đủ điều kiện để được bổ

nhiệm làm Kiểm sát viên để thực hiện hoạt động nghề nghiệp thì họ phải được

công nhận chức danh nghề nghiệp đó cho đến khi họ thôi không còn thực hiện

nghề nghiệp đó nữa, trừ trường hợp họ vi phạm các quy định về hoạt động nghề

nghiệp thì sẽ bị miễn nhiệm.

- Những hạn chế của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố

Từ những bất cập về tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất của pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố như vừa nêu trên đã dẫn

đến những hạn chế nhất định đối với hiệu quả và chất lượng thực hành quyền công

tố của Kiểm sát viên trên thực tiễn của nghành kiểm sát hiện nay.

Do BLTTHS trong các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát

viên, VKSND khi thực hành quyền công tố trong các giai đoạn khởi tố, truy tố, xét

xử còn chưa đồng bộ, thống nhất nên dẫn đến vẫn còn trường hợp Kiểm sát viên

VKSND trong đấu tranh phòng, chống tội phạm còn thiếu chủ động, chưa thật sự

gắn được công tố với điều tra. Thể hiện cụ thể là ở số lượng án trả hồ sơ điều tra

bổ sung còn chiếm tỉ lệ cao. Vẫn còn nhiều vụ án oan sai mà nguyên nhân là do

kết quả công tác khám nghiệm của cơ quan điều tra chưa áp ứng đầy đủ và kịp

thời các nội dung yêu cầu của Kiểm sát viên.

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, hoạt động thực hành quyền công tố

của Kiểm sát viên VKSND các cấp vẫn chưa thực sự chủ động, còn hiện tượng

thụ động, chờ việc, để đến khi cơ quan điều tra kết thúc điều tra, đề nghị xử lý thì

Kiểm sát viên mới thực sự “vào cuộc”, dẫn đến có trường hợp chất lượng hồ sơ

điều tra chưa bảo đảm, việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, chặt chẽ, nhất là

những vụ án tham nhũng, kinh tế và chức vụ. Còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội

112

phạm trong quá trình điều tra hoặc khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam oan, sai hoặc

phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội... Thời hạn điều tra, xử lý một số

vụ án, nhất là án tham nhũng, án trọng điểm còn có trường hợp bị kéo dài trong đó

có trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND.. Bên cạnh đó cũng có nhiều trường

hợp Thẩm phán trả hồ sơ điều tra bổ sung không có căn cứ, sau khi Viện kiểm sát

trả hồ sơ mà không có bổ sung gì thì Thẩm phán vẫn xét xử và ra bản án đúng

pháp luật, dẫn đến thời gian xử lý án kéo dài gây mất lòng tin của nhân dân đối

với tính nghiêm minh của pháp luật.

Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, chất lượng tranh tụng tại phiên tòa

của một số Kiểm sát viên còn chưa cao, chưa ngang tầm với yêu cầu cải cách tư

pháp, có Kiểm sát viên còn thụ động, lúng túng khi xét hỏi bị cáo, chưa tích cực

tranh luận để bác bỏ những luận điểm không đúng của người bào chữa và những

người tham gia tố tụng… Một số vụ án có bản án chưa phù hợp nhưng Kiểm sát

viên chưa kịp thời tham mưu cho Lãnh đạo VKSND kháng nghị kịp thời. Nguyên

nhân của các hạn chế nêu trên là do pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố còn thiếu vắng một số các quy định pháp lý bảo đảm để

Kiểm sát viên tăng cường được sự chủ động và gắn trách nhiệm trong quá trình

thực hành quyền công tố.

- Nguyên nhân của hạn chế của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân trong thực hành quyền công tố

Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành chưa có sự phân định rõ giữa thẩm

quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn thực hành quyền công tố

của Viện trưởng, Phó Viện trưởng đối với Kiểm sát viên. Đặc biệt là thời điểm tố

tụng sau khi Kiểm sát viên có quyết định phân công giải quyết nguồn tin về tội

phạm; quyết định phân công giải quyết vụ án hình sự

Quy định nguyên tắc “tập trung, thống nhất lãnh đạo trong Ngành” đã phát

huy vai trò tích cực, nhất là khi Viện kiểm sát còn thực hiện chức năng kiểm sát

chung. Tuy nhiên, đến nay cần phải xem xét điều chỉnh lại phạm vi nội dung của

nguyên tắc này để bảo đảm thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp là tăng quyền và

113

trách nhiệm cho Kiểm sát viên, Điều tra viên để họ chủ động trong thực thi nhiệm

vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và

quyết định tố tụng của mình. Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một cách

đồng bộ các quy định của pháp luật liên quan đến nguyên tắc này để đáp ứng yêu

cầu trong tình hình mới.

Pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ

chức cơ quan điều tra và các văn bản pháp luật khác có liên quan còn thiếu những

quy định, chế tài đủ mạnh và thống nhất để bảo đảm được địa vị pháp lý hiến định

của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố.

Chính sách, chế độ tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát

viên chậm được điều chỉnh, bổ sung tương xứng với quyền hạn, trách nhiệm được

giao. Việc quy định chế độ tiền lương của Kiểm sát viên được áp dụng giống như

cán bộ, công chức nhà nước làm nhiệm vụ quản lý hành chính là không phù hợp

với tính chất đặc thù của công tác của Viện kiểm sát. Các chế độ ưu tiên đối với

Kiểm sát viên, Điều tra viên ngành Kiểm sát cũng chưa được quy định cụ thể và

chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện. Do đó, chưa bảo đảm khuyến khích, tạo điều

kiện để đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên yên tâm công tác, cố gắng phấn đấu hoàn

thành nhiệm vụ.

Tiểu kết chương 3

Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố từ năm 1945 đến nay cho thấy thấy các

quy định pháp luật đã không ngừng được hoàn thiện theo yêu cầu, nhiệm vụ

của mỗi giai đoạn. Tuy nhiên, cái bất biến trong những quy định nói trên là

công tố luôn là một chức năng cơ bản của Viện kiểm sát/Viện công tố và Kiểm

sát viên là chủ thể chủ yếu thực hiện chức năng này. Những năm đầu của chính

quyền dân chủ nhân dân, Nhà nước ta đã lựa chọn mô hình Viện công tố nằm

trong Tòa án như là một giải pháp quá độ trước khi chuyển sang mô hình Viện

kiểm sát trên cơ sở học thuyết pháp chế XHCN mà các nước XHCN trước đây

cũng như hiện nay đã chọn. Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng, có nhiệm

114

vụ thực hành quyền công tố trên cơ sở các nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật

quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình.

Cùng với thời gian, pháp luật quy định về chủ thể thực hành quyền công tố

cũng được hình thành và từng bước hoàn thiện, phát triển với trọng tâm là thực

hiện chức năng chỉ đạo điều tra, truy tố và buộc tội người phạm tội tại Tòa án

khi xét xử, với mục đích là bảo đảm giữ vững nền độc lập của đất nước, bảo vệ

Nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ trật tự xã hội và bảo vệ pháp luật.

Từ khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, Luật tổ chức VKSND năm

2014 đã được thông qua trên cơ sở hợp nhất Luật tổ chức VKSND năm 2002

và Pháp lệnh về Kiểm sát viên năm 2002, tạo cơ sở cao nhất và thống nhất cho

mọi hoạt động của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Đặc

biệt lần đầu tiên Luật đã có sự phân định rõ chức năng thực hành quyền công tố

và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, đưa việc thực hành

quyền công tố ngay từ khi phát hiện, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tội phạm

cho đến khi kết thúc xét xử, bảo đảm được mục tiêu ngay từ đầu của chức năng

công tố.

Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và thực tiễn tình

hình đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn mở cửa và hội nhập quốc

tế thì các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền

công tố thì vẫn còn bộc lộ nhiều điểm bất cập, hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện

đó là tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, tính công khai, minh bạch và khả thi

của hệ thống các quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên trong thực hành quyền

công tố. Bên cạnh đó là sự chưa minh định về thẩm quyền quản lý hành chính

với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng

tăng quyền và trách nhiệm cho Kiểm sát viên bảo đảm để Kiểm sát viên chủ

động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước

pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.

115

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM

SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH

QUYỀN CÔNG TỐ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP

4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

4.1.1. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố phải phù hợp chủ trương cải cách tư pháp

của Đảng trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa

Đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND trong tình hình mới phải quán

triệt đầy đủ, đúng đắn, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng

Nhà nước pháp quyền, cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, góp phần thực

hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm

minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc, tôn trọng và bảo vệ

quyền con người. Kiểm sát viên là một trong những chủ thể tiến hành tố tụng

hình sự, có nhiệm vụ thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm

tội. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cần quán triệt

sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước

trong lĩnh vực tư pháp.

Trong tiến trình "hội nhập, mở cửa", quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng,

các đối tượng phạm tội là người nước ngoài ngày càng nhiều và có xu hướng gia

tăng... đòi hỏi phải nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ

của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Sự lãnh đạo của

Đảng phải được bảo đảm trong tất cả các quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền XHCN và trong tất cả các quy trình xây dựng pháp luật, từ khảo sát thực

tiễn, tổng kết thực tiễn đến lựa chọn nội dung sửa đổi, bổ sung, xây dựng dự án,

đề án, lấy ý kiến, thảo luận, biểu quyết thông qua dự thảo văn bản quy phạm

pháp luật.

116

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) đã khẳng

định chủ trương tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp;

xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước

hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ

chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ

quan, tổ chức và cá nhân [37, tr.178-179]. Trên tinh thần đó, công tác cải cách tư

pháp, trong đó có hoàn thiện thể chế pháp lý về Kiểm sát viên phải quán triệt đầy

đủ, sâu sắc hơn nữa chủ trương cải cách tư pháp nêu tại Nghị quyết số 49-

NQ/TW của Bộ Chính trị và các văn kiện khác của Đảng, bám sát các nội dung

về quan điểm và nhiệm vụ cải cách tư pháp được Bộ Chính trị điều chỉnh tại Kết

luận số 92-KL/TW ngày 12-3-2014.

Từ những quan điểm chỉ đạo chung đối với cơ quan VKSND, Đảng ta

cũng có những quan điểm chỉ đạo cụ thể đối với việc hoàn thiện pháp luật riêng

cho các chủ thể tiến hành tố tụng, trong đó có Kiểm sát viên. Xây dựng đội ngũ

cán bộ tư pháp phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với chủ trương chung, trên

cơ sở quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể về tổ chức và

hoạt động của mỗi cơ quan tư pháp. Để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong

sạch, vững mạnh, đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp, các

nghị quyết về cải cách tư pháp của Đảng [10, tr.49] nêu rõ phương hướng đổi

mới, nâng cao chất lượng cán bộ, chức danh tư pháp với các nội dung cơ bản

sau: Đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của chức danh pháp lý, nâng cao và

cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và

kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ

thi tuyển đối với toàn bộ các chức danh pháp lý, đối với ngành Kiểm sát là các

ngạch Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Điều tra viên; Phân định rõ thẩm quyền

quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng

tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên

để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách

nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.

117

Đây là những định hướng rất quan trọng trong toàn bộ tổ chức và hoạt

động của bộ máy Nhà nước, xuất phát từ nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về

vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong hệ thống quyền lực nhà

nước, về sự đóng góp to lớn của ngành Kiểm sát nhân dân đối với sự nghiệp

cách mạng của Đảng và nhân dân ta và những mong đợi của xã hội, của nhân

dân trong quá trình phát triển tiếp theo của đất nước. Là cơ sở quan trọng để việc

hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố,

bám sát và đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

4.1.2. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố phải được tiến hành toàn diện, đồng bộ,

thống nhất với việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động tư pháp,

phù hợp với yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Hệ thống pháp luật quốc gia chứa đựng mối liên hệ mật thiết giữa các

chế định pháp luật trong một thể thống nhất. Đó là mối quan hệ biện chứng

giữa các bộ phận trong sự vật, hiện tượng. Trong khi, sự vận động của các

quan hệ pháp luật luôn có ảnh hưởng qua lại, tương tác với nhau, tạo nên sự

phát triển của cả hệ thống quan hệ xã hội vận động theo quy luật khách quan.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân hiện nay ở Việt Nam, vấn đề bảo đảm và thúc đẩy

quyền con người vừa được xem là nhân tố khẳng định tính chất pháp quyền

của Nhà nước, vừa là mục tiêu, yêu cầu đòi hỏi các cơ quan trong bộ máy Nhà

nước nói chung phải chú trọng thực hiện trong thực tiễn hoạt động. Chính vì

vậy, sự hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố phải được đặt trong sự hoàn thiện của cả hệ thống pháp luật nói

chung, đặc biệt là pháp luật về tố tụng hình sự. Việc hoàn thiện pháp luật phải

nhằm thể chế hóa đầy đủ và kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng về

quyền con người, phải được tiến hành đồng bộ với việc hoàn thiện hệ thống

chính sách về quyền con người và mức độ bảo đảm các quyền đó và được

thực hiện theo từng lộ trình phù hợp với từng thời kỳ phát triển của kinh tế -

118

xã hội. Quyền con người là những quyền được ghi nhận và bảo vệ trong pháp

luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và

nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm. Cùng với việc

ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các

bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi

nhiều chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân và tham gia hầu hết các điều ước quốc tế về quyền con người như

Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965,

Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công

ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về

xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về

quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006

v.v… và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn, góp phần xây dựng

một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,

công bằng, văn minh”, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hòa

bình và tiến bộ xã hội của toàn nhân loại. Tiếp tục kế thừa và phát triển những

quy định của các bản Hiến pháp trước đây về quyền con người, quyền và

nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp năm 2013 đã có những đổi mới căn

bản, quan trọng cả về cơ cấu, bố cục, cách viết và nội dung.

