Upload
nguyen-le
View
478
Download
4
Embed Size (px)
DESCRIPTION
sfsfds
Citation preview
PHẦN 2. NỘI DUNG TIỂU LUẬN
2. HỆ VI SINH VẬT TRONG SỮA
Hệ VSV và số lượng của chúng trong sữa luôn thay đổi và phụ thuộc vào
mức độ nhiễm VSV trong quá trình vắt sữa. Các VSV có thể được chia thành hai
nhóm chính: Procaryote và Eucaryote. Dưới đây là những VSV thường thấy
trong sữa bò tươi.
2.1. Procaryote
Nhóm VSV Procaryote có nhân chưa hoàn chỉnh. Vùng nhân chỉ là mạch
AND xoắn kép nằm trong tế bào chất, lưu giữ các thông tin di truyền cho tế bào.
Đại diện quan trọng cho nhóm Procaryote là vi khuẩn (Bacteria)
Số lượng vi khuẩn trong sữa bò tươi sau khi vắt có thể dao động từ vài
nghìn tới vài triệu vi khuẩn lạc (Colony forming units CFU) trong 1 ml sữa. Sữa
được đánh giá là có chất lượng vệ sinh khá tốt khi tổng số vi khuẩn trong 1ml
sữa không lớn hơn 100.000 khuẩn lạc
Các hình thức sinh sản của vi khuẩn:
Sinh sản theo phương pháp vô tính (asexual reproduction) phổ biến nhất là
phương pháp nhân đô. Theo phương pháp này, trong 1 tế bào vi khuẩn, vùng
nhân với các vật chất di truyền AND sẽ được nhân đôi. Tiếp theo là sự sinh tổng
hợp thêm các cơ quan con trong tế bào. Sau cùng tế bào vi khuẩn sẽ được chia
thành hai tế bào mới với thành phần vật chất di truyền như nhau. Thời gian cho
quá trình nhân đôi của 1 tế bào vi khẩn thường kéo dài 20- 30 phút và được gọi
là thời gian thế hệ (generation time).
Giả sử tại thời điểm ban đầu, số tế bào vi khuẩn trong sữa chỉ là 1 tế bào/
ml, với thời gian thế hệ là 30 phút, sau 10 giờ bảo quản ở nhiệt độ tối ưu cho sự
sinh trưởng của VSV, số tế bào vi khuẩn trong sữa sẽ tăng đến giá trị hơn 1 triệu
tế bào/ml, tuy nhiên sự gia tăng số lượng tế bào vi khuẩn sẽ bị giới hạn bởi lượng
các chất dinh dưỡng có trong sữa, ngoài ra, chính sự tích lũy 1 số sản phẩm trao
đổi chất do VSV tiết vào sữa có thể ức chế sự trao đổi chất và sự sinh trưởng của
chất. Trong thực tế, ta sử dụng nhiệt độ thấp để kìm hãm sự sinh sản của vi
khuẩn nói riêng và hệ VSV nói chung trong quá trình bảo quản sữa.
Các vi khuẩn thường gặp trong sữa: vi khuẩn Lactic, Coliform, vi khuẩn
sinh acid propyonic và các vi khuẩn gây thối.
1.1. Vi khuẩn lactic.
Vi khuẩn lactic có dạng hình cầu hoặc hình gậy đứng riêng lẻ hoặc tạo
chuỗi, Gram (+) không có bào tử, không di động, nhiệt độ sinh trưởng tối ưu 25-
47 oC. Hô hấp yếm khí tùy tiện hoặc hiếu khí, không sinh calataza, không phân
huỷ, không khử nitrat, không phân giải protêin trong sữa, lên men đường tạo
thành axit lactic và các sản phẩm khác. Để tồn tại trong sữa, vi khuẩn lactic tổng
hợp năng lượng ATP từ cơ chất lactose. Acid lactic là 1 trong những sản phẩm
từ quá trình tổng hợp năng lượng trên. Dựa vào nhóm sản phẩm được tổng hợp
từ quá trình chuyển đổi năng lượng, người ta chia vi khuẩn lactic thành hai
nhóm:
Vi khuẩn lactic đồng hình: acid lactic là sản phẩm chính với hàm
lượng của nó có tỉ lệ vượt trội hơn nhiều so với các sản phẩm phụ khác.
Lactobacillus caesi: Đây là những trực khuẩn rất ngắn (1.15µm×
0.5µm×1.0µm) gây lên men chua sữa tự nhiên. Hô hấp yếm khí tùy tiện. Lên
men tốt glucoza, maltoza, lactoza tạo trong môi trường 0,8- 1% acis lactic. Ở
điều kiện bình thường gây chua sữa trong 10- 12 giờ. Nguồn Nito cho vi khuẩn
này cần cung cấp là pepton. Nhiệt độ tối thiểu cho chúng phát triển là 10 oC, tối
ưu là 35oC và cao nhất là 45oC. Chúng thủy phân casein và gelatin rất yếu.
Vi khuẩn lactic dị hình: các sản phẩm được tạo thành từ quá trình
chuyển hóa đường gồm: acid lactic, acid acetic, etanol và khí CO2… hàm lượng
acid lactic không cao hơn nhiều so với các sản phẩm còn lại.
Vi khuẩn Leuconostoc: có hình cầu, trong môi trường acid chúng trở nên
dài và nhọn ra, lên men đường tạo chất thơm như acety, acetoin. Điển hình là
Leuconostoc citrovoum dùng để chế men trong sản xuất bơ. Leuconstoc
dextracicum kháng nhiệt sản sinh dextran keo từ một số đường.
Trong một số sản phẩm từ sữa như phô mai, bơ, yoghurt người ta sử dụng
vi khuẩn lactic để thực hiện một số chuyển hoá cần thiết . Giống vi khuẩn lactic
trong sản suất công nghiệp là những canh trường VSV thuần khiết được nhân lên
qua nhiều các từ 1 tế bào ban đầu đã qua tuyển chọn. Còn các vi khuẩn lactic có
mặt trong sữa tươi sau khi vắt được xem là VSV tạp nhiễm. Chúng sẽ tạo ra
những chuyển hoá ngoài ý muốn của nhà sản xuất trong quá trình bảo quản sữa
trước khi chế biến.( Giảm pH, đông tụ casein, xuất hiện các hợp chất mới trong
sữa: etanol, acid acetic,…làm thay đổi thành phần và giá trị cảm quan của sữa.)
Các vi khuẩn lactic nhiễm vào sữa thuộc nhiều nhóm khác nhau như:
Streptococus, lactoccus, lactobacillus, leuconostoc, Bifidobacterium…chúng
gồm các nhóm vi khuẩn lên men đồng hình lẫn dị hình. Khi thanh trùng ở 80oC,
hầu hết các vi khuẩn lactic nhiễm trong sữa bị tiêu diệt.
Các trực khuẩn lactic: là tác nhân của quá trình chế biến sữa chua,
phomat, ủ lên men thức ăn gia súc. Bao gồm Lactobacterium bulgarium tích tụ
đến 3,2% acid lactic, 40- 45oC, gây đông tụ sữa sau 12h. Lactobacterium lactic
phát triển ở nhiệt độ 22- 50oC, ngoài ra còn có hai trực khuẩn xếp chuỗi là
Lactobacterium casei có thể phát triển ở nồng độ muối cao 5,5% và
Lactobacterium plantaraum. Cả hai có tác dụng trong quá trình ủ phomat.
Betabacterium Causasicum, Betabacterium breve. Hai loại này khi phát triển
trong sữa có độ acid thấp, không tạo được những cụm đông.
1.2. Vi khuẩn coliform:
Nó được tìm thấy trong đường ruột hệ tiêu hóa động vật và trong phân
người ta cũng tìm thấy đất, nước hoặc thực vật nhiễm phân có chứa Coliform.
Coliform thuộc nhóm vi khuẩn Gram (-), kị khí tuỳ tiện, nhiệt độ sinh trưởng tối
ưu: 30 ÷ 44oC.
Trong sữa, vi khuẩn Coliform sẽ chuyển hoá đường lactose tạo axit lactic
và các hợp chất hữu cơ khác, khí CO2 , H2… Chúng làm phân giải protein trong
sữa tươi tạo ra các sản phẩm khác làm cho sữa có mùi khó chịu. Ở 75 oC trong
khoảng 20 giây vi khuẩn Colifrom sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn.