Như đã trình bày ở trên, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực

hành quyền công tố là một bộ phận không thể tách rời của pháp luật về

VKSND. Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố được hình thành trên cơ sở các quy định về vị trí, vai trò, chức

năng, nhiệm vụ của VKSND trong bộ máy nhà nước. Vì vậy, việc hoàn thiện

hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố

phải tuân thủ các quy định pháp luật đã được Luật Hiến pháp quy định, mà cụ

thể ở đây là Hiến pháp 2013. Nói một cách cụ thể hơn, phải được tiến hành

đồng bộ với việc hoàn thiện pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, pháp luật về

tổ chức, hoạt động của VKSND.

119

4.1.3. Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực

tiễn hoạt động của Viện kiểm sát

Việc tổng kết thực tiễn là điều kiện bảo đảm đầu tiên để hoàn thiện pháp

luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố. Bởi lẽ, thông qua

việc tổng kết về chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố của

Kiểm sát viên chúng ta mới có cơ sở để đánh giá một cách khách quan, hệ thống

và toàn diện những ưu điểm, những kết quả đã đạt được cũng như những khó

khăn, bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành trong quá trình tổ chức thực hiện

và áp dụng pháp luật, từ đó xác định rõ nội dung cần sửa đổi, bổ sung để đáp ứng

yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đối với hoạt động thực hành quyền công tố của

Kiểm sát viên. Việc tổng kết thực tiễn còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh

giá và kiểm định chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, Viện

kiểm sát nhân dân nói riêng.

Quá trình tổng kết thực tiễn pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố cần phải được nghiên cứu một cách khách quan, toàn

diện, gắn liền với từng giai đoạn lịch sử cụ thể của dân tộc. Như đã trình bày

trên, Kiểm sát viên là một chức danh pháp lý, một chủ thể tiến hành tố tụng của

Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm và vụ án hình sự.

Bên cạnh chức chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên còn

có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp (việc tuân theo pháp luật trong lĩnh

vực tư pháp). Hai chức năng, nhiệm vụ này của Kiểm sát viên luôn được tiến

hành song song trong quá trình nguồn tin về tội phạm, giải quyết vụ án hình sự

và giữa hai chức năng này có sự tác động qua lại lẫn nhau để đảm bảo cho Kiểm

sát viên thực hiện tốt việc “buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội” ngay

từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá

trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Vì vậy, để bảo đảm cho chủ

thể Kiểm sát viên thực hành quyền công tố một cách hiệu quả thì việc hoàn thiện

pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố phải gắn liền

120

với việc tổng kết thực tiễn, hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên trong kiểm sát

các hoạt động tư pháp. Mặt khác, như chúng tôi đã trình bày trên, chức năng và

nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói riêng và

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung là một bộ phận không tách rời

khỏi chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân. Do đó, trong quá trình

tổng kết thực tiễn hướng đến mục đích hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố cần đặc biệt chú ý đến mối quan hệ hữu

cơ trong hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên và Viện kiểm sát.

Ngoài ra yêu cầu tổng kết thực tiễn một cách toàn diện, khách quan còn bao hàm

cả nội dung đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa Kiểm sát

viên với các chủ thể tiến hành tố tụng khác (Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT,

Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Chánh án, Phó

Chánh án Toà án, Thẩm pháp, Hội thẩm, Thư ký toà án) và ngay cả với các chủ

thể tham gia tố tụng (Người bị tạm giữ; Bị can; Bị cáo, Người bị hại; Nguyên

đơn dân sự; Bị đơn dân sự; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;

Người làm chứng; Người bào chữa…); Các Cơ quan tiến hành tố tụng có liên

quan đến thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên; Trách nhiệm của các tổ

chức và công dân, thủ trưởng cơ quan nhà nước khi thực hiện yêu cầu của Kiểm

sát viên khi thực hành quyền công tố.

4.1.4. Hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

trong thực hành quyền công tố cần tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm các

nước có nền tư pháp tiên tiến

Hiện nay, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của chúng ta đã

được luật hóa. Tuy nhiên, chất lượng thực hiện ở từng khâu phụ thuộc vào năng

lực, đạo đức và trách nhiệm của cán bộ. Ở đây, cần chú ý đến mối quan hệ giữa

chính sách hình sự, đường lối về cải cách tư pháp của Đảng với việc chi tiết hóa

các chính sách, đường lối ấy trong pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố. Pháp luật ở lĩnh vực này còn nhiều quy định thiếu tính

khả thi dẫn đến hiệu quả của pháp luật trong đời sống chưa cao, thậm chí, một số

121

quy định chưa thực sự phù hợp với thực tiễn cuộc sống nên có văn bản vừa ban

hành đã phải sửa đổi, bổ sung dẫn đến lãng phí tiền của của nhân dân, làm giảm

uy tín của Đảng và Nhà nước. Một số ý kiến còn cho rằng, chất lượng "làm luật"

của nước ta còn quá thấp do quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật còn

chưa hợp lý và khoa học, chúng ta chưa phát huy tốt vài trò phản biện xã hội của

các tầng lớp nhân dân, Hiện tại, chúng ta vẫn đang duy trì làm luật theo phương

thức "làm văn tập thể", bàn bạc và biểu quyết thông qua tại diễn đàn Quốc hội.

Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố phải tuân theo một quy trình xây dựng pháp luật hợp

lý; phải dựa trên cơ sở học tập có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật của

các nước có nền tư pháp tiên tiến, dân chủ trên thế giới, trong đó, cần đặc chú ý

các vấn đề sau:

- Cần tăng cường năng lực, trình độ và chú trọng nâng cao đạo đức của

đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn, chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm

pháp luật, tăng cường trao dồi kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.

- Cần tạo ra nhiều hình thức, nhiêu kênh thông tin để lấy ý kiến phản biện

của các tầng lớp nhân dân, trong đó, đặc biệt chú ý là nhóm đối tượng thuộc đối

tượng điều chỉnh của văn bản sẽ được ban hành, các Luật gia, Luật sư, Điều tra

viên, Thẩm phán, Kiểm sát viên, các nhà khoa học pháp lý. Đối với việc hoàn

thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, thì

việc lấy ý kiến phản biện của chính đội ngũ Kiểm sát viên và những người đang

công tác kiểm sát sẽ mang lại hiệu quả, chất lượng cao cho văn bản luật sẽ được

ban hành.

- Cần đổi mới hoạt động thảo luận và thông qua dự án luật tại Quốc hội

theo hướng tăng cường số lượng đại biểu chuyên trách và tăng thời lượng thảo

luận tại tổ.

Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền

công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp là một trong những nhiệm vụ quan trọng

nằm trong Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã được Đảng ta nêu

122

trong Nghị quyết 49-NQ/TW và Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết 48-

NQ/TW). Kết quả hoàn thiện pháp luật cụ thể này, một mặt phải đáp ứng được

yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do

dân, vì dân. Mặt khác, phải bảo đảm tính tính Quốc tế hoá theo xu hướng hội

nhập đang diễn ra thì chúng ta bắt buộc cần phải có sự nghiên cứu khách quan,

học tập có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng, hoàn thiện pháp luật của các nước có

nền tư pháp tiên tiến, dân chủ trên thế giới.

Trên thế giới do cách thức tổ chức bộ máy nhà nước của các quốc gia rất

khác nhau, kể cả các quốc gia có cùng chế độ chính trị, nên Cơ quan công

tố/Viện kiểm sát cũng được tổ chức và hoạt động hoàn toàn không giống nhau.

Tuy nhiên, dù không được tổ chức giống nhau nhưng các Cơ quan công tố/Viện

kiểm sát đều có một vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước. Vị trí độc lập của Cơ

quan công tố/Viện kiểm sát là yếu tố rất cần thiết, bảo đảm cho nó được hoạt

động khách quan, nhằm mục đích bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý, công bằng,

bảo vệ quyền con người, quyền công dân và chế độ chính trị đang tồn tại. Đây là

hạt nhân đầu tiên mà chúng ta cần nghiên cứu và học tập và chọn lọc để tiếp thu.

Ngoài chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, hầu hết các Cơ quan

công tố/Viện kiểm sát trên thế giới đều thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau trên

các lĩnh vực tư pháp cụ thể khác nhau (giám sát tư pháp, tố tụng dân sự, giam,

giữ, cải tạo, thi hành án...) và các chức năng này được từng nhà nước phân công

cho Cơ quan công tố/Viện kiểm sát hoàn toàn trên cơ sở đặc điểm chính trị, xã

hội, truyền thống pháp lý... của từng quốc gia. Tuy nhiên, cho dù chức năng,

nhiệm vụ cụ thể của Cơ quan công tố/Viện kiểm sát ở từng quốc gia có khác

nhau, nhưng các quốc gia đều xem Cơ quan công tố/Viện kiểm sát là cơ quan có

vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý và trật tự xã hội; việc đảm nhiệm

các chức năng khác bên cạnh chức năng thực hành quyền công tố có chồng chéo,

giảm tính hiệu quả trong quá trình áp dụng, thực hiện pháp luật của Cơ quan

công tố/Viện kiểm sát hay không?; Mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa các

123

chức năng này như thế nào với chức năng thực hành quyền công tố của Cơ quan

công tố/Viện kiểm sát nói chung và Công tố viên/Kiểm sát viên, chủ thể thực

hành quyền công tố nói riêng.

Đối với pháp luật của các quốc gia theo truyền thống pháp luật châu Âu

lục địa, gần giống như pháp luật nước ta đều khẳng định vai trò quyết định của

Viện công tố/Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Viện công

tố/Viện kiểm sát chỉ đạo hoạt động điều tra và quyết định việc truy tố tội phạm.

Vậy việc nghiên cứu cần tập trung làm rõ tính hợp lý trong các quy định pháp

luật về Công tố viên/Kiểm sát viên trong việc chỉ đạo điều tra; thẩm quyền quản

lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư

pháp trong từng cơ quan tiến hành tố tụng với các chủ thể tiến hành tố tụng nói

chung và Kiểm sát viên nói riêng luôn luôn được xem là một nhiệm vụ của việc

hoàn thiện pháp luật.

Tóm lại, việc học tập kinh nghiệm các nước có nền tư pháp tiên tiến, dân

chủ trên thế giới về việc xây dựng và thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật về

Kiểm sát viên/Công tố viên trong thực hành quyền công tố luôn luôn là cần thiết.

Vì từ đó các nhà lập pháp sẽ rút ra được những giá trị cốt lõi mang tính phổ biến,

chung nhất, có giá trị, hiệu quả cao, phù hợp với điều kiện cụ thể và có khả năng

vận dụng ở Việt Nam.

4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

4.2.1. Nhóm giải pháp chung

- Về hình thức thể hiện các quy định pháp luật

Nghiên cứu về lâu dài sửa đổi quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong

Hiến pháp năm 2013. Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, Hiến pháp bao

giờ cũng được xem là đạo luật gốc. Luật hiến pháp xác lập những nguyên tắc cơ

bản làm cơ sở để xây dựng các ngành luật khác.Ví dụ: Luật hiến pháp quy định

cơ cấu tổ chức, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành

chính nhà nước, xác định mối quan hệ cơ bản giữa công dân và các cơ quan

124

nhà nước... Luật Hiến pháp quy định cả trình tự thông qua, sửa đổi, bãi bỏ quy

phạm của các ngành luật khác. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, ngành luật

Hiến pháp giữ vị trí chủ đạo. Vị trí chủ đạo của ngành luật Hiến pháp được xác

định bởi đối tượng đặc biệt nằm dưới sự tác động của quy phạm luật hiến pháp.