1.3. Vi khuẩn sinh acid butyric (Clostridium)
Được tìm thấy trong đất, trên thực vật, trong phân… Do đó, chúng dễ bị
nhiễm vào sữa. Là vi khuẩn Gram (+) thuộc nhóm kị khí bắt buộc, có khả năng
sinh bào tử. Nhiệt độ sinh trưởng tối thích là 37oC. Tế bào sinh dưỡng hình que,
tuy nhiên do nội bào tử (endospore) có kích thước lớn hơn chiều ngang của tế
bào sinh dưỡng nên tế bào chứa bào tử thường có dạng hình thoi hoặc dùi trống.
Vi khuẩn Clostrudium chuyển hoá đường trong sữa thành nhiều sản phẩm
khác nhau như các axit hơi, acid butyric, butalnol, etalnol,…làm sữa có mùi khó
chịu, làm thay đổi thành phần hoá học của sữa và giá trị cảm quan của sữa trong
quá trình bảo quản.
Các bào tử Clostridium khá bền với nhiệt độ. Ví dụ như Clostridium
sporogenes có giá trị D115o
C = 3,2 phút và D121oC= 1,2 phút (D là thời gian tiệt
trùng cần thiết ở nhiệt độ xác định → Tổng số tế bào Clostridium trong sữa giảm
đi 10 lần.
Như vậy, quá trình thanh trùng sữa không thể tiêu diệt được hoàn toàn các
bào tử Clostridium chịu nhiệt. Khi đó, ta phải dùng các giải pháp kỹ thuật như vi
lọc, ly tâm hoặc sử dụng chất kháng khuẩn để loại bỏ hoặc ức chế Clostridium.
1.4. Vi khuẩn propionic (giống propionicbacterium)
Được tìm thấy trong dạ cỏ và đường ruột của nhóm nhai lại, trong đất…
Chúng có hình cầu, xếp thành đôi trong hoặc chuỗi, Gram(+)thuộc nhóm kị khí
không bắt buộc. Nhiệt độ sinh trưởng tối ưu là 30oC.
Vi khuẩn Propionic chuyển hoá đường thành axit propionic, axit acetic,
khí CO2 … làm hư hỏng chất lượng sữa , nhiệt độ phát triển thích hợp là 30-35 oC có khả năng sinh vitamin. Tuy nhiên, trong công nghiệp sản suất một số loại
phômai như Emmenthal, Gruye`ne,… Người ta sử dụng canh trường
Propionicbacterium thuần khiết để tạo ra cấu trúc lỗ hỏng (mắt phômai) và
hương vị đặc trưng cho sản phẩm. Hầu hết các vi khuẩn propionic bị tiêu diệt
khi thanh trùng sữa ở 75oC trong thời gian 20 giây.
1.5. Vi khuẩn gây thối:
Đó là các vi khuẩn có khả năng sinh tổng hợp protease ngoại bào trong
môi trường sữa, không gây lên men đường sữa, là vi khuẩn sinh bào tử, có khả
năng sinh ezym protease xúc tác quá trình thuỷ phân protein tạo ra các sản phẩm
polypeptit, peptit, acid amin. Các acid amin tiếp tục bị phân huỷ tạo NH3, H2S …
làm cho sữa có mùi khó chịu.
Các giống vi khuẩn thường gặp trong sữa là: Pseudomonas,
Brevibacterium, Achoromobactre, Micrococcus… Chúng có dạng hình cầu hoặc
hình gậy thuộc nhóm kỵ khí lẫn hiếu khí. Trong tự nhiên, các vi khuẩn này tìm
thấy trong phân, trong nước hoặc thức ăn gia súc… Đáng chú ý hơn cả là loài
Pseudomonas fluorescens. Các enzyme protease và các lipase được sinh bởi loài
này rất bền nhiệt. Chúng là nguyên nhân chính gây nên quá trình phân giải
protein (proteolysis) và lipid (lipolysic) nhanh chóng làm hư hỏng chất lượng
sữa.
Ngoài hai quá trình thủy phân nói trên, một số vi khuẩn tạo khí (CO2,
H2…) sinh tổng hợp các acid hữu cơ làm giảm pH sữa và gây đông tụ protein.
Một số vi khuẩn khác có thể sinh được protease có chức năng xúc tác tương tự
như remin làm xuất hiện sự đông tụ casein trong sữa.