Vì đối tượng điều chỉnh của ngành luật hiến pháp là những quan hệ xã hội cơ

bản tạo thành cơ sở của chế độ xã hội và Nhà nước mà các mối quan hệ thuộc

phạm vi điều chỉnh của các ngành luật khác đều bắt nguồn từ cơ sở của chế độ

xã hội và nhà nước đó. Do vậy, ngành luật hiến pháp còn đóng vai trò trung

tâm liên kết các ngành luật khác. Chính từ vị trí trung tâm của ngành luật Hiến

pháp mà hệ thống pháp luật Việt Nam được xây dựng thành một hệ thống pháp

luật thống nhất và hoàn chỉnh.

Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan Hiến định có chức năng thực hành

quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Hiến pháp cần khẳng định vị trí của

Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước là cơ quan thuộc nhánh quyền

lực “Tư pháp”. Bởi đây là tính đặc thù của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,

vì Nhân dân.

Việc gộp chung VKSND và Toà án nhân dân vào một chương trong Hiến

pháp là chưa thể hiện rõ vai trò, vị trí và chức năng “bảo vệ pháp chế” của Viện

kiểm sát nhân dân. Bên cạnh đó, nội dung các quy định của Hiến pháp đối với

Viện kiểm sát còn thiếu quy định về cơ chế bảo đảm cho việc tuân thủ một cách

nghiêm minh, kịp thời các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân từ

phía các chủ thể khác khi tham gia quan hệ pháp luật mà Viện kiểm sát nhân dân

giữ vai trò đại diện Nhà nước thực hành quyền công tố.

Trong bức thư "Bàn về chế độ song trùng trực thuộc và pháp chế".

V.I.Lênin cho rằng, để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện thống nhất trong

phạm vi cả nước cộng hòa cần tổ chức ra một cơ quan đặc biệt để kiểm sát toàn

bộ chế độ tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước và

mọi công dân. Cơ quan đặc biệt đó là Viện kiểm sát. V.I.Lênin nhấn mạnh, sẽ là

125

sai lầm nếu việc tổ chức Viện kiểm sát cũng theo nguyên tắc "song trùng trực

thuộc" như các cơ quan nhà nước khác. Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo đảm cho

"bất cứ quyết định nào của bất cứ một cơ quan hành chính địa phương nào cũng

không đi ngược lại pháp luật". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đã có luật thì tất

cả mọi người cần phải thi hành tốt, thi hành thật đúng để xây dựng kỷ cương nhà

nước, thiết lập trật tự xã hội một cách nghiêm minh, từ đó mới có pháp chế.

Dùng pháp chế để xây dựng chế độ xã hội, có pháp chế tất nhiên sẽ có dân chủ,

có pháp chế thì uy quyền nhà nước với mạnh, ngược lại, không có pháp chế sức

mạnh nhà nước sẽ bị suy yếu. Đây là những tư tưởng, quan điểm cơ sở nền tảng

đầu tiên để hệ thống cơ quan VKSND ra đời ở nước ta.

Thiết chế tổ chức VKSND ra đời vào năm 1960, thay thế cho chế định

Viện công tố nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước trong giai đoạn lịch

sử cụ thể. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, để Viện kiểm sát nhân

dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố, thì VKSND luôn luôn cần

phải bảo đảm được tính độc lập, tập trung thống nhất trong ngành.

Nhìn rộng ra, chúng ta thấy một sự đa dạng trong các quy định về vị trí,

chức năng của VKSND hoặc các thiết chế tương tự ở các nước trên thế giới. Tuy

nhiên, qua nghiên cứu có thể thấy rằng, nếu chỉ xét trên bình diện “chỗ đứng” về

mặt tổ chức của các cơ quan như VKSND hoặc Cơ quan công tố ở nhiều nước và

nhiều khu vực khác nhau thì vẫn chưa rõ cơ quan này thuộc “nhánh” quyền lực

nhà nước nào trong cơ chế phân quyền: lập pháp, hành pháp hay tư pháp. Nhưng

một điều có thể dễ nhìn thấy là, dù sự hiện diện ở “nhánh” quyền lực nào thì

tính độc lập về chức năng của loại cơ quan đó luôn luôn được bảo đảm. Song

song với việc khẳng định tính chất độc lập của Viện kiểm sát hay Cơ quan công

tố với tính cách là một thiết chế nhà nước, Hiến pháp và pháp luật của nhiều

nước, kể cả những nước mà cơ quan đó nằm trong cơ cấu của ngành hành pháp

còn quy định về vị trí độc lập của các Kiểm sát viên, Công tố viên. Ví dụ như Bộ

luật Tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp quy định tại Điều 669 về vị trí hoàn

toàn độc lập của công tố; Cũng theo Bộ luật này, các chức danh như Thẩm phán

126

và thành viên Bồi thẩm đoàn có thể bị thay đổi, nhưng Công tố viên thì không bị

thay đổi bởi những lý do tương tự đối với các chức danh đó.

Bên cạnh đó, qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy vị trí của Cơ

quan kiểm sát hay Công tố còn có thể xác định bởi mức độ điều chỉnh pháp lý

của nó. Ở một số nước tổ chức và hoạt động của thiết chế này được quy định

trong Hiến pháp, một số nước quy định bởi các đạo luật.

Vì vậy, trên cơ sở chủ trương của Đảng là xây dựng một nền công tố

mạnh, bảo đảm cho VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ “bảo vệ pháp luật, bảo vệ

quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích

của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo

đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” [97], về lâu dài cần

tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung chế định VKSND trong Hiến pháp ở thời

điểm thích hợp.

- Hoàn thiện nội dung các quy định pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm

sát nhân dân trong thực hành quyền công tố

Trong nội dung này, mặc dù hiện nay trong thực tiễn pháp lý BLTTHS

năm 2003 vẫn đang được áp dụng, nhưng để bảo đảm tính thời sự, Luận án chỉ

đề cập đến những nội dung cần tiếp tục hoàn thiện trong BLTTHS 2015.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ

10 thông qua ngày 27/11/2015 (hiện chưa có hiệu lực) là một bước tiến dài trong

việc hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự, theo nhiệm vụ của Đảng ta đặt ra

trong Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. BLTTHS năm 2015, đã quy

định cụ thể hơn quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND

trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, theo

đánh giá của chúng tôi, BLTTHS 2015 vẫn còn tồn tại một số bất cập trong việc

tổ chức và thực hiện quyền công tố của VKSND nói chung, của Kiểm sát nói

riêng trên cơ sở các yêu cầu cải cách tư pháp đã đặt ra.

Một là, bất cập trong quản lý thông tin về tội phạm. Theo quy định của

Hiến pháp 2013, Điều 107 “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,

127

kiểm sát hoạt động tư pháp” của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

VKSND thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người

phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm

minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không

để lọt tội phạm và người phạm tội. Ngoài ra theo quy định của pháp luật,

VKSND còn có nhiệm vụ thống kê tội phạm. Như vậy, cần phải nhận thức thống

nhất là VKSND là cơ quan duy nhất có thẩm quyền phân loại, đánh giá vi phạm,

tội phạm. Vì vậy, để bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được

phát hiện và xử lý kịp thời thì Viện kiểm sát cần phải được cung cấp ngay (kịp

thời) và đầy đủ tất cả các nguồn tin về tội phạm. Sau khi Viện kiểm sát thụ lý, sẽ

chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết và Viện kiểm sát sẽ căn cứ trên

kết quả xác minh, xử lý của các cơ quan có thẩm quyền để phân loại vi phạm, tội

phạm. Nhưng với các quy định tại các Điều 145, 146, 147, BLTTHS 2015 Viện

kiểm sát chưa thể thực hiện được việc quản lý thông tin tội phạm một cách đầy

đủ và kịp thời. Điều 145 quy định: Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm CQĐT; VKSND; Cơ quan, tổ

chức khác. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tiến hành xác minh là CQĐT; các

Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. VKSND giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện

CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi

phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo

về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã

yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục. Trong thời hạn 3 ngày

Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho Viện

kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Bên cạnh đó, Điều 146 lại

quy định trường hợp: “Công an phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm

tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra,

128

xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ

vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”.

Với quy định này, công an phường, thị trấn sau khi tiếp nhận “tiến hành

kiểm tra; xác minh sơ bộ” rồi mới chuyển cho CQĐT có thẩm quyền. Trong thời

hạn 03 ngày CQĐT mới có trách nhiệm thông báo cho VKSND.

Vì vậy, để khắc phục vướng mắc này chúng tôi thấy cần phải sửa đổi các

điều 145,146,147 BLTTHS 2015 theo hướng: Tất cả các cơ quan, tổ chức, cá

nhân sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm đều phải thông báo ngay cho

VKSND gần nhất trong vòng 24 giờ. Và Bộ luật hình sự cũng cần xây dựng

một chế tài cần thiết để xử lý các hành vi vi phạm nội dung trên. Bởi việc xử lý

tội phạm không chỉ là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật mà còn phải đáp

ứng yêu cầu “nhanh chóng, kịp thời”, để hạn chế thấp nhất hậu quả có thể xảy

ra tiếp theo.

Hai là, cần tiếp tục tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố trên cơ sở chuyển hoá một số quyền năng pháp lý

chung của Viện kiểm sát và cụ thể hoá nội dung tại điểm p, khoản 1, Điều 42

BLTTHS 2015 “Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền

của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát theo quy

định của Bộ luật này”.

Điều 109, Hiến pháp 2013 quy định “Khi thực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo

của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”; Điều 74, Luật Tổ chức VKSND năm

2014 quy định “Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp

luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư

pháp”; khoản 2 Điều 42 BLTTHS 2015 quy định “Kiểm sát viên phải chịu trách

nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát, Phó Viện trưởng

Viện kiểm sát về hành vi, quyết định của mình”. Trên đây là những căn cứ pháp

lý quan trọng khẳng định chức năng, nhiệm vụ cũng như trách nhiệm của Kiểm

sát viên trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

129

Đối chiếu vào các quy định của BLTTHS năm 2015 cho thấy các quy định pháp

luật vẫn chưa bảo đảm được sự chủ động của Kiểm sát viên trong việc thực hiện

hai chức năng này. Vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi một số nội

dung cụ thể như sau:

Chuyển nội dung “Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan

có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện” từ khoản 2, Điều 159

sang khoản 1, điều 42; Bỏ cụm từ “Khi cần thiết”. Giải quyết tố giác, tin báo về

tội phạm, kiến nghị khởi tố là một giai đoạn tố tụng quan trọng bởi lẽ, nó quyết

định việc xác định, phân loại có hay không có sự việc tội phạm, người phạm tội.

Là tiền đề cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Theo BLTTHS thì VKSND

thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ khi giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, và chủ thể thực hiện việc tiếp giải

quyết và lập hồ sơ giải quyết là Kiểm sát viên. Mặt khác, “yêu cầu xác minh; yêu

cầu điều tra” là một văn bản tố tụng thể hiện sự gắn kết, chỉ đạo của Công tố đối

với hoạt động Điều tra, vì vậy không nên sử dụng cụm từ “khi cần thiết” để xác

định đây là hoạt động thực hành quyền công tố bắt buộc. Và việc đề ra yêu cầu

điều tra, yêu cầu xác minh của Kiểm sát viên là một hoạt động tố tụng mang tính

bắt buộc mà Kiểm sát viên phải thực hiện sau khi có quyết định phân công của

Viện trưởng. Và yêu cầu của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công

tố phải có tính pháp lý là “nghĩa vụ” buộc các chủ thể tiến hành tố tụng, các chủ

thể tham gia tố tụng, các chủ thể có liên quan khác cơ quan. Việc bổ sung các

quy định này là cần thiết bởi lẽ đây là bảo đảm pháp lý đối với vị trí pháp lý

Hiến định của Kiểm sát viên. Mặt khác, đây cũng là sự cụ thể hoá quan điểm cải

cách tư pháp của Đảng “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều

tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra” [36, tr.127].

Cần luật hoá các hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên

đang tồn tại dưới các hình thức tham mưu, đề xuất cho Viện trưởng trong quá

trình quyết định “đóng mở vụ án” và quyết định áp dụng các biện pháp “hạn chế

quyền con người, quyền công dân” thành những nhiệm vụ của Kiểm sát viên, cụ

thể như sau:

130

Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi

tố bị can.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung

quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê

chuẩn, hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết

định khởi tố bị can trái pháp luật.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị

can trong những trường hợp do BLTTHS quy định.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp

khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền

con người, quyền công dân.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ,

tạm giam, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con

người, quyền công dân theo quy định của luật.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề

xuất với Viện trưởng phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố

tụng khác của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng Khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện

hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm.

131

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam,

chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

Trong giai đoạn truy tố

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ,

tạm giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo

quy định của luật; yêu cầu CQĐT truy nã bị can.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan

đến vụ án trong trường hợp cần thiết.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án,

khởi tố bị can trong trường hợp phát hiện vụ án còn có hành vi phạm tội, người

phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra và trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra

bổ sung.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng quyết định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo

thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp

dụng các biện pháp ngăn chặn.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng quyết định truy tố, không truy tố bị can.

+ Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, lập báo cáo đề xuất

với Viện trưởng quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can; quyết định phục

hồi vụ án, bị can.

Ba là, cần xây dựng cơ chế bảo đảm các yêu cầu, quyết định của công tố

phải được thực hiện. Điều tra tội phạm là tiền đề của công tố, là sự chuẩn bị cho

132

hoạt động công tố. Quá trình thực hiện chức năng công tố, Viện kiểm sát được

giao trách nhiệm quyết định việc buộc tội, thực hiện việc truy cứu trách nhiệm

hình sự đến cùng với người phạm tội, trực tiếp thực hiện truy tố, buộc tội, luận

tội tại phiên tòa. Chất lượng điều tra quyết định chất lượng công tố, thiếu những

chứng cứ trong giai đoạn điều tra thì Kiểm sát viên sẽ rất khó có thể thành công

để thực hiện việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa. Do đó, hoạt động điều tra của

CQĐT phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu công tố. Khi các yêu cầu, quyết

định tố tụng của Viện kiểm sát/Kiểm sát viên không được CQĐT/Điều tra viên

thực hiện hoặc thực hiện không đạt yêu cầu, thực hiện không kịp thời thì pháp

luật phải có cơ chế để bảo đảm cho các yêu cầu, quyết định đó phải được thực

hiện, điều này là cơ sở để thực hiện mục tiêu của chức năng công tố - phát hiện

tội phạm và đưa kẻ phạm tội ra tòa. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự nước ta

lại chưa đáp ứng được yêu cầu này. Thực tiễn cho thấy, nhiều yêu cầu, quyết

định tố tụng của VKSND /Kiểm sát viên không được CQĐT/Điều tra viên thực

hiện một cách đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời, song BLTTHS, BLHS và các

luật có liên quan lại không có quy định để xử lý. Thực tế này ảnh hưởng đến

mục tiêu, hiệu quả của hoạt động công tố, gây khó khăn đối với VKSND/Kiểm

sát viên trong thực hiện chức năng công tố. Đây cũng là một trong những nguyên

nhân dẫn đến tình trạng trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung giữa các cơ quan tố

tụng, làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án, các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội

phạm và người phạm tội như chúng tôi đã đánh giá ở chương 3. Vì vậy, cần tiếp

tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và hình sự theo hướng xây dựng bổ sung

cơ chế bảo đảm các yêu cầu, quyết định của công tố phải được thực hiện theo

phương châm “nhanh chóng, kịp thời” có thời hạn cụ thể.

Thực tiễn trong những năm gần đây, nhiều vụ án oan, sai có nguyên nhân

từ việc kết quả khám nghiệm hiện trường, tử thi, phương tiện không bảo đảm để

Viện kiểm sát ra quyết định truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong

BLTTHS 2003 và 2015 đều quy định Kiểm sát viên chỉ thực hiện chức năng

kiểm sát trong quá trình Điều tra viên tiến hành khám nghiệm. Điều tra viên sẽ

133

tiến hành khám nghiệm trên cơ sở yêu cầu của Kiểm sát viên. Tuy nhiên từ

thực tiễn cho thấy rất nhiều trường hợp Điều tra viên không thực hiện, hoặc

thực hiện không đầy đủ, kịp thời các yêu cầu của Kiểm sát viên trong quá trình

khám nghiệm. Bên cạnh đấy, trong nhiều trường hợp tính khách quan của kết

quả khám nghiệm phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố: thời điểm khám nghiệm;

môi trường, hoàn cảnh khám nghiệm. Nhiều trường hợp kết quả khám nghiệm

không thể bảo đảm được tính khách quan khi thực hiện lần thứ hai. Nhiệm vụ

và mục đích cuối cùng của hoạt động điều tra là để kết luận có hay không sự

việc tội phạm và người phạm tội. Và kết luận này phải được Viện kiểm sát nhất

trí vì Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có chức thực hành quyền công tố, kiểm

sát các hoạt động tư pháp. Vì vậy, BLTTHS cần bổ sung nội dung này theo

hướng Kiểm sát viên tham gia hoạt động khám nghiệm với tư cách là người

chủ trì khám nghiệm và Điều tra viên là người trực tiếp thực hiện hoạt động

khám nghiệm.

Song song với việc hoàn thiện các quy định pháp luật nêu trên, cần phải

tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và Luật tổ

chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015 để bảo đảm được tính đồng bộ, thống

nhất của pháp luật.

4.2.2. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực toàn diện của Kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố

- Xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ Kiểm sát viên

Cán bộ và công tác cán bộ có vai trò rất quan trọng. Trong tác phẩm “Sửa

đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Cán bộ là cái gốc của mọi công

việc…cán bộ là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Người cán bộ cách

mạng phải hội đủ các tiêu chuẩn đức và tài, phẩm chất và năng lực, trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách, phương pháp công tác tốt”, trong đó phẩm

chất, đạo đức là yếu tố hàng đầu: "Muốn việc thành công hay thất bại đều do cán

bộ tốt hay kém". Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên trong sạch,

vững mạnh, nâng cao năng lực nghiệp vụ “vừa hồng vừa chuyên”.

134

Từ năm 2002 đến nay, cùng với việc từng bước hoàn thiện các cơ chế

pháp lý bảo đảm cho Kiểm sát viên thực hành quyền công thì các quy định pháp

luật về lĩnh vực công tác, cán bộ đối với chủ thể Kiểm sát viên cũng từng bước

được kiện toàn trên các mặt cụ thể như trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị và

phẩm chất đạo đức nghề nghiệp…, những quy định này cũng góp phần nâng cao

chất lượng công tác thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên. Thực tiễn thời

gian qua, đội ngũ cán bộ kiểm sát nói chung, Kiểm sát viên nói riêng đã từng

bước được củng cố, phát triển để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần

bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững

an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đóng góp tích cực vào công cuộc đổi

mới, phát triển đất nước. Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát ngày

càng nâng cao. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Biên chế cán bộ của

nghành đã được tăng về số lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ,

Kiểm sát viên đã nâng lên so với thời gian trước đây, (Năm 2011, toàn Ngành có

8.378 Kiểm sát viên (170 số Kiểm sát viên VKSND tối cao; 2.457 Kiểm sát viên

trung cấp; 5.751 Kiểm sát viên sơ cấp); Đến năm 2012 được Ủy ban Thường vụ

Quốc hội giao chỉ tiêu 10.424 Kiểm sát viên (170 Kiểm sát viên VKSND tối cao;

4.039 Kiểm sát viên trung cấp; 6.215 Kiểm sát viên sơ cấp). Năm 2013, tổng số

Kiểm sát viên ở VKSND tối cao có 290 người, trong đó có 170 Kiểm sát viên

VKSND tối cao, 58 Kiểm sát viên tối cao, 62 Kiểm sát viên sơ cấp; Kiểm sát

viên VKSND cấp tỉnh có 2.217 Kiểm sát viên trung cấp và 770 Kiểm sát viên sơ

cấp, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện có 4,935 Kiểm sát viên gồm 755 Kiểm

sát viên trung cấp và 4,180 Kiểm sát viên sơ cấp. Về trình độ cán bộ, trước tháng

10/2002, tỷ lệ Kiểm sát viên đạt trình độ cử nhân luật còn thấp (ở VKSND tối

cao đạt tỷ lệ 59%; ở Viện kiểm sát cấp tỉnh đạt tỷ lệ 54,4%; ở Viện kiểm sát cấp

huyện đạt tỷ lệ 38,3%; ở Viện kiểm sát Quân sự các cấp đạt tỷ lệ 86,7%. Số còn

lại khoảng 50% chỉ có trình độ cao đẳng kiểm sát hoặc trung cấp pháp lý). Đến

nay, 100% Kiểm sát viên đã có trình độ Cử nhân luật trở lên; toàn Ngành có 25

Tiến sĩ, 511 Thạc sĩ; có 2547 người có trình độ cử nhân hoặc trình độ cao cấp lý

135

luận chính trị; có 4.667 người có trình độ trung cấp lý luận chính trị). Biên chế

toàn ngành từ 13,269 người năm 2011 lên 14,547 người 2013 (tăng 1,278 người,

chiếm 11%), với cơ cấu Kiểm sát viên, cán bộ hợp lý. Hiện nay, tổng biên chế

toàn ngành kiểm sát là 14,220 người, trong đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao là

988; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện là 13,232 người. Tổng số

Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có 290 người. Trong đó, 170

Kiểm sát viên cao cấp; 58 Kiểm sát viên trung cấp; 62 Kiểm sát viên sơ cấp;

Điều tra viên có 66 người (17 Điều tra viên cao cấp); Kiểm tra viên có 282

người, còn tại là công chức và nhân viên khác. Biên chế cán bộ làm việc ở Viện

kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là 4.463 người (trong đó có 2.217 Kiểm sát viên

trung cấp; 770 Kiểm sát viên sơ cấp; 373 Kiểm tra viên các cấp, còn lại là công

chức, nhân viên khác); Biên chế làm việc tại các Viện kiểm sát nhân dân cấp

huyện là 8,869 người, trong đó có 4,935 Kiểm sát viên (755 Kiểm sát viên trung

cấp; 4,180 Kiểm sát viên sơ cấp; 808 Kiểm tra viên, còn lại 3,126 công chức,

nhân viên khác) [138].

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được

chú trọng. Hàng năm, Viện kiểm sát các cấp đã cử hàng trăm cán bộ tham gia

các lớp học chính trị sơ, trung, cao cấp hoặc tại chức, bảo đảm các chỉ thị, nghị

quyết của Đảng được quán triệt kịp thời trong toàn ngành. Tăng cường Kiểm sát

viên cho những bộ phận trực tiếp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố

và kiểm sát các hoạt động tư pháp; bổ sung kịp thời cán bộ lãnh đạo chủ chốt

cho các đơn vị kiểm sát các cấp. Hàng năm, ngành kiểm sát đều tổng rà soát,

phân loại, đánh giá đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên và luân chuyển cán bộ theo

chủ trương của Đảng.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác cán bộ của Viện kiểm sát

nhân dân vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại sau đây: công tác xây dựng cán bộ kiểm

sát cũng như cán bộ tư pháp nói chung chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong

giai đoạn mới. Tại Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa

XI về các văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ, trong thời gian qua.

136

Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ

thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử

dụng người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh

giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ

vẫn là khâu yếu… Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Chất lượng đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ

chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực,

sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn

bó, tận tụy của cán bộ đối với công việc [1].

Đánh giá về công tác tư pháp vào thời điểm năm 2002, Đảng ta đã chỉ rõ:

"Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi

của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi

phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân

đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp" [1] mà một trong những

nguyên nhân cơ bản, trực tiếp từ đội ngũ cán bộ tư pháp.

Trong điều kiện cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, một bộ phận cán bộ,

Kiểm sát viên chậm đổi mới, tiếp cận, học hỏi nâng cao năng lực, nhận thức toàn

diện để đáp ứng yêu cầu công việc, nhất là kiến thức về pháp luật kinh tế quốc

tế, về ngoại ngữ, tin học. Ngoại ngữ mới chỉ tập trung chủ yếu vào tiếng Anh

(trước đây là tiếng Nga), trong khi tiếng Trung Quốc, tiếng các nước trong khu

vực, tiếng dân tộc ít được quan tâm đào tạo.

Đội ngũ Kiểm sát viên các cấp cũng còn yếu về năng lực chuyên môn,

nghiệp vụ. Các Kiểm sát viên trong khối hình sự chưa có đủ những kiến thức cần

thiết về điều tra tội phạm, kỹ năng tranh luận, đối đáp tại phiên tòa còn yếu. Phần

lớn các Kiểm sát viên mới chỉ được trang bị thuần túy về kiến thức pháp lý, các

tri thức chuyên ngành khác cần thiết cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, ít

được quan tâm trang bị đúng mức (kiến thức về môi trường đối với các tội phạm

về môi trường, kiến thức tài chính, kế toán đối với các tội phạm kinh tế, tham

nhũng; tin học trong các tội phạm máy vi tính, bưu chính viễn thông, tội phạm

137

mạng internet; tội phạm chứng khoán; pháp luật quốc tế trong các vụ việc tương

trợ tư pháp).