1.6. Các vi khuẩn sinh hương:
Gồm nhóm vi khuẩn trong quá trình hoạt động có khả năng tạo trong sữa
các axit bay hơi như axit acetic, axit propyonic và nhiều chất thơm (diacetin, các
ete). Các vi khuẩn sinh hương gồm có Streptococcus citrovorus phát triển ở nhiệt
độ thích hợp là 30oC. Streptococcus paracitrovorus và Streptococcus dicetalactis
nhiệt độ thích hợp để phát triển là 35oC có khả năng tạo diacetin cho sản phẩm
có mùi dễ chịu. Các vi khuẩn này gây đông tụ sữa sau 16 – 18 giờ.
1.7. Các vi khuẩn gây đắng:
(Streptococcus liquefaciens): nhiệt độ thích hợp 30oC, có khả năng tạo các
axit, tạo enzym đông tụ sữa. Enzym và axit này tác dụng đồng thời lên protêin
của sữa làm cho sữa đặc lại thành cục và độ axit giảm, loại này phát triển trong
sữa gây ra quá trình pepton hoá do đó tạo vị đắng khó chịu cho sản phẩm.
2.2. Eucaryote
Nhóm VSV eukaryote có nhân hoàn chỉnh. Nằm trong tế bào chất, nhân
được bao bọc bởi màng nhân, bên trong là các nhiễm sắc thể lưu giữ thông tin di
truyền. Hai đại diện của nhóm thường được tìm thấy trong sữa là nấm men và
nấm sợi.
2.1. Nấm men (yeast):
Là những cơ thể đơn bào có hình cầu, oval, hoặc hình trứng…Nấm men
được tìm thấy trong tự nhiên; trên thực vật, trong nước, đất…Một số loài nấm
men thường gặp trong sữa như: Saccharomyces cerevisiae, Kluyveromyces
marxianus, Debaromyces hanseni, Torulosis lactic condersi… Nhiều loài nấm
men thuộc nhóm kỵ khí tùy tiện.
Một số nấm men có thể sử dụng đường lactose cho quá trình trao đổi chất.
Chúng phát triển trong sữa và gây ra những biến đổi về thành phần hóa học trong
quá trình bảo quản sữa.
Ở một số địa phương nấm men được sử dụng trong công nghệ sản xuất các
sản phẩm lên men truyền thống sữa. Như ở cộng hòa Liên bang Nga, Kefir là sản
phẩm lên men từ sữa bởi hệ VSV gồm vi khuẩn lactic và nấm men. Các sản
phẩm chính từ quá trình lên men như: etanol acid lactic, CO2 … tạo vị chua và
nồng đặc trưng cho Kefir.
Sự sinh sản của nấm men:
Nấm men có thể sinh sản bằng phương phát hữu tính (sexual reproduction)
hoặc vô tính.
Trong nhóm phương pháp sinh sản vô tính, nấm men tạo ra các tế bào mới
theo kiểu nảy chồi hoặc phân đôi. Trong quá trình nảy chồi, đầu tiên trên tế bào
nấm men sẽ xuất hiện một chồi nhỏ. Tiếp theo là quá trình nhân đôi của nhân và
tổng hợp thêm các cơ quan con trong tế bào. Chồi sẽ từ từ lớn lên và khi đã chứa
đủ các cơ quan cần thiết, chồi tách khỏi tế bào mẹ và tồn tại độc lập, quá trình
nảy chồi có thể thực hiện cùng một lúc tại nhiều vị trí khác nhau trên thành tế
bào mẹ. Khi đó, nấm men sẽ có hình chum, tế bào kết dính lại với nhau hoặc
hình sợi giả ( Pseudomycellium)
Trong nhóm phương pháp sinh sản hữu tính, thông thường hai tế bào nấm
men sẽ tiếp hợp nhau tạo điều kiện cho sự tiếp hợp giữa hai nhân. Tiếp theo là sự
phân chia vật chất di truyền trong nhân và tạo thành các bào tử, mỗi tế bào sẽ
mang thông tin di truyền từ hai bào tử ban đầu. Sau này là quá trình giải phóng
bào tử và sự chuyển hóa chúng về lại trạng thái tế bào sinh dưỡng. Các tế bào
sinh dưỡng này có thể sẽ tiếp tục sinh sản theo phương pháp sinh sản hữu tính
hay vô tính.