Vì vậy, để đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp, bên cạnh việc hoàn thiện

pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, pháp luật

về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố nói riêng thì cần phải

tiếp tục có các giải pháp xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên trong sạch, vững mạnh,

giỏi nghiệp vụ. Một đội ngũ Kiểm sát viên trong sạch, vững mạnh, giỏi nghiệp

vụ sẽ bảo đảm tính hiệu quả, nâng cao hiệu lực của pháp luật về Kiểm sát viên

VKSND trong thực hành quyền công tố.

Các giải pháp cụ thể như sau:

Một là, nâng cao nhận thức về xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát, Kiểm

sát viên. Cán bộ kiểm sát, Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp là những người

được giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp. Do đó, cần quan tâm tuyển chọn, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng...

những người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu thực hiện

chức trách, nhiệm vụ được giao.

Hai là, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản về

công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Theo định hướng cải cách tư pháp, căn cứ

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân gồm 4 cấp phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. theo đó các quy định về

tiêu chuẩn, bổ nhiệm, tuyển chọn Kiểm sát viên được áp dụng căn cứ vào kết quả

thi tuyển, căn cứ vào các tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực thực

hiện nhiệm vụ mà không phụ thuộc vào cấp hành chính. Đồng thời với việc sửa

đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây

dựng mới các quy chế về công tác cán bộ như: Quy chế phân cấp, quản lý cán

bộ; Quy chế tuyển dụng cán bộ; Quy chế bổ nhiệm và bổ nhiệm lại Kiểm sát

viên các cấp; Quy chế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ... tạo cơ sở pháp lý thực hiện

tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát, Kiểm sát viên trong sạch, vững

mạnh, giỏi về nghiệp vụ.

138

Ba là, đổi mới công tác tuyển dụng cán bộ. Tuyển dụng cán bộ là bước

khởi đầu quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ. Có tuyển dụng được đội ngũ

cán bộ tốt, có trình độ mới xây dựng được đội ngũ cán bộ mạnh. Căn cứ Luật tổ

chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần tổ

chức hướng dẫn Viện kiểm sát nhân dân các địa phương tổ chức thi tuyển công

chức. Nghiên cứu việc tổ chức thi tuyển công chức ngành kiểm sát tập trung trên

địa bàn cả nước hoặc phạm vi từng khu vực (miền Bắc, miền Trung, miền Nam)

vào cùng một thời điểm (có thể 1 hoặc 2 lần trong một năm). Đối với các tỉnh ở

cấp huyện có đông người dân tộc ít người sinh sống thì cần có hướng dẫn cụ thể

về việc thay thi tuyển môn ngoại ngữ bằng việc kiểm tra trình độ tiếng dân tộc.

Đối với những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ chuyên

ngành luật ở nước ngoài cần nghiên cứu chế độ ưu tiên tuyển dụng đặc biệt để

thực hiện thống nhất.

Bốn là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Để có được đội ngũ

cán bộ kiểm sát thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ được giao thì công

tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải được quan tâm đặc biệt. Trước hết phải xây

dựng đội ngũ giảng viên có chất lượng cao, đổi mới chương trình, giáo trình, tài

liệu, phương pháp giảng dạy - học tập. Bổ sung các tài liệu tham khảo, hồ sơ tình

huống theo hướng tăng cường trang bị kỹ năng nghề nghiệp, sát với yêu cầu thực

tiễn. Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất và trang thiết bị giảng dạy - học tập

của nhà trường. Hoàn thiện và hiện đại hoá công nghệ thông tin, thư viện của

nhà trường.

Năm là, tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ.

Để quản lý tốt đội ngũ cán bộ cần tiến hành đổi mới việc phân công, phân cấp

quản lý cán bộ nhằm xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cấp quản lý,

theo hướng phân cấp mạnh hơn cho các Viện kiểm sát địa phương, bảo đảm

nguyên tắc và trách nhiệm của lãnh đạo Viện kiểm sát địa phương trong việc

quản lý đội ngũ cán bộ. Việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao

trình độ chính trị và nghiệp vụ, thực hiện đúng lương tâm và trách nhiệm của

139

người cán bộ kiểm sát là yêu cầu có tính thường xuyên, liên tục, mỗi cán bộ

kiểm sát phải tự rèn luyện nâng cao ý thức chính trị, đạo đức, lối sống, chấp

hành nghiêm kỷ luật của ngành. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động "Học tập và

làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", thực hiện tốt 5 đức tính mà Bác Hồ

đã dạy đối với người cán bộ Kiểm sát: "Công minh, Chính trực, Khách quan,

Thận trọng, Khiêm tốn", coi đây là nội dung quan trọng của việc xây dựng đội

ngũ cán bộ kiểm sát trong sạch, vững mạnh.

Tóm lại, để xây dựng được đội ngũ cán bộ kiểm sát nói chung, Kiểm sát

viên nói riêng thật sự trong sạch, vững mạnh, giỏi nghiệp vụ cần phải có sự đổi

mới toàn diện, sâu sắc trên tất cả các khâu công tác: Tuyển dụng, đánh giá, quy

hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm, quản lý, giáo

dục, rèn luyện cán bộ, thực hiện chính sách cán bộ... Đây là công việc khó khăn,

phức tạp đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực chung của các các cấp ủy Đảng, các ngành,

các cấp.

- Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà

Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên chủ yếu thực hiện tại phiên toà.

Để tranh tụng tốt, trước hết Kiểm sát viên phải thực hiện đầy đủ và có chất lượng

việc xét hỏi để làm rõ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, làm rõ cơ sở để bảo vệ

quan điểm truy tố. Do đó Kiểm sát viên phải thực hiện tốt nhiều hoạt động mang

tính chất chuẩn bị trước khi tham gia phiên toà. Là một bên tham gia tranh tụng,

Kiểm sát viên phải có kỹ năng nghiệp vụ tranh tụng, thể hiện tinh thần trách

nhiệm, lương tâm và danh dự nghề nghiệp. Phải bảo đảm thủ tục và cách thức

tranh tụng một cách nghiêm minh, dân chủ, công bằng, có văn hoá, tôn trọng

quyền của những người tham gia tố tụng. Như vậy sẽ tránh được các trường hợp

bị cáo bị truy tố, xét xử oan; hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp bị cáo bị

truy tố, xét xử sai. Tỷ lệ án sơ thẩm về hình sự bị Toà án cấp phúc thẩm huỷ

hoặc sửa càng thấp là một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng

tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

140

- Nâng cao văn hóa tư pháp trong tranh tụng của Kiểm sát viên

Thứ nhất, văn hóa tư pháp của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng là

hệ thống các giá trị mà trước hết là các giá trị pháp lý và đạo đức của Kiểm sát

viên trong quan hệ với những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố

tụng và với những người tham dự phiên tòa. Văn hóa ứng xử của Kiểm sát viên

còn là hệ thống các giá trị tạo nên tính cách, phẩm chất, bản lĩnh của Kiểm sát

viên khi thực hiện nhiệm vụ. Với cách hiểu này, văn hóa ứng xử của Kiểm sát

viên không phải các giá trị có sẵn lại càng không phải là hệ thống các giá trị

bất biến mà đòi hỏi phải luôn được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với sự thay đổi

của pháp luật cũng như phải đáp ứng các tiêu chuẩn đạo đức mới và phẩm chất

chính trị trong tình hình hiện nay. Hệ thống các giá trị này là kết quả của trình

độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và quá trình tự học hỏi tích lũy kinh nghiệm

trong thực tiễn.

Để xứng đáng với vai trò đại diện cho sự nghiêm minh của pháp luật,

Kiểm sát viên không chỉ là người nắm vững và chấp hành các quy định của pháp

luật, có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp, có kinh nghiệm nghiệp vụ mà còn phải

luôn hành xử một cách công bằng, dân chủ và văn minh. Kiểm sát viên phải đạt

các chuẩn mực về văn hóa ứng xử. Người Kiểm sát viên không được để các mối

quan hệ thân thuộc, hoặc lợi ích vật chất chi phối hoặc làm dao động, biết vượt

qua áp lực của dư luận, không lo sợ trả thù, chỉ trích. Theo quy định của Kiểm

sát viên phải có mặt đúng thời gian, phải mặc trang phục của ngành và ngồi

đúng vị trí quy định. Khi đọc cáo trạng, Kiểm sát viên phải có tư thế thoải mái,

đọc rõ ràng, mạch lạc, tạo tư thế chủ động tự tin. Đặc biệt, khi đọc bản luận tội

phải đảm bảo tính thuyết phục đối với Hội đồng xét xử, với mọi người tham gia

tố tụng.

Kiểm sát viên phải bình tĩnh xem xét, đối chiếu lời bào chữa, vận dụng

chứng cứ, vạch rõ lập luận sai trái của luật sư, người bào chữa và bác bỏ lời bào

chữa. Đồng thời, phải biết nhận những sai sót xảy ra trong kiểm sát điều tra, truy

tố và báo cáo lãnh đạo kịp thời khắc phục những sai sót, những vi phạm đó.

141

Ngôn ngữ Kiểm sát viên sử dụng phải trong sáng, tôn trọng mọi người

tham gia phiên tòa, tôn trọng Hội đồng xét xử. Đặc biệt, Kiểm sát viên phải có

ứng xử thích hợp để giải quyết một số tình huống đột xuất tại phiên tòa, như bị

cáo bị kích động, người tham dự phiên tòa có lời nói, hành động làm mất trật tự

trị an phiên tòa...

Để làm được những yêu cầu này, người Kiểm sát viên trước hết phải là

người hiểu biết pháp luật, là tấm gương về chấp hành những quy định của

pháp luật.

Thứ hai, phải đáp ứng được yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh

nghề nghiệp. Để đạt được trình độ văn hóa xét xử cao, Kiểm sát viên phải thực

hiện thành thạo kỹ năng nghiệp vụ về phân tích, đánh giá, nghiên cứu hồ sơ, có

dự kiến trước những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, thường xuyên rèn

luyện kỹ năng đọc, viết, kỹ năng cảm hóa, giáo dục, thuyết phục. Mặt khác, do

tính đặc thù nghề nghiệp, người Kiểm sát viên phải kết hợp nhuần nhuyễn kiến

thức pháp lý, kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ với sự hiểu biết tổng hợp các

môn khoa học xã hội, khoa học pháp lý, vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp,

kinh nghiệm đối nhân xử thế....

Thứ ba, xây dựng tác phong làm việc và sinh hoạt của Kiểm sát viên với

tinh thần trách nhiệm cao, tự giác, tận tụy với công việc, giải quyết công việc

khoa học, tiết kiệm thời gian, lối sống trong sáng, thái độ khiêm tốn, tôn trọng

mọi người...

Thứ tư, là phải đáp ứng yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề

nghiệp là phương thức điều chỉnh hành vi thể hiện qua lời nói, cử chỉ, hành

động, tư cách nghề nghiệp Kiểm sát viên là cơ sở nền tảng của văn hóa ứng xử

và gắn liền với mọi hoạt động thực hiện chức năng của Kiểm sát viên.

- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành kiểm sát

Trong giai đoạn hiện nay, công nghệ thông tin là yếu tố thiết yếu phục vụ

công tác quản lý, hoạt động nghiệp vụ của hệ thống cơ quan nhà nước trong đó

có Viện kiểm sát nhân dân. Trong những năm qua, ngành kiểm sát nhân dân đã

142

được tăng cường đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin; xây dựng được Trung

tâm tích hợp dữ liệu với mạng LAN (mới được xây dựng kết nối ở Viện kiểm sát

nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh) và một số phần mềm được

triển khai trên phạm vi toàn quốc (phần mềm thống kê tổng hợp; phần mềm

Quản lý án hình sự; phần mềm kế toán tài chính).

Tuy nhiên, theo đánh giá chung cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin trong

ngành Kiểm sát còn lạc hậu như, mạng LAN mới chỉ xây dựng ở Viện kiểm sát

nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (từ năm 2004, 2005 đến

nay) nên đã xuống cấp; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh chỉ có một máy chủ cấu

hình thấp với hệ thống mạng 24 nút đã hết hạn sử dụng chưa được thanh lý, thay

thế; một số Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và hầu hết Viện kiểm sát nhân dân

cấp huyện chưa có đường truyền tốc độ cao; việc bảo mật đường truyền, bảo mật

dữ liệu chưa được triển khai; nhiều phần mềm ứng dựng khác triển khai chậm.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công

nghệ thông tin trong ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn 2011-2015, định hướng

đến năm 2020 (Quyết định số 48/2009/QĐ-TTg ngày 31/3/2009 của Thủ tướng

Chính phủ “v/v phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt

động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2009-2010”; Quyết định số 1605/QĐ-TTg

ngày 27/8/2010 về “Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin

trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015”) với Tổng mức đầu

tư dự kiến 411 tỷ đồng, hiện nay đang được triển khai thực hiện.