2.2. Nấm sợi (moulds)
Có dạng hình sợi, phân nhánh. Trong tự nhiên nấm sợi được tìm thấy
trong nhiều loại thực phẩm, quần áo, sách vở,…Trên một số vật liệu vô cơ dính
bụi như thấu kính, máy ảnh, ống nhòm… nấm sợi vẫn có thể phát triển, sinh
acid và làm mờ các vật liệu này. Hầu hết các nấm sợi thuộc nhóm hiếu khí bắt
buộc, nhiệt độ sinh trưởng tối ưu từ 20- 30oC.
Dưới đây là một số loài nấm sợi thường nhiễm vào sữa: Penicillium
camembertii, P. casei, Geotrichum candidum, Rhizopus stolonifer…
Trong số các nấm sợi nói trên, vài loài thuộc nhóm Penicillium được sử
dụng trong một số loại phô mai. Việc nhiễm nấm sợi vào gây nhiều khó khăn
trong công nghệ chế biến sữa, đặc biệt là trong sản suất phô mai và ảnh hưởng
xấu tới chất lượng sản phẩm.
Tuy nhiên, khác với nhóm vi khuẩn sinh bào tử chịu nhiệt, hầu hết các loài
nấm men và nấm sợi đều bị tiêu diệt trong quá trình thanh trùng sữa ở 75oC trong
thời gian từ 10- 15s. Vấn đề quan trọng là phải tuân thủ nghiêm ngặt về vệ sinh
an toàn để tránh hiện tượng tái nhiễm VSV vào sữa sau khi đã qua thanh trùng.
Hình thức sinh sản của nấm sợi:
Chúng thường sinh sản theo phương pháp vô tính bằng cách tạo ra bào tử.
Sự phát triển của hệ nấm sợi kéo theo việc tổng hợp các bào tử nấm sợi với số
lượng lớn. Các bào tử này có thể tồn tại trong các điều kiện không thuận lợi về
nhiệt độ, độ ẩm… gặp điều kiện thích hợp chúng sẽ phát triển thành các hệ nấm
sợi mới.
Một số nấm sợi có thể sinh sản theo phương pháp hữu tính thông qua sự
kết hợp và trao đổi vật chất di truyền giữa các sợi nấm.
Như vậy, sự sinh trưởng và sự trao đổi chất của hệ VSV có trong sữa là
những quá trình sinh học quan trọng trong bảo quản sữa tươi. Sự sinh trưởng của
VSV sẽ làm thay đổi sâu sắc thành phần hóa học các tính chất cảm quan của sữa
(màu sắc, mùi vị…) để hạn chế những biến đổi sinh học trong quá trình bảo quản
sữa ta cần sử dụng 3 biện pháp kết hợp dưới đây:
Đảm bảo các điều kiện vệ sinh trong giai đoạn vắt và vận chuyển sữa từ
nơi thu hoạch về nhà máy chế biến, nhằm giảm đến mức tối đa hàm lượng VSV
ban đầu có trong sữa.
Tại nhà máy, nếu sữa tươi chưa đưa vào chế biến ngay thì có thể tiến hành
thanh trùng sữa (nhiệt độ 63oC, thời gian 15s).
Quá trình bảo quản sữa từ sau khi vắt đến trước khi chế biến phải được
thực hiện trong điều kiện nghiêm ngặt: nhiệt độ sữa không lớn 4oC, tránh sự
khuấy trộn và sự có mặt của oxy trong sữa.
Theo Mahieu H (1985), nếu hàm lượng VSV trong sữa tươi không lớn hơn
10.000 tế bào/ml, quá trình bảo quản sữa ở 4oC có thể kéo dài trong ba ngày mà
không có những thay đổi đáng kể về chất lượng sữa. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng,
sau ba ngày bảo quản sữa cho dù ở nhiệt độ thấp, tổng hàm lượng VSV trong sữa
có thể tăng đến 1.000.000 tế bào/ml. Khi đó, những biến đổi làm hư hỏng chất
lượng sữa do VSV sẽ diễn ra với tốc độ nhanh hơn.
Nếu hàm lượng VSV trong sữa tươi sau khi vắt lên đến 50.000 tế bào/ml,
quá trình bảo quản sữa ở 4oC chỉ có thể kéo dài trong hai ngày. Sau hai ngày,
lượng VSV trong sữa sẽ tăng lên 1.000.000 tế bào/ml.