Để bảo đảm cho ngành Kiểm sát thực hiện tốt chức năng thực hành quyền

công tố, cần phải tiếp tục “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin theo yêu

cầu cải tư pháp”. Cần phải xây dựng các giải pháp về phát triển công nghệ thông

tin, thư viện bao gồm: Đầu tư nâng cấp thư viện điện tử hiện có bảo đảm đáp

ứng tốt nhu cầu trao đổi và sử dụng thông tin cho đội ngũ cán bộ kiểm sát, Kiểm

sát viên; tăng cường đầu tư và đưa vào ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin

hiện đại để khai thác có hiệu quả thư viện điện tử; In ấn, xây dựng và phát triển

nguồn tài liệu điện tử. Xây dựng, nâng cấp trang thông tin điện tử của nghành

143

Kiểm sát thành một cơ sở dữ liệu luật, diễn đàn trao đổi nghiệp vụ kiểm sát đáng

tin cậy. Xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông, Internet hiện đại. Ứng dụng triệt để

công nghệ thông tin vào quản lý, giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và

sinh hoạt nghiệp vụ của các đơn vị kiểm sát từ Trung ương đến cấp huyện. Hợp

tác, liên kết và chia sẻ nguồn thông tin với các cơ quan thông tin, thư viện và các

cơ sở nghiên cứu, đào tạo, thực hành pháp luật trong nước và trên thế giới.

- Mở rộng hợp tác quốc tế về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm

sát, Kiểm sát viên và công tác tư pháp

Củng cố các mối quan hệ hợp tác đang có của VKSDN tối cao và của

Trường Đại học kiểm sát với Viện công tố/Viện kiểm sát trên thế giới, nhất là

với “Học Viện Kiểm sát viên quốc gia Trung Quốc” và “Viện nghiên cứu và tập

huấn thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao Lào”, đồng thời mở rộng quan hệ hợp

tác với các đối tác có tiềm năng khác nhằm thu hút nguồn lực tài chính của các

nhà tài trợ, tận dụng sự hỗ trợ kỹ thuật, kinh nghiệm và kiến thức của các chuyên

gia nước ngoài. Nghiên cứu việc liên danh, liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa

học với các cơ sở đào tạo nước ngoài, các tổ chức quốc tế. Triển khai kế hoạch

hợp tác đào tạo với các cơ sở đào tạo cán bộ kiểm sát của Trung Quốc, Cộng hòa

dân chủ nhân dân Lào và với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Triển

khai chương trình dạy và học ngoại ngữ tiếng Anh chuyên ngành cho cán bộ,

học viên đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tranh thủ các nguồn tài trợ để tổ

chức các hội nghị, hội thảo quốc tế về thực hành quyền công tố.

Cần nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức

và hoạt động của các cơ quan tư pháp, về đào tạo cán bộ tư pháp, về đấu tranh

phòng, chống tội phạm, về giải quyết các loại hình tranh chấp trên cơ sở bảo

đảm độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia. Phổ biến rộng rãi và tổ chức thực hiện

tốt các Công ước quốc tế, Hiệp định tương trợ tư pháp và các hiệp định hợp tác

phòng, chống tội phạm mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc ra nhập; tiếp tục nghiên

cứu việc ký hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là với các

nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống.

144

Hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc, Lào, Campuchia… trong đấu tranh

chống tội phạm, nhất là tội phạm về ma tuý, buôn lậu, vận chuyển và lưu hành

tiền giả, mua bán phụ nữ và trẻ em…

- Các biện pháp bảo đảm an toàn cho Kiểm sát viên

Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các lĩnh vực tư pháp có

ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự về danh dự,

nhân phẩm, tài sản, tự do và cả tính mạng. Điều này dẫn đến nhiều nguy cơ đối

với Kiểm sát viên với tư cách là trung tâm của hoạt động thực hành quyền công

tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đó là nguy cơ của sự thù hằn cá nhân, sự

đe dọa, trả thù... Hơn nữa, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của

mình tại phiên toà, các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật thường lợi dụng

kẽ hở của pháp luật, bằng mọi giá nhằm cản trở hoạt động của Kiểm sát viên, ép

buộc Kiểm sát viên thay đổi quyết định truy tố có lợi cho họ...

Trên thực tế, pháp luật hiện hành cũng có những quy định tương đối cơ

bản nhằm bảo vệ Kiểm sát viên như quy định về tội chống người thi hành công

vụ, các tội trong lĩnh vực xâm phạm các hoạt động tư pháp (được ghi nhận trong

Bộ luật Hình sự 1995). Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của thực tế, tính chất

của tội phạm ngày càng nghiêm trọng, đã xuất hiện những hành vi phạm tội với

số người phạm tội ngày càng tăng, mức độ phạm tội có tổ chức mang tính phổ

biến, đặc biệt là những án về ma tuý, buôn lậu, tham nhũng...

Trước tình hình đó, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn về tính

mạng, sức khoẻ cho Kiểm sát viên trở nên rất cấp thiết. Các biện pháp này cần

có tính dự phòng trước, bảo đảm cho Kiểm sát viên được an toàn, giúp họ yên

tâm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình, yên tâm công tác, đấu

tranh vì sự công bằng xã hội, vì công lý.

Để đáp ứng các yêu cầu trên, cần phải xây dựng cơ chế bảo đảm cho

Kiểm sát viên. Mục đích của các biện pháp này là bảo vệ tính mạng, sức khỏe và

tài sản của Kiểm sát viên, tránh những rủi ro do tính chất nghề nghiệp mang lại.

Cụ thể là:

145

- Áp dụng các biện pháp an ninh nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài

sản của Kiểm sát viên do cơ quan an ninh thực hiện.

- Áp dụng các biện pháp pháp lý, bằng cách tăng nặng trách nhiệm hình

sự với các hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của Kiểm sát viên.

- Quy định chế độ bảo hiểm, bồi dưỡng vật chất... trong trường hợp Kiểm

sát viên bị chết, bị thương tật hoặc có những tổn hại tới sức khỏe, tài sản của họ

cũng bị hư hỏng, huỷ hoại do thực hiện công vụ.

Trong xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế như hiện nay thì tội phạm là

người nước ngoài hoặc người nước ngoài là người bị hại, là nguyên đơn dân sự,

bị đơn dân sự.... có chiều hướng gia tăng, muốn thực hiện tốt chức năng thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, không chỉ Thẩm phán,

Hội thẩm mà cả Kiểm sát viên đều phải nỗ lực phấn đấu nâng cao nghiệp vụ

chuyên môn để đảm nhiệm tốt vai trò của người tiến hành hoạt động tố tụng, và

Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để Kiểm sát viên thực hiện tốt

nhiệm vụ được giao.

Tiểu kết chương 4

Trước những đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp, vị trí, vai trò của

Viện kiểm sát nói chung, Kiểm sát viên nói riêng đã và đang được khẳng định rõ

hơn trong lĩnh vực thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế

- xã hội, với cuộc cải cách tư pháp ngày càng đi vào chiều sâu, chức năng thực

hành quyền công tố của Viện kiểm sát cần phải được pháp luật quy định đầy đủ

và cụ thể hơn; vị trí, vai trò của Kiểm sát viên cũng cần được quy định theo

hướng mở rộng hơn quyền năng của họ khi nhân danh nhà nước thực hành quyền

công tố. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên theo hướng tăng

cường vai trò của họ không phải nhằm đề cao chức danh tư pháp này hơn những

chủ thể tố tụng khác, mà điều cốt lõi là để họ có đủ quyền năng pháp lý về tố

tụng hình sự để thực hiện có hiệu quả các quyền lực tư pháp được Nhân dân uỷ

146

quyền, vì mục tiêu bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong thực tiễn pháp

luật. Quá trình xây dựng pháp luật luôn chứa đựng trong nó nguyên tắc dự báo,

bảo đảm để pháp luật có khả năng điều chỉnh một cách hiệu quả các mối quan hệ

xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Tuy

nhiên, thực tiễn pháp lý sinh động cũng luôn đặt ra yêu cầu mang tính thời sự

của từng giai đoạn lịch sử đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật phải tiến hành

thường xuyên, thông qua việc rà soát, hệ thống hóa, sửa đổi, bổ sung kịp thời các

quy định cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn mà cụ thể ở đây là các nội dung

đã được nêu trong các văn bản về cải cách tư pháp.

Trong bối cảnh nguyên tắc tranh tụng đã được hiến định, dân chủ trong tố

tụng đã có bước đổi mới, các khả năng bảo vệ quyền con người, quyền công dân

trong hoạt động tư pháp được mở rộng hơn, thì việc tăng cường năng lực pháp lý

toàn diện cho Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố, một chủ

thể hiến định là đòi hỏi khách quan. Điều đó một mặt bảo đảm tính nghiêm minh

của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội nhưng đồng thời cũng

không truy tố oan người vô tội. Vì vậy, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về

Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố luôn gắn liền với việc

không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác kiểm sát, chế độ

đãi ngộ phù hợp cho Kiểm sát viên và bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết

khác cho hoạt động của cơ quan kiểm sát. Bên cạnh đó là các giải pháp hoàn

thiện về mặt thể chế bảo đảm cho địa vị pháp lý hiến định của chủ thể tiến hành

tố tụng đặc thù - Kiểm sát viên trong các mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan

tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các cá

nhân, tổ chức có liên quan khác trong quá trình thực hành quyền công tố.

147

KẾT LUẬN

1. Sự hình thành và phát triển của chế định Kiểm sát viên gắn liền với quá

trình xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của

VKSND nói riêng và mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung.

Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp và là hai

chức năng cơ bản của VKSND, có mối quan hệ gắn bó với nhau, bảo đảm cho

VKSND phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, không bỏ lọt tội phạm và người

phạm tội, không làm oan người vô tội. Đồng thời kiểm sát chặt chẽ việc tuân thủ

pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Với vai trò là chủ thể tố tụng hình sự được

Nhân dân uỷ quyền trực tiếp thực hiện chức năng của VKSND, Kiểm sát viên

theo quy định của Hiến pháp đảm nhận vai trò đại diện cho Nhà nước truy tố

người có hành vi phạm tội ra tòa án. Bảo đảm cho pháp luật được thực thi thống

nhất và nghiêm minh.Toàn bộ hoạt động thực hành quyền công tố cũng như

kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự được tiến

hành trên cơ sở pháp luật chặt chẽ và thống nhất. Tiêu chí cuối cùng và trên hết

trong đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên trong thực

hành quyền công tố đó là quyền con người, quyền công dân phải được công

nhận, tôn trọng, bảo vệ, thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật

ngay từ khi xây dựng pháp luật đến khi áp dụng, tổ chức, thực hiện pháp luật.

2. Hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về tổ chức và hoạt

động tư pháp nói riêng ra đời từ những năm đầu của chính quyền dân chủ nhân

dân, đã từng bước được hoàn thiện theo yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong mỗi

giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Các quy định pháp luật về Kiểm sát

viên VKSND trong thực hành quyền công tố cũng từng bước hình thành, phát

triển theo hướng này. Sự phát triển và hoàn thiện của pháp luật về Kiểm sát viên

trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước có những đóng góp rất quan trọng

cho việc hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện các hành vi tố tụng hình sự khi

thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát và ngược lại. Quá trình hoàn thiện

148

các quy định này đã từng bước khắc phục những hạn chế, tạo cơ sở pháp lý vững

chắc cho việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố. Vì vậy, để hoàn thành nhiệm vụ của cải cách tư pháp

trong thời gian tiếp theo thì việc hoàn thiện chế định Kiểm sát viên để góp phần

nâng cao hiệu quả hoạt động và xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên tinh thông

nghiệp vụ là một trong những công việc cấp bách, vừa mang tính thời sự, vừa

mang tính chiến lược.

3. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong

thực hành quyền công tố phụ thuộc nhiều vào mô hình tố tụng hình sự mà mỗi

quốc gia lựa chọn. Ở Việt Nam, mặc dù mô hình tổ chức của Viện kiểm sát, cách

thức tổ chức hệ thống tư pháp ở mỗi giai đoạn có khác nhau nhưng chức năng

thực hành quyền công tố là không thay đổi. Trong một thời gian dài, từ 1945 đến

trước khi ban hành BLTTHS năm 2015, mô hình tố tụng hình sự nước ta cơ bản

là mô hình xét hỏi (thẩm vấn), trong đó CQĐT có vai trò rất quyết định trong

điều tra, phát hiện tội phạm. Viện kiểm sát/Viện công tố là cơ quan tư pháp có

nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Khi BLTTHS

năm 2015 được thông qua và có hiệu lực, mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đã

thể hiện rõ là mô hình kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng. Vì vậy, nhiều quy

định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật về tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân không còn phù hợp. Các quy định về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố cũng không đứng ngoài khả năng này.

4. Pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và tổ chức, hoạt động của Viện

kiểm sát nhân dân đứng trước tình hình và yêu cầu mới đã bộc lộ một số bất

cập, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên. Vì

vậy, cần tiếp tục nghiên cứu các chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ

chức và hoạt động của các cơ quan kiểm sát, về địa vị pháp lý của Kiểm sát

viên trong hoạt động tư pháp và nhu cầu hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định mới một mặt phải góp phần nâng cao hiệu

quả thực hành quyền công tố, mặt khác bảo đảm cho hoạt động công tố tuân

149

thủ pháp chế XHCN và các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của

VKSND với tư cách là một thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước, được ghi

nhận trong Hiến pháp.

5. Việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố cũng như pháp luật về tổ chức, hoạt động tư pháp nói chung cần

quán triệt các quan điểm của Đảng về bảo đảm quyền con người, quyền công

dân. Tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, mang tính nền tảng cho tổ chức và hoạt

động tư pháp như nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành kiểm sát, nguyên

tắc bảo đảm tranh tụng trước Tòa án, nguyên tắc suy đoán vô tội; nguyên tắc

khách quan, toàn diện và đầy đủ trong điều tra, truy tố, xét xử; nguyên tắc bảo

đảm quyền con người, quyền công dân…Đồng thời tuân thủ quy trình xây dựng

và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm các tiêu chí như tính toàn

diện, đồng bộ, khả thi, minh bạch. Mỗi quy định cần được hoàn thiện trong sự

phù hợp với điều kiện cụ thể của kinh tế - xã hội của đất nước để tránh rơi vào

chủ quan, duy ý chí; đồng thời không bị lạc hậu dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo,

khó khả thi trong thực tế.

6. Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, trong thời gian tới,

ngành Kiểm sát nhân dân cần tăng cường hơn nữa chỉ đạo hoạt động thực hành

quyền công tố của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng hình sự, gắn công tố

với hoạt động điều tra; nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại

phiên tòa, hiệu quả hoạt động của CQĐT thuộc VKSND tối cao. Trong đó, việc

hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thực hành quyền công tố có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định sự thành công

của công cuộc cải cách tư pháp nói chung và nâng cao hiệu quả thực hành quyền

công tố của VKSND các cấp.

7. Trong giai đoạn tiếp theo, từ nay đến năm 2020-2025, mục tiêu đổi mới

tổ chức, hoạt động của VKSND là đổi mới cơ bản và toàn diện về tổ chức và

hoạt động. Do đó, cần phải đổi mới tổ chức VKSND theo hướng xây dựng

VKSND với chức năng, nhiệm vụ mạnh mẽ tương đồng với Viện công tố các

150

nước có vai trò chỉ đạo hoạt động điều tra, hoạt động công tố phải gắn kết với

hoạt động điều tra ngay từ đầu và cơ quan VKSND thực hiện quyền nhân danh

xã hội để bảo vệ lợi ích công trong các lĩnh vực dân sự, hành chính. Trước bối

cảnh đó, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thực hành

quyền công tố là yêu cầu mang tính thời sự cả về lý luận và thực tiễn nhằm góp

phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố để Viện kiểm sát thực sự đủ

mạnh, thực quyền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ có hiệu quả

lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của

công dân trên các phương diện.

8. Cùng với việc hoàn thiện pháp luật, cần tăng cường năng lực toàn diện

cho Kiểm sát viên, giúp họ có khả năng tốt nhất trong quá trình thực hành quyền

công tố nhân danh nhà nước. Việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy

hoạch, sử dụng đội ngũ cán bộ là Kiểm sát viên, việc nâng cao trình độ chính trị,

pháp lý, nghiệp vụ công tác kiểm sát, ngoại ngữ và sử dụng công nghệ thông tin

trong một nền tư pháp điện tử là những đòi hỏi cần thiết và cấp bách. Bên cạnh

đó cần có chính sách đãi ngộ phù hợp và thỏa đáng đối với đội ngũ Kiểm sát

viên trong điều kiện có thể để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ được pháp luật

giao là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Lê Tuấn Phong (2012), “Viện Kiểm sát Quân sự quân khu 5 đổi mới, nâng

cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,

kiểm sát xét xử án hình sự, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa”, Tạp chí Kiểm sát, (17), tr.23-27.

2. Lê Tuấn Phong (2013), “Đặc điểm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thực

hành quyền công tố của Viện Kiểm sát quân sự”, Tạp chí Kiểm sát,

(21), tr.13-15.

3. Lê Tuấn Phong (2016), "Pháp luật về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân

dân trong thực hành quyền công tố ở Việt Nam", tại trang

http:lyluanchinhtri.vn, [ngày 25/4/2016].

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2016), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa XI về các Văn kiện Đại hội XII của Đảng, Hà Nội.

2. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2004), Báo cáo sơ kết hai năm triển khai thực

hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Hà Nội.

3. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương (2012), Sổ tay công tác cải cách tư

pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

4. Ban Nội chính Trung ương (2015), Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn 30

năm đổi mới (1986-2016) về tư pháp - nội chính, phòng chống tham

nhũng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Dương Thanh Biểu (2007), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

6. Nguyễn Hòa Bình (2013), "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành

kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới", tại

trang www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 21/3/2016].

7. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

8. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW về Chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm

2020, Hà Nội.

9. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, Hà Nội.

10. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

11. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 22/6/2005 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

12. Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư pháp

- Nxb Từ điển bách khoa, tr.443.

153

13. Bộ Tư pháp (2013), Báo cáo góp ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm

1992, Hà Nội.

14. Bộ Tư pháp Việt Nam và UNDP, Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ

thống tư pháp của năm quốc gia - Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Nhật

Bản, Hàn Quốc và Nga, Hà Nội.

15. Lê Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà

nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

16. Lê Văn Cảm (Chủ nhiệm) (2009), Nâng cao hiệu quả của hệ thống tư pháp

hình sự phục vụ Chiến lược cải cách tư pháp, Đề tài khoa học đặc biệt

cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số QG.07.37, Hà Nội.

17. Lê Lan Chi (2006), "Một số ý kiến về hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong việc xét xử các vụ án hình sự nhìn từ yêu cầu chuyển đổi Viện

kiểm sát thành Viện công tố", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3).

18. Lý Văn Chính (2004), Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc

vận dụng trong điều kiện Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội.

19. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), "Sắc lệnh

số 47 ngày 10/10/1945" tại trang https://thuvienphapluat.vn, [truy cập

ngày 12/04/2017].

20. Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên

cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp nước Cộng hòa nhân

dân Trung Hoa, Vivienne Bath, Đại học Tổng hợp Sydney, Sarah

Biddulph, Đại học Tổng hợp Melbourne.

21. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên

cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Liên bang Nga,

William E Buttler, Trường Đại học tổng hợp quốc gia Pennsylvania.

22. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên

cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Nhật Bản, Luke

Nottage, Đại học Tổng hợp Sydney, Kent Anderson, Đại học Quốc gia

Úc, Makoto Ibusuki, Đại học Tổng hợp Seijo, David Johnson, Đại học

tổng hợp Hawai'i.

154

23. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên

cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Hàn Quốc, Byung-

Sun Cho, Trường Cao đẳng luật, Đại học Tổng hợp Chongju, Hàn

Quốc, Tom Ginsburg, Trường Luật, Đại học tổng hợp Chicago.

24. Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam (2010), Báo cáo nghiên

cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Indonesia, Simon

Butt, Đại học Sydney.

25. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

26. Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố tụng

hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - một số vấn

đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Hà Nội.

27. Cao Việt Cường (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành

quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát

nhân dân (Trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội),

Luận văn Thạc sỹ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

28. Đào Thịnh Cường (2009), Năng lực áp dụng pháp luật trong thực hành

quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà

Nội, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

29. Nguyễn Công Cường (2016), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự, Luận văn Thạc sĩ Luật Trường Đại học Luật Hà Nội,

Hà Nội.

30. David W. Neubauer; Stephen S. Meinhold (2012), Judicial Process: Law,

Courts, and Politics in the United States (Thủ tục tư pháp: Pháp luật,

các Tòa án, và Chính trị ở Hoa Kỳ), Nxb Wadsworth Publishing.

31. Nguyễn Đăng Dung (2004), Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của

các cơ quan nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

32. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) và các cộng sự (2014), Viện kiểm sát trong

Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

155

33. Bùi Chí Dũng (2008), Năng lực tranh tụng của Kiểm sát viên thực hành

quyền công tố tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang, Luận văn

Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

34. Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thư tư Ban Chấp

hành trung ương khoá IX, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

38. Phạm Thị Đào (2011), Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư

pháp hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật, Hà Nội.

39. Trần Văn Độ (1999), "Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát", Kỷ

yếu đề tài cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn

hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Hà Nội.

40. Trần Mạnh Đông (2009), Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình

tiến hành tố tụng hình sự một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư

pháp ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

41. Trần Ngọc Đường (2011), Quyền con người, quyền công dân trong nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

42. Trần Ngọc Đường (2013), “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân thể

hiện xuyên suốt, nhất quán trong toàn bộ nội dung của Hiến pháp sửa

đổi", tại trang http://www.nhandan.com.vn, [truy cập ngày 20/2/2017].

43. Nguyễn Duy Giảng (2013), “Những vướng mắc, bất cập trong quy định của

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Viện kiểm sát, người tiến hành

tố tụng thuộc Viện kiểm sát và một số kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí

Kiểm sát, (6).

156

44. Nguyễn Duy Giảng (2015), Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng

hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

45. Giu-ba E.P (2008), Các xu hướng đương đại phát triển nguyên tắc độc lập

của Thẩm phán, Học viện Nhà nước và pháp luật Xa-ra-tốp.

46. Lương Thúy Hà (2013), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của

Viện kiểm sát Nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta,

Luận văn Thạc sỹ Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

47. Nguyễn Xuân Hà và các cộng sự (2007), "Giới thiệu về Viện kiểm sát nhân

dân và Viện công tố của một số nước trên thế giới", Tạp chí Kiểm sát,

(14), tr.3- 27, 36

48. Phạm Hồng Hải (2002), "Quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư

pháp", Kiểm sát, (8), tr.19.

49. Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

50. Phạm Hồng Hải (2006), “Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ

thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp

ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (3).

51. Hà Thị Hằng (2013), Mô hình tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo khu vực

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật,

Hà Nội.

52. Vũ Đức Hạnh (2012), Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật, Đại

học Quốc gia, Hà Nội, Hà Nội.

53. Hoàng Thị Hoa (2009), Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

trong tiến trình cải cách tư pháp,Luận văn Thạc sỹ, Hà Nội.

54. Lê Thị Tuyết Hoa (2005), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật

học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.

55. Trần Quỳnh Hoa (2014), Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát

viên trong hoạt động tố tụng đối với người chưa thành niên, Luận văn

Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

157

56. Học viện Cán bộ kiểm sát Quốc gia Trung Quốc (2002), Giáo trình công tác

kiểm sát, Trường Cao đẳng kiểm sát, Hà Nội biên dịch và hiệu đính,

Nxb Pháp luật Bắc Kinh, Trung Quốc.

57. Học viện Cán bộ kiểm sát Quốc gia Trung Quốc (2002), Giáo trình chế độ

công tố, tập I, Trường Cao đẳng kiểm sát, Hà Nội biên dịch và hiệu

đính, Nxb Pháp luật, Bắc Kinh, Trung Quốc.

58. Học viện Cán bộ kiểm sát Quốc gia Trung Quốc (2002), Giáo trình chế độ

công tố, tập II, Trường Cao đẳng kiểm sát, Hà Nội biên dịch và hiệu

đính, Nxb Pháp luật, Bắc Kinh, Trung Quốc.

59. Hội đồng lý luận Trung ương (2015), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung quốc, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

60. Ngũ Quang Hồng (2011), Nghiên cứu so sánh về điều tra trong luật tố tụng

hình sự của Trung Quốc và Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

61. Văn Thị Bích Huệ (2009), Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành quyền

công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư

pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn, Luận văn

thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

62. Phạm Mạnh Hùng (2009), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều

tra thuộc Viện kiểm sát và việc thực hiện thẩm quyền điều tra của Viện

kiểm sát nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp

bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

63. Phạm Mạnh Hùng (2013), “Về nguyên tắc bảo đảm sự kiểm soát giữa các cơ

quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước của nước ta”, Tạp chí

Kiểm sát, (06).

64. T. Hương (2010), "Trung Quốc: Quy định mới giữa Viện kiểm sát và Bộ

Công an", Báo Bảo vệ pháp luật, (81), tr.15.

65. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của

Viện kiểm sát Nhân dân, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

158

66. Nguyễn Ngọc Khánh (Chủ biên) (2008), Tăng cường trách nhiệm của công

tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa

học cấp bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

67. Kha-zi-nô-va V.M (2016), "Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự”, Thư viện

khoa học điện tử Lênin, tại trang http://cyberleninka.ru/ [truy cập ngày

20/8/2016].

68. Phạm Thị Bích Liên (2012), Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân Thành phố Việt Trì trong xét xử sơ thẩm các vụ án

hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

69. Nguyễn Thùy Linh (2012), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát

xét xử vụ án hình sự của Viện kiếm sát nhân dân, Luận văn Thạc sỹ luật,

Hà Nội.

70. Lê Xuân Lộc (2012), Năng lực thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh phú thọ trong xét xử các vụ án

hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

71. Phạm Văn Lợi (Chủ biên) (2005), Bình luận Khoa học Bộ luật tố tụng hình

sự năm 2003, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

72. Mai Văn Lư (2009), "Cần tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt

động điều tra và tăng thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trong

tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Kiểm sát, (5), tr.13.

73. Uông Chu Lưu (Chủ nhiệm) (2005), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn

thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực

xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân, vì dân, Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX04.06,

Hà Nội.

74. Mai Văn Minh (2016), "Quy định mới của pháp luật về thẩm quyền điều tra

của cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung ương", Tạp chí Kiểm

sát, (9), tr.25-28.

159

75. Vũ Mộc (2009), ‘‘Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, tăng

cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực

hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra”, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, (10).

76. Vũ Mộc (Chủ biên) (2010), Công tác điều tra của Viện kiểm sát nhân dân -

Thực trạng và phương hướng đổi mới, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

77. Mai Thị Nam (2008), Chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm

hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá,

Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

78. Nguyễn Trọng Nghĩa (2010), Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát

Nhân dân đối với các vụ án hình sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

79. Lưu Trọng Nguyên, Trần Mai Lâm (2013), “Phân định thẩm quyền hành

chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện

trưởng, Kiểm sát viên và việc tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng cho

Kiểm sát viên”, Tạp chí Kiểm sát, (01).

80. Vũ Đức Ninh (2013), Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố,

Luận văn Thạc sỹ Luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

81. Nguyễn Hải Phong (2010), Bảo đảm tăng cường trách nhiệm của công tố

trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động

điều tra - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp Nhà

nước - nhánh nghiên cứu IX, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

Hà Nội.

82. Nguyễn Hải Phong (Chủ biên) và các cộng sự (2014), Một số vấn đề về trách

nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều

tra theo yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội.

160

83. Nguyễn Thái Phúc (1999), "Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm

sát", Kỷ yếu đề tài cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và

thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Hà Nội.

84. Lê Tuấn Phương (2009), Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở

giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh Thái Nguyên,

Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội.

85. Phạm Thị Phương (2013), Năng lực thực hành quyền công tố trong xét xử sơ

thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp

huyện, tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

86. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1960), Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

87. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1960), Tờ trình về Luật

tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

88. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), "Pháp lệnh Kiểm

sát viên Viện kiểm sát nhân dân", tại trang http://thuvienphapluat.vn,

[truy cập ngày 20/5/2016].

89. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Nghị quyết số

51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều

của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992,

Hà Nội.

90. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân; Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân từ năm 1945 đến nay, Hà Nội.

91. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân; Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân, Hà Nội..

92. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố tụng

hình sự, Hà Nội.

161

93. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Hiến pháp

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, Nxb Lao động -

Xã hội, Hà Nội.

94. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Hiến pháp

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959, Nxb Lao động -

Xã hội, Hà Nội.

95. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Hiến pháp

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Nxb Lao động -

Xã hội, Hà Nội.

96. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Hiến pháp

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung

2001), Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

97. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm

2013, Hà Nội.

98. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

99. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên) (2010), Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Richard S. Shiner, Về mô hình tổ chức Viện kiểm sát trong bối cảnh cải cách

tư pháp ở Việt Nam.

101. Đỗ Tiến Sâm (Chủ biên) (2003), Cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

102. Nguyễn Tiến Sơn (2012), Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm

sát trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

103. Trịnh Duy Tâm (2005), Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở

giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay,

Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

162

104. Lại Văn Thái (2013), Chức năng Công tố của Viện kiểm sát, Luận văn Thạc

sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

105. Trần Hậu Thành (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

106. Lê Hữu Thể (1997), “Về vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong cải cách bộ

máy Nhà nước ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (8).

107. Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

108. Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới

thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài đề tài

cấp nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội,

109. Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm) (2011), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới

thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài mã số

ĐTĐL.2009G/13, Hà Nội.

110. Thông tin khoa học kiểm sát (2010), "Mô hình tố tụng hình sự Việt nam qua

các thời kỳ", Viện Khoa học kiểm sát, (5+6).

111. Thông tấn xã Việt Nam (dịch) (2014), Hội nghị Trung ương 4 khóa XVIII

Đảng Cộng sản Trung Quốc - Y pháp trị quốc và vai trò lãnh đạo của

Đảng, Hà Nội.

112. Vũ Công Thuận (2009), Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên thực

hành quyền công tố ở ngành kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ nhằm đáp

ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

113. Nguyễn Thị Thủy (2014), Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp

dụng tố tụng tranh tụng, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

114. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình Công tác kiểm sát

tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

163

115. Hoàng Tùng (2008), Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử

sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên trên địa bàn tỉnh Bắc

Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

116. Nguyễn Thế Tùng (2011), Hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm

sát quân sự tại phiên tòa hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở

Việt Nam hiện nay, Luận án thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

117. Vương Hồng Tường (2010), Đẩy nhanh xây dựng chế độ tư pháp xã hội chủ

nghĩa công bằng, hiệu quả, uy tín, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao

Trung Quốc.

118. Đào Trí Úc (2013), “Nguyên tắc tập trung thống nhất trong nghành kiểm sát

nhân dân trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay”, Tạp chí Kiểm sát, (01).

119. Đào Trí Úc, Vũ Công Giao (Đồng chủ biên) (2014), Cải cách tư pháp vì một

nền tư pháp liêm chính, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

120. UNDP và Bộ Tư pháp Việt Nam (2009), Đổi mới cơ cấu tổ chức cơ quan

kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp tại Việt Nam (kinh nghiệm

quốc tế và thực tiễn trong nước), Nxb Tư pháp, Hà Nội.

121. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (2012), Tài liệu hội thảo về Mô hình tố tụng

hình sự, Thừa Thiên Huế.

122. Văn phòng Báo chí Quốc vụ viện Trung quốc (2005), Xây dựng chính trị

dân chủ của Trung Quốc, Thông tấn xã Việt Nam dịch, Hà Nội.

123. Văn phòng Quốc vụ viện Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (2005), Sách trắng:

Xây dựng chính trị dân chủ của Trung quốc, Thông tấn xã Việt Nam

(dịch), Nxb Thông tấn xã Việt Nam, Hà Nội.

124. Nguyễn Tất Viễn (2009), Suy nghĩ về cơ quan công tố ở Việt Nam trong cải

cách tư pháp, Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

125. Nguyễn Tất Viễn (2014), "Đổi mới mô hình tổ chức bộ máy và hoạt động

của hệ thống tư pháp ở Việt Nam hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo lý luận lần

thứ 10 giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung quốc,

Hội đồng lý luận Trung ương, Đà Lạt.

164

126. Nguyễn Tất Viễn (2016), Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật

hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

127. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Sổ tay Kiểm sát viên hình sự Trung

Quốc, tập II, Hà Nội

128. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), “Những vấn đề lý luận về quyền công

tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”,

Thông tin khoa học pháp lý, (1), tr.10.

129. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), "Luật tố tụng hình sự Cộng hòa liên

bang Đức", Thông tin Khoa học Kiểm sát, (5+6), tr.138

130. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), "Số chuyên đề về Luật tố tụng hình

sự Cộng hòa liên bang Đức", Thông tin Khoa học Kiểm sát, (5+6),

tr.138.

131. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Chuyên đề Nâng cao chất lượng thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Hội nghị tập

huấn công tác kiểm sát, Hà Nội.

132. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC

ngày 02/01/2008 ban hành Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự,

Hà Nội.

133. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), “Viện kiểm sát/công tố một số nước

trên thế giới”, Thông tin Khoa học kiểm sát, (1, 2).

134. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Chuyên đề sơ kết công tác kiểm sát

việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm

và kiến nghị khởi tố, Hà Nội.

135. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi

mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đề tài cấp

Nhà nước, Hà Nội.

136. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Đề án và Phụ lục Đề án mô hình tố

tụng hình sự Việt Nam, Hà Nội.

137. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011), "Mô hình tố tụng hình sự một số nước

trên thế giới", Thông tin Khoa học kiểm sát (1, 2).

165

138. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết việc thi hành Hiến

pháp năm 1992 trong ngành Kiểm sát nhân dân số 09/BC-VKSTC ngày

20/01/2012, Hà Nội.

139. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Báo cáo tổng kết công tác của ngành

Kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

140. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2013), “Nghiên cứu luật tổ chức cơ quan

công tố/Viện kiểm sát một số nước trên thế giới”, Thông tin Khoa học

kiểm sát (3, 4).

141. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Báo cáo số 02/BC-VKSTC ngày

09/01/2014 về Tổng kết thực tiễn thi hành Luật tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

năm 2002 (sửa đổi năm 2011), Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự

năm 2002, Hà Nội.

142. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Báo cáo số 11/BC-VKSTC ngày

19/01/2015 về Tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình

sự, Hà Nội.

143. Viện kiểm sát Liên bang Đức (1993), Luật tổ chức, Liên bang Đức.

144. Viện kiểm sát Liên bang Nga (1993), Luật tổ chức, Liên bang Nga.

145. Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1995), Luật tổ

chức, Trung Hoa.

146. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2015), Tổng kết một số vấn đề lý luận và

thực tiễn về công tác của Viện Kiểm sát nhân dân qua 55 năm tổ chức

và hoạt động, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

147. Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam (2015), Từ điển Bách khoa

toàn thư, Nxb Từ điển bách khoa Hà Nội, tr.563.

148. Lại Hợp Việt (2014), "Bàn về mô hình Viện kiểm sát và chế định Kiểm sát

viên trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi)", Tạp chí

Kiểm sát, (10), tr.18-21.

149. Lại Hợp Việt (2014), "Bàn về ngạch Kiểm sát viên và điều kiện tiêu chuẩn

bổ nhiệm Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát các cấp trong Luật Tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân", Tạp chí Kiểm sát, (11), tr.16-19.

166

150. Lại Hợp Việt (2014), “Tăng thẩm quyền và mở rộng đối tượng điều tra cho

cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát, (22),

tr.8-11.

151. Nguyễn Hồng Vinh (2013), “Hoàn thiện pháp luật hiện hành để “tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động

điều tra” đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (01).

152. Hoàng Hải Yến (2013), Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát

viên trong tố tụng hình sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học

Luật Hà Nội, Hà Nội.

* Tài liệu tiếng Nga

153. И.М Чепурнова. (1994), Конституционные основы правосудия в

Российской Федерации: автореферат Kанд. юрид. наук. Ростов-на-

Дону.

154. Проф. С.А.Пашин; Проф.доктор юр. наук Т.Г. Морщакова; Проф.

доктор юридических наук В.И. (2011) Миронов, Концепция

судебной реформы в России (тезисы), OMCK

155. Прокурор в уголовном судопроизводстве, http://cyberleninka.ru/

article/n/prokuror-v-ugolovnom-protsesse#ixzz4e7sMFT00, date]

156. Дмитрий Антонович, Безвершенко Государство и право Опубликовано

в Молодой учёный №1 (48) январь 2013.

157. Алексеева Судоргина Ирина; Судебная власть в правовом государстве;

автореферата по ВАК 12.00.01, доктор юридических наук, Москва,

1992 год.